Kỳ 1: Biên giới Tây Nam - Hồi ký của bác Trungsy1 - Phần cuối

  RÁI CÁ

Đến cả tuần không bắn được con gì. Tối nào anh Nhương với T lé cũng xách đèn xách súng đi rồi lại về không. Bọn hay săn dưới các đại đội cũng chịu chung hoàn cảnh đó. Đang tháng ba tháng tư, mùa giao phối, mùa sinh sôi của núi rừng nhưng thú quanh chỗ đứng chân của đơn vị bỗng nhiên biến đi đâu sạch. Mọi đêm nằm vẫn nghe một vài tiếng con mễn tác gọi bạn "oác! oác" xa gần. Bây giờ thì lặng phắc. Đến cả thỏ rừng vốn nhiều như thế cũng còn không thấy nốt. Dường như có điều gì bất thường đang xảy ra. Đến bữa đành lòng với những con cá suối kiếm được. Bình cò thương tình, bắn được con rái cá hiếm hoi trên eo suối đại đội 1 vất lên cho thông tin. Bọn tôi hí hửng vác ra suối làm lông. Con rái cá nặng khoảng 4 ký. Lông nó màu tro đen, khoảng ngực lại trắng như trẻ con đeo yếm dãi, đặc biệt mịn như nhung. Cái mõm ngắn, hàng ria bạc, chân trước có màng như chân vịt, đuôi dài và dẹp làm bánh lái khi lặn đuổi cá...đại loại trông nó như thế. Tôi muốn kể là về cái bộ lông của nó. Chúng tôi dốt, có thằng nào làm thịt rái cá bao giờ đâu nên cứ thực hành làm lông nó như mọi con thú rừng bình thường. Nghĩa là nhúng nước lạnh cho ướt đều, dội nước sôi, sau đó cạo lông và đem thui. Thế nhưng lông con này đã được nhúng ướt đẫm hết rồi, dội nước sôi lên để cạo thì không đi một tý nào hết. Cứ như là chưa dội vậy. Hoá ra nó chỉ bị ướt ở phần ngoài thôi, bên trong vẫn khô nguyên. Giống như lớp lông tơ mịn trên mặt lá khoai, lá sen ... Đã thế lại được tráng một lớp dầu trơn nữa. Nước chỉ có thể lăn tròn trên đó chứ không bao giờ thấm được. Đúng là nước đổ lá khoai, nước đổ đầu vịt, nay thêm thành ngữ nước đổ lông rái cá nữa cũng không sai. Có vậy nên nó mới lặn giỏi như thế! Hì hục mãi đến gần năm nồi nước sôi mà vẫn chưa đâu vào đâu. Anh Nhương ngồi xổm, chừng đã tê chân, bấy giờ mới sốt ruột bảo thôi chúng mày lột mẹ da nó ra cho tao! Hoá ra đây là cách làm hữu hiệu nhất. Khăn choàng cổ trên thế giới bằng da rái cá cực đắt. Chỉ có các ông hoàng bà chúa mới dám dùng cũng chính là bởi cái bộ lông mịn, không thấm nước và ấm đặc biệt này. Chúng tôi là lính, chúng tôi cần thịt rái cá hơn cái bộ da đẳng cấp đó. Cái đẹp là thực phẩm của con mắt. Thịt tươi là thực phẩm của cái dạ dày đang thèm pờ rô tít. Roạt một cái là da đi đằng da, thịt đi đằng thịt. Roạt thêm cái nữa, nó thành "thịt với xương tim óc dính liền" trong nồi rựa mận, lửa canh liu riu dậy mùi sả ớt. Thằng Sơn ba tai còn cẩn thận bóp cả tiết đọng vào thịt cho sánh và đậm nước. Tôi với anh Ky tiếc của, ngồi làm rốn nốt bộ lòng. Trong phủ tạng con này, dưới hai lá thận có hai cục vôi cặn nặng trịch như đá, to bằng nửa bàn tay. Đầu tiên tôi cứ nghĩ nó có sỏi do chén lắm cua, cá, ốc... những thức ăn giàu canxi nên bị thế. Nhưng bây giờ nghĩ lại, có thể hai cục đá vôi hoá đó trong cơ thể của loài này làm nhiệm vụ giống như đối trọng hay quả nặng điều chỉnh trọng tâm cho nó khi hoạt động ngầm dưới nước. Không biết thế có đúng hay không?
Bọn cá lòng tong suối, cá đuôi vàng ăn nổi lao vào đớp chí chết những mẩu mỡ lòng, giành giật với nhau hết sức quyết liệt. Đang làm dở thì "oẵng" một tiếng - một con cá lớn cướp nửa bộ lòng ngay trên tay chúng tôi rồi biến mất tiêu. Bọn cá con hoảng sợ nhảy lên rào rào. Thôi thí cho mày! Rái ăn cá, bây giờ đến lượt cá ăn rái cho công bằng.

  CỦA ĐỂ DÀNH CHO LÍNH - CỌP TRẮNG

Vâng ! Câu chuyện của chúng ta vẫn tiếp tục, dù đội Nga đã dừng bước ở tứ kết.
Năm 1981, lính ta bắt đầu được giải quyết phục viên hoặc ra quân. Đầu tiên là các thượng sĩ anh nuôi lính 74, 75. Kế đó là những anh em lính 76, 77 sức khoẻ yếu hoặc đã từng bị thương nhẹ. Mỗi lần có đợt ra quân là cả đơn vị nửa vui nửa buồn. Vui với người đi, những người ở lại gánh phần trách nhiệm thêm và cũng mong một ngày nào đó mình sẽ đến lượt như thế. Anh em đồng hương gom góp phụ cấp ít ỏi, dồn cho người lính may mắn được trở về. Những ngày rỗi rãi, bên những ấm trà lãng xẹt, nhiều thằng xoè bàn tay bấm độn xem đợt này ai sẽ được giải quyết chính sách. Những thằng cảm thấy sắp đến lượt bao giờ cũng gom tiền ra dân mua một con chó con. Kích thước cân nặng con chó tuỳ thuộc vào thời gian sẽ phải chờ đợi lâu hay chóng. Nuôi để thịt liên hoan chia tay đồng đội khi ra quân. Như nuôi lợn để dành lúc cưới vợ ở nhà. Thế thôi! Tiểu đoàn có đến hai chục con chó, lính nuôi như của để dành. Bọn nó tranh ăn, cắn nhau lộn bậy, sủa ầm ĩ nhức cả óc. Chó tao cắn chó mày đôi khi thành chuyện mất đoàn kết. Nhưng thời gian này, cùng với sự biến mất của của thỏ, chồn, mễn... " trung đội" cẩu mọi đêm vẫn sủa nhặng xị dạo này cũng bặt tiếng. Có những đêm, tự nhiên hai con chó trung đội vận tải của Bình vàng sát bờ suối chạy rúc vào gầm sạp bọn tôi, cụp đuôi cụp tai rên ư ử, đuổi mãi không chịu ra. Hình như có điều gì đó không ổn mà chỉ bọn chó mới cảm thấy. Lính tiểu đoàn vẫn sang lán nhau uống trà tán gẫu, nhưng không ai thấy điều gì khác thường.
Vào một đêm cuối tháng 4, cha Nhương và T lé lại xách súng xách đèn đi săn. Hai anh em vượt qua suối, vào đến phum nhà dài. Gọi là phum nhà dài vì ở đó có một cái nhà sàn lớn rất dài, chỉ còn khung nhà và mấy khoảng vách mục ngăn buồng. Nhiều khung nhà trơ trụi như thế cắm chân rải rác trên những mảnh vườn hoang, những hàng rào mục nát. Mọi khi vào đến rìa phum đã gặp thú. Nhưng đêm đấy tịnh không gặp một con nào. Đến cả gió cũng không buồn thổi. Không gian yên lặng như tờ. Chỉ nghe tiếng rẽ cỏ lạt xạt của bốn bàn chân bước. Lão Nhương cảm thấy hơi ớn, lầu bầu lia đèn giục thằng T lé bước dấn lên. Qua hai cây xoài trước mảnh sân trống, tới đầu hồi căn nhà lớn nhất phum, cả hai đứng lại há mồm chết lặng. Trên sàn nhà khuất phía sau tấm vách mục cách có dăm sáu mét, một con hổ lớn ngồi chồm chỗm trên khung nhà giật mình ngoảnh lại. Đôi mắt lớn như hai cái cốc, đỏ đòng đọc bắt đèn sáng rực. Lão Nhương tê cứng người, ngón tay quắp lại xiết cò khẩu AK. Một điểm xạ dài gần chục viên suýt tự bắn vào chân. Con thú trắng tinh cũng giật mình, phất đuôi vọt ào ngang ngọn cây chùm ruột rồi dông thẳng vào rừng. Hai thằng cha đi săn ngã ngửa, vọt đái ra ướt đẵm hết cả quần. Hoàn hồn lại mới dìu nhau chạy hộc cơm về đội hình. Vừa chạy vừa bắn loạn xạ để tự trấn an bản thân. Mấy thằng lính mới đại đội 2 tưởng địch tập kích nhảy hết ra hào tương đạn ầm ầm về hướng súng nổ. Lão Nhương với T lé mới chịu dừng lại, bắn bắt liên lạc. Về đến nhà rồi mà mắt vẫn còn trắng dã, lạc hết cả hồn. Ai hỏi gì cũng không nói được. Anh Hoạch phải lôi ra hai bát rượu cho uống mới rời rạc kể lại câu chuyện vừa rồi. Từ đó, trung đoàn tôi có lệnh cấm đi săn đêm.
Bác Nhương bây giờ về nhà làm tài xế xe công nông chở vật liệu xây dựng ở Bắc giang. Lên chức ông nội, ông ngoại rồi. Bọn tôi về quê ăn cưới các cháu lần nào cũng nghe lão trợn mắt kể về con hổ trắng. Bác Nhương gái nghe mòn tai câu chuyện này, phát gắt lên rằng ông có im đi không? Ra kia bắt cho tôi con gà! Làm gì có hổ trắng? Lão ấy lại im tịt!

Anh ạ! Chẳng biết con hổ nào đáng sợ hơn con hổ nào? Ngày xưa gặp nó thì chạy. Bây giờ đụng nó thì cứ im đi là hơn!

  LÊN BAN CHÍNH TRỊ

Định kể những câu chuyện khác về gà rừng, công đất; chuyện phục heo rừng dũi phá rẫy ngô; chuyện câu cá suối; chuyện về những trận tranh cúp bóng đá tiểu đoàn... Nhưng thôi! Hè hè! Không có các bác lại bảo lính lác quân chủ lực gì mà dạo này không thấy làm nhiệm vụ gì hết trọi. Suốt ngày săn bắn, câu kéo, nhậu nhẹt hoặc bóng banh...Nhưng cái thời gian ở Bâmnak nó như thế đấy! Quân số đơn vị vừa được bổ sung mấy đợt liền, đông như hồi mới đánh chiến dịch 1979. Vui lắm! Lính 77, 78 giờ cũng thành cựu binh đắp chiếu, khệnh khạng đùn việc cho anh em mới vào. Đúng lúc đó thì tôi được gọi đích danh lên Ban Chính trị (B2) trung đoàn. Lý do vì tôi cũng biết chơi guitar phèng phèng, biết gõ xô thùng đùng đùng đúng điệu :"Giặt quần đùi! Giặt quần đùi!..." thật bốc cho chúng nó nhảy rã rượu khi nhậu. Ngoài ra, các anh em ở đại đội phẫu K.23 nằm ngay cạnh B2 mà tôi cũng có hân hạnh "phục vụ" trong thời gian dưỡng thương có quảng cáo ác liệt cho tôi nữa. Mừng rồi! Từ nay khỏi đi càn rã cẳng. Cùng lên B2 với tôi có thằng Hùng lé khẩu đội DK.82 với ngón đàn bầu ác chiến, thằng Chương đại đội 3 với giọng Téno thuốc lá đá thuốc lào nữa. Sau một trận nhậu có cờ, ba "nghệ sỹ" từ biệt tiểu đoàn Tư, khoác ba lô lên Ban Chính trị.
Ban Chính trị trung đoàn nằm tại hai cái nhà sàn lớn sát suối Đam rey – con suối đã chảy qua tiểu đoàn Tư của chúng tôi. Trên sàn nhà thì chính uỷ, các trợ lý chính trị ở. Ngoài ra còn là nơi chứa các loại hồ sơ, chứa ba lô, đồ đạc, kỷ vật của anh em liệt sỹ chưa chuyển về kịp cho gia đình họ. Dưới sàn, mấy thằng đội tuyên văn chúng tôi và hoạ sĩ chuyên cắt kẻ khẩu hiệu là thằng Bình mẩu ở. Sinh hoạt chính quy lắm! Mấy thằng lính dưới đơn vị như chúng tôi vốn quen sống phóng túng, ào ạt bây giờ lên đây, người cứ như bị cứng ra. Chuyện! Gần các thủ trưởng, nhất là thủ trưởng chính trị chẳng nhẽ ăn nói tùm lum tá la vô lối đâu có được? May mấy hôm sau, các anh em năng khiếu dưới các đơn vị trong trung đoàn được gọi cũng lên dần đủ. Cuối cùng đội tuyên văn quân số cũng bằng một trung đội cứng. Chúng tôi được chỉ định một khoảng đất rìa suối để làm nhà ở riêng. Ngon quá rồi! Nhà cửa làm xong thì dựng chương trình tập để đi dự hội diễn nghệ thuật quần chúng của Quân đoàn. Phòng Chính trị Sư đoàn 9 tăng cường cho chúng tôi một tay guitar list lão luyện. Hắn tên là Dân – Mai Dân, nhà ở đường Hùng Vương thành phố Huế. Nhờ có hắn kèm riết nên tay đàn tôi cũng tiến bộ thấy rõ. Toàn đội tôi gồm có cây đàn bầu của thằng Hùng lé, đội ca có năm thằng, ba cây guitar là tôi, Dân với thằng Phúc Bến tre. Thêm cây mandoline của thằng Hợp nữa là hết vị.
Ngày chỉ có ăn, tập đàn tập hát, tối gom tiền ra dân mua rượu nhậu chui. Lúc đầu thì thích nhưng sau thấy chán dần. Ở tiểu đoàn có đám cải thiện, có đám nhậu nào cũng tự nhiên sà vào được. Lên đây toàn người lạ, muốn vui cũng phải dè chừng. Ăn uống đồ tươi, sinh hoạt kém hẳn dưới tiểu đoàn. Toàn cá khô Kampong Ch'nang sư đoàn diễn hoài! Bác Thọ đọc đến đây thì cười! Cứ mỗi kỳ các đơn vị ra trung đoàn bộ lĩnh gạo, thằng nào trước ở đơn vị nào thì bám theo mấy thằng quản lý của đơn vị ấy ngay từ khi chớm bước vào Ban Hậu cần để xin ít gạo gom về đội đổi thức ăn. Đội tuyên văn mới thành lập, quân ô hợp tứ xứ chưa kịp hiểu nhau như dưới cái nôi ở đơn vị chiến đấu. Lại toàn những ông lười như hủi, ở bẩn và nói phét thôi rồi! Quan trọng gì? Phần hồn, phần tinh thần nghệ sỹ mới là căn bản(!) Lán trại, quần áo sạch sẽ quá lấy thời gian quái đâu mà sáng tác, mà tư duy nghệ thuật(?) Nuôi được 5 con gà mới chưa đầy tháng đã bàn nhau thịt sạch. Hết gà thì đi mò gà của bọn khác, chẳng thằng nào chịu nuôi nữa...Từ đó, các cơ quan trung đoàn bộ mất gà là nghi cho bọn Văn nghệ chúng tôi. Anh Bến phó CN CT gọi bọn tôi lên hỏi chúng mày có ăn cắp gà của chúng nó không? Liệu hồn! Bọn bên Ban Tác chiến bây giờ nó bắt đầu cắt gác rồi đấy!

Nhưng thời gian hội diễn Quân đoàn gần kề rồi! Văn nghệ dẫu có hơi bầy hầy trong sinh hoạt nhưng không vì thế mà giải tán đi được.

  NHỮNG BÀI HÁT BAN NGÀY
Ăn sáng xong, bọn hát luyện thanh nà na ná ná na nà, ồ ô ố ố ô ồ, cẩn thận như Doãn Tần, Quang Lý... rồi cả đội lao vào tập. Các đồng chí tập cho tốt nhé! Không thì về đơn vị khoác súng khoác máy đi càn thì tuỳ! Bác Hoạt trợ lý Chính trị- đội trưởng cứ khéo đùa.
1- Bài hát Trung đoàn, nhạc và lời -Mai Dân :
Mang tên đoàn Đồng xoài vẻ vang. Truyền thống vinh quang tô thắm lịch sử vàng son. "Thành đồng quyết thắng, trung dũng kiên cường, đánh giỏi thắng nhều". Đoàn Đồng xoài, gian nguy đạp bằng. Mưu trí tiến công, vượt mọi gian khó. Đoàn kết son sắt bên nhau, đi là chiến thắng, đánh là dứt điểm.
Bao nhiêu năm trên chiến trường miền Đông. Đoàn ta lớn nhanh như Phù Đổng thiên vương. Vinh quang thay! Biết bao máu đào hy sinh của những chiến sỹ kiên trung, tô thắm thêm truyền thống Trung đoàn./.

2- Tốp ca nam - Tiếng đàn bên dòng sông biên giới - Nhạc và lời : Phạm Tuyên
Đàn theo ta ra tận chốt đây, ngày đêm cùng ta gắn bó. Với khúc hát thanh xuân toả ấm khắp bến bờ. Đàn mang theo bao niềm ước mơ ngay bên dòng sông biên giới. Ta vẫn hát vang chiến hào, chờ cuộc chiến đấu ngày mai.........
3- Đơn ca nam – Xin hát mãi về anh, người chiến sỹ biên cương ! – Sáng tác của Thế Hiển. Người trình bày, Nguyễn Văn Chương (Phềnh – trong đội gọi nó như thế) - Chiến sỹ đại đội 3, tiểu đoàn Tư, trung đoàn 2. Bài này đến đoạn điệp khúc tôi vừa đàn, vừa phải gân cổ dựng bè cho nó.
4- Độc tấu đàn bầu (điện) – Hùng lé DK tiểu đoàn 4 thể hiện hai bài. "Ru con Nam bộ" và bài "La Habana xinh đẹp". Tất nhiên khi đàn, nó nhắm nghiền mắt lại, hồn nhập trong tiếng nhạc nên không ai biết là nó lé. Ngón đàn của nó không có gì phải bàn. Nức nở ai oán lắm! Thủ trưởng Hai Hữu còn phải sụt sịt. Nhưng các cô gái K thì khoái "giật đùng đùng!" hơn. Nhờ cây độc huyền cầm của nó mà chúng tôi liên tục giật giải nhất. Sư đoàn lấy luôn đội VN trung đoàn tôi đại diện đi thi Quân đoàn.
5 – Múa lăm thon. Đây là cây đinh của chương trình. Đội nhạc chơi bài dân ca K "Oh! S'vai chăn ti, nịari on ơi!...". Ba cây guitar- một cây solo, một cây sans, một cây bass. Tôi thủ cây đàn bass. Gọi là đàn bass cho oai chứ thực ra nó vẫn là đàn guitar thùng đủ cả 6 dây. Có điều cọc bô bin (mua ở Sài gòn) các dây trầm Mì, Là, Rề quấn sao đó để khi qua ampli ra loa đạt tiếng trầm tốt nhất. Không lên dây kiểu Sol rê la mi như đàn bass bình thường mà vẫn lên dây theo lối guitar thường, để đề phòng thằng Phúc giật sans máu quá đứt đây thì kịp thời ứng cứu. Đến đoạn 2 bài này, thằng Hợp vê mandoline rất mướt tiếng. Người nó to vật, cái đàn lại nhỏ treo trên cổ. Chúng tôi gọi nó là thằng trâu đeo mõ. Bọn múa bốn đứa. Hai thằng Minh bọ, thằng Tuất nhỏ người mặc sà rông giả gái K trông kháu phết. Cũng độn ngực, cũng phấn son loè loẹt lắc hông múa đôi với thằng Nghĩa, thằng Đại. Thỉnh thoảng cũng giả vờ đánh mắt giao lưu đĩ đời, trông chỉ muốn đạp cho một cái. Trống samphô thằng Thành vỗ. Trống này đầu tiên mượn của dân rồi để lâu cứt trâu hoá bùn, không trả nữa.
6, 7, 8 vvv........................................................................

Khi tập đã nhuyễn chương trình thì âm nhạc đã trở thành công cụ kiếm cơm, kiếm rượu cực đắc lực. Lúc đang chờ tàu về Ph'nom Penh đi hội diễn, chúng tôi thấy mấy cô xinh xinh đi buôn, hứng chí tấu toàn dân ca Campuchia. Dân bạn chờ tàu máu quá, xúm lại ròm (múa) luôn trên sân ga. Thàng Thành gật gật, vỗ trống như lên đồng. Thằng Hợp giả đò ngửa mũ cứng, đặt kẹp giữa hai cái ba lô. Những đồng 1, 2 ria bay vào tới tấp như mưa. Thuốc samit cũng được ném vào mũ ầm ầm, hút muốn chết sặc. Về sau anh Bến biết, gọi lên chửi ầm ĩ rồi cấm làm cái trò đó. Quân đội Cách mạng đi làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, đâu phải cái bọn đàn rong kiếm cơm? Không ra cái thể thống gì hết! Chỉ thiếu mỗi con Capi là đủ bộ. Hề hề!

  NHỮNG BÀI HÁT BAN ĐÊM
"...Chiều mưa biên giới anh đi về đâu? Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?...".
Cũng là những bài hát về người lính, nhưng buổi ngày cương mãnh, hy sinh bao nhiêu thì buổi tối lại xa vắng, thân phận bấy nhiêu! Buổi tối, dội văn nghệ rất đông khách. Anh em trong trung đoàn bộ đến chơi người thì xách sang ấm trà, người thì bịch thuốc rê. Đàn treo trên vách, ai muốn thử, muốn chơi tuỳ thích. Khách đến văn nghệ mỗi người góp đôi bài hát. Đã hát nhiều cho cái chung, bây giờ hát cho cái riêng chút vậy! "...Tôi về qua xóm nhỏ. Con đò nay đã già. Nghe tin anh gục ngã. Dừng chân quán năm xưa, uống nước dừa. Hay nước mắt quê hương?...". Ngần ấy năm chiến tranh, nước mắt quê hương có chảy cũng phải thành sông lớn, thành biển mặn. Giờ vẫn cứ chiến tranh hoài...Bất kể do ai viết ra, hàn lâm hay sến táu, những bài hát về thân phận thằng lính chiến luôn ám ảnh tôi. Nhất là khi mình đang ở trong hoàn cảnh đó. Cũng gió mưa như thế! Cũng xa nhà như thế! Khi xung phong cũng chẳng bao giờ lùi. Ấy thế mà đêm về không hát về điệp trùng đội ngũ; về nhân dân vĩ đại, lại đi hát về một tình đầu đã mất; một bà già một nắng hai sương; một quê hương khói lửa dạ mòn...Hay đấy cũng là đất nước, là nhân dân ở dạng đơn giản nhất mà tôi chưa nhận thức được? Có điều các anh sỹ quan Ban tác chiến, Ban chính trị sang ngồi chơi cũng chẳng ai có ý kiến gì. Trà ca inox, thuốc nặng Tây ninh, phận người phận mình trong cuộc chiến mỏng và lơ đãng như khói thuốc. Một điều thật giản dị: chết trận thì là hy sinh! Sống sót về thì lấy...đuôi trâu làm thước ngắm. Kệ nó vảy bùn đầy mặt. Càng sướng! Còn ở khoảng giữa, chưa chết hoặc chưa về được thì tối nay ngồi đây, nhổ râu cằm nghe giọt gianh mái lá. Hát, hoặc nghe hát về một phần cuộc đời mình trong đồng cảm.
Chiến tranh đã lùi xa. Trong phòng Karaoke sau chiều nhậu sương sương, chúng ta hát thật trầm hùng với tất cả tình cảm từ trái tim những :'Năm anh em trên một chiếc xe tăng", những :" Bước chân trên dải Trường Sơn", rồi "Chiều dài biên giới"... Nhưng tin tôi đi! Khi ngồi trong cái hầm âm như liệt sỹ Trần Duy Chiến, (có nhật ký trong trang này), như thằng Tuý thằng Khoát thằng Phụng thằng Năm vvv......trong tiểu đoàn tôi, chúng nó chỉ hát về mẹ hiền, về em yêu với những giao thừa xa vắng thôi!
"...Trả lại em yêu tình đầu vời vợi.
Ngôi trường thân quen bạn bè cũ mới.
Đường buồn anh đi bao giờ cho tới?
Nỗi đau còn buồn, nỗi đau cao vời...!"

Tất cả các bài hát về người lính, ban ngày cũng như ban đêm, dẫu ở cung bậc tình cảm nào cũng đều rất hay !

  HỘI DIỄN NGHỆ THUẬT QUÂN ĐOÀN VÀ NHỮNG CHUYỆN XẢY RA

Lại nói về cái đám ròm (múa) xa- ma- khi tự phát trên sân ga Bâmnak, tàu đến là giải tán liền. Vũ công lẫn nhạc công tranh nhau leo tót lên toa. Đoàn tàu già nua xập xệ, toàn các toa đen tiếp tục lăn bánh. Cuối chiều thì đến ga Ph'nom Penh. Sân ga đầy lá chuối gói bánh, ruồi bay vù vù. Chúng tôi len ra lối cổng lớn, đi bộ một quãng rồi ngồi phệt cả một đám ngoài đường. Nghỉ đã! Cả bọn vừa hút thuốc, vừa thộn mặt ra ngắm đèn nê ông, đèn đường sáng trưng trên con phố vắng vẻ. Lão Hoạt đội trưởng (thượng sỹ- trợ lý Chính trị) nói từ ga về Phòng Chính trị Quân đoàn phải hơn 3km nữa. Tôi bảo vẫy xe lôi mà đi cho nó đỡ mệt. Đói lắm rồi! Leo U Răng cao ngất trời còn được, nhưng về thủ đô chẳng hiểu vì sao cái chân nó sinh hư, không muốn cuốc bộ. Thằng Hợp cà cộ đứng dậy, tay cầm cái đàn mandoline huơ huơ vẫy xe. Nhưng mấy chiếc xe lôi thấy thế, chạy né sang bên kia đường rồi vọt qua thật nhanh không thèm ngoái lại. Mấy lần đều như thế cả. Kiểu này thì không xong rồi! Phải chuyên chính thôi! Tôi bảo nó vất mẹ cái "mõ" của mày đi, xách súng ra đây với tao. Lại một chiếc xe lôi nữa trờ đến. Hai thằng giơ súng lên vẫy rất tử tế. Y như rằng xe từ từ chạy lại, đỗ sát chân êm như taxi máy lạnh, kèm theo nụ cười thật tươi của bác tài. Thấy chưa? Quân sự, trong những tình huống cấp bách bao giờ cũng có tác dụng hơn văn hoá. Chúng tôi yêu cầu gọi thêm một xe nữa vì 11 người, ba lô, ba khẩu súng, đàn địch...một xe không chở hết. Tất nhiên là bác tài đồng ý ngay lập tức. Chẳng ai nỡ đi từ chối những quý khách mang súng bao giờ cả! Không tin các bạn cứ thử mà xem! Thằng Hợp khoác súng nhảy lên xe đi theo vì sợ bác tài lịch sự này quên mất đường quay lại đón. Mười phút sau, chúng tôi đã chễm chệ trên hai cái xe, trực chỉ ban tiếp đón của Quân đoàn bộ (Chỉ huy sở Quân đoàn lúc đó đã rời về Ô Đôngk). Đi hơn 120km xe lửa không mất tiền, nhưng về thủ đô, tư cách con người nó hoành tráng lên hẳn. Chúng tôi trả tiền sau khi dịch mãi cái từ "ph'rẻm rịa, ph'rẻm rịa!" (5 riel) khó nghe của bác tài. Hẳn bác ấy là người KP Chàm nên nói nặng như thế!

