Hoi 17 - 19

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 17 : Khi đoạn long thạch đã rơi

Dương-Qua đã biết rõ đường đi nước bước trong Cổ-Mộ, cần phải tránh những cạm bẫy nguy hiểm khắp nơi mới bảo toàn tánh mạng. Tuy nhiên hắn vẫn giả vờ không hề hay biết bảo sao làm vậy, dùng rìu chặt bậy lung tung theo lời của Hồng-lăng-Ba.

Còn độ hơn một dặm nữa đến Cổ-Mộ dài, bỗng Dương-Qua sực nhớ đến Tiểu-long-Nữ hiện giờ chẳng rõ ra sao. Lòng nó xót xa băn khoăn nóng nảy muốn tìm cách trở về gặp sư phụ ngay, dầu phải hiểm nguy đến sanh mạng cũng không cần.

Nghĩ thế, hắn làm bộ mệt lả, đi chậm lại, nhường Hồng-lăng-Ba đi trước, thỉnh thoảng hắn lại ngồi xuống không đi nữa, khiến nàng phải quay lại dắt đi vì ngại đêm tối hắn lạc mất.

- Mau lên thằng ngốc ơi. Bộ tướng vật trâu cũng ngã mà làm như người biết gân rồi. Sao mà tệ quá vậy? Hãy đi mau lên xem nào.

Dương-Qua chẳng thèm nói gì, ngồi bẹp xuống bên đường, một chập sau lắc đầu nói:

- Thôi, tôi chịu rồi! Không dám đi tới nữa đâu, sợ ma lắm.

Hồng-lăng-Ba đang nóng lòng tìm đường vào Cổ-Mộ, thấy chú khùng trở chứng nói bạt mạng e ngại nó bỏ đi thật, còn một mình bơ vơ biết đâu mà mò, cho nên nàng lật đật đến cạnh nó ôn tồn hỏi:

- Sao, mày sợ thứ gì? Ma à?

- Dạ tôi sợ ma lắm cô ơi.

- Ma ở đâu, mày đã gặp bao giờ chưa?

Dương-Qua mở mắt tròn xoe nhìn một chập đoán chừng đạo cô tức lời hắn, mới chậm rãi nói:

- Thưa cô, có một lần tôi lùa dê vào đây, đi lạc đường vào ngôi mộ...

Hồng-lăng-Ba mừng lắm vội hỏi:

- Thế bây giờ em còn nhớ đường đi vào không?

Dương-Qua giả bộ không nghe, nên tiếp tục kể:

- Tôi mệt quá nằm dựa bên mộ, ngủ thiếp một chập, khi chợt tỉnh thấy trời đã tối mò, tư bề vắng vẻ, bỗng có tiếng gà trong xóm xa vọng đến, chắc vào khoảng canh ba...

Đạo cô nóng ruột hỏi thêm, ngắt lời nói:

- Thế bây giờ em còn nhớ đường đi chứ?

Dương-Qua tin chắc nàng hết nghi ngờ về tánh sợ ma của mình nên hỏi thêm một câu:

- Thế tiên cô có sợ ma không?

Nàng cười đáp:

- Ta không bao giờ sợ ma. Ma lại phải sợ ta là khác nữa.

Hắn giả bộ ngớ ngẩn, ngạc nhiên và hỏi tiếp:

- Tại sao cô không sợ ma. Cô có phép sao?

Nàng vung thanh kiếm lên một vòng và nói:

- Ta đã có thanh kiếm này, ma cũng phải sợ. Gặp nó ta chỉ cho một nhát đứt hai.

Dương-Qua làm ra bộ tin tưởng, gật đầu nói:

- Thế thì được rồi. Nhưng tôi chỉ sợ cô nương nói dối.

Nàng trợn mắt, nạt:

- Đừng nói bậy, đã là đạo cô ta không hề nói dối bao giờ.

Dương-Qua cãi lại:

- Cô nương chẳng biết đó chứ. Trên đời hiếm gì đạo cô nói dối như cuội, ví dụ như...

Đang nóng lòng vào Cổ-Mộ, thấy nó cứ lè nhè kể lể, Hồng-lăng-Ba bực tức nạt lớn:

- Thằng khùng, đừng nói bá láp. Mày láo và hỗn xược lắm đấy. Ta nói dối mày để làm gì mới được chứ?

Dương-Qua vẫn cúi đầu nhìn xuống đất nói thêm:

- Xin cô cứ nghe tôi kể tiếp. Khi tôi chợt tỉnh giấc, bỗng thấy một con ma mặc toàn áo trắng bay lả lướt trên bụi cây, giống như đạo cô, chập chờn khi ẩn khi hiện khi xa khi gần, tôi sợ quá vội vùng lên chạy trốn thì...

Hồng-lăng-Ba mừng quá, nàng tin rằng chú bé này đã vô tình khám phá được ngôi cổ mộ, nơi trú ẩn của Tiểu-long-Nữ và bóng trắng lả lướt ấy nhất định là Tiểu-long-Nữ rồi.

Nàng giục nó đi mau. Dương-Qua vẫn tiếp tục nói:

- Để tôi kể tiếp cho xong đã, cô cần hiểu rõ oai lực của con ma này, rồi mới giết được nó chứ.

Nàng gật đầu bảo:

- ừ, thì cứ kể đi.

Nó vừa kể chậm chậm vừa suy nghĩ:

"Nàng nầy tuy lớn tuổi hơn mình, nhưng so bề sức vóc chưa chắc ta kém nàng. Mình cố tìm cách lung lạc nàng để sau còn tiện bề thao túng chứ".

Nghĩ xong, hắn tiếp tục kể:

- Trời ơi! Tôi khiếp sợ quá cắm đầu chạy bạt mạng, không kể trời đất, đến nỗi nhào vào một tảng đá bên đường, vỡ trán chảy máu ướt mặt, mãi đến ngày nay vẫn còn một cái sẹo lớn đây này, cô sờ xem thì biết.

Vừa nói xong, hắn nắm lấy tay của Hồng-lăng-Ba kéo về phía mình.

Từ lúc theo Lý-mạc-Thu học võ nghệ, Hồng-lăng-Ba đã từng đi phiêu bạt giang hồ, chạm trán biết bao nhiêu đối thủ hung ác, nhưng đến nay nàng vẫn còn là một thiếu nữ đang tân, tình xuân phơi phới, chưa nếm mùi đời, chưa bao giờ đụng chạm với nam nhi. Những khi phải đối phó với kẻ thù hay ác thú, từng đứng trước tử thần, nàng chưa hề thấy lòng xao xuyến hay sợ hãi. Hiện nay, vừa chạm bàn tay của một người con trai, Hồng-lăng-Ba cảm thấy bủn rủn cả người, một luồng nhiệt khí rần rật, đôi má đỏ bừng và mất cả sự bình tĩnh. Tim nàng đập từng hồi rối loạn, hơi thở dường như đứt quãng, muốn rụt tay lại, nhưng không tự chủ được, để phó cho Dương-Qua mặc ý lôi kéo.

Sử đụng chạm bất ngờ này đã làm mờ cả lý trí, tựa hồ như mới nhắp phải ly rượu nóng hay hút một điếu thuộc phiện.

Dương-Qua dùng hai tay ấp chặp bàn tay của Hồng-lăng-Ba đưa qua đưa lại trên trán mình và nói:

- Đấy, cô xem, cái sẹo to chưa?

Nàng khẽ bảo:

- Thôi, em đưa ta đi chứ.

Hắn vẫn không thả tay nàng, đứng dậy kéo nàng đi sát bên mình, dò dẫm trong đêm tối, và cứ xoa mãi để chỉ vết sẹo vô hình. Bất giác Hồng-lăng-Ba cười ngặt nghẽo, miệng reo lên:

- Thằng ranh con, thằng ranh con.

Một lúc sau chẳng rõ có sờ thấy cái sẹo hay không, nhưng dần dần chợt trở lại thực tế với một cảm giác mới đối với Dương-Qua, khẽ bảo nó:

- Thôi, em đưa ta đi nhé.

Dương-Qua không đáp lời, vẫn lặng thinh siết chặt bàn tay ấm áp của đạo cô, dìu nàng đi trong tối yên lặng đến rợn người.

Nó bỗng nhớ lại ngày nào trong Cổ-Mộ đài đã từng cùng sư phụ Tiểu-long-Nữ dắt tay cùng đi và trò chuyện, nhưng sự đụng chạm hai lần hoàn toàn khác nhau. Bàn tay của Tiểu-long-Nữ mát lạnh như băng, bàn tay của Hồng-lăng-Ba thấy ấm áp và nắm lấy như chạm phải luồng điện, người cảm thấy âm ỉ như lên cơn sốt.

Mặc dù lương tri phân tách được hai cảm xúc này, nhưng Dương-Qua vẫn không quên chủ đích của mình dự định. Vừa đi tới nó vừa lấy bàn tay ấm áp của đạo cô, vừa siết mạnh, vừa xoe nhè nhẹ như muốn gây lại cảm giác đặc biệt vừa có lúc ban đầu.

Giá là một thanh niên nào khác, kéo dài sự đụng chạm này thì Hồng-lăng-Ba đã nổi nóng, rút kiếm kết liễu ngay tính mạng, nhưng đối với Dương-Qua trong lúc hình như có một cảm xúc đặc biệt khác thường đã gây được sự rung cảm, thích thú, nên nàng chỉ để yên, mỉm cười, không rụt tay lại.

Nàng tự nghĩ:

- Có lẽ người thiếu niên này không phải khùng điên hay rồ dại như mình đã tưởng.

Rồi nàng cứ để yên trong tâm trạng ấy, lòng lâng lâng suy nghĩ như muốn kéo dài thời gian nhấp ly rượu men tình, chẳng để ý gì đến sự vật chung quanh, mặc cho Dương-Qua tự ý dìu đi trên con đường vào Cổ-Mộ. Dương-Qua muốn dùng ảnh hưởng xúc động sinh lý để khiến nàng không quan tâm đến những bí mật của Cô-Mộ đài.

Khi đến Cổ-Mộ rồi, Dương-Qua mới thả tay nàng ra, ngồi bẹp xuống đất thở hổn hển như quá nhọc mệt. Lúc bấy giờ Hồng-lăng-Ba mới trở lại trạng thái bình thường. Nàng tưởng nó quá khổ nhọc vì đoạn đường dài đã qua, nên ân cần hỏi:

- Em mệt lắm sao?

Dương-Qua đáp:

- Tôi không mệt bao nhiêu, nhưng...

- Nhưng... tôi sợ ma lắm.

Nói xong nó bỗng ôm choàng lấy thân hình đạo cô, làm cho nàng bủn rủn cả tay chân. Nhưng hắn lại buông ra ngay và nói:

- ồ, chưa vào đến mộ mà cô đã sợ phát run cả người rồi! Như thế làm sao chống cự được với ma. Thôi, tôi chả dám tin mà theo cô nữa đâu. Thôi để tôi về cho rồi. Theo cô, cô sẽ để ma hút hồn tôi.

Phần e thẹn vì bị Dương-Qua bắt gặp cảm giác run cảm của mình, phần bực tức vì gán tiếng sợ ma, nên Hồng-lăng-Ba nổi nóng rút thanh kiếm ra hét:

- Ranh con, đừng nói bậy, hãy xem đây này.

Nói xong, nàng múa kiếm một vòng tiếng xé gió vun vút, để trấn tĩnh tinh thần Dương-Qua và để che đậy nhược điểm của mình.

Thấy đã đánh lạc hướng được đạo cô. Dương-Qua đứng dậy nói:

- Vâng, xin cô cứ theo tôi.

Nói xong, nó nắm tay nàng trèo lên cổng đá, hí hoáy một chốc làm cửa đá mở toang, rồi kéo nàng chạy bừa vào phía trong. Lúc bấy giờ nó không đi nữa mà chạy bừa. Hồng-lăng-Ba không còn nhận định được phương hướng nào nữa, cứ bước càn theo Dương-Qua, quanh co, khúc khuỷu, khi qua trái, lúc quẹo mặt, hết biết đâu là đâu.

Nhớ lại trước kia có lần sư phụ Lý-mạc-Thu có kể cho biết đường Cổ-Mộ đài rất bí hiểm, sa cơ một tý mất mạng ngay. Thế mà kỳ này thằng ngốc kéo mình chạy bay vẫn không đụng chạm hề hấn gì hết. Rồi nàng tự nghĩ:

- Hay sư phụ ngại mình mò về đây để tìm pho "ngọc-nữ tâm-kinh" nên bịa ra như vậy gạt mình chăng?

Một chập sao cả hai đã đến trung tâm Mộ-đài, trước bức tường đá, ngăn che phòng Tiểu-long-Nữ.

Dương-Qua lại gần khẽ gõ cộp cộp mấy tiếng vào vách đá theo đúng mật hiệu giữa hai thầy trò. Chờ một khắc, không thấy trả lời, tứ bề vẫn yên lặng, tấm cửa không di chuyển, nó kinh hãi rụng rời, mồ hôi tuôn ướt áo, đinh ninh Tiểu-long-Nữ đã nguy đến tánh mạng rồi chăng?

Tuy vậy, nó vẫn còn giữ bề ngoài thản nhiên, lẩm bẩm nói:

- Lúc trước tôi thấy bóng ma từ nơi này đi ra. Có lẽ bây giờ nó sợ oai của cô nên biến mất không dám xuất lộ chăng?

Hồng-lăng-Ba an ủi:

- Không phải ma đâu, đó là người, và chính là sư thúc của ta đấy. Cứ tông cửa mà vào đi.

Dương-Qua làm bộ mừng rỡ nói:

- Nếu quả là người thì tôi không sợ nữa.

Rồi nó gọi lớn:

- Cô nương ơi, cô nương ơi!

Bỗng có tiếng nói nho nhỏ từ trong vọng ra:

- Cứ đẩy cửa mà vào.

Cánh cửa đá vừa nhích ra, Hồng-lăng-Ba đã lanh chân phóng vào trước, đánh lửa thắp nến.

ánh đèn vừa lòe lên, nhìn thấy thân hình một thiếu nữ toàn thân mặc đồ trắng, nằm im lìm trên phản đá, đôi mắt nhắm thiêm thiếp nửa tỉnh nửa mê.

Hồng-lăng-Ba đặt kiếm xuống đất, lớn tiếng thưa:

- Đệ tử Hồng-lăng-Ba xin yết kiến sư thúc.

Dương-Qua không ngờ sự việc xảy ra như vậy. Nó đinh ninh bước vào trước, tìm cách đem sư phụ đi nơi khác, rồi thừa đêm tối lẩn tránh, sau sẽ liệu định. Không dè Hồng-lăng-Ba bám sát bên mình và xông vào trước. Bây giờ đã lỡ, biết xử sự làm sao cho ổn. Nhìn sư phụ nằm mê man trên giường, không biết sống chết ra sao, nay lại bị tên đạo cô này khuấy rầy nữa, thật là nan giải. Rồi không biết tính sao, Dương-Qua chỉ bụm mặt khóc thảm thiết.

Hồng-lăng-Ba quay lại nhìn nó:

- Mày làm gì lạ thế? ranh con.

- Tôi sợ lắm.

Bỗng một giọng yếu ớt trả lời nó:

- Ta đã thành ma đâu mà mi sợ.

Hồng-lăng-Ba nhìn lại thấy quả là một trang tuyệt sắc giai nhân. Mấy lúc này nàng tự hào mình có nhan sắc kiều diễm, nhạn sa cá lặn, trên gầm trời chưa dễ có mấy ai, thế mà ngày nay nàng phải ngẩn người trước dung nhan tuyệt trần của Tiểu-long-Nữ. Chả biết nói gì hơn là lặng yên để chiêm ngưỡng, càng nhìn càng đẹp, càng ngắm càng đắm say. Quả thật danh bất hư truyền, hảo hán bốn phương đã tranh nhau tỉ thí để hi vọng chiếm nàng, tưởng không phải điều quá đáng.

Thấy đạo cô lặng người nhìn mình như ngây như dại, Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Ngươi là ai, muốn gì?

Hồng-lăng-Ba chấp tay thưa:

- Kính bẩm sư thúc, đệ tử Hồng-lăng-Ba xin bái kiến sư thúc.

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Ngươi là đệ tử của Lý-mạc-Thu à! Sư phụ ngươi đâu rồi?

Hồng-lăng-Ba thưa:

- Sư phụ đệ tử sai đệ tử đến đây trước để vấn an sư thúc. Sư phụ đệ tử sẽ xin tới sau.

Tiểu-long-Nữ đưa bàn tay trắng bạch như giấy, khoát nhẹ mấy cái bảo:

- Thôi, ngươi hãy đi đi, ở đây là chỗ tôn nghiêm, hãy dang ra đừng đến nữa và bảo sư phụ ngươi cũng không nên bước chân vào nữa.

Hồng-lăng-Ba đưa mắt nhìn kỹ, thấy sắc mặt Tiểu-long-Nữ nhợt nhạt như không có sinh khí, hơi thở hổn hển từng hồi, chắc nàng đang bị nội thương, không có sức lực bao nhiêu, nên trong lòng không ngại, nàng chẳng quan tâm đến câu nói của Tiểu-long-Nữ và hỏi tiếp:

- Còn Tôn bà đâu rồi?

- Đã chết hai năm nay rồi, thôi ngươi mau rời khỏi chốn này.

Hồng-lăng-Ba thầm nghĩ, đây là dịp may hiếm có, nếu không thừa lúc nầy chiếm Cổ-Mộ đài thì biết chừng nào mới có dịp tốt hơn.

Nhìn thấy trạng thái sức khỏe của Tiểu-long-Nữ, nàng e sư thúc chết gấp, biết hỏi ai tìm ra "Ngọc-nữ tâm-kinh", nên vội hỏi:

- Thưa sư thúc, đệ tử nhận lệnh sư phụ đến đây xin sư thúc cho mượn bộ "Ngọc-nữ tâm-kinh", nên vội hỏi:

- Thưa sư thúc, đệ tử nhận lệnh sư phụ đến đây xin sư thúc cho mượn bộ "ngọc-nữ tâm-kinh". Đệ tử sẽ nhận trách nhiệm chữa lành vết thương cho sư thúc.

Tiểu-long-Nữ được tu luyện từ tấm bé, gạt bỏ được cả thất tình lục đục, trong lòng khi nào cũng có những tư tưởng thanh cao thoát trần. Nay vừa nghe đạo cô, thốt những lời trái tai quá đáng bỗng nổi cơn tức, uất khí tràn lên đùng đùng không chế ngự nổi, trắng đôi mắt ngất lịm trên giường.

Hồng-lặng-Ba vội điểm vào nhân trung huyệt nàng mới tỉnh lại nhưng vẫn còn tức giận quát lớn:

- Thầy trò bay lúc nào cũng nuôi một ý tưởng xằng bậy. Mày hãy gọi sư phụ đến đây gặp ta, có chuyện cần nói.

Bỗng Hồng-lăng-Ba cười nhạt, không nói năng gì, suy nghĩ một chập, rút ra một dãy gấm, lấy hai mũi ngân châm giơ lên sáng lóng lánh rồi nói:

- Chắc sư thúc cũng thừa rõ sự lợi hại của độc trâm này? Nếu giờ phút này sư thúc còn tiếc rẻ bộ kinh, thì đừng trách đệ tử sao nhẫn tâm vô lễ.

