Chương 2 - C Tiếp theo
Cảnh trí rừng núi, khiến chúng tôi vui chân bước thật lẹ, có khi vượt qua cả đoàn lừa, ngựa vàchẳng mấy chốc chúng tôi đã thấy xuất hiện ra trước mắt một thung lũng rộng, những ngôi nhàquét vôi trắng nổi bật trên nền xanh cây cỏ. Các con đường từ mọi nẻo dẫn vào trung tâm Thịtrấn Mông Tự ở dưới chân đồi. Càng xuống dần chân núi, cảnh sinh hoạt trong thung lũng thậtnhộn nhịp, dù lúc đó đã xế chiều. Người và xe cộ qua lại cùng với tiếng còi tàu hỏa rít lên từnghồi trong sân ga, tạo nên cảnh sống động của một Thị trấn đông dân cư và phồn thịnh. Sau hơnmột năm sống chui rúc trong rừng núi, xa cảnh nhộn nhịp của đô thị, nay trước cảnh tượng đókhiến chúng tôi không khỏi thấy lòng nôn nao, rạo rực. Một tương lai rộng mở, một niềm hyvọng mới tràn ngặp tâm tư. Chúng tôi tới cửa ngõ của Thị trấn Mông Tự vào lúc xế chiều, vàsương chiều cũng đã bắt đầu rơi xuống. Mọi cửa hàng đã lên đèn sáng trưng, vì ngày tháng lúcnày vẫn thuộc mùa Đông, nên trời tối sớm hơn.
Thị trấn Mông Tự cũng có điện nhưng không đủdùng, nên các cửa hàng buôn bán về đêm phải thắp đèn măng sông hoặc đèn đất đá.Mông Tự là Thị trấn sầm uất cuối cùng trước khi đổ về biên giới Trung-Việt. Dân cư sống trongvùng toàn là người Hán, không còn có các sắc tộc thiểu số nữa. Họ ở những vùng núi cao, và chỉkhi nào cần mua bán họ mới đi ra Thị trấn. Đường xá trong Huyện nhỏ hẹp, lát đá, nhà cửa xâygạch, lợp mái ngói, trông tựa như ở Thành phố Hội An ở phía nam Đà Nẵng. Mông Tự là nơi cótiếng sản xuất về len, dạ.Dù không có quen biết ai trong Huyện, chúng tôi vẫn rủ nhau đi vào, vì nghĩ rằng thế nào cũnggặp người Việt Nam làm ăn sinh sống ở đó. Mà quả thật, chúng tôi ước đoán không sai, chỉ đisâu vào có mấy phố, thì chúng tôi gặp một cửa hiệu bán tạp hóa của người VN. Đánh bạo (lúc đóchúng tôi có hơi mắc cỡ vì ăn mặc chẳng ra sao cả), anh Hồng vào hỏi tin tức, thì bất ngờ mộtthanh niên ở nhà trong đi ra và chúng tôi nhận ra ngay là anh Phúc. Anh này chẳng ai xa lạ, mà làmột học viên của trường Quân Chính Việt Trì, một đồng chí VNQDĐ từng sát cánh chiến đấu từViệt Trì tới Lào Kay. Gặp nhau, tay bắt mặt mừng, anh cho biết là anh đã từ Lào Kay sang HồKiều khi Mặt trận rút lui, vì anh bị bệnh.Sau ít ngày tá túc ở Hồ Kiều, anh Hồng cùng các anh em khác bỏ lên Mông Tự và Khai Viễn.Riêng anh vì gặp người quen, nên ở lại giúp việc và ở đó cho đến ngày gặp lại chúng tôi. Gia chủcũng là cảm tình viên của VNQDĐ Hải ngoại nên tiếp đãi chúng tôi khá thân mật. Anh Phúc cócho chúng tôi biết sơ qua về tình hình hoạt động của Hải ngoại, và các sinh hoạt ở đó.Lúc dầu chúng tôi có ngỏ ý với anh Phúc là