Kỳ 3: Chuyện thật chưa đặt tên - Hồi ký bác Nguyễn Trọng Thập


Nguyến Trọng Thập nguyên là lính Tây Nguyên. Anh là họa sỹ và đã nghỉ hưu. Sau bao năm vất vả lăn lộn với cuộc mưu sinh, bây giờ anh đã nghỉ công việc ngoài đời để trở về với dầu và cọ, trở về với ký ức một đời dằng dặc. Niềm vui của anh bây giờ là vẽ, viết và bạn bè.

------------------------------------------------------------------CHUYỆN THẬT CHƯA ĐẶT TÊNNguyễn Trọng Thập – Tự chuyện

Từ lâu lắm rồi tôi vẫn đau đáu một ước mơ, một ngày nào đó tôi sẽ phải viết, phải viết bằng hình thức nào đó để ghi lại những kỷ niệm dọc theo năm tháng của cuộc đời mình. Một cuộc đời với không ít vui buồn, cay đắng, ngọt ngào, thành công và thất bại của tôi, một cuộc đời đầy ân và đầy oán, . . . Viết, chẳng để làm gì, chỉ nhằm giải tỏa sự trăn trở trong tôi. Viết cho tôi, và nếu có thể, cho con cháu tôi hiểu, cảm thông và chia sẻ một phần nào chăng?!

Tiếc thay, khiếu viết văn của tôi không có, học hành thì chắp vá, ngôn ngữ nghèo nàn. Sự kiện và kỷ niệm thì đầy ắp mà không biết sắp xếp như thế nào, bắt đầu từ đâu, viết theo thể loại gì ? Giá như có ai bảo cho một lần, hướng dẫn cho một chút thì hay biết mấy ! Nhưng nếu tôi cứ ngại ngùng thì ước mơ sẽ không bao giờ được thực hiện. Vợ con và bạn bè tôi động viên: "Cứ viết bừa đi, nghĩ sao nói vậy. Mình có phải nhà văn đâu mà sợ, . . . "

Thế là tôi đánh liều, cứ ghi chép ra đây những suy nghĩ của mình bằng lối viết khờ khạo và non nớt, dù câu chữ có thể không ra sao, hành văn rối rắm đến thế nào. Còn, nếu mất lỗi chính tả chắc con tôi sẽ sửa hộ.

Đây là những tình cảm chân thành và trung thực, những kỷ niệm có thật, không thêm bớt hay hư cấu. Tôi cố xếp sắp mạch chuyện theo trình tự thời gian, tất nhiên, có lúc quên, lúc nhớ. Nếu đủ kiên nhẫn và dũng cảm mà sau này viết xong, vô tình có họ hàng hay bạn bè đọc thấy (nếu có người đọc) thì tôi ngàn lần xin được cảm thông và lượng thứ . . .

CHƯƠNG I SINH RA

Hắn sinh ra tại một phố huyện nghèo nơi vùng quê chiêm chũng. Gọi là phố nhưng thực ra chỉ có một đoạn dài chừng dăm trăm mét với ít nóc nhà lèo tèo bám hai bên đường số năm nối từ Hà Nội xuống Hải Phòng, cách khoảng ba chục cây số. Đằng sau phố là làng với các xóm thôn cổ kính, nơi họ hàng Tổ Tiên hắn ở đó. Sau nữa là cánh đồng chiêm vời vợi xa mù xa.

Khi hắn sinh ra, quê hắn rất nghèo. Nhưng đó là cái nghèo chung của cả xã hội lúc bấy giờ. Tuy vậy, hắn ở phố nên cũng oai ra phết. Gì gì thì đó cũng là huyện lỵ, trung tâm văn hóa, chính trị của huyện đóng ở đó.

Từ ngã tư Phố Nối xuống làng hắn chừng ba cây số. Đầu làng bên tay trái là nghĩa trang của làng. Cạnh nghĩa trang là đình làng với một cây quéo cổ thụ cao to lừng lững. Đối diện với đình làng là ao Cổ Ngan rộng mênh mông, ước chừng có đến một vài chục mẫu. Bên bờ ao, phía đường Quốc lộ là một hàng cây, nào là xà cừ, nào là phượng vĩ và bàng cổ thụ xà nghiêng xuống mặt nước. Vào mùa hè, Ao Cổ Ngan là nơi đám trai làng và lũ trẻ con thỏa sức bơi lội. Đêm đến, nơi đây lại là nơi vài cặp trai gái bí mật hẹn hò. Ở làng hắn bấy giờ chuyện yêu đương là chuyện tế nhị luôn phải dấu diếm. Trai gái thích nhau chỉ dám liếc mắt hay mỉm cười. Rồi thì dấm dúi viết thư dấu vào hốc cây hay lóng tre đầu mái nhà. Chuyện hẹn hò, âu yếm là cấm kỵ. Chuyện đó nếu bị dân làng biết được là rầy rà to. Khi hắn học lớp bốn, thày dạy hắn là ông giáo Tứ, có ngầm yêu nhau với cô con gái lớn con cụ cả Riêng. Hai người hẹn nhau dưới một gốc cây ven ao Cổ Ngan. Thế nào mà chuyện âu yếm nhau bị dân làng phát hiện. Ngay ngày hôm sau, một bài vè được bay truyền trong khắp làng:

" Ao Cổ Ngan có cây Năm Trai,
Đường số năm có ếch chập đôi.
Ai về làng Thứa quê tôi,
Nhắn bà Tư Trước ra lôi ếch về.
"

Bà Tư Trước chính là mẹ thầy Tứ của hắn đấy. Bài vè nhanh chóng trở thành bài đồng dao của lũ trẻ trong làng. Chẳng có gì khoái trá hơn là râm ran bàn tán chuyện vui thời sự hiếm có như vậy. Đối với lũ trẻ con thì chẳng có gì thích thú hơn là được dong duổi, chạy khắp đường làng mà hát đồng ca một bài hát mới hay đến như vậy. Thầy Tứ của hắn ngượng quá mới xung phong đi bộ đội. Ngày thầy lên đường, cả lớp hắn đi bộ ba cây số, tiễn thầy tới tận làng Yên Tập. Lúc thầy khoác ba lô chuẩn bị đứng vào hàng quân thì lũ trẻ con túm tụm bên thày, dưới gốc đa, chúng dấm dứt khóc, nước mắt nước mũi nhoe nhoét cả hai bên vạt áo thầy.

Ao Cổ Ngan mới chỉ là ngoài làng, vào sâu chút nữa mới thực sự đến làng. Một chiếc cổng to, cổ kính gọi là cổng tiền. Mái cổng cong và được xây ba cấp. Phía trên là tháp chuông với hai con rồng chầu hai bên mặt nguyệt. Ô cửa chính giữa xây cuốn tò vò cao khoảng ba mét và bề rộng cũng cỡ chừng ấy. Hai cửa bên cũng được cuốn tò vò, chỉ cao hai mét và rộng một mét. Toàn bộ cổng có kiến trúc cổ kính và uy nghiêm, được trang trí đắp vẽ rất cầu kỳ. Thầy bu hắn kể, hồi mới "Hòa bình lập lại", phong trào "bình dân học vụ" đang sôi nổi lắm. Hai bên cổng làng treo các bảng chữ cái. Ai đi qua cổng cũng phải đọc, đọc được thì được đi qua cổng giữa, mát mày mát mặt lắm. Ai không đọc được thì phải đi cổng phụ. Thế đã đành, nhưng chưa hết. Ở cổng phụ, người ta chặn vào đó một con trâu cái đứng dạng chân. Vậy là muốn qua phải chui qua háng trâu.

Qua cổng làng ta sẽ bước chân trên con đường gạch. Những hàng gạch chỉ, được xếp nghiêng, vồng lên ở giữa đường. Gạch đấy là gạch do những nhà có con gái phải nộp vào theo lệ làng để được phép cho con lấy chồng thiên hạ - bu hắn bảo thế. Con đường này đã rất lâu đời rồi, những nhánh đường gạch màu đỏ tím, chạy ngoằn nghoèo trên các lối đi chính của làng. Đến giờ, nó vẫn còn, gạch đã mòn, nhiều viên đã vẹt đi gần hết.

Phía trước cổng tiền là giếng làng, một cái giếng khá to. Bờ giếng được kè bằng gạch, xếp dốc lên thành hình phễu. Một cái phễu gạch phủ rêu xanh ngăn ngắt. Lối xuống giếng là nhiều bậc thang được xây bằng đá xanh. Hai hàng lan can hai bên xây cao, chạy xuôi xuống đến hai đầu trụ mà trên đó mỗi bên chạm khắc một bông sen cách điệu. Cho dù các bông sen nay đã mẻ vỡ nham nhở nhưng vẫn không mất đi sự duyên dáng và điệu đà đến cầu kỳ. Xung quanh bờ giếng được lát gạch đỏ au. Đặc biệt nhất là các cụ còn đặt hai tấm phản đá xanh rất rộng, nghiêng thoai thoải ra phía ngoài. Nó được dùng làm bàn giặt cho các bà các chị. Trên bờ giếng còn có hai cây phượng vĩ cổ thụ rất lớn. Cái giống phượng vĩ, càng già càng ra hoa muộn, màu hoa thì càng đỏ xẫm lại.

Chiều chiều không khí giếng làng thật nhộn nhịp. Những người gánh nước ngược xuôi, chạy lên chạy xuống giếng như con thoi. Những người khác thì giặt chiếu chăn quần áo. Tiếng đập chiếu và quần áo bồm bộp, bồm bộp trên hai phiến đá và trên nền lát gạch thật là rộn rã. Lũ trẻ con bọn hắn thì nằm sấp trên bờ giếng mà thò những cái cần câu bé tí teo xuống giếng để câu những con tôm trà xanh, những chú tôm đang thập thò trong các khe gạch hay đang trú ẩn trong những gốc dương xỉ nhỏ mọc lay phay dưới mép nước, trong leo lẻo.

Phố huyện của hắn chỉ có một đoạn ngắn dăm trăm mét. Dọc theo phố là những căn nhà vách đất mái rạ hoặc những ngôi nhà xây không trát áo, lợp ngói ta, đan xen lẫn với những bụi tre. Lác đác giữa phố mới có vài tòa nhà hai ba tầng cổ kính quét vôi, đã tróc lở. Đó là nhà của các ông ký, thầy cai, ông đội hoặc nhà của địa chủ, tư sản nhỏ phố huyện.

Giữa phố, bên phải đường là một trường cấp hai của huyện với ba dãy nhà học cấp bốn, tường xây cao, lợp ngói, hơi lùi vào phía sau. Hai cái nhà nhà cấp bốn nhỏ ở góc bên trái là nhà ban giám hiệu và nhà giáo viên. Trước mặt là một khoảng rộng của sân trường với rất nhiều cây bàng to, tán lá rộng xanh mướt mát, những cây sấu cao vút xanh um tùm.

Đối diện với trường cấp hai là chợ huyện với những lều quán bé nhỏ liêu xiêu. Hai bên chợ là hai dãy quán, đây là quán phở của bà Chính, kia là quán phở bà Quýt, kia nữa là lò rèn của anh Chí, quán cắt tóc của ông Có, anh Thanh, ông cai Xá. Rồi đây nữa là vài quán nước chè chén của cụ Hai Vợi, bà Khoa, quán chữa xe đạp của cụ Hai Huân, quán nhuộm hợp tác xã của chị Hựu, cửa hàng thương nghiệp bán nước mắm của chị Linh, . . . Cạnh khu chợ là "cửa hàng bách hóa" huyện, chuyên bán hàng phân phối.

Nhà hắn là căn nhà ba gian gạch xây không trát áo, cửa lùa, mái rạ. Cạnh nhà là cơ quan thương nghiệp của huyện. Đối diện bên kia đường là phòng thuế mà lúc ấy ông Tâm làm trưởng phòng. Cạnh phòng thuế là bưu điện Mỹ Hào. Trước cửa nhà hắn là bốn cây bàng đại thụ lá cành xum xuê đan vào nhau. Về sau này khi hắn đã lớn, người ta treo hai chiếc loa điện động trên cây bàng, chĩa về hai phía của dãy phố. Hàng ngày hai chiếc loa liên tục phát, suốt từ năm giờ sáng thể dục "tiếng thở" cho đến mười rưỡi đêm "tiếng thơ" hay "đọc chuyện đêm khuya".

Ngoài bốn cây bàng ấy, hai bên đường phố còn có hai dãy sấu rất lớn và một hàng phượng vĩ với cây me chạy dọc qua trước Ủy Ban huyện. Chặn đầu và cuối của con phố huyện là hai cây gạo cao to lừng lững. Đường, nhà, cây cối – phố huyện của hắn.

Thầy bu hắn mặc dù rất đông con nhưng gia đình hắn chưa phải chịu cảnh nghèo, mức sống ở bậc trung trung, đủ ăn. Ấy là vì thầy hắn có nghề may. Thầy hắn để một nửa gian nhà cạnh cổng mở cửa hàng may, nửa còn lại phía trong, mắc một chiếc võng. Cơm nước xong, thầy hắn thường ngả lưng trên chiếc võng, đung đưa, kẽo cà kẽo kẹt. Mặt tiền cửa hàng may được mở ra bởi 8 tấm cửa gỗ lùa, liền đó là bàn máy may. Cạnh bàn may, là bàn cắt bằng gỗ có hộc tủ cũng với cửa cánh lùa. Cái bàn này trông ra ngõ đi từ đường vào sân nhà hắn qua một cái cửa sổ khá rộng, nơi có giàn trầu bu hắn trồng. Những dây trầu xanh ngắt, tốt tươi che rợp cả lối đi, loằng ngoằng bám cả vào tường bằng những túm rễ màu nâu nhạt, tua tủa. Vậy là chỉ một gian nhà đầu hồi đã có đủ nơi làm việc sáng sủa và chỗ nghỉ ngơi của thầy.

Gian nhà giữa thầy hắn kê chiếc bàn thờ, trên đó bày bát hương, bộ đỉnh con nghê, chân nến bằng đồng thau. Mỗi dịp Tết đến xuân về chị em hắn, đặc biệt là hắn được giao cho phải đánh bóng các đồ thờ cúng. Hắn trộn tro với chấu rồi dùng giẻ cứ thế mà chà xát cho đến khi bộ đồ bóng lên, loang loáng. Phía ngoài bàn thờ là một bộ phản rộng bằng gỗ mít đánh vecni màu cánh gián được kê ngay ngắn trên hai bộ niễng. Đây là chỗ vừa để tiếp khách lúc ban ngày, vừa làm chỗ ngủ ban đêm. Trong gian nhà còn lại kê một chiếc giường đôi bằng tre. Cạnh giường có một lối nhỏ thông xuống nhà ngang.

Nhà ngang nối thông với nhà chính theo hình thước thợ. Đó là một căn nhà hai gian. Gian liền kề với nhà chính là nơi để quần áo, vắt trên các sào tre. Dưới quần áo là nơi để bồ thóc, thúng gạo, nồi đồng, ấm đất, . . . Gian còn lại kê chiếc giường của vợ chồng chị dâu cả, "kín đáo" bên trong một tấm ri đô "mỏng manh". Đầu hồi bên kia của nhà ngang là một khoảng đất rộng mà thầy hắn trồng hai cây ổi, một cây ổi đào và một cây ổi mỡ. Không biết thầy hắn trồng từ bao giờ mà hai cây ổi rất to, quả sai lúc lỉu.

Gối đầu đám đất có hai cây ổi là một căn nhà năm gian mà cả nhà hắn vẫn gọi là nhà sau vì nó ở sau thật. Nhà sau hợp với nhà chính và nhà ngang thành hình chữ "U". Hai gian đầu tiên của nhà sau là chuồng lợn nái và nhà cầu. Gian tiếp theo là bếp và hai gian cuối đặt cối xay thóc, cối giã gạo, cày cuốc, đồ nghề nhà nông cùng nhiều đồ linh tinh khác. Sát đầu hồi nhà sau là một bể nước mà thầy hắn xây để lấy nước mưa, đặt máng hứng từ mái nhà ngói của phòng thương nghiệp huyện. Về sau này, khi hắn đã lớn, thầy hắn xây thêm cái giếng khơi ngay cạnh bể nước. Giữa ba cái nhà là một cái sân khá rộng, ước chừng đến một trăm mét vuông. Nhìn lại bức toàn cảnh nhà hắn những năm năm mấy, sáu mươi ở một phố huyện như thế cũng gọi là sung túc lắm.

Thầy hắn mất năm hắn đang mặc áo lính, ở mãi trong Tây Nguyên. Hình ảnh người cha cần mẫn, chăm chỉ làm ăn, gánh vác cả gia đình có mười người con vẫn thường hiển hiện như lúc còn sống, làm việc, đi lại chỗ này chỗ kia trong nhà. Lúc nào hắn cũng nhớ thầy, một ông thợ may phố huyện cao ráo, trắng trẻo, đẹp trai, môi lúc nào cũng đỏ như son với cặp lông mày đen đậm vuốt ngược rất dài ra phía sau, quắc thước và nghiêm nghị. Trông vậy mà không phải vậy, thầy rất hiền lành ít nói và dịu dàng, hết lòng yêu vợ thương con. Hơn nữa, ông còn có rất nhiều "tài lẻ". Lúc sinh đứa con thứ mười (là hắn đấy) ông mới bốn mươi tuổi. Khi còn bé tí hắn đã rất tự hào với đám bạn bè vì có người cha là "Hội trưởng hội bát âm Tầu".

Hàng tuần hay hàng tháng gì đó, đến hẹn, bạn bè trong hội bát âm lại tập trung đông đủ tại nhà hắn để hòa tấu nhạc "Hò xừ xang xê cống xê xang hò, 'lả', hò xừ xang liu hồ công . . . .". Thầy hắn chơi giỏi các nhạc cụ nhị, hồ, nguyệt và măng-đô-lin (mandoline). Còn các bạn của thầy thì chơi khá đàn bầu, trống cơm, sáo trúc, thanh la, . . . Mỗi lần hội bát âm tập luyện hòa tấu, cả người lớn và trẻ con kéo đến xem chật cả cửa. Khi ấy hắn thấy mình oai lắm, người xem chỉ được đứng ở cửa, còn hắn thì chắp tay sau đít, đi đi lại lại vênh vang trong nhà, canh chừng những đứa trẻ thò lò mũi. Đứa nào luồn dưới chân người lớn để chui vào là nó quát, nó đuổi ra liền.

Ngoài giỏi nghề chính là may, thầy hắn còn làm được rất nhiều việc khác, rất thành thạo hàn xoong, gò nồi, gò thuyền, đan thúng mủng giần sàng, giặm giỏ, . . . Mỗi khi ông làm, hắn thường mon men bên cạnh phụ giúp và học lỏm. Nhờ thầy hắn mà sau này hắn cũng nhiều tài lẻ ra trò.

Thầy hắn có tên thật là một cái tên đẹp. Vậy mà mọi người trong làng đều gọi ông là Chất, ông trưởng Chất. Ừ thì thầy hắn là con trưởng của cụ Thông Vũ nên kêu là trưởng, nhưng tại sao lại gọi là Chất thì hắn không biết. Sau thầy hắn là chú Hiền, cô Câu, cô Nhỏ. Khi lớn lên, nó nghe kể lại, xưa ông bà nội dòng dõi nhà quan. Rồi ông nó cũng làm quan đến chức thông phán (thường gọi tắt là thông hay phán – chức thư ký một ngành trong cơ quan nhà nước thời Pháp thuộc), thuộc giới nho sỹ, trí thức có máu mặt trong làng xã. Không biết nguyên nhân vì đâu mà ông bà hắn mất sớm, bốn anh em bố hắn côi cút nuôi nhau.

Lại nói, bốn anh em thầy hắn còn có một người cô ruột lấy chồng là cụ Ký dưới Hải phòng, gọi là cụ ký Lập. Hai cụ khá giả nhưng không có con. Chồng mất sớm, cụ ký bà ở vậy buôn bán và cho vay lãi. Thương các cháu mồ côi, cụ đón các cháu xuống Hải Phòng nuôi cho ăn học. Thầy và chú hắn là con trai nên được cho học đến khi lấy được bằng Xe-ti-phi-ca (Certificat). Thời bấy giờ, bậc tiểu học gồm hai cấp là Ấu học và Tiểu học với 6 lớp từ thấp lên cao: Đồng ấu (lớp Năm), Dự bị (lớp Tư), Sơ đẳng (lớp Ba), lớp Nhì năm thứ nhất, lớp Nhì năm thứ hai và lớp Nhất. Cuối năm học lớp Ba, học sinh thi lấy bằng Sơ Học Yếu Lược (Primaire Elémenteire), cuối lớp Nhất, thi lấy bằng Tiểu Học Yếu Lược (Certificat d'Etudes Primaire Franco – Indigène). Sau đó cụ Ký tập cho hai cháu trai theo học nghề may. Còn hai người cô hắn được cụ dạy cho học buôn bán.

Một lần cụ Ký Lập về quê ăn giỗ anh, cũng là dịp tìm mai mối cho cháu trưởng. Mấy người trong họ dẫn tới cho cụ xem mặt một cô gái. Cụ nhìn cô, thấy nước da trắng trẻo, người cao ráo, trông nhanh nhẹn. Cụ lại được nghe kể cô ấy giỏi giang buôn bán tảo tần, một mình nuôi bốn đứa em. Cụ lập tức nhờ mai mối xin cưới hỏi cô gái cho cháu trai. Thế là Thầy hắn và bu hắn nên vợ nên chồng từ ngày đó.

Sau khi lấy vợ, theo lời khuyên của cụ Ký, Thầy hắn về quê thuê một gian nhà cấp bốn nhỏ xíu ở khu Văn Chỉ, ngay phố huyện quê hắn, gần trường cấp hai sau này. Cụ Ký bán chịu cho thầy hắn chiếc máy khâu, gọi là làm dấn vốn mở cửa hàng may. Chồng mở hiệu may, vợ buôn bán, hai đôi tay xây dựng cơ đồ.

Chú Hiền, chú ruột hắn cũng được cụ Ký hỏi cưới một cô gái con nhà hàng xóm và cũng bán chịu cho một cái máy khâu để mở hiệu may tại Hải Phòng. Từ đó chú định cư hẳn ở dưới Phòng.

Cô Châu buôn bán ở gần ga Phòng, phải lòng một anh lái tầu hỏa xa, đưa về ra mắt. Cụ Ký thấy ưng, đồng ý gả. Cô theo chồng về định cư buôn bán ở Thái Nguyên. Vì chồng cô là tài xế lái máy nên về sau mọi người gọi là cô chú Tài.

Cô út của hắn là cô Nhỏ được cụ Ký gả cho một chú làm công nhân trong cảng. Hai người sinh được một đứa con trai thì chú bỏ vợ con mà lấy vợ hai. Cô Nhỏ hận lắm, ôm con về Ân Thi nương nhờ họ hàng và buôn muối tại đó. Một lần để con ở nhà đi chợ, bất ngờ máy bay Pháp bay đến bỏ bom vào chợ, cô bị thương nặng. Hay tin, thầy hắn và chú Tròn, em rể mẹ hắn, đón xe xuống, đưa cô vào viện. Được mấy ngày thì cô trút hơi thở cuối cùng. Thi hài của cô được chôn ngay tại Ân Thi. Hài cốt sau đó được bốc về chôn ở Nớ. Sau này, Nhà Nước lấy đất, phần mộ cô được đưa về chôn tại nghĩa trang ở Mỹ Hào. Khi Pháp đánh chiếm Ân Thi, con cô Nhỏ được bà con bế đi tản cư rồi phiêu bạt, mất tăm tích mấy chục năm. Mãi sau này hai chị em hắn đi tìm mới thấy và người ấy mới đoàn tụ lại được với họ hàng.

Bu hắn cũng chẳng may mắn gì hơn. Theo nó (xin được dùng thêm đại từ "nó" để thay cho "hắn") được nghe kể lại, ông ngoại nó lấy vợ cả đẻ được hai người con gái là bác Thức và bác Lực. Sau đó ông lấy thêm vợ hai là bà ngoại nó, hy vọng đẻ được con trai. Trong mười năm, bà ngoại nó liên tục sinh cho chồng được năm người con, đáng tiếc, cũng đều là gái. Mẹ nó là cả tên là Tỵ, dì thứ hai tên Lạp, dì ba là Luật, dì tư là Thiêm và dì năm là Gắng. Bu nó kể lại, hồi bấy giờ, nhà ngoại ở thôn Sài trong căn nhà cấp bốn. Xung quanh nhà có rất nhiều ao, bụi tre. Trong vườn rất rộng, có cây sung, lộc vừng và nhiều cây cối khác.

Một ngày mùa đông lạnh lẽo, gần tết, ông ngoại hắn đang đi buôn bè ở mạn ngược thì nghe tin vợ sắp đẻ, đây là nói bà ngoại hắn sắp đẻ người con thứ năm. Ông ngoại hắn hí hửng gom góp tiền bạc, xách tay nải và mua ít quà về ăn tết, chờ vợ đẻ. Vợ ông trở dạ đúng lúc gần giao thừa. Ông kính cẩn lau dọn ban thờ, bầy lễ vật để cúng. Ông đặt lên ban thờ một nải chuối xanh, mấy quả cam, quả táo lấy ở vườn nhà, rồi cung kính thắp mấy nén nhang. Trước khi lầm rầm khấn, ông lại sai bu hắn đi mời bà đỡ. Rồi ông nhắm nghiền mắt cung kính cầu xin Trời Phật, Tổ Tiên phù hộ, ban cho ông một mụn con trai. Đang cầu khấn, bỗng ông nghe thấy ở buồng trong oe oe tiếng khóc, trống ngực ông đập thình thịch, cúi đầu vái lia lịa, mong mỏi lời khẩn cầu được linh thiêng. Nhưng im ắng quá ! Không thấy ai nói gì. Ông hồi hộp gọi giật vào buồng trong:

- Tỵ lớn, Tỵ con, bu mày đẻ em trai phải không ?

Im phăng phắc không một tiếng trả lời, chỉ thấy tiếng khóc oe oe và tiếng nấc nghẹn ngào của vợ ông. Bà đỡ vỗ về vợ ông:

- Có gì mà phải khóc, một của một con ai từ, mẹ tròn con vuông thế là may mắn lắm rồi.

Ông nhìn vào cửa buồng thấy cái Tỵ lớn, Tỵ con và hai em nó, mắt la mày lét, hết nhìn ra ông lại nhìn bà và bà đỡ trong buồng, ông hét lên:

- Tao hỏi sao chúng mày không nói ? Bu mày đẻ con trai phải không ?

Bà đỡ bấy giờ lòng khòng bế dứa bé còn đỏ hỏn, quấn trong cái tã cũ của các chị để lại, chầm chậm bước ra bảo:

- Mừng cho cô ấy, mẹ tròn con vuông. Mừng cho cậu thêm một công chúa nữa.

Ông nó nghe xong sững lại như trời trồng. Cái chén nước trong tay ông đang cầm rơi xuống nền nhà nghe choang một tiếng lạnh coong. Tay ông run run ôm đầu, từ từ ngồi xuống. Ông không nói năng gì, mắt ầng ậc nước nhìn ra bụi tre bên bờ ao rau muống trước cửa. Mưa bụi đang giăng mù, trời rét tái tê, lòng người se sắt. Bà đỡ đứng bên nói:

- Thế bố nó đặt tên cho con hĩm con đi nào.

Ông im lặng rất lâu không nói, chỉ ngước mắt nhìn cụ đỡ, nhìn bốn đứa con gầy còm sợ sệt rồi nhìn lên ban thờ. Ông đứng dậy, run run châm ba nén nhang, cắm tiếp, rót chén rượu, chắp tay lầm rầm khấn:

- Tổ Tiên và thầy bu tha tội, thầy bu sinh ra con là con trai độc, con cũng muốn thầy bu hưởng cháu đàn, nhưng con đã lấy hai lần vợ, bẩy lần sinh, lại toàn con gái. Con bất hiếu không sinh được người nối dõi tông đường và thờ cúng Tổ Tiên. Con là thằng bất hiếu.

Nói xong, ông vái ba vái, quay sang bà đỡ ông bảo:

- Cụ cứ đặt nó là cái Gắng cũng được.

Nói xong, ông vái ba vái, quay sang bà đỡ ông bảo:

- Cụ cứ đặt nó là cái Gắng cũng được.

Người ông rũ xuống, hai tay vẫn ôm đầu. Một lúc sau ông ngẩng lên cầm chai rượu rót ra đầy bẩy chén. Ông lẳng lặng uống ực bẩy hơi và lầm rầm nhắc tên bẩy người con gái. Xong, ông cầm cả chai, ngửa cổ tu ừng ực, mắt ông đỏ đọc, trán toát mồ hôi. Thấy vậy, Tỵ lớn bảo:

- Thầy ơi ! Thầy đừng uống nữa, để con bê mâm mời cụ đỡ, thầy bu và các em ăn cơm.

Ông quay lại nhìn, rồi từ tốn bảo:

- Con dọn cơm mời cụ đỡ. Bu và các con ăn đi, thầy không đói.

Ông ngồi thừ trên ghế, cúi xuống vê một điếu thuốc lào cho vào nõ. Ông châm đóm vào ngọn lửa trong cái đèn cầy bằng vỏ chai, để mãi, đóm cháy tới tận tay ông mới biết. Rít hết điếu thuốc, ông lại tợp một hớp rượu rồi mới chầm chậm nhả khói. Làn khói vần vụ, đùng đục, bảng làng lan tỏa trong đêm đông buốt lạnh.

Nửa đêm hôm đó khi cụ đỡ đã ra về, trong khi cả nhà đang ngủ say, Ông khật khưỡng đi vào buồng vợ, đứng im trong bóng tối, nhìn vợ và năm đứa con đã ngủ. Rồi ông bước ra ngoài, thu xếp tay nải. Xong, ông trở lại ban thờ, tần ngần thắp mấy nén nhang. Nước mắt ông cứ ứa ra, chảy mãi. Bỗng ông hét lên:

- Gần hết đời người, hai đời vợ, bẩy đứa con gái, thế thì còn thờ cúng cái nỗi gì.

Mồm ông hét, tay ông gạt đi hết bát hương và hoa quả. Ông gầm lên như con thú bị thương, rồi ông lấy cái rổ lia hết bát hương, hoa quả và đồ thờ cúng vào đó, bê tất cả ra bờ ao. Mắt ông đầy nước, giọng khàn khàn chua xót, nghẹn ngào, ông hét lên:

- Con bất hiếu rồi bố mẹ ơi !

Nói xong ông hất tòm cái rổ đồ thờ xuống ao. Ở trong nhà, sáu mẹ con giật mình vừa tỉnh giấc. Vợ ông tuy còn đang yếu, vẫn khóc dấm dứt mà bảo ông:

- Thầy nó đừng buồn, cái số mình nó thế. Lần sau tôi sẽ đẻ cho thầy nó một đứa con trai.

Ông quay lại gầm lên:

- Còn sau sau gì nữa. Hết sức hết đời rồi còn đâu !

Đoạn ông cầm bọc tiền nhỏ đặt vào bên cạnh vợ, vuốt tóc mấy đứa con. Không nói năng thêm lời nào, ông lặng lẽ xách tay nải ra đi. Từ đó cả nhà không bao giờ nghe tin tức gì về ông, chẳng một ai biết ở ông đâu.

Còn lại mình bà ngoại hắn với năm đứa con còn nhỏ, bà phải lặn lội sớm khuya kiếm ăn, đắp đổi qua ngày. Rồi thì, phần vì hậu sản, phần vì buồn nhớ chồng, phần vì nhà nghèo không đủ ăn để chèo chống tiếp tục, cố gượng đến khi dì út hắn bốn tuổi, bà hắn đành chịu nhắm mắt suôi tay, bỏ lại năm đứa con mồ côi mồ cút từ đó.

Bấy giờ bu hắn đã 18 tuổi, đặng chẳng đừng, thay bố mẹ nuôi đàn em còn đang lít nhít. Nhà nghèo không có vốn nhưng được cái vườn ao rất rộng. Bu hắn bắt đầu xoay xở ngay từ cái vốn có này. Bà hướng dẫn các em hái rau muống cũ, thả dây muống mới, vớt bèo, bứt quả mang ra chợ bán. Được cái chị em thương yêu đùm bọc nhau, các dì hắn răm rắp nghe lời chị, chăm chỉ kiếm tiền. Số tiền kiếm được, trừ ăn tiêu dè sẻn mỗi ngày cũng bỏ ra được đôi chút. Tích tiểu thành đại, sau hai năm cũng có một chút vốn. Bu nó đong thóc về cho năm chị em làm hàng xáo. Năm chị em xoay vần cả ngày xay lúa, giã gạo, giần sàng rồi mang ra chợ bán, cám để nuôi lợn, trấu thì để đun. Đâu vào đấy, chẳng bỏ đi tí nào.

Sau khi lấy thầy nó, bu nó chuyển về ở nhà chồng cũng ngay thôn bên cạnh nên vẫn thường xuyên qua lại bảo ban các em. Những năm sau, bu nó lần lượt gả chồng cho bốn người em. Dì Lạp được bu nó gả cho ông Thânh, người ở Đào Du. Ông Thanh đã có một đời vợ và ba đứa con trai nhưng vợ đã chết. Dì Lạp, sau đó cũng đẻ được thêm ba đứa con trai nữa. Dì Luật, xấu gái nhất nhà vì có hàm răng "vổ vỉu", lại đen gầy thì bu nó gả cho chú Đương, người khá đẹp trai nhưng nghèo và vai vế thấp. Dì Thiêm được gả cho chú Ân ở thôn Sài. Gia đình chú là cốt cán, rất nghèo nên đồng ý ở rể để coi chăm vườn ao nhà cửa ông bà ngoại nó để lại. Dì Thiêm chú Ân đẻ được mười người con, sau này phương trưởng cả. Dì út Gắng nó lấy chú Tròn, vì thế sau này được gọi là Gắng Trọn. Chú dì đã được một người con gái nhưng mẹ chồng dì quá khắc nghiệt đã đuổi dì đi. Dì bỏ lên Thái Nguyên buôn bán và chết ở đâu không rõ.

Đó là vào những năm 1929 quân pháp chiếm đóng hầu hết miền bắc Việt Nam, làng nó cũng không ngoại lệ. Tây đóng đồn ngay trong huyện lỵ, dựng trại lính, xây lô cốt kiên cố. Đến nay, còn đó, lô cốt sừng sững đầu làng, cách nhà nó khoảng 200 mét. Ngay rìa đường số Năm, là một ụ lô cốt bằng bê tông cốt thép cao tầm 3 mét, rộng khoảng 30 mét vuông, tường bê tông dày 60 phân. Năm họng châu mai hình phễu cách mặt đất khoảng 50 phân, đen ngòm như mắt những con cú vọ, gườm gườm soi về bốn phía, kiểm soát toàn bộ trục đường Năm và con đường vào làng phía đối diện. Bây giờ, ai đi trên đường Năm, vẫn có thể nhìn thấy lù lù khối lô cốt đó nằm cách đường chừng dăm chục mét.

Quán thợ may thầy bu nó thuê ở Văn Chỉ là căn nhà cấp 4 có hai gian hai chái nằm ngay phố huyện gần một biệt thự 3 tầng của ông cả Điền, người được cho là giầu có, tầng lớp tiểu tư sản ở quê nó lúc bấy giờ. Quán may lợp lá tranh, vách đan thưa bằng nứa, tường được trát bằng rơm bằm trộn với bùn. Cửa đi và cửa sổ đều là cửa xương trụ, phên nứa. Thầy nó kê một cái máy khâu hiệu Xanh-de (Singer) đã cũ. Ở phía trên, lùi vào phía sau treo một chiếc sào tre dài tầm hai mét, vắt ngay ngắn những tấm vải các mầu. Trên vách bên trái ngăn với buồng trong có đính nhiều móc để treo quần áo đã may xong. Thôi thì đủ loại, quần áo tứ thân, áo cánh, quần chân què, áo bông trần, áo the, khăn xếp, áo sơ mi, áo măng tô (manteau), com lê (comple), áo đờ mi (áo vest không có quần đồng bộ), . . . . Vì là thợ may ở thành phố về, có tay nghề cao nên thầy nó khá nhiều việc. Ban ngày bu nó bán hàng ngay trước cửa nhà, gần chợ, ban đêm ngồi đơm khuy, thùa khuyết trên cái phản kê bên gian trong.

Tại căn nhà này các anh chị hắn lần lượt ra đời. Đầu tiên là chị Biên, chị Dụng rồi đến anh Bính. Sau anh Bính là chị Thùy. Năm đó, chị Thùy mới lên ba, đang tập nói bi ba bi bô, trông rất xinh, ai thấy cũng yêu. Vậy mà đùng một cái chị ra đi vì căn bệnh đậu mùa. Hắn nghe kể lại, chị chết thương tâm lắm. Căn bệnh quái ác đã làm chị nó mụn nhọt đầy mặt, đầy đầu, mắt toét rỉ nhoèn. Các nốt mụn cứ đóng vẩy rồi lại chảy nước vàng nhoe nhoét, ruồi nhặng bâu đầy, tay chân nứt nẻ. Chị nó ngứa quá cứ gãi đầu gãi mặt, bóc vẩy mụn ra mà cho vào miệng nhai tem tém. Thầy bu nó chạy ngược chạy xuôi tìm thầy, tìm thuốc cứu chữa cho con. Nhưng vệ sinh không giữ được, chị nó bị nhiễm trùng quá nặng. Sau một tuần ly bỳ sốt cao, chị nó đã ra đi.

Liên tục những năm sau đó thầy bu nó sinh thêm được ba người con gái nữa, Đó là chị Thơ, chị Vận, chị Thất. Kinh tế gia đình bấy giờ đã khá giả, thầy nó mở rộng thêm cửa hàng và nhận dạy nghề cho ba ba học trò, là anh Bôn, anh Mài và anh Điểu. Bu nó mở thêm sạp bán vải và tạp hóa. Thầy bu hắn sinh được sáu chị lại chỉ có một anh Bính là trai, nên anh được cưng chiều hết cỡ. Anh nó được đi học Quốc ngữ ở trường huyện. Bấy giờ, trường huyện chỉ dành cho con trai các gia đình khá giả. Vậy là anh nó trở thành một công tử con nhà giầu hay cậu ấm con quan, một cậu công tử bé nhỏ, trắng trẻo, đẹp trai, môi đỏ, tóc bồng. Điệu đà và đúng kiểu cách lắm, anh nó đi học có "con sen", "thằng ở" đưa đón. Cậu ấm toàn quyền ăn sáng hoặc ăn quà vặt ở tất cả các tiệm to nhỏ của phố huyện, không cần hạn chế, chỉ việc ký sổ. Cuối tháng bu nó đều vui vẻ thanh toán hết.

Sau thời gian tích cóp, lưng vốn đã khá khá, bu nó đã quyết định mua một mẫu ruộng ở khu bốt đá (đường đi vào Trại Lớn 35 và xã Hưng Long ngày nay). Bấy giờ anh cả nó đã 13 tuổi, xét cần phải có người để làm ruộng và quán xuyến việc nhà, bu nó đã hỏi cưới vợ cho anh nó là chị Mây con cụ hai Năng, một gia đình nông dân nhưng giầu có và nề nếp, to họ, dài dòng. Chị Mây đã gần 17 tuổi, hơn anh nó ba tuổi rưỡi. Ở cái tuổi dậy thì, chị Mây đẹp lắm. Hôm cưới, chụp ảnh trước mái nhà tranh, chị mặc áo tứ thân, anh mặc áo lương, đội khăn xếp, trông đúng là đôi đũa lệch. Chị Mây thì cao, đầu gần chạm đến mái tranh, anh Bính thì tuy trắng trẻo đẹp trai nhưng gầy còm, thấp bé, đứng chỉ cao đến ngang ngực chị Mây.

Vào khoảng năm 1950. Chị cả Biên lúc bấy giờ đã mười bẩy tuổi. Thấy anh Bôn, người trò học nghề cũng con nhà tử tế, bản thân anh hiền lành, chịu khó, lại có tình ý với chị nên cuối năm ấy thầy bu nó đã đồng ý gả chị cho anh Bôn.

Hai năm sau, chị thứ hai của nó là chị Dụng đã lớn phổng phao và rất xinh xắn, được người mai mối, thầy bu nó cũng đồng ý gả cho anh Chí, con cụ Cao ở xã Phùng Chí Kiên (tên xã về sau này), cách nhà khoảng chừng cây số.

Để ổn định và phát triển buôn bán, thầy bu nó đã tậu mảnh đất mặt phố của cụ lang Bưu khu đất rộng khoảng ba trăm mét vuông, mặt tiền hướng nam, rộng chừng hơn chục mét. Trên khu đất đó có một căn nhà tranh cấp bốn, nơi mà hắn sinh ra sau này.

Trong khi chờ đợi để xây cất cho đàng hoàng, thầy bu nó mua thêm một mẫu ruộng, gọi là ruộng chéo, vì thửa ruộng nằm giữa ngã 3 hình chữ y nối từ phố Thứa đi vào. Bên trái rẽ sang làng Dâu, Cẩm Sơn, Cẩm Xá. Bên phải đi qua Phùng Chí Kiên, qua Dương Quang, qua ga Lạc Đạo thuộc huyện bên.

Thầy bu nó bỏ tiền ra thuê người đào đất, đắp lò đốt gạch. Mỗi khi ra lò, gạch đẹp được xếp thành kiêu, bán cho thương lái. Gạch non, gạch xấu được chở về khu đất mới mua để chuẩn bị xây nhà. Các chị các anh lớn của nó thường được huy động kéo xe bò xuống Sặt mua than về nặn. Sau đó lại dùng xe bò chở gạch xấu về nhà. Đây là giai đoạn làm ăn hưng thịnh và tràn đầy hạnh phúc của gia đình nó. Cũng giai đoạn này bu nó sinh thêm anh Bát và chị Cửu.

Trước sự lớn mạnh của bộ đội chủ lực và quân du kích, giặc Pháp càng ngày càng bị co cụm, thu hẹp lại. Vì vậy chúng càng điên cuồng trả đũa, hòng gây sức ép cho việc đàm phán của chính phủ ta và Pháp tại hội nghị Giơ-ne-vơ (Genève). Chúng mở các cuộc càn quét quy mô lớn vào các địa phương vùng đồng bằng Bắc Bộ nhằm giành lại sự kiểm soát.

Chập tối một ngày đầu đông năm 1952, được cán bộ Việt Minh thông báo yêu cầu bà con toàn huyện đi "tản cư" đề phòng giặc Pháp tấn công, thầy bu nó thu xếp đồ đạc, gồng gánh các con cùng xóm làng đi "tản cư" sang cầu Tu Thúy Trúc, một vùng hẻo lánh trong địa phận huyện Ân Thi. Các anh chị lớn cùng thầy nó đẩy xe bò và mang vác đi trước. Bu nó đi sau cùng, gánh đôi quang, một bên có đầu máy khâu Xanh-ze cùng bọc tã lót, bên còn lại bu nó đặt chị Cửu. Bấy giờ chị Cửu mới được gần một tuổi nằm ngủ ngon lành, gọn trong thúng, xung quanh cũng chèn tã lót, bên trên che miếng ni lông tránh mưa. Trời tối nhờ nhờ, rét cắt da cắt thịt, mưa bụi giăng mờ, đường trơn, lầy lội, lép nhép. Trên trời thỉnh thoảng lóe lên quầng pháo sáng, xa xa đoàng đoàng vọng lại tiếng đạn hỏa châu, tiếng chiu chiu, bùm bùm của đạn moóc-chiê (moochies – súng cối), tiếng đì đùm của các loại súng trường, súng kíp. Hối hả bấm chân, ngã nghiêng, ngã ngửa, bu nó lầm lũi đi theo đoàn người.

Bỗng ầm ầm chiu chíu, đạn moóc-chiê nổ rền vang trên phố. Mọi người tán loạn, tiếng hò hét than khóc như ri. Cụ đỡ vừa ôm tay nải đi sau vừa hét:

- Mẹ cái hĩm con xuống hầm đi !

Bu nó tất tả lao bừa vào một cái hầm tăng-xê còn trống, với tay lôi một bên quang gánh có đứa con ở trong đó xuống hầm. Rồi bu nó hổn hển kéo vội nắp hầm lại. Bên ngoài pháo sáng rực trời, tiếng đạn pháo ca-nông (pháo nòng dài) và moóc-chiê càng ngày càng gần. Bu nó chỉ biết lầm rầm cầu Trời, khấn Phật. Bỗng một tiếng nổ rất lớn ngay trên đầu, viên đạn nổ sát bên cạnh hầm, khét lẹt, đất đá văng rào rào. Sau đó là sự yên ắng đến rợn người. Một lúc lâu, thấy đã yên, mọi người gọi nhau:

- Hết rồi, yên rồi, lên đi !

. . . . thấy đã yên, mọi người gọi nhau:

- Hết rồi, yên rồi, lên đi !

Bu nó ngoi ngóp rũ đất cát đầy đầu, đầy thúng, chỗ chị nó nằm. Thế mà khi ra khỏi hầm, rũ mảnh áo mưa trong bóng đêm bu nó lờ mờ nhìn thấy đứa con gái vẫn đang "ngủ li bì". Yên tâm, sốc quang gánh lên vai, bu nó tiếp tục chạy.

Gần sáng bu nó tới được nơi sơ tán gặp lại các con. Hạ quang gánh xuống, bế chị Cửu nó ra cho bú, bu chựt giật thót người. Trời ơi ! Chị Cửu nó bị mảnh đạn găm vào người đã nằm chết cứng trong thúng từ bao giờ. Bu nó thét lên rồi chết ngất tại chỗ. Mấy anh chị nó cùng nhào tới rồi khóc ré lên một lượt. Chị Cửu nó đã ra đi như thế !

Cả nhà đã đau buồn quá sức lại còn thêm nỗi lo về thầy. Thầy nó kéo xe bò (loại xe kéo tay có hai bánh như xe cải tiến bây giờ nhưng to hơn, được làm bằng gỗ, bánh xe cũng bằng gỗ có đai sắt, có độ chục cái nan hoa cũng bằng gỗ) trở lại chuyến cuối cùng để nhặt đồ đạc mà mãi giờ này này vẫn chưa thấy tới. Ai nấy bồn chồn, hết đi ra lại đi vào, ngó trước, ngó sau, ruột gan như có lửa đốt.

Mãi đến gần trưa hôm sau, một chị ngóng ra đầu làng mới thấy thầy nó phờ phạc, quần áo lấm lem, ướt rượt, đang còng lưng kéo cái xe bò lọc cọc vào làng. Các anh chị nó chạy ùa ra đón thầy. Mọi người bỗng giật mình sửng sốt, bên trên đống chăn bông, quần áo, nằm thẳng đuỗn một cậu thiếu niên trạc mươi tuổi, quấn băng đầy mặt, đầy người. Anh chị nó nhao nhao hỏi thì thầy nó bảo:

- Đẩy xe vào nhà đi, khênh nó lên giường đi đã. Thầy sẽ nói chuyện sau.

Thấy chồng về bu nó òa lên khóc. Mấy anh chị nó được thể cũng gào theo. Thầy nó không hiểu chuyện gì, đến gần bu nó hỏi:

- Ở nhà có chuyện gì hay sao ?

Bu nó nói nghẹn ngào trong nước mắt và giở chiếc khăn vuông chùm chị Cửu:

- Cái Cửu bị trúng mảnh đạn, chết rồi !

Thầy nó sững lại hốt hoảng, lập cập quỳ xuống, tay run run bế chị nó lên. Nước mắt ông chảy ra chan chứa, không khóc nổi thành tiếng. Ông nâng mặt chị nó lên hôn tới tấp:

- Giời ơi ! Sao lạnh ngắt thế ? Cửu . . . con ơi . . . ! Con ơi . . . !

Chị Cửu nó được gói trong lớp tã mới, bên ngoài quấn một chiếc khăn hoa nhỏ, cái khăn mọi ngày vẫn đắp cho chị. Thầy nó sửa lại hòm gỗ thông đựng đồ làm cỗ áo cho chị. Cả nhà nó lặng lẽ khiêng chị nó ra bụi tre đầu làng. Một cái hố nhỏ đón chị nó về với đất. Thầy nó vần một hòn đá to đặt vào chân mộ để đánh dấu. Nó mất thêm một người chị từ đó.

  Cậu bé bị thương mà thầy nó đưa về trên chiếc xe bò tên Nguyễn Văn Can, cũng là con của người cùng hàng huyện. Thầy nó kể, đêm hôm đó sau khi về nhà, nhặt được vài cái chăn và mớ quần áo cũ, rồi thầy nó hối hả kéo xe chạy dọc đường Năm. Lúc đó quân Pháp đã tràn được bộ phận cơ giới đi đầu vào làng quê nó. Đạn pháo đã ngừng nổ, thay vào đó là tiếng rầm rầm của xe ca-mi-ông (camion - xe tải - một số người đọc sai thành xe "cam nhông") nhà binh chạy rầm rầm.

Đang kéo xe chạy trong bóng đêm nhập nhoạng, thầy nó giật mình khi thấy bên vệ đường một đống đen lù lù bỗng nhiên động đậy. Thầy dừng xe tới gần xem kỹ, thì ra đó là một thiếu niên đang nằm rên rỉ vì bị xe nhà binh chạy qua đụng phải, toàn thân be bét máu. Nhìn trước nhìn sau không thấy ai, thầy liền cúi xuống bế cậu bé đặt lên trên đống quần áo cũ. Ông rạp người vội vã kéo xe chạy thật nhanh về nhà thương Bần cách đó chừng ba cây số. Tại nhà thương, các bác sỹ, cả người Việt lẫn người Pháp đều xúm vào cứu chữa. Cũng may vết thương không có gì quá nghiêm trọng, bệnh viện đã băng bó lại cho cậu. Thầy nó xin cho đưa về rồi cứ thế kéo xe, chạy thẳng về nơi sơ tán.

Những cuộc càn quét của quân Pháp gặp phải sự chống trả mạnh mẽ của bộ đội chủ lực và du kích. Rồi dần dần ta từng bước đẩy lùi được nhiều cuộc hành quân càn quét của chúng. Vì thương vong quá lớn, chúng đành rút về cố thủ ở bốt Mỹ Hào. Cái bốt đó bị ta bao vây xung quanh và khóa chặt. Làng nó hoàn toàn do ta kiểm soát. Thầy nó là đội viên du kích hoạt động ngầm từ lâu, cho nên, sau khi ổn định nơi sơ tán cho vợ con, ông trở lại làng để tham gia chiến đấu, lâu lâu mới tạt về thăm nhà. Rồi đến lượt bu nó, vì buôn bán vải và hàng tạp hóa, bu thường xuyên mang hàng cho lính nên hiểu rõ đường ngang ngõ tắt và nắm tin tức địch. Không biết bu nó tham gia hoạt động từ bao giờ mà bây giờ là tổ trưởng tổ địch vận. Bu nó giao phó nhà cửa và các con nhỏ cho các đứa lớn để trở lại phố huyện tham gia chuẩn bị việc đánh đồn, phá bốt.

Trong căn nhà cấp 4 thầy bu nó thuê, dưới cái bàn thùng đựng đồ may, khi mở cái cửa lùa, chui vào gạt vải vụn, dỡ ra tấm ván đáy sẽ hiện ra một căn hầm bí mật. Đây là căn hầm thường xuyên nuôi giấu cán bộ nằm vùng như ông Bảy Đen, ông Lý Quỳnh, ông Tài Thức (anh rể bu nó), . . . Đặc biệt lúc bấy giờ có ông Báu, người ở làng Vang làm chỉ huy du kích được tổ chức bố trí tại nhà nó thường xuyên, giả làm học sinh học may kiêm ông đồ dậy chữ nho trong bộ y phục áo the, khăn xếp để hoạt động công khai. Chính những người này đã hướng dẫn và kết nạp bu nó vào làm trong tổ quân báo. Bu nó thường đưa đồ vào trại lính, bí mật theo dõi, ghi chép tỷ mỉ theo hướng dẫn của tổ công tác để đêm đến báo cáo tình hình địch cho tổ.

  Một tối nọ, theo lệnh cấp trên, ban chỉ huy du kích bố trí gặp chỉ huy chủ lực tại nhà nó để nhận kết quả báo cáo tình hình địch và bàn ngày giờ quyết định đánh đồn. Để che mắt địch, bu nó làm mâm cơm thịnh soạn, gọi là nhà có giỗ để mọi người ra vào cho hợp lẽ. Theo lệ thường, khoảng từ 8 đến 9 giờ tối Pháp cho quân đi lục soát từng nhà. Hôm đó một tên thầy cai người Việt và hai lính khố đỏ vào nhà nó. Thầy bu nó ra tận cửa đon đả mời vào, kéo thêm ghế, lấy thêm bát mời chúng cùng uống rượu. Uống xong chén đầu bu nó kính cẩn, tươi cười mời các quan đi xét nhà. Tên cai đội cười nói:

- Thôi ! Hôm nay nhà có giỗ, cả nhà cứ ăn uống tự nhiên. Ai chứ nhà anh chị đây chúng tôi lạ gì, thân với quan đồn lắm, không phải xét. Xin anh chị cho chúng tôi chén nữa để chúng tôi còn đi tiếp.

Câu nói vô tình này của tên cai đội đã giải thoát được nguy hiểm trước mắt. Ai ngờ, nó lại mang đến nhiều hệ lụy cho thầy bu hắn sau này.

Chỉ ít ngày sau đó, quân chủ lực và quân du kích bất ngờ đáng úp đồn vào giữa đêm khuya. Thầy bu nó mỗi người dẫn đường cho một cánh quân tung hoành trong cái trại lính ở phố nó. Trận đánh kéo dài đến gần sáng thì quân ta làm chủ hoàn toàn. Cái đồn lính bị san phẳng.

Đến năm năm tư, theo hiệp định Giơ-ne-vơ, quân Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc. Người dân quê nó cũng như các vùng quê khác vui sướng không bút nào tả xiết. Mọi người dân từ chỗ tản cư được trở về nhà và thôn xóm của mình. Ở quê nó tưng bừng lắm, cờ đỏ sao vàng tung bay khắp mọi nơi, trống ếch tà rành . . . , tà rành . . . thật là rộn ràng trong ngày mừng giải phóng. Nhà nó cũng như mọi nhà khác rộn rịch bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới trong hòa bình với tất cả niềm vui sướng, niềm tin và hy vọng.

   Sau khi đã đốt đủ gạch, mua đủ vôi, cát, tre nứa, thầy nó cho xây một cái nhà ba gian rồi xây tiếp cái nhà ngang và nhà sau (như phần trên đã nói). Cả nhà nó vui mừng chuyển về nhà mới và ổn định cuộc sống.

Lại nói về cậu thiếu niên tên Can mà thầy nó đưa về trên chiếc xe bò trong đêm chạy loạn. Anh vẫn ở cùng gia đình nó khi chuyển về nhà mới. Sau khi bình phục, anh được thầy nó dậy nghề may. Gia đình anh Can, sau khi người con mất tích, cả nhà đã chạy đôn chạy đáo đi tìm khắp nơi, dò hỏi khắp chốn nhưng vẫn không thấy tăm tích, một phần cũng là do chiến tranh loạn lạc làm cho việc tìm kiếm gặp nhiều trở ngại. Sau ngày hòa bình, tình cờ một lần hỏi dò đúng người biết chuyện thầy nó, rằng có người cứu được một cậu bé trắng trẻo bụ bẫm, gia đình ấy cử người sang xem thì nhận đúng là người con trai lưu lạc. Họ ôm nhau cùng khóc, thật cảm động. Thì ra gia đình anh Can ở ngay Bần, cách nhà nó không xa, chỉ năm cây số. Ngay sáng sớm hôm sau đó Thầy bu anh Can bê mâm sôi, thủ lợn, con gà sang nhà nó, cung kính dâng lễ lên ban thờ, thắp hương khấn vái tạ ơn ân nhân và chính thức xin cho anh Can làm con nuôi thày bu nó. Nó có thêm một người anh.

Ở khu lò gạch ngoài ruộng chéo, thầy bu nó đã ngừng đốt gạch. Những thùng đấu lấy đất đốt gạch nước ngập thành ao thì để thả bèo, phần ruộng phẳng còn lại thì san thành ruộng để cấy lúa nếp và lúa tẻ.

Vào một ngày đầu thu, sau khi ăn sáng xong, gọi là ăn sáng nhưng là bữa ăn đầu tiên trong ngày vào quãng giờ ngọ, ở quê nó ngày chỉ có hai bữa, bu nó uống hớp nước vối được ninh trong cái nồi đồng, với vội cái tăm và cáp cái mê nón ra đồng thăm lúa. Bấy giờ bu nó đang có chửa, cái bụng đã lớn lắm, chắc sắp đến cữ. Từ xa nhìn thấy lúa tốt bời bời, vụ mùa này chắc khá. Bu nó phấn khởi lắm. Vừa tới ruộng, chưa kịp lội xuống, bỗng dưng bu nó thấy đau quặn bụng, cái thai đang bắt đầu đạp mạnh đòi ra. Thằng cu hay cái hĩm này dữ đây. Bu nó vịn gốc cây đứng thở dốc một lúc cho dịu cơn đau rồi vội vã quay về. Khu ruộng chéo này cách nhà gần cây số, không biết có về kịp không. Về gần đến nhà, cơn đau ngày càng dữ dội, mồ hôi túa đầy mặt, mấy lần bu nó phải đúng tựa gốc cây để chống chọi cơn đau. Cố gắng lắm, cuối cùng bu nó cũng về được nhà. Vừa đến cửa, gạt cái cửa liếp để bước vào, bu nó gấp gáp gọi:

- Vạn lớn, vạn con đi tìm gọi cụ đỡ cho bu mau.

  . . . Vừa đến cửa, gạt cái liếp để bước vào, bu nó gấp gáp gọi:

- Vạn lớn, vạn con đi tìm gọi cụ đỡ cho bu mau.

Hai chị của nó biết tình hình gấp lắm vội vắt chân lên cổ chạy đi. Vịn vào thành giường bu nó đau quá, hét lên:

- Thầy nó ơi tôi chết mất.

Bỏ chiếc áo đang may dở, thầy nó chạy lại sốc hai nách định dìu bu nó lên gường thì thấy mặt bu nó đỏ gay, từ từ ngồi xuống đất hổn hển nói:

- Nó ra rồi.

Thầy nó cúi xuống nhìn vũng nước ối và máu, thấy một hài nhi con trai đỏ hỏn, mặt mũi nhăn nheo đang quẫy đạp dưới váy của vợ. Đúng lúc ấy cụ đỡ chạy vào. Cụ gạt thầy nó ra bảo:

- Bác lui ra tôi xem nào.

Cụ bế thằng bé lên, thận trọng lùa cái liềm đã chuẩn bị sẵn cắt dây rốn cho nó. Xong, cụ lấy sợi chỉ thắt dây rốn lại. Thấy thằng bé chưa khóc, cụ phát nhẹ vào mông nó. Thằng cu giật mình, khóc thét lên oe oe. Cụ mỉm cười chửi yêu:

- Cha tổ anh, con trai nữa đây. Vội thế ! Không để người ta kịp lên giường đẻ cho đàng hoàng, làm cho người ta phải đẻ rơi đây này.

Các anh chị nó xúm lại, ai cũng mừng vui vì có thêm cậu em trai. Hai chị nó dìu mẹ nó lên cái giường tre. Mẹ nó tuy còn mệt nhưng vẫn mỉm cười mãn nguyện, nhìn theo tay cụ đỡ:

- Con trai hả cụ ?

- Ừ ! Con trai. Thằng này nhỏ nhưng rồi chắc cũng khá. Có đầu có đuôi, nuôi lâu cũng lớn.

Nói rồi cụ khẽ khàng chấm rửa lau khô các vết máu, với tay vào cái tay nải tã lót, cụ chọn một cái mới nhất, mềm nhất đặt nó vào, quấn lại và nhẹ nhàng đặt nó nằm cạnh bu. Xong cụ quay sang thầy nó, bấy giờ đang rất phấn khởi đứng trước ban thờ thắp hương kính báo với tổ tiên, cụ hỏi :

- Thế bố thằng cu đặt tên nó là gì nào ?

- Nó là thứ mười, cụ cứ đặt nó là thằng Thập cho con cụ ạ.

Khấn xong, thầy nó trịnh trọng rút từ trong ruột một ống kẽm to bằng bắp đùi, nơi thầy nó cất quyển gia phả dòng họ, ông lấy chiếc bút máy Pắc-ke (Parker) của anh nó cẩn thận ghi nắn nót hai loại chữ, chữ nho và chữ Quốc ngữ với nội dung : « Nguyễn Trọng Thập, sinh vào giờ mùi ngày mồng sáu tháng chín năm ất mùi - tức 1955 ». Thế là chính thức nó có mặt và tên có tên tuổi trong cõi đời này kể từ đó.

   Lại nói về anh Can. Tuy đã tìm được gia đình, nhưng anh vẫn ở nhà nó để học nghề may do thầy nó dạy. Cuối năm năm nhăm, sau khi nó ra đời thì cũng là lúc anh Can lấy vợ. Tên vợ anh ấy là gì, bây giờ nó không thể nhớ vì có ai gọi tên chị bao giờ đâu mà toàn gọi là chị Can, theo tên chồng. Quê chị Can là làng Vay, gần ngay làng nó thôi và cùng ở trong xã nó. Tuy là gái nhà quê, lại hơn anh Can đến mấy tuổi, nhưng chị rất đẹp, người cao, da trắng, mặt xinh.

Anh chị Can lấy nhau được hơn một năm thì sinh được cháu My. Anh Can bấy giờ đã thôi học may để đi bộ đội. Khi cái My được hơn một tuổi, chẳng biết chuyện mẹ chồng nàng dâu « cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt » thế nào mà chị Can bế con bỏ về nhà ngoại. Hay tin, anh Can rất buồn. Rồi anh viết thư và động viên chị hết nhời nhưng chị vẫn không nghe. Tình hình rất căng thẳng, dễ anh chị sẽ bỏ nhau.

Thầy bu nó rất buồn. Ông bà vội lên nhà chị Can để có nhời với ông bà bên ấy. Thầy bu nó cũng nói hết điều hơn lẽ thiệt với chị Can. Sau cùng, mọi chuyện đã thông. Bu nó đích thân đưa chị Can về nhà chồng, bắt xin lỗi bố mẹ chồng. Bu nó cũng đứt lưỡi nói chuyện tình nghĩa với bố mẹ chồng chị Can. Người lớn đã thưa chuyện, con dâu đã xin tha, bố mẹ chồng chị Can cũng bỏ qua, gia đình chị Can từ bấy giờ rất yên ấm.

Về sau, anh chị đẻ thêm cháu Ly, cháu Nhưng và cháu Triển. Các cháu con anh chị, hưởng hết nét đẹp của bố mẹ nên đứa nào cũng xinh, trông cứ như Tây. Nó lúc nào cũng tự hào vì có mấy đứa trẻ đồng trang lứa gọi nó bằng chú, lại còn rất xinh đẹp nữa, nhất là con cái My.

Hết chương I

CHƯƠNG II TUỔI THƠ Không khí tưng bừng và hào hùng sau giải phóng tràn khắp mọi nơi, tràn vào từng xóm thôn, từng mái nhà gần xa hẻo lánh quê hương nó.

Sau "hòa bình lập lại", chủ trương của Đảng và Chính Phủ là kiện toàn và ổn định tổ chức các cấp lãnh đạo. Đánh đổ địa chủ cường hào, phong kiến bóc lột, tịch thu của cải và ruộng đất chia cho dân nghèo, để người cày có ruộng. Thực hiện vận động "bình dân học vụ" để xóa nạn mù chữ . . .

Thầy bu nó nói riêng và mọi người dân quê nó nói chung đều vui mừng phấn khởi tham gia các phong trào quần chúng. Để tránh thiên vị, cấp trên điều những cán bộ cốt cán từ địa phương khác đến thực hiện cải cách ở quê hương nó. Người địa phương nó lại được điều đi làm cải cách ở nơi khác.

Hôm đội về, làng nó tưng bừng lắm, cả làng ra đình mít tinh ủng hộ cách mạng, ủng hộ cải cách, Cán bộ đội phát biểu và giải thích với dân chủ trương của Đảng và chính phủ. Khẩu hiệu "Trí, phú, địa, hào – đào tận gốc, trốc tận rễ" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Ừ ! cường hào gian ác, tay sai cho địch, bóc lột dân nghèo thì phải triệt, nghe sướng lắm.

Xong cuộc họp, cán bộ được phân về ở tạm ở một số nhà dân. Gia đình nó cũng được tự hào nuôi hai trong số cán bộ cốt cán về làng khi đó.

Những ngày sau, đội cải cách thành lập tổ chức quần chúng gồm một số gia đình nghèo là bần cố nông vào lực lượng thanh niên xung kích. Đội này được trang bị súng trường, súng ngắn gậy gộc, dáo mác thường xuyên tụ họp ngoài sân đình để được huấn luyện thực hiện cải cách.

Thưa các bác và các anh em, TichTuongNhuLe tôi đọc đến đây rồi không gõ được nữa vì nước mắt cứ tuôn trào, không làm sao ngăn được. Chuyện cải cách ruộng đất, các bác lớn tuổi thì trực tiếp chứng kiến, ít tuổi hơn một chút thì được nghe kể lại. Tôi cũng được nghe kể rất nhiều chuyện, đau lòng lắm, không thể nào quên. Vậy mà bây giờ đọc đến đoạn chuyện này của Nguyễn Trọng Thập tôi vẫn không đừng được. Chuyện rất đau đớn và rất buồn. Là cái chuyện kẻ thù giai cấp bị đối xử như những con vật, còn những người kia thì đối xử với kẻ thù giai cấp theo cách mất hết tính người, . . .

Chuyện như thế không thể post lên đây được. Xin mọi người thông cảm ! TichTuongNhuLe đã đề nghị Nguyễn Trọng Thập cho phép "cắt cúp" 16 trang, gọi là tự kiểm duyệt trước, khỏi bị "nhà đương cục" VMH "cấm cửa" thì "nghỉ chơi".

Tóm tắt mười sáu trang ấy là như thế này:

Trong "Cải cách ruộng đất", thầy bu Nguyễn Trọng Thập cũng "được lên thành phần". Ông bà bị bắt, bị giam và bị đưa ra đấu tố. Lúc bấy giờ Nguyễn Trọng Thập là đứa hài nhi đỏ hỏn trong tay mẹ, cũng bị giam cùng cha mẹ, bị ra đấu tố, bị ném các thứ bẩn thỉu vào người vì mẹ nó không che chở hết. Thằng bé bị sốt cao, sắp đi đến nơi (chắc là viêm phổi cấp do lạnh), may nhờ cầu cứu được y tá tiêm cho một mũi trụ sinh. Thằng bé hạ nhiệt được vài ngày thì lại sốt cao trở lại do mũi tiêm bị áp-xe (abcess). Cái dải khoai bé nhỏ dặt dẹo đó chống chọi với cái chết và bằng cách nào đó, nó đã lừa được tử thần. Cứ như vậy không biết bao nhiêu lâu, cho đến khi có lệnh sửa sai.

Chuyện đấu tố còn có nhiều nhân vật khác và nhiều chuyện khác nữa. Tóm lại, rất tệ ! . . . 

   Tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 9 tuyên bố các sai lầm trong cải cách ruộng đất. Quyết định sửa sai về cũng là lúc hết mùa đông. Mùa xuân đến, cả làng nó bừng tỉnh. Những cán bộ đội từng vi phạm nghiêm trọng trong cải cách lập tức bị điều đi. Một số thành phần cốt cán sau sửa sai phần thì xấu hổ với dân làng, phần thì lo bị trả thù, đều tìm cách rời bỏ quê, trốn biệt tăm tích. Đặc biệt là cô con dâu, bịa chuyện, tố bố chồng hiếp mình, ngay đêm ấy vội bỏ con, trốn khỏi làng, về sau chết mất xác ở đâu tới nay không ai rõ.

Thời gian đã chữa lành vết thương, lòng vị tha, sự sám hối cũng góp phần làm dịu đi nỗi đau thương, chua xót một thời. Làng nó dần dần bình yên trở lại, chung tay xây dựng xóm thôn. Thầy bu và nó được thả về, cả nhà đoàn tụ. Ngoài sân, những búp non đã hé nụ đâm cành, cây đào cổ thụ nhà ông họ nó trong làng rực hồng khoe sắc thắm. Thầy nó vào chúc Tết ông và xin ông một cành đào. Mấy anh chị sát trên nó sướng lắm, tung tăng theo thầy vào nhà ông rước cành đào về, vừa đi các anh chị vừa nhảy chân sáo đánh nhạc mồm, tưng tưng tưng tưng, vui như rước hội. Tết năm ấy dù nghèo nhưng hạnh phúc.

Thầy nó lại mở hàng may vì được đội trả cho cái máy. Còn các đồ đạc khác bị thu, đã bị tiêu tán hết, không biết đi đâu ?! Thì thôi . . . ! Nhà bây giờ nghèo lắm. Bu nó gom góp, đi bán mấy cái nồi đồng dấu được cộng thêm vay mượn bạn bè ít vốn, bu xoay ra buôn thúng bán mẹt trong chợ, chỉ là một mẹt trầu cau. Bu nó cũng lo cho chị cả một mẹt hàng tạp hóa ngay kế bên mẹt trầu của u.

Ở sát cổng tiền thôn trên có nhà ông Tư Nắng, là một gia đình nông dân, to họ dài dòng, có vai vế trong làng. Ông có người con trai cả tên là Thưởng. Anh này cao lớn, béo và hơi đen. Tính tình thật thà ít nói, chất phác, chân quê. Anh đi bộ đội từ khi mới mười bốn tuổi. Năm hai mươi tuổi anh được bố mẹ cưới vợ ở quê cho, trong khi đơn vị anh đóng quân ở Thái Nguyên. Ở nhà, vợ anh phải lòng trai bị anh phát hiện được. Hai năm sau anh bỏ người đàn bà đó.

Chị cả Biên nó, tuy đã một đời chồng nhưng trông cũng khá đẹp, người cao, trắng trẻo, nhanh nhẹn, tháo vát, ngoan ngoãn, chỉ tội giống bu nó nên hơi bị vổ, nhưng mà là "vổ đẹp". Qua mối mai anh Thưởng kết chị lắm, liền hỏi cưới ngay. Bấy giờ chị đã hăm bẩy, anh Thưởng đã là thiếu úy, đại đội trưởng, pháo binh bảo vệ khu gang thép Thái Nguyên. Cưới nhau xong, anh chị nó xin phép hai gia đình lên Thái Nguyên lập nghiệp. Vì nhà nghèo, lại đông con, thêm nữa hai chị lớn đều sinh cháu nhỏ nên thày bu nó đồng ý cho chị Thất đi theo vợ chồng chị cả Biên lên Thái Nguyên. Chị Thất lên Thái Nguyên bế cháu cũng là bớt được một miệng ăn.

  Chị hai nó là chị Dụng lấy anh Chí từ trước cải cách, đến năm năm tám thì sinh được cháu gái đặt tên là Văn. Bấy giờ anh Chí đang làm cần vụ cho ông Trần Duy Hưng, nên cả nhà chị chuyển ra Hà Nội sống. Chị Thơ nó cũng lại đi theo ra Hà Nội để bế cháu. Cu Thập bấy giờ cũng đã được ba tuổi.

Vùng quê sau những năm cải cách rất hoang tàn và nghèo khổ. Hiệu may thầy nó chỉ có khách đến cắt quần đùi, vá mông vá đầu gối, vá vai, lôn cổ áo, lộn ống quần. Không đủ việc làm, thầy nó đành ra Hà Nội vào hợp tác xã may gia công Quyết Tiến ở phố Huế.

Thầy và anh chị nó mới ra chưa được phân nhà nên xin ở nhờ nhà bà cô họ giàu có là cụ Xếp Ban ở số xxx phố Huế. Mấy tầng dưới bị nhà nước trưng thu làm cửa hàng ăn uống cơm tám, giò chả. Gia đình cụ ở tầng tư. Nóc tầng tư là mái nhà thì cho thầy nó cùng anh chị Dụng, Chi và chị Thơ ở nhờ. Xin được một ít giấy dầu, gỗ dán thùng hòm cũ, thầy và anh chị nó thưng lên được một gian nhà rộng hơn chục mét vuông, kê được một cái giường đôi cho anh chị nó ngủ. Phía đối diện, thầy nó kê môt tấm ván lên mấy hòn gạch làm cái giường ngủ. Ở giữa nhà kê một cái tủ con cũ xin được. Dưới cái tủ là tấm ván nữa, ban ngày để ngồi ăn cơm, tối là giường của chị Thơ (Vận lớn), ngăn cách với giường anh chị Dụng bằng một cái ri-đô. Ngoài hiên, vẩy ra được hơn mét vuông làm bếp. Thầy nó gửi phiếu gạo và mấy đồng tiền ăn cho chị Thơ lo cơm nước cho cả nhà.

Đầu năm năm sáu, anh Bính 18 tuổi mới học xong Xe-ti-phi-ca. Anh đã có vợ lúc mới 13 khi còn trẻ con, không biết gì. Nhà có giỗ anh nó còn nhèo nhẽo bám theo vợ đòi luộc đuôi lợn, chân gà. Lớn thêm một chút, bị bạn bè trêu trọc chuyện vợ, anh đâm chán, rồi chê vợ, bỏ xuống nhà chú ruột ở Hải Phòng. Chú có đứa con trai tên Ban, kém anh Bính một tuổi. Hai anh em được chú xin cho học cơ khí ở Hải Phòng.

Ở nhà, chỉ còn bu nó, chị Vận con, anh Bát và chị Bỉnh vợ anh. Chị Thất ở với anh chị Biên trên Thái Nguyên được hai năm. phần vì chị Biên nó cũng nghèo, cô Tài Câu nó đông con cũng nghèo, phần vì nhớ nhà, chị Thất lại quay về với bu. Nhà nó, thành ra có sáu miệng ăn.

   Dù nhà nghèo nhưng cu Thập thấy nghĩa tình đầm ấm lắm. Nó được các anh, các chị yêu chiều vì là em út, lại sinh ra đúng vào lúc gia đình khó khăn. Cu Thập gầy yếu nhất nhà, lại sài đẹn, ốm quặt ốm quẹo.

Bu nó đi chợ trầu vỏ, các chị thì đi làm đồng. Nó ở nhà thơ thẩn chơi một mình cả ngày, từ trên nhà, ra sân rồi vào trong bếp. Thú vui say sưa nhất của nó là chiến đấu với lũ kiến. Nhà nó đun rạ, tro nhiều lắm, lâu lâu lại đùn lên cao một đống lùm lùm. Các chị nó phải xúc tro đổ vào cái thùng chứa trong nhà xí, hoặc đổ vào chuồng lợn. Tro bếp cộng với rơm khô cho lợn nằm rất ấm và sạch. Tro nhiều quá thì gánh ra ruộng rắc xuống làm phân cho lúa hoặc rắc vào ruộng bèo hoa dâu, chống rét cho bèo.

Bề ngang sân sau rộng hơn mười hai mét, bớt lại chừng sáu bẩy chục phân giọt gianh, giáp nhà bà Thưa lác hàng xóm, thầy bu nó xây nhà bếp năm gian. Hai gian đầu đặt cối giã gạo, cối xay lúa, dụng cụ làm đồng như dậm, giỏ, nơm, gầu dai, gầu sòng, thúng mủng, cày bừa, thừng, chão...

Gian giữa làm bếp đặt sáu ông đầu rau cho hai bếp. Những ông đầu rau nặn bằng đất sét trộn trấu được đun nấu nhiều nên cứng đanh lại và đen sì. Bếp ngoài đun rơm dùng để nấu cơm và thức ăn. Sát cạnh đó kê mấy hòn gạch, đặt ghé vào đó một nồi nước để tận dụng sức nóng của bếp rơm. Bếp trong đun củi, dùng để nấu cám lợn.

Hai gian còn lại được ngăn bởi một bức tường mười, thu hồi, chịu lực. Đây là chuồng lợn và nhà xí. Trong chuồng lợn luôn luôn có một con lợn nái già rất dữ và hai con lợn cấn. Nhà xí được xây cao lên một mét, đặt ngang mấy đoạn tre, cửa che toòng teng một miếng bao tải cũ, cáu bẩn. Đi vệ sinh phải bước trên chiếc cầu ghép bằng hai cây tre nối từ cửa vào, qua chuồng lợn. Chiếc cầu tre bập bà bập bềnh rất nguy hiểm, nhất là khi lợn đẻ, lợn mẹ hộc lên rất dữ để bảo vệ con. Đi qua đó, phải cầm cái que dài, vừa làm gậy chống để giữ thăng bằng, vừa làm vũ khí để chống lợn. Đang ngồi mà lợn nó hộc tới thì phải dùng gậy mà quật.

Toàn bộ nhà chính, nhà ngang, nhà bếp đều được xây bằng gạch non không trát áo, mái lợp rạ. Lâu ngày, những viên gạch non ngâm nước mòn dần, bột gạch tơi ra từng đám, đỏ quạch. Nấm "can-xi" mọc lông tơ trắng xóa tua tủa trên những viên gạch ẩm mục. Mấy đứa nhà nó thường cạo lấy bột nấm, trộn với diêm sinh đem làm pháo chơi Tết.

   Chạy men các mép tường ngoài là đường hầm ngoằn ngoèo của đàn kiến lửa, đỏ rực. Kiến hành quân trong con đường hầm đó do chúng đắp bằng một loại đất trộn với nước rãi, mầu nâu nhạt, khô cong như bột cát. Nó hay phủ phục xuống theo dõi đàn kiến đi, lấy các vỏ bao diêm, vỏ hộp, cát làm chướng ngại vật để chắn đường đường đi của kiến. Nó còn kiếm được một cái xi lanh thủy tinh có cả kim tiêm để làm vũ khí đánh nhau với kiến. Nó hút nước đầy xi lanh, nằm phục kích, đánh chặn lũ kiến. Tên kiến nào dũng cảm bò lên, lập tức đại bác nước của nó phun ra tấn công, phằng phằng, phằng phằng...

Trò chơi của nó kéo dài đến khi chị dâu nó đi làm đồng về. Chị dâu nó, tay dắt trâu, vai vác cái cày. Chị buộc trâu vào gốc ổi, quần áo lấm lem nhưng cạp quần bao giờ cũng lận lên, cất một thứ gì đó làm quà cho nó. Nó hồi hộp chờ đợi chị nó lấy cái rá mà xổ cạp quần ra, lúc thì vài con cua đang lột dở, lúc thì vài con cào cào, châu chấu, niềng niễng, muồm muỗm hay mấy con cà cuống. Nó sung sướng lắm, hét rất to và nhẩy cẫng lên. Nó sà xuống ngồi bên chị khi chị nấu cơm và lại chờ.

Chị nó xâu các con vật vào cái que tre vót nhọn rồi nướng trong ngọn lửa. Mùi thơm phưng phức tỏa ra làm nó thèm rỏ rãi, cụ cựa không yên, mắt chăm chăm nhìn vào xâu thức ăn. Xâu thức ăn đưa cho nó, nóng hôi hổi, nó chẳng đợi được đến lúc nguội mà vội vàng vừa thổi phù phù vừa chén ngay. Mồm nó vừa nhai nhồm nhoàm vừa xuýt xoa vì nóng.

Thỉnh thoảng chị nó lại lấy que cời, cời nhanh những hạt thóc dính trong rơm, nổ bỏng, trắng lốp. Nó cứ thế mà nhặt, tém tẻm ăn. Đến khi nấu xong cơm thì mồm mép, tay chân, mặt mũi nó nhọ nhem nhọ thỉu. Chị lôi nó ra giếng, kéo gầu, múc nước dội ào ào cho nó, nước giếng khơi trong vắt và mát lạnh. Nó được chị tắm rửa, kỳ cọ rất kỹ. Thằng bé sướng lắm, cười khanh khách, vừa tắm vừa đùa nghịch đập nước tòm tọp làm nước bắn tung tóe cả lên mặt, lên người chị nó.

Khi chị thay quần áo cho nó xong thì cũng là lúc cả nhà nó về đông đủ. Cả nhà nó quây quần bên mâm cơm. Nó được đơm một bát cơm đầy, chan canh cua, thêm hai miếng cà non nén, phơn phớt xanh, dẻo quẹo, rồi còn rắc lên trên mấy con tép kho khô nữa. "Ngoong" quá !

Nó bưng bát cơm ra cửa, vừa ăn vừa ngắm phố. Cuộc đời chẳng thể sướng hơn. Mà sướng thật đấy, tắm xong ai cũng khen trắng quá, đẹp trai quá. Nó nghĩ thế thật nên đứng ở cửa, vừa ăn cơm vừa hát xí la xí lố, vừa hóng người qua lại. Nó hát xí lố như thế vì không thuộc bài hát nào, nhưng nó hát vì nó đang sướng và để thu hút chú ý của người đi đường. Trong bụng nó chắc mẩm, ai trông thấy nó cũng phải tấm tắc mà thầm khen rằng nó đẹp và tưởng nó là con Tây. Lớn lên, nhớ lại nó thấy thật buồn cười, nhưng hồi đó nó thật sự rất hạnh phúc.

  Bên ngoài cửa gian buồng xay giã, thầy bu nó vẩy ra bốn tấm tôn cũ, xếp gạch xung quanh làm thành một cái kho nhỏ để chứa các bao tải trấu. Dưới cái mái tôn ấy đặt một dãy chum tương rất to. Một bận, chán đánh nhau với kiến nó nghĩ ra trò nặn. Nó đi moi đất sét ở ngoài ao về hòa nước rồi nhào kỹ cho đến khi đất dẻo quánh. Hôm đó nó hì hục nặn một con trâu, to bằng cái ống bơ bò. Nặn xong, nó nghiêng bên nọ, ngả bên kia để ngắm nghía tác phẩm vĩ đại mới hoàn thành. Nó cẩn thận đặt con trâu lên một hòn gạch, rồi bắc ghế, kiễng chân đặt hòn gạch có con trâu lên mái tôn để phơi nắng. Hôm đó trời nắng, nó được giao trông thóc mà chị nó rải ra sân phơi từ lúc sáng. Nặn trâu, đem phơi xong, nó quay ra dũi thóc. Chị nó dặn thỉnh thoảng phải dũi một lần cho thóc chóng khô.

Chiều hôm đó khi dọn cơm, chị nó ra lấy tương để chấm rau muống, bỗng giật mình, chị gọi giật giọng:

- Bu ơi ! Ai làm vỡ hai chum tương rồi đây này. Bu ra ngay đây mà xem.

Bu nó chạy xuống, sững người khi nhìn thấy hai chum tương to tướng, đồ ăn suốt năm của cả nhà đã vỡ tan. Tương vàng nâu chảy lênh láng, tràn cả ra tới tận hai gốc ổi. Bu nó tức lắm, quát tháo, tra xét cả nhà. Thình lình, chị nó nhìn thấy hòn gạch cùng con trâu đất nằm trong vũng tương, giữa đống chum vỡ. Chị hét lên:

- Bu ơi ! Chắc chắn thằng Thập nó phơi con trâu trên mái tôn, trượt xuống làm vỡ chum đấy . . . !

Ở trên nhà, nghe thấy thế, nó sợ quá. Ghé mắt qua khe cửa nhìn xuống, thấy bu nó đang bẻ một cái que to lắm. Nhanh như cắt, nó chạy vụt vào buồng chị dâu, chui ngay xuống gậm giường, bò tít vào bên trong. Nó nghe thấy ngoài sân tiếng bu nó quật roi đen đét vào cái bừa ở ngoài gốc cây, lớn tiếng quát :

- Thằng Thập đâu rồi ? Chúng bay, đi tìm ngay thằng Thập về đây cho tao. Tao cho nó một trận.

Nằm trong gầm giường, nó sợ quá, trống ngực đập thình thịch, tay chân run rẩy. Nó nép sát người vào góc gầm giường hôi hám, đầy mạng nhện. Rồi nó nhìn thấy hai con cóc cụ ngay gần đấy, đang giương mắt nhìn nó. Một lúc lâu, nghe ngóng thấy ở ngoài có vẻ đã trở lại bình thường, nghe tiếng bát đũa dọn mâm kêu lách cách. Rồi mùi canh cua, mùi cơm, mùi cá thơm phưng phức cứ quấn quýt tràn ngập mũi nó làm nó cồn cào hết ruột gan. Mặc dù đói lắm và thèm lắm nhưng nó chẳng dám ra. Nó rón rén bò ra khỏi gậm giường, len lén bước đến sát cửa. Hé mắt vào khe cửa nó nhìn bu nó và các anh chị đang đang ăn mà nuốt nước bọt ừng ực. Bỗng nó giật mình khi nhìn thấy cái que to tướng đặt bên cạnh bu nó.

Tần ngần một lúc, nó quay trở lại giường. Nó trèo lên giường, chùm chăn kín, ôm cái bụng đói meo. Nó nằm im suy nghĩ đến tội lỗi mà nó đã gây ra, nó đâu có cố tình, nó đâu có biết là hòn gạch lại trượt xuống đúng chum tương, rồi nó lại tưởng tượng ra cảnh đang ăn uống ở ngoài kia mà cảm thấy tủi thân quá. Tự dưng nước mắt nó lăn dài trên má. Nó không biết là nó ngủ khoèo đi từ lúc nào.

   Nó giật mình tỉnh dậy khi có ai đó đập nhẹ vào nó. Một bàn tay ấm nóng, dịu dàng nâng đầu nó dậy, nó dụi mắt thấy chị dâu đang ở trước mặt. Chị đưa cho nó một bát cơm to, một quả chuối và một cốc nước vối. Đang đói, nó cầm lấy ăn ngấu nghiến. Tối hôm đó, nó ngủ trong buồng cùng chị dâu.

Trưa hôm sau, chị Vận lớn nó ở Hà Nội về chơi nghe tin nó đánh vỡ chum tương, chị thu xếp quần áo cho nó ra Hà Nội chơi vài ngày. Nó mừng lắm vừa thoát khỏi bị đòn vừa được đi chơi. Tối hôm đó, bế nó ngồi trong lòng, thầy nó hỏi :

- Sao ở nhà con lại nghịch làm vỡ chum tương của thầy ?

Nó ngơ ngác hỏi lại:

- Sao thầy lại biết ?

Thầy nó chỉ ra cây cột điện có những sợi dây chạy vắt ngang:

- Ở nhà có chuyện gì, con ngoan hay con hư là thầy biết hết. Bu lấy cái sào gảy rơm gõ vào dây thép, đánh điện cho thầy. Chuyện gì ở nhà thầy cũng biết hết. Con ở nhà phải ngoan, nghe lời bu và các chị, nếu không thầy sẽ rất buồn, nghe chưa ?

- Vâng !

Chị Dụng nó đang nuôi con nhỏ, ở nhà trông con. Cái Tuyết Văn cháu nó chưa đầy một tuổi, trông rất xinh. Nó quý cháu lắm, thỉnh thoảng lại chạy vào vuốt má cháu nó một cái. Nó thích nhất là mỗi khi chị nó cho cháu bú. Chị lấy cái nắp phích, vắt sữa hoi vào đó. Vắt xong chị réo gọi nó để cho nó uống. Thường thì nó đang chơi ở cầu thang, cúi nhìn các quán hàng ăn tấp nập người ra vào, mùi thức ăn bay lên điếc mũi. Nghe chị gọi, nó dạ một tiếng rõ to rồi chạy ù lên. Cầm cái nắp phích sữa, nó tu đánh ực một cái, vẫn còn thòm thèm lắm, nó liếm mép vòng quanh mấy lượt. Vừa nhìn cháu nó bú, nó vừa lấy tay áo quẹt ngang để chùi mồm, chùi luôn cả cái mũi thò lò cố hữu của nó. Cánh tay áo nó dính đầy mũi, lúc nào cũng cứng quèo, bóng nhẫy.

Khi cháu nó cai sữa, chuyển sang ăn bột, niềm vui của nó là được vét xoong. Mỗi khi đổ bột ra đĩa, nó hồi hộp nhìn theo tay chị nó vét bột trong xoong, nó chỉ uớc chị đừng vét bột kỹ quá để nó còn mót được tí. Nó vét cẩn thận lắm, từng ly từng tí một. Đáy nồi đã sạch, nó nghiêng cạnh thìa cạo kỹ vào góc xoong, vét nốt tý bột cuối cùng. Vét xong, nó còn thè lưỡi vào lòng xoong liếm láp như con mèo và tận hưởng vị ngọt của đường, của bột, tan ra, ứa trong chân răng nó.

  Thỉnh thoảng nó được theo thầy đến chỗ làm. Đó là hợp tác xã may đo Quyết Tiến cũng ở ngay phố Huế. Các bác, các cô, các chú quý nó lắm, bao giờ cũng cho nó quà. Nó thích nhất là món bi ron ron. Lão người Tầu có cái hộp kính đặt trên cái ghế xếp đóng hình chữ X. Giọng lão lơ lớ, khê khê :

- Bi roong roong . . .
Cái bi roòng roòng . . .
Cái bi ngoọc ngoọc tlê . . .

Những viên ron ron trắng ngà, phủ một lớp đường bột mỏng tang, tròn xoe như những hòn bi, bốc mùi va-ni thơm phưng phức. Lão Tầu lấy cái ki nhỏ bằng nhôm trắng bóng xúc bi vào cái túi giấy quấn hình phễu nhọn hoắt. Bao giờ lão cũng có động tác thêm thêm cho một hai viên rồi lão mới bẻ gập miệng phễu lại và đưa cho nó. Nó rón bi cho vào mồm, sung sướng thưởng thức những hạt bi thơm, ròn tanh tách vỡ ra trong răng, vị ngọt và béo cứ tan ra trong lưỡi. Hương vị của đó cứ phảng phất đi theo nó vào cả giấc ngủ, vào tuổi thơ và kỷ niệm, cho đến tận lúc già.

Nó sợ và bực nhất là bọn trẻ con phố Huế. Chúng nó chặn đường, trêu trọc, bắt nạt nó:

- Ê ! Thằng nhà quê . . .
- Ê ! Thằng tẩm . . .

Nó tức lắm mà không làm gì được. Nó ước: "giá mình được là người Hà Nội".

Khi nó lên sáu, bu cho nó đi học vỡ lòng, hơi sớm một tí vì nó còn thiếu mấy tháng. Nó đến lớp vỡ lòng với cái túi vải bạt thầy nó may cho, đeo tòng teng trước ngực. Nó tự hào lắm, vênh vang, rảo bước trên đường làng đi đến lớp ở điếm ngõ Sài. Về sau này nghe kể lại nó mới biết, chỗ đó là nơi nó bị giam lúc mới lọt lòng cùng thầy bu hồi "cải cách ruộng đất".

Thày dạy nó đầu tiên là thày Hưng "Sứt". Môi trên của thầy bị sứt bẩm sinh, hở ra một hình chữ "V" lộn ngược, như môi con thỏ, trông rất ngộ. Vậy mà, lớp nó đứa nào cũng yêu quí thầy. Nếu đứa nào ở lớp khác gọi thầy nó là Hưng Sứt là lập tức chúng nó đuổi đánh. Có những lúc trận chiến ác liệt, chúng quăng cặp và sách vở, nhảy vào quật nhau ngay trong lớp hoặc ngoài sân. Nhiều bận, mấy đứa sứt đầu mẻ trán chỉ vì bảo vệ thày.

Thầy Hưng nghiêm khắc lắm, đứa nào hư, không thuộc bài, rửa tay không sạch, thày bắt xòe tay để trên bàn, vụt vào lòng bàn tay, đau lắm ! Nhưng sợ nhất là bị thầy phạt, bắt đứng vào góc lớp đặt cái thước gỗ bẹt lên đầu. Nếu động đậy thước rơi là thầy quật chết. Nếu hai đứa cùng bị phạt thì có thước dài hơn để chung lên hai đầu. Đứa cao, đứa thấp, đứa đứng yên, đứa ngọ nguậy, rất khó giữ thước không rơi. Hễ thước rơi là bị phạt đứng lâu hơn. Đứa nào cũng sợ.

  Cuộc sống cứ thế êm ả trôi. Buổi sáng nó đi học, trưa về ăn cơm, chiều nhông nhổng đi chơi. Mùa hè nó đánh độc một cái quần đùi thắt dải rút, đồ thừa của anh nó. Vác bát ô tô cơm to tướng có mấy miếng cà non xé chạy nhong nhong ra cửa, vừa ăn vừa hóng cảnh người và xe đạp đi qua đi lại. Buổi chiều, nó ra sân trường cấp hai hoặc ra cổng huyện chơi cùng các anh chị và các bạn phố nó, bắn bi, đánh khăng, . . . Nó với anh Bát nó bắn bi giỏi lắm. Khi đi chỉ mang theo hai ba chục viên bằng đất sét tự nặn (quê nó bấy giờ chưa có bi ve hoặc bi nung sơn màu xanh đỏ như sau này) thế mà chiều về anh em nó ăn được hàng ống bơ sữa bò đầy mỗi người phải có suýt trăm viên. Được nhiều bi, anh em nó thường kiếm hộp sắt to có nắp, đổ bi vào đem chôn giấu ngoài vườn. Nó cũng thường đổi bi cho đứa khác lấy các đồ chơi khác. Thích nhất là đổi được diêm để làm pháo.

Hãy tưởng tượng một chút, mùa đông nó được mặc quần dài và áo ấm hẳn hoi, toàn đồ cũ của các anh chị, chả bao giờ có quần áo mới. Nhà nghèo lại đông con, thầy bu nó thường mua quần áo cho anh chị lớn, mặc cũ, hoặc ngắn lại chuyển cho em kế sau, nếu vẫn cũ và ngắn nữa thì lại chuyển xuống cho em sau nữa. Nó là út ít, thứ mười, thì làm sao có quần áo mới. Hôm nào rét đậm, các chị nó lấy cái áo bông cũ của bu nó, sắn tay lơ-vê ba lớp đem mặc cho nó. Thắt quanh bụng áo một cái dây "thắt lưng" bằng vải, hay dây chuối, thậm chí, dây rơm. Chiếc áo ấm lắm, chỉ tội dài quá, vừa đi vừa quét đất. Được cái, các chị rất chiều nó, thường bỏ vào túi áo trong một nắm thóc nếp rang. Nó cắn chắt luôn mồm, thú lắm. Chiếc áo dài lòa xòa như thế khi đánh bi còn được chứ đánh khăng hay đá bóng thì ngã liên tục, rất khó đứng dậy. Hay nhất là vật nhau thì ngã chẳng đau mấy, có khi còn khoái là đằng khác.

Một năm đôi ba lần, làng nó có đội chiếu bóng về phục vụ. Mỗi lần chiếc xe bò chở máy nổ, cọc phông, máy chiếu về làng thì lúc đó quả là một ngày hội, nhất là đối với lũ trẻ con chúng nó. Chúng thường rồng rắn chạy theo xe, í ới reo hò, đánh nhạc mồm tứng từng tưng. Nhà nào cũng rậm rịch, chiều đến nấu cơm, ăn sớm để đi xem. Nó cùng anh chị nó ăn cơm trước, ôm chiếu rách ra bãi, sớm hàng mấy tiếng, trải xuống xí chỗ. Chỗ tốt nhất là ở giữa, gần sát với phông. Xí chỗ xong, các chị nó về nhà làm nốt việc, nó và anh nó được cắt cử ở lại trông chiếu và sẵn sàng chiến đấu với bọn trẻ con để "bảo vệ lãnh thổ". Sau khi "hoạch định biên giới" rõ ràng, nó yên tâm nằm khểnh ở đó, tò mò theo dõi các cán bộ văn hóa đóng cọc căng phông lắp máy chiếu và thử micrô :

- A lố, a lồ . . . , một hai ba bốn . . . , một hai ba bốn . . .

  - A lố, a lồ . . . , một hai ba bốn . . . , một hai ba bốn . . .

Âm thanh chỉnh xong, chị thuyết minh dõng dạc thông báo :

- A lô, a lô . . . ! Đồng bào chú ý . . . ! Hôm nay đội chiếu bóng "Hai Mười Bẩy" của tỉnh Hưng Yên chúng tôi về đây phục vụ đồng bào hai bộ phim. Bộ thứ nhất là phim hoạt họa "Đáng Đời Thằng Cáo". Tiếp theo mời đồng bào xem bộ phim truyện "Chung Một dòng Sông" của đạo diễn Nguyễn Hồng Nghi và Phạm Hiếu Dân. Đây là bộ phim về mối tình của đôi trái giá Vận và Hoài. Một mối tình đẹp thơ mộng và thắm thiết giữa người con trai và người con gái sống bên hai bờ sông Bến Hải, con sông đã chia cắt hai miền Nam Bắc. Hai người có đến được với nhau không sau bao nhiêu cách trở ? Xin đồng bào chú ý đón xem ! Giá vé đồng loạt, người lớn một hào, trẻ em năm xu, trẻ em dưới sáu tuổi đi kèm người lớn không phải mua vé. Buổi chiếu bóng được bắt đầu vào mười chín giờ ba mươi tối nay. Kính mời đồng bào thưởng thức.

Tiếng thông báo được chị thuyết minh nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Xen vào giữa đó là âm nhạc và các bài hát cách mạng được phát ra từ một chiếc máy quay đĩa.

Nó còn nhớ, hồi còn bé tí được xem phim hoạt họa "Đáng Đời Thằng Cáo", "Chiếc Vòng Bạc", "Chú Thỏ Đi Học", . . . Lớn lên một chút, cũng ở bãi này, nó được xem "Ông Già Khốt Ta Bít", "Vua Săng Tan", "Những Kẻ Báo Thù Không Bao Giờ Bị Bắt", "Chim Vành Khuyên", "Vợ Chồng A Phủ", "Chị Tư Hậu", . . .

Trên hai cái cọc tre cao làm cổng bãi chiếu bóng, người ta dong hai bóng đèn điện sáng trưng, lấy điện từ cái máy nổ to đặt ở góc sân. Cái cổng này chính là cửa soát vé. Từ đây, dây thừng bắt đầu được chăng, nó chạy bao xung quanh bãi chiếu. Những chỗ ngõ nghách, hoặc lùm cây có thể luồn vào bãi đều có dân quân đeo băng đỏ đứng canh giữ đề phòng mấy ông choai choai chui vào xem lậu. Xa cổng một chút là bàn bán vé. Mua vé xong, mọi người thẳng tiến qua cổng, nơi có hai người của đội chiếu bóng đứng hai bên để soát và xé vé.

Vào trong bãi, mọi người tự do tìm chỗ ngồi. Thường là những người già, trẻ con và các anh chị có gia đình rồi thì yên vị và nghiêm túc ngồi xem. Còn đám thanh niên nam nữ chưa vợ chưa chồng hay chọn đứng vòng ngoài để di chuyển cho thuận tiện. Các cô thanh nữ thường tụm thành một đám. Đám con trai thì đứng gần đó, mon men làm quen, đưa đẩy, tán tỉnh, hẹn hò. Đôi nào ưng nhau thì bí mật nháy nhau tách ra. Người trước, kẻ sau, bỏ xem ngang chừng, tìm chỗ tối đứng yêu nhau vụng trộm. Đó là về sau này, chứ hồi nó còn nhỏ chuyện đó rất hiếm, ai cũng giữ ý, người nọ nhìn người kia. Bãi xem chiếu bóng làng nó, thế mà cũng làm cho khối người thành đôi đấy.

Lúc tan phim ra về, cả đoàn người rùng rùng chuyển động tản dần về các xóm. Nó biết đường nên thường tách khỏi anh chị. Nó giang hai tay ra như cánh máy bay, mồn kêu ẻn èn en . . . như tiếng động cơ, vừa chạy vừa chao liệng ngoằn ngoèo len lỏi trong dòng người, rẽ mọi người ra mà chạy. Nó thích chơi trò này lắm.

Những khi có chiếu những bộ phim hay đặc sắc, người đi xem rất đông gây ra chen lấn xô đẩy. Lần đó, chiếu phim "Nghêu Sò Ốc Hến", người xem đông quá, xô đẩy đổ cả máy chiếu, cọc phim, rồi dẫm đạp lên nhau làm chết mấy mạng. Thật là kinh khủng !

  Nó rất yêu nghệ thuật, ham đọc sách và có năng khiếu vẽ. Mới có chín tuổi, nó đã nổi tiếng cả vùng vì khả năng vẽ bẩm sinh. Các anh chị lớn hay nhờ nó đánh bóng chữ, viết chữ lồng vào sổ tay, vào khăn mùi xoa để thêu tặng nhau, để khâu vào nón. Những chữ nó thường phải viết đại thể như kỷ niệm, nhớ mãi, đừng quên, . . . . Thậm chí, nhà cụ Ký Bắc mở tổ HTX khâu nón trắng bài thơ, khâu thảm len, thảm gai, còn phải lên xin với bu nó, ngoài giờ học cho nó xuống huyện viết chữ lồng khâu vào nón theo đơn đặt hàng của cụ. Có khi là vẽ lại các mẫu thêu ra bìa để làm dưỡng thêu. Mỗi tháng cụ Ký trả cho bu nó mấy hào tiền công. Bu nó nhét tiền vào ống tiết kiệm bằng tre để giữ cho nó.

Đến Tết, được nhiều tiền, bu chẻ ống tiết kiệm ra, lấy tiền mua giầy dép, mua diêm cho nó làm pháo. Nó thích trò làm súng lục, nhét vào đó một cái van xe đạp hỏng, nhồi thuốc diêm vào đó. Khi bóp cò, cái "búa" phía sau ghì bằng dây chun mới bung ra, gõ vào thuốc diêm làm súng nổ. Nhiều đứa trẻ con đồng lứa nó rất thích. Nó liền vượt tường rào trường cấp hai xã, nhặt nhạnh chân ghế, chân bàn gãy mang về làm một loạt súng lục để bán cho bọn chúng lấy tiền tiêu Tết.

Thầy nó làm thợ may ở Hà Nội được có vài năm thì hợp tác xã may đo giải tán. Thày nó mang máy khâu về nhà mở lại hiệu đồng thời vẫn là thành viên hợp tác xã may của Huyện, chuyên may hàng gia công cho nhà nước. Thầy nó là lao động bán nông nghiệp nên chỉ được hưởng 50% tiêu chuẩn của tem phiếu công nhân. Một tháng tiêu chuẩn của thầy được đong bẩy cân gạo cộng với phiếu vải hàng năm. Các tem phiếu khác như đường, xà phòng, thuốc đánh răng, đậu, thịt và các nhu yếu phẩm khác thì hầu như không có. Nếu cả năm lao động đạt và vượt mức chỉ tiêu thì may lắm được thưởng vài lạng thịt, đậu các loại. Bu nó và các anh chị thì không ai có tiêu chuẩn tem phiếu. Cho nên, tuổi thơ của nó hầu như không có khái niệm đường sữa, bánh kẹo hay thịt thà.

Dịp Tết năm ấy có một việc về anh Bính và chị dâu làm nó nhớ mãi. Hôm đó là ngày Tết Ông Công Ông Táo. Từ sáng thầy nó đã sai các anh chị dọn nhà cửa, còn thầy thì quét dọn bàn thờ. Bàn thờ đã sạch sẽ, thầy nó bày lên một mâm ngũ quả, có nải chuối xanh, quả phật thủ, vài quả cam, vài quả quýt. Xong, thầy thắp mấy nén nhang lầm rầm khấn. Không biết Thầy nó khấn khứa những gì, rất lâu mới xong. Rồi thầy cúi xuống bảo nó:

- Thằng Thập, ăn cơm xong, ra đồng Bưởi tìm chị Bính, nói với chị ấy là thầy bảo xíu nữa nghỉ sớm nhá,
có thể anh Bính hôm nay về đấy.

Nó mừng lắm vì rất nhớ anh, anh nó xuống Phòng đã khá lâu. Anh Bính đã học việc xong và đã ra đi làm. Tết này anh mới về thăm nhà và ăn tết cùng gia đình. Vợ anh Bính, chị dâu nó, năm nay đã hai mươi sáu tuổi, đang độ xuân thì. Chị đẹp lắm, một cái đẹp khỏe mạnh, nền nã, chân quê. Da chị dãi nắng, dầm sương, ánh lên màu bánh mật, đôi mắt to, đen lay láy. Chị có cái miệng tròn với đôi môi nhỏ, môi dưới có đường xẻ mờ ở giữa nên chị cười rất duyên. Một mái tóc thật dài và dầy được vấn cao, để lộ cái cổ tròn chĩnh trong hình quả tim của chiếc áo gụ, chiếc áo chật căng bởi đôi bầu ngực nở nang, đầy xuân sức. Người chị tầm thước nhưng khỏe khoắn, lẳn mình trắm. Chị là người chiều nó nhất, tắm rửa cho nó hàng ngày, đút cơm cho nó. Nướng muỗm, nướng bỏng cho nó ăn cũng là chị. Đi ăn cỗ nhà cụ Hai Năng, cõng nó đi theo cũng là chị. Đi họp đoàn, đi đâu liên hoan, ăn cỗ ở xa về bao giờ chị cũng lấy phần cho nó, lúc thì nắm xôi, cái chân gà, lúc thì quả chuối cái oản, kẹo vừng, kẹo bột. Nó quý chị dâu lắm.

  Chị dâu nó là lao động chính của gia đình nên bị xung vào đội dân công chuyên nghiệp của xã, chị đang cùng mọi người đào mương thủy lợi, ăn nghỉ tại công trường.

Sau khi ăn trưa xong, nó nhảy chân sáo ra tới nơi chị nó đang làm việc. Công trường rất đông, cờ đỏ bay lật phật khắp nơi, thanh niên nam nữ vừa làm vừa hát vừa cười đùa rộn rã. Cuối đông, gió bấc thổi hút từng cơn lạnh cóng, thế mà các anh chị dân công vẫn vã mồ hôi hột, quần áo lấm lem bùn đất, miệt mài cắt từng thép mai. Các tảng đất vàng ươm, vuông vức được chuyền tay nhau chuyển đi, ngoằn ngoèo rồng rắn từ dưới lên. Cảnh lao động hăng say, vui đáo để.

Nó nhìn khắp một lượt, không nhìn thấy chị nó đâu. May quá nó nhìn thấy chú Bé, con bà Năm Sữa, đối diện nhà nó. Chú Bé hơn nó mười mấy tuổi nhưng là em họ. Chú ta đang cầm loa tay thông báo kết quả lao động của từng tổ đội. Nó chẹo vẹo chạy trên những mô đất trơn nhày nhụa, túm tay chú Bé mà nói:

- Bé ơi ! Chú gọi loa bảo cho chị Bính xin nghỉ sớm, anh Bính ở Phòng về, bác bảo thế đấy.

Chú Bé liền đứng lên mô đất cao gọi to vào loa:

- Ban chỉ huy đội hai thông báo. Chị Bính con nhà bác trưởng Chất, ở tổ bốn, có em ra tìm báo tin chồng về.
Bác bảo chị xin phép đội nghỉ sớm về ngay. Alo, alo . . .

Loa đã phát đi phát lại ba, bốn lần mà nó nhìn mãi vẫn không thấy chị nó đâu. Một lúc lâu sau nó thấy một người phụ nữ đi từ dưới lòng mương đi lên, mắt sáng ngời, nụ cười rực rỡ vẫy tay với nó. Nó nhận ra chị dâu, dậm chân văng tay rồi rít hét :

- Chị Bính ơi ! Về mau, anh Bính về. Thầy bảo thế.

Chị nó lem luốc từ đầu đến chân nhưng xem ra vui mừng hạnh phúc lắm. Mắt chị long lanh ánh lên trong ráng chiều đông giá lạnh. Chị đi từ dưới lên, vừa đi vừa bị các bạn trêu đùa. Có chị còn véo má trêu :

- Sướng nhé ! Chồng về, tỉnh tình tinh . . .

- Mai có đi làm không đấy ? Nhớ phải giữ sức nhé !

- Còn lâu nó mới mệt, sướng bỏ cha đi ấy. "Gái phải hơi trai như thài lài phải cứt chó" mà lại.

Mọi người cười ồ lên. Chị nó chẳng chống đỡ được gì, chỉ hối hả đi lên, miệng cười trắng ởn, đập tay vào vai vài cô bạn chữa thẹn :

- Thôi đi ! Nỡm ạ.

Chị nó rửa chân tay, thay quần áo, không quên ghé mặt vào cái gương vỡ treo ở góc lán. Chị vuốt lại cái tà áo, vén mấy sợi tóc mai làm dáng, xong dắt tay nó đi về. Hai chị em vừa đi vừa chạy. Mỗi người một tâm trạng khác nhau, đều rất hạnh phúc.

   Về tới nhà, chị em nó thất vọng vì chả thấy anh đâu. Mọi người, ai vẫn đang làm việc nấy, hối hả. Nó buồn, hỏi thầy thì thầy nó xem đồng hồ rồi chép miệng thở dài. Chị nó biết ý, dù buồn lắm nhưng không dám hỏi, lẳng lặng xuống bếp làm cơm. Hôm ấy bu nó quyết định cho phép mổ con gà đẻ cúng Ông Công Ông Táo.

Trời đã về chiều, mưa càng nặng hạt, rét càng buốt giá, thấu thịt, thấu xương. Các chị và anh Bát nó chuyển rơm vào để thầy nó bện một cái cúi rơm ở gian ngoài. Đối diện với cái giường tre, ngay trong góc nhà, gộc tre, củi, trấu, được chất vào và được đốt lên để sưởi ấm. Gió giật ngày càng mạnh, bu nó kéo tấm liếp che cửa, xỏ cái đòn càn ngang, chặn lại. Vừa lúc đó, có tiếng cậy tấm liếp, rồi một bàn tay thò vào cùng tiếng gọi của anh Bính :

- Bu ơi ! Mở cửa cho con.

Cả nhà òa lên trong hạnh phúc. Anh Bính nó đã về.

Lách tấm liếp bước vào là một người thanh niên to, cao ăn mặc lịch sự, da trắng, môi đỏ, tóc bồng bềnh cong mềm tự nhiên xếp vào nhau như làn sóng, ánh mắt tinh anh, thông minh, lấp sau cọng kính trắng gọng vàng, giọng nói trầm ấm. Anh Bính bước vào, tay trái cầm cành đào và bó hoa huệ, tay phải cầm túi du lịch. Anh nó đi bộ từ bến xe về, cái áo khoác và mái tóc bụi mưa xuân đậu lấm tấm, long lanh. Nó cùng anh Bát, chị Thất, chị Vận nhẩy lên reo :

- Anh Bính về ! Anh Bính về thầy ơi !

Thầy nó đang lúi húi dưới sân sửa lại cái trụ sắt cắm hương vòng trên bát hương để chuẩn bị lễ. Ông lật đật đi lên. Nhìn thấy con trai cả đã về ông mừng lắm, đón cho con cành đào ở tay, ông cười hiền bảo:

- Sao anh về muộn thế, làm cả nhà chờ mãi, chẳng báo trước để thầy bảo các em ra đón.

Anh nó rũ cái áo phẩy nước trên tóc, từ tốn nói :

- Vé xe khó mua quá, con tưởng không về được.

Bu nó đưa cho anh nó cái khăn khô. Bà bảo:

- Thế là may rồi ! Con lau tay, lau tóc, bu bảo nó đun ít nước nóng rửa mặt mũi chân tay rồi ăn cơm.

Anh nó cảm động, cầm cái khăn và nói :

- Con xin bu.

Bu nó gọi với xuống nhà :

- Chị Mây đâu, đun cho bu siêu nước ấm để anh ấy rửa mặt nha. Vận Lớn, Vận Con dọn mâm cho thầy mày cúng.
Thằng Bát lên mời chú Gắng Trọn xuống uống rượu với thầy mày. Bảo anh Bính cháu mới về nha. Thằng Thập
lấy cái xô rửa cái lọ cho anh mày cắm cành đào.

Phân công xong, bu nó thân chinh vào buồng con dâu, gấp gọn gàng chăn màn, thu dọn sơ bộ các đồ lẩm cẩm trong nhà ngang. Bu còn cẩn thận lấy tí nước mùi vẩy vào tường, vẩy xuống nền, rồi vẩy vào các xó nhà để tẩy đỡ mùi hôi. Xong bu nó ra nhà ngoài với cái âu trầu, ngồi trên phản giữa, têm miếng trầu, gọt miếng cau, thêm tí vỏ, quẹt tí vôi, bỏm bẻm vừa nhai trầu vừa ngắm con trai.

  Chị Mây vợ anh Bính vừa mừng vừa thẹn. Chị tong tả làm mọi việc, hai má nóng bừng, đỏ hây hây. Chị bưng nồi nước mùi già đang nóng đặt ngay gần cửa rồi chạy ù vào buồng moi cái khăn mặt bông mới trong tủ quần áo mà chị vẫn để giành. Chị cũng không quên tranh thủ dấp nước vào vỏ bao hương, quẹt một tí vào môi, rồi soi mình trong gương, "chỉnh đốn" lại dung nhan. Từ trong buồng đi ra, chị thả cái khăn vào cái thau đồng, đổ nước nóng từ nồi sang. Chị bưng thau nước lên cho chồng bảo anh :

- Anh rửa mặt mũi chân tay cho ấm xong còn ăn cơm.

Anh nó đón lấy cái thau :

- Sao không để dưới bếp, tôi xuống rửa cũng được mà.

Nói vậy thôi chứ anh nó vẫn rửa, trong khi chị dâu nó đứng, lúng túng, len lén nhìn chồng. Chờ chồng rửa xong, chị bê thau xuống nhà và chuẩn bị tiếp cho bữa ăn.

Nó vừa rửa cái lọ vừa nhìn anh Bính và chị Mây nó, không bỏ xót động tĩnh nào của hai người. Nó biết chị dâu nó đang hạnh phúc lắm. Thày nó lấy giấy đốt gốc cành đào và bó huệ. Rồi thầy nó đổ nước vào hai lọ, cung kính cắm cành đào vào lọ to, cành huệ vào lọ nhỏ, đặt lên hai góc bàn thờ.

Cơm cúng đã bày xong, thầy nó thay quần áo thường, mặc bộ áo the, đầu đội khăn xếp, thầy thắp hương và lầm rầm cúng khấn. Cúng xong thầy nó quay ra bảo:

- Bính, anh vào khấn cụ đi ! Anh vừa là trưởng nam trong nhà vừa là trưởng nam trong họ đấy !

- Vâng, thưa thầy !

Anh nó đứng dậy, cung kính, trang nghiêm đứng cạnh thầy, lầm rầm khấn. Nó đứng sau lưng khoái lắm, chả biết khấn gì, cứ chắp tay bắt chước. Thấy thầy và anh nó lạy nó cũng lạy, thấy ngửng lên, nó cũng ngửng lên.

Lễ xong, anh Bính mở túi du lịch lấy ra mấy món quà. Anh biếu thầy nó cái mũ bông, bu nó cái khăn vuông. Còn hai cái bánh mì và một gói kẹo là quà chung cho mọi người. Nó nhìn thèm lắm, nhưng thầy nó không nói gì mà lẳng lặng xếp bánh mỳ và kẹo lên mâm ngũ quả. Thế là cu cậu chưng hửng nhìn theo, rỏ rãi.

Hương đã tàn, chú Gắng Trọn cũng đã đến. Thầy nó "cho lệnh" ăn cơm. Nhà đông người nên chia làm hai mâm. Mâm trên ở phản, dưới ban thờ có thầy, chú Gắng, anh Bính và bu. Nó bé nhất nhà, út ít, nên được thầy ưu tiên cho ngồi cùng mâm. Oai ghê! Nó còn thấy sung sướng hơn vì được ngồi giữa thày và bu. Còn mâm dưới là mâm các anh chị nó.

Ngày thường, thầy nó ít khi uống rượu, cỗ bàn thì cũng chẳng uống được nhiều. Chú Gắng Trọn thì ngược lại, uống rượu rất giỏi. Nhưng hôm nay vui quá, thầy nó uống, chú Gắng Trọn uống. Hai người vừa uống vừa ép anh nó uống uống theo. Cỗ có thịt gà ngon quá, nó ăn lấy ăn để, gắp tơi tới . . . Vừa ăn, thỉnh thoảng nó lại ngước nhìn trộm anh nó rồi lại quay xuống mâm dưới nhìn trộm chị dâu nó. Nó thấy anh nó đẹp trai thật còn chị dâu thì rất xinh.

  Anh Bính không biết uống rượu, đến chén thứ hai là mặt đã đỏ tưng bừng, trông lại càng đẹp. Nó thấy Chị dâu nó ngồi đầu nồi, xới cơm cho mọi người, còn chị ăn có vẻ ỏn ẻn. Dưới cái khăn mỏ quạ, mặt chị nó cũng đỏ tưng bừng.

Chị Mây về làm dâu nhà nó từ lúc mười sáu tuổi. Khi đó anh Bính mới mười ba, quá trẻ con, chẳng biết gì. Lớn lên, bị bạn bè chê cười, anh dỗi bố mẹ, chê vợ, bỏ đi học nghề dưới Phòng và ở nhà chú. Lâu năm, năm nay anh Bính mới về nhà thì chị đã hăm sáu, còn anh đã hăm ba. Vợ chồng anh chị chưa từng ăn nằm với nhau bao giờ.

Ăn cơm xong, bu nó bảo :

- Thôi, chị Mây hôm nay vất vả, anh ấy hôm nay lại về, không phải dọn dẹp, rửa bát, để đấy các em nó làm.
Chị vào mắc màn cho anh ấy ngủ, anh ấy cũng mệt và say rồi.

Chị nó vâng lời dọn qua quýt xong vào buồng thu xếp. Ở nhà ngoài thày bu nó và chú Gắng Trọn nháy mắt nhau, đẩy anh Bính vào buồng. Anh say rượu, đứng dậy nghiêng ngả, xin phép đi ngủ.

Thấy anh Bính và chị Mây đã vào buồng, được một lát thì thầy nó lấy khóa, khóa trái cửa buồng lại. Sau khi tiễn chú Gắng Trọn về, Thầy ra hiệu các anh chị em nó đi lại, nói năng nhẹ nhàng và bảo cả nhà tắt đèn đi ngủ sớm.

Nằm bên thầy ở phản giữa, nó ngước mắt lên bàn thờ nhìn làn khói mơ màng bay lên từ cái hương vòng, đèn nến chập chờn mờ ảo, ngoài trời mưa lất phất rơi, tiếng gió giật tàu chuối kêu lật phật. Thỉnh thoảng giọt ranh nhỏ xuống cái chậu nhôm hứng nước kêu tí tách, lõm bõm. Rồi nó thiu thiu trong giấc mơ đẹp ngày tết. Hạnh phúc tuổi thơ ru hồn nó biêng đi, bồng bềnh vào giấc ngủ.

   Hàng ngày Chị Mây nó dậy rất sớm, thường vào lúc năm giờ, để lo đun nước pha trà cho bố chồng, sắp hàng cho mẹ chồng đi chợ và lo cho các em tới trường. Sáng hôm nay, khác với lẽ thường, bảy giờ rồi mà chưa thấy chị dậy. Thầy nó khẽ khàng mở khóa. Thầy còn suỵt suỵt ra hiệu cho các con nhẹ nhàng để không làm mất giấc ngủ của anh chị.

Một lúc sau chị Mai nó dậy. Trông chị có vẻ gì đó bẽn lẽn nhưng hạnh phúc và mãn nguyện lắm. Chị nó đon đả xuống bếp đun nước sôi rót vào phích cho bố, thả vài cọng mùi vào xoong đun nước cho mẹ và các em, không quên bê thau nhỏ với cái khăn mặt bông cho chồng.
Anh Bính bê thau nước ra sân, vươn vai tập vài động tác thể dục. Xong anh nó vục cái khăn bông vào thau rửa mặt, vuốt nước lên mái tóc bồng. Hương thơm nhè nhẹ của cuộng mùi già lan toản khắp nhà, thày bu nó và mọi người vui lắm.

Thấm thoát đã đến ngày 28 Tết. Năm nay bu nó quết định ăn hoang một chút. Tết năm nay, nhà nó đụng một đùi lợn. Từ mấy hôm trước, các chị nó đã ra cửa hàng bách hóa xếp hàng mua được trăm lá dong, đong được yến gạo nếp, vài lạng đỗ, một gói nhỏ hạt tiêu, một gói mứt, một chai nước mắm Cát Hải, hai cân muối, hai chục cái bánh đa nem, nửa cân đường kính, một gói chè ba hào với một bao thuốc là Tam Đảo. Đó là tiêu chuẩn phân phối tết của cả nhà nó.

Sáng sớm tinh mơ ngày 29, khi cả làng đang ngủ say, khi tiếng gà gáy còn đang eo óc, nó chợt bừng tỉnh bởi tiếng lơnk kêu eng éc, cùng với tiếng bước chân rậm rịch. Nó vội tung chăn vùng dậy thật nhanh không có bỏ lỡ mất dịp xem mổ lợn. Ra đến sân nó mới nhận thấy tiếng kêu eng éc của lợn khắp gần xa trong làng. Thì ra hôm nay nhiều nhà cùng mổ lợn chứ không riêng gì nhà nó.

Dưới ánh sáng của mấy ngọn đèn hoa kỳ, nó thấy một cái cối lớn dùng để đập lúa đã được úp sấp giữa sân. Bên trên cái cối là con lợn cấn nhà nó bị trói chân, đang nằm nghiêng sang một bên. Ba người đang giữ chặt chú lợn. Anh Nhu chồng hàng xóm, người to cao tóc húi cua đã điểm bạc, tay phải cầm dao bầu, tay trái đè lên tai con lợn, chân phải dẫm xuống đất, chân trái đặt hờ trên mặt con lợn. Rồi với một động tác nhanh và dứt khoát anh chọc mạnh mũi dao vào cổ con lợn. Tiếng con lợn đang kêu eng éc đột nhiên hộc lên rồi kêu òng ọc. Tiết của nó chảy theo con dao, qua tay anh Nhu, qua cán dao lúc này đã chúc xuống và đang được ngoáy nhè nhẹ. Tiết chảy mạnh xuống cái thau đồng đã có sẵn nước muối loảng để hãm tiết cho khỏi đông. Cổ con lợn phun bọt đỏ theo nhịp thở phì phò của nó. Chú Gắng Trọn cầm cái bát con, thò vào hứng nửa bát tiết nóng hổi đưa lên miệng uống. Xong chú tợp một chén rượu rồi khà lên một tiếng.

   Xong mục cắt tiết, con lợn được vần xuống chỗ sân gạch đã được rửa sạch. Hai người kệ nệ khiêng một nồi nước sôi từ trong bếp ra, đặt xuống gần đấy. Hai người khác vừa dội nước nóng lên con lợn vừa cạo lông. Mỗi nhát dao đưa đi, lớp lông và da đen bên ngoài cuộn lên, quận vào thành một đám sau con dao, để lại một vệt da trắng ởn. Chỉ một loáng sau, con lợn đã được cạo sạch bong. Mọi người khênh nó vào cái nong sạch để giữa sân. Anh Nhu đưa một nhát dao vòng quanh cổ cắt rời cái đầu con lợn. Rồi anh vật ngửa con lợn ra, làm một nhát rạch thẳng băng từ cổ xuống. Bao nhiêu ruột gan con lợn được moi ra, xổ xuống cái nong một đống nóng hôi hổi. Đến đoạn cuối, mũi dao của anh Nhu đánh khoanh vòng một nhát, cắt toàn bộ hậu môn dính liền cả cái đuôi để lấy ra toàn bộ lục phủ ngũ tạng mà không dây rớt một chút bẩn nào vào phần thịt. Toàn bộ được cho vào cái sảo to mang ra sân giếng để "làm lòng".

Anh Nhu dội vài gáo nước lạnh vào bụng con lợn, rửa sạch máu thừa rồi bắt đầu "pha". Anh đưa mũi dao vào hai bên xương sống, vừa rạch, vừa lấy cái chầy nhỏ gõ gõ, tách rời xương sườn khỏi xương sống, rồi phanh thẳng con lợn ra. Sau đó anh cắt khoẳm giò, đùi trước đùi sau, pha thịt, pha xương, pha thủ, . . . . Tất cả các loại thịt, xương, gan tim, lá lách, . . . được chia thành bốn phần đều nhau. Lòng luộc chín cũng được anh chia đều thành bốn.

Riêng món tiết canh chú Gắng đảm trách cũng đã xong. Chú đánh hơn chục bát, tiết canh đỏ, đông, đặc sánh, bên trên lại có lạc rang và dúm rau thơm. Một đĩa lòng đủ các loại được bày lên mâm cùng với tiết canh và được bê lên nhà để người lớn ăn chung - bây giờ gọi là "lo lo ti ca" đấy. Riêng nó bé nhất với anh Bát được ưu tiên cho cái đuôi dính mỡ nóng hôi hổi. Hai anh em nó sướng lắm, nhận phần, chạy ra một góc chia nhau, đánh chén liền.

Ngày hôm đó, cả nhà nó vất vả, thày nó lọc thịt, chị nó rửa lá và đồ đỗ, bu nó gói bánh chưng. Anh Bính nó sửa ông đầu rau, rửa cái nổi to, bắc bếp, chuẩn bị củi lửa để luộc bánh. Chiều đến mọi việc đã xong, các chiếc bánh chưng vuông vức, xanh ngăn ngắt đã được xếp ngay ngắn trong nồi. Chị Bính đổ xung quanh ông đầu rau ít trấu cho vào mấy cái củi nhỏ, ít thanh đóm diêm, thanh nứa rồi nhóm lửa. Khi đã gầy được lửa, chị nó gác vào mấy cái gộc tre khô đã được chẻ đôi, chẻ ba. Ngọn lửa đượm dần, được vứt thêm ít trấu, lúc sau đã hồng rực. Nồi bánh chưng sẽ được nấu suốt đêm – gọi là ninh bánh chưng mà. Cả nhà sẽ thay nhau túc trực để trông bánh. Cô Biển con cụ Tài Nghiệm, ở nhà đối diện, đang yêu anh Trãi ở đoàn xe 14, đóng ở đầu phố, xung phong trông bánh. Hai cô chú cứ ngồi sát vào nhau bên bếp lửa tâm tình. Thỉnh thoảng họ lại đẩy thêm ít củi, vứt thêm ít trấu, cời than, rúc ra rúc ríc, nghe chừng tình tứ lắm.

