Hoa tư dẫn - đường thất công tử

  xem thêm truyện mình edit ở đây nhé ^^ : https://anvibeo.wordpress.com
Have fun!!!  

Đây là một câu chuyện xảy ra vào thời loạn thế.

Những ngày thành tan nước mất, công chúa Vệ Quốc là Diệp Trăn đã hi sinh thân mình vì nước, và nhờ viên giao châu nên chết đi sống lại.

Khi nàng gảy lên điệu Hoa Tư, có thể khiến người sống người chết đều trắng xương và bước vào mộng cảnh và hồi ức.

Trong những khúc nhạc được tạo thành từ ma thuật chính là xót xa và đau khổ của người đời.

Mà nàng và thế tử Trần quốc – hết lần này tới lần khác gặp nhau trong mộng cảnh, thân phận nặng nề, duyên cũng nặng nề.

Điệu Hoa Tư thanh bình, liệu có thể khiến mỗi người nhớ nhung về những ngày đã qua, không còn đau thương nữa?

Ta không thể lớn lên như một nàng công chúa, nhưng ta có thể chết đi như một nàng công chúa (Diệp Trăn)

Ta mong nàng còn sống, có thể cười với ta, khóc với ta, giận dữ với ta, ta chỉ có một nguyện vọng như thế này mà thôi (Tô Dự) 

edit : phong linh

Khúc dạo đầu

Công chúa Diệp Trăn

Mấy vị tiên sinh ngồi kể chuyện trong quán trà, nếu như có chút tuổi tác, chắc đều nghe qua câu chuyện xảy ra cách đây sáu mươi bảy năm ở vương đô nước Vệ. Nguyên bản chuyện năm đó ra sao, đến nay không còn ai có thể kể rõ ràng. Nhưng mỗi một đoạn bình chú, cho dù bổ sung thêm bớt bao lời, kết quả vẫn thủy chung như một.

Sách xưa chép lại, vua nước Vệ đã sớm đắc tội với nước Trần, bốn năm sau bị nước Trần kiếm cớ chinh phạt. Trần thế tử Tô Dự đích thân làm thống soái, đánh thẳng đến vương thành nước Vệ, chỉ một trận mà toàn thắng. Vương thất họ Vệ nhu nhược cúi mình hàng phục. Chỉ có cô công chúa nhỏ tuổi nhất của Vệ công là Diệp Trăn liều chết cự tuyệt. Nàng khoác lên mình trang phục trắng, đứng trên tường thành vương đô, trước quở trách quốc chủ, sau khiển trách ba quân. Sau khi mạnh mẽ lên án một phen thì hướng vương cung vái ba vái, phi thân từ tường thành cao trăm trượng xuống, lấy thân tuẫn quốc.

Sử quan đem chuyện này chép thành truyền kỳ, lại có các bậc đế vương đời sau tự mình viết lời bình luận, nói rằng Vệ công chúa Diệp Trăn biểu lộ điểm cốt khí cuối cùng của vương triều, là một liệt nữ.

Sáu mươi bảy năm, Cửu Châu phân chia rồi tụ hợp, tụ hợp lại phân chia, câu chuyện năm đó xưa lại thêm xưa. Dân chúng trăm họ tưởng niệm nàng, cũng chỉ ngừng tại một câu chuyện truyền kỳ. Hành động tuẫn quốc của công chúa Diệp Trăn thật là thâm sâu xúc động lòng người, dù bỏ đi yếu tố thần thánh thì cũng là mười phần tao nhã. Tuy vậy, điều khiến cho đời sau người người trầm mê lại là một giai thoại phong lưu của nàng. Trong cuộc chiến Trần – Vệ hưng vong, có thể gợi được sự tò mò nhân thế là câu chuyện vướng mắc giữa Vệ công chúa Diệp Trăn và Trần thế tử Tô Dự, cho dù người đời mơ hồ không biết là chuyện thật hay chuyện giả.

Sử sách Cửu Châu có miêu tả đôi dòng về quan hệ giữa hai người Tô – Diệp, nhưng sơ sài, chung quy chỉ kể lại những điều nhỏ nhặt. Sử viết: Thời điểm Trần thế tử Tô Dự tiếp nhận ngọc tỷ của Vệ công trên triều đường, đã đưa ra lời thỉnh cầu: "Nghe nói Văn Xương công chúa của quý quốc được người đời xưng tụng là đệ nhất tài nữ, cầm kì thi họa không gì không tinh, đặc biệt là vẽ tranh sơn thủy. Vệ công từng so sánh ngọc tỉ truyền quốc này với tranh của nàng. Không biết bản cung hôm nay có được vinh hạnh mời Văn Xương công chúa vì bản cung mà vẽ một bộ tranh trên quạt?" Văn Xương công chúa ở đây chính là danh xưng của Diệp Trăn, ý nghĩa là văn đức hưng thịnh.

Sử sách ghi chép rời rạc, toàn bộ ái tình trong 67 năm đó đã tan thành tro bụi từ lâu. Những truyền kỳ bi tráng trong câu chuyện xưa vốn đã chôn vùi theo gió cát, gần như không còn vết dấu. Tuy rằng dân gian có truyền tai nhau kể, nhưng cũng chỉ là đuổi hình bắt bóng, thật thật giả giả mà thôi. Nếu như muốn nghiên cứu tỉ mỉ câu chuyện cũ xưa này, nhất định phải quay về quá khứ, từ mùa xuân 67 năm trước để bắt đầu kể lại...

Nước Vệ mất

Mùa xuân sáu mươi bảy năm trước, Giang Bắc đại hạn, suốt sáu năm ròng rã, ông trời chưa từng ban cho nửa giọt mưa nào. Vệ quốc là một trong các nước chư hầu của Cửu Châu. Mặc dù quốc gia này nằm ngay thượng nguồn sông, cũng chỉ vừa đủ một ngụm nước cho trăm họ. Hoa màu không có nước tưới, đều bị chết khô. Không quá hai mùa, phần lớn non sông nước Vệ tiêu điều tan hoang, xác người chết đói nơi nơi, thê lương đến tột cùng.

Vệ công u mê hơn nửa đời người, bị trận thiên tai này đánh động, lần đầu tiên bừng tỉnh thoát khỏi lũ hồng nhan son phấn, nhanh chóng hạ lệnh cho các vùng mở kho lương cứu tế chúng dân. Tuy nhà vua trong một ngày tỉnh thức, nhưng nạn quan liêu tích trữ nhiều năm nhất thời không có biện pháp diệt trừ. Lệnh mở kho phát lương cứu đói vừa truyền xuống, quan lại thực thi. Có điều, khi đem phân phát lương thực, bao tầng thạch lương cao ngất, sau khi qua tay nhiều vị quan trên mà đến với con dân trăm họ thì chỉ còn lại chén cháo lỏng. Trăm họ đỏ mắt chờ mong quan phủ ban cho chén cháo này, không ngờ cái chén ấy cũng chỉ còn một ngụm, chắc là để khi đứng trước điện Diêm Vương, không đến nỗi chẳng có gì trong bụng.

Tận mắt chứng kiến đường sống bị chặt đứt, dân chúng không còn cách nào khác là tự mình cứu mình: khởi nghĩa. Việc xuất quân trước nay đều cần một cái cớ làm danh nghĩa. Dân chúng nổi loạn bất cần, chỉ nói: trời cao đã lâu không ban mưa là vì Vệ công vô đức, khiến trời xanh phẫn nộ. Muốn dẹp an lửa giận của ông trời, cần phải đánh đuổi Vệ công bất tài ra khỏi ngôi báu.

Tin đồn theo tốc độ của tám trăm hộ dân, truyền thẳng một mạch đến vương đô. Vệ công ở trong thâm cung bị những lời đại nghịch bất đạo này làm cho khiếp đảm, ngay lập tức thượng triều cùng chúng thần tử bàn bạc tìm kế bình loạn. Đám quần thần thấu hiểu sâu sắc đạo làm quan, nói dăm ba câu bịp bợm rồi khen chủ mình anh minh, chỉ có một vị Thứ Cát Sĩ mới nhận chức do cha ông truyền lại, không đủ lão luyện, thành thật nói: "Ai cũng bảo trên núi Nhạn Hồi có Huệ Nhất tiên sinh của Thanh Ngôn tông là người trí tuệ bất phàm. Nếu có thể mời tiên sinh xuất sơn, có lẽ là có thượng sách không đánh mà thắng."

Thanh Ngôn tông là tông phái chính yếu của nước Vệ, đảm đương việc cầu phúc, phù hộ vận nước. Hiện tại tông chủ của Thanh Ngôn tông là lão tiên sinh Huệ Nhất.

Đêm ấy Vệ công phái sứ giả gấp rút đến Thanh Ngôn tông mời Huệ Nhất. Đoán được vận mệnh nước Vệ chắc chắn tiêu vong, vô phương cứu vãn, lão tông chủ tám mươi hai tuổi thở dài một hơi trầm mặc rồi tạ thế. Ngài chỉ lưu lại một chiếc túi gấm, bên trong là tờ giấy trắng với tám chữ viết: "Năm Tân Tị, họa xâm lăng phía Đông."

Tại thư phòng, Vệ công nhìn túi gấm đầy sầu muộn. Nửa đêm đám quân hầu ở bên ngoài gà gật ngủ mê, mông lung nghe trong phòng vọng ra tiếng nức nở.

Lão tông chủ Huệ Nhất bấm tay tính toán quả thật chuẩn xác, vừa qua ngày mùng chín tháng chín, Trần quốc ở phía Đông ồ ạt dẫn quân tiến đánh nước Vệ. Nguyên nhân của việc xuất chinh là: năm trước, vào lúc chư hầu gặp mặt, khi đi săn, Vệ công đã cố tình giương cung bắn trúng vạt áo của Trần hầu, ngang nhiên khinh thường quân uy, hạ nhục nước Trần. Mười vạn đại quân Trần quốc thế như vũ bão, chưa đầy hai tháng đã bày binh bố trận ở ngoài vương thành nước Vệ.

Toàn thiên hạ nhìn cuộc chiến đang diễn ra giống như xem hài kịch. Một vài thủ hạ dưới trướng Trần hầu còn vô phép vô tắc, lén lút mở sòng bạc, cá cược xem lão quân chủ hồ đồ nước Vệ còn có thể kháng cự được bao lâu. Trần thế tử Tô Dự vừa vặn đi ngang qua, đặt chiếc quạt bạch ngọc xuống bàn cược, nói: "Muộn nhất đến giờ Ngọ ngày mai."

Chính Ngọ ngày hôm sau, mặt trời uể oải lánh sau tầng mây, chỉ lộ ra một vòng sáng bạc. Kinh đô nước Vệ yên lặng như tờ. Giờ Ngọ ba khắc, cờ trắng quy hàng quả nhiên được kéo lên trên tường thành. Phúc trạch của Vệ quốc kéo dài tám mươi sáu năm, cuối cùng thì tiêu tan. Lão quân chủ tự thân nghênh tiếp Trần thế tử Tô Dự tiến nhập hoàng cung. Trong triều, các thần tử cao thấp lớn bé già trẻ quỳ đầy một nhà. Họ đều là các thần tử đọc qua sách thánh hiền, hiểu rõ thời thế chuyển dịch, chim tốt nên biết chọn cành mà đậu.

Sau giờ Ngọ, mặt trời lẩn sau tầng mây, một chút ánh sáng cũng không thấy nữa. Hạn hán lâu ngày dường như khiến ông trời có chút động lòng, vẩy xuống đôi ba hạt mưa. Trần thế tử Tô Dự khoác áo bào, trên tay cầm chiếc quạt giấy mười hai nan, nhẹ nhàng tiến đến ngôi báu ở triều đường. Chàng hướng về lão quân chủ đang dâng nộp quốc tỉ, mở lời thỉnh cầu của mình đối với Văn Xương công chúa. Trong sử sách ghi chép lại, không hề có dị bản.

Nhưng Trần thế tử Tô Dự còn chưa cầu được bức họa của Diệp Trăn, lúc y mở miệng nói ra yêu cầu với Vệ công trên triều đường, thì cũng là lúc nàng công chúa trẻ tuổi nhất nước Vệ bước lên muôn trượng tường thành. Theo sử sách ghi chép, lần đầu tiên Tô Dự và Diệp Trăn gặp mặt, chính là tại buổi chiều hôm Vệ quốc tiêu vong. Hai người đứng ngăn cách nhau bởi trăm trượng tường cao, nửa chừng sinh tử. Tô Dự thậm chí không kịp nhìn rõ hình dáng của Diệp Trăn ra sao, mặc dù chàng đã được nghe nói về nàng từ rất lâu rồi.

Thiên hạ kháo nhau rằng lúc công chúa Diệp Trăn chào đời được trăm ngày, Vệ công nửa đêm nằm mộng thấy một vị tôn tăng điên điên khùng khùng. Vị sư tăng này khẳng định Diệp Trăn tuy là sinh tại vương thất, nhưng số phận lại bạc mệnh vô phúc. Trong vương cung lệ khí nặng nề, nếu nuôi nàng ở nơi ấy, không thể sống quá mười sáu tuổi. Vệ công tin lời, đem công chúa nhỏ gửi cho tông chủ Thanh Ngôn tông nuôi dưỡng, nhằm bảo đảm bình an cho nàng. Vệ công còn lập lời thề rằng trước lúc nàng mười sáu tuổi, tuyệt đối ông sẽ không tìm gặp con. Còn nghe đồn rằng tại tiệc mừng đại thọ của Vệ công hai năm trước, công chúa đã vẽ một bức "Sơn cư đồ" mừng thọ vua cha, khách khứa tham dự không ngừng ca tụng tài năng của nàng, Vệ công vô cùng hãnh diện.

Mưa phùn rơi lất phất, Tô Dự đứng ở cửa thành, chiếc quạt trên tay chàng phe phẩy. Bất chợt chàng nhớ đến lời dặn của em gái mình là công chúa Tô Nghi. Trước lúc chàng xuất chinh, Tô Nghi bảo: " Nghe nói Văn Xương công chúa của nước Vệ lớn lên xinh đẹp, học thức cũng tốt, là một kỳ tài trong thiên hạ. Ca ca lần này xuất chinh một trận toàn thắng, sao anh không đem Văn Xương công chúa đó về nhà làm chị dâu cho em?"

Trên tường thành, tay áo của Diệp Trăn phất phơ trong gió, bóng dáng nhỏ bé yếu ớt của nàng không chút báo trước mà ẩn vào hư không. Từ muôn trượng tường cao, nàng lao một mạch xuống. Lúc chạm đất, xiêm y trắng lóa, máu đỏ tươi. Tướng sĩ nước Vệ ở dưới chân thành khóc lóc thảm thiết.

Cách đó không xa, Tô Dự nhìn vũng máu một lúc lâu rồi khép quạt lại, hờ hững nói: "Dùng lễ nghi dành cho công chúa để hậu táng nàng."

Khúc thứ nhất: Tống Ngưng/ Giấc mộng phù du

Chương 1.1 : Ẩn cư

Tháng Tư trên núi, cảnh xuân tươi đẹp. Quân sư phụ cuối cùng đã quay trở về sau sáu tháng hạ sơn. Việc này có nghĩa là vết băng bó trên người nàng sắp được cắt chỉ.

Trong sáu tháng qua, nàng đã kiên nhẫn sử dụng vải gạc để băng bó toàn thân. Thoạt đầu nàng còn rất đỗi cao hứng, tối tối đều lẻn ra ngoài lượn lờ hù dọa đồng môn, nhưng không bao lâu, nàng nhận thấy đồng môn bị dọa một lần rồi sẽ rất khó bị dọa lần thứ hai, mà nàng thì không thể xác định được người nào đã bị dọa, người nào chưa. Việc này dẫn đến xác suất trúng mục tiêu của trò chơi càng lúc càng thấp, dần dần khiến nàng mất hứng.

Trong hai tháng đầu băng bó vết thương, nàng cảm thấy hơi khó chịu.

Rất nhiều đồng môn tưởng rằng nàng không chịu nổi việc mỗi ngày đều phải quấn vải gạc ngâm mình trong thùng thuốc bốn canh giờ. Thật ra không phải vậy, việc ngâm mình tắm thuốc có ích cho tinh thần và thân thể nữa là khác. Chẳng qua ngâm xong còn phải đợi cho băng gạc trên người khô ráo, chuyện đó mới khiến nàng thống khổ vô cùng. Nỗi khổ sở này của nàng nếu đem so với nhiệt độ càng ngày càng hạ thấp bên ngoài thì hoàn toàn mang tính tỷ lệ nghịch.

Sau đó, nàng nghĩ tất cả những vị anh hùng cái thế trong quá trình trở thành anh hùng, luôn luôn phải tiếp nhận sự rèn luyện độc đáo từ sư phụ của họ. Quân sư phụ chắc cũng muốn mượn việc này để rèn luyện nghị lực và quyết tâm cho nàng. Sau khi nghĩ thông suốt rồi, dẫu cho bên ngoài có là mùa đông khắc nghiệt, tuyết dẫu có đóng thành băng, nàng vẫn cắn răng kiên trì rèn luyện bản thân. Hậu quả là nàng đã nhiễm vài trận cảm lạnh. Kiên trì được nửa năm, trải qua nhiều lần bị nhiễm lạnh, sức đề kháng với bệnh thương hàn của nàng tự nhiên hình thành. Sau này, nàng bày tỏ suy nghĩ của mình với Quân sư phụ, sư phụ trầm mặc một lúc rồi mới cất lời: " Ôi, ta quên không nói với con là ở hai bên nhà tắm có cái lò sưởi để con hong khô vải gạc, ha, ha, ha!!"

Quân sư phụ là tông chủ của Quân Vu giáo. Tên gọi Quân Vu lấy ý từ Quân Vu sơn, ngọn núi nằm ở biên giới nước Trần. Nghe đâu lúc tổ tiên khai sơn lập giáo cũng không phải họ Quân, mà là họ Vương, xuất thân nghèo khổ, cha mẹ đặt tên Vương Tiểu Nhị. Sau đó Vương Tiểu Nhị theo cao nhân học võ, luyện thành tài thì lên núi Quân Vu lập giáo phái. Hiềm một nỗi chẳng bao giờ Vương Tiểu Nhị lão sư chiêu nạp được đồ đệ tốt. Sau này người dò la biết được, dân chúng nghe nói tông chủ của Quân Vu giáo tên gọi là Vương Tiểu Nhị – ai nghe danh cũng nghĩ đây là môn phái chuyên đào tạo bồi bàn cho các khách điếm, học xong thì chuyển đến các tửu lầu trên toàn quốc hành nghề tiểu nhị. Lão tổ tông Vương Tiểu Nhị trong lúc cấp bách không biết làm sao, đành phải nhờ cậy một vị tiên sinh vùng lân cận giúp ngài đổi tên. Tiên sinh nhìn thế gia trên khắp thiên hạ, các dòng họ lớn như Mộ Dung, Thượng Quan, Nam Cung, Bắc Đường, Đông Phương, Tây Môn vân vân đều đã có môn phái riêng, chỉ còn hai họ Đông Quách và Nam Quách là chưa từng lập giáo, nhưng lấy tên hiệu này kể cũng không có gì đặc sắc. Vậy chi bằng dùng hàng có sẵn, dựa theo ngọn núi Quân Vu, lấy ra chữ Quân. Thật ra cũng có thể sáng tạo họ kép, gọi là Quân Vu. Nhưng nếu lấy họ kép thì lại phải báo quan phủ lập hồ sơ, thủ tục nhì nhằng, thôi thì tốt nhất chỉ lấy họ Quân. Cái họ này vừa nghe đã thấy rất quân tử, có khí chất! Vương Tiểu Nhị được lời như cởi tấm lòng, từ đó lấy luôn một chữ Quân làm họ, hơn nữa còn nghe theo đề nghị của vị tiên sinh kia, đem hai chữ Tiểu Nhị dựa theo cổ ngôn dịch lái đi một chút, thành Thiểu Song 

[ Tiểu --> Thiểu, Nhị --> Song =)) ]

, cả cái tên sửa thành Quân Thiểu Song. Ngay sau khi Vương Tiểu Nhị đổi tên là Quân Thiểu Song, lập tức thu nạp được rất nhiều đồ đệ tốt, từ đó có thể phát huy Quân Vu giáo ngày thêm rạng rỡ. Quân sư phụ chính là hậu nhân đời thứ bảy của vị tổ sư Quân Thiểu Song ngày ấy.

Nàng quen biết Quân sư phụ từ nhỏ. Đó là khoảng thời gian nàng còn sinh hoạt tại Thanh Ngôn tông – Quốc tông của nước Vệ. Lúc ấy, lão sư phụ đầu tiên trong kiếp này của nàng là Huệ Nhất tiên sinh còn chưa tạ thế. Nàng nhớ rằng hồi ấy người sống rất rất khỏe mạnh, răng chắc đến nỗi có thể cắn vỡ cả hạt đậu rang. Quân sư phụ – lão sư phụ thứ hai trong kiếp này của nàng - thường xách theo cậu con trai đến sống bên gần Thanh Ngôn tông. Họ ở trong một gian cỏ tranh cách đỉnh núi Nhạn Hồi hai dặm. Quân sư phụ thường đến tìm sư phụ Huệ Nhất của nàng để đánh cờ. Ngược lại, có những hôm sư phụ Huệ Nhất dắt nàng rời núi, hai thầy trò nàng cũng đến gian cỏ tranh của Quân sư phụ để tá túc nhờ một đêm. Trong nhà bọn họ chỉ có độc một chiếc giường. Mỗi lần hai thầy trò nàng đến làm phiền một phen, bao giờ nàng cũng được ưu ái ngủ một mình một giường, ba người bọn họ đều nghỉ dưới đất. Việc này khiến nàng thích thú vô cùng, rất muốn đến nhà Quân sư phụ chơi, bởi vì lúc đó nàng cảm thấy mình thật khác biệt. Về sau, nàng đem ý nghĩ này nói với Quân Vĩ, Quân Vĩ là con của Quân sư phụ. Quân Vĩ nói: "Đủ thấy em đúng thật là một công chúa không lẫn vào đâu được. Vì chỉ có công chúa mới thích mình đặc biệt hơn người." Nàng vốn dĩ không đồng tình với kiến giải của hắn, công chúa không phải là thích đặc biệt hơn người, chỉ là tín ngưỡng của nàng ta khác với người thường. Điều chính yếu là chẳng có ai dám đặt mình ngang hàng với một vị công chúa để mà suy nghĩ như một công chúa. Hơn nữa, giữa tín ngưỡng và những gì yêu thích cũng khác biệt rất xa. Ở điểm này thì nhiều năm sau khi chết, nàng đã lĩnh hội sâu sắc.

Quân Vĩ là một kẻ thông kim bác cổ, hắn tinh thông từng vị tiểu thiếp của hoàng đế qua các triều đại. Thậm chí hắn nhớ cả mấy vị "tình một đêm" trong lúc hoàng đế cải trang vi hành mà chưa kịp cưới về. Quan điểm của Quân Vĩ là: chuyện nhà ảnh hưởng đến việc nước, việc nước nhất định là việc của toàn thiên hạ. Mà chuyện nhà của hoàng đế, căn bản đều từ thê thiếp mà ra. Có lẽ chỉ cần hoàng đế không nạp thiếp thì sẽ không có chuyện. Nhưng đối với một vị hoàng đế mà nói, việc này thật rất ư tàn nhẫn. Hoàng đế cảm thấy không thể tàn nhẫn với bản thân mình, đành phải tàn nhẫn với người trong thiên hạ. Theo suy nghĩ của Quân Vĩ, thê thiếp của hoàng đế hòa thuận thì thiên hạ cũng thái bình. Vậy nên ước nguyện suốt cuộc đời Quân Vĩ là dốc lòng dốc sức tìm ra biện pháp khiến cho các thê thiếp của hoàng đế hòa hảo với nhau. Ngoại trừ sự nghiệp cả đời này, hắn còn một sở thích khác là viết tiểu thuyết. Nhưng sở thích này của hắn bị Quân sư phụ hết sức khinh bỉ. Quân sư phụ hy vọng hắn có thể trở thành một vị kiếm khách danh trấn bốn phương. Vì vậy, chỉ cần hắn viết một cuốn tiểu thuyết, sư phụ liền tịch thu bản thảo, sau đó phạt hắn chép kiếm phổ. Mà sức sáng tạo của Quân Vĩ cũng thật không vừa, hắn đem văn học cùng võ học kết hợp lại với nhau: trong lúc chép kiếm phổ, đồng thời tiến hành sáng tác tiểu thuyết. Thành ra kiếm phổ của Quân Vĩ sao chép có rất nhiều biến dạng, ví dụ như hắn viết:

"Giờ Ngọ hàng ngày, thiếu nữ dùng cánh tay nhỏ nhắn cởi bỏ y sam. Dưới ánh mặt trời, thiếu nữ lau sạch cơ thể trắng trong như ngọc. Tại một nơi cực hàn như vậy, nàng ngồi trên một cái giường băng giá lạnh, lạnh, rất lạnh, lạnh vô biên. Nàng ngồi xếp bằng, mặt nhìn Bắc lưng hướng Nam, đem chân khí vận đủ một vòng. Thiếu nữ không biết ở phía sau cách nàng mười trượng, giữa trùng trùng điệp điệp rừng hoa tường vi, có cặp mắt đen tối từng chút từng chút vuốt ve da thịt nàng."

Căn bản không người nào trong thiên hạ nghĩ được đây chính là bốn tâm phổ của bộ kiếm pháp Cửu Châu chân kinh "Cực hàn ở giờ Ngọ, một mình ngồi sàng băng, lõa thể nhìn phương Bắc, khí dồn đủ một vòng." Sau này Quân Vĩ trở thành một vị kiếm khách viết tiểu thuyết ngôn tình hay nhất và một tiểu thuyết gia có kiếm thuật cao minh nhất.

Nàng một mình lớn lên ở Thanh Ngôn tông. Trong tông quy định đàn ông thì không được để tóc. Toàn tông có đến ngàn người, ngoại trừ nàng ra, tất cả đều là nam nhân đầu cạo trọc, nàng là con gái nên mới được để tóc dài. Điều này khiến nàng bước đầu ý thức được về sự khác biệt giới tính. Trong một quãng thời gian dài nàng cho rằng khác biệt lớn nhất giữa nam và nữ là: nữ có tóc còn nam thì trọc đầu. Sau đó nàng suy luận ra Quân sư phụ và Quân Vĩ hiển nhiên phải là nữ nhân, từ đó nảy sinh mối thiện cảm dựa trên nền tảng giới tính với bọn họ, tình cảm gắn bó khăng khít với nhau. Khi lớn lên, nàng biết được cha con bọn họ là nam nhân, nhưng suy nghĩ kia đã ăn sâu thành thâm căn cố đế mất rồi. Đó cũng là lý do mà đời này kiếp này nàng không thể nào tơ tưởng chuyện tư tình nam nữ với Quân Vĩ cả. Nàng một mực nghĩ hắn là tỷ muội tốt của nàng. Theo chuyện xưa nên gọi hai người là thanh mai trúc mã, nhưng bị nàng đổi lại thành thanh mai thanh mai.

Năm 3 tuổi, theo cơ duyên, nàng tình cờ biết được mình chính là công chúa nước Vệ. Đối với phát hiện này, nàng phản ứng vô cùng bình tĩnh. Lý do là với trí óc của nàng khi đó mà nói, căn bản chẳng hiểu được công chúa là thứ gì. Quân Vĩ lớn hơn nàng một tuổi, hiểu biết cũng sâu rộng hơn. Hắn giải thích: "Cái gọi  công chúa, thật ra là một loại đặc quyền giai cấp." Nàng hỏi lại: "Đặc quyền là gì?" Quân Vĩ đáp: "Tựa như em muốn làm gì thì làm, không muốn thì có thể không làm." Nghe hắn nói xong, buổi trưa hôm đó nàng không rửa chén, buổi tối cũng không giặt đồ, kết quả: nàng bị sư phụ phạt quỳ trong từ đường đến tận nửa đêm.

Từ đó về sau, nàng quên đi việc mình là công chúa một cách triệt để. Cũng trong năm đó, sư phụ thấy nàng tâm trí đã khai thông, người chính thức dạy nàng cầm – kỳ – thi – họa. Theo ý sư phụ, người sống ở đời, có thể gửi gắm tình cảm ở thứ gì đó thì cũng tốt. Nếu như nàng có thể tinh thông tấn tần tật mọi điều, dĩ nhiên là chuyện cực tốt, xem như sư phụ đã bồi dưỡng nàng thành một vị đại gia; nếu như tinh thông một trong số đó, vậy cũng không tệ, ít nhất cũng là chuyên gia; nếu như dốt đặc cán mai, mỗi thứ biết một chút, vậy tối thiểu cũng có thể làm một tạp gia. Nàng hỏi sư phụ: "Lỡ như sau này con không chỉ không hiểu, còn muốn hoài nghi ý nghĩa của việc học những thứ này thì sao?" Sư phụ trầm ngâm: "Triết gia, tốt xấu cũng có một chữ gia..." 

[ Thầy trò nhà này không đỡ được ^^" ]

Không biết vì sao, Quân Vĩ rõ ràng không bái sư, lại có thể học chung với nàng. Như sư phụ giải thích thì: học thuật không phân sư môn, không định biên giới. Còn theo Quân Vĩ lén nói cho nàng thì cha hắn đã tặng sư phụ mười cây nhân sâm ngàn năm. Quả nhiên, học thuật không biên giới, vì biên giới nào cũng có thể mua được.

Học cùng Quân Vĩ, viết chữ vẽ tranh còn có thể chịu được, nhưng lúc đánh đàn thì vô cùng thê thảm. Lần đầu học đàn, nàng và Quân Vĩ chia nhau mỗi đứa một cầm, ngồi hai buồng riêng đối đàn với nhau. Hậu quả trực tiếp là: dư âm từ tiếng đàn của hắn liên tục văng vẳng bên tai nàng ba ngày ba đêm. Nàng nhờ đó đã biết được cái gọi là ma âm dội bên tai đến nát xương khoét hồn. Bọn nàng đều khăng khăng cho rằng đối phương đàn dở không gì sánh được, hại người nghe vô cùng thống khổ, đồng thời cả hai đều dồn sức sáng tạo âm thanh "siêu việt khó nghe" với mục đích hại đối phương càng thêm khốn đốn để báo thù. Trong ấn tượng của nàng, đàn là hung khí, không phải nhạc khí. Đây là lí do tại sao nàng học xong đàn thì hành nghề giết người, trước sau không học để cứu người, nguyên căn bởi vì nỗi ám ảnh mà Quân Vĩ gieo rắc trong tâm trí. Mà lúc nàng học xong cách giết người, nếu như chẳng may động lòng trắc ẩn, muốn dựa vào tiếng đàn để xoay chuyển tình thế cứu giúp người thì, toàn bộ đều chết.

 [ Đọc phần sau "Tống Ngưng Thiên" để biết thêm chi tiết ^^ ]

Lúc Diệp Trăn mười tuổi, nàng nhặt được một con hổ con vừa mới mở mắt. Về sau con hổ này theo nàng cả đời, trong lúc nàng gặp đại nạn liền thể hiện lòng trung thành của loài cầm thú. Tuy nhiên nhớ lại năm đó, chủ ý ban đầu của nàng và Quân Vĩ khi nhặt nó về, chẳng qua là để làm thức ăn. Bởi thời điểm ấy cha của Quân Vĩ – sau người trở thành sư phụ thứ hai của nàng – bị sư phụ thứ nhất của nàng thuyết phục, nuôi chí đi theo chủ nghĩa bảo vệ động vật. Quân sư phụ dốc lòng thực hiện chí hướng ăn chay, khiến Quân Vĩ ba tháng không biết mùi thịt là gì. Đây chính là khoảng thời gian mà hai bọn nàng thèm khát ăn thịt vô cùng. Sở dĩ về sau không ăn con hổ đó, hoàn toàn bởi vì hai đứa cảm thấy vẫn có thể tiếp tục nuôi nó lớn thêm chút nữa, như vậy có thể vừa chưng cách thủy, vừa luộc, lại thêm hầm với xào, không biết chừng còn thừa để dự trữ làm lương khô ăn dần. Bây giờ nhớ lại, có thể nhịn được ham muốn lập tức đem Tiểu Hoàng nướng ăn là một việc không thể tưởng tượng nổi. Tiểu Hoàng là tên nàng đặt cho con hổ. Sau quá trình giám định, nàng và Quân Vĩ phát hiện nó thuộc loài hổ Hoa Nam – một giống hổ tương đối quý giá. Bọn nàng nghe xong rất cao hứng, cảm thấy có thể bán nó đi, như vậy hai đứa sẽ lập tức phát tài. Nhưng khổ nỗi tìm không ra chỗ thu mua, đành phải nuôi tạm vậy. Đợi đến lúc có mối mua, bọn nàng đều đã thành niên, quan trọng nhất, ai ai cũng đều là người có tiền

 [ 1 công chúa – 1 tân giáo chủ mà thì nghèo kiểu gì =)) ]

, không cần đem Tiểu Hoàng bán đi nữa. Việc này khiến hai đứa bọn nàng mười phần cảm thán, đời người đại để như vậy, đường phát tài lúc nào cũng lắm gian nan.

Vận mệnh an bài rằng mỗi lần nàng đối mặt với việc lớn, luôn luôn một thân một mình, hơn nữa nhất định sẽ bị thương gần chết. Nàng vẫn tưởng trách nhiệm lớn nhất ông trời giao cho mình là chờ sau khi sư phụ chết thì kế thừa y bát của người, đảm nhận chức vị tông chủ Thanh Ngôn tông. Nhưng sau đó, Quân Vĩ lấy trộm tông quy cho nàng xem, trong đó quy định nữ nhân cùng đồng tính đều không được đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong tông. Quy định ấy đã phá tan mộng tưởng của nàng. Rất nhiều người sau khi mộng tưởng tiêu tan thì nhanh chóng lái đời sang một ngã rẽ khác. Đơn cử dưới núi có tên thích khách, sau khi hành nghề không thuận lợi thì thoái ẩn giang hồ, đổi nghề giết lợn; lại có anh thư sinh sau khi thi rớt liền chuyển sang viết tiểu thuyết kiêm cả vẽ xuân cung đồ. Nhưng nàng một mực cho rằng mơ mộng cùng với việc cưới vợ có tính chất gần giống nhau. Vật xưa không đi, đồ mới không tới, hơn nữa mới so với cũ thường tốt hơn nhiều. Nàng lạc quan: sở dĩ mộng cũ vỡ tan là bởi vì mộng mới sắp đến. Đây là việc đáng chúc mừng, tuyệt đối không có lý do chán nản. Nàng bày tỏ ý tưởng này với Quân Vĩ, hắn suy nghĩ một hồi, cho là có lý, buổi chiều liền xuống núi an ủi bác thợ mộc họ Vương vừa mất vợ. Quân vĩ nói: "Vợ ông anh chết là vì sắp có vợ mới tới, vợ mới nhất định còn tuyệt hơn vợ cũ, đây là chuyện đại hỉ, ông anh cao hứng lên một chút, đừng đau lòng nữa!" Hắn liền bị lão thợ mộc vung chổi đuổi chạy tán loạn. Quân Vĩ không hiểu vấn đề, có chút tổn thương, nàng đành an ủi hắn: "Người đời đều có thói quen như vậy. Trước sự thật luôn làm ra vẻ tức giận, nổi cơn tam bành, thực chất là để che giấu nỗi hổ thẹn trong lòng."

Buổi tối hôm giấc mộng tông chủ của nàng tan tành mây khói, biện pháp giải sầu của nàng là : chập tối rời tông môn, đi vào rừng tìm đánh bồ câu, thay đổi tâm trạng. Sau đó có thể tìm tòi linh cảm, xây dựng mộng tưởng mới, một lần nữa gây dựng lòng tin. Từ chuyện này cũng có thể thấy, nàng quả thật là người theo chủ nghĩa lạc quan. Thêm vào đó, loại tích cực này còn biểu hiện trong một số sinh hoạt cá nhân của nàng, thí dụ như nàng chẳng bao giờ đắm chìm trong tiếc nuối. Nếu như sau này có phu quân, người đó lại bất hạnh chết trước nàng, ngay đêm hắn tắt thở nàng liền thu thập hành trang rời nhà, ra ngoài trời cao biển rộng tìm kiếm phu quân mới. Nhưng từ giờ đến cái ngày hôm đó, nàng bị Quân sư phụ tiêm nhiễm, đã quen ý nghĩ rằng phu quân tương lai tất nhiên là Quân Vĩ. Ngày ngày nhìn hắn vui vẻ vô tư lự niệm câu nam mô a di đà, nàng làm sao có thể nhân dịp hắn vừa tắt thở mà quất ngựa truy phong, bỏ nhà đi tìm kiếm "đệ nhị xuân" đây!

May mà ý nghĩ này chỉ tồn tại đến năm nàng mười bốn tuổi. Năm đó, trong một đêm mùa hạ, nàng ngồi xây mộng tưởng. Đêm tháng năm, trong tất cả các mỹ từ có thể miêu tả khung cảnh, đem ra dùng được lại là những từ tàn nhẫn.

Đêm hè, độc xà hung mãnh. Trong Tông đã có ba đệ tử chết vì rắn cắn khi ra ngoài trong thời gian này. Các đệ tử khác lấy chuyện này để răn đe bản thân phải tự mình cẩn trọng. Tuổi nàng còn nhỏ, cứ một mực tin rằng bản thân mình rất đặc biệt, nhất định sẽ không giẫm lên vết xe đổ của ba cái người xui xẻo kia, hoặc nàng là trường hợp hi hữu, con rắn sẽ chừa nàng ra. Giờ đây nhớ lại, năm đó ba vị sư huynh chết ở miệng rắn tất nhiên cũng cho rằng họ là ngoại lệ. Con người ta ai cũng đinh ninh tin tưởng rằng bản thân mình đặc biệt, thực tế trong mắt người khác nhìn vào lại thấy vô cùng bình thường, trong mắt rắn lại càng tầm thường. Phỏng chừng đối với đám rắn độc mà nói, chỉ có người nào thắt lưng dắt hùng hoàng 

( thuốc xua đuổi rắn)

 mới là đặc biệt. Lúc bé, chúng ta đều mong muốn được mọi người đối xử thật khác biệt. Lớn lên lại chỉ cầu cho mình được đối xử công bằng. Nếu như có thể quay ngược lại thời gian, ba cái mạng nhỏ của ba vị sư huynh nàng nói không chừng có thể giữ lại, dù cho trở thành người thực vật, cũng không đến nỗi chết tiêu điều như thế.

Thấy trên người nàng không mang theo hùng hoàng, độc xà hiển nhiên đối xử với nàng rất bình đẳng. Một con rắn lục miệng trắng đuôi nhỏ xinh hung hăng cắn vào cẳng chân nàng một miếng, nọc độc lập tức theo máu chạy đi khắp cơ thể. Nàng nghiêng ngả chốc lát rồi từ từ đổ xuống. Trong ý thức mơ hồ, nàng lĩnh ngộ được nửa phần của đời mình. Tiếp đó nàng còn nhớ đến bộ tranh Sơn trung cổ tự đồ đã được bảo quản tốt. Sau khi hồi tưởng xong, cảm thấy đời này không còn gì luyến tiếc, có thể yên giấc, liền khoan thai nhắm mắt chờ chết. Ngay lúc đó, bên tai nàng nhẹ vang đến tiếng giày xào xạc trên lá khô. Tiếng bước chân dừng lại bên cạnh Diệp Trăn, hai cánh tay ôm lấy, bế nàng lên. Nàng thoáng ngửi thấy mùi hương hoa mai nhàn nhạt. Trong mộng tưởng của nàng, lúc đó là trời sao lấp lánh, đêm lặng vô thanh, ngập núi tràn cốc, đó là cảnh trí tháng hai trên núi vào mùa hoa mai đang nở.

Lúc Diệp Trăn tỉnh lại, cảm thấy máu bên trong cơ thể dâng chuyển, tập trung chạy về phía dưới bụng. Tay nàng xoa xoa bụng thì thấy đau nóng từng cơn. Chỗ rắn cắn nơi mắt cá chân dường như tê dại, bỗng nhiên chân nàng chạm phải một vật thể mềm mại ấm áp. Đầu gối nàng cong lên, cẳng chân bị nâng cao, giống như dây da kéo căng. Cảm thấy như vậy thật kỳ quái, nàng chỉ muốn mở to mắt xem chuyện gì đang xảy đến với mình. Rốt cuộc khi nàng nghiêng đầu mở mắt, lại nhìn thấy một tình cảnh hết sức nguy hiểm: Nàng đang ở trong một sơn động, nằm trên chiếc giường làm bằng đá. Dưới ánh trăng bàng bạc, nàng thấy chân phải của mình bị một nam nhân nắm chặt trong tay. Ngón tay y thon dài trắng sáng. Vết thương nơi mắt cá chân của nàng kề sát miệng y. Từ góc nhìn của nàng thì chỉ có thể thấy nửa gương mặt y, mà nửa gương mặt này lại còn bị tóc che khuất, khiến nàng tò mò chỉ muốn vén tóc y lên xem thử khuôn mặt kia rốt cuộc là như thế nào. Y chưa phát hiện ra nàng đã tỉnh lại nên vẫn yên tĩnh ngồi cạnh mép giường, môi y chạm mắt cá chân nàng, tay áo dài rộng hơi trượt xuống khi y nhấc chân nàng lên. Nàng loáng thoáng nhìn thấy trên tay áo màu lam ấy có thêu hoa văn họa tiết phức tạp. Tóc y như sợi tơ đen nhánh lướt qua chân nàng. Có thể nói rằng nếu như trong hoàn cảnh khác, một cô gái như nàng có được cơ hội gặp gỡ vị công tử tao nhã đến vậy, có lẽ sẽ như áng thơ trong tập Lan Đình, nước chảy mây trôi. Nhưng ở hoàn cảnh của nàng lúc này, bị y nâng chân lên như thế, nàng lập tức cho rằng mình bị người ta khinh bạc, bèn thuận thế đá y một cước. Một cước này dùng lực rất mạnh, dẫn đến phản ứng dây chuyền, chỗ khó nói trên cơ thể máu chảy như nước trút.

Lần thứ nhất nàng gặp y, nàng đá y một cái, kết quả: nàng có kinh nguyệt lần đầu tiên trong đời.

Chương 1.2 : Mộ Ngôn

Hiển nhiên y không bị đá trúng, trước lúc chân phải của nàng đột nhiên phát lực, y đã bình tĩnh lui về sau một bước, đủ thấy thân thủ của y cao cường. Mà nàng hoàn toàn không phát hiện y rốt cuộc làm sao mà từ tư thế ngồi bỗng nhiên chuyển sang tư thế đứng, rõ ràng thân thủ của y đích thực rất cao cường. Nàng nheo mắt nhìn y. Dưới ánh trăng bàng bạc chiếu rọi nơi cửa hang, toàn thân y cao lớn đĩnh đạc, chiếc mặt nạ bạc từ trên mũi trở lên che khuất một nửa khuôn mặt, chỉ lộ ra đường cong của cằm và đường môi mảnh bạc. Thoáng chốc trầm lặng, y lau đi vết máu còn đọng trên môi: "Cô nhóc này lợi hại lắm, ta cứu em, em lại lấy oán báo ân."

Lúc này, nàng đang bị trận xuất huyết quy mô lớn trên người dọa cho phát sợ, không còn khả năng giải thích gì với y nữa. Nàng khóc ầm ĩ một thôi hồi, đồng thời trong quá trình khóc lóc, tự nhiên vận khí quá mức ở bụng dưới, dẫn đến phần thân dưới, máu từ từ thấm vào váy, loang ra, càng loang càng nghiêm trọng. Mà đáng hận là, hôm nay nàng mặc váy trắng. Ánh mắt của y dần dần tập trung trên váy của nàng, ngập ngừng nửa ngày, hỏi: "Quỳ thủy?"

Nàng nghẹn ngào nói: "Cảm ơn, tôi không khát, nhưng tôi có thể là bị bại huyết rồi, chết ngay tức khắc."

Y tiếp tục quan sát váy của nàng một chút, ho nhẹ: "Em không chết được, chỉ là quỳ thủy của em đến thôi."

Nàng hết sức không hiểu: "Quỳ thủy đến là cái gì đến?"

Y thoáng chốc do dự: "Việc này nên là mẹ em giải thích cho em chứ."

Nàng nói: "Ca ca, tôi không có mẹ, anh nói luôn cho tôi nghe đi."

Thật khó lòng tưởng tượng ra cảnh nàng đã nhận được toàn bộ kiến thức về quỳ thủy từ một nam nhân hoàn toàn xa lạ. Nhưng sẽ càng khó tưởng tượng hơn nữa nếu lão sư phụ của nàng chính miệng nói "Quỳ thủy là một quy luật do tử cung xuất huyết, là tính chất của chu kỳ..." thì sẽ thành ra cái bộ dạng gì. Có lẽ cả ông trời cũng cảm thấy việc này hẳn là bắt chẹt một lão nhân gia bảy mươi chín tuổi, cho nên không thể không mượn miệng kẻ khác.

Y nói tên y gọi Mộ Ngôn. Đương nhiên đây không phải là tên thật. Nếu như một người mang mặt nạ trên mặt, cái tên tất nhiên cũng cần phải ẩn giấu, bằng không mất hết ý nghĩa của việc dùng mặt nạ che giấu tung tích. Nàng nói với y nàng họ Quân, tên là Phú Quý, thuần túy bởi vì lo lắng. Lỡ chẳng may y là kẻ thù chưa từng gặp mặt của cha nàng, một khi biết được nàng là con gái của Vệ công, trong lúc tức điên lên liền giết người trút hận thì biết làm thế nào?! Trong lịch sử đã có nhiều trường hợp xảy ra như vậy, chứng tỏ rất nhiều công chúa đều bị lão phụ vương của bọn họ liên lụy. Nếu không mất mạng thì cũng sẽ hại đến hôn nhân, dẫn đến bất hạnh cả đời.

 [ Trí tưởng tượng của nàng thật là phong phú, ngưỡng mộ, ngưỡng mộ! ]

Cứ như vậy, hai người ở trong sơn động hơn bốn năm ngày. Nước uống lấy từ con suối ngoài động, thức ăn là cá bên dòng. Nàng không thể lập tức quay về tông môn, bởi vì độc trong người còn chưa giải hết. Mà Mộ Ngôn là kẻ cho rằng cứu người phải cứu đến cùng, tiễn Phật tiễn đến Tây Thiên, bỏ dở nửa chừng không phải là phong cách của y. Thành ra mỗi ngày nàng đều bị y bắt ép uống đủ thứ thuốc, sau đó y còn rạch một đường mảnh trên cổ tay nàng, trích ra nửa chén máu. Mỗi lần nàng phải lấy máu như vậy, Mộ Ngôn thường ngồi ở bàn đá cạnh giường gảy đàn. Là thất huyền cầm, dây đàn làm từ tơ tằm gẩy ra giai điệu âm vang làm dịu cơn đau của Diệp Trăn. Mỗi lần nhìn Mộ Ngôn đàn, nàng thường nhớ đến Quân Vĩ, cũng nhớ luôn đến trình độ đánh đàn quỷ khốc thần sần của hắn, khiến người nếu đã trót dại mà nghe một lần, nhất định sẽ không muốn sống tiếp trên đời. Kế đến lòng nàng trào nên một nỗi hối tiếc khôn nguôi. Nàng hận là mình không thể mang Quân Vĩ theo, để cho hắn được lắng nghe âm thanh trong trẻo phát ra từ cây đàn của Mộ Ngôn. Nàng muốn Quân Vĩ phải xấu hổ, tức giận bản thân mình bất tài mà tự sát đi cho rồi, sau này sẽ không thể đầu độc bất cứ ai được nữa.

Trong năm ngày, nàng không ngừng được ham muốn hất rơi mặt nạ của Mộ Ngôn, để khám phá xem gương mặt ẩn dưới chiếc mặt nạ kia rốt cuộc là như thế nào. Nhưng cứ nghĩ đến việc có thể bị y một đao chém chết, quả thực không dám tùy tiện khinh suất. Đây hoàn toàn là vì bản tính hiếu kỳ gây ra. Thỉnh thoảng có chút chuyện căn bản không liên quan đến mình, nhưng lại nhất định muốn làm rõ, thật là tự chuốc lấy phiền phức mà.

Chiều ngày thứ sáu, nàng cảm thấy vết thương ở chân đã gần khỏi, có thể đứng dậy và bắt đầu đi lại được. Mộ Ngôn nâng chân nàng lên, xem xét một hồi, kết luận: "Không cần tiếp tục trích máu. Sáng sớm ngày mai ta đưa em quay về."

Không nghĩ là lại chia tay nhau nhanh như vậy, thực ra là vì còn chưa thành công trong việc hất rơi mặt nạ của y, nàng không cam tâm chia tay! Diệp Trăn ngây người tiếc nuối.

Y hỏi: "Không muốn về sao?"

Nàng lắc đầu: "Không phải không muốn, nhưng ca ca à, anh không đi cùng tôi sao? Nhìn sơn động này trống trải thế, anh đâu có vẻ gì là muốn sống lâu dài ở đây."

Y trầm ngâm: "Tạm thời ta phải ở lại trong này."

Nàng vẫn không thôi: "Nhưng ca ca ở lại đây làm gì? Anh chỉ có một mình, ban ngày không có người nói chuyện với anh, cũng không có ai nghe anh đàn."

Ánh mắt Mộ Ngôn không rời cây huyền cầm: "Ta đợi vài người. Sợ rằng ta đi rồi, bọn chúng lại tìm không được."

Nàng tức khắc rơi vào lúng túng, nếu cố hỏi thêm nữa sẽ là can thiệp vào việc tư của người khác, không hỏi thì trong lúc nhất thời không biết chuyển đề tài gì. Nàng ấp úng: "Cái này..."

Y đứng lên, cười: "Nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đến. Hôm nay quả thật gặp may."

Diệp Trăn ngẩng đầu nhìn ra ngoài. Ở cửa sơn động cao rộng, không biết từ lúc nào, có một đám người áo đen bịt mặt tiến vào. Khoảnh khắc Diệp Trăn thấy những người này, trên tay bọn họ lộ ra binh khí. Động tác rút vũ khí đều tăm tắp cũng đồng đều như trang phục của bọn họ. Có thể coi đây là một nhóm có kỷ luật cao, mà chuyện ngạc nhiên là, vũ khí cũng rất thống nhất: những chiếc lưỡi liềm sáng loáng xếp lại cực kỳ chỉnh tề. Đương nhiên, về sau nàng biết được những thứ này tuy hình dạng giống lưỡi liềm, thực ra đều có tên khoa học, gọi loan đao, khác biệt là, cái trước dùng để cắt cỏ, cái sau dùng để cắt đầu người.

Bởi vì nàng ít khi xuống núi, chưa trải việc đời, bị mười mấy cái lưỡi liềm xếp trước mặt uy hiếp, cầm lòng chẳng đặng, co rúm lại lui về phía sau một chút. Mộ Ngôn chuyển thế đứng, che chắn trước nàng, thân thể y nhẹ nhàng di chuyển đến trước mặt Diệp Trăn. Nàng lo lắng hỏi: "Anh có vũ khí gì không?" Không đợi y đáp lời, mười mấy chiếc lưỡi liềm của nhóm kỷ luật cao kia đồng loạt chém tới. Y đẩy nàng ra, nhún người nhảy lên. Chiếc trường bào màu xanh lam xoay chuyển giữa tầng tầng vải đen đao trắng, nàng nhìn đến hoa cả mắt. Động tác của y nhanh đến không thể tin được. Diệp Trăn đứng im phăng phắc không dám cử động dù chỉ là một cái chớp mi, thế mà cũng chỉ nhìn được loáng thoáng một vài động tác của y. Ví dụ như từ phía sau, y nắm lấy cổ tay của một tên áo đen, nghiêng người xoay kẻ đó nửa vòng, lưỡi liềm trên tay Mộ Ngôn vừa vặn cắt đứt thân sau của địch thủ, lại chém rơi đầu một gã khác, máu tươi tung tóe, y còn kịp xê dịch vài bước qua bên cạnh để né tránh máu tươi đột ngột văng ra.

Cùng lắm Mộ Ngôn chỉ cần trổ ra vài món công phu, hơn chục tên áo đen bịt mặt đã bị y giải quyết hết, chỉ còn lại ba người. Cuối cùng chỉ còn lại một kẻ. Hắn biết tình thế không thể cứu vãn, nắm chặt lưỡi liềm bay thẳng về phía nàng.

Cả đời sư phụ nàng hận nhất nhất là chuyện nhiều người tụ tập lại đánh nhau, sư phụ không hề dạy nàng võ công. Nhìn thấy lưỡi liềm càng bay càng nhanh, nhằm thẳng đến yết hầu phóng tới, nàng sợ đến mức động cũng không dám động. Giờ đây đích thực là tình huống gay go cận kề giữa sự sống và cái chết. Có thể tưởng tượng một chút, nếu lúc này nàng vẫn còn yếu ớt như mấy hôm trước, lại bị dọa cho sợ nhũn cả chân, dĩ nhiên sẽ lập tức té nằm trên đất, vừa vặn né được một lưỡi liềm, cũng là tự tránh cho mình một kiếp nạn. Nhưng cơ thể nàng lúc này rất là khỏe mạnh, dù cho sợ đến mấy, chân cũng không mềm nhũn được. Đơn giản là nàng chỉ có cách đứng làm cái bia sống.

Đương lúc nàng cho rằng mình chết chắc rồi, một vạt áo xanh lam đột nhiên bao phủ lấy nàng, tựa như mây xanh xé rách cơn mưa dầm, tựa như bầu trời từ trên cao phủ xuống. Mộ Ngôn kéo nàng, ôm vào lòng. Rồi y bay lên, dùng chân đá nhẹ, lưỡi liềm xoay lại bay ngược trở về càng nhanh hơn, càng mạnh hơn. "Ư——" - tiếng đao chém vào thịt vang lên trong không gian vắng lặng. Tên áo đen cuối cùng không dám tin, cúi đầu nhìn lưỡi liềm cắm trên bụng mình, chậm rãi quỵ xuống nền đất. Thiện ác chung quy có báo ứng, thiên đạo có luân hồi, mà vị đại ca này có lẽ đang không tin được là vào thiên đạo lại có thể luân hồi hữu hiệu như vậy.

Trong khoảng không yên tĩnh, Mộ Ngôn nói: "Thật tò mò không biết cái tên đệ đệ bất tài của ta ngày thường dạy dỗ các ngươi thế nào mà lại ngu xuẩn vậy. Nếu ta là ngươi, vừa vào động liền giết tiểu cô bé này trước, nhiễu loạn trận cước của đối phương. May mà khi ngươi hiểu ra được vấn đề thì đã quá trễ mất rồi." Đao cắm trên bụng của tên áo đen còn chưa đến tử huyệt, con ngươi càng mở trừng trừng: "Ngươi..."

Mộ Ngôn nhàn nhạt nói: "Nó cho là ta không biết gì sao? Như vậy có phần xem thường ca ca của nó rồi."

Tên áo đen kia không nói thêm gì, chỉ cúi thấp đầu, run run rẩy rẩy với với ngón tay, xem chừng là muốn nhổ lưỡi liềm ra. Mộ Ngôn đột nhiên dùng tay che mắt nàng lại, trong động truyền ra một âm thanh gào thét đau đớn. Diệp Trăn hỏi: "Gã muốn làm gì?"

Bàn tay của Mộ Ngôn vẫn che mắt nàng, ôn tồn giải thích: "Nước Trần có một truyền thuyết, ai mà mang theo binh khí lúc chết, kiếp sau lại tiếp tục trở thành võ nhân."

Diệp Trăn hỏi: "Vậy gã muốn làm một văn nhân?"

Mộ Ngôn buông tay: "Biết đâu hắn muốn làm một tiểu thương nhân."

Trước đây rất nhiều năm, Diệp Trăn luôn đinh ninh là con người ta sẽ không thể nào bất kể đạo lý để làm một chuyện gì đó, tất cả đều cần phải có nguyên nhân. Thí dụ như cái hôm đầu bếp làm món nàng không thích ăn, nàng liền chạy đi hỏi sư huynh vì sao lại nấu món đó, vì sao hôm nay không làm đậu xào, vì sao vì sao vì sao vì sao, kiên trì hỏi một canh giờ, nói chung, ngày tiếp theo trên bàn ăn của nàng sẽ xuất hiện món đậu xào. Việc này chỉ ra tính cách quan trọng của nàng là ham học hỏi. Có tri thức mới hạnh phúc, không ham học hỏi không hạnh phúc. Từ năm mười bốn cho đến năm mười bảy tuổi, thời gian ba năm này, nàng nhiều lần tự hỏi bản thân vì sao lại yêu Mộ Ngôn? Kết luận là vì tại tình huống y và nàng không chút quan hệ bạn bè thân thích, thế mà trong bảy ngày y cứu nàng hai mạng. Quân Vĩ cho rằng tình yêu của nàng không thuần khiết, chỉ là yêu thích chơi chơi. Tình yêu chân chính theo hắn phải là yêu bất kể nguyên nhân. Nhưng Diệp Trăn lại cảm thấy lý do cho tình yêu cũng cần thiết như đá tảng để xây nhà lầu. Từ trước đến nay, trên đời không có nhà lầu nào không cần đá tảng để xây, vậy cũng nên tồn tại loại tình yêu không thể không có lý do. Tình cảm của nàng dành cho Mộ Ngôn được xây dựng trên nền tảng là hai cái mạng sống. Nói như vậy, trên đời này ngoại trừ tính mạng của nàng, còn lại sẽ không có thứ gì so sánh được. Như vậy tình yêu ấy của nàng lại càng muôn phần mãnh liệt thuần khiết. Quân Vĩ không cách nào hiểu được logic của nàng, chủ yếu bởi vì bản thân hắn đã phi logic.

Đã mang ân của người khác thì phải báo đáp. Nếu tài sản không thể báo đáp đủ thì lấy thân đền đáp. Nếu khi đó nàng ý thức được mình bắt đầu yêu – từ khoảnh khắc Mộ Ngôn ra tay cứu giúp, nàng đã lặng lẽ yêu y - nhất định Diệp Trăn sẽ lấy thân hứa gả cho y rồi. Nhưng đó là hiểu biết được khai sáng về sau này. Tại thời điểm đó, nàng mới chỉ là một tiểu cô nương mười bốn tuổi. Lúc bàn tay y rời khỏi gương mặt nàng, tim Diệp Trăn đập liên hồi, nhưng lại không biết được nguyên nhân.

Nàng hỏi y: "Lúc nãy vì sao anh cứu tôi?"

Y đáp: "Em vẫn còn là một cô bé con, chỉ cần là nam nhân thì không thể thấy em chết mà không cứu."

Nàng lại hỏi: "Nếu tôi không phải cô bé nữa mà đã thành... cô lớn rồi thì sao?"

Y xoay người kéo nàng tiến vào trong động, cười đáp: "Như vậy lại càng không thể không cứu em!"

Đáng nhẽ lúc ấy, nàng đã có một cơ hội tuyệt hảo, nhưng không nhận ra nên không biết cách nắm lấy. Đau khổ thật sự chính là cho dù mất đi cơ hội vẫn không ý thức được mình đang đánh mất! Nàng chỉ ngây ngốc nhìn khóe môi y hơi hơi nhếch lên, hồi lâu mới nói: "Ca ca, tôi không có gì khả dĩ để báo đáp anh, tôi tặng anh bức tranh được chứ, tôi vẽ tranh cũng rất lợi hại nha. Anh muốn tôi vẽ cho một bức không?"

Ánh sáng trong động vừa vặn, y nghiêng nghiêng đầu nhìn nàng: "Em nói gì?"

Nét mặt trông nghiêng của Mộ Ngôn, âm điệu của giọng nói, tất cả đều vừa vặn.

Diệp Trăn tức khắc bị mê hoặc, cầm lòng không được cái ý muốn thể hiện trước mặt y một phen. Nàng tìm kiếm khắp nơi. Đáng hận là trong động không có bút mực. Tuy có thể lấy thanh củi làm bút, vẽ trên giấy bồi một bức tranh chì, nhưng mấy ngày trước để cho tiện, nàng đã đem tất cả giấy bồi cắt thành mảnh nhỏ cỡ lòng bàn tay, miễn cưỡng có thể vẽ được cái trứng gà lên đó, vẽ người là chuyện rất gay go.

Mộ Ngôn nhìn nàng lăng xăng tìm kiếm trong động đến nửa ngày, lại thấy nàng cầm một đống giấy bồi, cử chỉ lúng ta lúng túng, ước chừng hiểu được. Không biết từ y đâu rút ra một đoạn rễ cây đưa cho nàng: "Dùng cái này đi, nếu em thật muốn dùng tranh để báo đáp ta, vẽ trên đất hay trên giấy cũng là như nhau."

