Kỳ 5: Hồi ký

CON MA XÓ VÙNG CAO (1)Nguyễn Như Thìn

Ở Yên Sở được vài ngày, đám tân binh K15 toán cơ Đại học Tổng hợp chúng tôi được biên chế thành mấy tiểu đội. Tiểu đội tôi gồm Lăng, Thạc, Đinh Minh và mấy bạn khác. Lăng, Thạc chẳng nói làm gì, là những bạn ưa hoạt động ai cũng biết. Riêng Đinh Minh, thú thực tôi không rành lắm. Cũng một phần vì tôi ở ngoại trú. Đinh Minh người thấp nhỏ, da ngăm đen, nổi bật trên khuôn mặt hơi khắc khổ là cái mũi khoằm, đôi mắt sâu nhưng đặc biệt sáng. Giọng nói của hắn thì rất lạ không phân biệt được vùng miền. Chẳng hiểu sao, trông hắn lúc nào cũng khó đăm đăm, có lẽ vì thế sau này mang biệt danh "Minh già".

Vào một đêm trung tuần tháng 9 năm 71, chúng tôi được lệnh hành quân, rồi lên tầu, đến sáng thì có mặt ở Bắc Giang. Là nghe thằng Lăng nói thế, chứ tôi đã bao giờ lên Bắc Giang đâu. Chỗ này Lăng rành lắm, quê nó mà. Suốt một đêm chập chờn, tưởng được nghỉ ngơi, ai dè tiếp tục hành quân, lần này thì phương tiện bằng "căng hải". Cũng vui, phong cảnh đẹp, là dân thành phố mấy khi được ngắm cảnh núi rừng, cái gì cũng lạ và đẹp. Hai bên đường sim mua mọc lút đầu. Thỉnh thoảng ngắt một quả sim cuối mùa bỏ vào miệng cũng thú vị. Mà gọi là đường chứ thực ra toàn lối mòn trâu kéo gỗ. Lên dốc, lại xuống dốc, một tiếng sau chẳng còn thấy vui đâu, hết chịu nổi. Tháng chín gì mà nắng thế, đứa nào đứa ấy há hốc mồm. Không biết bao giờ mới tới nơi. Mà sao, chẳng có một đoạn bằng phẳng nào cả. Thật khốn khổ cho hai cái đầu gối. Cứ muốn long ra. Mồ hôi nhễ nhại.

Cứ lết bết như thế mãi gần trưa, chúng tôi cũng tới được một bản heo hút chừng hơn chục nóc nhà. Tôi, Đinh Minh và mấy bạn khác được phân vào nghỉ trong một ngôi nhà tuềnh toàng bốn bề phên che. Trong nhà có độc một cái giường cũ kỹ, kiểu dáng kỳ lạ, có lẽ gia chủ tự chế tạo. Đón chúng tôi là một người đàn ông chạc ba mươi, mặc bộ quần áo chàm đặc trưng của người miền núi, nói tiếng Kinh lơ lớ. Sau lưng ông ta là ba cặp mắt thao láo, trên ba khuôn mặt lem nhem, có lẽ chẳng rửa ráy bao giờ. Ba đứa trẻ, thằng lớn chừng lên mười. Hai đứa sau, một trai, một gái. Chẳng biết chúng mấy tuổi rất khó đoán. Cái mặt thì cứng nhưng người loắt choắt, ăn mặc mát mẻ. Nếu ghép trang phục của cả hai đứa lại, may ra được một bộ gần đúng nghĩa là quần áo. Sau mấy phút ban đầu sợ sệt, chúng bạo dần lên khi chúng tôi vẫy lại gần. Chúng sờ vào chiếc mũ cứng có ngôi sao lấp lánh lấy làm thích thú thú lắm. Với vẻ mặt nghiêm khắc, lại gần lũ trẻ ông chủ tuôn ra một tràng tiếng dân tộc rất lạ tai. Chúng sợ hãi nép vào xó nhà. Tôi đang ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì thì Đinh Minh nói nhỏ: Ông chủ cấm bọn trẻ không được sờ vào đồ đạc của bộ đội, đứa nào không nghe ông đánh đòn. Vô cùng ngạc nhiên vì Đinh Minh lại có thể hiểu được thứ ngôn ngữ hiếm hoi ấy. Tôi hỏi lại:
- Sao ông biết ?
Bằng một giọng từ tốn Minh nói:
- Tôi sinh ra ở Thái Lan, gia đình tôi là Việt kiều, chủ nhà dân tộc gì tôi không biết, nhưng tôi có thể hiểu gần hết ông nói gì.
Ồ thì ra thế. Tôi nói với ông chủ, cứ để chúng chơi tự nhiên, không có gì phải ngại.

Từ sáng đến giờ chẳng được cái gì vào bụng, đói cồn cào, chúng tôi vội vàng bắc bếp nấu cơm. Ngồi gõ bát chờ cơm chín sao mà sốt ruột thế. Có lẽ vùng cao không khí loãng, nước lâu sôi. Chốc chốc tôi lại mở vung ra xem, thành thử, đã lâu càng thêm lâu. Cái mũi thằng Minh già càng khoằm xuống, chắc hắn bực với tôi lắm, nhưng không nói gì, tính nó thế. Cuối cùng thì cũng được ăn. Vừa xới cơm ra, chưa kịp đụng đũa thì lũ trẻ xúm lại. Ô tình huống thật bất ngờ. Bỗng một tràng liên thanh tiếng dân tộc vang lên, ông chủ đứng dậy mặt dữ dằn. Bọn trẻ ngơ ngác, đứa nhỏ mếu máo nói gì đó. Có vẻ dịu giọng hơn, ông nói thêm mấy câu ngắt nhịp như điểm xạ.
- Họ nói gì thế Minh ? Tôi hỏi
Minh dịch lại đại khái: cấm lũ trẻ không được lại chỗ chúng tôi ăn. Con bé kêu đói, ông chủ dỗ, nhà hết gạo từ mấy hôm nay, chờ mẹ chúng xuống ông bà vay, ngày mai sẽ về sẽ có cơm ăn...Chúng tôi xới vội cho mỗi đứa lưng bát kèm chút thức ăn. Mắt chúng sáng lên vồ lấy ăn ngấu nghiến. Ông chủ bực bội bỏ xuống dưới nhà.

Người ta nói miền sơn cước chiều xuống rất mau. Mà đúng thật, vừa cơm trưa xong nghỉ một chút mặt trời đã len lén trốn sau dãy núi chếch hông nhà. Không gian thật tĩnh mịch, chẳng thấy bóng dáng bố con ông chủ đâu nữa.

Sáng hôm sau chúng tôi lại được lệnh hành quân ngược trở ra. Ái ngại cho hoàn cảnh gia chủ, chúng tôi bớt mỗi đứa một ít gạo. Gom được một túi nhỏ, "Minh già" đưa cho ông chủ và nói: "Đừng chờ mẹ chúng ở ông bà về nữa, hãy nấu cho bọn trẻ ăn, chúng đói lắm rồi."

Rất đỗi ngạc nhiên, người đàn ông lắp bắp: "Bộ đội...mày tốt quá...giỏi quá, như ma xó nhà tao, cái gì cũng biết'...

Tôi thoáng thấy đôi mắt của con "ma xó" Minh già hơi long lanh.

Sau ba tháng huấn luyện tân binh, hai tiểu đoàn sinh viên xẻ đàn tan nghé, chia nhau về các binh chủng. Ma xui, quỷ khiến, thế nào mà tôi và "Minh già" lại về cùng tiểu đội 12 ly 7, đại đội 12 trợ chiến, thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 101 sư 325. 

  Đêm 23 rạng ngày 24 tháng 8 năm 72, tiểu đội tôi phối thuộc với một đại đội bộ binh trong đội hình của tiểu đoàn tập kích vào một vị trí của địch ven thành cổ Quảng Trị. Súng nổ liên hồi, đạn đỏ rực trời. Suốt đêm chúng tôi đào công sự bắn máy bay, chuẩn bị đánh địch phản kích. Gần sáng tiếng súng thưa dần. Đại đội bộ binh bị thiệt hại nặng nề, đã rút lui chẳng kịp báo cho tiểu đội phối thuộc. Chúng tôi nằm trơ lại trên một mảnh ruộng trống trải, trước mặt là một bụi dứa dại lưa thưa. Thấp thoáng bóng mũ sắt và áo rằn ri, tiếng chửi rủa, tiếng xích xe tăng nghiến rung mặt đất. Địch rất gần. Thỉnh thoảng một loạt AR15 lại rộ lên xen lẫn tiếng cối cá nhân điểm khuyết. Giờ biết làm sao đây? Tiểu đội 12 người có độc một khẩu AK và vài quả lựu đạn, 1 khẩu 12 ly 7 nặng tạ rưỡi. Đằng sau thì trống trải. Địch chỉ dấn lên một chút nữa là chúng tôi đi đứt. Anh Thành, tiểu đội trưởng, nguyên sinh viên trường Nông nghiệp, mặt xám đen đầy lo lắng. Chỉ còn cách nằm yên, hy vọng địch không phát hiện ra, đến tối sẽ rút.

Chưa bao giờ tôi thấy thời gian lại trôi đi chậm thế. Mặt trời cứ đứng ỳ ra chẳng nhúc nhích chút nào. Sợ hãi, căng thẳng, mệt mỏi, cơn buồn ngủ lại kéo tới. Cứ mươi phút đầu tôi lại đập vào thành hào. Lấy ít dầu con hổ bôi vào mắt cay xè cũng chỉ được một lúc. Vớ được một cuốn truyện chưởng Kim Dung tôi đọc cho đỡ buồn ngủ và quên đi tình cảnh khốn khổ này. Nhưng cũng chỉ được mấy trang, là cuốn sách rời khỏi tay lúc nào không hay.Cứ thế, chúng tôi giữ được bí mật đến trưa thì một sự cố bất ngờ xảy ra. Một tên lính ngụy xách một khẩu M79 bắn đại một phát về phía tiểu đội, trúng ngay vào nơi ẩn nấp của một chiến sĩ. Mảnh đạn xé rách cánh tay, máu chảy ròng ròng, phản xạ tư nhiên, cậu lính trẻ kêu lên thất thanh chạy bổ về hầm pháo. Thế là hết. Chúng tôi đã bị lộ. Chỉ ít phút sau, các loại đạn thi nhau trút xuống. Hai chiến sĩ hy sinh ngay tại chỗ. Không còn gì để mất nữa, chỉ vào hầm pháo anh Thành gào lên: "Thìn bắn thu hút hỏa lực đich cho anh em rút chạy". "Ôi...thế là toi rồi...Mình trở thành bia đỡ đạn cho cả tiểu đội. Phen này thì hết đường về quê mẹ"...Nhưng lại nghĩ " Một băng đạn với tốc độ liên thanh, có lẽ mình chỉ chạy sau anh em vài phút", tôi tự an ủi. Như một cái máy, tôi nhảy vào hầm pháo xả một tràng về hướng địch. Tiếng súng đanh giòn, khói nồng nặc. Có lẽ quá bất ngờ, địch bỗng ngưng tiếng súng. Nhưng rồi chúng đáp trả ngay. Xung quanh khói đạn dày đặc. Nhanh lên, nhanh lên, hết băng đạn đi. Khẩu 12 ly 7 rung lên, giật mạnh, rất khó bắn, đổ nghiêng mấy lần (vì súng để ở tư thế bắn máy bay). Rồi băng đạn cũng hết, rút chốt liên kết vô hiệu súng, tôi nhảy ra ngoài cắm đầu chạy. Chừng được dăm bước, bỗng tôi sực nhớ đến "Minh già". Hắn cùng với "Tân vịt" nằm cách hầm pháo chừng hai chục thước, từ sáng đến giờ chẳng thấy liên lạc gì với tiểu đội. Không lẽ mặc kệ hắn?...Không được, tôi phải quay lại. Lao vào hầm nơi hắn nấp, hai thằng, "Tân vịt" và "Minh già" đang thi nhau kéo gỗ. Cái mũi khoằm của hắn, cái mũi đáng ghét đang rung lên. Chẳng phí thời gian để ngắm cái mũi của hắn, tôi túm cẳng hai đứa giật mạnh và hét lên: Chạy mau. Chẳng hiểu mô tê gì, chúng bật dậy như hai cái lò xo lao theo tôi. Trên mảnh ruộng trống trơn, đạn găm dưới chân, bên phải , bên trái, bụi bốc mù. Như cinéma, chẳng hiểu sao, vào cái giây phút ấy mà tôi vẫn còn ý nghĩ quái gở thế.

Chúng tôi chạy đến bờ tre, may mắn có một chiêc hầm, rúc vào đấy, thế là thoát. Bình thường tôi yếu lắm, chạy một chốc là thở dốc vậy mà hôm ấy có lẽ tôi phải đạt tốc độ của vận đông viên cấp quốc gia.

Mấy đêm sau chúng tôi mới quay trở lại trận địa cũ, đem xác đồng đội hy sinh về chôn cất.

Sau trận ấy ít ngày, Đinh Minh được điều về đơn vị khác. Nghe đâu năm 73 hắn được ra Bắc học Đại học kỹ thuật quân sự gì đó, không rõ lắm. Dịp họp mặt nhân kỷ niệm 35 năm lớp toán cơ K15, tôi chẳng thấy cái mũi khoằm đâu. Lần này, kỷ niệm 40 năm, không hiểu con "Ma xó vùng cao" có biết đường về gặp gỡ bạn bè không? Nếu hắn về, dứt khoát tôi phải bắt hắn đãi một chầu bia trả ơn tôi cứu mạng trong thời khắc mà chính mạng tôi cũng mong manh như sợi tóc.

Hết

CHUYỆN CŨ NHỚ LẠILê Việtgiảng viên trường Đại học KTQD,
nguyên chiến sĩ c4-d12-e58-f308



Khi cầm bút viết những dòng này thì cuộc chiến khốc liệt ở Quảng Trị đã lùi xa được 34 năm, trong quãng thời gian đó cứ mỗi khi nhớ đến hai tiếng Quảng Trị hoặc có dịp gặp lại các đồng đội cũ thì bao nhiêu ký ức kỷ niệm về cuộc chiến ấy lại hiện về. Cũng có lúc chẳng hiểu làm sao bâng quơ tôi lại vẩn vơ nghĩ về những gì mình đã trải qua, đã được chứng kiến ở chiến trường Quảng Trị rồi tôi tự mình bị cuốn hút vào những kỷ niệm ấy. Những hình ảnh, kỷ niệm đã qua như một cuốn phim quay chậm ngược thời gian lần lượt đưa tôi trở về với quá khứ, và rồi cũng có lúc như lẩn thẩn tự mình đặt ra câu hỏi: Không biết có thật mình còn sống không nhỉ ? Mình may mắn đến thế cơ à ? Có thật thế không ?...Xin kể lại với bạn những ký ức mà có lẽ không bao giờ phai mờ trong trí nhớ của tôi.


Đơn vị chúng tôi là tiểu đoàn pháo cao-xạ 37 ly thuộc trung đoàn 58, sư đoàn 308. Chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ một tiểu đoàn lựu pháo 122 ly mà tiểu đoàn này lại có nhiệm vụ chi viện cho bộ binh trong các trận đánh hiệp đồng binh chủng. Trận địa lựu pháo ở đâu thì trận địa cao-xạ cũng nằm gần đó để đánh trả máy bay địch. Đêm 30/3/1972 tiếng súng mở màn chiến dịch Quảng Trị bắt đầu thì ngày 1/4/1972 đơn vị tôi được lệnh hành quân từ Bãi Hà vào Quảng Trị. Chiến dịch mới mở nên khí thế rất nhộn nhịp. Xe pháo của đơn vị tôi hành quân theo những con đường mà công binh mới mở còn nồng lên mùi nhựa cây, lá cây bị trầy xước, dập nát, rồi mùi đất bị xới lên do máy ủi vừa làm xong. Trên đường hành quân chúng tôi gặp những đoàn dài bộ binh đi theo hàng một sát bên đường, đa số họ cũng trẻ như chúng tôi ; với khẩu AK trước ngực, vai đeo ba-lô con cóc cắm đầy lá nguỵ trang. Rồi những đoàn dân công hoả tuyến có cả con gái, chủ yếu là họ mang vác hàng hoá ra chiến trường như thuốc men, thực phẩm...Chúng tôi cũng gặp những xe tải lớn gọi là đại xa chở những hòm đạn lớn cho các trận địa lựu pháo và pháo nòng dài. Thế rồi chúng tôi cũng bắt gặp cả những xe kéo lựu pháo, pháo nòng dài và hết sức ngạc nhiên khi lần đầu tiên thấy những tốp nhỏ xe tăng, mỗi tốp 5-6 chiếc, tháp pháo quay ngược cắm đầy lá nguỵ trang, thành xe có buộc mấy chú lợn được nhốt trong rọ để làm thực phẩm sau này. Tiếng gầm của những chiếc xe tăng vang vọng cả một vùng rừng núi càng làm cho đường ra trận trở nên náo nhiệt, nhộn nhịp khác thường và rồi trước đây toàn giấu quân trong rừng sâu, trước cảnh tượng này đã láng máng hiểu rằng có một cái gì lớn lao đang sắp xảy ra, đang chờ đón chúng tôi.

  Khoảng 5,6 giờ chiều, đoàn xe pháo chúng tôi dừng lại và được trên thông báo chuẩn bị vượt sông Bến Hải. Bến Hải, 2 tiếng lúc này bỗng mang lại cho chúng tôi những xúc cảm kỳ lạ. Bến Hải trong sách vở từ lâu ai cũng biết là ranh giới Bắc-Nam và còn khó hình dung lắm  Nhưng lần này thì chúng tôi sắp nhìn thấy nó và sẽ vượt qua nó để sang bên kia. Qua sông là chúng tôi đã xa hẳn miền Bắc, đã bỏ lại quê hương phía sau để tới một vùng đất hoàn toàn xa lại và cứ lởn vởn câu hỏi không biết cái gì sẽ xảy ra ở phía trước ? Một cảm giác nhớ nhung, luyến tiếc, thấp thỏm...cứ thế pha trộn vào nhau.

Chúng tôi phải dừng lại để chờ khá lâu vì chỉ chỉ có một chỗ duy nhất vượt sông cho những phương tiện cơ giới. Cả đoàn xe gồm xe pháo, xe tăng, xe lội nước đều chờ để đến lượt, lúc đó mặt trận mới mở, đường vận chuyển chưa bị địch phát hiện nên không trung hoàn toàn im ắng, không một tiếng máy bay địch.

Sông Bến Hải thực tế không như tôi tưởng tượng ra. Ở thượng nguồn và vào mùa khô nó rất hẹp và nông, lòng sông chỉ rộng chừng 30 m - 40 m và nước đến ngang lưng, 2 bên bờ toàn cát và sỏi. Lúc vượt sông, trừ lái xe còn tất cả đều phải xuống lội bộ để đề phòng tai nạn. Tới bờ bên kia, theo một ý thích do tôi tự nghĩ mà bây giờ nghĩ lại mới thấy mình còn ngồ ngộ trẻ con, tôi nhặt lấy một viên sỏi cho vào túi áo để giữ lại làm kỷ niệm. Lứa chúng tôi nhập ngũ khi còn trẻ lắm, là những sinh viên năm thứ nhất, thứ hai của nhiều trường đại học, sống nặng về sách vở và những ý nghĩ bay bổng tận đâu đâu và nhiều lúc còn tỏ ra ngô nghê lắm. Chả thế từ lúc vào bộ đội tôi cứ có ý nghĩ rằng mỗi vùng đất mình đặt chân tới, mỗi sự kiện xảy ra với mình, mình phải cố tìm ra một cái gì đó để giữ làm kỷ niệm. Những vật kỷ niệm mà tôi giữ lại ngày đó có khá nhiều thứ, đó là điếu thuốc lá mà một cô gái đã mời tôi trong buổi lễ kết nghĩa giữa chi đoàn đơn vị và chi đoàn địa phương nơi tôi đóng quân. Đó là cái nút gỗ mà tôi tình cờ mà tôi nhặt được trong một lần đơn vị đi bắn đạn thật, thấy hay hay cũng giữ lại. Đó là chiếc bàn chải trên có khắc ngày tháng ghi nhớ ngày tôi đi lấy nứa ở Thanh Hoá khi xe đi qua ngầm Bến Nhạ bị đổ chổng 4 bánh lên trời may cả đoàn thoát chết. Và lần này đây một viên sỏi ở bờ sông Bến Hải, đáng giữ lại lắm chứ  Nhưng rất tiếc là những thứ đó đã thất lạc, chỉ những kỷ niệm về chúng là còn.

Sang tới bên kia sông Bến Hải, chúng tôi bắt đầu nhận thấy nhiều điều khác lạ hẳn bờ Bắc. Phía Tây Quảng Trị, phần giáp với rừng già là những gò đồi thấp mọc toàn cỏ tranh xen lẫn những bụi cây nhỏ hoặc cây lúp xúp. Tới khoảng 10 giờ đêm, sau một ngày hành quân các khẩu đội đều giấu xe pháo vào các bụi cây nhỏ ven đường mới mở và đào hầm để ngủ qua đêm. Lệnh của trên là từ lúc này trở đi không được ngủ trên mặt đất để tránh thương vong, nhưng suốt đêm đó chúng tôi không sao ngủ được vì thỉnh thoảng một vài tiếng nổ to như sấm lại vang lên, không khí xung quanh như bị dồn ép lại làm chúng tôi kinh hãi. Thì ra đó là tiếng nổ đầu nòng của pháo nòng dài 130 ly bắn vào Đông Hà, lúc đó Dốc Miếu, Cồn Tiên đã được giải phóng và ta đang tiến công giải phóng Đông Hà. Đêm đầu tiên bên kia Bến Hải đã cho chúng tôi cảm giác đến gần hơn với lửa đạn nơi chiến trường, điều mà trước đó chúng tôi chưa thể hình dung ra nổi.

  Sau một đêm nghỉ ngơi, trưa hôm sau chúng tôi tiếp tục hành quân nhằm hướng thị xã Đông Hà. Lúc này địch đã dùng máy bay oanh tạc vòng ngoài để chặn bước tiến của quân ta. Ngày trước hồi còn nhỏ khi đi học hay ở nhà lúc thành phố Hà Nội kéo còi báo động là tất cả phải xuống hầm, chỉ nghe tiếng ùng oàng của súng nổ, khi nào còi báo yên lại ra khỏi hầm nên chẳng biết điều gì xảy ra cả. Bây giờ hành quân giữa ban ngày chúng tôi được chứng kiến tận mắt từng tốp máy bay của không quân Mỹ oanh tạc mục tiêu và chúng làm đúng bài bản chúng tôi đã được học, chiếc nào cũng chọn hướng mặt trời tăng độ cao và bổ nhào, cắt bom, từng cột khói bom dựng lên, sau đó là những tiếng nổ vọng tới. Cùng ngày hôm đó từ xa chúng tôi được chứng kiến cảnh máy bay B52 ném bom theo kiểu rải thảm. Đó là cảnh từng cột khói bom đen kịt và đậm đặc lần lượt phụt lên cuồn cuộn từ mặt đất, rồi sau một lúc những tiếng nổ liên hồi như sấm vọng đến và khói bom lan rộng ra như một đám mây đen trước cơn mưa to che kín cả một vùng trời. Trên đường vào Đông Hà cũng có lúc chúng tôi bắt gặp những chiếc xe Vọt tiến (một loại xe tải của Trung-quốc) cắm đầy lá nguỵ trang chạy ngược ra. Tò mò nhìn vào sau xe thì thấy ngổn ngang người nằm, người ngồi. Người thì cuốn băng trắng ở đầu, ở chân, ở tay, người thì mặt mũi bê bết máu. Nhìn cảnh tượng ấy chúng tôi đoán ngay là xe chở thương binh và như vậy chúng tôi đã đến rất gần mặt trận rồi và hiểu rằng cái ranh giới giữa cái sống và cái chết đang dần đến, cái cảm giác nặng nề đầu tiên xen lẫn chút sợ hãi nơi chiến trường bắt đầu ập tới.

Sau 3, 4 ngày vào tới Quảng Trị, đại đội cao-xạ chúng tôi được trên giao nhiệm vụ mới là bảo vệ cầu Trúc Khê. Đây là cây cầu trên quốc lộ 1 cách Quán Ngang vài cây số nằm trên đường tiến quân của quân ta vào Đông Hà. Trận địa của chúng tôi nằm trên một gò cát trắng rìa làng cạnh quốc lộ 1 và cách cầu khoảng 500 m. Hai ngày đầu ở đây không có gì chứng tỏ đây là chiến trường vì dân cư của mấy làng quanh đó đã bỏ đi hết, ít tiếng bom đạn, có lúc còn im ắng hoàn toàn, chỉ có chiếc OV10 thỉnh thoảng đảo qua đảo lại. Nhưng đến ngày hôm sau, đó là ngày 7/4/1972 trận đánh đầu tiên để lại thương vong cho đại đội tôi là một trận đánh khó quên.

  Khoảng giữa trưa ngày hôm đó, chiếc OV10 cứ lượn đi lượn lại quanh khu vực cầu, thấy hiện tượng khác thường cả đơn vị đã vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Quả nhiên một lúc sau mấy chiếc F4 kéo đến và chúng tôi thấy một tiếng nổ bụp, đó là tiếng nổ của pháo khói do chiếc OV10 bắn ra chỉ điểm mục tiêu cho F4 đánh phá cầu. Nhận ra mục tiêu, mấy chiếc F4 chọn hướng mặt trời, tăng độ cao rồi bổ nhào. Đại đội tôi tập trung hoả lực của cả 4 khẩu đội bắn chiếc đầu tiên và cả 4 khẩu đều thông báo đã bắt được mục tiêu. Trong đơn vị tôi là trắc thủ đo xa có nhiệm vụ dùng máy đo xa để đo khoảng cách từ mục tiêu đến trận địa. Lúc đó tôi cũng đã bắt được mục tiêu và đo được cự ly khoảng 4.000 m, tức thì đồng loạt cả 4 khẩu đội nổ súng, những chùm đạn vun vút lao lên, nhưng vì đây là loạt đạn đầu tiên và hơn nữa đơn vị tôi chưa nhiều kinh nghiệm trân mạc nên đạn còn cách xa mục tiêu nhiều lắm. Chiếc F4 vẫn bổ nhào và cắt được bom. Tuy nhiên sau loạt đạn đó, trận địa chúng tôi đã bị lộ và lập tức bị tấn công. Lại một chiếc F4 tăng độ cao và bổ nhào, trong máy đo xa tôi thấy chiếc F4 đang lao thẳng xuống trận địa, sau vài giây 2 quả bom được tách ra khỏi bụng máy bay. Một loạt đạn nữa lại tung lên nhưng ngay sau đó là một tiếng nổ chát chúa, nhức óc làm rung chuyển cả trận địa, không khí xung quanh bị ép lại, khói bom mù mịt, trận địa đã bị trúng bom. Sau khi ném trúng trận địa, mấy chiếc F4 quần đảo một lúc ném thêm vài quả bom nữa vào khu vực cầu rồi chuồn thẳng.

Đây là lần đầu tiên chúng tôi bị đánh vào trận địa. Trận ấy đơn vị tôi hy sinh 3 người, bị thương hơn chục người. Ba người hy sinh là các anh Thanh, Tự, Thảo trong đó anh Thanh là trẻ nhất, anh là sinh viên năm thứ 2 khoa Sinh đại học tổng hợp, cùng nhập ngũ với tôi. Mấy ngày sau chúng tôi được lệnh rút ra nhưng trong đêm rút lui đó chúng tôi còn bị pháo hạm từ ngoài biển tới tấp bắn vào, may mà không bị thương vong gì.

  Sau khi từ cầu Trúc Khê rút ra chúng tôi lại về trận địa cũ để bảo vệ lựu pháo và ngày 16/4/1972 là ngày tôi cũng không thể quên được vì đây là ngày tổn thất nặng nề nhất của đơn vị tôi. Hôm đó trời Quảng Trị trong veo, mới sáng ra mà trời đã nắng gắt, cái kiểu nắng chỉ có ở dải đất miền Trung này. Trận địa chúng tôi nằm ở một vạt đồi cỏ tranh, thứ cỏ có cạnh rất sắc chạm vào là xước da chảy máu và đặt trận địa ở đây rất dễ bị lộ vì thân cỏ tranh rất mỏng, chỉ đi qua một vài lần hoặc chạm vật gì vào là cỏ rạp xuống và OV10 ở trên cao rất dễ phát hiện ra. Dưới cái nắng chói chang và hầm hập như thế, chúng tôi vẫn phải bám trận địa và cảnh giới trên không. Tới tầm khoảng giữa trưa chúng tôi thấy xuất hiện một chiếc OV10 cứ lượn đi lượn lai quanh khu vực trận địa. Một lúc sau một tốp F4 kéo đến và mọi người đoán chắc chúng đã phát hiện ra đơn vị tôi. Rồi một tiếng bụp quen thuộc vang lên, chiếc OV10 đã bắn một quả pháo khói vào khu vực trận địa, ngay lập tức có 2 anh ở gần đó mang xẻng đào đất để dập quả pháo đó, nhưng dập chưa xong thì lại tiếp tiếng bụp thứ 2, chiếc OV10 tiếp tục bắn quả nữa. Ngay sau quả pháo khói thứ 2, mấy chiếc F4 liên tục bổ nhào cắt bom vào trận địa. Ngay loạt bom đầu tiên một quả bom đã rơi trúng công sự của khẩu đội 4 làm toàn bộ 6 người hy sinh. Lúc đó tôi đang đứng dưới công sự cá nhân thì thấy anh Định là C trưởng chạy sang thông báo toàn bộ khẩu đội 4 đã hy sinh và động viên chúng tôi chiến đấu trả thù cho khẩu đội 4, tôi có ngờ đâu đây là lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh Định.

