Kỳ 2: Những chuyện không thể quên - hồi ký của bác Tichtuongnhule - Phần cuối
CHUYỆN XX NHỮNG BỨC TƯỢNG MANG TÊN NHÀ ĐIÊU KHẮC "CHIẾN TRANH"
5 giờ 40 phút ngày 21/3/1975 pháo của sư đoàn bắt đầu nổ súng. Tất cả các điểm cao trên Lưỡi Cái và Mom Kim Sắc đều bị pháo bắn rất dữ dội. Toàn là pháo bắn thẳng (trực xạ). Kể cả pháo cao xạ 37 ly cũng hạ nòng, bắn tà âm. Pháo này bắn liên thanh 5 phát một, đạn căng hơn pháo mặt đất nhiều. Sau đó, pháo chuyển làn, bắn xuống đường 1 để cắt đứt con đường Huế - Đà Nẵng.
Sáng 23/3/75, trung đoàn 18 của 325 bắt đầu đánh chiếm Mũi Né. Thực sự là tinh thần của địch đã không còn nên mất sức chiến đầu và dễ dàng tháo chạy khi bị ta đánh. Được đà e18 tiến đánh qua Phú Lộc và đến chiều thì chiếm được đèo Phước Tượng. Một lực lượng của e18, vòng theo bờ Đầm Cầu Hai để chặn địch tại cửa Tư Hiền. Lực lượng chính chuẩn bị tiến đánh đèo Phú Gia và Lăng Cô. Một toán trinh sát của chúng tôi đi trước, cùng đi theo e18 đánh hướng này.
Trong khi đó, trung đoàn 101/f325 tiến ngược ra phía Huế và 16 giờ 30 ngày 23/3 đã đánh chiếm căn cứ Lương Điền.
Toán trinh sát thứ hai của chúng tôi được lệnh xuất phát. Toán này có trung trưởng Bùi văn Thắng, trung phó Dương Chí Lục, thằng Quynh a trưởng, một thông tin 2 oát, hai tay súng AK bảo vệ thông tin và tôi là người cầm bản đồ, sẵn sàng cắt đường dẫn bộ binh đánh vòng nếu hướng tấn công dọc đường 1 bị chặn ở đâu đó.
Chúng tôi xuất phát từ cứ của c20 và khoảng 2 giờ chiều thì đến sát chân Mom Kim Sắc. Khoảng 4 giờ, chúng tôi xuống đến Bạch Thạch. Bạch Thạnh là một vị trí của Địch đã bị ta đánh chiếm từ đêm 21/3. Lâu ngày ở trên rừng, bây giờ được đặt chân lên đường nhựa, trong lòng ai nấy đều cảm thấy rất bồi hồi. Tuy trận đánh ở đây là đêm hôm kia rồi nhưng vẫn còn thấy mùi chiến trận. Mùi thuốc pháo vẫn còn phảng phất làm trực giác những người lính tởn lên một cảm xúc lạ mà quen. Không khí căng thẳng của những ngày nào đó ùa về cùng với sự thảnh thơi khi nhìn cảnh chiến trận vừa đi qua đan xen lẫn lộn.
Tôi ngó dớn dác xung quanh và nhìn thấy một chiếc thuyền úp ngược. Một chiếc thuyền gỗ, chắc là của dân đánh cá trong Đầm Cầu Hai, người ta đã kéo nó từ biển lên, kéo qua đường 1 và cất ở đây. Tôi và một đứa nào đó (bây giờ không nhớ) đi lại phía chiếc thuyền. Chiếc thuyền úp và được kê cao, có thể chui vào ngồi ở dưới được. Không ai bảo ai, hai thằng đều cúi xuống nhìn vào trong.
Phía dưới, ở giữa chiếc thuyền là một đống củi gỗ, loại củi mà dân ở đây thường đào hố cho xuống để đốt lấy than hoa. Hai thằng tôi đều "Ồi !" lên cùng lúc. Trên đống gỗ, dưới chiếc thuyền úp ngược là một người lính tử trận. Cái xác được đặt nằm ngửa, hai tay đặt trên bụng, đầu quay về hướng bắc rất ngay ngắn. Nước da lính trận, xạm nắng gió, đã bệch ra, hai mắt nhắm lại. Một bức tượng người nằm, thanh thản.
Một người ra đi, thanh thản như thế, để lại cho một mẹ già và rất có thể là một người vợ trẻ khắc khoải đợi chờ. Đợi mãi, đợi mãi, để bạc phơ mái đầu, đến mòn mỏi tuổi xuân. Người chinh phu đâu có thấu hiểu lòng chinh phụ.
Chắc hẳn người tử trận đã được một chiến hữu vuốt mắt, nhưng không kịp chôn cất bạn. Người lính ấy tạm giấu bạn vào đây, hy vọng sẽ quay lại. Ừ ! Tình bạn vào sinh ra tử mà.
Nghĩa cử của anh ta trong đêm bị đối phương tấn công quyết liệt như vậy thật đáng trân trọng.
Giá mà chúng tôi còn ở lại đây thì chúng tôi sẽ chôn cất người tử trận. Âu, đều là con dân Đất Việt. Âu, đều có những bà mẹ thót ruột gan chờ con đêm đêm.
Vậy nên, nỗi buồn người lính . . . không bao giờ vơi đi được. Một người lính chúng tôi hy sinh, có khi kéo thêm nhiều người nữa hy sinh khi lấy xác đồng đội. Nhưng cũng có khi, ngặt không có hoàn cảnh nào để chôn cất bạn. Thì, sau này cũng không tìm lại được.
Bạn tôi kể, đồng đội bị pháo bắn, chết ngồi tựa vào gốc cây. Hai hôm sau quay lại, đã thấy một đụn mối, hình người, tạc chặt vào gốc cây. Một bức tượng người ra đi, đang bình lặng ngồi, ngắm nhìn trời đất và núi rừng.
Tôi đã từng chứng kiến những trận pháo trong đêm đen trên sông Thạch Hãn. Hình ảnh chiếc thuyền và chiến sỹ, dựng ngược, trên dòng nước đen sẫm, bung xòe lửa đỏ. Tất cả chỉ lóe lên, trong một ánh chớp nhì nhằng của lửa đạn.
Những dáng hình đó, tạc trong không gian của chiến trận, khắc vào tâm khảm người ở lại, không bao giờ nguôi.
CHUYỆN XXI NHƠN TRẠCH – THÀNH TUY HẠ
Chuyện đánh vào Nhơn Trạch Làm tôi cứ suy nghĩ mãi về vấn đề thời gian. Những gì tôi nhớ được khớp với một số tài liệu, nhưng lại sai lệch thời giờ với tài liệu khác. Trên bản đồ, địa danh Nhơn Trạch được ghi sát ngay vào Thành Tuy Hạ. Thực tế, nó chỉ nằm rất gần. Quận lỵ Nhơn Trạch nằm trên địa phận xã Phú Thạnh, đúng như trên bản đồ. Và, trận đánh vào Nhơn Trạch có người hiểu là quận lỵ Nhơn Trạch, người khác chỉ có ý diễn đạt đánh vào vùng đất thuộc huyện Nhơn Trạch.
Theo ông Vũ Trọng Hóa, thời điểm đó là tham mưu trưởng e18/f325t: "Sáng 28-4-1975, Trung đoàn 46, do Quân khu 3 tăng cường cho Sư đoàn 325 hành quân theo tỉnh lộ 25 tiêu diệt trận địa pháo 155 ly của địch ở ấp Bến Sắn, xã Phước Thiềng, Nhơn Trạch. Sau khi tiêu diệt xong trận địa pháo của địch, quân ta đánh chiếm chi khu Nhơn Trạch. Trung đoàn 46 áp sát, đánh chiếm thành Tuy Hạ".
Trong cuốn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tập VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,2008 (Chỉ đạo nội dung: Thiếu tướng TS Phạm Văn Thạch, Chủ biên: Đại tá PGS TS Hồ Khang): "14 giờ ngày 29-4, Sư đoàn 325 - Quân đoàn 2 sử dụng Trung đoàn 46 (có xe tăng - thiết giáp hỗ trợ) đánh chiếm các mục tiêu còn lại ở khu vực Nhơn Trạch, bến phà Cát Lái (phía bắc) và thành Tuy Hạ".
Bất luận thế nào, tôi sẽ kể theo trí nhớ của mình, kể cả ngày giờ. Ý kiến của ông Vũ Trọng Hóa là không đúng (lúc đó e18 đi cuối đội hình). Phải đến đêm 29/4 chúng tôi mới đánh qua Thành Tuy Hạ. Điều này chính xác vì đến gần sáng, chúng tôi áp sát bờ sông Đồng Nai, đã là gần sáng của 30/4 rồi.
Quãng 2 giờ chiều 27/4, mới có một bộ phận nhỏ của bộ binh 101 tiến theo đường LTL 25 (liên tỉnh lộ 25). Chúng tôi bàn giao tình hình cho họ. Nhưng sau đó chỉ thấy họ lập chốt và nghỉ ngơi.
Sáng sớm 28/4, chúng tôi nghe tiếng xe tăng đang chạy từ hướng Long Thành tới. Tôi nghĩ, có lẽ, hôm qua bộ binh chưa đánh vì lực lượng còn ít và chưa có xe tăng. Những chiếc xe tăng tiến đến ngày càng gần, chúng tôi thấy rất đông bộ binh trên xe tăng và chạy bộ phía sau. Chúng tôi tháo hết băng đỏ ở tay xuống, đưa cho một đứa đứng ra giữa đường, vẫy xe, báo hiệu: "Đây là quân ta, đừng bắn". Lực lượng bộ binh là trung đoàn 46. Lúc bấy giờ, tôi không biết trung đoàn 46 thuộc quân khu 3, chỉ biết đây là trung đoàn phối thuộc với sư đoàn 325 của chúng tôi.
Lực lượng bộ binh của 101 vẫn chốt lại. Trung đoàn 46, có xe tăng, bắt đầu tấn công dọc theo LTL 25. Chúng tôi đi theo sau bộ binh 46.
Sáng 28/4 hôm đó, trung đoàn 46 bắt đầu tấn công vượt qua đám rừng cao su mà trên bản đồ tỷ lệ 1:250000 ghi là Phước Mỹ. Vùng đất này thuộc xã Phước Thiềng. Sau đó phát triển theo LTL 25 tiến đến Phú Hội. Bên trái đường có điểm cao 30. Tôi được nghe kể lại, pháo tăng và hỏa lực cối của trung đoàn bắn phá dữ dội. Bọn địch ở đây, lần đầu tiên nghe tiếng xe xe tăng và pháo tăng bắn, đã, quá hoảng sợ mà bỏ chạy.
Đoạn Phú Hội, hai bên đường là làng mạc và các vườn cây sầu riêng cùng chôm chôm rất rộng. Con đường ở đoạn này ngoặt gấp sang bên phải. Trước đoạn ngoặt, có mộ cây cầu nhỏ. Khi xe tăng đến đây, không dám chạy qua cầu vì sợ cây cầu không chịu đựng nổi sức nặng của tăng. Đây là chiếc cầu bắc qua một lạch nước nhỏ. Để có thể vượt qua lạch nước, anh em phải làm đường tránh ngay cạnh chiếc cầu. Dưới lạch nước là bùn, làm sao đây ? Rất may, khi bộ đội đến đây thì ngay sau đó, du kích địa phương "áo đen" cũng xuất hiện. Yêu cầu phải lót đường dưới lạch bằng gạch đá và gỗ.
Nhờ du kích vận động những bà con còn ở lại trong làng, khoảng một tiếng đồng hồ sau vật liệu đã được huy động. Thôi thì đủ cả gạch, đá của dân chuẩn bị xây nhà, rồi gỗ cột, gỗ ván, . . . thậm chí có người gỡ cánh cửa hay mang phản ra góp. Cúng phải mất hai tiếng đồng hồ xe tăng mới vượt qua được.
Sau này, tôi có vài ngày trở lại Phú Hội. Nơi này là vựa chôm chôm và sầu riêng. Các ngôi nhà đều nằm rất xa nhau. Xung quanh nhà là rừng cây chôm chôm và sầu riêng. Chôm chôm cành lá xùm xòa rất thấp, trái sai chiu chít từng trùm xanh xanh vàng vàng. Sầu riêng thì rất cao và khá thẳng, trái đeo lúc lỉu. Những trái sầu riêng chín thỉnh thoảng rụng xuống, lịch bịch trên đất. Ban đêm ngủ trong vườn sầu riêng, thỉnh thoảng lại nghe trái rụng. Mấy thằng chúng tôi thấy cũng ghê ghê khi đi từ nhà này sang nhà khác. Trái sầu bất chợt có thể rơi trúng đầu.
Khi chúng tôi trở lại đây, sau ngày 30/4 khoảng nửa tháng, dân vẫn còn nhắc lại chuyện đã dỡ cả nhà trong vườn để làm đường cho xe tăng đi qua. Ai nấy kể lại đều rất hồ hởi và tự hào. Chuyện này làm cho tôi nhớ những câu chuyện đồng bào ở Quảng Bình dỡ nhà làm đường cho xe đi qua trong những ngày Mỹ thả bom đánh chặn các tuyến đường vận tải vào miền nam.
Đến chiều 28/4, trung đoàn 46 đã áp sát và triển khai bao vây căn cứ địch ở Long Tân.
Tại sao hướng tấn công vào Sài Gòn qua Long Thành, Nhơn Trạch lại cực kỳ quan trọng thì sau này tôi mới biết. Lúc bấy giờ tôi chỉ nghĩ, đơn vị nào cũng cố gắng, càng nhanh càng tốt để vào Dinh Độc Lập đầu tiên. Hướng của sư đoàn tôi ào ào xông lên là vì thế. Sư đoàn tôi cũng muốn là người cắm cờ đầu tiên. Sự thật, điều đó chỉ là một phần.
Trong khi trung đoàn 46 đã bao vây chặt Long Tân thì, chiều hôm đó, pháo 130 ly được kéo đến Phú Hội. Ở cự ly này, cách sân bay Tân Sơn Nhất 20 cây số đường chim bay. Đó là cự ly mà pháo 130 có thể phát huy được hỏa lực. Về sau này tôi mới biết, đây là sự điều động pháo có nhìn lớn. Chỉ có thế, ta mới khống chế được không quân của địch, tạo điều kiện cho tất cả các cánh quân tiến vào Sài Gòn thuận lợi, ít tổn thất. Trong cuốn "Đại Thắng Mùa Xuân" của đại tướng Văn Tiến Dũng đã nói rõ việc chỉ thị cho quân đoàn 2 làm thế nào nhanh chóng chiếm được Nhơn Trạch để đưa pháo 130 vào khống chế Tân Sơn Nhất. Và, ngày 29/4 phải thực hiện được điều đó. Sớm hơn một ngày thì không kịp, mà chậm hơn một ngày thì các cánh quân sẽ bị phơi áo trước không quân của địch. Vì vậy mà sư đoàn 325 mới chọc khe qua rừng cao su, bóc bằng được Long Thành để tiến tới Nhơn Trạch.
Trong khi đó, ngày 28 và 29 cũng là ngày ta tạm ngừng tấn công để Mỹ có thể rút khỏi Sài Gòn trong danh dự.
Đêm 28/4, trung đoàn 46 đẩy nốt địch khỏi Long Tân, mở đường tiến quân vào Nhơn Trạch và Thành Tuy hạ.
Đúng 4 giờ 30 phút sáng 29-4-1975, pháo 130 ly của Sư đoàn 325 dõng dạc lên tiếng. Tiếng nổ đầu nòng rất đanh ở phía sau chúng tôi khá xa. Đạn bay và rít lên liên tục qua đầu chúng tôi về phía tây, phía Sài Gòn. Chưa bao giờ tôi được thấy pháo 130 bắn cấp tập và nhiều như vậy, phải đến vài trăm quả. Ngay lúc bấy giờ, chúng tôi đã được thủ trưởng nào đó nói cho biết là đang bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Chắc hẳn các cụ quá mừng, biết là ngày chiến thắng đã đến rất gần rồi và quá phấn khích nên cũng chẳng giữ gìn bí mật gì mà chia sẻ hiểu biết của mình với lính tráng để được vui chung.
Lúc đó, chúng tôi không biết là bắn vào sân bay có hiệu quả không. Nếu chỉ bắn theo tọa độ thì có thể chỉ trúng khu vực thôi. Có ai là trinh sát để chỉnh pháo không ? Lính tráng được chứng kiến trận bắn pháo đều thấy tưng bừng, hả hê. Chúng tôi không biếtt chính xác pháo đặt ở đâu nhưng đoán là pháo chưa qua khúc quẹo có chiếc cầu nhỏ ở Phú Hội vì có thể xe xích kéo pháo không dám kéo pháo qua ?!
Việc 130 bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất thực ra không khó đoán. Vì Sài Gòn là thành phố đông dân cư, pháo chiến lược bắn tầm xa, độ tản mát lớn không thể bắn vào chỗ nào khác trong thành phố được.
Sau trận pháo kích cấp tập, thỉnh thoảng 130 lại cầm canh vào Tân Sơn Nhất. Ngoài việc bắn pháo ra. Hướng của chúng tôi có vẻ rất yên tĩnh.
Tầm bảy tám giờ sáng, rất nhiều F4 của hải quân Mỹ bay ầm ào trên trời, rất thấp, hết tốp này đến tốp khác. Chúng lượn vòng ngay trên đầu chúng tôi. Lúc đầu chúng tôi không hiểu là chuyện gì. Sao chúng nó bay nghênh ngang thế mà pháo 37 của ta không thấy lên tiếng ?
Lại một "cụ" nào đó nói với chúng tôi:
- Mỹ nó bay hộ tống cho việc rút quân đấy. Chúng mày có thích xem Mỹ nó rút quân thì trèo lên đồi kia
mà xem. Cao xạ được lệnh không bắn máy bay Mỹ. Mấy thằng A72 ngứa tay cũng phải nhịn (A72 là tên
lửa phòng không vác vai tầm nhiệt).
Có lẽ "các cụ" được phổ biến mà "các cụ" còn nghe cả BBC và Tiếng Nói Hoa Kỳ nữa. "Cụ" nào chả thế.
Chúng tôi trèo lên cái đồi nằm bên trái đường đi Nhơn Trạch và nhìn về thành phố. Vướng rất nhiều đồi ở phía trước nên chúng tôi không nhìn rõ máy bay đáp xuống chỗ nào trong thành phố. Nhưng, một cảnh tượng thật là hoành tráng mà chúng tôi chưa bao giờ được thấy. Không biết cơ man nào là máy bay trực thăng, như, một bầy ong vỡ tổ, những cái bay lên, bay xuống, lượn vòng, ào ạt, nhao từ phía nam tới rồi khi cất lên lại lao về phía nam (phía biển).
- Kinh quá nhỉ, cứ như một đàn ruồi ý nhỉ !
- Nhiều thật đấy !
- Thì Mỹ nó rút mà lại.
- Có khi có cả trực thăng của không quân ngụy.
- Thì ngụy nó cũng chạy chứ !
Sau này nhiều lần xem các loại phim Mỹ tôi cũng chưa thấy lần nào có nhiều máy bay trực thăng như thế.
Chúng tôi đứng xem Mỹ rút bằng trực thăng rất lâu. Chắc trực thăng bay ra tàu đổ người xuống rồi quay lại Sài Gòn đón đợt khác. Ai nấy đều hiểu rằng cuộc chiến sẽ chỉ còn ngày một ngày hai nữa tôi. Bình minh sắp đến rồi. Trong lòng ai nấy đều rộn ràng. Thoáng qua một ý nghĩ, có thể mình sẽ được chứng kiến giây phút đó. Hay là, ai sẽ ngã xuống trên đường từ đây đến, trước lúc bình minh ! Dù có bất chợt nghĩ như vậy, thảy không một ai chùn bước.
Đang xem hay thì có người gọi đích danh tôi và những ai ở a2 về chuẩn bị xuất kích. a2 chỉ có Vương Lâm là lính cũ, còn lại toàn các em nhập ngũ bảy tư. Lúc này đây, ai là trinh sát cũ hay mới không còn quan trọng nữa. Cứ tiến lên, đụng vào đâu thì địch ở đó, chẳng cần phải nghiệp vụ hay dầy dạn chiến trận.
Chúng tôi được lệnh bám theo bộ binh 46. Họ sắp tấn công vào Nhơn Trạch và Thành Tuy Hạ. Khi họ qua được đó, chúng tôi sẽ phải vượt lên trước để trinh sát cho trận đánh sớm hôm sau.
Khoảng 2 giờ chiều, pháo cối của trung đoàn bắn vào quận lỵ Nhơn Trạch. Xe tăng đã nổ máy và đang tiến lên cùng bộ binh. Rút kinh nghiệm trận Long Thành. Lần này xe tăng vừa tiến vừa bắn 12 ly 7 về phía địch. Không những thế, những vị trí được cho là có địch, pháo tăng không nề hà gì, cứ tương thẳng cánh. Ở Long Thành, sợ phá hỏng nhà dân nên pháo không bắn, xe tăng bị địch bắn cháy hai chiếc. Bây giờ pháo bắn tất, triệt hạ các ngôi nhà mà địch cố thủ trong đó. Tất nhiên trong nhà không có dân vì dân đã tùy nghi đi ẩn náu ở đâu đó rồi.
Pháo cối, pháo tăng, B40, 41 bắn không tiếc đạn. Một cảnh phố xá tan hoang, nhà cửa tả tơi khi chúng tôi đi qua Nhơn Trạch. Đồ đạc quân dụng, cả súng đạn, quân phục, giầy, mũ lính vứt tung tóe dọc đường chúng tôi chạy qua. Cuộc tiến quân quá nhanh chóng và người rút chạy còn nhanh hơn. Lính địch bỏ chạy theo đường LTL25, chạy bến phà Cát Lái hoặc chạy ra các bến nước trên sông Đồng Nai. Họ lấy thuyền của dân để vượt sông. Cũng có người quẫn quá phải bơi bộ qua sông. Đoạn sông chỗ phà Cát Lái rộng mênh mông, tới 800 mét. Nhiều lính trút bỏ quần áo, súng ống chỉ để lại trên người mỗi cái xà lỏn. Họ chạy tản ra các cánh đồng hay vào trú trong các nhà dân ở sâu trong xóm. Cũng rất nhiều lính mặc xà lỏn, tay cầm vải trắng xin hàng.
Anh em bộ binh phải trói các tù binh rồi cử người dải về phía sau. Đến lúc có quá nhiều tù binh thì không ai bị trói nữa. Họ được thả, cho về quê.
Chập tối thì chúng tôi vượt qua Thành Tuy Hạ. Trời nhanh tối quá, đường tối thui, chúng tôi phải dùng đền pin để soi đường đi. Lúc này xe tăng đã dừng lại và chạy chậm ở sau chúng tôi khá xa. Có năm bảy tù binh được thả đang đứng chần chừ hai bên đường. Tôi soi đèn và hỏi rất to:
- Anh em được cho về nhà hả ? Sao không đi mà còn đứng đây ?
- Các ông giải phóng cho chúng tôi được xem T54 đã ! Chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy T54.
Thì ra là như vậy. Bọn lính ở quanh khu vực Sài Gòn thường là những đứa con ông cháu cha hay những đứa có nhiều tiền chạy chọt. Chắc họ chưa phải ra trận và chưa nhìn thấy T54. Lúc đó tiếng T54 đang gầm rú rất lớn ở phía sau. Kể cũng lạ, mấy thằng lính thất trận, được thả cho về còn "máu" ở lại để xem xe tăng. Không biết từ đâu mà họ có thể tin tưởng quân giải phóng. Sao họ không lo sợ, nhỡ có sự đổi ý, sẽ bị bắt lại hay bị đánh đập, thậm chí có thể bị bắn giết ?!
Từ đây đến bờ sông Đồng Nai chỉ còn khoảng dăm cây số. Qua hết Thành Tuy Hạ là cánh đồng trống. Trung đoàn 46 và xe tăng đã dừng lại. Mấy thằng lính trinh sát a2 của chúng tôi đang mò mẫm tiếp tục tiến lên. Khi chúng tôi đang tạm dừng để nghỉ thì thấy ánh đèn pịn loe lóe ở phía sau.
- Ngồi chờ đây xem ai đang đến đã.
- Chắc là trinh sát trung đoàn đấy.
Khi toán người đến gần, tôi hô:
- Ai đấy ? Phải trinh sát 325 không ?
- Ừ ! TíchTườngNhưLệ hả ?
- Anh Thắng hả ?
Thì ra là quân mình. Toán ông Thắng được cử đi sau chúng tôi nhưng anh em không phải chờ bộ binh đánh nhau nên đã bắt kịp chúng tôi.
- Chắc các bọ thấy bọn tôi không có điện đài thì trinh sát cũng chả được tích sự gì nên mới cử bọn
anh đi tiếp. Đúng không ?
- Bọn ông đi rồi, anh Nhạ mới giật mình nghĩ ra không có điện đài. Nhưng tôi biết các ông cũng không
thể đi nhanh được nên chiều muộn bọn tôi mới xuất phát.
- Hôm nay nóng qua anh ạ. Bây giờ ra đây mới có tí gió. Anh ăn cơm chưa ?
- Rồi !
- Thế bọn tôi chén cái đã, cơm nắm từ trưa đây. Chỉ khát nước thôi anh ạ. Bây giờ mới thấy đói. Có gì mới không anh ?
- Có đấy !
- Gì thế ?
- Chuẩn bị vượt sông.
Sau ngày 30/4, Hồng và tôi được cử đi làm hồ sơ Thành Tuy Hạ và chi khu Long Thành. Chuyện Long thành đã kể ở trên. Ngay khi làm hồ sơ Thành Tuy Hạ, tôi cũng không biết rằng cái kho này là kho bom đạn lớn nhất miền nam. Lúc đó, tôi vẫn nghĩ tổng kho Long Bình mới là nơi chứa nhiều bom đạn nhất.
Về sau này tôi mới biết thông qua các tài liệu. Nhưng các tài liệu này rất hạn chế vì sau này kho được giao cho cục hậu cần quản lý nên mọi chuyện kho bom đạn này lại thành bí mật, không ai được viết kỹ nữa. Chuyện kể rằng, kho này được xây từ thời Pháp. Sau đó, dưới thời Mỹ, nó được sửa chữa, nâng cấp và mở rộng và được đổi tên thành "căn cứ Phan Bội Châu". Tuy vậy, mọi người vẫn cứ gọi nó là Thành Tuy Hạ.
Người ta cũng kể lại, Thành Tuy Hạ được bảo vệ rất cẩn mật, với 14 lớp hàng rào, có lớp cao đến hai mét rưỡi. Hệ thống phòng thủ được chia làm 3 tuyến, mỗi tuyến đều có lô cốt, hầm hào và chướng ngại vật. Khoảng 100 con bẹcgiê và lính tuần phòng liên tục. Ngoài ra, còn có giang thuyền rà soát ngày đêm trên sông, lại còn có căn cứ hải quân Cát Lái quan sát, canh chừng.
Rồi chuyện đặc công Rừng Sác đã mấy lần đánh kho bom này làm rung chuyển cả Sài Gòn. Cũng rất nhiều anh em đặc công bị hy sinh, ghi danh tại đền thờ Nhơn Trạch ngày nay. Mỹ đã thả bom xuống ngã ba Giồng Sắn và Ông Kèo, tàn sát 536 người dân vô tội.
Mặc dù là người trực tiếp làm hồ sơ nhưng tôi biết ít hơn thế nhiều. Vả lại, lâu ngày quá, quên gần hết. Hơn nữa những thứ đi làm lại sau trận đánh, bao giờ tôi cũng cho ra ngoài bộ nhớ ngay sau đó. Thôi thì còn nhớ gì kể nấy vậy.
Chiều 30/4, từ Sài Gòn, chúng tôi được xe chở về căn cứ Cát Lái. Xê Hai Mươi Trinh Sát và Xê Hai Sáu Xe Cộ được đóng ở Cát Lái. Sau đó vài ngày thì tôi được giao đi làm hồ sơ Thành Tuy Hạ và Long Thành. Hai thằng đi đò qua sông, rồi đi thẳng đến Thành Tuy Hạ. Đêm 29/4, chúng tôi đã đi qua đây nhưng không vào bên trong mà chỉ đi bên ngoài. Trời lại tối nên không nhìn thấy gì bên trong đó. Vả lại, bị trường rào che khuất hết, nhìn gì được.
Bây giờ đến nơi mới thấy, tường xung quanh Thành Tuy Hạ không phải tường xây mà hoàn toàn làm băng tôn. Những tấm tôn dài, dựng đứng, cao trên hai mét. Phía bên trong có trụ đỡ cao vượt trên tôn khoảng 1 mét. Trên đó căng dây thép gai thường kết hợp với thép gai bùng nhùng. Để ý kỹ còn thấy có hai đường dây điện trần căng trong đám thép gai đó. Hai thằng tôi nhìn thấy cái tường này đều thất kinh. Từ cha sinh mẹ đẻ cái nghề mò mẫm, chưa ai dậy chúng tôi vượt tường bằng tôn hốn hợp với thép gai và được ướp điện. Chuyện 11/12/1972, đặc công vào ém 24 khối chất nổ C4, lúc đó chỉ có hàng rào kẽm gai (14 lớp).
Hai thằng lắc đầu ngán ngẩm. Tôi hỏi Hồng:
- Này, nếu phải vượt qua hàng rào này thì làm thế nào ?
- Chắc chỉ có cách bắc thang.
- Thế, lên đến nơi, điện nó giật chết thì thành chả nướng à ?
- Ừ Nhỉ.
- Mới lại, ông động vào tôn, nó kêu pheèng pheèng thì có mà, . . . "lạy cụ, tôi đây !"
- Thế ông bảo phải làm thế nào ?
- Thì ông cứ đứng ngoài này, chắp tay vào mà vái "Con lạy bố ạ !"
- Ừ ! Hàng rào này hiểm thật đấy.
Hai thằng vào bên trong qua cổng, đi thu thập hồ sơ mà trong đầu vẫn lởn vởn câu hỏi "Làm thế nào để vượt qua cái rào tôn ?"
Bất thình lình tôi reo lên, chỉ đúng một từ. Rồi hai thằng khoái chí lắm vì từ nay thêm một ngón nghề trinh sát mới, ngón vượt qua tường tôn.
Cách mà chúng tôi nghĩ ra, chưa chắc là cách duy nhất mà cũng chưa chắc là cách hay nhất.
Tôi hô lên một tiếng "Đào". Nhưng mà đào thì làm sao xóa dấu vết đây ?
Thực ra thì đất ở trong căn cứ Thành Tuy Hạ cao hơn xung quanh một chút. Vì vậy trong "thành" vẫn có cống rãnh thoát nước mưa và nước sinh hoạt trong căn cứ. Chỉ có thể lợi dụng trời mưa gió mà đào địa đạo qua tường tôn ở gần rãnh nước. Kỹ thuật xóa dấu vết phải giống như khi đào hầm bí mật. Đồng thời, khi đã vào được bên trong, sẽ quan sát địa hình để xem có thể ngụy trang như thế nào cho phù hợp. Chẳng hạn như rãnh có nhiều rác rưởi cây que trôi dạt hay gỗ rều, . . ..
Khi địa đạo đã qua tường rồi thì làm sao để mở một cửa ở bên trên để chui lên. Việc này thì chúng tôi sẽ áp dụng kiểu nắp hầm bí mật. sẽ phải có một tấm ván hình chữ nhật có diện tích sao cho người có thể chui qua. Đào moi từ dưới lên, khi ước lượng còn cách mặt đất khoảng 20 xăngtimét thì đỡ tấm ván phía dưới và sắn đất xung quanh ván theo dạng vát, loe ra như mô tả ở hình dưới. Được một cái nắp hầm bằng đất liền thổ với xung quanh. Đẩy nắp lên và chui ra. Khi nào rút thì chui xuống và đậy nắp lại. Nếu có lá rụng hoặc cây cỏ thì tự nó ngụy trang rồi. Mà trời mưa thì càng tốt. Sau khi đậy nắp, tốt nhất là dùng các thanh đỡ nắp hầm, đề phòng địch dẫm phải cũng không bị sập. Vậy là có một con đường bí mật có thể ra vào nhiều lần. Nói thì dễ thế nhưng không khéo, có thể bị lộ ngay từ lúc đào hay là sau khi mình rút ra lần đầu để lại dấu vết. Nếu vậy thì . . . "hết phim".
Chó bẹcgiê là một vấn đề. Có thể trời mưa to nó không nghe tiếng và địch ít đi tuần hành nhất là đoạn cống rãnh. Nhưng chó nó đánh hơi thì thính vô cùng. Vụ chó, chúng tôi đã được học, phải ngâm mình, cả đầu tóc trong bùn đủ thời gian để hết hơi người, xong phải giã tỏi mà bôi khắp người nữa. Có người còn bảo lấy rượu cao hổ cốt mà bôi thì giống chó sẽ sợ. Chuyện này không biết có thật không. Người thì bảo đúng, người thì bảo có lần đưa xương hổ dọa chó, nó chẳng sợ mà còn liếm láp nữa mới chết. Xê Hai Mươi chúng tôi chưa bao giờ phải luồn vào đâu có chó cả nên chưa có thực tế.
Việc đầu tiên khi vào Thành Tuy Hạ, Hồng và tôi đi lục hồ sơ tài liệu. Cả căn cứ rất rộng chỉ có hai thằng. Đã có kinh nghiệm, chúng tôi sục vào ngay căn nhà lớn hai tầng (hay ba tầng – bây giờ không nhớ) mái ngói kiểu cổ cổ. Đây là sở chỉ huy. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã tìm được đủ hồ sơ gồm bản đồ chi tiết tất cả các kho, tất cả các bố phòng trong căn cứ. Giống như ở sân bay Phú Bài. Tài liệu ở đây vẫn còn nguyên vẹn.
- Xong việc rồi đấy ông ạ ! Bây giờ đi chơi thôi.
- Ừ !
Căn cứ địch thì có gì hấp dẫn đâu. Chúng tôi chỉ sục vào khu vực có một cái cổng đề "Khu Gia Binh". Đây là khu vực dành cho gia đình các sỹ quan trong căn cứ. Đó là các nhà một tầng, mái tôn, có trần chống nóng. Mỗi gia đình được ở một gian khá chật hẹp. Đồ đạc vứt lung tung, ngổn ngang. Chắc khi bỏ chạy, người ta chỉ lục đồ và mang theo những gì quí nhất.
Trong một phòng, có lẽ có trẻ con, tôi nhìn thấy quần áo trẻ. Trên xích đông treo tường còn có đường và sữa bột. Mấy cái hộp sữa Guigo. Loại sữa này bây giờ không thấy. Đó là loại sữa có hộp cao bằng nhôm sáng lượn sóng . Loại này ở Hà Nội có từ thời Pháp. Sau năm 54, nhà tôi vẫn còn dùng mấy cái hộp đó để đựng đường đến mãi về sau này. Nắp nhôm rất khít, đường không bị chảy nước. Thằng Hồng thấy trong tủ ly cái ảnh nổi. Ảnh một cô gái. Khi nghiêng qua nghiêng lại thì mắt cô gái nhấp nháy. Nó thích lắm và cho luôn vào trong gùi.
Không biết ở phòng nào, chúng tôi lục cái tủ gỗ hai buồng. Nói chung chỉ xem, chẳng có gì đáng lấy. Hai thằng mải lục, lúc ngẩng lên, định đóng cánh tủ thì giật mình. Trời ! một tấm hình cô gái đẹp, chụp chính diện, dán bên trong cánh tủ. Cái ảnh rất to, gần bằng người thật. Chết nỗi, cô gái không có một tẹo vải nào trên người. Hai thằng ngắm nghía giờ lâu:
- Kinh nhể !
- Kinh quá ! Chắc phòng này của hai thằng độc thân mày ạ. Mà này, còn khối họa báo đây này.
Tôi không nhớ là họa báo gì, toàn hình khỏa thân. Hai thằng xúm lại giở hết từng trang họa báo. Không thằng nào nói được một tiếng. Tôi muốn nuốt nước bọt quá mà thằng Hồng nó nghe thấy thì ngượng chết. Không biết nó có thế không ? Nếu không có thằng Hồng, không biết tôi có thủ một cuốn vào trong gùi không. Xem xong, hai thằng lẳng lặng sang phòng khác, không ai bàn tán gì.
Cái khu gia binh này bẩn cực kỳ, từ trong phòng cho đến bên ngoài. Đồ đạc tung tóe đã đành mà tường cũng bẩn và ẩm thấp, muỗi đầy trong các góc tôi, ruồi rất nhiều đang bâu vào những đồ ăn vương vãi. Rãnh thoát nước cũng bẩn, đầy rác rưởi và ruồi muỗi. Trong thành cũng có chỗ nước đọng lâu ngày sau mưa, nhiều rác rưởi, . . .
- Thôi ông ơi, ra khỏi đây đi, bẩn quá.
Sau này, Xê Hai Mươi có ít ngày đóng quân trong Thành Tuy Hạ, làm vệ sinh rất cẩn thận thế mà đơn vị bị dịch sốt. Rất nhiều người dính bệnh. Khi chúng tôi chuyển về căn cứ Nước Trong rồi vẫn còn một số anh em phát bệnh. Một y tá của đại đội mất vì bệnh dịch này ở đó.
. . . (hết chuyện XXI)
CHUYỆN XXII ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG LÒNG SÀI GÒN Cùng cơ quan, tôi quen biết anh đã ba mươi năm nay, chúng tôi đều là những cựu chiến binh thời chống Mỹ. Tuy vậy chưa lần nào chúng tôi nói chuyện với nhau về những ngày đó. Hôm nay, rỗi việc, tôi rẽ qua phòng anh, gọi là, cựu binh lâu ngày gặp thì chào hỏi nhau một tí. Anh vừa pha nước vừa hỏi:
- Sao hôm nay lại rỗi việc thế ?
- Ừ ! nghe nói anh có chè ngon, ghé vào xin chén.
Chúng tôi cùng cười xòa lên. Dăm ba câu chuyện về tình hình cơ quan. Cũng chả có gì mới. Rồi tôi hỏi:
- Này bố đi lính, chắc lính cậu, toàn ở ngoài Bắc à ?
- Đâu có, tôi cắm ở bê hai bốn năm đấy bố ạ.
- Ở đâu ?
- Củ Chi.
- Ồi ! thế thì ghê đấy !
Bây giờ tôi tua lại cái "băng ghi âm" để anh em cùng nghe. Không tua lại ngay, khéo "cái máy ghi âm" này nó không nhớ được lâu, rồi rơi vãi hết. Máy cũ rồi, chóng quên lắm.
Anh tên Hà, nhập ngũ năm 1970 sau khi tốt nghiệp lớp 10 (hệ 10 năm – đúng hơn là hệ 11 năm, kể cả "vỡ lòng"). Từ năm 1971 đến 1976 anh chỉ đóng quân tại một chỗ. Đó là Củ Chi, một địa danh nổi tiếng với tên gọi "Đất Thép Củ Chi". Một nơi khá gần Sài Gòn và Biên Hòa. Hỏi chuyện anh, anh kể:
- Tôi may mắn, suốt từ 1971 đến 30/4/1975, chỉ vài lần chứng kiến súng nổ. Chúng tôi sống
ở Củ Chi hòa bình lắm.
- Lạ nhỉ ? Tôi thì nghe nói vùng Củ Chi ác liệt lắm. Địch nó càn ghê lắm mà. Bây giờ địa đạo
Củ Chi là chứng tích nổi tiếng. Làm sao có chuyện hòa bình được.
- Ấy, thế mới là chuyện. Chúng tôi không ở vùng địa đạo đó mà ở vùng giáp ranh, cài răng lược.
Ban ngày là của địch, ban đêm là của ta.
- Thế anh là lính hay cơ quan dân chính của Trung Ương Cục ?
- Bộ đội chứ !
- Thế không phải choảng nhau trận nào à !
- Ừ ! đã bảo tôi may mắn mà.
- Thế thì lính tráng làm gì vậy ?
- Tôi ở hậu cần.
- Gọi là đơn vị gì thế ?
- Chính xác là c25/Y83 cục hậu cần miền.
- Y là gì thế ? Còn miền là thế nào ?
- Ờ thì cứ gọi tắt như thế, ở trong đó chúng tôi gọi Y là tiểu đoàn cũng như d hay k thôi. Còn
cục này thuộc tổng cục hậu cần.
- À, ra thế. Bọn anh lo súng đạn, gạo mắm cho anh em.
- Súng đạn thì tôi cũng không rõ nhưng gạo này, đường này, muối này, đồ hộp này, nhiều thứ
lắm, . . . .
- Thế các thứ đó mình vận chuyển ở Tây Ninh về à !
- Ai lại thế ! Mình vận chuyển từ Sài Gòn ra chứ.
- Ồ ! Hay lắm ! thế thì anh phải kể chuyện cho tôi nghe rồi.
- Chuyện của tôi bình thường lắm. Tôi cũng chỉ làm bảo vệ cho việc vận chuyển thôi.
- Hay chứ, chuyện này chắc phải gọi là "Đường Hồ Chí Minh trong lòng Sài Gòn". Anh biết đấy,
có "Đường mòn Hồ Chí Minh trên Trường Sơn", rồi "Đường Hồ Chí Minh trên biển". Đường nào cũng
là một thiên tráng sử đấy. Đường của các anh có ác liệt không ?
- Ở đâu thì tôi không biết, chứ ở chỗ chúng tôi hòa bình lắm.
- Ông bảo ở Củ Chi, chính xác là ở chỗ nào thế ?
- Phú Hòa Đông.
- Vùng này tôi đã xem bản đồ cũ của Mỹ thấy nhiều rừng cao su lắm.
- Không, chúng tôi ở chỗ rừng cây tự nhiên lúp xúp chứ không ở trong rừng cao su.
Ở nhà tôi đã "đao" trên mạng xuống rất nhiều bản đồ. Oái oăm, cái chỗ này nằm giữa bốn mảnh bản đồ. Từ bốn mảnh đó, tôi cắt mỗi mảnh một góc và ghép lại. Tạm thành cái bản đồ mà Củ Chi là trung tâm. Phía tây bắc là Trảng Bàng, đông bắc là Phú Hòa (Bến Cát), đông nam là Gia Định – Sài Gòn, tây nam là Khiêm Cương (Bàu Trai). Xã Phú Hòa Đông hiện nay nằm trong vùng có khoanh đỏ. Không biết trước đây rộng hay hẹp hơn. Phú Hòa Đông nằm giáp sông Sài Gòn, có thể thuận tiện cho việc vận tải trên sông.
- Cài răng lược là thế nào ?
- Vùng chúng tôi ở là vùng của ta. Các đồn bót của địch cũng ở khá xa. Giữa vùng ta và đich có một vùng trống.
- Gọi là "vùng đệm".
- Gọi thế cũng được. Cơ mà vùng này ban ngày là của địch. Chúng nó từ trong đồn vẫn hành quân kiểm soát. Dân
vẫn đi làm ăn buôn bán hay trồng trọt gì đó, bình thường. Ban ngày thì mình chả đi vào đó làm gì. Nhưng chiều
đến, chúng nó rút hết về đồn. Tối đến thì chúng nó giới nghiêm, không cho ai qua lại nữa. Chờ tối hẳn thì mình
muốn đi vào đó cũng không sao.
- Thế , mình vận chuyển hàng từ Sài Gòn vào chiến khu như thế nào ?
- Thế này nhé ! Mình đưa tiền nhờ dân nhờ dân người ta về Sài Gòn mua hàng hóa rồi bán lại cho mình. Đêm là họ
chở hàng ra cho mình. Chuyện đơn giản !
- Sao lại thế ? Chở hàng cho Việt Cộng lãi lờ được bao nhiêu mà bị lộ thì sao chứ ?
- Bị lộ thì nó bắn chết chứ lị.
- Thế thì không phải là họ bán hàng ăn lãi đâu, mà chắc là cơ sở của mình hoạt động, mua hàng tiếp tế cho bộ đội.
- Ừ ! Chắc là thế. Nhưng tôi ở đó 4 năm chưa ai bị bắn cả.
- Nhưng mà, chả lẽ mua nhiều hàng, đi lại như thế địch nó lại không có nghi vấn gì ?
- Tôi chả biết. Nhưng cũng có thể chúng nó biết mà không làm gì.
- Sao lại thế ?
- Thì ông tính, trong làng, nhà nào theo Việt Cộng, nhà nào theo Qốc Gia, có nhà vừa Việt Công vừa Quốc Gia ai
mà chả biết. Mà họ vẫn sống bình thường với nhau, chứ có gì đâu. Chuyện đơn giản ! Việc gì mà phải bắn nhau.
- Người làng thì không nói làm gì. Thế còn quân đội, còn cảnh sát. Còn các trạm kiểm soát, thấy kìn kìn chở hàng
về phía tây thì nó phải nghi ngờ chứ ?
- Chẳng biết nữa.
- Hay là bọn nó cũng được ăn chia và làm bảo kê luôn.
- Có lẽ thế. Chuyện này tôi không biết đâu vì tôi chỉ đi để bảo vệ hàng thôi. Chuyện đơn giản !
Có lẽ tôi làm cho cái đầu đơn giản của Hà thêm rắm rối. Hay là, chuyện vốn dĩ nó đơn giản thật ? Tôi hơi thất vọng vì người thực, việc thực suốt 4 năm trời mà hắn cũng không nắm được nhiều chuyện liên quan. Cầm súng bảo vệ thì chỉ biết bảo vệ. Chả lẽ hắn không hỏi han gì người dân hay anh em hậu cần về việc nhập, xuất hàng ra sao. Liệu có phải mọi chuyến đi đều đến đích hay là bị địch chặn phá, tịch thu và bắt người, . . . Tôi lảng qua chuyện khác:
- Thế mấy năm ở gần dân như thế, có cưa cẩm ẻm nào không dzậy ?
- Vùng này xấu mù à, vừa quắt vừa đen.
- Anh nói bậy rồi. Tôi khẳng định với anh, ở vùng nào cũng có người đẹp hết, chẳng đâu là không có.
- Ừ ! nhưng tôi không gặp người. Đơn vị tôi sau này ra quân cũng có một ông đưa cả bố mẹ quay lại
đấy xin cưới một em. Mỗi trường hợp đó.
- Thế các ông bảo vệ thì làm gì ?
- Này nhé, cỡ hai ba giờ chiều thì bọn tôi mò ra, ém lại, theo dõi địch nó rút thế nào, có gài mìn hay
phục kích gì không. Nếu không có gì thì đợi tối hẳn mình sẽ đi theo đường đến điểm hẹn với dân để
đón hàng.
- Đường là đường lớn á ?
- Không, đường ruộng thôi. Nhưng ở trong ấy đường ruộng xe bò đi được. Dân họ vẫn dùng xe bò ra
ruộng đi làm hàng ngày mà. Mà xe bò ở vùng này to, đường ruộng rất rộng, xe đi thaỏi mái.
- Thế nếu địch nó chốt lại thì làm sao ?
- Thì về thôi. Chuyện đơn giản ! Có khi cả tuần đi đi về về chả được chuyến nào.
- Tôi hiểu rồi, mình nắm địch rồi xuống điểm hẹn với dân. Nếu không thấy mình đến đón thì dân tự hiểu
là hôm đó không đi được. Thế nhận hàng của dân rồi thì chuyên chở thế nào ?
- Thì vẫn thuê dân họ chở xe bò đi tiếp đến tận kho hàng của mình chứ. Chuyện đơn giản.
- Thế họ có về kịp trong đêm đó không hay phải ở lại.
- Ồ ! Chuyện đơn giản. Ngày nào họ chả đi làm. Hôm đó họ chở hàng, rồi hôm sau họ làm luôn, chiều
về bình thường. Ai mà biết được họ đi làm bình thường hay đi chở hàng.
Nge Hà nói, mọi chuyện thật đơn giản. Quân lương được tiếp tế lấy từ trong lòng địch ra. Cứ thầm lặng mà đi, không kèn không trống. Không có chuyện đánh chặn, mất của, hy sinh người. Vấn đề còn lại là cần phải có tiền.
- Nhưng mà anh lúc nào cũng nói thuê. Chở tiếp tế cho Việt Cộng có thể bị phục kích, bị mìn, mất mạng.
Tôi nghĩ, vì tiền thì người ta chả làm đâu.
- Ừ ! thực ra thì tôi cũng không biết hậu cần họ nhờ dân như thế nào.
- Thế một đêm mấy chuyến xe bò như vậy ?
- Một chuyến thôi bố ạ ! Có khi hai chiếc xe, nhưng thường chỉ có một chiếc.
