CHương 2 - B NHỮNG NGÀY CHIẾN ĐẤU TRONG CHIẾN KHU
Một ngày đi xuyên rừng, thì xẩm tối đoàn quân tới một xóm nhà người Mèo, chúng tôi nghỉ lạitrong đêm. Sáng ra, trong khi chuẩn bị lên đường, thì anh Ngạn la lên bị mất khẩu súng trườngNga anh mang theo. Mọi người lục xoát thì tìm lấy lại được từ một người Mèo ăn cắp. Có anh đềnghị mang tên Mèo ra bắn, nhưng tất cả can ngăn rồi bỏ qua. Dù sao dân Mèo cũng là ngườinước ngoài, có gì thêm khó khăn cho những anh em còn ở lại. Cũng vì chuyện đó, mà khi chúngtôi lên tới đỉnh núi rừng Cấm thì bị bọn Mèo phục kích ngay, nhưng không ai bị thương tích gì.Từ đỉnh núi rừng Cấm cao ngất, chúng tôi có thể quan sát cả một vùng đồi núi chạy dài về phíaNam. Lên núi thì mỏi gối, trái lại xuống núi thì chồn chân. Nhờ có sẵn đường mòn mà dân haivùng thường qua lại nên cũng dễ đi. Đi từ sáng đến gần chiều thì chúng tôi xuống tới chân núi,tiếp giáp với những đồi núi thấp hơn, trải sâu vào nội địa VN. Ở đây, chúng tôi được chỉ cho thấycột trụ lớn bằng đá, đánh dấu biên giới giữa hai nước Việt-Hoa,được đặt từ thời Vua nhàNguyễn. Đến chiều tối, thì đoàn quân ngừng lại ở một xóm nhà người Mèo. Chúng tôi ai đều thủcây súng của mình cẩn thận. Số vũ khí trước kia, khi tới tạm trú tại Hoang Thiền và Li Cù Tỉ, đãphải tạm nộp cho chính quyền địa phương. Đến khi chúng tôi trở về nước thì họ đã trao trả lại.
Đoàn quân này do ông Bảo Ngọc đảm trách chỉ huy và có nhiệm vụ hướng dẫn về Sập Nhị Lầu,nơi đặt Bản doanh của Mặt trận hiện do ông Triệu Việt Hưng lãnh đạo. Qua hai ngày di chuyểnmệt mỏi, Ban Chỉ Huy cho ngừng lại nghỉ ngơi một ngày để lấy lại sức. Đặt chân lên đất nướcmình, trong khu vực mình kiểm soát, nên chúng tôi ai cũng cảm thấy tinh thần hăng say. Cũngnhư ở bên kia biên giới, thời tiết và khí hậu vẫn ẩm ướt và lạnh giá. Mưa không lớn nhưng daydứt suốt ngày. Bọn người Mèo ở đây luôn nhìn chúng tôi với những con mắt lầm lì, gian ác. Cólẽ chúng đã được bọn Mèo bên kia biên giới báo động rồi. Nhưng ở đây là đất nước chúng tôi, cósúng đạn, có uy quyền nên chúng không giám làm gì cả. Sau này, ở lâu tại Phòng Thô thì bọnMèo công khai theo Pháp và ra mặt chống lại. Những vùng thuộc Mặt trận kiểm soát, chúng bỏcửa nhà đi hết.Một ngày nghỉ ngơi tại Bản Mèo, tôi mới biết cây thuốc phiện là gì, nó cũng đại loại giống nhưcây thuốc lá, thuốc lào. Lá của cây thuốc luộc lên ăn cũng được, còn hạt tẻ ra như hột mè, đem rang ăn cũng khá thơm ngon không hại gì cả. Nói thế thôi, chúng tôi đâu có dám ăn. Riêng mấyngười Thổ thì họ ăn có vẻ ngon lành lắm. Một năm sống ở trong Chiến Khu Phòng Thô, anh emngười Thổ đã chỉ vẽ cho chúng tôi nhiều thứ lá cây rừng ăn thay cho rau. Nếu mà không biết, cứăn bừa bãi thì có thể nguy hại đến tính mạng. Tôi còn nhớ có lần lấy thử một số lá cây, nấu thửăn như lá ngót. Thấy vậy bèn ăn cho cố, không ngờ nửa tiếng sau thì bị Tào Tháo đuổi chạykhông kịp.