  Chỉ còn một giờ nữa là đến giao thừa, thầy nó châm thêm hai cây nến cắm vào hai đầu chân nến bằng đồng, bẻ một ít hương vòng đốt các đầu, cho vào trong cái đỉnh đồng. Rồi thầy châm một vòng hương đặt lên cái cái cây cắm giữa bát hương, thắp bảy nén hương, cắm ngay ngắn phía trước. Xong, thầy thay bát nước, pha ấm trà trong bộ xuyến bé xíu, đặt lên bàn thờ. Vừa hay, chị dâu nó bưng mâm cơm giao thừa đã làm xong, đặt từng món ăn và cái bánh chưng mới bóc lên bàn thờ. Thầy nó thay bộ áo the, khăn xếp và bắt đầu cúng. 


Anh Bính nó lôi trong túi du lịch ra một bánh pháo hồng điều với dăm bảy quả pháo đùng. Anh Bát và nó khoái quá, xúm lại giúp anh Bính cài mấy quả pháo đùng vào dây pháo. Anh Bát lấy cái sào con, đưa cho anh Bính treo bánh pháo, đầu ngòi chúc xuống. Đúng giao thừa, tiếng pháo to nhỏ nổ âm vang khắp cả làng. Anh Bát nó vội cầm bánh pháo chạy ra cửa, giơ cao lên, anh Bính nó vo mẩu giấy cúi xuống đốt. Bánh pháo giật mình nổ tung, thỉnh thoảng pháo đùng nổ váng lên, tóe lửa. Xác pháo đỏ hồng tung tóe bắn ra khắp cửa. Lũ trẻ con hàng xóm cùng với nó dũng cảm lao vào khói pháo để nhặt những quả pháo lép. Nhặt hết pháo lép nhà nó, nó cùng bộn trẻ chạy qua nhà khác nhặt tiếp. Đến lúc hết pháo nổ thì nó đã nhét được gần đầy một bên túi quần.

Sáng Mồng Một, cả làng dậy muộn, nhà nó cũng thế. Bánh chưng luộc xong được vớt ra, xếp ngay ngắn trên cái sàng, bên trên đặt hai tấm gỗ, trên nữa thày và anh nó bê cái cối đá giã cua đặt lên để ép.

Nó dậy muộn nhất, lập tức bị chị dâu lôi ra lấy nước mùi rửa mặt, kỳ cổ, kỳ tai, rất kỹ. Chị nó kỳ mạnh làm nó đau nhưng nước nóng, hương mùi thơm làm nó tỉnh ngủ. Bu nó lôi ra cái quần yếm, cái đôi tất sọc xanh, sọc đỏ, đôi dép cao su đen bé xíu xinh xinh, cái áo sơ mi, cái áo bông, toàn đồ thầy nó chữa lại của các anh chị mặc thừa nhưng vừa vặn và đẹp lắm.

Sướng nhất là mình nó được cái "bánh mụn" bu nó gói cho, không biết được vớt ra từ bao giờ, bây giờ còn âm ấm. Nó vội bóc bánh ăn. Bánh thơm, ngậy quá, ngon quá, "nhem nhẻm nhèm nhem !"

Nó vội vàng tót ngay ra cửa vừa ăn bánh vừa hóng. Mồng Một khác hẳn không khí tưng bừng nhộn nhịp của chợ xuân mấy ngày trước đó, ai cũng hối hả câu đối giấy, cuốn thư, tranh Đông Hồ vẽ con lợn, con gà, tranh in Trung Quốc màu sắc rực rỡ. Sáng mồng một bao giờ cũng lạ, ngoài trời mưa bụi vẫn bay, phố phường vắng vẻ, im lìm. Nó thấy đường phố dường như sáng trong hơn, sạch sẽ và tinh khôi.
Ngắm phố chán mắt, nó xúng xính trong bộ quần áo "mới" chạy tung tăng khắp nhà. Thầy nó đang ngồi xếp bằng trên phản, ấp tay vào cái ấm trà mới pha nóng hổi. Ông kéo cái điếu bát lại gần, châm lửa hút một điếu. Rít xong điếu thuốc, thầy nó ho khù khụ. Đợi cơn ho dứt, thầy nó chậm rãi chiêu một ngụm nước trà, rồi khà lên một tiếng khoan khoái.

Trước bữa cơm, thầy nó lần lượt gọi các con vào mừng tuổi mỗi đứa năm xu. Riêng nó út ít được một hào mới cứng, đỏ tươi. Anh Bính nó thì mừng tuổi cho các em đều nhau, mỗi đứa một hào.

   Chị Thơ nó (còn gọi Vận lớn) cũng về quê ăn tết. Chị chưa đi làm nên không có tiền mừng tuổi cho các em. Chỉ mình nó được chị mừng cho năm xu. Chị Thơ mới làm đầu "phi dê", trông chị cứ là lạ. Ở quê nó, chị là người đầu tiên phi dê nên người lớn thì bảo là ra tỉnh đua đòi, còn trẻ con thì hò nhau trêu:

- Ơ súp lơ trái mùa . . . Ơ súp lơ trái mùa . . . !

Chúng nó còn đồng thanh hát :

"Đầu phi dế trông cao bồi
Đầu phi dế trông chán ghê
Anh em ơi đầu phi dế trông cao bồi.
Thà cặp tóc ngang vai,
còn đẹp hơn phi dê !
Thà đội rế lên đầu,
còn đẹp hơn phi dê !

Nó tức cứ cầm que đuổi theo vụt bọn trẻ để bênh chị. Dấm dớ thế nào, một lúc sau, chẳng thấy năm xu chị nó mừng tuổi đâu nữa. Nó liền chạy về nhà rồi khóc ré lên làm cả nhà nháo nhác đi tìm. Chị Thơ giả vờ tìm thấy, đưa cho nó đồng xu khác, nó phát hiện ra lại khóc ré lên không nhận. Chị Thơ đành phải đưa thêm năm xu nữa thành một hào nó mới chịu nhận và thôi không khóc nữa. Lần này, ăn chắc, nó vội lấy cái ống tre tiết kiệm và nhét hết tiền vào đấy. Cái ống tre tiết kiệm của nó đã lên nước bóng nhãy, lưng vốn của nó đấy. Nó âm thầm, bí mật lên kế hoạch làm ăn hẳn hoi. Qua Tết ắt hẳn là tiền mừng tuổi nhiều, sẽ bổ ống ra mua của bu nó một mái gà để nó tự "tăng gia".

Mười năm làm dâu, mười năm trinh nữ, đằng đẵng mấy ngàn ngày, tưởng chừng tàn một đời hoa, thui một đời con gái. Ấy vậy mà chỉ chín tháng sau cái Tết ngọt ngào đó, chị dâu nó sinh một thằng cu kháu khỉnh, khỏe mạnh. Cả nhà nó ai cũng mừng vì ai cũng thương người chị dâu chăm chỉ, tảo tần, tận tâm tận lực với gia đình, thương chị bị ghẻ lạnh cả một thời xuân sắc. Thầy bu nó là mừng nhất vì thằng cu là cháu đích tôn bấy lâu hằng mong mỏi. Thầy đặt tên cho nó là Nguyễn Long Hoàng, ước mong cháu sẽ là ông hoàng của loài rồng.

Bé thế, nhưng nó oai lắm vì đã có năm đứa cháu. Đầu tiên là cái Tuyết Văn, con chị hai, rồi thằng Son con chị cả, tiếp đến cùng lúc ba đứa cháu trai là thằng Hoàng con chị Bính, Hà con chị cả và Hùng con chị hai. Lại nói, trước đó thày nó nằm mơ thấy bắt được ba con chim sẻ, thày nó cho vào túi áo nâu, cài kim băng lại cẩn thận. Chẳng ngờ, có một con lách ra bay mất. Y như rằng ? Chỉ vài tháng sau thằng Hà cháu nó đi ỉa chảy, ông y tá xã là ông Nhiệt cho nhầm thuốc làm thằng bé chết. Nó căm ông Nhiệt lắm ! Lúc nào nhớ cháu, nó lại vào ngõ nhà ông, đứng chửi "cha năm đời mười đời nhà thằng Nhiệt . . . !". Hễ ông ta chạy ra cửa thì nó lại lủi vào vườn chuối um tùm nhà bà cả Riêng cạnh đó. Thấy ông đi vào, nó lại chạy ra chửi "Tổ sư bố thằng Nhiệt lang băm . . . !"

Nguyễn Trọng Thập
Làng Thứa của Nguyễn Trọng Thập thuộc xã Dị Sử huyện Mỹ Hào. Nơi đây, trước kia là một vùng quê nghèo, nơi có đến 90% dân số làm nông nghiệp, diện tích đất đai không nhiều mà cũng chẳng lấy gì làm phì nhiêu. Những người thợ gặt thuê đến đây đã từng có câu ca rằng:

"Chắp tay vái lạy đòn càn !

Đồng Thứa thì lội, đồng Đan thì lầy."

  Khi thằng Hoàng cháu nó được một tuổi cũng là lúc chị Vận con đi học địa chất. Học xong, chị vào làm ở liên đoàn địa chất 36. Chị Vận Thất đi học sư phạm, sau về dậy cấp1 ở Hưng Long. Anh Bát nó cũng đã mười ba tuổi đang học cấp hai. Nhà nó bắt đầu neo người, chị Bính là lao động chính nên rất vất vả. Chị vừa đi làm để đảm bảo công điểm cho hợp tác xã. Mỗi công chỉ ăn có hai đến ba lạng thóc, nhưng thiếu thì bị phạt cũng gay. Ngoài ra chị còn phải làm thêm ruộng phần trăm của gia đình, có khi cấy lúa, khi cấy rau cần, khi thả bèo dâu, nuôi lợn mọn. Chị Bính nó vẫn phải thức khuya dậy sớm lo cho bố mẹ và các em chồng.

Thày nó vẫn làm may, bu nó thì đi chợ. Anh Bát nó ngoài giờ đi học cũng phải giúp chị dâu cấy gặt. Anh Bát còn phải đi đánh dậm lấy cua cá về cải thiện bữa ăn. Nó tuy vẫn còn bé nhưng cũng phải tham gia làm cùng gia đình. Công việc cũng nặng ra phết. Buổi sáng trước khi đi làm, chị Bính và anh Bát thường hay vãi thóc, vãi rơm ra phơi, giao cho nó phải dũi thóc, gẩy tơi rơm cho chóng khô lại vừa phải trông cháu cho chị đi làm đồng. Khi cháu ngủ, nó phải tranh thủ thả bèo, nhóm nồi cám lợn, v.v . . . Chị nó đi đồng về thường vào một giờ chiều. Chị về cho cháu bú và cả nhà ăn cơm trưa. Ba giờ chiều chị lại ra đồng làm tiếp.

Hôm ấy chị nó làm cố, đã hơn hai giờ chiều vẫn chưa thấy về. Thầy nó đi nhận hàng trên huyện còn bu nó đi chợ. Nó tự xới cơm, một mình ăn trước. Cơm chan nước mưa, ăn với cà. Thằng Hoàng cháu nó đói sữa quá, khóc ghê lắm. Ngóng mãi không thấy chị về, giữa trưa trời tháng sáu nóng như đổ lửa, nó chẳng biết thế nào, đành bế cháu vào thôn Tháp nhà chị Diện xin bú nhờ. Nhiều lần nó vẫn làm thế mỗi khi cháu nó đói. Chẳng ngờ chị Diện hôm đó lại đi vắng.

Cháu nó đói quá rồi, cứ khóc ngặt nghẽo trên tay nó. Nó tám tuổi rồi đấy nhưng mà vừa bé vừa còm nhom như con mèo hen. Nó bế cháu lê la đi trên đường làng cứ như con mèo tha con chuột. Rồi hai chú cháu nó lê dọc phố xuống Phùng Chí Kiên, mắt nó đăm đắm nhìn về phía đường năm, theo hướng bốt Đá, ngóng chị đi làm về. Chị chẳng thấy đâu, người quen cũng chẳng có ai, rặt những người lạ.

Cháu nó khóc to, nước mắt nước mũi nhoe nhoét, nó nựng, nó giỗ mãi không được. Tức quá nó phát đen đét vào đít cháu. Càng phát, cháu nó lại càng càng khóc to hơn. Cáu tiết, nó cấu thằng bé. Càng cấu, thằng bé càng khóc thét lên. Bất lực và mệt mỏi, nó ôm cháu, ngồi lên lưng con rùa đá ở cổng làng Ngọc Lập. Dưới gốc đa, tủi thân nó khóc, nước mắt nước mũi nó cũng nhoe nhoét nhòe nhoẹt.

  Trời tịnh không một ngọn gió. Tiếng ve kêu ra rả, tiếng gà gáy trưa xa vắng, eo óc buồn. Nó thấy sao mà khổ quá. Rôm cắn rấm rứt khắp nơi, mụn nhọt đầy mặt, đầy tay nó ruồi đang bu đen, đuổi mãi chẳng xuể được. Vừa lúc đó, cô Năm Sữa, cô họ nó, gánh lúa đi qua nhìn thấy, quát tướng lên :

- Nắng nôi thế này, mày bế cháu ra đây làm gì ?

Nó mếu máo:

- Cô ơi ! Chị cháu chưa về, thằng Hoàng đói sữa quá cứ khóc mãi. Cháu xin bú chị Diện, chị lại đi vắng.

Nói xong nó tủi thân khóc rống lên. Cô nó hạ gánh lúa xuống, lấy nón quạt phành phạch cho hai chú cháu rồi bảo :

- Về ngay, bế nó vào bà Tú Tư, con bà ấy mới đẻ đấy, xin bú cho nó.

Dường như bắt được vàng, nó lau mặt cho mình, rồi lau cho cháu. Nó vội vã bế cháu vào thôn Sài, đến nhà bà Tú Tư. Trời nắng lắm, nó nhặt một cái lá bàng to màu xanh tím, vừa làm nón cho cháu nó, vừa làm quạt, quạt cho thằng bé. Vừa đi nó vừa lầm lũi hỏi thăm, thỉnh thoảng dừng lại để xốc thằng cháu cho đỡ mỏi và khỏi tụt xuống đất.

Vào tới cổng nhà bà Tú, nó thấy cô Ngụ đang ngồi cho con bú dưới bụi tre. Thương hại thằng bé khát sữa, cô chuyển con cho bà Tú rồi đón lấy thằng Hoàng. Thằng bé đang đói, vừa bập vào bầu vú, nó nhắm tít mắt lại, tu sữa tòm tọp. Nó đã thiu thiu ngủ mà mồm vẫn mút oằm oạp. Bà Tú lấy một củ khoai tím đã luộc trong rổ đưa cho thằng Thập. Nó xin bà rồi ngồi xuống ăn dưới bóng mát êm ả của rặng tre. Nó nghe tiếng võng bà Tú đưa cháu kẽo cà kẽo kẹt. Nó nghe thấy tiếng rì rà của lá tre đang đùa reo trong gió. Nó đã thôi không khóc từ lúc nào, thấy đời lại tươi mát và ngọt lịm như miếng khoai nó đang cắn trong miệng.

Nó bế đứa cháu đã ngủ say trên tay, cảm ơn bà và cô rồi tưng tửng bế thằng bé về.

  Nó rất yêu nghệ thuật, ham đọc sách và có năng khiếu vẽ. Mới có chín tuổi, nó đã nổi tiếng cả vùng vì khả năng vẽ bẩm sinh. Các anh chị lớn hay nhờ nó đánh bóng chữ, viết chữ lồng vào sổ tay, vào khăn mùi xoa để thêu tặng nhau, để khâu vào nón. Những chữ nó thường phải viết đại thể như kỷ niệm, nhớ mãi, đừng quên, . . . . Thậm chí, nhà cụ Ký Bắc mở tổ HTX khâu nón trắng bài thơ, khâu thảm len, thảm gai, còn phải lên xin với bu nó, ngoài giờ học cho nó xuống huyện viết chữ lồng khâu vào nón theo đơn đặt hàng của cụ. Có khi là vẽ lại các mẫu thêu ra bìa để làm dưỡng thêu. Mỗi tháng cụ Ký trả cho bu nó mấy hào tiền công. Bu nó nhét tiền vào ống tiết kiệm bằng tre để giữ cho nó.

Đến Tết, được nhiều tiền, bu chẻ ống tiết kiệm ra, lấy tiền mua giầy dép, mua diêm cho nó làm pháo. Nó thích trò làm súng lục, nhét vào đó một cái van xe đạp hỏng, nhồi thuốc diêm vào đó. Khi bóp cò, cái "búa" phía sau ghì bằng dây chun mới ra, gõ vào thuốc diêm làm súng nổ. Nhiều đứa trẻ con đồng lứa nó rất thích. Nó liền vượt tường rào trường cấp hai xã, nhặt nhạnh chân ghế, chân bàn gãy mang về làm một loạt súng lục để bán cho bọn chúng lấy tiền tiêu Tết.

Các chân ghế chân bàn gãy lấy ở trường học về để làm súng thì quá tuyệt. Bề dầy của gỗ khoảng ba đến bốn phân. Trước tiên, nó lấy bút chì vẽ hình khẩu súng lên đó, rồi nó lấy cái cưa con của thày, nó cưa cắt hình khẩu súng. Sau đó, nó lấy dao gọt cạnh, khía báng, khía nòng. Bây giờ cần phải đục lỗ làm nòng súng. Phần gỗ làm nòng súng khá hẹp , mỗi bề chỉ chừng hai phân, cần phải khoan lỗ vào chính giữa môt cách chính xác dọc theo suốt chiều dài của nòng. Nó kiếm một que sắt (về sau này nó mới biết - gọị là sắt phi sáu) đem mài nhọn một đầu và cắm đầu còn lại vào một đoạn tre làm thành một cái dùi. Nó sang nhà bà Quýt bán phở bên cạnh, nướng cái dùi vào lò than. Khi dùi đã nóng đỏ, nó dựng ngược súng lên, đặt dùi vào đúng tim nòng vừa ấn vừa xoay nhè nhẹ. Mặc cho khói bốc lên cay xè mắt, hết lần nọ đến lần kia, nó cứ dùi mãi cho đến khi thông được sang đến đầu bên kia của khấu súng.

Bây giờ nó đã có một cái nòng súng đồng tâm thông suốt. Công đoạn tiếp theo là lắp cái đầu van hạt gạo vào nòng súng. Mấy cái van hỏng này nó phải đi xin anh Thới cụt hoặc anh Thăng què chữa xe đạp ở phố nó. Van được nhồi vào cuối nòng súng, thân van khít vào nòng súng, đầu loe của van bám chặt vào gỗ ở phía ngoài, rất chắc chắn. Trông khẩu súng đã hay rồi nhưng còn phải chờ có kim hỏa và cò nữa mới xong.

   Nó lấy một đoạn sắt (phi 4), vừa bằng nòng trong của van, mài tù một đầu, đầu còn lại bẻ gập thước thợ một đoạn hai phân làm thành một cái "kim hỏa". Một đoạn sắt phi bốn nữa đập bẹp ở giữa, một nửa uốn cong cong rồi luồn từ trên xuống dưới qua một cái lỗ nhỏ để làm cò súng. Một cái dây chun vít kim hỏa vào nòng súng được buộc chặt vào nòng súng bằng những vòng dây chun khác quấn quanh nòng. Bây giờ nó đã có một khẩu súng lục hoàn chỉnh, sẵn sàng nhả đạn.

Nó cho một que diêm vào đầu van, phần gỗ hướng ra phía trước, phần đầu que diêm có thuốc mắc kẹt vào đầu van hạt gạo. Nó lên "qui lát" bằng cách kéo kim hỏa về phía sau, làm căng dây chun, rồi kê cái kim hỏa sát với lỗ van. Khi bóp cò, cái cò súng nâng kim hỏa lên và phập vào lỗ van. Đoàng . . . ! Một tiếng nổ vang lên, khói diêm bay khét lẹt. Vào ban đêm, khi súng nổ, lửa tóe ra đầu nòng, rất oách.

Súng nó làm ra rất đẹp vì được đẽo gọt trang trí, xong sơn đen như thật, lại "bách phát bách nổ". Bọn trẻ làng nó thích mà làm theo không được. Thế là nó phát tài, cứ làm ra khẩu nào bán hết khẩu đó, một hào một khẩu. Có vụ tết làm nhiều nó phải kiếm được mấy đồng bỏ ống.

Không chỉ làm súng mùa đông bán tết, mùa hè nó còn góp nhặt các vỏ bao diêm, vỏ hộp sắt tây các loại, mẩu gỗ nhỏ bỏ đi trong lò mộc cạnh nhà và rất nhiều nắp bia ở bãi rác bên huyện. Tùy từng chất liệu, nó tạo hình rồi lấy cơm nếp làm thành hồ dán làm thành nhiều xe ô tô các loại khác nhau với bánh xe là nắp bia dùi lỗ. Nó kéo xe ra cổng huyện, chở hoa me, hoa phượng. Đứa nào thích, gạ nó, nó lại bán, tùy chất lượng xe, cái 5 xu cái 1 hào, v.v. . .

Đầu tháng tám, nó lại sang bãi rác bên huyện, thiên đường tuổi thơ của nó, nhặt các tờ pôluya đánh máy hỏng về ngâm nước gạo cho mờ hết chữ. Xong nó lấy gạch non nhuộm màu đỏ, quả mồng tơi nhuộm màu tím phơi khô để làm đèn ông sao và đèn ông sư chơi rằm tháng tám. Nó lấy tre bánh tẻ vót nan, chỉ may của thày nó làm dây buộc liên kết các nan tre với nhau rồi dán giấy "chế tạo" đèn ông sao, đèn ông sư. Sau này lên tay, nó còn sản xuất cả đèn kéo quân để bán.

  Thỉnh thoảng ở thiên đường bãi rác, nó nhặt được những quả pin "Con Thỏ" đã kiệt, có cả loại trung và loại đại. Nó mang về cho vào nước muối luộc lên. Nó kiếm ongbun (ampoules - bóng đèn pin) bằng cách xin ở đâu đấy đem nối dây điện nhỏ với mấy cục pin, bên ngoài chằng bằng dây cao su. Thế là cu cậu có cái đèn chơi đêm. Nó hay chui vào trong chăn, chùm kín đầu châm cực âm vào cạnh ongbun, cái đèn sáng trắng lên, rất khoái.

Bu nó vừa bán trầu vừa mua thóc cho các anh chị nó xay thóc làm hàng xáo. Gạo ngon thì bán, tấm để nhà ăn, cám nuôi lợn, trấu để đốt lò. Dân làng nó hay mua chịu, nên thỉnh thoảng bu nó sai nó đi đòi tiền. Ban đêm đường làng vắng vẻ, nhất là vào ngõ chợ hay ngõ Bưởi. Trời tối om, đường gồ ghề, chó sủa ông ổng, đi một mình nó sợ lắm. Một tay nó cầm cái đèn chai hay cái đèn hoa kì bịt cổ cho khỏi tắt, một tay cầm cái gậy để đuổi chó. Cái đèn thì bé, gió thì lộng, bóng đêm thì mông lung. Các lùm cây nhìn chỗ nào cũng đen sì như bóng ma. Nó vừa đi thỉnh thoảng vừa ngoái lại vì nghe thấy như có tiếng chân ai đó đuổi theo mình. Hẳn là ma chứ còn ai vào đây nữa. Nghĩ vậy người nó nổi hết da gà, toát mồ hôi lạnh.

Nhưng tệ nhất là lũ chó, cứ một con sủa là dắt dây cả làng chó cùng sủa. Có nhà ba, bốn con đuổi theo. Đuổi được con này thì con khác sồ ra, đến khiếp. Cái giống chó cũng lạ, lấy gậy sua thì nó lùi ra xa, dừng xua thì nó lại thi nhau lao lên. Nhưng mình giả vờ ngồi xuống nhặt gạch là chúng sợ chạy một đoạn rất xa. Không biết sao, nhưng đó là kinh nghiệm dân gian mà bu nó truyền lại.

Từ ngày có cái đèn pin tự tạo, nó đỡ sợ phải đi đòi nợ hơn trong những đêm trời có gió to. Đèn pin của nó còn có loa đèn bằng bìa trắng dán hình cái phễu tập trung ánh sáng, nó đi đòi nợ không lo tắt đèn nữa.

Thằng Hoàng cháu nó bấy giờ đã được hai tuổi, trắng trẻo đẹp trai. Vì là cháu đích tôn nên cả nhà ai cũng yêu và chiều chuộng. Riêng nó, không những nó chỉ yêu cháu mà còn tự hào nữa, vì gì thì gì nó cũng là bậc cha chú chứ ít của đâu. Có cái đồ chơi hay của ngon vật lạ gì nó cũng để dành cho cháu. Ngặt một nỗi, thằng bé lên hai tuổi mà chẳng nói năng bi ba bi bô, gọi bà gọi mẹ như những đứa trẻ khác. Thằng bé chỉ ư ư, hự hự trong cổ họng, cả nhà lo nó bị câm.

Không biết ai mách, bệnh này phải chữa mẹo. Ở cạnh nhà có cái bảng tin của huyện rất lớn, mỗi chiều có đến hai mét, thường dùng để kẻ khẩu hiệu. Hôm đó, trời nắng chang chang, có một đoàn người ở xa đến. Họ thấy gốc bàng cạnh bảng tin có bóng mát, liền chọn làm chỗ ngồi nghỉ trưa. Họ bỏ cơm nắm, muối vừng ra ăn. Bu nó bắt nó ra cướp cơm. Lúc đầu nó không hiểu gì nên rất sợ. Bu nó phải giải thích cướp cơm cho cháu ăn, cháu mới sớm biết nói.

Thế là nó liều. Vượt qua nỗi sợ hãi, nó mon men tiến đến gần những người khách lạ. Quả thật, nó là trẻ con nên cũng chẳng ai để ý làm gì. Nó tiến sát đến người ngồi ngoài cùng chờ người ta đưa miếng cơm nắm trắng đục, to như múi bưởi lên mồm định cắn, thì bất thình lình, nhanh như cắt, nó giật phăng miếng cơm trong tay người ấy trước con mắt ngơ ngác của tất cả đám người. Nó phi thật lực chạy vèo vào cổng huyện, chạy ngoằn nghèo trong các ngõ ngách đường làng. Nó chỉ sợ bị người ta đuổi đánh. Nhưng rồi nó cũng chạy vòng được về đến nhà và đưa miếng cơm nắm cho bu nó. Tim nó đâp thình thịch, mồ hôi nhễ nhại.

Bu nó bế thằng Hoàng, cầm miếng cơm nắm vừa dứ vào mồm cháu 7 lần vừa khấn thầm lầm rầm gì đó. Rồi bu bẻ miếng cơm, đút cho cháu ăn. Chả biết là thế nào, ít ngày sau, thằng Hoàng nói được mấy từ bà bà, ba ba. Cả nhà nó đều mừng, nó cũng sướng lắm vì cháu mình đã nói được mà nó lại là người có công lớn.

   Ngày ấy, cả làng nó đã vào hợp tác xã. Đã vào hợp tác xã thì ruộng chung, trâu chung. Nhà nó cứ cách bốn ngày lại được dùng trâu bốn ngày. Bốn ngày đó có trách nhiệm chăn trâu. Nó phải chăn cho trâu ăn no bốn ngày. Hôm nào chưa no, hai hõm ở cạnh sống lưng bên hông mà lõm vào thì đừng có trách. Thầy nó tuy hiền nhưng nghiêm khắc và nóng tính lắm. Chăn trâu đúng là phải có trách nhiệm, không những trâu phải no, mà cũng không được lơ là để trâu ăn lúa.

Thuở chăn trâu ngày ấy thực sự để lại cho nó nhiều niềm vui và hạnh phúc.

"Ai bảo chăn trâu là khổ,
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao . . ."

Sau này khi biết bài thơ "Quê Hương", chiêm nghiệm thấy Giang Nam nói đúng thật.

Nó vẫn là một thằng bé gầy ngẳng gầy nghoeo. Bình thường đi chăn trâu đồng gần, nó thường hay đi sau cầm thừng điều khiển bằng cách kéo căng hay để chùng để trâu biết tự đi. Tay nó cầm cái que tre, thỉnh thoảng vụt vào mông trái một cái. Khi đi chăn ở đồng xa nó hay cưỡi trâu. Nó thì thấp, con trâu lại cao. Muốn leo lên lưng, nó bắt trâu cúi đầu xuống, trèo giữa cặp sừng, bám gù vai trâu, leo lên lưng nó, rồi quay người lại, ngồi dạng chân hai bên. Cách thứ hai là tóm gù tai, chân trái đặt vào đầu xương kheo trên chân trước của trâu, kết hợp sức bật đu người lên lưng trâu. Ngồi chễm trệ trên lưng trâu rồi, nó liền lấy gót chân thúc vào bụng trâu và dùng roi quất vào mông, dùng thừng giật "diệt . . . diệt . . ." hay hất cái thừng đánh vào mặt trâu "vắt . . . vắt . . .".

Ra đến đồng cứ nhét cái thừng chùng xuống, cho vào mông ngồi lên, để trâu lững thững tự do gặm cỏ, hai tay và mắt rảnh rang, nó tha hồ ngắm mây thưởng gió. Những lúc như vậy nó lôi từ cạp quần ra cuốn truyện mà nó giắt sẵn ở đó từ nhà và khoan khoái đọc. Truyện thì nhiều lắm, khi thì Tam Quốc Diễn Nghĩa, lúc thì Thủy Hử, hoặc truyện cổ tích, truyện tranh, . . . Nó mê đọc truyện lắm. Hễ nghe ở đâu có truyện hay là nó mon men mượn bằng được có hôm nó đi bộ mấy cây số sang tận làng bên đến nhà cụ lang Dịch mượn truyện. Đối với Thư Viện Huyện hoặc Hiệu Sách Nhân Dân thì nó cứ xoắn xuýt nịnh các cô trông thư viện và cô bán sách bằng cách giúp các cô những việc lặt vặt như múc nước, hái rau v.v . . . để mon men mượn sách. Nó đọc hầu như hết các đầu sách dạng tiểu thuyết văn học, truyện tranh mà thư viện và hiệu sách có.

Những chiều hè mát mẻ đi chăn trâu sướng lắm, gió thì mát hây hẩy, chim chóc líu lo hót, cỏ xanh mơn mởn. Mùi lúa làm đòng thơm ngọt thoang thoảng bay, mùi rơm rạ thơm nồng, mùi đất mới cày ải thì ngai ngái, mùi hoai hoai là của phân chuồng đang bón lót, mùi hăng sè sè là của nước đái trâu bò trên bãi chăn thả. Ấy thế mà đi xa là nhớ da diết. Khi xa nhà, chợt đến nào đó có mùi đồng đất như vậy là lại cồn cào nhớ. Nỗi nhớ ấy là nhớ quê hương, cái mùi ấy là mùi quê hương, rất yêu, tha thiết ! 

  Chán đọc sách, nó lại thả diều. Anh Bát và nó làm diều rất hay, diều vừa bay cao, tiếng sáo lại trong. Mỗi lần diều được dong lên cao, tiếng sáo diều o . . . o . . . , vi vút trên không trung, nghe sướng mê li. Khi diều no gió, dây diều căng, nó hay xé các mẩu giấy nhỏ, rạch ở giữa đem cài vào dây diều. Dây rung rung, gió nhè nhẹ đẩy, dần dần các mẩu giấy theo dây diều cứ tút lên cao cho tới tận đáy diều. Nó bảo đấy là "viết thư cho Trời".

Chơi diều đã rồi, nó cột dây diều vào bụi cây, rồi quay ra chơi đánh khăng, đánh bi, đánh đáo hoặc chơi ô ăn quan. Nó rất khoái chơi quay. Quay của nó rất to, được đẽo bằng gỗ tay nhãn đặc, đầu đóng một cái đinh tù mũi, dây quay bện bằng sợi gai. Khoái nhất là bổ trúng quay của đứa khác, nhẹ thì bập lõm vào con quay kia, mạnh thì thậm chí chẻ đôi quay đối thủ. Quay đối thủ mà đổ "quay cu đơ" ra đấy là nó thắng.

Vào dịp đang mùa gặt hay lúc mới gặt xong, ngoài đồng rất nhiều chuột. Bọn trẻ trâu hò nhau đi đuổi và vồ chuột. Chúng còn tìm hang chuột, đem bịt hết các ngách hang lại bằng đất sét, chỉ để chừa lại hai cửa. Một cửa đem tống rơm rạ khô vào rồi châm lửa, lấy nơm úp sẵn ở cửa còn lại. Rơm cháy, khói nghi ngút được chúng quạt vào hang. Bọn chuột không chịu nổi đành liều mạng vọt ra và chui ngay vào nơm.
Chúng đem những con chuột bọc trong đất rồi đốt rơm rạ để nướng, như nướng khoai. Nếu có phân trâu bò khô mà nướng thì lửa càng đượm, "cháy nỏ" phải biết. Khi chuột chín, chúng rỡ đất ra, lột theo cả lông và có khi còn lột theo cả da nữa. Vặt đầu, cấu hết chân và đuôi, rạch bụng, moi hết lòng ruột vứt đi, chúng vừa chén vừa hò hét. Thịt chuột nướng nóng, thơm phưng phức, ngon vô cùng.

Vậy nhưng không phải lúc nào chăn trâu cũng sướng. Gặp hôm trời mưa, bão hay rét thì cực khổ. Giữa cánh đồng mênh mông, chỉ có mấy đứa trẻ trâu co ro cúm rúm trong những chiếc áo tơi lá, rét run bần bật. Mưa quất chéo vào mặt, rát rạt. Gió lật áo tơi, giăng lên như cách buồm. Nó vơ vội mấy dây rơm buộc thật chặt chặt cái áo tơi một vòng quanh bụng. Đường mưa, bùn lầy trơn nhẫy, chân đất phải bấm móng chắc xuống, tê dại, cóng buốt hết mười đầu ngón chân.

Nhiều lúc cưỡi trâu không để ý, đến gần mương hay ao, bất thình lình trâu cắm hai chân trước xuống nước, cúi đầu uống nước mà chẳng "báo trước" gì cả. Thế là nó nhào xuống nước, ướt như chuột lột từ đầu đến chân. Rút kinh nghiệm, khi trâu đi gần nước phải đề phòng. Nếu trâu chọc trân xuống uống nước, phải nhanh chóng đạp hai chân vào hai kheo chân trước của trâu, hai tay giữ chặt bướu vai của nó. Lưng trâu lúc đó rất dốc, không cẩn thận là nhào xuống ngay.

Không may, sểnh ra, trâu nó ăn mạ thì phiền toái to. Mạ non mà trâu nó đang quất ngon miệng thì có hét, có quất cũng chả ăn thua. Thậm chí, trâu nó còn dứt thừng bỏ chạy vào ruộng mạ, có tức ứa nước mắt cũng khó mà bắt được nó. Hợp tác xã mà bắt được sẽ phạt rất nặng nên đứa nào cũng sợ. Một lần, thằng Bão con chú Trọn, để trâu ăn mạ. Chủ nhiệm hợp tác xã gọi chú lên phạt thóc. Về nhà, chú Trọn nọc thằng Bão ra đánh một trận tơi bời.

  Thằng Bão tuy lớn tuổi hơn thằng Thập nhưng nó là con cô Gắng nên nó là em. Ngược lại, thằng Thập tuy là anh nhưng lại là quân của thằng Bão. Thằng Bão bị đánh đau, nó căm lắm.

Một hôm, trời nắng đẹp, quân tướng của thằng Bão đang chăn trâu, nó nhìn thấy con trâu cái nhà chủ nhiệm hợp tác xã thả ở bãi. Thằng Bão lấy đâu được một đoạn gỗ tròn, dài đến bốn năm chục phân, to bằng cổ tay. Nó đem quấn rẻ rách vào cái que, buộc dây thép xung quanh. Xong nó đẽo vát một đầu và tẩm đẫm dầu vào đám rẻ. Rồi nó bắt đầu kiên nhẫn rình. Đợi đúng lúc con trâu cong đuôi lên ỉa, nhanh như cắt, nó bật lửa châm vào rẻ dầu. Lửa cháy, nó đút nhanh thanh gỗ lửa vào lỗ đít con trâu, gần ngập lút . . . .

Nóng quá, con trâu tóp đít lại, lồng lộn phi. Nó chạy hết ruộng này qua ruộng khác. Bọn trẻ trâu vừa thích thú vừa sợ nên không đứa nào dám hò hét. Chúng đứng lặng im nhìn con trâu đau đớn vật vã chạy lung tung khắp cánh đồng. Không biết bao nhiêu ruộng lúa bị con trâu dẫm đạp, tả tơi . . . như vừa qua một trận bão lớn.

Đận ấy, gần chục mẫu lúa của hợp tác xã bị phá nát. Cả làng truy vấn bọn trẻ trâu. Đứa nào cũng sợ lắm ! Nhưng chúng còn hãi thằng Bão hơn nên "bố bảo" cũng chẳng đứa nào dám khai, không thì nó tẩn chết.

Nhưng rồi người ta điều tra mãi cũng tìm ra chuyện. Thằng Bão bị đuổi học.

Đang đi cắt tóc rong từ làng bên về, hay tin, chú Trọn tức lắm. Ông cầm cái đòn càn đi tìm khắp làng tìm thằng Bão. Thằng Bão liền thì bỏ chốn ngay lập tức. Nó chui vào khe của hai đống rơm to chất cạnh nhau, nằm sát tường cổng huyện. Hai đống rơm và bức tường tạo thành một cái hõm hình tam giác, rất kín đáo. Nó rút rơm, trải xuống đất, tạo thành một cái ổ rộng rãi và êm ái như một cái "ngai vàng". Nằm trong "ngai vàng", nó sai "quân quyền" là thằng Thập và những đứa khác lấy thóc và gạo của nhà đổi bánh mì, mang nước uống đến cung phụng cho nó. Không những thế, thằng Bão còn sai bọn trẻ đi hái trộm hoa quả trong vườn của các gia đình quanh đấy, mang đến cho nó. Nếu buồn đi đại tiểu tiện, nó phốc qua tường rào chỉ cao có hơn một mét vào ngay cái vườn cạnh.

Thằng Bão nằm ở đó ít lâu thì bị lộ, chú Trọn mang cái đòn càn tới gọi con không ra, ông cứ nhằm khe mà chọc. Chịu không nổi, nó phọt ra, ông vồ lấy túm tóc lôi về. Thằng Bão bị ăn một trận đòn nhừ tử. Nó bị treo ngược lên xà nhà, cứ thế mà roi mây vụt tới như mưa tuôn, thác đổ. 

  Sau khi đánh con một trận "tơi bời khói lửa", chú Trọn bắt thằng Bão phải ngồi viết bản kiểm điểm gửi đến hợp tác xã và nhà trường. Rồi vài ngày sau, thằng Bão lại được đi học tiếp.

Nhưng chứng nào tật ấy, thằng Bão vẫn nghịch ngợm và ngang ngược lắm. Nó thường tập hợp bọn trẻ, đẽo súng gỗ, gươm gỗ, quét vôi trắng, kéo quân sang làng bên đánh nhau với bọn trẻ bên đó để tranh giành lãnh địa chăn trâu và đánh dậm. Thằng Thập, dù không muốn cũng buộc phải tham gia.

Một đận, thằng Hoàng cháu thằng Thập bị một cái "giọt bọc" ở trên trán trái, to như quả cam, mưng mủ mãi không khỏi. Nó bị sai đi mời cụ lang Cới về trích nhọt cho cháu. Cụ lang nặn ra được một bát mủ. Nhưng thằng cu lại bị nhiễm trùng, sốt cao liên miên, các loại thuốc, loại lá chữa không khỏi. Bu nó lên đình làng Vang xem bói. Ông thầy nói số cháu nó không sống được, chỉ sống thêm được cùng lắm là một tuần, số "Giời" đã định thế. Cả nhà than nó khóc than ời ời, đúng như nhà có đám. Mọi người đau đớn chờ đứa cháu đích tôn ra đi mà không có cách gì chạy chữa được. Bảy ngày đã trôi qua, rồi đến tám, chín, mười ngày sau mà cháu nó vẫn không ra đi. Sau đó thằng bé từ từ khỏi, lại ăn ngủ tốt. Sức khỏe trở lại bình thường.

Nó tức lắm, đến gốc cây quéo trước cửa đình làng Vang, chửi ông thày bói nói sàm. Nó la hét chửi bới rất to cho bõ tức lão thầy bói nói cháu nó chết.

Chẳng ngờ bọn trẻ con làng này thấy kẻ thù xâm phạm lãnh thổ, liền hùa nhau đuổi đánh. Nó chạy bán sống bán chết về đến gần nhà thì gặp em Bão. Nó kể lại mọi chuyện. Lập tức thằng Bão cho tay vào mồm làm còi, tu huýt . . ., tu huýt . . . . Tiếng còi vang lên, lập tức hàng chục tiếng còi khác cứ truyền thông tin đi khắp phố. Hai chục phút sau, quân sỹ đã tập hợp đủ lực lượng, gươm giáo tre, súng gỗ, gạch đá đút đầy túi. Hơn hai mươi chiến binh phố nó hùng hổ kéo lên làng Vang.

Bọn trẻ con đuổi đánh nó xong đang vui vẻ chơi bi dưới gốc quéo đầu làng thì bị tấn công bất ngờ. Chúng trở tay không kịp, tháo chạy tán loạn. Thằng Bão xông lên, hùng dũng chạy rẽ đám đông, túm cổ thằng Nhượng "đảng trưởng" của làng Vang lên gối liên tiếp. Nó bắt thằng Nhượng phải quỳ xuống quy phục. Thằng kia không chịu, vùng lên đánh lại, hai đứa vật nhau hùng hục, tung cả cát bụi. Trẻ con hai làng cứ trố mắt nhìn hai đại ca quần nhau. Thằng Bão khỏe hơn, sau một hồi vật lộn, nó đã ghì sấp thằng Nhượng xuống cát, tì đầu gối vào lưng. Một tay thằng Bão túm tóc, một tay liên tiếp thụi vào mặt thằng kia. Thằng Nhượng ứa máu mũi, kêu đau oai oái. Thằng Bão liền quát :

- Chừa chưa?
- Chừa rồi.
- Xin lỗi đại ca và xin quy phục đi.
- Em xin lỗi đại ca, em xin quy phục !

Thằng Bão buông tay, nó đứng dậy phủi quần áo :

- Từ nay hai làng không đánh nhau nữa. Tao là thủ lĩnh. Đứa nào không nghe chớ trách. Rõ chưa ?
- Rõ ! - Bọn trẻ dồng thanh răm rắp.

Dứt lời, thằng Bão ra lệnh :

- Vứt hết "củ đậu" đi, chúng mày lục túi ra, có bao nhiêu tiền góp vào đây.
Hôm nay liên hoan đoàn kết, kết nghĩa huynh đệ !

Nói rồi nó móc túi lôi ra hai hào. Những đứa khác, đứa có năm xu, đứa một hào, đứa không có, đều góp vào cả. Tất cả được hơn một đồng. Thằng Bão ra lệnh tiếp :

- Mấy thằng trèo lên cây quéo hái quả, thả xuống đây.

Hái quéo xong, đội quân rùng rùng kéo sang quán nước cụ Còi ở dưới gốc cây quéo phía trong. Mỗi thằng một bát nước vối, còn bao nhiêu mua hết kẹo vừng, kẹo lạc. Buổi liên hoan đoàn kết diễn ra rất vui vẻ.

Từ đó về sau thằng Bão em nó và thằng Nhượng thân nhau lắm, như con chấy cắn đôi, đi đâu cũng có nhau.

Lực lượng hai làng liên kết nên càng hùng hậu. "Hội đảng" Phùng Chí Kiên hay tin cũng lập tức tự nguyện tham gia lực lượng. Thằng Bão được thể càng vênh vang, làm lắm chuyện ngang tàng. Cứ mỗi lần có chiếu bóng hay diễn kịch, chúng tập trung quân gần bốn mươi đứa mà chỉ mua một hoặc hai vé làm vì. Lúc vào bãi, một đứa đứng ra che mặt người soát vé, một cái vé vào bãi ấy, chúng chuyền tay nhau vào được hết. Có lần bị xé vé, đã thế, thắng Bão không mua vé nữa. Nó lấy vé xé rồi, dán pô luya ở phía sau, cầm đầu một lũ bốn mươi tên tiến vào chỗ soát vé. Người soát vé không cho vào, nó trả vờ cự cãi, cả bọn phía sau xúm vào bênh. Hai người soát vé bị bao vây giữa mấy chục đứa trẻ đang lúng túng thì bất ngờ thằng Bải dẩy ngã người xé vé rồi hô to :

- A la xô . . . !

Mấy chục đứa trẻ chạy ùa vào trong bãi. Khi lực lượng bảo vệ chạy tới ứng cứu thì chúng đã lẩn mất vào cùng với dòng người trong bãi.

     Một thời gian sau đó, không nhớ là bao lâu, thằng Bão đi bộ đội. Ngày nó tòng quân, rất đông bạn bè và "đàn em" đi tiễn. Không hiểu nó đi lính có chịu được kỷ luật nghiêm khắc của quân đội ? Chú Trọn cũng hy vọng người ta sẽ rèn cho nó vào kỷ luật sắt, có khi nó lại tiến bộ, chả biết được, dù sao thì chú cũng cất được một gánh lo.

Được vài năm, một hôm, nó nghỉ phép về thăm nhà. Trông nó rắn giỏi và chững chạc, khác hẳn hồi ở nhà. Nó mặc bộ quân phục mới coong, đánh cái thắt lưng da to bản. Trên đầu nó đội cái mũ mềm có gắn sao vàng lấp lánh. Bên hông nó, đeo trễ một khẩu súng lục đen xì lấp ló trong cái bao da màu nâu, bóng loáng. Trông nó rất oai vệ. Cả làng nó xì xào bàn tán, thắc mắc "Quái ! Thằng này mới đi vài năm mà lên chức nhanh thế ? Nó đã được đeo súng ngắn, lại còn xà cột (sacoche – từ tiếng Pháp) nữa chứ !". Nó không đeo quân hàm nên không ai biết nó đã lên đến cấp gì.

Nó nói với gia đình là nó về phép và tranh thủ hỏi cưới vợ. Chú Trọn và cô Gắng rất mừng, chạy đôn chạy đáo tìm người mai mối cho nó. Đám hỏi và đám cưới của nó được tổ chức rất nhanh chóng. Bây giờ thằng Bão đã là trai có vợ. Nhanh thật đấy ! Thằng Thập vui lắm vì có chú em là sỹ quan quân đội, lại còn có thêm cả em dâu nữa chứ. Nó cũng cảm thấy hãnh diện ta đây lắm !

Sau khi thằng Bão cưới vợ, cả làng mới ngã ngửa người. Hóa ra súng và xà cột chỉ có vỏ. Trong bao, súng nặn bằng đất sét bôi đen, trong xà cột thì toàn báo cũ. Nhưng nó đã cưới vợ rồi, biết làm sao ? Thế mới hay chứ !

   Ngày ấy, hợp tác xã của làng nó làm ăn thua kém lắm, cha chung không ai khóc. Bẩy giờ sáng, có kẻng, mọi người mới lững thững ra trụ sở đội sản xuất nghe phân công, rồi lại lững thững, rồng rắn đi ra đồng. Tới nơi còn ngả ngốn cười đùa, uống nước, hút thuốc lào vặt. Phải đến chín giờ các xã viên mới xuống cày, bừa, cấy, hái, . . . mười một giờ, lục tục nghỉ ăn trưa giữa đồng. Một rưỡi chiều đám xã viên mới dậy để làm. Nhưng trước tiên lại phải chè, thuốc, cười đùa thoải mái cái đã. Chả những thế, đội cấy còn giăng dây, giăng người thành hàng ngang mà "cấy tập đoàn" cho nó "khí thế". Vừa làm họ vừa cười đùa, trêu trọc nhau. Thật là vui vẻ hết mức !

Khoảng bốn giờ chiều, khi mà ánh nắng vẫn còn chói chang, khi mà lũ chim chiền chiện còn đang chao lượn trên đồng để kiếm mồi, ấy là lúc đã đủ thời lượng cho một ngày làm việc. Các xã viên đều nhất loạt lên rửa ráy chân tay về nghỉ, chả ai làm cố làm gì, mai làm tiếp thì có chết ai đâu, mà cũng "chả ảnh hưởng gì đến thế giới hòa bình". Sướng thật đấy ! chẳng còn đâu cảnh "đầu tắt mặt tối", "một nắng hai sương" truyền kiếp của người nông dân.

Sản lượng lúa và hoa màu rất thấp. Sau khi thu hoạch, việc trước tiên là phải nộp thuế cho huyện và tỉnh đúng chỉ tiêu để nuôi quân, . . . Sản phẩm còn lại, bấy giờ, mới chia theo công lao động. Đội trưởng các đội và kế toán của hợp tác xã cứ bù đầu lên cộng sổ sách, tính công điểm cho từng lao động. Để rồi, một công lao động chỉ được vài lạng thóc. Cả làng nó "ăn dè, tiết kiệm" cũng chỉ có thể cầm cự được một phần ba thời gian kể từ "tháng ba" đến "ngày tám". Thời kỳ "giáp hạt" kéo dài suốt hai phần ba thời gian còn lại.

Người dân ngày càng thiếu thốn đủ thứ, đói vàng mắt. Nhà nó có mỗi mình chị nó đi làm ruộng, nên thóc được chia ít lắm. Trông vào mấy thước đất "phần trăm" cũng chỉ đủ một nửa lương thực cho cả nhà. Bu nó bon chen chạy chợ, làm hàng xáo. Thầy nó cố gắng may đạt chỉ tiêu để lấy được bảy cân "gạo bông" (gạo mua bằng tem phiếu, mục mọt rất nhiều và rất hôi) một tháng mà chật vật lắm. Anh chị em nó phải phụ thầy đơm khuy, thùa khuyết hoặc may đỡ thầy nó những đường đơn giản. Dù vậy thiếu đói vẫn triền miên. Cả làng phải băm rau muống phơi khô, hoặc thái khoai, thái sắn phơi khô cho vào chum để độn vào với gạo ăn cho tạm qua bữa chứ chẳng bao giờ được no.

   Tranh thủ những ngày nông nhàn chị dâu nó thường hay lên Thái Nguyên ở nhờ nhà cô Tài và chị Biên nó. Chị nó đi chợ chè và mua sắn đem về quê bán kiếm lời, gọi là đi buôn chuyến cho nó oai. Sắn đẹp thì làm hàng để bán, sắn xấu thì thái phơi khô để nhà độn vào cơm ăn dần.

Một lần nó được chị đồng ý cho theo lên Thái Nguyên thăm cô và gia đình chị gái. Nó mừng lắm cứ hồi hộp, thấp thỏm suốt đêm. Sáng sớm nó cầm cái túi vải đựng vài bộ quần áo đi theo chị. Chị dâu nó vác cái đòn xóc, một đầu đòn sọc vào bó bao tải không buộc chặt bằng một bó thừng. Hai chị em đón xe khách đi ga Gia Lâm. Từ ga Gia Lâm lên tàu hỏa đi lên mạn ngược. Chị nó mua một vé người lớn hai hào, một vé trẻ em một hào. Ngồi trên toa tàu chợ có hai hàng ghế gỗ chạy hai bên bóng nhẫy vì nhiều người ngồi. Tàu chạy, nó quỳ trên ghế, hóng ra cái cửa sổ sắt đã được hạ xuống hết cỡ.

Nó cứ quỳ như thế mà ngắm nhìn phố phường, xóm làng, đồng ruộng, đồi núi vùn vụt chạy qua. Mắt nó nhìn dường như không chớp, tóc nó tung bay trong gió. Lần đầu được đi xa, mà lại được đi tàu, sướng quá. Nó cảm thấy đời hạnh phúc và biết ơn chị nó lắm.

Trong toa tàu chợ rất bẩn, đủ các loại hàng hóa, thúng mủng, bao tải khoai sắn, rọ lợn, rọ gà, mẹt tôm, thúng cá, . . . thậm chí cả củi nữa. Cứt lợn, phân gà, phân chó con nhoe nhoét chỗ này, chỗ kia. Mùi xú uế, mùi mồ hôi người bốc lên nồng nặc. Nhưng nó không quan tâm, nó đang bận thả hồn ngắm cảnh và dõi mắt lên những dải mây trắng vắt ngang bầu trời xanh ngắt, những cánh đồng và những làng xóm với lũy tre rậm rạp uốn cong. Thỉnh thoảng vèo một cái, các cây bên đường tàu vụt qua che khuất, rồi cảnh vật lại hiện ra, loang loáng.

Hai chị em nó lên tới nhà cô Tài. Nó được cô dẫn đi xem ga. Trong ga, các đoàn tàu với các toa xe đen đúa, rỉ sét, xám xịt, to tướng nằm chình ình. Các đường ray song song, mặt thép sáng xanh. Những thanh ray được đóng ghim bằng những chiêc đinh to xuống các dầm gỗ thông màu nâu đậm vắt ngang bên dưới. Các dầm gỗ được kê trên đá lót to bằng cỡ củ đậu, thấm dầu loang lổ.

Rồi nó qua nhà chị Biên chơi. Anh rể dẫn nó đi tham quan bên ngoài nhà máy gang thép. Nó nhìn thấy những ống khói cao vút, đen kịt đang phun lên trời, những nhà xưởng mái tôn rất to và những máy móc gì đó đồ sộ với hình thù thật lạ mắt. Sau đó nó được lên đồi thăm khẩu đội pháo phòng không mười hai ly bảy mà anh nó phụ trách. Nó cảm thấy cái gì cũng mới lạ. Nó sung sướng lắm vì biết được bao nhiêu thứ, đúng là "đi một ngày đàng, học một sàng khôn".

  Nó được chơi ở Thái Nguyên được đúng một ngày thì chị nó đã gom hàng xong. Đang hứng thú với bao điều mới lạ, nó miễn cưỡng theo chị gồng gánh hàng ra ga lên tàu về xuôi. Chị nó ham mua hàng nên khi mua vé tàu thì thiếu tiền. Chị đánh liều chỉ mua một vé người lớn 2 hào, vé cước hàng hóa hai hào nữa. Còn vé của nó thì đành phải tìm cách trốn.

Vẫn là toa tàu chợ bẩn thỉu hôi hám, nhưng chuyến về còn chật chội và ngột ngạt hơn vì hầu như ai cũng mua thêm sắn khoai, tải lớn, bọc nhỏ, "tay xách, nách mang". Trong toa chật ních như nêm cối, chỗ bậc lên xuống cũng chật ních người đu bám. Vì không còn một chỗ đặt chân trong toa mà cũng chẳng cần mua vé, nhiều người trèo lên ngồi ở nóc toa. Nó còn thấy mấy người mắc võng dưới gầm toa, một số người khác ngồi đu trên thanh sắt bảo hiểm ngay gần đấy, trông thật đáng sợ. Anh rể nó quen người bảo vệ ở ga nên hai chị em nó được vào sớm để chiếm chỗ tốt. Chị nó có chỗ ngồi, còn nó lại được quỳ ngay ô cửa sổ. Bẩn thỉu, hôi hám, chật chội, bị chen lấn xô đẩy nó cũng mặc kệ vì nó lại sắp được ngắm cảnh "kỳ thú" khi tàu chạy.

Con tàu hí lên một hồi còi dài, rồi một tiếng còi ngắn tiếp theo. Nó oằn mình, hổn hển, giật giật mấy cái rồi từ từ lăn bánh một cách nặng nhọc.

Con tàu đang băng băng lao mình về phía trước, nó thì đang mơ màng ngắm trời mây, sông nước. Cảnh ngoạn mục đang trôi qua mắt nó, dâng dâng sung sướng. Bỗng nó giật mình, thì ra chị đang giật tay nó, mắt chị lấm lét, ghé tai nó thì thào :

- Em trốn xuống gầm ghế ngay, họ đi soát vé, lúc nào soát xong chị bảo thì hẵng lên ! Nhớ !

Nói xong chị nó xốc nách nó đẩy vội vào gầm ghế. Bên ngoài chị chặn mấy bao tải sắn, xong, chị lại ngồi phủ hai ống quần , che kín vào khe hở.

Nằm xuống thì bẩn quá, ngồi thì không được vì gầm ghế quá thấp, nó phải cúi gập người, cong như con tôm. Trời nóng hầm hập, mùi xú uế càng trở nên nồng nặc. Để trốn thuế, mấy người buôn lợn con, chó con đã nhét mấy cái rọ chứa lợn và chó vào đó từ bao giờ. Nhìn quanh mới thấy nó đang ở giữa một lũ toàn chó với lợn. Lũ lợn và chó nóng quá đang há mồm, thè lưỡi thở hào hển. Cứt chó và phân lợn nóng hổi đang "tỏa hương" ngay gần mặt nó. Chưa bao giờ nó có cảm giác khổ sở và tủi nhục như thế này.

Liếc mắt qua khe mấy cái bao tải sắn, nó thấy đôi ba ta xanh, cái quần xanh công nhân rồi trên nữa là cái ca táp đeo vai màu nâu đen của người soát vé. Nó không thấy mặt người soát vé nhưng người ấy cứ đi đi lại lại trước mắt nó. Sao hắn cứ quẩn quanh ở đây lâu thế không biết. Nó sốt ruột quá. Mong sao cho người đó sớm đi khỏi chỗ này để nó nhô ra thở một chút. Một lúc lâu sau khi không còn nhìn thấy người soát vé với đôi giầy xanh đâu nữa, nó đẩy cái bao sắn định bò ra. Nhưng bao sắn thì nặng mà nó lại không có thế nên không thể đẩy được. Sốt ruột, nó túm gấu quần chị nó, giật giật. Chị nó lấy gót chân đá đá vào, ra hiệu cho nó nằm im. Vừa lúc đó nó lại thấy sáu chiếc giày của ba chú cán bộ thuế đến kiểm tra, lần này lâu hơn nhiều. Họ lục soát tất cả các tải hàng, tay nải, túi xách, thậm chí còn bắt khách đứng lên nắn thắt lưng xem có chè buộc vào bao tượng trong bụng không. Tiếng quát nạt, tiếng xin xỏ, tiếng giằng co lúc căng lúc chùng cứ nhũng nhẵng kéo gần hai tiếng đồng hồ.

Mồ hôi nó túa ra chảy vào mắt cay xè, chảy vào lưng ngứa ngáy, rôm đốt nhoi nhói, muỗi vo ve, nó cảm tưởng mình sắp ngất đến nơi thì thấy cái gì mềm mềm, ươn ướt chạm vào trán nó. Nó nhìn lên và nhận ra đó là khúc sắn luộc chị nó đưa xuống. Nó giận lắm định không cầm, nhưng nghĩ sao rồi nó lại cầm vậy. Tự dưng nó thấy mình đói, nước miếng cứ trào ra. Nó đành phải nửa nằm nửa ngồi nhai tý tóp như thằng tù khổ sai trong cũi sắt. Càng nghĩ nó càng căm chị nó. Nó thề từ nay không thèm theo chị nó đi đâu một lần nào nữa.

Tu . . . Tu . . . . Một hồi còi tầu hý lên gióng giả. Cuối cùng thì tầu cũng đang vào đến ga Gia Lâm. Nó thấy rậm rịch tiếng chân người, ầm ào tiếng người lôi kéo hành lý, chen lấn xô đẩy để chuẩn bị xuống ga. Chị nó vần cái bao tải sắn ra và gọi :

- Thập ơi ! Ra đi !

Nó cảm thấy như chim sổ lồng. Thế là thoát cảnh địa ngục tù đày. Nó chui ra khỏi gầm ghế, mặt mũi đen nhẻm, mồ hôi nhễ nhại. Chị nó cởi cái khăn vuông đen, lau mặt cho nó. Nó vùng vằng gạt tay chị ra, nó đang rất giận . . .

  Thằng Hoàng cháu nó cũng còi cọc chẳng khác gì nó. Bà ngoại thằng Hoàng thương cháu, ở trong làng ra chơi, mang cho nó mười quả trứng gà để tẩm bổ. Mỗi ngày chị nó luộc cho cháu nó ăn hẳn một mình một quả. Nó nhìn thèm lắm, ứa cả nước dãi. Cứ lúc nào cháu nó ăn, nó lại mon men đến gần gạ xin. Thằng bé tham ăn, không cho, nó chạy vào núp sau đít mẹ. Thập ta tức lắm, mỗi lần không xin được, nó lại giơ nắm đấm ra dọa. Thằng Hoàng lập tức hét lên :

- Bà ơi ! Chú Thập đánh.

Bu nó lườm cho một cái rõ dài. Nó sợ, nuốt nước dãi chạy mất.

Đêm ấy nó vắt tay lên trán suy nghĩ rất lung rồi nảy ra một quyết định.

Sáng hôm sau, nó bổ ống tiết kiệm vuốt phẳng những tờ tiền giấy nhăn nheo, xếp các đồng xu thành mấy chồng, nó được hơn hai đồng. Nó reo lên trong lòng "Ồi ! Tuyệt thật. Mình có một số vốn to đây !". Tối đến, bu nó đi chợ về, nó sán lại gạ :

- Bu ơi ! Bán cho con con gà mái nhá ?
- Tiền đâu ra mà anh mua ?

Nó giơ nắm tiền tiết kiệm ra. Bu nó lại hỏi :

- Anh mua gà để làm gì ?

Nó nói, nó sẽ nuôi gà đẻ lấy trứng, ấp đẻ con cho bu đi chợ bán. Nó sẽ tiết kiệm tiền nhờ bu mua cho con cái dậm. Bu nó cầm nắm tiền đếm xong, liền bảo :

- Con gà mái bu bán rẻ cho anh năm hào, còn lại bu mua cho anh đàn vịt mà chăn, thiếu bu cho vay thêm.
Bao giờ gà vịt đẻ, bán đi anh trả bu, còn thừa lại bỏ ống. Cố mà tích góp, bu sẽ mua cho quần áo mới
với cái dậm nữa. Được chưa ?

Nghe bu nói thế, nó sướng lắm, lẩm bẩm trong lòng "Lần này mình sẽ tự kiếm được tiền, chả mấy mà mình sẽ có rất nhiều tiền."

Sáng hôm sau đi học về, nó đã thấy ở góc vườn hai mươi con ngan bé bằng nắm tay màu vàng ươm bu nó mua hộ được quây trong cái cót nứa rộng bằng cái nia mà thầy nó đã đan hộ. Còn gà mái thì Bu nó cho chọn thoải mái. Nó nhìn thấy một con gà hoa mơ vàng rất đẹp, nó liền chỉ con đó. Bu nó gật đầu đồng ý. Thế là từ đó nó có tài sản riêng, bắt đầu từ con gà mái mơ và một đàn ngan con.

Gà thì không có gì phải lo, tối đến chúng tự bay lên, đỗ vào cái giàn tre thầy nó gác ở trên nóc chuồng lợn. Thóc lép của nhà thì đầy một bồ, ngày hai bữa nó cứ việc bốc cho gà ăn. Nhưng là gà của nó nên nó hay bốc trộm thóc chắc và gạo đem cho gà nó ăn riêng và đứng canh. Hễ gà của bu nó xông vào ăn tranh là nó đá, nó lấy que đuổi đi. Thức ăn ngon như thóc, gạo hay giun, gián mà nó kiếm được chỉ cho gà nó độc quyền được chén.

Còn đàn ngan thì có vẻ nan giải hơn. Điều đầu tiên, nó phải cắm cọc tre dưới gốc ổi buộc tấm cót sao cho đường kính nhỏ hơn cái nong rách để còn che đậy. Mỗi khi có mưa thì phải phủ thêm một miếng ni lông lên trên. Trên đường đi học từ trường về, ngày nào nó cũng phải tạt qua chợ, vào khu bán rau nhặt nhạnh trong đám rau nát hay rau già thải bỏ. Có hôm nó nhặt được nguyên mấy bó rau cải úa, mấy cây xà lách bầm nát. Về nhà, nó đem thái nhỏ biến rồi trộn thêm cám lợn làm thức ăn cho ngan.

Chiều chăn trâu về sớm, khoảng bốn giờ, nó thường lùa ngan ra bãi cỏ ở khu đất trống rất rộng trước cổng huyện gần ao nhà bà cả Riêng, nơi có những cây dứa dại và cây lúp xúp mọc hoang. Bãi này huyện cấm thả trâu bò nên cỏ tốt và cỏ non nhiều lắm. Nó thả ngan ở đó thấy không có ai nói gì. Ngày ngày nó cứ chăm gà và chăm ngan như vậy, lặp đi lặp lại mãi đâm chán, nhất là phải đi thả ngan một mình, buồn chết đi được.

   Cùng lớp nó có cái Huệ, con ông Quát bán phở ở cạnh nhà. Thấy nó có đàn ngan, cái Huệ thích lắm. Cái Huệ nằng nặc đòi bố nó mua cho đàn ngan. Từ đó nó có bạn chăn ngan nên rất vui. Chiều chiều hai đứa "hẹn hò" rủ nhau lùa ngan đi chăn. Nhưng rồi cái Huệ chẳng làm bạn chăn ngan với nó được bao lâu thì phải bán ngan đi, phần vì cái Huệ ngại đi học bị bọn bạn chế với thằng Thập là "hai vợ chồng ngan", phần nữa vì nhà cái Huệ bán phở, đàn ngan về làm bẩn nhà. Ông Quát bắt cái huệ phải bán đàn ngan. Thế là chiều chiều thằng Thập lại phải lủi thủi dong đàn ngan đi chăn một mình.

Một hôm dong ngan ra bãi, thả ngan xong buồn quá, nó dò dẫm ra bờ ao nhà bà cả Riêng ở gần đó. Chỗ này, trước đây có cái cầu ao bằng tre nay đã mục gẫy, không dùng nữa. Nó với tay xuống ao, ngắt một lá khoai nước. Nó thả lên hai hòn sỏi nhỏ lên trên lá khoai, lấy cái que nhỏ khỏa nước cho trôi đi. Nó tưởng tượng ra một chiếc phà đang vượt sông. Chiếc phà dần trôi xa bờ, nó cố với theo để khỏa nước. Bỗng nó mất đà, đâm đầu, bổ xuống ao. Nó hoảng sợ, quẫy đạp liên tục. Rồi nó bị sặc nước, càng quẫy loạn xạ nó càng uống thêm nước. . . .

Không biết thằng Thập đã vùng vẫy như vậy bao lâu, xung quanh vắng lặng không một bóng người, chẳng ai nhìn thấy nó để mà cứu. Nó cảm thấy ngày càng đuối dần, nó không thấy có cơ may nào để vào được bờ. Nó biết nó sắp chết đến nơi. Nó sắp sửa buông suôi tất cả . . . . Nó thoáng nghĩ đến buổi học sáng mai. Ừ ! mai là phiên trực nhật của nó. Ai sẽ quét lớp, lau bảng và mang phấn cho thầy . . . ? Thằng Thập đã đuối hẳn, một cách vô vọng, theo bản năng, tay nó vẫn quều quào chân nó vẫn quẫy quẫy và dần dần chìm xuống . . .

Bỗng chân phải của nó chạm phải một vật cứng, cái cọc tre đã gãy của cầu ao đóng ngầm dưới nước. Đúng là "chết duối vớ được cọc", theo bản năng, nó đạp mạnh một cái. Do cú đạp đột ngột đó, người nó lao đi một đoạn hơn một mét đến sát bờ ao. Hai tay quáo quào, túm được bụi cỏ gà mọc um tùm lan xuống ao. Nó ngoi đầu lên, thở gấp. Nó cố đạp chân liên tiếp, may mắn thế nào lại gặp hai cái cọc tre trơn nhớt vì rêu nằm gần bờ. Hai chân nó nhún lấy đà, hai tay nó túm vào cỏ đu người lên bờ. Sống rồi ! Thật là Trời đã cứu nó ! Nó nằm thở hổn hển, đầu tóc, quần áo ướt rượt.

Hồi lâu, định thần lại, nó len lén đi luồn qua sau cái xe bò đang xếp mấy bao trấu của nhà bác Rưng. Dù chẳng ai để ý nhưng nó cảm giác bao nhiêu ánh mắt dường như đang nhìn mình. Về đến nhà, nó lủi theo lối cổng, luồn phía sau, lên nhà tìm quần áo để thay. Bất ngờ thầy nó quay lại nhận ra. Thầy nó giật mình hỏi tại sao lại ướt. Nó định nói dối nhưng cái thước gỗ trong tay thầy nó và bèo tấm trên tóc, trên người không cho nó nói dối. Nó đành mếu máo kể lại. Thầy nó nguôi giận, không đánh mà lôi nó ra giếng rửa ráy, thay quần áo cho nó. Ông quát :

- Anh Bát ! Ra lùa ngan về. Bán ngay lập tức !

Nó mất mộng nuôi ngan từ đó và cũng từ đó thầy nó cấm tiệt việc nó ra gần ao chuôm nếu không có người khác đi cùng. Mà chả cần cấm nó cũng sợ. Nó mãi là một tay sợ nước. Cho tới sau này, nó vẫn không biết bơi. Thật tiếc !

   Thời gian ấy chiến tranh phá hoại của Mỹ đã mở rộng trên khắp miền Bắc. Chúng dùng không quân nhằm vào các mục tiêu là đường vận chuyển của ra các chiến trường ở miền Nam. Nhà ga, bến cảng, đường giao thông huyết mạch là mục tiêu đầu tiên. Rồi sau, chúng đánh phá tất cả các nhà máy, thậm chí là bệnh viện, trường học, khu tập trung đông dân cư, . . . Cả miền Bắc căng ra vừa chống trả đế quốc Mỹ, vừa duy trì sản xuất lúa gạo và các sản phẩm khác để đảm bảo đời sống và tiếp tế cho các chiến trường. Những khẩu hiệu cổ động khắp nơi, "Tất cả cho tiền tuyến", "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ Xâm lược", Mỗi người làm việc bằng hai", " Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", . . .

Cả miền Bắc thắt lưng buộc bụng, thực hiện chính sách kinh tế tập trung. Ngoài nộp thóc thuế nông nghiệp được cắt ngọn ngay từ trước khi chia cho xã viên theo công điểm, các hộ xã viên còn phải nộp đủ chỉ tiêu, gà vịt, lợn, ngan, . . . Tât cả vật nuôi, cây trồng nhà nước đều nắm độc quyền thu mua, điều hành phân phối, cấm buôn bán, giao lưu hàng hóa. Cấm tuyệt đối không gia đình nào được tự giết mổ gia súc, gia cầm. Giết mổ riêng là vi phạm pháp luật, bắt được là tội rất nặng, . . .

Người dân tìm cách đối phó với các điều cấm, sinh ra lắm chuyện bi hài. Nhà có con gà rù, gay đây ! Làm đơn lên xã để xin giết thịt thì nhiêu khê quá. Đành chờ đến đêm, người ta mới bí mật mổ trộm. Một người lặng lẽ vặt lông mò trong bóng tối, người khác phải ra đứng canh cổng. Vặt lông xong, lập tức phải đào hố chôn ngay. Gà luộc xong không dám chặt, sợ hàng xóm biết được sẽ đi báo xã. Phải kê thớt trên một lớp rơm dày rồi dùng dao mà cứa, cắt, nhay cho đứt chứ không được chặt. Khi cứa đến đoạn gặp phải xương thì dùng chày gỗ đã bọc giẻ gõ gõ, . . ., mãi rồi cũng phải đứt.

Bằng cách nào đó bí mật, đôi khi cũng có thịt. Kho thịt phải đúng bài để tránh mùi thịt bốc lên bay vào mũi hàng xóm. Vậy thì thịt phải kho chung với cá. Vẫn chưa yên tâm thì cho thêm nhiều ngải cứu lên trên. Cái này hay đây ! Ngải cứu vừa át được mùi mà lại là màn che đậy đám thịt ở phía dưới. Khi ăn móc thịt ở dưới lên từng miếng mà ăn. Nếu có xương, gặm xong phải dấu đi ngay để sau đó đem chôn.

Nhà ông Ích Xì có con lợn bị ốm, đem nộp để tính chỉ tiêu thì không được mà có báo cáo lợn ốm xin mổ cũng không xong. Ông Ích Xì đem mổ trộm, tiếc của, nhà chỉ chỉ dám ăn lòng còn bao nhiêu thịt thì mang sang làng bên bán dấm bán dúi.

Lại có chuyện ông Y Càrét mổ trộm lợn mang bán phải cõng lợn trên vai giả là cõng con bị ốm. "Con" ông được chùm tấm áo mưa, vợ ông một tay xách túi quần áo, một tay xách phích nước. Đúng cảnh hai vợ chồng đưa con đi chữa bệnh. Lần này may thì qua mắt được các chốt kiểm tra nhưng lần khác gặp phải người tinh ý thắc mắc: "Tại sao nóng thế lại mặc áo mưa ?! Cõng con sao không thấy đầu gối với bàn chân con đâu ?!". Lộ ra là bị bắt, bị lập biên bản, bị giam trên xã, bị tịch thu lợn.

Còn chuyện ông Zét ngang nhiên được phép xử lý lợn mới hay ! Lợn nhà ông Zét đột nhiên bị ốm lăn quay, sùi bọt mép trắng, hai mắt trợn ngược. Đợi đến gần tối, ông báo với xã xuống kiểm tra và báo cáo tỷ mỷ rằng lợn bị thổ tả, "miệng nôn chôn tháo" từ hôm qua. Xã biết đây là bệnh tả lợn, không khéo lây bệnh cho lợn cả xã thì gay. Xã lập biên bản cho xử lý ngay, chôn tại chỗ, rắc vôi bột lên "mả" lợn và toàn bộ chuồng lợn nhà ông Zét. Lợn chôn xong thì cũng vừa tối. Xã hết việc, xã về.

Xã vừa ra khỏi cổng thì cánh cổng cũng đóng lại ngay sau lưng xã. Cử một người canh gác rồi cả nhà lập tức đào mả lợn lên. Họ bí mật mổ lợn, cắt tiết hẳn hoi nhé ! Thịt xả nhỏ ra bỏ vào bao. "Mả" lợn được đắp lại như cũ, cũng rắc vôi bột trắng xóa. Ông Zét và con trai mang thịt đi lúc gà chưa gáy. Đến chiều hai cha con nhà ông về không với một bọc tiền to. Mãi về sau này, người ta mới biết ông Zét cho lợn ăn cái gì đó, bí mật chả cho ai biết, làm cho lợn bị say, lăn quay, sùi bọt mép.

Vì thiếu đói quá nên dân tìm cách "ăn vụng" và trốn thuế. Tất cả các chỉ tiêu thóc và thực phẩm phải nộp thuế đều "qui ra thóc". Người ta giấu thóc vào giữa đống rơm. Có nhà đào hầm, chôn các bao thóc bọc ni lông xống, phủ đất lên, ngụy trang cẩn thận. Thôi thì đủ các kiểu, . . . không thể biết được.

Đến ngày, dân quân vác súng và đòn càn cùng với cân tạ đi đến từng nhà để thu thóc thuế. Nhà nào không nộp đủ, xã gọi loa suốt ngày đêm bêu riếu. Chẳng những thế, dân quân còn khám xét, săm soi rất kỹ. Thóc được phát hiện đem ra cân cho đủ chỉ tiêu phải nộp, không cần biết nhà đó còn bao nhiêu thóc để sống trong thời gian chờ tới vụ sau. Còn chủ nhà thì bị bắt, giải lên xã.

   Mỹ bắt đầu đánh bom không hạn chế nên tất cả các nhà máy, các thành phố, thị xã, nhà ga, bến xe, . . . , tóm lại là những nơi tập trung đông người đều phải đi "sơ tán". Nghe các ông bà, cha mẹ kể lại, thời Pháp, người dân cũng phải đi "tản cư". Thời Mỹ bỏ bom này, người ta dùng từ "sơ tán" nghe cho nó nhẹ đi và làm cho dân đỡ cảm thấy hoang mang, dao động. Họ hàng nó ở Hà Nội về sơ tán ở quê đông lắm. Các anh chị và các cháu nó ở Hà Nội, Thái Nguyên và Hải Phòng cũng chạy về quê. Mà ngay phố chứ đâu, cũng phải đi sơ tán. Nhà nó chạy vào ngõ Bưởi.

Khắp phố huyện, khắp làng, chỗ nào cũng đào hầm tăng xê, hầm chữ A và giao thông hào hai bên đường cũng như trong ngõ hay cạnh sân kho, cạnh trường học. Trường học của chúng nó được chuyển vào sâu trong làng, cách xa đường quốc lộ. Các lớp học được đắp tường đất bao quanh cao mét rưỡi, thành ra trông những căn lớp lợp lá thấp lè tè. Cửa phụ của lớp học thông thẳng ra giao thông hào và hầm chữ A. Khi đi học, đứa nào cũng phải đeo nùn rơm sau lưng và đội mũ rơm trên đầu.

Lớp nó nằm gần sân kho thôn Bưởi, sát với bờ mương. Bên bờ mương mấy chiếc thuyền dùng để chở lúa vào mùa gặt đang nằm ép vào bờ. Giờ ra chơi, bọn chúng thường nhảy xuống đùa nghịch nhau trên các con thuyền không đó. Rất đông đứa trèo lên thuyền, hò hét, chơi trò dập dình làm cho nước tràn dần vào thuyền. Đến khi thuyền đầy nước sắp chìm, chúng nhẩy sang thuyền khác, thò tay qua dập dình tiếp cho đến khi thuyền chìm hẳn. Có bận chúng còn dùng đất mới cầy ở ruộng đáp đầy vào thuyền để làm thuyền chìm. Ông chủ nhiệm hợp tác xã đi qua trông thấy tức lắm. Ông quát sùi bọt mép :

- Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò !

Rồi ông tóm cổ đứa nghịch nhất lớp, chính là thằng Ngưng con ông, đáp thẳng nó xuống mương. Thằng Ngưng vừa bơi vừa hét lên :

- Tôi biết rồi nhé, tối hôm qua tôi thấy bốn cái chân trong buồng. Người nhà ngủ với người nhà. Ê . . . ê . . . !

Mọi người cười ồ lên một trận phá lá . . . Ông chủ nhiệm cũng không nhịn được, phì cười mà bỏ đi.

Cơ quan huyện cạnh nhà nó đã đi sơ tán hết, phố phường, chợ búa vắng teo. Tối đến, không đủ dầu thắp, mỗi nhà chỉ dùng một ngọn đèn hoa kỳ (đèn nhỏ, thắp bằng dầu). Chả những thế, đèn còn phải che chắn không cho ánh sáng hắt ra xa để phòng tránh máy bay. Để tiết kiệm dầu, bẩy giờ tối đã phải tắt đèn đi ngủ. Làng xóm và đường phố tối thui tối thủi "như đêm ba mươi".

Nhưng suốt đêm ở ngoài đường Năm những đoàn xe bánh lốp, bánh xích của Trung Quốc, Liên Xô ầm ì chạy. Những đoàn xe chở pháo, chở tên lửa cắm đầy lá ngụy trang, bật đèn gầm, rồng rắn di chuyển từ phía Hải Phòng về phía quốc lộ Một.

Trên cánh đồng ngoài làng nó, người ta cũng triển khai mấy bệ phóng tên lửa và các trận địa pháo cao xạ. Chiến tranh đã đến tận làng nó rồi. Không khí thời chiến vừa khẩn trương vừa nhộn nhạo trong tất cả các công việc từ việc làm đồng của người lớn, việc học hành của trẻ con đến việc sinh hoạt, ăn ở, đi lại, . . .

  Loa phóng thanh của huyện được treo ở mấy nơi, trên các cây cao để có thể báo động máy bay cho dân cả ngoài phố, trong làng và trên cánh đồng. Đồng thời có dân quân túc trực để sẵn sàng đánh kẻng báo động cả ban đêm lẫn ban ngày. Tiếng loa và tiếng kẻng báo động đã vang lên ở quê nó nhiều lần. Giọng người đọc phát lệnh báo động nghe đã quen nhưng mỗi lần nghe cái tiếng ấy nó vẫn cảm thấy gai hết cả người. Tiếng kẻng báo động đánh dồn dập rất nhanh, cấp tập ba tiếng một, keeng keeng keeng . . . keeng keeng keeng . . . Bây giờ nhớ lại vẫn thấy ghê ghê, rờn rợn.

Đang học mà nghe báo động là cả lớp nó bổ nháo bổ nhào lao ra cửa, chạy ra giao thông hào rồi chui nhanh vào các hầm chữ A. Khi báo yên, bọn trẻ chui ra khỏi hầm, người đầy bụi đất, thi nhau phủi. Những lần hầm hố có nước thì đứa nào đứa ấy bùn lấm lem hết cả quần áo, chân tay.

Một hôm, cũng như những lần khác, đang ngồi học yên tĩnh thì bất chợt có tiếng loa ọ ẹ rồi tiếng phát thanh viên gióng giả vang lên :

- Đồng bào chú ý ! Đồng bào chú ý !
Máy bay địch đã xâm phạm vùng trời Hà Nội, Hải Phòng. Có một tốp đang bay về phía huyện ta.
Đồng bào khẩn trương xuống hầm trú ẩn !
Các lực lượng phòng không sẵn sàng chiến đấu !

Từ cửa hầm, nhìn ra cánh đồng, thấy một tốp máy bay đang lao rất nhanh, thẳng tới. Bất chợt một chiếc bay chúc xuống cắt bom rồi bay vọt lên, tiếng động sèn sẹt qua đầu như xé vải. Vài giây sau, bom nổ ầm ầm, rung nghiêng cả nhà cửa cây cối. Bụi cát, đất đá, khói đen bốc lên mù mịt.

Lúc đó, các trận địa pháo đang nổ súng. Đạn pháo cao xạ vút lên đan chéo nhau trên không trung như mắt lưới. Thình lình, một quả tên lửa phòng không lao lên, kéo theo vệt khói trắng ngoằn nghèo in lên nền trời xanh biếc. Nó cũng đã từng nhìn thấy pháo phòng không và tên lửa bắn ban đêm, làm rực đỏ cả một vùng. Ánh đạn nổ, đường đạn đi chiu chíu đan nhau rực sáng như đêm hội hoa đăng.

Trận oanh tạc hôm ấy, chúng đánh vào Ủy Ban Huyện ngay cạnh nhà nó, trên đường số Năm. Sóng xung kích và hơi bom làm đổ sập căn nhà ngang của chị dâu nó, Làm tốc một phần mái dạ trên nhà chính. Có vài người trong Ủy Ban không chạy kịp hay bom đánh trúng hầm, nó cũng không rõ lắm. Nó chỉ thấy người ta nhặt các xác người không còn lành lặn, bọc ni lông, cho vào băng ca mang đi. Có người bị bom tiện đứt tay, cánh tay văng lên cành cây, lắt lẻo, máu đỏ lòm nhỏ xuống, trông thật khiếp sợ.

Sau đêm đó thầy nó cho dỡ luôn nhà ngang, không dựng lại nữa. Sau này, cái nền nhà thầy nó để mấy đống rơm và làm hộc lúa bằng tre trát đất đặt ở đấy.

   Đúng thời gian ấy, Anh Thưởng chồng chị Dụng nó là thiếu tá tiểu đoàn trưởng đang chỉ huy đơn vị pháo phòng không ở Thái Nguyên. Trong một lần máy bay Mỹ oanh tạc bắn phá ở Thái Nguyên, vừa dơ cờ hiệu lên ra lệnh cho đơn vị bắn thì một mảnh bom chém phăng ngay vào tay phải của anh. Tạm cầm máu xong, anh lại dùng tay trái tiếp tục chỉ huy đơn vị chống trả máy bay Mỹ. Sau trận đánh cánh tay tìm được dưới đống đất đá đã đen kịt không thể nối lại được nữa. Anh được đưa đi viện và thành thương binh cụt tay. Sau đó anh giải ngũ, đưa vợ con trở lại quê hương sinh sống.

Ở Hải Phòng anh Bính nó cùng em Bào con chú Hiền đều là chiến sĩ phòng không bảo vệ nhà máy. Hai anh em phụ trách khẩu trung liên đặt trên nóc tầng tư nhà máy xi măng Hải Phòng. Mỹ đánh trúng nhà máy, một mảnh đạn lớn găm vào ngực em Bào và Bào đã hy sinh tai chỗ. Chú Hiền mất người con trai duy nhất mà thằng Thập vô cùng yêu quý. Sau lần đó, anh Bính chuyển về Hà Nội, làm ở nhà máy cơ khí Hà Nội.

Sau cái Văn và thằng Hùng, bây giờ Chị Dụng đã sinh thêm một cháu gái nữa là bé Mai Liên. Chị đưa ba cháu cùng bà Ngà giúp việc về sơ tán ở nhà nó. Cứ cuối tuần anh chị đạp xe từ Hà Nội về mang gạo, thịt, đậu, tiếp tế cho con. Tuy ở chung trong một nhà nhưng nhà chị ăn riêng. Nhà chị cũng rất nghèo nhưng dù sao ở Hà Nội, anh chị và các cháu đều có tem phiếu, chị lại làm ở cửa hàng thực phẩm, anh là cán bộ công ty thương nghiệp, nên bữa ăn của các cháu không phải độn rau muống, sắn khoai như nhà nó mà lại còn có miếng thịt, con cá.

"Dân Hà Nội" cũng phải ăn độn nhưng mà độn mì sợi, một thứ mà đối với "dân nhà quê" thì đó là một đặc sản (theo nghĩa một món ngon đặc biệt). Chẳng những thế, mấy đứa cháu nó còn có đường sữa ăn đều đặn. Thế ra dân nghèo Hà Nội còn hơn trưởng giả xó quê mùa. Nó thấy đời thật bất công và có phần tủi thân lắm. Về sau này, khi đã lớn, nó hiểu ra một điều, người nông dân bao giờ cũng là người vất vả nhất nhưng lại là người nghèo nhất, "thấp cổ bé họng" nhất.

Nhà nó bấy giờ có sáu người, thêm chị Thất và chị Vận đã học xong đang nghỉ ở nhà chờ xin việc thành tám miệng ăn. Đời sống nông thôn quá khó khăn, tiêu chuẩn chế độ không có, ăn uống kham khổ vô cùng. Nó lúc nào cũng thèm được ăn một bữa cơm thật no. Nó thèm thịt, thèm cá, . . . thèm đủ thứ.

Nó ít ốm lắm, họa hoằn lắm nó mới ốm một lần. Tội nghiệp cho thằng bé, lúc nào nó cũng chỉ mơ bị ốm thật nặng, không ăn uống gì được. Sao lại có cái ước mơ lạ đời như thế chứ ? Thì ra nó muốn ốm nặng như thế, bu nó sẽ thương mà dũng cảm bỏ ra hai hào sang nhà ông Quát mua cho nó bát phở (ốm nhẹ thì đừng có hòng).

Một mình nó một bát phở. Ôi sao vĩ đại thế ! Lúc đó, dù có ốm nặng mấy đi nữa mà nhìn thấy bát phở đầy đến miệng, mỡ nổi lều phều vàng óng ánh bám vào thành bát, mùi thơm quyến rũ của nước dùng, màu trắng ngà của những lát thịt gà ẩn hiện thấp thoáng dưới mấy lá hành, lá rau thơm, cái mềm mềm, dai dai của bánh phở, vị ngọt lịm ngấm vào từng tế bào lưỡi, . . . là nó lập tức nhổm dậy đáp lại một cách cuồng nhiệt nhất. Lần nào cũng vậy, tuy nó rất cuồng nhiệt nhưng vẫn xúc ăn một cách từ từ. Nó ăn từ tốn như thế không phải vì quá mệt do đang ốm mà là nó cố tận hưởng hết cái sung sướng đầy tính ẩm thực đang vỗ về cái lưỡi khát thèm của nó, tận hưởng mùi thơm bay vào mũi, vị ngọt chảy vào chân răng, . . . Nó đang nhấm nháp hạnh phúc ngọt ngào đấy.

   Bữa cơm nhà nó thường chỉ dùng gạo xấu, vừa rời rạc vừa hôi, cho rẻ tiền. Mà gạo xấu cũng chả đủ nên phải độn thêm rau muống và sắn. Cơm chan nước rau luộc vào mà ngoắng lên một cái thì không khác gì bát cám lợn. Còn thức ăn thường là rau muống, hái thật dài, không bỏ cuộng già cho tiết kiệm. Nước chấm là nước muối cua, sang thì là tương. Bữa ăn gồm một rổ rau muống già tú ụ, có thể có thêm một đĩa cá mụn hoặc là tôm tép lẩm cẩm kho thật mặn "một con tôm ôm ba hạt muối" để không ăn được nhiều. Tôm mà cứ gắp gắp là bu nó lại lườm cho một cái nên đành phải thôi. Thường khi bát cơm mới xới đầu tiên, bu xúc tôm cho mọi người, mỗi người một thìa con dúi sâu vào dưới cơm và không quên nhắc nhở : "Ăn dè cả bữa đấy !". Ai không chịu ăn rau, bu nó lại quát : "Mày không ăn rau, sợ nó xanh ruột à". Cả nhà nó ngồi "úp thìa", người này quay lưng vào mặt người kia cho đỡ chật, cứ thế cắm cúi ăn.

Nhìn sang mâm của các cháu ngồi ngay cạnh đó, bao giờ nó cũng thấy có nồi đậu rán dở, vàng ươm, kho chung với thịt ba chỉ thái to như ngón chân cái mầu nâu đậm, óng mỡ với cà chua đỏ rực và hành thái lát xanh ngắt. Nó thèm lắm, chỉ ước gì mình là con chị nó thì sẽ được mặc đẹp, ăn ngon như những đứa cháu đồng trang lứa với nó. Mỗi lần nó chống đũa tần ngần nhìn sang, bu nó lại lấy tay huých nó. Nó ngượng lắm, nó không nhìn sang nữa, cắm mặt xuống ăn. Nó cứ day dứt tự hỏi, sao mình nghèo hèn thế, mình là cậu chúng nó cơ mà.

Nó thích nhất những khi chị nó về. Có hai cái bánh mỳ, bao giờ chị cũng cẩn thận cắt từng khoanh chia cho từng đứa trẻ. Những lúc như thế, chẳng những nó cũng được ăn mà nó còn cảm thấy được bình đẳng với những đứa cháu. Nó ăn thật chậm, nhấm nháp hương vị miếng bánh để cái sự sung sướng được kéo dài ra thật lâu. Anh Bát nó thì chén vèo một cái đã hết. Anh quay sang gạ xin hết đứa nọ đến đứa kia. Nó biết vậy nên toàn phải trốn. Những khi trốn không được, bao giờ nó cũng đành bẻ cho anh nó một miếng bé tí tẹo.

Đến bữa cơm, chị nó gắp một đĩa đậu kho nhỏ đưa sang biếu thầy bu nó. Tám người thì sẽ chính xác là tám miếng đậu. Thầy bu nó thường không ăn, nhường phần cho nó.

Có một lần chú Tự, bạn thân của thầy nó, người được thầy nó cưu mang và chịu ơn đến nhà nó chơi. Chú phiêu bạt một thời gian lên tận Bắc Kạn. Rồi hỏi thăm được địa chỉ nhà nó chú tìm về chơi để tạ ơn ân nhân. Chú biếu thầy nó cái bộ đỉnh đồng nhỏ của gia bảo, một cây hồng dại để trồng làm thuốc cho phụ nữ mang thai và hậu sản. Cho nó một cái cần câu trúc nho nhỏ xinh xinh.

Tiếp đón bạn quý, thầy nó dũng cảm mổ thịt một con gà bằng hai nắm tay. Mổ xong chặt ra chỉ được một đĩa nhỏ cả lòng mề. Trước khi ăn thầy nó dặn :

- Đây là phần bác Tự. Các con không đứa nào được gắp.

Vào bữa, cả nhà ăn cơm với rau chấm tương và tép kho mặn. riêng đĩa thịt gà không ai dám gắp, chỉ lấm lét nhìn. Thấy nó bé nhất, chú Tự bế nó vào lòng, gắp cho nó một miếng rất to. Nó thích lắm nhưng nhớ lời thầy dặn liền gắp trả lại vào đĩa. Chú Tự cứ dúi miếng thịt vào bát, mà nó thì sợ sệt đưa mắt nhìn thầy bu. Thầy nó khẽ gật đầu, nó yên tâm đang định ăn thì anh Bát nó đánh mắt ra hiệu. Nó nhìn sang anh Bát nó đang lắc đầu quắc mắt, nhưng thèm quá, vả lại thầy đã đồng ý rồi nên nó cứ ăn, muốn đến đâu thì đến. Anh Bát nó dơ nắm đấm dọa. Nó biết là sẽ không yên với anh Bát, một mình ăn một miếng thịt gà đâu phải chuyện nhỏ, nhưng nỗi thèm ăn miếng thịt của nó đã vượt lên trên sự sợ hãi.

   Ăn cơm xong, anh Bát lôi nó ra sân, tát cho nó một cái lật mặt rồi quát :

- Tao không cho, sao mày dám ăn ?

Nó trợn mắt quát lại :

- Bác Tự cho em, với lại thầy đồng ý rồi.

Anh nó gầm lên :

- Nhưng tao chưa đồng ý. Tao cấm mày !

Bị tát đau, nước mắt nó dàn rụa, thầy nó nghe tiếng xuống hỏi chuyện gì. Nó mách :

- Thầy với bác Tự cho con ăn thịt gà, anh Bát không cho, đánh con.

Thầy nó tức lắm nhưng nhà đang có khách nên không nói gì. Lúc bác Tự về, thầy nó gọi anh Bát lên, bắt nằm ra giường vụt cho ba roi vì can tội bắt nạt em, lại đúng lúc nhà có khách. Anh Bát căm nó lắm, từ bấy rắp tâm trả thù.

Hôm sau, cả nhà đi gặt, nó ở nhà dũi thóc, trông gà, băm rau lợn. Giữa trưa trời nắng như đổ lửa, anh Bát ngoặt nghoẹo gánh lúa về đến sân, mặt đỏ bừng bừng, mồ hôi nhễ nhại. Thấy nó đang ngồi trong bóng râm cắn chắt và đọc truyện, Anh Bát chạy ngay lại, giằng quyển sách khỏi tay nó quẳng đi và quát :

- Cứ cắm đầu mà đọc sách, gà ăn lúa sao mày không đuổi ?

Nó giật mình nhìn lên, thấy đàn gà hàng xóm đang bới tung sân thóc và mổ ăn lia lịa, chợp . . . chợp . . . chợp . . . . Nó biết lỗi, hoảng quá, lao ra xua hú . . . ù . . . hú . . . ù . . . làm cho đàn gà chạy tán loạn. Khi nó quay lại thì thấy anh nó đang vạch quần, túm chim, phun nước đái vào quyển sách cho ướt hết. Rồi hắn còn quay lại, phun ngoằn nghoèo nước đái vào sân thóc để "tẩy uế" đám thóc. Nó tức quá lao vào hắn để đẩy hắn ra ngoài. Hai anh em giằng co, nước đái phun vào bụng, vào quần, vào chân nó ướt sũng. Không làm gì được, nó khóc ré lên rồi chạy vào nhà mách thầy. Thầy nó đi xuống cầm cái thước lim, nhìn thấy thủ phạm đang nhét chim vào quần, thầy nó điên tiết quật túi bụi. Nhìn thấy hắn bị đòn nó thấy rất hả dạ. Nhưng thầy nó đánh anh đau quá, đó đâm mủi lòng, lại thấy thương anh quá.

Sau đận ấy, anh Bát càng thù nó tợn. Một hôm, lừa lúc nó đang lấy cái gáo dừa chúi đầu vào trong chum để múc ít nước mưa còn rất ít dưới đáy, anh Bát liền chạy đến sau lưng nó, túm hai chân nó nhấc bổng lên, dốc ngược đầu nó vào trong chum. Đầu nó cắm xuống nước, hai chân chới với trong tư thế "trồng cây chuối". Giá mà nó kịp nghĩ thì nó sẽ biết là nó sắp chết đến nơi, không phải chết trong đại dương, cũng chẳng phải trong ao tù mà là chết đuối trong chum với chỉ một gang tay nước.

Không biết chuyện sẽ xảy ra tiếp theo như thế nào. May sao, đúng lúc đó, từ trên nhà tình cờ thầy nó ngoảnh mặt lại nhìn thấy cảnh ấy vội lao xuống. Ông túm chân, nhấc bổng nó lên. Nhưng nó đến miệng chum thì bị vướng hai tay. Ông nhanh tay vớ cái thước lim đập mạnh vào vết vỡ cũ ở miệng chum vừa vá lại chưa khô hẳn.

Lôi được nó ra xong, ông gầm lên lao đến anh nó. Lần này ông tức thực sự, ông túm tóc lôi anh nó sồng sộc lên nhà, trên đường đi ông với lấy cái thừng con treo ở lối ra vào. Vào đến nhà, ông vật sấp anh nó xuống nền nhà, trói chân trói tay. Rồi cứ thế cái thước lim trong tay ông tới tấp vụt xuống. Thật may, vừa lúc đó bu nó gánh hàng ở chợ về nhìn thấy. Quẳng gánh hàng xuống, bà chạy lại giằng lấy cái thước, lấy lưng che cho anh Bát.

Bu nó cởi thừng, lau mặt cho anh Bát. Sau khi nghe chuyện, bu nó nghiêm khắc nói :

- Thầy đánh con là đúng rồi. Sao con nghịch dại thế ?

May có thầy ở nhà chứ nếu không chết em thì con nghĩ sao ? Con không yêu nó hả ? . . . .

  Nó nhớ nhất hai kỷ niệm với hai cô bạn gái cùng lớp. Bấy giờ nó đã mười một tuổi, đang học lớp bốn, lớp của thầy Tứ.

Kỷ niệm thứ nhất là về cái Hằng. Hồi đó, máy bay Mỹ chưa đánh phá mở rộng, phố huyện nó chưa phải sơ tán. Cơ quan huyện cạnh nhà nó vẫn hoạt động bình thường. Lớp nó đặc biệt có con bé cái Hằng, hai bố mẹ đều là bác sĩ người miền Nam tập kết. Nhà Hằng ở trong khu tập thể Ủy ban huyện. Ở gần nhà nhau nên cái Hằng và nó thường chơi với nhau và học nhóm cùng nhau. Thấy nó lại hay lọ mọ vào bới các đống rác trong huyện tìm pin đài, giấy pơ luya (pelure – gốc từ tiếng Pháp), cái Hằng liền nhờ bố mẹ xin các cô các chú trong cơ quan những thứ đó. Nó đỡ phải ra bới rác mà nhiều khi còn được các quả pin chưa hết hẳn, thậm chí còn kha khá hay giấy pơ luya trắng chưa đánh máy. Giấy chưa đánh máy thì tuyệt lắm, nó khỏi phải tẩy bằng nước gạo. Nó quý cái Hằng lắm, có củ khoai, củ sắn, quả khế, quả ổi nó hay để dành cho. Ngược lại, cái Hằng thì cho nó quyển truyện tranh, cái thước kẻ, lọ mực Cửu Long. Cái Hằng lại còn để dành cho nó mấy cái kẹo, vài cái bánh khi bệnh viện hoặc cơ quan huyện liên hoan. Cái Hằng và nó trở nên quý mến và thân nhau lắm.

Một hôm thầy Tứ giao bài thủ công cho cả lớp. Cái Hằng lúng túng chẳng biết phải làm gì. Nó bảo cái Hằng xin các vỏ hộp các tông (carton), vỏ hộp thuốc của bố mẹ. Hôm sau, cái Hằng mang đến một đống vỏ hộp thuốc sang nhà nó. Thằng Thập khoái quá, nó bắt tay vào làm bài thủ công một cách rất hứng thú. Nó kẻ kẻ, vẽ vẽ, cắt rồi dán, dựng thành một cái nhà mái ngói. Bên trong căn nhà lại có đủ giường, ghế, bàn, tủ. Ngoài sân có giếng khơi, bể nước, cây cau. Nó còn tô màu cho nhà và các đồ vật bằng hộp chì mười hai màu của cái Hằng. Hôm chấm điểm, nó khệ nệ bê tác phẩm lên bàn thầy. Cả lớp trố mắt, trầm trồ khen đẹp. Thầy Tứ chấm cho nó mười điểm. Đến lượt cái Hằng, cái Hằng thưa với thầy là làm cùng với bạn Thập. Thầy Tứ quay sang hỏi nó thì nó nói nó làm chung bài với bạn Hằng. Thầy Tứ mỉm cười, nói đùa :

- Đây là ngôi nhà hạnh phúc anh Thập xây cho chị Hằng ở đấy.

Cả lớp cười ồ lên, vỗ tay rào rào. Thầy đợi cả lớp im lặng, nói tiếp :

- Được điểm mười chia đôi nhé !

Từ đó, đi đâu bọn lớp nó cũng chế : "Thập - Hằng, Thập – Hằng . . . !". Nó vừa ngượng, vừa tức nhưng trong lòng cũng thấy thinh thích.

Chẳng ngờ cuối năm đó cái Hằng phải theo bố mẹ đi sơ tán. Hôm nó được kết nạp vào đội thiếu niên, nó rất mừng và nhớ tới cái Hằng. Nó đi bộ năm cây số xuống nơi xơ tán của cái Hằng để thăm và báo tin vui. Mấy lâu không gặp nhau, hai đứa không ngớt chuyện, vui lắm. Cái Hằng giữ lại ăn cơm, nhưng nó ngượng nên không dám. Khi về cái Hằng gói vào mùi xoa tặng nó năm quả quýt. Lần đầu tiên được bạn gái tặng quà, nó rất xúc động, một kỷ niệm mà nó sẽ còn nhớ mãi.

Sau ngày sơ tán trở về, nó đi tìm cái Hằng nhưng buồn thay cái Hằng đã theo cha mẹ chuyển đi đâu, bặt không có một tin tức gì. Đến tận bây giờ nó vẫn nhớ và ước gì được gặp lại. Mỗi khi nhớ, nó thầm gọi : "Hằng ơi ! Bạn đang ở đâu ? Hằng ơi . . . !"

   Kỷ niệm thứ hai về một đứa bạn gái cùng lớp là con cái Rều. Bấy giờ chúng nó đi học tuổi tác lung tung lắm, cùng một lớp đứa học sớm, đứa học muộn, đứa đúp lớp. Do vậy cùng lớp mà hơn nhau bốn, năm tuổi là chuyện bình thường và cũng rất bình thường, vẫn cứ gọi nhau là mày tao. Cái Rều hơn nó đâu bốn, năm tuổi gì đó, bấy giờ đã đã mười sáu, cặp vú đã nhú ra lùm lùm, cái mông cong tớn, đã bắt đầu để ý làm đỏm, làm duyên, làm dáng.

Một hôm, trong tiết học toán, thầy Tứ ra đầu bài toán, cho thời gian mười phút. Hết thời gian, thầy kẻ đôi cái bảng, gọi cái Rều lên giải bài ở phần bên trái bảng. Cái Rều lúng túng viết được mấy chữ rồi đứng đực mặt, vê vê tà áo. Thầy gặng mãi mà mặt nó cứ cúi gằm, chân di di xuống đất. Thầy bực lắm, giọng hơi gắt, nói :

- Cô lớn nhất lớp không giải được bài, để tôi gọi cậu bé nhất lớp lên nó giải cho mà xem.

Nói đoạn thầy quay xuống nhìn lướt cả lớp. Ánh mắt thầy dừng lại chỗ nó. Thày gọi :

- Nguyễn Trọng Thập, lên bảng !

Nó giật mình đứng lên :

- Thưa thầy, vâng ạ !

Nó làm bài ở phần bên phải bảng và chỉ ít phút sau đã ra đến đáp số. Thầy hỏi cả lớp :

- Các em xem bạn Thập làm có đúng không ?

Nhiều bạn trong lớp đồng thanh :

- Thưa thầy, đúng ạ !

Thầy gật đầu hài lòng. Quay sang chỗ nó, thầy Tứ kéo nó đứng sát bên cái Rều. Thầy cầm thước kẻ đặt lên đầu hai đứa thì cái thước cứ dốc ngược lên. Thầy quay xuống nói :

- Cả lớp nhìn xem. Cậu Thập bé tí, chỉ đứng đến tí cô Rều nhá, mà giải được bài rất nhanh.
Cô thì to xác nhưng đầu óc toàn đất sét. Học không nổi thì ở nhà mà đi hót phân trâui !

Cả lớp cười ồ lên. Cái Rều ngượng quá khóc òa lên, nó chạy ra khỏi lớp, quên cả cặp sách.

Từ hôm sau cái Rều bỏ học ở nhà luôn. Sau đó một năm, nó lấy chồng. Bây giờ về làng, nó vẫn gặp cái Rều. Bà Rều trông đã già lắm, có con đàn cháu đống, nhà rất giàu. Bà Rều mới có chắt và được gọi là cụ Rều rồi.

Cuối năm đó, sau khi dính vụ "ao Cổ Ngan" như đã nói ở trên, thầy Tứ nó đi bộ đội. Cả lớp nhớ thầy, ngơ ngẩn mất một thời gian.

   Trong ngõ Bưởi, tổ tiên nó để lại khoảng bốn sào đất, một ngôi nhà ngói ba gian hai chái với hai cây táo cổ thụ. Hồi cải cách ruộng đất, ngôi nhà đã bị đội cải cách phá mất. Họ tịch thu gỗ lim và ngói mang đi làm trụ sở của đội cải cách. Ngôi nhà chỉ còn lại các bức tường gạch vỡ nham nhở. Theo thời gian, phần thì tự mục nát, phần là do dân làng phá dần lấy gạch nên bấy giờ chỉ còn trơ lại cái móng.

Khi sơ tán vào ngõ Bưởi, thầy nó phải cùng mọi người dựng tạm một ngôi nhà tre hai gian, hai chái bé xíu. Tường nhà buộc dứng, trát vôi cát trộn rơm, mái lợp rạ. Bu nó và anh Bát không đi sơ tán mà phải ở phố trông nhà. Anh Bát nó bấy giờ đã học lớp mười ở trường cấp ba, sơ tán ở Dương Quang, cách nhà nó ba cây số. Chị Thất, chị Vận bấy giờ người hai mươi, người hăm hai, đều đã xin được việc làm. Chị Thất dạy học ở trường cấp một Hưng Long. Chị Vận làm hành chính trong cơ quan Liên Đoàn Địa Chất ở ngay gần nhà. Thầy nó, chị dâu, chị Thất, chị Vận, cháu Hoàng và nó, cả thẩy sáu người mà ở trong căn nhà mới quá chật chội, lụp xụp, không đủ điều kiện sinh hoạt, không nhà vệ sinh, không giếng nước. Vì thế, ở đó sơ tán được được ít lâu, thấy tình hình yên yên, cả nhà nó lại dọn về phố.

Đối diện nhà nó ở ngõ Bưởi có nhà chú Cất, chú họ nó. Cô họ nó là em ruột chú Cất bấy giờ cũng đưa các con từ thành phố về sơ tán ở nhà chú Cất. Mấy đứa em họ từ thành phố về có tên khá vần Quyết, Tâm, Kháng, Chiến. Chúng nó rất nhanh chóng hòa nhập ngay với họ hàng. Chúng thường hay sang nhà nó chơi, mấy đứa ríu ra ríu rít, vui lắm. Quyết là đứa lớn nhất, chắc hơn nó bốn hoặc năm tuổi. Nó hay giúp đỡ anh chị họ, khi thì gảy rơm, tãi thóc, khi thì băm bèo, thái chuối.

Một hôm em Quyết đang băm bèo tây ở sân, trên một cái thớt vỡ, thằng Hoàng cháu nó lúc ấy đã được năm tuổi đang chơi đùa với nó. Hai chú cháu chơi đá bóng bằng quả bóng rơm. Quả bóng bị nó sút vào chỗ em Quyết. Thằng Hoàng lao theo quả bóng, quá đà, lao thẳng vào mũi dao. Quyết đang mải thái bèo nên rụt dao về không kịp. Mũi dao bập vào giữa ngón cái chân phải thằng Hoàng, chẻ móng ra làm đôi. Máu chảy ra lênh láng nhưng rất may vết thương không vào xương. Vụ này làm cả nhà nó sót ruột xuýt xoa mãi. Rồi vết thương cũng khỏi, nhưng móng chân thằng Hoàng thành cái tật, hình thù kỳ dị, vênh lên ở giữa như mái nhà.

   Năm đó nó đã mười hai tuổi, học lớp đầu cấp hai, tức là lớp năm. Vì nhanh nhẹn, nhiệt tình và có khiếu văn nghệ, khiếu mỹ thuật. Nó được bầu làm đội trưởng đội thiếu niên, kiêm liên đội phó thiếu niên toàn xã. Bấy giờ phong trào thanh thiếu niên quê nó hoạt động mạnh lắm. Nó được phụ trách cả khối lớp năm, khoảng hơn một trăm đội viên. Oách lắm !

Các chi đội gồm 5A, 5B, 5C, mỗi lớp một chi đội. Hàng tuần nó cùng anh chị phụ trách cho các chi đội học múa, học hát, . . . Các buổi sinh hoạt chi đội được tổ chứ riêng tại sân nhà ai rộng mà nó mượn được. Mỗi tháng hai lần, giữa tháng và cuối tháng họp toàn đội thì mượn sân kho hợp tác xã hoặc sân trường. Mỗi quý liên đội cả xã họp một lần tại sân Ủy Ban Nhân Dân xã trong thôn Rừng. Liên đội trưởng là thằng Lợi, hơn nó một tuổi, con bác Lý Nhiệm chủ tịch xã.

Nó giữ bộ trống ếch của đội, gồm năm cái từ to tới nhỏ. Ngày nắng nó thường mang ra sân phơi cho mặt trống thật căng. Dùi trống do tự tay nó đẽo từ cây muồng muỗng, phải nói là rất đẹp. Mỗi loại trống một loại dùi theo kích thước của trống. Trống con gõ lên tiếng phải đanh giòn. Dùi của trống cái khi gõ phải đầm tay, không bị rung, tiếng trống phải rền vang.

Nó thường cho đội tập hát, tập múa. Đặc biệt là múa bài "Múa Sạp "sòn sòn sòn đô sòn . . .". Có một bài khác cũng rất hay mà bây giờ nó vẫn còn nhớ lời đó là bài múa "Hải Quân":

"Một đoàn tàu nhấp nhô, nhấp nhô đoàn ta tiến đầu ra khơi.
Vượt làn sóng nhấp nhô, nhấp nhô đoàn ta tiến dần ra biển Đông.
Chúng ta là chiến sỹ hải quân anh dũng lướt mình tung gió, trong sóng bão bùng.
Chúng ta vượt lên, hết lòng vì nhân dân lập công . . ."

Cứ chiều đến, khi cơm nước xong, nó mang trống cái ra gõ một hồi chín tiếng, các đội viên vai đeo khăn đỏ tề tựu ở sân nhà nó múa hát, nó dùng còi toe toe thổi hiệu lệnh. Dưới ánh trăng, xóm làng rộn vang tiếng trống ếch và điệu hát câu hò. Chính vì vậy những nỗi nhọc nhằn thiếu thốn của đời sống vật chất dịu đi trong lòng người dân khi nhìn thấy trẻ con ca hát. Họ bằng lòng, vui vẻ siêng, vui vẻ chịu đựng, vui vẻ vượt qua.

   Mặc dù đã mười hai tuổi, là cán bộ đội của cả một khối lớp năm, như bây giờ mọi người thường nói "đường đường một đống su hào" chứ đâu có phải thường. Nhưng thói xấu của nó vẫn ẩn dấu chưa có dịp bộc lộ. Và rồi một ngày thời cơ đến . . .

Chuyện là thế này, Một lần chị Dụng nó gửi về hai lạng đường kính trắng biếu thầy bu nó. Lúc bấy giờ, đối với dân quê, đây là món quà quý lắm. Thầy nó cẩn thận rửa sạch cái lọ thủy tinh, lau khô, đổ đường vào, vặn chặt nắp. Chưa hết, đề phòng kiến đen tấn công, ông đặt lọ đường vào bát ô tô nước. Lũ kiến đen là nhanh nhạy lắm, phải cái không biết bơi, nên chúng đành chịu. Để đề phòng "kiến trắng, đầu đen", ông bê cả cái bát tô cho vào ngăn trên cùng của cái tủ đứng và khóa lại. Chìa khóa thì ông luôn dắt ở cạp quần. Đường ơi, Tuyệt đối an toàn nhé !

Hôm đó thầy nó vừa mở cửa tủ, đang định lấy gì đó thì bên kia đường cô Năm Sữa gọi giật giọng :

- Ông trưởng ơi ! Con chó nhà ông bị ô tô chẹt chết kìa.

Thầy nó giật mình lao ra không kịp đóng cửa tủ. Nhanh như cắt, nó lao đến, kiễng chân lấy lọ đường xuống, vặn thật nhanh cái nắp. Tay trái nó cầm lọ, tay phải chụm lại như cái gầu. Nó vục "cái gầu" vào lọ đường múc lên một gầu đầy. Nước miếng nó đã ứa ra từ lúc nào, nhanh chóng nó há mồm đổ ộc đường vào. Quá nhiều đường và quá vội vàng nên đường dính đầy xung quanh mồm và mũi nó, tóe xuống cả nền nhà. Nó nhanh chóng để lọ đường vào chỗ cũ. Mồm nó đang đầy đường, chưa kịp hưởng thụ cái vị ngọt của thứ tinh thể trắng lóng lánh hấp dẫn "chết người" đó thì đúng lúc ấy, vang lên ngay sau lưng nó là tiếng chị Thúy phụ trách đội :

- Thập ơi ! Tối nay em tập hợp đội, cho họp ngoài sân kho nha !

Mồm, mặt mũi, quần áo, tay nó đầy đường, cười chẳng được, nói không xong. Nó ngượng quá ! Thật là chẳng có lỗ nẻ nào mà chui biến đi cho hết ngượng. May sao chị Thúy biết ý bỏ đi luôn.

Từ hôm đó, dù chị Thúy coi như không thấy chuyện nó ăn vụng đường, nó vẫn len lén như kẻ tội đồ. Nó cảm thấy nhục nhã quá, . . . cho tới tận bây giờ.

Không chỉ có ăn vụng đường thôi đâu. Với "biệt tài" khéo tay của mình nó còn ăn vụng nhiều thứ khác. Ngày tết, ngày lễ, anh chị nó biếu gói bánh, gói kẹo, thầy bu nó chưa cho ăn, còn để dành rất lâu trên giường thờ. Nó thì thèm rỏ rãi, mỗi lần ngang qua gian giữa, nó lại liếc mắt lên giường thờ và nuốt nước bọt vào trong.

Thời bấy giờ vỏ hộp không dán kín ni lông như bây giờ, chỉ có tem thuế dán hai bên mép hộp. Nó rình lúc vắng người, nhẹ nhàng trèo lên phản giữa, rón rén áp sát bàn thờ, đổ một ít nước lên đó. Nó lấy nước, cho thấm nước từ từ vào cái tem ở một bên. Hồ dán tem ở phía trong dần dần loãng ra. Bấy giờ nó chỉ việc khẽ khàng bóc cái tem ra. Kênh nắp hộp lên, nó thò hai ngón tay điêu luyện vào rút ruột vài cái bánh, vài cái kẹo. Lấy trộm được rồi, nó đậy lại hộp, vuốt nhẹ cái tem, liền lại như cũ. Giờ lâu, tem khô đi, lại "Nguyễn Như Vân", không ai phát hiện được.

  Sau khi chị Thúy về, nó lau vội đường trên mặt, trên mũi, trên tay, quét ù đường dưới đất hất vào gầm tủ. Đúng lúc đó thì thầy nó bế con chó Ki bị chẹt xe vào. Chân sau con Ki nát bét, mắt vẫn mở nhìn nó như có ý cầu cứu. Nó thương con chó lắm vội lấy tay nhẹ nhàng đỡ lấy con Ki từ tay thầy nó. Tội nghiệp cho con Ki quá, mà cũng tội cho lũ chó con nó vừa mới đẻ được mấy hôm, chưa mở mắt. Thằng Thập mang con Ki xuống bếp, đặt vào ổ chỗ mấy con chó con. Nó lấy khăn sạch thấm máu cho con chó. Mỗi lần chạm vào con Ki, toàn thân con chó giật lên nhè nhẹ, lòng phèo, gan ruột ở bụng dưới của nó lòi ra ngoài. Bốn con chó con chẳng biết gì cứ lao vào tìm vú, giẫm cả vào ruột gan và vết thương của mẹ, đẩy nhau kêu ău ắu. Con Ki nhìn con nó trìu mến lắm, nó cúi xuống liếm lũ con, hai mắt nó ứa lệ, hai giọt nước mắt to dần từ từ lăn xuống. Nó khóc. Thằng Thập cũng khóc theo. Thầy nó nói :

- Thôi, không cứu được đâu, chắc nó chết thôi.

Vừa nói dứt lời, mắt con chó ngước lên nhìn thầy, nhìn thằng Thập lần cuối có ý vĩnh biệt. Dường như con chó muốn gửi gắm lũ con nhỏ để ra đi. Nước mắt nó lại ứa ra. Nó nghiêng đầu nhìn bốn con nó và gục xuống chết, chắc hẳn trong lòng nó vẫn canh cánh nỗi lo về lũ con. Nhìn thấy cảnh ấy, thằng Thập nhớ lại chuyện một thợ săn bắn được một con khỉ cái. Nào ngờ con khỉ ấy còn có mấy đứa con nhỏ. Biết sắp chết lìa bỏ lũ con, con khỉ lấy chếc lá cuốn lại như cái phễu rồi vắt sữa vào đấy để lại cho lũ con trước khi tắt thở. Có phải tình mẫu tử ở giống vật cũng chẳng khác gì con người ?

Thằng Thập vốn yêu con Ki lắm, nó là một con chó vện rất đẹp lúc nào cũng quấn quýt bên thằng Thập. Thằng Thập nhớ lại lúc con chó còn bé chẳng khác gì cu cậu lúc đó bé nhất nhà nên nó với con vện quấn nhau lắm. Cái tên Ki cũng do nó đặt cho. Thế mà bây giờ . . . Chẳng còn những buổi trưa hè nằm trên tấm ni lông rải trên nền đất đen bóng, mát rượi trong gầm giường, luôn có con Ki nằm bên cạnh, liếm mặt, liếm tay và ngủ cùng với nó.

Những trưa hè nóng nực, chị em nó hay chơi trò giết rôm đổi công. Chị em dăng hàng, người sau giết rôm ở lưng người trước, hết một lượt thì đằng sau quay, . . . Không có rôm hay hết rôm thì giết trả vờ cũng được. Những lúc ấy, bao giờ cũng có con Ki nằm ngay chân nó. Bây giờ nó làm gì hay chơi ở đâu, không còn có con Ki bên cạnh. Nó nhớ con Ki quá : Sao không về hả chó. Tao nhớ mày lắm đó, Ki ơi là Ki ơi ! (nhại thơ Trần Đăng Khoa)

Con Ki để lại bốn đứa con nhỏ chưa mở mắt, xinh ơi là xinh. Nó tự nhận lấy trách nhiệm thay con Ki nuôi đàn chó nhỏ. Nó lấy nước cơm hoặc nấu cháo loãng, gạn lấy nước cho lũ chó ăn. Mấy ngày đầu chúng chưa quen nên vài ngày sau ba con lần lượt ra đi theo mẹ. Còn con cún cuối cùng, ngày nào thằng Thập cũng vài bốn bận vạch mồm đổ nước cháo cho nó. Chẳng phụ lòng người, cuối cùng con cún con cũng mở mắt. Thằng Thập vui lắm, nó đặt tên cho chú cún con là Mích.

  Giống như con Ki, con Mích cũng luôn quấn quýt bên nó, lúc xay lúa, giã gạo, lúc đi chăn trâu hay khi đi họp đội. Ấy thế mà chỉ được mấy tháng sau con Mích của nó lại chết. Nó chết không phải do bị chẹt ô tô mà là một chuyện khác.

Một hôm, thằng Ly em thằng Thanh học cùng lớp nó, nhà trong ngõ Tháp, đang ngồi ở bậu cửa tre trong ngõ tha thẩn chơi thì bỗng từ đâu một con chó đen cao to lừng lững lao đến cắn vào má thằng bé. Thằng Ly giật mình khóc thét lên, đưa hai tay gạt con chó ra. Con chó đớp ngay lấy tay thằng bé, nó cắn và nhá nát bét cả hai bàn tay thằng Ly. Ở trong nhà bố thằng Thanh trông thấy, lấy đòn gánh lao ra đánh con chó. Hai anh của thằng Ly là thằng Tung và thằng Hoành thì lấy gạch đá đáp tới tấp. Con chó sợ, bỏ chạy mất. Trên đường nó chạy, gặp ai nó đợp người đó. Rất nhiều người bị nó cắn, làm náo loạn cả làng. Kẻng báo động lập tức được khua lên hối hả. Dân quân, thanh niên cầm súng, cầm đòn càn đuổi theo để đập con chó. Trước khi chạy ra đến phố, con chó còn đợp thêm mấy người nữa. Cả phố sợ quá nhà nào nhà nấy vội vã đóng cửa. Loa phóng thanh của làng vang lên tiếng thông báo về con chó dại. Dân quân các làng khác xung quanh cũng xông ra tiếp ứng. Họ bao vây, dồn con chó vào nghĩa trang Chú Riềng. Con chó chạy tới góc tường sau đình thì hết đường. Nó bị mọi người vụt tơi bời đến chết.

Điểm lại, con chó điên đã cắn tất cả mười một người của hai làng Phùng Chi Kiên và làng Thứa. Bé Ly bị mất máu nhiều nên đã chết ngay chiều hôm đó. Những ngày sau đó, mười người còn lại lần lượt lên cơn. Họ lồng lộn như chó dại, mồm sùi bọt mép, nhe răng, mắt đỏ đòng đọc, hung dữ, lồng lộn. Các gia đình có người thân bị chó cắn liền khóa cửa hoặc trói người thân trong nhà. Mọi người chạy đôn chạy đáo cầu khẩn khắp nơi tìm thuốc cứu chữa. Thậm chí còn lấy cả giòi trong hố phân đốt lên, tán nhỏ cho uống hoặc bắt thạch thùng cho nuốt sống. Nhưng rồi, người sau tiếp người trước, lần lượt cả mười người đều vật vã rồi chết.

Sau cuộc họp khẩn cấp của Ủy ban xã, lệnh cấm chó trên toàn xã được ban hành và thực hiện ngay lập tức. Dân quân đi khắp làng tay súng, tay gậy, lùng hết các nhà để đập chó. Bất cứ chó to nhỏ, lớn bé gì đều bị đập hết. Lo cho con Mích quá, nó đem con Mích nhét vào cối giã gạo, phủ rơm lên và dặn : "Nằm im ở đây nha ! Không được chui ra nhe, mày mà ra người ta đập chết."

Con Mích rất khôn, nó biết nghe lời thằng Thập, không hề ló đầu ra chút nào. Đội dân quân "triệt để chó" vào sục sạo khắp nhà. Khi họ sục đến cối gạo, con Mích vẫn nằm im thin thít, không sủa lấy một tiếng. Đến khi tất cả bỏ đi sang nhà bà Thùa sát bên để đập chó, mấy chị em nó nghển cổ qua hàng rào để xem. Nào ngờ con Mích thấy họ đi rồi cũng chạy ra đứng bên cạnh thằng Thập. Tình cờ có một người trong đội ngoảnh lại trông thấy con Mích. Anh ta vội hô lên :

- Chó nhà ông Trưởng kìa các anh ơi ! Kia kìa.

Loáng sau, cả đội đã quay lại nhà nó, không còn cách gì có thể che dấu được nữa. Nó đứng chết lặng như trời trồng chứng kiến năm, sáu người xúm vào đập chết con Mích. Trước khi chết con Mích còn kịp ư ử mấy tiếng, ứa nước mắt nhìn nó . . .

  Nhà nó vẫn làm hàng xáo. Nó là con trai không biết sàng sảy như chị dâu và chị gái nó thì nó phải xay lúa, giã gạo.

Để làm cối giã gạo, trước hết người ta lấy một cây gỗ to, phần đuôi đẽo nhỏ và mỏng hơn phần đầu, dài chừng ba mét, tạm gọi là cái cần cối. Đầu to của cần đục một lỗ mộng hình chữ nhật để tra cái chày vào, phía trên khóa lại bằng một cái chốt gỗ. Phần dưới của chày hình trụ tròn, đầu bọc sắt dầy, có khía quả trám để tăng ma sát. Chày đã giã nhiều, đầu sắt lên nước bóng loáng, xanh biếc ánh thép. Ở gần giữa cần cối, người ta đục một lỗ tròn xuyên ngang qua rồi tra một cái trục gỗ lim vào đó. Trục gỗ lim được đút xuyên qua hai cái ổ trục bằng gỗ rất cứng của vai cối. Nếu sang thì hai ổ trục được đóng hai vòng bi (vòng bi cũ của ô tô). Vai cối ở hai bên là hai cây gỗ chữ nhật, dầy khoảng mươi lăm phân, bản rộng chừng hai lăm phân mà trên mỗi cây đều đục ổ trục đồng trục với nhau. Hai vai cối được chôn sâu xuống đất, chỉ để nổi lên chừng bốn, năm mươi phân. Cối là một khối đá nguyên được khoét lõm và được chôn sâu xuống đất, mặt trên cao hơn nền bếp khoảng hai chục phân. Phía dưới đuôi của cần cối, người ta đào một rãnh sâu xuống đất để đuôi cần lấy chỗ hoạt động. Khi đạp vào cần cối, cả cần sẽ quay quanh trục, đuôi cần quay xuống thấp dưới rãnh, còn đầu cần quay lên cao, nhấc theo cái chày. Khi nhấc chân lên, Đầu cần rơi xuống, chày giã vào lòng cối. Khi đầu cần ngẩng lên, cần cối khá nặng, một người giã thì vất vả do vậy thường là hai đến ba người cùng đứng giã, dậm chân nhịp nhàng cùng nhau. Cối được kê dọc ở hai gian trong, áp sát tường nhà nó, bên trên có treo lơ lửng một thanh sào chạy ngang để vịn tay lấy đà khi giã.

Ngày nào cũng như ngày nào chị em nó phải xay giã, giần sàng đủ hai gánh thóc cho bu nó đi bán.

