Kỳ 2: Những chuyện không thể quên - hồi ký của bác Tichtuongnhule - Phần 1

  CHUYỆN I
Chúng tôi là lính trinh sát 325. Sau 5 ngày luồn sâu trong lòng địch ở ngay gần nhà thờ La Vang, Quảng Trị, gần sáng luồn về được cứ nằm ven sông Nhùng. Cứ này nằm trên phần đất do ta kiểm soát. Chúng tôi bò ra làm hồ sơ để chuyển về trên. Đến trưa công việc cũng xong. Không biết có ae nào đã trải nghiệm 5 ngày chỉ nói thầm hoặc làm ám hiệu mà không được nói thành tiếng ? Chúng tôi hoàn toàn mất tiếng nói. Thường thì sẽ hồi phục dần sau vài ngày. Anh là Ng T D, quê ở Bình Lục, Nam Hà (Hồi đó là 2 tỉnh Nam Định và Hà nam sáp nhập), nhập ngũ tháng 8 năm 70. Xong việc, hứng chí mấy ông giọng khạc khạc trong cổ như nagn đực ngồi tán chuyện dóc rồi thách đố nhau. Loanh quanh thế nào, anh nhận thách đố ăn hết 1 cân lương khô (loại 701). Một cân 4 phong, mỗi phong có 4 thanh. Anh em phải xót xa, từng người móc gùi của mình để có đủ 1 cân. Quả thật, đang đói khát, nửa cân đầu hết đánh vèo. Nửa cân sau càng ngày càng khó. Mà cái giống ăn lương khô là phải uống nước, không thì không trôi được. Đến thanh cuối cùng thì anh không ngồi được, cũng chẳng nằm được. Chỉ còn một tư thế giống như bà đẻ đang nằm chống tay trên bàn đẻ. Rồi cũng không thể chịu được. Cả chiều hôm đó, anh phải nằm ngâm mình dưới sông Nhùng. Chuyện không còn cười được nữa. Nếu bây giờ, chắc phải đưa đi viện cấp cứu rồi.
Không quên được vì sau đó anh đã hy sinh trên đường tiến vào Sài Gòn, nơi gần cửa Xuân Lộc.

  CHUYỆN II
Đại đội hành quân di chuyển từ Quảng Trị đến Nam Đông, phía tây nam Huế. "Mưa trên xứ Huế" dai dẳng hết ngày này qua ngày khác. bầu trời lúc nào cũng u ám bàng bạc. mưa có lúc đổ xuống xầm xập có lúc à à, âm âm ngập cả không gian.Cây cối và mặt đất ngậm no nước, xũng xịu. Đường rừng từ Nam Đông về động Truồi là cánh rừng nguyên sinh sao chẳng thấy đẹp ở đâu nữa. Hình như rừng núi muốn vít lấy người, chẳng cho qua mà chỉ rình để quật ngã những người lính bất cứ lúc nào. Di chuyển cả đơn vị nên tất cả đều lên vai những người lính gầy gò. Nào thì ba lô, súng đạn đủ 2 cơ số, bao gạo như con trăn lớn trằn lên cổ. Các loại nồi xong lủng củng, xong 20 thì úp vào sau ba lô, nồi quân dụng lớn thì hai thằng khênh. các thực phẩm dự trữ thì chia nhau mà vác, . . .
Trời vẫn mưa và mưa. Người hâm hấp như sốt, dâm dấp mồ hôi. Đường trơn nhầy nhụa như đổ mỡ, ngoằn nghoèo, khúc khuỷu như răng cải mả. Tôi đi sau Ngh., chàng này đã tốt nghiệp 10, có vẻ thư sinh. Dù sao tôi cũng khoẻ hơn hắn nên luôn đi sau để thúc đẩy hắn khỏi bị tụt lại.
Đại đội cứ thế đi, ai nấy lầm lũi bước. Bước thấp bước cao, bước trồi, bước sụt, cứ bước. Chẳng ai còn buồn nói gì. Chỉ có tiến lanh canh xẻng, cuốc, nồi xong. Tiếng áo mưa xột xoạt, tiếng nước òng ọc trong giày. Mùi mồ hôi hắc nồng xông lên từ áo, quần, luẩn quẩn trong áo mưa, ngạt thở ! Tôi thấy từng bước chân của Ngh. cứ nặng dần, cứ rời rặc dần. Rõ ràng anh không còn làm chủ được chúng nữa. làm sao mà chúng vẫn cứ bước ? Không biết nữa.
Bất chợt, rừng thủng ra một đám. Ánh trời bạc oà xuống trảng cỏ, xũng nước. Anh dừng lại, có vẻ như anh muốn quỵ xuống. Tôi đi lên ngang anh và đẩy nhẹ vào ba lô. Tiếng anh bật ra rất khẽ lẫn trong tiếng thở gấp, phì phò:
- Tao muốn, muốn, ...
- Gì ?
- Tao chỉ muốn ngã xuống, tao muốn chết, . . . tao muốn chúng mày lấp đất lên, . . . là tao sướng !
- . . .
Tôi lấy đỡ khẩu khẩu súng cho anh và đẩy anh đi. Văng vẳng trong tai:

" ... chúng mày lấp đất lên, . . . là tao sướng !

  CHUYỆN III: CÁI CÂY
Vẫn tiếp tục hành quân đến động Truồi. Đó là những ngày tết âm lịch năm 1975. Sư đoàn có nhiệm vụ đánh xuống Phú Lộc, chia cắt Huế với Đà Nẵng.
Trời vẫn "mưa cứ rơi dầm dề" suốt ngày này sang ngày kia. Đi phía trước Ngh. vài đứa là Lê Văn Đ., quê phủ Khoái, nổi tiếng thịt chuột. Đ. rất khoẻ. Tôi vật tay với hắn chỉ trụ được vài giây. Tay này tính nóng nảy như hổ lửa, ăn to, nói lớn, đích thị "trai nông chi điền". "Cái cây" là chuyện của hắn.
Chả là ở tiểu đội anh nuôi có một lão Chí già (vì lão hơn lứa bọn tôi 3, 4 tuổi gì đó), quê Diễn Châu. Lúc ở nhà chuyên rèn liềm, dao cho bà con trong vùng. Lão rất chịu khó, rèn cho mỗi người trong đại đội trinh sát chúng tôi một cây dao găm (bây giờ gọi là hàng thửa hay hàng độc). Dao găm rất nhỏ và rất sắc, có thể cạo được lông chân. . .
Trời vẫn mưa, đường trơn kinh khủng, lại còn vướng gốc cây với dây rừng lằng nhằng. Bỗng một tiếng rầm, xoạch xoạch . . . Thì ra Lê Văn Đ. bị ngã một cú "Trời giáng", chắc là hắn rất đau. Đoàn người xững lại, Những cái đầu ngoái lại, những người sau dồn lên nhiều con mắt đổ dồn về hắn. Dường như chẳng có ai định phản ứng gì. Một giọng cất lên rất to:
- Tháo đạn đứng dậy !
Mọi người cười ồ lên.
Hắn lồm cồm bò dậy, rút phắt ngay con dao găm. Cơn điên đồn hết lên đầu hắn khiến hắn đỏ mặt tía tai. Ai nấy kinh hãi dạt hết. Tôi tưởng hắn sẽ phải đâm một ai đó. Nhưng hắn phăm phăm chạy lại cái cây láo, dám đưa rễ ra ngáng chân hắn. Mắm môi, mắm lợi, hắn bổ con dao xuống cái rễ cây, liên tục, liên tục, mỗi nhát văng ra:
- Đ. mẹ cái cây !
- Đ. mẹ cái cây !
- . . . .

Tới bây giờ khi nhớ bạn, nói thật, tôi vẫn nghe thấy tiếng đâu đó: Cái cây ! Cái cây ! . . .

  CHUYỆN IV: CÁI WC
Đúng WC là nhà vệ sinh, nghe có vẻ chuyện rất mất vệ sinh.
Tôi được rút về cứ từ đài quan sát ở Nhan Biều, nơi ngày đêm pháo bom, nơi mà không có nước. Muốn có nước sạch thì ban đêm mò xuống sông, thế thì quá sang rồi. Để tiện thì lấy nước hố bom, chỗ nào chẳng có. Có lần thằng Hoàng múc gần đáy hố bom, nhìn thấy có anh em nằm đó không biết từ bao giờ. Thôi được rồi, chuyện ở Nhan Biều hãy để lại sau.
Cứ của đại đội ở phía sau, chân dãy Cao Hy, ngay gần cao điểm 108, một điểm đặt đài quan sát của chúng tôi. Sao cứ vắng vẻ thế, chỉ có vài đứa mới đi các chốt về nghỉ ngơi dăm ba ngày. Tôi đang lò mò tìm một căn hầm thì M. nhìn thấy reo lên rất to. Rồi chúng tôi hai thằng ở chung một hầm. Hầm ở đây phải nói là rất kiên cố, pháo thường chẳng nhằm nhò gì trừ khi là pháo khoan hay bom rơi trúng nóc.
Hầm của chúng tôi chỉ cách một con suối nhỏ cỡ vài chục mét. Không biết là suối gì, nước chảy chậm, tuy không trong lắm nhưng tuyệt vời. M. là người Hà Nội, hiền lành, ít nói nhưng rất hòa đồng với mọi người. Hắn không biết bơi, chỉ biết đánh đàn và viêt nhật ký. Người tỉnh thành, kẻ quê mùa nhưng chúng tôi rất thân nhau. Ở cứ mấy hôm tôi đã dạy hắn biết bơi ở con suối nhỏ đó. Có lần tôi đã đọc trôm nhật ký của hắn mới thấy hắn hồn nhiên, phơi phới, rất lãng mạn và sôi nổi. Ở nhật ký tôi mới thấy cái chất Hà Nội tế nhị và lịch sự của hắn, không ào ào như tôi. Sự tế nhị và lịch sự bỗng nhiên bộc phát ra ngoài. Nghe như thế có vẻ lạ nhỉ ? Đó là câu chuyên "Cái WC".
Hôm đó trời u ám, không có tiếng OV10, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng "thần sấm" hay "con ma" ầm ào rít qua đầu. Ấy là sắp có B52 đánh gần đây. Chúng tôi đang ngồi trong hầm thì nó vò giấy rồi chạy ra ngoài. Chắc mọi người nghĩ, ở nơi ác liệt ấy thì chỉ có "hố mèo". Không phải vậy. Chúng tôi làm nhà vệ sinh rất lớn và rất vệ sinh, rất kín đáo. Được một lát thì bỗng tôi nghe lục bục trên đầu, căn hầm bỗng chao đảo dưới loạt bom. Tôi hét lên gọi hắn:
- M. ơi, M., chạy vào đi !
Không có tiếng trả lời.
Hết loạt đầu, rồi sang loạt thứ hai.
- M. ơi, vào đi !
Vẫn không có tiếng trả lời.
Hết loạt thứ ba, tôi nhào ra khỏi hầm, lao về phía cái WC. Trong đầu dội lên một tiếng nghẹn: mày chết rồi hả M. ơi ?!
Ra đến nơi thấy hắn vẫn đang đứng, thản nhiên phủi đất cát ở trên người . . .
- Mày có bị thương ở đâu không ?
- Không.
Thật là không còn biết nói gì nữa. Từ nghẹn ngào chuyển sang tức giận, tôi gào lên:
- Ông qua đáng thế ! hết một loạt chạy vào vẫn kịp, sao ông cứ đực ra đấy? Ông bị điên à ? . . .
Cơn giận của tôi vẫn không nguôi suốt chiều hôm đó. Tối đến chúng tôi châm ngọn đèn làm từ lọ thuốc BComplex (thuốc này chỉ có sỹ quan được phát), ống tiêm thủng hai đầu nhồi bông, xăng thì xin của lái xe chạy trên đường. Hắn lại ngồi viêt nhật ký. Trông mà ghét quá.
Rồi cũng không nhịn được, tôi lại làm cho hắn một trận nữa. Hắn vẫn không nói gì.
Lúc tắt đèn đi ngủ, tôi hỏi:
- Sao hết loạt đầu ông không chạy vào ?
Im lặng một chút, rồi hắn từ từ nói:
- Tôi có khả năng chạy vào được, nhưng tôi không thể. Tôi không thấy sợ, cũng không điên. Tôi chỉ nghĩ, mình mà chạy vào, sau này chúng nó sẽ gọi tôi thành biệt hiệu.
- Biệt hiệu gì ?
- . . . .
- Quái gì ?

- Là . . . "thằng không kịp chùi" !

  CHUYỆN V: MỘT CHUYẾN LUỒN SÂU " XÈ XÈ . . ."
Chúng tôi chuẩn bị luồn sâu xuống đường 1, phía sau lưng địch. Bàn đạp của tụi tôi ở bờ sông Nhùng (trong bản đồ ghi là "Nhùng Giang"), ngay dưới chân cứ điểm 367 của địch, phía trên động Ông Do đỏ trọc (có người bảo là Ông Đô). Gọi là sông Nhùng nhưng đoạn đầu nguồn này khá nhỏ, nằm trong rừng đại ngàn, um tùm cây cối. Vì khu vực này nằm khá xa đường vận tải, địa hình lại rất hiểm trở, không thể vận tải hay chuyển quân được nên hình như không bị bom và chất rụng lá tàn phá. Bàn đạp này là cứ của một xã thuộc huyện Hải Lăng nhường lại cho trinh sát chúng tôi vì họ đã xây dựng cứ mới khang trang hơn.
Đó là giữa năm 74. Ngừng bắn đã lâu rồi. Trên chiến trường Quảng Trị không còn đụng độ cũng đã lâu rồi. Giai đoạn này, chúng tôi liên tục luồn sâu xuống đồng bằng. chúng tôi đoán ý đồ chuẩn bị chiến dịch của sư đoàn có thể đưa mội mũi chủ công đánh vào sau lưng địch (chỉ là đoán thôi).
Cũng không phải chuẩn bị gì nhiều, mỗi người một gùi tự tạo làm từ nylon lấy từ vỏ tải gạo Trung Quốc, rất dày. Chỉ 2 bộ quần áo, bản đồ, ống nhòm, địa bàn, giấy và bút chì HB và 2B. Lương thực chỉ có vài cân gạo, 1 cân lương khô và ruốc mặn. Xanh tuya rông chỉ đeo một băng đạn, hai quả lựu đạn mỏ vịt, loại bé như quả ổi và bi đông nước. AK báng gấp 1 băng đầy đeo trên vai. đạn và lựu đạn phải dùng đến là bất đắc dĩ rồi vì trinh sát thắng lợi là không được lộ. Vậy là xong. Ấy, còn một thứ bất li thân mà tôi học từ M. đó là nhật ký. Nhưng tôi không mang theo cuốn nhật ký đâu vì sợ nhỡ có chuyện gì thì bị bật mí, chỉ là vài tờ 5 hào 2 gấp đôi. Tôi cũng chỉ định gạch đầu dòng các sự kiện để lúc về sẽ viết, khỏi quên.
5 giờ chiều, chúng tôi xuất phát. Lần này chỉ có anh P. và tôi. Chúng tôi đi trên bờ vách của sông Nhùng, xuôi xuống. Chừng 10 phút sau chúng tôi đã đến cứ của huyện Hải Lăng. Ở đây có các cơ quan của huyện, cả cơ quan chính quyền, cả huyện ủy và huyện đội. Cứ của các xã cũng ở ngay xung quanh. Đất của Hải Lăng hầu như hoàn toàn thuộc địch kiểm soát. Cơ quan huyện và các xã chỉ còn có rẻo rừng già này làm căn cứ, sát với huyện Đackrông. Sẽ có một du kích xã Hải Lâm dẫn chúng tôi đi. Đó là một cậu trai 17 tuổi, cao, gày và nhanh nhẹn. Cùng đi với cậu là một huyện uỷ viên đi cơ sở dưới đồng bằng. Cùng đi với chúng tôi còn có 3 du kích ở các xã khác đi xuống cơ sở. Chúng tôi trao đổi đường đi trên bản đồ. Những người thạo đường thì không thạo bản đồ, tôi thạo bản đồ thì lại chả biết đâu vào với đâu. Tuy nhiên, sau 5 phút thì mọi việc cũng tạm ổn.
Lên đường. Chúng tôi lại đi dọc theo ven sông, hướng nước chảy. Chừng 10 phút sau thì đến chỗ giáp ranh (giữa ta và địch). Mọi người tạm nghỉ chờ trời tối. Chúng tôi trao đổi ám hiệu để nhận nhau. Người đi trước chỉ tróc lưỡi 2 tiếng, người đi sau cũng đáp lại 2 tiếng - nghĩa là ổn. Nếu cần yêu cầu phía trên đi chậm lại thì tróc 3 tiếng. Tiếng khạc hơi trong cổ là báo động, yêu cầu mọi người dừng lại, giữ yên tĩnh. Từ lúc này, chúng tôi phải nhịn nói. Tiếng tróc lưỡi và khạc hơi trong cổ nghe như tiếng của các con vật nào đó phát ra trong đêm.
Trong khi chờ trời tối, tôi chẳng nghĩ gì nhiều, chỉ quan sát xung quanh. Tiếng nước sông vẫn chảy rì rào dưới kia. Ngước lên cao, phía bên trái, nhìn qua cây lá có thể thấy những tia nắng cuối cùng vẫn còn hắt lên điểm cao 367. Và, gần hơn, thấp hơn là những điểm cao khác của địch đã tắt nắng và trở nên xẫm màu. Tôi mở bản đồ, đánh dấu các điểm cao có địch và ghi vào hồ sơ. Trong đoàn đi, vài người cũng đứng xem. Thực ra có mỗi tấm bản đồ tôi mang theo. vả lại, mọi người cũng không thạo dùng bản đồ cho lắm. Anh P. là cán bộ đại đội, làm công tác chính trị. Chắc hồi học trường sỹ quan chính trị, anh cũng phải học nhưng có vẻ anh cũng không thạo. Anh đi cùng chúng tôi theo kiểu đi thực địa cho biết. Nhưng có lẽ anh muốn gần gũi với lính tráng, và sau khi đi một lần , anh sẽ dễ làm công tác của mình hơn.

Chúng tôi dấu dép đúc vào các bụi cây và đi giày dép, ngụy. Thực ra đó là những đôi giầy của lính ngụy. Dân luồn sâu anh nào chả thửa một đôi. Có người đục thêm nhiều lỗ ở xung quanh, có người cắt ngang cả một đoạn mõm giày để thoát nước nhanh. Có nước trong giày sẽ phát ra tiếng kêu òng ọc. Tôi cắt hết phần giày, chỉ để lại đế, xâu lỗ rồi luồn quai cao su đúc của ta vào - gọi là dép rồi, vừa nhẹ, vừa mát, vừa không òng ọc.

  - Đi thôi !
Anh P. và tôi được ưu tiên đi giữa đoàn, vừa có người dẫn đường phía trước vừa có người cản hậu phía sau, khỏi lạc. Khi đi trinh sát bao giờ tôi cũng đi đầu để "cắt phươg vị", lần này được đi giữa thấy là lạ, hay hay. Ở đây du kích về cơ sở như cơm bữa nên thuộc đường như lòng bàn tay.
Trời sập tối rất nhanh. Rừng mà. Nửa tiếng sau, tôi hoàn toàn không còn nhìn thấy gì. Ừ, thì rừng thật nhưng sao tối thế không biết. Lâu rồi chỉ dùng lịch dương, không biết hôm nay là bao nhiêu âm lịch? tôi tính nhẩm mãi không ra, chỉ biết hoặc là đầu tháng hoặc là cuối tháng. Đúng là tối như hũ nút. À, quên, mỗi chúng tôi đều có gậy đi đường, nếu không thì bây giờ chẳng thể đi được. Tôi hoàn toàn dựa vào tiếng xột xoạt cây lá của người đi trước để nhắm hướng và dựa vào gậy để dò đường dưới chân, lổm ngổm những đá và rễ cây. Khó chịu nhất là thỉnh thoảng cành cây và dây rừng vắt ngang qua mặt, lúc thì chẹn ngang cổ. Đang đi nhanh, bật ngửa lại. Rồi cũng nghĩ ra một cách hợp lý. Tôi đưa tay bên đeo súng lên phía trước, ngang đầu làm "xúc tu dò đường" và để hất cành cây và dây rừng trượt qua mũ tai bèo.
Chúng tôi cứ thế đi. Lúc đầu anh P. và tôi không theo kịp người đi trước. Thỉnh thoảng cứ phải tróc lưỡi 3 tiếng, yêu cầu đi chậm lại. Chẳng có nhẽ thế ! Bọn trinh sát chúng tôi đi đêm có chịu ai bao giờ. Ừ, nhưng với điều kiện mắt phải còn có tác dụng. Đằng này, có căng hết mắt ra thì cũng như nhắm thôi. Thật là một cảm giác bức bối khó chịu, mới thấu hiểu tâm trạng bất lực của những người khiếm thị. Tôi ước gì có đom đóm mà bắt vài chú, dán vào mũ tai bèo làm đèn pha và dán vào gùi làm đèn hậu dẫn đường cho người đi sau.
Bỗng anh P. dừng lại và nói thầm với tôi: "Lội sông nhé !". Chúng tôi tụt từ vách sông xuống. Xuống nước rồi, bây giờ mắt đã có tác dụng. Đêm nay không trăng đã đành, mà sao cũng chẳng thấy một ngôi. Sao vậy ? rõ ràng chiều nay rất nắng. À, mình ngốc thật. Hẳn là ban đêm mây núi đã phủ kín trên đầu chúng tôi rồi. Đang nóng nhột nhạt khắp người được lội xuống nước thật không có gì sướng bằng. Tôi cúi xuống vỗ nước lên mặt và nhúng cả hai tay xuống nước, ướt đến tận nách. Lủm một cái, xuýt nữa thì tuột mất súng.
Chúng tôi lội đi, mát mẻ, khoan khoái. Đã có thể nhìn thấy lờ mờ người đi trước.
(Hôm nay nhớ lại chuyện này, sau khi biết bác PHONGQUảNG khênh cả cối đá xuống đồng bằng để giã giò, thấy nể quá !).
Đoàn người cứ thế mải miết đi, lúc đi trong rừng, lúc lội sông. Rừng ngày càng dãn ra. Bóng đêm không còn đặc quánh nữa mà mỗi lúc một loãng hơn. Có đoạn, chúng tôi rời con sông để vòng tránh chốt của địch. Tiếc là mình không xác định được vị trí để điền vào sơ đồ. Chúng tôi đang đi trên đồi tranh, ở đây không có rừng, mát hẳn. Gió đêm nhè nhẹ thổi quấn quýt lấy người.
Qua đỉnh đồi. Giải lao. Đã gần 12 giờ, vậy là đã đi được hơn 5 tiếng. Đường loằng ngoằng như vậy, chắc mỗi giờ chỉ đi được dưới 3 cây số. Vị chi là 15 cây. Tính ra đường chim bay chắc mới hơn chục cây. Mai mình sẽ xem bản đồ, một vị trí địch ở một cao điểm sát bờ sông bên trái, gần đồi trống không có rừng, cách cứ chừng 10 cây số theo đường chim bay ?!

  Lại lội xuống sông, sáng hơn một chút rồi, có thể nhìn thấy bóng một hai người đi trước. Phía trước đột ngột dừng lại. Chuẩn bị đi qua chốt địch ở sát bờ sông, phải đi thật khẽ và cách xa nhau. Chỗ này là bãi đá lớn, trống trải. Chúng tôi đi rất chậm, đoạn lội nước, đoạn đi trên các tảng đá, bước từ tảng này sang tảng khác. Bất ngờ tôi bước phải một tảng đá trơn. Chân tôi bị trượt xuống, không hãm lại được. Ùm ! xuống nước, người tôi ngã sập xuống tảng đá. Khẩu súng giáng mạnh xuống đá. Tiếng thép và đá va vào nhau vang lên lạnh mà đanh, vọng đi vọng lại trong rừng đêm tĩnh lặng chẳng khác gì tiếng bom. Tiếng súng bị va đập không thể lẫn với tiếng gì khác, là lính, nghe biết ngay. Tất cả đoàn người như chết lặng đi. Đây chính là chỗ sát địch nhất, trên bờ sông, ngay trên đầu. Ai nấy thò tay mở chốt an toàn.
Loáng qua trong đầu tôi, rất nhanh: "Hỏng rồi ! Một cú trượt nhỏ làm hỏng cả một ý đồ lớn. Phải bắn nhau rồi, . . . bình thường ! ". Nhưng ngay lập tức, tôi cảm thấy xấu hổ vì làm hỏng việc và xấu hổ vì mang tiếng là trinh sát. Sao mà lại có thể hậu đậu thế không biết ! Thế là hết cái tinh tướng của thằng tôi, lúc nào cũng tỏ vẻ ta đây trinh sát lọc lõi, oai hùng lắm !
. . . . Vài phút trôi qua, vẫn lặng yên như tờ. Chắc bọn địch ngủ hết, chắc không có người gác (thời bình mà). Nếu không, cũng là lính, chúng nghe sẽ biết ngay. Tiếng động bất chợt vang to trong đêm thanh vắng chắc có thể đánh thức vài tên nhưng bất ngờ tỉnh dậy nên có thể cũng không nhận biết được là chuyện gì.
Tang tảng sáng thì đến một quãng rừng thưa, đất bằng phẳng. Chúng tôi chia tay ba du kích xã. Họ đi chếch về phía đông nam, chắc là xuống vùng Mỹ Chánh. Bốn người chúng tôi vẫn tiếp tục đi về phía đông, tôi đi sau cùng. Mặc dù trời chưa sáng nhưng đã nhìn rõ mọi người, mọi vật. Được đi đường bằng, lại nhìn rõ thế này thật là khoan khoái. Rừng thưa, cây nhỏ chỉ cao ba bốn mét nhưng cũng làm khuất tầm nhìn. Tôi không quan sát được xa bao nhiêu. Thỉnh thoảng, một chú chim giật mình vụt bay lên từ trong các đám cây.
Chừng nửa tiếng sau, trời sáng. Nghe đâu đó trên cao những tiếng chim hót trong vắt, lảnh lót, báo hiệu một ngày đẹp trời, nắng to. Rồi đến đoạn rừng toàn giang với lau lách và cây nhỏ dưới ba mét. Những cây giang bò ngoằn ngoèo, chằng chịt suốt từ mặt đất đến trên tầm với, rồi ngóc đọt lên cao. Được chừng mươi phút trong rừng giang thì cậu du kích dừng lại và thì thào:
- Tới rồi hè !
Rẽ khỏi con đường mòn, chúng tôi bắt đầu chui rất thấp luồn lách qua các cây giang và lau sậy cùng những cây nhỏ lúp xúp rậm rạp. Sau hàng trăm mét luồn lách như vậy, một trảng đất trống bỗng hiện ra. Một trảng đất bằng phẳng, sạch sẽ rộng cỡ 10 mét vuông. Ở đây có thể đứng thẳng lưng thoải mái. Các cây giang được khéo léo đan vào nhau thành một mái vòm trên đầu, rất kín đáo, mát mẻ. Có cảm tưởng như nắng cũng khó có thể lọt qua được. Thế này thì dân hay địch có đến rất gần cũng không thể phát hiện được. Vả lại, nếu có người tình cờ đi tới, sẽ phát ra tiếng động, anh em có thể nhanh chóng rút đi nơi khác. Thì ra đây là những cái động của du kích làm chỗ đi về khi xuống cơ sở ở trong ấp.
Trong khi chúng tôi xuống súng, tháo gùi và xanh tuy rông thì anh huyện uỷ móc túi áo sơ mi (mọi người đều mặc đồ dân sự, trừ anh P. và tôi) lấy ra một túi bóng, bên trong là thuốc rê và bao diêm. Anh vấn thuốc bằng giấy mỏng đàng hoàng (chứ không phải là giấy 5 hào 2 hay giấy giang đen). Loáng một cái, đảo lưỡi một vòng, xuất xưởng ngay một điếu sâu kèn cực đẹp. Anh châm thuốc rít một hơi dài và nhả khói từ từ, rất đậm đặc. Thật là khoan khoái, ngon chưa từng thấy!
Bây giờ anh mới bỏ đồ ra. Đã bao nhiêu lần cố nhớ tên anh mà không sao nhớ ra được (ở trên đã nói, nhật ký của tôi đã bị cháy). Tôi nhớ tên anh có vần "anh", mà cũng không chắc. Tôi sợ nhiều lần cố nhớ nên cuối cùng bị ám thị một tên hay một vần nào đó. Không biết có phải là Hạnh, là Chánh hay là Thành ?
Thì ra anh không phải là huyện uỷ viên như tôi tưởng mà là trung uý, huyện đội phó huyện đội Hải Lăng, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ta hãy cứ tạm gọi anh là Chánh, cho nó có gì đó là Mỹ Chánh quê miềng.
Anh Chánh người nhỏ bé, gày guộc. Phải nói là rất gày. Anh có nước da đen mái, tóc rất thưa, cắt 3 phân, gần như không có râu. Đôi má hóp của anh có đến ngoặc tam ngoặc tứ, nhất là mỗi khi cười. Mới tầm 40 mươi nhưng trông anh rất già (không biết có phải lúc đó mới có 21, 22 tuổi nên nhìn anh tôi thấy rất già). Trông anh như người đau bao tử lâu năm, rõ là sốt rét chuyên nghiệp rồi. Chỉ có đôi mắt trũng sâu là tinh anh. Giá như bây giờ, mọi người sẽ tưởng anh là con nghiện bố chấy.
Cả ngày hôm đó, chúng tôi nghỉ ngơi trong động và tôi được nghe anh kể rất nhiều chuyện, nhiều nhất là chuyện đánh nhau. Một du kích và bộ đội nhanh như sóc. Khi chúng tôi hỏi chuyện vợ con thì anh chỉ im lặng. Mãi rồi anh mới cười, anh cười rất thoải mái, đuôi mắt xoè ra những nếp nhăn như dẻ quạt. Trong tiếng cười hồn hậu anh buông ra chậm rãi:
- Cả một đời vì nước vì non !
Rồi lại cười. Chắc chắn những đồng đội của anh sẽ không thể quên được: "Cả một đời vì nước vì non !" Cậu du kích xã Hải Phú còn trêu anh với một cô y tá nào đó ở huyện, thì anh vẫn cười và lại lặp lại đúng câu đó.
Tôi tả kỹ anh như vậy, hy vọng sẽ có ai đó nhận chân dung và cho tôi được biết lại tên anh, cho tôi biết thêm về hoạt động và cuộc sống của anh sau này. Bức chạm về một người nông dân, huyện đội phó, anh hùng nhỏ thó đó khắc vào tâm khảm tôi, đã bao nhiêu năm, vẫn chẳng mờ đi một nét nào.

   Cậu du kích dẫn tôi đi lấy cây để trải đệm. Chúng tôi luồn trong rừng giang chừng 15 phút thì tới một vạt tinh những lau sậy. Mỗi người cắt một ôm, kéo về. Đệm được trải tinh tươm. Đúng là "buồn ngủ gặp chiếu . . . lau", ba chúng tôi đặt lưng là kéo liền. Yên tâm đi, đã có anh Chánh gác rồi.
Đến trưa, chúng tôi tỉnh dậy. Cậu du kích chạy đâu đó vào trong bụi cây lấy ra hai cái xoong, lại còn cả bát đũa nữa mới sang chứ. Tôi ra suối lấy nước còn cậu đi kiếm củi. Gọi là suối cho oai, thực ra là một cái rãnh nhỏ có nước chảy ri rỉ, ngoắt ngoéo trong rừng giang. Tôi lấy nước ở một cái hố được bới sâu xuống đất. Nước rất trong và mát. Mang nước về, vừa lấy gạo ra, đã thấy cậu trai mang củi về, toàn là giang khô. Lửa cháy rất đượm, chẳng cần bếp Hoàng Cầm cũng không hề có sợi khói nào.
Tôi ra rãnh nước rửa mặt. Vốn là đến đâu tôi cũng phải đảo một vòng quanh xem thế nào. Tôi đảo vòng một lượt rồi lần theo rãnh nước, ngược lên một đoạn. Lúc đi xuôi rãnh được có vài mét, bất chợt nhìn thấy mảnh áo mưa màu xám của lính ta lòi ra ngay chỗ nước chảy. Tôi kéo mảnh nylon ra một chút đã nhìn thấy xương sọ người, rất trắng, rất sạch chứ không như tôi thấy ở những lần đi bốc mộ. Anh là ai vậy, du kích hay bộ đội ? thì ra động này đã có lâu rồi. Chắc anh em xuống ấp, bị thương, được đưa về đây nhưng không đưa được về phía sau và đã mất ở đây. Tôi bùi ngùi vét đất ở xung quanh để đắp kín lại, rồi lại vét đất cho rãnh nước chảy vòng qua, không xói vào chỗ anh nằm. Đất mỏng quá, lại bị nước xói vào. Lại còn nắng nữa chứ, rồi mưa . . . . Sao lại thế ! Tội quá !
Cậu du kích đang nấu canh măng giang tươi với ruốc mặn. Đói quá, thèm rỏ rãi.
- Tối ni em về nhà lấy bột ngọt, đậu phộng.
Tên cậu du kích là Vượt (có lẽ thế). Hoá ra không phải du kích Hải Lâm mà là Hải Phú. Những ngày ấy đi phối thuộc với du kích hay đơn vị bạn đều thế cả. Chưa kịp hỏi gì về nhau đã chiến rồi. Nhiều khi chia tay vẫn chưa biết tên. Ba cậu cũng là bộ đội miền, mẹ và em vẫn ở trong ấp. Bọn địch đã gom dân về các ấp. Làng quê, xóm mạc đâu còn, giờ đây chỉ là những nền đất trơ trọi. Có xót lại vài cây ăn trái, hay hàng rào cây thì cũng xơ xác hết cả.
Chúng tôi thay nhau ra tắm ở rãnh nước. Mát quá ! Tôi còn cạo cả râu nữa, cũng chỉ lún phún chứ có bao nhiêu. Móc ngón tay út vào lưỡi dao lam, vài đường là xong.
Tôi trải bản đồ, trao đổi với anh P và Vượt. Chúng tôi chọn một vị trí cao, có thể quan sát được rộng và ẩn nấp kín đáo. Vượt nhìn bản đồ, mày hơi nhíu lại, có vẻ như cậu đang hình dung ra thực địa để chọn chỗ cho thích hợp. Đây là "nhà" của cậu mà, chỗ nào chẳng biết.
- Được eng à !

Dưới đây là vị trí một động của du kích Hải Phú, nền nhà của Vượt và điểm quan sát mà chúng tôi sử dụng trong ngày hôm sau.

  Tôi gấp bản đồ, cho vào gùi rồi quay sang hỏi Vượt:
- Mình thấy có anh em nằm ngay cạnh suối ?
- Em có biết anh nằm đó nhưng không biết là ai - Rồi cậu ngoái sang anh Chánh:
- Ai chú hè ?
Anh Chánh quay sang tôi giọng buồn buồn:
- Cũng là du kích Hải Phú đó. Tên gì hè . . .? Gì hè . . .? Nằm đây từ năm 68 lậng.
Cơm chiều xong cũng gần tắt nắng. Chúng tôi đóng đầy nước vào bi đông. Vượt còn lấy thêm cả bi đông Mỹ (bằng inox) của anh Chánh nữa. Cả ngày mai chúng tôi chỉ có nước và lương khô.
Trời tối hẳn, chúng tôi luồn ra khỏi động theo một lối khác. Chỉ khoảng 20 phút sau đã thoát khỏi rừng giang. Đây là đồi trọc, không có rừng và cây cối, chỉ có ít cỏ và lơ thơ cây lúp xúp như ta thường thấy ở vùng đồi Ái tử hay Vĩnh Phước. Chúng tôi đi trên đường mòn, đường đi lấy củi của dân. Gió mát, thật là thoáng đãng và thoải mái. Nhìn xuống phía trước xa xa, thấy lốm đốm ánh đèn hoe vàng của nhà dân, ánh đèn pha ô tô lấp loáng lúc ẩn lúc hiện dọc trên đường QL1.
Không vội gì, chỉ chừng vài cây số chứ mấy. Chúng tôi ngồi trên đỉnh đồi hóng gió và quan sát. Thật là một cảm giác kỳ lạ. Có thể ngồi thảnh thơi hóng gió ở rất sâu trong lòng địch. Mà tại sao mình lại ở chỗ này nhỉ? Xa cách với mọi thứ thân quen, xa cách mọi người. Sao mình ở một nơi chẳng ai hay biết có mình. Giá như mình có chuyện thì sẽ chẳng còn lại dấu vết gì!
Tôi không cảm thấy buồn mà chỉ nghĩ về cái logic của chiến tranh. Không còn gì là bình thường. Kể cũng lạ ! Tôi không thấy ngán, cũng không sợ chết mà thấy có vẻ như mình đang đùa chơi với sự sống và cái chết. Mà, sao vẫn cảm thấy thanh thản lạ. Phải chăng đó là logic cho ta sức sống. Tuổi trẻ của chúng tôi đi vào chiến tranh có phải đều như vậy? Sự gian khổ hay ác liệt không tước đi hết mọi thứ trong mỗi người lính. Những giây phút tĩnh lặng vẫn trả lại cho họ tất cả. Thật không vậy? Không! Có một thứ không bao giờ được trả lại. Đó là những người thân thiết đã nằm lại đâu đó trong dòng chảy thác lũ của cuộc chiến. Đó là sự day dứt mà những người lính không bao giờ thoát khỏi. Đã bao năm rồi. Vẫn vậy!
Vượt dẫn chúng tôi đi trên con đường mòn. Cậu rất quen con đường này cứ như ngày nào cậu cũng đi trên đó. Chúng tôi đi rất từ từ, vừa đi vừa quan sát xung quanh, nhất là phía đường 1. Nơi đó có ánh đèn, nơi đó có mẹ và em Vượt. Những người dân không được ở làng xóm của họ mà phải ở trong ấp. Cũng may chỉ là "ấp dân sinh" chứ không phải là "ấp chiến lược" như những năm về trước. Ban ngày, dân có thể tương đối thoải mái ra ngoài đi làm, đi lấy củi hay về thôn xóm cũ.
Chúng tôi tới một vùng đất thấp. tôi tróc lưỡi để Vượt dừng lại và hỏi:
- Mình đi đâu đây?
- Đây là Phú Long thôn em. Em qua nhà lấy ít đồ.
Gọi là thôn Phú Long nhưng bằng địa, không có mái nhà nào. Dấu tích còn lại chỉ là những nền nhà đất trơ trọi. Đâu đó còn sót lại mấy cây mít. Cái giống mít sao mà sống dai dẳng, kiên cường vậy. Dù gãy hết cành, thân mình đầy vết mảnh bom pháo, chồi mít vẫn nhú ra, mãnh liệt. Thấp thoáng mấy dặng duối, xơ xác . . .
- Nhà em nè ! Nói rồi, Vượt nhặt mảnh tôn, đi lại phía sau mảnh đất. Trước đây, chỗ này là mảnh vườn ở đầu chái (nhà ở Quảng Trị bao giờ cũng có 4 mái kể cả hai bên chái nhà). Cậu vục mảnh tôn xuống đất, chỉ cào một lớp đất mỏng đã thấy lôi lên hai thùng đại liên Mỹ. Một thùng đựng toàn đậu phộng với đậu xanh còn thùng kia có cơm sấy (của lính ngụy) với bột ngọt và vài thứ linh tinh nữa. Chắc là thương con, ban ngày má cậu lên đây bỏ đồ cho cậu. Vượt lấy một ít đậu phộng và gói bột ngọt cho vào gùi rồi lại chôn hai thùng đạn, khoả đất như cũ.
- Đi hè !

Ôi ! "Làng quê, xóm mạc đâu còn! giờ đây chỉ là những nền đất trơ trọi. Có xót lại vài cây ăn trái, hay hàng rào cây thì cũng xơ xác hết cả". .

  Chẳng mấy chốc đã đến địa điểm chúng tôi lựa chọn làm điểm quan sát. Một vị trí nằm ở đầu mỏm của một dải đất bằng trên bình độ 20 mét (dân xây dựng hay dân trắc đạc gọi là đường đồng mức, chúng tôi gọi là đường bình độ). Phía trước mặt dốc thoai thoải xuống ruộng, vị trí quan sát không bị vướng bất cứ vật cản nào, quá đẹp! Chỉ cần tìm được chỗ ẩn nấp kín đáo là xong.
Chúng tôi đảo qua các bụi cây lúp xúp rải rác trên mỏm đất, phải tìm vài chỗ để nếu có động có thể di chuyển từ điểm này qua điểm khác giữa ban ngày mà khả năng lộ là ít nhất. Các bụi cây lúp xúp ở đây là những bụi có rất nhiều loại cây, chen lẫn cỏ tranh với cây mâm xôi, một vài cây hoa mua với cây "huân chương" (lá cây này có lông, hồi trẻ con, chúng tôi thường dán lên ngực làm huân chương), rồi có cây gì đó quả tròn, thân rất nhiều gai, khi có quả cây còn rất ít lá, cả cây bông lau nữa, . . .Cũng đủ rậm rạp để ẩn nấp được.
Chúng tôi chui vào giữa bụi rậm, vắt cây lá thành một cái vòm nhỏ, rất kín đáo, bên ngoài khó có thể nhìn thấy có mấy chú Vi-Xi bên trong (VC: Việt Cộng). Vì cây khá thấp nên phía trên đầu không được kín cho lắm. Nắng chết đây, được rồi, lúc đó hãng hay! Xong việc, mọi người chui ra ngoài nghỉ ngơi, chờ trời sáng.
Các ấp không còn ánh đèn, trên đường cũng không nhìn thấy xe chạy nữa. Mới biết về đêm, ở sâu trong lòng địch mà chúng vẫn sợ không dám đi trên đường. Có thể du lích hay bộ đội địa phương thỉnh thoảng phóng một quả B40, 41 rồi rút chạy, chẳng biết đường nào mà lần (Bác Phong Quảng còn choảng cả cối 82 mới kinh chứ !).
Tờ mờ sáng, đã có những chú chim (lại là chim) ríu ra ríu rít đâu đó, rồi đến lũ chiền chiện cứ vút lên lại liệng xuống, vừa liệng vừa kêu chíu chít không lẫn vào đâu được. Lũ này, buổi sáng, chưa kiếm ăn mà đang chơi đùa đấy. Chúng tôi chui vào bụi cây, tranh thủ ăn lương khô và uống nước. trời sáng hẳn sẽ phải làm việc rồi.
Sư đoàn có một tiểu đội trinh sát kỹ thuật (gọi là A12, trước đó thuộc C20 sư đoàn) chuyên môn nghe lén điện đàm của địch. Mỗi tiểu đội địch có một máy điện đàm PRC-25. Chập tối chúng phải báo cáo vị trí đóng quân của tiểu đội lên đại đội. Rồi cứ thế đại đội lại báo cáo lên nữa. Vị trí của địch sư đoàn nắm rất rõ. Chúng tôi luồn sâu mục đích chính là vẽ lại cảnh thực quan sát được (gọi là cảnh đồ), coi như mắt của tư lệnh kéo dài xuống tận đây. Chúng tôi cũng phải vẽ sơ đồ nữa. Tuy nhiên, chỉ được một phạm vi hẹp. Nhưng điều đó rất quan trọng nếu khu vực vẽ trên sơ đồ là khu vực tác chiến vì sơ đồ mô tả chi tiết hơn nhiều so với bản đồ và so với báo cáo tọa độ địch mà ta nghe lén được.
Đã có những tia nắng đầu tiên hắt thẳng vào ống nhòm. Những mái nhà tôn trong các ấp đã hiện rõ, sáng bàng bạc lấp loá. Đã nhìn thấy xe cộ chạy trên đường, cả ô tô, xe lam và nhiều nhất là HonDa (Hồi đó cứ xe máy là mọi người đều gọi là HonDa tất, chắc cũng chả sai bao nhiêu). Điểm gần đường QL1 nhất chỉ cách chúng tôi chừng 2 cây số, đường sắt chỉ cách 1 cây. Nhìn về phía bắc, ngay từ lúc chưa sáng, tháp chuông nhà thờ La Vang là nhìn thấy đầu tiên vì nó cao vượt lên hẳn. Hồi chưa ngừng bắn, nhiều anh em trinh sát cứ thắc mắc tại sao nhà thờ La Vang và một chòi canh ở Ái Tử không bị bắn đổ. Thì ra đó là các vật chuẩn mà địch giữ lại để căn chỉnh pháo. Nhà thờ thì đã bị bom pháo đánh tan tành, chỉ riêng tháp chuông là vẫn đứng sừng sững.
Tôi bắt đầu vẽ cảnh đồ, phải chia làm ba mảnh vì dài quá. Tôi vẽ cảnh đồ trên giấy cuộn của Mỹ, màu vàng nhạt, chiều ngang khổ giấy chỉ 30 cm, nhưng dài vô tư.
Được một chập, bỗng nghe tiếng người líu ta líu tíu từ phía các ấp đi lên, toàn tiếng con gái, nghe thật dễ chịu, mềm cả lòng !? Vượt nói:

- Đi kiếm củi đó !