Từ đó, tôi rút ra một kinh nghiệm là sống ở trong rừng, lại là nơi rừng thiêng nướcđộc thì không nên ăn bừa bãi, mà chỉ ăn những gì người dân địa phương chỉ dẫn.Nhờ thế, mà từ 1975 đến 1988, sống trong các trại tù của Cộng Sản ở Bắc Việt, tôi đã không bịbệnh nhiều, dù rằng trong tình cảnh thiếu thốn. Có những chiến hữu vì đói quá không chịu nỗi đãhái những quả rừng ăn cho đỡ đói, thì chỉ vài phút sau là thổ tả ra máu chết liền không sao chữakịp. Do đó, muốn làm chủ lấy mình, khắc phục những hoàn cảnh khó khăn phải đòi hỏi ý chícao.Buổi trưa ngày hôm sau, thì đoàn quân tới Sập Nhị Lầu, nơi Mặt trận lập Bản doanh. Địa điểmnằm trên một dãy đồi núi cao tương đối bằng phẳng. Ở về phía tây nam của núi rừng Cấm, vàdựa lưng vào biên giới Trung Hoa khoảng vài tiếng đồng hồ đi bộ. Sập Nhị Lầu, nôm na theochỗ tôi hiểu thì là nơi xuất phát, hoặc từ 12 Bản khác nhau đổ về Sập Nhị Lầu. Vì vậy dân cư ởđây đông đảo hơn, nhờ có một vài Bản ở ngay sát cạnh như Sính Trại ở phía Đông và Mali Trại,Hoàng ma Trại ở phía Tây. Dân chúng tại Sập Nhị Lầu và Sính Trại thuộc sắc dân người Mán(Hồng Dào Thầu), vì đàn bà con gái quấn ở trên đầu một vuông vải đỏ trông giống như hìnhchóp nón. Quần áo nhuộm màu chàm, phái nữ thì gấu quần áo, tay thêu hoa sặc sỡ, tay chân đeonhiều vòng vàng, bạc. Đàn ông, con gái trông thật khỏe mạnh.
Họ sinh sống về chăn nuôi, làmruộng, trồng rau nên đời sống tương đối đầy đủ. Cũng như sắc dân Mèo ở trên núi cao, họ cũngphải xuống dưới suối gùi nước lên bằng hai ống bương lớn (ống tròn to). Vào mùa mưa thì họbắt máng tre đưa nước từ suối cao về đến tận Bản. Nhà cửa rộng rãi, sáng sủa hơn, chung quanhtường bằng tre nứa, hoặc vách đất, mái lợp lá cọ hoặc rạ.Mùa Đông tháng giá thì lúc nào ở giữa nhà cũng có một đống lửa cháy bập bùng. Ở ngay giữaBản Sập Nhị Lầu, có một chợ nhỏ, hai bên rải rác hàng quán bán rau, heo, gà và các thứ khácnhư sắn, khoai, bắp,vải chỉ, lá cây rừng chữa bệnh, bánh trái v.v..Vào ngày phiên chợ thì buônbán đông hơn. Có đủ loại người từ mọi nơi tới, kể cả ở phía bên kia biên giới Trung Hoa. Sự sinhhoạt hàng ngày của họ không khác gì với người dân ở Bản Hoang Thiền (Trung Hoa). Do đó,Sập Nhị Lầu dưới mắt của chúng tôi được coi như là Thủ Đô của Chiến khu Phòng Thô. Hai Bảnở về phía tây là Mali Trại và Hoàng ma Trại thì dân thuộc người U Lý, gần như có gốc gác vớingười Xạ Phang ở bên Trung Hoa. Sự sinh hoạt hàng ngày của họ cũng như các sắc dân khác.Họ dệt vải, nhuộm chàm, ăn mặc giống như nhau, có khác chỉ là tên gọi mà thôi. Với số dân quáít và nghèo nàn, Mặt Trận đã nhờ vào sự cung cấp lương thực của họ mà có thể tồn tại và chiếnđấu hơn một năm trời ở đó. Sống được ít ngày, thì anh Hồng và tôi được phân phối về đơn vị củaông Bào (nguyên đội Pháp) thuộc cánh quân của ông Nguyễn duy Dzị.Tôi gặp lại ông Bào ở trại tù CS Nam Hà (Bắc Việt) vào năm 1978 đến 1982, Sau ông được VCthả vào năm 1984 ở trại tù Hàm Tân (Nam VN). Đơn vị ông Bào đang đóng quân tại Hoàng MaTrại, quân số khoảng ba mươi người. Tất cả là người Kinh. Hai anh Bảo và Ngạn về một đơn vịkhác, cũng thuộc lực lượng của ông Nguyễn Duy Dzị đang đóng quân án ngữ tại Tả TrùngPhùng, Mali Phố Soàn Thầu, cửa ngõ trông vào Lai Châu. Cánh quân của ông Triệu quốc Lộc(gồm người Thổ) thì án ngữ tại Yào San, Mù San, Mù Sì Sán, tạo thành thế gọng kìm đối diệnvới quân Pháp, đóng chung quanh Thị Xã Lai Châu.