Trước kia bản thân mình đã từng nếm mùi độc trâm này của Lý-mạc-Thu, ngày nay vừa nhìn thấy, Dương-Qua đã rùng mình lo sợ cho số phận của Tiểu-long-Nữ.

Cố nhiên Tiểu-long-Nữ cũng biết rõ trâm này quá sức độc, chỉ bị châm một tý vào da, sức độc cũng có thể khiến cho kẻ xấu số trở thành bán sanh bán tử, toàn thân sẽ bị xốn xang như muôn ngàn mũi kim chích trong huyết quản. Độc này có phần ác nghiệt ghê gớm hơn nọc ong trắng nữa. Nhưng Tiểu-long-Nữ chỉ điềm nhiên nhìn Hồng-lăng-Ba không nói một tiếng.

Hồng-lăng-Ba cầm trâm từ từ bước đến sát cạnh giường của Tiểu-long-Nữ.

Dương-Qua thấy tình thế quá cấp bách, vùng kêu thất thanh:

- Cô ơi có ma, có ma, tôi sợ quá!

Vừa la, nó vừa nhoài người ôm choàng lấy Hồng-lăng-Ba và lanh tay điểm luôn vào hai yếu huyệt "kiên trì" và "tiểu yêu" khiến nàng bủn rủn tay chân, ngã gục xuống đất như một cái xác không hồn.

Dương-Qua chưa chắc ý, còn sợ nàng tự giải được, nên tiến tới điểm luôn vào huyệt "cù cốt", xong đâu đấy hắn mới thở một hơi thoát nạn và chắp tay thưa cùng Tiểu-long-Nữ:

- Thưa cô nương, đạo cô này đã vô lễ làm điều phạm thượng xin cô nương cho phép tôi dùng độc trâm này để kết liễu tánh mạng nó cho rồi.

Vừa thưa xong, hắn cúi xuống nhặt mũi độc trâm lên.

Tuy bị điểm vào các yếu huyệt, toàn thân không cử động được, nhưng Hồng-lăng-Ba vẫn còn tỉnh táo, nghe và hiểu mọi việc. Nàng hoảng sợ muốn quỳ lạy van xin tha tội, nhưng khổ nỗi toàn thân bất động, môi nói chẳng nên lời, chỉ còn cặp mắt nhìn với vẻ van lơn muôn phần bi thiết. Mặt hoa trước kia kiêu hãnh bao nhiêu, bây giờ càng ủ dột bấy nhiêu.

Dương-Qua đắc ý cười lớn.

Tiểu-long-Nữ khễ bảo:

- Hãy ra đóng kín cửa ngõ lại đã, cần phải đề phòng sư tỷ ta đến cứu hắn đấy.

Dương-Qua vâng lời, vừa quay mặt ra nhìn thấy một bóng người đạo cô đứng sững tại cửa từ khi nào rồi. Nhìn qua ánh nến bập bùng, hắn nhận thấy chính con người năm xưa đã từng bị hắn xúi chim hồng mổ thủng mắt. Quả thật đạo cô là Xích-Luyện tiên tử Lý-mạc-Thu.

Nguyên trước đây Lý-mạc-Thu đã hiểu ý định của Hồng-lăng-Ba lúc nào cũng muốn tìm cách xâm nhập Cổ-Mộ đài để chiếm đoạt "Ngọc-nữ Tâm-kinh", nên luôn luôn để ý theo dõi. Tuy là phái học trò đi sát hại thù nhân tận Trường-an, nhưng Lý-mạc-Thu có dụng tâm để theo dõi xem hắn có dở ý định này ra không hòng đối phó, tránh hậu họa về sau. Vì lẽ ấy nên Lý-mạc-Thu luôn luôn bí mật bám sát Hồng-lăng-Ba như bóng với hình. Khi thấy Hồng-lăng-Ba hướng về Cổ-Mộ đài, thì nàng đã biết rõ sự việc, nhất là khi đã gặp Dương-Qua, rồi cùng hắn xuyên qua các nẻo đột nhập Cổ-Mộ đài, thì không còn nghi ngờ gì nữa.

Khi mới gặp, nàng không để ý đến Dương-Qua, nhưng sau khi nhìn kỹ mới thấy đây là đứa trẻ năm xưa, ngày nay đã trở thành một thiếu niên mặt mày đĩnh ngộ tuấn tú. Nhớ lại cái hận bị hư một mắt, Lý-mạc-Thu đùng đùng nổi giận, bao nhiêu căm hờn dồn lên nhỡn tuyền, và sắc diện nàng trở nên vô cùng hiểm ác.

Vừa trông thấy Lý-mạc-Thu, Tiểu-long-Nữ cố chống tay từ từ ngồi dậy nói:

- Xin chào sư tỷ...

Vừa chào dứt lời, máu tươi trào ra miệng, nàng ngã vật xuống.

Lý-mạc-Thu không đáp, hầm hầm chỉ tay vào Dương-Qua hỏi Tiểu-long-Nữ:

- Thằng này là ai? Theo huấn luyện của tiên sư, nơi này không bao giờ chứa chấp đàn ông, cớ sao hắn vào được và cô đem hắn vào để làm gì?

Tiểu-long-Nữ không trả lời, chỉ ho một tràng dài và máu tiếp tục trào ra miệng.

Dương-Qua vội vàng chạy lại đỡ nàng ngồi dậy cho máu bớt ra và tiếp lời với Lý-mạc-Thu:

- Tôi là đồ đệ của cô nương chứ có gì mà hỏi?

Lý-mạc-Thu cười gằn nói:

- à, thế ra mi không phải ngốc tử họ Sồ sao? Thật khéo ngụy trang, khéo che đậy nhỉ?

Vừa dứt lời, Lý-mạc-Thu rút cây phất trần đánh luôn ba cái liên tiếp. Nói là ba cái, nhưng vì bản lãnh của nàng quá cao siêu, ba cái đánh tung ra liên tiếp, nhanh như chớp giật, không thể phân biệt là bao nhiêu. Với tài nghệ tuyệt luân trong việc sử dụng phất trần ba cái đánh này có thể hạ sát trong nháy mắt nhiều cao thủ trong võ lâm, và từ trước đến nay chưa mấy ai tránh nổi.

Nhưng Dương-Qua mặc dầu chưa học được đến mức siêu việt như Lý-mạc-Thu, nhưng hắn đã học và đoán biết trước được thế "Tâm yểu đầu lâm" này, nên tránh né được dễ dàng.

Lý-mạc-Thu quá ngạc nhiên, vội định thần nhìn lại xem có phải là thằng bé ngày xưa chăng. Nàng không thể tin được rằng trong một khoảng thời gian quá ngắn, mà nó đã luyện tập bản lãnh khá cao cường, và nhìn trong lối tránh né có quy củ, rõ ràng hắn đã trở thành một đệ tử tinh thông của phái Cổ-Mộ rồi.

Suy nghĩ, rồi nàng dừng tay nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sư muội nuôi thằng bé con này để làm gì thế?

Tiểu-long-Nữ không dám đáp lớn, e động ngực máu sẽ trào ra nữa, nàng chỉ nhìn Dương-Qua khẽ bảo:

- Qua nhi! ngươi hãy làm lễ ra mắt sư bá mi đi.

Dương-Qua trố mắt nhìn Lý-mạc-Thu và hỏi lại:

- Hắn là sư bá tôi đấy à?

Tiểu-long-Nữ bảo nho nhỏ:

- Mi lại gần ta bảo cái này.

Dương-Qua vâng lời đến bên cạnh giường, kề tai xuống gần miệng nàng.

Tiểu-long-Nữ nói nho nhỏ vừa đủ nó nghe:

- Phía bên trái chiếc giường đá có một phiến đá nhỏ đó là chốt để điều khiển máy móc. Mi lên giường làm lễ ra mắt sư bá, rồi thừa cơ xoay cái nút ấy, thì tự nhiên cả cái giường này sẽ tuột xuống hầm sau. Như thế chúng ta sẽ thoát nạn, rồi sau hay.

Lý-mạc-Thu đoán Tiểu-long-Nữ đang trối trăn điều gì, nhưng nàng ỷ y một người đang hấp hối không còn bao nhiêu khí lực, một người là con nít chưa có bản lĩnh, nên khinh thường không thèm đề phòng hay ngăn cản.

Dương-Qua nghe nói mừng quá, lật đật trèo lên giường, quỳ xuống, hai tay chắp lạy Lý-mạc-Thu, miệng nói:

- Đệ tử xin chào sư bá.

Vừa nói, hắn vừa lẹ tay đẩy mạnh vào nút đá.

Cả chiếc giường đá từ từ vụt xuống sâu, đồng thời một phiến đá thật to từ trên cao rơi ầm xuống, ngăn cách chỗ thầy trò Lý-mạc-Thu và Tiểu-long-Nữ.

Trong khi chiếc giường bị tuột xuống, Tiểu-long-Nữ bị ngột hơi máu ra lênh láng, Dương-Qua cũng vì vô ý để tay chạm phải phiến đá, rách một đường, máu tuôn rất nhiều.

Khi máy ngưng chuyển động, Dương-Qua có cảm giác như chiếc giường rơi vào một phòng kín, bày trí đàng hoàng. Hắn vội bước xuống giường lấy đá quẹt lửa thắp nến soi tìm gặp Tiểu-long-Nữ nằm yên bất động, máu trào ướt cả người và cánh tay của hắn cũng đầy máu đỏ.

Không nghĩ gì đến bản thân mình, Dương-Qua chỉ sợ cho sư phụ, lật đật chạy đến hỏi nho nhỏ:

- Thưa cô nương, cô nương thấy trong người ra sao?

Trên nét mặt trắng bạch như sáp, nở một nụ cười hy vọng, Tiểu-long-Nữ nói khẽ:

- Thế là ta thoát khỏi tay độc thủ của chúng nó rồi.

Tuy nàng nói được nhưng Dương-Qua nhìn thấy máu vẫn rướm chảy bên mép, nên lo lắng vội nói:

- Thưa cô nương, nên nằm định tâm dưỡng bệnh, không nên khinh động, để máu ra mãi e nguy đến tánh mạng.

Tiểu-long-Nữ cố gắng nói:

- Ta cảm thấy mệt quá rồi, không còn sức lực để vận nội công chữa bệnh nữa. Nhưng nếu cả chúng ta đều mạnh khỏe, cũng chưa chắc chống cự nổi với thầy trò Lý-mạc-Thu đâu.

Dương-Qua nghe nói vừa buồn rầu, vừa chán nản, lòng nghi vớ vẩn bâng khuâng.

Tiểu-long-Nữ hỏi thêm:

- Mi xem chừng bệnh ta ra sao?

Dương-Qua nói:

- Cô nương để tôi thử truyền máu cho, may ra cứu vãn được.

Nói xong, nó xăn tay áo lên, lấy vạt áo lau thật sạch. Đoạn dùng dao trích một vết vào cổ tay của Tiểu-long-Nữ và áp hai vết thương vào nhau. Nhưng máu của hắn vẫn chảy ra ngoài lênh láng.

Tiểu-long-Nữ thở dài nói:

- Tiếc mi chỉ đủ sức vận động máu chạy trong cơ thể mi, chứ làm sao cung cấp cho một cơ thể khác nữa được. Thôi đừng tiếp tục vô ích, chỉ làm mất nhiều máu, có hại cho sức khỏe của mi mà thôi.

Dương-Qua cúi đầu suy nghĩ một chập bỗng reo lớn:

- Tôi nhớ rồi, bây giờ tôi làm được rồi!

Nó bỗng nhớ lại bài học của nghĩa phụ Âu-dương-Phong đã dạy khi truyền cho nó lối tập đi ngược thân. Nghĩa phụ nó có giảng rằng:

- Người đời cho lối đi ngược người của ta không đúng quy tắc vũ lâm, nên ít ai dùng đến. Nhưng biết đâu đúng, biết đâu sai? Miễn đi được đến mục đích mong muốn, đâu có cần đến phương pháp hay hoặc dở, phàm khi ta chồng ngược người để đi thì khí huyết lưu hành mãnh liệt gấp năm mười lần lúc bình thường.

Nghĩ xong, Dương-Qua quả quyết làm ngay. Hắn đảo ngược thân hình, lấy đầu làm điểm tựa, chân đứng thẳng lên trời, một tay nắm lấy cổ tay Tiểu-long-Nữ áp chặt vào vết thương của mình. Hắn hô hấp mạnh, vận dụng công lực giúp máu chạy mạnh. Bốn mắt hồi hộp nhìn nhau, chờ đợi kết quả. Bỗng đôi bên cảm thấy huyết quản hòa hợp, đôi tim cùng theo một nhịp, má Tiểu-long-Nữ đượm sinh khí, ửng đỏ dần dần, nước da lúc đầu trắng như sáp, đã qua màu san hô, đôi môi bớt tái, mắt sáng dần. Dương-Qua quên cả mệt nhọc, lòng mừng hớn hở. Hắn sung sướng quá hỏi nho nhỏ:

- Sao, cô nương thấy có khỏe được tí nào không?

Tiểu-long-Nữ mỉm cười gật đầu không đáp.

Trên phiến đá, đĩa dầu đã cạn, ngọn đèn lụn dần rồi tắt ngấm, căn phòng đã lặng chìm trong âm u yên lặng. Cả hai nín thở nghe tim cùng đập. Tiểu-long-Nữ đã luyện từ tấm bé đến mức diệt được lục dục thất tình, có đủ sức chống trả với niềm mừng vui cảm động của giờ phút này chăng?

Phần Dương-Qua, hắn không mong gì hơn lo cứu mạng sư phụ. Khi nhìn thấy kết quả, hắn mừng quá, lặng thinh không dám nói thêm gì nữa.

Bỗng Tiểu-long-Nữ bảo lớn:

- Thôi, chúng ta qua phòng Tôn Bà, ta có chuyện cần bàn cùng mi.

Dương-Qua hỏi:

- Cô nương không thấy mệt sao?

Nàng lắc đầu:

- Khá lắm rồi, không sao đâu.

Nói xong nàng đến cạnh tấm vách xoay một nút nhỏ, bỗng tấm vách từ từ nứt ra, chừa một cửa nhỏ, trước mắt có một đường dài thăm thẳm từ trước đến nay Dương-Qua không hề hay biết.

Tiểu-long-Nữ đưa tay dắt nó ra, cùng bước trên con đường ấy, không mấy chốc đã đến phòng Tôn Bà.

Vào phòng, Tiểu-long-Nữ đốt đèn, thu nhặt tất cả quần áo, của Dương-Qua bỏ vào một túi nhỏ; nhét thêm vào hai tấm lụa dệt vàng của nàng.

Dương-Qua chẳng hiểu thế nào, vội hỏi:

- Cô nương làm gì vậy?

Nàng vẫn lặng thinh không nói, đi lấy hai bình ngọc phong tương (chất tinh túy của mật ong trắng) bỏ luôn vào túi.

Dương-Qua kinh ngạc quá hỏi:

- Sao, cô nương muốn rời khỏi nơi này sao?

Tiểu-long-Nữ nhìn hắn và đáp:

- Mi quả thật có lòng tốt đối với ta, ta rất hài lòng và có lời khen mi, vậy mi có thể rời ngôi mộ này để tìm nơi khác dung thân.

Dương-Qua giật mình, hỏi:

- ủa, còn cô nương ở lại sao?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta đã phát thệ chung thân vĩnh viễn nơi đây. Sống ở Cổ-Mộ thác ở Cổ-Mộ, không hề đi nơi khác.

Thấy Tiểu-long-Nữ nói với vẻ mặt trang trọng nghiêm chỉnh, Dương-Qua đoán nàng đã quyết định một điều quan hệ, nên chẳng dám nói suy nghĩ một chập, nó chậm rãi đáp:

- Nếu cô nương không rời Cổ-Mộ, thì tôi cũng nguyện ở lại bên cạnh cô nương, ngõ hầu giúp đỡ cô nương được phần nào.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Hiện nay thầy trò Lý-mạc-Thu muốn dùng võ lực bức sách ta chiếm đoạt "Ngọc-nữ tâm-kinh". So võ nghệ thì ta còn thua sút không thể dấu để bảo vệ kinh được. Chắc mi cũng nhận thấy chứ?

Dương-Qua đáp:

- Thưa vâng.

Tiểu-long-Nữ nói tiếp:

- Lương thực hiện nay chỉ còn chi dùng nhiều lắm là vài mươi hôm? Nếu kể cả mật ong trắng nữa cũng chỉ cầm thực thêm mười hôm nữa là cùng. Sau đó mình biết giải quyết làm sao?

Dương-Qua cúi đầu suy nghĩ rồi nói:

- Vậy chúng mình cứ xông ra đánh bừa để mở đường trốn đi. Tuy không thắng được họ, chứ cũng có thể thoát thân chứ.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu đáp:

- Không thể tính liều như thế được, Lý-mạc-Thu sư bá là tay võ nghệ cao cường, nhiều mưu lắm kế, khó lòng mà trốn thoát, nếu chạy ra khỏi nơi đây, y cũng có thể đuổi theo để bắt lại, chừng đó phải mất mạng cả hai không?

Dương-Qua lại hỏi thêm:

- Như thế một mình tôi làm sao chạy thoát được?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta sẽ đấu sức một với Lý-mạc-Thu, dẫn y đi sâu vào Mộ đài, để mi thừa cơ tẩu thoát.

Dương-Qua còn đang do dự, nàng nói tiếp:

- Khi ra khỏi cửa mộ, hãy nhìn bên tay trái, phía dưới chân cửa có một tảng đá lớn nằm án ngữ. Mi dùng nội lực đẩy mạnh tảng đá ấy qua một bên, tự nhiên sẽ làm mất thăng bằng, khiến một tảng đá nặng hàng vạn cân ở trên cửa sẽ lăn xuống cắt đứt đường ra vào Cổ-Mộ.

Những ai ở bên trong sẽ vĩnh viễn không lối thoát ra ngoài nữa.

Dương-Qua hỏi:

- Ngoài cửa này ra, cô nương có biết lối liên lạc nào bí mật khác chăng?

Nàng lắc đầu đáp:

- Không có lối thoát nào nữa. Ngày xưa khi xây dựng Cổ-Mộ đài, Vương-trùng-Dương đã tiên liệu kẻ thù không đội trời chung của mình là Kim-Chúa. Thế nào cũng tìm cách đến vây đánh. Nếu gặp quân địch quá đông, không kháng cự nổi, người sẽ dùng cơ quan bí mật này để bế tắc lối ra vào và tuẫn tiết trong Cổ-Mộ, đó là ý bất khuất của người.

Nhưng suốt mười năm liền, mặc dầu Kim-Chúa nhiều lần sai quân đến bắt, cả thảy đều bị Vương-trùng-Dương phá tan hoặc bắt nhốt trong các phòng đó.

Thời gian sau, Kim-Chúa chết, người kế vị không lưu ý đến việc này, nên không bao giờ phái quân đến nữa, thành thử tảng đá vạn cân vẫn còn mãi không được sử dụng tới.

Khi giao Hoạt-tử-Nhân Mộ-đài lại cho Lâm-triều-Anh tổ sư, Vương-trùng-Dương có kể chi tiết cho Bà nghe, do đó sư bà mới biết và truyền lại.

Dương-Qua liền thức nói qua dòng lệ:

- Thưa cô nương, dù sống hay chết, tôi muốn ở mãi bên cạnh cô nương mà thôi.