chúng tôi muốn ở lại Mông Tự tạm sinh sống làm ănrồi tính sau, thì được cho biết rất khó tìm việc và khuyên chúng tôi nên lên Khai Viễn vì ở đó dùsao cũng có Tỉnh Đảng Bộ Hải Ngoại VNQDĐ làm việc. Không còn cách gì khác, chúng tôiđồng ý ngày hôm sau đi Khai Viễn thử thời vận ra sao.Trước khi rời Mông Tự, anh Phúc có hướng dẫn chúng tôi đi coi phố xá, và thết đãi một chầuphở hủ tiếu. Mới buổi sáng mà chợ búa đã thấy tấp nập, kẻ mua, người bán nhộn nhịp khácthường. Anh Phúc cho biết thêm là tại đó cũng có nhiều người VN sinh sống và làm đủ thứ nghề.Đời sống tạm đủ, và họ không mấy thiết tha tới vấn đề chính trị...Về tình cảm đồng hương, nóichung cũng không được sốt sắng cho lắm, do đó vấn đề tương trợ, giúp đỡ những người tronghoàn cảnh như chúng tôi khó bề thực hiện được.Đi loanh quanh một hồi, thì anh Phúc đưa chúng tôi ra nhà ga và giúp mỗi người một vé tàu điKhai Viễn. Tôi không nhớ lúc đó mỗi vé là bao nhiêu tiền, nhưng với cung cách đối xử của anhPhúc lúc đó quả đã làm chúng tôi nhớ mãi không quên.Sau này khi trở về sinh sống ở Hà Nội cũng như ở Saigon, tôi và anh vẫn thường gặp nhau. Sau30/4/1975, anh sang tị nạn tại Hoa Kỳ, tiểu bang Philadelphia và nghe đâu anh đã qua đời vìbệnh. Vào khoảng trưa, thì con tàu lăn bánh đưa chúng tôi đi Khai Viễn. Được biết nếu đi bộ thìcũng phải mất mấy ngày, còn với tàu hỏa chỉ mất có hơn nửa ngày. Con tàu chạy men theo chiềudài thung lũng mà một bên là những thửa ruộng trồng lúa và hoa màu khác hầu như chiếm hếtdiện tích thung lũng. Ngồi trên tàu, ngồi nhìn ra ngoài trời, cả một vùng cây cỏ xanh tươi củabuổi đầu Xuân, mà cảm thấy tâm hồn thư thái, phút chốc quên đi những ngày chiến đấu gian khổđã qua. Trong lúc còn đang suynghĩ, thì một hồi còi tàu rít lên cho biết là con tàu sắp vào sân ga. Con tàu chậm chạp chạy quanhững ngôi nhà của công nhân hỏa xa trú ngụ, những ngôi nhà trống, rộng chứa đầy vật dụng sửachữa tàu, rồi từ từ đỗ lại ở giữa sân ga. Cảnh đưa đón thật nhộn nhịp, nhưng với chúng tôi thìchẳng có ai chào đón cả. Tôi thấy có nhiều người VN đứng ở sân ga gọi nhau ơi ới.Chúng tôi xuống tàu ra khỏi nhà ga để vào thành phố. Đường xá tại đây rộng rãi hơn, có vỉa hècho khách bộ hành và trồng cây lấy bóng mát. Có những đường trải nhựa và có đường lát đá.Nhà cửa buôn bán khang trang hơn ở Mông Tự. Ra khỏi ga là chúng tôi gặp ngay một dãy phốbuôn bán, kẻ đi người tới tấp nập càng khiến chúng tôi thêm bỡ ngỡ và mắc cỡ làm sao, nhất làkhi đi qua một cửa hàng của người VN. Ăn mặc thì nửa Mán nửa Kinh, đầu tóc dài phủ gáy,chân mang giày "Hải sảo" (bện bằng vải hoặc bằng rơm) thì hỏi làm sao không mắc cỡ chođược.