   Thầy nó nghiện thuốc lào đã lâu năm. Cụ bị bệnh ho, càng già càng ho nặng. Mỗi lần châm lửa, rít chưa hết một hơi cụ lại lên cơn ho sặc sụa, chảy cả nước mắt, nước mũi. Mấy lần thầy nó đã quyết tâm bỏ thuốc. Cụ đập nát điếu vứt đi, nhưng chẳng được mấy lâu đã hút lại. Chuyện bỏ thuốc lào sao mà khó thế, người ta đã tổng kết thành ca dao cũng phải :

Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.

Bấy giờ bu nó đã năm mươi sáu tuổi, thầy nó năm mươi chín tuổi, bằng tuổi của nó bây giờ, khi đang ngồi viết những dòng này. Và, nó cũng bị bệnh ho, càng già ho càng nặng, cũng sặc sụa, chảy cả nước mắt, nước mũi y như hệt thầy. Tại vì nó cũng nghiện thuốc mà. Chỉ có điều nó nghiện không phải thuốc lào, mà là thuốc lá.

Đêm đêm, thầy nó chẳng ngủ được bao nhiêu, chốc chốc lại lục sục dậy đi đái. Thế mà cụ lại thường dậy rất sớm. Sớm tinh mơ, thầy nó đã lọ mọ đun nước pha trà. Ông lấy nước vào cái siêu "nhuôm" bé tí teo như quả bưởi con, rồi bơm cái đèn cồn cũ bằng đồng, mua lại của đồng nát. Cụ châm lửa, ngọn lửa xanh lét loang loáng dưới đáy siêu. Trong khi chờ nước sôi, cụ rửa bộ ấm chén da lươn cũng bé tí teo. Nước sôi, cụ pha trà ngồi uống một mình, hai tay thường ôm vào cái xuyến cho ấm. Hôm nào chú Hiền em cụ ở Hải Phòng về chơi, hai anh em cũng ngồi như thế lầm rầm nói chuyện từ lúc bốn, năm giờ sáng. Thỉnh thoảng thầy nó lại hút thuốc lào và ho sù sụ. Hút xong điếu thuốc, cụ chiêu một ngụm nước rồi với lấy cái ống nhổ để dưới gầm giường, cụ khạc khạc và nhổ đờm vào đó.

Thầy nó khéo tay lắm, tự làm một cái quạt bằng giấy bản, dán bằng nhựa cây cậy. Cái quạt dài quá khổ, phải đến bốn mươi lăm phân. Cụ thường mặc quần ta rộng thùng thình, thắt dải rút, cái áo may ô vải tự tay may, cổ vuông, tay vuông. Cụ vẫn cứ ăn mặc như thế khi ngồi ở góc phản tiếp khách. Cụ thường phe phẩy cái quạt giấy, khi nào ngứa lưng, cụ lại chụm quạt lại, thò vào trong áo gãi lưng sồn sột. Máu cụ nóng, già rồi mà rất lắm rôm. Đặc biệt là chân cụ không có lông và nó cũng giống bố nó điểm này.

Thanh niên trẻ đua nhau mở hiệu may, cắt may theo lối mới với nhiều mốt tân kỳ. Thầy nó không thể cạnh tranh được nên khách hàng chỉ là các ông bà già khách quen nên thu nhập ngày càng giảm sút. Kinh tế nhà nó ngày càng khó khăn, các anh chị em nó lớn hơn, ăn nhiều, học hành rất tốn kém. Một mình bu nó chạy ăn, lo đủ mọi thứ nên quá sức chịu đựng. Càng ngày cụ càng hay cáu kỉnh. Mỗi lần xin tiền đóng học là nó rất sợ, xin thầy thì thầy chẳng có, quay sang xin bu thì cụ lại gầm lên :

- Lấy kìm ra vặn răng tao đi . . . !

Không xin được tiền đóng học, đến lớp bị cô giáo nhắc nhở, bị ghi tên lên bảng. Nhục lắm ! Nhưng biết làm sao ?

  Nó đã mười ba tuổi và lên lớp sáu. Năm ấy, nó được cử đi thi học sinh giỏi văn khối sáu toàn huyện. Nó được giải nhì. Cộng với thành tích trong hoạt động công tác đội, nó được chọn đi dự Đại Hội Cháu Ngoan Bác Hồ toàn tỉnh. Mỗi xã chỉ có một người, huyện nó có mười hai xã nhưng chỉ có mười người được đi vì huyện duyệt lại danh sách do các xã gửi lên đã gạt bớt hai bạn không đủ tiêu chuẩn. Nó rất tự hào và trong lòng sung sướng lắm. Các anh chị phụ trách dặn đi dặn lại nó :

- Phải mặc quần xanh, áo trắng, quàng khăn đỏ. Tất cả phải mới đấy nhá !

Cả đời nó chưa bao giờ được mặc bộ quần áo nào mới nào theo đúng nghĩa mà toàn mặc thừa của các anh. Về nhà, ngập ngừng mãi, lừa lúc bu nó đang rất vui vẻ, ngồi bỏm bèm nhai trầu, nó mới dám mon men lại gần nói chuyện được đi dự Đại Hội. Bu nó nghe cũng phấn khởi lắm. Được thể, nó ngỏ lời xin bu bộ quần áo mới. Bu nó thở dài nói :

- Con ra bảo thầy chứ bu làm gì có, còn có mấy đồng bu vừa trả nợ tiền thuế xong. Thôi, đi ăn cơm đi.

Thế là hết cách rồi ! Mặt nó tiu nghỉu buồn lắm. Bốn giờ sáng mai là phải đi rồi, chẳng làm sao được nữa.

Thấy nó buồn bã chẳng thiết đến ăn, thầy nó nói :

- Con cứ ăn cơm xong, đi ngủ đi, sáng mai thầy sẽ may xong cho con.

Nó bán tín bán nghi nhưng cũng yên tâm đi ngủ. Lòng nó xốn xang. Nó không ngờ mình hạnh phúc đến thế, được xuống tỉnh chơi, được đi dự đại hội. Ôi ! Vinh dự quá. Niềm vui và hạnh phúc cứ bồng bềnh trôi vào trong giấc ngủ của nó.

Nó giật mình tỉnh giấc khi thấy có người lay lay vào vai nó. Mắt nhắm mắt mở, nó nhìn lên, thấy mái đầu bạc phơ của thầy nó đang cúi xuống thì thào :

- Dậy đi con, thầy may bộ quần áo xong rồi.

Mắt thầy thâm quầng, gương mặt mệt mỏi phờ phạc. Vậy ra thầy đã thức trắng đêm may quần áo cho nó. Nó vừa cảm động vì sung sướng vừa thấy thương thầy quá. Tự dưng nước mắt nó trào ra.

Sau khi xuống giếng đánh răng rửa mặt, nó lên nhà ăn vội bát cơm nguội với cá kho. Thầy nó đưa cho nó một túi xách trong đựng hai bộ quần áo lành lặn, hai cái quần đùi, khăn mặt, bàn chải và một hộp nhựa đựng thuốc đánh răng "Ngọc Lan". Trên vai ghế vắt sẵn bộ quần áo mới, nó sỏ thử vừa thì như in. Cái quần được cắt và sửa lại từ cái quần công nhân có yếm được anh Trãi ở đoàn xe vận tải Mười Sáu biếu thầy nó, vải còn mới. Cái áo thì trắng tinh mềm nhũn như vải lụa. Nó xúng xính trong bộ quần áo mới, xách túi chào thầy bu rồi ra cổng huyện tập trung.

Đúng năm giờ xe chạy. Đó là một cái xe Êta Fanh (Ette Fain) của đoàn xe vận tải mới về đóng ở đầu phố mà huyện đoàn mượn, một chiếc xe tải không có mui mà trên thùng cũng chẳng có ghế, chỉ có hai chiếc chiếu trải trên sàn. Đầu xe cắm một lá cờ Tổ Quốc, một cờ Đội. Hai bên thùng xe treo băng rôn : "Đoàn học sinh cháu ngoan Bác Hồ huyện Mỹ Hào". Có chiếu nhưng chẳng ai chịu ngồi kể cả chị phụ trách. Mọi người đứng bám vào thành xe để nhìn ngắm quang cảnh trên đường đi. Nắng sớm mai "chiếu lên ngàn muôn tia sáng" từ phía chân trời, phía mà chiếc xe của chúng đang chạy tới, phía đông, hướng Mặt Trời mọc. Gió hè hây hẩy, xóm làng, đồng lúa lao vùn vụt về sau. Hai lá cờ phần phật bay trong gió.

Mới bảy giờ chiếc xe của đoàn nó đã đến nơi. Mọi người nhảy xuống, chạy ào vào sân hội trường tỉnh. Cờ, hoa và khẩu hiệu trang hoàng khắp nơi rất rực rỡ và tráng lệ. Từng bầy con trẻ, khăn đỏ đeo vai, quần áo đủ màu đang ríu rít như chim sẻ. Nó cảm thấy sung sướng và hạnh phúc lắm. Từ dưới hàng ghế nhìn lên bục chủ tịch đoàn, nó nhận ra có bạn Trần Đăng Khoa, thần đồng thơ của tỉnh nó đang ngồi trên đó. Lâu nay nó rất ngưỡng mộ bạn Khoa và tự hào vì Khoa cũng đồng trang lứa với nó.

Đến lúc giải lao, tự nhiên nó thấy các bạn cứ nhìn nó, chỉ chỉ, trỏ trỏ. Nó không hiểu có chuyện gì. Chờ đến khi có đứa bạn cùng đoàn đứng lên và đi đến gần, nó mới hỏi :

- Tuân ơi ! Sao mọi người cứ chỉ tớ thế ?

Thằng Tuân chỉ vào lưng nó :

- Cậu không biết à ? Cậu mặc cái áo "Nhà Máy Phân Đạm Hà Bắc".

Dơ vạt áo ra nó cãi lại :

- Đâu, tớ mặc áo trắng thầy tớ mới may đấy chứ.

- Nhưng thầy bạn may bằng vỏ bao phân đạm Hà Bắc, giặt chưa sạch nên vẫn còn chữ đây này. - Thằng Tuân bảo.

Nó giật mình rủ thằng Tuân vào nhà vệ sinh. Nó cởi áo ra nhìn. Ôi trời ơi ! Đúng giữa lưng áo, một nhãn hiệu tròn xoe "NHÀ MÁY PHÂN ĐẠM HÀ BẮC" đen đen, mờ mờ nhưng nhìn khá rõ. Nó vừa ngượng, vừa buồn cười, vừa tủi thân, vừa nghĩ mà thương thầy bu nó.

   Đoàn xe đóng ở phố nó được mệnh danh là "cơn lốc đường năm" có vài chục xe, chủ yếu là Gát (Gaz 63 – MoHoToBa, Liên Xô), I Pha (IFA-W50, CHDC Đức) và xe Giải Phóng (Trung Quốc). Họ chuyên vận tải hàng viện trợ của các nước bạn, trung chuyển từ cảng Hải phòng về ga gia Lâm để chuyển tiếp đi các nơi. Các lái xe chủ yếu là thanh niên trẻ chưa vợ và rất vui tính. Họ hay xuống nhà nó may vá quần áo, một phần cũng là để nhăm nhe nhòm ngó chị Thất và chị Vận nó. Anh Trãi người Cao Bằng, to cao, trắng trẻo, đẹp trai kiên trì theo đuổi chị Vận. Chị Vận đang thì con gái cũng xinh xắn, hấp dẫn, phải cái giống nhà ngoại, răng hơi vổ. Người theo đuổi chị Thất là anh Sáu, quê ở Bắc Giang. Tuy anh hơi đen nhưng cũng to cao, có râu quai nón rậm, trông rất đàn ông.

Hai anh theo đuổi các chị nên rất chiều nó. Đi đâu về, các anh thường cho nó quà, khi thì đẵn mía, lúc vài quả chuối, . . . . Nó thích nhất là được hai anh cho vào đoàn xe chơi. Ở đó, nó thường ngồi chăm chú xem các anh sửa xe. Thấy có nhiều dầu luyn (dầu nhớt để bôi trơn trong động cơ) đọng trên các vũng nước, nó liền nảy ra ý thu lượm lại. Nó dùng nửa con trai hay bát vỡ vớt dầu trên các vũng đó đổ vào ống bơ. Nó mang dầu về trút vào chum. Khi đầy chum, nó gọi người đến bán lấy tiền.

Thỉnh thoảng hai anh cho cả lũ chúng nó leo lên thùng xe phóng đi xa, tìm chỗ rửa xe. Đó là những đầm nước ven đường mà xe có thể xuống sát được. Hai anh và bọn trẻ dùng xô, chậu té nước lên xe để rửa. Vừa làm mọi người vừa đùa nghịch với nhau, thật là vui. Trên đường rửa xe về, bao giờ xe cũng đỗ ở cửa nhà nó. Các anh thì vào tán tỉnh các chị của nó còn chúng nó thì trèo lên nóc ca bin, lấy gậy chọc bàng. Những quả bàng trâu, bàng cơm, bàng mỡ to tướng trên bốn cây bàng trước cửa nhà nó rất ngon, ngọt "lịm ga" (từ của dân xế). Kể về bàng ở phố nó thì phải nói đó là một đặc sản. Đến mùa bàng chín, người lớn, trẻ con cả làng, người thì trèo lên cây rung mạnh, người thì đáp cho bàng rụng. Lũ trẻ thi nhau tranh cướp. Mấy đứa còn dùng áo may ô, kéo rộng ra để hứng bàng, chả khác gì cảnh trong bức tranh Đông Hồ "Hứng Dừa". Có lần nó hứng và tranh cướp được vài chục quả. Lớp cơm bàng chín vàng, ngon ngọt và thơm không thể tả được. Gặm hết cơm bàng, chúng lấy gạch đập hột bàng, khều chén nhân trắng bên trong. Nhân bàng ăn vừa béo vừa bùi, không gì có thể so sánh được. Mãi về sau này, khi nó biết đến hạt hạnh nhân, thì hạnh nhân cũng chẳng sánh được.

Thỉnh thoảng có chiếu phim, diễn kịch ở xa mươi, mười lăm hay hai chục cây số, các anh ấy lại chở mấy ô tô trẻ con trên thùng, hành quân đi xem, rất rầm rộ. Không có vé thì cứ ngồi trên nóc xe mà xem, hơi xa một tí nhưng cũng tốt chán.  

   Trước kia thầy bu nó thỉnh thoảng chỉ vặc nhau sơ sơ. Nhưng càng ngày các cụ càng hay cãi nhau. Độ rày, các cụ cãi nhau thường xuyên, như cơm bữa. Chẳng biết chuyện đó có phải do thầy đã có tuổi, sức khỏe kém, đau ốm luôn, đêm hay mất ngủ mà đâm ra trái tính trái nết hay là do bu nó vốn khó tính, càng già càng khó tính hơn.

Có một bận thầy bu nó cãi nhau to lắm. Thầy nó dỗi mang máy khâu và đồ đạc, quần áo vào ngõ Bưởi ở riêng. Ở ngoài phố chỉ còn bu nó, anh Bát và chị Thất. Chị Bính nó thì theo thầy vào Bưởi. Mặc dù rất buồn, nhưng thương thầy, nó cũng theo thầy cho có người nọ người kia để thầy nó sai vặt. Hơn nữa thầy nó đã yếu do bị hen suyễn, phải có các con ở cùng mỗi khi trái gió trở trời.

Biết thầy nó kiếm tiền khó khăn. Chị Bính nó cuốc vườn trồng su hào, bắp cải, dưa gang, dưa bở, dưa hấu. Chị còn làm một nhà xí con con ở góc vườn để lấy phân tưới rau, kê một cái chum con bên cạnh để lấy nước tiểu. Nó cũng giúp chị nó dựng nhà xí, dựng một chái bếp con, cuốc đất, trồng và tưới rau trong vườn. Thỉnh thoảng, anh Bát, chị Vận và chị Bảy nó cũng vào làm giúp thêm.

Thầy nó xin thằng Biển "Xít" con chú Đàm ở gần đó một cái dậm cũ còn khá tốt. Vì nó vẫn còn còi cọc lắm nên thầy nó cạp lại cái dậm nhỏ bớt đi cho đỡ nặng. Rồi cụ đan cho nó một cái giỏ. Từ bấy giờ nó hay theo thằng Biển (em họ nó), thằng Đồng con chị Bân trong hội đánh dậm ở thôn Bưởi có cái tên " phi đội bay". "Phi đội bay" "bổ nhào" đánh cá, tung hoành khắp các ngả đồng. Nó không biết bơi nên chỉ dám đánh ở những vũng, những mép ao, nướ ngập quá gối một chút. Mà thực ra cũng phải đánh ở những chỗ đó mới có nhiều cua cá nhỏ trốn dưới các bụi cỏ, các đám rễ bèo, đám rong rêu, đám khoai ngứa, . . . . Thường bọn bạn nó đánh giỏi hơn, có hôm được đầy giỏ. Nó mới tập đánh dậm, ban đầu chỉ được khoảng một bát con, rồi sau mới tăng dần lên đến lưng giỏ. May mắn lắm nó cũng chỉ được trên lưng giỏ.

"Phi đội" thường đi cùng nhau một đoàn mươi đứa. Phần thì đi đông cho vui, phần thì đấy là "đội hình chiến thuật" để đánh được nhiều cá. Khi "oanh tạc" một cái ao, chúng tản ra đánh từ ngoài vào để dồn cá vào giữa, cuối cùng quây lại là "hốt trọn ổ". Hơn nữa, đi oanh tạc xa làng đến bốn, năm cây số, một "phi đội" đông "rợp trời" sẽ hỗ trợ lẫn nhau đỡ bị hội làng khác bắt nạt.

Khi xuống nước, việc đầu tiên là hạ dậm xuống phía trước xa chân khoảng bẩy chục phân. Ấn và giữ chặt cán dậm sao cho miệng dậm bám sát xuống bùn. Đưa bàn đạp xuống sát chân, tay phải cầm chặt sợi chão buộc hai đầu bàn bàn đạp, phối hợp cùng với chân phải, nhấc lên hạ xuống nhịp nhàng, dập đều cho bàn đạp tiến dần vào mép giậm. Khi bàn đạp vừa tới mép dậm, lập tức ngửa miệng dậm lên nhanh khỏi mặt nước, chao nghiêng qua lại vài lần cho chảy hết bùn đất trong dậm và dồn tôm, cá, rong rêu vào một góc. Sau khi nhặt rong rêu, rác rến vứt đi, chao thêm vài cái nữa để rửa sạch tôm cá. Cá to thì bắt cho ngay vào giỏ. Để lấy tôm tép ra khỏi dậm thì khum bàn tay, vỗ nhẹ vào thành dậm, do dậm đàn hồi, tôm cá sẽ nẩy tưng lên. Bấy giờ chỉ việc thò tay đỡ lấy, bao nhiêu cũng vào giỏ hết.

Riêng cái bàn dậm chân, đó là một cái ống tre dài khoảng tám, chín chục phân. Ở quê nó, người ta buộc một sợi chão vào hai đầu ống để làm cái "tay cầm". Nhiều nơi khác, tay cầm là một thanh tre uốn cong hình bán nguyệt, hai đầu cắm vào ống tre, có vẻ chắc chắn và dễ điều khiển hơn (như hình minh họa).

Sau mỗi buổi "oanh tạc", cả "phi đội" thường tung tăng bơi lội, tắm táp, nô đùa trong hồ nước. Nó nhìn các bạn thì thèm lắm mà chỉ dám rửa chân tay rồi ngồi vào bóng mát chờ các bạn tắm xong sẽ cùng tới chợ. Nó dốc giỏ ra mẹt cho các bà mua buôn ở chợ. Các bà "hàng tôm, hàng cá" chọn nhặt hết các con ngon. Nó mang về nhà một mớ tiền lẻ đưa cho bố và một mớ cá tép tẹp nhẹp đem kho kỹ với tương ăn dần. Nhưng thường thì nó cũng ít khi bán. Nó hay tạt về nhà chính đưa cho bu già nửa, non nửa còn lại nó mang về cho thầy.

Vậy mới có thơ cổ "Vịnh Thằng Đánh Dậm" :

Sớm ngày cơm nước cất binh mau,
Khí nghệ sắm sanh đủ trước sau,
Cán lọng giữa trời người đứng đó,
Tay cầm bán nguyệt dậm chân mau.


Những phường trê chuối đều sây vẩy,
Đòng đong cân cấn cũng dập đầu.
Việc nước xong rồi về kẻ chợ,
Bấy giờ các chị mới tranh nhau.

Đối với nó, có lẽ, nên sửa câu cuối thành :

Việc nước xong rồi về kẻ chợ,
Bấy giờ "phi đội" mới tranh nhau.

  Ở ngõ Bưởi chị em nó còn nuôi một đôi lợn, hai con chó con và một đàn vịt để tận dụng cái ao bèo tây rất to ở gần đấy. Lúc rảnh rỗi, cái ao đó cũng là nơi nó thường hay ngồi buông câu. Dưới cây cối um tùm, gió hè hây hây, không gian tĩnh lặng, trong lòng nó thơ thới, thanh bình và nhiều xúc cảm.

Một lần nghe người ta kháo nhau nuôi giun đỏ bán xuất khẩu đắt lắm. Nó hì hục đào một cái hố rộng một mét vuông, sâu chừng sáu tấc ở gần gốc táo. Xong nó đi hót phân trâu, vơ mùn rạ thối đem trộn với trấu rồi đổ đầy hố, tới miệng. Nó đi mua một đồng giun giống thả xuống hố. Hàng ngày nó nóng lòng theo dõi hố giun. Mãi vẫn không thấy "động tĩnh" gì, giun chẳng thấy đâu, chỉ thấy mùi hôi thối nồng nặc. Chán nản, nó định bỏ cuộc thì bị thầy nó mắng :

- Thằng này chỉ "no người chán nết", chưa làm đã bỏ dở, không có quyết tâm, cũng chẳng học
hỏi cho đến nơi đến chốn. Ngữ mày, sau này vào đời, chả làm nên cơm cháo gì đâu con ạ !

Nghe thầy mắng thế, hiểu ra, nó đi học hỏi cẩn thận kỹ thuật nuôi giun. Về nhà, nó sới lại cái hố giun, trộn thêm mùn cưa để tạo thêm mùn và hút bớt độ ẩm của đất. Một tuần sau, giun sinh sôi nẩy nở rất nhiều, đỏ au cả hố phân.

Sát cạnh vườn nhà nó về phía sau là đất nhà bác Phán Lâm, có họ với nhà nó. Hai bác ở Hà Nội đã về hưu và sơ tán về làng cùng người con út là chị Thao, lớn hơn nó một tuổi nhưng học cùng lớp sáu với nó. Dù mới mười lăm nhưng chị Thao phổng phao xinh đẹp lắm.

Lớp sáu của nó năm ấy có cô Ngà dạy môn văn, thầy Biểu vừa dạy môn toán vừa là thầy chủ nhiệm lớp. Thầy Biểu là người miền Nam tập kết mới được điều về trường. Thầy chưa có chỗ ở nên ở nhờ nhà bác Phán Lâm. Nhà Bác Lâm vừa rộng rãi mà bác còn trồng rất nhiều hoa trong vườn, lại còn nuôi cả chim bồ câu và mấy con chim cảnh nữa. Bác Lâm nghĩ là thầy Biểu có chỗ ở tốt sẽ yên tâm dậy dỗ các cháu, mà cũng tiện có thầy ở trong nhà dạy kèm thêm cho chị Thao. Thầy Biểu là thầy giáo trẻ, trắng trẻo, đẹp trai, tóc bồng bềnh như nghệ sỹ lại chơi chơi ghi ta rất hay nên các trò lớp nó và chị Thao rất quý thầy.

Thầy Biểu dậy kèm chị Thao và nó môn toán. Ngoài ra thầy còn dậy nó chơi đàn ghita. Những lúc rảnh rỗi thầy Biểu còn chăm sóc hoa, tưới rau và làm vườn cùng chị Thao và gia đình bác Lâm.

Cô Ngà dậy môn văn cho khối năm và khối sáu. Cô mới hai mươi hai tuổi, vừa ra trường. Dáng người cô nhỏ nhắn, da trắng, tóc dài, khá xinh gái. Nhớ về cô Ngà, bây giờ nó lại nhớ đến thằng Bão em con chú nó. Thằng Bão bị đúp hai năm, xuống học lại lớp bẩy. Chết nỗi thằng Bão lại yêu cô giáo của nó. Giá mà nó cứ thầm yêu cô Ngà thì ai biết đấy là đâu. Đằng này, bất cứ chỗ nào công cộng có thể viết được là nó viết. Trên tường các lớp học, ngoài tường rào của trường, các bờ tường trong thôn nơi cô Ngà ở trọ, trên bảng đen, trên bàn giáo viên, chỗ nào nó cũng vẽ một trái tim có mũi tên xuyên qua, bên dưới đề Ngà-Bão.

Cô Ngà còn quá trẻ, chưa biết cách xử lý chuyện này như thế nào nên đem chuyện báo cáo với ban giám hiệu. Thằng Bão bị phê bình trước toàn trường và bị dọa đuổi học. Từ đó, thằng Bão chuyển từ yêu cô sang ghét cô. Nó yêu cô thì nó đã viết khắp nơi như vậy. Bây giờ nó ghét cô thì sẽ chẳng khó đoán, rằng nó sẽ làm những chuyện gì với cô.

Một hôm, rình đúng giờ văn của cô Ngà, thằng Bão lấy lá ngứa chà sát vào ghế ngồi. Sau đó nó bôi nhựa mít lên. Cô Ngà mặc quần phíp (một loại vải rất mỏng và mềm, thường để may quần con gái trẻ thời đó), đâu có biết có chuyện gì với chiếc ghế. Ngồi một lúc trên ghế, chắc cô thấy nóng và ngứa. Cô ý tứ đứng lên định gãi, nào ngờ nhựa mít dính chặt quần cô với ghế, cái quần chun của cô bị tụt xuống, còn mỗi cái si líp. Học trò ở dưới "Ồ . . . !" lên một lượt vì quá bất ngờ. Cô Ngà thẹn quá, mặt đỏ bừng. Mấy trò con gái vội chạy lên gỡ hộ quần cho cô.

Sau chuyện đó, cô Ngà xin chuyển trường. Từ đó không ai còn gặp lại cô nữa. Chuyện nghịch hiểm của thằng Bão cũng không ai biết. Về sau này, khi đã là người lớn, một dịp nào đó, thằng Bão mới "bật mí" ra chuyện đó. Một trò thật quá đáng !

Dạy văn thay cô Ngà là cô giáo My. Cô My cũng trẻ, khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi. Cô rất gày, gày giơ xương. Trông cô không có một chút sức sống nào, mông lép, ngực tóp. Cảm tưởng như chỉ cần cơn gió là cô sẽ bị thổi bay. Lần này thằng Bão cũng không thích cô giáo mới nên nó lại nghĩ ra cách trêu chọc. Nó vẽ hình "cái kia" lên bảng, phía dưới đề chữ "My lá tre". Rồi sau, mọi người phản đối và khuyên nó nên nó mới thôi không trêu chọc cô nữa. Cuối năm đó, thằng Bão tốt nghiệp cấp hai (hết lớp bẩy) và xung phong đi bộ đội.

Chuyện về hai cô giáo dạy văn của nó là như vậy nhưng cũng không buồn bằng chuyện thầy Biểu dậy toán. Đời học sinh có nhiều kỷ niệm, vui có, buồn có. Có những chuyện muốn quên mà chẳng thể quên được.

Đời học sinh có nhiều kỷ niệm, vui có, buồn có. Có những chuyện muốn quên mà chẳng thể quên được.

Một chuyện muốn quên

Hôm ấy cuối tháng, hai bác Phán Lâm về Hà Nội họp tổ hưu, tổ Đảng, lĩnh lương, đong gạo và mua các nhu yếu phẩm khác. Chiều đến, cơn bão số bẩy đổ bộ về, mưa rất to, gió giật từng cơn, sấm chớp ầm ầm liên hồi. Trời càng tối, mưa bão càng dữ dội. Thầy nó, chị Bính và nó đang ăn cơm tối, thoảng nghe trong mưa bão có tiếng "Ơi . . . ơi . . . !" ở đâu đó. Cả nhà không để ý cứ ngồi ăn cơm. Một lúc sau, chợt một thoán lặng im tiếng sấm, mọi người nghe rõ tiếng kêu thét của chị Thao :

- Bác Trưởng ơi . . . ! Cứu cháu ! Cứu cháu . . . !

Cả nhà nó lập tức bật dậy, quàng vội áo mưa, chạy ào sang nhà bác Lâm, nơi mà chị Thao đang kêu cứu. Cùng lúc đó những người bên nhà chú Đàm bên cạnh cũng đang lô nhô trèo rào sang.

Vừa tới nơi, nó thấy chị Thao lao từ trong nhà ra, đầu tóc rũ rượi, áo bị xé rách toang. Hai tay chị bắt chéo phía trước để che bộ ngực trần. Ở phía dưới, quần dài của chị bị tụt xuống, chưa kịp xốc lên, để lộ một bên quần lót màu đỏ. Chị Thao lao tới ôm cứng lấy chị Bính, khóc nấc lên, nghẹn ngào :

- Thầy Biểu . . . , thầy Biểu . . . hiếp em . . . !

Chị Bính ôm chặt chị Thao, lấy cái áo mưa đang mặc chùm lên che cho chị Thao. Nó theo những người khác chạy vào trong nhà. Dưới ánh đèn dầu lờ mờ, trong cảnh giường chiếu lộn xộn, chăn màn tung tóe, nó nhìn thấy thầy Biểu mặc vội quần đùi, rồi luýnh quýnh buộc cái dải rút. Và đấy là thứ y phục duy nhất lúc đó.

Mọi chuyện đã rõ. Mấy người lớn bao vây chặt lấy thầy Biểu. Có ai đó sáng một cái bạt tai rất mạnh vào mặt thầy và quát :

- Đồ khốn nạn ! Khốn nạn quá . . . !

Mấy người giữ chặt thầy Biểu rồi trói tay lại. Thầy Biểu bị giải lên trụ sở công an xã.

Từ hôm ấy không còn thấy thầy đâu nữa. Nghe đâu thầy bị xử án và bị giam ở nhà giam Kim Chi ở dưới tỉnh thì phải.
Ngày bão tan, buổi chiều bác Phán Lâm ở Hà Nội về. Biết chuyện, bác vừa đau khổ vừa thương con. Ngay chiều hôm sau, bác thu dọn đồ đạc, quần áo, gọi xe ô tô cơ quan chuyển hết đi nơi khác.

Từ đó tới nay nó không lần nào gặp lại chị Thao nữa. Căn nhà của bác Lâm, sau này, chú Mỳ, một lão thầy bói mù, em bác Lâm, đến ở nhờ và trông coi hộ.

  Mấy anh ở đoàn xe theo đuổi hai chị nó nhưng thầy bu nó chê xa, không gả. Ít tháng sau đoàn xe chuyển đi, các anh ấy cũng biệt tăm từ đó.

Ở trên thôn trên có anh Phương con nhà cụ Hai Đan, một thiếu tá đẹp trai, người tầm thước, trắng trẻo, hiền lành, môi lúc nào cũng đỏ như con gái tô son. Anh bị thương, giải ngũ về làng. Thấy chị Thất nó xinh gái, anh nhờ người mai mối đánh tiếng. Bu nó ưng lắm nên vào Thôn Bưởi hỏi ý kiến thầy. Rồi bu nó nói :

- Bây giờ phải chuẩn bị lo chuyện cho con rồi, không lẽ ông một nơi, bà một nẻo như thế này thì "đẹp mặt" lắm !

Hai ông bà "đành" không giận nhau nữa (?!). Thầy nó, chị Bính và nó lại trở về nhà. Còn cái vườn ở Bưởi thì chị Bính dọn dẹp lại rồi nhờ chú Đàm và chú Trình hàng xóm trông coi hộ. Thỉnh thoảng chị Bính chỉ vào tưới tắm và thu hoạch.

Ngay hôm sau ngày thầy nó trở về nhà, gia đình cụ Hai Đan và Anh Phương đến nhà thưa chuyện. Bu nó sai nó dẫn anh Phương xuống Hưng Long, nơi chị nó đang dạy học để đón chị. Anh Phương đạp xe đạp đèo nó trên đoạn đường đá dài năm cây số. Hai anh em vừa đi vừa trò chuyện. Nó thấy anh Phương hiền hiền nên cũng quý.

Chị nó đang dạy một trong các lớp học sơ tán tại đây. Đó là một lớp học nhỏ trong một căn nhà tranh ba gian rộng chừng bốn chục thước vuông nằm ẩn mình dưới hàng tre cao vút và um tùm. Đằng sau lớp chị, thấp thoáng còn có vài lớp khác nữa nằm trong vườn mít, vườn xoan mát mẻ. Xa hơn nữa là con đường với những bậc thang bằng đất thoai thoải dẫn xuống bến đò Chằm Xuyên bên bờ sông Sặt.

Anh Phương thấy ngài ngại nên dừng xe ở xa, đứng đợi. Nó xuống xe, xăm xăm đi thẳng vào cửa lớp. Nó thấy chị Thất đang viết trên bảng đen và nghe tiếng chị giảng bài thánh thót, giọng trong leo lẻo. Hơn bốn mươi cặp mắt trẻ tròn xoe đang tập trung nhìn theo tay chị nó. Nó khẽ gọi :

- Chị Thất ơi !

Chị nó thảng thốt dừng tay, quay ra nhìn nó. Rồi chị khẽ gật đầu, bước tới. Nó ra vẻ quan trọng, ghé tai chị thì thào :

- Thầy bảo chiều nay chị về sớm, nhà có khách.

Chị nó cười :

- Em về trước đi ! Tí nữa chị về.

Anh Phương ở ngoài ý tứ ngắm trộm chị qua lùm cây. Chắc hẳn anh thấy chị nó xinh nên anh có vẻ phấn khởi lắm. Trên đường về, nó hỏi :

- Anh thấy chị em có được không ?

- Quá được là đằng khác.

Chiều ấy chị nó về sớm để anh Phương ra mắt, làm quen với chị. Nó đang hồi hộp theo dõi chuyện của chị thì phải đi họp đội nên nó tiếc lắm. Chẳng biết trong lúc nó đi họp hai anh chị đã nói những chuyện gì. Không biết chị Thất có ưng anh Phương không?

Mấy ngày sau đó nó thấy anh chị quấn quýt nhau lắm. Hàng ngày anh lóc cóc xe đạp đèo chị, đưa đi đón về. Thì ra là như vậy! Nó cũng mừng lắm.

Đống rơm

Phía sau nhà nó có một đống rơm rất to. Cạnh đó là hai cây ổi cổ thụ, một cây ổi đào, một cây ổi mỡ, rất sai quả. Những lúc rảnh rỗi hoặc những khi muốn trốn bị sai vặt, nó thường cầm quyển truyện, bí mật trèo lên cây ổi, nơi tán lá um tùm của hai cây ổi giao nhau. Nó đã bí mật buộc túm, giằng các cành lá vào một trạc cây lớn thành một cái giường êm ái. Nằm ở trên đó, nó ung dung đọc sách. Những giọt nắng, cái tròn, cái vuông, cái ô van chảy qua kẽ lá lay động trên người nó. Gió rung lá cành nhè nhẹ, chốc chốc vài con chim sâu lích tích truyền cành ngay trước mắt nó. Thỉnh thoảng nó lại vươn tay hái ổi ăn. Nó cứ nằm đó mà ung dung tận hưởng, vừa đọc sách vừa ăn ổi.

Lâu lâu không thấy nó, tưởng đi chơi, thầy nó cầm cái thước gỗ thợ may bằng lim đi ra phố tìm. Nó nhìn thấy thế, lẳng lặng tụt xuống và chờ cho đến khi thầy quay về. Lúc đó nó đã sẵn sàng ở ngay chái nhà để thầy nó có thể nhìn thấy. Thầy nó hỏi :

- Con đi đâu ?

Nó ung dung bước lên nhà, tự tin trả lời :

- Con ở nhà đấy chứ ạ !

Thế là thầy nó chịu không bắt bẻ hay đánh mắng gì được.

Hôm ấy, cũng như mọi lần, nó đang nằm đọc sách trên cây thì thấy chị Thất từ trong nhà đi ra sân. Chị đang gẩy rơm ở sân thì anh Phương đến. Nó nằm im dỏng tai, chống mắt theo dõi anh chị. Hai anh chị nói chuyện với nhau. Giọng chị Thất thì nhấm nha nhấm nhẳn nhưng mắt chị nó nhìn anh Dương thì lúng la lúng liếng. Thế thì bảo làm sao mà anh Phương không "chết".

Nó thấy anh Phương ôm chị Thất rất chặt, anh ghì chị ngả xuống đống rơm. Rồi nó nghe tiếng chị hào hển :

- Đừng anh ! Thầy bu biết thì chết.

Tiếng anh Phương nói gấp gáp :

- Không sợ đâu ! Thầy bu đang ngủ trưa ở trong buồng. Anh yêu em ! Anh yêu em mà . . . .

Anh Phương hôn chị nó tới tấp, hối hả. Tay anh cuống quýt lùa vào trong áo chị. Chị Thất nhắm nghiền mắt trong cơn mê, miệng ú a ú ớ . . . Nó nhìn anh chị mà thấy nóng bừng cả người, không biết sẽ xảy ra chuyện gì ?!.

Đột nhiên, chị Thất giật mạnh tay anh Phương ra rồi vùng dậy . . . .

Một tuần sau thì có đám ăn hỏi của anh chị.

   Hôm ăn hỏi Chị Thất, cụ Hai Đan dẫn đầu đoaàn nhà trai sang nhà nó. Những người khác là ông Tư Miện, bà Thoảng, bà Cam, bà Mộc và vài người nữa. Bên nhà gái có thầy bu nó, cụ Cả Lăng, chú Đàm, chú Trình, chú Cất, chú Thương, các chị gái và hai anh rể. Các cụ lớn tuổi ngồi xếp bằng trên phản giữa, hai anh rể nó và vài người khác ngồi sáu cái ghế đẩu ở xung quanh bàn. Cu Thập thấy nhà đông khách thích lắm cứ chạy hết chỗ này đến chỗ kia, tò mò hóng chuyện người lớn.

Khi thấy anh Phương và chị Thất nhổm lên rót nước mời khách nó nhớ đến chuyện mấy hôm trước có đoàn xiếc về phố nó biểu diễn. Tiết mục có hề đầu nhọn lừa hề mũi đỏ, kéo ghế làm cho hề mũi đỏ ngồi trượt, ngã chổng kềnh. Một tiết mục rất ấn tượng và vui. Nghĩ sao làm vậy, nó kéo ghế của anh chị dịch ra một chút. Anh chị nó mời xong ngồi xuống bị hụt, cả hai ngã ngửa ra giữa nhà. Mọi người giật mình, cười ồ cả lên. Thầy nó quắc mắt nhìn nó, ông tức lắm, nhưng nhà đang có khách trọng nên không làm gì được. Anh chị nó lồm cồm bò dậy, cười rất hiền, có phần hơi ngượng nghịu. Anh Phương cũng rất nhanh, anh chuyển sang giọng đùa với nó :

- Thôi ! Cho anh xin cái ghế nào.

Đến tận bây giờ già rồi, nghĩ lại, nó vừa buồn cười vì chuyện nghịch dại dột của nó hồi nhỏ, vừa nghĩ mà thương anh nó bị "quả" ngã đau, một kỷ niệm chẳng bao giờ quên.

Đám cưới anh Phương, chị Thất diễn ra rất tưng bừng và vui vẻ. Sau khi đưa chị về nhà anh Phương, khách khứa dần dần về hết, nó bỗng thấy hẫng hụt, trống vắng và mất mát. Nó buồn quá, xuống nhà sau, nó ngồi khóc một mình.

Cưới xong ít ngày, anh Phương đèo nó ra Hà Nội chơi để thăm người em trai của anh ở một đơn vị xe tăng. Hai anh em hỏi thăm tên anh Thái, thuộc đơn vị tăng thiết giáp mà mãi vẫn không thấy. Hôm đó là một hôm trời mưa bão. Hai anh em ra tới Hà Nội thì đúng lúc bão tràn qua thành phố. Hai anh em đèo nhau trên đường đê ven sông Tô Lịch. Gió mạnh làm mưa quất vào mặt rát rạt. Chiếc xe lắc lư, nghiêng ngả chỉ trực lao xuống sông. Anh em nó ướt như chuột lột, rét run cầm cập mà vẫn không tìm ra đơn vị anh Thái.

Hơn một giờ chống chọi với cơn bão, cho đến khi gần ngớt bão, anh em nó mới tìm được nơi anh Thái đóng quân. Anh Thái và đồng đội vui lắm. Các anh rất nhiệt tình, chân thành và cởi mở. Họ đưa khăn khô cho anh em nó lau, lấy quần áo bộ đội ra cho anh em nó thay tạm. Nó mặc cái quần đùi dải rút to "rầm", rộng thùng thình dài quá kheo chân, khoác cái áo bộ đội dài, rộng, tay phải xắn lên mấy vòng. Các anh lấy cơm ở nhà bếp mang về phòng cùng ăn. Bấy giờ nó thấy đói quá, ăn ngấu ăn nghiến, chẳng có giữ ý tứ "làm khách" gì hết. Ăn xong, nó chui vào chăn, ấm quá, nó đánh một giấc dài tới chiều tối mới dậy.

   Nhà nó vẫn làm hàng xáo, thiếu người thỉnh thoảng bu nó thuê thêm nhân công trong làng. Bà Ba Dụ, chơi với bu nó, lúc nông nhàn bà thường hay lên làm giúp. Bà có người con trai lớn cũng cao ráo, sáng sủa. Hai bà thấy cũng hợp với chị Vận nên ngấm ngầm tìm cách xe tơ, kết tóc cho hai con.

Rất nhanh chóng, cuối năm đó chị Vận nó cũng đi lấy chồng. Chồng chị là anh Tống, con bà Dụ. Hai anh chị cùng làm ở Liên Đoàn Địa Chất. Cưới nhau xong ít ngày, anh chị Tống Vận chuyển đến ở nhà tập thể của cơ quan.

Năm sau chị Vận sinh cháu đầu, nhà chồng lại neo người nên mẹ chồng chị bắt chị thôi việc cơ quan để về nhà, vừa là để trông nuôi con nhỏ vừa giúp thêm việc nhà. Từ đó chị Vận nó nghỉ hẳn việc cơ quan về quê sinh sống.

   Nó đã lên lớp bẩy, vẫn hoạt động công tác thiếu niên, khả năng vẽ của nó đã khá hơn. Nó ít khi phải vẽ vào sổ tay cho các anh chị tay hay hoa bướm, chữ lồng cho nón bài thơ nữa. Cao cấp hơn, nó hay vẽ báo tường cho lớp, cho trường, cho đội. Các ngón đàn Ghi ta của nó cũng đã khá mặc dù nhạc lý thì chưa được học. Nó đêm đàn cho các bạn hát, nó cứ tỉa nốt và chạy vài gam, dập chát xuỳnh . . . . xuỳnh . . . . Đối với các bạn không biết chơi thế cũng đã là ghê lắm.

Ở Phòng Văn Hóa huyện có anh Huyền họa sĩ, chuyên kẻ khẩu hiệu, vẽ áp phích, tranh cổ động. Một hôm anh mang quần áo đến nhà để thầy nó vá thì nhìn thấy nó đang vẽ. Anh Huyền nhận thấy nó có năng khiếu nên anh động viên nó nên đi học vẽ. Anh còn bảo nó, thỉnh thoảng lên phòng làm việc của anh để anh hướng dẫn cho mà vẽ mới tiến bộ được. Nó rất mừng. Lúc anh về, nó theo anh ngay. Đầu tiên, anh hướng dẫn nó bài vẽ tĩnh vật bằng bút chì. Anh Hướng dẫn nó những bước đầu tiên, từ việc giải thích thế nào là "tĩnh vật", cách bố cục các tĩnh vật, cách quan sát đường nét, cách đo đạc, đến việc quan sát ánh sáng rồi đánh bóng, . . . . Nó hào hứng và say mê lắm, vẽ xong bức nào nó mang tới để anh xem và góp ý cho. Cứ như thế nó sửa đi sửa lại cho đến khi bức vẽ thật hoàn chỉnh.

Nhiều hôm nó ở chơi chỗ anh để xem anh vẽ. Thấy anh vẽ tranh bằng màu bằng bút lông, nó thích lắm. Một hôm nó ngỏ lời xin anh vẽ tranh màu thì anh Huyền cũng rất vui vẻ động viên nó. Anh cho nó một cái bút lông cùn, bột màu mỗi màu một ít và mấy tờ giấy trắng khá dầy. Anh lại còn cho nó mượn thêm bức tranh chim bồ câu của anh để nó học theo. Nó cảm động quá, trong lòng sung sướng vô cùng.
Về nhà, nó lấy bột mầu cho vào các nắp bia, mỗi màu một nắp, rồi lấy nước cơm đỏ vào. Cứ thế nó nghiền kỹ bột màu với nước cơm. Nó nằm bò ra phản và bắt đầu dùng bột màu để chép lại tranh của anh Huyền. Đó là lần đầu tiên nó dùng bút lông và màu bột để vẽ nên trong lòng rất phấn khích.

Sau mấy tiếng đồng hồ bò lê bò càng, sửa đi chữa lại thì bức tranh cũng gần xong. Nó thấy rất đạt, rất ưng ý. Nó làm việc miệt mài và hăng say lắm quên cả việc có chị Thất và anh Bát đang xúm vào xem nó vẽ, quên cả việc nó đang mót đi ngoài. Rồi đột nhiên nó thấy không thể nhịn thêm được nữa nên đành nhờ chị Thất và anh Bát trông hộ để nó chạy ra nhà sau :

- Trông hộ em nhá ! Đừng nghịch hỏng nha !

Nó đi ngoài xong quay lên nhà, nhìn thấy bức tranh thì mặt tái dại đi. Bức tranh của nó bị gạch ngang dọc. Nó lặng người đi giờ lâu, đau đớn . . .

Hỏi : Ai làm thế này hả ?
Chị Thất nó đáp : Thằng Bát đấy !

Nó thấy buồn vô hạn. Đó là bức vẽ mầu "đầu đời" của nó với bao nhiêu tâm huyết thì đã ôi thôi . . . ! Mà cũng không kém phần buồn hơn về ông anh trai của nó. Ông anh vẫn còn hận nó tới giờ chưa nguôi.

Bạn bè chốn quê hương

Nó chơi với rất nhiều bạn, bạn cùng lớp, bạn lớp trên, bạn lớp dưới, bạn cùng phố, cùng thôn, rồi còn bạn của bạn nữa.

Trong số những bạn nó thân trong lớp phải kể đến thằng Đồng, nhà sát tường nhà cái Huệ. Nó hay sang nhà Đồng chơi. Hai đứa lấy gậy gẩy rơm chơi trò làm Tôn Ngộ Không, đánh nhau, cười đùa ầm ĩ. Thằng Đồng thì thế, còn cái Huệ, bạn chăn vịt một thời của nó, cũng là bạn gần nhà lại cùng lớp. Thành ra, tự nhiên cái Huệ, thằng Đông và nó khá thân nhau. Sướng nhất là cứ chiều chiều, nhà cái Huệ thay nồi nước dùng. Xương bò, xương trâu, xương lợn đã ninh lấy nước xong được vớt ra sảo để thay đợt mới, Cái Huệ lai gọi nó với thằng Đông vào gặm xương. Tuy xương được ninh đã kỹ, nhưng những mẩu thịt vụn, sụn đầu và tủy xương ăn vẫn ngọt lắm. Hai thằng gặm gặm, mút mút, hít hít, nhai nhồm nhoàn. Tuyệt ngon !

Đứa thứ ba nó thân là thằng Huy. Thằng này ham đọc sách và có trí nhớ tốt. Nó đã đọc Tam Quốc, Thủy Hử, Tây du ký và các chuyện khác thì rất nhớ, từng chi tiết. Khi hỏi, nó kể vanh vách cấm quên tý nào. Nó và thằng Huy hay trao đổi sách cho nhau. Có những lần hai đứa đi hơn chục cây số để mượn sách về đọc. Thằng Huy thích cái Huệ nên hay bị bạn bè "chế" (gán ghép thành đôi). Một hôm nó và Huy đi làm bèo dâu, hai đứa đang khiêng một thúng tro bếp. Vừa đi nó vừa chế thằng Huy với cái Huệ. Nào ngờ, thằng Huy quay lại, bốc một nắm tro, đáp thẳng vào mặt nó. Nó đang cười nên ăn đủ tro vào mặt, đầy mồm, đầy mũi. Nó phải xuống ao rửa, mãi mới sạch.

Bên trái nhà thằng Huy là nhà thằng Kiến. Thằng Kiến có họ với nó, đúng ra, thằng Kiến phải gọi nó là chú. Nó cũng quý và chơi rất thân với thằng Kiến. Sau này Kiến vào quân đội, công tác ở binh chủng tăng thiết giáp. Nó được đi tu nghiệp ở Liên Xô, rồi thăng tiến lên đến hàm thiếu tướng. Ông thằng Kiến chơi hoa và cây cảnh nên nhà nó có rất nhiều hoa và cây. Thỉnh thoảng nó và thằng Huy xin ông giống cây cúc, cây thược dược, cây hồng hoặc cây nhài đem về trồng.

Bên phải nhà thằng Huy là nhà thằng Dân. Thằng Dân gầy gò, cao dong dỏng. Nó quý thằng Dân ở cái trí thông minh và cái đức học tốt. Lui ra giữa phố có nhà thằng Dưỡng. Dưỡng đẹp trai, cao, tóc quăn, hơi đen, tính tình điềm đạm hiền lành. Sau này nó làm thợ cắt tóc.
Nó cũng khá thân với thằng Thuân, con bác Cau Hào làm nghề cắt tóc, nhà ở góc phố, phía đối diện với nhà nó. Thuân thua nó một tuổi, học lớp dưới. Bữa đó có đoàn sinh viên trường Nông Nghiệp về quê nó thực tập. Trời mưa to, ốc sên bò ra vườn chuối rất nhiều. Các anh các chị sinh viên bắt về, làm sạch rồi đem sào. Họ biếu thầy bu nó một đĩa nhưng cả nhà nó không ai dám ăn. Nó và thằng Thuân liền đánh chén tì tì đến hết, ngon đáo để.

Bạn cùng lớp thằng Thuân là thằng Sinh, con bác Lam. Anh thằng Sinh là anh Thới, làm nghề sửa xe đạp. Thằng Sinh đúng là "thư sinh", rất trắng, hơi lùn nhưng thông minh và học khá tốt. Tối tối thằng Sinh ra nhà nó nhờ nó dạy chơi ghi ta và dạy đọc thơ. Lớn lên, Sinh đi bộ đội, học ngành quân y và trở thành bác sỹ. Nó có chuyên môn giỏi, sau này là thiếu tướng, phó viện trưởng Viện Quân Y 103 ở Hà Đông.

Đối diện nhà nó là trạm y tế của huyện. Cạnh trạm là nhà ông bác sỹ từ Hà Nội về. Ông dựng một cái cột ăng ten rất cao và làm đài tự tạo, bấy giờ gọi là "chơi galen". Dây ăng ten được dẫn từ trên cao xuống và được nối với một cái kim. Cái kim này sẽ dùng để châm vào một cục quặng bán dẫn, đóng vai trò như điốt (diode) tách sóng. Cục quặng được nối với dây loa, đầu dây còn lại của loa thì nối xuống đất. Cái loa của ông bác sỹ cũng do ông tự làm. Nó đơn giản gồm một cục nam châm có quấn một cuộn dây xung quanh rồi đem úp cái ống bơ sữa bò vào. Đáy ống bơ chính là màng loa, còn miệng ống bơ chính là chỗ để ghé tai vào mà nghe. Khi muốn nghe đài, phải dùng cái kim mà dò dò, chọc chọc vào cục quặng để tìm được chỗ nào nghe được rõ nhất.

Chơi galen không phải tốn pin hay thêm bất cứ gì nữa nhưng chỉ nghe được đài nào phát sóng mạnh và ở gần. Bấy giờ có đài galen mà nghe thì ai cũng thích vì ở nông thôn đói thông tin lắm. Rất may là nó chơi với thằng Việt, con ông bác sỹ. Thằng Việt thì "kiêu" lắm, muốn được nó cho nghe đài thì phải nịnh. Dù sao thằng Thập gần nhà, lại thân, nên có phần được ưu ái hơn những đứa khác. Thỉnh thoảng, lúc ông bác sỹ không nghe đài, thằng Việt ra hiệu cho nó chạy qua nghe nhờ.

   Sát nhà thằng Việt là nhà dì Lạp, em ruột bu nó. Dì Lạp ở Sặt, có lò nung vôi, lại xoay sang buôn nước mắm, rồi xoay qua buôn đồng nát. Chồng dì Lạp lại là các bộ nữa nên kinh tế nhà dì thuộc loại khá giả, có thể nói là giầu có. Dì Lạp mua ngôi nhà ngói cũ của Pháp, đối diện với nhà nó. Trong thời gian "cải cách ruộng đất", dì Lạp cư xử rất tệ với nhà nó. Nhớ lại, khi các cháu sắp chết đói, chị gái thì đang bị giam cầm, các cháu xuống dì kêu cứu, chẳng những dì không cho cháu ăn một miếng cơm, không cho vay một đồng một cắc hay một bát gạo nào, mà dì còn đay nghiến: "Tiền của tao là tiền buôn tiền bán, đâu có phải vỏ gion. Về bảo thầy bu mày, cứ để chết bớt mấy đứa đi, rồi xuống đây, có thừa tao mới cho vay."

Từ ngày ấy bu nó và dì Lạp cắt đứt mọi quan hệ. Hai chị em ruột ở đối diện nhau nhưng coi nhau quá người dưng, lại còn cấm con cái chơi bời hay giao lưu với nhau.

Thằng Miến là con cả của dì Lạp, thua nó một tuổi, hai đứa lại quý nhau. Sợ mẹ cấm, hai đứa nghĩ ra cách liên lạc với nhau qua "điện đài hữu tuyến". Chúng dùng hai ống bơ sữa bò rỗng, đục lỗ ở đáy, rồi nối một cái dây từ đáy ống bơ này qua đáy ống bơ kia. Sợi dây được dòng qua tán hai cây bàng đối diện hai bên đường. Khi muốn nói chuyện với nhau, chúng vỗ tay ba cái, là ám hiệu gặp nhau ở trên "mạng điện đài". Nói qua "micrô" ống bơ nghe khá rõ. Điện đài được chúng giấu sau nhà, không ai phát hiện được. Chẳng những thế, chúng còn liên lạc với nhau bằng tín hiệu "vô tuyến" nữa. Khi một đứa muốn rủ đứa kia đi chơi thì đứng trước cửa nhà mà vỗ tay nhát gừng, từng cái rời rạc, một hồi năm cái, thì nhĩa là "Đi chơi bây giờ nhé !". Nếu đi được, bên kia vỗ lại một cái, "Được", nếu không sẽ vỗ hai cái, trả lời "không đi".

Chú Thanh, bố thằng Miến, ở Hà Nội về, mua cho anh em thằng Miến cái xe đạp con. Dì nó quý lắm, không cho đi xe ra đường. Bà treo xe lơ lửng ở nhà sau, bánh cách mặt đất một gang. Dì cho các con ngồi lên tập đạp xe. Thằng Thập thích lắm, nó mon men sang nhìn mà thèm. Rình lúc vắng dì, nó xin đạp nhờ. Một lần, nó đang sung sướng đạp xe thì dì Lạp về đột suất, bắt được. Dì quát :

- Mày sang đây làm gì ?
- Cháu sang kèm em Tần học.
- Thằng Tần nó không cần, mày về đi. Cấm có được sang nhà tao !

Nó tủi thân lắm, lủi thủi "cúp đuôi" đi về.

Chú Thanh là cán bộ làm việc ở Hà Nội, có tiêu nhiều tiêu chuẩn tem phiếu, được cung cấp nhiều mặt hàng. Ngày tết, ông mang về rất nhiều quà. Trên mâm ngũ quả còn có cả mấy bao thuốc lá Tam Đảo. Thằng Miến bóc trộm, rút mấy điếu rủ nó hút. Đó là lần đầu tiên nó hút thuốc, rít vào, chưa qua khỏi cổ, nó đã ho rũ rượi. Thế rồi, vài lần tập hút thành quen. Hai đứa hay hút trộm thuốc của chú Thanh, dần dần thành nghiện. Đến bây giờ nó vẫn nghiện thuốc, cứ hút thuốc thì lại ho, nhưng ho mấy nó cũng không bỏ được.

Năm cuối cấp hai, bọn con gái lớp nó nhiều đứa đã mười sáu, mười bảy. Đứa nào đứa nấy phổng phao, nẩy nở, má đỏ hây hây, trông rất xinh. Con trai lớp nó nhiều đứa hơn nó bốn năm tuổi nên cũng rất lớn. Chúng nó bắt đầu tán tỉnh, cưa cẩm mấy đứa con gái, mấy đứa con gái cũng thích. Thằng Thập bé nhỏ, gầy còm nhất lớp nên bọn con gái chả thèm để ý. Còn, bọn con trai thì lại nịnh nọt nó, nhờ nó chuyển thư, chuyển thơ tình cho bọn con gái. Chuyện trai gái lớp nó kể ra chẳng thể hết.

Bây giờ bạn cùng lớp thuở nào, mỗi đứa một phương, "chín người, mười cảnh", "kẻ còn, người mất". Thỉnh thoảng họp lớp những đứa cùng thôn cũng chỉ có hơn chục đứa. Tuy vậy, thằng Thập vẫn nhớ từng khuôn mặt, từng cái tên bạn lớp nó, nhiều kỷ niệm không thể quên. Những cái Lý, cái Cúc, cái Nụ, cái Hường, thằng Lợi, thằng Toàn, thằng Sơn, thằng Hợp, . . .

Năm 1969

Nhớ lại năm 1969, một năm rất nhiều sự kiện đáng nhớ.

Chị cả nó bấy giờ đã sinh được năm đứa cháu, ba trai, hai gái, cháu Son, cháu Hà đã chết sau sinh, cháu Thùy, cháu Lam, cháu Thanh.
Nhớ lại lần sắp sinh cháu Lam, chị bị băng huyết nặng. Cả nhà xúm xít lại tìm cách đưa chị đi cấp cứu. Chị được đặt nằm vào cái võng đay, rồi xỏ đòn càn vào, bên trên đòn phủ cái chăn hoa. Hai người đàn ông lực lưỡng võng chị sang Cẩm Sơn cấp cứu. Đang bị khiêng đi, từ trong võng, nhìn thấy thằng Son chạy theo, chị nó thò cổ ra gọi nó :

- Thập ơi ! Giữ cháu lại hộ chị.

Thằng Son lúc ấy năm tuổi, béo khỏe ục ịch. Nó hơn cháu Son bốn tuổi nhưng lại gầy còm. Nó đuổi theo túm tay thằng Son kéo lại không cho đi. Không ngờ, thằng cháu khỏe hơn, đẩy cho nó một cái, ngã ngồi xuống đất. Thằng Son tiếp tục chạy theo mẹ. Thằng Thập quát gọi cháu lại, thằng cháu không thèm nghe, lại còn quay lại, cầm gạch vừa đáp vừa chửi :

- Đ. . . tổ thằng Thập.

Thằng bé thật là khỏe, nhưng có lẽ tình mẹ con làm cho nó khỏe gấp bội. Vì mẹ, nó chiến đấu đến cùng, văng tục chửi bậy, không cần biết gì hết. Bây giờ kể chuyện lại, cả nhà nó, ai cũng phải phì cười.

Chị hai nó ở Hà Nội cũng sinh được năm đứa con là Văn, Liên, Hùng, Mai An, Phương An.

Chị Thơ ở trông cháu cho chị hai tới năm hai mốt tuổi, thì được anh Chí, chồng chị hai, giới thiệu cho anh Phương, làm cùng cơ quan, người ở Hà Tây. Đi lại một thời gian thì hai người cưới nhau vào năm 1965. Đến năm 1969, chị đã có ba cháu là Vân An, Hoa và Hướng.
Chị Vận và chị Thất giống nhau, cưới năm trước thì năm sau sinh con. Giữa năm chị Thất sinh cái Đức thì cuối năm chị Vận sinh cu Chiến.
Năm ấy là năm 1969.

Anh Bát đã học xong lớp mười không thi đỗ được đại học, được em anh Phương xin cho đi làm công nhân ở hồ Kẻ Gỗ, hai năm sau thì nhập ngũ.

Nó đã mười bốn tuổi, tốt nghiệp lớp bẩy. Sau khi nghỉ hè, phòng văn hóa huyện thông báo nó được chọn đi học vẽ tại trường văn hóa nghệ thuật tỉnh, đóng tại thị trấn Sặt, thời gian mười hai tháng. Nó bỏ dở ý định học tiếp cấp ba để đi học vẽ. Đó là niềm ước mơ cháy bỏng thôi thúc nó, nó muốn trở thành họa sỹ. Nó lục tục chuẩn bị tư trang, đồ đoàn để nhập trường vào ngày 10/9/1969.

Còn mấy ngày nữa là đến ngày tập trung thì nghe đài báo tin Bác mất. Sáng 9/9/1969, loa phóng thanh công cộng đặt trên cây bàng trước cửa nhà nó tường thuật trực tiếp buổi tang lễ. Hôm đó trời mưa tầm tã nhưng vài trăm người vẫn lặng lẽ dưới mưa, nước mắt chan hòa, đứng nghe bác Lê Duẩn đọc điếu văn. Ủy ban huyện lập tức xuất vải đen và vải đỏ, huy động và hướng dẫn tất cả thợ may trong cả huyện tham gia may băng tang. Thầy nó đứng pha vải, nó ngồi may hối hả, vừa nhìn mưa rơi, nhìn đoàn người khóc lặng dưới mưa, vừa đạp máy hết công suất. Nó vừa làm vừa nghe bác Duẩn đọc, cảm động quá, nước mắt nó rơi cả xuống băng tang.

HẾT CHƯƠNG II

CHƯƠNG III VÀO ĐỜI Nó cài một cái băng tang màu đen có một vạch ngang màu đỏ ở giữa giống như tất cả người dân lúc đó để tang Bác.

Làng nó có hai đứa được chọn đi học vẽ là nó và thằng Đỗ, người cùng làng. Sáng 10/9/1969, hai đứa chào gia đình, xách túi hành trang rời quê hương lên đường nhập trường.

Sáng mùa thu, nắng sớm lung linh, trời trong vắt, xanh cao vời vợi, gió mênh mang thổi, lúa đã đổ đòng thơm ngát, chim hót ríu rít trên đồng. Nó và thằng Đỗ đi tắt qua cánh đồng về hướng ngã Ba Lăm. Gặp con đường rải đá, hai đứa rẽ phải, đi thêm một đoạn trên đất xã Xuân Dục thì rẽ trái. Đi thêm vài cây số nữa trên đường đất thì đến bến đò Chằm Xuyên. Hai thằng dắt tay nhau dò dẫm xuống những bậc thang nhỏ dốc đứng được khoét vào thành đê. Chúng trèo lên một con thuyền nan nhỏ, làm con thuyền chòng chành. Bác lái đò già ngồi ở phía sau bình thản khua nước, sóng từ mái chèo vỗ vào mạn thuyền ào oạp. Lên đến bờ là bắt đầu vào phố Sặt. Từ bến đò, đi thêm mấy bước là tới cổng trường.

Trường nó rất rộng, nằm ngay sát sông, im lìm in bóng xuống mặt nước, uy nghi và trầm mặc. Đó là khu trại lính Pháp ngày xưa với ba ngôi nhà. Ngôi nhà thứ nhất, nằm bên phải, là một biệt thự, nơi ban giám hiệu, các phòng hành chính, hậu cần và giáo viên ăn ở và làm việc. Bên trái là dãy nhà cấp bốn, trước đây dùng làm khu gia binh, bây giờ là nhà ở của học sinh. Chính giữa khu trường là một ngôi nhà ba tầng to sừng sững, dễ chừng mặt bằng đến vài trăm mét vuông, mái ngói đỏ, của kính, cửa chớp sơn màu xanh rêu, cầu thang ở chính giữa. Đây là giảng đường cho lớp học vẽ của chúng nó. Toàn bộ trường từ cổng cho đến các ngôi nhà đã rêu phong, lở lói theo thời gian nhưng vẫn giữ được vẻ bề thế với những nét kiến trúc cầu kỳ kiểu Pháp. Nền sân được lát gạch vuông bốn mươi phân, xung quanh để chừa một đường viền trồng cỏ xanh, rất mát mắt.

Trong sân trường, mấy cây xà cừ, cây bàng, cây sấu, cây phượng già xòa bóng um tùm. Đã là mùa thu mà vẫn có tiếng ve kêu ra rả, tiếng chim hót líu lo. Đặc biệt nhất là lũ chim sẻ, chúng làm tổ giữa mái ngói và lớp trần toóc-xi của ngôi nhà chính. Sau ba tháng hè vắng vẻ, lũ chim sẻ sinh sôi nảy nở rất nhiều. Học sinh lớp vẽ bắt tay vào dọn trường thì khi chui lên trần nhà, lũ chim sẻ hoảng hốt bay ra rất nhiều. Có con chim bố mẹ nào rất vụng, hoảng sợ bay ra, làm rơi cả cái tổ, trong đó có ba con chim bé xíu, đỏ hon hỏn.

  Thày dậy hình họa bọn chúng là thày Thịnh, quê Hải Dương. Thày Thịnh trầm tính, hiền lành, người cao to, mặt vuông chữ điền, râu quai nón, trông rất quắc thước. Thày dạy trang trí là thày Túc, cũng quê Hải Dương, người thày bé nhỏ, trắng trẻo, thanh tú, tóc để dài rẽ ngôi phải. Thày Túc vui tính hay cười, hay hát, . Thày dạy chúng khá nhiều bài hát khi tập văn nghệ. Một số thày cô khác thì dạy toán, văn, mỹ học và các bộ môn khác.

Lần đầu tiên trong đời được tiếp cận với phương pháp học quy chuẩn, nó ngỡ ngàng và vỡ ra nhiều điều. Nó biết thế nào là nguyên tắc bố cục, là trang trí, là đăng đối, là luật xa gần (thấu thị), đường chân trời, rồi hòa sắc, phối mầu, . . . . Việc học hành ngày 2 buổi cuốn hút chúng, trưa và chiều khi nghe hiệu lệnh kẻng thì xuống bếp ăn. Ngoài giờ học, chúng còn được hướng dẫn chơi thể thao, tập hát, học nhạc. Mặc dù bữa ăn thời bao cấp đạm bạc, không có gì nhưng cũng đủ no, không đứt bữa. Cuộc sống và sinh hoạt tập thể có nhiều điều mới, rất vui. Cứ chiều Thứ Bẩy hàng tuần, học sinh được nghỉ để tổng vệ sinh trường. Ngày Chủ Nhật, chúng nó được tự do. Chúng nó thường đi chơi cả ngày, đầu tiên là khám phá thị trấn Sặt, một vùng quê mới mẻ đối với nó.

Sặt là một thị trấn nhỏ nằm bên con sông Sặt êm đềm, quanh năm nước chảy hiền hòa. Hai bên bờ sông là hai con đường đê nhỏ, trồng nhiều phượng, me, các bụi tre xanh, các hàng dừa xòa bóng. Dưới sông, cả hai bên, là những thuyền câu, cái to, cái nhỏ, có cả những con thuyền buồm vận chuyển hàng, đêm đến tụ nhau bên bến sông thành một xóm nhỏ bồng bềnh, ánh đèn hắt xuống mặt nước thàng những vệt sáng dài, lung linh, mờ ảo, trông rất đẹp.

Cách trường nó khoảng một cây số là cây cầu Sặt, được bắc từ thời Pháp, vắt ngang, cao chênh vênh trên sông. Chạy dọc triền đê là chợ Sặt buôn bán vô cùng sầm uất, không thiếu thứ gì. Qua chợ Sặt có mấy đường ngang rẽ ra sông, cắt vuông vức như xương cá. Trung tâm thị trấn nằm trên trục chính, nhà cửa san sát nhau như thành phố với nhiều nhà xây, nhiều căn nhà cổ kính từ thời Pháp. Đi sâu chút nữa là khu vực nhà thờ có sân rộng mênh mông với tường rào hoa sắt thoáng bao quanh. Cổng sắt của nhà thờ trang trí hoa văn rất đẹp. Nhà thờ có hai tháp hai bên và một tháp chuông lớn ở giữa, cao sừng sững. Phía trên cao, vút lên giữa trời là mái vòm bom bê (bombe – từ tiếng Pháp). Phía trước tháp giữa, dưới sân có hai bức tượng hai bên. Trong đó một bức là tượng Đức Mẹ Đồng Chinh bế bé hài đồng, tỷ lệ to hơn người thật, đang dịu hiền nhìn xuống các con chiên. Xung quanh nhà thờ chính là quần thể kiến trúc các nhà nguyện nhỏ, các xứ họ . . . . 

   Bên ngoài thị trấn có các ngả đường đi sang Thanh Miện, Thái Bình, Hưng Yên. Nằm cạnh thị trấn, sát con đường lên huyện là một sân vận động khá lớn, cạnh sân vận động là doanh trại quân đội, trại an dưỡng của thương binh.

Dân thị trấn và dân làng Sặt đa số là theo đạo nên họ sống hiền hậu chân thật và nhân ái lắm. Sinh hoạt chủ yếu của dân thị trấn là buôn bán hoặc mở các cửa hàng dịch vụ. Khu vực trong làng chủ yếu làm ruộng và nghề phụ như tráng bánh đa, làm kẹo, khâu nón và dệt vải.

  Sau khi ổn định trường lớp, nơi ăn chốn ở, Chủ Nhật đầu tiên được nghỉ, nó cùng các bạn ra phố Sặt chơi thăm và khám phá. Chúng thơ thẩn chán trong chợ, lại ra phố, dán mắt vào các cửa hàng tạp hóa, hiệu may, hiệu chụp ảnh. Cuối phố còn có hiệu vẽ rất lớn của thằng bé tầm tuổi nó tên là Mỳ. Thằng Mỳ cùng với bố vẽ những bức cuốn thư, những tranh cưới chữ lồng có đôi chim bồ câu, những lọ hoa, mâm ngũ quả, những bức tranh Bờ Hồ, phong cảnh hữu tình, núi non, sông nước, cả những tranh các cô cậu bé con để tóc trái đào ôm những quả đào to, bên cạnh một ông tiên tóc bạc, râu bạc cầm gậy trúc đứng dưới gốc đa cười hiền từ. Chẳng mấy chốc là hết veo ngày Chủ Nhật.

Qua cổng trường nó là một con đường lớn bằng đất chạy cắt ngang đường chính trong phố, dẫn thẳng ra một cái cầu sông bên bờ sông Sặt. Cầu được xây từ thời Pháp, gạch được xây nghiêng, bề rộng khoảng bốn mét, các bậc đi xuống sông rộng chừng năm chục phân dẫn dần xuống rồi ẩn sâu trong lòng nước. Các bậc thang lộ thiên thì nhẵn thín, trơ màu gạch đỏ au vì suốt ngày dân thị trấn ra tắm, giặt quần áo, chăn màn. Các bậc càng xuống sâu càng xanh ngắt vì phủ rêu, trơn nhẫy.

Sau thằng toàn nó quen thêm nhiều bạn nữa, cái Hằng, cái Nga, cái Nguyện, cái Tâm, thằng Khóa, thằng Hải, v v . . . Có một số đứa nó quen nhưng vì nhà chúng quá giầu, nó thì lại tự ti nên ngại tiếp xúc và quan hệ. Cái Xuân Loan hơi lùn một chút nhưng trắng trẻo và rất xinh, con nhà hiệu ảnh rất đông khách, rất giầu. Hay như là thằng Tùng Quỹ, thằng Mỳ vẽ, hễ là con nhà giầu nó ngại.

Nó thường chơi với những đứa kinh tế bình thường, bằng hoặc hơn nhà nó chút đỉnh. Nhà cái Hằng nghèo nhất trong đám bạn chơi, nhưng bố cái Hằng rất cởi mở và vui tính. Mẹ cái Hằng mất sớm, ông ở vậy nuôi hai đứa con gái là cái Hằng và chị Thủy. Bọn chúng hay thường tụ tập ở nhà cái Hằng vui chơi, đàn hát và đôi khi tổ chức ăn uống nữa. Các lần ăn uống như thế là do các bạn mời chứ cái Hằng thì lấy đâu ra.

Nó quen và chơi với những đứa cùng trang lứa gần như là cả phố. Nhưng người nó quý và thân nhất là thằng Khóa nhà chụp ảnh, và thằng Hải nhà làm nghề thuộc da, khâu bóng, đóng giầy.

   Vui nhất có thể kể đến những buổi tối ở sân vận động Sặt có chiếu phim hay diễn kịch. Nó cùng hai đứa bạn thân trong lớp là thằng San và thằng Giong ra phố đi xem cùng các bạn nam và nữ ngoài phố.

Không khí ngoài bãi cũng gần giống các buổi chiếu phim ở quê nó. Nhưng khác ở chỗ bây giờ nó không còn là đứa trẻ con, giữ manh chiếu rách giữa sân nữa, mà nó đã là một 'chàng' thanh niên. Nó cùng các bạn nam nữ đi ở vòng ngoài, đùa cợt tán tỉnh, trêu gẹo lẫn nhau, hoặc tíu tít vào các hàng ngô nướng rải rác ngoài bãi, mua những bắp ngô nướng nóng hổi, thơm ngậy, uống nước sấu và trêu đùa nhau chí chóe.

Thằng San, da đen, cao, tóc húi cua, nhà ở Cống Trạch cách thị trấn khoảng năm cây về phía nam. Nó đã xuống chơi nhà San vài lần. Vẫn nhớ, đi qua cái cống rẽ trái vào làng thì ngay đầu làng là nhà San. Nhà Giong ở Văn Lâm, cách nhà nó mười lăm cây. Thằng Giong hơn nó mấy tuổi, người cao, gầy, tóc soăn, da trắng, trông như lai tây. Thằng này có tật xấu, khi ngủ luôn thọc hai tay vào trong quần, khư khư ôm hạ bộ. Tật này bị bạn bè trêu nhưng thằng Giong chẳng bỏ mà thỉnh thoảng còn trêu nghịch trở lại. Nó giật ra vài "sợi rơm", đưa lên giứ giứ, rồi cười hô hố, ghê hết cả người.

Nhắc đến thằng Giong thì nó lại nhớ đến thằng Trưởng, họ hàng nhà thằng Khóa, ở Hà Nội về sơ tán. Sau này nó chơi thân với thằng Trưởng. Thằng Trưởng, nhà ở phố Phó Đức Chính, là một anh chàng khá đẹp trai, cao ráo, phong độ và nhiều tài lẻ, ra dáng dân thành phố.

Ít lâu sau nó quen thêm cái Hiên ở phố. Đó là một kỷ niệm không bao giờ quên mà lúc bấy giờ nó rất xấu hổ. Phải nói thêm thế này, ở nhà và ở quê thì nó vẫn tên là Thập, nhưng khi đến trường học vẽ, thấy tên Thập xấu quá nên nó khai thêm tên thường gọi là Nguyễn Trọng Dũng, một cái tên đẹp, rất nam nhi, trượng phu. Nó dặn cả nhà và các bạn bè nó có tên mới. Ở nhà và ở quê chẳng ai chịu chấp hành, nhưng với các bạn bè mới thì lâu dần thành quen, đều gọi nó là Dũng. Chẳng may có đứa nào nhầm gọi tên Thập thì nó không cũng không thưa. Với các bạn ở phố Sặt thì không ai biết tên nó là Thập cả.

Vào một buổi chiều hè, trời nóng như đổ lửa, tiếng ve kêu ran ran, cầu sông cực kỳ đông vui, tấp nập vì ai chả thèm được tắm. Hôm ấy chủ nhật học sinh trường nó cũng ra cầu sông tắm giặt. Bấy giờ ở cầu sông rất đông người giặt và người bơi. Sau khi giặt xong mấy cái áo, còn cái quần, không còn chỗ bên trên, nó phải lội sâu xuống mấy bậc dưới để giũ nốt. Ngoài xa, thằng Sầm cùng rất nhiều người, có cả bọn con gái phố Sặt đang bơi, vẫy vùng tận hưởng dòng nước mát. Mấy đứa con gái nheo nhéo gọi :

- Dũng ơi ! Xuống đây bơi đi, mát lắm !

Nó không biết bơi, nhìn xuống thèm lắm nhưng sỹ diện nên dấu nhẹm chuyện này. Nó chỉ đứng vẫy tay cười với các bạn. Thình lình, sau lưng nó một người giặt chiếu vô tình quay cái chiếu ngang ra để giặt, cái chiếu đẩy vào lưng nó. Nó mất đà bước thụt xuống bậc dưới. Chẳng ngờ bậc quá trơn lại đúng vào cái hõm có mấy viên gạch vỡ, nó hẫng chân, trượt hẳn ra xa vài mét. Vừa quẫy đạp, tay chới với chòi lên, tụt xuống . . . . Vì quá đông người, ồn ào, không ai để ý, nó bắt đầu uống nước và «giã gạo» rồi chìm dần. Hai tay nó vươn lên chới với, tuyệt vọng. Nó nghĩ mình sắp chết và bắt đầu buông lơi.

Bỗng nhiên nó thấy mình chao nghiêng sang một bên, nhẹ bỗng. Hai tay người nào đó xốc nách nó, nâng đầu nó cao lên, chân đạp nước oàm oặp. Người đó dìu nó vào bờ. Mắt nó đã hơi hoa đi, đầu choáng váng nhưng nó thấy đã dễ thở hơn. Lên tới mép cầu, nó cố bò lên bậc cầu trên khô ráo và tự dưng thấy bụng tóp lại, cồn lên. Nó nôn òng ọc ra bao nhiêu nước. Lấy tay gạt nước chảy trên mặt trên mũi nó định thần mở mắt ra và biết là mình đã sống. Một giọng con gái thanh thanh cất lên cạnh nó :

- Anh Dũng ! Có sao không ?

Nó ngước mắt nhìn lên thấy một thanh nữ chắc đậm, khỏe khoắn. Cô gái đó tắm nguyên quần áo ướt rượt, nước làm vải dính vào người, để lộ ra những đường cong tươi trẻ của người con gái. Nó chẳng biết nói gì, ngượng ngùng trả lời :

- Cảm ơn đã cứu tôi ! Bạn tên gì ? Sao lại biết tên tôi ?
- Em tên Hiên, bạn của Nga, đã gặp anh mấy lần ở nhà Nga mà anh không nhớ.
- Cảm ơn Hiên ! Anh chưa biết bơi.

Nó quen cái Hiên từ đó và cũng bởi câu truyện này về sau bọn bạn nó thường gán ghép cái Hiên với nó. Nó thì không thích cái Hiên, nhưng nghe chừng cái Hiên thích nó lắm. Cái Hiên luôn tìm cách dò hỏi xem nó thiếu cái gì, cần cái gì là tìm cách mua tặng.

  Chỉ còn vài ngày là lớp sơ cấp mỹ thuật bế giảng, tất cả học viên ai nấy đều náo nức chuẩn bị làm bài tốt nghiệp. Bài tốt nghiệp của nó được điểm cao nhất lớp môn hình họa, đứng thứ ba môn trang trí. Nhà trường chọn 10 học sinh giỏi nhất trong số hơn 100 học sinh của cả ba lớp gửi đi thi vào hệ trung cấp của trường Mỹ Thuật Yết Kiêu, Hà Nội. Nó là đứa được chọn đầu tiên. Trong chín người còn lại có ba người mà nó thân là chị Mỵ, anh Thiêm và thằng Giong. Thằng Đỗ, thằng Đậu và một số bạn không đạt, phải học thêm 2 tháng nữa.

Vào một buổi chiều, nhà trường công bố danh sách tốt nghiệp khóa học sơ cấp mỹ thuật. Sau đó là buổi thi các tiết mục văn nghệ của ba lớp.

Buổi tối hôm đó nhà bếp cho ăn tươi, gọi là liên hoan cuối khóa học. Buổi liên hoan rất vui vẻ và cảm động.

Sáng sớm hôm sau, nhà trường tổ chức lễ tốt nghiệp cho các học viên đồng thời cũng là buổi mít tinh chia tay. Hội trường được trang trí cờ, hoa, khẩu hiệu, trông rất long trọng. Ngoài các thầy cô giáo và học viên của nhà trường, còn có các cán bộ của Ty Văn Hóa tỉnh về dự. Sau khi thầy hiệu trưởng đọc báo cáo tổng kết, từng tốp học viên được đọc tên lên nhận chứng chỉ tốt nghiệp. Thày hiệu trưởng và một cán bộ của Ty Văn Hóa trực tiếp trao bằng và bắt tay từng người. Riêng mười học viên được đi thi trung cấp còn được nhận giấy của tỉnh giới thiệu lên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội để thi.

Kết thúc buổi bế giảng, mọi người chia tay nhau rất bịn rịn, khá nhiều người khóc, xin địa chỉ và viết lưu bút cho nhau trong sổ tay. Gần một năm học tập, ăn ở sinh hoạt cùng nhau, giờ mỗi người sẽ đi một phương, tạm biệt mái trường, cuộc chia ly rất bùi ngùi và cảm động.

Sau khi dùng dằng chia tay các thầy và các bạn rất lâu, nó quay lại ngắm nhìn ngôi trường một lần nữa, rồi mạnh chân bước ra cổng, nơi đó có các bạn đang chờ tiễn nó. Nó ra đến cổng thì thấy đã có rất nhiều bạn, một số bạn phố Sặt chuẩn bị sẵn xe đạp đang chờ. Đưa chân nó về tận nhà có tất cả hơn mười đứa, cả gái lẫn trai. Các bạn tiễn nó về tận nhà cũng là nhân thể đến chơi cho biết nhà. Mọi người tíu tít nói cười, đạp xe đưa nó về phố huyện quê hương nó. Nó cầm cái túi sách đựng quần áo, giấy tờ và một cuộn tranh giấy là bài học điểm cao của nó, ngồi trên póc ba ga (PorteBagage – đèo hàng – từ tiếng Pháp) xe thằng Khóa, lòng cảm thấy lâng lâng, xao xuyến và hạnh phúc.

  Về đến nhà, trong vài ngày, nó chuẩn bị hành trang lên Hà Nội thi vẽ. Nó lên phòng văn hóa huyện báo cáo kết quả học tập. Anh Huyền mừng lắm. Anh động viên nó cố gắng lên Hà Nội thi cho tốt. Rồi anh chuẩn bị cho nó ít mầu bột các loại. Về nhà, nó lại nghiền bột mầu rồi trộn với nước cơm, đem đắp đầy mấy vào các nắp bia. Bút chì thì nó đã có mấy chiếc vẫn đang dùng. Nó lấy đế dép xốp cũ đem cắt thành những viên nhỏ để làm tẩy. Còn bút lông thì anh Huyền có vài cái anh không thể cho nó vì anh phải thường xuyên dùng đến. Nó đành gói theo hai cái bút cũ đã mòn vẹt gần hết lông. Thôi thì "cái khó ló cái khôn", nó đành phải tự làm thêm vài cái bút nữa. Nó lấy tre tươi đem gọt và cạo hết xơ tre rồi đập dập đầu, làm thành đủ ba loại bút đại, trung, tiểu. Nhưng mà bút tre thì làm sao mà mềm mại như bút lông được nên cuối cùng nó cũng cố gắng làm lấy cả bút lông. Nghĩ sao làm vậy, nó ra hiệu cắt tóc kiếm một ít tóc dài, rồi nó lấy chỉ quấn chắc một đầu thành một cái lọn tóc. Vót nhọn một que tre, nhúng vào nhựa mít, rồi nó cắm vào lọn tóc. Nhựa mít khô đi cũng chắc ra phết. Thế là nó có một cái chổi, chả khác gì cái chổi quét sân thu nhỏ, được cái cũng khá "suôn và mềm mượt".

Như đã hẹn, hôm đi thi, anh Thiêm, chị Mỵ, chị Dịu rẽ qua đón nó. Bốn người cùng đạp xe, đèo nhau ra Hà Nội. Cả bốn anh chị em tới trường cùng nộp hồ sơ, làm thủ tục một lúc.

Sau khi làm thủ tục xong, anh Thiêm đèo nó, hỏi thăm đường về nhà chị Dụng (chị hai nó) ở 155 Bùi Thị Xuân. Đó là vào năm 1971.

Nhắc đến nhà Chị Dụng, cũng cần nói thêm là trước đó, anh chị ở nhờ tại gác hai nhà "Cơm Tám Giò Chả" phố Huế. Khoảng năm 1969, anh chị mới được phân một phòng ở số 49 Hàng Thiếc. Nhà số 49 Hàng Thiếc nguyên là nhà của ông chủ hiệu sơn Tô Châu. Trong "cuộc cải tạo tư bản tư doanh", ông đã "tự nguyện hiến" nhà cho Nhà Nước, "vui vẻ" rút lên tầng hai để "nhường" tầng một cho người khác. Cái tầng một ấy được chia cho mấy hộ. Anh chị Dụng được phân một phòng cỡ chừng trên ba chục mét vuông ở tầng một. Bẩy người gồm anh rể, chị gái, năm đứa cháu nhồi nhét trong căn phòng chỉ có ba mươi lăm mét vuông.

Anh Bính nó làm ở Sở Thương Nghiệp Hà Nội, chưa có chỗ ở, đến ở nhờ tạm là tám người. Gian phòng này trước là phòng ăn của gia đình ông Tô Châu, phía trần trên để hổng một khoảng 2x3mét để lấy ánh sáng trời từ trên mái. Xung quanh khoảng trống đó, trên tầng hai có lan can và hành lang bao quanh. Mọi người đi lại trên tầng hai có thể nhìn thấy hết gian phòng của anh chị nên rất bất tiện. Nhưng biết làm sao được, đang đi ở nhờ, bây giờ được phân nhà, thế là sướng lắm rồi. Cũng may là cái khoảng hổng đó ở giữa, cho nên kê giường ở hai đầu phòng rồi kéo ri đô vào, vẫn coi như kín đáo.

Chị Dụng đã xin được vào làm nhân viên Cửa Hàng Ăn Uống phố Huế. Anh Bính (anh trai nó) sau khi học đại học tại chức ra, làm việc ở Nhà Máy Nhựa Hà Nội. Ngoài giờ làm, để kiếm thêm, anh nó xin được cho chị nó được dán vỏ hộp giầy dép, hộp đựng đèn bão, phích nước, túi đựng đường. Cả nhà nó cùng tham gia dán. Vào dịp nghỉ hè, nó ra chơi, cũng tham gia vào việc làm thêm này. Khi dán được đủ số hộp, hàng được xếp lên xe bò chở đến nhà máy. Nó và cháu Tuyết Văn đẩy xe đi trả hàng mấy lần. Có lần gặp các bạn chị Dụng, ai cũng tưởng là con lớn của chị. Mấy người cứ xoa đầu khen ngoan. Hết giai đoạn dán hộp, chị nó lại nhận đi bán cam định mức cho cửa hàng. Chị nhận một xe đẩy đầy cam, mang về phân loại. Hàng tốt thì chở đi bán rong trên phố, hàng dập nát hay thối hỏng thì để ở nhà, mọi người chọn chỗ nào còn ăn được thì ăn, không ăn được thì mang đi đổ. Nó cũng từng đẩy xe đi bán cam với chị nó nhiều lần.

Căn phòng ở 49 hàng thiếc đó, anh Bính nó cũng có một phần được hưởng vì anh cũng là cán bộ công nhân viên trong Sở Thương Nghiệp Hà Nội. Ở đó được ít lâu, phần thì do bất tiện, phần thì anh Bính là kỹ sư, lại đep trai, đang chê vợ, nhiều cô gái đẹp đang theo bám, anh Bính muốn tự do đỡ phiền chị. Do đó hai chị em bàn nhau "hỏa hồng" lại căn phòng cho người khác. Số tiền hỏa hồng được chia làm ba. anh Bính một phần, vợ chồng chị Dụng hai phần. Anh Bính thêm tiền mua căn phòng tám mét vuông ở Phùng Hưng.

Ở Phùng Hưng được ít lâu thì anh Bính bị đau mắt đỏ rất nặng, tưởng có thể hỏng mắt. Nhân cơ hội này, thày bu nó giục chị Mây vợ anh ra chăm anh. Chị mua nhiều gấc chín và đồ ăn bổ mắt cho chồng và chăm sóc cẩn thận nên hơn 1 tháng sau thì anh khỏi mắt. Chị ra về mang theo cái mầm mới, để tám tháng sau sinh ra thằng Hưng cháu nó.

Anh chị Dụng thì mua được một gian phòng mười sáu mét vuông, tầng một của một căn biệt thự Pháp cũ, ở trong ngõ 155 Bùi Thị Xuân. Lúc nó đi thi vào trường Mỹ Thuật năm 1971 thì nó đến ở nhờ anh chị tại đây. Khi nó tới nơi thì chị Dụng nó đã sinh thằng út, không biết nó đi học vẽ ở Sặt đã lấy tên Dũng nên chị đặt tên thằng cu là Dũng, khai sinh đàng hoàng. Thế là nó "mất trắng" cái tên Dũng.

  Sáng sớm hôm nó đi thi, anh chị Dụng và anh Bính đều bận đi làm, không ai đưa nó đi thi được. Anh Bính cho nó 2 chiếc "tem lương thực", mỗi cái 225 gam. Nó đành đi bộ, vừa đi vừa hỏi thăm đến phố Yết Kiêu, số nhà 42. Lòng vòng thế nào nó lại đi theo đường Nam Bộ (bây giờ là đường Lê Duẩn), tới ga Hàng Cỏ. Đến trước cửa ga, tại góc đường Trần Hưng Đạo, có cửa hàng ăn uống mậu dịch quốc doanh. Nó vào cửa hàng đưa hai cái tem 225 gam và ba hào cho chị bán hàng. Nó mua được một bát mỳ sợi không người lái (không có thịt) và đổi được 2 cái bánh mỳ sừng bò. Hai cái "sừng bò" nó để giành cho bữa trưa, còn bát mỳ thì nó chén luôn. Nó ăn ngon lành, một mình một bát mỳ, mà không bị ai gạ xin. Thật là sung sướng quá, đã đời thật !

Khi nó tới được sân trường, đã thấy các bạn ở khắp các miền quê tập trung về trường rất đông, khoảng 600 thí sinh. Đa số các bạn được người nhà đưa đến tận nơi. Trong số đó, có cả các bạn miền Nam tập kết ra Bắc cũng đến thi. Các bạn ở thành phố, thị xã và đặc biệt là ở Hà Nội trông oách lắm, nhìn là biết ngay. Bố mẹ các bạn ấy ăn mặc sang trọng, có người đưa con đi bằng xe máy Pơ Giô (Peugeot – của Pháp), Sim Sơn (SimSon Spark – của Đông Đức), xe đạp loại đắt tiền Pơ Giô, Sterling (của Pháp), xoàng nhất cũng là xe Pha Vo Rit (Favorite – xe Tiệp) hay Phượng Hoàng cánh chả (xe Trung Quốc, màu xanh cánh chả). Các bạn ấy thì khỏi nói, ai ăn mặc cũng đẹp. Bạn nào cũng rất tự tin, cười đùa vui vẻ như ở nhà. Không ai sợ sệt, rụt rè, tự ti như nó. Họa phẩm và dụng cụ các bạn mang theo toàn đồ quý, đắt tiền. Nào là bút lông, bột mầu đóng hộp, màu nước, bút chì, tẩy, bảng vẽ, nhãn hiệu toàn chữ Tây, đồ quý mà nó chưa được nhìn thấy bao giờ chứ đừng nói đến chuyện đã từng ao ước. Về sau này nó được biết được cụm từ "nhà quê ra tỉnh" thì đúng là hình ảnh của nó lúc bấy giờ.

Lúc tập trung học sinh trong sân trường, tình cờ nó ngồi cạnh một bạn miền Nam, người Quy Nhơn tập kết ra Bắc ở Hải Phòng. Đó là bạn Nguyễn Sơn Hồng, mà sau này qua bao nhiêu thăng trầm cuộc sống, vẫn là người bạn thân của nó. Sau khi phổ biến quy chế thi, nó được xếp đúng vào phòng thi cùng Sơn Hồng.

Ngày đầu tiên là ngày thi năng khiếu. Buổi sáng thi vẽ hình họa, chiều thi vẽ trang trí. Nó vẫn nhớ bài thi hình họa là bài vẽ tĩnh vật gồm một viên gạch cũ để trên một chiếc ghế đẩu có phủ khăn mầu xanh đậm, bên cạnh viên gạch là một cái chai, một quả bưởi, và một khối hình trụ. Yêu cầu thể hiện bằng vẽ chì, với thời gian bốn tiếng. Nó vừa vẽ vừa thỉnh thoảng liếc qua bài các bạn. Dần dần nó cảm thấy yên tâm và có phần tự tin vì bài của nó cũng không đến nỗi nào. Hết giờ thi hình họa thì cũng là đến trưa. Bọn nó nghỉ trưa và tản ra sân trường.

Trường nó là một khu nhà lớn được xây trên thửa đất rộng chắc phải tới vài mẫu. Trường xây đã lâu theo kiến trúc Pháp, cổ kính nhưng đường bệ và đầy ánh sáng. Giữa trường là khoảng sân rộng với các cây đại thụ um tùm. Ẩn dưới tán cây là các ghế đá, đây đó có vài chuồng nuôi chim, nuôi thú rộng chừng bốn mét vuông, có mái che. Hai bên lối đi từ cổng vào là hai hàng tượng đá được chép lại từ nhũng tác phẩm điêu khắc vĩ đại của các nghệ sỹ thời phục hưng. Bên trái cổng vào là khu nhà một tầng, xây rất cao, dài và rộng, mái lợp tôn, trần tóc xi, mặt tiền ngôi nhà đều bằng kính. Bên phải cũng là một dẫy nhà cấp bốn rất khang trang bề thế, đó là nhà làm việc của ban giám hiệu, của các thầy và các phòng ban. Ở giũa là khu giảng đường lớn 3 tầng cao lừng lững, xung quanh toàn kính lấy ánh sáng cho học sinh vẽ. Sâu vào phía trong bên trái là dãy nhà chạy dài chia làm nhiều gian, một số phòng dùng cho học sinh học. Hai đầu hồi dành ít phòng cho gia đình giáo viên. Phía bên phải là dãy nhà dài, trong nhà kê các giường hai tầng bằng sắt. Đây là ký túc xá cho các học sinh tỉnh xa về ở. Nói chung toàn bộ ngôi trường là một quần thể kiến trúc bề thế, sang trọng và mang đầy dấu ấn nghệ thuật.

Được nghỉ trưa, nó cùng Sơn Hồng, chị Mỳ, chị Dịu, anh Thiêm kéo nhau ra một gốc cây mát nhất, có ghế đá. Hai mảnh áo mưa được trải xuống thảm cỏ, mỗi người đều bỏ đồ ăn ra ăn chung. Mỗi người một thứ, bánh mỳ, cơm nắm, bánh đúc, bánh cuốn, v v . . . . Mấy anh chị em vui vẻ tự nhiên ăn uống rất ngon và nhanh gọn. Trong khi đó, các bạn "người ở tỉnh" được bố mẹ tiếp tế đưa qua hàng rào rất nhiều đồ ăn ngon. Chúng cũng lập thành nhóm và cùng ăn với nhau. 

   Buổi chiều thi trang trí với đề tài "Anh hay chị hãy vẽ một cảnh sinh hoạt mùa hè mà anh chị thích". Chà ! Cái này hay đây. Trong đầu nó hiện lên những hình ảnh quen thuộc của quê hương. Thế là nó quyết định vẽ cảnh con trâu nhà nó đang nằm nghỉ nhai cỏ ở dưới gốc bàng. Bên cạnh đó có 3 bác nông dân dừng gánh, dừng cày ngồi nghỉ. Một bác đang hút thuốc lào, hai bác dùng nón quạt và nói chuyện vui vẻ. Rồi nó vẽ thêm một thằng bé con đang bốc cỏ cho trâu ăn. Thằng bé con cho con trâu nhà nó ăn cỏ thì còn ai vào đây nữa . . . !?

Nhà trường đã thông báo mỗi tỉnh chỉ tuyển một đến hai thí sinh. Trong đó sẽ có xuất ưu tiên cho con thương binh, liệt sỹ và gia đình có công cách mạng. Sau khi có kết quả chấm thi, nhà trường sẽ gửi giấy gọi đến địa chỉ của thí sinh theo đường bưu điện. Thời gian đó, kể từ ngày 1/11/1968, Mỹ ngừng ném bom miền Bắc nên nếu thí sinh nào ở xa nhất thì cũng chỉ 15 ngày sau sẽ nhận được giấy báo.

Thi xong, nó ra Bến Nứa (bến xe khách phía Bắc, ở đầu cầu Long Biên) đi xe hàng về quê. Trong những ngày chờ đợi, nó rất lo, vì tỉnh nó có mười người thi, lại có xuất ưu tiên nữa. Còn nó, không khéo lại còn bị "phản ưu tiên" do thành phần gia đình bị quy trong cải cách ruộng đất. Thấp thỏm chờ đợi, nó đếm từng ngày, từng ngày trôi qua.

Đã hai mươi ngày mà nó không nhận được giấy báo, cũng chả có tin tức gì khác. Biết là mình bị trượt, nó rất buồn. Nhưng rồi nó cũng cố lên trường hỏi cho chính xác may ra mới yên tâm. Thôi thì nhân thể lên Hà Nội mua một ít giấy bút, bột màu về nhà luyện thêm để sang năm thi lại. Hơn nữa, đang buồn nên nó muốn lên nhà anh chị chơi cho khuây khỏa. Thày bu nó cho nó ít tiền. Thế là nó bắt xe hàng lên Hà Nội.

Tới nhà chị Dụng buổi sáng thì buổi chiều nó phi ngay vào trường. Tới nơi, nó thấy các bạn được báo đỗ đã đến tựu trường khá đông đủ, trong đó có cả Sơn Hồng. Tưởng nó cũng tựu trường, Sơn Hồng ngạc nhiên hỏi :

- Chăn màn quần áo của mày đâu ?
- Tao có đỗ đâu mà mang.
- Ơ . . . ! Mày có tên trong danh sách đỗ mà. Ra bảng tin mà xem ! – Thằng Hồng cự lại.

Bán tín bán nghi, nó chạy ngay ra bảng tin. Nó cứ nhìn chăm chăm vào cái danh sách, dường như không tin vào mắt mình, nhưng nó thấy tên nó rõ ràng ở đó. Nó mừng lắm nhưng rất thắc mắc, tại sao nó không có giấy báo. Thằng Hồng bảo nó :

- Mày vào Phòng Tổ Chức hỏi lại xem thế nào !

Nó liền vào phòng tổ chức gặp ông Thanh Thai trưởng phòng. Đó là một ông già nhỏ bé, gày còm, mắt đeo kính cận, trông có vẻ khó tính. Nó lễ phép hỏi :

- Chú ơi ! Cháu có tên trong danh sách đỗ sao không có giấy báo về quê ạ ?

Ông Thai ngước cặp kính lên nhìn nó, nét mặt quặu cọ, giọng cáu bẳn :

- Không có giấy báo, tức là không đỗ ! Còn hỏi . . . hỏi cái gì ! !
- Chú ơi ! Ở trên bảng tin, cháu thấy có tên cháu trúng tuyển mà.
- Đi mà hỏi người đánh máy, người ta đánh nhầm. Tôi không biết. - Ông Thai quát lên.

Nó sợ quá, đành cun cút cúi đầu bước ra khỏi phòng. Trong lòng buồn bã, nó lủi thủi ra về.

Những ngày này là những ngày cuối tháng 8/1971, đang có trận lụt lớn chưa từng có ở đồng bằng sông Hồng (Về sau này, được biết, đây là trận lụt lớn nhất thế kỷ 20, theo đánh giá của cơ quan khí tượng Hoa Kỳ, vỡ đê sông Hồng, làm trên một trăm ngàn người thiệt mạng). Nhìn qua cửa kính, nó thấy hai bên đường là những cánh đồng mênh mông ngập nước. Trên xe, nó cũng nghe xôn xao tin mới vỡ đê ở Văn Giang và các vùng lân cận. Quả thật, nước rất lớn, nhiều đoạn đường Năm nước đang tràn qua. Có đoạn đường chũng, có lẽ nước ngập đến lưng chừng xe. Chiếc xe cứ lao bừa xuống, rẽ nước mà xông lên.

   Về đến bến xe phố nó, nó chen ra cửa bước xuống thì bất ngờ thấy anh Phương (anh rể nó), chị Thất và thầy nó đang đứng trước cửa nhà chờ đón nó, cách chỗ xe đỗ mấy chục mét. Thầy nó đang cuống quýt, tay giơ một tờ giấy, gọi to :

- Thập ơi . . . , đỗ rồi ! Thập ơi . . . , đỗ rồi !

Mừng quá, trong lòng xúc động, chỉ trực khóc, nó lao vút tới nhà, đón lấy phong bì từ tay thày, nó run run mở ra. Tờ giấy báo trúng tyển với dấu son đỏ tươi đã làm thay đổi đời nó, mở ra một chân trời mới mà nó hằng khao khát, ước mơ. Nó thấy mình hạnh phúc, tất cả cứ tưng tưng ở trong lòng. Quên cả thả cá vàng, nhờ chị Thất đổ tạm vào chậu, nó lao vào phòng văn hóa huyện để khoe với anh Huyền. Anh Huyền cũng rất mừng. Anh đưa tay bắt tay nó, lắc mạnh. Lần đầu tiên nó được bắt người lớn bắt tay như vậy, như người lớn . . .

Sở dĩ giấy báo đến muộn là vì bưu điện chuyển từ Hà Nội về bưu diện tỉnh, từ tỉnh lại vòng ngược lại về bưu điện huyện, từ huyện qua xã mới về tới nhà nó. Lúc đó thì khắp nơi trong tỉnh nó đều mênh mông nước ngập. Theo thời gian ghi trong giấy báo, chỉ còn hai ngày nữa là hết hạn làm thủ tục nhập học. Rất nhiều việc phải làm trong khi nước càng ngày càng dâng cao. Nó và cả gia đình hối hả lo chạy giấy tờ. Phải cắt hộ khẩu, phải xin giấy xác nhận của xã, . . .

Cả làng nó nước ngập mênh mông, riêng nhà nó ở giữa phố huyện, là nơi cao nhất nước chưa ngập tới. Bà con xung quanh chạy lụt kéo về đó rất đông, mang theo cả trâu bò, lợn gà, . . . Có người cột một con trâu to vào cây hồng dại. Cây hồng này của chú Tư cho ngày nào, nay đã bằng cổ chân, cao hơn hai mét. Đêm hôm đó, con trâu đói, nghển cổ ăn lá cây, cao quá nó không với được nên nó dùng sừng húc đổ gốc cây để ăn lá. Sáng ra bu nó trông thấy tiếc của và tức lắm. Hỏi mọi người quanh đó không ai nhận là trâu nhà mình. Bu nó cáu quá chửi ầm lên. Mãi chiều tối chủ trâu mới đến nhận. Hóa ra đó là trâu cúa gia đình ông trưởng công an huyện.

Nước ngập quá cao, việc lấy giấy và xin dấu của Ủy Ban xã rất khó vì ủy ban xã nghỉ làm việc. Chị dâu nó phải mượn một cái thuyền tôn. Chị nó kéo thuyền ra chỗ nước nông trên đường vào thôn Rừng để dậy nó chèo thuyền. Lúc đầu, nó chèo, chiếc thuyền cứ quay lông lốc. Mãi sau nó mới chèo được nhưng vì không biết bơi nên nó vẫn sợ. Anh Phương đành phải dùng thuyền chở nó đi. Anh cho nó ôm hồ sơ giấy tờ ngồi lên thuyền, rồi anh lội nước kéo thuyền đưa nó lên làng Vang xin chữ ký của ông Quyến, phó chủ tịch phụ trách văn xã. Sau đó anh em nó phải đi tiếp, xin chữ ký của ông tư Miện phó chủ tịch, trưởng công an xã. Cuối cùng, nó phải vòng lại nhà anh Hòa xin dấu và xin xác nhận nước lụt, chưa thể cắt được hộ khẩu. Đến hết ngày hẹn của trường nó vẫn phải tựu trường mà nợ chưa cắt được hộ khẩu.

  Mặc dù đang lụt rất lớn nó vẫn phải tìm mọi cách đến trường đúng hạn. Sau khi làm thủ tục nhập học nó được chỉ dẫn vào trong ký túc xá nhận chỗ. Nó chọn tầng hai của chiếc giường ngay cạnh cửa ra vào, mà tầng một là của Sơn Hồng.

Nói kỹ về lớp nó một chút. Vì là trường năng khiếu nên đầu vào chọn rất khắt khe. Mấy trăm thí sinh chỉ chọn được hơn chục đứa. Thêm mấy bạn đúp năm trước xuống, sỹ số lớp nó vẻn vẹn có 19 đứa, 6 nữ và 13 nam. Trong số 19 đứa ấy, chỉ có 3 bạn từ nông thôn lên. Đó là một bạn nữ tên Gái, thằng Hai và nó. 16 người còn lại đều là người Hà Nội, Hải Phòng, con các họa sỹ lớn có tên tuổi, được học hành rèn luyện từ bé trong các lớp hay câu lạc bộ năng khiếu của thiếu nhi. Tóm lại, lớp nó chủ yếu các bạn là "con nhà nòi".

Việc đầu tiên, sau khi chúng ổn định lớp, nhà trường cho cả lớp đào, đắp hầm trú ẩn, dọn vệ sinh nơi ăn ở, lớp học, . . . Năm thứ nhất chưa được vẽ người mẫu nên phòng học của chúng ở dãy phía sau, phía bên trái. Trước mặt lớp cũng có sân rộng, nhiều cây đại thụ các loại và những cây phi lao cao vút. Rải rác trong sân trường, trước các lớp học đâu đâu cũng thấy có những pho tượng to nhỏ ẩn hiện dưới gốc cây. Cạnh phòng học vẽ hình họa là phòng học trang trí. Gần khu ký túc xá, đối diện khu phòng học là nhà ăn tập thể.

Chúng nó phải học ngày hai buổi, vừa học chuyên môn, vừa học văn hóa chương trình cấp 3 như bình thường. Với môn học trang trí, chúng được phát mỗi đứa một hộp đựng mầu bột bằng gỗ dán. Giấy vở, bút chì thì được phát định kỳ đồng đều. Giá vẽ để sẵn trên lớp, dùng chung.

Những học sinh nội trú được ăn ngày 3 bữa. Bữa sáng là bột mỳ luộc, mầu nâu nhạt như cà phê sữa. Thứ này bọn sinh viên chúng nó vẫn gọi là "nắp hầm" (nắp hầm tăng xê hình tròn và mỏng) hoặc ngắn gọn là "bẻng". Trong miếng "nắp hầm" thỉnh thoảng thấy vài con mọt nâu đen béo mượt, đây đó còn có viên bột nhỏ chưa tan hết. Miếng "bẻng" hơi dai dai, nhưng nhai kỹ thì cũng thấy rất ngọt. Bữa trưa và bữa chiều được ăn cơm và thêm mỗi đứa một cái "bẻng" nữa. Bữa ăn rất đạm bạc, thức ăn đạm chẳng có gì đáng kể. Tóm lại, ăn uống kham khổ và hơi đói nhưng được cái đều đặn. "Nói khí không phải", vẫn còn ngon hơn bữa ăn của nhà nó ở quê.

Ở góc, trong cái xó sau cùng của trường là một đống các loại đồ phế thải gồm bàn ghế gẫy, sa lông hỏng, thùng sắt gỉ, hộp các tông rách, thủy tinh vỡ và trăm thứ bà dằn khác. Đặc biệt có một chiếc xe ô tô "đít vịt" của Pháp cũ đã bị tháo hết phụ tùng. Lúc rảnh nó chui vào đó bới đào, lục lọi tìm kiếm xem có cái gì còn dùng được, giống như ngày ở quê nó hay bới rác tìm pin đèn và giấy pơ luya vậy. Nó chui vào trong ô tô và phát hiện thấy trên nóc xe còn nguyên một lớp nỉ bọc trần màu huyết dụ, êm, mềm và xốp. Cái này mà lót vào hộp mầu thì tuyệt vời vì khi đậy nắp hộp, nỉ chèn chặt xuống các ô. Dù hộp màu rung lắc, lật ngược xuôi, bột mầu vẫn không bị lẫn lộn sang nhau. Nó khoái quá, lập túc lấy dao nhỏ bóc hết miếng nỉ ở chỗ phẳng phiu có thể dùng được. Mang về phòng, nó đo kích thước lòng trong nắp hộp, cắt được hơn chục miếng lót. Nó chia cho các bạn và chỉ giữ lại có hai miếng đẹp nhất. Thấy nhiều người trong lớp có miếng lót tốt quá, bạn gái Hiền Minh hỏi xin nó lúc nó đang ăn cơm ở nhà ăn. Nó hứa sẽ cho Hiền Minh một miếng. Về đến nhà thì thấy mất mất một miếng, không biết ai ăn trộm. Miếng còn lại nó đưa cho Minh để giữ đúng lời hứa. Nó đành ra xe, cắt nốt vài mảnh vụn đem về ghép lại làm hộp màu cho mình.

Không khí vui vẻ và say mê lắm. Hàng ngày ba bữa ăn bếp tập thể, sáng lên lớp học văn hóa, chiều học chuyên môn. Tối đến, cả lũ nội trú kéo nhau ra phố, ra ga Hàng Cỏ chơi. Chơi chán chúng nó mới quay về ký túc xá đi ngủ. Ngày ấy tuy đã lớn nhưng bọn chúng cũng vẫn chơi nghịch những trò trẻ con. Chúng sang hợp tác xã thủy tinh bên cạnh xin ống thủy tinh nhỏ, dài vài chục phân, đem về làm ống "xì đồng". Đạn thì đã có đất sét ở khoa điêu khắc. Đất được vo tròn làm đạn thổi bắn nhau trong ký túc. Hết đất ngại ra ngoài lấy thêm thì đã có ruột bánh mỳ hay bánh "nắp hầm". Những giờ nghỉ, bắn nhau "loạn xị ngậu", rất vui.

Nhớ lại một chuyện, đó là đêm đầu tiên nó ở ký túc xá. Buổi tối nó đi tiểu, bỗng giật mình toát mồ hôi lạnh, khi nó bất giác ngẩng lên nhìn thấy một người to lù lù, đen xì, đứng sừng sững đang giơ búa đập nó. Nó hoảng hốt chạy tụt vào phòng. Sáng hôm sau nhìn ra mới biết đó là pho tượng công nhân cầm búa.

Nhưng nó vẫn không biết cái đêm đó chính là điềm báo một tai họa búa bổ sắp giáng xuống đầu nó !!!

  Mùa đông năm ấy, cả lớp bật đèn tập vẽ màu trang trí ban đêm. Thằng Khải "chuột" đúp lớp trên xuống là thằng nghịch ngợm, dí dỏm và vui tính nhất lớp. Nó và mấy đứa đem đặt cái chậu nước rửa bút lên trên hai cánh cửa khép hờ thành hình "chữ v". Hễ đứa nào từ ngoài vào mở cửa, sẽ bị nước bẩn đổ lên đầu. Cả hội vừa vẽ vừa ngong ngóng ra cánh cửa chờ chuyện vui. Bỗng nghe tiếng bước chân đi lại gần cửa. Chúng nó ngừng hết cả lại, chẩn bị để cười phá lên, có đứa phải bịt miệng lại để nhịn cười. Cánh cửa bật mở, chậu nước bẩn đổ ụp xuống. Vang lên đồng thanh một tiếng reo sung sướng của cả phòng : "Ôh . . .". Tiếng reo đột ngột câm lặng như tiếng loa trong hội trường bất ngờ bị mất điện. Người bị nước bẩn đổ ụp lên đầu, ướt hết từ đầu, đến bộ vét và cả đôi giầy đánh xi bóng loáng. Đó là thầy giáo chúng nó xuống kiểm tra lớp. Vụ này suýt làm thằng Khải bị kỷ luật, may mà thầy tha cho.

Nó cũng chơi thân với thằng Đức Bình, con thày Trọng Ly, là thầy giáo của trường. Buổi trưa nó thường không ngủ mà vào nhà thằng Bình chơi. Nhà thằng Bình là một gian ở tầng một, gần cầu thang lối lên nhà ba tầng của giảng đường chính. Thằng Bình và nó hay lấy đất sét nặn tượng theo ý riêng. Cả hai đứa đều mê mải làm việc, vô cùng thích thú. Sau này thằng Bình trở thành họa sỹ tài năng và làm giáo viên nổi tiếng trong trường, một thầy giáo trắng trẻo, đẹp trai, hiền hậu và vẽ rất "siêu".

Nó mới học chưa đầy năm tháng thì bị "búa tạ giáng xuống đầu" đúng như điềm báo trước trong cái đêm đầu tiên nhập trường. Nếu người công nhân giương búa lên để đập vào sắt thép thì anh ta là thợ rèn. Đằng này nó bị một loại "thợ chuyên môn nện búa lên đầu người". Đó là trưởng phòng tổ chức nhà trường và trưởng công an huyện.

Một hôm nó được phòng tổ chức gọi lên yêu cầu nó phải cắt và chuyển hộ khẩu về trường trong thời hạn mười ngày, nếu không nó sẽ bị buộc thôi học. Nó hoảng hồn và lo lắm. Xin phép nghỉ hai ngày, nó về quê lo thủ tục cắt hộ khẩu. Ông tư Miện trưởng công an xã bảo nó lên gặp ông Quỳ, trưởng công an huyện. Ông Quỳ bảo nó :

- Anh về trường xin công văn của nhà trường xác nhận anh là học sinh đã trúng tuyển và học tại trường. Phải ghi rõ, đề nghị địa phương giúp đỡ . . . .

Nó lộn về trường gặp ông Thanh Thai. Lần này ông Thai không quát tháo mà nhẹ nhàng nói rỉ rả một cách tỉnh queo rất nhiều lời để rồi rút cục ông dứt khoát không làm công văn và cũng dứt khoát không cho nó mượn lại cái giấy gọi nhập học :

- Anh muốn làm thế nào thì làm, không có hộ khẩu, dứt khoát tôi đuổi anh khỏi trường.

Không có cách nào khác, nó lại bổ về công an huyện. Nó lựa lời nói hết "lý do lý trấu", năn nỉ "xin xỏ" đủ kiểu với ông Quỳ, rơi cả nước mắt. Nhưng mặt ông này vẫn lạnh tanh, không biến sắc. Ông ta nói :

- Không có công văn của trường, không thể cắt hộ khẩu. Dứt khoát không là không ! Biết chưa ! Được chưa . . .Được chưa . . .

Câu "Biết chưa . . . Được chưa . . ." đay đi đay lại thể hiện cho nó biết "Tao trả thù nhà mày đấy ! Biết chưa . . ., được chưa . . .".

Bước đường cùng nó quay về công an xã thì xã lại không có thẩm quyền cắt hộ khẩu. Nhùng nhằng nó chạy đi chạy lại kêu cầu từ xã lên huyện, rồi từ huyện về xã không biết bao nhiêu lần. Một thằng bé chưa đầy mười sáu tuổi như nó cứ chạy đi chạy lại chẳng qua là nó không biết phải làm gì khác chứ chả phải có hy vọng gì.

Bố mẹ nó nghèo, ít học, lại ở quê, thấp cổ bé họng. Anh chị nó mang tiếng có hai người ở Hà Nội thì thờ ơ, không quan tâm. Những người ở quê phần thì kém hiểu biết, phần thì lo miếng cơm manh áo, phần thì nghĩ đó là việc của người khác. Thân cô thế cô, hết cái hạn mười ngày, nó đành "cắp nón" rời khỏi trường trong nước mắt và sự tiễn đưa cười cợt của các bạn cùng lớp. Với các bạn ấy, một cá nhân nó có là gì. Có nó cũng được mà vắng nó các bạn vẫn vui. Chỉ có một mình nó là đau đớn, hận đời đến lúc chết. Nó nguyền rủa những kẻ vô tâm, những người vô cảm và những phần hồn ác quỷ mang bộ mặt con người, đã cướp đi của nó lòng tin, sự đam mê và một tương lai tốt đẹp.

Trong buổi học cuối cùng, nó chào các bạn và thày cô. Thằng Khải "chuột" đứng lên xin hát một bài. Nó hí hửng vì mọi người nhớ nó, đồng cảm và thương nó. Nhưng nó đã lầm, thằng Khải hát rống lên :

- Thập ơi Thập ở đừng về . . . .

Rồi thằng Khải cười hô hố. Cả lớp nó hùa theo, cùng cười vang . . . .

Nó ra khỏi lớp trong tiếng cười chua cay bẽ bàng đó. Không ai an ủi, không ai đưa tiễn nó, kể cả Sơn Hồng. Vừa uất ức, vừa cô độc, chỉ còn có thể biết tự thương cho thân mình, nó lủi thủi lầm lũi bước ra bến xe, nước mắt lưng tròng . .

  Thằng Thập bị đuổi vì không cắt được hộ khẩu. Nó không biết tại sao lý do lại có thể đơn giản như vậy. Ở quê, Lão Quỳ không cắt hộ khẩu cho nó vì ghen ăn tức ở với gia đình nó có con học ở Hà Nội, lại thêm mối thù bị bu nó chửi vì con trâu phá đổ cây hồng dại ngày nào. Nó chỉ biết oán hận những kẻ có chức có quyền mà vô tâm, vô cảm, ác quỷ mang bộ mặt con người. Cũng không phải là nó không có phần giận gia đình nó, không ai lo chạy để giúp nó. Nhưng có lẽ nó oán nhất là số phận hẩm hiu của nó, phải sinh ra trong kiếp nghèo hèn ở chốn quê mùa, thấp cổ bé họng. Nỗi oan khuất có kêu lên chỉ là tiếng giun, tiếng dế, "Trời chẳng thấu, Đất không hay . . . .".

Nhưng . . . !

Nhưng thằng Thập không biết, ngay sau khi nó rời khỏi lớp, ngày hôm sau đã có đứa thế chân nó. Đứa ấy có tên là Đậu Hồng Lệnh, con một gia đình trí thức ở Hà Nội và là cháu ông Thanh Thai, trưởng phòng tổ chức của trường Mỹ Thuật lúc đó. Thằng Lệnh cùng thi vào trường với nó một đợt mà bị trượt. Chờ cho lớp học của nó ổn định, ông Thai mới ra tay. Bởi vì nếu ông làm ngay thì có lẽ đứa bổ sung vào lớp thay chỗ thằng Thập chẳng thể là cháu ông. Làm nghề tổ chức bao nhiêu năm, một cái nghề rất "uy quyền", "đa mưu, túc trí" và "nghệ thuật", chuyện đuổi một đứa trẻ con nhà quê ra khỏi lớp thì quá đơn giản đối với ông Thai. Chưa biết chừng, để cho mọi việc thật kín kẽ, và chắc chắn một trăm phần trăm, ông Thai có thể đã về quê nó để "điều tra lý lịch học sinh", nhưng thực chất là liên kết với lão Quỳ, không cắt hộ khẩu cho nó ?!

Tất cả chuyện này, mãi về sau nó mới biết. Một lão là Quỳ, tức là "Quái" với một lão là Thai. Đúng là "Quái Thai". Với âm mưu thủ đoạn của lũ người đó, nó đã bị tước mất ước mơ và tuổi thơ vô tư trong sáng. Một chút tài năng mới chớm nở đã bị dập vùi và xéo nát.

Thằng Hồng Lệnh vào học thế chỗ nó, sau này còn được cha mẹ "lo" cho đi tu nghiệp ở Liên Xô. Lúc đó, đối với một ngành nghệ thuật, được đi Liên Xô là rất hiếm. Thằng Lệnh về làm cán bộ giảng dạy điện ảnh, rồi làm tiến sỹ, danh giá lắm. Bây giờ, bạn bè gặp nhau, thỉnh thoảng có đứa nói kháy chuyện xưa. Chắc thằng Lệnh cũng không vui . . .

   Trước khi nó đi học, hôm tiễn nó, thầy bu nó có làm mấy mâm cơm ăn mừng và mời bà con xóm làng. Mọi người tới chúc mừng thầy bu nó và nó nhiều lắm. Nay đang học dở chừng phải về, biết phân bua với bà con xóm làng ra sao ? Ai là người hiểu được các âm mưu thâm hiểm cả lũ người kia đã hãm hại nó. Người ta sẽ nghĩ và thì thào bàn tán, chắc hẳn nó bị kỷ luật, bị đuổi học. Nỗi đau đè lên nỗi đau, nỗi oan đè lên nỗi oan. Ôi cuộc đời ! Thật là khốn nạn !

Uất ức và tiêu cực, có lúc nó hận còn không muốn sống. Có lúc nó muốn làm điều gì đó để trả thù, . . . . Nhưng tuổi trẻ với nhịp sống trôi nhanh cùng với thời gian đã dần dần làm lành vết thương của nó. Rút cục, nó như quả bóng cao su vừa được ném vào đời, được vài người tung hứng, rồi vào chân ke xấu, nó bị sút trở lại vũng bùn. Đời nó trở về nguyên vẹn con số không, trở về nơi nó ra đi, trở về với chốn quê nghèo của nó.

Qua giai đoạn khủng hoảng nó dần bình tâm trở lại. Nó quyết định sẽ kiếm sống bằng chính khả năng của mình. Nó mở ống tiết kiệm, đếm được hơn 10 đồng. Cầm mấy đồng, nó quay trở lại Hà Nội mua giấy, màu bột và keo da trâu. Rồi nó dùng sổ tay thơ thẩn trên các cửa hàng tranh Bờ Hồ, bí mật chép lại một số mẫu mà nó yêu thích.

Về nhà nó bắt đầu chiến dịch vẽ "tranh Tết" và "tranh cưới". Lợi dụng nhà ở mặt phố huyện, nó chăng mấy sợi dây thép cao, thấp, ngang tường, ngay trước cửa nhà. Mỗi chủng loại tranh nó treo một bức làm mẫu. Tạm gọi cửa hàng của nó là "cửa hàng tranh Tết". Vì là phố huyện lại gần chợ, hơn nữa trừ Sặt ra, quanh khu vực không có "cửa hàng tranh Tết" nào. Đặc biệt là tranh cưới, nó vẽ sẵn cành đào, đôi chim bồ câu ngậm dải lụa, ở giữa có hai trái tim hồng đè lên nhau, góc trên cùng là chữ song hỷ. Khi có người đặt hàng, nó hỏi tên cô dâu chú rể rồi viết hai chữ cái lồng vào trong trái tim để trống đó và điền thêm ngày, tháng là xong.

Những ngày đầu không ai để ý, cửa hàng nó vắng teo, sáng treo ra, chiều thu vào, chẳng ma nào hỏi. Vài hôm sau, bắt đầu có người đến xem rồi mua nhưng cũng có người xem xong thì bỏ đi, vài ngày sau mới quay lại mua.

Nó bắt đầu bán được hàng, nhiều nhất là tranh cưới. Vào mùa cưới, tranh cưới bán rất chạy. Nhiều khi nó vẽ cả ngày cả đêm không hết việc và bắt đầu lỡ hẹn. Lập tức nó bắt chước các hiệu vẽ lớn, mua phim chụp phổi cũ bỏ đi, mang về trổ thành các khuôn in một loạt các hình định sẵn. Có khuôn, nó pha màu rồi dùng panh xô lớn (chổi quét sơn hay bút lông - pinceau – từ tiếng Pháp) cứ thế mà quét in nhiều bản một lúc, coi như phôi tranh được sản xuất hàng loạt, đại trà, rất hiệu quả. Cuối cùng nó chỉ còn phải chấm phá hoặc vờn nền vào những làn chuyển màu không in thẳng bằng khuôn được.

Công việc làm ăn của nó ngày càng phát triển. Nó dựng một cái vách nứa đằng sau gian máy khâu của thày nó, treo tranh cả ngoài cửa lẫn trong nhà. Nó đã trở thành ông chủ thực thụ của một cửa hàng "tranh bờ hồ" khá lớn. Tiếng tăm đồn đại về một cửa hàng tranh vẽ đẹp lan dần khắp khu vực quanh đó. Nhiều người bảo nó là "họa sỹ giỏi". Nghe vậy nó cũng chẳng sung sướng gì nhưng cũng mừng vì một công việc làm ăn đã thành công.

Vợ cả, vợ hai - đều là vợ cả

Ở Hà Nội anh Bính nó ngày càng béo khỏe, đẹp trai, mà bây giờ gọi là "phong độ". Nhiều cô mê anh lắm, mà toàn là những cô xinh. Kể ra thì rất nhiều, nhưng anh nó nặng tình nhất, đầu tiên là chị Tấn, người Tân Đảo (Nouvelle-Calédonie, trước đây là thuộc địa của Pháp) gốc Việt. Theo lời kêu gọi của Nhà Nước, cả gia đình chị về nước. Bấy giờ chị Tấn mới tốt nghiệp đại học, chưa chồng. Chị có dáng người đẹp, dong dỏng cao, tóc dày, da trắng. Anh chị yêu nhau một thời gian khá dài. Thỉnh thoảng nó ra Hà Nội chơi được anh chị cho đi ăn kem ở Thủy Tạ (Thủy Tọa), đi xem phim ở rạp Tháng Tám. Thế mà chẳng biết vì lý do gì anh chị lại thôi nhau.

Sau đó, anh Bính lại sang yêu chị Liễu hay chị Phượng gì đó. Nghe phong thanh, anh có với chị một cô con gái. Hôm giỗ đầu chị (một năm gần đây), anh rủ nó tới ăn giỗ ở nhà con gái chị. Đó là một ngôi nhà 4 tầng khang trang nằm ở phố Bạch Mai, tầng một cho thuê "chăn ga gối đệm". Hôm đó không gặp chồng chị vì anh ấy đang đi nước ngoài.