Tiểu-long-Nữ an ủi:

- Theo ta làm gì nữa, có ích lợi chi đâu. Mi đã từng kể cho ta nghe bên kia có lắm cái đẹp, thú, kỳ lạ, hãy ra mà tận hưởng lấy. Ta đã truyền cho ngươi "ngọc-nữ tâm-kinh" cứ theo đó mà đào luyện thêm, chắc chắn sẽ khuất phục hết các cao thủ của Toàn-Chân phái, như thế chẳng thích hơn sao? Đã oai phong, sung sướng, được ngươi nể sợ, hưởng hết thú vui trên đời không hơn ở lại chết trong chốn này?

Dương-Qua nước mắt ràn rụa, khóc tức tưởi, tiến tới níu lấy vai áo Tiểu-long-Nữ, vừa khóc, vừa van lơn:

- Cô nương, trên đời này chỉ có cô nương là người thương yêu tôi, đối xử rất tốt cùng tôi mà thôi. Nếu không còn cô nương thì vạn sự trên đời này có nghĩa lý gì nữa đâu.

Tiểu-long-Nữ được luyện tập từ bé, dẹp bỏ được mọi tình dục, cảm xúc, lòng như nguội lạnh, nhưng trước tấm lòng chí thiết, chí tình của người đệ tử trung thành, nàng cũng cảm thấy con tim xao xuyến, hai giòng lệ từ từ lăn trên má. Khi cảm thấy lành lạnh trên mặt, Tiểu-long-Nữ thất kinh nhớ lại lời dặn của sư phụ trước giờ lâm chung:

- Mức kết quả của công phu luyện tập tựu trung nhờ vào sự thành công trong việc đoạn tình, tuyệt dục, không để ngoại cảnh chi phối lòng mình. Nếu còn để bị mềm yếu vì cảm tình, thì chẳng những bao nhiêu công phu sẽ tiêu tan mà còn có hại đến mạng sống là khác. Con phải ráng khắc cốt ghi tâm lời này, nhớ cho kỹ, con nhé!

Nhớ đến đây, Tiểu-long-Nữ như người chợt tỉnh, vội vàng vận dụng nghị lực xua đuổi hết cảm giác vừa rồi và vung tay đánh mạnh một quyền vào người Dương-Qua, nghiêm nghị bảo:

- Mi phải tuyệt đối tuân theo lời ta bảo, nhất thiết không được sai. Tại sao mi dám cưỡng lại lệnh thầy trong lúc này hử?

Dương-Qua bỗng thấy sư phụ trở nên nghiêm khắc lạnh lùng quá, chẳng dám nói nữa, chỉ cúi đầu lặng yên, lòng nó xao xuyến bồi hồi khôn tả.

Tiểu-long-Nữ trao thêm đôi giải lụa trắng, cột chặt túi vào lưng nó như người ta thắt yên ngựa, tay phải tuốt kiếm, tay trái dắt nó đi lại dần dần một bức tường, nghiêm nghị bảo:

- Khi được lệnh xuất môn, mi phải tuyệt đối thi hành ngay, lúc ra đến cửa phải xô tảng đá để vận động cơ quan đóng kín Cổ-Mộ đài như đã dặn. Lý-mạc-Thu sư bá muôn phần hiểm ác, nếu mi chậm trễ làm hỏng kế hoạch của ta thì nguy hiểm lắm, nghe chưa?

Dương-Qua miễn cưỡng cúi đầu vâng dạ, ruột rối như tơ. Tiểu-long-Nữ dặn thêm:

- Nếu mi không làm theo lời ta bảo, mai sau ta chết cũng còn oán hận mi đời đời.

Nói xong nàng nắm tay Dương-Qua dắt ra khỏi mộ. Biết bao nhiêu lần thầy trò đã nắm tay nhau, nhưng trong những lần trước, mỗi lần nắm tay Tiểu-long-Nữ thấy lạnh như băng tuyết, trái lại lần này nó cảm thấy bàn tay Tiểu-long-Nữ siết chặt tay nó và hình như có một luồng nhiệt khí chuyển qua người, sưởi ấm cả cõi lòng và nó thấy toàn thân như rung chuyển. Bỗng chốc nó thấy nhiệt độ trong người thay đổi bất thường, lúc ấm, lúc lạnh, chẳng hiểu vì sao?

Hai người cùng bước đến trước một tảng đá rồi dừng lại. Tiểu-long-Nữ khẽ dặn:

- Thầy trò Lý-mạc-Thu đang đứng phía sau kia, ta sẽ khiêu chiến cùng Lý-mạc-Thu và dụ nó đi xa dần, mi chắc phải đấu cùng Hồng-lăng-Ba, nên sử dụng Ngọc-phong-sa để chống cự với nó nhé.

Ngọc-phong-sa là một vũ khí hết sức đặc biệt, vô cùng lợi hại của phái Cổ-Mộ. Lâm-triều-Anh sở dĩ nổi tiếng là nhờ hai môn khí giới kỳ lạ: Băng-phách-ngân và Ngọc-phong-sa.

Ngọc-phong-sa là một loại kim tiêu hình lục giác đã được tôi luyện bằng nọc độc của giống ong trắng, nó tuy bé nhỏ nhưng nhờ nặng, nên có thể phóng đi rất xa và mạnh. Tầm tấn công của nó rất bao la. Tuy nhiên vì chất độc của nó rất lợi hại nên Lâm-triều-Anh chỉ sử dụng trong những trường hợp đặc biệt cần thiết mà thôi. Khi đã cao siêu, bản lĩnh đã đạt đến mức thượng thăng, bà không mấy khi sử dụng đến nữa vì xem nó như là loại ám khí.

Sở dĩ biết được bản chất, Lý-mạc-Thu ác độc, nên sư phụ Tiểu-long-Nữ chỉ dạy nàng Băng-phách-ngân châm, mà không truyền thụ Ngọc-phong-sa.

Trong lúc tâm thần rối loạn, ý chí bất định, Dương-Qua nghe lời dặn như gió thoảng qua, tự nhiên gật đầu vâng dạ, chưa nghĩ đến việc thi hành sẽ ra sao.

Dặn vừa dứt lời Tiểu-long-Nữ vận dụng thần khí, nạt lớn một tiếng, dơ chân đạp tảng đá văng đi nơi khác, rồi vung tay vung hai giải lụa trắng đột nhiên tấn công thầy trò Lý-mạc-Thu và Hồng-lăng-Ba.

Lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu đang vận công khai giải yếu huyệt cho Hồng-lăng-Ba vừa xong, căn dặn cách thức đề phòng và đưa mắt quan sát địa thế dự định dùng lực phá cửa đi ra. Không ngờ Tiểu-long-Nữ xuyên qua ngõ kín tấn công bất thình lình, khiến nàng vội vã múa phất trần thống trả mãnh liệt. Giải lụa bạch và phất trần là những vũ khí mềm dịu nhu chuyển, múa tít lên, quyện chặt lẫn nhau trông rất đẹp mắt. Mới nhìn vào thì thấy nhẹ nhàng, uyển chuyển nhưng cả hai đối thủ đã phí vào đó biết bao nhiêu công phu nội lực.

Càng nhìn thấy sự mềm dịu thướt tha và lợi hại của giải lụa bao nhiêu, Lý-mạc-Thu càng nghĩ càng căm giận sư phụ đã bất công vì thành kiến đối với mình, không truyền thụ cho những thế võ độc đáo huyền ảo như vậy.

Riêng Hồng-lăng-Ba, từ xưa đến nay vẫn tự kiêu tự đại, trên đời, ngoài sư phụ chẳng biết nể vì ai, nay bị Dương-Qua dùng kế giả điên, giả dại, gạt gẫm, điểm huyệt, nên trong lòng hậm hực vô cùng.

Vừa thấy hắn nàng gầm lên một tiếng, vung kiếm chém liền, nàng vừa xông tới vừa nghiến răng bảo:

- à thằng oắt con ranh mãnh, phen nầy cho mi nếm tài ta.

Nàng vung kiếm, tận lực chém xả vào mình Dương-Qua không chút nhân nhượng. Dương-Qua cũng muốn diễu cợt thêm mấy câu chọc giận, nhưng nhận thấy Hồng-lăng-Ba quá hung hăng, cố tình hạ sát mình, hơn nữa vì cõi lòng đang đau xót sắp phải xa lìa sư phụ thân yêu, nên nó chẳng còn bụng dạ nào tấn công, chỉ tránh né cầm chừng mà thôi.

Thấy vậy Hồng-lăng-Ba, tưởng hắn không có tài nghệ bao nhiêu, thầm nghĩ vì mình sơ ý để bị điểm nhằm yếu huyệt đến nỗi bủn rủn cả người nên lòng càng bực tức và ân hận.

Phía Lý-mạc-Thu và Tiểu-long-Nữ làn lụa bạch và bóng phất trần xoắn lại nhau, phút chốc đã trên mười hiệp bắt phân thắng bại.

Đột nhiên Lý-mạc-Thu hét lớn:

- Sư muội hãy mở mắt xem bản lĩnh của ta này.

Nói rồi nàng chuyển thế bất ngờ đảo ngược cây phất trần chặt mạnh giải lụa bạch đứt làm đôi, kể ra dùng một cây phất trần mà cắt đứt được nhung lụa, quả khí lực thần công của nàng đã thuộc hạng siêu đẳng mới làm nổi.

Nhưng Tiểu-long-Nữ vẫn điềm nhiên không chút bấn loạn và trả lời:

- Khá đấy sư tỳ cũng còn xứng đáng một đệ tử hữu hạn của phái Cổ-Mộ đài..

Nói xong, nàng dùng hai tay múa tít nhung lụa còn lại, một đầu cuốn chặt vào cán, một đầu bao quyện đầu phất trần, rồi chuyển lực xoay ngược một vòng, hai nhung lụa đã bứt gãy cây phất trần làm hai khúc.

Sự phản ứng quá mãnh liệt và bất ngờ, Lý-mạc-Thu không kịp giữ vũ khí, phải buông tay cho hai đoạn phất trần rơi xuống đất, rồi múa chưởng xông vào tấn công luôn.

Tất cả sự bực tức tập trung vào hai cánh tay chưởng lực tỏa ra hết sức mãnh liệt , chấn động cả không khi như một luông cuồng phong . Tiểu Long Nữ tự lưọng sức mình không thể thắng được nên múa giải lụa chóng đối cầm chừng và thối lui dần vào phía trong.

Lý mạc Thu thấy vậy bỏ bụng mừng thầm , nàng đâu có biết sự rút lui này đsã có dự định tính toán từ trước .

Dần dần Tiểu Long Nữ lùi sát vách tường , hai chân dậm vào một phiến đá để làm điềm tựa , đưa mắt nhìn đằng xa , thấy Dương Qua đang uể oải đánh cầm chừng với hồng Lăng Ba , nàng gọi lớn :

- Qua nhi , hãu đi cho mau .

Vừa quát , nàng tuing chân đạp mạnh vào phiến đá , tức thì vách đá tự nứt ra một đường vừa một người chui lọt .

Tiểu Long Nữ gia tăng nội lực quyết tâm cầm chân Lý mạc Thu để Dương Qua có đủ thời giờ chạy thoats nhưng thấy nó vẫn uể oải đấu cầm chừng với Hồng lăng Ba , nàng giận quá thét lên :

- Qua nhi , người không tuân lệnh ta sao .

tiếng thét vang lên như xé màn không khí âm u của Cổ Mộ đài , dư âm vong jalị trong mấy từng vách đá .

vì quá bịn rịn nên dương Qua không muón đi ngay , đưa mắt nhìn sư phụ lần chót , cõi lòng tan nát , tâm tư giao động , đường kiếm bấn loạn suýt chốc nữa đã bị Hồng Lăng Ba thích vào hông .

Hắn vộ vàng tập trung ý chí chống đỡ , nhìn thấy tiểu long nữ đang bậm môi đánh cầm chân Lý mạc Thui nên miễn cưỡng lui dần vào ngách đá .

Tiểu Long Nữ đưa mắt nhìn theo , cảm thấy thần trí nhẹ nhàng phơi phới , dường như chính nàng thoát nạn . Khi bóng Dương Qua vừa qua khỏi khe đá , nàng cảm động quá thở phảo một cái . Tâm tư xúc động , nội lực suy giảm bất ngờ , quyền thế rối loạn . Trông thấy , Lý mạc Thu rất ngạc nhiên tuy nhiên nàng không bỏ qua cơ hội gia tăng tấn công tới tấp và điểm trúng huyệt " hồi tông " khiến Tiểu long Nữ loạng choạng ngã lứn ra đất , miệng trào máu tươi . Nhìn thấy sư phụ lâm nguy , Dương Qua không còn kể gì nữa , vôtị thét lớn:

- Không được hại sư phụ ta , không được hại cô nương ta.

Hắn bất chấp hiểm nguy , tung mình phóngt hẳng vào giữa hai người , ôm choàng lấy Lý mạc Thu .

Đang thắng thế bỗng bị Dương Qua ôm chầm lấy mình , bất chấp luật lệ nguyên tài võ công , Lý mạc Thu cảm thấy nàng bàng hoàng , cả người toàn thân rung động bởi một cảm giác kỳ lạ.

Dương Qua ranh mãnh siết chặt vào nửa thân người và cọ xát vào vật sinh lý của Lý mạc Thu . nàng đỏ bừng đôi má , không biết cách nào đối phó cũng như trước kia cũng gặp trường hợp này , nàng đã để tâm trí xao xuyến đến nỗi bị chim hồng tấn công phá huỷ một mắt . Suốt bao nhiêu nắm lưu lạc giang hồ , Lý mạc Thu chưa có dịp nào bị kích thích đồng tình , lần này sự đụng chạm với Dương Qua cũng mnhư lần trước ở Giang Nam , nàng cảm thấy một cảm giác vừa mới lạ vừa thích thú , không còn tự chủ được nữa .

Sự thay đổi đột ngột này là một dịp hiếm có để tiểu Long Nữ giải nguy. Nàng tung người ngồi dậy , nhìn thấy Lý mạc Thu bị Dương Qua ôm choàng cả thân hình mà không phản ứng chống cự thì ngạc nhieen. Bỗng Hồng lăng Ba vung kiếm chém mạnh vào người Dương Qua và Lý mạc Thu khiến cả hai người lăn long lóc ra xa tránh khỏi luòng kiếm của Hồng Lăng Ba. Hồng lăng Ba chém hụt mất trớn té nhủi về phía bên kia.

Tiểu Long Nữ hét lớn:

- Dương Qua , chạy mau , chạy mau !

Dương-Qua vẫn không rời thân hình Lý-mạc-Thu, miệng đáp:

- Cô nương thoát đi. Tôi đã ôm chặt được sư bá rồi, cô nương thừa dịp thoát thân thì hơn.

Lý-mạc-Thu bỗng chợt tỉnh trí, nhận định tình hình quá nguy hiểm, thấy mình đang ở vào thế bị địch tấn công hai phía, cần phải vận công đối phó thoát khỏi đôi tay của Dương-Qua. Nhưng lạ quá, thân rạo rực, mềm nhũn, như mất cả sinh lực giữa hai cánh tay của chàng thanh niên này, không còn đủ sức điều khiển cử động của mình nữa.

Tiểu-long-Nữ hết sức ngạc nhiên vì một người bản lĩnh cao cương như sư tỷ, tại sao lại bất lực trước Dương-Qua?

Nàng đang suy nghĩ bỗng thấy Hồng-lăng-Ba múa kiếm tấn công Dương-Qua theo một thế khác. Nàng nổi nóng tự nghĩ:

- Con ranh này quả vô lễ, phải cho hắn nếm thử một đòn mới được.

Nói xong, nàng tung quyền lanh như chớp đánh vào hai cổ tay của Hồng-lăng-Ba, khiến hai lưỡi kiếm chạm mạnh vào nhau rang rảng, lửa xẹt tứ tung. Hồng-lăng-Ba cảm thấy hai tay tê liệt, vội vàng thối lui năm bước.

Làn lửa xẹt rọi sáng trong chốc lát, Lý-mạc-Thu đang nằm gọn trong lòng Dương-Qua bỗng thấy đôi mắt Tiểu-long-Nữ quắc lên một cách dị thường nhìn mình.

Nàng cảm thấy e thẹn vì cái nhìn nghi ngờ xoi bới ấy, nên vội dùng cùi chỏ thúc mạnh vào hông Dương-Qua thét lớn:

- Thằng ranh con tiểu tử, muốn chết hay sao?

Nói xong, nàng phi thân tung mình đứng lên và tấn công ngay vào Tiểu-long-Nữ.

Tự thấy mình chưa hết bệnh, không đủ sức cự đương với người sư tỷ đang hằn học vì căm hờn. Tiểu-long-Nữ thét lớn vào mặt Dương-Qua:

- Qua nhin, mi nhất định không tuân lệnh ta phải không?

Dương-Qua khẩn khoản đáp:

- Thưa cô nương, lúc nào tôi cũng tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cô nương. Nhưng lần này xin cô nương cho phép tôi trái lệnh vì tôi tha thiết muốn cùng sống chết bên cạnh cô nương mà thôi.

Nghe qua những lời nói quá ư chí thiết, Tiểu-long-Nữ cảm thấy lòng rung động bồi hồi, rồi chẳng kể đến chưởng lực như vũ bão của Lý-mạc-Thu đang ào ạt tấn công mình, phóng tới như điện xẹt đưa tay ôm ngay mình Dương-Qua rồi phi thân chạy mất.

Lý-mạc-Thu tung mình đuổi theo, miệng gọi:

- Đừng chạy, hãy dừng lại ngay.

Tiểu-long-Nữ quay mình phóng lại một mũi Ngọc-phong-sa, Lý-mạc-Thu thấy một lằn xẹt đều có thoảng mùi mật ong thơm phức thì thất kinh. Tuy chưa biết loại vũ khí này, nhưng trước đây có nghe sư phụ thường nói Ngọc-phong-sa mỗi lúc bay đi có thoát ra mùi mật ong thoáng ngửi mùi này nàng đã đoán ra sư muội dùng loại vũ khí lợi hại đó để đối phó, cho nên nàng vội vàng nhảy xuống để tránh, rồi kéo luôn Hồng-lăng-Ba phóng mình về phía sau chạy trốn.

Tức thì xung quanh có tiếng chuyển động ầm ầm, rung động cả một vùng, Tiểu-long-Nữ đã vận chuyển máy móc trong Mộ-Đài, di chuyển những tảng đá cực kỳ to lớn để che chỗ ẩn nấp.

Hai người cùng theo một đường bí mật đó ra khỏi mộ đài. Dương-Qua sung sướng quá, chạy lăng xăng theo Tiểu-long-Nữ và thưa với Tiểu-long-Nữ:

- Xin cô nương cho phép tôi vận chuyển khối đá khổng lồ môn Cổ-Mộ để chôn sống thầy trò nữ đạo cô này cho rồi.

Vừa nói xong, hắn loay hoay tìm chốt, nhưng Tiểu-long-Nữ khoác tay bảo:

- Khoan, hãy chờ ta vào trong trước đã.

Dương-Qua kinh hãi trố mắt nhìn nàng, ấp úng hỏi:

- Cô nương bảo sao?

Tiểu-long-Nữ điềm nhiên giải thích:

- Khi sư phụ truyền ngôi mộ này cho ta, người đã căn dặn sống chết phải vĩnh viễn ở đây không bao giờ được bỏ đi hay truyền lại cho người khác.

Dương-Qua nói:

- Nhưng ta đã lấp ngõ rồi. Họ ở trong ấy sẽ chết nay mai có gì đáng quan tâm đâu mà cô nương e ngại.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta phải trở vào, sống chết ở trong mộ theo lời của sư phụ, không phải như mi được.