Diệp Trăn cầm khúc cây, nghiên cứu cẩn thận một hồi, run run hạ bút. Nhưng giống như tuyệt thế cao thủ thêu hoa, dù cho bậc tuyệt thế đi nữa cũng không thể nào dùng chày sắt dệt ra hoa văn trên mặt vải. Nàng cùng những người con gái kia đều gặp phải tình huống khó xử như nhau. Chủ ý ban đầu của Diệp Trăn là vẽ tư thế oai hùng của Mộ Ngôn lúc y bay bổng trên cao rồi tay không quật ngã hai tên hắc y nhân. Nàng vẽ xong, y chăm chú nhìn nửa ngày, hỏi: "Tranh này... thật ra em định vẽ cái gì? Vừa như con khỉ nhảy qua nhảy lại trên cây hái đào, lại vừa giống một con gấu to lớn mà ẻo lả, gắng sức đứng lên lấy mật trong tổ ong..." Khi đó ấn tượng nàng lưu lại cho Mộ Ngôn chính là như vậy: tiểu cô nương vẽ khỉ hái đào với gấu leo cây không thể phân biệt mà tự nhận mình rất biết vẽ tranh!

Hiện tại nàng đã có thể dùng một nhánh cây vẽ trên mặt đất hình người sinh động như thật, nhưng lại không có biện pháp tìm được Mộ Ngôn để sửa lại ấn tượng của y đối với nàng. Quân Vĩ nói: "Biết đâu hắn cảm thấy em vẽ ra một thứ, lại có thể giống bất cứ cái gì, vậy cũng rất tài hoa nha."Cách nghĩ này của Quân Vĩ chứng minh hắn đã bắt đầu có tư duy của một kiếm khách, nhưng khác biệt giữa vẽ tranh và đánh kiếm là: nếu đánh kiếm, anh ra một chiêu, trong mắt mọi người nhìn thấy đó là bất cứ chiêu gì, đây sẽ là một chiêu kiếm pháp tuyệt luân. Còn giả như vẽ tranh vẽ tranh, anh vẽ một thứ, người người có thể nhìn ra bất cứ thứ gì, tranh liền không bán được.

Nàng cùng Mộ Ngôn bị vận mệnh đưa đẩy, ở bên nhau thêm sáu ngày. Vào đêm thứ sáu, trong lúc nàng đang ngủ, y lặng lẽ rời sơn động. Nàng một mình ở trong động chờ y bốn ngày, nhưng y không quay về. Bốn ngày sau nàng không thể không rời động, chủ yếu vì đang lúc giữa hè, xác chết không dễ bảo quản. Cửa hang ngổn ngang xác của những tên áo đen đang dần thối rữa, mời gọi rất nhiều ruồi nhặng, môi trường trở nên cực kỳ tồi tệ. Nếu như nàng gặp y vào thời điểm mùa đông, ở vào độ tuổi ngây ngô không biết chuyện của nàng, tất nhiên sẽ tiếp tục lưu lại chờ y, chờ đến khi nào nghĩ thông suốt lý do vì sao muốn chờ y. Nghĩ xong xuôi rồi càng có lý do ngồi chờ y, chờ đến khi y quay trở lại, dù y vĩnh viễn không đến chăng nữa.

Nhưng đấy lại là một câu chuyện khác. Sự thật là nàng đã rời nơi ấy, trong lòng mang theo một chút ít buồn phiền. Lúc ra khỏi sơn động, nàng còn cho rằng mình đợi y bốn ngày là để chính thức dứt khoát tình cảm, từ nay đường ai nấy đi. Hiển nhiên, ý nghĩ này rất thuần khiết, nàng đã sớm giải phóng tâm linh để yêu Mộ Ngôn, nhưng lại không thể đồng thời giải phóng tâm trí bản thân nhận thức mình yêu y, đây là nguyên nhân nàng để vuột mất y.

Lúc nàng rời khỏi sơn động, đi được một đoạn kha khá, quay đầu nhìn lại mới phát hiện ra sơn động này ở ngay phía sau núi Nhạn Hồi.

Trong suốt hai năm sau đó, địa điểm sau núi Nhạn Hồi trở thành nơi nàng thường xuyên lui tới nhất. Mà sau khi Quân Vĩ ép nàng đọc một bộ tiểu thuyết ngôn tình hắn mới sáng tác, nàng rốt cuộc hiểu ra nguyên nhân vì sao thỉnh thoảng nàng lại nhớ Mộ Ngôn da diết, vì sao mà không có việc gì cũng mò ra sau núi đi lang thang vơ vẩn vài vòng. Hóa ra nàng cũng giống như thiếu nữ trong sách, xuân tâm nảy mầm. Điểm duy nhất không giống với thiếu nữ trong sách là, cô ấy trước lúc xuân tâm nảy mầm, hiểu biết về tình lang nắm rõ như lòng bàn tay. Còn nàng, khi nảy sinh lòng ái mộ đối với Mộ Ngôn, căn bản nàng cũng chẳng hề biết y là người phương nào? Bao nhiêu tuổi? Có nhà hay không? Nếu có nhà thì nhà có ngựa hay không? Nhà với ngựa là trả tiền một lần hay đang trả nợ theo kỳ hạn? Song thân của y còn hay mất? Y cùng song thân là ở riêng hay ở chung?...

Từ lúc biết bản thân yêu Mộ Ngôn, nàng muốn tìm tung tích của y. Nhưng mà con người này hoàn toàn bặt vô âm tín như thể chưa từng tồn tại, cho dù về sau nàng có sử dụng các mối quan hệ của Vệ công, cũng không tìm được y. Nàng chỉ phỏng đoán y là người nước Trần. Nhưng thời buổi này, việc thay đổi quốc tính so với thay đổi thê thiếp có khi còn dễ dàng hơn. Biết đâu y hôm nay lấy nước Trần làm nhà, ngày mai lại là con dân nước Vệ? Nói chung biện pháp dựa vào quốc tịch để tìm kiếm bị phá sản. Nhưng ngoại trừ quốc tịch, nàng cũng chẳng có bất kỳ manh mối gì khác. Tự dưng hôm nay khi nàng nhớ lại thở thiếu nữ của mình hồi còn sống, thời khắc tốt đẹp nhất chính là năm mười lăm, mười sáu tuổi - khoảng thời gian quen biết với Mộ Ngôn. Nhưng cuối cùng tìm kiếm chẳng được nhau, cố gắng mà không chút kết quả, khiến nàng sau này chết đi cũng không thể nào nhắm mắt.

Chương 1.3 : Tín ngưỡng của công chúa

Cây phong sau núi bị sương thu nhuộm hồng hai lần, Diệp Trăn bước sang tuổi mười sáu. Truyền thuyết nói rằng trước khi nàng lên mười sáu, không thể nhiễm phải bất cứ người nào, bất cứ vật gì đến từ vương thất, bằng không sẽ bị chết yểu. Vì vậy phụ vương mới giao nàng cho Thanh Ngôn tông, hy vọng tránh được cho nàng được một kiếp. Thấy nàng thuận lợi sống qua ngày đầu tiên của tuổi mười sáu, ai nấy cũng đều rất cao hứng, nghĩ từ giờ không cần phải lo lắng về sau nữa. Ngày thứ hai liền có sứ giả đến truyền nàng quay về vương đô. Lúc gần đi, nàng và Quân Vĩ gạt nước mắt chia tay. Nàng ngậm ngùi gửi gắm Tiểu Hoàng cho hắn chiếu cố, bởi vì Tiểu Hoàng cần rừng núi, mà Vệ vương cung kỳ thực chỉ là cái chuồng lớn, Tiểu Hoàng chẳng nên theo nàng về chịu khổ. Khi đó cũng là lúc mà Quân sư phụ quyết định ẩn cư, rời Quân Vũ giáo để đến hưởng an nhàn tại vùng phụ cận của Thanh Ngôn tông. Người muốn Quân Vĩ chuẩn bị tinh thần kế nhiệm chức tông chủ Quân Vũ giáo. Giờ đây Quân Vĩ đã đầy đủ tiền tài, đã có thể tự mình gánh vác chuyện cơm nước của Tiểu Hoàng. Nàng giao hẹn với Quân Vĩ, mỗi tháng dẫn Tiểu Hoàng đến vương đô gặp nàng một lần, lộ phí tự lo.

Phụ vương phong nàng là Văn Xương công chúa, giải thích rằng nàng là công chúa có văn hóa nhất trong toàn Vệ vương cung. Trong khi sư phụ thường than vãn nàng học hơn mười bốn năm, cùng lắm chỉ lãnh ngộ được năm phần tài học của người. Như vậy cứ nhìn vào trình độ văn hóa của nàng khi từ rừng núi về, Vương đô nhờ nàng bỗng chốc trở nên rất có văn hóa, chứng tỏ đa phần mọi người ở đây đều không văn hóa.

Trên nàng có ba vị hoàng huynh, mười bốn hoàng tỷ. Vấn đề nan giải là: mỗi người bọn họ sẽ tương ứng với một vị phu nhân trong hậu cung của phụ vương. Ba vị ca ca của nàng mỗi người đều có một lĩnh vực hứng thú riêng. Vấn đề đau đầu của phụ vương nàng chính là : đại ca có hứng thú với thi từ ca phú, nhị ca có hứng thú với nữ sắc, tam ca thì có hứng thú với nam sắc, tóm lại không ai có hứng thú với việc trị quốc bình thiên hạ. Phụ vương mỗi lần nhìn bọn họ đều rầu rĩ ủ ê, chỉ khi người đến hậu cung vui đùa giây lát cùng các vị phu nhân thì mới có thể tạm thời xoa dịu lo âu.

Nàng vừa quay về vương cung, cảm nghĩ duy nhất của nàng là: ở thời đại chư hầu phân tranh, quần hùng tịnh khởi, thiên hạ đại loạn thế này, một quốc gia mục nát từ trong ra ngoài như nước Vệ mà vẫn có thể an ổn một góc tồn tại cho đến nay, quả thật trời cao không có mắt. Nếu nàng không phải người nước Vệ, nhất định sẽ mãnh mẽ dẫn đầu, đề nghị chinh phạt Vệ quốc, đất nước này quả thực rất dễ đánh hạ.

Trước đây nàng không hề tin vào giấc mộng năm đó của phụ vương cũng như vị tôn tăng trong mộng của người. Giả sử vận mệnh có bị những điều hư vô chi phối chăng nữa, thì điều hư vô ấy cần phải được thể hiện dưới dạng năng lượng cường đại, như là tín ngưỡng, như là quyền lực, chứ không phải là cảnh mộng. Nhưng số mệnh đã định nàng phải chết oan uổng, đây là chuyện không thể trốn tránh.

Nàng chết năm mười bảy tuổi, trong một ngày đông giá rét.

Năm ấy Vệ quốc đại hạn, từ thành Hãn Hà ở cực Bắc đến thành Ẩn Kê phía cuối Nam, xác chết đói đầy đồng, dân chúng lầm than cơ cực. Mặt đất giống như cái bánh nướng áp chảo trải ra vàng rượm nằm phơi tại ven thượng nguồn sông, đợi người có hiểu biết đến phân chia. Mà hôm đó, ngày mùng bảy tháng mười một năm Tân Tị, mười vạn đại quân của Trần quốc dàn binh bên ngoài vương đô, chiến giáp âm u, binh khí sáng loáng. Họ đến chinh phạt Vệ quốc, kết thúc tám mươi sáu năm thống trị của dòng họ Diệp đối với nước Vệ.

Hai tháng trước, sư phụ nàng tạ thế. Lúc sắp lâm chung người không nghĩ ra được biện pháp nào để cứu nước Vệ. Nàng lại là đệ tử đích truyền của người, nói như vậy để biết rằng cách suy nghĩ của nàng so với sư phụ không có gì khác biệt. Người không nghĩ được biện pháp, nàng càng nghĩ không ra. Thực ra thì lúc vừa quay lại vương cung, nàng cho rằng mình cũng phải có chú trách nhiệm đối với nơi đây, đành tiêu phí thời gian viết một bản "Sớ can gián Vệ Công" trình lên, tuyên bố rõ quan điểm cá nhân đối với chính thể hiện tại. Phản hồi duy nhất nàng nhận được sau bản tấu sớ ấy là phụ vương xoa đầu nàng một cái rồi bảo rằng những lời nàng tấu hoàn toàn không sai. Sau đó người cho giam lỏng Diệp Trăn lại.

Nước Vệ trên bản đồ Cửu Châu là quốc gia nằm tách biệt ngoài biên giới, chính trị xuân phong của thành Thiên Khải xao động trên trăm vạn mét vuông, kéo dài tám mươi sáu năm cũng không thể xao động đến Vệ quốc. Cho dù phụ nữ ở thành Thiên Khải đã có thể làm quan, phụ nữ Vệ quốc trước giờ vẫn không được tham gia vào chính sự. Lại thêm việc nước Vệ phân chia chức năng nam cày ruộng – nữ dệt vải, dẫn đến phụ nữ chỉ có hai công dụng : dệt vải và sinh con. Lúc sắp mất nước rồi, phụ vương mới có ý định lắng nghe và xem xét ý tưởng của con gái mình, nhưng khi đó nàng đã không còn bất cứ quan điểm nào để bày tỏ nữa. Kiến nghị duy nhất của nàng là: mọi người ăn ngon ăn nhiều một chút, đến khi nước mất thì cùng nhau tự vẫn chết theo đất nước đi. Một lần nữa nàng lại bị phụ vương giam lỏng. Người vuốt vuốt chòm râu, giọng run run: "Quả nhiên là từ nhỏ lớn lên trong núi, trở nên vô tình vô nghĩa. Thân làm công chúa một nước mà con không mảy may chút tình cảm nào với quốc gia của mình sao?" Phụ vương răn dạy quở mắng một hồi, tiếng tăm vô huyết vô lệ của nàng nhanh chóng truyền khắp vương tộc tông thất. Ca ca tỷ tỷ không thể không gặp nàng mà cảm thán: "Diệp Trăn ơi là Diệp Trăn, em đọc sách nhiều như vậy, thế mà lại không hiểu đại nghĩa trong sách. Lòng em lạnh lùng sắt đá thế này, uổng công phụ vương đã yêu thương rồi." Những chuyện này khiến cho nàng rất khó lý giải. Tại sao mọi người lúc nên đoan chính thì tất cả đều không đoan chính? Còn khi kết cục đã an bài, cuối cùng có thể danh chính ngôn thuận không đoan chính, người người hết thảy lại đều giả vờ đoan chính? Nếu có thể giữ những đoan chính vờ vĩnh này đến phút cuối, cũng xem như xúc động lòng người, nhưng mọi người rõ ràng là không làm được. Mà thân là vương tôn quý tộc, không làm được cũng phải làm mới đúng! Theo suy nghĩ của nàng, vương tộc và xã tắc là một. Nếu xã tắc mất rồi, vương tộc không có lý do gì lại không chết đi theo xã tắc.

Mồng bảy tháng mười một, trên trời không một bóng mây.

Quân đội Trần quốc vây thành chưa đến ba ngày, phụ vương nàng đã chọn biện pháp đầu hàng. Mà chẳng có đất nước nào giống như nước Vệ: thời khắc diệt vong diễn ra bình tĩnh vô cùng! Những thứ mẫu mực từng được ghi chép trong sách về thời điểm vong quốc, thí dụ như như quân chủ tự thiêu, bề tôi thắt cổ, vương tử công chúa lẩn trốn... toàn bộ đều không thấy. Chỉ có đám nữ quyến tạm thời rối loạn, bởi sau khi nước Vệ mất, bọn họ sẽ không thể tiếp tục ở nơi gác tía lầu son xa hoa được nữa. Cách tốt nhất là thừa dịp giao thời hỗn loạn mà trốn khỏi vương cung, lưu lạc phong trần để sinh tồn. Ngặt nỗi Vương cung nước Vệ tại thời điểm ấy căn bản không xảy ra hỗn loạn. Toàn bộ đều gọn gàng ngăn nắp, hoàn toàn không có điều kiện bỏ trốn. Các nàng suy xét hết lần này đến lần khác, cuối cùng quyết định cư xử bình tĩnh.

Trong nội giam truyền đến tin mới nhất, nghe xong, nàng khoác lên người y phục xa xỉ nhất từ trước đến nay. Nghe kể bộ trang phục này được dệt từ lông vũ của tám mươi mốt con cò trắng, trông thật tao nhã và tinh khiết. Nhưng điều nàng ưng nhất ở bội y phục đó là ở thời diểm này nhìn rất giống với tang phục, bình thường kể cũng khó có cơ hội mặc vào.

Giờ Ngọ ba khắc, cờ trắng đầu hàng giương trên cổng thành, nghêng ngang phần phật trong gió. Trời mưa nhỏ.

Nước Vệ hạn hán lâu năm, đợt khô hạn này gián tiếp dẫn đến việc mất nước. Lúc nước mất rồi, lại có mưa rơi đưa tiễn.

Nàng bước lên tường thành, không gặp bất cứ trở ngại nào. Ba vạn tướng sĩ trong thành cùng hạ vũ khí, màu sắc đao kiếm so với quân Trần có vài phần ảm đạm. Binh khí kéo dài sĩ khí, nước mất thì nhà cũng tan, biết thế nhưng lại không thể liều chết một trận, toàn bộ tướng sĩ đều sống dở chết dở, mà cân nhắc gì nữa khi vũ khí đã không còn. Tường thành này xây cao đến như vậy, tổ tiên năm xưa thi công tường thành cho rằng, tường cao vút sẽ tạo cho đối phương một ấn tượng kiên cố không thể phá vỡ. Cao lớn tức là lực lượng. Nhưng chuẩn bị lực lượng như thế này, đánh không lại một câu, lớn không bằng một câu nói của vua nước Vệ hiện giờ: "Chúng tôi đầu hàng."

Dõi ánh mắt ra xa, bản đồ Vệ quốc nhìn không thấy đầu, chân trời cuồn cuộn mây đen tụ hợp, mưa nhỏ bị gió thổi bay như những sợi tơ vương trên mặt. Quân đội nước Trần tràn lan, binh giáp đen nghìn nghịt, nghiêm chỉnh dàn trận quanh cổng thành, sau cùng ngạo nghễ nhìn đất đai dưới chân. Nơi này đáng lẽ nên là một vùng phì nhiêu, an cư lạc nghiệp.

Sau lưng nàng vang lên tiếng bước chân lảo đảo, phụ vương khàn khàn cất tiếng: "Trăn nhi, con muốn làm cái gì?"

Chỉ trong một buổi chiều, dung nhan của người đã trở nên già nua. Tuổi tác người đã cao, già nua là chuyện dĩ nhiên. Nhưng người thích chăm chút, lại được mọi người trong cung lại quen thói bợ đỡ, ra sức tán thưởng người là tuổi trẻ phong độ. Lúc này đây, ngay cả giả vờ cũng không thể giả vờ được nữa.

Nàng vốn không có gì để nói, nhưng việc đã đến nước này, dài dòng một chút cũng không sao. Phụ vương nàng được kẻ hầu nâng đỡ mà vẫn lung lay như cây gần đổ. Trong đầu nàng sắp xếp lại chút từ ngữ rồi lên tiếng: "Phụ vương còn nhớ tông chủ Thanh Ngôn tông – sư phụ của con, Huệ Nhất lão tiên sinh?"

Người chậm chạp gật đầu.

Gió thổi vạt áo bào trắng lay động, kéo theo âm thanh vỡ vụn, toàn bộ ba quân nghiêm trang. Nàng nắm chặt áo bào, trịnh trọng nói: "Sư phụ dạy Diệp Trăn về đại nghĩa của Vương tộc, thường giảng cho con nghe rằng Vương tộc là tôn nghiêm của xã tắc, tôn nghiêm của Vương tộc là tôn nghiêm của xã tắc, nửa điểm cũng không thể giẫm đạp. Nhưng lúc phụ vương chuyển giao thư hàng, người có xem mình là tôn nghiêm của xã tắc hay không? Nếu Diệp Trăn là vua một nước, quyết chiến không hàng, không để xã tắc phải chịu đại nhục. Phụ vương đương nhiên có thể nói đây là để tránh cho xã tắc khỏi phải chịu họa chiến tranh, nhưng hôm nay quân của nước Trần kéo đến tận vương đô, điều mà họ giẫm đạp trên đường chính là hài cốt con dân của nước Vệ chúng ta. Trong thành ba vạn tướng sĩ ngay ngắn chỉnh tề giải giáp, làm sao xứng đáng với các bậc tiền nhân đã hi sinh vì nước? Giờ phút này, có mặt ở đây đều không phải là những người con chân chính của Vệ quốc ta, những người có tâm huyết của nước Vệ, toàn bộ đã bước đến hoàng tuyền, vùi thân nơi âm phủ rồi. Tuy Diệp Trăn từ nhỏ lớn lên trong núi, nhưng máu chảy trong người con là máu của vương tộc, Diệp Trăn có trách nhiệm phải trở thành tôn nghiêm của xã tắc. Phụ vương, người cùng với tôn thất ra hàng Trần quốc, thứ cho Diệp Trăn vạn vạn lần cự tuyệt không thể tuân theo. Nếu như Diệp Trăn chỉ là dân thường, hôm nay khuất phục dưới vó ngựa của Trần quốc cũng không có gì để nói, nhưng Diệp Trăn là công chúa của một nước..."

Tiếng sấm vang rền, mưa như trút nước. Nàng nghiêng người nhìn dưới chân tường thành, không biết từ thuở nào xuất hiện một vị công tử toàn thân mặc bạch y, hình dáng phảng phất như Mộ Ngôn. Trong một chớp mắt, thân ảnh người ấy dần dần tan biến trong màn gió mưa mù mịt.

Phụ vương vội vàng nói: "Con thân là công chúa mà lại ăn nói hàm hồ như vậy, mau bước xuống đây trước đã..."

Cơn mưa lần này thật là ào ạt. Nếu nửa năm trước có trận mưa này, nước Vệ của nàng liệu có nhanh như vậy mà vong? Có thể thấy rõ trời cao tự có thiên ý. Diệp Trăn dùng tay lau sạch nước mưa trên mặt, ngẩng đầu nhìn trời, trong lúc nhất thời nổi lên ngàn vạn cảm khái, chỉ có thể dùng một câu khả dĩ để tổng kết:

"Xã tắc mất, Diệp Trăn cũng mất, cơ bản là như vậy. Đó là tín ngưỡng của một công chúa."

Nàng từ tường thành rơi xuống đất, nhớ đến chuyện xưa, sư phụ nàng vẫn luôn thấp thỏm sợ hãi rằng người đã bồi dưỡng nàng thành một triết gia, lúc đó thật không rõ là người sợ cái gì với cái gì. Bây giờ thì đã hiểu, nàng căn bản đã trở thành triết gia theo kiểu tự mình chạy vào cái vòng luẩn quẩn do bản thân tạo ra, sau cùng lấy cái chết làm kết cục. Mối hận duy nhất trong đời nàng là không thể gặp lại Mộ Ngôn lần nữa. Đêm hôm đó, ánh sao lấp lánh, y ẵm nàng, trong tay áo nhàn nhạt hương mai.

Y nói: "Cô nhóc này lợi hại lắm, ta cứu em, em lại lấy oán báo ân."

Y nói: "Quỳ thủy là một quy luật do tử cung xuất huyết, là tính chất của chu kỳ..."

Y nói: "Em vẫn còn là một cô bé con, chỉ cần là nam nhân thì không thể thấy em chết mà không cứu."

Y nói: "Tranh này thật ra là em định vẽ cái gì? Vừa như con khỉ nhảy qua nhảy lại trên cây hái đào, lại vừa giống một con gấu to lớn mà ẻo lả, gắng sức đứng lên lấy mật trong tổ ong..."

Chỉ sợ là y đã sớm quên mất nàng, thê thiếp mấy người, con cái mấy đứa. Y không thể nào biết được có một cô gái vẫn luôn tương tư y, không ngừng kiếm tìm y, trước lúc chết vẫn còn nhớ đến y.

Trong gió truyền đến tiếng nức nở nghẹn ngào của ba quân tướng sĩ cùng tiếng lộp độp mưa rơi. Nàng nghe được bài quân ca mà binh sĩ trấn thủ biên cương thường hát. Giai điệu trầm lắng, trong cơn mưa tầm tã thê lương lại càng lộ nét cô tịch.

Nàng nằm trên nền đất, không thể mở mắt, cảm giác sinh mệnh đang trôi đi. Có tiếng bước chân dừng ở bên cạnh, trên má có bàn tay thoa nhẹ, khứu giác dường như vương vất mùi hương hoa mai thanh mát, nhưng lúc này, nàng đã rất khó phân biệt được là cảnh thực hay chỉ là ảo giác. Nàng gắng sức mở miệng: "Ca...ca."

Bàn tay trên má Diệp Trăn dường như khẽ run rẩy.

.

.

.

Nàng không thể lớn lên như công chúa, nhưng sẽ chết đi giống như một công chúa.

Ngày đó nàng chết, mồng bảy tháng mười một năm Tân Tị, cùng mất đi với nàng là bài hát bi ai của Vệ quốc:

"Sao sa, trăng rực rỡ

Quê nhà đâu tha phương?

Hôm nào hoa mai rụng

Tiễn ta về cố hương."

Chương 2.1 :Quân Phất

 Sau khi nàng chết, nghe đâu Trần thế tử Tô Dự hạ lệnh an táng trọng thể, nhập liệm đưa tang đều dùng lễ nghi dành cho công chúa.

Vệ vong quốc được hai ngày, đáng lý ra phụ vương và mẫu phi của nàng sẽ bị áp giải đến Hạo thành – kinh đô nước Trần. Nhưng vì chuyện tang sự của nàng nên được trì hoãn lại một ngày.

Lúc đưa tang, lại cũng theo lệnh thế tử, đám vương tôn hoàng tộc nước Vệ đều bị bắt buộc tham dự. Khi quay về còn phải viết một bài ca ngợi công đức của người đã khuất. Lệnh trên ban xuống, không kẻ nào nào dám trái. Mà đám dân chúng còn sót lại trong vương đô cũng lao nhao muốn đi xem tận mắt đám tang nàng. Chẳng thế mà nảy sinh tình trạng tắc ngẽn giao thông trăm năm khó gặp một lần trên suốt đoạn đường kéo dài từ vương đô đến vương lăng. Kể ra thì, trong ngày hôm đó, nếu người nào chẳng may cần phải băng ngang phố để sang nhà đối diện xay bột cũng không có đường mà đi. Ai nấy đều cảm thấy thật là bất đắc dĩ.

Đương nhiên toàn bộ những việc này nàng không hề biết, đều do Quân sư phụ kể lại thôi. Quân sư phụ vừa nhận được tin nước Vệ bị vây thành, người và Quân Vĩ lập tức đến vương đô để mang nàng rời đi, rốt cuộc không ngờ tới chậm một bước, nàng đã lấy sinh mệnh của bản thân mà tế cho đất nước tiêu vong. Hai cha con Quân sư phụ từ Trần quốc ngàn dặm xa xôi tìm đến Vệ vương đô, vừa đúng thời điểm đưa tang của nàng. Khi ấy nàng nằm trong cỗ quan tài gỗ mun, đã là người thiên cổ. Phía sau quan tài vang lên những tiếng khóc thê lương, màn trời âm u vung vẩy rơi hằng hà sa số tiền vàng âm phủ.

Quân sư phụ nói: "Nước Vệ nhận đất phong hầu tám mươi sáu năm, lần đầu tiên ta nhìn thấy cảnh hạ táng công chúa phô trương long trọng đến vậy."

Nhưng nàng không cho là như vậy, những thứ này đâu phải phô trương cho nàng, đây chỉ là vì nước mà phô trương. Tiễn đưa một quốc gia đã tiêu vong, xa xỉ thế nào cũng xứng đáng.

Quân sư phụ là một bậc cao nhân đắc đạo. Chỉ dựa vào việc người ẩn cư ở núi Nhạn Hồi bao năm mà không bị động vật hoang dã ăn thịt, nàng đã cảm thấy vô cùng bội phục người rồi. Phải hiểu rằng toàn bộ địa phận núi Nhạn Hồi được công nhận là khu bảo tồn động vật tự nhiên hoang dã trên toàn Cửu Châu. Đây là nơi cư trú của các loài động vật hoang dã, hại chết không ít mạng người.

Từ lúc nàng quen biết Quân sư phụ đến nay, vốn chỉ cho rằng người là một cao nhân tầm tầm bậc trung thôi chứ không dám nghĩ trình độ của người cao thâm đến mức có thể cải tử hồi sinh. Chuyện này nghe thật là bàng môn tà đạo, đi ngược lại quy luật của tự nhiên. Thử nghĩ xem, giả dụ ai đó bôn ba vất vả, trải bao gian nan mới kết liễu được mạng sống của kẻ thù, nhưng sau đó kẻ thù kia tự nhiên sống lại, để mặc cho người đó chém thêm vài nhát nữa, vậy thì còn gì là thú vị. Nhưng chuyện thần kỳ này xét cho cùng đang xảy ra với chính nàng, nàng đành phải xếp nó vào trường hợp đặc biệt, bởi vì phủ định nó cũng có nghĩa là phủ định chính nàng.

Ngày đó nàng cải tử hồi sinh, cảm giác bản thân vừa trải qua một giấc ngủ thật lâu, rồi tỉnh lại trong một đêm đông nhàn nhạt.

Từ song cửa sổ nhìn ra ngoài, vầng trăng chỉ tựa như một vòng sáng nhạt treo lơ lửng trên đầu. Không gian ắng lặng như tơ, thi thoảng nghe được đôi ba tiếng chim kêu. Diệp Trăn hồi tưởng lại khoảnh khắc nàng rơi từ tường thành xuống, lao từ nơi cao vạn trượng như vậy mà vẫn có thể tìm cách cứu sống, y thuật thời này quả là phát triển. Quân sư phụ ngồi ở phía đối diện với nàng, tay lật lật quyển sách cổ. Quân Vĩ sấp mặt trên bàn ngủ gật. Ánh đèn lay động, bọn họ vẫn chưa chú ý đến nàng.

Ngước mắt nhìn bông sen trắng trên bàn, nàng cất tiếng hỏi: "Con còn sống?"

Không gian phút chốc ngưng đọng. Quân sư phụ bàng hoàng buông rơi cuốn sách: "Trăn Nhi, con vừa nói đấy ư?"

Ngay cả Quân Vĩ cũng bị giật mình tỉnh giấc, lấy tay dụi dụi mắt.

Nàng do dự mở miệng, thốt ra một tiếng: "Vâng."

Quân Vĩ giữ nguyên tư thế tay của hắn, sững sờ nhìn nàng, hồi lâu mới thốt lên: "Diệp Trăn?"

Nàng không có thời gian để tâm đến hắn, bởi vì Quân sư phụ đã chạy hai bước đến trước mặt nàng, người vừa đưa ngón tay thăm dò hơi thở ở, lại vừa bắt mạch trên cổ tay nàng kiểm tra kỹ lưỡng.

Rất lâu, người cảm thán: "Giao châu quả nhiên là bảo vật linh thiêng. Trăn Nhi, con có cảm thấy đau nữa không?"

Nàng lắc đầu: "Con không đau."

Người cười khổ một tiếng: "Bị thương nặng như vậy mà không còn cảm giác đau nữa. Là ta tự ý làm con sống lại. Nhưng nếu con không muốn tiếp tục, chết rồi cũng sẽ không đau đớn gì. Con muốn tỉnh lại không?"

Nàng nhìn sư phụ, chậm rãi hé nở một nụ cười trên môi, gật đầu nói: "Con muốn."

Đây cũng không phải là phép cải tử hồi sinh, Diệp Trăn đích thực đã chết rồi.

Vạn sự đều có nhân quả, sự việc này là nhân quả của nàng.

Bình thường con người ta sau khi chết đi, linh hồn sẽ rời khỏi thể xác. Linh hồn khi ấy không còn xác thân trú ngụ, cứ trôi dạt trong cõi mênh mang vô định, cuối cùng tiêu tan thành khói bụi, đây là truyền thuyết vẫn nhắc tới trong Cửu Châu. Trước kia nàng cho rằng đó chỉ là truyện thần thoại, mãi đến khi tự bản thân trải nghiệm một lần, chết thử rồi mới biết truyền thuyết cũng có điểm đáng tin.

Sau khi nàng hạ táng được ba ngày, Quân sư phụ nhân lúc nửa đêm lẻn vào vương lăng, mang nàng ra khỏi quan tài rồi chuyển về núi Quân Vu. Người vừa mới chết, linh hồn ngụ trong cơ thể nàng chưa thể rời đi, sư phụ liền dùng thánh vật của Quân Vu giáo khâu vào trong cơ thể giập nát của nàng: một viên giao châu sáng rực có tác dụng hấp thụ linh hồn. Việc này căn bản chỉ là thay đổi trạng thái tử vong mà thôi. Ngoại trừ khả năng có thể suy nghĩ, nàng và người chết không có gì khác biệt lắm. Thân xác này cũng không thể lớn lên nữa. Nàng không có hô hấp, không có khứu giác, vị giác, không cần ăn mà vẫn tồn tại, cũng không biết cảm giác hân hoan hay đau đớn là gì. Trong lồng ngực trái của nàng, không còn là nhịp đập của một trái tim nóng hổi như ngày nào nữa, mà là một viên giao châu yên tĩnh nằm ở đó, rực rỡ tỏa sáng, lại lạnh tựa như khối băng, khiến cho nàng lúc nào cũng lạnh giá vô cùng. Nhưng có thể mở mắt nhìn thế gian thêm một lần, đó là chuyện tốt. Nàng không còn là công chúa, trên vai cũng không phải gánh bất kỳ trách nhiệm gì. Quân sư phụ đặt lại tên cho nàng, gọi là Quân Phất. Ý nói từ nay trong cõi đời này, nàng sẽ nhẹ nhàng tiêu diêu tựa như hạt bụi, phất nhẹ tay là mất đi. Nàng nghĩ, cái tên này đúng là có biết bao thê lương cùng ngụ ý.

Lần tuẫn quốc này, nàng đã phải trả một cái giá rất lớn, có thể nói là đã đem cả sinh mạng mình ra để bồi đền cho đất nước. Xương sọ rạn vỡ, nội tạng trong cơ thể bị chấn động lệch chỗ, vỡ nát càng thêm vỡ nát, xuất huyết càng thêm xuất huyết. Dù có được tái sinh chăng nữa thì tấm thân thể nàng giờ đây cũng rất yếu ớt. Mặc dù nàng đã không còn cảm thấy đau đớn gì, nhưng vẫn thường xuyên bị thổ huyết. Điều đó cũng rất phiền phức. Nàng bản tính lười nhác, tự dưng phải giặt khăn tay suốt ngày.

Quân sư phụ dùng tơ cá mập vá lại dung nhan cho nàng. Sau khi được người "tu bổ" xong, so sánh với gương mặt nguyên thủy ban đầu thì liêu trai hơn rất nhiều. Nhưng đường rạn ở xương sọ là một vết cắt rất tàn nhẫn, không có biện pháp gì chỉnh sửa. Từ giữa mi mắt chạy ngang qua trán đến tai phải của nàng lưu lại một vết sẹo dài. Lần đầu Quân Vĩ nhìn thấy gương mặt mới của nàng, hắn không thốt nổi nên lời, sau nửa ngày mới cất tiếng: "Yêu mị quá mức, cái dáng vẻ này hết sức yêu mị. Cứ trong sáng thuần khiết như trước không phải tốt hơn sao?" Nàng nói : "Tôi đã tỉ mỉ xem xét qua rồi, ngũ quan không có gì thay đổi nhiều, so với trước đúng là có thêm chút tà mị quyến cuồng... Nhưng thôi kệ đi, cứ xem như trang điểm hỏng là được rồi."

Vết sẹo của nàng nhìn ở góc độ nào cũng cảm thấy thật chướng mắt. Quân sư phụ dùng ngân bạc chế tạo ra một chiếc mặt nạ, che đi nửa gương mặt của nàng. Ban đầu nàng đề nghị dùng mặt nạ da người, như vậy nhìn mới tự nhiên, nhưng khi cân nhắc đến tính năng thoáng khí của mặt nạ da người thì nàng bỏ qua phương án này ngay lập tức.

Nàng cho rằng sống lại lần này, có thể ngày ngày ăn chơi hưởng lạc. Kỳ thực chuyện không đơn giản như thế. Chẳng qua khi đó chưa nghĩ ra, cho là người chết rồi thì có thể vô ưu vô lo. Nhưng căn nguyên của lo âu đến từ tâm tính. Mà tâm tư nàng vẫn còn đấy, há lại có thể không sầu không muộn? Quân sư phụ tiêu tốn tâm huyết mong nàng sống lại, tự nhiên người đã có suy tính. Người muốn nàng làm một việc, mà độ khó của việc này chỉ xếp thứ hai, sau việc kết hôn với Quân Vĩ rồi sinh cho Quân sư phụ một đứa cháu.

Sư phụ muốn nàng đi Trần quốc hành thích Trần hầu.

Khi Quân sư phụ đem vá giao châu vào ngực nàng, người đã gọi hồn nàng từ cõi hư vô trở về. Trong viên giao châu có phong ấn một bí thuật từ thời thượng cổ: Hoa Tư Dẫn. Bí thuật này cùng với hạt ngọc giao châu được cấy vào trong cơ thể nàng. Nếu như có người nào uống máu của nàng, nhiễm khí tức thuộc về giao châu, dù chỉ nếm một giọt, nàng ngay lập tức nhìn ra Hoa Tư Điều thích hợp nhất với người đó. Diễn tấu theo giai điệu này, nàng có thể dệt cho người đó một ảo cảnh. Cơn mộng ảo cảnh ấy tái hiện từ quá khứ. Việc có thể thoát ra khỏi ảo cảnh hay không còn phụ thuộc vào người đó liệu có thoát được sự mê muội của chính mình không. Nhưng người đời mấy ai là có thể.

Quân sư phụ muốn nàng giết chết Trần hầu bằng cách đó.

Đứng ở góc độ cá nhân, cho dù Trần diệt Vệ, nàng cũng không oán hận gì Trần hầu. Trong thời đại mà sinh mạng con người vặt vãnh như cỏ rác, được làm vua thua làm giặc, đấy là chuyện đương nhiên. Nhưng nếu một mạng của Trần hầu có thể đổi lấy nửa đời tiêu dao nhân gian cho Quân Phất, nàng thấy cũng xứng đáng. Vậy nên nàng có giết Trần hầu, không phải vì nàng là công chúa Diệp Trăn của nước Vệ mà chỉ bởi vì nàng là Quân Phất, người con gái vẫn còn lưu luyến trần gian.

Quân sư phụ nói: "Hành thích Trần hầu không cần gấp, giao châu cấy trong người con chưa được lâu, Hoa Tư Dẫn sử dụng còn chưa thành thục, con nên tập thích ứng với nó trước đã."

Nàng cũng nghĩ việc giết người này quả thật không cần gấp.

Quân sư phụ nhìn vẻ mặt của nàng, phỏng đoán được suy nghĩ trong lòng nàng, bổ sung thêm: "Nhưng con cũng không thể không lo lắng. Trần hầu sức khỏe không tốt, về chầu trời là việc đã định trong vòng ba năm. Con cần phải nắm chắc thời gian, bằng không, lão không đợi được con đến hành thích đã tự mình chết trước, như vậy thì không ổn."

Nàng đưa ra chính kiến: "Con nghĩ như vậy rất tốt nha."

Sư phụ dõi mắt nhìn núi, thần sắc mông lung: "Không tốt, bởi nếu vậy thì sự báo thù sẽ mất hết ý nghĩa."

Kỳ thực nàng rất muốn nhắc với sư phụ mình, giả như Trần hầu đang bị bệnh tật đau yếu giày vò khốn khổ, chỉ ao ước có người cho lão một đao thống khoái mà kết thúc. Lúc này nàng lại có ý định đi hành thích lão, vậy chẳng phải là giúp lão một tay ư? Như thế việc báo thù càng không có ý nghĩa. Nhưng rồi nàng nghĩ lại, dẫu có thế thật chăng nữa thì cũng coi như làm được một việc tốt, vui vẻ giúp người, cũng là giúp cả Quân sư phụ tích đức. Nghĩ xong, nàng nhẫn nhịn không nói suy nghĩ của mình cho sư phụ nghe.

Nửa tháng sau, Quân sư phụ mang theo Quân Vĩ xuống núi tìm dược liệu giúp nàng chữa trị thương tích trên người. Lúc gần đi Quân Vĩ an ủi nàng:

"Em thành ra như vậy rồi, chắc chẳng còn ai bằng lòng cưới em. Nhưng không sao. Người khác không cưới, ta cưới! Em nhất định không nên nghĩ quẩn mà lấy giao châu ra, phụ đi tâm huyết của ta và phụ thân."

Nàng nói: "Cưới tôi thì nhà họ Quân của anh sẽ không có con nối dõi."

Hắn nghi hoặc: "Làm sao mà không có con nối dõi? Cưới em rồi, ta đảm bảo còn muốn nạp thêm mấy người vợ bé mà, ha ha ha."

Hắn liền bị nàng dùng gậy đánh đến rơi xuống núi.

chương 2.2 : khúc nhạc hoa

Chớp mắt qua sáu tháng, cây khô mọc chồi non. Khi nàng đào được hũ rượu mơ chôn dưới gốc hạnh già ở ngoài sân thì Quân sư phụ và Quân Vĩ cũng trở về, theo sau họ là Tiểu Hoàng. Lúc trước Tiểu Hoàng không cẩn thận ăn nhầm phải con thỏ trắng mà Quân sư phụ dùng thử độc, nó lập tức bị trúng độc theo. Con thỏ ấy lại còn là con thỏ độc nhất vô nhị của cõi Cửu Châu, trên mình bách độc tụ hợp, ngay cả Quân sư phụ cũng không biết cách giải. Sư phụ đành đưa Tiểu Hoàng đến chỗ Dược thánh Bách Lí Việt, cậy nhờ ông cứu nó. Tiểu Hoàng thanh lọc sạch sẽ toàn bộ cơ thể mất hơn nửa năm. Con hổ đó gặp lại nàng lại vào thời điểm nàng đã chỉnh dung, nhất thời không thể nhận ra, nhe răng liếm mép đe dọa. Nàng cầm thịt thỏ đưa lên nịnh nó, nó không những không có biểu hiện vui mừng, ngược lại còn nhe răng dữ tợn hơn nữa. Mãi đến khi Quân Vĩ xoa xoa tai nó, nhẹ nhàng dạy bảo: "Nàng mẹ của con, con không nên ở cùng cha quá lâu rồi không thèm nhận mẹ. Dù sao con cũng do nàng hoài thai mười tháng mà ra đời." Tiểu Hoàng nghe xong, lập tức tiếp thu, dựa ngay vào người nàng cọ cọ đầu thân mật.

Nàng nói: "Anh mới là hoài thai mười tháng sinh ra nó. Anh hoài thai hai mươi tháng liền sinh được cả nhà nó."

Quân Vĩ chỉ tay vào mặt nàng, run run nói: "Vậy mà ta còn có lòng tốt muốn cưới em."

Nàng đốp lại: "Anh có thể sinh thêm hổ cho tôi chơi sao? Anh làm được tôi sẽ cân nhắc chuyện cưới anh!"

Hắn ngây người nửa ngày, cuối cùng thẹn quá hóa giận kêu Tiểu Hoàng: "Hổ nhi, cắn nàng."

Nhưng Tiểu Hoàng không những không nghe lời Quân Vĩ, nó lại còn thân thiết đưa lưỡi liếm liếm mu bàn tay nàng.

Dược liệu Quân sư phụ đem về quả nhiên hữu hiệu, có thể đem chế thành kem bôi toàn thân, ngày dùng ba lần. Năm ngày sau, thương tích trên người nàng đã biến mất hoàn toàn. Kết quả này khiến Diệp Trăn hết sức hài lòng. Nàng đem thuốc xoa luôn lên vết sẹo trên trán, nhưng vết tích ấy vẫn trơ lỳ như cũ. Đây vốn là thương tổn từ trong xương, vô phương cách.

Nàng quan sát thân thể mình ở trong gương đồng, nhớ đến tám chữ : ngoài nạm vàng ngọc, bên trong mục nát. Ai mà ngờ được một tấm thân bừng bừng sức sống như vậy, bên trong lại mục ruỗng đến tận cùng. Nếu lấy giao châu ra, sợ không đến nửa khắc liền hóa thành tro bụi. Nàng hình dung tình cảnh lúc đó, cảm thấy quả thực kinh hãi.

Sáng sớm ngày thứ sáu, Quân sư phụ đến thăm nàng, Tiểu Hoàng lẽo đẽo theo sau, miệng ngáp ngáp không ngừng.

Trước cửa có hai gốc đào khai hoa rực rỡ. Trên cành đào, những bông hoa xinh đẹp nở rộ, lá xanh còn vương đọng giọt sương mai. Sư phụ đuổi Tiểu Hoàng ra sân vờn hồ điệp [ Mình thật là muốn nuôi hổ ghê cơ ^^ ], rồi người ngoảnh lại hỏi nàng: "Nửa năm qua, việc tu luyện Hoa Tư Dẫn của con xem chừng thế nào rồi?"

Nàng thẳng thắn trả lời: "Con không có ai để luyện tập cùng, không thể tiến bộ."

Người trầm ngâm nửa ngày, khuyên bảo: "Trăn Nhi, con cũng đã có chút hiểu biết cơ bản về pháp khí của giao châu. Bằng năng lực của mình, con chỉ có thể chống đỡ được ba năm mà thôi. Giao châu tu luyện dựa vào sự hấp thụ mộng đẹp của con người. Hiện giờ nó nằm trong người con. Nếu con muốn sống lâu thêm một chút, chỉ có thể lợi dụng Hoa Tư Dẫn dệt ra ảo cảnh, hút lấy tính mệnh của người nằm mộng. Nhưng con lại là đứa nhỏ quá thiện tâm, e là không làm được những việc này. Ta trăm phương ngàn kế cứu sống con, tuyệt đối không muốn con chỉ sống vẻn vẹn có ba năm. Ta nói vậy, con hiểu chứ?"

Người sợ nàng không hiểu, nhưng thực ra Diệp Trăn đã nghĩ thông từ rất lâu rồi. Nàng không thể chỉ sống vẻn vẹn ba năm nữa, nhưng cũng không thể tùy ý lạm sát người vô tội. Trên thế gian này có bao nhiêu người vì nhân sinh trong quá khứ mà hối hận? Hoa Tư Dẫn có thể tái hiện ảo cảnh trong quá khứ, để bọn họ ở trong giấc mộng sửa chữa lại sai lầm. Nếu có người chìm đắm trong mộng cảnh không muốn thoát ra, cam lòng hiến dâng cho giao châu tính mệnh nơi trần thế; vậy thì nàng và họ, hai bên đều có lợi.

Nàng hỏi: "Người giúp con tìm được việc tốt nào sao?"

Quân sư phụ gật đầu cười: "Không sai, mấy ngày nữa con đi Khương quốc một chuyến cho sư phụ."

  chương 2.3 : tiểu lam

Năm ngày sau, nàng ôm cây đàn thất huyền cầm cùng với Quân Vĩ, Tiểu Hoàng xuất hiện tại một thị trấn nhỏ ở biên cảnh nước Trần. Kỳ thực núi Quân Vu cách biên giới hai nước Khương – Trần không xa, đi bộ ba ngày lập tức đến nơi. Bọn nàng sở dĩ đi chậm thế này, chủ yếu là do hai người phải cưỡi chung một con ngựa. Như vậy kể cũng không sao, chẳng qua bọn nàng lại còn phải thường xuyên đề phòng Tiểu Hoàng ăn mất ngựa. Quả thật đây mới là việc đau đầu nhức óc và vô cùng lãng phí thời gian. Sau đó hai người bọn nàng đưa ra quyết sách: đem ngựa nướng ăn, dắt Tiểu Hoàng đi bộ. Cả nhà ăn một bữa no nê, hành trình lập tức tăng tốc.

Giao giới của nước Trần và nước Khương là một dãy núi chạy dài. Bởi vì trong núi thường hay đào được ngọc bích nên đặt tên là Bích Sơn. Nàng và Quân Vĩ không hẹn mà cùng gặp ý nghĩ: nếu chuyện đào được ngọc là có thật, vì sao không gọi núi này là Ngọc Sơn luôn đi cho rồi? Ôm mãi sự tò mò chẳng tốt chút nào, bọn nàng bèn đi hỏi dân trong trấn. Họ đoán có thể là vì chữ "Bích" có nhiều nét hơn, sẽ tạo được ấn tượng văn hoá tốt hơn chữ "Ngọc".

Nàng và Quân Vĩ đến Bích Sơn cũng thật đúng dịp. Nếu vào mùa đông, toàn bộ núi Bích bị phủ trong tầng tầng tuyết trắng. Những vụ tuyết lở thường xuyên xảy ra, nếu không phải là thợ săn lâu năm với vốn kinh nghiệm dạn dày, căn bản không thể vượt núi, chỉ có thể vòng theo lối sông Dĩnh. Hiện tại hai người bọn họ thật là may mắn, có thể men theo lối mòn trong núi, vừa đi vừa thưởng lãm phong cảnh ven đường. Trong núi có suối chảy róc rách, nàng lôi túi ra định lấy nước, bỗng nhiên dừng lại. Quân Vĩ ngồi xuống vốc nước rửa mặt, chợt để ý thấy ánh mắt bất động kỳ lạ của nàng, ngạc nhiên hỏi: "Sao vậy?"

Xuyên qua bụi tường vi chắn ở trước mặt, nàng chỉ tay về phía trước: "Anh nhìn thử cái này đi, nhìn cho kỹ xem người ta hẹn hò với tình nhân như thế nào, cũng là tích lũy thêm chút kinh nghiệm thực tế cho mấy sáng tác tiểu thuyết sau này."

Tinh thần Quân Vĩ ngay lập tức trở nên phấn chấn, hắn nhìn theo hướng nàng vừa chỉ.

Xa xa là một đôi nam nữ trẻ tuổi đang diễn cảnh tình nồng ý đượm. Người thanh niên mặc cẩm bào, cô gái mặc vân la sam. Bởi vì khoảng cách rất xa nên nàng không nhìn rõ gương mặt của bọn họ, chỉ thấy loáng thoáng bóng người. Một kẻ phong nhã thư thái, một người yểu diệu nhu tình. Phía sau bọn họ là một biển hoa dại trải dài đến mênh mông, bên cạnh còn có một gốc cổ thụ, trên thân cây buộc con tuấn mã tròn trĩnh mà tráng kiện. Nàng liếc mắt nhìn Tiểu Hoàng, ánh mắt nó long lanh quan sát con tuấn mã, quả nhiên đã chảy nước miếng, song Tiểu Hoàng đã bị Quân Vĩ túm chặt gáy, không muốn kiềm chế cũng không được. Bên kia, người con trai hơi cúi nghiêng người, hái một đóa tường vi diễm lệ cài lên mái tóc cô gái. Cô thiếu nữ vòng tay ôm lấy tình lang, hai người thân thiết đến không còn khoảng cách.

Quân Vĩ quay người che tầm nhìn của nàng: "Còn xem nữa em sẽ bị đau mắt đấy." Nàng đẩy hắn:"Tôi cũng muốn học hỏi chút kinh nghiệm mà." Hắn bị nàng đẩy ra nhưng vẫn bướng bỉnh, không che được mắt nàng thì không chịu thôi. Cuối cùng bọn nàng thành ra xích mích. Nàng tức giận đẩy Quân Vĩ ngã lộn nhào.

Lúc nàng và Quân Vĩ còn đang gây gổ, một biến cố bất ngờ phát sinh. Lồng ngực nàng cảm thấy căng thẳng. Quân Vĩ xoay đầu lại, giương mắt nhìn, ngẩn người: "Làm sao mà cô gái kia lại áp đảo chàng trai nhanh như vậy? A, cô này này rất chủ động nha, ôi trời, tại sao vừa rồi còn thắm thiết, bây giờ cô ta lại quất ngựa truy phong bỏ đi mất dạng thế này? Muốn bỡn cợt tình cảm người ta cũng không nên đùa như vầy, thật là không có đạo đức!"

Nàng mắng: "Đùa đùa cái đầu anh á, anh không thấy cô ta vừa đâm nam nhân một nhát à. Cái đó gọi là gây án rồi bỏ chạy."

Quân Vĩ vẫn không tin: "Gì chứ? Bọn họ không phải vừa nãy còn ôm ôm ấp ấp sao?"

Chung quy là hai người bọn nàng đang tự chuốc lấy phiền phức. Nàng vốn dĩ có thể quay lưng bỏ mặc, phủi áo rời đi rồi; thế nhưng hình ảnh chàng thanh niên đó lúc ngã xuống, tựa như một tòa núi ngọc nghiêng đổ, khiến lòng nàng chợt nhớ đến một người. Từ sau khi sống lại, đã rất lâu rồi nàng không nhớ đến y, không phải vì tình cảm trong lòng phai nhạt, chỉ là nếu có dịp gặp lại, cũng không biết phải làm sao. Trước đây nàng cố chấp quyết tìm bằng được Mộ Ngôn là bởi vì nàng vẫn còn sống. Nhưng hiện tại, nàng đã là người chết, không có hơi thở, không có cảm nhận. Y không sợ nàng đã là may lắm rồi, nói chi đến chuyện yêu đương gì khác. Vậy thì có gặp cũng chỉ như không gặp mà thôi.

Quân Vĩ kiểm tra vết thương của người đó. Thanh chủy thủ tuy đâm khá sâu, nhưng chưa chạm vào chỗ hiểm, may lại được cấp cứu kịp thời nên có thể nhặt được cái mạng của y về. Nàng nhìn dung mạo của y: lông mày đậm, sống mũi cao thẳng, bờ môi nhợt nhạt hoàn toàn mất đi huyết sắc. Y sở hữu một gương mặt khôi ngô hiếm thấy. Bãi cỏ dưới chân giờ đây đã bị máu tươi thấm đẫm. Quân Vĩ giúp y cầm máu, sau đó quay lại hỏi nàng: "Mấu chốt của vấn đề, em nói xem vì sao chúng ta phải cứu hắn vậy?" Nàng đáp: "Anh nhìn xem, y khôi ngô như thế, sau khi chúng ta chữa cho y xong, đem bán, biết đâu được giá cao?" Quân Vĩ không thắc mắc nữa, ngoắc tay gọi Tiểu Hoàng:"Hổ nhi, đến đây giúp cha vác hắn." Tiểu Hoàng xoay đầu nhìn qua một bên ra vẻ không thèm quan tâm. Quân Vĩ tiếp tục kêu: "Vào trấn cha mua cho mày thịt gà quay." Tiểu Hoàng khoan khoái chạy tới.

Chàng công tử khôi ngô ấy nằm ở y quán hai ngày thì từ từ hồi tỉnh. Ngoại trừ lúc mê man có thốt ra một tiếng "Tử Yên", còn lại không mở miệng nói thêm điều gì. Nàng đoán "Tử Yên" là tên của con gái, không chừng lại chính là cô gái hôm trước đâm y một nhát. Nàng nghĩ mà cảm thán, chợt nhớ tự cổ chí kim đều như vậy, anh hùng khó qua được ải mỹ nhân.

Quân Vĩ phàn nàn: "Tên này chẳng ra làm sao cả! Tốt xấu gì chúng ta cũng cứu hắn, thế mà từ lúc tỉnh lại đến giờ, nửa câu cảm ơn cũng không có."

Nàng trả lời: "Khôi ngô tuấn tú như vậy, có điểm ương ngạnh cũng dễ hiểu."

Quân Vĩ trừng mắt: "Khôi ngô tuấn tú thì có thể uống thuốc không trả tiền sao? Khôi ngô tuấn tú thì có thể nợ người khác ân tình mà không biết ơn sao?"

Nàng đáp: "Đúng vậy mà."

Quân Vĩ ôm ngực, tức giận đến muốn té xỉu.

Nàng vốn định cứu sống người này để kiếm chút thù lao. Nếu nhà của y cách đây không xa thì thuận tiện đưa y về, sau đó tiếp tục lên đường. Nhưng việc trên đời chung quy không như mong muốn, ai mà tưởng tượng được một vị công tử ăn mặc sang trọng như vậy, thế mà trên người không có lấy nổi một cắc bạc. Nàng khó xử: "Đem anh từ Bích Sơn quay về đây xem như bọn tôi làm việc tốt. Nhưng anh bị thương không nhẹ, dùng không ít thuốc quý, đều do bọn tôi ứng tiền trước. Cuộc hành trình của chúng tôi xem chừng còn dài, lại mang theo một con hổ, chi tiêu rất lớn, lộ phí mang theo lại không nhiều, anh xem..."

Nàng nghĩ nếu như y tiếp tục không phản ứng, nàng sẽ đánh y luôn.

Nhưng y không cho nàng cơ hội.

Nàng còn chưa nói xong đã bị y bất ngờ hỏi ngược lại: "Lộ trình rất xa?" Cặp mày y hơi hơi nhướng lên, trên môi chất chứa chút ý giễu cợt.

Nàng nghĩ, y đã bị cô gái kia đâm, đau lòng đến mức ngu ngốc rồi sao?

Y tiếp tục: "Lộ trình đã dài, vậy mà lại dám đi đường núi, chắc chắn sẽ gặp nguy hiểm khó lường. Ta tuy bất tài, nhưng may mắn học qua vài năm kiếm thuật, nếu cô không chê, đoạn lộ trình này ta sẽ bảo vệ cô, cũng là hồi báo ơn cứu mạng của cô."

Nàng nói: "Nhưng tiền thuốc..."

Y rút chiếc nhẫn ngọc khỏi tay, lắc đầu cười nói: "Thật là cố chấp, cầm lấy cái nhẫn này đi đổi, có thể được hai mươi lạng vàng. Không những tiền thuốc mà cả tiền ăn trên đường của ta, cái gì cô cũng có hết."

Nàng nhận cái nhẫn rồi ngẩng đầu nhìn y: "Tôi không cần anh bảo vệ, hai mươi lạng vàng cũng đủ báo ơn cứu mạng rồi. Tôi với anh không..."

Y cười nhạt: "Mạng của ta cũng không rẻ như vậy đâu."

Nàng tỉ mỉ quan sát người này từ trên xuống dưới một phen: "Nhưng bọn tôi ngày mai cần gấp rút lên đường, sức khỏe của anh chịu nổi sao?"

Y thấp giọng cười một tiếng: "Không có gì."

Quân Vĩ không hiểu vì sao vị lam y công tử này nhất định muốn đi theo nàng và hắn cho bằng được. Nàng đăm chiêu suy đoán nửa ngày, cảm thấy chỉ có thể giải thích là: y chắc chắn đã phải lòng nàng rồi! Lúc đầu nàng cảm thấy thích thú, vui như mở cờ trong bụng, nhưng rồi nàng bất chợt nhìn vào gương, phát hiện bản thân mình đã không còn giống với trước kia. Trừ phi anh chàng này là loại người say mê kim loại, bằng không, phải lòng được cái gương mặt bị mảnh mặt nạ bạc che mất phân nửa của nàng thật là điều hoang tưởng.

Quân Vĩ sau khi nghe nàng đề xướng nguyên do thì rơi vào trầm tư: "Không thể nói như vậy, có chỗ vô lý."

Nàng giải thích: "Chuyện trên đời đâu phải lúc nào cũng có đạo lý đâu. Ví dụ như Tiểu Lam, phong thái nhẹ nhàng, lịch sự tuấn tú; theo đạo lý thì người như y, ít nhiều cũng sẽ gây ra những chuyện phong hoa tuyết nguyệt. Nhưng anh thấy đó, cô gái y yêu thích lại không chút lưu tình đâm y một nhát dao. Nếu không phải may mắn gặp được chúng ta, chắc chắn phơi xác ngoài đồng. Mắt chọn bạn gái của y coi bộ rất kém, khiến bản thân sống dở chết dở. Nếu thật có đạo lý thì chuyện của Tiểu Lam anh giải thích sao?"

Quân Vĩ ngẫm nghĩ, tỏ ý tán đồng, lại nghĩ thêm một chút rồi hỏi: "Nhưng Tiểu Lam mà em nói là ai thế?"

Nàng trả lời: "Không phải mấy ngày trước cứu y, y mặc trang phục màu lam hay sao?" Nói xong, nàng xoay người, chuẩn bị vào bếp sắc thuốc. Ngẩng đầu thấy Tiểu Lam đã thu thập hành trang gọn ghẽ, hiện giờ y đang nhàn nhã khoanh tay dựa vào khung cửa trong phòng, lặng lẽ nhìn bọn nàng. Nói xấu sau lưng người khác quả thực là chuyện đáng xấu hổ, lại còn bị đương sự bắt ngay tại trận nữa. Nàng lừng chừng không biết làm sao, cười gượng một tiếng. Y cũng phối hợp cười theo một tiếng, trong mắt lại không hề có ý cười. Tiểu Lam quay người bước vào phòng.

Quân Vĩ tiến lại gần: "Ta chắc chắn là hắn không phải lòng em."

Nàng ngoảnh đầu hỏi: "Anh nghĩ, có thể hay không, người y phải lòng là anh?"

Vừa dịp Tiểu Hoàng từ ngoài cửa đi vào, Quân Vĩ nghiến răng, chỉ vào nàng rồi nói với nó: "Hổ nhi, cắn nàng!!!"

.

.

.