  Trước khi lên đường, chúng tôi có chạy chương trình cho Ban chính trị duyệt. Chính uỷ trung đoàn ngồi xem khoái lắm! Thấy bọn tôi quần áo cà tàng quá, mới điện cho Hậu cần chọn cấp cho một bộ quân phục mới tinh. Lại ưu tiên cho lĩnh tiếp suất quân trang trước kỳ hạn nữa nên trông đội hình cũng khá tươm. Gì thì cũng là bộ mặt đại diện cho một sư đoàn chủ lực giàu truyền thống, không thể nhôm nhoam được! Anh em trích tiền thù lao hát rong, ra chợ Tức Tha- la gần nơi đóng quân mua một thỏi son, một hộp phấn Thái với cặp soutien độn ngực cho hai thằng giả gái. Không phụ lòng mong mỏi của đơn vị, công sức chúng tôi bỏ ra đã được đền đáp xứng đáng. Chúng tôi giành giải nhất toàn đoàn. Thứ nhì là trung đoàn 165 của sư đoàn 7... Tiết mục đàn bầu và lăm thon giật luôn giải suất sắc. Đêm hôm sau công diễn cho lính quân đoàn bộ xem. Niềm hứng khởi thành công cộng một chút men sau bữa liên hoan chiêu đãi ban chiều khiến chúng tôi chơi như lên đồng. Tiết mục đàn bầu tha thiết sâu lắng bao nhiêu thì màn múa lăm thon lại hừng hực rộn ràng bấy nhiêu. Bộ đội ngồi dưới vỗ tay đập ghế ầm ầm. Không khí chan hoà, nồng hậu, không giống hôm thi chấm điểm. Lính hát lính nghe nó khác hẳn! Đoàn nhà báo Cu Ba, nhà báo Nhật bản bị không khí nồng nhiệt cuốn theo. Chân họ cũng nhịp nhịp, đầu gật gật theo tiết tấu mỗi lúc một hoạt, mồm thì tắc tắc như gọi chó, thỉnh thoảng hứng chí lại cho tay lên miệng huýt sáo lanh lảnh. Thằng Tuất, thằng Minh bọ, được sự giúp đỡ của đồ "hoá trang" loại xịn nổi bật trong ánh đèn sân khấu. Tóc dài đen nhánh, khuôn ngực gợi cảm, da dẻ trắng mịn, chân dài đến...cạp sà rông. Bọn đang vỗ tay khoái trá ở dưới có biết đâu rằng bọn tôi ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa? Phải tốn cả tá lưỡi lam, hết tiệt hộp phấn trắng không ít tiền để cải tạo cặp chân vốn đen sì và đầy mao ít như chân nhện của chúng nó, thành cặp chân vũ nữ Apsara dưới mờ ảo ánh đèn. Thế mới biết nước mắt có thể đổi được nụ cười. Mua được niềm vui quả là tốn kém!

Kết thúc tiết mục này, đoàn phóng viên chiến trường ngoại quốc ào lên sân khấu phỏng vấn. Họ thắc mắc sao quân đội Việt Nam có cả lính nữ tham chiến? Hay đây là con gái Campuchia? Anh Hoạt nói qua phiên dịch, bảo đấy là chúng tôi đóng giả. Họ ồ lên thán phục! Máy ảnh chớp nhoang nhoáng, máy ghi âm sè sè, bút ngoáy lia ngoáy lịa...Chừng như vẫn còn hồ nghi, một tay nhà báo nam Nhật Bản thò tay bóp ngực thằng Minh bọ. Chuyện xảy ra quá nhanh trước mắt bàn dân thiên hạ. Lính Quân đoàn vẫn tưởng là lính nữ ta thật, mới đứng cả dậy rào rào, muốn ăn tươi nuốt sống thằng cha này. Hoạt đang luống cuống không biết xử trí thế nào? Tôi giật vội micro, thông báo với anh em về giới tính "tạm thời", anh em hãy bình tĩnh, để các nhà báo tự do "tác nghiệp" tìm hiểu sự thật (!). Mọi người lại cười ồ lên. Phải nể luôn cái ý thức tìm hiểu, tôn trọng sự thật của mấy thằng nhà báo tư bản.(Các nhà báo của ta tất nhiên cũng tôn trọng sự thât) Có điều, khi đã chạm được đến cái "sự thật" mềm mại đó, cây bút tuyệt đẹp, có gắn cả đèn pin nhỏ xíu chỉ sản xuất dành cho các phóng viên chiến trường của nó không cánh mà bay. Chú thuỗn mặt ra xin lại nhưng nào ai biết? Cái gì chẳng có cái giá của nó, kể cả là đồ giả. Không biết đồ "thật" thì đắt đến đâu?

  CHÚNG BAY NGỒI XUỐNG MÀ HÚT THUỐC RÊ ĐI !

Từ Ph'nom Penh về trung đoàn bộ được ba hôm thì chúng tôi được điều xuống phục vụ tiểu đoàn 6. Tiểu đoàn tổ chức lễ nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND lần thứ 2. Trung đoàn cấp cho 4 con bò, còn lại các đại đội dưới tiểu đoàn tuỳ sự tháo vát của mình cải thiện thêm. Buổi lễ diễn ra tại cái nhà dài lợp ngói của phum Chùa, nơi tiểu đoàn bộ đóng quân. Cái phum này sát phum Th'may, cách đây hai năm còn là nơi trú ngụ của bầy dơi quạ khổng lồ. Giờ thì chẳng còn con dơi nào sống nổi với lính mình. Chúng nó đã rình bắn thịt sạch. Cả đội mất đến một ngày lăn vào cùng các trợ lý chính trị căng màn, cắt khẩu hiệu, dựng cổng chào...Đêm làm chưa xong, phải thắp đèn măng-sông lên làm tiếp cho kịp sáng hôm sau tổ chức.
Buổi lễ diễn ra trang nghiêm và long trọng. Ngôi sao vàng năm cánh lấp lánh trên tấm phông nền đỏ thắm.
"Nghiêm...! Quốc kỳ....Chào!"
Lần đầu tiên sau ba năm chiến đấu, những thằng lính chúng tôi sát vai nhau hát Quốc ca không phải trên đất Việt. Giọng hát lúc vào còn ngập ngừng, chưa đều. Nhưng một tình cảm lớn ẩn chứa đâu đó trong tiềm thức những người lính chiến, sau phút đầu bối rối, bỗng tìm thấy hoà thanh đồng vọng, bắt đầu tràn ra từ lồng ngực. Nhiều thằng vừa hát, vừa lúng túng cài lại khuy áo. Khúc quân hành bi tráng cất lên chậm rãi. Những nẻo đường gập ghềnh xa nào đã đưa chúng tôi đến đây? Đến đất nước xa xôi này? Vai sát vai chung một đoạn chiến hào, chung một nắm cơm vắt thiu, một tấm áo trận chưa khô vết máu của thằng mặc trước. Đường Vinh quang nào chỉ được xây bằng xác quân thù? Còn phải được xây bằng cả xương, cả máu của anh em đồng đội chúng tôi nữa! Hơn hai trăm tay súng của Tiểu đoàn anh hùng, gương mặt sạm đen vì cháy nắng, hoặc xanh bủng vì sốt rét, hát Quốc ca như hát về cuộc chiến đời mình. Bóng cờ chung dẫu chưa được phất lên trong cuộc chiến vị nghĩa ấy, nhưng những gian khổ, những nỗi niềm riêng chia sẻ đã kịp liên kết, hoà chung dòng máu đồng đội đồng bào...Hành khúc vút lên cao trào rồi kết thúc. Khối vuông tiểu đoàn đứng lặng phăng phắc. Chính uỷ trung đoàn Hai Hữu, dường như vẫn còn cảm động, ho khan mãi mới sửa được giọng. Năm đó, ông đã gần năm mươi, tóc đã lốm đốm bạc. Bài diễn văn hào hùng Ban Chính trị đã chuẩn bị công phu từ trước cho ông, hôm qua anh Bến còn thức đêm để soát lại, hoá ra có đoạn đầu như thế này :
- Kính thưa...! Cám ơn các...đồng chí!...Thôi...chúng bay ngồi xuống mà hút thuốc rê đi !

Các anh hùng cười ồ lên và ngồi xuống trong không khí đầm ấm "phụ tử chi binh".

  em kể câu chuyện về chính sách bọn em đã áp dụng trong mùa nước nổi vậy! Dẫu nó không năng động kịp thời cho lắm!
Đấy là cuối mùa mưa năm 1981 ạ!
Tháng 12 năm 1981, sư đoàn 9 em rục rịch chuyển vị trí đứng chân sang tỉnh Kampong Thom – Siêm Riệp bên kia biển Hồ. Trước khi rời cứ, khoảng đầu tháng 11 năm đó, chúng em trải qua một trận lũ rất lớn. Nước suối Đamrey tràn bờ, ngập gần hết đội hình trung đoàn bộ. Riêng tiểu đoàn 4 ở trong núi, địa hình cao nên không bị ngập. Ban đêm hôm trước, nước mới mấp mé gầm cầu sắt ga xe lửa, sáng hôm sau đã chảy ồ ồ trên đường sắt. Nước dần lên sát mép sạp nằm của lán văn nghệ. Cây đổ, thân gỗ trôi từ trong nguồn núi U Răng ra, phi vun vút. Chúng em phải tháo vách cho nước lọt qua dưới gầm, sợ sức nước, củi vụn bị chặn dồn đống sẽ kéo sập nhà. Mọi sinh hoạt ăn ở đều diễn ra trên hai cái mặt mặt sạp lán rộng chừng 12 m2. Vách tháo toang bốn góc. Ba lô, bồng bị, đàn địch làm giá treo lên xà ngang. Lính văn nghệ ngồi bó gối trên giường, buộc cước vào tay câu cá ngựa. Giống cá này từ biển Hồ ngược lên. Nó trông giống cá chép nhưng nhỏ hơn, con to cũng chỉ tầm 300gr và không có đôi râu. Đuôi cũng đỏ như thế và rất phàm ăn, đặc biệt là...thức ăn có mùi phân huỷ. Tưởng nó thích gì chứ loại "thính" thơm đó mấy thằng em đâu có thiếu. Mưa thối trời thối đất ra như thế, chỉ có mỗi việc ăn, nằm và thả "thính" câu cá chứ còn biết làm cái gì? Chẳng cần năng động lắm! Lật một tấm ván giường lên thành cái cầu tõm, thằng chuẩn bị thả "thính" thoát y vào vị trí cấp một. Ba bốn tay câu vừa quăng mồi tùm tũm, vừa... đăm chiêu nhăn mặt. Nhưng chắc chắn không phải nhăn vì đang nghiền ngẫm nhân tình thế thái hay đau đáu sự đời. Cái thú tiêu dao mùa thu của cụ Nguyễn Khuyến, được lính thực thi rõ ràng không phong nhã cho lắm! Nhưng không thế thì lấy cái gì mà làm thức ăn giữa trời nước này? Nước chảy re ré qua khe cột. Tiếng cá đớp mồi ũng oẵng dưới chân giường. Mỗi ca như thế cũng có ba bốn con dính câu. Đôi khi may mắn còn giật được cả cá bò vàng hươm hoặc vài chú rô mề. Giống cá đó cũng thích mồi tanh thối. Giờ thì lội nước đi vặt mấy quả me, vớt những đọt lục bình dài nghêu, tước vỏ ra cắt khúc...Sờ soạng mò thêm mấy quả ớt chỉ thiên trong vườn đang bị ngập dưới nước là có một nồi canh chua xài tạm trong buổi ngặt nghèo. Tất nhiên nước nấu cơm canh cũng được múc ngay dưới chân giường ấy nhưng có đánh phèn cho trong. Đến bữa, chẳng thằng nào chê cả! Cứ sì sụp chan, sì sụp húp rất ngon lành...

Chính sách của bọn em lúc đó đành buộc phải phù hợp với hoàn cảnh. Em mà to hơn, em sẽ ra lệnh cho trời đừng có mà mưa nữa. Dứt cơn ngay !

  CHUYỂN CỨ
Bộ phận tiền trạm sang địa bàn mới bên kia biển Hồ báo về tại đó không có lá thốt nốt. Toàn rừng thưa nên vật liệu lợp nhà phải chuẩn bị trước từ bên này. Lại những ngày vào rừng, tìm đến những phum hoang chặt lá. Thốt nốt quanh ga dân bạn đã xí hết để lấy nước bán cho cánh đi xe lửa. Kể cả những cây mọc ngay cạnh nhà chúng tôi. Đất của bạn, tất nhiên cây cũng là của bạn. Có cho không bọn tôi cũng không biết làm gì với cái cây này. Có điều mỗi sáng trèo lấy nước thốt nốt, cũng nên để lại vài ống cho bộ đội nếu không muốn mất sạch trong đêm. Thốt nốt mất nhiều quá! Họ đành để trống đoạn cây tre làm thang ở đoạn sát gốc. Làm một đoạn thang di động, đến cây nào áp vào cây ấy. Các chú lính nhà mình từ đó tịt luôn. Mỗi sáng ra đánh răng ngoài suối, nhìn bác nông dân đen trũi loay hoay buộc cái đoạn thang cuối vào mấy cây cạnh lán Văn nghệ, chúng tôi cũng thấy áy náy ra phết. Nhưng bác ấy dường như còn ngượng ngập hơn. Chào chúng tôi lí nhí rồi xách ống biến đi thật nhanh. Kẻ nhỡ đánh cái búm giữa đám đông với kẻ nhỡ nghe phải cái tiếng đó không biết ai nên xấu hổ hơn?
Dáng cây thốt nốt phù hợp đặc biệt với các kiến trúc đền đài, chùa tháp. Nhớ lại hồi mới đánh sang Niék Luong, toàn phải hành quân đêm. Chúng tôi đi trên ruộng, trên đồng bằng giữa điệp trùng thốt nốt. Những hàng cây cao lớn và bí hiểm, đứng lặng phăng phắc trong đêm. Đến nỗi tôi có cảm giác như trên đất nước này gió không tồn tại. Giữa bóng tối tịch lặng, tự nhiên nghe tiếng rơi cái bịch. Đội hình chạy toá ra nằm xuống, tưởng chúng nó phục, rục lựu đạn. Trong đêm sâu bỗng thoảng mùi khóm chin (dứa, thơm). Trái thốt nốt chín rụng đấy! Mùi trái chin không khác mùi dứa chín. Trái thốt nốt chín màu đen tím. Lớp ruột xơ chứa một thứ bột màu vàng có vị ngọt, hơi ngăm đắng và thơm hơi gắt. Nạo bột quả ra, quết với bột nếp ngâm nước tro, gói lá chuối rồi đem hấp lên là thành thứ bánh thốt nốt đặc sản. Tôi không ưa ngọt nên không thích loại bánh này lắm! Ăn cho biết thôi!

Rồi cũng đến ngày lên đường. Trung đoàn chia quân làm hai cánh. Một cánh gồm các tiểu đoàn bộ binh hành quân ra K'ra ko, từ đó vượt biển Hồ bằng thuyền. Cánh thứ 2 gồm các ban bệ trung đoàn bộ, đi cùng bộ phận hậu cứ các tiểu đoàn đem theo vật liệu xây dựng lán trại. Cánh này hành quân bằng xe lửa về ga Rô Viêng. Từ đó đi xe D29 vượt phà P'reck Đam, rẽ theo lộ 6 về hợp quân với đơn vị tại S'tung. Thị trấn này nằm trên lộ 6, cách Siêm Riệp khoảng gần 50 km. Tôi đi với cánh thứ 2. Tuy hành quân cơ giới nhưng khi đến vị trí đóng quân mới đã thấy anh em hành quân bộ đã có mặt trước rồi.

  HAI THẰNG MẶT DÀY!
Căn cứ mới của trung đoàn 2 cách thị trấn S'toung 3.5 km dọc theo lộ 6, nằm cạnh một con đê thuỷ lợi thẳng tắp chạy theo hướng đông – tây. Con đê có tên "Xam sập canh nha" – lưu danh ba mươi cô gái lao động tiên tiến trong cái đội thuỷ lợi công xã đã đắp nên công trình này. Địa hình toàn rừng thưa xen lẫn trảng nhỏ. Phía bắc cách 2 km là tiểu đoàn 4 nằm sát suối. Giữa tiểu đoàn 4 và trung đoàn bộ là đại đội 17 DKZ.75mm. Cũng cách 2 km về phía đông theo dọc con đê là tiểu đoàn 5. Giữa khoảng này là đại đội 18- 12.8mm. Đại đội trinh sát 21 và đại đội 2 tiểu đoàn 4 nằm chẹn trên cầu S'toung ở hướng đông. Phía tây nam E bộ là tiểu đoàn 6.

Đội hình Ban chính trị bố trí hình chữ U ôm lấy một cái trảng nhỏ, có chừng mươi nóc nhà. Đội văn nghệ được bố trí ở rìa bên phải chữ U đó, nằm khoảng giữa đại đội 12.8mm và đại đội 20 thông tin. Nghĩa là có hướng lạnh sườn để mà phải gác. Cũng may là có một rừng dây mây thấp rất dày, không thể nào chui qua được ôm lấy đội hình nên cũng yên tâm phần nào. Hướng này chỉ có mỗi con đường bò chui qua cái luỹ mây đó. Đi truy quét thì thôi chứ lập cứ lâu dài thì việc quan sát, sắp xếp chỗ ăn ở sao cho kín đáo và thuận tiện, cho chuyện chống đột nhập là rất quan trọng. Xem "phong thuỷ" xong xuôi, chúng tôi bắt đầu dựng nhà và đào giếng nước ăn. Buổi chiều hôm đó, trời nóng gắt. Không khí nóng từ mặt trảng bốc lên rung rung dưới nắng. Lính ta phải đợi gần tắt nắng mới sục vào rừng chặt cột. Rừng thưa có sẵn nên cột kèo cũng dễ kiếm. Bên kia đê, qua con mương có một đám cây tương đối thẳng. Bọn vệ binh và chúng tôi lao vào chặt. Nhưng chúng nó chơi bẩn. Chỉ chọn những cây đẹp, chặt mỗi cây mấy nhát vào gốc để tranh xí phần. Chúng tôi chặt thì không sao, nhưng hai thằng vệ binh to vật như Thạch Sanh đang hăm hở đốn trong đám cây "chủ quyền" đó thì bỗng dưng sây sẩm mặt mày. Mặt chúng nó đỏ rực lên, rồi dần dần sưng mọng, to như cái lệnh trông rất khủng khiếp. Hai thằng trợn ngược mắt nhìn nhau trong ánh chiều tà. Mặt người chết do thắt cổ cũng sưng như thế do tụ máu. Ma nhập tràng? Rừng có ma? Một thằng kêu ré lên. Cả bọn sợ hãi quăng cả rìu rựa chạy về. Tôi cũng hoảng, guồng ríu cả chân! Không hiểu chuyện gì đang xảy ra? Hổn hển về đến trung đoàn bộ mới được biết nguyên nhân. Té ra trong đám đó có những cây sơn. "Sơn ăn tuỳ mặt, ma bắt tuỳ người!". Câu thành ngữ quen thuộc được thực tế chứng minh một cách quái quỷ nhất. Hai hôm sau mặt mũi và toàn thân chúng nó vẫn bị sưng như thế. Da mặt, da lưng dần tróc vảy ra, loang lổ tựa da rắn lột. Trông nhăn nhăn nhở nhở như... người lở sơn. Hễ quân y đến thăm bệnh là cả hai thằng trùm vội tấm đắp dù trời nóng chết cha, không dám cho nhìn. Những người dị ứng sơn chỉ cần đi gần cây cũng bị như thế chứ khỏi cần đụng đến nó. Đám Thạch Sanh bỏ việc, bọn văn nghệ tiếc công lại ra chặt tiếp, kéo về dựng nhà. Dẫu biết rằng căn nhà mới này từ nay sẽ vắng khách vệ binh. Thằng Đại và tôi vốn ghét bọn này từ hồi còn ở Trảng Lớn vì bị thu áo, bị nhốt vô cớ nên có phần đắc chí. Nó đánh luôn một câu:" Kệ mẹ! Càng đỡ tốn trà thuốc! Đúng là hai thằng mặt dày! "

S'TOUNG.

Trong khi triển khai đào hầm, công sự cho vị trí đứng chân trên địa bàn mới, thằng Bình cáo đại liên liên vớ được một cái dây chuyền. Được bạc thì sang, được vàng thì lụi. Nó alô lên ban chính trị cho tôi, hẹn đến Chủ nhật tới ra S'toung đập phá. Đúng hẹn, tôi lò dò xuống tiểu đoàn 6. Cả bọn hơn chục thằng, áo quần nghiêm chỉnh ra thị trấn. Trong ký ức của tôi, nó là một cái phum lớn giống hơn là một phố thị. Một hai ngôi nhà đúc, còn lại là những ngôi nhà sàn lớn vách gỗ dầu lợp ngói. Những con đường ngang dọc ngập ngụa bùn đất. Bùn trộn phân trâu, phân bò lõng bõng sủi bong bóng xanh lè, nồng nặc một mùi hôi ngái. Có những quãng bùn ngập đến gần nửa bánh xe. Dân bạn đi chợ, qua những quãng sâu đó lại thúc bò rượt cho nhanh để lấy đà. Bánh xe, đuôi bò quăng quật, vung bùn tung toé cả vào khách bộ hành đang men theo những sống đất cao đến chợ. Nhưng cũng chẳng ai lấy đó làm điều. Thậm chí còn cười ré lên trêu nhau. Hình như nông dân nước bạn có lối sinh hoạt cộng sinh, tan lẫn trong đất ruộng, trong nước trời một cách tự nhiên không thể tả. Cứ như họ là một phần không thể tách rời của mưa, của bùn đất vậy! Cả đoàn xe bò đang nối đuôi nhau rung reng, lốc cốc...Cơn mưa đen trời đến đằng trước, đến đằng sau. Gió bắt đầu lồng lên giật ngang giật dọc những tàu dừa. Mưa chạy đến thật nhanh. Những hạt mưa đập bụi trắng mờ chân ruộng. Nhưng bò thì vẫn đủng đỉnh như thế. Người thậm chí chẳng thèm nhìn trời. Những gương mặt đen ngời vẫn tĩnh như đá tượng! Không một chút nhốn nháo, không một ai rút áo mưa trùm. Áo ướt xong áo lại sẽ khô. Đoàn xe tan biến trong cơn mưa, bỗng hiện ra lù lù ngay cổng chợ. Như là hành trình này đã đến từ quá khứ, về tới hiện tại mà không hề thay đổi. Dù đến cả hàng ngàn, hàng vạn cơn mưa đã trôi qua...
Tiệm vàng nằm dưới gầm một căn nhà sàn lớn, lẫn giữa những hàng cá, hàng tôm hay hàng dép tông Thái. Ở đây vàng cũng là một loại hàng hoá bình thường như tôm như cá thôi, có gì đặc biệt hơn đâu? Một cái hộp kính nhỏ toạ trên một cái bàn sơ sài. Trong hộp kính là một cái đĩa nhôm của bộ đội đựng các miếng vàng ròng 24K. Vàng lá Kim Thành, vàng lá trơn, mấy cái nhẫn méo to sụ, vài nửa cái xúc xích, dây chuyền...Nhưng chủ yếu là các miếng do chặt ra từ các khối vàng nguyên nên có đủ mọi hình thù. Thằng Bình xỏ ngón tay vào cái dây xích, quay quay trước mặt cha ba tàu chủ tiệm như chong chóng. Lão vồ lấy, móc từ bụng ra một cái cân tiểu ly cổ quái, ném cái dây vào đĩa. "Pi chi!" (hai chỉ), mồm nói còn tay xỉa tiền Rịa luôn. Cái cân mồi lại chui tụt vào trong bụng bự như ảo thuật. Cân tiểu ly hồi đó còn đắt hơn cả vàng. Mất cân là mất nghiệp! Không hiểu lão đó có cân gian hay không? Có tiền rồi thì lên sàn, chờ gì? Vài xiên cá kết xông khói mà thân cá trong, óng ánh đỏ sậm như hổ phách, nhìn đã muốn nuốt nước miếng. Thốt nốt chua xếp thành dãy dài, cứ hết lại bê ra. Súng ống ngổn ngang, ống thốt nốt lăn long lóc trong tiếng hát bắt đầu nhừa nhựa. Một cơn mưa nữa vừa kéo qua. Một thằng say gục đầu xuống khóc... Tôi đưa em sang sông. Chiều xưa mưa rơi âm thầm...Con mẹ chủ quán nghe nói Việt lai, tiếp thêm vài xâu cá và chục trái dưa leo nữa. Nó xéo cả vào chân tôi, mắt liếc nhanh như điện rồi hi hí, chùi mỡ cá vào vạt sà rông. Mấy thằng lính không biết đơn vị nào nữa, lạ hoắc kéo lên đánh ké tự nhiên như ruồi. Hô hô! Chó chết là hết chuyện! Đủ các loại tiếng chửi thề...Thằng Bình loạng choạng đứng dậy bấu vào cửa sổ gào lên:" Mang hết nước thốt nốt chua lên đây...!". Dứt lời, một cái vòi rồng từ miệng nó vụt thẳng xuống đất. Từ cửa sổ đến mặt đất cao khoảng 3m mà cái vòi ấy không đứt cách quãng một đoạn nào. Nếu như trời không mưa...đường nắng đâu cần tôi đưa...Mẹ kiếp! Cứ mưa, cứ mưa nữa đi! Mưa cho khắp, cho nước biển Hồ lên, cho mấy thằng lính xa nhà lấy cớ mà nhậu tiếp. Lại mưa nữa kìa!

