Chương 34: Cảm Xúc
Editor: Yuki
Beta: Nhật Hạ
Mạc Nhân Tuyết đã xem qua tác phẩm đoạt giải của Lộc Dư An, nhận thấy khí thế hào hùng, bút pháp thành thạo, hoàn toàn xứng đáng với danh tiếng mà cậu có.
Chính vì điều đó, tâm trạng Mạc Nhân Tuyết mới càng thêm vui vẻ, vì anh biết tài hoa của Dư An đang được mọi người công nhận. Nhưng anh cũng hiểu rằng đây chỉ là bước đầu tiên để Dư An bước vào thế giới hội họa, một hành trình còn dài phía trước.
Cảm giác này giống như một báu vật xinh đẹp mà mình nhìn chăm chú đã lâu nhưng không ai biết đến, giờ đây ánh sáng rực rỡ của nó cuối cùng cũng bắt đầu chiếu rọi khắp thế gian.
Khi Lộc Dư An vừa mới đến nơi này, Mạc Nhân Tuyết đã cho cậu làm một bài kiểm tra. Độ nhạy bén của Dư An đối với màu sắc rất kinh ngạc; bất kể màu sắc ra sao, cậu đều có thể điều chỉnh sự sai lệch của nó.
Mạc Nhân Tuyết đã từng hỏi Dư An về điều này. Dư An trả lời rằng trong mắt cậu chưa từng có màu sắc nào giống nhau, thậm chí bao gồm cả màu đen thuần túy của thủy mặc.
Mà những gì Dư An đạt được không chỉ dựa vào thiên phú. Mỗi ngày, phần lớn thời gian rảnh rỗi, cậu đều ở trong phòng vẽ tranh. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, những bản phác họa đặt cạnh bàn học của Dư An đã chất cao mấy tấc.
Nghĩ đến món quà chúc mừng Dư An, thần sắc Mạc Nhân Tuyết khẽ động. Anh cầm lấy áo khoác tây trang, khoác lên người, rồi đẩy cửa ra nói với Dư An: "Đi thôi."
"Đi?" Lộc Dư An hiểu ra, Mạc Nhân Tuyết vẫn luôn chờ cậu về nhà. Cậu sững sờ hỏi: "Đi đâu?"
Mạc Nhân Tuyết theo lẽ thường quay đầu nhìn Lộc Dư An, thờ ơ nói: "Đương nhiên là đi chúc mừng em giành được hạng nhất đầu tiên trong cuộc đời hội họa."
Hạng nhất đầu tiên?
Phản ứng đầu tiên của Lộc Dư An sau khi nghe xong chính là cảm giác như Mạc Nhân Tuyết đang nói rằng sau này cậu sẽ còn nhiều lần đứng đầu. Nhưng rất nhanh, trái tim cậu lại vì hai chữ "chúc mừng" mà nhảy nhanh hơn hai nhịp.
Cậu hiếm khi có dịp gióng trống khua chiêng chúc mừng như vậy. Chính cậu sẽ không, người khác cũng sẽ không, ngay cả sinh nhật của cậu, cậu cũng hầu như chưa bao giờ nghiêm túc chúc mừng.
Hai từ này đối với cậu mà nói thật xa lạ; cậu chưa từng có ý nghĩ sẽ mong đợi cái gì. Nhưng giờ phút này, nó lại từ trong miệng Mạc Nhân Tuyết nói ra, khiến cậu không khỏi dâng lên một tia chờ mong trong lòng.
Chú Vương đang chờ bọn họ, hiển nhiên Mạc Nhân Tuyết cũng không phải nhất thời nảy ra ý định này.
Lộc Dư An vừa lên xe, chú Vương liền cười híp mắt nói: "Dư An, nghe nói con đoạt giải, thật là giỏi nha." Chú Vương tự hào vì cậu.
Lộc Dư An bất ngờ không kịp đề phòng, vẫn gật đầu nói tiếng cám ơn. Tuy nhiên, việc được khích lệ một cách rõ ràng như vậy khiến vành tai cậu có chút đỏ lên. Cậu vừa xấu hổ vừa lúng túng nhìn Mạc Nhân Tuyết.
Sao Mạc Nhân Tuyết lại nói với tất cả mọi người như vậy chứ? Thật ngại quá!
Cuối cùng, Mạc Nhân Tuyết đưa Lộc Dư An tới viện bảo tàng thành phố Nam. Thành phố Nam là cố đô văn hóa, và viện bảo tàng thành phố Nam cũng là một trong những viện bảo tàng hàng đầu của cả nước. Lộc Dư An không cảm thấy xa lạ với nơi này.
Ông Lý rất coi trọng thẩm mỹ của Lộc Dư An; điều này chỉ có thể tích lũy qua tháng ngày, không ngừng thưởng thức các tác phẩm ưu tú mới có thể bồi dưỡng được. Dù đi đứng không tiện, ông cũng nhất định sẽ dẫn Lộc Dư An đến viện bảo tàng xem triển lãm các tác phẩm cổ kim nổi tiếng trong và ngoài nước. Chính vì vậy, thẩm mỹ của Lộc Dư An cũng không bị bỏ sót quá nhiều.