Con người của Hà Nội ngày nào lại nổi dậy và cảm thấy mình thua kém quá. Chúng tôi,anh này đun anh kia vào một cửa hàng để hỏi tin tức, không lẽ cứ đi hoài. Rút cuộc, anh Hồngđánh liều vào một cửa hàng ngay trước mặt, trong đó tôi thấy thấp thoáng một hai cô gái trẻ đẹp.Hóa ra căn nhà đó là của ông Đức Hiện, đảng viên VNQDĐ Hải ngoại mở cửa hiệu bánh kẹo vàcafé. Anh Hồng được người trong nhà cho biết nơi trú ngụ của ông Liên Khai, Bí thư Tỉnh ĐảngBộ VNQDĐ ở Khai Viễn, đặc trách các Huyện phía nam Côn Minh.Huyện lỵ Khai Viễn là một Huyện khá lớn có thể đứng sau Thành phố Côn Minh. Phố xá, nhàcửa cao ráo và sạch sẽ. Người VN sinh sống trong Huyện cũng khá đông và làm ăn phát đạt. Họlà những người sang đây từ thời Pháp thuộc, một phần có liên hệ với những công nhân trực thuộcngành hỏa xa Hà Nội-Vân Nam. Riêng trong khu nhà ga, có một khu được xây cất dành riêngcho công nhân trong ngành cư trú. Ở đó có hai gia đình thuộc VNQDĐ là Cụ Đỉnh và anh Sơnmà anh em chúng tôi trong nước mới sang đều hết lòng cảm mến về phong cách.Cụ Đỉnh làm chức kiểm tra vé hành khách trên tàu (controleur) trong khi anh Sơn làm tài xế láitàu. Những khi qua lại Khai Viễn, chúng tôi thường lui tới thăm viếng và ăn ngủ như người trongnhà. Sau năm 1949, Trung Cộng lên cầm quyền, hai người vẫn tiếp tục làm ở sở hỏa xa. RiêngCụ Đỉnh vì lớn tuổi, nghe đâu đã mất từ lâu. Về hoạt động của VNQDĐ tại Vân Nam, phần lớntập trung vào các Huyện lỵ, Thị trấn nằm dọc theo thiết lộ Mông Tự-Khai Viễn-Nghi Lương-CônMinh. Được biết, trước ngày quân Lư Hán vào VN giải giới quân đội Nhật, thì tổ chức Đảng khárộng và chặt chẽ, được đồng bào ủng hộ. Cộng Sản VN cũng có hoạt động nhưng không mấy kếtquả, vì lúc đó còn dưới quyền cai trị của QDĐ Trung Hoa nên VNQDĐ hoạt động dễ dàng, gầnnhư công khai và được Chính quyền địa phương ngấm ngầm trợ giúp.Khi Mặt Trận Phòng Thô tan vỡ phải chạy sang Trung Hoa, thì các lãnh đạo cao cấp củaVNQDĐ, ngoại trừ có ông Xuân Tùng, một Ủy viên Tổ chức của Trung Ương Đảng còn hiệndiện ở Côn Minh, còn lại qua sống ở Quảng Tây, Quảng Châu và Hương Cảng, nên mọi sinhhoạt chung của Đảng yếu đi.