Trở lại lúc đoàn quân rút khỏi Thị Xã Lào Kay, tới đồn Bát Xát thì chủ lực do ông Triệu quốcLộc và ông Nguyễn duy Dzị tiến vào Phòng Thô, Lai Châu qua ngả Mường Hum. Tại đó, đoànquân không gặp một kháng cự nào và tiếp tục chiếm Yào San. Một vài toán nhỏ, do sĩ quan Phápchỉ huy, còn lại là binh lính VN, đóng rải rác, giữ nhiệm vụ tiền tiêu, đã bất ngờ bị tấn công bỏchạy về Thị xã Lai Châu. Nhân đà chiến thắng quân ta tiến đánh vào Thị Xã, nhờ tạo được yếu tốbất ngờ làm cho quân Pháp phải lúng túng nhưng cũng chống trả khá mãnh liệt. Nhưng với tinhthần đầy quả cảm hy sinh, VNQDĐ đã đẩy lui được Pháp quân, buộc chúng phải chạy vào đồncố thủ. Sau khi làm chủ được Thị Xã Lai Châu và thu được một số chiến lợi phẩm, VNQDĐ tungquân lục soát bắt cho được tên Đèo văn Ân. Tên này và gia đình chạy thoát vào đồn của Pháp,Đèo văn Ân (sắc tộc Thái) trước đây ông ta theo VNQDĐ, nhưng khi quân đội Pháp trở lại LaiChâu theo bản Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 thì hắn trở mặt theo Pháp.Một số đảng viên VNQDĐ hoạt động tại đó đã bị hắn báo bắt giữ, số còn lại tản mác ra hoạtđộng tại các Bản ở phía Bắc, giáp giới với Trung Hoa cho tới ngày chủ lực từ Lào Kay rút vào.Sau khi kiểm soát được Thị Xã Lai Châu, VNQDĐ tiếp tục tiến đánh lên đồn cao, nhưng nhờ địathế cao, có tuyến phòng ngự chắc chắn, nên quân Pháp đã cố thủ được. Đồng thời chúng gọi vềHà Nội cho máy bay lên dội bom yểm trợ. Trước sự chống trả mãnh liệt của đồn binh, cùng vớiphi cơ oanh kích, VNQDĐ đã bị một số tổn thất nên đành phải rút lui về Thị Xã Lai Châu. Haytin, quân Pháp từ trong đồn ùa ra truy kích.
Trước tình hình bất lợi, khó có thể giữ được Thị Xã Lai Châu, nên Bộ Chỉ Huy ra lệnh rút trở lạiYào San. Khi băng qua con suối lớn chảy ngoài Thị xã, đoàn quân đã bị phi cơ oanh kích nặngnề, gây cho một số VNQDĐ bị thương và chết, trong đó có anh Cường của QGTNĐ (tục gọi làCường Tojo vì anh thấp lùn và mập, đầu hớt trọc giống ông Thủ Tướng Nhật Tojo thời đó).Quân Pháp chiếm đóng Thị Xã Lai Châu, không phải là của Tướng Leclerc từ Sài Gòn di chuyểnra Bắc Việt theo thỏa hiệp 6/3/1946, mà đoàn quân Pháp này đã từ Tchapa, nằm ở ngoại viThành Phố Côn Minh (Thủ phủ Vân Nam) do Tướng Pháp Alessandri chỉ huy. Cánh quân nàytrước kia, khi quân đội Nhật chưa đầu hàng vẫn trú đóng tại Lai Châu.Khi quân đội Nhật đảo chính vào ngày 9/3/1945, thì lực lượng của Pháp tại đó bỏ chạy sangTrung Hoa. Khi thỏa hiệp 6/3/1946 giữa VMCS và Pháp chưa được ký kết, thì đoàn quân củaAlessandri rời Tchapa xuống Mường Là (giáp ranh với Lai Châu) đột nhập vào Thị Xã Lai Châuvào tháng 1/1946, có nghĩa là trước Hiệp Định được ký kết. Thời đó không thấy VMCS lên tiếngphản đối về vụ này. Có thể là khu vực này VMCS không có kiểm soát nên lờ đi chăng. Một điềukhác nữa là Chính phủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch lúc đó, không hiểusao đã chấp thuận cho quân của Alessandri rời Tchapa khi mà Thỏa hiệp 6/3/1946 chưa được kýkết. Như được biết, thì đoàn quân của Alessandri không phải hoàn toàn là người Pháp, hay ở cácthuộc địa khác như Maroc, Algerie, Madagascar, mà còn có một số lớn quân lính VN.