Trận đánh tạm dừng mấy phút thì một tốp F4 khác lại kéo đến liên tiếp tấn công vào trận địa chúng tôi, lần này chúng dùng cả bom phá, bom bi. Một quả bom phá rơi trúng chỉ huy sở nơi có hầm thông tin, hầm cá nhân của C trưởng và chính trị viên. Anh Chương chính trị viên và anh Định C trưởng đã hy sinh ngay sau loạt bom đó. Lúc này toàn bộ trận địa bị tê liệt, mất sức chiến đấu và bắt đầu khắc phục hậu quả.

Trong tâm trí tôi đến bây giờ vẫn còn in đậm hình ảnh không thể nào quên khi đi qua khu vực khẩu đội 4. Đó là cảnh tượng một khẩu pháo 37 ly nặng hơn 2 tấn bị bom ném trúng hất lên hẳn bờ công sự, ám đen khói bom. Thi thể của các anh trong khẩu đội bị xé nát ra từng mảnh và có những mảnh còn dắt vào khẩu pháo. Mùi khét lẹt của bom, mùi thi thể, mùi của nhựa cây lúp xúp, mùi của đất bị cầy tung...tất cả quện lại thành một thứ mùi khó tả mà chỉ có ai ở chiến trường mới tưởng tượng ra nổi  Cũng không hiểu sao mà nhanh thế một bầy quạ từ đâu kéo đến, chúng đậu đen trên khẩu pháo và bụi cây nhỏ gần đấy để tìm kiếm mùi tanh của xác chết.

Khẩu đội 4 có 6 người gồm anh Mâu (khẩu đội trưởng) và anh Ngô Quang Ngọc cùng quê Gia Lâm, anh Thường người dân tộc Thổ quê Thái Nguyên, anh Chí quê Vĩnh Phú, anh Nguyễn Văn Đống sinh viên năm thứ 2 khoa Hoá là người có biệt tài cắt tóc rất đẹp và anh Thẩm Quang Oánh đã tốt nghiệp khoa Lý nhà ở phố Cửa Đông, Hà Nội. Trong số họ chị có anh Mâu và anh Thường là có vợ con. Viết tới đây tôi chợt liên tưởng tới thông tin rằng hàng vạn liệt sĩ của chúng ta vẫn chưa tìm thấy phần mộ. Vâng  Thế thì các anh trong khẩu đội 4 kia có bao giờ tìm thấy phần mộ ? Thế mới hiểu thế nào là sự tàn khốc của chiến tranh. Sau này trong một lần vào thăm chùa Chân Tiên trên phố Bà Triệu, Hà Nội tình cờ tôi đọc thấy tên anh Thẩm Quang Oánh được khắc trên Bia các liệt sĩ của phường Vân Hồ. Phải chăng đó cũng là chút an ủi với anh.

  Thiệt hại ngày hôm đó là nặng nhất trong toàn bộ chiến dịch đối với đơn vị tôi. Hôm đó chúng tôi bị hy sinh 9 người, ngoài 6 người trên còn 3 người khác ở sở chỉ huy bị trúng bom. Đó là anh Nguyễn Hữu Định C trưởng quê Nho Quan, Ninh Bình ; anh Nguyễn Văn Chương chính trị viên nhà ở phố Lò Sũ Hà Nội và anh Vũ Sĩ Lâm sinh viên năm thứ 3 khoa Hoá nhà ở Phố Huế, Hà Nội. Riêng 3 anh này vẫn còn thi thể. Do thiệt hại quá nặng nề, đại đội tôi mất sức chiến đấu hoàn toàn và phải chờ tới đầu tháng 5/1972 sau khi ta giải phóng Đông Hà đơn vị tôi mới được tăng cường bổ sung người và xe pháo để tiếp tục tham gia chến dịch.

Sau này tới tháng 11/1972 chúng tôi mới được lệnh rút ra Bắc, có lúc chúng tôi đã vượt Động Ông Do tiến sát sông Mỹ Chánh, đã mấy lần bị B52 ném bom rải thảm, cuộc sống cực kỳ gian khổ, vất vả, đầy nguy hiểm và lúc nào cũng cập kề cái chết, thế nhưng chúng tôi đã vượt qua và những gì xảy ra với chúng tôi trong 2 tuần đầu tiên đặt chân vào Quảng Trị là những điều không bao giờ quên được.

Bây giờ ngồi hồi tưởng những ngày ở Quảng Trị tôi vẫn thường tự hỏi tại sao ngày ấy mình lại có thể chịu đựng được đến như vậy ? Tôi thuộc lớp người sinh ra lúc kháng chiến chống Pháp sắp kết thúc và hoàn toàn trưởng thành trong lòng chế độ mới, được tiếp thu một nền giáo dục mới. Phải chăng vì thế mà ý thức về trách nhiệm công dân đã thấm vào lớp thanh niên ngày ấy trong đó có tôi. Đầu những năm 70 thế kỷ trước ở vào cái độ tuổi 18, 20 lúc bấy giờ vấn đề lý tưởng, mục đích với tôi vẫn là một cái gì xa xôi, trừu tượng nhưng tôi chỉ nghĩ một điều đơn giản là nước mình đang có chiến tranh, bao nhiêu người phải đi bộ đội, rồi sẽ có lúc mình cũng phải đi bộ đội, phải đi B (tức là vào Nam chiến đấu). Nhiều người quanh mình đã làm như vậy, mình không thể trốn tránh và cũng không dám trốn tránh, dù sao lúc ấy vẫn là trẻ con mà, ai bảo gì thì làm vậy, ai bảo gì cũng nghe. Có lẽ chính vì thế mà mình đã chịu đựng được những gian khổ trong chiến trường và cả những năm trong quân ngũ sau này.

Chuyện cũ nhớ lại là như thế đấy, ký ức chiến tranh là như thế đấy các bạn ạ  Câu chuyện mà tôi vừa kể không biết có ai đọc nó không nhỉ ? Nhưng viết xong những điều này tôi thấy yên tâm và tinh thần thoải mái vì dù sao những kỷ niệm trong đầu bao lâu nay đã được viết ra. Bài viết như một nén hương xin được thắp cho các đồng đội của tôi đã hy sinh trong chiến dịch Quảng Trị. Xin cám ơn các anh đã hy sinh thay cho tôi và trong đời thường hôm nay có lúc gặp chuyện không vui thì các anh lại trở thành nguồn động viên an ủi tôi trong cuộc sống.

Hết.

KHÁNH "VOI"Đầu tháng 12 năm 71 hai tiểu đoàn sinh viên 5, 6 chia nhỏ bổ sung về các quân
binh chủng. Còn lại một số anh em chưa vể đâu phấp phỏng chờ đợi, đoán già, đoán non đơn vị mình sẽ được điều về. Trong cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Thạc ngày 6-12 có ghi lại thời điểm đó. Hắn chê tôi sợ vào hỏa lực trợ chiến phải mang vác nặng gù lưng. Hắn chê tôi sợ chết muốn vào binh chủng tăng thiết giáp vì có vỏ thép dày che chở.

Ôi, sợ chết âu cũng là lẽ thường tình của những thằng lính trẻ, 18 đôi mươi chúng tôi, chửa biết cái chi chi, chết thì tiếc lắm.

Song, cả tôi và hắn đều nhầm. Sau này, tôi nhận ra có thứ còn đáng sợ hơn cái
chết. Đó là sự đầy đoạ về thân xác.

Người ta thường nói, " ghét của nào trời trao của ấy". Cuối cùng tôi lại được
điều về tiểu đội 12 ly 7, đại đội 12 trợ chiến thuộc trung đoàn 101 sư đòan bộ binh 325.

Một tiểu đội 12,7 ly biên chế từ 10 đến 12 người. Trừ A trưởng mang kính ngắm và một khẩu AK, còn lại chia thành 3 tổ có nhiệm vụ mang ba phần chính của súng. Tổ 1 mang thân súng nặng 33 kg và một thùng đạn khoảng 10 kg. Tổ 2 mang chân súng nặng 34 kg và một thùng đạn. Tổ 3 mang bệ súng nặng khoảng 21 kg một hộp tiếp đạn và một thùng đạn cũng nặng chừng ấy.

Khi hành quân, thân và chân súng được hai cặp khiêng bằng hai chiếc đòn tre dài nặng chình trịch. Bệ súng hình thù kỳ dị đầy góc cạnh được một người vác . Những cạnh sắc như băm từng thớ thịt. Hơn ba chục cân có vẻ không quá nặng. Nhưng xin thưa, hành quân cả ngày trời dưới cái nắng miền trung, cộng với tư trang khoảng 30 cân nữa thì lừa cũng phải chào thua. Khi khiêng súng, người đi sau còn đỡ chứ người đằng trước thật khốn khổ. Sức nặng của balo và súng phía sau cứ kéo ngửa người ra. Trèo đèo lội suối, rồi trong rừng rậm, súng móc bên này mắc bên kia tiến cũng chẳng được mà lùi cũng không xong. Hồi còn đi học, ngoài cái tên bố mẹ đặt cho, tôi còn mang thêm biệt danh các bạn tặng là "còm", vì cân nặng cả bì chỉ có hơn 40 kg. Khiêng súng bị phồng, rồi loét, hai vai, mãi không lành. Mỗi lần hành quân mang vác, đối với tôi không khác gì hành xác.

Đêm ấy, bên cánh rừng ở Cự Nẫm Quảng Bình, nhận quân trang đi B balo hơn
40 cân, tôi phải đẩy lên ngôi mộ hoang, luồn hai vai vào hai quai mới gượng đứng lên được. Vậy mà lại đến phiên khiêng súng. Cố gắng bước dược chừng 50 chục mét thì ngã chúi xuống, nửa quì nửa ngồi, tôi ôm mặt khóc. Y tá Cận chạy lại, mở túi thuốc lấy ra một vốc vitamin B1 bảo tôi uống. Nghi ngờ về khả năng tăng lực của nắm B1 ấy, song tôi cũng tống đại vào mồn nhai trệu trạo. Thực tình lúc ấy tôi chỉ muốn chết quách đi cho rồi . Họặc giả có một quả pháo biển lạc vào giải thoát cho tôi thì âu cũng là số phận.

May thay trong tổ tôi còn có Khánh "voi". Trong số các anh em quê Phủ Cừ,
Hải Hưng, Khánh "voi" nổi bật vì dáng cao to như cây chuối hột trong vườn toàn chuối tiêu. Nghe nói nhà hắn nghèo lắm, ăn uống kham khổ, vậy mà hắn lại có một thân hình khá lý tưởng. Cao trên một mét bẩy lăm. Bắp thịt săn chắc. Đôi vai gấu hơi xuôi, hai hàm răng trắng đều, nước da sáng hơn că lũ bạch diện thư sinh chúng tôi. Hắn ghé vai đỡ tôi dậy, rút chiếc đòn khiêng ra quẳng sang một bên, đặt thân súng nặng như cùm lên vai, lầm lũi bước tiếp. Tôi vớ lấy chiếc đòn khiêng cố bám theo. Cuộc hành quân 5 ngày không thể nào quên, từ tây Quảng Bình theo dãy Trường Sơn qua giới tuyến 17 vào Quảng Trị tham chiến. Lính rơi rớt dọc đường. Không còn ra đội hình gì nữa, các đơn vị trộn lẫn vào nhau. Tiểu đội tôi đến nơi tập kết đầy đủ, có lẽ nhờ một phần bởi Khánh "voi".

Sau trận đầu, đêm 23 ngày 24 tháng tám năm 72 , tiểu đội bị thiệt hại nặng nề ,
thương vong non một nửa, tạm bị trưng dụng làm lính vận tải. Làm gì cũng được, miễn là không phải khiêng súng. Nhưng tôi lại nhầm. Gọi là vận tải cho oai chứ thực ra là gùi gạo, đạn. Mấy chục cân trên vai chẳng khác gì khiêng 12ly7. Trên một cung đường chừng 4, 5 cây số trống trải, phải luôn vận động thật nhanh qua những tọa độ chết người của pháo bầy và máy bay cường kích. Vô phúc dính B 52 thì coi như chấm hết. Vậy mà với Khánh "voi" dường như chẳng hề hấn gì. Bao giờ hắn cũng về trước tôi cả tiếng đồng hồ, chui tọt vào hầm không ra ngoài. "Trên mặt đất không có lợi" , hắn bảo tôi thế. Biết vậy mà đành vậy."Trên mặt đất không có lợi"...

Một tuần sau, tiểu đội lại nhận khẩu súng khác, chế tạo tại Liên Xô, nòng xoắn, tản nhiệt tốt hơn, nhưng cũng nặng hơn khẩu trước khoảng chục ký. Ngay đêm ấy lại vào chốt. Tâm trạng mọi người khá nặng nề . Nõi ám ảnh trận trước không thể bỗng chốc mà quên ngay được. Tiểu đội chốt trong một vườn chuối nhỏ lá xác xơ. Giũa vườn hiện lờ mờ một ngôi nhà, thực ra là phế tích của một ngôi nhà tan hoang. Phía trước là một bụi tre rách bươm. Nghe đâu trước bụi tre là lính đại đội 9 bộ binh. Chúng tôi vội vàng đào hầm trú ẩn, công sự pháo và một đoạn hào chừng 4 mét nối hầm trú ẩn với hầm pháo. Gần sáng công việc cũng tạm xong. Trong khung cảnh chết chóc như vậy, mà vẫn thấy một tiếng gà lạc lõng, cô đơn, gáy yếu ớt báo hiệu một ngày mới băt đầu. A trưởng Thành phân công người đứng cảnh giới dưới hào cách hầm trú ẩn khoảng một mét, còn lại tạm nghỉ. Rồi cũng đến phiên tôi đứng gác Trận địa hai bên thật yên tĩnh. Tôi nghe rõ cả tiếng con chim sâu bay chúi vào bụi cây trước mặt. Thì ra nó bị mù từ bao giờ. Chừng một tiếng sau, Khánh"Voi" đổi gác. Đôi vai gấu của nó cố nghiêng, lách ngườì cho vừa đoạn hào vừa hẹp vừa nông. Tôi chui vào hầm, chợp mắt một lúc. Bỗng một tiếng nổ vang phía cửa hầm. Minh "già"kêu thất thanh ]'Khánh chết rồi "[/i].Giật mình nhìn ra, một cảnh tượng thật hãi hùng. Khánh "voi" đang từ từ ngồi xuống, lưng tựa vách hào, đôi tay buông xuôi. Cái đầu nó bay đâu mất. Phía trên cổ, giữa một mớ xương vụn, máu ồng ộc tuôn ra ngập một đoạn hào. Trên vai Khánh, một mảng da đầu còn nguyên tóc vắt ngang, như khoác một chiếc khăn nửa đen nửa đỏ.

Cả tiểu đội chết lặng. Mặt Minh "già" thường ngày vốn đen thế, mà lúc đó trắng
bệch, đôi mắt thất thần. Sau ít phút trấn tĩnh, tôi quyết định ra ngòai. Để tránh vũng máu, tôi nắm hai cổ chân Khánh, làm động tác như đu xà kép dướn người nhoài ra . Bên mép hào, một hố vát hình nón vừa bị khoét còn vương vài mảnh gang vụn. Cối 81, Khánh chết vì một quả đạn cối của địch bắn vu vơ. Phía đối diện, một tấm gỗ ép dựng bên gốc chuối bê bết máu và óc. Giá mà Khánh thấp hơn một chút, giá mà Khánh đổi gác chậm hơn một chút thì cái thằng đang ngồi kia chính là tôi.

Mãi đến khuya mới có hai lính vận tải tiểu đoàn đến mang Khánh đi.Trăng thượng
tuần tháng cô hồn trút ánh sáng vàng vọt xuống vườn chuối. Trên ngực Khánh, nắp chiếc bút máy Pilot mạ vàng, mới nhặt được hôm qua, "để viết thư", hắn nói thế, cứ lấp lánh thứ ánh sáng ma quái.

Nhiều năm sau, ánh sáng ma quái ấy cứ ám ảnh tôi trong những đêm mất ngủ vì

bệnh tật. Hình ảnh Khánh "voi" với đôi vai gấu lại chập chờn hiện về. Giá mà hắn thấp hơn một chút, giá mà hắn đổi gác chậm một chút. "Ở trên mặt đất không có lợi". Biết vậy mà đành vậy./.

Ô CON GÁI NUÔI CỦA TIỂU ĐOÀN (1)Những ngày tháng 7 năm 1972 đất trời khu vực thị xã Quảng Trị như một chảo lửa khổng lồ. Cuộc hành quân Lam Sơn 72 của địch nhằm tái chiếm lại những vùng chúng đã bị mất đang ở những ngày quyết liệt. Các đơn vị ta chốt giữ trong thị xã và Thành cổ Quảng Trị đang phải hứng chịu những gì khốc liệt nhất mà kẻ thù đang dội xuống nơi đây có lẽ chỉ còn thiếu bom nguyên tử. Đoạn sông Thạch Hãn sang bên thị xã sôi lên sung sục, đủ các loại hỏa lực của địch từ B52, máy bay chiến thuật, pháo từ hạm đội 7 và từ các trận địa pháo đủ loại dội vào đây tạo nên những màn nước giăng trên dòng sông còn phải kể đến những luồng 12 ly 8 và đại liên của địch quét trên sông hòng ngăn chặn sự chi viện của ta từ bờ Bắc bên Nhan Biều, Xuân An.

Đại đội 3, tiểu đoàn 14 cối 120 ly của sư đoàn 325 bám trụ bên bờ Bắc thuộc thôn Xuân An, xã Triệu Thượng để chi viện cho quân ta ở bên Thị xã. Chưa đầy một tháng trận địa của các anh đứng chân tại đây nhưng đã tổn thất nhiều vì hỏa lực của địch. Sự chi viện của các anh cũng hạn chế rất nhiều vì đạn dược có hạn, trang bị hỏng hóc không bổ sung kịp và quân số thương vong nhiều, bắn được vài quả là địch phản pháo lại 1 cách dữ dội.

Một đêm cuối tháng 7, tổ tuần tra do b trưởng Quýnh (người Hải Dương) phụ trách, đang cảnh giới phía bờ sông, chợt có tiếng lạch cạch va chạm của vỏ đồ hộp thu hút sự chú ý của các anh, dưới ánh sáng của pháo sáng địch, trong đống đổ nát của những căn nhà bị bom pháo phá hủy, các anh phát hiện ngay gần đấy 1 bóng đen nhỏ tụt vào đống đổ nát của căn nhà bị sập. Cái gì nhỉ ? Địch chăng ? Không thể là người được vì bóng đen đó rất nhỏ, hay là một con chó còn sót lại trong bom đạn mù trời này !!!...

Sau khi được báo cáo, anh Mai (c trưởng) và anh Sáng (cv trưởng) quyết định đêm hôm sau phải tìm cách xác định bóng đen đó có phải là chó hay con vật gì ?

Ngay khi màn đêm buông xuống, Quýnh và mấy người nữa lại bò ra khu vực mà hôm trước các anh phát hiện ra bóng đen. Mật độ pháo kích của địch rất dầy đặc vì chúng biết hàng đêm chúng ta tiếp tế lương thực, đạn dược và bổ sung quân qua bến vượt Nhan Biều và Xuân An này. Chờ mãi không thấy động tĩnh gì, mọi người chúi trong những căn hầm thay nhau ngủ và cử người cảnh giới. Gần sáng khi mật độ pháo kích đã bớt đi, giữa các trận oanh kích dữ dội, khoảng không gian đặc quánh mùi khói đạn bỗng như yên ắng lạ thường... Chợt ngay gần đấy tiếng động của vỏ đồ hộp vọng đến. Người lính cảnh giới đá chân ra hiệu cho Quýnh hướng về nơi phát ra tiếng động. Một bóng đen nhỏ như một con chó thò đầu qua đống gạch đổ, con vật này khác chó ở chỗ chó thì gục đầu xuống để liếm láp vỏ đồ hộp, còn nó lại ngửa đầu lên để mút mát vỏ đồ hộp được cầm bằng chi trước...Người rồi chứ không phải là chó mà đây là 1 đứa trẻ còn sót lại trong những trận bom pháo vừa qua. Các anh tiến sát đến chỗ đứa trẻ, nghe động nó thụt rất nhanh vào đống đổ nát mất dạng.

Quyết phải bắt cho bằng được đứa bé, các anh khẳng định nó dứt khoát phải ra khỏi chỗ trú để kiếm ăn khi ngớt tiếng pháo kích. Gần sáng khi pháo địch vừa ngớt, các anh áp sát nơi trú ẩn của đứa bé. Khi nó vừa thò ra khỏi đống gạch, bằng động tác chuẩn xác, một người chụp lấy đứa bé đồng thời bịt miệng không để cho nó kêu vì bên kia sông là địch.

Dưới ánh sáng leo lét khói mù của ngọn đèn thắp bằng dầu đậu nành trong hầm của đại đội, một đứa con gái quãng chừng 2 tuổi chưa biết nói, chưa biết đi, người đen nhẻm lấm láp toàn bùn đất, cóc cách toàn những nốt ghẻ lở toàn thân, đứa bé chỉ ọ... ẹ ... trong vòng tay những người lính đã đón nó về, có lẽ đã bao nhiêu ngày nó tồn tại như một con vật hoang dã và chẳng còn đủ sức để khóc nữa. Anh em đoán chắc cha mẹ nó đã chết vì bom pháo và nó đã sống sót cho đến ngày hôm nay.

Anh Mai giao đứa trẻ cho y tá đại đội chăm sóc và chữa trị ghẻ lở cho nó. Với bàn tay vụng về thô ráp của những người lính pháo đã cắt may cho cháu bé những bộ quần áo từ những vỏ chăn cắt ra. Anh Mai c trưởng đã đặt tên cháu là Xuân An và lấy họ Hồ của mình để làm họ cho cháu - Hồ Xuân An.

Bé Xuân An lớn lên trong vòng tay chăm sóc của những người bố nuôi của c3 dưới những trận oanh kích dữ dội của địch. Cháu đã chập chững những bước đi đầu tiên và bập bẹ gọi bố..bố... mỗi khi có người tạt vào hầm quân y thăm cháu...

  Cuối năm 1974 các đơn vị của Sư đoàn 325 lần lượt bàn giao tuyến chốt chạy từ Đá Đứng, Tích Tường, Như Lệ về Nhan Biều, Xuân An qua Chợ Sãi, An Tiêm, Vân Hòa, An Lộng ra tới Long Quang, Thanh Hội sát mép biển cho các đơn vị địa phương để lui lên Cam Lộ chuẩn bị cho những chiến dịch mới. Những tiểu đoàn trợ chiến của sư cũng rục rịch chuyển quân, d14 cối 120 ly cũng nằm trong số những đơn vị như thế.

Trước tình hình mới, lãnh đạo tiểu đoàn chỉ đạo các đại đội gấp rút làm công tác bàn giao địa bàn cho đơn vị bạn. Với bé Xuân An gắn bó với c3 hơn một năm nay, cũng không thể mang theo đơn vị được, cái khó là tình cảm của cháu với các bố c3 vô cùng sâu nặng. Cháu đã chạy đi chạy lại tung tăng giữa các hầm pháo, bi bô nói cười, bập bẹ hát và vỗ tay theo nhịp mỗi khi nghe các bố hát...Chẳng còn cách nào khác, D bộ 14 quyết định cho c3 trao Xuân An cho du kích địa phương. Eng (anh) Chim và o Diệp được xã trao trách nhiệm chăm sóc cháu. Ngày chia tay với các bố c3 nhìn cánh tay bé nhỏ chới với trước hàng quân trong tiếng khóc gọi bố...bố ơi... của Xuân An đã làm cho những người lính c3 phải gạt nước mắt bước đi không dám ngoái đầu nhìn lại...

Trong cơn lốc ào ạt của chiến dịch Xuân 1975, gót chân của những người lính c3/d14 trong đội hình của Sư 325 từ Quảng Trị vượt Trường Sơn thọc xuống cắt đường 1 tại Phú Lộc, tiến vào giải phóng Huế rồi cùng đội hình của Sư đoàn tiến đánh Đà Nẵng, băng qua duyên hải miền Trung, hỗ trợ e101 và e18 giải phóng Phan Rang, Phan Thiết...Trong chiến dịch Hồ Chí Minh các anh đã yểm trợ tích cực cho các đơn vị bộ binh tiến đánh Long Thành, Thành Tuy Hạ và hỗ trợ cho các đơn vị pháo binh cơ giới của Sư đoàn và Quân đoàn đưa pháo hạng nặng vào Nhơn Trạch để chế áp kẻ thù tại Tân Sơn Nhất... Khi Sư đoàn vượt sông Đồng Nai, hỏa lực của d14 cùng các đơn vị bạn đã chế áp kẻ địch bên căn cứ Cát Lái hỗ trợ tích cực cho Sư đoàn đánh chiếm BTL Hải quân ngụy, giải phóng quận 2 và 9 góp phần vào chiến công của chung của dân tộc, đưa chúng ta đến đích cuối cùng của cuộc chiến tranh giải phóng, thống nhất đất nước.

Chiến tranh kết thúc, những người lính trở về với đời thường, biết bao những lo toan của cuộc sống đè nặng lên vai họ nhưng trong tâm khảm của họ không bao giờ quên những ký ức gian khổ, đầy máu và nước mắt nơi mà rất nhiều đồng đội của họ không bao giờ trở về. Năm tháng trôi qua khi mái tóc của những CCB mỗi lúc bạc thêm thì những câu chuyện của quá khứ không những nguôi ngoai đi mà hình như càng thôi thúc họ chắp nối để tìm lại những gì mà một thời tuổi trẻ đã sống và chiến đấu.

Đại đội trưởng Mai và chính trị viên Sáng là những cán bộ quê miền Nam sau khi giải phóng đã chia tay đơn vị để nhận nhiệm vụ mới. Anh Mai được điều về các đơn vị làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch và FULRO tại Tây nguyên. Anh Sáng được cử đi học và về công tác tại Viện Kiểm sát nhân dân Lâm Đồng. Có một sự trùng hợp là hai anh sau khi nghỉ hưu đều đưa vợ con lên Đà Lạt sinh sống. Trong tâm khảm của các anh luôn đau đáu một nỗi niềm về cháu Xuân An, sau mấy chục năm đằng đẵng, các anh muốn đi tìm cháu ngặt một nỗi không có điều kiện và không có thông tin gì về cháu.

  Cao Huy Trang, quê Hưng Yên, cùng một số anh em c3/d14 sau một thời gian tìm kiếm và kết nối với nhau trong nhóm các CCB Sư đoàn 325 của tỉnh Hưng Yên. Hoạt động của nhóm các anh là trở lại chiến trường cũ tìm kiếm và xác định mộ phần các bạn đồng đội đã hy sinh để đưa về quê hương. Các anh cũng đã kết nối liên lạc được với c trưởng Hồ Mai và cv trưởng Nguyễn Đình Sáng đang ở Đà Lạt. Một trong những nguyện vọng của 2 vị chỉ huy cũ là phải tìm ra bằng được bé Xuân An

Những chuyến đi về Quảng Trị, các anh trở lại Xuân An để tìm bé Xuân An nhưng chỉ được 2 du kích cũ là eng Chim và o Diệp cho biết sau năm 1975 bà con Xuân An lục tục trở về quê cũ, trong số họ không có ai là người thân của bé Xuân An. Bé Xuân An được du kích địa phương trao cho mệ (bà) Nữ làm con nuôi. Năm 1978 nhiều gia đình ở thôn Xuân An đi xây dựng kinh tế mới tại Nam Bộ trong đó có gia đình mệ Nữ. Từ đó mọi thông tin về bé Xuân An đều dừng lại ở thời gian này.

Năm 2008, ông Trang cùng vợ chồng ông Nguyễn Văn Cường (nguyên là liên lạc của ông Mai và ông Sáng), Bí thư tỉnh ủy Hưng Yên lên Đà Lạt thăm ông Mai và ông Sáng. Trong câu chuyện gặp lại sau mấy chục năm các ông có nói đến việc phải đi tìm Xuân An. Thông tin mà ông Mai biết là Xuân An đang làm công nhân cao-su ở Đồng Nai. Sau đó mấy ngày ông Trang cùng ông Mai và con trai ông Mai tên là Thủy xuống Đồng Nai để tìm. Suốt 2 ngày trời cả ba người đi hết các công ty cao-su của Tổng công ty cao-su Đồng Nai mà không tìm thấy Xuân An.