Nói rồi nàng buồn rầu nhìn ngay mặt Dương-Qua.

Dương-Qua đau đớn nắm hai tay sư phụ chậm rãi tha thiết nói:

- Thưa cô nương, lời nói của cô nương quả chí lý.

Nói rồi nó buồn rầu nhìn nàng mãi. Tay trong tay, nàng cảm thấy sóng lòng dào dạt, cố nén sự rung cảm của con tim trong giây phút trước giờ biệt ly.

Nhưng nàng bỗng cố gắng nén ngăn tình cảm, rút vội tay ra, chạy vụt vào Cổ-Mộ và hét lớn:

- Mi hãy hạ đá lấp kín lối vào! Mau lên, hạ gấp đi, đừng do dự nữa.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 18 : Bí mật của Thạch Thất một lối thoát thân

Dương-Qua bàng hoàng đứng yên như tượng đá. Hắn hít một hơi dài, cố thu hết nghị lực để hành động. Mùi hoa rừng ngào ngạt thong qua mũi làm Dương-Qua ngây ngất. Hắn đưa mắt nhìn trời, thấy những vì sao nhấp nháy, lẩm bẩm:

- Lần chót mình nhìn sao tại nơi đây.

Rồi hắn quả quyết chạy qua phía trái, đến chân tấm bia đá trước cửa Mộ, đưa tay sờ soạng tìm chốt đá tròn. Tìm thấy rồi, hắn vận dụng nội lực đưa tay đẩy mạnh làm bật tung chốt ấy ra. Tức thì một luồng cát nhỏ từ lỗ ấy phục ra như vòi nước. Bên trên tảng đá vạn cân bắt đầu chuyển động.

Ngày xưa, lúc kiến thiết cửa Mộ Đài, Vương-trùng-Dương đã vận dụng nội lực, phi thường, đưa tảng đá nặng bằng sức hàng mấy trăm người lên bệ cao, ăn liền bên trong bằng một lỗ hổng có chứa đầy cát nhỏ, dùng chốt đá bịt lại, khi chốt đá bật ra, cát trong tảng đá sẽ mất thăng bằng rơi xuống án ngữ lối ra vào Cổ Mộ.

Vì sức ép của tảng đá quá nặng, đẩy cát trào ra mạnh quá, sức chuyển động ầm ầm.

Nghe từng đá chuyển, Tiểu-long-Nữ biết giờ phút chia ly đã đến, nàng đưa mắt đầy lệ nhìn theo bóng dáng đứa học trò thân yêu, con tim chan chứa tình cm thấm thía dạt dào.

Nhưng bỗng dưng nàng thét lên một tiếng vì ngạc nhiên và kinh khủng!

Khi tảng cự thạch rơi xuống gần đến mặt đất, thình lình Dương-Qua phi thân phóng qua khe hở như một bóng mờ. Chỉ chậm một tý là thân hình hắn bị sức đá đè ép nát như cám.

Vừa thoát khỏi tảng đá, Dưng-Qua vội thưa:

- Thưa cô nương, chắc bây giờ Cô nương không còn nỡ đuổi xua tôi đi nữa.

Tiểu-long-Nữ bồi hồi cảm động, đứng lặng yên một chập rồi nói:

- Thôi, định mệnh đã khiến thì càng hay. Chúng ta chung chết nơi đây vậy.

Nói xong, nàng nắm tay Dương-Qua đi vào phía trong.

Lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu và Hồng-lăng-Ba đang loay hoay tìm lối thoát trong nội thất nhưng chưa có. Bỗng nghe tiếng nói của Tiểu-long-Nữ, nàng mừng quá vội nhìn ra thì Tiểu-long-Nữ đã đến trước mặt điềm nhiên nói:

- Sư tỳ hãy theo tôi vào đây.

Lý-mạc-Thu nghe nói, nghĩ thầm:

- Không biết hắn đưa mình đi đâu đây. Tại nơi này đầy dãy các máy móc và cạm bẫy, vô ý mộ chút là mất mạng ngay. Nếu hắn cố hại mình làm sao tránh nổi.

Tiểu-long-Nữ không chờ Lý-mạc-Thu tr lời đã nói tiếp:

- Tôi sẽ đưa sư tỷ vào bái kiến linh cữu sư phụ. Dẫu sư tỷ không muốn cũng không thể được.

Lý-mạc-Thu nói:

- Thôi, người đừng hòng đem sư phụ ra để dọa nạt hay gạt gẫm ta nữa.

Tiểu-long-Nữ không đáp, chỉ mỉm cười rồi lẳng lặng đi trước dẫn đường.

Thấy thái độ của Tiểu-long-Nữ nghiêm trang, lời lẽ đứng đắn không thể không nghe, nên thầy trò Lý-mạc-Thu phi lặng lẽ bước theo nhưng trong lòng vẫn lo âu, luôn luôn chú ý đề phòng.

Tiểu-long-Nữ điềm nhiên dắt Dương-Qua đi trước hình như không mảy may lo ngại có thể bị thày trò Lý-mạc-Thu tấn công thình lình vào sau lưng.

Một chập sau mọi người đã đến phòng đá, nơi quàng linh cửu các bậc tiền bối.

Lý-mạc-Thu vốn một lòng kính mến sư phu. Nhưng từ trước đến nay chưa bao giờ nàng được phép đặt chân đến căn nhà táng này, nay được Tiểu-long-Nữ đưa đến, bỗng nàng có ý nghĩ căm hờn oán trách sư phụ đã xem thường mình và trọng tin Tiểu-long-Nữ.

Nàng hằm hằm nói lớn:

- Tình thầy trò giữa ta và sư phụ đã cắt đứt từ lâu. Ngày nay ngươi còn muốn đưa ta đến đây để làm gì nữa?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Sư tỷ, tại đây còn hai chiếc quan tài do sư phụ dành lại cho tôi và sư tỷ. Vậy tùy ý sư tỷ lựa chọn một cái.

Rồi nàng đưa tay chỉ vào hai chiếc quan tài đặt vào cuối phòng.

Lý-mạc-Thu nổi nóng nạt lớn:

- Tiện tỳ quá lớn gan dám đùa cợt cùng ta lúc này?

Vừa nói, nàng tung ra một chưởng lực vào người Tiểu-long-Nữ nhưng vì trong phòng tối, mắt nàng lại chột, trong lúc nóng nảy bộp chộp, chưởng nàng đã đi trật mục tiêu. Tiểu-long-Nữ vẫn bình tĩnh nói:

- Sư tỳ đừng nóng nảy lúc này vô ích.

Lý-mạc-Thu trợn mắt hỏi:

- Vì sao?

Nàng mỉm cười đáp:

- Vì lối ra vào của Cổ Mộ đã bị đoạn Long-thạch án ngữ mất rồi, chúng ta vĩnh viễn bị nhốt nơi đây không còn lối thoát.

Lý-mạc-Thu điếng hồn, mặt mày tái mét, tất cả sự giẫn dự tiêu tan, nhường chỗ cho nỗi lo âu sợ sệt.

Tuy chưa hiểu rõ hết các cơ cấu trong Cổ Mộ đài, nhưng Lý-mạc-Thu cũng hiểu rõ được phần nào về đoạn Long-thạch.

Khi đã dùng đoạn Long-thạch thật đã gặp phi bước đường cùng. Nàng suy nghĩ không hiểu tại sao đã có Ngọc-phong-sa trong tay mà Tiểu-long-Nữ còn dùng đến biện pháp tuyệt vọng này di chuyển đoạn Long-thạch bế tắc Cổ Mộ đài mà chôn sống cả bốn mạng nơi đây?

Nàng ngước mặt hỏi gằn Tiểu-long-Nữ:

- Thế Sư muội còn biết có lối nào khác nữa không?

Tiểu-long-Nữ bình thản đáp:

- Hết rồi! Sư tỷ cũng thừa hiểu một khi đoạn Long-thạch đã rơi, Mộ Đài với thế giới bên ngoài đã vĩnh viễn biến thành hai vũ trụ riêng biệt.

Quá thất vọng, Lý-mạc-Thu túm lấy áo Tiểu-long-Nữ quát lớn:

- Ngưi đã nói láo để lừa dối ta!

Trước vẻ hốt hong của người sư tỷ đã cao niên vẫn còn thiết tha với câu tham sanh úy tử, Tiểu-long-Nữ vẫn điềm tĩnh làm thinh không trả lời.

Trông thấy thái độ của nàng như thế, Lý-mạc-Thu càng bấn loạn và tâm thần vì thấu hiểu Tiểu-long-Nữ đã nói thật.

Quá tuyệt vọng nàng mím môi nói:

- Như thế, thày trò ngươi phải chết trước.

Nói xong nàng vận dụng nội công vào bàn tay phóng một chưởng vào người Tiểu-long-Nữ mạnh như sấm sét.

Dưng-Qua lập tức phi thân xông vào, xô sư phụ lệch qua một bên thoát khỏi chưởng lực của Lý-mạc-Thu, miệng thét lớn:

- Không được hạ sát cô nương tôi, hãy giết tôi trước đã.

Nói xong, hắn đứng chắn giữa hai người, tay buông thẳng sau lưng, ngực ưỡn ra trước đầy vẻ kiêu hùng, mắt hiên ngang nhìn thẳng vào mặt Lý-mạc-Thu như chờ đợi cái chết không chút sợ sệt.

Lý-mạc-Thu ngừng tay cười nhạt:

- à, thằng oắt con, mày hết lòng bảo vệ cô nưng mày đến thế sao? Nếu mày thật tâm muôn chết thay cô nương mày thì hãy nói lớn lên cho ta nghe nào?

Nàng vừa nói vừa xòe bàn tay đã nổi danh Xích luyện thần chưởng, mắt mở lớn nhìn sững vào Dưng-Qua như thúc giục trả lời gấp.

Dưng-Qua vẫn bình tĩnh tĩnh đáp:

- Ta quyết thế, ngươi cứ giết đi.

Lý-mạc-Thu thấy chồn tay trước thái độ quá kiêu hùng của Dương-Qua liền dừng tay lại, rồi đưa mắt nhìn thấy thanh trường kiếm còn cài bên lưng, liền túm lấy hắn nạt lớn:

- Ta cho mi biết, ta chẳng cần giết cả hai, mà chỉ giết một đứa thôi. Vậy tùy ý mi muốn ta giết mi hay Tiểu-long-Nữ, cứ lựa chọn đi, và trả lời gấp.

Dưng-Qua chẳng thèm trả lời, đôi mắt đăm đắm nhìn về phía Tiểu-long-Nữ đầy vẻ luyến ái hình như bất chấp cả lời dọa nạt của con người đa sát Xích-luyện tiên-tử. Trước mối tình thâm nghĩa trọng, gắn bó như keo sơn, dù kiếm sắt hay thần chưởng cũng không nghĩa lý gì nữa.

Lý-mạc-Thu vứt kiếm xuống đất thở dài chép miệng nói:

- Sư muôi, đến nay sư muội đã được giải lời phát thệ ngày xưa trước sư phụ, giờ phút này sư muội có quyền tự ý thoát ly khỏi Mộ-Đài này.

Tiểu-long-Nữ và Dưng-Qua ng ngác nhìn nhau chẳng hiểu nàng muốn nói gì.

Nguyên trước kia Lâm-triều-Anh hãm mình trong ngôi Cổ-Mộ này là vì giữa nàng và Vương-trùng-Dương có một mối tình ngang trái. Nàng đã đem lòng yêu mến con người thanh niên tài ba kia với một mối tình tuyệt vọng mà không bao giờ gột rửa được. Vì vậy nên nàng đã định ra một quy tắc bất khả di dịch cho tất cả nữ đệ tử nào đã khoác áo sư môn trú ngụ tại Cổ-Mộ đài, phải chung thân không được rời khỏi Chung-Nam sơn, chỉ trừ một trường hợp nếu có một chàng trai nào tình nguyện chết thay cho mình, thì lời nguyện này mới giải được.

Sở dĩ Lâm-triều-Anh đặt thêm ngoại lệ này vì nàng nghĩ trong giới mày râu, nhất định không có một kẻ nào thật tình chung thủy đến nỗi tình nguyện thế mạng cho người mình yêu. Như thế dẫu có đặt lệ nhưng chắc không thể nào xảy ra được.

Chính bản thân của Lý-mạc-Thu không dám phát lệ vì nàng cũng không thể tin được bọn nam nhi, và trong đời tình ái của nàng vẫn còn một vết đen ghi sâu trong tâm khảm mà lúc nào nàng cũng muốn lấy máu để gột rửa cho xong.

Ngày nay chính tai Lý-mạc-Thu đã nghe Dương-Qua tự nguyện chết thay cho Tiểu-long-Nữ, nàng cũng hết sức ngạc nhiên, và bồi hồi cảm kích. Tuy nhiên những lời này không khỏi ghi vào lòng nàng một sự xót xa thấm thía lúc nghĩ đến số phận hẩm hiu giữa mình và Lục-triển-Nguyên.

Nàng chép miệng nói:

- Sư muội, quả em là con người tốt phước!

Nói xong, nàng như điên cuồng không còn suy nghĩ gì nữa thích mạnh mũi kiếm vào cổ Dương-Qua.

Tiểu-long-Nữ vội vung tay phóng ngay một ngọn Ngọc-phong-sa để cứu nguy cho đệ tử. Lưỡi gươm bị Ngọc-phong-sa chạm vào đánh xoảng một tiếng lớn, rơi ngay xuống đất.

Lý-mạc-Thu vội nằm xoài ra để tránh ám khí. Tiểu-long-Nữ đưa tay kéo Dương-Qua phi thân phóng về phía trước và ngoái đầu lại nói:

- Sư tỷ, lời thệ của tôi có thể giải được hay không giờ phút này không còn nghĩa lý gì nữa đâu. Đoạn Long-thạch đã bế kín Mộ-Đài, trước sau gì cả bốn người chúng ta đều phải chết cả. Để khỏi làm bận lòng nhau, chúng ta tìm mỗi người một nơi riêng chết cho yên thân tốt hơn.

Nói xong nàng đưa tay bấm vào một chiếc nút bí mật, một tảng đá trên cao rơi đánh sầm xuống, ngăn cách mỗi cặp một nơi.

Trải qua những giây phút quá mệt nhọc về thể xác và bấn loạn về tinh thần, Tiểu-long-Nữ cảm thấy tứ chi rũ rượi đi hết nổi. Dương-Qua phải dìu nàng đi chầm chậm đến phòng Tôn-Bà để dưỡng sức. Đặt nàng nằm trên giường, rồi Dương-Qua tìm hai cái ly rót đầy mật ong trắng, nâng đầu sư phụ để nàng uống một ly, còn một ly tự mình uống cạn.

Tiểu-long-Nữ cảm thấy thần trí mênh mang như trải qua cơn ác mộng, nàng nhìn Dương-Qua chậm rãi hỏi:

- Qua nhi, tại sao mi nhất tâm ở lại cùng chết theo ta?

Dương-Qua chắp tay lễ phép đáp:

- Thưa cô nương, trong đời tôi chỉ còn một mình cô nương là người chăm nom tôi, đối xử rất tốt với tôi, nên tôi không ngần ngại gì để chết thay cô nương.

Tiểu-long-Nữ gật đầu hỏi thêm:

- Mi nghĩ cũng phải. Tuy nhiên ở chốn đây rồi ai cũng phải chết, chỉ khác là kẻ trước người sau mà thôi. Thiết tưởng không cần phải tìm để giết nhau làm gì vô ích.

Dương-Qua hỏi:

- Tại sao chúng ta không thể tìm một lối nào để thoát ra ngoài Cổ Mộ được hay sao?

Tiểu-long-Nữ buồn rầu đáp:

- Cổ Mộ đài kiến trúc vô cùng kỳ diệu. Khi đoạn Long-thạch đã rơi, mối liên lạc với thế giới bên ngoài đã chấm dứt. Ta đã bảo như thế, mi đừng nghĩ đến việc thoát thân vô ích.

Dương-Qua lặng thinh thở dài.

Tiểu-long-Nữ hỏi ngay:

- Bây giờ mi nghĩ lại và hối hận việc đã làm phải không?

- Thưa cô nương, được ở bên cạnh cô nương tôi không còn thiết đến việc gì nữa. Với cô nương, chắc chắn trên thế gian này không còn một thứ gì còn có thể cám dỗ tôi được nữa.

Nghe Dương-Qua thốt ra lời chót, Tiểu-long-Nữ bỗng thấy cõi lòng thơ thới hân hoan như nhấp phải ly rượu nồng. Một luồng khí nóng từ từ bốc lên làm ửng hồng đôi má. Nàng nhìn nó và hỏi thêm:

- Nhưng tại sao mi thở dài?

Dương-Qua đáp:

- Thiết nghĩ giá cả hai chúng mình đều hạ sơn, với cô nương bên cạnh, tôi sẽ đưa đi khắp những nơi sơn thủy hữu tình, nếm những cái đẹp thiên nhiên của tạo hóa, chẳng thú vị lắm sao? Với bản lãnh của cô nương, trên đời này dễ mấy ai dám hà hiếp hay khinh rẻ mình được.

Từ bé đến lớn chỉ sống trong Cổ-Mộ đài, chưa hề hiểu biết mảy may bên ngoài, ngày nay nghe Dương-Qua kể, như thế, Tiểu-long-Nữ cũng suy nghĩ cảm thấy lòng hiếu kỳ rạo rực, muốn được dạo xem cho biết một phen.

Nghĩ đến đây, bất giác nàng cảm thấy trong huyết quản máu nóng chạy rần rật, tim đập mạnh, lòng nôn nao không hề kìm giữ được sự bình thản như ngày xưa. Nàng đoán đó là một hiện tượng suy yếu của tinh thần và cơ thể và nàng bỗng quên mất rằng trong cơ thể mình hiện nay đã chứa đựng một phần lớn nhiệt huyết của Dương-Qua. Hai chất máu, hai bản tính hàn nhiệt khác nhau, há dễ trong phút chốc có thể hòa hợp được dễ dàng không gây phản ứng cho cơ thể được!

Nàng vội lại nằm trên giường, tập trung ý chí, vận dụng nội công để điều hành sinh lực, nhưng vẫn không hiệu quả. Nhiệt độ trong người nàng bỗng tăng giảm bất thường, hơi thở không được tự nhiên nữa. Nàng bỏ giường đứng dậy đi qua lại nhiều bận trong phòng, nhưng vẫn chưa thấy lại sự yên tịnh.

Nhìn thấy sắc diện thay đổi của sư phụ, Dương-Qua hỏi:

- Thưa cô nương, cô nương thấy trong người có gì khó chịu hay sao?

Tiểu-long-Nữ không đáp, nhìn hắn một chập và khẽ bảo:

- Mi hãy lại gần đây.

Dương-Qua đoán tưởng sư phụ muốn nhờ mình xem thử nhiệt độ nên vội đến bên cạnh giường. Tiểu-long-Nữ nắm chặt tay nó áp vào má mình.

Dương-Qua ngạc nhiên vội hỏi:

- Sao cô nương nóng như thế này? Cô nương bị sốt chăng?

Tiểu-long-Nữ cười đáp:

- Không hề chi đâu, mi đừng lo. Và nàng hỏi tiếp:

- Dương-Qua, hỏi thật nhé! Mi thật lòng thương ta không?

