Chương 2 - C - Trên đương sống lưu vong tại Trung Hoa
Trong bóng tối dày đặc của đêm cuối năm, đoàn quân lại một lần nữa rút chạy sang đất nướcngười, và cũng là lần chót của VNQDĐ sau những năm chiến đấu trong Chiến Khu Phòng Thôđầy gian khổ. Sập Nhị Lầu nằm sát ngay biên giới nên chúng tôi chỉ di chuyển một thời gianngắn là đổ dốc xuống thung lũng.Khoảng đường không dài lắm nhưng vì đêm tối, đường đi khúc khuỷu, lúc lên, lúc xuống nêngần sáng chúng tôi mới tới con suối nhỏ ngăn đôi hai dãy núi cao và cũng là ranh giới phân chialãnh thổ hai nước Việt Nam (VN) Trung Hoa. Vào gần trưa thì chúng tôi leo tới gần đỉnh núi,nhìn lại hướng Sập Nhị Lầu lửa cháy mịt mù, xen lẫn tiếng súng nổ ran của Pháp quân đang truykích toán quân cản hậu của chúng tôi đang vượt qua biên giới.
Cuộc hành quân tháo lui hoàn tất vào lúc xế chiều ngày 23 tháng Chạp âm lịch năm Mậu Tý, vàokhoảng trung tuần tháng 2/1948. Kiểm điểm lại toàn bộ lực lượng sau cuộc tấn công lần cuốicùng của Pháp quân vào VNQDĐ trong Chiến Khu Phòng Thô thì thấy thất lạc một số ngườitrong đó có anh Ngạn (QGTNĐ). Sau hai năm chiến đấu trong Quốc Dân Đảng, QGTNĐ khi rờiHà Nội cuối tháng 2/1946 lên Đệ Tam Chiến Khu gồm khoảng sáu mươi đoàn viên, rồi hai thángsau đó toàn thứ hai khoảng ba mươi đoàn viên lên sáp nhập vào Đoàn để cùng theo học lớp QuânChính Việt Trì.Tới khi VMCS tổng tấn công vào Đệ Tam Chiến Khu từ Vĩnh Yên tới Lào Kay, rồi rút lui vàoChiến Khu Phòng Thô qua ngả Bát Xát, Trịnh Tường, Mường Hum và vòng qua biên giới TrungHoa, thì số lượng đoàn viên QGTNĐ gồm khoảng 90 người. Khi tôi đặt chân lên đất Trung Hoalần thứ hai chỉ còn lại có năm, sáu người kể cả hai anh Việt và Tạo bị thương sang trước. Lúc ởSập Nhị Lầu chỉ còn có các anh Nguyễn sĩ Hồng, Mai ngọc Bảo, Ngạn và tôi. Số đoàn viên vắngmặt gồm một số bị bệnh bỏ về Hà Nội khi còn ở Việt Trì, một số bị bệnh chết và thất lạc khiVMCS tấn công vào Lào Kay, và trên đường rút lui vào Chiến Khu Phòng Thô.Lên tới đỉnh núi, chúng tôi gập một Bản người U Lý. Họ đang tụ tập ở đầu bản nói chuyện líu lo,chỉ chỏ hướng về phía bên kia biên giới, nơi đang có khói lửa đầy trời. Trong đó có cả những giađình từ VN chạy sang. Họ nhìn chúng tôi với vẻ mặt không thiện cảm cho lắm, vì sự có mặt củachúng tôi đã làm cho cuộc sống bình an của họ phút chốc trở thành tang tóc đau thương, nhà cửa,ruộng vườn tan hoang.Trong hoàn cảnh lưu vong sang đất nước người, tôi chỉ còn có sự im lặng, tiếp tục lênđường.