Nhưng điều này cũng chỉ là tương đối. Ông Lý thường xuyên nhìn Lộc Dư An rồi thở dài. Nếu chỉ tùy ý thưởng thức tác phẩm nổi tiếng của các danh họa, so với thời gian dài trước khi cậu bái sư, giờ đây nhìn vào có thể thấy Dư An quả thật có hơi kém một chút.
Lộc Dư An nghi hoặc nhìn Mạc Nhân Tuyết.
Mạc Nhân Tuyết nói muốn ăn mừng, nhưng cậu vẫn thắc mắc, ăn mừng như thế nào, tại sao lại đến viện bảo tàng để ăn mừng?
Mạc Nhân Tuyết cũng không giải thích, mà trực tiếp dẫn cậu đến ký túc xá viện bảo tàng.
Rõ ràng đã qua giờ tan tầm, nhưng ký túc xá viện bảo tàng vẫn sáng đèn rực rỡ.
Mạc Nhân Tuyết dùng thẻ đăng ký tạm thời để đưa cậu vào bên trong tòa nhà văn phòng.
"Nhân Tuyết, tới sớm như vậy." Một vị nữ sĩ tóc hoa râm chờ ở cửa thấy bọn họ liền vẫy tay. Bà không ngạc nhiên khi thấy hai người đến, ngược lại lại đánh giá Lộc Dư An từ trên xuống dưới một lúc lâu, rồi mới cười nói: "Đây là Dư An sao?"
Lộc Dư An nhìn người phụ nữ nghiêm túc trước mắt. Bà ấy nhận ra mình? Tại sao cậu hoàn toàn không biết bà là ai?
Mạc Nhân Tuyết nhận ra sự nghi hoặc của cậu, liền giới thiệu: "Đây là bác Lâm." Anh đột nhiên ý thức được, nếu dựa theo bối phận, Lộc Dư An hẳn là bác của anh mới đúng.
Ngữ khí của Mạc Nhân Tuyết cực kỳ vi diệu, dừng lại trong nháy mắt, nhưng anh rất nhanh che đi khoảnh khắc mất tự nhiên đó, tiếp tục nói một cách tự nhiên: "Hiện tại bà cũng là chuyên gia sửa chữa tranh cổ của viện bảo tàng thành phố Nam."
Vị bác Lâm này từ nhỏ đã theo ông Nhan học vẽ tranh, nhưng thiên phú vẽ tranh thật sự không đủ. Bà lại có hứng thú với việc sửa chữa tranh cổ. Hơn nữa, bà vốn là một người toàn tài, vừa có thể vẽ tranh, lại có thể sửa chữa tranh cổ. Khi ở thành phố, bà đã tham dự rất nhiều công tác sửa chữa quốc họa. Hiện tại, bộ điều lệ sửa chữa quốc họa vẫn do bà định ra. Cả hai lĩnh vực này, ông Nhan đều rất am hiểu, vì vậy ông đã tôn trọng ý nguyện của học trò.
Sau khi bác Lâm học thành tài, bà đã đến công tác tại viện bảo tàng Nam Thành. Hai tai không nghe chuyện ngoài cửa sổ, bà toàn tâm toàn ý nhào vào công tác sửa chữa văn vật, và hiện giờ đã là chủ nhiệm khoa sửa chữa văn vật.
Bác Lâm đã ngoài năm mươi tuổi, nhưng đối với Lộc Dư An, bà lộ ra nụ cười ấm áp: "Rất tốt. Bức tranh Khải Chi Bôi kia ta đã xem, đại khai đại hợp nhưng bút pháp lại rất tinh tế tỉ mỉ, danh xứng với thực." Bà biết Lộc Dư An là tiểu đệ tử của bác Lý được tìm trở về, nhưng liên tục ba tháng bà đều đi công tác bên ngoài. Vừa mới trở về, bà còn chưa kịp về nhà đã bị kéo đến xử lý công tác sửa chữa một nhóm văn vật hải ngoại, nên đến nay chưa từng gặp Lộc Dư An.
"Con cảm ơn." Lộc Dư An nhu thuận lễ phép nói cám ơn, rồi quay đầu trừng Mạc Nhân Tuyết.
Trong lòng cậu cảm thấy bất lực, không hiểu sao Mạc Nhân Tuyết lại có thể nói về chuyện này với bất kỳ ai.
Mạc Nhân Tuyết bất đắc dĩ giải thích: "Đây cũng không phải chỉ là anh, mà là ông ngoại nha." Sau khi ông ngoại biết Dư An đoạt giải Khải Chi Bôi, ông lập tức lấy kính lão ra và gửi tin tức về giải thưởng của cậu lên nhóm bạn bè, gửi liền ba tin. Hiện tại, không chỉ những người trong sư môn, mà đại khái hơn phân nửa giới hội họa đều biết đến.