   Tôi vẫn tiếp tục vẽ, anh P. và Vượt quan sát cảnh giới (không biết có cảnh giới hay lại đang nhìn gì đó không biết?). Tôi vừa quan sát qua ống nhòm vừa vẽ nhưng tai vẫn dỏng đi đâu ấy. Tiếng em út nói chuyện líu la líu lô như chim hót nghe ngày một gần. Trời còn mát, mọi người đang hăng hái mà. Anh P. thì thào:
- Này ! Gượm hãy vẽ, nhìn đã ! (đúng là giọng Thái Bình xịn).
Nhìn qua kẽ lá, theo hướng anh P. chỉ, năm bảy người con gái đang đi đến gần trên đường mòn. Các o đội nón vải (giống mũ tai bèo của lính giải phóng, chỉ khác màu sắc). Lại còn có hai mụ tầm tầm (mụ tiếng Quảng Trị không có nghĩa xấu, thường để chỉ người đã có chồng) miệng bập bập thuốc lá vấn (điếu thuốc được quấn nguyên bằng lá, không có giấy), đã thấy có mùi thuốc khét lẹt thoảng qua, cái mùi đặc trưng của thuốc lá Quảng Trị. Tôi nhớ mấy tay nghiện thuốc nhất đơn vị cũng không ai sài nổi loại thuốc này. Thuốc xin được của dân lấy từ gác bếp xuống, mấy tay phải đem thái nhỏ, phun nước đường vào rồi ủ qua vài ngày cho lên men, có mùi chua chua, rồi sao rất nhỏ lửa mới sài được.
Bỗng nghe văng vẳng tiếng "Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, phát đi từ Hà Nội - Thủ đô nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà". Loa phóng thanh của ta đặt ở đầu cầu Quảng Trị, phía bắc, chĩa về phía địch nên ở đây nghe mồn một. Sáu cây số đường chim bay chứ lậng!
- Anh P. ơi! đến bảy rưỡi nghe tiếng hát theo yêu cầu nhé, hôm nay là chủ nhật đấy!
Anh P. là thuộc chương trình phát thanh nhất. Thường ngày, anh vẫn đeo bên hông chiếc đài LIDO. Ngày chủ nhật, lúc có tiếng hát theo yêu cầu bao giờ anh cũng vặn to hết cỡ để những nhà xung quanh cùng nghe.
Quả thật, rất thú vị! Ở sau lưng địch, chúng tôi lại được nghe các giọng hát thần tượng của Trung Kiên, Kiều Hưng, Trần Khánh, Thanh Huyền, Bích Liên,. . . Tôi nhớ nhất hôm đó được nghe Trung Kiên hát bài "Dáng đứng Việt Nam".
- Anh P. à! Nếu có chuyện thì đúng là mình cũng "Không một tấm hình, không một dòng kỷ niệm, anh chẳng để lại chi trước lúc lên đường", chỉ để lại gì đó trong bụi rậm thôi anh nhề!
- Ừ! Cái thằng này! . . . Ăn nói mất lập trường (vẫn cái vần tê e rờ rất nặng của dân nhà máy cháo).
Hai tiếng đồng hồ sau tôi mới vẽ xong được cảnh đồ thứ nhất. Đây là mảnh gần nhất, mọi chi tiết đều rất rõ, thấy cả đường sắt, đường bộ, các nhà dân trong ấp, cột anten trong căn cứ của địch. Tôi còn vẽ thêm vài cái xe cho sinh động. Đánh dấu xong điểm nhìn, góc nhìn và toạ độ một số điểm chuẩn, tôi đưa cho anh P. xem để anh cho ý kiến. Giờ này sao tĩnh lặng lạ lung, không nghe thấy một tiếng chim nào. Ừ! ở quê mình cũng vậy, giờ này bọn gà vịt chui vào đâu đó bới đất kiếm ăn, cấm thấy con nào kêu một tiếng.
Mảnh thứ hai là mảnh phía bắc, có nhà thờ La Vang nổi bật, có ngã ba Long Hưng tấp nập nhà cửa. Ở hơi xa nên các thứ đều rất nhỏ. Tôi không thấy có lô cốt hay công sự và xe tăng gì cả. Chỉ quan sát thấy những chỗ nhiều xe lính vào ra và anten mà đoán ra sở chỉ huy của địch – cái này sẽ đưa vào sơ đồ thôi (cũng dễ hiểu vì đây là rất sâu sau lưng địch).
Đến chưa thì xong mảnh thứ hai. Giá mà chụp ảnh thì xong lâu rồi. Sư đoàn cũng có trinh sát chụp ảnh chuyên nghiệp, máy ảnh có "Tê lê" đàng hoàng. Ảnh chụp được gọi là ảnh đồ. Tuy nhiên, ảnh đồ không bao giờ so sánh được với cảnh đồ do người vẽ (cái này xin nói ở ngoài câu chuyện V).
Trời nóng quá, nắng gắt soi vào người, chói chang. Vượt nói:
- Để em ra ngoài kiếm ít lá.
Chưa kịp nói gì thì cậu đã luồn, chui để ra ngoài. Loáng sau cậu đã lôi về một đống cành lá. Cậu cài các cành lá ở phía trên vòm. Mát hẳn. Chúng tôi giở lương khô, gọi là ăn trưa. Đậu phộng sống với nước trắng, ngon ra phết.
- Anh P. ơi ! Anh kể chuyện vợ đi, bọn em chưa biết gì cả. . . Hay là thằng Vượt nó biết rồi ?
- Đâu có !
Anh P. nguyên là chính trị viên đại đội ở tiểu đoàn 6 trung đoàn 95. Trước khi chuyển về đại đội trinh sát, anh được về phép thăm vợ con. Khi bọn tôi đòi kể chuyện, đúng là "được lời như cởi tấm lòng", bao nhiêu nỗi nhớ thương người vợ trẻ, chuyện nọ, chuyện kia . . . anh kể ra hết. Tại bọn tôi cả thôi, ai bảo bắt anh kể chuyện đêm tân hôn để rồi phải ngồi . . . chịu trận.
Đến tầm 3 giờ chiều, tôi đã vẽ xong cảnh đồ và sơ đồ. Mọi người ngồi ngắm nghía, góp ý chỗ này chỗ kia. Anh P. dương ống nhòm lên soi từng chỗ một.
- Ừ được đấy ! À, mà cái chỗ ngã ba này này, tớ có nhìn thấy đâu.
- Em thấy xe GMC đi từ chỗ này nhé, lúc sau thấy ở đây nhé. Phải có ngã ba ở đây không? Em dịch cái nhà và đám cây này ra một chút để các thủ trưởng nhìn thấy ngã ba mà.
- Có được không?
- Biến báo một tí, miễn không sai là được mà anh.
Sửa sang xong cũng là lúc chiều tà. Tôi hỏi:
- Sao chưa thấy mấy chị em đi kiếm củi về nhỉ ?
- Về đàng ni thôi eng à . Em nghe thấy tiếng rồi.
Quả nhiên, một lúc sau đã nge tiếng í ới nói chuyện của chị em đi lấy củi về. Mấy o đang đi trên đường mòn lại gần phía chúng tôi. Mọi người kéo các cành lá che kín hết vòm, ai nấy im bặt không còn nói chuyện thì thào nữa. Có tiếng nói chuyện của một hai o đang đi lại rất gần, tiếng họ quẳng gánh củi xuống, nghe có vẻ rất gần. Chúng tôi cúi xuống rất thấp, gần như nằm. Nếu bị phát hiện, chúng tôi đã có sẵn phương án rồi. Sẽ phải uy hiếp họ và bắt tất cả lại, chờ đến lúc trời tối sẽ thả cho họ về và chúng tôi cũng chuồn lẹ. Cách này dân luồn sâu đều áp dụng.
Thì ra mấy o ghé vào giải quyết nỗi buồn, nghe tiếng sột xoạt phía ngoài đám bụi rậm. Chúng tôi bấm bụng nhìn nhau.
Xin thề với các quê, em không nhìn đâu đấy !
. . . . Nhưng mà nghe thấy . . . . "xè xè . . . .".
Hai ngày sau, chúng tôi về đến cứ hoàn toàn mất tiếng, chỉ phát ra tiếng lào thào được thôi. Chuyện kể lại với mọi người, mấy đứa không tin, cãi lại:

- Làm gì có chuyện . . . không nhìn !? Tôi hỏi, thế ghé sát mắt xuống đất để làm gì ?

  CHUYỆN VI: ĐẶC SẢN NHƯ LỆ

Chỉ còn dăm ngày nữa là đến ngày ngừng bắn (28/1/1973). Sắp đỡ rồi !
Tôi đi cùng anh A. từ cứ của đại đội ở chân dẫy Cao Hy. Chúng tôi đi từ rất sớm. Anh A. là chính trị viên phó đại đội. Nghe nói anh giỏi võ lắm, dân Bình Định mà. Anh nhảy núi từ năm 14 tuổi (nhảy núi là từ chỉ người dân trong vùng địch trốn lên núi theo ta), đã hai lần được tặng danh hiệu "Dũng Sỹ", đánh nhau gan tày trời. Lớn hơn lứa chúng tôi trên chục tuổi, thấp, đậm với nước da gọi là "Maroc kiều", trông anh rõ là khắc khổ. Không mấy khi nét mặt anh giãn ra được trừ khi cười (may mà anh hay cười), đôi mày lúc nào cũng chau lại. Vậy mà hiền khô. Trong số các thủ trưởng đại đội, anh gần gũi lính tráng nhất. Lính tráng, đứa nào cũng thích trêu anh, bao giờ anh cũng chỉ cười hề hề. Gọi là "trình độ văn hóa có hạn", làm chính trị viên hẳn là chẳng thoải mái với anh chút nào, nhất là khi phải nói "chuyện chính trị" cho anh em trong đơn vị. Với anh, thà rằng có địch lại dễ, chỉ việc "uýnh" thôi.
Trên đường đi xuống Như lệ, chúng tôi sẽ rẽ qua cao điểm 108, nơi có đài quan sát của C20 (trung đoàn và sư đoàn đều có một đại đội trinh sát và đều được gọi là C20). Anh A. bảo:
- Hái rau đi, trên 108 chúng nó làm bún rồi.
Ngay gần cứ, chẳng có dấu tích gì của làng xóm nào mà sao những rẻo đất thấp ven suối lại có những đám rau rõ là do người trồng hẳn hoi nhưng đã bỏ từ lâu. Thế mới lạ ! Những cây rau rền cằn cỗi, những khóm húng chanh xơ xác và mấy cây cà chua còi cọc. Rồi cũng hái được một nắm rau rền, lá nhỏ lắm, màu xanh chứ không to, mướt và có màu tím như rau dền ở chợ bây giờ. Một thứ rau dền mọc hoang dại cùng với cây cỏ ở những chỗ xó xỉnh trên các con đường thôn quê. Lại được một túm rau húng với dăm bảy quả cà chua nữa. Nói là quả cho nó hoành tráng chứ cà chua ở đây chỉ to như quả nho, không biết có phải là giống cà chua bi bây giờ ?
Điểm cao 108 là một quả đồi trọc cao hơn hẳn xung quanh, không có cây cối gì, đến cỏ cũng hiếm vì bị bom pháo địch thăm hỏi đều. Mọi người đều phải ở trong hầm có hai ngách dẫn ra chỗ quan sát. Ở đây còn có cả nhà âm, chỉ vài mét vuông, mái lợp tranh, phủ đất lên trên để ngụy trang. Khổ nhất ở đài là đi lấy nước và lấy củi. Lấy nước mãi tận suối, rất xa, đi lên đi xuống dễ là ẩm thực món "cà pháo" của địch lắm. Tuy nhiên, đã nhằm nhò gì so với đài quan sát của chúng tôi ở cao điểm 20, Nhan Biều. Được về đài 108, coi như đi an dưỡng rồi.
Chúng tôi lên đến nơi, thấy hai đứa trần trùng trục đang giã bột. Ở trần vừa mát và nhất là đỡ phải xuống suối giặt quần áo, vẫn lịch sự chán, quần đùi rộng lắm, tháo ra có thể may được chăn mà?! Vậy coi như vẫn thả rông nhé ! Anh A. Hỏi:
- Thằng C. đâu?
- Nó đang quan sát thủ trưởng ạ!
Gạo được ngâm chua dễ đến cả tuần, thay nước liên tục. Gạo được giã trong cái cối là mũ sắt, còn chày là một quả lựu đạn cán gỗ đã tháo ruột. Chày cối này giã . . . . sướng phải biết ?! Bột được nắm thành quả cho vào luộc cho chín lớp bên ngoài, gọi là làm bột áo, rồi vớt ra đem giã lại. Cái vắt bún là chiếc tất Trung Quốc dệt bằng loại sợi màu cỏ úa, có ánh vàng (tất lính cũng thời trang đáo để). Chiếc tất được khâu cẩn thận vào cái miệng thở của mặt nạ phòng độc có nhiều lỗ rất tròn. Đồ nghề làm bún quá sáng tạo (tiếc là không dự thi "Trí tuệ Việt Nam"). Sợi bún hơi to một chút nhưng không đến nỗi "giun đũa".
Hai tên này làm bún có nghề quá, vắt bột thoăn thoắt vào nồi nước sôi, một loáng đã thấy vớt ra. Có bún rồi. Gạo ngâm lâu, sợi bún dai và giòn như bún Huế.
Thực sự là ngon. Bún chan canh thịt hộp nấu cà chua và rau dền ăn với húng chanh nữa. Tuyệt! Giá bây giờ mà có . . . vẫn tuyệt !
- Chín rưỡi rồi, đi thôi ! – Anh A. nói.
Chúng tôi bắt tay 3 lính đài rồi xuống núi. Từ đây xuống Như Lệ phải qua một số chỗ trống trải. Bọn địch trên động Ông Đô (anh em thường gọi là động Ông Do) và nhất là trên cao điểm 29 Tanh Lê thể nào cũng thấy và gọi pháo. Cứ chuẩn bị tinh thần đi !

Sau ngày 16/9/1972, ở phía đông địch đẩy ta đến Tám Cát, Lệ Xuyên, Long Quang, An Lộng, Bích La nằm phía bắc sông Thạch Hãn. Còn ở phía Tây, địch chiếm giữ hoàn toàn phía nam sông. Gần như con sông đã trở thành giới tuyến. 

  Chúng tôi xuống núi rất nhanh, chỗ này rất trống trải. May mà không thấy địch bắn pháo. Đoạn sau có rừng cây thấp, chúng tôi đi dưới cây men theo đường tăng ("đường Tăng" là từ mọi người hay dùng để gọi đường mòn của xe, pháo địch đi nhiều mà thành. Nhiều chỗ phát cây đi trong rừng, nhiều chỗ trống trải). Ba tiếng sau, chúng tôi đã đến khá gần Như Lệ, chỉ còn vài cây số nữa. Đoạn này trống trải. Chúng tôi dừng lại nhắm hướng, chọn đường rồi . . . chạy. Trên cao điểm 29, chắc chắn địch nhìn thấy, chỉ hy vọng có hai thằng lính còi chúng không bõ bắn pháo. Chúng tôi cứ chạy từng đoạn, dừng lại, chọn đường, lại . . . chạy.
Nghe tiếng pháo địch đang giã vào Như lệ và Tích tường. Đúng là giã giò. Nhừ tử hết cả !
Bỗng nghe tiếng "ùng . . ." lạ, rất nhỏ và xa. Không ai bảo ai, anh A. và tôi mỗi người đã lăn xuống một hố pháo rồi. Vừa kịp, . . . một loạt pháo 105 chạm đất nổ ùng oàng xung quanh, may mà không trúng ai. Đúng là trò đùa ! Mà sao chúng tôi lại hay đùa thế ? Nhưng, bình thường thôi. Chạy tiếp . . . Không thấy địch bắn tiếp nữa. Có hai thằng ranh này, chỉnh pháo không kịp, có ăn được cũng "không bõ dính răng".
Đến gần bờ sông, cỏ tranh, lau lách và cây lúp xúp. Chúng tôi lần theo một đường tụ thủy giữa hai quả đồi, cây cối dày đặc, rất kín đáo. Đứng trong đám cây, đã nhìn thấy bờ nước ngay trước mặt. Chỉ cần bơi cỡ trăm mét là tới Như Lệ rồi.
Sao bên kia bỗng nhiên im tiếng súng. Không thấy pháo bắn, cũng không nghe tiếng súng bộ binh ?! Chắc là giây phút tĩnh lặng, khét lẹt. Một dấu lặng trong bản trường ca bất tận. Là lính, ai cũng biết đây là những giây phút mà ta có thể tận dụng để điểm lại ae, nghỉ ngơi đôi chút, xốc lại trận địa, là cơ hội để làm một số việc gì đó . . .
- Vượt luôn anh nhé !
- Ừa !
- Bọn 29 Tanh Lê nhìn thấy đấy. Bơi thật nhanh anh nhé !
- Ừa ! Không thấy đứa nào bên kia ra đón hè ?
Hai tên tháo gùi, cho hết quần áo vào gùi, chỉ vận mỗi cái quần đùi ống rộng của lính. Tôi gác súng lên gùi và tuồn nhanh xuống nước. Anh A. thì "khỏe" hơn, anh chỉ mang K54. Chúng tôi bơi ngang dòng nước, mở hết tốc lực.
Nếu nó bắn thì vẫn yên tâm đi. . . . Vì mai sau vẫn có nhiều người khóc mình ". . .đáy sông còn đó bạn tôi nằm . . . " và hàng năm mọi người sẽ "thả hoa" cho mình thưởng hương rồi mà.
Trên ban 2 của sư đoàn yêu cầu chúng tôi khẩn cấp xuống đây nắm địch, vẽ sơ đồ phòng tuyến địch trước khi ngừng bắn. Phải tranh thủ đúng lúc ngừng bắn, địch đều lên khỏi công sự mà nắm toàn bộ bố trí trận địa của chúng. Vì vậy chúng tôi bắt buộc phải chơi đùa với pháo giữa ban ngày. Thế mới vui !
Chúng tôi qua sông mà không bị quấy rầy một lần nào. Đã thấy bên kia, y tá Tất sinh viên y2 ra đón. Tất nói:
- Các anh vào hầm của du kích nhé ! Đêm qua pháo bắn liên tục, vận tải không qua được. Thương binh nằm hết trong hầm của mình rồi.

Hầm của du kích Hải Lệ đào ở ngay vách sông, sát mép nước. Chỗ này vách sông khá cao, bên lở mà (xem bản đồ). Ngách vào được đào một đoạn rồi mới rẽ ngang làm hầm. bình thường, mỗi hầm chỉ có hai du kích. Ở đây du kích Hải Lệ chỉ có 2 nam còn lại toàn nữ. Họ cấp cứu và chăm sóc thương binh, tham gia cùng vận tải của trung đoàn chuyển thương binh qua sông, chuyển lính bổ sung, đạn dược và lương thực vào các chốt.

  Đã bốn giờ chiều, chúng tôi được dẫn vào hầm của du lích Hải Lệ. Đây là hầm của hai nữ du kích, nghe nói một o tên là Nữ, một o tên Sâm. Giờ này các o đang phải chăm sóc các thương binh ở bên Tích Tường, đến tối mới chuyển anh em ra bến vượt. Căn hầm khá chật, đúng là chỉ vừa cho hai người nằm. Tôi hỏi Tất:
- Xuống sông tắm được không ?
- Ấy, không được. Phải sáng mai, nếu không thì tối hãy tắm. Ở đây bất cứ lúc nào cũng có thể có pháo bắn tới đấy.
Chúng tôi trút các bao tượng gạo và lấy thịt hộp, mì chính, đường, thuốc lá, . . . xuống cho Tất mang về hầm.
- Khoảng 6 giờ sang chỗ em ăn cơm nhá !
Nói xong tất chạy nhanh về hầm, vừa hay pháo địch bắn tới.
Chỗ ăn cơm là nhà âm, ở ngay cạnh hầm của Tất. Nhà được làm sát vách bờ sông dựng đứng, chỉ cao đến ngang bụng, cao hơn chừng ba mươi phân là mái được đổ đất và làm cho tơi bời ra một chút – coi như ngụy trang xong vì ở đây chỗ nào cũng được pháo địch cày xới hết cả. Từ bờ sông, luồn qua một ngách hào là vào nhà. Chui vào nhà phải cúi vì chỗ này chỉ để ngồi ăn cơm hoặc thỉnh thoảng ngồi chơi cho thoáng một chút - cũng bõ cả ngày phải ở trong hầm hoặc chạy nhảy như choi choi trên các chốt. Mà nhà cũng chỉ bé tí teo, năm sáu người ngồi thôi. Ở đây tương đối an toàn, pháo không thể khoan được vì có vách sông che chắn. Nóc nhà thì có thể chống được pháo chơm rồi.
*(Pháo chơm nổ ngay trên cao khi chưa chạm đất và có hai loại. Một loại nổ ra nhiều mảnh nhỏ, một loại nổ phóng ra hàng vạn mũi tên thép trông giống như đinh 3 phân nhưng có 4 cánh đuôi, không biết tẩm bột gì đó màu đỏ. Cả hai loại đều gây sát thương rất lớn người ngoài công sự. Về sau này, chúng tôi lấy đạn pháo chưa bắn ở bãi Ái Tử, gỡ ra lấy hàng vạn mũi tên đó làm đinh. Bảo đảm đinh này đóng không bao giờ bị quằn.)*
Toán trinh sát của chúng tôi có bảy, tám người. Tất y tá, Thứ thông tin và Phố anh nuôi, còn lại anh em chia nhau lên chốt và đi nắm địch. Tin tức thường xuyên được Thứ chuyển thẳng về ban 2 (Những điểm nóng phải thông tin trực tiếp với ban 2 còn những điểm thường thì báo cáo với đại đội). Tất, Phố và Thứ ở trong hầm suốt ngày và rỗi rãi nhất nên coi như một tổ cấp dưỡng lo cơm nước cho anh em.
Tầm 6 giờ tối, ngày nào cũng vậy, có lẽ gần như 100% là im tiếng pháo. Bọn tôi chui ra khỏi hầm, được giãn xương cốt, tai vẫn còn i i tiếng nổ cũng được thảnh thơi một chút. Chỉ trong vòng nửa tiếng đến một tiếng thôi. Mọi người tụt ngay xuống sông, tranh thủ tắm giặt giũ hết đất cát và hơi cay nồng của đạn pháo. Kể cũng lạ. Sao giờ này bao giờ bọn địch cũng im lặng thế không biết. Chẳng lẽ bọn pháo địch bàn giao ca, đổi lính hay sao vậy ?! Đúng là đánh nhau kiểu pháo binh Mỹ.
Cơm trắng phau đựng trong xoong to(xoong tám) đang bốc hơi nghi ngút, canh trong xoong nhỏ (xoong 6) thấy lởn vởn mỡ thịt hộp lẫn với rau tàu bay. Lạ cái giống rau tàu bay, mỗi hạt có một dúm lông trên đầu, bay rất xa, đã hạ xuống đâu là chỉ vài ngày đã thành rau, xanh mơn mởn, nhất là nơi hố bom, hố pháo. Hấp dẫn nhất là món mặn đựng ở nắp xoong 8 (nắp xoong lật ngửa lên để đựng thức ăn, có 4 ngăn đàng hoàng). Một món mặn. Thứ gì đó nâu nâu như đất, loằng ngoằng như giun. Lại thứ gì nữa nhẵn nhụi, cũng nâu nâu, bong bóng cỡ bằng ngón tay út nằm rải rác trong đám "giun". Với lại lác đác những sợi thịt hộp , tơi tả. - thơm thế không biết ! Mùi thơm bốc lên ngào ngạt – ngon quá đi mất, rỏ rãi . . . . Anh A. hỏi:
- Cái gì thế ?
- Dế xào củ chuối với ruốc mặn mí lị thịt hộp của thủ trưởng mang xuống đấy.(dân " xin xà phòng" có cái từ "mí lị" không lẫn vào đâu được).
- Ngon nhể ! – tôi nói.
- Ừ ! bữa nào cũng chuyên trị củ chuối với dế (đúng là y tá có khác, lúc nào cũng chuyên trị . . .). - Tất nói xong, cười hề hề, rất thoải mái.

"Dế xào củ chuối". Đấy là đặc sản của Như Lệ.

    Phố chạy từ dưới sông lên, mặc mỗi cái quần đùi dải rút ống rộng, người ướt lướt thướt. Mặt nó vốn đã nhiều trứng cá nhưng hôm nay trông còn tệ hơn. Mặt mày cháy nhem nhuốc, lông mày, lông mi chẳng còn một sợi; tóc phía trước cháy vàng loăn quăn, chỉ còn lại đôi môi đỏ "gợi cảm" là còn nguyên vẹn.
- Mày làm sao mà trông ghê thế ?
- Sáng hôm kia, trời mưa, nhóm bếp mãi không được. Tao cầm ống liều phóng M72 dốc dốc vào bếp thế này này. Nó phùng một cái, kinh quá. May mà chỉ bị cháy mặt.
- Ai bảo ngu, cho mày chết !
- Mọi khi tao vẫn làm thế, chắc hôm qua mạnh tay quá.
Phố là chàng trai bằng tuổi tôi (20 tuổi), quê phủ Khoái (thịt chuột). Nó hiền lành, ít nói, chỉ hay cười. Nhin nó tôi lại nhớ thằng bạn nối khố của nó, thằng Phớt (anh em vẫn hay gọi là Cờ Lít Phớt - cho nó tây). Thằng Phớt bị B52 ở gần Cao Hy cùng 3 anh em khác.
- Dế ngon thật mày ạ ! Làm sao kiếm được nhiều thế ?
- Sáng mai mày đi với tao đào củ chuối với . . . đào dế nữa .
Bỗng có bóng người thấp thoáng ngoài ngách, rồi một o du kích tay bưng một tô gì đó chui vào nhà âm. Tất nói:
- Đây là út Mừng anh A. ạ ! - rồi quay sang Phố:
- Kìa ! Cái thằng này . . . Nói gì đi chứ !
Tôi thấy cái mặt cháy của Phố bỗng đỏ lựng lên. Út Mừng cũng lúng túng, cô đặt vội chiếc tô đánh ịch xuống đất, cạnh khay dế xào, chỉ bật ra mỗi một từ:
- Keeng !
Rồi út mừng vụt chạy ra mất, không ai kịp giữ lại, cũng không kịp mời. Tất vừa cười vừa nói:
- Anh A. à ! Ở đây ngày nào bọn em cũng được "ăn tươi". Không biết họ thế nào chứ anh em mình được cái chén đã, anh nhở . . .
"Keeng" nghĩa là canh nói theo giọng Quảng Trị. Canh rau lang nấu mắm ruốc, ngọt lịm. Cứ gọi là thun thút !
- Này, mày có phải đổi dế của mày lấy mắm ruốc của của út Mừng không đấy ?
Mặt Phố đỏ tưng bừng, hắn nói:
- Dân ở đây họ không ăn dế. Lúc đầu thấy bọn mình ăn, mấy út kinh lắm. Bảo thử nếm xem, họ cũng không chịu đâu.
- Ừ ! Thế lãi quá còn gì. Mày không mất dế mà lại được mắm ruốc.

Canh rau lang nấu mắm ruốc thực sự rất hợp vị, cực ngon – gọi là đặc sản của Quảng Trị.

  Trời tối. Sau khi nghe H. báo cáo với anh A. tình hình địch ta ở Tích Tường-Như Lệ, anh A. giao cho Hùng và tôi trong ngày mai phải "đi địa hình", nắm lại toàn bộ các chốt của ta và vị trí địch trên toàn tuyến (ae thường gọi tắt là "đi tuyến").
Thứ dẫn anh A. và tôi qua hầm của trinh sát e95. Vì không có nhiệm vụ trực tiếp chốt giữ các "chốt", nên cũng giống như chúng tôi, trinh sát e95 cũng chọn vị trí hầm ở nơi an toàn nhất. Đó là vách sông. Toán trinh sát 95 bám địch và vị trí các chốt của ta, thường xuyên báo cáo về cho trung đoàn. Toán trưởng là Lê Tấn Hổ (sinh viên năm 2 ĐHSPhạm HN) cùng 3 ae khác. Ae phải chia nhau đi các chốt hàng ngày, tối đến đổi ca, về nghỉ một ngày.
Tôi đã nghe nói đến Hổ từ trước bây giờ mới gặp mặt. đẹp trai, khỏe mạnh, ngăm đen, người Hà Nội gốc khu 5 tập kết. Chúng tôi nắm lại tình hình ở đây, từng chốt một. Chốt (1), (2), (3, (4) ở Như lệ và (5), (6) ở Tích Tường. Hổ nói chuyện sôi nổi, cởi mở như chúng tôi đã thân thiết từ lâu. Anh đã là một "con sói" trong làng trinh sát rồi. Chúng tôi thống nhất giờ xuất phát sáng hôm sau với nhóm của Hổ rồi chạy nhanh về hầm. Pháo địch vẫn đang bắn hủy diệt trên các chốt và cầm canh khu vực bờ sông không cho ta qua lại.
Hầm của hai o du kích Sâm và Nữ đúng là khác với hầm bọn tôi vì nó sạch sẽ và nhất là không có mùi nặng của đàn ông, cũng không có mùi thuốc lá. Hồi đó tôi không hút thuốc nhưng rất thích các ae hút thuốc. Tôi thường châm thuốc cho chúng nó, nhất là sáng ra chúng hút thuốc lào, ngã vật ra, tôi cảm thấy rất khoái. Anh A. bật lửa soi trong hầm, tôi tìm thấy cái đèn dầu "Hoa Kỳ" có thông phong hẳn hoi để trong hốc đất trên vách hầm. Đèn được châm lên, anh A. móc bịch thuốc lá trong túi quần. Thuốc lá và giấy quấn đều là hàng vụn, phế phẩm của nhà máy thuốc lá Thăng Long. Tôi gỡ giấy và quấn một điếu, đưa cho anh A. Không cần nhìn, anh A. liếm nhẹ vào mép giấy, ngón tay trỏ ốp nhẹ một cái thế là đã bập ngay vào môi rồi. Tôi châm lửa cho anh và khoan khoái ngắm bức tượng đồng đen nhả khói chậm rãi.
- Anh nghỉ trước đi, hôm nay chúng nó ưu tiên em chưa phải gác. Đêm mai em đi gác anh tha hồ mà tâm sự với hai o nhé !
Tôi lấy giấy, phóng tạm một cái sơ đồ từ bản đồ để mai đi chốt làm việc cho nhanh. Quãng 9 giờ đêm, thấy tiếng pháo ngớt ở bờ sông. Nghe tiếng í ới của bộ đội và du kích. Bên bờ bắc, thuyền chở ae mới sang bổ sung, chở lương thực chế biến sẵn, cơm nắm, ruốc, có cả thịt, nước uống, bông băng, đạn dược. Hai tiểu đội công binh của trung đoàn được chở sang để đào lại công sự cho các chốt và chôn cất anh em tử sỹ. Thuyền đến bờ nam, mọi thứ được khẩn trương vứt đại lên bờ để nhanh chóng đón thương binh qua bờ bắc. Thuyền còn quay lại để gần sáng đón công binh trở ra. Nếu bị pháo bắn rát quá, đôi khi ngày hôm sau công binh phải dạt vào các hầm của du kích, của hỏa lực cối 82 của trung đoàn hay các hầm của thông tin và trinh sát (tóm lại là hầm của các lực lượng đảm bảo phía sau – toàn ở bờ sông, vì rất an toàn).
Thực ra mỗi đơn vị chỉ đưa một nửa ae lên chốt, nửa còn lại nằm ở các hầm ở bờ sông và thay thế nhau lên xuống các chốt từ (1) đến (6). Bờ sông về đêm thật sự nhộn nhịp. Tuy nhiên hễ nghe kịch, kịch . . . tiếng nổ đầu nòng của pháo địch thì chỉ một loáng, bờ sông lại vắng vẻ quạnh quẽ như "chốn không người". . .

Thật là kỳ lạ ! Ôi, . . . . Đây có phải là cuộc sống ?

Không! Đây là hơi thở của cuộc chiến đấy !

Một bức tranh bằng chì với những nét kỷ hà sắc nhọn, nhạt nhòa đủ cả, . . . nhảy múa rồi tĩnh lặng, chớp lóe lên rồi bỗng đen xẫm lại.

Một dòng sông và một bến bờ trĩu nặng . . .

   Tôi chui vào hầm và ngủ lúc nào không biết. Tiếng ì ùng của pháo cũng không làm tôi giật mình lần nào. Tôi giật mình tỉnh dậy vì có ai đó đẩy vào người. Thì ra là o Sâm và o Nữ. Một o cầm chiếc đèn bão, còn một o đang đẩy anh A. và tôi nằm dịch qua. Họ tắt đèn rồi nằm xen vào với chúng tôi, "trở đầu đuôi". Vẫn là chiếc đèn bão nhưng được che bịt bằng sắt tây chỉ để hở một quầng sáng nhỏ như đèn phòng không ở các xe ô tô lúc bấy giờ.
Cảm giác lạ khi nằm cạnh một người con gái làm tôi vừa thấy thinh thích vừa thấy sờ sợ. Hai o ngủ rất nhanh, đã nghe tiếng họ thở đều. Sao giờ này yên ắng thế ? Mình chưa biết mặt hai o.
Đêm nào cũng vậy sao? Sao những người con gái, đáng ra được nâng niu, chiều chuộng. Dù cho nghèo khó, vẫn có mái tranh mát mẻ và đầm ấm, có người yêu để mà hàng đêm cứ cười khúc khích bên cạnh mẹ và được nghe mẹ chửi: "Cha tổ bố mi, là cái thằng nớ chứ ri . . ." Vậy mà biết bao nhiêu dập vùi, biết bao nhiêu nhọc nhằn, đớn đau . . .
Tôi chợt nhớ " Em là ai, cô gái hay nàng tiên . . .
Tôi bị anh A. lay dậy. Đã năm giờ sáng. Giờ này pháo địch chỉ bắn cầm canh nhất là ở các chốt. Ban đêm địch sợ ta tấn công nên chúng thường bắn pháo sáng để trên các cao điểm xung quanh chúng có thể kiểm soát được các hoạt động của ta.
Tôi bỏ bản sơ đồ đã vẽ phác tối qua, tấm bản đồ, cuộn giấy Mỹ và hai cái bút chì vào trong túi nylon rồi thả luôn vào ngực áo đã đóng thùng. Xanh tuy rông có hai quả lựu đạn nhỏ, một băng đạn, một túi bông băng và bi đông nước. Phong lương khô thì đút tỏm vào túi quần. Tôi xách súng chui ra khỏi hầm. Tôi chạy đến nhà âm thì cũng là lúc H. vừa chạy tới. Phố đã nấu cơm xong, tài thật. Nó nấu cơm trong nhà âm vào ban đêm, phía địch khó mà phát hiện được. Trời cũng tang tảng sáng rồi, vả lại lính ta mò đêm cũng là chuyện thường mà. Lại được xơi món dế xào củ chuối.
Hổ và một anh em nữa đang chờ chúng tôi, cậu ấy cũng tên H. Chúng tôi luồn theo giao thông hào lên chốt (1). Từ chốt có tiếng hô:
- Ai ?
- Tôi. Hổ đây ! "mười lăm".
- "Không ba".
Chúng tôi lại luồn theo hào vào chốt. Hổ hỏi:
- Đêm qua thế nào ?
- Một bị thương nhẹ thôi anh ạ, nó đang gác thì bị mảnh. Nó bảo không sao, cứ cho nó ở đây.
Chốt là vị trí cao hơn xung quanh một chút, có 4 hầm kiên cố, rất nhiều giao thông hào nối các hầm và ra các vị chí chiến đấu. Cứ một đoạn giao thông hào lại có một hầm kiểu hàm ếch để tránh pháo. Thì ra đây là tác phẩm hàng đêm của công binh. Khá nhiều đạn B40, B41 và lựu đạn, ba bốn quả một, để dọc theo giao thông hào. Mặt đất, hầm và giao thông hào chỗ nào cũng nham nhở. Đêm qua trời mưa lúc nào mà giao thông hào lõng bõng nước đục. các hố pháo cũng ngập đầy nước. Vẫn còn những dòng nước nhỏ ri rỉ chảy xuống hào.
Trời đã sáng, pháo địch vẫn cầm canh chốt này qua chốt khác. Hổ và tôi chui vào một hầm, hai thằng H. chui vào một hầm khác cùng anh em ở chốt. Chúng tôi phải chờ địch ngừng bắn pháo. Hổ nói:
- Cứ yên tâm, ngày nào chúng nó cũng ngừng bắn từ lúc 6 giờ đến 7 giờ.
Quả nhiên là như vậy. Đúng 6 giờ, chúng tôi kịp nghe tiếng đầu nòng cấp tập của loạt đạn cuối, rồi bầy pháo rơi xuống phía chốt (3). Đột nhiên im lặng, trong khi khói bụi vẫn mù mịt nơi các chốt.
*("Pháo bầy" là lính ta gọi cách bắn cấp tập của pháo 105 của địch. Đây là cách bắn mà tất cả các trận địa pháo 105 của địch đồng loạt bắn vào một điểm. Cách đánh này rất nguy hiểm, nếu đánh trúng thì ta không kịp chạy vào nơi trú ẩn, đã bị pháo sát thương. Tôi nhớ, có lần địch gọi loa nói nếu ta không dùng H12 thì chúng cũng không đánh kiểu pháo bầy nữa. Đúng là chuyện cười !)*

Phải nhắc lại là bọn pháo binh ngụy này học thày nó cả cách nghỉ giải lao đúng giờ. Đúng kiểu Mỹ !

   Hổ nói với cậu H(c20-95):
- Mày sang bên chốt (5) đi, Tao ở bên này được rồi.
- Vâng.
Tôi thấy Hai thằng H. bắt tay nhau và dặn:
- Đi cấm chết đấy nhé !
Hổ dẫn chúng tôi luồn ra đến ngách xa nhất của chốt (3) thì trời đã sáng. Chỗ này có thể quan sát thấy toàn bộ các chốt của ta ở Như Lệ. Anh giới thiệu toàn bộ tuyến của ta. Phía địch, bên trái có Đồi Chè, một quả đồi chẳng thấy còn cây chè nào, chí có cỏ và cây dại lúp xúp, cũng đã xờ xạc vì đạn của cả địch và ta. Bên phải là Đá đứng, một điểm chốt nổi tiếng của địch ở bờ sông. Chếch về phía trước là cao điểm 29. Từ Đồi Chè và điểm cao 29 địch nhìn xuống các chốt của ta như nhìn vào lòng bàn tay. Phía trước mặt là ruộng lúa cũ. Xa hơn là các chốt của địch. Phía sau chúng là nơi xe tăng của địch ẩn náu để sẵn sàng tấn công. Xa hơn nữa là rặng núi thấp chắn ngang làm khuất tầm nhìn.
Tôi phác nhanh sơ đồ trận địa của ta và chấm các vị trí của địch lên sơ đồ sơ đồ. Mình ở dưới thấp, không nhìn thấy trân địa của chúng để vẽ. Cứ như vậy, trong vòng nửa tiếng, tôi đa xong các chốt (3), (2) và (1). Chúng tôi bắt tay Hổ rồi theo giao thông hào tụt xuống bờ sông để sang chốt (4).
Lên đến chốt (4) vẫn chưa đến 7 giờ. Vẽ xong sơ đồ chốt (4) thì vừa đúng 7 giờ. Chúng tôi tụt vội xuống bờ sông. Ở bờ sông thật là nhộn nhịp, các anh em ở chốt về tắm dưới sông chạy lên, du kích và bộ đội vận động qua lại giữa Như Lệ và Tích Tường như con thoi men theo vách sông. H. cũng dẫn tôi sang Tích Tường bằng đường này.
Pháo địch bắt đầu bắn trên các chốt. Có vẻ như hôm nay chúng chưa tấn công. Không nghe thấy tiếng xe tăng và 12 ly 8 bắn yểm hộ cho bộ binh của chúng. Ở bờ sông cũng rất nhiều hầm của du kích và bộ đội. Ở đây chỉ có hai chốt và bị địch tấn công quyết liệt hơn nhưng chúng cũng không nhổ được hai cái chốt nhỏ bé này. Chúng tôi luồn lên chốt (5) lúc pháo địch chuyển làn bắn vào Như Lệ. Anh em ở cả trong hầm, chỉ có một người ra nghách cảnh giới. Hai thằng H. hỏi thăm nhau:
- Mày chưa chết à !
Rồi chúng cười lên ha hả. Sao mà vô tư, hồn nhiên đến thế !

" Đi cấm chết đấy nhé ! . . . . .
Mày chưa chết à ! . . . ." . . . . là món đặc sản Như Lệ- Tích Tường.

Sao chúng nó không dặn nhau:"mày đi cẩn thận nhé" Mày vẫn còn sống . . ."

Lời dặn dò và tiếng cười của hai thằng H. làm tôi thấy xót trong ruột quá !

  Chờ pháo chuyển làn sang chốt khác, chúng tôi mới chui ra ngách quan sát để vẽ sơ đồ.
Pháo 105 vẫn đang bắn bên Như Lệ. H.(95) chỉ các vị chí các chốt của ta và các vị trí địch:
- Bọn nó chốt ở kia anh ạ. Trước khi tấn công chúng bắn pháo cấp tập rồi xe tăng từ chỗ kia và chỗ kia xông lên. 12 ly 8 ở chỗ này này và chỗ kia nữa bắn liên tục. Bọn tăng vừa đi vừa bắn pháo và đại liên, cả M113 nữa, vừa chạy vừa bắn đại liên.
- Mình làm thế nào ?
- Chỉ chết vì pháo thôi chứ bọn nó tấn công, bọn em không sợ. Cứ ở trong hầm, chờ chúng đến gần, cứ B40, B41 bọn em chơi. Xe tăng, thiết giáp cũng chơi, mà bộ binh cũng chơi. Một thằng lính bọn em cũng chơi một quả. Bọn nó đứa nào cũng sợ. Bọn nó còn bị cối 60 với cối 82 của mình ở phía sau kia kìa, còn 12 ly bảy nữa. Chỉ ngán pháo bắn thôi anh ạ !
- Thế nhỡ ae mình bị thương vong vì pháo hết rồi thì sao?
- Bọn em có hữu tuyến với tiểu đoàn, liên tục. Nếu thấy đứt liên lạc thì hoặc là đứt đường dây hoặc là tiêu hết rồi thì ở phía sau bọn nó vận động lên luôn.
- Hỏa lực nó thế làm sao mà bắn B40 được?
- Bọn em bắn nhanh lắm, bọn nó đến gần rồi. Mình chỉ dương lên là bắn liền, rồi thụt xuống, chạy sang chỗ khác. Mỗi thằng phụ trách mấy khẩu, để dọc theo hào, lắp đạn sẵn, cứ thế mà chơi thôi.

H.(95) là lính nhập ngũ 72, kém tôi 2 tuổi, lúc nào cũng anh em ngon lành. Cậu có giấy gọi vào Đại Học Xây Dựng sau giấy bão nhập ngũ nên vẫn được gọi là sinh viên Xây Dựng, người nhỏ bé, nhanh nhẹn, nói liên tục và cười ha hả. Một chú lính trinh sát rất vui vẻ lạc quan, bao nhiêu tinh anh phát tiết ra ngoài cả. Thật là dễ chịu.

Đột nhiên nghe tiếng "cu...ù ...ng" đầu nòng lạc nhịp, tôi kéo H. và cả hai cùng chúi xuống hào, vừa kịp một trái pháo nổ ngay cạnh vách hào, chắc là trúng một hố pháo cũ ngập nước. Nước bùn đất bắn tung tóe và dềnh lên làm tôi và H. bị bùn trùm lên, ướt nhoe nhoét.
Chúng tôi chạy vội vào hầm, chờ pháo chuyển làn mới ra làm tiếp.
Lủng củng mãi tới gần trưa mới xong. H. và tôi rút khỏi Tích Tường. Ăn cơm trưa xong, tôi hoàn thiện sơ đồ và nộp anh Th. (đại đội phó c20/f325) mang về báo cáo ban 2. Ngày mai, chúng tôi phải vẽ cảnh đồ. Kệ nó, cứ nghỉ ngơi chút đã.
Chiều tối, Hổ chạy sang hầm chúng tôi báo với thằng H., giọng nghẹn ngào:
- Mày ơi ! Thằng H. chết rồi ! . . . . Mẹ nó ! . . . .
Mắt Hổ đỏ lừ, cái mặt đẹp trai của anh bạnh ra như rắn hổ, trông dễ sợ. Thằng H. mắt cũng đỏ, nó cứ để cho nước mắt lăn trên má xuống cằm và lặng lẽ không nói gì. Mãi sau nó mới thốt thành lời, giọng không đùa một tý nào:

- Tao dặn nó rồi, nó đ... nghe !

   Ngày hôm sau, H. và tôi luồn bờ sông ra chỗ đặt 12 ly 7 đặt ở khá xa, phía sau chốt (3). Đây là một vị trí khá cao, quan sát rất tốt. công sự đặt 12 ly 7 được đào sâu tới ngang ngực, có bệ kê giá súng, đặt lên vừa tầm bắn và xoay được mọi hướng. Trên bờ công sự có rặng trúc chỉ còn trơ lại lởm chởm, te tua của gốc cây trúc. Tuy rặng trúc không che chắn được nhưng rất hay vì nó che khất được khi nhô đầu lên quan sát.
Từ 7 giờ sáng pháo địch, như thường lệ vẫn thăm hỏi các chốt và bắn canh chừng cả khu vực bờ sông. Tôi đã phác nhanh được nửa cảnh đồ, quét từ phía cao điểm Đá Đứng đến phía chốt (2). H. bảo:
- Hôm kia, mặt trận cho bốn thằng mang tên lửa chống tăng vác vai điều khiển bằng hữu tuyến xuống đấy. Chúng nó ở đằng kia kìa, cả kia nữa.
- Hay nhể ! Không biết bắn có chính xác không ?
- Nó có dây điều khiển dài 3 cây số. Thằng bắn cứ nhìn vào ống kính mà lái tên lửa vào mục tiêu. Dễ thế, làm gì chả bắn trúng.
Bọn tên lửa chia làm hai nơi, ở bên trái và bên phải chúng tôi, chỉ cách mấy chục mét. Chúng nó dùng chung công sự với bọn cối 60. Bọn cối làm công sự sâu hơn 12 ly 7, chỉ cần một thằng trên cao quan sát được để chỉnh đường đạn thôi.
- Bọn tên lửa ở đấy bắn khó chết, mỗi lần bắn lại phải trèo lên à ?
- Không, chúng nó đắp bục đất cao lên.
- Không khéo lửa xơi tái anh em cối đứng sau.
- Ừ, chắc chúng nó phải biết chứ.

8 giờ. Đột nhiên pháo địch bắn cấp tập dồn vào chốt (1) và chốt (2). Chúng tôi nhô lên quan sát thấy khói lửa tơi bời, xen lẫn pháo nổ ngay và pháo "khoan". Pháo khoan chỉ nghe tiếng nổ ục một cái, một cột đất phụt thẳng từ dưới đất lên cao. Hầm ở đây tuy kiên cố nhưng dính đạn khoan thì cũng không chịu nổi.
- Sao bọn nó lắm đạn thế ?
- Chắc là nó sắp tấn công đấy. Để xem nhé ! Mày thử lia ống nhòm lại đằng kia xem có xe tăng nó bò không?
Tôi chưa nhìn thấy xe tăng thì thằng H. đã hô lên:
- Kia kìa !
- Hai chiếc, . . . bốn chiếc, . . . .năm, . . . à sáu chiếc.
- Sao không thấy bộ binh ?

Mấy chiếc tăng bắt đầu bắn. Tùng-oành . . ., tiếng đầu nòng và tiếng đạn nổ gần như ngay lập tức. Đường đạn rất căng, chói tai. Nếu không trúng mục tiêu thì nghe tiếng, lính non gan cũng có thể vãi đái rồi.
Anh em 12 ly 7 bây giờ mới lôi súng từ trong hầm chạy ra. Họ đặt giá rồi lắp súng lên. Ba thằng này thạo thật. Chỉ một loáng là thùng đạn đã gắn xong, đạn đã lên nòng. Chúng tôi cũng thấy mấy thằng cối 60 đang vào tư thế.
Bọn tăng có vẻ cứ thản nhiên tiến, vừa hành tiến vừa bắn pháo và bắn đại liên. 12 ly 8 của địch từ Đá Đứng, cao điểm 29 và đồi chè cũng bắt đầu nhả đạn. Tiếng đạn liên thanh chậm rãi và trầm đục hơn đại liên, bầm . . . bầm . . .bầm . . .bầm . . .
- M113 kìa !
8 chiếc M113 đang vọt ra từ sau các chốt của địch. Chúng chạy rất nhanh, dàn hàng ngang cách xa nhau. Một lúc sau, chúng đã bắt kịp phía sau bọn tăng.
- Sao không thấy bọn 82 bên kia sông bắn đi ? Cứ bắn vào bọn M113 sau tăng kia kìa.

Tóc . . . . ành.
- Đấy cối bắn đấy !
- H. và tôi đứng xem trận chiến. Không khác gì xem phim.
Bọn tăng này nghênh ngang quá. Chúng cứ lừ lừ tiến. Bọn này láo quá ! Chúng chỉ còn cách chốt 500 mét chứ mấy.
Pháo địch vẫn cấp tập vào chốt. Chúng nó bắn nhiều quá ! Chỉ sợ mấy đứa trên chốt trúng pháo khoan thôi. Không biết anh em có sao không mà sao thấy im lìm thế. Khói đen của đạn nổ, khói bụi đỏ nâu của đất mù mịt không còn nhìn thấy gì ở trên chốt cả.

Hù . . . ụt . . . . Một cục lửa kéo theo một cái đuôi khói trắng bất ngờ phóng ra từ phía sau lưng chúng tôi, từ bờ sông bên kia.
- DK đấy ! sao trông đạn đi chậm thế nhỉ ?
Quả đạn DKZ lao đi, hút về phía xe tăng địch rồi nổ trúng vào một ụ đất ở phía sau tăng. Rồi quả thứ hai cũng vẽ một con rồng lửa và nổ dưới ruộng.
Toành. . . toành . . .
Đạn tăng nổ chát chúa cảm tưởng như nổ ngay trên đầu chúng tôi. Chúng bắn phản pháo vào vị trí DKZ của ta rất nhanh. Rồi nhiều phát đạn nữa của bọn tăng bắn về phía ấy. Chúng tôi không thấy DK bắn nữa. Tệ quá!
Muôn vàn ánh chớp lóe lên của đủ các loại đạn. Bao nhiêu là tiếng ùng oàng và tiếng rít chói tai và khói bụi tơi bời.

. . . . Một giàn nhạc giao hưởng của không biết bao nhiêu nhạc cụ . . . đang chơi bản sonat " Thần Chết" . . . . dồn nén đến đoạn cao trào . . . . chương " Bão Tố" . . .   

  Bọn tăng và M113 vẫn lừ lừ tiến lên, chắc là chỉ cách chốt khoảng trăm mét chứ mấy. Pháo binh địch không còn bắn vào chốt nữa nhưng pháo tăng, đại liên, 12 ly 8 và súng bộ binh trên các xe M113 bắn như vãi đạn.
Sao ở các chốt im lìm thế. Anh em bị hết rồi sao ?