  MÁ NUÔI
Sĩ quan thì ít thấy hoặc không, nhưng trong đám lính trơn thể nào cũng có thằng có má nuôi nếu đóng quân lâu tại vị trí gần dân, và nếu nó là thằng chịu giao du và mau mắn.
Má nuôi của thằng Hợp tên là Ộp hay Ọp gì đó? Cũng có thể cái tên này chỉ là biệt danh do lính tự đặt ra cho dễ gọi. Có thằng lính nào mà lại không có biệt danh kèm theo đâu? Trong đơn vị tôi thì có Trung khói, Toàn cồ, Lượng khỉ, Sơn ba tai, Tùng mập hoặc Tùng bẩn...Đến cả cán bộ hoặc chính trị viên tiểu đoàn, trung đoàn chúng nó cũng chẳng từ: Chiến tréc (Chính uỷ E- lùn), Sông già...Cái tên ăn chết vào số phận. Đến bây giờ gặp nhau đã lớn lớn cả rồi nhưng không gọi nhau kèm tên "tục" là không chịu được. Thế cho nên bà má nuôi thằng Hợp có tên là Ộp cũng có thể hiểu do bả mập, nhẵn và tròn như một con ếch xinh thực sự. Mà cũng có thể đó là tên thật của bà. Má năm đó chừng 40, 41, người tầm thước hơi đậm. Tới đâu cũng biết ngay vì tiếng cười rất thanh thường đi trước người má mười lăm phút. Một bà goá mới sương sương trễ nải, nhận thằng con nuôi lính Việt tuổi mới đôi mươi là một điều rất bình thường. Chồng má chết trong công xã, nghe đâu cũng là dân trí thức xóm, thông thạo Pháp ngữ. Trí thức ở Campuchia rất được coi trọng trong chế độ cũ, và thường có vợ khá xinh. Má cũng thế! Bà này ở vậy nuôi thằng con trai 10 tuổi. Mà không ở vậy thì lấy ai? Cả đất nước Campuchia hồi đó đàn ông đi đâu hết! Giạt rừng? Chết trận? ...Tóm lại một đất nước nhiều đàn bà goá, gần như đất nước Tây Lương trên hành trình lấy kinh của một ông sư thời Đường. Nhưng những biến động đau thương khốc liệt đó không xoá đi được những nét ưa nhìn của những người đàn bà sung mãn. Và Tình nguyện quân hoàn toàn không phải là thầy trò Đường Tam Tạng. Người dân Campuchia không biết buồn lâu bao giờ! Một đất nước tĩnh với các giá trị tôn giáo, nhưng vô cùng động trong các hoạt động sống phồn thực hội hè. Tôi đã chứng kiến có cô em, chồng vừa chết mìn trong núi chưa được nửa tháng, chất xác chồng lên xe bò mang về, khóc sướt mướt như mưa xối. Thế nhưng buổi tối tuần trăng sau đã gặp tiếng cười lanh lảnh vô tư của cô ấy trong đám ròm "chay" không có nhạc, chỉ bằng trống vỗ đầu phum.
Như tất cả các bà goá khác, nhà má nghèo. Một cái lều đứng chênh vênh trên tám cái cột tre thì đúng hơn là một căn nhà. Vách thưng lá thốt nốt, trống tênh buộc dây vắt quần áo ướt. Trong khi chờ vạt lúa mà thằng Hợp hè chúng tôi lăn ra làm giúp đến kỳ thu hoạch được thì má đi làm cỏ lúa rẽ, hay theo chị em đi sâu vào tận những phum hoang nơi chân núi cả ngày. Khi trở về, trong cái khăn cà ma cuốn khéo như cái tổ chim lớn xù xù đội trên đầu là đủ các loại quả thu lượm: ổi, xoài, mãng cầu...dể bán cho khách buôn đi tàu, kiếm vài rịa. Thằng cu con thì khỏi nuôi. Vì nó toàn sang ăn, ở với chúng tôi. Không phải ăn ké đâu, đến bữa là nó có một ôm rau càng cua đã rửa sạch sẽ mang về. Cái thứ rau sống lá mọng hình trái tim mọc hoang, vị he he man mát, chấm mắm cá cũng hao cơm. Nó hát rất sõi tiếng Việt bài hát của ông hoàng Sihanuc :" Ta hát bài ca, đi lên chúng ta bên nhau Việt Lào bên Kh'mer anh em. Cùng chung dòng sông, Mekong đắp xây mối tình..." không biết ai dạy. Đêm mưa, có khi nó chun mùng thằng Hợp, ngủ với bộ đội. Ban ngày, nó ngồi vắt vêo trên bậc thang, bắt chấy (chí) cho má nó cùng thằng anh kết nghĩa. Má ngồi bậc thang dưới, hai thằng con ngồi trên sàn, mỗi đứa một nửa đầu. Thỉnh thoảng chí choé tranh nhau con chấy kềnh khiến má chúng nó cười rung rung cả ngực tròn. Tóc bà Ộp dày, mới cum cúm ôm kín ót. Giờ gội mưa ẩm liên tục nên chấy bả nhiều. Thằng Hợp mang kéo sang tính cắt trọc cho rồi nhưng bả không chịu. Hồi đó có nhiều chị em dân bạn cắt trọc, cắt cua chắc do bị chấy tấn công. Thế là nó phải lấy hạt mãng cầu, giã ra trộn với dầu hôi quân nhu sang cho má nó ủ tóc diệt hết chấy. Lại thêm cục xà bông Lux Thái nữa mới tình cảm. Mẹ thằng này! Hôm nào tắm suối chung mà nhỡ "mượn" nó cục xà bông thơm nó lại chửi mình là dân Vĩnh Phú mà giờ sộp thế! Có đám vui thì má cũng ròm. Bước chân trần uyển chuyển trong vòng tròn. Hông lắc nhẹ, hoạt theo vũ điệu nhưng phần từ eo lưng trở lên trên không lắc, gợi cảm như một vũ công chuyên nghiệp. Đôi tay cong cong, uốn mềm mại vừa phải trước ngực chứ không tung tẩy, khoáng đạt như các em gái trẻ. Những cử động tiết chế ẩn chứa một nội lực duyên dáng đầy nguy hiểm vô hình, như hút mắt người xem, đẩy người ta đến những khát khao rạo rực. Trong không gian thoảng mùi xà bông thơm, khối cô phải ghen tỵ lòi mắt.
"Túp lều má Ộp" là địa chỉ nhậu tin cậy của đội văn nghệ chúng tôi. Các chỗ khác có thể hết nhưng tại đó không bao giờ thiếu rượu. Ra đó vừa vắng, vừa xa cán bộ. Nhỡ có hứng gào lên hát lớn cũng chẳng ai thèm để ý. Má cũng là một tay nhậu cự phách. Cũng một hơi nửa bát sắt xâmakhi như ai. Có những buổi trưa mưa buồn, nổi cơn thèm rượu, tôi kéo thằng Hùng lé lội nước mò ra lều má. Trên sàn, hai má con thằng Hợp đã say sưa tự bao giờ, đang gác lên nhau ngủ. Nghe động thang thấy tôi, má vươn vai trỏ tay vào góc chái nhà nơi cất rượu rồi ôm thằng Hợp lăn tiếp vào cơn mộng. Chuyện thường ngày ở huyện! Tôi lấy can rượu ra. Thằng Hùng trở qua trở lại con khô. Chúng tôi ngồi cạnh má con nó ngó ra mưa, im lặng nhậu tới. Một hồi ríu cả mắt, cũng lăn ra sàn đánh một giấc vô tư như má con nó.
..............................................................................
Sau này thằng Hợp ra quân, má nuôi nó dẫn cu em đến thăm. Má cho nó hai chỉ vàng trong buổi liên hoan chia tay với rất nhiều nước mắt.
Còn thằng Hợp dân huyện Đà Bắc. Nghe đâu chạy thuyền cát gần Chẹ, Tu Vũ tỉnh Hoà Bình bên sông Đà. Em đang làm ở Phú thọ, bên kia sông gần đó cũng đã dò la tìm kiếm nhưng chưa gặp, để hỏi chuyện má con tình cảm gì đâu!
Gặp nó sẽ kể tiếp chuyện tình nghĩa má con hầu các bác!

  MỘT TRẬN TAO NGỘ CHIẾN
Ngày mai - 17/08/2008, tròn 30 năm ngày anh em tôi nhập ngũ lên đường sang Campuchia chiến đấu. Tất nhiên sẽ có một cuộc họp mặt tưng bừng khói lửa. Điều ấy không phải bàn!
Cách đây ba mươi năm có lẻ mấy tháng, nghĩa là vào tháng 4, tháng 5 năm 1982, như các bạn đã biết, chúng tôi đóng quân ở S'toung. Thời gian đó Sư đoàn 9 có một kho đạn nằm ngay cạnh thị trấn, trong một cái chùa, sau lưng trung đoàn 2. Gần như để phủ đầu, mới đến ngày thứ 3 dừng chân, địch nó tập kích ngay. Lời chào hỏi cũng quá giản dị, chừng 6 trái M.79 với vài băng đạn nhọn rồi câm bặt. Ta không bắn lại một phát nào. Duy nhất có một lần như thế rồi bặt luôn. Như thể gây tiếng nổ cảnh báo rằng có bố mày đang ở đây, liệu hồn! Rồi thôi! Đó hẳn là bọn địch trong dân! Nhưng đêm đêm, và cả ban ngày nữa ở phía núi Hồng, hướng tây bắc đội hình đứng chân của trung đoàn, tiếng pháo, tiếng hoả lực vọng lại vẫn rền rền.
"... Do lực lượng quá mỏng, Bộ tư lệnh 719 ( ?! chắc là 479) lúc đó chỉ đủ sức bám giữ, đánh địch quanh địa bàn tỉnh Siêm Riệp. Ở Kampong Thom chỉ có các đội công tác và đoàn chuyên gia quân sự của tỉnh Tiền Giang. Địa bàn này vốn là căn cứ chính của Pôn Pốt với lực lượng địch khá mạnh. Chúng ngang nhiên đi lại trên lộ số 5 ( ?! Chắc là lộ số 6) giữa ban ngày và lập hẳn một căn cứ giang thuyền để kiểm soát toàn bộ khu vực bãi biển Hồ. Nhiệm vụ của Sư đoàn 9 lúc này là phải phá tan căn cứ giang thuyền, đẩy địch lên vùng núi cách càng xa lộ 6 càng tốt. Đồng thời giúp bạn củng cố chính quyền xã ấp, trừng trị địch lũng đoạn ở hai huyện Chi K'reng (Siêm Riệp) và huyện S'toung (KP Thom). Pôn Pôt đã cử tên Un Ươn, một tên trùm gián điệp đứng đầu để nắm dân, kích động dân chống lại bộ đội tình nguyện Việt Nam..." (trích lịch sử Sư đoàn 9).
Vừa kịp dựng xong lán trại, hầm hào tại vị trí đứng chân mới, tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 5 được lệnh hành quân lung sục bao vây căn cứ giang thuyền biển Hồ - cái căn cứ mà trung đoàn 3 cùng Sở chỉ huy nhẹ sư đoàn 9 sang trước nhưng phải huỷ kế hoạch tấn công do bị lộ vì có gián điệp trong dân báo cho địch trước. Nhận lệnh, tiểu đoàn 4 lặng lẽ lên đường trong đêm. Sau đây là trận đánh qua câu chuyện của thằng Căn – liên lạc đại đội 1 d4 (lúc này tôi đã rời tiểu đoàn 4)

"...Ngày thứ 2 không có nước. Rừng cao hơn, thưa hơn, chẳng hứa hẹn điều gì là sắp tới nguồn nước cả. Các vạch xanh đứt đoạn, thể hiện suối cạn một mùa trên bản đồ thì chằng chịt, nhưng chẳng nơi nào có nước Cả tiểu đoàn đã gần như lả đi. Đã có một số ý kiến đòi quay lại cái lạch nhỏ nước xanh lè rong rêu phía sau, cách đấy 2 ngày hành quân bộ. Có quay lại được thì chưa đến nơi đã chết! Một ý kiến ngu không tưởng! Tiểu đoàn quyết định dừng chân nghỉ đêm tại chỗ trước đây là suối. Một số thằng đào khoét lòng suối kiếm nước trong tuyệt vọng. Vừa đào vừa lấy đất còn hơi ẩm áp vào mặt, lem nhem như hề. Các tấm tăng được trải trũng để hứng sương. Một đêm cháy họng nữa dần trôi qua. Tới sáng hôm sau, cái bi đông nhựa đựng nước đái của tao với anh Lược treo đầu võng đã rỗng không. Thằng chó nào đó đã uống trộm mất rồi, Đ... mẹ! Tức gì đâu! Nhìn quanh toàn những thăng thất thần, trõm mắt, môi vều tướng...biết thằng đ... nào lấy? Lệnh hành quân tiếp! Thằng Gia "cà bây" cối cứ nằm im so trên võng. Hỏi sao không dậy chuẩn bị đi? Nó bảo đằng đ...nào cũng chết, nằm đây chêt cho khoẻ, chúng mày cứ đi đi! Kệ mẹ tao! Thì kệ mẹ mày! Tha cái thân tao còn chưa xong, khiêng vác gì nổi? Đại đội đi được một quãng đã thấy nó loạng choạng mò bám theo...
Phúc nhà tao còn lớn lắm! Đi được nửa cây số nữa thì gặp cái lạch nhỏ sâu hoắm. Trên mặt lạch lục bình ken dày, xanh ngắt mọc cao thẳng đuột ngang tới thắt lưng. Chúng nó nhào tới nhấc bèo ra. Săm sắp chỉ khoảng 5 phân nước bùn, đục ngầu do rút rễ bèo. Sống rồi! Lính tiểu đoàn để nghiêng chén bát, ca inox, hớt nước trên mặt bùn. Một số trải tăng vào những chỗ trũng, gạt bùn bám ở rễ lục bình rồi vắt rễ lấy nước. Sáng kiến này có vẻ khả thi vì nước lấy được trong hơn. Lạch nhỏ, chưa chen xuống được, những thằng chờ trên bờ vặn thân bèo lính đang lấy nước ném lên, nhai rau ráu hít nước như voi hít bã mía. Đã vào đến vùng đệm nhưng chẳng thằng nào cảnh giới vì mải lấy nước. Một lát uống đủ, các bi đông cũng tràn đầy. Mấy ông lo xa, còn cắt cả thân lục bình, bó thành bó gùi theo. Trong đời tao không có thứ nước nào ngon bằng cái thứ nước rễ bèo lờ lờ hôm ấy. Mặc dù uống xong thì chỉ muốn gây sự chửi nhau với thằng nào đó vì nó ngứa mồm quá thể...
Lại đi tiếp! Trinh sát cùng đại đội 1 đi đầu. Vẫn rừng thưa xen lẫn trảng. Qua một cái trảng con, vừa tiếp bìa rừng thì có tiếng chạm lá loạt soạt. Một đơn vị dài dằng dặc, quân phục xanh rì đang hành quân qua mũi trinh sát tiểu đoàn, cách có chục thước. Không phải tiểu đoàn 5 rồi! Đơn vị nào ngon vậy ta? Bọn kia cũng vừa kịp phát hiện, bỗng giật mình tháo súng. Địch rồi! Nhanh hơn một khoảnh khắc, loạt AK của anh Yên, trung đội trưởng trung đội1 đi đầu kéo đổ hai thằng. Mấy thằng trính sát cũng kịp lia túi bụi mấy loạt. Địch bị đánh đúng khúc giữa, sau phút giây đầu bị choáng, giạt sang hai đầu bắt đầu nổ súng rát. Trung đội 1 đại đội 1 và trinh sát bây giờ rơi vào thế bất lợi, nằm chết gí giữa hai làn đạn trên trảng trống. Trung đội trưởng Yên hô anh em xung phong bám lấy bìa rừng trước mặt. Chỗ này gần địch hơn nhưng nhiều vật che khuất. Cuối cùng, phần lớn b1 và trung đội trinh sát (4 người) cũng bám được vào bìa rừng. Ban chỉ huy đại đội kịp lùi về khoảng rừng cạp mé trảng sau. Thằng Phụng 2w (người Huế) khoác máy chạy theo nhưng không kịp, bị đạn nhọn té sấp giữa trảng. Thịnh đen Hà nội lính c4, vác cái chân cối 82, nằm gần b1 hơn nhưng cũng nhấp nhổm muốn bò lui. Không phải vì nó rát, có lẽ nó sợ cối không có chân không bắn được thì ông Thào tạt tai. Ngu gì đâu! Anh Yên (lúc này đã bị thương lần thứ 2) thét:" Anh em không được bỏ chạy, bò lên đây! Có chết thì cũng chết tại đây!". Anh ấy vẫy tay gọi nó trườn lên cho gần, nhưng chẳng hiểu sao, thằng này lại vùng lên, vác chân cối chạy trở lui. Đạn nhọn lại rồ lên. Một viên bắn vỡ tung gót làm nó quỵ xuống. Nó hăng lên, trườn như con thằn lằn về cuối trảng. Từ đó làm bia sống bắn tập cho bọn địch đang núp sau cái ụ mối bìa bên kia. Bò được chục met thì nằm luôn bất động. Thằng Đặc cũng đang bị kẹt giữa trảng, thấy thế điên ruột thổi quả B.40 vào ụ mối rồi vùng chạy được lên hướng b1. Quả đạn không trúng đích nhưng nổ sát làm bọn nó chờn, lùi lại vì lộ mục tiêu. Từ đó, b1c1 và trinh sát bị cắt rời khỏi đội hình tiểu đoàn. Cối 82 c4 bắt đầu "toong, toong...!". Có 2 khẩu thì một khẩu chắc bắn ứng dụng thôi vì mất mẹ nó chân rồi còn đâu! Hoả lực lên tiếng đã khích động tinh thần anh em lên nhiều. Đại đội 2, phần còn lại của đại đội 1 bắt đầu tổ chức xung phong bám bìa rừng lên cứu bồ. Gần như có bao nhiêu hoả lực, bọn địch dồn vào cả b1, trinh sát tiểu đoàn 4 đang nằm ngáng ngang đội hình chúng nó. Nhưng vẫn nghe tiếng M.79 của anh Sơn, tiếng trung liên của thằng Đăng kéo đều. B.40 của thằng Đặc đã nổ đến trái thứ 4, còn hai trái nữa là hết đạn. Nghe mà xót ruột! Bọn tao xung phong điên lắm! Cụm địch bên phải bắt đầu lùi dần. Cối 82 đã phải nâng tầm. Cuối cùng, bọn bên trái cũng chạy nốt! Lên đến nơi, anh Yên đã hy sinh. Anh Sơn b trưởng trinh sát bị B.40 tiện mất một giò. Thằng Đặc cháy mông do nằm bắn B.40 cứu thằng Thịnh không để ý góc an toàn.
Trận tao ngộ chiến này, tiểu đoàn 4 hy sinh 3 người, bị thương 4 người. Những người hy sinh gồm anh Yên b trưởng b1 (quê Tam dương-Vĩnh phúc); Thịnh đen(Phố Trần Nhật Duật-Hà nội); thằng Phụng 2W(Hương Thuỷ- Huế). Anh Yên người nhỏ, da trắng trẻo, môi đỏ thắm như môi con gái. Đơn vị vừa mới cho về phép cưới vợ. Chẳng biết kịp có mầm sống nào kế tục chưa? Không hiểu sao cứ cha nào về phép để cưới vợ, khi trở lại đơn vị thường hay hy sinh?

Bọn Pôn Pốt đếm được toi tại chỗ 6, số tử trận và bị thương khác không xác định được.

  CÂU CHUYỆN PH'NOM PENH
Tháng 5 năm 1982, tôi được anh Bến phó chủ nhiệm chính trị trung đoàn, người Hải Phòng cử về Ph'nom Penh học lớp viết tin. Chắc vì anh ấy thấy những bài báo tường của tôi ở đơn vị có ít lỗi chính tả. Về thủ đô chắc chắn khoái hơn là xuống các phum dân vận ba cùng rồi. Thế là khoác ba lô, ra S'toung đón xe lên đường. Sau gần hai ngày tăng bo trên đủ loại phương tiện, tôi cũng mò đến được tới nơi cần đến. Đón tôi là anh Lê Huy Khanh - (nhà văn quân đội, có tác phẩm trong trang này). Tôi trình các giấy tờ cần thiết. Anh Khanh hỏi :" Em đã in mấy tác phẩm rồi? Bút danh là gì?". "Tác phẩm gì ạ?". "Truyện ngắn, thơ trên VNQĐ ấy!?". Ối cha mẹ ơi! Anh này đùa chắc? Một cái trích ngang ngắn bằng ngôn ngữ của tôi được trình bày. Rằng em là lính dưới tiểu đoàn 4, rằng em lên ban chính trị rồi được cử về đây đi học...Nghe xong, anh ấy cười ngất :" Rõ đúng là các bố quan liêu! Đây là trại sáng tác của Tổng Cục Chính trị, chỉ dành cho những nhà văn quân đội". Uầy! Thấy tôi trẻ măng, mặt lại đang thuỗn ra, anh ấy lại càng cười tợn :" Thôi! Đã về đây thì cứ ở lại đây. Coi như cho chú nghỉ choảng nhau mấy tháng! Có biết nấu ăn không?". Tất nhiên là có rồi! Dại gì?
Vài hôm sau, các anh Nguyễn Quốc Trung, Trần Đình Thế, Hồng Dân (cũng có tác phẩm trong box Biên giới Tây nam của ptlinh) dưới Phòng chinh trị Quân đoàn lên đủ. Các bác nhà văn số 4 Lý Nam Đế cũng sang góp mặt. Bác Bùi Minh Quốc to cao đẹp trai. Bác Duy Khán người đen, nhỏ, có cái hộp thuốc lá vụn bằng sắt tây. Điếu thuốc tự cuốn dán bằng nước bọt không lúc nào rời khỏi miệng...Rồi cuối cùng, cụ Vũ Sắc, cụ Đỗ Gia Hựu – phụ trách nhà xuất bản Quân đội nhân dân cũng sang. Trại viết này do Quân đoàn 4 đăng cai. Anh Khanh là trưởng trại, mời cụ Sắc và cụ Hựu về ở riêng trong cái biệt thự hai tầng gần đài phát thanh. Lại kéo tôi về làm tiểu đồng điếu đóm. Công việc của tôi chẳng có gì. Ngày ba bữa xuống bếp trại gần đó lấy cơm. Đi chợ mua thêm những món cải thiện cho hai cụ theo yêu cầu của trưởng trại. Không được để phích hết nước nóng...Tóm lại là làm cần vụ, thế thôi!

Ph'nom Penh không thu hút được tôi. Thứ nhất bởi vì tôi không có tiền. Thứ nữa cũng bởi tôi thèm ngủ. Chắc tại nhịp sinh hoạt bình lặng quá nên tôi lúc nào cũng buồn ngủ. Nằm giường chưa quen, tôi buộc võng vào chấn song cửa sổ để ngủ cho ngon. Các anh ấy bận viết. Còn tôi rửa chén bát buổi sáng xong, ngồi ngó cây phượng vĩ đang nở hoa đỏ rực ngoài cổng, ngó ra ngoài đường một lát là hai mắt bắt đầu díp lại như có bọ ngủ chui vào. Hôm nào nổi hứng thì hộ tống hai cụ đi bát phố. Cụ Sắc bảo mày viết đi, nằm mãi làm gì! Viết cái gì ạ? Thì viết những tấm gương dũng cảm, viết những chuyện chiến đấu dưới tiểu đoàn mày ấy, đưa tao sửa cho. Chúng nó đầu tiên cũng như mày thôi. Viết đi đừng sợ! Thế là tôi viết. Cũng lên lĩnh giấy bút như ai. Và cũng gò lưng cặm cụi viết. Thỉnh thoảng hứng lên lại gác chân lên bàn đốt một điếu CAPSTAN mua được do ăn bớt tiền đi chợ. Nhìn khói thuốc bay qua cửa kính, lòng bồi hồi rạo rực vì sắp thành nhà văn đến nơi. Đúng ba hôm sau, tôi trình cụ Sắc một tập linh tinh chuyện thượng vàng hạ cám dưới tiểu đoàn 4. Mà cũng quái lắm, biết khen ta chê địch hẳn hòi. Cụ Sắc đọc xong, thần mặt ra mới hỏi nhỏ :" Này! Sao chết nhiều như thế hả mày?". "Vâng! Thế đấy ạ!". Thế là cụ im lặng cất luôn cái bản thảo đầu tay của tôi đi mất. Mấy hôm sau lại bảo :"Hay mày viết những chuyện khác đi, đừng viết chuyện đánh nhau nữa. Chuyện dân vận chẳng hạn! Có khi tạng mày viết những chuyện như thế lại ăn tiền". Lại vâng! Lại một tuần đăm chiêu bóp trán mà nghĩ. Những chuyện dân vận là gì? Mấy năm choảng nhau dưới tiểu đoàn, mới lên ban chính trị mấy tháng, có bao giờ tham gia trực tiếp vào đời sống xã hội dân bạn đâu? Biết gì mà viết? Chia gạo cho dân đói, cấy lúa giúp dân, dạy những bài hát nhảm nhí xuyên tạc cho bọn trẻ con, tiêm thuốc cho người bệnh thì hẳn là dân vận rồi. Nhưng nhất thiết không được kể những chuyện ra dân xin chó, chui bụi ngó trộm con gái tắm suối bị kiến cắn sưng mông, nhậu say lăn ra nhà bà giá ngủ...Vậy là tôi bắt đầu mê mải viết những điều trong tưởng tượng...

  ..Tôi nghĩ ra một câu chuyện về tình bạn giữa một anh lính Việt và một thanh niên Campuchia. Anh lính Việt tìm thấy và cứu anh bạn K này gần chết đói trong khi đánh địch ở Biển Hồ. Anh bạn K đi lính Hun Xen vì có mối thù riêng với Angka đã bức giết cô gái người yêu của anh ấy. Bối cảnh hai người bạn gặp nhau tại nhà một ông già làm thốt nốt và thuộc nhiều câu chuyện cổ về ma cọp. Cổ tích huyền thoại và hiện tại đan cài trong vị chua đắng của nước thốt nốt chua cùng xâu cá khô. Kết luận : Angka và ma cọp tàn ác chẳng khác gì nhau, phải chung sức đánh đuổi nó. Sáng hôm sau, đơn vị của hai anh cùng lên biên giới. Đại khái thế!
Đặt xong tên đứa con tinh thần của mình là "Men thốt nốt", tôi lại nộp cho cụ Sắc. Đọc xong, cụ khoái trá ra mặt, sửa chữa chút ít rồi lôi truyện ngắn của tôi ra đọc rút kinh nghiệm trước toàn trại viết vì lúc đó, các anh ấy chưa kịp đẻ xong. Hè hè! Bác Duy Khán bảo :" Thường! Thường thôi!". Anh Khanh khen :"Có không khí lắm...!". Các anh khác không nói gì. Anh Dân đang viết dở truyện của anh ấy, phải quay sang đánh máy cho tôi vì cả trại chỉ có một cái máy chữ duy nhất và anh ấy biết đánh máy. Khi gõ xong câu chuyện, ở phần tên tác giả, anh Dân cười hô hố rồi gõ : Đại văn hào phố Phùng. Nhà tôi ở Hà Nội lúc đó đã chuyển từ Hàng Khoai về Phùng Hưng, không ở cùng ông bà ngoại nữa. Nhà mới cách cơ quan các cụ bên phố Lý Nam Đế cái cầu đá dẫn xe lửa lên cầu Long Biên thôi. Cùng dân Hà Nội, lại thấy tôi bằng tuổi con mình mà dấn thân chiến trường ác liệt quá nên các cụ thương lắm. Các bác kể chuyện Hà Nội, còn tôi kể lại những chuyện linh tinh bá láp của đời lính. Nhà cụ Sắc ở làng Hoàng Mai. Cứ mỗi sáng Chủ nhật, nghe tiếng flute dặt dìu say đắm thổi bài "Khát vọng" trong chương trình Văn nghệ, cụ lại nháy mắt hãnh diện :" Đấy! Nó chơi đấy!". Nó ở đây là anh Dương (tôi không dám chắc tên lắm, nhớ mang máng thế), con trai cụ và cũng bằng tuổi tôi.
Phòng Chính trị Quân đoàn cho trại viết hai con heo. Các cây bút cự phách không ai biết làm thịt. Được giao việc, tôi sang vệ binh nhờ anh em sang chọc tiết, cạo lông có ăn chia tỷ lệ. Một loáng, hai con heo đã phanh bụng móc hàm trắng hếu. Anh Khanh ca cẩm :" Ăn thế chó nào hết được?". "Thì bán bớt đi!". "Thế mày đi bán đi!". Tôi gọi xe lôi, chất một con heo lên xe chạy thẳng ra chợ Olympic. Xe dừng, cánh lái thịt ào đến ngay. Không nhớ là đã thu bao nhiêu tiền nhưng tôi bán đứt con heo chỉ trong vòng 15 phút. Trở về, tôi đưa tiền cho anh Khanh sau khi đã trích lại khoản cà phê tối tự thưởng. Bữa cơm chiều, xoay trần làm đủ các món heo cho mâm bốn người. Đến lúc ăn, anh Khanh lôi ra một chai rượu với bốn cái ly hạt mít. Cụ Sắc lại hỏi :"Có biết uống không?". "Dạ! Kh...ô...ông... ạ!". "Thế thì tốt! Nhưng hôm nay vui thì cũng làm vài chén đi!". "Vâ â...ng...ạ !". Chết cười sặc! Tôi nhấm nháp chút chít ba ly cho các cụ vui lòng...