Đoànquân của Alessandri khi rời khỏi Tchapa thì đã có một số đông binh sĩ VN do Trung Úy Viên chỉhuy, tách ra bỏ về vùng biên giới giáp ranh với Tỉnh Hà Giang (Bắc Việt). Sự việc xẩy ra là dotoán quân của Trung Úy Viên, khi trú đóng tại Tchapa đã được các cán bộ VNQDĐ Hải Ngoạivận động tham gia vào VNQDĐ.Khi quân đội của Tướng Lư Hán tràn ngập Bắc Việt để giải giới quân đội Nhật, thì Trung ƯơngVNQDĐ ở Hà Nội đã chỉ thị Hải Ngoại Bộ điều động toán quân đó qua mạn Hà Giang để trở vềHà Nội. Cánh quân này có các cán bộ đảng viên VNQDĐ tháp tùng. Tới Hà Giang, đoàn quânmấy trăm người này tạm đóng tại Tỉnh lỵ Hà Giang. Lúc đó, tỉnh dưới quyền kiểm soát củaVNQDĐ do ông Hoàng Quốc Chính làm Chủ Nhiệm Tỉnh Đảng Bộ. Tại đây, Trung Úy Viênđược Tỉnh Đảng Bộ phong hàm Đại Úy và đối xử rất chân thành với y, nhưng vì vẫn gắn bó vớithực dân Pháp, đương sự lại tiếp tục con đường làm tay sai cũ, nên y đã cùng với một số sĩ quandưới quyền bí mật liên lạc với VMCS để tạo phản.Ban Lãnh đạo Đảng hình như có hay biết về âm mưu đó, nhưng chưa có biện pháp nào ngănchặn tức thời, để rồi đến một ngày chúng đã thừa dịp sơ hở, đột nhập vào Tỉnh Đảng Bộ bắt hếtcác ủy viên lãnh đạo, đồng thời cho binh lính của chúng đánh chiếm Tỉnh lỵ. Kết quả là các ôngChính, Lương, Phẩm và một số đảng viên cao cấp khác bị chúng bắt mang đi thủ tiêu. Hà Giangrơi vào tay VMCS.Mấy ngày sau, Trung Ương VNQDĐ ở Hà Nội mới hay biết, và sau một buổi họp đã quyết địnhxử tử Ba Viên. Bản án dược giao cho Ban Ám sát của Đảng thi hành ngay. Vài ngày sau thì BaViên được nhận diện và bị bắn chết ngay tại phố Chợ Hôm (Hà Nội). Người thực hiện bản án làanh Đường một đảng viên VNQDĐ. Nghe nói là về sau anh bị VMCS bắt và thủ tiêu, nhưng lạicó tin khác là anh đã trốn lên được Đệ Tam Chiến Khu. Sự kiện phản bội của Ba Viên dù saocũng làm giảm một phần nào thanh thế của VNQDĐ, nếu không thì với mấy trăm cây súng cóhuấn luyện hẳn hoi, sẽ gây khó khăn cho VMCS không ít.
Sau khi VNQDĐ thất bại trong việc đánh chiếm Thị xã Lai Châu, thì hai cánh quân của ông Lộcvà ông Dzị rút về đóng tai các ngọn núi cao, án ngữ không cho Pháp quân hoạt động ra ngoài.Cánh quân ông Lộc đóng tại các Bản Yào San, Mù San, Mù si Sán, còn cánh quân ông Dzị tạicác Bản Soàn Thầu, Tả Trùng Phùng. Tư Lệnh Bộ do ông Triệu Việt Hưng chỉ huy với tước hiệuSư Trưởng đóng tại Sập Nhị Lầu. Khi chúng tôi rời Bản Hoang Thiền ở Trung Hoa về Sập NhịLầu, thì trận tấn công vào Lai Châu đã chấm dứt từ lâu. Kể từ đó cả hai bên, Pháp quân vàVNQDĐ không còn có trận đánh lớn nào xẩy ra, ngoại trừ các trận đụng độ nho nhỏ của các toántiền thám. Thời gian này, ông Triệu quốc Lộc và gia đình chạy sang sinh sống ở Huyện MườngLà (Trung Hoa). Cánh quân của ông chỉ huy được giao phó cho hai ông Hoàng quốc Đạt vàPhạm đức Nghi. Riêng ông Nghi, sau này dưới thời Chính phủ Bảo Đại, đã gia nhập Ngự LâmQuân với cấp bậc Đại Úy.Trở lại tháng 11/1946, khi VNQDĐ rút khỏi Lào Kay vào Bát Xát, Mường Hum, thì khoảng mấyhôm sau VMCS mới dám tiến vào. Cũng như ở Yên Bái, các cán bộ, đảng viên bị mắc kẹt trongThị Xã và các thành phần thân VNQDĐ đã bị chúng mang đi biệt tích. Có tin là một số đảngviên và khóa sinh trường Lục Quân Yên Bái trong đó có cả QGTNĐ bỏ về Hà Nội bị VMCS bắtkhi chạy ra khỏi Thị Xã, số phận ra sao không rõ, nhưng về sau này không ai gặp lại nữa. Như vậy là chỉ trong mấy tháng trời, Đệ Tam Chiến Khu từ Vĩnh Yên lên tới Lào Kay đã rơi vào tayVMCS, vì VNQDĐ chỉ có làm chủ Thị Xã nên dưới sự bao vây về kinh tế và quân sự, trở nên côlập, không được yểm trợ về tinh thần và vật chất của dân chúng và bạn Đồng Minh thì sự thất bạiắt hẳn phải xẩy ra. Kinh nghiệm này lại được tái diễn dưới thời Pháp, Bảo Đại, Mỹ, VNCH.Khi VMCS chiếm được Lào Kay thì cũng là thời gian giữa Pháp và VMCS ở Hà Nội và nơi kháccó Pháp đóng quân, đã xẩy ra nhiều đụng chạm, gây nên tình hình rất căng thẳng.