Mười ngày sau, bầu đoàn gồm có hai nam, một nữ, một hổ tiến đến kinh đô của nước Khương là Nhạc thành.

Tiểu Lam nói đi đường núi nhất định vô cùng nguy hiểm. Nàng và Quân Vỹ nghiên cứu một hồi, cảm thấy kinh nghiệm giang hồ của y so với hai bọn nàng có lẽ dày dặn, phong phú hơn; bèn mù quáng tin tưởng vào y, một lòng chờ đợi nguy hiểm rơi xuống. Nhưng đi đường đã mười ngày, thật sự vô cùng bình an; sơn tặc với cướp bóc ngay cả nửa tên cũng không chịu xuất hiện. Quân Vĩ hỏi nàng: "Em nói xem, phải đợi đến bao giờ chúng ta mới bị bọn vô lại tập kích đây?" Nàng rầu rĩ trả lời: "Không biết. Cứ chờ thử xem." Nhưng chờ rất lâu, bọn vô lại cứ ì ạch như cũ, quyết không chịu ló mặt. Sự thể ra nông nỗi này khiến người ta phải sầu lo.

Đêm đầu tiên ở Nhạc thành, đoàn người có thêm một cô gái nhập cuộc. Cô ta nói mình là Chấp Túc – thị nữ kiêm hộ vệ của Tiểu Lam. Chẳng là lúc nàng và Quân Vĩ đi mua bánh nướng trên đường thì bất ngờ gặp cô ta. Cảnh nền của cuộc hạnh ngộ ấy là buổi chiều hoàng hôn đỏ rực màu máu, Chấp Túc cưỡi một con ngựa trắng phi như bay. Quân Vĩ vội kéo nàng tránh qua một bên. Chấp Túc xoay mình xuống ngựa, tay áo xanh nhạt của cô ấy lướt qua gò má nàng. Nàng và Quân Vĩ còn chưa rõ chuyện gì đang xảy đến, cô ta đã không xem ai ra gì mà quỳ sụp xuống trước mặt Tiểu Lam, vành mắt đỏ hoe nhìn y nghẹn ngào: "Công tử, cuối cùng Chấp Túc đã tìm được người rồi."

Chấp Túc là một cô nương khả ái, mày thanh mắt đẹp, giữa trán có một nốt ruồi son trời sinh. Về chuyện cô ta khăng khăng đi cùng với bọn nàng, Tiểu Lam không quản được. Quân Vĩ thì gật đầu rất ý vì Chấp Túc thực sự là một cô nương xinh đẹp, rất dễ dàng khuấy động lòng trắc ẩn của hắn. Mà trái ngược với lòng trắc ẩn dành cho Chấp Túc, Quân Vĩ đối với Tiểu Lam hết sức bất mãn. Hắn kề tai nàng nói nhỏ: "Tên này quá phong lưu, ngay cả hộ vệ cũng là nữ." Nhưng nàng thấy nói như thế cũng không thỏa đáng. Bởi lúc rời núi Quân Vu, Quân sư phụ đã dặn dò Quân Vĩ phải đi theo, bảo vệ nàng cho thật tốt. Vậy xem như Quân Vĩ là hộ vệ của nàng, đối chiếu theo quy luật kia, nàng há chẳng phải cũng rất phong lưu sao?

Tối hôm đó, đoàn người nghỉ tại một khách điếm. Lúc nửa đêm, Tiểu Hoàng ngậm tay áo nàng, giật giật, gọi nàng thức giấc. Mượn ánh trăng quan sát vẻ mặt nó, dường như Hổ nhi muốn mời nàng đi dạo đêm trăng. Thế là nàng và Tiểu Hoàng cùng băng qua dãy hành lang, một người một hổ, bước chân nhẹ như bay. Vừa ra tới hậu viện, bỗng nhiên nghe được giọng của Chấp Túc: "Cô gái kia cũng chẳng có gì đặc sắc. Vậy tại sao công tử không muốn cùng Chấp Túc quay về? Công tử có biết, trong mấy ngày ngài vắng mặt, chỗ nhị công tử lại có không ít biến động. Chấp Túc biết rõ, Tử Yên cô nương tổn thương công tử rất sâu, nhưng công tử, ngài nên lấy đại cuộc làm trọng."

Nàng biết nghe lén chuyện riêng của người khác là không tốt, khổ nỗi tò mò. Nàng nên nghe lén hay không nghe lén thì tốt hơn đây? Cuối cùng lương tâm đánh thắng tò mò, quyết định không nghe trộm nữa, nhưng chưa đợi nàng cất bước rời đi, Tiểu Lam đã tiếp lời. Theo cơn gió đêm, giọng nói trầm trầm của y truyền đến bên tai nàng, bồi hồi một cảm giác xốn xang: "Các ngươi..."Y dừng một chút, "tìm được Tử Yên chưa?"

Nàng kéo Tiểu Hoàng lại, nghe thêm một chút, có tiếng hồi đáp của Chấp Túc: "Công tử, ngài đối với Tử Yên tình thâm nghĩa trọng, nhưng cô ta, cô ta là gian tế của nước Triệu. Cô ta chỉ một lòng tìm cách mưu sát ngài, cô ta..."

Giọng Chấp Túc dần dần tan biến sau lưng Diệp Trăn và Tiểu Hoàng.

Dưới mái hiên, nàng nhớ biết bao cái cảm giác quen thuộc khi nãy, phảng phất như được quay về sơn động ba năm trước trong núi Nhạn Hồi. Mộ Ngôn ngồi đối diện nàng, ngón tay lấp lánh ánh sáng dưới trăng bạc, y gẩy cổ cầm, khóe miệng hàm chứa nụ cười dịu nhẹ. Chuyện cách đây ba năm rồi. Nàng kỳ thực đã không còn nhớ được giọng nói của y, chỉ là tiếng cổ cầm thường hay văng vẳng bên tai, du dương mềm mại, là khúc ca nàng đã không thể xướng nên lời.

Trăng vừa tròn lại vừa sáng. Nàng đưa tay lên bịt mắt, lòng nhớ vô biên cảm giác tay Mộ Ngôn cũng đã từng che đi đôi mắt nàng như vậy. Nhưng đôi mắt này, hôm nay, đã chết rồi.

Chuyện nàng với y chỉ đành như vậy.

chương 3.1 : tống ngưng

Ba ngày sau nàng gặp được vị khách hàng mà Quân sư phụ đã bố trí. Người ấy là phu nhân của Trấn viễn tướng quân* Thẩm Ngạn, tên gọi Tống Ngưng. Nói khách hàng e có chút không thỏa đáng, bởi vì chưa biết Tống Ngưng đến chỗ nàng mua giấc mộng đẹp hay là nàng mua được tính mạng từ chỗ Tống Ngưng.

Nơi này là biệt viện ở ngoại thành. Nghe đồn Trấn viễn tướng quân Thẩm Ngạn và phu nhân ăn ở không hòa hợp, từ hai năm trước Tống Ngưng đã chuyển đến biệt viện để sống, về sau cũng không hề muốn quay lại tướng phủ. Trong hai năm qua đã xảy ra rất nhiều biến cố, ví như Thẩm Ngạn nạp thiếp, ví như Tống Ngưng đổ bệnh nặng. Tóm lại cơ thể Tống Ngưng càng chữa trị càng suy nhược. Hiện giờ, nàng tựa như người đã gần đất xa trời.

Lão bộc đến nghênh đón bọn nàng và bày tỏ ý rằng phu nhân hy vọng được gặp riêng Quân cô nương. Còn Quân Vĩ, Tiểu Lam, Chấp Túc, ba người bọn họ cứ về tạm sương phòng nghỉ ngơi trước. Tiểu Lam thì không có ý kiến gì, nhưng Quân Vĩ lại tỏ ra bất mãn vô cùng trước sắp đặt này. Nàng biết hắn lo lắng cho sự an toàn của nàng. Quân Vĩ chắc đã quên mất rằng nàng đã là người chết. Với tình trạng này của nàng mà nói, có gì đâu để mà phân biệt an toàn với cả không an toàn? Nàng với hắn tranh cãi một hồi lâu, ngã ngũ, cả hai đều cùng nhượng bộ nhau theo kiểu: Quân Vĩ không đi cùng, nhưng nàng phải để Tiểu Hoàng theo bảo vệ. Quân Vĩ vỗ vỗ lên đầu Tiểu Hoàng căn dặn: "Hổ nhi, phải bảo vệ nàng cho thật tốt". Nàng cũng vỗ vỗ Tiểu Hoàng, khi ngẩng đầu lên thì bắt gặp ánh mắt của Tiểu Lam. Y dường như có chút băn khoăn, trầm tư nhìn nàng một hồi lâu mới cười nhẹ một tiếng: "Quân cô nương đi sớm về sớm."

Lão bộc dẫn nàng đi qua hai dãy hành lang, băng qua cả một mảnh vườn trồng đầy hoa phù dung. Vừa đi, lão vừa thuyết minh về những loài thực vật trong vườn, rằng chúng từ đâu chuyển đến, có hương thơm đặc sắc ra sao... Thế nhưng nàng hoàn toàn không để tâm đến lời lão bộc nói. Đi quanh quẩn qua một hồ sen, bước vào thủy các cạnh hồ, Diệp Trăn nhìn thấy bốn phía của thủy các đều là rèm buông ngăn gió. Có một người phụ nữ đang nằm đọc sách trên giường mây. Khi cô ta ngẩng đầu lên, Diệp Trăn nhìn thấy gương mặt tựa như bức tranh đang từ từ mở ra của người ấy. Cho dù thần tình có vẻ khá tốt, nhưng sắc mặt cô ta lại nhợt nhạt và suy nhược. Diệp Trăn thầm nghĩ, cho dù nàng không đoạt tính mệnh của người này, cô ấy chưa chắc đã sống được lâu. Thật ra nàng vốn không phải người biết xem tướng số, nhưng nói về phương diện sống sống chết chết này, ai là người có quyền phát biểu ý kiến hơn là một kẻ đã chết như nàng? Vị phu nhân ở trước mặt nàng đây, Tống Ngưng có gương mặt của người sắp chết. Mà xét cho cùng thì mục đích của nàng khi đến đây chẳng phải là để lấy mạng Tống Ngưng hay sao? Đến kỳ hạn, cho dù Tống Ngưng không chết theo đúng tự nhiên, nàng cũng sẽ khiến cho cô ấy chết bất đắc kỳ tử.

Gió thổi màn che bay phấp phới, đã là tháng Năm rồi. Tướng quân phu nhân đặt sách xuống, ho nhẹ một tiếng, yên lặng nhìn Tiểu Hoàng nằm phủ phục trên nền đất. Một hồi lâu sau, Tống Ngưng dịu dàng nói: "Con hổ này rất ngoan. Lúc chưa xuất giá, ở quê nhà tôi cũng từng nuôi một con sói con." Tống Ngưng khuơ khuơ diễn tả lại: "Lớn như vầy." Ngón tay cô ấy như đóa hoa lan vẽ ra một hình ảnh mơ hồ giữa khoảng không. Vẽ xong, ngừng một chút, Tống Ngưng lắc đầu cười cười, xong lại ngẩng đầu lên nhìn nàng, khóe mắt không lộ rõ ý tứ, hỏi: "Cô là Quân Phất? Quân Phất trong lời kể của Quân sư phụ có thể giúp tôi thực hiện ước nguyện trong lòng?"

Nàng chưa phản ứng nhanh được với cái tên Quân Phất nên phải đờ đẫn một lúc thì mới đáp lời: "Đúng vậy". Điều đó cho thấy nàng không phải là kẻ có mới nới cũ. Mười bảy năm nay nàng làm Diệp Trăn, đối với cái tên này tràn ngập cảm tình. Dù tình cảnh hiện tại đã đổi tên khá lâu rồi, nhưng hai chữ Diệp Trăn khi xưa cũng không thể bảo quên là quên ngay được.

Tống Ngưng vươn ngón tay lơ đãng gõ nhẹ dọc theo mép giường mây, vẻ mặt cô ta trầm tư rồi chuyển dần sang phiếm hồng, có thể nhìn thấy sắc hồng nhạt chớm nhẹ trên má. Tống Ngưng cười nói: "Quân Phất, tôi muốn một giấc mộng, cô có đoán được là mộng về điều gì không?"

Nàng ngồi trên lưng Tiểu Hoàng, nghiêm nghị nhìn vị phu nhân ấy: "Tôi không biết, còn chờ chị nói cho tôi nghe." Nghĩ một hồi liền bổ sung thêm: "Nhưng tôi cũng không phải đến giúp chị, chẳng qua chúng ta đang làm một cuộc trao đổi. Tôi không cần núi vàng núi bạc gì. Có điều mấy ngày ở trong Nhạc thành, nhờ chị chăm lo bữa ăn cho mấy người chúng tôi. Tôi sẽ dệt cho chị một giấc mộng. Chị muốn mộng như thế nào, tôi dệt cho chị thế ấy. Đến phút cuối cùng, chị có thể tự mình lựa chọn. Ở lại trong mộng, hoặc tỉnh dậy, tất cả đều do chị quyết định."

Tống Ngưng hỏi: "Nghĩa là sao?"

Nàng gật đầu: "Nếu chị lựa chọn rời cảnh mộng, tôi không cản. Nhưng nếu chị chọn lưu lại..."

Đuôi mắt Tống Ngưng hơi cong lên: "Nếu tôi lựa chọn ở lại, Quân cô nương định thế nào?"

Nàng nhìn vào đôi mắt của Tống Ngưng: "Nếu đã chọn ở lại, chị sẽ phải đem sinh mệnh của mình giao cho tôi làm thù lao, ý chị thế nào?"

Khóe mắt của Tống Ngưng giật giật, xoay người nhìn vào khoảng không trong thủy các rất lâu, đột ngột cười nhẹ bẫng: "Tốt."

chương 3.2 : thẩm ngạn

Hôm đó nàng đã không thể đi sớm về sớm theo nguyện vọng của Tiểu Lam. Nàng ngồi lại thủy các hơn nửa ngày. Bởi lẽ Tống Ngưng đã kể cho nàng nghe một câu chuyện xưa, cũng là vướng mắc lớn nhất trong lòng, là tâm mê của cô ấy. Tống Ngưng muốn chỉnh sửa lại đoạn cố sự này, cho dù chỉ ở trong giấc mộng mà thôi. Đương nhiên đây thuần túy là lừa mình dối người. Nhưng bởi vì Tống Ngưng ngoài đời thật không biết cách tự lừa gạt bản thân, mới ao ước ở trong cảnh mộng lừa dối chính mình.

Rèm che ở bốn mái hiên được vén lên, xa xa là ánh tịch dương soi bóng nước. Nàng chích giọt máu rỏ vào trong chén trà. Máu dẫn dắt sinh khí tụ hợp, tạo nên những nốt nhạc dao động. Diệp Trăn ghi nhớ kỹ lưỡng từng nốt một, bởi đây chính là Khúc nhạc Hoa Tư của Tống Ngưng.

Tống Ngưng ngồi ở bên hồ chậm rãi hồi tưởng. Nàng xuyên qua dao động của từng nốt nhạc Hoa Tư, nhìn thấy quá khứ của cô. Tống Ngưng nói: "Quân cô nương chắc có nghe qua lời đồn, tuy tôi là vợ của Khương quốc tướng quân, nhưng lại không phải người nước Khương. Bảy năm trước tôi mười bảy tuổi, bằng với tuổi cô nương bây giờ, mang theo xiết bao tình ý đến nơi này, thật là tuổi xuân như hoa."

Tuổi xuân như hoa, cô em gái của Lê quốc đại tướng quân Tống Diễn là Tống Ngưng đã tình cờ gặp gỡ Thẩm Ngạn ở trên chiến trường hai nước Khương – Lê. Khi đó, Thẩm Ngạn là vị tướng quân trẻ tuổi đứng đầu Khương quốc. Gương mặt chàng lạnh lùng nghiêm nghị, bản lĩnh cao siêu, bách chiến bách thắng, uy danh lừng lẫy.

Tống Ngưng xuất thân từ gia đình võ tướng. Từ nhỏ cô đã được nuôi dạy như con trai, sử dụng Hồng Anh thương xuất quỷ nhập thần. Mười bốn tuổi, cô đi theo huynh trưởng chinh chiến khắp bốn phương. Mười sáu mười bảy tuổi, đương lúc các cô thiếu nữ  khác vội vội vàng vàng cầm kim thêu hoa may áo cưới, Tống Ngưng – trong tay là Hồng Anh thương – ở trên chiến trường đoạt lấy không ít mạng người. Nước Lê từ xưa đến nay nam nhiều nữ ít, vì vậy nữ nhi luôn được xem như báu vật quý giá. Mùa xuân Lê Trang Công thứ mười bảy, phàm là các gia tộc lớn, chỉ cần trong nhà có con gái đến tuổi xuất giá, lập tức đều có người đến hỏi. Trái với cái lệ thường đó, gia tộc lớn nhất trong  của nước Lê – phủ đại tướng quân đìu hiu quạnh vắng. Thì ra không nhà nào dám hỏi cưới Tống Ngưng. Ai ai cũng sợ sau khi cưới cô về, nếu dám có ý định nạp thêm thiếp, bản thân cùng người vợ bé đó chắc đều bị Tống Ngưng đánh chết. Lê Trang công hy vọng làm được nhiều việc tốt, đem Tống Ngưng hứa gả cho nhị công tử của thừa tướng. Vị nhị công tử ấy biết chuyện, sợ đến nỗi rơi từ trên lưng ngựa xuống đất. Tại nơi chiến trận, Tống Ngưng nhận được tin này, đứng lặng bên khe suối hồi lâu. Tống Diễn tìm nàng, nhíu mày khuyên nhủ: "Em không phải lo lắng, tên tiểu tử hỗn xược không biết tốt xấu này, ta nhất định có biện pháp buộc hắn không thể không cưới em!" Tống Ngưng mỉm cười, ôn hòa nói với huynh trưởng mình: "Ca ca chớ giận. Đám người quần là áo lượt nơi vương đô ấy chỉ biết hưởng thụ hoa thơm trái ngọt và chơi bời lêu lổng. Bọn họ không ưa kiểu con gái như A Ngưng, còn A Ngưng nhìn bọn họ há lại vừa mắt sao? A Ngưng một khi đã gả chồng, nhất định phải gả cho bậc anh hùng đệ nhất!"

Lời này lúc đó chỉ là nói chơi thế thôi, thể hiện hàm ý rằng Tống Ngưng không hề nghĩ ngợi lăn tăn về chuyện cô ấy bị nhị công tử của phủ tể tướng từ hôn. Nhưng không lâu sau, quả thật, cô ấy đã gặp gỡ được vị anh hùng định trước trong số mệnh. Mùa đông năm đó, vị anh hùng cưỡi con hắc mã, nắm chặt thanh kiếm tám mươi cân, họ Thầm tên Ngạn, tự Bạc Chu.

Khi ấy là mùa đông giá rét năm Lê Trang Công thứ mười bảy. Tuyết đóng băng khắp vùng đại mạc. Tại biên giới Lê – Khương phát hiện có đàn Hãn Huyết mã, cả 2 nước đều muốn chiếm làm của riêng, không nước nào chịu nhường nhịn nước nào. Lấy việc này làm ngòi nổ, dẫn ra trăm mối hận từ biết bao nhiêu đời cũ, cuối cùng ủ thành nhiều năm đại chiến về sau. Tống Ngưng sớm đã được nghe kể về chiến công vĩ đại của Thẩm Ngạn. Lúc đó tuổi còn trẻ, tâm tính bồng bột, trong lòng cô hoài nghi không tin không phục. Tống Ngưng luôn muốn tìm một cơ hội để có thể cùng Thẩm Ngạn so tài cao thấp.

Rốt cuộc ngày hôm đó cũng đến. Tuyết lớn tung bay. Hai người bọn họ đối diện nhau trước ải Tang Dương. Cơ hội không dễ gì mà có được, Tống Ngưng không để tâm đến ánh mắt của huynh trưởng, phi ngựa tiến vọt lên hàng tiền quân. Cô xưng tên hiệu, trầm giọng khiêu chiến:"Tử Huy thương Tống Ngưng muốn lĩnh giáo vài chiêu của Trầm tướng quân." Gió thổi mạnh như muốn tán vụn tiếng Tống Ngưng. Giữa trận tiền, lá cờ quân bay phần phật trong gió, vị tướng quân mặc áo bào trắng chậm rãi cưỡi ngựa tiến lên, nét mặt anh tuấn lãnh đạm, trong tay chàng cầm thanh trường kiếm mát lạnh như nước, lộ ra ánh kim buốt giá.

Trận giao tranh này là một đối một, thương pháp của Tống Ngưng chưa bao giờ vụng về như thế, không quá năm chiêu liền bị đánh rơi khỏi ngựa. Cả đời Tống Ngưng chưa từng bại nhanh đến vậy, và lại còn thua đến thảm thương. Đối phương ngay cả nét lông mày cũng không hề nhíu lạì. Ở thời điểm trường kiếm hất rơi mũ sắt của Tống Ngưng, Thẩm Ngạn mới ngây ra:"Nhà ngươi... Cô là con gái?!"

Tống Ngưng yêu Thẩm Ngạn, là vì chàng đánh bại được cô. Diệp Trăn thầm đoán đây chính là nguyên nhân của việc đấu võ chiêu thân trở nên thịnh hành trở lại – các cô nương mạnh mẽ trên đời càng lúc càng nhiều, bọn họ tìm kiếm phu quân đều dùng tư tưởng "độc cô cầu bại": Anh muốn có được nàng, trước tiên phải đánh thắng nàng. Nếu như anh thắng nàng rồi, nhất định phải tiếp nhận nàng. Còn ví như anh đánh bại nàng, song lại không muốn cưới nàng, truyện lập tức bị biến thành thể loại ngược tâm ngay tức khắc!

Tóm lại, Hồng Anh thương của Tống Ngưng bị trường kiếm trong tay Thẩm Ngạn đánh văng xa hơn hai trượng. Chàng ngồi trên ngựa, vươn kiếm móc lấy cây thương đang nằm rơi trên mặt đất, xoay lật tay một cái, cây thương bèn cắm phập ở sát bên người Tống Ngưng. Giọng nói của chàng không chút biểu cảm: "Thương của cô." Gió cuốn hoa tuyết tung bay trên đại mạc, trong mắt Thẩm Ngạn là ba vạn hùng binh. Còn Tống Ngưng, khóe môi thoáng một nét cười, trong mắt cô chỉ có duy nhất một mình chàng trai ấy.

Thẩm Ngạn ở trong lòng Tống Ngưng vươn thành một tòa núi cao sừng sững. Chiến mã đen, áo bào xanh nhạt, trường kiếm vung nhanh lại chuẩn. Chàng tuyệt đối không thể rơi vào tay loại con gái bình thường cho phí hoài nhân sinh. Tống Ngưng nghĩ, người này là anh hùng trong lòng cô, đáng tiếc, lại là người bên kia chiến tuyến.

Nhưng bậc anh hùng cũng có lúc sa sút. Thói đời luôn luôn là như vậy. Mấy vị tuấn kiệt giành được hai chữ danh tướng qua các thời đại đều có thể đem ra làm minh chứng: nếu không phải đã từng sa cơ, nhất định đang trên đường lỡ vận. Thế là Thẩm Ngạn sau khi gặp gỡ Tống Ngưng, lập tức bước ngay đến con đường sa cơ lỡ vận... Kỳ thực cũng không nên nói thế, nói vậy không hay, giống như Tống Ngưng là sao chổi, khắc tinh chiếu mệnh. Việc Thẩm Ngạn đại bại ở chiến trường Thương Lộc Dã sau này quả thật không liên quan đến Tống Ngưng. Có vị học giả nghiên cứu quân sự lâu năm đã tìm được lý do đáng tin cậy nhất là: bát tự của Thẩm Ngạn đã nói ngày hôm đó không thích hợp cho việc xuất hành.

Trận chiến tại Thương Lộc Dã, Thẩm Ngạn bại dưới tay thủ hạ của Lê quốc Đại tướng quân Tống Diễn. Năm ngàn tinh binh mà chàng mang theo, toàn bộ bị giết sạch, bản thân chàng cũng bị trúng tên, suýt nữa mất mạng. Lúc rạng sáng, con Hải đông thanh của Tống Diễn băng qua ốc đảo sa mạc, vỗ cánh sa xuống đậu trên tay Tống Ngưng. Tống Ngưng lấy từ vuốt của Hải Đông Thanh ra một ống trúc chứa tin tức nơi chiến trường. Bàn tay cô run run, tờ lụa trắng bị cô đánh rơi xuống nước bùn, nét mực mơ hồ nhòe đi thành cái bóng mờ bi thương. Tống Ngưng không tin Thẩm Ngạn chết trận, bởi vì trong lòng cô, Thẩm Ngạn đã được định nghĩa thành một vị anh hùng bất bại. Thế mà vị anh hùng bất bại ấy, chưa đến ba ngày, đã bị đánh bại. Diệp Trăn nghĩ theo phương diện tình cảm, chuyện này cô ấy khó lòng mà tiếp nhận được.

Tống Ngưng mang theo thuốc trị thương, cưỡi ngựa rời khỏi quân doanh. Cô nghĩ, nếu Thẩm Ngạn chưa chết, bằng giá nào cũng phải cứu lấy chàng. Còn nếu như chàng đã chết rồi, cô cũng phải mang hài cốt của chàng về, tự tay chôn cất, chứ không thể để chàng trở thành nắm xương khô nơi đại mạc hoang vu. Chàng là người đầu tiên khiến cho Tống Ngưng biết thế nào là rung động, là chàng trai khác biệt hẳn với đám người quần là áo lượt, mơ mơ màng màng ở vương đô nước Lê. Thật ra lúc đó Tống Ngưng làm sao biết được con người thật sự của Thẩm Ngạn là như thế nào?! Toàn bộ hiểu biết về chàng trai ấy chỉ là sự tưởng tượng của riêng cô thôi. Mà càng nghĩ ngợi, lòng lại càng tơ tưởng, càng thêm mến yêu Thẩm Ngạn.

Ngày âm âm u u, gió ở vùng đại mạc giống như nhát dao sắc cắt vào da thịt. Ngay cả con chiến mã Tống Ngưng cưỡi cũng bị đá vụn và cuồng phong dọa cho hí vang lên vì sợ hãi. Giữa mênh mông gió cát, Tống Ngưng áp sát mình vào lưng ngựa. Cô dùng vải trắng bịt mắt lại, hết sức che chắn cho túi thuốc trị thương, nghiến răng đi ngược chiều gió thổi. Gương mặt và đôi tay của cô bị gió cát khốc liệt cào xước từng đường từng đường. Cô đưa vết rách ở tay lên môi khẽ liếm, tiếp tục ngược gió tiến về phía trước. Tống Ngưng một lòng tin tưởng rằng Thẩm Ngạn đang đợi mình ở chốn xa xôi kia. Chính niềm tin này đã chống đỡ, đã giúp cô vượt qua đoạn đường gian khổ nhất trong thời gian ngắn nhất. Cùng lúc đó, cô lại còn phải trốn tránh đám quân sĩ do huynh trưởng thống lĩnh đang trên đường quay về doanh trại.

Chung quy chỉ có mình Tống Ngưng ảo tưởng. Kỳ thật sau này nghĩ lại, Thẩm Ngạn có thể chờ cô bằng cách nào đây? Chàng thậm chí còn không nhớ được cô là ai.

Thương Lộc Dã hiện ra trước mắt. Những vết máu bị trận gió cát vùi giấu đi phân nửa. Xem ra bãi chiến trường này đã bị bỏ rơi từ lâu. Xác chết người Khương trên Thương Lộc Dã rải thành một mảng đen nghìn nghịt. Tống Ngưng xuống ngựa, cẩn thận tránh không đạp trúng những khối thi thể nát vụn.

Tống Ngưng dùng tay lật hơn hai ngàn xác chết. Chuyện này cho thấy cô và Thẩm Ngạn không có duyên phận. Nếu thật sự có duyên thì lật lần đầu đã tìm được Thẩm Ngạn rồi. Nhưng cô gái ấy vẫn bướng bỉnh, kiên quyêt phải tìm cho được chàng. Có thể loại ý chí siêu cố chấp này của Tống Ngưng cuối cùng đã cảm động trời xanh. Lúc lật đến cái xác thứ hai ngàn bảy trăm hai mươi tám, cô lau sạch vết máu trên mặt của người ấy, nhìn thấy một dung mạo anh tuấn. Cô ôm lấy chàng thật chặt, nghẹn ngào thốt lên hai tiếng: "Thẩm Ngạn."

Tống Ngưng không mù quáng đoán sai, các vị anh hùng luôn luôn là như vậy. Tại thời điểm gần chết, họ hấp hối, nhưng nhất định sẽ không chết. Thẩm Ngạn còn thở. Khi cô ôm chàng, nghe được tiếng chàng rên rỉ trong vô thức do vết thương bị động. Trong lòng Tống Ngưng cảm giác như có cái chùy ngàn cân vừa giáng xuống, nước mắt cứ tự nhiên trào ra: "Thẩm Ngạn... Tôi chỉ biết là tôi nên tới đây với chàng." Khi đó bọn họ ngồi giữa một núi thi thể. Thẩm Ngạn về cơ bản không còn tri giác. Chàng không hề biết đến một Tống Ngưng xưa nay trên chiến trường lúc nào nét mặt cũng lạc quan hỉ hả. Giờ đây, cô ấy khóc nhiều đến nỗi cả gương mặt chỉ toàn là nước mắt.

Tống Ngưng cứu được Thẩm Ngạn. Lúc nhỏ, hồi còn ở trong phủ, cô từng học qua Kỳ Hoàng thuật. Đáng tiếc ở phương diện y thuật này, năng khiếu có hạn, lúc học xong cũng chỉ có thể chữa bệnh thương hàn mức độ nhẹ (điều đó khiến cho sư phụ của Tống Ngưng rất đau lòng!). Thương tích của Thẩm Ngạn lúc này thì ngay cả Dược thánh Bách Lý Việt cũng chưa chắc có thể chữa trị được. Trong khi đó, số thuốc mang theo lại thiếu thốn vô cùng. Vậy nên dù cho tay nghề của Tống Ngưng có tệ đến đâu cũng không đủ thuốc để ... lỡ tay hại chết Thẩm Ngạn. Trái lại, còn khiến tình trạng của chàng từ từ chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Việc này chỉ có thể bình luận là lòng thành của Tống Ngưng thêm một lần nữa làm cảm động trời xanh... Nhưng mắt của Thẩm Ngạn bị gió cát làm tổn thương, tạm thời chưa thể hồi phục. Chàng ngồi trong sơn động trên núi tuyết cạnh Thương Lộc Dã, tay miết lên thanh kiếm. Thẩm Ngạn nói với Tống Ngưng, vô âm sắc: "Xin hỏi ân nhân là vị cô nương hay là công tử?"

Từ đầu đến cuối, Tống Ngưng không để Thẩm Ngạn biết mình là cô nương hay là công tử. Đại quân Lê quốc san bằng Thương Lộc Dã, diệt sạch năm ngàn tinh binh của Thẩm Ngạn. Cô đoán Thẩm Ngạn nhất định căm hận người nước Lê, cô sao dám để Thẩm Ngạn biết cô chính là Tống Ngưng của Lê quốc.

Nhưng ý trời khó mà đoán định. Vào một đêm, thương thế Thẩm Ngạn bỗng dưng phát tác, toàn thân chàng lạnh run. Bất kể trong hang động có nhóm thêm bao nhiêu củi lửa cũng hoàn toàn vô dụng. Tống Ngưng nhìn chàng, vừa sốt ruột lại vừa đau lòng. Trầm tư hồi lâu, cuối cùng đã dùng cái phương pháp cũ xì nhất được ghi trong sách xưa: cởi bỏ quần áo trên người, dựa gần chàng, khít khao ôm chàng, kết thành một khối. Xung quanh động đều là củi lửa, tầng tầng tuyết trắng trên vách động cũng chảy tan thành nước, thuận theo mép hang rỏ xuống dưới tí tách, tí tách. Thẩm Ngạn tỉnh lại rồi, hoảng hốt cự tuyệt mà đẩy Tống Ngưng ra. Cô thủy chung ôm lấy chàng không rời, chàng càng đẩy mạnh thì cô ôm càng chặt. Chàng không phải biết làm sao, khổ sở nói: "Cô nương không cần vì tại hạ mà hủy đi tấm thân thanh bạch." Tống Ngưng không giống với nhi nữ thường tình, cô dùng ngón tay nhè nhẹ viết lên trên ngực chàng 4 chữ:  "Y giả nhân tâm". Sự thật thì trong hành động cứu người ấy của Tống Ngưng không có lấy nửa điểm nhân từ. Chẳng qua nghĩ đơn giản rằng: Thẩm Ngạn là người cô thích, là vị anh hùng trong lòng cô, dùng bất cứ phương thức gì cứu chàng cũng đều xứng đáng. Dù cho một mạng đổi một mạng, Tống Ngưng cũng cam lòng chứ đừng nói chỉ là thân thiết da thịt. Thẩm Ngạn không còn đẩy Tống Ngưng ra nữa, chàng chỉ nhẹ nhàng đưa tay ôm lấy bờ vai cô: "Nếu em không chê, đợi thương tích của tôi lành lại, tôi sẽ đến nhà em để cầu hôn." Tống Ngưng thoáng run run, chậm rãi nghiêng đầu tựa vào ngực chàng.

Sau đêm ấy, bệnh tình Thẩm Ngạn biến chuyển nặng hơn, hôn mê suốt cả ngày. Thuốc mà Tống Ngưng mang theo đã hết. Không còn cách nào khác, cô quyết định cõng Thẩm Ngạn vượt qua núi tuyết, tìm nhà dân để tiện cho việc chữa trị. Chuyện này tính ra rất nguy hiểm. Thứ nhất, phải xem xét kỹ lưỡng tình hình thời tiết. Núi tuyết này quanh năm lạnh giá, hai người bọn họ dễ có nguy cơ chết cóng trong quá trình vượt núi. Thứ hai, cần cân nhắc chuyện tuyết lở, bọn họ có khả năng bị khối tuyết tích lũy trên núi sạt lở đè chết. Thêm nữa, còn phải nghĩ đến tình huống lạc đường, rồi chết đói trên núi. Tóm lại, tính thế nào cũng đều rất gian nan. Tống Ngưng suy nghĩ kỹ lưỡng, cuối cùng cho rằng cũng đáng thử liều đánh cược một phen. Cho dù rời khỏi sơn động tựa như tìm chết, nhưng lưu lại sơn động cũng chẳng khác gì ngồi chờ chết. Hai bên đều là chết, biết đâu đâm đầu vào chỗ chết lại tìm được con đường sống? Tống Ngưng đã không nghĩ đến một giải pháp khôn ngoan hơn là bỏ lại Thẩm Ngạn, một mình quay về doanh trại.

Ròng rã suốt ba ngày không ngơi nghỉ, như một kỳ tích, cô gái ấy đã cõng Thẩm Ngạn vượt qua núi tuyết. Lúc đến được y quán trong thị trấn sau lưng núi, toàn bộ tay chân cô đều bị phồng rộp và tụ huyết. Tống Ngưng để chàng xuống, lâu thật lâu mà cô vẫn không thể đứng thẳng người.

Thẩm Ngạn thì vẫn mê man.

Gần mười ngày qua, Tống Ngưng không quay về quân doanh. Tống Diễn nôn nóng và lo lắng vô cùng, bèn phái tướng lĩnh dưới trướng đi tìm em gái khắp nơi. Tống Ngưng vừa đến được trấn nhỏ, lập tức trông thấy thuộc hạ của huynh trưởng. Cô tự biết mình không thể lưu lại nơi này lâu, đành lấy miếng ngọc bội tùy thân đập thành hai nửa, lại dùng tơ hồng xuyên giữa một miếng, đeo vào cổ Thẩm Ngạn, bản thân cô giữ một nửa còn lại. Tống Ngưng giao phó Thẩm Ngạn cho hai ông cháu ở y quán, còn để lại năm viên kim châu, nói: "Đây là tướng quân của Khương quốc các người. Hãy chữa trị thương thế của chàng cho thật tốt, vua các người nhất định sẽ ban thưởng." Lão đại phu lớn tuổi nghe thấy thế vội quỳ xuống đất, cô cháu gái câm ở bên cạnh đỡ lão, dùng tay tạo thành những dấu hiệu Tống Ngưng không hiểu.

Tay của Tống Ngưng dịu dàng vuốt tóc Thẩm Ngạn. Sắc mặt của chàng nhợt nhạt, dường như chàng đang ngủ rất sâu, không hề biết rằng cô sắp phải đi rồi.

Khi Tống Ngưng kể cho nàng nghe đoạn cố sự này, trong ký ức cô ấy không có những chuyện tiếp theo sẽ nhắc đến, nhưng nàng nhìn thấy được...

Ba ngày sau khi Tống Ngưng rời đi, Thẩm Ngạn tỉnh lại vào một đêm mưa. Đôi mắt chàng đã được nước thuốc rửa sạch, lại có thể nhìn mọi sự rõ ràng. Cô cháu gái câm của lão đại phu ngồi cạnh giường Thẩm Ngạn. Chàng tỉ mỉ quan sát cô gái ấy, rồi mỉm cười dịu dàng: "Hóa ra hình dáng của em trông như vậy. Nhiều ngày qua là em lo lắng cho ta sao? Chúng ta hiện giờ đang ở đâu vậy?"

Gương mặt thanh tú của cô gái câm thoáng ửng hồng. Cô e thẹn cắn môi nhìn chàng.

Thẩm Ngạn quan sát xung quanh: "Là ở y quán sao? Em ngồi lại gần ta một chút đi."

Cô gái câm đỏ mặt xích lại gần.

Chàng hơi hơi nhíu mày: "Chẳng lẽ em không thể nói sao?"

Cô gái do dự gật đầu.

Chàng nắm chặt tay cô gái câm: "Chẳng trách mà từ trước đến giờ chưa từng được nghe em nói chuyện. Hóa ra là vì em không thể nói."

Cô gái câm hơi ngẩng đầu nhìn Thẩm Ngạn, rồi lại xấu hổ cúi đầu, nhưng không rút tay ra.

Liễu Thê Thê để yên tay mình trong tay Thẩm Ngạn...

chương 3.3 : bi ai

Mùa xuân năm Lê Trang Công thứ mười tám, Khương quốc thua trận, phải dùng hai tòa thành ở biên cảnh để cầu hòa. Hai nước Lê – Khương lập tức ký kết hiệp ước. Không bao lâu sau, Lê Trang Công nhận em gái của đại tướng quân Tống Diễn làm nghĩa nữ, phong Tống Ngưng làm Kính Võ công chúa. Lê công lại còn sai sứ đi Khương quốc gặp Khương Mục công để cầu thân, ý muốn thúc đẩy hôn sự giữa Tống Ngưng và Thẩm Ngạn, để hai nước có thể kết thành thông gia. Lúc trước Tống Ngưng không muốn Thẩm Ngạn biết mình là ai, bởi vì quốc thù ngăn cách. Cô sợ Thẩm Ngạn thà chết cũng không chịu ơn người nước Lê, không muốn được cô cứu mạng. Kỳ thật Diệp Trăn nghĩ Tống Ngưng đã lo xa quá rồi. Trên đời có cái gọi là anh hùng không cần hỏi xuất xứ,  cũng giống như anh hùng nhận ân huệ của người khác không cần hỏi ân huệ từ đâu. Nhưng hôm nay Tống Ngưng sắp xuất giá đến Khương quốc, gả cho vị anh hùng trong lòng cô. Tống Ngưng nhớ Thẩm Ngạn đã từng nói khi nào thương thế khỏi, chàng sẽ xin cưới cô về. Vậy nên cô nghĩ dù chàng có yêu mình hay là không yêu mình, chàng cũng nên thực hiện lời hứa này. Diệp Trăn nghĩ đây chính là nguyên nhân khiến cho cánh đàn ông thời nay rất ghét hứa hẹn với đàn bà con gái, bởi lẽ trí nhớ của đám con gái thường rất dai, đồng thời lại cao tay ấn – luôn có biện pháp để cưỡng chế thi hành lời hứa. Tống Ngưng viết một phong thư dài, trong thư kèm theo nửa miếng ngọc nàng đập vỡ trước đây, ngỏ lời nhờ sứ giả bí mật chuyển bức thư đến cho Thẩm Ngạn.

Mãi đến khi đội ngũ đưa hôn lên đường, Tống Ngưng vẫn chưa nhận được hồi âm của Thẩm Ngạn. Nhưng cô nghĩ việc này không hại đến toàn cục, cùng lắm chỉ là khúc dạo đầu không hài hòa, bởi dẫu sao phần lớn mọi sự đều diễn ra suôn sẻ. Thẩm Ngạn đồng ý hôn sự do Lê Trang công đề xuất. Tống Ngưng có chút vướng mắc, nhưng sau nhiều lần suy nghĩ, cô tự dỗ lấy mình: thứ nhất, Thẩm Ngạn chính miệng nói ra nguyện vọng muốn cưới cô; thứ hai, Thẩm Ngạn tự nguyện vâng lệnh Khương Mục công mà hỏi cưới cô. Như vậy thì bất kể là chủ động hay bị động, chàng đều mười phần phối hợp, việc đến thế này làm sao có sai sót gì được.

Tống Ngưng không nghĩ ra điểm sơ xuất, có lẽ cũng là do ý trời. Lý giải như vậy có phần huyền bí, nhưng nếu không bí ẩn thì không thể giải thích được điều kỳ diệu của định mệnh, tựa như số phận của Tống Ngưng, tựa như sự sống lại của nàng.

Đêm động phòng, trăng tròn treo ở trên cao, mây trôi lơ đãng nơi chân trời, nến đỏ chiếu rọi ảnh hoa trùng trùng điệp điệp. Tống Ngưng ấp ủ tình cảm nửa ngày, cô thầm mong lúc Thẩm Ngạn vén lên khăn voan đỏ, cô sẽ đem tặng cho chàng nụ cười xinh đẹp nhất. Tống Ngưng vốn là một trang tuyệt sắc. Toàn bộ con cháu quý tộc ở vương đô nước Lê tuy không muốn hỏi cưới Tống Ngưng làm vợ, nhưng đối với dung nhan diễm lệ của nàng, cơ bản muôn miệng cùng khẳng định một lời. Việc này thật cũng khó xảy ra, về phương diện này có thể cho thấy trình độ thẩm mĩ của quý tộc nước Lê rất cao, hơn nữa xu hướng nhất trí cũng thật đáng nể.

Trang tuyệt sắc một khi đã nở nụ cười, tự nhiên mà nghiêng nước nghiêng thành. Thẩm Ngạn vén voan hồng thêu uyên ương hí thủy, nhìn thấy nụ cười khuynh thành ấy, ngẩn ngơ.

Tống Ngưng hơi nghiêng đầu nhìn chàng, trong nụ cười ngập tràn sắc màu rực rỡ. Gương mặt Thẩm Ngạn qua phút xao động kia thì lập tức trở nên băng lạnh. Tống Ngưng vẫn mơ mộng rằng hạnh phúc cả đời nàng đều ở nơi đây. Bà vú trong nhà dạy nàng rằng trong đêm tân hôn nên nói những lời khiến vị phu quân phải động lòng mà thương yêu, che chở cho mình, chẳng hạn như "Phu quân, thiếp giao A Ngưng cho chàng, nguyện ý theo chàng, xin chàng trân trọng." ...vân vân. Tống Ngưng định đem những lời này nói ra, còn đang ngập ngừng chuẩn bị, thì đã nghe thấy Thẩm Ngạn lạnh nhạt cất lời: "Cô có biết đêm nay, người đáng lý phải ngồi trên chiếc giường này, là ai không?"

Tống Ngưng không biết Thẩm Ngạn đang nói về chuyện gì, ngẩng đầu hỏi: "Chàng nói sao?"

Hàn ý trong mắt Thẩm Ngạn tăng lên: "Ta nghe nói, là huynh trưởng của cô đề nghị chuyện này với Lê công, muốn hai ta kết thân. Vì sao lại là ta? Có phải bởi ta từng đánh bại cô một lần trên chiến trường? Tống Ngưng, chẳng lẽ trước đây các người không nghe qua, ta đã có vị hôn thê?"

Tống Ngưng bần thần: "Nhưng chàng nói ... chàng muốn cưới tôi."

Thẩm Ngạn cười nhạt một tiếng: "Ta thân làm thần tử, bệ hạ lại lấy tính mạng của Thê Thê ra ép ta, ta có thể nào không theo? Chẳng qua chỉ là sự ràng buộc bề ngoài, ta không có ý định tiếp nhận bất cứ thứ gì ở cô. Cho nên cô cũng đừng yêu cầu gì ở ta!"

Tống Ngưng nhìn người ấy: "Tôi không muốn đòi hỏi chàng cái gì, tôi chỉ là..."

Lời còn chưa kịp nói hết đã bị Thẩm Ngạn cắt ngang rồi... "Vậy thì tốt."

Người ấy phất tay áo rời khỏi tân phòng. Ánh trăng rơi vỡ vụn trên giường cưới. Tống Ngưng nhìn theo chiếc bóng của người ấy, nghĩ tuyệt đối không thể như vậy được. Tống Ngưng gọi tên chàng: "Thẩm Ngạn." Tựa như khoảnh khắc rơi vào Tu La trận trên Thương Lộc Dã, khoảng khắc mà cô đã ôm lấy chàng... Cổ họng Tống Ngưng nghẹn ngào, gọi tên người ấy nhẹ nhàng mà dai dẳng. Nhưng chàng không dừng bước. Cô gái không rơi lệ, chỉ ngỡ ngàng ngồi ngẩn ra đó. Cả đời cô chỉ khóc một lần, là tại Thương Lộc Dã khi tìm được Thẩm Ngạn, phát hiện chàng còn sống. Tống Ngưng cởi bỏ bộ hỉ phục đỏ thắm, xếp lại gọn gàng ngay ngắn, rồi lặng lẽ nằm ở trên giường, trơ mắt nhìn cặp nến long phượng cháy tàn. Ngoài cửa sổ là ánh trăng bi ai...

chương 3.4 : ngang trái

Ngày hôm sau, Tống Ngưng đi vấn an mẹ chồng, nghe thấy cô hầu gái cắn phải lưỡi nói: tối qua tướng quân ngủ ở viện Hà Phong. Sống tại viện Hà Phong là Liễu Thê Thê – Thê Thê cô nương. Tống Ngưng bất chợt nhớ tới 2 câu thơ "Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu"* . Thê thê – vừa mơn mởn, vừa tươi tốt lại tràn đầy sức sống, thật là một cái tên đẹp.

Tống Ngưng nghe nói, Thê Thê cô nương may áo cho tướng quân, đường may tỉ mỉ, thêu trúc xanh sinh động y như thật.

Tống Ngưng nghe nói, Thê Thê cô nương hầm canh hạt sen cho tướng quân, chỉ dùng hạt sen ra đợt đầu trong ao sen, canh nấu xong có mùi thơm mát dịu tràn khứu giác.

Tống Ngưng nghe nói, Thê Thê cô nương tuy bị câm, nhưng luôn khiến tướng quân vui vẻ.

Cách nhìn của Tống Ngưng đối việc này thực ra là như vậy. Liễu Thê Thê vốn nên là vợ của Thẩm tướng quân. Bản thân cô ngang nhiên xen vào, hủy đi nhân duyên của người khác, hành động này không tốt. Quả thực trong lòng cô nghĩ ba người bọn họ không cần tiếp tục tính toán. Từ lúc cô xuất giá đến nay, ngoại trừ đêm tân hôn có gặp Thẩm Ngạn được một lần, chàng thủy chung không xuất hiện trước mặt cô thêm lần nào nữa. Vậy đủ thấy chàng là một người chung tình, khiến cho ai cũng phải kính phục. Tống Ngưng nghĩ bản thân mình yêu Thẩm Ngạn, nhưng chuyện thành ra như thế này, đành phải đem ái tình chuyển thành tín ngưỡng, bởi vì tín ngưỡng sẽ không có mong mỏi, không có ủy khuất.

Tống Ngưng thường nghe nói Liễu Thê Thê như thế này, Liễu Thê Thê như thế nọ.

Tuy cô đã nghĩ thông suốt, hơn nữa còn dốc sức đem ái tình của mình chuyển hướng: "mình yêu chàng căn bản là chuyện riêng của mình. Tình yêu ấy không liên quan gì đến chuyện chàng đáp lại hay không đáp lại". Kỳ thật Tống Ngưng cũng không muốn gặp gỡ cô Liễu Thê Thê ấy. Thế nhưng chuyện trên đời không phải người muốn thế nào liền được như thế ấy. Tựa như sấm truyền hoàng đế không thể có con trai, các phi tần trong hậu cung liền am hiểu ý tứ sinh cho ngài đứa con trai. Những chuyện này, rõ ràng đó là ý trời đã định chứ không liên quan gì đến lòng người. Chẳng thế mà một người không có thói quen đi dạo buổi chiều như Tống Ngưng, một ngày nọ, bước đến hoa viên tản bộ. Thế là ngày hôm ấy oanh kêu yến hót, hoa phơ phất, liễu dựa bờ. Đó cũng là ngày mà cô chạm mặt Liễu Thê Thê trong truyền thuyết.

Mọi sự  nhìn chung đều có nguyên do của nó. Bắt đầu sự việc là Tống Ngưng nhặt được một miếng ngọc bội ở vườn hoa. Ngọc bội ấy khảm nạm bằng giấy thếp vàng, vốn bị nứt làm đôi, song đã được ghép lại toàn vẹn, ở giữa vẫn còn dấu tích của vết nứt. Tống Ngưng nhặt miếng ngọc bội lên, nhíu mắt quan sát dưới ánh mặt trời rất lâu, chắc chắn đó là khối ngọc cô đã tự mình đập vỡ lúc chia tay Thẩm Ngạn vào mùa đông năm trước. Có người con gái vội vàng đến trước mặt Tống Ngưng, chìa ra ngón tay tái xanh, một tay chỉ chỉ ngọc bội, một tay hướng về bản thân. Tống Ngưng ngẩng đầu lên. Khi cô gái ấy nhìn rõ dung mạo Tống Ngưng, sắc mặt đột nhiên trắng bệch. Tống Ngưng cũng nhớ là đã từng gặp qua người này ở đâu đó. Gió nhẹ lướt qua, phảng phất trong không gian một mùi hương thuốc nhàn nhạt, mùi hương ấy khiến cô đột nhiên nhớ đến y quán sau núi tuyết. Tống Ngưng nắm lấy ngọc bội, mỉm cười nhìn người con gái kia: "Cô nương cũng ở đây à? Thẩm Ngạn quả nhiên không phải là người vong ơn bội nghĩa. Thế ông ngoại của cô nương đâu?"

Đôi môi của cô gái ấy run rẩy, xoay người muốn chạy trốn. Tống Ngưng hơi nhíu mày, kéo tay cô ta lại: "Trông tôi rất đáng sợ ư? Sao cô nương lại sợ tôi đến thế?"

Nhưng cô gái đó liều mạng vùng vẫy muốn chạy thoát khỏi Tống Ngưng. Sau lưng hai người bỗng truyền đến giọng của Thẩm Ngạn: "Thê Thê."

Thê Thê... Tống Ngưng thất thần. Cô gái mà Tống Ngưng đang nắm lấy ống tay áo bị Thẩm Ngạn cướp đi, chàng che chở cho cô ấy, giống như cây đại thụ chọc trời bảo vệ dây leo yếu ớt quấn trên thân. Nét mặt chàng ôn nhu, dáng vẻ chàng thân mật. Lúc Thẩm Ngạn đưa mắt nhìn về cô, lại là vẻ lạnh lùng cố hữu. Thẩm Ngạn vặn hỏi: "Cô muốn gì?"

Thẩm Ngạn hỏi một đằng, cô trả lời một nẻo. Tống Ngưng cứ ngây ngốc nhìn người con gái được Thẩm Ngạn che chở trong lòng: "Thê Thê? Cô là Thê Thê?" Cô gái kia không dám ngẩng đầu.

Thẩm Ngạn cau mày, ánh mắt dừng ở tay Tống Ngưng, ngừng một lát, lạnh lùng nói: "Đó là ngọc bội của Thê Thê, cô cầm nó làm gì?"

Tống Ngưng sững sờ một chút, kinh ngạc nhìn chàng: "Của... Thê Thê? Cái gì của Thê Thê? Sao lại là của Thê Thê?" Rồi cô tiến lên một bước, đem ngọc bội trong tay đưa ra trước mắt Thẩm Ngạn:"Chàng đã đọc qua lá thư tôi gửi cho chàng chưa? Chàng quên đây là tín vật tôi giao cho chàng ư? Chàng quên ở núi tuyết trên Thương Lộc Dã, chúng ta..."

Cô còn muốn nói tiếp, nhưng Liễu Thê Thê kia đột nhiên nắm lấy tay áo Thẩm Ngạn, ra sức lắc đầu.

Trong mắt chàng là tầng tầng băng tuyết. Thẩm Ngạn không muốn kiên nhẫn nghe tiếp mà lạnh nhạt cắt lời cô: "Trận chiến ở Thương Lộc Dã, năm ngàn người Khương chết dưới làn tên của Lê quốc, hai nước Khương – Lê tuy đã giảng hòa, nhưng mối hận của ngày hôm đó, Thẩm Ngạn đến chết cũng không quên!" Chàng còn cười lạnh: "Ở núi tuyết trên Thương Lộc Dã, nếu không có Thê Thê cứu ta, Thẩm Ngạn của hôm nay cũng không khác gì oan hồn vất vưởng nơi chiến trường, còn có phúc cưới được Kính Võ công chúa của Lê quốc nhà cô sao?"

Liễu Thê Thê vẫn đang lắc đầu, nắm chặt tay Thẩm Ngạn, nước mắt chảy ra ướt đẫm hai má, son phấn điểm trang nhòe nhoẹt.

Tống Ngưng không thể tin được, thanh âm từ cổ họng lơ lửng đi ra: "Làm thế nào là cô ta cứu chàng... Người cứu chàng... rõ ràng là tôi." Tống Ngưng cho rằng nếu như cô nói rõ ràng mọi chuyện, chàng liền có thể nhận ra. Kỳ thực nghĩ vậy là đánh giá cao khả năng lý giải của Thẩm Ngạn. Bởi vì chuyện đời chẳng bao giờ đơn giản như vậy. Để dẫn nước, không phải chỉ cần kênh dẫn là xong, biết đâu trước đó bị người thả cá sấu trong kênh, đợi người lội qua, lập tức cắn chết, lại còn chết rất đau đớn.

Mắt Thẩm Ngạn nhìn cô đầy trào phúng: "Cô nói bậy bạ gì vậy? Cô cứu ta? Tống Ngưng, ta chưa từng nghe nói cô biết Kỳ Hoàng thuật*. Người con gái cứu ta y thuật cao minh. Chẳng nói cũng biết chỉ có thể là Thê Thê. Cô cho là Thê Thê bị câm, ta liền tin vào những lời xằng bậy cô vu oan giá họa cho cô ấy?"

Tống Ngưng không có cách nào chứng minh cho Thẩm Ngạn, bởi vì cô cứu được chàng chủ yếu dựa vào trời xanh rủ lòng thương. Mà hôm nay rõ ràng trời xanh đã thay lòng đổi dạ, lại quay sang rủ lòng thương xót cho Liễu Thê Thê.

Tống Ngưng tưởng Thẩm Ngạn không nhận được thư của cô, hóa ra thư ấy đến tay ai, giờ cô đã rõ. Hôm nay tiếp tục dây dưa chuyện này cũng vô dụng, chẳng qua không cam lòng. Dù cho Thẩm Ngạn không yêu cô, có một số việc, cô vẫn muốn cho chàng biết. Nhưng đối với Thẩm Ngạn, Tống Ngưng có nói gì cũng đều là lời dối trá. Cô nỗ lực trăm ngàn cách, Thẩm Ngạn cũng không cho cô cơ hội, nửa điểm cũng không. Sự cứng rắn tàn nhẫn của Thẩm Ngạn đối với Tống Ngưng thật khiến người ta bi phẫn.

Tống Ngưng không cố gắng giải thích thêm gì nữa, bởi cô nhìn thấy trong mắt chàng đều là băng. Chàng từ trước đến nay vốn dĩ không chịu lắng nghe cô. Thời gian đầu, cô cảm giác đau thắt trong ngực, nhưng lại không thể rơi nước mắt, thường thường cứ ôm chăn mà thức trắng, hoặc ngồi thẫn thờ đến tận bình minh. Trong đêm dài dằng dặc, nhớ đến vòng tay của Thẩm Ngạn đã từng dịu dàng ôm lấy vai cô, khẽ giọng nói với cô: "Nếu em không chê, đợi thương tích của em lành lại, sẽ đến nhà em để cầu hôn." Đó là hồi ức đẹp đẽ duy nhất. Cô trông thì có vẻ kiên cường thế thôi, chung quy vẫn cứ là con gái. Con gái càng tỏ ra kiên cường, thực chất lại càng cần được trân trọng, càng cứng rắn lại càng dễ vỡ...

Chỉ là Tống Ngưng thật không ngờ, tân hôn chưa đầy ba tháng, Thẩm Ngạn đã muốn nạp thiếp.

Kỳ thật chuyện nạp thiếp không có gì đáng trách. Phong tục của Cửu Châu là như vậy. Người thực hiện đầu tiên và nghiêm chỉnh nhất chuyện này chính là hoàng đế. Sau đó thần dân nhà nhà nạp thiếp, người người nạp thiếp. Anh nạp tôi cũng nạp, không muốn nạp cũng không xong, thậm chí nạp ít còn bị người ta khinh thường. Bởi vì tính Quân Vĩ thích nghiên cứu chuyện nhà của hoàng đế, hắn phân tích như sau: hoàng đế nạp thiếp chủ yếu là vì hoàng hậu thân làm quốc mẫu, mẫu nghi thiên hạ, là hóa thân của vạn dân thiên hạ. Thử nghĩ lúc hoàng đế cùng hoàng hậu sinh hoạt phu thê, nhìn gương mặt hiền từ của nàng, lập tức trong lòng vương vấn trăm họ, làm việc chính đáng cũng không thể quên chính sự, thật khiến người phóng không ra, đành phải nạp thiếp. Nhưng sự thật của vấn đề nạp thiếp này ra sao? Biết đâu chẳng qua là vì nam nhân sắc tâm không chết, cho nên mới không ngừng nạp thiếp? Có điều Thẩm Ngạn muốn nạp thiếp, căn bản là vì ái tình. Đây là việc duy nhất khiến người ta không thể dung thứ. Đứng mũi chịu sào, Tống Ngưng không thể tha thứ.

Tống Ngưng làm mọi cách ngăn việc này lại, kể cả phải mượn thanh thế Lê Trang công và uy danh của Lê quốc.

Tống Ngưng ngồi trong thủy các, cả hồ là lá sen, là gió, bên cạnh còn có cây cổ thụ không rõ tên. Trong nền trời xanh biếc điểm xuyết sắc vàng chuếnh choáng, Thẩm Ngạn đứng trước mặt Tống Ngưng, tựa như người bước ra từ tranh vẽ...

Đây là lần thứ ba gặp mặt kể từ sau đêm tân hôn. Thẩm Ngạn cau mày quan sát Tống Ngưng từ đầu tới chân: "Cô tìm trăm phương ngàn kế phá hoại hôn sự của ta và Thê Thê, rốt cuộc cô muốn gì?"

Tống Ngưng buông quyển sách trong tay xuống, ngẩng đầu nhìn chàng, giống như trở lại là Tống Ngưng của lúc chưa xuất giá, vĩnh viễn chỉ mỉm cười, dẫu là nơi chiến trường tang tóc. Giọng nói của cô trầm trầm, trên má lộ ra má lúm đồng tiền xúc động lòng người : "Tôi muốn gì? Câu này hỏi rất hay. Tôi không yêu cầu bất cứ thứ gì ở chàng. Chẳng qua có chút vấn đề, Liễu Thê Thê không xứng đáng."

Thẩm Ngạn lạnh lẽo đáp lời cô: "Cô không chấp nhận Thê Thê, nhưng chắc cô cũng biết một điều rằng ta cũng không-chấp-nhận cô."

Lúm đồng tiên trên má sâu càng thêm sâu: "Thẩm Ngạn, chàng không chấp nhận tôi, tôi cũng không có biện pháp nào. Nhưng hôn sự của chúng ta, cũng là mối thông gia của hai nước Khương Lê."

Trên mặt Thẩm Ngạn ẩn chứa phẫn nộ: "Đêm tân hôn chúng ta đã có giao hẹn, cô và ta nên là nước sông không phạm nước giếng."

Tống Ngưng chỉ nhìn mãi xuống tay mình, nhàn nhạt mở lời: "Thật ra cũng không có gì, chỉ là nhìn các người thân mật như vậy, mà tôi một mình ở chốn này, cô đơn tịch mịch, rất không cam lòng."

Người ấy phất tay áo cười lạnh: "Tống Ngưng, cô còn nhớ trước đây ai là kẻ đề xuất chuyện hôn sự này?"

