Chương 35: Tuổi thơ

Editor: Sophie

Beta: Sophie

Tối đó hai người nằm trên giường ngủ. Giường của Phí Bạc Lâm kê sát tường, Ôn Phục nằm ở phía trong.

Trên tường có một bệ cửa sổ, tối nay cửa khép hờ, gió đêm khe khẽ luồn vào qua khe hở. 

Ôn Phục nằm trên đệm điện ấm áp, bên trên đắp hai lớp chăn, phần cổ còn được Phí Bạc Lâm cẩn thận kéo chăn che kín.

Cậu lặng lẽ gối đầu nằm đó, để mặc luồng gió lạnh không đủ mạnh đến mức buộc mình phải đứng dậy đóng cửa sổ, chỉ hết lần này đến lần khác thổi tung tấm rèm.

Ôn Phục cảm thấy rất mơ hồ. Mới chỉ một tuần thôi, vậy mà cuộc sống không nhà cửa, ngủ trong những căn nhà cũ ẩm ướt, mốc meo dường như đã trở thành chuyện của rất lâu về trước.

Cậu trở mình, nghiêng người nhìn ra phía ngoài vừa hay nhìn thấy gương mặt đang say giấc của Phí Bạc Lâm.

Tư thế ngủ của anh rất ngay ngắn và yên tĩnh, nhịp thở đều đặn.

Anh nằm ngửa, đầu đặt giữa gối, hai tay trong chăn cũng xếp gọn gàng trên người, cứ như thể đã được rèn giũa từ nhỏ để trở nên khuôn phép.

Ôn Phục nhìn thêm một lúc rồi lại trở mình. Lần này cậu nằm sấp trong chăn, hai tay duỗi ra đặt lên gối, gối đầu xuống đó, không chớp mắt nhìn Phí Bạc Lâm.

Phí Bạc Lâm đã bị hành động của cậu đánh thức từ lâu.

Khi Ôn Phục trở mình lần đầu, anh không lên tiếng mà chỉ định ngủ lại. Vừa định chìm vào giấc ngủ thì Ôn Phục lại "soạt soạt" trở mình lần thứ hai.

Phí Bạc Lâm nhẹ nhàng thở dài một tiếng, đang định mở lời hỏi cậu sao không ngủ thì bỗng nghe Ôn Phục gọi: "Anh Bạc Lâm."

Phí Bạc Lâm: !!!

Anh giật mình tỉnh giấc, đột ngột mở mắt và ngẩng đầu lên: "Nói gì đó?!"

Ôn Phục chưa kịp mở lời, anh lại ra vẻ nghiêm trọng hỏi: "Sao cậu lại gọi tôi như vậy?"

Cứ như thể anh vừa trải qua một cú sốc lớn.

Ôn Phục vẫn bình thản nhìn Phí Bạc Lâm, trong ánh mắt yên lặng thoáng qua nét nghi hoặc: "Không phải chính cậu bảo tôi gọi như thế sao?"

Phí Bạc Lâm nghẹn lại nơi cổ họng. Đúng là anh từng bảo cậu gọi mình là "anh"... nhưng tuyệt đối không phải theo cái kiểu này.

Phí Bạc Lâm đành bỏ cuộc, lùi về gối ổn định cảm xúc rồi hỏi: "Sao đột nhiên lại gọi anh?"

Ánh mắt Ôn Phục lướt xuống từ mặt anh đến ngực, nhìn chằm chằm vào đó một lúc lâu,\ rồi thăm dò hỏi: "Cái tấm thẻ Phật đó là của cậu hả?"

"Cái này hả?"

Phí Bạc Lâm nghe vậy, đưa tay sờ lên ngực mình qua lớp áo ngủ, vuốt ve góc bị mẻ của tấm thẻ Phật, giọng nói trở nên trầm xuống: "Là... di vật của mẹ tôi."

Đó là thứ cuối cùng mà mẹ anh để lại cho anh trước khi qua đời. Mẹ của Phí Bạc Lâm họ Lâm, tên là Lâm Viễn Nghi.

Năm anh mười ba tuổi, Lâm Viễn Nghi vì làm việc quá sức mà cơ thể suy nhược, sụt cân rất nhanh. Sau đó đi khám bà được chẩn đoán mắc bệnh ung thư máu.

Điều trị trong bệnh viện hơn một năm Lâm Viễn Nghi gầy đến mức không đủ 30 kg.