Tại Lạng Sơn,Hải Phòng vào cuối tháng 11/1946 hai bên đã xẩy ra đụng độ, nguyên do Pháp ngăn trở khôngcho VMCS nhập vũ khí, đạn dược vào cửa cảng Hải Phòng, phong tỏa biên giới Trung Việt ởvùng Lạng Sơn. Kết quả là hai Tỉnh lỵ trên đã bị Pháp quân chiếm đóng. VMCS phản kháng vàđòi Pháp trả lại, nhưng Pháp cũng lờ đi. Tại Hà Nội cũng vậy, sự xích mích đụng độ hàng ngàyxẩy ra giữa Pháp quân, Pháp kiều và VMCS. Cả hai bên đã có một số bị tử thương nên tình hìnhlại càng thêm nghiêm trọng, chỉ đợi thuận lợi là bùng nổ. Phái đoàn Pháp và VMCS gặp nhaunhiều lần nhưng không giải quyết được gì cả.Chiến tranh không thể nào tránh khỏi, VMCS đã ra lệnh cho dân chúng Thủ Đô tản cư, các cơ sởquan trọng của Chính Phủ rời ra vùng ngoại thành. Các ngã đường quan trọng trong Thành phốđược bố trí cẩn thận, có hàng rào cản bao quanh, ngăn chặn các ngã đường từ trong thành HàNội, địa điểm đóng quân của Pháp đi ra ngoài. Các khu vực ở của Pháp kiều cũng bị phong tỏa.Phía quân đội Pháp cũng vậy, chúng ra lệnh cho quân lính luôn ở trong tình trạng báo động và đềphòng tối đa. Trên đài phát thanh, báo chí, hai bên đều đổ lỗi cho nhau với những lời lẽ rất thậmtệ. Cuối cùng, thì chiến tranh phải xẩy ra.Vào đêm 19/12/1946, VMCS ra lệnh cho Tự Vệ Thành tấn công vào khu vực đóng quân củaPháp. Nhưng yếu tố bất ngờ không đạt được, vì trước đó vào lúc chiều tối, Pháp quân đã được tinbáo về cuộc tấn công của VMCS nên đã bố trí đề phòng. Do đó, khi Thủ Đô chìm vào bóng tối,Tự Vệ Thành tung ra cuộc tấn công thì đã gặp ngay sức kháng cự của quân đội Pháp đóng giữtrong Thành. Trận chiến tiếp diễn đến gần sáng, thì lực lượng Tự Vệ Thành của VMCS phải rútvề những vị trí chiến thuật cố thủ. Trong trận đánh mở màn bất phân thắng bại, cả hai bên đều cómột số thiệt hại, kể cả Pháp kiều và dân chúng cư ngụ trong khu vực chạm súng. Sáng ra thì hầuhết các Tỉnh,Thành từ Bắc tới vĩ tuyến 16 có quân đội Pháp đóng, đều bị đồng loạt tấn công.Ngày 19/12/1946, Chính Phủ VMCS tuyên cáo ngày kháng chiến toàn quốc. Tại các nơi khác,Pháp quân chỉ trong vòng một tuần đến nửa tháng là làm chủ tình hình một cách dễ dàng. Cũngdễ hiểu, khi đó lực lượng võ trang của VMCS còn trang bị nghèo nàn, quân số ít ỏi, mặc dù tinhthần chống Pháp rất cao. Trong khi đó thì quân Pháp trang bị hiện đại, tổ chức hoàn bị. Tuynhiên tại Thủ Đô thì chúng đã vấp phải tinh thần chiến đấu kiên cường của lực lượng tự vệ vàdân chúng Thủ Đô.Các trận đánh xẩy ra từng phố phường, nhà cửa, kéo dài đến hơn hai tháng trời mới chấm dứt, vàquân Pháp đã phải trả một giá khá đắt.