Do đó mà những thành phần như chúng tôi, trong cảnh sống lưuvong xứ người, nghề không biết, tiếng không thông gặp nhiều khó khăn. Hơn thế nữa lúc nàyTrung Hoa Quốc Dân Đảng đang suy yếu trước sức tấn công của cộng sản Mao Trạch Đông vàlại còn đi đêm với Pháp nên VNQDĐ mất hết sự yểm trợ.Được sự chỉ dẫn của người nhà ông Đức Hiện, chúng tôi tìm tới nhà ông Liên Khai không mấykhó khăn. May mắm được gặp ông ở nhà. Ông là một người đứng tuổi, trông bề ngoài có vẻ hiềnhậu. Ông đã đón tiếp chúng tôi thân mật trong tình đồng chí anh em, tỏ ra rất ái ngại về cách ănmặc cũng như thể chất của chúng tôi. Qua cuộc trình bày tự sự, thì tôi thấy ông ta tỏ ra sốt sắnglo lắng cho chúng tôi. Việc đầu tiên của ông là giúp cho mỗi người một cái áo sơ mi và một quầntây, tuy không còn mới, nhưng trông cũng được.Tôi nghĩ như vậy là tốt lắm rồi. Sau đó, ông đưa chúng tôi ra một cửa hiệu cắt tóc của một đảngviên VNQDĐ làm chủ để hớt đi những bộ tóc dài rừng rú chẳng còn thích hợp nữa. Ở đây, chúngtôi quen biết với hai anh Bách Việt và Thanh Hải. Hai anh sang trước chúng tôi một năm, khiMặt trận rời khỏi Lào Kay. Hai anh thuộc vào loại cắt tóc có hạng. Hỏi ra thì các anh cho biếtviệc học cắt tóc cũng không có gì khó khăn, sáng trí và khéo tay thì chỉ một hai tháng là hớtđược, miễn là người chỉ dạy thật lòng hay không. Vì vậy, ý nghĩ trở thành thợ hớt tóc đã đeođuổi tôi từ đó.Sau này ở lâu bên Trung Hoa, có nghề cắt tóc trong tay, tôi mới thấy là rất thuận lợi cho côngcuộc hoạt động cách mạng và sinh sống khá thoải mái, không gò bó, muốn đi đâu cũng được...miễn là có bộ đồ nghề mang theo bên mình là được.
Trong thời gian chờ đợi tìm công ăn việclàm, ông Liên Khai sắp xếp cho chúng tôi tạm trú ở một vài nhà đồng chí có điều kiện.Các Cụ Đỉnh, ông Liên Khai, anh Sơn và nhiều người khác tuy rất có lòng giúp đỡ, nhưng cuộcsống gia đình cũng không lấy gì làm sung túc cho lắm, thành thử chúng tôi chỉ mong sớm cócông việc gì để làm hầu tránh phiền hà cho họ phải lo. Sự mong đợi cũng không phải chờ lâu.Vài hôm sau, ông Liên Khai tới chỗ ở cho chúng tôi hay là một sở bông tư chịu mướn. Chế độ ănuống và tiền lương sẽ giải quyết khi tới đó. Sở làm được biết cũng không xa lắm, mất khoảngmột tiếng đồng hồ đi bộ. Khi đó không hiểu tại sao, chúng tôi chẳng ai chịu hỏi rõ công việc rasao, mà chấp nhận ngay không thắc mắc. Tôi nghĩ rằng ông ta đã có công tìm việc cho mình màtừ chối cũng kỳ, không lẽ cứ ăn nhờ người ta mãi dù là đồng chí anh em. Còn ông Liên Khaicũng nghĩ rằng, chúng tôi đã dạn dày gian khổ thì việc gì mà chẳng làm được. Khi bằng lòngnhận làm việc, tôi đã mường tượng ngay là cái sở bông của chúng tôi sẽ là một cái xưởng rộnglớn, có máy móc chạy rầm rập suốt ngày, sản xuất chỉ sợi và nệm bông, và chúng tôi sẽ là nhữngcông nhân giúp việc trong nhà máy đó. Kể ra thì cũng tốt thôi, trong khi trong túi không có lấymột đồng xu, nghề không biết, tiếng không thông. Chúng tôi hăng hái chuẩn bị đi vào ngày hômsau.Sáng sớm vào lúc sáu giờ, một anh do ông Liên Khai chỉ định lại đón chúng tôi cùng đi tới