Phí Bạc Lâm cầm mười mấy vạn tệ cuối cùng bà để lại cho anh để đi học chuyển bà đến bệnh viện tốt nhất ở trung tâm tỉnh.

Chi phí điều trị ở ICU mỗi ngày không dưới mười vạn tệ. Khi rơi vào bước đường cùng, anh muốn tìm cha mình để vay tiền nhưng Lâm Viễn Nghi không đồng ý.

Cha và mẹ của Phí Bạc Lâm khi còn trẻ cùng nhau khởi nghiệp, bắt đầu từ một quán ăn nhỏ ở tỉnh lỵ, dần dần trở thành thương hiệu ẩm thực lớn nhất toàn tỉnh. Sau này công ty chuyển sang kinh doanh chế biến thực phẩm.

Lúc đó Lâm Viễn Nghi vừa hay mang thai, bà lui về hậu trường và rút khỏi công ty nhà họ Phí.

Bà là người cả đời kiên cường. Khi Phí Bạc Lâm bốn tuổi, bà phát hiện cha anh ngoại tình nên đã dứt khoát mang con trai rời đi, trở về quê nhà ở Nhung Châu, thậm chí còn đổi tên cho Phí Bạc Lâm.

Sau khi ý chí của tuổi trẻ không còn, Lâm Viễn Nghi mở một tiệm tạp hóa nhỏ để nuôi con trai ăn học và sinh sống.

Dù chỉ mở một tiệm tạp hóa, nhưng bà lại là người làm ăn giỏi nhất nơi này, ngày nào cũng dậy sớm thức khuya, chưa từng để hai mẹ con phải lo lắng chuyện cơm ăn áo mặc.

Trớ trêu thay năm Phí Bạc Lâm học lớp 8, bà lại mắc phải căn bệnh hiểm nghèo như vậy.

Phí Bạc Lâm không còn cách nào khác, đành bán tất cả những gì có thể bán trong nhà: Tivi, điều hòa, tủ lạnh... Trong giai đoạn nghèo khó nhất, căn nhà chỉ còn lại bốn bức tường trắng, một tấm nệm và vài chiếc chăn cũ.

Dì Ngô ở tầng dưới thấy không đành lòng, dùng mười vạn tiền hưu trí đã tích cóp để mua lại cửa hàng tạp hóa của nhà Phí Bạc Lâm, bảo anh dùng số tiền đó để chữa bệnh cho mẹ. Dù vậy số tiền chữa trị đó vẫn như muối bỏ bể.

Về tấm thẻ Phật bằng chu sa ấy, vào một đêm Lâm Viễn Nghi nằm viện, có lẽ đã linh cảm mình sắp ra đi, bà tháo xuống và tự tay đeo lên cổ Phí Bạc Lâm.

Trong những khoảnh khắc hiếm hoi còn tỉnh táo, bà nhìn vào tấm thẻ Phật bị mẻ một góc trên cổ Phí Bạc Lâm, miệng lẩm nhẩm "A Di Đà Phật", cầu xin thần linh phù hộ cho con trai bà trong những ngày sau này khi bà không còn nữa.

Phí Bạc Lâm nghẹn ngào đùa với bà: "Tấm thẻ Phật bị mẻ một góc rồi, không linh nghiệm đâu. Mẹ cứ ở lại thêm vài ngày, tự mình phù hộ cho con."

Lâm Viễn Nghi nói: "Đức Phật sẽ không để ý những điều này đâu."

Sau hôm đó bà chìm vào trạng thái hôn mê trong một thời gian dài.

Phí Bạc Lâm lợi dụng lúc Lâm Viễn Nghi bất tỉnh, đến trước cửa công ty của cha mình quỳ vài ngày, cầu xin họ giúp đỡ cứu lấy mẹ.

Lúc đó cha anh đang ở châu Âu.

Công ty ở Cẩm Thành về cơ bản đều do người nhà họ Hứa, vợ kế của cha anh quản lý. Họ đồng ý chuyển Lâm Viễn Nghi đến cơ sở điều trị tốt nhất ở nước ngoài nhưng chưa đầy nửa năm tin tức Lâm Viễn Nghi qua đời vẫn được truyền về Nhung Châu.

Phí Bạc Lâm nhận được một hộp tro cốt mà người nhà họ Hứa nhờ người mang xe tiện đường gửi tới.