Tất nhiên, Mạc Nhân Tuyết không nói điều này với Lộc Dư An.
Lộc Dư An đầy hoài nghi theo sư thúc Lâm vào ký túc xá. Ban đêm, ký túc xá rất náo nhiệt, nhiều nhân viên công tác liên tục khiêng camera đi qua hành lang. Bác Lâm bất đắc dĩ giải thích: "Hôm nay có một đoàn quay phim của đài CCTV đến lấy tư liệu, nên mới đông người như vậy."
Cuối cùng, bác Lâm dẫn hai người đến trước một cánh cửa sắt nặng nề và nói: "Đến đây là được, ta sẽ không vào cùng các con. Ta muốn dẫn họ đi dạo một lát. Các con tự xem nhé."
Mạc Nhân Tuyết gật đầu đồng ý.
Lộc Dư An càng ngày càng nghi hoặc. Rốt cuộc, việc Mạc Nhân Tuyết ăn mừng là gì?
Sau khi nhập mật mã, cửa chậm rãi mở ra. Lộc Dư An bước vào, và trong ánh đèn lờ mờ, cậu cảm nhận được từng đợt lạnh lẽo. Cậu nghi hoặc nhìn về phía Mạc Nhân Tuyết.
Đây là nơi nào?
Mạc Nhân Tuyết dường như hiểu lầm điều gì, anh nắm tay Lộc Dư An và thấp giọng nói: "Cẩn thận."
Nhiệt độ từ lòng bàn tay lan tỏa ra, Lộc Dư An bất giác muốn rút tay ra, nhưng Mạc Nhân Tuyết chỉ nắm chặt hơn và nói: "Ngoan. Ở đây có bậc thang, anh sẽ dắt em đi."
Lộc Dư An chỉ có thể cúi đầu, cố gắng tránh ánh mắt của anh. Cậu đánh giá hoàn cảnh xung quanh, kỳ thực trong lòng đã có những phỏng đoán.
Nơi đây có nhiệt độ và độ ẩm ổn định.
Quả nhiên, phía trước căn phòng có một bệ kim loại dài vài mét. Bên cạnh đó, một thực tập sinh thấy bọn họ đến cũng không ngạc nhiên, vì chủ nhiệm Lâm đã nói với anh ta. Anh liền bật đèn dưới bệ kim loại lên.
Hai bức tranh ố vàng trải dưới tủ kính bỗng nhiên hiện ra trước mắt họ. Dù chưa nhìn thấy toàn cảnh bức tranh, nhưng chỉ cần nhìn thấy một góc nhỏ với những nét vẽ phiêu dật, tim Lộc Dư An đã đập thình thịch.
Cậu đã mô phỏng bức tranh này vô số lần, nên không thể sai được.
Chỉ cần liếc mắt một cái, cậu nhận ra đây chính là...
Bút tích thật của "Tuyết Hành Hàn Sơn Đồ".
Mỗi inch của bức họa này cậu đều thuộc lòng. Thậm chí, những đêm không thể ngủ, cậu đã lén lút tránh Mạc Nhân Tuyết, vào thư phòng một lần lại một lần mô phỏng. Sau đó, cậu vụng trộm nhét bức tranh mô phỏng vào đáy chồng bản phác họa hỏng, sau khi biết được nguồn gốc sâu xa của ông Lý và bức họa.
Cậu luôn có một chấp niệm, nếu như trước đây họ có thể phục hồi "Tuyết Hành Hàn Sơn Đồ" thành công, liệu khi ông Lý qua đời có bớt đi chút tiếc nuối hay không.
Lộc Dư An quay đầu nhìn về phía Mạc Nhân Tuyết. Thấy vẻ hiểu rõ trong ánh mắt của anh, cậu nhận ra rằng mỗi lần cậu lén lút vào thư phòng nửa đêm, Mạc Nhân Tuyết đều biết. Thời điểm đó, Lộc Dư An cảm thấy trong lòng có một cảm xúc khó nói.
Cậu nhanh chóng tiến đến trước bức tranh, nơi đầu bức tranh được viết bằng những nét chữ phiêu dật. "Sơn bản vô ưu, nhân tuyết bạch đầu. Thủy bản vô sầu, nhân phong khởi trứu".*
(*) Núi vốn vô lo vô nghĩ, vì tuyết mới bạc đầu. Sông vốn không ưu sầu, lại vì gió nên mặt nước mới nhăn nheo.
Vào khoảnh khắc này, bức tranh mà Lộc Dư An đã mơ ước và nhớ thương vô số lần cuối cùng cũng xuất hiện trước mắt cậu. Đỉnh núi thuần một màu trắng của bức "Tuyết Sơn" trong không gian tối tăm phát ra ánh sáng nhàn nhạt. Chỉ khi tận mắt nhìn thấy, Lộc Dư An mới hiểu được ánh sáng như hoa như nguyệt, linh động được miêu tả trong sách cổ là như thế nào.