Tình cờ vào khoảng tháng 4/2010 những thông tin về Xuân An lại được sáng tỏ khi anh Lý Văn Tuấn là con trai bà Nữ sau mấy chục năm quay trở lại thăm quê, lúc này anh đang là giáo viên tiểu học tại Bà Rịa - Vũng Tầu. Tuấn là trang lứa với Chim quãng chừng 55 tuổi. Bạn bè gặp gỡ nhau sau bao năm xa cách, qua câu chuyện thì bé Xuân An ngày xưa được bà Nữ đặt tên là Tuyết và mang họ của chồng bà Nữ - Lý Thị Tuyết. Bé Xuân An nay đã là bà mẹ của 5 đứa con sinh sống tại ấp 4B, xã Tân Lâm, huyện Xuyên Mộc, Bà Rịa - Vũng Tầu.

Nhận được tin về Xuân An (Tuyết), ông Trang đã báo cáo lại cho nhóm CCB của c3/d14/f325 của Hưng Yên, ông Nguyễn văn Cường, Bí thư tỉnh ủy và ông Vũ Văn Toàn (e95/f325), Trưởng ban tuyên giáo tỉnh quyết định cử ông Trang vào BR - VT để tìm Xuân An.

Một ngày tháng 7/2010 vợ chồng ông Trang đánh xe lên Đà Lạt để đón ông Mai và ông Sáng ra BR-VT. Họ đến Xuyên Mộc để đến xã Tân Lâm và tìm đến ấp 4B, nơi Xuân An đang sinh sống.

Cuộc hội ngộ điễn ra vô cùng cảm động khi cả cái ấp nghèo ấy kéo đến nhà cô Tuyết để chứng kiến những giây phút cảm động của những người lính già đầu bạc sau bao năm ròng đã tìm thấy cô con gái nuôi của mình.

Theo gia đình mẹ nuôi vào BR-VT làm công nhân cao-su, Tuyết kết hôn với Lê Đỗ Thành sinh năm 1964 quê tại xã Triệu Độ cùng huyện Triệu Phong, QT. Hoàn cảnh của những người đi xây dựng vùng kinh tế mới vô cùng vất vả đã khiến họ đồng cảm cùng xây dựng cuộc sống gia đình. Hai vợ chồng có 5 mặt, con đứa lớn đang học đại học, đứa bé nhất mới lên 10, cuộc sống không dư giả gì với nghề cạo mủ cao-su.

Ngày 6/3/2011, anh em CCB f325 thu xếp cho Tuyết ra thăm Yên Mỹ, Hưng Yên quê hương của những bố nuôi c3/d14, những người đã cứu sống, che chở, chăm sóc cô trong những ngày chiến tranh và chính họ lại là những người đã lăn lội bao nhiêu năm tìm lại cô để có ngày hội ngộ hôm nay.

Mấy hôm sau, tại TP Hưng Yên, anh em CCB đã tổ chức tiếp đón Tuyết. Tại đây nhiều người lính Quảng Trị năm xưa, nay đã trở thành những cán bộ chủ chốt của tỉnh như ông Cường - Bí thư tỉnh ủy ; ông Toàn - Trưởng ban Tuyên giáo của tỉnh và nhiều CCB khác đã nồng hậu đón tiếp cháu. Niềm vui vỡ òa xen lẫn những giọt nước nước mắt nhạt nhòa trên những khuôn mặt pha sương của những người lính già khi bé Xuân An ngày xưa, cô Tuyết ngày nay - đứa con nuôi của tiểu đoàn 14 lưu lạc bao năm đã trở về trong vòng tay của những người bố nuôi như năm nào cô được che chở trong lòng những người lính giải phóng bên dòng Thạch Hãn mịt mù khói lửa. Nếu như 2 vị chỉ huy cũ của c14 là Hồ Mai và Nguyễn Đình Sáng được chứng kiến cuộc hội nghộ này thì hạnh phúc thật là lớn lao.

Thật tình cờ, Tuyết ra bắc đúng dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Sư đoàn 325, cháu đã gặp gỡ những CCB của Sư đoàn 325 tại Lục Ngạn, Bắc Giang nơi Sư 325 đóng quân. Chúng tôi đã gặp cháu và những đồng đội c3/d14 quê Hưng Yên trong không khí náo nức của những thế hệ chiến sĩ Sư đoàn từ mọi miền đất nước về dự lễ.

Tôi viết bài này qua câu truyện của Cao Huy Trang và các CCB c3/d14 trong dư âm của tháng 3, cái mốc thời gian mà bất kỳ CCB nào của Sư đoàn 325 đều mãi mãi khắc ghi:
- 11/3/1951 thành lập Đại đoàn 325 (nay là Sư đoàn) - Bình Trị Thiên - bằng chiến thắng Thanh Hương, Mỹ Xuyên tiêu diệt 2 binh đoàn cơ động của Pháp.
- 10/3/1975, e95 nổ súng tấn công Ban Mê Thuột mở màn chiến dịch Tây Nguyên, khởi đầu cho Chiến dịch Xuân 1975 đại thắng.
- 21/3/1975, Sư đoàn (thiếu e95 đang ở Tây Nguyên) nổ súng cắt đường 1 tại Phú Lộc (nam Huế) bắt đầu Chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng.
- 25/3/1975, e101 cắm lá cờ giải phóng lên cột cờ Phú Văn Lâu.

- 29/3/1975, e18 sau khi đập tan tuyến phòng ngự của địch trên đèo Hải Vân đã tiến công bán đảo Sơn Trà, giải phóng cảng Đà Nẵng, kết thúc chiến dịch Huế - Đà Nẵng toàn thắng.///

BÁU VẬT CỦA CUỘC ĐỜINguyễn Như Thìn Đúng là "chim sa cá nhảy" đen quá, tại con chim mù sa vào bụi cây hay sao mà tiểu đội ra quân lần thứ hai, ngay ngày đầu đã mất luôn "cây chuối hột" Khánh "Voi". Để giải đen, anh Thành quyết định rời trận địa sang trái, cách trận địa cũ chừng 50 mét. Lợi dụng hai hầm trú ẩn của đơn vị nào bỏ lại, chúng tôi hối hả đào công sự. Lần này, không ai bảo ai, đào rõ sâu. Đến tầm trưa, một tốp F4 bay đến. Chúng lượn một vòng rồi chiếc đầu bổ nhào. Tiếng bom rít thật khủng khiếp. Tôi chỉ mới quen với tiếng đạn pháo và xác định điểm rơi khá chuẩn xác, nhưng với bom, đây là lần đầu. Cộng hưởng với tiếng gầm rú của động cơ, như khoan vào óc, ruột gan như thắt lại. Hai quả bom trùi trũi lao xuống, ½ thân rồi ¼ thân. Hai tiếng nổ đinh tai dường như cùng một lúc, cách công sự chừng vài chục mét, đất đá rơi rào rào. Chiếc thứ hai vòng lại chúc đầu , anh Thành vội kéo tôi vào hầm pháo. Một quả bom, từ dưới bụng máy bay bung ra. Lần này hình chiếu của nó như quả bưởi, to dần từng tíc tắc. Chân tôi díu lại, như muốn chạy mà không được.Tôi nghe thấy văng vẳng một tiếng hô " ...Bổ nhào ..bắn". Binh tĩnh lại, đưa máy bay vào kính ngắm số không, tôi xiết một tràng dài. Một ánh chớp loé lên bên trái trận địa, kèm theo một tiếng nổ lộng óc, xô tôi dúi vào vách công sự. Chiếc máy bay chẳng hề hấn gì, bay lên, mất hút vào bầu trời. Vậy mà, anh Thành vẫn khẳng định, nó đã dính đạn, bằng chứng là không dám quay trở lại. Tôi cho rằng, nó đã hết bom, chẳng qua anh muốn động viên tôi mà thôi. Hứng chí hơn, anh tuyên bố, từ nay tôi sẽ là tiểu đội trưởng, còn anh là trung đội trưởng tự phong, thay anh Châu đã hy sinh.

Làm A trưởng cũng hay, đỡ phải khiêng súng, nhưng cả tiểu đội còn có 5 mống không ghé vai cùng anh em thì ai mang, tôi chợt buồn. Nhưng nõi buồn của tôi cũng sớm được giải toả. Mấy đêm sau, liên lạc đại đội dẫn đến ba lính mới bổ sung. Một, tên là Thắng nhà ở Hà Nội ; một, tên Chính, Thái Bình còn lại là Định, Quảng Ninh. Trời tối đen như mực, dưới ánh sáng nhập nhoạng của hoả châu, tôi chỉ kip thấy lờ mờ ba khuôn mặt. Sáng hôm sau, Chính biến mất để lại khẩu AK. Thắng người chắc, đậm, hứa hẹn một thợ khiêng súng tốt. Nhà hắn ở ngõ Thanh Miến, con ngõ nhỏ cong như một dấu ngoặc đơn, nối phố Nguyễn Thái học với Văn Miếu. Thằng Định, chân tay quyềnh quàng, da ngăm đen, dáng dấp khoẻ mạnh. Tự dưng tôi thấy rất buồn cười, ngắm hai thằng lính mới, mà như mộ phu đi Tân thế giới không bằng. Thằng Định, quê hắn ở tít mãi biên giới Việt Trung. Làng hắn có đến 80% là người Hoa. Có lẽ tiếp xúc với người Hoa nhiều nên giọng hắn cũng lơ lớ như mấy ông Tầu bán lạc rang phố Hàng Giày. Hầm chữ A, ba thằng nằm trở đầu đuôi chật cứng, chân tay thằng Định như thừa thãi. Thỉnh thoảng hắn lại rên lên: "Xịt ra một chút nào" thật buồn cười . Vì thế tôi gọi hắn là Định "xịt". Định "xịt" có một thói quen khá lạ lùng. Thỉnh thoảng hắn móc trong balo, một chếc gương honda gấy ra soi, ngày không dưói chục bận rất ngứa mắt. Tôi bảo hắn : "Vứt mẹ nó đi, mày định gọi máy bay đến à". Hắn lẳng lặng cất gương đi, nhưng chỉ được vài ngày, đâu lại vào đấy. Một lần trực chiến, hắn ngắm khẩu 12,7 ly rất kỹ và rụt rè nói:
- Lúc nào có dịp anh cho em bắn nhé!
- Bắn máy bay thì phải học còn bắn bộ binh thì dễ thôi, như bắn AK vậy.
Tôi bảo hắn , đai khái thế.

Chúng tôi lại chuyển chốt ra sát bờ sông Thạch Hãn, giá súng bắn bộ binh. Nghe trinh sát nói, cứ ngược theo bờ sông là Thành Cổ, nơi có tiếng súng vọng về không ngớt, suốt đêm ngày. Mặt trận phía đông chúng tôi, không có gì lạ, ngoại trừ vài trận đấu súng lẻ tẻ. Có lẽ do thời tiết. Những cơn mưa đầu mùa trút xuống liên miên. Nước từ thượng nguồn đổ về đục như máu. Mà có khi lẫn máu thật. Đêm đêm, tôi nghe thấy tiếng lạch xạch của xuồng máy chở thương binh từ Thành Cổ xuôi ra, nhiều chiếc dính phải bom từ trường, không đến được trạm phẫu tiền phương. Vào một chiều tạnh ráo hiếm hoi, phía trước pháo sáng bắn lên rực trời, chẳng hiểu chuyện gì. Hôm sau mới biết, Thành Cổ đã bị mất. Từ đấy thấy vắng dần tiếng xuồng lạch xạch xuôi dòng.

Nằm trong hầm, nghe mưa rơi mà buồn thấu ruột. May có thằng Định "xịt" hay chuyện. Hắn kể chuyện làng, chuỵện xóm, chuyện nhà, chuyện cửa với những phong tục khá lạ kỳ. Nhưng kể mãi cũng hết chuyện, đôi khi thấy hắn thừ người ra, lại móc gương soi. Có lẽ cu cậu nhớ nhà. Một bận tôi nảy ra một ý nghĩ tinh quái, hỏi hắn:
- Này, năm nay mày bao nhiêu tuổi rồi? Hỏi thực, đã bao giờ mày thấy cái ấy của phụ nữ chưa? Đừng ngượng cứ kể đại ra đi.
Hắn đỏ mặt, thẫn thờ một lúc rồi nói:
- Nhưng anh cũng phải kể chuyện của anh cho em nghe.
Tôi cứ ừ bừa vì hy vọng sẽ được nghe một câu chuyện thật nhảm nhí.

- Em, tháng tới là vừa tròn mười chín tuổi. Đã một lần được thấy cái ấy...
Hắn kể:
"...Hồi còn ở quê, em có thằng bạn thân hàng xóm, nó có một cô em gái rất xinh. Cũng vào cữ này năm ngoái, tháng ngâu, mưa cả ngày, chẳng đi đâu được. Em sang nhà nó chơi. Hai thằng nằm trong buồng tán chuyện tào lao, ngủ quên lúc nào không hay. Bỗng em nghe thấy một tiếng động mạnh ngoài cưả, giật mình, tỉnh dậy. Thằng bạn đi đằng nào mất, hoá ra cô em nó đi chợ về, quần áo ướt sũng. Ngỡ nhà không có ai, cô ấy ra bể nước dội ào mấy gáo , rồi vào buồng cởi tung quần áo lau người. Em nằm im như chết, nín thở mà tim cứ đập thình thịch. Lần đầu tiên em được thấy một thân hình trắng như thế. Hai bầu ngực căng tròn. Em liếc xuống phía dưới, thú thực, chỉ thấy như một nắm thuốc lào. Cô ấy lại đầu giường lấy quần áo, bất ngờ phát hiện ra em, kêu thất thanh, ôm vội đống quần áo chạy bổ ra ngoài. Em ngượng quá, lồm cồm bò ra khỏi giường lủi một mạch về nhà. Kể từ đấy mỗi bận gặp em là cô ấy lại đỏ mặt chạy vụt đi. Nhiều lần em muốn gặp xin lỗi mà không được, cô ấy cứ tránh mặt... Rồi cũng đến cái ngày em đi bộ đội. Cô ấy không tránh nữa, cùng thằng anh trai đi tiễn em. Lúc lên ô tô, bất ngờ cô ấy níu lấy balo của em khóc tức tưởi. Thằng bạn ngạc nhiên nhìn hai đứa. Em hết sức bối rối. Cô ấy dúi vào tay em một gói nhỏ. Lên xe mở ra là một chiếc khăn tay ..."
Tôi thán phục nói:
- Truyện tình của mày hay thật đấy.
Hắn trả lời:
- Nhưng chúng em đã nói được gì với nhau đâu.
- Cần quái gì phải nói. Nó yêu mày rồi
Tôi nói tiếp.
- Hồi vào trong này, em viết liền mấy lá thư về mà chẳng thấy cô ấy trả lời.
- Mày cứ chuyển đơn vị xoành xoạch thì làm sao mà nhận được.

Tôi an ủi hắn.
- Thế còn chuyện của anh.
Hắn hỏi.
- Chuyện của tao chẳng có gì. Hồi ở Đầu Kênh, tao có chôn cất một gia đình bị trúng bom. Chị chủ nhà áo thì còn, mà quần bay đâu mất. Tao cứ thấy ghê ghê. Căn cước của chị ghi tên Huệ. Có đôi hoa tai tao chôn cả.
Tôi kể.
- Chuyện anh kinh bỏ mẹ, toàn chết chóc.
Hắn nói thế.

Đầu tháng 11 chúng tôi được lệnh bàn giao chốt cho đơn vị khác. Một đêm mưa bão, tiểu đoàn vượt sông Cửa Việt sang bờ bắc. Sông rộng thật. Bơi giỏi như tôi mà hàng tiếng mới dìu được súng sang tới bờ. Thỉnh thoảng một quả trái phá rít qua đầu. Pháo sáng chập chờn như ma đùa trên bầu trời.

Sau mấy tuần nghỉ ngơi, bổ sung quân, chúng tôi lại được lệnh vượt sông sang bờ nam tham chiến. Gói ghém súng đạn quân trang cho tiểu đội xong, chuẩn bị xuống nước thì bất ngờ chính trị viên đại đội gọi tôi lên. Anh bảo, bàn giao tiểu đội cho A phó, còn tôi nhận nhiệm vụ mới. Chuyện quái gì thế nhỉ? Nghĩ mãi không ra. Hoá ra, tôi được đi an dưỡng ở tuyến sau nửa tháng.

Làng an dưỡng cách Quán Ngang, chừng 3 km. Ngày ngày, từng tốp B52 ném bom miền Bắc trở về. Không biết ngoài ấy ra sao, lại thấy nhớ nhà cồn cào. Tôi có làm quen với mấy lính sinh viên trường Xây Dựng. Trong đó có Dũng C1, nhà ở phố Hàng Bạc. Cùng tâm trạng, hai đứa sớm thân nhau. Một sớm, gặp Bảo tiểu đội cối 82 đi lấy gạo. Trông thấy tôi, hắn gọi thất thanh: " Anh Thìn ơi, tiểu đội anh hy sinh gần hết rồi". Tôi choáng váng. "Thế còn ai". Tôi hỏi. Hắn nói, không được rõ vì ở tuyền khác.

Ruột gan như lửa đốt. Rồi cũng đến ngày trở về. Liên lạc tiểu đoàn dẫn tôi ra chốt. Chỉ một dải cát dài bên trái thấp thoáng bóng phi lao, "Kia là Tám Cát" hắn nói. Đến một đoạn hào bị pháo cày nham nhở, tôi thấy bệ của khẩu 12,7 ly quen thuộc bị vặn quăn hình số tám. Đón tôi ở cửa hầm là Bình "Méo"bàn chân băng trắng xoá và Hùng ngơ ngơ điếc vì tiếng nổ. Chúng kể lại .
- Trận Tám Cát diễn ra thật ác liệt. Pháo địch bắn suốt đêm, sáng ra bộ binh bám theo xe tăng ủi liền mấy chốt của ta. Bên này khẩu 12,7 ly phát huy tầm xa, bắn chéo vào đội hình của địch. Chúng chết khá nhiều. Chiếc xe tăng quay nòng pháo lại, bắn liền hai phát. Phát đầu trúng cửa hầm, anh Tẹo toang bụng. Phát thứ hai hất tung khẩu 12,7, Định đang bắn sang một bên. Thằng Định bị ..."
- Tao hiểu rồi. Tôi khoát tay ra hiệu, đừng kể nữa.

Một cơn gió từ biển thốc vào khiến tôi thấy lành lạnh sống lưng. Lần trứơc là Khánh "Voi", lần này là Định "Xịt". "Chúng mày chết cho tao sống Định ơi. Bắn bộ binh không dễ đâu...khó nhất là cơ động. Không đại khái được. Tao đã nói dối mày... Nếu không đi nghỉ hai tuần thì xạ thủ số một chính là tao".

Nhớ lại truyện tình đẹp như truyền thuyết nó kể cho tôi bên bờ Thạch Hãn lại thấy quặn lòng. Ước gì, những lá thư tỏ tình của mày không tới được nàng "Tiên Dung" miền sơn cước, Định ơi.

Em vừa tròn mười chín. Đã một lần nhìn thấy ...Báu vật của cuộc đời .

GÀ HOA MƠ CÁNH TIÊNNguyễn Như Thìn "Truyện của anh kinh bỏ mẹ, toàn chết chóc.." Thằng Định bảo tôi thế. Đáng ra tôi, còn kể tiếp anh Tẹo, hy sinh ra sao hay thằng Ngọ chết cháy trước cửa ngõ Phan Rang năm 75 thế nào, nhưng thôi tôi kể chuyện sống vậy. Một mầm sống hẳn hoi .

Hồi ấy tiểu đội tôi được bổ sung một lính mới, quê Thái Bình, tên Toản. Anh khá đẹp trai, tóc lúc nào cũng chải ngược ra sau, nom rất điệu. Khi anh cười, hai mắt tít lại, miệng ngoác tận mang tai, phô hai hàm răng... không được trắng. Nó vàng, xỉn, lại không đều, trông như đứa trẻ lên năm bị sún vậy. Vì thế, tôi gọi anh là Toản "Sún". Anh Toản đã có vợ con đàng hoàng, anh hơn chúng tôi chừng vài tuổi. ( Có lần nghe thằng Mộc kể lại, anh hận tôi lắm, vì ngần này tuổi rồi mà vẫn bị tôi gán cho cái tên là "Sún") Thực tình, tôi rất ân hận muốn sửa sai, mà không được. Là bởi, cái tên ấy quá quen thuộc với tiểu đội mất rồi, như mũi tên đã buông khỏi dây cung, làm sao giữ lại được nữa. Anh Toản cũng hay chuyện. Lúc hứng chí anh kể chuyện vợ chồng cho lũ trai tơ. Chúng tôi cứ há hốc mồm ra nghe. "... Chúng mày biết không? Con vợ tao, cái khoản ấy nó máu lắm. Cái lần tiễn tao đi bộ đội, chỗ khuất người, nó túm lấy cái ấy của tao bảo, giá anh để lại cho em cái này thì tốt quá. Tao nóng bừng cả người. Mãi đến khi xe sắp chạy mới hạ hoả".

Mà anh Toản máu cũng không kém. Có bận ra cửa hàng mua bán, sờ tấm vải lụa đen, nhớ đến vợ, mặt anh lại đần thối ra, đứng chết trân hàng nửa tiếng đồng hồ. Tôi bực quá, thây kệ anh bỏ về. Chả trách hồi năm 73 sau Hiệp Định Pari, đóng chốt giáp ranh, một lần bên kia hàng rào, một thằng lính Sài Gòn chửi :" Đ mẹ Việt cộng thèm l ... chết nửa đại đội ". Số là, bên địch hôm ấy, thấy thấp thoáng bóng áo dài xanh, đỏ, lính mình tò mò ngó xem.

Lại nói hồi đóng chốt giáp ranh ven biển. Có một lần bão to, tấm tôn lợp trên mái lán không chịu nổi sức gió bay vèo, chém một nhát ngang mặt anh Toản. Chúng tôi vội vàng khiêng anh đi cấp cứu phẫu trung đoàn. Nửa tháng sau anh về, một con rết dài cỡ gang tay vắt ngang mặt, nom rất gớm ghiếc. Có lẽ Chí Phèo cũng phải tôn anh làm đại ca. Sẹo trên mặt Chí, chỉ bởi mảnh chai, mảnh sành, sánh làm sao được với tôn hoa Cửa Việt.

Dạo ấy, sau hiệp đinh Paris, mặt trận phía đông khá yên bình, đơn vi tổ chức anh em liên hoan văn nghệ cho đời sồng tinh thần thêm vui vẻ. Là dân Thái Bình nổi tiếng hát chèo, anh Toản trổ tài khiến chúng tôi phục sát đất. Anh hát hay, múa cũng dẻo. Tiết mục của anh được chọn đi thi cấp tiểu đoàn. Cần phải tập thêm. Nhưng tập ở đâu ? Giữa lán mà múa may quay cuồng thì cũng lố. Một lần thằng Tác và Tân "vịt", bắt gặp anh đang biểu diễn trong... nhà vệ sinh. Chuyện là, dạo ấy, hậu cần cũng khá. Mỗi tháng mỗi lính được cấp một tập giấy năm hào hai để viết thư. Tôi viết đủ thứ còn chẳng hết nữa là Tân "Vịt". Hắn chẳng viết bao giờ. Hỏi tại sao hắn nói ngại. Hắn sử dụng luôn tập giấy làm cái việc cần thiết mỗi buổi sáng. Thằng Tác tiếc lắm, thế là, mỗi sáng, hắn đón Tân"Vịt" gần nhà vệ sinh, tay cầm tập giấy báo cũ cắt vuông vức hẳn hoi, gạ đổi cho Tân "Vịt". Có bận giở chứng, thằng Tân không đổi, hai đứa đôi co, chính là hôm chúng bắt gặp anh Toản đang biểu diễn. Tôi vội lôi hai đứa ra xa, kẻo anh ngượng không tập tiếp.

Mấy hôm sau, anh nhận được thư nhà, buồn rười rượi, chẳng hát hò gì nữa. Hỏi gì cũng không nói. Tôi tỉ tê mãi, anh mới kể:"Con vợ tao ở nhà lăng nhăng với thằng hàng xóm. Mẹ chồng nàng dâu lủng củng không ai giải quyết được, nhắn tao về"


Một lần, nhân trực ban, tôi báo cáo với chính trị viên đại đội chuyện nhà anh Toản:"Gay lắm, độ này anh ấy làm sao ấy, múa hát như điên trong nhà vệ sinh, không cho ai vào. Không tin anh hỏi thằng Tân mà xem. Anh xem thế nào, xin tiểu đoàn cho anh ấy về phép..."

Hai tuần sau anh Toản được về phép thật. Hết phép, anh về đơn vị rất đúng hạn, mặt mũi phởn phơ, tay xách theo đôi gà làm giống, gà hoa mơ cánh tiên, tuyệt đẹp. Tôi hỏi anh, giải quyết chuyện gia đình thế nào. Anh cười: "Trông thấy cái mặt tao, cả anh, cả ả lậy như tế sao, hứa đến chết cũng không dám ăn vụng. Chi bộ thôn, thanh niên, phụ nữ, coi tao như anh hùng. Bắt tao kể truyện chiến đấu. Rồi cái sẹo thế nào. Tao chẳng dám nói bị tôn chém, cứ phét lác lung tung. Còn vợ tao, thôi thì tha cho nó. Nói thực nhé, mình mà có điều kiện thì cũng ăn vụng chẳng kém ai"

Đầu năm 74, chúng tôi chuyển quân về Triệu Độ. Đôi gà anh Toản mang về, lớn nhanh như thổi, chẳng mấy chốc, trước lán tiểu đội, có hẳn một đàn gà. Mà đến lạ, đi đâu quanh thôn cũng gặp, gà hoa mơ cánh tiên. Giống của anh tốt thật. Tháng đầu mới về thôn, chưa làm được lán, chúng tôi phải chia nhau ở nhờ nhà dân. Tôi anh Toản, Tân " Vịt" ở nhờ một gia đình. Anh chị chủ không còn trẻ, lấy nhau gần chục năm không có con. Chị chủ trông tràn đầy nhựa sống, còn anh chủ ngược lại, rất thiếu sinh lực. Chị chăm sóc chúng tôi thật chu đáo, đặc biệt với anh Toản, có lẽ vì anh hát hay chăng?. Mấy tháng sau, nghe nói, chị có tin vui. Khỏi phải nói, anh chị vô cùng sung sướng. Tôi nghi ngờ anh Toản là tác giả của tác phẩm ấy. Có lần trực chiến, chỉ có tôi với anh, nửa đùa, nửa thật, tôi trêu. Anh vội mắng át đi"..vớ vẩn...". Nhưng có lúc lại nói: "mất gì của bọ"

Cuối năm chị chủ nhà, sinh đựơc một thằng cu bụ bẫm. Cả thôn chúc mừng. Còn chúng tôi, lên miền tây đón tết và chuẩn bị chiến dịch xuân hè năm 75.

Thế mà, thoắt một cái đã hơn 30 năm. Tháng 10 năm 2005 tổng công ty VIETTEL, tài trợ cho các anh em từng chiến đấu ở Quảng Tri về thăm lại chiến trường xưa. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi trở về Triệu Độ. Cảnh vật thay đổi rất nhiều. Tìm về ngôi nhà xưa, không còn nữa. Hỏi chị hàng xóm, chị kể: " Quãng mươi năm trước cũng có một chú bộ đội có cái sẹo to về chơi, chẳng hiểu sao, sau đó vợ chồng con cái bán hết nhà cửa, dắt díu nhau vào Nam làm ăn, từ đấy bặt tin tức". Hỏi đến anh con trai, chị mau miệng : " Anh ấy đẹp trai lắm, chẳng giống ông chủ chút nào. Phải cái răng hơi xấu"

Ôi ! Đích thị là Toản con rồi. Lại một con gà trống hoa mơ cánh tiên...

Mấy lời cuối truyện. Để không làm ảnh hưởng tới cuộc sống riêng tư của các nhân vật trong truyện, tôi đã thay tên, địa danh. Tuy nhiên, khó tránh khỏi liên tưởng, " nếu có điều gì sơ xuất xin hãy lượng thứ"


ANH LÍNH LẠC LOÀINguyễn Như Thìn Lần đầu tiên hắn xuất hiện trước tiểu đội, quần ống thấp ống cao, như mới đi bừa về. Người hắn toát lên một mùi ngai ngái cuả bùn đất, cái mùi ấy, theo hắn suốt cả đời binh nghiệp, chẳng hề phai.