Rửa chén bát xong, tôi xin phép chuồn ra phố. Lang thang từ đài phát thanh ra đến Cầu Sập phải hơn 1.5 km đi bộ. Trên cầu, hàng nhậu đêm, hàng nước giải khát đốt đèn trứng vịt lốm đốm. Tôi gọi một chai 75, vài con khô nướng rồi ngồi kê dép thõng chân ngay đoạn đứt cây cầu, cảm nhận tận cùng cái hụt hơi của cao độ xuống lòng sông. Tonle Sáp dưới chân bóng sáng mờ xuôi chảy. Độc ẩm nhưng sao rượu vào thế này! Ờ! Thì tao uống với mày, uống với dòng sông đêm mà hơn ba năm trước, tiểu đoàn tao đã ngược lên đánh trận Ô Đông. Hơi rượu vào quá! Gió thổi mạnh quá! Hồn tử sỹ gió ù ù thổi... Anh em tao đấy, anh em tao đang về theo gió đấy! Anh em tao đã hy sinh khối. Còn mày chắc cũng thương tích đầy mình! Nhất là cái trận bọn giang hạm nó giã cối 81. Trúng địch thì ít mà trúng mày thì nhiều. Cá chết trắng cả! Thôi đổ xuống chén rượu đền mày đây! Còn xa tít bên cầu, phía những đám mây vần vụ, chớp biển đang nhằng nhịt kia là quê cha quê mẹ tao! Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa mày có biết không?

  TUOL S'LENG
Cuối tháng 6, Chính quyền bạn cùng Phòng Chính trị Quân đoàn tổ chức cho trại viết đi thăm nhà tù Tuol S'leng và Chùa Bạc Hoàng cung. Các bác các anh đều là sĩ quan cao cấp, trung cấp cả. Còn thằng tôi là lính trơn duy nhất, trẻ nhất, chưa bao giờ trong đời lính lại được hưởng cái suất ăn theo như thế! Xe đưa rước tận nơi. Nhà tù Tuol S'Leng thì các bạn chắc biết cả rồi. Nó vốn là cái trường trung học nằm trong một con phố nhỏ. Kh'mer Đỏ đã biến cái nhà trường này thành nơi giam giữ, nơi tra tấn, hành hình những phần tử cứng đầu. Những lớp học không có bàn ghế. Trong đó, vài cái giường sắt hàn thêm những thanh cùm hoen gỉ. Vệt máu khô phun vọt đã thâm đen trên tường, trên nền gạch bông. Trong một lớp khác, đống quần áo bẩn thỉu, hôi hám của những tử tù chất thành đống như núi. Vết móng tay cào bật máu hằn trên cửa chớp, trên tấm giát giường đã ải, tố cáo cơn đau tột cùng của nạn nhân. Tấm bảng đen vẫn còn ghi công thức một hợp chất hữu cơ có nhân vòng benzen chưa kịp xoá trong giờ học cuối cùng, trước khi thầy giáo, học sinh bị lùa ra khỏi thành phố. Đoàn khách tham quan không ai nói một lời nào, đi chen vai thích cánh giữa những oan hồn trên cái hành lang dài tịch lặng. Tôi vịn lan can. Cái thành lan can này đã có những bàn tay nào vịn vào? Sao nó giống lan can trường tôi đến thế? Tiếng bầy quạ kêu thảng thốt. Người hướng dẫn kể rằng quạ vào ban ngày và chim lợn vào ban đêm ngày trước vẫn bay qua các cửa sổ mở, chầu rìa rình móc mắt người chết hoặc người sắp chết bị cùm cố định trên giường. Đã ba năm trôi qua nhưng tại đây vẫn nồng nặc mùi tử khí. Cái mùi ấy không thể tả được, như là mùi cũ của một con người đang lạnh đi. Một cơn gió mạnh thổi ào qua. Các cửa lớp khép hờ bỗng bung ra mở toang, như là hết tiết đến giờ ra chơi...
Auschwitz, Treblinka, Sachsenhausen...những trại tập trung của phát xít Đức dẫu man rợ hơn gấp nhiều lần nhưng cũng không gây ám ảnh như tại nơi đây. Tội ác đã được thực thi tại học đường, giữa những công thức hoá học và màu đỏ hoa phượng vĩ. Như chổng mông vỗ phành phạch vào nền văn minh nhân loại.
Sẽ là thiếu sót nếu không nói về cái bản đồ nổi tiếng. Một tấm bản đồ chằng lưới mắt cáo để neo giữ những cái sọ người ghép thành hình đất nước Campuchia thời Pôn Pôt. Kampong Thom, Kampong Ch'nang, S'vay Rieng, P'ray Veng, Ta Keo...Cả đất nước này là một nghĩa địa khổng lồ. Sọ người chết không mấy cái còn nguyên vẹn. Cái thủng đỉnh đầu, cái vỡ trán, cái mất nửa hàm trên...lặng lẽ dõi theo bước chân chúng tôi bằng những hốc mắt vô hồn tội nghiệp.

Công lý đã được thực thi, tội ác đã bị trừng phạt. Những người đã khuất hãy cho họ được yên nghỉ đời đời. Có cần thiết mang thân xác thật của họ ra làm vật chứng để tố cáo chế độ cũ hoặc vinh danh chiến thắng hay không?

  KÝ TÊN MỘT CÁI LÀ THÀNH NHÀ VĂN!
Rời Tuol Sleng, xe đưa chúng tôi đi chụp ảnh ở đài Độc Lập rồi đến thẳng Chùa Bạc Hoàng cung (ảnh mất rồi, tiếc quá!). Phần miêu tả ngôi chùa này các bạn có thể tìm trong các trang trên Google. Tất cả tháo giày, tôi thì tháo dép trước khi đặt chân lên những viên gạch lát bằng bạc ròng mát lạnh trong chùa (mỗi viên là 1,1 kg bạc). Vương quốc Campuchia theo phong trào các nước không liên kết, nên các viên gạch bạc này cũng không liên kết với nhau bằng hồ? Dẵm chân lên, có những viên vẫn cập kênh nhẹ. Tượng Phật bằng ngọc lục bảo, tượng Phật vàng nặng 90 kg, cao 2m không gây chú ý cho tôi bằng những tủ kính đựng đầy các con giống cũng chế tác bằng vàng ròng rất tinh xảo. Ngắm chúng, tôi lại thêm một lần nhớ tiểu đoàn 4 chiếm được vàng trong trận bắt Ta Mok ở phum Kâmnom. Lòng vẫn bồi hồi tiếc nuối. Những tiếc nuối rất đời, rất tục bất giác ào đến giữa chốn linh thiêng khiến tôi sợ, liếc trộm Đức Phật một cái rồi cúi đầu xuống. Giá mà cái túi quần lính của con lúc này có được một vốc những thứ bày trong tủ kính kia! Trăm ngàn lạy Ngài xá tội! Giá hồi đó con không nộp chiến lợi phẩm thì những đêm ở Ph'nom Penh này, con sẽ chẳng bao giờ chịu đi ngủ sớm! Tôi chắp tay đứng trước tượng, lẩm nhẩm khấn với lòng thành kính vô bờ : Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Tại chúng nó bắn vào con nên con cũng bắn lại như điên. Nhỡ có sát sinh cũng tại chúng nó cả! Trời tru đất diệt chúng nó! Con lạy Ngài phù hộ độ trì cho con và anh em con mạnh khoẻ, đừng chết ở đây và chóng được trở về nhà...
Đoàn khách tham quan vào Hậu cung, nơi trưng bày các vật dụng của Hoàng Gia. Những thứ khác không nói làm gì. Nhưng cái ngai bằng gỗ quý, nệm bọc tơ tằm thêu cầu kỳ bằng những sợi vàng mảnh của Ngài Sisowath Monivong- ông ngoại Đức Hoàng thân lúc đó đang lưu vong hấp dẫn tôi một cách kinh khủng. Chờ mọi người lục tục trở ra gần hết, tôi trở lại, chễm chệ toạ ngay lên một cách rất đàng hoàng. Trời ơi sao nó êm ái thế! Mát hết cả...một phần con người! Sướng quá! Tử vi có nói số mình được làm vua trong 5 phút là lúc này đây! Đang định vung tay bắt chước mắng đám quần thần bạc nhược tưởng tượng cho giống thì tiếng cụ Sắc gọi :"Tùng! Thằng Tùng đâu rồi?". Tôi chạy tọt ra gian ngoài. Các bác, các anh đang túm tụm quanh cái bàn. Cụ Sắc đang ghi cảm tưởng trong cái sổ vàng dày cộp. Dưới những lời phi lộ đẹp đẽ, cụ viết bằng chữ hoa :" Đoàn Nhà Văn Việt Nam" rồi ký tên. Các bác, các anh cúi xuống lần lượt ký vào. Cuối cùng, cụ bảo tôi :"Còn mày nữa, ký vào đây!". " Cháu á?". "Không mày thì ai?'. Nói qua về cái chữ ký của tôi một chút. Chẳng bao giờ giống nhau, như mệnh tôi vốn thân vô chính diệu. Khi cáu bực thì chứ ký chỉ gồm 5 cái lò xo. Khi xông xênh đắc ý có khi kéo đến 7,8 cái lò xo lận. Hôm đó, tôi mắm môi mắm lợi làm cái lò xo khoảng mười vòng...

Nếu Ban quản lý Chùa Bạc lưu lại những cuốn ghi cảm tưởng thì hẳn là các bạn sẽ thấy cái lò xo của tôi trong đó!

  HAI TRỨNG MỘT NGÀY, VỊT ĐẺ RÁT ĐÍT VẪN KHÔNG KỊP!

Sau cái truyện đầu được chấp nhận, lại nghe mọi người động viên ầm ầm, máu văn chương của tôi chảy hừng hực. Tôi lăn vào viết như điên. Trong đầu toàn những tuyến nhân vật chính diện, phản diện bắn nhau đùng đùng. Hoặc yêu nhau tay đôi , tay ba trong các thiên diễm tình thấm đấm nước mắt Việt nam – Campu chia. Xamakhi thì si bò hóc! Tôi bắt đầu cáu vì mình sao không xơi được món bò hóc? Có ăn được các món nhân vật của mình ăn thì mới hiểu họ hơn. Cái con bé bán cà phê đầu phố có cái miệng xinh xinh kia, thỉnh thoảng vẫn có mùi bò hóc ở đâu đó. Có làm sao đâu? Lần này ra gánh bún cá mình phải cố bịt mũi quyết tâm tọng thật nhiều bò hóc! Không chịu được thối sao trở thành nhà văn chân chính được? Lại nữa kìa! Các nhân vật trong đầu đó, nó làm tôi bỏng mấy lần vì không rót nước sôi vào miệng phích (bình thuỷ) mà lại đi rót vào đúng bàn chân của mình. Chết tiệt! Cứ chờ đấy! Ngày xưa Trần Quốc Toản bực lên tay bóp nát quả cam lúc nào không biết thì sao? Bỏng tý ăn thua gì? Tự động viên mình thế, nhảy lò cò về phòng, gác chân lên bàn thổi phù phù, tôi ngồi viết tiếp...
Thấm thoắt gần hai tháng trôi qua. Điếc không sợ súng! Tôi đẻ liền một lúc hai truyện nữa. Ph'nom Penh cuối hè nắng gắt. Cụ Sắc cụ Hựu lôi cái bàn kiểm duyệt từ trong phòng ra ban công có mái che ngồi làm việc cho mát. Tôi pha ấm trà mới. Cụ Sắc đang quạt phành phạch, lườm tôi rồi mới bảo :"Về thì mày xin làm trưởng trại vịt!". "Sao lại thế ạ?". "Mày làm trưởng trại thì thúc mỗi ngày vịt nó đẻ hai trứng. Như mày đang đẻ ra truyện thế này!". Cụ Hựu cười ồ ồ :" Vịt mày có đẻ hai trứng một ngày, đẻ rát đít mười ba tháng trong năm thì vẫn không đủ trứng bán cho dân ta đâu con ạ! Đang đói lắm!". Hai cụ lại cười rộ lên. Quả thực, qua câu chuyện hậu phương của các cụ, miền Bắc và cả nước nói chung lúc đó đang ở trong thời kỳ cực khó khăn. Điều này tôi đã cảm thấy trong thời gian chuồn về nhà. Không hiểu sao thống nhất rồi, tình hình kinh tế đất nước lại tệ hại đi nhanh chóng đến thế? Cả một sê ri chuyện tiếu lâm thời đại được các cụ xuất bản bằng miệng chiều hôm ấy. Cười ra nước mắt! Ấy thế mà chúng tôi viết nhỡ có gì động đến chế độ một tý là bị cắt xoẹt ngay. Bút sa gà chết con ạ! Ơ! Thế bác cháu mình đang nói dối nhau, dối bản thân mình à? Trẻ con! Biết gì?
Cả ba cái truyện tôi viết ra trong thời kỳ bên K đó được các cụ cho in cả. Bây giờ vẫn nằm im trên giá sách gia đình. Mỗi khi giở nó ra, thấy xấu hổ, ngượng ngùng như nhìn lại những cuốn sổ liên lạc hay học bạ cũ. Nó non nớt, nhạt nhẽo kinh khủng. Nhưng chưa tệ hại bằng nó đã được viết bằng những xúc cảm vay mượn, tô hồng vô lối. Và đặc biệt nó không đúng với sự thật chiến trường, không đúng với bản ngã thằng lính chiến là tôi và anh em đồng đội tôi. Cụ Sắc đã nói đúng! Một quả trứng vịt lộn khi cần thiết còn đáng giá hơn cả tá những truyện ngắn như thế!
Nhớ như in một buổi tối mưa tạnh, tôi dẫn bác Sắc đi xem người ta ròm trên vỉa hè trước cổng uỷ ban. Bác phấn khởi quá! Nói thích cô mặc áo thun xanh. Còn tôi lại thích cô áo đỏ hơn. Sao bác biết, bác vẫn cho qua những câu chuyện như thế?

  TRỞ VỀ ĐƠN VỊ
Đầu tháng 8, trại viết giải tán. Tôi ra chợ mua một cái bút máy Héro, vài thứ linh tinh lặt vặt khác, chuẩn bị quay về đơn vị. Các bác lục tục hành trang trở về Hà nội. Bác Hựu thì đang buồn vì chuyện hậu phương riêng của bác ấy bị "tập kích". Trong thời gian các bác sang đây, vợ bác ấy ở nhà có ngay tình yêu mới. Thế mới thấy trong tình yêu, ông thượng tá hay anh binh nhất, súng ngắn súng dài cũng khổ sở như nhau. Bác Sắc nháy tôi :"Có cái gì gửi về nhà không? Tao mang hộ!". Thằng lính như tôi thì có cái gì được chứ? Tôi viết lá thư gửi về nhà cho gia đình yên tâm. Phút chia tay nhiều lưu luyến. Lá thư này bác Sắc chuyển về tận nhà. Trong câu chuyện với gia đình mà mẹ tôi kể lại bây giờ, bác ấy chỉ có mỗi ca ngợi cái đức ngủ của tôi :"Thằng này nó có tài ngủ, ngủ suốt ngày ông bà ạ!". Các cụ có tuổi, ít ngủ nên ngả mũ trước cái tài ngủ của tôi là đương nhiên!
Anh Dân kéo tôi về phòng Chính trị Quân đoàn ở Ô Đông chơi ít bữa. Anh ấy gạ, bảo mày cứ ở đây, tao làm cái giấy xuống Sư đoàn xin cho mày về phòng này. Có khả năng đấy! Thích đi học ở Sài gòn thì cũng dễ. Thôi! Ở đây với các anh! Biết anh ấy quý mình nên mới tạo điều kiện thế. Nhưng nếu đồng ý ở lại là suốt đời chọn con đường binh nghiệp, là tiếp những tháng năm dằng dặc xa nhà. Thôi anh ạ! Em chỉ muốn mau được trở về nhà thôi! Dưới đơn vị đang có chính sách giải quyết ra quân, phục viên dần dần rồi. Vài bữa nữa chắc em cũng đến lượt. Ở với các anh sướng thật đấy! Nhưng em muốn về đơn vị, nơi em sống thoải mái hơn, em được vô tư hơn. Không phải ne nét ý tứ nhiều vì tính thằng em lắm khi vô duyên lắm! Với lại em nhớ chúng nó quá...
Phải nói là ở S'toung, nơi trung đoàn tôi đóng trong thời gian này, tình hình chiến sự cũng yên ắng nên tôi mới quyết định như thế! Còn không biết nếu Sư đoàn đã lên biên giới Thailand, ngày nào cũng ùng oành thì tôi sẽ quyết định thế nào?
Cuộc đời có những ngã ba. Dẫu vẫn đi lối mình đã chọn nhưng vẫn có phần tò mò về cái ngả rẽ kia. Nếu ta đi lối đó thì sao nhỉ ?

  MỘT TRANG HIỆP SĨ
Sáng hôm sau, tôi khoác ba lô ra phà (bắc) P'rech Đam đón xe. Chờ mãi không thấy xe lính mình, tôi đành leo đại lên một cái xe đò. Coong top Vietnam tâu na? Tâu vinh, tâu vinh, tâu S'toung khet Kampong Thom! Một khoảng nhỏ được dành cho tôi trên tấm ván kê cao, cạnh mấy cô gái đen giòn phía cuối nóc xe. Ngược dốc phà, xe nghiêng ngả chạy. Gió mát cứ lồng lộng. Thỉnh thoảng hành khách chúng tôi phải cúi rạp người xuống khi xe chạy qua những cành cây ngang xoà thấp trên đường. Dân quê hồn hậu, cười đùa trêu chọc nhau cứ rinh rích cả. Một cô ngó tôi, nói liên liến gì đó trong gió ù ù, nghe lõm bõm có chữ sì ke (chó). Cả nóc xe cười rộ. Tôi cũng nhe răng ra điều ta đây cũng hiểu hết nhưng bụng thì phân vân. Có khi nó bảo mình là chó cũng nên? Hay nó bảo bộ đội Việt nam hay ăn thịt chó? Cũng có khi nó bảo mình ngồi thù lù giống con chó ba tiền rưỡi? Tôi sửa lại tư thế ngồi cho thật đàng hoàng, bắt đầu nóng mắt và nghiêm mặt lại. Nhưng lúc này thì các cô không thấy trêu cười nữa. Họ im lặng dần. Gương mặt đăm chiêu hẳn và có phần trở nên nghiêm trọng. Có thế chứ! Phải biết tôn trọng bộ đội Việt nam chứ! Xe đã chạy hơn ba tiếng. Bụng tôi bắt đầu thấy tưng tức nơi bàng quang. Suy bụng ta ra bụng người, hẳn các cô này cũng buồn giống mình bây giờ. Thảo nào mặt đần thối ra như thế kia. Cười nhiều nó vọt ra thì khốn! Cứ ních nước dừa cho đẫy vào! Cũng may, các em mời nhiệt tình nhưng tôi lại từ chối. Một cuộc thi chịu đựng bắt đầu. Mỗi lần xe xóc, các cô ấy nảy người lên nhưng lại cố hạ xuống từ từ. Mặt nhăn như đau nỗi đau diệt chủng. Cho chết! Cười anh nữa đi! Tình trạng tôi cũng chẳng hơn gì nhưng vẫn cầm cự được chán. Một cơn gió ào qua, mang theo hơi nước mát lạnh. Xe đang chạy ngược chiều với cơn mưa đang tới. Các chị này tỉnh người ra hẳn, ngồi xệp xuống nóc xe, hóng về cơn mưa như cá rô mề hóng nước. Tôi lục ba lô, lấy tấm nilon ra để sẵn. Lòng cũng mong cơn mưa như mong mẹ về chợ. Gió lạnh lắm rồi! Bầu trời bắt đầu tối rầm. Tôi trùm kin tấm nilon lên người, tháo "súng", chờ những giọt nước đầu tiên nguỵ trang để bắt đầu khai hoả. Một cái xóc nảy người, kèm theo một tiếng sét ngang trời đánh "Oành" một cái! Tiếng sét đã khai thông mọi bế tắc. Gần như đồng thời, nước trong xì-téc của các cô vụt ra trên nóc xe, chảy ồ ồ cùng lúc với những hạt mưa mới bắt đầu xối xả. Đến lúc này đến lượt tôi bật cười lớn. Cười không nhịn được. Vừa cười vừa xả rất sung sướng, không gì sướng bằng! Một cô thụi vào vai tôi một cái đau điếng rồi giật phắt tấm nilon trên vai tôi ra. Hờ hờ! Anh mày xong rồi! Ba cô trùm tấm nilon của tôi, làm nốt công việc đang làm dở dang, hết cả ngượng ngùng. Tôi nhường tấm nilon lính ấy cho các cô, gửi thêm cái ba lô cho khỏi ướt. Bây giờ thì chúng nó cũng như em gái mình thôi mà. Qua cơn bĩ cực, người ta dễ thông cảm với nhau hơn.

Tôi vừa vuốt nước mưa trên mặt vừa đắc ý, vì đã cư xử như một trang hiệp sĩ thứ thiệt.  

   BÀI HỌC VỀ HIỆN TƯỢNG QUANG HỢP 


Con lộ 6 những đoạn chạy sát biển Hồ trông giống như một con đê. Theo hướng lên Siêm Riệp, bên phải đường là ruộng, rừng thưa. Bên trái là rừng lá thấp, xuôi dần ra hướng biển Hồ. Tại cầu S'toung, ngay lối rẽ ngã ba "Xam xập Canh nha" từ lộ 6 theo đường đê vào trung đoàn bộ, tiểu đoàn 4 bố trí đại đội 2 chốt độc lập và một khẩu 12.8 chĩa nòng ra hướng rừng ngập. Tôi xuống xe, "ocun chà rờn" sốp-phơ cẩn thận. Bọn đại đội 2 nhận ra, gọi nheo nhéo. Chúng nó đang thịt chó liên hoan cho hai thằng ra quân. Tôi tạt vào chào hỏi anh em chút rồi chuồn, chẳng còn lòng dạ nào mà ngồi chờ nhậu. Xa đơn vị đã hơn 2 tháng, bụng sốt ruột chỉ muốn về ngay, thành ra đi như chạy trên con đường dọc mương. Con mương thẳng tắp này đặc biệt ở chỗ là cả mùa mưa lẫn mùa khô không bao giờ có nước. Có lẽ thằng kỹ sư thuỷ nông của bọn Pốt nó tính sai cao trình, hoặc chưa xây dựng được trạm bơm tưới tiêu tại ngã ba ngoài kia.
Nhà mình đây rồi! Giàn bí xanh đã trùm kín khoảng sân rộng, leo cả lên mái. Quả bí to ăn không hết, mới cắt một nửa được chúng nó bọc nilon cẩn thận vẫn treo lủng lẳng trên giàn. Sắn (mỳ) mới cao đến ngực phủ xanh những khoảng trống. Lên ban báo cáo có mặt, xuống anh nuôi báo cơm xong thì trời tối mịt. Trời mưa sụt sùi. Anh em quây quần bên ca trà với gói Samit tôi mua làm quà. Văn nghệ được bổ sung thêm hai thằng lính Nam nữa chơi cổ nhạc là thằng Sang với thằng Đức. Anh em lính Nam kỳ này vào đông nên phần cổ nhạc trong chương trình là không thể thiếu. Thằng Sang ở An giang, người nhỏ nhắn trắng trẻo, không đen như các bố lính miền Tây khác. Hỏi ra mới biết là nó bằng tuổi tôi nhưng đã có những 3 vợ cưới hỏi đàng hoàng (chẹp!) và có bốn đứa con chính thức. Nó ở nhà quê nhưng đếch phải làm gì. Chỉ xách đờn lê la các nhà có đám. Phạm vi hoạt động văn hoá cả chục cây số. Đàn sáo, nhậu nhẹt say sưa rồi rúc xuồng, rúc bụi nghiên cứu muỗi A nô phen khi đốt chổng mông như thế nào với con gái nhà người ta nên bị bắt đền. Có lần nó nhậu say quá, nằm bẹp như cái dải khoai. Một lúc cả ba cô vợ to như con tịnh chống xuồng phi ngay đến. Đám tịnh đó lao vào túm tóc xé áo bóp...vòi lẫn nhau hòng cắp cái dải khoai héo kia về nhà mình để phục dịch. Nước mẹ gì! Chỉ sướng mắt cánh đàn ông ngồi nhậu trên bộ ván ngựa kê ngoài sân, cười hô hố...Sau một hồi dày xéo bụi mù bất phân thắng bại, ông chủ nhà đám (vốn là một tín đồ cải lương) phải ra tay can thiệp tống cổ ráo. "Chúng bây cút ngay! Bộ tính phá đám hử? Đêm nay nó ngủ ở đây với...con gái mỗ!". Thằng Đức thứ tư, người hơi xấu trai nhưng có duyên thầm. Nó ôm đàn, ngó ra khoảng mưa tối nhấn nhá từng khúc sáu câu. Ngón chân cái kẹp cái song loan gỗ thỉnh thoảng tróc lên giòn tan canh nhịp. Nó chơi cổ nhạc bằng cây đàn phím bằng của tôi, không thèm xuống dây như đàn guitar phím lõm chuyên dùng chơi cổ nhạc. Tiếng đàn nghe lắng lót trần ai lắm, nhất là trong những đêm sâu, mưa như thế này...
Ca trà tàn thì đêm đã khuya. Trà làm chúng tôi xót ruột, đói cồn cả bụng. Mưa sùi bong bóng mưa lâu. Nhổ sắn ăn đi! Thằng Chương bàn. Sắn văn nghệ trồng mới đến bụng, làm gì ra củ? Thì sang mẹ nó rẫy của chủ nhiệm chính trị ấy! Bên đó tốt lắm! Sai hai chú em cổ nhạc đi nhưng chúng nó sợ chưa quen chó. Chân ướt chân ráo mới được lên ban, vô kỷ luật bị tống cổ về tiểu đoàn thì xách B.41 ốm. Nghe cũng có lý! Ba ông cựu đành cởi trần xách bao dứa luồn sang. Rẫy sắn của chủ nhiệm nằm ngay trước cửa gần nhà chính uỷ. Con chó Bốp bên đó sủa nhặng lên lao ra. Nhưng nhận ra tôi là người quen nên lăn vào liếm láp. Con Bốp vẫn hay ăn chực cơm nhà văn nghệ lắm rượu nhiều xương. Nó chồm cả hai chân trước đầy bùn, chùi lên lưng tôi đang bò như đặc công. Mẹ con này! Chắc nó ưu tiên tình cảm cho mình vì vừa mới đi xa về. Lưng tôi rồi cả người tôi toàn bùn do nó bôi vào. Tình cảm thể hiện quá mức đôi khi cũng gây phiền hà cho người khác đấy! Đồ ngu! Tuy là tao đang bò như mày thật, nhưng hoàn toàn không phải là bạn mày. Hiểu chưa? Tôi vừa vỗ vỗ đầu nó vừa lầm bầm. Nhẹ nhàng nhấc nhấc, rung rung lôi gốc sắn lên cho khỏi sót củ. Được gốc nào, bẻ ngay củ cho vào bao dứa rồi dặm lại thân cây thật sâu, thật chắc chắn như hiện trường cũ. Cũng may trời mưa nên công việc đó chẳng khó khăn gì. Xong! Về vất bao sắn cho chúng nó tách vỏ đem luộc. Ba thằng ra tắm mưa. Lúc nãy mải tập trung "bám địch" nên không biết gì. Còn bây giờ lạnh run cầm cập. Lạnh teo cả... rốn! Ra giếng chung tắm thì nước ấm hơn nhưng thế thì lộ mất. Nồi sắn hấp đêm ấy cực ngon. Nhất là những củ sém ở đáy nồi vỏ thơm phức, lấm tấm mặn những hạt muối, bở tung dưới ánh đèn che nhỏ. Sắn bở quá, ăn nghẹn cổ nên cả bọn vừa ăn vừa phải chiêu nước.
Vài hôm sau, đám sắn đó vàng hết cả lá. Anh Bến phó chủ nhiệm đứng trước sân than vãn :"Nước ngập thối rễ, đám sắn này hỏng hết rồi!". Thượng sỹ Hoạt - "kỹ sư nông học" bèn khoa tay giảng giải, ra vẻ rất hiểu biết :"Không phải đâu! Lá dày quá nên ảnh hưởng đến sự quang hợp thôi anh ạ!". Tôi đứng cạnh phải vụt bỏ chạy ra sau nhà để cười, không thì cũng bị nghẹn như nuốt sắn bở.
Riêng cái thằng cha đội trưởng đội Văn nghệ này thì cái gì nó cũng biết tuốt! Em sẽ kể với các bác sau...