Thảo nào, ông Lý luôn không hài lòng với bản mô phỏng Xa Cừ Huy. Khi đã gặp chính phẩm, ai còn thích đồ dỏm chứ?
Dù bức tranh đã sớm ố vàng, với thời gian gần ngàn năm, nhưng những đường cong nhấp nhô của núi non vẫn phiêu dật linh động, như đang nhảy múa theo nhịp thở của núi. Qua bức tranh dài, Lộc Dư An mơ hồ nhìn thấy hình ảnh của một nam tử độ tuổi 20, người đã trở thành họa thánh xuất chúng, trong triều đình vung bức tranh sơn thủy lên, để lại một tác phẩm xứng danh thiên cổ tuyệt xướng.
Cậu gần như tham lam nhìn từng nét bút thủy mặc của "Tuyết Hành Hàn Sơn Đồ". Khi tận mắt nhìn thấy chi tiết của bức tranh, Lộc Dư An nhận ra rằng nó hoàn toàn khác với trong ảnh. "Tuyết Hành Hàn Sơn Đồ" nhiều năm qua chưa từng được đưa ra ngoài triển lãm, và đây chính là lần đầu tiên cậu nhìn thấy bút tích thật của bức tranh.
Cậu thậm chí không để ý đến Mạc Nhân Tuyết bên cạnh. Quên hết mọi thứ, chỉ tập trung vào bức tranh, cậu nhìn thấy những chỗ tinh diệu, không kìm được mà đặt tay phải lên tủ kính, theo mạch vẽ trong tranh phác họa ra những đường cong linh động.
Không biết đã trôi qua bao lâu.
Cuối cùng, cậu cũng xem xong toàn bộ bức tranh. Trong bức tranh, cậu nhìn thấy dấu vết bị lửa thiêu hủy; lầu các tuyết nguyên bản đã bị ngọn lửa hun vàng bao trùm. Cậu không thể kiềm chế, thở dài một tiếng nhẹ nhàng.
Cậu không kìm được mà nói: "Thanh Huy..."
Vừa nói ra, cậu chợt nghe Mạc Nhân Tuyết tiếc nuối nói: "Thanh huy đạm thủy mộc, diễn dạng tại song hộ*."
(*) Ánh sáng trong trẻo chiếu lên sông nước cây cối, lung linh xao động ngoài song cửa.
Hai người không hẹn mà cùng liếc nhau, ánh mắt đan xen, không cần nói gì cũng hiểu được những tán thưởng và tiếc nuối trong mắt đối phương.
Khóe miệng Lộc Dư An không kìm được nụ cười khi nhìn về phía Mạc Nhân Tuyết.
Mạc Nhân Tuyết lại hỏi: "Có vui không?"
Lộc Dư An gật đầu. Quốc bảo độc nhất vô nhị này được vẽ bằng thuốc màu làm từ khoáng thạch tự nhiên. Mỗi lần mở bức tranh ra, sẽ khiến thuốc màu trên đó bị tróc ra.
Bởi vậy, mỗi lần mở bức tranh đều là một tổn thất đối với quốc bảo, và nó chưa bao giờ được triển lãm, vì mỗi lần mở ra đều quá mức quý giá.
Chính vì hiểu được điều này, Lộc Dư An càng nhận ra rằng cơ hội lần này rất đáng quý.
Nghĩ tới đây, Lộc Dư An nhíu mày, lo lắng nhìn Mạc Nhân Tuyết và hỏi: "Như vậy có phải quá khó xử cho anh không..."
Cậu không kìm được lo lắng. Mặc dù rất vui mừng, nhưng cậu cũng không muốn mang đến phiền phức cho Mạc Nhân Tuyết.
"Em vui là được." Mạc Nhân Tuyết dừng một chút rồi nói: "Bức tranh này vẫn chưa chính thức được quyên tặng."
Về lý thuyết, bức tranh vẫn thuộc sở hữu của Mạc thị. Trong mấy ngày này, phòng tranh Lục viện đang phối hợp với viện bảo tàng để làm công tác giao nhận, vì vậy nhân viên phòng tranh Lục viện cũng có thẻ công tác tạm thời. Anh đã thêm tên của mình cùng Lộc Dư An vào danh sách.
Lần này, "Tuyết Hành Hàn Sơn Đồ" đã trở về và quốc gia rất coi trọng nó. Trong mấy ngày tới, sẽ có một tổ chuyên gia cùng ông ngoại đánh giá tổng thể quốc bảo, phán đoán xem có nên khởi động lại kế hoạch sửa chữa hay không, nhằm khôi phục hào quang ngày xưa của bức tranh. Vì vậy, trong thời gian này, bức tranh luôn ở trạng thái mở ra.
Mạc Nhân Tuyết xem như đã khó có được quyền hạn của mình để làm chuyện riêng, dẫn Lộc Dư An vào.