sởlàm. Hơn một tiếng đi bộ qua những ngọn đồi lúp súp, không một bóng cây, chúng tôi tới mộtkhu trang trại khá rộng và ngay ở lối vào có một căn nhà gạch lớn quét vôi màu trắng. Anh bạndẫn đường cho tôi biết là đã tới nơi. Nhìn qua, nhìn lại tôi chỉ thấy độc nhất có căn nhà đó, ngoàira chỉ là đồng ruộng trống không, chứ chẳng có nhà máy nào cả như tôi nghĩ.Lúc đó tôi mới vỡ lẽ ra là chúng tôi làm công việc cuốc đất trồng cây bông gòn. Thế là vỡ mộng,nhưng đã nhận thì không thể thoái lui được. Chúng tôi được ông đốc công tiếp đón và cho chúngtôi biết rõ công việc và lương bổng. Việc làm duy nhất lúc đầu là cuốc vỡ đất và trồng bông, saumới đi tỉa cành và hái bông vào mùa thu hoạch. Thời gian làm việc ngày 10 tiếng. Sáng thức dậylúc sáu giờ, ăn cháo đường hoặc cơm nếp, 7 giờ bắt đầu làm việc tới 12 giờ trưa. Nghỉ trưa mộtgiờ rưỡi, ăn cơm trưa gồm ba món, một đĩa xào, một đĩa thịt hoặc đậu kho mặn và cuối cùng làmón canh, thường là canh hẹ nấu với đậu phụ. Có ngày chúng tôi thưởng thức món canh lông vịt(một thứ hoa màu trắng). Số lượng ẩm thực dư dã, về chất lượng cũng tạm được. Buổi chiều từ1:30 chiều giờ rưỡi đến 6 giờ tối. Bẩy giờ ăn cơm chiều, các món ăn đổi qua loa, chín giờ tối đingủ. Chủ nhật nghỉ trọn ngày.Lương bổng trả cho mỗi người là năm ký đường (đường bát), ai làm việc tốt có thể lãnh hơn tùytheo đốc công chấm điểm. Theo thời giá lúc bấy giờ, vì đồng tiền mất giá, lên xuống hàng ngày,nên ít người làm việc lấy tiền giấy. Nhưng sợ mất công ra chợ bán đường, thì có thể lấy tiền theogiá ngày hôm đó. Sau khi mọi chuyện được thỏa thuận, ông đốc công dành cho chúng tôi mộtcăn buồng có đủ phương tiện ăn nằm. Ngoài ra, ông còn chỉ cho chúng tôi một cái kho để dụngcụ và chỉ dẫn đại khái khu vực làm việc ngày hôm sau. Đặc biệt là ông nhắc nhở về kỷ luật làmviệc đúng thời gian ấn định, có năng xuất, nếu không sẽ cho nghỉ việc. Ngày đầu ông cho chúngtôi nghỉ không tính lương. Trước công việc ấn định, tôi cảm thấy là không dễ ăn, nhưng cũngphải cố gắng xem sao. Sở bông, tôi thấy người làm việc vắng ngoe, xa xa một vài người đangcuốc đất. Công nhân ở đó làm hết việc họ về nhà, chỉ có chúng tôi là người xa lạ, không nhà,không cửa mới tá túc luôn ở trại.Ông Đốc công hàng ngày hết giờ, ông ta cũng về Khai Viễn, chỉ có người giúp việc trông coi làở luôn đó và lo cơm nước cho chúng tôi. Hôm sau, ngày khởi sự làm việc, sau khi mỗi người làmhai tô cháo, chúng tôi vào kho lấy cuốc để ra đồng làm việc. Tôi phải mất mươi phút mới chọnđược một cái cuốc tương đối nhẹ hơn trong tổng số mấy chục chiếc. Đúng giờ, ông Đốc công đãchờ sẵn, rồi dẫn chúng tôi ra khu đất ấn định. Công việc thì cũng chẳng có gì đặc biệt, miễn làcuốc cho thật sâu rồi cùng lúc đập vỡ ra thành cục nhỏ.Lý thuyết là như vậy, nhưng thực tế thì khác nhiều, nhất là đối với chúng tôi từ lúc bé tới lúc lớnchỉ có cầm bút chứ có biết cái cuốc là gì đâu. Tuy nhiên trời buổi sáng còn mát mẻ, sức khỏe cònnguyên vẹn nên cuốc hăng lắm, nhưng tựu chung cũng chỉ cuốc ba cái là phải ngừng tay vì cáicuốc nặng quá, tay bắt đầu rát.