Người cuối cùng anh nó yêu nhất là chị Gấm. Chị Gấm là cán bộ trong trường Đại Học Thủy Lợi Hà Nội. Đã vài lần anh Bính đưa nó đến chơi nhà chị. Chị Gấm người tầm thước, nhưng các nét chị rất xinh, da trắng, miệng nhỏ hình trái tim, nói năng dịu dàng, có học. Quê chị cũng ở gần quê nó. Chị Gấm đã từng qua một đời chồng và có hai đứa con riêng. Anh Bính quyết định lấy chị Gấm làm vợ hai. Nhà ở Phùng Hưng đâm ra chật, nên anh phải bán đi và mua một gian trên tầng hai, số 25 Trần Cao Vân. Gian nhà rộng hơn hai mươi mét vuông, lại có sân thượng. Anh Bính làm thêm một gian buồng trên sân thượng, một cái thang gỗ từ tầng hai leo lên đó qua lỗ trần. Anh còn để một khoảng sân nhỏ, trồng hoa và nuôi chim bồ câu rất đẹp.

Chiều tối 29 tết Nhâm Tí (năm 1971 sang 1972) nó vừa dọn xong hàng, kéo cánh liếp che cửa chính, lùa các tấm ván vào cửa hàng may của thày nó, gia đình chuẩn bị ăn cơm tối thì thấy anh anh Bính đèo chị Gấm về trên chiếc xe đạp Đi-A-Măng (Diamant), mang một cành hoa đào và một bó hoa huệ. Cả nhà reo lên vui mừng. Chị Gấm cởi cái áo mưa ướt sũng nước rồi bước vào nhà, thẽ thọt chào thày bu nó. Thấy chị Mây (vợ cả của anh Bính) đang dọn cơm, bu nó liền bảo :

- Chị Mây để đấy cho em nó dọn mâm. Chị xuống đun nước sôi cho anh ấy rửa mặt, thịt con gà và thổi thêm cơm nha.

Chị Mây tức lắm nhưng nén nhịn. Chị đáp ánh mắt hằn học nhìn tình địch ăn mặc sang trọng, vác cái bụng bầu to tướng đang xếp bánh kẹo ra bàn để biếu bố mẹ thắp hương. Chị lầm lũi cầm đèn hoa kỳ đi xuống nhà nhóm bếp. Nó thương chị Mây liền đi theo xuống phụ giúp chị bắt gà, cắt tiết, làm lông. Vừa làm nó vừa đưa mắt nhìn trộm chị Mây. Dưới cái khăn mỏ quạ là khuôn mặt tròn trịa của chị với đôi mắt ầng ậc nước. Chị cắm cúi làm, mặc cho đôi dòng nước mắt cứ thế trào ra, lâu lâu chị mới đưa tay lên quẹt ngang qua mặt để lau nước mắt, thỉnh thoảng lại sỷ mũi đánh xoẹt một cái . . . .

Thịt gà đã luộc xong, bàn thờ nghi ngút khói hương, mâm ngũ quả đã đầy thêm do bánh kẹo anh chị nó mang về, cành đào và bó huệ đã được cắm trang trọng vào hai lọ hai đầu ban thờ. Cả nhà vào bữa cơm đoàn tụ cuối năm.

Trong bữa ăn, thầy bu và anh nó nói chuyện về công việc, về Tết và về họ hàng. Chị Gấm thì ngồi bên bu nó ăn nhỏ nhẹ, chị Mây thì vẫn ngồi đầu nồi xới cơm cho mọi người, nhưng nó thấy chị ăn rất ể oải. Thằng Hoàng cháu nó mới 8 tuổi, thằng Hưng 2 tuổi chẳng biết gì cứ hối hả ăn và tí tởn với khúc bánh mỳ và bộ quần áo tết bố mua cho.

Ăn xong thầy nó lôi ở gậm giường ra cái giường gỗ xoan mới đóng trước Tết, kê vào sau tấm vách nứa chỗ nó treo tranh, gần lối cửa ra vào xuống nhà sau. Tối hôm đó chị Gấm ngủ với bu nó trên cái giường mới. Đầu nhà đối diện, anh Bính ngủ với chị Mây và thằng Hưng. Nó và thằng Hoàng thì ngủ với thầy trên cái phản giữa. Mọi người nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Một đêm đông mưa gió và rét nhưng cả nhà đoàn tụ rất ấm cúng.

Nó chẳng thể ngờ nửa đêm hôm đó lại xảy ra một chuyện mà nó sẽ nhớ mãi.

  Nửa đêm, đang ngủ ngon, nó bỗng giật mình tỉnh dậy vì nghe tiếng bu nó gọi :

- Thằng Thập đâu, Thập ơi ! Dạy u nhờ một tý.

Mắt nhắm mắt mở, nó thò đầu ra khỏi chăn :

- Bu bảo gì con ạ !
- Dậy ! Sang đây bu nhờ một tý.

Nó chồm dậy, sỏ tạm đôi dép to tướng, nặng trịch của thầy, khoác thêm cái áo rồi sang chỗ giường bu nó. Nó vạch màn ra thì thấy chị Gấm đang tựa người vào tường, miệng rên hư hử . . . , bên cạnh chị là bu nó. Bu nó khẽ nói :

- Con sang giường bên kia gọi anh Bính dậy, bảo chị Gấm bị đau bụng.

Vâng lời bu, nó chạy ngay sang bên giường của anh Bính. Lẽ ra, ý tứ, nó phải đứng ngoài màn mà gọi, đằng này nó tồng tộc vén ngay màn lên. Khi cái màn vải xô màu cháo lòng vừa mở ra, ánh sáng mờ ảo trên bàn thờ hắt xuống, đập vào mắt nó là cảnh tượng chị Mây nằm nghiêng quay mặt ra ngoài anh nó nằm úp thìa phía sau đang quờ tay qua ngực chị . . . . Thằng Hưng thì nằm phía trong đang ngủ ngon lành. Ngượng quá, nó thả màn trở lại và gọi :

- Anh Bính ơi ! Bu bảo anh dậy ngay. Chị Gấm đang đau bụng.

Lục cục một lúc anh Bính mới qua được chỗ chị Gấm, chắc là anh còn phải mặc quần áo mà. Nó nghe tiếng anh thì thào với chị Gấm, rất ân cần. Rồi anh vặn to ngọn đèn dầu, mở túi du lịch lấy hộp dầu cao Sao Vàng, xoa bụng cho chị.

Cảnh tượng ấy hẳn không lọt qua mắt chị Mây. Sự chịu đựng của chị đã vượt quá giới hạn. Chị bật dậy, tung màn, nhảy xổ sang giường bên kia, xỉa xói chửi :

- Tổ sư con đĩ ! Mày cướp chồng bà. Hôm nay mày còn dám dẫn xác về đây. Nể bố mẹ, nể chồng,
bà đã nghiến răng phục vụ cơm nước cho mày. Mày đã không chào bà, bà cũng không thèm đếm
xỉa rồi. Thế mà, mày được đằng chân lân đằng đầu. Thấy chồng bà ngủ với bà, mày ghen ngược hả ?!
Mày giả vờ đau bụng hả ?! Mày thích đau thì bà cho mày đau luôn một thể này . . . . !!

Vừa nói, chị Mây vừa nhảy bổ vào chị Gấm, hai tay đang cào cấu để túm tóc chị Gấm. May mà nó kịp giữ chặt chị Mây, ngăn lại. Mặt cắt không còn giọt máu, chị Gấm len lét nép sát vào chồng.

Thầy nó thức dậy, vặn to đèn và thở dài. Ông chẳng biết làm thế nào và cũng chẳng biết phải nói gì. Nhưng ngay lập tức, bu nó lên tiếng bênh con trai :

- À, chị này giỏi ! Ngày Tư ngày Tết chị định làm loạn nhà tôi lên đấy phỏng ?! Có im đi ngay không !! Chị mà tru lên, tôi vả cho chị mấy cái ngay bây giờ !!

Chị Mây gào lên :

- Con không dám hỗn. Là cha là mẹ muốn đánh con, con chịu. Nhưng hôm nay xin phép tổ tiên,
xin phép thầy bu, con phải xé xác con đĩ này để nó chừa thói cướp chồng người khác, đã thế lại
còn ghen ngược chứ lại . . . .

Chị Mây lồng lộn, giằng tay nó ra để lao vào đánh chị Gấm. Chị rất khỏe, rất mãnh liệt, nó phải dùng hết sức và cương quyết lắm mới đẩy được chị ra. Thằng Hoàng và thằng Hưng tỉnh dậy thấy thế, chúng cứ khóc ré lên túm chặt lấy mẹ.

  Một vợ mà xử không xong,
Còn đòi hai vợ cho... cong cái xương sườn!

Anh Bính gọi nó :

- Thập ơi, ra đây anh bảo !
- Dạ ! – Nó đáp và bước tới gần.
- Em giúp anh dìu chị lên bệnh xá, có lẽ chị Gấm đau đẻ rồi. – Anh Bính ôn tồn nói.

Thầy nó bấy giờ mới lên tiếng :

- Thằng Thập mặc ấm vào, cầm đèn đưa chị lên bệnh xá ngay. Còn chị Mây, thầy bảo, con phải
bình tĩnh nghe thầy, đâu có đó. Ngày Tết không được làm ồn kẻo xóm ngõ họ cười cho.

Chị Mây khóc rống lên, chua chát :

- Ôi Giời cao Đất dầy ơi . . . ! Sao tôi khổ thế này . . . . ?! Từ đận mới lớn lên đã đi lấy chồng,
được cưới hỏi đoàng hoàng chứ có phải theo không đâu. Quanh năm đầu tắt mặt tối, bán mặt
cho đất bán lưng cho giời. Có của ngon vật lạ gì cũng để phần cho người ta. Người ta ở thành
phố, đỏ da thắm thịt, nhìn thấy bọn đĩ ăn trắng mặc trơn, người ta về phụ bạc, ruồng rẫy cái con
gái già nhà quê này. Có hiểu cho tôi không, Giời ơi là Giời . . . . !

Bu nó liền nối theo luôn, giọng thủng thẳng, "mát mẻ" :

- Làm tài trai dăm bảy vợ, gái chính chuyên chỉ có một chồng. Chồng chị, chị không giữ được, còn bù lu bù loa với ai ?

Anh Bính được mẹ bênh, bấy giờ mới lên nước :

- Mày có im ngay không ! Mày còn tru tréo, ông đánh róc xương mày ra bây giờ . . .

Chị Mây vẫn rền rĩ, tru tréo khóc rỉ rả không thôi . . . .

Nó mặc thêm quần áo, đi đôi tất và đôi bata màu xanh đế trắng. nó chọn một cái đèn tốt nhất, còn nhiều dầu, vặn to ngọn lửa, lấy tay cầm vào cổ đèn cho gió khỏi lùa vào làm tắt đèn. Nó lấy cái áo măng tô dạ đã sờn rách của thầy nó khoác thêm cho chị Gấm. Nó dìu chị Gấm đi trạm xá. Ngoài trời rét căm căm, gió "Bấc" rít từng cơn, giật từng hồi, tung cả tà áo chị Gấm, mưa phùn quất chéo vào mặt. Chị Gấm chắc là đau lắm, chị gần như tựa hẳn người vào nó, bước đi thập thõm trong ánh đèn hoa kỳ lắt la lắt lẻo trước gió . . . .

Đi được một đoạn chị Gấm không đi nổi nữa, vì đôi giầy cao gót. Nó sợ chị ngã sẽ xẩy thai nên bảo chị đổi giầy cho nó :

- Chị đổi giầy cho em. Chị đi thế này ngã mất. Giầy của em nhẹ mà đi chắc chân lắm.

Hai chị em đổi giầy cho nhau, may là giầy của nó chị đi rất vừa. Chị Gấm vịn vào nó và đi tiếp, dò dẫm từng bước. "Mưa tránh trắng, nắng tránh đen", cứ chỗ nào lờ mờ trắng thì nó dìu chị đi vòng qua để tránh.

Trạm xá xã ở mãi thôn trên, hai chị em đi mãi rồi cuối cùng cũng tới nơi. Cả trạm xá ngủ yên, vắng lặng, chìm trong đêm tối. Duy nhất trong phòng trực có cái đèn bão vặn nhỏ hết cỡ, ngọn lửa đang cháy xanh leo, lom rom. ông bảo vệ nằm trong chăn thò đầu ra hỏi :

- Ai đấy, có việc gì thế ?
- Bác ơi chị cháu đau đẻ. Có chị Sáu Đỡ ở đây không ạ ?

Ông già ngái ngủ, giọng khê khê :

- Rét mướt thế này, ai đẻ đái gì đâu mà cô Sáu trực. Cứ đưa vào trong này, xong rồi vào thôn Thợ gọi cô Sáu ra đây nhá!

Nó dìu chị Gấm vào cái giường trong phòng trực. Trời rét quá, căn nhà cấp bốn cửa che bằng liếp, gió giật từng cơn, kêu lật phật. Thôi chết, quên không mang chăn gối cho chị. Thôi được, tính sau vậy. Nó phải khẩn cấp đi tìm chị Sáu đã. Chị ấy là y tá đỡ đẻ nổi tiếng ở quê nó.

Cho chị Gấm nằm xong, nó lấy cái áo dạ của thầy nó đắp tạm cho chị. Chị Gấm nhìn nó ái ngại :
- Chị phiền em quá ! Thôi em cố gắng giúp chị nha !

Rồi nó thấy chị khóc. Nó không hiểu chị khóc vì đau hay vì cảm động.

Lúc ấy vào khoảng 2 giờ sáng, trời mưa ngày càng nặng hạt. Ông bảo vệ thương tình cho nó mượn mảnh vải mưa. Nó khoác mảnh vải mưa rồi cầm đèn lầm lũi đi vào ngõ Thợ. Cả làng cả xóm đang yên giấc thì nó làm chó giật mình sủa lên ông ổng, con này truyền sang con khác râm ran khắp làng. Nó nhớ láng máng nhà chị Sáu ở khoảng đối diện với ao bèo tây, nhưng tối quá nó không nhận ra các bờ rào và cánh cổng giống nhau đang đóng im lìm. Quanh quẩn mãi không biết hỏi ai, nó đánh liều cứ đập đại vào một cánh cổng tre mà nó hơi nghi nghi. Đập mãi người trong nhà vẫn không nghe thấy vì tre không phát ra tiếng động lớn mà nhà lại ở rất sâu. Nó lo cho chị Gấm, không nhanh nhỡ xảy ra chuyện gì thì sao. Nghĩ thế, nó mò tìm hòn gạch nhỏ rồi đáp thẳng vào nhà. Ném đến viên thứ hai thì ba con chó to tướng từ trong nhà lao ra, nhẩy dựng lên, chồm vào cánh cổng, sát ngay mặt nó, sủa váng lên khiếp sợ, như muốn nuốt sống nó. Nó lùi ra đề phòng nhỡ chó phá được cửa lao ra thì gay. Nó nhặt thêm vài hòn gạch củ đậu định đáp tiếp thì thấy trong nhà có ánh đèn, rồi tiếng quát vọng ra :

- Đứa nào ném đấy ? Ông ra quật chết bây giờ !
- Cháu xin lỗi ông ! Cháu là Thập con ông trưởng Chất ngoài phố. Cháu đi tìm chị Sáu đỡ cho chị cháu đang trở dạ.
- À, thằng Thập đấy à ? Đây có phải nhà cái Sáu đâu. Nhà nó cách đây hai nhà cơ, chỗ cổng có giàn cây leo ấy.
- Ông ơi ! Ông gọi hộ cháu với. Chó cắn cháu sợ lắm.
- Cứ ra cổng nhà nó chờ đấy, tao đi vòng sau nhà gọi dễ hơn.

Nó đi tới đứng đợi trước cổng nhà chị Sáu. Một lúc sau đèn trong nhà sáng, nó mừng quýnh, rồi nó thấy chị Sáu khoác áo mưa, cầm đèn bão đi ra. Nghe nói chuyện chị Gấm trở dạ, chị Sáu hối hả vừa đi vừa chạy, nó lẽo đẽo đuổi theo sau.

Về tới bệnh xá, nó thấy chị Gấm đã có vẻ tạm ổn. Sau khi thăm khám xong chị Sáu tiêm một mũi thuốc gì đó. Quay sang nó, chị Sáu bảo :

- Em cứ yên tâm ! Không sao đâu.
- Nếu tạm ổn rồi thì em đưa chị Gấm về được không ạ ?
- Chưa được ! Để cô ấy nằm đây còn theo dõi. Em cứ về nhà lấy chăn màn lên đây.

Nó yên tâm liền nhờ chị Sáu chăm hộ. Nó chạy về nhà lấy chăn màn.

Về tới nhà nó thấy mọi chuyện đã yên. Thày nó đang ngồi hút thuốc lào, chị Mây ngồi trên võng bế thằng Hưng vẫn còn đang khóc, bu nó đang ngồi têm trầu, anh Bính ngồi cạnh thầy, mặt vẫ còn đỏ gay. Thấy nó về cả nhà dồn dập hỏi. Nó kể lại tình hình chị Gấm đã ổn mọi người mới yên tâm. Nó nói :

- Con về lấy chăn màn mang lên trạm xá.

Nó không ngờ chị Mây đứng ngay dậy, đưa thằng cu cho bu nó, rồi không nói năng gì chị nhanh nhẹn tháo cái màn và cuộn cái chăn của chị nhét vào bao tải đưa nó mang đi. Nó thấy lạ kỳ, khó hiểu. Ôi ! Cuộc đời kỳ lạ, con người kỳ lạ ! Vừa định "xé xác con đĩ . . . ", bây giờ lại gửi chăn màn của mình cho "con đĩ" . . . .

Anh Bính nó ngại không dám lên trạm xá vì sợ xóm làng dị nghị, anh đưa nó hộp dầu cao Sao Vàng rồi bảo :

- Em chịu khó chăm chị giúp anh, nếu ổn thì sáng mai đưa chị về.

Nó cầm hộp dầu, vác tải chăn màn đi lên trạm xá. Từ bé đến giờ nó chưa bao giờ đi giầy cao gót nên không quen, bước chân cứ trẹo ngang trẹo ngửa, trật cả cổ chân. Bây giờ nó mới nhớ, đáng ra nó phải đổi lại giầy cho chị Gấm từ lúc nó đi tìm chị Sáu.

Lên tới trạm, nó thấy chị Gấm đang ngủ. Nó lấy chăn đắp cho chị. Màn thì không mắc được vì không có cái đinh nào cả, vả lại nó cũng không thấy có muỗi. Buồn ngủ quá, nó gục xuống ngủ bên cạnh chị Gấm. Vừa thiếp đi thì nó bỗng giật mình vì tiếng gà gáy, rồi tiếng lợn kêu eng éc vang lên khắp cả làng. Một sáng 30 Tết, một ngày cuối năm đầy những chuyện không thể quên . . . . Sắp sang xuân rồi, nó hy vọng mùa xuân sẽ mở ra những ngày mới sáng sủa hơn . . . . Nó chuẩn bị đưa chị Gấm về.

Chỉ vì việc cãi nhau đêm đó, không khí gia đình nó rất nặng nề. Cái yên lặng trong nín nhịn chẳng qua là giả tạo. Anh Bính quyết định không ăn Tết ở nhà nữa. Sáng hôm đó anh đưa chị Gấm về Hà Nội. Ra giêng, nó hay tin chị Gấm sinh một cháu trai, đặt tên là Bình Phương.

Chuyện Chị Vận

Sau khi lấy anh Tống chừng một năm, chị Vận sinh được thằng cu Chiến. Lúc đó chị đang làm ở Liên Đoàn Địa Chất cùng cơ quan chồng nên hai vợ chồng và cháu ở nhà của cơ quan. Hết thời gian nghỉ đẻ thì bắt đầu có chuyện. Mẹ chồng bàn với anh chị "Thôi thì hai anh chị, một người làm cơ quan nhà nước là đủ. Chị phải ở nhà mà nuôi con cho con nó khỏe mạnh. Vả lại, chị làm dâu thì cũng phải lo công việc của nhà chồng nữa chứ . . .". Chị nghe lời mẹ chồng và bỏ việc cơ quan từ đó. Anh Tống thì vẫn đi làm xa còn chị thì chuyển về ở với mẹ chồng.

Được hơn một năm mẹ chồng nàng dâu chẳng chịu được nhau nữa, phần thì do mẹ chồng chị rất khắc nghiệt, phần thì vì chị Vận không khéo cư xử. Mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu mới đầu chỉ là những chuyện nhỏ mọn nhưng càng về sau càng nặng dần lên, cho đến khi quá ngưỡng, không chịu được nữa.

Cây khô chết đứng giữa đồng
Nàng dâu khôn khéo mẹ chồng vẫn chê.
Chị Vận đành bế con về nhà mẹ đẻ. Thằng Chiến cháu nó mới hơn một tuổi, đang bập bẹ tập nói. Vậy là ở nhà nó bây giờ có ba đứa cháu, thằng Hoàng, thằng Hưng và cu Chiến. Nó rất thích chơi với mấy thằng cháu. Nó thường làm bò cho các cháu cưỡi lên lưng hay công kênh chúng nó trên vai. Nhiều hôm mấy chú cháu vật nhau ở sân phơi rơm. Chán vật thì chơi trò "giã gạo. Nó nằm ngửa xuống rơm, lần lượt cho từng đứa ngồi lên hai chân, vừa dập dình vừa hát :

Giã gạo thổi cơm trưa,
còn thừa để đến tối.
ai vay thì nói dối ,
hết gạo rồi chống cối lên.
Nó rất yêu thằng Chiến vì nó bé nhất mà đang tập nói bi ba bi bô nghe rất ngộ. Cu Chiến da ngăm ngăm đen, lùn lùn, tròn như hạt mít. Cậu Thập đi đâu là đòi theo đó. Thế nên nó có uy với cu Chiến lắm. Mỗi khi cu Chiến lười ăn hay khóc nhè, chị Vận thường mang cậu Thập ra dọa :

- Im ngay ! Cậu Thập vào kia kìa.

Mỗi lần như thế, nó giả vờ lừ mắt là cu Chiến sợ lắm. Rồi nó bảo cu Chiến :

- Ngồi xuống ! . . . . Được rồi. . . . Khoanh tay vào . . . Ạ cậu đi .

Thằng cu ngoan ngoãn làm theo :

- Ạ chậu !

Giọng cháu thì ngọng nghịu, động tác khoanh tay cúi đầu trông ngộ nghĩnh đáng yêu lắm.

Có nhiều lúc nó bận thì cu Chiến lại "bám đít" ông khi ông đang đạp máy. Thầy nó lại sai cu Chiến một việc gì đó để cho nó có việc mà chăm chỉ làm, ông bảo :

- Ra cửa tìm gọi anh Hoàng về đây cho ông !

Thằng Chiến cởi chuồng, mặc cái áo nâu cộc tay ông may cho, lũn tũn chạy ra cửa, gọi nhát gừng :

- Băm ơi . . . ! Ông bạo . . .

Buồn cười nhất là khi cu tí đói. Nó bám theo cậu, liên tục gọi :

- Chậu ơi ! Mơm mơm . . . , măm măm . . . .

Hai mẹ con cu Chiến ở nhà nó được hai năm. Rồi một lần anh rể nó đi công tác về, sau khi bàn bạc ở nhà bên ấy, anh cùng họ hàng sang nhà nó nói chuyện với thầy bu và chị Vận, xin đón chị và cháu về.


CHƯƠNG III VÀO ĐỜI (tiếp

Thôi ! Thế là hết . . . .

Không bằng lòng với số phận, cuối năm đó nó thi lại vào hai trường. Trường thứ nhất là trường cấp 3 của huyện. Thi xong, chưa biết kết quả nó khăn gói lên Hà Tây thi tiếp vào trường Mỹ Thuật Công Nghiệp, bấy giờ sơ tán ở Chùa Thày.

Nộp hồ sơ và làm thủ tục dự thi vẫn là tại số 42 Yết Kiêu, Hà Nội. Hôm nộp hồ sơ, nó làm quen với hai đứa bạn mới là thằng Nam, nhà ở Nguyễn Công Trứ và thằng Kiếm nhà ở bờ sông, phố Cầu Gỗ. Ba đứa hẹn nhau cùng đi xe đạp lên Chùa Thày.

Hôm đó thằng Kiếm và thằng Nam đèo nhau trên xe đạp Thống Nhất nam, còn nó thì đi xe đạp đi-a-măng, mượn của anh Bính. Chẳng đứa nào biết đường nên chúng vừa đi vừa phải hỏi thăm. Khổ nhất là nó phải đi trên cái xe đạp nam quá cao. Ngồi trên yên xe mà đạp thì rất mỏi vì nó cứ phải vẹo vọ cái mông sang hai bên, đít nóng ran. Đi được chẳng bao xa thì nó không chịu được nữa đành phải luồn chân phải qua lòng cái khung xe mà đạp. Như thế được một lúc thì cũng mệt vì xe bị nghiêng, lực không tập trung, người cứ phải oẹo sang một bên, rất mỏi. Thương tình, thỉnh thoảng hai thằng bạn phải đổi xe để đạp thay cho nó.

Tới nơi, chúng nó nhận số báo danh xong thì được bố trí cho ở trọ trong làng, tại nhà bác Ban. Nhà bác Ban cách đình làng, nơi tổ chức điểm thi khoảng một cây số. Ba đứa gửi gạo và tiền ăn ba ngày cho bác chủ nhà lo hộ cơm nước. Chiều hôm đó, ba thằng tung tẩy đi chơi và khám phá quanh làng. Chúng vào chợ ăn bánh khoai, ăn ổi, chuối và uống trà bát bảo của cụ già đầu xóm.

Không biết ăn uống thế nào mà nó bị "Tào Tháo đuổi", đau bụng quằn quại và đi liên tục. Khổ nỗi, nhà bác Ban không có hố xí. Một miếng ván bắc từ bờ ao đến mấy cái cọc tre đóng xuống lòng ao, bên ngoài quây mấy cái bao tải rách chính là chỗ để "giải quyết vấn đề". Về sau này nó mới biết, công trình vệ sinh đó gọi là "cầu tõm". Khổ thân nó, hôm đó lại đúng ngày mưa, nó cứ phải đội nón chạy đi chạy lại giữa nhà và cái cầu ao đó. Sáng hôm sau các bạn đi thi thì nó sốt cao phải bỏ thi. Cả nhà bác chủ cũng đi làm hết. Nó sốt, người mệt lả, nằm ở nhà một mình rất buồn. Lỡ mất cuộc thi, ốm cảm tưởng như kiệt sức mà lại chẳng có ai bên cạnh, tủi thân, nước mắt nó cứ tự động chảy ra. Nó thấu hiểu sâu sắc chuyện phải xa gia đình là như thế nào.

Hai ngày sau nó khỏi ốm thì cũng là lúc các bạn nó thi xong. Vậy là chuyến đi của nó coi như công cốc. Nó thất thểu quay lại cái nơi nó từng sinh ra, một xó huyện quê mùa. Mấy hôm sau thì nó biết là nó cũng bị rớt trong kỳ thi vào trường cấp 3. Chả trách được vì nó đã bỏ học gần hai năm rồi. Mọi cánh cửa tương lai của nó thế là cùng bị khép lại. Thôi ! Thế là hết . . . .

"Nhiếp ảnh gia" lưu động

Mất hẳn hy vọng học hành, trong lòng buồn vô hạn, nhưng vẫn phải sống vì vậy quyết định kiếm sống là con đường mà nó bắt buộc phải chọn. Nói cách khác, đó là con đường cùng mà cuộc đời đã đẩy nó vào.

Ở phố nó ngoài ông Vân hành nghề "chụp ảnh gia truyền" từ thời Pháp, gần đây có anh Trân, ở Hà Nội sơ tán về, mở hiệu ảnh ở gần nhà nó. Những lúc rảnh rỗi, nó hay sang chơi nhà anh Trân, lân la học hỏi về kỹ thuật làm ảnh. Anh Trân thấy nó ham học cũng chỉ vẽ cho nó ở mức độ "cơ bản - sơ lược".

Có một chút kiến thức "qua loa, đại khái" về ảnh, nó lấy tiền dành dụm được do bán tranh Tết mua lại của anh Trân cái máy ảnh cũ Zorki-4 (máy ảnh Liên Xô). Rồi nó mua phim, thuốc hiện hình, thuốc hãm, giấy ảnh Bình Minh . . . , mỗi thứ một ít. Một mình nó tự mầy mò tập chụp, tráng phim và in ảnh . . . . Kết quả chưa phải là mỹ mãn nhưng ảnh cũng được lắm, chẳng thua kém gì ảnh của các hiệu ở phố nó. Tuy nhiên, vốn chẳng có, lại nhỏ tuổi không có kinh nghiệm, nó có mở hiệu cũng không cạnh tranh nổi với hai "nhiếp ảnh gia" kia. Do đó, nó phải tìm cách khác.

Gom góp toàn bộ số tiền nó ki cóp gửi bu nó bấy lâu nay, nó mua lại một chiếc xe Phượng Hoàng xích hộp màu cánh chả đã cũ. Mỗi tuần một lần, nó dong duổi xe đạp và máy ảnh vào các làng xa xôi hẻo lánh quanh vùng, gọi là đi "chụp ảnh lưu động", mà bây giờ thì người ta gọi là "chụp ảnh dạo". Nói thế nghe có vẻ kiếm ăn quá đơn giản, nhưng thực ra cũng phải "có mẹo" mới được. Nó phải rủ người quen trong vùng hẻo lánh đó đi cùng, vừa để có bạn đi chung cho vui, vừa bảo lãnh nó trước dân làng để họ tin là không bị lừa mà đưa tiền trước, lấy ảnh sau.

Thường ngày nó ngồi vẽ ở nhà. Rồi từ một hôm nào đó, có một thằng trạc tuổi nó, hôm nào cũng ngồi xổm xem nó làm. Lâu dần thành quen, nó sai vặt thằng này, lúc thì đi mua thuốc lá, lúc lại đun hộ siêu nước. Được cái, cu cậu làm rất nhiệt tình, ngoan ngoãn và dễ bảo lắm. Hỏi ra mới biết nó tên là Ngọ, nhà ở Hưng Long, bố mẹ bỏ nhau đều đã đi bước nữa, cu Ngọ phải ở với bà nội. Nó thấy hoàn cảnh đáng thương nên nhận thằng Ngọ làm phụ việc. Vẽ thì đã có khuôn mẫu, thằng Ngọ chỉ việc quét mầu vào các lỗ trên tấm mi ca đã khắc sẵn. Việc hoàn thiện tranh thì nó sẽ làm sau. Còn chụp ảnh thì thằng Ngọ đi cùng nó rất được. Thằng Ngọ khỏe, chuyên môn là "lái xe" đèo nó. Dở nhất là thằng Ngọ không biết chữ, nhiều khi đông khách, nó nhờ ghi tên và đánh số thứ tự các kiểu ảnh chụp, thằng Ngọ cũng không làm nổi. Nó đành vừa phải chụp ảnh vừa phải ghi chép lấy.

Thời gian đó và cả về sau này, làm được đồng nào, nó trừ tiền ăn tiêu nho nhỏ, tiền mua vật tư, vật liệu, còn lại bao nhiêu nó đều gửi bu nó giữ. Đặc biệt nó nhớ anh Bát, anh đi bộ đội chẳng có tiền nên nó dành ra một khoản đáng kể, thường xuyên, lúc gửi ra Yên Mỹ, lúc gửi vào Ân Thi, lúc gửi lên Từ Hồ cho anh Bát. Đồ nó gửi cho anh là thuốc lá sợi, ruốc, đồ ăn và các thứ linh tinh khác.

Ngoài việc vẽ tranh giấy, chụp ảnh lưu động, nó còn nhận ảnh cũ hỏng của các cụ già và vẽ truyền thần lại. Những bức truyền thần ấy nhiều khi rất quan trọng với gia đình có người cao tuổi hay người đã mất. Ba việc ấy làm nó khá bận nhưng có thu nhập ổn định. Không những thế, Ủy ban xã, Ủy ban huyện cũng thường xuyên trưng dụng nó đi kẻ khẩu hiệu, vẽ áp phích, tranh cổ động, . . . . Tối tối nó đi cùng một nhóm nam nữ thanh niên, vác đàn ghi ta, sáo trúc, măng-đô-luyn, âm li (amplifier), bình ác quy đến các xóm, các sân kho hợp tác xã để tuyên truyền, cổ động, hát và ngâm thơ, . .

Chiến dịch cổ động

Cuối năm đó, 1972 Mỹ dùng máy bay đánh phá miền Bắc rất dữ dội, sử dụng cả máy bay B52 rải thảm xuống Hà Nội liên tục trong 12 ngày đêm.

Những ngày này nó được sở văn hóa tỉnh huy động lên tăng cường cho phòng văn hóa huyện Văn Lâm. Một mình nó phải vẽ mấy tấm áp phích rất lớn trên những pa-nô xi măng ven đường số 5 và một số nơi tập trung đông dân trọng yếu của huyện. Công việc rất vất vả, vừa phải pha màu, bê thang, bê giáo di chuyển, vẽ tranh, . . . . Thấy nó vất vả, huyện cử thêm anh Ưng phụ nó các việc vặt. Buổi trưa nó nghỉ, ăn cơm nhờ bưu điện Như Quỳnh, tối thì về nhà anh Đồng, cán bộ văn hóa ở xã Trưng Trắc kiêm bưu tá đưa thư. Nó không mang xe đạp theo nên anh Đồng toàn phải đưa đón nó từ nhà đến nơi vẽ và trở về trên chặng đường năm đến sáu cây số trong mùa đông giá rét.

Chỗ ở của anh Đồng là căn nhà hai gian, hai trái, tường đất mái rạ thấp lè tè. Qua một khoảng sân đất nhỏ là căn bếp một gian liền chuồng xí và chuồng lợn còn thấp hơn, cũ nát và siêu vẹo. Lối vào nhà anh vừa nhỏ vừa ngoằn nghèo, luôn luôn ngập nước. Những lúc mưa to còn không nhìn thấy ngõ mà đi. Khu vực nhà anh có các bụi tre rậm rạp và đặc biệt rất nhiều sấu cổ thụ, lá cành um tùm. Những ngày nắng to, lúc đứng bóng còn có chút nắng chiếu xuống đường. Thế mà chỉ cần chếch bóng một chút lại râm mát, cho nên gần như râm mát suốt ngày.

Anh chị Đồng có năm đứa con, gia cảnh rất nghèo. Đứa lớn là cái Lài, khá xinh sắn, cỡ bằng tuổi nó, đã đi bộ đội, lâu lâu mới về thăm nhà. Đứa thứ Hai là Bảo, thua nó 2 tuổi, dáng cao và gầy gò. Còn mấy đứa về sau nó không còn nhớ tên.

Mới ở nhà anh Đồng được có mấy hôm mà nó đã rất thân với thằng Bảo. Những hôm đi vẽ về, trời rất rét, hai đứa chui vào bếp chỗ chị Đồng đang nấu cơm rúc rích với nhau. Rơm ẩm, khói đặc quánh, ngạt thở, hai thằng vẫn ngồi co ro bên cạnh chị Đồng, đút mấy củ khoai con vào nướng. Khoai cháy đen lớp vỏ, nóng bỏng, hai đứa vừa bóc vừa đổi khoai từ tay này sang tay kia cho khỏi bỏng, rồi thổi phù phù, vừa ăn vừa xuýt xoa, rất sướng. Cơm chẳng có thức ăn gì nhưng đang sức trai, trời lại rét, chúng ăn ngon lành. Tối đến hai thằng cùng chui vào cái chăn bông rách ngủ cùng anh Đồng, còn chị Đồng và mấy đứa nhỏ ngủ ở giường đối diện.

Cái túi dết đựng thư của anh Đồng được treo cái đinh móc, ngay đầu giường. Mấy đứa nó hay lục trộm túi dết của anh, cứ thư nào đọc phong bì thấy có "màu sắc yêu đương" kiểu như "Em gái quê hương – mến thương – gửi người phương xa" là chúng nhấp nước bọt vào chỗ dán, rồi bóc ra xem trộm. Nhiều bức thư, ở đằng sau phong bì còn có thơ "Em viết tình em thành bài thơ - Ngày em thấy nhớ đêm về lại mong", "Xa nhau tình cảm dạt dào – Nhờ anh bưu điện gửi vào tận tay", . . . Vậy mà anh Đồng cũng không hay biết gì. Mà, lúc bấy giờ chúng cũng không nghĩ là chúng đã vi phạm luật bí mật thư tín.

Ở nhà anh Đồng được hơn hai tháng, nó phải chia tay để về Ủy ban huyện, đang sơ tán ở trong Chợ Gạo, cách nhà anh Đồng 15 cây số. Đến đây, nó được bố trí ở nhà anh Ưng, phụ việc cho nó, cũng công tác ở phòng văn hóa của huyện. Anh Ưng rất nghiện thuốc lá, ngủ chung với nó mà anh toàn mang thuốc lá vào trong màn hút. Hơn một tháng ở với anh, nó đâm ra càng nghiện nặng.

Lại hai tháng sau nữa, xong chiến dịch cổ động, nó được trở về quê tiếp tục với công việc riêng đang bỏ dở.

Dễ thương mà " ngố "

Mùa hè năm 1973 thằng Sơn Hồng viết thư cho nó rủ lên trường Yết Kiêu chơi, rồi dẫn Sơn Hồng về nhà nó nghỉ hè. Nó đạp xe lên trường tìm bạn. Cách đây 2 năm, nó đường đường là một học sinh có quyền ra vào cổng đoàng hoàng. Lần này khi đến cửa trường, bác bảo vệ ngăn nó lại hỏi "vào làm gì ? Tìm ai ?". Kể ra thì bác ấy hỏi như thế cũng là bình thương, nhưng vốn nhạy cảm về chuyện này nên nó thấy nhói đau trong lòng. Nó đành nhờ bác bảo vệ nhắn gọi thăng Hồng ra.

Ngồi ở quán nước chè ngoài cổng trường nhìn các bạn quen cũ ăn mặc gọn gàng ,tay cắp cặp vẽ, nói cười ríu rít, vui tươi như bầy chim sẻ, mà nó chỉ nhìn trộm, không dám gọi. Nó tự ti và rất tủi thân. Chờ mãi không thấy Hồng ra, nó sốt ruột định đi về thì bác bảo vệ đi ra và bảo với nó :

- Hồng đi thực tế ở Chùa Thầy chưa về, nó gửi cho cháu lá thư đây này !

Nó nhận thư và cảm ơn. Thư thằng Hồng nhờ nó sang bên trường nhạc hỏi bộ môn trom-pet (trumpet) chuyển hộ cho cái Thu, người yêu Hồng một bức thư. Hồng còn nhờ đèo hộ cái Thu lên Chùa Thầy thăm và chơi một thể. Hỏi thăm loanh quanh một lúc bên trường nhạc thì cũng tìm được cái Thu. Đó là một cô bé trắng trẻo, xinh nhưng béo. Nó chuyển thư của thằng Hông rồi hai đứa hẹn nhau ngày mai lên thăm Hồng.

Sáng hôm sau đúng hẹn, nó tới cửa trường nhạc đón Thu, đèo nó lên Chùa Thầy, nơi sơn đang đi thực tế. Cái Thu thì béo, đường thì xa, Trời thì nắng chang chang, mồ hôi nó nhễ nhại và nó rất mệt nhưng không dám hé răng. Nó sĩ diện mà, đường đường một đấng "xu hào", chả nhẽ lại để cho con gái nó đèo thì còn ra cái gì.

Lên tới nơi thì thấy thằng Hồng đã chờ sẵn để đón hai đứa. Cu cậu dẫn hai vị khách về nhà mà thằng Hồng đang ở trọ. Cơm nước xong, ba đứa túc tắc đi bộ lên thăm Chùa Thầy. Chúng kéo nhau xuống cái "hang xương", sâu hun hút, tối om om. Thằng Hồng đốt đôi đế dép cao su, mỗi đứa cầm một mẩu dép cháy để soi đường. Thằng Hồng đi đầu, đưa tay ra sau dắt cái Thu, còn nó thì đi sau cùng. Xuống tới đáy hang, nó nhìn thấy một hố lớn toàn đầu lâu và xương người. Nghe nói đó là hài cốt của các liệt sỹ hồi chống Pháp.

Đến mãi chiều chúng nó mới lên khỏi. Trên đường đi về, thằng Hồng với cái Thu cứ quấn quýt bên nhau. Nó biết ý nên đi cách xa một đoạn. Tuy nhiên, cảnh trai gái yêu nhau thì hấp dẫn lắm nên thỉnh thoảng nó cứ nhìn trộm hai đứa. Cứ đến gốc cây là chúng dừng lại hôn nhau. Nó vừa thấy xao xuyến lại vừa tức. Hóa ra nó "đổ mồ hôi, sôi nước mắt", mệt "phờ râu trê" đèo cái Thu để chứng kiến cảnh chúng hôn nhau. Đúng là "ngố Tầu"!

Sáng hôm sau thằng Hồng xin phép nhà trường nghỉ mấy hôm. Hai đứa ấy ra bến xe về Hà Nội trước. Nó lại lụi cụi đạp xe một mình. Thật là "quê "quá đi mất ! Nó đạp xe thẳng một mạch về nhà.

Khoảng một tuần sau, thằng Hồng về quê nó chơi. Nó vui lắm. Hai thằng cùng vẽ tranh, hút thuốc, tâm sự. Tối đến hai thằng lên đầu phố uống trà bát bảo hoặc xuống nhà thằng Sáu, bạn nó ở Phùng Chí Kiên. Thằng Sáu hơn nó hai tuổi, đi Tiệp Khắc về. Thằng này là em lão trưởng công an huyện, ở quê nó gia đình quyền thế lắm mới được đi nước ngoài. Không biết làm sao mà Thằng Sáu lại về quê đã mấy năm và xoay ra mở hiệu may. Chẳng hiểu thế quái nào mà nó lại chơi thân với thằng Sáu.

Gia đình chú ruột

Sau khi thằng Hồng về lại trường, nó tạm phải đóng cửa hàng để xuống Hải Phòng chăm sóc chú Hiền bị ốm. Chú Hiền là chú ruột nó, lấy vợ và mở hiệu may ở dưới Hải Phòng. Trước đây, nhiều lần nó được theo thầy nó xuống thăm chú thím. Bây giờ chú ốm nặng, thím nó đã già yếu, em Bào thì chết sớm hồi máy bay oanh tạc, em Hoa em Nếp đều là con gái lại bận đi làm, các cháu thì còn nhỏ lại bận học. Chỉ có nó đi chăm chú là chính xác nhất.

Gia đình chú ở trong một gian nhà của cái nhà cấp bốn đâu có năm gian thì phải. Mỗi hộ ở một gian được ngăn cách bằng một bức tường mười. Mặt các gian đều hướng ra ngõ, cửa sổ và cửa đi đều rất rộng. Đằng sau nhà là cái sân chung dọc theo chiều dài của căn nhà, chiều rộng khoảng ba mét. Qua sân là một dãy bếp dài, mỗi hộ một ô, chiếu thẳng với gian nhà ở. Sau dãy bếp là một vuông đất nhỏ, trên đó là nhà vệ sinh chung cho cả dãy.

Em Hoa hơn nó 9 tuổi, bấy giờ đã hăm bẩy, làm công nhân nhà máy giầy dép số 3 bên bờ sông Cấm. Em Nếp cũng đã hăm nhăm, làm việc ở Công Ty Vệ Sinh của thành phố. Cả hai đứa đều rất xinh gái, người nhỏ nhắn da trắng, môi đỏ. Chồng em Nếp là chú Dân (gọi là chú vì tuy là em rể nhưng tuổi hơn nó nhiều) lại là em ruột của chị Mây, chị dâu nó, con cụ Hai Năng. Chuyện vợ chồng của Nếp là do thầy nó và chú Hiền sắp đặt. Hai cụ muốn các con lấy người cùng quê, không muốn cho lấy người hàng xứ, sợ lâu dần mất gốc, mất quê. Chú Dân là bác sỹ. Hai người lấy nhau lấy nhau năm 1970 thì năm 1971 sinh con đầu lòng và ra ở riêng.

Ở nhà chú thím chỉ còn Hoa và vợ em Bào. Em Bào thì mất năm 31 tuổi và đã kịp có được 5 đứa con, 2 trai, 3 gái, đứa út mới được hơn một tuổi, nhà rất nheo nhóc. Đã vậy, vợ Bào không chịu ở vậy nuôi con mà cặp bồ rồi bỏ con theo trai đi biệt xứ. Thím nó là một người phụ nữ bé nhỏ, trắng trẻo, hiền lành đã phải cùng em Hoa chăm sóc năm đứa cháu thơ dại.

Từ nhà chú Hiền, ra khỏi ngõ rẽ sang tay trái, đi theo đường tàu đầy rác rưởi, um tùm cỏ và nước cống rãnh hôi hám là ra ngã tư Lạch Chay. Từ đó, rẽ phải đi thêm khoảng 500 mét nữa là đến hiệu may của chú. Cửa hàng may nằm ở lối rẽ vào một con ngõ nhỏ, áp sát với mặt đường, trước cửa có cây xoan nâu to rợp bóng mát. Cửa hàng này chú phải thuê, một căn phòng cũng nhỏ, chỉ rộng chừng chục thước vuông. Ngoài cửa kê cái máy khâu, bên trái gần cửa chính ra vào để bàn trà nho nhỏ, trên bàn để cái điếu bát. Sau cái máy khâu là một cái bàn vừa dùng để cắt vừa dùng để là quần áo. Sau cái bàn là mấy cái sào tre treo vải các loại. Trên bức tường bên phải treo một loạt quần áo mẫu và đồ mới may xong. Trong cùng kê một cái giường một để chú nó ngủ trưa hoặc ngủ qua đêm khi cần. Mỗi lần nó ra thăm, chú hay cho nó tiền ăn kem, bánh mỳ hay ăn kẹo.

Chú Hiền ốm nặng đang năm viện, cửa hàng may bỏ không, đóng cửa đìu hiu . .

Chú Hiền

Hôm nó đi Hải Phòng để chăm chú, bu nó đưa cho nó nải chuối và mấy cân cam. Đến Hải phòng, từ bến xe nó đi thẳng tới bệnh viện Việt Tiệp, rồi tìm đến phòng bệnh mà chú Hiền đang nằm. Từ cửa phòng nó đã nhìn thấy chú Hiền, tóc đã bạc rất nhiều, mà cả râu cũng bạc, một ông lão rất gày còm, hom hem đang nằm thiêm thiếp trên gường bệnh. Nhìn thấy nó đến, chú mừng lắm, mặt chú bừng sáng lên. Chú hiền từ nhìn nó cười :

- Thập ! Cháu lên thăm chú đấy hả ?

Nó xà vào giường, cầm tay chú, bàn tay già, khẳng khiu, gân guốc.

- Chú đã đỡ chưa ạ ? Chú thấy trong người thế nào ạ ?

Giọng khàn khàn, đầy đờm, chú chậm chạp nói :

- Chú mệt lắm ! Ho quá cháu ạ !

Nó đặt nải chuối và cam lên cái tủ ở cạnh đầu giường. Vừa hỏi han bệnh tình của chú, nó vừa bóc cam, từ từ đưa chú ăn từng miếng một.

Cái giường xếp đã cũ gấp gọn, ban ngày được nó giấu trong gầm giường, ban đêm nó lôi ra kê sát giường chú để nằm. Nó phải nằm thật sát giường chú, đề phòng đêm nó ngủ quên, có gì chú còn với tay lay nó dạy được. Sáng sớm, sau khi đi lấy nước sôi về, nó ra cổng viện mua thức ăn sáng cho chú, hôm thì xôi, hôm cháo sườn, hôm bánh nếp, bánh tẻ hay bún, . . . . Bữa trưa và bữa tối của hai chú cháu thì được em Hoa và em Nếp thay nhau mang vào. Chú nó ăn rất ít, có cái gì ngon chú toàn nhường cho nó, ép mãi thì chú cũng chỉ ăn thêm được chút đỉnh.

Chú nó ho rất nhiều và sốt lúc nửa đêm về sáng. Người ông càng ngày càng gầy tóp đi. Nhiều đêm ông không thể nằm được vì ho. Có hôm nó phải thức trắng đêm ngồi sau cho ông tựa lưng và đấm lưng cho ông để "long đờm" mà bớt ho đôi chút. Có những lúc cơn ho rộ lên, bụng ông thắt lại đau đớn, nước mắt nước mũi tóa ra giàn giụa, rồi ông thở hổn hển, hí ha hí hóp, trông thương lắm.

Thời gian đầu nó còn dìu ông vào nhà vệ sinh, rồi sau ông yếu dần nó phải cho ông đi tại chỗ. Tất cả các việc, từ việc thay đồ, đổ bô phân, nước tiểu và đờm rãi nó đều làm một cách cần mẫn, chỉn chu. Nó không hề cảm thấy ghê sợ hay khó chịu một chút nào. Đúng là ruột thịt có khác ! Có những ngày rất nhiều việc, nó phải bế chú lên xe đẩy, đưa đi chụp chiếu điện, đi làm các xét nghiệm, . . . . Có những chỗ không thể đưa ông đến bằng xe đẩy thì nó phải cõng ông. Những lúc cõng ông như vậy nó cảm thấy rất xót vì chú Hiền nhẹ tềnh, khô kháo toàn xương với da . . . .

Có những lúc ông ngủ được vào ban ngày, nó thường vào văn phòng khoa mượn vài quyển tiểu thuyết, ngồi cạnh ông đọc cho đỡ buồn.

Sáng trong một chút tình

Bấy giờ tại bệnh viện Việt Tiệp có một đoàn sinh viên Đại Học Y Hà Nội về thực tập. Các cô cậu sinh viên cũng trạc tuổi nó. Tối tối các sinh viên tham gia trực ở bệnh viện. Nó ngồi đọc sách thì mấy cô sinh viên trực cũng làm việc gì đó, người thì đan len người thì đọc sách. Tuy đọc sách chăm chú nhưng đôi mắt nó cũng không bỏ qua cơ hội quan sát và ngắm nhìn các cô gái. Rồi nó bị thu hút bởi một cô bé người nhỏ nhắn, mặt khá xinh. Cô bé buộc hai bím tóc hai bên, trông như trẻ con vậy. Nó thấy cô ta cũng ham đọc sách và có vẻ như có nhiều sách quý mang theo. Nó mon men đến gần, làm quen :

- Bạn đang đọc gì đấy ? Chắc là chuyện hay lắm nhỉ ?
- Dạ ! Miếng Da Lừa của Ban Zắc (Honoré de Balzac), hay lắm anh ạ.
- Nếu có thể được, lúc nào đọc xong, bạn cho mình mượn đọc với nhá ?
- Vâng ! Anh cũng hay đọc lắm phải không ạ ?
- Vâng, Ban Zắc thì tôi mới đọc Tấn Trò Đời , mới lại Lão Gô-Ri-Ô. Tôi không có nhiều sách, toàn là sách đi mượn thôi.
- Em cũng có mang theo mấy quyển, mai em mang sang đây cho anh.
- Thế thì hay quá ! Cảm ơn bạn ! Thôi bạn đọc tiếp nhé, tôi về chỗ chú tôi xem thế nào đã . . . . À mà, xin lỗi bạn tên là gì nhỉ ?
- Em là Lương, Hiền Lương ạ ! Còn anh tên gì ạ ?
- Mình là Thập, tên xấu lắm !
- Không đâu ! Tên anh cũng hay đấy chứ ạ.

Đúng như tên gọi Hiền Lương, cô sinh viên này rất dịu dàng, ăn nói nhỏ nhẹ, giao tiếp rất tự nhiên và cởi mở. Nó cảm thấy Hiền Lương có gì đó rất cuốn hút . . . .

Từ ngày quen nhau, hai đứa hay ngồi ở cửa sổ, cạnh giường chú nó, gần hành lang để nói chuyện trên trời dưới biển, chuyện văn, chuyện thơ. Hiền Lương cũng quan tâm săn sóc chú nó cẩn thận hơn trước. Hai đứa càng ngày càng có tình cảm với nhau. Hơn nữa, đứa này cũng cảm nhận được tình cảm của đứa kia dành cho mình. Tuy nhiên, cả hai đứa đều lúng túng và ngượng ngập với nhiều e ấp mà chả dám nói ra.

Bên Hiền Lương nó cảm thấy đỡ buồn và cô đơn. Niềm vui sống và hy vọng dường như đã bắt đầu nảy nở trong nó. Hơn 2 tháng trông nom chú, ngoài nghĩa vụ và tình yêu với chú, nó còn có niềm vui riêng, có nỗi nhớ mong và đợi chờ mỗi khi Hiền Lương vắng mặt.

Nó cứ đọc hết cuốn sách này thì Hiền Lương lại chuyển cho nó cuốn khác. Khi nhận lại sách, Hiền Lương hay hỏi nó : "Anh thấy thế nào ?". Cô bé muốn nó đưa ra nhận xét đánh giá về nội dung và nhân vật trong sách. Khi nó đưa ý kiến nhận xét thì thường sau đó, hai đứa lại tranh luận với nhau, . . . .

Rồi một hôm, đột nhiên nó không thấy Hiền Lương làm việc ở trong khoa. Ra ngóng, vào trông, chờ đợi khắc khoải cả ngày hôm đó. Nó rất muốn hỏi mấy đứa bạn Hiền Lương nhưng lại ngượng không dám hỏi. Một ngày, hai ngày, ba ngày, rồi bốn ngày trôi qua, . . . không có em. Nỗi nhớ dường như cứ đẩy lên ngồn ngộn trong lòng nó, suốt cả ngày, cả đêm. Bao nhiêu dằn vặt cứ xoáy vào tâm can nó, những nỗi niềm băn khoăn, hoài nghi không có lời giải đáp, . .

Ký tên vào "Sổ Tử"

Sang ngày thứ năm rồi vẫn không thấy em đâu. Đêm qua nó thức trắng vì phải đỡ cho chú ngồi thở. Giờ này chú nó mới chợp mắt được một lúc. Nó nằm cạnh chú, cuốn sách đang đọc trên tay nó cứ trĩu xuống dần, nó ngủ thiếp đi. . . .

Nó có cảm giác ai đó đang nhấc quyển sách trên ngực nó ra, nó choàng mở mắt và nhìn thấy Hiền Lương ngay trước mặt. Chẳng kịp giấu giếm nỗi mừng vui, nó hỏi :

- Em đi đâu mấy ngày nay mà sao không cho anh biết thế ?
- Anh mong em à ? – Hiền Lương cũng tự nhiên hỏi lại nó.

Câu hỏi của Hiền Lương làm nó ngượng ngập, nói tránh đi :

- Chẳng mong ! Nhưng thấy vắng thì hỏi.

Có lẽ Hiền Lương đã thấu hiểu nó, nàng hỏi thế chỉ để trêu nó một chút. Nàng bật cười rất tươi, cởi cái khăn mùi xoa, đưa cho nó ba bắp ngô nướng nóng hổi, rồi rút trong túi một nhành ngọc lan trắng muốt, thơm phức đặt vào tay nó :

- Mẹ em ốm, em về thăm, lấy quà cho anh đấy.
- Quà . . . sao ngô còn nóng thế ? Em mới nướng à ?
- Em mang lên nhiều, mọi người đang nướng, em mang mấy bắp cho anh ăn luôn cho nó nóng.
- Hiền Lương quê đâu mà có ngô thế ?
- Anh nghe tên em mà không đoán ra à.
- Hiền Lương ở Bến Hải mà sao nói giọng Bắc, anh chẳng thể đoán được.
- Ba má em tập kết năm năm ba. Ra Thái Bình mới đẻ em. Sau này ba em trở về nam. Má và hai chị em
em ở Kim Động, ngay bờ sông Hồng giáp thị xã Hưng Yên. Ngô này ở bãi sông Hồng đấy anh.
- À ! Thế em cũng ở gần quê anh đấy, anh cũng ở Hưng Yên.
- Sao bữa trước anh nói là sinh viên trường mỹ thuật ở Hà Nội.
- Ừ anh học ở Yết Kiêu, nhưng quê anh ở Hưng Yên mà.

Nó đã chót nói dối nó vẫn đang học ở trường Mỹ Thuật, bây giờ nó ngượng nhưng không đủ dũng cảm thú nhận. Nếu nó khai ra nó là thợ vẽ tự do, trong khi Hiền Lương là sinh viên đại học, hẳn nó sẽ bị khinh thường. Thôi đằng nào thì cũng chót rồi, "đâm lao phải theo lao" vậy.

Bệnh tình của chú Hiền ngày càng nặng. Sau khi bệnh viện hội chẩn, bác sỹ trao đổi với gia đình, chỉ còn giải pháp duy nhất là phải mổ hoặc là giữ nguyên như vậy. Nếu không mổ thì sẽ đau đớn vật vã, chết dần chết mòn vì khối u ác tính trong phổi sẽ tiếp tục phát triển. Nếu mổ tức là chấp nhận năm ăn năm thua. Mổ thành công chú nó có thể sống thêm được mươi năm nữa, mà nếu không thành công thì ông cũng ra đi trong thanh thản, đỡ phải chịu đựng nhiều đau đớn. Thày nó xuống cùng thím và các em họp lại quyết định sẽ mổ.

Sáng hôm mổ, cả nhà nó có mặt trong viện từ sớm. Trước khi đưa chú vào phòng mổ, bác sỹ yêu cầu gia đình phải ký cam đoan. Không còn nhớ là do yêu cầu về thủ tục hay vì lý do gì mà cuối cùng gia đình lại cử nó đại diện để ký. Nhiều ngày nó đã chứng kiến chú Hiền vật vã đau đớn nhưng phải ký vào văn bản nó rất băn khoăn. Nghĩ đi nghĩ lại, vì thương chú, nó đã đặt bút ký, rất có thể đó là chữ ký vào bản án tử của chú, nhưng biết làm sao được.

Chú Hiền gày tọp và rất yếu, người chú mỏng dính khi nằm băng ca. Chiếc băng ca được đẩy vào phòng mổ để gây mê, ánh mắt chú nhìn khắp lượt vợ con, rồi nhìn nó. Ông đưa cánh tay gầy guộc nắm bàn tay nó đang đẩy băng ca cho ông. Tới cửa phòng mổ, người nhà phải dừng lại. Rồi cánh cửa phòng khép lại, không còn nhìn thấy chú nữa. Mọi người phải chờ ngoài phòng, ai nấy hồi hộp, lo âu, cầu Trời, khấn Phật . . .

Vĩnh biệt em . . .

Nửa tiếng đồng hồ đã trôi qua, cánh cửa phòng mổ vẫn đóng im lìm. Rồi một tiếng, tiếng rưỡi, vẫn không thấy có động tĩnh gì. Sao mà lâu quá vậy ? Hay là có chuyện gì . . . . ? Nó cứ phải chạy đi chạy lại ra ngoài để hút thuốc. Ai nấy bồn chồn và lo sợ mà chẳng dám ho he gì. Sự căng thẳng và im lặng bao chùm, tiếng cái đồng hồ treo giữa hành lang đều đặn gõ những tiếng "thịch thặc . . . thịch thặc . . . ".

Đã gần hai tiếng đồng hồ, thời gian cứ trôi qua, vô cùng chậm chạp. Bỗng cánh cửa phòng mổ động đậy rồi bật mở. Bước ra từ đó là bác sỹ mổ chính, vẫn còn đeo khẩu trang. Cả nhà xúm vào hỏi thì ông khẽ lắc đầu. Khép lại cánh cửa phòng mổ, gỡ khẩu trang xuống, ông nói :

- Tiên lượng xấu lắm, chắc không qua khỏi, gia đình chuẩn bị hậu sự cho ông đi.

Một lúc sau cửa phòng bật mở toang, băng ca chở chú nó được đẩy ra, phía trên phủ một tấm ga trắng trùm mặt. Mọi người khóc òa lên. Chú Hiền đã ra đi . . .

Mới cách đó hai tiếng đồng hồ, chú còn cố cười, ánh mắt hiền hậu nhìn mọi người, chú còn cầm tay nó. Vậy mà chú đã ra đi không ai bên cạnh, không trăng trối, không người thân vuốt mắt. Cổ nó nghẹn lại, mắt nhòa nước, nó nấc lên, chết lịm "Chú ơi . . . ! "

Sau khi đưa thi thể chú vào nhà xác, cả nhà nó chạy ngược chạy xuôi để lo đám tang của chú. Hồi đó ở bệnh viện Việt Tiệp chưa có bảo quản thi thể trong buồng lạnh. Để chú ở đó một mình, không có ai thân thích bên cạnh làm cho gia đình rất đau lòng. Thầy nó quyết định tang lễ càng sớm càng tốt nên chỉ qua một ngày nữa đến ngày thứ ba đã tổ chức phúng viếng và đưa chú nó đi chôn cất ở nghĩa trang thành phố.

Hiền Lương xin nghỉ hai ngày luôn ở bên động viên nó, giúp việc gia đình như con cái. Nàng cũng quét dọn, cũng pha trà tiếp khách, cũng nấu nướng, ăn uống và rửa bát. Tất cả những cử chỉ, việc làm đó làm nó rất cảm động.

Khi mọi việc tang lễ của chú đã hoàn tất, nó phải trở về nhà. Nó buồn vì mất chú, bây giờ phải xa Hiền Lương lại càng buồn. Hiền Lương cũng rất buồn. Buổi tối trước hôm nó về quê, nó vào viện, đến khoa để cảm ơn. Rồi Hiền Lương ra tiễn nó. Hai đứa bịn rịn, ngồi trên ghế đá vườn hoa bệnh viện. Trong lòng u uẩn, mỗi người theo đuổi một suy nghĩ riêng. Im lặng rất lâu, mãi rồi nó mới cất lời :

- Anh phải về . . . . Cảm ơn em ! Em tốt với chú cháu nhà anh quá.
- Anh đừng khách sáo thế ! Em thương ông, thương anh. Em tiếc là không làm gì hơn được.

Lại im lặng rất lâu. Rồi Hiền Lương lương hỏi nó :

- Nếu anh về trường luôn thì cho em địa chỉ. Hôm nào hết thực tập em về Hà Nội sẽ đến chỗ anh.

Nó đành phải tiếp tục nói dối :

- Trường anh đang sơ tán, anh chưa biết địa chỉ cụ thể. Lương cứ cho anh địa chỉ thực tập ở đây.
Về tới trường, anh sẽ viết thư cho em ngay.

Hiền Lương ghi địa chỉ của nàng vào một mảnh giấy và nói :

- Nhớ viết thư cho em ngay nha !

Nó cảm động cầm tay Lương xiết nhẹ, nó thầm thấy sai lầm vì đã chót nói dối. Rồi nó cảm thấy tủi nhục vì thân phận của mình không xứng đáng với Lương. Nó hứa bừa :

- Ừ ! Anh về, tối mai sẽ viết thư cho em ngay.

Vườn hoa bệnh viện quá sáng, lại quá đông người, nó rất muốn ôm và hôn nàng. Mấy lần nó tự nhủ cứ liều ôm lấy nàng nhưng rồi nó sợ. Nhìn trước nhìn sau, cảm giác như tất cả các ánh mắt đang săm soi nhìn nó. Nó không dám . . .

Ngồi mãi, chẳng thể cất lời để nói thêm điều gì trước lúc xa nhau. Nó chào Hiền Lương, hẹn gặp lại rồi đứng dậy ra về. Trong lòng nó đang vang lên tiếng lòng tha thiết "Anh đã lừa dối em, Lương ơi ! Vĩnh biệt em . . . những rung động đầu đời của anh".

Tự trong sâu thẳm nó cũng muốn nói thật hết với Hiền Lương nhưng nó cũng biết rằng ngàn lần nó không đủ dũng cảm nói ra sự thật. Và, vì vậy nó không dám gủi thư cho Lương, nhìn dấu bưu điện quê nó, Lương sẽ biết ngay nó là kẻ dối lừa. Đến tận bây giờ mỗi khi nhớ lại nó vẫn thầm gọi tên em "Lương ơi ! Giờ này em ở đâu ?" Có những khi nó lại cảm thấy hối tiếc và ước, giá mà ngày ấy nó hôn em . . . . Nhưng mà để làm gì cơ chứ, nó tự hỏi rồi tặc lưỡi "Ôi Giời ! Tuổi trẻ mà, cuộc đời mà, biết làm sao được Lương ơi !"

Làm thợ

Về đến nhà, phần buồn vì chú mất, phần buồn vì xa Lương, lại buồn thêm vì ba tháng đóng cửa, bây giờ về nhà đã mười mấy ngày vẫn không có khách, không có việc làm, nó quyết định ra Hà Nội tìm cơ hội kiếm sống. "Khăn gói quả mướp", nó leo lên xe hàng từ bến xe phố huyện. Chẳng bao lâu, nó nhảy xuống xe ở Bến Nứa, ngay đầu cầu Long Biên.

Vẫn là cái bến xe ấy, nhưng lần này cảm giác của nó thật khác lạ. Các lần trước đây, nó ra Hà Nội để đi học hay đi chơi nên thường chẳng chú ý gì đến quang cảnh xung quanh. Lần này, "tay nải" trên vai, nó dáo dác quan sát tất cả, thấy bến xe dường như ồn ào và nhộn nhịp hơn. Nó có cảm giác rất xa lạ khi phải đóng một vai đi tìm việc làm và sắp sửa bước chân gia nhập vào cái chốn đô hội hỗn độn này, một cảm giác cô độc khó tả . . . .

Trước tiên, nó phải tới nhà chị Dụng để ở nhờ tạm nhà chị trong thời gian đi tìm việc. Nhà chị Dụng vẫn ở căn phòng tầng một nằm trong một biệt thự thời Pháp cổ tại 155 Bùi Thị Xuân. Thực ra đây là căn phòng trệt của biệt thự, chỉ rộng 16 mét vuông và cao dưới 3 mét. Cả nhà chị gồm hai anh chị, sáu đứa con và một người giúp việc, thêm nó nữa là mười người. Vì nhà quá chật nên anh chị làm thêm một căn gác xép rộng 8 mét vuông, chiếm nửa căn phòng.

Từ ngoài đi vào, qua cửa là một bộ bàn ghế, rồi đến một khoảng trống dùng để trải chiếu ngồi ăn cơm, đồng thời cũng là chỗ ngủ của bốn đứa cháu gái vào ban đêm. Tiếp đến là một cái tủ đứng và sát đó là giường ngủ của anh chị, kịch vào tường. Cuối chân giường là một cái thang gỗ dựng đứng để làm lối lên gác xép. Muốn lên gác xép phải chui qua một cái lỗ vuông, mỗi chiều chỉ có 60 phân. Bên trên lỗ gác xép có một cái cửa gỗ gắn vào bản lề ở bên tường để có thể mở lên cho cửa áp vào tường mỗi khi lên xuống. Lên rồi thì đóng cửa lại cho an toàn kẻo rơi qua lỗ mà sứt đầu mẻ trán. Từ sàn gác xép lên đến trần nhà chỉ có 80 phân, ai mà dài lưng thì khi ngồi phải cúi khòm khòm. Cho nên, tốt nhất đã lên gác xép là nằm luôn, ngồi làm chi cho mỏi.

Tối đến, đi ngủ, anh chị nó nằm với thằng út Dũng, bốn đứa cháu gái nằm đất, bà Ngà giúp việc với thằng cu Hùng và nó thì nằm gác xép. Cả nhà chỉ có hai cái quạt "ba lăm đồng" (quạt con cóc) nên mấy nhân vật ngủ trên gác xép phải dùng quạt "ma-ri-nan". Mùa hè, ở trên gác xép thì đúng là trong "Hỏa Lò", được cái may, tường "nhà Pháp" xây 40, cũng đỡ hấp nhiệt lúc ban ngày nên có thể chịu được.

Ở nhà chị Dụng được mấy tháng mà nó vẫn chưa tìm được việc làm. Mãi rồi chị Dụng mới nhờ được một người họ hàng xin hộ việc cho nó. Đó là ông Cầm, chú rể nó. Lúc đó ông Cầm ở trong ban giám đốc của Sở Công Nghệp Hà Nội, phụ trách khối công nghiệp ngoài Quốc doanh. Nó hỏi thăm đường đến nhà ông Cầm ở phố Tạ Hiện (mọi người hay gọi là Tạ Hiền). Sau khi nó trình bày hoàn cảnh và nguyện vọng, ông đồng ý xin việc cho nó.

Đúng hẹn, sau vài ngày, ông Cầm dẫn nó đến một xưởng đúc nhôm của tư nhân. Người chủ xưởng là anh Ngọt, nhà ở phố Bạch Mai, trên tầng hai của một ngôi biệt thự cổ.

Xưởng mà anh Ngọt thuê nằm trong một căn nhà cấp bốn, khung sắt mái tôn rất cao, đúng kiểu nhà xưởng. Phần anh Ngọt thuê là một nửa căn nhà, rộng chừng 100 mét vuông. Ở giữa xưởng là một lò lớn được xây bằng gạch chịu lửa cao 1,5 mét, đường kính lòng trong lò rộng khoảng 1 mét. Đáy lò được ken bằng thép tròn phi 22, nằm cách nhau 5 cm. Cửa lò bên dưới rộng 40x40 cm dùng để đốt củi khi nhóm lò và lấy sỉ than ra. Chiếc nồi nấu rất lớn bằng thép có đường kính một mét, cao một mét đặt bên trên lò. Miệng nồi có một cái mỏ rót trông như phần dưới của một cái mỏ chim. Hai quai nồi bằng sắt được hàn chắc chắn vào thành nồi và được treo bởi dây xích sắt to, đu trên một cái ba lăng có thể di chuyển theo dàn thép ở phía trên.

Nhiệm vụ của nó và thằng Toán, một thằng cùng làm cũng trạc tuổi nó, là chọn nhặt nhôm phế thải, gang, mảnh đuya-ra (duralumin – từ tiếng Pháp – một loại hợp kim nhôm rất cứng và bền) của máy bay, trong một đống vật liệu do anh Ngọt mua về, cho vào trong nồi. Sau đó hai thằng cùng hai người khác nữa vận chuyển các khuôn đúc nhôm đến đúng vị trí định sẵn gần lò nấu để sẵn sàng đổ nhôm nóng chảy vào. Khuôn đúc được làm từ loại vật liệu gồm đất chịu lửa và cát, gọi là khuôn cát, thường gồm hai mảnh được ghép lại.

Thợ đốt lò phải điều khiển lửa để nấu chảy nhôm. Thợ đúc có nhiệm vụ quan sát nồi nhôm. Nhôm "chín" là một chất lỏng nóng sáng đỏ, sền sệt. Khi đó thợ đúc sẽ điều khiển ba lăng di chuyển nồi hợp kim đến gần khuôn rồi nghiêng nồi, rót vào từng khuôn. Cứ xong khuôn nào thì bê khuôn đó đi và đưa khuôn khác vào. Hết một mẻ đúc thì được một dãy dài vài chục khuôn, chờ nguội để lấy phôi đúc ra. Hết một mẻ nấu, lại cho nhôm nguyên liệu vào nấu mẻ khác.

Trong khi đó, phần khuôn đã đổ nguội dần. Khi khuôn đã nguội, người ta tháo khuôn và lấy phôi đúc ra. Những cái khuôn được vệ sinh sạch sẽ, lại cho vào xếp hàng chờ đổ đợt mới. Dây chuyền cứ thế lặp đi lặp lại, nhịp nhàng và liên tục. Hết việc chuẩn bị khuôn, nó và thằng Toán phải mang các phôi đúc đã nguội, đem bẻ hết ba-via (Bavure – từ tiếng Pháp – gờ, cạnh thừa của sản phẩm) và dũa cho sạch. Phôi đúc nào bị khuyết lõm hay bị rỗ sẽ phải loại đi và cho vào lò nấu lại.

Nó làm thợ tiện

Làm phụ việc được ít lâu, thỉnh thoảng anh Ngọt cho thằng Toán và nó sang học tiện. Các sản phẩm của cơ sở anh Ngọt là mâm nhôm, thau nhôm, xoong nhôm pha gang, pha kẽm tái sinh. Đó là thứ nhôm tạp giòn chứ không dẻo như nhôm nguyên chất. Để có thể thành thương phẩm, phôi đúc phải được tiện lại. Công việc của thợ tiện trông thì có vẻ khó, nhưng khi nó làm thử thì thực sự không khó lắm. Người làm cần khéo tay để có sản phẩm đẹp và cẩn thận để tránh xảy ra tai nạn lao động.

Các máy tiện ở cơ sở anh Ngọt đều là máy tự chế được thiết kế đơn sơ, tối giản nhất. Khung và bệ máy được làm bằng thép "chữ V" hàn vào nhau, cao khoảng 1,2 mét, dài 1 mét, rộng 1 mét. Mô tơ được đặt ở dưới cùng và được bắt bu lông vào khung máy. Dây điện từ mô tơ được nối với cầu dao điều khiển đặt đúng tầm ở tay phải của người đứng tiện. Đầu mô tơ được lắp pu-ly 3 cấp (poulie – từ tiếng Pháp – Trong chuyên môn cơ khí gọi là "bánh đai"), to nhỏ khác nhau để thay đổi tốc độ. Một trục quay bằng thép, trên đó cũng được gắn pu-ly 3 cấp, được cố định ở phía trên khung máy để làm trục tiện. Một dây curoa (dây đai) đơn mắc giữa hai pu-ly. Để thay đổi dây đai từ cấp này sang cấp kia, người thợ phải gạt cần số có 3 nấc 1, 2, 3, dây đai sẽ nhảy theo ý muốn. Mâm cặp dùng để cặp vật tiện được lắp vào trục quay. Tuy nhiên, vì là máy tự chế nên mâm cặp này không tự định tâm. Các lưỡi dao tiện được lắp trên bàn dao, còn bàn dao được gắn trên xe dao và có thể di chuyển vào-ra, phải-trái bằng tay quay hay thay đổi góc cắt của lưỡi dao tùy theo hình dạng và đường kính của vật tiện.

Việc đầu tiên của thợ tiện là lắp vật tiện. Người thợ phải điều chỉnh sao cho trục của vật phải đồng trục với trục mâm cặp của máy tiện. Đại để, thao tác rà dao tiện lên vật tiện cũng giống như "cân vành xe đạp" vậy. Điều chỉnh xong, vật tiện được bắt chặt vào mâm cặp. Nếu lắp vật tiện không đồng trục, khi tiện dao tiện sẽ gọt rất dầy ở một phía, rồi mãi sau mới gọt phía bên kia. Kết thúc công đoạn tiện, tâm không nằm giữa sản phẩm, vật tiện xem như bỏ đi.

Học tiện được một thời gian ngắn thì anh Ngọt nhận thấy nó khéo tay và tiện rất tốt nên đã cho nó chuyển sang đứng máy tiện, một mình một máy. Thằng Toán vẫn phải phụ việc ở bộ phận đúc, vừa độc hại vừa nặng nhọc mà lương lại thấp hơn nó. Được đứng máy tiện, ăn lương theo sản phẩm nên thu nhập của nó cũng khá hơn trước. Nó vui thích với công việc mới này, vừa nhẹ nhàng, vừa mang tính kỹ thuật. Phôi tiện khi đưa vào thì sần sùi, màu ghi đen, xấu xí. Nó đem lắp lên máy, quay thử, cà dao, thấy đã đồng tâm, nó bắt đầu tiện. Đầu tiên là đưa dao tiện thô vào trước phá lớp ngoài sần sùi. Bước thứ hai dùng dao "trung" rà bề mặt sản phẩm thì đã khá mịn rồi. Bước thứ ba là dùng dao "tinh" lướt nhẹ và chính xác trên bề mặt sản phẩm để "lấy bóng". Thao tác cuối cùng là cắt sản phẩm, các dường tiện là các vòng tròn cứ thu hẹp dần dần vào "tim" và kết thúc bằng một vòng tròn nhỏ xíu như đầu tăm. Sản phẩm sau khi tiện bóng lọng, trông rất đẹp mắt.

Ngoài ra cũng phải kể đến việc mài dao và gá lắp dao cho đúng thì mới tiện tốt được. Dao tiện bằng thép cứng, trông như một cái đục, chỗ mũi dao vênh lên chếch một góc 45 độ. Bình thường một bộ dao gồm ba chiếc đại, trung, tiểu. Mài dao tiện cũng khó như mài kéo thợ may và mài đục. Nếu mài không khéo, chỉ vênh một chút khi tiện hiệu quả không cao, phải mài lại. Tệ hơn nữa, mài đi mài lại, cuối cùng phải vứt dao đi.

Vài tháng sau nó thành thợ tiện giỏi, số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra tương đương với thợ cả làm lâu năm. Anh Ngọt rất thích và quý nó lắm.

Làm thợ đánh bóng

Nó làm được một thời gian ở cơ sở của anh Ngọt thì một hôm ông Cầm xuống kiểm tra cơ sở thấy chỗ nó làm vừa nóng bức vừa độc hại, phải đi làm xa, mà lương lại thấp. Ông Cầm xin cho nó chuyển sang làm ở một cơ sở khác. Chỗ làm mới của nó ở Chợ Giời, chỉ cách nhà chị Dụng có hai cây số và cách nhà anh Bính nó có 200 mét. Đó là một cơ sở mạ điện của anh Vĩnh.

Cơ sở của anh Vĩnh ở ngay tại nhà của anh nên có phần chật chội. Công việc của cơ sở này là phục hồi các phụ tùng xe đạp. Đùi, đĩa, ghi đông, pô-tăng, may-ơ, . . . cũ hỏng được hàn đắp lại, sửa nguội mài dũa cho phẳng phiu và đúng kích thước. Cuối cùng đưa vào mạ kền và đánh bóng. Vì nó có tay nghề tiện nên anh Vĩnh giao cho nó đứng máy đánh bóng.

Công việc này đối với nó rất nhẹ nhàng. Cái máy đánh bóng rất đơn giản, chỉ gồm một cái mô tơ, dây cu-roa truyền lên một trục quay. Đầu trục quay được lắp "phớt" là nhiều lớp vải bạt cắt hình tròn. Nó chỉ việc bôi thuốc đánh bóng màu xanh lá cây (oxide đồng) vào phớt, đóng cầu dao cho máy chạy rồi tì sản phẩm đã mạ lên mặt phớt, đưa đi đưa lại. Một lúc sau sản phẩm đã bóng loáng, ánh trắng xanh màu kim loại rất đẹp.

Một cái máy đánh bóng có hai đầu phớt để hai người có thể cùng làm việc. Khi máy chạy, nó đứng một đầu, đầu khia là cái Thủy, cháu họ nó, con chị Nhàn. Máy đánh bóng chạy rất êm và cũng ít bụi, hai chú cháu nó vừa làm vừa hát. Công việc đơn giản thế nhưng lương lại khá hơn nên nó rất thích.

Mặc dù chỗ làm chỉ cách nhà anh Bính nó có 200 mét nhưng nó vẫn ở nhà chị Dụng. Anh Bính biết nó làm ở đây mà không thấy anh nói gì nên nó "chả thèm".

Ban ngày đi làm, tối nó tranh thủ đến số 8 ngõ Trần Xuân Soạn học lớp ghi ta do anh Can dạy. Sau này nó còn chơi thân với thằng Bình là em trai anh Can. Một tuần nó học ghi ta vào ba buổi tối Thứ Hai, Thứ Tư và Thứ Sáu.

Các buổi tối còn lại nó đi chơi tung tẩy với các bạn. Dần dần nó có rất nhiều bạn ở hà Nội. Đầu tiên phải kể đến thằng Trương, anh thằng Khóa bạn phố Sặt của nó. Nhà thằng Trương ở Phó Đức Chính, dắt dây nó chơi với thằng Thanh, thằng Tiền và thằng Tuệ, cũng ở Phó Đức Chính. Từ mấy đứa ở Phó Đức Chính, lại dắt dây tiếp mấy thằng Tuân, thằng Gia, thằng Đình, thằng Hai ở Yên Phụ. Ở xung quanh chỗ ở của nó tại Bùi Thị Xuân thì nó chơi với đám thằng Chiên, thằng Thanh thợ may, cái Phúc, cái Anh Quỳnh, . . . .

Đúng là cuộc sống ở thành phố có nhiều bạn bè để mà chơi bời, lêu lổng. Mấy đứa ở thành phố mỗi nhà một cảnh, mỗi đứa một kiểu, rất khác nhau nhưng đều có cái hay riêng. Vả lại, Hà Nội đúng là rất nhiều chỗ để chơi, chán chỗ này thì đi chỗ khác. Có buổi tối, chúng nó rong ruổi trên xe đạp đi từ hồ Tây ra hồ Gươm, rồi sang hồ Bảy Mẫu. Có tối xem xi-nê ở rạp Công Nhân hoặc rạp Tháng Tám, ăn kem Bốn Mùa hay kem Bô-Đề-Ga, . . . . Thế là ban đêm nó cũng làm thợ đánh bóng . . . mặt đường.

Đi làm, kể ra cũng có cái sướng của nó, là buổi tối và những ngày nghỉ được hoàn toàn tự do thoải mái, chẳng phải lo lắng học bài, thi cử, . . . . Cuộc sống cứ thế mà trôi đi, rất thoải mái.

Gia đình Kiếm

Ở Hà Nội thì nó đã có sẵn hai thằng bạn từ ngày cùng lên Chùa Thày đi thi vào trường Mỹ Thuật với nó. Đó là thằng Kiếm và Thằng Nam. Kỳ thi ấy nó đau bụng bỏ thi, thằng Kiếm thi không đỗ, còn thằng Nam đỗ vào học hệ trung cấp. Thằng Nam học ở khoa nội thất của trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Công Nghiệp.

Thằng Kiếm bấy giờ cũng đi làm công nhân ở một hợp tác xã nhựa. Nhà thằng Kiếm ở phố Cầu Đất, ngoài đê sông Hồng. Đường Cầu Đất tuy rộng nhưng là đường đất, nườm nượp xe tải chở tre, nứa, vôi, cát, đá sỏi, . . . từ bến sông lên. Về mùa mưa con đường rất lầy lội với ngoằn nghoèo, trầy trật những vệt bánh xe lún sâu đục ngầu bùn đất. Còn vào mùa nắng con đường này thường xuyên bụi mù mịt. Lớp bụi đường có chỗ dày đến hai chục phân, lội bộ trên đường, bột đất phùm phụp vọt lên bẩn hết hai bên ống quần. Nhà Kiếm ở mặt con đường đó, mặt tiền rộng khoảng hơn 10 mét, một ngôi nhà chạy ngang dựng bằng tre, nứa, mái lợp lá cọ. Tường nhà là các phên nứa, cửa trước, cửa sau và vách ngăn phòng cũng đều bằng tre nứa.

Trong nhà rất sáng và thoáng gió vì ánh sáng ngoài trời và gió cứ việc chui qua mọi chỗ trên vách nứa. Nền nhà bằng đất dược đầm qua loa, xếp gạch đỏ chỗ có chỗ không. Nhà Kiếm rất nghèo, đồ đạc tềnh toàng với hai cái giường và một cái bàn thờ, lại cũng bằng tre nốt. Các cửa đều có "bản lề" bằng một vòng dây thép buộc vào cột. Cửa giả chả cần phải khóa, đi đâu chỉ cần khép cửa, móc sợi dây thép vào cột tre là xong.

Phía sau nhà thằng Kiếm có một cái sân rộng vài chục mét vuông, có một hàng gạch nhỏ xếp dọc từ cửa tới một cái chum đựng nước đã sứt miệng. Sát phía sau nhà, vẩy ra mấy mét vuông là một "nhà bếp" rất tạm bợ. Phần còn lại của cái sân sau toàn là cỏ dại, lau lách. Qua cái sân đó là bãi ngô rộng chạy tít suống tận mép sông. Đồng ngô nghiêng ngả, xào xạc khua lá trong cái gió lồng lộng của sông Hồng.

Nó rất hay đến chơi nhà thằng Kiểm và thân với cả gia đình. Thằng Kiếm có bốn chị em, chị cả đã đi lấy chồng, ở riêng. Chị thứ hai là Trâm Anh, da ngăm đen, người lùn, khỏe khoắn và có duyên. Nó quí chị Trâm Anh ở cái tính nết ân cần vui vẻ lại chăm chỉ. Hàng ngày chị vẫn phải quầy quả gánh nước từ cái máy nước công cộng ở rất xa về đổ đầy cái chum sứt, rồi còn cơm nước cho cả nhà. Nhiều lần nó đến chơi, chị còn nấu cả cơm nó. Ấy là chị cũng rất bận vì hàng ngày phải đi làm. Chị làm mậu dịch viên ở Cửa Hàng Bách Hóa 12 Bờ Hồ. Thằng Kiếm là đứa thứ ba rồi đến thằng út là thằng Hiệp.

Mẹ thằng Kiếm là một người đàn bà cao, nét hơi thô, khắc khổ và không đẹp. Trên gương mặt bà luôn ẩn chứa một nét buồn một cách nhẫn nại. Bố thằng Kiếm là công nhân ở Đoàn Xe 12. Nó đến nhà thằng Kiếm nhiều lần mà chỉ gặp ông duy nhất có một lần, mà ông cũng chỉ tạt qua nhà có một tí, đáp lại lời chào của nó ông cũng chỉ lạnh lùng gạt đầu rồi lại đi mất. Nó chẳng dám hỏi, nhưng có lẽ bố mẹ thằng Kiếm không ở với nhau.

"Dấu bôi vôi" (*)

Trước khi "đi bê" (A, B, C và K dùng để chỉ miền Bắc, miền Nam, Lào và Căm Pu Chia) anh Bát nó được đơn vị cho về nghỉ phép một tháng. Nó rất vui và nghĩ ngay đến việc phải làm việc gì đó cho anh Bát. Nó bàn với thằng Kiếm giới thiệu anh Bát với chị Trâm Anh. Thế là, một hôm, nó đèo anh Bát đi cùng nó đến chơi nhà thằng Kiếm, rình đúng lúc chị Trâm Anh có nhà. Chả biết có phải "cái duyên Ông Trời se" hay không mà chỉ mới gặp nhau lần đầu anh chị có vẻ quấn quýt nhau lắm. Rồi hai người bắt đầu hẹn hò, đưa đón, đi chơi riêng với nhau. Đúng là lính chiến có khác, rất nhanh, gần một tháng sau, anh Bát đã đưa chị Trâm Anh về quê nó "ra mắt". Đương nhiên dịp như thế thì nó và thằng Kiếm cũng phải về. Vì đã về quê chơi phải ở đêm, chị Trâm Anh giữ ý nên phải rủ thêm cái Cúc Hoa, bạn thân cùng bán bách hóa với chị về cùng. Mang tiếng là gái Hà Nội, nhưng chị Trâm Anh quen lam lũ, vất vả nên về quê nó chơi có mấy ngày mà chị cũng ra đồng gánh lúa, vớt bèo, băm rau, nấu cám lợn, . . . Cả nhà nó ai cũng quý chị.

Tình yêu đẹp đẽ của anh Bát và chị Trâm Anh từng ngày, mật ngọt, cho đến ngày anh lên đường vào chiến trường. Không biết sao mà anh chị lại không tổ chức đám cưới như nhiều anh bộ đội về tranh thủ lúc bấy giờ. Những ngày sau đó, mặc dù anh Bát đã đi xa nhưng chị Trâm Anh và cái Cúc Hoa thỉnh thoảng vẫn về chơi, chả khác gì đã là dâu con trong nhà. Chị vẫn giản dị, vui tươi, sống trách nhiệm "có trước có sau". Mỗi lần chị về chơi, cả nhà nó đón chị như đón một người con của gia đình. Ở nhà nó, ai cũng nghĩ, đến ngày anh được về, có thể chỉ là về tranh thủ thôi, thì anh chị sẽ làm đám cưới.

Lần nào chị Trâm Anh về chơi thì cũng có Cúc Hoa cùng đi. Đó là một cô gái cao dong dỏng, da ngăm ngăm và nhiều hơn nó một tuổi. Nhà Cúc Hoa ở ngõ Yên Thế, phố Nguyễn Thái Học, nơi có đường tàu điện chạy qua, hàng ngày đưa Cúc Hoa đi làm ở bến cuối cùng là bến Bờ Hồ. Cúc Hoa thích đọc tiểu thuyết và rất yêu thơ. Vài lần về nhà nó chơi, Cúc Hoa và nó trở nên thân nhau, hai người còn làm thơ phú tặng nhau. Rồi nó chợt giật mình vì thấy "nguy hiểm quá !", Cúc Hoa có vẻ thích nó thật sự, mà nó thì không. Vì thế nó luôn luôn giữ một tình bạn " ở khoảng cách an toàn".

Thời gian cứ dần trôi, đời người con gái đỏ mắt trông chờ đằng đẵng, biết có ngày nào . . . . Những lần chị Trâm Anh về thăm nhà nó cứ thưa dần, thưa dần. Rồi đến một ngày bẵng đi rất lâu, chị Trâm Anh không về chơi nữa, mà cũng không có thư từ tin tức gì. Gia đình nó không hiểu thế nào ?! Mới hay,

"Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé . . ." Cái Cúc Hoa với nó vẫn chơi với nhau như bạn bè. It lâu sau, cái Hoa yêu anh Mận, lớn hơn ba tuổi, nhà ở phố Hàng Bạc. Sau đó hai năm nó được đi đám cưới của hai người.

(*) Thơ Hồ Xuân Hương:
" . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,

Ngàn năm khôn chuộc dấu bôi vôi"

Ăn chơi Hà Thành

Sau khi hiệp định Pa-Ri có hiệu lực, ở Hà Nội lúc bấy giờ không còn bị Mỹ đánh phá. Người Hà Nội lại lục tục từ các nơi sơ tán trở về. Cho dù hoàn cảnh kinh tế rất nhiều khó khăn nhưng thanh niên Hà Nội vẫn giữ cái nếp "ăn chơi" và tìm ra cái cách phù hợp để mà "ăn chơi". Ừ thì còn đói, nhưng tại sao lại không chơi được nhỉ ? Cứ vào chiều Thứ Bẩy và ngày Chủ Nhật, nam thanh nữ tú diện những bộ cánh kiểu cách mới nhất, tụ tập nhau thành từng hội đạp xe diễu phố. Thường các đoàn nam hay nữ đi riêng, đạp xe lòng vòng quanh Bờ Hồ, các phố cổ hay xuôi xuống khu Ba Đình ra Hồ Tây – Đường Thanh Niên. Rồi các đoàn "dzai" lượn lờ vây quanh các đoàn gái mà ngắm nghía, trêu trọc. Cái cách diễu phố khoe mẽ và tán tỉnh ấy được gọi là "chậy tẩy". Dân chạy tẩy được gọi là "lính tẩy". Những con đường mà lính tẩy tấp nập lượn lờ như vậy được gọi là "phố tẩy đường nhựa". Nếu có đoàn "dzai" nào đó dẻo mỏ mà cặp được với một đoàn gái thì chúng bắt đầu làm quen, tán tỉnh, phần nhiều chỉ để cho vui, gọi đơn giản là "cưa đường". Ấy vậy mà cũng có trường hợp "cưa đường" mà thành đôi như vợ chồng Khải – Trâm, bạn nó.

Chạy tẩy thật là vui vẻ, coi như "xả su-páp" sau một tuần đi học hay đi làm vất vả. Nó cũng thích trò này lắm và đua đòi theo các bạn, nhưng kẹt ở hai chỗ. Một là, nó không có quần áo đẹp và đúng mốt. Hai là, những đứa con gái khi biết nó là "Người Nhà Quê", đều lảng ra hết. Cho nên, có những khi nó chỉ ước, giá như nó là "Người Hà Nội".

May thế nào mà nó lại chơi thân với thằng Hoành. Nhà thằng này không phải giầu nhưng Hoành quý nó lắm. Thấy nó không có quần áo tử tế, thằng Hoành cho nó một cái quần loe simili, một cái áo "lon" trắng cộc tay. Nó rất biết ơn thằng Hoành vì như thế nó có thể theo đòi cùng chúng bạn. Trong đầu nó tâm niệm, lúc nào đó, nó sẽ trả ơn. Thế mà bao nhiêu năm rồi chẳng biết nhà thằng Hoành ở đâu, nó chỉ biết mang máng, hình như thằng Hoành ở khu tâp thể Trương Định, một khu quá rộng để nó có thể tìm thấy bạn.

Những từ lóng "lính tẩy", "lính nhẩy" (chuyên nhảy tầu điện), "lính mổ" (chuyên làm việc ở "Công Ty Hai Ngón" – tức là móc túi, ăn cắp), "bớp", "bóng" (gái điếm) là những từ mà dân "ăn chơi" "anh chị" thường sử dụng. Trong đó lính nhảy là thành phần thường là các thanh niên thích chơi hay đua đòi. Đám này không phải là đám "tệ nạn xã hội" và thường khi họ là những người đi tiên phong về mốt thời trang ở Hà Thành. Trong mắt những người Hà Nội nghiêm túc, lính tẩy là những thanh niên đua đòi chứ không phải "con nhà lành" và có thể còn bị liệt vào diện không được tử tế cho lắm.

Sau ngày miền Nam giải phóng, thanh niên Hà Thành lại đuổi theo mốt lan ra từ Sài Thành, nhất là phong trào Hip-py (Hippy). Phong trào Hippy là phong trào thanh niên khởi nguồn ở Mỹ từ đầu những năm sáu mươi, quay về với tự nhiên và chống đối chiến tranh. Sau này trở thành một trào lưu về phong cách sống rời bỏ trật tự xã hội nghiêm khắc để được sống tự do, tự nhiên, bầy đoàn. Hippy lan sang Sài Thành từ đầu những năm bảy mươi và bây giờ lan ra Hà Thành. Tuy nhiên, thanh niên Hà Thành chỉ bắt chước Hippy về mặt hình thức, xem như một kiểu "ăn chơi" mới.

Cứ chiều các ngày cuối tuần, bọn Phó Đức Chính và Yên Phụ hay tụ họp nhau ở nhà thằng Gia. Nhà thằng Gia rộng, có bếp riêng và đun lò than. Chúng tự tạo lấy kìm uốn tóc bằng sắt phi 10, giống như một cái kéo, có chuôi dài quấn giẻ hoặc đút vào ống trúc làm tay cầm cho khỏi nóng. Đoạn đầu để dài khoảng 25 phân gồm hai má. Một má để nguyên sắt tròn, đầu mài tù, má còn lại đập dẹt, uốn lòng mo và ôm hờ vào má tròn. Vài bốn cái kìm như thế thay nhau nướng trên lò than. Chúng dùng các cái kìm nóng để uốn tóc cho nhau hoặc tự uốn lấy. Đứa nào đứa nấy để tóc rất dài rồi uốn từng lọn cho tóc quăn, từ dưới lên, từ trong ra, thành nhiều lớp đuổi nhau, "ăn sóng", như tóc Tây, gọi là tóc Hippy. Nhiều đứa khéo tay, uốn được những bộ tóc rất đẹp.

Tóc dài đi với quần loe là mốt lúc đó. Tiêu chuẩn đánh giá "dân ăn chơi", nhà "Dzầu" là phải có cái quần ống loe bằng si-mi-li màu ghi đá, áo pô-pơ-lin pha ly lông màu trắng, hoặc là "trên lon - dưới téc" (áo nylon, quần tergal), chân đi dép nhựa trắng Tiền Phong, hoặc dép tông Thái màu xanh, túi đút bao thuốc Tam Đảo hay Đrao bao bạc, mắt đeo kính râm A-me-ri-cơn, đầu đội mũ cat-ket màu trắng, tay đeo đồng hồ Sen-kô (Seiko – đồng hồ Nhật) và đi xe đạp pơ-giô màu cá vàng. Những trang phục như thế vừa là mốt ăn chơi Hà Thành vừa biểu hiện cái triết lý sống coi trọng vật chất. Thời đó bài "ca dao" "Mười Yêu" rất phổ biến và có nhiều dị bản :

Một yêu anh có Sen-cô.
Hai yêu anh có Pơ-giô cá vàng.
Ba yêu lon, téc gọn gàng.
Bốn yêu hộ khẩu rõ ràng Thủ Đô.
Năm yêu không có bà bô.
Sáu yêu Văn Điển ông bô sắp về.
Bảy yêu nhà cửa đề huề.
Tám yêu anh phải có nghề trong tay.
Chín yêu ví ních tiền đầy.
Mười yêu quan chức thì hay vô cùng.
Còn có câu trâm ngôn xanh rờn làm kim chỉ nam cho chị em phụ nữ : Đẹp trai đi bộ, không bằng mặt rỗ đi lơ.

Phong trào ăn chơi Hippy ngày càng lan rộng, chính quyền đã cử lực lượng công an và Thanh Niên Cờ Đỏ mở chiến dịch truy quét. Họ đón lõng ở các góc phố hoặc quanh Bờ Hồ. Hễ thấy nhóm thanh niên nào quần tuýp, quần loe, tóc dài thì bao vây bắt gọn. Tóc dài thì được xử lý bằng một đường dũi tông đơ trắng phau từ gáy lên đỉnh đầu. Quần tuýp, quần loe thì chỉ cần một đường kéo cắt chéo từ dưới lên đến gối, rồi cắt te tua cho cụt ống. Xử lý xong, các chàng và các nàng được xếp hàng, dẫn đi dọc phố cho người đi đường chỉ chỏ, chê cười "để giáo dục". Vụ này làm chúng nó rất sợ, lúc nào cũng phải len lén dè chừng. Lính tẩy, thành ra, rất sợ Thanh Niên Cờ Đỏ, . . .

Ra dáng ông cậu

Làm ở cơ sở của anh Vĩnh dù lương không nhiều nhưng nó cũng đủ sống dư dả. Nó vẫn ở nhà chị Dụng, trừ khoản tiền ăn uống nộp cho chị Dụng, nó chỉ giữ một phần nhỏ để tiêu vặt, còn đâu hàng tháng nó gửi về cho bu nó ở quê.

Con cả của chị Dụng là cháu Tuyết Văn, chỉ kém nó 3 tuổi. Sau Tuyết Văn, cứ cách hai năm, chị Dụng lại sinh một cháu, sáu đứa tất cả. Cháu Cương nhỏ nhất sinh năm 1969, là năm nó học lớp sơ cấp mỹ thuật dưới Sặt, thua nó 14 tuổi. Nó là cậu ruột nhưng tuổi tác chênh nhau với lũ cháu không nhiều nên nó sống với các cháu vui vẻ như bạn bè. Mặt khác nó vẫn làm oai ông cậu, lắm lúc khắt khe và giữ "kỷ cương" với các cháu ra trò.

Là ông cậu, nó hay đi họp phụ huynh cho các cháu, thay anh chị. Một lần, thằng Hùng, cháu nó, nghịch ngợm thế nào mà để nhà trường và cô giáo gửi thư về nhà và mời phụ huynh đến gặp. Nhận được thư của nhà trường, nó giận lắm. Nó bắt thằng Hùng quỳ xuống, quay mặt vào tường. Rồi nó lấy lá thư đem dán vào tường, ngang tầm mắt thằng Hùng. Nó bắt thằng Hùng vừa quỳ vừa phải đọc bức thư cho đến khi thuộc lòng mới được ăn cơm. Ngay sau đó, nó giục bà Ngà dọn cơm ngay bên cạnh thằng Hùng, cả nhà ăn uống vui vẻ. Thằng Hùng rất sợ, phải quỳ nguyên tại chỗ, không dám ho he gì. Cả nhà ăn uống mà thằng cháu không được ăn, lại phải quỳ thì nó cũng thấy xót ruột. Nhưng nó làm mặt lạnh, tỉnh bơ, cương quyết không thay lời. Ăn cơm xong, nó đứng dậy bước ra cửa, vẫy riêng cái Tuyết Văn theo và bảo nhỏ :

- Cậu sang nhà chú Chuyến, mày ở nhà cho thằng Hùng nó ăn cơm. Xong,
dọn mâm bát ra ngoài sân, giả vờ hát to một câu, cậu nghe tiếng cậu về.

Dặn cái Văn xong, nó lững thững sang nhà anh Chuyến. Nhà anh Chuyến ở số 157, ngay sát bên cạnh, chỉ cách bức tường xây cao mét tám. Nó ngồi uống nước và chơi ghi ta cùng anh Chuyến. Ở bên kia, thằng Hùng ăn cơm xong, Tuyết Văn dọn mâm ra sân, vừa rửa bát vừa hát. Nó biết ý, lại lững thững đi về. Vừa đi nó vừa cố tình hát to, đánh động cho thằng Hùng. Qua cửa sổ, nó thấy thằng Hùng đang uống vội hớp nước, rồi hối hả chạy về chỗ, lại quỳ xuống như chưa có gì xẩy ra. Nó chẳng nói năng gì, trèo lên gác xép ngồi đọc truyện. Một giờ sau quay xuống, nó vẫn thấy thằng cháu đang quỳ, mắt lim dim ngủ. Nó xuống khỏi gác xép, gọi thằng cháu ra, bắt xin lỗi, bắt hứa và làm kiểm điểm, rồi nó mới tha.

Sáu đứa cháu cộng với nó là bảy, vừa hay tuần có bảy ngày, nên nó làm một cái đồng hồ trực nhật. Thằng Cương bé quá, nó tha. Bảy ô đồng hồ thì năm ô là năm đứa cháu, một ô tên nó và một ô là bà Ngà. Cái kim đồng hồ cứ lần lượt quay từ tên này sang tên khác theo ngày, đến tên ai, người đó phải trực nhật. Nhiệm vụ trực nhật là lau nhà, xách nước, chẻ củi, rửa bát, giặt quần áo. Kỷ luật duy trì rất nghiêm. Mỗi tháng một lần cả nhà, kể cả anh chị, phải ngồi họp để rút kinh nghiệm, phê và tự phê. Ai làm tốt được khen, ai làm không tốt bị chê. Anh chị nó có gì không phải, nó và các cháu phản ánh, anh chị phải tiếp thu và sửa chữa.

Cái Văn bấy giờ đã 17 tuổi đang học lớp 10 (cuối cấp III). Tuyết Văn rất xinh gái nên các bạn của cháu đại đa số là những đứa xinh như cái Nga, cái Trâm, cái Dung, vài đứa nữa, bây giờ nó không còn nhớ tên. Tiếc thay cả lũ bạn cái Văn toàn gọi nó là cậu, xưng cháu. Có khi nó thích một đứa nào trong số đó, xong lại ngại không dám tỏ thái độ, mà vẫn phải làm mặt bề trên.

Cậu mà lỵ . . . . !

Tình đầu

Nó hay đến chơi nhà Cúc Hoa ở ngõ Yên Thế. Cúc Hoa có đứa em gái là cái Hợi, kém nó bốn tuổi, đang học lớp 9 (lớp giữa cấp III). Khác với Cúc Hoa, cái Hợi không cao, chỉ tầm thước, nhưng da trắng, phải nói là rất trắng, môi lại đỏ nữa. Đang tuổi dậy thì, nên càng nhìn con bé, nó càng thấy cái Hợi đẹp. Nó bắt đầu thích cái Hợi rồi dần dần rất thích Hợi lúc nào không hay. Nhưng nó không dám tỏ thái độ gì. Thỉnh thoảng nó tới chơi, cho Hợi mượn sách hoặc mượn sách của Hợi. Có nhiều lần nó chép vài bài thơ hay, nắn nót kẹp vào sách mà đưa cho Hợi. Rồi, nó cảm thấy càng ngày Hợi càng tỏ ra có cảm tình với nó, mà có lẽ thích nó rồi cũng nên ?! Nó mừng lắm nhưng "mặt ngoài còn e".

Con đường đến nhà Hợi nó đã quen, cứ mỗi lần đạp xe đến gần là nó cảm thấy hồi hộp và bồn chồn biết bao. Cái ngõ Yên Thế là một con đường rải đá. Hai bên đầu ngõ là hai cái biệt thự kiểu Pháp rất đẹp, quay mặt ra phố Nguyễn Thái Học nhưng lại có lối đi riêng trong ngõ. Phía trong ngõ còn mấy cái biệt thự nữa, cũng rất đẹp và um tùm cây cối. Gần ngay đầu ngõ là một cửa hàng bán chất đốt, mấy cái téc dầu hỏa nằm chình ình chắn mất một phần lối đi. Nhiều khi lối đi bị chặn gần hết bởi rồng rắn can thùng và người xếp hàng mua dầu. Vậy mà sao nó thấy cái ngõ này rất đẹp, với những bóng cây rợp mát xòa ra từ những ngôi biệt thự. Một cái đẹp của ngõ nhỏ Hà Nội thời Pháp thuộc, lặng lẽ, thanh bình và thơ mộng.

Có lúc Cúc Hoa đã tỏ ra thích nó, nhưng bây giờ nàng đã yêu anh Mận, nên việc nó thích em gái nàng lại làm cho nàng thêm quý và coi là chỗ tin tưởng được. Bố mẹ Hợi đã nhiều lần gặp nó. Họ cũng thấy, thằng bé tuy có hơi "nhỏ con" một chút, nhưng trắng trẻo, môi đỏ, trông cũng thư sinh, hiền lành. Cu cậu tỏ ra có lễ phép, tính tình cũng dễ chịu, lại có công ăn việc làm ổn định. Vì vậy bố mẹ Hợi dần dà quý nó như con và rất yên tâm.

Mùa hè năm ấy Hợi được nghỉ hè hết lớp 9. Nó nghĩ rằng phải tạo ra cơ hội để nó có thể ngỏ lời với Hợi. Nó đến nhà chơi và mạnh dạn rủ em về quê nó chơi. Thực ra trong lòng nó cũng không có nhiều hy vọng được em đồng ý. Dù thế nào đi nữa, thì cũng coi như một ý kiến thăm dò để xem em phản ứng thế nào. Nó không thể ngờ em lại vui vẻ đồng ý ngay, chỉ băn khoăn :

- Em chỉ sợ bố mẹ không đồng ý cho em đi chơi xa. Mà, có khi anh thử xin phép bố mẹ xem, chứ em mà xin đi, chắc khó.

Tuy chưa xin phép bố mẹ em, nhưng nó và em lên kế hoạch và chuẩn bị đi chơi nhà nó rất kỹ. Em còn lo chuẩn bị túi du lịch và thu xếp chọn quần áo và các thứ lặt vặt khác để đi chơi.

Để thăm dò bố mẹ em, nó kể chuyện về quê hương nó, kể tỉ mỉ từng người nhà nó ở quê. Nó thấy bố mẹ em rất chăm chú nghe và bắt chuyện rất vui vẻ. Mấy hôm sau đó, nó đến chơi nhà em. Lựa lúc cả nhà đang vui vẻ, nó đứng đậy, tỏ thái độ rất nghiêm túc và rụt rè :

- Thưa hai bác ! Mấy hôm nữa cháu về nhà thăm thầy bu cháu ở quê, . . . . Ưh . . . . Ưh . . . .
- Có gì cháu cứ nói đi. – Bố em tươi cười gợi mở.
- Phải đấy, có gì con cứ nói. – Mẹ em nói hùa thêm.
- Dạ, vâng ! Cháu cũng xin mạnh dạn thưa hai bác, dịp này cũng là dịp nghỉ hè của em Hợi. Cháu xin
phép hai bác cho phép em Hợi cùng cháu về quê, gọi là biết nhà biết cửa . . . .

Vừa nói, nó vừa chăm chú nhìn bố mẹ Hợi. Chợt thấy ông bà khựng đứng, nét mặt đang tươi cười giãn nở, bỗng cau lại. Nó chợt nghĩ, thôi chết, hỏng rồi. Nghĩ vậy, nó vội nói thêm :

- Nhà cháu thì Cúc Hoa cũng đã về nhiều lần rồi, cháu và nhà cháu như nào, chắc Cúc Hoa cũng đã
nói chuyện với hai bác, đường đi cũng không xa lắm . . . .

Nó thấy bố mẹ em đưa mắt nhìn nhau, . . . rồi bố em hỏi :

- Thế hai đứa định đi thế nào ?

Nghe bố em hỏi thế, trong lòng nó như có trống rung cờ mở. Vậy là các cụ đã đồng ý rồi, thật là vui quá, nó chỉ muốn nhảy cẫng lên. Nó từ tốn nói :

- Thưa hai bác, cháu định đi bằng xe đạp ạ ! Có ba mươi cây số, chỉ đạp hai tiếng là đên nơi. Đi xe
hàng thì đông lắm, chen chúc vất vả và phải chờ đợi ở bến xe cũng rất lâu ạ !
- Thôi được, hai đứa phải đi cẩn thận đấy ! Cái đường năm là nhiều ô tô lắm.
- Dạ vâng ạ !

Về sau này nó mới biết, em đã nói chuyện với Cúc Hoa và nhờ chị gái nói trước với bố mẹ rồi. Chắc hai cụ cũng rất yên tâm mới dễ dàng cho phép nó đưa em đi chơi xa như vậy.

Tình đầu . . .

Đó là vào một buổi sáng Chủ Nhật, được bố mẹ em cho phép, cả em và nó đều vui lắm. Em vui chẳng những vì kết quả học tập cuối năm rất tốt và còn vui hơn vì đây là lần đầu tiên em được đi chơi xa. Mười sáu tuổi, em vui vẻ, hồn nhiên, mơ mộng và trong sáng như con chim non. Ngay chiều hôm đó nó đèo em qua Bùi Thị Xuân để báo với anh chị và các cháu nó đi về quê mấy ngày. Trên cái xe Phượng Hoàng xích hộp màu cánh chả, nó cứ thong thả đạp. Trên đường đi, em phấn khởi, tíu tít hỏi nó đủ thứ vì cái gì đối với em cũng lạ. Đây là lần đầu tiên em được về nông thôn, cũng là lần đầu được đi chơi tự do không có bố mẹ. Nhưng có lẽ em vui một thì nó vui mười. Em đã đồng ý đi chơi riêng với nó như thế này, nó cầm chắc là em cũng yêu nó rồi. Nó yêu em và muốn có em thì nó phải mạnh dạn lên. Nó chờ cơ hội để "Tass Được Quyền Tuyên Bố" (tên một bộ phim của Liên Xô, rất nổi tiếng) là nó sẽ có em trong vòng tay . . . .

Chiều tà mùa hè tuy trời còn nắng nhưng gió lồng lộng thổi nên rất mát mẻ. Dọc hai bên đường, những cánh đồng lúa chín vàng ươm, nhấp nhô trên đồng những người nông dân đang thu hái vụ mùa. Lúa gặt xong chất đầy ở hai bên đường năm, có những chú bò đang gò lưng kéo xe lúa nặng, mấy chị nông dân chân đi đất, quấn sà cạp vàng nâu mầu nước ruộng, móng chân cũng vàng nâu, đang cong mông đẩy xe hỗ trợ cho bò. Đây đó, có những xe chưa xếp xong lúa, lũ bò, con nằm, con đứng dưới gốc cây ung dung gặm cỏ. Xa xa trong những thửa ruộng đã gặt xong, một lũ trẻ trâu đang hô nhau bắt chuột, người chạy chó sủa kêu nhặng xị, inh ỏi. Lác đác vài con cò trắng dạn người, con thì đậu trên lưng trâu, con thì lững thững đi trên ruộng lúa bắt tép. Khi người tới gần chúng vỗ cánh phành phạch bay lên, chao nghiêng, chao ngả vài cái rồi lại xà xuống ruộng.

Phía xa xa là xóm làng với những rặng tre mờ ảo trong khói lam chiều tỏa phủ trên các mái rạ ẩn hiện yên bình. Vút trên trời xanh, giữa làn mây trắng, vài cánh diều chao liệng trên thinh không, tiếng sáo diều da diết, dìu dặt, lúc gần lúc xa theo gió. Cảnh sắc thanh bình, lòng người man mác, cảm xúc dâng trào. Bỗng nhiên nó đạp xe chậm lại, chẳng muốn đi nhanh, sợ sớm trôi qua những giây phút bảng lảng thăng hoa tuyệt vời. Hai tay Hợi đang bám vào sườn nó đột nhiên bấu nhẹ :

- Anh ơi ! Hoàng hôn đẹp quá ! Dừng lại đi anh.

Nó rẽ xe vào một con đường có rặng phi lao cao vút, dẫn tới một làng nào đó. Nó cứ từ từ đạp xe trên con đường đất phủ dầy cỏ úa mùa hè. Rồi nó chọn một gốc cây sạch và dừng xe lại. Nó dựng xe vào gốc cây, hai đứa ngồi xuống thảm cỏ. Phía đằng tây, Mặt Trời đang lặn hắt ánh sáng màu cá vàng lên không trung. Vài đám mây màu ghi trắng nhấp nhô, cuồn cuộn được mặt trời luồn tia nắng phía sau vẽ lên một đường viền ở trên vàng rực hình lưỡi trai. Tít mờ xa, núi nhấp nhô mầu xanh nhạt nhòa vào chân mây hồng tím ngằn ngặt. Gió đồng lồng lộng thổi, mát rượi. Những người nông dân làm đồng dần dần về hết, không gian tĩnh lặng, rỉ rả đâu đó cất lên tiếng ri ri, khúc ca bất tận của loài dế.

Hai đứa không nói năng gì, em nhẹ nhàng ngồi xích vào nó, nó đưa tay lần tìm tay em. Nó nắm lấy bàn tay em, run run. Em cứ để yên tay trong tay nó và xích lại vào gần nó hơn nữa, . . . .

Nó nắm lấy bàn tay em, run run. Em cứ để yên tay trong tay nó và xích lại vào gần nó hơn nữa, . . . .

Hợi thì thầm, giọng rung rung cảm động :

- Đẹp quá ! Ở Hà Nội không bao giờ có cảnh này. Đây là lần đầu tiên em được ngắm nhìn hoàng hôn ở quê đấy. Cám ơn anh !

Trong lòng lâng lâng sung sướng, giọng nó cũng run run, ngọt ngào :

- Anh cảm ơn em mới phải. Có em hoàng hôn hôm nay mới đẹp thế đấy !

Em quay mặt nhìn thẳng vào mắt nó, nàng đưa bàn tay còn lại béo má nó :

- Trăng đã lên đâu mà sao "Chú Cuội" đã nhảy ra sớm thế ? Anh đừng có tán dóc nhé !

Mặt em ở gần sát với mặt nó, mắt em đang soi vào mắt nó. Nụ cười của em như bông hoa hé nở với hàm răng trắng nhỏ đều tăm tắp và làn môi đỏ lịm ngọt ngào, chờ đợi . . . . Bất thần nó quàng tay, ôm lấy đầu em, kéo lại gần. Không biết từ đâu đó, một sức mạnh nào đã cuốn đẩy, không thể cưỡng lại, môi nó từ từ chạm vào môi em. Một cảm giác rạo rực, mãnh liệt, chưa từng thấy làm cho hai đứa run bắn lên. Đây là nụ hôn đầu tiên của cả hai đứa và cũng là mối tình đầu của của cả hai. Nó cảm nhận được cơ thể của người thiếu nữ đang ở trong tay nó dường như lả đi trong hơi thở hổn hển :

- Anh Thập, . . . . Anh . . . . Em yêu anh !
- Hợi . . . . Anh yêu em . . . . !

Khi hai đứa về đến nhà thì trời đã tối. Cả bố mẹ và các anh chị nó đều rất mừng. Mọi người đón mừng em tíu tít như đón một người con đi xa về, không có một chút khoảng cách hay lễ nghi. Điều đó làm cho em cảm thấy gần gũi ấm cúng, không còn cảm thấy lo sợ gì nữa.

Trong bữa cơm tối, cả nhà vui vẻ hỏi chuyện em, thôi thì đủ thứ, từ hỏi thăm bố mẹ, gia đình đến việc học hành của em, . . . . Em cũng bắt chước nó gọi thày u rất tự nhiên, cả nhà nó chỉ tủm tỉm cười cười và nghe em nói chuyện.

Đêm đó nó vẫn ngủ với thầy nó như mọi khi, còn em thì ngủ với bu.

Hôm sau là Thứ Hai, nó đèo Hợi xuống Sặt chơi với các bạn. Trong đám con gái, có một hai đứa dường như có tình ý gì với nó nên không được vui. Những đứa con gái khác và nhất là lũ bạn trai thì vui lắm. Chúng nó cứ xâu vào hỏi chuyện và ngắm nghía em. Con gái Hà Nội có khác, người thì rõ xinh, ăn nói lại lễ độ, rất gần gũi chứ không điệu đà kiểu cách. Thằng Thập này đúng là gặp may, sướng thật !

Trưa hôm đó nó và em ăn cơm nhà thằng Khóa, thì lại đúng là bữa cơm liên hoan tiễn thằng Khóa đi bộ đội. Bữa liên hoan rất đông họ hàng và bạn bè thằng Khóa. Nó thấy thật may mắn, vô tình về chơi lại đúng dịp tiễn bạn đi bộ đội. Cơm xong, Khóa rủ cả hội vào nhà thờ chơi và chụp ảnh kỷ niệm. Cả hội rất đông bạn bè di chuyển khắp phố Sặt, vừa đi vừa nói chuyện ầm ĩ rất vui vẻ, chỗ nào cảnh đẹp thì dừng lại chụp ảnh.

Buổi chiều hôm đó, cả hội lại kéo lên nhà nó, sang bưu điện chụp ảnh chung. Rồi hứng chí, rình lúc không có ô tô chạy qua, cả lũ đứng giăng hàng trên đường Năm để chụp một "pô". Tấm ảnh này em cũng đứng cạnh nó, tóc em tung bay trong gió, trông rất đẹp. Cả hội bạn bè ăn cơm tối ở nhà nó vui vẻ lắm. Mãi đến chín giờ tối, lũ bạn nó mới đèo nhau trở về Sặt.

Sáng thứ Tư, nó và em qua tiễn Thằng Khóa đi bộ đội trong "Lễ Giao Quân" ở phố Sặt. Sau đó nó đèo em về Hà Nội. Trong lòng tràn ngập niềm vui và hạnh phúc.

Thằng Trương

Thằng Trương càng lớn càng đẹp, chẳng những mặt đẹp, thằng này lại cao, cân đối. Cơ thể thằng này lại rắn chắc vì nó học võ từ nhỏ. Đặc biệt thằng Trương tán gái thì dẻo mỏ lắm, "thôi rồi !". Mười đứa con gái chơi với nó thì chín đứa "chết". Mà cũng phải, thằng này đã đẹp trai, vui tính, ăn nói giỏi, biết vẽ, biết chơi ghi ta, lại con nhà giầu Hà Nội gốc.

Ở Hà Nội, nó vẫn giấu tiệt nó đã có Hợi là người yêu, chưa công khai với bạn bè, trừ thằng Kiếm và thằng Trương. Thỉnh thoảng nó cũng đưa Hợi đi chơi cùng với Thằng Trương nhưng cũng chỉ là thỉnh thoảng. Thằng Trương thay người yêu như thay áo, không biết đâu mà lần, không khéo thì em lại tưởng nó cũng giống thằng bạn thì nguy.

Thằng Trương rất vui tính và hay cầm chòm những trò quậy phá. Nhiều trò quậy của nó rất quá đáng nhưng không thể nhịn cười được mà cũng không thể quên được những chuyện nó "nghịch đểu". Chuyện tôi sắp kể dưới đây là một chuyện như vậy.

Thằng Trương có biệt tài đánh rắm "tùy biến", nghe như thật. Nó lại hay dùng cái biệt tài ấy để trêu ghẹo các cô gái. Đi trên đường Thanh Niên(*), chọn những đôi trai gái yêu nhau đang đạp xe đèo nhau đủng đỉnh hóng gió ngắm hồ Tây, thằng Trương đi sát lại, mặt tỉnh bơ, nó thả ra vài tiếng rắm rõ to. Đôi kia thấy "chuối quá" nhưng chẳng biết làm thế nào, đạp xe nhanh lên cũng bị bám nó mà đạp chậm lại cũng vẫn bị bám. Chốc chốc, thằng Trương lại "nhả đạn", mặt thì nhìn đi nơi khác, cứ tỉnh bơ, "ngơ ngơ như bò đội nón". Chúng nó đi sau nhịn không được, bật cười ồ lên cả lũ, làm cho đôi trai gái kia xấu hổ mà phải xuống xe dắt bộ vào vỉa hè, chờ cả lũ đi qua mới dám đi tiếp.

Một lần, cả lũ đạp xe về quê nó chơi. Khi tới chợ Đường Cái, cả bọn dừng lại nghỉ, vào uống nước ở một quán ven đường. Thằng Trương chọn ngồi cạnh một cụ già râu tóc bạc phơ, cũng đang ngồi nghỉ. Chờ cho cụ vê thuốc lào, tra vào nõ và chuẩn bị mồi lửa để hút, hắn giả vờ đánh rắm, kiểu "rắm xịt", kêu "i i ỉ . . . ." Hắn quay sang nhìn cụ già, nét mặt có vẻ khó chịu lắm. Cụ già không nói gì, lừ lừ nhìn nó, cụ châm đóm khác định hút thì hắn lại "i....i....ỉ" một tràng. Lần này nó quay hẳn người nhìn cụ già hằn học hơn và ngồi dịch ra xa cụ một tí. Mọi người trong quán ai cũng tưởng là cụ đã "thả bom" nên đều nhìn chăm chú vào cụ. Lần thứ ba, cụ chuẩn bị hút thì hắn đánh "rắm nổ" "bủm ....ủm ....ủm". Cụ già hết chịu nổi, vứt toẹt cái đóm không hút nữa, đứng dậy chửi đổng :

- Tiên sư chúng nó chứ . . . . !

Cả quán nước cười ầm lên, chẳng biết đổ lỗi cho ai. Nhưng đúng là thằng Trương đã nghịch hơi quá "trẻ không tha, già không thương".

Một hôm, theo lệ thường vào chiều Thứ Bảy, cả lũ kéo lên nhà thằng Trương. Chúng tụ tập nhau ở vỉa hè, gần cửa nhà thằng Trương. Thằng Trương còn eo éo gọi thêm thằng Thanh và thằng Tuệ hàng xóm xuống đi chơi cùng, hơn chục đứa cả thảy. Bỗng nhiên thằng Trương nhìn thấy bà bán kem đang đi tới, nó liền vẫy tay. Chờ cho bà bán kem dừng lại, nó hỏi :

- Kem ngon không u ơi ?
- Kem cốm Thủy Tạ đơi, hai hào một chiếc.
- Kem còn "nóng giòn" không u ?
- U vừa mới lấy vẫn còn đầy hai phích đơi.

Thằng Trương lấy cho mỗi đứa 2 que, mình thằng Trương cầm 5 que. Không biết hôm nay thằng này "trúng quả" gì mà "sộp" thế?! Kem Cốm Thủy Tạ đúng là ngon thật. Cả bọn vừa cắn vừa mút, vị ngon, vị ngọt, ngọt "lịm từ tim đến tận ót". Chừng mỗi đứa đã chén xong môt chiếc, bỗng thằng Trương quay mặt về phía nhà hắn và gióng lên rất to :

- Dạ . . . . ! Con về ngay đây ạ . . . . !

Nói xong, thằng Trương bỏ chạy vào nhà nó. Cả bọn cứ ngớ ra vì bà bán kem cứ nhè chúng nó mà đòi tiền. Cả bọn đành móc túi, chung tiền mà trả, vừa buồn cười, vừa tức. Nào có ai nghe thấy bố mẹ thằng Trương gọi gì đâu, thằng ôn này làm trò "ăn không" của chúng 5 que kem.

Tuy nghịch ngợm thế nhưng thằng Trương rất tốt với bạn bè. Thường, mỗi lần nó lên chơi, thằng Trương nhìn thấy đều lôi về nhà hắn, có khi chui lên gác xép, pha trà ngồi uống và tâm sự đủ chuyện.

Hôm đó, nó đang chuẩn bị đạp xe từ quê ra Hà Nội, trời thì nắng chói chang, không khí oi nồng, nóng bức làm nó dùng dằng chưa muốn đi ngay. Bỗng có một chiếc ô tô tải dừng lại nghỉ ở gốc bàng trước cửa nhà nó. Cơ hội tốt đây, nó ra làm quen với anh lái xe và xin được anh cho đi nhờ. Vứt cái xe đạp lên thùng xong, nó chạy vào nhà để lấy quần áo thì ở bên ngoài, anh lái xe tưởng nó đã lên thùng rồi, nổ máy lao vút xe đi mất. Ra đến nơi, nó vội chạy theo gọi rất to nhưng anh lái xe không còn nghe thấy nữa, cái xe đã ở quá xa. Thời điểm đó Mỹ vẫn còn đánh phá, nên chiếc xe phủ đầy lá ngụy trang, biển xe có bốn số ở hàng dưới, nó chỉ đọc được ba số cuối và thêm một số cuối hàng trên. Đó là một chiếc xe IFA-W50. Sau đó một tiếng nó mới bắt được xe khách đuổi theo. Rượt đuổi thì coi như vô vọng rồi. Thôi ! Thế là mất toi cái xe.

Tối hôm đó, nó đến nhà thằng Trương và kể lại chuyện mất xe. Thằng Trương bảo nó :

- "Còn nước còn tát", mai tao với mày đi tìm.

Sáng hôm sau, Trương lấy xe Favorite đèo nó đi hỏi quanh khắp thành phố, cứ ở đâu có đoàn xe IFA là tìm vào. Với số xe không đầy đủ mà nó ghi lại được, cả một ngày tìm vất vả trong vô vọng. Chán nản và mệt mỏi, chiều muộn, hai thằng vào một đoàn xe ở quãng trên Nhật Tân. Đang chả hy vọng gì thì anh đội trưởng khẳng định xe đó là của đơn vị anh. Nhưng chiếc xe đó đang tập kết trả hàng ở Cầu Bươu. Hai thằng bán tín bán nghi, không biết có thật hay không. Mà Cầu Bươu, phải đi qua Văn Điển, rồi rẽ phải dăm bảy cây nữa. Suốt từ sáng đến giờ dãi nắng, gò lưng đèo nhau đi khắp thành phố, bây giờ lại phải đi hai chục cây nữa. Thật là oải quá ! Nhưng thằng Trương vẫn rất nhiệt tình :

- Đi suốt từ sáng đến giờ, bây giờ có tin tức thế này là tốt lắm rồi. Đừng có bỏ cuộc !

Thằng Trương đèo nó xuống tới nơi thì trời đã tối. May sao nó nhận ra ngay chiếc xe IFA hôm qua đang nằm đó, chờ được bốc hàng. Nó vội trèo lên thùng thì thấy chiếc xe đạp của nó vẫn nằm nguyên đó. Mừng quá, hai thằng vội chạy vào lán tìm anh lái xe để xin lại cái xe đạp. Anh lái xe cười hì hì bảo nó :

- Tao tưởng mày lên rồi mới chạy. Nào ngờ về đến đây mới biết mày chưa lên. May đấy, sáng mai xe tao đi Quảng Bình thì chẳng biết bao giờ mới trả được xe cho mày.