Anh biết rằng việc được xem tác phẩm độc nhất vô nhị này ở khoảng cách gần như vậy sẽ là một sự trợ giúp rất lớn đối với bất kỳ họa sĩ nào. Huống chi, "Tuyết Hành Hàn Sơn Đồ" còn liên quan đến ba đời sư môn của họ, nên với Dư An, cũng như với chính anh, nó mang một ý nghĩa đặc biệt.
Cả hai đều nhận ra rằng quốc bảo vẫn chưa đủ, vẫn thiếu một bức "Tuyết Hành Hàn Sơn Đồ", vì vậy vẻ mặt của họ có chút phức tạp.
Thấy bọn họ đã xem bức tranh nửa ngày, thực tập sinh gãi đầu và nói: "Bằng không tôi dẫn cậu qua phòng bên cạnh xem một chút nhé." Anh ta vừa nói vừa tự nhiên giới thiệu, cho biết cách đây không lâu, một nhóm tranh cổ lưu lạc ở nước ngoài đã trở về nước. Những bức tranh cổ này trải qua thời gian dài, mức độ tổn hại cũng khác nhau. Để nhanh chóng tái hiện nguyên trạng, chúng đã được sửa chữa cấp bách.
Bởi vậy, bộ phận của họ mới phải tăng ca làm thêm giờ.
Bên cạnh phòng lưu trữ "Tuyết Hành Hàn Sơn Đồ" là khoa sửa chữa thư pháp cổ của Viện bảo tàng Nam Thành.
Lộc Dư An gật đầu và đi theo thực tập sinh sang phòng bên cạnh.
Trong phòng, bác Lâm đang hết sức chuyên chú rửa sạch một bức tranh cổ. Bà vô cùng nghiêm túc, liên tục thấm ướt bức tranh bằng nước ấm. Camera của tổ quay phim bên cạnh đang ghi lại từng động tác của bà, còn tổ đạo diễn bên ngoài ống kính cũng đang chăm chú theo dõi.
Thực tập sinh vội vàng nhỏ giọng giới thiệu với Lộc Dư An: "Cậu đừng thấy chúng tôi dùng nước nóng để rửa tranh mà sợ. Chúng tôi sửa chữa thư họa, bước đầu tiên để lấy được tàn tranh chính là phải rửa sạch bụi bặm. Rửa như thế này, chính là dùng nước nóng, sau đó ngâm bề mặt tranh cổ. Khi vải có tính hút nước tốt hơn, chúng tôi sẽ hút nước nóng trên tranh đi."
Lộc Dư An thực ra rất rõ ràng về phương pháp này, bởi vì ông Lý đã dạy cậu.
Sau đó, cậu đã hỏi ông Nhan và hiểu rằng sư môn trước đây chia thành hai bộ phận: một bộ phận chuyên về hội họa, còn một bộ phận khác chuyên về sửa chữa tranh cổ. Ông Nhan chỉ học phần hội họa, trong khi ông Lý lại cả hai đều cảm thấy hứng thú và thích nghiên cứu. Chính vì vậy, về phương diện sửa chữa tranh cổ, ông Lý khá xuất sắc.
Nếu không phải vì ông Lý sau này mắt không được tốt thì...
Lộc Dư An thở dài.
Cậu liếc mắt một cái đã nhìn ra bác Lâm đang rửa tranh. Tranh cổ thường được đóng khung, và quá trình sửa chữa tranh cổ thực chất chính là quá trình đóng khung lại bức tranh. Bước đầu tiên là dùng nước để rửa tranh. Tranh cổ sẽ được ngâm trong nước ở nhiệt độ khác nhau, liên tục dùng nước nóng xối đi vết bẩn và bụi bặm trên tranh, giúp giấy vẽ khôi phục màu sắc ban đầu. Nhiệt độ nước nóng cũng cần được chú ý, vì nhiệt độ của giấy và vải toan dùng để vẽ tranh không giống nhau.
Từ động tác của bác Lâm, cậu có thể nhận ra rằng bà cũng là một cao thủ.
Sau khi "rửa tranh", bước tiếp theo là "bóc giấy", tức là tách phần vẽ bị tổn hại trước đó đã được đóng trong khung cũ ra, rồi chuyển sang khung giấy mới. Việc đóng khung giấy này ảnh hưởng trực tiếp đến việc cổ họa có được sửa chữa thành công hay không, vì vậy còn được gọi là "mệnh giấy".
Bước cuối cùng chính là bổ sung nét mực và màu sắc còn thiếu trong bức tranh đã được đóng khung lại. Hai bước này còn được gọi là "Toàn sắc" và "Bổ bút".
Điều này yêu cầu chất lượng bút và người bổ sung đều phải có tu dưỡng nghệ thuật rất cao, mới có thể cố gắng khôi phục nguyên trạng của bức tranh.