Có thể nói hắn không đẹp trai, ấy là cách nói giản nói tránh. Đôi mắt to, nhưng không phải mắt bồ câu. Miệng hắn luôn phô ra hai tiểu đội răng rất mất trật tự, cái đứng nghiêm, cái nghỉ, cái ngồi. Đôi vai hẹp ngự trên bộ ngực lép, dưới nữa là cái bụng eo quá mức cần thiết. Nhưng ngược lại, hắn sở hữu một cặp mông nở nang khiến nhiều chị em phải ghen tỵ. Có lẽ bao chất bổ trong người đều dồn cả vào đấy. Khi hắn mặc quân phục, áo bỏ trong quần, nom như con bọ ngựa đang múa gươm. Mà cái áo thì khó bảo, lúc thụng ra như chiếc váy ngắn, khi thì tóp lại, bó sát tấm thân không đầy đặn, khiến hắn thẳng tưng như cây bút chì. Chiếc thắt lưng Liên Xô thít gần được hai vòng bụng. Mà chiếc thắt lưng, là nỗi khốn khổ. Nghe hướng dẫn mãi mới biết sử dụng. Những ngày đầu, cần giải quyết việc riêng tư, hắn đỏ mặt kéo, càng kéo càng chặt, tý nữa thì vãi ra quần. "Giá có đoạn dây làm dải rút thì tiện", hắn bảo thế. Nhưng giữa hàng quân mà lại có anh lính lạc loài dùng dải rút thì ai mà chấp nhận được.

Thôi chẳng muốn nói đến cách ăn mặc, đi đứng của hắn nữa. Chán lắm ! Muốn ra sao thì ra. Nhưng có việc, không thể, ra sao cũng được. Ấy là luyện tập kỹ năng chiến đấu của người lính. Hơn nữa, lại là lính 12 ly 7 trợ chiến. Cái bảng bắn máy bay, nhồi vào đầu hắn tai này thì lòi sang tai kia. Khi bắn đạn thật, bài bắn bộ binh, đạn toàn vọt lên trời, còn bắn máy bay, đạn lại găm xuống đất. Bó tay! Thôi để hắn chuyên "xạ thủ số 4" vậy. Nghĩa là, chuyên khuân vác đạn. Được cái hắn khiêng vác khỏe, chẳng thấy phàn nàn gì. Nhưng cái ba-lô của hắn, rất nghịch mắt, lúc nào cũng gấp rưỡi đồng đội. Chẳng hiểu hắn đựng cái quái gì. Trông như cái bướu khổng lồ của con lạc đà châu Phi, khiến hắn rất khó đổi vai khi khiêng súng đạn. Có lần tiểu đội phải ra nghị quyết kiểm tra hành chính. Thôi thì trăm thứ bà rằn. Một quyển từ điển Nga-Việt của một lính sinh viên nào vứt lại vì quá nặng. Bốn năm tập giấy trắng. Tập được phát, tập đổi, tập xin. Mấy gói đường sữa được cấp từ hồi mới đi B. Hai bộ quần áo còn mới tinh, một bộ còn rung rúc. Rồi những chiếc vỏ lon, hộp đẹp mắt chẳng hiểu đã đựng những gì trước khi trở thành bộ sưu tập của hắn...vân vân và v.v...Có lẽ phải thanh lý bớt thôi cho dù hắn phản đối kịch liệt "... để khi nào có dịp gửi về quê..." hắn giải thích thế. Còn quái dịp nào nữa, đánh nhau bỏ mẹ, người còn chẳng tiếc nữa là mấy thứ linh tinh. Nhẹ người còn để tránh mũi tên hòn đạn.

Nhưng, ngay cả mũi tên hòn đạn hắn cũng không buồn tránh. Kỳ lạ thật! hắn cứ ngẩn ngơ, thơ thẩn chuyện ruộng vườn. Trận đầu tiên, đào công sự trên mảnh ruộng trống trơn, hắn cứ ngắm nghía, bóp bóp, ngửi ngửi cục đất lẩm bẩm,"ruộng này cấy hai vụ là ăn chắc". Mặc cho tiểu đội đang lo lắng, căng thẳng, vì rơi vào tình huống sống còn. Ở vườn chuối, thấy mấy cây rau dền "cổ thụ" lá to cỡ bàn tay, thân như gốc tre hắn suýt xoa. Ngoài mình mà có giống dền này, tớ chỉ trồng một vườn là có cả tạ rau. Sốt ruột hơn, thấy bao lúa bị vung vãi vì bom, hắn vốc một vốc những hạt thóc dài chẳng hiểu giống lúa gì nhét ngay vào ba-lô. Dường như hắn đang lên kế hoạch thời hậu chiến. Mỗi người một cách nghĩ, thôi kệ vậy. Nhưng bực nhất là khi, chẳng còn gì để ăn, bom đạn ác liệt, đành phải hậu cần tự túc. Có con bê bị thương do B52, may vớ được, đem thịt, hắn lậy như tế sao:" Tao xin chúng mày.. nó còn nhỏ quá ...để nó sống". Tình huống bi hài như sắp đem thân nhân của hắn ra pháp trường. Hắn chẳng chịu hiểu, làm sao con bê có thể sống được vài ngày khi mà trên mảnh đất này, mảnh gang của bom, đạn còn nhiều hơn là cỏ. Cứ ngơ ngơ như bò đội nón thì làm sao mà tồn tại được.

Ấy thế mà, hắn vẫn tồn tại. Dường như bom đạn cứ tránh hắn. Trận đầu rút lui, giữa đồng không mông quạnh, đạn như vãi trấu hắn chẳng việc gì. Trận Tám Cát hai phần ba tiểu đội thương vong hắn chẳng làm sao. Hai trận liền giữ chốt trên doi cát. Không một mét vuông nào tránh khỏi bom đạn cày xới, hắn cứ, chạy đi, chạy lại, tiếp đạn, như con thoi cho cỗ máy dệt ra toàn khói lửa. Mặt hắn ám đầy thuốc súng, đen nhẻm như móc dưới ruộng lên, nhưng quái lạ, hắn vẫn phảng phất ngai ngái mùi bùn đất. Trận Cửa Việt, ngày 27 tháng một năm 73, một ngày trước khi Hiệp Đinh Pa-ri có hiệu lực, B52 trần suốt ngày không theo quy luật. Bom nổ, bên trái một quả, bên phải một quả, hầm hắn ở giữa. Chiều, tối, rồi đêm, xe tăng ta, xe tăng địch, lính ta lính địch, pháo ta pháo địch trộn lẫn vào nhau. Một khoảng bờ biển chạy dài gần một km chỉ thấy lửa địa ngục. Những ánh chớp và tiếng nổ của thần sấm sét giáng xuống liên hồi. Sáng ra, trên mặt biển cuộn sóng, mặt trời từ từ, nhô lên, chiếu những tia sáng đầu tiên. Quang cảnh chiến trường hiện dần như trên một màn ảnh vĩ đại mà không một đạo diễn tài ba nào có thể dàn dựng nổi. Xác của những chiếc thiết giáp 23 ly, những chiếc xe tăng, của cả hai bên, có cái vẫn dựng lên những cột khói nghi ngút, nằm rải rác. Xa xa, bên mép nước, có tới cả trăm chiếc xe tăng của địch đang co cụm lại. Hắn chạy ra xem. Quá tầm gọi lại, nhìn đôi chân trần như bay trên cát mà thót cả ruột gan. Mìn cần chống tăng giăng như mạ cấy. Vậy mà hắn vẫn lành lặn trở về, xách theo một khẩu M79 gẫy thước ngắm, tòong teng như xách một cái điếu cày.

Năm 74, giữ chốt giáp ranh, kệ cho đồng đội căng mắt dõi nhìn mặt đất và bầu trời, vớ được đoạn tre, chẻ lạt, hắn đan. Chẳng hiểu hắn đan gì? Hóa ra, hắn đan một cái sàng. Hắn xúc cát sàng sàng, sẩy sẩy, gạn gạn, nhặt nhặt như dân đãi vàng. Rồi hắn nhúm được một dúm ... một dúm sái thuốc lào. Cho vào điếu, kéo một hơi, hắn ngây ngất ngắm thành quả lao động của cả một ngày đang tan thành mây khói.

Nhưng chiến sự chẳng cho hắn ngồi sàng cát mãi. Năm 75, cùng đại quân, hắn đánh ngược ra Huế. Đánh xuôi Đà Nẵng. Ngồi trên xe hẳn hoi, hắn cứ lướt mỗi ngày một vài tỉnh. Bình, Phú, Khánh Hòa. Tràn vào Phan Rang, bất ngờ như lũ cuốn. Mấy tên cảnh sát Sài Gòn tay vẫn còn cầm tách café. Đêm tiếp quản Phan Thiết không một bóng người trên đừơng phố. Rồi Long Thành, Nhân Trạch, Cát Lái, Đồng Nai. Đồng đội hắn rơi rụng khá nhiều. Nhưng hắn vẫn không sao. Trưa 30 tháng 4, quần ống thấp ống cao, hắn bước vào dinh Độc Lập. 

Những mảnh rời ký ức - Hồi ký Lixeta


Ngày 29 tháng 3 năm 1975- Sau khi tiến công giải phóng Đà nẵng, đại đội 4 xe tăng chúng tôi được giao nhiệm vụ chiếm lĩnh khu vực Thương cảng Bạch đằng và Bảo tàng cổ vật Chăm để bảo vệ trung tâm thành phố. Ba ngày sau, tình hình đã ổn định chúng tôi bàn giao lại nhiệm vụ cho Ban quân quản và tập trung về căn cứ sư đoàn 3 nguỵ tại Khánh sơn để làm công tác chuẩn bị cho cuộc hành quân thần tốc vào phía Nam tham gia chiến đấu giải phóng các tỉnh còn lại. Vừa về đến Khánh sơn pháo hai Vũ Xuân Trực của xe tôi được điều đi làm pháo thủ xe khác, chúng tôi được thông báo là sẽ được bổ sung một pháo hai mới trong một vài ngày tới.

Sáng hôm sau, khi tôi đang chúi đầu vào buồng truyền động kiểm tra các thông số kỹ thuật của động cơ và các cụm máy thì trung đội trưởng Mai hồng Trị gọi trưởng xe tôi ra nhận pháo hai mới. Tôi thò đầu ra tò mò tự đánh giá về thành viên mới của xe mình và thầm đoán xem liệu hắn ta có thể hoà nhập vào cái tập thể nhỏ bé 380 đã từng gắn bó mấy năm nay của chúng tôi không?. Đối với lính xe tăng bọn tôi điều đó là cực kỳ quan trọng bởi mỗi thành viên tuy có chức trách nhiệm vụ khác nhau nhưng đều là một bộ phận không thể tách rời của kíp xe, chả thế có một nhà thơ đã từng viết "năm anh em trên một chiếc xe tăng, như năm bông hoa nở cùng một cội, như năm ngón tay trên một bàn tay". Thực tình lúc đó tôi hơi thất vọng vì trước mắt tôi là một thân hình khá lẻo khoẻo, một khuôn mặt trắng trẻo hiền lành và đôi bàn tay mỏng mảnh rất thư sinh, sau lưng là một chiếc ba-lô lép kẹp và trên vai lại vác theo một cây đàn ghi ta đã cũ; nếu so với những tiêu chuẩn thông thường thì Nguyễn Kim Duyệt- pháo hai mới của xe tôi không đạt cho lắm. Nhìn chung, đã là lính xe tăng đều phải khoẻ vì thao tác cũng như điều kiện làm việc của ai cũng hết sức nặng nhọc, song riêng với pháo hai tiêu chuẩn sức khoẻ là cần thiết nhất. Các bạn hãy hình dung- trong một không gian chật hẹp đụng đâu cũng là thép của buồng chiến đấu xe tăng- anh bạn pháo hai của chúng ta cần phải có sức khoẻ như thế nào mới xoay trở được để tống những viên đạn nặng trên ba chục cân vào buồng đạn với tốc độ bắn trung bình 3 đến 4 phát mỗi phút, lại còn phải nạp đạn đại liên, phải đội cửa lên bắn 12ly7, bắn AK, ném lựu đạn ... mỗi khi cần thiết. Thực tế ở đại đội tôi hồi đánh cứ điểm Tà Lương pháo hai Bùi văn Đạt nạp đến quả đạn thứ 16 thì ngất xỉu. Thế mà Duyệt lại thư sinh quá, trắng trẻo quá và có vẻ gì đó hơi nữ tính trên khuôn mặt cũng như trong giọng nói nhỏ nhẹ của mình.

Nhưng ngay sau đó Duyệt đã làm cho chúng tôi tạm yên lòng bằng những thao tác gọn gàng chính xác khi lau chùi, bảo dưỡng khẩu đại liên và sắp xếp lại các trang bị trong buồng chiến đấu. Trước những con mắt còn đầy vẻ dò xét của chúng tôi Duyệt lẳng lặng làm những công việc thuộc phạm vi chức trách của mình với một sự thành thạo và cẩn trọng rất tự tin. Và một điều bất ngờ nữa đến- chiều hôm đó - vẫn với những thứ thực phẩm mà chúng tôi đã ngán đến tận cổ, chỉ thêm một nắm rau tập tàng Duyệt đã cho chúng tôi được ăn một bữa cơm ngon lành như khi còn ở nhà vậy.

Buổi tối hôm đó, trên tháp pháo chúng tôi ngồi tâm sự và nghe Duyệt đàn . Đến lúc ấy chúng tôi mới được biết thêm: Duyệt vốn là dân Hà nội, đang học Đại học năm thứ hai thì nhập ngũ và cũng đã tham gia chiến đấu trên cương vị pháo hai ở Quảng Trị hơn một năm rồi, vì vậy tôi tự nhủ "Tay này cũng được đây."

Ngày 10 tháng 4 năm 1975 đại đội tôi bắt đầu cuộc hành quân "Thần tốc" về phương nam. Trong hành quân chiến đấu của xe tăng thì vất vả nhất là lái xe, còn các thành viên khác thì cũng đỡ căng thẳng hơn. Đối với pháo hai công việc chủ yếu là chăm lo việc hậu cần, cơm nước cho cả xe Duyệt đã hoàn thành một cách xuất sắc, với đôi tay khéo léo và năng khiếu về nội trợ cộng thêm bản tính cần cù. chăm chỉ chúng tôi thường xuyên được ăn ngon, ăn nóng. Bản thân tôi là lái xe vất vả nhất nên cũng được Duyệt chăm sóc một cách đặc biệt hơn. Các chặng nghỉ dài khi nấu cơm Duyệt đun thêm một bi-đông nước sôi và treo vào buồng động lực, vì vậy mỗi khi nghỉ ngắn, xe mới chỉ dừng vài phút sau là tôi đã có một ca sữa nóng ngon lành để lại sức. Và dù chỉ mới ít ngày cùng sống với nhau Duyệt đã chiếm được cảm tình rất sâu sắc của Luông, Thọ và tôi.

Vì đã là sinh viên "hụt" nên tôi và Duyệt dễ gần gũi với nhau hơn, ở những chỗ nghỉ dài hay chờ khắc phục cầu, đường chúng tôi hay mắc võng cạnh nhau nằm tâm sự. Tính Duyệt hiền lành, ít nói, cứ thủ thỉ như con gái nhưng nhiều khi cũng dí dỏm ra phết. Là con thứ tư trong một gia đình khá giả, Duyệt được tiếp thu một nền giáo dục khá toàn diện theo nề nếp một gia đình Hà nội gốc, có bốn anh em thì Duyệt và người anh thứ hai đã tham gia quân ngũ. Những ngày chiến đấu trên chiến trường miền Nam Duyệt không có một ước mơ nào hơn là sau chiến tranh được quay về trường tiếp tục học tập để thực hiện những hoài bão của mình.

Sau hơn chục ngày hành quân chúng tôi đã đến vị trí tập kết ở Long khánh, từ đây vào Sài gòn chỉ còn khoảng 70 km và chúng tôi biết rằng mình sắp được tham gia trận đánh cuối cùng. Tối 26.4.1075- sau khi đi nhận nhiệm vụ về- Trưởng xe Nguyễn Đình Luông gọi cả 4 chúng tôi lại và với một vẻ mặt quan trọng anh thì thầm: "Chiến dịch giải phóng Sài gòn đã chính thức được mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh và sẽ bắt đầu trong một vài ngày tới, cả đại đội mình sẽ nằm trong đội hình thọc sâu đánh chiếm Dinh Độc lập". Giở cái bản đồ du lịch to bằng tờ giấy học sinh anh chỉ: "Cứ đi qua cầu Sài gòn, đến ngã tư thứ bảy thì rẽ trái là đến Dinh. Nhiệm vụ của từng người thế nào thì đã rõ cả rồi, bây giờ phải chuẩn bị cho thật tốt để không xảy ra bất cứ điều gì đáng tiếc trong chiến đấu.". Anh còn bảo chúng tôi chỉ cắm lá cờ cũ, còn lá cờ mới cất trong tháp pháo để dành cắm trên nóc Dinh Độc lập.

Ngay sau đó chúng tôi bắt tay vào công tác chuẩn bị. Biết rằng trận chiến đấu sắp tới sẽ vô cùng ác liệt, kẻ thù sẽ chống trả điên cuồng bằng tất cả sức mạnh còn lại nên ngoài cơ số đạn theo xe chúng tôi còn nhận thêm mười viên đạn xuyên nưã. Buồng chiến đấu vốn đã chật hẹp nên để xếp thêm số đạn đó chúng tôi phải bỏ hết tư trang và tất cả những gì không cần thiết ra ngoài, ba cái ba-lô của Luông, Thọ và tôi đã được buộc gọn gàng sau tháp pháo, còn Duyệt vẫn lúi húi tìm cách nhét cái ba-lô của mình vào một góc buồng chiến đấu. Trưởng xe Luông lẩm bẩm: "Mày làm cái gì mà cứ loay hoay mãi thế, nhanh lên còn làm việc khác". Vốn thẳng ruột ngựa pháo thủ Trương Đức Thọ quát tướng lên: "Đời lính có cái quái gì mà cứ giấu giấu giếm giếm như giấu vàng ấy. Đem buộc ra ngoài tháp pháo như bọn tao ấy". Nó còn lẩm bẩm nói với tôi: "Chẳng biết nó nhặt nhạnh được nhữg gì mà cất kỹ thế?". Quả thật, nếu có máu tham hoặc không sợ kỷ luật chiến trường thì trong các chiến dịch giải phóng Huế và Đà nẵng chúng tôi cũng "nhặt" được khối thứ có giá trị. Những vì đã hiểu hơn về Duyệt tôi gàn: "Thôi! Mặc kệ nó. Miễn là không ảnh hưởng đến thao tác là được". Còn Duyệt vẫn như mọi ngày- lẳng lặng tháo hẳn mấy viên đạn ra, nhét cái ba-lô của mình sâu vào sát vành tháp pháo rồi cố định đạn lại như cũ. Bọn Thọ, Luông có vẻ vẫn không thoải mái cho lắm nhưng thấy không ảnh hưởng gì nên cũng thôi.

Chiều 27.4 xe tôi được lệnh lên đường làm nhiệm vụ tăng cường cho đại đội 5 và sáng 28.4 bắt đầu tham chiến ở căn cứ Nước Trong. Có thể nói đây là chốt chặn cuối cùng trên cánh cửa phía Đông tiến vào Sài gòn nên địch chống trả rất quyết liệt. Xe tăng chúng tôi cùng bộ binh phải giành giật với chúng từng khoảnh rừng cao su một và thương vong của ta ở đây cũng khá nhiều. Đúng như tôi linh cảm từ ngày đầu Duyệt về xe, Duyệt đã chứng tỏ mình là một pháo hai có hạng và đầy bản lĩnh. Với những thao tác chính xác, nhanh gọn chỉ vài giây sau khẩu lệnh của Trưởng xe Luông một viên đạn pháo đã được nạp vào buồng đạn để pháo thủ Thọ sẵn sàng nhả đạn. Được các đồng chí bộ binh chỉ mục tiêu, chúng tôi đã diệt được khá nhiều mục tiêu ở tiền duyên phòng ngự cuả địch.

Tuy nhiên, do địch còn quá mạnh, các xe của đại đội 5- đơn vị mà xe tôi đến tăng viện hoặc bị thương vong, hoặc hết đạn đã quay về phía sau để bổ sung- nên đến gần trưa chúng tôi được lệnh ở lại cùng bộ binh giữ vững trận địa, chờ lực lượng phía sau lên tiếp tục tiến công.

Thấy gần đó có một hõm đất trũng, trưởng xe Luông lệnh cho tôi đưa xe xuống để lợi dụng địa hình địa vật bảo toàn lực lượng. Tôi vừa tăng ga cho xe chạy được vài mét thì bỗng dưng thấy tất cả tối sầm lại, tôi ngất đi không biết bao lâu. Khi tỉnh lại thì thấy pháo thủ Thọ ngồi ngay phía sau lưng đang vỗ vào vai tôi hổn hển: "Xe trúng đạn rồi, Luông và Duyệt bị thương nặng lắm".

Tôi nhoài người ra phía sau ngửa cổ nhìn lên; trên ghế trưởng xe trưởng xe Luông nằm bất động ôm lấy cái đài vô tuyến điện; bên buồng pháo hai Duyệt ngồi tựa lưng vào buồng động lực, nửa người bên trái từ thái dương xuống đến đùi tơi tả, đầm đìa máu; quay thử pháo thấy bị kẹt cứng, khẩu đại liên bên pháo bẹp rúm ró, klhẩu cao xạ 12ly7 trên cửa pháo hai bay đi đâu mất. Biết rằng không còn khả năng chiến đấu, tôi và Thọ bàn nhau quay về phía sau để cấp cứu thương binh.

Về đến bệnh xá tiền phương sư đoàn 304 chúng tôi đưa Luông và Duyệt xuống cấp cứu. Đến lúc này tôi mới biết: một quả đạn pháo cỡ lớn đã bắn trúng tháp pháo xe tôi ngay trên buồng pháo hai, viên đạn nổ ngay trên nóc quạt thông gió làm thủng một lỗ đút lọt nắm tay, toàn bộ mảnh đạn và mảnh quạt gió chụp xuống buồng chiến đấu xe tôi và pháo hai Duyệt là người hứng chịu nhiều nhất. Sức nổ mạnh của quả đạn cũng hất tung khẩu cao xạ 12ly7 nặng gần 1tạ cố định trên cửa pháo hai và toàn bộ những gì chúng tôi cố định ở ngoài tháp pháo.

Tại nơi cấp cứu, trưởng xe Luông nằm thiêm thiếp mê man, có điều lạ quả đạn nổ chỉ cách anh chưa đầy một mét, cái đài vô tuyến điện phía trong anh thủng lỗ chỗ mà gần như không có mảnh đạn nào trúng người anh, chắc là anh chỉ bị sức ép và chấn thương do va đập vào vành tháp pháo. Còn Duyệt máu me đã được lau đi, cả một nửa người tơi tả vì mảnh đạn nhưng lại rất tỉnh, Duyệt nắm tay tôi thều thào: " Quê ơi, tao đau lắm. Chắc tao không sống được" . Kinh nghiệm chiến trường làm tôi thấy lo vì những ai bị thương nặng mà tỉnh táo thường khó qua khỏi, song lúc này tôi không dám nghĩ đến điều đó mà chỉ biết động viên Duyệt yên tâm điều trị để chóng về với xe. Nhớ lại cả xe từ hôm qua đến giờ chưa ăn cái gì, tôi bảo Thọ đi xin cho Duyệt cốc sữa. Vừa bón cho Duyệt từng thìa sữa nhỏ tôi vừa thủ thỉ chuyện trò, nhắc lại những câu chuyện mà hai chúng tôi đã từng nói với nhau những lúc dừng chân trên đường hành quân. Ăn gần hết cốc sữa thì Duyệt thiu thiu như ngủ. Lúc này đồng chí trợ lý chính sách của lữ đoàn cũng đã có mặt, anh truyền đạt lệnh của trên là bàn giao thương binh ở lại đây, còn chúng tôi phải trở về vị trí tập kết ngay để khôi phục xe chuẩn bị chiến đấu tiếp.

Tôi và Thọ lên xe lấy tư trang để lại cho Duyệt. Moi cái ba- lô nặng trịch từ vành tháp pháo ra Thọ lẩm bẩm: "Chẳng hiểu nó có cái gì mà nặng thế. Mà lại còn ấn vào tận vành tháp pháo nữa chứ". Vừa nói nó vừa lật cái nắp ba-lô lên. Cả hai chúng tôi cùng lặng người đi: trong cái ba-lô cũ kỹ, mà có lúc chúng tôi đã từng nghĩ là những của quý Duyệt nhặt nhạnh từ Huế và Đà nẵng chỉ có bộ quần áo cũ, cái võng và một bó sách!

Lật qua vài quyển sách tôi thấy toàn sách học tiếng Anh, tiếng Pháp và từ điển Anh- Việt, Việt- Anh, Pháp- Việt.... Nhớ lại những lời tâm sự của Duyệt mắt tôi rơm rớm nước, còn Thọ trầm ngâm: "Thế mà có lúc mình đã nghĩ oan cho nó. Bây giờ phải xin lỗi nó mới được".

Mang cái ba- lô vào chỗ Duyệt chúng tôi thấy Duyệt vẫn nằm thiêm thiếp như đang ngủ. Đồng chí quân y sĩ ngồi bên ra hiệu cho chúng tôi im lặng. Tôi hỏi nhỏ: "Liệu bạn tôi có qua khỏi không?". Anh chỉ trả lời chung chung: "Chúng tôi sẽ hết sức cố gắng, các đồng chí cứ yên tâm".

Thời gian không cho phép chúng tôi ở lại lâu hơn, chúng tôi bàn giao cái ba- lô của Duyệt cho đồng chí trợ lý chính sách rồi quay ra xe. Pháo thủ Thọ cứ bần thần không yên, tôi biết nó đang áy náy vì chưa kịp nói lời xin lỗi với Duyệt. Không biết làm cách nào hơn tôi động viên Thọ: "Thôi! Ta cứ về đơn vị cái đã, chắc rằng ít hôm nữa anh Luông với Duyệt sẽ khỏi và về với xe mình, lúc đó nói chuyện với nó cũng được".

Nhưng không còn kịp nữa rồi, ngay tối hôm đó chúng tôi được tin Duyệt đã hy sinh sau khi chúng tôi đi khỏi chừng hai tiếng. Cả hai chúng tôi lặng người đi và lao vào sửa chữa xe pháo để ngày mai tiếp tục đi chiến đấu . Không nói với nhau lời nào nhưng tôi biết cả Thọ và tôi mãi mãi sẽ trĩu nặng trong lòng nỗi day dứt vì một lời xin lỗi không bao giờ kịp nói.

Ghi chú:Nguyễn Kim Duyệt- nhà ở số 39- Đại la, Hà nội; là sinh viên khoá 15 Đại họcnông nghiệp 1 Hà nội; đang học năm thứ hai thì nhập ngũ. Hiện mộ phần đã đượcquy tập về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Long thành, Đồng nai.

TUẤN MÃ "SỨT MÔI"

Xin nói ngay rằng đó không phải là tên một con ngựa mà là tên cánh lái xe đại đội 4 đặt cho chiếc xe tăng kiểu T59 số hiệu 380 của tôi. Xuất xứ cái tên đó chính là từ bài báo tường của tôi- trong đó tôi đã ví chiếc xe tăng của mình như một con tuấn mã và những người lính xe tăng cưỡi trên mình nó tung hoành ngang dọc như những tráng sĩ giúp nước, cứu dân ngày xưa. Thế nhưng do chiếc xe 380 của tôi lại có một ngoại hình không được "ngon lành" cho lắm: chả là trong một lần cứu kéo nhau, xe 380 của tôi bị chiếc xe sau chồm lên, cả một băng xích chà xát rách tả tơi lá chắn bùn sau và làm bẹp dúm cửa xả; để tiếp tục hành quân chúng tôi phải dùng đục sắt đục một lỗ toang hoác cho khí xả động cơ thoát được ra ngoài, vì thế tiếng nổ động cơ không còn giòn vang và chắc nịch như trước mà cứ "phập phà phập phì" như tiềng người bị sứt môi. Chính vì vậy sau khi có bài báo tường của tôi cánh lái xe trong đại đội ngồi bình luận và nhất trí thêm hai từ "sứt môi" vào làm phụ danh để phân biệt cho rõ xe 380 với các xe khác.