Đêm đầu tiên, chúng tôi nghỉ ngoài trời, dĩ nhiên là dân chúng địa phương chẳng bao giờcho chúng tôi vào ngủ nhờ nhờ trong nhà. Ngày kế tiếp, càng đi sâu vào nội địa, đường khôngcòn lên cao, xuống thấp, rừng cây cũng đỡ rậm rạp hơn.Trên lộ trình di chuyển, chúng tôi không gặp một rắc rối nào với dân cư địa phương, vì lẽ trướcngày rời khỏi Sập Nhị Lầu, BCH đã cho người sang liên lạc với Chính quyền địa phương chophép Mặt trận sang tá túc, đồng thời cấp báo cho ông Vũ Hồng Khanh và Hải ngoại Bộ VNQDĐvận động với Quốc Dân Đảng Trung Hoa để được giúp đỡ. Đến xế chiều thì đoàn quân tới đồnLản Thán, một đồn binh của Chính phủ Trung Hoa làm nhiệm vụ canh phòng biên giới. Sau khimột cán bộ VNQDĐ vào trình diện và trình bày tự sự, thì một sĩ quan Trung Hoa tới ra lệnhchúng tôi tập trung vào một khu đất trống trước cổng đồn để họ tước khí giới theo đúng luật côngpháp quốc tế. Khi kiểm tra vũ khí và đạn dược, các sĩ quan đồn binh đã không khỏi ngạc nhiên làsố lượng đạn dược còn lại của chúng tôi quá ít, mà phải chiến đấu với một đoàn quân võ trangquá đầy đủ như quân Pháp. Sau khi giao nộp hoàn tất, thì chúng tôi được sĩ quan trưởng đồn binh cho tạm trú ở một khu nhà bỏ trống và cấp phát gạo nước, trong khi chờ đợi quyết định củaHuyện Trưởng Huyện Kim Bình.Qua một đêm ngủ yên tĩnh, sáng hôm sau Trưởng đồn binh báo cho biết chúng tôi chuẩn bị dichuyển về Kim Bình. Từ chỗ nghỉ đêm về tới Huyện, khoảng cách không xa lắm, hơn nữa đườngđi rộng rãi và bằng phẳng trong một thung lũng tương đối rộng.
Các bản làng lâu lâu lại xuất hiện bên sườn đồi, hoặc bên một con suối rộng. Dân cư trong vùngthuộc sắc tộc người Xạ Phang, người Mán, người Lô Lô. Trên lộ trình di chuyển, không rõ cóphải là ngày chợ phiên không, mà thấy khá đông, từng đoàn lừa ngựa, trên lưng thồ đầy hàng hóacùng hướng về Huyện Kim Bình.Cảnh tượng thật vui, đầy màu sắc qua các cô con gái ăn mặc quần áo thêu hoa sặc sỡ, chân tayđeo vòng bạc, vòng đồng lấp lánh, tiếng kêu lanh canh của các nhạc đeo ở cổ lừa, ngựa, tạothành một bức tranh sống động ở một khu rừng núi vào một buổi sáng sớm mù sương.Chúng tôi cảm thấy phấn chấn và yêu đời, dù rằng tương lai chưa biết đi về đâu. Tới trưa thìchúng tôi đến một con suối lớn gần như sông, nhưng vào mùa cạn vẫn có thể lội qua được. Consuối này chảy qua ngoại vi của Huyện lỵ rồi tới sông Mãn Hâu chảy vào VN (sông Hồng). Quasuối không mấy khó khăn. Chúng tôi được nhân viên sở tại đón và đưa về tập trung ở một ngôitrường học đang bỏ trống nhân dịp học sinh nghỉ Tết Âm lịch.Hôm đó là ngày 25 Tết Mậu Tý năm 1948, nên đường phố trong Huyện tấp nập, kẻ mua ngườibán sắm tết. Ngôi trường ở ngay đầu Huyện, nên chúng tôi hàng ngày không có việc gì, thườngthả bộ ngắm phố phường cho quên cảnh lữ thứ. Tuy bị tập trung, nhưng Huyện trưởng cho chúngtôi được đi lại thoải mái, có lẽ ông ta biết rõ chúng tôi thuộc thành phần nào rồi. Hàng ngày BCH(lúc đó ông Đạt và ông Nghi trông coi) cắt cử người tới kho của Huyện lãnh thực phẩm về phânphối cho chúng tôi. Thực phẩm thì đại loại có gạo, muối và rau tươi. Lâu lâu có phát ít thịt bò,thịt heo. Năm hết Tết đến, chúng tôi chẳng có gì hơn để vui Xuân với thiên hạ.Chúng tôi vui buồn lẫn lộn trong cái cảnh tha hương, mất nước.