Điểm khó khăn trong việc tu bổ chính là ở chỗ này. Có danh xưng thuộc hội quốc họa, lại cùng lớn lên với nhau, ôngNhan cực kỳ quen thuộc với "bổ bút", nhưng Xa Cừ Huy lại thiếu hụt, khiến cho "toàn sắc" gần như trở thành một chuyện không thể.
Lâm sư thúc đang tu bổ một bức "Giang Tuyết Đồ". Qua từng lần rửa, trên bức tranh ố vàng dần dần xuất hiện những đường nét và màu sắc vốn có. Chỉ tiếc rằng chỗ đó lẽ ra phải là vùng tuyết thuần trắng, nay lại trở thành một mảng đen kịt.
Lộc Dư An vừa nhìn đã phát hiện ra nguyên nhân. Đây là vì màu trắng tuyết trong "Giang Tuyết Đồ" được làm từ bột chì, mà bột chì rất dễ bị oxy hóa thành màu đen. Việc xử lý loại màu đen này vô cùng khó khăn.
Quả nhiên, bác Lâm cùng những người khác đều đang đau đầu về "Giang Tuyết Đồ". Nếu như màu trắng tuyết trong bức tranh một lần nữa bị mất đi, thì sẽ không thể khôi phục lại phong thái lúc bấy giờ.
Bác Lâm thở dài, bảo trợ lý lấy nước chống oxy hóa ra. Việc xử lý bột chì bằng nước chống oxy hóa là cách làm thường dùng, nhưng phương pháp hóa học này rất dễ gây tổn thương cho mặt giấy.
Bác vừa định đổ nước oxy hóa lên.
Lộc Dư An lại hiểu lầm, không kìm được nhắc nhở: "Bác, lửa của người còn chưa chuẩn bị xong đâu."
"Lửa?" Bác Lâm khó hiểu hỏi lại.
Lộc Dư An nhìn thấy ánh mắt nghi hoặc của mọi người, tựa hồ như hiểu ra điều gì. Cậu nhìn bức tranh và ngờ vực hỏi: "Bác, mọi người không phải dùng hỏa thiêu sao?"
"Hỏa thiêu?" Bác Lâm lại khó hiểu hỏi.
"Đổ rượu trắng vào bức tranh, sau đó dùng lửa đốt chỗ đó." Lộc Dư An cố gắng giải thích: "Chỉ cần quan sát những giọt nước trong bức tranh, dập tắt lửa vào thời điểm thích hợp là được."
Lửa cháy có thể giúp cho bột chì đen khôi phục lại màu sắc ban đầu, hơn nữa không làm tổn thương những phần khác. Đây cũng là phương pháp mà ông Lý đã dạy cho cậu.
Phương pháp của Lộc Dư An cũng thu hút sự quan tâm của tổ làm phim.
Đạo diễn phụ trách quay phim không kìm được hoài nghi: "Dùng lửa để đốt giấy có được không?" Điều này nghe có vẻ không đáng tin cậy, dùng lửa để sửa chữa giấy?
Mạc Nhân Tuyết vẫn im lặng, đột nhiên mở miệng nói: "Phương pháp hỏa thiêu đã được ghi lại trong 'Trang Hoàng Chí' đời Minh."
Bác Lâm bừng tỉnh đại ngộ, nói: "Con nói đúng là phương pháp hỏa thiêu. Mặc dù hiệu quả của hỏa thiêu nghe nói tốt hơn so với oxy hóa, nhưng làm sao có thể nắm chắc được, khi mà trình độ sử dụng hỏa thiêu và trình tự cụ thể hầu như đã bị thất truyền. Thật sự khó mà đảm bảo."
Tổ quay phim nhạy bén nhận ra đề tài này. Dù họ làm phim tài liệu dưới hình thức một chương trình giải trí, nhưng cũng muốn có thêm nhiều nội dung thú vị. Họ không kìm được hỏi: "Em trai có thể cho chúng tôi xem một chút về phương pháp hỏa thiêu không? Tiết mục này của chúng tôi nhằm quảng bá nhiều hơn về tài nghệ truyền thống đã thất truyền. Kỹ thuật này hiếm thấy, nên rất mong được nhiều người biết đến."
Lúc này, thực tập sinh bên cạnh cũng đầy mong chờ nói: "Thầy, trước đây chúng ta không phải có một loạt tranh vẽ bằng bột chì để kiểm tra nồng độ hydro peroxide sao? Cậu có thể thử dùng cái đó."
(*) Chất oxy hóa.
Mạc Nhân Tuyết nhìn vào camera, hai mày hơi nhíu lại, muốn cự tuyệt. Anh biết Lộc Dư An không phải là người thích ống kính.
Nhưng Lộc Dư An lại do dự một chút, rồi giống như tổ tiết mục trước đó lặp lại hỏi: "Các anh đang làm chương trình quảng bá tài nghệ truyền thống sao?"
Tổ đạo diễn vội vàng gật đầu.
Lộc Dư An không hề do dự, với ánh mắt kiên định, nói: "Được."