Tuy có hơi tự ái song tôi luôn tự hào về con "tuấn mã sứt môi" của mình. Trước hết, đại đội có 8 xe có số nằm trong khoảng từ 380 đến 390 nên đương nhiên nó là anh cả, là số một. Hồi đó chúng tôi chưa có khái niệm về "số đẹp, số xấu" như người ta đang đua nhau chọn cho xe máy, ô tô bây giờ; mà nếu biết thì chắc cũng chẳng ai tin vì "con xe" có số đẹp nhất, tận "9 nước" là con 388 thì đã hứng trọn một quả bom B52 nằm phơi bụng ở giữa sân bay Alưới rồi. Thứ hai, 380 là xe duy nhất trong tiểu đoàn được trang bị một cái cẩu để phục vụ sửa chữa dã ngoại. Tất nhiên, đó chỉ là một cái cẩu ứng dụng, chỉ gồm một cái thang lúc bình thường tháo ra cố định cạnh xe, lúc nào dùng thì lắp vào đầu xe rồi níu cáp vào tháp pháo và một cái pa- lăng kéo tay. Tuy đơn giản vậy song cũng đắc dụng ra trò: những ngày sau Hiệp định Pa ri tôi cùng con "tuấn mã sứt môi" của mình rong ruổi đi phục vụ trung tu, tiểu tu cho cả tiểu đoàn. Cũng nhờ những chuyến đi phục vụ sửa chữa đó tay nghề của tôi vững lên rất nhiều. Bình thường, để điều khiển một cái xe tăng với trọng lượng hơn ba chục tấn cho thật chính xác đã là khó; đằng này lại còn treo lủng lẳng ở đầu xe khi thì cái hộp số 3 tạ, khi thì cái động cơ trên 1 tấn sẽ còn khó hơn nhiều; đã thế lại còn phải tiến lên, lùi lại, sang phải, sang trái vài xăng-ti-mét một để đặt vào xe cho đúng như in; lại còn phải êm, phải nhẹ vì nếu không sẽ làm văng vật cẩu va vào những cụm máy khác. Nhờ thế tay lái của tôi trở nên điêu luyện; theo ngôn ngữ bây giờ có thể được xếp vào hàng "tay lái lụa", không thua kém mấy so với các "bậc đàn anh" trong đại đội như Nguyễn Văn Tập, Lữ Văn Hoả.... Không chỉ có vậy mà những ngày đi phục vụ đó trình độ kỹ thuật và sửa chữa hư hỏng của tôi cũng được nâng lên rất nhiều. Tôi có thể kể vanh vách thứ tự động tác tháo lắp động cơ, hộp số, rồi các thông số kỹ thuật tôi cũng thuộc làu...

Với kiến thức đó những khi không phải đi công tác tôi dồn sức chăm lo cho con tuấn mã của mình. Tất cả các thông số đều ở mức tối ưu. Tất cả các hành trình, giãn cách đều được điều chỉnh ở trị số tốt nhất. Tất cả các khớp nối, các điểm làm nhờn thường xuyên no dầu mỡ. Cái két mát dầu bị bùn đất văng lên không còn tác dụng làm mát do mất lá chắn bùn sau được tôi tháo ra đem ngâm dưới suối mấy ngày rồi lấy que thông từng tý một lại thông thoáng như xưa. Lá chắn bùn sau cũng được hàn vá bởi mấy tấm tôn thùng phuy. Riêng cái cửa xả thì đành để vậy vì không đủ điều kiện khôi phục như cũ. Vì vậy nó vẫn bị gọi là "sứt môi"... Có thể nói con tuấn mã của tôi bên ngoài tuy có hơi xấu xí nhưng máy móc của nó thật tuyệt vời, thậm chí còn "trên cả tuyệt vời". Về lý thuyết lực kéo cần lái xe T59 là 35 đến 50 ki-lô-gam song cần lái xe tôi chỉ hơn 30 một chút; điều chỉnh xích thì bình thường cả kíp xe phải xúm vào, riêng xe tôi khi cần chỉ 2 người quay cứ vèo vèo...

Chiến mã thì như vậy còn các "kỵ mã" cũng không đến nỗi nào. Trưởng xe Nguyễn Đình Luông người Thanh hoá có dáng dấp của một đô vật, anh đã tốt nghiệp Trường trung cấp thể thao của tỉnh, nhập ngũ vào bộ đội xe tăng được chọn đi học Trưởng xe và đã có thâm niên trưởng xe mấy năm nên sử dụng điện đài, vũ khí rất thành thạo. Pháo thủ Trương Đức Thọ người Vũ thư, Thái bình là người có nhiều biệt hiệu nhất trong đại đội: nào là "Thọ F" để phân biệt với Thọ L lái xe, "Thọ kỳ đà" vì hắn có màu da loang lổ lang ben, rồi Thọ "điếc", Thọ "ngơ" vì nhiều khi ai gọi hoặc nói gì mà hắn không muốn nghe là hắn lờ đi coi như không nge thấy, cứ "ngơ ngơ" như bò đội nón v.v.. Bọn tôi thì biết chắc hắn không hề điếc vì trong xe thì thầm gì với nhau hắn nghe được hết, nhất là những buổi tập bắn, tập chiến thuật thực hành liên lạc qua máy nói trong xe hắn ta có bỏ qua khẩu lệnh nào đâu. Được cái hắn cũng là người chịu khó mày mò, học hỏi nên tính toán phần tử bắn và thao tác vũ khí rất nhanh. Pháo hai Vũ Xuân Trực người Lập thạch, Vĩnh phúc tính tình đúng như cái tên- rất cương trực, nóng nảy; với dáng vóc thấp đậm rất phù hợp với "nghề nghiệp" pháo hai. Còn tôi- vốn là dân chuyên Toán, rất có khiếu về kỹ thuật và như đã nói ở trên- nhờ được rèn giũa nhiều nên tay nghề cũng khá, cái hầm xe 380 nằm trên sườn dốc lại phải chuyển hướng gần 90 độ mới vào được nhưng nhiều khi không cần chỉ huy tôi vẫn một mình lùi vào mà xe vẫn cân như được đặt chính giữa hầm.

So với các xe trong đại đội thì xe tôi có tuổi bình quân trẻ nhất và có thể nói cũng khoẻ nhất, làm cái gì cũng cứ băng băng. Nhưng riêng về khoản tình cảm chắc là kém nhất: trong 4 anh em chỉ có pháo thủ Thọ là có "tý tình vắt vai" với một cô thôn nữ cùng quê, còn Luông, Trực và tôi vẫn chưa hề biết mùi vị tình yêu nó như thế nào?. Có lẽ vì thế mà bao nhiêu tình cảm chỉ còn biết dồn cho nhau và dồn cho con "tuấn mã sứt môi" thương mến. Hầm xe ngay sau nhà nên cứ rỗi lúc nào cả bọn lại lên xe, lúc thì làm cái này, lúc làm cái khác, cũng có khi ngồi tán dóc, trêu chọc nhau cười nghiêng ngả.

Đấy! Đại loại về cái xe tôi nó thế!

ĐÊM PHÁO HOA ĐẸP NHẤT TRONG ĐỜI

Bắn pháo hoa vào dịp trọng đại như Tết Nguyên đán, lễ mừng quốc khánh hay lễ mừng chiến thắng đã trở thành thông lệ và khá quen thuộc với người dân cả nước. Tuy nhiên, cách đây hơn 30 năm, những ai có mặt tại Thành phố Hồ Chí Minh tối 30 tháng tư năm 1975, chắc sẽ không quên, tại khu vực bến cảng Sài Gòn đã có một màn pháo hoa mừng chiến thắng khá đặc biệt. Có một điều thú vị: Tác giả màn pháo hoa ấy chính là cán bộ, chiến sĩ đại đội 4 xe tăng của lữ đoàn 203-những người đã húc cổng, cắm cờ tại Dinh Độc Lập buổi trưa hôm ấy.

14 giờ ngày 30 tháng Tư năm 1975, sau khi tình hình ở Dinh Độc Lập đã trở lại bình thường, đại đội 4 của tôi được giao nhiệm vụ chiếm giữ cảng Sài Gòn và kiểm soát tình hình đi lại trên sông. Ngay sau khi nhận lệnh, đại đội trưởng Bùi Quang Thận lập tức tập hợp đội hình, phổ biến nhiệm vụ tổ chức cho đại đội tăng cơ động về phía cảng.

Lúc này quảng trường trước cửa Dinh Độc Lập và các con đường xung quanh đều đông nghẹt người. Có thể nói gần như tất cả nam, phụ, lão, ấu của thành phố đã đổ về đây để chứng kiến giờ phút trọng đại của dân tộc. Từ trong sân dinh đi ra, xe của chúng tôi phải bò từng tí một vì bà con cứ xúm xít xung quanh vẫy chào, chụp ảnh, tặng hoa. Phải mất một lúc lâu chúng tôi mới qua khỏi đám đông và nhanh chóng tăng tốc độ.

Chừng hai mươi phút sau, chúng tôi đã đến con đường trước cổng cảng (tôi cũng không nhớ tên đường đó là gì). Một khung cảnh cực kỳ hỗn loạn diễn ra trước mắt: hai cánh cổng ra vào cảng mở toang, hàng đoàn người đang ùn ùn khuân hàng từ cảng ra ngoài. Người thì súc vải, người thì thùng rượu, người thì tay xách nách mang đủ các thứ lỉnh kỉnh... Họ đang hôi của! Mấy chiến sĩ bộ binh ngồi trên xe giương súng AK lên trời bắn chỉ thiên nhưng hình như không có tác dụng gì. Mọi người chỉ có vẻ vội vã hơn mà thôi. Xe chúng tôi vẫn nhích chậm chạp vì quá đông người. Mãi một lúc sau xe đầu tiên mới vào được cổng cảng và nổ một phát pháo lên trời. Tiếng trọng pháo nổ giữa thành phố nghe thật khủng khiếp và ngay lập tức có tác dụng. Tất cả mọi người xung quanh vội vã nằm ẹp xuống đất và tản đi. Cảng bỗng vắng tanh.

Ngay sau khi vào cảng, chúng tôi cho xe tiến sát ra mép cầu cảng. Những khẩu pháo 100mm hướng xuống mặt sông đầy uy lực. Trên cầu cảng rải rác còn vài chiếc xe du lịch đổ ngổn ngang. Chắc là của những người giàu hay quan chức di tản bỏ lại. Dưới sông chỉ có một tàu vận tải loại nhỏ đang neo tại cầu tàu. Chúng tôi yêu cầu những người còn đang ở trong cảng ra ngoài hết rồi đóng cổng lại. Chỉ mất khoảng mười phút, đại đội tôi đã hoàn toàn làm chủ cảng Sài Gòn.

Ít phút sau, hai chiếc tàu kiểu sà lan tự hành chạy từ phía hạ lưu lên. Chúng tôi vẫy nhẹ tay, hai chiếc tàu đã lập tức bẻ lái cặp sát vào cầu cảng. Những người chủ tàu lên bờ trình báo: "Tàu của họ là tàu dân sự nhưng bị chính quyền ngụy trưng dụng đi phục vụ chuyển quân. Tuy nhiên, trưa nay lính tráng đã bỏ chạy hết nên bây giờ họ đang trên đường về nhà". Khi hỏi: "Tại sao trên tàu nhiều súng như vậy?" họ cho biết: "Lính Việt Nam cộng hòa khi tan rã đã bỏ lại tất cả súng ống, đạn dược và cả quần áo nữa".

Sau khi kiểm tra các loại giấy tờ thấy đúng như họ nói, chúng tôi đồng ý sẽ cho họ về nhà nhưng yêu cầu họ phải đưa tất cả các loại vũ khí dưới tàu lên bờ. Nhìn thấy hai hòm pháo sáng còn nguyên để trong góc ca-bin tôi yêu cầu đưa lên bằng hết.

Một trong những thứ mà tôi quan tâm nhất lúc này là pháo sáng Mỹ. Những quả pháo sáng có vỏ là một ống nhôm gần bằng cổ chân, một đầu là hạt nổ, một đầu là nắp đậy được dán kín bởi băng keo. Với kết cấu như vậy dù có ngâm nước cả tháng nó vẫn không hề gì. Khi sử dụng chỉ việc bóc băng keo ra, lồng cái nắp vào đáy ống và dập mạnh xuống đất. Thế là một quả pháo sáng sẽ vọt lên. Nhờ có dù nên pháo sáng sẽ lơ lửng trên không chừng vài ba phút, soi tỏ một diện tích khá rộng. Hôm trước, khi tiến đánh Ngã ba Thái Lan dưới Long Thành bắt được một chiếc M113 còn nguyên vẹn, tôi cũng đã thu giữ một hòm pháo sáng đưa sang xe mình. Cũng chẳng có ý định rõ rệt dùng để làm gì mà chỉ là cái ý thích "nghịch ngợm" của một chàng trai mười chín, đôi mươi mà thôi. Tôi đã là "thủ kho" pháo sáng. Lúc này thì tôi có trong tay những ba hòm.

Đợi một lúc nữa không có tàu nào qua lại, anh Thận phân công lái xe tăng ở lại cảnh giới, còn lại đi nấu cơm và thu dọn khu vực kho. Cả một dãy mười cái kho rộng mênh mông cửa mở toang. Hàng hóa đã bị những người hôi của khuân đi khá nhiều nhưng còn "bát ngát". Thôi thì đủ thứ thượng vàng, hạ cám, có những kiện hàng to như cả gian nhà, nhỏ thì cái bát, đôi đũa đều có nhưng có lẽ nhiều nhất là vải vóc. Vì đã được giáo dục rất kỹ về kỷ luật chiến lợi phẩm nên chúng tôi chỉ xin phép nhặt mỗi xe mấy thứ lặt vặt, một ít đồ ăn uống và ít vải để lau xe. Thấy đống rượu và mực khô xếp cao chất ngất, mấy anh lớn tuổi xin phép khuân vài thùng về xe. Sau mấy ngày toàn lương khô, nước lã, bữa cơm đầu tiên ngày chiến thắng có đồ hộp Mỹ, lại được ăn bằng bát sứ và đũa son trên cầu tàu lộng gió. Bữa ăn thật ngon lành. Tôi bỗng se sắt nhớ anh em mới đây thôi còn chia bánh lương khô bên suối nay đang nằm lại bìa rừng.

Cơm nước xong, chúng tôi kéo nhau ra sát mép cầu cảng ngồi. Ở đó có một đống gỗ súc vứt ngổn ngang. Gần hai chục anh em kẻ đứng, người ngồi trên súc gỗ điểm lại tên những người ngã xuống suốt chặng đường từ ngoài Bắc vào tới đây, nhắc chuyện quê hương và nhớ những người thân ở quê đang ngóng đợi. Ai cũng nghĩ chỉ ít ngày nữa là mình sẽ được về quê.

Chiều ngày hoà bình đầu tiên trên bến cảng thật bình yên. Mặt sông, những dề lục bình trôi lững lờ. Gió thổi mát rượi xua tan hết những mệt nhọc của hơn một tháng trời ròng rã chiến đấu từ Huế vào đến Sài Gòn. Hai anh trung đội trưởng Trị và Tráng thì thầm gì đó với đại đội trưởng Thận rồi chạy ù đi, chúng tôi chỉ thấy đại đội trưởng gật đầu và tủm tỉm cười.

Một lúc sau đã thấy hai anh khệ nệ đem về hai chai rượu Na-pô-lê-ông và mấy con mực nướng (đã xin phép). Lần đầu tiên trong đời tôi thấy những con mực to như vậy-con nào con nấy phải bằng cái quạt nan. Trung đội trưởng Trị mở nút chai rượu rót đầy vào cái bát đưa cho đại đội trưởng. Mùi rượu thơm lan tỏa. Anh Thận nâng cao bát rượu và nói:

- Nào, bây giờ đại đội ta sẽ uống rượu mừng chiến thắng!

Nói rồi anh ngửa cổ uống một ngụm, bát rượu được chuyển sang cho chính trị viên Toàn, đại đội phó Phượng rồi lần lượt đến chúng tôi. Tôi cũng làm một ngụm to, bị sặc ho khù khụ. Mặc dù vậy chúng tôi đều thấy lâng lâng, không hiểu vì men rượu hay vì niềm vui chiến thắng.

Chiều xuống dần. Mặt trời đã lặn hẳn. Hoàng hôn Sài Gòn tím thẫm trông thật lạ. Chợt nhớ đến ba hòm pháo sáng ở xe tôi đề xuất:

- "Đại trưởng" ơi! Mình bắn pháo sáng mừng chiến thắng nhé!

Anh Thận tỉnh như sáo:

- Có pháo sáng à?

Tôi đáp:

- Xe em có ba hòm. Tổng cộng là một trăm hai mươi quả.

Đại đội trưởng Thận mừng rỡ:

- Thế thì đem ra đây! Bao nhiêu năm mới có ngày hôm nay, không mừng sao được. Ai nấy háo hức tự cho mình cái quyền được tôn vinh ngày trọng đại này.

Tôi gọi pháo thủ Thọ cùng về xe khuân pháo sáng đến. Ba hòm pháo sáng được khui ra, tôi chia cho mỗi người mấy quả. Anh Thận bảo:

- Tất cả mở nắp ra! Đợi lệnh của tớ mới được đập nhé!

Lúc này anh như trẻ lại hàng chục tuổi, tôi đã từng phụt pháo sáng, nhưng sao lúc này tim cứ rộn ràng đập. Cả thành phố sẽ hướng về đây.

Đợi mọi người sẵn sàng anh Thận mới hô:

- Hai, ba!

Gần hai chục cánh tay cùng dập mạnh xuống. Chỉ nghe những tiếng "vút", "vút" rồi gần hai chục quả pháo sáng nở bừng trên bầu trời tím thẫm. Một góc Sài Gòn bừng sáng, mặt nước sông lung linh phản chiếu lên càng làm cho chùm ánh sáng thêm huyền ảo. Chúng tôi sung sướng ngước nhìn và reo hò đến vỡ họng. Anh Thận giục chuẩn bị rồi hô tiếp. Lại một loạt nữa được bắn lên. Loạt trước chưa tắt hẳn được loạt sau tiếp sức ánh sáng càng rực rỡ. Chợt ai đó lên tiếng:

- Bắn thế này thì nhanh hết lắm! Có lẽ phải bắn từ từ thôi.

Đại đội trưởng Thận đồng ý:

- Bây giờ ngồi thành vòng tròn. Bắt đầu từ tớ rồi lần lượt từng người nhé. Nào bắt đầu!

Nói rồi anh dập mạnh tay xuống. Chỉ thấy những tiếng vút, vút nối nhau. Trên bầu trời tím thẫm những quả pháo sáng lần lượt bừng nở, quả này vừa tắt đã có quả khác bắn lên. Cả một góc Sài Gòn bừng sáng, chúng tôi reo hò đến khản cổ. Đó đây một vài quả pháo sáng được bắn lên như phụ họa cùng bữa tiệc pháo sáng của chúng tôi.

Buổi bắn pháo sáng của đại đội tôi kéo dài đến gần ba mươi phút. Bầu trời khu vực cảng Sài Gòn như ban ngày và ngập trong tiếng reo hò của mấy chục lồng ngực trẻ.

Cho đến giờ, đã ba mươi mấy năm trôi qua, tôi vẫn không thể nào quên cái vùng ánh sáng lung linh, huyền ảo ấy. Đã từng chứng kiến nhiều cuộc bắn pháo hoa ở nhiều nơi, nhưng với lính đại đội 4 và tôi, đêm pháo sáng mừng Đại thắng trên bến cảng Sài Gòn 30 tháng 4 năm 1975 là đêm pháo hoa đẹp nhất.

Xin nói thêm với các bạn: câu chuyện này đã được đăng báo QDND và một số báo khác đăng lại dịp 30.4 năm ngoái.

Tuy nhiên, có một chi tiết xin được bổ sung thêm:không phải bọn mình hết pháo sáng nên dừng bắn mà thực ra là cơ quan quân quảnở khu vực đó cho người vào yêu cầu dừng bắn. Tuy vậy bọn mình cũng đã tiêu thụđược hơn trăm quả và cũng đã tạo được một màn pháo hoa khá ấn tượng rồi. Có lẽđó là màn pháo hoa "độc nhất vô nhị" đấy, các bạn nhỉ?

-----

Sau khi chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi lữ đoàn 203 được lệnh rút ra Long Bình củng cố đơn vị. Ngày 21 tháng 7 năm 1975 tôi nhận quyết định đi học tại Trường sĩ quan Thiết giáp.

Ra đến trường, sau mấy tháng tham gia lao động xây dựng cơ sở vật chất đến tháng 3 năm 1976 khoá II đào tạo sĩ quan chỉ huy Tăng Thiết giáp của chúng tôi mới chính thức khai giảng, tôi được biên chế về Lớp IIĐH1, đại đội đào tạo thuộc Tiểu đoàn Hai của nhà trường. Vốn là một chiến sĩ lái xe tăng có thâm niên hơn 3 năm lại đã trải qua chiến đấu nên việc học tập của tôi khá thuận lợi, ngoài ra tôi còn tham gia tích cực vào các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao của đơn vị. Với năng khiếu sẵn có của mình tôi được chọn vào đội tuyển bóng đá và bóng ném của nhà trường để tham gia các giải đấu của Binh chủng và khu vực.

Trong Chương trình đào tạo sĩ quan có nội dung tham quan các Viện bảo tàng Lịch sử, Viện Bảo tàng Quân đội và một số cơ sở sản xuất ở Hà Nội. Đang tuổi trẻ, vừa lớn lên đi bộ đội ngay nay được về Thủ đô tham quan ai cũng háo hức nhưng tôi và một vài đồng chí nữa không được đi vì bận tham gia Giải bóng đá của Binh chủng. Sau ba ngày tham quan về cả đại đội ai cũng phấn khởi, những câu chuyện xung quanh chuyến tham quan cứ "nổ như ngô rang", mấy tên không được đi cứ há hốc mồm ngồi nghe chuyện mà thèm thuồng và ao ước. Bỗng Vương Văn Hiên- một đồng đội cùng từ 203 ra học sĩ quan chỉ vào tôi:

- Này! Quê (bộ đội xe tăng chúng tôi vẫn hay gọi nhau như thế) là vinh dự nhất đấy nhé!

Tôi cứ nghĩ hắn nói về việc được tham gia đội bóng của nhà trường nên gắt gỏng:

- Đá bóng chứ có gì đâu mà vinh với dự!

Hiên trợn mắt:

- Không phải! Cả đại đội này chỉ mình quê là có ảnh ở Bảo tàng Quân đội mà lại không vinh dự à?

Tôi cảnh giác nghĩ rằng bọn hắn đang cho mình "ăn quả lừa":

- Nói tào lao! Mình làm gì mà lại có ảnh ở đấy được.

Đến lúc này Nguyễn Lưu Du (hiện là Chánh văn phòng Học viện Lục quân) mới gặng tôi:

- Quê có tham gia chiến đấu giải phóng Đà Nẵng không?

Đúng là đại đội tôi có tham gia đánh Đà Nẵng ngày 29 tháng 3 năm 1975 nên tôi trả lời ngay:

- Có chứ!

Cả bọn ồ lên:

- Thế thì đúng rồi! Mặc dù chỉ thò có mỗi cái mặt lên thôi nhưng đúng là "quê" rồi.

Vương Văn Hiên còn nói rõ thêm:

- Lúc đầu tớ cũng chưa tin lắm nhưng rồi gọi cả bọn lại xem, càng nhìn càng thấy giống. Tớ cũng biết đại đội ấy có đánh Đà Nẵng nên khẳng định ngay đúng là quê rồi. Có đúng không các "quê" ?.

Cả bọn đồng thanh hưởng ứng:

- Đúng rồi đấy! Hôm nào về đấy mà xem!

Tôi vẫn "bán tín, bán nghi" nhưng cũng thấy "sương sướng" trong bụng và nghĩ thầm: "thế nào cũng phải về xem có đúng không".

Đã định như thế nhưng rồi mãi đến nghỉ Hè năm 1977 tôi mới về thăm Bảo tàng Quân đội được. Vừa bước chân vào khu trưng bày hiện vật bảo tàng tôi đã thấy người run lên khi nhìn thấy chiếc xe tăng 843 sừng sững ngay trước cửa (hồi ấy xe 843 còn để ở ngoài)- đây chính là xe của đại đội trưởng Bùi Quang Thận và khi lái xe Lữ Văn Hoả phục viên tháng 6 năm 1975 tôi đã thay Hoả lái xe này cho đến ngày đi học. Tôi bước nhanh vào khu vực trưng bày về cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 và người tôi lại một lần nữa run lên trước bức ảnh "Xe tăng ta tiến vào giải phóng Đà Nẵng". Bức ảnh khá to, mỗi chiều phải hơn 1 mét, trên ảnh là 4 chiếc xe tăng xếp thành hàng dọc đang hùng dũng tiến giữa phố phường Đà Nẵng, trong đó xe tôi là xe đi đầu. Tôi khẳng định điều đó vì nhìn rõ trưởng xe Nguyễn Đình Luông đứng hẳn lên trên cửa trưởng xe và khuôn mặt anh thì không lẫn vào đâu được. Các bạn tôi đã nói đúng: mặc dù ngồi ở ghế lái xe chỉ thò chưa hết khuôn mặt lên nhưng tấm ảnh được chụp rất nét và vẫn có thể nhận ra đó là gương mặt của tôi. Tôi chợt nhớ ra tất cả.

Ngày 18 tháng 3 năm 1975 từ vị trí trú quân ở Bắc sân bay A- Lưới (Tây Huế) đại đội tôi nhận lệnh đi chiến đấu. Sau hơn hai ngày hành quân chúng tôi đã có mặt tại Động Truồi và phối thuộc cho bộ binh đánh chiếm cứ điểm Núi Bông. Ngày 25 tháng 3 chúng tôi tiến công đánh chiếm Huế và truy kích địch ra cửa Thuận An, sau đó được lệnh chốt giữ tại đó.

Một giờ sáng ngày 29 tháng 3 chúng tôi được lệnh cấp tốc lên đường đi đánh Đà Nẵng. Ngay lập tức đại đội tôi xuất phát và cơ động với tốc độ cao theo Quốc lộ 1. Tầm 9 giờ sáng chúng tôi đã đến Lăng Cô, phía trước đã nhìn thấy đèo Hải Vân sừng sững và ai cũng nghĩ rằng chẳng mấy chốc mình sẽ có mặt tại Đà Nẵng để giải phóng thành phố lớn nhất miền Trung này.

Nhưng thật không may: khi địch rút quân chúng đã kịp phá cầu Thừa Lưu nên chúng tôi đành nằm lại chờ công binh khắc phục. Đến quá trưa ngầm vẫn chưa làm xong, chúng tôi liều cho xe tăng bò qua cây cầu đường sắt trên thượng lưu và nhanh chóng vượt đèo Hải Vân vào đánh chiếm Đà Nẵng. Tuy nhiên do phải nằm chờ quá lâu nên khi chúng tôi đến Đà Nẵng đã gần tối, một số đơn vị của ta đã đánh chiếm các vị trí quan trọng từ chiều. Đại đội tôi được lệnh đánh chiếm và chốt giữ Thương cảng Bạch Đằng- một vị trí quan trọng án ngữ toàn bộ hoạt động đi lại trên Sông Hàn và là đơn vị xe tăng duy nhất nằm ở nội đô thành phố Đà Nẵng trong những ngày đầu giải phóng.

Chúng tôi được biết Đà Nẵng là một thành phố khá phức tạp, tính từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng đến lúc đó là hơn một trăm năm thì thành phố này chỉ được sống dưới chế độ dân chủ cộng hoà có mấy chục ngày hồi Cách mạng tháng Tám; đây cũng là mảnh đất đầu tiên trên đất nước ta bị những đơn vị chiến đấu của quân đội Mỹ đặt chân lên và ngay cả Tết Mậu Thân 1968 ta tiến công đồng loạt hàng chục thành phố, thị xã nhưng cũng không vào được thành phố này. Đến nay mặc dù đã được giải phóng nhưng tình hình cũng còn rất căng thẳng, hàng chục ngàn quân lính, công chức nguỵ quyền vẫn còn ở lại và chưa biết họ sẽ có những phản ứng gì. Vì vậy nhiệm vụ của đại đội tôi là rất quan trọng.

Sáng hôm 30 tháng 3 trời đột nhiên đổ mưa, một cơn mưa rào đến và đi đều rất đột ngột. Tầm 8 giờ sáng mưa tạnh, đại đội tôi được lệnh đi vào trung tâm thành phố. Chúng tôi đoán rằng mục đích chính là để thị uy biểu dương sức mạnh nhằm trấn áp những mưu đồ chống đối ngay từ khi còn trong trứng. Toàn đại đội (thực ra lúc đó chỉ có 4 xe: 380, 381, 386 và 390) xếp thành một hàng dọc; khi đi vào trung tâm thành phố thì xe 386 của đại đội trưởng Thận đi đầu, xe 380 của tôi đi cuối; khi đi từ trung tâm thành phố ra thì xe tôi lại đi đầu và xe anh Thận đi sau cùng. Thành phố ngày đầu giải phóng nhưng vắng như "chùa Bà Đanh", người dân không có sự vồ vập với Quân giải phóng như ở Huế, hình như họ còn chờ đợi, nghe ngóng thêm rồi mới tỏ thái độ. Lúc về đến gần Bảo tàng Cổ vật Chàm tôi có thấy một người đứng bên hè phố giương máy ảnh lên chụp nhưng rồi cũng không để ý đến nữa. Chắc chắn tấm ảnh này đã được chụp lúc đó.