Trong khi đó thì ông Đốc công ngồi thường trực trên bờ đất coichúng tôi làm việc, thành thử chúng tôi phải rán sức không dám nghỉ nhiều. Cứ một tiếng, ôngthổi còi nghỉ mười phút tại chỗ, uống nước giải khát, những lúc đó, chúng tôi cứ đùa giỡn vớinhau là "lục vạn". Ai đánh bài tổ tôm hay đánh chắn cạ thì biết rõ con bài lục vạn là hình anhchàng cầm cuốc đứng thế nghỉ.Mấy ngày đầu, chúng tôi làm việc còn đỡ, nhưng vào cuối tuần thì chúng tôi anh nào anh nấycũng mỏi nhừ, rời rã chân tay, sáng không muốn thức dậy nữa. Ăn uống tuy đầy đủ, nhưng nhiềulúc quá mỏi mệt nên nuốt không trôi. Chúng tôi nghĩ là sẽ phải bỏ cuộc, không cáng đáng nổicông việc quá nặng nhọc. Làm việc không được tự do, bị đốc công kềm kẹp cả ngày nên khó mànuốt trôi năm ký đường của ông ta quá. Do đó đến ngày cuối tuần, chúng tôi đồng ý xin đốc côngnghỉ việc, ông ta không có gì phản đối, có lẽ ông ta thấy rõ năng xuất của chúng tôi rồi... Tuyvậy, ông vẫn tính đủ ngày trả tiền công cho chúng tôi. Sau ngày nghỉ việc, chúng tôi tự tính locông việc.Anh Việt (Lục Quân Yên Báy) từ giã chúng tôi lên Côn Minh vì nghe tin ở trên đó có nhiều anhem Lục Quân ở. Còn lại là ba anh em chúng tôi là anh Hồng, Bảo và tôi. Khi trở lại Khai Viễn,chúng tôi có lại thăm Cụ Đỉnh, anh Sơn và trình bày tự sự ở sở bông. Các anh ở Đảng Bộ KhaiViễn lại đề nghị chúng tôi tới sở bông quân đội ở gần ga Séo Lồng Thán (cách Khai Viễn vềhướng Bắc mấy ga xép), một Thị trấn nhỏ. Dĩ nhiên là chúng tôi cũng nhận đi ngay, vì không thểnhờ vả anh em mãi được. Lúc đó chúng tôi có ít tiền công vừa trả nên có thể chịu đựng được ítngày.Từ Khai Viễn tới Séo Lồng Thán (Ma Cai) bằng tàu hỏa và chúng tôi không ai phải mua vé cả,vì có Cụ Đỉnh soát vé và anh Sơn lái tàu. Suốt thời gian sinh sống ở Vân Nam từ Côn Minh,Khai Viễn xuôi ngược, chúng tôi đi tàu hỏa gần như miễn phí, với điều kiện khi có sự hiện diệncủa các đảng viên VNQDĐ phục vụ trong ngành hỏa xa, ở chuyến tàu mình đáp. Tới Séo LồngThán, chúng tôi xuống ga và được người đại diện của Đảng bộ hướng dẫn vào khu sở bông củaquân đội cách xa đó khoảng vài cây số. Đó là một nông trường rộng lớn, bao gồm các dãy đồithoai thoải gần một dãy núi cao. Nông trường do quân đội phụ trách nên tổ chức có phần quy môhơn. Qua cổng gác là những dãy nhà gạch chạy dài dùng cho binh lính ngủ.