Để trả thù, sau khi đánh chiếm được Thủ Đô Hà Nội,chúng đã giết hại rất nhiều người mà chúng đã bắt giữ được, và cũng kể từ ngày 19/12/1946 trởđi, nhân dân toàn miền Bắc VN lâm vào cảnh loạn ly, gia đình tan nát, của cải, tài sản bị thiêuhủy trong chủ chương, chính sách vườn không nhà trống của VMCS suốt chín năm kháng chiếnchống Pháp. Hơn nữa, với chủ chương độc quyền yêu nước, nên sau khi chiến tranh bùng nổ thìcác thành phần chúng nghi ngờ chống đối đều bị gán cho là phản động, phản quốc, rồi bị chúngbắt và thủ tiêu dần. Trong đó các đảng viên các đảng cách mạng Quốc Gia mà tên tuổi đã bị lộcũng cùng chung số phận. Do đó, phần lớn dân chúng là trí thức và tôn giáo, có tinh thần Quốc Gia, Dân tộc đã phải từ bỏ kháng chiến về sống trong khu vực Pháp chiếm đóng để tránh VMCSkềm kẹp và tìm cách tiêu diệt. Cái thế bất lợi cho người Quốc Gia, nhưng không còn cách nàokhác là muốn tồn tại để chờ đánh ván bài khác.Cuộc chiến vài năm đầu có đem lại cho thực dân Pháp nhiều thắng lợi, dồn VMCS về những khuvực rừng núi. Nhưng với lối đánh du kích, Pháp quân cũng không thể nào làm chủ hết lãnh thổ vìquân số chỉ có hạn. Do đó, dần dà Pháp phải thu hẹp lại và chiến tranh kéo dài cho dến ngàyPháp phải ký bản Thỏa Hiệp Đình Chiến Genève ngày 20/7/1954, giao trọn miền Bắc choVMCS.Trong khi chiến tranh Việt Pháp xẩy ra thì cũng là ngày VNQDĐ từ Lào Kay vào tấn công ThịXã Lai Châu mà quân Pháp đã chiếm đóng từ trước ngày có thỏa ước sơ bộ 6/3/1946. CònVMCS chiếm được Lào Kay, rồi một tháng sau xẩy ra ngày kháng chiến toàn quốc. Lực lượngcòn ít và tổn thất sau những ngày tấn công vào Yên Bái, Lào Kay, chúng cần chấn chỉnh, tổ chứclại hàng ngũ, củng cố chính quyền địa phương nên VMCS chỉ tiến vào Sapa và Bát Xát là ngừnglại. Chúng thừa hiểu là Pháp quân đóng ở Thị Xã Lai Châu và VNQDĐ rút vào Phòng Thô. Chủchương chiến lược, chiến thuật của VMCS là cho phòng thủ, án ngữ tuyến Sapa-Mường HumBát Xát không cho Pháp quân từ Lai Châu đánh ra, và điều tốt hơn hết là để Pháp và VNQDĐthanh toán lẫn nhau. Còn Pháp thì chỉ cần giữ chặt Lai Châu, một cửa ngõ sang Trung Hoa quangả Mường Là và đường sang thượng Lào.