Khi Lâm Viễn Nghi qua đời chỉ còn chưa đầy hai tháng nữa là đến kỳ thi trung học phổ thông của Phí Bạc Lâm.

Mùa hè năm đó anh không còn tâm trí nào để ôn thi.

Chi phí y tế đắt đỏ đã cướp sạch căn nhà không thể gọi là một tổ ấm ấy. Phí Bạc Lâm nghèo đến mức ngay cả việc ăn uống cũng trở thành vấn đề.

Mẹ anh kiên cường, anh cũng kiên cường.

Khi đói đến mức bụng dán vào lưng, Phí Bạc Lâm cũng không nghĩ đến việc gõ cửa nhà hàng xóm để xin một bát cơm.

Mặc dù anh biết chỉ cần những người xung quanh bước vào nhìn thấy căn nhà chỉ còn lại bốn bức tường của anh, họ nhất định sẽ cố gắng hết sức để lo cho anh no đủ.

Cuối cùng chính dì Ngô đã nhường lại cửa hàng tạp hóa đó.

Bà tự đi lấy hàng, sắm thêm kệ, chất đầy các loại đồ lặt vặt trong cửa tiệm để Phí Bạc Lâm tự đứng ra buôn bán. Tiền kiếm được dùng cho việc ăn học còn phần lãi dư thì từ từ trả lại mười vạn bà đã bỏ ra.

Đêm đầu tiên dì Ngô nhường lại cửa hàng tạp hóa cho Phí Bạc Lâm, anh đã trốn sau quầy hàng, điên cuồng nhét tất cả bánh mì trong cửa hàng vào miệng, ăn cho đến khi dạ dày mất cảm giác, nôn mửa không ngừng thì mới dừng lại.

Trước đó ngay cả bản thân Phí Bạc Lâm cũng không thể nhớ nổi mình đã nhịn đói bao lâu.

Lợi nhuận từ cửa hàng tạp hóa khá ổn định.

Chỉ trong hai năm Phí Bạc Lâm đã trả được hơn nửa số tiền mười vạn cho dì Ngô, lại sắm thêm được nhiều món nội thất cũ cần thiết trong nhà.

Kỳ thi vào trường trung học trọng điểm thất bại cũng không khiến anh gục ngã. Dù phải học ở lớp thường kém nhất, anh vẫn luôn là học sinh xuất sắc, đứng đầu toàn khối.

Đêm mưa ấy, lần đầu tiên nhìn thấy Ôn Phục, anh chợt nhớ đến chính mình của hai năm trước, lang thang như một hồn ma.

Trong những lúc khó khăn nhất, Phí Bạc Lâm đi ngang qua các nhà hàng và siêu thị khác nhau cũng từng có ý định trộm cắp, cướp giật.

Người mà đến bữa cơm còn chẳng có để ăn thì ranh giới đạo đức cũng chỉ mong manh trong một suy nghĩ.

Năm ấy anh vẫn còn quá nhỏ.

Vừa mới vào lớp sáu, bệnh tình của mẹ đã đột ngột trở nặng. Hai mẹ con mang cùng một sự cứng cỏi, cắn răng chịu đựng không than vãn nửa lời.

Không ai dạy anh cách xin trợ cấp, cũng chẳng ai chỉ đường để tìm sự giúp đỡ từ cộng đồng.

Tiền bạc trong nhà cứ như nước chảy ào ào vào bệnh viện.

Ấy thế mà ở tuổi mười ba mười bốn, anh vẫn gắng gượng một mình chống chọi, kiên cường bước qua tất cả.

Vì thế anh cũng tò mò không biết Ôn Phục, kẻ cướp tiền ngoài phố đã rơi vào bước đường cùng như thế nào nào.

Những chiếc hoodie lấm lem, những hộp sữa chưa từng uống nổi một ngụm, thỉnh thoảng mới dám bỏ tiền ăn gói mì tôm... tất cả đều là những vũng lầy anh từng sa vào.

Anh lừa Ôn Phục đưa anh đến căn nhà mà cậu đang ở tạm.

Trong căn bếp tróc vữa, anh đứng phía sau Ôn Phục giống như một người xa lạ đứng sau lưng chính mình của ngày xưa, nói với đối phương: "Muốn uống sữa thì đến tìm anh."

Anh cũng không hỏi lai lịch của Ôn Phục, không hỏi về cha mẹ của cậu.

Ai cũng có địa ngục của riêng mình chẳng muốn nhắc lại. 