- Thế ngày nào cũng chở như thế à ?
- Tuần vài chuyến. Hai chuyến, ba chuyến, cũng tùy.
- Thế, hàng này mình chở đến đâu.
- Thì chở đến kho của hậu cần. Kho thì nằm rải rác khắp nơi. Nhưng mà gần sông Sài Gòn. Từ kho đấy,
mới đưa hàng xuống thuyền mà chạy ngược sông vào sâu trong vùng mình.
- Tôi thấy cách này hay thật đấy.
- Thì thế chứ, ai lại chở từ Bắc vào, vận tải tốn kém, lại còn bom đạn nữa chứ.
- Nói thật, tôi vẫn thấy lạ. Làm sao mà địch nó không biết.
- Chắc là nó cũng biết. Nhưng chắc nó cũng được ăn chia rồi. Bọn nó ăn tiền bảo kê như ông nói ấy.
- Này, thế ngoài chỗ anh làm thế, còn chỗ nào khác không ?
- Tôi không biết. Nhưng chắc phải còn nhiều chỗ khác nữa chứ. Nhưng mà chỗ tôi, hay một cái là rất
"hòa bình" nhé. Bản thân tôi, 4 năm chưa phải nổ súng lần nào.
- Thế địch nó có bao giờ càn tới chỗ anh không ?
- Chưa bao giờ, thế mới hay chứ. Mới lại, nó mò ra vùng mình thì nó cũng sợ chết chứ. Cho nên chẳng
đứa nào nó dại gì.
- À, thế có khi nào chở súng đạn không ?
- Không biết. Tôi chỉ biết bảo vệ thôi. Nhưng chắc có thể có. Có thể mình cũng dùng tiền mua luôn vũ
khí lậu của địch. Thì ngay như bọn tôi đây cũng có M79 cơ mà.
- Thế vũ khí các anh được trang bị gì ?
- Chuyện đơn giản ! Bọn tôi chỉ có tiểu liên, đến trung liên, B40, B41 với M79 là hết.
Tôi cứ ngẫm nghĩ chuyện của Hà. Đúng là con đường "tiếp lương tải đạn" này lợi hại thật. Ngon lành, không hao tổn xương máu và thất bát vật chất nhiều. Có lẽ lính VNCH ở gần Sài Gòn chỉ mải làm ăn, cứ có tiền là làm tất kể cả tiếp tay cho đối phương. Ngược lại, việc chính là đánh nhau, tìm diệt Việt Cộng thì không chịu làm. Triết lý thật đơn giản, đánh nhau chẳng được lợi lộc gì, không khéo thì mất gáo. Vậy thì, tội gì mà phải đánh . . .
Cái lão Hà này, tôi vẫn tưởng là lính cậu nằm ở ngoài Bắc vì trông lão bảnh bao và ung dung lắm, không thấy cái vất vả hay tất bật như thường thấy ở những thằng lính chiến. Lão nói, chỗ lão "hòa bình lắm". Thành ra tạo cho con người lão như vậy cũng phải.
Câu chuyện trên hoàn toàn tôi không phải lục lọi trí nhớ, "máy ghi âm" hóa ra còn tốt, đảm bảo không bỏ xót chi tiết nào.
. . . (hết chuyện ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG LÒNG SÀI GÒN)
CHUYỆN XXIII VƯỢT SÔNG ĐỒNG NAI - TIẾN VÀO SÀI GÒN
Đêm 29/4/1975
Quãng nửa đêm, đại quân từ phía Thành Tuy Hạ ùn ùn kéo tới. Trung đoàn 101, trung đoàn 46, trung đoàn 18, rồi xe tăng và rất nhiều xe chở lính. Cuối cùng là xe kéo pháo 85, 105 và pháo cao xạ 37 ly. Con đường trở nên ùn tắc. Người, xe, tăng pháo rùng rùng chuyển động. Tôi không còn phân biệt được đơn vị nào với đơn vị nào. Tất cả đều kéo về phía bờ sông. Khoảng 3 giờ sáng, tôi thấy sư trưởng Tâm, trưởng phòng tham Mưu Ngoan từ những chiếc xe Commăngca cũng đã tới ven sông. Pháo 85 và pháo cao xạ 37 ly được dàn hết ra bờ sông để bắn thẳng qua sông sang bờ bên kia. Tất cả các đơn vị đều rộn rịch chuẩn bị vượt sông.
Đêm tối, chưa nhìn được bờ sông bên kia. Chúng tôi chỉ có thể nhìn thấy những ánh đèn lốm đốm sáng của các căn nhà. Nổi bật nhất là mấy cái tàu chiến của địch đang đậu ở căn cứ Cát Lái. Các cửa sổ nhiều tầng của các con tàu hầu hết đều có ánh đèn. Không biết địch đang làm gì. Liệu có phải chúng tập trung tàu và dùng hỏa lực mạnh của các tàu để chống trả cuộc vượt sông của chúng tôi. Hay là chúng vẫn không hay biết gì bờ bên này, hay là chúng đang lục tục chuẩn bị tháo chạy.
Khoảng 3 rưỡi hay 4 giờ (bây giờ không nhớ chính xác), một phân đội trinh sát được điều động. Phân đội sẽ vượt sông trước, lập đầu cầu bên kia. Anh Nguyễn Phẩm Hạnh, trợ lý ban 2 trực tiếp chỉ huy phân đội Anh Hạnh người Bình Định, sau này anh là người duy nhất của sư 325 về sinh sống ở Long Thành. Thông tin có Nguyễn Đức Duyên, lính trinh sát kỹ thuật đeo PRC25 để trực tiếp đàm thoại với ban 2 và phòng tham mưu. Tôi không biết người đối thoại trực tiếp với Duyên ở bờ bên này là ai. Chắc chắn là một hai lính của a12 và thông tin sẽ trực tiếp đến thẳng tham mưu trưởng Ngoan. Phân đội khoảng tám, chín hay mười người (bây giờ không nhớ rõ). Tôi chỉ còn nhớ chính xác có Tất y tá, Quynh a trưởng a4 và tôi. Những người khác thì nhớ không chắc chắn lắm. Hai chiếc ghe máy của du kích sẽ chở chúng tôi qua sông trước khi trời sáng.
Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh thủ trưởng Ngoan chạy đi chạy lại điều hành các khẩu pháo vào trận địa và trực tiếp trao đổi kế hoạch tác chiến với các chỉ huy pháo và các đơn vị bộ binh chuẩn bị vượt sông. Tôi là một thằng rất hay để ý mọi chuyện nhưng không phải là tay nghe trộm. Do đó tôi cũng chạy lăng xăng để xem pháo binh triển khai. Khi đi ngang qua chỗ các thủ trưởng trao đổi với nhau tôi cố gắng đi nhanh để không nghe lỏm nội dung trao đổi.
Thật là hoành tráng. Nếu tất cả các khẩu pháo này mà bắn trực xạ sang bờ bên kia, cách 800 mét, thì không có gì có thể chịu đựng được. Cho dù hỏa lực của mấy cái tàu HQ2, HQ9, . . .của địch có hỏa lực mạnh đến đâu, nếu chúng không muốn tan tành thì chỉ có nước chạy. Nói chạy là phải chạy sớm chứ muộn thì cũng tiêu. Khống chế và dọn bờ bên kia như thế này thì chắc chắn không gì bằng rồi.
Vấn đề là làm sao đưa nhanh bộ đội sang sông để tiến vào Sài Gòn. Đây đúng là chỗ bến phà Cát Lái. Nhưng không có phà. Có thể các con phà ở bờ bên kia, cũng có thể địch đã cắt phà và di chuyển đi chỗ khác. Không biết các cụ sẽ xoay sở thế nào.
Chúng tôi cũng rất nóng ruột chờ ghe của du kích. Rồi thuyền cũng đến nhưng còn hơi sớm. Thời điểm chúng tôi chọn được ấn định sao cho khi đi trên sông địch không nhìn thấy rõ và tưởng là thuyền máy của dân đang chạy sang bên địch. Chờ đợi làm cho mọi người hồi hộp và bồn chồn. Không biết trong đầu mọi người có lo lắng không, có sợ sệt không hay là căng thẳng ? . . . Riêng tôi, chẳng nghĩ gì, chẳng lo gì, chẳng căng thẳng nhưng rất sốt ruột.
Về sau này, sau 30/4, có lúc tôi cũng chợt nghĩ : " Biết đâu mình đã có thể chết trước lúc bình minh !". Nghĩ vậy, bấy giờ mới thấy ghê ghê.
Mờ sáng 30/4/1975
Càng gần sáng, sương xuống càng nhiều. Khắp mặt sông trở nên mờ ảo. Thật là may mắn, màn sương làm cho ta và địch vẫn nhìn thấy nhau nhưng không thật rõ. Chúng tôi vượt sông thì địch sẽ nhìn thấy nhưng sẽ không nhìn được sắc lính tráng trên thuyền. Tại sao chúng tôi không vượt sông sớm hơn ? Câu hỏi trong đầu mọi người dường như anh Hạnh đọc được, hay là anh thấy mọi người bồn chồn, nên nói :
- Đừng sốt ruột ! Chờ hỏa lực chuẩn bị xong đã. Nếu có bị lộ thì mình sẽ được pháo bắn iểm trợ và khống chế
địch để tụi mình vượt sông. Dứt khoát phải vượt sông bằng được. Rõ chưa ?
- Rõ !
- Mọi người chú ý, khi tới bờ, nhớ bám sát nhau, tiến sát vào căn cứ Cát Lái. Càng giữ được bí mật càng tốt.
Nhớ tiến theo đội hình sâu đo. Hai người tiến trước, mọi người phía sau iểm trợ, sau đó đến 2 người tiếp theo,
cho đến hết. Rõ chưa ?
- Rõ !
- Quynh đi đầu tiên, Như Lệ đi sau cùng bảo vệ cho Duyên.
- Rõ !
- Duyên nhớ canh máy liên tục, phải đảm bảo bất cứ lúc nào cũng thông thoại. Báo cáo tình hình liên tục về
bên này. Chỉ khi nào có lệnh của tôi mới được yêu cầu bắn pháo. Rõ chưa ?
- Báo cáo rõ ! – Duyên trả lời.
Tôi hơi bực và hơi buồn, cảm giác như bị thất sủng. Đành rằng thằng Quynh rất xông xáo và nhanh nhẹn, nó đi đầu cũng tốt. Nhưng vốn đã quen đi đầu, lần này tôi bị đi cuối nên hơi tủi tủi. Giá như chỉ huy phân đội là đạị trưởng hay đại phó thì thường tôi vẫn được cử đi đầu hoặc trong lúc đang lúng túng thì tôi chủ động vọt lên trước. Đằng này, trước khi xuất quân, anh Hạnh phân công rõ ràng, bài bản, thành ra hết cựa. Tôi cứ lăn tăn không hiểu trong đầu anh nghĩ gì mà gí tôi xuống đuôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn băn khoăn mà chưa có lúc nào hỏi lại anh Hạnh. Cái đuôi ấy có anh Hạnh, rồi đến Duyên và cuối cùng là tôi.
Chúng tôi xuống thuyền. Hai chiếc thuyền máy nổ máy. Đây là hai chiếc ghe nhỏ và dài, kiểu ghe nam bộ. Chỉ có hai du kích đứng cuối thuyền điều khiển còn lại cúi rạp xuống, súng lăm lăm hướng về phía trước. Màn sương vừa đủ để chúng tôi có thể nhìn thấy căn cứ Cát Lái và hai chiếc tầu của hải quân địch đang đậu ở đó. Chắc chắn khi chúng tôi lao ra giữa dòng nước thì địch cũng nhìn thấy. Hy vọng là chúng tưởng là thuyền của dân chạy sang phía chúng mà không bắn ẩu.
Hai chiếc thuyền chếch mũi, ngược dòng nước và lao ra sông khá nhanh.
Hai chiếc thuyền ngược dòng nước một đoạn rồi rẽ sóng sang ngang. Mọi người ngồi rạp dưới lòng thuyền nhưng mọi con mắt đều hướng về phía trước. Bờ sông bên kia vẫn là hai chiếc tàu hải quân của địch và trong căn cứ Cát Lái vẫn có nhiều ánh đèn.
Sau lưng chúng tôi, tất cả hỏa lực đã sẵn sàng nổ súng nếu có chuyện gì bất trắc. Khoảng cách chỉ là 800 mét sao tôi có cảm tưởng nó rất rộng. Sao chiếc ghe gắn máy lại chạy chậm như vậy. Sau này, khi kể lại, bạn tôi thường thêm "mắm, muối, hạt tiêu" vào cho câu chuyện vượt sông của trinh sát thêm đậm đà. Rằng, khi đang vượt sông thì địch phát hiện, bắn xối xả vào hai con thuyền. Rồi pháo binh của ta lên tiếng và cuộc bắn nhau rất quyết liệt. Cuối cùng thì hai con thuyền cũng sang được bờ bên kia. Tuy nhiên, sự thực hai con thuyền nhỏ không bị địch bắn một phát đạn nào và lúc chúng tôi vượt sông, không gian hoàn toàn tĩnh lặng. Lúc đó tiếng máy nổ của hai chiếc ghe nghe rất ầm ỹ và là động tĩnh duy nhất trên sông.
Hai chiếc thuyền cập vào bờ gần như cùng lúc và khá gần nhau. Chúng tôi nhảy xuống thuyền, chạy lom khom trên mặt ruộng trống trải. Trời đã sáng, bến cập của chúng tôi thì ngay phía bắc căn cứ Cát Lái có vài trăm mét. Anh em nhanh chóng vận động trên đồng trống và ẩn nấp trên những bờ ruộng.
Cứ hai người một, "cóc nhảy", dịch chuyển dần áp sát với căn cứ. Trời đã sáng bảnh, không còn cách nào khác là phải tiến càng nhanh càng tốt. Tất cả các con mắt đều căng ra quan sát mọi động tĩnh của căn cứ, những ngón tay mấp máy đặt trong vòng cò, sẵn sàng nghoéo lại. Chỉ cần thấy một động tĩnh của địch trong căn cứ phát hiện ra toán trinh sát thì súng nổ. Súng AK của chúng tôi mà lên tiếng thì lập tức từ bờ bên kia các loại pháo sẽ lập tức khạc lửa.
Duyên di chuyển phía trước tôi, liên tục đàm thoại về bên kia, báo cáo không có động tĩnh gì trong căn cứ. Mãi quãng 6 giờ sáng mới thấy bờ bên kia bắn mấy chiếc tàu chiến hải quân của địch có tính chất xua đuổi chứ không phải bắn hủy diệt. Hai chiếc tàu địch cũng có bắn trả chút ít gọi là rồi bỏ chạy thẳng. Không hề có phát đạn nào của ta bắn vào căn cứ Cát Lái.
Chúng tôi quan sát thấy bờ tường phía bắc của căn cứ có một khoảng trống do bờ tường bị phá đổ. Anh Hạnh yêu cầu tiến thật nhanh vào Cát Lái qua khoảng tường đổ đó. Có vẻ như bờ tường này cũng mới bị phá, không biết vì sao. Sau này tôi mới nghĩ, có thể lính địch phá tường để nếu có bị tấn công thì có thêm lối thoát cho nhanh. Cũng có thể chúng phá tường để tuồn đồ đạc ra khỏi căn cứ mà không đi qua cổng chính. Lính rã đám biết là có thể làm những gì ?
Cả toán trinh sát vượt qua chỗ tường đổ và lọt vào bên trong. Tất cả các tay súng đều lăm lăm chĩa về mọi hướng. Bây giờ mà nổ súng thì chúng tôi sẽ cùng chịu trận pháo của ta giã vào đầu, chung với lính địch. Nhưng, tất cả các ngón tay trỏ đều đã sẵn sàng nghoéo cò.
Cái góc căn cứ Cát Lái này có lẽ thật sự là chỗ ra vào của lính tráng trốn trại ra ngoài. Gần đó là một tháp nước khá cao. Tiếng loa của máy truyền tin rọc rẹc trên tai Thứ. Nó nói:
- Báo cáo thủ trưởng, thủ trưởng Luyến nói sẽ bắn pháo ngay vào đây.
- Nói ngay, chúng tôi đang ở trong căn cứ rồi, dừng ngay việc bắn pháo. Trong căn cứ có lẽ
không có địch. Chúng tôi đang tiến vào trung tâm căn cứ. – Anh Hạnh nói.
- Báo cáo, bên kia vẫn chuẩn bị bắn.
- Nói lại đi, chúng tôi đang ở trong căn cứ rồi, đừng bắn. – Giọng anh Hạnh hơi gắt, có vẻ như
anh đang bực mình vì bên kia không hiểu ý.
Phải vài lần gào vào máy mà bên kia vẫn thông báo nổ súng vào Cát Lái. Cuối cùng mấy người xúm lại quát vào cái ống nói [1]:
- Chúng tôi ở trong này rồi, đừng có bắn vào đầu chúng tôi. Trong này không có địch !
Và rồi bờ bên kia cũng hiểu ra chuyện và hỏi lại, rất lằng nhằng. Anh Hạnh phải giằng lấy ống nói và quát:
- Tôi Hạnh đây. Chúng tôi ở trong căn cứ Cát lái rồi. Trong này không có địch. Đề nghị cho bộ đội vượt sông !
Chúng tôi chia nhau rà soát toàn bộ căn cứ. Tôi cũng bỏ chàng thông tin và cùng một đứa nào đó lùng sục dọc theo con đường từ chỗ tường đổ ra cổng căn cứ. Cổng căn cứ nằm sát con đường từ bến phà lên. Tính từ mặt sông vào, con đường nằm phía lưng của căn cứ và rẽ các nhánh vào các khối nhà. Hai thằng ra trước cổng căn cứ và kiểm soát đoạn đường trước cổng dọc đến bến phà. Chúng tôi phải đứng chờ mọi người sục sạo xong bên trong căn cứ.
Một lúc, người trước, người sau đều ra đến chỗ chúng tôi đang đợi. Mấy đứa rất nhanh, đã mò vào kho, chúng nó đang phì phèo thuốc lá "Quân Tiếp Vụ - Rubi Queen – Huynh Đệ Chi Binh, Quyết Tâm Chiến Thắng". Thuốc này mấy đứa thường gọi là Rubi xanh. Mấy thằng lại còn lấy rất nhiều thuốc lá và đồ hộp bỏ trong ba lô nữa. "Tài thật, tài thật, tiên sư anh trinh sát !"[2]. Tôi không hút thuốc nên chúng nó quẳng cho tôi mấy hộp đồ hộp gì đó.
Ghi chú:
[1] Khi đàm thoại trên máy 2 oát, muốn nói thì bóp công tắc, lúc nghe thì nhả công tắc ra.
Thông tin đại đội tôi từ xưa đến nay toàn liên lạc qua moóc-xơ gõ bằng ma-nuýp. Bây giờ
đàm thoại chắc không thạo lắm. Nếu hai bên cùng bóp công tắc thì "trần văn tịt".
[2] Trong chuyện "Đôi Mắt" của Nam Cao có câu "Tài thật, tài thật, tiên sư anh Tào Tháo".
Nói là chờ mọi người một lúc, nhưng khá lâu. Lúc đó tôi rất sốt ruột. Nếu thực sự lùng sục kỹ cả căn cứ thì cũng lâu thật. Nhưng nhiệm vụ của chúng tôi đâu có phải là lùng sục mà phải nhanh chóng trấn giữ được đầu cầu để sư đoàn qua sông mà vào Sài Gòn. Lúc ai đó, cấp trung đội, quẳng mấy lon đồ hộp cho tôi, anh ghé vào tai tôi:
- Mày từ từ thôi, đằng nào cũng sắp xong rồi. Bây giờ mà đứa nào chết thì phí quá !
Trong đầu tôi, cho đến lúc đó, chưa hề nghĩ đến điều mà anh ấy nói. Có lẽ tôi "máu" quá chăng ? Chuyện này có vẻ giống như hôm chúng tôi luồn sâu vào Huế. Chỉ còn cách Huế vài cây số, tôi thì muốn tiến tiếp, hai ông trung đội thì cứ lảng lảng rồi ra lệnh nghỉ ngơi và nấu cơm. Tôi không biết anh Hạnh nghĩ gì. Hay là anh cũng thương lính, không muốn ai phải hy sinh vào lúc này. Anh Hạnh cũng "chùng chình" chờ mọi người, không có vẻ gì là vội vàng hay sốt ruột.
Về sau này có lúc tôi cũng thấy may mắn. Nếu anh Hạnh cũng muốn ào ào xông lên như tôi thì có thể đã "ngóm" cả lũ rồi. Có thể anh Hạnh luôn liên lạc với sư đoàn và biết ta không có phương tiện vượt sông cho cả đại quân. Vậy thì toán trinh sát còm này sẽ làm được gì mà đòi tiến lên.
Lằng nhằng đến khoảng 10 giờ, anh Hạnh mới giao nhiệm vụ cho các nhóm. Tôi không còn nhớ anh Hạnh phân công những ai sục ra bến phà và trấn giữ đầu bến phà để bên kia vượt sông sang. Một nhóm ba người chúng tôi phát triển theo hướng ngược lại.
Ba thằng đi từ Cát Lái dọc theo liên tỉnh lộ 25. Trên bản đồ 1:25000 thấy con đường dẫn đến một bến phà trên sông Sài Gòn, gọi là bến Bạch Đằng (là chỗ đường hầm Thủ Thiêm bây giờ). Ba thằng cứ dọc theo đường, giữ đúng cự li vài chục mét theo đội hình zic-zac. Đoạn này hai bên đường đều có nhà dân san sát. Đich đã bỏ chạy từ lâu rồi, dân thì không thấy đâu. Không biết họ ở trong nhà hay cũng chạy đi đâu rồi, con đường vắng lặng quá. Tôi vừa tiến mắt vừa láo liên quan sát rất nhanh. Bất cứ động tĩnh gì bất trắc có thể xiết cò ngay lập tức. Hai thằng đi sau tôi cũng vậy.
Chúng tôi tiến rất nhanh. Tới ngã ba, một đường đi thẳng sẽ ra đường đi cầu Sài Gòn. Chúng tôi rẽ trái đi theo LTL25 để ra bến Bạch Đằng. Nếu ở đó có phà hay thuyền của dân đều có thể qua sông mà tiến thẳng đến dinh Độc Lập. Tại sao chúng tôi không chọn đường ra cầu Sài Gòn ? Là vì, chỉ có mấy thằng trinh sát lẻ mà ra cầu Sài Gòn, chắc chắn địch có phòng ngự kiên cố làm sao mà vượt qua dược. Con đường chúng tôi chọn tuy có vướng bến phà qua sông nhưng sẽ không có địch lập tuyến phòng thủ vì đường này xe tăng qua sông sẽ khó nên "Việt Cộng" không chọn.
Mới đi được một đoạn cỡ mấy trăm mét kể từ ngã ba, đoạn này nhà dân thưa thớt, chúng tôi chợt thấy có gì đó bất thường trong các nhà dân. Những người dân thập thò qua cửa. Họ đang dớn dác nhìn. Rồi dân cũng thấy chúng tôi. Một người dơ tay vẫy, rồi nhiều người cùng vẫy. Rồi có người nào đó hô lên:
- Mấy ông Giải Phóng ! Tổng thống đầu hàng rồi !
Rất nhanh, chỉ một loáng, một số người dân đã bao quanh chúng tôi tuy rằng họ chưa dám đứng quá gần. Hết người này đến người khác hồ hởi nói, tổng thống đã đầu hàng trên đài phát thanh rồi.
Ba thằng chúng tôi cũng sững sờ trong một cảm xúc khó tả. Không hẳn là "niềm vui vỡ òa" như bây giờ thường nói. Một cảm xúc giống như người chạy Ma ra tông, nước rút về đích. Chỉ là một cảm giác thẫn thờ. . .
Ừ thì cũng cười nói vui vẻ, nhưng không phải là cảm giác tưng bừng như lúc 7 giờ sáng ngày 28/1/1973, ngừng bắn. Lúc đó, là bước ngoặt, từ chỗ bom pháo ngày đêm dội trên đầu, ngày đêm chui rúc dưới hầm được thoát lên mặt đất bình yên. Mới thật là . . .sung sướng.
Dưới đây là hai bản đồ. Bản đồ thứ nhất tỷ lệ nhỏ 1:500000 vẽ đường tiến của chúng tôi từ Cát Lái đến bến Bạch Đằng. Bản đồ thứ hai, tỷ lệ rất lớn 1:12500, vẽ đoạn đường chúng tôi đi xe lam của dân để ra bến Bạch Đằng.
Nhiều người dân lần lần bao quanh chúng tôi. Mọi người rất hồ hởi, cũng có người ra xem vì tò mò. May là mọi người không sán vào quá gần. Mấy thằng lính, không nhớ đã bao nhiêu ngày không tắm và đang "tỏa hương".
Mấy thanh niên lượn Honda đến và hỏi:
- Mấy ông Giải phóng cần đi đâu bọn tui chở ?
- Mấy anh cần đi đâu, tui chở ?
Rồi một chiếc xe lam phành phạch cũng đỗ xịch lại đòi chở chúng tôi đi bất cứ đâu chúng tôi muốn. Ba thằng quyết định chọn xe lam để đi được cả nhóm. Chúng tôi yêu cầu chạy về Dinh Độc Lập. Khi chiếc xe lao đi thì trên xe, ngoài người lái, không phải chỉ có ba thằng lính chúng tôi mà có thêm một vài thanh niên nữa cũng đi "chơi" cùng. Xe chạy khá nhanh về phía bến Bạch Đằng. Mươi phút sau đã đến bờ sông Sài Gòn. Bên này là đất quận 9 còn bên kia là quận nhất.
Mấy thanh niên nhanh nhẹn nhảy xuống xe và đi tìm người lái phà. Anh xe lam nói, hàng ngày anh ấy vẫn chở mấy bà đi chợ bên kia sông qua phà này. Đi đường này phải qua phà nhưng "rất phẻ" (rất khỏe), "đường ngắn không mấy anh à !" (bây giờ mọi người đều gọi chúng tôi là anh rồi, sau khi chúng tôi phàn nàn về chuyện gọi bằng "ông").
Mấy thằng trinh sát đứng sát ra bến phà mà ngóng sang bờ bên kia. Lúc đó tôi chẳng biết nhà nào là nhà nào. Mà, có nhìn thấy chữ "Magetic Hotel" thì bây giờ cũng quên rồi. Nhưng, rất hoành tráng. Đặc biệt là các cao ốc. Lúc đó Sài Gòn đã có một số cao ốc, cái cao nhất có đến 16 tầng. Ở Hà Nội lúc đó chỉ có nhà bốn năm tầng là cao nhất. Trong mắt tôi lúc đó, Sài Gòn là thành phố giàu có và hiện đại. Rất nhiều biển quảng cáo đủ các cỡ và màu sắc treo khắp mọi nơi trong thành phố. Trong suy nghĩ của tôi lúc đó, biển quảng cáo làm giảm cái đẹp của thành phố. Đường Bạch Đằng bên kia sông vẫn thấy Honda, rồi xe đạp và ô tô ngược xuôi mà không quá đông, trông rất thanh bình. Ngay bờ bên kia chưa có lính ta tới, cũng không thấy một lá cờ nào nửa xanh nửa đỏ hay cờ đỏ sao vàng. Tôi rất nóng lòng, chỉ muốn vượt qua sông ngay.
Chừng 15 phút sau, mấy thanh niên quay lại, vẻ mặt thất vọng:
- Có phà mà không có người lái mấy anh ơi ! giờ sao hả mấy anh ?
Lúc đó trong tốp 3 chúng tôi có một người "cấp bê" (không nhớ là ai). Tôi chỉ còn nhớ ý kiến của tôi lúc đó là muốn qua sông "đi chơi Sài Gòn cái ! Không có phà thì đi thuyền cũng được, có mấy trăm mét chứ bao nhiêu" thì anh ấy bảo "thôi, quay lại. Bây giờ có đi tiếp thì cũng chỉ là đi chơi chứ không còn nhiệm vụ gì để làm. Không khéo rồi lại lạc đơn vị"
Chiếc xe quay lại ngã ba. Chúng tôi xuống xe, cảm ơn anh xe lam và mấy thanh niên.
- Chờ ở đây thôi anh ạ !
- Ừ !
Lúc này dân đã đổ ra đường, họ đứng thành từng toán rải rác hai bên để chờ đón và xem bộ đội vượt sông qua đây. Không phải là quá đông người như các bức ảnh chụp mà sau này ta thường thấy. Những bức ảnh đó, tôi cho rằng là ảnh dựng lại để chụp. Một bức ảnh chụp xe tăng đang tiến về Dinh Độc Lập . Rất nhiều lính ngồi trên tháp pháo, có cờ giải phóng tung bay. Hai bên đường, dân đứng vẫy rất đông. Ảnh lại là ảnh màu mới đẹp chứ. (tôi không tin bức ảnh được chụp nóng ngày 30/4). Phóng viên "chiến trường" chắc là người hùng, tiến trước cả xe tăng và bộ binh để chụp ảnh ?!
Phải một lúc sau thấy từng toán bộ đội lục tục từ hướng Cát lái tới. Anh em đi thoải mái chẳng có hàng lối gì. Trên mặt mọi người không còn nét căng thẳng. Mọi người bước đi hồ hởi lắm, những bước đi thanh thản, dường như vô định. Ừ thì, mấy chục ngày qua, chúng tôi liên tục hành quân, liên tục đi về một hướng, ấy là hướng Sài Gòn. Thì đây, Sài gòn đây rồi. Bộ đội vượt sông bằng các phương tiện khác nhau, xuồng máy, ghe máy, xe lội nước, . . . .
Hình như mọi người vượt sông không có tổ chức gì, mạnh ai sang được trước thì sang. Người sang trước sẽ chờ anh em cùng đơn vị sang sau. Suốt từ Bến Cát Lái đến chỗ ngã ba lính dồn lên ngày càng đông . Xê 20 của chúng tôi cũng thấy lẻ tẻ toán trước, toán sau qua sông. Chúng tôi tụ tập ở đây để chờ mọi người. Riêng c20 chúng tôi mách nhau vào Cát Lái lấy đồ trong kho nên ba lô đứa nào cũng đầy những thuốc lá và đồ hộp.
Lính xê tôi có mặt ở đây đã khá đông nhưng không theo một đội hình nào, cũng chẳng thấy ai chỉ huy. Thì ra không phải chỉ có "quân hồi vô phèng" mà quân thắng trận cũng "vô phèng". Lính chạy đi cạy lại tìm đơn vị, tiếng gọi nhau í ới, rộn rã khắp cả con đường. lính c20 gặp chúng tôi, tay bắt mặt mừng. Vừa mới sáng nay thôi mà cứ như sau bao nhiêu ngày mới gặp lại.
Trong lúc chờ đợi anh Triêm rủ tôi lùng sục vào một cái bốt. Đây là một cái đồn nhỏ nằm ngay ngã ba đường. Không rõ lính bỏ đồn chạy từ lúc nào. Tất cả vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có đồ đạc bị vứt lung tung. Sau khi sục xạo một lượt, chúng tôi vào phòng tay đồn trưởng. Các cánh cửa tủ và ngăn kéo bàn đều đã mở từ trước. Cả giấy tờ, cả quần áo đều đã bị xới tung. Trong ngăn kéo, chúng tôi thấy đôi quân hàm, bây giờ không còn nhớ là quân hàm của lực lượng nào, chỉ còn nhớ là đại úy.
Anh Triêm vớ được chiếc va li nhỏ (briefcase). Trong đó có hai chiếc đồng hồ mạ vàng, một nam, một nữ và một khẩu colt 6. Tôi thì tìm được một chăn "thám báo" mới khự.
Anh Triêm đeo luôn chiếc đồng hồ nam mạ vàng vào tay. Khi ra khỏi đồn, tôi xách chiếc va li, trong đó có chiếc đồng hồ nữ, chăn "thám báo" và khẩu colt. Khẩu colt rất đẹp lại thêm một hộp đạn nhỏ bằng bìa cứng đựng những viên đạn nhỏ vàng óng, tôi rất mê. Ngày 28/6, lính sinh viên được ra quân. Chiếc đồng hồ nữ rất nhỏ và xinh thì tôi cho Vương Lâm khi chia tay. Xe chở chúng tôi hình như tới Hố Nai thì bị kiểm tra quân trang. Thế là phải cắn răng mà nộp khẩu colt và hộp đạn. Tôi định liều giữ lại nhưng lại sợ nhỡ bị phát hiện, bị giữ lại thì . . . ai mà biết được sẽ xảy ra chuyện gì.
Chiếc chăn thám báo vừa gọn vừa nhẹ lại rất ấm, dùng mãi tới mười lăm năm sau. Chiếc vali hiệu Echolac cũng là loại mini (42x32x8). Bây giờ đi đâu một hai ngày, tôi vẫn dùng.
Có lẽ phải đến 12 giờ ngày 30/4/1975, anh em c20 mới hội tụ đủ ở cái ngã ba này. Nhưng chưa có xe nên mọi người phải đợi. Đủ các loại xe, nào thì thiết giáp và xe tăng tự bơi, nào thì "Vọt Tiến", nào thì "Giải Phóng, nào thì "Zin Ba Cầu" (chính xác là Hoàng Hà, vì là xe TQ), rồi "Comăngca", "Bắc Kinh" (loại xe bắt chước Comăngca), . . . . Không còn biết là xe nào của đơn vị nào nữa. Tất cả cứ nháo nhào, mạnh ai nấy chạy. Chỉ cần trong đơn vị có người nhớ số xe hoặc nhớ lái xe thì là "xe của mình" và anh em ào ào trèo lên thùng. Quang cảnh thật nhốn nháo và hỗn độn.
Rồi thì, Chắc khoảng 1 giờ chiều, đại đội tôi cũng lên được xe. Như tất cả các xe khác, thảy đều chạy về Sài Gòn, theo đường qua cầu Sài Gòn. Từ ngã ba, xe chạy thẳng ra hướng đường 1. Đường QL1 cao hơn hẳn, nên ở chỗ cắt nhau là một cái dốc khá cao. Tôi nhớ cái dốc này vì một lần lái xe Jeep qua đây, tôi không tăng ga và để xe bị chết máy giữa dốc.
Ra đến đường lớn thì, thật là kinh hoàng ! Không biết bao nhiêu là xe, không biết bao nhiêu là lính. Đúng là trên trời, dưới lính. Tất cả các xe đều chạy theo một hướng, không theo "đội hình hành quân" nào hết. Các trung đoàn, sư đoàn, quân đoàn rùng rùng chuyển động, không còn phân biệt được ai với ai. Tất cả đều là lính.
Không biết cảm xúc những người lính lúc này như thế nào. Anh em có sung sướng, hay hồ hởi, hay tự hào, hay gì gì đó, . . . Nhưng tôi nhận thấy một điều, tất cả các nét mặt lính đều giãn ra. Dường như tất cả thần kinh và "các cơ quan đoàn thể" đều được thả lỏng. Không còn thấy đâu, nỗi âu lo ngày thường của lính trận. Không thấy đâu, nét mặt đăm chiêu, đôi mắt tia lia láo liên, đôi tai trực chỉ mọi tiếng động. Cái bản năng sẵn sàng chạy, sẵn sàng nhảy, sẵn sàng lăn xuống hố để tránh đạn hay sẵn sàng nghoéo cò dường như lặn đi đâu hết cả.
Tiếng cười nói trên xe ầm ĩ. Có xe còn hát tập thể "Rầm rập bước chân ta, rung chuyển thành phố Sài Gòn . . .", "Nơi thành đô trong ánh điện quang tiếng nấc nghẹn câu cười . . . Sài Gòn ơi, ta đã về đây ta đã về đây . . .". Hầu hết các xe đều cắm cờ nửa xanh nửa đỏ, chúng bay trong gió phần phật như chưa bao giờ được thế. Đến gần cầu Sài Gòn, có chiếc xe bị chết máy làm đoàn xe bị dồn lại. Tiếng hò hét trên các xe: "đẩy sang bên đê !", rồi nhiều tiếng hô: "đẩy xuống ruộng đê !", . . .
Chỗ cầu Sài Gòn có mấy chiếc xe tăng của ta bị cháy, khói vẫn đang bốc lên leo lét. Trên cầu là chướng lũy bằng thùng phi cát và bao cát. Những người đi trước đã rỡ bỏ bớt nhưng chưa hết. Những chiếc xe của đoàn quân qua cầu phải qua từng chiếc một ngoằn nghoèo theo đường rắn lượn.
Qua cầu Sài Gòn được một đoạn ngắn thì không còn đi được nữa. Xe lính ùn ùn kéo vào thành phố. Đồng bào chạy loạn đi bộ gồng gánh đồ đạc, xe Honda, xe lam, đủ các kiểu xe ô tô của dân thì ùn ùn túa ra từ trong thành phố. Con đường trở nên kẹt cứng. Có lẽ chưa bao giờ và sẽ không bao giờ Sài Gòn lại kẹt đường như thế này. Không có ai điều hành, tất cả cứ lao lên, "nhào vô". Đứng trên thùng xe, nhìn ra xung quanh, ngoái lại phía sau, đâu đâu cũng người và xe, đặc quánh, à à như vô vàn tổ ong. Chỗ nào cũng thấy động đậy mà chẳng ai có thể nhích lên được.
Rất lâu, chẳng xe nào có thể nhích lên được. Và, rất nhanh, đã thấy nhiều người mang hàng ra bán cho bộ đội. Đầu tiên phải kể đến trà đá. Đây là lần đầu tiên những chú lính"Quảng Trị" nhìn thấy nước trà đóng trong túi ni lông lại còn có mấy cục nước đá bên trong. Túi nước được buộc chun và cắm một cái ống để hút. Mọi người trên xe đều không hiểu đây là nước gì. Giải thích mãi thì chúng tôi cũng hiểu được đây là nước chè. Ai nấy đều bất ngờ và lấy làm thích thú vì biết thêm "món lạ". Không chỉ trà đá mà còn có nước mía đá đóng túi. Nước mía thì biết rồi nhưng đóng túi bóng thì thật là lạ.
Giao dịch liền sau đó là của các thanh niên cầm đồng hồ và bút máy đi quanh các xe bộ đội. Nhiều anh em đã biết các loại đồng hồ và bút máy từ hồi 1972 ở Quảng Trị. Nhưng bây giờ, lính hầu hết là "cò lùi" [1]. Những chiếc đồng hồ rất đẹp Orient, Seiko (anh em thường đọc là sen-cô do chữ hiệu của loại đồng hồ này là SEIKO). Lúc bấy giờ không phải là đồng hồ tốt nhất nhưng bình dân và phổ biến nhất. Mọi người trên xe tôi cũng cầm và truyền tay nhau xem nhưng không ai mua. Có một cậu thanh niên, trông không phải là dân "bán đồng hồ dạo" [2], cứ nài nỉ muốn đổi đồng hồ cậu ta đang đeo tay để lấy tiền cách mạng làm kỷ niệm, bao nhiêu cũng được, một tờ cũng được. Một chiếc ORIENT mặt trắng mạ vàng và dây cũng vàng óng. Bạn tôi đã đổi 1 đồng để lấy chiếc đồng hồ đó. Chiếc đồng hồ này bây giờ vẫn còn và trở thành một kỷ vật.
Có một vài anh em mua đồng hồ. Giá thì rất rẻ vì người bán không biết giá trị tiền cách mạng như thế nào nên cũng bán đại đi, miễn là bán được. Về sau này chúng tôi thấy những đồng hồ đó vẫn chạy được nhưng là đồng hồ "cọp" [3].
Những người bán hàng dạo phát chán vì mời chào mãi cũng chẳng bán được bao nhiêu, thành thừ con sóng mua bán dịu dần xuống rồi lặn hẳn.
Anh em bắt đầu lôi đồ hộp chiến lợi phẩm ra chén. Rất nhiều loại khác nhau, hộp to, hộp bé, hộp cao, hộp dẹt, hộp tròn, hộp bầu dục, . . . bên ngoài đều sơn màu cứt ngựa và không ghi gì thêm, chẳng biết bên trong khác nhau thế nào. Đồ hộp của lính ta cũng vậy. Quen rồi thì mới biết đâu là cá, là thịt, là giò, là ruốc mặn hay ruốc ngon, hay là calathầu khai khai. . . .
Thế là có bao nhiêu loại mọi người đục ra thử hết một lượt. Có thằng khui được hộp thịt, có đứa hộp cá, rồi hộp phở, hộp giò ba lát, . . . Hộp nhỏ cao cao là Cocacola, nước soài, nước dừa, . . . Hộp mỏng dính là mứt và caramen, nhiều nhất là caramen. Mứt cũng có đủ các loại không biết là làm từ những loại hoa quả nào - soài, dâu, cam, . . . chỉ biết là mứt - sền sệt và rất ngọt.
Cả xe tôi chỉ có mỗi cái mở hộp, mấy thằng sốt ruột dùng luôn dao găm "anh Chí" [4] để đục. Thằng có thìa inox giắt sau đít (giống bác LXT – có lẽ là mốt lúc đó) thì múc bằng thìa, thằng có đũa giắt ba lô thì dùng đũa. Đại đa số dón thử bằng "năm quân". Không khí trên xe thật náo nhiệt như chợ vỡ.
Khi đã biết hộp nào đựng gì rồi thì đứa nào đứa nấy chọn những thứ mình thích mà chén đến no.
Mải ăn, rồi thuốc lá phì phèo, không ai để ý. Lúc đó đoạn đường phía trước đã có đơn vị nào đó tự phát đứng ra dẹp đường. Cứ súng lăm lăm trong tay, chĩa lên trời. Bà con dân chúng cũng sợ nên cuối cùng thì đường đã được thông. Tất cả dân đều phải dừng lại để nhường đường cho đoàn xe lính chạy vào thành phố.
Nhìn về phía sau, trời đất ơi ! Đoàn lính có vẻ như dài vô tận, tít tắp đến khi khuất vào chỗ đoạn đường vòng ở rất xa.
. . . (còn nữa)
Chú thích: [1] "Cò lùi" là cò không tiến. Cò không tiến là "tiền không có".
[2] Những cụm từ này về sau chúng tôi mới biết.
[3] Chúng tôi được giải thích đấy là đồng hồ "dỏm" chỉ có một chân kính nhưng làm giống như thật.
[4] Dao găm lão Chí đại đội tôi tự rèn cho anh em. Gọi "Anh Chí" có ý trêu trọc là "Chí Phèo".
Đoàn xe lính bắt đầu chuyển bánh chạy vào thành phố. Vì đã hỏi thăm trước đường đến Dinh Độc Lập nên xe chúng tôi rẽ trái đi theo đường Thị Nghè. Nhiều xe chạy thẳng và nhiều xe chạy theo sau chúng tôi. Tôi nhớ, tôi chỉ có mảnh bản đồ phía đông thành phố, đoạn quận 9 và quận Thủ Đức mà không có bản đồ thành phố nên không ai biết đường đi đến Dinh. Đoàn xe vừa chạy vừa hỏi thăm đường.
Đến đúng cầu Thị Nghè, một lần nữa đoàn xe lại bị nghẽn lại. Vẫn là, dân từ trong thành phố tỏa ra để về nhà. Cầu Thị Nghè lúc đó có hẹp hơn đường ở hai đầu cầu, nhưng nhìn cây cầu này cũng thấy rất rộng so với cấc cây cầu ở miền bắc. Lúc xe dừng trên cầu, một đứa phát hiện ra món lạ. Đó là một hộp bằng bìa cứng rất nhẹ, bóc ra bên trong là một túi bóng hàn kín. Trong túi là một loại "bỏng" nhỏ li ti và nhẹ, tung lên có thể bay trong gió. Không ai biết đây là thứ gì. Đứa thì bảo là đồ ăn đứa thì bảo là loại vật liệu gì đó, đừng ăn nhỡ có chất độc ?!
Những cánh bỏng bé như những chiếc khuy bấm nhỏ, nhẹ, xốp và rất giòn. Nhìn vào hình vẽ trên hộp, thấy có hình một tách cà phê đang bốc khói. Thế là yên tâm đây là đồ ăn nhé ! Bỏ một vốc vào miệng, thấy vị nhàn nhạt. Nhai xong, thấy được một tẹo bột không đáng kể gì. Đối với những chú lính quen ăn no, vắc nặng, món này thật là vô vị và chả bõ dính răng. Về sau này chúng tôi thấy nhiều loại bỏng ngon hơn và biết rằng đó là một trong rất nhiều kiểu gọi là "Snack". Snack để ăn chơi (như bỏng ngô) hay ăn khi uống rượu, hoặc uống cà phê.
Vào đến gần trung tâm thành phố, chắc là cách Dinh Độc Lập không còn xa thì đường không còn quá đông. Lính tráng dòm ngắm thành phố. Xe chạy nhanh hơn và lại nghe tiếng lá cờ bay phần phật. Chợt nhìn lại, vẫn thấy trên tay trái mọi người hầu hết đều còn dải băng đỏ. Đi qua một đường phố có nhiều cây to. Một cái cổng lớn bên trái đường xe chạy có biển đề "Thảo Cầm Viên".
- Thảo Cầm Viên là cái gì hả chúng mày ?
- Ừ nhỉ, chẳng biết là cái đếch gì nhể ?
. . .
- Thảo là cỏ này, cầm là gà vịt này, viên là vườn này. Thế thì là cái khỉ gì ?
Mấy xe của xê 20 dừng lại để hỏi thăm đường. Thấy xe dừng lại, nhiều người dân đang đi đường dừng lại xem bộ đội và tranh nhau chỉ đường. Rồi có một thanh niên nhanh nhẹn nhảy lên xe xin dẫn đường. Đoàn xe tiếp tục chạy. Cậu thanh niên giải thích, trong Thảo Cầm Viên có hổ, báo, sư tử, chim muông, . . . Thì ra đây là vườn "bách thú" hay "bách thảo' như ngoài bắc thường gọi.
Đến một khu phố rất đẹp và thanh bình. Mấy chiếc xe của xê 20 dừng lại. Mấy thủ trưởng xê quyết định không vào dinh nữa mà chơi ở đây. Bấy giờ khoảng hai rưỡi ba giờ gì đó. Anh em nhảy xuống xe và được phép đi chơi gần, trong thời gian một tiếng.
Thời tiết chiều lòng người, nắng chiều nhè nhẹ. Đường phố rất sạch và đẹp. Nhiều vườn hoa với những thảm cỏ xanh biếc được chăm sóc cẩn thận. Chỗ chúng tôi đang đứng là ngã tư đường Tự Do và đường Lê Lợi. Qua một vườn hoa đẹp trước mặt là một tòa nhà rất lớn, kiến trúc theo kiểu Pháp. Chính giữa tòa nhà, trên đỉnh tầng hai có ghi "TÒA ĐÔ CHÁNH". Chỗ xe chúng tôi đỗ lại là ngay trước thềm một tòa nhà khác cũng kiểu Pháp và cũng rất đẹp với một cấu trúc vòm ở chính giữa. Phía dưới vòm ghi dòng chữ "HẠ NGHỊ VIỆN". Vườn hoa chếch phía trước "Hạ Nghị Viện" có nhóm tượng đài "thủy quân lục chiến". Phía phải Hạ Nghị viện là một con đường nhỏ. có một tòa nhà 3 tầng với biển đề "PHÒNG THÔNG TIN".
Chúng tôi chỉ đi loanh quanh một lúc, ngắm các công trình rất đẹp trong khu vực đó. Lúc bấy giờ, đường phố rất vắng lặng. Rất ít người dân đi ra đường. Giá mà có ai đó chụp mấy kiểu ảnh thì tuyệt quá. Nhưng tuyệt nhiên không có một phó nháy nào. Ấy là cứ ước thế thôi chứ lúc đó chúng tôi cũng chưa có khái niệm thợ ảnh chụp dạo. Phải mấy ngày sau khi chúng tôi đi chơi Sài Gòn thì đến chỗ nào đẹp đều có người mời chào chụp ảnh. Lúc đó tôi mới biết các thợ ảnh tận tình chụp tận nơi, ảnh lấy ngay. Đây cũng là điều lạ lẫm đối với tôi. Lúc đó ở ngoài bắc không có dịch vụ kiểu này.
Mấy xe của c20 lục tục quay về căn cứ cát Lái. Chúng tôi ở Cát Lái một thời gian cùng ban 2, đại đội xe c26 của sư đoàn và một số đơn vị khác nữa. c20 có một xe Jeep và ban 2 cũng có một xe. Đại đội tôi chỉ có hai người lái được xe là anh Nhung "lẹm mông" và tôi. Anh Nhung bị mảnh bom B52 phạt mất nửa kí thịt mông ngày 4/8/1972 ở Nghĩa Hy, Quảng Trị. Hai anh em thay nhau lái xe đưa anh em trong đại đội đi chơi Sài Gòn và chở đồ chiến lợi phẩm từ kho về nơi ở của đại đội.