Rồi bóng dáng người ấy dần dần biến mất nơi góc quẹo. Hồi lâu, Tống Ngưng cúi đầu lật giở quyển sách trong tay. Gió lướt qua, một giọt lệ rơi "tách" một tiếng trên trang sách, nét mực tầng tầng lớp lớp nhòe đi. Cô nâng tay áo lau nước mắt, điềm nhiên như không, giở sang trang khác.

Không lâu sau, nước Hạ là đất nước đối diện với nước Khương, chỉ ngăn cách nhau bởi một con sông. Vua nước Hạ qua đời, công tử Trang Nghi lên kế vị. Hai tháng sau, vị Quốc Tân Hầu Trang Nghi này mượn cớ Khương quốc viện trợ quân phản tặc của Hạ quốc, đưa binh đánh Khương. Khương Mục công lệnh cho Thẩm Ngạn dẫn binh nghênh chiến.

Tháng Tư hoa cỏ úa tàn, vầng trăng trên cao hoang vắng lạnh lẽo. Tống Ngưng đứng ở cửa sổ đến nửa đêm, nhìn ánh trăng rơi xuống chân trời. Cuối cùng thì cô vẫn không thể để người ấy chết nơi sa trường. Chàng không phải là một phu quân tốt, nhưng chung quy lại, chàng vẫn là vị anh hùng trong lòng cô. Có một số người không có kinh nghiệm yêu đương, cứ mơ mộng mãi, ôm ấp mãi thứ tình cảm vô vọng ấy, chỉ một cái chớp mắt cũng hóa vạn năm. Câu này chắc nói về kiểu người như Tống Ngưng.

Giờ Dần, Tống Ngưng lấy từ trong rương ra một bộ chiến giáp, gỡ lấy chiếc kính hộ tâm ở trước ngực áo. Cô kéo theo vạt váy dài chạm đất, vượt qua dãy hành lang khảm hoa, đi thẳng một mạch đến nơi ở của Thẩm Ngạn – Chỉ Lan viện. Tì nữ trong viện không màng đến cô, ê ê a a nửa buổi mới nói: "Tướng quân, tướng quân, ngài ấy không ở trong phòng..."

Vẻ mặt Tống Ngưng hờ hững: "Ở viện Hà Phong?"

Tì nữ cúi đầu không dám nói.

Tống Ngưng giao miếng hộ tâm kính đã được gói lại cẩn thận trong miếng lụa trắng cho tì nữ: "Chàng đã không có ở đây, vậy đành nhờ cô..."

Lời còn chưa nói hết, người tì nữ trước mặt đột nhiên ngẩng đầu vui mừng nói: "Tướng quân đã về."

Thẩm Ngạn vừa bước vào cửa, trời còn chưa sáng, đèn lồng trong viện tỏa ra những ánh lờ mờ. Thân ảnh của chàng bị nhốt trong quang ảnh đang chập chùng sắc vàng hư ảo. Tống Ngưng nghe được tiếng chàng vang lên sau lưng, luôn luôn cứng rắn, luôn luôn lạnh lùng: "Cô làm gì ở đây?"

Tống Ngưng xoay người, xinh đẹp đứng trước mặt người ấy, đánh giá người ấy từ đầu đến chân một phen, rồi nở nụ cười. Ý cười không lộ trong đáy mắt, nhưng biểu tình của cô trước sau như một.

Tống Ngưng chuyển bọc vải cho người ấy: "Không có gì, nghe nói chàng phải xuất chinh, tôi đến đây là để đưa cho chàng Hộ Tâm kính làm từ ngọc lam. Chiếc kính này so với tấm kính hộ tâm bình thường thì kiên cố hơn nhiều. Khi xưa nó đã từng cứu mạng tôi không ít. Bởi vì hiện giờ tôi đã chẳng thể quay lại chiến trường được nữa, làm phiền chàng mang nó ra nơi ấy mở mang kiến thức."

Người ấy khẽ nhíu mày nhìn Tống Ngưng hồi lâu rồi nói: "Ta nghe nói, kính hộ tâm này là bảo bối ca ca cô tặng cho."

Tống Ngưng ngước mặt, đuôi mắt hơi hơi cong lên: "Ha, chàng có nghe qua? Nói là bảo bối, cũng cần phải bảo vệ mạng người. Không bảo vệ được thì cũng thành ra vô dụng. Cho chàng mượn nó, không phải tôi có ý khiến chàng nợ tôi ân tình. Chàng nói rất đúng, chúng ta vốn nên nước sông không phạm nước giếng, chẳng qua chỉ là tôi còn mang cái danh phu nhân tướng quân này, nếu chàng chết nơi chiến trường, Thầm phủ cả cái nhà lớn này sẽ trút hết gánh nặng lên vai tôi, thật rất phiền phức. Trách nhiệm của ai người nấy mang, chàng nói có phải không?"

Người ấy quan sát miếng Hộ Tâm kính xanh ngọc trong tay Tống Ngưng, nom giống như một phiến lá sen xòe rộng. Tống Ngưng cúi đầu ra hiệu muốn rời đi, người ấy kéo cô lại: "Cô có thể tái giá."

Tống Ngưng nhìn tay người ấy đang giữ lấy cổ tay áo của mình. Tầm mắt của cô di chuyển lên trên, đến chỗ tà áo thêu cành trúc sinh động như thật. Cô cười đến trong suốt: "Chàng vừa nói gì?"

Người ấy buông tay áo cô ra: "Nếu ta chết trận, cô có thể tái giá."

Cô cúi đầu có vẻ trầm tư hồi lâu rồi mở miệng: "A, đúng thế."

Cô lại ngẩng đầu lên, lúm đồng tiền trên má sâu đến diễm lệ: "Vậy chàng nên chết ở chiến trường không cần trở về, vĩnh viễn cũng đừng quay lại." Tì nữ ở bên cạnh sợ run lên, nhưng Tống Ngưng lại cười, trong mắt lạnh băng. Thực sự tâm tư con gái thì chớ nên dò đoán, bởi đoán tới đoán lui cũng đoán không ra. Thế gian có loại cô nương, mỗi câu nói đều khiến người khác cảm thấy khó hiểu; còn có loại cô nương, nói mỗi câu đều buộc người khác phải suy ngẫm. Loại đầu tiên dùng hoa khôi Lí Tiên Tiên của thanh lâu sát vách làm ví dụ, loại sau lấy Tống Ngưng làm ví dụ.

Tống Ngưng đau khổ chạy đi vội vã, việc này cũng chỉ có thể lưu lại trong lòng Thẩm Ngạn một cái bóng mờ vụt qua trước mắt, hình bóng đoan chính, cao gầy, xinh đẹp. Thẩm Ngạn nắm chặt chiếc kính hộ tâm màu xanh ngọc, nhìn theo bóng dáng đã đi xa của Tống Ngưng, ánh mắt thâm trầm, dường như có chút ngẫm ngợi.

Thẩm Ngạn rời nhà hai tháng.

Giữa tháng Tám, hoa quế ngào ngạt tỏa hương, viện Hà Phong truyền đến tin tức, nói: Thê Thê cô nương có thai. Lão tướng quân cùng phu nhân nhìn nhau im lặng. Liễu Thê Thê xem như là khách của Thầm phủ, nữ khách trong nhà có thai, lại do chính con trai nhà mình gây ra. Việc này kể cũng được đi, thế nhưng lại còn xảy ra ngay trước mặt con dâu, thật khiến hai người không biết nên nói sao. Chẳng qua lúc Tống Ngưng đến thỉnh an, lão phu nhân mơ hồ nói một câu: "Để con cháu Thầm gia rơi lạc bên ngoài cũng không phải chuyện có thể diện gì." Tống Ngưng mỉm cười gật đầu: "Mẹ nói phải."

Cuối tháng, hoa quế bạt ngàn nở trên Cù Sơn ở ngoại thành. Tống Ngưng nhìn núi xa, nhàn nhạt nói với người thị nữ: "Em đến mời Thê Thê cô nương ngày mai cùng ta đi Cù Sơn ngắm hoa quế."

Thị Trà đưa thiếp mời đến viện Hà Phong, Liễu Thê Thê nhận thiệp.

Ngày hôm sau, Tống Ngưng ăn mặc giản dị lên đường, chỉ mang theo Thị Trà. Thị Trà một tay cầm hộp điểm tâm, tay kia xách một cái bọc vải. Trái ngược với Tống Ngưng, Liễu Thê Thê long trọng hơn nhiều. Nàng ta ngồi trong kiệu bốn người khiêng, trước sau có hai vú già ở viện Hà Phong đi kèm, ngoài ra còn dẫn theo bốn người tì nữ.

Tống Ngưng cười nói: "Ngắm hoa quế thôi mà, nhiều người như vậy, quét sạch hứng thú rồi."

Bà vú già đi đầu ý nhị nói: "Có lẽ Phu nhân chưa, tướng quân mấy ngày trước có gửi thư về, muốn bọn nô tì hết lòng hết sức trông nom Thê Thê cô nương. Thê Thê cô nương nay đã mang thai, bọn nô tì không dám có nửa điểm sơ suất"

Tống Ngưng nâng quạt không nói.

Thị Trà cười khẽ: "Ý của vú Tiều là không thể có sơ suất gì với Thê Thê cô nương, chỉ đành thất lễ công chúa nhà tôi? Nói vậy thật không xuôi tai. Tại Lê quốc chúng tôi, nếu công chúa ngồi, đám hạ nhân không dám đứng; nếu công chúa đứng, đám hạ nhân không được ân điển, thì đều phải quỳ. Lúc này đến Khương quốc của các vị, toàn bộ đổi ngược lại. Công chúa nhà chúng tôi hôm nay đi bộ lên Cù Sơn, cô nương nhà các người lại có thể ngồi kiệu. Lễ pháp của Khương quốc các người quy định như vậy chăng?"

Bà vú già quỳ sụp một cái trên đất, không ngừng tự tát chính mình.

Màn kiệu vén lên, Liễu Thê Thê bước nhanh xuống kiệu che chở bà vú già, dùng cánh tay thơm mùi thuốc làm ra vài tư thế xinh đẹp uyển chuyển. Bà vú bên cạnh thấp thỏm giải thích: "Thê thê cô nương nói nàng không ngồi kiệu nữa, vừa nãy là nàng không hiểu chuyện. Nàng sẽ đi theo phu nhân, dọc đường hầu hạ phu nhân."

Diệp Trăn nhìn thấy ngọn Cù Sơn cao vút chạm mây, một người đang mang thai há có thể đảm nhiệm việc ròng rã suốt một ngày trời đạp mọi chông gai mà leo núi? Quả thật sau khi quay về, ngay đêm hôm đó trong phủ lao xao truyền ra tin tức: Liễu Thê Thê bị chảy máu không ngừng. Sáng sớm ngày thứ hai, có thêm tin tức, nói thai nhi trong bụng Liễu Thê Thê không thể giữ được, đã sảy. Thị Trà lo lắng: "Nếu như tướng quân nổi giận thì làm thế nào?" Tống Ngưng dựa vào khung cửa sổ đọc sách, giơ tay bảo Thị Trà đổi ấm trà mới. Trong viện hoa quế nở dịu dàng, hương quế thoang thoảng len vào.

Diệp Trăn lại nghĩ chuyện Liễu Thê Thê mất con, suy cho cùng là lỗi của Tống Ngưng. Nhưng đứa bé này danh không chính ngôn không thuận. Lão tướng quân phu nhân cho dù muốn thương xót Thê Thê cũng không biết phải làm sao, chỉ có thể cung cấp giúp đỡ về mặt vật chất: tổ yến, nhân sâm, tuyết liên, có gì quý giá lập tức sai người đưa đến viện Hà Phong. Chỉ là Liễu Thê Thê cả ngày lấy nước mắt rửa mặt, tìm không ra lúc nhàn rỗi ăn cơm. Để tránh lãng phí, đám hầu gái cùng mấy bà vú đành phải ăn thay, dẫn tới hậu quả trực tiếp là: ngoại trừ Liễu Thê Thê có thể gìn giữ vóc dáng xinh đẹp như cũ, toàn bộ người ở viện Hà Phong trong thời gian ngắn đều mập ra, ngay cả hai con chim sẻ làm tổ trước cửa viện cũng không tránh khỏi, rơi từ trên tổ xuống, cất cánh bay không nổi. Thời gian này, Tống Ngưng cáo bệnh, cấm cửa ở nhà, không gặp bất cứ ai.

Nhưng cuối cùng có một người không cho phép cô không gặp: là khắc tinh trong số mệnh Tống Ngưng. Cô vì người ấy cởi bỏ chiến giáp, khoác lên hỉ phục đỏ thắm, dùng tình cảm cả đời, từ ngàn dặm xa xôi đem chính bản thân mình gả cho người ấy. Nhưng Thẩm Ngạn lại không cần cô.

Tháng chín, âm hưởng chiến thắng vang dội khắp vương đô Khương quốc. Thẩm Ngạn thắng trận, khải hoàn hồi triều. Tống Ngưng ngồi cạnh thủy các cho cá ăn, hồi lâu, ngẩng đầu hỏi Thị Trà: "Người ấy trở về rồi, em nói, người ấy sẽ giết tôi sao?" Cái chén trong tay Thị Trà rơi "choang" xuống đất. Tống Ngưng cười lớn: "Thân thủ của tôi tuy không giỏi bằng chàng, nhưng không đến nỗi có thể dễ dàng bị lấy mạng. Cùng lắm là lưỡng bại câu thương, em không cần lo lắng." Thị Trà quỳ sụp xuống đất: "Công chúa ở chỗ này không hề vui sướng, Thị Trà nhìn ra được, công chúa rất không hạnh phúc. Vì sao chúng ta không quay về quê hương? Công chúa, chúng ta trở về Lê quốc đi." Tống Ngưng nhìn đàn cá tranh giành thức ăn không biết trước biết sau trong hồ sen: "Đây là hôn sự quốc gia, em cho rằng muốn đi là đi được sao?"

Tất cả mọi sự không thể vãn hồi đều bắt đầu từ một đêm hôm đó. Diệp Trăn nghĩ như vậy, là vì nàng nhìn thấy được toàn bộ sự tình, thấy được sinh mệnh của Tống Ngưng khởi đầu tối hôm ấy, từ từ đi đến kết cục chấm hết. Đẩy Tống Ngưng vào chỗ chết, là vị trượng phu, là tình yêu suốt đời của cô – Thẩm Ngạn. Trên người hắn còn mặc nguyên chiến giáp màu xanh nhạt, dáng vẻ tựa như lúc bọn họ mới gặp lần đầu, nhưng trong ánh mắt rõ ràng là hừng hực lửa giận, giống như từ cõi chết trở về.

Tống Ngưng chung quy địch không lại người ấy, chưa đến hai chiêu, kiếm của người ấy đã dừng tại cổ họng cô. Cô hoảng hốt dùng tay nắm lấy thanh kiếm, thế kiếm chậm lại, trượt qua năm ngón tay phải, đâm một vết thương sâu đến nỗi có thể thấy được xương. Máu tươi thuận theo thân kiếm chảy xuống, nhất định là rất đau đớn, nhưng cô không để tâm, chỉ nhìn tay mình:"Chàng thật là muốn giết tôi sao?"

Hắn lạnh lùng: "Tống Ngưng, ướt đẫm tay cô, là mạng của con trai ta. Cô bức Thê Thê cùng cô leo Cù Sơn. Chính cô hại chết đứa con ta!"

Cô mạnh mẽ ngẩng đầu lên, nét mặt thả lỏng, thanh âm dồn nén đến mềm mại: "Đó không phải là lỗi của tôi. Tôi chưa từng sinh qua hài tử, tôi đâu biết người mang thai lại yếu ớt như thế, chỉ leo núi cũng có thể làm sẩy thai. Chàng với hài tử này vô duyên, sao lại đổ hết tội lên đầu tôi? Thẩm Ngạn, chàng không phải rất không có đạo lý sao?" Khi nói những lời này, đó không phải suy nghĩ từ đáy lòng Tống Ngưng, chẳng qua cô bị người ấy chọc giận. Tống Ngưng nhìn gương mặt tái nhợt của người ấy, cảm thấy tức cười, và cô thật sự đã bật cười: "Thẩm Ngạn, chắc chàng cũng biết, ngoại trừ tôi ra, không ai có tư cách sinh ra đích tôn cho Thầm gia." Tống Ngưng cảm thấy tình yêu của cô có lẽ sắp chết rồi. Lúc trước khi thấy Thẩm Ngạn, cô luôn luôn hy vọng chàng được mọi điều như ý. Giờ đây khi gặp, chỉ cầu cho người ấy gặp phải chuyện không hài lòng. Nhưng khi người ấy không hài lòng, Tống Ngưng cũng không cảm thấy vui vẻ gì, chuyện này giống như con dao hai lưỡi, vừa đâm người, lại vừa tổn thương chính mình.

Tống Ngưng vẫn bình thản giễu cợt một phen khiến Thẩm Ngạn lại càng thêm phẫn nộ. Cô thấy được trong mắt người ấy sóng giận cuồn cuộn, bởi vậy đoán rằng kiếm của người ấy tức khắc sẽ xuyên qua bàn tay tiến đến cổ họng cô. Nhưng phán đoán này tất nhiên là có chút sai sót. Kiếm của Thẩm Ngạn không tiến thêm một phân, trái lại còn rút khỏi lòng bàn tay Tống Ngưng, dẫn ra một màn máu đỏ tuôn rơi. Mũi kiếm áp sát ngực Tống Ngưng. Một nhát, khuy áo khâu ở vạt trước rơi xuống. Vị phu quân ấy đứng ở trước mặt cô, dùng thanh kiếm nhuốm máu khiêu mở ngoại sam của Tống Ngưng, sóng giận trong mắt chuyển thành cười gằn trên môi, thanh âm chứa đựng sự trào phúng lạnh lẽo run người: "Tống Ngưng, ta chưa từng thấy qua nữ tử nào oán độc giống như cô vậy."

Viên phòng đến muộn chín tháng.

Tống Ngưng vùng vẫy. Nếu như đối phương là một gã thư sinh nho nhã, cô không những có thể giẫy ra mà còn đá được hắn bay luôn. Nhưng đối phương là tướng quân tinh thông mười tám ban võ nghệ, mà sở trường nhất là cận chiến. Tống Ngưng không có chút biện pháp, bình phong cạnh giường đổ sập, ánh trăng hoang vắng cùng hồ nước buốt lạnh, lạnh đến phát run. Hai tay cô, máu loãng xuôi theo kẽ tay rỏ xuống nước da nâu đồng của hắn, nhuộm thành một mảng choáng váng đỏ hồng, giống như hoa đỏ nở rộ trên mặt đất. Cuối cùng Tống Ngưng đã không thể tiếp tục duy trì kiểu cười cợt dối lòng. Nước mắt cô theo gò má chảy xuống. Tiếng khóc của cô vang lên bên tai hắn, tựa như một con thú nhỏ nức nở. Tống Ngưng từ bé không có cha mẹ, lớn lên nơi chiến trường, ca ca không có thời gian chăm sóc cô. Mỗi khi té ngã đều tự mình đứng dậy. Kỳ thật ngã đau cũng có thể dùng bàn tay xoa bóp nơi vết thương. Trên chiến trường cô luôn luôn mỉm cười, bởi vì cô hiểu chuyện, không muốn ca ca lo lắng cho mình, lâu ngày tạo thành tính tình như vậy, ngay cả khóc như thế nào cũng không biết cách. Cả đời Tống Ngưng đây là lần đầu cô khóc như vậy, toàn thân đều cảm thấy sợ hãi, bởi vì thật sự cảm giác đau đớn ê chề, mà cơn đau ấy đến từ trong tim, lại cũng không thể giống như thuở nhỏ, dùng đôi tay nhỏ mà xoa dịu đi đau đớn. Cô liên tục thở dốc, đầu mũi đã chuyển hồng, không thể nghiêm trang giống như trước, cũng không thể kiên cường giống như trước. Cô gái mới mười bảy tuổi ấy, thanh âm gần như tan vỡ: "Thẩm Ngạn, chàng ghét tôi đến vậy, chàng đã ghét tôi đến vậy, Thẩm Ngạn, buông tôi ra, cầu xin chàng buông tôi ra."

Nhưng hắn ghé sát tai nàng nói: "Đau đớn của cô có thể sánh được với nỗi đau mất con của ta sao? Tống Ngưng, cô muốn cái gì, ta cho cô cái đó, chúng ta từ nay thanh toán xong. Cô tự biết là xong cái gì."

Trong không khí tràn ngập mùi máu, Diệp Trăn ngửi không được, nhưng có thể thấy được. Móng tay Tống Ngưng bấm sâu vào lưng Thẩm Ngạn, cũng không thể khóc ra tiếng được nữa. Âm thanh khàn khàn lơ lửng giữa không trung, lá thu thê lương, cô ấy thì thầm: "Thẩm Ngạn, chàng đối xử với tôi như vậy, chàng không có lương tâm!"

*

Tay phải của Tống Ngưng bị hủy đi trong một đêm hôm ấy. Đây vốn là tay cầm thương, giở ra bảy bảy bốn mươi chín đường Tử Huy thương pháp, dáng điệu ưu mĩ, khiến người người thán phục. Những vết đao thương khắc ở trên tay cô, khắc ở trong lòng cô, hủy sạch toàn bộ thiết tha của cô dành cho Thẩm Ngạn. Khi cô tỉnh lại, Thẩm Ngạn nằm ở bên người, dung mạo anh tuấn lãnh đạm, lông mày khẽ nhíu. Cô tưởng đây là người mình yêu. Trong mênh mông biển người, cô vừa liếc mắt đã nhìn trúng hắn. Kiếm của hắn rơi ở dưới giường. Bởi vì tay phải đã không cách nào dùng lực, Tống Ngưng nghiêng người dùng tay trái nhấc lên chuôi kiếm của hắn, kinh động đến hắn. Trong khoảnh khắc hắn mở to mắt, cô cầm kiếm găm sâu vào xương sườn của hắn. Hắn khó chịu rên lên một tiếng, rồi nhìn thấy một giọt lệ từ trong mắt cô trượt xuống, lưu lại một vệt nước dài. Lúc trước, cô ở giữa ngàn ngàn xác chết lật tìm hắn, cô cõng hắn vượt qua núi tuyết tìm y quán, ba ngày ba đêm không ngơi nghỉ, đều là chuyện trước đây rồi! Đã là như vậy, cũng không cần nhắc đến nữa. Cô nghiêng đầu nhìn hắn, cuối cùng lộ ra dáng vẻ ngây thơ của người thiếu nữ, trên mặt mang theo vết lệ, khóe miệng lại cong lên: "Thẩm Ngạn, chàng vì sao còn muốn trở về? Chàng vì sao không chết trên chiến trường?" Hắn nắm lấy tay trái đang cầm kiếm của cô, bỗng nhiên ôm thật chặt lấy cô, lưỡi kiếm sắc bén, không thể tránh được đâm càng sâu, hắn nôn ra một ngụm máu, kề bên tai cô lạnh lùng nói: "Đây là thứ cô muốn sao? Cô muốn ta chết?"

Tống Ngưng kể cho nàng nghe câu chuyện về đêm đó. Cố sự này xảy ra cách đây đã nhiều năm. Dáng vẻ của Tống Ngưng khi kể thì hờ hững nhưng thần sắc cô lại nhợt nhạt cùng biết bao đau đớn, phảng phất không muốn nhớ tiếp. Tống Ngưng không biết rằng thật ra nàng có thể nhìn thấy tất cả.

Và khung cảnh cuối cùng trong đêm hôm ấy, mây đen mù mịt, mưa thu tí tách, nguyệt quế vương vấn điêu linh...

chương 3.5 : thẩm lạc

Thẩm Ngạn không chết. Một kiếm đó tất nhiên đâm rất sâu, đáng tiếc lại không trúng chỗ hiểm. Đại phu dặn dò cần phải nghỉ ngơi thật tốt, không quá ba tháng sẽ lành lặn như xưa. Hai tháng sau, Tống Ngưng mang thai. Liễu Thê Thê thu dọn hành trang, nửa đêm rời khỏi Thẩm phủ. Ngày thứ hai lại có tin tức truyền đến, Thẩm Ngạn dù đang bị thương nặng, vẫn đem theo bọn gia nhân đi tìm kiếm khắp nơi, tìm được người rồi thì an trí ngoài biệt viện. Liễu Thê Thê từ đó chuyển ra khỏi Thẩm phủ, bản thân Thẩm Ngạn cũng quanh năm lưu lại biệt viện, không còn coi Thẩm phủ là nhà.

Tháng sáu năm thứ hai, Tống Ngưng sinh hạ một đứa bé trai.

Thẩm Ngạn bế đứa trẻ lên, lạnh nhạt nói: "Cô hận ta." Chàng nhìn về phía màn che: "Ta những tưởng cô không muốn sinh nó." Tống Ngưng nằm sau màn, vốn đã vô cùng yếu ớt, nhưng cố thở ra một hơi, thanh thanh cười nói: "Vì sao lại không sinh? Đứa bé này là con cháu nối dõi của Thẩm phủ. Sau này nếu như chàng chết đi, nó sẽ là người kế thừa gia nghiệp họ Thẩm." Mắt chàng thoáng hiện lên nét sắc lạnh, giao đứa trẻ cho bà vú già đứng bên cạnh, phất tay áo bỏ đi. Sau lưng chàng, đứa trẻ oa oa khóc lớn, chàng dừng lại trước cửa, lúc lâu sau nói: "Tống Ngưng, thiên hạ không có người vợ nào như cô, một lòng mong đợi chồng mình chết ở sa trường." Giọng của cô mờ mịt xa xăm, lại ngăn cách qua mấy tầng màn trướng: "Vậy sao?"

Thoáng cái đã bốn năm trôi qua. Khoảng thời gian ấy cũng không có gì để nói, chỉ là hai nước Khương – Lê lần nữa lại lục đục, chiến tranh liên miên. Điểm trọng yếu hơn là Liễu Thê Thê sinh hạ được giọt huyết mạch thứ hai cho Thẩm gia, là con gái. Chuyện này đã khiến cho không khí xã hội xung quanh biệt viện đi theo chiều hướng bi quan trong một thời gian dài. Bởi vì nàng đứng ở phía Tống Ngưng, nàng không kềm được ý nghĩ rằng Liễu Thê Thê sốt ruột như vậy là vì sinh con gái, như vậy sau này khi phân chia tài sản sẽ chẳng được là bao. Nhưng đó chỉ là phỏng đoán của cá nhân nàng. Biết đâu sở dĩ cô ta cảm thấy tiếc hận, chẳng qua vì biết Thẩm Ngạn thích con trai, lại không thể sinh cho chàng một đứa, nên mới không cam lòng. Bà vú già trong viện năm lần bảy lượt gợi ý cho Liễu Thê Thê, bảo rằng ở dưới mắt Tống Ngưng mà cô ta có thể thuận lợi sinh được một đứa con cũng là tốt lắm rồi. Có được đứa con gái này cũng không phải dễ dàng, hơn nữa sự yêu thương của Thẩm Ngạn dành cho con cũng làm Liễu Thê Thê dịu đi một nửa buồn phiền. Nàng lại không thể ngừng được ý nghĩ, sở dĩ Liễu Thê Thê biến âu sầu thành hy vọng nhanh như vậy, chính là vì cô ta đã lén giấu Thẩm Ngạn tích trữ của cải, hoặc dùng thủ đoạn nào đó để tự đảm bảo cho mình một khoản đáng kể về sau. Nếu Quân Vĩ đọc được suy nghĩ này của nàng, nhất định sẽ phê bình nàng là tâm tư không thuần khiết, chỉ giỏi nhìn vào mặt u ám của vấn đề chứ không nghĩ một cách tích cực. Nhưng nàng thầm nghĩ, với loại sự tình như thế này, nếu có thể suy nghĩ một cách thuần khiết với trong sáng, chắc nàng đã trở thành một vị thánh mẫu luôn rồi.

Con trai của Tống Ngưng lớn lên rất giống cô, cậu bé được đặt tên là Thẩm Lạc.

Trên má Thẩm Lạc cũng có lúm đồng tiền nhàn nhạt. Lúc lên hai lên ba tuổi, cậu bé đã có thể thuộc lòng câu cú cao thâm trong Kinh Thi cũng như là Thư Kinh. Nếu trong quá trình học tập, gặp phải vấn đề nào khó, làm không được cũng không cho người khác nhắc nhở. Thẩm Lạc chỉ ngồi ngay ngắn một chỗ, bàn tay nho nhỏ mũm mĩm của cậu co lại thành hình nắm đấm chống dưới cằm, suy nghĩ đăm chiêu. Nếu như vào mùa đông, quần áo mặc trên người thường rất dày, lúc đó mà làm cái tư thế chống cằm kiểu này cũng thật vất vả. Nhưng tính tình của Thẩm Lạc rất cố chấp, làm gì cũng phải đến nơi đến chốn chứ không tùy tiện thay đổi tạo hình. Cậu bướng bỉnh nắm chặt tay và chống dưới cằm. Được cái này thì phải chấp nhận mất cái kia, cho nên cậu bé thường xuyên hay ngã từ trên ghế xuống đất, một ngày té đến năm sáu lần. Dẫu cho bị ngã đau, cậu cũng không hề khóc, chỉ đứng dậy rồi tự mình xoa xoa chỗ đau, điểm này thật giống với Tống Ngưng.

Tuy Thẩm Lạc là một đứa trẻ thông minh lanh lợi, nhưng cậu không thể dễ dàng nhận ra mặt mũi cha mình. Căn bản mỗi lần gặp Thẩm Ngạn, cậu luôn gọi chú chứ không gọi cha. Chuyện này giải thích cơ hội gặp mặt của cậu và Thẩm Ngạn có lẽ là rất ít. Nếu tiếp tục mà suy, có thể thấy cơ hội mẹ cậu gặp Thẩm Ngạn cũng không nhiều. Nhưng với trí tuệ của một đứa trẻ như Thẩm Lạc, không biết là cậu thật sự không nhận ra Thẩm Ngạn hay là cố tình không muốn nhận.

Đứa trẻ khiến cho mọi người đều yêu thích như vậy, lại sớm chết yểu.

Chữ sớm này là muốn nói đến thời điểm rét đậm năm Thẩm Lạc bốn tuổi.

Ngày đó, Thẩm Ngạn mang theo cô con gái riêng đến Thẩm phủ thăm hỏi sức khỏe lão phu nhân. Cô bé con ấy chạy khỏi đám người hầu, một mình đùa nghịch ở hoa viên rồi gặp được Thẩm Lạc. Hai đứa trẻ không rõ vì sao tranh cãi om sòm, chẳng biết giằng co qua lại thế nào mà cả hai đều rơi xuống hồ sen. Lúc cứu lên bờ tuy không có gì đáng ngại, nhưng bởi vì Thẩm Lạc trong người vốn đang ủ sẵn bệnh thương hàn, lạì bị ngâm nước lạnh, bệnh càng thêm nặng, liên tục sốt cao mấy ngày mấy đêm. Sáng sớm ngày thứ ba, cậu bé ấy khép lại đôi mắt vốn to tròn nay bị sốt đến nỗi chuyển hồng, sau đó, Thẩm Lạc qua đời.

Có lẽ chính chuyện này mới thật sự là nguyên nhân đánh gục Tống Ngưng.

Nàng nhìn vào cảnh mộng. Vầng thái dương ấm áp của ngày đông từ từ mọc lên ở phía cuối Nhạc thành. Cơ thể nhỏ bé của Thẩm Lạc nằm trong lòng Tống Ngưng, hai má vẫn còn sắc hồng nhạt, mơ hồ giống như đang say ngủ. Tống Ngưng cứ ôm lấy con mà ngồi ở ngưỡng cửa phòng khách. Màn trúc dựng cao cao trên mặt đất, ánh nắng rực rỡ chiếu tới người hai mẹ con. Nàng đỡ cái đầu nhỏ nhắn của Thẩm Lạc: "Lạc nhi, thái dương đã chịu ra rồi. Chẳng phải ngày nào con cũng nhao nhao lên nói với mẹ rằng nửa tháng không thấy ánh mặt trời, cái mền nhỏ của con đã muốn nổi mốc hết cả rồi sao. Hôm nay cuối cùng mặt trời cũng xuất hiện, dậy nhanh thôi, mang mền của con ra phơi nắng đi, Lạc nhi." Nhưng cậu bé đã không thể tỉnh lại được nữa rồi. Nước mắt Tống Ngưng theo gò má chảy xuống, rơi trên mặt con, trượt qua đôi mắt khép chặt. Tựa như cậu vẫn còn sống, nhìn thấy mẹ mình đau lòng như vậy, bờ mi cũng chan chứa lệ rơi.

Thẩm Ngạn cùng đám gia nhân xuất hiện trong Thẩm phủ, cũng là lúc Tống Ngưng cầm Hồng Anh thương chạy ra phòng khách, váy dài xanh nhạt tôn lên dáng vẻ diễm lệ mà thanh thoát, gương mặt vốn luôn mỉm cười giờ đây không có một tia biểu cảm. Giống như hồng liên tắm máu, nở rộ trong trời đông tuyết phủ, người con gái ấy diễm lệ đến nhường này.

Trong cơn gió lạnh, Hồng Anh thương rít gió lao về phía Thẩm Ngạn, khí thế lóa mắt kinh người. Ngay cả vị trí né tránh của chàng, cô cũng đã tính toán rõ ràng, một thương đâm đến sẽ phân rõ tất cả ân oán tình thù. Có điều, Tống Ngưng đã không tính được rằng Thẩm Ngạn thủy chung chỉ đứng yên một chỗ, giương mắt nhìn mũi thương lao đến, không cử động, không né tránh. Một thương này cuối cùng thành ra đâm chệch. Chàng lảo đảo hai bước ổn định thế đứng, nắm chặt lấy bàn tay đang cầm thương của cô: "A Ngưng."

Cô ngẩng đầu nhìn chàng, tựa như không nhận ra chàng: "Vì sao con tôi chết rồi, các người lại còn sống? Vì sao người cùng Liễu Thê Thê lại còn sống?"

Đời này, nàng chưa từng nghe qua giọng nói nào thê lương đến thế.

Hồng Anh thương sượt qua cổ tay áo Thẩm Ngạn, thấm ra một vòng máu đỏ. Tống Ngưng nhìn vết thương không đáng kể ấy, cô muốn vùng ra, lại bị chàng mạnh mẽ nắm chặt tay trái, thoát không được, cuối cùng một ngụm máu tích tụ trong lòng bấy lâu nay phun ra, phút chốc nhuộm đỏ áo bào trắng như tuyết của Thẩm Ngạn. Chàng ôm ghì lấy cô. Tống Ngưng trượt ngã trong lòng Thẩm Ngạn.

Kể từ hôm đó, Tống Ngưng bệnh nặng. Cố sự kết thúc tại cảnh này.

Hôm nay Tống Ngưng ngồi ở giường mây trong thủy các, nét mặt xa xăm, cõi lòng nguội lạnh. Cô ấy chỉ dùng một câu mà tổng kết lại bảy năm đã qua: "Quân Phất, thật ra yêu một người dễ như vậy, hận một người cũng dễ như vậy."

Nàng không đồng tình lắm với lý lẽ của Tống Ngưng. Lấy ví dụ như chuyện nàng đem lòng yêu Mộ Ngôn. Việc nàng yêu y thật sự rất không-dễ-dàng. Nếu Mộ Ngôn không cứu nàng hai mạng, hai người bọn nàng sẽ chỉ như kẻ lạ người dưng. Đừng nói đến việc nàng chủ động yêu y, cho dù lúc đó Mộ Ngôn có chủ động yêu nàng chăng nữa, nàng cũng chẳng cho y lấy nửa cơ hội. Còn một khi nàng đã yêu Mộ Ngôn rồi, cả đời cũng không cho phép Mộ Ngôn làm tổn thương nàng, không cho phép y làm nàng phải đau lòng vì hận ý. Đương nhiên, ba cái lý thuyết này đều được xây dựng trên cơ sở nếu như nàng vẫn còn là một người đang sống. Mà kiếp này của nàng đã hết, hôm nay Diệp Trăn là một người chết rồi, mấy cái tưởng tượng này chỉ gọi là nghĩ để mà nghĩ, lúc rỗi việc đem ra tán gẫu cho đỡ buồn mà thôi.

Mà theo nàng nhìn nhận thì tất cả mọi bi kịch ở trong câu chuyện này đều tại vì Thẩm Ngạn quá chung tình. Nếu chàng không phải là kẻ một lòng một dạ thủy chung như vậy, hoàn toàn có thể dẫn tới cái kết cả ba người đều vui vẻ. Chỉ vì 2 chữ chung tình, kết cuộc sau cùng lại trở thành tôi sống anh chết, tôi chết anh sống, thật sự A di đà Phật.

Lúc chia tay nàng, Tống Ngưng mệt mỏi nói: "Chuyện xưa nghĩ lại, từ đầu đến cuối, hóa ra người tôi yêu chỉ là một ảo ảnh trong lòng."

Nàng gật đầu lắng nghe.

Tống Ngưng nhè nhẹ tiếp tục: "Quân Phất, cô có thể giúp tôi dệt nên ảo ảnh trong lòng sao, ở trong cõi mộng?"

Tà dương từ từ đổ bóng về phía Tây. Những giọt nắng chiều rải khắp hồ sen khiến cho cả mặt hồ đều ngập trong ráng hồng. Nàng tính toán thời gian, gật đầu nói: "Tôi để cho chị thời gian hai ngày, chị xem có đủ hay không, an bài xong xuôi mọi chuyện còn dang dở. Hai ngày sau, chúng ta gặp nhau tại thủy các này, tôi sẽ dệt cho chị một giấc mộng đẹp nhất."

chương 4 : người dệt mộng

Hai ngày sau, mấy người bọn nàng và Tiểu Hoàng cùng ngồi ăn sáng. Tiết trời quang đãng, muỗi bay thưa thớt. Hôm nay là ngày hẹn để nàng đi vào ảo cảnh, dệt mộng cho Tống Ngưng, chỉnh sửa lại cho cô ấy một đôi điều tiếc nuối. Nàng kể lại chuyện này cho bọn Quân Vĩ, Tiểu Lam và Chấp Túc nghe với mong muốn có thể nhờ vả Tiểu Lam cùng đi vào mộng cảnh với mình.

Con trai của Tống Ngưng lớn lên rất giống cô ấy, cậu bé được đặt tên là Thẩm Lạc.

Trên má Thẩm Lạc cũng có lúm đồng tiền nhàn nhạt. Lúc hai lên ba tuổi, cậu bé đã có thể thuộc lòng câu cú cao thâm trong Kinh Thi cũng như là Thư Kinh. Nếu trong quá trình học tập, gặp phải vấn đề nào khó, làm không được cũng không cho người khác nhắc nhở. Thẩm Lạc sẽ chỉ ngồi ngay ngắn một chỗ, bàn tay nho nhỏ mũm mĩm của cậu co lại thành hình nắm đấm chống dưới cằm, suy nghĩ đăm chiêu. Nếu như vào mùa đông, quần áo mặc trên người thường rất dày, lúc đó mà làm cái tư thế chống cằm kiểu này cũng thật vất vả. Nhưng tính tình của Thẩm Lạc rất cố chấp, làm gì cũng phải đến nơi đến chốn chứ không tùy tiện thay đổi tạo hình. Cậu bướng bỉnh nắm chặt tay và chống dưới cằm. Được cái này thì phải chấp nhận mất cái kia, cho nên cậu bé thường xuyên hay ngã từ trên ghế xuống đất, một ngày té đến năm sáu lần. Dẫu cho bị ngã đau, cậu cũng không hề khóc, chỉ đứng dậy rồi tự mình xoa xoa chỗ đau, điểm này thật giống với Tống Ngưng.

Tuy Thẩm Lạc là một đứa trẻ thông minh lanh lợi, nhưng cậu không thể dễ dàng nhận ra mặt mũi cha mình. Căn bản mỗi lần gặp Thẩm Ngạn, cậu luôn gọi hắn là thúc thúc chứ không phải làphụ thân. Chuyện này giải thích cơ hội gặp mặt của cậu và Thẩm Ngạn có lẽ là rất ít. Nếu tiếp tục mà suy, có thể thấy cơ hội mẹ cậu gặp Thẩm Ngạn cũng không nhiều. Nhưng với trí tuệ của một đứa trẻ như Thẩm Lạc, không biết là cậu thật sự không nhận ra Thẩm Ngạn hay là cố tình không muốn nhận.

Đứa trẻ khiến cho mọi người đều yêu thích như vậy, lại sớm chết yểu.

Chữ sớm này là muốn nói đến thời điểm rét đậm năm Thẩm Lạc bốn tuổi.

Ngày đó, Thẩm Ngạn mang theo cô con gái riêng đến Thẩm phủ thăm hỏi sức khỏe lão phu nhân. Cô bé con ấy chạy khỏi đám người hầu, một mình đùa nghịch ở hoa viên rồi gặp được Thẩm Lạc. Hai đứa trẻ không rõ vì sao tranh cãi om sòm, chẳng biết giằng co qua lại thế nào mà cả hai đều rơi xuống hồ sen. Lúc cứu lên bờ tuy không có gì đáng ngại, nhưng bởi vì Thẩm Lạc trong người vốn đang ủ sẵn bệnh thương hàn, lạì bị ngâm nước lạnh, bệnh càng thêm nặng, liên tục sốt cao mấy ngày mấy đêm. Sáng sớm ngày thứ ba, cậu bé ấy khép lại đôi mắt vốn to tròn nay bị sốt đến nỗi chuyển hồng, sau đó, Thẩm Lạc qua đời.

Có lẽ chính chuyện này mới thật sự là nguyên nhân đánh gục Tống Ngưng.

Nàng nhìn vào cảnh mộng. Vầng thái dương ấm áp của ngày đông từ từ mọc lên ở phía cuối Nhạc Thành. Cơ thể nhỏ bé của Thẩm Lạc nằm trong lòng Tống Ngưng, hai má vẫn còn sắc hồng nhạt, mơ hồ giống như đang say ngủ. Tống Ngưng cứ ôm lấy con mà ngồi ở ngưỡng cửa phòng khách. Màn trúc dựng cao cao trên mặt đất, ánh nắng rực rỡ chiếu tới người hai mẹ con. Nàng đỡ cái đầu nhỏ nhắn của Thẩm Lạc: "Lạc nhi, thái dương đã chịu ra rồi. Chẳng phải ngày nào con cũng nhao nhao lên nói với mẹ rằng nửa tháng không thấy ánh mặt trời, cái mền nhỏ của con đã muốn nổi mốc hết cả rồi sao. Hôm nay cuối cùng thái dương cũng xuất hiện, dậy nhanh thôi, mang mền của con ra phơi nắng đi, Lạc nhi." Nhưng cậu bé đã không thể tỉnh lại được nữa rồi. Nước mắt Tống Ngưng theo gò má chảy xuống, rơi trên mặt con, trượt qua đôi mắt khép chặt. Tựa như cậu vẫn còn sống, nhìn thấy mẹ mình đau lòng như vậy, bờ mi cũng chan chứa lệ rơi.

Thẩm Ngạn cùng đám gia nhân xuất hiện trong Thẩm phủ, cũng là lúc Tống Ngưng cầm Hồng Anh thương chạy ra phòng khách, váy dài xanh nhạt tôn lên dáng vẻ xin đẹp thanh thoát, gương mặt vốn luôn mỉm cười không có một tia biểu cảm. Giống như hồng liên tắm máu, nở rộ trong trời đông tuyết phủ, người con gái ấy diễm lệ đến nhường này.

Trong cơn gió lạnh, Hồng Anh thương rít gió lao về phía Thẩm Ngạn, khí thế lóa mắt kinh người. Ngay cả vị trí né tránh của hắn, cô cũng đã tính toán rõ ràng, một thương đâm đến sẽ phân rõ tất cả ân oán tình thù. Có điều, Tống Ngưng đã không tính được rằng Thẩm Ngạn thủy chung chỉ đứng yên một chỗ, giương mắt nhìn mũi thương lao đến, không cử động, không né tránh. Một thương này cuối cùng thành ra đâm chệch. Chàng lảo đảo hai bước ổn định thế đứng, nắm chặt lấy bàn tay đang cầm thương của cô: "A Ngưng."

Cô ngẩng đầu nhìn chàng, tựa như không nhận ra chàng: "Vì sao con tôi chết rồi, các người lại còn sống? Vì sao người cùng Liễu Thê Thê lại có thể còn sống?"

Đời này, Nàng chưa từng nghe qua câu hỏi nào thê lương đến thế.

Hồng Anh thương sượt qua cổ tay áo Thẩm Ngạn, thấm ra một vòng máu đỏ. Tống Ngưng nhìn vết thương không đáng kể ấy, cô muốn vùng ra, lại bị chàng mạnh mẽ nắm chặt tay trái, thoát không được, cuối cùng một ngụm máu tích tụ trong lòng bấy lâu nay phun ra, phút chốc nhuộm đỏ áo bào trắng như tuyết của Thẩm Ngạn. Chàng ôm ghì lấy cô. Tống Ngưng trượt ngã trong lòng Thẩm Ngạn.

Kể từ hôm đó, Tống Ngưng bệnh nặng. Cố sự kết thúc tại cảnh này.

Hôm nay Tống Ngưng ngồi ở giường mây trong thủy các, nét mặt xa xăm, cõi lòng nguội lạnh. Cô ấy chỉ dùng một câu mà tổng kết lại bảy năm đã qua: "Quân Phất, thật ra yêu một người dễ như vậy, hận một người cũng dễ như vậy."

Nàng không đồng tình lắm với lý lẽ của Tống Ngưng. Lấy ví dụ như chuyện nàng đem lòng yêu Mộ Ngôn. Việc nàng yêu y thật sự rất không-dễ-dàng. Nếu Mộ Ngôn không cứu nàng hai mạng, hai người bọn nàng sẽ chỉ như kẻ lạ người dưng. Đừng nói đến việc nàng chủ động yêu y, cho dù lúc đó Mộ Ngôn có chủ động yêu nàng chăng nữa, nàng cũng chẳng cho y lấy nửa cơ hội. Còn một khi nàng đã yêu Mộ Ngôn rồi, cả đời cũng không cho phép Mộ Ngôn làm tổn thương nàng, không cho phép y làm nàng phải đau lòng vì hận ý. Đương nhiên, ba cái lý thuyết này đều được xây dựng trên cơ sở nếu như nàng vẫn còn là một người đang sống. Mà kiếp này của nàng đã hết, hôm nay nàng là một người chết rồi, mấy cái tưởng tượng này chỉ gọi là nghĩ để mà nghĩ, lúc rỗi việc đem ra tán gẫu cho đỡ buồn mà thôi.

Mà theo nàng nhìn nhận thì tất cả mọi bi kịch ở trong câu chuyện này đều tại vì Thẩm Ngạn quá chung tình. Nếu hắn không phải là kẻ một lòng một dạ thủy chung như vậy, hoàn toàn có thể dẫn tới cái kết cả ba người đều vui vẻ. Chỉ vì 2 chữ chung tình, kết cuộc sau cùng lại trở thành tôi sống anh chết, tôi chết anh sống, thật sự A di đà Phật.

Lúc chia tay nàng, Tống Ngưng mệt mỏi nói: "Chuyện xưa nghĩ lại, từ đầu đến cuối, tôi chỉ sợ một cái huyễn ảnh trong lòng."

Nàng gật đầu lắng nghe.

Tống Ngưng nhè nhẹ tiếp tục: "Quân Phất, cô có thể giúp tôi dệt nên ảo ảnh trong lòng sao, ở trong cõi mộng?"

Tà dương từ từ đổ bóng về phía Tây. Những giọt nắng chiều rải khắp hồ sen khiến cho cả mặt hồ đều ngập trong ráng hồng. Nàng tính toán thời gian, gật đầu nói: "Tôi để cho chị thời gian hai ngày, chị xem có đủ hay không, an bài xong xuôi mọi chuyện còn dang dở. Hai ngày sau, chúng ta gặp nhau tại thủy các này, tôi sẽ dệt cho chị một giấc mộng đẹp nhất."

Nàng thẳng thắn bày tỏ sự lo lắng của mình: trên đường đến Khương quốc, mọi thứ diễn ra quá mức thuận lợi, khiến cho Tiểu Lam có tài mà không được thi thố, có võ nghệ mà không được trọng dụng. Lần này nếu như y có thể theo nàng đi vào cõi mộng, trong đó ắt sẽ nảy sinh nhiều tình huống không thể dự đoán, nghĩa là Tiểu Lam sẽ có cơ hội ra tay ứng cứu nàng trong phút dầu sôi lửa bỏng. Đây cũng coi như một công đôi việc: Tiểu Lam vừa có cơ hội để bù đắp thiếu sót, lại vừa có thể thực hiện lời mà y đã nói với nàng cách đây mười sáu ngày, bốn giờ lẻ ba khắc.

Khi nàng kể hết câu chuyện của Tống Ngưng, cũng như nói xong suy nghĩ của mình, cả ba người trên bàn ăn đều đánh rơi đũa. Trong số ba người đó, chỉ có Tiểu Lam là phản ứng tương đối nhanh, đũa trúc mới rơi được phân nửa đã khẽ chuyển tay, nhẹ nhàng giữ nó lại. Quân Vĩ và Chấp Túc không được nhanh nhẹ như vậy, đành phải nhờ mấy người làm bên cạnh đổi giúp cho đôi đũa mới.

Quân Vĩ giật mình vì nàng đã mời một kẻ khác cùng đi vào giấc mộng của Tống Ngưng, chứ không phải là hắn. Trong khi hắn mới đích thật là kiếm khách mà Quân sư phụ an bài đi theo bảo vệ nàng.

Nhưng nàng lựa chọn như vậy, thật ra cũng có khổ tâm riêng. Bởi vì Quân Vĩ tuy mệnh danh là kiếm khách, nhưng hắn lại còn có thêm nghề tay trái là... viết tiểu thuyết. Con người hắn thường hay nảy sinh cảm hứng sáng tác tại thời điểm trận đấu đi vào cao trào. Và thế là ôi thôi rồi, Quân Vĩ sẽ dừng luôn trận đấu, tìm một chỗ nào yên tĩnh để tiến hành sáng tác, triệt để quên đi người bạn đồng hành còn mắc kẹt trong thập diện mai phục của địch. Đây là nguyên nhân vì sao Tiểu Hoàng vốn là giống hổ Hoa Nam hiền lành, nhưng tính tình lại còn hung dữ hơn cả loài hổ hoang Đông Bắc. Tiểu Hoàng không thể nhớ được có bao nhiêu lần nó đã bị Quân Vĩ bỏ quên giữa rừng đao mưa tiễn chỉ bởi vì căn bệnh "linh cảm đột xuất" của hắn. Nói vậy đủ để thấy, nếu như cái mạng không phải đặc biệt lớn thì mối nguy hiểm của việc nhờ Quân Vĩ làm hộ vệ sẽ đặc biệt lớn. Và linh cảm là thứ không thể đoán trước được, vậy thì tai nạn cũng theo đó mà không thể dự đoán. Nếu như được quyền lựa chọn thì ngay cả một con hổ như Tiểu Hoàng cũng không cam tâm tình nguyện giao cái mạng mình cho Quân Vĩ, chứ đừng nói đến một cô gái chân yếu tay mềm như nàng.

Tuy trong lòng nàng suy tính như vậy, nhưng nàng cũng không thể tàn nhẫn mà đả kích vào lòng tự trọng của Quân Vĩ. Nàng ngẫm nghĩ một lúc rồi nói với hắn: "Anh là người duy nhất thích hợp làm nhiệm vụ trông giữ đàn cho tôi. Anh xem, nếu như ai cũng đều nhập mộng của Tống Ngưng, có kẻ xấu thừa cơ chạy đến phá hủy đàn, vậy thì tính sao?"

Quân Vĩ nghe xong thần sắc ngưng đọng, trầm tư một hồi, cho rằng rất đúng, quay sang dặn dò Tiểu Lam từng lời từng lời: "Mặc dù anh và A Phất cùng đi vào cảnh mộng nàng dệt cho Tống Ngưng, nhưng ở trong cõi mộng này, hai người là chân thật, bị thương cũng là thật, chết cũng là chết thật. Mọi điều đều phải chú ý đề phòng, hành sự cũng phải hết sức thận trọng. Anh chết thì không có vấn đề gì, nhưng nhất định phải bảo vệ A Phất."

Tiểu Lam không nói một lời, đũa trúc trong tay gắp lên miếng sủi cảo cuối cùng trong lồng hấp. Nàng nuốt nuốt nước miếng. Đũa trúc dừng ở không trung, khuôn mặt đẹp của y lướt qua nàng, cười mà như không cười: "Quân cô nương thích món này?"

Nàng nhìn miếng sủi cảo trên đũa y, luyến tiếc lắc lắc đầu.

Đũa trúc linh hoạt chuyển hướng, trong nháy mắt, sủi cảo đã được đặt vào cái đĩa trước mặt nàng, màu trúc xanh biêng biếc tôn lên lớp vỏ bánh óng ánh. Dáng vẻ cầm đũa của Tiểu Lam rất nhã nhặn, giống tác phong nghiêm chỉnh của tầng lớp quyền quý.

Nàng nhìn miếng sủi cảo hơi ngán ngẩm, vì nàng có ăn vào cũng không thể cảm nhận được mùi vị. Chẳng qua lúc còn sống, đây là món ăn mà nàng ưa thích. Hôm nay thấy lại, tự dưng nhớ tới hương vị của nó mà thôi. Giờ đây nàng đã không còn vị giác, ăn gì cũng giống như nhai sáp. Đã là như vậy, không cần thiết phải lãng phí của ngon. Nàng nghĩ xong bèn gắp trả lại miếng sủi cảo vào đĩa của Tiểu Lam.

Đũa đang di chuyển ở trên bát canh nóng thì có kẻ gầm lên giận dữ: "Hai người đang làm cái trò gì, có nghe tôi nói hay không?!"

Nàng bị tiếng quát của Quân Vĩ dọa giật mình, miếng sủi cảo nơi đầu đũa nàng rơi ngay xuống bát canh. Tiểu Lam phản xạ nhanh nhẹn, kéo ngay nàng về phía sau. Nàng chỉ nghe thấy "tõm" một tiếng, bát canh rau cải văng tung tóe.

Bộ trang phục trắng như tuyết của Quân Vĩ bị bắn đầy rau cải. Hắn phẫn nộ nhìn nàng.

Tiểu Lam nhìn Quân Vĩ, nghiêm nghị nói: "Lời của Quân huynh đệ tôi đều ghi nhớ. Tôi chết không có vấn đề gì, nhưng nhất thiết phải bảo vệ Quân cô nương."

Quân Vĩ nghiến răng nghiến lợi: "Không cần bảo vệ nó, hiện tại anh cứ giết luôn nó đi cũng được!"

Nàng lắc đầu: "Như vậy...không tốt đâu."

Tiểu Lam nửa cười nửa không nhìn nàng, đang định bày tỏ thái độ thì Chấp túc vốn dĩ im lặng từ đầu đến cuối, đột nhiên lên tiếng: "Cô nương nhất định là người thông thạo phép thuật, Đông Lục nhiều năm chưa từng có người nào..."

Cô ấy còn chưa nói dứt lời thì đã bị cơn thịnh nộ của Quân Vĩ cắt cái roẹt: "Nó gia cảnh bần hàn, học được chút ảo thuật bốc phét kiếm tiền, có cái gì tốt đẹp đâu mà khen!"

Trên mặt Chấp Túc xuất hiện thần sắc cổ quái.

Tiểu Lam mỉm cười nhìn nàng: "Gia cảnh bần hàn? Bốc phét kiếm tiền?"

Nàng liếc mắt nhìn Quân Vĩ, quan sát vẻ mặt của hắn, cảm thấy mình sẽ rất có lỗi nếu như phủ định điều Quân Vĩ vừa nói, bèn gật đầu phối hợp rất nhiệt tình.

Nàng nói: "Đúng thế đúng thế."

Chấp Túc nói: "..."

Tiểu Lam nói: "..."

Ăn xong bữa sáng, Quân Vĩ quay về phòng thay đổi y phục. Chấp Túc thì không biết đã bỏ đi đâu, chỉ còn lại nàng và Tiểu Lam ngồi đợi ở phòng khách. Nàng ngồi trên chiếc ghế làm từ gỗ tử đàn, nghĩ ngợi mông lung. Nàng nên làm gì để dệt được giấc mộng viên mãn như mong đợi của Tống Ngưng? Trong mộng ấy, làm sao để Thẩm Ngạn yêu Tống Ngưng đây? Ảo mộng của khúc nhạc Hoa Tư gọi là Hoa Tư ảo cảnh. Hoa Tư ảo cảnh thực chất là sự tái hiện quá khứ, chứ không thể thay đổi tính tình con người. Cho nên về bản chất, nàng không thể sáng tạo ra một Thẩm Ngạn biết yêu thương Tống Ngưng, nàng chỉ có thể tác động để thay đổi quá khứ trong cõi mộng, khiến cho những chuyện khổ đau và hiểu lầm sẽ không phát sinh, khiến cho Tống Ngưng ở trong cõi mộng tưởng được vui vẻ, không còn ưu tư nữa. Nhưng làm sao mà viên mãn, làm sao mà diệt được âu lo, nếu như bản thân cô ấy còn nguyên vọng tưởng. Vọng tưởng là nguồn gốc của nỗi thống khổ trên đời. Nàng nghĩ, biết đâu nàng và Tiểu Lam sẽ có cơ hội bắt cóc Tống Ngưng ở chiến trường Thương Lộc Dã. Như vậy cô ấy không thể đi cứu Thẩm Ngạn. Không được Tống Ngưng cứu, Thẩm Ngạn chắc chắn sẽ chết, và chết rất đúng chỗ. Nhưng nếu làm vậy thì cũng không đáp ứng được ước ao của Tống Ngưng, nó khác với yêu cầu của cô ấy một trời một vực. Nàng nghĩ, thôi thì cứ đặt cược một phen vậy.

Đang lúc tâm tư rối bời, mâu thuẫn gay gắt, Tiểu Lam đột nhiên làm gián đoạn suy nghĩ của nàng bằng một câu hỏi. Chẳng là y quan sát cây thất huyền cầm của nàng nửa ngày vẫn không hiểu, đành phải lên tiếng: "Vừa rồi Quân cô nương nói, nếu cây đàn này bị hủy, sẽ có phiền phức lớn?"

Nàng lơ đãng trả lời: "Vâng."

Giọng y dường như có thêm một chút hứng thú, hỏi tiếp: "Phiền phức lớn như thế nào? Có phải nếu cây đàn bị phá hủy, ảo cảnh vốn được dệt nên từ khúc nhạc Hoa Tư sẽ sụp đổ ngay tức khắc à?"

Nàng ngây ngốc hồi lâu, không biết vì sao Tiểu Lam lại có cách nghĩ đáng sợ như vậy. Nàng lắc đầu lia lịa: "Không phải không phải, chỉ là nếu như đàn bị người ta lấy mất, tôi sẽ phải dùng hai lượng bạc để mua lại cái mới."

Y nhìn nàng, tuyệt đối không bình luận thêm câu gì.

Nàng cũng nhìn lại y.

Bầu không khí thoáng chốc trở nên yên lặng đến vô thanh vô tức.

Nửa ngày, gương mặt sáng lạn của y mỉm cười. Nụ cười ấy đẹp đến chói ngời.

Y cười nói: "Quân cô nương thật giống với một cô bé mà tôi quen."

Nàng nghe y nói những lời này, trong lòng có chút không vui. Hồi nàng còn sinh hoạt ở Thanh Ngôn tông, có một bác thợ rèn họ Lưu sống ở chân núi. Để làm vui lòng vợ mình, bác ấy đã khen cô vợ giống với Trương Bạch Chi, một cô đào kép trong các vở kịch. Kết quả là bác Lưu ấy bị vợ cầm thuổng sắt rượt khắp ba phố bảy đường. Tuy rằng Trương Bạch Chi trong lời ví von ấy không phải là không xinh đẹp, nhưng tâm tư của đám đàn bà con gái trên đời này, về cơ bản đều như nhau: chỉ cầu độc nhất vô nhị chứ không cầu khuynh quốc khuynh thành như ai. Nàng nghĩ, nếu như phu quân tương lai của nàng nói với nàng những lời giống như Tiểu Lam vừa nói, nàng nhất định phạt hắn quỳ đến tê chân thì thôi. Nghĩ xong mới cảm thấy mình rỗi việc. Nếu như sau này nàng vẫn gả được cho người khác, thì phu quân chỉ có thể là Quân Vĩ. Mà cái tên này dẫu bị phạt quỳ tê chân cũng chưa chắc đã ăn thua, phải bị phạt quỳ gãy chân, may ra mới nhớ lâu được.

Gần hết giờ Thìn, cả nhóm bốn người một hổ cùng đến thủy các theo giao hẹn.