Xẹ . . .t . . . xẹ. . . t, bên trái và bên phải tôi đồng loạt hai quả tên lửa B72 phóng ra, kéo theo một dải khói. Đường đạn đi hơi ngoằn nghoèo ngày càng gần xe tăng rồi đâm thẳng vào hai chiếc đi đầu. Hai chớp lửa lóe lên đúng mặt hai chiếc tăng. Nếu là đầu đạn lõm thì chúng mày chết rồi. Hai chiếc tăng đi đầu có vẻ như mất lái, chạy liên xiên một đoạn rồi khựng lại. H. nói
- Ăn rồi ! Bọn này bắn khá thật ! Nấp xuống đi, bọn nó phản pháo bây giờ đấy. Mấy thằng kia có biết đường mà nấp không, không khéo toi ?
Quả nhiên đại liên trên xe tăng, quay lại bắn xối xả về phía chúng tôi, đạn bay chiu chiu qua đầu.
Mấy tiếng nổ dữ dội gần như liền nhau làm rùng rình mặt đất và tung đất đá xung quanh chúng tôi. Nghe ớn lạnh xương sống. Thằng H. trêu tôi:
- Mày sờ quần xem có ướt không, có khi ướt mà không biết đấy !
- Bố không sợ ! Đ. . . có chuyện ướt quần. Kìa ! mấy thằng B72 không sao, chúng nó lại sắp bắn kia kìa.
- Lính mặt trận mà, chúng nó là lính già đấy, sừng sỏ đấy !
Bọn tăng bắn rát quá. Chúng tôi chẳng dám nhô đầu lên để quan sát và quay sang quan sát bọn B72, mấy đứa đang vận động tìm chỗ bắn. Cái bờ sông này lợi hại thật. Đạn bắn thẳng chẳng làm gì được.

Xẹ . . .t. . . xẹ. . . t. H. và tôi không ai bảo ai đều nhoài người lên để quan sát đường đạn. Hay lắm ! Thần chết đang treo lơ lửng trên đầu chúng mày nhé !
- Bọn nó sợ quá kìa !
- Chúng nó lùi rồi !
Quả đạn B72 lao nhanh về phía chiếc tăng, sượt ngay bên cạnh, bay một đoạn rất xa rồi mới nổ dưới ruộng.
Cuộc tấn công chấm dứt. Bọn tăng chạy giật lùi, vãi đạn đại liên còn M113 thì quay đầu chạy luôn. Lùi rất xa rồi bọn tăng mới quay đầu chạy.
- Xem phim hay thế ! Ta thắng địch thua. Sao mày không vỗ tay đi.
- Bố đang . . . đái !

   Bữa cơm chiều yên ả không có món pháo mà lại có món dế xào.
- Thằng Hổ nó đang buồn, mày kéo nó sang đây ăn cơm cho vui.
Thằng hổ và 1 đứa nữa trinh sát 95 cùng sang nhà âm của chúng tôi. Trông nó hôm nay còn buồn hơn cả hôm qua.
- Hôm nay mày ở đâu thế ?
- Tao ở chốt (2), thằng này ở bên Tích Tường.
- Chốt (2) thế nào ?
- Chết hết cả rồi ! Sập hai cái hầm, không đứa nào bị sao. Chúng nó dồn hết vào một hầm, cả tao là 6 thằng. Tao vừa chạy ra ngách quan sát, bảo thằng Bình nó vào, tao cảnh giới cho một lúc. Pháo nó bắn ghê quá. Thằng Bình vừa chui vào hầm thì một quả pháo khoan trúng ngay hầm. Cả sáu thằng đều đang ở đấy. Chết hết ! Mẹ nó !
- Thế còn mỗi mình mày ở đấy, may mà chúng nó bỏ chạy. Một mình mày mần sao nổi.
- Điện thoại không bị hỏng. Chính tao là người gọi cứu viện. Lúc pháo ngừng bắn, tao lấy B40 rải dọc theo hào, còn có 4 khẩu, mấy khẩu khác bị pháo bắn hỏng hết. Tao chờ chúng nó đến thật gần. Ừ, hôm nay B72 đuổi được bọn nó. Chúng mày có nhìn thấy không?
- Có ! Sao tự nhiên mày lại nghĩ chạy ra quan sát ?
- Biết được !
- Chúng nó gọi mày là thằng giời đánh cũng phải. Thằng ở ngoài không chết, chết thằng trong hầm.
- Bọn nó rút rồi mới thấy 6 thằng lên bổ xung. Phải bới mãi hai cái hầm sập để trú tạm. Chắc đêm công binh phải mang thêm gỗ sang làm lại. Ui giời . . . !
- Anh em vẫn nằm đấy à ?
- Tao chui vào sờ hết chúng nó. Không thằng nào còn sống. Bây giờ chắc anh em đại đội mới đang đưa chúng nó lên chôn cất. Không làm nhanh đến 7 giờ chúng nó lại bắn.

Về sau nhiều lần Hổ vẫn còn kể lại với tôi chuyện này. Lần nào khi kết thúc câu chuyện anh cũng than: "Ui giời . . . !".

Hôm 12/6/2010 tôi gọi điện vào Đà Nẵng hỏi thăm bệnh tình của anh. Tôi có nói đang kể chuyện Như Lệ. Anh Nói:
- Tao vừa ra khỏi hầm thì pháo khoan chết 6 thằng trong hầm. Ui giời . . . !

Hổ Mất ngày 14/6/2010. Anh bị ung thư gan đã phát hiện được từ hai năm nay.

  Sáng 26/1/1973
Chúng tôi tiếp tục hoàn thành cảnh đồ tại điểm nhìn phía sau chốt (4) ở Như Lệ. Cảnh đồ này thể hiện khu vực phía trước chốt (4) và Đồi Chè.

Khu vực bờ sông sáng nay tấp nập khác thường. Đêm qua vừa có một đại đội được đưa qua sông để đêm nay đánh Đồi Chè.

Công binh của mặt trận xuống phối thuộc và đang tiến hành công tác chuẩn bị ngay gần chỗ chúng tôi. Họ đang đo cự ly, chiều cao của Đồi Chè và đang đào hai cái bệ phóng. Đây là hai cái bệ phóng bom. Hai quả bom trong như hai chú lợn choai. Mà đúng là hình quả bom thật, sơn xanh màu lính. Không biết hai người khênh có nổi không. Bốn người lính công binh vừa tính toán, vừa thảo luận. Trông họ già giặn hơn bọn tôi nhiều. Họ đang sửa đi sửa lại hai cái bệ phóng. Chúng tôi tò mò hỏi:
- Phóng bom này chắc khó lắm các anh nhỉ ?
"Được lời như cởi tấm lòng", có vẻ như các đàn anh muốn dạy cho các đàn em biết thế nào là vũ khí hiện đại mà cũng có vẻ như các anh muốn nói chuyện với chúng tôi để thêm phần tự tin trong công việc của họ. Tôi cảm thấy họ có vẻ chưa thực sự thành thạo cho lắm. Vừa làm vừa bàn rất nhiều, rồi sửa đi sửa lại.
- Bọn mình phải tính toán tầm xa và độ cao rồi tính ra góc chếch của bệ phóng. Còn tính lượng liều phóng đặt phía sau nữa. khi điểm hỏa, liều phóng cháy mới đẩy bom đi.
- Bệ bằng đất này có chính xác không ạ ?
- Chính xác chứ !
- Thế cái đống kia là gì thế ạ ?
- À ! đấy là tên lửa phá rào SR71 (không biết là tôi nghe nhầm hay là anh công binh nói nhầm. Một thời gian rất lâu tôi vẫn cho là SR71, mãi đến khi tập trận ở Cùa cuối năm 1973 tôi mới biết là FR71, tên lửa Fá-Rào do ta tự chế tạo theo mẫu của Liên Xô, 71 chắc là kiểu ra đời năm 1971).
- Phá thế nào ạ ?
- Quả tên lửa có buộc dây cáp nylon, từng đoạn lại buộc lượng nổ. Khi tên lửa bay, nó kéo theo sợi cáp vắt qua hàng rào rồi đồng loạt nổ. Nếu hàng rào sâu quá thì đánh xong một quả lại phải bò lên đặt tiếp quả khác.
- Vâng ! Thế thì nhanh quá ! Chắc là hơn mìn định hướng hả anh?
- Cái này hơn nhiều chứ, phá được hàng rào có chiều sâu 100 mét, kích nổ hết mìn chống tăng phía dưới, cửa mở rộng 4 mét, thoải mái cho xe tăng vận động. Mìn định hướng chỉ được 20 mét thôi mà chưa chắc đã làm nổ hết mìn chống tăng. Được chưa ?
- Các anh vừa đánh bom, vừa phá rào ạ ?
- Bọn tớ cả, nhưng 4 thằng phá rào nó sang đây từ hôm kia, đi tìm hiểu địa hình. Đêm qua , trinh sát dẫn chúng nó bò lên đồi đến sát hàng rào rồi. Đống này bọn tớ mới mang sang đêm qua.
- Mình chỉ dùng một quả thôi hả anh ?
- Ừ ! Hàng rào ở Đồi Chè không sâu lắm.

Còn hai ngày nữa là ngừng bắn. Cả ta và địch đều muốn giành lợi thế trước khi ngừng bắn. Hôm qua, chắc bọn địch muốn chiếm được Như Lệ. Như Lệ mà mất thì Tích Tường cũng phải lui vì không còn đường tiếp tế. Phía Tích Tường vượt sông tiếp tế phải qua trảng cát trống, rất khó.

Đêm này mà chiếm được Đồi Chè thì nhất đấy !

   Chiều hôm đó tôi chuyển sang Tích Tường và vẽ xong hai mảnh ở đây, tròng lòng ngong ngóng hồi hộp đến buổi tối để xem đánh Đồi Chè.
Pháo vẫn bắn ì òm suốt cả ngày vào các chốt. Không biết chúng có định tấn công hay không. Nếu đến chiều muộn mà chúng không tấn công thì sẽ không. Bọn chúng rất sợ đánh đêm và cũng rất sợ ban đêm ta tấn công. Hàng đêm pháo vẫn bắn chặn các hướng mà ta có thể di chuyển khi tấn công. Pháo sáng chốc chốc lại vụt sáng lên. Giá như ở Nhan Biều hay Long quang, anh em còn cố nhớ xem dù rơi ở đâu để sáng mai đi lấy. Ở đây thì chịu rồi không có trò chơi vui đó.

Ăn chiều song, tôi thắp đèn trong nhà âm, bò ra hoàn thiện các cảnh đồ. Sáng mai có hai người mang về ban 2. Nhiệm vụ của toán trinh sát còn lại là tranh thủ lúc ngừng bắn, địch ra khỏi các chốt và các cứ điểm mà nắm tình hình của chúng. Anh em sẽ phải rải ra tất cả các hướng mà quan sát và ghi chép. Tôi có nhiệm vụ phác cho mỗi người một sơ đồ, đánh dấu các điểm chuẩn mà ai cũng biết để từng người có thể điền những vị trí địch vào đó.

Giờ G là 2 giờ sáng ngày 27/1/1973. Trinh sát sư đoàn không có nhiệm vụ dẫn bộ binh đánh chốt. Nhiệm vụ đó là của trinh sát trung đoàn 95 và tiểu đoàn. Tuy vậy, không ai ngủ. Mọi người đều hồi hộp chờ đợi. Anh A. nhắc lại chuyện lần đầu tiên anh đánh đồn, khi đó mới 16 tuổi. Giọng Bình Định rất nặng, dề dà:
- Tao nằm chờ "oắn", hồi hộp dữ hê ! Đái ướt quần lúc nào không biết ("Oắn" - nghĩa là đánh) – rồi anh cười hề hề, nghe hiền khô.
Vì chuyện này của anh mà khi căng thẳng, ác liệt mọi người hay đùa nhau sờ xem quần có ướt không. Năm ngoái anh A. từ Ninh Thuận ra Hà Nội gặp mặt c20, chúng tôi nhắc chuyện ướt quần, anh chỉ cười hề hề. Vẫn nụ cười ngày nào . . . !?
Anh A. liên tục giơ đồng hồ, nét mặt căng thẳng và hồi hộp cứ như chính chúng tôi là người đánh trận:
- Tới giờ rồi bây !
Chúng tôi ra khỏi hầm, tất cả đều hướng về Đồi Chè.

Một vệt những ánh chớp lóe lên ở sườn đồi
- Phá rào đấy !
Mìn phá rào nổ là pháo lệnh của trận đánh.
Hú . . .ù, hú . . .ù, hú . . .ù, . . . dồn dập tiếng H12 từ rất xa, tiếng đạn réo qua đầu chúng tôi và những chớp lửa bùng lên trên đỉnh đồi chè. Liên tục hết đợt này đến đợt khác. Anh a. nói:
- Chúng mày nghe tiếng cối không ? Cối 120 của sư đoàn đấy.
- Em vừa nghe tiếng đầu nòng của pháo nữa.
- Ừ ! Pháo 85 của trung đoàn 84 đấy. Vui quá hề ! Thế mới gọi là oắn chứ !
H12 chỉ bắn chừng 5 phút. Sao một thứ vũ khí kinh như vậy lại đặt cái tên rất dễ thương của con gái Nga : "Cachiusa".
Pháo 85 và cối thì giã liên tục chừng 15 phút. Chúng tôi không nghe thấy tiếng phóng bom mà cũng không ai nhìn thấy ánh chớp lúc bom phóng vì tất cả đang hướng về Đồi Chè. Cũng không phân biệt được lúc nó nổ trên đồi như thế nào, có lẽ lẫn vào các ánh chớp khác.
Pháo ngừng bắn được một lát thì nghe tiếng AK bắn rất dữ dội. Rồi tiếng B40, B41 . . .
- Đang xung phong đấy ! hay quá !
Được một lúc thì nghe tiếng súng phóng lựu M79 và tiếng lựu đạn nổ liên tục. Phía địch không thấy có tiếng đại liên hay AR15. Rồi tiếng súng cũng thưa thớt dần, dai dẳng, kéo dài đến 2 tiếng đồng hồ. Anh A. sốt ruột:
- Tao chạy qua tiểu đoàn xem. Không biết chiếm được chưa ?

Đến sáng anh A. mới về, vẻ mặt buồn thiu:

- Hỏng rồi ! Tức thật !

  Sáng 27/1/1973

Đêm về sáng địch bắn pháo liên tục vào các chốt, chân Đồi Chè và khu vực bờ sông. Lúc anh A. về được là lúc địch đã "nghỉ giải lao" theo thường lệ. Chúng tôi ra sông tắm giặt và lấy nước thấy rất nhiều anh em đánh trận đêm qua vẫn đang ở đó chưa kịp qua sông. Họ toàn ở ngoài, không có hầm trú ẩn. Cũng may vách sông khá cao che chắn hết đạn pháo và đạn thẳng. Nếu có pháo rơi gần thì hoặc là trên bờ đất cao hoặc là xuống sông ở khoảng cách khá xa.

Thấy có một nhóm ở gần nhà âm, chúng tôi kéo họ vào cùng ăn sáng. Gọi là ăn sáng nhưng bao giờ cũng phải no hết cỡ không phải kiểu xuất ăn sáng ở doanh trại hay là điểm tâm như bây giờ. Vừa ăn chúng tôi vừa nói chuyện. Đánh Đồi chè cũng là 1 đại đội của 95 nhưng bây giờ tôi không nhớ được là đơn vị nào.
- Hôm qua thế nào mà không chiếm được thế các anh ?
- Bọn tôi tức lắm ! Đầu tiên là hai quả bom xuýt nữa thì rơi vào đầu chúng tôi. May không ai việc gì. - Một người khác chen vào:
- Pháo mình bắn rất nhiều, tớ chưa từng thấy nhưng rơi ra đằng sau đồi rất nhiều.
- Thế à ! Chắc họ sợ bắn non tầm đạn sẽ rơi vào quân ta. Thế phá rào có tốt không ?
- Tốt lắm nhưng chỉ có mỗi một đường vận động. Mình bắn lên rất khó. Bắn AK thì còn được chứ bắn B40, 41 thì phải bảo phía sau dạt ra mới bắn được. Không cẩn thận thì thằng đằng sau bị nướng vàng hết.
- Bọn tôi vừa bò vừa bắn. Chẳng thấy động tĩnh gì. Chúng nó đểu thật ! Mình lên gần đến nơi, nó cứ ngồi trong hầm mà thả lựu đạn xuống, mí cả bắn cối cá nhân. Anh bảo, nó cứ thả lựu đạn liên tục vào đúng cửa mở của mình thì làm sao mà lên được. Chết thì ít nhưng bị thương nhiều lắm.
- Bọn tôi chẳng nhìn thấy thằng nào nhô đầu lên mà bắn, cứ bắn đại lên thôi, cả B40 cũng vậy.
- Rồi phải rút.
- Xuống rồi động viên nhau lên lại. Đến gần, nó lại thả lựu đạn, mình lại phải xuống.
- Dằng dai lên lên xuống xuống bốn lần không được các thủ trưởng mới ra lệnh rút. Bọn tôi phải bò lên đề đón thương binh và lấy xác. Chắc chết hơn chục đứa còn bị thương thì nhiều. . . .
- Thương binh được ưu tiên rút qua sông trước. Hình như du kích với bọn công binh hay vận tải gì ấy chôn cất tử sỹ. Những đứa sống cũng có một số đứa qua sông rồi. Bọn tôi xác định ở đây thôi. Mai ngừng bắn rồi, qua sông làm gì cho nguy hiểm.
- Ăn cùng các anh vui thật nhưng bọn em vẫn còn cơm nắm với lương khô đây.
- Các ông cứ ở đây với bọn tôi, lúc nào rút thì rút. Bây giờ chui vào hầm mà ngủ. Bọn tôi cũng đi vắng hết bây giờ í mà.

Đánh nhau thì chuyện được thua, sống chết cũng là thường nhưng chuyện đánh Đồi Chè làm tôi cứ suy nghĩ mãi, không phải là về kỹ thuật và tác chiến mà về "sự lạ" ?!

"Sự lạ" là tôi không hiểu Như Lệ có giá trị gì lớn về chiến thuật mà tập trung nhiều thứ ở đây để đánh 1 quả đồi con con vậy. Bom phóng, H12, FR, DKB, B72, pháo 85, cối 120,. . . Mãi rồi tôi cũng chỉ hiểu được, chỗ này có thể làm "đầu cầu" để sau này làm bàn đạp đánh bờ nam Thạch Hãn. Thêm nữa, đúng là chỉ còn mỗi chỗ này gọi là nam Thạch Hãn thôi. Ngoài ra, chiến trường Quảng Trị gần miền Bắc nhất nên có thử nghiệm thì ở đây là tiện nhất (đấy là hôm nay, nói theo ý của bác ViTính đấy).

Vụ đánh Đồi chè cho tôi hiểu ra một điều lớn hơn rằng ngừng bắn chỉ là tạm thời. Cuộc chiến sẽ phải tiếp tục. Đó là "tinh thần cách mạng tiến công". Không có chuyện nửa chừng ! Mỹ đã "cút" nhưng "ngụy" chưa "nhào". "Cách mạng là phải triệt để !". Thời điểm đó nhiều anh em nghĩ "ngày mai hòa bình rồi !", gì gì nữa . . .

  Đêm 27/1/1973

Đêm nay địch bắn pháo cầm canh các chốt và bờ sông. Pháo sáng bắn liên tục. Chắc chúng sợ trước khi ngừng bắn ta lại tấn công để chiếm thêm đất.
Ở bờ sông thật là nhộn nhịp. Ấy là các du kích, bộ đội địa phương K8 (Tỉnh đội Quảng Trị) và các đơn vị nào nữa (tôi không còn nhớ) chuẩn bị "cắm cờ". Rất nhiều cờ Giải Phóng có cả cây que để cắm đã được chuyển qua từ bên kia sông. Các chốt cũng được phát rất nhiều cờ và được lệnh cắm cờ ở những vị trí xa nhất có thể.

Chúng tôi cũng chuẩn bị các sơ đồ của mình, trao đổi rất kỹ về cách ghi chép và đánh dấu các vị trí của địch và đường ranh giới "cắm cờ" của ta. Tôi đoán rằng bọn địch không nghĩ ra chuyện này vì chúng bắn rất nhiều pháo sáng để ngăn chặn ta tấn công thôi chứ không tắt pháo sáng đi để bí mật "cắm cờ" như mình.
Chừng nửa đêm, tất cả mọi hướng đều được triển khai. Bờ sông trở nên vắng vẻ lạ thường. Chúng tôi ai nấy đều rất hồi hộp chờ đón "bình minh của ngày mới", có lẽ còn hồi hộp hơn cả thời điểm trước một trận đánh. Chỉ có điều không ai "ướt quần" thôi.

Thật là hồi hộp! Cái thời khắc mà không còn bom pháo dội vào đầu, đinh tai nhức óc cả ngày. Sẽ không còn sự tra tấn thần kinh và sự rình rập của cái chết. Sẽ không phải dặn nhau "mày đi, cấm chết đấy nhé !". Sẽ không phải sống chui rúc dưới hầm hăng nồng hơi đất ẩm, đặc sánh mùi mồ hôi và máu đồng đội. Sẽ được hít thở "khí không" chứ không phải hút thứ không khí khét lẹt thuốc súng và bụi đất. Đêm nay thật sự là "một đêm lạ kỳ nhất" trong đời nhiều người lính. (Về sau này, ngày 30/4/1975, lúc 7 giờ sáng trinh sát chúng tôi đã làm được đầu cầu bên đất Sài Gòn thì không thấy ai hồi hộp nữa cả.)

Trạnh nhớ về Hà Nội. Chỉ được nghe tin tức 12 ngày đêm, rồi "Điện Biên Phủ Trên Không" với 34 máy bay B52 của Mỹ bị ta bắn rơi. . . . Bà tôi . . ., bố mẹ tôi . . ., các em tôi . . . có ở chỗ sơ tán . . . hay là . . . ?!

Chúng tôi không ai ngủ cả. Thế là hai ngày hai đêm thức trắng nhé. Làm sao mà ngủ được vào cái đêm đánh Đồi Chè và cái đêm như đêm nay. Anh A. dặn bọn tôi:
- Ngừng bắn mới được đi nghe ! Phải quan sát kỹ, chính xác, khẩn trương hề ! Cẩn thận vướng mìn đấy, đừng có xông xáo quá, phía trước các chốt đều có mìn đấy. Cứ hố pháo mà bước vào đó nghe ! Thằng nào bây giờ mà chết là tao không cho liệt sỹ đâu nghe !
- Ấy ! Em x. .i. .n ! Anh phải để cho bu nó nhà em còn có cái "Tổ Quốc Ghi Công" mà treo trên bàn thờ chứ !
- Tau không đùa đâu nghe !
- Vầng ! Anh ở nhà . . . lại sang . . . hầm út Táo chứ gì ? – Lính tráng thật là "bố láo", toàn trêu thủ trưởng.
- Em đi cắm cờ rồi !
- Thế anh đã nắm tay chưa ? Mà gặp nhau lúc nào lại biết . . . " i. .e. .m đi cắm cờ rồi !" , thế mới lạ. Đúng là "ai mà biết ma ăn cỗ bao giờ" - Tệ thật, lại còn đai lại cả thủ trưởng "i. .e. .m. ." nữa chứ !
- Mà út Táo đi cắm cờ thì tí nữa là về, bọn em đến tối mới về. Anh tha hồ nhé !
Không biết là mặt anh A. có đỏ lên không vì anh đen quá, chỉ thấy anh cười hề hề và không nói được gì với bọn tôi nữa.

7 giờ sáng ngày 28/1/1973

Bốn thằng chúng tôi chia nhau đi bốn đoạn địa hình được phân công. Tôi lên chốt (2). Nhìn lên phía trước đã thấy cờ ta "đỏ xanh sao vàng" và cờ địch "vàng 3 sọc đỏ" cắm tia lia khắp nơi. Bọn địch chỉ có cờ xung quanh các chốt của chúng. Còn của ta, cứ chỗ nào đất trống, đồi trống là cắm. Có chỗ cờ ta và cờ địch cắm xen lẫn nhau. Đấy là thấy ta cắm, bọn địch mới nhổ cờ lên để cắm nống ra thêm. Cờ của ta cắm cả trên cao điểm 29. Đất của ta ở Như Lệ và Tích Tường rộng ra rất nhiều.
Cả ta và địch đều đều hướng súng lên trời mà nổ liên thanh chào đón giờ phút "Hòa Bình?!" đầu tiên. Rồi tiếng súng cứ thế mà nổ lan ra từ khắp nơi này đến nơi khác. Không phải tiếng súng của Thần Chết mà là của Thần Sống. Sổ tử của Bắc Đầu và sổ sinh của Nam tào đều gấp lại. Tằng. . . .tằng . . .
Xong chốt (2), Tôi chuyển sang chốt (1). Sướng là được vẽ tuyến của ta đến cả cao điểm 29.
Yên ả và thanh bình như những ngày ngừng bắn nhân dịp tết Nguyên Đán hàng năm. – Hòa Bình -?!
Đất ơi ! Hãy nhả ra khói lửa của đạn bom và thấm đi máu xương của biết bao người. Hãy thở đi và hãy sống lại !

Chiều về trên bến Như Lệ sao mà thanh bình, dòng sông sao mà hiền hòa, xanh thắm biết bao. Lính và du kích cùng nhau tắm và trêu đùa ồn ã cả một quãng sông. Mấy cậu lính "cắm cờ tranh nhau nói:
- Tao nhảy lên ôm một thằng ngụy rồi hai thằng cùng bắn lên trời. Lúc nãy bị chính trị viên sửa cho một trận "mất cảnh giác cách mạng" nhưng mà ông ấy vẫn cười.
- Chúng tao bò lên cao điểm 29. Trời sáng rồi mà chưa đến giờ ngừng bắn. Nhìn thấy nhau, chẳng biết làm thế nào ? Bọn tao cứ xông lên cắm cờ. Bọn nó thấy thế cũng cắm cờ. Rồi cầm súng đứng nhìn nhau. Không ai bắn cả. Đúng lúc rộ lên tiếng súng ngừng bắn thế là nhảy ra ôm nhau. Bọn nó bảo: Đêm qua bọn em thấy bọn anh bò lên, nhưng bảo nhau không bắn đấy !
Phải chăng là "Tình cốt nhục, nghĩa đồng bào" như một câu khẩu hiệu của ta sau này viết ở bờ bắc cầu Quảng Trị ?!
Nói vậy thôi, chuyện ôm nhau chỉ có lính chủ lực của cả hai phía chứ du khích với lính "bảo an" (địa phương quân) hay lính "nghĩa quân" (một kiều dân quân tự vệ của địch) thì không bao giờ có chuyện ấy.

Vậy đây là "cái chết" không còn thì "cái sống" ôm nhau thôi! . . . Là con người cả. . . .

Ở Như Lệ chỉ ngừng bắn được một ngày. Sau đó bọn địch nhiều lần tấn công cố đẩy ta sang bờ bắc sông Thạch Hãn. Các chốt của ta vẫn giữ vững. Biết không làm gì được sau một tuần chúng mới ngừng bắn thực sự.

Trên đài của ta thì tố cáo chính quyền sài Gòn vi phạm hiệp địch, dùng pháo và xe tăng lấn chiếm vùng giải phóng ở Quảng Trị. Đài của địch thì lên án cộng sản dùng xe tăng lấn chiếm cảng Cửa Việt . .

  CHUYỆN VII BẮT TÙ BINH

Sư đoàn 325 đang chuẩn bị đánh xuống Phú Lộc. Công binh đang chuẩn bị đường cho xe tăng từ trên Động Truồi thuộc dãy Bạch Mã trong rừng đại ngàn vận động xuống Cầu Hai. Họ chỉ dùng cưa để cắt gần sát gốc các cây nhưng không hạ đổ cây để giữ bí mật. Khi xuống núi, xe tăng sẽ húc đổ cây để hành tiến. Pháo 85 của trung đoàn 84 và cao xạ 37 được bộ binh hợp sức kéo lên sườn núi của điểm cao 560. Bộ binh cùng tham gia vác và khênh đạn pháo. Từ đây bắn xuống đường QL1 chạy ven biển Đầm Cầu Hai pháo phải bắn chúc nòng (bắn tà âm). Cả cao xạ cũng sẵn sàng bắn tà âm xuống đường 1.

Chuyện bắn tà âm thì đã có hơn 30 mươi năm nay từ hồi Điện Biên Phủ nhưng pháo 37 bắn tà âm thì bây giờ tôi mới biết. Vậy là có đại bác bắn liên thanh, làm sao mà chịu cho thấu.
Nhóm chúng tôi đang làm sa bàn khu vực Phú Lộc cho sư đoàn nên được ở luôn tại sư đoàn bộ. Mà sư đoàn bộ và c20 chúng tôi cũng ở chung một cánh rừng sát sông Truồi cách nhau không xa. Đoạn này của sông Truồi rất dốc, là nước chảy trên đá thôi, xung quanh cây cối um tùm.

Sa bàn được làm trong hội trường âm (nhà âm rất to làm hội trường họp tác chiến của sư đoàn do công binh làm bằng vật liệu tại chỗ). Sa bàn rất lớn làm gần hết lòng nhà, chỉ để lại hành lang xung quanh, có tay vịn chắn ngang để đứng thảo luận và lên quết tâm chiến đấu ngay trên xa bàn.
Một nhóm 4 tên được khoán trong 3 ngày phải xong. Thôi thì chia nhau ra mà đi cạo tinh tre, kiếm rêu và đào củ chuối để làm mô hình nhà cửa cầu cống và xe tăng, trọng pháo, . . . Lại phải làm bao nhiêu lá cờ bé tí síu, cờ vuông, cờ chữ nhật, cờ quả trám, cờ tam giác, . . . để cắm vào các vị trí Sư đoàn, lữ đoàn, thiết đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, và đại đội của địch. "Trăm thứ bà dằn', cứ gọi là vắt chân lên . . . nách !
Giấy thủ công thì lấy đâu ra, chỉ có mỗi hai lọ mực Hồng Hà xanh và đỏ. Thế mà cuối cùng cũng rực rỡ sắc màu ra phết. Màu xanh đỏ của mực, màu trắng của giấy để nguyên, màu nâu của đất mùn, màu đỏ của đất đồi, màu đen của than giã, màu xám của tro đốt cỏ tranh, màu lục với nhiều sắc độ của các loại rêu và tinh tre . . .
Đầu tiên, chúng tôi căng chỉ, kẻ ô vuông trên nền sa bàn và phóng bản đồ lên đó. Bước thứ hai là cắm tăm, lấy độ cao của tất cả các núi đồi. Thực tế phải "ăn gian" một tý vì nếu đúng tỷ lệ chiều cao thật thì trông địa hình "tẹt" lắm. Đầu tiên tôi ăn gian 1,5 lần, thấy vẫn "tẹt" nên cuối cùng phải ăn gian lên 2 lần. Tất nhiên là không ai lại đi đo độ dốc ở sa bàn để đánh giá thực địa. Thành ra "ăn gian" như vậy trông rất thật.
Khó nhất là núi cao ở sát tay vịn của các thủ trưởng. Thế là phải mất hai thằng pha nứa, đan liếp, đóng cọc để làm tường chắn đất xung quanh sa bàn.
Ban 2 trực tiếp chỉ đạo chúng tôi thể hiện các vị trí địch trên sa bàn. Rồi 3 ngày cũng phải xong có điều chưa đẹp. Tôi báo cáo ban và xin thêm một ngày làm đẹp và được đồng ý ngay. Hóa ra là thủ trưởng ban ép chúng tôi làm trong 3 ngày chứ chắc Tư Lệnh cho thời gian rộng rãi hơn.

Màu của dòng nước sông và biển chẳng biết làm thế nào cho vừa nổi bật vừa hài hòa với núi non để thành "Sơn thủy hữu tình". Nếu bôi mực lên dòng sông thì trông chối quá. Tất nhiên là không ai đổ nước vào sa bàn để làm sông suối cả. Mà đổ nước thì "nước chảy chỗ trũng", bao nhiêu nước thì cũng tuột xuống "biển" hết. Nói đùa cho vui chứ ai lại làm thế ! Cuối cùng cũng thử nghiệm ra được một thứ bùn trộn từ đất, tro và mực xanh. Hay thật ! Đúng là sông núi quấn quýt lấy nhau rồi. Bùn này được bôi lên các lòng sông suối. Không biết có thể gọi là "Sơn Cao cấp DULEX" ??

Xong việc, chúng tôi ngồi cắt sẵn các mũi tên đỏ để các thủ trưởng đặt vào làm mũi tấn công của ta.

Đẹp ra phết, chỉ thua sa bàn Điện Biên Phủ trong viện bảo quân đội vì không có đèn nhấp nháy và xe tăng "củ chuối" không biết chuyển động.

   Lúc các thủ trưởng họp lên phương án tác chiến chúng tôi không được ở đó. Nghe nói có cả cục tham mưu và các phòng tác chiến và phòng trinh sát của mặt trận cũng xuống họp. Mấy đứa chúng tôi vẫn phải ngồi chơi ở ban2 mà chưa được về c20, phòng khi các thủ trưởng cần gì.

Chiều hôm đó vẫn họp. Chúng tôi nghe các trợ lý ban 2 nói chuyện với nhau c20 vừa bắt được tù binh theo đúng yêu cầu của ban và đã giải về đến sư đoàn bộ nhưng phải hỏi cung ở bên ngoài, không cho vào cơ quan. Hỏi cung tù binh là thủ trưởng Báu. Tôi biết ông từ hôm qua khi ông xuống làm việc ở ban hai. Ông ở phòng 2 của quân khu, lâu rồi không còn nhớ ông giữ chức vụ gì trên đó. Cụ thuộc thế hệ trước, có lẽ cụ tham gia từ hồi chống Pháp. Vóc người nhỏ gày, tóc bạc rất nhiều và hói với cái mũi hơi khoằm và nhọn kiểu mũi diều hâu, trông cụ rất dữ tướng. Đặc biệt là đôi mắt rất sâu, rất sáng, không chớp, luôn luôn nhìn đau đáu vào một điểm, cụ có đôi lông mày rậm chĩa thẳng về phía trước làm thành đôi mắt "cú vọ" hoàn chỉnh và làm cho người khác sợ hãi, khó gần. Một con người ẩn chứa nhiều ở bên trong, đầy trí tuệ.

Tôi ra chỗ hai thằng đang áp giải tù binh. Thì ra là thằng Sơn với thằng Quynh áp giải tù binh. Khi cụ Báu đến, tù binh được đưa vào một nhà âm nhỏ, một vệ binh Ở trong với cụ Báu còn một vệ binh gác ở bên ngoài (hai vệ binh c23 của sư đoàn). Hai trinh sát và tôi cũng đứng gần đó, không phải chúng tôi đứng nghe hóng mà hai cậu phải chờ hỏi cung xong rồi áp giải đi tiếp ra Vũng Tròn, Nam Đông.

Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng cụ Báu quát rất to. Dù có lì lợm đến đâu thì nghe tiếng quát trấn áp đó cũng phải run sợ. Tiếng gầm của một con hổ lớn trước một con mồi đang run rảy !
- Bắt nó ở đâu thế ?
- Tao cũng không biết tên chỗ đó là gì, trên bản đồ không có tên, bọn nó chốt ở đó. Bọn tao luồn rừng đến từ chiều hôm kia. Cũng phải luồn khá xa vào chốt ở phía sau, bọn nó không cảnh giác.
- Hai thằng mày ?
- Năm người, hai thằng tao với ông L. bê trưởng, ông T. bê phó với thằng Toàn nữa.

- Bọn tao rình ở dưới chân đồi từ đêm hôm kia, chờ bọn chốt trên đỉnh sáng hôm sau xuống lấy nước. Phục kích ngay gần suối, hai bên đường mòn xuống suối. Gần 9 giờ rồi vẫn không thấy gì, sốt ruột quá ! Biết đâu nó lại không lấy nước ?

  - 9 giờ mới thấy một thằng tò tò gánh hai cái thùng đi xuống. Đi mỗi một thằng lại chẳng súng ống gì cả. Đợi nó vào trong vòng vây, tao nhảy ra trước mặt nó, chĩa súng. Nó quăng thùng định chạy ngược lên thì đã thấy ông L, hai bên lại có 3 người nữa. Ông L. bảo nó nằm xuống, để hai tay ra sau gáy. Thế là hai thằng xông vào đè nó mà trói thôi.
- Bọn tao tra hỏi ngay tại chỗ. Nó có một tiểu đội 8 thằng chốt trên đó. Chiều qua hai thằng về đại đội lấy thực phẩm, thư từ . . . . Nó bảo nó biết mình sắp đánh. Thằng này cũng gấu, nó bảo các chốt của chúng nó vững chắc lắm, có hầm kiên cố, lại ở trên các điểm cao mình khó mà đánh được. Tức quá, tao đấm cho nó một quả vào mồm, máu chay be bét. – Thằng Quynh nó nóng tính thật (sau này lúc ở gần Bà Rịa, bắt được hai thằng đang giải đi một thằng hơi có vẻ kháng cự, nó đòm liền rồi đạp con người ta xuống rệ đường).
- Bọn tao nút khăn mùi xoa của ông L. vào mồm nó, trói nó vào cây rồi phục tiếp. Bắt thêm thằng nào từ trên chốt xuống cũng được hay hai thằng đi lấy thực phẩm cũng được. Một lúc thì thấy hai thằng đi lấy thực phẩm về đang dịnh đi lên chốt. Cái thằng bị trói mất dạy lại kêu lên ú ớ để báo cho đồng bọn. Hai thằng kia quay đầu định chạy. Bọn tao đòm chết luôn. Lục xoát các tài liệu, lấy một ít đồ hộp. – Thằng Sơn chen vào:
- Thằng Quynh nó quay lại bin cho thằng kia một trận, bắt tháo giày đi chân đất.
- Nhưng mà chán lắm mày ạ ! – Quynh thở dài.
- Gì mà chán ?
- Từ lúc đó tao không thấy thằng T. đâu, nó đi lạc. Bê phó gì nó !
- Sao mày lại nói thế ? đi lạc là chuyện thường mà !
- Lạc gì mà lạc ! Bọn tao về đến đại đội một lúc thì nó cũng về, tay lại băng bó nữa chứ. Nó bảo nó bị bắn. Thế có láo không chứ ! làm gì có thằng nào bắn. Chỉ có bọn tao bắn, bọn nó có bắn gì đâu ! Nó ở . . . . chuyển về, cũng làm a trưởng như tao. Chỉ được cái nịnh giỏi, được lên bê phó vênh mặt lắm, lúc nào cũng quát nạt. Mà cũng quát thằng khác thôi đ. . . giám quát tao. Rồi Quynh tiếp, một thôi một hồi:
- Thằng này đ. . . có hột dái, về xê mình làm trinh sát sợ quá. Nó lỉnh đi đâu, làm bọn tao vừa phải giữ tù binh, vừa phải tìm nó. Tìm mãi không thấy, ông L. mới bảo thôi, nếu không dẫn được tù binh về là không hoàn thành nhiệm vụ. Chắc nó đợi bọn tao đi xa mới tự bắn vào tay. Tao truy nó, nó cứ ấp a ấp úng. Tao mà báo lên, khám thấy hơi thuốc súng AK là nó chết ngay. – Sơn gạt đi:
- Thôi ! Bọn mình biết với nhau thế thôi, báo làm gì, cho nó về quê đi. Mà mày cũng đừng kể chuyện này với ai nữa nhé. Ông L. ông ấy cũng dặn rồi. Có hay ho gì đâu ?!

Mấy chục năm rồi, không ai biết tin tức gì về T. cả, mấy thằng đồng hương cũng bảo không tìm thấy nó. Chỉ biết là nó bị thương, được ra luôn, có về quê. Sau đó thì không rõ. . . .

CHUYỆN VIII PHẢN HỒI VỀ BỨC THƯ CỦA LIỆT SỸ LÊ VĂN HUỲNH

Tôi có đọc ở một topic nào đó trên QuânSửVN thấy có những bình luận về bức thư của liệt sỹ Lê Văn Huỳnh. Trong đó có một vài ý kiến cho rằng lá thư này do người khác viết sau khi anh Huỳnh đã mất mà không phải do chính anh Huỳnh viết trước lúc hy sinh. Thực sự tôi cảm thấy rất buồn. Chuyện ai đó nghi ngờ cũng là bình thường nhưng việc viết ra như vậy là hơi thiếu thận trọng.

Tôi không biết liệt sỹ Huỳnh nhưng rất thân với các bạn bè của anh là những cựu binh sinh viên ĐH Xây Dựng và chuyện bức thư của Huỳnh tôi cũng được nghe kể lại từ trước khi báo chí đăng tải bức thư. Sau khi hỏi kỹ với các bạn của anh Huỳnh, tôi xin được trao đổi lại với anh em trong quân sử để vấn đề được nhìn nhận rõ ràng.

8/1972 chín người gồm Huỳnh, Cường, Sơn cụt, Hiền phệ, Thu già, Sản, Được, Mỹ, Cần được điều về c17 của e95. Các anh là công binh. Hàng đêm dùng thuyền cao su vượt sông Thạch Hãn từ Nhan Biều chở quân và chở đồ sang phía Thành Cổ, chở thương binh, liệt sỹ trở lại Nhan Biều. Thực sự lúc đó các anh làm nhiệm vụ vận tải.

Thư anh Huỳnh viết đề ngày 11/9/1972. Lúc đó các anh đang vận tải qua sông Thạch Hãn ở đoạn mà bờ Bắc là Nhan Biều 1 và bờ nam sát với Thành Cổ và thôn Đệ Tam. Trong bức thư anh nói với vợ là tìm anh ở "Nhan Biều 1", tính theo dòng nước thì ở cuối làng. Điều tiên đoán này không đúng !

Báo Nhân Dân ngày 27/4/2003 viết: ". . . đã được tìm thấy ngày 28-10-2002 khi quy tập hài cốt của anh tại nhà ông Hách thôn Nhan Biều 1 . . ." là không đúng với sự thật. Báo SGGP ngày 13/7/2007 có đoạn ". . . Thực tế đã diễn ra đúng như dự báo trong lá thư của liệt sỹ Lê Văn Huỳnh, thư viết khi còn sống gửi cho gia đình" cũng là không đúng. Diễn đàn WebTreTho thì viết: "Họ đã biết trước hy sinh và cả ngày chiến thắng. . ."

1/1/1973 hai bên ngừng bắn trong ngày Tết dương lịch. Rạng sáng 2/1/1973, các thuyền cao su của c17 rời bờ sông ở đoạn Thượng Phước để vượt sang Tích Tường Như Lệ ( Lúc này toàn tuyến chỉ còn điểm này của ta là nằm ở bờ nam Thạch Hãn). Trên một thuyền cáo su có năm người gồm Luân tiểu đội trưởng, Huỳnh, Chuyên, Thiệm và anh Lan chính trị viên trưởng. Một quả pháo trúng ngay thuyền cao su. Huỳnh, Thiệm và anh Lan hy sinh tại chỗ; Luân và Chuyên bị thương được chuyển ra phẫu của trung đoàn và Chuyên đã hy sinh tại phẫu. Ba liệt sỹ được Cường, Sơn cụt và Thu già khâm liệm và chôn cất tại Thôn Thượng Phước. Tờ trích ngang của mỗi người được đặt trong ống nhựa đựng liều phóng B40 và được chôn theo cùng. Sơn cụt đục bia của 3 liệt sỹ trên vỏ thùng đạn AK và tấm tôn lợp nhà bằng nhôm mỏng.

Sau khi ngừng bắn (28/1/1973), tư trang của các liệt sỹ được gửi về gia đình theo đường chính thức cùng với giấy báo tử.

Lá thư của anh Huỳnh chỉ có gia đình được biết. Mãi đến khi các anh Lê Cường, Sơn cụt, Tường cận và Hùng côn cùng gia đình đi tìm mộ Huỳnh thì đồng đội mới biết đến lá thư.

Như vậy nơi anh mất và được chôn cất cách địa chỉ anh Huỳnh tiên đoán trong thư cách nhau 5 cây số đường chim bay và ở thôn Thượng phước chứ không phải thôn Nhan Biều 1. Mộ của các anh trong các đợt quy tập không tìm thấy vì bom đạn đã làm bay các tấm bia đi nơi khác. Chỉ có đồng đội Cường và Sơn mới chỉ đúng khu vực các anh nằm mà cũng phải mất 2 ngày thuốn đất mới tìm ra vì bom pháo vùi các anh xuống sâu hơn lúc chôn cất. Nơi đó nằm trên mảnh vườn do hai mẹ con chị Yến trồng sắn ở đó, gần nhà anh Hậu (Anh Hậu là người giữ 2 tấm bia để chờ ngày có người tới hỏi).

Sáng 8/9/2002 việc bốc mộ ba anh được hoàn tất và chiều hôm đó lễ truy điệu được tổ chức tại nghĩa trang liệt sỹ Ái Tử (không phải là 28-10-2002 như báo Nhân Dân viết).

Chúng tôi chỉ biết sự thật là như vậy. Việc báo chí có chỗ sai lệch có thể làm cho bức thư trở thành như một lời tiên tri chính xác là việc của báo chí. Tôi nghĩ anh em không nên bình luận khi chưa có căn cứ, sợ rằng có lỗi với các đồng đội đã khuất.

  CHUYỆN X CÓ MA


Tối ngày 30/4/1975, đại đội trinh sát chúng tôi được chỉ định đóng quân ở căn cứ Hải quân Cát Lái (sau này gọi là cảng Cát Lái) nằm ở sông Đồng Nai bên phía Sài Gòn.

Hòa bình rồi, mọi người được nghỉ ngơi trừ việc canh gác ban đêm và trực ban, trực chiến. Trong căn cứ Cát Lái rất nhiều đồ quân tiếp vụ. Các loại đồ hộp: thịt hộp, cá hộp, phở hộp, kem mứt hộp, . . . Các loại thuốc lá Basto, Rubi. Thuốc lá của quân tiếp vụ làm riêng cho quân lính, vỏ bao có hình lính chiến đang lao lên . . ., còn ghi "Huynh đệ chi binh, quyết tâm chiến thắng". Gạo, muối, bột ngọt cũng không thiếu nhưng lại thiếu nhiều thứ mình cần.

Ai cũng cần có bàn chải đánh răng, khăn mặt, xà phòng. Chả nhẽ cứ rửa mặt bằng tay, lại tiện thể dùng ngón tay mà đánh răng mãi sao. Giặt quần áo cũng cần xà phòng nữa. Thế là có vụ trao đổi với dân để lấy các thứ đó. Có anh còn đổi lấy cả lược. Đây là Sài Gòn chứ có phải xó sỉnh núi rừng đâu. Tôi không được tham gia các vụ thu chiến lợi phẩm và đổi hàng đó vì phải quay lại các căn cứ Long Thành và Thành Tuy Hạ để vẽ lại sơ đồ các nơi đó. Nhưng khi về đến đơn vị thì tôi cũng có đủ các thứ như mọi người, anh em trong tiểu đội vẫn giữ phần cho tiểu đội trưởng mà.

Trong căn cứ Cát Lái lúc đó bị mất nước. Tắm giặt và cả nước ăn nữa đều lấy nước sông.

Một sớm nọ, sau 30/4 vài ngày, mọi người ra bờ sông đánh răng, rửa mặt đều bị bất ngờ vì có một cái xác người trương phềnh, nổi lập lờ, dập dềnh cạnh bờ nước. Chắc là do sóng đánh và do thủy triều sáng nay rút đi nên cái xác bị giữ lại. Đây là cái xác của lính địch. Trên người chỉ độc một chiếc xà lỏn. Trên tay trái có một chiếc đồng hồ rất to có 2 núm vặn, loại đồng hồ "thủy quân lục chiến". Một mùi kinh khủng bốc lên, lợm giọng. Mọi người đành giạt lên phía trên để đánh răng, rửa mặt.
- Thằng này chắc là, trút bỏ quần áo lính để chạy rồi bơi qua sông mới bị chết đuối.
- Sao nó trương to thế, trông cứ như con bò.
- Các cụ nói đúng thật, chết đuối khi nổi lên thì đàn ông bao giờ cũng nằm xấp, đàn bà thì nằm ngửa.
- Kinh quá ! kéo nó đi chỗ khác đi !
Đến hôm sau, cái xác vẫn còn đó. Đúng là chỗ này hơi hõm vào nên mấy hôm trước mọi người mới hay ra đây để tắm giặt. Bây giờ chỗ hõm này làm cho cái xác không trôi đi được.

Trạnh nhớ, mờ sáng 30/4, một phân đội trinh sát chúng tôi dùng thuyền của dân vượt sông từ bờ bên kia sang bên này để nắm địch và đặt đầu cầu cho sư đoàn vượt sông. Lúc đó tầu chiến của địch vẫn nằm ở căn cứ Cát Lái. Chắc chúng nó tưởng chúng tôi là dân nên không bắn.

Chẳng may hôm đó chúng tôi bị bắn thì bây giờ chắc tôi cũng như thế này đây !

Đằng nào cũng toàn thắng rồi. Giá mà cái thằng này nó không bị chết đuối thì vẫn tốt hơn. Dù sao hắn cũng còn mẹ già và có khi còn con nhỏ nữa . . . Thoáng nghĩ như vậy nhưng tôi cũng chẳng dám nói với ai . . . Lại bảo là "trí thức tiểu tư sản".

Hôm sau nữa, cái xác vẫn còn đó. Mọi người bảo nhau kéo nó đi chỗ khác nhưng kết cục chẳng ai làm.