Chỉ là tối hôm ấy thấy người ngoài cửa mình mẩy đầy vết thương, anh mới đưa Ôn Phục vào nhà.

Dường như bản năng của con người là tự làm nhạt đi những nỗi đau đã qua. Dù năm ấy khốn khổ đến mấy, thì giờ đây khi nằm trong căn phòng có gió đêm lùa nhẹ, tất cả ký ức ấy cũng chỉ còn là đôi ba câu chuyện kể rồi trôi đi.

Đôi khi Phí Bạc Lâm nghĩ, mẹ không yêu cha nhưng chắc chắn bà vẫn quan tâm ông.

Hận cũng là một loại quan tâm, bất kể là đối với cha hay đối với lòng tự tôn của Lâm Viễn Nghi.

Nếu không bà đã không đổi cho con trai mình một cái tên như thế này. Phí Bạc Lâm, ngay cả cái tên cũng mang theo sự khiển trách và hận thù của bà đối với ông.

Ôn Phục hỏi: "Tôi có thể xem không?"

"Được."

Phí Bạc Lâm lấy tấm thẻ Phật từ trong cổ áo ra. Sợi dây chuyền rất dài, đủ để đeo trên cổ Phí Bạc Lâm và cho Ôn Phục cầm trên tay ngắm nghía.

Dù vậy Ôn Phục vẫn cúi sát lại gần, gần đến mức hơi thở phả lên xương quai xanh của Phí Bạc Lâm. Anh chỉ cần cúi mắt xuống là có thể nhìn thấy hàng mi khẽ rung của cậu.

Ôn Phục khẽ hỏi: "Mẹ của cậu từng đến Vân Nam chưa?"

"Hả?"

"Rất lâu về trước."

Lời nói này khơi gợi ký ức của Phí Bạc Lâm. Hơn mười năm trước Lâm Viễn Nghi quả thực đã đến Vân Nam một chuyến, hình như là để lấy hàng.

Ở đó có một loại mứt táo chua rất nổi tiếng, trẻ con thích ăn, lúc đó ở Nhung Châu đang hết hàng mà trên thị trường lại rất được ưa chuộng, vừa hay Nhung Châu gần Vân Nam nên Lâm Viễn Nghi đã ngồi xe đường dài đến đó.

Cũng chính sau chuyến lấy hàng đó, Lâm Viễn Nghi trở về và đeo tấm thẻ Phật này. Từ khi Phí Bạc Lâm có ký ức thì tấm thẻ Phật này đã bị mẻ một góc.

Ôn Phục cầm tấm thẻ Phật, đột nhiên khẽ nói: "Đây là của tôi."

Cậu dừng lại một chút, ngẩng đầu lên nhìn vào mắt Phí Bạc Lâm: "Là tôi tặng cho bà ấy."

Nơi Ôn Phục sinh ra là một thị trấn nhỏ tên là Diêm Tân ở Vân Nam.

Dù nhỏ hơn Phí Bạc Lâm một tuổi nhưng dường như số phận đã định sẵn, cậu cũng giống như Phí Bạc Lâm, biến cố cuộc đời cũng đến vào năm cậu bốn tuổi.

Trong ký ức đã mờ nhạt, mẹ cậu là một giáo viên dạy nhạc nổi tiếng trong thị trấn. Trong những mảnh ký ức ít ỏi còn sót lại, dường như mẹ cậu đã từng ôm cậu khóc than về những bất hạnh của mình.

Vào thập niên 80 bà là một thiên tài violin có năng khiếu bẩm sinh, mười mấy tuổi đã đi khắp các tỉnh và thủ đô để tham gia các cuộc thi.

Lẽ ra bà phải có một tương lai rạng rỡ nhưng lại bị gia đình sắp đặt để kết hôn với một người đàn ông vô công rồi nghề trong thị trấn, chỉ có tám nghìn tệ tiền sính lễ, thậm chí còn chưa tốt nghiệp tiểu học.

Sau đó bà trở thành một giáo viên dạy môn phụ ở trường tiểu học. Gia đình bà vốn không phải khó khăn nhưng chỉ vì sợ bà đi quá xa rồi sẽ chẳng còn nhận người thân nên đã vội vàng quyết định chuyện cả đời bà.

Vì vậy bà đã đặt tên cho con mình là "Phục".

"Phục" có nghĩa là khuất phục trước sắp đặt, khuất phục trước số phận. Khoảnh khắc cậu ra đời cũng là lúc mọi sự phản kháng của mẹ cậu kết thúc.