Khi khẳng định chắc chắn đó là ảnh của đại đội mình và xe mình tôi rất muốn xin một tấm làm kỷ niệm nhưng hỏi người hướng dẫn ở Bảo tàng thì chỉ được biết những thông tin rất sơ lược về nguồn gốc bức ảnh và cũng không biết tác giả là ai, ở đâu nên tôi đành chịu. Một hôm tình cờ thấy ở trang bìa một cuốn tạp chí có in bức ảnh đó tôi đành cắt lấy và giữ làm kỷ niệm của riêng mình.

Đến khi Bảo tàng Tăng Thiết giáp được thành lập tôi lại thấy có treo bức ảnh này. Tôi đã kể lại cho đồng chí giám đốc và anh chị em nhân viên bảo tàng nghe về xuất xứ của bức ảnh và nguyện vọng không thực hiện được của mình. Sau khi xác minh đúng là sự thật đồng chí Việt đã tặng tôi một phiên bản của bức ảnh và hiện vẫn được gia đình tôi treo ở một vị trí trang trọng trong nhà.

Cho đến nay tôi vẫn chưa biết tên tác giả bức ảnh này là ai nhưng tôi luôn biết ơn anh vì đã giúp tôi lưu giữ lại một khoảnh khắc trên con đường chiến đấu của mình. Xin kính chúc anh luôn mạnh khoẻ và có nhiều tấm ảnh đẹp cho đời.

Nóichung, đó cũng là một may mắn phải không các quê. Chỉ tiếc không nhìn rõ mặtcho lắm.

----

Đà nẵng đã giải phóng được mấy ngày, đại đội tôi vẫn nằm lại quanh khu vực Bảo tàng cổ vật Chàm. Tình hình thành phố đã khá yên ổn, nhịp sống đã trở lại tương đối bình thường nên bọn tôi cũng đỡ căng thẳng hơn và bắt đầu được phép đi thăm thú thành phố- một thành phố vô cùng xa lạ đối với những người lính miền Bắc chúng tôi. Thế là cái ba lô vùi sâu trong góc tháp pháo được dịp lộn ra, và những bộ quần áo mới nhất còn "thơm mùi chính phủ" được bóc tem đem ra chưng diện. Cả những đôi quân hàm binh nhất, binh nhì cũng được nâng niu cài lên ve áo. Những đôi quân hàm gần như còn mới tinh vì từ khi nhập ngũ cánh lính xe tăng chúng tôi gần như suốt ngày đêm lấm lem trong bộ quần áo công tác sặc mùi dầu mỡ lăn lộn ngoài baĩ tập, riêng tôi đôi quân hàm mới chỉ được dùng đúng một lần cái hôm đi chụp ảnh để gửi về nhà,

Trang phục chỉnh tề rồi, vai khoác AK, cứ từng nhóm hai, ba người chúng tôi đi dạo phố. Thực ra cũng chẳng dám đi xa, chỉ loanh quanh vài dãy phố quanh đấy, trong khi đó tai cứ phải dỏng lên nghe ngóng tình hình.

Nhưng có một điều không bình thường là chẳng hiểu sao mọi người nhìn chúng tôi với một cái nhìn rất lạ, họ nem nép lánh xa mỗi khi chúng tôi gần tới rồi xì xào với nhau điều gì đó, nếu không thể tránh được thì cúi chào rất lễ phép. Tệ hơn nữa, bọn tôi đều làng nhàng hăm hai, hăm ba tuổi mà họ cứ một điều ông, hai điều ông, khác hẳn với thái độ mà chúng tôi đã biết mấy ngày trước đó. Bởi vì từ hôm vào giải phóng Đà nẵng đến nay đại đội tôi vẫn chốt giữ xung quanh khu vực này, mấy ngày đó bà con đến tìm hiểu, thăm hỏi rất đông và mỗi chiến sĩ của đại đội tôi đều trở thành một "tuyên truyền viên bất đắc dĩ", phải giải đáp hàng nghìn câu hỏi của bà con về đủ thứ trên đời. Qua mấy ngày tiếp xúc đó bà con đã bớt nghi ngại và tỏ ra khá thân thiện với chúng tôi. Thế mà hôm nay tình hình lại khác hẳn. Thấy vậy, chúng tôi quyết định quay về. Về đến chỗ đỗ xe cũng thấy khang khác, bác chủ nhà mà mấy hôm nay xe tôi vẫn xin nước nấu cơm, vẫn vào nhà uống nước cũng tỏ ra khúm núm và xa lạ thế nào ấy.

Chúng tôi quyết tâm phải làm rõ vấn đề nên đi thẳng vào nhà, bác chủ nhà chắp tay khúm núm " Mời các ông vào xơi nước". Quái lạ, từ hôm vào đây đến giờ cả nhà bác vẫn gọi chúng tôi là các anh Giải phóng kia mà, sao hôm nay lại trịnh trọng thế. Chưa biết vào đề ra sao lại thấy bác xuýt xoa " Nhiều tướng thế này Giải phóng làm gì chả thắng. Mà sao toàn tướng trẻ vậy." Mắt thì cứ như dán vào ve áo bọn tôi. Chúng tôi ngớ ra nhìn nhau và chợt hiểu- đôi quân hàm binh nhất, binh nhì với ngôi sao bạc trên nền phù hiệu đỏ tươi trông quá giống- mà lại còn oách hơn- quân hàm của tướng một sao, hai sao quân nguỵ, vì vậy bà con tưởng lầm chúng tôi đều là tướng và điều đó giải thích tại sao họ có thái độ kỳ lạ vừa rồi.

Các quê có công nhận phù cấp hiệu kết hợp binh nhất,binh nhì của mình "rất oách" không?

----

những năm chiến tranh còn ác liệt hầu hết đồng bào bỏ bản làng ở dưới thấp hoặc gần đường tuyến để lên núi cao sinh sống, lúc ấy để vào bản quân ta có khi phải mất nửa ngày đi bộ. Nhưng chỉ sau hiệp định Pa- ri ít ngày là họ lại trở về chốn cũ ngay. Như mình đã nói, bà con rất rạch ròi: "Mình không đổi với bộ đội đâu! Có giúp nhau thì giúp thôi". Tuy nhiên, cái "thước đo" của đồng bào thì cũng muôn hình vạn trạng- có vẻ như theo nhu cầu tức thời của họ mà thôi. Vì vậy nhiều lúc chết cười đi được: có thằng mang cái áo Tô Châu còn "thơm mùi chính phủ" vào thì chỉ được bà con giúp "nhõn" con gà con bằng nắm tay, không cả bằng một cái gương soi con con lấy ra từ hộp dao cạo;D

Nhưng có một thứ có hiệu suất rất cao mà bọn mình tình cờ phát hiện được.

Số là trong một lần đi phép anh Trị quê Thanh Hóa có đến nhà mấy đồng hương TNXP đang đóng ở gần đấy để thăm hỏi. Khi trả phép anh có mang quà gia đình gửi vào cho chị em nhưng không may, đơn vị đó đã chuyển ra ngoài rồi. Gói quà để lăn lóc mãi không có người nhận nên cả hội bàn nhau mở ra xem thử, may ra có tý mà "ca cóng" (cải thiện). Nhưng thật không may, trong đó chỉ có một gói bồ- kết và 2 cái... xu- chiêng. Các quê tre trẻ bây giờ không biết chứ cái của nợ này ngày ấy nó "hoành tráng" lắm. Nó được may chần bằng nhiều lớp vải và cái đỉnh núi thì nhọn hoắt, cứng như được gò bằng tôn ấy, mà càng cứng thì càng tốt. Thất vọng, mấy tên đang định vứt đi thì một tên có sáng kiến: "Cứ đem vào bản xem sao, biết đâu lại kiếm được gùi sắn về mà ca cóng".

Nhưng thật không ngờ! Vừa nhìn thấy cái "của nợ" này em Kan P. mừng như bắt được vàng và ra lệnh cho người nhà bắt cho các anh hai con gà "hết lớn" (nghĩa là to đến mức không thể lớn được nữa- từ của đồng bào đấy).

Sau này tìm hiểu bọn mình mới biết bà con ở đây vẫn thiên về mẫu quyền, người có tiếng nói quyết định trong gia đình là người phụ nữ. Tuy nhiên, có lẽ ở dân tộc Pa- Kô này có điều đặc biệt là những cô con gái lớn là người quan trọng nhất trong nhà và mọi người nhất nhất phải tuân theo. Vì thế, những gì liên quan đến cuộc sống của cô con gái này sẽ có giá trị cao nhất.

Biết thế nhưng đến lúc ấy lại chẳng có gì để đổi nữa. Chẳng lẽ lại nhắn về ngoài Bắc báo gia đình gửi cho mấy cái ấy!

Nhưng đấy là thời bọn mình thôi. Còn bây giờ chắc chịem trong ấy toàn xài hàng Thái xịn ấy chứ!

---

Khu vực trú quân mới của tiểu đoàn xe tăng 408 nằm ở phía Bắc sân bay A- Lưới, cách sân bay chừng 5 cây số. Đó là một dãy đồi thấp tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, cách đường 14 khoảng 40 phút đi bộ. Từ đường 14 đi vào gặp trước hết là đại đội Ba, đi sâu chừng nửa cây có một ngã ba, đi thẳng thì lên tiểu đoàn bộ, rẽ trái là về đại đội Bốn. Toàn tiểu đoàn hình thành thế chân vạc, mỗi đại đội cách nhau chừng cây rưỡi, hai cây số. Tiểu đoàn bộ và đại đội Ba dùng chung nước của một con suối lớn bắt nguồn từ dãy A- Bia, còn đại đội Bốn dùng nước của một con suối nhỏ phía sau quả đồi. Con đường vào tiểu đoàn lúc đầu chỉ là đường mòn của bà con dân tộc, hai bên là bạt ngàn lau lách, xe tăng cứ bám theo đường mòn đi đi lại lại mấy lần thành một con đường khá rộng rãi.

Về đến vị trí trú quân mới công việc đầu tiên vẫn là làm hầm người, hầm xe- cái điệp khúc muôn thuở của lính chiến trường khi đến một nơi ở mới. Tuy nhiên các yêu cầu lần này cũng khác trước: hầm hào phải được xây dựng cơ bản, vững chắc hơn, đối với hầm xe còn phải làm lán che mưa nắng, ngoài ra yêu cầu về mặt thời gian cũng đỡ căng thẳng hơn, dẫu sao cũng đã có hoà bình rồi, khả năng không quân nguỵ với tới đây hầu như không có. Vì vậy Ban chỉ huy đại đội quyết định để từng trung đội tập trung làm xong cho xe này mới làm đến xe khác. Cũng may, đã sang mùa khô, lính tráng mắc võng ở đâu cũng ngủ được.

Để thực hiện công việc đúng tiến độ thời gian mỗi trung đội được chia làm ba tổ: một tổ đào hầm, một tổ đi lấy gỗ dựng lán và một tổ cắt tranh. Kể ra thì công việc cũng không khó khăn gì lắm: gỗ ngay sau nhà, tranh thì phải đi xa hơn một chút mới dài và đẹp. Đến lúc này tay nghề của Phong "dại gái" mới được thể hiện rõ nhất, cậu được cử làm tổ trưởng tổ mộc của trung đội Hai, gỗ chặt về cứ để đấy, một mình cậu đo đo, đạc đạc, cắt mộng, khoét ngoàm, cây to làm cột, cây nhỏ làm kèo, đòn tay, đống nào xếp ra đống ấy đến lúc lắp vào cứ vừa như in. Bên trung đội Một tình hình có vẻ khó khăn hơn vì không có thợ cả, tổ thợ mộc cứ cãi nhau ỏm tỏi cả lên nhưng đến lúc lắp vào lại không khớp, cứ phải chỉnh đi chỉnh lại mãi.

Thế rồi đâu cũng vào đấy cả, quãng nửa tháng sau thì bảy cái xe tăng đã nằm gọn trong lán, Đề còn bắt các xe xuống suối khuân đá về để lát hai băng xích nữa chứ. Nhìn hệ thống lán xe của đại đội ai cũng phải khen: "có kém gì khu xe chính quy ngoài Bắc đâu!".

Đang túi bụi với hầm với lán thì biên chế của đại đội có những thay đổi rất quan trọng: chính trị viên Quản Đức Đán và đại đội phó kỹ thuật Nguyễn Văn Đề có lệnh trở về trung đoàn nhận nhiệm vụ khác, chính trị viên phó Vũ Đăng Toàn và trợ lý kỹ thuật tiểu đoàn Lê Phượng lên thay. Trung đội trưởng Nguyễn Ngọc Nam được bổ nhiệm chính trị viên phó, Lê Xuân Tự thay anh làm trung đội trưởng trung đội Hai, vị trí trung đội phó trung đội Một do Mai Hồng Trị đảm nhiệm. Lái xe Thái được điều về làm trợ lý kỹ thuật tiểu đoàn, kỹ thuật viên Tuyết và pháo thủ Lê Tiến Hùng cũng được điều về trung đoàn nhận nhiệm vụ khác, người lên thay Tuyết làm kỹ thuật viên là Phùng Đình Liên, lái xe 380 thay Liên là Trang. Pháo thủ Độ "híp" và pháo hai Đạt do sức khoẻ yếu được đưa ra Bắc điều trị. Để thay thế các vị trí bị "khuyết" đại đội Bốn được bổ sung một số thành viên kíp xe từ đại đội Ba sang, đó là: lái xe Lê Tiến Thọ, pháo thủ Nguyễn Văn Bùi, pháo hai Phạm Văn Chỉnh.

Buổi chia tay số anh em chuyển đi diễn ra thật cảm động, dẫu sao họ cũng đã gắn bó với nhau hơn một năm trời, đã chia sẻ cùng nhau mọi thứ- kể cả cái sống và cái chết. Bữa liên hoan chia tay chỉ khá hơn bữa cơm thường hàng ngày một chút, chẳng có rượu cũng chẳng có hoa nhưng đậm đà tình cảm. Khô khan như chính trị viên Đán, rắn rỏi như đại đội phó Đề cũng rơm rớm nước mắt, còn Đạt thì khóc thật sự. Thay mặt cho số anh em được điều động đi Đán phát biểu:

- Bản thân tôi đã có hơn chục tuổi quân, đã qua nhiều đơn vị nhưng những ngày tháng sống ở "xê Bốn" là những ngày đáng nhớ nhất trong cuộc đời quân ngũ của tôi. Chắc là tôi sẽ không sống và hoàn thành nhiệm vụ được nếu không có sự yêu thương đùm bọc, sự giúp đỡ nhiệt tình của anh em toàn đại đội ta. Trước lúc ra đi không biết nói gì hơn, chỉ biết thay mặt toàn thể số anh em phải xa đơn vị đợt này chúc các đồng chí ở lại luôn mạnh khoẻ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Còn tất cả những gì không phải xin anh em bỏ quá cho!

Tất cả mọi người lặng đi, có gì mà không phải. Tính từngày rời miền Bắc mới có một năm mà ai cũng tưởng đã sống với nhau hàng thế kỷ,chỉ thầm chúc các anh ra ngoài ấy có cuộc sống tốt đẹp, dễ dàng hơn so vớinhững ngày qua.

Như vậy, sau khi về đến A Lưới đã có 6 cán bộ, chiến sĩ rời khỏi đại đội 4 đi nhận nhiệm vụ mới. Số phận 6 anh em này cũng khác nhau nhưng rất may không có ai hy sinh.

- Chính trị viên Quản Đức Đán về lữ đoàn bộ một thời gian rồi ra Bắc, sức khỏe anh vốn yếu nên sau này ra quân hơi sớm. Cách đây gần chục năm anh đã mất vì bệnh gan- chắc là có liên quan đến những tháng năm sốt rét ở chiến trường.

- Đại phó kỹ thuật Nguyễn Văn Đề tiếp tục làm công tác kỹ thuật trong các đơn vị xe tăng và sau này về hưu (trung tá hay thiếu tá gì đó).

- Pháo hai Bùi Văn Đạt do yếu sức khỏe nên ra quân sớm, pháo thủ Hoàng Văn Độ (Độ híp) về công tác ở Trường HSQXT2 cho đến khi về hưu. Kỹ thuật viên Tuyết thì không rõ sau này thế nào.

- Pháo thủ Lê Tiến Hùng- còn gọi là Hùng Xuyến (vì có người yêu là Xuyến) sau này trở thành trung đội trưởng của đại đội 3, tiểu đoàn 1. Xe của anh chính là chiếc xe đầu tiên vượt qua cầu SG tiến vào nội đô. Tuy nhiên, khi đến cầu Thị Nghè thì bị trúng đạn, xe cháy, Hùng và một chiến sĩ trong xe bị thương. Vết thương khá nặng tưởng không thể có con Nhưng thật may chuyện ấy đã không xảy ra. Hiện anh đang công tác tại NM Giấy Bãi Bằng.

Và tiếp theo là những công việc ở vị trí trú quân mới tại A Lưới:

Công việc tiếp theo sau khi hoàn thành hầm xe, lán xe là xây dựng doanh trại. Họp chi bộ chính trị viên Vũ Đăng Toàn nêu vấn đề:

- Hoà bình rồi cũng phải cho bộ đội ăn ở đàng hoàng hơn, chứ ngủ võng ngủ hầm mãi thì khổ quá; rồi phải tăng gia sản xuất lấy rau, lấy thịt bổ sung vào tiêu chuẩn ăn, lính xe tăng mà 5,6 lạng gạo một ngày thì đánh nhau sao nổi. Rồi còn hoạt động văn hoá văn nghệ, xây dựng nề nếp chính quy và huấn luyện nâng cao trình độ bộ đội cũng bắt đầu phải tính đến.

Hội nghị chi bộ hoàn toàn nhất trí sẽ tiến hành xây dựng doanh trại trước, đồng thời cho tranh thủ phát một ít rẫy để kịp mùa vụ và bàn biện pháp thực hiện thật cụ thể để đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật, mỹ thuật và thời gian.

Ban chỉ huy đại đội kéo nhau đi xác định cụ thể vị trí từng ngôi nhà: nhà ban chỉ huy đại đội ở trung tâm thẳng cổng ra vào, hai bên là nhà ở của hai trung đội, phía bên trong gần nguồn nước là nhà bộ phận "xê bộ", nhà ăn và nhà bếp, một cơ số đạn mới nhận về được chia làm hai kho để khuất trong rừng.

Để đảm bảo kỹ thuật, mỹ thuật đại đội thành lập một tổ kỹ thuật do Phong "dại gái" làm tổ trưởng chịu trách nhiệm thiết kế, đục đẽo và dựng nhà, các lực lượng khai thác vật liệu do các trung đội tự đảm nhiệm theo yêu cầu của tổ kỹ thuật. Được phụ trách tổ kỹ thuật Phong hãnh diện lắm, nhưng phải công nhận tay nghề cậu ta rất khá, mọi người ai cũng bảo: "tay nghề thế ở ngoài Bắc có thể đi kiếm cơm thiên hạ được rồi". Khác với hồi làm lán xe chủ yếu là chặt ngoàm và buộc, lần này Phong yêu cầu: "nhà phải làm tám mái, trên thì dốc mới thoát nước được nhanh và đỡ hỏng tranh; hai bên hiên thì làm mái vẩy vừa đẹp vừa sáng nhà; vách thì ken bằng sặt đảm bảo vừa đẹp vừa bền vừa thoáng".

Căn nhà đầu tiên được dựng lên là nhà bếp và nhà ăn, đại đội trưởng Thận bảo:

- Cứ phải lo cho chắc cái bụng đã.

Căn nhà bốn gian, gian đầu làm bếp, còn ba gian làm nhà ăn được dựng ngay bên con suối bốn mùa róc rách, cũng đủ cả cột cái, cột quân, cột hiên, kèo chính, kèo vẩy, khung cửa chính, cửa sổ... Tất cả đã đục đẽo sẵn nên chỉ một buổi là dựng xong, tranh đã được bộ phận phụ trách về cái lợp cắt về phơi và đã đánh thành từng phên xếp ngay bên cạnh. Lợp xong nhà đến làm vách, sặt đã được bộ phận khai thác mang về, mấy anh em đang còn sốt không làm được việc nặng chỉ việc chẻ ra và ken vào các khuôn đã được lắp sẵn. Lúc này bộ phận dựng nhà lại chuyển sang nhà khác.

Cứ thế, nhà đại đội, nhà hai trung đội, nhà "xê bộ" lần lượt được dựng lên. Nhà đại đội ba gian, hai gian đầu được ngăn ra thành bốn phòng riêng cho các thủ trưởng, ở giữa có một gian làm phòng họp. Nhà các trung đội làm bốn gian, gian đầu ngăn ra cho hai cán bộ trung đội, ba gian còn lại là nơi nghỉ của bộ đội gồm mấy chiếc giường được ghép bằng tre.

Ròng rã gần một tháng thì cơ ngơi của đại đội đã hoàn chỉnh, ban chỉ huy đại đội thở phào nhẹ nhõm, chính trị viên Toàn hỉ hả:

- Công nhận bộ đội mình cũng tài thật, cái gì làm cũng được. Chả trách người ta gọi quân đội là trường đại học tổng hợp.

Còn đại đội trưởng Thận chỉ im lặng, không biết anh đang tính toán những gì trong đầu.

Nhà dựng xong thì mấy cái rẫy đã phát dạo trước cũng đã khô, mấy chuyên gia về nương rẫy như Định, Phong, Thành đều cho rằng đã đến lúc đốt, ban chỉ huy đại đội nhất trí và giao việc này cho Định phụ trách, riêng Phượng vẫn băn khoăn:

- Các ông đốt thế nào thì đốt đừng để nó lan vào lán xe là được.

Ngày đốt rẫy, sau khi xem hướng gió Định bắt mọi người phải bắt đầu châm lửa từ phía cuối gió, mấy tướng người đồng bằng cự thì hắn nhăn răng cười:

- Các cậu không biết, nếu đốt xuôi gió thì trời đất này, cây khô thế này lửa chỉ cháy ào ào bên trên thôi, mai đi phát lại ốm xác. Còn nếu đốt ngược gió lửa mới cháy âm ỉ, đảm bảo mai ra chỉ có tro và tro thôi.

Quả đúng như vậy, giữa thời tiết mùa khô oi ả mà ngọn lửa cháy rất từ tốn, cháy đến đâu sạch đến đấy, ngay cả những chỗ phát rối cây còn tươi hoặc mầm lau lách mới nhú lên cũng cháy bằng hết. Sau một ngày lúc âm ỉ, lúc bùng lên réo ù ù, nổ đôm đốp hai cái rẫy đã hình thành. Chỉ thấy một lớp tro dày phủ trên mặt đất, xắn nhẹ xẻng xuống là một lớp đất đỏ ba dan tơi vụn ra như đã được đổ ải, đó đây những thân cây lớn không cháy hết nằm rải rác được quân ta khiêng ra xếp thành hàng rào chắn thú rừng quanh rẫy. Ban chỉ huy đại đội quyết định cái rẫy ngoài cổng vào rộng hơn một mẫu sẽ để trồng sắn, trồng ngô; còn cái rẫy nằm ở phía sau nhà ăn, cạnh con suối nhỏ hơn thì để trồng rau.

Nhìn cái rẫy trồng sắn rộng mênh mông mấy tay nhà nông chính hiệu như Tập, Thanh, Nghị đều phàn nàn:

- Rộng thế này thì cuốc bao giờ cho hết!

Lại vẫn Định phải giải thích:

- Không phải cày cuốc gì hết! Cứ như cách của đồng bào mà làm chứ cày cuốc lên rồi đánh luống như các ông thì chỉ một mùa mưa là trôi hết màu.

Thế là lại phải tập huấn về phương pháp trồng sắn: cứ hai người một lối, người đi trước cầm cuốc cuốc một nhát lật đất lên thành hốc, người đi sau bê một rổ hom sắn thả hom vào hốc rồi dùng chân lấp lại. Còn trồng ngô thì bỏ túi một ít hạt giống, tay cầm cái cọc nhọn đầu, chọc một nhát lại bỏ một hai hạt ngô xuống lỗ rồi lấy chân lấp lại. Bán tín bán nghi chẳng biết rồi nó có sống được hay không nhưng cứ làm. Mấy tên còn chép miệng: "cứ làm đi, không lên được thì trồng lại; nước sông công lính mà".

Bên rẫy rau thì buộc phải làm cẩn thận hơn, các gốc cây được đánh đi hết, đất được cuốc lên rồi đánh luống cẩn thận, trên quân khu đã cấp về mấy túi hạt rau muống và rau cải trắng Trung Quốc. Rẫy được chia làm ba phần cho hai trung đội và "xê bộ", từ nay sẽ quy định chỉ tiêu tăng gia rau hàng tháng đối với từng bộ phận. Ai cũng hí hửng vì từ nay sẽ đỡ cái đận luồn rừng đi cải thiện, mà thực ra mấy tháng nay rau rừng ở xung quanh đơn vị cũng đã cạn cả rồi.

Thế rồi như có một phép màu, chỉ sau một tuần trong những cái hốc vẫn sạm màu tro bụi ấy đã lấm tấm những chấm xanh của mầm sắn, mầm ngô, những cái mầm thật mập thật khoẻ trông sướng con mắt. Chẳng chăm bón, chẳng nước tưới mà nó lớn nhanh như thổi, vừa hôm trước hôm sau ra đã thấy khác rồi. Đến lúc này mọi người mới công nhận đất rẫy mới tốt thật, chả trách gì đồng bào các dân tộc rẻo cao lại thích du canh du cư.

Bên rẫy rau những hạt rau muống, rau cải cũng đã nẩy mầm, các vỏ thùng lương khô nay được cải tiến thành ô- doa tưới rau khá tiện: chỉ cần đục thủng cái nắp thùng làm gương sen, lấy đầy nước vào rồi đậy nắp chặt dốc ngược lên là sẽ có mưa nhân tạo ngay. Đất rẫy mới đầy màu mỡ, người tích cực chăm chút lại gặp thời tiết thuận lợi cả rẫy rau lớn nhanh như thổi.

Một số thứ quân trang không dùng đến cũng được anh emđem đi dân vận để đổi lấy mấy mái gà. Lúc đầu quân ta không biết cứ thật thàđòi "đổi", bà con dân tộc Pa-kô, Tà-ôi nhất quyết không chịu đành phải vềkhông. Mãi sau mới biết phải nói là: "bộ đội giúp đồng bào cái áo, còn đồng bàogiúp bộ đội cái gì đó" mới được việc. Hay thật! Thế là cạnh nhà mỗi trung độicó thêm cái chuồng gà, những chú gà của đồng bào trước nay chỉ chuyên tự kiếmăn nay được chăm chút trông màu mỡ hơn hẳn.

Sau ngày hiệp định Pa- ri được ký kết, công tác tiếp vận từ Bắc vào đã thuận lợi hơn nhiều. Xe ô tô có thể chạy cả ban ngày nên tốc độ cũng như lưu lượng hàng vận chuyển được tăng cao vì thế tiêu chuẩn bộ đội được bảo đảm. Các rẫy tăng gia cũng đã bắt đầu cho sản phẩm nên đời sống bộ đội đã được nâng lên rõ rệt. Cái đói, cái rét đã bị đẩy lùi nhưng chính trị viên Toàn cảm thấy hình như vẫn thiếu một cái gì đó, có lẽ đó là không khí của đơn vị còn trầm lắng quá chăng?. Anh bàn với đại đội trưởng Thận và hai người đi đến quyết định phải có biện pháp để nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của bộ đội.

Công việc đầu tiên được chọn là phải làm sân bóng. Khoảng đất trống trước cửa nhà trung đội Một được chi đoàn thanh niên phát động mấy buổi lao động xã hội chủ nghĩa đã được phát quang, đánh gốc và san lấp đã hình thành một sân bóng chuyền, chiều chiều tiếng hò hét, tiếng đập bóng đã làm huyên náo cả một góc rừng. Đến bây giờ mới hé lộ bóng dáng của những ngôi sao: đại đội trưởng Thận té ra cũng là một cây đập có hạng, anh đập không mạnh nhưng "khôn bóng" nên hiệu quả rất cao, Sáu Bùi hoá ra không chỉ ăn khoẻ mà còn là một cây tiến công chủ lực với những cú đập búa bổ, cậu ta vênh vang: "nếu đấu bóng chuyền theo kíp xe thì xe 386 sẽ nhất binh chủng". Có lẽ thế thật vì xe ấy cả Chỉnh híp và Thọ đen đều chơi được.