Đối với tôi, Tết Kim Bình là cáiTết thứ hai trên lãnh thổ Trung Hoa sau cái Tết tại Bản Hoang Thiền, và cũng là cái Tết xa giađình và quê hương. Khi đó ba anh em chúng tôi, anh Hồng, anh Bảo và tôi, sau có anh Việt (Lụcquân) nhập theo, chúng tôi ăn uống, ngủ chung một chỗ, chia ngọt sẻ bùi trong những ngày sốngtại trường học ở Huyện Kim Bình. Rồi Tết cũng trôi qua không luyến tiếc.Cuộc sống hàng ngày vẫn diễn ra như thường lệ, ngày lo hai bữa ăn rồi đi dạo chợ qua ngàytháng, đợi cấp lãnh đạo VNQDĐ giải quyết. Ở được gần hai tháng, một hôm Huyện trưởng chotập trung chúng tôi lại nói chuyện. Ông ta cho chúng tôi biết là cấp trên của Huyện có kế hoạchđưa tất cả chúng tôi tới một khu vực cách xa Huyện lỵ nửa ngày trời để khẩn hoang canh tác.Lúc khởi sự, chính quyền địa phương sẽ cung cấp phương tiện, sau một thời gian sẽ phải tự túc.Ngoài ra, Huyện cũng tuyển mộ khoảng ba mươi người để bổ sung tăng cường cho lực lượngbảo vệ an ninh Huyện. Chúng tôi được vài bữa để chuẩn bị lên đường. Về tới chỗ ở, chúng tôicùng nhau bàn luận để quyết định ra sao. Sau cùng, chúng tôi đồng thỏa thuận là bỏ trốn lênmiền trên tức Khai Viễn, Côn Minh.Chúng tôi không thể nào ở lại để vào khu kinh tế mới vì chúng tôi xuất thân là thanh niên, họcsinh, có hay biết gì về nghề nông, trồng trọt. Hơn nữa lại phải sống chung và dưới quyền chỉ huycủa người Thổ. Họ mạnh khỏe, sống quen ở rừng núi, thường hay lấn át người Kinh vì cậy đông hiếp yếu. Do đó, khi mà còn ở Lào Kay cũng như ở Phòng Thô, BCH phải tổ chức thành haicánh quân người Thổ và Kinh để tránh mọi sự tranh chấp, chia rẽ và dễ điều khiển. Vào đó để rồichết bệnh, chết già ở đó sao!Chúng tôi còn có những hoài bão lý tưởng riêng tư, trong khi tuổi mới thanh xuân vào đời.