Mẹ cậu là một người không thích cười, đối với Ôn Phục, bà giống như mặt trời mùa đông, u buồn nhưng ấm áp.

Chỉ khi dạy cậu hát, kéo đàn, làm quen với nốt nhạc và khuông nhạc thì trong mắt bà mới lóe lên một tia sáng. Rõ ràng Ôn Phục đã thừa hưởng trọn vẹn tài năng ấy từ mẹ.

Trong những lần biểu diễn còn non nớt nhưng gần như hoàn hảo, bà không ngừng khắc sâu vào tâm hồn cậu lời dặn: "Phải học cho thật giỏi, nhất định phải học thật giỏi. Học là con đường duy nhất để thoát khỏi nơi này. Con phải đi đến một nơi rộng lớn hơn để cất tiếng hát, đã đi được thì đừng bao giờ quay trở lại."

Cha cậu là một kẻ nghiện rượu và cờ bạc. Giai đoạn đầu thời thơ ấu của Ôn Phục, cứ hễ có người đàn ông được gọi là "cha" xuất hiện là cuộc sống trong nhà không bao giờ yên bình.

Mùa hè năm cậu bốn tuổi, trong một cuộc cãi vã khi cha cậu say rượu, ông đã đập nát cây đàn violin của mẹ cùng với vài chiếc cúp thủy tinh mà bà đã cất giữ suốt nhiều năm.

Ôn Phục trốn sau cánh cửa, bóng lưng của cha và ánh mắt tuyệt vọng của mẹ như một thước phim câm đen trắng, đóng băng trong ký ức năm đó.

Không lâu sau mẹ cậu tự sát. Chiều hôm trước khi tự sát, bà đã đeo tấm thẻ Phật này lên cho Ôn Phục và một lần nữa nói với cậu: "Bất kể thế nào, nhất định phải học thật giỏi."

Sau đó bà biến mất trên con đường ngoài cửa.

Ôn Phục không biết bà đã đi đâu, chỉ biết bà đã không về nhà suốt một đêm.

Một ngày sau đó người dân trên phố nói rằng họ đã vớt được một thi thể phụ nữ trên sông.

Ngoài hình ảnh bóng lưng ngồi bên cửa sổ kéo đàn violin vào lúc chạng vạng, những gì còn lại trong ký ức của Ôn Phục về mẹ chỉ có thế.

Cha cậu thậm chí còn lười tổ chức tang lễ cho mẹ, vội vàng thông báo cho nhà ngoại rồi để thi thể của bà lại trên bờ sông sau khi vớt lên.

Ngày quan tài của mẹ được đưa lên núi, cha cậu không có mặt.

Ôn Phục nhân cơ hội chạy ra khỏi nhà, cố gắng tìm đội đưa tang của nhà ngoại để đi theo xem mộ mẹ được chôn ở đâu.

Thị trấn giáp biên đầu thế kỷ mới, an ninh rối ren, là thời điểm bọn buôn người hoành hành. Ôn Phục cứ thế tự mình đi lạc trên một con đường vô danh.

Ban đầu bọn buôn người bán cậu cho một gia đình ở nông thôn.

Nhưng cậu không an phận, đêm đầu tiên về nhà đã trèo cửa sổ trèo tường bỏ trốn. Ở một ngôi làng xa lạ, cậu vừa mới chạy ra khỏi cửa đã gặp ngay người mua hàng đang nghỉ ngơi ở nơi khác.

Ôn Phục bị đánh một trận, người mua không muốn cậu nữa, bọn buôn người đành phải trả lại tiền và đưa cậu đến nơi khác.

Cậu đi đến đâu cũng gây rối đến đó.

Ở mỗi nơi mới cậu đều khiến gia đình mới náo loạn. Dần dần bọn buôn người không bán cậu nữa, nhưng lại không nỡ thả cậu đi, đành giữ cậu bên mình, nuôi cậu một cách rẻ mạt và chờ đợi cơ hội để bán cậu đi bất cứ lúc nào.

Đi theo bọn buôn người không bao giờ có ngày tháng tốt đẹp.

Đến năm 5 tuổi, đáng lẽ phải được đi học thì Ôn Phục vẫn suốt ngày lang thang cùng chúng.