Rồi sáng hôm sau nữa, tôi thấy mọi người xì xào là thằng lính vẫn ở đó nhưng cái đồng hồ "thủy quân lục chiến" thì không còn. Quả là như vậy.

Đúng là có ma !

  CHUYỆN XI TRẬN PHAN RANG

Quân đoàn 2 chúng tôi hành quân Đà Nẵng gồm bộ binh của trung đoàn 101, lữ tăng 203, pháo binh và cao xạ 37 ly. Bộ binh và các đơn vị phục vụ chiến đấu đều hành quân bằng xe của đường dây 559.

Rời khỏi Đà Nẵng theo đường số 1. Đến Điện Bàn thì rẽ lên đường liên tỉnh. Nói tóm lại, đường hành quân bám theo đường số 1. Nơi nào cầu hỏng thì đi đường vòng.

Đến gần Cam Ranh, nơi địch vẫn còn chiếm giữ, đoàn quân đi vòng lên đường rừng rồi theo đường qua Ma Nai, Ma Trai mà đổ xuống đường số 1 ở gần Bà Râu. (Xem bản đồ).

Chúng tôi tới gần thôn Ba Râu vào đêm 14/4/1975. Toán trinh sát sư đoàn chúng tôi do một b trưởng chỉ huy, có thêm một chiến sỹ thông tin và một chiến sỹ trinh sát kỹ thuật mang PRC-25. PRC-25 nghe lén thông tin của địch và lần đầu tiên trinh sát kỹ thuật lại đi kèm với trinh sát bộ binh. Đúng là thần tốc phải có cách mới của thần tốc. Trinh sát bộ binh của sư đoàn cũng chiến theo cách mới. Không có luồn sâu vé sơ đồ, cảnh đồ nữa mà là bám địch và dẫn xe tăng đánh địch.

Không biết Núi Chúa hiện nay địch hay ta chiếm giữ. Thôn bà Râu cũng vậy. Nhiệm vụ của toán trinh sát là bám địch và báo cáo tình hình liên tục về cho sư đoàn.

   Tình hình địch tính đến 10/4/75 tại Phan Rang là lực lượng lữ đoàn 2 dù. Tiểu đoàn 5 dù ở trong sân bay Thành Sơn, tiểu đoàn 7 dù giữ các cao điểm ở phía bắc sân bay, tiểu đoàn 11 dù chiếm phía bắc Bà Râu, quận Du Long và các cao điểm thuộc Núi Chúa và các điểm khác hai bên đường số 1, tiểu đoàn 3 dù chiếm giữ vùng Ba Tháp tiếp giáp với Bà Râu. Pháo binh địch có tiểu đoàn 1 PB dù. Ngoài ra còn có một đại đội trinh sát dù nằm ở phía tây sân bay.

Đến ngày 12/4/75, lực lượng tại Phan Rang được Tăng cường 2 trung đoàn 4 và 5 thuộc sư đoàn 2. Đến ngày 13/4, tiểu đoàn 7 dù rút về Biên Hòa, Liên đoàn 33 biệt động quân đã ra đến Phan Rang và đang chờ nhận bàn giao của lữ 2 dù để lữ 2 dù về bảo vệ Sài Gòn. Tuy nhiên, ngày 13/4, ta bắt đầu pháo kích và tiến hành đánh lấn vào sân bay nên địch không thể rút thêm lính dù (trừ có tiểu đoàn 7 dù may mà rút từ hôm trước).

Sở dĩ địch điều lực lượng tinh nhuệ ra Phan Rang vì lúc này toàn bộ Tây Nguyên đã thuộc quyền kiểm soát của ta. Dải miền trung từ Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa-Nha Trang ta đã giải phóng hết. Cam Ranh cũng đã thuộc về ta nhưng còn đụng độ với nhiều tàn quân của địch. Địch không có cách nào khác là lập tuyến phòng thủ tại Phan Rang.

Ta nhớ rằng Phan Rang là quê của Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó đang là tổng thống VNCH), đồng thời nếu không ngăn chặn được ta từ Phan Rang thì Sài Gòn sẽ không còn lá chắn nào đáng kể nữa. Không biết có phải vì quê hương không mà Nguyễn Văn Thiệu dứt ruột điều lính dù ra đây thay vì bảo vệ Sài Gòn.

Từ ngày 13/4 sư đoàn 3 bắt đầu công kích vào sân bay Thành Sơn. Pháo của ta lúc bấy giờ khá nhiều đạn nên đều đặn bắn vào sân bay khống chế máy bay địch dùng không quân. Bộ binh của sư 3 đánh các chốt trên các cao điểm phía tây và tây bắc sân bay. Vòng vây sân bay ngày càng siết chặt. Sân bay Thành Sơn cũng là sở chỉ huy tiền phương của quân đoàn III của địch, là nơi đặt sở chỉ huy của lữ đoàn 2 dù và biệt động quân.

Còn phía bắc Phan Rang, là nơi quân đoàn II của ta sẽ tấn công bằng xe tăng và bộ binh thì tình hình như thế nào ? Theo thông tin của trinh sát kỹ thuật và thông tin bàn giao của sư đoàn 3 thì khu vực Bà Râu ta đã chiếm được. Các điểm cao trên núi Chúa vẫn còn địch đang chốt giữ. Từ trên cao chúng có thể khống chế đường số 1 và dễ dàng gọi bom pháo đánh chặn đường tiến quân của ta trên đường số 1.

  Chúng tôi hành quân suốt đêm 12/4/75. Xe của cúng tôi có hai lái xe thay nhau lái. Không biết lực lượng của trung đoàn 101 và của tăng pháo hành quân phía sau chúng tôi như thế nào. Đại đội trinh sát chúng tôi có nhiệm vụ đi trước, không ngừng nghỉ tới Cam Ranh càng sớm càng tốt. Vì có một chiếc cầu gần Cam ranh bị bom địch phá hỏng nên chúng tôi phải đi đường vòng lên núi. Sáng 14/4 chúng tôi từ trên đường rừng rẽ xuống đường số 1, ở đoạn gần cuối vịnh Cam Ranh. Đến đây thì không thể hành quân bằng xe được nữa mặc dù xe được cắm dầy đặc lá ngụy trang. Trên Núi Chúa, tiểu đoàn 11 dù vẫn đang chốt giữ. Chúng sẽ gọi máy bay đánh bom và bắn pháo.

Đại đội xuống xe tại một làng ven đường số 1. Đây là một làng rất trù phú chắc là Hòa Diêm (bây giờ không còn nhớ). Một ngôi làng giàu có và thật đẹp với rất nhiều dừa và cây cối khác. Dân trong làng cũng đi "chạy giặc" cả rồi chỉ còn du kích. Sau khi dấu 5 chiếc xe (có thể là 6 vì không nhớ) vào dưới các lùm cây và ngụy trang cẩn thận. Các tiểu đội chia nhau vào các nhà dân bỏ không để nghỉ ngơi và cơm nước. Đã hai ngày hai đêm tôi chưa chợp mắt tí nào. Mọi người ngồi trên thùng xe vẫn ngủ đều trên đường. Tôi và một hai ae nữa thì không ngủ chút nào.

Tiểu đội tôi được một du kích mặc áo đen dẫn vào một ngôi nhà lợp tôn, tường xây nằm dưới um tùm cây cối. Trên nóc nhà vẫn đang cắm lá cờ vàng ba sọc đỏ. Mọi đồ đạc trong nhà vẫn còn nguyên vẹn. Hôm nay trời nắng đây vì mặt biển rất nhiều sương mù. Đúng là cái vịnh này kín gió thật, không nghe tiếng sóng biển ầm ầm như những vùng biển khác. Chỉ có những con sóng dịu dàng vỗ vào bờ rồi đổ xuống lăn tăn trên bãi biển.

Xa xa về phía Núi chúa vẫn có tiếng pháo kích ì ầm và tiếng bom ung ùng. . . . Sư đoàn 3 của ta đã nổ súng đánh địch ở khu vực Núi Chúa và Bà Râu vào 5 giờ sáng nay.

Đã lâu lắm rồi tôi mới được ở cùng tiểu đội của mình. Nhiều tháng nay, suốt từ tháng 6 hay 7 năm ngoái tôi thường xuyên phải đi công tác lẻ, lúc thì lên ban 2 sư đoàn vẽ sơ đồ tác chiến cho ban 2 và phòng tham mưu, lúc thì đắp sa bàn, lúc đi tập trận đánh hợp đồng binh chủng, lúc thì đi luồn sâu ở Quảng Trị và ở Huế. Lạ là lần nào tôi đi cũng chỉ có một mình tôi phối thuộc với các anh em ở các b khác. Ba lô của tôi thường xuyên để ở nhà. Những lúc hành quân di chuyển anh em trong tiểu đội lại phải vác hộ.

Đang cho mọi người dọn dẹp nhà cửa và cơm nước thì tôi được đại đội triệu tập lên nhận nhiệm vụ. Lần này nhận nhiệm vụ, tiểu đội tôi lại chỉ có một mình tôi. Mình là a trưởng mà chẳng bao giờ được tác nghiệp với chúng nó trong a mình. Chỉ khổ chúng nó phải vác hộ ba lô. Cái ba lô của tôi thì cũng chẳng có quần áo hay đồ đạc gì vì có gì cần cho công việc thì tôi mang trong gùi rồi. Nhưng mà khá nặng vì có nhiều giấy để vẽ, các bản đồ Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, lại còn từ điển Anh-Việt mới cả "Vũ Tá Lâm" nữa. Hơi tệ !

Toán trinh sát của chúng tôi do một b trưởng chỉ huy, một lính thông tin 2 oát, vài lính trinh sát nữa, trong đó có tôi. Đặc biệt lần này có Thân, lính trinh sát kỹ thuật đi cùng. Thân là sinh viên năm thứ hai ĐHNThương, nhập ngũ 6/9/1971. Chúng tôi có nhiệm vụ bám theo đơn vị bạn (sư 3) đang tấn công ở phía trước, nắm tình hình địch và những vị trí mà ta đã chiếm được và thông tin liên tục về cho ban 2 của sư đoàn (sư 325).

Chúng tôi hoàn toàn không được biết gì về ý đồ của cấp trên. Nhiệm vụ cứ thế mà thi hành. Tuy nhiên, là lính trinh sát thì chú nào cũng có tính tò mò, hay nghe lỏm và rất hay suy đoán. Nhưng không bao giờ được "bép xép" và "nói leo". Gì thì gì ! ? . . . Chắc chắn là chuẩn bị tấn công hợp đồng binh chủng đây. Sư đoàn tôi đã tập trận tấn công hợp đồng binh chủng cuối năm 73 ở Cùa và may mắn, tôi là một trong 2 lính trinh sát được tham gia.

Cả đại đội chỉ có mỗi một bản bản đồ do anh Nhạ đại trưởng giữ. Ở Quảng Trị hay ở Huế thì kiểu gì tôi cũng phải kiếm được ít nhất là một bản. Ở đây, mới tới, chưa biết kiếm đâu ra. Thông tin mà chúng tôi có được từ đại trưởng cũng rất mù mờ. Không biết hiện nay sư 3 đã đánh được những đâu. Chỉ biết là hôm qua sư ba đã vây ép sân bay Thành Sơn ở phía tây bắc Phan Rang và 5 giờ sáng nay họ tấn công vào những điểm cao trên Núi Chúa dọc theo đường số 1 nằm ở phía bắc Phan Rang. Anh Nhạ yêu cầu toán trưởng liên lạc liên tục về ban 2. Trinh sát kỹ thuật dùng PRC – 25 nghe lén các cuộc gọi của các đơn vị địch giúp chúng tôi biết chỗ nào có địch và chỗ nào địch đã rút để bám theo. Máy PRC-25 chỉ có "tai nghe" mà hoàn toàn cắt "miệng nói" vì chỉ để nghe trộm.

Tôi xin anh Nhạ một giờ để căn ke bản đồ. Trinh sát mà không có bản đồ, tôi có cảm giác như bị bịt mắt, chẳng biết đàng nào mà lần. Cuộn giấy can đã bị mấy thằng nằm ngủ trên xe nằm đè lên nhàu nát hết cả. Tốt chán ! Tôi cũng chỉ căn ke bản đồ thoang thoáng thôi, lược bỏ những chi tiết không cần thiết. . . . Và thế là cũng có bản đồ. Tuyệt !

  Tôi quay về tiểu đội để chuẩn bị gùi. Mọi người đã dọn dẹp nhà cửa và nấu cơm xong. Quả thật, tôi hơi thất vọng về tiểu đội của mình vì toàn anh em mới chưa có kinh nghiệm gì. Đó chỉ là một chuyện. Thường xuyên đi công tác lẻ ít khi ở cùng với đơn vị khi về, tôi thấy đơn vị đã chuyển anh em cũ đi các đơn vị khác, thay bằng lính mới nhập ngũ 10/74. Đây là những ae mới huấn luyện tân binh và bổ xung vào c20 đầu năm 75 khi còn ở Quảng Trị. Chẳng biết trong thời gian qua họ có được huấn luyện gì về trinh sát không nhưng rõ ràng là chưa kinh qua trận mạc bao giờ. Tôi buồn vì bị "mất " các bạn chiến đấu cũ.

Nói thật, đến tận bây giờ tôi vẫn có ý oán trách anh P. chính trị viên trưởng (anh P. là người đã đi luồn sâu cùng với tôi trong chuyện "Một chuyến luồn sâu xè xè"). Chỉ tại anh P. thôi, anh Nhạ đại trưởng vừa mới chuyển từ c20 trinh sát 101 lên đã biết gì về lính tráng chúng tôi đâu.

Những thằng lính cũ tiểu đội tôi, cũng như các tiểu đội khác toàn là những thằng có cá tính, kinh qua trận mạc rất nhiều rồi. Nhiều thằng đánh nhau xuất sắc ở bộ binh được tuyển về nữa. Mỗi đứa đều có "chân dung" riêng và đều "gấu" cả. Trong ánh mắt người chính trị viên thời bình, những người lính có cá tính đó dường như là khó bảo. Họ không "vâng", "dạ" răm rắp, có lúc còn hỏi xoáy thủ trưởng, đôi khi còn trêu thủ trưởng nữa. Không phải họ ghét anh P., họ vẫn quý anh theo cách của họ. Anh P. có cảm giác không kiểm soát được họ và anh cũng không biết quí cái giá trị thực sự của người lính và họ trở thành những cái gai.

Bây giờ, khi sắp vào trận rồi, càng nhớ chúng nó. Trinh sát chúng tôi đi lẻ hai ba đứa, tôi chưa bao giờ thấy "lạnh lưng". Suốt từ trận này vào đến khi giải phóng Sài Gòn, các toán trinh sát đi độc lập đành phải chọn các anh em cũ còn lại. Sau này có một lần khi toán trinh sát chúng tôi chuẩn bị cho trận đánh vào Nhơn Trạch, trong toán có 2 ae mới, tôi không thấy lạnh lưng nhưng luôn luôn cứ phải quay lại phía sau để bao quát ae, chỉ sợ ae không theo kịp, lo lắng cho họ nhỡ có xảy ra chuyện thì có thể tự ứng phó được không.

Chuẩn bị gùi xong thì cơm cũng vừa chín.
- Gọi mấy thằng dậy đi !
- Lâm à ! (Lâm là lính cũ ở tiểu đôi 1 bây giờ làm a phó), bọn này nó được cái ngoan. Ông có đi đâu thì yêu cầu chúng nó bám sát. Mà có làm gì thì phải nói rõ và dặn dò trước, kỹ một tý. Chúng nó chưa biết gì. Không nói thì chúng nó không tự động làm được gì đâu.

Tôi còn mang theo một nắm cơm do mấy đứa chuẩn bị. Nắm cơm được bỏ vào cái túi vải trắng chuyên đựng cơm nắm, túi này mấy đứa lính mới vẫn còn. Vẫn cái gùi, bản đồ, địa bàn, ống nhòm, 2 băng đạn, 2 quả US, dao găm, bông băng, bi đông nước, giấy, bút chì, . . .

10 giờ, toán trinh sát bắt đầu đi dọc đường số 1. Phải hơn chục cây số nữa mới đến Du Long. Từ lúc sư đoàn 3 đánh Núi Chúa, Du Long đến giờ, máy bay địch dồn vào đánh chặn ở đó thành ra ở phía sau này không thấy máy bay địch đánh phá phá cầu và đánh vào đội hình nữa. Phía trước chúng tôi, tiếng bom, pháo và các loại súng bộ binh vẫn đang ì ùng.

Đúng là trời nắng to, chẳng có gió gì cả. Oi bức và ngột ngạt, hơi nóng bốc lên lấp lóa trên mặt đường nhựa. Qua mấy cái ấp vẫn nhà cửa nguyên vẹn nhưng không một bóng người. Những cái cờ vàng ba sọc cắm trên nóc nhà và trên các cây dừa ủ rũ vì không có gió. Không có vẻ gì là tang tóc nhưng đã bắt đầu hừng hực một không khí của chiến trận.

Một thông tin đi theo toán trinh sát thường xuyên nhận điện và gửi điện về ban 2. Thông tin bằng máy 2 oát ở đại đội chúng tôi bao giờ cũng dùng ma-nuyp gõ tạch tè. Điện báo bao giờ cũng phải dịch qua mã thành số. Mỗi cụm số là 5 con số, rồi sang cụm khác chẳng hạn như:

02536 43682 56419 97821 . . .

Tôi đã xem bảng mật mã để dịch điện, cũng rất đơn giản. Có thể dịch xuôi, dịch ngược được. Tuy nhiên nếu lính thông tin mà hy sinh thì viết một bức điện chắc cũng phải rất lâu vì không thuộc mật mã. Đánh Mooc xơ còn khó hơn. Vì tò mò, lúc rỗi rãi tôi cũng đã nhờ lính thông tin dạy gõ ma-nuyp. Tuy rất chậm nhưng được cái "tè" ra "tè", "tạch" ra "tạch". Cứ cho là viết được điện và tà tạch được thì vẫn không phải là đã đánh được điện vì phải thuộc lòng mã tạch tè của từng con số từ 0 đến 9. Vì vậy, lính thông tin được đi ở vị trí an toàn nhất trong đội hình và có hẳn một lính trinh sát đi kèm bảo vệ.

   Ngày 13/4 địch bắt đầu rút tiểu đoàn 7 dù về Biên Hòa với ý đồ đưa liên đoàn 33 biệt động ra thay cho lữ dù 2. Tiểu đoàn 11 dù sau khi bàn giao Du Long cho biệt động quân, trên đường rút về sân bay Thành Sơn thì phải hoãn lại vì máy bay địch đã phát hiện được ta chuẩn bị tấn công Du Long.

Ngày 14/4 khu vực sân bay bị ta vây ép dữ dội, sân bay bị pháo ta oanh kích. Tuy nhiên máy bay địch vẫn cất cánh được và dùng máy bay và pháo mặt đất đánh chặn các mũi tấn công tại sân bay và tại quân Du Long. Trung đoàn 2 của sư đoàn 3 vây hãm, tấn công ấp Bà Râu từ hai hướng. Dù và biệt động quân của địch ở ấp Suối Đá và cao điểm 86 phải tháo chạy về khu vực Kiền Kiền. Mất Bà Râu, Du long rơi vào tình thế bị tấn công từ cả phía trước và phía sau, không có ứng cứu. Cụm phòng ngự Du Long trên cao điểm 300 rút chạy về phía đông nam (thoát ra phía biển). Như vậy đến cuối ngày 14/4. Sư đoàn 3 đã chiếm được Du Long, Bà Râu, làm chủ một phần lớn Núi Chúa. Ta cũng bao vây chặt sân bay, nơi tập trung nhiều binh lực và các sở chỉ huy của các đơn vị địch. Nhiều khí tài như máy bay, tăng, thiết giáp, pháo các loại của địch đã bị kiềm tỏa.

Toán trinh sát chúng tôi bám theo phía sau anh em trung đoàn 2 của sư đoàn 3. Tối hôm đó chúng tôi dừng lại tại một vị trí nằm giữa Du Long và Bà Râu. Đây là thôn Suối Đá nằm ở chân Núi Chúa. Phía trái chúng tôi là sườn núi rất dốc, sừng sững vươn lên tới đỉnh ở độ cao trên 900 mét. Phía bên phải là một thung lũng nhỏ, có đường số 1, đường sắt, suối nước và cánh đồng lúa. Hình như lúa cũng mới được cắt. Trên cánh đồng chỉ còn trơ lại gốc rạ và những đống rơm vẫn còn tươi. Không khí khét lẹt mùi đạn pháo và bom. Trời đã dịu đi đôi chút nhưng chẳng có ngọn gió nào. Ông Thắng bê trưởng phân công người nấu cơm, chọn chỗ nghỉ ngơi và canh gác. Thằng Dũng, thằng Luân và tôi sau khi ăn cơm sau sẽ tiếp tục bám bạn. Đến đây chúng tôi vẫn chưa bám địch mà vẫn bám theo anh em sư đoàn 3 và ở phía sau các đơn vị tấn công của bạn nên gọi là "bám bạn" . . . Quá dễ !
- Này, chúng mày đừng có chủ quan, đừng có đốt lửa to thế. Chúng nó vẫn còn trên núi, nó gọi máy bay, nó bắn pháo thì chết ráo !
- Hai thằng gác nữa, cẩn thận, bọn tàn binh. Mọi người phải sẵn sàng đấy, tàn binh thì quất liền.

Thân liên tục vặn núm chuyển các kênh của máy PRC-25. Bọn địch gọi nhau ý ới trên sóng. Chúng sử dụng ám mã và tiếng lóng. Tiểu đội trinh sát kỹ thuật hàng ngày theo dõi địch ở Quảng Trị đã quá thạo ám mã và tiếng lóng của địch. Thỉnh thoảng chúng lại đổi ám mã, ae lại phải dò tìm vài tiếng mới theo kịp. Tôi đã nhìn thấy cái chìa khóa ám mã. Đó là hai tấm bìa dầy tròn, tán đinh bấm để hai tấm bìa có thể quay đồng trục với nhau. Trên hai tấm bìa có in các con số và chữ màu đen, xanh, đỏ, vàng, . . . tấm bìa phía trên còn đục một số lỗ để có thể nhìn được số và chữ ở tấm dưới. hai tấm bìa được tráng nylon trong suốt rất bền và khó thấm nước.

Thân bảo, nếu nó đổi ám mã thì mình phải dò. Nhanh nhất là dò tọa độ mà địch đóng quân và đối chiếu với thông tin từ trinh sát mặt đất. Về nguyên tắc, chỉ cần biết chính xác một vị trí địch là suy ra bộ mã số và quay chìa khóa tới vị trí mới. Tuy nhiên, do cả địch và cả trinh sát của ta báo cáo tọa độ thường không chính xác nên phải đối chiếu dăm ba tọa độ.

Tiếng ý ới trên sóng của địch nhiều nhất là ở vùng sân bay. Trên Núi chúa, mấy thằng dù vẫn đang xin máy bay và pháo bắn vào đường 1 ở phía gần vịnh Cam Ranh. Chắc là chúng quan sát thấy ánh sáng đèn của ô tô đang di chuyển vào vị trí. Mấy thằng dù tiểu đoàn 11 rút chạy từ Du Long về phía biển đang yêu cầu trực thăng ra đón. Kênh nào cũng thấy tiếng địch rất hoảng loạn. Nhiều yêu cầu của cấp dưới không được cấp trên đồng ý thậm chí không được trả lời. Tiếng các cấp chỉ huy điều quân nghe hối hả và loạn xạ . .

   Cơm nước xong, tôi nói với ông Thắng:
- Bọn tôi sẽ bám bạn đến ấp Bà Râu, nếu ở đó đêm nay địch đánh chiếm lại thì Luân sẽ về báo cáo. Nếu không có gì thì sáng mai mọi người ra Bà Râu để bọn tôi còn tiến lên tiếp nhé. Thông tin chạy bộ này bất tiện quá !
- Đồng ý ! 6 giờ bọn mình sẽ ra đó.

Cả toán trinh sát có mỗi một máy liên lạc 2 oát thành ra phải để lại chỗ ông Thắng để còn nhận thông tin, báo cáo tính hình và nhận lệnh của ban 2. Tốp "bám bạn" đành phải thông tin chạy bộ. Khoảng cách từ Bà Râu về Suối Đá cũng chỉ có 5 cây số. Chạy nhanh cũng chỉ mất 20 phút. Một toán trinh sát đông người khi gần đến địa điểm cần trinh sát bao giờ chúng tôi cũng thả một tốp nhỏ đi trước, rồi cứ thế theo kiểu sâu đo mà tiến lên. Lúc bám địch thì tốp đi trước cũng khá gần tốp sau nhưng hôm nay "bám bạn" nên hơi xa một chút.

9 giờ thì chúng tôi đến ngã ba đường 1, nơi rẽ vào thôn Bà Râu, thì gặp ae sư đoàn 3 đang chốt ở đây. Đây là chốt tiền tiêu của họ. Họ đã đào công sự cá nhân ở sát chân núi, chỉ cách đường cỡ hai chục mét. Tôi không biết tại sao dọc đường đi không gặp chốt nào cả mà cuối cùng lại gặp luôn chốt tiền tiêu. Giá không gặp họ ở đây và không có bản đồ thì chúng tôi cứ thế mà đi sẽ đụng địch ở Kiền Kiền cũng nên. Thì ra đại đội của họ ở trong ấp Bà Râu bố trí thành chốt cứng. Còn một chốt nữa cũng ở gần đường 1, phía sau, cách vài trăm mét, bố trí trên sườn núi.

Ba thằng chúng tôi lùi lại đằng sau cỡ trăm mét. Chẳng ai mang xẻng đào công sự, tôi thì mang gùi, Dũng và Luân thì mang ba lô xẹp lép mấy thứ cần thiết thôi. Chúng tôi lợi dụng taluy của đường 1 và một bên núi. Chỗ này có một cái cống thoát nước chảy từ trên núi xuống qua đường 1. Nếu pháo bắn hay địch ném bom thì chui vào cống. Đây là một cái cống ở phía dưới là vòm bằng tôn, phía trên là bê tông và trên cùng là đường nhựa. Tiết diện thông thủy hình tròn đường kính chỉ 60 phân, nửa trên bán nguyệt, nửa dưới cũng bán nguyệt bằng tôn. Chui vào ngồi phải khòm khòm nhưng mà có trúng pháo cũng vô tư, trừ khi là trúng bom . . . Khá ổn !

Trời về đêm, không khí dịu đi rất nhiều. Sao ở đây im ắng thế ? Không bị bom pháo gì. Chúng tôi leo lên sườn dốc để quan sát. Bắt đầu có những sợi gió phe phất thổi. Thằng nào thằng nấy phanh áo đón gió, mồ hôi vẫn còn dâm dấp. Thằng Dũng lúc nào cũng đóng cúc gấu quần và cúc tay áo, thằng Luân thì quần sắn móng lợn còn tay áo thì đóng cúc. Tôi thì lúc nào tay áo cũng sắn cao trên khuỷu, quần sắn cao trên đầu gối, thành quen rồi. Nhiều lần đi luồn sâu về tới nhà hai cẳng tay và hai ống chân te tua những vết cỏ tranh cứa và vết gai cào, rồi đóng vẩy, rồi vẩy bong để lại những vết sẹo mờ, chỗ thì thâm chỗ thì sẹo trắng, nhằng nhịt. Dũng quê ở Bắc Thái, nó chuyển từ tiểu đoàn 19 đặc công về, người săn chắc, nhanh nhẹn. Luân quê ở Ân Thi, Hưng Yên, người cao mà rất gày. Đây là lần đầu chúng tôi đi với nhau.
- Sao suốt hai năm hòa bình mà ông Thắng không kết nạp hai ông thế ?

- Tại bọn tôi thằng nào cũng ngang. Ông đi vắng không biết đâu. Gần đến tết thì một loạt thằng bị chuyển đi bộ binh, thằng thì sang vận tải, thằng thì sang c26 lái xe. Ông Thắng giữ được bọn tôi lại là may rồi. Bây giờ toàn lính mới Hải Dương cả.

  - Thằng Sự đồng hương Ân Thi với tôi chuyển về bộ binh. Hôm vác đạn ở 560 bị pháo bắn chết rồi. Đơn vị mới thì ai biết nó là thằng nào. . . Chẳng biết nó nằm ở đâu ?
- Ừ ! Tôi đang đắp sa bàn thì được tin nó chết. Đau quá ! Nó ở tiểu đội tôi mà ! Nó chuyển đi thì tôi đang ở Hòn Vượn. Hôm ở 560, tôi nhận được thư tay của nó không biết nhờ ai chuyển. Thư của nó đây này !
Tôi móc bức thư từ trong túi ngực đưa cho Luân. Bức thư được viết trên giấy xé ra từ vở ô ly (thủng bụng), bốn mặt dày đặc chữ. Thằng Dũng soi đèn. Hai thằng lặng lẽ đọc thư rồi gấp lại đưa cho tôi.
- Ông khóc à ! Đúng không ? Tôi thấy nhiều đoạn bị nhòe nước mắt ? – Luân hỏi.
- Tôi chẳng được chia tay nó khi nó chuyển đi bộ binh. Lúc đang ùng oàng ở động Truồi lại nhận được thư nó. Hai hôm sau thì nó chết. . . Tôi lục hết đồ của tôi, chẳng có cái gì của nó cả. Mãi mới nhớ ra là tôi có cái khăn mùi xoa của nó. Nó có hai cái, nó bảo tôi cầm một cái. Còn cái bút của nó đây nữa. Cái khăn và cái bút thì tôi vẫn nhét trong túi ngực. Bút đây này! khăn đây này!
- Thằng Sự nó lùn nhưng ở xê mình, chơi bóng chuyền, có nó đứng giữa sân phòng ngự là vững nhất.
Sự ở tiểu đội tôi, kém tôi một tuổi, cực kỳ ít nói, người thấp đậm, mặt bầu bĩnh. Nó có nét cười rất tươi, dễ gần, dễ mến. Tôi và nó có rất nhiều kỷ niệm. Lá thư nó gửi cho tôi là lá thư duy nhất giữa hai đứa. Lá thư và chiếc khăn tôi để trong ba lô khi hành quân bằng ô tô. Đụng nhau với địch trên đường từ Xuân Lộc về Bà Rịa. Xe cháy, mất sạch rồi. Chiếc bút của nó tôi cài ở túi áo nên bây giờ vẫn còn. Đó là một chiếc bút "Trường Sơn" màu ghi, nắp bút vặn vào thân bút bằng ren.

- Không ngờ thằng Sự nó viết thư tình cảm thế. Mà các ông quý nhau thật. Nó đi rồi, lại chết, chắc ông buồn lắm. – Dũng nói.
- Mà nó gọi ông bằng anh xưng em là sao thế ? – Luân hỏi.
- Ừ ! Lúc nào tôi với nó cũng ông ông, tôi tôi thôi. Nó chỉ kém tôi có mấy tháng. Đây là lần đầu tiên nó gọi như thế đấy . . . Và là lần cuối . . . Các ông thấy có đau không ?

- Cũng tại lão P. cả ! Lão ấy chả bao giờ hiểu được bọn mình. Lão ấy lúc nào cũng tưởng là lão đang là chỉ huy ở trường sỹ quan chính trị. Ông còn khá chứ "đầu chày đít thớt" như bọn tôi thì lão ấy làm sao mà hiểu được cái gì. Lão ấy giảng chính trị nói vụ "Oa-tơ-ghét" làm bọn tôi bật cười, chắc là lão ghét bọn tôi lắm. ("Water Gate" là vụ nghe trộm điện thoại của Richard Milhous Nixon năm 1972, lúc đó đang là tổng thống Mỹ - tổng thống thứ 37)

   Sực nhớ còn nắm cơm từ hồi trưa vẫn đeo bên sườn. Tôi lấy cơm, rút dao găm cắt nắm cơm thành lát.
- Ông vẫn còn giữ được dao của lão Chí à ? – Luân hỏi. (Chí là tiểu đội trưởng anh nuôi có nghề rèn, tôi đã nói đến trong chuyện "Cái cây").
- Ừ ! cái lão già ấy cười mới hay chứ, răng đã vàng thì chớ lại còn lủng một cái răng cửa. Nhìn lão cười, không cần biết là chuyện gì là tôi đã không thể nhịn được cười rồi. Đã thế lại còn hay cười chứ lị !
Nghĩ đến lão Chí "thợ rèn" cả ba chúng tôi đều òa lên cười. . . . Tôi nói:
- Các ông nhớ không ? Lão ấy dơ cái ống thả lả của lão ra bảo " Chúng mày xem thằng có vợ rồi nó trắng bạch ra thế này này, còn của chúng mày thì cứ đỏ tía lên . . . hà . . . hà . . ."
Cả ba thằng lại ôm bụng cười. . . .

Mảnh trăng non bàng bạc đã ngả về tây, mờ mờ lấm tấm màn sao chiu chít trên bầu trời. Hơi sương huyền ảo giăng giăng . . . Thảng hoặc là một con gió trườn trên thung lũng, rồi táp ngọn lên sườn núi. Hơi ẩm của đồng đất và mùi rơm rạ mới ngai ngái vừa e ấp vừa nồng nàn. Trời thở và Đất thở quện vào nhau quấn quýt ! Lại là một cái đêm. . . Thinh không, sắc không không . . . !

- Luân à, không có ghi ta ở đây mà mày chơi vài bài có phải hay không nhể ! Một cái đêm như thế này, tao nhớ thằng Tư quá (không biết từ lúc nào chúng tôi lại chuyển sang gọi mày tao chứ không ông tôi nữa).
- Ừ ! Tao vẫn nhớ giọng hát của nó.
- Nó vẫn hát bài "Cháng cháng côồng cạc" . . . (Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình). Nó đi Hòn Vượn với tao. Nó bị nguyên một quả 40 ly đạn ria bắn thẳng chỉ cách có 2 mét. (M79 có loại đạn ria. Đầu quả đạn không tròn như thông thường mà có một cái nắp nhựa phẳng. Trong quả đạn nhồi thốc nổ và rất nhiều bi, dùng để bắn thẳng ở cự ly gần). Tao ngồi đục bia đá cho nó cũng bằng con dao găm này. Sao nó không đứng lại mà lại vượt qua tao để đi trước chứ ? Chỉ mấy chục mét thôi ! . . .

Thằng Tư chết hôm đó, ráng chiều bầm đỏ !. . . Phía chân trời tây, mây tím hung hung . . . Một tiếng nổ, hai tiếng nổ . . . những tiếng vọng ù ù . . . à à . . . giật đi giật lại trên vách núi. Tư ơi . . . ! ơi . . . !

  Khoảng 3 giờ sáng, một trung đội của trung đoàn 2 sư ba vận động từ phía Bà Râu đi dọc theo đường 1 về phía chốt tiền tiêu. Trăng đã lặn, trời tối. Những cái bóng đen lầm lũi tiến về phía trước. Họ đang chuẩn bị tấn công.

Đúng 5 giờ sáng, pháo của sư đoàn 3 bắn cấp tập vào sân bay Thành Sơn. Trời vẫn còn mờ sương, nhìn thấy chớp đầu nòng hình như là ở Núi Đất (cao điểm 154 ở phía tây chứ không phải Núi Đất cao điểm 180 ở tây bắc sát sân bay). Chắc là mình đã chiếm được Núi Đất từ những ngày trước rồi. Từ chỗ chúng tôi đến sân bay phải gần 15 cây số đường chim bay, tiếng súng bộ binh nghe rất nhỏ nhưng tiếng đạn pháo và đạn cối nổ nghe ì ùng như giã giò.

Bỗng rộ lên tiếng súng cối 82 nổ phía trước mặt chúng tôi, trên đường 1, chỉ cách khoảng 500 mét. Cối 82 của trung đoàn 2 sư 3 bắn từ Bà Râu, cấp tập. Họ đang tấn công địch ở một cái xóm nhỏ nằm sát một bên là chân núi, một bên là đường 1, nơi con suối Kiền Kiền chảy qua đường (ta cứ tạm gọi là xóm Kiền Kiền). Chừng mươi phút, khi tiếng đạn cối ngừng nổ, nhất loạt súng RBD và AK nổ túi bụi, nhát nhát điểm vào là tiếng B40, B41 xoẹt xoẹt xoẹt . . . ùng. Tôi dùng ống nhòm quan sát nhưng cũng chỉ nhìn thấy lờ mờ.
- Cho tao xem với !
- Chỉ nhìn rõ đạn B40, 41 nổ thôi, chẳng nhìn thấy lính tráng gì cả. Chắc khoảng 15 phút nữa, trời sáng lên thì xem được hết.

Pháo ở sân bay nổ dịch dần về phía đông. Giữa sân bay chỉ còn thấy cối nổ. Chắc bộ binh mình đang đánh vây lấn ở đó rồi. Phía xóm Kiền Kiền tiếng súng bộ binh cũng thứ dần chỉ còn nghe đì đẹt tiếng súng AK. Không biết là đã chiếm được xóm Kiền Kiền Chưa ? Trời đã sáng rõ. Không nhìn thấy lính ta và lính địch ở xóm Kiền Kiền.

6 giờ sáng, tốp trinh sát của ông Thắng đang dò dẫm đi trên đường 1. Năm đứa đi cách xa nhau, súng lăm lăm, mắt nhớn nhác quan sát, dáng lom khom, dập dờn mấy chiếc mũ tai bèo. Trông đến là buồn cười, cứ y như đang tập đi khom vậy.
- Bọn ông Thắng kìa !
- Ừ ! Cứ "để yêm xem sao", hì . . . hì . . .
- Ông ấy thận trọng thế là đúng rồi. Nhỡ đâu bọn mình "téc" hết rồi thì sao. Hôm qua bọn mình hơi liều. Nếu không đụng mấy thằng bộ binh sư 3 thì mò vào địch còn gì. Mà hai thằng mày cũng nhẹ. Thằng nào bị thương tao cũng cõng được, khỏi lo !
- Có mày bị thương, tao cõng thì có !
- Mày ý ! mày to con hơn tao, đạn nó trúng mày.
- À ! hai thằng mày trúng đạn nhé ! Một mình tao không cõng được hai đứa thì tao kéo lê chúng mày đấy.
- Thằng Bốn nó đi giữa kìa. Cái thằng mũi to, tay thì như chày vồ, thế mà gõ tạch tè nhanh nhất tiểu đội thông tin. Hôm qua, nó bắt tay tao, nó bóp tao đau quá. Bố sư khỉ !
- Chúng mày nấp đi để tao dọa chúng nó chơi.
- Này đừng có đùa ! Chúng nó bắn thật đấy.
Ba thằng chúng tôi nấp sau mô đất có lùm cây um tùm chờ họ đến gần. Cả toán ông Thắng đang lò dò thì đất đá ở đâu rơi rào rào. Chưa kịp định thần thì thằng Luân nhanh mồm:
- Anh Thắng . . . !
Bây giờ cả toán ông Thắng mới thở phào, đứng thẳng lưng:
- Ở đây thế nào rồi ?
- Kia là thôn Bà Râu. Chỗ lô cốt kia là đầu đường vào thôn. Thôn này sư 3 đang chốt trong đó. Trước mặt mình, kia . . . là chốt tiền tiêu của họ đêm qua nhưng bây giờ họ đánh lên xóm kia rồi.

- Thôi ! Tất cả vào đầu thôn Bà Râu đi. – Ông Thắng nói.

   Thân vẫn đang đeo tai nghe, vừa đi vừa chuyển kênh tạch tạch trên chiếc PRC-25. Đang đi, bất chợt Thân nói:
- Bọn nó đang gọi pháo và máy bay đánh vào đây đấy! Bọn này ở trên núi ngay gần đây. Chúng nó nhìn thấy mình đấy. Chạy nhanh vào lô cốt kia còn kịp, nhanh lên !
Cả toán chạy về phía lô cốt. Đây là một cái lô cốt kiên cố xây bằng gạch và bê tông, ở trên có tháp canh rất cao (tôi nghĩ bây giờ có thể vẫn còn). Trên nóc lô cốt vẫn còn cắm lá cờ vàng ba sọc đỏ. Cũng may là lô cốt gàn ngay ngã ba đường, chỉ cách mấy chục mét. Chúng tôi vừa vào trong lô cốt thì pháo bắn trên đường 1 đúng vào chỗ chúng tôi đứng lúc nãy.
- Cẩn thận đấy, có khi máy bay ném bom vào lô cốt cũng nên.
- Không đâu, phi công được thông báo tọa độ ở trên đường cơ, muốn xin lại tọa độ thì bọn trên núi phải điện về tiểu đoàn. Tiểu đoàn nó mới xin được pháo, lên nữa thì lữ đoàn mới xin được máy bay ném bom. Riêng trực thăng của bọn dù nhiều khi lính nó gọi trực tiếp được.
* Hôm 6/8/2010, tôi đi cùng với các CCB trinh sát kỹ thuật, Thân vẫn còn nhắc lại chuyện chúng tôi chạy vào lô cốt hôm đó *

Ông Thắng nói:
- Bây giờ thế này ! Ông TichTuongNhuLe với ông Luân, ông Dũng tiếp tục bám địch. Bây giờ là phải bám địch thật đấy. Sư 3 họ sẽ chuyển toàn bộ sang đánh sân bay. Hôm nay họ chiếm được đến đâu thì các ông tiến đến đó. Họ rút đi thì các ông chốt giữ lại đó làm bàn đạp. Đêm nay xe tăng và 101 mới vào. Các ông cứ yên tâm, chắc bọn nó cũng không dám đánh nống ra đâu. Trường hợp bọn nó đánh ra, các ông để đến gần mới được nổ súng. Cố gắng giứ bí mật. Nếu các ông nổ súng bọn tôi sẽ lên tiếp ứng ngay. Các ông lấy thêm đạn và lựu đạn của bọn tôi đây. Sau khi các ông đứng chốt ở đâu thì ông Luân chạy về sau báo cho tôi. Chúng tôi sẽ bám gần các ông. Mọi người rõ chưa ?
- Rõ !
- Đêm xe tăng đến thì ông Toàn theo xe đễn lên chốt của các ông. Nếu không có gì thay đổi, đêm nay hoặc sáng mai sẽ tấn công. Nhóm ông TichTuongNhuLe sẽ dẫn đường cho xe tăng. Thế nhé !
- À ! cầm cơm này, cả ruốc nữa, nước nữa. Đi luôn nhé !
- Vâng ! Nhưng mà anh xem bản đồ đi đã.
Tôi trải tấm bản đồ căn ke ra:
- Mình đang ở đây. Khả năng là xóm này sư 3 chiếm được rồi vì không thấy súng nổ nữa mà cũng không thấy họ rút lui. Chắc là chúng tôi sẽ tới đây. Có thể anh lên chỗ mỏm núi này này, có cây cối rậm rạp, quan sát rất tốt.
- Ừ ! được đấy. Là bọn tôi sẽ cách chỗ ông ba bốn trăm mét. – Ông Thắng nói.
Thân chỉ vào bản đồ những nơi từng toán lính dù và biệt động đang ẩn náu và tìm đường chạy. Nhiều toán dù chạy ra phía biển, một số đang chạy về phía sân bay, một số vẫn đang chốt lỳ quanh quất trên khu vực Núi Chúa. Chắc bọn này hy vọng có tiếp viện của lữ đoàn để chiếm lại Bà Râu và Du Long. (Có lẽ thế nên chuyện chỉ huy của lữ dù mới nhận được tin tức lung tung không chính xác, bọn thì báo cáo Du long đã mất, bọn thì bảo là chưa. Bọn bảo chưa chắc là bọn dạt lên núi không nắm được tình hình mà cũng có thể ngoan cố báo cáo như vậy để xin tăng viện ? !).

Tôi gấp bản đồ, cho vào ngực áo đang đóng thùng. Chúng tôi bắt tay nhau rồi đi.

Thế là ba ngày ba đêm trọn chưa ngủ tí nào. Mà sao không thấy buồn ngủ, mắt vẫn mở trừng trừng, khô kháo và cay cay. Chắc có gương soi sẽ thấy mắt đỏ ngầu, không biết nữa ?!

  Toán ba đứa chúng tôi rời lô cốt và đi dọc vên đường 1. Chúng tôi cứ từ từ mà đi vì thời gian còn tha hồ rộng rãi. Vả lại cũng phải thận trọng vì không biết chắc là đơn vị bạn đã đamhs được đến đâu.

Bỗng một loạt đạn pháo không biết từ đâu choảng ngay vào đầu chúng tôi. Tôi quát:
- Chạy ngay vào cái cống kia !
Ba đứa chúng tôi chạy thục mạng. Thằng Luân nhanh nhất chui tọt ngay vào trong cống, thằng Dũng chui vào sau cùng. Một cái cống thoát nước khô ráo. Tôi nói:
- Thân nói đúng thật. Bọn nó vẫn còn ở trên núi gọi pháo chơi mình đấy !
- Cứ tưởng pháo nó bị ta kiềm chế hết rồi, thế mà bắn nhanh và chính xác thế.
Thì ra trong cống không phải chỉ có ba chúng tôi. Trong đó đã có một chú lính của sư 3 ở đó từ bao giờ. Chú này có cái vẻ hớt hơ hớt hải, mệt mỏi và sợ hãi khó tả. Luân nhanh mồm:
- Ông là lính sư 3 à ?
- Vâng !
- Ông có bị thương ở đâu không ?
- Không ạ !
- Mọi người đâu mà có mỗi mình ông ở đây ?
- Ở trên kia kìa. Em mệt quá, chui vào đây nghỉ một lúc.
- Ông có đói không ? bọn tôi có cơm đây này.
- Em không đói. Em vừa ăn lương khô.
- Này, ông uống nước đi.
- Em xin !
- Bọn ông đánh vào đây từ bao giờ thế ?
- Từ sáng hôm kia. Cứ phải dấn liên tục. Em mệt quá không chạy được nữa.
- Thế lúc nãy mà bọn tôi là lính nó thì làm thế nào ?
- Em ngồi ngay miệng cống. Nhìn thấy các anh đi. Pháo bắn em mới tụt vào trong. Em cũng đoán các anh chui vào đây.
- Ông ở đây, không sợ mọi người lo lắng đi tìm à ?
- Nói thật với các anh, em là lính mới bổ xung vào đơn vị là phải đi đánh ngay. Em sợ lắm ! Anh tiểu đội trưởng thì cứ quát, em càng sợ. Lúc chạy qua chỗ này, anh ấy quay lại bảo em là "mày chui vào đây mà trú cho nó rảnh" rồi anh ấy đẩy em vào. Em vừa sợ vừa buồn. Sao em lại hèn thế, chân tay cứ bủn rủn, chỉ chực ngã. Em mệt quá các anh ạ !

Đã quen với bóng tối, ánh sáng từ đầu cống bên kia xuyên vào làm tôi nhìn rõ hình hài chú lính. Một cái bóng thằng người bé tí tẹo và gày gò, chẳng có sức sống gì cả. Không biết làm sao mà người ta động viên cả cậu ấy đi lính, mà lại dúi ngay vào chỗ hòn tên mũi đạn thế này, đánh đấm làm sao ? Chiến tranh dày vò mỗi thằng lính chúng tôi đã đành, sao nỡ đưa đẩy cậu bé này vào đây chứ ? Chẳng ai bảo ai, chúng tôi đều có cảm xúc thương cậu ta vô cùng. Nhìn không rõ mặt nhưng chắc là thiếu niên mới lớn vẫn đang trong vòng tay mẹ. Chú này nếu đang học cấp II thì cũng bị bạn bè bắt nạt thôi. Ôi ! chiến cuộc. Một guồng máy đưa đẩy mọi thứ vào vòng quay của nó. Một cỗ máy nghiền khổng lồ và lạnh lùng.

Pháo ngừng bắn rồi, bọn tôi chui ra ngoài để đi tiếp.

- Này ! Có bi đông không ? lấy ít nước mà uống. Ông Dũng đưa cho cậu ấy nắm cơm đi !

   Lần này chúng tôi men theo sườn núi mà đi khom. Tôi đi đầu, Luân đi sau cùng. Chừng non cây số thì hiện ra trước mặt là một xóm nhỏ. Đúng là một xóm nhỏ, trông nghèo nàn với những mái nhà tôn sơ sài và cách khá xa nhau. Cây cối thì chỉ thấy dừa là dừa rồi lại chuối và chuối. Một con suối nhỏ từ Núi Chúa vắt vẻo trong rừng cây lúp xúp chảy qua ngay đầu xóm rồi luồn qua một cái cầu nhỏ trên đường 1. Chúng tôi dừng lại nghe động tĩnh trong xóm. Vắng tanh vắng ngắt và khét lẹt mùi thuốc súng.