Thần sắc của Tống Ngưng so với hai ngày trước đã khá lên nhiều. Nàng búi tóc, cài bông hoa trắng trên tóc mai, giữa trán có đeo món trang sức bạc khảm hình trăng lưỡi liềm bằng ngọc bích. Nàng ngờ ngợ là nàng đã thấy qua dáng vẻ này ở đâu rồi, nghĩ mãi mới nhớ ra 2 hôm trước, nhìn qua khúc nhạc Hoa Tư, nàng thấy Tống Ngưng cũng đã từng trang điểm như vậy trong đêm tân hôn của cô ấy. Khác biệt duy nhất chỉ là trong ngày hôm ấy, Tống Ngưng mặc bộ áo cưới đỏ thẫm, hiện tại, cô ấy mặc bộ trang phục thuần trắng giản đơn.

Nàng nói: "Trông chị đẹp quá..."

Tống Ngưng cười: "Lúc nào cũng muốn chuẩn bị tươm tất một chút rồi mới có thể đi gặp chàng."

Nàng biết Tống Ngưng đang nhắc đến người nào. Còn ai khác ngoài Thẩm Ngạn đây, vị Thẩm Ngạn mà Tống Ngưng đã yêu... Vào mùa đông lạnh lẽo năm Lê Trang Công thứ mười bảy, tuyết rơi ngợp trời, trước ải Tang Dương, vị Thẩm Ngạn ấy không quá năm chiêu đánh nàng rơi khỏi ngựa; trong núi tuyết của vùng Thương Lộc Dã, vị Thẩm Ngạn ấy nói với nàng: "Nếu em không chê, đợi thương tích của ta lành hẳn, lập tức đến nhà em cầu hôn." Nàng nghĩ, sai lầm lớn nhất đời này của Tống Ngưng, chính là cả đời cô ấy chỉ quen biết có mình Thẩm Ngạn, vì vậy, mất đi hắn cũng đồng nghĩa với việc mất đi tất cả, đến chết cũng không thể thanh thản. Giả dụ như cô ấy cùng lúc gặp gỡ nhiều người khác, mất đi một Thẩm Ngạn thì cũng chẳng phải vấn đề gì to tát, chẳng qua chỉ là giảm nhẹ sinh hoạt cá nhân. Lý trí ngăn không cho phép nàng tiếp tục tưởng tượng, không thì câu chuyện này sẽ trở thành thể loại truyện nữ cường mất.

Tống Ngưng nói với nàng: "Tôi hy vọng mình sẽ được đoàn tụ với Lạc nhi. Tôi biết mình tham lam, nhưng lại cầm lòng không được. Nếu như Lạc nhi còn sống... cuối tháng này là sinh nhật tròn sáu tuổi của thằng bé. Tôi không biết khi lớn lên nó sẽ thế nào, nhưng lúc còn sống, Lạc nhi quả thật là một đứa trẻ đáng yêu."

Nàng mở cái bọc vải chứa cây đàn Thất huyền cầm, an ủi Tống Ngưng: "Tôi đến đây là để thực hiện mong muốn của chị mà. Vậy thì chị cứ tham lam đi. Tôi nhất định sẽ khiến cho mẹ con chị được đoàn tụ. Bây giờ tôi lánh tạm ra ngoài trước, chị cứ yên tâm mà ngủ đi một giấc. Đợi chị ngủ rồi, tôi sẽ dệt giấc mộng đẹp cho chị."

Tống Ngưng nhắm mắt an thần. Những lời trăn trối cuối cùng của cô ấy đã củng cố thêm niềm tin cho nàng. Nàng nghĩ, nàng phải liều đánh cuộc với số phận một phen.

Cả hồ sen lá xanh biếc, vài đóa hoa sen mới nở điểm xuyết sắc hồng. Bên trong thủy các, một gia nhân giúp nàng đặt chiếc Thất huyền cầm lên bàn. Khi thấy nàng làm động tác thẩm âm, Quân Vĩ lập tức bịt chặt tại lại. Hắn không biết nàng đã không còn giống với Diệp Trăn của trước đây, cầm nghệ của nàng đã tiến bộ nhiều rồi. Hồi trước, nàng không thích học đàn là vì không biết mình sẽ đàn cho ai nghe. Sư phụ thì tuổi tác đã cao, lần nào nghe nàng đàn, chưa đầy một khắc đã ngủ gà ngủ gật. Quân Vĩ thì...mỗi khi thấy nàng gẩy đàn, hắn đều muốn chơi cùng. Mà nàng chỉ cần thấy ngón tay hắn chạm vào dây đàn, lập tức nảy sinh những tư tưởng bạo lực: nàng chỉ muốn bê nguyên cả chiếc đàn trong tay mà đập vào đầu Quân Vĩ! Sau này Mộ Ngôn xuất hiện, cho dù nàng không nhìn được gương mặt của y, không nhớ được giọng nói của y, nhưng bóng dáng của y khi cúi đầu gẩy đàn dưới ánh trăng lại chưa bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng. Những giai điệu du dương tuyệt đẹp đó, nàng chưa từng được nghe qua, bất chợt liên tưởng tới câu thơ "Dục tương tâm sự phó dao cầm" [ Hy vọng gửi gắm tâm sự qua tiếng đàn] . Sau khi quen Mộ Ngôn, nàng luôn nỗ lực học đàn, chỉ muốn sau này có thể tự mình gảy cho y nghe một khúc.

Giờ Tị hai khắc, mặt trời xé đôi tầng mây mà chiếu rọi ánh sáng chan hòa mặt đất. Nàng gảy khúc nhạc Hoa Tư của Tống Ngưng. Vốn nghĩ tính tình cô gái này kiên cường như vậy, lại chinh chiến sa trường bao năm, khúc nhạc Hoa Tư nhất định nếu không âm vang hào hùng thì cũng là diễm lệ bi tráng. Nàng có biết đâu những thanh âm đang cuồn cuộn chảy ra từ sợi dây đàn này lại có thể đau khổ u oán đến tê tâm liệt phế. Khúc nhạc Hoa Tư vốn là biến hóa trong lòng người. Lấy mệnh làm nhạc phổ, tấu lên giai điệu thanh thanh huyết lệ như thế này, không rõ tâm của Tống Ngưng đã tràn đầy thương tích đến cỡ nào. Có cố gắng tỏ ra mạnh mẽ đến đâu, cô ấy cũng chỉ là một người con gái, trên chiến trường thì không thất bại, nhưng tiếc thay lại thất bại thảm hại ở tình trường.

Gẩy đến nốt nhạc cuối cùng, trên hồ sen bỗng có lớp sương mỏng từ từ nổi lên, một quầng sáng mờ ảo ẩn trong làn sương mù, như không, như có. Đây là khung cảnh chỉ có chủ nhân của giao châu mới có thể nhìn được.

Tiểu Lam hướng về phía hòn giả sơn ở đằng xa, không biết đang nghĩ ngợi gì. Nàng rời khỏi cây Thất huyền cầm, từ từ đứng dậy, lững thững bước hai bước về phía trước, nắm lấy tay y. Tiểu Lam kinh ngạc nhìn nàng.

Nàng đang muốn giải thích, Quân Vĩ đã cao giọng: "Nam nữ thụ thụ bất thân..."

Nàng nói: "Nam nữ thụ thụ bất thân cái đầu anh! Tôi không nắm tay anh ta, làm sao mang theo anh ta tiến vào mộng của Tống Ngưng?"

Tiểu Lam thì không hề nói một tiếng nào.

Nàng duy trì tư thế nắm chặt tay y.

Nàng nghĩ, căn bản mình đã không còn là người của cõi trần này, những điều cấm kị nam nam nữ nữ chẳng phải là điều gì to tát. Nhưng bị Quân Vĩ nhắc nhở như vậy, nàng cũng không thể không cân nhắc đến cảm xúc của Tiểu Lam cùng cách nghĩ của Chấp Túc – hộ vệ của y. Nhưng ngoại trừ cách nắm tay kéo y theo mình, nàng cũng chẳng tìm ra phương pháp khác để hai người có thể cùng nhau tiến vào ảo cảnh của Tống Ngưng. Chấp Túc có vẻ kinh ngạc vô cùng, toan mở miệng rồi, chẳng biết thế nào lại thôi. Khác với Chấp Túc, Tiểu Lam không có bất cứ biểu hiện nào giống như là phản ứng quá khích. Nàng nghĩ tốt nhất cứ nên hỏi qua ý kiến của y thì hơn. Đắn đo một hồi, nàng cất tiếng hỏi: "Tôi cầm tay anh thế này, anh không để tâm chứ?"

Tiểu Lam bình tĩnh nghiêng đầu cúi xuống nhìn nàng, nhướng mày nói: "Nếu tôi nói tôi có để tâm, thì sao?"

Nàng cũng bình tĩnh nhìn lại y: "Vậy thì có thể đợi sau khi chúng ta rời khỏi mộng của Tống Ngưng, anh một kiếm tự chặt đứt bàn tay của mình là xong."

Quân Vĩ nói: "Cách này rất tốt, thật là một đấng nam nhi mạnh mẽ."

Nàng nói: "Rất tốt cái đầu anh á!"

Khóe môi Tiểu Lam hơi hơi nhếch lên: "Nói đùa thôi, con gái như em mà còn không để ý thì tôi nghĩ ngợi làm gì."

Y cười như vậy, khiến cho nàng bất giác ngẩn ngơ. Lại chợt nhớ ra lúc này đang làm chuyện lớn, không được nghĩ ngợi lan man đến những thứ không liên quan. Thế là nàng kéo tay Tiểu Lam, cùng nhau nhảy vào quầng sáng trong sương mù nơi hồ sen. Nếu chẳng may có ai đó không dính dáng đến câu chuyện này mà vô tình nhìn thấy bọn nàng như vậy, nhất định sẽ đánh giá là bọn nàng tay nắm tay nhảy xuống hồ tuẫn tình. Đồng thời lúc đó ở trên bờ, đám Quân Vĩ, Chấp Túc, Tiểu Hoàng lại còn vẫy tay tiễn biệt, giống như lúc tuẫn tình còn có thân nhân đưa tiễn, thật không biết cảnh tượng như thế này sẽ khiến người ta phải dấy lên cảm tưởng gì.

Phía sau quầng sáng là mộng cảnh của Tống Ngưng. Nơi mà nàng và Tiểu Lam đặt chân đến là một thị trấn phồn hoa. Mặt trời ngày đông, sắc trời ửng bạc. Xa xa có thể thấy được ngọn núi tuyết vắt ngang lưng trời. Mặt tuyết đóng băng tựa như chiếc gương phản chiếu sắc lam xanh thẳm.

Từng cơn gió phương Bắc lạnh lẽo thổi tới, dường như muốn xuyên qua lớp váy áo mỏng manh mà dội thẳng vào xương cốt nàng. Giao châu vốn tính hàn, nàng là người sợ lạnh, nay lại bị gió từng cơn từng cơn vù vù thổi tới khiến cho nàng rét run, hắt xì vài cái. Hiện tại đang là tháng năm đầu mùa hạ, nhưng trong cảnh mộng này, đang là đợt rét đậm tháng Chạp. Nàng tính trước được nhiều thứ, nhưng lại không nghĩ đến chuyện này. Nàng run cầm cập nói với Tiểu Lam: " Anh có mang tiền không? Chúng ta ghé qua tiệm bán quần áo trước đi..." Nói chưa dứt lời, trước mắt nàng đã xuất hiện hai cái áo khoác lông cừu.

Nàng nhìn Tiểu Lam như không tin nổi ở mắt mình.

Y lấy ra bộ áo mũ phớt hồng đặt vào tay nàng, còn bản thân thì khoác chiếc áo choàng lông màu trắng. Nhìn thấy dáng vẻ đờ đẫn của nàng, Tiểu Lam giải thích: "Lúc ăn sáng, tôi có nghe em nói thời điểm Thẩm phu nhân cứu Thẩm tướng quân là vào mùa đông. Vậy nên tôi đã bảo Chấp Túc đi chuẩn bị hai bộ trang phục ấm, may sao cũng không thừa."

Nàng khoác ngay chiếc áo lông cừu vào, tán dương y: "Tiểu Lam, anh thật là tri kỷ của tôi."

Y thong thả đứng bên cạnh quan sát nàng, nói: "Không có gì." Một lúc lâu sau mới nói thêm với nàng: Em mặc áo ngược rồi kìa

"..."

Sau khi chấn chỉnh lại y phục tươm tất, nàng nói với Tiểu Lam những suy nghĩ của mình. Lúc nàng và y đến mộng cảnh, chắc cũng là khoảng thời gian mà Tống Ngưng đang ở cõi Tu La lật tìm Thẩm Ngạn trong đống thi thể nơi chiến trường. Sau đó cô ấy sẽ cùng Thẩm Ngạn trú tại sơn động gần núi tuyết bên cạnh Thương Lộc Dã. Căn nguyên câu chuyện tình bi đát của Tống Ngưng, là do Thẩm Ngạn nhận sai người. Tuy nhiên nàng cũng không thể đảm bảo rằng nếu như Thẩm Ngạn mở mắt tỉnh dậy, người hắn nhìn thấy là Tống Ngưng chứ không phải Liễu Thê Thê thì hắn sẽ chung tình với Tống Ngưng như đã từng chung tình với cô gái họ Liễu kia. Dẫu sao cũng phải liều đánh cược một phen. Nghĩ vậy, nàng bèn vẽ ra hoạch đồ tác chiến, rồi tiến hành phân tích tình hình. Nàng cảm thấy điều cốt yếu nhất là phải đẩy được đám thuộc hạ (do Tống Diễn phái đi tìm Tống Ngưng) ra khỏi thị trấn. Làm vậy Tống Ngưng mới có thể an tâm ở lại chăm sóc Thẩm Ngạn. Thứ nữa, cần phải khiến cho Thẩm Ngạn từ đầu đến cuối không chạm trán với cô gái câm Liễu Thê Thê kia, như vậy mới nhổ bỏ tận gốc cái khả năng bọn họ liếc mắt đưa tình với nhau.

Tiểu Lam thì không chung chí hướng với nàng. Y cho rằng cách xử lý mọi chuyện dễ dàng nhất là: cùng lúc giết sạch thủ hạ của anh trai Tống Ngưng, trừ khử luôn cả Liễu Thê Thê thì vạn sự tất thành. Lúc Tiểu Lam đưa ra cái đề xuất độc địa này, nét mặt y vẫn hờ hững như không, nói tới việc giết người mà nhẹ nhàng giống như kiểu giẫm chết con kiến vậy. Thật ra nàng cũng cảm thấy làm như vậy sẽ bớt được nhiều phiền phức. Có điều, đây là ảo cảnh do giao châu dệt ra. Giao châu lại vốn hấp thụ mộng đẹp làm nguồn sống. Tất nhiên giấc mộng đẹp này cần phải có người khéo léo khai mở, nhưng nếu trong quá trình khai mở, người này tùy tiện chém giết thì sẽ gây bất lợi đến quá trình tu luyện của giao châu. Nói cách khác, giết Liễu Thê Thê và những người kia trong ảo cảnh, lập tức sẽ dệt được giấc mộng mỹ mãn cho Tống Ngưng, nhưng lúc đó giao châu sẽ chỉ duy trì được sinh mệnh của nàng trong nửa năm, còn nếu không giết bọn họ, giao châu có thể khiến cho nàng sống thêm được 3 năm nữa. Vậy nên nàng cho rằng trừ khi đó là lựa chọn cuối cùng, còn không thì chẳng nên đại khai sát giới làm gì. Nàng cũng nghĩ luôn đến việc, biết đâu trong lúc dệt mộng cho Tống Ngưng, chẳng may nàng lỡ tay giết đi một mạng người để đảm bảo cho đại cục thì sao? Xét cho cùng, đây cũng là chi phí không thể không trả trong khi buôn bán. Nhất định có thể gọi đó là vạn bất đắc dĩ.

Nàng bèn nói với Tiểu Lam: "Cũng không cần thiết phải chọn biện pháp cứng rắn như vậy, dùng cách ôn hòa một chút là được rồi. Nếu có thể dùng lý lẽ để thuyết phục thì không nhất thiết phải động đến binh đao làm gì nữa. Phương pháp như thế rất là không văn minh."

Tiểu Lam trầm ngâm hỏi: "Làm theo cách của em, chẳng lẽ em không ngại sẽ dây dưa lằng nhằng sao?"

Nàng uể oải đáp: "Ai bảo tôi là một cô gái lương thiện tốt bụng cơ, đành phải làm như vậy thôi."

Tiểu Lam không để ý đến lời nàng, đi thẳng đến quán rượu ở gần đó.

* * *

Nàng hỏi thăm một vài người đi đường, họ bảo lối này dẫn đến tửu lầu nổi tiếng nhất của trấn.

Lên lầu trên, nàng thấy chỉ còn chiếc bàn kê sát cửa sổ là trống, bèn chọn ngồi chỗ đó.

Chẳng là nàng đã bao lần ao ước được ngồi ở góc bàn bên cạnh cửa sổ. Trong suy nghĩ của nàng, ngồi ở gần cửa sổ luôn là những "đại nhân vật". Nếu như là một thiên tiểu thuyết ái tình, người ngồi vị trí này, nếu không phải hoàng đế thì cũng là vương gia. Còn nếu theo tiểu thuyết võ hiệp, ngồi tại nơi này nếu không phải minh chủ thì sẽ là giáo chủ. Tóm lại các bậc đại anh hùng khi đến tửu lâu uống rượu, căn bản chỉ toàn chọn chỗ gần cửa sổ. Ngón tay thon dài của họ sẽ nâng lên chén rượu trắng tinh tươm, chỉ để lại cho những con người bình thường một nửa gương mặt để chiêm ngưỡng, mà nửa gương mặt ấy, chắc chắn cũng phải mang theo thần sắc hoa mĩ, cao sang.

Nàng ngó nghiêng quán rượu một hồi, lấy làm khó hiểu. Rồi nàng quay sang hỏi Tiểu Lam: "Cả cái quán lớn như vậy, tại sao chỉ có chỗ chúng ta là không có ai ngồi?"

Y châm trà, rồi hất cằm ngụ ý.

Nàng thật không hiểu Tiểu Lam ngụ ý là ngụ ý cái gì, bèn đoán mò: lẽ nào đây đúng thật là chỗ ngồi chỉ dành cho các vị đại nhân vật trong truyền thuyết? Người bình thường cảm thấy bản thân không xứng đáng cho nên mới không dám ngồi? Ừm, mọi người ở đây thật là rất có ý thức tự giác nha! Nghĩ xong, nàng bị hắt xì một cái.

Tiểu Lam đưa tay chỉ chỉ vào chiếc cửa sổ bên cạnh: "Cửa sổ này bị hỏng rồi, không đóng được."

Nàng không hiểu ý lắm, hỏi: "Hả?" Cùng lúc đó lại bị hắt xì tiếp.

Y đứa chén trà nóng ấm cho nàng, từ tốn nói: "Bên ngoài gió lớn như vậy, nếu tửu quán vẫn còn chỗ trống, tôi cũng không muốn ngồi ở đây để chịu gió lùa đâu."

Nàng lắp bắp: "Cái này..." Nói đến đây lại hắt xì thêm lần nữa.

Tiểu nhị rất nhanh chóng chạy đến bàn của hai người bọn nàng. Tiểu Lam gọi một hũ rượu ấm, ngoài ra còn lựa thêm một món gì nàng không để ý, chẳng qua trong lúc vô tình thì nghe thấy tên món sủi cảo, bèn góp ý: "Buổi sáng chẳng phải đã ăn sủi cảo rồi sao, hay là anh đổi món khác đi."

Tiểu Lam hỏi: "Không phải là em thích ăn món này sao?"

Nàng đáp: "Tôi không quan trọng, chủ yếu là anh thích ăn món gì thì cứ gọi món ấy thôi." Dù sao thì nàng ăn món gì cũng chỉ cảm nhận được một mùi vị duy nhất là chẳng có cái vị gì cả.

Tiểu Lam ngẩng đầu, liếc mắt nhìn nàng. Tiểu nhị là người nhanh nhẹn hoạt bát, vội vàng góp lời: "Cô nương thật tốt bụng, lại còn rất am hiểu ý tứ người khác." Nàng vui vẻ ừ một tiếng tán thành, rồi lại tiếp tục rơi vào trầm tư. Chẳng là nàng đang cân nhắc chuyện của Tống Ngưng, phải làm sao để gươm không dính máu mà vẫn có thể dẫn dụ được đám thuộc hạ của Tống Diễn ra khỏi trấn. Việc quan trọng nhất, cũng là việc khó khăn nhất trong vấn đề này là: phải tìm ra được ai mới là thủ hạ của Tống Diễn trong mênh mông biển người. Mặc dù thông qua Khúc nhạc Hoa Tư của Tống Ngưng, nàng đã từng nhìn thấy hình dáng của bọn họ, nhưng vì nhìn từ khoảng cách rất xa nên chỉ lờ mờ nhận ra họ là mấy người vai gấu lưng hổ, thân hình lực lưỡng. Hiện giờ trong trấn có biết bao người vạm vỡ như vậy, mà nàng lại không thể gọi từng người lại mà hỏi:"Anh à, có phải anh là người từ nước Lê đến phải không? Có chuyện này, mẹ của anh nhờ tôi nhắn gọi anh về nhà ăn cơm đấy." Nói như vậy, hiệu quả rất thấp.

Rượu nhanh chóng được đưa đến. Tiểu Lam chuyển chung rượu cho nàng. Đột nhiên, y nắm chặt chung rượu làm nàng giật mình rút vội tay ra. Ánh mắt của y nhìn nàng sâu thăm thẳm, hàm chứa trăm lời vạn ý: "Chẳng qua ta chỉ chỉ đường cho cô nương ấy thôi, em giận dỗi cái gì chứ?"

Nàng ngây người nửa ngày, không hiểu cái gì là cái gì ở đây: "Ơ..."

Y nhíu mày, chán chường nói: "Lại giả ngây giả ngốc! Ta hận nhất là em cứ luôn giả vờ ngốc nghếch với ta."

Nàng chỉ ngón tay về mũi mình: "Anh đang nói chuyện với tôi à? Cô nương là cô nương nào chứ? Tôi..."

Y cắt ngang lời nàng: "Vị cô nương mang cây thương vừa nãy, mặc áo tím, dáng cao cao. Ta mới chỉ khen binh khí của cô ấy dăm ba câu thôi, em lập tức nói chuyện với ta cái kiểu nhấm nhấm nhẳng nhẳng. Lại còn không thừa nhận là em đang giận dỗi sao? Có gì đáng giận chứ?!"

Nàng không hiểu tình hình: "Giận dỗi? Tôi đâu có giận gì anh!"

Mấy người đàn ông ngồi ở bàn bên cạnh đột nhiên cười ha hả một trận, giễu cợt nói: "Ngửi thấy mùi dấm chua ở đâu rồi thì phải. Người anh em, cô tình nhân nhỏ của cậu chắc chắn đang ghen rồi. Ai bảo cậu dám khen ngợi cô gái khác trước mặt nàng, ha ha ha..."

Nàng vẫn ngây ngô không hiểu tình huống hiện tại, nhưng nhóm người xung quanh chỗ bọn nàng cười nói ầm ĩ như vậy đã thu hút ánh mắt tò mò của hơn nửa số khách trong tửu lầu.

Nàng tiếp tục khó hiểu nói với Tiểu Lam: "Cô nương mặc áo tím, dáng cao cao, lại còn mang thương?"

Y phớt lờ câu hỏi của nàng, tự ý nắm lấy tay nàng, khóe mắt vốn lạnh nhạt bỗng nhiên tràn đầy ý cười, dịu dàng nói: "Hứa là em sẽ không ghen nhé?"

Nàng thản nhiên rút tay ra, trả lời: "Chắc chắn không ghen."

Tiểu Lam buông tay nàng ra chứ không hề ép buộc. Không biết từ đâu bỗng dưng xuất hiện cả một đám người. Nàng đoán, chắc là vì có đông người đột nhiên xuất hiện như vậy nên Tiểu Lam không muốn miễn cưỡng nàng.

Đám người này ăn vận trang phục theo lối của người Khương, giọng nói lại mang theo nét hào sảng của những kẻ sinh ra ở vùng biên giới nước Lê, thoạt trông đã biết là họ đang cải trang. Người đứng đầu chắp tay thành quyền hành lễ với Tiểu Lam: "Người anh em vừa nói lúc nãy có gặp một cô gái mặc áo tím, dáng cao gầy, tay cầm theo cây thương dài? Xin hỏi người anh em vị cô nương đó đã đi hướng nào?"

Kỳ thật từ lúc những người này xuất hiện, nàng đã lập tức đoán ra ý đồ của Tiểu Lam [ chậm thí mồ, con mèo nhà ta nó còn tinh ý hơn nàng đó! ]. Những gì y vừa miêu tả, nếu như đã từng gặp cô gái ấy một lần, lập tức sẽ nhận ra đó chính là Tống Ngưng. Tiểu Lam bịa ra một cô gái có đặc điểm nhận dạng y chang Tống Ngưng, diễn một vở kịch này, hóa ra chỉ để thi hành kế điệu hổ ly sơn, đánh lạc hướng bọn người kia, khiến cho bọn họ không thể lần theo đúng hướng mà tìm được Tống Ngưng. Khi nàng thật sự đã nghĩ thông suốt vở kịch của Tiểu Lam, nàng lại quay sang nhìn biểu hiện của y, có chút ngẩn ngơ.

Lúc này tự dưng y có vẻ đề phòng. Tiểu Lam cảnh giác quan sát mấy người trước mặt: "Cô nương áo tím kia cùng với các anh có quan hệ gì? Tại sao các anh lại muốn tìm cô ấy?" Với biểu hiện của y, tựa như Tiểu Lam đã thật sự gặp gỡ một cô gái áo tím, lại còn tỏ ra lo lắng cho cô ấy, tuy chỉ mới bèo nước gặp nhau thôi nhưng cũng không muốn kẻ khác gây khó dễ cho cô ấy.

Đám người trước mặt đưa mắt nhìn nhau, người đứng đầu khó xử nói: "Thật không dám giấu giếm, cô gái mà người anh em đã gặp, có tới 8, 9 phần là tiểu thư nhà chúng tôi. Tiểu thư bị mất tích, thiếu gia vô cùng lo lắng, sai mấy kẻ chúng tôi ra ngoài tìm. Tiểu thư ấy đi về hướng nào? Mong được người anh em chỉ rõ."

Trong đầu nàng không thể ngừng được âm thanh: nói đi nói đi! Nói xong thì tùy tiện chỉ lung tung cho bọn họ một địa điểm nào đó, dụ họ đi thật xa. Nhưng Tiểu Lam thì vẫn giữ nguyên dáng vẻ hoài nghi.

Sau này nghĩ lại nàng mới hiểu được thâm ý của Tiểu Lam. Trong lòng y đảm bảo là cũng không ngừng thét gào hai chữ "nói đi" như nàng. Nhưng cũng không thể để mấy người đó cảm thấy nghi ngờ được, cho nên phải cố gắng kiềm chế, không để lộ ra sơ hở, dùng một chiêu lạt mềm buộc chặt khiến cho bọn họ tin tưởng thật sự. Tiểu Lam đặt bẫy mà lại như không đặt bẫy, biểu hiện của y rất chân thành. Nhưng kinh nghiệm từ cuộc sống cho thấy, cạn bẫy càng chân thành, càng dễ bắt được người ta.

Đám người nước Lê quả thật đã tin tưởng hoàn toàn lời của Tiểu Lam, trịnh trọng nói: "Chuyến đi này của mấy người chúng tôi, xác thực chỉ là để tìm kiếm tiểu thư. Xin người anh em cứ yêu tâm, nếu cô nương áo tím kia không phải là tiểu thư, mấy người chúng tôi tuyệt đối sẽ không làm khó cô ấy. Nếu làm trái với lời, chúng tôi sẽ bị thiên lôi đánh chết!"

Tiểu Lam còn chần chừ quan sát mãi biểu hiện của kẻ dẫn đầu trong đám người này, lâu sau mới nói: "Nếu như lời các vị kể là sự thật thì tôi cũng không nên gây trở ngại cho các vị... Một canh giờ trước, hai người chúng tôi tình cờ gặp được một cô gái mặc áo tím ở chân núi Thạch Môn. Cô ấy hỏi thăm tung tích của vị kiếm khách họ Kim ngụ tại Thang Sơn, nói là muốn đi thăm vị ấy. Cô chỉ hỏi tôi đường đi Thang Sơn là lối nào." Câu trả lời của Tiểu Lam rất ngắn gọn, nhưng nét mặt y lại hàm chứa biết bao nội dung, có cả sự tranh đấu giữa việc nói và không nói; có chút ngỡ ngàng, lại cũng có chút bất đắc dĩ của việc nói xong, không rõ hậu quả sẽ thế nào. Kỹ thuật diễn xuất tinh tế đến mức này, Tiểu Lam không gia nhập gánh hát thì thật là uổng phí nhân tài.

Tiểu Lam vừa nói xong, người đứng đầu kia lập tức trầm ngâm: "Đúng thật đây là phong cách của tiểu thư." Rồi hắn ngẩng đầu, tay chắp thành quyền cảm tạ Tiểu Lam và nàng. Toàn bộ đám người ấy nhanh như chớp biết mất sau cầu thang dẫn xuống lầu dưới.

Tiểu Lam dùng nét mặt mơ màng xen lẫn sầu muộn rất chuyên nghiệp dõi theo mấy người ấy. Nàng nhìn qua khung cửa sổ không đóng được, quả thật bóng dáng của những người vừa nãy đã biến mất ở đường chân trời mờ mịt. Nàng liền quay đầu lại, trông thấy Tiểu Lam đã trở về với nét mặt thường ngày. Y nhàn nhã cầm hũ rượu, tự rót cho mình một chén.

Nàng cảm thấy trong lòng có đôi chút vướng mắc. Dường như người ngồi trước mặt nàng không còn là một Tiểu Lam bị cô gái mình yêu đâm cho một nhát trọng thương, rồi nằm thẳng trên giường, chán nản nhìn trần nhà mất hai ngày. Sự lột xác này giống như cây nho kết ra quả nho vậy. Có lẽ nó vốn dựa trên nền tảng nhất định, chắc chắn cây nho sẽ không ra trái sầu riêng hay là thanh long. Dù nàng có hơi ngạc nhiên một chút trước sự kết trái mau chóng này, nhưng cũng cảm thấy không có gì là không thích đáng.

Nàng ngồi đối diện với y, giả vờ thờ ơ nói: "Thạch Môn Sơn, Thang Sơn, anh có vẻ rất quen thuộc với địa hình xung quanh vùng này nhỉ?"

Tiểu nhị đem lên món cánh gà rưới nước gừng. Tiểu Lam vừa quan sát độ trong của nước gừng vừa nói: "Trận chiến Thương Lộc Dã bảy năm trước tôi có được nghe kể sơ qua. Tranh thủ lúc nhàn rỗi cũng đã từng nghiên cứu đôi chút, vậy nên mới biết một vài địa điểm xung quanh nơi này."

Nàng hỏi: "Vậy tại sao anh biết được thuộc hạ của Tống Diễn sẽ đến tửu lâu này?"

Y nâng chén rượu lên, rất đứng đắn, chậm rãi mở miệng: "Chuyến đi này của bọn họ là làm việc công, tiền đi lại, sinh hoạt đều lấy từ công khố. Giờ này lại đúng vào bữa trưa, tất nhiên bọn họ sẽ đi vào tửu lâu nổi tiếng nhất toàn trấn. Chẳng lẽ em đã từng gặp qua người nào làm việc công mà còn có ý thức tiết kiệm à?"

Tiểu Lam nói rất đúng.

Lúc nàng còn là công chúa nước Vệ, được phụ vương nàng phong cho hiệu "Văn Xương". Nàng được đồn đại là người thông minh nhất của vương thất nước Vệ. Tuy nhiên những lời đồn đại thì có bao nhiêu phần là sự thật đây! Khi còn ở Vương đô, nếu đem bản thân ra so sánh với những người khác, nàng cũng có một chút tự tin với sự thông minh của mình. Thế mà sau chuyện xảy ra hôm nay, nếu nàng đem mình so sánh với Tiểu Lam, chỉ có thể thua kém chứ không hơn. Chẳng lẽ nên nói nước Vệ mất, không phải vì thiên tai nội loạn, toàn bộ đều là do những người trong vương thất trí tuệ không cao?

Tiểu Lam hỏi: "Vẻ mặt của em tư lự như thế này, là đang nghĩ tới chuyện gì?"

Nàng nói: "Tôi đang nghĩ đến những câu chuyện lưu truyền lại từ xa xưa. Thật ra chúng đều không phải là sự thật, nhưng được nhiều người truyền tụng, thành ra có vẻ rất kỳ bí, như kiểu truyền thuyết vậy. Trền đời làm gì có cái gọi là truyền thuyết. Vì nó chỉ phát sinh ở quá khứ, chỉ tồn tại trong hư ảo. Toàn bộ đều là những điều vô nghĩa, mang theo những hệ lụy sai lầm. Hiềm một nỗi thế gian rất buồn cười, càng những điều sai lầm lại càng có giá trị. Nghĩ mà không biết nên làm thế nào. "

Tiểu Lam tỏ vẻ tôi-nghe-không-hiểu.

Nàng giải thích: "Thật ra cũng giống như..."

Y cắt lời nàng: "Ăn sủi cảo trước đi đã. Ăn xong rồi hẵng nói tiếp."

Thế là bọn nàng bắt đầu ăn sủi cảo.

Khi ăn, nàng cũng quên bẵng luôn những suy nghĩ vừa rồi.

 chương 5.1 : cảnh mộng

Gió đông chợt chuyển thành mưa, mưa phút chốc trở nên tầm tã, trời đất như muốn hòa vào làm một. Xa xa là núi tuyết mông lung...

Nàng và Tiểu Lam có phần e ngại tiết trời mùa đông, sợ chẳng may sấm sét sẽ theo mưa to mà giáng xuống. Nhưng ngoài việc mua hai cây dù phòng thân, bọn nàng cũng không còn lựa chọn nào. Nửa canh giờ trước, hai người theo lời chỉ điểm của bác gái bán bánh nướng áp chảo đối diện đường lớn, đã dò được tung tích của Liễu Thê Thê. Thời điểm này, cô ta đang đi hái thuốc ở vùng núi tuyết.

Căn cứ vào miêu tả của bác gái bán bánh nọ, Liễu Thê Thê chính là cháu gái duy nhất của vị thần y đương thời – lão tiên sinh Liễu Thời Nghĩa. Tính tình cô ấy hiền lành, vui vẻ, hay giúp đỡ mọi người, y thuật cao minh, lớn lên lại xinh đẹp. Khuyết điểm duy nhất của cô này là bị câm.

Nàng và Tiểu Lam chưa từng nghe danh vị thần y Liễu Thời Nghĩa bao giờ, bọn nàng chỉ biết có một vở hí khúc của ngoại quốc, dịch âm ra gọi là Liễu Thời Nguyên.

Người dân bản địa ra vào núi tuyết chỉ men theo một con đường nhỏ duy nhất. Bác gái bán bánh chỉ cho nàng và Tiểu lam con đường ấy. Để báo đáp, nàng nhường quyền cho Tiểu Lam mua lấy mười cái bánh nướng mang theo dọc đường làm lương khô. Nhưng đi rồi mới biết con đường vào núi tuyết thật ra rất đơn giản, làm gì có cơ hội sử dụng lương khô đâu! Không dùng được, đem vứt bỏ thì cũng phí phạm, nàng bèn bảo Tiểu Lam vừa đi vừa gặm bánh ăn dần, cũng là giảm được chút ít gánh nặng trên vai, thật nhất cử lưỡng tiện.

Đi được nửa đường, mưa cũng nhẹ hạt dần. Nàng hỏi Tiểu Lam: "Anh không hỏi tôi nếu tìm được Liễu Thê Thê rồi, bước tiếp theo có dự định gì à?"

Y không quay đầu lại, nhàn nhạt nói: "Chẳng nhẽ không phải cứ trói cô ta lại, đợi vợ chồng Thẩm Ngạn rời khỏi chỗ này mới thả cô ta đi sao?"

Nàng gật gật: "Ban đầu tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng số phận là thứ gì đó rất mãnh liệt, thành ra tôi có chỗ không yên tâm. Chẳng may có một ngày Liễu Thê Thê bất ngờ chạm mặt Thẩm Ngạn, yêu Thẩm Ngạn, rồi kéo theo một đống phiền phức còn hơn cả hiện tại thì phải xử lý sao? Chuyến làm ăn này của tôi chẳng hóa công cốc à?"

Thanh âm của y khoan thai lay động: "Vậy em nghĩ nên làm thế nào?"

Nàng đuổi hai bước theo nhịp chân y, cùng y vai sóng vai bên nhau, nói: "Kỳ thực anh nghĩ xem, nếu như Liễu Thê Thê trước khi gặp Thẩm Ngạn đã nảy sinh tình cảm với một người khác, mà tình cảm ấy lại thâm sâu xúc động, chết không hối tiếc... như vậy dù cho mai sau có gặp gỡ Thẩm Ngạn, nhất định cũng sẽ không nảy sinh bất cứ tình cảm đặc biệt gì. Vậy thì tôi cũng không cần lo lắng đến kết cục của Thẩm Ngạn và Tống Ngưng nữa, bởi vì lúc ấy giấc mộng đẹp của Tống Ngưng coi như đã xong phân nửa, việc làm ăn của tôi theo đó cũng xong được phân nửa."

Y dừng chân, xoay người, hơi nâng cao cây dù giấy, cười nhẹ: "Cho nên, em muốn gì?"

Trong nháy mắt, dường như trong mưa bay đến mùi hương hoa mai thanh mát bảng lảng, tràn ngập... Nàng biết, đa phần chỉ là ảo giác chưa thể nào phai nhạt trong ký ức của nàng, bởi vì khi ấy cũng là một ngày mưa. Nước trời tinh khiết như hạt châu sa xuống mặt đất. Tại thời điểm sinh mệnh dần trôi đi, nàng nhìn thấy một người con trai xòe ra cây dù giấy sáu mươi tư nan chạy về phía nàng, chạy trong cơn mưa rợp trời trên nước Vệ... Y nâng nhẹ cây dù lên cao một chút, máu làm mờ mắt nàng, nhìn không rõ diện mạo của y. Nàng thường nghĩ đó là ảo ảnh lúc nàng gần chạm vào cái chết, đến nay vẫn không rõ đấy là sự thật hay là mộng ảo.

Nàng trịnh trọng nói: "Tiểu Lam, tôi đã đã nghĩ ra một kế sách vẹn toàn. Tôi cam đoan là khi trông thấy anh, ngay lập tức Liễu Thê Thê sẽ nảy sinh tình cảm sâu đậm, nhất kiến chung tình. Vấn đề là anh có chịu giúp tôi hay không, Tiểu Lam? Hì, đương nhiên là tôi không ép buộc anh, tùy thuộc quyết định của anh thôi. Nếu anh không muốn, tôi lập tức sẽ tìm cách khác. Anh giúp tôi hay là không giúp tôi nào?"

Y nói: "Ha, vậy em định..."

Những hạt mưa nhỏ trong không trung ôm vào lòng mình cả hoa tuyết trắng, tao nhã như một ý thơ la đà rơi. Nàng nói: "Đây là mưa tuyết nhỉ, thời tiết này thật là thi vị... A, đúng rồi, nghe nói thân thủ của anh rất tốt. Như vậy thì không cần tôi mang theo, anh cũng vẫn thoát ra khỏi Hoa Tư ảo cảnh được đúng không? Này, kỳ thực không ra được cũng chẳng sao, anh xem, chỗ này cũng rất ổn mà. Quên mất, lúc nãy anh vừa nói cái gì nhỉ?"

Y nhìn nàng hồi lâu, nàng thì thản nhiên mò trong bọc vải ra một cái bánh, tiếp tục gặm.

Nửa buổi, y bình tĩnh nói: "Lúc nãy tôi muốn nói, việc nhỏ như vậy, chẳng lẽ nào tôi lại không giúp em. Nếu như em đã có biện pháp vẹn toàn rồi, cứ làm theo cách của em đi."

Nàng gật đầu: "Phải thế chứ."

Y bổ sung: "Có điều..."

Nàng tò mò hỏi lại: "Có điều gì chứ?"

Y cười nói: "Tôi thì chẳng sao cả. Liễu Thê Thê đối với tôi, dù sao cũng chỉ là một ảo ảnh mà thôi. Nhưng em biết không, dù Liễu Thê Thê phải lòng tôi rồi, cũng không đảm bảo được là cô ấy sẽ không thay lòng đổi dạ một khi gặp được Thẩm Ngạn."

Nàng giơ ra một cái gương hướng về Tiểu Lam: "Anh lại đây lại đây, phải tự tin vào gương mặt mình một chút chứ!"

"..."

Tiến vào núi tuyết, mưa bớt gió ngừng. Bọn nàng 2 người mai phục trên con đường nhỏ mà Liễu Thê Thê nhất định sẽ đi qua. Quả nhiên không bao lâu sau thì nhìn thấy có bóng người thấp thoáng. Nàng vội vàng ra hiệu: "Hành sự theo kế hoạch." Dứt lời, nàng chạy vụt khỏi đống tuyết, tiến về phía nhân ảnh phía trước. Nhìn rõ dáng dấp của người con gái kia, nàng không kìm được sững sờ: một cô gái tóc tai rối loạn, y phục mỏng manh, cõng trên lưng một người thanh niên cao lớn, thân thể cô gái bị sức nặng ép cho phải khom thấp người xuống. Dường như cô gái ấy phải mượn lực cây thương dài chống đỡ mới miễn cưỡng chống trụ được, không bị té sấp trên nền tuyết.

Nàng có lẽ nào lại không nhận ra người con gái ấy: Tống Ngưng của bảy năm trước (dù cho dung nhan tuyệt sắc giờ đây nhiễm đầy vết bùn tuyết, không chút nào nhìn ra nét tuyệt sắc!) Gặp nhau như thế này, âu cũng là duyên phận, có điều hiện giờ Tống Ngưng không phải người nàng muốn tìm. Nàng khắc chế sự kinh ngạc trong lòng, giả vờ sắm vai khách qua đường, điềm nhiên lướt qua Tống Ngưng. Tống Ngưng chăm chú siết chặt trường thương trong tay, thoáng nhìn qua có thể thấy ngón tay đã khô nẻ. Một thanh âm khàn khàn khó nghe đột nhiên vang lên giữa tuyết trắng mênh mông: "Xin cô nương dừng bước, cô nương có phải người dân sống ở vùng núi tuyết không? Xin hỏi cô nương phải làm sao mới có thể rời khỏi núi tuyết? Y quán có ở gần đây không? Tính mệnh của... chồng tôi đang gặp nguy hiểm vô cùng, nếu tiếp tục nán lại trong núi, tôi sợ chàng sẽ..."

Nàng nhìn trước ngó sau một lượt rồi mới cắt ngang lời Tống Ngưng: "Phía sau có một thanh niên mặc áo choàng trắng, chị đi hỏi y sẽ rõ, tôi không rành khu vực này." Nói xong, nàng phi nhanh về phía sau lưng Tống Ngưng, chớp mắt đã biến mất một khoảng xa mười trượng. Kỳ thực không phải nàng không muốn giúp cô ấy, chẳng qua nàng đã ... quên đường mất rồi. Việc nàng chạy biến đi như vậy cũng có nguyên nhân của nó, bởi lẽ nàng đã trông thấy người mình đang muốn tìm: Liễu Thê Thê!

Ngay lúc Tống Ngưng đang nói chồng của cô ấy bị làm sao làm sao, Liễu Thê Thê từ trong hẻm nhỏ rẽ ra, quẹo vào một con đường mòn khác. Nhìn từ phía sau lưng sẽ thấy bóng dáng của một bộ trang phục mùa đông dày dặn, trên vai còn vác cả cái gùi cỏ thuốc mới hái. Một mặt, nàng đuổi theo Liễu Thê Thê, một mặt vẫn mơ màng nghĩ ngợi: so với cô họ Liễu kia, Tống Ngưng còn ở gần lối ra hơn. Vậy vì sao bảy năm trước, phải đợi sau khi Liễu Thê Thê quay lại y quán, Tống Ngưng mới cõng Thẩm Ngạn tìm đến y quán được? Cách giải thích duy nhất có thể chấp nhận là: cô ấy bị lạc đường.

Ước chừng thấy Liễu Thê Thê chỉ còn cách nàng một vài trượng, nàng cân nhắc thời gian, tay rút ra cây chủy thủ nhỏ, miệng quát:

"Núi này do ta mở,

Cây kia do ta trồng

Không nộp tiền mãi lộ

muốn đi qua, đừng hòng!"

Sau đó nàng lập tức nhào tới cô gái Liễu Thê Thê yếu ớt. Căn bản là lúc nãy nàng đã thương lượng cùng Tiểu Lam một màn kịch "anh hùng cứu mỹ nhân". Theo sự sắp xếp của vai diễn, nàng sẽ lao tới đánh cướp Liễu Thê Thê, còn Tiểu Lam sẽ đột ngột từ trên không đáp xuống, một chưởng đánh dạt nàng qua một bên, một chưởng nâng Liễu Thê Thê (theo dự kiến đang sợ hãi nằm ngã trên mặt đất) dậy, nở nụ cười ôn nhu tình tứ với cô họ Liễu: "Cô nương, không bị dọa sợ chứ?" Như thế Liễu Thê Thê nhất định sẽ nhìn y bằng con mắt khác, kinh nghiệm này nàng đã học được từ khi nàng gặp gỡ và đem lòng yêu Mộ Ngôn.

Nhưng ý trời không toại lòng người. Bọn nàng tính toán rất kỹ lưỡng, tính được mở đầu, tính được cả quá trình, ngay cả những tiểu tiết biến hóa bên trong cũng tính hết được, nhưng kết thúc vẫn không như ý. Bọn nàng không nghĩ ra chuyện con đường mòn mà Liễu Thê Thê đang đi vốn nằm sát ngay sườn núi, bị cơn mưa tuyết làm cho trở nên trơn trượt. Lúc nàng sấp ngửa chạy đi "dọa người", sơ ý đánh rơi cái bánh nướng áp chảo, rồi lại tự mình dẫm vào cái bánh, trượt ngã nhào một phát xa ít nhất 2 trượng, sau đó va phải Liễu Thê Thê, lập tức đẩy cô ta rơi xuống núi.

Nàng ngỡ ngàng không tin nổi mắt mình, còn nhoài người về phía sườn núi mà nhìn xuống. Tiểu Lam không biết xuất hiện từ lúc nào, cũng ngồi xuống nhìn với nàng. Nhưng dưới sườn núi kia chỉ là những sắc màu bảng lảng mịt mờ, hôm nay Liễu Thê Thê lại còn mặc một bộ đồ trắng từ đầu đến chân, phiêu phiêu dật dật, không cùng tuyết hòa thành một thể mới là lạ!

Nàng quýnh quíu một hồi, khóc không ra nước mắt: "Tại sao anh không xuất hiện sớm sớm một chút?! Anh xem, tôi đã giết Liễu Thê Thê mất rồi!! Cuộc làm ăn này thật không đáng nha, cô ta không cần phải chết nha, tội nghiệp cô ta rơi xuống núi đột ngột quá, muốn hô lên một tiếng cũng không kịp nha..."

Tiểu Lam nâng nàng đứng dậy, dỗ dành: "Như vậy kể cũng tốt, em xem, Liễu Thê Thê chết đi, mọi chuyện rắc rối cũng kết thúc theo. Chúng ta có thể quay về nhà kê cao gối ngủ ngon rồi."

Nàng vội vàng nói: "Không được, lúc nãy tôi không nghe thấy tiếng "bịch" khi chạm đất. Ngộ nhỡ Liễu Thê Thê bị mấy cành cây nhỏ chìa ra giữ lại, cô ta không chết thì sao? Anh đừng kéo áo tôi nữa, để tôi nhìn xuống thêm chút cho rõ." Nói rồi nàng tiếp tục nhoài người cúi xuống nhìn.

Nàng vốn không nghĩ tới chuyện Tiểu Lam sẽ buông lỏng tay. Nàng cứ đinh ninh rằng y sẽ liều chết mà cản nàng cho bằng được cơ! Nhưng thực tế, y ngay lập tức buông tay ra, lại còn buông đúng thời điểm nàng ít phòng bị nhất. Thật ra cũng không nên nói như vậy, nói thế Tiểu Lam sẽ bị hiểu lầm, nên sửa lại là: tại thời điểm nàng chưa chuẩn bị tốt, Tiểu Lam đã nhanh nhẹn buông tay. Kết quả của việc không chuẩn bị tâm lý tốt là nàng lăn xuống núi với một lực rơi rất lớn, tinh thần cũng không thanh tỉnh cho lắm nên không thể khống chế lực đạo, nàng cứ thế xuôi theo lộ trình mà Liễu Thê Thê vừa rơi, lăn vèo xuống núi. Nàng thấy thân thể mình nhẹ như chim én nương theo cơn gió thổi, càng rơi càng nhanh, phảng phất nghe thấy một tiếng hô vang từ phía trên "A Phất!!!"

Nàng nhớ lúc còn sống, sư phụ khi đó giảng bài cho nàng và Quân Vĩ, người nói nếu thả rơi tảng đá mười cân và hòn đá một cân ở cùng độ cao, hai tảng đá sẽ chạm đất tại cùng một thời điểm. Lúc nàng nhìn thấy Tiểu Lam lao xuống theo mình, cảm thấy hành động của y thật khiến cho nàng phiền muộn. Căn cứ theo định luật rơi kia, để lỡ mất thời điểm rồi, làm sao mà y có thể bắt kịp nàng đây? Tại sao y không thông minh một chút mà nghĩ cách chạy lấy đà từ trên sườn núi nhằm gia tăng tốc độ rơi chứ!? [ ta iu nàng ghê gớm luôn DT à :X ]

Vả lại, chỉ cần giao châu ở trong cơ thể không bị rơi vỡ nát, nàng sẽ không chết, nói đúng hơn thì nàng sẽ không bị chết thêm lần nữa. Vậy nên nàng cứ mặc kệ mình lăn xuống mà chẳng có lấy nửa điểm sợ hãi nào. Ngược lại, Tiểu Lam là người trần mắt thịt, còn sống sờ sờ ra đấy, thế mà dám cả gan phi thân từ sườn núi cao vạn trượng xuống vực, việc điên khùng này chỉ có loại người tâm thần phân liệt mới làm ra! Vô duyên vô cớ lao đi tìm cái chết. Nghĩ đến đây, lồng ngực trái của nàng, nơi chứa đựng giao châu bỗng dưng giật giật. Trong khoảnh khắc nàng hoảng sợ, toan mở miệng la lên điều gì đó, nhưng cuống họng lại không thể phát ra bất cứ thanh âm gì. Trước mắt nàng chỉ có một khoảng mênh mông trắng xóa, màu trắng ấy cứ thế tràn vào trong mắt, tràn vào lồng ngực. Chính lúc này, thân thể nàng bị ôm giữ chặt. Nàng thấy một lưỡi kiếm mềm mại quét qua khối băng, phát ra âm thanh kèn kẹt chói tai. Tay phải của Tiểu Lam nắm chặt chuôi kiếm đang cắm trên tường băng, tay trái ôm xiết lấy nàng, gương mặt của y thoáng chạm vào trán nàng...

Bọn nàng cứ thế treo lơ lửng giữa không trung không thể cử động, hồi lâu, tiếng của Tiểu Lam chậm rãi truyền đến: "Em thật là một cô gái can đảm phi thường đấy! Vào phút sinh mệnh như sợi mành treo chuông thế này mà vẫn có thể trấn tĩnh đường hoàng. Các cô gái bình thường gặp phải chuyện như vậy, chắc là đều sợ hãi phát run rồi."

Nàng đáp: "Tôi cũng sợ mà. Chẳng qua là lặng lẽ run rẩy trong lòng đấy thôi." Để tăng thêm mức độ tin tưởng, nàng còn vòng hai tay qua, ôm chặt lấy cổ y. Bỗng nghe kiếm kêu đánh "xoẹt" một tiếng, Tiểu Lam đạp tường băng, mượn lực ôm lấy nàng nhảy vọt lên cao. Đây quả thực là một động tác có độ khó cao, thế mà chỉ bằng vài ba lần mượn lực nhảy lên như vậy, bọn nàng đã cùng nhau trở lại nền đất trên sườn núi. Bên tai nàng vẫn còn ong ong tiếng gió thổi qua, rồi cả hình ảnh cánh tay áo trắng như mây trôi nơi chân trời của những ngày quang đãng... Lên đến trên rồi, nàng mới bắt đầu thấy chóng mặt hoa mắt, ngồi ngã đánh phịch cái xuống đất, hai tay xoa xoa thái dương. Nàng chẳng hiểu vì sao mà Tiểu Lam có vẻ sợ xanh mặt. Y kéo vội vạt áo nàng lại, ôm nàng cách xa khỏi vách núi, càng xa càng tốt. Nàng cũng chẳng biết Tiểu Lam đang nghĩ ngợi điều gì, chỉ thấy y đưa tay lên day day trán: "Em cũng biết đây chỉ là ảo cảnh, có lỡ tay hại chết người thì cũng chỉ là ảo cảnh. Thế mà tại sao còn muốn lấy tính mạng mình để bồi đền cho một cái ảnh ảo như vậy? Em bị ngốc à, sao lại lương thiện đến mức này cơ chứ!" [ Anh bị ngốc thì có á! ]

Nghe lời Tiểu Lam nói, nàng mới hiểu được thế nào là oan thấu trời xanh. Thế nhưng nàng cũng không tiện giải thích, bởi vì chuyện về giao châu không thể nói với người ngoài, đã thế, chi bằng cứ để Tiểu Lam hiểu lầm cho xong. Nàng tiếp tục xoa xoa cái đầu.

Y cũng ngồi xuống theo, hỏi: "Em có làm sao không?"

Nàng không tiện nói bản thân bị dọa cho sợ đến choáng đầu, đành kiếm cớ: "Không có gì, chỉ là hơi đói bụng chút thôi."

Y nói: "Vẫn còn bánh nướng đấy. Em ăn chút bánh nướng vào đi.

Nàng đột nhiên nhớ tới một việc quan trọng, vội kéo tay y lại hỏi: "Tại sao anh lại biết cách phá vỡ định luật rơi của đá mà bắt kịp tôi thế?"

Y ngẩng đầu: "Cái gì của cái gì cơ?

Nàng đáp: "Cái này giải thích cũng khá dài, có thể hiểu đó là..."

Y lập tức cắt ngang lời nàng: "Ăn bánh trước đi. Ăn xong rồi nói tiếp.

Thế là hai người cùng ngồi ăn bánh.

Ăn xong, nàng cũng không nhớ nổi vừa nãy họ thảo luận với nhau chuyện gì...

.

.

.

Bọn nàng cùng nhau du ngoạn cảnh núi hai ngày, bởi vì Tiểu Lam bảo đây là cơ hội không nên bỏ lỡ. Bình thường y rất ít dịp đến vùng biên giới hai nước Khương – Lê, nay đã tới rồi, muốn nhân cơ hội mà tìm hiểu địa hình xung quanh, đi một chuyến như vậy cũng không tệ. Đây đích thực là tư duy của một nhà quân sự. Nếu lần này nàng không lựa chọn Tiểu Lam mà thay vào đó là Quân Vĩ, nàng thừa hiểu kẻ như Quân Vĩ ngay lập tức sẽ yêu cầu nàng xuống núi tìm quán trọ mà nghỉ lại hai ngày, để hắn tiến hành sáng tác tiểu thuyết trong khung cản hữu tình. Cái này âu cũng là tư duy của một nhà văn.

Nàng cùng Tiểu Lam thăm dò địa hình. Gặp những đoạn đường phức tạp, với kiểu người như nàng, cho dù có đi bao nhiêu lần cũng đều dẫn đến kết cuộc bị lạc như nhau thôi. Thế mà Tiểu Lam có thể vẽ lại theo trí nhớ tấm bản đồ địa hình vùng đất. Nàng nhìn y, ánh mắt tràn đầy ngưỡng mộ, cảm tưởng như trên đời này không có việc gì là y không làm được. Nhưng lòng ngưỡng mộ ấy chỉ duy trì được nửa khắc đồng hồ. Sau nửa khắc đó, hình tượng của Tiểu Lam đã bị sụp đổ lanh tanh bành khi nàng bất chợt nhớ ra, vẫn còn một việc Tiểu Lam không thể làm được: y không biết đẻ con!

Trôi qua hai ngày, bầu trời sau phút quang đãng hiếm hoi lại một lần nữa đổ mưa sầm sập. Đó cũng là thời điểm mà Thẩm Ngạn tỉnh lại. Nàng và Tiểu Lam bung dù tiến về y quán. Thực ra làm vậy cũng chỉ vì tò mò không biết phản ứng của Thẩm Ngạn khi gặp Tống Ngưng sẽ thế nào. Trong lòng nàng cũng rất hoang mang, không biết trong canh bạc này nàng sẽ thua hay là thắng? Duyên phận của Thẩm Ngạn và Tống Ngưng ngăn cách bởi tầng tầng lớp lớp xương máu hận thù. Không biết Thẩm Ngạn có phải người rạch ròi, công tư phân minh giống như nàng, luôn minh bạch thế nào là thù hận quốc gia, thế nào là tư tình nam nữ.

Đêm khuya yên ắng, nàng mon men tiến lại gần khung cửa sổ chạm hoa của y quán. Nàng lấy ngón tay điểm một lỗ nhỏ trên cửa để ghé mắt nhìn vào, quan sát cảnh tượng bên trong phòng. Tiểu Lam trông thấy thế thì kéo ngay nàng ra chỗ khác, chất vấn: "Em muốn xem trộm?"

Nàng giẫy khỏi tay y: "Nhìn trộm cái gì mà nhìn trộm, anh không nên nói tôi hèn hạ như thế! Chẳng qua tôi chỉ lén lút nhìn một chút thôi."

Tiểu Lam vẫn giữ chặt tay nàng, ánh mắt cũng không rời khỏi nàng.

Nàng ấp úng hỏi: "Hay là anh cũng muốn đến nhìn trộm với tôi đấy? Dù sao nhìn một mình cũng không vui bằng nhiều người cùng nhìn, chúng ta cùng đi xem đi!"

Tiểu Lam có vẻ mệt mỏi xoa xoa thái dương: "Một mình em nhìn đi, nhưng nhớ cẩn thận một chút, báo trước với em là thân thủ hai người trong phòng đều thuộc loại cao siêu, nếu làm kinh động bọn họ, em liền gặp chuyện xúi quẩy."

Được "ân chuẩn", thế là nàng bèn vui vẻ chạy đi nhìn.

Xuyên qua khe hở lúc nãy trên cửa sổ, nàng nhìn khung cảnh bên trong, chẳng có gì thay đổi so với hình ảnh mà nàng đã từng nhìn thấy qua khúc nhạc Hoa Tư của Tống Ngưng mấy hôm trước. Giữa phòng, ánh nến nhỏ như hạt đậu leo lét cháy. Có điều vai chính thay đổi rồi, bởi vì nữ chính Liễu Thê Thê đã bị nàng ( sơ ý) đẩy rơi xuống vách núi. Hiện giờ cô gái đang chăm sóc Thẩm Ngạn đổi thành Tống Ngưng. Cô ấy trầm tư quan sát gương mặt ngủ say của Thẩm Ngạn, khoảng cách hai người bọn họ gần đến vậy, cảm tưởng như chóp mũi của Tống Ngưng sắp chạm vào đôi môi khép chặt của Thẩm Ngạn rồi. Nàng nghĩ, nếu đó là nàng và Mộ Ngôn, nhất định nàng sẽ hôn y một cái. Vừa nghĩ xong, Tống Ngưng quả xứng đáng là một hảo nữ xuất thân từ chốn thao trường! Đầu cô ấy hơi cúi, quả nhiên là đã hôn rồi. Bởi vì nhìn trộm, độ tập trung rất cao, thị lực của nàng lại tốt vô cùng cho nên quan sát được tỉ mỉ: Tống Ngưng nhắm hai mắt lại, lông mi khẽ run rẩy, gương mặt tinh xảo như men sứ bỗng ửng lên một tầng hồng nhạt. Đúng lúc này, Thẩm Ngạn mở mắt.

Mưa đêm tí tách. Chàng đưa tay ôm lấy Tống Ngưng khiến cho cô giật mình sợ hãi. Tống Ngưng vùng vẫy muốn thoát, Thẩm Ngạn lại không có vẻ gì là muốn thả người. Chàng cứ thế tỉ mỉ mà quan sát Tống Ngưng. Ánh mắt của chàng ban đầu lướt qua mái tóc đen xõa tung của Tống ngưng, sau đó lướt qua cặp lông mày cùng đôi mắt của cô gái. Rất lâu, khuôn mặt anh tuấn nhợt nhạt của chàng nổi lên một ý cười khó đoán. Chàng nói: "Tôi nhận ra cô, Tống Ngưng."