Trên ban 2, thằng Nguyên lái xe cho các thủ trưởng đi chơi Sài Gòn. Có hôm đi về, nó phàn nàn: "Tao lái xe cho ông x với ông y đi chơi. Các bố ấy có nhiều tiền mua cát sét, mua quần áo trẻ con, mua len, nhiều thứ lắm. Tao chả có đồng nào, thế mà mấy bố cũng lờ đi. Hóa ra chả được đi chơi mà đi hầu mấy bố mua đồ. Bận sau tao đ... lái nữa, bảo là xe hỏng mẹ nó rồi".
Đại đội chẳng phải họp hành hay luyện tập gì ngoài việc điểm danh lúc 9 giờ tối. Tuy nhiên, ai muốn đi đâu đều phải báo cáo, phải mang theo súng và đi ít nhất phải ba người trở lên, đề phòng tàn binh.
Sáng 5/5/1975, mấy thằng Điều, Lâm, Nghiêm và tôi báo cáo đi chơi Sài Gòn. Chiếc xe Jeep rất tốt nhưng acquy yếu không đề được. Lâm, Điều, Nghiêm phải xuống đẩy xe. Chắc không quá 3 mét là chiếc xe đã nổ ngon lành.
Chúng tôi đi đúng theo đường hôm 30/4 đã đi, "ngựa quen đường cũ" mà. Đến khu Hạ Nghị Viện còn khá sớm.
- ỒI ! cái tượng "Thủy quân lục chiến đã bị đập rồi kìa !
Mấy thằng nhảy xuống xe. Lâm còn mang theo cặp, bút chì và màu nước. Bao giờ cũng vậy, đi đến đâu hắn cũng vẽ. Thường là hắn ký họa người và cảnh vật. "Chất nghệ" di truyền thôi thúc trong huyết quản. Hắn vẽ bất cứ gì có thể vẽ được, những khuôn mặt lính, khuôn mặt o du kích, lão nông hay đồng bào dân tộc, . . .
Rất nhanh, đã có mấy phó nháy bao quanh mời chào. Chúng tôi băn khoăn không biết chụp ảnh rồi thì làm sao lấy ảnh đây. Băn khoăn của chúng tôi được một người chụp ảnh khá lớn tuổi giải quyết. Ông bảo:
- Tôi chụp ảnh lấy ngay đây !
- Lấy ngay được à ?
- Dạ ! Ảnh Polaroid mà mấy anh.
Cái từ Polaroid mà ông ta nói tôi vẫn nhớ đến tận bây giờ. Chắc là phân cực phân kiếc gì đấy. Thế mà bây giờ thử tra từ điển của "Google dịch" thì nó để nguyên văn không dịch được sang tiếng Việt.
Sau khi hỏi giá cả, mấy thằng vét voi tất cả tiền lại cũng không đủ mỗi đứa chụp một hình. Đành chịu vậy chứ biết làm sao. Vậy là đầu tiên chụp chung bốn thằng một kiểu, sau đó mới chụp riêng. Tôi không có đồng nào nên chỉ được chụp chung. Sau khi bấm máy, ông già lấy tấm ảnh ra rồi lẩm nhẩm đếm 1, 2, 3, . . . . đến mấy thì ông lột tấm ảnh làm đôi. Thì ra tấm ảnh được dính với một cái bìa có hóa chất gì đó. Căn cứ vào độ sáng bên ngoài mà người ta tính thời gian để lột ảnh khỏi hóa chất. Công nghệ polarroid bấy giờ chỉ được đến thế.
Tôi không nhớ mấy đứa chụp riêng thế nào. Tôi cứ lẩm nhẩm trong bụng " Bọn này tệ thật, tao không lái xe thì chúng mày làm sao đến đây mà chụp ảnh riêng chứ ?"
Thế là tôi cũng có một tấm ảnh. Tấm ảnh này tôi vẫn còn giữ
Tôi cứ thường đi chơi với anh em trong đại đội, chưa lần nào đi chơi với anh em trong tiểu đội. Nghĩ lại thấy mình cũng tệ. Ấy vậy mà, ở nhà, anh em tiểu đội tôi có cái gì cũng để phần cho tôi. Các thứ đồ ăn chiến lợi phẩm, rồi nhu yếu phẩm khác đổi với các cửa hàng tạp hóa bằng chiến lợi phẩm, anh em đều chia phần cho a trưởng. Tôi có đầy đủ khăn mặt, kem đánh răng, giấy bút để viết thư, . . .
Hai hôm sau, nhằm ngày 7/5/1975, sau khi ăn sáng xong, xê phó Triêm đến tiểu đội tôi và rủ đi chơi Sài Gòn.
- Vào dinh Độc Lập anh nhá ?
- Ừ !
Ra đến xe thì thấy anh Bùi Văn Thắng bê trưởng và Dương Chí Lục bê phó đã chờ sẵn. Anh Triêm ngồi cạnh tôi, hai anh kia ngồi ghế sau. Lần này chiếc xe đã được thay acquy nhưng lại hỏng nút đề. Anh Nhung đã lôi trong hốc ra hai đầu dây điện. Khi đề, chập hai đầu dây với nhau, xe nổ máy được thì nhả ra.
Không biết hôm nay có chuyện gì mà khi vào giữa thành phố rồi đường vẫn rất đông. Có đoạn kẹt đường, phải nhích lên từng tí một. Tuy là lái xe chưa thành thục lắm nhưng tôi cũng "luồn lách" ra trò. Chiếc Jeep mui trần, cửa võng (thực ra là không có cửa) cứ phăm phăm tiến tới. Có hai lần cái tai hồng của bánh trước cạ vào xe khác. Người lái xe quay sang lườm chúng tôi. Thì tôi, cũng quay sang lườm lại có ý nói: "đáng gì đâu". Thấy sắc lính, đen đúa, nét mặt nghiêm nghị quá, lại thêm mấy khẩu AK và K54 nên người lái xe cũng đành ngoảnh đi nơi khác. Chăc hẳn anh ta phải chửi thầm: "mấy thằng lính nông dân này ! Không thèm chấp !"
Tôi cũng chiều mấy anh xê bê nên chở mấy lão đi qua các khu vực có cửa hàng để mua đồ. Vậy là tôi cũng chẳng khác gì thằng Nguyên trên ban 2. Tôi không còn nhớ họ mua gì và tôi cũng không vào cửa hàng mà chỉ ngồi trên xe. Sau khi mấy "bần cố" được thỏa mãn vì đã mua được đồ thì đi đâu bây giờ là tùy tôi.
Chẳng biết chúng tôi đã đi qua những con đường nào. Bây giờ muốn đến dinh lại phải hỏi thăm đường. Tôi nhớ sau khi hỏi thăm đường, trong lòng hơi thắc mắc. Tại sao người ta chỉ đường cho mình có đoạn đi hình chữ "U" thế này. Tới ngã tư kia rẽ luôn có phải ngắn hơn không. Tôi đi theo đúng ý nghĩ của mình, rẽ vào một con đường khá đẹp. Dòng ô tô và xe máy nườm nượp. Mọi người đi ngược chiều với chúng tôi đều phải tránh và có biểu hiện gì đó bất bình thường. Tôi bật ra:
- Chết rồi ! đi vào đường một chiều.
- Kệ nó ! Cứ đi đi ! Nhưng mày đi sát bên phải quá !– Anh Triêm nói.
Chắc là dòng xe chạy ngược với chúng tôi, thấy xe lính nên lại . . . "không thèm chấp".
Rồi chúng tôi cũng đến được Dinh Độc Lập. Ba người xuống, để lại anh Thắng trông xe (có lẽ trông đồ còn quan trọng hơn). Dinh không mở cửa cho vào. Lính quân cảnh đứng gác nghiêm chỉnh. Chúng tôi chỉ đứng ngoài ngắm nghía. Chán rồi thì ra vườn cây rất rợp bóng phía trước dinh. Chúng tôi nghỉ ngơi và ngắm đường phố với nhiều người và xe cộ. Trông thật nhộn nhịp và thanh bình.
Thế mà đã 11 giờ. Anh Triêm bảo:
- Thôi, về đi !
- Anh còn tiền, cho em chụp kiểu ảnh.
Thế là tôi có tấm ảnh thứ hai, chụp riêng, đứng trước dinh Độc Lập.
Lại là ảnh lấy ngay. Lần này, sau khi xem ảnh, thấy một thằng lính đứng giữa trưa nắng, mặt đen ngòm, không nhận được ra là thằng nào. Cái lão thợ ảnh này không để ý đến ánh sáng. Đáng lẽ hắn phải có tấm hắt sáng hay ít ra cũng phải bảo tôi bỏ mũ ra mới phải. Thôi thì, đằng sau lưng có cái "dinh" là được rồi.
Anh em cứ nhìn cái hình này mà xem - đen thui, đen thủi.
Xê Hai Mươi ở Cát Lái hơn một tuần thì chuyển về Phú Hội, thuộc huyện Nhơn Trạch. Ở đây, lính tráng cũng không phải tập tành hay họp hành gì. Nhưng mà có một chuyện quan trọng. Ấy là truy quét tàn binh. Việc truy quét này không phải chỉ riêng có đơn vị tôi mà rất nhiều đơn vị phải làm.
Chúng tôi chỉ tổ chức lùng sục vào ban ngày. Chiều đến lại về. Thời bình rồi mà bây giờ lại phải lội ruộng, băng rừng rậm vào những chỗ nguy hiểm thì ai nấy đều rất ngại. Bây giờ mà "đòm" một cái thì thôi "xong". Nhiệm vụ thì vẫn phải thi hành nhưng làm sao đây để tránh được thương vong. Vì vậy, dù chỉ là truy tìm một nhóm tàn quân nhỏ thì mình cũng phải đi thật đông để chúng nó sợ mà ra hàng hoặc bỏ chạy. Đến những khu vực nghi vấn thì hô hét địch đầu hàng. Những chỗ nghi ngờ địch có thể dùng làm nơi trú ẩn thì rải truyền đơn kêu gọi ra trình diện chính quyền cách mạng.
Về phía tàn quân địch. Đây là số lính "tùy nghi di tản" khi bị ta tấn công. Rất có thể nhiều người chưa biết tình hình miền nam đã hoàn toàn giải phóng nên họ cứ sống trốn tránh chui lủi hết chỗ này sang chỗ khác. Một số ít là lính ngoan cố, tụ tập nhau để đánh lén vào những anh em đi lẻ, . . . .
Tuy nhiên việc truy quét tàn quân cũng không lâu lắm. Tự chúng cứ tan rã dần và ra trình diện. Đại đội tôi cũng có phải nổ súng nhưng không bắn chết ai và mình cũng không có thương vong gì.
Anh em được nghỉ ngơi an dưỡng, được ngủ thoải mái, ăn uống đầy đủ. Những lúc nhàn rỗi thế này thì món "tiến lên" và "đánh ù" là rôm rả nhất. Đánh ù là kiểu đánh bắt chước tổ tôm, cũng có phỗng, có ù, . . . Chán rồi thì ra đường LTL25 đứng hóng. Tốt nhất là ở trong nhà hoặc ở ngoài đường chứ đừng lãng mạn mà thơ thẩn trong vườn rừng. Bất cứ lúc nào cũng có thể, một trái sầu riêng rớt xuống đầu. Mà, cây sầu thì rất cao, trái sầu lại lớn, vỏ sầu rất cứng và đầy gai nhọn.
Nghe xôn xao chuẩn bị chuyển quân, toàn sư đoàn ra bắc. Thế thì sướng thật ! thể nào cũng được về nhà, nếu không được phép thì cũng "tút" cái đã.
Một hôm, vừa cơm sáng xong thì liên lạc xuống báo: "Anh Nhung và anh TichTuongNhuLe ngay bây giờ lên sư đoàn để thi sát hạch lái xe". Chả là, sư đoàn có nhiều xe chiến lợi phẩm và muốn mang theo tất cả ra bắc. Anh Nhung chở tôi trên chiếc xe Jeep đến bãi sát hạch. Trên đường đi anh bảo:
- Sát hạch thì khó nhất là dồn số liên tiếp, mày cẩn thận đấy. Ngón này là dùng để qua phà. Nếu qua phà được thì coi như tốt.
- Sao anh biết nhiều ngón thế ?
- Tao làm cần vụ mấy năm, lúc nào chả ở cạnh thằng lái xe. Các loại xe Commăngca, Bắc kinh, rồi Uaz tao lái mãi rồi.
- Ờ ! Bố lái thạo quá nên hôm ở Phan Thiết mới biểu diễn xiếc, tiết mục "lật xe".
Anh Nhung cười hì hì và nói:
- Tao không ngờ xe "dép" nó lại dễ lật thế, chỉ cua hơi nhanh thế mà nó lật. May quá, không thằng nào việc gì.
Năm sáu thằng nhảy ra được hết.
- Chuyện này em biết rồi, sau hôm anh lật xe, em chở chúng nó đi chơi. Lúc về đến nhà, vào cái dốc từ dưới
đường lên nhà, em vẫn để số ba. Thế mà, tăng ga một cái là xe đã vọt lên. Mấy thằng tưởng em sẽ đâm vào
nhà. Roạt một cái, chúng nó đã nhảy xuống hết rồi. Chúng nó bảo, tại hôm qua anh cho xe lật, nên bây giờ phải cảnh giác.
Hai anh em đến bãi thi sát hạch tay lái hơi muộn hơn mọi ngươi. Chúng tôi lẳng lặng ngồi vào hàng chờ gọi đến tên mình. Hai hàng thí sinh ngồi bệt dưới đất. Giám khảo ngồi trên ghế, sau hai chiếc bàn liền nhau. Chỉ có một chiếc xe Jeep của giám khảo dùng để thi tay lái. Khi một người được gọi tên thì lên xe ngồi sau tay lái còn một vị giám khảo ngồi ở ghế bên cạnh.
Xe phải lái theo một đường qui định với quãng đường khá dài, lên dốc, xuống dốc, lượn vòng trái, vòng phải, ngoằn nghoèo, đủ cả. Mé bên phải đường, từng đoạn lại có biển yêu cầu người lái phải đi số mấy, dừng xe, tắt máy, khởi động, . . .
Tôi chẳng phải chờ lâu. Khi người trước vừa cho xe đi thì giám khảo đã đọc trên tôi: "TichTuongNhuLe chuẩn bị". Tôi phải chờ chừng mươi phút thì chiếc xe mới quay về. Đến lượt mình rồi, nhanh thật.
Tôi lên xe, nổ máy thì một vị giám khảo mới bước lên. Anh ấy khá nhiều tuổi, đầu đội một chiếc mũ mềm ( lưỡi chai), nét mặt dày dạn "con nhà xế". Thực tình, lúc mới gọi tên, tôi cũng hơi hồi hộp. Bây giờ thì hết rồi.
- Chạy đi ! chú ý làm theo đúng biển chỉ dẫn đấy !.
- Vâng !
Tôi nghĩ là mình may mắn vì được lái một chiếc xe Jeep. Xe này thì tôi đã quen rồi, không mất công bỡ ngỡ lúc đầu. Nhưng mà, . . . không phải như vậy.
Ngay từ đầu, tôi tăng ga nhẹ và nhả côn đồng thời, quá ngon lành. Nhưng tôi đâu có ngờ chiếc xe này không giống xe tôi đã quen chạy. Mới chỉ hơi nhả côn một tí mà nó đã bám liền, làm chiếc xe bị giật về phía trước. Chiếc mũ mềm của anh giám khảo bay khỏi đầu và rơi ra ghế sau. Khỉ thật ! Chiếc xe tôi vẫn lái thì còn phải nhả côn một đoạn xa nó mới bắt, vậy mà . . .
Hai hàng thí sinh nhất loạt "Ồ !" lên một tiếng. Tôi còn nghe lao xao tiếng cười và tiếng bàn tán của mọi người.
Tôi nghe rõ tiếng thở dài của anh giám khảo. Liếc mắt qua, thấy mặt anh ấy vẫn lạnh tanh, nghiêm nghị. Vậy là mình mất điểm ngay từ đầu. Tôi tự động viên sẽ cố gắng để bù lại. Quả thật, đoạn đường đầu tiên có ngoằn nghoèo một chút, cũng chỉ là dịp cho tôi gỡ lại chút điểm. Đến đoạn lên một quả đồi dốc, vẫn ngon vì chiếc xe Jeep rất khỏe và tôi cũng kịp xuống số thấp ở giữa dốc. Dừng xe giữa dốc rồi đi tiếp lên dốc thì tôi dùng phanh tay kết hợp với côn ga, cũng tạm ngon.
Tôi làm khá tốt theo những gì ghi trên biển yêu cầu. Sau khi lên đỉnh đồi, chiếc xe tăng tốc rồi ngoặt trái. Bất ngờ, đoạn trước mặt xuống rất dốc để rồi ngay lập tức lại lên dốc. Vừa xuống dốc vừa lên dốc trên một đoạn rất ngắn. Thế mà, liên tiếp năm sáu cái biển chỉ cách nhau khoảng 2 đến 3 mét. Số 4, số 3, số 2, số 1, số 2, số 3. Thì ra là đoạn dồn số mà anh Nhung nói – lên phà, xuống phà đây. Các tấm biển quá gần nhau, xe thì đang chạy nhanh làm tôi lúng túng và không chuyển kịp số theo yêu cầu.
Trên đường cho xe về, đến đoạn bằng phẳng, dễ dàng nhất thì anh giám khảo bảo tôi:
- Thôi, về nhá ! Cứ tưởng dễ lắm phỏng ?
Cũng may mà anh ấy không nói gì nặng lời.
Chuyện tôi đi thi sát hạch lái xe và "trượt vỏ chuối" là như vậy. Thế mới biết, cái gì biết "tay mơ" thôi thì dễ nhưng dính vào "thi cử" lại là chuyện khác.
Ở Phú Hội một thời gian một hai tuần, Xê Hai mươi lại chuyển về đóng ở Thành Tuy Hạ. Ấn tượng nhất của tôi về cái "Thành " này là bẩn. Bẩn vì hệ thống thoát nước quá tồi và vì dòng sông Đồng Nai bấy giờ nước rất lớn. Nước cuốn đủ thứ rác rưởi, xác người, xác súc vật và tấp vào bờ. Chúng tôi cũng không ở đây lâu. Chắc khoảng một tuần đến mươi ngày thôi. Thế mà bệnh dịch bắt đầu hoành hành.
Rất nhiều anh em ngã bệnh. Những cơn sốt cao đến 40 độ và kéo dài ngày. Bệnh dịch ngày càng lây lan trong đơn vị. Thứ bệnh dịch này chúng tôi chưa hề mắc nên đơn vị cũng không có kinh nghiệm chữa trị. Cứ thấy sốt là cho thuốc hạ sốt. Về sau này, khi nhiều người mắc bệnh, lúc đó chúng tôi mới nghe nói đây là dịch sốt xuất huyết hay siêu vi trùng gì đó và không có thuốc điều trị.
Đơn vị chúng tôi chuyển về Căn Cứ Nước Trong. Căn cứ này còn được gọi là "Trường Bộ Binh". Gần Trường Bộ Binh còn có Trường Thiết Giáp. Trước kia là như vậy. Có lẽ bây giờ, cả Trường Bộ Binh cũ và Trường Thiết Giáp cũ gộp thành một khu vực gọi là "Nước Trong". Trong đó có bãi tập tăng và thiết giáp rất rộng lớn.
Sư đoàn bộ của Sư 325 đóng ở đây cùng nhiều đơn vị trực thuộc. Xê Hai Mươi của chúng tôi ở trong hai dãy nhà hai tầng. Mỗi tiểu đội ở hai ba phòng vì các phòng này khá nhỏ. Có lẽ mỗi phòng trước dây dành cho một sỹ quan học viên. Bốn anh em chúng tôi ở một phòng. Trải tăng xuống nền nhà làm giường. a2 của tôi ở ba phòng trên tầng hai. Đơn vị không phải tập tành gì. Ai khỏe mạnh thì đi chơi và phục vụ cơm nước cho người ốm. Tôi nhớ, hình như đại đội tôi cũng được ăn cơm ở bếp của sư đoàn nhưng hàng ngày phải cử người xuống phụ bếp cho anh nuôi ban 5.
Điều kiện ăn ở đây vệ sinh hơn rất nhiều ở Cát Lái và Thành Tuy Hạ, Căn cứ thì rộng mênh mông. Có việc gì lên ban 2 sư đoàn cũng phải đi bộ rất xa. Đi ăn cơm thì xếp hàng đi đều đàng hoàng xuống nhà ăn. Tổ chức ăn ở có vẻ "chính qui hiện đại" quá làm cho lính trinh sát hết chỗ quậy. Nhà dân và các hàng quán cũng rất xa. Vả lại, muốn ra khỏi cổng căn cứ lại phải qua trạm gác của vệ binh. Thật là phiền toái.
Trung tuần tháng 6/1975, nghe lao xao tin đồn, sinh viên được giải ngũ về học tiếp. Đối với những lính sinh viên, đây là một cái tin tuyệt vời nhất. Đó là nỗi mong mỏi của các chú sinh viên. Mong mỏi này mạnh đến đâu ? Chắc mọi người đều hiểu. Tôi xin kể chuyện của 6971 để anh em hiểu thêm.
Giữa năm 1974, có vụ trường Đại Học Kỹ Thuật Quân Sự đi tuyển học viên ở sư đoàn tôi, là sư đoàn có nhiều lính sinh viên nhất. Bác 6971 được gọi lên thẩm vấn. Tốt rồi ! Thế nhưng bác ấy lại xin phép cho về suy nghĩ rồi sẽ trả lời sau. Năm bảy tư thì đã ai nhìn thấy tương lai gì đâu. Có thể chiến tranh còn ác liệt và kéo dài. Một đằng được ra bắc học, một đằng tiếp tục lính chiến. Còn gì phải chọn nữa ?
Bác 6971 rủ tôi lên đồi vắng, chỉ có hai người. Sau khi bàn đi tính lại mãi. Cuối cùng thì bác ấy mới quyết định ra bắc đi học vì ít nhất cũng được về nhà cái đã, rồi sau tính tiếp.
Bây giờ hết chiến tranh, sinh viên được ra bắc học ngay. Thật không có gì vui sướng bằng.
Anh em trong đại đội đều mừng cho mấy thằng sinh viên được ra quân sớm. Vương Lâm, a phó tiểu đội tôi bảo:
- Ông có việc gì, hay muốn đi đâu thì tranh thủ đi đi, tiểu đội cứ để tôi lo.
- Ừ ! Ông làm giúp nhé !
Không phải tất cả sinh viên đều được ra đợt đầu. Những sinh viên nhập ngũ năm 1972 chưa được ra. Đại đội tôi có Hùng "Côn" và An "Đen" ở A12. Không nhớ Hùng kiếm đâu ra máy ảnh và phim. Hai thằng rủ nhau vào Sài Gòn chơi một ngày và chụp ảnh.
Lúc về đến Nước Trong, sư đoàn đã tịch thu xe Jeep của chúng tôi. Hai thằng phải ra đường QL15 bắt xe đò. Bộ đội vẫn chẳng có tiền nên nhà xe toàn phải cho "quá giang". Khi tới trung tâm Sài Gòn, chúng tôi xuống xe đi bộ. Điểm đầu tiên là bến Bạch Đằng. Đi tới đâu, thấy cảnh gì đẹp hay hoành tráng thì chụp ảnh. Thằng này chụp cho thằng kia rồi đổi nhau.
Sau khi ngắm nghía và chụp ảnh ở bến Bạch Đằng, hai thằng đi dọc theo đường Nguyễn Huệ. Đây là một con đường đẹp nhất bấy giờ. Trên con đường này lúc đó có một tòa nhà cao nhất thành phố, 16 tầng. Hết đường Nguyễn Huệ, gặp đường Lê Lợi. Đường này cũng to và đẹp chẳng khác gì đường Nguyễn Huệ. Đoạn đường này thì tôi quá quen rồi vì đã hai lần tới đây. Hạ Nghị Viện nằm trên đường Tự Do còn Tòa Đô Chánh nằm trên đường Lê Thánh Tông. Tới đây hai thằng mới nghĩ ra nhờ một toán thanh thiếu niên chụp hộ, rồi còn chụp chung với họ một kiểu.
Hai thằng lang thang tới Bưu Điện. Chỗ này ngay kề với Nhà Thờ Đức Bà, còn gọi là "Vương Cung Thánh Đường". Cái tên nhà thờ làm tôi nhớ đến chuyện "Thằng Gù Ở Nhà Thờ Đức Bà Paris" của Hugo. Đang loay hoay tìm người chụp hộ thì gặp Nông Văn Tàu. Tàu là a trưởng a3 của trung đội tôi và là giáo viên võ thuật của đại đội. Hắn đi chơi Sài Gòn một mình. Bây giờ tôi không còn nhớ có lý do gì đó mà hắn không nhập hội cùng chúng tôi.
Sau khi nói chuyện ồn ào một lúc, chụp mấy kiểu ảnh thì Chúng tôi rẽ đi hai ngả. Hùng và tôi vào tham quan nhà thờ rồi mới rẽ vào đường Công Lý để đến Dinh Độc Lập.
Khi về Hà Nội, tôi chọn lọc một số kiểu để in ra ảnh vì lúc đó không có tiền để in toàn bộ cuộn phim. Vậy mà, cái nào thành ảnh rồi thì bây giờ còn tạm được, phim thì mốc quá, có in ra ảnh cũng khó mà có thể nhìn ra cái gì.
Lúc nào scan lại mấy cái ảnh, tôi sẽ post lên để anh em "dòm" tạm.
Lính sinh viên chúng tôi được về đi học ai cũng "mở cờ trong bụng". Tuy vậy, đã quen với việc thay đổi xảy ra bất cứ lúc nào, cho nên ai nấy rất hồi hộp. Chỉ khi nào cầm quyết định ra quân mới có thể chắc chắn. Vả lại, được về nhưng phải chia tay anh em thì không khỏi bùi ngùi, bin rịn. Trong đại đội tôi, từ ban chỉ huy đại đội đến anh em trong tiểu đội, ai ai cũng mừng cho chúng tôi. Anh Trương Thế Nhạ, đại trưởng, cứ cầm tay tôi lắc lắc:
- Cậu được về học thì tốt rồi. Lúc nào ra đến nơi, nhớ viết thư cho tớ. Khi nào tớ được về phép, tớ sẽ mang huân chương ra cho cậu. Cậu cứ yên tâm !
Anh Nguyễn Xuân Triêm, xê phó thì cứ ôm lấy tôi và kéo tôi ra chụp ảnh kỷ niệm. Anh Lê Hồng Thanh xê viên thì chạy lên phòng tham mưu lo giấy chứng thương cho tôi. Lúc mang giấy chứng thương về, tôi xem và bảo anh ghi thiếu một vết thương:
- Em còn bị một vết vào đít nữa đây này. Bây giờ chỉ ngồi được một bên mông thôi.
- Đọc đi, mình viết bổ sung vào cho, vẫn là chữ viết của mình mà. Được rồi, sau này nhớ khám thương nhé !
- Em nghĩ cái giấy này là một kỷ niệm thôi, em bị thương có tí tẹo, ăn thua gì mà khám.
Cái giấy chứng thương, tôi gấp tư, nhét vào túi ngực. 35 năm sau tôi mới đi khám thương thì nó đã rách thành 4 mảnh, may mà không mất chữ nào. Người ta giám định thương tật và phong chức cho tôi thành thương binh loại bét.
Anh Đặng Ngọc Ánh, xê viên phó thì ngậm ngùi, chẳng nói được câu nào. Anh chỉ nhìn tôi và cười, vẫn nét cười hiền lành. Trong anh có gì đó mặc cảm. Hẳn là anh đang nghĩ: "Tụi bây có học sướng thiệt, chỉ có tau ít học, chả bao giờ được như tụi bây !"
Chia tay với anh em còn bịn rịn hơn. Mọi người tíu tít ghi chép địa chỉ. Quang Nhật tặng luôn tôi một quyển vở để ghi địa chỉ mọi người. Ai có gì hay hay đều tặng tôi làm kỷ niệm. Nào thì cạo râu cánh cụp cánh xòe, nào bộ thìa inox, nào thì ảnh nổi, . . .
- Anh ơi, em tặng anh giấy Mỹ này, anh xem, giấy trắng không ? Anh học đại học viết giấy này thì nhớ đến em nhé !
- Nhớ chứ !
Vương Lâm, a phó tiểu đội tôi thì lúc nào cũng cặp kè bên cạnh. Tôi tặng Lâm cái đồng hồ nữ, chiến lợi phẩm lấy trong đồn hôm 30/4. H thì tặng tôi chiếc đồng hồ Orient mạ vàng.
Chúng tôi lên xe ngay ở căn cứ Nước Trong. Mọi người ra tiễn rất đông. Trước khi lên xe, tôi bất ngờ ôm Lâm và hôn vào má nó một cái. Đó là nụ hôn đầu tiên. Vì quá bất ngờ nên Lâm đứng chết lặng đi giờ lâu, hình như mắt hắn ngân ngấn nước.
Sư đoàn còn tặng quà cho mỗi sinh viên 2 mét vải khổ đúp. Tôi được mảnh vải màu "gà con". Sau này hai cô em gái, mỗi đứa được một chiếc áo rất đẹp.
Ba lô của tôi đã chật căng lại còn xách thêm một cái va li con nữa, trông thật nhếch nhác, chẳng ra làm sao. Ra đến Hố Nai, có thủ tục kiểm tra quân trang. Tôi đành cắn răng nộp mất khẩu colt 6 cùng mấy hộp đạn. Cái va li, may mà không phải nộp.
. . . . (hết chuyện Vượt Sông Đồng Nai . . .)
HUYỆN XXIV MỘT CHUYỆN ĐIÊN RỒ
Tháng 12/1972 chiến sự ở khu vực Như Lệ – Tích Tường đang rất ác liệt. Anh em trung đoàn 95 đang chốt ở Như Lệ và Tích Tường ngày đêm phải chịu pháo kích của địch. Rồi thì những cuộc tấn công dữ dội bằng xe tăng và bộ binh của địch để nhổ các chốt của ta ở đó. Càng gần đến ngày ngừng bắn, chiến sự càng ác liệt. Bến vượt từ Thượng Phước qua Như Lệ bấy giờ phải vận hành hết công suất cũng không xuể để tải thương binh qua sông hàng đêm. Vấn đề không phải là năng lực vận tải của công binh e95 không đủ sức mà do trên sông Thạch Hãn địch ngày đêm bắn pháo để ngăn chặn. Chuyện này bác NguyenHuuLuan là người trực tiếp. Đại đội trưởng của bác ấy sợ chết đã bỏ trốn khi c17/e95 tham chiến tại bến vượt Thượng Phước sang Như Lệ - Đá Đứng.
Trích:
Sau này tôi biết do Ô. sợ "chết" nên bắt TĐội tôi phải về Cứ để Ô. không phải xuống chỗ nguy hiểm. Rồi Ô. cũng bỏ trốn vào giai đoạn Đại Đội tham chiến ác liệt nhất tại NHƯ LỆ- ĐÁ ĐỨNG.
Hỏa lực cối 82, DKZ, 12ly7 của ta chủ yếu bổ trí ở bờ tả ngạn của sông để yểm trợ cho bộ binh giữ chốt ở hữu ngạn. Phải qua lại sông nhiều nhất là công binh và thông tin. Mỗi lần anh em qua sông có khác gì "Cảm Tử Quân" đánh bom ba càng năm 1946 ở Hà Nội. Chỉ khác ở chỗ không có lễ truy điệu trước khi anh em xuất phát.
Hai thằng bạn tôi, một thằng lớp A và một thằng lớp B Chế Tạo Máy K15 ĐHBK, một thằng hỏa lực ở bên này sông (bên ta) và một thằng thông tin ở bên kia sông (bên có địch).
Nhớ lại đêm 15/9/1972, trung đoàn cho lệnh rút qua sông Thạch Hãn từ Dinh Tỉnh Trưởng. Cũng con sông này đây, ngày ấy, Trịnh Thúc Doanh vừa nhào xuống sông thì một loạt pháo dội tới. Lớp A Chế Tạo Máy K15 mất thêm một bạn. Những đứa Chế tạo Máy K15 còn lại, bây giờ mỗi đứa một nơi.
Tôi sẽ gọi hai đứa bạn ấy là "Thằng Bên Này" và "Thằng Bên Kia" cho nó dễ vì không tiện gọi tên thật. Nếu không, chúng nó đánh tôi chết mất vì bảo chúng nó là điên rồ.
Lại một ngày, lúc ngơn ngớt pháo, Thằng Bên Này ló đầu ra khỏi hầm để nhìn sang bên kia sông Thạch Hãn. Giời ơi ! Sao mà chúng nó cứ bắn mãi thế? Chúng nó bắn ở trên chốt, chúng nó bắn cả khu vực hầm của Thằng Bên Kia nữa. Không biết Thằng Kia đang ở trong hầm hay đang chạy ra ngoài để nối dây ? Mấy quả pháo khoan liệu có "xin hầm" Thằng Kia không biết? Xót ruột quá !
Hầm Thằng Bên Kia bị khói bụi và đất đá che phủ hết cả rồi, không còn nhìn thấy gì. Thằng Bên Này cứ chổng mông lên mà nhìn, mà soi mãi. Thằng Này cố hình dung ra khuôn mặt trái xoan héo của Thằng Kia, mắt cay cay. Mà, Thằng Kia nó cũng láo thật. Nó kém mình những ba tuổi mà lúc nào cũng mày tao. Phải công nhận là nó rất gấu. Nó bảo:
- Từ bé bố tao đã dạy tao: "Ra đường đánh nhau thì đánh nhưng cấm được khóc !" Mày thấy bố tao
dạy tao có đặc biệt không? Mày đã thấy ông bố nào dậy con như thế chưa ? Tao cũng là thằng có hiếu
lắm chứ, tao nghe lời bố tao, có đánh nhau sứt đầu mẻ trán cũng không bao giờ khóc. Quê Nam Định
của tao cũng nhiều thằng to con và gấu lắm. Nhưng không bao giờ tao từ chối bất cứ thằng nào.
Không bao giờ tao rút lui trước bất cứ ai. Mày phải biết, ở quê, tao đã là thằng nổi tiếng đầu gấu, học
sinh cá biệt, vân vân và vân vân. Mày làm sao đòi làm anh tao được. Mày là mày, tao là tao "éo" có
chuyện anh em nhá !
Thằng Này vừa nhìn qua sông vừa nghĩ lại lời Thằng Kia nó tỷ:
- Còn mày á ! Mày được đi Tây học, không đâm đầu vào học lại đâm đầu vào gái, rồi lại còn đao búa,
đâm chém. Nghĩ, Nhà Nước mình cũng hay, họ đuổi mày về để mày phải xuống lớp học cùng khóa với
tao. May mà mày không cùng lớp tao, không thì tao đá đít mày lâu rồi.
Nghĩ mà tức, lúc nào nó cũng làm cho mình "mất điện". Sao nó bắn mày lâu thế hả Thằng Kia. Mày mà không chết, về đây tao đá đít mày.
Nếu nói người rồ là người làm những việc mà người khác không làm thì hai thằng này đúng là hai thằng "Rồ". Không phải chúng nó chỉ "rồ" khi nói chuyện, khích bác nhau mà còn "rồ" cả trong hành động nữa.
Chuyện "rồ" của chúng nó chỉ xuất phát từ hai điếu thuốc lào.
Lại chuyện thuốc lào ! Chuyện này thì bác phamphuviet đã nói rồi. Đây này:
Trích:
Lúc đó chính điếu thuốc lào đã tạo ra sự thăng hoa, đê mê những lúc căng thẳng. Có thể nói điếu thuốc lào (hay nói đúng hơn là cái chất ni cô tin trong nó) đã làm chai lỳ các đầu dây thần kinh cảm giác, làm cho lính ta quên đi những căng thẳng của hoàn cảnh, tạo sự bình tĩnh xác quyết, vượt mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ.
Bác phamhuyviet đã tổng kết chung đầy đủ cái thuốc lào rồi. Ấy vậy mà vẫn còn có chuyện riêng, thuốc lào, của Thằng Này và Thằng Kia đấy.
Thằng Này cứ nhấp nhỏm dõi theo từng loạt pháo đang "xin đủ thứ" ở bên kia. Mẹ bố chúng mày ! chúng mày cứ bắn bố chúng mày mãi thế. Ông mà bắt được thằng nào thì chỉ có "xẻo" !
Bất chợt, nhất loạt các họng pháo đều im bặt. Chỉ còn lại tiếng ong ong, ù ù trong tai. Thằng Này bật ngay khỏi hầm. Nó chạy sang hầm xê trưởng :
- Em gọi sang chốt cái !
Nó quay chuông thấy nằng nặng tay. Vậy là đường dây qua sông vẫn còn thông. Nó nhấc tổ hợp:
- A lô ! . . . . A lô !
Sao im thế ? Ngỏm hết rồi chắc ? Bỗng nó nghe một tiếng nói khê nồng, khàn khàn ngái ngủ:
- A lô !
- Anh em bên ấy sao rồi ?
- Thằng Này Hả ? Tao đây ! - Một giọng nghe như giật mình khỏi cơn ngủ.
Thì ra là chính Thằng Kia đang nói với nó. Thằng Kia, thông tin mà chả mấy khi chúng nó nói chuyện với nhau qua đường dây. Chỉ có khi nào kiểm tra đường dây Thằng Kia nó mới quay và gọi thử.
- Ừ ! Thằng Này đây. Mày chưa chết hả ? Vẫn còn gáo hả ? Thế có mất chỗ nào không ?
- Tao bị rồi ! – Tiếng Thằng Kia lại từ từ, khàn khàn như tiếng ma.
- Mày bị sao thế ? - Thằng Này sốt ruột quá vì Thằng Kia nó cứ ậm ừ, mãi mới nói:
- Tao thèm thốc lào quá !
- Tiên sư mày ! Tao mà sang là tao đá mày chết !
- Ừ ! Mày đá tao chết chắc sướng hơn pháo nó đá. Mày sang đây mà đá !
Thằng Kia nhảy khỏi hầm. Nó đi nối lại đường dây lên chốt. Xong việc, nó ngồi trong hầm đang lần lần nhặt sái thuốc. Lần đâu ra được sái ba cơ chứ. Nó thở dài. Chợt nó nghe tiếng bước chân chạy huỳnh huỵch ngoài cửa hầm. Rồi một thằng, trần trùng trục lao vào trong hầm. Nước trên người nó và trên cái quần đùi ống rộng nhỏ tong tỏng, miệng nó quát rất to:
- Thằng Kia đâu ? Tao sang đá chết mày đây !
- Thằng điên ! Mày sang đây làm gì ? Pháo nó sơi tái mày. Mày ngu quá !
- Tại mày bảo thèm thuốc lào. Thuốc của mày đây. Tao lấy của xê trưởng được có hai điếu.
Lúc về hầm cởi quần áo để bơi sang mày, mấy thằng nó xin mãi tao không cho đấy.
Nói rồi, Thằng Bên Này móc từ hai lỗ tai nó, mỗi bên một viên thuốc to bằng hạt lạc. Hắn nói:
- Thôi, tao té đây ! – Nó vọt ra khỏi hầm rồi lao xuống sông.
Thằng Bên Kia nhoài ra khỏi hầm, ngóng theo cái đầu nhấp nhô trên dòng nước, miệng lẩm nhẩm:
- Mẹ mày ! Nhanh lên, nhanh lên . . . . - Nó ngó theo bạn rồi lại ngoái đầu nhìn lên cao điểm 29. Nó
cầu cho mấy thằng tiền sát pháo trên đó đui hết một lượt – Nhanh lên ! Nhanh lên ! . . .
* **
Ngày giỗ Trịnh Thúc Doanh lần thứ 39, tôi ngồi cùng hai thằng. Chúng nó kể lại chuyện này. Thằng Bên Kia quát vào mặt Thằng Bên Này:
- Mày đúng là điên rồ ! – Rồi nó vỗ vào tôi và bảo:
- Mày thấy tao có sướng không ? Ở đời chả ai sướng như tao !
- Tao thấy, chưa có ai điên như chúng mày. Nhưng mà, tao cũng chưa thấy chuyện nào lãng mạn
như chuyện hai điếu thuốc lào của chúng mày.
. . . (hết chuyện XXIV)
Chuyện XXVIII VỢ CHỒNG DU KÍCH – BIỆT KÍCH (1)
Năm 1967 chị về nhà chồng trong một đám rước dâu tưng bừng. Trong bộ vét mới, trông anh rất điển trai, phong trần. Còn chị, chắc chắn là một cô dâu xinh đẹp rồi. Con gái làng này mấy ai được như chị, khuôn trăng vành vạnh, nước da rám nắng, tươi tắn, nở nang. Dáng người cao, đang độ xuân thì của chị làm cho nhiều trai làng chết mê chết mệt. Vậy mà chị lại chọn anh, một chàng trai ngang tàng ngỗ ngược nhất làng. Chị thích cái tính mạnh mẽ và quyết liệt của anh, chị thích cái tính phiêu lưu, bất cần đời của anh.
Một lễ vu qui đình đám, nhộn nhịp nhất làng Quất Xá.
Ở cái làng này, nhiều nhà có con em đi lính Quốc Gia, nhiều nhà theo Việt Cộng. Có nhà cha mẹ và anh trai làm Việt Cộng mà người em lại đi lính. Nhà nào Việt Cộng hay Quốc Gia trong làng đều biết cả nhưng không có sự phân biệt gì, cũng không có chỉ điểm hay ác ôn tàn sát, truy bức các gia đình Việt Cộng. Trong làng biết với nhau thôi. Một cái làng rất "lành".
Ba mẹ gả chị vào nhà ông bà đây, cũng một phần vì bố mẹ chồng chị là những người theo VC, nuôi và che dấu cán bộ. Chồng chị là con trai một, ba mẹ chị lại hiền lành và rất quí con nên chị cảm thấy thoải mái và hạnh phúc. Đất nhà chồng rất nhiều nên chị được thỏa sức làm lụng, suốt từ sáng đến tối "gieo lúa, trồng khoai". Sức gái đang thì, mọi việc cứ băng băng như người ta thường bảo "chửa con so, làm cho hàng xóm".
Nhưng năm sáu bảy là năm bắt quân dịch rất gắt. Anh phải thường xuyên chốn chạy quân dịch. Lúc thì anh chạy vào Huế, lúc thì trốn ở thị xã Quảng Trị. Tưởng như thế là yên. Ai dè, mấy thằng xã xuống bắt ông già, tra hỏi, đánh đập vì tội che dấu Việt Cộng. Không tìm được chứng cứ, chúng thả về rồi vài ngày lại bắt. Anh căm lắm, tìm bằng được mấy thằng xã, đánh chúng một trận tả tơi rồi bỏ trốn biệt tích.
Anh không nhảy núi theo Việt Cộng vì sợ cha mẹ và vợ con ở nhà bị o ép. Tính sao đây ? Rồi anh quyết định sung vào lực lượng biệt kích Mỹ chỉ với một chủ định đơn giản là về quê dằn mặt mấy thằng xã.
Chưa tới một năm, cả nhà càng hạnh phúc hơn khi chị sinh một thằng cu kháu khỉnh mà ba nó cứ nhất quyết đặt tên là Nga. Ba cu Nga không có nhà mà đang ở Làng Vây, nơi đơn vị biệt kích đang cùng chốt giữ khu vực Khe Sanh cùng TQLC Mỹ và và TQLC của VNCH.
6 tháng trời huấn luyện tại căn cứ biệt kích ở Làng Vây, sau đó hành quân vừa tập luện vừa truy quét Việt Cộng suốt vùng núi non của Quảng Trị, từ Khe Sanh đến Mai Lộc, rồi xuống An Khê. Khi ở Mai Lộc, gần nhà, anh nhảy về nhà, rình thằng xã khi nó đang đi trên đường 9 và tẩn cho nó một trận thừa sống thiếu chết. Thằng xã làm đơn gửi cho biệt kích Mỹ, kiện anh. Bọn biệt kích thường bao che cho nhau những việc làm tàng của lính nên chúng chỉ làm phép chuyển anh đi Huế, coi như đã thi hành kỷ luật.
Đấy là nói chuyện tay biệt kích này sau nhiều ngày khốn đốn ở Làng Vây – Khe Sanh, cho đến sau cuộc hành quân giải tỏa "Scotland II" và cuộc rút lui kéo dài hai chục ngày của Mỹ tại Khe Sanh tới tận 25/7/1968. Ở thời điểm đó, quân biệt kích (CIDG) là một lực lượng người Việt nằm trong QL/VNCH nhưng do Mỹ tuyển dụng, tổ chức huấn luyện và chỉ huy. Nhân vật có trong chuyện không phải là lực lượng biệt kích SOG dùng để thả xuống miền bắc vì y là người làng Quất Xá chính gốc, không nói được tiếng Bắc.
Sau những ngày khốn đốn ở Khe Sanh, rồi chạy tháo thân từ khe Sanh về tới Mai Lộc, đơn vị biệt kích của y đóng ngay gần căn cứ Camp Carrol của Mỹ (trên cao điểm 241). Y được về nhà và lần đầu tiên được nhìn mặt cu con kháu khỉnh. Nhìn thằng bé cởi truồng mới xinh đẹp làm sao ! Hắn cảm thấy sung sướng và hạnh phúc quá ! Giá như mà quên hết được những ngày trận mạc, máu lửa mới trải qua ?! Trong bữa cơm gia đình, nhìn cảnh ba mẹ khỏe mạnh, vợ đẹp, con khôn, hắn cảm thấy gai gai trong người,. . . Bất chợt thằng cu ọ ẹ muốn tè, mẹ nó vội quay nó ra phía ngoài nhưng hắn rất nhanh, ôm vợ quay lại: "cho nó đái vô mâm mới đã chớ !". Thằng bé tè ngay một bãi vào mâm cơm trong tiếng cười vui vẻ của cả nhà, nhất là ba nó, vừa cười vừa hò hét" Hây . . . ! Hây . . . !"
Sau vụ đánh thằng xã, hắn bị chuyển vô Huế mấy tháng mới được về lại. Một lần, mượn được xe của gã đại úy, hắn dợt xe thẳng từ căn cứ về, rồi dẹt xe vào thẳng sân nhà. Mấy cán bộ Việt Cộng đang hội họp định vọt ra sau nhà nhưng má ngăn lại:
- Thằng đó về, kệ nó, nỏ mắc chi mô !
Hắn cảm thấy hãnh diện lắm. Vốn đã ngang tàng nhất cái làng này, chừ lại dữ dằn trong bộ rằn ri biệt kích. Phắp một cái, từ trên xe nhảy xuống:
- Chào mấy chú, mấy eng !
- Chứ mậy làm chi mà thăng nhanh dữ hè ? Có xe Jeep chạy rồi tề ! – Một chú nói.
- Bay mần chi thì mần chứ đừng có bắn vào bà con mình đó ! - Một chú khác tiếp lời.
- Mấy chú nỏ cần nói mấy vụ đó nữa hề.
Hắn vào nhà để ôm vợ và ngắm thằng cu một lúc rồi lại đi ngay.
Chuyện khó tin
Lần khác hắn về nhà cũng gặp mấy cán bộ ở đó. Chuyện lính biệt kích làm càn hắn mang ra kể với niềm tự hào của kẻ ngang tàng. Hắn kể nhiều chuyện lắm làm mấy chú cũng nóng tai. Một chú nói:
- Mậy làm tàng đó đâu có được. Con nhà nghèo mà mần chuyện phá phách dân nghèo, nghe nỏ có được mô.
- Rứa là tui nói mấy thằng, chứ tôi có mần rứa mô.
Hắn chợt ngĩ ra một chuyện, liền hỏi:
- Rứa mấy chú có muốn coi mấy thằng Mỹ khôông ?
- Mấy thằng khỉ đột đó, coi chi cho mệt.
- Tui nói thiệt đó ! Mấy chú muốn coi, mốt, Chúa Nhựt, tui chở vô cho chú coi.
- Thì mậy chở vô đi !
- Mà mấy chú có đảm bảo là khôông bắn nó khôông ? Chú đảm bảo là tui chở nó vô liền. Chú chịu khôông ?