Dương-Qua nhìn nàng thành thật đáp:

- Cô nương xem, trên đời tôi, ngoài cô nương ra còn có ai là người thân yêu nữa, tôi không thương cô nương thì còn thương ai chứ.

Nàng hỏi tiếp:

- Nếu sau này có một người con gái khác cũng tỏ lòng thương mi, thì mi có thương người ta không?

Dương-Qua ngây thơ đáp:

- Ai đối xử thành thật tốt với mình, thì mình cũng phải tốt với họ chứ.

Tiểu-long-Nữ biến sắc, mặt lợt lạt, buông tay Dương-Qua, rồi mới run run nói xẵng:

- Nếu mi còn thương một người con gái khác thì đừng nói đến chuyện thương ta nữa, nghe chưa?

Dương-Qua ngạc nhiên, nhưng bỗng hắn bật cười nói:

- Cô nương không nhớ chỉ còn vài hôm nữa cả hai ta đều chết cả, như thế còn có gái nào có thể lọt vào chốn này nữa mà hòng suy nghĩ cho bận tâm?

Câu nói đó đã đưa Tiểu-long-Nữ trở về với thực tế. Nhìn thấy vẻ mặt thành thực ngây thơ của Dương-Qua, nàng cũng bật cười rồi vui vẻ nói:

- ừ nhỉ, ta chỉ mơ sảng, nghĩ bậy và ăn nói hồ đồ quá! Nhưng sở dĩ ta hỏi như thế là vì lòng ta muốn chính miệng mi thốt ra lời thề mà thôi.

Dương-Qua ngơ ngác hỏi:

- Thưa cô nương, thề như thế nào?

Tiểu-long-Nữ bình sanh chất phác, nghĩ sao nói vậy, không có tánh e thẹn như phụ nữ khác, dẫu là chuyện tình cảm của lòng mình. Nàng đáp:

- Ta muốn mi thề suốt đời chỉ thương một mình ta, ngoài ra không thương một người đàn bà nào khác nữa. Nếu làm trái lời thề sẽ mất mạng ngay.

Dương-Qua ngoan ngoãn quỳ xuống chắp tay trịnh trọng thề:

- Đệ tử Dương-Qua xin thề suốt đời một dạ mến yêu cô nương. Nếu sau này tôi thay đổi, chẳng những cô nương sẽ tự tay giết tôi mà khi nhìn thấy mặt cô nương tôi cũng phải tự kết liễu mạng mình không chút ân hận.

Nghe lời thề như cởi mở tấm lòng, Tiểu-long-Nữ thấy tâm hồn hân hoan thơ thới vui vẻ nói:

- Mi thật quả hết lòng cùng ta. Lời thề của mi đã khiến ta hết sức vui mừng được người tri kỷ.

Nói rồi nàng nắm chặt tay Dương-Qua. Lần này bàn tay nàng không giá lạnh như trước. Dương-Qua cảm thấy một nguồn nhiệt khí ấm áp từ người Tiểu-long-Nữ dồn vào mình. Nó chỉ đứng lặng yên, sung sướng.

Tiểu-long-Nữ bảo nhỏ nó:

- Ta thật không phải với mi, ta đã nghi ngờ và có những cử chỉ thiếu đứng đắn đối với mi. Thôi đừng buồn nhé.

Dương-Qua lật đật cãi lại:

- ồ, cô nương, sao lại nói thế? Cô nương đối với tôi hết sức tử tế. Trên đời này chỉ có cô nương là người mến thương tôi mà thôi, không bao giờ tôi có ý gì hờn giận cô nương đâu.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Trước đây ta có nhiều lần không tốt với mi. Chính ta đã phản đối không cho Tôn-Bà nuôi mi và ra lệnh đuổi mi ra khỏi Cổ-Mộ đài. Nếu ta tử tế với mi, không đến nỗi Tôn-Bà phải bỏ mạng.

Nói đến đây nàng cảm thấy tâm tư xúc động, sụt sùi nhỏ lệ. Niềm hối hận lẫn tình cảm dạt dào xâm chiếm lòng nàng, bất giác khiến Tiểu-long-Nữ ôm mặt khóc nức nở như một đứa trẻ ngây thơ, vừa khóc vừa cảm thấy mừng vui lẫn lộn. Đây là trường hợp chưa bao giờ xảy ra trong đời Tiểu-long-Nữ. Nàng đã được đào luyện từ tấm bé, khắc khổ chống lại với mọi tình cảm, buồn vui, đã trở nên hững hờ lạnh lùng trước mọi việc, không ngờ lúc này, nguồn rung cảm đã thắng, khiến nàng trở nên mềm yếu cũng như trăm ngàn nhi nữ khác.

Dương-Qua nhìn nàng khóc nức nở, bỗng ngạc nhiên vừa sợ sệt, vội gọi:

- ủa, cô nương, cô nương.

Vừa lúc ấy có tiếng đá rung động và cả tấm tường bên cạnh bị đổ nhào xuống, hai thày trò Lý-mạc-Thu hiện sừng sững trước mặt .

Nguyên sau khi bị tấm đá ngăn cách và giam hãm trong Cổ-Mộ đài, Lý-mạc-Thu cảm thấy đời mình sắp kết liễu vì đoạn Long-thạch đã rơi. Nhưng trước giờ chết, một ý chí ham sống bỗng vùng lên mãnh liệt nàng cố sức tìm lối thoát thân, mặc dầu nàng thừa rõ nơi đây tàng trữ đầy máy móc bí hiểm giết người như chơi.

Sau khi lồng lộng đi tìm khắp nơi không ra cơ cấu vận động máy móc, tìm chỗ ra, cả hai thầy trò cùng hợp lực thí triển nội ngoại thần công xô ngã được tấm đá án ngữ trước cửa.

Dương-Qua thất kinh nhúm mình phóng ra đứng chận ngay trước mặt Lý-mạc-Thu vì sợ nàng ám hại sư phụ. Nó thét lớn:

- Ngươi còn muốn gì nữa chứ?

Lý-mạc-Thu đáp:

- Ta có câu chuyện muốn nói cùng sư phụ mi.

Dương-Qua lắc đầu nói:

- Làm sao có thể tin nổi bụng dạ lật lường của ngươi được?

Lý-mạc-Thu nhìn nó, lắc đầu, chậm rãi nói:

- Thật ra ít có một nam tử như mi.

Nghe câu ấy, Tiểu-long-Nữ bước lại gần hỏi:

- Thế nào? Sư tỷ nói sao? Sư tỷ cho hắn tốt hay xấu?

Lý-mạc-Thu đáp:

Sư muội sinh trưởng nơi đây, từ bé đến lớn chưa hề rời khỏi nơi đây, nên chưa hiểu rõ bọn nam tử trên đời toàn là hạng dối trá lừa bịp, luôn luôn tìm cách phụ bạc mà thôi. Quả sư muội rất tốt số nên đã gặp một người như Dương-Qua, thật là tình thâm nghĩa trọng. Trên gầm trời dễ đâu tìm được người thứ hai như hắn.

Sở dĩ vì bị Lục-triển-Nguyễn phụ bạc, Lý-mạc-Thu đâm ra chán đời, ngờ vực tình yêu của mọi người rồi vì thành kiến ấy, nàng đã cho rằng tất cả đàn ông đều phụ bạc, mà nhận xét quá khắt khe, thật ra đàn ông có tình cảm như Dương-Qua đâu là khó kiếm.

Tiểu-long-Nữ nghe nói như uống được ly rượu nồng, cảm thấy hân hoan vô tả, nàng vui vẻ nói:

- Kể ra nếu có một người bạn trai hết dạ yêu thương mình thì cuộc đời đáng sống lắm chứ.

Lý-mạc-Thu bỗng nghiêm nghị hỏi:

- Này sư muội, ta hỏi thật, tuy hơi đường đột, nhưng sư muội đừng giấu nhé! Sư muội có dự định lấy hắn làm chồng không?

Tiểu-long-Nữ điềm nhiên nói:

- Không đâu! Nó là đệ tử của tôi, nó hết dạ mến thương tôi, còn tôi đối với nó ra sao, chưa rõ lắm.

Lý-mạc-Thu cười gằn nói:

- Ta không tin được, lửa gần rơm thế nào lâu ngày không cháy được. Vừa nói nàng chợt đưa tay xé toạt chiếc xiêm của Tiểu-long-Nữ. Bất ngờ không né kịp, Tiểu-long-Nữ bị xé rách một mảnh lụa, lộ cánh tay trắng như tuyết, trên ấy có một dấu son đỏ hồng. Vết điểm thủ cung sa đã nói ra sự thật, chứng minh và bào chữa hùng hồn nhất cho Tiểu-long-Nữ. Bất kỳ trường hợp nào, khi người con gái bị thất trinh thì vết son này tan mất ngay.

Nhìn vết thủ cung sa đỏ ửng trên làn da trắng, Lý-mạc-Thu vừa ngạc nhiên vừa thán phục. Nàng không ngờ Tiểu-long-Nữ vẫn giữ được lòng trinh trắng mặc dầu sống chung với một chàng thanh niên tuấn tú hết dạ yêu mình trong cảnh thâm u hiu quạnh của Cổ-Mộ đài.

Quả là một chuyện phi thường mà nàng không ngờ có thể được.

Lý-mạc-Thu chỉ biết thở dài và nín thinh.

Tiểu-long-Nữ đâu đoán được thâm ý của người sư tỷ, nàng ngây thơ hỏi:

- Sao, sư tỳ muốn nói điều gì với tôi.

Trước đây Lý-mạc-Thu dự định tìm bắt quả tang sự tư tình giữa Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ để vạch mặt chỉ tên, mắng chửi một trận là gái trắc nết dẫn trai vào Cổ-Mộ làm điều ô uế, loạn luân để rồi tìm lý lẽ trục xuất ra khốn này. Nhưng khi nhìn thấy chứng cớ lòng trinh trắng của người sư muội, Lý-mạc-Thu ngẩn người và lúng túng chẳng biết nói năng làm sao.

Khi nghe Tiểu-long-Nữ hỏi, nàng vội tìm lời nói quanh:

- Ta dự định hỏi sư muội để ta cùng theo sư muội.

Tiểu-long-Nữ đâu có lạ gì tánh tự kiêu tự đại của Lý-mạc-Thu nữa. Ngày nay tự nhiên thấy nàng hạ mình xin một chuyện như vậy làm sao tin được.

Nàng đáp:

- Giữa hai ta ai lo phận nấy. Sư tỷ cứ liệu lấy công việc của mình cho xong, phần tôi, tôi không cần thiết điều gì nữa.

Lý-mạc-Thu mỉm cười, mỉa mai:

- Ta thừa hiểu ý sư muội lắm! Phải, người đời nói thế mà đúng, tìm của thì dễ, tìm bạn mới khó. Ngày nay sư muội đã có chàng bên cạnh, còn thiếu thốn đòi hỏi gì nữa đâu?

Tiểu-long-Nữ vốn thật thà, chưa hiểu thâm ý mỉa mai của Lý-mạc-Thu, trả lời:

- Vâng, tôi hiểu rõ và chắc chắn điều đó. Hắn luôn luôn ở cạnh tôi và suốt đời không bao giờ xa tôi nữa.

Lý-mạc-Thu lại tiếp lời chua chát hơn:

- ồ, cả cặp cứ đưa nhau xuống núi, vui thú giang hồ, rầy đây mai đó, thì có gì hạnh phúc cho bằng.

Tiểu-long-Nữ tình thật trả lời:

- Vâng, nhưng ngay bây giờ chưa được.

Lý-mạc-Thu ngang nhiên hỏi:

- Vì sao vậy?

Tiểu-long-Nữ cười đáp:

- Sư tỷ há không nhớ đoạn Long-thạch đã rơi rồi sao? Một khi Cổ-Mộ đã bị cắt đứt lối ra vào, dù sư phụ tái sanh cũng đành khoanh tay, không tài nào ra ngoài được nữa.

Lý-mạc-Thu thất vọng đứng lặng yên. Thì ra thâm tâm của nàng cố đem những ảo ảnh hạnh phúc bên ngoài câu Tiểu-long-Nữ, may ra nàng ham thích có bộc lộ ra lối thoát thân tìm đường sinh lộ. Nhưng khi nghe Tiểu-long-Nữ thành thật trả lời, nàng cảm thấy như một gáo nước lạnh dội trên đầu, càng nghĩ càng căm hờn không thể dằn được.

Thình lình Lý-mạc-Thu vung đôi xích huyền thần chưởng đánh vãi vào đầu Tiểu-long-Nữ cho hả giận.

Dương-Qua từ nãy giờ vẫn chú tâm theo dõi sự đối đáp giữa hai người. Nhìn thấy cặp mắt Lý-mạc-Thu trợn trừng như tóc hào quang, mặt đầy sát khí, hắn đã đoán trước thế nào sư bá cũng hạ độc thủ nên hết sức đề phòng cho sư phụ.

Khi vừa thấy Lý-mạc-Thu chuyển động song chưởng, Dương-Qua vội vàng thu mình ngồi xổm xuống, tập trung gân lực theo đúng thế võ "Hàm mô công" của Âu-dương-Phong đã truyền thụ, miệng kêu "cum, cum, cum", tung chưởng lực dội ngay vào mình Lý-mạc-Thu đánh bật nàng dội lên cao và rơi xuống đất.

Vì thiếu đề phòng, bị phải thế võ bất ngờ độc ác, Lý-mạc-Thu cảm thấy toàn thân rung động, ngực tức, đầu óc hoang mang. Vừa lồm cồm đứng dậy, nàng tung thẳng xích luyện thần chưởng nhắm vào người Dương-Qua để kết liễu sang mạng thằng oắt con đáng ghét ấy.

Nếu đòn này trúng phải thì thân hình Dương-Qua phải dập nát không sống nổi. Nhưng đúng vừa lúc ấy, Lý-mạc-Thu cảm thấy một luồng kinh lực đột nhập vào nội tạng, toàn thân bủn rủn, đầu óc choáng váng, hai tai ù ù như nghe sấm động. Thì ra nàng đã bị Tiểu-long-Nữ lần đầu tiên vận dụng ngón kỳ diệu trong "Ngọc-nữ tâm-kinh" đột kích.

Tiểu-long-Nữ nhìn thấy sư tỷ xửng vửng, mặt mày ngơ ngác như kẻ mất hồn, bỗng cười lớn và nói:

- Bây giờ sư tỷ chắc đã hiểu rõ uy lực của "ngọc-nữ tâm-kinh" rồi chứ? ít ra võ thuật này cũng phải có điểm khác đời phải không sư tỷ?

Nghe nói đến Ngọc-nữ tâm-kinh, Lý-mạc-Thu bàng hoàng cả người, vội đưa tay rờ lên màng tai thấy không còn đau nhức nữa. Toàn thân mỏi mệt như thế nào và đánh trúng nơi đâu, suy nghĩ mãi chẳng biết tư thế của ngọc-nữ tâm-kinh xuất phát ra sao nữa.

Nàng ngẩn người, tái mặt, nhìn trân trân bất động, trong lúc đó Tiểu-long-Nữ ung dung cầm tay Dương-Qua dắt qua phòng bên.

Lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu mới định thần, lau mồ hôi trán và lẩm bẩm:

- Cũng may con bé bị giao động tinh thần, nội lực phân tán bớt, chứ nếu nó sung sức như lúc bình thường thì ta dễ mất mạng như chơi.

Dương-Qua bước theo sư phụ, nghĩ đến ngón đòn Tiểu-long-Nữ vừa khắc phục Lý-mạc-Thu, hắn rất khoái chí, vừa cười vừa hỏi:

- Thưa cô nương, ngón đòn vừa rồi tài tình quá! Có lẽ chưa một võ thuật nào vượt nổi "Ngọc-nữ tâm-kinh" phải không cô nương?

Nhưng hắn vừa nói dứt câu bỗng thấy Tiểu-long-Nữ toàn thân run rẩy như bị trúng gió, đứng không vững, ngã xỉu xuống, hắn vội vàng đưa tay đỡ và dìu nàng để nằm trên tảng đá, miệng la khan:

- Cô nương, cô nương ơi, cô nương làm sao thế?

Hai hàm răng Tiểu-long-Nữ đập vào nhau bồm bộp, nàng cố gắng trả lời:

- Lạnh??? lạnh lắm.

Trước kia trong lúc Tiểu-long-Nữ đang luyện ngọc-nữ tâm-kinh tại miếu hoa hồng, Tiểu-long-Nữ bị 2 đạo sĩ thình lình phá rối, buổi học dang dở, khi lực chạy ngược suýt tý nữa mất mạng. Nàng tự cứu chữa chưa lành thì tiếp đến bao nhiêu chuyện bất ngờ đưa đến dồn dập, nội lực càng suy giảm, tinh thần giao động mãnh liệt vì những hiện tượng xúc động tâm tình. Vừa rồi vì phải giải nguy cho đệ tử, Tiểu-long-Nữ quên mình đang trương bệnh, vận dụng quá sức để xuất một tư thế trong Ngọc-nữ tâm-kinh tấn công Lý-mạc-Thu. Nên lúc bấy giờ cơ thể bị suy nhược, nhiệt khí tiêu tan, toàn thân như bị giá lạnh hoàn toàn.

Nhìn Tiểu-long-Nữ run rẩy nằm co quắp trên tảng đá, hai hàm răng đánh vào nhau lộp bộp mãi, Dương-Qua kinh hãi quá khóc rống lên và gọi lớn:

- Cô nương ơi, cô nương, biết làm sao bây giờ hở cô nương?

Nhìn thấy sư phụ mến yêu bị lạnh quá sức, hắn cảm thấy như thân mình cũng bị lạnh lây. Loay hoay một chập hắn bỗng nhớ đến chiếc áo lông của Tôn Bà tặng cho khi gần lâm chung, vội vàng cởi áo ngoài ra, lấy áo đắp choàng trên ngực Tiểu-long-Nữ.

Nhờ sức ấm của chiếc áo, mặt nàng có vẻ hồng hào được đôi tý. Nhưng chỉ trong giây phút, hắn chưa kịp mừng, bỗng cơn lạnh nổi trở lại, hai hàm răng càng rung nhiều hơn nữa.

Sợ quá, Dương-Qua vội ôm choàng lấy Tiểu-long-Nữ, dùng nhiệt độ của mình để sưởi cho nàng. Hắn cố vận dụng nội công mãnh liệt truyền nội lực vào người cô nương để chống với sức lạnh.

Phương pháp này cũng giúp cho Tiểu-long-Nữ thấy dễ chịu đôi chút, nhưng không phải là phương pháp cứu vãn được tình thế. Đối với một người đã bao năm khổ công vận dụng công lực chống với sức lạnh băng giá của giường hàn thạch, thì nhiệt độ của Dương-Qua chuyển vào có nghĩa lý gì đâu.

Tiểu-long-Nữ cố gắng nói qua giọng rên:

- Mi hãy buông ta ra.

Hắn càng cuống quít, cố siết chặt toàn thân nàng như để trút tất cả nhiệt khí trong người cứu vãn sức khỏe cho sư phụ thân yêu.

Hắn vừa ôm vừa thổn thức nói:

- Cô nương để mặc tôi, tôi ôm thật chặt để cô nương bớt lạnh, bây giờ cô nương thấy có đỡ được phần nào chưa?

Nàng vẫn lắc đầu, nghiến răng, mím môi, chống đối với sức lạnh ngày càng thêm.

Một chập sau hắn cảm thấy bất lực, thả nàng ra, nhìn nàng chẳng biết làm cách nào hơn.