  Tiếp nốt bài hiện tượng quang hợp 

.......
Đám củ mì đó tất nhiên là chết, kể cả đã được vun luống và tỉa lá. Thượng sỹ Hoạt một chiều trời buồn ra thu hoạch thử một khóm. Giống như chuyện cổ tích anh nông dân và con quỷ, những phần trên mặt đất thì không phải của chúng tôi. Hiểu ngay rằng mì chết không phải do lá quang hợp yếu, lão Hoạt mang nguyên khóm vào cho anh Bến xem (chắc định giải thích là do sâu đục củ?) . Anh ấy than vãn lại chỉ có bọn Văn nghệ thôi! Anh ấy cho gọi tôi với thằng Hùng lé đàn bầu lên. Phó chủ nhiệm chính trị quả có con mắt nhìn người, tuy là vẫn còn thiếu thằng Chương còi. Trông thấy khóm mì không củ nằm giữa sân, hai thằng tôi biết ngay sự tình. Con Bốp đang lim dim trong gầm lại lao ra mừng ư ử, quấn vào ôm chân tôi như một khẳng định đồng loã. Con chó dái này này khoái sang văn nghệ vì ngoài xương ra, bọn tôi còn nghịch ngầm, cứ xoa "cu" cho nó sướng đâm nó nghiện. Loài vật trả ơn là như thế này đây, trời ơi! Không mào đầu, anh ấy hỏi luôn: Chúng mày hả? Bọn em đâu có! Nếu không tụi mày thì chỉ có thể là ông Thạnh, ông Chiến thôi! (ông Thạnh ông Chiến là trung đoàn trưởng và trung đoàn phó). Thằng Hoạt ra nhổ thêm về cho anh em nó ăn. Lọ mọ đêm hôm rắn nó đợp cho thì khốn!... Im tịt hết, nể ông ấy quá! Lão Hoạt chắc chưa biết "Bài ca sư phạm" hoặc Makarenko là ai, tức lộn tiết nhưng vẫn phải ra vườn trợn mắt nhổ về cho chúng tôi mấy khóm. Mà nó chọn toàn khóm nhỏ còi cho bõ tức.  

  PHIÊN CHỢ BA TƯ

Cuộc sống bộ đội của tôi bây giờ nhàn tản như công chức. Sinh hoạt cơ quan giờ nào việc nấy nghiêm lắm chứ không tự do thoải mái như dưới tiểu đoàn. Sáng dậy đánh răng rửa mặt, vệ sinh cá nhân rồi tập cho đến trưa. Cơm nước xong nghỉ trưa. Chiều lại tập rốn một đoạn nào đó chưa nhuyễn nhưng tai chỉ dỏng sang hướng sân bóng trung đoàn. Hễ bắt đầu có tiếng bịch bịch của trái bóng da bọn vệ binh khởi động là hô nghỉ luôn. Vác cuốc ra xới ví dụ mấy đám củ mì, đám đậu đũa cho các em noi gương, xong ra sân bóng quần đến mệt lử. Thưa với các bác là em hồi này ăn chức "tiên chỉ" rồi! Lính cũ mà! Tuy không phải là trợ lý ăn nói lí nhí thập thò xin chữ ký. Cũng chẳng là đội trưởng nhưng lại được nể nhiều! Do biết bảo vệ cho quyền lợi anh em trong đội rành rẽ khúc triết lắm, không toan tính vì mình cái gì cả! Phân đời cũng dám chơi tới bến, nhậu mút ngón chân cái, không ngán bố con thằng nào. Lại hay bày trò ăn cắp cải thiện nên chúng nó khoái là đương nhiên. Cả đội Văn nghệ tuyệt nhiên giống máu nhau. Là lính lại nhiều cái thú nữa thì cần đếch gì? Ở cơ quan Chính trị yên hàn, ba lô các sĩ quan, các trợ lý ngày càng phồng lên những đồ Thailand, những chiến lợi phẩm xin hoặc trấn được của đồng hương đồng khói dưới các tiểu đoàn để dồn cho các kỳ nghỉ phép. Một số ông còn biết dồn lương, phụ cấp, hùn tiền rịa gửi bọn hậu cần đi buôn, đánh quả mánh mung. Nhất là đám sĩ quan dân Bắc mình xuất thân quê ở nông thôn. Ăn không dám, tiêu lại càng không. Lại chẳng dám vô kỷ luật để trốn giờ đi cải thiện nên nhiều khi nhìn mâm cơm các trợ lý sĩ quan cũng thấy động lòng. Ngược lại, ba lô bọn văn nghệ tôi ngày càng lép. Có bộ quân phục trung đoàn cho riêng làm trang phục biểu diễn thì chúng nó không dám động vào. Còn thì thượng vàng hạ cám bán dần tuốt luốt. Thành phần đội toàn thằng lính kiểng, quê thành phố thị trấn, không chịu được gian khổ mà lại lắm giao du. Một chiều Chúa nhật - mưa- hồn buồn, mồm cũng buồn nốt thì thôi rồi! Chẳng nhẽ lại nằm ngửa xoa bụng, nghe tiếng mưa rót đều mái lá? Lại bảo nhau giở ba lô ra bày kiểm đồ như bán đấu giá tự nguyện. Mùng này còn dùng được, duyệt! Cái áo kia còn tươm, tốt rồi! Sao lại có những ba cái đèn pin ở đây? Chúng mày mù dở à? Một cái là đủ cho tất cả rồi! Đi ị đêm chứ có tác chiến bao giờ đâu mà phí hoài thế? Xong nhé! Thằng Hợp dẻo mồm mang tất đồ gom ra chợ S'toung. Thằng Minh sang nhờ điện thoại C20 gọi xuống cho đám anh em quần hùng kiếm khách thân văn nghệ dưới các đơn vị. Nhớ nói khẽ thôi! Gào ông ổng trên tổ hợp bọn 20 nghe thấy kéo sang đánh chạc thì khốn. Cặp quần đùi hoa hoét của con bồ thằng Đức (cho nó khi đi lính, nó không dám mặc bao giờ) thì để lần sau. Triển khai ngay đi!
Bây giờ cứ nghe cây violoncello não nuột mô tả lão ăn mày Phiên chợ Ba-Tư (nhạc sỹ Ketelby), tôi lại nhớ những phiên chợ S'toung ngày ấy. Đám ăn mày ba lô lộn trái ấy chính là đội văn nghệ tôi đấy! Nhưng vẫn còn hai chiếc quần đùi...Chưa hết đâu!

  Một hôm, anh Thực- trợ lý chính trị gặp riêng tôi rồi bảo :"Này! Phấn đấu vào Đảng đi! Định đưa mày với thằng Đại vào diện cảm tình. Cố gắng vào đợt 22/12/ năm nay (1982)! Cứ suy nghĩ đi nhé!". Anh Thực năm đó mới đóng hàm thiếu uý. Ban Chính trị chuẩn bị đưa anh ấy xuống tiểu đoàn 5 làm chính trị viên. Cùng dân Thủ đô nên anh ấy coi tôi như thằng em dại. Đồng hương đồng khói hội hè tụ bạ là phổ biến trong lính ta. Nhưng phải nói lính Hà nội, Sài gòn và các thành phố lớn khác chơi rộng rãi hơn, không "gom" như lính các tỉnh khác. Bác nào định cãi chuyện cục bộ địa phương này thì cứ việc. Vô ích! Vì nó đúng như thế trong đơn vị tôi. Thời đó vào Đảng là rất khó, phải phấn đấu hy sinh gian khổ lắm, lý lịch phải thật trong sạch và thuộc thành phần cơ bản (công-nông). Bố tôi là bác sỹ bệnh viện trưởng nhưng cũng khốn khổ vì cái lý lịch Tư sản (dân tộc) to đùng bên ngoại nên trầy vẩy mãi mới được kết nạp. Mà ông ngoại tôi chính là đồng chí Tư Nghi, đảng viên, cựu tù Côn đảo cùng với Cụ Bằng, Cụ Đồng. Sau này, các cụ đã hiến gần như hết tài sản được thừa kế cho Đảng, cho Nhà nước mà không hiểu tại sao cái chi bộ bệnh viện ấy lại khó khăn thế? Sau này cảnh nhà sa sút. Cụ Đồng, cụ Trinh (phu nhân Cụ Bằng) vẫn gửi áo rét cho ông tôi mặc. Như biểu hiện của tình đồng chí, tình bạn chí cốt trong nhà tù đế quốc. Thực tình những điều đó làm tôi thấy ngại. Các cụ như thế, mình đã là gì? Chỉ nay mai trong đội là đến lượt Mai Dân và mình được ra quân. Vào Đảng bây giờ thì chắc chắn phải chậm lại ngày về. Vào Đảng thì phải cống hiến cho Dân, cho Nước chứ được vào Đảng xong xin về ngay nhà thì ông nội nào chả muốn! Với lại cứ nghĩ đâu xa? Ngay bản thân mình đã ra gì đâu? Hồi dưới tiểu đoàn 4, đánh nhau to điên lên thì thôi chứ về sau bắt đi càn lẻ dài ngày thì cũng ngại thấy mẹ! Rồi còn chuyện nằm viện quá hạn, chuyện say sưa, rúc bờ rúc bụi, chuyện ngủ ngày cày đêm...Dẫu tất cả những chuyện ấy chỉ một mình mình biết nhưng nếu đem ra so sánh với tiêu chuẩn một Đảng viên cần phải có thì còn lâu mới đạt được. Vào rồi sẽ phải cố vượt bản thân mình. Không cố được đâm khổ mình, khổ nốt cả người giới thiệu. Tôi nói với anh ấy là thôi anh ạ! Anh em trong nhà thì anh tạo điều kiện cho em ra quân trong đợt này. Dù ở đâu em cũng giữ tư cách như một người Đảng viên chân chính. Anh Thực phân tích lợi hại phải trái cho tôi mãi không xong mới cáu :" Thì kệ cụ mày!". Tôi buồn, vì mình đã phụ công anh ấy.

Nghĩ ngợi sâu xa chuyện này nhiều quá đâm tôi như phát ốm, lờ đờ mất mấy hôm liền. Dạo sai cả cung khiến bọn ca gân cổ lên theo tông không được, chửi bới ầm ĩ. Thằng Đại thì ngược lại. Giờ thì nó không ngủ muộn nữa, dậy sớm lắm. Chiều vác cuốc vào rừng đào hà thủ ô đến tối mịt. Sáng nào cũng làm một nồi nước củ đặc sánh cho cả đội, vừa đun vừa ti tỉ hát. Thế đấy! Chuyện buồn của người này đôi khi là chuyện vui của người kia. Chẳng thể nào khác được trên thế giới này.

  CHUYỆN THẰNG ƯƠN

Trung đoàn 2 khi sang bên này biển Hồ, đã cùng các đội công tác phá tan cái căn cứ giang thuyền của địch, lật mặt tóm gáy tên Ươn - thằng địch ngầm sừng sỏ đã leo đến cấp cán bộ huyện đội trưởng trong chính quyền mới - giao cho bạn. Chính nó với hai thằng nữa làm trận tập kích cảnh cáo, gãi ghẻ vào kho súng Sư đoàn ngoài Chùa khi chúng tôi chân ướt chân ráo mới sang. Thằng đó khai là nó xin đạn M.79 lính mình trong khi dễ dãi lúc nhậu với nhau. Đêm đó khi đi họp huyện, nó kêu hai thằng nữa cắt ruộng, nã mấy trái vào kho súng rồi rửa chân, lội ngược lên đường lớn, đi họp bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Đội công tác với mấy thằng an ninh bạn hỏi tại sao mày dám làm như thế? Sao mày theo bọn diệt chủng? Vợ con mày ở S'toung bộ đội vẫn cấp gạo cho cơ mà? Nó trả lời tỉnh bơ là nó cũng ghét Pôn pốt, nhưng nó cũng không chịu được cảnh bộ đội Việt Nam nghênh ngang trên đất nhà nó. Nó ghét, nó ngứa tay thì nó chống lại quân xâm lược, nó bắn chơi. Hỏi mày xin đạn M.79 của ai? Nó liệt kê luôn một cách rất chính xác tên các cán bộ trung đội, đại đội cứng, sừng sỏ chiến trận trong trung đoàn đã cho nó đạn. Đòn ly gián đó khá hiểm độc. Nhiều anh em cán bộ chưa biết nó bao giờ tự nhiên nghe có tên mình cũng đâm lo sốt vó. Cuối cùng nó bảo đường thốt nốt sẽ bọc trong lá thốt nốt. Bắn tao đi! Đồ bán nước! Khẩu khí hiên ngang như một Héro chính hiệu. Mấy thằng an ninh bạn điên tiết không chịu nổi, xuống tay khử luôn. Ban trinh sát Sư đoàn đóng cách đó 8 km, nghe điện xin xe Zeep cong đít chạy xuống tính hốt lên khai thác nhưng không kịp. Ban CT trung đoàn 2 sém bị kỷ luật oan gia. Sau vụ đó, tình hình khá hơn hẳn. Địch giạt ra, bám vào các phum ven thị trấn.

Nhật ký lính K- (những trang cuối)- của kẻ mắc nợ Trần Duy Chiến và các anh em đã hy sinh.
25/6/82
Đã tròn 2 năm xa nhà. Trời u ám sắp mưa. Vừa ở Ph'nom Penh về mấy ngày. Sau mấy hôm sốt, hôm nay đã đỡ.
Buổi trưa không ngủ được. Được tin Bình cáo đã vào và cầm giấy tờ cho mình nhưng nó đi Sư bộ mất rồi. Mấy hôm nữa phải mò lên lấy mới được. Nếu kịp không biết có ra được đợt tháng 8 này không?
Mưa đã trắng mờ bên kia trảng. Lại mưa! Mưa! Mưa!...
26/6/82- Chủ nhật
Vẫn chưa công tác. Sáng Căn và Đặc vào chơi. Lát sau Hải cụt và Trai cũng ra. Buổi trưa cùng Hùng lé, Hải, Phúc "đĩa" đến chỗ thằng Tính chơi. Toàn chuyện bong đá ESPANA 82. Chiều đá bóng được một lúc lại mưa. Tối vẫn mưa. Cơn mưa ở đây gió rất mạnh.
Rau đã hết. Bầu bí còn nhỏ. Nguy cơ ăn muối đã xuất hiện.
27/6/82
Mưa cả ngày. Anh em đi học chính trị hết. Định bám xe Zeep ông Thạnh (trung đoàn trưởng) lên Sư đoàn bộ chơi nhưng chúng nó bám đông quá lại thôi.
28/6/82
Học chính trị. Sau mấy hôm sốt lại hút thuốc. Tối lại mưa.
Dân kiếm đâu được ấm trà. Bốn đứa ngồi tán gẫu. Chuyện vác tôn ở hậu cứ, chuyện làm ăn sau khi ra quân. Tóm lại là xung quanh vấn đề kiếm sống. Còn mình về sẽ làm gì?
3/7/82
Hôm qua lên Sư bộ chơi. Vào T9 gặp Bình. Lúc về đi nhờ xe của quân chủng phòng không. Buồn cười cha thượng uý trên xe cứ sợ bị phục kích. Mình được thể doạ cho một mẻ. Chắc ông ấy mới sang đây lần đầu.
Buổi tối xuống Phúc "đĩa" chơi. Nó ra quân. Mãi 11h đêm mới về. Đụng anh Dân đi c17 (DK.75) về rủ đi tiếp. Hai thằng mặc quần đùi mò sang. Lại rượu...
Chia tay vừa vui vừa buồn, lại sốt ruột nữa! Bao giờ mới tới lượt mình đây?
1h sáng mới về đi ngủ. Tiến ngủ lại nhà mình vì mai nó có việc bên quân lực.
23/7/82
Một ngày như mọi ngày...Chẳng có gì để nhớ.
22/8/82
Lưu bút của Mai Dân ngày anh ấy đi học SQ dự bị, trở về cố đô Huế:
Thế là chỉ còn một giây nữa thôi! Tạm xaTùng, chỉ biết rằng biết bao điều muốn nói nhưng giữ trong lòng những kỷ niệm trong tâm hồn. Thời gian Nghệ thuật anh em mình gặp nhau, sống trong mọi bản tình ca những nốt nhạc không thể diễn tả được. Như Beethoven viết: (Tình bạn như bản giao hưởng không có cung nào). Như thế đấy Tùng ạ! Người đi người ở nhớ lắmnhưng tâm hồn sưởi ấm những ngày qua- ngày không bao giờ lặp lại tình bạn nữa. Chỉ còn những dòng chữ nối liền mà thôi. Tạm biệt nghe! Mong Tùng mau chóng mà go Hanoi sẽ là vui và đúng hoài bão.
Goodby! Mai Dân-65 Hùng Vương-Huế
Ngày 22-08-1982

3/9/82
Nhận được thư Diệp. Nghe nói cuối tháng này có đợt ra quân. Không biết có trúng vé đi Espana hay không?
Nhìn lại bản thân mi hơn 4 năm qua như thế nào?
Chẳng là anh hùng nhưng cũng không hèn nhát. Với đồng đội chưa bao giờ lừa thầy phản bạn hay kẹt sỉ. Nghĩa là như một người lính bình thường. Có điều là vẫn cẩu thả, có phần vô trách nhiệm với bản thân mình.
Bốn năm trôi qua...Đã trở thành lính cựu của trung đoàn. Quần áo bạc theo thời gian nay chỉ còn một bộ. Ba lô lép kẹp- nơi trú ngụ lý tưởng của kiến. Cũng không biết tống gì vào đó cho nó phồng lên. Tiền đã thanh toán đến hết tháng 8.
Chỉ còn cái bút với cuốn sổ này ghi bậy.
Tại sao lại lười viết?
Từ nay phải cố gắng viết đều hơn mới được! Phải ghi bằng hết và đừng dối trá với nhật ký, với bản thân mình.
Viết đến đây thì nó bắn cối vào c19. Thôi tắt đèn mau!
6/9/82
Sáng nay học Nghị quyết 5 trên hội trường.
Trời u ám. Mưa và gió.
Ta nhớ mùa đông quê hương. Nhớ những phố dài mốc thếch sau những đêm trời lạnh; nhớ dưa cải bắp giòn và có vị chua rất thú vị; tàu điện nghiến ken két buồn bã, lừ đừ trôi trong lòng phố đêm mưa...
11/9/82
Đêm qua mưa to. Sáng nay cũng mưa. Sân bóng, đường đi ngập tràn toàn nước. Nhà nổi như đảo trên nền đã bị lún. Không khí ẩm ướt, quần áo hôi sì. Còn điếu thuốc vét ba thằng hút chung.
Hoãn học chính trị nên ngủ xả ga ngày hôm nay đây!
Ngày 12/9/82
Người rất mệt. Nắng rát. Trời oi.
Chiều Chủ nhật. Mà Chủ nhật hay thứ 2 cũng không có gì quan trọng. Đã lâu không để ý đến thời gian bằng ngày tháng mà bằng những sự kiện, bằng những tên đất, tên núi, tên sông đã đi qua...Chốt Long an, trận rừng Tràm, trận Xoài riêng, trận U đông, ga Rô mia ...và chiều nay- trên đất Kông pong Thom.
Những chiều Chủ nhật sẽ đến với ta ở đâu nữa? Núi Hồng, Xiêm Riệp, Pai lin hay Poi pét? Nghe nói sư đoàn sắp chuyển lên biên giới Thái.
Cần gì? Người ta đi được thì mình cũng đi được!
23/9/1982
Gần hết tháng 9 rồi. Hôm nay đội Văn nghệ mới lại được thành lập. Thủ trưởng cơ quan động viên cứ phục vụ nốt mùa này rồi sẽ giải quyết cho ra quân dần dần. Chơi thì chơi thôi!
Mai Dân đã ra đi. Mất một trụ cột, một cây guitar solo cứng cựa. Đội nhạc năm nay yếu hơn năm trước. Đành phải cố gắng thôi!
Cơ quan không rút thằng Dũng C20 lên ban mặc dù nó chơi guitar cũng rất khá vì lý lịch gia đình không đảm bảo. Ông già nó là đại uý quân y nguỵ (VNCH). Còn nó có tội gì đâu? Tội là con một sĩ quan nguỵ à?
Thì ra vẫn chưa xoá bỏ được cái khoảng cách đó. Mình rất ấm ức về chuyện này!
26/10/82
Dân rước sư ngoài Sa Tung vào chùa xã Tà Ria, mời đội văn nghệ sang góp vui. Hai cây guitar với cây đàn bầu thằng Hùng lé làm nổi đình nổi đám ầm ĩ. Sau đi với bọn thằng Căn, thằng Đặc sang nhà bà già thằng Hạnh nhậu. Rồi lại ra Chùa, vào nhà ông chủ tịch nhậu tiếp. Không thể say!
Dân Cam pu chia ưa những màu sắc rực rỡ, chói mắt và tương phản. Mấy bà nàng xanh đỏ tím vàng hoa hết cả mắt. Mãi đến chiều mới lêu têu lội nước về. Không ăn cơm. Lại nước muối nấu lá bứa làm sao nuốt nổi?

Trăng non đã mọc. Bây giờ là rằm tháng Chín. Ba tháng nữa thôi lại Tết. Rất buồn!

  NHỮNG CÂU CHUYỆN LINH TINH

Nghe bác Tom nói chuyện tôm chui rúc vào những chỗ "khó thấy" mới nhớ ra chuyện này.
Hồi đó năm 79 mùa khô. Cứ chiều lính ra Tonle Sap tắm, giãy đùng đùng. Tất nhiên là cả bọn "nhật thực toàn phần"! Đang giỡn nước thì thằng Ban trố chạy sầm sập lên bờ, mồm la oai oái. Cả bọn lao lên bờ theo vì tưởng bị sấu tấn công. Có cảnh báo rằng sông này mùa cạn vẫn còn những con sấu bự luồn từ biển Hồ ra. Cha mẹ ôi! Cái chỗ thừa của nó sao quá bự luôn, lại còn giãy vung xích chó. Trông ra mới thấy nó bị con cá gì in hệt cá nóc táp dính vào đó. Lấy cây đập đuôi cho nó đau mà nhả ra thì cứ mỗi lần đập, nó lại càng nghiến chặt. Tét đuôi cũng không chịu nhả. Thằng này kêu la ầm ĩ. Sau chúng nó bóp vây ngực, nạy mồm mãi mới lôi ra được. Khiếp cái miệng! Toàn răng lăm răm phát ớn! Còn cái "van" của thằng kia trông không khác cái nhánh su-lơ đỏ hoét. May chỉ tiêm chống nhiễm trùng ít ngày thì khỏi, không thì tuyệt đường yêu dấu.

Nó là cá cóc nước ngọt, một loài cá đáy sống độc thân rất hung dữ. Nghe dân nói của nợ này lúc thì là cá đực, lúc khác không thích thì lại làm cá cái - một loài cá lưỡng tính cộc cằn. Nó thường nằm sát đáy, phủ cát lên mình hoặc chui hốc. Lượn qua lượn lại chỗ phục của nó bất kể cá to hay cá bé, ngứa mắt là nó tấn công ngay. Đôi khi nó táp chặt vào miếng bụng con cá bông lau to gấp cả chục lần nó. Dân đánh cá lôi được con bông lau lên bờ, được cả con cá cóc bám dính ngay bụng.  