Trong mắt Tống Ngưng thoáng nét hoảng loạn, nhưng trong khoảnh khắc trấn định, cô hơi hơi ngẩng đầu trong thinh lặng, dường như muốn kéo dãn cự ly với chàng, đây cũng là sự cẩn trọng mà bất kì cô gái nào cũng nên xử sự như thế. Nàng hiểu rõ tính tình của Tống Ngưng, hiểu được cách suy nghĩ của cô gái này. Cô ấy vừa hy vọng Thẩm Ngạn biết thân phận mình, lại vừa e sợ Thẩm Ngạn biết được thân thế mình. Bởi vì Tống Ngưng không đơn giản chỉ là một cô gái có tên Tống Ngưng, cô ấy còn là em gái của đại tướng quân nước Lê – Tống Diễn.

Thẩm Ngạn chăm chú nhìn cô gái, tay vẫn giữ chặt không buông rời: "Tống Ngưng, vì sao cô lại cứu tôi? Giọng chàng chẳng có chút gì là vui mừng, cử chỉ cũng không có điểm nào dịu dàng ấm áp như lần đầu nhìn thấy Liễu Thê Thê.

Nàng nắm chặt bàn tay lại, lòng bàn tay đã đổ mồ hôi lạnh, nàng thua rồi. Quả nhiên chẳng có cách nào khiến cho Thẩm Ngạn yêu Tống Ngưng, hiện thực cũng vậy mà ảo cảnh cũng vậy.

Tống Ngưng mạnh mẽ giẫy ra khỏi vòng tay Thẩm Ngạn: "Chàng đừng cho rằng tôi thật lòng cứu chàng! Chẳng qua... tôi bị chàng đánh bại, không cam tâm. Trước lúc tôi có thể đánh thắng chàng, không cho phép chàng được chết! Tôi làm thế chỉ vì không cam tâm..."

Nàng không đành lòng nhìn tiếp, phân tích tính cách Thẩm Ngạn là có thể đoán được xu hướng phát triển của sự tình. Đang định rời đi tìm Tiểu Lam, cùng nhau bàn bạc một phương cách khác, đột nhiên nàng thấy ngọn nến trong phòng dao động. Khi ánh sáng ổn định lại rồi, trên giường đã biến thành tư thế trái ngược hoàn toàn với ban nãy: Thẩm Ngạn trên – Tống Ngưng dưới. Diệp Trăn bụm ngay lấy miệng mình không thì nàng sẽ hét lên vì kinh ngạc mất. Nhìn theo cái tư thế này, hoàn toàn không nhận ra Thẩm Ngạn có vẻ gì giống với một người đang bị thương nặng. Chàng mỉa mai nói với Tống Ngưng: "Vậy ban nãy em vừa làm cái, Tống Ngưng? Tính dùng môi em giúp ta đuổi muỗi à?

Mặt cô gái ấy đỏ rực một mảng, trong khoảnh khắc không thốt nổi một lời.

Chàng dùng tay vén những sợi tóc tơ tán loạn trên mặt Tống Ngưng, vuốt ve tóc mai ở vùng trán của nàng, khẽ nói: "Ta cứ luôn suy đoán diện mạo của cô gái cứu mình trông như thế nào, hóa ra là em. Vì sao không nói rõ với ta ngay từ đầu, rằng em là Tống Ngưng mà ta đã gặp ở ải Tang Dương?

Nước mắt trượt khỏi vành mi, Tống Ngưng ôm chầm lấy chàng, òa lên khóc: "Chàng còn hỏi tôi vì sao không nói rõ mọi điều ư? Rõ ràng nếu biết tôi là Tống Ngưng, chàng sẽ không muốn tôi cứu chàng, vì chàng rất hận người nước Lê, ngay cả chạm vào tôi chàng cũng sẽ không muốn chạm vào đâu... Bây giờ chàng tỉnh lại rồi, vậy cũng tốt, tôi sẽ quay trở về nước Lê. Ngày trước chàng có nói rằng chàng muốn cưới tôi, xem như là lời đùa chơi, dù sao tôi cũng không nghĩ đó là lời thật lòng."

Chàng dở khóc dở cười nhìn Tống Ngưng, dịu dàng vỗ võ nhẹ lưng cô gái: "Em cho rằng cứu ta là việc rất dễ dàng sao? Em cho rằng khiến ta rung động là việc rất dễ dàng sao?"

Tống Ngưng nghe xong lại càng khóc càng hờn: "Chàng nói dối! Chỉ khi nhìn thấy tôi chàng mới biết tôi là Tống Ngưng...

Thẩm Ngạn hôn lên mắt Tống Ngưng, hại Tống Ngưng ngay cả việc khóc cũng khóc không xong: "Em nói đúng, ta nhìn thấy em mới biết rằng em là Tống Ngưng. Ta đem lòng yêu si mê người con gái cứu mạng mình, nhưng lại không rõ cô ấy dung mạo ra sao, dáng vẻ thế nào...

Tống Ngưng của bảy năm sau cứ luôn gom nhặt chút tình cũ mà lay lắt sống qua ngày. Nàng cho rằng tính tình cô gái ấy vốn dĩ là trầm mặc như vậy. Hôm nay mới vỡ lẽ ra rằng, trong bảy năm đằng đẵng, cô gái ấy đã phải gắng gượng giả kiên cường mà sống, vì cái người mà cô gái ấy muốn lao vào vòng tay khóc lóc, làm nũng, trước sau không đoái hoài gì đến cảm xúc của cô ấy. Thật ra Tống Ngưng không hề vô cảm, thậm chí cô ấy còn rất ngây thơ, biết vui mừng, biết đau buồn... Tống Ngưng cũng có muôn vẻ khóc cười như bao cô gái khác. Nhưng cô ấy sẽ chỉ để cho người đàn ông yêu mình nhìn thấy những dáng vẻ, những tính cách khác nhau ấy mà thôi. Trước mặt nàng lúc này, qua khe cửa hở, đó mới là Tống Ngưng chân chính.

Nàng rời ánh mắt khỏi khung cửa sổ, Tiểu Lam đang đứng dưới ô thưởng ngoạn một gốc tiên khách lai. Loại cây này vốn không thích hợp với khí hậu lạnh của vùng núi tuyết, có thể sống được ở đây đã là rất hiếm rồi, lại còn có thể nở hoa, quả thật là điềm lành trời ban.

Nàng vượt qua hàng giậu. Tiểu Lam cũng ngay lập tức bước đến che dù cho nàng khỏi ướt, y hỏi: "Sự tình thế nào rồi?

Nàng cười sung sướng: "Chiến thắng!"

Những hạt mưa rơi trên mặt dù phát ra âm thanh "độp độp" nghe đến vui tai. Y nhìn nàng:"Vậy tại sao em không được cao hứng lắm?

Nàng trả lời: "Thật ra cũng không hẳn là tôi không cao hứng. Chẳng qua đêm nay tận mắt chứng kiến chuyện xảy ra trong ảo cảnh, tôi mới rõ một điều... Nếu như bảy năm trước không có sự việc hiểu lầm kia, Tống Ngưng và Thẩm Ngạn có thể bên nhau cho đến răng long đầu bạc, tuyệt đối không thể như tình cảm hiện tại. Nghĩ vậy, lòng tôi lại vô thức nghĩ ngợi linh tinh. Cái cảm giác này cũng giống như tình cảnh anh đi Thanh lâu tìm một cô nương, nhưng cô nương ấy lại không bằng lòng đón tiếp anh. Anh một mực cho rằng bởi vì anh có điều không đúng nên cô ấy chán ghét anh rồi. Nhưng sự thật không phải thế, cô nương đó thật lòng rất yêu thương, rất nguyện ý cùng anh ân ái, chỉ tiếc là số anh xui xẻo, chọn đúng ngày cô nương ấy có quỳ thủy, lý do thì khó nói, lực bất tòng tâm. Hiểu lầm thì cứ tiếp diễn..."

Y đăm đắm nhìn nàng: "Em..."

Nàng ngắt lời y: "Anh đừng chê tôi không biết lựa lời ăn tiếng nói, thật ra tôi là người rất bảo thủ đấy. Nhưng hôm nay lại có thể nói ra những lời không húy kị này, chỉ vì mười bảy năm qua tôi đã sống cẩn trọng đủ rồi. Hôm nay tôi là một người chết, thích gì thì cứ việc nói đó, không muốn kìm nén bản thân mình, tự làm mình không vui nữa."

Y chẳng có vẻ gì là tán thưởng nàng, chỉ trầm mặc: "Đêm nay tôi thấy em rất lạ."

Nàng thả cái nhìn về cõi trời xa, đêm đen như mực. Nàng hỏi y: "Tiểu Lam, anh nói xem đâu mới là thật, đâu mới là giả? Chuyện tuy xảy ra trong ảo cảnh nhưng lại hết sức vẹn toàn, còn hiện thực thì thê thảm biết mấy... Tôi có cảm giác, tất cả căn nguyên đều xuất phát từ trong tâm. Nếu anh không cho rằng đây là ảo cảnh, như vậy thì đây sẽ không phải là ảo ảnh. Ở trong cái thế giới mà tôi dệt cho bọn họ, tình cảm của bọn họ là thật, khóc là thật, cười là thật, tình là thật, nghĩa là thật, dẫu cho thay lòng đổi dạ cũng là thật, đứng núi này trông núi nọ cũng là thật. Cảnh mộng dệt theo khúc nhạc Hoa Tư vốn dĩ được chuyển hóa từ nhân tâm. Mặc dù dụng ý tốt đẹp, nhưng lại không phải là một lựa chọn tốt để giải quyết vấn đề. Nếu như không có tấm lòng kiên cường, cho dù là hiện thực hay ảo cảnh, cũng đều không xứng đáng có được hạnh phúc. Còn nếu như đã có một tấm lòng kiên định, như vậy có thể sống thật tốt ở hiện thực, việc gì phải lựa chọn đắm chìm trong ảo ảnh?"

Những lời này nói ra nghe có vẻ mạch lạc, logic chặt chẽ. Kỳ thật nàng cũng chẳng hiểu bản thân đang nói gì đâu.

Tiểu Lam ngẫm nghĩ một chút, hỏi nàng: "Tóm lại, em đang muốn nói với tôi chuyện gì?

Nàng đáp: "Chuyện buôn bán này, tôi không muốn làm nữa. Tận mắt chứng kiến cảnh Tống Ngưng và Thẩm Ngạn có thể cùng nhau đi đến một cái kết tốt đẹp, đó chắc hẳn là ý trời. Nếu như Tống Ngưng thật sự muốn, cô ấy có thể thay đổi hiện thực. Chịu chết vì một giấc mộng như thế này quả là không đáng."

Thật ra nàng cũng đấu tranh tư tưởng mãi rồi. Nếu như quyết định từ bỏ vụ làm ăn này, giúp Tống Ngưng nhìn thấu được tâm ma, thoát khỏi ảo cảnh, chuyến đi này của nàng lập tức trở thành không công. Nhưng nàng lại nghĩ, thời gian của nàng dẫu sao vẫn còn dài mà. Mượn sức của giao châu, nàng vẫn có thể sống thêm được chừng ba năm nữa, ba năm nghĩa là hơn một ngàn ngày, thời gian còn dài, biết đâu lại có mối làm ăn tốt hơn tìm đến nàng thì sao.

Tiểu Lam lẳng lặng nhìn nàng nửa ngày rồi mới lên tiếng nhắc nhở: "Dự định tiếp theo của em là gì?"

Nàng đã hạ quyết tâm rồi, bèn ngẩng đầu nói: "Tôi đang chờ một trận chiến lớn, một trận tuyết hỗn loạn bay, một trận chiến mà xương khô rải khắp..."

Y dường như có chỗ khó hiểu nhìn nàng, nàng cũng để mặc cho y nhìn. Bất chợt nhớ ra một chuyện nên sớm nói cho y biết: "Đúng rồi, có việc này cứ luôn muốn hỏi anh, nhưng lại toàn quên biến. Anh nhìn xem, cái áo khoác này của tôi, ở chỗ này này, anh xem, vừa nãy bị ngã, có một vết rách ở vai áo. Anh là người vạn năng cái gì cũng biết làm, vậy thì nữ công cũng biết chứ nhỉ? Anh giúp tôi vá lại áo được không?"

Y cởi chiếc áo khoác của nàng ra, săm soi một hồi, giương ánh mắt nhàn nhạt nói với nàng: "Tôi có vạn năng đến mức nào thì cũng không biết nữ công, không giúp cô khâu lại được!

"..."

Nàng nói với Tiểu Lam rằng nàng đang chờ một trận đại chiến, không phải chỉ nói cho vui. Ảo cảnh của Hoa Tư vốn là giấc mộng dệt trong quá khứ, mỗi nốt nhạc của khúc Hoa Tư đều tương ứng với một thời điểm đã qua. Kẻ nào nắm giữ giao châu, kẻ đó có khả năng thao túng các nốt nhạc, đi đến bất kì thời điểm nào trong giấc mộng.

Nhưng xuôi theo khúc nhạc Hoa Tư, người ta chỉ có thể tiến lên chứ không có lựa chọn quay đầu, điều này khiến nàng có đôi chút do dự. Sau khi xem xét mọi chuyện lần cuối, lại còn đối diện với lương tâm để cân nhắc, rốt cuộc nàng...vẫn không biết nên đi tới thời điểm một năm hay là ba năm về sau trong ảo cảnh. Nàng hỏi Tiểu Lam: "Dựa vào kinh nghiệm tình trường của anh, nếu như một đôi tình lữ yêu nhau đến khó bỏ khó buông, nên cho họ bao nhiêu thời gian để lưu lại trong nhau những hồi ức tốt đẹp nhỉ?"

Mưa đã tạnh. Y thu ô lại, thờ ơ nói với nàng: "Nửa năm."

Ngày hôm sau, bọn nàng đi đến tiệm đàn trên trấn để mượn một cây thất huyền cầm. Âm thanh man mác vừa cất lên, vạn vật rung động kịch liệt trong dòng thời gian chảy trôi gấp gáp.

Ngón tay nàng gẩy lên âm phù cuối cùng, mây nương theo gió trôi, cây khô sinh lá đỏ, cả một cánh đồng lau trải dài bên sông Xích Độ, đong đưa lả lướt. Thời điểm trong ảo cảnh hiện giờ đã vụt trôi qua nửa năm, tức là vào đầu mùa thu năm Lê Trang công thứ mười tám.

Tại biên giới hai nước Khương – Hạ, chiến tranh kết thúc, tiền phương biến thành một mảnh đất quạnh hiu. Nàng nhìn thấy cảnh đám lính nước Khương đang nhổ trại, chuẩn bị hồi kinh cùng khúc hát khải hoàn. Ngẫm ra Thẩm – Tống hai người thành thân đã được sáu tháng. Vị vua mới của nước Hạ phát binh tiến đánh Khương quốc. Khi ấy, Tống Ngưng tặng Thẩm Ngạn miếng hộ tâm kính làm bằng ngọc xanh lam.

Nàng một mình băng qua hàng sậy, rút từ trong tay áo ra chiếc mặt nạ da người đã chuẩn bị sẵn. Nàng gỡ chiếc ngân bạc trên sống mũi xuống, sau đó dán chiếc mặt nạ mới này vào. Quân sư phụ là người làm mặt nạ chuyên nghiệp nhất thế gian này, công phu của nàng đều học được từ sư phụ, nhưng đạt tới cảnh giới tạo ra một khuôn mặt giống hệt Tống Ngưng như thế này, nàng cảm thấy tay nghề của mình đã cao hơn sư phụ mất rồi. Nàng tự tán dương mình không ngớt, cho đến khi tiếng của Tiểu Lam chậm rãi bay vào bụi sậy: "Em còn sống không đấy, thử lên tiếng xem nào?" Nàng rẽ bụi sậy dạt sang hai bên, tiến ra nói: "Tôi đây tôi đây." Chỗ Tiểu Lam đang đứng ngăn cách với nàng bởi những bông cỏ lau, y nhìn nàng một lượt từ đầu đến chân: "Em giả dạng thành Tống Ngưng như vậy để làm gì?" Nàng đáp: "Đi tìm Thẩm Ngạn chứ sao. Có một việc này tôi nhất định phải làm. Anh đứng yên đây chờ tôi, khi nào xong xuôi, nhất định sẽ quay lại tìm anh." Y nhìn nàng mãi một hồi lâu mới miễn cưỡng dặn dò: "Có muốn làm gì cũng phải cẩn thận biết chưa."

Nắng mùa thu chan hòa ấm áp, mây lười biếng uể oải trôi trên bầu trời xanh. Nàng dùng chiếc khăn tơ che mặt lại, không thể để cho người khác phát hiện ra "Tống Ngưng" đã xuất hiện ở nơi này. Tên lính trước cửa doanh trại đem một lá thư đến cho Thẩm Ngạn, trong thư ấy, nàng mạo danh Tống Ngưng, hẹn gặp Thẩm Ngạn tại khu đất nở đầy hoa thục quỳ phía sau sông Xích Độ.

Thẩm Ngạn nhất định sẽ đến.

Trên nền đất cao nở bạt ngàn hoa thục quỳ trăm nghìn dáng vẻ. Gió thu nhẹ lướt qua muôn hoa rực rỡ, từng đợt hoa sóng sánh lả lướt như đang khiêu vũ giữa đất trời. Khi còn sống, tuy nàng chưa từng đặt chân đến mảnh đất này, nhưng đã từng nghe đủ truyền thuyết kể về hoa thục quỳ. Câu chuyện nổi tiếng nhất kể lại rằng địa điểm này đã từng là nơi chôn cất của rất nhiều nghĩa sĩ. Hoa thục quỳ sở dĩ rực thắm sắc đỏ như vậy là vì chúng được nuôi dưỡng bởi bao nhiêu máu xương. Nàng nghĩ, nàng đã hết lòng an bài cho Thẩm Ngạn một vị trí tốt rồi.

Sau lưng nàng chợt vang lên tiếng lá khô vỡ vụn, tiếng bước chân người đang tiến lại gần. Nàng xoay mình nhìn Thẩm Ngạn, nở nụ cười trong suốt. Đây là ảo ảnh mà Tống Ngưng yêu thiết tha đậm sâu, yêu suốt cả một đời, đến chết cũng không thể buông bỏ cái ảo ảnh trong tim. Đôi giày đen của Thẩm Ngạn rẽ từng lớp thục quỳ mà bước đến, ôm lấy nàng, siết thật chặt trong vòng tay, giọng của chàng âm trầm vang bên tai nàng: "A Ngưng, ta nhớ em biết bao." Nàng rút ra cây chủy thủ đâm vào giữa lưng Thẩm Ngạn, rồi thì thầm nói với chàng: "Tống Ngưng cũng rất nhớ người."

Mùa thu năm Lê Trang Công thứ mười tám, ngày mười bốn tháng chín; nước Khương mặc dù thắng trận, nhưng khi đại quân hồi kinh lại không hề khua chiêng đánh trống, cũng không vang lên ca khúc khải hoàn. Tướng quân Khương quốc đã bị ám sát. Người tài giỏi chết đi, cả nước đều đau đớn xót thương.

Trong phủ Tướng quân, tiếng kèn trống bi ai vang lên không ngớt, phướn trắng rợp trời... Nàng và Tiểu Lam trà trộn vào đám hành khách đến viếng tang lễ. Tại linh đường, nàng nhìn thấy một bình hoa bằng ngọc lưu ly cắm đầy những loại hoa không rõ tên, ánh nến leo lét bập bùng, chiếc quan tài bằng gỗ mun phản chiếu trên nền đất một cái bóng dài thê lương: Tống Ngưng. Cô ấy đứng bên cạnh quan tài, đôi mắt đen mờ mịt và trống rỗng, nhưng cái nhìn của cô thì cố chấp, cứ dán chặt vào người đã yên giấc trong quan tài. Thỉnh thoảng cũng có người tiến đến khuyên giải ủi an, nhưng cô ấy không có chút phản ứng gì. Tiểu Lam hỏi nàng: "Em gọi đây là giấc mộng đẹp mà em muốn dệt cho Tống Ngưng sao?" Nàng không biết phải giải thích thế nào cho y hiểu: "Anh cảm thấy đây giống mộng đẹp lắm à? Rõ ràng là ác mộng thì có!" Phải rồi, nàng cố tình xé tan nát những điều tốt đẹp, khiến cho Tống Ngưng thoát khỏi tâm ma mà nhìn thẳng vào hiện thực. Trên đời này làm gì có giấc mộng đẹp nào lại cướp đi sinh mạng con người?! Cùng là phụ nữ thì không nên làm khó dễ nhau. Nàng không thể vì sinh mạng của mình mà hại chết Tống Ngưng được, cô ấy vẫn còn cơ hội với Thẩm Ngạn, không phải trong giấc mộng, mà là ngoài đời thực kia. Nàng vốn định đem đạo lý này nói cho Tiểu Lam nghe, nhưng y đã nhanh chóng chuyển đề tài: "Ngày trước em sơ ý ngộ sát Liễu Thê Thê, sa sút tinh thần rất lâu, tôi thật không dám tin em lại có gan giết người." Nàng đáp: "Bởi vì theo thời gian tôi đã trưởng thành hơn rồi. Anh nên dùng quan điểm của sự vận động thì mới đánh giá vấn đề khách quan được."

Đêm đến, khách viếng tản dần, trên trời là vầng trăng lạnh lẽo cô đơn. Xem ra thời khắc quyết định đã đến rồi. Cả linh đường rộng lớn chỉ còn lại phu thê hai người bọn họ, một người sống, một người chết, có yêu nhau đến mấy thì cũng đôi ngả âm dương chia biệt nhau rồi. Khuôn mặt tái nhợt của Tống Ngưng vẫn chăm chú dán chặt vào cỗ quan tài, thanh âm khe khẽ của cô rời rạc trong bóng đêm rồi rơi rớt theo ánh nến quạnh quẽ: "Cuối cùng chỉ còn lại chàng và thiếp."Ngón tay thon dài của Tống Ngưng vuốt ve bề mặt cỗ quan tài, giọng nói của nàng giống như tiếng thầm thì nơi khuê phòng: "Thiếp vốn nghĩ, đợi chàng khải hoàn trở về, thiếp sẽ tự mình báo tin vui cho chàng. Người nhà muốn viết thư gửi đi, đều bị thiếp ngăn cản lại. Là thiếp ích kỷ chỉ muốn tự mình tận mắt chứng kiến niềm vui của chàng. Chàng biết không, thiếp đợi ngày chàng trở về, muốn gặp chàng, nói với chàng là thiếp nhớ chàng biết bao..."

Con chim nhỏ làm tổ trên cành cây già ngoài sân đột nhiên hoảng sợ kêu lên một tiếng, ánh nến trong phòng thoáng chốc lắc lư, Tống Ngưng dùng tay che mắt lại, thanh âm nức nở nghẹn ngào:"Thẩm Ngạn, chúng ta sắp có con rồi." Giọng nói của Tống Ngưng đau đớn, nhưng không òa vỡ mà lại mềm mại ôn hòa, giống như lời âu yếm dịu dàng đem nói với tình nhân. Cô ấy muốn kể cho Thẩm Ngạn nghe, nhưng lúc này, chàng đã không thể nghe được Tống Ngưng nói nữa rồi.

Đã đến thời điểm nàng nên tiến vào linh đường. Những chiếc phướn trắng treo cao bị gió đêm thổi bay phất phơ, Tống Ngưng giật mình ngẩng đầu: "Thẩm Ngạn?"

Nàng từ phía sau phướn trắng đi ra vùng sáng của ánh nến, để Tống Ngưng nhìn rõ gương mặt mình.

Đôi mắt như như làn nước hồ thu của Tống Ngưng phản chiếu sắc hồng nhạt từ bộ y phục của nàng. Nét mặt cô ấy vừa rạng lại trở về trống rỗng, hi vọng sụp đổ rồi, chỉ còn lại vẻ ảm đạm mà thôi.

Gió lùa phe phẩy dưới gót chân, nàng nhìn Tống Ngưng, rành mạch: "Tôi không phải Thẩm Ngạn. Tống Ngưng, tôi đến đưa chị thoát khỏi ảo cảnh này."

Trên gương mặt Tống Ngưng xuất hiện nét mù mờ: "Ảo cảnh?" Nhưng cô ấy cũng bình tĩnh lại rất nhanh: "Tôi còn nhớ cô, cô là cô gái mà tôi đã gặp ở núi tuyết trên Thương Lộc Dã..."

Nàng tiến gần Tống Ngưng thêm một chút nữa, cười đáp: "Lần đầu tiên chị gặp tôi, cũng không phải ở núi tuyết trên Thương Lộc Dã. Thế giới này chỉ là một giấc mộng tôi dệt cho chị mà thôi."

Tiểu Lam không biết từ lúc nào đã xuất hiện bên cạnh nàng, thờ ơ quan sát nội thất trong linh đường.

Nàng lần nữa tiến lại gần Tống Ngưng: "Trong ảo cảnh, phu quân của chị chết, tang sự long trọng như vậy, nhưng ngoài đời thực, chàng ta sống rất tốt. Chàng ta phụ bạc chị, thành thân với một cô gái khác, lại còn có một đứa con riêng. Chị đã dùng sinh mệnh của chính mình để trao đổi với tôi, mong tôi dệt cho chị một giấc mộng đẹp, để chị và Thẩm Ngạn có thể ở trong ảo cảnh tương thân tương ái đến bạc đầu. Chị xem, ở trong đây, Thẩm Ngạn quả nhiên đã yêu chị rồi. Nhưng ảo cảnh vẫn là ảo cảnh, chị cần phải thoát khỏi nơi này, quay về hiện tại, giành lấy phần hạnh phúc thuộc về mình."

Khi nàng nói ra những lời chân tình này, sắc mặt của Tống Ngưng tự dưng tái nhợt đi, sự kinh hoàng hiện lên trong ánh mắt. Dáng vẻ này của cô ấy, nàng đã tận mắt chứng kiến đâu chỉ một lần, cái nỗi bẽ bàng đau đớn luôn hiển hiện gương mặt của Tống Ngưng bảy năm về sau...

Tống Ngưng lảo đảo bước lùi về sau một bước, vụng về làm đổ vỡ luôn cả chiếc bình hoa lưu ly phía sau lưng, cô ấy trượt ngã, mảnh vỡ của ngọc lưu ly cắt sâu vào ngón tay thon dài.

Nàng hỏi: "Tống Ngưng, chị không tin tôi sao?"

Thời gian dường như vĩnh viễn ngưng đọng lại. Trong bầu không khí trầm lặng ấy, nàng nói một hơi hết toàn bộ sự thật. Nàng nghĩ, cái chết của Thẩm Ngạn khiến cho Tống Ngưng thương tâm như vậy, cô ấy sẽ không còn muốn ở lại trong ảo cảnh này nữa đâu. Còn việc gì đáng sợ hơn nỗi thống khổ khi người mình thương yêu không còn trên thế gian này nữa? Chỉ cần cô ấy chịu thoát ra khỏi ảo cảnh, Thẩm Ngạn ngoài đó vẫn đang sống khỏe mạnh, tuy là chưa yêu thương Tống Ngưng nhưng chàng sẽ yêu cô ấy thôi, một khi chàng biết rõ trắng đen sự thật. Tống Ngưng mang trong mình tâm bệnh bảy năm nay, cô ấy ốm đau, xanh xao không còn sinh khí sống, nhưng nàng nghĩ chỉ cần đả thông tư tưởng cho Tống Ngưng, đợi cô ấy thông suốt mọi chuyện rồi, bệnh sẽ tự nhiên khỏi, sức khỏe sẽ hồi phục và Tống Ngưng lại có thể sống một cuộc đời hạnh phúc.

Tống Ngưng cúi người thu nhặt những cành hoa hoa rơi trên mặt đất. Nàng định ngồi xuống cùng nhặt với Tống Ngưng thì bị Tiểu Lam ngăn lại, đành bần thần đứng đó. Sau khi Tống Ngưng nhặt được hơn nửa chỗ hoa rơi, cô ấy đột nhiên ngừng lại, ảm đạm nhìn những cành hoa mình đang giữ trong tay, hồi lâu mới nói: "Cô biết không, trước nay đêm nào tôi cũng nằm mơ. Giấc mộng đáng sợ ấy cứ lặp đi lặp lại. Mỗi khi tình dậy, tôi đều sợ hãi phát run. Hóa ra..." Tống Ngưng chậm rãi ngẩng đầu lên nhìn nàng: "hóa ra toàn bộ cơn ác mộng ấy mới chính là sự thật."

Đôi dòng lệ trào ra từ khóe mắt Tống Ngưng, cô ấy hỏi nàng: "Có những điều cô chưa nhắc đến nhưng tôi đã từng mơ thấy... Con trai của tôi, Trầm Lạc, nó đã chết vì cảm lạnh, có đúng không?"

Nàng không trả lời Tống Ngưng. Cô ấy nhìn nàng chờ đợi, rất lâu, trong đôi mắt đẫm lệ xuất hiện một tia cười bạc phếch phơ. Tống Ngưng nhợt nhạt nói: "Tôi chọn ở lại nơi này." Ngực nàng dường như đau nhói.

Tống Ngưng cúi đầu nhìn xuống ngón tay mình, nước mắt rơi vào lòng bàn tay. Rồi cô ấy hướng cái nhìn về phía linh vị của Thẩm Ngạn đặt nơi linh đường: "Cô nói đây là ảo cảnh cô dệt cho tôi, những sự việc xảy ra ở thế giới này là giả, còn những điều tôi nhìn thấy ở trong cơn ác mộng dày vò mình mỗi đêm, mới chính là sự thật. Lòng tôi đau lắm. Cô nói xem, cái hiện thực so với cái ảo cảnh mà tôi đang sống, cái nào đau khổ hơn đây? Hiện thực là vậy ư? Tôi chỉ nhìn thấy nó trong cơn mộng mà đã sợ đến run rẩy không thể thở nổi chứ đừng nói đến việc bản thân tôi phải nếm trải qua năm cùng tháng tận... Nếu như điều cô nói là đúng, bảy năm ấy, tôi đã gắng gượng sống như thế nào vậy, sống được cho đến tận bây giờ? Hiện tại, ở nơi này, tuy tôi mất đi Thẩm Ngạn, nhưng tối thiểu tôi vẫn còn những hồi ức, vẫn còn tình yêu của chàng làm điểm tựa. Tôi lại sắp sinh đứa con của chàng, sẽ không còn đơn độc nữa. Chàng cũng hy vọng tôi tiếp tục sống tốt. Nhưng nếu tôi nghe cô mà tìm về cõi hiện thực kia, tình cảnh thì bất kham như thế, Thẩm Ngạn trong thế giới đó, chàng không muốn tôi sống, vậy tôi còn quay về làm gì? Về với ai đây..."

Những câu hỏi của Tống Ngưng, nàng đều không biết phải trả lời thế nào cho thỏa đáng, chỉ đành lặng thinh. Phảng phất trong không gian tịch mịch chỉ có ngọn gió đêm ghé đến linh đường, đám lá cây bị gió thổi vang lên những âm thanh xao xác.

Nàng muốn cứu Tống Ngưng, cuối cùng, vẫn không cứu được.

Tống Ngưng vịn quan tài mà đứng dậy, đem bó hoa đang cầm trong tay cắm vào một chiếc bình lưu ly khác. Bởi vì lúc này cô ấy quay lưng về phía nàng, nàng không thể nhìn thấy biểu tình trên gương mặt Tống Ngưng, chỉ nghe thấy thanh âm nhàn nhạt của cô gái ấy: "Theo như cô nói, phải chăng tôi đã dùng tính mạng của mình để đổi lấy ảo cảnh này? Tôi không tỉnh dậy nữa đâu, chỉ cầu xin cô một điều, có thể hỏa thiêu di thể của tôi không? Sau đó đem tro xương của tôi... hãy mang tôi quay về nước Lê, giao lại cho ca ca của tôi."

Nàng mấp máy môi, không thốt nổi lời, mãi lâu sau mới bật lên một tiếng khàn khàn: "Được."

Năm ngày sau, nàng cùng Tiểu Lam rời khỏi ảo cảnh của Tống Ngưng. Sở dĩ bôi ra năm ngày như vậy là vì Tiểu Lam muốn quay trở lại vùng núi tuyết ở Thương Lộc Dã. Lần trước do thời gian có hạn, Tiểu Lam vẫn còn hai khu vực chưa kịp đến xem xét địa hình. Nhờ có chuyến đi này, bọn nàng cũng tình cờ biết được tin tức là Liễu Thê Thê hôm ấy không bị té chết. Thay vì rơi xuống vực, cô ta mắc phải một cành cây tuyết tùng mọc ngang vách núi, sau đó được một người thợ săn cứu. Liễu Thê Thê nguyện lấy thân báo đáp ân tình, giờ đã thành thân với người thợ săn kia rồi.

Ngay cả Liễu Thê Thê cũng có được một kết cục tốt.

Nàng nói với Tiểu Lam: "Biết vậy tôi không cần phải giết Thẩm Ngạn làm gì. Lúc đó không nghĩ ra, dù Thẩm Ngạn chết, Tống Ngưng cũng chẳng chịu rời ảo ảnh. Tôi vì muốn tốt cho cô ấy mà hành sự, bây giờ hóa ra lại làm cô ấy khổ vì mất người yêu."

Tiểu Lam nhìn nàng một hồi, nhàn nhạt nói: "Thật ra như vậy mới coi là giấc mộng đẹp. Điều mà Tống Ngưng khao khát là một người yêu cô ấy trọn đời trọn kiếp, vĩnh viễn không phản bội cô. Thẩm Ngạn chết đi đúng thời điểm hắn yêu thương Tống Ngưng nhất. Như vậy ở trong lòng Tống Ngưng, tình cảm ấy sẽ sống mãi. Chỉ cần vượt qua được giai đoạn thương tâm, cả đời cô ấy ở trong mộng ảo sẽ được vui vẻ không ưu lo. Còn nếu như em không giết Thẩm Ngạn, biết đâu về sau lại chẳng xảy ra những chuyện khó lường. Em có thể đảm bảo là trong ảo cảnh này, Thẩm Ngạn sẽ suốt đời yêu thương mà không phản bội Tống Ngưng sao?"

Nàng kinh ngạc nhìn Tiểu Lam: "Cánh đàn ông các anh chẳng phải đều chán ghét ba cái thứ tình cảm ủ ê sướt mướt hay sao? Vậy mà anh lại có thể giảng giải cho tôi nghe một cái đạo lý ghê gớm như thế này, khó tin quá."

Y liếc mắt nhìn nàng: "Ai bảo em là cánh đàn ông chúng tôi đều chán ghét mấy câu chuyện tình? Nếu đó là sự thật, toàn bộ lầu xanh của đại triều sẽ kinh doanh thế nào đây, rủ nhau sập tiệm hết à?!"

Nàng ngẫm ngợi, cảm thấy câu trả lời này rõ thật bắn trúng hồng tâm.

Nàng tính cầm tay Tiểu Lam, cùng nhau rời ảo cảnh. Thế nhưng chưa kịp nắm tay y thì đã bị y nắm lấy tay trước rồi. Tiểu Lam từ tốn nói với nàng: "Chỉ là giấc mộng, em không cần thiết phải nghĩ ngợi quá nhiều."

Khi y nói ra những lời này, có một đôi nhạn trắng lướt bay qua vòm trời cao thẳm.

.

.

.

.

.

.

.

trong ảo cảnh của khúc nhạc Hoa Tư nửa năm, trần thế thì mới chỉ trôi đi một ngày ngắn ngủi. Thoát khỏi cảnh mộng rồi, giao châu trong lồng ngực nàng nóng rực, quả là đã hút lấy sinh mệnh của Tống Ngưng rồi. Cô ấy qua đời trong một chiều hoàng hôn tịch mịch, không người hay biết... Bọn tôi tớ trong biệt viện vẫn đoan đoan chính chính hầu hạ bên cạnh thủy các; Quân Vĩ và Tiểu Hoàng vẫn quy củ canh giữ bên chiếc đàn cầm, dáng vẻ gà gà gật gật. Ánh nắng chiều thưa thớt, uể oải; cõi không gian thanh bình tĩnh lặng giống như chẳng có chuyện gì đặc biệt xảy ra. Chấp Túc thấy Tiểu Lam, vui mừng nói: "Công tử." Tiếng gọi mừng rỡ của Chấp Túc đã đánh thức Quân Vĩ cùng Tiểu Hoàng, thế là một người một hổ hấp tấp chạy tới chỗ nàng, xem xét nàng có bị thương ở chỗ nào không. Đúng lúc ấy, thủy các cách nơi này không xa bùng cháy, thoáng phút giây mà đám lửa đã bốc cao hơn một trượng. Quân Vĩ sững sờ: "Chẳng phải Tống Ngưng vẫn còn trong đó sao?" Nói xong hắn toan chạy vội đi cứu người, may mà nàng kịp kéo tay giữ lại. Giọng Tiểu Lam trầm trầm: "Xem ra cô ấy sớm đã đoán được kết cục sau cùng." Nàng kể lại cho Quân Vĩ đầu đuôi sự tình, vừa kể vừa nhìn bâng quơ ra phía bức mành phút trước vẫn còn buông lơi xung quanh thủy các, phút sau đã bị ngọn lửa nuốt chửng. Nàng bỗng nhiên nhớ đến lời nhờ cậy của Tống Ngưng. Cô ấy muốn nàng đem di thể của mình đem về cố hương. Nàng bây giờ đứng cách đám cháy một hồ sen, nghe thấy tiếng kêu tiếng khóc kinh hoàng, lại nhác trông thấy bọn người làm cầm chăn dấp nước xông vào thủy các cứu chủ, tiếc là đều bị ngọn lửa hực hực ngăn trở lại. Tính tình Tống Ngưng xưa nay vẫn luôn cương liệt như vậy, cô ấy hành động thật dứt khoát, thật tuyệt tình, đem bản thân mình thiêu sạch thành tro bụi. Nàng sẽ theo di nguyện mà gom tro xương ấy đặt vào trong bình sứ chạm hoa, đem Tống Ngưng trở về nước Lê sau bảy năm trời biền biệt.

Đám lửa mượn gió thổi càng cháy càng mạnh mẽ, càng cháy càng đỏ rực. Thanh xà nhà từ trên cao rơi xuống hồ sen, khói lại càng nồng. Bốn cột trụ chống đỡ thủy các cũng ầm ầm sụp đổ, từ nơi nàng đang đứng có thể nhình thấy bóng dáng chiếc giường mây đang bập bùng cháy, thi thể của Tống Ngưng bị che giấu trong biển lửa mịt mùng.

Những câu chuyện dân gian vẫn hay kể lại rằng, vào thời điểm lửa cháy như thế, sẽ luôn có mọt trận mưa ào ào đổ xuống. Nhưng thủy các trước mặt nàng, cháy đến mức không còn cháy thêm được nữa mới đành từ từ lịm tắt, ông trời chẳng rỏ cho lấy nửa giọt mưa. Ánh tà dương đỏ rực như màu máu, chiếu rọi một đống tan hoang tàn lụi nơi hồ sen. Bọn người hầu kẻ đứng người quỳ từ đàng xa, không ai dám lại gần nơi đổ nát ấy.

Nàng nói với Tiểu Lam: "Chúng ta đi đón Tống Ngưng thôi."

Y đưa mắt nhìn phía sau lưng nàng, nhàn nhạt nói: "Không cần đến chúng ta đâu, em xem, người ấy đến rồi."

Nàng tò mò quay đầu nhìn lại. Bên dưới tán liễu già rậm rạp bên cạnh con đường rải đá, nàng trông thấy cái người mà Tiểu Lam vừa nói, người thu lượm hài cốt của Tống Ngưng, người bức Tống Ngưng vào chỗ chết -

Thẩm Ngạn, phu quân của Tống Ngưng.

Thẩm Ngạn khoác áo cẩm bào trắng như tuyết, trên cổ tay áo trang trí hoa văn tối màu, tựa như một bộ tang phục lộng lẫy. Cách ăn vận cũng thật hợp tình. Người ấy đi thẳng một mạch tới trước mặt bọn nàng, màu trắng của chiếc áo bào lại càng tôn thêm sắc trắng bệch của gương mặt. Sắc diện Thẩm Ngạn vẫn lạnh lùng như thường nhật, chỉ có giọng nói là run lên: "Cô ấy đâu? Cô ấy ở đâu rồi?"

Nàng chỉ về phía đám phế tích trên hồ nước: "Có phải ngài nghe nói Tống Ngưng chết rồi, cho nên đặc biệt thu xếp một chuyến đến đây để thu thập hài cốt cho cô ấy đúng không? Tống Ngưng có trăn trối với tôi, nàng muốn đựng tro mình trong một cái bình lớn, bình sứ Thanh Hoa đế trắng men xanh, ngài có mang theo bình đến hay không?"

Thẩm Ngạn mấp máy môi mà không nói được lời nào, xoay người bước đến đống đổ nát theo hướng nàng chỉ, dáng đi lảo đảo thiếu chút nữa thì ngã sấp xuống. Đám người hầu quỳ trước thủy các lật đật mở ra một lối đi. Nàng ôm theo cây thất huyền cầm đuổi vài bước tiến vào theo Thẩm Ngạn, nhìn thấy chàng run rẩy kịch liệt quỳ giữa phế tích. Ánh tà dương kéo lê sau lưng chàng một cái bóng thật dài.

Bước qua Thẩm Ngạn, nàng đã trông thấy di hài của Tống Ngưng rồi. Gặp cô ấy vào buổi bình minh, cô ấy lúc đó búi tóc cao cao, má thoa phấn hồng, cao quý diễm lệ khó mà tả xiết.

Tiếc thay, sớm làm kẻ hồng nhan, chiều thành nắm xương tàn...

Thời gian như muốn đọng ngưng, nàng lặng lẽ nhìn Thẩm Ngạn. Chàng thì lẳng lặng quỳ trong khoảng không gian bất động.

Một đoạn xà ngang lúc nãy bị cháy, không thể ráng trụ đành rơi xuống đất, gãy làm đôi. Thẩm Ngạn bị thanh âm ấy thức tỉnh. Chàng ôm lấy Tống Ngưng, cái ôm mãnh liệt đến bạc cả đầu ngón tay, giọng nói chàng vang lên lại đến nhẹ nhàng: "Không phải em đã nói, dẫu chết, cũng phải tận mắt nhìn thấy ta tắt thở trước mặt em thì mới cam tâm sao? Không phải em đã nói rằng ta có lỗi với em, muốn tận mắt nhìn xem ta bị ông trời báo ứng hay sao? Em hận ta như vậy, ta còn chưa chết, tại sao em lại có thể chết trước ta như thế này?" Tống Ngưng thì đã đi rồi, lấy ai trả lời những câu hỏi của người ấy đây.

Thẩm Ngạn siết sao ôm chặt lấy Tống Ngưng, cẩn thận từng ly từng tí, giống như ôm một món trân châu bảo bối hiếm có trên đời. Gương mặt trắng bệch của chàng kề sát xương sọ lạnh lẽo của Tống Ngưng, tựa như thì thầm nói chuyện với tình nhân: "A Ngưng, em nói gì với ta đi..."

Khu phế tích dưới ánh hoàng hôn tràn ngập vị gỗ cháy sém do bị lửa lớn thiêu rụi, ngay cả mặt đất cũng trở nên khô nóng.

Nàng âm thầm chứng kiến hết thảy mọi điều, tự nhiên cảm thấy sự hư vô của sinh mệnh, bèn quay sang Thẩm Ngạn: "Ngài còn muốn Tống Ngưng nói gì đây? Hiện tại chị ấy đã không thể nói bất cứ điều gì cho ngài nghe được nữa rồi. Nhưng nếu ngài muốn nghe thì tôi cũng có thể truyền đạt lại, đó là một câu Tống Ngưng đã từng nói qua... Đêm tân hôn hôm ấy, Tống Ngưng thật lòng thật dạ muốn nói cho ngài nghe những lời ngọt ngào, chị ấy muốn nói rằng mình mới xuất giá đến nước Khương, không quen không biết một ai, tất cả hình ảnh tràn đầy trong mắt trong tim chị ấy đều là ngài. Tống Ngưng sinh ra đã mồ côi cha mẹ, lại không có tỷ muội gì, không có ai dạy dỗ bảo ban chị ấy phải làm sao để chiều lòng phu quân, để khiến cho chàng thương yêu chở che mình. Nhưng đêm hôm đó, Tống Ngưng thật tâm thật ý muốn nói với ngài, nói rằng: ' Phu quân, thiếp giao A Ngưng cho chàng, nguyện ý theo chàng, xin chàng trân trọng tình này ' Chỉ tiếc, ngài không để chị ấy nói thành lời, bởi ngài đâu có đoái hoài."

Thẩm Ngạn ngẩng đầu nhìn nàng đầy kinh hãi.

Nàng ngồi xuống, thản nhiên đối diện với cái nhìn kia: "Ngài nói Tống Ngưng hận ngài? Hoàn toàn ngược lại. Khắp thiên hạ này, chẳng tìm nổi một cô gái nào yêu ngài giống như Tống Ngưng đã yêu."

Thẩm Ngạn chăm chú nhìn nàng, cái nhìn của chàng đờ đẫn như thể vừa bị một thứ gì đó giáng cho một đòn thật mạnh. Sắc mặt chàng tái nhợt như không còn nổi một hột máu, rất lâu sau, chàng cười gằn, nghiến chặt răng, khàn khàn từng câu từng chữ: "Tống Ngưng yêu ta? Tại sao cô dám nói là Tống Ngưng yêu ta! Cô ấy lúc nào cũng hận, cũng mong ta bỏ mạng nơi chiến trường! Tống Ngưng chưa từng yêu ta!"

Nàng tìm một chỗ thích hợp đặt cây đàn cầm xuống, từ tốn giải thích cho Thẩm Ngạn: "Đó chẳng qua chỉ là những lời nói trái với lòng thôi. Thẩm Ngạn, tôi nghe đồn đã hai năm rồi ngài chưa hề tìm gặp Tống Ngưng, liệu ngài có còn nhớ được diện mạo của cô ấy chăng? Bởi tôi sắp cho ngài nhìn thấy dáng vẻ của chị ấy vào năm đó thêm một lần nữa, Tống Ngưng của bảy năm về trước, ngài nghĩ thế nào?"

Không đợi chàng trả lời, nàng đã gẩy lên âm phù cuối cùng trên cây thất huyền cầm. Hoa Tư điều chiếu ứng, ảo cảnh dệt ra... Nàng chẳng cần phải đợi sự cho phép của Thẩm Ngạn, bất kể chàng có bằng lòng hay không, có một vài chuyện, nàng muốn Thẩm Ngạn được minh bạch.

Hoàng hôn uể oải rơi trên phế tích, tấm màn của quá khứ mở ra, phản chiếu ảo cảnh trên mặt nước hồ.

Đó là hoa tuyết tung bay trong đại mạc, Tống Ngưng sít sao ép sát người vào lưng ngựa, cứ thế băng qua sa mạc hỗn loạn đá cát, cánh tay bị những mảnh đá vỡ trong trận cuồng phong rạch cứa từng đường, cô khẽ liếm lên vết thương, ôm cổ ngựa, càng thêm cấp bách thúc giục con chiến mã đang sức cùng lực kiệt trong gió cát: "Chạy nhanh thêm nữa đi mà, cố lên, chạy nhanh chút nữa! Thẩm Ngạn, chàng phải đợi tôi, nhất định phải đợi tôi!"

Đó là Tu La trận ở Thương Lộc Dã, Tống Ngưng xuống ngựa, lảo đảo chạy tới đống thi thể nằm la liệt trên chiến trường. Gió thổi tạt những vết máu lên gương mặt Tống Ngưng rực đỏ, toàn thân cô gái cũng đều là máu. Tống Ngưng cắn chặt môi, ở giữa đống thi thể, lật tìm từng cái từng cái, lật từ bình minh đến đêm khuya, cuối cùng cũng tìm ra được người mình muốn tìm. Tống Ngưng dùng tay áo lau từng chút từng chút trên gương mặt người ấy, siết sao ôm thật chặt người ấy: "Thẩm Ngạn... Tôi chỉ biết là tôi nên tới đây với chàng." Nói xong, hai tay bưng mặt, nước mắt như mưa rơi.

Đó là sơn động trong núi tuyết bên cạnh chiến trường, trên người Thẩm Ngạn khoác áo nhung bào chống rét của Tống Ngưng, cô gái ấy vất vả mớm cho chàng từng hớp nước. Trên trời không có lấy một đốm sáng, ngoài động là gió bắc gào thét, Tống Ngưng run rẩy tựa vào ngực người ấy: "Bao giờ chàng mới tỉnh lại? Phải làm thế nào thì chàng mới chịu tỉnh lại? Thẩm Ngạn... tôi sợ lắm." Cô ôm chàng, nằm co ro nép sát vào chàng: "Thẩm Ngạn, tôi sợ lắm."

Đó là ba ngày từ trên núi tuyết, cô gái ấy cõng chàng, không may sẩy chân ngã từ sườn núi tuyết mà rơi xuống, phía dưới dốc là những cọc gỗ sắc nhọn, Tống Ngưng liều mình dốc sức ôm lấy chàng, dùng chính thân mình che chắn cho chàng. Cọc gỗ chẳng may sượt ngang qua eo cô, cô nhịn đau thở phào một hơi: "May quá." Rồi cô hôn lên mắt chàng, chống tay ngồi dậy, nhẹ vuốt ve gương mặt chàng: "Tôi sẽ cứu chàng, cho dù phải mất mạng, tôi cũng sẽ cứu chàng!"

Khúc nhạc Hoa Tư réo rắt nay đã ngưng lại rồi. Nàng hỏi Thẩm Ngạn: "Ngài đã bao giờ thấy qua một Tống Ngưng như vậy?" Nói chưa dứt lời đã bị gạt phắt: "Đây không phải là sự thật, ta không tin." Trước mặt nàng, tay Thẩm Ngạn ôm ghì lấy ngực, mồ hôi lạnh túa ra hai bên thái dương, thân thể chàng run rẩy kịch liệt. Chàng trừng mắt nhìn nàng: "Là cô cho ta nhìn những thứ này, ta không tin, đó không phải sự thật, ta không tin."

Nàng cảm thấy thật tức cười, quả thật không thể ngăn nổi bản thân bật cười: "Thẩm Ngạn, rốt cuộc là thật hay giả, trong lòng ngài rõ ràng nhất. Tống Ngưng luôn muốn nói rõ mọi việc cho ngài, nhưng ngài lại không cho chị ấy cơ hội nói."

Nàng nói: "Thẩm Ngạn, ngài biết Tống Ngưng đã chết như thế nào không? Chết vì một ảo cảnh! Chị ấy sa lầy trong ảo cảnh, cam lòng vứt bỏ sinh mệnh bản thân. Trong cảnh mộng đó, ngài rốt cuộc đã yêu chị ấy, hai người bên nhau ước hẹn đến bạc đầu. Việc Tống Ngưng chìm đắm trong mộng mị như vậy, kỳ thực cũng không sao cả, con người ta nếu không thể có được trong thực tại, liền mơ mộng, đó cũng là đạo lý thông thường. Nhưng trong ảo cảnh đó, ngài chết trận, bỏ lại chị ấy sống như người vợ trẻ góa bụa bơ vơ. Mà cho dù ngài chết trận rồi, Tống Ngưng vẫn không muốn rời ảo cảnh. Chỉ cần nghĩ đến những nỗi ê chề mà ngài gây ra cho chị ấy ngoài hiện thực, so với nỗi đau mất ngài trong giấc mộng, Tống Ngưng thà lựa chọn vĩnh viễn mất ngài. Giờ đây chị ấy đã quyết liệt hỏa thiêu di hài của bản thân, một lần gặp mặt sau cuối cũng không cho ngài cơ hội nữa, trong khi, thật lòng, Tống Ngưng yêu ngài nhiều như vậy... Thẩm Ngạn, ngài biết không, chị ấy vẫn yêu ngài, vẫn yêu suốt bảy năm."

Khi nói xong những lời này, nàng thấy ngón tay Thẩm Ngạn run rẩy xoa nhẹ cái vòng ngọc trên xương cổ tay Tống Ngưng, siết chặt khớp tay trắng bạch, bỗng nhiên thân thể đổ nghiêng, nôn ra một ngụm máu, máu tươi đỏ thẫm rơi rớt trên xương sườn của di hài Tống Ngưng, lộ ra một loại dị dạng yêu mị. Chàng muốn gọi một cái tên, nhưng lại đau khổ không thể cất nên lời, mấp máy môi mấy lần mới bật ra được thanh âm: "A Ngưng." Nhưng Tống Ngưng giờ đây đã không thể đáp trả.

Nàng ôm đàn đứng dậy: "Tống Ngưng nhờ tôi mang tro cốt của chị ấy chuyển về Lê quốc, tự nhiên sau đó chúng ta cũng không còn liên quan. Thẩm tướng quân, ba ngày sau tôi đến lấy tro của Tống Ngưng."

Thẩm Ngạn không để ý đến nàng, loạng choạng ôm Tống Ngưng lên, từng bước từng bước đi ra khỏi thủy các, dường như bất cứ lúc nào đều có thể ngã xuống.

Người hầu phủ phục trên nền đất, khóc lóc như mưa.

Nàng ngơ ngẩn nói: "Vậy cũng tốt, phiền Thẩm tướng quân thực hiện di nguyện cuối cùng của Tống Ngưng, đặt cô ấy trong bình sứ đế trắng men xanh, tự tay giao lại Tống Ngưng cho ca ca cô ấy."

Không có lời hồi đáp, phải đợi rất lâu sau, giọng nói âm u của Thẩm Ngạn mới rẽ qua lớp người khóc lóc nỉ non mà truyền tới nàng: "Trước khi cô ấy chết, có dặn dò gì ta không?"

Nàng nhìn bóng lưng người ấy: "Không có, một lời cũng không. Tống Ngưng đối với ngài, chị ấy đã không còn một tia hi vọng gì rồi."

.

.

.

.

Chẳng bao lâu sau, nghe nói hai nước Lê – Khương lần nữa khai chiến. Nước Lê do đại tướng quân Tống Diễn thống lĩnh, nước Khương phái Trấn viễn tướng quân Thẩm Ngạn xuất chinh. Khi đó bọn nàng đang du ngoạn sơn thủy ở biên cảnh Khương quốc.

Mùng bảy tháng Năm, trong một đêm mưa, Tiểu Lam mang đến tin tức, nói Thẩm Ngạn tử trận ở Thương Lộc Dã. Trận chiến đó Thẩm Ngạn vốn chiếm tiên cơ, lẽ ra có thể toàn thắng quay về, không rõ vì sao lại bỏ mạng sa trường. Nghe đâu trước lúc chết, chàng bảo thuộc hạ chôn xác mình ở chốn đồng hoang của Thương Lộc Dã. Lúc hạ huyệt, bọn binh lính phát hiện chàng vẫn mang bên người một cái bình sứ Thanh Hoa nho nhỏ, trong bình sứ chứa đầy bụi trắng. Tiểu thiếp trong nhà biết tin Thẩm Ngạn tử trận, tối hôm đó cũng dùng một dải lụa trắng thắt cổ tự tử trong phòng.

Tiểu Lam hỏi nàng có cảm tưởng gì, nàng cười nói với y: "Nếu Kính Võ công chúa Tống Ngưng còn sống trên thế gian này, có lẽ Thẩm Ngạn sẽ không chết. Trên đời này sẽ chỉ có duy nhất một người sẽ bất kể tính mạng yêu Thẩm Ngạn, cứu Thẩm Ngạn; chỉ tiếc là chị ấy đã sớm chết mất rồi."

Y trầm mặc nửa ngày, nói: "Biết đâu chính bởi vì Tống Ngưng chết rồi, cho nên Thẩm Ngạn mới tìm đến cái chết?"

Nàng không tin lắm, hỏi lại: "Có chuyện đó sao?"

Y im lặng.

Nàng nhìn mưa đêm tí tách ngoài cửa sổ, lạnh nhạt nói: "Tôi không tin." Rồi cúi đầu hỏi Tiểu Hoàng: "Mày tin không?" Tiểu Hoàng đang khoan thai nhấm nháp nửa con gà nướng, nghe thấy nàng gọi nó, bèn ngẩng đầu nhìn nàng tỏ ra mù tịt, sau đó lại tiếp tục gục đầu gặm thịt gà.

Hai người bọn nàng cứ lặng thinh bên nhau như vậy, cho đến khi nàng lạ lẫm hỏi y: "Dạo này tại sao anh không mặc quần áo màu lam nữa?"

Y cười nói: "Vì sao tôi lại phải mặc màu lam?"

Nàng trả lời: "Bởi vì anh là Tiểu Lam mà."

Y nhếch mày: "Tôi còn cảm thấy khó hiểu vì sao trước giờ em không hỏi tên tôi. Chẳng lẽ Tiểu Lam không phải là cái tên em đặt riêng cho tôi..." Y lộ ra dáng vẻ suy tư, giống như đang lựa chọn từ ngữ thích hợp. Đèn hoa tách tách hai tiếng, y bất động thanh sắc nhìn nàng: "Chẳng lẽ đó không phải là cách xưng hô thân mật mà em gọi riêng tôi sao?"

Nàng nhớ lại khung cảnh lần đầu tiên gặp gỡ Tiểu Lam, quả thật là do sự thiếu sót của nàng. Vừa thay nước cho trà, nàng vừa lên tiếng: "Anh cũng có tên riêng nhỉ. Lỗi tại tôi đãng trí, cứ gọi anh là Tiểu Lam, quen thói rồi quên luôn việc hỏi anh tên thật là gì."

Y nhẹ nhàng nói: "Tôi là Mộ Ngôn, Mộ của tương tư ngưỡng mộ, Ngôn của vô dĩ ngôn đối."(*)

Nàng kinh ngạc đánh rơi chén trà vỡ một tiếng "choang" trên mặt đất.

[(*) "Vô dĩ ngôn đối": Không lời nào kể hết]

 Khúc thứ hai: Thập Tam Nguyệt

chương 1.1 : chia cách 

Hôm ấy sắc trời quang đãng, mấy người bọn nàng rời khỏi nước Khương, lựa chọn lộ trình băng qua dãy núi Thương Lan để tiến vào lãnh thổ nước Trịnh.

Mộ Ngôn bảo hôm sau sẽ rời đi. Gia đình có việc quan trọng, y cần phải lập tức trở về, những ân tình y còn thiếu nợ nàng, Mộ Ngôn hy vọng sau này sẽ có cơ hội để báo đáp.

Thật ra, Mộ Ngôn không nợ gì nàng cả. Chẳng qua là y đã quên, nếu không chuyện của nàng và y nên tính toán thế này: ngày trước nàng nợ y hai mạng, nay nàng cứu lại y một mạng, trừ đi một như vậy, kết cuộc vẫn là nàng thiếu nợ y một mạng đó thôi, đáng tiếc, Mộ Ngôn không còn nhớ. Nói chung như vậy cũng không hề gì, con gái bước sang 18 tuổi trổ mã nhiều, huống hồ so với thời điểm ba năm trước, lúc nào nàng cũng đeo mặt nạ, Mộ Ngôn không nhận ra nàng cũng phải thôi, không có gì đáng trách.

Nàng nghĩ, nàng đã yêu Mộ Ngôn bốn năm, thật không dám mong kiếp này còn duyên gặp gỡ. Ông trời có lẽ đã thương tình mà cho nàng và y có thêm một lần tương ngộ, nhưng lại bắt bọn nàng phải đứng ngăn cách ở hai đầu sinh – tử, rõ ràng trời cao kia thất đức! Nhưng để như vậy cũng tốt. Với Mộ Ngôn, tình cảm chưa được phát sinh, cho nên cũng sẽ không có gì kết thúc. Còn với nàng, tất cả đều đã sớm phát sinh, cho nên cũng sớm kết thúc rồi. Trăm nghìn tình ý chôn giấu trong tim cho đến ngày hôm nay, có lẽ chỉ là chấp niệm của một vong hồn. Chấp niệm không phải là thứ nên tồn tại trên cõi đời này, người sống – kẻ chết, vấn vương nhau cũng ích gì đâu.

Thế mà, lòng nàng vẫn không thể nào nguôi quên được. Chỉ cần nhắm mắt lại là hình bóng của Mộ Ngôn sẽ ngay lập tức lấp đầy tâm trí nàng, chiếu hữu trọn vẹn nỗi nhớ nhung của nàng. Đó là hình ảnh y gảy đàn trong hang động ở vùng núi Nhạn Hồi... Mặt nạ bạc, áo choàng xanh, ngón tay gảy lên những sợi tơ, đàn một khúc dưới trăng, âm thanh nghe như tiếng suối róc rách chảy từ ngàn xưa vọng lại.

Nàng nghĩ, nàng nên tạo cơ hội cho y lưu lại một chút gì đó cho nàng làm kỷ niệm, gì cũng được, nàng chỉ cần một chút hồi ức thôi.

Vào mùa hạ, ban ngày rất dài, đợi mãi đêm mới đến. Nàng mang theo một bình rượu, trong lòng thấp thỏm không yên, nàng đi tìm Mộ Ngôn. Nàng giả vờ như mình hoàn toàn trong sáng, tâm vô tạp niệm, tìm Mộ Ngôn chẳng qua là vì nàng đang cần một ai đó cùng uống rượu thưởng trăng. Mà sở dĩ người nàng chọn đối ẩm là Mộ Ngôn, cũng chẳng qua chỉ vì tình cờ gặp nhau trong đêm, có duyên với nhau mà thôi.