Còntình nguyện đầu quân vào lính Huyện thì lại không thể xẩy ra được, không lẽ vì sự sống hàngngày mà trở thành người lính đánh thuê vô mục đích. Thua keo này thì bày keo khác, thắng bạitrên đời là lẽ thường tình, tuổi đời còn dài, có chí khí, có quyết tâm thì rồi cũng phải thành công.Vì những lẽ đó, mà chúng tôi có thể chôn vùi cuộc sống tương lai trong cái khu rừng núi biênkhu, khỉ ho, cò gáy đó được sao.Riêng những anh em người Thổ và gia đình của họ, thì đó là trường hợp thích nghi nhất, nên họtỏ ra rất đồng ý không chống đối gì cả. Về số anh em xung phong vào lính Huyện có gần mấychục, dĩ nhiên có nhiều đảng viên VNQDQ trong đó có năm ba anh thuộc trường Lục Quân YênBái.Tôi nhớ có anh Độ, anh được Huyện cho giữ chức Trung đội Trưởng. Sau này khi lên sống ởmạn trên, được nghe tin một đêm Huyện Kim Bình đã bị thổ phỉ vào đánh cướp Huyện lỵ. Sốlính địa phương bỏ chạy hết, tuy còn Trung đội của anh Độ đã kháng cự quyết liệt và sau đóđánh đuổi được bọn thổ phỉ ra khỏi Huyện. Sau trận đánh đẹp đó, anh Độ và các anh emVNQDQ dưới quyền đã được Huyện trưởng và dân chúng trọng nể, tôn vinh hết lòng. Khi TrungCộng làm chủ Trung Hoa thì không hiểu các anh em đó ra sao ?!Để chuẩn bị cho việc ra đi, hàng ngày chúng tôi để dành ra một ít gạo và muối. Theo dò hỏi dânđịa phương từ Kim Binh tới Mông Tự (một Huyện lớn, dân cư đông đúc, nằm ở phía nam KhaiViễn) mất mấy tiếng đồng hồ đi tàu hỏa, còn đi bộ phải ít nhất là năm ngày đi bằng đường bộ.Trước một ngày, đoàn người lên đường vào vùng kinh tế mới, chúng tôi âm thầm nắm cơm vàochiều hôm trước, và vào lúc trời còn chưa sáng, sương mù bao phủ cảnh vật, bốn anh em chúngtôi, vai đeo túi nải, lặng lẽ ra khỏi ngôi trường tá túc, hướng thẳng về phía cuối Huyện, nơi xuấtphát con lộ dẫn lên Mãn Hậu. Trời còn quá sớm, thời tiết lạnh giá, phố xá còn đóng cửa im lìm,không một bóng người, ngoài bốn chúng tôi vội vã lẫn tránh dưới các mái nhà bên hè phố, trongsương mù dày đặc. Khoảng 20 phút thì chúng tôi ra khỏi Huyện an toàn. Theo con lộ ngoằnnghèo, bên các dãy đồi uốn khúc, chúng tôi đi thật nhanh, một phần sợ bị phát hiện, một phầncho đỡ lạnh. Tới khi trời sáng, thì chúng tôi đã đi được khá xa.Chung quanh vẫn đồi núi chập chùng nhưng không cao lắm, vả lại đường đi cũng rộng rãi và dễđi. Từ các ngã đường phụ chạy ra con lộ chính, lâu lâu tôi lại thấy một toán người ngựa thồ hànghóa nhập vào, thành thử trên lộ trình đi cũng không đến nỗi vắng vẻ cho lắm. Họ là những kháchthương hồ người Xạ Phang từ khắp nẻo vùng biên địa đi tới, đi lui giữa Kim Bình-Hồ KiềuMông Tự ngày này sang ngày khác. Tôi không thấy họ có vẻ gì là nóng vội, trái lại ung dung,thư thái ngồi trên mình ngựa, lâu lâu lại xử dụng chiếc điếu cày dài, chạm trổ, bịt bạc rất tinh vi.Họ dùng loại thuốc bào vàng (dàng dến) chứ không dùng thuốc lào như người mình, loại thuốcvàng này có thể hút liên miên mà không sợ say.Mỗi khi hút thuốc, họ dùng chỉ thèo bằng giấy bản cuốn lại thay cho đóm, chỉ cần thổi nhẹ là lửabùng cháy. Tiếng rít thuốc kêu sòng sọc cùng với tiếng vó ngựa đập lên những tảng đá trải trênđường, hòa với tiếng chuông buộc cổ ngựa, tạo nên một bầu không khí vui tai là lạ. Do đó, đường xa lên lên, xuống xuống, chúng tôi không cảm thấy mệt nhọc, và gần xế chiều thì chúngtôi tới bờ sông Mãn Hậu.Con sông lớn này chảy vào VN ở khoảng đồn Bát Xát (Lào Kay) và được gọi là sông Hồng vìgiòng nước có mang theo màu đất phù xa màu hồng. Chúng tôi cùng với đoàn người ngựa quasông bằng những con đò lớn. Ở bên kia sông là một phố nhỏ có hàng quán bán thức ăn, một vàiquán trọ cho khách buôn bán nghỉ chân. Mãn Hậu là ngã ba con đường từ Kim Bình tới, cũngnhư từ Hồ Kiều, giáp ranh với Lào Kay lên, rồi từ Mãn Hậu đi lên Mông Tự. Đó là con đường tắt(Séo Lủ) băng qua các đồi núi cao nên đã rút ngắn được một phần đường.