  Hơn 5 tháng xa tiểu đoàn về thăm quê tự túc, khi trở lại đơn vị trong phum Ba-tà-hiên, anh em d4 cũng đã kịp xây dựng căn cứ đứng chân ổn định. Khang trang lắm!
Trung đội thông tin có ba nhà : Truyền đạt, hữu tuyến, 2 W. Cuối tháng 6 năm 1980 thì được bổ sung thêm lính mới. Thêm người, nhà chưa kịp làm thêm, cả trung đội lần mò kiếm thêm vật tư mở rộng nơi ăn chốn ở. Chúng tôi lại vào những phum không người ở sâu trong núi để kiếm đồ. Những cái chum lớn bây giờ không đập nữa. Thả chum theo suối Đamrray, đến vị trí thì khiêng lên để đựng nước, để rộng cá...Còn giường nằm và ván thưng, anh em mình ở đây, ai chắc chắn cũng còn nhớ cả, rặt một loại ván dầu. Vỏ ngoài tấm ván nào cũng nứt nẻ, trắng mốc và xơ tước như mục. Nhưng khi dùng xẻng bộ binh băm tách ván ra để nấu cơm, đun nước, hoặc đơn giản là chỉ để đốt lên một đống lửa lúc chiều tà...thấy bên trong vẫn đỏ au, cháy rất đượm.
Trung đội thông tin d4 năm đó được bổ sung ba thằng. Quý hoá quá! Chúng tôi vào phum trong núi, lên một cái nhà ngói lớn thâm u. Trong đó, trên sàn có một bộ ván ngựa hai mảnh bằng gỗ gõ đen dày khoảng 6-8cm. Trên bộ ván là một bộ xương người đã phân huỷ hết. Tóc ngang vai sắp lớp trên ván thế này... Cái dây buộc tóc ni lon thế này... Cô ấy hẳn là thiếu nữ! Dùng xẻng hót, nạo hết những gì thuộc thân xác, hình hài của chủ nhân cũ xong, bốn thằng một tấm, khiêng mang ra suối, nhờ nước xuôi dòng về cứ tiểu đoàn.
Đã ngâm suối gần nửa tháng, làm cầu cho chúng nó nhảy bông nhông, kỳ cọ. Tắm xong còn dùng dép cao-su đúc chà sát, tẩy rửa thật kỹ, nhưng khi mang 2 tấm ván lên nhà, thằng Quan với Toàn cồ vẫn không chịu nằm tấm ván ấy. Thằng này có căn làm sao đó? Đêm ngủ thì nghiến răng. Thỉnh thoảng lại lảm nhảm hoặc tệ hơn nữa là hét lên khi mơ ngủ! Đồ điên!
Lính cũ phải làm gương, phải thể hiện cho anh em noi theo. Đã thế tôi với anh Ky nằm cái giường đặc biệt đó. Chẳng làm sao cả! Mất ngủ không, mộng mị cũng không nốt. Hoàn toàn không có gì khác thường...
Nhưng có điều: Tấm ván này là.... cái đài dự báo thời tiết vô cùng chính xác!
Rất dễ nhận biết!
Bình thường, thời tiết tốt thì không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng hễ khi độ ẩm không khí tăng, trên tấm ván thiêng ấy, một hình người nằm xuôi mờ mờ hiện ra. Khi hình hài quá khứ ấy xuất hiện cực kỳ rõ nét, có thể đánh cá mười ăn một với chúng nó rằng: ngày mai sẽ trời mưa sầm trời tối đất. Kể cả đó đang là một ngày chớm mùa khô.
Liệu đây có phải chuyện ma hay không? Chuyện thật đấy! Thật như tôi đang ngồi gõ phím như thế này này...

Ngạn ngữ Ấn độ :" Hãy tránh xa con voi điên 30 thước, con trâu điên 50 thước và thằng say rượu 100 thước!". Qua câu đó có thể thấy rằng con trâu điên còn nguy hiểm hơn con voi điên. Thằng say đương nhiên thuộc tốp đầu bảng, không có đối thủ cạnh tranh.Ở phum Chùa, thằng Luân liên lạc của anh Sơn "big" một chút nữa thì thành liệt sỹ vì con trâu điên. Thằng này to vật, rất khoái súng đạn, đánh đấm. Sau khi thu kho súng địch trong Ăm leng thì nó biến thành cái kho súng di động luôn. Ngoài khẩu đại liên M-30 vác vai, trong bồng nó còn ém một khẩu ru lô 6 viên ổ quay. Một lần gần trưa, nghe tiếng súng lẻ ngoài cánh đồng, chúng tôi ngoảnh cổ nhìn ra. Thằng Luân, trong tay cầm khẩu ru lô, đang bị một con trâu mộng đuổi theo sát lưng. Trên thân con trâu thấy máu loang từng đám. Nó đã bị thương, đang điên lên đuổi thằng Luân sát gót. Thằng này cũng khôn, cứ cái mũi con trâu hồng hộc gí gần sát lưng là nó lại đột ngột đổi hướng. Con trâu lại lỡ đà, khoảng cách lại giãn ra được một chút. Tranh thủ mỗi lần con trâu lấy lại hướng, nó lại vung khẩu ru lô lên vảy bọp đại một cái vào con trâu. Quá bằng gãi ghẻ cho nó! Nó càng điên lên vì mùi thuốc súng! Súng đã hết đạn, thằng này quăng luôn, cố chỉnh hướng chạy chữ chi về nhà sàn tiểu đoàn. Anh em chúng tôi xách súng chạy ào ra, thót tim theo từng bước chạy đuối dần của nó. Người với trâu cứ luẩn quẩn chữ chi. Bốn năm nòng súng rê theo nhưng chưa dám bắn, sợ thằng Luân phải đạn. Cả người và vật đã đuối sức, vật vờ loạng choạng. Cuối cùng, gần về hướng chúng tôi thì hai mục tiêu cũng đã tách ra một khoảng an toàn. Bốn năm khẩu AK cùng nổ đồng loạt. Con trâu sựng lại, từ từ lật nghiêng kềnh ra. Mũi nó sầu bọt trắng xoá, đôi mắt đỏ như hai miếng tiết. Còn thằng Luân chạy leo lên được vài bậc thang nhà sàn thì gục tại chỗ, ngất xỉu, lại lăn xuống đất. Quân y lập tức tiêm trợ lực, hô hấp nhân tạo mãi mới tỉnh.

Sau vụ đó, thằng này ốm luôn mấy ngày liền. Ngủ mê, mồm lảm nhảm như thằng dở người

  THUNG LŨNG LÁ DÂU
Mùa mưa năm 1981...
"Thung lũng lá dâu" là tên do lính tiểu đoàn 4 đặt. Đương nhiên đó là cả một thung dâu xanh ngắt. Không biết dân bạn có nghề tằm tang canh cửi hay không nhưng dâu ở đó xanh lắm! Thung này nằm chếch về phía Tây bắc đội hình d4 ở K'bal Tahean khoảng hơn 20km. Sau một thời gian bám rừng, trinh sát 21 trung đoàn báo về Ban Tác chiến là đã phát hiện một căn cứ hậu cần lớn của địch nằm sâu trong núi U Răng, hơi lệch về hướng thị trấn Leach. Căn cứ này nằm giáp ranh phần địa bàn hoạt động của Quân đoàn 4 và Quân khu 9. Lập tức, trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 4 lên đường. Tiểu đoàn lặng lẽ cắt rừng, tiến về toạ độ mục tiêu mà trung đoàn đã cho biết trên bản đồ tác chiến. Trận này đi có anh Sơn chỉ huy, anh Nhượng làm Chính trị viên...
Đi với anh Sơn chỉ huy thì không bao giờ phải lo lạc rừng. Sau một ngày hành quân, đến chiều tà, chúng tôi đã bám được rìa thung lũng một cách bí mật. Tiểu đoàn dừng lại. Sau khi xác định đúng toạ độ, anh Sơn "big" cử năm thằng trinh sát do Sơn con phụ trách bám tiếp để sáng mai bao vây tấn công. Sơn con trinh sát hồi đó chưa cụt giò, còn nguyên đôi chân.
Không một tiếng ho, không một ngọn lửa...Chúng tôi vừa nhai gạo sấy, vừa bồn chồn ngắm những con bò, những đàn trâu bình thản gặm cỏ. Phía căn cứ địch, nhiều ngọn khói vương vất bay lên. Chỉ sớm mai thôi, đời chúng mày ra bã. Đêm ấy trôi lâu...
Sớm hôm sau, đội hình vòng cung của tiểu đoàn cứ lừ lừ tiến vào. Hai khẩu cối 82 đã giá súng phía sau, nhưng chỉ được phép bắn khi có lệnh chứ không khai hoả trước như mọi khi. Khẩu DK.82, khẩu 12.8 và cối 60 các đại đội lên cùng bộ binh. Đến vạt dâu cuối thì các mái nhà đã hiện ra trong sương sớm. Bỗng từ đâu nhao ra mấy con chó dữ lao vào sát chân mấy thằng đi đầu của đại đội 3 cắn ầm ĩ. Theo phản xạ tự nhiên, chúng nó giật mình nổ súng luôn. Thế là bị lộ. B.40, B.41 phụt rền rền, nổ áp đảo bung hàng rào gỗ rìa phum. Địch chạy toá ra như vịt đàn. Có cả phụ nữ nữa. Trông rõ lắm thằng phi thân từ trên nhà sàn thẳng xuống đất, loạng choạng chút rồi cắm cổ chạy. Đội hình tiểu đoàn cứ thế xung phong. Tràn đến giữa phum mới có vài loạt AK quất lại. Bốn năm thằng địch bên trái vừa chạy, vừa quay lại bắn ghìm bước vừa hô "xung phong". Bỏ mẹ! Có khi nhầm? Nhưng nhầm thế nào được? Toạ độ đã chấm đúng như Tác chiến E cung cấp. Vẫn thấy nghi hoặc, anh Sơn hô thu quân, không truy kích nữa. Trở lại rìa phum xem xét thì phát hiện thấy cả võng, cả ba lô y như lính mình. Chắc chúng nó chạy không kịp tháo. Giở ba lô ra xem mới biết là nhầm thật. Thế là tiểu đoàn 4 rút lui ngay. Vất lại "chiến lợi phẩm" nguyên đai nguyên kiện. Hành quân về cứ vội như chạy. Nhưng mấy thằng lính tháo vát đã kịp kẹp nách mấy con gà quang quác, xẻo được mấy tảng thịt đùi từ các con bò chết đạn buộc ngang ba lô. Ruồi nghe mùi máu, bay theo đẻ mù trời. Thằng đi sau phải lấy lá quật vào thịt đeo của thằng chạy trước để đuổi ruồi...
Tay tham mưu đơn vị Quân khu 9 quản lý cái phum bị d4 tẩn nhầm cũng là một người mưu lược. Lính bên ấy chạy về báo lên. Cha đó soi bản đồ, phán đoán khu vực này chỉ có trung đoàn tôi hoạt động bèn gọi điện thẳng đến sư đoàn. Báo là lính E2 đốt nhà, giết trâu bò của dân. Hiện Quân khu 9 đã bắt giữ được một số quân nhân. Đề nghị sư đoàn 9, trung đoàn 2 cho cán bộ xuống nhận người...Ban chính trị E hoảng hồn, cử hai ông trợ lý chính trị hộc tốc bắt tàu hoả, lên đường vào đơn vị bạn trước khi tiểu đoàn 4 hành quân về đến cứ. Đến nơi thì mới biết là có tóm được thằng lính e2 nào đâu? Chạy như vịt thế thì bắt cái gì? Đơn vị QK9 đó giữ luôn hai đ/c trợ lý CT ấy lại làm "con tin" để bắt đền...
Chuyện này có gì đâu mà làm ầm ĩ lên, không hiểu vì sao? Anh Sơn bị kỷ luật. Đang là điển hình tiên tiến thì mất phong Anh hùng LLVTND lần đó. Quân pháp Quân đoàn xuống thẩm vấn riêng anh Nhượng CTV tiểu đoàn về chuyện này thì anh ấy bảo thế là chúng tôi còn thận trọng đấy! Bắn lại chúng tôi như thế, chúng tôi không giã cối là may! Vì câu nói đó, anh Nhượng cũng ra ngồi chơi xơi nước, đọc báo ngoài ban Chính trị mất mấy tháng ròng...
Úp mở làm gì? Nói ra được chuyện này tôi cũng thấy nhẹ lòng.
Trong chiến tranh, đánh nhầm là chuyện bình thường. Hơn nữa toạ độ đó là do trung đoàn báo chắc chắn, chứ không phải ai nghĩ ra. Các bạn nghĩ thế nào?
Còn lính tiểu đoàn 4 chúng tôi mấy tháng sau đó ăn nửa cơm nửa cháo. Lý do là trung đoàn bớt gạo, bớt tiêu chuẩn ăn của lính lại để lấy tiền mua bò đền cho dân bạn.

Năm 1981 đó, lần đầu tiên tôi biết thế nào là cháo rau dền...

  Tháng 1 năm 1983, mình về lại Long Bình nằm binh trạm chờ tàu ra Bắc cả hơn tháng trời. Lai những ngày in hệt như thời mới vào Trảng Lớn. Không làm gì, suốt ngày nằm chờ cơm. Có khi lang thang xuống ngã ba Tam hiệp ngồi chầu rìa xem chúng nó giải cờ thế ăn tiền. Toàn mấy ông lính cờ vịt, nhiều lần nộp cho mấy thằng cha cờ gạo đó nên ức. Có mấy đồng ra quân để chúng nó vét sạch. Thế là kéo cả bọn ra cướp lại. Mấy thằng bảo kê ở đó thì không chấp rồi. Nhưng KSQS thấy lộn xộn xông vào, túm được hai thằng, bị anh em nhào dô, đánh tháo cướp tù như Lương sơn bạc. Bên đó thấy địch không lại, chạy về gọi thêm lực lượng ra đuổi thì bọn này đã chạy qua cái Sa tô lô nước tròn rồi. Đuổi cắt qua trảng cỏ Mỹ vào binh trạm thì tụi nó không dám vì bọn em đông lắm. Cứ đứng trong hàng rào ê ê... ầm cả lên. Chỉ huy bên đó tức lắm, mới báo chỉ huy binh trạm. Anh em tuy các đơn vị khác nhau bên K được về đợt đó nhưng đoàn kết lắm. Tra suốt nhưng không nghe, không biết, không thấy thằng nào khai nhau hết trọi. Sợ loạn quân nên mãi khi tàu Thống nhất chạy đến ga Thanh hoá thì họ mới trả cho Quyết định ra quân...

Lại nói thêm trong căn cứ Long bình có cái suối nhỏ hay cái cống gì đó. Mùa khô vẫn có nước chảy. Nước trong và lạnh lắm. Có cả cá sống ở đó nữa. Cứ chiều chiều là cả bọn chui ra cống đó tắm giặt. Cô em gái em vừa rồi nó bảo cái hồ Biên Hùng nhiễm đi ô xin nặng. Anh mà tắm ở cái suối trong tổng kho đó thì phải coi chừng! Nghe nó doạ cũng ớn ớn chút, nhưng hồi đến giờ thấy đâu có sao?

  Năm 1982, Sư đoàn bộ sư đoàn 9 đóng ở phum Loveay, phía trên thị trấn S'toung khoảng chục km. Chỗ mà bác Thọ bị giáng cấp xuống binh nhất đấy! Chắc bác còn nhớ. Nhà cửa các ban bệ đóng khá dày, quần tụ rất ấm cúng. Ban ngày lính khối trực thuộc đi đầy trên lộ 6. Còn ban đêm đèn đuốc sáng như một thị trấn nhỏ, như không hề có chiến tranh. Ngày thì lính tráng giày dép tử tế, nhưng ban đêm toàn xỏ tông ra mặt lộ ngồi nhậu. Bọn e2 tôi lên sư chơi, hay tạt vào T9 (trạm tiếp đón sư đoàn) ăn ké thằng Tuyến đen Đông anh. Hồi đó đội tuyển bóng đá sư đang tập trung tập luyện nên buổi chiều cứ bình bịch suốt, vui lắm! Bếp T9 chúng nó nấu cơm khá thừa thãi, ăn vô tội vạ...Không biết hồi đó khối cơ quan sư bộ có đơn vị nào gác đêm không?
Kỳ đại hội đảng bộ sư đoàn năm đó, bọn văn nghệ e2 được kéo lên phục vụ cho thêm hoành tráng. Ngoài giờ tập, mình hay giúp thằng Bình mẩu kẻ vẽ khẩu hiệu chuẩn bị cho đại hội. Một lần buổi chiều, đang tướt mồ hôi với mấy cái pa nô làm dở để dưới đất trong hội trường thì đàn vịt Ban CT ở đâu nó ùa vào. Bọn nó dẫm chân bẩn với phẹt lung tung vào cả khẩu hiệu để dưới đất. Mình tức quá chẹn cửa vồ được con đầu đàn. Thằng Bình gí đầu nó luôn vào chậu hồ vẽ màu đỏ. Không có gôm nhưng màu pha nước cháo rồi nên bắt dính lắm. Đầu nó đỏ hoét. Lúc thả ra nó vội chạy theo đàn. Nhưng đám vịt kia thấy đầu con này lạ nên vãy đuôi chạy xáo xác, cánh vỗ ầm ầm như có loạn. Con kia thấy thế cũng theo đàn, hết sức đuổi theo. Thành ra bầy vịt ban Chính trị lạc mỗi con một nơi, không gom được. Tối hôm đấy có nhiều đám lính nhậu có thịt vịt lạc. Mấy bố trợ lý xộc xuống hội trường hỏi tại sao thì bọn tôi bảo bọn nó vào đây phá đám. Sục mò cơm trong chậu màu lẫn nước cơm nên nó mới bị thế chứ ai làm gì? Thế là phải chịu.
"Tô Vũ mục dương", còn thaitho năm đó mà vẫn đang "mục áp" trên sư bộ chắc xuống binh nhì với tôi quá! Hé hé...!

  Tiếp luôn chuyện con voi còi - cối ta cối địch...
Chỉ huy phó đại đội 4 hoả lực có khẩu đội cối 82 suýt mất trên lộ 27 hồi đó là anh Ninh - Tên họ đầy đủ là Thái Gia Ninh, em ruột nhà thơ Thái Thăng Long. Bọn em trong đơn vị khi được chia thịt heo hay thịt thú, cứ giả vờ hỏi nhau là bây giờ thịt thái ra ninh, thái ra nấu hay thái ra hầm...hả mày ? thì anh ấy cáu lắm, chửi mấy thằng xỏ lá cứ loạn lên...Thằng liên lạc mới thay, không biết kiêng huý, một lần được chia thịt heo cũng tiện mồm khơi khơi hỏi anh ấy câu đó, suýt ăn cái tát lệch mặt...
Hai khẩu cối này thì một khẩu của thằng Văn râu đỏ có kính ngắm, còn khẩu kia thì không có. Đụng địch, giá súng thì ước lượng tầm, hướng c bộ binh báo về là quất thôi nhưng khá chính xác. Tiểu đoàn em thấy chủ yếu là dùng cối 82 chứ ít khi dùng 12.8 với DK82 lúc đánh vận động. Thành ra bọn DK với 12.8mm toàn bị đẩy lên tăng cường với các đại đội tiền duyên. Có lẽ là cối khó lộ vị trí bắn hơn là các loại kia, không sợ nó phản... Đánh nhau rát thì D trưởng túm tất cả hai khẩu cối ngay bên cạnh, chỉ huy trực tiếp chứ không thông qua đại đội nữa. Đứng chân lâu dài ở cứ Kbal'Tahean cũng thế ! Chỉ huy tiểu đoàn nằm bên này suối thì hai khẩu cối dựng nhà, đào hầm nằm ngay bờ suối phía bên kia. Còn gần hơn cả các B thông tin, trinh sát hay vận tải...Lại còn bắt chúng nó bắc cầu, đi qua đi lại cho dễ... Nói chung, anh Sơn d trưởng là một chỉ huy rất "sính" cối. Có gì nhậu là hai bên gọi nhau ơi ới...
Còn cối địch thì thế này! Các bác có nhận xét gì về những đôi dép râu tự chế xỏ ở chân mấy thằng địch chết trận? Nó cắt từ lốp xe tải ra, to và dày nặng gì đâu! Mà đặc biệt là bọn nó cắt khá vuông mũi, vuông gót, chứ không tròn mỏng như dép đúc lính mình. Các bác mà buộc phải xỏ đôi đó thì có khi nhà nước phải tăng tiêu chuẩn gạo. Đi đôi đó rèn ba năm liền thì thi triển tốt món khinh công... Anh em bảo đó là xác mấy thằng lính cối 60 của bọn địch. Chúng nó đi những đôi dép to, vuông như thế để khi cần thì lót thay đế cối, bắn ứng dụng. Chống nòng xuống dép thay bàn đế, quấn khăn cà ma lót tay giữ nòng, thả đạn là "c..o...o...ng..". Đến bố du kích cũng chịu cái sáng kiến đó! Chẹp !

  VÙNG QUÊ YÊN TĨNH
Sẽ là một thiếu sót lớn trong câu chuyện Tây Nam khi không nhớ gì, không nhắc gì đến cái làng quê mà chúng tôi huấn luyện ở tại đó trước khi vào chiến trường. Cái xóm Núi, thôn Lãm gần ga Bình Lục ấy...Một làng quê Bắc bộ vùng đồng chiêm trũng điển hình. Những ngọn đồi thấp cắm chân thẳng xuống đồng sâu. Tre gai bao bọc lấy làng thành luỹ dày ngăn ngắt. Đoàn tân binh vừa xuống khỏi mấy chiếc xe ca Ba đình, được tập trung tại sân kho. Những đồ lính được phát ngay lập tức gồm: bát sắt, chiếu đơn hoa, màn xô trắng, chăn chiên sợi Nam định màu đỏ nhạt. Đũa thì tự đi mà tìm lấy...Quân phục, mũ, sao, tiết vẫn chưa được phát. Chúng tôi vẫn mặc thường phục ở nhà mang đi. Chiều tối hôm đó đơn vị không nấu cơm. Phát cho mỗi người hai cái bánh mỳ to tổ bố.
Chúng tôi được biên chế thành tiểu đội, trung đội ngay. Lính các tiểu khu (phường bây giờ) được xáo trộn, về các đơn vị khác nhau. Chắc để cho khỏi tụ bạ làm loạn hoặc để dễ chia dễ trị... Chưa được phát ba lô, mấy thằng chúng tôi ôm tất cả các thứ đồ đó trên tay, lếch thếch đi theo các cán bộ về các nhà dân ở. Dân làng nghèo, nhiều nhà phải ngả cả cánh cửa xuống, lấy chỗ nằm cho bộ đội. Tôi với thằng T được anh Ly a trưởng đưa về nhà một chị có chồng cũng đi lính chống Mỹ. Chị ấy có thằng bé con năm đó mới đi học lớp Một. Thằng T cho nó cái bánh mỳ. Nó nhìn mẹ nó rồi ngập ngừng cầm lấy. Đã ba năm kể từ ngày thống nhất mà chồng chị ấy vẫn không có tin tức gì. Rất ít nói, rất buồn, cứ như một cái bóng. Mờ đất, khi chúng tôi nghe tiếng còi báo thức sáng của lão Ly thì chị ấy đã cuốn xà cạp vào chân, loạt soạt kéo cái rào rong lấp cổng ra đồng rồi...Xà cạp là cái miếng vải cuốn vào bắp chân, cao đến tận đùi để chống đỉa. Đồng chiêm trũng nên đỉa rất nhiều. Đỉa hẹ nhỏ, mỏng như cái que, hai lườn vàng choé nhưng rất thính, động nước là lao đến liền. Con này rất sợ vì nó tham ăn, lại hay luồn lách được vào những chỗ không ngờ. Đỉa trâu thì quả là nỗi khủng khiếp! Khi đói nó co lại có khi chỉ bằng cái dái mít. Nhưng khi đã no máu thì nó trương lên cỡ chục lần. Những buổi chiều, chúng tôi tập xong ngồi nghỉ ở sân kho cũng là lúc đàn trâu hợp tác đi cày về. Cũng dồn ở sân kho như bộ đội, trệu trạo nhai lại, hay ngửi hít, cọ sừng cồng cộc với nhau. Trên đùi bọn này là một túm đỉa lúc lỉu căng máu, to như quả chuối tiêu cỡ bự. Ấy thế mà bọn trẻ trâu nó cứ mặc kệ. Tôi kinh tởm nhất cái giống này...Bẻ một cành rong, cùng anh em hò nhau đi bắt đỉa cho từng con. Con khủng long rơi xuống, lấy chân dẵm lên day day. Hai tia máu đỏ phọt ra từ cả hai đầu thành vòi vụt xa đến cả mét. Vẫn chưa hả, chúng tôi đốt rơm, gắp chúng nó thảy vào. Một lúc, những con đỉa nổ trong lửa bụp bụp, tiết dở sống dở chín văng tung toé. Trung đội 2 có thằng Trương xếch, muốn thể hiện bản lĩnh trước anh em. Nó nướng cháy từ từ một con đỉa cho đến khi vỏ ngoài thành than. Hắn bóc cái vỏ đen đen đó, cầm miếng tiết trâu nóng hôi hổi cho thẳng vào mồm, mặt nhăn nhăn nhở nhở. Tởm chết mẹ!
Nhưng cũng có những thằng sợ đỉa. Một lần, thằng T đang tập ngắm bia số 1 ngoài bờ cùng trung đội thì đau bụng. Nó đi loanh quanh tìm chỗ rồi chúi trong đám cỏ năn, bị đỉa bâu mà không biết. Đến khi phát hiện ra thì máu đã chảy ròng ròng trên bắp chân. Nó rú lên, không kịp xốc quần, chạy cà giựt cà tang về phía các chị em xã viên đang ngồi nghỉ. Các bà này thấy thế cũng hoảng, ôm nón chạy toá ra, vừa chạy vừa cười rũ rượi. Cả trung đội trưởng tôi cũng cười rồi xô vào gỡ cho nó. Nhưng anh Cường chính trị viên (dân phố Cầu Gỗ- Hà nội) thấy thế tức lắm! Hôm sau cho nó nghỉ tập ra sân kho, bắt gỡ đỉa cho trâu bằng tay dưới sự giám sát của cán bộ. Nó sợ rủn người, dứt khoát không làm. Vùng vằng mãi rồi suýt đập nhau với cả a trưởng. Tối đại đội gọi lên thì nó nói thẳng là bảo nó làm gì cũng được, kể cả bốc phân. Nhưng nếu cứ bắt nó làm như thế thì nó sẽ đào ngũ. Hình phạt ấy về sau phải bỏ. Có những nỗi sợ vô thức đâu đó trong con người, trong từng khoảng khắc nó bất chấp cả kỷ luật. Tôi cũng sợ đỉa nhưng không đến mức như nó...

Một tuần sau, thấy chúng tôi ở nhà chị ấy có vẻ không tiện, anh Ly a trưởng lại lôi hai thằng tôi về ở cùng...