Nhờ có thằng Trương nhiệt tình và thông thạo Hà Nội, tôi mới tìm lại được chiếc xe đạp. Thời bấy giờ xe đạp là một tài sản có giá trị lớn.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(*) Đường Thanh Niên chạy giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Tối Thứ Bẩy, các đôi nam nữ thường ra khu vực này "tâm sự".

Những mảnh ghép sống

Mảnh ghép thứ nhất

Ở quê nó, sau khi thằng Khóa đi bộ đội, lại có những đợt tuyển quân khác, thanh niên cả làng gần như vãn hết. Ở Hà Nội thì thằng Kiếm cũng nhập ngũ, sau thằng Khóa một tháng. Tiễn Kiếm đi bộ đội mà trong lòng nó rất buồn. Hai đêm nó ngủ nhà Kiếm thì trắng hai đêm hai thằng thức nói chuyện. Tối hôm trước khi Kiếm đi, có mấy anh thích và theo đuổi chị Trâm Anh (chị gái Kiếm) cũng đến chơi và tặng quà Kiếm. Trước mặt khách khứa bạn bè, thằng Kiếm không nói gì, hắn bấm tay nó và kéo nó ra cửa đứng đợi. Không biết thằng này định làm gì thế. Ừ thì anh Bát nó và chị Trâm Anh đã yêu nhau, còn người ta thích người ta đến thì mặc kệ họ chứ có sao đâu. Thằng Kiếm kéo nó ra đứng nấp ở gốc cây gần nhà. Đợi chị Trâm Anh tiễn bạn xong quay vào nhà, Thằng Kiếm nhảy ra chặn đường mấy anh chàng kia. Tay trái hắn đưa gói quà trả lại, tay phải thì giơ dao bầu lên, mặt hắn đanh lại, gằn giọng :

- Tôi trả lại các anh quà, cảm ơn tôi không cần. Nhưng tôi báo cho các anh biết, chị tôi có người yêu rồi,
đó là anh thằng này. - Kiếm chỉ vào nó và nói tiếp - Tôi cấm các anh được mon men tán tỉnh. Lần này
tôi tha, lần sau đừng trách!

Ba anh kia mặt cắt không còn hột máu. Nhìn thằng Kiếm to cao lừng lũng, đen xì xì, tóc quoăn tít, mắt trợn ngược, đến "bố thằng Tây" cũng phải "vãi đái". Ồ ! Bây giờ nó mới biết "bản lĩnh" thằng bạn. Nó vừa có phần nể, vừa "tự hào" có thằng bạn nghĩa hiệp, đàn ông tính đến thế.

Nhưng cả thằng Kiếm và nó đều không biết, chị Trâm Anh đã thôi yêu anh nó từ lâu nhưng họ giấu nên hai đứa cứ tưởng . . . .

Mảnh ghép thứ hai

Mải về quê chơi, lần lượt tiễn các bạn đi lính, nó nghỉ làm nhiều nên lương tháng đó rất thấp, chỉ đủ tiền ăn nộp chị gái. Nó nợ tiền học phí ghi ta một tháng chưa trả. Hai buổi học gần đây nó đều bị anh Can nhắc trước mặt mọi người làm nó rất ngượng. Tối hôm đó trước khi đi học, nó rẽ qua nhà anh Bính (anh trai) ở Trần Cao Vân để xin tiền. Tới nơi, thấy anh Bính đang đứng trước gương, đóng thùng áo vào trong quần. Áo pô-pơ-lin (Popeline) trắng, quần tuýt-xi (tutsi) màu lông chuột, thắt lưng bản to đang mốt, trông rất oách. Rồi anh Bính bôi và vuốt va-zơ-lin (vaseline) lên mái tóc bồng rất kỹ, miệng anh thì vẫn đang huýt sáo một điệu nhạc gì đó rất vui. Chị Gấm vợ anh và thằng cháu Bình Phương thì lại đi đâu vắng. Nó nghĩ bụng, không biết bố này đi đâu, làm cái gì mà ăn diện, chải chuốt ghê thế ? Ờ mà hay ! Chắc bây giờ xin mấy đồng thì ngon xơi đây. Nghĩ vậy nó đánh bạo :

- Anh ơi ! Em nợ tiền học đàn ghi ta một tháng chưa trả. Tháng này em nghỉ về quê và tiễn bạn
đi bộ đội, lương chỉ đủ trả tiền ăn cho chị Dụng. Em sang xin anh 5 đồng đóng học.

Anh nó đang vui bỗng sa sầm nét mặt. Ngần ngừ một lúc, anh mở ví rút ra tờ 5 đồng và rên lên :

- Ối Giời ơi ! Một nách ba đứa con, lại hai bà vợ, mà em thì nay xin, mai xin . . . .

Nói xong, anh quật tờ 5 đồng xuống bàn. Nó vừa cảm thấy tủi thân vừa cảm thấy tủi nhục quá, xuýt bật khóc. Nó nói :

- Đây là lần đầu tiên em xin anh, chứ đã có lần nào nữa đâu ! Thôi em cảm ơn ! Anh để đó gửi chị nuôi cháu.

Nói xong, nó chào anh, ứa nước mắt quay ra.

Mảnh ghép thứ ba

Bần thần một lúc nó quyết định rẽ vào nhà anh Vĩnh. Nó trình bầy với anh Vĩnh và xin tạm ứng trước tiền lương. Anh Vĩnh vui vẻ đưa nó 5 đồng. Đến lớp ghi ta, nó nộp học phí tháng trước cho anh Can và chính thức xin nghỉ, không học ghi ta nữa. Thằng Bình em anh Can, chơi ghi ta rất giỏi và cũng thân với nó, thấy vậy liền nói ngay, giọng rất động viên, an ủi :

- Thôi, mày cứ nghỉ đi, thỉnh thoảng tao sang tao dạy truyền tay cho.

Kể từ đó thằng Bình thỉnh thoảng mang đàn ghi ta sang dậy truyền tay cho nó dưới gốc phượng trước cửa nhà 155 Bùi Thị Xuân. Cùng chơi với nó ở đấy còn có anh Chuyến và thằng Thanh nữa. Mấy người chơi đàn ở ngoài vỉa hè vì trong nhà phải giành cho các cháu học.
Anh Chuyến người lùn, tính tình hòa nhã, dịu dàng, ăn nói rất có học. Đặc biệt anh hát nhạc xanh và nhạc vàng thì hay chưa từng thấy. Lúc bấy giờ nhạc vàng bị cấm vì người ta sợ giai điệu của nó nỉ non, ủy mị làm nản lòng dân và chiến sỹ trong cuộc chiến. Nhưng cứ khi nào thấy anh Chuyến xuất hiện là trẻ con và thanh niên một đoạn phố gần đấy lại tụ tập để nghe anh vừa đàn vừa hát. Nhiều khi cả anh Chuyến, thằng Bình, thằng Thanh cùng hòa tấu thì nó lại kẹp hai cái thìa vào ngón tay để gõ nhịp.

Nhạc đỏ thì mọi người thuộc rất nhiều nhưng chỉ khi nào hội họp đoàn thể thì mới hát. Bấy giờ ở Hà nội, phong trào chơi ghi ta và nhạc xanh rất xôm. Đâu đâu cũng thấy thanh niên nam nữ tụ họp dưới cây, quán nước, trên ban công, trên sân thượng chơi ghi ta và hát nhạc xanh. Hồi đó đĩa nhạc có tên "Xương Rồng" rất nổi tiếng với nhiều bản rất hay. Các đĩa khác là các bộ sưu tập nhạc Ý, nhạc Pháp, nhạc Nga, Tây Ban Nha và cả Cu Ba nữa. Một số bài bây giờ nó vẫn còn nhớ như bài Đồng Xanh, Con Chim Xanh, Sông Đa Nuyps, Quả Táo Trắng và Cây Xương Rồng, tình ca Ha Ba Na, Trở Về su ri en tô, Mộng Lứa Đôi, Đôi Bờ, Chiều Max Cơ Va, . . . .

Ngày ấy máy quay đĩa rất hiếm. Máy từ thời Pháp thì chỉ có nhà tư sản giàu có còn giữ được. Sau đó có thêm một số loại máy của các nước Đông Âu. Phần lớn đĩa là đĩa than, ngoài ra còn một số người đi Đông Âu về có mang theo đĩa nylon nhưng rất ít và chất lượng không được tốt. Nó còn nhớ, hồi đó Hà Nội cũng có sản xuất đĩa than, có lẽ là từ xưởng DIHAVINA. Sau ngày Sài Gòn giải phóng mới có băng cát-set (cassette).

Trong hội ghi ta mà nó chơi, nó quen thằng Tuân "Sô-lít". Gọi thế vì thằng này nổi tiếng chơi ghi ta sô lít (solid electric guitar – ghi ta điện) cho các đám cưới "chịu chơi" ở Hà Nội. Trong ban nhạc đám cưới, thằng Tuân chơi sô-lít nốt đơn luyến láy, thằng Bình chạy "gam" gọi là "ắc co", thằng Cương chơi trống, thằng Tâm chơi đàn ghi ta bass (Guitar Bass). Nó chơi kém nên chỉ được các bạn cho cầm 2 cái sắc xô gõ "choẹt choẹt" theo nhịp mà thôi.

Ngày cưới thằng Giong, bạn thân nó ở trại vẽ dưới Sặt, nó dẫn các bạn nó từ Hà Nội về quê chơi giúp suốt hai ngày (miễn phí). Cả làng, cả phố tụ hội đến đông nghìn nghịt để xem chúng chơi.

Mảnh ghép thứ tư

Nó càng chơi rộng bạn bè đàn hát, rồi "thuốc lá, chè tàu" thì chị gái nó càng lo nó học đòi, đàn đúm, hư hỏng. Chị đem chuyện lo lắng đó về quê nói với thày nó. Thầy nó lập tức bắt nó phải về quê. Đấy là một chuyện.

Một chuyện nữa là chuyện nó và Hợi. Em đang học lớp 10, còn phải thi tốt nghiệp phổ thông và thi vào đại học nữa. Nó và em không thể cứ dập dìu nhau công khai được nên hai đứa bí mật hẹn hò đi chơi riêng. Hai đứa hay đi xem phim ở rạp Tháng 8, rạp Công Nhân, Kinh Đô, . . . . Những lúc khác lại hẹn nhau ở vườn hoa hay công viên. Có những đêm trăng sáng, hai đứa đưa nhau lên mặt đê sông Hồng ngắm trăng. Tình yêu ngày càng thắm thiết, cứ một hai ngày không gặp được nhau thì bồn chồn, nhớ nhung vô cùng. Mối tình của chúng làm cho nhiều đứa bạn phát ghen lên, nhất là thằng Trương. Thằng này cứ nhăm nhe tán tỉnh em Hợi của nó. Ngoài mặt thì nó tỏ vẫn ra bình thường nhưng trong lòng thì nó rất tức. Nó cứ thấy em nói chuyện và cười cợt với thằng Trương là nó ghen, trong lòng như có lửa đốt, . . . . Xuân Diệu thì bảo "Yêu là chết ở trong lòng một ít", còn nó, có những lúc nó thấy khổ sở vô cùng :

"Vạn Cổ Thiên Thu Yêu là Khổ,
Thiên Thu Vạn Cổ Khổ Vẫn Yêu".
Chuyện nó và em bí mật hẹn hò đi chơi thì cũng như chuyện "cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra". Một hôm, hai đứa vào công viên Thống Nhất. Nó đang gửi xe thì gặp anh Mận đèo Cúc Hoa bằng xe máy Pơ-giô, cũng vào gửi xe. Cúc Hoa nhìn thấy về nhà mách bố mẹ. Các cụ mắng Hợi và cấm không cho đi chơi nữa, bắt tập trung vào học để còn thi. Tuy các cụ không nói gì nó, nhưng nghe Hợi kể lại chuyện bị cấm làm nó cũng rất ngại.

Một đằng thì thầy nó bắt về, một đằng thì bị cấm yêu đương, sau khi làm nốt một tháng cuối cùng để trả tiền cho anh Vĩnh, nó đành "rút dù", về quê. Chuyện của nó với Hợi chẳng biết sẽ như thế nào. "Đò ngang cách trở biết đâu mà lần" . . . .

Mảnh ghép thứ năm

Nó vừa về đến nhà thì bu nó vội gọi nó vào và bảo :

- Bu bảo cho mày biết ! Cả nhà có ba anh em trai, anh Bát "đi bê", dễ chết mất. Làng mình chết
nhiều lắm, mày biết không? Cứ mỗi tuần báo tử vài người. Anh Bính mày cũng sắp "đi bê" rồi.
Còn có mình mày nối dõi, mày phải chốn ngay. Ở làng họ gọi lính ghê lắm. Họ chưa biết mày về
mà cũng đã có giấy gọi rồi đấy. Bu phải nói dối, mày đi làm ăn xa, không có địa chỉ.

Suốt đêm đó nó trằn trọc suy nghĩ không sao ngủ được. Thanh niên cả làng đi hết, trừ những đứa gia đình thành phần có vấn đề và một số đã đi học, đi làm xa. Xem ra còn lại mỗi mình nó. Chiến tranh khốc liệt nó rất sợ, nhưng trốn thì nó rất ngượng và nhục với làng xóm, với bạn bè.

Sáng hôm sau nó quyết định cứ xuống Sặt một thời gian, học thêm nghề ảnh và tu nghiệp thêm về vẽ. Khi nào có giấy gọi đợt mới sẽ quay về khám và đi bộ đội. Nó lại buộc túi quần áo sau xe đạp rồi phóng xuống Sặt.

Bạn nó ở Sặt già nửa đã đi bộ đội, một số đứa đi học nghề, có đứa làm ăn xa quê. Bọn con gái thì lác đác đã có đứa lấy chồng. Trong hai thằng bạn thân nhất thì thằng Khóa đã nhập ngũ, chỉ còn lại thằng Hải. Nó đến nhà Hải xin ở nhờ.

Nhà Hải ở gần nhà thằng Khóa, đối diện chênh chếch bên kia đường. Nhà Hải hướng đông nam còn nhà Khóa hướng tây bắc, cả hai nhà đều nằm trên mặt phố chính. Nhà thằng Khải là cửa hàng giầy, mặt tiền khoảng 6 mét, nhưng chạy tuốt vào trong đến năm bảy chục mét, ra đến tận bờ sông. Cửa hàng là nhà cấp 4 có hai gian, mở cửa giữa, hai bên là cửa lùa để trưng bày hàng, một bên là bóng, một bên là giày, dép da các loại. Bên trong của cửa hàng chính là nơi sản xuất, khâu bóng, khâu giầy, . . . . Đó là cái nhà ngang. Nhà ngang cũng là nhà cấp 4 gồm bốn gian, nối đầu hồi với mái nhà trên.

Từ đằng trước nhìn vào, góc trái là cửa 2 cánh ra thông ra hành lang xuống nhà ngang và sân sau. Thông với nhà ngang còn có một cửa sổ kéo rèm nữa. Chỗ đó kê một bộ bàn ghế để bố Hải tiếp khách. Góc trong cùng, mé bên phải kê một cái phản gỗ dầy mà thằng Hải và nó thỉnh thoảng vẫn ngủ ở đó. Trong nhà ngang thì 2 gian giữa kê một chiếc tủ chè, có kính lùa, dưới tủ chè là khoảng trống để trải chiếu ăn cơm và sinh hoạt chung. Hai gian còn lại là hai buồng hai bên, kê giường cho bố mẹ Hải và mọi người trong gia đình dùng để ngủ.

Sân sau rộng chừng năm chục mét vuông, góc bên phải là một bể ngầm một chiều ba mét, một chiều hai mét và sâu chừng mét rưỡi. Góc trái để một cái xà đơn và một xà kép liền nhau. Phía sau cái sân ấy là bụi tre, rồi đến đất trống, thoai thoải chạy dài suốt đến bờ đê. Đất này ít khi dùng đến, làm nơi đổ rác thải và để cây cỏ dại mọc hoang, tùm lum.

Bố Hải là một người đàn ông cao to tráng kiện, da trắng, môi đỏ, tóc bồng bềnh. Ông thường cạo râu nhẵn nhưng vẫn để lộ hàm râu quai nón lờ mờ trông rất đẹp. Ông có rất nhiều tài lẻ, đàn giỏi, hát hay, chơi thể thao tốt. Mùa hè ông thường mặc quần soóc trắng, áo sơ mi trắng, đi giầy trắng, đội mũ phớt trắng, đeo kính trắng gọng vàng để đi chơi thể thao. Nhìn dáng ông rất đẹp, tươi rói, ai thấy cũng phải khen.

Mẹ Hải là một phụ nữ tầm thước, hơi đậm, đẹp dịu dàng, chân quê nhưng tháo vát. Tuy đã sinh sáu người con, nhưng nhìn bà vẫn toát ra một vẻ đẹp mặn mà và rất ưa nhìn, hẳn hồi còn con gái bà phải xinh lắm. Bà rất dịu hiền, ít nói, luôn hết mình chăm sóc cho chồng, cho con.

Thằng Hải có sáu anh chị em. Anh Hoan, lớn nhất, hơn nó một tuổi. Thứ hai là thằng Hải, thứ ba là thằng Dưỡng, thứ tư là thằng Cường, thứ năm là cái Liễu và cuối cùng là thằng Dũng. Anh em nhà thằng Hải chọn hết nét tinh túy của bố mẹ nên trông đứa nào cũng cao, trắng trẻo, đường nét đẹp. Mấy anh em trai nhà Hải ai cũng chơi được ghi ta. Thằng Dưỡng chơi hay nhất, kiểu cờ-lát-xích (classic – cổ điển).

Nó ngủ ở nhà Hải và ngày ăn ba bữa ở đó mà chỉ phải gửi gạo và đóng tiền ăn chứ không phải làm gì. Hàng ngày nó đi làm ở nhà khác, cũng gần đấy.

Mảnh ghép thứ sáu

Ban ngày nó sang nhà bà Quý để làm việc. Nó vẽ truyền thần cùng anh chị Đĩnh trên tầng hai. Ông bà Quý là gia đình tương đối giầu có ở phố Sặt lúc bấy giờ. Căn nhà hai tầng này cũng ở mặt phố lớn và gần nhà thằng Khóa. Tầng một của căn nhà là cửa hàng may, ở phía ngoài kê bốn máy khâu chạy soành soạch suốt ngày. Phía trong kê sập gụ rồi đến tủ chè, tất cả đều cổ kính và bóng lọng. Bà Quý hay ngồi trên sập, bỏm bẻm nhai trầu, chỉ đạo người làm và thu tiền của khách. Ông Quý là một thợ may nổi tiếng ở Sặt. Cửa hàng may của ông bà rất đông khách. Ông bà Quý có nhiều con nhưng nó không nhớ hết. Bây giờ nó chỉ còn nhớ anh Đĩnh, anh Thạnh, cái Luân, cái Lai và thằng Đông. Những người khác nó không còn nhớ. Sau này, cái Luân là vợ thằng Khóa.

Ở nhà ông bà Quý, các con gọi ông bà là "cậu mợ" theo lối "Tây" trong một số gia đình ở thành phố. Ông bà rất quý nó, nhiều lần cứ bảo nhận nó là con nuôi của ông bà. Nó được ông bà nói thế thì cũng thích nhưng nó thấy nhà giầu quá nên nó lại ngại. Không khéo mọi người lại bảo "thấy người sang bắt quàng làm họ".

Cái Luân và cái Lai khá xinh, tuy nước da hơi ngăm ngăm. Hai đứa này rất hay hát và hát đặc biệt hay. Nó ở trên tầng hai mà nghe tiếng hát của hai đứa từ dưới sân vọng lên khi chúng đi rửa bát sau bữa cơm, phải nói là rất tuyệt. Nó khuyên cái Luân và cái Lai nên đi thi vào thanh nhạc. Quả thật, sau này cái Lai thi đỗ và làm diễn viên của Nhà Hát Tuổi Trẻ Hà Nội.

Thằng Đông ít hơn nó mấy tuổi, to cao, đẹp trai, da cũng ngăm đen. Thằng Đông may cũng giỏi và cũng phải ngồi may quần áo. Ngoài những lúc phải ngồi máy, cậy con nhà giàu, thằng Đông sống như một công tử. Hắn ăn mặc đẹp, đeo kính "Cơn" (American – Mỹ), đi dép tông Thái phóng xe máy "xịn" tung phố Sặt, thái độ rất "kiêu". Chính vì thế nó không muốn gần thằng Đông, không khéo lại bị thằng Đông nó "khinh cậu" ngay (Từ "khinh cậu" hồi đó rất hay dùng để "ném" vào mặt nhau).

Anh Đĩnh sống giản dị và chân thành hơn. Anh vẽ rất giỏi, đặc biệt là kỹ thuật truyền thần. Tuy anh không mở hiệu nhưng rất đông khách vẽ truyền thần. Nó vẽ cùng anh Đĩnh và học anh nhiều kỹ thuật, kỹ sảo rất lạ.

Chị Nhật vợ anh Đĩnh lại là chị gái thằng Quang bạn nó. Chị là một phụ nữ xinh đẹp có tiếng ở Sặt. Anh Đĩnh yêu chị nhưng không hiểu sao hai gia đình không đồng ý. Anh chị đã vượt qua mọi trở ngại để đến với nhau, hai gia đình không cản được đều rất tức. Nó nghe kể, đã có một Tết, hai nhà đánh nhau và chửi bới xúc phạm nhau, không biết có thật không ? Có lẽ vì thế mà sau khi anh chị cưới nhau, anh Đĩnh phải làm ăn riêng ở trên gác. Sau khi nó đi bộ đội được ít lâu lại nghe tin anh chị bỏ nhau. Gần đây nó về chơi, thấy anh chị hòa hợp, nó rất mừng.

Mảnh ghép thứ bảy

Bà nội Hải có một khu đất ở sau bến xe Sặt. Ở đó có một căn lều nhỏ xíu, lợp dạ, mái thấp tè, cửa đi, cửa sổ đều bằng liếp. Tối tối, sau khi ăn cơm, thằng Hải và nó hay ôm chăn chiếu, xách đèn hoa kỳ ra căn lều đó để trông vườn. Trong lều có một tấm phản nhỏ kê cạnh cửa sổ, hướng đông nam. Nằm trong lều, gác chân lên song cửa bằng tre, "nghe" gió hè hiu hiu thổi, ngắm trăng vằng vặc soi vào, hai thằng nói với nhau rất nhiều chuyện. Một hôm, thằng Hải hỏi nó :

- Dũng ơi ! Tao rất thích cái Nga, mày thấy thế nào ? (Ở Sặt, nó nhận tên nó là Dũng – Nguyễn Trọng Dũng).

Thằng Hải làm nó khó nghĩ mà cũng khó nói quá. Cái Nga là người theo đạo, nhà buôn hàng nan - tre - mây ở gần chợ, nó cũng chơi thân và có cảm tình, nhưng yêu người theo đạo thì lại là chuyện khác. Nó nghĩ mãi rồi mới dè dặt nói với thằng Hải :

- Tao thấy cái Nga cũng được lắm, nhưng mà, . . . . nhưng mà nhà nó theo đạo thì phức tạp lắm.

Nói xong, nó cũng cảm thấy có gì không phải cho lắm. Nó sợ làm tổn thương thằng bạn đang yêu. Ai dè, vài tối sau thằng Hải lại bảo nó :

- Dũng ơi ! Các cụ làm mối tao với cái Trung. Con này xinh hơn cái Nga, mày chưa biết nó đâu.
Tao thì tao cũng thích nhưng ngại quá, chả dám đến một mình. Mai mày đi cùng tao được không ?

Hôm sau, ăn uống, tắm rửa xong, thằng Hải ăn mặc, chải chuốt, trông rất bảnh. Hắn cứ đi ra đi vào, mắt thì liếc vào gương, vẻ mặt hồi hộp, lo lắng. Nó phải động viên :

- Đừng căng thẳng quá, phải tự nhiên, thả lỏng đi, có "mất gì của mình" đâu mà sợ.

Rồi hai thằng đèo nhau đến nhà cái Trung. Từ nhà thằng Hải, đi theo phố, qua nhà Thờ một đoạn thì đến nhà cái Trung, thuộc khu vực làng Sặt. Căn nhà phía trước là nhà cấp 4, ba gian. Gian giữa kê ban thờ và bộ bàn ghế, bên trái có cửa thông xuống sân rộng, bên phải thông xuống dãy nhà xưởng.

Bố mẹ Trung rất vui vẻ, ân cần và tình cảm. Hai thằng vào đến nhà thì cụ mời ngồi rồi đi pha nước. Sau đó, cụ đi vào phía trong và đem ra một đĩa kẹo lạc mới ra lò do xưởng nhà cụ sản xuất. Thằng Hải chọn ngay cái ghế phía ngoài, ngồi quay mặt vào trong để có thể quan sát hết sân và xưởng kẹo. Quan trọng hơn là nó hy vọng có thể "tia" được cái Trung đang đi lại hay làm gì đó ở trong.

Đúng là cái Trung đang làm việc ở xưởng kẹo, thỉnh thoảng đi qua đi lại. Cái Trung người tầm thước, hơi đậm, miệng nhỏ, mắt to đẹp, không trang điểm nhưng má lúc nào cũng phớt hồng. Nhìn tổng thể cái Trung khá xinh, nhất là đôi mắt và đôi má hồng. Các cụ bảo "Trai trứng cá, gái má hồng", phải biết đây, ít nhất về hình thức thì trên "nước" thằng Hải rồi. Cái Trung cũng biết thằng Hải xuống chơi là có ý tứ với mình nhưng cô nàng vờ như không để ý, cứ lăng xăng làm việc này, việc khác, bê kẹo ra cho khách xong lại chạy ù vào trong. Cái Trung làm việc ở phía trong nhưng thỉnh thoảng lại đánh mắt lên nhà nhìn trộm thằng Hải. Thằng Hải cũng quá thế, ngồi trên ghế thì nhấp nha nhấp nhổm như kiến đốt, mắt hau háu theo dõi theo cái Trung ở dưới nhà. Nó biết ý, liền thưa với cụ chủ :

- Ông ơi ! Ông có thể cho chúng con xuống thăm xưởng kẹo được không ạ ?
- Vậy mời hai anh ! – Cụ vừa cười vừa nói.

Rồi ông đứng lên đi trước, dẫn hai đứa theo ông xuống nhà sau, nơi đặt xưởng sản xuất. Xưởng là một căn nhà cấp 4 chạy dài tít vào phía trong với khá đông thợ đang hối hả làm việc. Mấy cái chảo to đặt trên các lò than đỏ rực lửa đang bốc khói nghi ngút. Mùi kẹo tỏa ra nghi ngút, thơm lừng khắp cả xóm. Ngay dãy cột ngoài gần cửa, mấy bác thợ đang quật kẹo vào mấy cái đinh. Đường kẹo là thứ đường mật pha với mạch nha, màu vàng nâu, trông như những con trăn. Mỗi bác thợ một vị trí, họ kéo các con trăn đó ra rất dài, xong gập lại mấy lần, rồi lại móc lên đinh, lại kéo, lại gập, lại treo, . . . . Nó hỏi :

- Ông ơi, làm thế này là gì thế ạ ?
- Đó là quai kẹo cháu ạ.

Tiếp theo dãy quai kẹo có kê mấy cái bàn, trên đó thoa bột trắng xóa. Kẹo quai xong được thả xuống bàn bột. Vài bác thợ vừa tung bột vào đám kẹo, vừa vê, vừa kéo dài ra đến khi đủ nhỏ thì dùng dao cắt phầm phập thành từng chiếc kẹo nhỏ. Ở trong cùng, vài người đang gói kẹo vào giấy, rồi đóng vào túi ni lông.

Xưởng kẹo nhà cái Trung làm nhiều mặt hàng gồm kẹo lạc, kẹo vừng, kẹo bột, kẹo dồi chó, kẹo gôm xanh, đỏ, . . . . Kẹo nhà này cũng là ngon có tiếng ở Sặt.

Sau lần ấy, nó còn phải đi cùng thằng Hải xuống nhà cái Trung chơi mấy lần nữa, rồi thằng Hải mới bạo dạn đi riêng xuống đó.

Mảnh ghép thứ tám

Gần đến ngày lễ thánh của công giáo tổ chức ở nhà thờ Sặt thì nó nhận được tin gia đình nó nhắn xuống bảo nó về. Ủy Ban xã gửi giấy mời, triệu tập nó tham gia công tác văn hóa của xã. Thấy thế, thằng Hải nói:

- Mày ở đây mà xem lễ hội đã, hay lắm, xong rồi hẵng về.
- Ừ ! Cũng được.

Những ngày chuẩn bị lễ đã rất tưng bừng nhộn nhịp. Toàn thị trấn dọc theo các phố, các làng, nhà thờ lớn, nhà thờ nhỏ giăng đèn kết hoa rực rỡ. Nhà ai cũng tự làm các hầm đá nhỏ, trong có chúa hài nhi, mấy con cừu và người chăn cừu. Trước cửa nhà thờ, ngoài sân bên tay trái dựng một trái núi giả to sừng sững, bên trong thắp đèn nhấp nháy sáng lung linh, cũng có máng cỏ, có chúa hài đồng, đàn cừu và người chăn, tỷ lệ rất lớn trông rất sống động.

Ngày chính hội, các đội kèn đồng mặc quần áo trắng, găng tay trắng xếp hàng chỉnh tề, đi dọc các phố tấu nhạc rất tưng bừng. Đi đầu đoàn, ở giữa là một trống cái rất lớn, đường kính cỡ mét rưỡi, để trên một chiếc xe bò. Hai bên, từ lớn đến nhỏ là hai hàng trống con và trống trung đi theo đáng lên rộn rã cùng với tiếng kèn đồng vang lừng cả đường phố. Tất cả nhạc công cho đến người đẩy xe đều mặc trang phục trắng từ đầu đến chân. Oách thật !

Trong nhà thờ còn rực rỡ hơn nhiều. Khu đại khánh tiết trang hoàng lộng lẫy, có chúa Giê-su đứng giữa, mặc áo thụng, mặt hơi ngửng lên trời, hai tay dang rộng. Bên dưới đó là bục hành lễ của đức cha. Dưới nữa là hai hàng ghế ngang xếp thẳng hàng nối tiếp nhau tới tận cửa ra vào, một dãy ghế dành cho nam, dãy kia dành cho nữ. Tất cả mọi người đều quỳ, đặt tay lên băng ghế trước mặt, thành kính đọc kinh rì rầm. Nó thấy rất kỳ lạ ở chỗ từng người thì chỉ lần rầm đọc kinh, thế mà tiếng kinh lại âm âm vang vọng trong nhà thờ như tiếng sấm rền, vừa mạnh mẽ, vừa sâu thẳm tâm linh. Hai bên cửa nhà thờ, dưới các cửa vòm kính, treo những bức tranh sơn dầu cỡ lớn diễn tả toàn bộ quá trình chúa sinh ra, đi giảng đạo, bị đóng đinh, chúa sống lại, v v . . . .

Ở lối cửa trước nhà thờ có một ang nước thánh. Từ ngoài đi vào khi qua đó mọi người lấy cành lá nhỏ ngậm sẵn trên miệng, chấm vào nước thánh và rắc lên người để lấy may. Khi đức cha cầu kinh xong, có hai con chiên nhỏ đi theo hai bên người, một bên cầm âu nước, một bên cầm âu bánh. Cha đi ở giữa diễu qua hàng các con chiên, cha lẩm nhẩm cầu kinh, tay cầm cành lá nhúng nước thánh vẩy lên đầu các con chiên, xong người nhón tay lấy bánh thánh ban cho các con chiên. Đó là lễ ban thánh thể "Bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống. Ta là bánh hằng sống, ai đến cùng Ta không khi nào đói, ai tin kính Ta không bao giờ khát". Tiếng kinh cầu ê a, râm ran trong tiếng đệm của đàn oóc-gan (organ) và dàn nhạc. Không khí trang nghiêm và sùng kính vô cùng.

Ngoài đường phố thì đông kinh khủng. Dân có đạo và dân ngoại đạo các nơi đổ về, chen vai, thích cánh nhíc từng bước một tiến về nhà thờ dự lễ. Nó với thằng Hải cùng vài bạn nam nữ hòa trong dòng người tham dự buổi lễ. Thằng Hải mắt cứ nhớn nhác, có ý muốn tìm cái Trung nhưng không thấy.

Hôm sau ngày lễ, nó xin phép bố mẹ Hải rồi chào mọi người. Nó trở về quê.

Nó trở về nhà và hoạt động trong Đội Tuyên Truyền Văn Hóa của xã. Ngoài những việc như viết báo, thông báo kết quả sản xuất của cả xã đọc trên loa truyền thanh, . . . . mỗi tuần một lần, Đội phải phải xuống các sân kho, các đội đào mương của dân công để hò hát động viên phong trào. Riêng nó còn đặc trách kẻ khẩu hiệu, vẽ áp phích cổ động, trang trí cờ hoa cho hội nghị và chuẩn bị các lễ truy điệu cho các liệt sỹ được đơn vị báo tử về địa phương.

Thời gian này nó sống khá thanh thản. Ngoài công tác tuyên truyền, công tác đoàn bận rộn ban ngày, tối tối nó thường mang đàn nghi ta ra cửa ngồi chơi. Các bạn trong làng cũng hay ra tụ tập quanh nó hò hát rất vui. Trong đám bạn đó, đặc biệt có thằng Thìn con bác Giá ở thôn trên, hát nhạc vàng và cải lương thì tuyệt đỉnh.

Đêm hè gió lộng, trăng thanh run rẩy rắc ánh vàng xuống cây lá, xóm làng, chảy óng ánh trên đường phố huyện quê hương. Ai bảo chốn thôn quê là khổ ?!

Một hôm đang làm ở trên xã thì nó nhận được giấy báo tử, có ghi :

Nguyễn Trọng Bát
Thôn Tháp, xã Dị Sử, huyện Mỹ hào, tỉnh Hải Hưng.
Tên và địa chỉ chính xác là anh trai nó làm nó chết lặng. Giờ lâu, chợt tỉnh, đầu óc rối bời, không biết làm sao để có thể báo cho thày bu nó. Tay cầm giấy báo tử run run, nó thẫn thờ đạp xe về nhà.

Về tới nhà, nó lại thấy hai anh bộ đội, một anh đeo súng ngắn có ca táp nâu, một anh đeo súng A-ka. Nhìn xéo vào góc nhà, nó thấy hai chiếc ba lô. Nhìn thấy cảnh ấy, nó rụng rời hết cả người. Anh Bát nó chết thật rồi. Đơn vị anh đã cử người về tận nhà để an ủi và động viên gia đình. Họ sẽ thay mặt đơn vị làm lễ truy điệu anh Bát cùng với địa phương xã.

Lạ thay, khi nó dựng xe ở đầu hồi, lại nghe thấy tiếng các anh bộ đội và thày bu nó nói chuyện rất vui vẻ. Hai cụ đang giữ các anh ấy ở lại ăn cơm. Nó đang hoang mang không biết là chuyện gì thì thày nó gọi vào :

- Thập ơi! Con vào đây, các anh ở đơn vị anh Bát đến chơi đây này.

Nó bước vào nhà bắt tay hai anh trong lời giới thiệu của thày nó. Hai anh bộ đội hồ hởi bảo nó :

- Các anh đã nghe anh Bát kể, nay mới gặp em. Em vẽ giỏi lắm phải không ?

Nó cứ dạ dạ vâng vâng mà chẳng để ý gì. Nó đang thắc mắc tại sao đã báo tử rồi mà đồng đội của anh Bát lại tươi cười phấn khởi thế. Nó đưa cái giấy báo tử anh Bát cho hai anh bộ đội xem. Hai anh lắc đầu và bảo :

- Đây chỉ là trùng tên thôi. Anh Bát em bị thương nhẹ, đang điều trị ở trại an dưỡng dưới Sặt cơ mà.
- Có thật thế không ạ ? Anh em đang ở Sặt ạ ?
- Chắc chắn là thế rồi. Bọn anh vừa thăm nó về đây.

Nó mừng quýnh cả lên, trong lòng cảm thấy nhẹ bẫng. Anh Bát thế là thoát, anh nó đã sống và trở về.

Mảnh ghép thứ mười

Nó vẫn sinh hoạt đoàn ở địa phương nhưng xã đoàn cũng rất vắng vẻ. Thanh niên đi đã đi bộ đội gần hết. Cái Thương được bầu làm bí thư chi đoàn thôn, nó là phó bí thư. Anh Bát sau khi điều trị ở đoàn an dưỡng chắc cũng sẽ được giải ngũ. Nó không còn lý do gì để mà chần chừ. Gì thì gì chứ cũng là cán bộ đoàn. Vậy nên nó làm đơn gửi Ủy Ban xã xung phong đi bộ đội. Đợt tuyển quân cuối cùng trong năm đã hết, đành chờ đến đợt mới sang năm.

Thời điểm ấy là cuối năm 1975. Miền Nam đã giải phóng, Nam Bắc đã thống nhất. Làng nó bắt đầu có những người lính trở sống sót về. Những người lính, người nào cũng đen đúa, gày còm. Những người lính từ miền nam ra, vai đeo ba lô và vác theo lỉnh kỉnh đủ thứ, chiếc khung xe đạp, con búp bê mắt nhắm, mắt mở biết khóc, cái quạt Hi-ta-chi hoặc đài quay đĩa chạy điện 110 von. Anh nào nghèo nhất thì cũng có cái áo len màu xanh sỹ lâm hay áo len đỏ để tặng cho em gái, . . . .

Thằng Miến em con dì ruột nó nhập ngũ đầu năm, biên chế vào đoàn xe quá cảnh. Cứ vài tuần lại dẫn cả đoàn xe về nhà chơi. Mỗi lần về chở theo bao nhiêu là của cải ở Sài Gòn ra. Nhà dì nó mở cửa thật to, vặn đài hết cỡ, quạt máy chạy vù vù. Chả những thế, bên dì còn cỗ bàn ăn uống linh đình. Chú dì nó mát mặt, hởi lòng hởi dạ, hãnh diện với xóm làng lắm.

Bu nó nhìn thấy cảnh nhà dì nó "ta đây" ra mặt, lại trông thấy nó cứ lụi hụi, cắm mặt ngồi vẽ, thu nhập chẳng là bao. Bực mình bu nó quay ra chửi nó :

- Sang mà bú d . . . cho thằng Miến kia kìa . . . !

Giọng bu nó chửi chì chiết thì đã không có gì là lạ với nó. Nhưng nó cảm thấy tủi nhục và đau đớn vô cùng. Nó đau và xót vì cuộc đời đã xô đẩy bu nó trong bao cơ cực, bất công để Người trở thành người đàn bà chao chát trong lối nghĩ, cay nghiệt trong lời ăn tiếng nói và mờ mắt trước những hào nhoáng của vật chất. Nhìn nhận lại bu nó, nó vừa thương vừa xót lại vừa ghét. Lời chửi của bu nó cứ xoáy vào tâm can nó. Sự đời bao giờ cũng bất công, hóa ra lại có cái lý của nó. Lời nói của người có tiền hẳn bao giờ cũng có sức nặng hơn và cái hèn của người nghèo là không thể tự bảo vệ được mình, không thể lo được cho những người thân và thường được người khác nhìn dưới con mắt thương hại. Nó thấy uất hận ở trong lòng. Nó giận bu nó và hận cuộc đời.

Mảnh ghép thứ mười một

Nó xuống thăm anh nó ở Sặt vài lần. Hôm anh chuẩn bị ra viện, chị Dụng nó về dẫn thêm một chị nữa, nhỏ hơn anh nó hai tuổi, người cao, da trắng, tóc hơi quăn. Đó là chị Nhưng, nhà ở phố Huế, gần cửa hàng của chị nó. Chị Nhưng cũng bán hàng thực phẩm cùng công ty của chị Dụng. Chị Dụng đưa chị Nhưng đến thăm anh Bát là có ý giới thiệu cho anh Bát. Vài ngày sau nó xuống trại an dưỡng đón anh Bát về. Anh Bát được nghỉ một tháng trước khi về đơn vị nhận nhiệm vụ mới. Trong một tháng đó, nó cùng anh Bát ra Hà Nội chơi, có đến nhà chị Nhưng vài lần. Saui đó hai anh chị còn đi chơi riêng với nhau. Nhưng có lẽ "cái duyên, cái số" hai người không hợp nên chuyện cũng không thành.

Trong khi đó, ở quê, bu nó lại hỏi cái Yến, bạn học cùng lớp nó ngày xưa, cho anh Bát. Cái Yến kém anh Bát năm tuổi, cũng gọi là tương xứng. Bây giờ thì nó phải gọi cái Yến là chị rồi. Chị Yến cũng trắng trẻo, môi đỏ, miệng nhỏ, mỗi tội lùn. Chị làm công nhân xí nghiệp chăn nuôi gia súc của huyện ở Ngã Ba Lăm, cách nhà nó khoảng hai cây số. Hai anh chị này, ngay lập tức ưng nhau, như các cụ bảo "cái duyên cái số, nó vồ lấy nhau". Hai gia đình quyết định ngày cưới và rục rịch chuẩn bị tổ chức cho anh chị. Anh Bát phải về đơn vị để báo cáo và xin phép lấy vợ.

Thời gian rất gấp rút vì chỉ có hơn một tháng. Nói là gấp rút bởi vì thày nó phải lo nhà cho anh Bát. Thày nó lập tức đi mời thợ yêu cầu xây "cấp tập, khẩn trương" một gian nhà mới. Gian nhà đó nằm trên cái nền đất mà trước đấy là cái ngõ bên cạnh nhà, có giàn trầu không. Nó cũng rộng tương đương với một gian nhà ngoài, liền kề của nhà nó. Mái gian nối sang nhau cũng bằng tre, lợp rạ.

Nhiệm vụ vủa nó là đi mua vôi, cát, xi măng, gạch và tre nứa. Sau đó thì làm các việc phụ như trộn vữa, chuyển gạch, chuyển tre, chuyển rạ, vv . . . . Nhà có mấy cây soan thầy bu nó ngâm đã lâu, cộng với một ít gỗ thày nó để dành từ trước, nay thuê thợ về đóng một cái giường và một cái tủ gương mới. Mọi việc chuẩn bị cứ thế "đến hẹn lại lên", còn vài hôm nữa thì mọi việc cũng đâu vào đấy.

Còn mấy hôm nữa là đến ngày cưới thì việc quan trọng là lo dựng rạp, kê bàn ghế, trang trí, trang âm, loa đài, . . . . Đó là việc mà nó phải đảm nhận một mình. Nó đạp xe sang Ban Văn Hóa xã Huỳnh Thúc Kháng liên hệ mượn được một tấm vải bạt to. Tốt rồi, cái bạt này nó sẽ làm mái rạp. Mái rạp dựng xong, nó sẽ huy động tất cả các chăn hoa đẹp nhất của gia đình và hàng xóm để quây xung quanh. Rồi bàn ghế thì nó sẽ mượn ở trường cấp 2 ở ngay cuối phố, khăn trải bàn thì sẽ mượn ngay trong xã, chỗ nó làm việc.

Từ Huỳnh Thúc Kháng, nó tất tả đạp xe xuống Hưng Long, nài nỉ mượn được hai cái loa điện động, một cái am-ly (amplifier) và một mi-crô (microphone). Rồi nó lại lao tới nhà thằng Lĩnh "Ngọng" mượn một máy quay đĩa mà thằng này mới mang ở trong nam ra.

Tất cả những thứ cồng kềnh, lủng củng đó nó buộc tất cả vào xe đạp. Chiều đã tà, cơn mưa bão cuối thu đang rùng rùng ập đến làm cho trời bỗng nhiên sầm tối, dưới mặt đất thì gió lốc nổi lên tung cát bụi mù mịt. "Trông trời, trông đất, trông mây", trông lại mình, một thân trơ trọi trên mặt đê cao trống vắng, nó biết nó không thể thoát khỏi cơn bão tố sắp đổ xuống đầu. Mắm môi mắm lợi, nó trèo lên xe. Vừa đạp được mấy vòng thì mưa bắt đầu đổ xuống sầm sập. Khổ thân thằng còm, riêng cái bạt đã quá to và nặng, lại thêm am-ly, buộc chồng lên trên, Hai bên ghi đông phía trước lại treo hai cái loa to đùng. Con đường trên mặt đê thì ngoằn nghoèo rắn lượn, mưa quất vào mặt nó rát ràn rạt, gió cứ tạt ngang tạt ngửa chực hất nhào nó xuống sông. Nó phải gò lưng, cong vồng cả hai tay để ghì cái ghi đông cố gắng chống chọi với gió bão. Tấm vải mưa nó khoác trên người bay phần phật rồi rách te tua như sơ mướp. Hai cái loa "to tổ bố" cứ lắc bên này, bên kia, đập vào khung xe làm cho nó càng khó mà có thể trụ được. Tiếng gió thổi vào lòng hai chiếc loa, xoáy cuộn lên một âm thanh ú ù . . . ú ù . . . rất ghê rợn. Chốc chốc ánh chớp sáng chói lòa đi kèm những tiếng sét nổ chói tai, rồi rền rền chạy ngang trên đầu.

Cứ chênh vênh, chòng chành như thế mà cuối cùng nó cũng về được đến nhà. Trời cũng đã sập tối từ lúc nào. Người ướt như chuột lột. Loa đài, vải bạt cũng ướt sũng. May mà cái am-ly và mi-crô nó bọc kỹ nên không bị ướt. Nó thay quần áo, ăn vội lưng cơm, người nó mệt bã, nó nằm vật xuống và ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau, các anh chị, các cháu nó lục tục kéo về. Rạp đã bắc xong. Nó mua giấy màu xanh đỏ các loại và giấy trang kim lóng lánh. Nó huy động các cháu xúm vào cắt giấy và dán thành các dây xúc xích, đem chăng từ góc này sang góc kia của cái rạp. Lá dừa được nó xin về đem kết thành cái cổng chào ở cửa chính. Bọn cháu đã làm xong các dây xúc xích thì nó lại bắt cắt các mẩu giấy thừa thành các hoa giấy nhỏ li ti, hình tròn, hình vuông, hình tam giác, cánh hoa, . . . . rồi đem bỏ sẵn vào mấy cái hộp giấy đã được nó trang trí rất đẹp. Hoa giấy này sẽ tung lên đầu hai họ và nhất là cô dâu, chú rể. Cô dâu, chú rể sẽ như hoàng tử và công chúa trong phim mà nó đã từng xem.

Sáng hôm sau đón dâu thì chiều hôm trước anh Bát mới về. Nhìn thấy nhà cửa mới, giường tủ mới, lại có rạp cưới trang hoàng lộng lẫy, anh Bát rất vui. Tối hôm đó nhà nó vui lắm. Họ hàng, xóm ngõ đến chơi rất đông, ăn trầu, hút thuốc, uống nước, cười nói râm ran trong tiếng nhạc sập xình.

Đêm đó nó ngủ cùng với anh Bát trong phòng cưới mới, trên giường, chăn màn, chiếu mới thơm tho. Anh em nó thao thức không ngủ được. Trong lòng nó cảm thấy rất hồi hộp thì chắc là anh nó còn hồi hộp hơn. Anh Bát còn phải lo lắng chuyện ngày mai phải phát biểu như thế nào trước mặt hai họ. Ở quê nó, lệ là thế mà, chú rể phải thay mặt cô dâu mà cảm ơn hai họ và bạn bè. Nghĩ mãi chẳng ra, anh quay sang hỏi nó :

- Mai phát biểu thì nói thế nào ?

Nó ngồi dậy lấy giấy bút viết ra một bài phát biểu ngắn gọn, hàm nghĩa, đủ ý rồi đưa cho anh Bát học thuộc. Anh nó cứ ngồi bên đèn hoa kỳ học suốt đêm, cứ thuộc rồi lại quên, rõ khổ. Nó buồn ngủ quá, ngáy từ lúc nào không hay.

Đến giờ đón dâu, nó bố trí mười mấy đứa cháu cầm hộp hoa giấy đứng xếp hàng hai bên. Khi cô dâu, chú rể về đến bên ngoài cổng, nó ra hiệu lần lượt các cháu nó từng đứa, tung hoa giấy phủ lên đầu cô dâu chú rể trong tiếng pháo nổ tưng bừng rộn rã. Xong đợt rắc hoa "phủ đầu", các cháu nó chạy lên trước, đứng sẵn hai bên ở lối vào rạp và tung hoa tiếp khi cô dâu chú rể đến đó. Những chi tiết độc đáo đó, cùng với sự chuẩn bị loa đài và phông vẽ của nó rất cầu kỳ, rức rỡ làm cho cả làng và hàng phố phải khen là đám cưới đẹp hiếm có và hoành tráng nhất làng. Nó tự hào lắm ! Cũng bõ bao nhiêu công vất vả, mệt nhọc.

Biết bu nó khó tính đối với chị dâu từ ngày yêu và bước chân về làm dâu, nó luôn quan tâm giúp đỡ chị Yến. Dẫu sao cũng là bạn học một thời của nó. Nó luôn bênh vực chị mỗi khi bu nó cằn nhằn hay than phiền về chị. Trong bữa ăn, sợ chị nó ngại, nó toàn gắp các miếng ngon cho chị.

Hồi đó, chị Yến làm ở trại chăn nuôi, thỉnh thoảng chị nó mua được một ít tóp mỡ thái to đã rán lấy mỡ mang về kho với cà chua ăn ngon cực kỳ. Thời bao cấp, kinh tế có khá hơn lúc còn chiến tranh nhưng vẫn thiếu thốn đủ thứ. Mà, nhất là thiếu cái ăn thì khổ vô chừng, ăn cái gì cũng ngon, nhìn cái gì cũng thèm. Bảo làm sao mà có thể khá được.

Cưới vợ xong, anh nó trở lại đơn vị. It lâu sau anh chuyển ngành về gần nhà, làm công nhân trong nhà máy bao bì xuất khẩu ở Phố Nối. Còn nó cũng rời quê hương, bước vào quân ngũ, bắt đầu mở ra một trang mới của cuộc đời.

CHƯƠNG IV BƯỚC NGOẶT Cuối năm 1975, sau khi làm đơn xung phong nhập ngũ, nó đi khám một lần nhưng vì sức khỏe yếu, nó được sung vào quân dự bị địa phương. Đến năm 1976 nó đi khám lại, trong kết luận, sức khỏe của nó là b2. Ít ngày sau đó, nó nhận được giấy báo nhập ngũ. Theo đúng ngày trong giấy báo, nó đến tập trung ở huyện thì được phát quân tư trang. Sau đó người ta lại cho nó về và hẹn phải có mặt vào ngày "Giao Quân".

Trước hôm lên đường, thầy bu nó làm mấy mâm cơm mời họ hàng, con cháu đến liên hoan chia tay. Hôm đó, hàng xóm trong làng, Ủy Ban xã và các đoàn thể đến động viên chia tay rất đông. Đến khuya, khi mọi người đã về hết, anh Đường anh cái Huệ (bạn học và bạn chăn vịt thuở nào), vừa ở chiến trường ra, anh sang chơi để tiễn nó. Trong khi thầy bu và các chị chuẩn bị kiểm tra ba lô cho nó, xếp sắp từng cái tăm, gói kim chỉ, bàn chải, khăn mặt, kem đánh răng, vv . . . . Anh Đường tâm sự với nó những chuyện lính, rất nhiều. Anh dặn nó lối sống, cách cư xử trong tập thể ra sao, kinh nghiệm hành quân cho đỡ mệt thế nào, . . . . Nó vẫn nhớ lời anh dặn mà nó coi như châm ngôn sống và làm theo cho đến tận bây giờ: "Tuyệt đối khiêm tốn, không dậy khôn, không tranh luận đến cùng, nói ít nghe nhiều, luôn học hỏi cầu tiến bộ".

Anh Đường về rồi, bu nó mới lôi từ trong tủ ra hai cái đồng hồ Pôn–dốt (Poljot) mới cứng, đưa cho anh Bát một cái và nó một cái. Bu bảo nó mang đi mà xem giờ giấc và cũng là để làm vật kỷ niệm. Nó đang cảm động, muốn ứa nước mắt vì lần đầu tiên nó được cho một thứ đắt tiền đến như vậy. Nó hiểu rằng đây là lưng vốn dành dụm của bu nó bấy lâu. Đang cảm động, chưa biết nói gì với bu thì bu nó lại lần bao tượng, lôi ra một cái khăn vải, trong gói cái nhẫn vàng một chỉ, bắt nó đeo vào tay. Bu bảo để đề phòng nhỡ có chuyện gì khi xa gia đình thì còn tự lo liệu. Rồi bu còn đưa cho nó một ít tiền mặt nữa. Nó nhìn nét mặt bu nó đầy thương cảm, mới hiểu tấm lòng của người mẹ già, gày guộc, còm cõi, suốt đời chỉ vì chồng vì con.

Hôm lên đường, từ sáng sớm, tiếng trống ếch vang rền trên phố huyện, cờ và khẩu hiệu chăng khắp nơi. Các tân binh và người thân đưa tiễn từ khắp nơi đổ về hội trường Ủy Ban huyện. Tới giờ tập trung, hơn 500 người tân binh xếp hàng ngoài sân rồi vào ngồi kín hội trường. Không đủ chỗ trong hội trường nên một số anh em phải ngồi cả hai bên hành lang. Bâu lấy xung quanh là các người thân đến tiễn, chen lấn xung quanh đám lính, bất cứ chỗ nào có thể đứng được, kể cả trên khán đài.

Ủy Ban nhân dân huyện, huyện đội cùng đơn vị nhận quân thực hiện "Lễ Giao Quân". Sau lễ chào cờ, Ủy Ban và đơn vị lên đọc các quyết định, thủ tục và phát biểu động viên anh em lính mới. Cứ sau mỗi thủ tục lại là một đoạn nhạc đệm vang lên. Nó ngồi dưới rất hồi hộp vì nó được chỉ định thay mặt các tân binh lên phát biểu và đọc quyết tâm thư. Thế rồi sau bài phát biểu của đơn vị nhận quân, kết thúc đoạn nhạc đệm, tiếng người dẫn chương trình vang lên :

- Xin mời đồng chí Nguyễn Trọng Thập, thay mặt cho các đồng chí tân binh lên đường hôm nay lên phát biểu cảm tưởng.

Nó đứng dậy đi lên khán đài trong tiếng hoan hô và tiếng reo hò của đám tân binh và của người thân lính xung quanh, rất nhiệt tình, ầm ỹ. Tiếng vỗ tay và reo hò hưởng ứng còn lớn hơn hẳn so với các phát biểu của các quan chức trước đấy. Nó cảm thấy hơi lúng túng, nhưng nó cũng phát biểu được đôi lời cảm tưởng được đứng trong hàng ngũ bộ đội, là vinh dự, tự hào, là trách nhiệm, . . . . Rồi nó đọc "Quyết tâm thư" mà nó và mấy anh ở huyện đội đã rà đi soát lại từ hôm trước. Đến đoạn cuối, nó "Đề nghị tất cả các đồng chí đứng dậy để tuyên thệ". Đọc xong các lời thề, nó dõng dạc hô "Xin thề, xin thề, xin thề !". Dưới cờ, mấy trăm cánh tay cùng dơ lên và đồng thanh hô "Xin thề, xin thề, xin thề . . . !". Liền ngay đó là tiếng nhạc kèn vang lên cử bài "Tiến bước dưới quân kỳ". Lần đầu tiên nó thấy âm điệu của bản nhạc sao mà trầm hùng, thôi thúc và có sức âm vang đến thế. Theo cùng với tiếng nhạc đó là tiếng trống ếch và tiếng pháo nổ rền vang . . . .

Sau "Lễ Giao Quân", đơn vị cho anh em tân binh hành quân lên ga Lạc Đạo cách đó hơn chục cây số. Đội hình hành quân theo hàng đôi, dài dằng dặc. Một số người thân cũng dong xe đạp đi theo. Trên đường hành quân, qua nhiều làng nó thấy có rất nhiều trẻ con và người lớn cầm cờ túa ra đường vẫy vẫy, chúc lên đường mạnh khỏe.

Tới sân ga Lạc Đạo, nó thấy tân binh ở các huyện khác nữa cũng tập trung ở đây. Anh em tân đứng thành các khối lớn theo hàng ngũ. Tại đây, người ta tổ chức biên chế lính mới thành các đại đội, trung đội, tiểu đội. Nó được "biên chế" vào đại đội 21, trung đội 2, tiểu đội 4. Đại đội nó thuộc quân số trung đoàn 136, Bộ Tư Lệnh Thông Tin. Anh em trong làng xã nó bị phân tán mỗi người một đơn vị. Cũng may, đại đội nó có mấy đứa cùng làng, thằng Hiệp, Quy, Hiển, Sinh, Thìn. Lại thêm có thằng Bội, bạn nó ở bên xã Minh Đức nữa.

Đứng trong hàng ngũ đơn vị mới, nhìn hết một lượt cả đại đội, hầu hết là những gương mặt lạ. Rồi nó thấy thỉnh thoảng, tiểu đội trưởng của nó đi từ trên đầu hàng xuống, cứ nhìn đi nhìn lại từng anh em trong tiểu đội. Chắc anh ấy muốn ghi nhớ các gương mặt của từng người lính mới mà anh ấy sẽ phải quản lý. Rồi nó thấy cả trung đội trưởng của nó, cả đại đội trưởng của nó cũng có động tác tương tự như vậy. Nhưng thật là lùng, nó không có cảm giác bị dò xét mà lại cảm thấy yên tâm. Nó xa gia đình người thân nhưng luôn có người để mắt lo lắng cho nó. Nó cảm thấy cái tập thể mới này rất vững chắc mà nó có thể yên tâm gắn bó.

Đã yên tâm, nó liếc mắt sang các đơn vị khác cũng đang tập trung ở sân ga. Ái chà ! Bọn con gái nhập ngũ lần này đông quá, dễ có đến trên một trăm đứa. Cũng phải thôi, lính thông tin mà.

Lính mới tò te, nó chưa biết gì về việc chỉ huy, hay trực ban, gì gì đó nhưng nó thấy người ta sử dụng rất nhiều tiếng còi để điều khiển và ra lệnh. Mấy thủ trưởng đeo băng đỏ, thổi còi liên tục, hướng dẫn từng đại đội lên tàu. Không biết tàu sẽ đưa chúng nó đi đâu nhưng chắc chắn là chạy về phía Hà Nội. Rồi đoàn tàu cũng chuyển bánh, lính tráng thò đầu ra ngoài cửa sổ để vẫy tay từ biệt các người thân đang đứng tiễn dưới ga. Suốt quãng đường tàu chạy trên đất Hải Dương rồi Hưng Yên, thỉnh thoảng lại có mấy chú nhà ở gần đường tàu nhao ra cửa sổ, đau đáu nhìn về nhà, hy vọng có thể nhìn thấy người thân hay ít nhất là nhìn lại ngôi nhà thân yêu một lần nữa.

Con tàu chạy qua ga Hàng Cỏ ở Hà Nội mà không dừng lại, nó cứ chạy băng băng, thông qua rất nhiều ga để cuối cùng dừng lại ở ga Thường Tín. Anh em được lệnh xuống tàu, tập trung theo đơn vị dưới sân ga. Từ đây, chúng nó hành quân bộ đi vào các đường làng. Không lâu sau, đại đội nó đã đến vị trí tập kết. Nó thấy lạ lùng là vừa dừng chân có một tý thì đã có người dẫn từng tốp vào ở nhờ trong nhà dân. Mỗi tiểu đội, trung đội của đại đội nó được ở thành từng cụm, đâu vào đấy. Bộ đội có khác, làm gì cũng có chuẩn bị trước,chắc chắn, nhanh gọn và chính xác.

Một tháng đóng quân ở làng Vồi, các tân binh chưa phải tập tành gì mà chỉ học chính trị, học hát và nghỉ ngơi. Hóa ra đây chỉ là đơn vị tạm thời. Tân binh chờ các đơn vị khác nhau đến nhận quân.

Đóng quân cùng xóm nó lại có một đơn vị toàn lính nữ. Các chú bộ đội rất nhanh đã lân la làm quen với các "thím". Nó đã quen và chơi với mấy "thím" là cái Nhã, cái Lịch, cái Linh cái Cần, cái Đông, cái Oanh. Tối nào, bọn con gái cũng sang nhờ nó vẽ vào sổ tay, vẽ vào khăn để thêu, . . . . Bọn con gái có vẻ thích nó lắm thì phải. Có lẽ một phần là vì các "thím" thấy nó mang theo cả đàn ghi ta, máy ảnh, lại có cả cuốn tiểu thuyết "Thép Đã Tôi Thế Đấy" trong ba lô. Kinh thật ! Một chàng lính "công tử", "tài tử", "tài hoa" và "lãng mạn" như thế, thím nào chẳng "chết".

Trong số mấy đứa bạn gái đó, cái Cần thích nó nhất, ra mặt. Cái Cần rất trắng, "trắng như ngó cần", người lại cao đẹp mới chết nó chứ. Cái Cần thấy nó ước có một đôi dép đúc và cái thắt lưng Tàu, thế là thím ấy lùng bằng được để tặng nó. Tình cảm của cái Cần chẳng phải làm nó không xao xuyến nhưng cái Cần so với Hợi thì không đẹp bằng mà nó lại đang yêu cái Hợi. Nó định sau năm năm hết nghĩa vụ sẽ cưới cái Hợi. Vì thế, hầu như nó không để ý tới Cần. Nhưng mà nó càng không để ý bao nhiêu thì cái Cần càng "chết" bấy nhiêu và càng cố hết sức để chinh phục nó.

Đóng quân ở làng Vồi được hơn một tháng thì trong cái tháng ấy, nó lần lượt phải chia tay các đồng đội. Một số đứa chuyển đi học y tá, anh nuôi, văn thư, công vụ ở Sơn Tây, vẫn thuộc Bộ Tư Lệnh Thông Tin. Một số đồng đội bổ sung cho pháo binh và tăng thiết giáp. Một số đứa như nó ở lại thông tin thì chuẩn bị chuyển quân đi nam.

Ngày Chủ Nhật cuối cùng ở làng Vồi, đơn vị cho phép lính đi chơi từ chiều thứ 7. Đứa nào đứa nấy mừng rỡ reo hò, rồi cả lũ kéo nhau ra đường Quốc lộ Một, vẫy xe đi nhờ về Hà Nội.

Thật là may, có một chiếc xe tải thấy tân binh, động lòng dừng lại. Chúng nó nhảy tất cả lên thùng xe và chỉ một lúc sau đã đến ga Hàng Cỏ. Chiếc xe đỗ lại và cả lũ lại nhảy xuống. Nó lúng túng thế nào khi tụt khỏi xe để ống quần bên phải móc vào mấu thép ở thành xe, xé toạc chiếc quần quân phục vải Tô Châu mới khự của nó, từ gấu lên đến bẹn. Nó ngượng quá vừa đi vừa giữ ống quần. Giữ được trên thì hở dưới, gió thổi bay lật phật, hở cả bắp chân. Nó đi bộ vào mãi đến Trần Quý Cáp mới tới một hiệu may của một ông già. Ông may lại quần cho nó mà nó trả tiền ông nhất định không lấy. Ông bảo "Có đường sút chỉ có đáng là bao, ai lại lấy tiền của bộ đội.". Nó cảm ơn ông, ung dung đi tắt đường sang ngõ Yên Thế để về với Hợi của nó.

Thành phố đã lên đèn, gia đình Hợi đang ăn cơm thì nó đột ngột xuất hiện trong bộ quân phục mới làm cả nhà Hợi ngỡ ngàng. Sau phút bất ngờ, mọi người vui lắm, tíu tít sắp bát đũa cho nó cùng ăn. Hợi vui ra mặt còn Cúc Hoa cũng cười với nó nhưng nó có cảm giác Cúc Hoa không vui. Thoáng qua trong đầu nó cảm thấy thế, đang yêu và đang ở trước mặt người yêu thì tất cả cái gì khác đều không quan trọng. Không biết về sau này nó có tự hỏi, giá mà lúc đó nó để ý một chút ?!

Bữa ăn vừa xong thì anh Mận người yêu Cúc Hoa tới và đón Cúc Hoa đi chơi. Hợi thì hỏi mượn xe đạp của anh Giáp, anh trai Hợi, để hai đứa đèo nhau ra phố. Nó đèo em lòng vòng một hồi lâu rồi hai đứa dừng lại trong bóng cây của vườn hoa trước cửa Đại sứ quán Trung Quốc, lúc bấy giờ gọi là vườn hoa Chi Lăng hay gọi một cách dân dã là vườn hoa Cột Cờ (bây giờ là vườn hoa Lê Nin). Nó dựng xe rồi hai đứa ngồi xuống một chiếc ghế đá. Em nhẹ nhàng ngả đầu tựa vào vai nó. Tay em liên tục vuốt ve bộ quần áo lính còn miệng em thì líu lo kể về việc thi cử, học hành và đủ các thứ chuyện khác chứa chất trong lòng ngày hai đứa xa nhau. Nó quàng tay qua, ôm ghì lấy vai em, cảm giác như trong tay nó đang có một chú chim nhỏ vui tươi, nhí nhảnh và run rẩy.

Sợ làm em mất vui, lưỡng lự mãi rồi nó mới nói, giọng buồn bã :

- Mai anh về đơn vị. Cả đơn vị anh sẽ chuyển quân vào Nam.

Giờ lâu hai đứa im lặng. Nó biết em rất buồn nhưng nó chẳng ngờ được cho đến khi nó giật mình xoay mặt em lại thì thấy em đang khóc trong im lặng. Hai hàng nước mắt cứ thế tự nhiên chảy không ngừng nghỉ, loang loáng trên hai gò má. Em khẽ nấc lên rồi "xịt" nhẹ một tiếng, nói trong nước mắt :

- Anh có đi đâu ở đâu, dù bận thế nào thì bận, cũng phải viết thư cho em đấy nha !
- Ừ ! Anh sẽ viết thư nhiều cho em. Anh hứa đấy ! Em cũng hứa thế nhé ! Ở Hà Nội "người ta"
vui chơi, sung sướng, "người ta" dễ quên anh lắm.
- Không ! Em sẽ chờ. Em đã nộp đơn thi vào trường Ngân Hàng(*). Anh đi nghĩa vụ mấy năm
trở về, lúc đó em cũng ra trường. Mình cưới nhau anh nha !

Hai đứa hứa hẹn với nhau rất nhiều về chuyện cưới, cứ như là cảnh hai đứa sắp sửa lên xe hoa đến nơi. Giấc mơ lứa đôi lúc nào cũng được ở bên nhau, thật là hạnh phúc. Mơ ước thật là tinh khôi, chân thành và giản dị. Lời hứa thật sự là thôi thúc, cháy bỏng và bền chặt, chẳng gì có thể chia cắt được . . .

Nó cảm động ôm chặt em vào lòng. Nó hôn em lên môi, ngọt ngào, tha thiết và mặn mòi nước mắt của em. Nước mắt người yêu cứ tuôn chảy không thôi, ướt đẫm vai áo nó.

Tối hôm đó, nó ở lại nhà Hợi, ngủ cùng anh Giáp. Sáng hôm sau mẹ Hợi đi chợ về mua khoai và sắn cho cả nhà ăn sáng. Rồi nó đèo Hợi sang chơi nhà chị Dụng. Sau đó hai đứa còn vào rạp Tháng Tám xem phim. Đi đâu em cũng khoác tay nó có vẻ hãnh diện lắm. Nó cũng vậy, lần đầu tiên có người yêu để mà hiên ngang khoác tay giữa phố phường Hà Nội.

Ba giờ chiều em đưa nó ra bến xe Kim Liên (bây giờ là khách sạn Nikko Hà Nội, đối diện với Rạp Xiếc Trung Ương). Em đứng giữ xe đạp còn nó vào mua một vé đi Thường Tín. Lúc xe chưa chạy hai đứa cứ đứng quấn quýt bên nhau bên cạnh chiếc xe khách. Khi chiếc xe nổ máy hai đứa còn bị rịn, dùng dằng một lúc rồi nó mới vội nhảy lên xe. Em nhìn theo nó, vẫy tay, mắt đỏ hoe, ngân ngấn nước.

Khoảng một tuần sau, đúng ngày đơn vị nó lên đường, anh Giáp đèo Hợi tới thăm. Em đưa cho nó mấy bao thuốc lá, một ít thuốc cảm cúm, một hộp tăm, một cái bật lửa. Quý nhất là em tặng nó một cuốn sổ mà trang đầu là dòng chữ nắn nót của em "Thương mến tặng anh yêu !". Ở những trang sau là mấy chục bài thơ mà em chọn lọc, chép tay, những bài thơ hay nhất của Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Chế Lan Viên. Cuối cùng em còn tặng nó một chếc bút máy màu nâu, trên đó có khắc một đôi chim bồ câu và dòng chữ "Nhớ mãi - Đừng quên".

(*)Lúc đó là Trường Cao Cấp Nghiệp Vụ Ngân Hàng, chưa đào tạo Cao Đẳng và Đại Học.

Cả đơn vị nó tập trung tại sân kho của hợp tác xã làng Vồi. Anh Giáp và Hợi cũng sẽ đi theo đơn vị để tiễn nó ở ga tàu. Sau khi các thủ trưởng kiểm tra quân số, quân tư trang của lính, đơn vị hành quân bộ ra ga Thường Tín. Dân làng đứng ở sân kho vẫy tay chào : "Đi nhớ ! Đi mạnh giỏi nha ! Ở lại mạnh khỏe nha ! . . ." Ra đến ga, cả đơn vị lại đứng vào hàng ngũ để kiểm tra lại lần cuối trước khi lên tàu.

Sau khi chúng nó lên tàu, ổn định chỗ ngồi, từng tiểu đội, trung đội lại kiểm tra lại quân số một lần nữa. Riêng nó, đứng bên cửa sổ để chia tay anh Giáp và Hợi. Tiếng còi tầu hý lên lanh lảnh. Nó nhoài người ra ngoài bắt tay anh Giáp rồi chuyển sang nắm lấy tay em. Đoàn tàu rùng rùng rồi bắt đầu chuyển bánh. Nó lắc lắc tay em một lần cuối. Khi tay nó rời khỏi tay em thì cũng là lúc nó thấy mắt em lại đỏ hoe. Em chạy theo tàu, tay em vẫy vẫy :

- Đi nha anh ! Nhớ viết thư cho em . . . . !

Tàu tăng tốc dần dần chạy hết nhà ga. Em không thể chạy theo nữa, chỉ giơ tay vẫy vẫy. Nó dướn hết cổ ra ngoài hét to :

- Ở nhà khỏe nha ! Anh đi nhá . . . . !

Các hàng cây bên đường, đồng ruộng, xóm làng, vùn vụt lướt qua hai bên cửa sổ. Lần đầu tiên được đi xa, qua những vùng đất mới lạ, lính trẻ rất hào hứng. Rồi một đứa bỗng cất cao giọng bắt nhịp cho cả toa cùng hát "Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận, trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác . . . .". Một số chú lính vừa hát vừa thò tay ra ngoài cửa sổ phía bên phải, vẫy vẫy những người làm đồng đang hối hả đi về làng trong hoàng hôn chạng vạng. Mấy đứa ở bên trái thì vẫy tay chào những người đi đường trên xe đạp hay trên ô tô ở ngay trên con đườn Một chạy song song với tàu. Một đứa bỗng kêu to lên :

- Gửi thư đi anh em ơi . . . . !

Những lá thư viết sẵn được móc ra từ túi áo, túi quần và túi cóc của ba lô, cứ thế được ném túa xuống đường trong tiếng gào theo của lính :

- Nhờ chuyển hộ nhớ . . . . !

Nó đã xa nhà hơn tháng nay, mà sao bây giờ nó mới cảm thấy thực sự đi xa, thực sự rời bỏ quê hương ở lại phía sau để đi đến những miền đất mới. Đi và đi, chẳng biết sẽ đến nơi nao. Nó cảm thấy trong dạ bồn chồn, xao xuyến nhớ quê nhà và có gì đó háo hức của tuổi trẻ bởi hấp dẫn chào mời của những vùng đất mới, bởi những bất ổn và đe dọa của những điều không định trước.

Sương chiều nhẹ buông. Đằng đông vầng trăng thu vàng óng, tròn vành vạnh dần dần dâng lên, nhấp nhô, thấp thoáng sau những ngọn tre đang nghiêng ngả trong gió.

Trên tàu anh em vẫn hát, hết bài này sang bài khác. Nhưng càng về khuya tiếng hát cứ yếu dần rồi lịm hẳn. Phần lớn anh em đã chìm vào giấc ngủ. Nó ôm cây đàn, nhìn trăng lên, tay lướt qua các phím đàn, cất tiếng hát khe khẽ : "Trăng lên trên đồi hoa sim, có nghe thấy tim vọng về . . . .". Nó đang nghĩ đên Hợi, nhớ em da diết. Con tàu cứ hối hả chạy xình xịch như đệm thêm cho tiếng hát lòng của nó, thiết tha. Vầng trăng đã lên đến đỉnh và đang dần vượt vắt ngang qua đường chạy để vượt sang phía Tây, về ngàn. Ánh trăng bàng bạc trải trên những đồi sim lúc ẩn, lúc hiện, nhấp nhô lượn sóng.

Nơi chân trời đằng Đông phía xa xa, một quầng màu hồng xậm lờ mờ giao hòa với màu bạc của ánh trăng, mung lung như sương khói. Chắc hẳn không bao lâu nữa ánh ngày của Mặt Trời sẽ lấn át ánh đêm của Vầng Trăng. Thế là nó sắp qua một đêm, một đêm phiêu diêu trên một con tàu xuyên ánh trăng thu vằng vặc. Một kỷ niệm không thể quên của đời lính.

Tờ mờ sáng, đoàn tàu từ từ vào ga rồi dừng lại. Đây là ga Vinh. Đại đội cho phép lính xuống sân ga làm vệ sinh và ăn sáng trong thời gian một tiếng. Lính tráng túa nhau đổ xuống sân. Nào thì bát sắt khua lanh canh, nào thì khăn mặt, tất cả đều châu vào mấy cái vòi nước công cộng. Lính tráng đang tranh nhau đánh răng và rửa mặt. Rồi theo hàng ngũ cứ sáu chú vào một bàn ăn để ăn sáng trong nhà ga. Bữa sáng hôm đó mỗi chú được ăn mỗi đứa một bát cơm trắng, nhưng thức ăn thì chỉ có nước mắm nấu loãng với mấy cái váng mỡ lốm đốm trên mặt nước. Đang đói, chúng nó đánh vèo cái thì đã trơ đáy nồi.

Một tiếng đồng hồ, vừa vệ sinh vừa ăn sáng đã xong. Đoàn tàu lại tiếp tục chuyển bánh. Lúc này đoàn tàu đi dần lên vùng đồi núi của Hà Tĩnh. Cả đêm qua nó thức nên bây giờ nó thấm mệt và gật gà gật gù ngồi ngủ. Không biết đoàn tàu đã đi bao lâu, nó chợt tỉnh dậy vì có tiếng ồn ào chuẩn bị ăn trưa ngay tại chỗ. Mỗi đứa được phát một cái bánh mỳ và một phong lương khô. Kể ra khẩu phần ăn như thế là khá nhiều rồi. Ăn trưa xong nó lại ngủ tiếp.

Chiều tà, nó thấy đoàn tầu đã "hạ sơn" từ lúc nào. Phía bên trái đoàn tàu là những đồi cát trắng ngà lướt qua, nhấp nhô. Đột nhiên nó nhìn thấy xa xa, phía chân trời là mênh mông trời và nước. Thì ra biển đang ở rất gần, chỉ cách đoàn tàu vài bốn cây số. Gió lồng lộng từ biển thổi vào, mát lịm, mang theo vào không gian vị mặn mòi của biển hay của một làng chài nào đó. Nó chưa biết đây là đâu, chỉ chắc một điều, đây là mảnh đất miền trung đầy nắng gió. Về sau này nó mới biết, lúc đó nó đang đi qua sân bay Đồng Hới. Đoạn này đường tàu khá gần biển, qua sân bay trống trải nó nhìn được biển.

Quãng bẩy giờ tối, đoàn tàu từ từ vào ga rồi dừng lại. Lính được lệnh vào ga để ăn tối trong khi đoàn tàu làm tác nghiệp kỹ thuật. Đây là ga Đồng Hới của Quảng Bình. Đã là buổi tối một ngày cuối thu, mà sao cái đất Quảng Bình vẫn nóng thế. Có cảm tưởng như gió thổi cũng có "vị" nóng, một cái nóng nhễ nhại, vật vờ. Nó không còn thấy đâu ngọn gió mát từ biển thổi vào như lúc ở trên tàu.

Có hiệu còi của đại đội rúc lên từ phía cửa nhà ga, lệnh cho chúng nó xếp hàng vào nhà ăn. Lính cầm bát đũa khua lanh canh rồi xếp hàng theo đội hình 6 hàng dọc trước cửa nhà ga. Rồi sáu người theo hàng ngang lần lượt vào nhà ăn. Mùi thức ăn thơm nức mũi làm lính tráng thèm rỏ rãi. Mỗi người được một xuất là một bát mỳ. Ngon quá ! Đứa nào đứa nấy, rất nhanh, không gì kiềm chễ nổi, bập ngay vào bát mỳ mà húp roàn roạt. Kinh ! Lính ăn rào rào "như tằm ăn rỗi".

Nào ngờ, cũng rất nhanh, đứa nào đứa nấy bật ngửa ra, nhè vội nước và mỳ ra bát, ra sàn nhà, lại còn khạc nhổ, móc họng và ho sặc sụa, nước mắt nước mũi giàn giụa, . . . . Những thằng lính "Khu Ba" đâu có ngờ đồ ăn của "Khu Bốn" lại cay đến xé họng xé ruột chúng đến như thế. Môi thằng nào cũng cay xè và sưng phồng lên hết cả một lượt. Một trăm phần trăm lính mới của đại đội nó không thằng nào ăn được một miếng. Tất cả đều bỏ bữa, vừa đói, vừa tiếc. Một kỷ niệm không thể quên.

Lính tráng xuýt xoa vì cay, ôm bụng đói lên tàu. Đoàn tàu tiếp tục chạy mải miết về phía nam. Những đứa nào còn lương khô hay bánh mỳ đều mang ra cho anh em chén hết mà chả thấm tháp gì, chỉ còn cách uống nước trừ bữa. Nó đang ngủ gà ngủ gật thì đoàn tàu rùng mình giật giật rồi từ từ đỗ lại. Đêm nay trăng cũng sáng vằng vặc nên nó nhìn thấy tàu đang đỗ trong một cái ga nào đấy. Lính được lệnh xuống ga tập hợp và tiếp tục hành quân bộ. Lúc tập hợp ở sân ga nó mới thấy cái ga này cũng là một ga hàng hóa lớn. Nghe loáng thoáng thủ trưởng nào bảo đây là ga Đông Hà.

Đơn vị nó chỉ hành quân một đoạn ngắn, tới một đoạn đồi có rừng phi lao lưa thưa với những cây phi lao cao lớn. Mỗi tiểu đội được phân một khu vực, triển khai mắc võng hay chọn chỗ trải nylon để nghỉ ngơi. Anh nuôi nổi lửa nấu cơm cho cả đơn vị. Chỉ một lúc sau chúng nó đã được chén cơm nóng với ruốc mặn. Đang đói, thằng nào thằng nấy ăn băng băng ba bốn bát "Bê Năm Hai". Ăn xong, trừ những đứa phải gác, đứa thì trèo lên võng, đứa thì lăn xuống nylon. Chỉ một loáng, cả đơn vị đã chìm vào giấc ngủ, say sưa như chết. Hai ngày đêm xình xịch trên tàu cũng mệt, lại được bữa căng diều, "căng bụng, trùng mắt" mà lị.

Nó giật mình tỉnh giấc vì tiếng còi lanh lảnh báo thức. Toàn đơn vị thu xếp quân tư trang để hành quân tiếp. Từ đám rừng phi lao thưa, chúng nó đi bộ một quãng ra mé đồi thì đã thấy rất nhiều ô tô đang từ đâu di chuyển đến và đỗ lại trên một con đường đất đồi đỏ quạch mà sau đó nó mới biết người ta gọi là "đường tăng". Lần đầu tiên nghe cái từ "Đường Tăng" làm nó bật cười nghĩ đến Đường Tam Tạng đi lấy kinh. Hóa ra đó là những con đường xe tăng, xe quân sự chạy mà thành. Mỗi trung đội được bố trí lên một chiếc xe Zin ba cầu. Cả đoàn xe dài dằng dặc rùng rùng chuyển động. Đoàn xe chạy trên đường tăng một đoạn thì rẽ ra đường Một. Cả đoàn xe Zin nối đuôi trên đường Một trông thật kỳ vĩ, chưa lần nào nó thấy như thế. Có xem phim thì cũng chỉ thấy đoàn xe chở lính ngắn thôi mà xe nào cũng phủ kín lá ngụy trang. Đằng này đoàn xe rất dài, không phải cắm lá ngụy trang, cứ hiên ngang mà rồng rắn giữa ban ngày ban mặt. Hết chiến tranh rồi, lính cũng sướng thật.

Đoàn xe cứ thế chạy một lèo dọc theo đường Một. Trên đường, đâu đâu nó cũng thấy tàn tích chiến tranh còn nóng hổi. Những căn nhà đổ nát, những doanh trại lính thép gai bùng nhùng, những lô cốt đắp bằng bao cát lở loét đầy vết đạn. Trên mặt đường các hố pháo băm nát đường đây đó rất nhiều. Nó có cảm tưởng như đâu đó khói lửa vẫn mơ màng bảng lảng bay lên từ những đống đổ nát hoang tàn đang còn âm ỉ cháy. Mũ sắt, vỏ thùng đạn, xe Zeep cháy, xe tăng đứt xích và rất nhiều đạn pháo chưa bắn vương vãi khắp nơi. Cảnh cổng trại lính đổ xiêu vẹo, các khu gia binh lộn nhào những đồ đạc một cách lộn xộn, lung tung, bừa bãi trong một cuộc tháo chạy tùy nghi quy mô chưa từng có dường như vừa mới diễn ra ngày hôm qua.

Dọc đường lính háo hức và ngơ ngác nhìn ngắm ruộng đồng, làng quê miền Nam. Tuy ruộng đồng thì đâu cũng vậy, chẳng khác miền Bắc là bao, nhưng điểm khác đầu tiên mà chúng nó thấy chính là, ở trong này người ta không mang lúa về nhà mà đập lúa hoặc tuốt lúa ngay ngoài ruộng. Có nơi, người ta đập lúa vào một cái thùng gỗ lớn, có nơi người ta dùng máy tuốt lúa đạp chân ngay tại ruộng. Thóc được một cái quạt thùng quay tay phành phạch thổi sạch bụi cát, rơm, hạt lép, . . . . Rơm rạ thì được bỏ ngay ngoài đồng để làm phân bón cho những vụ sau.

Làng quê miền Nam cũng có những lũy tre xanh và cây cối xum xuê, ôm trọn xóm mạc trong vòng tay tán lá của chúng, nhưng khác biệt nhất là dừa. Những cây dừa đủ loại thì đâu cũng có, cây thì xòa bóng xuống mặt nước, cây thì nhấp nhô trên ngọn những cây khác với cái dáng riêng biệt bởi các tay lá vươn lên nền trời như đung đưa vẫy vẫy hay cong xõa xuống mặt hồ. Khác lạ nhất là nhà cửa ở những vùng cát trắng. Trên những trảng cát trắng phau chạy dài đến nhức mắt, các ngôi nhà thấp mái, san sát, lợp tôn phản chiếu mặt trời chói lóa. Trông mà đã thấy nóng phát kinh.

Các thị trấn và thành phố miền Nam thì khác hẳn với miền Bắc bởi nhiều nhà tầng cao san sát. Đâu đâu cũng thấy biển quảng cáo đủ các kích cỡ, treo cao, treo thấp quảng cáo cho rất nhiều loại hàng hóa với đủ các hình vẽ và kiểu chữ cầu kỳ lạ mắt. Xe máy, xe lam, xe lôi nhiều vô kể, mà ô tô cũng lắm. Trong các gia đình thành phố ở miền Nam lúc đó, ti vi, quạt điện, tủ lạnh, máy nghe nhạc rất nhiều và hầu như nhà nào cũng có. Những thứ đó ở miền Bắc rất hiếm.

Ở miền nam, hoa quả được gọi là trái cây, đặc biệt rất nhiều và phong phú. Nhiều thứ trái cây rất lạ vì anh em lần đầu được nhìn thấy và được "thưởng lãm". Nào thì chôm chôm, vú sữa, nào thì sầu riêng, măng cụt, . . . . Những trái cây vừa nhiều, vừa lạ, vừa ngon.

Tuy hòa bình cũng đã lâu lâu, người dân cũng đã quý bộ đội nhưng vẫn có gì đó sợ sệt, khúm núm. Đó là chưa kể những ánh mắt hoài nghi, thậm chí là hằn thù, . . . .

Đoàn xe chạy qua thị trấn An Nhơn của Bình Định một quãng thì vượt qua cầu Bà Di. Qua cầu, đột ngột đoàn xe rẽ về phía tây, rời bỏ con đường Một mà chúng đang chạy băng băng và êm ái. Con đường mà chúng rẽ vào cũng là một con đường Quốc lộ nhưng nhỏ hơn và chất lượng không được tốt bằng. Mãi về sau này nó mới biết đấy là đường Quốc lộ 19, một con đường huyết mạch nối Quy Nhơn với các tỉnh Tây Nguyên.

Lúc đó, chúng nó là lính mới tò te, chưa ai từng đi xa quê hương như lần này. Chẳng đứa nào biết đâu vào với đâu, kể cả các thủ trưởng trung đội và tiểu đội. Nó cứ nhìn vào các cột cây số mà biết là sắp đi tới địa danh nào, những cái tên lạ hoắc, huyện Tây Sơn, đèo An Khê, thị xã An Khê, đèo Mang Yang, huyện Mang Yang, huyện Đăk Đoa, . . . .

Càng đi về phía tây đồi núi càng trùng trùng điệp điệp. Còn mấy cây số nữa thì đến thị xã Pleiku. Anh em rất phấn khích. Phen này chúng nó được ở thị xã thì sướng quá. Chắc hẳn được ở nhà lầu, có đèn điện. Ai mà biết được đời lính chẳng có lúc "lên tiên".

Đoàn xe lính rồng rắn chạy trong thị xã plâycu. Lính tráng rất tí tởn ngắm phố xá, xe cộ và hy vọng đoàn xe sẽ rẽ vào đâu đó trong thị xã. Nhưng rồi phố phường cứ từ từ trôi về phía sau và chẳng mấy chốc đã trôi tuột ra khỏi thành phố. Lính tiu nghỉu thở dài và lo lắng không biết còn phải đi bao xa nữa, chui vào nơi khỉ ho cò gáy nào đây.

Đường từ trung tâm thị xã ra ven đô hơi dốc xuống thoai thoải. Sau đó đoàn xe rẽ vào một con đường nhỏ, màu đỏ đất bazan, rồi leo lên một con dốc nhỏ. Đột nhiên xe chui qua một cái cổng sắt to có vẻ sơ sài nhưng có hai lính vệ binh đứng gác. Xe dừng lại ở một cái sân rộng nằm ở sườn đồi, lính xuống xe tập hợp theo đại đội. Đại trưởng của nó nói cuộc hành quân của đơn vị an toàn tuyệt đối và đơn vị nó chính thức đóng quân ở doanh trại này. Anh em reo mừng và vỗ tay phấn khởi vì cái doanh trại này chỉ nằm cách thị xã Plâycu có hai cây số.

Nơi đơn vị nó đóng quân vốn là một khu gia binh với những dãy nhà trại gia binh lợp tôn, dây kẽm gai chạy dài. Những căn nhà mái tôn, tường gỗ trải dài từ trên đỉnh đồi, thoai thoải xuống đến chân đồi. Trên cùng, nhà cao to nhất là nhà làm việc của trung đoàn bộ. Dưới khu nhà đó là ba căn nhà dài chừng hơn hai chục mét, rộng khoảng năm mét nằm song hành. Một căn làm hội trường, một căn là nhà làm việc cho cơ quan tham mưu, căn còn lại là khu cơ quan chính trị, hậu cần và thư viện. Dưới nữa là cả một khoảng sân rộng cỡ hơn một sân bóng đá. Đại đội nó ở 2 căn nhà lớp thứ 3 bên dưới, cạnh một góc sân. Ở giữa sân, thẳng nhà chỉ huy sở xuống là một gò đất cao, trên có cột cờ. Qua sân lớn, phía dưới có 2 dãy nhà nữa. Một dãy làm nhà ăn tập thể, một dãy làm trạm xá. Lối xuống nhà ăn, gần cổng vệ binh, có 2 cái công-ten-nơ cũ mà mọi người gọi là "nhà ghi", dùng để giam giữ những lính bị kỷ luật.

Đơn vị nó là đơn vị đầu tiên sử dụng cái khu gia binh này làm doanh trại. Mặc dù không phải xây dựng nhà cửa nhưng dọn dẹp một cái trại gia binh tan hoang sau chiến tranh cũng thật là kinh khủng. Khắp mọi nơi, đủ mọi thứ đồ đạc vung vãi. Từ trong nhà, ngoài sân, nơi góc vườn, đến tận hàng rào kẽm gai bùng nhùng mấy lớp bao quanh, đâu đâu cũng thấy có thùng đạn, đạn, súng, mũ sắt, chăn màn, quần áo, sách báo cũ, rượu bia, ca-pốt, búp-bê cao su bơm hơi dành cho lính xa vợ, . . . . Rồi thì nồi xoong, quạt máy, ti vi, tủ lạnh hỏng, su-chiêng, si-líp, giầy dép, . . . . Đơn vị nó phải bỏ ra cả tuần để dọn dẹp, nhặt nhạnh, phân loại, tiêu hủy mới tạm ổn.

Tiểu đội trưởng của nó là anh Ngoan, người Phú Thọ. Anh Ngoan cao to, mặt vuông, quai hàm bạnh, da đen, chuyên húi tóc cua, lông mày rậm, rất nóng tính. Tiểu đội trưởng của hai tiểu đội kia trong trung đội nó là anh Kỳ và anh Thỉnh, người Bắc Thái. Trung đội trưởng của nó là anh Lạp, cũng là người Phú Thọ. Anh Lạp da mai mái, người đậm lùn. Đại đội trưởng của nó là anh Sử, trạc 40 tuổi mang hàm thượng úy, người cũng lùn, da đen, tóc húi cua và tính rất nghiêm khắc. Anh Mạnh là chính trị viên đại đội, người gầy, cao dong dỏng, da trắng, môi đỏ, tóc để bồng. Tên là Mạnh nhưng anh nói năng dịu dàng, hay cười "bẽn lẽn" như con gái, cứ tủm tà, tủm tỉm.

Đơn vị nó bắt đầu bước vào mùa huấn luyện. Thao trường của đơn vị nó rất rộng lớn, cách doanh trại khoảng 6 cây số. Đó là một vùng sườn đồi đất đỏ rất rộng và bằng phẳng. Xa xa là đỉnh đồi, phía sau bên dưới, thoải xuống là thung lũng. Tất cả đều tràn ngập hoa dã quỳ mọc tự nhiên, vàng rực cả không gian. Lác đác đây đó xen lẫn vào là các bụi hoa sim tím, lúp xúp trải dài . . . . tưởng như vô tận.

Thao trường này về sau còn sử dụng để huấn luyện chiến thuật, diễn tập "quân xanh ,quân đỏ" và xây dựng trận địa giả. Còn hiện tại, lính tân binh chúng nó đang tập điều lệnh đội ngũ, tập "lăn lê bò toài" và tập xạ kích.

Giữa vùng đồi mênh mông lộng gió và tràn ngập nắng lửa Tây Nguyên bỏng rát, hơn 300 con người cả tân binh và các cán bộ cựu binh, hàng ngày hai buổi quần nhau tơi bời. Cứ buổi sáng hành quân từ doanh trại ra thao trường, tập đến 11 giờ trưa thì nghỉ ăn trưa tại chỗ. Cơm trưa đã có anh nuôi thổi nấu và gánh ra tận thao trường. 1 giờ chiều lại quần nhau tiếp. Chưa bao giờ nó phải làm việc nặng nhọc trong điều kiện khắc nghiệt và kéo dài ngày như thế, nhiều lúc mệt mỏi "muốn chết". Đa số lính xuất thân là dân cày hẳn hoi mà cũng bị tả tơi vì nắng gió và cường độ tập luyện.

Cứ tập một tiếng thì được nghỉ mươi, mười lăm phút. Thật là may quá ! Tiếng còi của trực ban cho nghỉ thì lính tráng lục tục giá súng tại chỗ theo "tổ tam tam", ba khẩu một, chụm vào nhau, nòng hướng lên trời. Ngồi nghỉ cũng phải theo đội hình từng tiểu đội, trung đội, đại đội. Nếu có muốn "đi nặng" hay "đi nhẹ" cũng phải báo cáo tiểu đội trưởng.

Gió trên cao nguyên Plâycu cũng thật khác thường. Suốt ngày gió thổi không ngừng nghỉ. Ừ thì đã có hẳn một cụm từ "cao nguyên lộng gió" dành cho nó nhưng đặc biệt hơn chính là ở chỗ gió xoáy thành vô số các con lốc, bất cứ lúc nào và bất kỳ chỗ nào. Thôi thì lốc to, lốc nhỏ đủ kiểu và nhiều vô kể, cái xoáy ngược, cái xoáy xuôi. Chúng bất ngờ xuất hiện, di chuyển ngoằn nghoèo rồi lại biến mất. Có khi năm bảy cái xoáy lốc chạy loằng ngoằng, xô dạt cả vào nhau, . . . . Những dòng gió từ nhiều hướng mênh mang của cao nguyên chạy tới, đâm vào nhau và quấn lấy nhau, quay tròn trong điệu "nhảy Tăng-gô" ngẫu hứng bất tận. Chúng tạo ra các dòng khí quay tròn, cuốn bụi thành những cái rốn lốc, đủ các kích cỡ và quay cuồng.

Những lúc ngồi nghỉ, chúng nó rất thích đùa nghịch với gió lốc. Chúng xé giấy thành thành những mẩu vụn rồi lấy que đẩy giấy vào vòng xoáy lốc. Hoa giấy bị quay vòng và được bốc lên cao, rất thú vị. Nếu là một cái lốc to thì giấy được cuốn lên rất cao. Nhưng thường thì chỉ cao hơn mặt đất vài chục phân là các mẩu giấy bị rơi tung ra ngoài.

Lính buồn nghịch gió mà chơi,
Thả nắm giấy vụn lên Giời, cho bay.
Nắng chao trong gió tơi bời,

Nỗi niềm mảnh giấy tả tơi nỗi niềm.

Bốn rưỡi chiều thì việc tập tành kết thúc, lính tráng theo hàng ngũ hành quân về doanh trại. Cũng phải mất hàng tiếng đồng hồ mới về tới nơi. Dù tắm giặt hay chơi bóng chuyền, bóng đá thì cũng phải nhanh nhanh chóng chóng trong vòng nửa tiếng. Đúng 6 giờ, theo hiệu lệnh kẻng, mọi người phải xếp hàng trước cửa nhà ăn theo từng tiểu đội. Tiểu đội nào đủ quân số mới được vào nhà ăn. Chính vì thế mà anh em không ai dám chậm trễ vì nếu chậm một tí thì chẳng những bị tiểu đội trưởng mắng mỏ mà anh em trong tiểu đội phải chờ đợi sẽ rất khó chịu. Tiểu đội nó được biên chế đúng hai mâm, kể cả a trưởng Ngoan. Anh Ngoan thường cho mười một thằng lính chúng nó xếp thành hai hàng dọc. Sau khi hô "nghiêm - nghỉ", anh cho sáu thằng trên cùng vào một mâm, năm thằng còn lại và anh ấy thì vào mâm thứ hai.

Chẳng biết tiêu chuẩn quân đội cho lính tráng bao nhiêu một bữa nhưng cả cơm và thức ăn đều ít. Nếu xới vơi thì mỗi đứa cũng được ba lưng cơm, đang sức trẻ, lại tập nặng nên không thể đủ được. Nhưng vấn đề là ở chỗ "năng lực và tốc độ chiến đấu" mỗi người một khác. Nó là đứa ăn chậm từ bé nên chẳng có cách gì mà theo cho kịp đồng đội. Vừa vào mâm, mấy thằng đã vục ngay bát "bê năm hai" vào xoong, làm một bát đầy lèn, rồi phồng mang trợn mắt và lia lịa theo kiểu "tàu siêu tốc", cứ thế liên tục hết bát này đến bát khác, chắc là không kịp thở ?! Đánh vèo một cái chúng đã "quẹt" xong bốn bát. Nó vừa hết lưng cơm đầu tiên thì xoong cơm đã trơ đáy, thành ra những đứa ăn chậm như nó, hôm nào cũng đói.

Rồi mấy thằng ăn chậm tìm ra chiến thật mới. Chúng xếp hàng thành một cụm với nhau để được cùng vào với nhau một mâm. Bữa đó mấy đứa tạm được no. Những đứa ăn nhanh phải ăn cùng mâm với nhau thì chỉ năm phút sau đã thấy giải tán. Thằng "cao thủ" của mâm ấy, về sau này "tiết lộ", là nó phải dùng chiến thuật "Đầy-Vơi-Đầy" nên vẫn chén được hai bát lèn, một bát vơi. Mấy đứa ăn chậm không biết rằng việc chúng nó tự sắp xếp mâm làm cho a trưởng của nó khó chịu. Chắc hẳn trong đầu anh ấy phải vang lên "A ! Mấy thằng này láo. Quyền xếp mâm là quyền của bọ nha !".

Bữa chiều hôm sau, sáu thằng nó lại đứng thành một cụm để vào cùng mâm. Ai dè, a trưởng lại cắt mâm theo hàng dọc. Thế là lại đói. Rồi hôm sau nữa, chúng nó đứng theo hàng dọc thì anh Ngoan lại cắt mâm theo hàng ngang. Tối hôm đó mấy thằng nó ngồi tính toán tìm ra một kiểu xếp hàng, bốn thằng đứng đầu ở hàng bên này, hai thằng đứng đầu ở hàng bên kia. Như vậy nếu cắt ngang thì chúng nó có 5 thằng một mâm, mà cắt dọc thì chúng có 4 thằng một mâm. Cứ như thế, hôm sau sẽ đổi lại để mấy thằng bị lẻ mâm hôm trước thì hôm sau không bị đói. Thật là "tuyệt chiêu". Ai dè, lão Ngoan hôm đó không cắt mâm theo hàng dọc, mà cũng chẳng theo hàng ngang, lão "cắt chéo". Ha ha, các chú chết chưa . . . . ?!.

Vậy là đói vẫn hoàn đói, nhưng mà, mấy thằng ăn nhanh đều là những đứa tốt, mà a trưởng của nó cũng tốt. Vậy tại sao những người tốt ở với nhau lại cứ phải chơi ác với nhau, thật là khó hiểu. Phải chăng cuộc sống nó vốn dĩ phải như thế ?! Triết lý này không phải là lần đầu tiên nó được học ở cuộc đời này. Nó cũng nghiệm ra một điều khác, ấy là, ở trong quân đội thì không có tự do, không có cá nhân và người ta sẽ có cách để cắt đứt tất cả những thứ đó.

Đang sức trai lại bị ăn quá đói thì rồi nhất định sẽ "có biến". Chuyện này thì các cụ đã bảo rằng "đói ăn vụng, túng làm liều". Đúng là như vậy và nhất định phải là như vậy.

Một đêm, thằng Linh cháu nó và thằng Thìn bạn làng của nó cùng gác một phiên. Hai thằng đói quá, nghĩ cách kiếm cái nhét vào bụng. Hai thằng nhớ ra là tối muộn trước khi đi ngủ, anh nuôi mới luộc mấy trăm cái bánh bột mỳ "nắp hầm" để chuẩn bị bữa sáng cho đơn vị, mai khỏi phải dậy sớm. Xong việc, anh nuôi khóa cửa nhà bếp và về phòng đi ngủ rất muộn. Thằng Linh và thằng Thìn bí mật trèo lên mái nhà bếp. Chúng tháo đinh rồi bẻ vênh tấm tôn. Đoạn, chúng thò gậy buộc móc sắt có ngạnh cứ thế mà xiên. Hai thằng xiên liền mấy chục cái bánh. Hai thằng này được chén đẫy tễ, còn lại rất nhiều bánh, chúng chia nhau đem về dấu dưới đáy ba lô để ăn dần.

Tờ mờ sáng anh nuôi dậy để đun nước và chia bánh thì phát hiện ngay ra một rổ bánh bị vơi đi rất nhiều. Nhìn lên mái nhà thì thấy lờ mờ một mảnh trời he hé sau mái tôn. Vài phút sau, còi báo động đã nổi lên. Lệnh đơn vị tập hợp, mang theo toàn bộ quân tư trang.

- Ôi Giời ! Lại báo động đột xuất, bắt hành quân rồi. Khốn nạn thân tôi quá ! – Nó nghĩ.

Khi cả đại đội đã tập trung đầy đủ, đại trưởng Sử quát hỏi :

- Ai ăn trộm bánh của nhà bếp thì tự giác bước ra khỏi hàng!

Cả đại đội nó ngơ ngác nhìn nhau nhưng không có ai bước ra khỏi hàng. Thấy vậy, ông Sử liền ra lệnh :

- Hạ ba lô tại chỗ !

Khi ba lô đã hạ xong, ông hô tiếp :

- Sang trái năm bước, bước !

Rồi ông ra lệnh cho các a trưởng đi khám ba lô. Tới lượt ba lô của thằng Linh và thằng Thìn thì chưa cần khám, mới sờ phía đáy ba lô đã thấy, vừa âm ẩm vừa âm ấm. Lúc rỡ ba lô ra thì mỗi đáy ba lô có hơn hai chục cái bánh . . . .

Đại đội giải tán, về ăn sáng và đi tập. Riêng thằng Linh và thằng Thìn thì bị phạt ngay. Mỗi thằng đeo 20 viên gạch trong ba lô và phải chạy 10 vòng quanh sân vận động dưới sự giám sát của bê trưởng. Hai thằng chạy được 8 vòng thì đứt hơi, mặt tím tái, lảo đảo, rồi phệt xuống tại chỗ. Tay bê trưởng chạy lại, bắt đứng dạy chạy tiếp. Thằng Thìn quá mệt, không còn biết "ất giáp" gì, nó cự lại :

- Mệt bỏ mẹ ! Ông đi mà chạy !

Tay bê trưởng tức quá, rút ngay xanh-tuya-rông. Hắn vung lên quật thằng Thìn. Thấy vậy, thằng Linh liền ôm ghì lấy bê trưởng. Thừa cơ, thằng Thìn giằng lấy xanh-tuya-rông. Nó quất mấy phát vào mặt bê trưởng. Ông đại trưởng lập tức tít còi liên hồi, gọi vệ binh tới. Chỉ một loáng, 6 lính vệ binh lao tới quật ngã hai thằng, trói giật cánh khỷu. Thằng Linh và thằng Thìn bị đẩy đi. Hai đứa bị nhốt vào "nhà ghi".

Lính tráng nhìn thấy cảnh ấy, mặt đứa nào đứa ấy "tái dại", "hồn vía lên mây" hết. Đứa nào đứa ấy ăn vội, ăn vàng rồi răm rắp "cúp đuôi" đi ra bãi tập.

Thằng Thìn, thằng Linh bị giam ba ngày ba đêm trong nhà ghi. Ban ngày nắng chang chang thiêu đốt cái công-ten-nơ thì hai thằng ở trong đó không khác gì Tôn Ngộ Không ở trong lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân. Cái nhà ghi đứng trơ trọi phơi giữa trời nắng với duy nhất một cái lỗ nhỏ, rộng mỗi bề chừng mươi phân ở chỗ ổ khóa. Cái lỗ đó cũng là cái lỗ để đưa thức ăn, toàn bánh mỳ luộc, và nước uống vào. Nó ngó qua lỗ thấy hai thằng cởi trần, mồ hôi đầm đìa như tắm. Đến đêm, hai thằng không bị nắng nóng thiêu đốt nữa nhưng chúng rét, nhất là nửa đêm về sáng, rét run cầm cập.

Thêm vào sự hành hạ của cái rét và cái nóng, mỗi lần đi ăn cơm, đi tập hay đi đâu đấy ngang qua, bê trưởng cùng mấy tay a trưởng lại lấy đá ném vào nhà ghi để tra tấn hai thằng ở trong. Nhốt người trong thùng sắt kín rồi ở ngoài tra tấn bằng cách gõ vào thùng là một trong những cách tra tấn dã man nhất mà người ta có thể nghĩ ra. Nhà làm toàn bằng thép, tiếng động cộng hưởng rền vang nghe rất khiếp. Chả khác gì chuyện thằng gù Quasimodo do được hưởng cái tiếng chuông ở Nhà Thờ Đức Bà mà thành ra điếc. Sao con người lại có thể đối xử với nhau một cách quái vật như vậy ?!

Thương thằng Thìn và thằng Linh, bọn đồng hương chúng nó chờ đến tối bí mật tiếp tế thức ăn và nước uống cho hai đứa, lại còn thêm cả mấy điếu thuốc lá nữa. Thấy hai thằng kêu đêm hôm trước rét quá, tưởng chết, chúng nó chẳng biết làm thế nào, đành quay về "nịnh khéo" lão bê trưởng rồi còn dọa thêm :

- Ban ngày mồ hôi như tắm, ban đêm rét run như cầy sấy thế, ngộ nhỡ đứa nào cảm chết thì anh
phải tội với Giời, phải tội với gia đình nhà nó chứ chẳng yên đâu. Thôi thì anh nói với vệ binh họ
mở cửa để chúng em đưa cho chúng nó cái chăn.

Chắc là lão bê trưởng vừa được nịnh lên mây xanh, cũng sướng, vừa nghe dọa nên cũng có phần sợ, hay là lão cũng động lòng thương người thì không biết, lão ấy cho mở cửa để đưa chăn vào cho hai thằng tội đồ.

Bê nó ở trong một căn nhà mái tôn dài, tường được thưng bằng gỗ. Những tấm gỗ dài từ một đến ba mét, bản rộng hai chục phân được đóng vào các cột gỗ vuông, tấm này đóng khít với tấm kia từ dưới lên đến sát mái, đều tăm tắp. Căn nhà này rộng chừng 6 mét nhưng rất dài, dễ chừng tới 30 mét. Đầu căn nhà được ngăn riêng thành một buồng để kê hai cái giường đơn, một bàn nước và hai bàn làm việc. Đó là phòng của ban chỉ huy trung đội. Phần nhà còn lại để thông, hai bên kê 2 dãy phản đơn, san sát, gác trên những thanh ghi chạy dọc theo chiều dài nhà. Giữa hai dãy phản là lối đi rộng khoảng 2 mét. Hai hàng xích-đông được làm bằng nứa ghép lại và được đóng ở trên cao, gần sát mái nhà, sát với tường ở hai bên. Ba lô được để ngay ngắn trên xích-đông, quay lưng ra ngoài, chính giữa phản lên, thành hai hàng thẳng tăm tắp. Đầu phản nằm của mỗi người thì để chăn màn gấp vuông như cái hộp, có vuốt li thẳng và xếp thẳng hàng với nhau. Ngoài hiên nhà căng 2 sợi dây thép, cũng thẳng băng, song song hàng trên, hàng dưới, làm nơi phơi khăn mặt. Tất cả đều gọn gàng, ngăn nắp và quy củ.

Tối đến, sau khi ăn cơm, bảy giờ đến giờ sinh hoạt. Ai ngồi giường nấy, từng tiểu đội sinh hoạt, phổ biến công tác, nhắc nhở phê bình, đọc báo chung, . . . . Sau đó được tự do làm việc riêng, đọc sách, chơi cờ, chơi tú. Đúng 9 giờ, theo hiệu lệnh kẻng, nhất loạt mắc màn, tắt đèn đi ngủ. 5 giờ sáng, kẻng đánh báo thức, lại nhất loạt dạy, tập hợp toàn đại đội trên sân để tập thể dục. Sau đó thì vệ sinh cá nhân và ăn sáng rồi đi tập. Nhịp sống cứ thế đều đặn, lặp đi lặp lại.

Đời lính đúng là vất vả, gò bó mất tự do nhưng sinh hoạt tập thể cũng rất hay và rất vui. Mỗi đứa một quê, mỗi quê một tập tục, quê nào cũng có chuyện hay, chuyện lạ. Chúng tâm sự với nhau, kể chuyện vui, tán dóc, trêu chọc nhau, thôi thì đủ cả, lúc nào cũng ồn ào vui vẻ. Chúng còn bầy ra nhiều trò chơi rất hay và thú vị.

Nó rất nhớ và thích trò tạm gọi là "Đi Đưa Ma". Trò này có người gọi là "Phụ đồng chổi", nhưng chắc chắn là không phải. Phụ Đồng Chổi là một trò chơi "lên đồng" của trẻ con. Trong đó một đứa trẻ ngồi ở giữa, những đứa khác đứng xung quanh và hát:

Phụ đồng phụ chổi !
Thổi-lổi mà lên !
Ba bề bốn bên !
Đồng lên cho chóng !
Nhược bằng cửa đóng;
Phá ra mà vào !
Cách sông cách ao;
Thì qua cho được!
Cách roi cách vọt,
Thì đánh cho đau,
Hàng trầu hàng cau,
Là hàng con gái.
Hàng bánh hàng trái,
Là hàng bà già.
Hàng hương hàng hoa
Là hàng cúng phật
Đội mũ đi tế,
Là quan trưởng-đô,
Đánh trống phất cờ,
Là phụ đồng chổi !
Chúng cứ hát như vậy cho đến khi đứa ngồi đồng "nhập đồng" thực sự. "Đồng" cầm một cái chổi và quét lia quét lịa, tía lia khắp xung quanh. Bọn trẻ xung quanh phải chạy, phải nhảy để tránh bị chổi quét vào. Trò "Phụ Đồng Chổi" thì nó đã biết rồi, còn trò "Đi Đưa Ma" thì đây là lần đầu tiên nó tham gia và "mục sở thị".

Trò chơi có 8 người tham gia, không kể những người đứng xem. Trò này thường chơi vào ban đêm trong không gian tối lờ mờ, đèn nến leo lét và trong một không khí nghiêm trang, tập trung tư tưởng cao độ. Tuyệt đối không ai được cười. Một thằng nằm ngửa dưới đất, đóng vai người chết. Bảy đứa còn lại, mỗi đứa dùng một ngón tay trỏ để nâng "người chết". Hai thằng nâng hai chân, hai thằng nâng hai vai, hai thằng nâng hai bên sườn, thằng còn lại nâng đầu. Khi bảy ngón tay của bảy thằng đã đặt đúng vị trí, thằng đứng ở đầu bắt đầu thì thầm hỏi, thằng bên cạnh thì thầm trả lời. Trả lời xong, thằng này hỏi tiếp thằng bên cạnh nữa, . . . . Cứ như vậy, hỏi và trả lời lầm rầm theo ngược chiều kim đồng hồ:

- Ông đi đâu đấy ?
- Tôi đi đưa ma !
- Ông đi đâu đấy ?
- Tôi đi đưa ma !
- . . . . . .

Trong cái không gian âm u, hư hư, ảo ảo, rờn rợn ấy, không biết từ lúc nào, "người chết" được nâng lên khỏi mặt đất, rất từ từ, cho đến khi lên ngang tầm vai của người đứng thì bảy người "đưa ma" bắt đầu di chuyển đi dọc giữa hai dãy giường, rồi vòng đi vòng lại mấy lần. Trò chơi đến đây coi như đã thành công. Những đứa đứng xung quanh được dặn trước là khi đó phải đứng sát vào mà đỡ "con ma", nếu không, bảy thằng kia mà nó dừng chơi thì con ma sẽ bị rơi thẳng xuống đất. Cũng có lần đang chơi thì một trong tám thằng bật cười, bỗng nhiên "thây ma" nặng trĩu rồi rơi uỵch xuống đất.

Trò chơi này có gì đó kỳ bí, mê hoặc và khó tin. Không ai trong bảy đứa "khiêng ma" có cảm giác thấy "nặng" khi nâng "con ma". Thật là lạ !

Cũng có những đứa không tin chuyện này có gì đặc biệt vì cho rằng, bảy ngón tay như thế đủ để nâng được một người. Này nhé, một người nặng chưa đến 50 cân, chia cho 7, thì, mỗi thằng chỉ nâng có 7 cân. Vậy chỉ cần hợp sức lại đồng đều là được. Một cuộc tranh cãi sôi nổi xảy ra để kết thúc là chúng nó sẽ phải làm "một thí nghiệm khoa học".

Chúng chọn ra bảy thằng to khỏe nhất để làm bảy người khiêng "ma" và một đứa "thấp bé nhẹ cân" nhất thì cho làm "ma". Bảy thằng cũng đặt bảy ngón tay như trong trò chơi. Một thằng đứng ngoài chỉ huy việc "nâng ma" :

- Nào ! Tất cả tập trung vào ! Sẵn Sàng chưa ?
- Rồi !
- Chú ý, khi nào tao hô một, hai, ba . . . . . thì nhất loạt nâng lên nha ! Làm thật từ từ thôi !
- Nào ! Một, hai, ba . . . .

Bảy thằng mắm môi mắm lợi mà cái "thây ma" vẫn không nâng lên được tí nào. Thử đi thử lại mấy lần nữa nhưng "thí nghiệm khoa học" vẫn thất bại.

Ngày nghỉ Chủ Nhật, mỗi a được phát 2 phiếu "giấy phép ra khỏi doanh trại". Mỗi tiểu đội được hai người ra ngoài thay phiên, sáng hai đứa, chiều hai đứa. Từ nhà ra đến cổng thì nộp phiếu cho vệ binh, buổi trưa về thì nhận lại phiếu và đưa cho hai người khác. Chiều về thì nộp phiếu cho tiểu đội trưởng. Cũng có thể xin được anh em trong tiểu đội đi cả ngày. Tiểu đội nó mười một người, mỗi tuần bốn đứa được đi chơi thì phải ba tuần mới quay hết một vòng. Lính ra ngoài vừa để thăm thú, khám phá thị xã, đi xem phim, mua bán nhu yếu phẩm, cắt tóc hay vá chữa quần áo.

Plâycu (Pleiku) là thị xã cao nguyên, trên vùng đất đỏ bazan, nằm dọc Quốc lộ 19. Từ Quy Nhơn, theo đường 19, đi mãi mới tới đèo Mang Yang. Qua đèo Mang Yang, tụt xuống thung lũng đến Đăk Đoa là bắt đầu vào thị xã. Thị xã Pleiku nằm trên một vùng đất cao hơn xung quanh, khá bằng phẳng và rộng mênh mông mà trung tâm thị xã nằm ở vị trí cao nhất. Nơi đó cũng là giao lộ của Quốc lộ 19 chạy theo hướng Đông-Tây và Quốc lộ 14 chạy theo hướng Bắc-Nam.

Từ khu Hoa Lư là doanh trại của đơn vị nó, ở phía bắc, một con đường ngoằn nghoèo, theo hướng nam, dốc dần lên để đi vào trung tâm thị xã. Hai bên đường là hai hàng cây thông cổ thụ cao vút. Đầu con đường, chỗ sườn đồi dẫn vào thị xã là rạp chiếu phim Diệp Kính. Con đường chạy qua trước mặt rạp Diệp kính là Quốc Lộ 14. Nếu chạy về phía bắc trên con đường này, qua khu vực Hoa Lư của đơn vị nó thì đi ra Kon Tum, mà chạy về hướng nam thì đi Buôn Hồ, Buôn Ma Thuột. Chếch ngay trước cửa rạp Diệp Kính là ngã ba giữa Quốc lộ 14 và Quốc lộ 19 từ Qui Nhơn lên. Từ ngã ba này đi về hướng nam khoảng chín cây số lại có một ngã ba nữa, Quốc lộ 19 lại tiếp tục từ đây đi về hướng tây đến Chư Ty rồi Đức Cơ và kết thúc ở biên giới với Cambodia. Phần lớn thị xã Plei nằm từ Ngã ba Diệp Kính đi về phía đông, chạy dài trên trục đường 19, dốc dần xuống. Từ ngã ba này đi một đoạn là tới khu chợ Pleiku, mà ngay ngã ba Diệp kính cũng là một cái chợ trời, hoạt động cả ngày lẫn tối.

Ngoài rạp Diệp Kính nổi tiếng còn có rạp Thanh Bình cũng rất nổi tiếng. Về sau nay rạp Thanh Bình chuyển thành nhà Hát Đam San. Cũng phải kể đến mấy cái nhà thờ nữa mà có lẽ nhà thờ Thăng Thiên là đẹp nhất.

Các thị xã cao nguyên như Ban Mê Thuột, Pleiku, Kon Tum, Đà Lạt đều do người Pháp thời đóng chiếm đã quy hoạch, xây dựng và quản lý. Riêng Pleiku là một thị xã nhỏ với vài tuyến phố chính có nhà xây cao tầng, biệt thự, rạp hát và khu hành chính tỉnh lỵ. Nhà dân đan xen vào hầu hết lợp mái tôn vách gỗ.

Dân cư trong thị xã hầu hết là ngươi Kinh, phần nhiều theo đạo Thiên Chúa, số người theo đạo Phật ít hơn nhiều. Xung quanh thị xã còn có rất nhiều buôn của các đồng bào dân tộc mà thời đó gọi chung là người Thượng. Người Thượng da rất đen, để tóc dài và vấn lên. Người Thượng chủ yếu đi chân đất, đàn ông ở trần đóng khố, phụ nữ mặc váy quây, áo hở rốn. Các bà già thì hầu hết cũng ở trần, mặc quần.

Dân Thượng hầu hết là nghiện thuốc lá, gọi là thuốc rê, một loại thuốc tự trồng, hút trực tiếp bằng lá quấn hoặc thái to rồi nhồi vào tẩu, suốt ngày phì phèo, bập bập trên môi. Mùi thuốc lá rê hôi rình, hơi khăm khẳm. Thỉnh thoảng họ nhếch mép phóng toẹt một cục nước bọt tròn xoe thẳng căng xuống đất. Trên vai người Thượng hầu như lúc nào cũng thấy mang gùi, to nhỏ đủ các cỡ. Người thượng cũng đi xe máy. Trông cảnh một người đàn ông cưỡi xe Honda 67 chạy tung hoành trong thị xã, khố bay phập phồng, lúc đầu chưa quen cứ phải bật cười.

Những người Thượng ở trần như vậy nhưng đi rừng rất siêu, nó rất nể phục. Họ chỉ đóng khố, đi chân đất, tay cầm dao quắm vừa đi vừa phát lối mà cứ bước phăm phăm vào bạt ngàn cây xấu hổ cao ngang đầu gối, mặc cho loại cây này có gai nhọn chi chít. Trong khi đó, bộ đội đi giầy tất đầy đủ, mặc quần kín hết chân, bám theo họ thì bị gai đâm thủng quần vừa đi vừa phải gỡ. Họ cứ chân trần mà đi thoải mái, thế mới tài. Chắc da họ phải rất dày, . . . . như da trâu ?! Chạy dọc hàng rào trước cửa doanh trại nó có một con đường đất đỏ rộng chừng 6-7 mét, đi sâu vào các bản người Thượng.

Ngay đối diện cổng vệ binh của đơn vị nó, có một dãy ki-ốt dựng bằng tre, quây cót, mái lợp giấy dầu. Đó là các quán hàng phục vụ lính. Nào thì các hàng tạp phẩm, hiệu cắt tóc, cửa hàng may vá mạng quần áo, café, . . . .

Trong dãy ki ốt đó có cái quán may của một cô bé tên Hương, người thị xã. Hương cũng trạc 19 - 20 tuổi, thướt tha áo dài trắng, rất xinh, được học hành và giáo dục cẩn thận nên tiếng Anh rất giỏi, cũng giỏi cả ghi ta và yêu thơ phú. Vốn dĩ nó là đứa mơ mộng, ham đọc sách, yêu thơ, yêu ghi ta và hội họa, gặp Hương "hợp cạ" nó thích lắm. Mỗi lần ra vá quần áo cứ nấn ná ở lại lâu. Khi chỉ có hai người trong quán, hai anh chị lại đưa đẩy đọc thơ tình cho nhau nghe, thơ Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê, . . . .

Một lần đến phiên nó được ra ngoài doanh trại. Nó mang cái quần dài bị sờn đầu gối theo, không quên ngắt trộm một bông hoa hồng ở vườn hoa đơn vị. Nó cẩn thận gói bông hoa cùng với bài thơ nó mới "mần", bí mật luồn vào trong áo đóng thùng, rồi tự nhiên đi qua cổng vệ binh như bình thường. Sau mấy tuần, giờ gặp nhau, hai đứa "cả mừng", cứ tíu tít chuyện trò, tưởng như không thể dứt ra được. Hương để dành cho nó mấy cái bánh bột lọc má mới làm. Em bóc từng chiếc bánh, đưa tận tay cho nó. Nó rút bông hồng từ trong ngực áo ra tặng Hương. Rồi "dấp nước" giọng, nó xúc động đọc bài thơ mới viết tặng Hương. Chàng và nàng cứ quấn quýt bên nhau, lai láng hồn trong thơ ca, đàn địch và trong "Suối mắt huyền mơ" . . . . đồng vọng.

Mê mải, ngất ngây, bảng lảng "du theo xuân và vơ vẩn cùng mây", chàng nghệ sỹ "nó" đâu có để ý gì đến chuyện "tai vách mạch rừng". Một người đang ngồi cắt tóc ở ngay quán bên cạnh đã chẳng bỏ sót đến một lời nào của "chàng và nàng". Cắt tóc xong, người đó lẳng lặng về trước và chờ đợi. "Chàng" cứ vô tư, hồn nhiên, chẳng thể biết những gì từ "trên trời" sắp đổ lên đầu mình.

Chiều Chủ Nhật đó, khi lính tráng đi chơi ngoài đơn vị đã trở về đông đủ và nó là đứa về cuối cùng. Nó vừa bước qua cổng của vệ binh thì có tiếng còi báo động của trung đội. Toàn trung đội tức tốc "ba lô sau lưng, súng khoác trên vai" chạy nháo nhác rồi tập hợp trên sân. Nó cũng vừa kịp là người có mặt sau cùng, đứng vào đội hình.

Sau khi "nghiêm - nghỉ - chạy tại chỗ", bê trưởng Lạp nó đứng lên trên bục đất cao. Anh ta rút từ trong xắc-cốt (sacoche) ra một quyển sổ dày, màu xanh. Nhìn thấy cuốn sổ, nó giật mình đánh thót rồi chết lặng đi. Cuốn sổ đó chính là nhật ký của nó. Trong đó những sự kiện, con người, tâm tư tình cảm, . . . . đã được nó ghi chép lại tỉ mỉ, trung thực kể từ ngày mới nhập ngũ tới nay. Thì ra, khi nó đang ba hoa thơ phú ở tiệm may, lão Lạp ngồi cắt tóc ngay bên cạnh đã nhanh chóng về trước lục ba lô của nó, lấy trộm nhật ký. Chắc hẳn lão đã đọc hết và ngồi chờ nó về là ra lệnh báo động.

Đứng trên cao, hắn bắt đầu giở từng trang nhật ký của nó, chọn chỗ và bắt đầu đọc rất to với giọng điệu nhấn nhá, giễu cợt. Những lời lẽ từ tim, từ óc nó cứ tuồn tuột phơi bày trước mặt một đám đông đang phấn khích. Rồi lão Lạp lại đọc cả bài thơ nó viết và mới tặng Hương sáng nay. Cả trung đội cười ồ ồ, à à nhìn nó. Nó thì chỉ muốn "có lỗ nẻ" nào dưới đất mà chui ngay xuống. Mặt nó đỏ nhừ rồi dần dần tái xám lại. Nó ngượng, nó nhục vì bị xúc phạm. Trong lòng nó uất ức và căm hận khôn tả, cảm tưởng như nó là một con thú hoang bị người ta dồn vào bước đường cùng. Bộc phát, nó nghĩ nó sẽ bắn cho lão Lạp một phát, ngay lập tức. Nó sẽ nhảy lên và đấm ngay vào mặt lão ta một cú "trời giáng". Nhưng rồi nó không làm gì hết, nó là đứa yếm thế từ bé mà, chỉ biết chịu đựng tủi nhục chứ đã bao giờ dám "vùng lên". Nó ước giá mà nó như thằng Bão, em họ nó, hay như thằng Thìn, bạn làng, mà quật mấy phát xanh-tuya-rông vào mặt cái lão kia. Thực sự là nó hèn và vì thế nó càng đau đớn và tủi hổ.

Đọc xong, lão Lạp bắt đầu lên giọng, cao đạo rao giảng. Nào là lý tưởng cách mạng, nào là lối sống của người Đoàn viên tiên tiến, cách mạng, có văn hóa. Nào là phải từ bỏ thứ văn hóa ru ngủ, tiểu tư sản ủy mỵ, thảm hại, làm mất sức chiến đấu của quân đội, . . . . Sau đó lão Lạp còn sỉ nhục nó một hồi rất lâu. Sau khi "chửi bới", sỉ nhục nó không thương tiếc, lão Lạp ra lệnh phạt nó đeo 10 viên gạch trong ba lô, chạy vòng quanh sân vận động theo hiệu còi của lão.

Nó căm lắm và ngậm mối hận trong tim cho đến tận bây giờ. Sau chuyện ấy, nó đã đốt nhật ký, không viết gì nữa. Nó cũng tuyệt nhiên không còn dám ra gặp Hương, dù cho em nhắn gọi nó rất nhiều. Từ ngày ấy cho đến nay, bất giác những lúc nào đó nhớ lại, hẳn là Hương vẫn thắc mắc chuyện nó đột nhiên cố tình vĩnh viễn rời xa em, những u uẩn chẳng bao giờ có lời giải đáp . . . .

Tháng năm kỷ niệm đã qua rồi
Còn nhắc chi, buồn lắm người ơi !

Mất một thời gian khá lâu, nó "không ngẩng mặt lên được". Nó cũng ngẫm ra một điều - Ôi cuộc đời ! Ôi đám đông ! Một thứ "văn hóa đám đông", hẳn là vậy. Một đám đông sẽ sung sướng, hỷ xả, hả hê khi được chứng kiến nỗi đau khổ của đồng loại. Có gì đó bầy đoàn, tự nhiên và man rợ . . . .