- Tau đảm bảo chớ ! Mà mậy bảo tao bắn mấy thằng khỉ đột đó, chúng nó về phá hết cái làng này, răng được.
- Vậy chú nghoéo tay tôi nè.
- Được !
Hai hôm sau, đúng giờ hẹn hắn chạy xe Jeep chở một thằng Mỹ, dẹt vô sân nhà. Hắn đưa thằng Mỹ vào nhà, giới thiệu ông bà già, giới thiệu vợ con hắn. Ở trong buồng, mấy chú cán bộ hơi căng thẳng. Mấy khẩu súng, đạn đã lên nòng, cần thiết là vọt lẹ ra lối sau nhà mà bí quá thì rẹt luôn. Còn hắn, hắn nói lõm bõm vài từ tiếng Mỹ kết hợp với ra hiệu chứ có nói được bao nhiêu. Mà khi hắn nói tiếng Việt với ông bà già thì thằng Mỹ cũng chỉ đớp đớp chứ có hiểu cái chi mô nỏ tề.
Chỉ một lúc sau hai thằng lại lên xe. Trước khi đi hắn còn nói vọng vào trong buồng:
- Các chú coi thằng khỉ đột rồi hề ! Tui đã nói là tui mần luôn đó hầy !
Lại chuyện khó tin
Hắn rất đắc chí vì đã đưa được Mỹ về tận nhà cho mấy chú Việt Công coi. Vốn tính thích chơi ngông, một ngày hắn lại nghĩ tìm cách bày ra chuyện khác. Nghĩ rồi hắn rắp tâm thực hiện bằng được.
Một hôm, hắn hỏi mấy thằng Mỹ chỉ huy đơn vị hắn bằng cách vừa nói bập bẹ vừa ra hiệu để diễn đạt rằng: "Chúng mày có muốn được thấy "Vi Xi" không ?". Mấy thằng Mỹ trố mắt và ồ ồ à à ra chiều muốn được thấy. Hắn hứa sẽ mang "Vi Xi" đến cho mà thấy với điều kiện không được bắn. Mấy thằng Mỹ lại ồ ồ à à đồng ý và ra hiệu "Ô kê !". Sau khi thỏa thuận chắc chắn với mấy thằng Mỹ, hắn xin về nhà để thực hiện kế hoạch.
Khi về nhà hắn hỏi mấy chú cán bộ:
- Chừ mấy chú có muốn đi coi căn cứ Mỹ mà nắm tình hình không, tui có thể giúp mấy chú vụ này được hầy !
- Mậy nói chuyện ba láp hề ?
- Tui nỏ ba láp mô, thiệc nớ !
- Mi mần cách chi ?
- Chừ ri, mốt tui mang xe ra ni, chở mấy chú vô nớ. Tới nớ, tui chạy từ từ há, các chú cứ quan sát kĩ hề. Rứa thui ! Được khôông ?
Mấy chú bàn với nhau qua lại, rồi một chú huyện đội Cam Lộ nói:
- Tau đi một chắc, mang theo súng hề ?
- Được ! Chú mang thì mang nờ. Mấy thằng Mỹ nỏ bắn mô, tui kêu với tụi nó, chú là người nhà tui mà.
Hai hôm sau, hắn đánh xe Jeep về thật. Một mình chú huyện đội lên xe với hắn. Chú ngồi cạnh hắn, ngay hông cửa. Khẩu Cạcbin chú bỏ lui về phía sau một chút, khóa an toàn mở sẵn cần là chú có thể vói tay đòm liền.
- Chú khỏi cần lo nổ súng. Tui lấy mạng mà đảm bảo với chú, nỏ có chuyện chi hết !
Chú huyện đội cũng mặc một bộ đồ lính, lại ngồi trên xe Jeep với một tên biệt kích, râu ria, kiếng mát đen xì, nên bên ngoài khó mà biết trên xe lại có Việt Cộng. Chiếc xe chở chú cán bộ huyện đội chạy ra khỏi làng rồi vọt lên đường 9. Đi qua căn cứ pháo Binh Camp Carroll một đoạn thì tới trại lính Biệt Động Quân (biệt kích) của Mỹ.
Biệt kích người Việt dưới sự chỉ huy của Mỹ hàng ngày hành quân thâm nhập các vùng do Việt Cộng kiểm soát để do thám lấy tin tức. Lực lượng này thường đi nhỏ lẻ từng toán và kiêng đụng độ với Việt Cộng. Những cuộc hành quân như vậy gọi là hành quân Delta. Hắn cũng thường xuyên tham gia vào hành quân Delta xung quanh Mai Lộc. Những lúc không phải hành quân, lính biệt kích vẫn phải tập luyện nhưng, nói chung tương đối tự do. Hắn nhiều lần được về nhà và chạy xe đi chơi Đông Hà, Quảng Trị, . . .
Khi đi qua các căn cứ Camp Carroll, hắn cho xe chạy chậm để cán bộ có dịp quan sát. Bây giờ đi qua căn cứ biệt kích hắn còn chạy xe chậm hơn, như đi dạo mát vậy. Lúc ngang qua mấy thằng Mỹ, hắn đứng hẳn lên, vẫy tay và hô lớn "hây . . .! hây . . .!". ra hiệu cho mấy thằng Mỹ chú ý mà dòm. Chú huyện đội thì tha hồ quan sát bố phòng của địch. Còn, mấy thằng Mỹ thì thoải mái ngắm Việt Cộng bằng xương bằng thịt đang ngang qua trước mắt.
Vậy là hắn đã thực hiện được lời thách đố và là một trò đùa ngang tàng của hắn.
Thật là một trò đùa trớ trêu của chiến tranh !
Năm nay thằng cu đã lên ba. Trông nó rất xinh và dễ tính. Hàng ngày tụi trẻ hàng xóm sang nhà chơi và tranh nhau đòi bế nên bà nội vẫn tranh thủ cơm nước và dọn dẹp nhà cửa cho ông nội và mẹ nó đi làm. Thằng bé chỉ bám mẹ nó vào buổi tối, khó mà rời nó mỗi khi mẹ nó cơm nước và dọn dẹp xong. Mỗi lần có họp du kích, chị lại phải tìm cách lừa nó cho ông bà rồi trốn đi.
Từ ngày anh đăng lính biệt kích, mấy thằng xã không còn dám nhòm ngó gì đến ông bà, chị là vợ anh nên cũng không còn bị xăm soi gì như hồi chị còn ở nhà. Bọn xã cũng biết chuyện, nhưng ở cả cái xã này chuyện có liên quan đến Việt Cộng cũng là bình thường. Cái xã này, ban ngày là của chính quyền, ban đêm là tự do, chẳng làm sao mà kiểm soát được.
Từ năm 1969, Mỹ thực hiện chiến lược Việt nam Hóa và đến năm 1970 thì lực lượng biệt kích cũng được giao lại toàn bộ cho quân lực VNCH. Lực lượng biệt kích từ đó trả lại vào biệt động quân như vốn có từ thuở ban đầu. Vậy là nhân vật của chúng ta chuyển đổi từ binh chủng mũ xanh sang binh chủng mũ nâu. Lực lượng này không còn là lực lượng đặc nhiệm có tổ chức từng đại đội mà đã phải tan biến vào 15 liên đoàn biệt động quân (BĐQ, tính đến năm 1971) và phải tham chiến đối mặt với quân giải phóng.
Anh được biên chế về liên đoàn 1 BĐQ đóng ngay ở làng Đại An Khê cách thị xã Quảng Trị về phía nam 3 kilômét. Kể từ ngày đó anh cũng ít được về thăm gia đình hơn. Tuy vậy, cuối năm 1970 anh chị lại có thêm một thằng cu nữa. thằng cu này còn xinh hơn cả thằng anh. Môi nó đỏ chót, nước da trắng trẻo, khác hẳn màu da của ba, mẹ và thằng anh. Mỗi lần được về vui mừng bao nhiêu thì lúc đi anh lại bùi ngùi luyến tiếc mà ngắm vợ và hai cu con, . . . ba bức tranh tuyệt đẹp, máu thịt, của riêng anh.
Anh được tạt qua nhà vào ngày Tết Nguyên Đán Nhâm Tý (1972). Nghe nói, quân đội điều động lực lượng để chuẩn bị đối phó với đối phương sắp đánh lớn. Quân khu 1 VNCH căng lên như dây đàn. Đây được coi như tuyến đầu đối mặt trực tiếp với đối phương ở phía Bắc. Phòng tuyến này ví như một tuyến đê ngăn chặn thắc lũ từ phía Bắc. Lính tráng bị cấm trại. Nhiều lực lượng được điều động bổ xung cho Quảng Trị và Thừa Thiên, ban đầu gồm có 2 sư đoàn bộ binh số 1 và số 3, liên đoàn dù biệt kích 81, liên đoàn đoàn biệt động quân số 1, hai lữ đoàn thủy quân lục chiến 147 và 258, các lực lượng địa phương quân cũng có tới một vạn lính. Đấy là chưa kể đến pháo binh, thiết kỵ, . . .
Lực lượng đông đảo như vậy, đi đâu cũng thấy lính. Nhiều lực lượng khác nhau chồng lấn lên nhau và lính tráng bắt đầu lợi dụng để làm càn. Tuy tình hình nhộn nhạo nhưng những người lính lại cảm thấy vững lòng lắm. Riêng anh thì khác, anh thấy lo lắng. Có đánh lớn, không biết sẽ ác liệt thế nào, vận mạng của miềng có cách chi mà bảo toàn được. Anh đi lính như một điều bắt buộc chứ không có ý tưởng gì chống cộng. Anh chỉ thích cuộc đời lính thời bình. Nó như là một trò trơi ngông nghênh và thú vị. Bây giờ phải làm sao đây ? Trong đầu anh bắt đầu nung nấu một kế hoạch.
Ngày 30/3/1972, quân giải phóng bắt đầu bắn pháo và vượt qua khu vực DMZ. Chiến dịch xuân hè 1972 đã mở màn. Rất nhiều sách báo đã nói về các trận chiến ác liệt giằng co ở các chiến địa Quảng Trị năm đó. Từng ngày từng giờ liên tiếp tin các căn cứ quân sự Dốc Miếu, Cồn Tiên, Đầu Mầu, Fuller, Carroll, . . . bị mất vào tay Quân Giải Phóng. Ngay từ ngày 2/4 cả Đông Hà, Cam Lộ và suốt đường 9 đã bị mất. Ở Carroll, trung tá Phạm Văn Đính, trung đoàn trưởng và trung tá Vĩnh Phong, trung đoàn phó trung đoàn 56 sư đoàn 3 đã dẫn 1500 quân ra đầu hàng mà không hề kháng cự.
Trời ạ ! Sao mà mất quá nhanh như vậy ? Tinh thần lính tráng bắt đầu hoang mang dao động. Chết thì anh đâu có ngán, nhưng mà anh không muốn chết. Anh cũng chỉ là một hạt cát trên cái xa mạc chiến địa khổng lồ này. Anh chết thì có ý nghĩa gì đâu vì nó sẽ tan biến như muôn hạt cát khác vào lòng đất. Miềng phải sống chứ, miềng phải sống để trở về ! Anh nhớ hai thằng cu quá. Chúng nó không thể mất ba được.
Rồi cơ hội đã đến. Khi Quân Giải Phóng tấn công căn cứ Phượng Hoàng (Pedro) và Ái Tử thì pháo cấp tập bắn vào khu vực thị xã Quảng Trị và phía sau Quảng Trị. Lợi dụng lúc pháo bắn rát rạt, anh chĩa khẩu M16, để nấc bắn phát một, đầu nòng súng cách bàn chân chừng 20 phân.
Đòm . . . ! . . . Mũi giày lủng một lỗ, ngón chân cái của anh vỡ tung. Anh nghiến răng, tháo giày, bọc vết thương bằng miếng gạc cầm máu và băng cả bàn chân lại. Sau khi pháo ngớt, anh được đưa về phía sau cùng với những người bị thương khác.
Làng Quất Xá thật là nhộn nhịp. Nhà nhà lục tục kiếm vải may cờ giải phóng. Mấy cái máy may trong làng suốt ngày chỉ may cờ. Có người muốn nhanh thì khâu cờ bằng tay. Kích cỡ và hình dáng ngôi sao chỉ ang áng, thành ra có đủ các kiểu, sao béo, sao gầy, sao to, sao nhỏ. Ủy ban xã lâm thời đang tìm trụ sở và rộn rịch chuẩn bị ra mắt. Vui nhất là đội du kích thôn. Các cô cậu du kích chạy khắp làng vận động bà con chuẩn bị biểu tình ủng hộ chính quyền cách mạng, vận động các thanh niên gia nhập du kích quân để bảo vệ xóm làng và giúp đỡ bộ đội chiến đấu. Thật đúng là ngày hội.
Làng Quất Xá cũng có một số người chạy vào phía trong, nhưng những gia đình đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Mà những gia đình đó, phần lớn người già vẫn còn ở lại. Có người thực sự sợ bị Giải Phóng trả thù vì gia đình có nhiều người đi lính, hoặc là sỹ quan. Tuy nhiên, chủ yếu người ta sợ bom pháo của Quốc Gia sẽ dội vào làng. Đặc biệt có một hai nhà thực sự ghét Giải Phóng. Những ngày đó, họ đóng cửa, âm thầm ở trong nhà nghe ngóng. Khi du kích đến vận động tham gia phong trào, họ lấy lý do này khác để không tham gia. . . . Cuộc chiến làm li tán lòng người trong một cộng đồng làng xóm – quê hương là điều không tránh khỏi !
Chị cũng rất vui nhưng trong lòng cũng quặn thắt nỗi lo cho anh. Hòn tên mũi đạn nào có mắt để tránh ai được. Cứ đêm đến nhìn mẹ chồng thảng thốt thở dài và bố chồng đã ít nói càng ít nói hơn, bất giác chị đưa tay chùi hai hàng nước mắt. Hai thằng cu đã ngủ ngon lành từ lúc nào. Chị thương chúng quá. Nói dại, bom pháo của Quốc gia, bất cứ lúc nào cũng có thể dội lên nóc nhà của chị. Chị không dám nghĩ thêm nữa. Rồi bỗng chị đứng phắt dạy, chị chạy sang nhà chú xã đội. Vừa vào đến nhà, chẳng kịp chào hỏi, chị đã hoảng hốt nói:
- Chừ không cho bà con mần hầm, mai mốt pháo nó bắn thì chú mần cách chi ?
- Ừa ! Mi nói trúng rứa, vầy mà tau không nghĩ ra. Chừ ri, mi đi kêu mấy đứa báo bà con, mai cả thôn miềng mần
hầm. Tau nói bộ đội họ bày cách mần hầm tránh bom cho bà con hề.
- Thui, tui chào chú tui đi !
Những ngày đầu giải phóng, làng xóm chộn rộn việc may cờ, biểu tình mít tinh rồi làm hầm, . . . dần dần đã lắng xuống. Mỗi nhà bây giờ đã có hầm tránh bom, có nhà còn làm hai hầm để phân tán gia đình làm hai, đề phòng bom trúng hầm này thì còn hầm kia. Cuộc sống đã trở lại bình thường. Năm nay nhà chị vừa mần ló, trồng củ và gieo đậu phộng. Việc đồng bận suốt ngày, từ sáng đến tối mịt. Tất cả chỉ trông vào chị và cha chồng. Từ ngày liên lạc với anh bị đứt, anh không còn hỗ trợ được đồng nào. Tuy vậy, nhà chồng chị nhiều ruộng nên cuộc sống vẫn tạm ổm. Vả lại, đất ở quanh làng còn nhiều lắm. Nếu nhà nào cần thì cũng có thể khai khẩn thêm đất hoang, chỉ lo không có đủ sức mà làm thôi.
Đội du kích thôn thường xuyên sinh hoạt vào buổi tối. Họ tập hát các bài hát cách mạng, nghe phổ biến tình hình chiến sự trên cả nước. Hàng đêm du kích phân công nhau canh gác bảo vệ làng xóm. Súng đạn rất thiếu, cả đội chỉ có vài khẩu súng cạc bin, một khẩu AR15 lượm được. Trên có trang bị thêm vài khẩu CKC chứ không có một khẩu AK nào. Đội du kích phân nhau ra mà tập xạ kích ở bãi trúc đào ven sông Cam Lộ, phía sau làng.
Ba tháng sau ngày giải phóng, làng Quất Xá đột nhiên trở nên đông vui vì có bộ đội về đóng quân. Đó là một bộ phận của d24 quân y và một cái kho lương thực - thực phẩm của c20 trinh sát sư đoàn 325. Đội du kích đặc biệt vui vì có những đêm sinh hoạt "kết nghĩa" với bộ đội. Bộ đội toàn là những thanh niên trai tráng. Họ sống vui vẻ và chan hòa cùng với các gia đình. Họ chuyện trò với người già, chơi đùa với trẻ con. Họ sắn tay vào củng cố đắp dày thêm các căn hầm bằng bao cát và làm thêm các hầm mới. Họ sẵn sàng giúp đỡ các việc nặng nhọc của gia đình. Họ gọi người già là cha mẹ, xưng eeng út với đám thanh niên. Từ lúc nào họ thật sự đã như các người thân trong gia đình. Xóm làng trở nên ấm cúng và vững chãi lạ thường. Tuy vậy, ai đó cũng thấy lo lắng hơn vì bộ đội ở trong làng, Quốc Gia sẽ đem bom đạn đến mà dội trên đầu.
Ban ngày vất vả ngoài đồng, rồi cơm nước cho cả nhà, buổi tối lại sinh hoạt đội, thế mà sức gái đang xoan cứ phăng phăng. Chỉ có về đêm chị mới thấy buồn và lo lắng. Phía thành phố Quảng Trị ngày đêm ùng oàng, không lúc nào ngớt. Không biết anh có còn ở đó hay . . . . Chị không dám nghĩ tiếp nữa mà cảm thấy hoang mang, bồn chồn và sợ hãi. Người lính cũng có lúc phải lo lắng và sợ hãi vì bom đạn nhưng cũng chỉ là thoảng qua. Cũng có lúc họ nhớ gia đình vợ con nhưng chỉ là thỉnh thoảng. Chỉ có những người mẹ và những người vợ, không lúc nào là không khắc khoải xót xa, tê tái, chờ trông. Đêm đêm, không biết bao nhiêu khúc ruột đàn bà thổn thức, quặn thắt, không biết biết bao nhiêu nước mắt đàn bà chảy dài, đêm đêm . . .
Được đưa về quân y viện ở tuyến sau như ý muốn nên tuy có đau chân một chút nhưng anh rất hài lòng. Anh biết gia đình anh đang ở trong vùng giải phóng, sẽ không có chuyện gì đáng lo. Cả ba mẹ và vợ anh đều gắn bó với Việt Cộng. Những cán bộ Việt Cộng ở xã anh thì ai cũng biết gia đình anh. Vì thế anh cảm thấy thanh thản và nhẹ nhõm hơn lúc nào hết.
Nhưng sự đời nào có ai ngờ. Khi anh về quân y viện hôm trước thì hôm sau đã có thư gởi tới viện. Lá thư tố cáo anh đã tự thương chứ không phải bị thương do chiến đấu. Tội tự thương còn tệ hơn tội đào ngũ vì nó là gánh nặng cho quân đội. Thêm nữa, người ta cũng không thể sử dụng làm lao công đào binh đối với lính đã bị tàn tật. Vậy là trong khi cấp cứu, chạy chữa cho các quân nhân bị thương khác, người ta bỏ mặc anh, không hề khám, cũng không hề cho một viên thuốc kháng sinh nào. Ngược lại, anh còn bị giám sát rất kỹ bởi mấy tay bảo vệ của viện, bởi muôn vàn ánh mắt các đồng ngũ khác ở xung quanh. Không ai thèm hỏi chuyện anh, hễ có phải đi qua chỗ anh là họ ngoảnh mặt đi, có người còn nhổ nước miếng. Một vài ánh mắt tỏ ra đồng cảm với anh, thì, những người đó cũng chẳng dám biểu lộ ra.
Quá nhiều lính bị thương. Rất nhiều ca nặng. Các quân y sỹ phải liên tục làm việc quần quật suốt ngày. Họ chẳng có lý do gì mà phải chạy chữa cho anh mặc dù lương tâm thày thuốc có đôi lúc làm cho họ cảm thấy áy náy. Chiến trận đuổi theo cái quân y viện này ngày càng gần. Quân y viện buộc phải chuyển sâu về Huế.
Vài ngày sau, vết thương của anh bị sưng tấy vì nhiễm trùng. Anh nghiến răng chịu đựng, không kêu la một lời. Một mình anh phải tự di chuyển, không được ai giúp đỡ và động viên an ủi. Anh không thể ngờ được số phận lại có ngày mạt kiếp, đen tối như thế này. Chợt anh nhớ ra, có lần thằng Đáng đang quấy phá dân ở ngã ba Long Hưng thì gặp anh. Nó đã bị anh quát nạt bắt dừng lại và xin lỗi dân. Từ đó nó rất căm thù anh. Chắc hẳn đây là cơ hội tốt nhất để nó trả mối hận. Không biết nó có nhìn thấy anh tự bắn vào chân hay nó cứ tố cáo bừa. Thằng khốn nạn đó, cầu cho pháo nó dập lên đầu mày !
Anh bị nhiễm trùng nặng, toàn bộ chân trái của anh sưng tấy, trương lên như cây chuối hột. Người anh sốt nóng hầm hập rồi lại sốt rét run cầm cập. Vẫn không ai đoái hoài đến anh. Chắc hẳn chúng nó muốn anh chết luôn đi cho rảnh. Trong cơn mê sảng anh nghe láng máng ai đó nói:
- Thưa trung tá bác sỹ. Trung tá cứu cậu ấy không có cậu ấy chết mất.
Rồi anh thấy mọi vật quay cuồng trên đầu, mờ mờ, ảo ảo, hai thằng cu, rồi vợ và cha mẹ anh ẩn ẩn, hiện hiện phía sau lưng chúng. Anh thấy mình cứ bay lên cao mãi. Ồ ! anh đang ở trên đỉnh cái Fuller đây mà. Cái chân đột nhiên đau quá, anh co chân lại, thì, mất thăng bằng và trượt từ trên đỉnh núi xuống. Anh rơi ngày càng nhanh. Bãi trúc đào nơi bờ sông Cam Lộ với hững hòn đá tảng nhấp nhô bên bờ nước, từ phía dưới đang tiến vùn vụt trước mặt anh. Chỉ một giây nữa thôi là anh sẽ đập xuống bãi đá. Rầm . . . ! Bừng tỉnh dậy, anh thấy mình vừa ngã từ trên giường xuống đất. Thì ra một thương binh nằm chung giường đã đẩy anh, chạm phải cái chân đau, rồi anh rơi xuống đất.
Ba tuần sau ngày bị thương, cái chân của anh đã hoại tử, ăn lên đến ống chân. Anh không còn cảm giác gì nơi bàn chân nữa mà chỉ thấy cái đau ngày càng dữ dội và lan tỏa khắp nơi trong cơ thể. Anh không còn ý thức được về thời gian, anh cũng không nhớ mình đã ăn uống, vệ sinh như thế nào. Hễ có cơ hội là cơn sốt nung nấu lại ập đến và anh lại rơi vào mê sảng.
Anh thấy một quầng sáng chói lọi đang chao đảo trước mắt. Rồi anh thấy nhói đau ở cánh tay. Choàng tỉnh dậy anh thấy mình đang lơ lửng ở trên cao. Ánh đèn dọi vào mắt làm anh không mở mắt ra được. Anh không biết người ta đang chuẩn bị cưa chân anh. Anh thấy đau ở tay là do họ tiêm thuốc và gây mê cho anh. Hoại tử đã ăn mất cả bàn chân. Muốn cứu anh người ta phải tháo khớp và bỏ hẳn bàn chân đi. Các bác sỹ còn chuẩn bị phương án, nếu tháo bàn chân mà vẫn còn phần cơ xương bị hoại tử thì phải cắt khúc ở cao hơn. Đấy là về sau anh nghe bác sỹ nói và mọi người kể lại. Mọi người còn nói, nếu chỉ chậm một hai ngày nữa thì sẽ tử vong vì nhiễm trùng máu. Họ cũng bảo rằng anh có sức đề kháng tốt nếu không thì cũng đi rồi.
Khi anh tỉnh dậy vì cái chân đau rát như phải bỏng thì nhận thức cũng trở lại. Anh thấy mình nằm trên một mảnh chiếu trải dưới đất ở trong một ngôi nhà của một người dân nào đó. Quân y viện không còn chỗ cho lính bị thương. Họ phải trưng dụng các nhà dân xung quanh. Một số tình nguyện viên là các bà, các chị đang chăm sóc cho các thương binh. Đây đó tiếng kêu rên vì đau đớn. Mùi máu từ các vết thương, mùi thuốc sát trùng và mùi cồn iôt nồng nặc. Quang cảnh thật là hãi hùng và buồn thảm.
Không biết lúc mê sảng anh có kêu thét hay rên la gì không nhưng, lúc tỉnh thì anh nghiến răng chịu đựng không bao giờ bật ra tiếng. Lúc mới tới quân y viện anh đã một lần cầu xin bác sỹ chạy chữa cho anh nhưng các bác sỹ đã ngoảnh mặt đi. Từ đó anh nhất quyết không cà ràm thêm một lần nào nữa. Có lúc tỉnh táo anh đã tin rằng mình sẽ chết. Vậy mà bây giờ anh đã được chữa chạy. Anh nhìn xuống chân và biết rằng mình sẽ mãi mãi là người tàn phế. Sau này, chắc chắn, khi kêu tên anh người ta sẽ đính kèm một chữ . . . "cụt".
Khi vết thương đã đỡ nguy hiểm, anh được chuyển về phía sau trên chiếc xe tải cùng với nhiều thương binh khác. Cứ di chuyển dần dần như vậy, không rõ thế nào mà, sau vài tháng anh đã được chuyển tới Vũng Tàu (chuyện anh kể, người viết không nhớ là ở quân y viện hay trại nào ở Vũng Tàu)
Chuyện chàng lính biệt kích ngang tàng kể đã đến hồi kết. Tuy nhiên ta sẽ gặp lại anh sau ngày hòa bình, trong một cuộc sống khác.
Ngay từ trước khi quân Giải Phóng tiến đánh, trên bản đồ Quảng Trị, từ vùng bán sơn địa lên đến vùng rừng núi của đồng bào Vân Kiều, dưới mỗi tên làng lại kèm theo chú thích "Destroyed" (Đã bị hủy). Quốc Gia đã bắt dân rời bỏ làng và di chuyển tập trung về "khu vực an ninh". Mục đích chính là để tách dân khỏi Việt Cộng, không cho họ có chỗ dựa để hoạt động. Những vùng đó, Mỹ thoải mái thả bom và Quốc Gia tha hồ kích pháo. Xét cho cùng, việc làm đó chủ yếu để cản trở hoạt động của đối phương.
Những vùng mà Quốc Gia kiểm soát được thì làng xóm chưa bị động tới. Người dân vẫn được sống và làm ăn trong làng xóm và ruộng đồng của họ.
Kể từ ngày quân Giải Phóng đánh chiếm Quảng Trị thì bom B52 và pháo kích cũng bắt đầu dội lên những cánh rừng, các con đường và cả làng mạc nơi mà Mỹ và Quốc Gia nghi ngờ có đối phương đóng quân hay là đường hành quân và vận chuyển. Nhiều thôn làng vùng Nhan Biều, Ái Tử, La Vang, Tri Bưu, Như Lệ, Tích Tường, Chợ Sãi, Nại Cửu, Bích La, An Mô, An Lộng, An Tiêm, Đầu Kênh, Linh An, Long Quang, Lệ Xuyên . . . . liên tục bị oanh kích cho đến khi không còn một nóc nhà nào, không còn một cái cây nào nguyên vẹn. Chỉ trong một thời gian ngắn, bao nhiêu thôn làng thực sự "Destroyed" (Bị hủy diệt) vì bom pháo, không thể kịp mà cập nhật trên bản đồ.
Vậy mà cái làng Quất Xá trù phú này vẫn nguyên vẹn thì kể cũng lạ.
Rồi một ngày, khi bà con đang cơm nước buổi trưa thì chợt nghe từ xa ba tiếng súng. Ấy là tín hiệu báo động B52. Rồi lại ba tiếng súng nữa bắn lên ở ngay trong làng. Như mọi lần báo động khác, bà con lục tục kéo nhau xuống hầm. Không ai ngờ, lần này B52 trút thẳng bom lên đầu họ. Các căn hầm rung lên bần bật. Rồi đến các mảnh bom bổng, liệng vù vù như chong chóng, rơi lịch bịch trên đất, leng pheng vào mái tôn cùng với đất đá ầm ào rơi loảng xoảng trên đó, khói bụi mù mịt. Cả ba loạt bom đều trúng vào làng.
Rất may, cả nhà chị đã kịp xuống hầm và không bị trúng bom. Hai thằng cu sợ hãi, khóc ré lên. Thằng lớn ôm chặtt cổ bà nó còn thằng bé thì túm chặt lấy chị và rúc sâu vào lòng. Chúng vừa khóc vừa ho sặc sụa vì hơi bom. Bố chồng chị ở gần cửa hầm nhất. Ông nhảy khỏi hầm đầu tiên.
Một cảnh tan hoang chưa từng thấy. Cây cối trong vườn lẫn với đất đai, cây que và những mảnh tôn ngổn ngang khắp nơi. Trái nhà bên tay mặt đã bay mất, phần còn lại của ngôi nhà bị đổ siêu về một phía . Mái nhà tốc gần hết chỉ còn vài tấm tôn. Một tấm tôn thõng xuống, vẫn đang đung đưa.
Ông già chưa cho mọi người lên khỏi hầm nhưng chị đã bỏ thằng bé xuống cho bà nó và lao ra. Chị tất tả chạy qua đống đổ nát, bươn sang các nhà khác, vừa hay nhìn thấy bộ đội và mấy du kích khác cũng đang bổ đi tìm kiếm các hầm bị vùi lấp . .
Xã và du kích hết sức động viên các gia đình đi sơ tán lại. Lại nói, trước đó, dân Quất xá đã được đưa đi sơ tán ở Quảng Bình từ đầu tháng 4/1972. Ở Quảng bình, họ nghe ngóng tình hình chiến sự Quảng Trị, thấy quân Giải Phóng đã tiến rất xa xuống tận Mỹ Chánh. Thế là lần lần, sau 3 tháng, hầu hết mọi người đã trở về Quất Xá. Bây giờ, sau trận bom, mặc dù du kích hứa sẽ canh gác bảo vệ nhà và tài sản cho dân nhưng rất ít người chịu đi sơ tán, phần lớn bà con ở lại làng, sửa lại hầm và nhà cửa và tiếp tục sống, chấp nhận nguy cơ có thể bị đánh bom. Họ không muốn rời bỏ làng và ngôi nhà thân yêu đã gắn bó nhiều đời nay một lần nữa.
Mấy hôm sau, khi việc chôn cất những người đã bị bom Mỹ giết hại vừa mới xong, một số bà con chuẩn bị đi sơ tán ra Quảng Bình.
Sáng hôm đó, ai đi sơ tán thì chuẩn bị đồ đạc để chiều tối sẽ lên đường. Những người ở lại thì bắt tay vào việc sửa hầm, . . . Bất ngờ một ánh chớp sáng chói, một tiếng nổ lớn, vang dậy đất trời, sau đó liên tiếp là những tiếng nổ lớn khác. Bấy giờ mọi người mới ngơ ngác nhận ra là đang bị máy bay cường kích bổ nhào thả bom vào làng. Những tiếng kêu thất thanh, tiếng chân chạy hỗn loạn lao về các hầm trú ẩn, . . .
Khi cả nhà đã ở trong hầm, chị vẫn nghe những tiếng nổ lớn khác. Sau khi ngừng tiếng bom, chừng vài chục giây gì đó, lại nghe thấy những tiếng nổ nhỏ lụp bụp kèm theo là "tóe lọe" tiếng như bắp rang trên các mái nhà.
Trời ạ ! Chúng dùng bom tấn để đánh vào làng rồi lại rải bom bi kèm theo. Đây là một chiến thuật giết người "hiệu quả cao" và "hoàn hảo". Vậy mà nó được sử dụng để tấn công một ngôi làng trù phú và đông dân cư. Thật là táng đởm – kinh hoàng, . . . !
Khi chị lên khỏi hầm và chạy ra phía sau nhà để sang hàng xóm thì chị thấy cả một khoảng trống rất xa. Hai ngôi nhà phía sau đã bay mất, ở giữa hai ngôi nhà là cái hố bom, trông như một cái ao cạn, hình phễu, to và sâu hoắm. Nhìn cảnh tượng đó, chị bỗng bủn rủn hết người và khuỵu xuống. Chị cảm thấy mắt hoa lên, trời đất chao đảo, . . . . Chị run quá, không thở được nữa, . . . Không ý thức được thời gian đã trôi đi bao nhiêu lâu nữa, chị cứ rũ ra như vậy cho đến khi cha chồng đỡ chị để đưa vào nhà thì chị chợt bừng tỉnh. Chị thở hắt ra một tiếng rất mạnh rồi hồng hộc thở như người vừa chạy maratông về đích. Chị nói: "Cha để con đi cứu người !" mà không nói được thành lời, chỉ là những tiếng lập bập của môi và răng.
Tiên sư bố chúng nó ! Tổ cha cái chiến thuật hiệu quả cao và hoàn hảo – một chiến thuật mất hết nhân tính !
Tên tuổi những người dân bị chết thảm không phải ai cũng nhớ hết, nhất là trẻ con vì chúng còn quá nhỏ. Có gia đình, bom đánh trúng hầm, chết cả mẹ và ba đứa con nhỏ. Có người bị chết vì bom bi ngay lúc đó, có người chết vì bom bi nổ sau đó nhiều ngày. Mãi tận tháng 11/1972, thằng Thìn tiểu đội tôi còn bị thương vì bom bi ở Quất xá. Tôi chỉ hỏi được tên một số bà con bị chết vì bom:
1. Phạm Công Xê
2. Lê Thị Đỉu
3. Lê Thị Liên
4. Nguyễn Khung
5. Lê Thị Giao
6. Phạm Thị Con
7. Nguyễn Thị Xoa
8. Hoàng Vấn
9. Nguyễn Thị Hương
10. Trần Bối
11. Nguyễn Thị Chậm
12. Nguyễn Thị Mang
13. Phạm Văn Phóng
14. Trần Xuân Trường (Cán bộ xã)
15. Trần Xuân Thạc (Du kích xã)
16. Nguyễn Thị Thược + 3 con nhỏ
. . . . . .
Khi kể lại chuyện này, nhiều người dân vẫn cảm thấy sợ hãi và không cầm được nước mắt. Danh sách bà con bị chết sau mấy trận bom đó tôi cũng đã đưa vào "Chuyện XXIII Làng Quất Xá" trong topic này. Chuyện "Làng Quất xá" là nén tâm nhang thành kính, không nói thành lời. Xin kính cẩn nghiêng mình trước nỗi đau thương này!
Tôi đã trở lại thăm Quất Xá, sau 39 năm kể từ ngày đó.
Mặc dù Quốc Gia cực lực phản đối các chương mục trong bản hiệp định Pari, nhưng cuối cùng, ngày 27/1/1973, bốn bên tham gia hội nghị đều đã ký vào bản hiệp định. Ngày 28/1/1973 là ngày hiệp định có hiệu lực. Những ngày đó các báo và đài Sài Gòn liên tục đưa tin và các bài viết về việc rút quân đội Mỹ rồi việc sẽ có tổng tuyển cử ở Miền Nam Việt Nam. Những bài viết của chính quyền rất quyết liệt, nói về sự phản bội và bỏ rơi đồng minh của người Mỹ. Trong khi cuốn cờ rút quân đội khỏi Miền Nam, người Mỹ vẫn hứa sẽ tiếp tục viện trợ quân sự và cố vấn cho quân lực VNCH.
Những ngày này dân chúng Vũng Tàu rất chộn rộn. Họ sôi sục bàn nhau về các điểm trong 9 chương của hiệp định. Nhiều người Quốc Gia lo lắng cho tổng tuyển cử thì Việt Cộng sẽ thắng thế. Chính quyền ông Thiệu quá mất tín nhiệm vì tham nhũng và sách nhiễu dân chúng. Những người ghét Quốc Gia thì mở cờ trong bụng và hy vọng tổng tuyển cử sẽ chọn ra chính quyền mới, . . . Dù ủng hộ bên nào thì người dân đều cảm thấy sung sướng vì không còn chiến tranh. Con em của họ sẽ không phải đi vào chỗ chết. Đất Việt này sẽ thoát khỏi cuộc chiến "huynh đệ tương tàn, nồi da sáo thịt".
Vết thương của anh đã lành. Anh cảm thấy vui lắm vì dù thế nào anh cũng không bị bên nào ghét bỏ. Anh sẽ được về với hai thằng cu. Nghĩ đến người vợ xinh đẹp khỏe mạnh và hiền hậu anh thấy nhớ quá, mong quá. Không biết bao giờ mới tổng tuyển cử và được đi lại tự do ?
Cái ngày mong đợi đó chắc là không đến được. Anh thấy quân đội vẫn được viện trợ thêm nhiều vũ khí đạn dược. Các đơn vị đều được củng cố rồi điều động hành quân liên tục. Đụng độ giữa hai bên ngày càng nhiều hơn. Anh không còn tin tưởng vào việc thực hiện hiệp định nữa. Quốc Gia và Việt Cộng chắc chắn là sẽ quyết giành chiến thắng bằng quân sự chứ không có chuyện hòa bình. Vậy là ngày trở về không biết sẽ là bao giờ. Thật là nản quá.
Anh không còn bàn chân. Thay vào đó, để đi lại được, người ta phải gia cố thêm ở đoạn cuối và cố định vào đó một đoạn tre để anh có thể đi lại được. Lúc đầu, lấy thăng bằng chưa quen và rất đau nên anh phải nhờ đến nạng. Anh kiên trì tập luyện và dần dần bỏ hẳn nạng. Khi nào cần "lịch sự" anh sẽ mặc thêm vào đoạn tre một bàn chân giả, đi giầy hẳn hoi còn bình thường anh vẫn thấy thoải mái hơn khi không dùng chân giả.
Rồi anh gặp một người con gái. Cô ấy rất thương và yêu anh cho dù anh bị tàn phế. Cô gái thích anh ở cái tính ngang tàng, quyết liệt và dứt khoát. Còn anh thích cô gái ở sự hiền thục và dịu dàng. Chuyện lấy một phế binh bị gia đình cô gái phản đối nhưng không quá quyết liệt vì bấy giờ chuyện đó là chuyện bình thường. Nhưng mối tình của họ bị phản đối quyết liệt hơn vì anh đã có vợ và có hai con. Cuối cùng, bố mẹ cô đã phải chịu thua con gái.
Nhưng, vướng mắc nhất lại là từ phía người lính tàn phế. Anh vẫn yêu vợ con và không muốn có thêm một người vợ khác. Hơn nữa, gia đình cô gái lại là gia đình theo đạo. Mặc dù anh không phải là phật tử nhưng anh không muốn cải đạo, tín ngưỡng mà nhiều đời nay trong gia đình và cả dòng họ đã thờ dưỡng.
Chiến tranh không biết sẽ kéo dài đến bao giờ, bên cạnh anh lại luôn luôn có một người con gái rất yêu và thương anh làm cái sức trai ba mươi, hừng hực tuổi xuân trong anh cứ thôi thúc. Rồi một ngày đầu năm 1975, khi cô gái báo cho anh biết . . . nàng đã có thai, thì, anh không còn cưỡng lại được mình nữa. Anh cũng không thể bỏ rơi cô gái mà bỏ chạy được. Hôn lễ của họ được cử hành trong nhà thờ đúng theo nghi lễ cưới xin của hai người có đạo. Ở bên người vợ trẻ anh cảm thấy rất hạnh phúc. Sự dịu dàng và đằm thắm của cô đem lại cho anh những cảm xúc mới lạ. Anh không ngờ đời một phế nhân lại được chúa ban cho nhiều đến thế. Chúa đã cho anh một người vợ xinh đẹp, mạnh mẽ và hai đứa con trai đẹp như hai thiên thần. Giờ đây, Người lại ban cho anh một người vợ khác và những đứa con khác nữa. Anh tạ ơn chúa lòng lành, Amen !
Ngừng bắn rồi thì vài ngày sau Đơn Vị Hai Mươi Trinh Sát lần lần tập trung về làng Quất Xá. Họ trẻ hơn chị đôi chút. Dân Bắc có khác, trắng trẻo, đẹp trai phới phới. Bộ đội thì chị cũng không lạ gì nhưng lần này họ về đông. Có bốn năm chú ở nhờ nhà chị. Hàng ngày họ vào rừng lấy gỗ, lên đồi cắt tranh rồi đưa ra cái trảng đất sau làng, sát bờ sông để làm doanh trại. Mấy hôm đầu về đây chú nào chú nấy nom gày guộc và nhem nhuốc bụi đất chiến hào. Vậy mà chỉ vài ngày sau nom họ đã có da có thịt. Ban đêm khi chị đi họp du kích về thì họ đã ngủ. Ánh đèn dầu đung đưa trên cơ thể cường tráng của những thằng con trai, lòng chị cảm thấy xốn xang. Chị nhớ anh quá. Chị thèm đêm đêm có anh ở bên cạnh. Vậy mà anh chị vẫn chia cắt đôi nơi, hai người hai ngả. Mỗi khi đêm về lòng chị cứ thót lại, . . . liệu anh có còn sống ? Có lẽ nào Trời lại bắt mẹ con chị trở thành mẹ góa con côi ? Sao ngừng bắn rồi mà không cho phép hai bên gởi thư cho nhau. Giá mà chị nhận được thư anh, . . . dù chỉ một dòng thôi ! Giá mà có ai đó nhắn cho chị tin tức về anh, . . . dù chỉ một lời thôi !
Ngừng bắn rồi, không còn phải nơm nớp lo máy bay hay pháo bắn vào làng. Hàng ngày chị vẫn ra đồng làm ló và cặm khoai. Những vồng khoai Quảng Trị rất lớn, đất nâu xẫm, bở tơi. Dây khoai Quảng trị, sức sống mãnh liệt đang đâm chồi nảy ngọn. Chẳng mấy chốc đã vươn phủ kín vồng đất. Chị trạnh nghĩ, phận mình cũng như vồng khoai này, mà sao chị lại lẻ loi và cô đơn đến thế.
Dù làm gì, thì chiều đến chị lại ra ruộng khoai. Chị bấm ngọn khoai mang về nấu canh mắm ruốc. Bao giờ chị cũng hái rất nhiều để có phần cho các chú bộ đội. Đọt khoai bị ngắt, ứa nhựa trắng, thấm đẫm cả tay chị. Những cây khoai bừng bừng sức sống . . .
Sau khi tắm cho hai thằng cu và nấu cơm xong thì cũng vừa lúc bữa cơm chiều của lính. Bao giờ chị cũng bưng một tô canh lớn rau lang - mắm ruốc cho đám lính. Đây là cái tiểu đội 2 của TichTuongNhuLe. Cả tiểu đội ngồi ăn cơm giữa sân, có cả hai thằng cu con nhà chị. Chị đặt tô canh xuống và bao giờ cũng chỉ buông đúng một từ: "Keeng . . . !". Cho đến bây giờ, mỗi lần lính a2 gặp nhau thỉnh thoảng vẫn nhắc lại cái từ "Keeng" đó. Mọi người đều rất nhớ chị.
Chị ra sông tắm thì đã muộn, Nỗi buồn lại bắt đầu ập đến. Khi chị về đến nhà để ăn cơm với cha mẹ chồng thì trời đã tối. Trong ánh vàng và nhập nhòa của đèn dầu, ba người ngồi ăn trong lặng lẽ . . . .
Xê Hai Mươi về Quất xá chẳng được bao lâu thì họ đã di chuyển cả đơn vị đi chỗ khác, chỉ còn lại kho lương thực với hai lính canh giữ. Rồi đến lượt Dê hai Bốn Quân Y cũng chuyển đi nốt. Thôn làng dường như xơ xác vắng vẻ lạ thường. Bây giờ một số ít bà con sơ tán còn lại ở Quảng Bình mới lục tục kéo về, nhưng một số bà con khác từ vùng Đông Hà ở nhờ Quất Xá trong những ngày ác liệt lại rời đi.
Không có bộ đội, gia đình chị buồn hẳn. May mà có hai thằng cu con nghịch ngợm suốt ngày khiến ông bà phải để mắt trông chừng và ngắm nhìn chúng. Chúng là nguồn vui và là niềm an ủi cho ông bà và cho chị.
Ba năm trôi qua kể từ ngày anh đảo qua nhà trong dịp tết rồi đi biệt tăm biệt tích thì chiến tranh đã kết thúc. Hòa đình đã được vãn hồi trên mọi miền đất. Những người lính từ hai phía, lần lượt, người đã trở về, người đã mang cả gia đình ra đi vào phía nam, bộ đội giải phóng cũng đã được về phép thăm nhà. Những người lính Quốc Gia đang trong thời gian học tập thì cũng đã có thư từ liên lạc qua lại với người thân. Vậy mà sao, riêng anh, vẫn bằn bặt tin tức ?
Cả cái làng này chỉ có mình anh sung lính biệt kích rồi chuyển qua biệt động. Ba mẹ và chị không biết một ai cùng đơn vị anh để hỏi thăm. Nhiều gia đình hạnh phúc trong đoàn tụ thì ba mẹ và chị càng cảm thấy buồn và hết hy vọng. Bà con trong làng ai cũng động viên rằng :"Rồi anh ấy sẽ về" nhưng họ đều nghĩ chắc là anh đã chết ở đâu đó trong những ngày ác liệt ở Quảng Trị.
Lại nói, sau ngày 30/4, theo thông báo của Ủy Ban Quân Quản thành phố Vũng Tàu, anh đã nhanh chóng ra trình diện tại Ủy Ban phường nơi anh đang ở cùng ba má vợ và người vợ mới, con thơ. Sau đó vài tháng anh được triệu tập đi học. Bản tự khai thì anh đã làm tỉ mỉ, chi tiết khi ra trình diện, thế mà ở nơi tập trung để học tập họ còn bắt anh khai lại hai lần nữa. Chắc là họ muốn kiểm tra xem anh có khai báo chính xác không. Đành rằng học tập để cho những người lính Quốc Gia nhận ra sự tốt đẹp của chế độ mới và hiểu thấu đáo cuộc kháng chiến chống Mỹ của Dân Tộc nhưng anh vẫn chắc mẩm trong lòng rằng trong thời gian đó, họ sẽ điều tra về anh. Họ sẽ biết anh không phải sỹ quan, cũng không là ác ôn hay Việt gian, rồi họ sẽ thả anh sớm thôi.
Sau vài tháng thì anh được về lại gia đình thật, đúng vào dịp Tết Nguyên Đán bảy sáu. Tuy nhiên, có một điều mà anh cứ băn khoăn và day dứt mãi, không dứt khoát được để báo tin cho ba mẹ và chị ở nhà. Anh không ngờ cuộc chiến lại kết thúc chóng vánh đến như vậy. Tưởng rằng sự chia cắt lại tiếp tục dài lâu như từ thời năm năm tư đến giờ. Giá mà anh biết trước thế này thì anh đã chả lấy thêm vợ. Anh không ân hận gì về người vợ mới nhưng rất day dứt. Thật là "tiến thoái lưỡng nan". Vốn tính ngang tàng và dứt khoát, vậy mà sao việc này mãi anh cũng không thể quyết được. Anh đã không ngờ rằng sự im lặng của anh đã làm tổn thọ cha mẹ và làm cho vợ đau khổ đến mức nào. Điều này thì mãi sau này, khi gặp lại gia đình ở Quất Xá, anh mới hiểu và ân hận.
Chị không tiếc sức làm lụng và lao vào công tác xã hội. Bây giờ chị không còn quanh quẩn ở thôn nữa mà còn tham gia công tác ở xã. Chị phải họp hành nhiều hơn, có hôm đi họp cả ngày, có hôm phải họp, tối khuya mới về. Không có xe đạp nên chị phải đi bộ mất vài cây số. Cũng may, những lần họp ban đêm đều có vài ba người cùng thôn nên cũng đỡ buồn và đỡ sợ. Cái sợ không đâu của một người đàn bà khi đi một mình trong đêm tối.