  HOA MAI

Chào các anh em, các đồng đội thân mến của tôi!
Hôm nay ngồi viết, chẳng hiểu sao thấy nhớ một rừng mai đất khách, thấy nhớ cái bầu trời mùa khô chói chang xứ người...
Tôi lính Bắc. Thời đi học thì cứ leo lẻo: miền Bắc có hoa đào, miền Nam có hoa mai. Hoa đào thì không nói, đương nhiên. Còn hoa mai, cho đến khi tòng quân, tôi chỉ biết hoa mai năm cánh và có màu vàng qua sách đọc.
Hồi ở Bamnak. Tôi hay khoác súng hộ vệ anh Nhương ngược suối Damrey đi bắn cá, đi săn cải thiện. Thường đi ba người vì sợ đụng địch thì chiến luôn. Cá thì chắc chắn bắn là có. Nhưng săn ban ngày thì chỉ được những loại vớ vẩn như con kỳ đà, con rái cá thôi...chứ còn những loại thú lớn như mễn, heo rừng, nai hay dím cụ thì chỉ đi ăn ban đêm...Con suối thượng nguồn một bờ dốc đứng, một bờ thoải cát. Rừng tạp non xen lẫn rừng dầu, rừng khộp. Qua một đoạn quanh, có một bãi cát bồi. Trên bấi bồi đó có một thân cây gỗ cực lớn bị lũ cuốn về chắc là từ lâu lắm mắc ở đó. Nước bao mùa đã bào hết vỏ cây, đục xói qua thân thành cái hang hình ống khổng lồ. Thân gỗ đã thành lũa gỗ đen bóng. Đến đó thì bọn tôi hay ngồi nghỉ. Trên bờ thoải là một vỉa rừng thấp toàn một giống cây cành ngang, lá thưa như lá na. Có khi mọc cả trên ụ mối, gốc rất lớn. Giữa mùa khô khát mà lá nó vẫn xanh ngời, không bị quăn, rụng sạch như là cây khộp. Anh Nhương bảo đấy là cây mai, rừng mai đấy! À! Cây mai nó như thế này đây! Không có gì đặc biệt lắm. Tôi chú ý đến những ụ mối hơn. Những ụ mối có bọng cây mục ở trên bao giờ cũng có tổ ong. Loại ong ruồi bé tí không biết đốt. Cứ lấy báng súng giọng cho vỡ rồi cạy đất, bẻ từng miếng mút như gấu. Có điều mật của loại ong ruồi này hơi chua...
Rồi đến một ngày, khi ngược suối lên, rừng mai bắt tôi phải để ý đến nó. Những chùm lộc tía đỏ bóng mỡ chen lẫn với hàng nụ xanh biếc. Lác đác một vài bông nở sớm. Một khoảng xanh đáng ngạc nhiên, đẹp tuyệt dưới những thân khô của cây khộp không lá, dưới tán của những cây dầu rái cổ thụ vút cao. Rừng hầu như đã kiệt nước nhưng mai vẫn ra lộc. Có lẽ rễ nó ăn sâu lắm để hút nước. Và lá nó nhỏ nên không bị bốc hơi nước nhanh như lá khộp nên không bị rụng.
Tết Tân Dậu năm 1981. Tiểu đoàn mới được bổ sung tân binh toàn anh em quê Nam mới vào. Đến chiều Ba mươi, thằng Quan ngược suối lên cái rừng mai đó chặt một cây lớn. Nặng quá, nó phải lôi xuống suối, nhờ sức nước kéo về. Cả bọn hè nhau lôi lên sân bóng chuyền, mang dao chia cho mỗi trung đội một cành.
Chiều muộn, khi mọi việc đã xong cả, nhiều anh em đi ra đi vào ngó cành mai, như gặp mặt người thân quen cũ nơi đất khách quê người. Có khi thoáng thấy như có bóng mẹ mình, em mình đâu đây ngày cuối năm. Rơm rớm, cay cay như khói chiều dụi mắt!
Một cành hoa với người vô tình chỉ là một loài hoa. Nhưng khi hoa đã gắn với tuổi thơ, với những buồn vui kỷ niệm, với sum họp của những người thân yêu nhất thì hoa đã thành Mai mất rồi, thành nỗi nhớ không cùng của người đi xa mất rồi.
Năm sau, sang bên kia biển Hồ, chúng tôi cũng gặp Mai. Có khi Mai mọc chen lẫn giữa cả rừng mây, rừng lá thấp...nhưng không mọc thành rừng. Đến khi chợt thấy vài bông vàng tươi, vẫy chào gió chướng trong những bụi cây vô danh gần lán mình mới biết có Mai hiện diện ở đây, mới biết lại một cái Tết xa nhà nữa đang vồi vội đến...

Thương sao là thương nụ cười vàng thắm nước non nhà !  

  (Chuyện bên lề của các bác cựu binh:

- Chuyện 1: Chuyên này tớ đã nghe bác Dksaigon kể lâu rồi, tớ cũng kể một chuyện tương tự đã kể cho bác nghe cũng lâu rồi không biết bác còn nhớ không ?!. Lúc đó là mùa mưa, bọn mình đang truy quét vùng ven biển hồ, mùa này nước mênh mông. Bấy giờ đã gần tối, cần phải leo lên được gò đất cao trước mắt khoảng nửa cây số để có chỗ nghỉ trước khi trời tối. Căn cứ vào các ngọn cây, anh em ta tìm được đường leo lên ngọn đồi bằng cách đi trên một con đê ( có lẽ là một đập nước đã bị vỡ dưới thời Pônpốt). Nước chảy rất xiết, sâu ngang ngực. Trước khi bắt đầu vượt qua đập nước, mọi người cẩn thận đội balô lên đầu để khỏi ướt, súng thì quàng ngang vai, vừa đi vừa dò đường, một tay năm lấy các cành cây để giữ thăng bằng để nước khỏi cuốn đi. Đi được nửa đoạn đê, bổng dưng thằng Dũng đi trước mặt mình bị hụt chân la thất thanh. Phản ứng của mình thật kịp thời, một tay giữ cành cây, rồi lao người ra chụp được đầu nó rồi kéo vào. Chuyện chỉ có vậy, thế mà tối hôm đó nó tâm sự với mình: "Chiều nay không có mày cứu kịp thời, chắc tao bị nước cuốn trôi mất xác, không thể nào bơi được vì nước chảy quá mạn, nước ở bên dưới lòng kênh thì quá sâu, mà chân tao lai mang giầy bốt đồ sô thì làm sao mà bơi được". Thật tình mình cũng không ý thức được hoặc hình dung ra sự việc lại quan trọng như vậy. Sau này thỉnh thoảng nó lại nhắc lại kỷ niệm này như một ơn cứu mạng thì mình mới hiểu ra việc này có thể xảy ra nếu mình lúc đó, trong một tích tắc, không phản ứng kịp thời. Sau này ra quân nó về Phan Thiết, năm 84-85 gì đó, nó gởi thư báo tin cưới vợ trước cả tháng. Báo hại mình phải xin cơ quan nghỉ phép mấy ngày để đón xe than ra Phan thiết dự đám cưới của nó. Mình nhớ lúc đó cảm thấy ngượng khi nó giới thiệu mình với vợ nó:" thằng này là người đã cứu anh mà anh đã kể cho em nghe đó" Thì ra, nó đem chuyện này ra để kể cho vợ mới cưới nó nghe. Chuyện của lính thì nhiều lắm. Sau này, cuộc sống đưa đẩy thế nào mà nó lại trôi giạt về SG, rồi mình cũng thế. Bởi vậy, cả đơn vị bây giờ còn sót lại hai thằng cùng trung đội trôi giạt về TPHCM. Buồn buồn nhớ nhau thì a lô, nếu rảnh gặp nhau ở quán nào đó. Hôm nọ, mình hẹn gặp bác TQNam cũng nhắn nó ra chơi., sáng CN hôm đó vừa từ quán cà phê ra thì thằng Dksaigon gọi điện hỏi thăm có rảnh không, từ Biên Hoà lên ghé thăm mày chút xíu. Giá mà nó gọi điện sớm hơn có lẽ hôm đó gặp cả bác TQNam thì hay biết mấy.

Chuyện 3: Chuyện là ông chính trị viên C1 được về nước giải quyết chuyện gia đình, ngày trở lên đơn vị trong cái màn trà thuốc chiêu đãi bọn thuộc hạ , tất nhiên là có chuyện hỏi thăm về tình hình quê hương, sau một hồi cà kê về lúa má ruộng đồng, giỗ chạp! bỗng lão vỗ đùi đét một cái... " đù... có một chuyện tao quên chưa nói... đù, chuyện này ly kỳ, rùng rợn lắm!" cả bọn lính nhao nhao hóng chuyện... kể đi anh sáu, chuyện thế nào? Lúc đó lão đủng đỉnh trầm ngâm, vẻ mặt thương cảm: " má... con nhỏ... trong bọn mày có thằng nào biết?... má!... nó chết thê thảm quá... nó có thằng bồ nghe nói là quân ở bên này, nó chắc không chờ nổi thằng này, mà biết đâu nó cũng toi rồi! vậy là nó sang ngang!... bữa đang đám hỏi thì thằng bồ nó lù lù về... và sau đó thằng đó xả một băng 31 viên AK, con nhỏ chết thẳng cẳng, nát người!... ngạc nhiên có thằng hỏi... sao mà biết được thằng đó nó xả đúng 31 viên AK?! Lão tỉnh bơ đáp: " thì tao cũng nghe nói vậy!" .... Lúc đó có một thằng lẳng lặng lủi mất, có thằng tinh ý đoán được sự tình có liên quan đến thằng vừa lủi, với lại cũng biết lão này vua xạo ke, nên gạ lão riết... Cuối cùng lão mới tiết lộ là: dịp về nước vừa rồi, một số thằng viết thư nhờ lão mang về gửi, trong đó có mấy thằng lính cùng quê, trên đường đi lão phải giải quyết cái thú quận công, trong thế kẹt, thế là một lá thư vô phúc bị trưng dụng! và lão cũng chỉ lựa thư của mấy thằng cùng quê, chính là nhằm trúng lá thư của thằng vừa lủi mất, mà ngồi giải quyết thì thằng nào không tò m, lỡ rồi xem luôn mấy cái chữ nghĩa gì trong đó !và : trong thư thằng này kể lể nhớ nhung với con bồ nó mùi mẫn cải lương lắm, đọan cuối có câu hăm dọa nếu em không chờ, bỏ sang ngang thì anh thề sẽ xử em đúng 31 viên AK ( bởi lúc đó thường AK nạp 31 viên lên đạn sẵn ). Thế là lão sẵn câu chuyện 31 viên AK lão mới phóng tác..... thằng tác giả nghe qua là biết ngay lão này đã xài thư mình vào cái vụ đó, nhưng bởi lão là xếp nên đành nuốt hận lủi mất!!!he he . mà rồi cũng chẳng giận được gì! Nghe nói sau này con nhỏ đó sang ngang thật, vì không chờ được!!!, mà nó lính lác cũng làm quái gì được về mà xả 31 viên !

- Chuyện 4: F 309 ở vùng Taren bat đoom bong cũng đảm nhận xây dựng 1 sư đòan bạn, sư 196. Đầu tiên xây dựng đầu khung F,E sau đó phát triển D,C,B,A. Năm 82 khi về vùng Sơđao, Taren đóng quân E tôi cũng ở gần 1 D K thuộc F 196. Vị trí của D nầy nằm ở hướng không quan trọng lắm (giống như được bảo vệ).Hình như vũ khí nặng không được trang bị thì phải,vì khi phối thuộc truy quét lùng sục bảo vệ vị trí đóng quân từ xa, tôi thấy bạn chi được trang bị AK và RPD mà thôi, nhưng súng , quần áo trang thiết bị thì mới toanh, quần áo ,mũ giống mũ tai bèo nhưng có vành mũ cứng đẹp và bền lắm ( không như quân trang của congtóp VN bèo không thể tả được) thì ra bọn K nhận viện trợ trực tiếp của anh ''Hai" nên''xuy'' hơn ta là phải, về mặt đánh nhau thì các bác bb chê thậm tệ, có đơn vị nhận lệnh phối thuộc là cảnh giác nom nóp vì sợ nó trở mặt đánh sau lưng hoặc ngang hông là toi.Nhưng bọn nầy cũng có nhiều điều hay lắm, là cái ''mỏ'' hậu cần cho chúng tôi tùy nghi khai thác.,ở gần trong ngày đầu tiên hôm đó mới khỏang 10g sáng bầu trời chuyển mưa tối trời tối đất sấm chớp ì đùng rồi mưa như thác đổ, hòa lẩn trong mưa chúng tôi có nghe tiếng súng nổ rộ lên ở hướng D K, từ 1,2 lọat rồi hình như cả D súng nổ, chúng tôi chạy ào ra chiến hào mặt cho mưa quất, rét lạnh căm căm.C21 trinh sát E vận động qua tiếp ứng, 20' sau báo về là không có địch tập kích gì hết, trời mưa to nên bọn k bắn đuổi ''Ma'' mà thôi.Trời mẹ ơi bọn nầy hại người hết chổ nói... dần dần mổi khi trời mưa lớn bọn k bắn là chúng tôi bõ lơ không chú ý nữa. Chúng nó bắn hòai nên hết đạn cho nên lần mò đem quân tư trang qua chổ chúng tôi xin đổi lấy đạn AK, lúc đầu đổi lấy quần áo, võng, bidong... sau chúng tôi đòi đổi lấy gà, thuốc rùmdo, samít, rượu,mì chính. Cơ số đạn có hạn , báo cáo láo với quân khí mải cũng không ăn thua, một hôm chúng tôi luộc 2 con gà kèm theo 1/2l rượu nằn nì mời cho được anh Cầu quân khí E ( bác nầy dân thái bình) nhưng rất vui ra chổ chúng tôi đánh chén. Đánh chén xong bác nheo mắt hỏi: chúng mày mua gà ở đâu thế nhỉ? chỉ chờ có thế chúng tôi thú thiệt cúi xin bác ấy lén cấp lại chúng tôi 1,2 thùng đạn ak, sau nầy trong ban hậu cần của bác có muốn tìm chất tươi chiêu đải đồng hương thì hú bọn nầy 1 tiếng sẽ cung ứng cho bác ngay vì trong B của tôi bây giờ mổi tên chỉ còn không quá 2 băng đạn, nay mai có lệnh đi phối thuộc với bb thì bị kỷ luật mút mùa.Nhờ bác Cầu thương tình hổ trợ nên thỉnh thỏang chúng tôi có chút chút chất tươi cải thiện ( vì né luật nên chúng tôi chỉ đổi chứ không dám bán lấy tiền riel, vì nếu bị phát hiện thì đổi với bạn cũng nhẹ tội hơn là bán)...he he he

- Chuyện 5: Nghe chuyện ông lính ta móc lưu đạn ra cưa với ông xe ôm k thiệt là chết lãng nhách! Ở VN thời những năm 80-81 nghe nói cũng có ông chơi kiểu tầm bậy như vậy, không riêng gì ở K!?

Nói chung mình nghĩ chuyện này phải phân biệt ở K đâu là dân, là quân, bọn quân K thì là lính nó cũng theo lệnh cấp chỉ huy của nó thôi, mà mấy thằng chỉ huy đó cũng có thằng học ở bên VN về nhưng bất mãn sao đó hoặc lý do bị khống chế, tinh thần dân tộc cực đoan ... phản lại, thì ngay từ những năm đầu giải phóng đã có rồi! tôi đã từng ngày hôm trước còn cười nói chào hỏi nhau, ngày hôm sau chính tay chỉa súng bắt trói giao chính quyền bạn một tay huyện đội phó!? và cũng đã bắt một thằng tiểu đoàn trưởng pốt mò về thăm nhà, mấy tháng sau tình cờ gặp lại nó, nó còn mua 1kg thịt bò kính biếu, hỏi nó sao mày làm vậy nó nói tại hôm đó tui không đánh nó còn cho nó uống nước! vậy đó! còn dân thì lúc đó rất tốt với mình, chuyện đi nhờ ghe, tàu xe đều vui vẻ, không phải vì lúc đó mình có súng, bởi quá giang thì xum đàng hoàng rồi xôm lia, o cun xamaki lắm mà! Thậm chí có một ông dân K lúc đó cũng còn trẻ thôi, ở phum nơi mình đóng quân, ông này cũng hiểu biết chính trị! bởi anh ta tự nhận mình là khơme đỏ nhưng không chấp nhận pốt, khi chính quyền pốt tan rã anh ta về làm dân, hàng ngày làm nghề chạy đò chở khách, hỏi sao không tham gia chính quyền cách mạng, anh ta nói để xem đã! rất tự nhiên và thật tình! ( thật tình khi biết ông nội này từng là khơme đỏ, lúc nào đi nhờ ghe cũng phải cảnh giác ngồi ở đàng mũi cho chắc ăn!hihi ), mình biết được địch chuẩn bị tập kích cũng là có dân báo cho biết! ( không phải người mình gài đâu!) . Đồng ý với bác Tran479 là do cách cư xử của mình thôi.

- Chuyện 6: Chiến tranh mà các bác ơi, cuộc sống khắc nghiệt quá đôi khi làm ta mất thăng bằng, ở D tôi có 1 anh nhập ngũ năm 79 quê Thủ thừa long an, làm lính kỷ thuật sữa chửa xe ở hậu cần D bộ, không tham gia đánh đấm gì, xe hư tham gia sửa, đêm không phải gác, người hiền hậu ít nói.Thế mà khi về tuyến sau, đóng quân sống gần dân k, có điều kiện rượu chè tý chút,lại bộc lộ bản chất thật, không tưởng tượng nổi.Một ngày tháng 6 năm 82 khỏang 15h trưa chúng tôi đang tăng gia xới mấy giồng rau muống thì nghe tiếng anh ta chưởi rất to ở khu nhà hậu cần D, đúng là tiếng cha Lạc quậy, vì từ khi về đóng quân xa biên giới tay này thường lẻn ra phum mua rượu về uống xĩn là chưởi đổng BCH.Đã bị hội đồng quân chính xử lý kỷ luật rồi, nay lại bổn củ sọan lại nữa đây, suy nghỉ như thế nên chúng tôi cũng không để ý thêm chi nữa vì lệ thường chưởi hả hơi rượu là sẽ ngủ 1 giấc, sáng hôm sau lên bch ngồi, tỉnh rụi xin lổi từ rày về sau em xin chừa, nào ngờ sự việc xãy ra ngòai sức tưởng tượng, vì kèm theo tiếng lè nhè là tiếng ak nổ cầm nhịp 2 phát 1, nhìn sang chúng tôi thấy lạc đang chỉ súng bắn vào nhà ban CH, BCH chỉ còn 2 người là anh Bình quảng bình Dt và anh Nhận Hải phòng CTV đã kịp thời chạy xuống nhà B TS của chúng tôi, theo phản xạ chúng tôi bỏ cuốc xách súng nhảy xuống hào xem hành vi của Lạc, vào nhà bch hắn bắn vào buồng ngủ, thấy không có ai, vừa chưởi hắn đi lòng vòng bắn lung tung, nhưng không trúng ai, vì mọi người đã tảng ra chiến hào hết, nhìn hình dáng hắn lè phè tay cầm súng chỉ có 1 băng đạn, chúng tôi bàn nhau chờ hắn hết đạn là lựa thế tiếp cận đè trói lại, tay nầy xỉn mà khôn vì hắn cứ đi vòng khu hậu cần vừa chưởi vừa bắn, nếu hắn thẳng hướng TS chúng tôi để tìm BCH mà bắn chắc chúng tôi phải bắn hạ anh ấy thôi. Tiếng hắn la: tao bắn hết băng này tao về tao lấy đạn tao bắn nửa ,thì đúng lúc là đạn hết lúc đó tổ tiếp cận mới xông vào trói lại. chúng tôi tìm hiểu được nguyên nhân bất mản của Lạc là: đáng lẻ anh ấy được tháp tùng hậu cần e về VN nhận quân trang kết hợp đại tu xe ở đòan 583 nhưng không biết sau E lại đình chỉ không có lạc trong danh sách, anh ấy suy luận là BCh D ém không cho đi sinh ra bất mản tệ hại như thế, thật tình là do khách quan thôi chứ bch không có đì. Tối hôm đó vệ binh xuống bắt chuyển về K39 XR cải tạo và bặt tin luôn... tình cờ năm 2006 tôi gặp lại Lạc với 1 xấp vé xố đang đi bán dạo...

Ông cậu họ của em lính 78 cũng là chuyên gia như bác TQNam lại làm hậu cần nên đô angco lấy vàng hột soàn thoải mái năm 79 ông tranh thủ theo xe hậu cần về nước , vàng lá được ổng cắt dép râu ra nhét vào tính về cưới vợ . Xe bị trúng mìn chống tăng , ổng văng lên trời và té xuống dập tuỷ sống liệt cả 2 chân , dép văng mất tiêu . Cũng may là sau 5 năm nằm viện ổng đi lại được giờ chạy xe ôm  

Chuyện 8: lần đó hành quân tác chiến cấp D , em vác PRC 25 đi theo C 13 có nhiệm vụ đánh từ hướng tây sang đông cặp theo bờ nam con suối , C11 và C12 đánh từ hướng đông sang tây dọc theo hai bờ của con suối . D bộ với 2 b TS và TT đứng chân ở 1 phum cách khoản 2 Km có nhiệm vụ đón lõng nếu địch chạy về hướng nam . Cả C hành quân theo hàng dọc cách bờ nam con suối khoản 500m ( vì cứ địch thường tập trung ven suối ).Khoản 8 giờ sáng B đi bọc hậu phát hiện 2 cô gái đánh 1 chiếc xe chở hàng trong rừng gần bờ suối nên đội hình dừng lại . Cả bọn hí hửng xin ý kiến C phó xông lên bắt sống 2 cô gái thì thằng Ngô liên lạc vội giật tay áo em báo "địch" em giật mình nhìn lại thì thấy 1 thằng Para đang đứng trên 1 gò mối quan sát hướng đi . Lúc này 2 B đi đầu cũng đã phát hiện đội hình của địch từ hướng bắc lội qua suối và chuẩn bị hành quân tiếp về hướng nam ( là chổ đội hình tụi em ) . B trưởng Nếp đã giương AK ngắm thằng đi đầu nhưng chưa bắn vì muốn chờ nó đến gần hơn ( thằng này tham quá vì khoảng cách chỉ khoản 10-15m ) thằng địch đang quan sát thì khựng lại vì phát hiện ra Nếp . Lộ rồi nên mọi người cùng nổ súng . B bọc hậu nhanh chóng dạt thành hàng ngang phối hợp 2 B đi đầu tạo thành gọng kềm chữ L ép địch về sát bờ suối . Bọn địch bắn trả điên cuồn mở đường máu chạy về hướng đông( là hướng còn trống ) Hehe vậy là chúng nó chạy về hướng C12 đang tiến đến . Lúc này D bộ yêu cầu xác định toạ độ để bắn cối 8 nhưng đang đánh vận động nên không biết chổ nào mà báo . Lúc này anh em đánh rất hăng đuổi theo sát bọn địch vì biết chắc bọn này từ TL mới qua vì ba lô nào cũng to cả . Bọn địch chạy ra đến 1 cái trảng và tổ chức đánh trả yểm trợ cho nhau rút lui . Cả C cứ bám bìa rừng mà đánh vì qui ước trảng là của C 12 . Lúc này đã xác định được toạ độ do có mốc là cái trảng nên em phải leo lên gò mối cao báo toạ độ cho D . Đang đứng gào vào tổ hợp thì thằng Ngô nhào lên nắm giò lôi em té xuống , nghe tiếng lạch xạch em ngước nhìn lên trời thì thấy 1 quả B đen sì đang lao xuống chổ mình , hai thằng nhắm mắt nín thở chờ đợi hên sui . Ầm 1 phát bụi bay mịt mù quả B nổ cách 2 m . Thì ra mình đang ở vị trí đạn cuối tầm của B . Hai thằng co giò phóng lại 1 góc cây to để núp . Phía bên kia trảng C 12 cũng đã vận động đến và nổ sung ào ào vào bọn địch ỡ giữa trảng cộng thêm cối 8 của D . Phải nói trận này đánh quá đẹp . Bọn địch rút về phum ở hướng nam bị B TS và B TT đánh bật trở ra . Sau này nghe anh em nói lại xém tí tụi nó đã đạp qua đầu B TT để vào phum . Nổ súng khoảng 20 phút nữa nhìn ra trảng thấy địch chia làm nhiều tốp chạy toán loạn các hướng nên mọi người vận động ra để thu đồ cổ . Vừa ra khỏi bìa rừng thì bị bắn ào ào phải rút trở vô bắn trả . Mầy lần nhào ra đều bị đánh bật trở vô nên em mới nghi là bắn lầm với C 12 nên gọi cho C 12 thì tụi nó báo tụi nó phát hiện địch vẫn còn trụ lại tại bìa rừng chống trả quyết liệt . mẹ kiếp lúc này trảng trống trơn địch chạy mất tiêu hết còn ai đâu . C 12 là C chuyên đánh phòng ngự cách nhau cả 5 trăm mét mà đạn AK nó cứ bay là là mặt đất làm bọn em chết cứng không thằng nào dám nhúc nhích . Tội nghiệp thằng Anh gánh đạn cối 6 bị thằng xạ thủ chửi như chó mà không gánh đạn lên được nhìn đạn lửa lượn trên mông khi nó bò mà sống lưng em lạnh ngắt . Tiếng chửi thề bắt đầu rộ lên khi thông tin không báo được cho C 12 biết là bắn lầm . Mấy cha cán bộ xác d8ịnh toạ độ trật lất nên cứ cho lính bắn hoài . Cuối cùng D lệnh cho 2 bên ngừng nổ súng bắn bắt liên lạc qui ước là + tròn 5 . bên kia bắn 2 cha C phó bắn lại 3 nhưng không hiểu sao lại bắn 1 loạt ( quên chuyển sang nấc tắc cú ) thế là bên kia lại tiếp tục nổ súng và tụi em tiếp tục lủi gốc cây . Em lại phải gọi báo bắm lầm và đề nghị bắt liên lạc lại . Khi hành quân về 2 bên chửi nhau om sòm thằng này đổ thằng kia . Trận này địch bỏ xác tại trận 14 thằng ở trảng . Sau đó dân báo lại còn 6 cái xác bị tụi em bỏ sót trong rừng ( chết do loạt nổ súng đầu ) . Trên báo hôm đó địch khoảng 150 thằng đang hành quân xuống hướng Nam BH 5thì đụng C 13 . Nghe xong tụi em xanh mặt vì mình chỉ có chưa tới 40 tay súng nếu mà tụi nó lì trụ lại chắc mình cũng khó nhai . Hèn gì tụi nó bắn trả kinh quá .

À lo nổ súng nên 2 con nhỏ kia chắc là tiền trạm dò đường chạy thoát , tiếc quá .  

Chuyện 9: Hê! nhắc chuyện thuốc men, chỗ tớ cũng nhiều chuyện vui:

Cũng là chuyện đau mắt đỏ, nghe vubang nói vậy, chắc hồi đó có dịch nhiều vùng ở K. Nhỏ bằng nước muối ăn thua gì! hết thuốc!!!, sáng kiến xuất phát từ tên y tá C1( y tá gì mà lác, lang ben đủ bộ! hê, xin lỗi yta262 nha! )lấy dầu lau súng của mỹ nhỏ mắt, mà thằng này nó cũng... gan! nó tự thử nghiệm trước, bà độ sao ấy! hết bệnh mới quái đản! thấy vậy người thứ 2 xung phong là C trưởng, rồi toàn C hết bệnh, tiếp theo là phổ biến chữa cho dân trong vùng! khi thấy hiệu nghiệm quá trời! ông C trưởng lên báo cáo thành tích với D, Dbộ chỉ bị vài em nhưng chữa cũng thấy hiệu nghiệm bèn báo cáo thành tích lên E, ai dè bị mấy ông y sĩ E chửi cho là phản y học ! tưởng rằng được khen ai ngờ bị chửi quá xá, rồi bị hăm nếu bộ đội bị...mù hết! thì đưa mấy ông chỉ huy vô quân lao! tức! về chửi um xùm mấy cha chỉ ngồi trên đếch biết nỗi khổ của lính bên dưới, lạ là cấm xài thuốc mỹ nhưng cũng chẳng cấp cho một giọt thuốc gì để chữa ?!
Còn chuyện dân bạn họ bệnh đến xin thuốc, coong top VN cấp C thì có gì ngoài thuốc phòng sốt! thế là cứ thuốc phòng sốt mà phát, mà dân họ lại khỏi tuốt tuồn tuột từ đau bụng, nhức đầu, cảm cúm...! giải thích thế nào? chắc là niềm tin chiến thắng bệnh tật! bởi vậy các pét được trọng vọng như lục thum , được dân hậu tạ kính biếu dừa xòai,mon,tia, thuốc cotab hút mệt nghỉ!hê hê!  