Y đang ngồi hóng mát trong đình. Trên chiếc bàn đá có bày sẵn đôi ba đồ uống rượu, Mộ Ngôn tự châm tự ẩm. Nàng rề rà đi lướt qua y, đặt bình rượu đang cầm trên tay xuống, mắt nàng chăm chú nhìn Mộ Ngôn: "Uống rượu một mình như vậy không thú vị lắm đâu."

Y ngẩng đầu nhìn nàng: "Vậy nên em mới đến tiếp rượu cho ta sao?"

Nàng cứ nhìn mãi vào chén rượu bằng men sứ trắng y đang cầm trong tay, hồi lâu mới lên tiếng: "Mộ Ngôn, anh đàn cho tôi nghe một khúc trước khi chia tay nhau, nhé!"

Y ngạc nhiên nhìn nàng, nhưng không nói gì, chỉ đặt chén rượu xuống: "Em muốn nghe khúc nhạc nào?"

Nàng ngẫm nghĩ: "Cũng không có khúc nào đặc biệt muốn nghe cả."

Y vẫy tay ra hiệu cho Chấp Túc đang đứng cách đó không xa, rồi quay lại nhìn nàng: "Vậy thì..."

Nàng ngồi xuống bên cạnh y, ngắt lời: "Vậy thì anh cứ đàn hết cho tôi nghe một lượt tất cả các khúc nhạc mà anh biết đi, nha!".

"..."

* * *

Không lâu sau, Chấp Túc mang tới một chiếc đàn, cô đặt nó ở trong đình hóng mát của khách điếm. Xung quanh đình này trồng rất nhiều cây hoa dã quỳ, từng khóm hoa nở rộ dưới ánh trăng, lung linh sắc trắng phớt hồng, những cánh hoa ấy bung nở như một dòng sông sáng bạc trong biển mây trời. Nàng hơi cúi đầu, cứ nhìn Mộ Ngôn đắm đuối. Chàng ngồi yên giữa biển ánh sáng bồng bềnh đó, gương mặt sau khi gỡ bỏ lớp mặt nạ ra thì tuấn tú vô cùng. Ngón tay chàng chạm vào sợi dây đàn, Mộ Ngôn tùy ý gảy một vài tiếng thẩm âm, rồi chàng ngẩng đầu, mỉm cười nói: "Nếu ta gảy cho em nghe hết một lượt tất cả những khúc nhạc mà ta biết, có lẽ em sẽ phải thức trắng cả đêm mất đấy."

Nàng không nói gì, nhưng lại không kìm nổi cái ý nghĩ le lói: Chàng cứ đàn, em có thể nghe cả một đời...

Tiếng đàn vang lên, giai điệu ấy nàng chưa từng nghe qua. Tay nàng chống cằm, hỏi: "Mộ Ngôn, anh chưa lập gia đình đúng không?"

Tiếng đàn vẫn êm trôi, Mộ Ngôn chỉ hơi hơi nghiêng đầu, hỏi một tiếng mơ hồ: "Thì sao?"

Nàng lại nói: "Anh có thể... cưới một người đã chết làm vợ không?"

Ngón tay đang gảy đàn của Mộ Ngôn khựng lại. Ánh trăng phản chiếu lên gương mặt chàng, lúc đậm, lúc nhạt. Trong làn ánh sáng lãng đãng ấy, Mộ Ngôn quả thật tuấn tú phi phàm, vẻ đẹp này không thể chỉ dùng một hai lời mà miêu tả được! Nhìn Mộ Ngôn, nàng tự dưng được tiếp thêm rất nhiều dũng khí để nói tiếp. Nàng khuơ khuơ tay tước mặt Mộ Ngôn: "Cô gái đó lớn lên cũng đẹp, tính tình khá tốt. Hầu như các bậc trưởng bối đều yêu thích nàng. Gả nàng cho anh, tuyệt đối sẽ không phát sinh vấn đề mẹ chồng – con dâu. Hơn nữa, nàng ấy lại có một chút hiểu biết về cầm kỳ thi họa, sẽ không làm cho anh mất mặt. Ngoài ra, nàng ấy tuy không nấu ăn ngon, nhưng cũng biết nấu một chút, ngặt một nỗi... nàng ấy đã chết rồi..."

Nàng cứ tự tâng bốc mình, cảm thấy da mặt mỗi lúc một dày, càng nói càng thổi phồng chính mình. Mộ Ngôn nhẫn nại nghe nàng trình bày, một lúc sau thì dở khóc dở cười: "Em muốn nói đến minh hôn?" (*)

Nàng cũng không biết nếu nàng gả cho Mộ Ngôn thì có gọi là "minh hôn" không. Nhưng cũng chẳng có cách lý giải nào khá hơn, cho nên gật gật đầu.

Mộ Ngôn kiên nhẫn nhìn nàng thật kỹ, một lúc sau mới tiếp tục chơi đàn. Chàng lắc đầu nói: "Thật không hiểu cái đầu của em có thể nghĩ ra những chuyện gì! Em muốn làm mai ta cho một người chị em đã chết nào à?"

Ánh mắt nàng nhìn y, sáng ngời ngời: "Đúng rồi."

Dây tơ đàn dường như âm vang run rẩn. Mộ Ngôn cười nói: "Lẽ ra ta phải biết em thích làm những chuyện như vậy chứ! Nhưng họ Mộ của chúng ta không thể không có người nối dõi được. Chỉ đành nói lời cảm ơn đối với ý tốt của em thôi."

Một lần nữa nàng gục người trên bàn, hai mắt nhắm lại. Cơn gió đêm nay rõ ràng rất khoan hòa ấm áp, tại sao toàn thân nàng lại cảm thấy lạnh lẽo thế này? Mặc dù hiểu rõ khoảng cách giữa sinh và tử, nhưng lòng lưu luyến quá, vậy nên trái tim cứ ôm ấp mãi ảo tưởng, cứ ước ao rằng sẽ có một kết cục khác, cuối cùng, thất vọng vẫn chỉ là thất vọng mà thôi. Nàng muốn nói cho Mộ Ngôn nghe biết bao, nói chàng nghe rằng cô gái mang mặt nạ đang ngồi bên chàng ngày hôm nay cũng chính là cô bé năm xưa bị rắn cắn suýt chết trên núi Nhạn Hồi, cô bé ấy lớn lên sẽ có hình dáng như thế này, cô ấy vẫn luôn ôm ấp hy vọng được gả cho chàng. Cô ấy cứ tìm chàng, tìm mãi, tìm mãi, tìm suốt ba năm rồi, nhưng không tìm được. Lòng nàng như nghẹn lại, nàng biết phải nói sao về điều cuối cùng – điều quan trọng nhất: cô gái đeo mặt nạ ngày hôm nay là một người đã chết.

Đêm, nàng nằm gục xuống chiếc bàn nhỏ, tiếng đàn của Mộ Ngôn dịu dàng ru nàng vào giấc ngủ. Sáng hôm sau nàng nghe Quân Vĩ nói lại, rằng vào thời điểm canh tư, Mộ Ngôn ôm nàng về phòng. Lúc nàng tỉnh dậy thì Mộ Ngôn đã đi rồi. Cũng giống như cái đêm ở núi Nhạn Hồi ba năm về trước, chưa hiểu hết về nhau thì đã là ly biệt. Nàng cũng không nghĩ ngợi phiền ưu gì, chẳng qua, bên lồng ngực trái – nơi đặt giao châu – trái tim nàng nay là một khoảng trống rỗng mà thôi...

[minh hôn : kết hôn với người cõi âm]

chương 1.2 : tung tích 

Nơi nàng sắp đến là thành Tứ Phương, kinh đô của nước Trịnh. Thoạt nghe qua cái tên, nàng không kiềm được suy nghĩ là tòa thành này được xây dựng theo một nguyên lý hình học cao thâm. Sau mới biết tất cả chỉ do hiểu lầm, sở dĩ thành có tên gọi "Tứ Phương" chỉ vì dân chúng ở đây thích chơi mạt chược. Nàng, Quân Vĩ và Tiểu Hoàng lập thành bộ ba, khua chiêng đánh trống rùm beng chạy đến tòa thành Tứ Phương. Chẳng là Quân sư phụ vừa gửi bồ câu truyền tin cho bọn nàng, thông báo: có mối làm ăn mới! Khách hàng lần này cũng có thân phận tương đối đặc biệt: phu nhân của Trịnh bình hầu.

Nghĩ lại chặng hành trình cũng thật sự gian nan vất vả vô cùng. Địa hình của nước Trịnh vốn nhiều sông lắm núi, vì vậy lựa chọn phương tiện thuyền là hợp lý nhất. Nhưng vừa nhìn thấy Tiểu Hoàng, chẳng thuyền đò nào chịu chở bọn nàng qua sông hết. Công nhận thời buổi này cũng khó gặp kẻ nào yêu tiền hơn mạng, họa hoằn lắm, nếu có người như thế, bọn nàng cũng phải trả một cái giá đắt gấp nhiều lần số tiền thực tế. So với vụ rắc rối trước đây liên quan tới Tiểu Hoàng và con ngựa, lần này đâu phải nướng ngựa lên cho nó ăn là êm chuyện đâu! Mọi sự giờ đây còn khó hơn rất nhiều. Nghĩ mãi cũng chẳng ra biện pháp nào khả dĩ hơn là nhẫn nhịn chịu đựng, chấp nhận bị người ta bắt chẹt. Nhưng càng về sau, tiền đi đường càng cạn dần, lúc này nàng chỉ sợ chưa đến được thành Tứ Phương thì đã nhẵn túi mất rồi. Quân Vĩ bị dồn ép, tức quá làm ầm lên uy hiếp chủ thuyền: "Muốn tiền không có, muốn mạng thì có một cái, rốt cuộc ông chở hay là không chở? Nếu không chở ta thả hổ ra cắn chết ông luôn!" Nàng không ngờ được biện pháp này của Quân Vĩ lại rất đắc dụng nha! Chủ thuyền vâng răm rắp nghe theo. Nhưng đến khi lên trên bờ thì bọn nàng bị ông ta báo quan, bắt gọn cả đám. Lão quan phủ cấp địa phương đã phạt cả bọn một số tiền lớn, đó cũng là khoản tiền đi đường cuối cùng của bọn nàng.

Lúc này, thành Tứ Phương vẫn còn cách bọn nàng năm mươi dặm, dự tính đi nhanh cũng phải mất đến ba ngày. Nhưng trên người một cắc bạc cũng không có, chỗ ăn chỗ ở biết tính sao? Quân Vĩ nghĩ ra giải pháp là hắn sẽ vừa đi vừa tiến hành sáng tác một bộ tiểu thuyết, hiện tại, thể loại ngôn tình đang thịnh hành là ngược luyến, cứ viết theo dòng này đảm bảo rất có tương lai, mà bán được tiểu thuyết thì tất sẽ có tiền lộ phí. Nàng và Tiểu Hoàng nghĩ xong thì rất cao hứng, cảm thấy ngập tràn hy vọng, khí thế bừng bừng, dựng sạp bán tiểu thuyết, trông đợi xiết bao.

Kết quả? Không bán được lấy một quyển.

Về sau khi đem mọi chuyện ra phân tích rõ ràng, nàng mới thấu hiểu nguyên nhân sâu xa của vấn đề ế ẩm này là: trong sách không vẽ xuân cung đồ* nên không ai chịu mua. Nhưng lúc đó nàng vẫn chưa giác ngộ được điều này, chỉ cảm thấy con đường trước mắt như khép lại với mình. Cân nhắc một hồi lâu, cảm thấy biện pháp duy nhất có thể cứu vãn nổi tình thế là để Tiểu Hoàng hi sinh bản thân, đi ngược lại với sở thích thường ngày, biểu diễn tiết mục "hổ ăn cỏ" kiếm tiền trên phố.

Trong lúc ép Tiểu Hoàng mãi nghệ, bọn nàng đã chạm mặt Bách Lý Tấn, chẳng là hắn đi hái thuốc về thì gặp bọn nàng. Bách Lý Tấn là một nhân vật cực kỳ quan trọng, sau này bọn nàng mới biết hắn là người của gia tộc thần y, tức cháu trai của Dược thánh Bách Lý Việt đương thời. Không nhận ra người cũng không thể trách bọn nàng được. Ai bảo cái tên này khi lên sân khấu đã biểu hiện rất có lỗi với dòng họ vang danh của hắn: trên tay không phe phẩy quạt, giữa eo không mang theo trường kiếm. Hắn chỉ mặc có một bộ quần áo trắng ( thực ra màu chỗ đen chỗ xám), hắn chẳng có vẻ gì là phiêu diêu thoát tục, hơn nữa trên lưng lại còn vác một cái sọt thủng. Ai cũng vậy thôi, nhìn toét cả mắt cũng đố mà nảy sinh liên tưởng: "Ôi, người này vừa nhìn đã biết là cao nhân" hoặc "Ôi, người này vừa nhìn đã biết ngay là hậu nhân của cao nhân!"

Lúc đó mặt trời cũng từ từ lặn ở phương Tây, chim thong thả bay về tổ. Bọn nàng bày biện xong sạp hàng mãi nghệ, mang rơm rạ, rễ cây rau dại ( đào lung tung ở khắp nơi) sang một bên. Tiểu Hoàng ngay lập tức nhảy tới gặm đám rau dại ấy.

Mấy người nông dân đi làm đồng về, nhìn thấy cảnh lạ lùng này thì nhao nhao rủ nhau đứng lại xem, ngay lập tức họ vây lại tạo thành một vòng tròn thật lớn.

Đám đông chăm chú vừa nhìn vừa chỉ trỏ. Tiểu Hoàng thì đang (đau khổ) gặm một củ cà rốt, tiếng vang sần sật. Những người nông dân kia hết ngạc nhiên lại tấm tắc khen ngợi không tiếc lời.

Lúc này, Bách Lý Tấn chật vật khổ sở mới chen được vào giữa đám người. Hắn ngồi phịch xuống, nhặt lên một cái củ cái trắng to nhất trong đám rau dại. Bách Lý Tấn ngẩng đầu hỏi Quân Vĩ: "Củ cải này bán thế nào vậy ông anh?"

Quân Vĩ: "?"

Bách Lý Tấn dò xét một lúc vẫn không ra biểu cảm trên nét mặt Quân Vĩ là đang có dụng ý gì, băn khoăn mất nửa ngày, sau đó hắn lại cầm lên một củ cà rốt: "Nếu như tôi mua của anh hai củ cải trắng, anh có thể tặng thêm cho tôi một củ cà rốt nho nhỏ này không?"

Nàng nhìn thấy lông mày Quân Vĩ giật giật hai lần, sau khi giật xong, sắc mặt tuyệt không còn chút biểu cảm nào. Hắn đưa tay chỉ chỉ về phía Tiểu Hoàng đang nằm co lại một góc để gặm cà rốt. Theo cái chỉ tay của Quân Vĩ, có thể hiểu rằng hắn đang ra hiệu là bọn nàng đang biểu diễn tạp kỹ chứ không phải là đang bán củ cải.

Bách Lý Tấn nhìn chăm chú, giật mình: "Ôi, hóa ra mua củ cải còn được tặng cả hổ nữa à?"

Nàng lại trơ mắt nhìn lông mày Quân Vĩ giật giật thêm hai cái nữa, miệng hắn mấp máy gì đó, khó khăn lắm mới nói được tròn tiếng: "Không tặng hổ, con hổ này không tặng ai hết!"

Bách Lý Tấn rất biết điều, rất thông cảm mà cầm củ cà rốt lên: "Ôi, cũng không việc gì đâu, không tặng hổ thì chỉ cần tặng tôi cây cà rốt này là được rồi."

Khóe miệng Quân Vĩ tiếp tục co giật: "Cà rốt cũng không tặng!"

Bách Lý Tấn ngạc nhiên vô cùng, tay trái của cậu ta giơ củ cà rốt lên, huơ huơ trước mặt Quân Vĩ: "Không khiến anh cho không, tôi sẽ trả tiền! Mà có phải là tôi mua ít đâu, thế mà keo kiệt không khuyến mại cho người ta một chút! Người ta chỉ xin thêm mỗi một câu củ cà rốt be bé thôi chứ có phải gì to tát đâu..."

Nàng thầm đoán, chắc Quân Vĩ đã chịu đựng đến giới hạn cực điểm rồi đây! Chưa nghĩ xong thì nàng đã trông thấy một cái bóng trắng xám bay vèo như một đường parabol rồi hạ cánh đáp xuống đất. Dưới ánh mặt trời, Quân Vĩ đứng từ trên nhìn nhìn xuống Bách Lý Tấn nằm đo đất bất tỉnh, biểu cảm của Quân Vĩ mang theo vẻ khinh bỉ chế nhạo vô cùng. Thậm chí hắn còn phủi phủi tay, phủi xong thì chùi luôn lên áo nàng.

Đây chính là buổi gặp gỡ đầu tiên của bọn nàng với đứa cháu trai nhỏ nhất của gia tộc Bách Lý, cũng là lần đầu tiên Quân Vĩ thể hiện khí phách nam nhi vẫn luôn tiềm ẩn trong con người hắn.

.

.

.

Hai ngày sau, bọn nàng đã gom đủ lộ phí để tiếp tục lên đường, nếu chi tiêu dè xẻn thì cũng có đủ cơm để ăn, có phòng trọ để ngủ. Nàng nghĩ vậy cũng ổn rồi, không nên bắt Tiểu Hoàng phải lao lực quá. Bởi vì chỉ cần vào được tới kinh thành thì nhìn đâu cũng ra cơ hội kiến tiền, ví dụ như đem Quân Vĩ đi bán cũng là một cách hay! Nhưng kể ra bọn nàng số khổ, một lần nữa lại bị người ta báo quan. Quan phủ sau khi điều tra một hồi thì thấy không có cớ gì để phạt vạ bọn nàng cả, vì bọn nàng sống tuân thủ thep pháp luật mà. Thế nhưng lão quan đó vẫn cố bới lông tìm vết chứ không chịu trở về tay không, lão đã khép bọn nàng vào cái tội: Ép buộc hổ mãi nghệ, tội danh ngược đãi động vật, phạt tiền! May sao lão quan này vẫn còn một chút ít nhân tính, sau khi cướp bạc, tốt xấu gì cũng để lại cho bọn nàng vài cắc bạc để thuê phòng trọ.

Quân Vĩ nói: "Chuyện tốt này nhất định là do cái tên ái nam ái nữ kia mách lẻo!" Người Quân Vĩ vừa ám chỉ chính là Bách Lý Tấn.

Nàng thì cảm thấy việc bọn nàng bị quan phủ phạt vạ với cả Bách Lý Tấn vốn chẳng mắc mớ gì với nhau. Bản thân cậu ấy còn không hiểu loài hổ ăn thịt hay ăn chay thì làm sao mà chạy đi báo quan được. Biết đâu cậu ta còn cho rằng loài hổ là cái giống trời sinh ra đã thích ăn cỏ.

Nàng cũng cho rằng việc gặp gỡ Bách Lý Tấn, cùng lắm chỉ là một sự tình cờ chạm mặt nhau giữa biển người mênh mông thôi, chẳng cần phải lưu tâm làm gì. Ai ngờ chạng vạng sáng ngày thứ tư, hai bên lại tương phùng nhau tại một khách điếm nhỏ ở vùng ngoại ô thành Tứ Phương. Không những thế, Quân Vĩ lại còn ngủ chung giường với cậu ta.

Kể ra có duyên với nhau như vậy thật là hiếm đi! Nguồn cơn là do khách điếm này chỉ có quy mô nhỏ nhỏ thôi, lúc bọn nàng đến thuê thì chỉ còn lại một phòng duy nhất. Mọi sự sau đó cũng rất dễ đoán: vì thanh danh của nàng, Quân Vĩ làm sao dám cùng ở chung một phòng với nàng đây? Mà nếu đã không ở chung, hắn chỉ có cách đi tìm phòng chứa củi mà nằm, hoặc cũng có thể nằm dưới gốc liễu già ngoài cửa khách điếm, nghĩ mà thấy Quân Vĩ thật đáng thương biết bao!

Hắn cũng từng cân nhắc giữa việc hủy đi thanh danh của nàng với việc chịu khổ một đêm trong phòng củi, rốt cuộc nghĩ nếu cùng ở chung một phòng với nàng, nhất định sẽ bị Quân sư phụ dùng loạn côn đánh chết! Vậy cho nên dẫu không tình nguyện chút nào, Quân Vĩ cũng đành phải thu dọn chăn màn đi xuống phòng củi nằm tạm một đêm. Nàng và Tiểu Hoàng cùng nhìn hắn bằng ánh mắt thương hại vô cùng. Ai ngờ chăn chiếu đã xếp gọn ghẽ hết rồi, lúc Quân Vĩ đi ngang qua cầu thang, có một cái bóng áo trắng trắng xám xám đột nhiên tiếp cận hắn: "Ồ, xem ai thế này, không phải là gã bán củ cải trên phố mấy hôm trước hay sao? Vẫn khỏe cả chứ?"

Bọn nàng chuyển ánh mắt, hướng cái phía kẻ đó: chẳng phải vẫn là Bách Lý Tấn sao? Ông chủ khách điếm run rẩy đứng bên cửa quầy, sau khi lấm lét nhìn Tiểu Hoàng, ông ta thì thầm to nhỏ điều gì đó với Lý Bách Tấn. Cậu ta quan sát bọn nàng một hồi, sách đó lách người chen vào giữa Quân Vĩ và nàng: "Hóa ra là thiếu phòng. Phòng của tôi lại rất lớn nha, anh có chịu ở chung phòng với tôi không? Tiền trọ hai ta có thể chia đôi, hắc hắc hắc." Nàng chưa kịp trả lời gì thì Quân Vĩ đã đáp lại cái cười nham hiểm của Bách Lý Tấn bằng nụ cười rất hòa nhã: "Được, chúng ta ở chung!" Bách Lý Tấn thôi không cười nham nhở nữa.

Ăn cùng nhau một bữa cơm, lập tức trở thành quen biết.

Cơm xong, ai về phòng người nấy để đi ngủ.

Lúc gần ngủ, mí mắt nàng máy kịch liệt. Nàng cảm thấy đây là điềm báo sẽ có chuyện không may gì đó xảy ra, bởi lẽ từ nhỏ tới giờ, trực giác của nàng rất linh mẫn. Giả sử nàng dự cảm có chuyện xấy gì đó sắp xảy ra, 9/10 là nó sẽ xảy ra.

Nàng cảm thấy lo sợ vô cùng, muốn ngủ cũng không thể nào an giấc, cứ thể mở mắt trừng trừng từ đêm đến sáng. Cuối cùng, khi mặt trời đã mọc lên từ phương Đông, một đêm an lành trôi qua mà chẳng xảy ra bất kì chuyện gì cả. Thế nhưng lúc nàng dẫn theo Tiểu Hoàng đi từ trên lầu xuống ăn sáng, nhìn thấy Quân Vĩ và Bách Lý Tấn ngồi ở góc gần cửa sổ, thần sắc hai người bọn họ có vẻ gì đó quái đản vô cùng. Anh chàng Bách Lý Tấn húp một ngụm cháo rồi nhìn Quân Vĩ chằm chằm, biểu hiện như đang cố nén cười. Mà Quân Vĩ thì ngoài sắc mặt rất âm u, không thấy có phản ứng gì khác.

Tiểu Hoàng ve vẩy chiếc đuôi lượn lờ dưới chân nàng, mắt dán vào nửa nổi cháo trước mặt, ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Một lúc sau, nó chớp chớp ánh mắt đầy thương cảm nhìn về phía Quân Vĩ.

Quân Vĩ sốt ruột nói: "Hôm nay con không thể ăn gà nướng. Chúng ta sắp hết tiền đi đường rồi."

Tiểu Hoàng dường như không thể tin được sự thật ấy, quay ngoắt đầu sang một bên hờn dỗi. Bách Lý Tấn đi tới gần bên nàng, thì thầm hỏi: "Cô biết Trăn Nhi là ai không?"

Đôi đũa của Quân Vĩ vốn đang gắp dưa muối đột ngột khựng lại, chuyển hướng chĩa về Bách Lý Tấn, rồi hất ánh mắt ra hiệu cho Tiểu Hoàng: "Con ngoan, nếu con muốn ăn thịt bây giờ thì sẵn có một đứa ở đây này!"

Tiểu Hoàng quả nhiên đứng dậy, liếm liếm răng. Bách Lý Tấn nhảy vèo một cái lên ghế, ngón tay run rẩy chỉ vào Quân Vĩ: "Một đêm ân ái vợ chồng, trăm ngày tình nghĩa. Quân Vĩ, anh là kẻ bạc bẽo vong ơn!"

Nàng nghe đến đây, phun hết cả cháo ra bàn. Chiếc đũa trong tay Quân Vĩ gẫy thành hai khúc.

Nàng run rẩy: "Hai người các anh..."

Quân Vĩ nhặt hai chiếc đũa gãy lên, hết trừng mắt nhìn Bách Lý Tấn lại quay sang lườm nàng: "Không có chuyện gì, em đừng nghe hắn nói linh tinh."

Bách Lý Tấn khăng khăng lắc đầu, ngồi xổm trên ghế, ghé ghé bên tai nàng như muốn chia sẻ bí mật, nàng cũng rất hứng thú nghiêng người sang bên để nghe cậu ta nói rõ hơn:

"Cô không biết đâu, tối qua tên này ấy, hắn nằm mơ, trong mơ lại còn..."

Nói chưa dứt lời, cậu ta đã bị Quân Vĩ nhét cho cái bánh bao vào miệng.

Nàng cảm thấy lo lắng vô cùng, vội vã "hướng đạo" cho Quân Vĩ khỏi lầm đường lạc lối: "Anh với Bách Lý Tấn... Không phải là anh nhìn thấy người ta xinh đẹp như hoa, tối qua lại là đêm trăng thanh gió mát, anh đã bị mê hoặc mà làm gì người ta rồi, không phải như thế chứ..."

Nói chưa xong lời, nàng cũng bị Quân Vĩ nhét luôn cho một cái bánh bao khác vào miệng. Thậm chí hắn còn thở hổn hển ra lệnh cho Tiểu Hoàng: "Hai đứa này cha đều cho con hết, để bọn nó làm bữa sáng của con luôn cũng được!"

Tình hình có vẻ căng thẳng, mâu thuẫn nội bộ có xu hướng leo thang. Bỗng nhiên vang lên tiếng cười khinh mạn từ phía bàn bên cạnh, chẳng rõ là đang nói chuyện gì: "Vị công tử lương thiện mà các người vừa nhắc đến, hắn ta sau khi diệt xong nước vệ thì đem tất cả những vị trung thần của nước Vệ ra chém sạch. Đó chính là Trần thế tử Tô Dự – Tô Tử Khác". (*)

Khi nghe đến hai chữ "nước Vệ", nàng và Quân Vĩ không hẹn mà gặp, cùng ngoảnh đầu nhìn về phía bàn bên cạnh. Ở đó có mấy người kẻ sĩ tụ tập thành một nhóm đông luận đàm chuyện quốc sự. Kẻ vừa lên tiếng là một gã sĩ phu độ tuổi trung niên.

Ông ta định nói tiếp thì bị người thanh niên áo trắng ngắt lời: "Ông anh nói sai rồi. Chém giết đại thần nước Vệ không phải thế tử Dự. Nước vệ bị diệt, thế tử  nhận lệnh Trần hầu tiếp quản, nhưng không may ngài lại nhiễm bệnh, phải quay về Hạo thành tĩnh dưỡng. Lúc này Doãn tể tướng mới tiến cử quan đình úy Công Dương Hạ đến nước Vệ để cai quản. Công Dương Hạ kia bản tính tàn nhẫn, lại nóng nẩy muốn lập công với Trần hầu, vừa đến nơi đã cho chém sạch mấy vị cựu thần, chơi một bài giết chó dọa khỉ, đánh phủ đầu hòng ra oai. Sau đó ông ta đem di dân của Lịch thành và Yến thành* sang kinh đô nước Vệ sinh sống, khiến cho người dân nước Vệ trở thành những kẻ bơ vơ không nhà không cửa, phải đi lang bạt kỳ hồ. Kẻ này còn cho xây dựng cả một cơ ngơi rất hoành tráng làm phủ đệ riêng cho mình. Thế tử Dự lúc đó đang dưỡng bệnh, không hề biết chuyện. Khi bệnh tình thuyên giảm, đã có thể phê duyệt công văn, biết được tin, ngay lập tức ngài thúc ngựa như bay tiến đến nước Vệ, tự tay chém chết Công Dương Hạ ngay trước phủ đệ của hắn. Sau đó còn treo đầu hắn trước tường thành để tạ tội với bách tính. Hiện giờ con dân nước Vệ đều quy phục thế tử Dự, nhìn ngài chẳng khác gì bậc phụ mẫu tái sinh. Đất nước này vong quốc chưa đầy nửa năm, vậy mà người dân đều trên dưới một lòng quy phục theo Trần. Hai chữ hiền đức này, nếu không phải thế tử Dự thì còn ai có thể đảm nhận?"

Vị sĩ phu kia cười nhạt một tiếng: "Chẳng qua là cái chiêu mượn dao giết người đó thôi. Trước mượn tay Công Dương Hạ, khiến hắn làm hộ mình những chuyện mình không tiện làm, sau đó trừ bỏ hắn để che mắt, và cũng là thu phục nhân tâm. Kết quả cũng không tồi, toàn bộ người trong thiên hạ đều đội ơn đội đức, thật là một vị thế tử hiền đức hiếm thấy!"

Mấy người bạn của người thanh niên áo trắng nghe thấy thế thì đập bàn đập ghế, nổi nóng đứng lên: "Ông dám..." Chủ quán trông thấy tình hình có vẻ không ổn thì hấp tấp chạy ra khuyên giải: "Chớ nên nói chuyện quốc sự ở đây, không nên không nên."

Quân Vĩ dùng đũa gắp dưa muối cho nàng: "Nói tôi nghe xem em đang nghĩ gì?"

Nàng ngẫm ngợi, cảm thấy mình thật sự không nghĩ gì cả. Chẳng qua, khi nghe thấy vương triều nước Vệ vẫn còn sót lại vài vị quan trung lương thì cũng khá ngạc nhiên.

Quân Vĩ hết nhìn Bách Lý Tấn đang ngồi xổm trên ghế, lại nhìn sang nàng. Quân Vĩ tính mở miệng nói gì đó, song lại cảm thấy không tiện nói chuyện này với nàng trước mặt người ngoài nên lại thôi. Mâu thuẫn mất nửa ngày, cuối cùng hắn vùi đầu vào húp cháo. Nàng đoán Quân Vĩ  đang lo lắng cho nàng. Hắn sợ nàng vẫn còn nhớ bản thân đã từng là công chúa của nước Vệ, nghe chuyện về Tô Dự xảo trá thế này thì sẽ căm thù y, lại muốn vì đất nước mà báo thù, chạy đi ám sát y chẳng hạn. Nhưng nàng tuyệt đối không có ý định này đâu! Nàng nghĩ cần phải nói gì đó để cho Quân Vĩ yên tâm mới được, thế là nàng dầm dầm củ cải với dưa muối ở trong bát, cất lời: "Nếu tôi là Tô Dự, có lẽ tôi cũng hành động như vậy thôi. Người làm chính trị trong thời buổi loạn lạc thì phải ác như hổ báo, gian xảo như hồ ly. Còn hai chữ "hiền đức" chỉ đem ra lòe bịp thiên hạ là được rồi, đâu cần thật lòng phải hiền đức đâu. Giả bộ hiền đức mà có vẻ giống thật như thế cũng cao tay đấy chứ."

Không biết từ khi nào Bách Lý Tấn đã thả chân xuống, giờ đây cậu ta đã ngồi trên ghế rất đường hoàng. Bách Lý Tấn cũng góp chuyện: "Theo như lời cô nói, Tô Dự bày ra bao nhiêu chuyện như thế này, chỉ để dựng lên một cái hình tượng hiền đức cho thiên hạ nhìn vào?"

Nàng không bình luận gì, chỉ nói: "Ừ, mà nếu là vậy thật, chúng ta không nên đánh giá Tô Dự là kiểu người hiền đức, phải nói là khi mưu kế thành công, Tô Dự thong thả làm ngư ông đắc lợi, nhàm rỗi đến phát cuồng! Công Dương Hạ chẳng phải đã đem đám quần thần nước Vệ giết sạch rồi sao? Từ sau nước Vệ không còn hy vọng phục quốc nữa, thật đáng chúc mừng Tô Dự. Công Dương Hạ chẳng phải đã di dời một phần người dân nước Trần đến Yến thành và Lịch thành rồi sao? Những người này thời bình có thể làm ruộng cấy cày, có loạn thì lập tức sẽ giúp đỡ quan lại trấn áp đám người muốn làm phản. Như vậy sẽ tiết kiệm được rất nhiều tiền của so với chiến phí chuyển quân từ nước Trần sang dẹp loạn..."

Bách Lý Tấn càng nghe càng không hiểu, biểu tình mù mịt. Nàng nghĩ đối với người ngây thơ như vậy, cần phải đưa ra một ví dụ gần gũi một chút để cho cậu ta cảm thấy dễ hiểu. Nghĩ một lúc, nàng nói: "Ví như như cậu muốn đi đến một đất nước nào đó để mở lầu xanh. Cậu mang theo rất nhiều cô gái xinh đẹp. Nhưng luật pháp của đất nước mà cậu đặt chân đến có quy định rằng: chỉ các ngày lễ tết mới cho phép thanh lâu hoạt động. Cậu nghĩ xem, bình thường cậu nuôi nhiều cô gái trẻ như vậy vốn đã không dễ dàng gì rồi. Nhưng nếu đem cho mỗi người một ít ruộng, để các cô ấy cày cấy, tự làm tự ăn, như vậy không phải là sẽ giảm được rất nhiều chi phí sao?"

Bách Lý Tấn gãi gãi đầu: "Nhưng nếu đất nước kia chỉ cho phép mở cửa lầu xanh vào những ngày lễ tết, vậy thì tại sao tôi lại phải vượt đường xa nghìn dặm, đến cái nơi khó khăn như vậy để mở lầu xanh chứ!"

Nàng cảm thấy chẳng có cách nào để khai thông cho kẻ như Bách Lý Tấn.

Mà lúc này, vị sĩ phu độ tuổi trung niên kia đã bị chủ khách điếm khuyên giải dời đi chỗ khác. Một bàn nào đó bên cạnh lại truyền đến tiếng thở dài, không rõ là họ đang nói về chuyện gì, nàng chỉ nghe được có nửa vế sau: "... Nước Vệ diệt vong là chuyện đáng đời, chỉ tiếc cho Văn Xương công chúa. Nghe đâu từ nhỏ công chúa đã theo học vị thánh nhân đương thời là lão tiên sinh Huệ Nhất. Nàng là nữ đệ tử duy nhất của tiên sinh. Công chúa tài mạo song toàn, phong tư khuynh quốc, hoa nhường nguyệt thẹn, lại còn là người có trí tuệ bất phàm. Khi nàng mười sáu tuổi, không biết đã có bao nhiêu vương tôn công tử gửi lời cầu thân..."

Lại có người lên tiếng: "Tôi từng nghe nói, tại sinh nhật lần thứ hai mươi hai của thế tử Dự, ngài cũng nhận được một bức tranh vẽ chân dung Văn Xương công chúa. Nhìn xong, ngài đã nói một câu rất kỳ quái: 'A, ra nàng là Diệp Trăn? Từ một cô bé con nay đã trổ mã thành một cô gái đẹp thật rồi'Tuy nhiên, đây chỉ là những chuyện thâm cung bí sử (*), không biết là thật hay giả. Tuy nhiên, dung mạo của Văn Xương công chúa viết trong truyền thuyết thì trăm lời như một. Nàng ấy chắc chắn phải là một thiếu nữ nhan sắc chim sa cá lặn, lại thêm cầm kỳ thi họa tinh thông..."

Quân Vĩ hỏi nàng: "Sao tự dưng run lẩy bẩy vậy?"

Nàng cầm chén cơm, người vẫn không khỏi run bần bật: "Tôi không biết, tự dưng toàn thân cứ nổi hết cả da gà lên... Không sao, ăn cơm ăn cơm."

Quân Vĩ ra hiệu cho nàng im lặng: "Sau đoạn phong hoa tuyết nguyệt này là đến đoạn chư hầu phân tranh, thiên hạ đại loạn. Em đừng nói gì, để tôi nghe thêm một lát."

Nàng: "?"

Quân Vĩ đáp: "Có gì đâu mà thắc mắc! Thiên hạ loạn lạc vốn là nỗi lo chung của tất cả mọi người. Tôi quan tâm một chút không được sao?"

Nàng kinh ngạc nhìn hắn: "Anh đâu phải người khiến cho nó loạn, liên quan gì đến anh mà quan với chả tâm? Mấy cái chuyện loạn thời loạn thế này là việc riêng của hoàng đế và chư hầu. Một bên thì liều mạng ngăn không cho thiên hạ loạn. Một bên thì liều mình quyết tâm bắt nó loạn. À đúng rồi, còn nhớ có một giáo phái lớn chẳng ưu sầu gì ngoài lo lỡ chẳng may thiên hạ không hỗn loạn thì sao, nhưng đây lại là vấn đề của tôn giáo, thuộc phạm trù ý thức thần bí, không liên quan lắm..."

Quân Vĩ chết ngất: "...Tôi chỉ quan tâm đến chính trị một chút thôi, em có cần phải nói thế không..."

Nàng vỗ vỗ vai hắn: "Những người chính trực đều không nên theo con đường chính trị mà làm gì! Chuyện này không thích hợp với anh đâu. Tôi thấy anh phù hợp hơn với việc luyện kiếm, hoặc là đi viết mấy quyển tiểu thuyết ngôn tình đem bán còn có tiền đồ hơn. Thôi đến đây, ăn cơm ăn cơm."

Bách Lý Tấn sáp lại: "Vì sao người chính trực lại không thể làm chính trị?"

Nàng kiên nhẫn giải thích cho cậu ta: "Cậu xem, thời buổi nhiễu nhương, bản thân chính trị cũng trở nên xiên vẹo. Nếu như cậu không biết cách lươn lẹo theo nó, cậu sẽ bị phản phệ. Nó đập ngược lại cậu, cậu lập tức đi đời."

Bách Lý Tấn bừng tỉnh: "Như vậy, nếu không phải là người xiên vẹo, có nghĩa là không thể theo nghiệp chính trị à?"

Nàng nói: "Cũng không hẳn như thế. Xiên vẹo cũng không thể xiên vẹo quá mức được. Cần phải vừa xảo trá, lại vừa chính trực..." Nghĩ mãi nửa ngày, nàng mới bổ sung: "Ví dụ như Tô Dự chẳng hạn."

Bách Lý Tấn suy tư một hồi, sau đó quay sang nhìn nàng bằng ánh mắt rất thiện cảm: "Đã có ai nói với cô điều này chưa, cô sinh ra làm thân con gái rõ thật uổng phí!"

Quân Vĩ lạnh nhạt: "Không có gì đáng tiếc. Được như vậy chẳng qua là do được thầy dạy bảo tốt."

Nàng chỉ vào Quân Vĩ và nói với Bách Lý Tấn: "Cậu có tưởng tượng được tôi và Quân Vĩ là bạn đồng môn cùng học chung một thầy không?  Sao, tưởng tượng không nổi đúng không? Sự khác biệt của tôi với Quân Vĩ ngày hôm nay, chẳng phải do sự cố gắng của mỗi người, hoàn toàn là do tư chất!"

Quân Vĩ hung hăng nhìn nàng, nghiến răng như thể đang dùng rất nhiều sức lực làm gì đó.

Nàng ngạc nhiên hỏi: "Anh đang làm cái gì thế?"

Quân Vĩ cũng kinh ngạc hỏi lại: "Đang ra sức đạp lên chân em ở dưới gầm bàn, em không có cảm giác gì à?"

Nàng càng nghe càng ngạc nhiên: "Vậy á? Thế sao tôi chẳng có cảm giác gì nhỉ?"

Bách Lý Tấn đột nhiên ôm chân nhảy tưng tưng lên: "A a a a , đau đau đau đau ~~~~"

.

.

.

Cuộc đời chẳng có bữa tiệc nào không tàn. Khi mặt trời lên cao, bọn nàng ăn điểm tâm sáng, xỉa răng xong thì xếp lại hành lý và nói lời chia tay với Bách Lý Tấn. Cách nơi này không xa chính là kinh đô nước Trịnh, từ đây đã có thể nhìn thấy bức tường thành Trịnh quốc cao vun vút, lấp lánh sáng dưới ánh mặt trời mùa hạ. Nàng chợt ao ước, giá như đây là một khối vàng thì tốt thật, chỉ cần trộm một viên gạch xây tường là bọn nàng có thể phát tài rồi. Phát tài thì sẽ không cần nghĩ đến chuyện bắt Quân Vĩ bán thân kiếm tiền lộ phí nữa.

Ra khỏi khách sạn chưa quá năm bước, Quân Vĩ cứ ngoảnh đầu nhìn lại phía sau. Bách Lý Tấn lúc này vác theo cái sọt thủng, loay hoay đứng trước cửa khách điếm. Nàng băn khoăn thăm dò Quân Vĩ: "Bách Lý Tấn cũng thật xinh đẹp nhỉ?"

Quân Vĩ liếc mắt nhìn nàng, tỏ ra hờ hững.

Nàng tiếp tục dò xét hắn: "Tối qua... anh và cậu ấy đã xảy ra chuyện gì vậy?"

Quân Vĩ không trả lời, một lần nữa hắn liếc nhìn nàng, sau đó quay về phía khách điếm, cái nhìn như thể đang ngóng đang trông. Thấy cử chỉ của Quân Vĩ thất thường như vậy thì nàng giật đánh đùng một cái, lắp ba lắp bắp: "Anh...anh đã nhìn trúng Bách Lý Tấn rồi có phải không? Anh đang lưu luyến nhớ thương không nỡ rời Bách Lý Tấn có đúng không??"

Quân Vĩ không nghe rõ, hỏi lại: "Em nói gì?"

Nàng nhắc lại, giọng hơi to một chút cho Quân Vĩ nghe được rõ hơn: "Anh nhìn trúng Bách Lý Tấn rồi phải không? Anh đang lưu luyến nhớ thương không nỡ rời Bách Lý Tấn có đúng không??"

Quân Vĩ tiếp tục tỏ ý nghe không rõ, nói: "Gió rất to, em nói lớn tiếng một chút."

Nàng bất đắc dĩ đành phải hét toáng lên: "ANH NHÌN TRÚNG BÁCH LÝ TẤN RỒI PHẢI KHÔNG? ~~~~ ANH LƯU LUYẾN NHỚ THƯƠNG KHÔNG NỠ RỜI BÁCH LÝ TẤN CÓ ĐÚNG KHÔNG?? ~~~~~" Hỏi xong, nàng còn nhắc nhở hắn: "NẾU NHƯ ANH DÁM LÀM RA CHUYỆN ĐOẠN TỤ, QUÂN SƯ PHỤ SẼ ĐÁNH CHẾT ANH!! ~~~~~"

Bốn phía xung quanh nhất thời yên tĩnh, những người đi đường rầm rì lao xao, có kẻ chỉ dám lấm lét nhìn, có kẻ thì nhìn chòng chọc bọn nàng. Sắc mặt Quân Vĩ thì cứ hết trắng lại xanh. Hắn nghiến răng trợn mắt, nhấn mạnh từng lời từng lời: "Quân Phất, đang ngứa da có phải không? Đang muốn ăn đập có phải không?"

Nàng ngay lập tức lùi về sau một bước như phản xạ.

Bách Lý Tấn ở cách xa bọn nàng năm bước hấp tấp chạy tới, vui mừng như điên, cười híp hết cả mắt, cậu nhìn nàng và Quân Vĩ: "Hai người luyến tiếc tôi à? Không sao cả không sao cả, nhà tôi ở ngay trong con hẻm nhỏ của thành Tứ Phương. Hai người sau khi xử lý xong công chuyện thì đến nhà tôi chơi nha!"

Nàng lịch sự nhận lời rất phải phép: "Nhất định chúng tôi sẽ tới chơi."

Quân Vĩ hoàn toàn câm nín, tay xoa xoa trán. Còn Bách Lý Tấn, sau khi nói vài lời khách sáo với nàng xong, cậu ta quay sang Quân Vĩ, dáng vẻ rất đỗi ưu sầu. Cậu ấy cứ mân mê chéo áo ngượng nghịu mãi nửa ngày rồi mới dám lên tiếng hỏi: "Không phải là anh nhìn trúng tôi thật chứ? Rõ ràng đêm qua, lúc mê sảng, anh đã gọi tên..."

Quân Vĩ nghiến răng nói: "Câm mồm, ông đây không nhìn trúng mi!"

Bách Lý Tấn kinh ngạc: "Vậy sao lúc nãy anh cứ liên tục quay đầu nhìn về phía tôi?"

Cổ Quân Vĩ nổi hết cả gân xanh lên: "Ông đây không quay đầu nhìn mi! Ông đang nhìn Tiểu Hoàng, con ông nó đi trộm gà nướng trong bếp, mãi vẫn chưa thấy quay lại."

Bách Lý Tấn cổ quái nhìn Quân Vĩ, hồi lâu, nói: "Không phải Tiểu Hoàng đang nằm ngoan dưới chân Quân Phất hay sao?"

Quân Vĩ ngoảnh đầu nhìn, vừa hay đối diện với một đôi mắt mở to tràn ngập nước của Tiểu Hoàng.

Bắt gặp ánh mắt bừng bừng sát khí của Quân Vĩ, Tiểu Hoàng sợ hãi mà đem cái chân gà nướng đang gặm dở giấu ra phía sau, nó lại rụt rè nhìn Quân Vĩ, phát hiện ra Quân Vĩ đang trừng trừng nhìn nó, Tiểu Hoàng lại tiếp tục lùi lùi về phía sau. Quân Vĩ ngơ ngẩn hồi lâu, hỏi Tiểu Hoàng: "Con về lúc nào?"

Hóa ra tất cả chỉ là hiểu lầm. Nàng đang định nói với Quân Vĩ rằng Tiểu Hoàng vừa mới chui ra từ bụi cỏ bên đường thì Bách Lý Tấn đã ai oán nói: "Anh muốn kiếm cớ thì cũng phải tìm một cái cớ nào thông minh một chút! Anh không cần mất công giải thích với tôi nữa! Cũng không cần phải che giấu tình cảm làm gì. Tôi biết anh có ý với tôi..."

Quân Vĩ trầm mặc nửa buổi, không còn biết phải nói gì, quay sang nàng cầu cứu. Mà nàng thì, ngay khi nhìn thấy biểu tình trong mắt Quân Vĩ, lập tức ra lời cứu bạn: "Ừm, Bách Lý Tấn, tạm thời chúng ta không bàn đến chuyện này..." Nhưng thật ra nàng cũng không biết mình nên bàn đến chuyện gì để đánh trống lảng, cuối cùng sực nhớ ra chuyện Quân sư phụ giao phó, nàng hỏi: "Ừm, cậu là người của nước Trịnh, thế cậu có biết gì về một vị phu nhân của Trịnh bình hầu không? Cô ấy tên là Thập Tam Nguyệt."

Bách Lý Tấn nghe nàng hỏi thì ngẩng phắt đầu, đăm chiêu nghĩ ngợi: "Cô vừa nhắc tới Nguyệt phu nhân?" Ngẫm ngợi thêm một lúc, cậu ta nói tiếp: "Nguyệt phu nhân đã sớm qua đời rồi."

Nàng ngớ người: "Không có chuyện đó đâu. Mấy ngày trước sư phụ ta còn nhận được thư của vị phu nhân này mà..."

Bách Lý Tấn lại có vẻ tư lự rất rất lâu: "Ồ, vậy thì cô muốn nói đến Nguyệt phu nhân của Bình hầu Dung Tầm có phải không? Vậy mà tôi cứ tưởng cô đang hỏi về..." Nói chưa xong, cậu ta đã lại chuyển sang ý khác: "Ban nãy rõ ràng là cô hỏi về Thập Tam Nguyệt cơ mà!". Cậu ta ngẩng đầu lên nhìn nàng: "Nguyệt phu nhân mà cô nói không phải Thập Tam Nguyệt. Cái cô Nguyệt phu nhân này và chồng cô ta đều là phản tặc. Còn Thập Tam Nguyệt thật sự, cô ấy chết lâu rồi."

==========================================

* Xuân cung đồ: Cái này thiết nghĩ ko cần phải chú giải với những bạn lậm ngôn tình ha ^^ Coi nó là hình vẽ sex của người thời xưa đi :P

* Tô Tử Khác: "tự" của Tô Dự. Có thể hiểu là Tô Dự, tự Tử Khác. Người xưa vẫn có cách gọi tên như vậy.

( Xem Tam quốc nhiều thì sẽ thấy nhắc đến các vị lẫy lừng như Lưu Bị tự Huyền Đức –> Lưu Huyền Đức, Quan Vũ tự Vân Trường –> Quan Vân Trường, Triệu Vân tự Tử Long –> Triệu Tử Long).

Ở truyện này Tô Dự tự Tử Khác –> Tô Tử Khác. Trong giấc mộng/ khúc nhạc thứ 3 Diệp Trăn dệt, cái tên Tô Tử Khác sẽ còn được nhắc tới nhiều lần ^^

* Yến thành và Lịch thành: tên của 2 tòa thành nước Trần. ( Kinh đô nước này là Hạo thành).

* Thâm cung bí sử: Là những chuyện bí ẩn nơi cung đình, ai cũng thích nghe ^^ Nhưng không thể kiểm chứng được thật giả đúng sai của những chuyện ấy.

============================

chương 2.1 : bí ẩn

Thoắt cái đã trôi qua bảy ngày. Hôm ấy là đêm hai lăm tháng Năm, trăng sáng sao thưa, sắc trời quang đãng; nàng cùng với Quân Vĩ và Tiểu Hoàng hai người một hổ bỏ trốn khỏi thành Tứ Phương trong màn đêm sâu hút.

Lúc đó, kinh nghiệm "hành sự" của nàng mới chỉ vẻn vẹn hai lần, không có tư cách để tổng kết gì về cái nghiệp dệt mộng. Nhưng nàng cũng không ngăn nổi mình phải đúc kết lại một câu: buôn mộng sinh nhai* , từ nay về sau chắc không thể gặp được vụ làm ăn nào ngon lành hơn chuyến công cán đến nước Trịnh lần này: chỉ cần gảy một khúc nhạc, gửi đi một bức thư là êm xuôi mọi chuyện, kết thúc luôn một mạng người! Đấy là khía cạnh tốt của vấn đề. Còn cái khía cạnh không tốt lắm là vị khách hàng Nguyệt phu nhân này là người ăn chay từ nhiều năm nay, như thế cũng không sao, mấu chốt là cô ấy còn kêu gọi mọi người hưởng ứng ăn chay cùng với mình. Bọn nàng tuy là khách nhưng cũng không tránh khỏi việc chẳng có miếng thịt nào vào bụng. Nàng thì không nói làm gì rồi, nhưng Quân Vĩ và Tiểu Hoàng thì đau khổ vô cùng. Bọn họ dự tính lén lút chuồn khỏi vương cung, chạy đến quán rượu trong thành để đánh chén thỏa thích một phen. Nhưng cơ cấu hoạt động của vương cung nước Trịnh cũng có điểm tương đồng với kỹ viện với sòng bạc: muốn vào, cần có tiền; muốn ra, lại càng cần phải có tiền. Mặc dù bọn nàng đã từng là người có tiền có của, nhưng trải qua mấy phen bị phạt vạ, nay đã nghèo rớt mồng tơi rồi. Cái sự lên voi xuống chó này âu cũng là nỗi khổ chung của toàn bộ dân chúng Cửu Châu.

Bởi vì quá thèm ăn thịt, ngay đêm nàng giải quyết xong Nguyệt phu nhân, cả bọn chạy khỏi Trịnh vương cung, ai nấy đều rất cao hứng. Tiểu Hoàng còn kích động đến nỗi lăn lộn vài vòng trên nền đất, kết quả là sau mấy hôm bị đói đến xanh xao vàng vọt, lăn xong không dậy nổi nữa. Nàng vỗ vỗ vai Quân Vĩ: "Ra đỡ con anh dậy mau lên."

Quân Vĩ giận dữ nói: "Ai sinh người đó đỡ."

Nàng cười: "Không phải do anh và Bách Lý Tấn sinh sao?"

Quân Vĩ quay đầu nhìn nàng gay gắt: "Cô đi chết đi!"

Trên trời là trăng sáng, nàng và Quân Vĩ bàn bạc với nhau sẽ chia ra hai đường để chạy. Hắn mang theo Tiểu Hoàng chạy về hướng Tây, còn nàng thì chạy theo hướng Đông, hẹn gặp nhau ở giao điểm là hướng Nam. Lộ trình chạy trốn này được sắp đặt như một hình tam giác cân, địa điểm cuối cùng gặp nhau sẽ nằm trên đường trung trực của tam giác đó.

Quân Vĩ vốn học rất dở môn toán. Chưa thực thi kế hoạch, nàng đã biết chắc chắn nó sẽ đổ bể tanh bành. Người như Quân Vĩ nếu để cho độc lập, sẽ lạc đường, tiếp đó sẽ bị bọn buôn người lừa bán cho kỹ viện, cả đời lấy sắc hầu hạ người khác. Nếu như may mắn thì có thể được đại gia nào đó mua về làm thiếp. Tưởng tượng đến đây, nàng không kìm được mà rùng mình ớn lạnh, sau đó không khỏi cảm thấy bội phục bản thân đã vô cùng sáng suốt khi giao Tiểu Hoàng cho Quân Vĩ, tốt xấu gì hắn đều có đứa con này bảo vệ. Nghĩ vậy nàng cũng an tâm được phần nào.

Thật ra ban đầu đem Tiểu Hoàng cho Quân Vĩ, nàng cũng chẳng có ý đồ tốt đẹp gì đâu, chẳng qua nàng cảm thấy một con hổ như Tiểu Hoàng thì rất dễ thu hút sự chú ý. Trịnh bình hầu cho người đuổi theo truy bắt bọn nàng, nhất định sẽ lần theo dấu vết con hổ đầu tiên, vậy nên ai mang theo Tiểu Hoàng, sác xuất người đó gặp chuyện xúi quẩy là cao vô cùng.

Nửa canh giờ trước, sau khi kết liễu tính mệnh của Thập Tam Nguyệt – vị Nguyệt phu nhân mà Trịnh bình hầu Dung Tầm sủng ái nhất, bọn nàng thầm đoán là y sẽ cho người truy bắt bọn nàng. Đằng nào cũng bị đuổi bắt, bọn nàng quyết định mạo hiểu thêm một chút: đánh liều lấy luôn bộ trang sức bằng vàng cài trên tóc vị phu nhân này.

Ngày trước nàng từng đọc qua một quyển sách, trong sách có miêu tả về một người phụ nữ sinh sống bằng nghề bói toán. Đó là một người có phép thuật huyền bí, rất nhiều kẻ đã từng gặp gỡ, nói chuyện, tiếp xúc với cô ta, nhưng lại chẳng một ai nhớ được dung mạo cô ta cả. Khi gặp vị Nguyệt phu nhân Thập Tam Nguyệt ở vương cung nước Trịnh, cô ấy cũng giống hệt như người phụ nữ ở trong quyển sách kia, khiến người ta vừa quay đầu đã quên mất luôn ấn tượng. Nàng và Quân Vĩ đã cẩn thận xem xét vấn đề, cảm thấy cô ấy chỉ là một người rất bình thường chứ không có phép thuật gì đặc biệt. Vậy nên cái vẻ nhạt nhòa mà cô ấy gây ra, chỉ đơn thuần là vấn đề diện mạo. Nói thế không phải là bảo cô ấy không đẹp, chỉ có điều đó là một vẻ đẹp nhạt nhẽo, tựa như nét chì mờ phác qua bức tranh thủy mặc, ảo ảo hư hư chứ không thực sự tồn tại.

Cô ấy cũng không trang điểm.

Thập Tam Nguyệt là một người phụ nữ kỳ lạ. Sau khi uống máu của nàng rồi, để cho nàng nhìn thấy quá khứ của cô ấy thông qua khúc nhạc Hoa Tư, nhưng lại chẳng nói cho nàng nghe xem cô ấy muốn gì. Cô ấy chỉ đơn giản là đưa cho nàng một lá thư, nhỏ nhẹ dặn dò:  "Quân sư phụ nói cô nương có thể tái hiện lại ảo cảnh trong quá khứ, dệt cho tôi một giấc mộng vẹn toàn. Có điều khi ở trong ảo cảnh ấy, tôi không nhớ gì về những chuyện xảy ra ngoài đời thực. Vậy tôi muốn phiền Quân cô nương đi vào trong mộng, giao cho tôi lá thư này..." Giọng nói của cô nghe ra cũng đều đều, nhàn nhạt, vô âm sắc.

Nàng cầm phong thư nghẹ bẫng trong tay, cân nhắc hỏi cô ấy: "Chị không cần tôi làm thêm chuyện gì cho chị nữa hay sao? Chị có biết cái giá phải trả cho giấc mộng này là gì không? Chính là sinh mạng của chị đấy!"

Cô ấy ngẩng đầu nhìn lên: "Điều đó, tôi cầu còn chẳng được."

Mọi việc xảy ra theo đúng như mong muốn của cô ấy. Ba ngày sau, nàng gảy khúc nhạc Hoa Tư, tiến nhập vào cảnh mộng, đem phong thư giao cho Thập Tam Nguyệt trong ảo cảnh. Bởi vì cô ấy chưa từng kể cho nàng nghe câu chuyện của mình, cho nên nàng rất khó xác định không gian này là thời điểm nào trong quá khứ, chỉ ước đoán rằng cũng không xa hiện tại lắm, vì trong giấc mộng này, cô ấy vẫn sầu sầu muộn muộn, nhạt nhẽo ơ hờ.

Cuộc trao đổi mua bán này xem ra thật lạ lùng, mà đối tượng giao dịch với nàng cũng thần thần bí bí, vì vậy, trí tò mò của nàng bị kích thích đến tột độ. Sau khi chuyển xong thư, nàng quyết định không rời đi mà cứ nằm lì trên xà nhà trong phòng của Thập Tam Nguyệt, âm thầm chờ đợi xem chuyện gì sắp xảy ra. Nàng muốn biết rốt cuộc cô ấy muốn mơ thấy một giấc mơ như thế nào. Việc này cũng có cái hay, nó thể hiện được rằng cho dù đã là người chết, nàng vẫn còn nguyên cái tính khiếu kỳ chứ không phải là đã bị viên giao châu tịnh hóa trở nên "thanh tâm quả dục". Điểm không tốt là nhìn nàng lúc này mờ ám như một phần tử biến thái vậy.

Nàng nằm trên xà ngang hai ngày, rốt cuộc cũng đợi được khoảnh khắc ấy.

Nàng đã tận mắt chứng kiến một sự việc đầy kịch tính.

Lúc ấy, ánh nắng mai phơ phất chiếu đến, cơn gió nhẹ ngoài cửa sổ thổi hoa lê rơi trắng sân vườn, từng lớp hoa rụng xuống sân dệt nên một tấm thảm mềm mại dịu êm. Người đàn ông ấy mặc áo bào tím, mái tóc chàng đen nhánh, nét mặt phong tư tuấn lãng vô cùng. Chàng mang theo hơi lạnh của mùa đông, bước vào tẩm cung của Thập Tam Nguyệt.

Nàng nín thở vì lo mình sẽ bị phát hiện. Nín thở nửa ngày mới nhớ ra nàng đã là người chết, không còn hô hấp, không phải lo về khoản này. Hơn nữa, nàng lại đang mặc đồ màu đen, cùng màu với những thanh xà ngang trên trần nhà, cho nên chẳng cần phải lo hão làm gì.

Chàng trai đã ngồi xuống trước gương. Chiếc gương đồng phản chiếu những sợi tóc đen nhánh trên đầu chàng. Vẻ mặt chàng vừa đoan nghiêm chính trực, lại vừa phảng phất ý cười: "Lúc nãy không cẩn thận, bị cành lê trong viện vướng vào dải lụa buộc tóc. Nguyệt nương, em qua đây giúp tôi buộc lại đi."

Thập Tam Nguyệt chậm rãi bước đến. Từ góc độ của nàng nhìn xuống, có thể thấy được thanh chủy thủ hơi dài mà cô ấy cầm trong tay. Sắc mặt cô ấy xám ngoét, người cứ run run. Chàng trai kia vẫn không hề chú ý, chàng vẫn đang vươn tay cố định dải lụa buộc trên búi tóc. Nhưng dù chàng có không cảnh giác chăng nữa, với cái kiểu run rẩy lẩy bẩy này, cô ấy cũng khó mà hành thích chàng được. Quả thực, tại thời điểm mà cô ấy xuống tay, cô liền bị chàng giữ chặt lấy thah chủy thủ. Chàng hỏi: "Em muốn giết tôi?".  Thập Tam Nguyệt lắc đầu không nói, nước mắt lã chã tuôn như mưa, lúc sau thì khóc nức nở trong vòng tay xiết chặt của chàng trai ấy. Ở trên xà cao, nàng còn đang thất thần thì nghe thấy chàng trai kia rên  khẽ một tiếng. Khi nàng nhìn xuống, thanh chủy thủ đã đâm xuống, trúng tim, không lệch một li, lại ngập ra tận sau lưng. Nhát đâm này thật là vừa chuẩn xác, vừa quyết tuyệt.