Không có tin tức gì về người con trai, nỗi buồn đè nặng lên cả gia đình ông bà. Giá mà biết chắc là anh đã tử trận như thế nào thì đã đi một nhẽ. Có thể an ủi rằng, phận anh cũng như bao người lính khác ở cả hai phía, chết oan nghiệt vì chiến tranh. Mà, trông vào hai đứa trẻ anh để lại thì nỗi đau sẽ nguôi ngoai dần. Ông bà và chị nghĩ đến anh với bao hình ảnh tưởng tượng về cái chết. Anh bị trúng đạn, chết ngay tại trận, anh bị thương trong đau đớn, bị bỏ rơi nơi trận tiền và chết vì mất máu và kiệt sức, . . . . Rồi hình ảnh anh còn trẻ nghịch ngợm, đánh nhau với lũ trẻ trong làng, mặt lấm lem bùn đất, đang la hét và cười nói, . . . . Mỗi hình ảnh tưởng tượng về anh hay hình ảnh từ quá khứ hiện về đều thấm đẫm nước mắt của người mẹ và người vợ trẻ, làm thắt ruột người cha với những tiếng thở dài đêm đêm.
Ông bà buồn bã và yếu đi trông thấy. Toàn bộ công việc dường như dồn hết lên đôi vai của chị. Không thể dừng lại, không thể ngồi ôm nỗi đau mất chồng, chị lao vào làm việc như điên như dại, nhắm mắt vào mà làm như đang say trong cơn du mộng.
Nỗi buồn của chị cũng được bạn bè và các cán bộ ở xã chia sẻ và động viên. Có người ái ngại, có người thông cảm, an ủi và giúp đỡ chị trong công việc. Nhưng, cũng có người nhìn thấy chị là người đàn bà đẹp, không chồng, đang cô đơn.
Chuyện ấy xảy ra vào một đêm trăng sáng trước ngày rằm tháng tám. Tan buổi họp xã, chị tất tả bước đi trên con đường đất liên xã để mau chóng về nhà với hai đứa con. Hôm nay cùng đi với chị chỉ có một anh cán bộ xã ở cùng thôn.
- Út à ! Đi từ từ chút. Đêm nay trăng sáng đẹp quá nờ !
- Dạ !
Trăng đang lên, sáng vằng vặc. Hai bóng người đen xẫm đổ xuống phía trước, nghiêng trên mặt đường bàng bạc. Cánh đồng lúa đang thì con gái nghiêng ngả trong gió và tỏa mùi thơm của sữa. Phía xa xa là thôn Quất Xá, xẫm màu cây cối với những hàng tre đang đung đưa. Xa hơn nữa là mờ mờ dãy rừng rú Động Hà. Gió lùa trong tóc chị, rối bời, làm cho thỉnh thoảng chị phải đưa tay sửa lại. Hai người đi trong im lặng, rồi bất chợt tay xã nói:
- Tui thấy út vất vả quá, tui thương lắm !
Chị chưa kịp phản ứng gì thì đã thấy một bàn tay rắn chắc nắm chặt bàn tay chị.
- Eeng mần chi rứa ! bỏ tui ra . . . .
. . . .
Sức chống cự mãnh liệt của một người đàn bà cũng không làm sao thoát khỏi được một con mãnh thú đang cơn.
Vụ án hiếp dâm được đưa ra xét xử vài tháng sau đó tại huyện Cam Lộ. Mặc dù án được giảm nhẹ đối với người có công, tay xã vẫn phải lĩnh án ba năm tù giam.
Anh sẽ phải ân hận và hối tiếc. Giá như anh trở về ngay sau ngày hòa bình thì ba mẹ đâu có đau yếu nhanh như vậy. Giá mà anh trở về thì chị đâu có vất vả như vậy. Giá mà có anh thì liệu có ai dám động đến chị. Là năm bảy bảy rồi mà anh vân chưa tin tức gì về nhà. Vợ anh lại sinh thêm một bé gái nữa. Anh đã bỏ mặc ba mẹ, bỏ mặc chị với hai đứa con trai mà vui thú với gia đình mới, lấn bấn không biết nên giải quyết thế nào.
Chính ba má vợ anh ở Vũng Tàu lại là người khuyên nhủ anh trở về với gia đình ở Quảng Trị. Là người có đạo, họ không thể đồng ý cho anh vợ nọ, con kia. Họ cũng không muốn vì con gái và cháu ngoại của mình mà cướp đi tấm chồng và người cha của những đứa trẻ khác. Anh thì nói với ba má vợ cho anh ở lại đến ngày đứa con gái bé cứng cáp lên một chút. Trong khi đó ba má vợ anh tìm cách thuyết phục con gái. Cô cũng là người có đạo, lại được chính cha mẹ ruột khuyên bảo lời hơn lẽ thiệt mà giới răn thứ bảy trong mười giới răn của Chúa đã dạy. Trong đó, không thể có chuyện một người đàn ông cùng lúc có hai người vợ.
Khi đứa con gái nhỏ đầy hai tuổi thì đã là bốn năm sau ngày 30 tháng tư. Cô cứ dứt khoát đòi theo anh để biết quê hương chồng và gặp mặt người vợ cả. Cô cảm thấy không yên lòng để chồng dứt áo ra đi khi mà cô chưa được đối mặt với chị. Gửi hai đứa nhỏ cho ông bà ngoại, vợ chồng anh khăn gói lên đường.
Khỏi nói ngày đoàn tụ của anh với gia đình. Cả ba và mẹ anh đều ôm chầm lấy anh mà chửi, mà mắng mỏ:
- Cha tổ mi ! Răng mi về nhà tau mần chi ? Răng mi tệ bạc rứa ? Mi nỏ còn cha mè nữa mô mà về !
- Mi bỏ cha mè mi, giỏi thiệt đó ! Mà mi bỏ hai thằng con mi cho nó côi cút, cù bơ cù bất . . . Tao nỏ trộ ai gan tày Trời, tày Đất như mi rứa !
Bao nhiêu nước mắt rơi trong ngày trở về, mẹ anh, ba anh và cả anh nữa. Hai người vợ của anh cũng đầm đìa nước mắt. Họ lóng nga lóng ngóng đứng ngay cạnh đó mà không ai dám cử động chi hết. Chỉ có hai thằng cu là không hiểu chuyện gì. Chúng cũng không thể nhận ra anh, khi anh ra đi năm bảy hai thì chúng còn quá nhỏ.
Sau vài tiếng đồng hồ thì câu chuyện chia cắt của anh với gia đình mới dần dần sáng tỏ trong những tiếng thở dài của ba mẹ và tiếng nấc của hai người vợ.
Chợt giật mình nhớ đến phải cơm nước cho cả nhà, chị lật đật ra vườn lùa bắt gà, rồi tất tả chạy sang hàng xóm mượn xe đạp để đi chợ ngoài thị trấn.
Hai người vợ lo chuẩn bị cơm dưới bếp. Chắc hẳn là hai chị em đã chuyện trò và đã khóc với nhau nhiều lắm. Mắt của họ đều sưng húp . . . .
Được vài ngày thì anh lại lên đường để đưa người vợ hai trở về Vũng Tàu. Hai thằng cu đã quen cách gọi anh và cô. Chúng nhất loạt khoanh tay:
- Coong chào ba ! Coong chào gì !
Anh và cô trở lại Vũng Tàu. Lúc này tư tưởng cô đã hoàn toàn không còn vướng mắc gì. Vấn đề còn lại chỉ là tình cảm quyến luyến và nỗi lo lắng về con cái. Tuy nhiên, cuối cùng một lễ của nhà thờ cho phép tháo gỡ sợi dây hôn phối giữa hai người. Đây là cách vận dụng một trong ba trường hợp mà Hội Thánh có quyền gỡ bỏ hôn nhân. Trường hợp của anh và cô được xem như "cuộc hôn nhân vốn đã không thành sự ngay từ đầu, vì mắc phải một hoặc nhiều ngăn trở". Những luật đạo vốn chặt chẽ nhưng cũng phải linh hoạt vận dụng trên mảnh đất có lắm tai ương, nghiệt ngã của chiến tranh.
Anh cũng có phần yên tâm vì hôn nhân đã được gỡ bỏ thì sau này, cô hoàn toàn có quyền lấy một người khác. Điều này hoàn toàn khác với trường hợp Hội Thánh chỉ cho phép li thân, thì, sau đó hai người li thân không được phép lấy người khác.
Cuộc chia tay của anh với cô và các con cũng đầy nước mắt và day dứt. Hai người hứa sẽ giữ liên lạc và quan tâm đến nhau.
Mấy năm sau, ở Vũng Tàu, cô gặp được người đàn ông thương cô, thông cảm với hoàn cảnh của cô. Hai người đã làm lễ cưới. Các đứa con của hai người và con riêng của chị sống chung trong một mái nhà và được người bố dạy dỗ, chăm sóc như nhau. Một người đàn ông độ lượng và thật tốt.
Anh trở về Quảng Trị sống cùng ba mẹ, vợ và hai thằng cu vào năm 1981. Hai năm sau, anh chị có thêm một đứa con gái.
Năm 18 tuổi, thằng cu lớn bị bênh nan y. Cả gia đình dồn hết tiền nong và chạy các bệnh viện để chữa cho con mà nó không qua khỏi.
Tôi trở lại thăm Quất Xá sau 39 năm. Khi vào đến sân nhà anh chị, tôi ngơ ngác nhìn cảnh vật để cố nhận ra nếp nhà xưa. Cảnh vật đã có nhiều thay đổi. Ngôi nhà đã được làm lại, nhỏ hơn trước đôi chút. Lối đi vẫn được trổ thẳng từ phía trước vào nhưng lệch về bên phải thay vì lệch về bên trái như trước kia. Giàn trầu xanh biếc và vườn cây rợp bóng không còn được như xưa.
Một người đàn bà mặc quần áo đen từ trong nhà bước ra đón khách. Tôi nhận ra ngay đó là chị, vẫn vóc dáng ấy, vẫn khuôn mặt ấy, vẫn nét cười ngày nào. Khi hai chị em đang chào hỏi nhau, tôi nhìn thấy một người đàn ông đang lúi húi cho gà, cho lợn ăn ở cái nhà ngang bên cạnh. Đó là anh.
Ông bà đã mất, anh chị ở với vợ chồng cô con gái. Vợ chồng nó đi làm xa, tối mới về, ở nhà chỉ có anh chị và đứa cháu ngoại. Vợ chồng đứa con trai và các cháu nội anh chị làm ăn xa và sống ở thành phố. Suốt buổi, anh chị thay nhau kể chuyện về cái làng Quất Xá, về cuộc đời vất vả, nhiều "sự cố" của hai người. Trong lúc chờ chị cơm nước, anh lấy xe máy chở tôi ra bờ sông Cam Lộ. Bờ sông um tùm những vạt trúc đào ngày nào bây giờ xơ xác, toàn sỏi đá. Người ta khai thác cát và đổ đất đá phế thải ngồn ngang cả một quãng sông. Trúc đào xưa như một rừng cây cao gấp đôi đầu người, giờ đây chỉ còn lác đác những bụi cây non, cao ngang thắt lưng. Dân làng đã chặt hạ trúc đào để làm củi và đã nhiều lần đốt cháy các vạt cây ven sông. Anh cũng đưa tôi ra tận hạ nguồn suối La La, nơi nó đổ vào sông Cam Lộ. Tôi còn được anh chở đi một vòng, thăm cánh đồng của Quất Xá. Mọi người bỏ làng đi làm ăn xa, nên nhiều đám ruộng đã bị bỏ hoang từ lâu.
Chúng tôi đứng giữa đồng trống mà nhìn ra dòng sông và nhìn về Động Hà, nơi có điểm cao 544, căn cứ pháo binh có từ thời Mỹ năm sáu bảy. Anh chỉ tay lên đỉnh núi:
- Phu – Lơ tề ! (Fuller)
- Vâng !
Anh chị chỉ cho tôi chụp hình khi hai người đã thay quần áo mới.
Chuyện XXIX HÒN VƯỢN
Nỗi buồn khi về nhà
Cuối 1974
Khi tôi luồn sâu xuống xã Hải Phú, Hải Lăng về đến Xê Hai Mươi ở sông Ái Tử thì giật mình vì đại đội tôi vắng hoe. Một nửa đại đội đã bị chuyển đi đơn vị khác. Nghe nói sắp nhận lính mới bổ sung về. Về đến nhà riêng của tiểu đội còn buồn hơn vì tiểu đội tôi bây giờ chỉ có mỗi mình Vương Lâm. Nó là a phó a1 chuyển sang khi tôi đi vắng. Anh em cũ trong tiểu đội tôi bị chuyển đi hết. Lâm nói:
- Tiểu đội 2 của ông bị chuyển đi hết. Đại đội biên chế lại. Bây giờ tôi về tiểu đội 2. Tiểu đội bây giờ chỉ có hai thằng ông mới tôi thôi.
- Chúng nó bị chuyển đi đâu thế ?
- Thằng Cam sang c26, thằng Thìn sang vận tải, thằng Sự đi bộ binh 101. Nhiều nhất là về 101, còn đi đâu nữa thì tôi không biết.
- Lúc nãy tôi ở trên đại đội thấy mấy ông mới quá.
- Ừ ! Ông Nhạ ở trinh sát 101 về làm đại trưởng, ông Thanh mới học ở ngoài Bắc vào làm chính trị viên, ông Triêm cũng mới ở
trường ra về làm đại phó. Còn mỗi ông Ánh là cũ thôi.
- Không biết lão nào mà ngu thế ? Sắp đánh nhau đến nơi lại đi thay quân. Thế này thì làm ăn đ'. . . gì !
- Cả xê, thằng nào cũng chán.
- Ngu thật đấy ! Đểu thật đấy. Sống với nhau từ bảy hai đến giờ thế mà lại đẩy bọn nó đi. Chả có tình nghĩa chó gì . . .!
- Thì ở trên người ta biết đâu.
- Đ' . . . phải đâu. Ở trên thì biết thằng nào với thằng nào. Cái này là do thằng ở đại mình nó đưa danh sách lên chứ. Tôi
nghĩ ra rồi, trước khi nó đi khỏi đại mình để phát triển lên đoàn lên điếc, thì nó cũng đẩy hết những đứa nó không ưa đi
chứ sao. Quá đểu ! Không thể chấp nhận được.
- Là tôi nói ở trên cho nó qua chuyện chứ tôi cũng nghĩ như ông đấy.
Tôi cảm thấy bực dọc, buồn bã và bất lực. Tôi nhớ chúng nó quá. Giá mà chúng nó chuyển ra bắc để đi học thì đã mừng, đằng này lại chuyển đi đơn vị khác, lại cũng là chỉ trong sư đoàn chứ có phải vì nhiệm vụ gì đâu. Cứ cho là lão máu lạnh đi, thì cũng phải biết, chúng nó toàn là những thằng dày dạn bom đạn từ năm 72, hai năm nay huấn luyện rất nhiều về nghiệp vụ. . . mà sao lại đẩy đi. Quá ngu. . .! Đại đểu . . .!
Giai đoạn này không thấy tập tành gì. Cán bộ thì mới, lính tráng thì ít mà lại còn đang phân tán khắp nơi. Xê viên mới cũng muốn thay đổi không khí nên thường xuống từng nhà để nắm tình hình và động viên lính. Cách động viên lính của anh ấy là kể chuyện tiếu lâm và tự nói xấu mình để gây cười. Rồi anh ấy cười trước, rất nhạt. Khi cười cái hàm rậm râu đưa ra phía trước và khoe bộ răng có một chiếc răng viền vàng loe lóe. Một tiếng cười không có một chút vô tư nào cả.
Không biết đứa nào mách mà lúc xuống tiểu đội tôi, xê viên bảo tôi lên xê bộ viết và vẽ cho mấy cái pa-nô:
- Cậu viết chữ đẹp lại vẽ giỏi lên giúp mình tí nhé !
- Em bị hỏng tay rồi anh ạ ! Tay bây giờ run lắm, không viết được. Mà thằng Khang liên lạc của anh nó viết và
vẽ đẹp hơn nhiều anh ạ.
Tôi nói thế làm cho xê viên không biết nói thế nào nữa và có vẻ như cảm thấy hơi bẽ. Anh ấy vội lảng qua chuyện khác.
Sáng sớm hôm sau ngày về nhà, tôi cuộn các tài liệu của chuyến luồn sâu và lên ban trinh sát (ban 2) để báo cáo. Không còn nhớ ai đi cùng với tôi. Hai đứa ăn sáng xong thì lội qua sông Ái Tử rồi đi bộ theo đường mòn, qua hàng loạt các quả đồi. Chúng tôi đi trong lặng lẽ, chẳng ai buồn nói chuyện. Gặp con đường tăng chạy từ lộ một đi căn cứ Phượng Hoàng (Petro), chúng tôi đi theo đường tăng một đoạn thì rẽ xuống phía sông Vĩnh Phước. Đó là khu vực của sư đoàn bộ sư đoàn 325.
Sư đoàn đóng dọc theo hai bờ sông. Tư lệnh và các phòng hầu hết ở bờ nam sông. Một số phòng ban ở bờ bắc cùng với mấy đơn vị trực thuộc. Riêng ban hai lại nằm độc lập sát chân đồi. Ban 2 ở trong một nhà và tiểu đội trinh sát kỹ thuật a12 ở một nhà ngay cạnh đó, chũng tôi vẫn gọi chung là ban 2. Do vậy ban 2 là ban duy nhất của sư đoàn bộ có một tiểu đội lính. Anh em từ c20 lên ban 2 làm công việc xong thường vào chơi với anh em a12. Tôi nhớ có lần tôi ở ban 2 khá lâu để làm bản đồ cho ban và cho phòng tham mưu. Hồi đó, tôi còn trèo lên đài trinh sát kỹ thuật của a12 để xem họ nghe trộm thông tin của địch như thế nào. Tôi còn tò mò hỏi xem muốn sử dụng bảng tra mã thì xoay cái bìa ra làm sao. Đài nằm trên cao điểm 58, cao nhất khu vực này. Gần đó còn có một đài quan sát của c20, đặt trên cao điểm 54.
Khi tôi nộp hồ sơ cho ban 2 thì nhận thấy không khí trên ban có vẻ bận rộn khác thường. Trong khi đó, thái độ của "bọ" Luyến không vồ vập với các tài liệu mà chúng tôi mang về. Bọ cũng không hỏi han gì về khu vực mà chúng tôi đã trinh sát và có cái vẻ rất thờ ơ :
- Các cậu có muốn ăn ở đây thì bảo thằng Quận nó sang ban 5 báo cơm, mà muốn về thì về.
- Chúng em về thôi thủ trưởng ạ !
Chúng tôi chào bọ Luyến rồi nhảy sang nhà a12 chào hỏi, nói chuyện một lúc rồi ra về. Trên đường về, hai thằng "tham mưu con" bắt đầu bàn tán:
- Tài liệu luồn sâu lần này không dùng đến rồi. Chắc chắn sắp tới mình sẽ chưa hoặc sẽ không đánh nhau ở
Quảng Trị đâu.
- Tôi thì nghĩ vẫn sắp đánh nhau vì thấy các bọ có vẻ bận và căng thẳng phết. Chắc vẫn đánh ở Quảng Trị
nhưng đánh ở miền Đông chứ không đánh ở miền tây, có khi đánh hiệp đồng binh chủng, chính qui hiện đại,
dùng xe tăng đánh thẳng dưới đồng bằng.
- Nhưng có thấy đại mình trinh sát gì ở miền đông đâu ?
- Ừ ! Hay là sư mình sắp di chuyển để đánh ở phía trong cũng nên.
Chuyện "tham mưu con" của chúng tôi thường diễn ra như thế nhưng cũng chỉ là bàn tán giữa hai ba đứa với nhau, chứ không nói rộng chuyện ra với người khác. Ai biết chuyện đâu, bỏ đó. Đó là nguyên tắc bí mật, nếu không sẽ bị "sạc" chết.
Bố tôi vào thăm c20
Trên đường từ ban 2 về đơn vị, bất chợt thằng bạn hỏi tôi:
- Này, ông già ông vẫn ở trong này à ?
- Đợt trước, bố tôi vào đây chắc khoảng một tháng rồi lại ra Hà Nội, còn bây giờ thì tôi không biết.
- Thế ông viết thư thế nào mà ông già lại tìm được đơn vị mình thế ?
- Tôi viết thư thì cũng chỉ nói là ở Quảng Trị thôi. Lúc bố tôi vào đến đại mình thì tôi cũng bất ngờ. Mà, tôi cũng chả
hỏi tại sao ông tìm được địa chỉ sư mình. Chuyện đó với bố tôi dễ ấy mà. Chắc là ông hỏi bạn bè về sư 325, người ta
cho địa chỉ. Ông vào sư đoàn, chắc hỏi thăm con ở trinh sát sư. Lúc đó có thằng . . . (bây giờ tôi không nhớ tên) xê
mình đang ở ban 2. Nó lên xe dẫn bố tôi về. Xe để bên này sông. Ông già tôi vào ban chỉ huy đại đội, rồi thằng Khang
liên lạc gọi tôi lên đại đội. Lên đó tôi mới gặp cụ đấy chứ.
Nhớ lại, cách đây nửa năm, bố tôi đi công tác phía trong. Trên đường đi ông có rẽ vào c20 để thăm tôi ở Nại Cửu. Khi tôi lên ban chỉ huy đại đội thì xững người vì thấy người ngồi trước mặt lại là bố. Đang lúng túng không biết làm thế nào thì bố đã đứng lên và ôm tôi, bên trái, bên phải, rồi lại bên trái, giống như thủ tục ngoại giao mà tôi đã xem ảnh khi bố tiếp khách nước ngoài, chỉ khác là bố tôi ôm chặt chứ không phải hờ hờ như đối với khách. Mấy cán bộ đại đội thì hỏi bố:
- Thủ trưởng ở đây chơi với Như Lệ, chúng em mời thủ trưởng ăn cơm lính !
- Cảm ơn các đồng chí ! tôi chỉ tạt qua thăm cháu. Thấy nó rắn giỏi quá, thế này là công của các đồng chí nhiều lắm.
- Thủ trưởng cứ yên tâm. Như Lệ là tiểu đội trưởng cứng của đại đội chúng em đấy ạ ! Mấy khi cha con nhà lính lại gặp
nhau ở chiến trường thế này. Thủ trưởng ở lại chơi với Như Lệ và với chúng em vài ngày.
- Thôi, xin phép các đồng chí. Tôi đang phải đi công tác vào phía trong, chỉ ghé qua một lúc thôi.
- Chúng em cũng xin phép. Thủ trưởng cứ tự nhiên nói chuyện với Như Lệ đi.
- Gặp cháu thế này là tốt rồi. Có lẽ tôi cũng phải đi rồi. Có ít trà và thuốc gọi là quà của hậu phương biếu các đồng chí
để nhớ hương vị của quê hương. Thôi chào các đồng chí.
Tôi dẫn bố về nhà của tiểu đội thì thấy anh em tiểu đội tôi và các tiểu đội khác đang tụ tập để chờ hai bố con. Bố tôi và mọi người nói chuyện rất vui vẻ. Bố tôi hỏi đủ thứ chuyện của đơn vị còn mọi người thì tranh nhau trả lời. Ai cũng gọi bố là bố và xưng con.
- Bố ăn cơm với chúng con nha. Chúng con có cơm đại táo bố ạ.
- Thằng nào chạy xuống bếp bảo anh Thắng Quản xin một mâm cơm khách đặc biệt đê.
Bố tôi cười vui lắm, bố xua tay, rồi nói:
- Bây giờ bố phải đi rồi, chúng bay thương nhau thế này là bố yên tâm rồi. Bao giờ chúng bay về Hà Nội bố sẽ mời cơm đại
táo của nhà bố. Nhớ đấy nhá ! Đây, quà của mẹ. Bà ấy gửi những gì thế này không biết ? Thôi bố chúc các con mạnh khỏe,
chiến đấu giỏi. Mà đừng có đứa nào hy sinh đấy nha.
- Vâng !
Mọi người tiễn đến bờ sông, có hai thằng đi cạnh bố khi lội sông. Khi bố qua sông rồi, mọi người còn vẫy theo mãi. Qua sông được một đoạn thì hai thằng cũng chào bố mà quay trở lại. Mọi người muốn để bố con tôi được nói chuyện riêng mà.
- Bố à, bố gần sáu mươi rồi. Bố cứ đi suốt thế này con chỉ lo sức khỏe của bố thôi, nhất là cái bệnh ruột và bệnh gan.
- Không sao, lúc nào mà mẹ chả chuẩn bị đủ thuốc cho bố rồi.
- Đợt này bố đi có lâu không ạ ?
- Bố vào trong kia xong thì rẽ sang Lào, rồi vòng về đường Con Cuông, chắc phải mất một tháng.
- Mẹ và chúng nó ở nhà thế nào ạ !
- Mẹ thì vẫn thế. Được cái bà ấy chịu khó uống thuốc nam lắm nên bệnh tật cũng ổn định. Bây giờ bọn trẻ về Hà Nội rồi,
không phải sơ tán nữa nên chúng nó cũng khỏe cả, con cứ yên tâm. Mà bố thấy con gày mà đen quá !
- Vâng, nhưng con rất khỏe, chẳng ốm đau bao giờ, mà con ăn khỏe lắm, chả bao giờ biết no.
- Bố anh ! Anh giống cái thằng bố anh hồi trẻ đấy !
Ra đến chỗ chiếc xe đang chờ thì bố con tôi chia tay nhau. Bố ôm tôi ba lần, rất chặt.
- Con về đi, nhớ giữ gìn sức khỏe.
- Vâng ! Bố đi đường may mắn nha !
Bố tôi mở cửa bên phải chiếc xe. Tôi biết bố sẽ bước chân phải lên trước rồi đứng thẳng người trên cái bậc xe, sau đó mới cúi xuống để chui người vào xe, một động tác rất riêng của bố và rất quen đối với tôi.
Chiếc xe nổ máy, rồi vọt lên phía trước. Chiếc Commăngca biển đỏ cứ xa dần rồi khuất hẳn.
Sau khi chiếc xe mất hút bên kia đỉnh đồi, tôi tần ngần quay về. Con sông Ái Tử mùa này nước đã bắt đầu lành lạnh. Đoạn sông mà tôi lội qua khá hẹp, nước chảy mạnh. Đáy sông Ái Tử ở đoạn này có bùn và nước không thật trong lắm. Thỉnh thoảng mấy thằng tiểu đội tôi thường đi ngược lên phía trên đến đoạn nước sâu chảy lững lờ và xa đại đội rồi ục một cái, một trái M26 đã nổ âm dưới sông. Một lúc sau, chúng nó mang cá về, tuy không nhiều lắm nhưng cũng được một bữa cải thiện thoải mái. Thằng Hưởng tiểu đội tôi có cái trò đánh cá bằng lựu đạn nổ tức thì. Nó lấy lạt quấn nhiều vòng vào trái nổ rồi rút chốt và quẳng xuống sông. Chờ một lúc thì lạt tở ra hết, mỏ vịt mới bung ra. Lần nào tôi cũng cự nự nó, còn nó thì chỉ cười hì hì : "Nỏ can chi mô !". Thằng Hưởng đầu chải sóng rất điệu, nó bị ve bên mắt trái. Mỗi lần nó cười cái ve càng lộ rõ, còn đuôi mắt nó thì xòe ra một nắm rẻ quạt. Tiểu đội tôi, mỗi thằng một kiểu, mỗi đứa một tật. Thằng nào cũng có cái đáng yêu và đáng ghét riêng. Bây giờ không biết chúng nó dạt về những đơn vị nào. Chúng bỏ lại tôi trật lấc một mình. Thật là buồn !
Mấy hôm sau là ngày tết quân đội, cũng vẫn liên hoan ăn tươi. Cả đại đội tôi trong nhà ăn bây giờ trống vắng quá. Các trung đội gọi nhau mang cơm về nhà ăn chung cả trung đội cho đỡ buồn. Một tuần sau nữa là tết dương lịch. Anh Nhạ, đại trưởng mới, xuống các tiểu đội động viên và chúc tết mọi người. Một người chỉ huy gần gũi, thân mật và đậm chất lính.
Vào khoảng ngày 18/1/1975, chúng tôi được gọi lên đại đội để đi công tác. Yêu cầu cũng như những lần luồn sâu khác. Mỗi người chỉ mang một chiếc gùi nhỏ, quần áo tối thiểu, một khẩu báng gấp, hai băng đạn, hai trái mỏ vịt M26, chủ yếu là phải mang lương thực. Mỗi người chặt một bao tượng gạo, mấy kí lương khô, rồi đồ hộp, . . . Tôi thì có thêm mấy thứ bất li thân là ống nhòm, địa bàn, bản đồ giấy và bút vẽ. Đại đội cũng không phổ biến chúng tôi nhận nhiệm vụ gì. Sau khi kiểm tra song cho từng người, anh Nhạ mới giao cho tôi, sáng sớm hôm sau, dẫn phân đội lên ban 2 nhận nhiệm vụ. Thật lạ, lần này chúng tôi đi không có thông tin đi cùng.
Không nhận nhiệm vụ tại đây thì đây là nhiệm vụ bí mật rồi. Trinh sát sư đoàn đi chuẩn bị chiến dịch ở đâu thì rồi sư đoàn sẽ tác chiến ở đó. Hồi đó, dân ở Trà Liên Tây thỉnh thoảng vẫn lên chỗ chúng tôi chơi. Mà cũng không thể cấm dân vào chơi với bộ đội được. Đại đội và ban 2 đề phòng anh em rò rỉ tin tức cho dân và rất có thể lộ bí mật bằng con đường nào đó.
Sáng sớm, chúng tôi tập trung ở sân bóng rồi cuốc bộ lên sư đoàn. Trưởng ban 2 trực tiếp giao nhiệm vụ cho từng nhóm. Các nhóm sẽ phối thuộc với trinh sát của e95 để làm nhiệm vụ luồn sâu, trinh sát hai cứ điểm quan trọng ở phía bắc Huế là căn cứ Hòn Vượn và cứ điểm Núi Gió. Núi Gió có mấy đỉnh, trong đó có một đỉnh cao nhất và rất nhọn nên chúng tôi gọi là "Chóp Nón". Mỗi nhóm được phát bản đồ địa hình tỷ lệ 1:50000 vùng Hương Trà, sông Bồ. Đường đi từ đây tới đó khá xa nên việc đầu tiên là chọn đường hành quân trên bản đồ tỷ lệ nhỏ. Sau khi trao đổi kỹ trên bản đồ, tôi là người được giao tấm bản đồ này, một tấm bản đồ tỷ lệ 1:250000 được ghép từ 4 mảnh. Vậy là tôi giữ hai bản đồ, một bản đồ chi tiết vùng bắc Huế và một bản đồ để đi đường dùng chung cho cả phân đội.
Bản đồ chỉ là một phần, ngoài ra chúng tôi còn được dặn dò địa điểm tập kết chung với e95 và trinh sát mặt trận B5 tại cơ quan quận đội Hương Trà, lúc đó đang đóng tại thượng nguồn sông Bồ.
Hành quân từ Quảng Trị đến Huế
Sau khi nhận nhiệm vụ, phân đội trinh sát bắt đầu hành quân. Lúc đó khoảng 10 giờ sáng.Chúng tôi xác định ngày hôm nay sẽ hành quân tới thung lũng Ba Lòng thì sẽ dừng lại nghỉ.
Từ ban 2 ở Tân Vĩnh, chúng tôi trèo lên đường tăng. Đây là con đường tăng lớn chạy từ cầu lai Phước vào căn cứ Phượng Hoàng. Con dường này chạy qua chân cao điểm 58, nơi có a12 đặt đài thu tin điện đàm của địch. Chúng tôi cắt qua con đường này để đi động Ba Gơ. Đường đi toàn núi đồi đất đỏ nâu và cây xúp.
Mười hai giờ trưa mà chúng tôi vẫn chưa tới được chân núi Ba gơ. Mọi người nghỉ giải lao bên vạt cây cao quá đầu người và tranh thủ ăn lương khô. Vừa ăn, chúng tôi vừa xem lại bản đồ để chọn đường đi cho đỡ vất vả nhất. Chúng tôi chọn đường đi vòng qua núi Ba Gơ để đỡ phải leo. Vòng hết núi sẽ đến thung lũng Ba Lòng. Có lẽ chúng tôi sẽ chọn vị trí mà trên bản đồ ghi là thôn Thanh Trà để nghỉ lại. Không rõ Thung lũng Ba Lòng như thế nào, tôi chưa lần nào tới đó mà chỉ nghe bây giờ là thủ đô của lính. Đường vận tải Bắc Nam chở lương thực, vũ khí đạn dược cũng đi qua đây. Đây cũng là nơi tập trung đầu mối giao liên Bắc Nam Đông Tây. Không biết có tìm được nhà dân hay nhà lính để ở nhờ hay phải mắc võng nằm ngoài rừng ?
Dưới đây là đường chúng tôi hành quân xuất phát từ ban 2 sư đoàn ở sát sông Vĩnh Phước của Quảng Trị và sẽ tập kết tại sông Bồ của Huế. Trên bản đồ quãng đường này khoảng 90 cây, toàn đường rừng núi. Vì không phải vội nên chắc chúng tôi phải đi mất bốn ngày.
Vòng theo đường chân núi Ba Gơ, chúng tôi bắt gặp phía trước mặt là một dải rộng cây lúp xúp khá bằng phẳng. Xa xa thấp thoáng dòng nước xanh biếc. Đó là sông Ba Lòng và còn được gọi bằng một tên khác là Đakrông. Dòng này chính là đầu nguồn sông Thạch Hãn. Ngước lên một chút lại là rừng núi trùng điệp. Chếch về phía tay trái, Động Ông Đô đỏ trọc có vẻ thấp hơn nhiều so với khi chúng tôi ở đồng bằng nhìn lên. Thẳng mặt chúng tôi là dãy núi khá cao, trên đó có đỉnh 367 hiện thời đang do địch chiếm giữ. Nhìn chếch về bên trái là đại ngàn của Trường Sơn với Động Ba Lê sừng sững và rất dốc chắn ngang trước mặt.
Chúng tôi đi sát đến bờ sông, ai nấy đều lội ào xuống, vục vào dòng nước trong mát mà vốc từng vốc nước lớn tấp lên mặt, lên đầu, rồi nhúng cả mũ tai bèo xuống sông, thật là sung sướng hả hê. Nhớ lại, hai lần trước khi chúng tôi xuất phát từ Ái Tử để vào sông Nhùng, chúng tôi đã lội qua sông ở khúc dưới, cách đây khá xa. Hai lần đó, chúng tôi đều đi theo con đường giao cắt với con đường tăng chạy từ đầu cầu Quảng Trị, qua Tích Tường, Như Lệ, Đá đứng. Sau khi vượt qua giao cắt, chúng tôi vượt lên đồi theo đường qua Khe Trai, nơi mà ta và địch hay có đụng độ, nổ súng vào nhau nên đến đó chúng tôi phải đi rất khẩn trương với đội hình rất xa nhau, coi như vượt qua một chỗ hiểm nghèo.
Lần này khe Trai khuất sau một dãy núi. Trên đó là chốt của ta nên chúng tôi hoàn toàn yên tâm thoải mái mà đi thong dong trên bờ sông và đùa nghịch với nước. Mọi người chọn được một bãi rất đẹp để nghỉ chân bên dòng nước trong xanh.
Đoạn đầu nguồn Thạch Hãn này thật là đẹp. Dòng nước trong xanh uốn lượn quanh các triền núi, lúc ẩn lúc hiện. Nhìn về xuôi, thấy bầu trời bàng bạc sáng, nơi ấy là Vùng đồng bằng, có Thành Cổ Quảng Trị sát ven sông, có làng Trà Liên cây cối tốt tươi mướt mát, một vùng đất chở nặng phù sa trong những ngày tháng tám. Nhìn về phía tây, là ngút ngàn rừng núi trùng điệp đang bắt nắng hung hung. Chỗ này hơi khuất, nên chúng tôi chưa nhìn thấy thung lũng Ba Lòng.
Chúng tôi tiếp tục hành quân. Chừng hơn cây số thì thung lũng Ba Lòng bỗng hiện ra trước mắt. Một cái thung lũng khá rộng và trù phú với nhiều sông suối đổ xuống từ các triền núi xung quanh. Tất cả các làng xóm, chủ yếu của người Vân Kiều, trên bản đồ lúc đó đều có ghi chú "Destroyed" hoặc "Abandoned" (đã bị phá hủy, đã bị hủy bỏ). Nhưng mới chỉ hai năm sau ngừng bắn, dân Vân Kiều đã trở về. Họ đã dựng lại những nếp nhà sàn đơn sơ quen thộc. Lác đác xen lẫn trong bản làng, đây đó cũng có nhà được làm sát đất như nhà của người Kinh để đỡ tốn công sức hơn và vì cũng lâu nay vùng này không còn thú dữ.
Đi thêm vài cây số nữa, chúng tôi gặp đường 15N, rồi theo đường vượt ngầm qua sông. Toán trinh sát tìm đến cái làng mà trên bản đồ ghi là Sa Vẻ và xin ở nhờ dân trong hai chiếc nhà sàn gần nhau. Chuyện bộ đội hành quân qua đây xin ở nhờ chắc đã quá quen thuộc nên dân nhanh chóng chỉ chỗ nghỉ cho lính với thái độ bình thản không ra nhiệt tình cũng chẳng phải thờ ơ. Những người dân, kể cả trẻ con đều nói được tiếng Kinh tuy có hơi lơ lớ một chút.
Căn nhà sàn thật là đơn sơ. Bếp lửa đặt ngay giữa nhà, hơi lùi về phía sau, trên một tấm tôn có lót đất. Mấy cây củi gộc vẫn đang cháy âm ỉ và ngún khói. Quần áo vắt túm tụm trên một cái dây thành một đống ở góc nhà. Sát sau nhà, phía gần bếp lửa, những túm ngô, những túm lúa và vài túm thuốc lá được vắt trên những cái sào. Góc nhà còn lại, người ta treo nhiều thứ dụng cụ gì đó trông rất đơn sơ, tôi không biết họ dùng để làm gì. Nhà của người Vân Kiều nhỏ hơn nhà sàn của các dân tộc ở phía bắc và cũng đơn sơ hơn. Nhà sàn cũng khá thấp, chỉ vài bậc thang từ mặt đất là đã lên đến mặt sàn. Xung quanh nhà tạm thời thưng bằng phên tre nứa gì đó. Nếu có điều kiện lâu dài, có thể người ta thưng bằng gỗ tấm. Tôi chưa thấy nhà sàn nào của người Vân Kiều làm kỹ, phần nhiều cột gỗ đẽo sơ sài, ván thưng để mộc và xong queo nên không thể thưng kín xung quanh. Điiều này chắc là do ở Quảng Trị không bị rét như ở phía bắc. Về sau này tôi mới biết thêm dân tộc Vân Kiều còn có tên gọi khác là người Bru, người Mang Coong, người Trì hay người Khùa. Người Vân Kiều, kể cả đàn ông, đàn bà và trẻ con đều ở trần, đàn ông thì đóng khố còn đàn bà thì mặc môt chiếc váy. Váy của người Vân Kiều cũng có hoa văn chạy thành các băng ngang nhưng tôi thường gặp họ mặc váy đen. Có thể do chiến tranh ác liệt, đời sống quá khó khăn nên dân không có điều kiện để làm đẹp.
Ba mươi sáu năm rồi, tôi chỉ còn nhớ rất ít về cái nhà người Vân Kiều mà chúng tôi ở nhờ. Trong nhà không thấy có thanh niên, chỉ có hai vợ chồng tuổi khoảng năm mươi với mấy đứa trẻ trông rất lam lũ. Chúng tôi cũng nấu cơm và cho bọn trẻ mỗi đứa một bát. Ông già lườm mấy đứa bé nhưng chúng tôi đã làm cho ông cảm thấy thoải mái và đồng ý cho trẻ con ăn với bộ đội cho vui. Gia đình ông bà cũng có hai đứa con trai lớn và đã cho đi bộ đội ở tỉnh rồi.
Cơm nước xong thì trời đã xế chiều. Mặt trời đã khuất sau núi nhưng ráng trời tây rất đỏ. Giá như ở đồng bằng bắc bộ thì "vàng gió, đỏ mưa", nhưng ở Quảng Trị, tôi thấy hầu như trời chiều trên núi bao giờ cũng đỏ như thế này. Đứng ở đây khuất núi chúng tôi không nhìn được về phía đồng bằng mà nhìn xuống cái chiều buông trên thung lũng đã bắt đầu dần trở nên xẫm màu. Chiều núi Quảng Trị không lạnh và cũng không có sương bay bảng lảng trên các sườn núi. Hơi nóng từ núi và từ rừng vẫn tỏa ra hầm hập. Nếu hôm nào đó mà chiều đến mây đen dựng đứng ở phía tây thì có mưa rất to. Quảng Trị không bao giờ có một ngày mà sáng sớm mù sương, ban ngày trời nắng, chiều đến thì sương buông và se se lạnh. Cái oi bức của buổi chiều và chập tối ở núi rừng Quảng Trị thật là khó chịu.
Chúng tôi dậy nấu cơm từ rất sớm, vừa để ăn, vừa để nắm mang theo. Khi chúng tôi chào gia đình chủ nhà để lên đường cũng là lúc sương sớm dìu dịu, ánh nắng đã hắt qua đỉnh núi nơi chúng tôi đứng xuống lưng chừng thung lũng. Một buổi sáng đẹp trời. Hôm nay trời không mưa nhưng sẽ nắng rất to và nóng phải biết. Tiếng chim buổi sớm ríu rít khắp nơi. Buổi sớm trong rừng, lũ chim không bao giờ đi kiếm ăn ngay mà bao giờ cũng biểu diễn đủ các thứ giọng, hàng tiếng đồng hồ. Rồi, một lúc sau, tiếng hú gọi nhau của đám vượn cũng vang lên vọng đi vọng lại trên núi nghe rất tưng bừng, rồn rã.
Chúng tôi đi theo đường 15N, đây là con đường đất chạy qua đầu nguồn sông Nhùng, đầu nguồn sông Mỹ Chánh, thượng nguồn ngọn Ô Lâu rồi tới Rào Trăng là thượng nguồn sông Bồ. Đường đi của chúng tôi có đoạn gần cao điểm 367. Ở đây um tùm cây cối của rừng già. Nắng đã lên, phảng phất trong không gian là hương rừng âm ẩm, ngai ngái:
- Có phong lan chúng mày ạ !
- Ừ, thơm quá ! không biết ở đâu í nhỉ ?
- Gần đến sông Nhùng rồi. Lúc bọn tôi ở sông Nhùng, cũng hay ra khu vực đường này để kiếm phong lan. Lão Tất y tá là khoái phong lan nhất, rồi đến lão Dân, rồi đến thằng Công. Lão Tất trèo cây ác phết, thế mà nhiều lúc cũng đành chịu.
Cái giống phong lan sao cứ tìm những chỗ cành cây khô lắt lẻo mà đậu. Phàm những chỗ như vậy, phong lan lại ra hoa rất nhiều, rất đẹp và rất thơm.
Đến đúng chỗ đầu đường rẽ vào cứ của chúng tôi ở sông Nhùng thì chúng tôi ngồi nghỉ lại. Đây là một đoạn đường chạy dọc theo suối, nước chỉ xâm xấp. Cây cối um tùm trên đầu, chỉ có vài đốm nắng lọt được xuống mặt nước, loang loáng.
Khoảng 9 giờ sáng ngày 22/1/1975, chúng tôi đến Rào Trăng đầu nguồn sông Bồ. Chúng tôi bỏ con đường ô tô và rẽ xuống men theo rào. Từ xa chúng tôi đã nghe tiếng nước chảy rì rào, có vẻ như có một cái thác nhỏ ở phía trước. Hôm nay trời rất đẹp, nắng vàng óng ả xuyên xuống suối và thảm cây. Dường như không khí trong suốt làm cho tiếng thác đổ nghe cũng trong veo. Một dòng nước trong vắt đang trườn trên các tảng đá rêu phong xanh rì. Nước chảy xuống, xoáy vòng qua các tảng đá nơi mà dưới đáy nhìn rõ những hòn sỏi nhỏ, đủ màu sắc, đang quay tròn cùng với đám bọt khí đang sủi tăm.
Bỗng dòng suối hẫng xuống một chiếc vịnh khá sâu, nước đổ thành một cái thác nhỏ. Dưới vịnh, nước trong xanh, xẫm màu đang lững lờ trôi dưới ánh nắng lấp lánh. Một cảnh tượng thật ngoạn mục.
Chúng tôi thật bất ngờ khi thấy mấy chú lính cởi trần trùng trục, người trên bờ, kẻ dưới nước đang vần các bao gạo ném xuống nước. Đây là những bao gạo Trung Quốc được đóng trong hai bao ni lông và hai bao gai mà chúng tôi rất quen thuộc. Thì ra họ đang vận tải gạo. Người ta thả trôi theo dòng nước và có người đón ở phía dưới. Không biết chỗ đó cách đây bao xa.
- Các anh vận tải kiểu này đỡ tốn bao nhiêu công sức, hay quá nhẩy !
- Bọn tôi phải vác suốt từ đường ô tô vào đây đới mấy anh ạ.
- Chuyển gạo xuống tận đâu đấy mấy anh ?
- Xuống tận cơ quan tỉnh đới.
- Cơ quan tỉnh mà toàn người bắc vậy à ?
Chúng tôi dừng lại nghỉ, nhận đồng hương, đồng khói và mấy đứa tranh thủ hút thuốc lào.
- Đây tính là sông Bồ rồi phải không ạ ?
- Ừ ! Tính từ đây cũng được mà tính ở phía trên kia cũng được.
Chúng tôi lội qua sông bồ, phía trên cái vịnh rồi chào các lính của tỉnh và đi tiếp suôi theo bờ sông phía bên phải. Đi được một đoạn thì thằng Tư hỏi:
- Ở sông Bồ toàn lính của tỉnh hả ?
- Không phải đâu. Họ nói thế cho qua chuyện để giữ bí mật đấy. Ven sông Bồ có cả các cơ quan của tỉnh Thừa thiên, có cả
của thành Huế và có cả của mặt trận B5. Trinh sát mặt trận cũng có một phân đội chuyên luồn sâu về đồng bằng và vào
thành Huế cùng với biệt động để nắm địch. Tôi nghe các cụ bảo ở đo đông vui phết đấy. Các cụ cũng chỉ nói chung chung
vậy thôi. Bọn mình sẽ gặp trinh sát mặt trận và họ sẽ dẫn chúng mình luồn sâu, mày không nhớ à ?
Chúng tôi cứ men sông mà đi theo một con đường mòn. Một con đường mòn nhẵn thín, chứng tỏ người đi lại qua đường này rất nhiều và thường xuyên. Có đoạn ven sông gập ghềnh quá còn có cả sàn đạo ngắn, bằng gỗ, có đoạn phải vòng xa bờ khá dài. Đi chừng vài cây số thì chúng tôi nhìn thấy ở bên phải sông hiện ra rất nhiều nhà cảu các cơ quan và bộ đội. Xung quanh các ngôi nhà đều trồng rất nhiều rau và sắn, thạm chí còn có vài vạt mía.
- Giữa rừng núi thế này mà đàng hoàng quá nhỉ ?
- Ờ, lính thời bình mà lị !
Chúng tôi vừa đi vừa hỏi thăm đường đến nhà của trinh sát mặt trận. Đến nơi mới thấy nhà của trinh sát làm hơi nhỏ nhưng gọn và sạch sẽ. Họ chỉ có vài người ở nhà, những anh em khác đang đi công tác xuống đồng bằng.
Sau khi giới thiệu và chào hỏi nhau. Mấy anh trinh sát chia chúng tôi làm ba tốp. Một tốp ở tại chỗ, hai tốp dược gửi sang các nhà khác gần đấy. Từng nhóm chúng tôi đã được nhận nhiệm vụ từ trước tác ra về các nhà. Tư và tôi được chỉ lên một ngôi nhà nhỏ ở khá cao. Mấy cái nhà trên cao là nhà của bộ đội thuộc tỉnh đội Thừa Thiên. Đơn vị này toàn người Pa Kô. Tôi được dẫn đến giới thiệu xin ở nhờ thì mấy người lính Pa Kô chỉ gật đầu mà không nói gì. Mấy chú lính này chỉ mặc mỗi cái quần đùi và đi chân đất, trông nó cứ là lạ thế nào. . . .
Sau khi đặt gùi nghỉ ngơi một chút, chúng tôi xuống sông để tắm giặt. Ở trên cao này bất tiện quá, mỗi lần xuống sông phải đi khá xa. Nước sông mát rượi làm cho cái mệt nhọc của chặng hành quân dài dường như tan biến đi trong chốc lát.