Trước bàn làm việc trơn bóng.
Lộc Dư An đặt tay vào nước ấm để rửa sạch, sau đó lau khô ngón tay. Tiếp theo, cậu làm ướt giấy vẽ, rồi nín thở. Dùng giấy Tuyên Thành đã làm ướt, cậu nặn thành một dải xung quanh màu chì, tạo thành những đống nhỏ giống như núi.
Giờ phút này, cậu chuyên chú cúi người nhìn về phía mặt giấy. Tay phải cố định, tay trái run lên, thuần thục dẫn ngọn lửa tới trên tranh. Chỉ thấy một cái soát, ngọn lửa màu lam nhảy nhót giữa những đống nhỏ giấy Tuyên Thành. Màu chì phía dưới không chỉ không bị thiêu hủy trong ngọn lửa, mà ngược lại, trong ánh lửa ấy, nó như ẩn như hiện.
Mọi người vây xem không kìm được phát ra một tiếng thán phục. Dù biết rằng trên giấy có nước nên lửa sẽ không thiêu hủy mặt giấy, nhưng khi chứng kiến sự tiếp xúc giữa giấy và lửa một cách trực quan, lòng mọi người vẫn lập tức treo lên. Camera cũng không ngừng theo dõi và quay chụp ngọn lửa nhảy nhót.
Ánh mắt mọi người đều tập trung vào ngọn lửa này.
Kể cả Lộc Dư An cũng vậy.
Nhưng Mạc Nhân Tuyết lại không có bất kỳ hứng thú nào với ngọn lửa này. Anh không kìm được nhìn chăm chú vào Dư An. Thiếu niên đang sửa chữa quốc họa rõ ràng ở trong phòng có nhiệt độ ổn định, nhưng trán đã lấm tấm mồ hôi. Ánh mắt Dư An vô cùng chuyên chú, ánh đèn bàn làm việc dường như mạ lên làn da trắng nõn của cậu từng tầng ánh sáng. Lông mi thon dài của cậu hơi rung động dưới ánh đèn, đặc biệt rõ ràng.
Tựa hồ nhận thấy tầm mắt của Mạc Nhân Tuyết, sự chú ý và tầm nhìn đang tập trung cao độ của thiếu niên đột nhiên lướt qua đám người và vội vàng nhìn về phía anh. Ánh mắt hai người bất ngờ đối diện nhau, thiếu niên lộ ra một nụ cười gần như chỉ là theo bản năng.
Cậu rất ít khi cười, nhưng mỗi lần cười, đôi mắt và chân mày sẽ cong cong. Sự đường hoàng và sắc bén trên người thiếu niên đều biến mất, thay vào đó là vẻ yếu ớt nhu thuận.
Giống như thiếu niên dùng lớp vỏ đầy gai bao bọc một bản ngã mềm mại khác của chính mình, trong nụ cười thoáng qua rồi biến mất.
Tim Mạc Nhân Tuyết đập thình thịch, yết hầu khẽ động, lòng bàn tay siết chặt. Một loại cảm giác khác thường từ đáy lòng anh nhanh chóng hiện ra, nhanh đến mức gần như khiến anh không thể phân biệt được đó là gì.
Cuối cùng, Lộc Dư An nhẹ nhàng phủ tờ giấy Tuyên Thành ướt lên, dập tắt ngọn lửa. Sau đó, cậu lấy tờ giấy ra, bột chì vốn bị oxy hóa thành màu đen đã khôi phục lại màu trắng ban đầu trong ngọn lửa nhảy nhót. Cậu đưa bức tranh cho bác Lâm và nói: "Đây là thầy chỉ cho con."
Bác Lâm bừng tỉnh đại ngộ. Đối với vị bác chưa từng gặp mặt này, mọi người đều đã nghe qua đôi chút. Nếu đây là phương pháp do bác Lý truyền thụ, thì cũng không có gì kỳ quái. Bà không kìm được tán thưởng: "Bác Lý thật sự là một kỳ tài."
Lộc Dư An nhếch khóe môi. Đúng vậy, ông Lý luôn rất lợi hại.
Ánh mắt của thực tập sinh xung quanh nhìn Lộc Dư An đã có sự thay đổi, vội vàng đưa khăn tay cho cậu. Lộc Dư An lau tay sạch sẽ, thanh âm dừng lại một chút, lộ ra một ít sung sướng: "Bác, phương pháp và trình tự cụ thể thầy đều có bút ký, con có thể đưa cho hai người."
Đạo diễn bên cạnh vẫn theo dõi quay phim, nhìn về phía Lộc Dư An với chút suy nghĩ và nói: "Chủ nhiệm Lâm, bác của ngài?"
Ánh mắt của đạo diễn nhìn Mạc Nhân Tuyết và Lộc Dư An gần như đã bắt đầu tỏa sáng. Tuy lần này họ quay phim được quốc gia ủng hộ, nhưng nếu có thể liên quan đến một bậc thầy quốc dân như ông Nhan, tất nhiên sẽ đạt được đủ độ đề tài.