Bỗng Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ vào chiếc áo lông cừu của Tôn bà, hắn vội vàng cầm chiếc áo trong tay, xoay qua trở lại, chẳng biết phải làm sao. Bấy giờ hắn mới thấy bực tức vì Tôn Bà chết quá gấp không kịp trối trăn về công dụng của áo này.

Lúc bấy giờ đến khi cô nương hắn dự định chỉ bảo cho hắn, thì nàng lại bị cứng miệng nói chẳng ra lời. Làm sao mà hiểu đây. Hắn vừa giận vừa lo, loay hoay một chập định đốt chiếc áo để sưởi ấm hơn. Nhưng khi để kề gần ngọn đèn, bỗng nhìn thấy có lộ ra mấy hàng chữ, hắn vội vàng vạch ra nhìn kỹ thấy có 16 chữ:

"Trùng-Dương tiên sư

Công truyền hậu thế

Quan kỳ họa tương

Cứu kỳ thứ chỉ".

nghĩa là: (hãy nhìn kỹ trên chỉ tay của bức họa, sẽ tìm thấy công tích của Vương-trùng-Dương lưu lại hậu thế).

Vừa nhìn thấy mấy hàng chữ, Dương-Qua mừng rỡ như người chết trôi vừa vớ phải tấm ván, nó vội vàng xốc Tiểu-long-Nữ bồng đi về phía nhà mồ. Tiểu-long-Nữ ngơ ngác nhìn nó chả hiểu gì hết.

Hắn bảo nho nhỏ:

- Tôi đưa công nương đến xem lại di ảnh của Vương-trùng-Dương.

Tiểu-long-Nữ nghe xong, vẫn ngơ ngác như chẳng hiểu gì hơn. Chân bước dồn, đầu óc Dương-Qua vừa lo âu, vừa e ngại gặp phải Lý-mạc-Thu thì nguy hiểm lắm. Khi đến đại sảnh, hắn đưa chân đẩy cánh cửa nhìn vào thấy tối om. Dương-Qua mò mẫm ẵm nàng đi vào, đặt yên trên giường, rồi tìm đá đánh lửa mồi đèn.

Qua ánh sáng mập mờ trong đá âm u vắng lạnh, bỗng năm chiếc quan tài song song một hàng, khi ẩn khi hiện như ma trơi. Xung quanh không có bóng dáng một người nào, Dương-Qua chạy đến chân tường nhìn kỹ vào di ảnh Vương-trùng-Dương.

Nhớ lại ngày nào được Tiểu-long-Nữ đưa vào đây làm lễ nhập môn và bát sư, hắn có nhìn vào bức ảnh của bậc tiền bối quá cố một lần, nhưng bây giờ quan sát kỹ vẫn không có gì thay đổi hết.

Hắn ngạc nhiên khi trông thấy bàn tay vẽ úp trên bức họa, và các hàng chữ trên áo Tôn-Bà bảo phải nhìn kỹ trên chỉ tay.

Bàn tay úp thì làm sao thấy được chỉ. Hắn lẩm bẩm tự hỏi mãi không đáp được. Xoay lại phía sau, hắn thấy Tiểu-long-Nữ đưa mắt nhìn hình như muốn biết kết quả.

Dương-Qua trở lại đỡ nàng đến gần bức di ảnh và bảo:

- Cô nương thử nhìn xem có nhìn được gì không? Tôi chẳng thấy gì cả.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu nói khẽ:

- Mắt ta hoa cả, không thấy gì hết.

Dương-Qua đặt nàng nằm xuống rồi đứng nhón chân hạ bức ảnh đến gần đầu nàng, bưng đèn kê sát soi sáng cho nàng nhìn rõ.

Nàng lắc đầu nói:

- Vô ích.

Dương-Qua giận quá đặt bức ảnh trên bàn đá và dằn mạnh thếp đèn lên trên. Vì đặt mạnh tay làm sáp vung tung tóe rơi trên mu bàn tay của Vương-trùng-Dương. Sáp thấm vào lụa làm hiện ra những nét vẽ khác thường. Dương-Qua ngạc nhiên quá vội tiến tới nhìn kỹ hơn. Hắn có cảm giác những nét vẽ tượng hình những chữ Hán có nhiều chữ nhỏ chi chít, mắt thường không nhận định rõ.

Nóng lòng vì tình trạng nguy ngập gần đất xa trời của sư phụ hắn cố định thần quan sát thêm, nhưng cuối cùng cũng chỉ đọc được vài ba chữ nhất nhì, tiểu đại mà thôi.

Bỗng hắn quên phứt rằng Cô nương mình đang thập tử nhất sinh, kêu lớn:

- Cô nương ơi, xem đây nè. Lạ quá! Lạ quá!

Tiểu-long-Nữ cũng quên mất tình trạng sức khỏe của mình, cố chồm dậy nhìn sát vào bức họa. Một nụ cười hy vọng thoáng nở trên làn môi tái mét vì lạnh.

Đôi mắt nàng mở to tràn trề hy vọng.

Dương-Qua nóng ruột hỏi:

- Họ ghi ché những gì thưa cô nương?

Tiểu-long-Nữ chầm chậm trả lời qua hơi thở yếu ớt:

- Ngày trước, khi nữ Sư phụ mệnh chung, Vương-trùng-Dương có trở lại đây một lần...

Dương-Qua vội cắt lời:

- Ông trở lại làm gì vậy Cô nương?

- Lần này ông ta trở lại để thân điếu người yêu. Khi tiên sư vào đến ngôi nhà này nhìn thấy bộ Ngọc-nữ tâm-kinh do nữ Sư phụ trang trọng đặt trên bàn thờ thì người có bảo:

- Ngọc-nữ tâm-kinh tuy kỳ diệu thật, nhưng nếu vũ thuật của Toàn-Chân phái được luyện tập đến mức thượng thừa thì có thể khắc chế được Ngọc-nữ tâm-kinh như không.

Dương-Qua ngạc nhiên hứ một tiếng lớn và hỏi thêm:

- Ông ta có giải thích thêm lý do vì sao không?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Người có truyền rằng, có một căn phòng đá khác đã ghi tạc tất cả bí quyết chống lại Ngọc-nữ tâm-kinh. Sau này kẻ nào có phần phước lắm mới tìm được và hấp thụ được tinh hoa của nền vũ thuật vô cùng kỳ diệu này.

Dương-Qua nóng ruột quá hỏi tiếp:

- Vậy đã có ai tìm ra chưa Cô nương? Chúng ta có thể đi tìm ngay bây giờ được chăng?

Tiểu-long-Nữ lắc đầu đáp:

- Ta ở đây từ lúc bé nhưng chưa bao giờ được biết hay trông thấy phòng này.

Nói xong nàng chăm chú nhìn lại bức họa một lần nữa và lẩm bẩm:

- Lạ quá, thật lạ!... Khó mà tin được.

Dương-Qua cũng tiếp lời ngay:

- Chính tôi cũng không thể tin có một võ công nào cao siêu hơn Ngọc-nữ tâm-kinh.

Tiểu-long-Nữ cãi lại ngay:

- Không phải ta cố ý nói thế đâu. Ta muốn chỉ sự lạ lùng và khó tin về căn phòng này mà thôi.

Dương-Qua làm thinh và Tiểu-long-Nữ cũng lặng yên suy nghĩ. Một lúc sau Dương-Qua có vẻ sốt ruột hỏi thúc:

- Vậy chúng ta thử tìm xe, có mất công là bao đâu?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Nếu không biết cách thì có tìm cũng vô ích.

Nói xong nàng kéo Dương-Qua lại bên cạnh mấy chiếc quan tài.

Và chỉ vào hai chiếc quan tài bỏ trống, nàng bảo:

- Trong thực tế hiện nay trong Cổ Mộ chỉ có hai chiếc quan tài mà chúng ta những bốn mạng. Như thế hai chiếc quan tài làm sao chứa hết bốn kẻ sắp lìa đời?

Dương-Qua buồn rầu đáp:

- Nếu Cô nương bằng lòng, chúng ta cùng chung một quan tài còn chiếc kia dành cho thầy trò Lý-mạc-Thu chứ sao?

Lời nói chân thành của Dương-Qua tuy không chứa đựng một hậu ý gì nhưng khiến cho Tiểu-long-Nữ cảm thấy lòng xao xuyến và nóng bừng cả mặt.

Lặng đi một lúc, nàng nói:

- Nếu chúng ta chết sau thì được lắm. Rủi bọn mình chết trước thì chắc gì chúng nó để yên cho thân xác mình được nằm đây, hay lại đem vứt nơi nào khác?

Dương-Qua cảm thấy máu nóng bừng dậy trong lòng hùng hổ nói:

- Vậy Cô nương cho phép tôi tìm thầy trò nó hạ sát đi cho rồi.

Tiểu-long-Nữ tức cười bảo:

- Sao mi lẩn thẩn thế? Ngay tài nghệ của ta còn chưa địch nổi sư tỷ thì bản lãnh mi làm sao chống nổi với họ được?

Tuy nhận thấy nàng nói đúng nhưng Dương-Qua vẫn nói gượng:

- Hay bây giờ chúng ta tìm cho ra pho vũ công thượng thừa của Vương-trùng-Dương, cố tâm trau dồi cho cao siêu thì sẽ đủ sức hạ chúng ngay chứ gì.

Tiểu-long-Nữ mỉm cười nói:

- Luyện tập vũ nghệ đâu phải một vài ngày là xong. ít nhất cũng phải một năm hay sáu tháng. Lương thực nơi đây không còn được mấy ngày, thử hỏi làm sao sống để tập luyện.

Nhưng nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác và tuyệt vọng của Dương-Qua nàng nói thêm:

- Tiên sư có đi ngôn rằng cửa phòng này dính liền với quan tài nữ sư phụ. Không biết có cách nào để vào đó được và đây có phải là sự thật hay là quỷ kế của người.

Dương-Qua trố mắt hỏi:

- Vì sao lại là quỷ kế?

- Ta chỉ dự đoán như vậy thôi. Cũng có thể đây là phòng riêng của nữ sư phụ. Ngày xưa nữ sư phụ tính ý bất thường, có lúc tức giận người bỏ về phòng đóng chặt cửa, gọi không nghe, vào không được. Một khi cửa đã đóng, đứng ngoài tìm không thấy cửa nữa.

Khi nữ sư phụ đã tịch rồi, Vương-trùng-Dương có lẻn vào Cổ Mộ đài, viện lẽ là để viếng thăm nhưng biết đâu với mục đích dò xét. Khi hỏi lại thì được biết cửa phòng đã liền với quan tài rồi. Biết đâu người đã đột nhập vào và đã ghi lại pho võ công kỳ diệu nơi đó chăng? Có lẽ cũng do đó mà tiên sư đã lưu lạii di ngôn này cho hậu thế. Thật là huyền bí khó tin quá. Lẽ nào Vương-trùng-Dương lại đi lừa gạt chúng ta, và người cũng không muốn lừa gạt kẻ khác làm gì.

Dương-Qua nói:

- Đó cũng chỉ là giả thuyết. Điều thực tế nhất là phải tìm cho ra phòng này rồi mới tới việc hạ sát thầy trò Lý-mạc-Thu.

Suy nghĩ thêm một chặp, Tiểu-long-Nữ lẩm bẩm:

- Hay chả có gì trong ấy chăng?

Dương-Qua hỏi:

- Cô nương muốn nói trong phòng ấy sẽ không có gì chăng?

Nàng lắc đầu đáp:

- Ta không nói thế. Thôi thì mi cứ cạy nắp áo quan xem sao.

Dương-Qua mừng rỡ tiến đến sát chiếc quan tài của Lâm-triều-Anh. Chàng ta vận dụng nội công để lật chiếc nắp hòm đá, nhưng cẩn thận nín thở để tránh mùi hôi thối sẽ phát ra từ đáy hòm.

Thật lạ thay, nắp hòm vừa hở lên thì một mùi hương thơm ngát tỏa khắp gian phòng. Dương-Qua đang vận nội công, lại nín thở đề phòng nên chẳng hay biết gì. Bỗng nó la lên kinh ngạc:

- Cô nương! Không có gì trong hết!

Tiểu-long-Nữ tiến đến nhìn vào trong, chỉ có hai bình thủy có đựng một chất cao trong trong. Có lẽ mùi hương tỏa ra từ đây.

Tiểu-long-Nữ lẩm bẩm:

- Lạ quá! lẽ nào đây là di thể của Sư phụ? Vương-trùng-Dương lừa phỉnh ta chăng?

Dương-Qua nói:

- Phải đấy Cô nương. Ông ta dối mình làm gì? Chính đây là cửa vào phòng đá. Ta đi vào đi!

Nói xong nó chúi đầu vào hòm lấy tay mò ở đáy hòm rồi kêu lên:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Đây là ngách vào.

Tiểu-long-Nữ nghe nói biết ngay đó là lối vào.

Dương-Qua hì hục nạy ngách đá không nhúc nhích. Nó vận khí nội công, mồ hôi nhễ nhại nhưng, không hiệu quả. Tiểu-long-Nữ để nó hì hục một hồi rồi nói:

- Mi có tài thánh, sức thần cũng không mở được đâu.

Dương-Qua dừng tay hỏi:

- Thế thì cô nương giúp tôi một tay.

Tiểu-long-Nữ khẽ bảo:

- Trong Mộ đài nầy, cơ cấu vào ra đều được bố trí bằng máy móc. Mi đem sức lực vũ phu của mi thử thách với trí xảo của máy móc được thì ta cũng phục mi đấy. Mi muốn mở ngách vào thì chuyển nhẹ sang phía tả, rồi dở mạnh lên.

Dương-Qua y theo lời, tự nhiên ngách đá để lộ giữa hòm một lối vào đen ngòm.

Hắn mừng rỡ la lên:

- Đúng rồi cô nương! Thôi chúng ta chui vào đi.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Mi đừng hấp tấp, hãy chờ một chốc để cho xú khí thoát hết đã.

Dương-Qua vâng lời ngồi cạnh chiếc hòm chờ. Nhưng lòng không yên, chốc lát lại hỏi:

- Bây giờ ta vào được chưa Cô nương?

Tiểu-long-Nữ bảo:

- Ta lấy làm lạ, sao mi có tính hấp tấp như vậy lại có thể cùng sống với ta mấy năm nay!

Dứt lời, nàng thủng thẳng tay cầm chiếc đèn bước vào hòm soi vào lỗ ngách đá. Thấy Tiểu-long-Nữ cầm thẳng đèn đưa lên trước mặt. Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:

- Cô nương làm phép gì lạ thế?

Tiểu-long-Nữ phì cười bảo:

- Mi tự hụ rành rẽ việc đời lắm thế mi không biết ở một nơi thiếu dưỡng khí thì lửa không đỏ được sao? Gian phòng đá nầy lâu ngày chứa đầy xú khí. Ta phải dùng ngọn đèn này đi tiên phong nếu nó tắt là báo hiệu thiếu dưỡng khí thì mình phải lui ngay không thì chết hết. Mi đã hiểu chưa?

Dương-Qua vừa nghe vừa lặng lẽ bước theo chân Tiểu-long-Nữ.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 19 : Trùng-Dương Di Thiên: Cửu âm chơn kinh

Dương-Qua lòng vừa thư thái được một chút thì mệt mỏi từ đâu đã tràn về. Nó mơ mơ màng màng rồi cũng ngủ thiếp đi.

Một lúc sau, nó cảm thấy đau nhói ở sau lưng nơi huyệt "tiếu yêu" nó giật mình tỉnh dậy và có ý định vùng lên chống đỡ lại, nhưng đã có một bàn tay nắm chặt lấy cổ nó khiến không còn cựa quậy được.

Nó khe khẽ nghiêng đầu liếc mắt nhìn thì thấy thầy trò Lý-mạc-Thu đang mỉm cười đứng bên cạnh.

Lúc đó Tiểu-long-Nữ cũng bị điểm huyệt mất rồi.

Nguyên do chỉ vì Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ cả hai đều chưa có kinh nghiệm giang hồ nghĩa hiệp, và khinh địch nên đã sơ ý không đóng kín căn phòng bằng đá.

Bởi vậy Lý-mạc-Thu mới biết được phòng ngầm này, và đột nhập vào, hành động theo ý muốn.

Lý-mạc-Thu cười nhạt bảo:

- Khá thiệt! Chỗ này là một căn phòng để nghỉ ngơi tốt nhỉ! Hai đứa nhỏ này đã lẻn vào đây để hưởng hạnh phúc với nhau đây. Sư muội! Bây giờ cô còn chối cãi vào đâu. Đã biết thân biết phận liệu bề mà nói đi, hay là vẫn cố giữ kín. Nếu có bề nào thì đừng trách ta.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Tôi biết hết cả rồi. Tôi nhứt định không bao giờ nói cho chị biết.

Lý-mạc-Thu biết Tiểu-long-Nữ vốn là một người cương nghị không mấy ai bì kịp, lúc sinh tiền sư phụ phải nhượng nàng ba lần rồi tiến tới cương quyết, đối phó gấp chín lần, cũng chẳng hề lay chuyển được. Nhưng nay, trước công việc quan trọng đến sinh mệnh của mình, chẳng lẽ lại không dùng hết mọi áp lực để bức sách nàng làm theo ý muốn. Nghĩ vậy, Lý-mạc-Thu rút ra hai cái ngân châm vứt xuống đất, tiếng kêu tinh tinh!

Nàng nói:

- Ta đếm từ một đến mười, nếu cô không nói thật, ta sẽ cho cô nếm mùi vị hai cây ngân châm này.

Tiểu-long-Nữ mắt nhắm nghiền lại, như chẳng thèm để ý gì đến lời Lý-mạc-Thu.

Lý-mạc-Thu đếm một... hai... ba... bốn

Dương-Qua nói lớn:

- Nếu cô nương tôi mà biết được lối ra thì việc tôi và cô nương tôi lại ở đây làm gì?

Lý-mạc-thu cười nhạt nói:

- Ta biết rằng thế nào căn phòng này cũng có ngả bí mật thoát ra ngoài được. Sở dĩ các người còn ở lại đây là để nghỉ ngơi lấy lại tinh thần sức lực, để rồi lại đi nữa chớ gì?

Nói xong nàng lại đếm năm... sáu... bảy... tám... chín...

- Sư muội! đếm chín rồi, cô có nói hay không?

Lúc bấy giờ, một luồng gió lạnh đột nhiên tạt vào ngọn nến trên tay Hồng-lăng-Ba, làm phụt tắt.

Tiểu-long-Nữ cười gằn một tiếng rồi nói:

- Tôi đã ngủ nghê được chút nào đâu, vừa mới vào đây được một lát.

Lý-mạc-Thu cố làm ra vẻ bình tĩnh nói:

- Thôi! Thế thì được!... Ta đã đếm đủ đến mười rồi, cô đừng có trách tôi nghe! Độc tính của ngân châm này là bí thuật của môn phái ta do sư phụ phu nhân truyền cho ta, vì cô ngoan cố nay ta phải tặng cô để cô được biết ý vị nó ra sao.

Nói đoạn, cô ta cúi xuống lấy đầu ngân châm chà lên huyệt "Tướng đài" của Dương-Qua.

Tiểu-long-Nữ bị chà lên huyệt "Huyền Cơ" nơi trước ngực.