Khi chúng tôi tắm giặt xong thì đã thấy mấy chú lính Pa Kô chuẩn bị ăn cơm trưa. Lính Pa Kô cũng nấu cơm và thức ăn bằng xong 8 và xong 6 như chúng tôi nhưng trông các các cái xong cáu bẩn chứ không được sạch như những cái xong của chúng tôi vẫn đèo sau gùi. Phơi quần áo xong, đã thấy mấy chú lính Pa Kô ngồi xổm xung quanh mấy cái xong đặt trên cái vạt sân nhỏ bên hông nhà và đang ăn. Thấy chúng tôi ra, họ cũng mời rất nhiệt tình nhưng chúng cảm ơn vì sẽ ăn cơm cùng anh em trong phân đội.
- Các anh có món gì trông lạ thế ?
- Sóc đó.
- Các anh bẫy được sóc à ?
- Mình có cái ná thun ni. – Nói rồi người lính móc từ cạp quần lôi ra chiếc súng cao su. Một cái chạc cây được đẽo tỉa khá
công phu, lại còn nạm thêm mấy cái vòng bằng đồng ở tay cầm.
- Anh bắn giỏi nhỉ ?
- Mình bắn ná giỏi ít thôi, thằng tê bắn ná giỏi nhiều tề. Hắn bắn đó.
chúng tôi xuống chỗ trinh sát mặt trận để ăn cơm chúng với anh em trong phân đội. Lúc đó tôi rất khỏe nên những lúc anh em nghỉ chặng giữa rừng, tôi thường chạy đi kiếm rau rừng để đến bữa có rau nấu ngay. Hôm nay, chúng tôi có hoa chuối xào thịt hộp, một ít rau tai voi và mấy cái tai chua nấu canh ruốc mặn. Thế là sang quá rồi. Ba anh trinh sat mặt trận cúng góp với chúng tôi ăn chung cho vui. Họ có canh rau cải, ngon quá là ngon . . . !
Lính Pa Kô
Ăn cơm xong Tư và tôi về lại nhà của lính Pa Kô. Chúng tôi lăn ra giường và ngủ ngay tức thì.
Quãng 3 giờ chiều tôi mới tỉnh dậy, thấy chỉ còn lại một mình. Nắng chiều đã xiên qua cửa sổ bên cạnh nhà, soi vào tận chỗ tôi nằm. Bước ra ngoài, tôi thấy Tư và hai người lính dân tộc đang lúi húi làm gì đó. Thì ra ba người đang lúi húi xung quanh chiếc xong tám . Chiếc xong đựng hai phần ba nước và đen đặc nòng nọc ếch trong đó.
- Các anh vớt con này để làm gì thế ?
- Để ăn đấy ông ạ. – Tư nhanh mồm trả lời.
- Ông Tư ăn món này bao giờ chưa ?
- Chưa.
- Món này chỉ mình biết ăn thôi, bộ đội Kinh không biết ăn mô. - Một chú lính nói.
- Các anh vớt ở đâu mà nhiều thế ?
- Mình vớt ở mấy hố bom nà.
- Chiều nay làm món này hà ?
- Mơi (mai) mình vớt nữa tề, được diều (nhiều) mới nấu chớ.
- Món này ngon không vậy ?
- Ngoong !
Nắng xiên khoai rất khó chịu, Tư và tôi liền bỏ vào nhà.
- Trông ghê quá ông ạ.
- Kinh ! Nhưng kể ra thì cũng do quen thôi mà. Thì người Kinh mình cũng ăn cào cào, châu chấu, rươi,
mắm tôm, mắm ruốc mùi ghê chết mà mình ăn lại kêu ngon.
- Ừ !
Một lúc sau thì hai chú lính cũng vào nhà và vui vẻ nói chuyện với chúng tôi. Tôi gọi là hai chú lính vì chắc chắn là họ còn rất ít tuổi, chỉ khoảng mười bảy, mười tám. Họ vẫn ở trần và đi chân đất.
- Các anh không mặc quần áo và đi dép à ?
- Mình không quen mô. Như ri quen rồi. Khi mô họp, khi mô đi đánh nhau thì mới bận đồ vô.
- Các anh em khác đi đâu hết hà ?
- Đi phục kích chứ đi mô.
- Phục kích gì đấy ?
Câu chuyện bộ đội Pa Kô đánh giặc được mấy chú kể lại. Họ thường chọn các con đường có xe vận tải của địch chạy tiếp tế cho các căn cứ và các chốt để phục kích. Có khi họ rình nhiều ngày mới thấy xe chạy qua. Cũng có khi rình mãi không được lại phải về không, rồi hôm khác lại đi phục tiếp. Thường họ bắn một vài quả B40 vào xe địch rồi rút lui. Công phu hơn một chút thì ban đêm chôn mìn trên đường, ròng dây vào chỗ nấp, ngụy trang cẩn thận rồi nằm chờ đến lúc xe địch tới đó thì giật mìn.
Có lần mìn nổ, địch nhảy xuống xe bỏ chạy thục mạng. Đêm đến mấy lính nhà ta mò ra lấy chiến lợi phẩm. Thôi thì đủ thứ lương thực, thuốc men, đạn dược, thuốc lá, . . . Lính Pa Kô không đánh trận lớn và thường ít khi phối thuộc với các đơn vị khác. Họ chỉ chuyên đi phục kích và đánh mau, rút lẹ. Hầu như anh em chẳng bị thương vong gì. Trong khi đó, địch lại rất lo sợ. Nhiều khi chúng dùng hoả lực mạnh để bắn bừa trên đường đi. Nhưng chúng đề phòng chỗ này thì mấy chú lại đánh chỗ khác, chẳng biết đường nào mà lần.
Nhiệm vụ thứ hai của các lính Pa Kô là dẫn đường cho các lính trinh sát của các đơn vị để họ chuẩn bị các trận đánh. Họ rất khoẻ và đi rừng rất giỏi nên nếu họ không chờ thì khó mà theo được.
Phân đội trinh sát chúng tôi gồm 6 người và được chia thành 3 nhóm. Một nhóm chụp ảnh có Duyên (phó nháy) và Toàn người Vĩnh Linh, có nhiệm vụ chụp ảnh Núi Gió và Hòn Vượn. Nhóm thứ hai là Lâm (binh địa) và một người (không nhớ tên) trinh sát Núi Gió. Nhóm thứ ba là Tư người Nhật Lệ Quảng Bình và tôi có nhiệm vụ trinh sát Hòn Vượn. Chúng tôi phải chờ trinh sát của trung đoàn 95 để phối thuộc.
Trong bữa cơm chiều tôi hỏi chuyện mấy trinh sát mặt trận về bộ đội Pa Kô và được nghe kể thêm về những trận phục kích rất hay.
- Bọn này nó nhanh lắm, Đùng đoàng một cú, nhoằng một cái đã biến mất. Chúng nó nhanh thuộc địa hình và đường
đi trong rừng lắm. Có khi mỗi đứa rút một ngả, thế mà đứa nào cũng về được nhà, chẳng bao giờ lạc.
Sáng hôm sau, sau khi ăn sáng, Lâm đi theo chúng tôi. Nó mang theo bút chì và giấy để ký họa mấy chàng Pa Kô. Mấy chú Pa Kô trở thành người mẫu một cách vui vẻ. các chú định mặc quần áo đàng hoàng nhưng Lâm yêu cầu cứ để tự nhiên như thế, đẹp hơn. Lâm ký họa nhanh mấy chú đang ngồi sau đó vẽ ký họa chân dung từng đứa rất kỹ. Tư và tôi xem vẽ một lúc rồi rủ nhau đi kiếm rau rừng. Chắc chúng tôi phải đi xa chứ ở quanh chỗ đông người thế này không thể còn gì mà kiếm.
Chỉ cần ngược lên một đoạn, chúng tôi đã gặp rừng đại ngàn nguyên sinh. Rất nhiều rau vòi voi (đọt dương sỉ). Lũ dương sỉ này mọc chen chúc với mây nên khi lấy vòi voi rất dễ bị gai mây, vừa dài, vừa nhọn đâm vào thịt rất đau. Món vòi voi là đỉnh của rau dớn. Chúng tôi có nhiều thời gian nên chỉ lấy vòi và những đọt lá non nhất. Thấy được khá nhiều vòi voi rồi, tôi nói với Tư:
- Thôi, mình xuống chỗ nào gần khe kiếm ít môn thục đi.
- Ừ ! Tao cũng thích môn thục.
Chúng tôi phải leo qua sườn núi rồi tụt ra phía sau, xuống một khe núi. Chắc cái khe này phải có nước chảy vì núi này rất lớn, rừng ở đây rất rậm. Quả nhiên là chúng tôi tìm được môn thục mọc ven một cái khe có nước chảy róc rách. Môn thục là một thứ rau giống như dọc mùng. Đó là một loại khoai nước giống như cây khoai môn, khoai sọ hay cây củ dáy. Nấu môn thục cũng giống như dọc mùng, không khéo khi ăn sẽ hơi ngứa. Ở mấy cái cây gỗ mục, chúng tôi còn kiếm được mộc nhĩ (sau này tôi mới biết, trong nam gọi là nấm mèo). Chúng tôi cũng hay gặp nấm, nhưng nấm, thường lính không thạo nên không bao giờ dám lấy nấm, sợ nhầm phải nấm độc.
Hôm nay chúng tôi kiếm được rất nhiều rau, ngoài vòi voi, môn thục, nấm mèo, còn có tai voi, tai chua, môn cay (lá bóng) tiện trên đường chỗ nào có chúng tôi đã vơ luôn. Hai thằng giục nhau:
- Thôi về đi mày ơi !
- Thì tao bảo mày mấy lần rồi, mày ham quá !
- Tao cũng giục mày mấy lần rồi.
- Ừ ! về thôi, "chang chang côồng caạc . . ." rồi. – Tôi nhại giọng Tư khi nó hát bài tủ "Mẹ Suốt".
Tôi không nhớ chúng tôi "ngồi chơi xơi nước" ở sông Bồ bao nhiêu ngày. Chúng tôi cũng không chờ trinh sát của e95. Hai trinh sát mặt trận (B5) sẽ dẫn đường cho chúng tôi. Một người tên Quí và một người tôi không còn nhớ tên, tạm gọi anh là Nghĩa cho tiện kể. Trước khi đi, chúng tôi thảo luận rất kỹ đường đi trên bản đồ. Chúng tôi sẽ đi chung một đoạn đường khá dài trong một ngày. Ngày hôm sau chỉ đi chung một nửa đường. Mục tiêu thứ nhất phải trinh sát là Núi Gió, trong đó có đỉnh cao Chóp Nón. Chóp Nón có hình dáng như một hình chóp, rất nhọn. Khu vực Núi Gió có hai cái núi hình chóp, nhưng hình chóp kia thấp hơn. Mục tiêu thứ hai, xa hơn, sát với đồng bằng hơn. Đó là Hòn Vượn, một căn cứ trên cao, cỡ trung đoàn. Cả toán 8 người xuất phát từ sáng sớm ngày 20 tháng Chạp âm lịch. Lúc đó chúng tôi chỉ sử dụng dương lịch để hợp đồng với nhau nhưng bây giờ tôi không còn nhớ ngày dương mà chỉ nhớ ngày âm lịch vì thời điểm này chỉ còn chục ngày nữa là Tết.
Núi Gió và Hòn Vượn thực ra cùng nằm trong một khu vực và thuộc hai xã khác nhau của huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên. Cho đến bây giờ một số anh em trinh sát vẫn còn nhầm lẫn hai địa điểm này. Ngay cả Lâm là người làm binh yếu địa chí Núi Gió mà bây giờ đã nhầm thành Hòn Vượn. Khi tôi nói với Lâm là Lâm "làm" Núi Gió thì Lâm còn hơi ngờ ngợ. Chỉ đến khi tôi nói: "Tôi là người "làm" Hòn Vượn từ đầu chí cuối và không có Lâm ở đấy ! Nếu ông nói ông "làm" Hòn Vượn, thì thử tả lại xem, đi đường nào, quan sát địch từ chỗ nào, nhìn thấy những gì ? Có biết biệt động Thành Huế, cứ của huyện Hương Thủy, cứ của huyện Hương Trà, du kích xã Hương Mai ở đâu không ? " Bấy giờ thì Lâm chỉ chống chế là lâu ngày nên quên rồi. Lính tráng chúng tôi kể lại chuyện xưa thường cãi nhau chẳng phân thắng bại. Nhưng chuyện này thì Lâm đuối lý và cười trừ, rất kẻ cả. Trong đầu hắn, chắc chắn "Núi Gió phải là Hòn Vượn".
Nghĩa dẫn đầu còn Quí đi đoạn hậu. lúc đầu chúng tôi đi sát ven sông, suôi dòng một đoạn rất xa rồi tạt sang bên phải, tách khỏi bờ sông, rẽ vào rừng. Đường đi khá dễ dàng vì chúng tôi đi theo các lũng thấp, không phải leo núi. Đây là một trong những con đường giao liên của các xã thuộc huyện Hương Trà và huyện Hương Thủy, của biệt động thành phố Huế, để xuống các cơ sở dưới đồng bằng. Con đường bắt đầu len lỏi trong vùng địch, tránh các căn cứ của địch trên các điểm cao. Nhiều đoạn phải đi rất vòng vèo, lắt léo. Nhiều đoạn phải đi xuống suối để xóa vết tích con đường. Tùy tình hình mà lúc đi đường này, lúc lại trồi lên theo đường khác.
Chiều tối hôm đó, chúng tôi nghỉ lại trong một đám rừng non, cây chỉ cao chừng chục mét và không quá rậm rạp. Một vạt rừng bằng phẳng, ngay cạnh một con suối nhỏ. Có vẻ như rất nhiều người đã nghỉ lại ở chỗ này. Mặt đất bị dẫm đạp nhiều và nhẵn nhụi. Để ý tinh, vẫn thấy các vết tích mắc võng và làm bếp nấu ăn chưa xóa sạch. Chiều nay chúng tôi không kịp kiếm rau dọc đường nên bây giờ chỉ có ruốc mặn và thịt hộp nấu canh xuông với nước lã. Phải tranh thủ náu cơm lúc trời chưa tối hẳn để tránh ánh lửa mà địch sẽ phát hiện thấy từ trên cao. Chúng tôi phải phải kiếm củi thật khô để nấu không có khói. Không đào bếp hoàng cầm mà nấu không khói thì nhất là nứa và tre khô chẻ mỏng. Treo cái nồi lên ba cái cây buộc chụm và liện tục canh lửa cho cháy thật đượm là được.
Cơm nước xong, mọi người mắc võng, phân công canh gác, rồi đi ngủ. Tôi nằm mãi mà không ngủ được.
Nghĩ lại, chưa bao giờ chúng tôi đi luồn sâu mà không nắm được các vị trí bố trí của địch như lần này. Vừa chân ướt chân ráo từ Quảng Trị vào, chúng tôi chưa biết hình thái địch ta ở vùng này như thế nào. Chúng tôi luồn rừng trong vùng địch vào ban ngày mà tôi có cảm tưởng như bị bịt mắt vậy. Một cảm giác bức bối, khó chịu, lúc nào các dây thần kinh cũng phải căng lên hết cỡ để đề phòng bọn thám báo đi phục kích hoặc chăng mìn trên các con đường bí mật xuống đồng bằng của lực lượng địa phương. Những chỗ đường đi gần vị trí địch đóng chốt thì Nghĩa ra hiệu cho mọi người cố gắng không phát ra tiếng động, từng người một đi cách xa nhau. Những chỗ xa địch vẫn phải luôn cảnh giác. Những người lính trinh sát phải căn cứ vào tiếng rừng mà tiến. Nếu thấy rừng lặng lẽ phăng phắc thì phải dè chừng. Nếu thấy chim chóc bay dạt đi hay khỉ vượn xào xạc di chuyển trên cây thì chắc chắn phía trước đang có người. Thảnh thơi nhất là những lúc có đủ các âm thanh quen thuộc của rừng, tiếng chim hót, vượn kêu mà không di chuyển. Chúng tôi phải quan sát từ rất xa, trên các ngọn cây để phán đoán tình hình phía trước mà đi.
Đầu chiều nay, khi chúng tôi đang đi thì thấy phía trước, trên các ngọn cây, chim cóc vụt bay lên, cả toán đã phải dừng lại tìm nơi ẩn nấp, súng đạn sẵn sàng. Được một lúc, nhìn thấy phía trước là một tốp ba người, hai người mặc quần áo lính địch và một người mặc quần áo đen. Họ đang đi về phía chúng tôi, đúng trên con đường này. Nghĩa đứng dậy đầu tiên và tắc lưỡi ba lần. Chúng tôi dơ tay chào rồi bắt tay nhau. Không ai nói gì. Chỉ có mình Nghĩa và người mặc đồ đen trao đổi với nhau về tình hình địch trên đường đi. Hôm đó "bình thường", nghĩa là không có địch phục kích hay có thay đổi về bố trí quân trên đường đi. Nếu có gì bất thường, chúng tôi sẽ phải vòng tránh theo đường khác. Rất nhanh chóng, chúng tôi lại đi tiếp. Nghĩa nói, mấy người đó là du kích của huyện Hương Thủy đang từ dưới đồng bằng lên. Bao giờ đến vùng của ta họ mới thay quần áo.
Một cuộc chiến thật kỳ lạ. Ở đây cũng như ở Hải Lăng Quảng Trị, các huyện, các xã vẫn ngày đêm bám dân, bám địch để nắm tình hình, để vận động bà con, để xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng, chờ thời cơ . . . Thời cơ đó bao giờ tới thì không ai biết mà chỉ có thể hy vọng một ngày nào, một ngày nào đó . . . Nhất định là như vậy. Nhưng mà một năm, hai năm, hay năm năm. . ., mười năm, hay lâu hơn nữa . . . ? Những con người thầm lặng đó, họ vẫn đi lại như con thoi giữa vùng ta và vùng địch. Đã nhiều lần máu đổ, nhưng những con thoi đó vẫn thấm thoắt đưa, dệt nên một cuộc chiến thần thánh đến lạ kỳ.
Càng biết những con người thầm lặng đó tôi càng cảm thấy mình nhỏ bé, nhỏ bé về thời gian, vì mới chỉ là hơn ba năm so với không biết bao nhiêu năm của cuộc chiến. Tôi cảm thấy nhỏ bé về không gian vì mình mới chỉ có mặt ở một hai nơi trên mảnh đất miền nam rộng lớn. Tôi cảm thấy nhỏ bé về sự từng trải và sức chịu đựng cuộc chiến so với những con người bình dị đó. Mang tiếng trinh sát thật đấy, nhưng mới chỉ có vài lần luồn sâu , thật là quá ít kinh nghiệm so với biết bao nhiêu người dày dạn, họ đi như con thoi trong lòng địch. Những con thoi đạn dệt trên mọi ngả đường , luồn lách trong mọi ngóc ngách của cuộc chiến. Chính họ mới là những người dệt nên gấm vóc, bằng sức lực, tuổi trẻ và bằng máu của mình, bền bỉ và kiên trinh.
Sáng 21 tháng Chạp, chúng tôi dậy nấu cơm đàng hoàng khi đã nghe líu lo tiếng chim hót. Khoảng 7 giờ, toán trinh sát tiếp tục hành quân. Nắng sớm đã chiếu ngang trên các ngọn cây. Chúng tôi đi rất thận trọng nên bất chợt còn có anh em phát hiện có khỉ trên cây cao ở phía trước. Thế là yên tâm rồi, phía trước không có người. Khi chúng tôi đến gần hơn thì bọn khỉ bắt đầu kêu và di chuyển trên các ngọn cây. Hàng vài chục chú khỉ di chuyển rất nhanh. Mọi người còn dừng lại xem lũ khỉ. Chúng di chuyển lên triền núi, vừa chạy vừa gọi nhau "í ới", chỉ một loáng đã mất hút. Trên đường chúng tôi đi, vẫn nghe tiếng chim hót văng vẳng khắp rừng, không biết chúng ở chỗ nào. Thỉnh thoảng, một con chim giật mình bay vụt lên từ một bụi cây bên đường. Đó là những con chim lớn, giống chim ăn đêm bây giờ đang ngủ bị chúng tôi phá đám.
Khoảng 8 giờ thì toán trinh sát tách làm hai. Nghĩa, Duyên, Lâm, Toàn và một người không nhớ tên rẽ sang bên phải đi tiếp đến Núi Gió. Đường đi đên đó như thế nào tôi không còn nhớ mặc dù đã thảo luận với nhau trên bản đồ. Toán còn lại của chúng tôi chỉ có 3 người Quí, Tư và tôi. Chúng tôi sẽ đi Hòn Vượn.
Khoảng 10 giờ, chúng tôi đến được chân Động Ngang. Quí nói, trên đỉnh Động Ngang có địch chốt giữ. Giữa Động Ngang và Hòn Vượn có một con đường tăng. Địch thường xuyên đi trên con đường này. Đây là con đường địch làm để hai cứ điểm này có thể dễ dàng chi viện cho nhau. Chúng tôi phải vượt qua đường tăng ở gần đỉnh Động Ngang. Càng lên gần đỉnh, cây cối càng thưa thớt. Cây cối hai bên đường tăng bị địch phát quang và đốt cháy. Gần đường chỉ có cây chết khô, trụi lá. Quí lên đến mép đường tăng thì ra hiệu cho chúng tôi vượt lên qua đường tăng trước, còn anh làm nhệm vụ quan sát và bảo vệ cho chúng tôi.
Sau khi vượt qua Động ngang, chúng tôi tụt xuống dốc và luồn rừng xuống đến chân núi. Một con suối nhỏ, nước chảy róc rách nằm dưới khe núi. Chúng tôi bắt đầu lội theo suối, suôi theo dòng nước. Nước suổi chỉ xăm xắp dưới đế giầy. Con suối nhỏ này còn mấy lần nhập với các con suối nhỏ khác thành con suối khá hơn một chút. Chúng tôi dừng lại nghỉ chân ngay trên bờ suối. Xung quanh đây toàn rừng cây non, chỉ cao gấp hai, ba đầu người. Ven suối cây cối rất xanh tươi. Chỗ chúng tôi nghỉ là một vũng suối rộng, ánh sáng từ trên trời òa xuống lấp lóa trên mặt nước. Mặt Trời đã lên cao, nắng xiên qua cây cối chiếu lên mặt nước thành những đám chói lọi.
- Sắp tới rồi. - Quí nói.
- Mình tới đâu đấy anh ?
- Mình sẽ ở cứ của huyện Hương Thủy, nghỉ ngơi đến chiều tối thì đi tiếp sang cứ của xã Hương Mai.
- Sao không đi một thể luôn anh ?
- Từ "Hương Thủy" sang "Hương Mai" có nhiều dân đi kiếm củi, đi thăm ruộng lúa của họ nên không thể đi ban ngày được.
- À ! Mình chờ gần tối dân về hết mới đi được anh nhỉ ?
- Ờ !
Chúng tôi tiếp tục lội theo suối chừng 20 phút sau thì rẽ vào một khe nước nhỏ hơn, chảy rất ngoắt nghoéo. Chúng tôi lội theo con lạch đó chừng mươi phút thì tới nơi. Đây là cứ của huyện Hương Thủy.
Biệt động thành Huế
Quí dẫn Tư và Tôi vào cứ. Càng vào gần cứ, chúng tôi càng phải đi rất thận trọng vì bất cứ chỗ nào cũng là cạm bẫy mìn. Tư và tôi cứ lần theo từng bước của Quí, không dám bước chệch ra ngoài. Đường vào rất lắt léo. Tuy nhiên để ý tinh vẫn thấy dấu vết các bước chân của những người đi trước thường xuyên vào ra chỗ này. Bỗng hiện ra một vùng rừng mà cây cỏ được phát quang hết ở phía dưới còn bên trên vẫn là rừng che phủ. Đó là cứ của huyện Hương Thủy.
Cứ này nằm ngay dưới chân Động Ngang. Vậy địch nó có biết không ? Chắc là chúng không thể ngờ được ?! Vậy mà không phải vậy.
Quí dẫn Tư và tôi vào giữa trảng đất trống, sẹch sẽ, trên đầu cây cối che phủ kín mít. Một chiếc võng không, mắc giữa hai cái cây, vẫn đang đung đưa, chắc là có người nằm đó vừa mới chạy đi đâu đây thôi. Quí chạy vào một cái hầm. Ngay sau đó, theo anh ra, là một người đàn ông cỡ trên ba mươi tuổi. Đối với chúng tôi lúc đó, anh đã là bậc cao niên lắm. Quí giới thiệu chúng tôi với nhau. Vậy người đàn ông đó là một chiến sỹ biệt động thành phố Huế. Khi anh cất tiếng nói chuyện, mới hay anh lại là người Bắc. Sau này chúng tôi mới biết nhiều chiến sỹ biệt động dầy dạn của Huế đều là lính Nam tiến hồi đầu và giữa những năm sáu mươi.
Ừ mà rõ anh là người Bắc thật, rất trắng trẻo và gầy gò. Anh mặc bộ quần áo hoa kiểu bà ba của phụ nữ mà trong Nam lúc bấy giờ gọi là "bộ đồ" nên trông có phần hơi ẻo lả. Nước da anh trắng nhưng rất xanh, rõ là một người ở rừng lâu năm không phơi nắng Mặt Trời và sốt rét kinh niên. Thật sự tôi không nhớ được tên người lính biệt động nào (vì nhật ký đã bị cháy hết) nên tôi sẽ tạm gọi những cái tên nào đó vậy.
- Mấy anh đi đâu hết rồi anh Tam ? - Quí hỏi.
- Anh Hùng, thằng Mạnh, thằng Sùng vào thành. Thằng Đượm đang gác. Chúng mày đi từ xa tao đã biết rồi.
- Vâng !
- Thằng Nhẫn đang đi bố trí lại mìn. Ông Lảnh ông ấy gài, không biết đâu mà lần. Không khéo, mình cũng ăn mìn của ông ấy.
- Em cũng nghe chuyện của anh Lảnh rồi. Anh ấy nằm ở đâu hả anh ?
- Ngay kia kìa. Các cụ nói đúng, "sinh nghề tử nghiệp" mà, tội quá !
Quí dẫn chúng tôi đến một cái hầm bỏ không. Một cái hầm kèo rất kiên cố, nóc hầm kè đá và đổ đất dầy trên một mét với hai ngách hầm để lên xuống. Hầm này chỉ dùng để ngủ ban đêm và những lúc có phi pháo của địch. Bình thường, mọi người vẫn mắc võng để ngủ ngoài hầm.
Suốt trưa và chiều hôm đó chúng tôi được nghe Anh Tam kể chuyện biệt động. Đầu tiên là chuyện anh Lảnh "Vua Mìn". Toàn bộ hệ thống mìn xung quanh cứ đều do anh Lảnh cài. Rất nhiều kiểu bẫy oái oăm được anh sáng tạo ra, nào thì dẫm nổ, dây căng chùng nổ, que gài nổ. Tất cả các vật liệu để làm bẫy đều là dây rừng, cành cây, . . . rất tự nhiên. Trong rừng biết bao nhiêu là dây rợ và cành cây, ai biết cái nào là bẫy. Biết bao nhiêu lần thám báo dò tìm căn cứ và bộ binh lùng sục đều vướng mìn. Chúng đều phải rút lui và dùng cối câu từ đỉnh Hòn Vượn và Động Ngang xuống. Nhiều lần trực thăng rà sát trên ngọn cây để tìm kiếm rồi bắn đạn 20 ly tróc nã, thả pháo cối và lựu đạn. Anh em rút hết xuống hầm nên vẫn bình an vô sự. Mà chúng đánh vào cứ này, anh em lại chuyển sang cứ khác. Chúng chưa bao giờ vào được cứ nào của ta chỉ vì mìn. Trong một lần đi kiểm tra bẫy mìn, anh Lảnh chủ quan nên anh bị trúng một trái "mo" (Mìn M18A1 Claymore của Mỹ) do chính anh gài. Đồng đội anh đã rơi không biết bao nhiêu nước mắt. Khi kể lại chuyện này, anh Tam không còn khóc nữa nhưng mắt anh vẫn hoe đỏ và giọng nói hơi lạc đi.
Chuyện thứ hai, là chuyện lính biệt động chuyên mặc quần áo phụ nữ. Khi các anh vào thành, bao giờ cũng ở nhà dân cơ sở. quần áo phụ nữ cứ việc giặt và phơi phóng thoải mái mà không gây nghi ngờ gì cho địch và những người tò mò.
Tùy theo nhiệm vụ mà biệt động được điều động nhiều hay ít. Cứ chiều đến, lính biệt động, từ căn cứ, luồn rừng xuống đồng bằng rồi vào thành phố. Khi ở thành phố lên họ cũng đi ban đêm theo chiều ngược lại. Từ các căn cứ xuống đến thành phố chỉ khoảng chục cây số nên dù có trắc trở do địch mai phục hay đi tuần thì trong một đêm anh em vẫn có thể thoát về cứ hoặc về tới cơ sở trong thành phố được. Xem ra vị trí các cứ của biệt động thật là lợi hại.
Biệt động thành Huế ở rất nhiều cứ khác nhau. Chúng tôi chỉ biết được hai cứ là cứ của huyện Hương Thủy và cứ của xã Hương Mai (Huyện Hương Trà) Tên cứ là tên các huyện, các xã có lực lượng cán bộ địa phương, huyện đội, xã đội, du kích, những người lập nên các cứ này đầu tiên. Xã Hương Mai là tên gọi có từ thời năm 1945 đến năm 1954. Sau đó, chính quyền Niền Nam đã đổi thành tên khác (hiện nay huyện Hương Trà cũng không có xã Hương Mai). Như thế có thể thấy các cứ này đã có từ rất lâu tuy rằng không cố định một chỗ. Khi chúng tôi ở đây thì chỉ thấy có biệt động thành mà không có các lực lượng của huyện hay xã.
Có một chuyện mà anh Tam không kể mà chúng tôi cũng không hỏi. Đó là biệt động làm những việc gì trong thành phố. Không tò mò vào nhiệm vụ của nhau thì cả biệt động và trinh sát đều đã quen.
Chiều hôm đó chúng tôi ăn cơm sớm. Cơm nước xong đã là 5 giờ. Quí dẫn Tư và tôi luồn ra khỏi cứ của huyện Hương Thủy. Khi từ trong con lạch ra tới suối, chúng tôi không đi ngược theo con đường buổi sáng đã đi qua mà đi suôi theo dòng nước. Càng đi xuống, cây cối càng nhỏ hơn và rừng bớt rậm rạp hơn. Rồi phía trước chúng tôi bỗng hở ra một khoảng trời. Hai bên bờ suối là lau lách, cỏ tranh, sim, mua, cà dại, hồng gai, . . . xen lẫn với một ít cây thấp tầm hai đầu người. Sau một đoạn khá xa, chúng tôi leo lên bờ và gặp một con đường mòn. Đây là con đường của dân đi lấy củi và thăm đồng. Đến một khoảng trống, tôi nhìn thấy nhiều ruộng lúa của dân nằm ở những chỗ đất thấp xen giữa những đồi cây lau lách.
Ngửng lên quan sát tôi nhìn thấy Hòn Vượn hiện ra ở trước mắt, còn cái Động Ngang thì sừng sững phía bên trái. Khoảng cách đến đỉnh Động Ngang chỉ là một cây số nhưng chúng tôi đi lẫn trong cây cỏ nên trên núi khó có thể nhìn thấy chúng tôi. Mà tôi cũng không nhìn thấy lính địch hay công sự gì trên đỉnh Động do sườn núi cong đã che khuất đỉnh núi bằng phẳng. Tôi cũng không nhìn thấy gì trên đỉnh Hòn Vượn mà chỉ thấy Hòn Vượn là một dãy núi cao, có đỉnh chạy dài theo một đường gần như nằm ngang. Trên đó nổi lên một chút là ba cao điểm. Cái đỉnh cao nhất nằm ở giữa, nhô hẳn lên. Đây là một cái đỉnh núi rất bằng phẳng kéo dài tới 200 mét. Không biết cái đỉnh bằng này là tự nhiên hay do địch san phẳng đi để làm căn cứ. Xung quanh đỉnh này rất dốc, bị bóc hết cây cỏ nên trơ trụi đât đỏ, trọc lóc như đỉnh Động Ông Đô ở Quảng Trị.
Rồi chúng tôi lại rẽ xuống suối, được một đoạn lại ngược dòng theo một con lạch nhỏ. Càng đi núi càng dốc và cây cối càng rậm rạp. Thoát khỏi lạch nước, đến đây Quí bắt đầu đi thận trọng, dò đường từng tí một. À, bắt đầu đường vào cứ của xã Hương Mai đây. Lại cũng là một con đường ziczắc đầy bẫy mìn.
Cứ của xã Hương Mai nằm trên một vạt đất khá bằng phẳng giữa rừng cây rậm rạp. Một căn nhà lá nhỏ nằm ẩn mình dưới cây. Qua một cái "sân" nhỏ, chúng tôi bước hai bậc mới lên đến thềm nhà. Chúng tôi chào mấy anh đang nằm trên võng. Đó cũng là những chiến sỹ biệt động Huế và cũng toàn là người Bắc. Một anh nằm gần chúng tôi nhất đang nghe tin tức của đài mình bằng một chiếc SONY "hòn gạch". Anh vặn nhỏ đài rồi cất tiếng, một thứ tiếng Hà Tây rất nặng :
- Các cậu ăn cơm chưa ?
- Dạ ! Rồi ạ !
- Hầm kia nhá, bếp kia kìa, xong nồi ở cả đấy.
- Vâng ! . . . Quê anh ở huyện nào Hà Tây đấy ạ ?
- Cậu này tinh nhở. Tớ ở Gạch. Giọng tớ "Ba Vi, bo vang" lắm hở ? Thế các cậu quê đâu ta ?
- Dạ em, em . . . . "Cầu tõm" còn thằng này "Khoai khoai là khoai" anh ạ.
- Cậu ở Hà Nam à ?
- Dạ không, Nam Định ạ.
Lại là lính biệt động với quân phục là bộ đồ phụ nữ. Sao biệt động họ giống nhau thế, người nào cũng gày và xanh, chẳng thấy da thịt đâu. Họ sống trong rừng đã quá lâu, lại ở trong vùng địch nên chẳng mấy khi được hưởng tí nắng. Những năm tháng chưa ngừng bắn, hầu như liên lạc với gia đình đều bị đứt. Sau ngày ngừng bắn, tin tức với gia đình mới được nối lại.
Câu chuyện biệt động được các anh kể lại. Cuộc sống của họ thật là khó khăn, thiếu thốn đủ thứ cả vật chất lẫn tinh thần. Họ đi đi về về từ các cứ và nội thành. Nhiều lần bị trúng phục kích trên đường và hy sinh, không biết xác bị quăng quật nơi đâu. Có lần bị lộ tại nhà dân cơ sở làm trốc cả cơ sở. Dân Huế thật kiên cường, nhà này hy sinh thì nhà khác lại làm cơ sở cho biệt động. Thường thì người dân bị bắt tù đầy nhiều năm đến thân tàn ma dại trong các nhà tù. Ác liệt nhất là sau Tết Mậu Thân 1968, rất ít cơ sở vẫn còn giữ được bí mật. Vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn, các lực lượng địa phương của xã, huyện lại có một mạng lưới cơ sở mới khá dày đặc. Lính biệt động lại tiếp tục công việc của họ, diệt ác, đánh phá các con đường, kho tàng vũ khí, . . . của địch.
Ngày 23 tháng Chạp chúng tôi nghỉ tại cứ của Hương Mai. Hôm nay chúng tôi là những đàn em nên sẽ phục vụ cơm nước cho cả nhà. Bếp ở ngay bên chái nhà, cũng có mái lá rợp bóng cây. Một cái bếp Hoàng Cầm làm rất cẩn thận. Đường thoát khói làm rất dài. Khói thấm qua lớp đất mỏng đã mất hết hơi nóng, chỉ là những làn khói mỏng manh lan tỏa trên mặt đất và tan biến trong không khí dưới rừng cây rợp mát. Bất ngờ nhất đối với chúng tôi khi thấy có đầy đủ rổ, rá, mâm nhôm có hoa văn, chén, đọi, tô, muỗng, vá, . . . như ở nhà dân vậy.
Buổi chiều mấy anh biệt động rủ chúng tôi đánh cờ. Tôi biết dân Sơn Tây đánh cờ cũng ác lắm nhưng cũng hăng hái làm vài ván. Hóa ra mình đánh còn ác hơn, nên mấy anh biệt động có hoãn đi hoãn lại, mình vẫn thắng. Tôi lẩm nhẩm trong đầu "vụ này là nhờ bác 6971 đây !". Hồi năm 71, bác ấy đã luyện cờ cho tôi từ lúc tôi chưa sạch nước cản mã.
Quãng 5 giờ chiều, Quí dẫn Tư và tôi đến điểm trinh sát Hòn Vượn. Chúng tôi ngược theo đường cũ ra ngoài suối mà trên bản đồ gọi là khe Dân Dung. Lần này chúng tôi lội suôi dòng một đoạn rồi lên bờ đi theo đường mòn của dân. Dãy núi chạy từ Động Ngang sang Hòn Vượn đã chắn hết ánh nắng. Ráng chiều hồng vẫn đang bừng bừng phía sau núi và hắt lên trời một thứ ánh sáng mưng mưng, lìm lịm. Chúng tôi đang đi trên những con đồi thấp chen lẫn ruộng lúa. Những ruộng lúa lẻ tẻ này là của bà con ở ấp Nham Biều (lại là Nham Biều giống như ở bờ bắc sông Thạch Hãn, Quảng Trị). Bây giờ mới thấy gió hây hẩy thổi từ phía đông tới. Gió lùa vào cái áo đã bật hai nút của tôi, gió vấn vít trên hai ống chân và hai cẳng tay trần, mát lịm (thói quen của tôi là sắn áo trên khuỷu, sắn quần ngang gối và bật hai nút áo trên cùng).
Chúng tôi cứ đi thản nhiên đi trên đường mòn, chỉ cần chú ý cảnh giác, sợ gặp phải người dân nào vô tình về muộn. Thường thì dân có đi kiếm củi hay thăm ruộng lúa cũng rời chỗ này rất sớm vì vùng này được xem này là vùng mất an ninh.
Trời bắt đầu tối thì chúng tôi tới được chân núi Nhà Nhạn nằm ở phía đông Hòn Vượn. Nhìn trên bản đồ cứ tưởng núi này có rừng cây nhưng trên thực địa lại là những quả núi trọc. Cây cối ở đây chỉ có rất ít, chạy ngoằn nghoèo theo các đường tụ thủy, còn lại chỉ là cỏ và cây lúp xúp cao đến ngang gối. Hèn chi chúng tôi không có cách gì luồn ra đây vào ban ngày. Một cái thung lũng khá rộng, mỗi chiều năm sáu trăm mét nằm giữa một vòng cung của núi Nhà Nhạn. Gió lồng lộng thổi qua chỗ lõm của vòng cung và đổ xuống thung lũng. Gió làm cho đám cỏ may và cỏ tranh rạp xuống tưng bừng như sóng. Gió lùa trong áo lính, thổi phồng lưng áo như cánh buồn, reo vi vút qua vành mũ tai bèo. Đỉnh cao nhất của vòng cung này là đỉnh núi phía tây, có độ cao trên 270 mét với các sườn núi đều rất dốc. Chúng tôi leo một mạch lên đỉnh núi này. Đến nơi, tai và mũi thằng nào thằng nấy tranh nhau thở. Ở trên cao gió càng mạnh hơn như muốn đẩy lùi chúng tôi lại phía sau và quất phần phật trên quần áo. Lên đúng đỉnh núi, chúng tôi mới bất chợt nhìn thấy ánh đèn pha sáng quắc của Hòn Vượn đang rọi sáng xung quanh căn cứ. Chúng tôi ở khá xa mà ánh đèn còn tạo thành bóng mờ mờ phía sau chúng tôi. Ngắm nhìn Hòn Vượn thì chỉ thấy ánh đèn tỏa rọi ra xung quanh chứ cũng không nhìn thấy gì hơn nữa. Nhìn chán rồi, quay lại phía sau, tôi bỗng giật mình:
- Huế kìa ! - tôi reo lên.
Ánh sáng từ những ánh đèn điện trong thành phố, lung linh, lấp lánh, làm tôi nhớ nhà, nhớ Hà Nội quá ! Nao lòng ! Và kia, chắc là đường QL số 1 với ánh đèn pha ô tô đang rù rù di chuyển trên đường. Từ đây vào thành phố chỉ là 6 cây số đường chim bay chứ mấy. Ôi chà . . . ! Gần quá, mà xa quá. Biết đến bao giờ mới tới được ?
Chỗ chúng tôi chọn chính là đỉnh núi. Ở đây có mấy tảng đá lớn, xếp hỗn độn bên nhau, chen chúc cùng với một đám cây khô kháo và gai góc. Mấy giống cây gì đó, lá đã nhỏ thì chớ mà lại rất ít lá, chỉ thấy toàn cành là cành, toàn gai là gai.
Đêm đã khuya, lành lạnh. Chúng tôi rúc vào giữa mấy tảng đá để tránh gió. Tôi thả tay áo và ống quần xuống, rồi lấy võng đắp lên người. Thằng Quí và Tư cũng đắp bằng võng. Chúng tôi nằm nói chuyện rất lâu. Đây là lần đầu tiên tôi đi với Tư, lần đầu được biết đến gia cảnh nhà Tư ở vùng quê nghèo Nhật Lệ. Chuyện "khoai khoai là khoai" không phải là chuyện lính tráng trêu trọc nhau mà là chuyện thực. Một vùng đất mênh mông cát trắng. Vậy mà, thằng Tư nó to béo. Da nó lại trắng hồng nữa chứ. Sốt rét chẳng làm nó xuống mã tí nào. Nó nhập ngũ tháng 5/1972 thì tháng 7 đã có mặt ở Quảng Trị. Nó có sức khỏe nên ngay khi vào đến Quảng Trị là liên tục đi công tác khắp nơi, nào thì vượt Thạch Hãn sang thành, nào thì đi miền đông An Tiêm, Chợ Sãi, Bích la, Cửa Việt, nào thì đi miền tây Ông Đô, Đá Đứng, nào thì phục kích bắt tù binh ở Phương Thúy, nào thì, nào thì, . . .
Cái bài mà thằng tư hay hát mỗi lần có sinh hoạt văn nghệ của đại đội là bài hò về quê hương nó - Mẹ Suốt. Khi nó hò bài này tôi không thấy nó là một người kể chuyện như lời bài hát mà tôi có cảm tưởng thấy một con thuyền đang đò đưa, nhặt khoan . . . nhặt khoan, trên con sông xanh biếc với phau phau cát trắng hai bờ.
Lặng nghe mẹ kể ngày xưa
Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình
Mẹ rằng " Quê mẹ Bảo Ninh"
Mênh mông sông biển lênh đênh mạn thuyền
Sớm chiều nước xuống triều lên
Cực thân từ thuở mới lên chín mười
Lớn đi ở bốn cửa người
Mười hai năm lẻ một thời xuân qua
Lấy chồng cũng khổ con ra
Tám lần đẻ mấy lần sa, tội tình
Nghĩ mà thương mẹ cha sinh
Thương chồng con lại thương mình xót xa
Bây chừ sông nước về ta
Đi khơi, đi lộng thuyền ra, thuyền vào
Bây chừ biển lặng trời cao
Cá tôm cũng sướng lòng nào chẳng xuân
Ông nhà theo bạn xuất quân
Tôi nay cũng được vô chân "sẵn sàng"
Một tay lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật Lệ quân sang đêm ngày.
Sợ chi sóng gió, tàu bay
Tây kia đã thắng. Mỹ này chẳng thua.
Kể gì tuổi tác già nua
Chống, chèo xin cứ thi đua đến cùng.
Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung trắng bờ.
Gan chi, gan rứa mẹ nờ
Mẹ rằng: "cứu nước mình chờ chi ai"
Chẳng bằng con gái con trai
Sáu mươi còn một chút tài đò đưa
Tàu bay hắn bắn sớm trưa
Thì tui cứ việc nắng, mưa đưa đò
Ghé tai mẹ hỏi tò mò
Cớ răng ông cũng ưng cho mẹ chèo
Mẹ cười "nói cứng phải xiêu"
Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông
Nghe ra ông cũng vui lòng
Tui đi ông còn chạy ra sông ông dặn dò
Coi chừng sóng lớn gió to
Màn xanh đây mụ đắp cho kín mình
Vui sao câu chuyện ân tình
Nắng trưa cồn cát Quảng Bình cũng say.
Ngày hăm bốn tháng Chạp
Tang tảng sáng, tôi bừng tỉnh, lạnh quá. Tôi nhỏm dậy nhìn ra xung quanh thấy mù mịt hơi mây, "tầm nhìn xa dưới mười mét". Ồ ! mây cũng có mùi thật, chẳng giống một thứ mùi gì khác, ngàn ngạt, âm ẩm làm ta tỉnh táo, dễ chịu. Không khí trở nên đùng đục chứ không phải trắng như khi nhìn mây từ xa. Sờ lên tóc thấy lạnh và ướt như đầu mới gội. Trời lặng gió từ lúc nào, tôi ngủ nên cũng không hay. Những hạt mây li ti đang lao xao nhảy múa trước mặt. Hôm nay trời nắng chết đây.
Tôi vùng dậy, nhảy ra khỏi chỗ nằm, chạy đi chạy lại trên đỉnh núi cho nóng người. Đã phân công gác thay phiên rồi, thế mà cả ba thằng lăn ra ngủ. Ừ ! Ai có thể ngờ được trên cái đỉnh núi trọc ngay gần Huế này lại có ba chú "giải phóng" nằm ngủ "phỏng giái" như thế chứ. Hai thằng kia vẫn đang ngủ say. Tôi lấy cái võng của mình đắp lên đầu hai thằng, cho chúng mày ngủ ngon nhé. Đoạn, tôi lấy giấy bút ghi lại những gì quan sát được ở Hòn Vượn vào đêm qua, chẳng có gì nhiều. Tuy nhiên, mọi thông tin mục sở thị này đối với các thủ trưởng ở nhà đều rất quan trọng.
Cái sơ đồ Hòn Vượn tôi đã phóng từ bản đồ ra lúc tôi ở Sông Bồ đang sẵn sàng chờ điền thêm vào các chi tiết địa hình địa vật và các bổ trí của địch. Trên giấy vẽ cảnh đồ tôi ghi:"CẢNH ĐỒ CĂN CỨ HÒN VƯỢN - TRUNG ĐOÀN BỘ BINH 51 (Điểm nhìn 20,63 - 66,89/F48-16 . . .). Không biết bao lâu nữa mới hết mây để có thể bắt đầu. Tôi tranh thủ xúc miệng rồi chén một thanh lương khô, cứ kệ cho hai thằng nó ngủ.
Chừng 8 giờ sáng, trời mới quang đãng. Nắng xuôi chiếu vào Hòn Vượn nên nhìn rất rõ. Tôi dùng ống nhòm lướt qua một lượt. Có một con đường chạy vòng vèo mấy đoạn ở Hòn Vượn, khuất sau núi rồi chạy sang chân núi Nhà Nhạn và mất hút. Chắc con đường sẽ ra đến đường QL1. Một con đường đất nhẵn nhụi do nhiều xe chạy lên xuống Hòn Vượn. Chắc hẳn nó phải leo lên tới đỉnh núi ở cái đỉnh thấp nhất, mé tây. Bị Hòn Vượn che khuất nên tôi không nhìn thấy Động Ngang.
Cuối cùng, tôi tập trung quan sát Hòn Vượn. Trời ạ ! Thật là tệ, các sườn núi phía này quá dốc và trống trải, không hề có cây cối giống cái núi Nhà Nhạn mà tôi đang ngồi quan sát. Không thể nào mà tấn công nó từ phía này được. Trên bản đồ thì vẫn biết là nó dốc nhưng không ngờ nó lại trơ trụi thế này. Toàn bộ phía này chỉ là cỏ và ít cây lúp xúp. Gần đỉnh núi thì đỏ trọc do san lấp để có mặt bằng rộng làm căn cứ.
Tệ hơn nữa là tôi chẳng quan sát thấy gì trên đỉnh Hòn Vượn. Cái mà tôi nhìn thấy chỉ là những cột ăng ten. Muốn vẽ sơ đồ chi tiết trên đỉnh, chỉ có cách phải bò vào tận nơi. Bực thật, chỗ chúng tôi quan sát là đỉnh núi chỉ cao 250 mét. Trong khi đó đỉnh phía đông của Hòn Vượn cao 309 mét, đỉnh phía tây cao 270 mét còn đỉnh giữa cao 322 mét. Một dải bằng phẳng chạy gần như nằm ngang kéo dài đến 1,5 cây số giữa ba đỉnh có độ cao thấp nhất cũng trên 260 mét. Vì vậy trên sơ đồ, đỉnh Hòn Vượn bị bỏ trống. Tôi chỉ vẽ được chính xác một phần con đường chạy lên Hòn Vượn.
Cũng đành vẽ cảnh đồ thật tốt để các thủ trưởng có thể hình dung ra và nhận thấy chỗ này "không thể gặm được". Tôi cố gắng tả thật kỹ sao cho phải xong trong buổi sáng, khi nắng đang xuôi chiều.
Khi tôi đang chăm chú vẽ thì Quí vỗ vai tôi và chỉ xuống con đường. Một đoàn mấy chiếc GMC đang ló ra phía sau của núi Nhà Nhạn. Chúng đang rù rù trên đường lên Hòn Vượn. Quí Nói:
- Thỉnh thoảng, trực thăng vẫn bay lên Hòn Vượn. Trên đó là chỉ huy sở của trung đoàn 51. Trên đó cũng có pháo 105 ly và pháo cối 81
- Chắc là mình thấy nó kéo pháo lên à ?
- Ừ !
Thực ra những thông tin này cũng chẳng có giá trị gì, vì đương nhiên sư đoàn và mặt trận đã biết rồi. Vấn đề cần chúng tôi phải cung cấp thông tin là bố trí của địch trên Hòn Vượn như thế nào thì chúng tôi lại không làm được.
Dưới đây là bản đồ Hòn Vượn và Động Ngang và những vị trí mà chúng tôi tập kết để vẽ cảnh đồ và sơ đồ.
Càng gần trưa, trời càng nóng gắt. Tư nói:
- Để tôi xuống khe lấy vài cành cây che cho đỡ nắng nhớ.
Nói rồi hắn tụt xuống đường tụ thủy. Một lúc sau, đã thấy nó ôm về một đống lá. Cũng may là mé đông mỏm núi chúng tôi đang "nhìn trộm" này, địch trên Hòn Vượn không thể quan sát thấy, còn ở phía đông của chúng tôi thì cái vòng cung bên kia của Nhà Nhạn cũng đã che khuất cho chúng tôi. Chỉ có ai trong thung lũng ngước lên mới có thể thấy chúng tôi. Từ sáng đến giờ, hai thằng cảnh giới cho tôi, chưa thấy ai đi vào thung lũng.
Chúng tôi găm các cành lá vào các khe đá. Thế là có một cái mái che nắng khá tốt.
- Tư ơi, ông làm bài Mẹ Suốt đi !
- Ừa hé !
Tư đằng hắng lấy giọng rồi bắt đầu hò:
"Lặng nghe mè kệ ngày xưa, chán chán cái con c . . . "
Cả ba thằng phá lên cười. Tôi nói:
- Nghiêm chỉnh đi ! Phục vụ tớ vẽ chứ ai lại người làm người chơi thế này thì bất công quá !
Nói vậy thôi chứ tôi cũng hành nó suốt từ sáng đến giờ. Tôi bắt nó gọt bút chì liên tục, cái thì vót nhọn, cái thì vót bẹt. Thằng này cũng khéo tay, tôi chỉ làm mẫu một lần thế mà lúc nó gọt bút cho tôi còn đẹp hơn là tôi tự gọt. Lần này thằng Tư nhấp giọng mấy cái rồi hát thật. Tôi đã nghe nó hát bài này rất nhều lần, nhưng là hát to trước cả đại đôi. Thằng Tư hát khẽ mới thật là hay. Giọng nó rất trầm và ấm, lại là giọng Quảng Bình nguyên chất. Bài này nó hát rất tình cảm, da diết. Cứ hết mỗi câu, tôi lại đệm đàn mồm "từng tứng tưng" chêm vào những chỗ lặng
Lặng nghe mè kệ ngày xưa,
Chang chang côồng caạc nắng trưa Quảng Bưừn.
Tửng từng từng-tưng-tứng tưng từng . . . (từng-tưng-tứng là các nốt chùm ba)
. . . .
Cái câu hay nhất của thằng Tư:
Lậy chôồng (mà) cụng khổ coong ra
Tạm lầng đẹ mậy lần sa . . ., tội tưừn . . .
Tửng từng từng-tưng-tứng tưng từng . . .
Câu này nó đổ rất hay, rất xúc cảm. Tôi phải quay lại xem có phải nó đang khóc hay không. Tôi không thấy nó khóc, nhưng mắt nó đang cụp xuống. Chắc là lòng nó đang "chết" theo câu hát đó.
Gần trưa thì tôi vẽ xong. Ba thằng giở cơm nắm ra ăn. Cơm nắm, ruốc mặn và nước lã, tuyệt ngon. Cái dao găm gọt bút bây giờ cắt cơm, vẫn là con dao của lão Chí "phèo". Tôi hỏi:
- Dao lão Chí rèn cho ông đâu ?
- Tôi làm gì có. Lão ấy làm đến tiểu đội trưởng, rồi những thằng lên nịnh. Sau rồi lão ấy chán nên nhiều thằng có đâu.
Không biết lão rèn bằng thép gì mà sắc thế ?
- Thế à ? Tôi cứ tưởng đại mình, mỗi thằng được một con.
- Có gió rồi, mát quá !
Một cơn gió cái lướt qua đỉnh núi làm rung rinh các cành lá. Đúng là gió biển có khác, thật mát mẻ. Các dãy núi được chiếu nắng từ sáng đến giờ nên không khí ở mé đông các sườn núi bị nung nóng và đang bốc lên cao. Không khí từ biển chạy vào để thay thế và tạo ra gió, gọi là gió biển. Kiến thức này tôi đã học từ bao giờ, chẳng còn nhớ nữa.
- Này, buổi chiều, bọn trẻ chăn trâu bò và cắt cỏ thường vào thung lũng này đấy. Mình cũng phải chuẩn bị phương
án, nhỡ chúng nó leo lên đây chơi thì xử lý thế nào ? - Quí hỏi.
- Chuyện này bọn tôi đã có bài rồi. Nếu đứa nào lên, mình phải giữ bí mật cho đến lúc nào không thể, thì bắt nó lại.
Rồi mình làm dân vận với nó, dặn dò nó thật chi tiết. Lâu không thấy nó xuống, bạn nó sẽ gọi và đi tìm thì vẫn mặc
kệ. Nếu chúng tìm gắt quá thì cho thằng này nói: "Chúng mày cứ chự Tru cho tau, tau buồn ngụ quá". Nếu bí quá
thì bắt tất cả chúng nó trói lại. Chiều muộn, mình sẽ thả ra rồi chuồn luôn.
- Ờ ! Cũng được.
Quả nhiên, buổi nhiều, rất nhiều trẻ chăn trâu thả trâu trong thung lũng của núi Nhà Nhạn và chơi đùa rất vui. Tiếng trẻ chơi đùa và reo hò dưới lũng làm chúng tôi rất vui. Thật là thanh bình !
Giữa Tháng 7/2011, tôi một mình đi lang thang từ Qui Nhơn ra Huế. Từ trên xe đò, thấy chỗ nào cần xuống thì nhảy xuống. Đi xe ôm chơi loanh quanh một ngày. Rồi lại bắt xe chạy tiếp.
Tôi ra đến Đà Nẵng. Từ Đà Nẵng, bắt xe ôm lên đèo Hải Vân. Chơi chán rồi xuống Lăng Cô. Tôi chơi ở Lăng Cô một ngày. Sáu giờ sáng, bắt xe đò, nửa tiếng sau thì nhảy xuống Cầu Hai. Ăn sáng, uống Cà phê xong, tôi nhờ xe ôm chở ra nghĩa Trang Lộc Điền. Nghĩa Trang này nằm ở chân Đồi Lương Điền. Thắp nén nhang cho đồng đội. Sao nhiều mộ "Chưa biết tên" thế ?! Lòng tôi trĩu nặng.
Xe chở tiếp tôi đến Cầu Truồi. Cầu Truồi đang được sửa chữa. Dòng sông Truồi xưa, giờ dường như nhỏ hơn và kém trong xanh hơn. Hai bên bờ sông bây giờ tấp nập quá, chẳng còn yên ả như ngày nào ! Tôi thả bộ vào làng Truồi. Con đường đất xưa bây giờ là đường bê tông rồi. Trông làng mạc bây giờ "cứng quá", hai bên đường làng nhiều tiệm hàng nhỏ mọc lên, chẳng còn nét um tùm cây cối và mướt xanh của ngày xưa.
Chỉ còn chiếc lô cốt đầu cầu thì vẫn vậy, vẫn vết lủng ngày xưa. May mà cái chứng tích từ thời Pháp này vẫn chưa bị phá.
Tôi đến Huế trên chiếc xe đò bắt được ở chợ Lộc An, mà lơ xe là một phụ nữ. Ả cũng nhanh nhẹn, cũng nhảy lên nhảy xuống đỡ khách lên xuống xe, cũng hò hét, cũng dồn ép hành khách trên xe.
Từ bến xe phía nam Huế, tôi nhờ xe ôm đưa tôi vào thành phố kiếm một chỗ ở trọ.
Sáng hôm sau, tôi thuê xe máy của nhà trọ đi ra phía bắc Huế đến thôn La Chữ. Khoảng mươi cây số từ đường 1 đầu thôn La Chữ, ngoằn nghoèo trên con đường làng. Rồi tôi cũng đến được chân núi Hòn Vượn. Núi thì vẫn như xưa nhưng bây giờ xanh tươi quá, không đỏ trọc như thời chiến tranh.
Khi tôi tới đây, nắng đã lên, tiếng nhiều thứ chim đang hót văng vẳng khắp nơi. Tôi còn nghe lũ vượn hú gọi nhau vang khắp cả rừng núi. Những chiếc lá vẫn còn đọng các giọt sương, lóng lánh phản xạ nắng sớm mai.
Bình minh rừng núi thật tuyệt vời !
Hòn Vượn cũng như núi Nhà Nhạn năm 1975 không có cây như bây giờ. Rừng cây trên hình là rừng cây keo sau này mới trồng. Lúc đó chỉ có cỏ và rất ít cây lúp xúp. Anh em xem, đỉnh giữa của Hòn Vượn thế kia mà lại trọc lóc, liệu có cách gì bộ binh tấn công lên được ?
Ngày 24 tháng Chạp (tiếp)
Quãng hơn 3 giờ chiều, bỗng có mấy đứa trẻ thi nhau chạy lên núi.
- Chết cha ! Nấp kĩ nhớ !
Chúng tôi vừa nấp sau tảng đá vừa quan sát bọn trẻ. Thật là phiền toái quá. Chúng mà lên tới đây thì không có cách nào khác là phải giữ chúng lại. Ba thằng đã sẵn sàng. Rất may, mấy đứa trẻ hăng hái chạy lên dốc nên chẳng mấy chốc chúng đã mệt bở hơi tai và đã dừng lại. Chúng nó hò hét, kêu mấy đứa ở dưới chạy lên trên này, "Trên ni gió mạt lăắm, tụi mi lên đi hầy". Mấy đứa ở dưới ngước lên nhìn nhưng không có đứa nào lên thêm. Mấy thằng ở trên ngồi chơi một lúc thì chán. Chúng lại kéo nhau đi xuống. Chúng tôi cũng thở phào nhẹ nhõm.
Chiều tà, khi lũ trẻ trâu đã ra về hết, ba thằng chúng tôi lục tục xuống núi. Chúng tôi theo đường cũ trở về cứ của Hương Mai.
Chúng tôi về được một lúc thì một tốp trinh sát của trung đoàn 95 cũng từ cứ của Hương Thủy vào tới nơi. Tốp này có 4 người. Chúng tôi bắt tay nhau rất hồ hởi. Tốp này có 4 người. Người thứ nhất là trinh sát dẫn đường của mặt trận, người thứ hai là Lê Tấn Hổ, trung đội phó trinh sát của e95. Hổ thì tôi đã thân từ hồi ở Như Lệ. Hổ giới thiệu với chúng tôi một người rất lớn tuổi tên là . . . (tôi đã quên tên), tham mưu trưởng e95. Sau này chúng tôi bắt chước Hổ gọi anh ấy là "Anh Già". Người còn lại có tên là Mào, còn rất trẻ.
Tốp trinh sát e95 sẽ nghỉ lại và chiều mai sẽ ra điểm quan sát mà chúng tôi vừa ở đó về. Hổ cũng cho biết thêm, ở Chóp Nón, nhóm thằng Chinh làm binh yếu địa chí. Anh Già và Hổ chỉ đi thực địa. Tốp chụp ảnh của Duyên chắc đã chụp xong Chóp Nón rồi và mai sẽ tới đây. Thế là chúng tôi sẽ gặp nhau ở đây. Hổ và Duyên cùng học một khóa Sư Phạm Ngoại Ngữ, chuyên ngành tiếng Anh và cùng nhập ngũ với tôi một ngày (6/9/1971).
Đáng lẽ, ngày mai Tư và tôi có thể về được rồi nhưng tôi cảm thấy rất bứt rứt. Chúng tôi chẳng quan sát được gì trên đỉnh Hòn Vượn. Chợt tôi nảy ra một ý và hỏi mấy anh biệt động:
- Em muốn quan sát phía nam Hòn Vượn quá, liệu có chỗ nào đến để quan sát được không các anh ?
Nghĩ một lúc, rồi một anh nói:
- Cậu muốn nhìn phía nam hả ? Nhưng phải vượt qua đường tăng ở trên kia. Khó nhất là vượt qua mìn của ông
Lảnh. - Ậm ừ một tí rồi anh nói tiếp:
- Thôi được, tớ sẽ dẫn cậu qua bãi mìn, đến đường tăng.
- Vâng ! Thế thì nhất anh rồi. – Tôi rất phấn khởi và nói nịnh anh ấy rồi hồ hởi bắt tay cảm ơn.
Suy nghĩ một lúc, tôi quay sang bàn với anh Già và Hổ:
- Hòn Vượn thì em đã vẽ từ hướng đông rồi. Anh cứ đi thực địa ở hướng đông cùng với Hổ vẽ cảnh đồ và sơ đồ. Quí
với Tư sẽ đưa các anh đi đến đó. Để cho Mào đi cùng Duyên và bọn em quan sát hướng nam. Xong rồi mình cùng
về cho vui và lại được nhiều việc. Lúc về cũng chỉ cần một mình Quí dẫn đường là được rồi, bọn em cũng biết đường
rồi mà.
- Mày thấy thế nào ? Anh Già quay sang hỏi Hổ.
- Được anh ạ ! – Giọng Hổ rất thoải mái. Anh Già quay sang tôi và nói:
- Nhất trí. Rồi anh quay sang cậu trinh sát mặt trận:
- Thôi cho cậu về sớm đấy.
Đêm 24 tháng Chạp
Suốt từ ngày ở Như Lệ - Tích Tường đến nay Hổ và tôi mới gặp nhau nên chúng tôi mắc võng cạnh nhau và nói chuyện "rí ráu" suốt tối đến đêm khuya. Lúc đó tôi mới biết Hổ (c20/e95) và Lâm (c20/f325) cùng ra học "Binh Địa" ba tháng tại d74 của Cục 2. Lúc ở c20/f tôi đã biết Lâm đi học binh địa nhưng Lâm không biết Hổ và tôi cũng quen nhau nên hắn không nói chuyện gì.
Thằng Hổ "lắm mồm" hơn tôi, chuyện phần lớn là nó nói, tôi chỉ nghe là chính. Hồi ở Như Lệ, đạn bom tối mày tối mặt, chẳng có thời giờ mà nói chuyện. Bây giờ nó nằm ôn lại những kỷ niệm từ hồi nhập ngũ, những ngày ác liệt ở phía tây nam Thành Cổ, nhất là những ngày ở Như Lệ - Tích Tường, . . .
Nghe chuyện nó làm trinh sát ở trung đoàn thấy vất vả và ác liệt hơn chúng tôi. Mặc dù trinh sát trung đoàn ít phải luồn sâu hơn chúng tôi nhưng phải trinh sát cận mục tiêu và dẫn đường cho bộ binh tấn công. Rồi, tôi hỏi:
- Này ! kể chuyện người yêu của ông đi !
Hổ trầm xuống một lúc, không còn sôi nổi như lúc kể chuyện lính. Nó kể với tôi chuyện "yêu" của nó với giọng nhỏ nhẹ, ngọt ngào. Bao nhiêu day dứt, giận hờn, nhung nhớ, . . . Nó tả người của nó xinh lắm, nét cười duyên lắm. Nó bảo "Nó yêu tao, đằm thắm lắm", rồi "Nó rất dịu dàng, nhưng mà những đứa dịu dàng là những đứa ác lắm. Mỗi lần nó giận nó cứ im như hến, tao chẳng biết đằng nào mà lần, phát điên . . . ". Tôi cứ mường tượng ra chân dung người yêu nó mà thấy . . . "yêu lây ?!".
Xin lỗi vong linh bạn Hổ ! Những chuyện mà bạn đã tâm sự, rất sâu sắc, bây giờ tôi không còn nhớ được chi tiết.
Ngày 25 tháng Chạp
Hôm nay được nghỉ, tôi ngồi hoàn chỉnh hồ sơ Hòn Vượn, nhất là cái báo cáo thuyết minh mô tả Hòn Vượn.
Quãng 5 giờ chiều, toán Anh Già, Hổ, Tư và Quý rời cứ đi Hòn Vượn. Một lúc sau, nghe tiếng lách cách từ phía ngoài. Rồi một toán bốn người từ ngoài đi vào cứ. Đó là Duyên, Toàn c20/f, Mào c20/e và tay trinh sát mặt trận dẫn đường, vẫn là tay hôm qua dẫn nhóm Anh Già. Mào có lẽ là cậu trinh sát của e95 đã học "trường binh địa" 3 tháng hè năm 1973 tại Trà Liên Tây, do 6971 làm "hiệu trưởng" và tôi là "hiệu phó". Vậy là cậu ấy đã vững vàng là một "tay binh địa" của 95.
Đúng là Duyên đã làm xong ảnh đồ của Chóp Nón (Núi Gió). Đây là lần đầu Duyên và tôi đi luồn sâu cùng nhau. Tối hôm đó, tôi tò mò hỏi về đồ nghề của trính sát ảnh. Máy ảnh của trinh sát ảnh cũng là máy ảnh bình thường nhưng cái ống kính của nó mới thật là dị thường. Không phải là ống kính to hay dài mà là một cái ống kính tự chế. Bài bản này Duyên được học ở d74. Cái ống kính chính là một nửa cái ống nhòm, có thể được gỡ ra từ ống nhòm 6x30 hoặc 8x40. Cái nửa ống nhòm của Duyên là loại 6x30. Nửa ống nhòm được gắn với máy ảnh và được gia cố vào máy bằng . . . dây buộc. Khi điều chỉnh máy, vừa phải điều chỉnh máy ảnh, vừa phải điều chỉnh ống nhòm. Vậy là ống nhòm ghép nối thành cái ống "têlê", giúp chụp ảnh được từ xa, rất hiệu quả và rẻ tiền. Một ống nhòm bổ ra được hai ống "têlê".
Lại một đêm nữa nằm ở cứ của xã Hương Mai.
Tôi đang kể lại chuyện luồn sâu Hòn Vượn đầu năm 1975. Chợt nhớ hôm 10/7/2011. Sáng hôm đó một mình trở lại thăm Hòn Vượn, khoảng 9 giờ sáng, tôi đã rời Hòn Vượn để trở về Huế. Trên đường về, thỉnh thoảng tôi ngoái lại nhìn lại hết một lượt và chụp ảnh.
Khi đã quay về cuối thôn La Chữ, tôi dừng lại một quán nước ven đường. Ở chỗ này tôi có thể quan sát từ xa cả Hòn Vượn và Núi Gió. Tình cờ nói chuyện với chủ quán về những năm tháng tôi đã ở đây thì bà chủ quán bắt nhịp và kể chuyện của bà. Thì ra, chị là cơ sở của biệt động Huế từ những năm 67 – 68. Chị kể, vùng này, hồi đó, ban ngày Quốc Gia kiểm soát mà ban đêm là biệt động và các lực lượng khác của Việt Cộng bí mật đi lại rất nhiều. Nhà chị rất nghèo nhưng đã nuôi dấu rất nhiều Việt Cộng. Sau năm 1968, chị bị bắt tù.
- Chao là cực ! Con tui còn dỏ nờ. Mà chi hắn đánh đau dữ hề.
- Thế chị có khai không ?
- Khai chi mà khai, càng khai càng chết chứ mồ. Hai năm ở tù, tôi nỏ khai chi hết. Vầy chứ, nó mới thả tôi ra tề !
- Rồi sau chị có làm cơ sở cho Việt Cộng nữa không ?
- Thì vẫn rứa chứ răng !
Bây giờ chị ngồi bán nước, mấy thẻ hương, mấy gói bim bim và bán mấy chai xăng để đỡ tiền ăn, ngoài trợ cấp hai trăm ngàn một tháng của nhà nước đối với "Người Có Công" ?!
Ngày 26 tháng Chạp
Nấu cơm và ăn sáng xong, anh biệt động dẫn bốn đứa chúng tôi vượt qua "rừng mìn" để đi về phía nam Hòn Vượn. Chúng tôi phải đi cách xa nhau và phải đi theo đúng vết chân của người đi trước. Khu vực này toàn rừng khá rậm nên dây dợ lằng nhằng, không biết đâu là dây rừng, đâu là dây bẫy. Tôi đi sau anh biệt động. Tiếp theo là Duyên, Toàn và cuối cùng là Mào. Tôi cứ nhằm đúng vết chân anh biệt động để lại mà bước vào. Dấu bước chân không phải là khó nhìn. Rừng hoang không dấu chân người, bây giờ đạp lên là nhìn rõ dấu vết. Sau khi vượt qua cỡ vài trăm mét, anh biệt động dừng lại và hướng dẫn đường đi tiếp cho chúng tôi đến đỉnh đèo. Anh bắt tay từng người: "Cẩn thận nhớ !".- "Vâng !"
Chúng tôi tiếp tục leo ngược lên núi một đoạn thì đến đỉnh đèo. Đỉnh đèo chính là chỗ có đường tăng thông Hòn Vượn với Động Ngang (bây giờ nhìn trên bản đồ bằng ảnh vệ tinh vẫn còn thấy). Con đường tăng nằm đúng đỉnh đèo và cắt đôi cánh rừng. Hai bên đường được phát quang, chỉ còn lại cây lúp xúp. Trên đỉnh Hòn Vượn và đỉnh Động Ngang địch có thể quan sát được đoạn đường tăng này. Tôi dừng lại quan sát rất kỹ xem có động tĩnh gì và chọn đường để vượt. Tôi khoát tay để Duyên đến gần và đứng cảnh giới cho Duyên vượt qua đường tăng. Rồi đến lượt Toàn và Mào. Tôi là người đi sau cùng. Sau khi quay lại, cẩn thận xóa dấu vết cửa rừng vào cứ, tôi quan sát mặt đường tăng thấy anh em chạy qua đường có để lại nhiều vết. Những vết như thế thì cũng khó mà biết là do lính địch hay Việt Cộng để lại. Tuy nhiên tôi vẫn cẩn thận bứt một cành lá, vừa vượt qua đường vừa xóa hết các vết đó.
Tưởng rằng mấy đứa vượt qua đường rồi thì đứa cuối cùng dừng lại cảnh giới cho tôi, ai dè, mấy đứa biến luôn vào rừng, nhanh như sóc. Tôi bị rớt lại. Rừng rậm nên tôi không nhìn thấy chúng nó mà cũng không còn nghe tiếng sột soạt của cây lá nữa. Vậy là chúng nó đã đi khá xa, không đứa nào dừng lại chờ.
Tôi chỉ hơi bực một chút rồi lẩm bẩm trong đầu: "Tao sẽ bắt sống chúng mày nhá !".
Tôi dò theo từng dấu chân dưới đất và các cành lá bị uốn cong bất thường. Chừng nửa tiếng sau, tôi nghe tiếng động của lá cây ở phía trước. Tôi từ từ dò đến tận nơi mà ba đứa không hề hay biết. Hai thằng đang trèo trên cây còn thằng Toàn đang cảnh giới dưới đất. Nghe tiếng tôi tặc lưỡi, ba thằng đều giật mình quay lại, thì, tôi đã lù lù ở ngay gốc cây mà Duyên đang ngồi chụp ảnh trên cành cao. Thằng Mào, ở trên cây khác, đang quan sát để vẽ cảnh đồ. Tôi thì thào vào tai Toàn:
- Mấy thằng bỏ rơi tao, không đứa nào chờ.
Thằng Toàn nhăn cái mặt lại mà cười. Tôi nói tiếp:
- Các bố để lại dấu vết, con còn phải xóa mãi đấy. Bây giờ con bắt sống các bố nhá !
Ba thằng nó bỏ rơi tôi mà vẫn cứ làm việc bình thường, chẳng ai để ý xem tôi đang làm sao. Có khi tôi bị địch bắt sống rồi chúng nó cũng chẳng biết. Tuy vậy, tôi cũng chỉ giận chúng được vài phút rồi vui vẻ trèo lên một cây khác để quan sát Hòn Vượn. Tôi nới cái xanh tuya rông rộng ra một chút, rồi choàng qua thân cây làm dây bảo hiểm. Hai tay tôi được tự do dùng ống nhòm quan sát và bắt đầu vẽ cảnh đồ. Đây là điểm quan sát Hòn Vượn từ hướng Nam.
Cũng như ở hướng đông, chúng tôi ở thấp hơn nên không quan sát thấy gì trên đỉnh núi. Vậy cảnh đồ và ảnh đồ cũng chỉ cho thấy địa hình rất hiểm trở ở phía này mà thôi. Ở phía nam Hòn Vượn là rừng cây khá rậm. Xung quanh căn cứ của địch được phát quang xuống khá sâu, hàng trăm mét. Nếu tấn công địch từ đây, lính ta phải leo sườn núi rất dốc. Lên đến gần đỉnh, cách hàng trăm mét lại hoàn toàn trống trải. Chẳng có cách gì mà vượt lên được. Địch ở trên, chỉ cần thả lựu đạn liên tục xuống là "mo" hết.
Giữa trưa, chúng tôi tụt xuống nghỉ giải lao và bỏ lương khô ra chén. Bây giờ Duyên mới nói xin lỗi, còn thằng Mào thì chỉ cười. Thằng Mào cười, mắt nó cứ tít lại, không còn "dòm" thấy gì nữa.
Tôi cũng không biết rằng, sáng nay ba đứa bỏ rơi tôi lại là một điềm báo trước, chúng nó còn sẽ bỏ rơi tôi một lần nữa, vào tay địch.
Chiều 26 tháng Chạp - Bại lộ
Nghỉ ngơi một lát, ba thằng tiếp tục trèo cây để làm nốt công việc. Ở trên cây vẽ cảnh đồ cứ run run. Thôi cũng đành, "về nhà" sửa lại vậy. Duyên hoàn tất công việc sớm nhất, nên đã tụt xuống đất cảnh giới cho Toàn trèo lên cây để "ngó" một chút.
Khoảng gần 4 giờ chiều, mọi việc đều xong. Tôi lại dẫn đường cả toán trở lại cứ của xã Hương Mai. Trời chiều nay âm u nên có cảm giác như gần tối đến nơi. Tôi chạm đến đường tăng trên đỉnh đèo, đoạn này, phía tôi đang đứng, có ta-luy. Cây lúp xúp sim mua, cỏ tranh, . . . mọc khá tốt. Ngó trước ngó sau không thấy động tĩnh gì, tôi nhảy xuống đường, mắt vẫn dáo dác nhìn xung quanh.
Ngay lập tức tôi nhìn thấy hai tên lính đang ngồi trên bờ ta-luy, cách đó chừng hai chục mét, hơi khuất sau một đám cây. "Chết cha ! lộ rồi !". Sáu con mắt chăm chăm nhìn nhau. Vừa lúc đó, một thằng hoảng hốt thét lên:
- Ai ?
Trong đầu tôi như có luồng điện, ý nghĩ lướt nhanh: "Quay lại hay vọt qua đường ? Nếu quay lại, mấy thằng kia cũng sẽ bị lộ. Mà, mình mở khóa nòng không kịp rồi". Lúc đó hai thằng nó đã vơ súng chĩa vào tôi. Lập tức, tôi vọt qua đường. Mấy loạt AR15 rẹt rẹt phía sau. "Trúng được bố cũng khó đấy con ạ !" – Trong đầu tôi lẩm bẩm. Qua đường rồi, tôi nằm xuống ngay bờ dốc và mở khóa nòng. Tôi chờ đợi chúng nó tới và không di chuyển thêm một chút nào nữa. Lúc đó, tôi thấy rất nhiều tiếng súng AR15. Rồi, tiếng lựu đạn được quăng, vượt qua đầu tôi, nổ ở mãi phía dưới dốc. Chỉ là súng nổ và lựu đạn quăng chứ không có thằng nào dám mò về phía tôi.
Chừng 2 phút sau, đạn cối 81 bắt đầu nổ đâu đó ở phía dưới, nhưng rất xa chỗ tôi nấp. Chắc chúng tưởng tôi chạy tiếp nên bắn đón đầu xuống phía dưới. Bắn chán chê hồi lâu, tất cả trở lại im ắng. Tôi không thấy lính địch có biểu hiện càn tiếp trên con đường. Thì ra chúng cũng sợ. Phía trước mặt tôi, không có đứa nào đi qua. Chắc là chúng cũng rút về Hòn Vượn.
Chờ chừng nửa giờ đồng hồ, tịnh không có một bóng người, cũng không có một tiếng động nào. Chắc chắn là chúng đã rút rồi. Ừ, mà chúng rút rồi là hợp lý. Có vậy cối nó mới bắn vào đây chứ . . . .
Tôi Tắc lưỡi ba lần khá to làm ám hiệu cho Duyên, Toàn và Mào. Chờ đợi. Lại tắc lưỡi và chờ đợi. Lại vẫn "bặt vô âm tín". Mình quay lại tìm chúng nó hay lui về cứ đây ? Chẳng lẽ bỏ ba thằng nó mà về một mình ? Nếu quay lại tìm, mò theo dấu vết của chúng, rất chậm, liệu có đuổi kịp chúng không ? – Trời tối mất.
Không biết tôi đã chờ, tìm cách liên lạc với ba đứa, dùng dằng chọn giải pháp trong bao lâu. Nhưng mà trời đã bắt đầu tối thật rồi. Trong lòng rất buồn bã và thất vọng vì hai điều hết sức hệ trọng. Một là, đã làm lộ, sau khi xong việc trong lúc đi trên đường về. Liệu có ảnh hưởng đến ý đồ lớn của sư đoàn ? Mong sao địch nó vẫn tưởng là du kích hay biệt động thường đi qua đây và hôm nay bất ngờ để bị lộ . Hai là, phải bỏ rơi ba đồng đội, không biết họ ra sao mà lại rút về một mình.
Bứt rứt không yên, tôi lại vọt qua đường và sục sạo một đoạn. Dấu vết mấy đứa vẫn còn đây mà người thì chẳng thấy tăm tích gì. Tôi vừa dò dẫm vừa dùng dằng trong quyết định nên "làm thế nào ?". Nếu mò theo chúng nó, tôi sẽ không thể kịp khi trời chưa tối và sẽ phải ở một mình đâu đó trong rừng. Nếu không về cứ nhanh, tôi cũng không thể vào được nữa vì trời tối sẽ không tránh được "rừng mìn" xung quanh cứ. Cuối cùng, Tôi quyết định, trở về cứ Hương Mai.
Tôi dò dẫm tìm các dấu vết trên mặt đất mà buổi sáng chúng tôi còn để lại trong "rừng mìn". Từng bước, từng bước một, lần lần, tôi cũng về được đến cứ của xã Hương Mai, vừa may khi trời đã sập tối. Tiếng một người từ trong nhà vọng ra:
- Bị lộ rồi hả ?
Tôi không trả lời mà ngồi phịch ngay xuống thềm đất, trong lòng hết sức buồn bã vì làm hỏng việc. Không những vậy, tôi rất lo lắng và day dứt vì đã bỏ rơi mấy đứa ngoài rừng. Giờ này thì không có cách gì chúng về lại được cứ của Hương Mai nữa. Không biết chúng sẽ vất vưởng, lay lắt trong rừng đêm nay như thế nào. Nhỡ ra, trong đêm chúng mò về mà bị phục kích thì sao, . . .
Tôi cứ ngồi thừ người như vậy rất lâu. Tiếng anh biệt động lại vọng từ trong nhà ra:
- Áy náy vì bỏ đồng đội chạy một mình hả ?
Lần này tôi vẫn chỉ im lăng. Vừa lúc đó, tiếng sột soạt cây lá từ phía dưới suối, rồi mấy người toán Anh Già từ ngoài đã rúc vào đến sân. Tôi trông thấy dáng người thâm thấp của Quí đi đầu, rồi đến Hổ, anh Già và Tư. Hổ cất tiếng hỏi:
- Hôm nay nó bắn cối vào đây à ? Lúc đầu chúng tôi tưởng chúng đi càn vào cứ mình. Sau thấy nó bắn cối mãi, chẳng
thấy tiếng súng con mới biết là không phải càn.
- Các cậu bị lộ thì nó bắn chứ nó làm sao vào được đây. – Anh biệt động trả lời.
Hổ quay sang tôi, hỏi:
- Mấy thằng kia đâu ?
- Chưa về.
Sau khi nghe tôi kể lại chuyện bị lộ trên đường tăng, lại thấy tôi quá buồn bã và sốt ruột. Hổ tương liền một mạch:
- Không thằng nào bị sao là tốt rồi, có gì mà phải lo. Chúng nó ba thằng, tự lo cho nhau, có gì đâu. Ngủ rừng thì thằng
nào mà chả ngủ. Tao thấy ba thằng nó bỏ rơi mày thì đúng hơn. Mày bị bắn mà chúng nó cũng không đứa nào nhòm
ngó. Nhỡ mày bị thương, chưa chết, nằm một mình ở đấy, rồi mất máu mà chết thì thế nào ? Thôi đi, chuyện không
có gì cả. Đói quá ! đi nấu cơm đi.
- Thằng Hổ nó nói đúng đấy. Đi trinh sát mãi, có ngày bị lộ cũng là chuyện thường. "Đi đêm lắm có ngày gặp ma" là
chuyện tất nhiên. Mình chỉ chủ quan một tí thôi là trả giá ngay. Thôi, những lần như thế này, thì lần sau dày dạn
hơn. Mà mấy thằng kia, đã là trinh sát thì chúng nó sẽ tìm đường khác mà đi. Có khi chúng nó về luôn, chửa biết
chừng. Thôi bỏ đi cậu ! – Anh già động viên.
Đúng là tôi đã quá chủ quan. Tưởng chiều muộn rồi thì chẳng có ai trên con đường tăng hoang vắng. Tôi cũng không ngờ rằng, mấy thằng đó lại ngồi nghỉ trên bờ ta-luy của con đường và bị cây che khuất. Lẽ ra, đến đó, tôi phải dừng lại nghe ngóng thật lâu. Giá mà như vậy, thể nào cũng nghe tiếng chúng nói chuyện, hay tiếng sột soạt của cây, hoặc tiếng lách cách của vũ khí, . . .
Bài học nào trên chiến trường cũng đều đắt giá. Mấy đứa tôi không làm sao, thật là may. .
Ngày 27 tháng Chạp (Giáp Dần) - Rơi vào ổ phục kích
Đêm qua tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Không biết Duyên, Toàn, Mào bây giờ ở đâu. Duyên, vốn tính rất thận trọng, chắc chắn hắn sẽ không dại gì mà quay về đây trong đêm vì cảnh giác sợ địch phục kích và sợ vướng phải mìn của biệt động bố trí xung quanh cứ. Ba thằng có một cái bản đồ, không biết chúng có tìm được đường về đâu đó nghỉ tạm qua đêm. Sợ nhất là chúng lại đi tìm tôi trong đêm thì, thật là tôi khốn nạn quá. Tôi chui về đây mà ngủ để chúng nó đi tìm. Thằng Hổ nó nói "Không thằng nào bị sao là tốt rồi" làm cho tôi cảm thấy đỡ bức xúc. Tuy nhiên, tôi day dứt vì sợ đã làm hỏng ý đồ của sư đoàn. Hôm nay, chúng nó nhìn thấy một thằng mặc đồ "giải phóng", đầu mang mũ tai bèo, sau lưng đeo một cái gùi nhỏ, tay cầm khẩu AK báng gấp. Liệu khi giao ban, địch có thể phán đoán là ta đang chuẩn bị chiến dịch ở đây không ? Quả thật, tôi thấy trong lòng nặng trĩu và rất ảm đạm. Chốc chốc tôi lại thở dài và tự trách mình "Quá kém ! Quá kém ! Quá tồi, quá tồi !". Không biết tôi đã chợp đi từ lúc nào. Khi chợt tỉnh dậy, trời vẫn còn tối. Bây giờ tôi mới cảm thấy đói. Thực sự, tôi không còn nhớ mình đã ăn bữa tối qua như thế nào.
Tôi tụt khỏi võng rồi đi ra sân. Kỳ lạ thật ! Đêm nay đã là 26 tháng Chạp. Chỉ còn vài ngày nữa là tết, trời không trăng, không sao, mà sao lại sang sáng,. Không có lẽ đèn thành phố làm cho bầu trời sáng như thế này. Đâu đó vang lên tiếng "cù ú . . . cù ú . . .". Tiếng cú rúc nghe thật ai oán và thê thảm. Không biết có phải là điềm gì ? Chắc là sắp sáng rồi.
Ngày hôm nay chúng tôi nghỉ lại, chiều tối sẽ sang Hương Thủy. Không nghe tin tức gì về Duyên, Toàn và Mào. Tôi ngồi hoàn chỉnh nốt cảnh đồ mà trong long chẳng yên tí nào. Cả một ngày dài dằng dặc rồi cũng trôi qua.
Chưa tắt nắng, chúng tôi đã ra khỏi cứ. Tôi đi đầu, đến Hổ, anh Già, Tư và Quí. Ráng trời chiều đỏ hừng lên ở phía sau Động Ngang và Hòn Vượn. Chúng tôi lặng lẽ đi. Sẽ phải vào được cứ của Huyện Hương Thủy trước khi trời tối. Sáng mai, chúng tôi sẽ từ đó mà hành quân về sông Bồ. Không khí trong thung lũng này đã dịu bớt nóng nhưng vẫn còn oi ả. Nhìn về phía trời tây, tôi phải thốt lên vì cảnh hoàng hôn đẹp lạ lùng và ma quái ! Vừa đi, tôi vừa ngoái lại phía sau để nhìn ngắm cái rặng núi chạy dài từ Động Ngang sang Hòn Vượn. Áng trời đỏ đang ngun ngún bốc lên từ sau núi.
Rồi, không đừng được, tôi dừng lại mở gùi, lấy ống nhòm ra để ngắm và để quan sát lại lần cuối cái căn cứ chết người được mệnh danh là "Con mắt phía bắc của Huế". Không biết sư đoàn có triển khai chiến dịch ở đây ? Mong sao là không ! Tôi quan sát khá kỹ xong, đang chuẩn bị cho ống nhòm vào gùi thì Hổ nói để cho nó quan sát đã. Lúc đó, Tư và Quí có vẻ sốt ruột nên đã vượt qua chúng tôi để vào cứ trước. Trong khi Hổ đang quan sát, tôi rút bản đồ ra xem lại và trao đổi với anh Già.
Đoàng . . . ! Đoàng . . . ! à . . . . à . . . .
Hai tiếng nổ bất ngờ liên tiếp, cách chỗ chúng tôi mấy chục mét. "Bị phục kích rồi !", "Chúng nó bắn chết thằng Quí và thằng Tư rồi !" Tiếng nổ vọng à . . . à . . . trong thung lũng, giật đi giật lại. Chúng tôi đều nhận ra hai tiếng súng, loại M79. Chúng nó bắn thẳng bằng đạn ria, mỗi quả hàng trăm viên bi. Ở cự ly gần thì không còn cơ hội sống.
Cả ba người đều bị bất ngờ và lung túng. Hổ nhanh miệng nhất:
- Làm sao bây giờ ?
- Có lẽ anh Già ở đây, Hổ với em thử mò xem sao. – Tôi nói. Hổ tiếp lời:
- Vâng, anh cứ ở đây, Trời chưa tối chúng em thử đi xem thế nào.
Chần chừ một thoáng rồi anh Già nói :
- Không được. Hai đứa nó rơi vào ổ phục kích rồi. Bây giờ chưa chắc chúng nó đã rút mà có khi vẫn phục tiếp.
Nó phục mà các cậu đi thì chỉ có chết. Nếu nó rút rồi thì cũng gài mìn lại. các cậu phải tránh trực tiếp đến
chỗ đó và phải đi vòng đường khác. Thế thì ăn mìn của biệt động. Mìn của biệt động làm sao các cậu qua
được. Đây là cửa cứ của biệt động rồi. Các cậu không được đi.
- Vậy để hai thằng đó, nhỡ nó chỉ bị thương, mình phải cứu chứ !
- Chỗ cửa cứ này là cái khe suối hẹp. Chúng phục ở trên bờ mà bắn găm cối cá nhân đạn ria, chắc chỉ cách mặt
mình 2 mét. Không ai sống được đâu. Đằng nào cũng vậy rồi. Các cậu không được hy sinh vô ích.
Tôi có cảm tưởng như trời tối và đỏ sậm lại. Tiếng súng nổ dường như vẫn văng vẳng bên tai. Tư ơi ! Quý ơi ! vậy là chúng mày ra đi mà chưa kịp nhận ra điều gì. Quá nhanh, quá ác nghiệt.
Bọn thám báo phục kích trước cửa căn cứ của huyện Hương Thủy để rình anh em biệt động chiều tối về thành sẽ úp trọn ổ. Cái cứ này, chúng đã biết từ lâu, nhiều lần có ý định san phẳng mà không được. chúng cũng biết quy luật của biệt động, cứ tối đến là từ đây xuất kích và đã quyết tâm rình. Không ngờ được, chúng tôi lại từ ngoài cứ đi vào. Chắc vì thế nên chỉ thấy M79 nổ. Nếu biệt động từ cứ đi ra, hẳn sẽ lĩnh đủ vài trái M18A1 (Claymore).
Mà sao hai thằng lại vượt lên trên chúng tôi để đi trước, chết thảm như vậy. Mà sao, tôi bỗng dưng dừng lại. Giá mà tôi không dừng lại thì chắc chắn cái chết là của tôi và Hổ. Nếu đi cách xa nhau, chưa chắc thằng Tư và Quý đã lọt vào ổ phục kích và có thể thoát được. Vậy là hai thằng đã chết thay tôi, chỉ trong gang tấc, chỉ là một phút vượt lên.
Chúng tôi mò mẫm ngược về cứ Hương Mai. Trời đã tối từ lúc nào nên mãi chúng tôi mới vào được đến nơi. Trong cứ chỉ còn lại một anh biệt động. Dường như anh đã biết tất cả. Hay là, anh đã quá quen với việc bị phục kích và hy sinh. Không thấy anh hỏi han gì chúng tôi. Một lúc lâu, anh mới nói:
- Bọn này phải chết. Chúng nó không thể thoát được đâu.
Đêm 27 tháng Chạp
Chuyện anh biệt động nói: "Bọn này phải chết. Chúng nó không thể thoát được đâu" sẽ xảy ra vào ngày 28 tháng chạp, xin được tạm gác để kể sau.
Đêm. Tôi lại trằn trọc không ngủ được. Tại sao thằng Tư vượt lên trên tôi ? không có gì có thể lý giải được. Thực ra, tôi đâu có cần dừng lại mà ngắm Hòn Vượn từ xa như vậy. Tại sao tôi dừng lại ? Chịu ! Suất ăn đạn phục kích của thám báo chắc chắn là của tôi chứ ! Sao thằng Tư bỗng dưng lại tranh lấy.
Kể đến đây, tôi nhớ, hè 2009, tôi vào nhà Hổ. Lúc đó khoảng gần mười giờ tối. Hai thằng vẫn đau đáu nhắc lại chuyện hy sinh của Tư và Quý. Chuyện đó hai thằng đều rất nhớ, nhắc lại vẫn thấy nhói đau. Vậy mà chỉ nội chuyện đó hai thằng "rất nhớ" lại khác nhau năm bảy chi tiết. Chúng tôi cãi nhau loạn xạ. Hổ nói:
- Hôm ấy tao đi đầu, dừng lại để lấy ống nhòm xem nên tao với mày mới không chết.
- Đ' . . . phải ! Không bao giờ có chuyện tao đi thứ hai. Tao đi đầu. Tao dừng lại lấy ống nhòm, ngắm cảnh
hoàng hôn là chính, vì nó đẹp quá. Tao xem xong, mày mới mượn để xem. – Tôi cãi lại.
- . . . éo phải. Không bao giờ tao đi thứ hai nhá ! Tao dừng lại, rồi, có mày xem nhờ ống nhòm của tao thì có. – Hổ cãi.
- Tao không ngờ chuyện đó mà mày lại quên . Buồn cho trí nhớ của mày quá ! – Tôi quát.
- Tao thất vọng cho trí nhớ của mày đấy ! Hổ quát lại, to hơn.
- Thôi được ! Thế mày tả lại hôm đấy như thế nào, xem có hợp lý không ! - Tôi đưa ra bẫy cho thằng Hổ.
- Mày kể đi ! - Hổ đẩy cho tôi.
- Quá dễ. Ngày mà thằng Tư và thằng Quí nó chết, tao không quên đến từng chi tiết. Nó luôn ở trong đầu tao đây này. - Tôi nói.
- Thế à ! Nó cũng luôn ở trong đầu tao. Mà tao còn có nhật ký nhá ! Tao rất hay đọc lại đoạn này nhá ! Mày chịu
chưa ? – Hổ quát vào mặt tôi.
- Tuyệt ! Tao chấp nhận nhật ký của mày là trọng tài. Kể cả mày ăn gian, viết không đúng đi nữa thì nó sẽ vô lý
ngay. Vì trong đầu mày, lúc nào mày cũng là thằng dũng cảm nhất, nên phải đi đầu. Tao đồng ý là mày dũng cảm
nhất, nhưng mà mày đi sau tao. – Tôi quát lại.
- Mày mới là thằng đi sau tao. Được rồi để bố lấy nhật ký cho mày mở mắt ra mà xem.
- Mày lấy đi. Mà lấy cho bố chai nước hãng !
Ở nhà, thằng Hổ mặc bộ đồ. Nó tất tả đi khuất vào phía trong. Tiếng nó chạy huỳnh huỵch lên cầu thang. Chắc nó để nhật ký trên gác.
Hơn nửa tiếng sau, tiếng nó huỳnh huỵch chạy xuống. Rồi nó hiện ra ở cửa hông, trần trùng trục. Trên người nó chỉ còn độc cái quần đùi, mồ hôi nhễ nhại. Nó quăng mấy cuốn sổ lên bàn và nói:
- Mày tìm đi !
- Nhật ký mày thường xuyên đọc lại thì mày tìm đi ! Cho nhanh.
Hổ bật bật các trang nhật ký một lúc thì tìm ra đoạn Hòn Vượn. Nó nói:
- Đấy, mày đọc đi !
- Mày đọc đi để tự mày thấy mày sai. - Tôi nói.
Rồi thằng Hổ nó đọc to cho cả tôi nghe. Nó đọc đến đâu thì tôi "À ! À !" đến đó. Rồi tôi nói:
- Mày thấy mày sai rồi nhé !
- Ừ nhể ! Sao tao lại đi sau mày nhể ? - Hổ băn khoăn.
- Thôi thế được rồi !À này, anh Già tên là gì nhể ? tao quên tên ông ấy rồi. – Tôi hỏi.
Hổ đã nhắc cho tôi nhớ lại tên anh ấy. Thế mà chỉ sau đó ít lâu tôi lại quên. Thế có tệ không ? Chắc hẳn tên "Anh Già" đã hằn trong tôi nên bộ nhớ bây giờ không chấp nhận một cái tên khác.
Quay trở lại đêm sau khi bị phục kích. Tôi không tài nào ngủ được. Chuyện Tư và Quý sao quá mau lẹ và bất ngờ. Không thể tin được. Vừa đấy mà đã . . . Thật là tức tưởi quá !