Hiện tại, hai người trước mắt, một người là cháu ngoại của ông Nhan, một người là chuyên gia sửa chữa thư họa cổ tuổi còn trẻ, hay còn là tiểu đệ tử của sư đệ ông Nhan. Dù nhìn từ góc độ nào, độ đề tài cũng rất cao. Tiết mục này của họ vốn đã có kinh phí hạn chế, phần lớn đều đặt vào việc chế tác, còn kinh phí cho tuyên truyền thì lại càng không có.
Hôm nay, nhân cơ hội này, làm sao có thể buông tha? Vì thế, anh quyết tâm vây quanh hai người ở chính giữa, giành giật từng giây để phỏng vấn.
Thẳng đến khi nghỉ giữa hiệp, lúc đạo diễn cùng bác Lâm nói chuyện, bên cạnh họ mới có chút trống rỗng.
Lộc Dư An vội vàng liếc nhìn Mạc Nhân Tuyết. Hai người không hẹn mà cùng xoay người bước nhanh ra khỏi phòng làm việc.
Bọn họ đi ra ngoài viện bảo tàng, bầu trời đã đổ một trận mưa. Hai người đứng ở mái hiên chờ một hồi, nhưng mưa vẫn không có ý định dừng lại. Từ hành lang xa xa đã truyền đến tiếng bước chân ồn ào cùng tiếng máy quay phim chuyển động, tổ quay phim đã tới rồi.
"Làm sao bây giờ?" Lộc Dư An kiên trì nhìn về phía âm thanh phát ra.
"Chạy." Một giây sau, Mạc Nhân Tuyết cởi áo khoác tây trang trên người ra, trùm lên đầu Lộc Dư An. Anh nắm tay Lộc Dư An, chạy vào trong màn mưa.
Áo khoác âu phục mang theo mùi hoa mộc nhàn nhạt, như thể đã chia thế giới thành hai phần. Bởi không gian chật hẹp, khoảng cách giữa hai người cực kỳ gần, thân thể không thể tránh khỏi tiếp xúc lẫn nhau, hơi ấm của hai người hòa quyện, không phân rõ.
Chạy được một nửa, mưa trên bầu trời đột nhiên đổ lớn hơn.
Nửa người Mạc Nhân Tuyết đều bị ướt. Dù vậy, anh vẫn gắt gao khoác toàn bộ áo lên người Lộc Dư An.
Lộc Dư An thấy nước mưa làm ướt trán Mạc Nhân Tuyết, giọt nước theo lông mày thâm thúy của anh lăn xuống chiếc cằm có đường nét rõ ràng. Cậu vươn tay, ngón trỏ nhẹ nhàng lau đi giọt mưa trên mặt Mạc Nhân Tuyết, lại cố chấp kéo áo khoác che lên người anh và nói: "Anh không cần để ý đến em. Anh ướt hết rồi."
Ngón tay chạm nhẹ vào da thịt, khơi dậy từng đợt xúc cảm khiến lòng người ngứa ngáy và run rẩy, theo đầu ngón tay của Lộc Dư An di chuyển từ trán xuống cằm.
"Không cần." Mạc Nhân Tuyết hít thở một cách khó khăn, cổ họng khô khốc. Trong khoảnh khắc ấy, anh không thể phân biệt được điều kỳ lạ khó chịu này đến từ làn da hay chính tâm hồn mình.
Anh không thể không nhìn về phía thiếu niên. Ánh đèn ven đường chiếu sáng gương mặt Lộc Dư An, trên lông mi của cậu có những giọt nước nhỏ. Ngũ quan của cậu toát lên vẻ đẹp thanh tú, trong không khí có chút không thể kiềm chế. Giờ đây, mưa đã khiến quần áo của cậu ướt sũng, chiếc áo mỏng mùa hè dính sát vào cơ thể, phác họa rõ nét đường cong của phần eo.
Cảm giác xa lạ vừa rồi lại bao trùm toàn bộ đáy lòng. Yết hầu Mạc Nhân Tuyết khẽ nhúc nhích, mơ hồ cảm nhận được một chút mất kiểm soát, nhưng không rõ đó là điều gì.
Xa xa, bảo vệ nhìn thấy họ. Ban đêm tối tăm, Lộc Dư An lại bị chiếc áo khoác che khuất hơn phân nửa. Rõ ràng bảo vệ đã hiểu lầm, lớn tiếng gọi: "Các cậu lại đây, tôi có dù. Này, các cậu, đôi tình nhân nhỏ này đừng chạy nhé!"
Hơi thở của Mạc Nhân Tuyết gần như ngưng trệ, thần sắc trở nên cực kỳ khó coi. Trong khoảnh khắc, anh hiểu ra đây rốt cuộc là một loại tình cảm như thế nào.
Nhưng rõ ràng, anh luôn coi An An như em trai mình.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top