Chúng tôi không vào xóm mà lợi dụng địa hình giữa xóm và đường 1 mà dò dẫm tiến lên, Vừa đi vừa nghe ngóng và quan sát. Dường như cơn lũ chiến trận mới trôi qua đây tàn phá cái xóm nghèo. Quang cảnh một trận địa vừa im tiếng súng. Các cây chuối đổ, lá xác xơ còn tươi nguyên nhựa. Các cây dừa trúng pháo cối ở gần với các tàu lá te tua lắt lẻo, đung đưa. Một vài nóc nhà trúng đạn cối, mái tôn thìa lìa, quăn queo. Mới chưa tới 9 giờ sáng mà sao không khí đã hừng hực. Mùi dừa tươi hăng hăng trộn với hơi khét của thuốc nổ và hơi đất nồng nồng cuộn lên tạo thành một cái mùi khó tả thành lời – mùi chiến trận còn tươi.
- Sao không thấy có ai chết nhỉ ?
- Chắc là chúng nó nhanh chân rút trước rồi. Bọn này bây giờ mất hết tinh thần rồi. Nó biết mình hay tấn công vào sáng sớm mà. Mới lại xem ra chẳng có công sự, trận địa gì thì phòng ngự làm sao được.
- Cẩn thận đấy ! Có khi nó rút lên đồi, ngay trên đầu mình chưa biết chừng ?
- Có khi nó thấy mấy thằng đi lẻ nó thịt luôn. Hì . . . Hì . . .
- Nó thịt mày, vì mày béo. Tao thì làm gì có thịt.
- Ừ ! đúng thật. Bọn nó hay bảo mày liệu hồn không có nó bẻ chân mày xỉa răng là phải. Mà mày ăn còn khỏe hơn tao. Thế cơm vào bụng mày thành c... hết à ?
- Thôi hai bố ơi ! Nói khẽ thôi ! Cẩn thật một tý đi ! Không khéo dẫm phải c... thật đấy.
Bọn tôi cùng cười òa lên, không ai nói chuyện nữa.

Đến cuối xóm chúng tôi dừng lại quan sát xung quanh. Phía trên núi vẫn im lìm, hai bên con đường nhựa vắng ngắt là cánh đồng trống trơ, trống trọi. Hàng cây số trước mặt đều trống trải. Không quan sát thấy đơn vị bạn đang ở đâu. Tôi giở tấm bản đồ căn ke và bàn với mọi người:
- Bây giờ thế này nhé. Từ sáng quân của ta đánh ở đây chắc là thuận lợi, không có địch chống trả. Có thể họ phát triển tiếp lên phía trước đến Ba Tháp. Chắc chắn họ chưa rút đi đâu vì nếu họ lùi lại thì mình đã biết. Họ cũng không rút lên núi làm gì. Họ cũng không thể chuyển quân về phía sân bay trên cánh đồng trống giữa ban ngày được. Bây giờ mình cứ tiến. Giữ bí mật. Không để địch trên núi nhìn thấy gọi pháo bắn. Không để họ phát hiện ra mình trước. Nếu phía trước là địch, cũng không được để địch phát hiện ra. Mọi người ngụy trang cẩn thận một chút. Mình sẽ vận động rất chậm thôi. Vậy có được không ?
- Một trí ! ("Một trí" tức là "nhất trí". Lính trinh sát những lúc nói chuyện nghiêm túc thì vẫn cứ đùa như vậy).
- Dũng, thế nào ?
- Tao cũng một trí !

Con dao găm của lão Trí sắc lẹm, cắt cây sim, cây mua, cây gì nữa lá nhỏ mà rất rậm mùi hăng hăng như lá chanh nhưng hơi hôi hôi. Ba thằng ngụy trang cứ như ba lùm cây. Nắng gắt rồi, tiện thể cũng mát, càng hay.
- Đi nhớ !
- Từ từ, tao đái cái hẵng. Bệnh đái hay lây, chúng mày không đái à ?
- Có chứ !
- Mày biết không, suốt ngày hôm qua tao uống bao nhiêu nước mà chả đái lần nào. Bao nhiêu ra mồ hôi hết.

- Thì tao cũng thế.

  Ba thằng lò dò đúng động tác "đi khom" hơn hẳn những khi tập. Lúc tập, thằng nào cũng lười, chỉ rình bê trưởng quay đi là đứng thẳng mà tiến vèo vèo. Bê trưởng luôn phải nhắc nhở "thấp xuống, thấp xuống !". Được cái, mái đường ở đây khá cao, bọn tôi "đi khom" thấp hơn đường nhiều. Ba bụi cây di động lừ lừ tiến, trên núi khó mà nhận ra là ba cái đống gì . . . Hì . . . Hì . . . Chắc ở đây vào mùa mưa lũ, nước lớn, nên đường đắp cao, thỉnh thoảng muốn quan sát bên kia đường, phải đứng thẳng lên mới nhìn được.

Trời bắt đầu nắng gắt. Hơi nóng bốc lên từ mặt đường lấp lóa, rần rật. Hơi ẩm từ những đụn rơm rạ trên ruộng lúa bốc lên nồng nồng, ngột ngạt. Dân ở đây không mang rơm rạ về nhà như ở bắc bộ. Họ cắt lúa cả rơm lẫn rạ và đập lấy thóc ngay tại ruộng. Cái thùng đập lúa hình phễu vuông bằng gỗ được khênh ra ruộng, gặt đến đâu kéo thùng đến đó. Người ta không dùng rơm rạ làm chất đốt hay cho trâu bò ăn. Củi thì đi kiếm trên rú. Mỗi con trâu hay bò được buộc vào một cái mà chúng tôi vẫn gọi là "cần câu bò". "Cần câu" là một cây tre chôn xuống đất, phía trên là một cây tre nhỏ hơn có thể quay đủ mọi hướng, đuôi "cần câu" treo bao cát làm "đối trọng" cũng giống như cái cẩn cẩu tháp mà ta thấy trong xây dựng cao ốc bây giờ. Đầu cây tre nhỏ buộc dây rất dài để giữ trâu bò. Buộc trâu bò ở đây cũng khác. Không đơn giản là "xỏ sẹo" như ở miền bắc, ngoài "xỏ sẹo", người ta còn buộc dây thành một bộ dây vòng qua sừng, vòng xuống dưới hàm giống như bộ dây đóng hàm thiếc của ngựa. Trâu bò có giằng dây thì chỉ bị đau chứ không bao giờ "đứt sẹo" được. "Cần câu" được đặt ở nơi cỏ tốt, trâu bò ăn thoải mái, không phải chăn dắt. Hết cỏ nơi nảy thì rời "cần câu" đi nơi khác.

Phía trước chúng tôi bây giờ là một rẻo trảng cỏ cây lúp xúp bám theo phía phải đường 1. Mấy cái "cần câu bò" trơ trỏng, chổng ngược lên giời. Bò cũng đi "chạy giặc" rồi . . . ?!

Tôi dừng lại và vẫy tay, muốn hội ý một tý:
- Mình cứ đi ven đường bên này thôi nhé. Nghe ngóng xem có sư 3 chốt ở đây không. Có thể họ chốt ở phía trước đoạn có cây lúp xúp này. Ai phát hiện ra họ trước thì kêu dừng lại nhé ! Mình không biết mật khẩu của họ nên phải tiếp cận họ thật gần mới chủ động liên lạc với họ. Nếu là địch thì mình sẽ chốt ở đây và báo về cho ông Thắng. Một trí không ?
- Ừ !
- Theo kế hoạch thì hôm nay họ rút khỏi đây, tập trung đánh sân bay. Từ đây sư mình sẽ đánh tiếp. Cứ đề phòng cẩn thận nhỡ họ rút lúc nào mà mình không biết.
- Biết rồi ! Đụng nhau với lính nó thì táng luôn, bọn tao đâu có ngán !
- Không được ! Không táng tiếc gì cả. Chỉ bám thôi. Làm hỏng việc lớn là cụ Ngoan cụ ấy chửi chết đấy. Cụ ấy lại bảo "trinh sát chúng mày ngu quá, đuổi mẹ chúng mày xuống bộ binh . . . ". Bọn tôi đã bị cụ chửi một trận rồi, cụ bảo "súng của trinh sát chúng mày là củi à . . . !". (Cụ Bùi Đức Ngoan lúc đó là tham mưu trưởng sư đoàn 325. Trước kia cụ là trung đoàn trưởng 101. Chuyện cụ Ngoan, bác Lê Xuân Tường có viết một chuyện – xem trong topic Một thời hoa lửa).
- Được rồi ! Thì không táng.

Thực ra thì còn nhiều thời gian, nên tôi mới nói với hai thằng nó dài dòng như vậy thay vì nói độc một nhát : "Cấm lộ đấy !" - là xong. Hai thằng này, nhất là thằng Luân, nói chuyện rông dài thì "tép nhảy" suốt ngày làm vui. Chuyện nghiêm túc bao giờ chúng nó cũng chỉ thích ngẵn gọn, rõ ràng. Mà cũng chả phải hai thằng đó. Những thằng trinh sát chúng tôi quen đi độc lập, quen tự xử lý mọi chuyện rồi, không thích bị "dạy bảo" lôi thôi. Tốt nhất là "nói ít hiểu nhiều".

  Tôi dơ tay ra hiệu cho mọi người dừng lại. Sắp hết trảng cây rồi. Trước mặt chúng tôi là một rẻo đất cao vắt từ bên kia đường sang, cũng cỏ và cây lúp xúp khá rậm rạp, sim, mua, dứa dại và lau lách. Có nhiều vệt cây cỏ bị dẫm đạp còn mới. Chúng tôi cúi rất thấp, chỉ có cây cỏ che khuất thôi, không còn mái đường che đỡ nữa, vừa tiến vừa lắng tai nghe ngóng. Dũng đập vào tôi để tôi dừng lại và thì thầm:
- Có mùi thuốc lào.
- Ừ ! Mũi mày thính thật.
Chúng tôi dừng hẳn lại và bắt đầu bò về phía trước. Bỗng nghe tiếng điếu cày rít lên sòng sọc, rồi một bụm khói bốc lên cách khoảng chục mét. Sao lính tráng không nói chuyện mà im lặng thế. Tôi ra hiệu cho mọi người nằm rạp xuống rồi ném hòn đất về phía có khói thuốc bốc lên. Một giọng bắc cất lên:
- Đứa nào thế ?
- Chúng tôi lính 325 lên tiếp quản thay các anh đây. Đừng bắn !
Thấy một chú đội lá ngụy trang đứng lên, dớn giác nhìn quanh.
- Tôi ở phía sau anh đây ! – Nói rồi tôi từ từ đứng lên, lom khom.
- Bọn anh ở 325 bổ sung cho chúng tôi à ? Đại ơi ! mày lên báo ông Bang đi ! (Tôi không nhớ tên ae sư 3 nên cứ tạm gọi là Đại và Bang cho nó dễ nghe chứ không phải tên thật)
Một tay nhảy khỏi công sự chạy lom khom về phía trước. Chúng tôi cùng tiến về công sự của họ. Lính sư 3 đã kịp đào mỗi người một công sự cá nhân sâu đến thắt lưng, ngồi xuống ẩn nấp được, quỳ lên là bắn tốt, lại còn ngụy trang rất cẩn thận. Được lắm ! Lính này cũng dày dạn đây.
- Bọn anh chốt ở đây đông không ?
- Bọn tôi có một đại đội, bên này đường là trung đội tôi, bên kia là hai trung đội.
- Tình hình địch phía trước thế nào ?
- Chúng tôi tiến đến đây thì sáng rồi. Chúng nó bắn pháo chặn.
- Vâng, bọn tôi cũng biết. Các anh đang đánh nhau với bọn biệt động. Cả dù và biệt động đều đang dạt lên núi thôi. Chúng nó chưa tan hết đâu. Mà các anh cũng thấy "o vê mù" thỉnh thoảng bay qua bay lại. Tôi nghĩ, đến cửa ngõ Phan Rang rồi, chắc phía trước chúng nó chốt chặn rất chặt. Khó lòng mà lên được. Dừng lại ở đây là tốt quá rồi.
- Đại trưởng tôi cũng bảo thế.
Một loáng sau đã thấy ba người luồn lách qua đám cây lúp xúp tiến đến. Một ông có vẻ lớn tuổi hỏi:
- Các đồng chí ở 325 à ?
- Báo cáo anh, chúng tôi là trinh sát của 325 có nhiệm vụ bám địch, đến đây thì gặp các anh. Tôi chẳng có giấy tờ gì cả, chỉ có cái này.
Tôi rút từ túi áo ngực cái giấy "Chứng Minh Thư Quân Giải Phóng". Cái giấy đã nhàu và ướt mồ hôi.
- Chúng tôi không có giấy công tác.
- Thôi ! Nhìn là biết rồi.
- Quê ông ở đâu thế ? có phải Hà Bắc không ? Trông ông giống em thằng bạn tôi quá.
- Dạ ! Không. Báo cáo, tôi Hà Nội, anh này Hải Hưng còn anh này Bắc Thái.
- Được. Thế này nhé ! các ông muốn biết tình hình gì chúng tôi sẽ cung cấp. Chúng tôi đã nhận được lệnh rút sang đánh sân bay rồi nhưng mà chưa đi được. Có lẽ chiều muộn mới đi. Tôi là đại đội trưởng còn đây là ông Bang trung đội trưởng. Thế ra 325 thay chúng tôi chốt ở đây à ?
- Vâng, tôi cũng chỉ biết thế thôi ạ !
- Bang à ! Cậu trao đổi tình hình với mấy ông này nhé. Tớ chạy sang chỗ thằng Quân xem thế nào.(Quân cũng là tên bịa thôi, vì tôi không nhớ).
- Vâng, anh cứ đi đi. Bọn em cũng sẵn sàng rồi.
- Thôi chào các đồng chí nhớ !
- Vâng ! Anh đi !

Chúng tôi trao đổi tình hình địch với nhau trên tấm bản đồ căn ke. Vậy là rõ. Đây là phía trước của ta. Thôn Ba Tháp mình chưa tấn công tới, có lẽ địch lập phòng tuyến ngăn ta tại đó. Chúng tôi cảm ơn anh Bang Và bắt tay anh. Anh nói:
- Có hai công sự này, nhường các anh. Bọn tôi cũng sắp đi rồi. Không biết có dịp gặp lại nhau nữa không ? Chúc may mắn nhé !
- Vâng ! Chúc anh may mắn !

Ba thằng tôi ngồi dưới bụi cây giở cơm nắm ra. Suốt từ sáng đến giờ không thấy đói sao bây giờ tự nhiên thấy đói thế ?

  Buổi chiều 15/4/1975. Trời nắng gắt, dường như không có một đám mây nào ngoại trừ những sợi mây ti bất động trắng muốt ở rất cao. Gió thoang thoảng thổi từ hướng đông mang theo hơi biển vào làm cho không khí đỡ phần oi bức. Tôi ngồi vẽ sơ đồ tình hình địch và ta khu vực Ba tháp cho đến Kiền Kiền, chỗ ông Thắng. Xong, tôi ghi nội dung báo cáo tình hình bằng lời vào một góc sơ đồ. Tôi cũng báo cáo chiều nay, ae của sư 3 sẽ rút khỏi khu vực này.
- Luân à ! bây giờ chạy về báo cáo tình hình cho ông Thắng đi. Chắc từ giờ đến tối ở đây không có chuyện gì đâu. Bọn nó có tâm trí đâu mà đánh nống ra. Mày đi cẩn thận, trên núi vẫn có bọn nó.
- Được rồi, yên tâm ! Tao chỉ lo hai thằng mày ở đây . . .
- Mày cứ ở chỗ ông Thắng, lúc nào có xe tăng thì dẫn đến đây. Mày cũng yên tâm, có gì bất trắc thì chúng tao cũng rút về Kiền Kiền. Nếu ông Thắng muốn thêm một đứa ở đây thì cử đứa khác. Mày tả đường đi cho nó. Mày phải ở lại đấy để tối còn dẫn xe.
- Ừ !
- Đi nhé ! – Mấy đứa bắt tay, rồi Luân nhanh nhẹn luồn cây và mất hút về phía sau.

Dũng người thấp hơn tôi một chút và hơi đậm hơn. Đấy là lúc đó nhìn thấy thế chứ như bây giờ mà như vậy cũng là gày còm rồi. Nó ở tiểu đoàn 19 đặc công của sư đoàn. Tiểu đoàn bị giải tán đầu năm 1973 và bổ sung quân cho đại đội trinh sát của sư đoàn và 3 trung đoàn. Số còn lại về trinh sát tiểu đoàn và bộ binh. Tôi nhớ nó nhập ngũ tháng 12/71 thì phải.
- Dũng à ! mày có người yêu chưa ?
- Chưa. Tao cũng thích một đứa từ hồi học lớp 9, lớp bên cạnh. Đến năm lớp 10, lúc thi tốt nghiệp nó lại ngồi cạnh tao. Các lớp thi thốt nghiệp của trường tao xếp phòng thi theo a bê xê. Nó tên Dung mà.
- Từ từ, . . . có xinh không ?
- Xinh. Nhiều đứa thích nó lắm. Trước ấy, tao chưa bao giờ nói chuyện với nó, chỉ nhìn trộm thôi. Thấy nhiều đứa nói chuyện với nó, nó cười trông càng xinh nhưng mà trong người tao nó cứ sao ấy.
- Mày ghen ?
- Nhiều lần ở nhà nhớ nó, lại lo sợ nó yêu thằng nào mất, sót ruột lắm. Tao lên dây cót, nhất định hôm sau phải bắt chuyện với nó. Hôm sau, đến trường, thấy nó đi một mình, tao mạnh bạo đến gần nhưng nó hồi hộp làm sao ý, ngượng lắm. Thế là đi qua nó ngay bên cạnh mà vờ như không nhìn thấy. Mày bảo có dở hơi không ? Mày phải biết là trường cấp III ở huyện chỉ có 2 lớp 10 thôi. Biết hết nhau cả ý mà. Con gái cũng chỉ có đâu hai chục đứa, mỗi lớp một nửa.
- Lúc thi tốt nghiệp thì sao ?
- Lúc thi môn toán nó không làm được bài, cứ ngó nga ngó ngoáy. Tao để dịch bài cho nó xem. Tao làm không tốt lắm nhưng cũng được. Tao thấy hãnh diện ghê ! Lúc về, nó nhìn tao ghê lắm làm tao ngượng, phải cúi xuống. Môn thi sau cùng sắp xong thì trời mưa rất to. Lúc ra về tao không có áo mưa. Nó đưa áo mưa nhường tao. Mày bảo, ai lại để nó đi mưa. Tao cứ thế đi dưới mưa. Ai dè nó cũng không mặc áo mưa mà cũng đi mưa luôn. Nó hỏi tao trọ ở đâu. Tao bảo trọ ở thị trấn gần nhà nó. Thế là hai đứa đội mưa đi cùng đường. Mày bảo có dở hơi không ?
- Tao thấy chúng mày tình tứ quá ! Ừ đúng là lúc bấy giờ chẳng ai dám đi chung áo mưa chứ bây giờ thì chết với bọ rồi. Mà sau mày đi lính thì sao ?
- Mày nghe bài này nhé ! " Hôm nay em lên xe hoa. Trời mưa, mưa rơi âm thầm. Nhìn xác pháo dưới gót chân. Giờ phút cuối đến tiễn em. . . Gót chân người xa xưa, sợ lấm nên cần tôi đưa. Nàng đã quên một lối về. Quên cả người trong gió mưa. . ."
- Nghe buồn quá mầy !
- Là hát thế thôi, chứ tao có được tiễn em lúc lấy chồng đâu. Tao nhận được thư bạn tao, nó nói Dung lấy chồng hồi cuối năm. "Mợ nó đi Tây rồi" ! Nhưng mà tao vẫn nhớ. Mày bảo có dở hơi không ? (Là thằng Dũng nó cứ hay nói cái câu " Mày bảo có dở hơi không").
- . . . ?!
- Mày còn viên sát trùng nào không ? – Tôi hỏi.
- Còn.

- Mày cứ ở đây nhé, đưa bi đông, tao đi lấy nước.

  Hoàng hôn bảng lảng trên triền núi phía tây. Ánh tía hồng hừng hực quét lên bầu trời thành hình rẻ quạt. Mảnh trăng non bàng bạc đã lắt lẻo tít trên cao. Ae lính f3 đã chuyển quân về hướng sân bay.
- Dũng ơi ! Mình chuyển ra đường đi. Không biết lúc nào xe tăng mới đến nhỉ ?
- Ừ ! Mình ở đây nhỡ xe đến, chạy ra không kịp. Nó chạy vào chỗ địch thì mo (không biết chữ "mo" này từ đâu ra nhưng mà lúc đó chúng tôi dùng với nghĩa "chết").
- Lại tìm chỗ cống thôi.
Chúng tôi xuống đường, chỉ cách chỗ cũ vài chục mét. Tìm ngay được một cái cống. Tốt rồi.
- Có lẽ phải tiến lên thêm ra đến chỗ trống trên cánh đồng thì hay hơn mày ạ !
- Ừ !
Trời đã tối hẳn. Chúng tôi tiến thêm lên phía trước cỡ 500 mét ra chỗ đồng trống. Hai bên là ruộng. Đường nằm cao hơn có dễ trên một mét. Chỗ này là một cái cầu nhỏ, nước chảy từ bờ đường phía tây sang phía đông. Nước rất thấp và chảy chậm.
- Tao muốn tắm một cái. Mấy ngày rồi. Mày ở trên quan sát nhé.
- Mát quá ! Mày có xà phòng không ?
- Có. Hôm ở Đà Nẵng tao lấy xăng ở kho Liên Chiểu đổi lấy khăn mặt, bàn chải, thuốc đánh răng đầu tây đen, cả mấy cục xà phòng thơm hẳn hoi.
- Mày tắm thơm để tối tán gái làng Kim liên chứ gì ?
- Ngồi liên hoan văn nghệ cùng du kích thì cũng phải thơm chứ lị. Đây ! Nhanh lên cho tao còn tắm với.
Chúng tôi thay nhau tắm giặt. Quần áo vắt kiệt rồi chùm lên mấy cái cây lúp xúp ven suối.


- Mày gày, sao ăn khỏe thế. Lúc nãy vừa ăn lương khô, bây giờ lại ăn. (Lúc đó tôi cũng thuộc diện gày nhưng mà chỉ là trung bình trong xê thôi. Cao nhất tôi cũng chỉ được 47 ký. Sau nhiều ngày lăn lộn liên tục chắc không quá 45 ký)
- Mày không biết à. Tao lúc nào cũng là thằng ăn nhiều. Mâm tao chúng nó xong rồi đứng lên hết thì tao lại chuyển qua mâm khác. a2 của tao ở gần nhà ăn, mày biết rồi. Chín giờ cả đại đội phải đi ngủ là bọn tao lại lẻn vào nhà ăn. Luồn tay qua cái cửa phát cơm ấy. Thể nào cũng khoắng được mâm dự trữ. Mang về chén sạch rồi trả lại xong nồi vào chỗ cũ. Hôm tao đi tập trận ở Cùa về, ông P. gọi tao lên nói: "đồng chí về kiểm điểm đồng chí Thìn chui vào bếp lấy cắp một xong cơm, một xong canh, một khay thức ăn. Đồng chí rõ chưa". Tao nói: " Anh em họ đói mà thủ trưởng". Ông ấy liền xổ ra một tràng về ý thức nọ kia. . . Tao đành hô rất to: "Rõ !" rồi biến. Hôm ấy, mâm dự trữ không để gần cửa phát cơm mà để trên giá ở xa. Thằng Thìn mới chui qua lỗ cửa phát cơm. Bất ngờ, thằng Phố mở khóa kho lấy gì đó mới giật mình thấy thằng Thìn ở trong. Buồn cười quá nó mới về kể chuyện với mấy đứa nhà bếp. Không biết đứa nào lên tâu ông P. Chứ thằng Phố nó biết bọn tao vẫn lấy trộm cơm của nhà bếp, nó chỉ cười hì hì, có nói gì đâu. Thằng Thìn bị cảnh cáo đại đội mày biết đấy. Sau, nó cũng bị ông P. chuyến đi vận tải cùng đợt với nhiều đứa khác.
- Tao kể chuyện người yêu của tao rồi nhé ! còn mày thì sao ?
- Chuyện hay lắm. Hồi lớp 4, tao thích một đứa xinh nhất lớp. Chỉ có thế thôi. Tiểu đội tao nó đòi tao kể chuyện người yêu. Lấy cảm hứng từ bạn lớp 4 tao liền phịa ra một câu chuyện nghe lâm ly lắm, oan trái lắm. Đứa nào nghe xong cũng thấy nuối tiếc. Bọn nó cứ thúc giục tao quay trở lại với em ấy. Làm gì có em nào. Chả lẽ lại là cái em lớp 4. Thế là tao đành thú nhận chuyện kể với bọn nó là chuyện tao bịa ra chứ không phải chuyện thật. Nhưng mà chúng nó không tin đó là chuyện bịa. Biết làm thế nào được !

Bọn tôi ngồi ngay rìa đường. Bốn ngày và ba đêm rồi chưa được chợp mắt. Sao không thấy buồn ngủ. Chỉ thấy dường như mắt hoắm vào sâu bên trong, da thì khô ram ráp. Bước chân đi thấy chơi vơi chứ không thật chân như mọi khi. Tôi nói:
- Chắc bây giờ cỡ chín giờ chứ mấy. Mày ngủ đi một tý . Tao thức được rồi.
- Ừ ! Tao buồn ngủ quá ! – Nói rồi Dũng nằm luôn xuống dệ cỏ ven đường. Mắt cậu ta đã díp vào mất rồi.

Mảnh trăng đã xế tà. Không gian bồng bềnh mà nhẹ tênh, trong suốt mà hư ảo, thức mà như ngủ mơ màng . . . Chút nữa thôi là mảnh trăng kia cũng xuống núi. Trái Đất vẫn quay, ngày qua ngày. Con tạo vẫn xoay vần, vô tình, có biết đến đâu trên một cái mảnh đất nhỏ bé kia là khói lửa, chớp giật, thấm đẫm máu xương. . .

Bỗng nghe tiếng rì rì của xe tăng từ phía sau mà chưa nhìn thấy. Tôi đánh thức Dũng. Chúng tôi cùng đứng ra giữa đường. Chắc khoảng 12 giờ rồi. Phải 15 phút sau mới nhìn thấy ánh sáng le lói hắt ra từ đèn phòng không của mấy chiêc xe đang tiến đến. Mấy chiếc xe dừng lại cách chỗ chúng tôi chừng 500 mét. Tôi bảo Dũng ở lại và quay lại đón xe. Thì ra thằng Luân chỉ dám cho xe tiến đến chỗ ban sáng. Luân và tôi cùng nhảy lên chiếc xe thiết giáp đi đầu. Ngay sau chúng tôi là một chiếc xe tăng, đằng sau còn nhiều xe nữa. Tôi yêu cầu các xe tắt đèn, đi xa nhau đề phòng trên núi địch phát hiện yêu cầu máy bay ném bom hay bắn pháo. Được cái trời không quá tối nên có thể tắt đèn vẫn nhìn rõ đường và nhìn rõ xe đi trước nhưng phải đi chậm lại một chút. Đoàn xe từ từ tiến lên đến chỗ Dũng đứng thì dừng lại tắt máy.

Sau khi trao đổi với anh chỉ huy chiếc xe thiết giáp về tình hình địch. Ba tháp cánh chúng tôi khoảng 1 cây số. Phía trước mặt là đồng trống, không có địch. Tôi được biết giờ "G" là 5 giờ sáng. Như vậy, đi đầu là chiếc thiết giáp, tiếp sau là 5 hay sáu chiếc xe tăng, rồi đến thiết giáp chở quân của 101, rồi đến ô tô chở quân (xe của 559) rồi pháo binh và pháo cao xạ 37. . .

Bên tăng họ hội ý với nhau xong thì ai về xe nấy. A37 ù ù xuất hiện. Pháo sáng giăng liên hoàn dọc trên đường 1. Tôi hét lên:
- Chúng nó ném bom đấy ! Chui vào gầm xe đi.
Có hai cậu lính tăng đã nhanh chân nhảy lên xe và đóng nắp. số còn lại chui hết xuống gầm.

Tiếng bom dậy đất, mảnh lia ràn rạt, leng pheng vào thành xe. Xe của tôi không ai bị dính cả. Không biết phía sau thế nào. Chắc, máy bay của địch cũng mỏng mà quân của ta thì đông nên chúng cứ đánh rải ra chứ không tập trung vào một điểm. Tôi bảo anh xe tăng đưa xe xuống ruộng. Chúng tôi cùng đi kiếm lá để ngụy trang thêm cho xe. Thửa ruộng này khô. Một lúc sau đã thấy thằng Dũng nằm ngáy dưới gầm xe rồi. Bom còn đánh thêm vài lượt nữa, nó tỉnh dậy một tý rồi lại ngủ.

   Tôi ngồi ven đường làm nhiệm vụ gác. Thằng Dũng vẫn đang ngủ dưới gầm xe. Sắp đến giờ tấn công rồi. Tôi lay Dũng dậy. Hai thằng nhảy lên thùng xe. Chỗ nắp xe này hai thằng đứng là vừa. Chỗ nắp tròn có một lính của tăng đứng bắn 12 ly 7. Anh em nhà tăng đã sẵn sàng từ lúc nào. Họ không ngủ và đang chờ lệnh xuất kích. Thằng Luân ở sau cùng nhóm ông Thắng, tôi không biết họ lên xe nào. Sau tôi là mấy chiếc xe tăng. Có lẽ nhóm ông Thắng lên xe thiết giáp hoặc ô tô ở sau nữa. Tôi đề nghị với ae tăng nổ máy bò lên mặt đường. Tôi móc túi áo lấy hai viên dẫn đường và nạp lên trên cùng của băng đạn.

5 giờ ngày 16/4/1975
Pháo ta bắn vào sân bay Thành Sơn cũng là pháo lệnh mở màn cho trận đánh.

Chiếc thiết giáp BTR -50PK của chúng tôi là chiếc đi đầu dẫn đường. Chiếc xe gầm lên rất lớn rồi lao về phía trước. Phía sau chúng tôi, những chiếc xe tăng cũng lao theo. Cả đoàn xe gầm rít chạy gằn trên đường 1 tiến về Phan Rang. Phía trước chúng tôi là Ba Tháp. Trời chưa sáng rõ nhưng đã nhìn được lờ mờ khu vức ba Tháp. Tôi vỗ vai lính 12 ly 7 để anh chú ý. Tiếng gầm gào của đoàn xe rất lớn phá toang màn đêm yên tĩnh. Chắc chắn bọn địch nghe tiếng xe tăng đều khiếp sợ vì chúng chưa bao giờ bị xe tăng tấn công. Nhưng mà chúng cũng đang chờ để bắn mình đây.

Cách khu tiền tiêu của làng Ba Tháp chừng 200 mét tôi vẫn chưa nhìn rõ thấy địch nhưng ở tầm này thì 12 ly 7 bắn quét hiệu quả rồi. Tôi điểm xạ, 2 viên AK đạn lửa vụt đi. Bầm bầm bầm . . . Đạn lửa 12 ly 7 vẽ thành từng dòng, quét qua quét lại.

Bỗng một cục lửa từ phía địch bay nhanh về phía chúng tôi rồi xạt qua bên phải. Thì ra chúng chơi DKZ. 12 ly 7 bắn trả vào đúng chỗ đó, rất rát. Đại liên 12 ly 8 của địch cũng bắn rất dữ. Chúng tôi có tấm chắn nên không có cảm giác sợ gì bọn đại liên. Đúng là lô cốt di động lợi hại thật. Xe chúng tôi chạy chậm lại và nép về bên phải. Hai chiếc xe tăng nhanh chóng vượt qua. Pháo 85 trên xe bắn thẳng vào Ba Tháp. Đại liên trên xe tăng quét liên tục. Vài phút sau, đã vào tới Ba Tháp. Lính địch đang tháo chạy nháo nhác. Tôi vỗ chỉ hướng cho 12 ly 7 bắn quét sang hai bên đường. Dũng và tôi, cũng quét AK về hai bên đường tiến.

Chỉ vài phút sau đoàn xe đã trôi qua Ba Tháp.

Tiếng gầm gào của xe, tiếng pháo tăng chát chúa, tiếng ùng ùng của 12 ly 7 ngay bên tai và bao nhiêu tiếng động khác. Rung động truyền đến từng thớ thịt những người lính. Máu chảy rần rật trong các huyết quản, mê mải, say say . . .

Sơ đồ tác chiến trận đánh vào thị xã Phan Rang sáng ngày 16/4/1975 của quân đoàn 2, dẫn đầu là thiết giáp và xe tăng của lữ 203 (về sau này và hiện nay 203 là biên chế của quân đoàn 2). Phía sau là trung đoàn BB 101, Pháo 85 của trung đoàn 164, Cao xạ 37 ly,. .

  Đoàn xe cứ thế tiến lên. Xe tăng và thiết giáp vừa chạy vừa bắn 12 ly 7 về phía trước và hai bên ruộng. Ở đó bọn địch đang tháo chạy tán loạn. Phía trước mặt chúng tôi bây giờ đã là thôn Gò đền. Một làng trù phú. Rút kinh nghiệm ở Ba Tháp, lần này pháo tăng nã đạn trước vào chốt của địch ở đầu làng. Quá kinh hãi vì xe tăng, bọn địch ở đây hầu như không phản ứng lại được và tan ra rất nhanh giống như ở Ba Tháp. Thế là trôi qua Gò đền. Chắc giờ này chưa quá 5 giờ 30. Trời đã sáng, quan sát sang hai bên ruộng thấy bọn địch chạy bạt mạng, dạt về phía biển và về phía sân bay Thành Sơn.

Sắp đến thôn Cà Đú. Đây là một ngã ba quan trọng. Rẽ phải sẽ vào sân bay, chạy thẳng là vào thị xã. Chắc chắn lực lượng chặn của địch ở đây phải nhiều hơn và có tổ chức phòng ngự mạnh hơn.

Quả đúng như vậy! Đoàn xe tiến được thêm một đoạn nữa thì hai chiếc xe tăng đi trước tôi bị DKZ của địch bắn trúng, bị cháy và dệ sang bên đường.(bác LiXeTa cho biết số xe của 2 xe đó là 764 và 761, trận này 203 chỉ bị cháy 2 xe tăng và không phải do bị bom như nói trong lịch sử sư đoàn 3). Xe chúng tôi vượt qua hai chiếc tăng cháy. khi đi ngang qua, thấy anh em từ trong xe tăng cháy bật nắp nhảy ra, có anh trên người còn đang cháy, khói nghi ngút. Không rõ sau đó có sao không. Chúng tôi không được phép dừng lại, cứ thế vượt qua.

Xe của chúng tôi lại thành ra đi đầu. 12 ly 7 quét liên tục về phía địch. thấy chúng nó bỏ chạy, thằng thì chạy dọc theo đường, thằng thì chạy tản ra phía hai bên cánh đồng. AK của tôi cũng được dịp điểm xạ liên tục. Sao mà điểm xạ ngon thế, đúng hai viên một, không tắc cú phát nào. Nhưng không biết có trúng được phát nào không, thấy chúng ngã xuống thế mà khi chúng tôi đi qua chúng lại vùng chạy tiếp . . . Hì . . . hì. . . Chúng tôi chạy qua Cà Đú, thẳng đường tiến về phía thị xã.

Tiếng xe tăng gầm rú, tiếng pháo tăng và tiếng 12 ly 7 thì đùng đùng ngay bên tai khiến tôi và xạ thủ 12 ly 7 có gào lên cũng không nghe thấy nhau. Tôi vỗ vai anh ấy và chỉ lên phia trước, trên đầu. Một tốp A37 bốn chiếc bay rất thấp. Chúng bay rất nhanh có cảm giác như nếu không cúi xuống thì nó đâm vào mặt mất. Xạ thủ 12 ly 7 (có lẽ đêm hôm trước đã hỏi tên anh rồi nhưng mà bây giờ không nhớ) hướng súng về phía máy bay vừa rê súng vừa giữ cò liên tục. Anh ấy khỏe thật. Giữ cò liên tục như vậy ê ẩm và rung giữ dội lắm, không khỏe thì đã bung tay ra rồi.

Ngoảnh lại phía sau, tôi thấy một đoàn xe rất dài của ta đang hành tiến trên đường. Bọn chúng bay thấp quá chắc là cao xạ 37 không kịp bắn, chỉ thấy toàn 12 ly 7 bắn. Bị bắn rát quá nên sau đó các tốp A37 khác bay lên cao thả bom. Tôi có nghe thấy tiếng liên thanh của cao xạ 37 nhưng không nhìn thấy máy bay rơi vì đang mải quan sát địch ở phía trước.(Về sau này tôi mới biết hôm đó máy bay địch cũng bị hạ rơi mấy chiếc ?!)

   Chạy tiếp được một đoạn, xe chúng tôi lại chạy nép về một bên để nhường đường cho xe tăng. Từ đây chúng tôi vừa chạy tốc độ cao vừa bắn liên tục về phía trước và hai bên đường. Qua Cà Đú, không thấy có một sự kháng cự nào đáng kể

Tiến quân như chẻ tre. Tuy nhiên, bọn A37 bắn như đổ đạn. Nó đang bay thẳng tới phía trước mặt chúng tôi. Thấy nó hơi chúi xuống một chút là đạn 20 ly đã xả xuống rất nhanh. Có thằng thì bay cao hơn và chúc xuống thả bom. Chúng bị 12 ly 7 từ tất cả cá xe bắn rất rát nên thả bom không trúng. Tôi có cảm giác nóng ran khắp người vì đây là lần đầu tiên đánh nhau trực diện với máy bay địch. 2 trinh sát chúng tôi vừa quan sát và bắn địch trên mặt đất, vừa quan sát trên trời để chỉ điểm cho 12 ly 7 bắn máy bay. Chưa bao giờ được đánh nhau thoải mái như thế này. Không phải chui rúc trong hầm vì bom pháo. Cứ bắn nhau thôi, trúng đạn thì thôi mà không thì cứ xông lên.

Chúng tôi lướt tới ngã ba thị xã vẫn chưa tới 6 giờ sáng. Đến đây xe tăng và thiết giáp rẽ thành hai ngả. Mũi bên trái sẽ tiến thẳng vào phố. Mũi bên phải để tiến đánh sân bay Thành Sơn. Không biết pháo của ta bắn sân bay thế nào mà trên đường đánh vào sân bay chúng tôi vẫn phải choang nhau với máy bay. (Sau này, theo tài liệu của địch tôi mới biết A37 của địch cất cánh ở sân bay Phan thiết để đánh chặn ta trong trận Phan Rang)

Hoàn toàn không phải đánh nhau với địch trên mặt đất. chúng nó đã tan rã hết rồi. Mạnh đứa nào đứa nấy chạy. Nhiều đứa trút bỏ quần áo lính chạy vào các làng xóm vên đường hoặc chạy ra ruộng. AK của chúng tôi cứ bắn ào ào vào những đứa còn đang loay hoay chưa kịp vứt vũ khí và chạy gần xe của chúng tôi.

Liên tục A37, chiếc này tới chiếc khác thay nhau khạc đạn 20 ly bắn chặn đoàn xe. Tôi không bắn bộ binh địch nữa mà tập trung quan sát cho 12 ly 7 bắn máy bay. Nhiều lần thấy máy bay nó bổ thẳng vào mặt và bắn vãi đạn. Cả anh xạ thủ và tôi không ai cúi xuống một lần nào. Hai bên đối mặt nhau, anh ấy cứ thế bắn thẳng. Đang bắn chiếc này, tôi quan sát thấy chiếc khác đang bổ nhào chếch từ hướn trái chúng tôi. Thấy bom nó rời máy bay còn thằng đó thì ngóc lên. Tôi giật áo anh "ly bảy", kéo anh ấy, cả hai cùng thụt xuống. May mà bom không trúng xe, mảnh thì mặc kệ nó . . .

Khoảng 6 giờ sáng thì không thấy còn máy bay của địch nữa. Có lẽ chúng tập trung vào đánh cứu ở khu sân bay. Ở đó nhiều lực lượng của địch đang bị vòng vây của sư 3 xiết chặt. Các sở chỉ huy của địch đều ở đây, lại nhiều tướng tá nữa.

Chúng tôi cũng được thông báo là sân bay Thành Sơn đã có đơn vị khác đảm nhiệm rồi. Chúng tôi quay lại thị xã ngay. Khi tới nơi thì mọi việc trong thị xã cũng xong rồi. Cũng mới chỉ có tăng và thiết giáp của 203 ở khu vực trung tâm thị xã. Tiếng súng đã ngừng. Xe của chúng tôi đỗ sát vào vỉa hè cùng 2 xe tăng, phía bên kia đường là một vườn hoa nhỏ cũng là hai chiếc xe tăng khác. . .

Mới là 6 giờ 30 !

   Hai trinh sát chúng tôi nhảy ra khỏi xe, súng lăm lăm. Trong thành phố không khí vẫn còn hơi đêm, mát mẻ. Có mấy cây phượng vĩ đã lốm đốm vài túm hoa đỏ. Dân từ trong các căn nhà đóng kín cửa đã bắt đầu thò ra nghe ngóng. Một lúc sau thì xe chở bộ binh cũng vào tới nơi. Lúc này dân mới mở cửa. Nhiều người ra khỏi nhà đến gần để nói chuyện với "Giải phóng", có người còn mang theo nước uống để mời chúng tôi, có người còn mang dừa bổ sẵn ra mời lính uống nước dừa. Trưởng xe, cảnh giác bảo:
- Đừng uống !
- Không sao đâu ! – Tôi nói.
Đón trái dừa từ tay một cậu thanh niên cao gày, quần loe, tóc dài đi giày Xì Mông cao gót, mặt trứng cá. Tôi uống làm mẫu cho mọi người. Lính tăng không dám rời xe nên mấy người dân phải đưa nước đến mời tận nơi.

Dân đón bộ đội giải phóng như vậy chứ không có như trong phim ảnh. Trong phim, đoàn chiến xa tiến vào thành phố giữa hai hàng cờ hoa của nhân dân . . . dân vẫy cờ và hoa để chào đón ?! Cũng không thấy đâu cờ giải phóng đã sẵn sàng chuẩn bị từ những hôm trước để lúc ta vào dân bung cờ ra ngay. Cũng chẳng thấy du kích hay biệt động Phan Rang dẫn đường cho xe tăng đánh vào thị xã như trong phim. Một cái phim về Phan Rang, hình như là "Trước Lúc Bình Minh . . ." gì đó thì phải. Trong phim thấy dân rộn rịch chuẩn bị đón "giải phóng". Thực tế lúc xe chạy vào thành phố thấy vắng tanh vắng ngắt. Vẫn đang là sáng sớm.

Vậy là trận đánh giải phóng thị xã Phan Rang chỉ diễn ra trong vòng có hơn một tiếng đồng hồ.

Sau này tôi được biết, 10 giờ sáng hôm đó quân của sư đoàn 3 đã hoàn toàn làm chủ sân bay Thành Sơn. Sư đoàn 3 truy quét tàn quân địch và bắt được nhiều tù binh trong đó có trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh tiền phương quân đoàn 3, chuẩn tướng Phan Ngọc Sang tư lệnh sư đoàn 6 không quân, Đại tá Nguyễn Thu Lương lữ đoàn trưởng lữ dù 2 . . . Khí tài và trang thiết bị tại sân bay Thành Sơn gần như còn nguyên vẹn. . . .

Trận đánh vào thị xã Phan Rang ta bị cháy 2 xe tăng. Máy bay có làm cho đoàn quân phía sau bị thương vong gì không thì tôi không được rõ vì ngay sau đó tôi gặp lại đại đội trinh sát và được lệnh tiếp tục trinh sát chuẩn bị đánh Phan Thiết. Chia tay các lính xe tăng rồi bọn tôi lên xe ô tô tiến về Phan Rí.

(Hết chuyện TRẬN PHAN RANG)

  CHUYỆN XII TRỊNH THÚC DOANH – BẠN TÔI

Hôm nay 16/9. Ngày này cách nay 38 năm, sau 81 ngày đêm kiên cường chốt giữ thị xã Quảng Trị, chính thức thì người lính cuối cùng cũng đã vượt sông Thạch Hãn rút qua bờ bắc (đúng ra là bờ tây) trong ngày này. Chắc hẳn còn không ít anh em, hoặc ở chốt độc lập không biết lệnh rút, hoặc lạc đồng đội, hoặc bị thương không thể vượt sông đã ở lại bờ nam sau ngày 16/9/1972. Những anh em đó, cho đến bây giờ, vẫn không ai biết gì về họ . . .

Trịnh Thúc Doanh học cùng tôi suốt 4 năm kể từ lớp bảy cho đến hết lớp 10. Hết lớp 10, Doanh thi vào Đại Học Bách Khoa còn tôi thí vào Đại Học Tổng Hợp. Chúng tôi thân nhau từ năm học lớp 9, sơ tán ở Hưng Hóa, Tam Nông, Phú Thọ. Những buổi chiều hay ngày Chủ Nhật hai đứa thường dạo chơi ở thị trấn Hưng Hóa, một phố huyện miền trung du đất đỏ với con đường rải đá khấp khểnh. Thể nào cũng rẽ qua cửa hàng hợp tác xã mua bán, nhìn ngó một tí thôi chứ có gì mà mua. Cái mà chúng tôi cần thì từ cái khăn mùi xoa cũng chẳng có. Đi lòng vòng một hồi chán rồi có khi rẽ qua đường đi Thanh Sơn, một con đường đất đỏ ngoằn nghoèo, chạy ven một cái đầm toàn những cỏ lác rồi chạy về phía núi. Cũng có khi chúng tôi đi về phía Trung Hà, qua đầm Dị Nậu, thôn Dị Nậu, mỏi chân thì quay về bờ sông. Đoạn sông này cũng là một phần của sông Hồng, chưa gặp ngã ba với sông Đà. Cuối cùng thì xà vào một cái quán nước ven sông. Đây là một bến thuyền nhỏ, thỉnh thoảng có thuyền chở than đến, rồi thuyền chở chuối, mít từ đây về xuôi. Hai thằng gọi 2 bát nước chè xanh, rồi trứng vịt luộc và chuối. Sao mà ăn khỏe thế. Chục trứng luộc chấm muối ớt chỉ một loáng là đánh bay, lại đánh tiếp chuối, chuối tiêu, chuối tây, chuối hột hay chuối lá.

Tối chúng tôi thường ra sân bóng, nằm trên cỏ ngắm trăng sao và nói chuyện linh tinh, đủ các thứ chuyện chỉ trừ chuyện gái. Không phải kiêng đâu mà vì không biết gì. Hết lớp 10 chúng tôi vẫn chưa lớn mà.

Năm 1970, Doanh vào Bách Khoa còn tôi vào Tổng Hợp. Tôi hay đến nhà Doanh. Nhà nó ở khu tập thể bệnh viện 108 quân đội. Bố Doanh là bác sỹ. Ông là bác sỹ đầu tiên được đào tạo dưới chính thể của Cụ Hồ. Mẹ Doanh cũng đang tại ngũ. Nhà tập thể cấp bốn chỉ có một phòng. Đàng sau nhà là khu bếp tập thể, mỗi nhà một ô. Muốn xuống bếp thì phải trèo qua cửa sổ . . .

Không ngờ rằng hai thằng tôi cùng nhập ngũ một ngày, 6/9/1971. Thế là từ đó bặt tin nhau.

Về sau này khi ra quân rồi tôi mới biết Doanh và tôi cũng ở cùng sư đoàn 325. Doanh ở trung đoàn 95 và lĩnh đủ 81 ngày đêm ở thị xã Quảng Trị.

Đúng ngày 16/9/72, được lệnh rút qua sông. Doanh hy sinh vì bị pháo lúc vượt qua sông . .

  Doanh nhập ngũ 6/9/71 vào trung đoàn 95. Sau 3 tháng huấn luyện ở Việt Yên, Hà Bắc. Cuối tháng 12 năm đó, toàn sư đoàn vào trấn giữ đèo Ngang đề phòng địch đổ bộ vào khu vực này khi 308 và 304 đánh Quảng Trị.