Tiểu-long-Nữ vốn là người gan dạ và điềm tĩnh dị thường, cũng phải oằn oại vì chất độc của ngân châm, đã theo huyệt dạo xâm nhập vào toàn thân. Từ da thịt đến xương tủy và các cơ thể lúc bấy giờ như ngàn vạn con kiến rần rần cắn ở khắp nơi. Thực là chưa có một hình phạt nào trong thiên hạ có thể làm cho người đau đớn kỳ lạ đến thế được. Đó là một thứ độc dược độc đáo của bản môn, dĩ nhiên ngay trong bản môn đã phải có thứ thuốc giải độc, nhưng khốn nỗi cả hai người đều đã bị điểm huyệt, không còn cử động được nữa, nên vô phương cứu giải.

Lý-mạc-Thu vốn ác độc, tàn nhẫn, nên thản nhiên ngồi ở dưới đất, đợi coi những biến chuyển phát hiện từ hai người xem độc dược đã thấm vào nội tạng chưa. Cô ta vẫn phân vân chẳng biết Tiểu-long-Nữ có chịu tiết lộ những bí mật trong mộ đài không. Chỉ trong chốc lát là huyết mạch Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua đã chạy khẩn cấp, người đã phát nóng. Cô ta biết độc dược đã thấm vào nội tạng thì không còn nói đến việc cứu giải được nữa.

Dương-Qua khe khẽ nói:

- Thưa cô nương, hay là cô đem những bí mật của Mộ đài nói đi thôi. Hai người này chẳng ngần ngại gì mà không dùng đủ mọi ngón độc để hại ta đó.

Tiểu-long-Nữ cũng khe khẽ nói:

- Chính thế. Họ là tay ác độc nhất đời.

Thoáng nghĩ tới những đường bí mật ra khỏi mộ đài, nàng ngẩn đầu nhìn lên trên nóc nhà chỗ có ghi các hình đố.

Năm xưa, Vương-trùng-Dương đã thề không trở lại mộ đài. Ông tiên tri Lâm-triều-Anh thế nào rồi cũng qua đời trong Mộ đài.

Đối với người đã say mê đắm đuối vì yêu mình, ông không khỏi thấy bâng khuâng thương nhớ dù rằng bà thi ân với ông khá nhiều mà cũng kết oán với ông chẳng ít. Nghĩ và cảm như thế ông bỏ lời thề xưa, đã dấn bước theo mật đạo nhập Mộ đài, lén cho á Hoàn là đệ tử của bà hay đường lối xuất mộ và đồng thời nhìn lại di thể của người bạn thân thiết trước kia đã cùng mình rong ruổi cuộc đời giang hồ nghĩa hiệp.

Ông đau khổ vô cùng, nức nở khóc; khi đi một lượt khắp ngôi Mộ đài mà xưa kia ông đã mất bao nhiêu công trình, sau bao nhiêu năm tháng xây dựng nên. Thấy bà Lâm-triều-Anh đã vẽ hình mình ra trên mặt một bức tường, rồi lại thấy trên đỉnh hai căn phòng bà đã đi khắc võ thuật. "Ngọc-nữ tâm-kinh", thực là tinh vi ảo diệu, mỗi ngón đều để chế khắc mỗi ngón của Toàn-Chân võ thuật, mặt ông tự nhiên xậm lại và lập tức ông rút lui ra khỏi chốn Mộ đài.

Ông một thân lủi thủi vào chốn núi sâu, kết lập một thảo lư.

Ba năm liền không rời bước khỏi núi, để nghiên cứu cho tinh tường võ thuật "Ngọc-nữ tâm-kinh" tìm ra những ngọn để phá lại, tuy cũng đã thành hẳn một võ thuật có hệ thống uẩn súc, lòng ông bực bội đối với trí tuệ thông minh dị thường của bà Lâm triều Anh, đành phải chịu thua và bỏ không nghiên cứu thêm nữa.

Sau 10 năm, nhân cơ luận hội kiếm ở núi Hoa Sơn có đoạt được bộ "Cửu âm chân kinh" là một sách hiếm có, kỳ lạ về vô học, ông thề chẳng luyện tập theo kinh sách này. Nhưng để thỏa mãn tính háo kỳ, ông lại đọc qua ít lần.

Võ nghệ của Vương-trùng-Dương thời ấy đã là đệ nhứt trong thiên hạ. Vì thế, chỉ đọc qua những thiên trong Cửu âm chân kinh là ông đã quán thông được hết những tình tiết bí ảo trong đó sau 10 ngày suy ngẫm.

Bỗng nhiên quán thông, ông sung sướng ngẩng mặt lên trời cười hả hê một hồi, rồi trở lại Mộ đài, tìm đến căn phòng bằng đá bí ẩn nhứt, khắc lên nóc nhà những yếu chỉ của Cửu âm chân kinh mỗi ngón đều phá được võ thuật Ngọc-Nữ tâm kinh của bà Lâm-triều-Anh. Ông lại còn ghi mấy câu ở dưới ngón tay trong bức hình của ông với ngụ ý muốn cho hậu sinh, nếu ai có duyên lành sẽ biết được rằng võ thuật của Toàn-Chân phái không phải hoàn toàn bị võ thuật Ngọc nữ tâm kinh chế khắc được hết cả, và vị tổ sư sáng lập ra Toàn chân môn phái đã sáng tạo ra được võ pháp lại rồi. Lúc rời khỏi mộ đài ông có ghi lại trên một phiến đá trên núi Chung-Nam những lời ai điếu của ông với bà Lâm-triều-Anh, hiện còn để lại bút tích.

Lúc đó ông hồi tưởng lại những lời ông đã ghi chú ở bức họa hình ông tại cổ mộ đài, thấy rằng lời lẽ ẩn ý khó hiểu e rằng hậu nhân thuộc cổ mộ môn phái vị tất đã có người lãnh hội nổi. Nhưng nếu nói rõ ra thì chẳng hóa ra là làm tiết lộ cho đời biết môn đệ nhứt kỳ thư trong thiên hạ sao?

Trong lúc ông đương phân vân như thế, có một phu nhân nước mắt chảy ròng, nức nở khóc, đến trước ông, dáng điệu rất sầu thảm. Ông hỏi thì được biết người ấy là họ Tôn, xưa kia đã cùng với bà Lâm-triều-Anh là đôi bạn cùng phiêu bạt giang hồ đã từng cứu giúp nhau. Phu nhân họ Tôn được biết bà Lâm-triều-Anh đã qua đời nên thượng sơn đến cầu xin cho được làm lễ ai điếu tại Mộ đài để giữ trọn tình bằng hữu.

Vương-trùng-Dương thấy phu nhân kia nếu quá động, bèn chỉ cho đường đi nước bước khả dĩ vào được mộ đài.

- Ta có mười sáu chữ truyền cho, phải nhớ kỹ lấy và chẳng được tiết lộ cho ai hay. Đến giờ lâm chung chỉ được trao lại cho người chủ nhân mới của mộ đài thôi.

Phu nhân kia cúi đầu tạ lễ, rồi lẩm nhẩm đọc thật kỹ ghi khắc vào lòng. Bà theo đường đi nước bước vào mộ đài để làm lễ ai điếu. Rồi vì cảm nghĩa ả Hoàn bà ta mà ở lại luôn trong Mộ Phu nhân đó chính là Tôn bà vậy.

Tôn bà đem mười sáu chữ kia viết vào một miếng vải trắng khâu vào trong chiếc áo bông mà lúc lâm chung đã trao lại cho Dương-Qua, mười sáu chữ ấy là: mười sáu chữ mà Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ đã đọc được khi xét chiếc áo lông cừu.

Tôn bà không phải là người thông minh cho lắm nên không hiểu được dụng ý nói đến những điều bí ẩn chứa trong căn phòng bằng đá kia.

Vương-Trùng-Dương và Lâm-triều-Anh đều là hai bực kỳ tài vang danh một thời đã để lại cho đời những ngón tuyệt diệu. Đáng tiếc thay tình vừa chớm nở, thì vì truyện tranh luận võ nghệ mà đôi bạn trở nên nghịch với nhau. Nếu hai bên hợp tác được thì sự nghiệp để lại cho đời sau còn đẹp đẽ hơn nhiều.

Vì nghịch nhau như thế nên về sau người thì phải xuất gia mặc áo vàng làm một kẻ tu hành, người thì ôm uất hận cho đến lúc chết tại chốn Mộ đài.

Từ chỗ yêu thương đã trở thành thù nghịch.

Dẫu đã xa nhau nhưng còn vương vấn tơ lòng.

Ôi chữ tình càng gỡ càng vương. Thương nhau nhiều, ghét nhau lắm, càng oán nhau thì tơ lòng càng buộc chặt. Tâm trạng đôi tri kỷ cứ mãi mãi như thế cho đến ngày cùng đem thân chôn chặt xuống tuyền đài.

Lâm-triều-Anh thì sáng lập ra "Ngọc-nữ tâm-kinh" để chế khắc Toàn Chân võ thuật. Vương-trùng-Dương cũng chẳng chịu thua, lấy Cửu âm chân kinh chống lại. Vương-trùng-Dương tự thấy mình phải thua kém bà một bực, nên từ đó ông càng khiêm nhường, thường nhủ các đệ tử phải khắc kỷ hư tâm, sống âm thầm chẳng nên xuất đầu lộ diện.

Tiểu-long-Nữ mới nhìn qua đã biết được lối thoát bí mật của Mộ đài, khổ nỗi đã bị điểm huyệt nên có biết cũng chẳng làm gì được nữa. Nàng hối hận sao lại mải mê truyện trò với Dương-Qua, mà chẳng sớm tìm lối thoát bí mật kia ra khỏi Mộ đài. Toàn thân nàng nhiệt độ mỗi lúc một tăng. Liếc mắt nhìn lên đồ hình trên nóc nhà, nàng thở dài. Đưa mắt về phía bên mặt nàng đọc thấy mấy câu về "Cửu âm chân kinh" bỗng nhiên nhìn thấy 4 chữ "giải huyệt bí huyết", mắt nàng đột nhiên sáng ngời lên. Nàng lạnh lùng vừa đọc vừa suy ngẫm, bỗng nhiên nàng tỏ ra vui mừng vô hạn. Nếu người không tự kềm chế được thì có lẽ nàng đã thốt nên những tiếng reo mừng.

Đại khái thì bí quyết ấy nói về những nguyên lý khi luyện nội công làm cho hỏa khí tụ đan điền, các đường huyệt đạo đều ngưng lưu thông vì đã dồn vào tới đó. Còn đối với người đã từng tập luyện tới "Cửu âm chân kinh" các kinh lạc đều luân lưu điều hòa, thông hoạt từ trên xuống dưới từ dưới lên trên, nhứt định không thể bị ai điểm huyệt được.

Cứ lý ấy mà suy ra, huấn giáo này đã là bùa cứu mạng cho Tiểu-long-Nữ trong lúc khốn đốn này.

Nàng suy đi nghĩ lại, thấy dầu mình có khai thông được huyệt đạo cũng chẳng ích gì vì làm sao mà địch nổi sư tỷ Lý-mạc-Thu. Nàng lại đọc kỹ đoạn kinh văn ghi trên nóc nhà, có đoạn chỉ giáo cho phương thế, nếu biết và sử dụng được, thì hễ xuất thủ là có thể chế ngự được các ngón của Lý-mạc-Thu. Huấn giáo chỉ từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu, cả thảy hai đoạn, công phu luyện tập thực là dễ dàng, nhưng cũng phải 10 ngày mới thành thuộc được.

Lòng nàng miên man suy nghĩ, ngoảnh nhìn về phía Dương-Qua thấy hắn đang rét run lên bần bật. Có lẽ giờ này chất độc của ngân châm đang thấm vào mãnh liệt.

Những lúc nguy cấp thường là những lúc phát sinh tâm trí sáng suốt. Chính giữa lúc khốn này nàng đã âm thầm học đến nhập tâm hai đoạn "giải huyệt bí quyết" và "bế khí bí quyết" của Cửu âm chân kinh.

Nàng ghé mồm vào tai Dương-Qua nói rất nhỏ cho nó biết.

Dương-Qua vốn dĩ là người thông minh, lanh lợi nên nói sơ là nó đã hiểu hết.

Tiểu-long-Nữ vẫn khe khẽ nhấn mạnh:

- Trước hết phải làm cho thông huyệt đạo.

Dương-Qua khẽ gật đầu.

Lúc bấy giờ căn phòng bằng đá tối đen như mực, hai thầy trò Lý-mạc-Thu ở lại đó để đợi hai người bị độc được hành hạ cơ thể rang chín người đi, rồi phải nói ra tất cả những điều bí ẩn chứa đựng trong Cổ mộ đài, nào có ngờ đâu họ đang âm thầm tìm cách giải nguy và đối phó lại.

Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua cứ theo y như lời chỉ dạy của Vương-trùng-Dương để giải huyệt bí quyết.

Hai người đã có sẵn cái vốn về nội công kha khá chỉ còn việc theo lời dạy về cách vận khí khác thường, là trong giây lát đã làm thông hoạt được huyệt đạo.

Nàng nhè nhẹ thò tay lấy ở bọc ra hai viên "giải độc linh đơn" khẽ chuyền một viên đưa vào mồm Dương-Qua còn một viên thì nuốt đi.

Nàng cử động rất là nhẹ nhàng khoan thai. Lý-mạc-Thu chẳng biết có pháp thuật gì mà tự nhiên nhận thấy, vừa hai người trở lại bình thường chạy xô lại vừa quát:

- Chúng bây làm trò gì thế!

Tiểu-long-Nữ xuất chưởng, nhè nhẹ vỗ vào đầu Lý-mạc-Thu. Đó là một ngón đã vận dụng điện lực của võ thuật Ngọc-nữ tâm-kinh, một ngón võ thượng thặng.

Lý-mạc-Thu hết sức kinh sợ vì việc xảy đến quá bất ngờ nên phải vội vàng nhảy lại phía sau để cho áp lực giảm sút phần nào.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Chúng tôi muốn ra khỏi đây! Sư tỷ thế nào! Có ra hay ở?

Lý-mạc-Thu vẫn tự phụ là người võ nghệ cũng như tài sắc vô địch trong giang hồ, nay lại bị một người vô danh tiểu tốt, đàn em, dở chưởng lực ra đối địch lại, thì lấy làm uất giận lắm. Tuy thế cô ta chẳng dám giở giọng tự cao tự đại, sợ phật ý, nàng không dẫn ra khỏi căn phòng nầy thì sẽ bị đánh chết ngộp ở chốn này sao.

Cô ta nghĩ bụng: mình võ nghệ ăn hẳn sư muội, cứ làm thế nào cho nó dẫn mình ra khỏi, lúc đó hãy sửa trị cũng chẳng muộn gì. Nó cũng có ít ngọn hiểm độc lạ thường, nhưng những ngọn ấy cũng chẳng ăn thua gì. Nghĩ vậy cô ta cố nén giận, cười khẽ nói:

- Cô tiến bộ lắm rồi đó, ta phục cô gấp bội. Thôi, bây giờ dẫn chị đi ra, nghe cô!

Dương-Qua rất tinh khôn, muốn nhân dịp ấy làm lạc hai thầy trò Lý-mạc-Thu mỗi người đi mỗi ngả. Nó cũng tươi cười nói:

- Làm sao mà dẫn cả hai người cùng ra một lúc được. Cô nương tôi chỉ dẫn được từng người một, đem người này ra rồi lại trở vào đón người kia.

Lý-mạc-Thu cũng tinh ý mắng át:

- Thôi mày! Hẳn tạm im cái mồm đi!

Tiểu-long-Nữ chưa thông cảm được tinh ý của Dương-Qua.

Tuy vậy nàng vẫn chiều theo ý nó đáp lại Lý-mạc-Thu:

- Chỉ dẫn một người một thôi. Hai người, cùng đi một lúc thì không được.

Dương-Qua cười ra vẻ cởi mở thú vị lắm, nói:

- Thưa sư bá, sư bá cho sư tỉ tôi theo chúng tôi ra trước có được không ạ!

Lý-mạc-Thu nuốt giận chẳng thèm đáp nửa lời. Dương-Qua lại tiếp:

- Thôi sư bá đã bằng lòng rồi, chúng ta cùng đi cho sớm. Cô nương đi trước dẫn đường tiếp đến là tôi và sau đó ai muốn nối chân theo cũng được.

Bấy giờ Tiểu-long-Nữ đã lãnh hội được ý Dương-Qua, chỉ mỉm cười không nói gì cả, nắm tay Dương-Qua bước dần ra khỏi thạch thất. Lý-mạc-Thu và Hồng-Lăng-Ba tuy không nói gì với nhau nhưng cả hai đều ái ngại chỉ sợ bất thình lình thầy trò Dương-Qua vận chuyênr máy móc đổ sập một cửa đá ngăn cách chia ly mỗi người một nơi thì nguy to. Cho nên cả hai đều sát cánh nhau đứng song song tại cửa, lăm le chen chân bước đi trước.

Thấy thái độ của học trò như thế, Lý-mạc-Thu nổi nóng quát lớn:

- Nghiệt súc, mi toan chen lấn cùng ta chăng?

Nói xong, nàng đưa tay trái nắm chóp đầu Hồng-Lăng-Ba.

Hồng-Lăng-Ba vốn biết sư phụ mình hễ đã ra tay thì vô cùng hiểm độc cho nên vội lùi ra sau một bước, lòng vừa lo sợ vừa bực tức không dám nói một lời.

Lý-mạc-Thu nối gót liền theo sau Dương-Qua không rời gang tấc. Phía trước Tiểu-long-Nữ thoăn thoắt bước đi quanh qua quẹo lại và mỗi lúc lại đi vào con đường thấp hơn. Một chặp sau nàng cảm thấy dưới chân ẩm ướt, biết rằng đã ra khỏi Cổ-mộ Đài, thoạt trông phía trước có nhiều ngã ba đường. Bất thình lình đường đi tuột xuống thật sâu thăm thẳm. Cả bốn đều là những tay võ công thượng thặng dày công tập luyện nội công, quen với biến chuyển bất ngờ ứng phó vô cùng lanh lợi, chứ nếu là tay tầm thường thì có lẽ đã sa chân lăn xuống vực sâu rồi.

Vừa đi Lý-mạc-Thu vừa ngẫm nghĩ:

- Núi Chung-Nam Sơn nào có cao gì cho lắm mà ta cứ quanh mãi trong lòng núi như thế này, không biết bây giờ đang đứng đâu.

Một chặp sau lối đi bằng phẳng dần và ngập cả nước. Càng đi nước càng lên cao dần, không mấy chốc đã cao quá gối. Sau đó nước lên tới hông, tới bụng, quá ngực rồi dần dần lên cổ họng.

Tiểu-Long quay lại khẽ hỏi Dương-Qua:

- Mi đã nhớ kỹ bí quyết bế khí rồi chứ?

Dương-Qua không trả lời sợ họ nghe thấy, chỉ lặng lẽ gật đầu mấy cái ngụ ý đã thuộc kỹ rồi.

Tiểu-long-Nữ dặn nhỏ thêm Dương-Qua đừng trò chuyện dưới nước và chờ nàng lấy hơi một lúc rồi từ từ đi tới.

Dương-Qua vừa bước theo vừa khẽ đáp:

- Cô nương khỏi bận trí về tôi, cứ yên tâm mà đi.

Tiểu-long-Nữ gật đầu xăm xúi bước mau hơn. Nước đã lên quá cổ, mọi người phải ngậm miệng để khỏi sặc.