Sau sân bóng chuyền đến sân bóng đá. Mất hơn một tuần lao động ngoài giờ cái sân bóng đá mới hình thành, tuy mỗi bề chỉ ba bốn chục mét nhưng cũng có thể đá "gôn tôm" được. Vừa mới làm xong sân bóng đá đã hút hết cả người, đại đội trưởng Thận hoá ra là một tiền đạo cánh có tốc độ rất nhanh và đôi chân khéo với những đường đi bóng cực kỳ lắt léo. Còn Trang thì khỏi nói, cậu được dịp thể hiện sở trường của mình và trung đội Một của cậu thường là đội thắng. Ra sân bóng chuyền giờ chỉ lèo tèo vài mống nên đại đội lại phải lên lịch quy định ngày thì chơi bóng chuyền, ngày thì chơi bóng đá.

Không chỉ đại đội Bốn làm sân bóng mà đại đội Ba rồi tiểu đoàn bộ cũng làm nhưng chỉ làm được sân bóng chuyền. Hoá ra đội bóng của họ cũng chẳng yếu: trên tiểu đoàn thì có tiểu đoàn phó Phạm Ngọc Bảng là cây đập chủ công, còn bên đại đội Ba thì Hải "xoăn" là linh hồn của đội. Các trận đấu trong tiểu đoàn diễn ra thường rất căng thẳng, thắng bại chỉ được quyết định bởi những tỷ số hết sức sít sao. Cả tiểu đoàn chỉ có hơn trăm người nhưng đội tuyển bóng chuyền cũng đã có tên tuổi trong khu vực, trong các trận giao hữu hay giải đấu chính thức đội bóng chuyền của tiểu đoàn xe tăng 408 đã thi đấu hoàn toàn ngang ngửa với các trung đoàn công binh, cao xạ và chỉ chịu thua đội bóng của sư đoàn 324.

Tiểu đoàn về vị trí này được mấy tháng thì một bản của bà con dân tộc Pa- kô cũng về định cư ngay bên cạnh. Đó chính là bản A- lê- nốc- quê hương của hai người anh hùng Hồ Vai và Kan Lịch. Nghe bà con nói chuyện mới biết: ngày xưa họ cũng đã từng ở đây, nhưng vì chiến tranh phải chạy tít lên núi cao, bây giờ hoà bình rồi lại về đây ở cho đỡ khổ cái chân. Nhìn những gương mặt đen đúa, những thân hình tiều tuỵ, những hàm răng bị cà không còn răng cửa, những đứa bé bụng ỏng đít vòn... không ai không cảm thấy mủi lòng nhưng có lẽ không mấy ai biết cũng chính những con người ấy đã một lòng một dạ theo cách mạng. Họ sẵn sàng ăn sắn, ăn lá cây quanh năm để dành gạo cho bộ đội và chỉ một bản nhỏ mấy chục nóc nhà này mà có đến hai người anh hùng. Trong cái bản nhỏ ấy cũng có hai cô gái khá xinh, đó là Kan Hường và Kan Pia. Kan Hường người thanh mảnh, có khuôn mặt khá đẹp và chắc là đã tiếp xúc nhiều với bộ đội, thanh niên xung phong nên ăn diện như người Kinh. Còn Kan Pia đậm người, cô vẫn ăn mặc theo lối của đồng bào, khuôn mặt không xinh như Kan Hường nhưng toát lên vẻ hồn nhiên và chất phác. Đã hàng năm trời không được ở với dân, không thấy bóng con gái nên lính ta khoái lắm, cứ rỗi rãi lại mò ra bản và dập dìu nhất vẫn là hai túp lều của Kan Pia, Kan Hường.

Pháo thủ Phong dạo này chịu khó lắm, hết giờ làm việc lại thấy cậu một mình lỉnh ra cái lán xe 387 nằm khuất nẻo sau đồi đục đục, đẽo đẽo. Ai hỏi làm gì cậu ta cũng chỉ nhăn răng cười trừ. Độ một tuần sau thì đã nhận ra bóng dáng một chiếc giường gỗ. Phải công nhận Phong khéo tay, chỉ độc con dao quắm với cái tuốc- nơ- vít sắt mài sắc mà cậu ta đã biến mấy mảnh gỗ đã xẻ sẵn từ hồi làm nhà thành một chiếc giường như được bào đục hẳn hoi. Phong còn xin y tá Tảo ít qui- nin về hoà nước quét cho cái giường màu vàng ươm trông thật thích mắt. Mọi người cùng bàn tán: "thằng này sao chơi trội thế, cả đại đội nằm giường tre ghép mà nó lại định nằm giường gỗ à?".

Nhưng rồi một hôm cái giường biến mất, những người quan tâm đến sự kiện này hỏi Phong chẳng trả lời mà cứ tủm tỉm cười. Sự việc chỉ được sáng tỏ sau hôm chủ nhật quân ta vào bản phát hiện ra: chiếc giường vàng choé mà Phong đã lao tâm khổ tứ suốt nửa tháng trời đang hiện diện ở một vị trí trang trọng trong nhà Kan Pia. Ai cũng bảo: "Đúng là Phong dại gái", riêng Phong vẫn chẳng hé răng điều gì nhưng ra chiều mãn nguyện lắm.

Không biết có ai gợi ý hay không mà một hôm trung đội trưởng trung đội Hai Lê Xuân Tự nói nhỏ với chính trị viên Toàn:

- Trong khu uỷ có mấy cô hát dân ca Huế hay lắm, mình đóng quân ở đây mà không biết hát dân ca xứ này thì cũng không hay, sắp tới tiểu đoàn tổ chức hội diễn văn nghệ, nếu biết hát dân ca ta cũng sẽ có món "độc chiêu". Hay là ta mời họ về dậy cho anh em mình mấy buổi.

Gì chứ sáng kiến này được chấp thuận ngay và thế là Tự được cử làm "đại sứ" đi liên hệ. Ngày hai "em" Thu Sen và Thu Lượng cùng với mấy anh trên khu uỷ về đại đội dạy hát dân ca trở thành một ngày trọng đại đối với đại đội Bốn. Dẫu nước da vẫn còn tái mét sau những trận sốt rừng hai cô gái Huế vẫn là trọng tâm chú ý của mấy chục cặp mắt sáng như đèn ô tô mở hết cỡ. Có gì lạ đâu, trừ mấy cô gái dân tộc ngoài bản A- lê- nốc thì hơn một năm rồi đây là lần đầu tiên họ được gặp con gái, được nghe tiếng nói tiếng cười con gái mà lại là gái Huế chính hiệu. Lẽ ra chỉ một số hạt nhân văn nghệ được lên học hát nhưng rồi tên nào cũng kiếm cớ để ngồi há hốc mồm ra nghe thì ít mà nhìn là chính, Tráng và Tự thì như bắt được của, cứ lăng xa lăng xăng chăm chút cho các em từng ly từng tý.

Thì ra các điệu "lý" hay "hò" của dân ca Huế cũng không khó hát cho lắm. Chỉ hai buổi được hướng dẫn mà lưng vốn của anh em trong đại đội cũng đã có gần chục điệu hò, điệu lý như "Hò giã gạo", "Lý mười thương", "Lý con sáo", "Lý ngựa ô"....

Vốn sáng ý nên Trang nhập tâm ngay và chỉ sau hai ngày thụ giáo cậu đã thuộc lòng các làn điệu. Trang còn nhận ra một điều là các điệu hò, điệu lý chủ yếu dựa trên nền thơ lục bát và thế là cậu nảy ra ý định sáng tác một vở ca kịch dựa theo dân ca Huế.

Nghĩ là làm, cứ rỗi rãi Trang lại ngồi hý húi ghi chép, gạch xoá. Một tuần sau vở ca kịch mang tên "Đường dây ai nối" của cậu đã ra đời. Đại để câu chuyện như sau: đường dây điện thoại giữa tiểu đoàn bộ và đại đội Bốn bị đứt không liên lạc được, cả hai bên đều cử chiến sĩ đi nối dây. Đúng lúc đó có hai bố con đồng bào Pa- kô đi rẫy về qua, người bố thì bảo kệ họ, cô con gái thì quyết tâm nối giúp, sau khi tranh luận một lúc thì ông bố cũng đồng ý. Họ nối dây xong thì cũng bỏ đi luôn, hai anh lính thông tin hai đầu chạy lại gặp nhau nhưng không thấy đứt chỗ nào. Câu chuyện bây giờ quay sang một góc độ khác là tìm xem ai là người nối dây. Thực ra nội dung của nó không có gì đặc biệt, tình tiết cũng đơn giản... nhưng cái đặc sắc của nó là được diễn tả bằng dân ca Huế nên Toàn, Nam, Tự đều rất tâm đắc và quyết định sẽ dàn dựng để tham gia Hội diễn văn nghệ của tiểu đoàn sắp tới.

Và đúng là trong Hội diễn đợt đó vở ca kịch "Đường dâyai nối" đã giành giải đặc biệt. Quản lý Minh đã đảm nhiệm một cách xuất sắc vaicô con gái, mỗi tội giọng hát giả tiếng con gái chưa đạt lắm. Hợp "vâu" trongvai ông già Pa- kô cũng được, giống hệt cả ngoại hình lẫn giọng nói. Còn haivai chiến sĩ do Tự và Nghị đóng thì không còn gì phải nói nữa, người xem chỉhơi có ý kiến chiến sĩ Tự điệu quá. Sau hội diễn tiểu đoàn cũng quyết định sẽnâng cấp vở này và sẽ đưa đi hội diễn cấp trên nếu có dịp.

---

Chè Thu Sen

Những ai đã từng chiến đấu ở mặt trận Trị Thiên Huế những năm 71-72 chắc đã từng biết đến và vẫn nhớ món chè này. Đó chẳng phải đặc sản gì song nó đáng nhớ bởi hoàn cảnh ra đời của nó khá đặc biệt.

Hồi ấy, Khu uỷ Trị Thiên có một đoàn văn công xung kích. Gọi là đoàn cho oai chứ thực ra chỉ có khoảng chục người, vừa làm công việc chuyên môn của cơ quan Khu uỷ vừa kiêm nhiệm diễn viên. Trong đoàn có 2 nữ diễn viên là Thu Sen và Thu Lượng. Đó là hai cô gái Huế xinh đẹp và thuỳ mị, như hai bông hoa đẹp giữa rừng và là trung tâm chú ý của tất cả các chàng lính trẻ của quân khu. Giữa thời chiến tranh bom đạn bời bời, thiếu thốn đủ thứ, nhưng có lẽ cái thiếu thốn nhất với cánh lính trẻ là tình cảm, là tiếng nói, là bóng dáng yêu kiều của các nàng thiếu nữ. Vì vậy, mỗi khi đoàn đi đến đâu thì ở đó như ngày hội, từ quan đến lính giành tất cả những gì tốt nhất để chăm sóc cho đoàn, đặc biệt là cho hai kiều nữ xinh đẹp kia.

Mùa mưa năm 1972, đoàn đến biểu diễn ở đơn vị X.. Sau buổi diễn, thủ trưởng đơn vị chiêu đãi đoàn một nồi chè thập cẩm, nghĩa là loại chè tổng hợp, được nấu bằng đỗ xanh, bột lương khô và tất nhiên là phải có đường kính trắng. Lúc bấy giờ, thế cũng là sang lắm rồi và có khi đã phải huy động từ kho dự trữ chiến lược ra chứ chẳng chơi.

Dưới ánh lửa nhập nhoà của mấy ngọn đèn bão, cả chủ và khách đều xì xụp, vừa thổi, vừa húp, vừa trò chuyện như pháo rang, chả mấy chốc nồi chè đã vơi đi quá nửa. Bỗng người ngồi đầu nồi khoắng khoắng cái muôi một lát rồi giơ lên một vật gì đó từ dưới nồi chè. Câu chuyện tạm ngắt quãng và mọi người đều chú mục vào đó. Vật lạ được đưa lại gần ngọn đèn bão thì Thu Sen kêu "ối" lên một tiếng và vụt chạy ra giữa trời mưa. Đó là một chiếc quần lót nữ.

Thì ra, sau khi vượt chặng đường dài dưới trời mưa Tây Huế, trang phục cả đoàn đều ướt sũng và sau khi thay trang phục biểu diễn quần áo ướt phải đem hong trong bếp cho khô. Mùa mưa ở đây là thế, mưa trắng trời trắng đất hàng tuần, hàng tháng luôn, quần áo ướt không còn cách nào khác phải đem hong trong bếp. Và một cơn gió tinh nghịch nào đó đã làm cái việc không ai muốn đó. Và cũng từ đó, món chè Thu Sen ra đời.

Gọi vui thếthôi, chứ các chàng lính trẻ vẫn yêu chiều thần tượng của mình lắm. Thu Sen saumột thời gian im hơi lặng tiếng, khi hiểu rõ tấm lòng mọi người lại bước lênsàn diễn và đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng những người chiến sĩ giảiphóng của chiến trường Trị Thiên Huế. Vẻ đẹp của người con gái Huế ấy đã lọtvào mắt xanh của một cán bộ cấp trung đoàn (hình như trung đoàn PX thìphải ) và sau này họ thành vợ chồng. Ôngchồng sau này cũng trở thành một cán bộ cấp cao rất nổi tiếng nhưng rất khôngmay phải ra đi trong một vụ tai nạn.

----

Chính trị viên tiểu đoàn Phạm Công Đính đi công tác ngoài Bắc vào mang theo thằng cháu ruột là Phạm Văn Huấn đưa về đại đội 4. Đại trưởng Thận bố trí cho nó lái xe 381 của trung đội trưởng trung đội Một. Được vài hôm thì mọi người đều biết Huấn đang theo học lái xe cấp 2 tại đoàn 10 nhưng gặp chú ra cứ đòi đi theo vào chiến trường tham gia chiến đấu. Câu chuyện loang ra, cả tiểu đoàn xôn xao hẳn lên và coi chú cháu ông Đính như một tấm gương sáng cho mọi người noi theo.

Lúc này tiểu đoàn 4 đã nằm ở đây được hơn năm, mọi thứ đã đi vào ổn định. Nhà cửa, hầm xe, lán xe, vườn rẫy, sân bóng... đều đâu vào đấy cả. Sinh hoạt của bộ đội cũng đỡ gian khổ hơn, lời ca tiếng hát cũng ngày một nhiều hơn.

Bỗng dưng ở trung đội Một lại sinh chuyện. Chiếc đồng hồ Pôn- jốt mới toanh của trung đội phó Trị bỗng dưng không cánh mà bay. Sau một số buổi sinh hoạt, điều tra cũng không có tăm hơi gì cả. Đến lúc này mới phát hiện ra, trước đó đã có hiện tượng mất cắp vặt trong trung đội nhưng vì nó quá nhỏ bé nên chẳng ai kêu. Không tìm được thủ phạm, không khí trong trung đội trở nên vô cùng nặng nề, nghi kỵ lẫn nhau. Lại xấu hổ với các đơn vị bạn nữa chứ!

Đã thế, sáng hôm ấy đàn gà của trung đội lại thiếu mất con gà mái tơ nặng gần 2 kí đang chuẩn bị nhảy ổ đẻ. Con gà màu trắng bạc đẹp lắm, ai cũng hy vọng đàn con của nó cũng sẽ đẹp và mau lớn như nó. Thế mà lại mất! Tìm mãi chẳng thấy trung đội phó Trị quát tướng lên:

- Hôm qua cậu nào đóng cửa chuồng gà? Có kiểm tra không?

Lữ Văn Hỏa lên tiếng ngay:

- Báo cáo, tôi ạ! Lúc sẩm tối qua tôi đóng cửa chuồng, con gà trắng lúc ấy đã có trong chuồng rồi.

Hỏa là người thật thà, chín chắn nên anh đã nói ai cũng tin là đúng.

Trị nhăn nhó:

- Thế thì nó đi đâu được nhỉ? Chuồng thì còn nguyên, đêm qua cũng không nghe thấy động tĩnh gì! Thôi, cứ đi làm xe đi đã! Mọi việc tính sau.

Ra lán xe 386 Hỏa vẫy Trang:

- Này Trang, chú mày có thấy chuyện con gà có gì lạ không?

Trang nhíu mày:

- Công nhận là có chuyện bất thường! Chồn, cáo thì không phải rồi. Chuồng trại còn nguyên. Vậy thì con gì bắt được nó nhỉ?

Hỏa kéo Trang:

- Đi xuống đây với tớ!

Hai anh em lò dò xuống sau khu vực nhà bếp. Hỏa xăm xăm tiến lại cái hố rác, anh mở nắp ra rồi lấy một đoạn cây bươi bươi mấy cái. Dưới ánh sáng lờ mờ dưới hố hiện ra một đám lông gà và xương gà. Chẳng quản bản thỉu anh quỳ xuống túm mớ lông gà và xương gà lôi lên. Đúng là lông con gà trắng vừa mất tích. Điều đó còn được khẳng định khi những đầu xương còn dính máu đỏ tươi. Hỏa khẳng định:

- Chắc chắn có thằng nào ăn vụng đêm qua rồi!- Hai anh em gói mớ lông, xương gà về báo cáo trung đội trưởng.

Nhìn thấy mớ phế thải còn lại của con gà mái tơ Trị sôi cả máu trong người, anh hết lời chửi thằng ăn bẩn rồi mở sổ gắc ra tra. Người đầu tiên được gọi lên gặp là Thọ F gác phiên 3- 4 giờ (đến 4 giờ gọi người dậy nấu cơm sáng). Vừa thấy Thọ đến Trị đã nghiêm mặt:

- Đồng chí báo cáo tình hình phiên gác của mình xem có vấn đề gì không?

Thọ ngẩn người:

- Báo cáo! Đêm qua tôi có gác đâu ạ?

Trị chìa cuốn sổ cắt gác:

- Thế tên ai đây?

Thọ lắc đầu:

- Đúng là có tên nhưng tôi không thấy ai gọi cả!

Người gác trước phiên Thọ là Huấn. Trị cho gọi ngay lên để đối chứng:

- Đồng chí cho biết tại sao không gọi đồng chí Thọ dậy gác:

Huấn trả lời rất trôi chảy:

- Dạ! Tôi thấy hôm qua quê Thọ tôi hơi mệt nên tiện thể gác luôn.

Thêm vài câu qua lại nữa Huấn vẫn trả lời rất mạch lạc nên trị bắt đầu bí. Không biết để ý từ lúc nào Hỏa nắm luôn bàn tay Huấn và nâng lên. Huấn cố rụt lại nhưng không được. Mội con mắt chú mục vào bàn tay hằn: xung quanh các kẽ móng tay vẫn còn dính máu. Hỏa dằn giọng:

- Máu gì đây? Máu con gà trắng phải không?

Thêm một chứng cứ nữa do quản lý Minh cung cấp: lúc Huấn gọi nó dậy nấu cơm thì bếp vẫn còn nóng. Đến lúc này thì Huấn phải công nhận chính nó đã xơi con gà trong ca gác đêm qua. Thêm một buổi họp nữa hắn đã phải ra nhà vệ sinh lấy cái đồng hồ về trả cho trung đội phó Trị. Hắn cũng công nhận chính mình là thủ phạm những vụ trộm lặt vặt trong trung đội suốt thời gian qua. Thế là mặt sau của tấm gương đã rõ. Người xấu hổ nhất không ai khác ngoài chính trị viên Đính.

Rõ ràng, con gà này sạch nhưng cái thằng ăn nó lại là "ăn bẩn" phải không các quê

Nhưng kể ra nó cũng "giỏi" thật- một mình mànó xơi hết sạch con gà gần 2 ký, chỉ để lại có xương và một ít phế thải mà thôi

---

Thấm thoắt mà về vị trí mới đã gần nửa năm, nhà cửa, lán xe đã tương đối hoàn chỉnh, ngoài rẫy tăng gia sắn ngô đã lên đến ngang ngực, rau cũng đã cho thu hoạch lứa đầu. Cuộc sống ở đây đã có cái gì đó mang dáng dấp thời bình trừ vấn đề trực chiến vẫn được tăng cường.

Giữa lúc đó có khá nhiều tin vui: tiểu đoàn từ nay sẽ không trực thuộc quân khu Trị Thiên nữa mà trở về với đội hình của trung đoàn xe tăng 203. Lại được trở về trong đội hình binh chủng dù sao cũng thấy "ấm áp" hơn, tiêu chuẩn chế độ chiến sĩ xe tăng được bảo đảm hơn và quan trọng hơn cả là đã bắt đầu thực hiện chế độ đi phép, đi học. Người đầu tiên của đại đội được đi phép là trung đội trưởng Đậu Minh Tiến- ông cụ thân sinh ra anh bị ốm nặng. Hôm tiễn anh đi phép trong tâm khảm ai cũng thầm mong rồi đến lượt mình, dù mới xa miền Bắc hơn một năm nhưng ai cũng thấy như là đã xa hàng thế kỷ.

Sau khi đã hoàn chỉnh được doanh trại và các rẫy tăng gia thì công việc tiếp theo cần tập trung là làm kỹ thuật. Chắc ý định của trên còn lâu mới dùng đến xe tăng ở chiến trường này nên trung đoàn hạ lệnh phải tổ chức niêm xe ngắn hạn. Thế là trừ chiếc 380 "sứt môi" do có lắp cẩu phải đi phục vụ sửa chữa còn lại tất cả phải niêm. Thực ra đó cũng là những công việc thường xuyên của lính tráng một binh chủng kỹ thuật nên ai cũng tích cực lắm, riêng cái vụ rửa xích là nặng nhọc nhất và ai cũng ớn.

Để rửa xích phải đánh xe ra khỏi hầm rồi cắt xích ra thành từng đoạn ngắn khiêng xuống suối ngâm và cậy cho bằng hết đất đá ra, sau đó để khô lấy dầu thải bôi vào trông đen bóng như xích mới, chặt lau lách về đặt lên rồi nối lại xong mới cho xe vào hầm như cũ. Mỗi băng xích là 82 miếng, mỗi xe là 194 miếng, mỗi miếng 12 cân tổng cộng là gần 3 tấn xích một xe. Băng xích được cắt ra mỗi đoạn 5-6 miếng khiêng xuống suối, lính tăng vốn khoẻ nên nếu bình thường sẽ chẳng vấn đề gì nhưng đằng này tên nào cũng đã qua sốt rét vài bận nên đưa được một đoạn xích xuống suối thằng nào thằng ấy thở cả ra đằng tai. Đại đội quyết định sẽ tập trung cả trung đội làm dứt điểm cho từng xe.

Mới sốt rét dậy Trang và Thọ "đen" được ưu tiên ngồi cậy đất và rửa xích. Một cái tuốc- nơ- vít sắt để cậy, một cái bàn chải tự tạo bằng tre để cọ hai anh em cứ tẩn mẩn vừa làm vừa nói chuyện suốt ngày. Việc cọ rửa ở mặt mắt xích thì khá dễ dàng, riêng cậy đất trong vú xích ra thì không đơn giản tý nào. Sau hàng nghìn cây số đất đá được lèn chặt vào trong hốc lõm của vú xích muốn cậy ra phải dùng búa đóng vào tuốc- nơ- vít. Đang lẩn mẩn cậy đất Trang vụt nhổm dậy, Thọ cứ tưởng có con gì cắn nhưng không phải, cậu ta đứng ngây mặt ra rồi tần ngần nói:

- Phí quá! Tại sao lại phải cậy nó đi chứ!

Thọ ngạc nhiên:

- Thì phải cậy hết đất đá ra mới niêm được chứ!

Trang vẫn bần thần:

- Cậu có thấy không? Trong mỗi cái vú xích nhỏ nhoi này có dấu ấn của khắp mọi miền đất nước đấy.

Thọ ngồi im ngẫm nghĩ, cậu thấy Trang có lý: quả thật, từ khi xuất xưởng đến nay mới có người cậy đất đá ra nên trong mỗi cái vú xích này chắc chắn có đất đai của tất cả các vùng quê mà những chiếc xe tăng này đã đi qua, không chừng lại còn đất đá của nước bạn nữa ấy chứ. Thọ reo lên:

- Hay! Dấu ấn mọi miền đất nước ở trong một cái vú xích!

Nhưng nói thì nói vậy chúng vẫn phải kỳ cạch cậy và rửa cho bằng sạch.

Trong bảy chiếc xe của đại đội thì sáu cái đã được niêm hoàn chỉnh nằm trong lán trông như xe mới, riêng cái 380 của Trang vẫn "cóc cáy" vì có lắp cẩu tự tạo nên phải để làm nhiệm vụ phục vụ sửa chữa trong phạm vi tiểu đoàn .

Hôm nay, xe 380 nhận nhiệm vụ đi lên chỗ xe 388 bị lật để khảo sát tìm cách khắc phục. Đã lâu mới ra đường tuyến, đường đã được nâng cấp lên nhiều lại được chạy ban ngày Trang điều khiển chiếc 380 lướt nhanh như như một con chiến mã đang hồi sung sức xuôi đường 14 về phía Nam sân bay A- Lưới. Đại đội phó kỹ thuật Phượng và tổ thợ do Độ "còi" dẫn đầu ngồi tất trên tháp pháo ung dung ngắm cảnh vì Trang xử lý giảm xóc tốt lắm, chưa đầy một tiếng sau xe đã đến chỗ chiếc xe 388 xấu số.

Đây rồi, đã hơn một năm trôi qua, chiếc xe 388 vẫn nằm như một con rùa tuyệt vọng bị lật ngửa lên. Sau một mùa mưa lau lách đã mọc dày xung quanh xe, cái hố bom oan nghiệt vẫn toang hoác ngay bên cạnh. Độ chỉ tay về phía một cái gốc cây cụt cách đó vài chục mét:

- Mộ của chúng nó để ở chỗ kia kìa!

Mấy anh em đứng lặng nhìn về hướng tay Độ chỉ, chờ cho cơn xúc động lắng xuống Phượng bảo:

- Làm đi các cậu! Trước hết phải phát quang xung quanh, sau đó lôi nó dậy rồi mới làm tiếp những cái khác được.

Lau lách nhanh chóng được phát quang, Trang cho xe lùi vào sát xe 388, nó đề nghị nối hai cáp và sẽ kéo ngang cho xe lật lại, mọi người đều đồng ý vì kéo như thế sẽ có lợi nhất về lực.

Cứ tưởng rất khó khăn nhưng hoá ra việc kéo lật xe 388 lại khá dễ dàng, nhờ chọn vị trí có lợi nhất về lực nên chỉ sau một cú giật của 380 cái 388 đã chuyển mình và từ từ dựng đứng lên rồi úp sấp lại trong tiếng vỗ tay của tổ thợ.

Nhưng thật đáng tiếc, chắc là do bị bom hất lên cao rồi quật xuống nên các cụm máy của xe 388 đã bị lệch tâm rất nặng mà khả năng của tiểu đoàn không thể khắc phục được nên Phượng quyết định sẽ tháo tất cả những gì có thể tháo được đem về làm khí tài dự trữ.

Lúc tổ thợ đang làm việc thì Phượng và Trang lò mò đến chỗ cái gốc cây cụt ngọn, chẳng còn gì hết ngoài một bãi đất nham nhở những hố bom và lau lách. Hơn một năm đã qua, biết bao trận không kích của B52 và máy bay các loại đã dội xuống chỗ này, tưởng rằng bốn đồng đội của các anh đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây nào ngờ cũng không được yên ổn. Móc bao thuốc lá còn một điếu cuối cùng Trang châm lửa rít một hơi rồi cắm xuống miệng hố bom thay cho nén hương thắp cho bốn người đồng đội.

Đứng lặng một hồi hai anh em quay về xe, chẳng ai nóivới ai một câu nào

Đúng là "khoai đất lạ, mạ đất quen", mới có mấy tháng mà cái rẫy sắn đã tốt um, cây nào cây ấy đã cao ngập đầu, củ đã bằng ngón chân cái. Nhưng thật xót xa- một góc rẫy đã bị bọn lợn rừng về hỏi thăm, chúng dũi tung lên từng đám. Tức một nỗi nữa là mỗi gốc chúng lại chỉ ăn qua loa những phần ngon nhất còn thì bỏ lại đấy. Máu đi săn trong Cát lại nổi lên, tối tối cậu lừ lừ vác súng lỉnh lên rẫy, có ai hỏi đi đâu cũng không chịu trả lời- hình như những người đi săn có một tín điều như thế thì phải.

Cho đến một hôm, vào tầm ba giờ sáng một loạt đạn liên thanh từ rẫy sắn bỗng rộ lên đánh thức mọi người dậy, trung đội Hai ở gần rẫy nhất nhanh chân chạy lên, cả bọn hí hửng khiêng về con lợn gần một tạ. Cát vác súng đi sau có vẻ tự hào lắm. Dưới ánh sáng bập bùng của mấy ngọn đuốc dầu đi- ê- den con lợn béo múp nằm bất động như một bao gạo, bỗng ai đó kêu lên:

- Hình như lợn nhà chứ không phải lợn rừng?

Quả thật, con lợn này chẳng có dáng dấp gì của lợn rừng, lông nó mềm mại và mượt mà như vẫn thường xuyên được chăm sóc, tắm gội, người nó thì bầu bĩnh, múp míp chứ không săn chắc và thon dài như lợn rừng. Xấn vào giữa vạch mép lợn ra nhìn không thấy cái răng nanh nào, trung đội trưởng Tự hốt hoảng:

- Đúng là lợn nhà rồi!