Chúng tôi được sĩ quan đón tiếp và dẫn về trú ngụ tại một căn nhà nhỏ cho công nhân dân sự làmviệc. Sau khi cho biết chế độ làm việc, ăn uống và nghỉ ngơi. Mọi việc cũng không khác gì mấyở sở bông tư. Riêng ăn uống thì kém hơn. Để dễ bề kiểm xoát, chúng tôi cũng được cấp phát choquần áo nhà binh màu vàng nhạt và giày hải sảo bện bằng sợi, một mũ lưỡi trai cũng màu vàng.Ăn vận vào, chúng tôi cũng chẳng khác gì anh lính "Tàu phù" khi sang VN giải giới quân độiNhật. Chế độ ăn uống thì cũng ngày ba bữa. Lương lậu mỗi tháng chỉ có hai mươi ký đường.Chúng tôi đành phải chấp nhận vì lúc đó chưa biết phải tính làm ăn như thế nào. Điều may mắnlà trong những ngày đầu làm việc không như ở sở bông tư. Chúng tôi được sĩ quan chỉ định đicắt tỉa cành cây và hái bông. Vào buổi sáng lúc trời còn tối, có khi ánh trăng còn sáng tỏ, kẻngđánh thức của trại đã vang lên từng hồi. Làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng phải nhanh chóng mới kịpgiờ đi làm việc. Ra khỏi trại thường là ánh sáng vẫn còn mờ mờ.Buổi tối thì chín giờ phải tắt đèn đi ngủ hết, nghĩa là chúng tôi sống chế độ hoàn toàn nhà binh.Trong những ngày đầu thì rất khó chịu, nhưng rồi dần dần cũng quen đi. Khi đó chúng tôithường nói giỡn với nhau là đi ngủ ngay đi không kẻng nó đánh vào tai bây giờ. Không ngờchuyện cái kẻng lại lập lại với tôi suốt 13 năm trong trại tù cải tạo CS mà sau ngày 30/4/1975,chúng tôi mệnh danh nó là hồi kẻng oan nghiệt. Khi ra khỏi trại tù "cải tạo", về đến thành phốSài Gòn vẫn không thoát tiếng kẻng ghê rợn của CS địa phương, vào mỗi buổi sáng sớm vanglên từng hồi đánh thức, thúc dục dân chúng đi làm việc.Công việc cắt tỉa cành bông cũng nhẹ nhàng thôi, không mất nhiều sức lực như cuốc đất nênkhông mệt lắm. Mỗi chúng tôi được cấp phát một lưỡi liềm khá sắc, chỉ giựt nhẹ là đứt ngay.Ngày không cắt tỉa thì đeo gù hái bông. Làm việc ở sở bông quân đội không bị kiểm xoát chặtchẽ lắm, nên thì giờ nghỉ ngơi tùy tiện, miễn là đừng có bê bối quá. Ở sở bông tư, do tư nhân làmchủ, trả lương cao hơn nên bắt buộc họ phải đòi hỏi nhiều năng xuất hơn. Đó cũng là điều hợp lýthôi. Hơn một tháng làm việc gọi là nhẹ nhàng về thể xác, nhưng về mặt tình cảm, tinh thần thìkhông mấy thoải mái. Hàng ngày mỗi khi ra trại, vào trại, báo thức, báo ngủ, báo ăn đều phải tậphọp điểm danh rất là phiền toái. Họ cứ coi chúng tôi như những tên lính của họ vậy. Đôi khikhông bằng lòng một chuyện gì lại còn sỉ vả nữa. Tập họp bắt đứng hàng giờ, nhiều lúc chúng tôibực mình dùng tiếng Việt chửi đổng cho bõ ghét. Tuy nhiên, nếu không có một sự việc xẩy ra thìcó lẽ chúng tôi cũng còn ở đó một thời gian lâu hơn nữa.Sự việc là nguyên một hôm, cũng trong một cuộc tập họp thường lệ, sĩ quan phụ trách trại, saukhi