Mỗi ngày, cậu chỉ được ăn chút cơm thừa và dưa muối. Chúng ăn gì, cậu sẽ theo sau nhặt lấy phần còn lại. Chúng không hề lo cậu bỏ trốn, bởi nếu Ôn Phục rời đi, ngay cả hai miếng cơm với dưa muối không đủ no ấy cậu cũng chẳng có được.

Có một lần bọn buôn người đánh bài trên phố, Ôn Phục đói đến mệt lả. Cậu nhìn ngang nhìn dọc, trèo vào bếp của một quán ăn từ phía sau đưa tay vào tủ định ăn trộm.

Bàn tay bẩn thỉu vừa chạm vào thức ăn, ông chủ từ phía trước bước vào. Thấy cậu đang ăn trộm, hắn không nói một lời, lập tức vung cái thau inox đựng rau trong tay ném thẳng vào đầu cậu.

Ôn Phục bị ném trúng, tai ong ong. Cậu không kịp tỉnh táo thì cơ thể đã tự động phản ứng, cậu co chân nhảy lên cửa sổ trốn ra ngoài.

Cậu vừa chạy vừa hoa mắt, chưa kịp đi được hai bước đã bị tóm lại. Người đầu bếp trong quán giáng cho cậu hai cái tát liên tiếp, máu từ mũi Ôn Phục trào ra ròng ròng. Ông chủ quát, bảo cậu cút đi.

Bọn buôn người nghe thấy động tĩnh liền ùa tới. Thấy cảnh tượng ấy, chúng không những đánh cậu một trận khi về nhà, mà trong đầu còn lóe lên một ý nghĩ khác.

Vài ngày sau bọn buôn người và cậu được chung một hộ khẩu, hắn trở thành cha nuôi của cậu. Ôn Phục bắt đầu bị sai đi ăn trộm ở đủ mọi nơi.

Đầu tiên là ăn trộm những món đồ có giá trị trong siêu thị, sau đó là ăn trộm ắc quy trong xe điện ở bãi đỗ xe của một số cơ quan.

Cậu còn nhỏ, phản ứng nhanh, tốc độ cũng nhanh.

Nếu bị phát hiện ăn trộm thì chỉ cần tìm một cái lỗ mà chui ra là có thể chạy thoát.

Ngay cả khi bị tóm cũng chỉ bị đánh một trận, đối với người cha nuôi đó mà nói thì không hề hấn gì. Quan trọng nhất là cho dù Ôn Phục có bị đưa đến đồn công an cũng sẽ vì tuổi còn nhỏ mà chỉ bị mắng mỏ vài câu rồi được cha nuôi đưa về.

Ôn Phục dáng người nhỏ bé, có thể len lỏi chui qua đủ kiểu tường rào.

Để cậu không lớn quá nhanh, cha nuôi cho cậu ăn ngày càng ít.

Sáu tuổi rồi, Ôn Phục vẫn cao như một đứa trẻ bốn năm tuổi. Cậu không được đi học, phải lang thang khắp nơi, bị huấn luyện thành một kẻ móc túi chuyên nghiệp.

Nhưng cảm giác bị tóm khi ăn trộm không dễ chịu chút nào.

Những món đồ Ôn Phục bị ép đi trộm, giá trị từ vài trăm đến cả nghìn tệ. Khi bị bắt, thường chỉ có ba kết cục: Nếu là phụ nữ, đa phần chỉ mắng mỏ đôi câu; gặp người tốt bụng, cậu trả lại đồ còn được cho thêm chút tiền vì thấy tội nghiệp. Nhưng nếu rơi vào tay đàn ông thì cậu khó tránh khỏi những cái tát như trời giáng.

Dần dần cậu lại thích được đưa đến đồn công an. Ít nhất thì cảnh sát văn minh, không đánh người.

Nhưng cha nuôi thì không thích điều đó. Bọn buôn người sao lại thích gặp cảnh sát bất cứ lúc nào chứ?

Mỗi lần Ôn Phục bị đưa đến đồn cảnh sát, cha nuôi đưa cậu về, cậu lại phải chịu một trận đòn và nhịn đói một ngày.

Lần đó Ôn Phục đói không chịu nổi, cha nuôi lại bảo cậu đi ăn trộm ắc quy của một cơ quan và dọa rằng nếu bị tóm lần nữa thì cứ chờ chết đi.

Ôn Phục đói đến mức mắt trắng dã đi ra ngoài, đột nhiên nhận ra lần này cậu chỉ còn đường chết. Cậu không thể chạy, đi ăn trộm chắc chắn sẽ bị bắt. Một khi đến đồn cảnh sát, cha nuôi sẽ lại đánh cậu.