Chúng có muốn đánh chiếm Lào Kay cũng khó màthực hiện được, vì quân số còn ít, địa thế hiểm trở, hơn nữa còn có lực lượng VNQDĐ án ngữ ởtrước mặt. Do đó, tốt hơn hết là đợi thời cơ thuận lợi. Vì thế mà VNQDĐ không thể đánh chiếmđược Lai Châu, một địa điểm chiến lược mà Pháp quân không thể bỏ mất được. Còn tại sao Phápquân ở lại Lai Châu, sau khi chiến tranh Việt Pháp xẩy ra, chúng không tung hết lực lượng ratiêu diệt VNQDĐ chiếm trọn khu vực Phòng Thô mà cứ để cuộc chiến day dứt kéo dài cả năm.Lý do theo tôi hiểu là Pháp quân không đủ quân số, khu vực VNQDĐ chiếm giữ không mấyquan trọng về chiến lược, mặc dù là ở sát nách với biên giới Trung Hoa, nhưng lại không cóđường giao thông thuận lợi. Hai bên biên giới chỉ là núi rừng trùng điệp. Hơn nữa, Pháp quâncũng biết rõ là VNQDĐ, lực lượng không hùng hậu, tiếp tế không còn từ Trung Hoa Quốc DânĐảng, người bạn đồng minh của VNQDĐ đã bị Pháp o bế rồi, nên làm ngơ không dính vàochuyện giữa hai bên. Chúng cho rằng đến một lúc nào đó nếu cần, chúng chỉ mở một cuộc tấncông càn quét quy mô là xong. Ước tính của chúng như thế, cho nên chúng mở trận chiến giữaVNQDĐ và Pháp và chấm dứt vào đầu năm 1948.Tình hình trong khu vực Phòng Thô, Lai Châu, sau khi VNQDĐ tấn công vào Thị Xã Lai Châuthất bại, thì chỉ có những cuộc chạm súng lẻ tẻ không đáng kể. Nhưng bất ngờ một hôm, Phápquân đã tấn công đột kích vào Hồi Luông và Yào San, hai cứ điểm thuộc tuyến đầu củaVNQDĐ, mà dưới thung lũng là con suối sâu và lớn như con sông vào mùa mưa, từ nội địaTrung Hoa chảy vào, ngăn cách giữa hai bên. Vào mùa cạn thì qua lại khá dễ dàng, nhưng vàomùa mưa lũ thì con suối trở nên rộng hơn và giòng nước chảy như thác đổ, không biết cách lộiqua thì có thể mất mạng như chơi.Hôm đó, rời tối lại có sương mù, sự quan sát bị hạn chế, nên Pháp quân nhờ có nội ứng, chỉđường vẽ lối đột nhập vào vị trí phòng thủ của VNQDĐ không mấy khó khăn. Quá bất ngờ nênquân phòng thủ chỉ kháng cự được chốc lát rồi bỏ chạy về hướng Mù San. Nhờ có sương mù dàyđặc, cách mươi thước không rõ mặt nhau, nên sự thiệt hại về phía VNQDĐ không nặng lắm.
Mộtsố người bị chết và bị thương, bị bắt, trong đó có Bà Lê, chỉ huy nữ y tá ở Bệnh viện Lào Kay. Khi trận đột kích vào Yào San và Hồi Luông thì tôi đang ở tuyến đầu tại căn cứ Tả TrùngPhùng.Với địa thế trong khu vực Phòng Thô thì vấn đề tiếp cứu lẫn nhau quả là khó có thể thực hiện nổivì đồi núi cao, thung lũng hẹp và sâu. Do đó, đơn vị nào đóng ở đâu thì phải tự lực chiến đấu. Cókhi hai đơn vị cách xa nhau cả mấy ngọn núi, xử dụng súng cối 81 ly bắn cũng không tới. Một vũkhí cộng đồng yểm trợ duy nhất của VNQDĐ có trong tay, nhưng chỉ có một vài khẩu. Đạn dượcthì rất ít, có khi bắn ba bốn quả mới có một quả nổ. Vũ khí trang bị chủ lực của VNQDĐ cũngchỉ là Trung liên và ít khẩu Đại liên giải nhiệt bằng nước.Đánh chiếm được Hồi Luông và Yào San, Pháp quân đóng ít lâu rồi cũng rút về phía bên kia suốithuộc ngoại vi Thị Xã Lai Châu, và VNQDĐ lại trở lại chiếm đóng tiếp. Sau vụ bị đột kích đó,Bộ Chỉ huy bắt được tài liệu chứng minh tên Mã đức Nghĩa đã liên lạc với Pháp nên đã có quyếtđịnh xử tử tên bội phản đó.Sự việc như thế này, nguyên là khi Hải Ngoại Bộ do ông Triệu việt Hưng đưa về đánh chiếmLào Kay, thì có một vài nhóm sĩ quan Trung Hoa thuộc lực lượng địa phương có liên hệ vớiVNQDĐ cùng tháp tùng theo như nhóm ông Tiêu bảo Hàm, Mã đức Nghĩa v..v..Các nhóm nàysuốt thời gian VNQDĐ ở Lào Kay đã sát cánh hoạt động không có gì đáng trách xẩy ra cả.Nhưng đến khi vào Chiến Khu Phòng Thô thì đã bí mật liên lạc với Pháp để cầu mong một vàiân huệ Pháp sẽ ban cho, nên hắn đã chỉ đường vẽ lối cho Pháp tiến đánh vào Yào San và HồiLuông. Tình hình sau đó cứ lằng nhằng kéo dài, mà không bên nào dứt điểm cả. Sự thực thìVNQDĐ cũng không còn khả năng tấn công nữa. Giữ vững được vị trí chiếm đóng đã là hay lắmrồi.Khu vực Phòng Thô phải nói rằng là nơi khá trù phú, đời sống dân cư sung túc. Trước khi chúngtôi tới, thì cuộc sống của họ rất bình an không biết súng đạn là gì. Từ khi VNQDĐ tới đặt chínhquyền trong vài tháng đầu họ còn đóng góp đầy đủ, nhưng dần dà họ không còn tích cực nữa.Nguyên do lúc đó lo chiến đấu là chính cho nên là VNQDĐ không có giúp ích gì cho họ. Tôi cònnhớ là khi chúng tôi mới đặt chân lên Sập Nhị Lầu và một vài Bản ở lân cận, thì dân cư còn đôngđúc, chợ búa đông người mua bán. Nhà nhà, lợn gà chạy loanh quanh, vườn tược rau cỏ xanhtươi. Thì chỉ năm, sáu tháng sau trong toàn bộ Chiến khu Phòng Thô, nếp sinh hoạt làm ăn củadân chúng đã xuống thấp và không còn sinh động nữa. Một số lớn cùng với của cải của họ đã bỏđi nơi khác, phần lớn là chạy qua biên giới Trung Hoa, nơi họ có họ hàng thân nhân liên hệ.Trong tình hình đó, dĩ nhiên là VNQDĐ phải rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Ông Vũ hồng Khanhvới trọng trách Tư lệnh Quân Vụ Bộ, lúc ở Chiến khu, lúc ở Vân Nam để vận động với Chínhquyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng và Chính quyền địa phương để mưu cầu sự giúp đỡ, nhưngkết quả cũng chẳng đạt được nhiều. Nếu có thì cũng như muối bỏ bể, không làm sao có thể vựclên được. Phải công nhận là ông Vũ Hồng Khanh đã dốc hết lòng vào những ngày, tháng cuốicùng ở Phòng Thô, mặc dù nói chung Ông đã có những lỗi lầm trong vai trò lãnh đạo.
Trong thời gian lắng dịu, ngoài công tác di chuyển đóng quân, chúng tôi còn làm nhiệm vụ tiếpvận. Các lương thực như lúa, bắp mà dân đóng góp cho Mặt trận, chúng tôi dùng ngựa thồ đưavề tập trung ở Bản doanh Sập Nhị Lầu làm kho dự trữ. Công tác này thật là gian nan vất vả.Đường thì xa, núi rừng trùng điệp. Đường đi, lúc lên, lúc xuống, vượt núi, qua đèo, qua suối, cókhi phải mất hai, ba ngày mới tới nơi. Nguy hiểm nhất là mỗi khi phải băng qua suối vào nhữngngày mưa lũ. Suối chảy như thác, xẩy chân là bị nước cuốn đi mất hút. Có lần hành quân quasuối, tôi còn nhớ có một đồng chí VNQDĐ khi lội qua suối, chỉ trượt chân bước lên một hòn đá mà bị nước cuốn phăng đi. Mọi người chỉ còn đứng nhìn, không còn cách nào cứu nỗi. Các đảngviên VNQDĐ người Thổ là có kinh nghiệm qua sông, qua suối, nên họ đi qua một cách dễ dàng.Riêng tôi, vì biết bơi lội cũng khá, nên mỗi khi phải băng qua suối, tôi kiếm chỗ nào hẹp nhất,nước sâu nhất và không có đá ở giữa giòng. Tôi vận dụng hết sức lực phóng người qua, khi thânmình chạm nước là tôi áp dụng lối bơi sải thật nhanh vào bờ. Với phương pháp này, tôi đã rútngắn được tới ba phần tư bề rộng của con suối. Nếu bắt buộc phải băng qua, thì phải để thânmình không cản giòng nước, có lẽ là đi theo chiều nghiêng. Còn khi tôi áp tải ngựa thồ lươngthực, thì mỗi khi qua suối tôi bám lấy đuôi ngựa, thành thử cũng không đến nỗi nguy hiểm lắm.Những ngày làm nhiệm vụ này thật cực nhọc, mưa nắng thất thường, ăn uống thiếu thốn nên sứckhỏe cũng yếu dần. Nhiều khi hết muối, phải ăn lạt hàng hai, ba ngày. Cơm ăn thì chỉ có một ítnước muối dầm ớt (trong trại tù anh em gọi là nước đại dương). Rau cỏ không còn cung cấp nữavì dân không trồng, thành thử chúng tôi phải ăn rau rừng như rau húng, rau diếp cá, rau tàu bayv.v..mọc đầy ở bờ ruộng. Rau cần ở dưới suối, măng tre ăn cùng lá trà tươi. Đôi khi gập nhữngcây vả ở bên bờ suối, đói ăn đỡ cũng thấy no bụng.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top