Tháng 6/72, sư 325 bắt đầu vào Quảng Trị. Đây cũng là lúc địch phản kích để tái chiếm Quảng Trị. Trung đoàn 95 lúc đó ở Cam Lộ, đóng quân tại dãy Nghĩa Hy. Vị trí này rất thuận tiện đường đi lối lại. Nếu tiến lên thì có thể xuống Đông Hà rồi đi về Cửa Việt. Có thể tiến về phía nam thì đi qua gần căn cứ Phượng Hoàng đỏ ối rồi vào Ái Tử, Nhan Biều và vượt sông sang thành. Chếch xuống phía tây thi vào động Ông Do, Đá Đứng, Như Lệ - Tích Tường. Đường rút cũng rất thuận lợi. Có thể rút thẳng qua Cam Lộ, Bãi Hà và cũng có thể rút qua Đầu Mầu, Tân Lâm để đi Tà Cơn, Khe Sanh.

Ngày 1/7/72, hai tiểu đoàn của 95 vượt sông Thạch Hãn. d5 chốt giữ bìa đông nam của thành cổ, Ty Cảnh Sát, khu Đông Mỹ, chùa Bà Năm, kho rốc két. d4 chốt giữ bìa tây nam thành cổ và khu vực Dinh Tỉnh Trưởng cho đến khu Mỹ Tây. Trong thành là d3 của tỉnh đội Quảng Trị (gọi là quân của tỉnh Quảng Trị nhưng toàn lính bắc), sau đó thì d1 của trung đoàn 48 cũng rút về thành. d7/e18/f325 thì chốt giữ khu vực nhà Tin Lành, Đệ Ngũ. Trung đoàn 101 chốt giữ phía bắc sông Vĩnh Định kể từ Chợ Sãi.

Thực ra thì mức độ ác liệt ở mọi nơi của thị xã cũng tương đối như nhau. Nhưng khi nói đến Quảng Trị 72 thì nhiều người nghĩ chỉ có Thành Cổ. Có một đia danh khác là Cổ Thành. Đây là một làng nằm phía bắc Thành Cổ. Theo tôi, chữ Thành Cổ bây giờ có nghĩa tượng trưng cho cả khu vực thị xã Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972. Có thể rằng một vài điểm khác còn nóng hơn trong khu vực Thành cổ. Chẳng hạn như bến vượt ở Dinh Tỉnh Trưởng hay bến vượt ở Trường Phước, rồi Tri Bưu, khu Mỹ Đông, ty Cảnh Sát, Khu Mỹ Tây, Dinh Tỉnh Trưởng, Chợ Sãi, An Mô . . .

Nhà Doanh có 5 anh em. Lúc đó bố, mẹ Doanh và 2 anh trai của Doanh cũng đang tại ngũ. Do đó trước khi "đi bê", Doanh được cho về thăm gia đình. Khi vào đến Quảng Trị thì Doanh vào sau mọi người. Lúc đầu về đến trung đoàn thì trung đoàn 95 đã ở phía nam Thạch Hãn. Doanh được đưa về c23, vệ binh trung đoàn. Sau đó, Doanh xuống đơn vị chiến đấu từ lúc nào thì các bạn tôi đều không nhớ. Chỉ nhớ là Doanh vào sau khoảng một tháng.

Tính từ 1/7/72 đến 16/9/72 là thời gian trung đoàn 95 tham gia chốt giữ thị Xã Quảng Trị - 78 ngày. Nếu Doanh vào sau một tháng thì thời gian ở đây là 48 ngày. Nhưng số ngày nào có nghĩa gì. Lúc vượt sông sang thành, rất nhiều anh em đã hy sinh. Chỉ là "không" ngày. Vậy thì 0 ngày hay 81 ngày có gì là quan trọng đâu ! Quan trọng là, từng giờ, từng phút, từng giây biết bao ae đã đổ máu xương trên cái mảnh đất "Thị Xã Quảng Trị", một vết thương không bao giờ có thể lành được . . .

Chuyện kể lại của Toàn, đồng đội Doanh

- Thằng Doanh vào sau trong đợt đổi quân và được phân về cùng hầm với tôi và thằng Phú. Doanh hiền lành, trẻ măng. Tôi còn nhớ, mặt nó nhiều trứng cá. Nó bảo bố nó làm ở bệnh viện 108... có quen trung đoàn trưởng Lý Long Quân nên xin phép cho nó về nhà trước khi đi chiến trường. Thằng này nó hiền lắm. Bọn mày biết đấy. Lúc đó bọn tao suốt ngày ngồi trong hầm, không thể ló mặt lên được. Hết B52 rồi lại đến máy bay ném bom. Lại còn máy bay gì hình như là L19, tao cũng chả biết, luôn tục xăm soi bắn đại liên suốt ngày.

- Chắc nó bắn 20 ly đấy.

Chuyện kể lại của Toàn, đồng đội Doanh

- Bọn mày biết không ? Bọn tao mót đái thì cứ bụm tay mà đái vào rồi hất ra ngoài. Trời thì cứ mưa suốt. Hầm thì nước vào, dưới chân bùn nhão nhoét trộn với máu. Tao nghĩ chẳng khác gì bọn Pháp ở Điện Biên hay bọn Mỹ ở Khe Sanh. Kinh thật ! bây giờ nghĩ vẫn kinh.
- Quá kinh ! Mà sống được là không sao hết.
- Lúc bọn tao ở sát thành, thằng Doanh mới vào. Nó còn hộp sữa đặc mẹ nó nhét vào ba lô trước khi đi. Đói quá, bọn tao lấy thông nòng xọc hai cái lỗ, thế là thay nhau tu. Rồi khát nước. Mày biết không ? tu hết hai bi đông nước, toàn nước sông, sát trùng sát chiếc gì cũng chẳng có. Cả ba thằng bị tháo tỏng. Thằng Phú bĩnh cả ra quần thành ra trong hầm vừa khai vừa thối, ẩm thấp tanh tưởi. Nghĩ lại, ghê quá !
- Thế lúc rút qua sông như thế nào ?
- Cứ từ từ . . . cho khoai nó nhừ ! Đến chiều 15 bọn nó đã bao vây ba mặt. Bọn tao chỉ còn mấy cái hầm. Ban ngày không thể liên lạc được với nhau. Cứ hầm nào có địch thì hầm đó chống trả, thỉnh thoảng mới hỗ trợ được cho nhau. Mãi tối khuya mới có thằng truyền đạt chạy đến bảo rút qua sông.
- May mà ra lệnh rút nếu không bây giờ bọn tao đâu nhìn thấy mày.

Chuyện kể lại của Huy, đồng đội Doanh

- Đêm 15/9 chúng tao được lệnh rút. Tao chỉ cầm theo khẩu súng thôi. Mà thằng nào cũng thế. Lúc đó ba bề bốn bên đều là địch rồi, chỉ còn mỗi lối xuống sông thôi. Nếu không cho rút thì chết hết cả.. Toán nào toán nấy, nháo nhào bổ xuống sông. Tao nhanh chân chạy đầu tiên, lao ngay xuống nước, mấy thằng nhóm tao cũng bơi bám theo. Súng tao khoác vào vai, thế là tao bơi rất nhanh. Bọn thằng Doanh và mấy thằng nữa cùng chốt của nó chạy sau tao cũng lao xuống nước. Một quả pháo nổ sáng lòe ngay phía sau tao. Tao thấy hơi tức ngực nhưng có vẻ như không bị thương. Nhóm thằng Doanh, thằng Toàn, thằng Phú chạy sau tao không biết có việc gì không ? Bọn tao sang đến bờ mới ngồi thở, sờ khắp người thấy không bị thương ở đâu. Chờ chúng nó một lúc thì chỉ thấy thằng Toàn mới thằng Phú bơi sang. Chúng nó bảo thấy quả pháo trúng chỗ thằng Doanh.
- Thế ông có biết chỗ vượt sông là chỗ nào không ?
- Chỉ biết bên này là Nhan Biều thôi.
- Thế phía trên hay phía dưới cầu Quảng Trị ?
- Phía dưới chứ !
- Thế có gần cầu không?
- Chắc là gần.
- Được rồi.
- Ừ ! Lúc đó làng mạc, phố phường, chỗ nào chẳng như chỗ nào tơi tả hết biết đâu là Nhan biều hay hay nhan biếc gì, là khi bọn tao chốt thì thấy bảo bên kia là Nhan Biều. Thế thôi !

Chuyện kể tiếp của Toàn, đồng đội Doanh

- Thằng Doanh chạy trước, rồi đến tao, thằng Phú chạy sau cùng. Lúc tao đến sát bờ sông thì đã thấy thằng Doanh nhảy xuống rồi. Nó đang bơi thì lòe một cái tối tăm mặt mũi. Quả pháo trúng ngay chỗ thằng Doanh. Bọn tao thì lăn ngay xuống, đ... biết là hố hay rãnh hay gì nữa. Lúc ngớt pháo tao vẫn còn lóa, phải một lúc mới nhìn được. Hai thằng tao mới gọi thằng Doanh, mà cũng chỉ dám gọi khẽ. Bọn nó ở ngay xung quanh mà. Bọn tao lội xuống rồi bơi, quờ quạng khắp mà không thấy.
- Ừ ! Thôi, mày đừng có day dứt mãi thế ! Trong cảnh ấy thì làm sao mà tìm được. Chắc nó trúng đạn, lại mang súng thì chìm xuống rồi
- Mãi rồi bọn tao đành bơi qua sông. Thật may khi qua sông không bị quả đạn pháo nào. Sang đến nơi mới thấy pháo sáng bọn nó bắn ăn mừng, rực trời. Cả ngày hôm sau tôi nằm trong hầm ngập nước ở Nhan Biều ngủ li bì. Có lẽ Doanh trúng đạn rồi bị cuốn trôi theo dòng. Khi ấy đang là mùa nước.
- . . .
- Mày biết không ? Tao vẫn bị ám ảnh cảnh thằng Doanh bị trúng pháo. Tiếng chúng tao gọi nó rất nhỏ thôi mà sao lúc nào cũng văng vẳng bên tai tao :

"Doanh ơi . . . ! Doanh ơi . . . !"

  CHUYỆN XIII LÀNG QUẤT XÁ

Toàn tuyến Quảng Trị đã im tiếng súng. Nơi ác liệt nhất sau ngày ngừng bắn 28/1/73 là Tích Tường và Như lệ cũng không còn xảy ra chiến sự nữa. Bọn địch không làm gì nổi mấy cái chốt nhỏ bé kiên cường ấy nên đành bỏ cuộc. Quảng Trị còn duy nhất đoạn Khe Trai là thỉnh thoảng địch còn bắn vào ta khi anh em đi gần khu vực này.

Khi chúng tôi từ Như Lệ về đơn vị thì xê 20 không còn ở suối La La nữa mà chuyển về thôn Quất xá. Đó là một làng khá trù phú nằm ở chân động Động Hà, nơi có cao điểm 544. Phía bắc làng là dòng sông Cam Lộ (còn gọi là sông Hiếu) chảy quanh co uốn lượn như rồng. Đoạn sông nước nông, trong vắt, rì rào chảy qua thềm sỏi đá. Cá nhỏ bơi từng đàn tung tăng luồn lách khe đá này sang khe đá khác, lóng lánh trong nắng vàng hanh hanh. Con đường nhựa đen xám cũng miết mải lượn theo dòng sông ôm lấy bìa làng phía nam. Một cái làng, rừng và núi nghiêng nghiêng hắt bóng, đá và nước chảy lô xô, làng xóm và những con đường mòn ngoằn nghoèo trong cỏ cây. Một bức tranh khảm thiên nhiên làm cho bất cứ họa sỹ nào cũng phải rung động !

Nước giữa dòng vừa trong vừa mát
Đường Cam Lộ nhỏ cát dễ đi . . .

Ở sau thôn Quất Xá có một vạt đất lớn, bằng phẳng, cây cối um tùm. Rất nhiều cây lớn và tre ngà. Chúng tôi đang xây dựng doanh trại ở đó. Mỗi tiểu đội làm một cái nhà tranh, hai cái hầm kèo và một cái nhà âm. Chúng tôi sẽ làm một cái làng nhỏ – Làng Xê Hai Mươi. Trong khi xây dựng cái làng này, đơn vị tôi vẫn ở nhà dân.

Cái làng trầu cau này lo chuyện trăm năm cho các đôi lứa cũng bị bom rải thảm, lại cả bom bi nữa. Dăm bảy nóc nhà đã bị đánh bay với những hố bom sâu hoắm. Một số dân bị thương vong lúc máy bay đánh bom và sau đó vẫn còn thương do bom bi thỉnh thoảng lại nổ. Những người già hôm nay vẫn nhớ trận B52 ngày đó. Tên tuổi những người dân bị chết thảm không phải ai cũng nhớ hết, nhất là trẻ con vì chúng còn quá nhỏ :

1. Phạm Công Xê 2. Lê Thị Đỉu 3. Lê Thị Liên
4. Nguyễn Khung 5. Lê Thị Giao 6. Phạm Thị Con
7. Nguyễn Thị Xoa 8. Hoàng Vấn 9. Nguyễn Thị Hương
10. Trần Bối 11. Nguyễn Thị Chậm 12. Nguyễn Thị Mang
13. L/S Trần Xuân Trường (Cán bộ xã) 14. L/S Trần Xuân Thạc (Du kích xã)
15. Nguyễn Thị Thược + 3 con nhỏ . . . . . . . . . . . .

Chuyện "Làng Quất xá" là nén tâm nhang thành kính, không nói thành lời. Xin kính cẩn nghiêng mình trước nỗi đau thương này ! Một ngày năm sau Xê Hai Mươi chúng tôi sẽ trở lại . . . Vâng 38 năm rồi !

  Nhà tiểu đội tôi ở có hai ông bà già. Con dâu ông bà là chị Phụ, hay nết đẹp người. Chị có hai đứa con trai, thằng lớn tên Nga, bốn tuổi, thằng nhỏ tên Đức mới có hai tuổi. Hai thằng bé xinh đẹp như hai thiên thần vậy. Đúng là vưu vật !

Nghe nói chồng chị Phụ là đại úy phía bên kia. Nhưng ông bà và chị rất quý mến bộ đội. Chúng tôi cũng rất quý ông bà, quý chị và yêu hai thằng bé. Khi chúng tôi từ chỗ doanh trại về đến nhà chị Phụ là hai thằng bé lại quấn quýt. Thằng Đức đang tập nói bi bô nhiều lúc làm cả nhà bật cười. Bữa cơm chiều của chúng tôi sớm hơn nhà chị Phụ nên lúc nào hai thằng bé cũng ăn cơm cùng bộ đội. Không bữa nào chị Phụ không có thức ăn thêm cho bộ đội, lúc thì bát canh, khi thì đĩa cá, còn cà thì lúc nào cũng sẵn. Có một câu ngắn gọn rất giống út Mừng mỗi lần chị đưa canh cho chúng tôi: "Keeng !" (xem chuyện "Đặc Sản Như Lệ"). Mỗi lần như vậy, H. và tôi lại nhìn nhau cười.

Chồng chị Phụ là đại úy bên kia thì cũng không tạo ra một chút khoảng cách nào giữa chị và chúng tôi. Sau này anh đã trở về với cha mẹ già và gia đình. Năm sau, xê 20 chúng tôi sẽ gặp mặt tại Quảng Trị, sẽ về lại làng Quất xá. Có thể chúng tôi sẽ chuyện trò cùng nhau trong bữa cơm cùng với gia đình. Thằng Nga và Đức cũng đã trên bốn mươi rồi. Hôm nọ tôi vừa nói chuyện qua điện thoại với chú Phát, hiện nay là phó chủ tịch công đoàn thành phố Đông Hà. Lúc chúng tôi ở Quất xá, chú Phát mới 13, 14 tuổi. "Thắng Quản" và tiếp phẩm Dõi của xê hai mươi ở nhà chú Phát. Chú Phát có nói, chồng bà Phụ về nhà "vẫn sống bình thường lắm anh ạ".

Ban đêm chúng tôi vẫn tổ chức gác. Một đêm nọ, hai thằng gác phát hiện có lợn rừng từ trên núi xuống và nổ súng. Con lợn rừng ấy được cắt làm hai phần, dân một phần và bộ đội một phần. Đấy cũng là lần đầu tiên tôi được ăn thịt lơn rừng. Thịt thì toàn nạc, chẳng có tí mỡ nào. Không biết anh nuôi chế biến thế nào, cả thịt và bì đều dai ngoanh ngoách. Tôi chẳng thấy gì là ngon. Chỉ có món canh xương nấu xu hào là chạy nhất. Hồi đó đơn vị tôi, do tài xoay sở của anh Thắng quản lý (gọi là Thắng Quản), cử người ra Quảng Bình mua lợn và mua rau. Xu hào là để dành được lâu nhất.

Lạ thật ! Lúc bom pháo ùng oàng, chúng tôi cũng ở suối La La rừng rú mà có bao giờ thấy lợn rừng đâu. Thế mà vừa mới im tiếng súng được ít hôm chúng đã lại có mặt ở đây rồi. Không nói gì giống lợn thông minh, d24 quân y còn bắt được cả nai. Ấy là lần xe cứu thương từ Cùa đi về Quất Xá vào ban đêm, lúc qua cao điểm 241, anh lái xe nhìn thấy đôi mắt sáng của con gì đó đang đi trên đường. Con vật bắt đèn xe nên đứng ngây ra. Xe chạy đến gần thì phát hiện ra đó là một chú nai nhỏ. Thế là anh lái xe cứ thế tông thẳng. "Duỳnh" một cái thì xe dừng lại. Mấy người trên xe nhảy xuống túm được, nó chỉ bị thương và bị trói chặt quẳng lên thùng xe. Đơn vị được bữa "tèn tén ten !".

   Hàng ngày, nhất là đêm đêm, xe từ ngoài bắc, qua Bãi Hà, vượt qua ngầm B và ngầm A trên sông Cam Lộ rồi ầm ì chạy trên đường 9 đi về phía tây để chuyển vào sâu hơn theo đường mòn HCM. Những đoàn xe nối đuôi nhau chở lương thực và đạn dược đến khắp các chiến trường. Chúng tôi hiểu rằng đây là công việc chuẩn bị chiến lược cho trận đánh lớn cuối cùng nay mai.

Tôi nhớ, hôm mới về Quất Xá, đại đội chỉ còn ít gạo ở suối La la chuyển ra. Anh Thời đại đội phó mới lấy mỗi tiểu đội một hai người đi lấy gạo ở kho hậu cần của sư đoàn mãi tận sâu trong rừng. Tôi không nhớ có phải thằng Quynh a trưởng a4 phụ trách không. Sáng sớm chúng nó đeo ba lô không ra đi, mang theo hai khẩu AK, có lẽ chiều chúng nó mới về. Ấy vậy mà chưa dập bã trầu đã thấy chúng nó dẫn hẳn một xe ô tô chở đầy gạo chạy từ đường 9 vào làng, thẳng đến nhà Thắng Quản. Chúng nó dùng bài cũ, ra đường 9 cách độ hai trăm mét, dương súng, bắt xe hỏi xe chở gì. Xe chở súng đạn thì cho qua. Rồi chúng tóm được chiếc xe "Giải Phóng" chở gạo đầu tiên, bắt lái xe chạy về đơn vị. Không biết hôm đó anh Thời hay Thắng Quản ký giấy biên nhận cho lái xe. Lái xe cũng sướng, có thể nhiều thời gian, tranh thủ tụt tạt đâu đó cũng nên.

Vẫn là gạo Trung Quốc, mỗi bao năm mươi cân, đóng 4 lớp bì. Ngoài cùng là bao gai, rồi đến hai bao nilon màu xanh cứt ngựa, trong cùng lại bao gai nữa. Loại gạo này, lúc trước ngừng bắn được tàu của Trung Quốc thả xuống từ ngoài khơi biển Quảng Bình. Gạo trôi dạt vào bờ được du kích và dân vớt lên sau đó vận chuyển tiếp vào chiến trường.

Vào rừng chặt gỗ làm hầm và làm nhà. Gỗ đòn nóc hầm phải hai thằng khênh lặc lè. Xong món gỗ, chia nhau, thằng thì đào hầm, thằng thì dựng nhà, thằng thì cắt tranh. Công việc kể ra cũng vất vả nhưng được cái ăn no, ngủ kỹ nên thằng nào thằng nấy trông đã bắt đầu có da có thịt.

Hôm đó, thằng Thìn tiểu đội tôi, không nhớ là quay về nhà lấy cái gì thì một quả bom bi nổ. Nó bị một viên bi xuyên vào đùi. Quân y sư đoàn (d24) cũng đóng ở Quất xá nên chỉ vài ngày sau là nó đã ra viện. Chiều chiều nó vẫn ra sông Cam Lộ tắm cùng với chúng tôi, coi như không có chuyện gì xảy ra. Thỉnh thoảng bom bi lại nổ đâu đó trong làng. Rất nhiều người dân làng Quất Xá vẫn tiếp tục bị thương.

  Chúng tôi nghỉ buổi chiều rất sớm sau một ngày lao động cật lực. Xóm Xê Hai Mươi ở sát bờ sông. Không ai bảo ai, tất cả đều nhào xuống bãi tắm (xem trên bản đồ ở dưới, bản đồ đã post ở trang 12 của topic này). Nhanh thật, mới ngừng bắn mà nhu yếu phẩm đã có đủ thứ, xà phòng Liên Xô 72%, thuốc đánh răng (lúc đó chưa gọi là kem đánh răng),khăn mặt nhuộm màu lính, thuốc lào, thuốc lá, . . . có thằng tắm ùm ùm rồi mới giặt, có thằng giặt xong, vắt kỹ rồi phơi trên bãi đá rồi mới tắm. Lính vừa tắm giặt vừa đùa nghịch, rộn rã cả một quãng sông. Quãng sông này lòng sông toàn đá, nước trong vắt. Gần bờ, nước chảy lắt lẻo qua những kẽ đá tảng. Muốn ngâm mình thì phải lội ra xa một chút. Gần bờ, mấy tảng đá to làm phản giặt, tha hồ mà chà xát, tha hồ mà đập.

Đứng dưới sông, nhìn về hướng tây, núi cao ngân ngất, có đoạn hai bờ núi dốc thẳng xuống sông. Ánh Mặt Trời chiếu chếch qua khe núi, trải thành một dải xanh vàng trên đám cây cối xanh xẫm um tùm. Một vài tia nắng lấp lóe qua tán lá cây. Bạn phải dơ tay ra chắn các tia nắng mà ngắm nhìn cảnh núi rừng, . . . Đẹp ! hùng dũng, xốn xang lòng người !

- Ối ! chiệc chiệc ! Cá nó rỉa chúng mày ơi !
- Đâu ?
- Đây này.
- Sao chỗ tao không có ? À, mày bị ghẻ nên cá nó mới bâu vào đớp.
- Mày còn ghẻ hơn tao. Mày ghẻ quá, lên mùi, cá nó sợ không đến đâu.

Càng lúc càng nhiều cá ở đâu ra không biết, từng đàn. Tinh giống cá bằng ngón tay, dài dài. Giống cá suối nhanh và mạnh. Không thằng nào là không bị cá rỉa. Lúc đầu bị rỉa hơi giật mình. Giống này rỉa đau chứ không như giống cá rỉa trị liệu ở một số điểm du lịch bây giờ. Mấy thằng có vết lở loét bị cá rỉa đau quá, vừa tắm vừa đuổi cá. Những thằng khác cũng bị rỉa đau nhưng vẫn mặc kệ. Mấy thằng ra vẻ thông thạo cãi nhau về tên của giống cá rỉa, thằng bảo cá nọ, thằng bảo cá kia, viện đủ lý lẽ dẫn chứng, không phân thắng bại.
- Thôi chúng mày không biết thì để tao bảo cho mà biết. Có thế mà cũng không biết.
- Mày bảo cá gì ?
- Bọn mày thấy nó có bé không ?
- Ừ !
- Vậy là cá tép. Nó lại rỉa. Thì tên nó là "tép rỉa" chứ còn gì.
- Ồ ồ . .ì . . .
- Thôi nhanh mà về ăn cơm, hôm nay ăn tươi, có thịt bò, lúc nãy tao vừa thám thính được.
- Về là về thế nào ? mày ngu lắm ! Chị em đang ra tắm kia kìa.

Bà con trong làng Quất xá bây giờ mới đi tắm. Đàn ông, đàn bà, trẻ con, các út nữa. Từng tốp, từng tốp đang đi từ trong làng ra.

Đám lính trẻ bớt ồn ào đi đôi chút. Thằng nào thằng nấy liếc mắt về bãi đá phía dưới, chẳng xa chỗ chúng tôi tắm là mấy.
- Này cẩn thận không có mọc lẹo ở mắt đấy.

- À ! Cái thằng mắt ve này, mày nhìn gái từ bé lên lẹo mãi nó mới thành ra ve. Bây giờ sợ rồi hả ? Thôi mày chuồn trước đi !

   Chiều muộn, sau khi cơm nước xong TBH, SauChinBayMot và tôi thường đi dạo trên con đường làng. Con đường đất dẫn chúng tôi ra cánh đồng, đường Quốc lộ số 9 ngay kia. Mặt Trời đã khuất sau đỉnh năm bốn bốn. Ráng chiều đỏ hắt lên từ sau dãy núi. Cái núi già nguyên sinh trở nên sẫm màu thăm thẳm. Quay lại nhìn về phía làng. Một cảnh tượng thanh bình đến lạ lùng. Những dải khói lam chiều mỏng mảnh uốn lượn nhẹ nhàng bốc lên từ những mái nhà lẩn khuất sau rặng tre ngà. Lạ thật ! Sao chỉ có những buổi chiều thanh bình như thế này mới thấy màu khói lam ngăn ngắt như vậy nhỉ ? Nhà ai đó kia? Rặng duối rậm rạp, hàng cau cao vút. Thấp thoáng sau những cây mít là những giàn trầu biêng biếc xanh.

TBH học hết năm 2 khoa toán ĐHSP còn SauChinBayMot và tôi cũng vừa hết năm thứ nhất khoa vật lý ĐHTH. Chúng tôi nhập ngũ cùng một ngày 6/9/1971. Mới hơn một năm thôi mà sao biết bao nhiêu chuyện. Chuyện nắng chuyện mưa, chuyện vui chuyện buồn, chuyện sống chuyện chết. Cuộc chiến ác liệt ở Quảng Trị chỉ là vài ba tháng thôi, nhào nặn chúng tôi thành những người hoàn toàn khác. Thỉnh thoảng tôi liếc ngang nhìn hai người bạn. Vẫn trẻ thế nhưng sao dày dạn, rắn giỏi, từ tốn, đĩnh đạc và bao dung. Dường như tất cả cái mãnh liệt của trai trẻ đã lẩn vào trong. Hai người bạn tôi đây đã trở nên đẹp lạ ! Nét đẹp của những người lính chiến, như những bức tượng đồng ngạo nghễ. Trong lòng tôi không khỏi không ngưỡng mộ mà thốt lên: "đẹp thật !"

Có hôm cả ba đứa đều có thư. Chúng tôi vừa đi vừa đọc thư rồi trao đổi cho nhau. Hồi hộp nhất là khi đọc thư của TBH vì đó thường là thư của một người con gái ở rất xa, mãi bên trời tây. Tình bạn của hai người vừa trong sáng vừa lãng mạn vừa đằm thắm. SauChinBayMot và tôi có cảm tưởng đang được lần giở từng trang tiểu thuyết của một chàng lính dày dạn trong chiến trận giống như Bolkonsky và một tiểu thư như Natasha nhà Rostov trong tiểu thuyết "Chiến Tranh và Hòa Bình" của Lev Tolstoy vậy. Một mối tình bay bổng, thoát khỏi thực tại ác liệt của đời lính chiến. Mối tình thơ mộng. Nỗi nhớ dịu ngọt. Niềm ngưỡng vọng xa xôi, chắp cánh cho anh bay lên cao, dường như thoát khỏi những lăn lộn dập vùi nơi chiến địa khốc liệt này.

Buổi tối ở Quất xá chúng tôi thỉnh thoảng mới phải sinh hoạt. Lần đầu tiên sinh hoạt trung đội sau ngày ngừng bắn, anh Thêm b trưởng bắt ae ra xóm Xê Hai Mươi. Lính tráng đi bộ từ trong làng ra vừa đi vừa lầm bầm khó chịu. Chỉ có vài đứa có đèn pin nhưng cũng may, trăng nhạt đầu tháng cũng vừa đủ để đi trong làng mà không đâm vào bụi rậm hay lăn xuống hố. Trung đội ngồi ngay trên bãi cỏ lớn to bằng nửa cái sân bóng đá. Đây sẽ là sân trung tâm của dại đội. Anh Thêm phổ biến tình hình, lên dây cót về kỷ luật và công tác dân vận xong thì chuyển sang phần văn nghệ.

Mảnh trăng khuyết đã chênh chếch chiếu xuống sân cỏ. Thằng Thìn nổ bài đầu tiên "Tình Ca", thằng An vừa đánh ghi ra vừa hát bài gì tôi không nhớ tên: " Trăng lại chiếu sáng trên lưng đồi, ánh trăng/ Lung linh bên hàng dừa xanh êm đềm/ Biển rộng ơi nghe chăng lời hát ân tình . . . .". Hết mỗi bài, lính tráng vỗ tay và hò hét rất to. Cuối cùng là hát tập thể. Đùn đẩy nhau mãi, cuối cùng thằng Thìn phải lên "cầm càng". Tiếng bên dưới nhao nhao í ới:
- Ta là con của bố ta mẹ ta đê . . .
- Đêm nay trên đường hành đê . . .
- Vùng lên đê . . .
Thằng Thìn phải quát lên chúng nó mới chịu yên :
- Được rồi, bây giờ mọi người hát bài "Vùng lên" nhớ ! Nào thôi, bắt đầu nhớ ! Tôi bắt giọng, mọi người hát theo nhớ !

Thằng Thìn đằng hắng mấy tiếng rồi cất giọng, rất to :

"Ôi xương tan, máu rơi . . . " hai – ba . . .

   Khoảng tháng 10/1972, do một số lính trinh sát bị hy sinh và bị thương, một số chuyển đơn vị khác, chúng tôi được bổ sung thêm lính mới. Nói đúng hơn là chúng tôi bổ sung lính cũ lấy từ các đơn vị bộ binh sang. Ba cán bộ trung đội trưởng về các đơn vị bộ binh để tuyển chọn những người chiến đấu xuất sắc, dũng cảm. Thế là có vụ "lừa". Các b trưởng lấy giấy của sư đoàn để xuống các đơn vị. Không biết trong giấy ghi gì nhưng khi xuống các đơn vị từ trung đoàn rồi tiểu đoàn và đại đội, người ta đều tưởng là cử những lính chiến xuất sắc nhất đi học ở ngoài bắc. Khi "lính mới" về đến đại đội tôi, bấy giờ hậu cứ sau cùng ở suối La La (gọi là khu B), họ mới té ngửa ra là về trinh sát sư đoàn. Ai nấy đều tiu nghỉu. Chắc hẳn rất buồn ? Một là không được ra bắc. hai là bị chia cắt khỏi các đồng đội vào sinh ra tử, sống chết bên nhau bấy lâu nay. Ba là, trinh sát - kinh bỏ mẹ, lúc nào cũng đi lẻ, lạnh sườn lắm.

"Lính mới" lại toàn lính cựu từ các trung đoàn 101, 95 và 18 về. Thằng Thìn, lính 12 ly bảy của tiểu đoàn 1; thằng H. tiểu đội trưởng tiểu đội 1, trung đội 1, đại đội 1, tiểu đoàn 1, trung đoàn 101 (toàn một). Thằng Cam, liên lạc của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 và thằng Nội ở 95. Bốn thằng được bổ sung vào tiểu đội tôi. Tình cờ, cả bốn thằng đều là dân Hà Nội. Hồi đó có câu: "Hà chuồn, Nam lủi, Thái Bình bay". Mấy đứa Hà Nội này không chuồn mà lại chiến đấu ở phía bắc và phía nam thành cổ cho đến tận bây giờ thì cũng phải gấu lắm.

Thằng Nội, mặt rất dài, có một vết sẹo lớn nhăn nhúm ở má bên trái kéo suốt từ thái dương xuống dưới gò má. Trông nó đúng là dân anh chị ở Chợ Đuổi (Chợ Giời). Sau này có lần ở chung hầm với nó ở khu A. Nó kể chuyện đi chơi đêm, đĩ bợm, linh tinh, . . . rất tự nhiên cởi mở, thoái mái. Vậy mà ở bộ binh chắc đánh nhau cũng "hăng tiết vịt" lắm nên mới "được" về đây. Sao cái thằng này nó lại gày thế, nhìn đâu cũng thấy xương xẩu. Mặt dài như bơm, chân tay dài loằng ngoằng. Hẳn là cái gì cũng dài rồi ?! Dáng điệu của nó, ai đã nhìn thấy một lần thì không thể quên. Lòng khòng, giống như hình ảnh thần chết mà người tây hay vẽ. Nó hút thuốc lào trông mới càng quái dị. Lúc rít thuốc cái sẹo kéo xếch bên mắt trái của nó, mắt phải thì lờ đờ sung sướng. Hình ảnh tôi nhớ nhất về thằng Nội là hôm làm hầm. Nó khênh cái đòn nóc với thằng Thìn. Hai thằng đều cao nhưng thằng Thìn thì to con, khênh ngon. Cái cây gỗ nặng quá, thằng Nội thì có phải gánh ghiếc gì bao giờ. Nó gân cổ lên mà gồng, vài bước lại phải đổi vai. Đau vai quá, có đoạn nó dâng cây gỗ lên đỉnh đầu như cử tạ, cứ thế oặt oẹo, lắc lư mà bước. Trời thì mưa to, sụt sùi. Hai thằng ướt lướt thướt. Bộ quần áo lính rộng thùng thình. Trông thấy nó thế tôi không thể nào ngăn được nước mắt.

Sau này, thằng Nội chuyển đi đơn vị khác. Bặt tin nhiều năm trời. Đột nhiên, một tối tôi đang ở nhà thì có người gọi tên tôi rất to ngoài đường. Từ trên gác ngó xuống, chẳng nhìn rõ là ai :
- Ai đấy ?
- Tao đây ! tao Nội đây.
Địa chỉ nhà Nội ở ngõ ngách, nên tôi không nhớ. Địa chỉ nhà tôi, nó nhớ mà bây giờ mới tìm đến. Mấy ngày sau tôi đến nhà nó. Thấy tôi đến, cả vợ nó và hai đứa con đều xúm lại xung quanh nghe chuyện. Nó thì chìa tay để vợ nó đưa tiền cho nó đi mua mấy điếu "ViNa" lẻ. Hai vợ chồng nó không có việc làm. Nó khoe nó mới mở rửa xe. Cả nhà chui lên gác xép cho nó có chỗ rửa xe. Đã là rửa xe trong ngõ nhỏ thì chớ, nhà thì chật, dụng cụ cũng không có gì, bơm xe máy cũng bằng tay. Trông cảnh nhà thằng Nội nheo nhóc, túng bấn quá. Trông quần áo nó cũ mướp, tả tơi. Nhà nó chắc không hơn nhà "Chị Dậu" là bao. Lúc đó kinh tế tôi cũng hẻo lắm nhưng nhìn cảnh thằng Nội thật không đang lòng. Tôi về nhà, vét voi được ít tiền bắt nó đi mua đồ rửa xe máy. Lúc ở chợ Giời, nó toàn chỉ vào những cái máy bơm hơi bé tẹo và cũ hoặc máy bơm tự chế từ bình hơi của xe ô tô. Tôi không để cho nó quyết mà chọn một máy bơm to. Lúc về đi qua khu quần áo Kim Liên tôi bắt nó mua hai bộ quần áo mới, cởi đồ cũ thay ngay tại trận. Mang đồ về, thử xong ngon lành hai thằng tôi kéo nhau vào một quán bia hơi hoành tráng một bữa. Khi say say, thằng Nội mới nói là nó đói, đói thật, theo nghĩa đen. . . !

Mấy lần sau đến chơi, thấy nó có vẻ khá hơn nhưng vẫn cực kỳ khó khăn, nhếch nhác.

Rồi đột nhiên có biến động cách đây 2 năm. Người ta làm đường "Kim Liên mới" (đường Xã Đàn), nhà nó ra mặt đường. Mấy anh em nó bán nhà , chia nhau, mỗi người mua nhà riêng. Nó mua nhà mấy tầng ở khu Cầu Mới đi vào sâu trong làng. Còn thừa tiền, thế là dính vào ma túy. Tiền hết, nó quay ra vừa hít vừa bán. Nó bị bắt một năm nay. Phải bóc lịch 4 năm. . .

Ôi ! đồng đội tôi. Sao lại thế ! . .

  Nhà Thằng Cam cũng ở gần nhà thằng Nội, cùng làng Xã Đàn. Hai thằng cùng đi lính một ngày, cùng huấn luyện ở Hòa Bình, cùng về trung đoàn 95 một lúc. Rồi hai thằng cùng về tiểu đội tôi một dịp. Thằng Cam hơi thấp, hơi béo, cực trắng luôn. Lúc đó nó mới 19 tuổi. Nó là liên lạc cho ông Trị, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6. Ông Trị đi đâu thì nó theo đó. Nó cũng lăn lộn khắp phía nam thành cổ rồi sang Như Lệ. Đêm 15/9/1972, nó cùng ông Trị bơi từ bên thành, rút qua sông. Vừa sang đến bên này sông, hai cha con bị pháo bắn. Thằng Cam nhanh nhẹn kéo thủ trưởng lăn xuống hố pháo nằm đè lên nó.
- Mày gian quá Cam ạ ! Dám kéo thủ trưởng làm bia đỡ đạn cho mày. Thế mà ông ấy còn yêu mày, cử mày đi học. Hay thật đấy !
- Đâu ! Tao kéo thủ trưởng ngã xuống đè lên tao cho nó êm, thủ trưởng đỡ đau đấy chứ.
- Giỏi thật !
- Hì hì . . .
- Tao nghĩ mày trông ngon như con gái, ông ấy thì xa vợ. Trông thấy mày thì yêu luôn.
- Chẳng biết được . . .

Khi chúng tôi chuyển từ Quất Xá về Trà Liên Tây, lúc đầu ở nhà dân. Thằng Cam ở nhà ông lái đò. Nó thích út Túy con gái ông. Sau đó chúng tôi làm nhà riêng thì nó vẫn thân với út Túy. Út Túy vừa cao vừa to, lại đen, ngược hẳn với thằng Cam.
Hôm tôi và thằng Cam uống rượu, hai thằng chơi hết một chai huyết thanh một lít với một cân đường làm đồ nhắm, tôi hỏi chuyện nó với út Túy thì nó bảo " Có gì đâu !" Bây giờ thỉnh thoảng gặp nhau hỏi lại thì nó chỉ cười hì hì.

Thằng Nội chuyển đi bộ binh đầu năm 73 còn thằng Cam chuyển sang d26 (tiểu đoàn xe) cuối năm 74.

Gọi là tiểu đội trưởng nhưng trước khi ngừng bắn tôi chẳng biết tiểu đội có những ai vì mỗi đứa đi một hướng, giăng ra suốt các nơi. Từ khu B, khu A, cao điểm 108, Cao điểm 20, Ái tử, Nhan Biều, Bích La, Như Lệ, . . . Bây giờ mới có dịp về đây kha khá. Còn vài đứa nữa vẫn đang ở một số điểm nóng hay đài quan sát.

Thằng H., a trưởng a1/b1/c1/d1/e101 cũng rất trắng, cao và gày, trông rất thư sinh. Vậy mà nó cũng đánh nhau trày trụa ở Bích La, An Lộng, từng rơi nước mắt khi bạn thân nhất của nó chết ngay trước mắt nó.

Thằng Thìn to con là lính 12 ly 7 của d1/e101. Nó bảo 12 ly 7 bắn sướng lắm nhưng quét không kỹ bằng đại liên (Sướng gì mà sướng, vác súng đạn thì nặng làm sao chạy pháo cho nhanh được). Thằng này chẳng bao giờ chịu kể chuyện nó bị bom pháo gì (đơn vị nó cũng hy sinh rất nhiều). Lúc nào nó cũng chỉ cười hề hề, nói chuyện tếu, nhất là chuyện em út. Khi ra quân, nó học trường Phú Thọ ở Sài Gòn, khoa kinh tế ngoại thương. Ra trường làm ở Seaprodex, số 4 đường Đồng Khởi. Sau rồi làm lên đến giám đốc gì đó xuất khẩu thủy sản, rồi giám đốc du lịch. Bây giờ thì làm xuất khẩu lao động. Nó bị bệnh tiểu đường. Lại bệnh tim, hai cái động mạch vành của nó đã được nong bằng hai cái sten rồi. Nó vẫn nhậu hết cỡ, ăn uống thoải mái, chẳng kiêng khem gì ráo. 90 ký lậng !

Thằng Tính, dân Diễn Thành, Diễn Châu, Nghệ An đi lính 5/72, bổ sung vào tiểu đội tôi 8/72 mà bây giờ tôi mới biết mặt. Thằng này to béo và đen, ae gọi nó là "Tính béo" hay "Tính Diễn Tru" (Tru tiếng khu 4 là con trâu). Nó là dân đánh cá biển, ra khơi vào lộng đã ba năm, ăn to nói lớn, đặt lưng là ngủ. Sao thằng này nó nhiều mồ hôi thế. Cái riêng nhất của nó là lúc nào cũng mồ hôi lấm tấm trên chóp mũi. Sau này, khoảng tháng 4/73, nó ở trong toán "trinh sát cắm" tại Cửa Việt. Đại đội tôi, duy nhất có nó làm trinh sát trên biển.

Lúc đó thằng Tính ở nhà dân, lên thuyền đánh cá của dân. Nó mang theo một khẩu súng bắn pháo hiệu. Yếm đạn của nó nhét đầy đạn pháo hiệu xanh, đỏ, vàng. Nó còn mang theo một khẩu B40 và mấy quả đạn. Nó đi cùng dân. Tham gia đánh cá, ăn ở với dân trên thuyền. Nếu tình hình bình yên, không có tàu hay canô của địch thì nó bắn pháo hiệu xanh. Có khả nghi địch ở xa thì bắn pháo vàng. Nếu địch vào gần thì bắn pháo đỏ. Tín hiệu của nó giúp cho các đơn vị trong bờ sẵn sàng đánh địch từ biển vào. Mỗi khi nói chuyện đi biển là nó kể chuyện rất hăng say về cái nghề đánh bắt cá, Nào thì tìm dò cá, nào thì buông lưới mấy chục sải thế nào, nào thì cháo cá, rồi cá ăn gỏi ngay trên thuyền, . . .

Hôm 6/9 rồi, nó ở Diễn Châu đưa con ra Hà Nội khám bệnh, tôi kéo nó đến chỗ gặp mặt ae. 

   Rồi việc làm doanh trại cũng xong – Xóm Xê Hai Mươi. Cơ ngơi của đại đội tôi rất đẹp, không khác gì "Rì-sọt" (Resort) bây giờ. Xung quanh là tre vầu và tre ngà rất cao, lại thêm rất nhiều cây cổ thụ. Cái sân của đại đội là một bãi cỏ xanh rì, phẳng phiu, tự nhiên. Những mái nhà tranh nấp bóng dưới các tán cây. Một khu nghỉ dưỡng thiên nhiên tuyệt đẹp.Vài lối đi vào khu nghỉ dưỡng đó là mấy con đường đất nhỏ ngoằn nghoèo. Hai đường dẫn vào làng Quất Xá, một lối dẫn lên núi, vài ba lối nữa luồn qua rặng tre dẫn thẳng xuống bãi tắm. Mỗi tiểu đội có một nhà. BCH đại đội một nhà.

Nhà của tiểu đội tôi nằm mé gần làng, dưới một gốc cây đại thụ, lá xum xuê nhiều tầng, chỉ vài bóng nắng lấp lánh trên mái tranh. Dưới mái tranh là căn nhà âm. Mỗi thằng biết vài thứ, bảo nhau làm từ A đến Z, từ việc làm vì kèo, luồn con xỏ, chống kèo, đặt đòn tay, đặt dui, kết mè, đánh tranh, lợp mái, . . . cứ như chuyên nghiệp vậy. Chúng tôi đóng cọc xuống đất, gác các thang giường rồi đặt giát lên trên. Các tấm giát giường được ken bằng tre theo kiểu chõng. Mấy đứa còn lấy sơ vót tre đánh nhẵn bóng. Đặt lưng xuống, mát lạnh.

Tiểu đội tôi làm xong nhà sớm. Mấy thằng nghĩ ra chuyện làm bồn hoa. Thằng Lê Văn Ngữ, dân Nam Định (không nhớ là Hải Hậu hay Xuân Trường), truyền thống cây cảnh. Nó bắt mọi người vào làng đánh duối để trồng làm tường hoa. Ở Quất xá rất nhiều nhà trồng hoa nhưng chỉ có mỗi giống hoa vạn thọ (loại hoa cúc lớn) thành ra bồn hoa của tiểu đội tôi cũng chỉ có vạn thọ. Mấy tiểu đội khác thấy vậy cũng bắt chước làm theo. Thằng Ngữ và thằng Sự rất chịu khó, nó đi nhặt phân trâu bò, đánh tơi với đất, đem đổ xuống hố để trồng mướp. Thằng Sự nó tia thấy trên gác bếp nhà chủ có mấy quả mướp giống, nó xin một quả từ bao giờ.

Thằng Hưởng, quê Hà Tĩnh, ve một bên mắt, tóc xoăn tự nhiên, lúc nào cũng điệu. Thỉnh thoảng nó rút lược trong túi ra, chải ngược tóc lên, thêm tí nước, rồi ép xuống cho lượn sóng kiểu "đầu bồng đít vịt". Tôi vẫn hay hát trêu nó : "Mời anh đến thăm quê tôi/ Mà xem mấy chú cao bồi/ Chải đầu bồng, đi tán gái/ Tì tì tì . . . ti tí ti ti" (câu cuối cùng hơi bậy một tý nên tôi thay bằng tì tí ti . . ., ai biết thì biết, ai không biết thì thôi !). Ấy vậy mà chăm ra phết, ai bảo làm việc gì là lăn ra làm quần quật. Chúng nó đứa nào cũng vun vén như nhà riêng của mình vậy.

Tôi thấy sung sướng lắm vì có những thằng như vậy trong tiểu đội. Lúc chiến, chẳng nói nhiều cũng hiểu ý nhau, về đến tiểu đội thì như gia đình.

Mỗi tiểu đội đã cử 1 người gúp tiểu đội anh nuôi làm nhà và làm bếp nên công việc của anh nuôi cũng xong.

Một sớm, chúng tôi dọn từ trong làng ra xóm mới. Hai thằng một giường. Tôi nằm cùng giường với thằng Ngữ. Sau này thằng Sỹ tiểu đội phó chuyển đi bộ binh thì thằng Ngữ lên thay.

Tối hôm đó, sáng trăng. Sinh hoạt đại đội kết nghĩa với du kích làng Quất Xá. Tôi không còn nhớ. Nhưng có một bài mấy du kích nam nữ vừa múa vừa hát thì rất ấn tượng. Một nét nhạc ngây thơ với lời hát quê mùa, mộc mạc :"Vui hát ca, hòa bình đã về ta/ Nay sướng vui dân ta có ngày/ . . . ./ Chúng ta vui đón chào mùa xuân".

--------------

Tái bút : "Tì tí ti . . . " ai biết thì hô lên là biết nhé ! Ai không biết thì cấm được hỏi !  

   Một sáng Chủ Nhật được nghỉ, ba đứa Thìn, H. và tôi rủ nhau đi chơi Đông Hà. Lúc đó, mới ngừng bắn nên không có xe đò, cũng chẳng có xe ôm như sau này. Trên đường ra Đông Hà, đoạn đầu gần Quất xá, chỉ thấy toàn xe tải đang chở nặng đi về miền tây. Thỉnh thoảng mới thấy một vài chiếc xe đạp. Người đi bộ trên đường cũng không nhiều, gặp lính tráng đi bộ là nhiều nhất.

Không hiểu tại sao đường 9 không bị hư hỏng gì nhiều. Đường rải bê tông nhựa, độ khum vừa phải, rất nhẵn. Thỉnh thoảng mới thấy hố pháo trên đường, không sâu lắm, chỉ khoét trên đường một cái ổ gà. Chỗ hố pháo, nhiều mảnh mặt đường bị văng lên, tung tóe xung quanh. Tôi nhặt một mảnh lên. Một lớp trải mặt rất đẹp, rắn chắc, đá sỏi kích cỡ khác nhau trộn với nhựa rất đều, trông như miếng kẹo lạc. Nắng mưa Quảng trị đều dữ mà mặt đường không có chỗ nào bị chảy nhựa. Xe tải nặng đi trên con đưởng 9 từ cảng quân sự Đông Hà sang Lào không hề làm sụt lún mặt đường. Đường Mỹ làm rất tốt. Bây giờ đường của ta làm theo công nghệ này nhưng vẫn không bằng được.