Các khách thương hồthường dùng con đường này để rút ngắn thời gian.Ngoài con đường này, người ta có thể dùng tàu hỏa từ Hồ Kiều lên Mông Tự, hoặc đi bộ dọctheo đường tàu hỏa. Như vậy thì người từ Kim Bình tới, hoặc từ Mãn Hậu đi, phải mất thêm mộtngày để đi về Hồ Kiều. Tại Mãn Hậu, chúng tôi đang tính tìm một cái quán nào bỏ trống, nghỉ đỡqua đêm, thì may mắn chúng tôi gặp một người đồng hương. Ông này hỏi han đôi lời, rồi kéochúng tôi về nhà ông ta. Nhà ông ở ngay kế cận con sông, có mở cửa hàng thợ mộc. Ông cho biếtlà ông đã sang sinh sống từ lâu, khi Pháp còn đô hộ VN và con đường tàu hỏa Hà Nội-Vân Namcòn thông suốt. Cuộc sống của gia đình ông ta có vẻ đầy đủ, bình an.Đêm đó chúng tôi được gia đình ông đãi một bữa cơm, tuy không có cao lương mĩ vị gì, nhưngquả là ngon miệng nhất từ ngày mới lưu vong sang Trung Hoa. Chúng tôi vừa ăn cơm vừa tròchuyện cho tới tận khuya mới đi ngủ. Đêm đó thật êm đềm, không thao thức. Sáng sớm ngàyhôm sau vừa thức dậy, gia đình ông chủ nhà đã nắm sẵn cho chúng tôi mỗi người một nắm cơmvà một quả trứng luộc. Ngoài ra trước khi lên đường, gia đình ông còn cấp cho ít gạo đi đườngvà không quên lì xì ít đồng quan kim để làm lộ phí. Ông đã khẩn khoản chúng tôi ở lại chơi vàingày, nhưng vì sợ làm phiền và cũng nóng lòng lên tới Mông Tự cho yên.Trên đất nước người, tình cảm con người đồng hương quả là sâu đậm, vì thế mà chúng tôi cảmthấy ấm lòng đôi chút. Đường tắt gọi là Séo Lủ nên phải leo núi hơi nhiều. Được một hai thángnghỉ ngơi, nên sức khỏe khá hơn nhiều. Bệnh sốt rét trong tôi không con dằn vặt nữa, nên dườngdài và gian nan, chúng tôi cũng vượt qua không mấy mệt mỏi. Bạn đường của chúng tôi vẫn lànhững nhóm thương hồ người Xạ Phang với ngựa thồ và hàng hóa của họ.