Lính mới chúng nó đứa nào cũng là lần đầu tiên xa nhà nên chẳng có đứa nào là không nhớ nhà. Có đứa đọc thư nhà mắt đỏ hoe, có đứa còn khóc tu tu. Nó cũng nhớ lắm nhưng không dám khóc. Chiều chiều khi hoàng hôn buông xuống, hoặc khi sương mờ, trăng gió lả lơi phiêu bồng, ôm súng gác, nó thẫn thờ nhìn về phương Bắc. Ở nơi ấy có xóm làng và phố nhỏ thân yêu của nó. Ở nơi ấy có mái nhà tranh với thầy bu, anh chị em và cháu chắt họ hàng nhà nó. Trong lòng nó là nỗi nhớ da diết và buồn vời vợi mà không nói được với ai.

Môi trường cuộc sống mới thay đổi, nhiều khi gặp những tình huống nan giải, lúng túng, nó không biết hỏi ai, chỉ ngửa cổ lên Trời gọi khẽ :

- Thầy ơi ! Con biết làm sao bây giờ ?

Nhớ nhà nó chỉ còn cách vùi đầu vào viết những lá thư dài dằng dặc cho thầy bu nó, cho bạn bè nó và nhất là cho Hợi, người yêu của nó. Thư gửi đi xong nó lại ngong ngóng chờ đợi thư về. Cứ mỗi lần cậu liên lạc cầm một tập thư từ ban chỉ huy đại đội đi xuống là cả đơn vị nó cồn lên như động kinh. Lính tráng bâu lấy xung quanh cậu liên lạc mà nhao nhao hỏi xem thư của mình có không. Đứa nhận được thư thì vui vẻ, phấn khởi ra mặt, rồi lẳng lặng ra một góc ngồi xem. Đứa không có thư thì "mặt ủ mày chau", rất thiểu não. Có người đọc thư xong thì vui mừng rạng rỡ, nhảy cẫng lên rồi đọc to cho các bạn cùng nghe. Nhưng cũng có có kẻ sau khi đọc thư lại buồn xo, len lén ra sau nhà ngồi khóc.

Nó gửi thư đi rất nhiều nhưng thư trở lại cho nó thì ít và ngày càng thưa dần. Nó cảm thấy buồn và tủi, trong lòng cũng có ý trách mọi người vô tâm, chỉ biết vui vầy cuộc sống hiện tại, nỡ quên đi sự nhớ nhung đau đáu mong chờ của kẻ đi xa, nhất là đối với một đứa như nó, sống bằng tình cảm và hơi lãng mạn.

Một lần, lâu lắm nó không nhận được thư của Hợi. Nó liên tục viết cho em thì lại càng liên tục không nhận được thư em. Nó viết thư cho Tuyết Văn cháu nó hỏi dò xem Hợi có chuyện gì. Rồi một hôm nó nhận được thư Tuyết Văn kể rằng tình cờ Văn nhìn thấy thằng Trương đèo Hợi ngồi sau, ôm eo. Hai người vừa đi vừa cười đùa vui vẻ, thân mật lắm. Một luồng điện chạy dọc theo sống lưng rồi bốc hỏa trên đầu nó, làm cháy ruột nó. Một ngọn lửa hoang tàng và dữ dội thiêu đốt tâm can nó.

Thằng Trương là bạn thân của nó ở Phó Đức Chính, vừa nhà "dzầu" Hà Nội, vừa đẹp "dzai", lại "mỏ nhọn", "cưa" đâu đổ đấy. Mà từ lúc nó ở Hà Nội, ngay trước mặt nó, thằng Trương đã tán tỉnh Hợi của nó làm nó ghen "bầm gan, tím ruột" mà không làm gì được. Ngày đó nó đã biết như vậy và tìm cách không cho thằng Trương tiếp xúc với Hợi. Bây giờ nó ở xa, em thì xinh đẹp như con nai tơ lại cặp kè bên cạnh thằng Trương như một con hùm, thì, hẳn làm sao mà thoát được. Trong lòng như có lửa đốt, không biết bao nhiêu điều tưởng tượng của nó về em cùng với thằng Trương đã dày vò, hành hạ, bóp nghẹt tim nó. Nó chỉ muốn bùng ngay về Hà Nội, lao đến bên người yêu để giữ chặt lấy em, hay là, để chứng kiến một sự thật là em đã thuộc về thằng Trương. Đằng này hay đằng kia đều rất thôi thúc nó. Nhưng nó sẽ chẳng bao giờ có thể làm được điều đó, nó không thể bỏ trốn đơn vị được.

Bán tín bán nghi, nó gửi thư trách Hợi bỏ nó mà đi theo thằng Trương, cạn tình để không còn muốn viết cho nó một lá thư, . . . . Ít lâu sau, nó nhận được thư Hợi. Em thanh minh và phân bua rằng chỉ là do bận nên mới chậm viết thư. Nó yên tâm được đôi chút nhưng trong lòng vẫn không thôi day dứt.

Một hôm nó nhận được thư của thày nó. Thày nó vốn chỉ giỏi chữ Nho, nay viết thư cho nó bằng chữ Quốc ngữ, chữ to kềnh càng, trông cứ ngồ ngộ. Bức thư ngắn gọn, viết kín hai trang giấy vở học trò, làm nó rất cảm động. Qua thư, nó được biết mọi chuyện trong gia đình, chuyện làng, chuyện xã. Thày còn khuyên nó giữ gìn sức khỏe, cố gắng học tập phấn đấu. Đọc thư mà trong đầu nó mường tượng ra cái dáng hình gầy còm cặm cụi của thày ngồi viết thư cho nó. Nước mắt nó lăn xuống má lúc nào không hay. Nó không thể ngờ rằng đó lại là lá thư cuối cùng của thày.

Càng gần những ngày Tết, nỗi nhớ nhà càng cồn cào day dứt. Nó nhớ cảnh Tết quê nó với sự chuẩn bị rộn ràng tấp nập, những hương vị êm ái, ngọt ngào. Những ngày Tết xum họp đầm ấm đã thấm sâu vào một đoạn đời của nó từ tuổi thơ tới giờ chưa lúc nào phai nhạt.

Một tối chủ nhật, tiết trời se lạnh, sau khi sinh hoạt đọc báo, chúng được nghỉ ngơi. Đứa thì vùi đầu vào viết thư, đứa đọc sách, chơi tú. Nó và vài đứa bạn thì ôm đàn ghi ta ra đầu hồi nhà, ngồi trên mấy viên đá cuội lớn, ngắm trăng, chơi đàn và hát.

Thằng Thìn thấy tiếng đàn cũng xà vào. Hắn bắt đầu cất giọng hát, mà thằng này thì chỉ có chuyên nhạc vàng, loại nhạc mà đơn vị nó cấm. Giọng thằng Thìn là thứ giọng nỉ non, ai oán, ru hồn vào cõi mộng buồn. Xa nhà, gần Tết, nhớ mẹ, thằng Thìn thả hồn vào bài "Lạy mẹ con đi" :

Lạy mẹ con đi ôm ấp linh hồn Việt Nam
Lạy mẹ con đi noi theo chí hùng ngàn năm
Vắng con mẹ buồn là bởi ý thiên khơi nguồn
Nhưng còn gì hơn tình nước vẫn trong tình con
Từ nhỏ con chưa xa vắng quê nhà mẹ ơi
Một buổi xa con nhớ thương chắc mẹ chẳng vui
Biết con đi rồi nhà cửa vắng thêm một người
Ôi mẹ vì con từng hi sinh cả cuộc đời
Mẹ ơi ! việc lớn chông gai là đây
Tình núi non cao ngất trời không thể sánh tình mẹ thương phút này
Mẹ ơi ! Ở bữa cơm nghèo chiều nay cành vắng chim non rẽ bầy
Xin mẹ hãy mừng nhìn về tương lai !

Sau khi thằng Thìn "Lạy mẹ" xong, cả hội ngồi chết lặng, mỗi đứa theo đuổi một tâm tư về người mẹ riêng của mình. Bài ca thực sự đánh trúng vào tâm trạng những người lính trẻ, nhớ nhà, nhớ quê hương. Thằng Thìn hắng giọng, hắn nói :

- Sau đây, Đình Thìn xin trình bày một ca khúc nữa về mẹ. Xin mời quý thính giả thưởng thức, ca khúc :

" Xuân
này
con
không
về . . . .
"

Con biết bây giờ mẹ chờ tin con
khi thấy mai đào nở vàng bên nương
Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về
nay én bay đầy trước ngõ
mà tin con vẫn xa ngàn xa
ôi nhớ xuân nào thuở trời yên vui
nghe pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi
ên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng
trông bánh chưng ngồi chờ sáng
đỏ hây hây những đôi má đào
Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm,
mái tranh nghèo không người sửa sang
Khu vườn thiếu hoa đào mừng xuân
Đàn trẻ thơ ngây chờ mong
anh trai sẽ đem về cho tà áo mới
a ngày xuân đi khoe phố phường
Con biết bây giờ mẹ chờ em trông
nhưng nếu con về bạn bè thương mong
ao lứa trai cùng chào xuân chiến trường
không lẽ riêng mình êm ấm
Mẹ ơi con xuân này vắng nhà
Mẹ thương con xin đợi ngày mai...

Tiếng đàn thánh thót, giọng hát nỉ non, nội dung lời ca gõ vào nỗi nhớ, cảm xúc dâng đầy. Cả lũ chúng lẩm nhẩm hát theo, thấy cay cay ở mũi, cổ tắc nghẹn, nước mắt trào ra. Chúng òa lên khóc . . . .

Hiểu được tâm lý chiến sỹ, trung đoàn tổ chức đón cái Tết cho bộ đội rất chu đáo. Ban hậu cần cho bắt lợn về, lại còn mua một con bò từ nhà dân. Thịt lợn và thịt bò rất nhiều, vừa gói giò, làm chả, gói bánh chưng. Mấy bữa ăn tươi liền có đủ các món "giò, nem, ninh, mọc", . . . . rất linh đình. Về mặt tinh thần, các thủ trưởng cho tổ chức thi đấu bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn và hội diễn văn nghệ. Những việc đó làm vơi đi nỗi buồn của lính và cuốn anh em vào niềm vui chung của người lính khi ăn tết xa nhà.

Nó biết chơi đàn và làm thơ nên được cử làm đội trưởng đội văn nghệ của Xê 21. Được giao nhiệm vụ nó cũng cố gắng thể hiện. Nó tự sáng tác được một bài thơ để dành cho tiết mục ngâm thơ. Rồi nó cũng vận hết mình để sáng tác ra một bài hát. Vậy là đại đội nó có hai tiết mục tự biên. Ngoài ra còn tốp ca nam, song ca và đơn ca nữa, . . . . .

Đội văn nghệ của nó tập tành liên tục nửa tháng giời, rất nghiêm túc và công phu. Hội diễn văn nghệ toàn trung đoàn của nó diễn ra trong ba đêm. Mấy tiết mục của chúng nó lọt vào đêm thứ ba chung kết. Nó vẫn còn nhớ như chuyện vừa xảy ra, tốp ca 8 đứa chúng nó đứng vòng cung, quân phục mới là phẳng phiu, mũ mềm đính sao lấp lánh. Nó đứng ở một đầu tốp, vừa đệm đàn vừa hát :

Đoàn thanh niên chúng tôi
Từ bao quê xa xôi, về đây nhập ngũ ú u . . . .
Sống với đại gia đình trong hơi ấm tình thương.
Chia sẻ vui buồn và gọi nhau đồng chí i í . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . .

Tiết mục thơ và tốp ca của chúng nó là hai tiết mục được giải nhất vì đó là hai tiết mục tự biên tự diễn. Xê 21 cũng được giải nhất đồng đội. Đội của nó được thưởng một cây đàn măng-đô-lin (mandolin) và cá nhân nó được thưởng một chiếc kèn ác-mô-ni-ca (harmonica).

Đùng một cái, 4 giờ chiều, tiểu đoàn nó nhận được lệnh gấp hành quân chiến đấu. Đơn vị nó có nhiệm vụ phối thuộc với tỉnh đội và du kích địa phương bao vây khu vực làng Nú và một số địa điểm thuộc huyện Ia Grai. Tại đó đang có một nhóm tàn quân VNCH cùng tổ chức Fun-rô (FULRO*) vượt biên giới Căm-Pu-chia trở về tổ chức đồng bào Thượng chống phá chính quyền và vũ trang nổi dậy quấy phá vào dịp Tết.

Tập hợp xong, lúc đi bộ qua khu vực nhà bếp để chuẩn bị lên xe thì chúng thấy mùi cỗ tất niên bốc lên. Mùi nem rán vừa thơm mùi hành vừa ngầy ngậy mùi mỡ cùng nấm hương, mùi thịt bò xào thì thơm nức mùi tỏi phi. Ôi trời ơi ! Chúng nó cứ phải nuốt nước bọt ừng ực. Thôi thế là đứt rồi. Đi đánh nhau thế này biết lúc nào mới xong. Tết nhất, ngại quá! Nhất là cái tụi tàn binh với Fun-rô, chúng cứ lẩn khuất trong rừng, bắn trộm đùng đoàng rồi lủi mất . . . ., biết đằng nào mà lần. Không biết chừng còn "mất gáo" ngay trong cái dịp Tết hòa bình đầu tiên này, . . . . Lính mà ! Không có gì là không thể !

* FULRO (viết tắt của cụm từ tiếng Pháp Front Unifié pour la Libération des Races Opprimées, có nghĩa Mặt trận Thống nhất Giải phóng các Sắc tộc bị Áp bức) là một tổ chức chính trị, quân sự do một số người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Chăm, người Người Khmer Krom thành lập năm 1964 để chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1975 và chống chính quyền Việt Nam đến năm 1992. Thời điểm kết thúc được tính là khi 407 binh sĩ FULRO cuối cùng ra giao nạp vũ khí cho quân Liên Hiệp Quốc tại Campuchia.

Thì ra không phải chỉ có tiểu đoàn nó mà cả trung đoàn đều lên đường hành quân bằng cơ giới trên các xe GMC, xe Zin ba cầu và Giải Phóng. Bộ đội rất đông với trang bị súng ống đầy đủ, ăm ắp trên những chiếc xe tải. Đoàn xe rù rù chạy về phía tây. Lính tráng cứ thế lặng lẽ tiến quân, sẵn sàng chiến đấu.

Tới ven rừng thuộc khu vực Ia Kha thì hết đường đi. Xe dừng lại dấu kín trong rừng, tắt đèn, tắt máy nằm im. Trung đoàn phối thuộc với bộ đội tỉnh chia làm 3 mũi bí mật áp sát mục tiêu. Lính phải vận động bộ ước chừng khoảng 10 cây số đường rừng trong đêm 30, tối như hũ nút thì tới gần bản Nú. Mũi tiến của đại đội nó dàn hàng bí mật tiềm nhập vào làng, đạp qua rất nhiều cây xấu hổ, cây gai, sim mua, . . . .

Khi đã tiến đến gần các căn nhà ở ven bản, thấy nhà cửa vắng tanh, vắng ngắt. Đại trưởng Sử nhận định, địch lùa bà con đi mít tinh, hẳn là tập trung ở nhà rông của bản. Lệnh cho các trung đội luồn dưới gầm sàn các căn nhà trong bản mà tiến vào giữa làng, hình thành thế bao vây chặt. Tất cả phải quán triệt hạn chế nổ súng để tránh gây thương vong cho dân. Sau khi bao vây xong, sẽ gọi hàng và bắt sống được là tốt nhất.

Qua hết nhà này, rồi sang nhà khác được một lúc thì thấy có ánh đèn măng-xông sáng trắng lấp lóe hắt tới từ phía nhà rông ở phía trước. Lính cứ thế lùi lũi tiến lên vây chặt nhà rông. Từ ngoài vòng vây, nó thấy ánh đèn măng-xông sáng rực trên sân của nhà rông. Rất đông người đang tâp trung ở đó với nhiều tay súng và gậy gộc tua tủa. Trẻ em, người già, phụ nữ đứng bao bọc ở vòng ngoài.

Bỗng nhiên ai đó đạp phải một hòn đá, làm nó trượt đi rồi lăn xuống chân đồi. Lũ chó lập tức sủa váng lên, đèn măng-xông vụt tắt. Toàn bộ chìm trong màn đêm đen kịt. Tiếng loa bất ngờ vang lên từ đâu đó bằng cả tiếng Kinh và tiếng Thượng :

- Đồng bào chú ý ! Đề nghị đồng bào giải tán, ai về nhà nấy trong trật tự, không gây
náo loạn. Đề nghị đồng bào không nghe lời xúi giục của FULRO và bọn phản động.

- Ủy ban cách mạng yêu cầu các anh hạ súng đầu hàng để tránh thương vong. Hiện
nay tất cả các anh đã bị bao vây, nếu ai chống cự buộc chúng tôi phải nổ súng.

Tiếng loa chưa dứt thì một loạt đạn AR-15 xé toạc màn đêm đen, phun đạn về phía chiếc loa. Loạt đạn bắn trúng đich làm một đồng chí bị thương kêu rú lên và ngã huỵch xuống đất. Những người lính phía trước buộc phải nổ súng. Những loạt đạn AK đầu tiên nhất loạt bắn vào chỗ tay súng AR-15. Đồng thời lúc đó nhiều họng súng khác từ trong nhà rông bắn ra rát rạt. Một cuộc đấu súng quyết liệt giữa hai bên chen lẫn với tiếng đàn bà, trẻ con kêu khóc í ới và dắt díu nhau chạy dạt ra xa nhà rông. Tại đó, họ được bộ đội dẫn chạy ra tạm nấp sau vách đá để tránh nguy hiểm.

Bọn địch ngoan cố chống cự rất quyết liệt. AR-15 đấu với AK-47, bắn qua bắn lại cũng chưa giải quyết được, buộc đại trưởng Sử phải điều trung liên RBD vào cuộc. Trung liên băng đĩa bắn dồn dập phát huy ngay tác dụng, đã ghìm chặt đầu mấy tay súng của địch. Liền theo đó là 4 quả lựu đạn cay được tung vào qua cửa từ 4 phía. 4 ánh chớp lóe lên, rồi tất cả chìm trong yên lặng . . . .

Thấy lặng im tiếng súng, trung trưởng Lạp hô :

- Trung đội hai, xông lên !

Anh Lạp dẫn đầu trung đội xông vào nhà rông theo lối cầu thang chính. Nó, thằng Thìn, thằng Bội và vài đứa khác tiến theo anh Lạp. Nấp bên cái cột lớn, anh Lạp lia đèn pin soi khắp một lượt trong nhà nhưng không thấy một bóng địch nào, quay lại phía sau anh nói :

- Báo cáo đại trưởng, trong nhà không có địch !
- Đồng chí cho thắp đèn lên. Kiểm tra kỹ trong nhà và xung quanh ! - Anh Sử ra lệnh.
- Rõ !

Đèn măng xông địch vứt lại được đốt lên, soi sáng một quang cảnh ngổn ngang. Một lá cờ vàng – ba sọc đỏ và một lá cờ Fulro ba màu lam-đỏ-lục với ba ngôi sao trắng được treo chính giữa khu đại sảnh. Bên dưới đó kê một chiếc bàn phủ vải thổ cẩm với một bát hương, vài nén còn đang cháy dở. Phía dưới bát hương đặt 2 con dao quắm bắt chéo nhau. Tường nhà xung quanh lỗ chỗ vết đạn. Dưới nền nhà có 2 xác người và mấy vệt máu lớn chạy dài ra phía cửa sau, hướng chạy ra sông. Dao, gậy gộc cùng và nhiều giấy truyền đơn vương vãi khắp nơi.
Đại trưởng ra lệnh :

- Đồng chí Bình (y tá) kiểm tra ngay các xác chết. Nếu còn sống thì băng bó và cấp cứu cho chúng !
- Rõ !
- Trung đội 2 nhanh chóng tổ chức truy kích địch theo hướng sông.

- Rõ !

Trung đội nó vừa soi đèn tiến theo các vết máu vừa rọi đèn pin tìm địch ẩn náu trên đường truy kích địch từ trong bản ra đến bờ sông. Khi cách mép sông chừng 100 mét thì bất ngờ, từ sau những tảng đá ở bờ sông, nhiều loạt súng đan chéo nhau bắn vào đội hình đơn vị. Anh em nhanh chóng nằm xuống, tìm nơi ẩn nấp và nổ súng bắn trả về phía địch. Vừa bắn, anh em vừa bò, chậm chạp nhích từng mét một. Lợi dụng địa hình các mô đá và cây cối um tùm, trung đội nó dần dần khép chặt vòng vây.

Một ổ đại liên của địch bắn quét vào vòng vây rất quyết liệt. Bên tỉnh đội có một mũi bò vào được khá gần bị địch phát hiện bắn trúng đội hình làm vài người dính đạn. Đúng lúc đó, nó nhìn thấy 3 quả lựu đạn bung nụ xòe, lóe lên rồi bay vào phía ổ đại liên. Ba chớp sáng gần như nổ cùng lúc trúng mục tiêu, làm cho họng súng của địch câm tịt. Trung trưởng Lạp hô :

- Toàn trung đội, tiến lên !

Tiếng hô của anh không to nhưng vừa đủ để anh em đều nghe thấy. Tất cả cùng nhỏm dậy, khom lưng chạy gằn, vượt qua các mô đá, bụi cây, . . . . Mới tiến lên được chừng 30 mét thì AR-15 và Cạc-bin của địch lại bắn quét về phía đội hình của trung đội. Một lần nữa, anh em lại phải ẩn nấp và bắn trả. Thằng Sang nằm cạnh nó vừa nhô đầu lên định lao tới mỏm đá trước mặt thì bị trúng đạn vào vai. Mấy đứa vội nhảy ra ôm thằng Sang, dìu nó lùi ra phía sau. Hai khẩu trung liên của đại đội nó lập tức lên tiếng, hai làn đạn quét "chéo cánh sẻ" rất kỹ vào các mỏm đá làm cho địch không ngóc đầu lên được. Một lúc sau, nghe chừng phía địch đã im tịt, anh Ngoan a trưởng bò hẳn lên phía trước leo qua khe đá và nhảy lên phía trước. Sau khi quan sát và nghe ngóng động tĩnh một lúc, anh Ngoan đứng thẳng người lên, hô gọi :

- Lên cả đi ! Chúng nó xuống sông hết rồi.

Anh em nhẩy ào lên, đèn pin quét loang loáng. Nó thấy 6 cái thây nằm vắt vương sau các phiến đá và trong khe đá. Thằng chết, thằng bị thương, cũng không rõ lắm. Đèn pin quét xuống sông thì không đủ sáng, nó nhìn chỉ thấy lờ mờ, lô nhô rất nhiều cái đầu đang bơi nhấp nhổm về phía bờ sông bên kia.

Anh Sử đại trưởng bảo bộ phận cứu thương băng bó, cấp cứu cho thương binh và tù binh. Anh Lạp hỏi đại trưởng xem có truy kích địch tiếp hay không thì anh Sử ra lệnh :

- Các đồng chí ! Nhiệm vụ của đại đội ta đã hoàn thành. Bên kia sông đã có đơn vị bạn đang
phục kích, đón lõng sẵn sàng rồi. Các trung đội điểm lại quân số, kiểm tra vũ khí. Toàn đại
đội hành quân ra xe, quay về doanh trại.

Nó và mấy đứa còn bắn thêm mấy loạt đạn nữa vào các bóng đen đang rập rờn dưới sông rồi mới tập trung để hành quân ra xe.

Sau mấy tiếng chiến đấu trở về doanh trại, tuy mệt nhưng ai nấy đều rất phấn khởi. Lần đầu tiên tham gia chiến đấu, trải qua những cảm giác lo lắng, bồn chồn rạo rực khó tả rồi chiến thắng và thoát ra khỏi vòng nguy hiểm, có gì đó rất hân hoan và "reo vui" ở trong lòng những người lính trẻ vừa trải nghiệm trận đánh đầu tiên. Mọi người vừa rũ bỏ quần áo lấm lem bẩn thỉu bùn đất cùng gai nhọn, . . . . vừa tranh nhau tả lại chuyện "tao thấy" thế này thế kia, "úi gời ơi ! lúc đó nhá" thế này thế khác cơ, "trông thằng Fun rồ nó chết khiếp quá !", . . . . "Mình đánh nhau giỏi nhảy ! chỉ có thằng Sang và 2 lính tỉnh đội bị thương thôi", "Cực kỳ hết xảy* nha!", . . . . Những người lính cựu như anh Lạp trung trưởng và anh Ngoan a trưởng thì không nói năng gì mà lại có vẻ rất hiền hậu hơn hẳn những ngày trước mà nó nghĩ. Anh Lạp quát lên :

- Thôi ! Các ông tướng. Đi tắm rửa đi còn xuống nhà ăn liên hoan Tất Niên. Hôm nay cho
anh em tự do, không phải xếp hàng. Khẩn trương ! Sắp Giao Thừa rồi.

Anh em tắm giặt xong đi xuống tới nhà ăn thì cũng đúng là lúc Giao Thừa. Một tràng pháo dài được trung đoàn đốt ngay tước cửa nhà ăn để chào đón năm mới, xuân Đinh Mão 1977. Anh em vừa liên hoan vừa lắng nghe lời chúc Tết của chủ tịch Tôn Đức Thắng. Để mừng xuân mới và mừng chiến thắng, trung đoàn nó xuất kho cho mỗi mâm một chai 33 rượu ngô. Bữa Tất Niên trở thành bữa Khai Niên đúng Giao Thừa thật rất tưng bừng vui vẻ và "no say", kéo dài cho đến 2 giờ sáng.

Về tới nhà, thằng Tấn ở a nó mới lôi bánh pháo ra đốt ở ngoài cửa. Mấy a khác và cả các trung đội khác cũng đốt pháo. Không khí đầu năm thật tưng bừng, hỉ hả . . . .

* "cực kỳ" và "hết xảy" là khẩu ngữ ở thời điểm đó.

Sau chiến thắng 30/4, Đất Nước được thống nhất, những tưởng rằng người dân sẽ được ăn no, mặc ấm (chưa nói là ăn ngon, mặc đẹp). Nhưng thực tế hoàn toàn ngược lại. Những năm dài chiến tranh đã làm cho nền kinh tế hoàn toàn kiệt quệ. Sức người, sức của ở cả hai phía đều dốc hết cho cuộc chiến. Trong cuộc chiến thì vũ khí và lương thực được viện trợ từ các nước Xã Hội Chủ Nghĩa cho bên này và từ Mỹ cho bên kia. Bây giờ mọi nguồn viện trợ không còn nữa. Trong khi đó tất cả các cơ sở sản xuất, từ công nghiệp đến nông nghiệp đều bị bóp nghẹt bên trong cái lồng "Nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa tập trung" quan liêu bao cấp. Lương thực, thực phẩm thiếu trầm trọng mà hàng hóa thiết yếu cũng không có gì đáng kể, . . . .

Trong khi đó thì lực lượng quân đội vẫn phải duy trì với số lượng lớn bởi một sự thực là sau chiến thắng 30/4 của ta, Khmer Đỏ liên tục tạo ra tranh chấp và xung đột biên giới nhất là trong các năm 1977 và 1978. Nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay từ năm 1975. Ngày 4 tháng 5 năm 1975, quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc. Sáu ngày sau quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu. Sau đó ta đã phải tổ chức đánh chiếm lại. Nhưng điều thực sự lo ngại là quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đang xấu đi. Trung Quốc đứng đằng sau Khmer Đỏ với sự hiện diện của cố vấn Trung Quốc cùng với sự tăng cường viện trợ quân sự cho lực lượng vũ trang của Khmer Đỏ.

Cả nước lại gồng mình chịu đói khổ, thắt lưng buộc bụng chuẩn bị cho một cuộc chiến mới nhãn tiền. Mặt khác ta cũng phải căng mình chống lại các lực lượng "Phục Quốc", từ bên trong và bên ngoài trở về, kể cả Fulro. Khó khăn chồng chất khó khăn, cả nước thiếu đói thì đơn vị nó cũng không ngoại lệ, cơm độn mỳ, ngô, khoai, sắn cũng không đủ. Thời điểm đó, đơn vị nó chỉ được cấp 70% lương thực và thực phẩm. 30% còn lại đơn vị phải tự lo.

Vậy là ngoài huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu chống "thù trong - giặc ngoài", cả đơn vị nó phải tham gia vào tăng gia sản xuất. Đại đội nó được giao cả một khu đồi lớn bỏ hoang ở Biển Hồ (hồ T'nưng – Ea Nueng). Còn khu tăng gia của trung đoàn thuộc khu vực Đrang Phốc (D'rang Phok) gần sông Sêrêpôc (Srepok – gồm hai con sông Krông Ana và Krông Nô thuộc Đăc Lăk, cách nơi đóng quân trên một trăm cây số đường rừng. Khu vực tăng gia của trung đoàn cũng còn là nơi tập luyện và diễn tập, đồng thời với mục đích trấn giữ và bảo vệ biên giới phía tây với Campuchia.

Ngay sau tết năm Bính Thìn 1976, đại đội nó và một đại đội bạn được lệnh hành quân chuyển đến địa điểm mới, cách trung tâm thị xã Pleiku khoảng mươi cây số. Đó là phía bắc của Biển Hồ. Đại đội nó được chuyển quân bằng ô tô vì phải hành quân di chuyển tất cả đồ đạc của đơn vị. Sau khi nhận đất, anh em phải dựng tạm nhà bạt làm nơi ở. Ổn định nơi ăn chốn ở xong, lính tráng bắt đầu làm công việc của người nông dân thực thụ, đúng chất nông dân cao nguyên Trung phần, phát cây, làm rẫy, trỉa bắp.

Giữa cao nguyên trung phần, nơi có độ cao hơn mực nước biển đến bốn năm trăm mét lại có một thung lũng mênh mông lộng gió. Trong cái lòng chảo đó, Biển Hồ (Ia Nueng - Tơ Nưng – T'nưng) quanh năm ăm ắp nước và luôn luôn xanh ngắt, như một chiếc gương trên chót vót cao nguyên cho mây trời soi bóng. Xung quanh Biển Hồ được vây bọc bởi những ngọn núi xanh biếc cỏ cây hoa lá, lung linh mờ ảo, nghiêng mình in bóng nước. Cái xanh ngăn ngăn ngắt thanh thiên ấy là cái xanh của bầu trời in trong làn nước thu thủy trong vắt của Tơ Nưng. Cá tôm vô cùng nhiều, tung tăng bơi lội, chao lượn thành từng đàn lớn. Cảnh thiên nhiên thật là kỳ thú.

Trên các quả đồi thoai thoải ven hồ, lính phát cây, đốt rẫy, trỉa bắp. Lúc được nghỉ, anh em chạy nhao xuống hồ, tắm giặt, đùa nghịch trong làn nước mát, vô cùng khoan khoái, "Hết xảy con bà bảy !". Sung sướng nhất là được ngắm cảnh đẹp, lãng mạn của hồ Biển. Phía chân hồ xa xa là hình bóng của những dãy núi xanh lam uy nghi soi bóng. Những làn mây trắng trên nền trời thanh thiên đang từ từ trôi qua tạo ra cảnh sinh động "bầu trời in đáy nước". Thẳng hoặc đây đó là những phiến đá, doi cát nhô ra trên mặt nước, dập dềnh sóng vỗ. Vài con thuyền câu thấp thoáng gần xa đang quăng lưới, lấp lánh như ánh bạc. Chiều đến mặt hồ bốc lên một lớp sương mờ, hư ảo tựa như cảnh thiên bồng nơi tiên giới, đẹp mơ màng như tranh thủy mặc. Lữ khách như lạc vào chốn mê quyến rũ có một không hai trên trần gian. Có lẽ vì thế mà người ta ví Biển Hồ như viên ngọc bích giữa mênh mông đất đỏ Tây Nguyên, là "đôi mắt" trong veo của phố núi Pleiku . . . .

Về sau này nó mới biết, Biển Hồ là một miệng núi lửa khổng lồ với rất nhiều bí ẩn và huyền thoại, thêu dệt nên chất thơ mộng và huyền bí từ ngàn xưa. Chuyện cổ dân gian của dân tộc Jơ Rai kể rằng, Ia Nueng (Biển Hồ) khi xưa là bến nước uống chung của làng người Jơ Rai. Nước ở bến Ia Nueng rất xanh trong, soi rõ mặt người. Một hôm, trên đường đi đến bến Ia Nueng để lấy nước, có hai người dân trong làng là Yă Pôm và Yă Chao thấy lúc hiện, lúc ẩn trên đường đi của họ một chú lợn trắng rất đẹp. Yă Chao đã bắt con lợn trắng xinh đẹp kia về nuôi ở nhà mình. Hằng ngày, Yă Chao chăm sóc cho lợn trắng đủ thức ăn ngon nhưng chú lợn con không ăn gì cả. Một lần Yă Chao mang những chiếc bầu đi lấy nước ở Ia Nueng về, trái bầu dính những hạt cát trắng, bỗng nhiên chú lợn con đã liếm hết những hạt cát một cách ngọt ngào. Yă Chao sửng sốt lắm. Sau đó, hàng ngày Yă Chao cứ đi lấy cát trắng về cho chú lợn ăn. Chú lợn từ đó lớn nhanh như thổi. Sau ba lần trăng tròn, chú lợn trắng đã lớn bằng con trâu to. Cả làng của Yă Chao, ai nấy đều ngạc nhiên và lấy làm lạ lắm.

Năm ấy trúng mùa, dân làng dựng nhà Rông mới. Tù trưởng (già làng) mới sai người trong làng đi tìm một con lợn thật to để cúng Yàng và làm lễ ăn mừng. Sau khi sai người đi tìm kiếm khắp nơi nhưng không lấy đâu ra con lợn to như già làng mong muốn nên trở về nhà Yă Chao xin bắt con lợn trắng này để làm thịt. Yă Chao kiên quyết từ chối, dù có đổi bao nhiêu chiêng hay ghè (một loại đồ gốm tinh xảo), kể cả ghè Yang (Yang – Trời). Cuối cùng dân làng đã phải cử 2 người to khỏe đến bắt cho bằng được con lợn trắng về làm thịt cúng Yàng. Cúng lễ xong, thịt được chia cho các gia đình trong làng để ăn mừng. Riêng Yă Chao không nhận thịt và thề rằng: "Nếu tôi ăn thịt này thì đất sẽ động, Ia Nueng sẽ sụp lở". Nhưng đứa cháu của Yă Chao thấy thịt ngon đòi ăn và khóc cả ngày đêm nên bà không cầm được lòng mà phải cho đứa cháu ăn thịt lợn trắng. Bỗng chốc, trời đất, núi rừng rung chuyển, nhà cửa ngả nghiêng, vùi lấp cả dân làng. Yă Chao và cháu của mình cũng chạy nhưng không kịp nên bị nước nhấn chìm rồi biến thành tượng đá dưới đáy hồ.

Chiều chiều, nó cứ mê mẩn lặng ngắm cảnh hồ, dâng dâng cảm xúc, tan hòa trong cảnh sắc Đất Trời, ngất ngây.

Đơn vị nó tăng gia ở đây khoảng gần một tháng. Khi những cây bắp mầm bắt đầu nhú lên được cỡ gang tay thì cũng là lúc đại đội nó được lệnh hành quân di chuyển. Những rẫy bắp mênh mông được bàn giao cho đơn vị ở lại quản lý và thu hoạch.

Xe ô tô chở đại đội nó từ Biển Hồ đi theo Quốc lộ 14 đến ngã ba Chư sê. Nhìn sang phía tây, bên phải đường là núi Chư Prông sừng sững. Đây là ngọn núi cao nhất của huyện và tên của núi này cũng được đặt làm tên của huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Cũng phải nói thêm, còn có một núi Chư Prông khác ở huyện M'đrac của tỉnh Khánh Hòa. Cũng có thể còn có nhiều núi Chư Prông nữa, vì theo tiếng J'rai, "Chư" là "ngọn núi", "Prông" là "lớn". Xe chở đại đội nó đang căng trớn thì vừa qua ngã ba Chư Sê một đoạn lại tạt vào ven đường. Lính phải xuống xe và đi bộ từ đây.
Lần này thực sự là một cuộc hành quân bộ theo đúng nghĩa. Anh em không được báo trước sẽ đi bao xa hay trong thời gian bao lâu. Lúc đầu nó cứ ngỡ cùng lắm thì chỉ phải đi bộ một ngày đường rừng vì xe không thể đi vào được. Nhưng hết ngày này sang ngày khác đến hết ngày thứ sáu, chúng nó mới được nơi đóng quân. Quãng đường hành quân ngoằn nghoèo trong rừng, lội suối, leo núi cao, chắc cỡ 130 cây số.

Đại đội nó xếp thành hai hàng dọc để các tiểu đội trưởng kiểm tra trước khi hành quân. Ba lô đứa nào cũng căng phồng quân tư trang, cóc ba lô đút khăn mặt, bàn chải, kem đánh răng, xà phòng, đũa và bát sắt. Tăng và màn nhét cóc sau, bi đông đeo bên sườn. Trên nóc ba lô vắt ngang một cái ruột tượng gạo, rồi trên đó lại còn một cái chiếu đơn nữa. Súng AK khoác ngược quai ra đằng trước và đặt ngang, đè lên cái chiếu. Lại còn giày dép , mũ mãng, đồ hộp và các thức khác nữa, . . . . Trông đứa nào cũng tầng tầng lớp lớp đồ đạc trên vai, đứng còng còng như những con lạc đà.

Sau khi kiểm tra xong, lệnh hành quân bắt đầu. Dẫn đầu đại đội là đại trưởng Sử, rồi đến trung trưởng Lạp. Sau anh lạp là tiểu đội của nó. A trưởng Ngoan đi bên cạnh đội hình giống như các a trưởng khác. Sau trung đội nó, cách một quãng là trung đội khác. Đi sau cùng là cánh anh nuôi với xoong quân dụng to kềnh, hai người xiên đòn vào khiêng. Các đồ làm bếp khác, cái thì đeo, cái thì gánh, . . . . Hai máy thông tin 15W to đùng được bốn đứa báo vụ thay nhau mang vác. Đứa nào không vác máy thì phải đeo 2 ba lô. Cái máy to mà cần ăng ten rất dài, phía trên có 5 cánh xòe ra, mỏng tang, rung rinh.

Lính giữ đội hình hàng đôi cứ thế lầm lũi đi trên con đường mòn đất đỏ ngoằn nghoèo, lúc leo lên dốc, lúc lại chạy xuống thung, trên những trảng đồi hoa sim, mua hoa tím hường, cây xấu hổ hoa tím mung lung và giã quỳ vàng rực. Được khoảng mươi cây số, chúng bắt đầu tiến vào rừng già. Trong rừng, càng vào sâu cây cối càng um tùm, nhiều tầng lớp với đủ thứ loại cây, chẳng thể biết hết được. Trên Trời mưa bay lất phất, dưới đất rừng thì rất ẩm thấp. Con đường lâu không có người đi, lá mục ngập tới mắt cá chân. Khắp nơi từ dưới đám lá mục cho đến trên các cành cây, đâu đâu cũng thấy vắt đang nghoe nguẩy, vươn đầu lên. Rồi chúng cong mình, búng nhảy lên tanh tách, bám vào tay, vào chân, vào đầu, vào cổ, chui vào tất, ống quần và ống tay áo. Đúng là một lũ hút máu, háu đói và thiện chiến.

Khi Trời đã đứng bóng thì chúng gặp một dòng suối nhỏ. Đại trưởng ra lệnh nghỉ ăn trưa. Đứa nào đứa nấy hạ ngay ba lô xuống, trên các gốc cây, trên các phiến đá ven suối. Trưa nay mọi người có món lương khô và nước lã trong bi đông. Nó dựa ghi ta vào gốc một cây, thả cái ba lô xuống cho nó muốn lăn đi đâu thì lăn, "bố sư, mệt quá !". Nó nằm ềnh ngay xuống đất, ngẩng mặt lên nhìn bầu trời âm u qua các kẽ lá um tùm của các cây đại thụ rất to và rất cao. Từ dưới đất không biết bao nhiêu là các thứ cây dây leo, cứ xoắn xuýt lấy các cây lớn mà leo lên cao tít. Đây đó, rất nhiều cây tầm gửi đỗ bám vào các cành cây và thân cây, vươn lên chằng chịt, xanh um. Thẻo đảnh ở đầu các cành cây khô, đây đó có vài đám phong lan rất đẹp, cong cong lá rủ, điểm vài bông hoa óng ánh như pha lê, trông rất lãng mạn. Lính thì đang mải lột tất, lột áo ra bắt vắt. Những con vắt no máu bị ném xuống đất rồi bị di đi di lại cho vỡ ra, máu đỏ lòm. Mấy đứa khác thì tranh thủ lội xuống suối đóng thêm nước vào bi đông, rửa mặt, ngụp đầu cho mát, . . . .

Nghỉ được khoảng một tiếng, đơn vị lại tiếp tục hành quân. Đường càng vào sâu trong rừng núi, càng khó đi. Anh Sử phải cử ra một nhóm tiền trạm đi trước, dùng dao quắm phát cây, mở đường. Đất dưới chân thì lầy lội, trèo lên hay tụt xuống những đoạn dốc cứ trơn nhẫy như đổ mỡ. Vắt đã nhiều vô kể, bây giờ lại thêm muỗi cũng "đông như quân Nguyên". Những con muỗi rất to, đầu đen xì bay vò vè, o o như trực thăng. Chúng bám theo lính, bâu vào những chỗ da để hở mà trích hút.

Đường đi quanh co, lúc lên, lúc xuống dốc. Có đoạn phải bám vào vách đá, đặt chân cẩn thận chắc chắn rồi trườn người leo lên. Vách đá dựng đứng, mặt anh sau chạm vào gót chân anh trước. Lính mang vác nặng, phải gồng mình, đạp chân, co tay hết sức để leo lên. Đã thế, không khí trong rừng lại ẩm thấp, ngột ngạt và oi bức kinh khủng. Mồ hôi nó túa ra như tắm, nó cứ phải liên tục lấy khăn mặt lau đi. Chiếc khăn đã ướt sũng mồ hôi, không khác gì vừa nhúng vào nước, chảy tong tỏng.

Trời chiều trong rừng sâu tối rất nhanh. Đại trưởng ra lệnh tăng tốc khẩn trương để thoát khỏi rừng già trước khi trời tối. Mục tiêu là phải tới được khu rừng thưa, cách đó hơn chục cây số. Lính tráng cắn răng, bậm môi, bấm chân vào đá, bấu tay vào dây leo mà nhích lên từng bước. Đứa nào đứa nấy "mệt bở hơi tai", "thấy ông bà ông vải", cứ thế hì hụi tiến lên, không ai hé răng nửa lời.

Nắng đã tắt, rừng càng trở nên âm u, rồi mưa bắt đầu nặng hạt. Khi leo tới một đỉnh khá phẳng trên một sườn núi, đại trưởng cho tạm dừng để lính mặc áo mưa, che cho ba lô, che gạo, che súng. Đứa nào đứa nấy như cái máy, vội vàng móc nylon từ trong túi cóc ba lô ra nhanh chóng khoác lên mình, rồi hành quân tiếp.

Đột nhiên trời nổi cơn gió lộng, gió rít ào ào không biết từ đâu, kéo theo một trận mưa xối xả. Mưa dầy và nặng hạt quất vào mặt ràn rạt. Bầu trời sập tối rất nhanh, lính phải soi đèn pin để hành quân. Ánh đèn pin nhập nhòe trong mưa gió, đứa nào đứa nấy ướt rượt từ đầu đến chân.

Khoảng 8 giờ tối chúng mới tới được cánh rừng thưa. Nhận được lệnh dừng chân hạ trại, nghỉ ngơi thì ai nấy đã mệt bã bời. Nhiều đứa còn không buồn cởi ba lô, cứ thế mà vật xuống, không cần biết là chỗ đó có khô ráo hay bùn lầy. Có đứa thì tựa vào ba lô, có đứa dựa vào gốc cây hay tảng đá, cứ thế há mồm mà thở, hổn hà hổn hển, . . . .

Gió đã ngớt nhưng mưa thì vẫn sụt sùi. "Tiếng mưa" ở đồng bằng quê nó nghe mênh mang, dội tới từ mặt nước trên cánh đồng lúa, rơi êm ái trên mái rạ hay lộp độp trên cây lá trong vườn. Tiếng mưa đó có "sắc màu" trắng bàng bạc. Mưa rừng nơi đây thì khác. Nó sầm sập đổ xuống ngay trên đầu, à à bủa vây từ xung quanh. Một thứ "màu mưa" đen sẫm, bủa vây bưng bít mọi ngả, cảm tưởng như ta đang bị luộc nhừ trong một cái "nồi ninh" của trời đất.

Không thể kiếm củi khô để nấu ăn được. Vả lại ai nấy đều đã quá mệt nên lính lại phải "nhấm" lương khô 701 và "nhắm rượu H2O" trong bi đông (lúc ấy 701 là lương khô của Trung Quốc viện trợ từ trước năm 1975 vẫn còn. 701 rất ngon, về sau này lương khô của Việt Nam không ngon bằng.

Ăn xong, lính chọn cây, căng tăng, mắc võng. Đứa nào cũng ướt sũng, quần áo và người ngợm đầy bùn đất. Bùn đất thì lấy que mà gạt đi, còn ướt thì thây kệ nó, mệt quá, cứ thế lăn lên võng mà ngủ. Trừ những đứa phải gác, cả đại đội nó nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, không thao thức hay mộng mị, chỉ vài giây sau đã ngủ say như chết.

5 giờ sáng, tiếng còi báo thức rúc lên mấy hồi, nhói buốt "thọc ngoáy" vào cơn ngủ mệt nhọc của lính. Nó giật mình, tỉnh giấc. Đang ngái ngủ, nó không ý thức được đang ở đâu, theo phản xạ, nó nhảy từ trên "giường" xuống đất như mọi khi. Chân chạm mặt đất bùn lầy bị trượt đi, nó ngã phệt ngay xuống bùn. Nhìn lên thì đã thấy hửng sáng, trời đã quang, mây đã tạnh. Đã nhìn thấy ánh nắng hắt lên trên các ngọn cây cao. Qua kẽ lá, nó nhìn thấy trời xanh, mây trắng, tít tắp. Hôm nay hẳn sẽ là một ngày nắng đẹp. Trời nắng đẹp mà hành quân trong rừng thì còn đỡ, chứ nếu hành quân trên đồi trọc thì sẽ mệt lắm. Biết vậy ! Đến đâu hay đến đó.

Tiếng anh Lạp trung trưởng hô to :

- Trung đội một chú ý ! Các đồng chí, khẩn trương theo tôi xuống suối đánh răng, rửa mặt.
Từng tiểu đội cử người xuống anh nuôi lĩnh cơm, lấy nước vào bi đông. Sáng nay ăn bữa
chính, trưa ăn phụ bằng lương khô. Đúng 6 giờ 15, tập trung hành quân.

Đang đói, lại cả ngày hôm qua không có cơm, đứa nào cũng ăn ngấu nghiến như thể cố mà bù lại cái sức lực đã bị hao tổn qua một ngày hành quân vất vả. Cơm thì chỉ có ít ruốc mặn với một xoong "canh" lõng bõng "vương vấn" mấy sợi thịt hộp và mấy đốm "hoa mỡ" lềnh bềnh. Vậy mà sao ngon thế ! Bây giờ thì nó đã học được cách ăn nhanh một cách "tự nhiên và bản năng" nên cũng không còn bị đói như những ngày đầu. Bữa ăn của nó đã là "cuộc chiến" "có tốc độ" và "có hào hứng" như một người lính thực thụ.

6 giờ 15 phút, trực ban đại đội thổi còi tập hợp. Sau khi kiểm tra quân số, súng đạn, quân tư trang, anh Sử rút kinh nghiệm ngày hành quân hôm trước, động viên, nhắc nhở, trấn chỉnh binh sỹ rồi phổ biến kế hoạch hành quân tiếp, đơn vị tiếp tục lên đường.

Hôm nay chúng đi trong rừng thưa và khá bằng phẳng. Trảng rừng thưa rộng mênh mông như bất tận cứ ngày càng mở ra trước mắt nó. Càng đi rừng càng thưa thoáng. Đây đó có chỗ có sương mù thì cũng đang tan dần. Ánh nắng ban mai ửng vàng chiếu nghiêng nghiên từ trên cao, xuyên qua cây lá, tạo thành những tia sáng mung lung, chạy dài xa tít tắp. Sau một đêm ngủ ngon, sáng ra được tắm mát sạch sẽ với một bữa cơm no nê, sức trẻ đã hồi lại. Trong thời tiết ban mai nắng rừng "đẹp như trong tranh vẽ", lính tráng hành quân rất hứng khởi. Vừa đi chúng vừa nói chuyện, tán dóc râm ran, vừa đùa nghịch trêu chọc nhau ầm ĩ. Hứng quá, một thằng đột nhiên nhảy ra ngoài hàng :

- Hát nhá ! Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận, hai . . . . ba . . . .

Bài hát "Bác đang cùng chúng cháu hành quân" vang lên lan truyền từ trung đội nó sang các trung đội khác. Cả đại đội vừa tiến bước vừa hát trong khúc nhạc hành tiến, thôi thúc.

Đang đi, đột nhiên một thằng kêu lên :"Nhìn kìa !". Nó ngước nhìn lên thì thấy phía xa xa trước mặt hiện lên nhiều đỉnh núi lô nhô. Chết cha ! Lại phải leo núi rồi. Đứa nào đứa nấy thất kinh, mặt tái dại. Chẳng bù cho lúc sớm, hành quân vui vẻ, khí thế, hát hò. Giờ thì không ai bảo ai, thằng nào thằng ấy "im như thóc". Lại "mờ đời thằng mục(*)" rồi ! Càng đến gần núi, nó càng nghe thấy nhiều tiếng thở dài ngao ngán.

Rồi việc gì đến cũng phải đến. Chúng bắt đầu leo lên đèo. Những bước chân bắt đầu trĩu nặng, mũi mồm và tai bắt đầu tranh nhau thổi phù phù thì cũng đúng là lúc chúng nó thấy một làn gió mát táp từ phía trước mặt tới. Ấy là gần tới đỉnh đèo. Lên tới đỉnh đèo nó mới nhìn thấy phía trước mặt nó là một con đường chạy xuống dốc đi vào trong khe giữa hai bên là núi. Nó thở phào nhẹ nhõm. Vậy là không phải leo núi mà đi trong khe, đúng theo đường tụ thủy. Cây cối ở hai bên núi có phần rậm rạp hơn trước nhưng cũng chỉ là rừng non lưa thưa.

Khi đi qua gần đến giữa thung, nó thấy trên sườn núi bên trái có một vạt lác đác các cây chuối dại gầy khẳng khiu, đơm hoa đỏ au, cái chĩa thẳng lên trời trông như mũi dáo, cái thì cong móc câu chĩa xuống đất. Cái giống hoa chuối rừng sao mà đỏ thế, chẳng khác gì màu cờ. Hoa chuối lốm đốm trên sườn núi xanh trông rất đẹp mắt. Giá mà gần một chút, thể nào cũng phải trèo lên hái cho anh nuôi làm rau ghém, làm nộm hay xào với mỡ thì "hết ý con mẹ tý(**)".

Vừa đi lính tráng vừa ngắm hoa chuối. Lần đầu tiên thấy hoa chuối rừng nên đứa nào cũng lạ, lại vừa thấy bùi ngùi tiếc của. Chợt nó giật mình, chân nó dẫm phải cái gì tròn tròn, mềm mềm. Cảm giác như con gì nát nhũn dưới chân, nó nhảy chân lên để tránh rồi cúi xuống nhìn. Chà ! Thì ra là đu đủ. Đu đủ rừng chín rụng từ trên cây xuống. Nhìn ra phía trước, thấy đây đó rất nhiều quả chín lăn lóc vàng ươm dưới đất. Ngẩng đầu lên thì thấy cơ man nào là đu đủ lúc lỉu trên cây, ngay phía trên đầu chúng. Những quả đu đủ dài ngoẵng, quả xanh, quả vàng treo trên thân cây cao lêu đêu. Mấy đứa nhanh nhẹn tóm gốc cây rung mạnh. Đu đủ chín rơi lộp bộp. Lính tranh nhau nhặt, lấy tay bửa ra cứ thế truyền nhau vừa chén vừa hò hét. Đội hình hành quân bắt đầu rối loạn. Không ai bảo ai, thảy đều chạy túa tới các cây đu đủ mà rung, rồi lại tranh cướp nhau. Thằng nào thằng nấy cứ thế mà cạp ăn nhồm nhoàm. Đu đủ rừng ngọt và mát, ăn đến đâu biết đến đấy. Nhưng mặt mũi đứa nào cũng toe toét dính đu đủ trông rất nhắng, sướng quá đi mất ! Hết quả chín chúng chặt cây lấy những quả ương để chén tiếp.

Trông cảnh lính càng ngày càng hỗn loạn vỉ đu đủ, đại trưởng Sử đành rúc còi. Đại đội lại chỉnh tề hàng lối hành quân tiếp. Càng vào sâu trong khe, đu đủ càng nhiều, cả một vạt rừng. Trông đu đủ mà tiếc ngẩn ngơ vì đứa nào đứa nấy đã căng một "diều" đu đủ rồi. Trước mắt chúng bây giờ toàn quả chín, quả ngon. 12 giờ đơn vị nghỉ trưa. lính được phát lương khô nhưng phần lớn để dành vì chúng ăn đu đủ đã quá no.

Mỗi đứa cũng chỉ hái thêm một hai quả bỏ vào cóc ba lô. Chúng hái cả quả ương để dành tối hay ngày mai ăn. Quả xanh thì hái cho anh nuôi làm rau xanh. Khi hành quân đi tiếp thì mới thấy khổ. Đủ đủ rụng nhiều quá, người đi trước xéo lên, người đi sau xéo tiếp, tạo thành một một con đường bùn đu đủ vàng ươm, nhão nhoét trông vừa tiếc, vừa ghê ghê.

Hết rừng đu đủ qua rừng lau, cỏ lác cao ngập đầu người. Qua rừng lau bắt vào rừng già tiếp theo thì trời cũng bắt đầu tối. Anh Sử cho đơn vị hạ trại nghỉ ngơi. Mỗi tiểu đội cử ra một người giúp anh nuôi kiếm củi nấu cơm. Số đu đủ xanh anh nuôi thái ra xào cùng thịt hộp thơm phức. Tối đó chúng được ăn một bữa ngon tuyệt.

(*)(**) Khẩu ngữ lúc đó

Mắc tăng võng xong, thấy còn sớm, tiết trời lại khô ráo, mát mẻ, anh em tụm nhau bên đống lửa mà anh nuôi nhóm lên để chơi vui. Anh em hát thì nó ôm đàn ghi ta phập phùng đệm theo. Những bài ca tình cảm, nó phải chuyển đàn cho Thanh, người phố Bần đệm đàn. Thằng Thanh chơi ghi ta giỏi hơn nó nhiều.

Nhiều ngày tiếp theo, đơn vị vẫn tiếp tục hành quân, ngày hơn bù ngày kém, mỗi ngày đi khoảng 25 cây số. Có mấy lần nó mệt quá, bị tụt dần xuống cuối đoàn. Những lúc như thế nó chỉ muốn quẳng đàn, quăng hết tiểu thuyết, sách vở và vứt bớt quân trang đi cho nhẹ. Muốn thì muốn vậy, nhưng rồi nó cứ cố, ỳ ạch như con lừa mà chẳng vứt đi thứ gì.

Sau bảy ngày hành quân bộ, đơn vị mới tới nơi tập kết. Đó là một thung lũng lớn toàn cỏ tranh, cây lúp súp và cây xấu hổ, gần sông Krông Na, cách bản Đrang Phôk khoảng một cây số.

Chẳng được nghỉ một ngày nào, ngay ngày hôm sau, công việc đã được phân công cho từng nhóm. Nhóm phải vào rừng chặt gỗ, tre, bương, hóp, khuân về. Người ở nhà phải phát cây dọn cỏ. Ai biết nghề mộc thì cưa cây, đẽo cột, đục kèo, dựng nhà.

Chưa đầy một tuần, đại đội nó đã dựng xong 2 căn nhà lớn, nhiều gian. Một nhà làm nhà ăn và một nhà làm nhà ở cho lính. Còn một nhà nhỏ hơn dùng làm nhà cho chỉ huy đơn vị và phòng giao ban. Tất cả các nhà, tuy chắc chắn nhưng đều là nhà tạm.

Nhóm còn lại phải làm đất trồng rau và luân phiên cử người vào rừng hái rau, xuống sông đánh cá nộp cho nhà bếp để cải thiện bữa ăn .

Sau khi "ổn định nới ăn chốn ở", nhiệm vụ của đơn vị là trồng bắp. Anh em lại phát cây dọn mặt bằng, cuốc đất, đập tơi, đánh luống, tra hạt, tưới tắm cho bắp, . . . . Chưa đầy một tháng lao động miệt mài, Khu đồi ngô của đại đội rộng mênh mông đã xanh mướt mát, "rợn chân trời", trông rất sướng.

Gần nơi đại đội nó làm nương có một tổ đường dây thông tin, là tổ 48. Tổ này cùng thuộc trung đoàn thông tin của nó, nhưng lính ở tổ cựu trào hơn lính mới chúng nó nhiều. Những lúc rảnh rỗi, anh em rủ nhau sang tổ 48 chơi, được nghe các anh kể chuyện làm thông tin như thế nào. Rồi các anh còn dẫn bọn chúng vào rừng hái quả lòong boong. Quả loòng boong trông như dâu da đất nhưng to hơn và da có màu vàng nâu nhợt. Đặc biệt là nó rất ngọt và gần như không có hột. Nghe nói, quả này ngày xưa được dùng để tiến vua, dân thường không được ăn.

Một dòng sông sóng nước long lanh,
Đôi bờ đâu cách xa . . . .
Sông Krông Ana

Ngô non bắt đầu lên xanh thì cũng là lúc đại đội nó lại được lệnh hành quân trở về doanh trại của trung đoàn. Bãi ngô giao cho tổ 48 chăm sóc, trông coi và thu hoạch. Nhìn những cây ngô xanh mướt do mình tự tay vun trồng, nay lại phải rời đi thì trong lòng nó cũng cảm thấy bùi ngùi, tiêng tiếc. Chuyện "nước sông, công lính" mà !

Đại đội tập trung hành quân bộ. Lần này lính không phải đi đường rừng mà hành quân về hướng tây, trên đường mòn dọc theo triền sông Krông Ana. Đường đi khá bằng phẳng và dễ dàng. 7 giờ sáng bắt đầu hành quân, đến khoảng 12 giờ thì tới Quốc lộ 14C, quãng đường khoảng hai chục cây số.

Lính tráng được dừng lại nghỉ ở vạt rừng ven đường, chờ đến sáng mai ô tô đưa về căn cứ. Đoạn đường này nằm sát biên giới với Cămpuchia. Thậm chí con đường 14C có đoạn chạy sang cả đất Cămpuchia. Lính lại căng tăng, mắc võng theo khu vực từng trung đội. Sau khi được ăn cơm trưa do anh nuôi nấu, nó trèo lên võng đánh một giấc ngon lành.

4 giờ chiều nó mới tỉnh dậy. Mấy đứa chỉ tay lên cái đỉnh đồi ngay trước mặt, bảo đó là biên giới, "anh Lạp bảo thế !" Mấy thằng liền rủ nhau lên biên giới xem nó thế nào. Chúng xin phép a trưởng Ngoan, nói là đi hái rau. Lên đỉnh đồi, nhìn sang bên kia thì thấy đồi núi cũng thế, vẫn đất ấy, cỏ cây ấy, chẳng có gì khác biệt. Dù vậy, nó vẫn thấy có gì đó nao nao trong lòng vì đây là lần đầu tiên nó biết thế nào là biên giới, . . . .

- Chúng mày ơi, bước sang kia đi, coi như mình ra nước ngoài.
- Ừ ! thế là mình cũng "có số xuất ngoại" nha ! Sướng thật !
- Thế này mà gọi là đi ra nước ngoài á ? Có mà đi ngoài ra nước ấy !

Sau khi "ra nước ngoài", mấy thằng lại "từ hải ngoại trở về". Một thằng nói :

- Thôi, đứng đây mà đái một bãi từ nước này sang nước khác rồi đi về đi !
- Ừ ! Mà vụ này làm tao lại nhớ cái chuyện Trạng Quỳnh "Vũ qua Bắc Hải" à . . . .

Sáng hôm sau, lính ăn cơm làm bữa chính rồi tháo tăng võng ra đường tập hợp chờ xe. Vừa hay, một lát sau thì xe tới, hợp đồng tác chiến tốt thật. Chắc hẳn đội xe đã đến gần đây từ tối hôm qua và nghỉ lại ở đâu đó. Xe chạy theo hướng bắc theo Quốc lộ 14C về thẳng Đức Cơ, bắt sang Quốc lộ 19, chạy qua Chư Prông, qua thị xã Pleiku, rồi chạy vào khu doanh trại Hoa Lư của trung đoàn. Về đến nhà thì mới khoảng 2 giờ chiều.

Thì ra lần trước hành quân bộ là một cuộc hành quân di chuyển kết hợp với rèn luyện, chứ không phải là không có đường ô tô. Lính được nghỉ sả hơi ít ngày và chuẩn bị cho giai đoạn học nghiệp vụ chuyên môn.

Nó vẫn thư từ qua lại với gia đình và với người yêu, đều đều. Đối với bạn bè thì nhiều nhất là thư thừ với Sơn Hồng, bạn nó ở trường mỹ thuật. Hay tin Sơn Hồng đã cùng ba má quay về tiếp quản Quy Nhơn, nó viết thư cho Hồng biết địa chỉ của đơn vị và báo với Hồng, đơn vị đã hành quân dã ngoại trở về.

Một buổi chiều, vừa hết giờ học chính trị trên hội trường, nó được vệ binh báo ra cổng có khách. Nó băn khoăn, bán tín bán nghi, làm gì có ai mất công vào chốn xa xôi này tìm nó chứ. Ngoài em Hương thợ may nó quen thì "cắt" mất rồi vì không dám gặp, ai mà lại tìm nó thế, khó hiểu thật. Nó tất tả chạy ra cổng vệ binh và sững người lại. Trước mắt nó là một thằng gầy còm, đen nhẻm, tóc để dài chùm tai, đầu đội mũ tai bèo, chân đi dép lốp, ba lô lính đeo tòng teng trên lưng, có vẻ không nặng lắm. Thằng này mắt đen sáng quắc đang mỉm cười nhìn nó. Định thần một lúc, nó mới nhận ra. Hai thằng lao vào ôm chầm lấy nhau, cảm động ứa nước mắt. Đó là Sơn Hồng, từ Quy Nhơn vào thăm nó.

Nó cầm giấy tờ của Hồng mang vào báo cáo đại trưởng. Trung đoàn lúc đó chưa có nhà khách nên anh Sử cho phép đón Sơn Hồng vào lán ngủ chung một giường, ăn cơm cùng với tiểu đội trong bếp ăn của lính. Nó mừng quá, quýnh quáng chạy ra cổng đón bạn. Hai thằng khoác vai nhau, vừa đi vừa tranh nhau hỏi chuyện.

Cả trung đội nó đón Sơn Hồng rất nhiệt tình, cởi mở, nhất là mấy đứa đồng hương Mỹ Hào đã gặp Sơn Hồng trong lần Hồng về chơi nhà nó ở Mỹ Hào. Hết đứa này hỏi chuyện nọ đến đứa khác hỏi chuyện kia, tíu ta tíu tít, cứ như Sơn Hồng vừa lạc từ thế giới nào khác trở về.

Hồng mở ba lô lôi ra một túi to thuốc lá cuốn, dễ đến một cân, cùng giấy cuộn. Nó chia cho các bạn, biếu trung đội, đại đội mỗi chỗ một túi, còn lại một ít, nó cất vào cóc ba lô. Ngoài thuốc lá, thằng Hồng còn mang theo rất nhiều cá khô, mực khô. Tiểu đội nó lấy cơm nhà bếp về, nướng mực, nướng cá thơm lừng. Chúng nó trải báo lên giường liên hoan một trận linh đình.

Đêm đó hai thằng nằm cạnh nhau nói chuyện rất khuya. Nghĩ đến chuyện ngày mai đã phải xa Sơn Hồng, nó cảm thấy buồn và quyến luyến quá. Chợt, nó nghĩ, hay là cứ liều xin anh Sử một phen, biết đâu đấy ?

Nó rất ấn tượng về sự nghiêm khắc của anh Sử từ ngày nó thấy anh phạt cháu nó và bạn nó trong nhà ghi vì tội ăn cắp mì luộc. Nhưng dần dần nó cũng thấy anh ấy là người thương lính và sống có tình nghĩa. Lần hành quân bộ leo núi, thấy đội hình đơn vị tung tán vì lính nhào ra ăn đu đủ dọc đường, anh Sử cũng để một lúc rất lâu mới chấn chỉnh đội hình. Sau đó anh ấy cũng chủ động đi chậm lại để anh em có thể tranh thủ hái thêm đu đủ. Và, nhất là chiều nay, nó không ngờ anh Sử không mắng nó về tội "lộ bí mật quân sự nơi đóng quân" mà còn cho bạn nó vào ở ngay trong đơn vị. Nó tự động viên, thôi thì mai cứ đánh liều lên xin phép đến nhà Sơn Hồng chơi. Gì thì gì, nó cũng thuộc loại "dẻo mỏ", biết đâu, bùi tai, anh Sử lại đồng ý ?!

Sớm hôm sau, nó lên ban chỉ huy đại đội gặp anh Sử. Gãi đầu gãi tai ra vẻ lúng túng, rào trước đón sau, hót líu lo một hồi (mỏ nhọn mà), nó xin với anh Sử cho phép nó đi Qui Nhơn với bạn mấy hôm. Anh Sử thấy thằng bé trắng trẻo, dễ mến, ngoan ngoãn, lại đóng góp cho đại đội thành tích về văn nghệ, báo tường nhất trung đoàn. Chắc hẳn anh cũng nghĩ, thôi thì động viên nó một tý, sau nó sẽ phát huy tốt hơn. Anh nói :

- Thôi được rồi ! Vừa qua cậu phấn đấu tốt, có một số đóng góp cho đơn vị. Mình đồng ý cho
cậu đi mấy ngày, đây là đơn vị thưởng phép cho cậu đi tranh thủ. Nhưng mà tôi cũng hỏi cậu,
ngộ nhỡ sau khi huấn luyện, có tiêu chuẩn đi phép ra Bắc, cậu đi phép rồi, không được đi nữa
thì cậu có đồng ý không ?

Nó hơi sững lại "Chết chà !", nhưng rồi rất nhanh, nó nghĩ "lính biết thế nào mà nói trước, được đến đâu hay đến đấy đã", nó nói :

- Dạ, em đồng ý ạ !
- Có chắc chắn chưa ?

Nó dập hai gót chân đưa tay lên làm động tác chào :

- Báo cáo thủ trưởng ! Chắc ạ !

Động tác của nó làm anh Sử phải bật cười :

- Thôi được rồi ! Thế cậu định xin đi mấy ngày ?

Nó lại nghĩ rất nhanh, mình mà xin nhiều ngày chắc là không được mà lại bị anh ấy nghĩ "được đằng chân lân đằng đầu", mà xin ít thì phí quá. Nó làm bộ rụt rè :

- Báo cáo thủ trưởng ! Em không dám ạ ! Thủ trưởng cho bao nhiêu em xin chấp hành thôi ạ !
- Cho cậu đi phép 5 ngày, tính từ ngày hôm nay. Nhớ trả phép trước 5 giờ chiều ngày thứ năm đấy, rõ chưa ?
- Báo cáo thủ trưởng ! Rõ !

Nó chào anh Sử rồi từ tốn bước ra khỏi nhà ban chỉ huy đại đội nhưng thực sự nó chỉ muốn nhảy chân sáo tưng tưng như hồi còn bé khi nó chạy trên con đường làng mỗi lần thày nó sai nó đi mời chú nó sang ăn cỗ. 5 ngày phép thực sự là một bữa cỗ lớn chưa từng có đối với nó. Nó và Sơn Hồng ra bến xe mua vé về Qui Nhơn.

Kể từ ngày nhập ngũ, đây là lần đầu tiên nó được "sổ lồng, tung cánh", mà lại được ngao du miền đất mới cùng người bạn tuổi thơ thân yêu nhất của mình. Nó vô cùng hạnh phúc. Chiếc xe đò đang đưa bọn nó lao vun vút qua đèo, qua dốc, mênh mang cao nguyên, tràn ngập nắng gió, loáng loáng bỏ lại phía sau những phố phường, làng mạc, rừng cây, đồng lúa, . . . . Chân trời thăm thẳm hút tầm mắt, chập trùng lên xuống bởi đồi núi rừng cây, đồng cỏ, viền thành một đường uốn lượn trên vòm trời xanh thắm, lãng đãng điểm những đám mây bạc đang lặng lẽ trôi. Cảnh đẹp cao nguyên trung phần thật mê hồn.

Chiếc xe đò chở đầy người, lại thêm rất nhiều hàng hóa chất trên nóc xe, ngất nga ngất ngưởng. Vậy mà xe chạy rất nhanh, kể cả những khúc cua trên đường đèo. Nhìn thấy bất cứ ai đang đi bộ cùng chiều trên đường, xem chừng có thể "bắt" được là tay "lơ xe" lại hò hét từ xa để mời khách. Khách lên xe được xốc nách, đỡ hành lý, khuân hàng hóa rất tận tình và nhanh chóng. Chuyện này nó thấy lạ lắm, khác hẳn với thái độ phục vụ của xe hàng ở phía Bắc. Tuy nhiên, đang mải sung sướng ngắm cảnh đẹp nên nó cũng không để ý gì nhiều. Chiếc xe cứ thế "chao liệng" trên con đường quanh co giữa mênh mông núi đồi cao nguyên. Lữ khách cứ thế nghiêng ngả dạt qua dạt lại cùng chiếc xe, phiêu diêu . . . .

Ấy là cảm giác của nó lúc đó. Ngồi ngay bên cửa sổ, nó đang hào hứng thưởng lãm cảnh đẹp. Gió thốc tháo qua khung cửa, thổi căng phồng chiếc áo lính và làm tung bay mái tóc "ba phân"của nó. Sướng ơi là sướng !

Đến chiều thì tới thị xã Quy Nhơn, một thị xã khá đẹp với nhà cửa cao tầng san sát. Đâu đâu cũng thấy cửa hiệu, vườn hoa, công viên, rất sạch đẹp, quy củ nhưng hơi vắng vẻ và có nét gì đó man mác buồn.

Nhà Sơn Hồng là một ngôi nhà hai tâng khá rộng, ở mặt một con phố nhỏ. Mặt tiền ngôi nhà rộng chừng 20 mét, có hàng rào "bê bốn mươi" và cổng sắt. Có hai cây, một cây hoa tím, một cây hoa vàng, lưa thưa leo trên hàng rào. Qua hàng rào là một cái sân vườn khá rộng kê một ghế xích đu, một bàn tròn bằng đá sám, trồng một số cây bóng mát và cây cảnh. Qua sân đến phòng khách rộng chừng 30 mét vuông, một tầng, lợp tôn, coi như "đại sảnh". Nối tiếp phía trong là nhà hai tầng mái bằng, ở dưới là 2 phòng ngủ và cầu thang, ở trên chỉ xây một phòng, phần còn lại làm sân chơi và dành chừng 20m để phơi quần áo.

Ba Sơn Hồng là một người cao, vai vuông, quắc thước nhưng ít nói. Ông là người gốc Quy Nhơn, tập kết ra Bắc sau năm năm tư. Má Hồng cũng người Bình Định, theo chồng tập kết. Cả ba đứa con trai của ông bà đều sinh ra ở miền Bắc. Hồng là đứa lớn, sau nó còn hai thằng em trai nữa. Má là người đàn bà bé nhỏ, đẹp và hiền hậu. Thấy Sơn Hồng và nó thân nhau nên ba má cũng rất quí nó, coi như con vậy. Có của ngon vật lạ gì, bà cũng mua về bầy vẽ cho nó ăn.

Lần đầu tiên nó được má tự tay làm món gỏi cá Quy Nhơn cho ăn. Đó là món ăn mà nó nhớ mãi, "món ngon nhớ lâu" mà. Thịt ba chỉ thái con chì, trứng tráng mỏng thái sợi, một dĩa (đĩa) rau sống với đầy đủ các loại rau thơm, chuối chát, khế chua, xoài xanh, . . . ., một dĩa bánh tráng đã được dấp ẩm vừa trắng, vừa mềm, vừa dai. Đậu phụng rang giã nhuyễn trộn với nước tương, đem chưng kỹ với hành tỏi phi thơm, thành một thứ nước chấm vàng sánh. Một chén (bát) nước chấm nữa là mắm tép chưng hành mỡ đỏ au, nêm thêm thính. Trông và ngửi thấy đã "tóa mồ hôi lưỡi". Một cái dĩa nhỏ với những miếng chanh xắt mọng nước, xanh trong, bên cạnh dăm bảy quả ớt chỉ thiên đỏ rực, cong cong, "thôi rồi Lượm ơi!". Một cái chén con đựng thính gạo rang trộn với mè giã nhuyễn nâu vàng, thơm ngậy "chân răng". Vài cái chén men lam bên cạnh một ve rượu Bàu Đá của làng Cù Lâm chính gốc, thơm, đượm, ngọt, nồng nàn, "Chết tôi rồi !".

Mâm gỏi cá cơm được bày ngay trên chiếc bàn đá xám ngoài sân vườn, một buổi xế chiều yên ả . . . .

Khi mọi người đã ngồi yên vị xung quanh thì cũng là lúc má bê ra một thau nhôm trắng, đặt lên trên một chiếc ghế ngay bên cạnh mâm. Trong thau, đầy nhóc cá cơm trắng, nhỏ như đầu đũa, đang nhao nhao bơi lội. Giống cá cơm trắng muốt với hai con mắt đen nháy như hai cái chấm nhỏ. Chúng bơi theo nhau thành dòng, nhào lên lộn xuống trong thau trông rất sinh động.

Đặt mấy miếng thịt, trứng, khế, chuối chát, húng chanh dàn trên miếng bánh tráng, lấy vợt vớt vài con cá bỏ vào giữa, rắc thính màu nâu vàng lên trên rồi quấn chặt lại như quấn nem. Miếng đó đem quẹt vào nước chấm, đưa lên miệng thấy thơm lừng, "thôi rồi !".

Lúc đầu nó không dám ăn vì thấy cá còn sống. Má phải quấn mấy cái, nhiệt tình dúi vào bát nó. Nể quá, nó đành cố gắng ăn thử. Nó cắn một phát, thấy cá vẫn ngọ nguậy trong mồm, ghê quá, suýt nữa thì nó ói. Nó phải cố nuốt cho trôi qua cổ, chẳng còn thấy vị gì. Dần dần vài miếng sau, nhất là sau khi đã có vài hớp rượu Bàu Đá, nó thấy ngon ngon, ngọt ngọt, thơm thơm, chua chua, cay cay, . . . . rất ngon.

Tuyệt !

Mấy ngày liền, Sơn Hồng lấy xe "cá sám" (xe máy Mobylette màu xám) của ba chở nó đi chơi lòng vòng khắp thị xã, ra bờ biển, xuống Qui Hòa, lên thăm mộ Hàn mạc Tử, . . . . Một lần Hồng còn chở nó về quê ngoại, cách đó hơn 10 cây số. Đường đi rất đẹp, trời lại mát mẻ, hai đứa vào thăm họ hàng của má. Mọi người quý Hồng nên rất chiều nó, nhà nào cũng mời cơm hai đứa. Không chịu ăn cơm thì cũng phải uống nước dừa và ăn bánh tráng nướng. Hôm đó chúng ngủ lại ở nhà cậu của Sơn Hồng.

Bữa tối đó nó lại được chiêu đãi món gỏi cá, lần này là gỏi cá mai. Cá mai mỏng hơn cá cơm một chút. Làm gỏi cá mai cũng mất công hơn vì phải bỏ ruột, bỏ xương, đánh vảy những con cá bé tí teo. Thịt cá đã làm sạch được thấm khô, đem trộn với thính rồi bày ra dĩa. Nó đã biết ăn gỏi, mà không phải ăn cá quẫy nên lần này ăn rất hào hứng. Cá mai ăn gỏi, thịt rất ngọt và giòn.

Buổi tối ở nhà Sơn Hồng, hai thằng thường ngủ trên sân thượng. Ở trên đó, chúng còn ngắm sao, hút thuốc, đọc thơ cho nhau nghe, rồi còn chuyện trò mãi khuya mới ngủ.

Trước hôm hết phép, Sơn Hồng đưa nó đi tắm biển Quy Nhơn cả ngày. Hai đứa tắm biển rồi đi lang thang trên bãi biển. Đến trưa, đói quá, hai thằng ăn trưa ngay trên quán ăn ở bãi biển.

Tối hôm đó, cả nhà lại liên hoan một bữa. Bữa nay có nhiều món mà nó chưa biết. Má bảo đây toàn là món riêng của Qui Nhơn, món bánh hỏi chấm với mắm ruột cá ngừ này, món bún cá Qui Nhơn này, món nem chua Chợ Huyện này, món chả cá Qui nhơn này, món chả giông (nhông) này, đây là bánh tráng nước dừa này, món này là bánh ít lá gai để tráng miệng với chè thập cẩm, . . . .

Món nào đối với nó cũng lạ. Chả cá vàng nâu mỏng như bánh tráng, thơm nưng nức, chưa bao giờ trông thấy, sau này nó mới biết người ta còn gọi món này là "bánh tráng cá". Món chả nhông thì nó không biết là thứ gì nên má phải giải thích. Con giông giống như con tắc kè, mà nó sống ở trên cát ngoài bãi biển. Con này mình bắt nó rất khó, người ta phải có nghề và có đồ để bắt nó. Nhông bỏ ruột, bỏ đầu, làm sạch, đem bằm nhuyễn, nêm thêm nhiều gia vị rồi đem rán lên làm chả. Bánh ít làm bằng bột lọc, trộn với lá gai đâm nhuyễn, nhân đỗ đường hoặc đỗ mặn, đem hấp trong vỉ hấp, . . . . Quả thực bữa ăn hôm đó là một bữa nhớ đời. Đối với nó không những là được ăn nhiều "của ngon vật lạ" mà thực sự chưa bao giờ nó được ăn uống linh đình như thế.

Ăn uống xong, má bảo nó xếp đồ đoàn để mai còn về đơn vị. Từ lúc nào mà má đã chuẩn bị cho nó rất nhiều thuốc Bát Tô (Bastos), thuốc lá sợi, cá khô, mắm ruốc, . . . .

Sáng hôm sau, nó chào ba má để về đơn vị. Sơn Hồng tặng nó một tập thơ mà nó thích lắm. Đó là cuốn "Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến", xuất bản từ thời Việt nam Cộng Hòa. Đó là một cuốn sách giới thiệu các thi nhân và tuyển tập những bài thơ của các thi nhân nổi tiếng thời tiền chiến như Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn mạc Tử, Nguyễn Bính, Chế lan Viên, Nguyễn Vỹ, Phạm Hầu,Tôn Nữ Thu Hồng, . . . . Ngoài ra Sơn Hồng còn tặng nó khẩu súng Colt rulo 6 cùng hai hộp đạn mà Hồng lượm được. Nó quý khẩu súng lắm, dấu kỹ trong cóc ba lô.

Xe chuẩn bị chuyển bánh rồi mà Sơn Hồng cứ ôm nó mãi. Nó thì cảm động, nước mắt lăn dài trên má. Rồi nó cũng gỡ bạn ra và dứt khoát bước lên xe, nếu không thì không biết làm sao mà dứt ra được. Xe chạy rồi mà Hồng cứ đứng vẫy theo nó mãi, chiếc mũ tai bèo trên tay Hồng cứ lấp la lấp lánh mãi cho đến lúc xe rẽ sang chỗ ngoặt. Nó cảm thấy buồn nhưng miệng thì mỉm cười, lòng thầm cảm ơn tình bạn của Sơn Hồng. Chào Quy Nhơn, chào Hồng thân yêu ! Mong ngày gặp lại !

Về đến đơn vị, nó lên báo cáo anh Sử, biếu ban chỉ huy đại đội mấy bao thuốc lá. Khi về đến tiểu đội nó mừng quýnh lên vì nhận được 3 lá thư. Một lá của gia đình, một lá của Cần và một lá của Hợi. Cần là người lính nữ mà nó quen ở Thường Tín và vẫn giữ liên lạc với nhau từ ngày ấy. Lần này, ngoài thư, Cần còn gửi cho nó một đôi dép đúc với một dây lưng Trung Quốc mới tinh. Đọc xong thư, nó bỏ cá khô và thuốc lá chia cho anh em. Nó cũng cẩn thận biếu bê trưởng và a trưởng nữa. Bê trưởng Lạp thấy nó có tập thơ và hai món quà Cần gửi cho, toàn những thứ hay, anh ấy hỏi:

- Mai tớ đi công tác sang đơn vị bạn, cậu cho tớ mượn cái thắt lưng và đôi dép nhớ !
- Vâng !
- Cho tớ mượn quyển thơ này đi công tác đọc cho đỡ buồn nha !

Quyển thơ Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến Sơn Hồng mới tặng thì nó cũng chưa đọc hết, vả lại nó rất quý, chẳng muốn cho mượn, nhưng nghĩ, thôi thì anh Lạp đi công tác mấy hôm rồi về chứ đi đâu mà lo :

- Dạ . . . dạ, vâng !

Rất lâu sau chẳng thấy anh Lạp trả lại nó những thứ đã mượn. Nó thì ngại nhiều lần muốn hỏi rồi lại thôi. Cho đến một lần đang vui vẻ, nó đột nhiên hỏi xin lại thì anh Lạp thản nhiên bảo với nó :

- Tớ đi công tác, để trong ba lô, bị lấy trộm mất rồi !

Nó tức lắm mà không thể nói gì được. Trong đầu nó hiện nguyên hình chân dung người bê trưởng, rút xanh tuya ra để quật vào mặt lính mới, dò dẫm nghe trộm nó ở cửa hàng may, lục ba lô lấy nhật ký của nó, đọc nhật ký bêu riếu nó trước toàn trung đội, mượn đồ của lính một cách cưỡng bức rồi không trả lại, . . . . Một cái chân dung nó nhìn thấy đầy đủ mà không biết vẽ lại như thế nào. Hội họa chẳng bao giờ có thể thể hiện hết được cuộc sống.

Từ Pleiku về A lưới

Đợt huấn luyện tập trung 6 tháng đã hoàn thành. Trong lễ tổng kết bế mạc khóa huấn luyện, trung tá trung đoàn trưởng Nguyễn Huy Văn lên giao nhiêm vụ và cho đơn vị tuyên thệ dưới Quân kỳ. Sau lễ tổng kết, anh em được biên chế về các đơn vị thông tin khác nhau, ai cũng hồi hộp, lo lắng, không biết mình sẽ đi đơn vị nào. Buổi liên hoan tổng kết rất linh đình và rất vui nhưng vẫn có gì đó lưu luyến buồn vì chúng nó sắp sửa phải chia tay nhau, mỗi đứa một nơi. Đêm đó chúng nó cũng chẳng ngủ được, nằm nói chuyện râm ran mãi đến gần sáng. Những đứa thân nhau đều nhảy sang nằm cạnh nhau, tâm sự cả đêm.

Sáng hôm sau, 2 đại đội, trên vai ba lô, chăn, chiếu, . . . . tập trung xếp thành hai khối vuông vức tại sân vận động. Hơn 200 con người hồi hộp chờ đọc danh sách biên chế về đơn vị mới. Đọc đến tên người nào, về đơn vị nào, đều có các cán bộ của đơn vị đó đón sẵn. Lính tráng chia tay nhau sau sáu tháng sống chung thật là cảm động, bùi ngùi. Rất nhiều đứa khóc, những cái ôm, những cái bắt tay xiết chặt, những giọng nói nghẹn ngào, những bàn tay vẫy vẫy chia xa. Từng nhóm, từng tốp theo chỉ huy mới lần lượt khoác ba lô ra khỏi cơ quan trung đoàn bộ. Chúng sẽ về các đơn vị lẻ của trung đoàn, đảm bảo đường dây thông tin suốt từ Quảng Bình vào tới Buôn Mê Thuột, chạy dọc đường Trường Sơn vắt vẻo qua đèo, qua núi, cùng với đường ống dẫn dầu của đoàn 559.

Thằng Thanh, thằng Bội, thằng Đông và nó được điều về tổ đường dây 19, c12. Tổ này đóng quân cách huyện lỵ A Lưới, Thừa Thiên 50 km về phía tây, giáp biên giới với tỉnh Sa La Van (Salavan hay Saravan hoặc Saravane ສາລະວັນ) của Lào. Người đón nó là tiểu đội trưởng Lộ, sinh năm 1957, ít hơn nó 2 tuổi. Lộ nhập ngũ trước nó, quân hàm cao hơn nên nó vẫn gọi là anh.

Anh Lộ người Thái nguyên, nhập ngũ 1975, dáng người cao to rắn chắc, tóc húi cua, da ngăm đen, trông quắc thước và rất đáng tin cậy. Anh Lộ dẫn bốn đứa chúng nó ra thị xã Pleiku, mua vé xe đò về Đà Nẵng. Tới Đà Nẵng, chúng nghỉ lại một đêm ở trạm khách của đơn vị ở phường Hòa Cường, ngoại ô Đà Nẵng. Đây là một doanh trại nhỏ từ thời VNCH, nằm sát quốc lộ rộng khoảng vài trăm mét vuông. Một khu nhà 2 tầng rộng hơn 100 mét vuông là nhà khách của binh trạm và kho tiếp tế xăng dầu, nhu yếu phẩm, quân tư trang cho các đơn vị của trung đoàn khi hành quân qua đây.

Toán lính nghỉ đêm tại binh trạm. Sáng hôm sau chúng nó đón xe đò để đi vào huyện lỵ A Lưới, nằm sâu trong đường Trường Sơn, giữa rừng đại ngàn Trường Sơn trùng điệp.

Năm lính được nhồi lên một chiếc xe đò mui rùa cùng với rất nhiều hành khách đủ loại, người Kinh, người Thượng, già, trẻ, đàn ông, đàn bà, . . . . Từ tờ mờ sáng cho đến tối muộn, chiếc xe ì ạch leo đèo, leo dốc, lội ngầm, lắc lư, kẽo kẹt như "bà già đau khổ, một rổ tình yêu" (*). Trong xe, người và đồ đạc chật ních như nêm, đầu gối bị tì vào ghế trước, chân tay chẳng thể nhúc nhích. Chẳng những thế, trần xe rất thấp, các loại túi, tay nải, gùi tre được treo lủng lẳng, tha hồ lắc lư đập vào đầu vào tai, nảy đom đóm.

Không khí trong xe ngột ngạt kinh khủng, đủ các thứ mùi của hàng hóa, mùi dầu xe, mùi mồ hôi người, . . . . Kinh nhất là mùi thuốc rê của người Vân Kiều, Pa Ko, hôi rình, làm nó chỉ muốn ói. Nóng như thiêu, mồ hôi nó nhễ nhại, rôm cắn râm ran mà không cựa được để gãi. Vật vã mãi thì đến 9 giờ đêm, chiếc xe cũng đến được A Lưới. Một chuyến đi vất vả, một kỷ niệm khó quên.

(*) Câu hay dùng lúc đó

Vượt rừng A Lưới

Năm chú lính thông tin ăn ngủ tạm tại tổ 21, c12 trong một căn nhà lá, tường ken bằng các cây sậy. Tổ 21 là tổ đường dây thuộc đại đội nó được đóng ở thị trấn này. Cả một ngày dài vật vã trên xe đò làm cho chúng quá mệt mỏi nên ăn uống và rửa chân tay qua loa, mấy thằng lăn ra ngủ như chết.

Sáng hôm sau, nó có dịp nhìn quang cảnh huyện lỵ A Lưới. Gọi là thị trấn nghe có vẻ oai chứ thực ra A Lưới chỉ vẻn vẹn hơn chục nóc nhà lợp lá, tường gỗ nằm rải rác cách xa nhau, lưa thưa bám theo dọc con đường đất bụi bậm đỏ quạch. Ở đây cũng có cửa hàng bách hóa chuyên bán thuốc lào, cá khô và muối cung cấp cho các bản làng người dân tộc trong huyện. Huyện lỵ cũng có cơ quan hành chính huyện, có bưu điện và vài hàng quà bánh, tạp phẩm lèo tèo khác.

Sau bữa sáng với vài củ sắn luộc, cất theo vài khúc gói trong giấy báo, nhét vào túi cóc. Sau khi đã xếp gọn ba lô, anh Lộ nhờ tổ 21 sang hợp tác xã mua cho 20 gói thuốc lào và 5 kg cá khô mang theo. Anh bảo, trong đó thuốc lào và cá khô quý lắm. Năm anh em chia tay với tổ 21 xong thì bắt đầu hành quân bộ. Anh Lộ dẫn đường, đi theo đường mòn của đồng bào đi lấy củi. Đường đi tuy hơi khó nhưng gần hơn được đến chục cây số.

Lúc đầu, chúng đi theo đường lớn, vòng vèo qua mấy bản người thượng ở lưa thưa, hết thung lũng lòng chảo, vượt qua một cửa rừng cây thưa, chúng bắt đầu đi theo đường mòn nhỏ, dưới chân núi, vòng vèo uốn lượn, lúc lên, lúc xuống. Càng ngày chúng càng đi sâu vào rừng già nguyên sinh của đại ngàn. Nhiều cây đại thụ to, đan xen nhau, vút mãi lên cao, che tối cả rừng bên dưới với nhiều cây nhỏ và đủ loại dây leo lằng nhằng cùng với cỏ um tùm và lá mục tầng tầng lớp lớp.

Càng vào sâu trong rừng, cây cối càng rậm rạp, đường càng tối tăm. May mà anh Lộ đã chuẩn bị cho mỗi người một con dao quắm. Đường mòn thì đã có sẵn không phải mở, nhưng lâu ngày không có người qua lại nên cây cối, gai góc đã mọc lên bít lối nên phải phạt cây mà đi. Nhiều đoạn cây bị đổ ngang lối, phải trèo lên để qua. Thỉnh thoảng con đường mất hút vào dòng suối, chúng để nguyên giầy tất lội bì bõm trong làn nước trong mát, soàm soạp trên lòng suối toàn sỏi đá. Con đường cứ theo suối một đoạn rồi lại vắt lên bờ. Lên đến đường đi trên rừng, bước chân đầy nước trong giầy, ì à ì oạp, phọt ra nhóp nhép từ chỗ buộc dây. Chẳng hơi đâu mà cởi giầy để dốc nước ra vì chỉ một lúc sau đã lại phải lội suối.

Gần trưa, chúng tới một mép rừng thưa, anh em dừng lại nghỉ và ăn trưa. Mọi người bỏ giầy và tất phơi trên những phiến đá lớn nơi ánh nắng chảy tràn xuống, mưng mưng. Năm người chọn những tảng đá nằm dưới bóng cây râm mát, lấm tấm những đốm nắng lung linh. Sau khi chén hết đám sắn luộc mang theo, chúng còn ăn thêm lương khô rồi ngả lưng nằm khểnh trên đá mà hút thuốc.

Nó lặng lẽ ngắm trời xanh lấp ló trên tán cây, cao vời vợi. Mây trắng từng đụm lững lờ trôi. Tiếng đủ các loại chim hót đan xen nghe như một bản nhạc, khoan nhặt, luyến láy, thật là hấp dẫn. Xa xa, đâu đó, thỉnh thoảng vọng lại tiếng nai rừng rắc tắc rắc . . . . Lâu lâu tắc cú một tràng "bắt cô trói cột", nghe buồn thảm như đang cứa vào không gian. Gió trườn theo thung lũng thổi tới, hây hẩy rung rinh cây lá. Một buổi trưa thanh bình mát mẻ và đẹp một cách thơ mộng. Hứng chí, nó lấy đàn ra, bảo thằng Thanh chơi một vài bản cờlátxich (classic - cổ điển). Thằng Thanh tỉa "Bài Ca Hy Vọng". Tiếng đàn điệu nghệ của Thanh quyện với âm thanh róc rách của suối chảy tạo thành những hòa âm mê ly, lâng lâng hồn người.

Thanh chơi xong, đưa đàn cho nó. Nó không thạo Cờlátxích lắm nên chạy "đăng" và hát "Bài Ca Người Thợ Rừng" :

Ai bảo rừng xanh là quái ác,
Ai bảo Trường Sơn là nắng rát,
Gió núi mưa ngàn sói beo quanh mình xiết bao kinh hoàng.

Tôi bảo rừng xanh là quý giá,
Tôi bảo Trường Sơn yêu biết mấy,
Khi cháy trong lòng tôi lý tưởng dựng xây ngày mai.

Khi nó hát đến đây, tất cả năm anh em nhất loạt đồng thanh "bắt vào" :

Rừng ơi! ta đã về đây,
Mang sức của đôi tay, lao động khó khăn không quản ngại.
Rừng ơi! trong tiếng ca hôm nay,

Vang lên cuộc đời sáng tươi trong tương lai!

Đêm trăng rừng lạnh

Nghỉ ngơi một lúc chừng nửa tiếng đồng hồ, rồi anh Lộ lại hối thúc mọi người hành quân tiếp. Giày, tất hong chưa khô lại phải xỏ vào, ba lô lại xốc lên vai, năm người lẳng lặng bước. Riêng nó, từ lúc vào rừng rậm, nó đã phải tìm cách buộc đàn dọc theo ba lô, cần đàn chúc xuống, hai tay nó được rảnh để còn phát cây hay leo trèo qua cây đổ, tụt xuống hay trèo lên bờ suối.

Quãng năm rưỡi chiều bọn chúng mới tới nơi đóng quân của tổ 20. Tổ này nằm chênh vênh trên một sườn núi vừa đá vừa đất. Để leo lên tổ 20, phải qua một con suối nhỏ, hai bờ vách dựng đứng sâu hoắm xuống dưới. Một chiếc cầu treo nhỏ bằng dây rừng và tre được bắc sơ sài vắt ngang qua suối. Lần lượt từng người đi qua cầu chênh vênh, dập dềnh, đung đưa. Lần đầu qua đây không quen, đứa nào cũng sợ và run. Mà đã run sợ thì cái cầu dường như lại càng đánh võng mạnh, kinh quá mà nhìn xuống lại càng hãi. Nó là đứa vốn sợ độ cao, qua được cầu vã hết mồ hôi lạnh.

Mỗi tổ lẻ bảo đảm đường dây của chúng thường chỉ có ba đến năm người, phải đảm bảo đường đây thông tin dài chừng 25 – 30 cây số. Có đoạn cheo leo, hiểm trở thì chiều dài phải đảm nhiệm cũng phải 15 cây số.

Từ tổ này đến tổ kia thì đường dây được chia đôi ra để đảm nhận. Tổ 19 đảm bảo một nửa đường dây từ tổ 19 đến tổ 20 và một nửa đường dây từ 19 tới 18, gọi là "phân chia lãnh thổ". "lãnh thổ" của tổ nào thì tổ ấy hàng ngày phải lo sao cho đường dây thông suốt. Bình thường, đường dây chẳng có chuyện gì, lính tráng nhàn nhã, cách một ngày mới phải đi dọc tuyến kiểm tra đường dây một lần, phát cây dọn cỏ quanh các cột, và hai bên đường dây để khi có gió to, cây và dây leo không vướng vào dây thông tin. Lính tranh thủ tăng gia trồng trọt để bổ xung thêm vào khẩu phần ăn đạm bạc và đói trường kỳ.

Nhưng bất thình lình, bất cứ lúc nào đường dây cũng có thể có sự cố. Những lúc ấy thì dù mưa gió bão bùng, nước lũ ầm ầm, hay lúc đánh nhau đang bom rơi đạn nổ cũng phải bổ đi khắc phục bằng được, thông tin là mạch máu của cơ thể mà.

Khi chúng nó qua cầu treo vào đến tổ 20 thì đã thấy có mâm cơm do tổ 20 làm sẵn chờ chúng nó. Hẳn là tổ 20 phải quý anh Lộ lắm nên đã mổ thịt con gà rất to, lòng mề xào với hoa chuối rừng, nước dùng gà nấu rau tàu bay, lại có cả một chai rượu ngô nút lá chuối.

Trời chưa tối hẳn, mấy đứa được chỉ ra nhà tắm có "nước máy" dẫn từ trên núi xuống bằng những cây bương chẻ đôi nối tiếp nhau, chạy ngoằn nghoèo. Nước trong và rất mát, tắm xong cảm thấy người sảng khoái và khỏe khoắn hẳn lên. Thì ra mâm cơm gà là để phần riêng cho năm đứa, anh em tổ 20 đã ăn từ trước rồi. Đang đói ngấu, cơm lại ngon, năm người xà vào mâm ăn ngấu nghiến, lại còn tợp vài chén rượu, lâng lâng. Ăn xong chúng ra "máy nước" rửa bát.

Trời tối hẳn nhưng trăng non lưỡi liềm đang lên, buông ánh sáng mờ ảo, mung lung sương khói, âm u, huyền bí. Tiếng suối nước chảy rì rào đâu đây, xa xa, gần gần, văng vẳng, vô định. Có tiếng gió hi hút thổi từ trong hang, len lỏi qua cây lá lao xao, ma quái, rờn rợn như cảnh "Liêu Trai". Trong lòng nó cồn lên một nỗi sợ hãi vô thức của bản năng và một nỗi buồn man mác, lay lắt khó tả. Một đêm trăng lạnh giữa rừng hoang.

Trung đội
("Trung Đội" cũng là tên một bộ phim về cuộc chiến của Mỹ ở Việt nam)

Sớm hôm sau, năm anh em chào và cảm ơn tổ 20 rồi tiếp tục hành quân. Chúng đi bộ trong rừng chừng 6 cây số thì bất chợt gặp đường lớn. Đây chính là một nhánh của đường Trường Sơn, một con đường đất khá rộng. Trên đường không thấy có xe chạy nhưng rất nhiều vết bánh xe qua đây còn mới tinh, chứng tỏ hàng ngày vẫn có xe chạy. Con đường rộng và bằng phẳng, mấy chú lính cứ thế mà dàn hàng ngang thẳng bước. Rồi chúng nghe ì ì tiếng ô tô xa xa ở phía sau. Anh Lộ dơ tay ra hiệu cho anh em dừng lại. Chờ một lúc, sau khúc cua, một chiếc xe Giải Phóng đang chạy tới gần. Anh Lộ bảo đó là xe của "bọn xăng dầu", mấy anh em liền giơ tay vẫy lấy vẫy để. Chiếc xe dừng lại, anh lái xe xe dừng lại, thò cổ ra tươi cười hỏi :

- Lính 136 phải không ?
- Vâng ! Bọn tôi c21 đây. Cho đi nhờ với ! - Anh Lộ hỏi.

Anh lái xe hất tay về phía sau ra hiệu cho chúng lên thùng. Mấy đứa vội vàng quăng ba lô lên thùng xe rồi đẩy đít nhau, nhanh chóng "chiếm lĩnh" thùng xe, riêng anh Lộ thì trèo lên cabin ngồi với lái xe. Anh lái xe rút một điếu thuốc trong bao châm lửa và rít một hơi dài, xong anh anh quăng bao thuốc và bao diêm lên thùng cho chúng. Anh này được đấy ! Chúng vừa được đi nhờ xe lại vừa được hút thuốc. Mấy thằng châm thuốc, rít lấy rít để, thật là mãn nguyện, đã cơn thèm.

Đoạn đường này chạy xuyên trong rừng già. Chắc hồi còn chiến tranh, đường này cũng chịu bom đạn ác liệt lắm. Bây giờ xe chạy nghênh ngang, chẳng phải lo lắng gì bom pháo. Mấy thằng ngồi ngả lưng, ngửa cổ mà ngắm rừng.

Đúng 12 giờ trưa, khi nó nghe tiếng kẻng cơm vừa dứt thì cũng là lúc chiếc xe đỗ lại trước cửa đơn vị. Năm anh em nhảy xuống, chuyền ba lô xuống đất, chạy lại chào và cảm ơn anh lái xe. Chúng khoác ba lô lên vai, xốc lại quần áo cho ngay ngắn. Leo hơn 10 bậc thang đất thì lên đến sân của trung đội. Đây là cái sân bóng chuyền rất rộng rãi và bằng phẳng, lưới vẫn còn căng trên cột. Phía tay trái là căn nhà cấp 4 gồm 3 gian hai chái, là nhà trung đội trưởng, ban chỉ huy và phòng họp. Trước mặt, cũng có một nhà cấp 4 như vậy là nhà cho lính. Nối đầu hồi với căn nhà này, cao hơn một chút, phía tay phải là căn nhà cấp 4 không có tường, giữa nhà kê một bàn bóng bàn. Từ mấy cái nhà, bước xuống vài bậc đất là một cái sân nhỏ chạy dài. Viền ngoài của cái sân trồng mấy luống hoa cúc, hoa thược dược, mào gà, . . . .

Từ chỗ bồn hoa, dốc xuống một đoạn là con đường mà chúng vừa xuống xe. Qua con đường là một ta-luy âm rất dốc (Taluy – tên một kỹ sư cầu đường người Pháp) mà phía dưới là một dòng suối lớn chạy ngoằn nghoèo, nước cuộn chảy, tung bọt trắng trên những phiến đá to nhỏ, cao thấp, lô nhô. Qua làn nước trong vắt, nhìn thấy dưới đáy là thảm sỏi đủ màu sắc lóng lánh. Từng đàn cá nhỏ, giống như cá mương, đang chao lượn tung tăng. Tiếng suối chảy rì rào, ngân nga, âm vang như một bản trường ca bất tận của núi rừng đại ngàn.

Anh Lộ dẫn mấy đứa lên nhà bê trưởng báo cáo. Bê trưởng cười rất hiền, bắt tay từng đứa, niềm nở :

- Chưa báo cáo gì vội ! Lộ đưa anh em về cất ba lô, rửa tay chân rồi xuống ăn cơm đã. Ngủ trưa
xong, 3 giờ lên gặp mình, ta nói chuyện nha !

Mấy anh em về lán, tạm vứt ba lô vào một góc, lấy khăn mặt và bát, đũa ra "máy nước" (lại là máy nước giống ở tổ 20) rửa chân tay mặt mũi. Vắt khăn trên vai, mấy đứa kéo nhau xuống nhà ăn. Nhà ăn chính là phòng họp của trung đội. Một cái bàn tre lớn, mặt ken bằng nứa kê ở giữa. Hai bên bàn là hai dãy ghế băng cũng bằng tre, mặt ghế được ken bằng dóc, một loại cây nhỏ hơn cây nứa nhưng thịt dày hơn. Chân ghế bằng tre và được đóng cố định xuống nền đất. Thẳng chính diện với cửa ra vào treo một lá cờ Tổ Quốc, ngay dưới ngôi sao vàng là ảnh Bác, phía trên lá cờ là dòng chữ "Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do".

Cả trung đội hai chục người ngồi vào bàn ăn thì đã chật nên chính trị viên đại đội, trung trưởng và cậu liên lạc phải ăn trong phòng trung đội để nhường ghế cho anh em. Ăn xong, chúng về nhận gường, trải chiếu, cất ba lô rồi lăn ra ngủ một hơi, không biết trời đất gì.

Gần 3 giờ chiều, anh Lộ đánh thức mấy đứa và giục :

- Lên gặp và báo cáo với trung trưởng đê !

Bê trưởng là anh Toản, trạc 30, quê Nam Định, người dong dỏng cao, tóc hơi quăn, trông rất hiền và có vẻ trí thức. Anh Toản ngồi hỏi chuyện chúng nó rất thân tình và cởi mở. Anh hỏi thăm từng đứa về sức khỏe, về gia đình, về sở trường, sở đoản, về nguyện vọng sau này, . . . . Nghe xong anh mới nói ngắn gọn về tình hình nhiệm vụ của trung đội, nhiêm vụ của bọn nó. Vừa nói chuyện anh vừa giót nước mời mấy đứa và thỉnh thoảng lại rít thuốc lào sòng sọc. Mấy anh em ngồi nói chuyện với nhau đến hơn 4 giờ. Lúc ấy, đã nghe tiếng anh em bắt đầu chơi bóng chuyền và bóng bàn ở bên ngoài, anh Toản liền bảo :

- Thôi ! Được rồi ! Ra chơi thể thao với anh em rồi xuống suối tắm nha ! 6 giờ 30 ăn cơm, 7 giờ sinh hoạt.

Chúng quay ra ngoài sân, thấy anh em đang chơi bóng chuyền rất nhiệt tình và mê mải. Anh Lộ hỏi :

- Có đứa nào biết chơi thì vào ?

Mấy thằng nó đều lắc đầu, chưa đứa nào thực sự biết chơi, chúng chỉ có thể đứng ngoài làm cổ động viên thôi.

Khiêu vũ với bày sư tử
(Phim "Khiêu vũ với bày sói" - Dances with Wolves, của đạo diễn Kevin Costner)

Mấy thằng ngồi xem bóng chuyền một lúc thì rủ nhau đi tắm. Chúng vào nhà bỏ quần áo, chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi dải rút rộng thùng thình, vắt quần áo sạch lên vai và cầm xà phòng theo. Chúng xuống đến đường thì thấy chỗ nào ta-luy cũng rất dốc, không thể xuống được. Bốn thằng quay lại, gặp anh Tăng đang ngồi đầu nhà rít thuốc lào, nó hỏi :

- Anh ơi ! Xuống suối tắm đi đường nào hả anh ?

Anh Tăng đứng dậy, tận tình chỉ tay ra phía sau nhà bóng bàn và bảo :

- Đi ra sau cái nhà bóng bàn kia, có đường mòn. Đi theo đường mòn đó, xuống hết
đoạn đồi thì gặp cái khe đá, hai bên có hai cái cây to, cạnh đấy là cây hoa gạo.
Đi qua khe một đoạn thì tới bờ suối,

Nó dẫn đầu bốn thằng, cứ theo đường anh Tăng chỉ mà đi. Con đường nhỏ ngoằn nghoèo trên dải đồi thoai thoải toàn hoa dại và cỏ may dẫn chúng xuống dần và ăn vào khe đá hình chữ "V" cao vút. Bên trên khe đá là cây gạo hoa đỏ rực và 2 cây gì đó cành lá xum xuê xòa xuống cả lối đi. Nó vạch lá cây bước theo các bậc nhỏ đi xuống. Vừa qua hết khe đá thì trước mắt nó là một dòng suối uốn quanh khá rộng, nước trong vắt. Có quãng nước sâu, nước màu xanh thẫm, chảy lững lờ. Đây đó các phiến đá to, phẳng nhấp nhô trên mặt nước. Bên kia suối là rừng cây um tùm in bóng xuống dòng suối, biêng biếc êm đềm. Cảnh non nước đẹp đến "rợn" người. Nó phấn khích reo lên :

- Suối đẹp quá mày ơi ! Xuống đây nhanh lên !

Nó chưa dứt lời thì đột nhiên nghe thấy nhiều tiếng rú, tiếng hét thất thanh của con gái ngay phía sau lưng. Nó giật mình quay lại thì thấy bên góc quanh của con suối, hơn chục cô gái đang trần truồng. Chị em cuống quýt, người thì nhảy xuống nước, người đưa tay che ngực, người quay lưng lại, những thân hình con gái trẻ, trắng nõn, ngồn ngộn. Nắng vàng chiều tà chiếu xéo qua những thân thể thiên nhiên, đẹp như một bức tranh khỏa thân thời Phục Hưng. Ấy chỉ là một cái chớp lóe lên trong mắt, chứ thực sự nó chưa kịp định thần để hiểu chuyện gì.

Từ ngay đâu đó, bốn cô bộ đội quần áo chỉnh tề, tóc ướt rượt, lao tới. Nó bỗng thấy tối sầm trời đất. Nó bị một thứ gì đó, hình như là một cái túi đen chụp kín lấy đầu. Rồi nó thấy nó bị quật ngửa xuống đất. Nó bị túm chặt hai chân hai tay và bị nhấc bổng lên, lăng qua lăng lại. Chợt nó hiểu ra mình sắp bị quẳng xuống suối. Nó sợ thất kinh, hét lên :

- Ối các chị ơi ! Em không biết bơi.
- Cho mày chết ! Ai bảo dâm dê nhìn trộm.
- Em mới về, em không biết. Em xin lỗi các chị, em xin lỗi !

Giọng một cô căng nhức :

- Đứa nào chỉ đường cho mày xuống đây ?
- Anh Tăng, anh nuôi ạ !
- Đây là khu dành riêng cho phụ nữ, mà mày lại mò vào. Mày có muốn chúng tao vứt mày xuống sông không ?
- Em nói thật mà, em mới về trưa nay nên không biết. Thật em cũng không biết bơi. Em xin lỗi các chị !

Ngần ngừ một chút rồi giọng một cô có vẻ đàn chị cất lên :

- Thôi nó lính mới, không biết, tha cho nó !
- Quê mày ở đâu ? – Một giọng khác hỏi.
- Em ở Hưng Yên ạ !
- Được ! Vậy thì lậy các chị Hà Tây đi !
- Em lậy các chị Hà Tây !

Bốn cô thả phịch nó xuống đất nhưng vẫn giữ cái túi đen che mắt nó. Mấy cô dẫn nó dò dẫm trở lại khe đá. Được một đoạn, xem chừng đã khuất hẳn khỏi con suối, một cô quát :

- Về ngay ! Từ nay các chị cấm bọn mày xuống đây nghe chưa ?
- Dạ ! Vâng !

Nói xong một cô tháo cái túi trùm đầu nó, một cô quăng quần áo của nó về phía trước. Nó bị đẩy một cái rất mạnh và bị hét ngay sau lưng :

- Biến !

Nhặt vội quần áo, nó vội chạy ngược lên, không dám ngoái đầu lại. Nó tìm ba thằng bạn nhưng chẳng thấy đứa nào đâu. Chạy về đến gần đơn vị thì nó nhìn thấy 3 thằng đang chạy phía trước, vừa chạy vừa cười ngặt nghẽo. Nó tức quá, văng luôn :

- Cười đ'... gì ! Thế mà đéo xuống cứu, cười cười cái con c...

Bọn nó càng cười phá lên :

- Bọn tao chạy được nhưng không sướng mắt bằng mày.

Nó đuổi theo mấy thằng về đến đầu nhà nhìn thấy anh Tăng và mấy người khác đang cười lăn cười lóc. Một thằng còn làm động tác "giẫy đành đạch", sướng ngây ngất. Nó hầm hầm nhìn anh Tăng, trong bụng rất căm. Nhưng nỗi ngượng trong nó còn lớn hơn, mặt nó đỏ dừ, lúng túng chẳng biết nói gì.

Anh Toản bê trưởng thấy chuyện, đi đến. Anh cũng cười và bảo :

- Cậu Tăng chơi khăm đồng đội thế là hơi quá mức đấy nhé ! Thôi, theo anh, anh chỉ chỗ tắm cho.

Rau rừng – Đồng bào Thượng

Mấy chú lính mới theo anh Toản và mấy anh mới đánh bóng chuyền xong đi xuống đường lớn, vòng quanh khúc cua theo quả đồi, đi tiếp xuống một con đường dốc nhỏ. Ở đây dòng suối rộng, nước chảy hiền hòa, phía trên có mấy cái thác nho nhỏ, xa xa phía dưới có một đoạn suối phình ra khá rộng. Nó trông thấy nước xanh thăm thẳm mà biết rằng suối rất sâu. Anh Toản và các anh khác đã lao hết xuống suối và bơi ra xa. Anh Toản quay lại :

- Nước mát lắm, xuống đây bơi đi !

Mấy đứa bạn nó lập tức nhảy xuống, riêng nó chỉ dám lội từ từ xuống chỗ nước sâu đến ngực. Nước mát thấm vào da thịt dường như làm cơn bực tức của nó bỗng dưng tan biến. Vừa tắm nó vừa nghĩ lại chuyện lạc vào giữa bày "sư tử" khỏa thân mà thấy ngượng và buồn cười.

Cuộc sống ở đơn vị tuy ở trong rừng nhưng nó thấy dễ chịu hơn nhiều so với thời kỳ huấn luyện. Nó không còn bị o ép, bị giám sát và kỷ luật căng thẳng. Ở đây mọi người sống với nhau thân ái, chan hòa cởi mở và yêu thương nhau như trong gia đình.

Hàng ngày chúng theo anh Lộ đi kiểm tra dọc đường dây. Có những chỗ phải xiết lại mối nối, sửa chữa hư hỏng hoặc thay thế lặt vặt. Những chỗ hỏng nhẹ thì cố gắng khắc phục lại để tiết kiệm vật tư.

Chiều về, chúng thay nhau chăm bón, tưới tắm mấy luống rau tươi ở đầu nhà, trồng hoa, nuôi gà, nuôi lợn. Rau trồng không đủ ăn, mỗi ngày trung đội cử ra 2 người vào rừng kiếm rau nộp cho nhà bếp. Đủ các loại rau linh tinh, có thứ gì lấy thứ đó, rau má, rau tàu bay, vòi voi, môn thục, tai chua, măng, hoa chuối, mít rừng, chuối rừng, . . .

Đóng ở khu vực này ngoài trung đội nó còn có đơn vị nữ thanh niên xung phong ở gần đó, có một trung đội của đoàn 559 bảo vệ đường ống dẫn dầu. Thành ra rau tự nhiên bị càn quét rất kỹ và không kịp mọc lại. Càng ngày đi lấy rau càng phải đi xa, vào sâu trong rừng. Đứa nào đi lấy rau mà tối về không đầy ba lô là rất ngượng mà còn bị trung đội khiển trách nữa. Đến phiên nó đi lấy rau, nó phải cố đi từ sớm và đi thật xa. Nó cứ len lỏi thơ thẩn trong rừng. Lần đó rất may mà nó gặp một vạt rau má, cứ thế xông đến nhổ cả rễ, đập hết đất rồi nhét vào ba lô. La cà một lúc thì lại gặp ngay một đám rau tàu bay xanh mơn mởn. Thế là lần đầu tiên đi hái rau, nó đã hoàn thành nhiệm vụ.

Những lần sau nó còn cố gắng tìm kiếm măng và hoa chuối, những thứ này là rau cao cấp, phải đi rất xa mới có. Rồi có lần nó chợt nghĩ đến quả loòng boong, nhưng nó tìm mãi mà không kiếm ra. Loòng boong thường mọc ở vùng cao, thời tiết ẩm và lạnh. Mà thứ quả ngon như vậy thì chỉ có thể tồn tại được ở nơi rừng núi hiểm trở khó khăn, nghe nói vùng ngã ba biên giới có rất nhiều.

Cứ một tháng vài lần, đơn vị cử một toán xuống A Lưới gùi gạo, thuốc lào, cá khô và nhu yếu phẩm đi tắt đường rừng về tiếp tế cho đơn vị.

Chiều chiều, sau khi ăn cơm xong, nó hay cùng các anh lững thững đi dạo trên đoạn đường gần đơn vị. Thời còn chiến tranh, con đường này cũng là một nhánh huyết mạch, tấp nập xe vận chuyển súng đạn, lương thực, thực phẩm cho chiến trường phía trong. Vậy mà, giờ đây, con đường "vắng như chùa Bà Đanh", cả tháng giời cũng chỉ có vài cái ô tô chạy qua. Con đường bây giờ chủ yếu là đường đi lại của đồng bào Thượng. Có thể là họ du cư từ chỗ này sang chỗ khác, cũng có thể họ đi chợ hay đi chơi thăm người thân họ hàng, chẳng biết được. Họ đi thành từng đoàn, thanh niên, trẻ con, người già, người nào cũng đeo gùi, đi chân đất. Đàn ông đàn bà đều hút thuốc lá rê khét lẹt bằng những cái tẩu lớn. Tất cả đàn ông đều ở trần, đóng khố. Tất cả đàn bà đều mặc quầy nhưng phía trên cũng để trần, vú vê thỗn thện. Bà già thì không tính, thanh nữ thì khoe vú các kiểu, cái to, cái nhỏ, cái lùm lùm, cái hơi chảy chảy. Các chú bộ đội tha hồ mà ngắm.

Bộ đội gặp đồng bào đi trên đường, chào hỏi nhau vui vẻ lắm. Có lần, một đứa hỏi :

- Đồng bào gái cho tao sờ một tí nhé !

Một cô gái đáp lại ngay :

- Bộ đội ! Cái trên tao dành cho con. Bộ đội xin, tao cho cái dưới. Nếu bộ đội
muốn thì bộ đội hỏi Pỉp, tao sẽ cho ("Pỉp" là "mẹ" trong tiếng Vân Kiều).

Gần nơi đơn vị đóng quân, cách khoảng 2 cây số, có một bản người Thượng định cư khá đông. Thỉnh thoảng chúng vào chơi với đồng bào, đem áo, giầy đổi cho đồng bào lấy súng AR-15 và đạn, đổi lấy thịt nai, thịt hoãng phơi khô. Lâu dần đồng bào quý bộ đội mới cho thưởng thức món ngon nhất để trong chum. Đó là chum măng muối. Những cây măng nhỏ bằng ngón chân muối cùng với nhái nguyên con. Khi được thả vào nước muối mặn, nhái bị xót và sợ hãi, cứ thế bám chặt vào cây măng rồi chết dần. Món đó gọi là "nhái ôm măng". Ở vùng núi miền Bắc cũng có món "nhái ôm măng", nhái được thả vào nồi cùng với măng, đậy vung lại, đun nóng từ từ . . . . mà thành ra "ôm măng".

Một chuyện tình bi thảm

Có súng AR-15 và đạn đổi được, bọn nó mang ra bắn nghịch. Chúng ra suối, trên các tảng đá lớn, đặt các cục đá nhỏ làm mục tiêu, cứ thế nhằm bắn, . . . . vui ra phết.

Nhưng nó vẫn mê vẽ hơn. Nó thường vẽ ký họa cảnh bộ đội lao động, làm vườn, lau súng, . . . . Thường thì các ký họa chỉ bằng chì đen, thỉnh thoảng hứng lên nó còn ký họa bằng màu nước. Ký họa hết cảnh đơn vị rồi nó vào bản đồng bào, chọn góc đẹp, vẽ phong cảnh bản với nhà sàn, núi đồi, gia súc, cảnh sinh hoạt của những người dân trong bản. Tập ký họa của nó đã rất dày, có cuộn lại đút vào hai cái ống bằng nhựa đựng liều phóng của B40.

Tờ báo tường của trung đội vừa là nhiệm vụ của nó mà cũng là niềm vui. Nó viết bài, làm thơ, vẽ trang trí và minh họa. Đối với một tờ báo thì, như thế, nó vừa là tổng biên tập, vừa là cây bút chính vừa là họa sỹ. Nó nghiệm ra một điều, dù là việc to hay việc nhỏ, nếu mình cố gắng và làm có tâm huyết thì công việc đó tự nó mang lại niềm vui cho bản thân. Nếu việc nhỏ mà làm đại khái qua loa thì sẽ chẳng thể làm được việc lớn.

Có lần một đứa có ảnh cũ của người cha, lâu ngày đã mốc hỏng gần hết, nó đem bức ảnh ấy "truyền thần" lại. Anh em nhìn thấy "được quá", từ đó nó liên tục vẽ truyền thần ảnh cho cha mẹ các đồng đội. Truyền thần thì chỉ cần có giấy, bút chì, tẩy và bông để vờn bóng. Nhiều bức cũng giống và đẹp. Hầu hết anh em rất thích, khen và cảm ơn nó "loạn xì ngầu". Thấy nó vẽ còng lưng mất cả ngày mới được một bức, công việc thì tỷ mà tỷ mỷ, chỉnh đi chỉnh lại mãi mới xong, anh em tìm cách kiếm cho nó vài điếu thuốc lá cong queo hoặc gói thuốc lào Vĩnh Bảo để cạnh nó để nó hút khỏi phải đứng lên đi kiếm. Cứ chốc chốc lại có đứa vào xem nó vẽ và tranh thủ bắn một hai phát "Ba-zô-ka", chả biết là chúng thích xem vẽ hay thèm thuốc quá mà vào hút thuốc tranh thủ.

Một lần bê trưởng đi họp về đưa cho nó tờ thông báo của Bộ Tư Lệnh gửi các đơn vị trong binh chủng. Nội dung thông báo là động viên chiến sỹ tham gia viết về kỷ niệm sâu sắc chống Mỹ cứu nước và vẽ về phong trào thi đua toàn quân bằng hình thức tranh cổ động. Ưu tiên hướng về ngành của đơn vị mình là thông tin liên lạc.

Nó rất phấn khích vội lao vào vẽ và viết. Nó vẽ ba bức tranh cổ động khổ 30 x 45 bằng thuốc nước. Vẽ xong, nó đưa cho anh Toản bê trưởng, chờ dịp anh về đại đội họp mà chuyển cho quân bưu gửi đi.

Chuyện nó vẽ thế nào mà rò rỉ sang đơn vị nữ thanh niên xung phong. Chị em kéo nhau sang nhờ nó vẽ vào sổ tay, vào khăn mùi-xoa để thêu. Nó thì thêm bận nhưng cũng vui. Anh em trong trung đội thì rất thích. Chị em ngồi xem nó vẽ thì anh em cũng mon men đến nói chuyện làm quen. Mối giao lưu ngày càng thân thiết, chị em còn rủ rê hẹn hò anh em sang bên chị em chơi, . . . .

"Niềm vui ngắn chẳng tày gang", đâu được một tháng, một hôm, đùng một cái, cả 2 đơn vị cùng ra lệnh "cấm tuyệt đối quan hệ". Lính tráng buồn và tiu nghỉu nhưng không hiểu tại sao. Mãi về sau mọi người mới biết một chuyện.

Cách đơn vị nó không quá xa, có một đơn vị bộ đội và một đơn vị nữ thanh niên xung phong đóng gần nhau. Anh chị em hai đơn vị giao lưu qua lại thường xuyên, nảy sinh tình cảm yêu đương. Một lần đại trưởng thấy lính không về họp, đơn vị đi tìm và bắt gặp hai người đang ngủ với nhau trong rừng. Đại trưởng kỷ luật người con trai và ra lệnh cấm chuyện quan hệ trai gái.

Vài hôm sau, đúng nửa đêm khi mọi người đang ngủ say, người lính đó vào giường đại trưởng, giật chốt lựu đạn, ôm chặt đại trưởng, cả 2 cùng tử vong. Câu chuyện thật là bi thảm ! Từ đó các đơn vị cấm tuyệt đối quan hệ với đơn vị khác giới, sợ diễn biến tư tưởng của bộ đội phức tạp khó kiểm soát được.

Mưa rừng

Đã lâu lắm rồi, trung đội nó không còn sợi thuốc lào nào để hút, cá khô lại càng không. Cửa hàng mua bán cũ ở A Lưới được chuyển vào sâu, cách đơn vị nó chừng 40 cây số đường rừng. Cửa hàng mới tại A Lưới giao cho đơn vị mới quản lý, đơn vị nó không có quan hệ thân quen tình cảm để mua được các hàng hóa cần thiết. Chúng thèm thuốc bã người, những thằng nghiện đã phải hút dâu ngô, bã chè phơi khô tẩm nước điếu. Mùi vị thật kinh khủng, vừa khét vừa hôi rất khó chịu, nhưng dù sao cũng còn có tí khói. Hết "sách", mấy thằng vào bản người Thượng xin thuốc rê. Nhưng thuốc rê rất nặng, hút vào tắc nghẹn trong cổ, ho sặc sụa, lại còn hôi khăn khẳn, không thể nào hút được, đành bỏ.

Thịt hộp đã hết từ lâu, bữa ăn chỉ có rau và nước muối. Rồi đến gạo cũng hết vì mưa to, núi lở, xe không tiếp tế được. Lính toàn phải ăn sắn khô và luộc rau tầu bay chấm muối. Thèm thuốc, đói cơm, lả người mà nhìn trời mưa ầm à suốt ngày này sang ngày khác. "Mưa sứ Huế" đã kinh khủng, nhưng mưa trong rừng miền tây Huế còn tệ hại hơn nhiều. Lúc nào trời đất cũng nặng trĩu mây và đổ mưa xuống sầm sập, triền miên. Cảm tưởng như nước tràn ngập trong không khí đến hơi thở cũng đầy nước, quần áo phơi hàng tuần chẳng khô được, hôi mù. Dòng suối trước kia hiền hòa là thế nay nước dâng cao, đục ngầu, cuốn theo rác rưởi, cây đổ, xác súc vật lềnh bềnh.

Tệ nhất là đường dây lại liên tục đứt. Vừa nối xong chỗ này thì chỗ khác cây đổ đứt dây, gẫy cả cột. Áo mưa chưa kịp cởi ra lại phải đi tiếp, bấm chân trong đất, bám vào cây, đu vào dây leo, gạt mưa bão mà đi nối dây cho bằng được.

Bụng đói, cật rét, thuốc không có hút, nước trên trời thì cứ ầm à đổ xuống suốt ngày, buồn não nề như "trấu cắn". Nhà bóng bàn mưa bão quật sạt một góc, vả lại bóng không có, bàn thì ướt nhoèn nhoẹt. Có mỗi bộ tú lơ khơ thì quân thiếu, quân đủ. Đến đàn ghi ta của nó thì dây cũng đứt, chẳng có dây để thay. Những lúc không phải đi nối dây, chẳng còn có trò gì, ê chề suốt ngày, đi ra nhìn trời mưa rồi lại đi vào nhìn quần áo ướt giăng khắp nhà, bốc mùi lầm lậm. Nó mượn được cái đài bán dẫn SONY con con của bê trưởng, kiên nhẫn dò sóng, chỉ thấy ọ à ò ẹ, nói được một tí rồi lại mất. Nó cầm đài chạy khắp nhà, xoay đủ các hướng, xoay núm chỉnh sóng liên tục mà vẫn chỉ là xọt xà xọt xẹt . . . .