Rồi tôi nhớ đến chuyện bị lộ chiều hôm trước. Nhớ lại tôi càng băn khoăn về lúc tao ngộ với mấy tên lính. Rõ ràng tôi chỉ nhìn thấy hai thằng, không thấy có điện đài. Thế mà sao chỉ vài phút sau, cối ở Hòn Vượn đã câu xuống. Chắc hẳn còn nhiều tên khác mà tôi không nhìn thấy. Vậy thì không phải chúng đang vận tải đồ từ Hòn Vượn đi Động Ngang mà là chúng đi tuần và đang ngồi hóng gió. Như vậy mới hợp lý. Thôi kệ ! Tôi lo lắng không biết ba thằng kia bây giờ ở đâu ? Cả ngày hôm nay tôi vẫn chờ, nhất là lúc sáng sớm và chiều tối. Mà, vẫn không thấy chúng nó trở về.
Tôi liên tục thở dài vì buồn bã. Bị lộ, lung tung đã đành, lại còn ba thằng mất tích, rồi hai thằng hy sinh.
Một chuyến luồn sâu thảm bại !
Rút lui theo đường khác
Đấy là chuyện Duyên, Toàn và Mào.
Mãi chiều ngày 28 tháng Chạp tôi mới gặp lại Duyên và Toàn. Ba thằng nắm chặt tay nhau trong nỗi bùi ngùi vì Tư và Quí đã hy sinh. Rồi Duyên kể lại chuyện chúng tôi bị phân tán mất nhau trên đỉnh đèo đường tăng.
Khi chúng tôi đang về cứ Hương Mai từ vị trí quan sát, lúc tới sát đường tăng, Duyên ngửi thấy mùi thuốc lá Bato khen khét. Vì cách khá xa tôi, nên Duyên dùng hòn sỏi nhỏ ném vào tôi để báo hiệu nhưng không trúng. Vậy là tôi cứ thế mà "trôi' xuống đường tăng và bị lộ. Những loạt đạn M16 rẹt rẹt đuổi theo tôi một hồi, sau đó chúng rẹt qua phía đường còn lại. Chỉ là một loạt đạn vu vơ, hú họa, thế mà thằng Mào lại dính. Viên đạn cỡ 5,56 milimét sượt qua trước mặt và găm vào đúng tí của nó. Tí thằng Mào to và dầy nên viên đạn còn mắc lại trong mô mỡ. Chỉ có chút máu rỉ ra rồi đông lại.
Duyên, Toàn và Mào rất lo lắng cho tôi. Chúng lo tôi đã bị bắn chết hoặc đã bị thương. Được cái chúng nó cũng "tử tế", tin tưởng tôi, nên không đứa nào nghĩ đến phương án tôi bị bắt sống. Chúng nó cứ chần chừ mãi không biết nên xử trí làm sao. Dò tìm tôi ở bên kia đường tăng thì quá nguy hiểm vì có thể địch chưa rút, thậm chí chúng đang mai phục. Không đứa nào nghĩ ra chúng đã chạy xa hàng nhiều trăm mét rồi mới gọi cối bắn vào chỗ tôi. Mặt khác, để thằng Mào bị thương ở đấy để tìm tôi, có khi quay lại thì lại lạc nhau. Cuối cùng, ba đứa quyết định rút lui theo đường khác.
Chúng nó quyết tâm rút hẳn về trạm nghỉ chân qua đêm trên đường mà chúng tôi hành quân từ sông Bồ tới đây. Mò mẫm một lúc thì trời tối nên ba đứa phải tạm dừng để sớm hôm sau đi tiếp. Sớm ngày 27, ba đứa tiếp tục dò đường đi tiếp. Phải mất cả buổi sáng hôm đó, cuối cùng, ba đứa đã đến được vị trí định trước. Xem lại vết thương của Mào thấy không có gì nguy hiểm, ba đứa bàn nhau nghỉ lại đây để sớm hôm sau Duyên và Toàn sẽ quay lại tìm tôi.
Sớm ngày 28 tháng Chạp, sau khi lo chỗ ăn nghỉ cho Mào ở lại một mình, Duyên và Toàn tìm đường đi cứ của Hương Thủy.
Khi hai thằng vào đến cứ của Hương Thủy mới hay tin chiều qua thám báo phục kích trúng vào lính trinh sát. Duyên và Toàn đinh ninh là tôi đã hy sinh (vì tôi thường đi đầu). Duyên nghĩ, số tôi phải chết. Nếu hôm kia tôi không trúng đạn khi bị lộ thì ngày hôm qua đã chết vì phục kích. Nó nghĩ đến bố mẹ tôi. Ngày về Hà Nội, đến nhà tôi nó sẽ không biết kể chuyện với bố mẹ tôi như thế nào.
Dưới đây là đường rút của Duên, Toàn, Mào và đường trờ lại cứ huyện Hương thủy cảu Duyên và Toàn.
Biệt động tập kích thám báo
Ngày 28 tháng Chạp
Sáu giờ sáng, tôi thức dậy, đã thấy anh biệt động đang ngồi uống trà và hút thuốc lào. Anh bảo:
- Cậu đánh răng rửa mặt rồi đi với tớ.
- Vâng !
Anh biệt động dẫn tôi ra vị trí quan sát của cứ. Mỗi người chúng tôi trèo lên một cây khá to và cao. Tôi chọn một trạc ba ở gần ngọn cây. Anh ấy nói và chỉ cho tôi quan sát xung quanh cứ, vị trí nào ở đâu. Rồi anh chỉ cho tôi cứ của Huyện Hương Thủy và chỗ chúng tôi bị phục kích ngày hôm qua:
- Cậu cứ ở đây mà xem chuyện sắp sảy ra.
- Vâng !
Anh kể cho tôi nghe chuyện có duyên nợ với bọn thám báo của trung đoàn 51. Cũng đã nhiều lần chúng phục kích đường đi của các anh. Một hai lần đầu các anh đã bị dính. Từ đó về sau, mỗi cứ đều có canh gác. Cứ nào cũng có vài điểm quan sát trên các cây cao để bảo đảm có động tĩnh gì ở xung quanh thì đều nắm được. Anh bảo, chắc chắn hôm qua bọn thám báo di chuyển từ xa đến điểm phục kích thì biệt động ở Hương Thủy phải biết rồi và họ đã phải có phương án tác chiến. Bên đó họ không biết hôm qua các cậu từ đây đi sang đó. Nếu biết, họ đã qua đây để báo trước rồi.
Khoảng 6 giờ 30 phút, một tiếng nổ đùng . . . hù . . .ụt . . . oành. Rồi một tiếng nữa tiếp theo. Đó là tiếng hai phát đạn B40 liên tiếp. Khói trắng lẫn nâu bốc lên từ vạt cây thưa gần cứ của huyện Hương Thủy. Ít giây sau, nghe tiếng nổ toác toác của những trái US. Lặng đi một chút rồi dậy lên những loạt AK ngắn, điểm xạ rất đĩnh đạc. Anh biệt động nói:
- Bên đó họ tập kích bọn thám báo đấy, chắc là tiêu diệt gọn rồi. Tớ đã bảo rồi mà, bọn này phải chết, không thể thoát được đâu. Chắc bên đó họ bám chúng nó ngay từ chiều hôm qua, trước khi các cậu bị bắn. Nhưng thấy chưa thuận lợi nên chưa đánh. Chắc bây giờ chúng ăn đòn khi vừa ngủ dậy.
Tôi vừa nghe anh biệt động nói vừa thấy trong lòng rất cảm phục vì sự dày dạn của các lính cựu biệt động. Họ đánh địch cứ như cuộc chơi sinh tử. Họ không thể chấp nhận thám báo lại rình rập ngay cửa căn cứ của mình và nhất quyết phải dằn mặt bọn chúng để chúng chừa hẳn. Trông cách họ đánh, vừa nhanh gọn, vừa hiệu quả, chẳng khác gì những thợ săn lành nghề rình rập con mồi của mình vào cửa tử rồi nhả đạn.
Trinh sát chuyên nghiệp của một sư đoàn chủ lực 325 thiện chiến, chưa bao giờ biết tập kích địch như thế. Tôi có cảm tưởng chúng tôi chỉ bắt được gà trong chuồng chứ chưa săn được thú trong rừng. Chúng tôi là một đội rất đỗi nghiệp dư đang xem những thợ săn lành nghề biểu diễn.
Khoảng một tiếng sau khi súng nổ, hai chiếc trực thăng từ phía sau đỉnh đèo vọt sang. Chúng đang rà quét trên khu vực bọn thám báo bị tập kích. Chắc chúng nó định hạ xuống lấy xác. Tôi rất hồi hộp và có phần lo lắng cho lính biệt động. Không biết trận đánh sẽ tiếp diễn ra sao.
Một chiếc bay lượn vòng và bắn đại liên ra xung quanh. Chiếc còn lại hạ độ cao rất nhanh. Khi nó chuẩn bị tiếp đất thì một phát B40 phụt thẳng đến đó. Quả đạn đi hơi thấp, hớt dưới bụng chiếc máy bay. Tiếc quá ! Thằng này vội vã bốc thẳng lên cao. Rồi hai chiếc máy bay liên tục nhả đạn. Không thằng nào dám hạ xuống thấp. Bắn bừa bãi một hồi rồi hai chiếc trực thăng bốc thẳng lên cao và chuồn mất.
Thật là một chuyện quá lạ. Ngay tròng lòng địch mà vẫn tồn tại các căn cứ của biệt động thành Huế và địa phương các xã, huyện. Chẳng những thế, thám báo của chúng bị tiêu diệt như những con mồi non nớt. Còn quá đáng hơn nữa khi mà chúng không làm thế nào để lấy được xác lính tử trận. Những xác lính ấy sẽ không bao giờ được chôn cất và sẽ vĩnh viễn nằm lại đó.
Chiều và đêm 28 tháng Chạp
Bọn thám báo đã bị tiêu diệt. Đường từ Hương Mai sang Hương Thủy đã thông. Vì buổi sáng có súng nổ nên buổi chiều chắc chắn không bà con nào dám đi thăm đồng hay lấy củi. Chiều hôm đó ba chúng tôi đi từ Hương Mai sang Hương Thủy rất sớm.
Vừa vào đến cứ đã thấy Duyên và Toàn ở đó. Mấy chúng tôi nắm tay nhau, xiết chặt. Duyên chỉ cho chúng tôi chỗ chôn cất Tư và Quý. Hai ngôi mộ mới đắp đất khá cao ở ngay rìa cứ. Không có hương để mà thắp đâu. Chúng tôi ai nấy đều hất mũ tai bèo ra phía sau và cúi đầu mạc niệm. Giá như đang ở vùng mình thì sẽ có mấy loạt súng AK.
Tư ơi ! Quý ơi ! Các bạn nằm đây nhé ! Chúng tôi chẳng có cách nào đưa được các bạn về, . . . chẳng biết làm sao, làm sao ? Không biết có ngày nào Tư à, mày được về nằm nơi "côồng cạc trặng, Lệ Thụy" ? Nhìn hai ngôi mộ nơi heo hút rừng núi, mãi sâu trong lòng địch, xung quanh toàn mìn, tôi biết khó có ngày trở lại. Tôi biết, chúng tôi sẽ sắp để lại các bạn hưu quạnh, hoang vu, rừng thẳm. Đó là điều chúng tôi còn day dứt mãi, . . . cho đến tận bây giờ.
Tôi quay lại con suối nhỏ và tìm được hai tảng đá lớn. Hai tảng đá nâu "gan gà", tuy hình thù vẹo vọ nhưng có một mặt tương đối phẳng. Tôi ngồi trước mộ hai người và dùng dao găm trổ lên đá để làm bia. Mũi dao thích vào đá từng dòng, từng dòng, . . . là từng dòng máu chảy. . . . !
"ĐINH VĂN TƯ – HY SINH NGÀY 7/1/1975 – QUÊ QUÁN: LỆ THỦY, QUẢNG BÌNH – ĐƠN VỊ: c20/F325"
" . . . . VĂN QUÝ – . . . . – TRINH SÁT MẶT TRẬN B5" (Tôi không còn nhớ).
Xâm xẩm tối thì tôi cũng thích xong hai tấm bia. Duyên, Toàn và tôi đem trồng ngay ngắn giữa đỉnh mộ. Quá buồn và quá đau đớn vì tôi không thể tự hứa sẽ quay trở lại. Trong lòng tôi cứ vang lên chỉ một từ, lặp đi lặp lại: "Vĩnh biệt !, . . . Vĩnh biệt !".
Đêm đó Duyên, Toàn và tôi nằm chung một hầm nhưng tôi là người gác ca đầu. Hai tiếng sau, tôi đánh thức Duyên để đổi gác. Rồi tôi ngồi cùng gác với Duyên đến hết phiên của nó. Duyên cứ thủ thỉ nói chuyện bên tai tôi. Tôi chỉ lắng nghe, không nói một lời nào. Duyên nói chuyện với tôi cứ như nó tự nói chuyện với chính lòng mình, giọng đều đều, chầm chậm, tả tơi:
- Tôi đến đây mới biết các anh bị thám báo phục kích. Trưa nay, hai anh biệt động cùng tôi với Toàn mới đi ra chỗ bị phục kích. Tôi nhìn thấy hai đứa nằm sấp mặt xuống suối. Hai khẩu AK vẫn khoác trên vai. Bọn nó phục kích trên bờ khe, chỗ hẹp nhất và sâu nhất ấy. Nó ở trên đầu mình và bắn thẳng cối cá nhân vào ngay mặt. Bọn nó bắn xong, không dám nhảy xuống nhặt súng mà lập tức rút luôn. Biệt động họ kể, họ chỉ có bốn người mà chúng nó một tiểu đội. Chúng nó rất cảnh giác, đi theo đội hình sẵn sàng chiến đấu. Rồi chúng nó bố trí phục kích rất cẩn thận. Họ chưa có cơ hội để tiêu diệt gọn mà tránh thương vong cho mình nên họ quyết định sẽ bám chắc và chờ. Họ cũng không ngờ các anh lại từ Hương Mai đi vào.
Rồi, Duyên kể tiếp:
- Họ bảo, sau khi tiêu diệt bọn thám báo, tất cả các xác chết đều được cài lựu đạn, xung quanh đó còn gài mìn. Lại còn có cả mìn định hướng, nếu máy bay hạ xuống thì sẽ xơi trọn luôn. Họ giỏi thật anh ạ ! -
- Anh biết không ? Lúc nhìn hai người nằm dưới suối, tôi bủn rủn cả chân tay vì thấy anh rồi đến Tư. Lúc lật lên thì mới biết là không phải anh mà là Quý. Rất nhiều vết đạn bi trên mặt và trên ngực hai đứa. Anh với Quý cũng là đồng đội cả, nhưng anh mà chết thì tôi day dứt lắm !
Nói đến đó, tôi thấy giọng Duyên hơi rưng rưng. Không biết có phải nó đang khóc ? Tôi chỉ cúi đầu bần thần và chốc chốc lại lặng lẽ thở dài. Ừ, mình đâu có tin vào những chuyện nhảm nhí, mà sao, lâu lắm rồi, đêm hôm kia, mình lại nghe tiếng cú rúc ? Sao lại thế được ? Sao lại thế chứ ?
29 và 30 tháng Chạp Giáp Dần
Sáng hăm chín tết, chúng tôi từ cứ của huyện Hương Thủy, vượt qua Động Ngang trở về sông Bồ. Chúng tôi nghỉ lại dọc đường, nơi mà Mào đang nóng lòng chờ chúng tôi. Toàn dẫn chúng tôi vào chỗ của Mào. Thằng Mào người cao dong dỏng, nước da xanh mai mái. Hôm nay nó còn xanh hơn mọi khi. Tính nó dụt dè, e lệ, bây giờ trông còn dụt dè hơn. Tuy bị thương không làm nó mất máu nhưng có lẽ bị thương làm cho tinh thần nó hơi xuống và mặt nó tái hơn bình thường. Mấy thằng bắt tay nhau rất chặt. Tôi đưa tay sờ vào ngực nó, theo phản xạ, nó né sang một bên sợ tôi chạm vào vết thương. Rồi nó cới hai khuy áo cho tôi xem vết thương. Tôi ấn nhẹ vào đó thấy gồ lên một chút "hình viên đạn" cồm cộm và làm nó hơi đau. Tôi động viên:
- May nhỉ ! Không sao đâu ! Về quân y gắp ra là hết thôi, mà không gắp, để làm kỷ niệm cũng hay. Sau này, cho người
yêu nó sờ, thích lắm đấy !
Mấy thằng cười ồ lên. Thằng Mào cũng cười, mồm nó hơi meo méo ?!
Chúng tôi nghỉ lại đây. Thật quả, tôi không còn nhớ chiều và đêm hôm đó như thế nào.
Sáng 30 tháng Chạp, chúng tôi đậy sớm. Cơm nước xong, 6 người hành quân tiếp (gồm Anh Già, Hổ, Mào, Duyên, Toàn và tôi). Chuyện này tôi đã kể trong "Chuyện XIV Từ Phú Lộc đến Huế".
Chiều hôm đó, tôi là người về sau cùng do chân bị loét vì đi giầy ngâm nước mấy ngày. Khi tôi về đến nơi, Anh Già và Hổ đã đi rồi (sau này tôi mới biết, hai anh vội vã đuổi theo trung đoàn 95, đang trên đường hành quân vào Ban Mê Thuột).
Tiếng cụ Bùi Đức Ngoan, tham mưu trưởng sư đoàn đang chửi: "Trinh sát chúng mày như cứt . . . , súng phát cho chúng mày là củi à ?". Nghe cụ chửi như vậy, tôi thấy trong lòng nhẹ nhõm vô cùng. Giá cụ mắng chúng tôi, trinh sát để lộ, làm hỏng việc, thì chắc tôi sẽ khổ tâm vô cùng. Tôi nhận ra cụ chửi chúng tôi là vị cụ thương xót những thằng lính trinh sát. Bị lộ không quan trọng, do đó tôi cũng đoán ra được, sư đoàn chúng tôi sẽ không phải đánh Hòn Vượn nữa. Tôi được giải thoát khỏi cảm giác tội lỗi đè nặng lên tôi suốt từ lúc tao ngộ với lính địch ở Hòn Vượn đến bây giờ. Chân đau, bị mắng mà lòng lại rất thanh thản. Tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm vì sư đoàn sẽ không phải đổ rất nhiều xương máu ở Hòn Vượn. Và, vì tôi, phần xương máu đó sẽ phải đổ nhiều hơn.
Mấy lính trinh sát cảm thấy hãnh diện lắm, khi mà đích thân cụ Ngoan lại đón chúng tôi trên chiếc Comăngca của cụ. Chúng tôi hành quân đi nam Huế . . . .
(Hết chuyện Hòn Vượn)
Chuyện XXX CHUYỆN CỦA THẨM PHÚ HUÂN
Đầu năm 1974, sau khi tham gia đánh thắng tại căn cứ Đăk Pet, Trung Đoàn 29 (Trung Đoàn 3)-Sư Đoàn 324 lại hành quân ngược từ Con Tum ra Quảng Nam để tham gia chiến dịch Thượng Đức (Thường Đức). Lực lượng tấn công chính ở Thượng Đức là Trung Đoàn 66-Sư Đoàn 304. Trung Đoàn 29 chỉ tham gia chốt trên các điểm cao mà chúng ta đã có từ trước, tham gia vận chuyển pháo, tham gia giăng bẫy, đặt mìn trên sông Vu Gia để chặn đường rút của địch về Đà Nẵng. Đồng thời, trung đoàn cũng tham gia tiến công các vị trí nhỏ xung quanh Thường Đức, là thê đội 2, sẵn sàng tham chiến khi cần thiết.
Thẩm Phú Huân bằng tuổi tôi và nhập ngũ cùng thời. Anh là lính bộ binh thuộc Trung Đoàn 29 và cũng mới tham gia trận đánh vào căn cứ Đăk Pet. Đây là một căn cứ được xây dựng từ thời Pháp mà lần đầu tiên ta mới đánh chiếm được sau bao nhiêu lần tấn công thất bại từ ngày Pháp thuộc đến thời Mỹ. Mùi chiến trận Đăk Pet còn đang khét lẹt trên quần áo và trên thân thể mệt mỏi của những người lính. Huân được điều đi giữ chốt trên điểm cao 1062. Đây là một điểm cao "lẫy lừng" khi những người lính của cả hai phía nhắc đến Thượng Đức.
1062 là một điểm cao cực kỳ quan trọng. Từ đây có thể quan sát toàn bộ thung lũng sông Vu Gia, đài quan sát pháo binh của ta được đặt ở đây để chỉ thị mục tiêu rất chính xác trong trận đánh vào Chi Khu Thượng Đức cũng như đánh chặn viện binh của địch và trong các trận đánh sau này.
Sau một thời gian dài chuẩn bị chiến trường, từ việc mở đường, vận tải vũ khí đạn dược trên sông và bằng khuân vác bộ, . . . đến việc trinh sát, hạ quyết tâm chiến đấu, trận tấn công vào Chi Khu Thượng Đức được mở màn.
Sáng ngày 29/7/1974, hỏa tiễn của Sư Đoàn 324 đã đồng loạt bắn vào sân bay Đà Nẵng đồng thời với pháo giã vào Chi Khu Thượng Đức. Sáng sớm 30/7, trong khi pháo kích tiếp tục vào Thượng Đức thì các lực lượng bộ binh của Trung Đoàn 66 và xe tăng bắt đầu tấn công dọc theo tỉnh lộ 4 từ phía tây.
Giao tranh quyết liệt, giành giật từng khu vực trong chi khu. Pháo kích cả hai bên đổ lửa xuống các trận địa. Thương vong của cả hai bên rất lớn. Đến 8 giờ 30 ngày 7/8/1974, Trung Đoàn 66 đã hoàn toàn chiếm được Thượng Đức. Đây là quận lỵ đầu tiên ta giải phóng được kể từ ngày ngừng bắn 28/1/1973.
Trong lúc đó Trung Đoàn 29, Sư Đoàn 324 đã đánh chiếm các mục tiêu ngoại vi như Bàn Tân, Hà Nha, . . .
Từ trên điểm cao 1062, Huân vừa được chứng kiến bằng mắt diễn biến sôi sục của chiến trận vừa theo dõi trinh sát pháo chỉ điểm các mục tiêu trên trận địa, chỉ điểm vị trí các lực lượng địch hành quân ứng cứu trên LTL 4 (liên tỉnh lộ 4). Cảnh tượng không khác gì trận Điện Biên Phủ. Ba Mặt của Chi Khu Thượng Đức đều là núi cao do ta chốt giữ và đặt các trận địa pháo. Pháo của ta từ trên núi cao, hạ nòng bắn thẳng xuống các mục tiêu. Pháo phòng không và tên lửa phòng không vác vai đã khống chế máy bay địch làm cho việc chi viện bằng không kích của chúng gần như không có tác dụng. Tất cả các dù thả lương thực và đạn dược tiếp viện cho Thượng Đức đều không đến được tay chúng. Diễn biến trận đấu được theo dõi từ 1062 chẳng khác gì xem phim.
Vậy là sau 8 ngày kể từ lúc mở màn, ta đã hoàn toàn thắng lợi. Huân thấy phấn khích lắm. Anh nhớ lại, trước đó mấy ngày, khi thấy Trung Đoàn 66 trày trật phá cửa mở mãi chưa được, anh đã sôi tiết mà quát lên với anh em trên chốt: "304 không đánh được thì để 324 thay đi ! Đăk Pet khó thế mà 324 chỉ mất có 1 tuần !".
Nhưng Huân không biết, chuyện ở Thượng Đức đâu có đơn giản và dừng lại ở đó như vậy !
Mất Thượng Đức vào tay Quân Giải Phóng làm cho Đà Nẵng rơi vào tình trạng nguy hiểm. Cho nên, ngày 7/8/1974 bị mất Thượng Đức thì ngày 8/8, VNCH điều động Lữ Dù 1 vào Đại Lộc để chiếm lại Thượng Đức. Mục tiêu của chúng là bằng mọi giá phải chiếm được cứ điểm cực kỳ quan trọng, điểm cao 1062. Ngày 11/8/1974, Lữ Dù 3 được điều động từ Huế vào Đà Nẵng để tăng cường phòng thủ cho Đà Nẵng.
Điểm cao 52 nằm án ngữ ngay trên LTL 4 là mục tiêu đầu tiên lính dù đã chiếm được. Sau đó, ngày 18/8 chúng tiếp tục đánh chiếm Hà Nha. Ngay sau khi địch chiếm được cao điểm 52, rồi Hà Nha thì pháo của ta từ các điểm cao xung quanh đã bắn thẳng vào các mục tiêu đó làm cho chúng bị thương vong khá nặng nề.
Từ Hà Nha, mũi thứ nhất của Lữ Dù 1 tiến đánh cao điểm 109 và các mục tiêu lân cận, sau đó tấn lên cao điểm 383, đồi 500. Mũi thứ hai thẳng hướng tiến từ Đại Lộc về phía 1062 theo đường dốc phân thủy mà mục tiêu đầu tiên là điểm chốt ở bình độ 500 (địch gọi là đồi B2). Các loại pháo của Sư Đoàn Dù giã tối đa vào các mục tiêu làm cho anh em tại các chốt thương vong nhiều.
Lúc này, một số chốt trên động Thượng Đức, Trung Đoàn 31 của Sư Đoàn 2 đã thay chân cho Trung Đoàn 29. Sau khi bàn giao chốt ở cao điểm 1062, Huân được rút về Đức Tây để nghỉ ngơi, củng cố lực lượng và sẵn sàng nhận lệnh đánh chiếm lại các vị trí đã mất.
Bao nhiêu ngày đã nằm trên 1062, nước rất hiếm hoi ngay cho cả việc ăn uống chứ đừng nói gì đến rửa ráy hay tắm giặt. Quần áo rách tả tơi, hôi hám, cứng quèo và vướng víu nên chủ yếu anh em trên chốt chỉ mặc quần đùi. Ngày nắng ráo, quần áo được trải lên mặt đá để phơi cho bớt mùi nặng và khét. Ngày mưa thì tranh thủ hứng nước và tắm mưa. Có đận lâu không có mưa thì chỉ có cách tắm khô. Da dẻ đã đen nhẻm vì nắng gió và lửa đạn trở nên cóc cáy chưa từng thấy.
Huân ngâm mình dưới sông Vu Gia. Anh kỳ cọ không biết bao lâu. Đừng đám, từng mảng cứ tróc dần khỏi cơ thể, hết lớp này thì lại đến lớp khác. Thật là quá kinh khủng. Mấy chú lính vừa tắm vừa cười đùa vang động cả một quãng sông. Dường như nước là một thứ gì đó mà ta chưa biết hết được. Nước thấm dần vào cơ thể, qua từng lớp từng lớp làm cho cơn khát lâu ngày dần dần vợi đi. Nước xâm nhập vào qua da, khoan khoái vô cùng !
Lữ Dù 1 của địch bằng mọi giá tiến chiếm điểm cao 1062. Chúng đã sử dụng tối đa pháo binh, kể cả bom napan. Sau nhiều lần trồi lên, sụt xuống xung quanh điểm cao với nhiều thương vong, đến ngày 19/9/1974, quân dù mới lần đầu tiên chiếm được 1062. Sau đó điểm cao này giành đi giật lại rất nhiều lần giữa hai bên cho đến tận giữa tháng 11/1974. Cứ bên này chiếm được thì bên kia dùng hỏa lực pháo bắn và bộ binh tiến công bật khỏi điểm cao. Không biết bao nhiêu lần như vậy cho đến khi không bên nào còn muốn giữ chốt trên điểm cao này.
Như vậy, sau ba tháng trời giằng co trên mấy điểm chốt của 1062, quân dù cũng phải lui về căn cứ Đông Lâm nằm ở phía đông 1062 chừng 4 km. chúng chỉ còn giữ lại được cao điểm 52, nằm sát với LTL 4. Sau 3 tháng này, sức lính hai bên đều đã kiệt. Chiến sự lắng xuống cho đến khi chiến dịch mùa xuân 3/1975 của ta tràn qua toàn bộ phía tây Đà Nẵng.
Trong thời gia 3 tháng giằng co giữa ta và địch ở khu vực động Thượng Đức, đại đội và trung đội của Huân nhiều lần được điều động đánh chiếm các điểm cao thấp trên hành lang LTL 4 hoặc làm nhiệm vụ chốt chặn trên các đường tiếp ứng của lính dù. Trung đội của Huân cũng nhiều lần phải làm nhiệm vụ vận tải vũ khí, lương thực, vận chuyển thương binh và làm nhiệm vụ chôn cất các liệt sỹ của các đơn vị bạn.
Đầu tháng 9/74 , sau một tháng giao tranh, trung đội được điều động làm công tác tử sỹ tại "bình độ 500" (địch gọi là đồi B2). Trong đêm tối, được trinh sát dẫn đường, anh em luồn qua các vị chí chốt trên các điểm cao, xen kẽ giữa địch và ta. Hành quân luồn lách từ chập tối đến nửa đêm trung đội mới tới được vị trí được giao. Vị trí này, trước đây là một chốt của trung đoàn 29. Sau khi địch chiếm được vị trí này, chúng đã phát triển lên các vị trí điểm cao phía trên (địch gọi là đồi B1, đồi B, đồi C, đồi D và 1062).
Không chắc chắn là "chốt bình độ 500" có địch hay không. Được giao nhiệm vụ, Huân nghĩ chắc có thông tin từ cấp trên biết địch đã bỏ lại chốt này. Tuy vậy, việc trinh sát mục tiêu vẫn phải làm rất thận trọng. Gió đông thổi ù ù qua các trảng cỏ tranh hoang vắng, lờ mờ trong màn đêm. Càng vào gần điểm cao, mùi tử khí ngày càng nặng, khi phảng phất, khi nồng nặc.
Trong các câu chuyện lan man kể lại của Huân về những nhọc nhằn hành quân mang vác nặng, đói khát, rách rưới, bẩn thỉu, cực khổ trên 1062, . . . rồi ác liệt bom pháo, cắm chốt chống trả địch tấn công, . . . rồi phản công chiếm chốt, . . . không chuyện nào anh kể lại trong trạng thái bàng hoàng như làm công tác tử sỹ lần này.
Cái chốt trên đồi 500 lính Dù chiếm được từ khoảng ngày 14/8/74. Ngày hôm sau, đơn vị bạn của Huân phản công, định chiếm lại, nhưng pháo của địch quá ác liệt đã làm cho họ phải rút lui, để lại một số tử sỹ trên sườn đồi. Đến nay làm công tác tử sỹ thì đã gần một tháng.
Một lính trinh sát của tiểu đoàn, Huân và một lính cùng tiểu đội vượt lên trước nắm tình hình trên chốt "bình độ 500". Từ chân đồi họ bò lên rất thận trọng. Được một đoạn, cậu trinh sát vấp phải một tử sỹ. Họ tiếp tục bò thẳng lên chốt. Cứ một lúc lại gặp liệt sỹ nằm đây đó trên đường tiến.
Trong chốt không có địch. Cậu lính cùng tiểu đội quay xuống báo cáo tình hình với bê trưởng. Cả trung đội dàn hàng ngang từ chân đồi dọc lên đến điểm chốt. Hễ gặp liệt sỹ thì hai người một võng, đặt liệt sỹ vào và cáng về khu vực chôn cất của trung đoàn.
Huân kể lại với giọng thảng thốt mặc dù kể chuyện với tôi lần này đã là lần thứ ba:
"Ông biết không ? Hai thằng tôi, một thằng bê đầu, một thằng bê hai chân. Tôi nắm hai chân định đưa vào võng thì nhấc lên một tý bỗng thấy hẫng và tuột mất. Trong tay tôi chỉ còn lại hai cái cẳng chân. Lính chỉ mặc quần đùi mà. Đánh nhau, tôi không biết sợ. Lúc lấy tử sỹ tôi cũng không ngại gì và cũng không sợ đâu. Mùi nặng lắm mà mồm tôi thấy đắng ngắt và khô ran. Thật ! Có muốn nhổ nước miếng cũng chẳng nhổ được. Thật ! tôi không sợ người chết đâu. Bao nhiêu lần vận chuyển liệt sỹ rồi, tôi chẳng ghê đâu. Nhưng mà, khi chỉ còn nắm hai cẳng chân, tự nhiên tôi thấy rụng rời hết cả chân tay, bủn rủn hết cả người.
Ông biết không ? Lúc tôi đưa hai cẳng chân của liệt sỹ vào võng và buông tay ra thì cái chân nó cứ dính chặt vào tay mình, gỡ mãi mới ra. Sau rồi, hai thằng tôi phải bế sốc cả người liệt sỹ mà đưa vào võng. Cầm vào cái đòn khênh thì tay mình dính chặt vào đòn khênh, tôi giằng mãi mới ra. Tôi phải chùi hai tay và đòn khênh vào cỏ mãi mới đỡ dính. Thế mà, lúc xuống dốc, bọn tôi ngã dúi dụi, văng cả liệt sỹ ra ngoài. Rồi, lại hì hụi bốc vào. Trung đội tôi có mười hai mười ba đứa. Đêm đó phải làm hai chuyến mới hết. Chúng tôi chỉ đưa anh em đến phạm vi của mình kiểm soát thôi, rồi, để đêm mai đưa về chỗ qui định của trung đoàn.
Ông biết không ? Lúc có gió còn đỡ, chứ lúc lặng gió hay gió quẩn thì mùi nặng lắm . . . ! Được một chuyến rồi, lúc ngồi nghỉ mà cổ họng cứ khô không khốc. Mồ hôi mình lúc đó cứ dâm dấp mà lại lành lạnh chứ lị !? "
Tôi chết lặng đi nghe Huân kể, nuốt liên tục, mà đúng là không có tí nước miếng nào. Tôi cũng không thể cất lên lời nào ngoài những tiếng thở dài liên tục của người sắp hết dưỡng khí. Hai mũi lại tịt ngóm rồi.
Vẫn bàng hoàng, Huân kể tiếp:
"Ông biết không ? Chuyển xong hai chuyến, chúng tôi ngồi nghỉ thì đã gần sáng. Cha con mới lấy nước ra uống rồi ăn cơm nắm. Chùi tay một lúc vào cỏ, thế là lại bốc cơm ăn luôn. Thế mà chả thấy ghê ghiếc gì cả. Giá mà không phải chiến tranh ? Giá mà không phải đồng đội mình thì chắc tôi cũng phải ghê, chứ ông bảo?!"
Ngớt chuyện một lúc, sau mấy đợt thở dài, Huân nói tiếp:
"Sáng ra, nhìn tay mới thấy kinh. Một lớp loang lổ keo bám đầy hai bàn tay. Ông biết không ? Tôi phải mài vào đá mãi, hàng tuần mà cũng chả hết." – Huân trầm giọng xuống và nói: "Da người thành keo còn chắc hơn keo Con Voi nhiều ông ạ !" - Nói câu này, Huân quay mặt đi, dường như anh đang nấc . . .
Quân ta bắn quân mình
Trung đội Huân chuẩn bị tấn công chiếm lại một chốt bị mất trên một điểm cao ở lưng chừng động Thượng Đức. Địa hình ở đây thì anh em đã biết, đường đi lối lại cũng thông thạo rồi. Đại trưởng giao nhiệm vụ và thảo luận phương án tác chiến cùng trung đội. Phương án bí mật tiếp cận mục tiêu trong đêm rồi đồng loạt xung phong đã được lựa chọn. Các yêu cầu về hỏa lực cấp trên hỗ trợ khi cần thiết đều được chấp nhận. Nhiệm vụ được phân công cho 3 tiểu đội. Mỗi tiểu đội sẽ áp sát mục tiêu theo một hướng. Vì các tiểu đội đều có người đã chốt tại mục tiêu này trước đó nên ngóc ngách lên điểm cao này đều thuộc.
Đêm đầu tiên, trung đội đã bí mật xuất phát từ chân núi và leo lên cách mục tiêu khoảng ba trăm mét. Lợi dụng các tảng đá hoặc khe đá, mọi người đều có chỗ ẩn nấp an toàn.
Ngày hôm sau, dự kiến khi trời tối sẽ bò lên tiếp cận mục tiêu. Hoặc, nếu mục tiêu có mây che phủ từ lúc nào thì sẽ xuất phát sớm từ lúc đó.
Trời chiều lòng người, khoảng 4 giờ chiều, mây trắng đã che phủ phần trên cao của động Thượng Đức và đã bắt đầu lan tới che phủ mục tiêu. Tốt rồi ! Trung đội bắt đầu tiến lên. Anh em chẳng cần phải bò mà chỉ cần chạy lom khom. Họ đã thống nhất với nhau sẽ áp sát mục tiêu và khi bắt đầu tối xẽ đồng loạt xung phong từ ba hướng theo hiệu lệnh của bê trưởng. Ai nấy đều chắc mẩm trận đánh sẽ diễn ra nhanh gọn.
Từ trên một điểm cao ở phía sau, khẩu đội cối 82 của đơn vị bạn cũng đang quan sát bao quát toàn bộ khu vực động Thượng Đức. Nhiệm vụ của họ là "bắn tỉa" lính địch khi chúng di chuyển ngoài công sự. Bất ngờ họ phát hiện một toán lính đang di chuyển trên sườn núi. "Chúng" đang vận động lên núi. Chỉ một chút nữa thôi là "chúng' sẽ khuất vào trong đám mây mù. "Bắn nhanh đi ! Khẩn trương ! . . . "
Phát đạn đầu tiên đã khá chuẩn, và, họ liên tiếp thả đạn vào nòng cối. . . .
Đang vận động, bất ngờ bị bắn, mọi người tá hỏa. Ai nấy đều lăn nhào xuống, tìm nơi ẩn nấp. Đến phát bắn thứ hai thì Huân nhận ra là cối của mình ở phía sau bắn sang. Anh quát: "Cối của ta, đ . . . mẹ thằng nào bắn thế !"
Đại trưởng đang ở cùng hỏa lực của tiểu đoàn để theo dõi trận đánh và kèm sát hỏa lực để yêu cầu hỗ trợ khi cần. Anh bồn chồn và hồi hộp nhìn anh em đang tiến đến mục tiêu. Đột nhiên thấy lính của mình bị cối bắn, anh giật mình. Thoáng nghĩ "Thế là hỏng việc . . . !". Rồi khi thấy thằng cối giã tiếp, anh điên tiết nhảy ngay vào khẩu đại liên đang ở gần. Quay ngược súng, anh chĩa vào "bọn cối" và nhả đạn . . .
"Bọn cối" liền im tịt. Nhưng trận đánh phải hủy bỏ.
Rất may không ai bị thương vong, kể cả "bọn cối".
Liên tục tham gia hai chiến dịch Đăk Pet và Thượng Đức, trung đội Huân đã bị nhiều tổn thất. Một số anh em hy sinh và một số bị thương đã rời khỏi đơn vị. Hình như bom đạn có mắt nên đều tránh Huân. Anh chưa hề dính một mảnh nào. Ăn uống kham khổ vậy mà anh vẫn rất khỏe, một tiểu đội trưởng dày dạn, xông xáo và xốc vác. Mọi việc anh cứ làm băng băng, không nề hà bất cứ chuyện gì. Trông anh cởi trần , nước da đen ròn, cơ bắp cuồn cuộn không khác gì hình ảnh tráng sỹ Thạch Sanh trong cổ tích. Ai đã gặp Huân một lần hẳn không thể quên. Anh có khuôn mặt vuông chữ điền, cặp mắt nhìn thẳng xa xăm dường như trong đầu luôn say sưa một chuyện gì đó. Anh cười nhiều bằng mắt. Mỗi lần anh cười hai đuôi mắt hơi nheo lại, con gái chỉ có mà chết mê. Đặc biệt nhất là đôi lông mày, rất dày, rất dài và rất rậm. Nếu tổ chức cuộc thi "tu mi nam hậu" thì chắc anh sẽ lãnh vương miện.
Mấy hôm nay được nghỉ ngơi được sau nhiều ngày làm công tác vận tải lương thực và các loại đạn khác nhau từ cối đến pháo. Trên động Thượng Đức hết ngày này qua ngày khác, tiếng đạn pháo của cả hai bên dội lửa xuống các chốt. Tiếng pháo nổ là một thứ tiếng hỗn loạn ong ong, ùng ùng, triền miên, trân trối . . .
Được nghỉ lấy lại hơi mấy ngày thì trung đội được lệnh chuẩn bị tấn công chốt trên cao điểm 109 (có đánh dấu trên bản đồ ở phần viết trên). Huân chỉ còn nhớ trận đánh này vào khoảng nửa đầu tháng 10/1974. Điểm cao 109 án ngữ LTL 4 trên đường từ Đại Lộc vào Thượng Đức. Chốt này, hai tháng trước là một chốt của e29.
Sau khi trung đội đã tiến đến gần chân cao điểm. Trận đánh ác liệt ngay từ đầu khi mà pháo và hỏa tiễn của ta liên hồi bắn vào điểm cao 109. Khi pháo vừa ngừng bắn thì các hỏa lực đại liên và cối 60 thi nhau dập tiếp để hỗ trợ cho bộ binh tiến lên. Rồi cối cũng ngừng bắn. đạn đại liên hai hướng bắn chéo cánh sẻ vào chốt làm cho lính địch không ngóc đầu lên được. Quân số của địch trên chốt cũng bị thương vong khá nhiều. Được hỗ trợ tối đa bằng hỏa lực, anh em bộ binh đã vận động lên đến chốt.
Trận đánh giằng co bằng súng bộ binh trên chốt rất quyết liệt. Các hầm hào trên chốt lần lần ta cũng chiếm được, chỉ còn lại một hai hầm. Trong đó lính dù đang chống trả rất gắt. Biết không thể chống đỡ được đòn tấn công như vũ bão của các chiến sỹ bộ binh, cuối cùng pháo của địch đành bắn bao chùm toàn bộ điểm cao. Địch hy vọng sẽ gây thương vong cho ta khi anh em ta đang ở ngoài hầm và sẽ hất ta xuống khỏi điểm cao.
Huân đang sục sạo và truy quét những đoạn hào và hầm cuối cùng. "Bỗng . . . lòe chớp đỏ . . . thôi rồi Huân ơi !". Một trái nổ ngay trước mặt, chệch về phía phải anh một chút. Huân chạy thêm mấy bước rồi đổ xuống. "Mình bị rồi . . . !" Anh thấy trời đất tối sầm, cánh tay phải dường như tê dại không nhấc lên được. Cảm giác trối trối ở trên đầu và bên mắt phải, anh lấy tay phải sờ lên thì thấy máu đang túa ra. Vài giây sau anh không còn biết gì nữa . . .
. . . nghe tiếng nói lao sao ở đâu rất xa: "tỉnh rồi, tỉnh rồi !". Các tiếng nói cứ rõ dần, rõ dần. Rồi anh hơi giật mình khi có ai đó đập vào cánh tay.
Khi nhận thức đã có trở lại anh mới biết mình bị thương năm bảy vết ở đầu và ở mắt phải, nhiều vết khác ở tay phải và ở ngực phải. Anh cũng biết được mình đang nằm ở viện của Sư Đoàn và đã nhiều ngày hôn mê bây giờ mới tỉnh dậy.
. . . (hết chuyện Thẩm Phú Huân)
Chuyện bên lề của các bác cựu binh:
- Khoảng đầu năm 1978 khi ta tấn công Pốt hướng QL1 đẩy chiến tranh sang đất địch, trong một trận đánh vận động tấn công lấy chốt địch, sau màn pháo cối bắn dọn đường dìm đầu địch xuống thì lính BB sẽ vận động lên áp sát trận địa địch, lúc này là lúc đòi hỏi người lính phải nhanh nhẹn chớp lấy thời cơ một cách quyết đoán nhất khi xông vào quyết chiến điểm, chậm là địch phản công lại lúc pháo cối chuyển làn nâng tầm thì rất nguy hiểm, vì vậy người lính BB sẽ vận động rất nhanh và cũng nhanh chóng tận dụng địa hình có lợi để tránh đạn và nằm chờ pháo cối bắn là lại xung phong tiếp. Một anh lính trong C đang vận động rất nhanh vượt lên thì thấy một tiếng nổ cùng khói ở vị trí anh ấy đang vượt lên, anh em thấy anh đó dáng cứ xiêu xiêu mà chạy cố lên đầu bờ mương ngang lấy chỗ ẩn nấp, cũng phải chạy thêm đến vài chục mét thì bỗng dưng anh ấy dừng lại và hỏi: Ơ, cái chân của tôi đâu rồi. Thì ra anh ấy đạp phải mìn hơi K58 của địch, bàn chân bay mất chỉ còn chơ khúc xương phía sát bàn chân, lúc hăng máu vận động nên không kịp nhận biết của cảm giác đau đớn tột độ khi mất 1 bàn chân và mấy chục mét vận động kia của anh ấy với cái dáng nghiêng nghiêng là chạy bằng khúc xương ống liền với bàn chân. Chuyện này BY em nghe cứ tưởng chuyện đùa chiến đấu, song nhiều người ở đơn vị đã xác nhận chuyện này là có thật.
Thêm chuyện nữa và chuyện này thì BY em lại là người trong cuộc, biết rõ từ đầu đến cuối.
Cuối 1978 đơn vị BY em bị địch dồn lực lượng mạnh quyết đánh bật chốt, nếu C2 mất chốt thì sườn của các đơn vị thuộc 2 trung đoàn hở sườn hết, các hầm hố quan trọng trong đội hình chốt mất gần hết, anh em hy sinh, bị thương và cả bỏ chạy khoảng 50% quân số lúc đó, C trưởng chỉ huy anh em vận động tấn công lấy lại 2 hầm trung gian giữa đã mất, chỉ sau khoảng 10' chiến đấu ta đã lấy lại được 1 hầm, còn lại 1 hầm nữa chuẩn bị vận động lên lấy nốt, C trưởng vừa phát lệnh tấn công và bật người lên trên khỏi công sự giao thông hào sâu khoảng 80cm thì một quả đạn DKZ75ly nổ ngay trước mặt cách khoảng từ 10 đến 15m bật ngược trở lại công sự, suốt dọc 2 chân mảnh găm đầy và nặng nhất ở gần đầu gối trái, nguyên phần bộ hạ bùng nhùng một đống, "đạn" súng ngắn 2 viên bay tiêu mất 1 chỉ còn lại 1 viên, đầu "súng" cũng bay đi đâu mất và sau này khẩu "súng" của anh ấy phải cưa ngắn bớt nòng. Lúc đó BY em bối dối chưa biết băng bó sao cho anh ấy, lúng túng vì không biết cách băng, khi huấn luyện tân binh chẳng ai dạy cách băng cái chỗ đó thế nào, còn anh ấy thì không để ý đến mình mà luôn thò đầu lên khỏi công sự quan sát địch và giục: Băng nhanh lên để còn đánh tiếp, đánh nữa, đánh lấy lại hầm thứ 3 của trung gian giữa bằng được mới thôi. Bí quá BY em vớ lấy cái bao nylon xanh đen sẫm của cuộn băng cứu thương cá nhân Mỹ mà lồng "súng" của anh ấy vào mà buộc vội để còn đánh nhau tiếp, sau đó khoảng 10' máu ra nhiều quá nên anh ấy lả đi và ngất xỉu thì trận chiến tấn công chiếm lại vị trí cũ mới tạm dừng lại. Sau này đơn vị BY em chấp nhận mất một số hầm chốt mà chung sống không có hòa bình với lính Pốt cách nhau chưa hết một tầm ném lựu đạn.
Qua 2 câu chuyện đó của BY em cả thấy và được nghe, khi bị thương cho dù là rất nặng nhưng không phải ai cũng giống nhau và phải lăn quay ra đó liền, lúc đang hăng máu chiến đấu thì vài trường hợp "mất" cảm giác đau đớn thể xác tạm thời lúc bị thương, chỉ đến khi trở lại trạng thái bình thường thì nỗi đau thể xác mới khiến họ cảm nhận thấy, hoặc những vết cắt của mảnh đạn nhanh quá, ngọt quá nên cũng phải một lúc sau họ mới cảm nhận được. Vì vậy trường hợp của anh La Văn Cầu ở chiến trường cũng là có thể lắm chứ, chỉ có điều BY em đang thắc mắc: Lúc đó anh LVC lấy đâu ra dao trong tình thế khẩn cấp ấy để chặt phăng cánh tay đang "lẵng nhẵng" vướng víu ấy? Tất nhiên là BY em không tin là anh LVC lúc đó có con dao găm bên người để làm được việc đó.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top