Theo dân địa phương cho biết thì trên lộ trình chúng tôi đi qua là sào huyệt của bọn thổ phỉ.Chúng có thể là binh lính đào ngũ, là dân thường vì bất mãn với chính quyền cai trị, với xã hội bất công, vì lười biếng không chịu làm ăn và hàng trăm lý do khác... Chúng trang bị súng ốngnhư binh lính của chính quyền, có tổ chức, có chỉ huy đàng hoàng.Ở Trung Hoa có câu truyền miệng "được làm vua thua làm giặc là vậy". Cuộc sống của chúngđược coi như những anh hùng Lương Sơn Bạc, mỗi tên Trùm làm Vua một cõi rừng núi, tạo raluật pháp riêng của chúng, tác oai, tác quái lên đầu dân lành, ai không chịu đóng thuế cho chúngthì bị hạ sát ngay, nếu không thì phải bỏ của, bỏ nhà đi nơi khác sinh sống. Vì vậy, các toánthương hồ thường phải qua lại trong vùng kiểm xoát của chúng, muốn làm ăn trôi chảy thì bắtbuộc phải đóng thuế cho thổ phỉ. Tuy vậy trên suốt đoạn đường từ Mãn Hậu lên tới Mông Tự, tôikhông thấy một trạm kiểm soát nào của chúng cả. Chúng ẩn hiện bất thường, không biết sao màlẩn tránh được. Do đó muốn làm ăn, mọi người âm thầm đóng thuế mà không dám kêu ca, hoặcbáo cáo cho Chính quyền sở tại.Còn binh lính của địa phương, lâu lâu cũng mở cuộc hành quân tảo thanh lấy lệ, nên chẳng baogiờ có đụng độ giữa hai bên cả. Vô hình chung , chúng được coi như được chấp nhận, miễn làđừng có những hành động quá đáng như đánh cướp vào các bản làng, phố huyện, cơ quan chínhquyền. Thành thử những toán thương hồ cùng đi với chúng tôi, chúng chẳng có vẻ gì là lo âu, sợsệt, hút thuốc nói chuyện líu lo vang cả một khu đường rừng núi, không coi thổ phỉ ra cái thớ gìcả. Còn riêng chúng tôi nghĩ, thì với tấm thân, hình hài chẳng ra gì, quần áo thì nửa Kinh, nửaMán, vai đeo túi rết trong đựng một hai bộ quần áo, ít gạo, ít muối.Với tài sản đó, thổ phỉ có bắt gặp chúng tôi, chắc cũng buồn lắm, có khi còn dẫn vào sào huyệtđãi đằng nữa là đằng khác. Thế rồi, cứ ngày di, đêm nghỉ theo từng chặng đường đã tính trước.
Bọn khách Xạ Phang nghỉ thì chúng tôi cũng ngừng chân...thường thì cứ hàng ngày, từ tờ mờsáng trông rõ hình người thì chúng tôi lên đường và khi sương chiều xuống nặng hạt, thì cũngvừa đặt chân tới một Bản, Làng hay một xóm nhỏ.Dĩ nhiên là chúng có phương tiện và là khách quen nên ăn ở thoải mái hơn nhiều. Chúng tôi nhưthường lệ, lại kéo nhau vào một trái nhà để củi, để rơm của dân, nấu nướng cho ngày hôm sau.Cảnh rừng núi thì ở đâu cũng giống như nhau, hết leo lên đồi mỏi gối lại xuống núi chồn chân.Rừng núi vắng lặng, ngoài tiếng chim kêu, vượn hú, suối chảy róc rách qua các hốc đá mọc rêuxanh, có các cành hoa dại đủ màu sắc, in bóng lên giòng nước trong veo.Đôi khi chúng tôi dừng chân bên bờ suối vắng, bỏ cơm nắm ra ăn, cùng nhấm nháp mấy trái mậnrừng, uống nước suối, quả thấy ngọt làm sao. Bữa nào nắng ráo đẹp trời, chúng tôi lại xuống suốitắm, sau đó cảm thấy tinh thần, thể xác khỏe ra, thoải mái, không còn thấy mệt mỏi là gì. Vàongày thứ năm, cũng là ngày ước tính lộ trình thì tới Mông Tự, tôi thấy đồi núi xuống thấp dần,thoai thoải, Bản, Làng xuất hiện càng nhiều hơn. Rừng cây thưa thớt, có thể quan sát được xa.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top