Thấy anh em đói quá, anh Toản gọi điện khắp nơi đến các đơn vị bạn ở gần đó để xin vay gạo. Gọi đến đâu cũng thấy các đơn vị khác cũng đang trong tình trạng đói. May sao khi liên lạc với công binh, ở khá xa, họ đã đồng ý cho vay một tạ gạo và một ít nhu yếu phẩm. Tiểu đội nó nhận lệnh sang ngay công binh gùi gạo về. Cả tiểu đội mặc áo mưa, mang theo ni lông để bọc ba lô, . . . . lập tức lên đường.

Trời đã ngớt mưa, chỉ còn mưa lác đác. Từ sáng sớm, tiểu đội ra đi theo đường lớn, nối đuôi nhau, hàng một thẳng tiến. Sau cơn mưa bão lớn dài ngày, cảnh rừng trông rất xác xơ, cây lá tả tơi, ủ rũ, suối đỏ ngầu, cuồn cuộn chảy, đường đi nhão nhoét bùn đất, . . . .

Sa lầy

Đi được chừng hơn hai chục cây số thì anh em đi chậm lại, vừa đi vừa nhá lương khô để tiết kiệm thời gian, sợ tối không kịp đến đơn vị công binh. Cuốc thêm dăm bảy cây nữa thì tới một khúc đường cua. Núi bên ta-luy dương gặp mưa lâu, ngấm nước, lở xuống, chảy thành một thứ cháo bột nhão nhoét lấp kín mặt đường một lớp rất dày. Chắc đám lở đất này xảy ra mấy hôm trước, hôm nay, nhìn đã thấy "se mặt". Anh Lộ, đưa dao găm cho một đứa đi chặt cho mỗi người một chiếc gậy chống. Anh tiến lại chỗ "cháo bột", lấy que chọc để thăm dò. Thấy tạm ổn, anh đưa thử một chân vào, nhấn khẽ. Đám "bột" dưới chân anh lùng bùng nhưng không bị sụt. Sau khi cân nhắc kỹ, anh Lộ cẩn trọng bảo :

- Ở đây mưa ít hơn chỗ mình, đất sụt chắc đã lâu, bề mặt khá cứng. Ta đi cách xa nhau
một chút, đặt chân và bước thật nhẹ, chắc là qua được. Đoạn cây dóc này dài nhất dùng
làm gậy cứu sinh, nếu ai bị lún thì chìa gậy ra cho bám mà kéo lên. Chú ý, nếu ai bị lún
thì không được quẫy mạnh mà phải đứng yên và dang tay ra, anh em khác sẽ kéo lên.
Tất cả rõ chưa ?

- Rõ ! - Tất cả đồng thanh đáp.

Chỗ đất sụt chỉ dài quãng ba chục mét. "Cháo đất" dày nhất cỡ trên hai mét so với nền đường, phía hai đầu đoạn sụt có phần mỏng hơn, thoai thoải xuống. Anh Lộ nhẹ nhàng như con báo đi săn mồi, vừa nhanh vừa nhẹ nhàng. Sau anh Lộ đến thằng Thanh, thằng Bội, thằng Đông. Nó là đứa đi sau cùng.

Mọi người bước theo chân anh Lộ rất thận trọng, nhẹ nhàng từng bước một. Mỗi người cầm một cây gậy ở tay phải, tay trái dơ ngang để lấy thăng bằng, cứ thế dắt nối nhau bằng gậy để đi qua đám lầy.

Chỉ còn một đoạn ngắn nữa thì nó sẽ qua được đám lầy. Ở đầu tốp, anh Lộ đã tới chỗ đất khô, ba thằng trước nó cũng sắp qua được. Đúng lúc đó thì nó thấy đất dưới chân bắt đầu sụt xuống. Nó là thằng "nhẹ phao câu" nhất mà lại bị lún, hẳn là do bốn người đi trước đã dẫm cùng một chỗ lại nhún để bước tiếp đã làm cho nước ở phía dưới "sình lên" và đất trở nên nhão nhoét. Cái chân trái nó bị lún, nó phải tì người sang chân phải để rút lên. Ai ngờ, chân nó thì bé, giầy thì rộng, lại buộc dây không kỹ nên cái chân cứ rút lên lại nhấn xuống để cứu giầy, sục sà sục sịch, càng ngày càng lún sâu. Cái vòng lẩn quẩn bắt đầu. Để rút chân trái lên thì trọng tâm dồn sang chân phải, vậy là chân phải cũng bị lún xuống tiếp. Có cảm tưởng như đất nhão đang hút đôi chân của nó, ngày càng xuống sâu hơn. Nó càng cố gắng để bước lên thì càng bị lún sâu hơn, càng ngày càng nhanh.

Nó hoảng hốt gọi :

- Anh Lộ ơi ! Em bị chìm rồi.

Mọi người giật mình quay lại thì thấy nó đang từ từ chìm xuống. Anh Lộ vội hét :

- Khuỳnh tay ra ! Đứng yên, không được cựa !

Nó khuỳnh tay sang 2 bên. Người nó từ từ chìm xuống tới nách thì dừng lại, phần vì do có hai tay, phần thì vì cái ba lô sau lưng nó đã cản lại. Anh Lộ vội chìa cây dóc dài cho nó. Nó với tay trái túm được, rồi nó đưa nốt tay phải, túm vào gậy ở một đoạn xa hơn. Ba thằng kia, lúc bấy giờ đã lên được chỗ khô, anh Lộ bảo chúng chặt nhiều cành lá trải trên đám lầy, chằng chịt những cành với lá, thành một con đường mới khá chắc chắn. Xong, anh Lộ tiến vào gần nó, chìa cho nó cây dóc ngắn. Ba thằng kia đứng sau anh nối gậy để cùng kéo nó. Anh Lộ bảo nó :

- Em bám chắc vào nhé ! bọn anh sẽ kéo lên. Nào, các cậu tớ hô "một, hai, ba . . ." thì cùng từ từ kéo nha !

Bốn người đứng "dé chân chèo", cùng kéo nó từng tí một. Người nó cứ toài dần dần về phía trước rồi gần như nằm sấp trên mặt bùn, chỉ còn hai cái cẳng chân từ đầu gối trở xuống vẫn chưa rút ra được khỏi bùn. Chắc hẳn hai chiếc giày của nó quá to so với chân, như hai chiếc "phà" (nó vẫn hay nói đùa thế), không cho nó rút được chân. Đến khi tay nó chạm được đống lá, thì nó buông một tay ra để túm vào đám cành lá. Nó cố gắng co tay, rút được một đầu gối lên rồi đến đầu gối thứ hai. Anh em thì kéo, nó thì cố dướn lên và quỳ được trên đám lá. Bốn người kéo, một người bò, dần dần nó thoát khỏi đám lầy. Nó đứng dậy, thở hổn hển, mồ hôi nhễ nhại. Nó thoát rồi, anh Lộ mới "mắng vốn" :

- Đi đứng thế nào thế ! Đã dặn mãi rồi. Lần này may có đông người chứ không thì chết mục xác, chẳng cứu được đâu ! Em ạ !

Nó không nói năng gì, lẳng lặng gỡ ba lô ra. Mọi người xúm vào gạt bùn đất cho nó. Nó cởi hết quần áo, giầy tất xuống vũng nước gần đó rửa chân tay, người ngợm và giặt hết đồ rồi mặc lại, đi tiếp. Lúc bấy giờ nó mới thấy lạnh lưng, sởn tóc gáy.

Cho đến bây giờ nghĩ lại, nó vẫn thấy thất kinh. Và, nó cũng không thể biết khoảng thời gian để nó thoát ra khỏi đám lầy đó là bao lâu. Năm phút, mười phút hay nửa tiếng, chẳng biết nữa ?!

Đám cưới người Thượng

Sau khi vay được gạo và một ít nhu yếu phẩm của công binh, anh em được ăn cơm với cá khô và được hút thuốc lào. Gạo thì rồi khi nào đường thông, đơn vị sẽ đ\ược tiếp tế, nhưng nhu yếu phẩm cái gì cúng thiếu. Ban chỉ huy đại đội phải suy nghĩ làm sao lo cho cuộc sống của đơn vị. Một hôm, anh Toản bê trưởng gọi nó lên và bảo :

- Anh ông A-Tơ-Ken, cửa hàng trưởng bách hóa sắp cưới vợ. Đại trưởng bảo em mang
theo máy ảnh, bút, màu. Em lên lên đó giúp cho đám cưới. Đại trưởng cũng ở đó, anh
ấy đã mang cho em một cuộn phim rồi. Hy vọng, qua đám cưới, có quan hệ tốt, ông
ấy sẽ duyệt bán cho đơn vị cá khô, thuốc lào, xà phòng, kem đánh răng và các nhu
yếu phẩm khác. Thế nhé !

Nhận lệnh xong, nó về chuẩn bị. Sớm tinh mơ hôm sau nó lên đường hành quân một mình, đi làm "công tác đối ngoại".

Trời nắng đẹp, gió thổi mơn man, mây trắng lững thững trôi bồng bềnh, tâm hồn phơi phới, nó mải miết đi theo đường rừng. Trong rừng vắng, vừa đi nó vừa suy nghĩ miên man, chuyện gia đình, chuyện đơn vị, rồi chuyện em Hợi người yêu nó. Lâu rồi không thấy mặt em, nhớ quá. Nỗi nhớ em cứ ngun ngún trong lòng như đống dấm. Thỉnh thoảng có gió tạt qua là đống dấm lại bùng lửa cháy phần phật. Không có lửa cháy thì bên trong đống dấm lúc nào cũng vẫn cháy, âm ỉ và mãnh liệt.

Chiều tối thì nó đến được bản của ông A-Tơ-Ken. Đó là một bản nhỏ với vài mươi nóc nhà, cách đường 15N khoảng 2 cây số, nằm ven một dòng suối lớn có tên là Rào Trăng. Rào Trăng cũng là một nhánh chính của thượng nguồn sông Bồ (Nay trên địa bàn xã Phong Xuân, huyện Phong Điền có hai nhà máy thủy điện Rào Trăng 3 và 4).

Nó đi theo một con đường đất đỏ ngoằn nghoèo để vào bản. Từ đầu bản, phải đi qua mấy căn nhà sàn nằm cánh nhau rất xa. Mùi phân trâu bò lợn gà nuôi ở dưới nhà sàn bốc lên nồng nặc. Giữa bản có một nhà rông (trong tiếng Vân Kiều là "roong hy xu ho") với cái sân rất rộng. Người ta đã căng một tấm che lớn làm từ những miếng dù pháo sáng ghép lại. Bên trong mái che ấy và xung quanh có rất nhiều dân bản đang mổ trâu, mổ bò tíu tít. Từ trên nhà rông, thằng Ân liên lạc đại đội nhìn thấy nó, vội chạy xuống tận chân cầu thang dẫn nó lên. Trong nhà rông, già làng cùng mọi người cao tuổi và khách khứa đang ngồi bên bếp lửa uống rượu cần. Trong số khách có đại trưởng của nó, thủ trưởng các đơn vị công binh và thanh niên xung phong.

Sau khi nó chào mọi người, thằng Ân đưa nó ngồi vào một mâm. Cỗ cũng có nhiều món xôi, thịt, lòng, . . . . được bày trên lá chuối trải dưới sàn, rượu mạnh được rót từ hũ ra bát. Nó đặt ba lô vào góc nhà rồi xà ngay xuống mâm cỗ cùng thằng Ân và mấy người trong bản. Mọi người vừa ăn vừa uống rượu trong ánh lửa bập bùng và tiếng cồng chiêng âm âm, u u. Tiệc rượu cứ thế diễn ra thâu đêm. Nhiều đồng bào ở các các bản lân cận cũng kéo đến, ngày một đông. Họ cứ uống rượu, gõ cồng chiêng và nhảy múa suốt đêm.

Sáng hôm sau, nó chén hết một nắm xôi với một miếng thịt kho thái rất to. Ăn xong, nó và thằng Ân bắt đầu trang trí cho đám cưới. Rất nhiều thứ lặt vặt, như hàng xén vậy, nào thì giấy trắng, giấy màu các loại, hồ dán, dao, kéo, bút chì, bút lông, . . . .

Nó nhờ mấy người trong bản căng cho nó một cái chăn to, đẹp để làm phông. Nó vẽ một đôi chim bồ câu đang bay, mỏ cùng cắp một dải lụa có đề chữ "Hạnh Phúc". Đôi chim được gắn phía trên, bên phải tấm phông. Chữ "Song Hỷ" gắn phía trên, bên trái. Khoảng rộng ở giữa là hình trái tim, trong đó có hai chữ cái đầu của tên cô dâu và chú rể lồng vào nhau. Phía dưới đôi chim câu nó vẽ một nhà rông với các cây đại thụ cao lớn xung quanh. Dưới chữ song hỷ nó vẽ một căn nhà sàn và 2 đứa trẻ thật xinh, mũm mĩm, như trẻ trong tranh Đông Hồ. Nó vẽ đến đâu thì thằng Ân cắt đến đó, còn mấy anh công binh thì dán lên phông theo hướng dẫn của nó. Đến trưa thì tác phẩm hoàn thành, ai cũng khen đẹp. Nhưng đồng bào Thượng lần đầu tiên nhìn thấy, không hiểu ý nghĩa của các hình vẽ. Họ nói bập bẹ tiếng Kinh để hỏi "Cái gì đây ?". Biết rồi, họ lại hỏi tiếp "tại sao lại thế ?" Thứ tiếng Kinh lơ lớ cùng những câu hỏi ngây ngô làm nó rất buồn cười.

Lễ đón dâu được tổ chức vào buổi chiều. Đại trưởng đưa nó cuốn phim. Nó lắp phim vào máy, lắp pin vào đèn flash, chỉnh sửa lại máy để chuẩn bị chụp. Nó theo chân mọi người sang nhà gái để đón dâu. Nhà cô dâu ở ngay trong bản và không xa lắm.

Chú rể là người bản này, đi ra Bắc tập kết hồi năm 54. Ông học trung cấp thương nghiệp và làm trong ngành thương nghiệp ở ngoài Bắc. Nay ông về bản và làm cửa hàng trưởng "Cửa Hàng Bách Hóa" huyện A Lưới. Trông ông rất già, da đen, môi thâm, tóc quăn tít, chắc tuổi cũng phải suýt soát 50.

Mỗi lần ngắm qua ống kính cặp đôi này, nó thấy xót xa, thương cho cô bé.

Đám cưới đang diễn ra vui vẻ thì đột nhiên nghe tiếng súng nổ phía ngoài sông. Lực lượng du kích và mấy anh bộ đội vội xách súng lao ra, đám thanh niên nhao nhao chạy theo. Nó thấy nét mặt và thái độ của già làng vẫn rất bình tĩnh trước sự hốt hoảng, ngơ ngác của mọi người.

Sau đó nó mới được nghe chuyện. Chả là, có cậu trai cùng bản tuổi 18 đã đã yêu cô dâu từ trước. Đôi trẻ và hai nhà đã ưng cái bụng từ lâu và đang dự định tổ chức cưới. Khi ông cửa hàng trưởng giầu có, quyền thế về bản, ông trông thấy cô bé thì ưng quá. Ông mang biếu trưởng bản và gia đình cô gái nhiều cá khô, muối và những thứ quý giá khác. Gia đình cô bé và trưởng bản vừa thuyết phục cô bé bởi sự giàu có sung sướng, vừa o ép, dọa nạt. Cô bé đành "nhắm mắt đưa chân". Chàng trai người yêu uất quá tìm cách phá. Trưởng bản dùng quyền bắt anh phải sang bản khác tránh mặt trong những ngày đám cưới. Hôm nay, ngày rước dâu, chàng thanh niên mang súng kíp lẻn về để bắn chú rể. Già làng đã tính trước, cho du kích bảo vệ. Họ phát hiện ra chàng trai đang mò về mang theo súng thì lao tới giằng co khẩu súng. Súng cướp cò, đoo . . . aàng . . . .

Đang chụp ảnh, nó phải phì cười nhìn thấy cảnh áo cô dâu cài lệch khuy, chú rể cứ thế cởi áo cô dâu ra, cài lại (không có áo trong đâu nha). Thật là một pha "nhớ đời". Pha thứ hai cũng "quên đời" chẳng kém. Ấy là răng cô dâu bị giắt cái rau xanh, thấy vậy chú rể liền lấy tăm, cứ thế mà nhể nhể mấy phát cho cái rau rơi ra, một cách rất "tự dưng", cô dâu thì nhe răng ra, ngồ ngồ, trông chẳng khác gì cha xỉa răng cho đứa con nhỏ.

Nó "hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ" đám cưới và rất tự hào. Nó tự hào không phải vì trang trí hay chụp ảnh đẹp mà vì nó vác về cả một ba lô đầy thịt hộp, cá khô và thuốc lào mà không mất tiền mua. Toàn bộ là do chú rể tặng nó để trả ơn. Hơn nữa, đại đội nó được ông cho một phiếu mua hàng ưu tiên dài hạn. Đại trưởng mừng, nó mừng, rồi tất cả anh em trong đơn vị đều mừng. Tối hôm đó, nó bổ thịt hộp nấu với bí đỏ, cả trung đội liên hoan vui vẻ.

"Đụng độ" với đồng bào Thượng

Cuộc sống của nó cứ êm ả trôi đi với những công việc cuốn hút, những liềm vui nho nhỏ hàng ngày. Nó tự thấy ngày càng cứng cáp, vơi hẳn đi nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu. Chỉ có khi hoàng hôn buông xuống hay trong đêm gió mát trăng thanh giữa rừng, nó mới thấy buồn man mác và trạnh nhớ, một nối nhớ trong tưởng tượng những ngày thân yêu xa vời.
Thư gia của đình, bạn bè và thư của Hợi ngày càng thưa dần. Nó hiểu, thời gian đã dần xóa nhòa nỗi nhớ, làm lành các vết thương lòng. Mỗi người, ai cũng có việc của người đó, thời gian đâu mà suốt ngày nghĩ đến nó nữa.

Tranh dự thi của nó đã được đại đội chuyển đi từ lâu lắm mà không có hồi âm. Cứ mỗi tháng một lần có báo của binh chủng, Văn Nghệ Quân Đội nó đều theo dõi rất sát nhưng toàn thấy tranh của họa sỹ Trường Lưu, Xuân Hạnh và Phạm Ngọc Liệu, không thấy một bức nào của nó. Vậy là thất bại !

Trong thời gian huấn luyện, đơn vị có ba thằng có năng khiếu vẽ là thằng Đính, thằng Tiền và nó. Huấn luyện xong thì nó phải vào Trường Sơn, thằng Đính, thằng Tiền lại được cử đi học vẽ ở Sài Gòn. Nó rất buồn và không hiểu tại sao mình không được chọn. Thôi thì, âu cũng là số phận ! – Nó tự an ủi mình như vậy.

Thấm thoát từ khi nó vào rừng tới nay đã là gần 11 tháng. Thi thoảng nó vẫn mang bút màu đi vẽ phong cảnh. Một hôm, nó vào sâu trong bản, vẽ đặc tả mấy căn nhà sàn chênh vênh bên mép núi, vút lên mấy cây cau, xum xuê vài cây hoa dại ở hàng rào. Bức vẽ ấy rất đẹp, có thể nói là đẹp nhất từ trước đến nay mà nó vẽ được, một phần vì nó có rất nhiều thời gian thảnh thơi trong lòng, hai là nó cũng đã có đủ độ chìm lắng cần thiết. Nó treo bức tranh trên tường ngay chỗ giường của nó. Chẳng thể ngờ được bức tranh đó là "bức tranh định mệnh" làm chuyển biến cuộc đời của nó . . . .

Một buổi chiều, sau khi cơm nước xong, nó cùng anh Lộ, anh Tăng và mấy đứa nữa lững thững xuống đường đi dạo. Bỗng mọi người nhìn thấy một con hoẵng đang uống nước ở gần ngay dưới nhà bóng bàn. Mọi người ra hiệu cho nhau nhẹ nhàng bao vây. Con hoẵng thấy đông người, nó hoảng sợ. Nhưng vì địa hình trống trải, con hoẵng lao vọt lên khe núi, chạy mất. Khi tới bản người Thượng, mấy đứa nói chuyện con hoẵng với ông già A Khen. Ông già liền lấy súng kíp lùa đàn chó săn của ông đi ngay.

Mấy anh em cũng không để ý gì đến chuyện con hoẵng và ông A Khen nữa, vẫn nhẩn nha vừa đi vừa nói chuyện. Trời nhá nhem tối chúng lại lững thững quay về. Nghe đì đòm súng nổ, chúng biết là ông già vẫn đang săn con hoẵng đó. Về gần đến đơn vị, bỗng mọi người giật mình, từ trên tà luy dương, cao hơn 10 mét, một con hoẵng khá to mất đà trượt chân, lao xuống ngay trước mặt. Con vật bị choáng, lồm cồm định đứng dậy thì anh Tăng nhanh tay bê ngay hòn đá cạnh đó đập mạnh vào đầu nó một nhát. Nó giật giật mấy cái rồi vật xuống, bất động.

Bọn chúng khoái quá, khiêng ngay con hoẵng về. Lửa nổi lên, thịt hoẵng xẻ ra, chốc lát, dăm ba món thịt hoẵng đã thơm nức nở trên bàn ăn. Cuộc liên hoan linh đình của trung đội kéo đến 11 giờ đêm mới xong.

Hôm sau, ông A Khen đi qua cổng, thấy đầu hoaẵng và bốn cái chân đang cột trên dây phơi ở hồi nhà. Ông nhận ra con hoẵng hôm qua ông săn hụt liền vào đòi hoẵng. Một cuộc cãi vã giữa ông A Khen và anh em. Bộ đội nói con hoẵng tự rơi, bộ đội đập được nên con hoẵng là của bộ đội. Ông già thì bảo do ông và bầy chó đuổi rát mà con hoãng chạy hụt chân nên mới rơi, con hoẵng là của ông. Hai bên lời qua tiếng lại, không bên nào chịu bên nào. Dân bản hay tin cầm giáo mác chạy sang. Vợ ông già cứ xỉa xói, la lên :

- Bộ đội tồi, bộ đội ác, bộ đội cướp hoẵng. Bộ đội xấu như thằng Mỹ, thằng ngụy . . . .

Anh Tăng cáu tiết quá đẩy bà già ra. Không may bà già trượt chân ngã xuống. Tình hình trở nên nghiêm trọng. Dân hai bản với dáo mác và súng kíp lập tức bao vây anh Tăng. Bộ đội thấy vậy cũng giương súng ra tự vệ. Trung trưởng dùng AK bắn một loạt lên trời :

- Yêu cầu đồng bào giải tán !

Đồng bào giãn ra bỏ về. Lính cũng quay vào trong nhà, coi như chuyện đến đấy là xong.

Một lúc sau, tiếng tù và từ bản vang rền, rồi có tiếng tù ở những chốn xa xa đáp lại u u, âm vang khắp núi rừng đại ngàn. Anh em vẫn nghĩ là không có chuyện gì. Nhưng Chỉ một giờ sau, từ khắp mọi ngả, đuốc đèn như mưa sao rùng rùng chuyển động về phía trung đội. Rất đông đồng bào, cầm đuốc, cầm dáo, mác, cung nỏ, súng kíp tua tủa vây chặt trung đội. Người các bản xa hơn cũng lần lần kéo đến, ngày một đông. Họ bao vây chặt, triệt toàn bộ đường lấy nước của bộ đội.

Cả đơn vị thực sự hoảng sợ, chưa ai rơi vào tình huống khó khăn như thế này. Giá mà địch đông như vậy thì cũng có thể có anh em không sợ và sẵn sàng sinh tử. Nhưng đây là đồng bào, đang trong cơn giận dữ, đằng đằng sát khí, thì không ai là không run sợ. Trung trưởng gọi điện báo cáo đại đội và trung đoàn, đang nói dở thì đường dây bị cắt đứt. Anh đành phải dùng vô tuyến để liên lạc tiếp. Trung đoàn chỉ thị "Án binh bất động không được đối phó, ảnh hưởng tình quân dân. Nếu đồng bào nổ súng cướp trại có thể do Fulro xúi giục, lúc đó mới được phép tự bảo vệ con người và khí tài nhưng tuyệt đối tránh thương vong cho dân."

Ngay đêm hôm đó, đồng chí tỉnh đội trưởng Quảng Đà, vốn là người của bản của ông A Khen, lập tức đi ô tô trở về để can thiệp chuyện đụng độ giữa dân và bộ đội. Nhưng vì đường đi quá xa, mãi tối hôm sau ông mới về tới nơi. Ông là người có quyền cao chức trọng nhất, là người rất có uy tín của đồng bào Vân Kiều, bà con rất tin và rất nể trọng ông nên sau khi ông nói chuyện với già làng, với dân bản thì được già làng và dân bản chấp nhận.

Trung trưởng cùng anh Tăng phải ra xin lỗi đồng bào và trả lại đầu và 4 chân của con hoẵng. Chuyện được giải quyết êm thấm.

Sau vụ việc đó, mặc dù không có chuyện gì xảy ra nhưng quan hệ giữa đồng bào và bộ đội không được mặn mà như trước.

Bẵng đi một thời gian thì một hôm có một cái nhà sàn trong bản, không biết vì sao, lại bốc cháy ngùn ngụt. Chuyện cháy nhà sàn thì ở bản này là chuyện rất hiếm và xảy ra đã từ rất lâu. Điều tình cờ là căn nhà cháy đó lại chính là căn nhà nó vẽ trong bức tranh treo ở đầu giường.

Đồng bào đi gặp thày mo để hỏi về việc nhà bị cháy. Sau khi cúng bái, giờ lâu, thày phán rằng :

- Có kẻ ngoại lai mang ma về đốt bản !

Từ câu phán ấy, suy đi xét lại thì dân bản thấy chỉ có cái bộ đội ngồi vẽ cả cái bản này, rồi lại vẽ rất kỹ cái nhà bị cháy. Cái bộ đội ấy ngồi rất lâu, mấy ngày liền. Thế thì đúng hắn là kẻ ngoại lai đưa ma về rồi, không thể sai được. Tất cả mối nghi hoặc đó đổ lên đầu nó. Già làng yêu cầu trung đội trưởng giao kẻ đã đưa ma về đốt bản cho đồng bào.

Nó hoảng quá mà mọi người cũng đều sợ. Bê trưởng phải báo cáo lên đại đội. Đại đội yêu cầu lập tức, bằng mọi giá phải cho nó trốn sang đơn vị khác. Nó thu xếp quân tư trang, chào mọi người rồi bí mật và gấp rút trốn sang đại đội công binh gần đó để lánh nạn. Nó đi rồi không biết trung đội ở lại sẽ đối phó thế nào với già làng và dân bản . . . .

Bức tranh nó vẽ đẹp nhất trở thành "bức tranh định mệnh", làm cuộc đời nó biến động và sẽ ngoặt sang một hướng khác.

Trở về Pleiku

Nó trốn ở đơn vị công binh ngày hôm trước thì ngày hôm sau công binh nhận được điện thoại của đại trưởng của nó, báo cho nó biết trung đoàn điều động nó về trung đoàn bộ nhận công tác. May mắn làm sao, hôm đó có xe của công binh về Quy Nhơn và nó được đi nhờ. Nó nghĩ thấy cũng lạ, đúng lúc nó cần đi Pleiku thì công binh lại có xe, xe đó không phải ra Quảng Trị, xuống Huế, vào Đà Nẵng, vào thị xã Tam Kỳ hay vào thị xã Quảng Ngãi, mà lại vào đúng thị xã Quy Nhơn, rất chi là trùng hợp. Nó chào anh em ở đơn vị công binh. Trước khi bước lên xe, nó quay lại nhìn ngắm một lượt núi cao, rừng thẳm trùng điệp của Trường Sơn, nó muốn tạm biệt nơi chốn mà nó đã ăn ở và làm việc cùng trung đội thông tin của nó một năm nay.

Nó đi nhờ xe, mãi đến chiều hôm sau xe mới đến Quy Nhơn. Đã hết xe đi Pleiku nên nó tạt vào nhà Sơn Hồng. Hai thằng ôm chầm lấy nhau, tay bắt mặt mừng. Đêm đó nó được chơi với Sơn Hồng và ba má. Sớm hôm sau nó ra xe đò đi Pleiku. Về đến trung đòan nó được giao nhiệm vụ vẽ áp phích, khẩu hiệu và trang trí phục vụ cho hội nghị quân chính. Trong thời gian này nó được ở ngay ban tham mưu của trung đoàn. Xong nhiệm vụ cho hội nghị quân chính, nó sao chép và phóng bản đồ cho ban tham mưu.

Ở trung đoàn bộ nó nhận đồng hương với anh Chính, trưởng tiểu ban quân lực trung đoàn. Anh Chính quê Ân Thi, đồng hương Hưng Yên. Nhà anh Chính cách nhà nó chừng hai chục cây số. Anh Chính khá đẹp trai, người gầy, cao, da trắng, tóc quăn uốn sóng. Anh có giọng nói trầm, nhiều âm sắc. Anh đã có vợ và hai con gái ở quê. Nói đến anh Chính thì phải nhắc đến chị Mạo, tổ trưởng y tá cơ quan lúc bấy giờ. Chị tuổi Mão, sinh năm 51, tức là 26 tuổi dương lịch. Chị kém anh Chính 15 tuổi. Nó không còn nhớ quê chị Mạo ở đâu nữa vì lâu quá rồi. Chị có làn da trắng, người mũm mĩm, ngực nở lớn, mông to, đầy sức sống. Anh Chính và chị Mạo phải lòng nhau đã lâu. Khi nó về đến đây thì chị Mạo đang mang trong mình giọt máu của anh Chính. Nhưng nó mới về nên hoàn toàn chưa biết chuyện đó.

Nhớ lại, hôm nó về đây đúng vào một chiều Thứ Bảy. Toàn đơn vị lớn được nghỉ sớm một tiếng để làm vệ sinh doanh trại, hái rau sam, rau sắn non, chuối xanh và rau má. Đơn vị nào tự tăng gia được thì có quả su su, quả mướp, quả bầu hay quả bí. Nấu rau tự cải thiện bằng hòm đạn đại liên của Mỹ, không có thì nấu bằng mũ sắt của lính Mỹ. Rau nấu với bột canh, thịt hộp, mỳ tôm để cải thiện bữa ăn. Nó vừa nhận phòng ở xong thì các anh trong ban sai nó đi hái rau. Anh Thạnh, trưởng tiểu ban khí tài đang cắt tiết ngan, thằng Dõi, thằng Động, đồng hương nó đã được điều về đây từ lâu, thì đang phụ vặt lông ngan, rang lạc.

Hái rau xong nó mang về thì anh Hiệu lại bảo :

- Để đấy anh rửa ! Chú xuống cái nhà y tá dưới kia, gặp chị Mạo, nói anh Chính em
bảo xuống mượn chị cái cối, ở trên này anh em có chày rồi.

Nó vội chạy băng qua sân, xuống nhà y tá truyền đạt nguyên văn lời anh Hiệu dặn. Đang ngồi phát thuốc cho mọi người và nói chuyện rất vui vẻ, chị Mạo đứng bật ngay dậy, chỉ tay vào mặt nó quát :

- Ai sui mày hỏi thế hả ? Ai sui ?

Nó lúng túng không biết trả lời thế nào vì nó chưa nhớ tên anh Hiệu nên nó nói nhầm :

- Anh Chính bảo em thế.

Chị Mạo càng tức tối. "Ba máu sáu cơn" chị nhảy dựng lên, xỉa xói chửi :

- Tổ sư bố đứa nào độc mồm sui mày, chứ anh Chính nào bảo. Tổ sư nó !

Thấy chị Mạo cứ lồng lộn, chửi bới ầm ĩ, nó hãi quá, vội "cúp đuôi" chạy thẳng về ban. Cả ban nó đang cười ngặt nghẽo. Thì ra nó bị lừa để trêu chị Mạo. Sau này, khi biết chuyện, nó thấy thương chị Mạo và thương cả anh Chính nữa.

Bạn bè ở trung đoàn

Nó được sử dụng một gian 18 mét vuông, đầu hồi của một dãy nhà. phía cuối phòng có lắp hố xí xổm tự hoại. Cái vệ sinh này đã bỏ lâu lắm không dùng, bây giờ nó quây vải đen vào làm buồng tối để in tráng ảnh. Phần còn lại phía trước của căn phòng thì nó để vẽ pa-nô (pano) phục vụ cho các công tác cổ động của trung đoàn. Vậy là nó có riêng một phòng để tác nghiệp, kể cũng oai ra phết.

Bên cạnh phòng tác nghiệp của nó là một gian 18 mét vuông nữa thì nó và thằng Đăng dùng chung làm phòng ngủ. Giường sát cửa ra vào là của thằng Đăng, giường sát tường phía trong là của nó. Thằng Đăng phụ trách chiếu phim, quê Bắc Thái, da trắng, môi đỏ, tóc vàng như râu ngô. Đăng tốt nghiệp phổ thông thì nhập ngũ. Hắn vừa làm nhiệm vụ chiếu phim, vừa tự học thêm về cơ khí, điện kỹ thuật, thiết kế và quấn sú-von-tơ (survolteur) rất tốt. Cần nói thêm là, hồi bấy giờ điện kém lắm, nơi nào có điện thì đều không đủ điện áp, đèn thì tối lò mò, quạt thì chạy lờ đờ. Cái survolteur dùng tăng điện áp trở thành thiết bị cần thiết cho mỗi gia đình và nghề quấn survolteur đang rất thịnh, hái ra tiền. Đăng thường xuyên đi chiếu phim lưu động ở các đơn vị, ít khi ở nhà nên cái phòng chung đó hầu như chỉ có nó sử dụng.

Vào những ngày nghỉ, nó hay cùng anh Hiệu, thằng Đăng và vài người nữa sang sân bay Cù Hanh, nhảy vào phòng điều hành bay, phá các máy thông tin, máy tải ba, gỡ lấy các biến thế nguồn, các cuộn cảm, đèn LED, bộ chuyển mạch, đề-can, dây cáp thông tin với rất nhiều sợi, mỗi sợi một màu, v.v . . . . làm vật liệu để quấn survolteur. Được anh Hiệu và anh Cường kỹ sư "truyền nghề", nó cũng cuốn được mấy cái survolteur rất đẹp, chạy rất tốt.

Ở cơ quan trung đoàn bộ, nó quen và giao lưu với rất nhiều người, từ ban chính trị, ban tham mưu, ban hậu cần, vệ binh, bệnh xá, . . . . Nhưng người thân và gần gũi nhất với nó là anh Cường và thằng Tiền. Anh Cường Kỹ sư là trợ lý ban chính trị trung đoàn còn thằng Tiền là thằng được đi học vẽ ở Sài Gòn về, bây giờ giữ chân thư viện.

Anh Cường quê Quảng Bình, người dong dỏng, da đen, môi hơi thâm, trông khá đẹp trai và rắn giỏi. Bấy giờ anh Cường đã đeo lon trung úy, tính anh vui vẻ, dễ hòa đồng, sống tình cảm và ân cần với mọi người. Anh thường xuyên tâm sự nhỏ to với nó, nhất là chuyện tình yêu. Anh có một chiếc hon đa 67 màu đen khá mới. Anh nhờ nó vẽ vào hai bên xe hình đại bàng dang cánh. Ngày nghỉ, thỉnh thoảng anh đèo nó đi chơi hoặc cho nó mượn xe phóng lên đèo Mang Yang thăm mấy thằng đồng hương của nó đóng quân ở đó. Đường đẹp, xe ngon, thời tiết mát mẻ, "hết ý con mẹ tý".

Thằng Tiền quê Thái Nguyên, người lùn, bé nhỏ, da trắng, môi đỏ như con gái. Đặc biệt thằng này có giọng nói cứ lanh lảnh với những âm sắc trong, cao vút như họa mi. Đơn vị gán cho nó biệt hiệu là Tiền "gái". Thằng Tiền có năng khiếu vẽ và đã được cử đi học vẽ ở Sài Gòn cùng Phạm Bình Đính. Nó khá thân với Tiền một phần cũng là do nó mê đọc sách. Nó vào thư viện cũng được thằng Tiền ưu ái hơn so với những người khác.

Ngoài hai người đó ra, nó không thể không nhắc đến thằng Tỵ anh nuôi. Thằng này quê ở Nam Hà, người to béo, cao, mặt tròn, hói đầu. Thằng Tỵ sống rất thật và thà chân thành lắm. Một lần thằng Tỵ nhờ nó vẽ truyền lại bức ảnh của bố. Tấm ảnh gốc khổ nhỏ 3x4, đã rất mờ thì chớ, lại còn bị mốc nữa. Nó ngồi hai ngày, phóng ra cỡ 18x24, cố gắng hình dung, tưởng tượng ra người trong ảnh để vẽ. Khó nhất là vẽ mắt vì khi phóng to không thể vẽ mắt nhòe nhòe như trong ảnh được mà phải vẽ đầy đủ cả hai mí mắt và đường chân mi cũng như lông mi. Nó phải hỏi thằng Tỵ xem có giống bố nó không, may mà cha con giống nhau nên nó mượn mắt thằng tỵ để vẽ và thêm các đường chân chim vào cho già đi. Bức "truyền thần" vẽ xong được thằng Tỵ khen là rất giống và rất đẹp. Từ ngày đó thằng Tỵ rất quý nó. Đầu tiên là thằng Tỵ lúc nào cũng để phần riêng cho nó một miếng cháy to bằng cái quạt nan. Cháy nồi quân dụng màu vàng nhạt rất dày và rất giòn. Thằng Tỵ gói miếng cháy nóng hổi vào giấy bào, lẳng lặng cắp nách mang lên cho nó. Đang đói được cháy ngon, nó rất sướng, phết ngay đường vào, nhai rau ráu, thơm, giòn, ngọt, ngon tuyệt.

Mỗi khi nó xuống bếp lấy cơm, lại đúng vào lượt thằng Tỵ chia cơm thì mâm của nó được tăng lên đáng kể, cả về lượng và về chất. Đã thành lệ, hễ khi nào Tỵ chia cơm thì mọi người trong nhóm ăn cùng mâm lại cử nó đi lấy cơm . . . .

Nghiện thuốc

Ngoài món cháy ngon thằng Tỵ cho nó thêm vào khẩu phần thiếu đói, nó còn có một ngón khác để chống đói. Ấy là nó xin các loại bột để quấy hồ. Nó phải dùng rất nhiều hồ để dán pano, rồi lại còn bồi nhiều giấy để pano có độ dày và phẳng. Biết bao nhiêu hồ cho nó vừa. Nó báo cáo lên các thủ trưởng xin tiền mua bột. Mèng thì cũng là bột sắn, khá hơn thì bột gạo mà hơn nữa thì bột nếp. Thực ra thì hồ nấu rất loãng, có tốn bột là mấy. Chủ yếu làm lương thực dự trứ cho nó, khi nào đói, nó múc hai thìa bột cho vào xoong, thêm thìa đường rồi quấy đều với nước thành thứ bột sền sệt như bột cho trẻ em, gọi là món chè đường, ăn mãn luôn.

Các cụ bảo "thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ, thợ bồ ăn than, thợ hàn ăn thiếc", trong đó cũng có ý nói "làm nghề nào ăn nghề ấy". Chẳng ngờ nó "ăn hồ" thật, theo nghĩa đen. Vụ "ăn hồ" này cũng phải ăn vụng, nếu không cũng phiền với các thủ trưởng.

Nó nghiện thuốc lá nặng mà tiêu chuẩn căng tin mỗi tháng được 5 gói Bastos (loại thuốc rất nặng) đối với nó hoàn toàn không đủ. "Túng thì phải tính", nó để ý thấy hầu như ngày nào cũng có họp hành, giao ban, . . . . của các thủ trưởng ở hội trường, mà các thủ trưởng lại rất nhiều thuốc lá. Quản lý hội trường là thằng Ân công vụ. Tốt ! Nó liền kết thân với thằng Ân. Thỉnh thoảng, sau buổi họp của các "cốp", nó lên hội trường giúp thằng Ân thu dọn và tranh thủ nhặt đầu mẩu thuốc lá mà các "cốp" vứt bỏ, thôi thì đủ loại, Đ'rao, Tam Đảo, Điện Biên, Tam Thanh, . . . . Mỗi lần như vậy, nó thu được một vốc to. Đem về phòng, nó gỡ ra lấy thuốc rồi dùng giấy lịch mỏng để quấn sâu kèn lại mà hút. Thằng Ân hiểu nó, những lúc nó không lên được hắn lại nhặt hộ đầu mẩu. Nhiều lúc Ân còn lấy trộm thuốc của thủ trưởng để dành cho nó.

Đầu kỳ căng tin phát thuốc lá, những đứa nghiện, thằng nào cũng hút "thả phanh". Vài ngày sau, hễ đứa nào có mẩu thuốc hút thì bị vài đứa khác xúm lại "xin một hơi". Chúng xin, không cho không được mà cho thì tiếc đứt ruột vì thằng nào cũng rít tóp cả má, một hơi dài căng hết hai buồng phổi, cụt đến phần ba điếu là cái chắc.

Lắm lúc có thuốc, nó phải len lén giả vờ đi vệ sinh, chui vào đó mà hút. Thế mà cũng chẳng yên. Nhà vệ sinh tập thể một dãy dài quây bằng cót ép, vách ngăn các gian chỉ ngang tầm mắt. Mùi thuốc bốc ra, thằng bên cạnh ngửi thấy, kéo quần đứng dạy, thò tay sang bảo : "Đứa nào đang hút, cho tao một hơi". Thế là đành phải đưa sang. Mà đã đưa sang là mất, mấy khi thằng kia nhổm lên để trả lại.

Có lần không kiếm đâu ra được đầu mẩu thuốc, nó phải lật hết cả dát gường lên, bới hết các ngóc ngách trong đám pano, trong buồng rửa ảnh, tìm mãi cũng được vài cái "đít sâu kèn" bé tí. Dù sao cũng vấn được một điếu thuốc "sái của sái".

Suýt nữa thì nó thành diễn viên ?!

Trung đoàn tổ chức cho những anh em ở trung đoàn bộ chưa tốt nghiệp phổ thông được đi học bổ túc ban đêm tại thị xã Pleiku. Tối tối, nó cùng một số anh em vào thị xã để học. Nó có dịp giao lưu và làm quen với các bạn mới, rồi nó chơi thân với cái Mận và thằng Tình.

Một tối đang đi học như thường lệ, khi đi qua rạp Thanh Bình (bây giờ là nhà hát Đam San của thành phố Pleiku) thì thấy nhiều tấm pano và rồi tiếng loa phóng thanh quảng cáo biểu diễn ca múa nhạc của "Đoàn Ca Múa Nhạc Hải Hưng" tại thị xã Pleiku. Trời ạ ! Ở đoàn ca múa này thì nó có rất nhiều bạn. Nó liền "tút" buổi học và chui vào rạp tìm bạn. Nó gặp lại thằng Tám, cái Thơm, cái Hoa, thằng Hợp. Gặp nhau "tay bắt, mặt mừng" lắm lắm, vì chúng nó đều đã chơi với nhau từ ngày ở Sặt, toàn những đứa đồng hương thân thiết.

Trong đợt biểu diễn hàng tháng trời của đoàn tại PleiKu, bọn chúng thường đi chơi với nhau, cả ban ngày và buổi tối. Ngày mà đoàn chuyển đi biểu diễn ở nơi khác, chúng chia tay nhau rất cảm động. Thằng Tám nói:

- Giá ngày ấy mày tham gia cùng chúng tao thì hay quá ! Vừa không phải đi lính, mà
bây giờ đi biểu diễn khắp nơi có phải sướng không !

"Đoàn Văn Công Hải Hưng" (lính thường gọi như vậy) chuyển đi thì cũng từ đấy, chúng bặt tin nhau, không có dịp gặp lại nữa.

Nhớ lại, ngày ở Sặt, nó chơi với thằng Khóa. Thằng Khóa có cậu ruột là Tám, diễn viên của Đoàn Ca Múa Nhạc Hải Hưng. Tám cũng đồng trang lứa với thằng Khóa và nó, rồi dần dà nó thân với Tám.

Lần ấy, Đoàn Ca Múa Nhạc về quê nó biểu diễn và tổ chức tuyển diễn viên. Tám, Hợp, Thơm và Hoa ở nhờ nhà nó. Đoàn tổ chức biểu diễn hàng đêm ở các sân kho, bãi bóng các xã. Những lúc rảnh rỗi, Tám và các bạn hướng dẫn nó dựng tiểu phẩm để tham gia thi tuyển vào Đoàn. Buổi thi tổ chức ở sân kho thôn Long Đằng. Ban giám khảo gồm 7 người ngồi ở dãy bàn kê chéo ở một bên, sát với sân khấu. Thí sinh cả huyện nô nức tham gia dự thi.

Hôm đó, nó phải thi ba tiết mục (hay là ba vòng). Một là, "đọc diễn cảm một bài thơ mà em thuộc". Đề thi này đối với nó là quá đơn giản vì trước đó nó đã đọc nhiều trong các hoạt động của đoàn thanh niên và có khả năng diễn cảm tốt.

Hai là, trình bày một tiểu phẩm với đề ra : "Em đang ở nhà học bài, có bạn của bố dắt theo một đứa trẻ đến chơi mà bố em đang đi vắng. Em hãy tiếp người bạn của bố và em bé". Đạo cụ là một bàn và một ghế ở giữa sân khấu. Nó ngồi ở bàn, làm động tác đang chăm chú học bài. Rồi nó làm động tác như có khách đến, sau khi chào hỏi khách, nó pha trà và nói chuyện qua lại với người khách lớn tuổi và em bé, y như thật. Tất cả chỉ diễn ra dưới dạng kịch câm, biểu diễn bằng động tác và biểu cảm trên nét mặt.

Ba là, trình bày tiểu phẩm với đề ra : "Có một vườn cau sai quả nằm sau một mương nước rộng 1,5 mét, vườn có hàng rào cây thưa, bên trong có một con chó dữ. Em hãy vào hái cau". Tiểu phẩm này khó hơn vì không có đạo cụ mà tình huống cũng phức tạp. Trên sân khấu trống trơn, nó phải tưởng tượng ra cảnh huống và làm động tác để thể hiện từ lúc thăm dò chó, lúc vượt mương nước, vượt hàng rào, trèo cau hái quả và luôn luôn trong tình trạng phải đối phó với chó, . . . .

Cuộc thi ba vòng thật sự là rất khó, vả lại cũng có nhiều thí sinh rất giỏi. Thế mà cuối cùng nó được chấm điểm khá cao và trúng tuyển làm diễn viên của Đoàn.

Nó đã thắng ở cuộc thi năng khiếu do Đoàn tổ chức vậy mà nó không thể vượt qua được cuộc thi của thày nó. Cụ bảo :

- Hát hỏng, ưỡn ẹo chỉ là "đồ sướng ca vô loài". Đó không phải là một nghề. Mà nếu
coi như một nghề, thì cái nghề này "bạc như vôi". Cuối cùng, đời cũng chả ra gì đâu !

Thày nó cương quyết không cho nó đi. Nó tiếc lắm nhưng không dám cãi và làm trái lời thày. Rồi nó trở thành người lính và gặp lại bạn bè trong Đoàn ở mãi chốn rừng núi xa xôi, tận Pleiku.

Đoàn Văn Công Hải Hưng đi rồi thì có đoàn các họa sỹ từ Hà Nội vào đi thực tế, lấy tư liệu sáng tác về Tây Nguyên. Trong đoàn này nó được làm quen với cô Thanh Ngọc và chị Sơn Trúc đều là giảng viên Trường Mỹ Thuật Hà Nội. Thấy nó ham vẽ và gặp hoàn cảnh trớ trêu, cô Ngọc động viên nó rất nhiều. Trước khi về Hà Nội cô Ngọc cho nó 2 cây bút lông và khá nhiều tuýp thuốc nước cô đang dùng dở. Nó cứ nhớ ơn cô mãi không chỉ vì ít họa phẩm quý mà còn vì cô đã động viên khuyến khích nó vẽ và học hội họa.

Khóc cha

Sau một lần gửi tranh dự thi. Tranh của nó được chọn một bức đăng trên báo binh chủng và một bức đăng ở báo quân đội. Nó mừng vì tranh của nó được đăng và nó khấp khởi hy vọng khi Bộ Tư Lệnh thông tin tổ chức trại sáng tác mỹ thuật, hẳn là nó sẽ được chọn. Nhưng chờ mãi nó vẫn không được gọi. Trung đoàn nó chỉ gọi một đứa duy nhất là thằng Phạm Bình Đính. Nó không tị với thằng Đính, nhưng rõ ràng là không công bằng. Thằng Đính đã được đi học vẽ ở Sài Gòn trong khi nó phải đi miền Tây A Lưới. Bây giờ thằng Đính lại được học ở trại sáng tác. Nó buồn, rất thất vọng và không hiểu vì sao ?!

Những ngày cuối năm 1977, gần đến Tết Mậu Ngọ (1978) là những ngày bận rộn. Nhưng không hiểu sao trong lòng nó cảm thấy có gì cồn cào, bứt rứt. Mắt nó cứ "máy" liên tục, rồi nó vật vã không ăn, không ngủ được. Chưa bao giờ nó ở cái tâm trạng như vậy và nó không biết nguyên nhân vì sao.

Một hôm, nó đang ngồi vẽ, bỗng thằng Ân công vụ vào phòng nó chơi và bảo :

- Thập à ! Mày có rất nhiều thư và điện ở quê gửi đến đây, mà tham mưu trưởng đang giữ,
không đưa. Tao dọn phòng vô tình nhìn thấy mấy bức thư và mấy bức điện để trên bàn.
Tao đọc trộm bức điện thấy ghi "Thập về ngay, thày ốm nặng". Bức điện gần đây nhất còn
đề "Thày sắp chết, về ngay". Ông Đặng không đưa cho mày, chắc ông ấy sợ gia đình nói dối
gọi mày về ăn tết. Mày thử hỏi xem sao, nhưng đừng nói là tao bảo nhé, không có tao bị kỷ
luật đấy.

Nó rụng rời chân tay, thất thần, . . . . 10 ngày qua nó máy mắt và sốt ruột hẳn là thày nó nhắc. Không còn biết gì nữa, nó khóc hu hu và lập tức chạy lên phòng tham mưu trưởng Đặng. Chẳng còn nhớ nó đã nói gì. Sau đấy, ông Đặng bảo nó :

- Thôi được rồi! Đồng chí cứ về. Sáng mai họp giao ban, tôi bàn với bên quân lực sẽ trả lời sau.

Nó thẫn thờ quay ra, tâm trạng bồn chồn, ruột gan như có lửa đốt, . . . . Cứ thế, nó không ăn không ngủ, hết đi ra lại đi vào, nhấp nha nhấp nhổm chờ đợi cuộc họp giao ban.

Chín giờ sáng, sau cuộc ban họp, anh Chính trưởng ban quân lực, gọi nó lên phòng :

- Trung đoàn đồng ý cho cậu nghỉ phép 20 ngày, cộng với 10 ngày kết hợp công tác, tổng cộng
cả đi cả về là 30 ngày. Nhiệm vụ của cậu là ra Bộ Tư Lệnh, vào Phòng Quân Lực nhận phim,
giấy ảnh, thuốc ảnh, phôi chứng minh thư quân nhân. Là đồng hương, tớ nói cho cậu biết thế
này, thực ra, cậu có quyết định điều động về dự trại sáng tác mỹ thuật từ lâu nhưng trung
đoàn chưa cho đi. Trung đoàn khoán cho cậu làm xong chứng minh thư cho trung đoàn thì mới
được đi. Cậu làm xong sớm ngày nào thì cậu được ra trại ở Hà Nội sớm ngày ấy. Thế nhé !

Chẳng biết trong lòng nó lúc ấy là buồn, là lo hay là mừng. Nó cuống quýt cảm ơn anh Chính, rồi chạy vội sang phòng trợ lý ban quân lực lấy giấy công tác (còn gọi là công lệnh hay giấy đi đường) và giấy giới thiệu với phòng quân lực. Có hai cái giấy ấy, nó lại vội chạy sang ban hậu cần tạm ứng tiền công tác phí, lĩnh tem lương thực, một ít lương thực và thực phẩm.

Xong việc nó chạy vội về phòng chuẩn bị ba lô, quân tư trang, . . . . Biết nó được về thăm nhà, chiều đó, nhiều anh em đến phòng nó chúc mừng, chia sẻ, động viên. Một số đứa gần nhà còn gửi thư, gửi quà nhờ nó mang về hộ. Chờ mọi người đi vãn, anh Chính gọi nó sang phòng anh, đưa nó một gói quà cùng một lá thư nhờ nó chuyển về quê cho vợ con anh. Nó vui vẻ nhận và hứa sẽ đưa đến tận nơi.

Cơm chiều xong, nó chào mọi người rồi trèo lên ngồi sau xe máy anh Cường kỹ sư. Anh Cường đèo nó ra tỉnh đoàn Gia Lai ở Pleeiku. Nó chơi với nhiều bạn ở tỉnh đoàn và thân nhất với thằng Tình và cái Thắm, người Quảng Đà, trợ lý đoàn tỉnh. Nó ngủ nhờ ở tỉnh đoàn để 3 giờ sáng mấy đứa đèo nó ra bến xe. Từ bến xe Pleiku nó đi xe đò về Đà Nẵng.

Cảm giác sốt ruột và máy mắt của nó đã bớt đi nhiều, nó không hiểu tình hình thày nó ở quê ra sao. Hy vọng mấy bức điện mà nó nhận được là điện giả. Cái mũ lông cho thày cùng với cái khăn vuông len cho bu nó mua từ lâu đang để trong ba lô, hy vọng thày bu nó có cái diện tết. Nó còn mua cho các chị gái mỗi người một khăn bông bay, anh trai thì mỗi người một mảnh tuýt-xi len, các cháu thì vài túi bóng bay đủ các màu sắc. Nó mang về một cái quạt Hitachi cho thày bu dùng cho mát. Sợ điện ở quê nó cũng yếu, nó còn tha theo cả một cái survolteur nặng trịch mà nó tự tay quấn.

Về tới Đà Nẵng, nó xuống chợ Hàn, bấy giờ đã cuối năm, đang giữa mùa đông, Trời đang mưa và lạnh. Nó ngơ ngác với thành phố xa lạ. Nó không biết đường đi trạm khách của trung đoàn ở phường Hòa Cường, huyện Núi Thành. Đã khuya rồi, đường phố vắng ngắt. Nhìn qua cửa các ngôi nhà ven đường, cảnh quây quần vui vẻ của các gia đình làm nó càng thấy nhớ nhà da diết. Đi trong mưa, dưới ánh đèn le lói hắt ra từ trong các căn nhà làm nó nhớ tới hình ảnh người lữ khách không nhà, lang thang trong đêm mưa trong bài hát "Giọt Mưa Thu" (Đặng Thế Phong).

Chợt nó thấy một chiếc xích lô tiến về phía nó. Bác xích lô đang trùm hụp áo mưa hối hả đạp xe về nhà sau một ngày vất vả. Nó hỏi thăm đường thì ông ái ngại nhìn nó với ba lô ngất ngưởng, trĩu nặng. Đường quá xa, trời thì khuya, ông không thể chở nó đi. Bác xích lô chỉ đường cho nó tự đi. Một mình nó, lủng củng đồ đạc lầm lũi bước trong đêm mưa, trên con đường ngoại ô, tối tăm, hàng chục cây số về để về trạm khách.

Hôm sau nó ra ga Đà nẵng để lấy vé tàu. May mà nó có mấy bức điện và giấy công lệnh, nên sau một hồi nằn nì, khẩn khoản, nhà ga bán cho nó cái vé dự trữ (dành cho những trường hợp đặc biệt, đột xuất).

Ba ngày sau nó tới ga Hàng Cỏ sau mấy ngày mệt mỏi lên xe xuống tàu. Nó gọi một chiếc xích lô đưa nó về phố Bùi Thị Xuân, nhà chị gái nó. Đến nơi, nó vừa xuống xe, đang trả tiền thì có một xích lô khác cũng vừa tới. Bước xuống xe là chị gái nó cùng mấy đứa cháu ở quê mới ra, trên đầu người nào cũng đội khăn tang. Nó giật mình khuỵu xuống. Thôi thế là hết ! Muộn quá mất rồi ! Chị nó ôm nó khóc hu hu :

- Thập ơi ! Em về muộn quá rồi. Thày chết đã bốn hôm rồi. Hôm qua cúng ba 3 ngày xong,
hôm nay anh chị và các cháu mới ra.

Nó khóc nấc lên. Thế là nó mất bố rồi !

Nó không vào nhà chị nữa mà lập tức ngồi lên xích lô, nó đi ngay ra bến Nứa để mua vé ô tô về quê. Vừa đi nó vừa ôm mặt khóc "như mưa như gió".

Xe ô tô Sặt có bến đỗ ngay cửa nhà nó. Nó vác ba lô xuống, bước vào nhà. Cả nhà đang để tang, thấy nó mọi người òa lên khóc nức nở. Nó lại òa lên khóc theo. Trên ban thờ khói hương nghi ngút nhưng tuyệt nhiên không thấy có ảnh thày. Nó trách mọi người, khi cụ còn sống sao không chụp cho cụ bức ảnh làm ảnh thờ. Anh chị em nó cũng ân hận. Vì cuống quá nên quên mất cả việc chụp ảnh.

Nó lấy cái mũ lông ra, đặt lên ban thờ. Sụt sùi nó khấn :

- Thày ơi ! Con mua cho thày cái mũ như ngày xưa thày vẫn ao ước. Giờ con về,
mũ ở đây thì thày đã đi rồi ! Sao thày không chịu chờ đội mũ của con ? Thày ơi !

Nó khóc rất nhiều, nhất là lúc ở một mình. Nhìn lại những kỷ vật mà hồi còn sống thày nó hay sử dụng, nó càng thương nhớ và xót thày. Mọi người kể lại, thày chờ nó lâu quá, thất vọng lắm, trong người đau đớn, ông mím miệng lại không chịu nuốt sâm. Mọi người đành nói dối :

- Thày uống đi, thằng Thập nó về đến phố Nối rồi !

Thày nó lại mở mắt hỏi, lưỡi thày đã rụt lại, chỉ phát ra mấy tiếng "Âu ? âu . . .". Sau vài lần như thế, biết là bị lừa, Người ứa nước mắt, rồi ngẹo đầu gục xuống. Thày đã ra đi trong day dứt và hối tiếc không được gặp thằng con út, thằng bé gày còm mà phải bị đày ải mãi ở nơi "rừng xanh núi đỏ".

Càng nghĩ nó càng thấy hận lão Nguyễn Đăng Đặng, tham mưu trưởng trung đoàn. Hắn đã làm bố con nó không được gặp nhau lần cuối. Thằng cha đó đúng là ích kỷ, độc ác, tàn nhẫn và gian hùng "Thà ta phụ người trước chứ không để người lừa ta", chẳng khác gì Tào Tháo.

"Thế Là Mợ Nó Đi Tây"
(Nguyễn Công Hoan, An Nam tạp chí số 43; 1932)

Ở nhà với bu, các anh các chị và các cháu được khoảng chục ngày thì nó lên Hà Nội chơi cho khuây khỏa. Hơn nữa, nó rất mong được gặp Hợi sau bao tháng ngày xa cách. Nó đã chuẩn bị một món quà cho Hợi khi nó phải đợi tàu ở Đà Nẵng 4 tiếng. Nó lang thang trong thành phố, chọn cho Hợi một hộp trang điểm khảm trai nhỏ nhắn xinh xinh, có núm lên dây cót ở phía dưới. Mỗi lần mở hộp ra, trên mặt gương ở giữa có một cô vũ nữ rất đẹp nhảy múa xoay tròn rất sinh động trong tiếng nhạc thánh thót tinh tinh tang tang . . . . Nó cũng chọn mua cho nàng một đôi guốc gỗ có trang trí hoa văn màu nâu bằng bút điện, trông rất đẹp.

Trên đường đến nhà Hợi nó cứ tưởng tượng cảnh hai đứa gặp nhau. Chắc hẳn, sự xuất hiện bất ngờ của nó sẽ làm cho Hợi ngỡ ngàng, bàng hoàng và rất có thể em sẽ ôm chầm lấy nó. Hoặc, có thể trước đông người em còn ngượng ngập nhưng không cầm được nước mắt vì xúc động. Chỉ cần nghĩ thế thôi, nó đã cảm thấy sung sướng lắm, "hạnh phúc đang trong tầm tay".

Khi nó bước vào nhà, cả nhà Hợi vui vẻ đón mừng nó. Hợi chỉ gật đầu chào nó, có vẻ gì đó lạnh nhạt và lúng túng. Đang hí hửng, nó chợt sụp buồn. Nó linh cảm thấy có chuyện gì đó, không biết phải xử trí thế nào, bất giác nó muốn lặn luôn đi đâu đó mất tăm. Tặng quà cho em xong, lấy lý do phải vào Bộ Tư Lệnh nộp báo cáo, nó vội vã rút lui và hẹn tối sẽ đến đón Hợi.

Ra đến ngoài đường, nó cảm thấy rối bời và hoang mang cực độ. Bao nhiêu tình cảm cháy bỏng, khát khao của nó dành cho em, cơ hồ tan như mây khói. Nó không biết suy nghĩ như thế nào cho phải. Có lẽ chăng em không còn yêu nó. Hay là, em đã có ai khác ?!

Tối hôm đó nó đến đầu đường nơi hẹn em hơi sớm một chút. Nó chờ mãi, trong lòng rất bồn chồn và lo sợ. Chẳng có nhẽ em chia tay nó bằng cách như thế này sao, tàn nhẫ quá ! Gần một tiếng đồng hồ đã trôi qua, mấy lần nó "dỗi" định bỏ về nhưng lại tự động viên mình phải kiên trì.

Lâu lắm, không biết bao lâu sau Hợi mới xuất hiện. Nàng nói xin lỗi với lý do đang dở làm bài tập, mai phải nộp sớm. Em nói như thế thì nó cũng chỉ biết cười mà đáp lại. Nó đèo em đi lòng vòng một lúc rồi nó tạt vào bờ hồ Ha-le (hồ Thiền Quang). Hợi chỉ cho nó một cái ghế giáp mặt hồ, gần đường, nơi ánh đèn sáng nhất. Hai đứa ngồi xuống, mãi cũng không ai mở được lời.

Rồi câu chuyện cũng chỉ toàn là những câu hỏi đáp, gióng một, không có một chút gì đằm thắm như ngày nào. Em có vẻ gượng gạo và lúng túng. Nó dang tay, chực ôm hôn thì em né tránh. Sau này nó càng hiểu hơn, khi tình yêu chỉ là một chiều thì người kia "tránh né" giỏi vô cùng. Nó hỏi Hợi sao không viết thư cho nó, giọng đầy trách móc. Tất cả những dấm dẳn tránh né của Hợi làm cho nó bực và hỏi thẳng :

- Em còn yêu anh nữa không ?

Hợi không nói gì, em mở ví lấy ra một lá thư của cô bạn thân đang học trên Vĩnh Phúc, đưa cho nó. Nội dung bức thư có đoạn nói về Hợi và nó :"Hợi ơi ! Tớ biết cậu với Thập yêu nhau. Nhưng đó chỉ là tình cảm bột phát đầu đời. Không thể dẫn đến hôn nhân được đâu. Hợi cứ nghĩ mà xem, một đằng Tuấn vừa đẹp trai, trắng trẻo, người Hà Nội gốc. Nhà Tuấn lại làm nhựa, rất giàu có. Tuấn cũng theo đuổi Hợi mấy năm nay rất nhiệt tình. Một đằng, Thập là người nhà quê, không có hộ khẩu Hà Nội, người lại gày còm nhỏ bé. Thập đi bộ đội, lính 5 đồng, nay đây, mai đó, tương lai vô định. Mà phụ nữ chúng mình cũng chỉ có thì thôi, đợi chờ mãi sao được. Tớ nói thế vì những gì tốt nhất cho Hợi. Hợi hãy suy nghĩ cẩn thận. Tùy Hợi quyết định thôi !"

Nó chết lặng như bị sét đánh. Nó cảm thấy tự ái vì bị xúc phạm, nhưng nó vẫn cố kiềm chế, vớt vát, hỏi Hợi thêm một câu :

- Thế em quyết định thế nào ?

Nó đã chờ đợi một câu trả lời phũ phàng, nhưng nó không thể ngờ nó được nghe một câu trả lời thật đơn giản, gọn ghẽ và hiển nhiên :

- Ngày xưa trắng trẻo thư sinh còn yêu. Bây giờ vừa gày vừa đen, em hết yêu rồi !

Nó đứng phắt dạy, lạnh lùng nói :

- Cám ơn em !

Nó dắt xe đạp xuống lòng đường, Hợi đứng dạy ngồi lên sau xe. Cứ thế nó hùng hục đạp, không ai nói một câu. Đến cửa nhà Hợi, nó bóp phanh khựng lại, Hợi nhảy xuống. Nó quay xe đi và nói :

- Vĩnh biệt !

Hợi đứng nhìn theo, còn nó cắm đầu đạp xe đi . . . . Thế là hết !

Ôi ! Đàn bà. Bao giờ họ cũng đúng, gọn ghẽ, vừa đủ, chẳng thừa đến một sợi tơ . . . .

Vợ cả, vợ hai đều là vợ cả !

Cuộc đời thật trớ trêu, trong khi người con gái nó yêu đã "đi Tây" thì người nó không yêu lại rất nhiệt tình. Đó là Cần. Được tin nó ra, Cần vô cùng mừng rỡ. Cần chăm sóc nó từng ly, từng tí. Chẳng những Cần để dành cho nó nhiều bánh kẹo ngon và thuốc lá mà em còn mời nó đi ăn rất nhiều của ngon, món lạ ở Hà Nội. Cần bán căng tin trong cơ quan bộ nên có nhiều điều kiện thuận lợi để vun vén, chăm bẵm cho nó. Nhưng em càng chăm nó bao nhiêu, nó lại càng dửng dưng bấy nhiêu. Nó càng dửng dưng thì em càng yêu nó, càng quan tâm bao bọc nó hơn. Thậm chí em còn nhờ bạn bè tác động, nhất quyết phải chiếm được tình yêu của nó. Nó bắt đầu thấy sợ và tìm cách tránh né.

Còn ít ngày nữa là Tết, nó hỏi thăm đường đến nhà anh Chính để đưa thư và quà. Nhà anh Chính là một nếp nhà tranh nằm giữa một cái xóm nhỏ thanh bình, ẩn sau những bụi tre, cây ăn quả xanh um tùm. Vợ anh Chính là một phụ nữ bé nhỏ, dịu dàng, "mỏng mày hay hạt". Hai đứa con gái của anh Chính, đứa lớn mới 10 tuổi, đứa bé 6 tuổi. Nó đưa thư và quà của anh Chính cho chị.

Chị đọc xong thư, trông chị rất buồn. Rồi như không thể dằn lòng, hai mắt chị đỏ hoe và những giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên má. Giờ lâu, chị cất tiếng nói với nó :

- Anh Chính yêu cầu chị ký đơn ly dị cho anh đi lấy vợ. Chị không đồng ý đâu.
Hôm nào em vào, cho chị và 2 cháu vào cùng với nhé !

Nó đã biết anh Chính có quan hệ với chị Mạo và chị Mạo đã có bầu. Nhưng nó cũng không ngờ chuyện vợ chồng anh chị lại đến nước này. Nó cảm thấy thương cho người vợ hiền của anh và hai đứa con còn nhỏ. Nó không thể không nhận lời đưa chị và các cháu đi cùng vào đơn vị. Cuộc đời thật là éo le lắm thay !

Thày nó mất ngày mồng sáu thàng Chạp, đến ngày Tết thì mới có hơn hai mươi ngày. Công việc của nó ở Bộ Tư Lệnh đã xong. Nó đã nhận đủ phôi chứng minh thư quân nhân, phim, giấy ảnh, mực và lô lăn tay. Nó trở về quê ăn Tết trong một nỗi buồn vô hạn, bố thì mất, tình yêu cũng mất. Nó chỉ muốn hết phép cho nhanh để trở về đơn vị vì không chịu nổi cảnh ảm đạm u ám đè nặng trong tâm hồn.

Đúng mồng 4 Tết nó chào bu và gia đình rồi ra đi. Nó lên ga Hàng Cỏ đón vợ con anh Chính, bốn người mua vé tàu đi Đà Nẵng. Tới Đà Nẵng nó cùng vợ con anh Chính lên xe đò đi Pleiku.

Tối mùng 8 Tết nó và vợ con anh Chính đã có mặt ở trung đoàn bộ. Nó vào báo cáo với anh Chính là nó đã trả phép trước thời hạn và cũng báo với anh chính vợ con anh vào thăm. Anh Chính ra đón vợ nhưng nghe chừng không hài lòng. Chị và hai cháu được trung đoàn bố trí ở nhà khách của đơn vị, gần cổng vệ binh.

Nó được phép nghỉ một ngày trước khi lên đường đi công tác. Nó chia quà Tết miền Bắc cho anh em rồi nhanh chóng chuẩn bị đồ đoàn cho chuyến đi công tác lẻ dài ngày.

Đi công tác lẻ

Anh Như gọi nó lên giao nhiệm vụ cho nó đi chụp ảnh, lăn tay làm chứng minh thư cho toàn bộ trung đoàn. Anh Mật lái xe Gát 69 "đít vuông" (Gaz-69 hay là Com-măng-ca) đưa nó đi bắt đầu từ Quảng Bình, Quảng Trị, bám theo các tổ đường dây vào đến Ban Mê Thuật. Nơi nào xe ô tô không đi được nó phải đi bộ. Yêu cầu không được bỏ sót một đồng chí nào và làm càng nhanh càng tốt.

Nó hối hả chuẩn bị hành trang lên đường. Ngoài chiếc máy ảnh, bộ lăn tay, quyển sổ để ghi tên tuổi và đặc điểm nhận dạng, nó phải mang quân tư trang cá nhân và một ít lương thực, thực phẩm. Trung đoàn còn phát cho nó một khẩu k54 với hai cơ số đạn, dao găm, đèn pin, thuốc men, bản đồ và quyển sách hướng dẫn đi rừng, đề phòng bị lạc.

Sáng sớm, cùng xuất phát với nó và anh Mật còn có bác sỹ Hiệu bên bệnh xá trung đoàn, kết hợp đi xuống các đơn vị kiểm tra sức khỏe bộ đội. Ngày đầu xuân cao nguyên, không khí rất trong lành và mát mẻ. Anh Mật quê ở Cao Bằng, người dân tộc Nùng, da đen, người thấp đậm, tóc hơi quăn, môi thâm do sốt rét kinh niên. Anh nhập ngũ trước nó vài năm, được biên chế vào đại đội xe thuộc ban hậu cần. Anh chuyên lái chiếc gát 69 đã cũ nhưng được cái anh hiểu tính nết cái xe, "yêu xe như con, quý xăng như máu". Anh Mật nói tiếng Kinh hơi "lơ lớ" nhưng tính vui vẻ, dí dỏm. Tuy nó không thân với anh lắm nhưng rất quý anh bởi anh sống chân thành đúng tính chất người dân tộc.

Trên chiếc Gát 69, ngoài quân tư trang, đồ nghề của 3 anh em, còn mang thêm cả chiếu con, tăng, ủng, màn đề phòng ngủ đêm dọc đường do lỡ độ đường hoặc phải sửa xe. Hai chiếc ghế dọc hai bên thành xe ở phía sau được lật lên để chất hai phuy xăng loại 100 lít để trữ xăng trên đường giữa các trạm rất xa nhau của trung đoàn.

Anh Mật đã nhiều lần đưa các thủ trưởng và cán bộ trung đoàn đi kiểm tra đường dây nên rất thành thạo đường đi, địa hình, vị trí các tổ và các điểm dừng chân hay trạm khách, trạm tiếp tế lương thực.

Chiếc xe từ Pleiku đi ngược ra hướng Kon Tum, Ngọc Hồi, Đắk Glei, tới Phước Mỹ thuộc Khâm Đức. Xe chạy theo đường Trường Sơn cũ, con đường chiến lược "xẻ dọc Trường Sơn" từ Bắc vào Nam góp công lớn trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước. Tuy con đường đã bỏ lâu ngày nhưng vẫn còn khá tốt. Lâu lâu mới gặp một đoạn đường xấu thì hơi vất vả một chút.

Xe Gát 69 gầm cao, thế mà có những đoạn đường, gầm xe va chạm lộc cộc trên những tảng đá to như mũ cối nằm lổm nhổm trên mặt đường. Có những đoạn đường lầy lội, xe bị ba ti lê, bánh xe quay tít quấn tung bùn đất lên, đào thành hai cái rãnh sâu hoắm trên mặt đường. Có những đoạn đường hẹp, một bên vách núi, một bên vực sâu, "đất mượn", xe có thể "dệ" bất cứ lúc nào và lao xuống vực sâu thăm thẳm. Một người lái, hai người "xi nhan", xe nhích từng mét một, mà vẫn sợ thót tim.

Sau một tháng rưỡi trời vất vả, ba anh em đã làm việc và chụp ảnh cho khá nhiều tổ đường dây trên tuyến đã đi qua. Hôm nay đến đây nó phải chia tay hai anh vì từ đoạn đường này ra tới A Lưới đường hỏng nghiêm trọng, chưa khắc phục được, không có phương tiện nào có thể đi qua. Mặt khác, từ đây tới A Lưới, các tổ đường dây không nằm gần đường lớn. Nếu có đi được bằng xe thì phải đi vòng vèo rất xa e là quá tốn kém, diệu vợi.

Anh Hiệu theo xe anh Mật về Đà Nẵng. Từ đó anh sẽ đi tiếp khám sức khỏe cho anh em trạm khách. Riêng nó thì quyết tâm đi bộ một mình qua các tổ đường dây để chụp ảnh cho nhanh. Anh Mật hẹn nó, lúc nào đến A Lưới thì gọi điện cho anh ở trạm khách của trung đoàn ở Đà Nẵng, anh sẽ vào đón để đưa đi tiếp. Trước khi chia tay, hai anh dốc túi, còn bao nhiêu lương khô, thuốc lá, các anh cho nó hết. Anh Hiệu còn cho nó một "cơ số" thuốc cảm cúm, thuốc sốt rét và thuốc đi ngoài, . . . .

Tạm biệt các anh, nó xốc ba lô một mình rong ruổi gần 200 cây số đường rừng. Sẽ không thể biết những gì đang đợi chờ nó trong chốn rừng sâu núi thẳm. Nhưng không sao, lòng nó đã quyết, tất cả vì nhiệm vụ, và sau nữa tất cả vì trại sáng tác nghệ thuật ở Hà Nội đang vẫy gọi. Nó hăm hở lên đường, đi xuyên rừng, thẳng qua Cha Vát, Ta Bhinh, A Roang, Ta Lai, qua Hương Lâm, Hương Phong, Phú Vinh, A Ngo để đến A Lưới.

Từ Phước Mỹ của Huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Đà nó phải đi bộ theo đường mòn, cứ nhìn đường dây thông tin thẳng tiến. Đây là ngày đi bộ đầu tiên của nó. May mắn làm sao, đêm hôm trước khi chia tay, anh em nó ngủ nhờ ở ủy ban xã Phước Tân, gặp cô Loan giao liên, người Quảng Đà. Loan cũng biết mấy tổ đường dây thông tin ở Cha Vát và Ta Bhinh. Hôm ấy Loan cũng có việc vào trong đó nên hẹn đi cùng nó. Vậy là nó có bạn trên một đoạn đường dài, một người bạn "thổ công, thổ địa", nên rất yên tâm.

Hai anh em khởi hành từ sáng sớm, mang theo khá nhiều sắn luộc để ăn trưa. Được cái "nghề nào ăn nghề ấy", là dân thông tin, nó đã liên lạc trước với tổ đường dây để đón nó vào buổi chiều tối. Đó là tổ đường dây đầu tiên trên hành trình lội bộ của nó, tổ Cha Vat. Ở tổ này có mấy đồng hương với nó, được tin, chúng nó rất mừng.

Thanh nữ tắm tiên

Mới cuối xuân mà miền tây Quảng Đà đã có gió Lào thổi tới, trời nóng hầm hập. Cũng may là nó đi trong rừng già nên cũng tránh được cái nắng gay gắt vốn có của miền Trung. Nó và Loan mải miết đi trên đường mòn của tổ đường dây. Con đường nhỏ, ngoắt nghoéo khó đi, lúc leo đèo, lúc xuống dốc, mồ hôi nó vã ra như tắm. Kể ra thì nó theo được em Loan giao liên là quá giỏi rồi. Loan là chiến sỹ giao liên, đi rừng quen, lại tòng teng cái ba lô mỏng dính, còn nó thì đã lâu lâu không đi bộ, ba lô nặng, lại còn súng, còn dao găm, bi đông nước, đèn pin, máy ảnh, . . . . lủng cà lủng củng.

Nhiều lúc nó tưởng chừng sắp hết hơi, nó thở dồn dập, phì phò mà ngại không giám nhờ Loan mang đỡ ít đồ. Dù gì nó cũng là bộ đội chủ lực, lại đường đường là một "đấng mày râu". Hơn nữa, đồ của nó toàn những thứ quan trọng không thể giao cho Loan được. Nó mới quen Loan, chưa hiểu cô là người thế nào. Ở đơn vị, nó luôn được giáo dục phải cực kỳ cảnh giác với các cô gái, có thể họ hoạt động trong tổ chức "Thiên Nga Trắng" do địch cài lại, chuyên mê hoặc và bí mật thủ tiêu các chiến sỹ. Có khi chúng dùng mỹ nhân kế làm "viên đạn bọc đường" cám dỗ bộ đội dẫn đến nhiều hậu quả nguy hiểm, . . . .

Hai người đi một mạch từ sáng sớm đến khi nó liếc nhìn chiếc đồng hồ Pôn-Zốt (Poliot – đồng hồ Liên Xô) mà bu nó tặng hồi mới nhập ngũ, thấy đã 12 giờ, nó mới bảo Loan dừng lại nghỉ. Loan chọn một bờ suối mát, hai người nghỉ ăn trưa. Cô bứt lá chuối rừng, lau sạch, lôi cơm nắm ra sắt từng lát, lại mở hai hộp Guy-gô đổ ra ít lạc rang mặn và ruốc cá. Nó thì lôi sắn luộc ra và khui một hộp thịt. Hai đứa sửa soạn cho một bữa ăn thịnh soạn, ngon lành. Loan tỏ ra rất tự nhiên và thân mật, có phần hơi thái quá. Trong khi đó, nó vẫn rất cảnh giác. Nó vẫn để súng đeo ở xanh tuya mà không tháo ra, ba lô thì để sát bên cạnh người.

Trước khi ăn, Loan xuống suối rửa mặt, rửa tay chân, mang theo một cái khăn mặt ướt từ suối lên. Ngồi trước mặt nó, Loan tự nhiên cởi cúc áo ngực, lùa tay vào lau người. Mắt nó không làm sao mà cất ra khỏi đôi bầu vú vừa trắng nõn nà vừa căng nhưng nhức, day qua day lại dưới bàn tay Loan. Quả thật nó rất thèm, lấy hết "sức bình sinh" nó đành quay mặt đi chỗ khác. Trong lòng nó càng băn khoăn suy nghĩ và nghi ngại.

Ăn xong, Loan rủ nó :

- Nước trong và mát lắm, hai anh em mình xuống tắm đi anh Thập ơi ?

Nghe Loan nói thế, nó càng nghi ngờ tợn. Nó vội nói :

- Em cứ tắm đi ! Anh nghỉ một lát.

Loan chọn một mô đá hơi khuất, cô cởi bỏ quần áo rồi nhào xuống nước. Tiếng nước vỗ ì oạp trên da thịt người con gái, làn da trắng nõn, lang láng nước và nhập nhòa ánh nắng vàng cứ ẩn hiện thấp thoáng sau mỏm đá làm nó gai hết cả người. Rừng vắng, chim hót líu lo, gió hiu hiu thổi, dưới kia, một người con gái khỏa thân trong làn nước mát mời gọi nó. Cái đầu nó tưởng tượng ra mọi thứ mà một chàng trai trẻ đang ham muốn. Nhưng nó đấu tranh tư tưởng và nó sợ, "Thiên Nga Trắng", ôi! là "Thiên Nga Trắng". Nó không dám làm gì mà cũng chẳng dám động cựa. Nó giả vờ ngủ, tay đặt vào bao súng.

Tắm xong, Loan mặc quần áo chỉnh tề rồi bảo nó :

- Nước mát lắm, anh xuống tắm đi ! Em trông đồ cho.

- Cảm ơn em ! Anh nghỉ thế là được rồi. Thôi, mình đi tiếp đi, kẻo tối không đến nơi.

Hai đứa lại lên đường, Loan đi trước, nó đi sau, mải miết.

Khi hoàng hôn buông xuống cũng là lúc chúng đến được tổ đường dây Cha Vat.

Từ Cha vat đến Ta Bhinh

Cả 3 thằng ở tổ đường dây Cha Vat đều là đồng hương của nó. Chúng đứng trên đồi đợi nó đã lâu nên khi Loan và nó đến chân đồi thì ba đứa nhìn thấy ngay. Chúng khua chân, múa tay, hét um lên chào mừng nó. Mừng quá, bao nhiêu mệt nhọc chừng như tiêu tan đâu hết, nó rảo chân leo nhanh lên đồi. Tới nơi, chúng tíu tít bắt tay nhau, mấy đứa vừa hạ ba lô cho nó vừa tranh nhau hỏi chuyện và không quên đưa ánh mắt về phía Loan dò hỏi. Nó sợ đồng đội hiểu lầm, vội giải thích ngay về Loan. Mấy thằng hiểu ra, chào hỏi, bắt tay Loan rất vui vẻ.

Tổ đường dây Cha Vat nằm trên sườn của một quả đồi đất đá, ẩn mình sau mấy tảng đá to, xung quanh um tùm cây cối. Ngôi nhà lá nhỏ nằm áp sát với sườn đồi, phía trước có một khoảnh sân nhỏ. Cuối sân căng dây phơi quần áo và khăn mặt. Phía ngoài dây phơi là mấy luống rau xanh và mấy khóm hoa. Loan rửa ráy chân tay ở "vòi nước máy", còn nó chạy xuống khe suối tắm một trận đã đời.

Nó tắm xong, lên đến nơi thì đã thấy trong nhà có đèn sáng. Ánh sáng tỏa ra từ một cáí đèn dầu làm bằng lọ thuốc có nắp kim loại. Nắp lọ được đục một cái lỗ để luồn sợi bấc qua. Dưới ánh đèn, nó thấy một mâm cỗ thịnh soạn được bày biện cẩn thận, thịt gà này, thịt dúi rừng nướng này, thịt dúi nấu rựa mận này, . . . . Gà thì tổ có nuôi một đàn, còn dúi rừng thì anh em mới bẫy được. Chà ! Lại còn có cả một chai rượu nữa. Hỏi ra mới biết đó là rượu ngô mà anh em tự ủ men và nấu lấy. Nhìn thấy loòng boong, nó hỏi :

- Kiếm đâu ra loòng bong thế này ?
- Biết tin cậu đến, hai thằng này nó phải đi mất hai ngày để kiếm đấy.

- Các cậu làm tớ cảm động quá, vãi cả "nước đái" rồi đây này.

Anh em ăn uống vui vẻ, no say tới khuya. Rượu đã ngấm, đứa thì gõ bát, đứa thì gõ vung xoong, chúng say sưa hát tốp rồi hát đơn. Loan cũng tham gia hát mấy bài, cô hát cũng khá hay. Mãi rồi cuộc vui cũng đến lúc kết. Chúng dành cho Loan ngủ riêng một mình một sạp nứa, bốn thằng chúng nó ngủ trên một cái sạp rộng hơn, ở phía đối diện. Vừa mệt, vừa say, nó ngủ liền một mạch đến tận 7 giờ sáng hôm sau, các bạn lay, nó mới tỉnh.

Ăn sáng xong, nó căng phông bên hiên nhà, chuẩn bị máy ảnh và đồ lấy vân tay, trong khi mấy đứa vội vàng cắt sửa tóc cho nhau. Chụp ảnh, lăn tay, ghi đặc điểm nhận dạng xong thì mới hơn 9 giờ. Chơi thêm một lát với các bạn rồi nó tạm biệt để đi tiếp sang tổ Ta Bhinh.

Mỗi tổ trong rừng rậm chỉ cách nhau khoảng 15-20 cây số. Nơi nào đường dễ đi thì các tổ có thể ở cách xa nhau đến 30-40 cây. Vùng này là khu vực núi non hiểm trở nên các tổ chỉ cách nhau 15-18 cây. Các tổ đường dây đã nhận được kế hoạch làm chứng minh thư quân nhân và có nhiệm vụ đưa đón nó. Tổ nào xong thì có nhiệm vụ tiễn nó một nửa quãng đường đến tổ kế tiếp. Tổ kế tiếp phải cử người đón nó trên nửa quãng đường còn lại.

Sáng hôm đó, thằng Đông đưa nó đi. Loan lại là người đi trước, nó đi giữa và thằng Đông đi sau "cản hậu". Ba đứa hành quân liên tục đến khoảng hơn 1 giờ chiều thì gặp thằng Huấn, tổ Ta Bhinh tới đón. Mấy anh em nghỉ ngơi và nói chuyện một lúc thì chia tay Đông. Ba người đi tiếp đến khoảng 2 giờ thì tới điểm chia tay với Loan. Loan rẽ vào Trại Phục Hồi Nhân Phẩm, cách đường đi của nó không xa. Đó là nơi quản lý giáo dục mấy trăm chị em làm "nghề" thời "Mỹ-Ngụy". Trên đường đi, Huấn hỏi chuyện về Loan, nó vui vẻ kể lại chuyện, nhất là đoạn "tắm tiên". Thằng Huấn chăm chú nghe đến đó thì cười lớn :

- Mày ngu bỏ mẹ ! Sợ chó gì ? Chả phải tay tao. Tiếc thật ! trông con nhỏ xinh
mà "khêu gợi", hấp dẫn quá !

Nói rồi, thằng Huấn "chẹp chẹp" miệng, còn nó chỉ biết cười, chẳng nói thêm được gì. Quả thật, không phải không có lúc nó đã thấy tiêng tiếc.

Nó cứ tưởng chỉ là 15-18 cây số, ai dè, khi tới được tổ Ta Bhinh thì đã nhọ mặt người. Đi suốt từ mười giờ sáng, trừ thời gian nghỉ, cứ cho là mỗi tiếng đi được bốn cây số đường rừng thì quãng đường cũng phải 25-26 cây số. Rất có thể con số 15-18 cây là con số các thủ trưởng lấy compa đo trên bản đồ. Đường đi thật, ngoằn nghoèo, dài hơn nhiều.

Một mình

Anh em tổ Ta Bhinh đón nó cũng tình nghĩa chẳng kém tổ Cha Vat. Nhưng khi nó vừa tới nơi thì trời mưa tầm tã, không lúc nào ngớt. Nước từ trên rừng núi cao đổ xuống ầm ầm khắp các con suối. Nó không thể đi tiếp được và bị kẹt lại 4 ngày liền. Chuyện không chỉ có vậy, sang ngày mưa thứ hai, cả tổ ba thằng, không ai bảo ai, lăn ra sốt rét. Mấy thằng nằm rên hừ hừ, lúc sốt nóng, lúc sốt rét. Có bao nhiêu chăn màn quần áo mang ra đắp hết mà bọn chúng vẫn rét run cầm cập. Mấy đứa liên tục gọi :

- Thập ơi ! cho tao uống nước.

Vậy là nó bỗng dưng trở thành anh nuôi, vừa là y tá, vừa là hộ lý. Nó lấy thuốc sốt rét anh Hiệu cho, đưa bọn bạn uống mà cũng không mấy giảm sốt. Nó vừa buồn, vừa sốt ruột. Ba thằng "thổ dân" chủ nhà thì nằm một chỗ, nó thơ thẩn một mình không có gì để làm, không có gì giải trí, buồn nẫu ruột.

Sang ngày thứ 5 thì mưa tạnh hẳn mà mấy đứa nghe chừng cũng đã đỡ hơn. Nó dựng mấy đứa dậy để chụp ảnh, lăn tay, . . . . Xong việc, nó chuẩn bị hành trang để đi tiếp sang tổ khác thì mấy đứa đều gàn :

- Mày chờ vài hôm nữa, chúng tao đỡ sốt, sẽ đưa mày sang A Rô (A Ro). Đường càng vào sâu
càng hiểm trở và khó đi lắm, Mày lại còn phải vượt qua sông Boung mà không biết bơi
(sông Boung, bây giờ trên bản đồ ghi là sông Bung). Không biết đường, không đi được đâu !
- Tao ở đây đã 5 ngày rồi, sốt ruột lắm rồi. Chờ chúng mày hết sốt thì tao ốm luôn. Cứ chỉ
đường cho tao và báo cho bọn bên A Rô đưa thuyền sang đón là được. – Nó quyết liệt nói.
- Nếu mày quyết thì tùy mày thôi ! Nhưng bọn tao áy náy vì không đưa được mày. Đường khó
đi lắm, không khéo lạc.
- Không sợ đâu ! Tao biết rồi. Cứ theo đường dây, đi kiểu gì chẳng đến.
- Ầy ! Không đơn giản thế đâu bố ạ. Đường mòn nó đi vòng vèo có lúc mất dấu đường dây đấy.
– Huấn nói.
- Thôi đừng gàn nữa, xui xẻo lắm. Cứ vẽ đường cho tao và bảo bọn A Rô chiều nay mang thuyền
sang đón.

Nói xong, nó phăng phăng thu xếp tư trang hành lý lên đường.

Thấy nó cương quyết quá, các bạn đành để nó đi. Chúng ăn cơm sớm. Nó cố gắng ních vài bát cho đầy bụng để còn đi đường xa. Ăn xong, Thằng Huấn nhét đầy sắn vào hai cóc ba lô của nó. Sắn của bọn này rất ngon, thứ sắn dẻo và rất ngọt. Nó lục ba lô, còn 2 hộp thịt, 4 bánh lương khô, ít thuốc sốt rét, nó để lại cả cho các bạn.

- Thôi chúng mày mau chóng khỏi sốt nhé ! Tao đi đây.

Lúc đó đã là khoảng 10 giờ sáng. Nếu nó đi nhanh mà không nghỉ thì có lẽ cũng kịp đến A Rô trước khi trời tối.
Theo lời dặn của các bạn, nó cứ bám đường mòn mà đi. Đi được một chặng khá xa thì đường mòn bắt vào một con đường ô tô cũ đã bỏ hoang lâu ngày. Nó cứ thế mà thẳng tiến. Khoảng 2 giờ chiều, nắng đang gay gắt, nó chọn được một phiến đá khá phẳng nhô ra ở cửa một cái hang rộng, sấp bóng nắng. Nó dừng lại lấy sắn ra ăn rồi uống nước. Nó châm một điếu thuốc hút, cảm thấy rất khoan khoái. Mồ hôi ướt đẫm áo, thế mà ngồi một lúc trên phiến đá, gió từ thung lũng lồng lộng thổi lên, áo nó gần như đã khô. Nó đẩy dịch ba lô ra, hạ mũ cối xuống làm gối, ngả lưng một chút. Rừng chiều yên ắng, cây cối im lìm, thỉnh thoảng vài đợt gió rung cây lá lao xao. Đây đó có tiếng chim hót lảnh lót. Nó thiu thiu ngủ lúc nào không biết. Bất chợt tỉnh giấc, nó nhìn đồng hồ thì đã là gần 4 giờ.

Nó tự trách mình không có nghị lực, đường còn xa, ở rừng đêm xuống rất nhanh mà còn biết bao nhiêu đường đất, thế mà nó lại ngủ. Nó nhỏm dậy, xốc ba lô lên vai rồi lại hối hả lên đường. Nó cứ mải miết đi trên mặt lộ bỏ hoang, đi mãi, đi mãi. Nó không thể nhận ra con đường mòn của tổ đường dây rẽ khỏi con lộ này từ chỗ nào, cứ thế nó tốc theo con đường mòn chạy dọc trên con lộ. Nó không hề biết nó càng ngày càng rời xa con đường đi đến tổ đường dây A Rô.

Con gà ma

Đang cung cúc đi, bất chợt nó nhìn thấy phía trước có một con gà rừng đen trũi đang đủng đỉnh kiếm mồi trên đường. Nó từ từ tiến lại phía con gà, định bụng khi đến đủ gần sẽ vồ lấy. Nhưng con gà rất bạo dạn và khôn ngoan, không để cho nó lại gần. Nó tiến đến từ từ thì chú gà cứ lững thững mà đi. Nó lao đến nhanh thì chú gà cũng chạy nhanh, luôn giữ khoảng cách để cho nó không thể vồ được. Nó thì không bắt được gà mà con gà cũng không thèm chạy. Nó rút súng, vừa đi vừa mở chốt an toàn rồi ngắm. Viên đạn nổ cày đất ngay sau đít con gà. Con gà không thèm ngoái lại vẫn lững thững đi. Nó nổ súng phát thứ hai, rồi phát thứ ba vẫn không trúng. Lần này nó dừng hẳn lại, hai tay giương súng lên, nó nhằm con gà rồi nghoéo cò. Viên đạn sượt qua, làm tung một nhúm lông và tóe một chút máu của con gà. Bây giờ con gà mới hoảng hốt nhận ra nguy hiểm, chú co cẳng chạy vào đám cỏ tranh bên đường.

Con gà chạy nhưng nó vẫn nhìn thấy thấp thoáng. Nó liền đuổi theo, truy kích đến cùng. "Tao bắt được mày, tối nay sẽ liên hoan với các bạn". Nghĩ vậy, nó thấy nó sắp được ba hoa, bốc phét về tài săn gà của nó với các bạn, nó càng quyết liệt đuổi theo. Càng đi xa khỏi con đường, cỏ tranh ngày càng rậm rạp và cao, lại thêm dây leo nhằng nhịt chỗ này chỗ kia. Nó cứ thế đuổi theo hút của chú gà, không biết đã được bao nhiêu đường đất. Rồi nó không còn nhìn thấy dấu vết gì của con gà nữa. Đó cũng là lúc nó nhận ra nó đã đi quá xa khỏi con đường. Xung quanh nó, cỏ tranh dầy và cao vượt đầu người. Nó không còn nhìn thấy gì ngoài cỏ tranh và cỏ tranh, bít bùng bao bọc bốn phía.

Nó tìm lại dấu chân của chính nó để tìm cách quay lại con đường lớn mà cũng không còn nhận ra đâu là dấu vết do nó để lại, đâu là sóng cỏ nghiêng ngả do gió. Nó hoàn toàn mất phương hướng. "Chết cha ! Mình đuổi theo con gà loằng ngoằng quá, bây giờ không còn nhận ra hướng nào là hướng quay lại con đường nữa. Toi rồi !" Nó quay qua quay lại , kiễng chân lên để nghiêng ngó mà không thấy gì ngoài bạt ngàn cỏ tranh và dây dại. Nó bắt đầu hoang mang rồi dần dần hoảng loạn.

Sau này nó cứ nghĩ mãi về con gà đen đó. Đúng là một con gà ma quái, đã không sợ người thì chớ, lại còn không thèm sợ cả súng nổ. Thật là lạ lùng ! Chắc hẳn con gà là nơi trú ngụ của một vong hồn oan khuất từ ngày chiến tranh. Hồn ma đó cứ lảng vảng trên con đường bom đạn ngày xưa để dụ dỗ người đi lạc và dẫn dắt vào cõi hư vô bất định. Nó đã bị con gà ma dẫn lối, đưa đường ?!

Mãi rồi, nó cố trấn tĩnh để suy nghĩ xem có cách gì thoát được ra. Nó biết nó đã đến gần con sông. Nó căng tai lên để nghe tiếng nước chảy mà không nghe được vì bốn phát súng mà nó bắn âm vang vẳng đi vẳng lại trong rừng núi và làm cho tai nó bây giờ vẫn có tiếng u u . . . .

Giờ lâu, nó nhắm mắt lại, bịt tai một lúc rồi từ từ mở từng tai. Nó căng hết thính lực xác định nơi phát ra âm thanh nước chảy. Hình như tiếng nước chảy ở bên tay phải nhiều hơn, chả chắc chắn lắm. Để kiểm tra, nó đứng nguyên tại chỗ, quay 180 độ, lại bịt tai nhắm mắt rồi lại mở một tai. Lần này âm thanh đúng là bên tay trái nhiều hơn. Cuối cùng, nó quay mặt về hướng đó, căng hai tai ra thì nó thấy đúng là tiếng nước chảy ở phía trước mặt. Dần dần nó nghe rõ hơn tiếng rào rào, ì ì của nước chảy dưới sông.

Đồng hồ đã chỉ 5 giờ 30 chiều, nắng tàn đã sắp tắt hẳn, sương mờ nhè nhẹ bắt đầu dâng lên trong khe núi. Nó phải gấp rút chạy đua với thời gian không thì tối đến nơi. Trong lòng sợ hãi vì nó đã được báo trước khu vực này có hổ. Không còn cách nào khác, nó cứ vạch cỏ tranh mà tiến thẳng về hướng dòng sông. Mới đi được hơn chục mét, thì nó gặp con đường lớn bỏ hoang lâu năm, cỏ tranh trên mặt đường cũng ngút ngàn như những chỗ khác. Nó đi cắt ngang mặt đường thì bất ngờ nó bị hẫng một phát, lăn lông lốc xuống một cái bờ vực. . . .

Không biết là nó đã bị lăn xuống bao xa. May mà cỏ tranh dày đã nâng đỡ cho nó và càng may hơn khi nó lăn xuống một cái hố, "hự" một tiếng thì nó dừng lại. Cái hố sâu chừng một mét đã cản nó lại. Định thần lại, nó nhìn thấy một cành cây khô vắt ngang mặt hố. Nó túm cành cây để đu lên thì cành cây gãy "rắc" một cái. Nó đành túm chặt lấy đám cỏ tranh trên miệng hố, hai chân đạp hai bên, nó nhích lên từng tí một cho đến khi thoát khỏi cái hố.

Lên khỏi hố, nó ngồi thở dốc. Nghỉ một lát, nó xác định lại phương hướng rồi tiếp tục xuống dốc để tới bờ sông. Tiếng nước chảy nghe ngày càng gần làm cho nó cảm thấy phấn khởi. Nó đã đi đúng hướng. Đã bớt dốc hơn trước, nó bắt đầu chạy, cắm cổ mà chạy, đua với thời gian. Nó ngã lên, ngã xuống, ngã sấp, ngã ngửa nhưng nó vẫn chạy. Gai cào rách cả quần áo nó. Hai bàn tay nó cũng bị gai và cỏ tranh cứa tóe máu. Mặc kệ, nó vẫn phăm phăm lao xuống. May mắn cho nó, khi trời nhá nhem thì cũng là lúc nó tới được bờ sông.

Nó nhìn thấy nước chảy cuồn cuộn ở một khúc sông hẹp và nó cũng tìm thấy một con đường mòn ven sông, hẳn là nhiều người vẫn đi lại hàng ngày. Nó liền rảo bước đi theo đường mòn. Được một đoạn thì tới một gốc cây cổ thụ. Đó là một cây sung rừng đứng sừng sững ven sông, trái sung to như quả trứng gà, chín mọng, đỏ ối. Dưới gốc sung có một phiến đá to, bằng phẳng.

Nó sung sướng ngồi lên phiến đá, ngả lưng tựa vào cây sung, tự thưởng cho thành công của mình.

Một mình trên sông nước ban đêm

Nó kiểm tra lại quân tư trang và khí tài máy móc. Súng, dao găm, bi đông đeo trên người vẫn còn, máy ảnh, phim, bộ lăn tay còn nguyên, bật lửa, thuốc lá còn. Khi sờ đến hai túi cóc hai bên thì ôi thôi, bao nhiêu sắn luộc đã rơi mất hết. Hú hồn ! May mà không rơi súng. Nếu rơi súng, mai nó phải quay lại để tìm thì thật là kinh hãi. Mà nếu mất súng, chắc chắn nó sẽ bị kỷ luật nặng.

Nó đứng thẳng trên tảng đá hú to mấy lần để gọi đồng đội đi thuyền tới đón nó. Tiếng hú vang dội, vọng đi vọng lại trong núi rừng. Tuyệt nhiên, không có một tiếng trả lời. Nó hú nhiều lần thì vẫn chỉ nghe tiếng vọng của chính nó. Rồi thì rừng núi cũng nhanh chóng nuốt dần "tiếng hú gọi bầy" của nó. Đêm đen trở lại tịch mịch với những tiếng động của rừng núi, sông suối đại ngàn, âm âm, u u bất diệt vốn có. Mà, ở trong đó, con người luôn là một thứ nhỏ bé, đơn độc, . . . . quẫy đạp một cách vô vọng. Vậy là nó đã lạc quá xa điểm hẹn với các đồng đội.

Không còn có thể trông chờ gì, nó phải tự xoay xở để lo cho mình. Việc đầu tiên nó phải lo là bữa ăn tối. Từ lúc 2 giờ chiều đến giờ với vài miếng sắn, bây giờ nó đã đói mềm. Thôi thì, sung chín ngay trên cây, tạm làm thức ăn chống đói chả phải là quá tốt sao ?

Nó ôm cây sung leo lên, tới một cành cây to nhất, nó bò theo cành cây ra một cái chạc lớn và vững chãi. Ngồi trên chạc cây, nó nhoài người ra với chùm quả sung đỏ mọng. Tay nó vừa hay túm được chùm quả, nó cố vặn đứt cuống để lấy cả chùm. Đang khi hí hửng vì "miếng ngon đã tới miệng", thì bất ngờ, không biết cơ man nào là kiến lửa, đang hút mật từ chùm quả chín, rần rần lao ra. Những con kiến lửa "đại vương" to như đầu que diêm, cứ thế xông tới bám lấy nó, chạy vào tay áo, vào cổ, vào người, chui cả vào tóc nó, . . . . và dường như nhất loạt thiêu đốt nó, nhoi nhói khắp mọi nơi. Nó cuống cuồng buông tay hái sung để phủi lũ kiến. Bất đồ, mất thăng bằng, cả người nó lạng đi. Nó rơi tự do từ độ cao khoảng 5 mét. Giây phút đó, nếu nó kịp nghĩ là nó sắp rơi xuống tảng đá lớn ở bên dưới thì không biết nó có kịp nghĩ, rằng đầu nó sẽ đập trên đá như thế nào ?!

May là nó không kịp nghĩ gì và may hơn là nó không rơi vào tảng đá. "Giời thương" đã đỡ nó bằng một đám cây lúp xúp rậm rạp, chỉ cách tảng đá không đầy một mét. Nó lồm cồm bò dậy, sờ nắn khắp mọi chỗ thấy không bị thương ở đâu, . . . . "Phù . . . . ! Phúc tổ bảy mươi đời !"

Nó nhảy khỏi bụi cây, cởi vội quần áo, khua khoắng loạn xạ để rũ kiến. Khắp người nó, từ đầu cho đến thắt lưng, kiến cắn sưng vù, ngứa ngáy và đau rát. Thoát khỏi đàn kiến nhưng nó hết mọi hy vọng kiếm được bữa ăn đêm nay.

Lấn bấn một hồi, nó đành quyết tâm tìm cách vượt sông tìm đường về tổ đường dây. Ngặt một nỗi, dòng sông thì chảy siết mà nó lại không biết bơi. Làm sao đây ?

Trời đã tối hẳn, trăng 16 đang lên, chiếu ánh sáng lờ mờ hư ảo xuống mặt nước nhóng nhánh, lốm đốm lóe sáng như ánh sao. Rừng đêm yên tĩnh với những tiếng thì thầm, xào xạc của thú đi kiếm ăn đêm, tiếng rỉ rả của côn trùng. Đâu đó là tiếng hoẵng kêu thảng thốt xa xăm, rồi chốc chốc lại vẳng lên tiếng khắc khoải của chim "bắt cô trói cột", . . . .

Cái bụng đói meo của nó bắt đầu réo, người nó sứt sẹo vì gai đâm, sưng vù vì kiến cắn. Nhưng, trên hết tất cả các cảm giác nhục thể, nó cảm thấy trong lòng hoang vắng, trống trải và cô đơn. Tự đâu đó làm nó trạnh nhớ đến những ngày trẻ thơ tươi đẹp ở quê nhà, nó nghĩ đến thày nó và nghĩ đến Hợi, . . . . Một nỗi buồn da diết tràn ngập tâm can.

Rồi nó tự nhủ "Mình còn sướng chán ! Đã thấm gì so với sự ác liệt và gian khổ của các bậc đàn anh đi trước, thấm gì so với các đồng đội của nó đang sốt rét, cô đơn giữa rừng bấy lâu nay. Dù gì, mình còn may mắn chán . . . . !"

Nó xốc ba lô lên vai, đi theo đường mòn men sông, hy vọng tìm được chỗ để mai có thể qua sông hay chí ít thì cũng tìm được chỗ ngủ qua đêm. Càng đi, nó càng thấy con sông mở rộng ra và nước chảy ngày càng chậm hơn. Đi được quãng dăm trăm mét, trước mặt nó hiện ra một cái vũng nhỏ ăn sâu vào bờ sông, nước tĩnh lặng không chảy. Nó mừng rơn khi phát hiện ra trong vũng có một cái bè. Đến gần hơn, nó thấy cái bè được buộc vào một sợi dây cáp lớn căng từ bờ bên này sang bờ bên kia. Dưới ánh trăng, nhìn xuống sông, nước rất trong, nó nhìn thấy cả đá dưới đáy sông. Quãng này nước nông, chắc có thể lội được nên người ta làm thành cái bến vượt để qua lại hàng ngày. "Nhờ Giời, tốt quá rồi ! Mình phải vượt sông thôi."

Nó lội xuống nước kiểm tra bè. Cái bè rất tốt. Nó cởi ba lô, đặt lên bè rồi trèo lên. Nó chưa kịp trèo lên hết thì chiếc bè đã chao nghiêng đi và chìm xuống. Nó mất thăng bằng và ngã tùm xuống nước. Thì ra cái bè này chỉ để chở đồ, người phải lội và đẩy bè sang. "Gay đây ! Mình không biết bơi. Nhỡ đâu khi ra xa, nước ngập đầu thì chắc là thành Nguyễn Trọng Thập liệt sỹ mất . . . . Mà không qua sông, nhỡ đêm nay hay sáng mai mà có mưa thì nước sông sẽ dâng cao, phải chờ mấy ngày ở bờ bên này, chắc mình sẽ chết đói mất. Mình qua được sông, may ra còn có cơ hội đồng đội đi tìm . . . ."

Đấu tranh tư tưởng một hồi, nó quyết định, thôi thì "Một liều, ba bảy cũng liều !".

Lôi từ trong ba lô ra một chiếc túi ni-lông (nylon) to chuyên dùng để vượt qua sông, nó cho tất cả ba lô, súng đạn, linh tinh mọi thứ vào trong, kể cả bộ quần áo đang mặc. Nó chỉ còn đánh độc cái quần đùi. Nó lấy hơi thổi hơi căng cái túi rồi buộc túm miệng túi lại, theo đúng bài bản huấn luyện vượt sông. Cái túi đồ căng hơi biến thành một cái phao, nếu cần thiết có thể bám vào để khỏi chết đuối. Cuối cùng, nó lấy sợi dây dù buộc chặt túi đồ vào bè. Chừa lại một đoạn dây, nó vòng qua sợi dây cáp rồi buộc lại vào cái bè. Vậy là cái bè đã được liên kết lỏng với sợi cáp để dễ dàng di chuyển theo sợi cáp mà không thể trôi khỏi sợi cáp.

Phải nói thêm là, trước khi cất dao vào túi đồ, theo đúng "bài bản", nó đã lên bờ kiếm một cây dóc dài. Nó chặt cây dóc, róc hết mấu và vạt bớt ngọn, làm thành một cái gậy dài chừng 2,5 mét. Cây gậy vừa để dò độ sâu của nước vừa làm thành cái chân thứ ba khi lội nước cho thêm chắc chắn và vững vàng. Xong xuôi mọi việc, nó bắt đầu vượt sông.

Nó đẩy cái bè lên phía trước, nách trái kẹp chặt dây cáp, tay phải nó chống cây dóc xuống đáy sông, chân lùa nhẹ dưới nước, bước lên từng bước một. Nó thấy cách này có vẻ ổn và bắt đầu bước tới. Lòng sông toàn đá tảng trơn nhẫy, chiếc gậy chống quả là hữu hiệu, nó từ từ di chuyển theo dây cáp một cách chắc chắn.

Làn nước mát mơn man nhẹ chảy, gió hây hẩy lả lướt trên mặt sông làm nó tỉnh cả người. Thận trọng từng bước chân, nó đẩy bè trôi nhẹ về phía trước. Hai chân vẫn chạm đất, nước chỉ đến ngực nó, nhưng càng ra xa nước càng sâu và lạnh. Nó vốn đã sợ nước, mắt nó chăm chăm nhìn thẳng theo sợi cáp, e rằng, nếu nó nhìn ngang với tầm mắt thấp, thấy dòng nước mênh mông nó sẽ hoảng sợ.

Ra đến giữa dòng, nước chảy mạnh, nó đưa chân bước lên thì bị nước đẩy choãi ngang theo dòng. Nó rất sợ, nhưng rồi nó lựa theo dòng mà bước ngược theo chiều nước chảy, nước đẩy chân nó lại là vừa kịp lúc chạm tới đá. Tốt rồi, cứ thế nó nhích từng tí một. Tiến thêm một đoạn nữa thì chân nó bắt đầu chới với rồi không còn chạm tới đáy nữa. Nó không di chuyển nữa, nách nó càng kẹp chặt lấy sợi cáp, tay phải thì khư khư chống cây gậy suống đáy nước. Nó không biết phải làm gì mà cũng không biết nó đang chờ đợi điều gì. Nó hoảng sợ thực sự, "Không có lẽ mày là liệt sỹ theo cách như thế này chứ ?!".

Thời gian nó chết cứng như vậy không biết là mấy giây hay mấy phút. Nhưng rồi, nó thấy chẳng có gì xảy ra với nó cả. Còn sợi cáp đây, còn cái bè và cái phao nổi đấy, chẳng thể chết được. Nách trái vẫn kẹp vào dây cáp, nó đu nửa người lên bè. Chiếc bè nghiêng đi nhưng do có thêm cái phao ba lô nên vẫn nổi. Thấy có vẻ chiếc bè không bị chìm thêm, nó nằm im, vung sào từ từ đẩy bè đi. Chiếc bè trôi đi thật, chân nó chơi vơi, quào quào trong nước. Nó tiến thêm được một đoạn nữa khá xa thì ngón chân nó lại chạm vào đá. "Ồi !" Nó thở phào một tiếng rồi đứng trở lại trên đá. Nó thấy nước chỉ ngập tới ngực, thế là thoát.

Bây giờ nó nghĩ ra cách di chuyển mới, nằm nửa người trên bè, chân khỏa nước, lấy sào đẩy đi. Cách này làm nó đi nhanh hơn thật. Nó càng tự tin, cứ thế đẩy bè đi. Đã gần tới bờ bên kia, nó mạnh dạn thử đứng xuống thì nước chỉ còn đến bụng. "Sống rồi !". Nó thực sự từ cõi chết trở về.

Tiếng ma trong rừng đêm

Tới bờ, nó buộc lại bè vào dây cáp, khuân cái bọc nylon lên chỗ khô ráo. Nó tháo nylon, lấy ba lô và đồ đạc ra, rồi nó mặc lại quần áo chỉnh tề. Chiếc quần đùi ướt nó nhét vào túi cóc, thay quần mới. Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, nhìn đồng hồ thì đã là 8 giờ 30. Nó nhìn lại phía dòng sông, nước bàng bạc lấp lóa dưới ánh trăng. Từ bên này sang bờ bên kia, ngược sáng nên thấy rất xa. Thì ra là nó vượt sông Boung từ bờ đông sang bờ tây. Nó tự thấy mình "vĩ đại thật", không biết bơi, "lạ cái lạ nước", một mình trong đêm mà đã vượt được qua sông. Chuyện không thể quên !

Nó đeo ba lô rồi trèo lên bờ sông để quan sát suốt một lượt xem có thấy dấu tích đồng đội đi đón nó hay ít ra cũng là dấu tích có người ở quanh đâu đây. Không hề có một "chớp lóe" nào để nó hy vọng. Nó hú lên một hồi dài. Tiếng hú vẳng đi vẳng lại âm âm a a . . . . Không có tiếng trả lời. Nó hú thêm vài lần và biết là đêm nay nó sẽ phải "sinh tồn" một mình trong rừng. Súng đeo bên mình, tay trái nó cầm đèn pin, tay phải nó nắm chắc con dao găm. Nó đi tìm chỗ ngủ qua đêm.

Nó tìm đến chân một quả đồi lớn trong rừng già có nhiều cây cối rậm rạp. Lia đèn pin hết chỗ này qua chỗ khác để tìm một nơi khô ráo mà mắc võng. Bất chợt nó nhận ra một cây to cổ thụ ngay gần đó, gốc cây lại rỗng. Đến bên gốc cây, nó thấy trong hốc cây có vài tảng đá lớn xếp bằng phẳng, cao hơn nền đất đến năm chục phân. Trên đá còn có lá cây khô phủ một lớp, thành một cái giường êm ái. Để trèo lên giường còn có vài bậc đá kê rất cẩn thận. "Ổn rồi ! Cảm ơn ai đó !".

Nó đặt ba lô xuống, soi đèn pin kiểm tra khắp một lượt cái hốc cây đề phòng có rắn rết. Tốt thật, nếu Trời có mưa thì nằm đây cũng không bị ướt. Nó cẩn thận xếp gọn ba lô vào trong cùng rồi chặt thêm các cành lá mới để trải thêm lên trên cho sạch. Nó ngả lưng và rút thuốc ra hút. Nằm một lúc, thấy chưa yên tâm, nó nhỏm dậy, chặt thêm vài cành cây to tấp vào cửa hang đề phòng thú dữ. Lần này, nó đã yên tâm, vừa đặt lưng xuống thì cơn buồn ngủ ập đến. Cho dù bụng nó rất đói, nhưng nó quá mệt, không thể cưỡng lại được cơn ngủ, nó đắm chìm ngay lập tức vào giấc ngủ mê mệt.

Nó ngủ say như chết một giấc dài, không biết là bao lâu, cho đến khi nó giật mình tỉnh giấc vì bị rét. Sương nặng hạt như mưa phùn đã bao phủ kín xung quanh. Khắp nơi vo ve tiếng muỗi, nhiều vô kể. Bọn muỗi hôm nay được bữa no nê đang ca bài ca bât tận của chúng. Nó định sẽ ngủ tiếp, thây kệ bọn muỗi, nhưng mắt nó cứ ráo hoảnh, không thể nào bắt được vào giấc ngủ. Đột nhiên nó thấy hơi thở nong nóng. "Mình sốt thì phải ?". Nó mở cóc, lần tìm thuốc cảm cúm mà anh Hiệu đã cho nó, nhưng hỡi ôi, bao nhiêu thuốc và sắn đã rơi mất hết. Nó thấy khát đắng cả cổ họng, lục tìm bi đông nước thì bi đông cũng rỗng không.

Nó chui ra khỏi hang, châm điếu thuốc hút. Bỗng nhiên nó rùng mình. Ngoài Trời gió lạnh, mưa lay phay. Kiểu này khéo nó ốm mất. Nó làm vài động tác thể dục, rồi chạy tại chỗ cho nóng người.

Chợt nó nghe thấy ở đâu xa lắm vọng lại tiếng người láo nháo, có cả tiếng cười, . . . . Và, hình như có cả cả tiếng con gái hát nữa thì phải. Nó giỏng tai nghe ngóng thì lại không thấy gì nữa. Nó định xuống sông lấy nước uống thì lại nghe thấy tiếng cười văng vẳng, xa xăm, rờn rợn. "Chẳng có nhẽ mình sốt đến mức mê sảng? Hay là ma trơi đang trêu đùa mình ? Đang đêm thế này gái nào mà cười khanh khách như thế ! Chả lẽ là ma thật ?!"

Nó trấn tĩnh lại, tự nhủ, làm gì có chuyện ma cỏ ở đây, mà mình thì rõ ràng là không mê. Nó đứng im, lắng tai nghe kỹ. Khi một cơn gió ùa tới, nó nghe thấy rõ hơn. Đúng là tiếng người, tiếng con gái đang nói chuyện và cười đùa khanh khách. Nó không nghe rõ lời vì quá xa, còn tiếng cười thì rất rõ. Nó rất mừng. Bây giờ chỉ cần xác định chính xác nơi có người là nó sẽ đi tới. Khi đã xác định được hướng có người, nó khoác ba lô lên vai, một tay cầm đèn pin, một tay nó cầm dao găm. Nhằm hướng có người, nó vạch cây rừng, chặt các cây nhỏ và cỏ gai xông bừa lên, cứ thế lao tới. Nó không thể đi theo đường mòn vì biết đường mòn có dẫn đến chỗ có người hay không.

Cũng may là sườn đồi khá thoai thoải và cao dần lên. Hồi lâu nó cũng lên được tới đỉnh đồi. Từ đây nó có thể nhìn ra các hướng xung quanh. Trước mặt nó là một thung lũng lớn. Dưới ánh trăng đang tàn nó nhìn thấy một đốm lửa lớn đang bập bùng. Rồi nó nhìn thấy có vài bóng người đang lúi húi đi lại xung quanh, nói cười râm ran. Nó vạch cây bước vội xuống phía có ánh lửa.

Đến gần hơn, nó nhìn rõ bốn cô gái đang nấu cơm sớm. Chắc là mấy cô đang nấu cơm cho đơn vị, có thể là đơn vị nữ thanh niên xung phong chăng ? Thế thì may quá cho nó, nó đã trở về với người, không còn phải "sinh tồn" một mình trong rừng nữa.

Khi khoảng cách chẳng còn bao xa, nó cứ soi đèn pin chạy ào tới. Đang đà chạy nhanh bỗng nó khựng lại. Một họng súng đen ngòm đang chĩa thẳng vào mặt nó. Một giọng con gái sắc lạnh quát :

- Ai ! Đứng lại ! Giơ tay lên !

Nó vội giơ 2 tay lên trời :

- Tôi là bộ đội thông tin đi lạc đường.
- Đơn vị nào ? Nói mật khẩu mau !
- Tôi ở trung đoàn 136 Bộ Tư Lệnh Thông Tin, đi làm chứng minh thư cho bộ đội.
Hôm qua đi lạc trong rừng, ngủ ở bên bờ sông. Tôi không biết mật khẩu.

Ba cô gái nhìn nhau, một cô ra lệnh :

- Thủy và Hoan lấy súng dong lên nhà trung đội trưởng. Thực hư gì lên đó tính sau !

Cô gái tên Thủy, đang cầm xẻng, nói "Vâng !". Cô gái tên Hoan, đang nấu cơm, với tay xách khẩu súng AK, mở chốt an toàn, dí vào lưng nó quát :

- Đi !

Nó cầm đèn pin đi trước, hai cô theo sau, trên con đường mòn khá rộng. Đi được có một đoạn ngắn nó đã thấy lấp ló sau những lùm cây um tùm là mấy cái lán. Giờ này chắc gần 5 giờ vì đã có vài người dậy sớm đang để tập thể dục. Hai cô gái chỉ cho nó bước lên mấy bậc tam cấp, vào một căn nhà lá cao nhất nằm ở giữa khu lán. Trước nhà có một một cái sân rộng và vài luống rau.

Trung đội trưởng cũng là nữ. Chị cao dong dỏng, trắng trẻo, tóc hơi quăn, trạc 30 tuổi. Chị vặn to ngọn đèn bão trên bàn và bảo :

- Thủy với Hoan cứ xuống làm tiếp đi ! Để đồng chí ấy lại đây cho tôi.

Trung đội trưởng tự giới thiệu tên Thu rồi ra hiệu cho nó ngồi xuống, tháo ba lô ra và yêu cầu nó kể về mình. Nó kể sơ qua việc đang đi làm nhiệm vụ và bị lạc rồi nó đưa giấy công tác, chứng minh thư cho chị Thu. Chị Thu tin nó. Chị nói :

- Anh vào phòng thay quần áo đi ! Anh ướt hết rồi. Mà hình như anh đang sốt thì phải, tôi thấy
mặt anh đỏ lắm. Thay xong đồ anh sang phòng khách kia nằm nghỉ. Tôi bảo các em mang đồ ăn lên.

Chị quay ra cửa gọi :

- Cô Tình ơi ! Chạy xuống bếp bảo Lụa nấu ngay cho một nồi cháo, cho thịt hộp vào,
mang lên đây nhé !

Cô tên Tình "vâng" một tiếng rõ to, nhìn chị Thu, nháy mắt một cách nhí nhảnh rồi chạy vụt đi.

Nó thay quần áo rồi ra đầu nhà rửa chân tay. Chạm vào nước nó thấy gai hết cả người. Đúng là nó đang sốt cao. Nó vội quay vào nhà và nằm vật trên chiếc giường một có trải một cái chiếu mốc meo trong phòng khách, chắc lâu ngày không có người sử dụng. Hơi thở nó nóng hầm hập, mắt nó lim dim rồi nó lịm ngay vào giấc ngủ.

Nó mở mắt ra vì có ai đó lay nó. Nó thấy chị Thu và cô Tình đang đứng cạnh giường. Trên chiếc ghế bên cạnh, một tô cháo to đang bốc hơi nghi ngút. Đang ốm mà nó cũng không thể cưỡng lại được mùi thơm của thịt hộp. Mà lại còn cả mùi hành nữa mới tuyệt chứ, cám dỗ quá ! Chị Thu và Tình ân cần giục nó "ăn đi cho tỉnh". Trời ạ ! Chí Phèo này lại được cháo hành thì tuyệt cú mèo. Nó xúc động như vừa được về trong vòng tay thân ái của gia đình. Đang đói lả, nó húp lấy húp để như "thằng chết đói năm bốn lăm", vừa ăn nó vừa thổi, xì xà xì xụp. Cháo trôi vào tới đâu, người nó tỉnh ra đến đó. Nó đánh một hơi hết bát tô to tướng. Tình lại múc thêm từ trong xoong cho nó ít nữa, nó lại chén hết bay. Nó ăn xong, chị Thu dặn :

- Đồng chí cứ ngủ đi ! Chốc nữa y tá khám, cho thuốc. Chúng tôi sẽ tìm cách liên lạc với đơn vị đồng chí.
- Vâng ảm ơn các chị !

Nó lại nằm vật xuống gường. Lần này thì nó ngủ li bì, mê man trong cơn sốt.

Kinh động đến cả trung đoàn

Nó bị lay dậy vì y tá đến khám. Uống thuốc xong, nó lại nằm lăn ra giường, cứ thế nó thiếp đi trong cơn sốt mê man. Thỉnh thoảng nó thấy dường như có người đắp khăn ướt lên trán nó. Nó không buồn mở mắt, phần thì do mệt, phần thì chẳng biết nói gì. Nó được quan tâm săn sóc, làm nũng một chút thì có chết ai ?!

Ba ngày liền nó nằm sốt ly bì. Y tá Tâm, chị Thu, cô Tình và mấy chị nuôi chăm nó lắm. Nào thì cháo gà, cháo cá, thuốc ngày 2 bữa, tiêm ngày 2 lần. Ừ, mà từ bé đến giờ, nó chưa bao giờ được chăm sóc tận tình như thế này. Nó rất cảm kích trước tấm lòng của những chị em thanh niên xung phong.

Đến ngày thứ tư thì nó thấy đỡ hơn. Nó ngồi dậy thì vẫn thấy người chao đảo. Cháo nấu rất ngon mà miệng nó đắng ngắt chẳng muốn ăn. Mọi người động viên mãi nó mới ăn hết một bát con cháo nóng.

Nó nghe tiếng chuông điện thoại reo bên phòng trung đội trưởng. Tiếng chị Thu nhấc máy, trả lời :

- A lô ! Trung đội 4 xin nghe.

Rồi nó lại nghe chị Thu trả lời :

- Vâng ! Đúng rồi ! Đồng chí Thập, Nguyễn Trọng Thập, . . . . Vâng ! . . . . Vâng ! . . . .
Đã khá hơn rồi. Vâng ! . . . . Vâng !

Nó rất mừng vì biết đơn vị đã biết nó ở đây. Nó chực hỏi thì đã thấy chị Thu từ ngoài bước vào. Chị nói :

- Đã liên lạc được với đơn vị Thập. Họ đang cho người đến đón.
- Vâng ! Cảm ơn chị !

Dù vẫn còn rất mệt nhưng nó rất vui. Nó thu xếp quần áo, sắp lại đồ đoàn vào ba lô. Rồi nó ra đầu nhà, vục khăn mặt vào thau nước. Nó rửa mặt cho tỉnh táo. Tự nhiên, nó thấy người khỏe hẳn ra và có vẻ như không còn lao đao như lúc trước. Nó đã sẵn sàng lên đường.

Đã sang ngày thứ 5 nó chưa hút một hơi thuốc nào. Thèm thuốc bã cả người, nó móc một điếu, châm lửa và rít một hơi dài. Hơi thuốc làm nó lâng lâng nhưng rồi nó thấy chao đảo vì chóng mặt. Tệ thật ! Hút đến hơi thứ 3, nó "ho sù sụ như ông cụ bẩy mươi". Tiếc rẻ điếu thuốc, chờ hết cơn ho, nó lại hút tiếp cho đến hết.

Gần 10 giờ trưa thì hai đứa ở tổ đường dây A Rô tới nơi để đón nó. Nhìn thấy hai thằng đồng hương, nó ứa nước mắt xúc động. Hai thằng kia thì nhảy vào ôm chầm lấy nó, đấm thùm thụp.

Trong khi chúng nó đang mải mừng rỡ với nhau, thì từ lúc nào, chị Thu đã cho bưng lên một mâm cơm :

- Thôi thì, . . . . mời các anh ăn cơm, gọi là chia tay . . . .

Ba thằng nó hơi bất ngờ, nhưng được cái lính thì tự nhiên lắm (chúng nó vẫn bảo "lính tự nhiên như ruồi" mà), chẳng phải khách khí gì, chúng ngồi ngay vào mâm. Chị Thu, y tá Tâm, cô Tình, cô Hoan, cô Lụa cùng ngồi vào. Mọi người ăn uống, chuyện trò và cười đùa rất vui vẻ.