Ban chỉ huy đại đội cũng đã có mặt, quản lý Minh thì bảo:

- Em trông con này y như con lợn của tiểu đoàn ấy!

- Có đúng thế không?- Đại phó Phượng gặng.

- Em cũng không chắc lắm nhưng thấy giông giống.

Thế là một quyết định được đưa ra, cứ để đấy sáng mai xem sao.

Sáng hôm sau, trực ban đại đội gọi điện cho "dê bộ" và "xê Ba" thông báo: có con lợn bị trúng "bẫy súng" ở rẫy sắn của "xê Bốn", đề nghị các đơn vị kiểm tra xem có phải lợn của mình không. Ngay lập tức trợ lý hậu cần của tiểu đoàn có mặt, anh ta nhăn nhó:

- Thế này thì các ông giết tôi rồi! Cái Tết này cả tiểu đoàn trông vào con lợn này đấy! Bây giờ thì biết làm sao đây?

- Rẫy sắn của bọn tôi bị lợn rừng phá bung bét thế kia, săn mãi chẳng được chúng tôi buộc phải gài bẫy súng chứ để thế mãi ai chịu được. Các ông chuồng trại không cẩn thận để nó sổng ra đi linh tinh vấp bẫy thì các ông phải chịu thôi- Tự liến thoắng tranh luận.

Nghe ra thì Tự cũng có lý nên tiểu đoàn cũng chẳng làm gì được, vui nhất là anh em chiến sĩ toàn tiểu đoàn- tự nhiên được bữa thịt tươi. Chỉ riêng Cát là tẽn tò, cậu ta ủ ê mất mấy ngày trời và cũng từ bỏ luôn cái máu đi săn.

Rẫy vẫn bị phá, trung đội phó Định xót ruột quá mà động viên mãi Cát không chịu tiếp tục đi săn, bực mình anh xách súng ra kiểm tra chỗ hàng rào vây quanh rẫy bị lợn phá đổ để ngày mai cho làm lại. Trời mới chạng vạng, nghĩ rằng giờ này lợn vẫn chưa ra nên Định vẫn khoác súng ở vai, lần theo dấu chân của lũ lợn anh tiến dần đến chỗ hàng rào đổ. Bỗng một tiếng "hộc" hằn học vang lên ngay bên cạnh. Định quay đầu lại: cách anh chừng chục bước chân là một con lợn rừng to tướng đang lừ lừ nhìn anh như muốn ăn tươi nuốt sống, hai cái răng nanh trắng ởn bằng quả chuối rừng nhe ra thật dữ tợn. Không biết do cái gì hay bản năng sống còn thúc đẩy mà Định tuột khẩu AK ra khỏi vai và mở khoá an toàn nhanh thế. Không cần ngắm Định kéo luôn cả băng đạn về phía con lợn, nó vẫn hộc lên lao về phía Định và chỉ đổ vật xuống khi còn cách anh ba bước chân. Định ngồi thụp xuống, chân tay bủn rủn, mãi sau mới thận trọng tiến lại gần con vật hung hãn kia- con lợn đã chết, hai phát đạn của anh đã bắn trúng đầu nó.

Nghe tiếng súng cả đại đội kéo ra, ai cũng vui mừng vì "thủ phạm" vẫn phá rẫy đã bị bắn hạ, và còn vui mừng hơn vì sẽ được mấy bữa ăn tươi. Con lợn được khiêng về, móc vào cân thấy nó nặng hơn một tạ. Định vẫn còn run: "may mà bắn trúng nó ngay từ phát đầu tiên chứ nếu chỉ bắn bị thương hay không trúng thì mình toi rồi".

Qua chuyện này thì lại phải tin vào "số má"thôi . Thợ săn Cát chịu khó lắm, mỗituần phải vác súng đi vài đêm. Mà đã đi thì cũng rất "thần bí": khôngnói cho ai biết mình đi đâu, lỡ có gặp ai đó thì lẩn vào bụi để không phải chàohỏi v.v... nhưng rồi chiến tích cũng chẳng có gì đặc biệt (trừ một lần may mắnbắn được con báo ở đường 12, thịt hôi rình). Còn bphó Định thì thật sự khôngphải là một người ham săn bắn, tay súng cũng chẳng có gì xuất sắc cả. Thế màlại bắn được con lợn rừng nặng hàng tạ. Còn ở bên đại đội 3 (cùng tiểu đoàn) cócậu nghe tiếng con hoẵng "tác" gần hầm liền vác AK ra làm một băngrồi đi ngủ. Gần trưa hôm sau loăng quăng đi ra phía đó thấy một con hoẵng đãchết. Thật tiếc, cái dạ cỏ của nó bị vỡ ngấm vào thịt nên ăn chán phèo. Thế thìcó phải đúng là có số không

---

xin kể thêm một chút chuyện đi săn hồi đó nhé!

Các quê có tin rằng có những anh bộ đội mà từ lúc vào chiến trường cho đến lúc hòa bình năm 1975 mà nhiệm vụ chỉ là đi săn hay chưa Có đấy! Và mình thì đã được gặp rồi .

Hồi bọn mình ở A Lưới có gần một trung đoàn pháo cao xạ- đó là trung đoàn 28 của đoàn 559. Chỗ đứng chân của họ ngay gần đường tuyến, cạnh con sông A Sáp, phải mất chừng 20 phút đi bộ nữa mới vào đến chỗ bọn mình. Khi bọn mình vừa làm xong nhà cửa thì có một chàng tên là Tống ở e28 đến xin "ở nhờ" để đi làm nhiệm vụ cho đơn vị, có giấy giới thiệu hẳn hoi. Một vài hôm sau thì anh em trong đại đội mới biết Tống quê Tuyên Quang và nhiệm vụ của chàng ta là "đi săn". Không biết lý do tại sao Tống lại chọn đại đội mình để tá túc vì thực ra để đi sâu vào rừng thì cũng chẳng gần hơn được bao nhiêu. Có lẽ là vì đại đội mình có một số quê ở Tuyên Quang thì phải. Phải công nhận Tống là một tay thiện xạ, một sát thủ của các loại thú rừng. Trong thời kỳ ở trọ chỗ bọn mình hầu như tuần nào Tống cũng kiếm được một con gì đó, thường là nai hoặc lợn rừng để cung cấp cho trung đoàn. Đại đội mình vì cho ở nhờ và thường đi khiêng giúp thú về nên cũng thường xuyên được ăn ké. Ở với nhau lâu lâu rồi Tống mới "bật mí": "Từ ngày vào chiến trường năm 69 đến lúc bấy giờ chỉ có mỗi nhiệm vụ đi săn mà thôi". Kể cũng hay, các quê nhể!

Còn trong tiểu đoàn mình cũng có một tay thiện xạ- đó là anh Phạm Ngọc Chu, chính trị viên phó c3. Bố này người Nam Hà nhưng không hiểu sao bắn tốt thế. Cứ một mình một khẩu CKC luồn rừng, những con nai bác ấy bắn được đạn đều trúng vào đầu, ngay giữa hai mắt ấy.

Còn một tay thợ săn nữa cũng nổi tiếng không kém- đólà bt Phùng, người Nghệ An. Bác này chịu khó lắm- cũng y như Cát ấy nhưng hàngchục lần đi cũng chẳng kiếm được con nào cho ra hồn. Một hôm bác ấy vác súngđi, cũng rất chi là bí hiểm như mọi lần. Đến nửa đêm ở nhà cứ nghe tiếng súngnổ gióng một. Không hiểu có chuyện gì anh em bảo nhau đi xem, lại còn mang cảđòn khiêng. Ra đến nơi thấy bác ấy đang dùng cây sặt chọc một con cu- ly (giốngkhỉ, nhỏ bằng nắm tay) trên chạc cây cho nó rơi xuống. Té ra, khi bác ấy soiđèn, con cu- ly bắt đèn. Bác ấy bắn mãi nhưng vãn không trúng. Điên tiết, bácchặt béng một cây sặt trèo lên chọc cho nó kỳ rơi xuống thì thôi. Từ lần ấy bácquyét cạch đến già- không bao giờ đi săn nữa

----

BUỔI ĐẦU LÀM QUEN VỚI CHIẾN MÃ THÉP

Ấy! Được vào binh chủng TG rồi nhưng vẫn lo ngay ngáy không biết mình sẽ được học cái gì. Phải qua Tết dương lịch 1972 tôi mới biết được đi học lái tăng! Ôi! Thật không gì vui bằng. Cả huyện 43 tên thì có 6 được đi học lái tăng là tôi, Đức (tên này sau lái cái K63- 85 vào dinh ĐL thường xuyên lên phim ấy), Thu (sau này thuộc d512 của 203 cũng vào SG ngày 30.4.75), Ký, Sơn, Hiệu.

Nói thêm với các quê về tình hình tuyển quân năm 71. Có lẽ đó là năm mà số lượng tuyển quân cao vào loại nhất của cuộc KCCMCN, chắc là để chuẩn bị cho TTC 1972. Năm đó có 4 đợt tuyển quân. Đợt 1 ngay sau Tết NĐ. Đợt 2 là vào tháng 5- ngay trước ngày thi TN của bọn tôi. Đợt 3- mặc dù nước lụt ngập ngang trời song vẫn có một đợt, đợt này cũng gọi nhiều SV nhất. Và đợt 4 là tháng 12. Đợt tháng 12 này cũng đông. Hôm 05.12 tôi còn đi tiễn mấy thằng bạn cùng lớp nhập ngũ. Đến 08.12 chỉ có mỗi con bạn (con ông Chủ tịch huyện) đi tiễn tôi. Bản thân nó thì 15.12 cũng lên đường vào làm lính thông tin của qc PK-KQ ở sân bay Bạch Mai- không biết chị Hà có biết không, nó tên là Nguyễn thị Vân Hồng, năm 1977 về học ĐH Ngoại ngữ.

Thế là 6 thằng tôi cõng ba- lô về cHL ở thôn Đồng Oanh gần chân Núi Đinh của Vĩnh Phú.

Ấn tượng đầu tiên: Sướng! Không chỉ vì ước mơ thành hiện thực mà còn cả vì bữa ăn trưa hôm đó. Đang ăn 0,68đ, về đây được ăn 1,00đ- cứ như liên hoan ấy .

Đó là cHL của e202. Khác với BB, các thành phần TX, PT, LX đều phải được HL chuyên môn riêng rồi mới đưa về đơn vị chiến đấu để HL chiến thuật. cHL này gồm 4 b: 2b HL lái xe, 1 b HL trưởng xe và 1 b HL pháo thủ, mỗi b khoảng 30 người. Tiểu đội tôi có 10 tên, tiểu đội trưởng kiêm trợ giáo là Mai Văn Tao- người Thanh Hóa. Tiểu đội phó là Thuyết- người Vĩnh Phú. Mỗi bác phụ trách 5 tên và 1 cái xe, đồng thời làm trợ giáo (thầy giáo thực hành) luôn. Đồng chí tiểu đội trưởng của tôi có giai thoại cũng hay. Một hôm bác ấy trực ban, có điện thoại ở trên xuống hỏi: "Ai đấy?". Bác ấy cộc lốc: "Tao đây!". Trên hỏi đi hỏi lại bác ấy vẫn gióng một: "Tao đây! Nói gì thì nói đi!". Thế là đầu bên kia dập máy. Ngay sau đó một cán bộ BTL xuống điều tra "thằng láo toét nào dám xưng tao với quyền tư lệnh BC". Nhưng rồi bác ấy được trắng án vì bác ấy đúng là "Tao"- chắc cụ thân sinh ra bác ấy cũng có ý định đặt tên con như ông nội chị Cả Hà

Sau bữa cơm trưa như liên hoan mấy thằng tôi mới lò dò lên bãi đỗ xe để xem. Nhưng vì xe nào xe nấy trùm bạt kín nên hơi chán. Đúng lúc đó một đoàn xe T34 mới tinh (nguyên màu sơn mới và chưa có số) chạy từ phía Núi Đinh về. Bọn tôi phấn khởi vẫy tay thật lực. Mấy xe đầu vẫn chạy thẳng, riêng xe cuối cùng dừng lại. Xe nhỏ ga. Từ trong cửa lái xe một cái mặt nhem nhuốc nhưng rất hiền lành thò ra nhoẻn miệng cười: "Gì thế, các chú?". Thế là bọn này nhao nhao: "Bọn em mới về! Cho bọn em lên xe nhé!". Vừa thấy cái đầu gật nhẹ một phát là bọn tôi đùn đít nhau trèo lên và chui vào buồng chiến đấu. Gớm! Cái buồng chiến đấu hẹp vanh vanh, bốn bề đụng đâu cũng sắt thép. Tôi bị va đầu một phát vào đuôi pháo.

Ấn tượng thứ hai: "Chật".

Cả bọn vừa vào hết, anh lái xe quay lại: "Bám cho chắc vào nhé!". Vừa dứt lời anh ấy đã cho xe chạy. Bọn này sướng quá hò hét ầm ĩ. Nhưng xe tăng dần tốc độ và chao ơi là xóc. Cứ như xóc cua ấy. May mà anh ấy đã nhắc bám chắc nên cũng chỉ bị va nhè nhẹ. Tất cả tâm trí của cả bọn lúc này chỉ còn tập trung vào bám cho thật chắc vào tất cả những chỗ nào có thể bám được để đỡ bị bươu đầu.

Ấn tượng thứ ba: "Xóc".

Xe vẫn lao ầm ầm. Tiếng máy nổ lúc rống lên ầm ầm, lúc dịu đi đôi chút tùy theo chân ga của anh lái xe. Bọn tôi hét vào tai nhau mà vẫn chẳng nghe thấy gì. Trong bóng tối mờ mờ chỉ nhìn thấy mấy hàm răng trắng bóng.

Ấn tượng thứ tư: "Ồn".

Cái ụ lắp súng đại liên bên ghế lái phụ đã bị tháo ra nên trống hông hốc (ụ này bình thường lắp khẩu đại liên, nhưng đây là xe HL nên tháo ra để trợ giáo ngồi đấy còn nhìn đường). Chắc là do quạt gió của động cơ ở phía sau hút nên gió thổi vào đấy ào ào cuốn theo cả một luồng bụi. Một lúc sau thì về đến bãi xe của đại đội. Xe dừng. Bọn tôi chui ra. Thằng nọ nhìn thằng kia bật cười: đầu tóc, quần áo nhuốm một màu đỏ quạch.

Ấn tượng thứ năm: "Bụi".

Biết chắc rằng sẽ mệt đấy nhưng mấy thằng vẫn cười toetoét. Có lẽ cái ấn tượng thứ nhất nó bao trùm lên tất cả. Nghe mấy thằng bàntán sướng với khổ, tiểu đội trưởng Tao cười hềnh hệch: "Cứ đợi đấy rồi sẽbiết!"

Còn đây là những nội dung mà một lái xe phải học:

Theo đúng chương trình bọn tôi sẽ được học thực hành lái tổng cộng 18 giờ máy nổ (các quê nên nhớ một cái động cơ chỉ có 500 giờ bảo hiểm thôi đới). Sau khi học lý thuyết về cấu tạo, nguyên lý làm việc các thiết bị và quy tắc lái sẽ lần lượt phải trải qua các bài lái:

- Lái cắt xích: Mục đích làm quen với động tác khởi động xe, sử dụng các bàn đạp, cần lái, cần số... như kiểu kê bánh xe ô tô lên để tập lái ấy.

- Lái cơ bản: xe bắt đầu được chạy trên đường bằng, thực hiện các thao tác biến số, căn đường, chuyển hướng, dừng xe, khởi xe v.v...

- Lái phân đoạn chướng ngại vật- Vì là xe chiến đấu, có khả năng việt dã cao nên trong HL phải tập lái qua các chướng ngại vật. Hồi ấy chúng tôi phải tập lái qua mấy loại CNV sau: vách đứng, vách hụt, sống trâu, chữ Z, cầu vệt bằng, cầu vệt nghiêng. Lái phân đoạn vật cản là tập cho nhuần nhuyễn động tác vượt qua từng VC một.

- Lái dốc: có cả dốc lên, dốc xuống, dốc nghiêng. Trên các dốc lại phải tập dừng xe và khởi xe nữa.

- Lái tổng hợp chướng ngại vật: sau khi thành thục động tác qua từng vật cản và dốc rồi thì sẽ được lái một vòng qua tất cả các CNV trên. Đây là bài lái khó khăn nhất và khi thi cũng sẽ thi bài này (sau khi hoàn thành bài thi lý thuyết).

- Lái hành quân: sẽ tổ chức hành quân trên một đoạn đường mới lạ và dài hơn, chừng vài chục km. Mỗi tên được lái khoảng 5-6 km.

- Lái bắn, lái trong đội hình chiến đấu- bắt đầu có tý hơi hướng chiến thuật.

- Lái cứu kéo: cho xe xuống bãi lầy rồi tìm cách đưa nó lên bằng tự cứu hoặc kéo nhau v.v...

Tất cả các bài lái trên đều thực hiện cả ngày và đêm.

Sau khi học hết các bài sẽ thi TN- gọi là thi "đạt cấp" vì nếu qua được sẽ được cấp bằng "lái xe cấp 1". Thi xong rồi có thể được "chuyển K". Nghĩa là được học loại xe khác. Còn gọi là chuyển K vì theo kiểu xe lính xe tăng chỉ phân ra làm 3 loại: T34 là K2, các loại T54 là K1, các loại xe bơi là K3 (PT76 là K3a, K63-85 là K3b). Ngoài ra còn phải học và thực hành bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa các hư hỏng thông thường. Tổng thời gian một khóa huấn luyện ít nhất phải 3- 4 tháng (hiện nay các Trường HSQ đang huấn luyện 4,5 tháng).

Để phục vụ cho HL bọn tôi được phát mỗi tên 01 bộ quần áo "công tác". Không biết năm ấy là viện trợ của nước nào- hình như của Hung- ga- ry thì phải. Vải thì dày và cứng như vải bò, còn bộ nào bộ nấy đều dài và rộng cực kỳ. Tôi thì còn đỡ chứ mấy thằng nhỏ con phải xắn lên 2,3 gấu mới vừa. Thời gian lại gấp không đi sửa được nên phải nhờ bà con đính cho vài mũi mặc tạm, trông đến bật cười.

Thôn Đồng Oanh mà bọn tôi ở hồi ấy toàn là dân Nam Hà lên khai hoang quãng đầu những năm 60. Gần như cả thôn theo đạo nhưng lại không có nhà thờ. Tuy nhiên nhà nào cũng có bàn thờ Chúa ở trong nhà. Và như các quê biết, các cô thiếu nữ bên đạo có một cái gì đó thật mê hoặc, nhất là đôi mắt . Mặc dù là bà con đi đạo nhưng rất thương, rất quý bộ đội.

Tôi và thằng Điểm (Thanh Miện), thằng Ngọt (Kinh Môn)được phân công ở nhà cụ Tư Túc. Hai cụ có một anh con trai tên Tuất đã đi bộđội, đang ở chiến trường. Anh đã có vợ là chị Kim nhưng chưa có con. Chị Kim chiều chúng tôi lắm, có củ khoai củ sắngì cũng để phần. Nhà còn hai đứa con gái là cái Trung, cái Thành và một trai útlà thằng Chiến. Chẳng hiểu thế nào mà ba đứa này "quấn" bọn tôi lắm. Đi tập vềlà chúng nó xúm lại, đứa thì trèo lên cổ, đứa thì ngồi lên lòng... bắt kể chuyệnquê nhà các anh thế nào. Sau hơn chục năm về gặp lại hai cô em đã con bồng, conmang. Tôi bảo: "giờ có thích kiệu thì trèo lên đây". Cả nhà cứ cười rũ ra

Dạy lý thuyết cho bọn tôi chủ yếu là thày Phiệt, nghe đâu thày đã là lái xe cấp 2 (hồi đó lái xe TTG phân ra thành 4 cấp: cấp 1, cấp 2, cấp 3 và "Kỹ sư lái"- theo kiểu Trung quốc). Phải công nhận thày dạy dễ hiểu, ngôn ngữ rất công nông, giải thích mọi cái đâu ra đấy. Học lý thuyết xong thì ra ngay xe để đối chiếu và thực hành. Vì vậy chúng tôi tiếp thu rất nhanh.

Sau mấy buổi học lý thuyết, nắm được sơ sơ các bộ phận bọn tôi được lên xe thực hành tập lái. Dẫu đã được học về cấu tạo, đã được chui vào xe, đã được nghe tiếng máy nổ... nhưng đến lúc được tự tay ấn vào cái nút khởi động tôi vẫn thấy hồi hộp không sao tả được. Có lẽ vì hồi hộp quá nên khi chiếc động cơ hơn 500 mã lực vừa gầm lên tôi đã giật mình buông cả tay lẫn chân ga. Thế là động cơ im tịt luôn. Tôi hơi sợ nhưng anh Tao nhỏ nhẹ: "Cứ bình tĩnh! Làm lại lần nữa xem nào!". Lần này thì tôi đã thành công. Tiếng máy nổ rồ lên nhưng tôi không giật mình rụt chân ra nữa. Tôi giữ chân ga ổn định một lát thì at Tao ra hiệu tăng ga, giảm ga. Tôi tăng hết chân ga, đồng hồ vòng quay nhanh chóng vọt lên trên 2000 vòng/ phút, tiếng máy thì giòn giã thúc giục. Tiếp đó tôi lại giảm ga, vòng quay máy nổ nhanh chóng lùi về dưới 1000, tiếng máy trầm trầm, ấm áp. At Tao tiếp tục ra hiệu giảm ga. Tôi hiểu anh muốn tôi cho máy nổ làm việc ở vòng quay ổn định thấp nhất. Tôi nhẹ nhàng nâng bàn chân lên từng tý một. Tiếng máy nổ giảm dần rồi có vẻ rời rạc như sắp chết đến nơi. Tôi vội vàng nhấn nhẹ mũi bàn chân xuống, máy lại nổ đều đều. Cứ thế làm đi làm lại vài lần cho đến khi cái cổ chân điều khiển chân ga thật thuần thục.

Đến lúc đó thì at Tao giơ một ngón tay ra- đó là ký hiệu "vào số 1". Tôi đạp ly hợp rồi kéo cần số. Tiếng các bánh răng va vào nhau nghe ghê cả tai mà số thì vẫn không vào được. Bỗng tôi thấy bàn chân anh Tao luồn xuống chỗ chân ga nâng chân tôi lên. Tiếng máy nhỏ dần và "khậc" một cái. Thế là tôi đã vào được số. Sau này mới biết, do trọng tải lớn nên ly hợp của xe tăng là ma sát thép với thép, nó không cắt được động lực triệt để như ô tô nên khi vào số phải sử dụng chân ga thật linh hoạt, phải giảm vòng quay xuống dưới mức ổn định thấp nhất mới dễ vào số. Lúc đó mình mím môi mím lợi kéo cần số nhưng chân lại cũng ấn mạnh xuống chân ga nên không thể nào vào đwọc. Nhưng quả thật là cái hộp số K2 (T34) vẫn là nỗi kinh hoàng của lính lái xe. Sau này ở trung đội tôi có thằng còn vặn gẫy cả cần số mà không vào được số đấy. Vào được số mấy lần rồi tôi cảm thấy tự tin hơn nhiều và lần lượt sử dụng các thiết bị khác trong buồng lái. Kết thúc buổi buổi tập thực hành đầu tiên tôi được thày Tao cho điểm "khá".

Các buổi học tiếp theo chúng tôi thực hiện đúng chương trình và tiến bộ rất nhanh, đồng thời cũng bổ sung thêm một số "ấn tượng" nữa.

Xe T34 mà bọn tôi học là xe thế hệ 1, thuộc loại "cổ lỗ sỹ" nên các thiết bị của nó khá thô sơ, không hề có trợ lực nên cực kỳ nặng nề. Ngoài cái cần số như đã kể trên thì đôi cần lái cũng khó chịu không kém. Trước hết là nặng- cỡ độ 40- 50 kg. Nặng đấy nhưng chuyển hướng chưa chắc đã "ăn". Mắm môi, mắm lợi, dùng cả hai tay kéo rồi mà có khi xe vẫn tồng tộc lao thẳng không chịu chuyển hướng, nhất là khi xuống dốc thì cần lái lại càng không ăn. Sau này mới biết phải kết hợp cả chân ga nữa thì mới được- nghĩa là trước khi kéo cần lái phải hơi giảm ga, thấy có dấu hiệu chuỷen hướng mới tăng ga lên. Phải mất mấy buổi nữa cái xe tăng mới ngoan ngoãn theo sự điều khiển của tôi, nhưng kéo cần lái thì vẫn cứ phải mắm môi, mắm lợi mới được. Các bàn đạp ly hợp, bàn đạp hãm cũng vậy. Tên nào hơi thấp một tý thì cứ phải căng cả người ra mà đạp mới được. Chính vì vậy, chỉ sau một hai buổi tập bọn tôi đã thấy ê ẩm cả người. Và ấn tượng tiếp theo là "nặng nhọc".

Cũng vì là xe thế hệ cũ nên yêu cầu về bảo dưỡng chăm sóc rất cao: cứ xuất xe ra bãi là về phải bảo dưỡng rồi. Nào là bổ sung dầu, nước. Nào là điều chỉnh xích. Nào là làm nhờn 4 điểm v.v... Mà đụng vào đâu cũng sắt thép, dầu mỡ, lại nóng nữa. Vì vậy, bộ quần áo công tác đã nhanh chóng biến thành một thứ "mo nang" cứng quèo quèo và thật sự là "hôi như cú" . Cả bọn chỉ mong đến ngày chủ nhật để giặt giũ. Thế cho nên ấn tượng tiếp theo là "bẩn" và"nóng".

Trích BT một tý nhé:

"...Vừa tỷ mỷ lau chùi từng bộ phận Hòa vừa tỷ tê nói chuyện với Thắng:

- Này Thắng! Sao cậu có bộ quần áo công tác mới thế?.

Mắt vẫn không ngừng săm soi từng mảnh xích Thắng vui vẻ trả lời:

- Ôi trời! Mới mẻ gì! Sau hôm thi đạt cấp xong em đem ngâm một ngày dưới ao, rồi giặt mất hẳn nửa bánh xà phòng mới được như thế này đấy! Hôm nay mặc vào thấy sướng cả người.

- Thế đã bị hắc lào chưa?- Hòa hạ giọng.

Thắng nhìn trước nhìn sau rồi mới trả lời vẻ bí mật:

- Sao anh biết? Đúng là em bị rồi, một mảng to ở bụng đây này, giờ vẫn chưa khỏi.

- Được rồi, để tớ chữa cho- Hướng về xe bên cạnh Hòa cao giọng- Này, bên ấy có cồn i- ốt không đấy...

Thắng vội đứng thẳng lên:

- Chết! Anh nói nho nhỏ chứ!

Hòa nhăn răng cười:

- Có quái gì mà xấu hổ. Lính xe tăng không bị hắc lào mới là lạ chứ bị là chuyện bình thường. Cậu cứ đi hỏi mà xem, một trăm thằng thì bị cả trăm.

Thắng gật đầu công nhận:

- Đúng thật! Hồi học lái xe tiểu đội em có mười thằng thì cả mười đều bị. Thế các anh chữa bằng cách nào?

Hòa cười cợt:

- Có gì đâu, cứ lấy nước điếu bôi vào là khỏi hết.

Vẫn lắng tai nghe câu chuyện của hai thành viên Nhã tủm tỉm cười một mình. Đúng là cái "ải hắc lào" thì gần như trăm phần trăm lính xe tăng phải trải qua. Hồi mới nhập ngũ anh cũng đã khốn khổ vì nó. Có gì đâu, mỗi năm được phát một bộ quần áo công tác. Chỉ sau vài lần rúc buồng truyền động bảo dưỡng xe đã ngấm đầy dầu mỡ, rồi mồ hôi, rồi bắt bụi... nên mới vài tuần đã dày cộp như mo nang và tỏa đủ các thứ mùi. Chả thế chị em phụ nữ quanh doanh trại 92 có câu ca: "Hoài đời mà lấy lính tăng, Đi ba cây số còn hăng mùi dầu". Quần áo như thế mà ngày nào cũng phải khoác vào thì đúng như Hòa nói: "không hắc lào mới là lạ". Biết như vậy nên các thủ trưởng binh chủng rất quan tâm đến căn bệnh này. Bộ tư lệnh đã chỉ đạo cho ban quân y nghiên cứu kết hợp cả đông tây y để điều trị nên kết quả rất tốt. Tuy nhiên đối với số lính mới, da thịt còn non tơ, cường độ huấn luyện lại cao nên thường vẫn mắc. Anh em lại xấu hổ nên hay giấu, bệnh vì thế càng dai dẳng."

Nhưng dù cho những vất vả, những ấn tượng "khônghay ho lắm" ngày một nhiều thêm- tôi và đa số các đồng đội vẫn hăng sayhọc tập và vẫn hết sức quý yêu những con chiến mã của mình.   

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top