sỉ vả chán các binh sĩ dưới quyền và các công nhân địa phương, hắn lại quay qua đả kíchchúng tôi là lười không chịu làm việc hết mình theo thói người VN, anh Bảo đã phản đối lại. Tênsĩ quan bị mất mặt trước hàng quân liền sửng cồ tiến lại đánh anh Bảo. Chúng tôi sợ chuyện vỡto không lợi, nên khuyên can anh Bảo bình tĩnh tính chuyện sau. Số đông trong hàng cũng tỏ rabất bình về thái độ của tên sĩ quan lỗ mãng đó.Ngay sau sự việc xẩy ra, chúng tôi bảo nhau không đi làm nữa và quyết định lên gặp tên sĩ quanchỉ huy trình bày tự sự và xin thôi việc. Ông Trại trưởng nghe xong câu chuyện, cũng như đãđược trình báo, ông ta tỏ ra thông cảm và yêu cầu chúng tôi tiếp tục công việc, nhưng chúng tôinhất định từ chối vì một phần đã quá chán với cái chế độ sinh hoạt hàng ngày của trại. Chúng tôicó tin là các công nhân làm việc cho trại đến cuối tháng ít khi được trả lương ngay, mà có khi tớihai, ba tháng mới thanh toán. Khi chúng tôi xin thôi việc, thì đã làm việc được hơn một tháng vàvì thế trại buộc lòng phải trả tiền lương cho chúng tôi. Tính ra mỗi người hơn hai mươi kýđường, tính theo tiền mặt với thời gian lúc đó thì chúng tôi có thể ăn được chừng nữa tháng.Ngay trưa hôm đó, sau khi lãnh tiền song, chúng tôi mang trả hết quần áo, chăn mền mùng lạicho trại và lên đường ra ga Séo Lồng Thán.
Tới nơi thì chúng tôi gặp ngay mấy anh Long (LêVăn Long), Bái, Hưng (Lê Hưng), Ngọc, Chấp. Các anh không huấn luyện trong trường LụcQuân Yên Bái mà hoạt động bên Đảng Bộ VNQDĐ. Cùng một hoàn cảnh, cùng một lứa tuổi,cùng đảng chúng tôi phút chốc trở nên thân thiết. Các anh vừa đẩy song một chuyến xe than rabờ sông gần đó, chỉ cách khu nhà ga một, hai trăm thước. Các anh cho chúng tôi biết rõ về việclàm của các anh và hoan nghênh chúng tôi tới làm việc cho thêm vui, nhưng cũng không quênnhắc nhở là công việc rất mệt nhọ không kém gì ở sở bông tư, chỉ có một thuận lợi là làm nhiềuăn nhiều, làm ít ăn ít, tùy mình không ai bắt buộc.Chúng tôi đồng ý và một anh trong nhóm giới thiệu chúng tôi với ông Cảnh sát trưởng. Ông nàyvừa làm việc riêng và công, vì ông có cổ phần trong việc khai thác mỏ than. Ông ấy vui lòng giúp đỡ, cung cấp cho chúng tôi nhà ở và một chiếc xe đò để chở than. Ngoài ra ông ta còn sẵnsàng cho chúng tôi vay tiền để tiêu dùng, nhưng các anh đã khuyên can chúng tôi đừng mượn,sau này sẽ bị kẹt không thôi việc được, vì không có tiền để trả. Căn buồng chúng tôi ở ngay cạnhnhà các anh. Giờ giấc tùy theo chúng tôi lựa chọn miễn là thuận lợi cho công việc. Thường thìbuổi sáng dậy rất sớm, trời mát nên năng xuất nhiều hơn. Còn buổi chưa nóng nực thì nghỉ nhiềuhơn. Sau đó chúng tôi làm việc tới lúc mặt trời lặn.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top