Cơm nước xong, ba thằng chào tạm biệt mọi người. Riêng nó thấy rất bịn rịn. Nó muốn nói điều gì đó để cảm ơn các chị em thanh niên xung phong đã đối xử rất tận tình và chu đáo đối với nó. Nhưng nó vốn là đứa mau nước mắt, nếu nó nói gì đó trong lúc cảm động thì nó sẽ không thể cầm được. Tần ngần một lúc, nó đề nghị mọi người ra sân chụp mấy kiểu ảnh làm kỷ niệm. Rồi nó xin địa chỉ hòm thư để còn liên lạc tiếp.

Sau khi chia tay thanh niên xung phong, ba thằng lên đường đến tổ A Rô. Hai thằng bạn nó tranh hết phần mang vác ba lô, súng đạn nên nó được đi người không, nhẹ tênh. Được mọi người đối xử tốt, lại đã khỏe trở lại, lòng nó trào dâng nó cảm xúc yêu thương mọi người và yêu đời phơi phới.

Trên đường đi, hai thằng kia nói nó mới biết chuyện rắc rối khi nó bị lạc. Sau khi nhận tin từ Ta Bhinh, tổ A Rô cho một người đi đón nó ở bên này sông từ lúc 12 giờ trưa. Chờ mãi đến 6 giờ chiều vẫn không thấy nó đâu. Tưởng có chuyện thay đổi, cậu ta quay về gọi điện sang Ta Bhinh thì được biết nó đi khỏi đó từ lúc 10 giờ, chậm nhất thì chỉ 3 giờ chiều là tới bờ sông. Vậy là "có chuyện" rồi ! Mọi người tá hỏa lên vội gọi điện báo về đại đội. Đại đội lệnh xuống yêu cầu 2 tổ cử người đi tìm trong phạm vi 10 km xung quanh điểm hẹn. Tìm mãi, đến đến khuya vẫn không thấy nó đâu. Chiều hôm sau, đại đội cử thêm quân xuống đi vòng quanh khúc sông xem nó có chết đuối không, vẫn không thấy tăm hơi gì của nó.

Đến nước này thì đại đội đành phải báo cáo lên trung đoàn. Một mặt, trung đoàn thúc hối đại đội nó phải tìm kiếm tiếp, trong khi trung đoàn vẫn phải báo cáo lên bộ tư lệnh vì nó mất tích mang theo toàn bộ danh sách trích ngang của cả trung đoàn. Thôi thì đủ kiểu phỏng đoán, nào là nó chết đuối trên sông, nào thì nó bị phản động bắt cóc, nó bị cướp của giết người. Hay có khi, thằng Thập đi qua Lào để tìm cách "vượt biên", . . . .

Chuyện nó đi lạc ai cũng thấy kinh. Nó đi sai đường ngay từ đầu, hướng theo một con đường cụt bỏ hoang, cách tổ A Rô hơn 20 cây số. Nó kể lại hành trình vượt sông Boung, hai thằng bạn "lắc đầu, lè lưỡi" kêu nó quá liều :

- Mày không biết bơi mà dám vượt sông một mình, mà lại qua sông ban đêm. Liều quá !

Nhỡ trượt tay, tuột khỏi dây cáp hay là bị chuột rút thì toi rồi, Trời cũng chả cứu được !

Ở trạm khách Đà Nẵng

Nó đã khỏe hẳn và trở lại với nhiệm vụ đang bỏ dở. Bây giờ nó không dám tự ý một mình đi từ tổ này sang tổ khác. Mà các tổ cũng đưa đón nó cẩn thận, nhịp nhàng hơn.

Khoảng nửa tháng sau thì nó hoàn tất công việc dọc theo các tổ đường dây trên đường đến A Lưới và mai nó sẽ tới điểm cuối cùng ở A Lưới. Nó gọi điện báo trước cho cho anh Mật. Thật là may mắn, anh Mật đã từ Đà Nẵng đánh xe lên A Lưới chờ nó từ hôm qua. Mà có khi không phải là may, mà là lão Mật này biết hết các tổ đường dây, có khi lão gọi điện dò la và biết được mai nó sẽ đến A Lưới nên lão đến đó trước một ngày.

Từ A Lưới, anh Mật lái xe đưa nó đi tiếp đến các tổ đường dây. Trước khi đến điểm nào, nó đều gọi điện báo cho các tổ dặn họ không đi đâu và chuẩn bị trước đầu tóc, quần áo để chụp ảnh cho nghiêm chỉnh. Đường từ A Lưới đến các tổ khá đẹp, thậm chí ô tô có thể vào tận sân của một số tổ. Công việc trở nên rất thuận lợi. Có ngày hai anh em nó làm xong được cho hai ba tổ.

Cứ thế, anh Mật và nó rong ruổi trên xe suốt lượt đường dây ra tới tận Quảng Bình. Nó đã hoàn thành nhiệm vụ toàn bộ vùng phía bắc của trung đoàn. Hai anh em nó trở về trạm khách trung đoàn ở Hòa Cường, Đà Nẵng. Anh Mật tranh thủ bảo dưỡng xe còn nó gọi điện về trung đoàn báo cáo. Trung đoàn động viên nó cố gắng và cũng nhắc nhở nó chuyện lạc đường làm ảnh hưởng không tốt đến đơn vị. Nó được cho phép nghỉ ngơi ở Đà Nẵng mươi ngày.

Có thể trung đoàn thấy nó làm việc tốt mà cho nó nghỉ ngơi một chút. Nhưng cũng có thể sẽ không có xe đưa nó đi làm tiếp vì ngay ngày hôm sau, nó thấy trung đoàn gọi điện cho anh Mật điều anh chở cán bộ trạm khách về Pleiku họp và sau đó đưa cán bộ trung đoàn đi công tác ra phía Bắc.

Trong khi nghỉ ngơi và chờ đợi ở Đà Nẵng, nó tranh thủ kiểm lại toàn bộ danh sách bộ đội trong sổ tay. Từng tên người, đơn vị công tác, đặc điểm nhận dạng, . . . . Mỗi cái phim chụp phải được đánh số theo đúng từng người. Chỉ nhầm một số là tất cả sẽ "râu ông nọ cắm cằm bà kia" hết cả loạt. Từng cuộn phim cũng phải đánh số, nhầm cuộn nọ với cuộn kia thì cũng bằng "công cốc" vì nó không thể nhớ mặt và họ tên của tất cả anh em của trung đoàn. Sau khi kiểm lại nó thấy thật may mắn vì nó không đánh mất một cuộn phim nào, không để rơi một cái phôi chứng minh thư nào. Sổ tay của nó cũng không mất và không bị nhòe nước ở chỗ nào. Nó thở phào nhẹ nhõm, tự khen là "mình làm việc rất được !". Nếu có sai nhầm gì, nó phải quay lại làm lần hai thì "toi đặc".

Muốn nhanh chóng hoàn thành công việc để sớm được ra trại sáng tác tại Hà Nội, nó không thể bỏ phí những ngày ngồi không ở Đà Nẵng. Nghĩ vậy, nó vào thành phố mua mấy cái ngòi bút "lá tre", mấy cái quản bút và một lọ mực đen. Nó mài ngòi bút hơi vẹt đi một chút để có "nét thanh, nét đậm". Nó viết thử ra giấy, mài đi mài lại cho đến khi chữ viết nhìn thật ưng ý.

Cũng may, những ngày làm công tác đoàn ở huyện, nó đã phải viết giấy khen nhiều nên kiểu chữ "Giấy Khen" nó đã rất thạo.

Bây giờ, ngày hai buổi nó ngồi "gò lưng tôm" viết từng tờ chứng minh thư. Việc này cũng phải rất cẩn thận vì không được phép tẩy xóa. Viết sai thì không có cách gì mà chữa được, mà cũng không thể thay bằng tờ khác được vì mỗi cái phôi đã có dấu lăn tay của một người. Cơm ngày hai bữa nó ăn ở bếp ăn trạm khách nên không phải lo.

Lúc nào mỏi lưng quá hoặc chán viết, nó cẩn thận cất tất cả mọi thứ, cái nào vào chỗ đó, rồi bỏ ra Hòa Cường chơi. Có lúc hứng lên, nó đi chơi trong thành phố.

Chuyện "Ngô chẳng ra ngô, khoai chẳng ra khoai !"

Tưởng rằng nó chỉ ở Đà Nẵng mươi ngày rồi quay về trung đoàn đi làm tiếp chứng minh thư cho anh em ở phía nam và cả trung đoàn bộ nữa. Ai dè nó ở đây rất lâu vì mãi xe của anh Mật vẫn chưa đi Hà Nội về để đưa nó đi tiếp.

Hòa Cường là một phường ngoại ô thành phố Đà Nẵng, nằm dọc trên đường Núi Thành chạy từ thành phố ra (có lẽ đường Núi Thành được đặt tên sau ngày giải phóng để ghi nhớ chiến công lần đầu đánh Mỹ, ngày 26/5/1965, ở Núi Thành, Quảng Nam). Đó là một con đường nhựa nhỏ, cách trung tâm thành phố 5 km. Hai bên đường là nhà dân, cái thò, cái thụt, cái lớn, cái bé, nhấp nhô không hàng lối. Lác đác cũng có một vài hàng quán, còn lại chủ yếu là quang cảnh những dãy hàng rào cây đủ loại, xanh mát mắt. Một số nhà trồng bông bụp (hoa dâm bụt), bông giấy (hoa giấy) đỏ, trắng rực rỡ vấn vít trên hàng rào, cổng nhà. (Ngày ấy Hòa Cường là một phố ngoại ô nhỏ hắt hiu, bây giờ Hòa Cường là một phường thuộc quận Hải Châu của thành phố Đà Nẵng. Đường Núi Thành bây giờ cũng là một con đường lớn).

Ngay sát trạm khách trung đoàn, bên trái có một cửa hàng may nho nhỏ, rộng chừng chục mét vuông, mái lá, tường tôn. Nhưng phía sau cửa hàng có một khoảng sân rất rộng, có thể đỗ được vài cái xe tải. Qua cái sân đó là một ngôi nhà ngói 5 gian khang trang, sạch sẽ. Đằng sau nhà là một vườn cây ăn trái xum xuê, dừa, sầu riêng, măng cụt, mận (roi), ổi, bom (táo), sa pô chê (hồng xiêm), . . . . Ngoài hiên ngôi nhà có treo mấy cái lồng chim, suốt ngày chim hót véo von, lảnh lót.

Ở cái nhà đó, có một người bằng tuổi nó tên là Thủy – Vũ Tịnh Thủy. Ở đây mới có mấy ngày nó đã quen với Thủy. Anh bạn mới chơi ghi ta rất giỏi, lại làm thơ hay. Có điều lạ là Thủy thường xuyên vắng nhà. Sau này nó mới biết, Thủy bị bắt quân dịch năm 73 và hệ quả là bây giờ phải học tập cải tạo trên thành phố. Tuy Thủy không bị giam nhưng phải tập trung học, thỉnh thoảng mới được về nhà. Cái nhà này là nhà vợ Thủy, cu cậu "chui gậm chạn" đấy, may là cái "gậm" này khá rộng rãi.

Vợ Thủy là Nguyễn Thị Tíu, chính là cô thợ may trong cửa hàng nhỏ ngoài cổng. Em ruột Tíu là cái Lễ, sinh năm 1957 (tuổi dậu), bấy giờ đã nghỉ học, phụ bán hàng cho má ngoài chợ Hàn. Ba Lễ có một chiếc xe tải GMC hạng nặng. Ông chạy xe chở thuê đủ các loại hàng hóa và vật liệu xây dựng. Chiếc xe đi chở hàng, tối lại về đỗ trong sân nhà.

Lễ hơi ngăm đen, khỏe khoắn, mắt sâu, lông my cong trông cũng khá, nó chấm được 6 điểm nha ! Tính Lễ nhí nhảnh, lãng mạn, hát hay và yêu thơ. Thỉnh thoảng thấy nó sang chơi, nghe chừng Lễ có vẻ thích. Mà gia đình Lễ cũng quý nó nữa, thỉnh thoảng có gì ăn tươi, ba má lại sai Lễ gọi nó sang ăn cơm. Nó cũng có cảm giác như được sống ở gia đình nên cũng vui. Vợ chồng Thủy Tíu thấy vậy liền gán ghép nó với cái Lễ.

Hôm nào được nghỉ không phải phụ giúp má ngoài chợ, Lễ hay lấy xe Honda nam của ba, rủ nó đi chơi. Hôm thì hai đứa ra Ngũ Hành Sơn, hôm thì đi biển Mỹ Khê, hôm thì vào trung tâm Đà Nẵng coi phim. Ra bãi biển thì nó cũng thích nhưng nó không dám tắm, vì ngượng không dám thú nhận với Lễ là nó không biết bơi. Hai đứa hay ngồi uống nước dừa, đuổi nhau quanh gốc cây hoặc nô đùa trên cát. Hôm ở Ngũ Hành Sơn, Lễ tháo cặp tóc đưa cho nó để nó khắc tên hai đứa vào vách đá. Trông hai đứa quấn quýt, ai cũng tưởng là chúng đã yêu nhau.

Nhưng thực tình không phải như vậy. Chuyện này chẳng có ai có lỗi nhưng lý do là ở nơi nó. Trong tâm tưởng của nó lại đã có một hình bóng khác. Chuyện là, đối diện nhà Lễ, phía bên kia đường, cũng có một cửa hàng may. Cô thợ may ở đó tên Hường là bạn của Lễ. Éo le là nó lại thật sự thích Hường. Chẳng gì thì Hường cũng xinh hơn hẳn Lễ, nếu có chấm, chí ít cũng phải 8 điểm.

Nó luôn tìm cách tiếp cận Hường hoặc hỏi dò Lễ về Hường. Nhưng con gái vốn nhạy cảm lắm, Lễ linh cảm thấy ngay nên rất cảnh giác. Mỗi khi nó nhắc tới Hường hoặc gợi ý đi chơi chung là Lễ lại gạt đi. Nó hỏi gì về Hường thì hầu như Lễ đều không nói, không kể gì hết.

Thực ra, lúc dầu Hường cũng quý mến nó nhưng không biết vì sao, càng ngày Hường càng lảng tránh nó, mà cũng lảng tránh luôn cả Lễ. Nó buồn và tức nhưng không nghĩ ra cách nào để gặp được Hường. Hai cửa hàng may ở đối diện nhau, nhất cử nhất động gì của nó với cửa hàng bên kia là lập tức cả gia đình Lễ tìm cách khéo léo khống chế, ngăn cản nó.

Khoai chẳng ra khoai, ngô chẳng ra ngô !

Người cháu họ ở Tam Kỳ

Nó có một người cháu gái họ xa nhưng không đến nối "bắn ca-nông không tới" sống ở Tam kỳ. Tuy là cháu nó nhưng cô này hơn nó gần hai chục tuổi. Chồng cô là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc từ năm năm tư. Khi đó ông đã có vợ và một đứa con trai còn lớn hơn cả tuổi nó. Khi ông đi tập kết, ở nhà vợ ông bị chính quyền o ép, đến sau "Luật Mười Năm Chín", bà bị bắt tù và bị tra tấn cho đến chết. Đứa con trai được bà con họ hàng cưu mang nuôi nấng. Sau ngày giải phóng, ông viết thư cho họ hàng và biết được địa chỉ của con trai, lúc bấy giờ đang sống ở Đà Nẵng.

Nhận được thư ba, người con trai ra Bắc tìm về với cha. Lúc ấy ông đã lấy vợ hai và có thêm hai đứa con, một gái, một trai. Người vợ hai của ông chính là cháu họ của nó. Năm 1976, cả nhà ông chuyển về quê Tam Kỳ và sống ở đó.

Trước ngày nhập ngũ, may là nó ghi lại hết các địa chỉ của họ hàng. Không biết người cháu họ của nó nay có còn sống ở địa chỉ cũ không. Bây giờ ở Đà Nẵng, nó rỗi việc, mà Tam Kỳ thì có xa là mấy. Một hôm nó rủ Lễ đi tìm nhà người cháu họ, cũng gọi là cầu may thôi, thế mà lại tìm thấy ngay. Từ đó, cứ thỉnh thoảng nó và Lễ lại đến chơi, có lần nó ở lại đó mấy ngày. Hai vợ chồng người cháu dù hơn nó mấy chục tuổi nhưng vẫn giữ lễ, "một điều chú, hai điều cháu". mấy đứa con ông, thì nhất nhất gọi nó là ông, xưng cháu "ngon lành cành đào". Cả nhà người cháu đều rất quý và tôn trọng nó. Ngay cả người con riêng của ông, cũng coi nó như người ruột thịt. Ngày cu cậu nhập ngũ, ông trẻ Nguyễn Trọng Thập cũng đến đưa tiễn, chẳng gì nó cũng là ông mà lại là lính cựu chứ bộ !

Lại nói, người cháu gái họ theo chồng về Tam Kỳ thì cũng xin được làm nhân viên bán bách hóa ở ngay thị xã. Một tối, cô ngủ lại ở cửa hàng để trực đêm và nằm nghỉ trên mặt bàn. Đang đêm, chiếc quạt trần đột nhiên rơi xuống đúng ngực cô làm cô chết ngay tại chỗ. Thật là đen đủi và thảm quá !
Những năm gần đây, mấy lần nó có ý tìm lại nhà người cháu xấu sốt mà lâu ngày địa chỉ lại thất lạc, đường thì nó không còn nhớ. Vả lại, Tam Kỳ bây giờ là thành phố, đã có quá nhiều đổi thay so với này đó. Cho đến nay nó vẫn chưa tìm lại được.

Những năm 8X, 9X khó khăn đã làm tung tán các gia đình và họ mạc . . . .

Đi công tác Hà Nội

Anh Mật đi công tác Hà Nội gần 2 tháng sau mới quay lại Đà Nẵng. Nó sang chào Lễ và gia đình. Nó cũng không quên chào Hường nữa. Nó trở về Pleiku cất toàn bộ những thứ đã làm được ở trung đoàn bộ. Rồi nó lấy phôi chứng minh thư mới, phim mới, cùng anh Mật lên đường làm nốt nhiệm vụ ở các tổ phía nam của trung đoàn. Khoảng 2 tháng sau công việc cũng xong. Nó quay về trung đoàn làm nốt chứng minh thư cho bộ đội ở trung đoàn bộ. Sau đó, nó tráng phim, in ảnh, dán ảnh vào chứng minh thư. Công việc hoàn tất, nó cẩn thận đóng gói chứng minh thư của từng đại đội, ghi tên đơn vị ra ngoài và có "danh sách kèm theo".

Đầu tháng 9, công việc hoàn tất, nó mang toàn bộ "sản phẩm" lên ban quân lực báo cáo. Thấy nó làm cẩn thận, có vẻ khoa học nên trung đoàn cũng chỉ kiểm tra bên ngoài và rà soát lại danh sách. Rồi ban yêu cầu nó đóng gói toàn bộ mang về Bộ Tư Lệnh Thông Tin để xin chữ ký và dấu nổi của phòng quân lực. Vậy là lần thứ 2 nó "phải" đi công tác một mình ra Hà Nội.

Ra tới Hà Nội, nó lập tức nộp toàn bộ chứng minh thư đã làm cho phòng quân lực. Việc ở "cơ quan, ban bệ" bao giờ cũng "rất quan trọng", làm gì có chuyện người ta làm ngay hay làm nhanh cho. Phòng quân lực hẹn nó một tháng sau quay lại mà lấy chứng minh thư mang về đơn vị. Nó gọi điện báo cáo anh Chính ở ban quân lực trung đoàn (đồng hương của nó). Anh Chính bảo nó "Cứ ở ngoài ấy mà chờ, bao giờ được thì mang vào. Không đi đi lại lại làm gì cho mất công". Nó mừng rơn. Ít ra nó cũng có một tháng tha hồ mà chơi bời, vùng vẫy.

Cửu vạn đi buôn đường dài

Biết nó được ở Hà Nội một tháng, chị gái nó rủ nó đi buôn vào Sài Gòn. Hai chị em tính rằng, nếu công an hay phòng thuế kiểm tra hàng hóa thì nó nhận là của nó. Nó là bộ đội lại có giấy công tác nên họ sẽ không thể kiểm tra được. Nó chỉ ngại kiểm soát quân sự, nhưng kiểm soát quân sự lại thường không đi cùng công an và phòng thuế. Lúc ấy, chị nó sẽ nhận là hàng của chị. Vậy là ổn.

Chị và nó chuẩn bị các mặt vừa hàng nhẹ vừa có lãi cao mà Sài Gòn đang cần. Đó là thuốc sợi Lạng Sơn, thuốc cảm asperin, sufamite, thuốc sốt rét Quinin (ký-ninh) và tỏi khô. Nó đi Lạng Sơn mua thuốc lá sợi. Rồi nó về Sặt nhờ bố Khóa mua mấy thứ thuốc tây đó. Tỏi thì nó về Hưng Yên quê nó, đến Ân Thi thì "vô thiên lủng". Vốn mua hàng phần lớn là của chị, vốn của nó thì chẳng được bao nhiêu, mua được 2 lọ thuốc tây là hết. Tóm lại, hàng hóa chủ yếu là của chị nó.

Sau khi đóng hàng được hai bao tải thuốc lá sợi và tỏi, hai túi du lịch đầy căng toàn thuốc tây, chị em nó thuê xích lô ra ga Hàng Cỏ, mua vé tàu vào Sài Gòn. Ngày ấy, tàu Thống Nhất Bắc Nam chạy rất chậm, phải mất 4 đêm 3 ngày mới tới Sài Gòn. Từ ga Hòa Hưng, hai chị em thuê xích lô chạy thẳng vào chợ Bến Thành. Hàng vào chợ Bến Thành như muối bỏ bể, vèo một lúc là hết. Mọi việc suôn sẻ, không bị hỏi han bắt bớ gì, hai chị em rất phấn khởi.

Bán hàng xong thu được tiền lãi kha khá. Chị nó làm quen với chị Tám hỏi được ở nhờ trong một ngõ nhỏ gần chợ Bến Thành. Hai chị em nó về đó trú chân chờ mua hàng cho chuyến đi ra. Hàng hóa mang ra gồm rất nhiều bột ngọt, áo mông tơ ghi, quần bò, vải tuýt-si len, vải pho và một số mặt hàng khác nữa. Trước khi ra, chị và nó lang thang đi sắm đồ dùng cho gia đình. Chị nó chọn mua quà lần lượt cho mọi người, từ chồng cho đến 6 đứa con, ai cũng có nhiều quà và toàn đồ tốt, nào là quần áo, mũ mão đến đồ ăn, cặp sách, bút mực v,v. . . . .

Nó cứ hy vọng chị nó sẽ mua cho bu nó ở quê một cái gì đó hay là chị mua cho nó một thứ gì đó gọi là một chút ví như cái quần đùi chẳng hạn. Nhưng tuyệt nhiên không thấy chị nó đả động gì đến điều đó. Nó thoáng thấy buồn và nhận ra rằng, trong trái tim chị nó chỉ có chồng và con thôi. Ở đó, bu nó và nó không có chỗ đứng. Mà nói cho công bằng, nó phải làm tất cả những việc nặng nhọc, mang vác, bưng bê như "cửu vạn", che chắn bảo về hàng hóa và bảo vệ chị, vậy mà chẳng có giá trị nào hết. Nó cũng biết người ta nói "anh em kiến giả nhất phận", đó là lẽ thường nên nó cũng chỉ hơi buồn và thất vọng chứ không có biểu hiện gì ra ngoài.

Trước khi ra tàu chị còn lân la hàng xóm gạ mua từ ti vi, quạt máy, đèn chùm, đèn tường với giá rất rẻ. Một đống ngồn ngộn toàn là hàng hóa đồ đạc của chị, nó lại phải đóng gói, bê vác, chen lấn xếp đồ lên tàu, . . . . mà vẫn vui vẻ, không kêu ca một lời. Chuyến đi buôn mang lại lãi lớn cho chị nên chị lại rủ nó đi chuyến thứ hai. Nó hùng hục chuẩn bị hàng hóa mất 5 ngày trời rồi lại nai lưng làm cửu vạn mang vác hàng hóa cho chị. Lần này nó cũng chỉ ké vào hai lọ thuốc tây như lần trước, cũng chẳng được lãi là bao.

Lần này hàng của chị cũng bán rất đắt ở chợ Bến Thành. Bán xong hàng cho chị, nó mang hai lọ thuốc tây của nó đi bán. Nó cảnh giác nên chỉ bán từng lọ một và giám sát chặt chẽ người mua hàng. Nó đưa lọ thuốc cho một thanh niên bé nhỏ, gầy gò, nhanh nhẹn để anh ta xem hàng và mua. Anh ta gỡ lớp xi ở nắp lọ ra, đổ thuốc vào lòng một chiếc mũ mềm và đếm thuốc. Lọ thuốc 1000 viên mà đếm đi đếm lại chỉ có 700 viên. Nó phát hoảng nhưng cũng nhanh, nó giằng lấy chiếc mũ thì thấy chiếc mũ có 2 lớp, anh chàng đã khéo léo cắt một đoạn chỉ may dài khoảng 5 phân gần chếch chếch về phía lưỡi trai. Trong quá trình đếm hắn đã khéo léo lùa thuốc xuống lớp vải phía dưới. Thực ra nó không hề phát hiện ra cú lừa đó, nhưng lọ thuốc nguyên 1000 viên chẳng thể nào sai được nên nó mới nghi ngờ và kiểm tra chiếc mũ.

Bán xong lọ thứ nhất, sang lọ thứ hai là thuốc quinin thì người mua kêu là thuốc giả, không mua. Nó kiểm tra lại thì thấy vỏ, nắp, nhãn và viên thuốc vẫn "nguyên đai nguyên kiện". Vậy là nó đã mua phải thuốc giả từ Sặt. Sau khi về lại Sặt, nhờ bố Khóa đổi hộ, ông cũng không đổi được. Vậy là nó mất cả lãi lẫn gốc.

Rời khỏi trung đoàn

Theo hẹn, sau một tháng, nó quay lại phòng quân lực thì toàn bộ chứng minh thư của trung đoàn nó đã được ký và đóng dấu. Nó lên đường trở về Pleiku.

Về đến đơn vị, nó nhận được 2 tin tức quan trọng. Một là, trung đoàn bộ có lệnh chuyển vào gần sân bay Cù Hanh để giao lại doanh trại cho đơn vị khác. Hai là, nó có quyết định ra dự Trại Sáng Tác Mỹ Thuật tại cơ quan Bộ Tư Lệnh Thông Tin. Thời điểm đó trại sáng tác đã hoạt động được gần một năm. Như thế thời gian nó được ra trại để học chỉ còn lại 6 tháng. Thôi thì "méo mó có hơn không", hãy cứ biết được ra cái đã, chuyện đến đâu hay đến đó.

Nhưng nó cũng chưa được đi ngay vì phải cùng đơn vị di chuyển đến nơi mới. Nó cùng mọi người ở trung đoàn bộ đóng gói đồ đạc, chuyển ra xe cam-nhông (camion – từ tiếng Pháp), chở đến địa điểm mới. Việc di chuyển mất một tuần. Ở nơi mới, nó được phân một phòng nhỏ chừng hai chục mét vuông, gần ban tham mưu, dưới một gốc cây cổ thụ lớn. Nó rất thích, xếp tất cả đồ đạc gọn gàng vào trong phòng. Dưới gầm giường, nó cất những tấm mi-ca (mica) lớn dày cỡ một phân, chuyên để làm nhẫn, lược, . . . . ., các cuộn cảm để cuốn sú-von-tơ (survolter), mô tơ, đèn led, công tắc đảo mạch, . . . . mà nó đã kiếm được ở sân bay từ trước, cất giữ để dùng dần. Còn một bộ sưu tầm trên một trăm cuốn Văn Nghệ Quân Đội nó sưu tầm được nhờ thằng Tiền, nó cho vào hòm gỗ để ở đầu giường. Xong xuôi, nó buộc dây thép kỹ càng rồi khóa cửa phòng và nhờ đồng đội trông hộ. Chắc nó chỉ đi từ 4 đến 6 tháng sẽ trở về .

Lúc đó, trung đoàn trưởng là trung tá Nguyễn Huy Văn được lệnh điều ra Bộ Tư Lệnh nhận nhiệm vụ mới. Thủ trưởng Văn rất quý nó, ông thường gọi nó theo khi đi kiểm tra đường dây. Nó làm nhiệm vụ chụp ảnh kỷ niệm cho thủ trưởng. Thủ trưởng Văn đi khỏi trung đoàn nhưng về sau này nó còn có nhiều chuyện liên quan tình nghĩa với ông.

Hôm tiễn chân nó đi học, cả ban liên hoan chung. trước khi vào bữa, thủ trưởng ban đọc quyết định phong quân hàm hạ sỹ và quyết định tặng giấy khen cho nó vì đã có cố gắng trong công tác. "Chắc là cũng do nó suýt chết khi bị lạc", nó nghĩ vậy.

Nó vui vẻ chuẩn bị lên đường nhưng cũng bùi ngùi lưu luyến chia tay đồng đội. Tưởng rằng nó đi ít lâu lại trở về, ai ngờ đó là lần nó chia tay mãi mãi với trung đoàn thân yêu, với bạn bè đồng đội, với căn phòng mới, . . . . Về sau này nó không còn có dịp trở lại. Vật cũ người xưa không còn nữa. Trung đoàn nó bị xóa phiên hiệu. Mọi kỷ vật mà nó để lại ở trung đoàn không thể tìm lại được. Nó rất tiếc, nhưng biết làm sao.

Ở Trại Sáng Tác Mỹ Thuật

Vào cuối năm 1978, nó được ra "Trại Sáng Tác". Trại viên chỉ có chừng chục người có năng khiếu hội họa, từ các đơn vị cơ sở tập trung về. Anh em ở nhờ trung đoàn 130 cùng đội nữ văn nghệ của Bộ Tư Lệnh. Nó được phát giấy, bút mầu, cặp, bảng và giá vẽ, được làm quen với các bài hình họa, trang trí, tranh bố cục, tranh áp phích cổ động, . . . . . Mặc dù không được học ở Sài Gòn và ra dự trại trễ gần một năm nhưng bài vẽ của nó hầu như không thua kém các bạn. Thậm chí có một vài môn nó còn nhỉnh hơn tí ti. Được thế là nó rất mừng rồi vì chút năng khiếu của nó cũng ví như cây hoa dại chưa được chăm sóc, vun trồng.

Phụ trách "Trại" bấy giờ là thiếu tá Ngô Hoàng Hương, "tuyên văn" của bộ tư lệnh. Trực tiếp phụ trách giảng dạy của trại là các anh Đặng Trường Lưu, anh Xuân Hạnh, trợ giảng là anh Phạm Ngọc Liệu. Lúc ấy, anh Lưu đã học trung cấp mỹ thuật, chuyên vẽ tranh cổ động. Anh Xuân Hạnh học cao đẳng mỹ thuật, phụ trách chung về chuyên môn.

Anh Đặng Trường Lưu người lùn, trán hơi hói, ăn nói sắc sảo, sâu xa, luôn luôn châm biếm, mỉa mai. Anh Lưu rất quý Phạm Bình Đính, có thể, trong chừng mực nào đó, Bình Đính là hiện thân của anh. Anh Lưu không ưa anh Hạnh, không ưa anh Liệu. Nó không hiểu tại sao anh Lưu lại rất ghét nó, có ý trù dập và hắt hủi nó, mặc dù nó chẳng làm gì có lỗi với anh.
Ngược lại, anh Xuân Hạnh và đặc biệt là anh Ngọc Liệu lại quý nó. Hai anh ân cần và chân thành chỉ bảo dạy dỗ nó. Tiếc cho anh Xuân Hạnh sống nghệ sỹ quá, giỏi chuyên môn nên hơi kiêu, sống buông thả, tự do, vô kỷ luật và rượu say suốt ngày. Đôi khi say quá anh nôn ọe, phát ngôn linh tinh, tự làm giảm uy tín bản thân và uy tín nghệ sỹ.

Anh Liệu thì kín đáo, khiêm tốn, chân thành và lịch lãm. Anh Liệu cũng học cao đẳng mỹ thuật ra. Sau này anh là một họa sỹ khá có tên tuổi.

Lớp nó có Đào Trung Hòa, vừa đẹp trai, vừa vẽ khá nhất. Sau đó đến Phạm Bình Đính. Số còn lại làng nhàng kiểu như nó, hơn kém nhau một chút không đáng kể.

Nó đi "xem mắt"

Hàng tuần, cứ chiều thứ 7, nó đạp xe về thăm bu và các anh, các chị. Chị Bính (vợ cả anh Bính) được thày bu nó cho mảnh đất ở ngõ Bưởi. Chị bán đi được ít tiền, bu nó cho thêm vài chục ngàn, chị mua mảnh đất ở ngõ Rừng có căn nhà cấp 4. Chị và hai cháu dọn về ở đó. Mỗi lần nó về, bu thường gọi chị Bính ra nấu cơm, chờ chị Yến đi làm về cùng ăn. Cả nhà vui vẻ và hạnh phúc. Chị Yến đã sinh được một cháu gái đặt tên là Nga. Bé Nga mới một tuổi, xinh như con búp bê. Mỗi khi về chơi nó mua quà cho cháu, bế cháu đi chơi rong khắp phố. Đến bữa bé Nga ngồi trong lòng nó, mút mát thức ăn nó đút cho. Hai chú cháu đều rất vui.

Nó đã sang tuổi 25, kể cả tuổi mụ. Ở quê nó lấy chồng lấy vợ rất sớm, con gái thường ở độ 17, con trai khoảng 20. Bạn bè đồng trang lứa nó đã nhiều đứa lấy vợ và có 2 con. Thấy nó vẫn lêu têu, chưa thành gia thất, bu nó liên tục nhắc nhở nó lấy vợ cho gia đình yên tâm.

Khổ một nỗi, ở trong làng, vai trong họ của nó rất cao vì nó là con út thứ 10, mà bố nó là trưởng họ, mẹ nó cũng lại là chị cả. Các cô gái tầm tuổi mà nó có thể lấy làm vợ, chọn được cô nào vừa mắt, hỏi ra lại toàn là hàng cháu nó cả. Do vậy, nếu nó lấy vợ làng là rất khó có "Đôi lứa xứng đôi" (*). Lần nào nó về, bu nó cũng giục lấy vợ. Giục mãi không được, bu nó cáu, quay ra mắng mỏ, rỉa rách nó.

Một sáng Chủ Nhật nọ, bu nó bắt nó đèo bu sang làng Lạc Đạo. Bu đã "tăm" được ở đó một cô giáo viên cấp 2 mới ra trường. Nó không muốn nhưng nể bu nên đành miễn cưỡng. Hai bu con đèo nhau trên chiếc xe đạp, vừa đi vừa hỏi thăm đường vào nhà bà Nhậm, có cô con gái tên Phượng.

Chiếc xe đạp đi trên con đường liên xã, hai bên là bạt ngàn ruộng lúa. Ngoằn nghoèo hơn chục cây số thì vượt qua đường tàu hỏa, tới một con mương thì lại rẽ theo bờ mương, hai bên là hai hàng phi lao cao và rợp bóng, gió lao xao vi vút. Khi đã vào làng, lại phải đi qua một cái sân đình. Ôi ! Con đường lấy vợ mới gian nan khúc khuỷu làm sao !

Hai bu con hỏi thăm tới một nhà có cái cổng mái vòm với cây dây leo hoa tím mọc xòa xuống từng nhánh. Sau hai cảnh cửa gỗ là một khoảng sân lát gạch đỏ rộng rãi rồi tới một căn nhà cổ mái lợp ngói mũi, kiểu nhà bức bàn. Toàn bộ khung gỗ, cửa và cột đều bằng lim, lên nước đen bóng. Ở giữa kê một chiếc sập gụ sát với một chiếc tủ chè bóng nhoáng. Ngước lên phía trên, nó thấy hoành phi, câu đối uy nghi, phía dưới là dường thờ lớn, trạm trổ công phu, sơn son thếp vàng. Bên phải ngôi nhà có một cái nhà ngang 3 gian cũng lợp ngói ta. Đầu hồi nhà là một giàn trầu không xanh um, có mấy ngọn trầu còn bám vào cây cau, leo lên mãi trên cao. Cạnh đó là một đống rơm to, phía sau là một khoảng vườn có mấy mái gà đang bới đất kêu cúc cúc gọi con. Toàn căn nhà toát lên vẻ giàu có, nề nếp và thanh bình.

(*) "Đôi Lứa Xứng Đôi" là chuyện "Chí Phèo" của Nam Cao.

Bà Nhậm người đậm, tóc bạc nhiều, nét cười hiền lành, phúc hậu. Thấy mẹ con nó đến, bà mừng lắm, đon đả nói cười. Mấy đứa trẻ con thập thụt ở cửa buồng cứ tò mò nhìn nó, tỏ ra rất háo hức và tinh nghịch. Mẹ con nó được mời ngồi trên chiếc sập gụ. Bà Nhậm gióng giả gọi :

- Phượng ơi ! Con ra pha nước mời bà với anh hộ bu. Còn anh Hùng chị Cúc xuống bắt con gà bu nhốt
sẵn trong lồng, làm cơm ù lên nhé !

Có mấy tiếng dạ, vâng ở nhà sau một lúc thì Phượng bước ra. Đó là một cô gái dong dỏng cao, da trắng, môi quả tim đỏ mọng. Trông rõ là gái đi học ở tỉnh về, toát ra chất của cô giáo, lại có nét dịu dàng đẹp thuần khiết, phảng phất màu "quê kiểng". Phượng bẽn lẽn chào mẹ nó, chào nó rồi ra giót nước mời. Bu nó nhìn Phượng chằm chằm như đang đưa lên bàn cân đong đếm làm cho Phượng càng ngượng ngập, lúng túng.

Bu nó bảo Phượng ngồi cùng, bà hỏi chuyện gia đình ,chuyện dạy học và nhiều thứ khác. Nó chẳng biết nói gì nên ra sân hút thuốc, xem xét, ngó nghiêng. Một lúc lâu sau, bà Nhậm muốn tạo điều kiện cho hai đứa nói chuyện riêng nên gọi nó :

- Anh Thập ơi ! Bác nhờ cháu và em Phượng ra vười hái hộ ít quả mướp, rau đay, mùng tơi cho chị
Cúc nấu canh. Tiện thể bác nhờ anh trèo cây hái ít ổi, ít khế và quả mít.

Nói xong, bà dúi vào tay Phượng chiếc rổ ra hiệu cho Phượng dẫn nó ra vườn.

Vườn nhà Phượng rất rộng và đẹp, có nhiều loại cây cây ăn quả, vài luống rau đay, húng, tía tô, . . . . Nắng vàng loang lổ, gió nhè nhẹ lao xao cây lá. Nó và Phượng hái mướp, hái rau, hái ổi, nhưng cả hai đứa đều ngượng ngập chẳng biết nói chuyện gì . Mãi sau Phượng mới hỏi :

- Đơn vị anh đóng ở Hà Nội à ?
- Không, ở Pleiku cơ ! Anh chỉ ra Hà Nội học, mấy tháng nữa lại vào.
- Thế chắc ít được về lắm nhỉ ?
- Ừ ! Lính mà. Đơn vị đi đâu mình ở đó sao mà biết trước được.
- Thế mà bu em bảo là . . . .
- Chắc bu em tưởng là anh ở Hà Nội chứ gì ?

Phượng không nói gì, nó cũng im lặng. Nó nghĩ, câu trả lời của nó rất hay, Phượng sẽ hiểu ý mà không mất lòng.

- Sao anh không lấy vợ đi cho bác yên tâm ?

Phượng hỏi vậy, nó được dịp nói rõ hơn :

- Anh còn trẻ quá chưa có ý định lấy vợ. Vả lại, vài tháng ở gần nhà rồi lại đi, tương lai chưa biết
thế nào. Bu anh cứ ép vậy, anh nể bà chứ thực lòng anh chưa hề nghĩ đến chuyện gia đình.

Nghe nó nói thế, Phượng chỉ im lặng mà nó cũng không nói gì thêm nữa. Lâu sau, Phượng nói :

- Thôi em vào làm cơm cùng anh chị Cúc đây.

Biết Phượng đã hiểu ý, chờ Phượng đi khuất, nó nhặt vài quả ổi, quả khế cho vào rổ rồi lững thững mang vào để ở bậc thềm.

Cơm nước xong, hai bu con nó xin phép về. Bà Nhậm còn biếu bu nó quả mít làm quà. Trên đường về, bu nó hỏi :

- Bu thấy cái Phượng cũng được đấy, anh thấy thế nào ?
- Con thấy bình thường, nhưng con còn trẻ, chưa muốn lấy vợ.

Chuyện nó với cô giáo Phượng coi như không xong. Bu nó rất buồn nhưng cụ chưa chịu lùi bước. Ở thị trấn Bần cách nhà nó 5 cây số về phía Hà Nội có một bà bạn bu nó, gia đình cũng giàu có và nề nếp. Hai bà thân nhau từ ngày buôn bán dưới thời Pháp. Ông bà cũng sinh được mười người con như nhà nó. Cô con gái thứ bảy tên là Kim Tuyến, 22 tuổi vừa tốt nghiệp Cao Đẳng Ngân Hàng và được phân công công tác vào Đà Lạt. Nhưng nếu đã lấy chồng thì được ở lại ngoài Bắc, không phải phân công đi xa nữa. Cho nên mẹ Kim Tuyến mới nhắm nó làm con rể. Bà liên tục nhắn gọi nó lên chơi và chăm chút cho nó rất cẩn thận như đối với đứa con trai. Bà làm ruốc, đan găng tay, đan khăn len, áo len cho nó, . . . . Bà luôn tìm cách cho nó với Kim Tuyến gặp nhau và có điều kiện ở riêng với nhau.

Buồn một nỗi nó lại không thích Kim Tuyến. Lẽ thứ nhất là nó tự ti vì Kim Tuyến có học hành mà nó thì không. Lẽ thứ hai là nó thấy việc xếp đặt này gần như cưới chạy để Kim Tuyến không phải đi xa chứ không phải vì tình cảm hay quý hóa gì nó, nó tự ái lắm chứ. Kim Tuyến cũng khá xinh, hơi ngăm đen, tóc hơi xoăn và "đường nét" rất được. Nhưng nó vẫn cố tình thờ ơ lảng tránh Kim Tuyến.

Hai tháng sau Kim Tuyến sang nhà chào nó và chào gia đình. Nàng vào Đà Lạt nhận công tác.

Đi thực tế biên giới phía Bắc

Ngày 17/2/1979 Trung Quốc đưa quân ồ ạt tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc. Đồng bào ở khu vực biên giới đã đi sơ tán vào sâu trong lãnh thổ. Tất cả các phương tiện ô tô, tàu hỏa đều được sử dụng để đồng bào chạy giặc. Bấy giờ, ga Hàng cỏ cũng như các bến xe ở Hà Nội chật ních đồng bào tản cư. Những chuyến xe, chuyến tàu từ phía Bắc về đầy ních người, chen chúc, chật chội, thậm chí còn ngồi, nằm la liệt trên nóc tàu hỏa, bám vào cánh cửa toa, đu vào ô tô với lỉnh kỉnh tay nải, túi xách,. . . . Chẳng những bến tàu, bến xe mà các hè phố lân cận cũng đầy ắp người tản cư, chen lấn xô đẩy, ngồi, nằm vạ vật.

Ngược lại, các chuyến tàu và xe đi lên phía Bắc hầu hết là bộ đội đủ các quân binh chủng. Những cuộc hành quân bằng mọi phương tiện, hối hả lên trấn giữ biên ải.

Trước tình hình thực tế nóng bỏng trên chiến trường, Trại Sáng Tác Mỹ Thuật được lệnh lên tham gia ghi chép, lấy tài liệu thực tế chiến đấu của bộ đội. Nó nằm trong một đoàn gồm 6 người do họa sỹ Đặng Trường Lưu làm trưởng đoàn, anh Bàng làm phó đoàn. Bốn thành viên còn lại là thằng Hướng, thằng Bằng, thằng Hân và nó.

Nó được cử xuống kho khí tài tại Cổ Nhuế nhận súng. Mỗi người được phát một khẩu AK, một lưỡi lê, hai cơ số đạn, bi đông, tăng, võng và những trang bị tối thiểu cho một chiến sỹ trước khi ra trận. Nhưng nhiệm vụ của đoàn không phải trực tiếp tham gia chiến đấu, mà là lấy tư liệu về cuộc chiến, phục vụ cho triển lãm tranh bộ đội được mở vào cuối năm. Ngoài vũ khí cần thiết, hành trang của chúng là cặp vẽ, giấy, bút, họa phẩm và máy ảnh. Cùng đoàn nó còn có 5 thành viên trong Đội Tuyên Văn của binh chủng, đi "phục vụ bộ đội tại chiến hào".

Cả đoàn hành quân ra ga Hàng Cỏ để nhập vào một tiểu đoàn bộ binh cũng đang trên đường hành quân lên biên giới. Lúc đó vào khoảng 2 giờ sáng. Sân ga tấp nập toàn người là người, đồng bào từ trên biên giới về, đang chen chúc, đầu tóc rối bời, gương mặt thất thần, tay xách, nách mang, gọi nhau ơi ới.

Chúng xếp hàng cạnh đội hình của tiểu đoàn bộ binh, trật tự lần lượt lên tàu. Đoàn của chúng được xếp ngồi trên cùng một toa. Tất cả các thành viên khác trong đoàn ai cũng có người thân ra đưa tiễn, quấn quýt, rất bịn rịn. Nó không có người tiễn, một mình lẳng lặng lên toa, hơi trạnh lòng và tủi thân một chút. Dù chuyến đi này không phải là quá gay go khốc liệt nhưng cũng là chuyến đi nguy hiểm. Nó có nhiều bạn bè ở Hà Nội nhưng không báo ai. Trong khi đó, anh chị em ruột của nó thì đều biết. Vậy mà chẳng ai để ý, đưa tiễn hay động viên nó một lời. "Chín khúc ruột mềm" của nó là như vậy, biết làm sao.

Tàu dừng lại cách thị xã Lạng Sơn 15 cây số. Tiểu đoàn bộ binh xuống tàu là hành quân đi ngay. Đoàn của chúng thì co cụm lại một chỗ chờ đoàn trưởng liên lạc địa điểm đến. Chúng sẽ phải hành quân leo dốc núi lên điểm chốt trên đỉnh núi. Nhá nhem tối đoàn của chúng mới tới được chân núi nên phải rẽ vào bản của đồng bào người Nùng liên hệ nấu cơm và ngủ nhờ để sáng hôm sau đi tiếp. Đồng bào vui vẻ cho mượn xoong nồi, bát đĩa, cho củi khô, nhưng yêu cầu nấu và ăn cơm ở ngoài nhà, trên một vuông đất trống.

Đến chuyện ngủ nhờ thì đồng bào chỉ đồng ý cho bộ đội nam vào ngủ trong nhà, bốn chị em nữ của đội văn nghệ không được phép ngủ trong nhà. Xã đội trưởng giải thích cho anh chị em thông cảm vì đây là phong tục của đồng bào.

Ăn xong, trưởng đoàn quyết định, tất cả mọi người đều mắc võng ngủ ngoài rừng. Võng 4 chị em ở trong, võng của anh em bao bọc vòng ngoài. Không được đốt lửa.

Đêm đến, phía biên giới vẫn ùng oàng tiếng súng, lúc xa, lúc gần, lúc lớn, lúc nhỏ. Dù sao khu bản này ở vẫn ở xa mặt trận nên lính tráng ngủ rất ngon lành.

Sáng hôm sau đoàn chia làm hai. Đội văn nghệ do anh anh Bào phụ trách và 4 chị em tìm vào các cơ quan của d bộ hay e bộ ở chân núi. Nhóm 5 người chúng nó thì bắt đầu leo núi.

Chúng đi theo đường mòn của bộ đội hành quân lên xuống chốt hàng ngày. Đường leo dốc quanh co, dựng đứng, địa hình đất lẫn đá. Càng lên cao, không khí càng lạnh hơn và sương mù càng dày đặc. Những giọt sương nước li ti lang thang, nhảy múa, lững lờ. Không khí ngày càng loãng mà nó lại cảm thấy hơi sương đặc quánh đến khó thở. Ai nấy quần áo ướt sũng, một phần vì sương lạnh, một phần là mồ hôi túa ra, đổ hột, mặc dù trời đang rất rét.

Đến gần trưa thì chúng tới nơi. Đó là điểm cao 610. Khu vực điểm cao này do một đại độ bộ binh chốt giữ, rải rác trên nhiều cao điểm gần nhau. Điểm mà nhóm của nó tới là điểm chốt của một trung đội phía trước, thường trực chiến đấu. Hầm chỉ huy của trung đội được bố trí trong một hang đá nhỏ ở sườn núi phía sau, cách điểm chốt tiền tiêu khoảng 200 mét. Ở trong hang, có bếp nấu cơm cho bộ độ, có bàn làm việc của trung đội và sạp ngủ. Tất cả đều được ken bằng cây dóc (một loại cây giống như tre nhưng nhỏ hơn nhiều).

Trên đỉnh núi là một dải đất khá bằng phẳng, lác đác lô nhô vài tảng đá, cây cối thưa thớt, rất ít cây to, chủ yếu là cỏ gianh và cây lúp xúp. Ở mỗi một chốt có các hầm chốt chữ "T" xuyên vào lòng núi đất. Bên ngoài có 8 ụ súng và các giao thông hào nối thành hệ thống liên hoàn. Trên một tảng đá cao nhất có đặt một đài quan sát.

Đứng trên đài quan sát nhìn qua thung lũng sang bên kia biên giới thấy quân Trung Quốc lập trại khá đông, lố nhố tắm giặt, ăn uống ở bờ suối. Trên điểm cao đối diện, cũng có các cụm súng pháo chĩa sang phía bên này. Lúc hai bên đang đánh nhau, lính của hai phía không dám đi lại thoải mái như bây giờ vì sợ pháo kích và sợ bị bắn tỉa. Lúc này là lúc đang ngừng bắn nên không bên nào nổ súng. Thỉnh thoảng đâu đó có súng nổ đì đoàng, không biết là bắn nhau hay bắn xúc vật lấy thịt ăn.

Trên đường đi lên chốt có xác vài con trâu, con bò. Đó là những con vật được thả rông và bị lính ta dùng súng bắn tỉa bắn chết. Chúng lăn lông lốc xuống chân núi. Anh nuôi chạy xuống chỉ nhè vào đùi xẻ lấy vài chục cân thịt, gùi về, thái miếng to như nắm tay, ninh nhừ trong nồi quân dụng. Phần còn lại của con vật bị bỏ cho tự thối rữa. Phí quá ! Nó rất tiếc.

Ở trên chốt ban ngày chúng cùng nhau vẽ ký họa bộ đội, ụ súng, ụ pháo, các sinh hoạt trong lán, trong hầm. Anh Lưu và thằng Hướng chỉ vẽ một ngày trên chốt, tối hôm đó hai người xuống lán của trung đội ngủ và ghi chép tiếp ở đó. Còn ba đứa ở trên chốt, tối chúng được bố trí vào 3 chiếc hầm chữ "T" ngủ cùng lính chiến, mỗi hầm 2 người. Căn hầm chữ "T" rộng khoảng 60cm, mỗi cánh của chữ "T" âm vào lòng đất sâu khoảng 1 mét, phần "cán" chữ "T" là cửa hầm ăn ra ngoài sâu khoảng 1 mét, dài 1 mét, rộng 80 phân.

Thực sự căn hầm chữ "T" rất chật chội khi có hai người cùng nằm ngủ. Ba lô thì để trong cùng, hai người đều phải nằm nghiêng, không duỗi được chân. Cả đêm cứ phải giữ nguyên tư thế như vậy vì nếu cụ cựa thì đất cát rơi xuống rào rào. Tư thế ngủ gò bó này người mỏi nhừ, không khác gì tra tấn. Lính chốt nhào vô hầm một tí đã thấy ngáy o o . . . . Đêm đầu tiên, nó không quen nên mãi không ngủ được. Nó nhẹ nhàng lách người chui ra cán chữ "T", châm thuốc ngồi hút.

Cảnh đêm tĩnh mịch trên chốt, thấy thương cho mảnh đất này bao năm không ngớt chiến tranh, nó ghi vào sổ tay :

Đêm trong hầm trên chốt Lạng Sơn ơi !
Sương gió lạnh lùa sâu vào chân tóc.
Hầm chữ "T" nằm nghiêng không nhúc nhích,
Giấc ngủ chập chờn nào có đến cho đâu.

Truồi ra ngoài hút thuốc để ngắm sao.
Thị xã Lạng Sơn phập phùng lửa cháy,
Cầu Kỳ Lừa dưới pháo bầy quằn quại,
Nhịp sắt khẳng khiu vươn mãi cánh tay gày.

Quân bành trướng đã tràn ngập qua đây,
Vò nát mảnh đất thiêng Phía Bắc.
Nàng Tô Thị ôm con đứng khóc,
Căm lũ giặc lại gây ra tang tóc.

Chiến trường phía Nam, máu ứa đã khô dần.
Nay bộ đội lại thêm lần ôm súng.
Trên chốt địa đầu Tổ Quốc ta đứng,

Giữ vững bến bờ, giữ yên biên giới quê hương.

Nhóm chúng nó ở trên điểm cao 610 ba ngày đêm, thu thập được nhiều tư liệu quý về người lính biên cương trên chốt. Sau đó vài ngày nhóm xuống chân núi vẽ tiếp ở các đơn vị pháo binh, công binh, thông tin, cao xạ, . . . . Rồi nhóm được lệnh lấy tư liệu trong thị xã Lạng Sơn vì lúc ấy quân tàu đã rút khỏi đó.

Lần đầu tiên nó được tới thị xã Lạng Sơn. Nó cảm nhận ngay được đây là một thị xã đẹp thơ mộng, có núi, có động, có rừng, có sông. Quân Tàu tràn qua, trước khi rút đi, đã tàn phá tất cả. Giờ đây thị xã là cảnh đổ nát, hoang tàn, không còn một ngôi nhà hay công trình nào nguyên vẹn. Không còn người dân nào ở lại thị xã nên cảnh đổ nát càng thêm tiêu điều, chết chóc. Nhóm chúng đi dọc theo các con phố vắng lặng. Thỉnh thoảng chúng có gặp một vài người lính đeo băng đỏ, khoác AK làm nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ thị xã.

Sông Kỳ Cùng đang mùa nước cạn, trơ cả đáy. Cầu Kỳ Lừa đã bị địch đánh sập, giơ lên những thanh thép đen nhẻm, quăn queo như những cánh tay ghẻ lở, gày guộc xiên lên nền trời xám xịt. Dưới lòng sông, xác trâu bò, lợn gà chết trương phềnh, lập lờ trong các vũng nước còn xót lại. Chợt nó nhìn thấy một cánh tay và một mái đầu lơ phơ tóc đang dập dềnh trong một vũng bùn đặc. Tất cả đầu bốc mùi khăn khẳn, ruồi nhặng bâu đen, . . . .

Không khí sặc mùi xú uế, tang tóc. Nhà cửa đổ nát, cây cối xác xơ, mặt đường bị cày xới, băm vằm, đồ đạc, xoong nồi, chăn màn, quần áo, giường tủ vương vãi khắp nơi. Tất cả các cửa hàng cửa hiệu đều bị đập phá, kính nát vụn, vung vãi. Đây đó, một vài ngôi nhà vẫn còn đang cháy âm ỉ, khói đen vẫn còn cuộn lên. Một vài con chó, con mèo lạc chủ chạy vụt qua như những bóng ma, tru lên tiếng kêu ai oán.

Nhóm của chúng hối hả lấy máy ảnh, cặp vẽ ra ghi lại những hình ảnh đổ nát, tang thương đó. Rất nhiều tư liệu sống động được thu thập. Tối đến, chúng chọn một căn nhà còn "tương đối", rồi tìm xoong nồi ở loanh quanh đó mang về thổi cơm, nấu nước. Trong khi chờ cơm, mấy đứa còn lượm được ô mai, cam thảo, rượu thuốc, rượu Lúa Mới vương vãi đây đó. Chúng thắp vài cây nến rồi ngủ qua đêm để hôm sau lại tỏa ra đi vẽ tiếp các nơi.

Ở Lạng Sơn vài ngày rồi nhóm lại di chuyển lên Đồng Đăng. Thị trấn Đồng Đăng cũng tan hoang, đổ nát và hoang vắng không khác gì Lạng Sơn.

Có một điều mà chúng thấy lạ, ở cả Lạng Sơn và Đồng Đăng. Trên các bức tường ngoài phố và trong nhà, đâu đâu địch cũng viết khẩu hiệu bằng tiếng Việt "Chủ tịch Mao Trạch Đông muôn năm !", "Hồ Chí Minh muôn năm !", "Đả đảo tập đoàn Lê Duẩn !". Trong một số nhà, chúng còn thấy ảnh Bác Hồ và ảnh Mao chủ tịch treo trang trọng bên cạnh nhau, còn ảnh TBT Lê Duẩn thì bị băm nát và bôi bẩn.

Mấy ngày ở đồng Đăng, có hôm chúng vào nghỉ đêm trong động Tam Thanh. Đó là một cái động đá rất rộng và rất đẹp với nhiều nhũ đá đủ các hình thù rủ từ trên xuống. Trong động vẫn còn nhiều đồ đạc, bếp nấu, vật dụng sinh hoạt của bà con trú ẩn trước đó còn vương lại.

Buổi cuối cùng ở Đồng Đăng, tình cờ chúng đi qua một dãy phố buôn bán thuốc. Thôi thì đủ các loại đông dược quăng quật khắp nơi. Chúng nó chỉ quan tâm đến mấy thứ chén được, cam thảo, hạt sen, quế chi, ô mai và nhất là táo tàu. Chúng đua nhau nhét đầy các cóc ba lô. Trong mấy cửa hiệu thuốc tây, chúng thấy la liệt các hộp ca-pốt (bao cao su) vứt lung tung. Phần vì tò mò, phần vì nghịch, chúng cũng vơ một đống, nhét vào túi cóc.

Khi chúng rời Đồng Đăng, quay ra bến tàu để trở về Hà Nội thì cũng là sau mươi ngày quân Tàu đã rút. Lác đác đã có đồng bào trở lại nhà để dọn dẹp trong đống đổ nát.

Sau một ngày hành quân bộ, chúng lên tàu về Hà Nội. Chúng về đến đơn vị thì đã tầm 2 giờ sáng. Trước khi đi ngủ, mấy thằng nghịch ngợm còn mang ca-pốt ra thổi. Quả to thì như bóng bay, quả nhỏ thì trông như "cái kia", tất cả đều màu trắng. Chúng buộc túm mấy quả một với nhau rồi treo dọc theo dây phơi quần áo và dây phơi khăn mặt bên nhà chị em nữ của đội văn nghệ.

Sớm hôm sau, chị em nhìn thấy bong bóng khắp nơi, hét ré lên, kéo nhau hết một lượt ra xem, rồi cười đùa rinh ríc, đấm lưng nhau thùm thụp.

Chúng nó tập trung hoàn thiện các bức vẽ sau chuyến đi thực tế thành các tranh ký họa chì, bút sắt, màu nước, bột màu, sơn dầu, . . . . Những bức đó được chọn lọc và tổ chức trưng bày "Ký Họa Chiến Tranh" tại nhà văn hóa binh chủng.

Sau đó một số bức tranh đẹp của mỗi đứa còn được tham gia treo tại Phòng Thông Tin ở phố Tràng Tiền, đối diện rạp Công Nhân (sau này Hội Mỹ Thuật Hà Nội mới có riêng một phòng trưng bày, triển lãm tranh ở 16 Ngô Quyền).


Đi thực tế ở miền Nam

Ở trại sáng tác được ít lâu, bọn chúng lại được lệnh đi thực tế vào các tỉnh phía Nam. Nhiệm vụ của bọn chúng là ký họa, chụp ảnh lấy tài liệu về các hoạt động của binh chủng thông tin, cảnh lao động và sinh hoạt của người dân, chuẩn bị cho các sáng tác để tham gia triển lãm mỹ thuật toàn quân vào năm sau. Cả trại chia làm mấy nhóm, mỗi nhóm chọn một vùng để ghi chép. Nhóm của nó gồm Phạm Bình Đính, Đào Trung Hòa và nó.

Chúng được cấp giấy công lệnh và "giấy giới thiệu" của binh chủng, cho phép chúng cỏ thể dừng chân, ăn nghỉ tại tất cả các đơn vị thông tin nào mà chúng đi qua. Chúng còn được cấp tiền công tác phí, nhu yếu phẩm, họa phẩm, . . . . Ngoài tư trang lính, chúng phải mang theo lỉnh kỉnh đủ thứ "đồ nghề", cặp vẽ, giấy, bút, màu, . . . . Nó cũng mang theo máy ảnh để chụp nhanh những nơi không đủ thời gian ký họa.

Nhóm mấy đứa nó vào mấy tỉnh miền Trung Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn. Trời đã vào thu mà miền trung vẫn rất nóng. Chúng "lê la" khắp nơi trong cái nắng rát ong ong, nhoài người ra "ghi chép"các cảnh sinh hoạt, hoạt động của bộ đội, của nhân dân các xóm chài, đồng muối và phong cảnh, . . . .

Có hôm chúng nhận khẩu phần ăn cả ngày bằng mỳ tôm rồi đi lang thang trên các bãi biển của xóm chài mà vẽ phong cảnh, vẽ cảnh kéo lưới trên bờ biển, cảnh đồng muối bạc lấp lóa thiêu đốt trong nắng, cảnh đan lưới, xảm thuyền, . . . .

Những nơi chúng đi qua, bà con ai cũng quý. Mỗi lần chúng ngồi vẽ, trẻ con trong xóm xúm lại xem, thì thào, xuýt xoa và đùa nhau chí chóe. Buổi trưa chúng mắc võng nghỉ dưới tán dừa, lấy mỳ tôm ra nhờ dân làng nấu hộ vì chúng chẳng có nồi xoong hay củi lửa. Thương tình mấy chú lính chỉ có mỳ không, nên bà con bao giờ cũng nấu mỳ cho chúng bằng nước dừa, có khi còn cho thêm mấy con tôm, con ngao. Mỳ tôm, mỳ ngao ngon tuyệt !

Đi dọc miền trung đã được nhiều ngày, nhóm của nó nảy ra sáng kiến chuyển vùng lên Đà Lạt để thay đổi cảnh mà lại tránh được cái nóng đang gay gắt. Xe ô tô đưa chúng vượt qua vùng đồng bằng, lên cao dần. Cao nguyên Trung phần quen thuộc lại hiện ra trước mắt chúng, mênh mang, khoáng đạt và lộng gió. Qua vài con đèo lớn nhỏ, hết một khúc cua lớn nhất thì tới Đà Lạt. Đó là một thành phố cao nguyên nằm trong một vùng thung lũng lòng chảo lớn, một "thành phố trong rừng" với những cái tên thơ mộng "Thung Lũng Tình Yêu", "Hồ Than Thở", "Đồi Mộng Mơ", "Thác Datanla", "Thác Prenn", "Thung Lũng Vàng", "Cao Nguyên LangBiang" với câu chuyện tình chàng Lang dũng cảm và nàng Biang xinh đẹp, "Hồ Đankia", "Suối Vàng", "Suối Bạc", . . . .

Xe đưa chúng theo con đường quanh co, tiến dần vào trung tâm thành phố. Hai bên đường là các biệt thự xinh đẹp ẩn mình trong những hàng cây thông cao vút, cây hoa dây quấn quýt đủ loại đua nhau nở, khoe sắc màu rực rỡ. Đến trung tâm thành phố, chúng chuyển sang đi xe ngựa. Từ đây, xe ngựa đưa chúng đến điểm dừng chân là một đơn vị thông tin nằm trong trung tâm Vật Lý Hạt Nhân, ở ven đô Đà Lạt.

Thời tiết của thành phố cao nguyên này rất kỳ lạ. Một ngày có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Sáng sớm, trời rất lạnh. Đến khoảng tám, sương đã tan, tiết trời ấm áp, ẩm dìu dịu như mùa xuân. Đến giữa trưa trời nắng gắt đúng như mùa hè. Sau 3 giờ chiều, trời bắt đầu xe xe như tiết mùa thu, cho đến 6 giờ chiều thì lạnh hẳn. Đêm đến thì trời rét căm căm, phải đốt lửa sưởi ấm như mùa đông.

Sau bữa sáng, chúng ra khỏi nhà đi vẽ, thường ních đủ thứ áo ấm. Rồi chúng cứ cởi dần áo, đến trưa thì chỉ còn mặc độc áo cộc tay. Tầm chiều, các đồ cởi ra lại được mặc dần trở lại cho tới khi về đến nhà thì đã đóng đủ lệ bộ chống rét như buổi sáng.

Xin đừng quên em !

Ngay từ lúc tới thành phố này, nó và Bình Đính đã nghĩ tới Kim Tuyến. Chuyện của nó với Kim Tuyến thì nó đã kể với Bình Đính và Trung Hòa. Giá mà ngày ấy, nó đồng ý lấy Kim Tuyến thì nàng đã không phải điều vào tận cái thành phố xa lắc xa lơ này. Bình Đính cũng quen Kim tuyến từ ngày học chung trường cấp III của huyện. Bây giờ chuyện đồng hương tìm nhau ở nơi xa quê, chắc hẳn mọi người đều vui. Đà Lạt là một thành phố nhỏ nên chúng nó chẳng khó khăn gì tìm được Kim Tuyến. Nàng đang làm ở ngân hàng thành phố Đà Lạt, nằm tại trung tâm và được phân một gian nhà tập thể trong khu biệt thự cổ gần đó.

Sau hai ngày làm việc trong đơn vị thông tin, hôm đó là cuối tuần, chúng liên lạc được với Kim Tuyến và rủ nàng đi chơi. Kim Tuyến rủ thêm hai bạn gái trong cơ quan cùng đi. Mới mấy tháng không gặp mà Kim Tuyến đã đổi khác rất nhiều. Nó không còn thấy nàng ngăm ngăm, mà thật sự là Kim Tuyến rất trắng, phải nói là "đẹp nõn". Trông Kim Tuyến sâu lắng hơn, đĩnh đạc hẳn, ra dáng con gái thành phố, "hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Hẳn là cái không khí mát mẻ của cao nguyên và tư thế của nàng trong công việc đã làm cho nàng thay đổi rất nhanh.

Ba cô gái dẫn ba thằng chúng nó bằng Honda đi thăm thành phố, thăm nhà thờ Con Gà (nhà thờ lớn), dạo quanh Hồ Xuân Hương, chùa Quan Thế Âm, thăm ga xe lửa Đà Lạt, rồi ra hồ Than Thở, hồ Mê Linh, hồ Chiến Thắng, thung lũng Tình Yêu, đồi Mộng Mơ. Cuối cùng quay trở lại phía tây ngắm cảnh thác Cam Ly. Thằng Đính và Thằng Hòa đã biết chuyện hai đứa, bây giờ nhìn "đầu mày cuối mắt" của Kim Tuyến và nó, hai thằng tế nhị, lảng đi chỗ khác.

Nó chở Kim Tuyến ở phía sau, nghe dịu ngọt tiếng nàng giới thiệu với nó như một hướng dẫn viên du lịch thực thụ. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp, không khí mát mẻ, khoáng đạt, tiếng thẽ thọt của người con gái xinh đẹp ngay bên cạnh, không khỏi làm cho nó cảm thấy xốn xang, rung động.

Đến trưa thì hai đứa đi hết một vòng và dừng chân dưới một gốc thông rất lớn ngay gần thác Cam Ly. Chúng bày đồ ăn trên tấm nylon, chả gì thì nó cũng góp được phong lương khô. Hai đứa nghỉ ngơi nói chuyện một lúc lâu rồi Kim Tuyến đưa nó ra ngắm thác Cam Ly, nàng dẫn nó đi dọc theo con suối Cam Ly.

Nó trông thấy một vạt hoa tím rất đẹp bên bờ suối. Kim tuyến bảo nó đấy là hoa lưu ly. Hoa này được nhập từ phương tây về Đà Lạt đã hàng trăm năm nay và bây giờ trở thành một trong hai loài hoa đặc trưng của Đà Lạt, là hoa lưu ly và hoa mimosa. Cả hai loài hoa này đều là hoa của tình yêu.

Hoa mimosa màu vàng óng ả, người ta còn gọi là "trinh nữ hoa vàng". Hoa này có nguồn gốc từ Úc. Chuyện kể rằng, Ngày xưa, ở vùng đất Australia tươi đẹp nằm giữa biển khơi đầy nắng ấm có một đôi tình nhân yêu nhau say đắm, chàng là con của một người dân thường, có thân hình vạm vỡ, nước da đen bóng và một trí thông minh tuyệt vời. Nàng là con gái cưng của một gia đình quý tộc, đẹp rực rỡ, đài các, yêu màu vàng và được Chúa ban cho một tấm lòng nhân hậu. Họ đã trao nhau những nụ hôn say đắm và cả cuộc đời trên cảng biển Sydney thơ mộng. Nhưng rồi, gia đình nàng lại ép gả cho một Công tước Hoàng gia. Sau bao phen phản đối kịch liệt không thành, nàng đành chấp nhận lên xe hoa. Chàng buồn phiền từ giã biển khơi, bỏ nghề chài lưới, lên một vùng núi cao hiểm trở làm nghề giữ rừng để quên đi mối tình tuyệt vọng. Khi đặt chân đến nơi, thì một trận hỏa hoạn dữ dội xảy ra. Một mình chàng bất chấp hiểm nguy đã cứu những cánh rừng xanh và những con Canguru tội nghiệp. Và rồi, ngọn lửa quái ác kia đã làm chàng ngất xỉu và thiêu sống chàng.

Hay tin chàng trai bỏ thành phố biển lên ngàn, tìm chốn quên mối tình đầu dang dở, trong đêm tân hôn cô gái đã bỏ trốn để tìm người yêu. Nhưng, hỡi ơi! Gặp được thì nàng không còn tin vào mắt mình nữa khi nhìn thấy thân xác chàng bên đống tro than của cánh rừng bị cháy. Nàng quỳ xuống và gục chết bên người yêu. Từ đó, trên vùng núi cao của đất nước Australia thơ mộng - nơi cặp tình nhân đã chết cho tình yêu xuất hiện một loài cây thân mộc, lá màu xanh biếc, lấp lánh hoa vàng thơm mát - Mimosa.

Hoa lưu ly có tên tây là "Xin đừng quên em !" - forget me not. Ngày xửa ngày xưa, vào một buổi sáng mùa xuân có một đôi tình nhân dắt nhau dạo chơi bên bờ một con suối có những bông hoa cánh tím mỏng manh rất đẹp mọc thành từng mảng dày. Tất cả các bông hoa đều vươn mình về phía dòng nước, như thể muốn soi xem chúng kiều diễm đến mức độ nào. Cô gái thấy chúng đẹp và lạ quá bèn nhoài người ra định hái mấy nhành tặng người yêu, lúc đó đang mải ngắm dòng thác đổ trên cao.

Không may cô bị trượt chân ngã, và chỉ trong nháy mắt, dòng suối đã cuốn mất bóng cô, chỉ còn để lại một nhành hoa gãy với lời vọng lại: "Xin đừng quên em !". Từ đó, lời dặn của cô gái trở thành tên riêng của loài hoa này.

Lời kể chuyện của Kim Tuyến về hoa lưu ly như vận vào hai đứa. Cũng dòng suối đây, cũng thác nước kia, cũng vạt hoa lưu ly tím, và cũng hai người bên nhau . . . .

Kim Tuyến mở chiếc khăn mùi xoa thơm ngát mùi hoa lan, bên trong là một cuốn sổ tay nhỏ màu đỏ. Nàng nâng niu cuốn sổ rồi lật vài trang. Ở đó có một bông hoa lưu ly được ép khô vẫn tươi rói sắc tím :

- Tặng anh cuốn sổ để anh ghi nhật ký và đây là bông hoa "Mong anh đừng quên Tuyến !"

Sau nhiều ngày làm việc, đến lúc chúng nó lên đường rời Đà Lạt, Kim Tuyến cùng hai người bạn ra tận bến xe tiễn biệt. Nó thấy bùi ngùi và lưu luyến lắm nhưng chẳng biết nói gì. Nó cầm và giữ tay nàng hơi lâu, mãi mới cất nên lời :

- Tuyến giữ gìn sức khỏe, anh đi nhé !

Sau này nó làm mất cuốn sổ đỏ và bông hoa "chia ly", kỷ vật mà Tuyến tặng nó, bên con suối mộng mơ, một thời trai trẻ. Tới khi tuổi gần 60, về quê để mời đám cưới con nó, nó mới có dịp hỏi thăm Kim Tuyến. Nàng ở Đà Lạt, lấy chồng là sỹ quan quân đội cùng quê, anh chồng đã nghỉ hưu. Còn Kim Tuyến làm giám đốc ngân hàng trung tâm thành phố. Được vài năm thì nàng chết do căn bệnh ung thư.

Nó chợt giật mình và thầm gọi : "Anh có lỗi với em rồi, Tuyến ơi !"

Trở lại sau cái ngày Chủ Nhật ngọt ngào đầy kỷ niệm với Kim Tuyến, chúng nó tiếp tục công việc ở Đà Lạt.
Một hôm ba thằng lên vẽ ở một quả đồi gần hồ Xuân Hương. Đó là một quả đồi thấp với trảng cỏ xanh mướt trải rộng mênh mông, nằm cạnh hồ nước lung linh gợn sóng. Mặt hồ in bóng những hàng thông, lấp lánh nắng vàng sóng sánh như kim sa. Không khí dịu nhẹ, thanh tao, ngan ngát mùi hương hoa, thoang thoảng bay trong gió. Phía xa xa là rừng thông dày và cao, vi vút reo trong gió, chấp chới trong nắng vàng. Cảnh sắc thiên nhiên nên thơ và lãng mạn.

Mấy đứa đang cắm cúi trèo lên đồi thì bỗng nghe tiếng hát đồng thanh từ đâu đó rất gần "Cháu yêu chú bộ độ đánh Mỹ tài ghê, tàu bay Mỹ đến đây . . . ." . Ba thằng giật mình tìm quanh. Chúng thấy, dưới mấy gốc thông, một lớp mẫu giáo với những em bé xinh xắn, mũm mĩm đang vừa hát vừa nhìn về phía mấy đứa nó. Thì ra, khi nhìn thấy ba chú bộ đội, ba cô giáo trẻ đã chỉ cho các cháu và bắt nhịp cho các cháu hát. Nó thấy lâng lâng một niềm tự hào và phấn khởi. Ba đứa liền đi về phía các cháu. Chúng ngồi bệt xuống cỏ cùng các cháu và ba cô giáo và cùng hát tiếp bài hát.

Bài hát vừa hết, các cháu ùa ra ôm cổ chúng, ríu rít như đàn chim non. Mấy chú lính rất vui, chúng giở cặp vẽ cho các cháu và cô giáo cùng xem. Mỗi đứa chọn ra một bức, ký tặng 3 cô giáo. Rồi chúng nó chụp ảnh chung với các cháu và ba cô giáo. Ba thằng và ba cô giáo tíu tít trao đổi địa chỉ cho nhau. Nó hẹn khi nào về tới Sài Gòn, làm ảnh xong sẽ gửi cho các cô và các cháu.

Chia tay các cháu lớp mẫu giáo, ba đứa đi tiếp vào vườn hoa của một ông già. Ông là người nghiên cứu, lai ghép thành công nhiều giống hoa rất quý và được đưa vào trồng đại trà ở Đà Lạt. Đặc biệt nó còn nghe nói về hoa hồng đen mà ông đang nghiên cứu, lai tạo sắp thành công.

Ba thằng nó vào đến vườn thì được chính ông già ngồi tiếp chuyện. Một ông già quắc thước có bộ tóc và râu dài bạc trắng, trông như một ông tiên. Bốn người ngồi xung quanh một bộ bàn ghế gỗ lũa dưới một gốc cây. Phía trên đầu là một dàn hoa ti-gôn với những cánh hoa mỏng manh, tím hồng, li ti. Ông mời chúng thưởng trà a-ti-sô thơm ngan ngát và say sưa nói chuyện với chúng nó về các giống hoa, những nét đẹp riêng của mỗi loài cũng như tính nết của mỗi loài hoa, . . . .

Khi chúng về, ông còn tặng mỗi thằng một nhúm hạt hoa giống để trồng thử. Sau này , nó không có dịp gặp lại ông già nữa. Sau đó khá lâu, nó nghe tin ông mất khi giống hoa hồng đen vẫn chưa thành. Từ đó cũng không ai tiếp tục nghiên cứu công trình dang dở của ông. Giống hồng đen chỉ còn là một truyền thuyết.

Về sau nó biết, ở Đà Lạt cũng có rất nhiều người say mê nghiên cứu hoa. Trong đó người đầu tiên cần nói đến là anh Nguyễn Công Hóa. Anh Hóa ở làng trồng hoa Vạn Thành, đã làm ra hoa hồng với đủ các màu sắc theo ý muốn, có cả hồng đen. Nhưng đó chỉ là một giống hoa hồng thường mà hoa của nó được "nhuộm màu" theo ý muốn. Hiện nay anh Hóa cũng nổi tiếng với hoa ướp. Hoa ướp có thể để nhiều năm mà trông vẫn tươi như mới.

Hòn Ngọc Viễn Đông

Nhóm chúng nó rời Đà Lạt và tập trung tại Sài Gòn cùng các nhóm khác. Cả Trại Sáng Tác tập trung về trạm khách của Bộ Tư Lệnh Thông Tin, nằm trên đường Cách Mạng Tháng Tám. Đó là một biệt thự ba tầng nằm ngay mặt đường, gần vườn hoa Tao Đàn.

Trời nóng quá, mấy đứa quẳng vội ba lô, cặp vẽ, máy ảnh, . . . . trên giường rồi nhảy hết xuống tầng một để tắm. Tắm xong nó trở lên phòng thì giật bắn mình khi nhìn thấy thằng Tân đang mở hộp tối của máy ảnh, rút phim ra xem. Nó vội giằng lấy cuộn phim nhưng chết lặng người vì toàn bộ phim đã bị lộ sáng. Bao nhiêu kiểu ảnh quý vừa là ảnh tư liệu vừa là ảnh kỷ niệm. Biết ăn nói sao đây với Kim Tuyến, với ba cô giáo và các cháu học sinh mẫu giáo ở đồi Thông Đà Lạt, . . . . Thằng Tân là người quản lý trạm khách nhưng là đồng đội của nó những ngày ở Pleiku. Mà phim đã lộ sáng rồi thì có "ăn thịt" nó cũng chả lấy lại được. Nó ngồi thần người ra, mặt nhăn nhúm, bất lực, không thể hé răng nói lên một lời. Tuy rằng một cuộn phim quý chỉ là chuyện nhỏ nhưng vị cay đắng mà nó nhận được là : "Ở đời, có người luôn kỳ cọm làm việc, để rồi, người khác vô tình phá hỏng hết."

Nó đã hai lần đến Sài Gòn trước đó, nhưng là hai lần đi buôn cùng chị gái. Hai lần đó, nó chỉ quanh quẩn ở chợ Bến Thành và vài ngóc ngách quanh đó, trong một trạng thái bận rộn, vội vàng, hối hả và lo lắng, mau mau chóng chóng, một hai ngày lại ngược ra Hà Nội. Cho nên hai lần đó nó vẫn chưa biết Sài Gòn.

Sài Gòn là một thành phố rất lớn, dễ chừng lớn gấp chục lần Hà Nội với dân cư đông đúc, cuộc sống hối hả, tấp nập suốt ngày đêm. Thành phố có rất nhiều đường phố đẹp, nhà cao tầng, cửa hàng, cửa hiệu, tiệm ăn tráng lệ. Nhiều vườn hoa được thiết kế rất đẹp và chăm sóc cẩn thận. Trên đường phố, ô tô, xe máy chạy nườm nượp và ít xe đạp, khác hẳn với cảnh đường phố Hà Nội, toàn xe đạp, ô tô xe máy rất ít. Người Sài Gòn ăn mặc rất đẹp, đủ các loại mốt quần áo, váy đầm, chẳng bù cho Hà Nội lúc đó chủ yếu quần xẫm, áo trắng, đơn điệu một kiểu. Nhìn đến các cửa hàng cửa hiệu, chúng nó càng choáng hơn, hoa mắt trước đủ các thứ hàng hóa, ô tô, xe máy, tủ lạnh, tivi, quạt điện, máy nọ, máy kia, rồi vải vóc, lụa là đủ các thứ, không thể biết và kể hết được.

Nó cũng đã được nghe nói Sài Gòn là "Hòn Ngọc Viễn Đông". Bây giờ nó mới thấy Sài Gòn giàu có, to lớn và tráng lệ xứng với danh hiệu đó.

Sau khi ăn cơm chiều, tối hôm đó, mấy chú lính của trại sáng tác tản bộ dọc theo các phố. Vừa xuống đến vỉa hè, cái đập vào tai mắt nó đầu tiên là dòng người và xe tấp nập như mắc cửi. Nhìn ngược dòng xe chạy, thấy đèn pha ô tô xe máy dài mãi, hút tầm mắt. Nhìn xuôi dòng xe cộ, đèn hậu đỏ của xe cộ cũng trải dài mãi tít xa. Nhìn ra xung quanh, không biết bao nhiêu là các loại đèn chiếu sáng, đèn trang trí, đèn tín hiệu giao thông. Tiếng rầm rầm của đủ các loại động cơ đang lướt trên đường phố làm cho chúng cảm thấy sợ hãi mà không dám thò chân xuống lòng đường.

Ở vườn Tao Đàn, có rất nhiều cây đẹp, rợp bóng. Vài hàng nước mía bày ghế khắp trên vỉa hè. Đây đó là mấy chiếc xe đẩy bán "sinh tố" với đủ các loại trái cây xoài, dưa hấu, đu đủ, cóc, . . . . .

Để ý kỹ một chút, nó thấy dưới các gốc cây, cột điện, có các cô gái đứng rải rác, tay cô nào cũng cầm một thứ gì đó, mảnh mưa, túi xách, khăn tay, . . . . Khi chúng vừa bước chân tới vườn hoa thì đã có mấy đứa trẻ nhỏ ríu rít chào mời chúng nó bằng tiếng miền nam. Mấy thằng chưa quen nên không hiểu bọn trẻ nói gì. Thằng Tân phải phiên dịch lại :

- Mấy chú ơi ! Chơi gái không chú ?

Bây giờ nó mới nhìn khắp một lượt cái góc vườn hoa, dễ có đến dăm chục gái, già trẻ, lớn bé, đủ loại. Chốc chốc lại có một chiếc xe máy tấp lại bên cạnh, lập tức vài ba gái chạy tới, mặc cả qua lại, thậm chí có gái còn kéo tay khách cho kiểm tra hàng. Rồi một gái nhảy lên ngồi sau xe, chiếc xe lao vút vào trong dòng người đông đúc.

Đã biết ý, mấy thằng nó vội vàng đi sát ra phía đường để tránh. Thế mà cũng chẳng thoát. Mấy thằng vẫn bị mấy cô gái bao vây, mời chào rất tự nhiên. Thằng Tân đã là thổ dân nên biết cách xử lý, hắn quát :

- Dẹp ra ! Đây là "người đơn vị". Không có chơi bời gì đâu.

Nghe quát mấy cô gái mới vội tản ra. Chả phải mấy gái sợ "người đơn vị" mà cái chính là thái độ của Tân rất rõ ràng.

Nhà quê ra tỉnh

Lần đi công tác trước ra Hà Nội, nó có vào chơi nhà Kiếm và được biết vợ chồng chị Trâm Anh, chị gái Kiếm, đã chuyển vào Sài Gòn, nó đã xin địa chỉ của chị. Bây giờ, nó khoác ba lô, cầm địa chỉ của chị hỏi thăm đến đường Huỳnh Thúc Kháng. Đây là lần đầu tiên, thực sự nó đi trên đường phố Sài Gòn. Vừa đi nó vừa nhớn nhác nhìn ngó các ngôi nhà cao tầng san sát, các cửa hàng cửa hiệu sang trọng, dòng người và xe cộ tấp nập ngược xuôi trên đường. Nó hoa mắt vì cảnh "phồn hoa đô hội" của thành phố và chóng mặt vì dòng người xe cứ vun vút, . . . .

Đến một đoạn, nó muốn sang đường mà không biết làm thế nào. Nó mà bước vài bước xuống đường thì thể nào cũng bị xe đâm. Mà cũng không thể làm thế được, mọi người sẽ "chửi" nó chết. May có một cụ già mà một em bé đi bộ cùng chiều với nó. Cụ già tận tình chỉ bảo cho nó, muốn sang đường phải ra ngã tư, nơi có đèn tín hiệu. Khi nào đèn đỏ, xe cộ phải dừng lại, rồi đèn xanh cho người đi bộ nhấp nháy thúc giục thì mới đi bộ qua đường được. Đến ngã tư, cụ già cũng qua đường nên nó đã học hỏi được cách sang đường của thành phố. Nghĩ bụng :"Mình đúng là nhà quê ra tỉnh".

Vợ chồng chị Trâm Anh ở trong một biệt thự nhỏ ngay mặt đường Huỳnh Thúc Kháng. Sau hàng rào và cổng sắt là sân vườn chừng bốn chục mét vuông có trồng ít cây cảnh. Một gốc hoa giấy lớn, um tùm leo trên hàng rào sắt, dày đặc những búp hoa đỏ rực. Nó bấm chuông, chờ một lát thì có người giúp việc ra mở cổng và dẫn nó vào phòng khách. Phòng khách khá rộng, chừng ba chục mét vuông, có cầu thang ở giữa, dẫn lên tầng hai.

Một lát thì chị Trâm Anh từ trên gác xuống. Chị mặc một chiếc váy mỏng, màu hồng có phần hơi điệu đà, cảnh vẻ. Trông chị không khác trước là mấy, chỉ hơi già đi một chút nhưng đẹp, tươi tắn và nhanh nhẹn hơn. Thấy nó, chị rất vồn vã, nhiệt tình. Sau khi pha nước mát cho nó và hỏi thăm chuyện một hồi, chị giục nó vào nhà sau tắm giặt, chờ chồng chị về cùng ăn cơm. Chồng chị Trâm Anh cũng là người Hà Nội. Anh là phóng viên báo Sài Gòn Giải Phóng nên chuyển cả nhà vào Sài Gòn.

Vào đến nhà tắm, nó giật mình vì lạ. Nhà tắm có lắp bồn tắm và có xí bệt, những thứ mà nó chưa được thạo lắm. Nó cũng thấy lạ, là phòng tắm và phòng ăn ngay cạnh nhau, lại còn có cửa thông nhau, chỉ che khuất bằng một tấm ri-đô mỏng bằng nylon. Lạ thật, bồn cầu ở đây mà phòng ăn lại ngay đấy, nó thấy ghê ghê và nghĩ: "Chắc hẳn, mình nhà quê quá !". Nhìn thấy cuộc sống của chị Trâm Anh có vẻ sang trọng nó lại thầm ghen tị thay cho anh Bát nó. Giá mà ngày ấy anh Bát lấy chị Trâm Anh ?! Giá mà đây là nhà của chị và anh Bát nó . . . . !

Ở trạm khách được khoảng dăm ngày thì nhóm của nó tiếp tục đi thực tế vào sâu ở miền Tây. Nhưng nó nhận được tin chị gái nó đang đánh một chuyến hàng lớn sắp vào tới thành phố. Nó không đi theo nhóm mà ở lại giúp đỡ chị. Hai thằng Đính và Hòa dồn tất cả tư liệu thu thập được, nhờ nó mang ra Bắc trước.

Ngày hôm sau, nó ra ga đón chị gái, giúp chị vận chuyển hàng đi bán. Bán xong, nó lại giúp chị nhập hàng mới, đóng gói để đưa ra Bắc. Trước khi lên tàu, chị nó dặn :

- Sắp đến rằm tháng tám, cậu ra sau, vốn ít, nên mua một ít đồ chơi trẻ con bằng nhựa, cao su
như con chút chít, con gà, con rắn, con chó, . . . mang ra đổ buôn cho các cửa hàng đồ chơi,
chắc là lãi lớn đấy !

Nó còn ở lại trạm khách một tuần để chờ nhóm của anh Lưu, của Hướng về tập trung. Nó phải gom tranh vẽ của cả ba nhóm, đóng hộp mang ra Hà Nội trước. Các mũi vẫn còn đi vẽ tiếp.

"Trúng quả đậm"

Nó và chị gái đã bàn nhau, nó sẽ ra Hà Nội sau chị đúng một tuần. Nó đã mua được vé tàu theo đúng kế hoạch. Chị nó hẹn sẽ đón nó ở ga Hàng Cỏ vào lúc nó xuống tàu Thống Nhất. Lời chị gái nói với nó rất có lý, lúc bấy giờ đồ chơi trẻ con ở Hà Nội nghèo nàn và cổ điển lắm, mấy cái đèn ông sao, ông sư phết bằng giấy bóng kính, mấy cái mặt nạ và đầu sư tử bằng giấy bồi, . . . . Đồ nhựa của miền nam vừa lạ vừa phong phú về hình thức. Nghĩ vậy, có bao nhiêu vốn liếng nó dồn tất vào một mối, thậm chí vay thêm tiền bạn bè, đổ vào mua đồ chơi nhựa.

Bây giờ đồ đạc của nó, bản vẽ của cả ba nhóm, hàng buôn của nó đã đầy ứ, nó phải xoay xở để mang được hết. Nào ngờ, trước khi nó đi, bạn bè, người quen xúm đến gửi đồ nhờ nó mang ra Bắc cho người thân. Người thì gửi mì chính, người gửi quần bò, vải pho, áo mông-te-ghi, búp bê, . . . . Một người gửi nó cái khung xe đạp, anh Hoàng anh trai thằng Khải còn gửi nó một đôi lốp xe Honda. Đã quá nhiều đồ, nhưng nó cả nể, không thể từ chối một ai.

Nó loay hoay suốt một ngày trời đóng gói để có thể mang hết được số đồ đạc lỉnh kỉnh. Những hàng nhẹ mà quý thì nó cho gọn vào hai cái túi du lịch xách tay. Ba lô thì nó nhét đầy tư trang và các tư liệu vẽ của mấy nhóm, đầy lèn lên đến nóc, không thể nhét gì thêm. Nhưng mà nóc ba lô vẫn phải buộc thêm cái khung xe đạp và con búp-bê. Hai cái cặp vẽ của nó được làm thêm hai quai để có thể khoác lên hai vai. Đôi lốp xe Honda, nó không biết làm thế nào, đành khoác vào cổ, đeo lủng lẳng ra trước ngực. Còn lại hai túi hàng lớn đồ chơi trẻ con thì may mắn là người bán đưa ra tận ga cho nó, nhét vào gầm ghế và chiếm hết cả khoảng trống giữa hai hàng ghế, phè cả ra lối đi (hồi đó chỉ có loại ghế ngồi cứng).

Quá nhiều hàng hóa làm cho nó bấn lắm, vậy mà khi tàu chuyển bánh, mọi chuyện có vẻ ổn. Cứ thế này, cố gắng mấy ngày nữa ra đến ga Hà Nội thì đã có chị và các cháu đón sẵn. Đâu sẽ vào đấy.

Nó lại gặp thêm may mắn là người ngồi cạnh nó là một giáo viên người Bắc vào dạy học ở Sài Gòn. Anh được đi phép, chỉ mang hai bộ quần áo và mấy cuốn sách. Hai anh em nói chuyện, tâm đầu ý hợp lắm. Anh cho nó mượn một cuốn tiểu thuyết, nó ngấu nghiến đọc để giết thời gian. Cũng may mà có anh giáo người tốt, nó mới có thể tin cậy mà ngủ ngơi được một chút. Những lúc đi ăn hay đi vệ sinh thì anh và nó thay nhau trông đồ. Hai anh em có vẻ như một đôi bạn tâm giao vậy. Các cụ bảo "Một chữ nên thày, một ngày nên nghĩa", kể cũng đúng thật.

Theo đúng kế hoạch thì tàu đến ga Hàng Cỏ lúc 12 giờ đêm. Chị gái nó và mấy đứa cháu sẽ đón nó. Nó rất sốt ruột vì tàu về trễ nhiều, không biết chị và các cháu có chờ nó không ?! Tàu về đến ga thì đồng hồ đã chỉ 2 giờ 15 phút. Trời rất lạnh và mưa khá nặng hạt. Từ lúc tàu chạy chậm vào sân ga, nó đã thò cổ ra ngoài cửa sổ ngóng chị gái và các cháu đến đón. Nhìn mãi vẫn chẳng thấy một ai. Khách trên tầu đã xuống gần hết và đang làm thủ tục ra khỏi ga. Nó bắt đầu cuống lên vì hàng hóa rất nhiều, nó không có cách gì mang hết. Suy nghĩ mất một lúc, chẳng còn cách nào khác, nó đành phải tin vào anh thày giáo mới quen và nhờ anh giúp.

Anh giáo xuống sân ga trước, nó lần lần chuyển hàng hóa qua cửa sổ toa tàu. Sau khi chuyển hai bao tải đồ chơi, hai bộ cặp vẽ, đôi lốp xe máy, khung xe đạp xuống trước. Còn lại cái ba lô nó xốc lên vai, hai túi du lịch nó xách bằng hai tay. Nó đi ra đầu toa để xuống sân. Anh giáo vẫn đang đứng trông đồ chờ nó. Nó dớn dác ngó quanh mà không thấy bóng dáng chị và các cháu nó đâu cả. Nó đành nói khó nhờ thày giáo mang hộ nó những thứ nhẹ gồm hai túi du lịch, đôi lốp xe máy, và cái khung xe đạp. Còn nó thì, lưng đeo ba lô, cổ quàng búp bê, hai vai khoác hai bộ cặp vẽ, hai tay nó kéo lê hai cái bao tải đồ chơi. Miệng nó thì ngậm cái vé, nó đi theo sau anh giáo ra cửa kiểm soát.

Sân ga rất vắng vẻ, chỉ có khách xuống chuyến tàu đó, tất cả đều lầm lũi bước về một hướng, dưới ánh đèn vàng vọt trong làn mưa xiên xiên. Hai cái bao tải quá nặng làm cho nó không thể đi nhanh như những người khác. Nó cứ bị những người khác chen dần lên trên. Lúc đó anh giáo đã len ra gần đến cửa mà nó thì cách một đoạn xa. Nó vội gọi :

- Anh gì ơi ! Chờ em với.

Anh giáo ngoái cổ về phía nó, gật đầu và dừng lại.

. . Anh giáo ngoái cổ về phía nó, gật đầu và dừng lại.

Nhưng bây giờ anh giáo đã vào đoạn hành lang hẹp mà hai bên có rào sắt. Dòng người ở phía sau anh giáo cứ tự động đẩy anh lên, không thể dừng lại được. Đúng lúc anh giáo được soát vé và thoát ra ngoài thì có ai đó giữ vai nó lại. Nó ngoái lại và giật mình vì thấy sau nó là hai người lính "kiểm soát quân sự", nét mặt họ rất nghiêm khắc và kiên quyết. Họ lập tức lôi nó và hàng hóa vào trong phòng thường trực. Nó cuống quýt, nghển cổ tìm anh giáo nhưng không còn nhìn thấy anh đâu nữa. Nó cố giải thích với hai người lính rằng nó còn nhiều đồ mà người khác đang xách hộ, cho nó đi lấy lại, nhưng Hai "kiểm soát quân sự" không tin. Họ đẩy nó vào trong phòng, bắt ngồi chờ, bao giờ khách ra hết, sẽ giải quyết việc bộ đội đi buôn. Nó bất lực, chẳng làm gì được và nó ngóng ra phía cửa để hy vọng anh giáo quay lại nhưng chẳng thấy anh giáo đâu.

Sau khi hành khách đã ra hết, nhà ga vắng vẻ, lặng ngắt như tờ. Hai người "kiểm soát quân sự" mới yêu cầu nó xuất trình giấy tờ và tiến hành khám đồ của nó. Nó đưa giấy công lệnh, chứng minh thư quân nhân, các cặp tranh vẽ. Cuối cùng chỉ có đồ chơi nhựa là hàng hóa thì nó bảo là của người ta gửi. Thấy cũng không có hàng cấm nên họ thả cho nó đi. Nó vội khoác lại đồ đoàn lên người, kéo lê hai cái bao tải ra cửa ga. Trong thâm tâm nó vẫn hy vọng anh giáo đang đứng đợi nó.

Nhưng không ! Phố phường lạnh ngắt, mưa gió tả tơi, lá vàng chao nghiêng xạc xào. Nó lê đi trên đường, để mặc cho nước mưa hắt vào mặt, hòa cùng dòng nước mắt lăn dài trên má. Rồi, nó đắng cay nhận ra rằng nó đã mất hết. Nó thẫn thờ dừng lại bên đường, lẳng lặng đứng khóc . . . .

Có một bác xích lô đến mời, nó chất đồ lên xe, không mặc cả giá, nó nói như người mộng du :

- Số 6 Cao Bá Quát !

Sau khi trả tiền xích lô, nó lếch thếch leo lên tầng hai, người nó và đồ đạc đều ướt sũng. Nó gõ cửa. Anh rể nó ra mở cửa, giọng ngái ngủ :

- Thập đã về đây à ?

Nói xong, anh với cái điếu cày để trong ống bơ, vê thuốc hút một hơi. Nó nhìn vào phía trong, thấy chị gái và các cháu đang vùi đầu trong chăn ấm, ngáy o o . . . . Trong lòng bực tức, nó quay sang hỏi anh rể :

- Lúc 12 giờ, chị và các cháu có ra ga đón em không ?
- Không thấy chị nói gì cả. Hôm nay lạnh, cả nhà đi ngủ từ lúc 9 giờ.

Nghe nói thế nó chết lặng người đi trong một nỗi buồn, đau đớn và tủi hờn. "Chị ơi là chị ! Khi chị cần, khó mấy em cũng giúp chị bằng xong. Vậy mà chị hẹn, lại không ra đón, làm em mất hết. Chị giết em rồi !" Nước mắt nó cứ tự dưng lăn xuống . . . .

Một lúc sau, nó đi xuống nhà. Trên cái bàn ăn, nó thấy một cái mâm đậy lồng bàn. Nó mở lồng bàn ra, bát đũa bẩn ngổn ngang cùng với xương gà, xương cá tùm lum, . . . . chẳng còn hạt cơm nào để phần cho nó.

Nó thay tạm quần áo rồi ngả lưng xuống tấm phản kê ngoài hiên. Nhưng nó trằn trọc mãi với không biết bao nhiêu hình ảnh và ý nghĩ, mãi chẳng ngủ được. Rồi nó thiếp đi lúc nào không hay.

Trời tang tảng sáng.

Đường cùng

Những ngày sau đó đối với nó thật sự là cực hình. Hai bao tải đồ chơi nhựa nó mang bán cũng chỉ được hòa vốn. Vốn này một phần là tiền vay của bạn bè. Toàn bộ những đồ gửi của bạn bè, lốp xe máy, khung xe đạp, quần bò, áo mông-te-ghi, vải pho, vải tuýt-xy, mì chính, . . . . đã mất hết.

Chả cần phải tính toán gì, nó bán chiếc xe đạp Phượng Hoàng cũ mà nó đang đi, bán mấy bộ quân phục, đôi giày và mũ cối mới được phát. Cuối cùng, còn cái máy ảnh nó cũng đành bán nốt. Được bao nhiêu tiền nó mua hàng để đền cho bạn bè nhưng vẫn không đủ. Riêng đôi lốp Honda quá lớn tiền, nó chưa thể trả được, nó phải xuống nhà Khải trình bày hoàn cảnh, xin khất lại, trả sau.

Nó còn buồn một chuyện nghiêm trọng hơn, ấy là khi kể lại chuyện mất đồ, bạn bè, họ hàng chỉ ậm ừ, tỏ ra không tin. Có người còn nói vọng cho nó nghe thấy: "Nó tha lấy của người thì thôi, ai lấy nổi của nó. Toàn bịa chuyện." Mọi người không tin nó, có ý xa lánh, dè bỉu, diễu cợt nó. Phải ! Mất lòng tin là mất tất cả.

Nhớ lại chuyện cậu em nhà dì nó ở trong Nam ra mang theo nhiều đồ đạc, của nả làm rạng rỡ cả nhà đến nỗi bu nó phải "hực" lên mà mắng nó. Bây giờ nó cũng "đi bê" (*) ra mà đồ lại để người khác "bê" mất, chắc hẳn bu nó cũng xấu mặt với làng xóm lắm.

Tất cả mọi chuyện dồn nó đến chỗ "hận". Nó hận lắm và rắp tâm trả thù.

Tàu Bắc-Nam một ngày có hai chuyến rời ga Hàng Cỏ vào 1 giờ chiều và 6 giờ tối. Nhiều ngày liền, nó ém dao găm trong người, lảng vảng quanh cửa vào ga để rình tóm lão thày giáo. Mười ngày liền vẫn chẳng thấy anh ta đâu. Nó chán nản dần rồi tặc lưỡi tự an ủi : "Thôi ! Của đi thay người."

Nhiều ngày nay nó không có phương tiện để đi, đi đâu cũng chỉ là cuốc bộ. Không có cái xe đạp chẳng khác gì bị cùm chân, muốn làm việc nọ, việc kia cũng đành "bó chân". Nhiều ngày rình ở ga Hàng Cỏ, không ngày nào là nó không nhìn thấy rất nhiều xe đạp đắt tiền Mifa, Favorite, Eska, . . . . mới cứng, dựng hớ hênh không khóa. Nó theo dõi cẩn thận thấy xe chẳng có người trông mà chủ nhân thì đi rất xa.

Nó chỉ cần đến bên cạnh chiếc xe, dắt xe ra, ngồi lên và đạp đi là xong. Thật là hấp dẫn. Thực tình, lúc đầu nó cũng sợ và cảm thấy run nhưng sau nhiều ngày lặp lại nó không còn sợ nữa. Nhưng nó phải đấu tranh tư tưởng, dằn vặt lắm. Đột nhiên có một câu nói từ đâu đó vọng lên trong đầu nó: "Mày không thể là thằng ăn cắp !". Ranh giới thật là mỏng manh.

Ở quê, may mắn có một người duy nhất cảm thông với nó. Đó là chị dâu nó (gọi là chị Bính), vợ cả của anh Bính. Mấy mẹ con chị Bính phải tự nuôi nhau nên cuộc sống khó khăn và kinh tế eo hẹp nhất trong số các anh chị em nó. Nhưng Chị Bính tin câu chuyện mất đồ của nó và không thờ ơ, lãnh đạm như những người khác. Thấy nó buồn, mất hết không còn gì trong tay, chị rất thương nó. Một hôm, chị gọi nó vào phòng của chị. Trước mặt nó là một chiếc xe đạp màu trắng mới, vừa hạ trên xà nhà xuống. Chị bảo :

- Đây là chiếc xe chị dành dụm mua cho cháu Hoàng. Nó chưa phải đi học xa, chưa dùng đến.
Chị cho chú mượn đi tạm. Khi nào chú có tiền, mua được xe thì trả lại cho chị, cho cháu đi học.

Nó đỡ chiếc xe, nhìn chị dâu mà trong lòng rưng rưng cảm động. Chị dâu nó thật tốt.

(*) Trong chiến tranh chống Mỹ, miền Bắc là chiến trường A, miền Nam là chiến trường B, Lào là chiến trường C, Campuchia là chiến trường K. Từ miền Bắc vào miền nam gọi là đi B. Sau năm 75, bộ đội từ miền Nam ra mang nhiều đồ nên cũng được gọi là "đi bê".

Từ đầu thu năm 1979, trại sáng tác thâm gia một số triển lãm nhỏ của Bộ Tư Lệnh đồng thời tham gia vẽ tranh cổ động phục vụ Bộ Tư Lệnh và các đơn vị thông tin ở Hà Nội và Hà Sơn Bình (lúc bấy giờ Hà Đông, Sơn Tây và Hòa Bình vẫn là một tỉnh sáp nhập). Sau đợt đó, chúng nghe phong thanh, trại sáng tác mỹ thuật sắp bế mạc. Ai ở đơn vị nào trở về đơn vị đó.
Đúng lúc đó thì trại mỹ thuật cũng nhận được lệnh di chuyển đến nơi khác để trả lại nhà cho e130 đang cần sử dụng. Bộ Tư Lệnh liên hệ cho Trại sáng tác về ở nhờ trong một gian "nhà nguyện" bỏ không ở đằng sau đình Yên Phụ.

Chiều hôm đó nó đang cùng mọi người thu dọn đồ đạc để di chuyển đến chỗ mới, quãng 3 giờ chiều, cậu công vụ của thiếu tá Ngô Hoàng Hương chạy xuống gọi nó :

- Anh Thập ! Lên gặp thủ trưởng ngay nhá !

Thủ trưởng Hương là người trực tiếp phụ trách văn hóa văn nghệ. Không biết có chuyện gì mà đột nhiên ông lại gọi nó lên, nó thấy hơi lo lo. Lên đến nơi, nó gõ cửa, tiếng thủ trưởng Hương vọng ra :

- Cứ vào đi !

Nó đẩy cửa bước vào phòng thì giật mình khi nhìn thấy người ngồi bên cạnh thủ trưởng Hương lại là thượng tá Nguyễn Huy văn. Nó dập gót, đứng nghiêm chào. Thủ trưởng Văn cười và nói :

- Được rồi, được rồi !

Ông hiền từ nhìn nó và kéo ghế cho ngồi rồi ân cần hỏi nó về công việc, sức khỏe. Nó báo cáo tình hình của nó từ ngày thủ trưởng rời khỏi trung đoàn về cục tác chiến. Nó cũng báo cáo, Trại sáng tác sắp hoàn thành nhiệm vụ và nó sẽ về lại trung đoàn bây giờ đóng ở gần sân bay Cù Hanh, Pleiku.

- Được rồi, tốt ! Thế Thập muốn về làm ảnh và vẽ ở Cục Tác Chiến không ?
- Dạ ! Vâng ! Được thế thì tốt quá ạ ! – Nó mừng rỡ nói.
- Được ! Thập cứ về đi và chờ quyết định điều chuyển nhá !
- Vâng ạ !

Thủ trưởng dơ tay cho nó bắt. Nó chào hai thủ trưởng rồi bước ra khỏi phòng, trong lòng như có trống rong, cờ mở và xúc động vì tình cảm mà thủ trưởng Văn dành cho nó.

Thủ trưởng dơ tay cho nó bắt. Nó chào hai thủ trưởng rồi bước ra khỏi phòng, trong lòng như có trống rong, cờ mở và xúc động vì tình cảm mà thủ trưởng Văn dành cho nó. Thủ trưởng Văn rời khỏi trung đoàn nó về làm phó phòng ở cục tác chiến, nó những tưởng rằng sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại. Vậy mà ông vẫn nhớ đến nó và tìm cách tạo điều kiện cho nó được chuyển về gần ông. Nó biết ơn ông rất nhiều.

Trại sáng tác chuyển về đình Yên Phụ làm cho mấy đứa thích lắm. Chúng được tự do thoải mái không phải gò vào khuôn khổ kỷ luật như lúc ở doanh trại của e130. Thậm chí, ai có gia đình hay người thân ở Hà Nội có thể về nhà ngủ, ban ngày đến làm việc là được. Chúng nó được tự do đi sớm về khuya, chẳng bị ai o ép, vô cùng thoải mái.

Chương trình bồi dưỡng học tập của chúng nó ở trại đã xong, chúng nó chỉ còn chờ ngày bế mạc. Rất nhiều thời gian rảnh rỗi, mấy đứa tranh thủ nhận Pa-nô, áp phích, quảng cáo ở ngoài về vẽ kiếm thêm.

Bố Bình Đính có quen ông cửa hàng trưởng cửa hàng bách hóa Trâu Quỳ nên mấy thằng nó được nhận vẽ mấy bức pa-nô quảng cáo hàng hóa treo trong cửa hàng. Bình Đính và nó xin phép trại sáng tác sang ở hẳn bên cửa hàng bách hóa Trâu Quỳ nửa tháng để vẽ. Những bức vẽ của chúng rất đẹp nên khi vẽ xong, ngoài tiền công thanh toán hậu hĩnh, chúng còn được cho thêm thuốc lá, xà phòng, . . . .

Hết việc ở Trâu Quỳ, bố Bình Đính lại tìm việc cho mấy đứa vẽ rất nhiều tranh cho các lớp mẫu giáo. Anh Bính nó thì nhận cho chúng nó các tranh bảo hộ và an toàn lao động trong các nhà máy ở Hà Nội.

Cũng có những lúc hết việc thì nó lại nhận việc của anh Khôi ở hàng Mã. Bố con anh Khôi có cửa hàng quảng cáo rất đông khách. Nó cứ vẽ được bức nào trả cho khách xong thì được nhận 60% tiền mà khách trả. Kể ra thế cũng tốt lắm rồi. Trong mấy tháng chờ đợi chúng nó vẽ rất nhiều và kiếm được bộn tiền.

Bẵng đi mấy tháng, nó không nhận được tin tức hay quyết định thuyên chuyển gì từ phía thủ trưởng Văn. Thế rồi được tin, mươi ngày nữa, trại sáng tác sẽ bế mạc và mọi người sẽ trở về đơn vị cũ. Nó càng nóng ruột hơn bao giờ hết, ra ngóng vào trông hàng ngày. Nếu không có động tĩnh gì thì nó sẽ phải trở về Pleeiku.

Chờ đợi

Còn vài ngày trước khi trại sáng tác chia tay nhau thì nó nhận được quyết định điều động về Cục Tác Chiến, Bộ Tổng Tham Mưu. Nó quay về Bộ Tư Lệnh Thông Tin làm thủ tục, nhận giấy tờ chuyển công tác rồi nó chia tay mọi người đi nhận công tác mới.

Đó là một buổi sáng mùa đông năm 1979, nắng hanh hanh vàng chiếu qua hàng cây lớn trên đường Điện Biên Phủ. Nó khoác ba lô nặng trĩu bước về phía một con đường đặc biệt, đường Nguyễn Tri Phương. Con đường này có chiếc cổng sắt lớn thường xuyên đóng và có lính gác rất nghiêm mật, phía trên cổng có đề "Doanh Trại Quân Đội Nhân Dân Việt Nam". Trước đây, nó vẫn nghĩ, những ai qua lại cái cổng này là những người rất quan trọng và đặc biệt của quân đội. Bây giờ nó sắp bước qua cái cổng đó, trong lòng không khỏi cảm thấy ngỡ ngàng và lạ lẫm. Nó sắp vào "trong thành".

Nó tiến về phía bót gác, đưa giấy giới thiệu và quyết định chuyển công tác cho người lính vệ binh. Nhận giấy tờ xong, người vệ binh yêu cầu nó đứng ra xa bót gác và chờ có người ra đón. Anh ta gọi điện đi đâu đó, rồi lại đứng gác nghiêm chỉnh như bức tượng. Một lúc sau, có một sỹ quan của cục tác chiến ra cổng để đón nó, dẫn nó sang "trạm khách 66". Anh ta bảo nó :

- Đồng chí cứ ăn nghỉ tại đây hoặc xin nhận lương thực về nhà họ hàng ở Hà Nội cũng được.
Còn phải chờ cục bảo vệ cho người đi kiểm tra lý lịch lần cuối. Nếu không có vấn đề gì,
đồng chí sẽ được vào khu A của Bộ Tổng Tham Mưu.

Nó cảm ơn người sỹ quan và xếp đồ vào phòng. Rồi nó sang phòng hậu cần làm thủ tục chuyển lương thực và nhu yếu phẩm.

May là người sỹ quan đã nói với nó là thời gian chờ đợi thường "rất lâu đấy", chỉ ngồi chơi và đọc sách thì rất chán và mệt mỏi. Nhưng đây chính là cơ hội tốt đối với nó. Nó sẽ tận dụng thời gian này để kiếm thêm tiền. Và, thời gian chờ đợi của nó đã kéo dài hơn ba tháng.

Phần lớn việc kiếm tiền của nó là vẽ quảng cáo cho cửa hàng anh Khôi. Được cái nó rất chăm chỉ, mà tiền thì thực sự hấp dẫn, nhất là nó đang có ước mơ tậu một chiếc xe Honda 67. Thời điểm đó, một chiếc xe tốt loại đó có giá khoảng một cây vàng, một chiếc xe "đi được" thì chỉ 3 đến 5 chỉ vàng là ngon rồi. Nó mang việc làm thêm về và làm cả ngày cả đêm. Quả là rất thuận lợi vì một mình nó một phòng, đến giờ ăn thì cứ việc xuống nhà ăn. Vậy là sau một thời gian, nó đã gom được 4 chỉ vàng.

Đúng lúc đó thì bạn anh Khôi, nhà ở Hàng Thiếc lại muốn bán chiếc xe 67 còn khá. Nó đến xem và rất thích. Ngặt một nỗi là chủ xe nhất định đòi đủ 6 chỉ vàng. Nó nì nèo mãi, cuối cùng cũng xuống được 5 chỉ rưỡi. Hôm sau, Chủ Nhật, nó vội đạp xe về quê tìm cách xoay xở cho đủ tiền. Sau khi nghe nó nói chuyện và vật nài, bu nó cho nó 4 thúng thóc cùng bộ cát-sét và đôi loa thùng mà nó mang về từ trước.

Nó trả chị dâu nó chiếc xe đạp và đi xe hàng ra Hà Nội. Nó sắp có xe máy rồi mà. Số tiền nó trả cho chủ xe là 4 chỉ rưỡi. Gán thêm bộ cát-sét và đôi loa thùng trị giá 1 chỉ, thế là vừa đủ. Nó mang chiếc xe máy về, trong lòng hãnh diện lắm vì đây là kết quả lao động miệt mài của nó trong suốt những tháng qua. Nó chăm sóc, nâng niu chiếc xe rất cẩn thận, như một báu vật.

Trong thành

Rồi những ngày chờ đợi cũng qua đi. Một hôm, người sỹ quan của cục tác chiến ra nhà khách đón nó. Anh ấy bảo, nó đã qua đợt kiểm tra lý lịch và chính thức được vào làm việc tại C51, Cục Tác Chiến, Bộ Tổng Tham Mưu.

Các cơ quan của Bộ Tổng Tham Mưu nằm toàn bộ trong thành cổ Hà Nội (một phần của Hoàng Thành Thăng Long xưa). Thực sự thì nó cũng chỉ được phép đi lại trong phạm vi cơ quan mà nó làm việc. Nhưng bây giờ nó đã là người "trong thành" rồi, nó cũng biết sơ qua cái thành cổ Hà Nội là như thế nào. Bộ Tổng Tham Mưu có nhiều cơ quan khác nhau cùng làm việc trong thành, nằm trên một diện tích rất lớn, có lẽ đến nhiều héc-ta.

4 cửa chính ra vào, tạm gọi là 4 cửa thành. Cửa Đông mở ra phố Lý Nam Đế và chạy thẳng ra phố Cửa Đông. Cửa Nam nằm trên đường Nguyễn Tri Phương cắt với đường Điện Biên Phủ, phía trước mặt là vườn hoa Chi Lăng (tên cũ là vườn hoa Canh Nông, bây giờ là vườn Lê Nin). Cửa Bắc chạy từ trong thành ra phố Phan Đình Phùng, hướng thẳng ra phố Cửa Bắc (thực ra Cửa Bắc của thành cổ nằm ngay gần đó). Cửa Tây nằm trên đường Hoàng Diệu, (hướng thẳng ra khu khai quật Hoàng Thành Thăng Long hiện nay). Ngay cạnh cửa nam trên đường Nguyễn Tri Phương còn có một cái cửa cuốn tò vò khá lớn dẫn vào khu A. Trong khu A có các cơ quan C50, C51, C52, . . . . Khu này là khu vực của các đơn vị quan trọng của Bộ Tổng.

Thực chất khu A nằm trên khu vực "Điện Kính Thiên" của thành cổ Hà Nội. Điện này đã bị phá hủy từ lâu và người Pháp đã xây trên khu vực đó 3 tòa nhà 3 tầng kiên cố. Rất may là lối dẫn lên thềm "Điện Kính Thiên" vẫn còn mười bậc cấp bằng đá và đôi rồng chầu bằng đá xanh tạo tác vào thế kỷ 15, thời nhà Lê (4 con rồng, nay chỉ còn 2). Vì đường vào khu này phải đi qua chỗ rồng chầu nên mọi người thường gọi đùa khu vực đó là "Phủ Đầu Rồng". Qua "Phủ Đầu Rồng" là một cái sân rộng dẫn tới "Lầu Công Chúa", rồi đến Cột Cờ. Chỗ này là phạm vi của cơ quan C52 (nghe nói là cục tình báo ?!).

Phía ngoài cổng vòm còn có Cục Tổ Chức Động Viên. Bên phải đường Nguyễn Tri Phương là các cơ quan Cục Tham Mưu, Hậu Cần, Kỹ Thuật, Chính Trị, . . . . và bếp ăn. Trạm khách 66 nằm ngay sau C50. Đây vừa là trạm khách vừa là căng tin chung của các cơ quan mà thường ngày, sau giờ làm việc, các "phóng văn lình" (lính văn phòng) hay ra đây xếp hàng mua bia hơi.

Những nhiệm vụ khả thi

Về Cục Tác Chiến nó được biên chế vào Phòng Sở Chỉ Huy. Thời điểm đó, trưởng phòng là đại tá Nguyễn Văn Tâm, thủ trưởng Văn là phó phòng.

Nhiệm vụ thứ nhất của nó là quản lý và trình diễn các bản đồ tác chiến cỡ lớn, khoảng 6 đến 8 mét vuông. Những bản đồ này được tổ đồ bản của cục vẽ cập nhật liên tục. Các tấm bản đồ này dùng để các thủ trưởng trong Quân Ủy Trung Ương, Bộ Tổng Tham Mưu, . . . trao đổi với nhau trong các cuộc họp giao ban tác chiến. Mỗi bản đồ được căng lên một khung cứng, có đường ray ở phía dưới và có thể điều khiển chạy ra chạy vào bằng động cơ điện. Nhiệm vụ của nó khi các thủ trưởng họp là điều khiền cho đúng các bản đồ mà cuộc họp đang cần.

Nhiệm vụ thứ hai của nó là phải chụp lại toàn bộ các bản đồ đó, vừa để làm tài liệu lưu trữ đồng thời chuyển một bản thành phim dương bản để có thể trình chiếu bằng đèn chiếu khi mang đi xa đến các quân khu, quân đoàn. Mỗi lần phải trình diễn bản đồ như vậy, nó phải mang theo máy đèn chiếu và phông màn. Khi họp, thủ trưởng yêu cầu chiếu bản đồ nào, nó phải bấm để chiếu đúng bản đồ đó. Những bản đồ tác chiến như vậy thuộc loại "Tuyệt Mật" nên nó phải quản lý rất chặt chẽ và cẩn thận. Toàn bộ bản đồ dạng bản lớn hay dạng phim đều được nó đánh số cẩn thận và ghi chép nội dung vào một cuốn sổ quản lý, vừa để quản lý chặt đề phòng thất lạc vừa tiện cho sử dụng khi các thủ trưởng cần.

Nhiệm vụ thứ ba của nó là theo chân các thủ trưởng để làm ký sự ảnh. Những lúc như vậy, mỗi vai nó khoác một máy ảnh, một máy để chụp phim đen trắng và một máy chụp phim màu. Ký sự ảnh mà nó phải làm là những chuyến thăm và kiểm tra các đơn vị của các thủ trưởng Văn Tiến Dũng, Lê Trọng Tấn, Chu Huy mân, Phùng Thế Tài, và các thủ trưởng khác. Những chuyến đi như vậy thường sử dụng máy bay trực thăng, họa hoằn lắm mới sử dụng ô tô. Nó phải tong tả chạy theo các thủ trưởng mà ghi lại toàn bộ cảnh hoạt động của các thủ trưởng tại các đơn vị mà thủ trưởng đến thăm. Thừa còn hơn thiếu, nhiều lúc nó cứ chụp lia lịa rồi sau đó về nhà mới lựa chọn và biên tập lại.

Nhiệm vụ thứ tư của nó cũng rất quan trọng và nhiều khi tưởng chừng như "bất khả thi". Ấy là chụp ảnh đám cưới cho con của các thủ trưởng, chụp ảnh tang lễ cho các đám tang tứ thân phụ mẫu của các thủ trưởng. Thậm chí, chụp ảnh các buổi sinh nhật của thủ trưởng hay một trong các người thân của thủ trưởng, . . . .

Một việc hiếu

Vào một đêm đông năm 1980, nó đang ngủ say thì trực ban đơn vị cho người xuống đánh thức, yêu cầu nó ăn mặc chỉnh tề rồi lên Phòng Sở Chỉ Huy ngay. Khi nó lên đến nơi, đã thấy có đại tá Tâm, thượng tá Văn và một số sỹ quan của cục đã có mặt. Thủ trưởng Tâm bảo nó :

- Bố thủ trưởng Tài mới mất, hiện quàn tại nhà lạnh bệnh viện 108. Đồng chí lấy máy ảnh,
theo đoàn vào đó. Nhiệm vụ của đồng chí là chụp chân dung cho cụ vì cụ chưa có ảnh.
Trong đêm nay, bằng mọi giá phải có ảnh khổ 30x40, lồng vào khung, đặt trên linh cữu
cụ để sáng ra các đoàn còn vào phúng viếng.

- Báo cáo thủ trưởng ! Rõ !

Nó lao vội lên tầng hai, lấy máy ảnh, lắp phim, rồi chạy xuống sân. Ở đó một chiếc xe của đơn vị đang chờ. Tới bệnh viện 108, nó thấy mỗi người một việc đang lo hậu sự cho cụ. Nó đi về phía nhà lạnh và được một vệ binh chỉ chỗ cụ đang nằm.

Nó chắp tay vái cụ ba vái, rồi lầm rầm khấn xin phép cụ cho chụp ảnh. Khi tấm vải trắng che mặt được lật ra, trước mắt nó là một cụ già tầm trên 80 tuổi, râu tóc bạc phơ, trông quắc thước và nghiêm nghị. Hai mắt cụ đã được vuốt để nhắm lại nhưng miệng vẫn hơi bị há. Mũi, miệng và tai được nhét đầy bông. Nhìn thấy thế, nó biết là việc có được một bức ảnh đẹp sẽ rất khó khăn. Nhưng nó vẫn phải chụp vì chẳng còn cách nào khác. Cụ được đặt nằm trên băng-ca khá cao nên nó phải mượn một chiếc thang chữ A của viện. Nó kê chiếc thang bên cạnh băng ca và trèo lên chụp. Nó phải chụp 3 kiểu với tốc độ và khẩu độ sáng khác nhau. Chụp ảnh xong, nó kéo lại tấm khăn trắng che mặt cụ. Nó lại vái cụ ba vái nữa rồi chạy vội ra xe.

Vừa lúc đó nó thấy thủ trưởng Tài đang đi tới. Không để cho nó kịp chào, thủ trưởng đã hỏi ngay nó về việc chụp ảnh. Nó chỉ nói là nó không nhìn rõ răng vì bông che lấp hết. Thủ trưởng bảo nó, răng cụ bình thường nhưng có một chiếc răng cửa bị gãy một nửa. Xe đưa nó quay trở về cơ quan. Lúc đó là 3 giờ sáng. Nó vội vàng lên phòng ảnh, pha thuốc, cắt phim và tráng. Nó phải hong phim gần một bóng đèn cho chóng khô. Chọn cái phim đẹp nhất, nó lắp vào máy phóng Ô-mê-ga (máy Mỹ) và phóng cùng lúc ba bức ảnh khổ 30x40. Nó phải phóng ba ảnh cùng lúc vì sau đó còn phải vẽ thêm mũi, mồm, tai, răng, có thể bị hỏng thì có cái khác vẽ ngay.

Nó dùng bút lông và mực tàu và bắt đầu vẽ tái tạo bộ răng, lỗ mũi, lỗ tai và cuối cùng là vẽ cho đôi mắt mở ra. Rất may là nó có nghề vẽ, thêm nữa, cái ngón truyền thần hóa ra bây giờ rất có tác dụng. Nếu nó chỉ biết chụp ảnh không thôi thì hôm nay nó đã phải chịu cứng, không làm gì được. Sau hai tiếng rưỡi miệt mài làm việc, kết quả cuối cùng rất mỹ mãn. Phải là người có nghề và tinh ý mới có thể nhận ra là ảnh được vẽ thêm. Nó lấy một khung bằng khen có kính khá lớn, đem sơn đen và sấy khô rồi lồng ảnh của cụ vào. Ảnh xong thì đã là 6 giờ sáng.

Nó xuống cửa văn phòng thì vừa kịp, có hai chiếc xe con đang chuẩn bị ra đám tang. Nó ôm cả ảnh và máy ảnh, leo lên xe đi luôn. Tới nhà tang lễ, nó trang trọng đặt ảnh cụ lên bàn khánh tiết, phía sau bát hương đang nghi ngút khói. Thủ trưởng Khánh, thủ trưởng Tâm và mọi người trong gia đình xúm lại xem ảnh đều khen là giống và đẹp. Còn thủ trưởng Tài thì bắt tay và cảm ơn nó.

Nó được phát một chiếc bánh mỳ để ăn tạm nhưng ăn chưa xong đã phải vào chụp ảnh các đoàn đến phúng viếng, liên tục như vậy trong hai ngày. Sau đó nó còn phải chụp cảnh lễ truy điệu, cảnh đưa ra nghĩa trang, hạ huyệt, . . . .

Xong đám tang nó tưởng chừng như mệt đứt hơi. Vậy mà vẫn chưa hết việc, thủ trưởng Tâm yêu cầu nó làm 5 bộ ảnh từ chục cuốn phim chụp để thủ trưởng Tài gửi cho các anh em ruột mang đi. Nó phải in, phóng, phơi sấy và làm bóng hàng ngàn bức ảnh. Hai ngày sau nó mới xong việc.

Nó mang ảnh lên phòng thủ trưởng Tài. Thủ trưởng xem một tập, có vẻ rất hài lòng. Thủ trưởng tặng nó một bao thuốc lá và nói :

- Đồng chí làm rất tốt ! Thay mặt gia đình, tôi xin cảm ơn!

Nó rất mệt nhưng vui vì hoàn thành một việc hiếu có ý nghĩa.   

To be continued...    

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top