Chúng tôi đi rất nhanh, mấy khi được đi người không thế này. Mười hai cây số đi bộ trên đường 9 chỉ một loáng đã tới. Mãi gần đến Đông Hà mới có làng mạc ven đường. Cũng như ở Quất Xá, dân đã trở lại cuộc sống bình thường, không còn cảnh chui rúc dưới hầm, ban đêm mới dám ra đồng làm việc nữa. Nhanh thật ! chỉ mới ngừng bẵn có ít hôm mà trông làng xóm có vẻ rất thanh bình.

Đông Hà mới là nơi mà tháng 4/72 có giao tranh quyết liệt. Chúng tôi đi qua đường tàu mới thấy cảnh đổ nát thực sự của chiến tranh. Duy cái lô cốt có tháp canh ở góc đoạn đường quẹo vẫn đứng sừng sững với nhiều vết đạn chiu chít. Cái tháp này còn đứng đấy cũng vì nó được giữ làm vật chuẩn của pháo địch. Chúng tôi đi qua cái tháp, bấy giờ chưa có hai cái xe tăng M41 và M48 kéo vào để ở chân tháp. Đường phố Đông Hà đã được dọn sạch, không còn cảnh đổ nát trên mặt đường. Hai bên phố cũng được dọn dẹp, vẫn cảnh đổ nát nhưng trông rất sạch sẽ. Gọi là thị xã Đông Hà nhưng đường phố thực ra chỉ có mỗi đoạn từ góc quẹo ra đến đường 1. Phần còn lại của thị xã cũng chỉ là làng xóm. Nhưng Đông Hà có quân cảng lớn (bây giờ là di tích được xếp hạng), có sân bay, có ga tàu, có giao lộ quan trọng đường 1 với đường 9, có kho bãi hàng rất lớn. Về quân sự và kinh tế thì Đông hà quan trọng hơn tghij xã Quảng Trị rất nhiều. Nghe nói, có lúc định chọn thị xã Đông Hà làm thủ phủ của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ?!

Phố xá Đông Hà chưa có gì. Một vài nhà dân trở về đang sửa chữa nhà. Chợ Đông Hà đã họp lại, vẫn ở chỗ cũ như bây giờ. Mới chỉ có lều lán dựng tạm của dân. Cầu Đông Hà vẫn có đoạn nhịp đang gục xuống sông. Công binh đang bắc cầu phao qua sông, chắc vài ngày nữa là xong. Đây sẽ là con đường quan trọng vận tải từ bắc vào. Từ Đông Hà, theo đường chín lên đường Hồ Chí Minh để vào trong nữa.

Cái lô cốt có tháp canh ở góc quẹo thị xã bây giờ không còn nữa. Một di tích có giá trị như vậy lại bị phá bỏ. Bây giờ chỗ này là ngã tư rồi. Người ta giải thích rằng chỗ đó hay xảy ra tai nạn giao thông nên phá đi. Sao không giải quyết bằng cách khác ? Thật đáng tiếc !

  Đây là lần đầu tiên tôi đến thị xã Đông Hà. Trước đây khi đi vào phía trong, tôi đã đi qua Cao Hy, bươn ngang qua căn cứ Phượng Hoàng (Pedro) từ đó mà xuống Như Lệ. Nổi bật nhất Đông Hà là cái lô cốt rồi đến mấy cái nhà vòm để máy bay. Nhà cửa ở Đông Hà tan hoang hết. Khi chúng tôi đứng ở đầu cầu, gió từ biển thổi vào tràn qua mặt sông, hây hẩy. Nhìn về phía đông bắc, thấy trải dài những cồn cát trắng Gio Linh. Chếch lên phía bắc là Cồn Tiên và Dốc miếu, trắng lẫn đỏ, chỏng trơ, trụi thì lụi. Làn gió mát cũng không làm dịu đi nỗi gì đó "phất phơ" buồn. bạn sẽ phải thở dài khi đứng trước cảnh vật như thế này.

Đi ngắm chợ chơi, tiền chẳng có. Hàng gạo, hàng khoai, hàng cá, hàng rau, đồ lính hai bên có đủ. Tiền bắc, tiền nam đều tiêu được. Lúc đó, tiền bắc rất có giá trị. Có vẻ như mọi người có gì trao đổi nấy, lấy thứ cần dùng chứ chưa phải là buôn bán gì.

Trên đường về, cách Quất Xá mấy cây, chúng tôi rẽ vào con đường tắt đi trong đường xã. Con đường đất này là con đường quen thuộc của chúng tôi trước kia khi đi từ suối La La qua Nghĩa Hy để xuống Ái Tử. Có một ngôi nhà xây rất lớn nằm ngay trên mặt đương. Ở vùng này, một ngôi nhà xây hai tầng đồ xộ như vậy chỉ có một. Trên cao, gần mái có đắp chữ nổi "TÔ PHAN KÝ". Tôi được biết chủ nhà đã chạy vào phía trong. Tô Phan Ký không biết có phải là tên gia chủ không nhưng đó là một thương hiệu đã có tên tuổi. Thời Pháp thuộc, ở miền bắc người ta đã biết đến thương hiệu này. Bạn tôi bảo, hồi bé đã thấy những ngôi nhà cũ lợp ngói "Tô Phan Ký".

Ở chỗ này, "Tô Phan Ký" không phải chỉ là một ngôi nhà lớn mà là cả một dinh cơ phía trong nữa. năm 1972, sư đoàn tôi (325) đặt kho quân nhu ở đó. Ban đêm, xe qua ngầm ở Bãi Hà rồi đi theo "đường tăng" ngoằn nghoèo rồi lội qua "ngầm B" là đến gần kho hàng "Tô Phan Ký". Lúc bấy giờ, đường này cũng là đường vận tải để đi ra đường 9. Từ đó ra Nghĩa Hy, vượt đèo vào Cùa để đi ba Lòng. Từ đường 9 cũng có thể đi đến Đầu Mầu thì rẽ lên đường đi căn cứ Tân Lâm (ta thường gọi là cứ điểm 241, địch hay gọi là Camp Carroll), qua Mai Lộc mà đi Ba Lòng. Đường của bác Phong Quảng và cũng là đường vận chuyển hay kéo pháo chính là đường này.

Khi đi qua đây, thấy ngôi nhà "Tô Phan Ký" bị bom đánh chỉ còn lại mấy mảnh tường.

Tôi nhớ lại cái hôm ngôi nhà bị đánh bom. Đó là vào khoảng tháng 10/1972, quãng 10 giờ sáng. Lúc đó một thằng nữa và tôi từ chân cao điểm 108 về làng Quất Xá để lấy gạo và đồ hộp. Hậu cứ của đại đội ở mãi bãi Tân Kim, suối La La, nhưng có kho lương thực, thực phẩm ở Quất Xá. Trên đường từ Quất Xá về 108 tôi cũng đi đường này.

Bất ngờ từ phía biển một tốp bốn chiếc F4 đang lao rất nhanh tới, khá thấp, thẳng về phía chúng tôi.

- Máy bay ! F4 mày ạ. Nó đi đánh đâu thế nhỉ ?
- Nó bay thẳng đến đây mày ạ !

Chưa kịp nói hết câu thì thấy chiếc đi đầu chúi xuống, bổ thẳng vào mặt chúng tôi. Không ai bảo ai, hai thằng lăn nhào xuống ruộng, mắt vẫn dõi theo máy bay. Nó ngóc đầu lên thì hai quả bom cũng rời máy bay mà lao xuống. Chúng tôi chúi đầu xuống ruộng. Hai quả bom gần như nổ cùng lúc. Ngẩng lên nhìn thấy một quầng khói đen bốc lên, đất đá bay ràn rạt, chút sau thì rơi lụp bụp xung quanh người. May là chúng tôi không quá gần. chỗ bom nổ phải cách chỗ tôi năm sáu chục mét. Hết chiếc này đến chiếc khác lần lượt thả bom. Mỗi thằng chỉ thả đúng hai quả.

- Đi thôi !
- Từ từ đã. Xem nó còn đánh tiếp không.
- Ừ ! Kia kìa, một tốp nữa kìa.

Vẫn là bốn chiếc F4, vẫn hướng đó, vẫn khá thấp như vậy.

- Nằm xuống đi !

Từng chiếc một lại bổ nhào. Lần này chúng không ném bom mà bắn tên lửa. Hai quả tên lửa phóng ra cùng lúc, lao rất nhanh. Chiếc thứ hai cũng phóng hai quả tên lửa. Rồi vấn hai thằng đó ngóc lên cao, bay vòng trở lại. Mỗi thằng phóng thêm hai quả tên lửa nữa. Hai thằng còn lại bay vòng trên cao quan sát. Không thấy chúng bắn tên lửa hay thả bom.

- Cháy rồi mày ơi !
- Cháy đúng chỗ kho quân nhu đấy ! Tao ù tai tai quá mày ạ !
- Mày nuốt nước bọt đi, nuốt mạnh vào . . . Đỡ chưa ?

Ngọn lửa ngày càng bốc cao. Mấy thằng máy bay lượn vài vòng rồi bay ra biển. Không biết kho quân nhu có gì mà bốc cháy nhanh, cháy dữ vậy ? Lửa đỏ và khói đen bốc lên rần rật làm cho ánh nắng cũng run run nhảy múa. Hơi nóng phả cả đến chỗ chúng tôi.

- Đi mày ơi ! chắc nó không đánh nữa đâu ! Mình đi qua ruộng thôi.

Vừa đi chúng tôi thỉnh thoảng ngoảnh lại nhìn. Đám lửa ngày càng bốc cao. Không biết có ai bị sao không ? Mãi khi qua dãy Nghĩa Hy thì chúng tôi mới bị khuất không nhìn thấy. Sau này tôi mới biết, hôm đó nó đánh trúng kho quân trang và nhu yếu phẩm của sư đoàn. Có mấy anh hy sinh tôi không nhớ. Bà con Quất xá nói lại, hôm đó nó cũng đánh trúng ủy ban xã. Chủ tịch xã là ông Phát đã hy sinh.

  Về vụ máy bay đánh chính xác vào kho hậu cần của sư đoàn về sau này được cho rằng có chỉ điểm mặt đất. Chuyện đó bàn ra tán vào mãi. Sau này khi c20 ở Trà Liên Tây, anh em đi công tác các ngả thì dân cũng biết cả. Cho nên, vụ "A74" (xem trong topic "Nhật Ký Viết Lại" của SauChinBayMot), để đánh lạc hướng, khi nhóm A74 lên đường thì cả đại đội cũng hành quân dã ngoại. Đi đến giữa chừng mới tách ra. Sau đó, để đảm bảo bí mật các hoạt động chuẩn bị chiến trường năm 74 và đầu 75, c20 phải chuyển lên vùng đồi ở ven nhánh của sông Ái Tử, biệt lập với dân.

Hai giờ chiều chúng tôi mới về đến "Rì-sọt". Bồn hoa của chúng tôi đẹp quá. Chắc sáng nay thằng Ngữ vào làng đi kiếm hoa ở những nhà dân bỏ không. Hai bụi lớn hoa mẫu đơn được trồng hai bên lối xuống nhà âm.

Thằng Ngữ, mặt nhiều trứng cá, rất chăm chỉ và chu đáo. Nó lo vun vén cho tiểu đội, để ý chăm sóc đến từng người. Nó bằng tuổi tôi nhưng lúc nào cũng gọi tôi bằng ông và xưng tôi, tôi thì gọi nó bằng tên và xưng mình với nó. Nó coi tôi như anh cả trong gia đình còn tôi lại có cảm giác nó là người chị cả trong nhà. Nhớ một lần, năm 1976, lúc đó thằng Ngữ cũng được ra quân rồi, tôi từ Hà nội đi về quê nó. Tôi đi xe hàng đến bến xe Nam Định, vào xếp hàng để mua vé xe đi tiếp về quê nó. Chen lấn xô đẩy nhau, cuối cùng tôi cũng lên đến cửa bán vé, móc tiền để mua vé thì ôi thôi . . . ! Tiền đã không cánh mà bay từ lúc nào, xót thì ít mà bực thì nhiều.

Đểu thật, mấy thằng "lính mổ" Nam Định nhìn thấy thằng bộ đội "bò lạc" từ Hà nội xuống cố tình gây ra chen lấn xô đẩy. Tôi mặc quần áo lính, để tiền trong túi áo ngực, chúng móc lúc nào không hay biết. Ở Hà nội, đi chợ Đồng Xuân, Bắc Qua, đi chợ giời lượn lờ mua đồ cũ chẳng bao giờ mất tiền. Có lần ở chợ giời tôi túm tay một thằng đang luồn vào trong túi quần. Nó giật mạnh tay ra mà bỏ chạy, vứt cả lại đôi dép Tiền Phong mới coóng. Tôi cũng chẳng buồn đuổi theo, mồm chỉ lẩm bẩm: "bố được đôi dép của mày rồi con ạ !" Vậy mà về cái tỉnh lẻ này lại bị nó chơi ngon. Ừ, đất có Thổ Công, sông có Hà Bá !

Tôi lẩm bẩm trong miệng: " mấy thằng con này làm lỡ việc của bố !" rồi ra quán "bà bóp" ngay trong bến xe, bán lại đống quà trong ba lô. Bánh qui bơ với kẹo sữa Hải Châu (bấy giờ là loại hảo hạng), lại bị "bà bóp" nặn một lần nữa. Có tiền, tôi mua vé xe, ngược về Hà nội.

  Ba thằng tôi bước xuống nhà âm thấy mấy đứa đang ngủ say. Căn nhà sạch sẽ mát mẻ, gọn gàng. Cơm phần chúng tôi để trên bàn giữa nhà, qua cái bàn là cái giá súng dựng ngay ngắn, tám khẩu AK báng gấp. Giá ba lô làm ở hai đầu hồi, trên cao, bốn thằng một cái.

Đói quá, ba thằng nhấn hết ga. Bốn giờ chiều chúng tôi mới ngủ dậy. Thằng Tính "mồ hôi mũi" đang lau súng. Nó tháo băng đạn ra để trên giường rồi lau rất cẩn thận. Thấy bọn tôi đã thức, thằng Tính rủ đi tắm:
- Chừ đi tắm hè !
Trông thấy mũi thằng Tính lấm tấm mồ hôi, thằng H. vừa cười vừa nói:
- Mi trộ cái mũi mi coi ! Nỏ mần chi mà mồ hôi dữ hè ! (Thằng H., người Hà Nội, nó nói theo giọng khu bốn hùa theo thằng Tính)
Thằng Tính đang vui, nó vừa lau súng vừa hát. Cũng là đùa vui, nó quay mũi súng, chĩa thẳng vào ngực thằng H., xiết cò !
Đoàng !
Tiếng nổ bất thần, . . . bàng hoàng . . .
Thằng Tính mặt cắt không còn hột máu. Mấy thằng tôi cũng mắt mũi xanh lè.
Số thằng H. (cái gì cũng 1), vào sinh ra tử ở miền đông, bom pháo quật lên quật xuống không chết. Thấy thằng Tính vừa hướng súng vào mình, nó nhanh tay gạt một phát, mũi súng chếch lên, viên đạn bay qua đầu nó, qua mái tranh, không biết đi đằng nào.

Hú vía !

Tháng 10 năm ngoái (2009), thằng Tính từ Diễn Châu ra Hà Nội. Tôi đón nó ở bến xe Nước Ngầm. Chở nó đến quán bia Hoàng Hoa Thám. Ở đó, thằng H., thằng Cam và thằng An "đen" đang chờ (An "đen" - xem "Ký ức một thời hoa lửa" của LeXuanTuong). Thằng Tính không nhận ra thằng H. Cho đến khi thằng H. nhắc lại chuyện Tính xiết cò vào ngực H ở Quất Xá, thằng Tính mới òa lên, gật đầu lia lịa. Gần bốn chục năm trời rồi. Thằng H ngày xưa thì trắng trẻo mảnh khảnh, thư sinh. Bây giờ nó đỏ hồng hào và đường bệ, ai mà có thể nhận ra được.  

  Chúng tôi ở khu "rì-sọt" được đâu một tuần thì có một đoàn của sư đoàn xuống kiểm tra chỗ ăn chỗ ở của anh em. Hai hôm sau thấy đại trưởng thông báo đại đội tôi phải di chuyển chỗ ở về sát sông Thạch Hãn. Đại trưởng nói tỉnh bơ như vậy nhưng tôi vẫn nhận ra nét mặt anh không vui. Còn lính tráng chúng tôi dường như đồng thanh kêu lên:

- "Ồ . . .!"

Đại trưởng nói tiếp rằng chỗ này dành cho sư đoàn. Lính tráng lại nhất loạt than lên một tiếng:

- Ồi . . .!"

Tôi thấy tay mọi người tự nhiên thõng xuống hết cả.

Thế là phải chuyển khỏi cái chỗ đã bao nhiêu công sức và thích thú. "Nước sông, công lính", biết làm sao? Thế là phải xa các làng Quất Xá, Cam Lộ đã trở nên thân thiết với tất cả mọi người. Không biết bao giờ mới có dịp trở lại đây ?

Chúng tôi chuyển về thôn Trà Liên Tây, thuộc Trệu Phong. Nhưng rồi tôi còn trở lại đây, sau chừng một năm nữa.

Tiện thể, gần Quất xá nên xin kể tiếp chuyện một năm sau tôi được tham gia diễn tập đánh lớn, hợp đồng quân binh chủng của sư đoàn.

Trận tập diễn ra ở gần làng Cùa. "Làng Cùa" không có tên trên bản đồ vì trên các bản đồ đều ghi là "Thôn Mai Lộc". Không biết tại sao lại có cái tên "Cùa"? Thấy trên "Wiki" nói rằng "Cùa" là tên gọi khác của dân tộc "Co" !? "Vùng Cùa" là cái tên chỉ cái thung lũng bốn bề là núi. Trong thung lũng này có nhiều thôn (xem trên bản đồ), rất nhiều đồng bào dân tộc sống ở đây.

Từ Quất xá, ngược đường 9 lên đến gần cầu Đầu Mầu có một ngã ba ré bên trái, đi lên núi. Đó là con đường quan trọng đi vào thung lũng Cùa, qua cứ điểm 241 (còn gọi là căn cứ Tân Lâm hay có tên Mỹ là Camp Carroll, tên Mỹ này cũng được đặt cho một căn cứ Mỹ ở Triều Tiên). Một đường lớn khác để vào Cùa là từ đường 9 rẽ lên từ Cam Lộ, qua Nghĩa Hy, qua một đoạn đèo ngoằn nghoèo. Con đường này lớn hơn, chắc hẳn là đường vận chuyển hay kéo pháo vào phía trong năm 72, sau khi ta đã giải phóng được đường 9. Bây giờ con đường này là con đường rất đẹp và "tiện đường".

  (Bây giờ là thời điểm đầu năm 1974).

Lục và tôi được đại đội cử tham gia diễn tập. Lục là lính đặc công từ d19 chuyển về đại đội 20. Hắn là dân Hưng Nguyên, Nghệ an, nhập ngũ 12/71. Lệnh chiều hôm sau có mặt ở Cùa, nhận nhiệm vụ của ban 2. Hai thằng đi từ sáng sớm, không chọn đường gần mà chọn đường đi qua Đông Hà, theo đường 9 để qua Quất Xá chơi rồi mới vào Cùa. Đông Hà bây giờ đã là phố đàng hoàng rồi. Cửa hàng bách hóa của "mậu dịch Quốc doanh" đã có vài mặt hàng bày bán. Chúng tôi mua hai hộp sữa "Thống Nhất", nhãn màu xanh xanh, loại sữa đặc có đường. Mỗi thằng mua một cái mùi xoa nữa. Hiệu sách cũng ở trong một cái nhà ngói mới. Không còn nhớ có những sách gì. Chỉ nhớ, cuối cùng tôi mua được cuốn "Miếng Da Lừa" của Ban-Dắc. Tôi vẫn còn nhớ chương đầu là "Tấm Bùa". Hai thằng mua sách xong thì rẽ vào "cửa hàng ăn uống" làm mỗi thằng một cốc "sen dừa" có đá (đây là đồ uống sang nhất bấy giờ). Các chị "mậu dịch viên" đều là người từ miền Bắc vào – gọi là đi công tác vùng giải phóng ở miền Nam.

Nhớ lại, ngay sau ngừng bắn ít lâu, các trường học cấp 1 và cấp 2 đã khai giảng lại, toàn là thày cô từ Bắc vào. Anh Thêm c phó c20 yêu một chị giáo viên cấp hai dạy văn ở Cửa Việt (sau này hai người thành vợ chồng). Chủ Nhật hàng tuần, anh Thêm đi bộ từ Trà Liên Tây xuống Cửa Việt để thăm người yêu. Anh Thêm, người cao to, chiếc răng cửa trên số 2 bịt vàng ròng. Mỗi lần cười, ánh vàng lấp lánh, rất đẹp!? Không biết có phải vì thế không mà anh rất hay cười. Anh em cũng cần nhớ rằng lúc đó một số người bịt răng vàng là một kiểu mốt.

Anh Thêm mặc bộ đại cán, bên trong lấp ló cái áo "đông xuân" trắng lốp, khẩu K54 treo vào xanh tuy rông đeo trễ bên hông, bên kia đeo trễ một cái xà cột bóng loáng. Quân hiệu trên mũ với lá cờ nửa xanh nửa đỏ được anh đánh rất bóng. Trông anh thật sự là một sỹ quan rất "oách". Làm sao mà em giáo viên dạy văn, với sự lãng mạn nghề nghiệp vốn có, lại không chết mê một sỹ quan chỉ huy bóng bảy như vậy nhỉ ?

Mọi người biết trong xà cột của anh Thêm có những gì không ??

Một lần anh Thêm xuống tiểu đội tôi ngồi chơi. Lừa cho lúc anh đánh "tiến lên" đeo ba lô với mấy đứa, thằng Thìn và tôi mới dò dò mở cái xác cốt ra. Đây là chiếc xác cốt kiểu gập đôi. Khi lật ra thấy một loạt bút cắm rất ngay ngắn. Bút máy "Hồng Hà" này, bút "Kim Tinh" này, bút bi "Nguyên Tử" này, bút chì đen "Hồng Hà" HB và 2B vót rất nhọn này, bút chì xanh đỏ vót nhọn hai đầu nữa này. Mò vào trong ngăn thấy có cuốn sổ bìa nylon đen bóng (lúc đó hiếm). Ngăn bên kia là bản đồ Quảng Trị gấp rất cẩn thận, bài bản (gấp bản đồ cũng phải có kiểu của nó đấy). Ngăn tiếp là hai chiếc quần đùi xanh "Sỹ Lâm", rồi ngăn cuối cùng là hai chiếc quần xịp (ngày ấy gọi là xi-lip) màu đỏ loại buộc dây trông như tua mực ấy. Cái này anh phải may tận Đông Hà đấy. Thằng Thìn và tôi bấm bụng cười mà cũng không nhịn được, . . . thành ra "lão răng vàng" phát hiện được, giật lại chiếc xà cột rồi chửi toáng lên. Hai thằng tôi phải ù té chạy. Cả tiểu đội được bữa trêu trọc thủ trưởng, cười vui phá giàn. Tất cả những cái quê quê, tỉnh lẻ, thích ăn diện, thích ra oai của "lão răng vàng" không có gì là không quý cả ! Những cái đó càng làm cho anh gần gũi và thân thiện với lính tráng chúng tôi hơn.

  Lục và tôi chỉ mang đồ nhẹ, mỗi thằng ba lô toòng teng hai bộ quần áo, vài phong lương khô và một khẩu AK báng gấp, xanh tuy chỉ đeo mỗi cái bi đông. Khi c20 ở Quất Xá thì Lục chưa về đơn vị nên nó không biết gì. Tôi dẫn nó về Quất Xá, lại đi qua Tô Phan Ký. Quãng cánh đồng làng Quất xá trồng đang trồng khoai, những vồng khoai lớn mới vun, đất nâu mới, lá khoai mơn mởn. Mùi dất mới và dây khoai hăng hăng, ngai ngái. Vẫn là con đường đất dẫn vào làng nhưng bây giờ cây cối đã xanh um tùm. Nhiều giàn trầu không được dựng lại, dây lá xanh đã phủ kín giàn. Chúng tôi vào nhà chị Phụ, chỉ có bà già và hai thằng cu đang ở nhà còn ông già và chị Phụ đi làm khoai ngoài ruộng. Mới chừng một năm thôi mà hai thằng bé đã lớn hẳn. Thằng Nga nhận ra tôi ngay nó kêu tên tôi đúng âm, chỉ sai vần một chút (nghe cũng gần giống nhau). Thằng Đức đã nói sõi đủ thứ rồi nhưng nó là lạ khi thấy tôi. Sao thằng Đức nó trắng thế, bụ bẫm và rất xinh.

- Lục à ! lúc nãy quên không mua quà cho hai thằng bé.
- Cho nó lương khô cũng được đấy ! Thằng này xinh thế, như Tây mày nhỉ ?
- Năm ngoái ở đây, nó cởi chuồng suốt ngày, chạy chơi khắp làng, mặt mày lem luốc nhưng mà trông
nó vẫn yêu lắm.
- Năm ngoái được nhiều thóc không má ?
- Diều, gần đầy thùng lậng (tiếng Quảng Trị "diều nghĩa là "nhiều").
- Sấy được diều cau không má ?
- Năm ngoái mất mùa cau. Nỏ biết năm ni răng ? Nghe sai trái dữ hầy. Mà lo ló kém, nỏ trồng ló, cặm
khoai thôi.
- Ngoài Bắc có câu "được mùa cau, đau mùa lúa" má à !
- Ờ ! nói ri là trúng đó hầy !
- Bây giờ có bộ đội ở làng mình không má ?
- Mấy chú đi rồi, lần lần mấy chú khác cũng đi hết à. Có bộ đội là vui, chừ buồn lắm !

Làng Quất Xá sau khi chúng tôi đi thì sư đoàn bộ cũng di chuyển xuống Tân Vĩnh, gần cao điểm 58, sát với sông Vĩnh Phước. D24 cũng chuyển đến gần sư đoàn bộ nhưng ở bên kia sông Vĩnh Phước.

Quất xá không có bộ đội, đúng là vắng vẻ. Các nhà khá xa nhau, xung quanh vườn rất rộng, cây cối xanh um tùm. Vườn nhà chị Phụ trồng rất nhiều cau, giàn trầu không rất lớn ngay lối cổng vào làm cho lối đi vừa mát vừa đẹp. Trong vườn còn có chục cây mít, rất sai quả. Mít ở đây chỉ giữ ít quả chín để ăn chơi, phần lớn là ăn lúc còn xanh. Mít dùng để xào hay nấu canh ăn rất ngon. Mít còn dùng làm mắm nhút, chỉ có vùng từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị mới có loại mắm này. Nếu bạn ra vườn bạn sẽ dẫm lên những đám lá rụng và phải bước tránh những cây lá lốt, lá rất to, bò lan khắp mặt vườn.

- Má có nhận được thư từ hay tin tức gì của bố mấy đứa nhỏ không ?
- Nỏ có chi.

Đang vui, giọng má bỗng chùng xuống. Má không khóc, chỉ hơi thẫn thờ một chút rồi trở lại bình thường ngay. Có lẽ quá lâu rồi . . ., thành quen ?! Liệu có quen không ? hay là hàng đêm má vẫn thầm khóc nhớ con ? . . .

Má kêu thằng Nga đi gọi chị Phụ về làm cơm mời chúng tôi. Cảm thấy phiền phiền nên chúng tôi nói với má rằng bận phải đi cho kịp, không ở lại được. Hai đứa chào má rồi xin phép đi. Hai thằng bé túm theo bọn tôi ra tận đầu làng.

- Thôi chào chú, rồi đi về nhà đi !

Hai thằng lễ phép khoanh tay chào rất to:

- Cháu chào mấy chú ạ !
- Chú chào các cháu nhé !

Lục và tôi quay ra đường 9, đi về phía Đầu Mầu.

- Vẫn còn sớm ông ạ. Chiều mới phải có mặt. Ra cầu Đầu Mầu xem cái đã. Chỗ này tôi chưa biết.

- Ừ ! tôi cũng chưa biết Đầu Mầu.

  Gần đến cầu Đầu Mầu con đường bắt đầu lên dốc. Đến đỉnh dốc thì mé bên phải là một quả đồi thấp cây lúp xúp xen lẫn với cây cao hai ba mét. Đến đây vẫn chưa nhìn thấy cây cầu như thấy trên bản đồ. Tôi nghĩ bản đồ vẽ không chính xác lắm. Cây cầu và cái khe gió ở đoạn này phải dịch về phía tây chút nữa, gần sát với chân cao điểm 252. Tôi vẽ bổ xung thêm một đường bình độ phụ trên hình vẽ để anh em thấy thấy rõ cây cầu nằm ở một vị trí hiểm ác như thế nào. Một căn cứ nhỏ nằm trên cao điểm này. Nó có thể khống chế cái yết hầu của con đường chính là cầu Đầu Mầu và đoạn đường đi sát cao điểm 252. Đoạn này, một bên vách núi dựng đứng, một bên dốc thẳng xuống sông Cam Lộ. Đoạn này của sông Cam Lộ húc thẳng chân núi cao điểm 252 nên ngoặt rất gấp tạo ra cái "bờ lở" sừng sững. Quả thật rất hiểm. Nếu muốn tấn công lên điểm cao cũng không thể từ hướng này được.

Một câu cầu rất nhỏ và hẹp. Có thể trước đây nó cũng to và rộng như các cây cầu khác trên đường 9 nhưng đã bị đánh sập. Bây giờ cái cầu do ta làm tạm quá hẹp, chỉ vừa đủ cho một xe đi qua. hai bên cầu cũng chẳng có lan can gì. Chúng tôi đi qua cầu, ngắm nghía một lúc rồi quay trở lại. Đứng trên mép cầu nhìn xuống sông thấy hơi ghê ghê.

- Đường chỗ này kinh thật Lục à ! Cả đoàn tăng và cơ giới mà đi qua đây chỉ cần vài thằng là chặn
cứng hết.
- Chả trách nó bé tẹo thế mà nổi tiếng thế !
- "Thỏa mãn bần cố" chưa ? Biết thế nào là Đầu Mầu nhé ! (Cái câu thỏa mãn bần cố lúc đó chúng tôi
hay dùng)
- Thôi ! đi đi.
- Ừ ! Cũng trưa rồi. Mình rẽ lên đường vào Cùa rồi tìm chỗ nghỉ một tí. Kể mà lối xuống sông không dốc
ngược như thế thì xuống bờ sông mà nghỉ là nhất.

Chúng tôi đi đến ngã ba thì rẽ vào đường lên Cùa. Tôi chọn một chỗ có cây bóng mát ngay gần ngã ba rồi hai thằng leo lên vạt cỏ dưới bóng cây ngồi nghỉ. Chỗ này vừa mát vừa nhìn ngắm xe cộ và người đi lại trên đường 9.

Hai thằng lấy dao găm chọc hai cái lỗ hộp sữa, mỗi thằng một hộp cứ thế mà tu. Thằng Lục nó ăn sữa giỏi, chỉ một loáng đã thấy nó dốc ngược hộp lên mà húp xoạt xoạt. Ngọt quá làm tôi khó nuốt. Còn non nửa hộp thì ngắc rồi phải nhờ Lục ăn hộ. Nó chẳng ngần ngại gì hết, tu một hai hơi hết luôn.

     Tầm trưa, thỉnh thoảng mới có xe chạy qua, cái ngược cái xuôi, toàn xe bộ đội.
- Mày thấy mùi gì không ?
- Có. Mùi thuốc rê.

Một cái mùi rất khét, rất nặng thoang thoảng bay qua.

- Tao đảm bảo với mày mùi này là mùi thuốc lá Vân Kiều.

Không ai bảo ai, cả hai đều ngoái nhìn về phía Đầu Mầu. Quả nhiên, có một toán đồng bào Vân Kiều đang từ trên dốc đi xuống. Một ông già râu tóc dài đã bạc, một bà "sồn sồn", hai chàng trai, hai cô gái và một cậu choai. Tất cả đều ở trần, đi chân đất. Đàn ông thì đóng khố còn đàn bà thì mặc váy. Hai thanh niên đi trước, đến thằng nhóc rồi đến ông lão. Ba người đàn bà đi sau. Ông lão ngậm cải tẩu thuốc rất to, dài đến 30 cm. Bà sồn sồn cũng ngậm tẩu, nhưng cái tẩu nhỏ và ngắn hơn. Một tay thanh niên cũng đang hút tẩu, cái tẩu không to và dài như của ông lão nhưng có vẻ trang trí cầu kỳ, có một đoạn cán tẩu được nạm đồng thì phải, đánh bóng vàng chóe. Tay thanh niên kia thì giắt tẩu vào khố. Họ đi rất nhanh, chiếm toàn bộ mặt đường, người sau, người trước không ai che khuất ai. Chỉ có ông lão là đi không, hai thanh niên đeo ba lô bộ đội. Đàn bà và cậu bé đều đeo gùi, thứ gùi đan bằng mây tre gì đó lên nước nâu bóng. Chắc hẳn họ mang hàng hóa xuống Đông Hà, ngủ lại đó đêm nay. Mai bán hàng xong lại mua những thứ khác về. Nhìn phụ nữ ở trần có cảm giác là lạ. Họ lại còn đi rất mạnh mẽ, đung đưa . . .

- Mày nhìn gì mà ghê thế ?

- Thế mày bịt mắt lại đi !

  Lục và tôi mỗi thằng còn ăn hết hai thanh lương khô, uống đẫy nước vào thành ra buồn ngủ.
- Lục ơi, chui vào chỗ kia ngủ cái đi. Tôi buồn ngủ quá ông ạ !
- Tôi cũng buồn ngủ quá.

Hai thằng trèo lên một chút nữa thì tìm được bãi cỏ dưới bóng mát của cây lá ngái với lằng nhằng đám dây leo gì không rõ. Chỗ này hơi dốc nhưng có bóng mát, lại có bãi cỏ, hai bên còn thoáng gió. Nằm chỗ này cao, gần ta-luy đường 9, người đi đường chẳng bao giờ nhìn ngược lên đây mà lo. Còn chúng tôi muốn nhìn đường thì quan sát được hết cả một được đường quốc lộ dài và đường lên Cùa nữa. Thằng Lục đi ngoài, tôi dặn với theo bắt nó phải đi xa xa một chút và cẩn thận không lại dùng phải lá han thì . . .

Có lẽ chúng tôi ngủ đên hai tiếng. Mặt Trời đã chênh chếch về tây.
- Chỗ này mát quá, ngủ sướng thật. Tao chỉ hơi ngại rắn thôi. Mình ngủ không biết gì, nó đợp cho một phát thì xong. Nhổ rễ thôi !
- Thì nhổ.

Chúng tôi tụt xuống đường. Con đường vào Cùa là con đường nhỏ, cũng được trải nhựa nhưng lớp nhựa rất mỏng và bị bong tróc nhiều giống những con đường nhựa bỏ hoang lâu năm. Phần nhiều đường bong nhựa nham nhở. Có điều khác là đường này xe chạy liên tục. Chỗ nào còn mặt nhựa thì đều nhẵn nhụi và sạch bong. Tuy vậy, đất đồi ở đây chỗ nào xe chạy là thành đường. Đất đồi nâu đỏ lèn chặt trong một thứ đá miểng màu nâu rất cứng, mưa cũng không lầy mà nắng cũng ít bụi. Con đường dốc lên thoai thoải đến tận đỉnh đồi. Không có đoạn nào quá dốc cũng không có đoạn đường bằng. Đoạn đường này khá thẳng, cứ thoai thoải mà lên. Đỉnh đồi khá rộng và bằng phẳng. Đó là căn cứ Tân Lâm.

Đến căn cứ Tân Lâm rồi. Sao tan hoang hết cả ? Cái tháp canh không thấy đâu nữa. Còn dấu vết của rất nhiều lớp hàng rào nhưng không còn thấy hàng rào đâu. Tất cả đã được đào cắt và lấy hết đi. Thậm chí, các lô cốt bằng bao cát cũng bị phá tan hoang. Những bao cát còn lành lặn cũng được trút hết cát để lấy bao rồi. Kinh thật ! Bao nhiêu mìn các loại kiểu trang bị cho hàng rào điện tử McNamara (Mac-na-ma-ra), không biết khi rỡ lấy đồ có ai bị sao không ?

Nhớ lại, Đầu năm 1973, khi c20 về Trà Liên Tây, chúng tôi cũng ra sân bay Ái tử để lấy đồ về xây dựng nhà ở các tiểu đôi, hội trường của đại đội và nộp vật liệu cho sư đoàn bộ. Cả bộ đội và dân đều lấy. Không có gì có sức tàn phá mạnh như vậy. Chỉ có sức công phá của bom nguyên tử mới thổi bay được một căn cứ Ái Tử rất lớn, có cả sân bay như thế. Kìm cộng lực rất lớn, không chỉ đơn giản để cắt dây thép gai đâu. Chúng tôi còn cắt hai nhát ở hai mép của cọc thép dùng chăng dây thép gai rồi bẻ đi bẻ lại vài cái là gãy cọc. Nhanh gọn như như ăn gỏi.

   Ba rưỡi chiều hôm đó chúng tôi mới đến nhận lệnh của ban 2. Tư lệnh và bộ tham mưu cùng các đơn vị tham gia tác chiến đều đóng quân ở trong doanh trại của một đơn vị nào mà tôi không nhớ tên. Đơn vị này đã tạm chuyển đi đâu đấy để lấy chỗ cho diễn tập. Chúng tôi có nhiệm vụ vẽ toàn bộ sơ đồ căn cứ của "địch".

Sau khi nhận nhiệm vụ, chúng tôi được chỉ đường tới một ngôi nhà nhỏ, mái tranh, dứng bằng đất theo kiểu nhà ở đồng bằng bắc bộ. Ngôi nhà khá xa các nhà khác. Chỉ có hai đứa chúng tôi ở căn nhà đó. Nhà đơn sơ chỉ có hai cái giường tre và một cái bàn gỗ. Hai bên bàn là ghế tre đóng xuống đất. Giữa cái bàn và hai cái giường được ngăn bằng một tấp liếp.Có lẽ đây là nhà của y tá đại đội. Hai cái giường của hai y tá và cái bàn để khám cho anh em. Lúc đó không có tủ thuốc. Toàn bộ thuốc men đều trong túi của y tá. Nhưng cũng có thể đây là cái nhà gác của đơn vị vì nó ở rất xa các nhà khác. Như thế có vẻ hợp lý hơn.

Lục đi lĩnh cơm ở bếp của hậu cần. Tôi tranh thủ phóng bản đồ để sáng mai ra thực địa vẽ sơ đồ trận địa. May có cái bàn phẳng nên công việc rất thuận tiện. Lục lấy cơm về, nó nói:

- Nghỉ tay ăn cơm đã. Lính tham gia diễn tập được ăn tiêu chuẩn 9 hào (lúc đó tiêu chuẩn ăn của lính
là 6 hào 8, lính trinh sát chúng tôi được ăn tiêu chuẩn 7 hào 2, hơn lính khác những bốn xu một ngày).
- Sang nhề. Có nhiều nhúc không mày ? ("Nhúc" tiếng miền trung là thịt)

- "Cỏ nhục, cỏ cả cà cỏ đuôi" (có nhúc, có cả cá có đuôi – cá có đuôi để phân biệt với cà có cuống).

  Chúng tôi ăn xong thì trời vẫn sáng. Tôi tranh thủ khoắng nốt mấy đường, loáng một cái cũng xong. Hai thằng tôi lang thang trên đồi. Thung lũng Cùa rất lớn và bằng phẳng nằm lọt giữa tứ bề là núi thẳm, rừng xanh. Đất đồi ở đây trồng tiêu rất tốt. Tiêu Cùa thơm cay nổi tiếng. Nhìn xuôi xuống dốc theo hướng tây nam, một triền đất cứ thoải dần, thoải dần rất xa tới tận nơi trũng nhất của thung lũng. Đó là một cánh đồng lúa nước khá rộng. Xung quanh đồng lúa là năm bảy cái làng của cả người Kinh và đồng bào dân tộc.

Nghe nói có lúc cây cối xung quanh thung lũng bị thuốc rụng lá của Mỹ đánh trơ trọi hết. Giờ này cây cối đã trở lại um tùm. Tuy nhiên về sau này tôi được nghe những chuyện người dân vùng Cùa bị nhiễm chất độc da cam từ chất rụng lá. Có gia đình, các con sinh ra đều dị dạng, chỉ sót lại một người không bị. Người đó bỏ làng mà đi kiếm sống ở nơi khác. Anh không dám lấy vợ. Mãi sau có người thương mới lấy anh làm chồng. Hai người chẳng dám sinh con vì sợ sẽ sinh ra những đứa con giống như cô chú của chúng. Rồi chị cũng có bầu. Ngày chị sinh, anh không dám đến nhà hộ sinh vì sợ nhìn thấy con mình. Một nỗi ám ảnh kinh hoàng . . .

Những gì trên mặt đất đã được rửa trôi theo năm tháng. Nhưng không biết dưới mạch đất kia còn lại những gì ? Nó làm tôi nhớ đến chuyện nhiều người dân chết không rõ nguyên nhân ở thôn Trà Liên Tây. Một cái thôn bị lụt nước sông Thạch Hãn hàng năm, có năm gần tháng trời. Nước lụt cũng là nước ăn của bà con những ngày đó. Liệu có phải nó không liên quan gì đến những cái chết bất thường đó không ? Chưa ai trả lời được.

Bất chợt cảm thấy buồn. Phải rồi ! Mảnh đất này đã mấy đời nay đau đớn giãy dụa. Không gia đình nào yên ổn không người nào là không dính chiến cuộc, kiểu này hay kiểu khác. Từ thời ông bà tôi với cảnh người chết đói năm 45. Chuyện bà tôi kể, có thằng người bị đói, lả đi, dặt dẹo không biết đã bao nhiêu ngày. Đột nhiên nó vùng lên cướp cái bánh của người ta. người ta la hét, chửi bới nó rồi bỏ đi. Nó nhét vội vàng cái bánh cướp được vào mồm, nghẹn lên nghẹn xuống mấy lần. Nuốt xong cái bánh được một lúc thì nó lên cơn đau đớn vật vã rồi sùi bọt mép mà chết. Bà tôi bảo, người đói lâu ngày mà ăn ngay như thế là bục bao tử là chết. Mỗi lần kể chuyện này hai hốc mắt đục lờ không rõ lòng trắng lòng đen của bà lại hấp háy, từ đó nước mắt cứ lăn xuống hai gò má răn reo của bà. Bà tôi lấy vạt yếm chùi chùi, chấm chấm lên hai con mắt. Mắt bà tôi, đôi mắt của dân đồng chiêm chũng, ao đồng lẫn lộn. Cả làng "mắt toét ba vành sơn son".

Bố mẹ tôi thì lăn lộn ở Việt Bắc. Hai người gặp nhau trên chiến khu mà thành vợ chồng. Chả mấy khi được ở với nhau. Thế mà lại sinh ra tôi ở đó, có lẽ là để có người kế tục mà vật vã cho cái mảnh đất này. Bởi khi bố tôi vẫn còn lăn lộn ở B, mẹ tôi thì lận đận lo toan cho mẹ chồng và lũ em sơ tán thì tôi vào hàng ngũ của bao nhiêu người cùng thế hệ. Lại một thế hệ "xách súng ra đi".

Ôi ! Mảnh đất. Yêu hay đau ? Ghét và thương !

  Sáng hôm sau, hai thằng tôi với hai khẩu súng đeo vai đi lên trận địa. Tôi thì mang thêm giấy bút, bản đồ, ống nhòm địa bàn để tác nghiệp.

"Căn cứ của địch" đang được xây đắp bằng các bao cát và cũng sắp hoàn thành. Chỗ này đang đắp nốt lô cốt, chỗ kia đang chăng các loại dây thép gai. Có đủ các loại hàng rào từ hàng rào đơn, hàng rào bùng nhùng, rồi mái nhà và cũi lợn. Chiều sâu của cá loại hàng rào có lẽ lên tới năm chục mét (bây giờ tôi không nhớ chính xác nhưng lúc đó phải đo vẽ đầy đủ và chính xác). Từ chân đồi đến qua tuyến hang rào độ dốc không lớn. Từ các lô cốt con đầu cầu lên các lô cốt con phía sau dốc hơn một chút nhưng chỉ gần 30 độ . Đoạn từ lớp lô cốt thứ hai đến lô cốt mẹ ở trung tâm rất dốc. Tôi dùng địa bàn đo cẩn thận để đánh giá khả năng xe tăng có vượt lên được không. Đoạn này 40 độ, gần đến giớ hạn leo dốc của xe tăng và còn tùy vào chất đất. Có thể chỉ 40 độ thôi nhưng xe leo lên vẫn bị trượt. Ở trên tôi đã nói, đất vùng này là đất nâu lèn chặt trong đá dăm màu nâu rất chắc. Xe tăng dễ bám mà đất không bị lở tơi ra gây trượt cho xích.

Các lô cốt con kích thước như nhau chỉ quay hướng hơi khác nhau một chút. Kích thước lô cốt cỡ hai mét rưỡi. Lô cốt mẹ to hơn rất nhiều, kích thước lên tới bốn năm mét. Tất cả các lô cốt đều có lỗ châu mai hướng về phía ta sẽ tấn công lên. Vì làm lô cốt giả nên chẳng có cái nào có nắp, tất cả đều hở phía trên và hở cả phía sau. Nhìn phía trước thì y như thật nhưng lên đến nơi thì thấy rõ là đồ giả (bây giờ gọi là "hàng dỏm"). Giao thông hào được đào giữa các lớp lô cốt, cắt ngang đường mà xe tăng và bộ binh sẽ tấn công. Tất cả trận địa chỉ có mặt phía trước. Lên đến đỉnh đồi, chỗ lô cốt mẹ là hết. Đánh đến đó coi như thắng trận.

Thiết kế trận địa giả là ban tác chiến phòng tham mưu sư đoàn và đã được thông qua cả phòng rồi. Ban 2 cũng có hồ sơ trận địa rồi nhưng chúng tôi vẫn phải vẽ. Chắc là để xem trinh sát làm ăn thế nào thôi. Nhưng mà quá dễ đối với trinh sát vì cứ đi đàng hoàng giữa ban ngày, sờ vào tận nơi. Lấy thước mà đo kích thước, lấy bước chân mà đo khoảng cách các mục tiêu trong "căn cứ địch". Chuyện là vậy. Lục và tôi đo đạc cẩn thận. Tôi đánh dấu vào sơ đồ, xác định tọa độ lô cốt mẹ, phác qua hình dáng mấy cái lô cốt và hàng rào. Thế là xong. Còn lại mang về vẽ tiếp.

  Lục lại sang bếp hậu cần lấy cơm. Hai thằng tôi được chia một mâm riêng. Một xoong sáu đựng cơm có nắp. chồng lên trên là một xoong sáu đựng canh. Trên cùng là cái nắp xoong lật ngửa có hai ngăn để đựng ba bốn món thức ăn vừa rau, vừa thức ăn mặn. Chín hào có khác, cả canh là năm món. Cơm rất nhiều, hai thằng ăn không hết mặc dù cả Lục và tôi đều là những thằng miệng rộng, ăn rất khỏe. Ăn xong hai thằng lăn ra ngủ, sơ đồ, cảnh đồ, thiết đồ gì đó để mai nộp "các cụ" cũng không sao. Cái chính là phải vẽ thật đẹp, để cho biết thế nào là trinh sát trước các binh chủng khác. Thế thôi ! Còn cái hồ sơ chúng tôi nộp lên thì chẳng có ý nghĩa gì cho diễn tập.

Ngủ dậy, tôi bò ra trên bàn để vẽ. Đầu tiên là hoàn chỉnh cái sơ đồ. Lục làm cho tôi cái thước kẻ bằng gỗ. Không biết nó lột cái nẹp gỗ này ở chỗ nào mà ngon thế, vừa dài, vừa thẳng lại vừa mỏng. Xong việc nó ngồi gọt bút chì cho tôi và góp ý kiến cho các bản vẽ. Việc cuối cùng của sơ đồ là ghi tên người vẽ "TíchTườngNhưLệ và LưuXuânLục".

Xong sơ đồ, tôi vẽ thiết đồ mấy cái lô cốt. Lô cốt bao cát thì vẽ đại khái thôi, thế nào mà chả ra lô cốt. Nhưng tôi cố thể hiện mấy bao cát ở gần, vẽ sao cho thấy rõ các dợi dệt bằng nylon, rồi vờn cho bóng loáng như thật. Nhìn qua lỗ châu mai còn thấy vài cọng hoa cỏ may. Đúng là "hoa lá cành" một cách cố ý. Đểu thật !