Trời bắt đầu đổ mưa. Ôn Phục đi ngang qua bờ sông, thấy dưới cầu có một cây cột và một đoạn bị gãy giữa cột và đáy cầu.

Cậu chầm chậm bước tới. Buổi chiều vắng lặng, bờ sông chẳng một bóng người. Ôn Phục leo qua lan can, lách vào khoảng trống nứt gãy, rồi co mình lại, ôm gối ẩn dưới gầm cầu.

Mưa càng lúc càng lớn. Có người đi ngang qua bờ sông và phát hiện ra cậu. Ôn Phục khi tỉnh lại sau cơn đói lả, mới nhận ra nước sông đã dâng lên, sắp tràn đến chân. Nếu không nhanh chóng chui ra, cậu sẽ bị chết đuối ở đây.

Cậu cố gắng dùng tư thế lúc chui vào để trèo ra ngoài nhưng bị kẹt lại. Đầu cậu chạm vào đáy cầu, ngay dưới cổ họng là đầu gối. Toàn bộ lưng bị gập lại ở một góc không thể thay đổi. Toàn thân chỉ còn hai tay là có thể cử động.

Nước sông dập dờn làm ướt chân cậu. Ôn Phục nhận ra mình đã ở dưới đó quá lâu, cơ thể đã tê liệt. Và đã lâu như vậy vẫn chưa về, cha nuôi chắc chắn sẽ ra ngoài tìm cậu.

Nếu tìm thấy, hắn sẽ đánh chết cậu.

Ôn Phục cố vươn tay, bám chặt mép đáy cầu, gắng dùng sức tạo một khoảng hở để chui ra. Da đầu cọ rát vào mặt xi măng thô nhám, đau đến nhăn mặt, tưởng chừng như cả mảng da sắp bị lột khỏi đầu.

Một tiếng 'tõm' vang lên, cậu vùng vẫy thoát khỏi khe hẹp và rơi xuống sông. Ôn Phục mới sáu tuổi, chưa biết bơi. Cậu điên cuồng quẫy đạp, muốn kêu cứu nhưng vừa hé miệng nước sông đã ào ạt tràn vào cổ họng.

Tấm thẻ Phật dài trên cổ trôi nổi lên. Trong lúc Ôn Phục vùng vẫy, nó không biết đã va phải vật gì làm vỡ một góc. "Mình sắp chết rồi."

Cậu nhìn tấm thẻ Phật và nghĩ như vậy. "Lần này thật sự chết rồi."

Cảm giác ngạt thở tột cùng ập đến.

Ôn Phục dần dần ngừng vẫy vùng.

Ngay khi nước sông sắp tràn vào mũi, một lực mạnh mẽ từ eo ôm lấy cậu, đưa cậu lên trên. Ôn Phục bồng bềnh trong một vòng tay gầy gò mà ấm áp, mơ hồ nôn ra rất nhiều nước.

Khi mở mắt ra một lần nữa, cậu hít một hơi thật mạnh sau đó nhìn thấy một người phụ nữ.

"Tỉnh rồi?" Tóc của người đó ướt sũng, những giọt nước nhỏ từng giọt từng giọt xuống mặt cậu.

Ôn Phục ngửi thấy trên người cô có một mùi hương thoang thoảng. Cậu nhìn chằm chằm vào cô gọi một tiếng: "Mẹ."

"Cô không phải mẹ của cháu." Người phụ nữ cười và đỡ cậu ngồi thẳng dậy: "Lần sau đừng chạy đến những nơi nguy hiểm như vậy nữa... Bố mẹ cháu đâu rồi?"

Ôn Phục không nói gì.

Người phụ nữ thở dài, lấy chiếc áo khoác đã cởi ra trước khi xuống sông ở dưới chân, rồi lấy ra năm mươi tệ từ trong túi: "Đi mua một bộ quần áo mới đi nhé."

Cô chuẩn bị rời đi, trước khi đi cô hỏi Ôn Phục: "Cô gọi điện cho bố mẹ cháu được không?"

Ôn Phục vẫn im lặng.

Người phụ nữ lắc đầu. Vừa định đứng dậy, vạt áo của cô bị Ôn Phục kéo lại. Cô lại ngồi xổm xuống: "Sao vậy? Có chuyện gì muốn nói sao?"

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top