Lý-mạc-Thu run sợ khẽ hỏi Tiểu-long-Nữ:

- Sư muội biết bơi đấy sao?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Từ bé đến lớn, tôi sống trong Cổ mộ đài chưa bước chân đi xa, làm sao mà biết bơi được?

Nghe nói thế Lý-mạc-Thu cũng hơi vững bụng, yên tâm bước theo. Thình lình gặp chỗ sâu bất ngờ, nàng giật mình sụt chân xuống, hoảng hốt hả miệng uống một ngụm nước và đi chậm một chút. Trong khi ấy Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua vẫn điềm nhiên bước tới, giữ đúng bí quyết kềm hơi định khí. Lý-mạc-Thu cảm thấy run sợ vô cùng nhưng vì đã trót lỡ nên cũng đành nhắm mắt đưa chân.

Bỗng hình như có người ghì lại phía sau. Nhìn lại thì Lý-mạc-Thu thấy Hồng-lăng-Ba đã ghì chặt áo mình. Nàng cố sức gỡ ra, nhưng cứ nhùng nhằng mà không thoát khỏi. Phàm người ta khi gặp sự nguy hiểm đe dọa, thì ý chí tự vệ nổi lên, ai cũng cố liều chết bám lấy cái sống. Giòng nước mỗi lúc càng chảy lạnh, sức mạnh ồ ạt, tiếng reo như thác lũ. Hồng-lăng-Ba và Lý-mạc-Thu bị nước cuốn đi trôi nổi bập bềnh.

Lúc thường bình tĩnh bao nhiêu thì bây giờ càng cuống cuồng lên bấy nhiêu. Lý-mạc-Thu giẫy dụa, quơ quàng bậy bạ, đụng gì chộp nấy, gặp cái gì cũng níu lại. Đột nhiên nàng nắm được một vật mềm mềm vội túm chặt lấy, nhìn lại là chớp vai của Dương-Qua.

Trong lúc đang nắm tay Tiểu-long-Nữ bình tĩnh nín hơi bước tới, Dương-Qua bị chộp bả vai bỗng giật mình cố gỡ ra nhưng Lý-mạc-Thu lại níu chặt thêm. Ngại cử động mạnh hô hấp không đều, nước có thể vào miệng mũi được nên Dương-Qua cố gắng đi, mặc kệ nàng bám bên vai.

Bốn người nối tay kéo nhau bước tới mặc tình cho nước cuốn sống nhồi.

Độ nửa giờ sau vì nín thở quá lâu cả hai thầy trò Lý-mạc-Thu cảm thấy ngộp hơi, không chịu nổi nữa. Nhưng may sao nước bỗng chảy chậm và cạn dần xuống tới cổ. Đi thêm một lúc nữa nhìn trước mặt thấy ánh sáng do một cửa động từ từ chiếu lại.

Cố gắn bước tới cửa động cả hai cảm thấy mệt lả, vội ngồi trên tảng đá vận khí trục bớt số nước uống lỡ vào bụng và ngồi thở hào hễn.

Tiểu-long-Nữ dùng ngón độc của Lý-mạc-Thu đã hại mình trước kia, lẳng lặng đưa tay điểm vào yếu huyệt của hai thầy trò khiến cả hai mềm nhũn rồi đem đặt trên một tấm đá tròn, để nằm ễnh bụng lên cho nước từ từ thoát bớt ra ngoài.

Một chặp sau thầy trò Lý-mạc-Thu từ từ tỉnh lại hé mắt nhìn thấy ánh sáng chiếu vào mặt đoán chắc đã ra khỏi Cổ mộ đài, chưa rõ Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua đã tỉnh trước chưa, e rằng họ có thể dùng vũ lực phục thù thì nguy hiểm lắm. Sau khi bị ngâm nước lâu, cả hai đều cảm thấy lạnh run, hai hàm răng đánh cồm cộp. Tuy nằm yên nhưng cả hai cảm thấy chân tay rũ liệt và bắp thịt hầu như muốn tan rã đi hết.

Lúc nãy Tiểu-long-Nữ đã vận nội công điểm huyệt, nếu không cao thủ biết rõ lối giải của Vương-trùng-Dương thì ít nhất cũng cần qua bốn mươi chín ngày mới tự giải quyết được.

Tiểu-long-Nữ hỏi Lý-mạc-Thu:

- Trước khi chia tay, sư tỷ có cần dùng gì thì cứ bảo.

Lý-mạc-Thu tuy bị điểm huyệt nhưng trí khôn vẫn còn sáng suốt, nghe hiểu được mọi việc, nhưng nàng chỉ nhìn Tiểu-long-Nữ với cặp mắt vừa vui mừng vừa bực tức.

Hỏi xong Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ xoay mặt kẻ trước người sau bước ra đi.

Đưa mắt nhìn chung quanh mình. Dương-Qua thấy tư bề cây cối tươi xanh, lá phủ mát rượi, ánh sáng chiếu lập lòe trong lòng cảm thấy nôn nao dâng lên một niềm thú vị. Dương-Qua vui vẻ hỏi Tiểu-long-Nữ:

- Cảnh đẹp quá Cô nương nhỉ?

Tiểu-long-Nữ chỉ nhìn nó rồi mỉm cười không đáp.

Hồi tưởng lại cảnh tượng vừa trải qua cả hai cùng cảm thấy chùng mình ngao ngán, nhưng giờ đây đứng trước cảnh trời mây bao la thì lòng càng thêm hân hoan rào rạt.

Một lúc sau cả hai thấy mỏi mệt nằm dưới gốc cây, gió mát thổi hiu hiu, ngủ thiếp đi một giấc thật ngon lành.

Nơi đây là một cửa động ở tại chân núi Chung-Nam-Sơn, tứ bề hoang vu tịch mịch, cây cối um tùm ít người lai vãng. Qua một lúc hai người chợt tỉnh dậy, bấy giờ chất độc của ngân châm đã tiêu hết không còn lạnh buốt như trước nữa, trong người cũng hết nhức mỏi, chân tay được thu thới nhẹ nhàng, tinh thần sảng khoái.

Dương-Qua ngỏ ý muốn đi du ngoạn để nếm mùi siêu thoát của cảnh rừng nội mây ngàn bù lại những giờ phút gian nguy dưới vuốt tử thần. Nhưng Tiểu-long-Nữ từ tấm bé nào biết được cái thú đó cho nên lòng nàng không hề nghĩ đến. Nàng tỏ ý không bằng lòng và khuyên Dương-Qua để thì giờ tập luyện võ công, nhất là thuật "Ngọc nữ tâm kinh" trong thời gian bị bỏ dở.

Đối với Dương-Qua thì ý kiến nào của thầy cũng là chí lý nên hắn vui vẻ tán thành ngay. Hai người đưa nhau vào rừng sâu, tìm nơi cảnh đẹp vừa mát mẻ vừa hoang vắng, cùng nhau đắp nền, cắt tranh chặt cây dựng nên một túp lều để ban ngày nghỉ ngơi. Và đêm đêm cả hai đưa nhau vào rừng sâu tìm nơi thật hoang vắng, cây cối rậm rạp rồi mỗi người một bụi xung quanh che kín, trút cả y phục, lõa thể để rèn luyện nội công "ngọc nữ tâm kinh".

Ba tháng trời lặng lẽ và êm đềm trôi qua. Tiểu-long-Nữ rèn luyện đã tinh thục. Một thời gian sau nữa Dương-Qua cũng theo kịp. Lúc bấy giờ hai người cùng nhau luyện võ bằng cách đấu với nhau. Tất cả các môn đều được Tiểu-long-Nữ tận tình chỉ dạy, chẳng mấy lúc mà Dương-Qua tập luyện lão thông.

Trong những phút nhàn rỗi Dương-Qua đem những chuyện nhân thế ra bàn luận.

Từ tấm bé Tiểu-long-Nữ đã sống một cuộc đời hư tâm tòng đạo không mảy may vướng nghiệp hồng trần, lòng lúc nào cũng nhẹ nhàng thanh thoát. Nàng thấy Dương-Qua thường đưa những câu chuyện bên ngoài ra nói, biết nó khó sống mãi trong cảnh rừng núi hoang vu cô tịch như thế nầy, cho nên có lúc nàng tìm cách hỏi để dò ý:

- Dương-Qua, đến nay chúng ta luyện tập đã tiến bộ nhiều. Mi so sánh xem giữa ta và bác Quách-Tỉnh gái tài nghệ ai hơn ai kém.

- Cả hai đều giỏi cả, nhưng so với cô nương chắc cũng không hơn nổi đâu.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Bác Quách-Tỉnh đem hết võ công truyền lại cho vợ ngoài ra còn truyền cho hai anh em họ Vũ nữa. Nếu ngày sau gặp nhau, chắc thế nào chúng ta cũng bị mang nhục vì thảm hại.

Nghe nói Dương-Qua như tức nghẹn lời. Một lát hắn trợn mắt đưa tay quả quyết nói:

- Thưa Cô nương, nếu họ làm nhục ta thì tôi nhất định không bao giờ để họ ở yên đâu.

Nàng lạnh lùng nói:

- Sức mi làm sao địch nổi họ. Thôi đừng suy nghĩ làm gì cho bận tâm.

Dương-Qua vẫn cãi:

- Nhưng họ làm thương tổn danh dự tôi thì không thể nào làm thinh được.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu nói tiếp:

- Sức ta nhắm không địch nổi bác Quách-Tỉnh gái đâu.

Dương-Qua lẩm bẩm:

- Phần tôi thì nhất định không thế nào so tài được với Bác Quách-Tỉnh trai rồi. Ngay như bộ hạ của bác cũng toàn là cao thủ cả!

Tiểu-long-Nữ lặng nhìn nó một chập và nghĩ thầm:

- Bao năm qua sống bên cạnh mình, Dương-Qua đã chịu ảnh hưởng, bản tính lạnh lùng của mình và cuộc sống thanh đạm trong Cổ mộ đài quá nhiều nên tánh nông nổi của nó ngày nay cũng giảm bớt nhiều lắm.

Thật ra bản chất nóng nảy của Dương-Qua vẫn chưa thay đổi chút nào. Sở dĩ bây giờ nó đã lớn tuổi, có chút ít kinh nghiệm và óc suy nghĩ, cho nên nó thốt ra câu ấy vì nhận thấy trước kia Quách-Tỉnh trai đã tận tình chăm sóc và thương yêu nó. Bản chất của nó lúc nào cũng muốn dĩ ân, trả ân, dĩ oán, trả oán, ân oán phân minh để giữ lẽ công bằng, trọn tình nghĩa mà thôi.

Tiểu-long-Nữ hỏi tiếp:

- Nhưng nếu sức họ không địch nổi mi thì mi tính sao?

Dương-Qua đáp:

- Thưa cô nương, giữa họ và chúng ta không thù không oán vì dầu tài nghệ tôi có trội hơn mà họ không khiêu khích thách đấu thì khi nào tôi tự nhiên xuất thủ được.

Tiểu-long-Nữ gật đầu từ từ nói:

- Phải, giữa mi và họ không oán không thù, mi cư xử như vậy thật là phải lắm. Nhưng giữa nhóm người trên Đào Hoa Đảo và ta, tuy không mảy may liên hệ, nhưng gặp nhau chưa chắc họ chịu để yên đâu.

Nghe nói Dương-Qua giật mình vội hỏi:

- Sao giữa gia đình đó và cô nương có kết thân thù oán hay sao. Họ có ý khinh miệt cô nương từ lúc nào. Xin cô nương nói rõ cho nghe.

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng nói:

- Giữa họ và ta không hề quen biết. Nhưng giữa Quách-Tỉnh và phái Toàn-Chân có cựu tình sâu sắc. Ta đã ra tay cùng các đạo sĩ Toàn-Chân, như thế lẽ nào Quách-Tỉnh không tìm cách rữa hận, không bao giờ để ta yên thân.

Dương-Qua giật mình nhưng bặm môi nói lớn:

- Cô nương đừng lo, mặc dầu họ tài giỏi đến đâu, nhưng nếu một khi họ dám động đến cô nương thì Dương-Qua này dầu phải đổi mạng cũng liều sống chết với họ một trận.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Nhưng tức thay bọn ta chưa đủ tài đủ sức để cự đương cùng họ!

Vốn có khiếu thông minh lanh lợi tuyệt vời, nên Dương-Qua thoáng nghe đã hiểu ngay ý muốn của sư phụ nên nó mỉm cười nói:

- Thưa Cô nương, hiện nay bọn ta còn yếu sức, nhưng nếu chịu khó luyện tập hết điều di huấn của Vương-trùng-Dương thì chắc chắn bọn Đào Hoa Đảo không đủ sức chống lại ta.

Tiểu-long-Nữ mừng rỡ, mắt nhìn nó cười tươi như hoa và nói lớn:

- ồ, nếu được vậy thì họ có ba đầu sáu tay cũng khó cự được với ta, phải không?

Thầy trò đắc ý cười vang, lòng hân hoan sung sướng đầy tự tin và hy vọng.

Chỉ mấy lời ấy mà Dương-Qua quyết tâm tiếp tục cuộc sống cùng Tiểu-long-Nữ tại chốn thâm sơn cùng cốc nầy đến hơn một năm sau nữa.

Trong khi bị điên đảo tại thạch thất trong Cổ mộ đài, Tiểu-long-Nữ đã chú ý xem và học thuộc lòng tất cả các dấu hiệu bí quyết của Cửu âm chân kinh. Nhờ lòng lúc nào cũng thanh thoáng sáng suốt không mảy may bận rộn vì ngoại cảnh, thêm óc thông minh tuyệt vời và lòng kiên nhẫn vô kể nên Tiểu-long-Nữ đã chú ý là thông hiểu ngay. Chẳng phải như mẫu thân của Hoàng-Dung trước kia, tuy thông minh nhưng chỉ đọc để mà nhớ, không suy nghiệm thấu đáo và không giữ được lòng yên tịnh cho nên dù học thuộc lòng vẫn không bổ ích và lúc chết đi chỉ mang theo một mớ lý thuyết, chưa rõ được kỳ diệu tinh xảo của Cửu-âm chân-kinh.

Một năm trôi qua, cả hai đã luyện được nội ngoại thần công tinh diệu, bản lãnh tiến thêm một mức khá dài.

Họ bẻ những cành cây non mềm mại song đấu với nhau. Họ luyện chuyển nội lực vào các cành cây mềm yếu với mục đích trau dồi nội công thành thục, dầu gươm cứng dao bén đâm vào cũng chẳng nghĩa lý gì.

Nhưng một hôm nọ, sau khi tập luyện xong, Tiểu-long-Nữ có vẻ âu sầu dã dượi khác thường. Sắc mặt nàng luôn luôn đăm chiêu suy nghĩ không nói chẳng cười. Dương-Qua lo lắng tìm cách khơi chuyện để nàng tiêu sầu giải muộn nhưng vẫn không kết quả. Nét mặt nàng lạnh lùng và ảm đạm làm sao.

Dương-Qua tự biết đến nay đã luyện tập chu đáo tất cả những bí quyết của pho Cửu âm chân kinh rồi, nhưng muốn đạt được mức tinh diệu của pho võ công nầy thì dầu tốn hao hàng trăm năm công phu chưa chắc đã tới chốn. Nhưng với căn bản sẵn có, nếu muốn tiếp tục trau dồi thì bản lĩnh sẽ tiến bộ đến chỗ siêu việt lên mãi.

Ngày nay đối với Tiểu-long-Nữ, nó tự thấy không còn lý do gì phải tiếp tục chung sống cùng nơi chốn nầy nữa. Như thế thì sau khi nó hạ sơn, còn một mình nàng thui thủi nơi chốn hoang vu nầy, làm sao nàng không buồn rầu đau đớn.

Nghĩ đến đó nó thấy tâm tư rung cảm, vội đến gần nàng thỏ thẻ hỏi:

- Thưa cô nương, nếu tôi không muốn hạ sơn và tình nguyện cùng cô nương sống mãi nơi đây cho đến mãn đời, chẳng hay cô nương có bằng lòng không?

Mặt đang buồn rầu, Tiểu-long-Nữ vụt sáng lên, hớn hở nói ngay:

- Nếu được vậy, còn gì sung sướng cho bằng!

Vừa nói xong nàng bỗng nín ngay và giữ yên lặng. Trong lúc quá vui mừng nàng không kiềm chế được lòng mình đã bộc lộ tâm tư, nghĩ lại thấy ngượng nên không nói thêm được gì nữa.

Riêng phần Dương-Qua, tuy thương thầy nói như thế nhưng lòng lại nghĩ khác. Bây giờ lỡ đã nói ra khó nổi thu lại. Nhưng nó đinh ninh sẽ tìm cách đính chánh hoặc sửa đổi chút ít. Vì vậy mà lúc nào nó cũng suy tư và chiều đó không ăn cơm, cũng chẳng nói năng gì thêm. Tối đến nó lủi thủi vào một góc lều tranh nằm khoanh rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Túp lều tranh được xây dưới gốc cây tùng lớn để nhờ bóng mát và núp gió. Từ trân các cành tùng, nhưng bó giây leo chằng chịt lòng thòng, thêm những giây hoa rừng đủ màu sắc rực rỡ bó lòng từng tua ngũ sắc bao phủ xung quanh trông như một chùm hoa. Ngoài ra Dương-Qua đi tìm các loại hoa cúc hoa hồng trồng xung quanh hè, nay đã cao lớn trổ bông rực rỡ vừa đẹp mắt vừa thơm ngào ngạt. Nhưng tất cả bông hoa tươi thắm đều dành trang trí cho phòng của Tiểu-long-Nữ, còn riêng phía bên mình thì để trống trơn.

Tuy nhiên ở bên trong, Tiểu-long-Nữ vẫn giữ sạch sẽ và đơn giản vô cùng.

Thấy cô nương không được vui vẻ lắm nên Dương-Qua cảm thấy rầu rầu chậm bước đi qua đi lại trước cửa lều suy ngẫm mãi rồi nhìn trăng lên thật cao khỏi núi mới vào ngủ lại.

Ngủ luôn một hơi đến nửa đêm nó đang mơ màng bỗng nghe tiếng khiêu khích và bước chân vang động gần đâu đấy, hình như có người đang đấu với nhau.

Nó bỗng giật mình choàng dậy, lắng tai nghe, quả là có ạt hòa với những đòn quyền liên hồi không ngớt. Nó vội vã chạy qua phòng Tiểu-long-Nữ khẽ gọi:

- Cô nương, cô nương ơi, cô có nghe gì không?

Lúc bấy giờ không có tiếng đáp lại mà tiếng động và chưởng lực càng gia tăng thêm nhiều. Ngày thường Tiểu-long-Nữ vốn tỉnh ngủ, nếu gọi như thế là tỉnh dậy ngay nhưng chẳng hiểu vì sao lần này gọi mãi không thấy trả lời. Gọi thêm mấy tiếng nữa không được, Dương-Qua tống cửa bước vào chỉ thấy giường không mà nàng đi đâu mất.

Dương-Qua hối hả vội vàng phi thân phóng về phía có tiếng động. Chạy hơn mười trượng vẫn chưa thấy người, chỉ nghe tiếng gió của chưởng lực phát ra. Hắn nhận ra luồng chưởng yếu hơn là của Tiểu-long-Nữ, còn luồng chưởng của địch thủ thì có vẻ hùng hậu và mạnh mẽ hơn nhiều.

Nóng ruột quá, Dương-Qua tăng thêm tốc lực, tung người phi mau như gió cuốn.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top