Nhớ lại, ngày chúng tôi học binh địa ở d74 (tiểu đoàn trinh sát của cục 2), tôi vẽ cảnh đồ cũng khá lắm. Lão Hùng "đen", vừa là trung trưởng vừa là giáo viên rất thích thiết đồ tôi vẽ, lão hay cho điểm 10. Lão Hùng thích ở với mấy đứa tôi trong ngôi nhà lá vách đất chật chội của ông lão mù.
Ba thằng tôi SauChinbayMot, Thái "gẩu" và tôi đã chật, thế mà lão còn xông vào ở cùng. Lão này tính rất hay, rất lính tráng và vui vẻ. Ngoài giờ học, lão và chúng tôi trêu trọc nhau đủ thứ, cười đùa, đuổi nhau, đấm đá linh tinh xòe. Mà lão đấm đau đấy, không chạy nhanh thì oẹo vai, thót sườn với lão. Nhớ một lần buổi tối có phim chiếu ở sân bóng. Lão Hùng sốt ruột đi trước. Một quãng chẳng thấy chúng tôi đâu, đâm ra bơ vơ. Lão quay lộn trở lại để tìm bọn tôi, lại còn bịt mũi giả giọng, đứng ngoài hàng cúc tần hỏi vọng vào nhà xem thằng 6971 nó đi chưa. 6971 cũng bịt mũi trả lời lại "thằng 6971 nó đi với ông Hùng đe-en đe-en rồi !". Bọn tôi cười tóa lên. Lão Hùng nhảy phắt qua hàng rào, một phát đến sát ngay sườn bác 6971, bác này cũng nhanh, luồn ngay sau lưng cụ chủ nhà mù. Giằng co một lúc, cười ầm ỹ, rồi kéo nhau ra sân bóng.

Chúng tôi không lần nào gặp lại anh Hùng. Nghe có người nói, anh bị thương ở trong B, mất một chân.

  Nhiều thì giờ, cũng chẳng việc gì phải vội. Tôi mà làm nhanh quá, không khéo ban 2 thấy rỗi việc lại giao cho việc khác thì lại tối mày tối mặt. Chuyện đi tham gia diễn tập chỉ mất công đi bộ từ đơn vị đến đây, tôi chỉ coi đây là một chuyến đi chơi. Lên đây chủ yếu là nghỉ ngơi. Ở c20 bây giờ đang phải tập tành rất vất vả. Sao mà người ta bịa ra lắm thứ thế để mà bắt lính tập hết ngày này qua ngày khác. Nào là đi khom, lăn lê bò toài, dò gỡ mìn, chui luồn hàng rào. Ở đơn tôi còn phải tập hai cái môn rất đặc biệt, không thấy ở đâu nói đến.

Thứ hất là loại "hàng rào chống xung phong" hay là "hàng rào vướng chân" (hình như tên gọi là như thế). Hàng rào này rất thấp. Chỉ cao cách mặt đất chừng 20 cm. các cọc căng dây thép gai khá gần nhau, cách nhau chừng bảy tám mươi phân. Muốn vượt qua hàng rào này không phải chui rào như bình thường mà phải ngồi trên đầu cọc và bước ngồi từ đầu cọc này sang đầu cọc kia. Hai chân đặt trên hai đầu cọc, tay phải cầm súng, tay trái nắm vào một đầu cọc khác. Mắt nhìn thẳng phía trước, thường xuyên quan sát mục tiêu. Thế mà khi đó giáo án lên lớp của giáo viên rất bài vở, bắt chúng tôi phải tập đúng "yếu lĩnh". Động tác này gọi là đi ngồi. Bài tập này do anh Thêm xê phó phụ trách. Bọn tôi hay trêu anh Thêm nên gọi là động tác "ngồi ẻ" ("ẻ" là là một từ miền trung).

Thứ hai là, tập đi ngồi khom. Tư thế ngồi xổm kiễng trên đầu bàn chân, tay phải xách súng. Bụm năm đầu ngón tay cái lại, cắm năm đầu ngón tay xuống đất. Từ từ bung năm đầu ngón tay ra gạt lá khô, lá mục gì đó để dò mìn. Được một vết hình tròn. Từ từ đưa một chân lên đặt đúng vết đó. Tay trái lại tiếp tục dò một vết như vậy cho chân bên kia, rồi lại đặt chân bên kia lên. Cứ như vậy mà tiến.

Hai động tác trên không khó nhưng cứ tập suốt buổi như vậy, kiễng trên nửa bàn chân nên rất mỏi bắp chân và đùi. Không khác gì tra tấn.

Đợt này chúng tôi đi diễn tập chốn được tập võ. Khi mới vào trinh sát, nghe nói đại trưởng giỏi võ nghệ, lính tráng rất nể. Ai cũng háo hức tập võ vì học mãi đi khom, dò mìn, cởi trần bôi nhọ nồi lá khoai rét căm căm chán quá rồi. Ngày đầu tập võ ai nấy nô nức. Bát đầu là 4 tư thế ngã. Tập đi tập lại hàng tuần. Sáng ngủ dậy đau ê ẩm hết cả "các cơ quan đoàn thể". Sau đó học các thế tấn mất hàng tuần. Chán chết, đau hết hai chân. Mãi rồi cũng đến lúc tập đánh đối kháng. Trời nắng chang chang, lôi nhau ra bãi quật nhau huỳnh huỵch. Thằng kia mà kém, nó quật mình không đúng động tác , ngã đau, có khi gãy xương sườn, hay sái quai hàm. Tập võ là mệt nhất, lại còn bị đau. Bây giờ tập hết trò rồi lại quay lại tập võ, ai cũng ngán. Chúng tôi được đi diễn tập, "oai" này, ăn ngon này, lại khỏi phải tập võ. Đúng là đi an dưỡng.

   Hôm sau, sau khi ăn sáng, tôi chọn một vị trí cách hàng rào chừng hai trăm mét để ngồi vẽ cảnh đồ. Vị trí này có độ cao ngang với các lô cốt tầng ngoài cùng. Đã biết trước vị trí cửa mở nên tôi chọn vị trí này để cửa mở nằm thẳng giữa bản vẽ. Trông cái quả đồi này xấu quá, cây cối lại toàn lúp xúp xen lẫn cỏ, lên hình không thể đẹp được. Đã có chủ định vẽ lấy đẹp để lên gân với các thủ trưởng (lúc đó tôi mới hơn hai mươi tuổi mà) nên tôi chọn khung hình với sang hai bên và với lên cao, phía sau một chút.

Tôi dơ cái thước milimet để đo độ cao các mốc quan trọng rồi tính tỷ lệ cho vừa khuôn hình. Từ các mốc đo tôi phác sơ lược toàn bộ cảnh. Bản phác họa sơ lược đã xong, nhìn thấy bố cục trông cũng được. Cái trò vẽ vời này, lúc đầu mà không ưng ý thì lúc vẽ rất chán, không thể kiên trì được. Đối với tôi, vẽ phác cảnh là quan trọng nhất. Thấy được được thì mới có hứng để vẽ chi tiết.

Tôi vẽ theo đúng bài bản, "gần trước, xa sau", "gần tỏ, xa mờ", "trái trước, phải sau", . . . Mặt Trời đang ở sau lưng chúng tôi, gọi là vẽ suôi nắng. Quan sát rất rõ chi tiết và rõ chiều sâu của cảnh. Nắn nót cũng phải mất đến 3 tiếng đồng hồ mới tạm xong. Kể ra thế này mà nộp thì cũng được rồi nhưng tôi sẽ mang về phòng để vờn lại cho kỹ hơn. Mấy cái cây có tán lá ở dãy đồi phía sau và hai bên quả đồi chính là chỗ tôi cố tình vẽ lấy đẹp cho bức cảnh.

Sau khi ăn cơm trưa xong, tôi ngồi tại nhà tiếp tục tỉa tót, gọt dũa lại các đường nét cho sắc. Sau đó tôi dùng ánh sáng tạo chiều sâu cho cảnh. Chỉ cần sửa lại độ đậm nhạt của các chi tiết là trông các các khu vực và địa vật là đã thấy cảm giác không gian. Để nổi khối các đám cây cối và lô cốt, tôi lia vài vết bóng đổ về phía sau. Cuối cùng, để cho có cảm giác cảnh có chiều sâu hút về phía chân trời sẽ phải tạo bầu trời và một điểm hội tụ tại chân trời. Đặt bẹt bút chì xuống tạo những vệt chì mờ mờ các đường cong thu dần về điểm hội tụ. Sau đó lấy giấy xoa đều lên các đường này. Những chỗ vờn như vậy thường người xem không nhìn thấy nhưng cái nền ấy lại chính là bầu trời. Không có bầu trời thì không bao giờ thấy cảnh sâu thực sự. Thằng Lục ngồi xem tôi vẽ rất chăm chú. cuối cùng nó phải bảo:

- Ông vẽ đẹp thật đấy !

- Thì tôi cố tình mà. Để tôi thả vào vài đám mây nữa là xong. Mà bây giờ đem nộp, nhỡ ban 2 lại bắt
làm thêm việc khác thì mệt lắm. Tôi định để đến chiều muộn mới nộp. Lúc đó các thủ trưởng đã nghỉ
ngơi nên ít nghĩ đên công việc để mà giao thêm.

- Ừ ! hay đấy. Nhưng mà mày đểu thật !

- Còn sớm, chưa đến giờ lấy cơm đâu. Đi hái sim trái mùa đi !

- Ừ thì đi !

  Chúng tôi được nghỉ chơi một ngày. Công binh đang lắp tên lửa phá rào FR-71. Vệ binh sư đoàn đi dọc các đỉnh đồi, núi cắm cờ cảnh giới. Kế hoạch tác chiến đang được rà soát lại lần cuối. Vì bắn đạn thật nên không có quân xanh như diễn tập thông thường. Sẽ có pháo 85, cối 120 của sư đoàn, cối 82 của trung đoàn và cối 60 của tiểu đoàn. Đơn vị bộ binh cũng bố trí ở bên này đồi khá xa cửa mở để bảo đảm an toàn tuyệt đối. Tên lửa phá rào được điểm hỏa điện và ròng dây rất xa đến tận đồi bên này. Giờ G là 7 giờ sáng hôm sau Trận đánh tập vào ban ngày để các thủ trưởng có thể quan sát đầy đủ trận đánh hợp đồng binh chủng.

Sáng hôm sau, chúng tôi ăn sáng sớm hơn thường lệ. Ăn xong, Lục và tôi đi ra chỗ quan sát. Chỗ này chúng tôi đã chọn sẵn, chỉ có hai thằng, ở xa các thủ trưởng. Hai thằng có mỗi cái ống nhòm nhưng có lẽ chẳng cần ống nhòm. Ban đầu chúng tôi ở cách xa đến 500 mét. Sau khi pháo bắn xong sẽ tiến lên cho gần hơn.

- Mày có hồi hộp không ?
- Hơi hơi. Thế mới lạ. Lúc bom pháo dội lên đầu thì chẳng hồi hộp, bây giờ đánh trận giả lại hồi hộp.
- Ừ ! Có lẽ lâu ngày không nghe tiếng nổ lớn lại phải chờ đợi nên hồi hộp.
- À, mà bộ binh nó bắn đạn giấy hả mày.
- Không. Bắn đạn thật hết. Cả 12 ly 7 cũng bắn đạn thật. Hôm kia tao nộp tài liệu, bọ Luyến bảo:
"chúng mày có thích lên khán đài thì lên bên này mà xem". Tao bảo:"Báo cáo thủ trưởng, thôi ạ. Chúng
em ở bên kia cũng được". Bọ Luyến dặn "Chúng mày không được liều đến gần quá, bắn toàn đạn thật
đấy !"

Mới gần 7 giờ mà đã tan hết sương mù, có lẽ hôm nay nắng to. Trời rất đẹp, không có ngọn mây nào che dãy núi phía sau. Nắng bắt đầu chiếu từ sau lưng chúng tôi về phía các quả đồi trước mặt. Mọi thứ đều rõ mồn một nhưng tôi vẫn dùng ống nhòm để dòm kỹ lại một lượt. Tôi chuyển ống nhòm cho Lục và bảo:
- Sắp bắn rồi đấy, mày xem đi !
- Không cần đâu, tao nhìn rõ lắm. Nhìn ống nhòm nhức mắt lắm.
- Mày không quen nhìn nên thế thôi. Tao bảo nhé, Mày bịt ống kính bên này lại rồi điều chỉnh kính
bên kia cho đến khi rõ nét nhất thì dừng lại, rồi mày lại bịt kính bên kia mà chỉnh bên này.
- Tao biết rồi, học mãi còn gì nhưng mà tao không thích, trừ khi là rất xa tao mới dòm, còn không thì
nhìn mắt thường vẫn xướng hơn.

Thằng Lục nó cao hơn tôi và béo lẳn, con nhà nông dân thuần chất mà sao da nó trắng trẻo, nhẵn nhụi như da công tử. Lục có đôi mắt lá dăm như mắt con gái, đuôi mắt rất dài. Ban ngày mắt nó rất tinh và nhanh tôi phải chịu thua nó nhưng nó rất nể tôi khi đi đêm. Có thể ban đêm mắt tôi cũng không hơn nó nhưng tôi đi đêm nhiều hơn nó nên có phản xạ phán đoán địa hình, địa vật lờ mờ. Có thể tôi quen với cách rón chân, khi bước này chưa tiếp đất thì chân kia đã sẵn sàng điều chỉnh thăng bằng. Phải lấy thăng bằng trở lại rất nhanh khi có cảm giác bị lệch trọng tâm. Cái trò này giúp tôi đi qua suối rất nhanh. Khi tới bờ suối, có đứa dò dẫm nhảy từng hòn đá một. Khi tôi qua suối, bao giờ cũng quan sát một chút rồi bắt đầu chạy trên các hòn đá, liên tục từ hòn này sang hòn khác. Đơn vị tôi cũng có nhiều thằng làm như tôi. Thằng Lục, tính cẩn thận, nó không làm được như vậy.

Lục là lính tiểu đoàn 19 đặc công. Khi tiểu đoàn 19 giải tán, khá nhiều anh em chuyển về xê hai mươi chúng tôi. Hôm qua được nghỉ cả ngày. Lục và tôi cởi trần mà tập võ với nhau. Nó biết nhiều "miếng", chủ yếu là những miếng quật ngã đối phương. Nó dạy tôi tất cả những miếng mà nó biết. Tôi thì rất chịu khó tập. Thực ra thì cả hai thằng tôi võ vẽ được mấy tý đâu, chẳng qua là tuổi hai mươi, biết một tí đã nho nhe. Đến chiều, Lục bảo tôi hai thằng thử đấu xem. Thấy nó nhiều miếng quá, tôi hơi ngại nhưng chả lẽ lại từ chối. Hai thằng đứng thế thủ, chưa thằng nào dám vào. Tôi biết, mình mà nhào vào thế nào nó cúng giở một trong những miếng quật ngã. Phải chơi nó thật nhanh, rồi nhảy ra ngay. Nghĩ vậy, tôi đảo người qua bên phải, rồi bên trái, rồi nhảy chân trái qua bên phải (gọi là sàng xê), chân phải co lên, quay người 180 độ, thằng Lục ở sau lưng tôi rồi, tiện chân phải đang co đạp luôn vào đầu gối phải thằng Lục. Nó mất thăng bằng, hơi loạng choạng. Vẫn tiện chân trái làm trụ, tôi rút chân phải về, quay 180 độ, giữ thế thủ. Thằng Lục bị bất ngờ, nó chưa bao giờ thấy tập võ đánh nhau lại có kiểu sàng xê. Nó học rất nhiều các miếng, nếu tôi túm tay nó hay túm cổ áo nó hay ôm vào nó bất kể chỗ nào thì nó quật tôi chết. Nhưng mà nó cũng dát. Chỉ mới thế nó đã bảo thôi không chơi nữa. Nó bảo nó tưởng đùa chứ ai lại chơi thật. Ngay sau đó tôi nghĩ, mình cũng dở hơi và nói vớt vát với nó rằng tôi cũng chỉ đùa, hơi mạnh một tý, xin lỗi.

Tuổi hai mươi thật là hiếu thắng. Lúc đó tôi cũng hơi hý hửng vì đã cho thằng đặc công biết thế nào là trinh sát. Thật là trẻ con, ẩm ương phải không anh em ?

  Đúng 7 giờ. Uỳnh . . . xoạt . . . xoạt . . . Quả tên lửa phá rào vọt lên, kéo theo một vệt khói trắng, nó lao qua các lớp hàng rào, trông có vẻ không nhanh lắm, rồi chúi xuống đất phía bên kia hàng rào. Khi quả tên lửa vừa chạm đất, một loạt bụm lửa lóe lên kèm theo sau là những tiếng nổ rền liên tiếp "như pháo rang". Khói bụi, đen lẫn trắng, nâu lẫn vàng bốc lên cùng đất đá, cây que, mù mịt cả một đám, che khuất cả hai cái lô cốt đầu cầu ở giữa. Xa quá nên tôi không nhìn thấy hàng rào bị bay lên hay bị đánh hất đi đâu.

Vài giây sau, tiếng nổ đầu nòng cùng . . . cùng . . . cùng . . . của mấy khẩu pháo 85 từ trận địa nằm phía sau lưng chúng tôi, khuất sau đồi, đồng loạt cất lên. Tiếng đạn chi . . u . . chi . . u . . . bay qua đầu rồi nổ oành . . oành . . . trên đỉnh đồi mục tiêu, hơi lệch sau lô cốt mẹ một chút. Chỉ vài giây sau, pháo 85 bắn cấp tập. Từng bụm khói bốc lên thành các nấm thẳng đứng, khá dày đặc. Chiu chiu, oành oành liên tục. Không biết trinh sát pháo ở đâu mà họ chỉnh pháo liên tục. Điểm nổ của đạn cứ dịch dần, dịch dần về gần hơn, ban đầu ở phía sau lô cốt mẹ, bây giờ đã quét đến các lô cốt phía trước. Pháo 85 bắn chừng 5 phút thì ngừng. Tiếng súng bỗng im bặt.

- Sao không thấy động tĩnh gì nữa hả mày ?
- À ! Cối 120 sắp bắn đấy. Nhưng theo kế hoạch phải chờ chừng 5 phút cho khói tan hết mới bắn. Có thế, các thủ trưởng mới quan sát được hiệu quả của từng loại súng. Mày cứ chờ đi, làm gì mà sốt ruột. Hôm kia, tao nộp tài liệu xong, ngồi chầu rìa bọ Luyến đánh cờ với bọ Kim. Hai bọ vừa đánh cờ vừa trêu chọc nhau vừa nói chuyện diễn tập nên tao biết.
- Bọ Luyến thì tao chưa tiếp xúc, nhưng bọ Kim thì tao biết rồi.
- Bọ Kim cũng mới từ trinh sát 101 lên ban. Người thì nhỏ, nói giọng kim, nghe cứ láu ta láu táu. Lúc đánh cờ mới là hay nhất. Tính ai thế nào, cứ đánh cờ là bộc lộ ra hết. Bọ Luyến liên tục nhổ râu, miệng thì liên tục cười khảy. Bọ Kim thì đánh cờ chộp, xong lại xin hoãn, hoãn đi hoãn lại. Bọ Luyến chỉ nhổ râu và nói "Cái thằng này vừa đái vừa run, nào đi chắc chưa ? Sợ quá rồi hả !" Bọ Kim lúc nào cũng chơi tấn công, sẵn sàng hy sinh xe, pháo, mã, chỉ nhằm chiếu hết cờ. Lúc được nước chiếu hết cờ, bọ Kim cầm quân cờ đập xuống "ăn quân" chát một phát rất sướng và hét rất to: "Nhì !". Bọ Luyến vào thế bí nên lừ lừ, không diễu bọ Kim nữa mà suy nghĩ rất căng. Thể nào cũng tìm ra sơ hở của bọ Kim, mặt bọ giãn ra rồi cũng cầm quân cờ giáng xuống rất mạnh: "Này thì . . . nhì này !"

Cốc . . . oành . . ., cối 120 bắt đầu bắn. quả đạn đầu tiên gần trúng lô cốt mẹ. Đến quả thứ hai thì tọt luôn vào lô cốt. Giá lúc đánh nhau thật mà được như thế thì tốt quá. Cối 120 ở phía sau khán đài của các thủ trưởng thì phải. Họ nhằm từng lô cốt một mà điểm chỉ. Thường thì vài bốn quả đạn thì trúng vào giữa mục tiêu. Đạn cối bay không nghe tiếng rít như pháo. Nghe cốc một cái, lúc sau thấy oành . . . Mặc dù sức công phá của đạn cối 120 chẳng kém gì pháo nòng dài 85 nhưng sao nghe vẫn có vẻ hiền hơn. Nó không có tiếng rít đe dọa, uy hiếp tinh thần như pháo. Cối bắn cấp tập cũng chừng 5 phút.

Trong lúc cối bắn chúng tôi thấy tiếng xe tăng gầm rít di chuyển ở phía sau. Cái giống T54, không biết thiết kế ống xả kiểu gì mà nghe tiếng gầm rất lớn. Tôi nhớ có lần hỏi lính xe tăng chuyện đó, họ bảo họ bỏ bớt phần giảm thanh đi cho nó thoát máy đồng thời dùng tiếng nổ to như thế để uy hiếp tinh thần đối phương ?! Tôi thấy M41 và M48 của Mỹ chạy trên đường nhựa rất nhanh vả rất êm, tiếng nổ cũng chỉ to hơn tiếng GMC một chút thôi.

Vài phút sau, cối 82 nổ súng. Trận địa cối ở giữa khán đài của các thủ trưởng và mục tiêu, cách mục tiêu 200 đến 300 mét. Ở cự ly này , chân bệ chắc chắn, lại không có địch phản pháo thì giót cối cũng như giót nước vào cốc thôi. Cối 82 bắn rất chính xác, không thể chê được. Chúng tôi quan sát được cả trận địa cối, từng quả đạn mà họ giót lên. Bụm khói trắng bốc lên từ miệng súng thì liền theo sau là tiếng cóc . . . đầu nòng, vài giây sau mới thấy đạn nổ ành . . . ở mục tiêu.  

  Tiếng xe tăng tiến đến phía sau lưng chúng tôi ngày một gần. Cối 82 rót cấp tập cũng chừng 5 phút.

Gió tạt nhẹ từ phía tây làm cho khói bay về phía chúng tôi. Đã bắt đầu thấy mùi khói thuốc nổ. Một cảm giác rạo rực, nôn nao trỗi dậy từ đâu đó của bom pháo vùi dập suốt ngày đêm, ngày này qua ngày khác. Sao những ngày đó mình bình thản, không có cảm giác bồn chồn như lúc này. Bất giác cảm thấy ngàn ngạt, bức bối tràn qua trong cảm xúc. Chẳng chợt nhớ mà chi, bỗng thấy gai người.

Ba chiếc T54 đang tiến lại gần chúng tôi. Tiếng gầm gào của xe tăng thật là kinh khủng. Chẳng trách bọn địch hễ nghe tiếng T54 là khiếp đảm. Đội hình ba chiếc tăng làm thành chữ V. Chiếc ở giữa đi đầu, hai chiếc hai bên chạy sau một chút. Đúng đến ngang tầm chúng tôi ngồi, cả ba chiếc nhất loạt dừng lại. Chiếc tăng gần chúng tôi nhất chỉ cách tôi trên chục mét, nó kêu vài tiếng xạch . . . xạch. . . rồi chết máy. Thì ra đây là điểm "dừng ngắn bắn" của xe tăng. Chiếc đi đầu đã chỉnh pháo xong. Một tiếng nổ chát chúa "tùng . . .", đã thấy lô cốt số 3 bên phải cửa mở nổ tung," . . . oành . . . rạt rạt rạt", tiếng vọng chạy rần rần trong núi. Tăng bắn gần quá làm tai tôi bị ù, phát ra tiếng kêu i i, khỉ thật ! Hai thằng tôi bịt tai và theo dõi chiếc tăng bên phải nổ súng, "tùng . . . oành", chiếc lô cốt thứ tư bên phải bị tung lên. Chiếc tăng gần tôi bắn sau cùng. Phát đạn sạt qua lô cốt tiền tiêu số 1 và nổ ở phía sau. Chiếc tăng đi đầu đang chỉnh pháo vào lô cốt số 2, bên trái cửa mở. Chỉ một phát, lại trúng mục tiêu. Có vẻ như hai chiếc tăng đã hoàn thành nhiệm vụ đang chờ chiếc xe gần tôi bắn nốt lô cốt số 1. Hơi chậm một chút có lẽ do phát đầu bắn trệch nên phát này ngắm nghía kỹ càng. "Tùng . . . oành . . ." Chiếc lô cốt xụm xuống. Không biết chiếc xe này nổ máy như thế nào ? Tôi hồi hộp chờ xem ba chiếc xe phối hợp ra sao. Không ngờ, chỉ đề "rầ . . .m" một cái là máy đã nổ ngon lành. Tôi chưa thấy ô tô nào đề mà nổ máy nhanh ngay tức thì như vậy. Động cơ xe tăng công suất rất lớn mà đề nhanh như vậy thì chắc là ac qui phải cực mạnh.

Ba chiếc tăng tiến thêm chừng trăm mét nữa thì dừng lại bắn loạt thứ 2. Lần này, mỗi chiếc chỉ bắn một phát là tan ngay ba cái lô cốt ở tầng hai. Bắn xong chạy tiếp. Bây giờ xe tăng vừa chạy vừa bắn đại liên. Tiến thêm một đoạn nữa, họ lại "dừng ngắn bắn". cả ba chiếc tăng đều ngắm bắn vào lô cốt mẹ. Lần này cũng vậy, chiếc đi đầu vẫn bắn nhanh nhất và lại trúng mục tiêu. hai xe kia bắn chậm hơn nhưng cũng trúng vào lô cốt mẹ. Ba chiếc tăng tiếp tục tiến, vừa chạy vừa bắn đại liên, nhưng lần này chạy chậm hơn. Họ chờ bộ binh cùng xung phong. Không thấy có cối 60 bắn như các thủ trưởng nói chuyện hôm trước. Bộ binh đang chạy bộ xung phong. Một cánh vọt lên từ phia trước trận địa cối 82, cách lô cốt đầu cầu số 4 bên phải khoảng ba trăm mét. Một cánh nữa vọt lên từ phía trước chúng tôi. Đúng là ở khoảng cách đó thì rất an toàn. Nếu là đánh thật thì bộ binh đã phải áp sát gần cửa mở từ trước giờ G.

Lục và tôi cũng "nhổ trại" chạy phía sau xe tăng một đoạn xa, vừa chạy vừ theo dõi trận chiến. Khi ba chiếc xe tăng tiến đến cửa mở cũng là lúc bộ binh vừa kịp chạy tới bám theo phía sau. Trên đường tiến, họ vừa chạy vừa bắn AK và bây giờ chạy chậm theo xe tăng tiếng AK càng rộ lên. Không thấy B40, B41 tham chiến (hay là tôi không nhớ ?). Chiếc tăng đi đầu vượt qua cửa mở, hai chiếc kia đi sau theo đội hình hàng dọc. Đến tầng lô cốt thứ 2 thì hai chiếc đi sau rẽ về hai phía. Chiếc đi đầu tiếp tục tiến đánh lô cốt mẹ. Khi xe tăng trèo lên áp sát vào lô cốt mẹ trên đỉnh đồi, một chú bộ binh bung cờ ra. Lá cờ được cắm vào lô cốt mẹ, đánh dấu trận chiến đã thắng lợi.

Cái đỉnh đồi bé con con làm cho chiếc xe tăng đậu ở đó nom rất chênh vênh. Chiếc xe vừa bị dốc ngược lên, vừa bị nghiêng về một bên. Lính tráng tranh nau chạy lên đỉnh đồi. Cả một trung đội hoan hỷ quay về phía khán đài khua tay, huơ mũ mừng chiến thắng !

(Hết chuyện "LÀNG QUẤT XÁ")  

* Chuyện bên lề của các bác cựu binh: 

-1. Xin góp một Kỷ niệm đẹp .

Ngày x..ngày xưa , ( hình như cuối mùa khô 72 ) toán trinh sát pháo binh D42 gồm 5 người chúng tôi đi luồn sâu ,tham gia đánh Long Chẹng
Xiêng Khoảng .Tôi còn nhớ rõ buổi chiều ấy ...Rừng già ẩm ướt , vào khoảng trời vừa tắt nắng , Trên nền rì rào của tiếng rừng là tiếng máy bay chỉ điểm eo óc , thỉnh thoảng chen tiếng ụt ụt của đạn 20 ly từ xa , tiếng bom ùng uỳnh vọng lại ...Con đường mòn dưới tán cây rừng rầm rập lính ta đi vào ( bây giờ hình dung lại mới thấy đẹp quá ! ) Rất nhiều người đi chân đất,ba lô vuông , dáng thiện chiến lắm . (Thỉnh thoảng cũng có toán đi ngược lại :hối hả là những cáng thương binh , còn lại là cáng tư sĩ ,tăng bó kín gọn gàng theo dáng người ,,,)
Chọn chỗ phăng phẳng một tí , chúng tôi dừng cho bữa chiều và cũng là bữa gạo cuối cùng dành dụm của một chuyến đi dài .Nấu cơm ,không đáng nói nhiều : Dùng dao găm chẻ lõi của một cây to thật khô - phải chẻ nhỏ như đóm ấy , ba hòn đá xanh cụ kê lên , dùng một mảnh ni lông dày ( trữ sẵn ) làm vung nồi ...Trời ơi ! cơm ở chiến trường kiểu gì cũng ngon quá ! Bữa ấy của chúng tôi cũng vậy , chưa ăn đã thấy miệng ứa nước ...cái dạ dày lép như cố chen lên cổ để đón...Họ đi tấp nập qua , cũng mời một câu cho phải phép lấy lệ :" Cơm các đồng chí nhá a ..á ! " Chẳng ai ngờ : quá chúng tôi khoảng 30 m một cậu dáng trẻ trung nhanh nhẹn tách ra "ấy ấy, đợi em một tí nhé e.. é ", rồi hạ ba lô xuống , Rồi bẻ hai nhánh cây rừng thay đũa , rồi cậu tân binh ( ấy là tôi đoán thế ) ăn với chúng tôi vui vẻ ,tự nhiên như cùng một tiểu đội vậy ... ...
Hôm 10/4/10 vừa rồi ,tôi về Thường Tín được găp lai dăm đồng đội cũ nhân kỷ niệm ngày nhập ngũ 10/4/68 của họ .Bữa trưa cơm gà cá gỡ nào bia nào rươu...tại nhà anh Thụy ,với đông con cháu của gia đình anh Thụy vây quanh ,Vui quá ! Có 2 người nữa có mặt trong bữa cơm chiều tôi vừa kể trên...Râm ran hàn huyên và kỷ niệm ấy cũng được nhắc tới ." Hôm ấy nó làm mình choáng !" , " Nó tự nhiên như ruồi ấy nhỉ !?" , "Đâm ra mình bị đói " , " không biết bây giờ nó ở đâu nhỉ !? " ," Có khi nó tèo rồi cũng nên " , "Đúng là gặp ngay một ô.thớt trưởng "...Rồi chúng tôi cười ha hả ...

Mấy con người ấy- chúng tôi : bây giờ mỗi người mỗi hoàn cảnh , mỗi mức sống , mỗi tính cách ... Cũng khác nhau nhiều , Nhưng chúng tôi gật gù và đều phải công nhận một sư thật với nhau rằng :Chưa từng một lần chúng tôi nghĩ xấu về cậu lính trẻ đó - kể từ bữa cơm chiều dọc đường chiến dịch ấy đến bây giờ và chắc chắn sẽ nhiều năm sau nữa !...

-2. Chuyện giống như của bác thì chúng tôi gặp rồi , anh em mình cả họ đói và thiếu chất khi ở trong rừng lâu ngày nên cứ đâu có thể ăn được là cứ tự nhiên hơn ruồi , anh em lính cả chia sẻ với nhau chút ăn uống ai lại nghĩ xấu về nhau .

Lần đó chúng tôi gặp một đơn vị công an vũ trang từ giáp biên giới Thái lan rút ra , anh em ai cũng da xanh như tàu lá chuối non , thấy chúng tôi đang ngồi ăn cơm theo từng B của mình , cơm thì chẳng có gì ngoài cá khô kho với đầu đuôi cá nấu canh chua lá rừng họ hành quân qua liền hỏi :
- Các bác ăn cỗ đấy à ?
- Không , cơm thường hàng ngày thôi có gì đâu ?
- Bọn em 6 tháng nay chỉ có cháo với muối chẳng có gì cả , các anh sướng thật .
- Thế thì ngồi xuống ăn cùng chúng tôi đi .
Họ tự nhiên như người nhà ngồi xuống móc ba lô lấy bát đũa rồi ngồi ăn , các B khác cũng mời số anh em CAVT khác cùng ăn , thấy họ ăn nhiệt tình quá chúng tôi lặng lẽ nhường bằng lý do đã ăn no rồi . Ăn xong anh em CAVT đó ngồi lại uống nước một lúc nữa rồi chào tạm biệt chúng tôi khoác ba lô hành quân ra tuyến ngoài .

Chúng tôi thấy thương họ , họ phải chịu nhiều khổ cực gấp nhiều lần chúng tôi lúc đó , nhìn người thì biết gày đến mức không thể gày hơn được nữa , da dẻ xanh mét ai cũng có cái ba tong làm gậy chống mà đi , đường thì trèo đèo lội suối , chẳng ai coi thường hay kinh khi họ cả , họ đã làm được cái việc gấp chúng tôi cả trăm lần , người lính chúng ta là như vậy , khó khăn cùng gánh vác ngọt bùi cùng sẻ chia và đó cũng là chuyện thường của lính thôi . 

- 3. Hôm trước đọc bài bác LXT viết về Hà Nội tháng 12 trong B52 của Mỹ, tôi cũng dự định viết chút ít về những ngày đó, dù mình ở Thạnh Hãn. Hôm nay nhân 10/10, viết vừa xong. Xin gửi chia sẻ lại những ngày chiến trường với các bác. Bài hơi dài, phía sau lại có phần văn nghệ chút không rõ có được gửi ở đây không. Tôi chia làm ba phần. TLT.

--

Quảng Trị và Hà Nội cuối 1972

Sau khi quân ta rút khỏi thành cổ Quảng Trị đêm 15/9 và dự kiến đưa quân qua chiếm lại thị xã tối 16/9 của mặt trận được hủy bỏ một phần dựa trên báo cáo của trinh sát sư đoàn, ngày 19/9 tiểu đội tôi được rút về nghỉ ở hậu cứ của đại đội.

Vào chiến trường cuối tháng 6, trinh sát sư đoàn chia thành nhiều bộ phận đi khắp Quảng Trị, riêng tiểu đội tôi vào tham gia chiến đấu bảo vệ thị xã. Tuy chủ yếu đóng ở Nhan Biều cả hai tháng từ giữa tháng 7 cho đến khi về hậu cứ, số bom đạn chịu chưa thấm vào đâu so với các đơn vị đánh trong thị xã, tiểu đội tôi hình như cũng "dày dạn chinh chiến" nhất trong cái đại đội trinh sát trẻ măng của sư đoàn. Ngày về cứ, trong mắt lính tráng đại đội chúng tôi như đã là những gã trinh sát thực thụ.

Quãng ba tuần sau (quanh 10.10.1972), tôi nhận được lệnh xa tiểu đội lên sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn. Sở chỉ huy tiền phương đóng ở một vùng đồi cây lúp súp, nằm trên quãng đường từ sở chỉ huy cơ bản đến thị xã. Các bộ phận chiến đấu của sư bộ đều có mặt ở đây, ban trinh sát có một hầm gồm một anh trên ban và tôi là lính từ đại đội. Việc chính của tôi là hằng ngày nhận điện thoại của tiểu đội trinh sát kỹ thuật (chỗ anh Tỉnh, Thân, Vinh, Duyên, ...) báo cho các tọa độ bên ta địch sẽ B52 hay pháo trong vòng một vài ngày tới. Sau đó tôi phải tra trên bản đồ xem đơn vị nào đóng ở vùng các tọa độ đó, và gọi điện báo cho họ. Cạnh hầm ban trinh sát là hầm ban pháo binh. Trưởng ban pháo binh là đại úy Bích, người thấp nhỏ và đã có tuổi, trực tiếp chỉ huy ở đây.

Sau một tháng ở sở chỉ huy tiền phương, giữa tháng 11 tôi lại được lệnh đưa tiểu đội về lại vùng thị xã, ở bờ Tây sông Thạch Hãn, phía Bắc thôn Nhan Biều chừng một cây số, bên trái là thôn Minh Hương và phía bên kia sông hình như gọi là Cổ Thành. Nhiệm vụ của tiểu đội là theo dõi tình hình địch phía bên kia sông. Lúc này đang mùa mưa. Nước sông Thạch Hãn dâng cao. Đất sũng trong nước. Lính tráng suốt ngày múc nước trong hầm đổ đi. Một sáng thức dậy sau đêm mưa, nước từ đất ngấm ra hầm rất nhanh múc không xuể, đành phải ngoi lên chịu pháo. Tụi tôi phải bỏ các hầm trong khu vườn lên đào lại hầm trên mấy nền nhà cao.

Hai tháng sau khi thị xã bị chiếm lại, cuối tháng 11 mặt trận có lệnh cho trinh sát chuẩn bị cho các trận đánh mới vùng thị xã. Một nhóm trinh sát vượt sông của sư đoàn được lập, gồm 5 lính trinh sát sư đoàn và 5 lính trinh sát trung đoàn. Tôi được lệnh chia tay tiểu đội tham gia nhóm này.

Bắt đầu là hai tuần huấn luyện khẩn cấp. Nơi tập là một đoạn trên sông Miếu Giang, là con sông chảy qua Cam Lộ xuống Đông Hà rồi nhập với sông Thạch Hãn cùng ra Cửa Việt. Nhiệm vụ chính là tập các kỹ thuật bơi bí mật dùng qua sông sang phía bên địch, cũng như tập một số kỹ thuật tiềm nhập.

Mặt trận cử hai cao thủ đặc công nước tới huấn luyện cho tụi tôi. Đấy là hai cán bộ cấp trung đội, anh Thành và anh Việt, đến từ vùng Cửa Việt. Hai anh hơn tụi tôi chừng vài tuổi, nhưng đã là những người lính dày dạn chiến trường, và bơi lội thật điêu luyện. Cách họ xuống nước và bơi nhẹ nhàng làm mấy gã lính bộ binh tụi tôi phục sát đất.

Bài tập đầu tiên là bơi ếch. Bơi ếch là loại bơi cơ bản nhất, có thể bơi lâu và ít gây tiếng động, nhưng vấn đề là nắm rõ các nguyên lý và tập để bơi được bí mật. Bọn tôi được tập lại bơi ếch như sự phối hợp của ba động tác cơ bản đạp-khép-co. Có thể tập đạp-khép-co trên cạn rất nhiều rồi mới xuống nước. Cả nhóm đứa nào cũng đã biết bơi, nhưng đều học bơi tự do và đầy bản năng. Sau mấy ngày đạp-khép-co với lý thuyết và chỉnh sửa, đứa nào bơi cũng khá hẳn lên. Trong bơi ếch cơ bản, thân người ngang với mặt nước và nổi nhiều để lướt, nhưng để bơi không gây tiếng động, thân người sẽ nghiêng chéo với mặt nước, và chân tay hoàn toàn đạp-khép-co trong nước.

Một bài tập nữa được dành nhiều thời gian học là kỹ thuật thả trôi. Đây là một kỹ thuật cơ bản của đặc công nước, dùng để bơi tiếp cận đến đối phương, đúng hơn là một người ngập trong nước ở tư thế thẳng đứng nhưng vẫn thở được và điều khiển để từ từ trôi đến gần mục tiêu. Trong kỹ thuật này, thân người hoàn toàn ngập trong nước và vuông góc với mặt nước, hai chân lần lượt đạp xuống như đạp xích lô, còn hai tay quạt kiểu bơi ếch nhưng chúc xuống và hoàn toàn trong nước. Khó nhất là thở vì cái đầu cũng phải hoàn toàn trong nước, mặt ngửa lên trời chỉ cái miệng nhô khỏi mặt nước chút xíu để thở, mũi được kẹp lại cho khỏi sặc nước bằng một cái kẹp gỗ nhỏ tự gọt. Để điêu luyện chắc phải tập hàng tháng trời vì khó nhất là thở sao cho nhẹ và đều, mồm không nhô cao không sặc nước. Hai anh Thành và Việt bơi ra xa, giữa ban ngày thả trôi vào bờ, và cũng phải đến rất gần tụi tôi mới nhận ra. Còn khi mấy gã trinh sát chúng tôi thả trôi thì từ xa đã thấy cả mồm cả mũi nhô trên mặt nước, thở phì phò.

Những cũng không thể tập lâu hơn. Sau hai tuần nhóm trinh sát được đưa xuống ven Thạch Hãn, gần chỗ tiểu đội tôi đóng, tuy tôi không được liên lạc với tiểu đội. Đêm đầu tiên là bơi thử ở một đoạn sông Thạch Hãn, dịch lên phía Bắc nơi bên kia địch không đóng gần mép nước. Đấy là một hôm trời rất rét, nước cuồn cuộn chảy về từ thượng nguồn. Cả nhóm lần lượt xuống bơi quãng hai phần ba sông rồi quay về. Mỗi người chỉ có một dao găm và hai quả lựu đạn trong thắt lưng. Khẩu AK bang gập được tháo băng đạn, tất cả gói trong cái bao gạo nilông Trung quốc sao cho nổi bồng bềnh trên mặt nước như một khúc gỗ, buộc dây kéo theo. Lần bơi tập này không trục trặc gì. Nhưng một trinh sát trung đoàn, vốn là một người to khỏe, bơi rất giỏi nhưng bữa đó bị sặc nước và chìm, mấy đứa phải thay nhau bơi dìu vào. Hôm sau sư đoàn đánh giá đây là dao động tinh thần, và quyết định rút đồng đội này ra khỏi nhóm.

Chúng tôi về địa điểm tập kết và bắt đầu sang sông điều tra. Đấy là những ngày giữa tháng 12.1972. Nếu ở thị xã Quảng Trị bờ sông bên kia cao, trận địa và hầm nằm sát mép nước, thì ở đoạn này bờ sông thoai thoải thấp dần, trận địa và hầm nằm cách bờ chừng hai chục mét.

Đêm đầu tiên tôi là tổ trưởng ba lính vượt sông trinh sát. Nhiệm vụ của tổ là bơi sang bờ bên kia, nằm quan sát ở mép sông rồi về. Chuyến đi chót lọt, nhiệm vụ hoàn thành. Sau đấy cứ hai ba ngày một lần, trinh sát lại bơi sang điều tra. Tôi cũng qua ba bốn lần, trong đó lần cuối có nhiệm vụ phải nắm lại được toàn bộ hầm hố và bố trí phòng thủ phía bên kia. Đấy là những ngày nước lớn. Tôi dẫn đầu tổ ba người lần lượt bơi sang sông (trinh sát đi đầu thường nguy hiểm hơn, và khi trở lại thời bình tôi phải sửa rất lâu cái thói quen "lội nước đi trước" của thời Quảng Trị, vì không phải bây giờ lúc nào cũng là việc lội nước).

Sau khi đi được một phần, theo kế hoạch tụi tôi lùi ra bờ sông tìm cách ém lại một ngày. Đến một rãnh sâu um tùm cây dại, chợt có tiếng ho nho, tôi kịp ra hiệu để tổ dừng lại. Trên mép hào cao là bóng một lính địch. Hắn ho khan vài tiếng, nhìn xuống giây lát rồi biến mất và lại quay lại cùng một bóng nữa. Tôi từ từ quay nòng súng hướng lên, khẽ mở khóa nòng, nín thở. Thời gian chững lại. Roạt! Một hòn đất bất ngờ bay xuống nhưng chúng tôi vẫn nằm im. Không thấy động tĩnh, hai tên lính bỏ đi. Chúng tôi lùi ra, ém lại ở gần bờ sông, chia nhau mấy cái hố cạnh bãi rác, đầy vỏ đồ hộp. Chỗ này khá kín, dễ quan sát và ban ngày địch cũng không dám ra. Đêm lạnh mà ngày thì nóng hầm hập, ngột ngạt, dài dằng dặc. Có lúc một chú rắn bò vào hố, đành giương súng lên dọa cho nó bò đi. Tôi lên cơn sốt. Mẩu lương khô đắng ngắt trong miệng. Biđông nước phải dè sẻn từng ngụm cho một ngày. Rồi đêm cũng xuống, ba đứa tôi đi tiếp phần còn lại.

Những ngày đó của tháng 12.1972 Mỹ đang rải bom B52 vào Hà Nội. Ở trong hầm bên bờ Thạch Hãn chúng tôi chỉ thỉnh thoảng biết về Hà Nội dưới bom B52 qua chiếc đài bán dẫn của thủ trưởng. Chiến trường xa xôi. Quê hương vời vợi. Nghĩ về Hà Nội và những người thân của mình dưới bom B52 mà lòng thắt lại.

Trưa 25.12 chúng tôi nhận được lệnh chuẩn bị đêm dẫn đặc công sư đoàn qua sông đánh. Cấp trên cũng tính đây là một trận đánh chi viện cho Hà Nội chăng? Chập tối một đại đội đặc công hành quân tới. Đại đội có chừng gần ba chục tay súng. Theo kế hoạch, tôi sẽ dẫn đại đội trưởng và ba trung đội trưởng qua trận địa bên kia sông, sau đó các anh sẽ về dẫn bộ đội qua đánh. Quãng 10 đêm giờ chúng tôi bơi sang. Tôi là trinh sát nên đi tay không, có nhiệm vụ dò mìn và dẫn đường cho bốn đặc công với AK báng gấp đi theo. Mọi việc cũng ổn, tuy nhiên do tôi chưa được huấn luyện dò gỡ mìn bao giờ, nên một lúc sau thấy chậm anh đại đội trưởng đề nghị On, một trung đội trưởng và tôi đổi cho nhau. On quê Thái Bình, cũng chạc tuổi tôi, kịp quen trước khi đi. Tôi cầm súng của On, đổi thành người đi thứ hai nhưng sát ngay On để chỉ đường. Quãng 3 giờ sáng chúng tôi quay về bờ bên ta. Các anh đưa đại đội qua đánh còn tôi xong nhiệm vụ ở lại, nằm trong hầm chờ trận đánh. Quãng sau 4 giờ sáng, tiếng thủ pháo, tiếng lựu đạn, tiếng B40 và tiếng súng đồng loạt nổi lên phía bên kia sông. Rạng sáng các anh trở về. Nhưng thiếu mất On.

Mãi về sau này tôi vẫn nghĩ đến On. Có thể vì cái tên On quá đặc biệt. Có thể vì On đã làm thay cho tôi một việc rất khó và nguy hiểm. Có thể vì hai đứa vẫn chưa nói với nhau them một lời dù phối hợp rất ăn ý. Có thể vì bố mẹ và gia đình On không biết trận đánh cuối của con mình ra sao. Những chắc chắn hơn cả vì On là người duy nhất đã không trở về sau trận này.

Về sau tôi nghe nói đây là trận thắng lớn nhất của đặc công sư đoàn trong chiến dịch Quảng Trị. Đặc công vốn chỉ có hỏa lực nhẹ, đánh thắng được do có yếu tố bí mật bất ngờ và vào sát được địch. Nhưng ở Quảng Trị 1972 làm gì còn bí mật và bất ngờ, lính tráng hai bên thức canh nhau suốt đêm, nên đặc công nhiều khi nhận lệnh vào đánh và không tránh khỏi thất thiệt. Chiến trường Quảng Trị cuối 1972 khá êm ắng, đem lại yếu tố bí mật bất ngờ cho đặc công.

Mãi về sau tôi mới biết rằng chiến dịch B52 Hà Nội của Mỹ cũng kết thúc vào cái đêm đặc công sư đoàn đánh trận ấy.

Hai mươi lăm năm sau, một tối ở nhà Hoàng, một sinh viên tại Tokyo, tôi chợt lần đầu thấy bài thơ "Hà Nội-phố" của Phan Vũ. Cảm xúc ùa đến ngập lòng. Mối liên hệ mỏng manh giữa Hà Nội và Quảng Trị những ngày ấy chợt trở trở về. Tôi hối hả viết "đôi lời về bài thơ Hà Nội-phố" trong những cảm xúc đan xen về Hà Nội và Quảng Trị, về những ngày mãi không thể quên ấy.  

To be continued...

  

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top