Chuyện 10: CHUYỆN CÂY CỐI 6 CỦA C6 - D54 /

Cấy cối 6 này được truyền lại từ nhiều đời xạ thủ trước với lời dặn tuyệt đối không được vỗ vào nòng cối . Đã nhiều xạ thủ đã hy sinh hoặc bị thương vì lỡ vỗ vào miệng cối . Nhìn nó cũng bình thường như những cây cối khác nghĩa là cũng đế bằng dép râu quai là khăn cà ma nhưng cứ hễ vỗ vào miệng nó khi tác chiến là chắc chắn sẽ có thương -tử .
Lần đó nó được bàn giao từ 1 anh lính 84 ra quân cho thằng Hùng tàu quê Tây Ninh . Thằng này dân tộc Hoa mập mạp như xì thẩu nhưng là 1 thợ hớt tóc rất giỏi , cả C đẹp trai là nhờ vào cây kéo của nó . Khi nhận cối đương nhiên Hùng cũng nhận được lời dặn dò và nó cũng rất tin nên không bao giờ dám vỗ vào miệng cối .
Hôm đó cả C hành quân tác chiến khu vực cao điểm 12 . Chạm địch nổ súng từ sáng sớm , cứ vừa đi vừa đánh đến trưa được lệnh vào phum trămsoso nghỉ ngơi cơm nước xong khoảng 4 giờ chiều lại được lệnh lùng sùng khu rừng hướng bắc của phum này vì cơ sở báo còn 1 cứ địch ở đó . Cả đội hình xuất phát hàng 1 một nhắm hướng rừng cắt tới . Đang đi thì thằng Hùng chợt vỗ vào miệng cối hát nghêu ngao . Em đi sát bên chết lặng người , hỏi nó tại sao vỗ miệng cối thì nó trả lời tự nhiên tao thấy buồn quá nên hát chơi . Mọi người im lặng căng thẳng khi tiến vào sát bìa rừng . Một loạt AK vang lên - đụng cảnh giới của địch rồi các B dàn đội hình tấn công vào cứ ( bọn này làm cứ sát bìa rừng khi đó đã phát hiện mình trước , chờ mình tới gần là nổ súng ) . Nổ súng khoảng 10 phút Thằng Hùng vác cối 6 vọt qua 1 bụi cây em cũng vọt theo sát nút thì ầm một tiếng khói đen mịt mù người em rát rạt . Lúc đó em nghĩ chết rồi mình dính mìn rồi . Mấy giây sao nghe huỵch 1 cái và có tiếng rên khe khẽ khói vừa tan em thấy thằng Hùng nằm đó mắt nhắm nghiền , bàn chân phải bị tiện đứt hẳn chỉ còn lại gót chân . Lúc này cả C đều ngừng lại không ai dám truy kích địch vì sợ mìn . Sau khi phụ y tá khi băng bó cho nó xong em mới thấy dấu vết chổ tụi em đứng là 1 vọng gác , chổ thằng gác ngồi mòn lẳng , trên cành cây còn treo lủng lẳng miếng thịt heo luộc ( chắc dân trong phum vừa tiếp tế cho ). Tụi nó thấy mình trước nên đã gài mìn trước khi rút chạy , thằng Hùng thấy đường mòn trống trải vọt ra nên dính mìn .
Phải nói đời lính của em gặp nguy cũng nhiều nhưng chưa bao giờ sợ đến thế , khi nghe mìn nổ toàn thân tê liệt , chết đứng như Từ Hải . Khốn nạn là lúc đó D yêu cầu tiếp tục cáng thương binh theo hành qyân tiếp lên Xầm Rông ( chổ bác Y tá 262 ) gởi thương cho F 302 rồi đi tác chiến tiếp . 5 tiếng đồng hồ cáng thằng Hùng cắt rừng trong đêm mưa lất phất mới tới được cứ của F302 , bàn giao xong lại đi tiếp nên không biết nó có qua được không . Thằng gan lì thiệt không rên la gì cả , chắc là qua được .
mấy ngày hôm sau tự nhiên thấy người mình thúi quá ( hehe là chuyện lạ đối với loại mồ hôi muối phải không bác Trâu ) nhìn lại mới biết thịt, xương của thằng Hùng văng đầy quần áo và khăn cà ma nên bốc mùi (hèn chi lúc đó thấy người rát quá ). May là trời mưa đêm đó đã gột đi 1 mớ rồi . Quần áo cực chẳng đã phải giặt lại vì nhất y nhất qưỡn còn cái khăn cà ma em đào lỗ chôn luôn xem như là chôn cất 1 phần thân thể của bạn .
Một tuần lễ sau thằng Quý y tá cũng hy sinh , sau đợt tác chiến đó anh em yêu cầu trả cây cối ma ám cho D nhưng không được .  

Chuyện 12: LINGA - LINH HỖN TƯỢNG ĐÁ 


Tháng 5 năm 1979,

Năm 78 và 79 đơn vị chuyển cứ liên miên, có lẽ đây là một cách dấu đội hình linh hoạt của Quân đội Nhân Dân VN chăng, tôi tự đồ đoán như vậy. Ngay cả khi tôi đi học y tá khi mới qua K, vừa quen chút ít được tên các loại thuốc và quen đường xá ở Siêm Riệp thì tháng sau lại được lệnh chuyển cứ tất cả học viên trường y tá sư đoàn 302 về huyện Pouk, cách Siêm Riệp 16 cây số về phía Tây. Lúc này thì chúng tôi đang ở tạm 1 dinh thự kiến trúc Pháp ở phía Nam của dinh Sihanouk. Đang an tâm được ở nhà mát ăn bát B52 cho cả khoá học, mới chừng 2 tháng đã phải hộc tốc bỏ đi, ai mà chẳng tiếc nuối chất thơ mộng của cái thành phố xa lạ nhưng lại đầy ắp hình ảnh khu phố biệt thự quận 3 Sài Gòn, với hàng cây me cây dầu buông lá và trái dầu rơi rơi thành chong chóng rải hoa trên mặt đường nhựa, nhớ làm sao bóng cây mát rượi đường Võ Văn Tần, Sương Nguyệt Ánh. Tôi lại chợt nhớ anh Trịnh Công Sơn, với con đường có lá me bay và "Nhớ Sài gòn những chiều ngợp gió, Lá hát như mưa suốt con đường đi, Có mặt đường vàng hoa như gấm, Có không gian màu áo bay lên ... em ra đi, nơi này vẫn thế, ... ". Còn nhớ chứ, nhớ quá đi thôi, sao lại quên ... Lại thêm hình ảnh đường Hồ Xuân Hương nơi tôi lên đường nhập ngũ, và nhớ cả ngôi trường nhỏ trên đường Hùng Vương mà tôi cắp sách đến trường. Siêm Riệp đã đến và đã đi với tôi tới thân quen trong từng khu phố, từng khuôn mặt người quen và không quen. Thế là trở lại Pouk, nơi 4 tháng trước chúng tôi vừa xây xong hầm chỉ huy cho E bộ là được lệnh đi Prey Chirúc ngay. Bây giờ thì một đơn vị bạn K. đã "hưởng xái" hầm chỉ huy kiên cố của tôi đào. Phần chúng tôi được ở nhà mới, có điều vừa học vừa xây nhà thì cũng hơi cực, trước mắt là ở chung dãy doanh trại với tù binh Pôn Pốt, ai muốn thoải mái thì giăng võng trên bụi cây dâu mé đồi (sau này tôi mới biết đây là địa điểm nuôi dâu tằm truyền thống của huyện Pouk, là 1 chỗ du lịch cho khách viếng thăm Siêm Riệp). Không biết có phải một phần ý đồ của ban giám hiệu trường hay không, phòng giam tù binh nằm giữa, phòng nữ học viên 1 bên gần mé đường, còn phòng nam học viên bên kia phòng giam. Không biết ai là tù đây nữa? Nhóm học viên đồng hương Hải Phòng ở trung đoàn đặc công 429 sẵn dịp trút hết tội lên nhóm tù binh, hễ mỗi lần có phiên tra tù là các anh em vào tham gia ngay.

Tôi có một niềm vui nho nhỏ, đang nhớ trường nhớ lớp nhớ Sài Gòn, thì đột nhiên trong khi đi đốn cây làm nhà quanh khu vực đền Angkor Vát, tôi gặp lại Thành học lớp ngay bên cạnh. Giữa rừng già, nhắc bạn học người còn kẻ mất, buồn vui lẫn lộn cứ xô đẩy nhau. Thành nhập ngũ cùng lúc với tôi, hắn tướng người nhanh nhẹn chắc chắn không thư sinh trói gà như tôi và bổ xung cùng đợt vô E88 nên lúc nào cũng húc, húc và húc mãi cho tới khi Thành đã lên lon trung sỹ A trưởng! Thành nói xong chiến dịch này có lẽ nó lên B thôi, mỗi tháng giỏi lắm thì chỉ mất 1, lính cứ hao đều như vậy mà không lên B thì chỉ có toi rồi rút ra phía sau. Cái đền Angkor này thiệt lạ, khi trước tôi nghe kể trong đền có rất nhiều tượng, vậy mà bây giờ không thấy bao nhiêu, chỉ còn mấy cái bằng gỗ mốc meo, theo tôi là ít giá trị khảo cổ lắm. Còn mấy cái bằng đá thì mất đầu. Duy có vài cái tròn lẵng trơn tuột thì còn nguyên. Sau này tôi mới biết người Khmer thờ linh vật Linga tượng trưng cho dương tính, có hình khối trụ đặt trên Yoni hình khối vuông, đại diện cho âm khí, giống như các linh vật thường thấy thờ phượng ở các chính điện của tháp Chàm bên Việt Nam. Thành bảo tôi: "Mày lên đó nhớ phải vuốt hết ngực tiên nữ Apsara nghe chưa, vuốt càng nhiều thì được sống dai chừng đó vì người K. họ cầu xin khoẻ mạnh và con cái đầy đàng bằng cách này. Tụi tao vuốt hết rồi, tới phiên mày đi". Quả thật, lên tới đền thì các phù điêu trên đá nhám điêu khắc nữ thần Apsara nhảy múa và các linga đều đã bóng mồ hôi tay của khách thập phương. Tôi không tin lời của Thành lắm, nhưng vuốt thì vuốt, mất mát gì của nhà mình, tay chân ở không thì tội gì mà không vuốt. Tôi nhanh chóng thực hiện động tác xoa xong rồi rút xuống dưới trở lại vô rừng. Thành đã đốn sẵn chục cây đòn tay thẳng tắp rồi nói: "Vuốt apsara chưa? Tốt, mày không quen rừng chỗ này không biết nhe mậy, có đi tới tối nhiều khi không gặp 1 cây mà còn bị thần Angko dấu lạc đường luôn đó".

Chuyện 13: NHỮNG BÔNG HOA TUYẾN LỬA


Thành bất giác cầm lấy tay tôi giật mạnh, lần đầu tiên tôi thấy môi nó rung rung khoé trái, và mắt bỗng đanh lại, nó nói nhỏ đủ cho tôi nghe thấy: "Có gì ... mày cho tao nhắn lại gia đình là tao vẫn khoẻ mạnh nhe mày". Tôi như bị chạm trúng nọc, tự nhiên cũng nghiêm sắc mặt: "Mày cũng nhớ nhắn với ba mẹ tao nhe Thành nhe, nếu mày ... nếu tao ... ". Tôi bỏ lững và thường tránh né những câu dự đoán tương lai vô bổ như vậy. Cả hai chúng tôi mỗi người bỗng túm một đầu lặng lẽ buộc đám đòn tay lại, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ vớ vẫn về một nơi xa xôi ấy, về một mái ấm và về những người thân thương. Xe tới Puốc rồi mà hình ảnh người bạn thoăn thoắt trong rừng cứ theo tôi. Lại thêm một gởi gắm, lại thêm một lời xa xôi, vậy ra Apsara có giúp gì ngoài mấy cái vuốt mát rượi tay? Vất vả rồi cũng đâu vào đó, nhà cửa và lớp học cũng vừa kịp mùa mưa ùa đến. Để bù lại những giờ mất đi do làm nhà dựng trại, chúng tôi phải học rút để kết thúc khoá học trước mùa khô cho kịp bổ sung về đơn vị. Chiến trường tự lúc nào không biết, nó như một con thú hoang đói mồi nhân sự hằng ngày, hằng tuần. Trong khoá học tôi là người lạc lõng nhất. Giờ rãnh rỗi thì hết chuyện chiến trường đến chuyện chiến dịch, nào là trận tập kích Lò Gò Xóm Giữa của E đặc công 429, nào là vượt sông Vàm Cỏ Tây bằng ghe của E201 rồi bị 3 đứa con gái Pốt cầm chân gần cả ngày dưới chân đồi, nào là truy kích lạc đường khát khô cổ uống nước đái của E271 và E88 những ngày rượt Pôn Pốt từ lộ 68 lên Sầm Rông xuyên qua Anlong Veng rồi vòng về Núi Hồng, nào là bị rớt đơn vị gặp đám Pốt con nít vừa đi vừa ria, thôi thì đủ thứ trận mạc. Chiến công nào thua chiến công nào? Có ai biết chăng những chiến công thầm lặng của những người lính thầm lặng? Họ, được gọi vô chung một cái tên bộ đội của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, để rồi khi nhắm mắt lìa đời thì, họ, người chiến sỹ vô danh! Tôi muốn nói đến những bông hoa trên tuyến lửa năm nào. Lớp học có 8 cô tân binh người Sài Gòn mà mãi đến giờ phút này tôi cũng vẫn không hình dung họ đã chiến thắng tư tưởng ra sao để đến vùng biên địa xa xôi chia lửa cùng chúng tôi? Tôi lại miên mang đến chi đoàn phường 8 của tôi trước ngày lên đường. Năm 1978 tự dưng sinh hoạt đoàn vợi hẳn đi, nhất là trong khối nữ đoàn viên, hầu như đều bận học, về quê, bị bịnh, lắm lý do! Năm đó thành đoàn phát động chiến dịch toàn đoàn xung kích ra tuyến đầu, kể cả các em trong ban chấp hành liên đội thiếu niên tiền phong, 3 trong 4 em mới 16 tuổi và anh Toàn hướng dẫn liên đội TNTP cũng đã làm đơn tình nguyện cùng lúc. Trong 8 học viên nữ ngày ấy, tôi phải thú thật với lòng là tự nhiên cảm tình nhất với Bảy. Đám đực rựa với nhau thường rất thẳng thừng. Đôi khi những cái mềm không sao làm cho cứng, cái cứng không sao làm cho mềm ...

Chuyện 14: Nghe bác Ytướng nhắc đến chuyện MA nên tôi lại nhớ chuyện ngày xưa.

Tôi vốn là thằng chúa sợ ma từ nhỏ. Cho tới bây giờ vẫn vậy. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy ma nhưng trong đầu vẫn cứ gờn gợn một nỗi sợ mơ hồ.
Tháng 6 năm 1980, vụ đi lấy xác anh Năm Lập tôi sợ đến nỗi 3 đêm không thể ngủ được. Cứ tắt đèn là lại " thấy " khuôn mặt anh Năm hiện lên với những máu me be bét, chiếc lưỡi to đùng lè ra dài thượt, đôi mắt trợn trừng lên như vẫn đầy ngạc nhiên. Khốn khổ thân tôi, do chữ nghĩa viết cũng xem được nên đơn vị phân cho vào trong tổ " Khám nghiệm tử thi " nên mình cứ phải lật đi lật lại cái xác anh Năm đã trương sình, nham nhở do Kỳ đà gặm xác. Cố tỏ ra không sợ để làm xong nhiệm vụ ( kẻo mấy thằng cùng nhiệm vụ nó cười ) nhưng đêm về tôi xém té đái ra quần. Bam đêm mót đi tiểu cũng phải cố nhịn chờ trời sáng mà không dám đi.
Vụ thứ 2 là chuyến đi xuống E2 của TS1 công tác. Nhiệm vụ của P3 giao là xuống E2 lấy số liệu về hậu cần trong tháng như Quần áo, đạn dược, tình hình tăng gia sản xuất .... tiện thể ( hừ...hừ.. cái khố nạn cho tôi là cái tiện thể này đây ) tiện thể lấy luôn một xác liệt sỹ hy sinh đã ba ngày đang nằm trên chiếc xe goòng ở ga Bamnak.
Sáng sớm, cùng với một chiếc Vọt tiến của D29 tôi hăm hở đi xuống E2, cùng đi có thêm một trợ lý HC Bùi Xuân Hùng mang hàm thiếu uý. Xuống đến nơi, chỉ trong mấy giờ mọi số liệu đẫ được các trợ lý HC E2 cung cấp đầy đủ. Cơm trưa xong, tôi hỏi Lão trợ lý ban chính sách xem liệt sỹ đâng nằm đâu? Hắn giơ tay chỉ ra chiếc xe goòng nằm ngoài đường rầy xe lửa, tôi chưa đi đến nơi đã ngửi thấy mùi hôi xông lên nồng nặc. Liệt sỹ được nằm trong túi nilon, đôi bàn chân vàng khè to tướng vẫn thò ra ngoài. Nhìn quanh chẳng thấy có ai để nhờ. Bỏ mẹ ! Một mình thì làm sao khuân được cái xác trương phình to tướng này. Trong đầu tôi bắt đầu nỗi sợ. Tôi quay vào ban HC ngồi nghỉ và nghĩ cách... Vừa lúc ấy, một tốp lính E2 chừng hơn 10 chú nhào vào hỏi em :
- Anh ơi, xe của anh về sư bộ phải không?
Hờ hờ...thoát rồi, thoát rồi. Mặt tôi tỉnh bơ trả lời :
- Ừ, xe của hậu cần sư sắp về sân bay đây.
- Bọn em là hạ sĩ quan được gọi về sư tập huấn. Anh cho bọn em đi ké về sân bay nhé. Tôi vồn vã :
- Được thôi, các bạn cứ chuẩn bị đi. Mình lấy nốt mấy sô liệu rồi ta cùng lên đường.
Thực ra số liệu chó gì đâu, phải nói vậy cho nó ...oai thôi. Mấy anh lính E2 lao xao chuẩn bị ba lô và lại kèm cả một chú heo to tướng ( chắc là thực phẩm kềm theo cho lớp tập huấn ). Tôi bảo tất cả đưa ba lô, hòm B40 đựng đồ và cả chú heo lên xe, nhắc mấy chú để cho gọn vào phía đầu xe. Tôi nhanh nhẹn và tỉnh bơ kêu lái xe re xe vào chỗ lấy xác tử sỹ. Tôi nói giọng rất thản nhiên :
- Mấy bạn giúp tôi một tay cho liệt sỹ lên xe rồi lên đường kẻo muộn rồi.
Con đường từ ga Bamnak về là con đường rất hay bị địch phục kích. Hai bên đường chỉ thấy những bụi cỏ tranh cao vút, không một bóng người nên xe bộ đội muốn an toàn phải đi sớm, chiều muộn mà còn lénh phéng trên đoạn đường ấy rất dễ ăn B. Mấy anh lính vui vẻ ào xuống khuân xác liệt sỹ lên xe. Tôi nén một tiếng thở phào. Tôi nhanh nhện nhảy lên cabin xe, kệ cho ông Hùng trợ lý phải trèo lên thùng đứng cùng với túi xác liệt sỹ. Sau vụ này, lão căm tôi lắm. Ông Hùng cứ tưởng tôi lên mặt chơi trèo với ổng, ổng đâu biết là tôi đành phải cư sử không phải với ổng chỉ vì tôi...sợ. Dọc đường từ Bamnak về sân bay, chiếc xe đi đến đâu ngưòi dân cũng chỉ chỏ, bịt mũi. Từ sàn xe, nước rỉ ra từ xác liệt sỹ cứ nhểu nhểu dọc đường. Ra đến ngã ba thị trấn Pôlây, xe lại còn dừng lại để nghỉ chân uống nước sirô đá bào. Dân tình hai ven đường chạy tán loạn vì mùi thối nồng nặc. Ra đến QL5, chiếc xe của chúng tôi chạy vựot lên trên chiếc xe đò chở khách của dân, lão lái xe còn chơi khăm cứ chèn chiếc xe đò không cho nó vượt, dân trên xe khách chửi bới um xùm.

Cho đến giờ, tôi vẫn sợ ma. Nhà có việc phải đi xuống nghĩa trang Văn điển, đi cùng cả nhà rất đông người giữa ban ngày nhưng bao giờ tôi cũng len lén đi len vào giữa đoàn người cho yên bụng.  

Chuyện 15: 1 chuyến chuyển thương về Việt Nam.

  Ngày mai chuyển thương về Việt Nam, chuyện thường chẳng có gì đáng nói! Giao ban buổi sáng thì bác tài lúi húi bên xe, chuẩn bị cho ngon... Hình như là có trục trặc nhỏ gì đấy, phải chạy ra chợ Công-pông-chàm thôi! Tôi thường được đi theo bác tài (bác này nhiều chuyện lắm, mới gặp lại cách đây 1 tháng) ra chợ. Việc đầu tiên là làm quả hủ tíu Nam Vang cho ấm bụng. Xong xuôi uống cà-fe. Không biết bằng cách nào mà đã thấy xuất hiện 1 hai bác Tàu tới bàn bạc công việc. Lúc sau chất hàng lên xe. Thôi thì đủ cả. Mùa nào thức ấy. Lúc thì thuốc lá, lúc thì gạo, lúc thì cao su bành ... Kết thúc là một bữa nhậu say bét nhè. Xế chiều rồi, về đơn vị thôi!

Xe 6 giờ sáng sớm xuất phát, chú y tá đã chuẩn bị xong giấy tờ, thằng đi kèm chuyển thương - kết hợp đi phép cũng xong. Đơn giản chỉ có cái ba lô 10 cây thuốc lá, 1 khẩu AK 4 băng lên đạn sẵn ... Chiếc DOGE Mỹ thùng vuông chạy xuống trại bệnh. Tại đây trại bệnh đã tập trung thương bệnh binh lên xe. Tiếng gọi nhau í ới. Vài thằng nhắn nhủ về nhà ...

Xe lăn bánh về thị xã. Chả biết thế nào mà MT479 lại bố trí bệnh viện 7D tớ ở ngoài thị xã mới hay, chắc là tại đơn vị tớ cấp trung đoàn, lính đông nên cho ra tuyến trước để bảo vệ Thị xã của bạn chăng? Hay là để hạn chế bớt các chú bệnh binh quậy phá trong thị xã?

  Qua thị xã, xuống phà vượt sông Mê-Kong, nhằm hướng VN mà tiến. Dọc đường cũng chẳng có gì nguy hiểm. Chỉ mỗ tội là xóc, xóc kinh hoàng. Tui ngồi bám trên cái "tai" xe hồng mà nhiều lúc muốn bị hất văng xuống đất. Ngồi trong thùng xe thì chịu không nổi vì ngộp. Hồi trước xe Mỹ có quạt thông gió nên cũng đỡ. Bây giờ lấy đâu ra? Chỉ có 1 cái lỗ vuông bé bé mà thôi! Xe chạy còn đỡ 1 chút, chứ nó mà dừng lại thì thôi rồi! Nóng chết cha, kèm theo mùi máu mủ của thương binh. Mấy bác bệnh binh thì ho sù sụ, rên hừ hự ... Cũng còn chưa sao vì dù gì cũng là anh em mình cả! Khiếp nhất là mùi hàng hóa của bác tài. Trời nóng, trong thùng xe ngộp lên mùi thuốc lá hăng hắc, mùi cao su thum thủm ... Tệ hại nhất là các bác sĩ quan gửi mấy con gà về nhà cho bu cháu ... Ôi trời, phải chi có thuốc gì cho chúng nó uống, chúng nó không ị ra nhỉ ! 

Chạy khoảng 12 giờ trưa thì đến biên giới. Từ xa, cây ba-ri-e của đồn biên phòng bạn đã mở lên sẵn cho xe ta lao vút qua. Chỉ mấy phút sau là tới đồn biên phòng Xa-Mát. Xịch lại. Các cú lính đi ké ào xuống tè 1 bãi cho nó thoải mái!Mấy thằng có ba-lô thuốc thì dúi vào trong thùng xe nhờ anh em thương bệnh binh cầm giúpThương bệnh binh cũng sẵn sàng, vui vẻ vì quan hệ lúc còn ở bệnh viện rất tốt! 

  Bác tài lại có chuyện khác với biên phòng. Tụi biên phòng biết tỏng là xe chở cái gì và kèm cái gì rồi nên không ra xét xe mà kêu bác tài vào đồn làm việc ... khoảng đâu 30 phút thì xong. Có bữa không biết làm sao mà bác tài chạy ra, đến thùng xe kêu " mấy thằng mày - thương bệnh binh - Bác tài lính 74 - kêu lên một chút, biên phòng nó xét xe, bắt tụi mày xuống đấy. Nó mà xét xong thì cả tiếng đồng hồ đấy. Muốn nhanh thì rên to vào!

Một hai chú biên phòng mặt hằm hằm đi ra xét xe, lính ta cười khẩy, nhìn các chú ấy như con gì!

  - xe chở gì đây (mẹ, biết rồi còn hỏi).
Thằng y tá cười nhăn nhở
- dạ xe bữa nay có chở 2 thương - hoại tử, 1 sốt sét, 1 ho lao!
- Ho lao à?
- Đấy anh cứ mở ra xem!

Thằng BP vừa đến cuối xe thì đã nge tiếng kêu rên từ trong vọng ra thảm thiết. Chú ngó vào thì tời ơi, cái mùi trong xe xộc ra, không thể nào tả xiết!

  - thôi thôi, đi đi các bố!
He he, cả xe lại lên đường về quê mẹ! Chạy dọc đường Tây Ninh nhìn mấy cô gái làm cỏ lúa, mặc áo bà ba hai lớp, mặt bịt kín chống nắng, chân lội bùn để hở ra 1 khoảng thịt trắng sao mà thân thương thế! He he, hoàn toàn trong sáng đó nghe! Cảm giác xúc động bồi hồi khi về đến đất mẹ mà!

1 tiếng sau xe tới Thị trấn Tân Biên thì dừng lại, ghé quán ăn trưa và cho mấy chú thương bệnh binh ra khỏi xe cho nó thoáng và tận hưởng không khí nước Việt mến yêu! Bác tài bao giờ cũng đãi cả bọn thịnh soạn. Và bao giờ cũng thết đãi các thương bệnh binh trên xe tiêu chuẩn đặc biệt là nước mía và bánh bao nhân thịt thơm phức. Tụi tui rất khoái đi với bác tài quê Thái Lọ này, có 1 bác tài khác dân Tây Ninh chính hiệu thì không được như thế!

Xe bon bon về Thị Xã Tây Ninh, qua Gò Dầu, Trảng bàng. Trạm Kiểm soát liên ngành Suối Sâu khét tiếng đây rồi! Hơ hơ, cứ chạy tiếp thôi, bố dám đụng vào xe chở thương từ K về!   

Đến thành phố khoảng 4-5 giờ chiều, thả bệnh xuống 7A - Nguyễn trãi, giải tán. Đến đây không còn gì nói nữa, ai về nhà nấy. Vài bữa sau lại tập trung lên xe qua đơn vị.  

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top