Có lẽ nàng đoán được kết quả, nhưng lại sai ở phần mở đầu. Thập Tam Nguyệt đúng như dự đoán của nàng, vừa khóc vừa nắm chặt lấy thanh chủy thủ, càng đâm càng sâu.

Chàng trai cúi đầu nhìn thanh chủy thủ dài đang đâm xuyên qua ngực mình. Chàng từ từ ngẩng đầu lên, trong gương phản chiếu nét mặt trông nghiêng không chút biểu cảm của chàng. Từng tia máu đỏ thẫm chảy xuôi theo khóe môi. Chàng nghiêng đầu hỏi: "Vì sao?"

Ở góc độ đó, chàng sẽ không nhìn thấy đôi mắt ướt đẫm lệ của cô ấy.

Cô ấy cứ dần dần đổ xuống, ngã quỵ, tựa như nhát đâm vừa rồi đã rút sạch khí lực toàn thân. Cô vùi đầu trong cánh tay, bật khóc thành tiếng: "Chị ấy chết rồi. Chị ấy bị chàng hại chết, không, còn có cả thiếp góp phần. Chị ấy bị chúng ta cùng chung tay hại chết. Thiếp biết thiếp phải hận chàng, nhưng vì sao..." Cô níu chặt lấy tay áo của chàng, tựa như nắm lấy chiếc phao cứu sinh: "Dung Tầm, vì sao thiếp lại yêu chàng nhiều đến thế?"

Nàng như bị dọa suýt nữa thì rơi từ trên xà ngang xuống đất. Cô ấy vừa gọi tên ai? Dung Tầm? Trịnh bình hầu Dung Tầm, vua của nước Trịnh? Giờ nàng mới cảm thấy bộ dạng của người đàn ông này giống với tác phong của những người trong vương thất.

Từ song cửa sổ khảm hoa thổi tới một luồng gió lạnh, cuốn bay mấy tờ giấy Thục Tuyên trên bàn. Dung Tầm không chống đỡ được nữa, ngã xuống chiếc ghế, toàn thân chàng tựa vào thành ghế, trong lúc đôi mắt chàng từ từ khép lại, chàng khe khẽ gọi: "Cẩm Tước." Bờ vai gầy gò của Thập Tam Nguyệt run rẩy, nàng khóc òa lên dữ dội: "Dung Tầm, chúng ta có lỗi với chị ấy, có lỗi với Thập Tam Nguyệt..." Nói xong, bàn tay cô ấy run run rút cây chủy thủ cắm trong tim Dung Tầm ra, đâm ngược trở lại lồng ngực mình, gương mặt cô tràn đầy nước mắt, đôi môi mím chặt lúc nãy như hé ra một chút, cô thở dài.

Máu cứ thế thấm đẫm y phục trắng. Nàng che mắt lại.

Nàng thật không ngờ cảnh mộng viên mãn mà Thập Tam Nguyệt muốn mơ lại tàn nhẫn như vậy. Tuy không biết phong thư vừa nãy viết gì, nhưng nàng cũng có thể đoán được phần nào. Ngoài đời thực kia, cô ấy đã viết toàn bộ sự thật vào trong thư, rồi nhờ nàng chuyển thư ấy cho cô ở trong mộng cảnh. Phong thư này không khác gì một mật lệnh ám sát cô ấy giao cho chính bản thân mình. Có lẽ là cô ấy đã không thiết sống nữa, nhưng lại cũng không muốn chết một mình. Cô ấy muốn đi cùng một người, nhưng bản thân lại không nỡ ra tay. Chính vì vậy mới nghìn dặm xa xôi cầu viện đến nàng, cô ấy muốn tuẫn tình* cùng Dung Tầm trong cảnh mộng.

Chung quy lại, có lẽ cô ấy vẫn còn yêu chàng. Cho nên vừa muốn giết chàng lại vừa không đành lòng giết, cuối cùng chỉ dám ra tay trong giấc mộng.

Hành vi này cũng thật hiếm thấy trên đời.

Khi thoát ra khỏi ảo cảnh của Thập Tam Nguyệt rồi, nàng vẫn còn đầy rẫy những băn khoăn. Tại sao cô ấy lại đâm đầu vào một lựa chọn mang tính hủy diệt như thế này? Suy nghĩ mãi, nàng tìm ra được ba khả năng: thứ nhất, chị gái cô ấy yêu Dung Tầm, cô ấy cũng yêu Dung Tầm, chị gái cảm thấy không thể cạnh tranh thắng được cô ấy, bèn tự sát. Cô ấy cảm thấy có lỗi với chị, thế là bèn rủ Dung Tầm tự sát cùng mình. Khả năng thứ hai là chị cô ấy rất yêu cô ấy, nhưng cô ấy lại yêu Dung Tầm. Chị cô cảm thấy không thể thắng được Dung tầm, cuối cùng tự sát. Cô ấy vẫn cảm thấy có lỗi với chị, dẫn đến kết cục như đã nói ở trên. Khả năng thứ ba là ... từ nhỏ mẹ cô ấy đã dạy cô ấy phải biết "trân trọng" bản thân, nhưng cô dã nghe nhầm thành "tàn nhẫn", chính vì vậy cách xử sự của cô rất khắc nghiệt... Sau khi nàng chia sẻ cùng Quân Vĩ những suy đoán của mình, hắn khen ngợi khả năng suy luận của nàng đã đạt bước tiến vượt bậc so với trước. Nhưng hắn vẫn có điểm không rõ lắm, tại sao trong tất cả các suy đoán của nàng, Dung Tầm lúc nào cũng vô tội như thế? Nàng lười giải thích cho Quân Vĩ nghe, rằng mấy trò đấu đá hậu cung này là chuyện của nữ nhân. Đàn ông dính líu trong bối cảnh này, chỉ là một món đồ mà đám đàn bà con gái tranh nhau thôi, vì không quan trọng cho nên không cần thiết phải miêu tả nhiều làm gì, coi như tiết kiệm giấy mực.

Từ sau đêm hôm đó, nàng và Quân Vĩ chia tay, mỗi người chạy về một ngả...

======================

* Buôn mộng sinh nhai: Chắc các bạn không lạ gì bốn chữ "kiếm kế sinh nhai". Người bình thường thì lao động để mưu sinh, nàng Diệp Trăn trong này, nàng ấy... bán mộng để mưu sinh á =))

* Tuẫn tình: Chết ( theo kiểu tự vẫn) vì tình ^^

chương 2.2 :Tái ngộ 

Chia tay Quân Vĩ và Tiểu Hoàng, nàng một thân một mình chạy trốn, không khỏi cảm thấy có chút cô đơn. Nhưng việc này cũng không có gì quan trọng lắm, điều chính yếu là lúc chia tay, Quân Vĩ quên mất không chia cho nàng một  nửa số trang sức lấy được, hại nàng giờ đây không xu dính túi. Vật đáng tiền duy nhất trong tay nàng lúc này là chiếc nhẫn ban chỉ bằng ngọc mà Mộ Ngôn thế chấp. Nàng dùng sợi dây xuyên qua chiếc nhẫn ấy và đặt nó ở nơi gần ngực trái nhất. Nàng nghĩ, biết đâu kiếp này không còn cơ hội gặp lại nhau nữa, đây sẽ là kỷ vật duy nhất mà y để lại cho nàng. Nàng nhất định phải trân trọng, cho dù có bị người ta kề dao vào cổ đe dọa, cũng nhất quyết không giao nộp.

Nàng rất nhớ y...

nhưng lại không có cách nào.

Trên trời là trăng sáng, nàng vỗ vỗ nhẹ lên chiếc nhẫn ban chỉ đã nằm yên trong cổ áo. Nàng nghĩ ngợi, nghĩ mãi, nhưng không có cách nào để nguôi bớt nhớ nhung.

* * *

Dựa theo lộ trình chạy trốn theo hình tam giác cân đã bàn bạc từ trước, nàng ước tính khoảng mười ngày nữa sẽ đến được điểm hẹn là biên cảnh nước Trần. Ban đầu, nàng không mơ có một ngày lại quay trở về vùng Bích Sơn, có lẽ là ý trời đã định. Hơn một tháng trước, nàng đã tương ngộ với Mộ Ngôn tại nơi này.

Năm mười bốn tuổi, nàng bị rắn cắn. Sau khi quay trở về tông môn, sư phụ đã dạy nàng rất nhiều về biện pháp sinh tồn khi ở thế giới bên ngoài, sư phụ còn đặc biệt dặn dò nàng không nên ra khỏi nhà vào buổi tối, tránh gặp những điều bất trắc.

Bởi vì không có tiền để thuê phòng trọ, nàng chẳng thể nào tránh được việc nửa đêm nửa hôm vẫn còn lang bạt bên ngoài trong cảnh màn trời chiếu đất. Suốt mười ngày, khi đêm xuống, nàng đều phải tìm đến một cây đại thụ để nương náu. Tuy đây chẳng phải giải pháp hữu hiệu lắm, nhưng tốt xấu gì nấp tạm trên cây cũng giúp nàng tránh được tầm nhìn của một số loài động vật hoang dã. Nhưng đêm nay không hiểu nguyên cớ gì khiến cho lòng nàng nôn nao mãi, tâm tâm niệm niệm chỉ muốn nhìn thấy cảnh hoa nở trên núi Bích Sơn – nơi nàng đã gặp lại Mộ Ngôn. Thật ra chuyện này hoàn toàn có thể gác lại đến sáng hôm sau, nhưng ý nghĩ đến Bích Sơn cứ ùa tràn vào tâm trí nàng, một khắc cũng không thể chần chừ, nàng không đợi được, nàng muốn nhìn thấy biển hoa rợp trời, muốn khảm vào tâm trí hình bóng của Mộ Ngôn. Rồi nàng lại tự động viên chính mình: nhỡ đâu, nhỡ đâu y thật sự đang ở Bích Sơn? Và thế là nàng cảm thấy cực kỳ hứng khởi. Nghĩ thêm một chút, nhỡ chẳng may người y chờ không phải nàng mà là một cô gái khác thì sao? Ý nghĩ vui vẻ vừa chớm nẩy mầm đã bị dọa cho tắt ngúm, nàng cảm thấy bi phẫn vô cùng. Như vậy, Mộ Ngôn ở Bích Sơn là tốt hay không tốt đây >"<

Quẩn quanh mãi với ý nghĩ này, tâm trạng nàng liên tục biến đổi, khi cao hứng, lúc ủ ê. Nàng hoàn toàn không ý thức được mình đang đi lang thang trong đêm hôm, giữa một vùng núi rừng đầy bất trắc. Bỗng sau lưng nàng có một tiếng gầm lớn, nàng bị dọa cho giật bắt người. Đang muốn ngoảnh đầu lại xem chuyện gì đang xảy ra thì nàng bị kéo giật lại, lực kéo rất mạnh. Nàng bất ngờ mà ngã về phía sau, thôi xong – nàng nghĩ – thảm rồi, bộ đồ trắng trên người lại bị bẩn rồi đây. Lúc còn đang nghĩ ngợi dở dang, nàng đã bị một cánh tay vững vàng ôm chặt lấy.

Nàng ngã vào một điểm tựa rất êm, tuy không cảm nhận được nhiệt độ, nhưng nàng biết đó là một khuôn ngực rộng.

Nàng bỗng chốc ngây người, cổ họng cứ nghèn nghẹn không nói được câu gì.

Bên tai nàng vang tới giọng nói quen thuộc của y: "Nửa đêm lên núi, sao không cẩn thận một chút?"

Nàng muốn nói điều gì với y, muốn lắm, nhưng mấy lần mở miệng đều không thốt nổi nên lời. Trước mặt nàng là Mộ Ngôn, là người mà nàng ngày nhớ đêm mong. Mộ Ngôn, hai tiếng này nàng đã thầm gọi cả trăm lần, cả ngàn lần. Bỗng dưng, nàng muốn khóc. Lần đầu tiên trong đời nàng cảm thấy lực bất tòng tâm đến thế. Nàng rất muốn nói một câu thật dễ nghe, gây cho Mộ Ngôn một ấn tượng thật là sâu đậm, thế nhưng, ngay cả việc gọi tên y thôi, nàng cũng không gọi được.

Y nới lỏng vòng tay ôm, giúp nàng đứng ngay ngắn, nhìn nàng một lượt từ trên xuống dưới, ánh mắt phảng phát ý cười: "Một tháng không gặp, Quân cô nương đã không nhận ra tại hạ rồi sao?" Cái dáng vẻ nói cười thờ ơ quen thuộc này của y khiến cho nàng xúc động. Nàng vui lắm, nàng muốn khoảnh khắc ấy kéo dài thêm một lúc, nhưng lại chẳng biết nên mở lời đối đáp thế nào với y, cuối cùng, giọng nàng nghẹn ngào: "Hai mươi lăm ngày," ngừng một chút, lại nói: "A Phất."

Dưới ánh trăng, gương mặt y vẫn như vậy. Toàn thân khoác chiếc áo bào màu lam; tay cầm thanh trường kiếm, mũi kiếm vẫn còn nhuốm hai giọt máu đỏ tươi; ngọc bội đeo nơi thắt lưng lấp lóa ánh sáng xanh dìu dịu ấm áp trong màn đêm u tịch.

Nàng nhìn y. Chàng công tử phong tư tài mạo này là ý trung nhân, là người trong trái tim nàng.

Một khắc trước, nàng nhớ mong y da diết khôn nguôi, một khắc sau, thật chẳng ngờ tương ngộ.  Nàng cảm thấy cao hứng vô cùng, nhưng khi nhìn xuống đôi giày thêu đã lấm bùi đen, gấu váy cũng bám đầy bụi đất, nàng lại muốn mình trở thành một người xa lạ không quen không biết gì y cho đỡ xấu hổi.

Nét mày của y hơi nhướng lên: "Hai mươi lăm ngày? A Phất?"

Nàng len lén dấu đôi chân dưới gấu váy, rồi trả lời y: "Ý tôi muốn nói chúng ta quen biết nhau như vậy, anh không cần gọi tôi là cô nương này cô nương nọ nữa, gọi A Phất là được rồi. Còn nữa, chúng ta chia tay nhau chưa đầy một tháng, mới chỉ hai mươi lăm ngày thôi." Nói xong, nàng đợi một hồi lâu mà không thấy tiếng đáp lại thì lặng lẽ ngẩng đầu lên, len lén nhìn y, cũng không thấy y có biểu tình gì đặc biệt. Chắc là y không tin lời nàng, nàng bèn bấm đốt ngón tay tính toán cho y hay: "Anh đi vào ngày mồng mười tháng Năm, hôm nay là mồng năm tháng Sáu, anh xem, vừa vặn đúng hai mươi lăm ngày..."

Nhưng y lại cắt ngang lời nàng: "A Phất."

Nàng ngạc nhiên: "Gì?"

Y cười nói: "Chẳng phải em muốn tôi gọi tên em như vậy sao?"

Cảnh núi rừng ban đêm thật là yên tĩnh, chỉ nghe thấy âm thanh từ lời y nói. Thỉnh thoảng cũng nghe được cả tiếng côn trùng vo ve, nhưng những tiếng này có thể bỏ qua. Nàng đỏ bừng mặt, may mà còn có chiếc mặt nạ che giấu dùm nàng cảm xúc. Nhưng nàng cũng cảm thấy có điểm không hay lắm, nếu như không đeo mặt nạ, biết đâu y có thể thông qua sắc mặt mà đoán được tâm ý của nàng? Nàng biết, tình cảm này sẽ không có tương lai, nhưng nếu y biết tâm tư của nàng, không chừng đó cũng là một cơ duyên tốt đẹp.

Y cúi đầu nhìn nàng, dường như đang chờ đợi câu trả lời. Nàng ho một tiếng, chẳng hiểu thế nào lại lóng ngóng ngoảnh đầu nhìn lại phía sau. Đang định nói "ừ" thì lại bị hình ảnh vừa nhìn thấy dọa cho hoảng hồn, thiếu điều thì ngã bổ ngửa.

Cách đó không xa, trên con đường đêm đen thẫm mênh mông của chốn núi rừng, xác một sói nằm ngay sau lưng nàng, đôi mắt lờ đờ của nó đã không còn chút ánh sáng, cổ họng cuồn cuộn tứa ra máu tươi.

Nhìn biểu hiện của nàng, Mộ Ngôn cười: "Em không phát hiện ra có sói đi theo mình à?"

Nàng gật đầu, không phát hiện ra thật mà. Cùng lúc đó, chân nàng mềm nhũn ra, gần như là không cử động được. Y kéo nàng cách xa khỏi xác con sói một chút: "Vậy em cũng không nghe thấy tiếng nó rống lớn lúc ta đâm nó một kiếm sao?"

Nàng tưởng tượng, có một con sói nước miếng ròng ròng bám theo nàng trên đường rừng... Nếu Mộ Ngôn không xuất hiện, có lẽ lúc này nàng đã nằm trong bụng sói rồi. Càng nghĩ, nàng càng cảm thấy sợ, thậm chí mắt đã hơi đỏ: "Có nghe thấy tiếng gì đó, vậy nên lúc ấy tôi đã định quay đầu lại xem con gì đang kêu."

Y vỗ nhẹ lên lưng nàng: "Đừng sợ, không phải sói đã bị ta giết chết rồi sao, em còn sợ cái gì?" Vỗ xong còn nhíu mày: "Quân huynh đệ và con hổ của em đâu? Tại sao họ không đi cùng em? Một cô gái nhỏ như em, đang đêm hôm còn lang thang ở vùng rừng núi này làm gì?"

Nàng quệt mắt: "Quân Vĩ và Tiểu Hoàng đã bỏ trốn theo trai rồi."

Mộ Ngôn: "..."

.

.

.

Nàng đã gặp lại Mộ Ngôn như thế. Tuy rằng trong lòng chứa chan biết bao cảm xúc lãng mạn, nhưng nàng cũng hiểu rõ chuyện nàng và y tái ngộ nhau ở Bích Sơn, không thể vin vào cái lý do "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ" để giải thích. Nàng có rất nhiều điều muốn hỏi y, nhân lúc y còn đang cúi xuống kiểm tra xác con sói thì tranh thủ thời gian nghĩ sẵn lời. Thế nhưng còn chưa kịp mở miệng thì nàng đã nhìn một sự việc lạ lùng: ở cánh rừng trước mặt, có mấy con chim đột ngột chui ra từ bụi rậm, bay nháo nhác.

Bảy người mặc áo đen bất ngờ xuất hiện trước mặt nàng, giống như kiểu từ dưới đất chui lên vậy.

Nàng nghĩ lịch sử lại tái diễn rồi, đám người này cũng giống như bọn áo đen truy sát Mộ Ngôn năm nào. Nàng bước lùi lại một bước, một bước, rồi lại thêm một bước; còn chưa kịp đứng nép sau lưng Mộ Ngôn cho nó an toàn, mấy người áo đen đã đồng loạt rút kiếm đặt trên mặt đất, nhất loạt quỳ xuống: "Thuộc hạ đến chậm..." Bọn họ đồng thanh tương ứng, giống như đã diễn đi diễn lại câu thoại này cả trăm lần rồi. Mà vẻ mặt của mấy người này cũng rất tương xứng với lời thoại: ai nấy đều lộ ra cái vẻ nhục nhã hổ thẹn rất biểu cảm.

Nàng kinh ngạc quay lại nhìn Mộ Ngôn. Y đã thu lại thanh trường kiếm trong tay, nét mặt dửng dưng. Y không hề để ý đến mấy người áo đen đang quỳ trên mặt đất, chỉ quay sang nhìn nàng: "Còn đi được không?"

Ánh mắt nàng mờ mịt.

Khóe miệng y hàm chứa ý cười: "Không phải là em đã sợ đến nhũn cả chân rồi chứ?"

Nàng lập tức phản bác: "Tôi không sợ đến nhũn chân!"

Y lắc đầu: "Nhìn mắt em là biết ngay em đang nói dối."

Nàng: "Tôi không nói dối!"

Y vẫn thong thả nhìn nàng: "Vậy em đi hai ba bước cho ta xem nào."

Nàng: "..."

Mộ Ngôn nói không sai, nàng đang nói dối.

Vừa nãy, nàng đã bị dọa cho sợ đến nhũn hết cả chân rồi. Thời khắc nguy hiểm vừa nãy, sở dĩ nàng có thể lùi lại mấy bước, chẳng qua là vì sức mạnh bột phát trong hiểm cảnh. Làm người, ai cũng có điểm yếu, trên đời này nàng sợ nhất là sói và rắn. Sự thật là vậy, nhưng bị Mộ Ngôn tố cáo thẳng thừng không kiêng nể như thế này, nàng có chút tổn thương.

Chỉ vì sợ một con sói thôi mà đã mềm nhũn hết cả chân, đó là biểu hiện của một kẻ yếu hèn. Nàng không muốn bị y xem thường. Đổi lại, nếu là Quân Vĩ nói nàng như vậy, đảm bảo nàng sẽ hung hăng hỏi ngược lại hắn: "Ờ đấy, bản cô nương đây mềm nhũn chân vì sợ đấy, anh làm gì được ta nào?!" Nhưng Mộ Ngôn thì khác, nàng chỉ muốn để y nhìn thấy những điểm tốt đẹp nhất của nàng thôi. Cách suy nghĩ này cũng giống với việc một cô gái sẽ ngại ngùng không muốn ý trung nhân biết rằng cô ấy muốn đi nhà vệ sinh, mặc dù đấy là một nhu cầu rất bình thường. À, lại nói, nàng vốn không có nhu cầu này.

* * *

Đang chìm đắm trong những suy nghĩ bi thương, bên tai nàng bỗng vang lên một tiếng nói trầm: "mạo phạm", rồi cả người nàng trở nên nhẹ bẫng. Mộ Ngôn bế nàng lên. Nàng còn nghe thấy một tiếng thở dài loáng thoáng không rõ là của ai. Không gian xung quanh đặc biệt yên tĩnh, tiếng thở dài vì vậy lại càng rõ hơn. Nhưng khi nàng ngước mắt nhìn lên, chỉ thấy một vầng trăng trong sáng trên nền trời đen thẫm.

Tuy là bế theo nàng, nhưng y vẫn bước đi nhàn nhã như người đang dạo chơi trên đường vắng, không mảy may vướng bận điều gì. Chỉ là lúc lướt qua đám người áo đen đang quỳ nghiêm chỉnh trên nền đất, bước chân y hơi ngừng lại.

Mấy người ấy đều cúi đầu rất thấp. Tiếng của Mộ Ngôn giữa chốn núi rừng thênh thang vang lên rất nhẹ: "Có hiểu thế nào là hộ vệ không? Kiếm của các ngươi phải rút ra nhanh hơn ta, như thế mới là hộ vệ cho ta". Giọng nói nhàn nhạt dửng dưng của y khiến cho đám người kia lại càng cúi đầu sát rạp, không dám ngẩng lên nữa.

Đây là uy nghiêm của người ở địa vị cao, do được tu dưỡng nhiều năm trong hoàng thất mà thành. Sở dĩ nàng không cảm thấy sợ hãi hay giật mình trước thái độ này của Mộ Ngôn, cũng bởi vì nàng nhìn đã quen mắt, nghe đã quen tai cái sự trịch trượng này rồi. Ví dụ như phụ vương nàng chẳng hạn, tuy rằng ông trị quốc thì bất tài, nhưng vẫn có điểm uy nhiêm nhất định, và ông vẫn thành công trong việc dùng uy nghiêm này để ra oai với các vị phu nhân của mình...

Đang ngẫm nghĩ đến xuất thần, khi ngẩng đầu lên, nàng nhìn thấy người áo đen quỳ ở giữa đột nhiên đứng dậy. Người ấy có vẻ như muốn gỡ chiếc mặt nạ da người đang đeo. Nàng không hiểu chuyện gì đang diễn ra, toàn thân cứng nhắc trong tay Mộ Ngôn, hoảng hồn hỏi y: "Người này đang làm gì?" Y liếc nhìn nàng: "Em đoán xem?"

Nàng tự hỏi tự trả lời: "Giống như đang xé mặt nạ?"

Đương lúc bọn nàng trò chuyện, tên áo đen này quả nhiên gỡ chiếc mặt nạ da người xuống, hít hít thở: "Ngột chết mất!" Nàng tỉ mỉ quan sát người đó, cảm thấy ngạc nhiên vô cùng, thật không ngờ ẩn dưới chiếc mặt nạ ngu ngu dại dại kia lại là một cô gái vô cùng xinh xắn, mày thanh mắt đẹp. Mộ Ngôn khẽ nhướn mày, lãnh đạm nói: "Ta còn tưởng đám thuộc hạ của mình càng ngày càng không nên thân, đã mang tiếng ẩn nấp mà còn làm chim chóc sợ hãi bay toán loạn, hóa ra bọn chúng bị em làm liên lụy!"

Cô gái đó không hề để bụng lời mỉa mai của y, cười hì hì sáp lại gần Mộ Ngôn: "Đúng là không thể trách được bọn họ. Nếu như phải rút kiếm ra trước mặt ca ca thì mới có tư cách làm hộ vệ cho ca ca, yêu cầu này quá khó! Chỉ sợ trong thiên hạ không ai có đủ tài làm hộ vệ cho anh mất! Ừm, để em xem cô gái đang ở trong lòng ca ca là ai nào... Em còn tưởng anh vẫn còn si tình cái cô Tần Tử Yên chứ, hóa ra đây mới là chị dâu tương lai của em sao? Cuối cùng thì anh cũng đã buông tay được Tần Tử Yên rồi. Chị dâu này, chắc chị là chị dâu của tôi nhỉ? Tôi... em tên là Mộ Nghi, còn chị tên gì?"

Nàng thoáng chốc run lên, cắn cắn môi mà không biết phải mở lời thế nào. Mộ Ngôn cúi đầu nhìn nàng một lúc rồi cắt lời Mộ Nghi: "A Phất vẫn còn nhỏ."

Mộ Nghi ngại ngần: "Nói như vậy, ca ca vẫn còn thương cái cô Tử Yên ấy?"

Nàng lẳng lặng nghe hai anh em họ nói chuyện, trong ngực cảm thấy nặng trĩu. Nàng đang ở bên cạnh Mộ Ngôn, ở rất gần. Nàng không thấy Mộ Ngôn có biểu hiện gì đặc biệt khi nhắc tới cái tên Tử Yên. Nhưng cũng có thể do nàng không nhận ra đó thôi. Sau khi chết đi, phần lớn cảm giác của nàng đã biết mất, nàng không còn đủ nhạy cảm nữa.

Mộ Ngôn không trả lời, chỉ hờ hững quét mắt nhìn đám người vẫn còn quỳ trên nền đất, ra lệnh: "Quay về bản doanh."

Nói rồi y lại ôm nàng mà đi về phía trước, những người khác bám đuôi theo sau. Nằm trong lòng y như vậy, nàng cảm thấy mình đã lời lãi lắm rồi, nhưng chẳng  hiểu sao vẫn thấy bứt rứt. Hai chữ Tử Yên kia cứ đè nặng lên tâm trí nàng. Tại sao nàng không thể gặp lại Mộ Ngôn sớm một chút...

Ánh trăng rơi đầy, vương trên từng tán cây rồi loang trên mặt đất, tạo thành từng vũng ánh sáng. Nàng kìm nén nửa ngày, cảm thấy ngay cả đôi mắt cũng sắp đỏ lên rồi. Thế mà chỉ dám nói lí nhí với Mộ Ngôn: "Cô gái đó không tốt. Cô ấy muốn giết anh. Anh không nên yêu cô ấy."

Mộ Ngôn hơi cúi đầu: "Em vừa nói gì?"

Nàng khịt khịt mũi, dũng khí chẳng biết bay đi đâu mất rồi, nàng không dám nói lại một lần nữa, chỉ bâng quơ ngẩng đầu nhìn trời đêm: "Không có gì, anh nhìn xem, tối hôm nay sao trên trời thật tròn."

Hồi lâu, Mộ Ngôn mới lên tiếng: "Cái mà em nhìn thấy, có lẽ là...mặt trăng thì phải."

Chim ngủ yên trong tổ, đêm lạnh như nước, toàn bộ sự sống đều không còn dấu tích. Đi trên đường núi gập ghềnh yên ắng như thế này, nếu vẫn không ai nói với ai tiếng nào thì quả thật là vô cùng tịch mịch. Sau khi chia tay với Mộ Ngôn, nàng cũng chẳng gặp phải chuyện gì đáng kể lắm. Suy nghĩ mãi, nàng thấy chỉ có chuyện về Thập Tam Nguyệt là có chút ly kỳ mới mẻ. Thế là nàng từ từ kể cho y nghe trên suốt quãng dường. Thật ra cho đến tận bây giờ nàng vẫn không hiểu được lý do tại sao Thập Tam Nguyệt lại tự sát, càng nghĩ lại càng không hiểu. Trong lần dệt mộng này, mọi chuyện cứ mập mập mờ mờ. Nhưng hình như đó không phải là điều Mộ Ngôn quan tâm nhất.

"Em nói chỉ cần lựa chọn ở lại trong cảnh mộng; dù trong giấc mộng em dệt, người ấy có sống hay chết thì ngoài hiện thực, chắc chắn người ấy sẽ chết?" – Y khẽ cúi đầu nhìn nàng và hỏi. Bởi vì ngược ánh sáng trăng nên nàng không nhìn rõ được biểu hiện trên nét mặt y, chỉ cảm nhận được một vài sợi tóc đen hơi lướt nhẹ qua gò má nàng.

Bản doanh trong lời nói của Mộ Ngôn nằm ở một khe núi rộng, phải đi bộ một quãng đường rất dài mới có thể tới nơi. Nhưng không hiểu sao nàng lại cảm thấy đoạn đường này quá ngắn. Việc này một lần nữa lại chứng minh được rằng thuyết tương đối cũng không phải là vớ vẩn lắm. Nàng nghĩ, vẫn con đường này, nếu đi cùng Quân Vĩ, nhất định nàng sẽ cảm thấy nó dài lê thê lê thê. Không biết chừng còn ngủ gục trên đường mất.

Tối nay nàng và Mộ Nghi cùng ngủ chung một trướng. Có lẽ phải đợi Mộ Nghi ngủ yên rồi, nàng mới dám chợp mắt. Làm thế để đề phòng cô ấy phát hiện ra mình đang nằm cạnh một người chết. Thế nhưng Mộ Nghi lại chẳng thông cảm gì cho nỗi khổ của nàng, cô ấy khăng khăng rủ nàng ngồi ngắm sao.

Theo lời kể của Mộ Nghi, nàng biết rằng tối nay nàng tình cờ gặp lại Mộ Ngôn, đúng là không phải do hữu duyên thiên lý năng tương ngộ gì, chẳng qua y vừa xử lý xong xuôi một chút chuyện trong nhà, chọn đường đi qua Bích Sơn để quay về phủ riêng của mình.

Nàng ngẫm nghĩ, cảm giác có chút vui sướng trong lòng. Hóa ra Mộ Ngôn ở riêng chứ không sống chung với cha mẹ. Như vậy gả cho y rồi, nàng sẽ không phải lo lắng chuyện hầu hạ bố mẹ chồng, được như vậy thì thật tốt. Sau đó ngẫm lại, nàng thấy mình lo toàn những chuyện không đâu.

Nàng do dự nhìn Mộ Nghi, nét mặt cô ấy vui tươi như hoa vẽ dưới trăng; nàng quyết định sẽ hỏi thẳng cô ấy một vấn đề mình băn khoăn từ lâu nhưng không có ai giải đáp: "Anh trai của em năm nay bao nhiêu tuổi? Y đã... đã cưới vợ chưa?"

Mộ Nghi có chút sửng sốt. Cô ấy đưa chén trà lên gần miệng, cử chỉ đoan trang, miệng cười hớn hở nhìn nàng: "Chuyện này..."

Nàng cảm thấy viên giao châu trong ngực sắp nhảy lên tận cổ họng mất rồi.

Cô ấy uống một ngụm trà, tiếp tục tươi cuời hớn hở nhìn nàng: "Chuyện này..."

Nàng muốn bóp cổ chết Mộ Nghi luôn. Cô ấy lại tiếp tục uống thêm hai ngụm trà, mãi mới chậm rãi mở miệng: "Ca ca em chưa lấy vợ."

Nàng cố kiềm chế cái ý định không giơ tay lên nhằm về phía cổ Mộ Nghi mà bóp, nhưng cô ấy lại vô cùng hứng thú mà sáp lại gần nàng: "Nhưng chị hỏi chuyện này làm gì?"

Nàng húng hắng ho mấy tiếng, lại lùi về sau một chút: "Không có gì, tôi có một người chị em, đang định làm mối cho ca ca em.

Đôi mắt Mộ Nghi nhìn nàng lấp lánh.

Nàng lại che miệng, ho thêm vài tiếng nữa: "Thật đấy."

Mộ Nghi chống cằm, cười híp mắt: "Ca ca em rất quan tâm đến chị đấy. Ở nước Trần của em nhé, các cô gái xinh đẹp thầm thương trộm nhớ ca ca nhiều đến nỗi nếu đứng cạnh nhau, có thể vây một vòng lớn bao quanh Hạo thành. Nhưng anh ấy trước giờ đều không để tâm đến chuyện tư tình nam nữ. Thế mà hôm nay, khi thấy chị đi đứng không xong, anh ấy lại có thể chủ động bế chị đi. Nếu việc này mà bị các cô gái ở nước Trần biết được, số chị sẽ chết thảm đấy."

Nàng không cam lòng chịu rơi vào thế hạ phong, bình tĩnh nói: "Lúc trước, người ngưỡng mộ tôi cũng rất nhiều. Có thể xếp một hàng dài từ cửa nhà tôi, đứng chen chúc nhau từ đầu phố đến cuối phố." Dĩ nhiên những người này một nửa vì tiền, một nửa vì quyền, nhưng chuyện ấy thiết nghĩ không cần phải nói ra.

Mộ Nghi nháy nháy mắt: "Ôi, vậy thì chị với ca ca em đúng là môn đăng hộ đối nha!"

Nghe cô ấy nói vậy, trong lòng nàng cảm thấy rất vui vẻ, nhưng vẫn cố làm ra vẻ thản nhiên: "Không nên nói đến chuyện ấy. Không phải ca ca của em đã có ý trung nhân rồi sao, là cái cô Tử Yên gì gì đó...". Chưa nói hết lời nàng đã bị Mộ Nghi cắt ngang: "Cô ta không được, tuyệt đối không cho phép! Dám hành thích ca ca em, kiếp này, cô ta không có phúc được làm chị dâu em!"

Nàng nghi hoặc hỏi: "Nói vậy chẳng lẽ em muốn họ lén lút yêu nhau?"

Mộ Nghi bật cười thành tiếng: "Nói chuyện với chị thật là thú vị nha! Ý của em là, chuyện đã xảy ra như vậy rồi, cha em nhất định không cho phép ca ca cưới Tử Yên. Mà thật ra anh trai em không phải loại người đặt chữ tình lên trên hết đâu, đối với ba cái chuyện trăng gió này..." Nói chưa hết ý, Mộ Nghi dường như đột ngột nhớ ra chuyện hệ trọng gì đó: "Nói đến đây, A Phất, nếu chị thật sự để tâm đến ca ca của em, có một người chị phải ghi nhớ thật kỹ, bởi vì trong tâm trí anh trai em, Tử Yên không là gì nếu đem so với nàng ấy."

Mộ Nghi nói đến đây thì không cười nữa, cô ấy chỉ trầm tư nhìn nàng: "Người con gái duy nhất trên cõi đời này khiến cho anh trai em kính trọng, ngưỡng mộ; chắc chị cũng đã từng nghe danh nàng ấy rồi; đó là cô con gái nhỏ tuổi nhất của Vệ công, người đã lấy thân tuẫn quốc -Văn Xương công chúa danh chấn thiên hạ Diệp Trăn."

Khi Mộ Nghi nói tới chuyện này, nàng ngơ ngẩn nhớ tới sự việc mới chỉ xảy ra nửa năm trước, lại cảm thấy chuyện đã xa xưa tận mấy đời. Dưới ánh trăng ấm áp, Mộ Nghi cầm chén sứ trắng, nét mày hơi nhíu lại: "Em không được chứng kiến tình cảnh lúc đó, chỉ nghe nói nước Vệ vốn hạn hán lâu ngày, thế mà thời điểm công chúa Diệp Trăn tuẫn tiết, trời đột nhiên đổ mưa lớn. Người người đều nói rằng trời cao vì cái chết của Văn Xương công chúa mà đau lòng rơi lệ. Họ còn kể là từ trên trăm trượng tường thành, Diệp Trăn không màng đến tính mạng, xoay người nhảy xuống, không chần chừ do dự. Ngay đến tướng sĩ nước Trần cũng cảm phục trước sự quyết tuyệt của nàng ấy. Anh trai em nói rằng Diệp Trăn là độc nhất vô nhị trên đất Cửu Châu này. Bao nhiêu năm nay Cửu Châu phân chia rồi tụ hợp, chỉ có duy nhất một vị công chúa dám hy sinh cùng xã tắc. Nếu như nàng ấy không phải là thân con gái, tuổi cũng không phải là quá nhỏ như vậy, chắc chắn sẽ làm nên nghiệp lớn. Em nghĩ mà cũng cảm thấy đáng tiếc, vì nghe đồn công chúa Diệp Trăn lớn lên xinh đẹp, lại có học thức. Sử sách coi trọng nàng biết bao, vậy mà lại sớm chết yểu. Ôi, thật đáng hận cho Diệp Trăn khi sinh nhầm ở chốn đế vương."

Nàng hỏi: "Nãy giờ em nói nhiều như vậy, thật ra em muốn nói chuyện gì?"

Mộ Nghi buông chén xuống, ngây ngô: "Ơ, đúng rồi... Em đang muốn nói chuyện gì nhỉ?"

Nàng vỗ nhẹ nơi lồng ngực, ở nơi ấy, bấy lâu nay nàng đã không còn cảm nhận được tiếng đập của con tim mình. Một hồi lâu sau, nàng nói: "Sinh ở gia đình vua chúa, vốn dĩ là như thế. Từ nhỏ, cô ấy đã được hưởng thụ rất nhiều đặc quyền đặc lợi, tất nhiên phải có một chút trách nhiệm cần phải gánh vác. Cái chết này của Diệp Trăn là không thể khác. Cô ấy sinh ra là thân công chúa thì phải suy nghĩ như một vị công chúa. Trách nhiệm với đất nước không thể không gánh, biết là chết ở trước mặt nhưng con đường ấy vẫn không thể không đi. Ngày trước, thần dân trăm họ coi cô ấy là công chúa, cung phụng cô ấy. Một khi cô ấy đã tiếp nhận sự cung phụng này của bách tính, thì không thể nói rằng mình ân hận khi sinh nhầm ở chốn đế vương. Vào thời khắc phải gánh vác bổn phận thì tuyệt đối không thể vin vào cái cớ sinh nhầm là cháu chúa con vua mà khước từ số mệnh. Nếu như Diệp Trăn là người hèn nhát như vậy thì cô ấy thật đáng hận!" Nói xong, nàng cảm thấy chủ đề của cuộc nói chuyện càng ngày càng phát triển theo một chiều hướng cao thâm. Nàng vội vàng dừng cương trước miệng vực mà quay lại chính đạo: "Chúng ta nói đến đâu rồi nhỉ?"

Mộ Nghi ngồi đối diện, ngơ ngơ ngác ngác nhìn nàng: "Em cũng quên mất rồi..."

.

.

.

Nàng vốn dĩ không cần ngủ, cũng như không cần ăn, không cần uống, không cần mặc... Ừm, quần áo thì vẫn nên mặc. Sống tới cảnh giới này của nàng, mọi nhu cầu đối với cuộc sống đã biến thành hứng thú theo kiểu vui thì ăn, thích thì ngủ... Chỉ càn có viên ngọc giao châu, tất cả mọi nhu cầu đều có thể bị tịnh hóa, bao gồm cả cơn buồn ngủ đang nảy sinh ở thời điểm này, bao gồm cả việc nàng vì nể Mộ Nghi mà ăn một trái cà chua nhỏ nửa khắc trước.

Tóm lại, nàng không gặp phải bất cứ chuyện gì phiền phức. Tất cả đều diễn tiến vô cùng thuận lợi.

Bọn nàng mặt đối mặt, mắt nhìn mắt một hồi lâu, cuối cùng Mộ Nghi bại trận, ngáp dài một cái rồi đi vào trong trướng ngủ. Nàng lại vỗ nhẹ lên ngực trái, vẫn không cảm nhận được nhịp đập của trái tim, nhưng nàng cảm thấy lòng mình rất đỗi ngọt ngào. Mộ Nghi nói anh trai của cô ấy ngưỡng mộ nàng, kính trọng nàng ư? Những lời tương tự, nàng đã từng nghe rất nhiều. Nhưng trước đây khi biết chuyện có ai đó hâm mộ nàng chỉ vì nàng nhảy lầu, nàng thấy họ thật bệnh! Nàng luôn tâm niệm nếu là vị anh hùng chân chính thì nên vung đao lập đại công, để lại tiếng thơm lưu muôn thuở, lúc ấy tên tuổi mới xứng để lưu truyền thiên thu, người người kính ngưỡng. Nàng không phải bậc thần tiên giáng trần để mà xoay chuyển càn khôn. Tâm thì có thừa mà sức không đủ, có gì mà đáng kính trọng đâu. Trong thời loạn thế, được làm vua, thua làm giặc, nàng chẳng qua chỉ là một kẻ thua cuộc, bị tình cảnh ép buộc mà phải lấy thân tuẫn quốc, như vậy thật chẳng có tiền đồ! Dĩ nhiên, các anh chị em của nàng không tuẫn tiết giống nàng, họ lại càng không có tiền đồ! Nhưng nói vậy chẳng hóa ra chó chê mèo lắm lông à. Cùng là những người không có tiền đồ như nhau, chẳng nên giễu cợt nhau làm gì.

Trời cao đất rộng, núi đồi liên miên, nàng đứng dậy toan đi dạo vài vòng để vận động gân cốt. Lúc nhìn về trướng của Mộ Ngôn, nàng thấy y đang ngồi bên một đống lửa, loay hoay đẽo gọt cái gì đó. Trong bóng đêm mênh mang vô tận, thân hình cao lớn của y phản chiếu qua ánh lửa bập bùng, xem ra đêm nay y cũng không ngủ được.

Nàng nghĩ, vào thời gian đêm hôm khuya khoắt như vậy, nếu như hai người cùng ở chung một chỗ thì cũng có điểm không ổn. Như vậy, nàng nên đi qua chỗ y hay là không nên đi qua đây? Đầu còn đang trong quá trình tư lự suy xét, chân đã bước nhanh hai ba bước về phía y rồi. Có lẽ nàng không phải là một cô gái e lệ thẹn thùng gì cho lắm.

Quân Vĩ từng kể cho nàng nghe rất nhiều chuyện tương tự. Trong tiểu thuyết mà Quân Vĩ sáng tác, các vị tiểu thư khuê các gặp gỡ ý trung nhân đều nên bạo gan một chút, rung động không bằng hành động, thế mới khiến cho người ta yêu mến được. Nhưng thật ra nàng cũng chẳng hiểu cái gì gọi là rung động không bằng hành động, chỉ cần gặp Mộ Ngôn, chân tay nàng bao giờ cũng hành động nhanh hơn cái đầu một bước.

Vậy là nàng tiến lại gần bên Mộ Ngôn, hỏi: "Anh đang làm gì vậy?"

Con dao khắc y đang cầm trong tay chuyển động thong thả hơn: "Khắc món đồ chơi nhỏ để giết thời gian thôi." Nói xong, y ngẩng đầu nhìn nàng, nhíu mày nói: "Giờ này em còn không đi ngủ? Khuya lắm rồi đấy."

Nàng vốn không cần ngủ, nhìn thấy y lại càng không muốn ngủ. Tuy nhiên không thể nói trắng ra suy nghĩ này, chỉ đành vòng vo một hồi, ngồi xuống bên cạnh quan sát Mộ Ngôn đang kiên trì từng đường từng đường khắc, chạm trổ từng nét bên ngoài khối ngọc.

Hồi lâu, y đột nhiên lên tiếng: "Đúng rồi, chiếc ngẫn ngọc ban chỉ của ta em vẫn còn giữ chứ?"

Nàng lắc đầu: "Đem cầm rồi."

Y dừng dao: "Cầm rồi?"

Nàng cúi đầu, giả vờ nghiên cứu xem Mộ Ngôn đang khắc cái gì, giọng thì thầm như tiếng muỗi kêu: "Đúng."

Y không nói nữa, tiếp tục chuyên chú vào con dao khắc trong tay, cuối cùng khối ngọc đã thành hình: một con hổ sinh động tạc bằng ngọc!

Nàng khâm phục sự khéo léo của y đến tận đáy lòng: "Thật đáng yêu."

Y cầm con hổ ngọc trong tay, xoay xoay một hồi: "Thật à? Ta định dùng nó để đổi lấy ngọc ban chỉ hồi trước đưa em. Thế mà..."

Nàng suy nghĩ chốc lát, lặng lẽ lấy từ trong ngực ra chiếc nhẫn ban chỉ bằng ngọc, thả nó vào tay y. Sau đó cũng tự ý lấy luôn con  hổ bằng ngọc mà y mới khắc xong.

Mộ Ngôn dường như sửng sốt.

Nàng nói: "Con hổ ngọc này so với nhẫn kia có lẽ đắt tiền hơn. Tôi thích nó." Thật ra nàng chỉ nói vậy thôi, suy nghĩ thật sự của nàng là gì ư? Ngọc ban chỉ chỉ là vật chết, nhưng con hổ ngọc này lại do Mộ Ngôn tự tay chạm khắc, tuy không phải y đặc biệt khắc nó cho nàng, nhưng trên cả đất Cửu Châu này chỉ có duy nhất một con hổ ngọc như thế. Vậy chẳng khác gì Mộ Ngôn tự tay làm nó để tặng cho nàng. Sau này dù cho phải xa cách y rồi, nhìn thấy nó, nàng sẽ cảm thấy ấm áp trong lòng.

Thế nhưng nàng vẫn có điểm không ưng ý. Nàng rụt rè áp sát Mộ Ngôn, hỏi: "Anh có thể chỉnh sửa lại con hổ này một chút không?"

Y quan sát con hổ ngọc nàng vừa đưa, gật đầu: "Được. Nhưng em muốn sửa gì? Mắt hay là tai?"

Nàng đoan chính ngồi ngay ngắn trước mặt y: "Anh xem, anh có thể sửa lại con hổ này cho giống với tôi không?"

Mộ Ngôn: "..."

Nàng nghĩ, đôi tay khéo léo này của Mộ Ngôn không chỉ đàn hay mà lại còn chạm trổ được những món đồ chơi tinh xảo, như vậy sửa sang lại khối ngọc một chút chắc cũng không phải vấn đề gì to tát. Xung quanh nàng, hoa bán chỉ liên bung nở, nhìn qua ánh lửa hồng, sắc màu lại càng thêm rực rỡ. Mộ Ngôn lúc nhìn hoa, lúc lại quay sang nhìn nàng. Bỗng dưng nàng cảm thấy chân trời tĩnh lặng này, cảnh đồi núi hoang vắng này, tựa như là cả một rừng mai trắng bung nở đêm mùa hạ năm xưa... nhưng nàng lại không thể cảm nhận được hương thơm của hoa mai thêm một lần nữa.

Y thoáng cười nhẹ: "Muốn ta khắc em, vậy thì em phải bỏ mặt nạ ra, nếu không làm sao ta biết phải khắc thế nào cho giống?"

Lòng nàng run rẩy, cổ họng nghẹn ngào, nhưng cuối cùng, nàng vẫn chỉ có thể lắc đầu.

Y dịu dàng hỏi: "Vì sao không để ta xem mặt em?" Nàng vuốt nhẹ lên chiếc mặt nạ trên mặt: "Bởi vì, bởi vì tôi là một cô gái rất xấu xí." Lần đầu nàng gặp Mộ Ngôn, nàng mới chỉ là một cô bé mười bốn tuổi, gương mặt vẫn còn vương nét trẻ thơ chưa trưởng thành. Đợi được đến tuổi mười bảy diễm lệ nhất thì lại không có cách nào gặp được y, để y nhìn thấy dáng vẻ xinh đẹp ấy. Mãi đến hôm nay mới gặp lại được y thì trên trán đã có một vết sẹo dài, nàng không muốn y nhìn thấy vết sẹo xấu xí ấy. Nàng cứ mân mê mãi đầu ngón tay, đây là lần đầu tiên nàng ủ rũ như vậy khi nghĩ đến dung mạo đã bị hủy. Nàng muốn Mộ Ngôn nhìn thấy dáng vẻ xinh đẹp nhất của mình, nhưng dáng vẻ ấy, đã chết rồi. Bên dưới chiếc mặt nạ ứa ra một giọt nước mắt. Nàng khịt mũi, may mà có mặt nạ để giấu che, Mộ Ngôn sẽ không thể nhìn thấy nước mắt nàng.

Đêm hôm đó, nàng ôm miếng ngọc nhỏ mà Mộ Ngôn khắc tặng, ngủ rất sâu. Mãi đến nửa đêm, không rõ có ai lại gần đánh thức nàng. Nàng mở to đôi mắt, mơ mơ hồ hồ, dụi một cái, lại dụi thêm một cái.

Hoa nở dưới ánh trăng tàn, người tặng nàng ngọc đang đứng dưới ánh trăng, nụ cười nở ấm áp trên môi: "A Phất, đừng dụi mắt nữa."

Y đưa tay kéo nàng dậy, ống tay áo rộng buông rơi cạnh nàng: "Dậy thôi, chúng ta cùng lên đường."

Nàng nhíu mắt nhìn y, giống như nhìn thấy một thiên thần hiện từ trong giấc mơ. Nàng cứ nhìn mãi nhìn mãi, ngay cả ý cười thấp thoáng ẩn hiện trong mắt y, nàng cũng nhìn thấy được. Nàng hỏi: "Đi đâu?"

Y quay sang nhìn Mộ Nghi đang nằm cạnh nàng, thong thả đáp: "Không phải đến tận bây giờ em vẫn băn khoăn về chuyện Nguyệt phu nhân của nước Trịnh sao? Chúng ta đi đến Trịnh quốc tìm đáp án. Không biết chừng trên đường đi còn gặp được Quân huynh đệ và Tiểu Hoàng." Ngừng một chút, y nói tiếp: "Đừng lo lắng, đám hộ vệ của ta sẽ không tỉnh lại trong một thời gian nữa. Bị bọn họ bám đuôi theo rất phiền phức. Chúng ta sẽ cấp tốc lên đường, nếu đi một đêm không nghỉ thì sẽ cắt đuôi được bọn họ, sau đó ta với em có thể ung dung đi nốt đoạn đường còn lại."

Nàng nghe xong thì đưa tay cho y, nghĩ một hồi nói: "Hay là chúng ta viết một lá thư để bọn họ không phải lo lắng."

Y nhẹ nhàng kéo nàng đứng dậy: "Em không cần nghĩ cho bọn họ làm gì. Từ lúc mười hai tuổi ta đã bắt đầu một mình bỏ nhà đi lang bạt, bọn họ cũng quen rồi." Nàng chỉnh trang lại quần áo trên người, lại có chút lo nghĩ: "Anh thì quen rồi, không nói làm gì; nhưng còn tôi bỏ trốn theo anh như vậy có bị coi là bỏ nhà theo trai không?"

Mộ Ngôn: "..."

chương 3.1 : song hành 

Vượt qua Bích Sơn là đến lãnh thổ của nước Trần.

Bọn nàng từ bỏ ý định đi xuyên qua nước Khương mà chuyển hướng men theo đường vòng từ phía đông nước Trần, rẽ qua Triệu rồi mới tiến nhập vào Trịnh quốc. Sắp đặt lộ trình ngoằn ngoèo như vậy là để bỏ rơi Mộ Nghi cùng đội hộ vệ áo đen của Mộ Ngôn một cách triệt để nhất. Cuối cùng thì cũng cắt đuôi thành công.

Hành trình bôn ba như vậy, dứt khoát là vất vả vô cùng. Nhưng bởi người cùng đi với nàng là Mộ Ngôn nên nàng không cảm thấy mệt chút nào. Thậm chí, nàng còn âm thầm cầu mong cho đường đến Trịnh quốc cứ kéo dài mãi, để nàng được ở bên Mộ Ngôn lâu hơn. Nhưng bởi vì không có Tiểu Hoàng đứng ra cản trở, hành trình khó có thể bôi dài ra được. Nàng đã cố gắng rề rề rà rà hết sức mình rồi, nhưng nàng và Mộ Ngôn vẫn nhanh chóng tiến gần vào lãnh thổ nước Trịnh.

Trăng lơ lửng treo trên trời cao, thời gian trôi đi như tên bắn, thoắt cái mà sắc trời chuyển tối. Bọn nàng ghé đến trọ ở một lữ quán, ai trở về phòng người nấy để nghỉ ngơi.

Nàng nằm trên giường, vừa tính toán lộ trình đến thành Tứ Phương, vừa lặng lẽ nhớ mong Tiểu Hoàng. Càng nghĩ lại càng muốn than vãn... Thật chẳng mấy khi cần đến nó, thế mà nó lại không có ở đây, tại sao Tiểu Hoàng lại là một con hổ khó ưa như thế này!

Sáng sớm ngày thứ hai, sau khi đã rửa mặt xong xuôi, nàng xuống lầu dùng cơm sáng. Mộ Ngôn đã ngồi ở sảnh lớn từ bao giờ. Trên người Mộ Ngôn mặc một bộ y phục màu xanh lam. Màu xanh ngọc ấy trong ánh nắng của buổi sớm mai dường như bảng lảng cả chút khói sương, sắc xanh ánh lên mông lung, tựa như sắc trời rạn vỡ.

Nàng đứng lại, bần thần, quả nhiên trên cõi đời này không kẻ nào thích hợp với lam y hơn Mộ Ngôn. Ai mà dám mặc trang phục màu lam đứng trước y là tự mình làm mình mất mặt. Sau đó nàng nghĩ tiếp, lần tới khi gặp Quân Vĩ, nhất định phải khuyên nhủ hắn kiên trì theo đuổi con đường làm một hiệp khách áo trắng, không nên vì màu lam khó bắt bụi hơn màu trắng mà chuyển qua màu này. Cứ nhìn phong thái của Mộ Ngôn khi mặc lam y rồi so sánh với Quân Vĩ, thật sự khó mà tưởng tượng.

 Nghĩ xong nàng tiếp tục bước xuống cầu thang, tiện tay còn sửa sang lại quần áo một chút. Lúc nàng ngẩng đầu lên thì bắt gặp ánh mắt của Mộ Ngôn – vốn lúc trước vẫn còn nhìn bâng quơ qua cửa sổ – chẳng biết từ lúc nào đã hướng cái nhìn về nàng. Y cười rất ôn hòa. Hậu quả trực tiếp của cái cười ấy là: nàng bước hụt chân, ngã đánh rầm một cái xuống lầu!

Tuy rằng Mộ Ngôn thân thủ cao cường, nhưng lần này y đã không thể thành công trong việc đỡ lấy nàng. Bởi vì dẫu sao đây cũng không phải là khoảng cách từ lầu bảy xuống lầu một, chẳng qua chỉ là từ nấc thang thứ bảy xuống nền đất mà thôi. Độ cao thì thiếu, bề rộng thì dư, đấy là còn chưa kể đến một loạt các chướng ngại vật ngăn cách như ghế ghế bàn bàn đủ các loại.

Trong khoảnh khắc lưng tiếp xúc với mặt đất, nàng quên bẵng mất chuyện bộ váy đang mặc sẽ bị bẩn, ngược lại, nàng còn cho rằng cú ngã này thật là một điều may mắn. Bị ngã, nàng sẽ có cớ lưu lại thị trấn này, như vậy thì có thể ở bên Mộ Ngôn lâu hơn rồi. Nàng thầm trách mình tại sao không nghĩ ra biện pháp này sớm hơn, tự lực cánh sinh như vậy chẳng phải chủ động hơn rất nhiều so với việc gửi gắm hy vọng vào Tiểu Hoàng đang ở xa cách nghìn trùng sông núi ấy à! Nghĩ rồi, nàng muốn giả vờ sao cho thật giống, còn đang cố nhớ lại xem lần nàng bị ngã đau gần đây nhất là bao giờ, chưa kịp nhớ ra thì đã bị Mộ Ngôn kéo dậy: "Đi cầu thang cũng ngã được, em bao nhiêu tuổi rồi đấy?"

Nàng giả vờ thở gấp giống như đang vật lộn với đau đớn. Y cau mày, thay đổi tư thế ôm để tránh không chạm vào chỗ đau của nàng: "Em bị đau ở đâu?"

Nàng nhìn y, mặt mày ủ dột: "Chỗ nào cũng đau hết."

Y cau mày: "Tôi đưa em đi tìm đại phu khám xem thế nào."

Nàng lập tức hoảng hồn, nghĩ mình sắp biến giả thành thật mất rồi. Nàng vội vàng giẫy khỏi lòng Mộ Ngôn, cười gượng: "Chẳng đau ở đâu cả. Không cần tìm đại phu. Lúc nãy tôi nói đùa đó!"

Y chăm chú nhìn nàng.

Nàng quệt mồ hôi trên trán, tiếp tục gượng cười: "Đi tìm đại phu làm gì, ồn ào, dễ gây chú ý. Anh xem, tôi rất khỏe. Chẳng qua muốn đùa anh một chút. Hồi nhỏ tôi vẫn thường bị ngã, ngã suốt ngày ý mà."

Y nhíu mày: "Thật không làm sao chứ?"

Nàng gật đầu lia lịa: "Thật."

Nét nhíu mày của y vẫn không đổi: "Khi còn nhỏ, cơ thể đang lúc phát triển, nếu như xương cốt có điểm gì sai lệch, sau này lớn lên không hay đâu."

Nàng ủ ê: "Tôi đã mười bảy rồi."

Y không biết nên nói gì với nàng nữa, đành cười trừ đổi đề tài: "Nếu em không sao thì chúng ta cùng đi ăn sáng thôi."

Mới đi được hai bước, nghĩ thế nào Mộ Ngôn lại quay lại hỏi nàng: "Em muốn ăn gì, tôi mang tới cho."

.

.

.

Cuối cùng Mộ Ngôn không bắt nàng phải đi khám đại phu, nhưng trong lòng nàng vẫn cứ thấp thỏm không yên. Nàng cố phô bày ra dáng vẻ khỏe khoắn, mỗi bước đi cứ tung tăng tung tẩy. Nàng sợ nếu không làm cho Mộ Ngôn yên tâm, dễ mà y lại dắt nàng đến y quán. Vị đại phu nào khám cho nàng xong, nhất định ông ấy la ầm lên rằng nàng là người đã chết, sau đó nàng sẽ bị đem đi làm đủ các thể loại phân tích mất thôi.

Hình như nàng chạy nhảy quá đạt, cứ như hồi quang phản chiếu, khiến đầu óc Mộ Ngôn cũng trở nên u mê. Y cho rằng nàng cần phải tĩnh dưỡng một chút, thế là bọn nàng quyết định dừng lại nghỉ thêm một ngày ở cửa khẩu.

.

.

.

Biên giới Triệu – Trịnh là một chốn sầm uất đông vui, muốn mua gì cũng có. Nào là hình nộm bằng lông vũ, nào là kết tóc kiểu như ý, nào là chiếc khăn đội đầu của một vị công tử phong lưu điển trai đã chết từ nhiều năm trước, lại còn có món đặc sản là bạch trùng phơi khô của nước Triệu, nghe đâu chỉ cần ngâm nước uống là có thể trị được bệnh tương tư.

Nàng cực kỳ hứng thú với phương thuốc bạch trùng này. Nếu như nó thực sự hữu hiệu như lời đồn đại, nàng sẽ mua ngay một con về, sau đó nghiền thành bột phấn, trộn vào trong chén cơm của Mộ Ngôn. Nàng muốn y quên đi Tần Tử Yên, bắt đầu làm lại cuộc đời. Nhưng khi nàng hỏi qua ý kiến của tiểu nhị, phát hiện ra loại trùng này chỉ có tác dụng khi đem ngâm nước uống. Nàng nghĩ mình không thể ngâm trùng trong chén nước của Mộ Ngôn rồi nói với y: "Nè, cho anh thử món này, anh xem, con này nhìn có vẻ giống con trùng đấy... Thật ra nó chính là con trùng, nhưng không phải loại trùng thường..."

Chưa làm thử đã biết trước kết quả, Mộ Ngôn sẽ hắt đổ cả chén nước đi, thật là lãng phí đồ ăn thức uống vô cùng.

.

.

.

Người ở vùng biên cương rất giỏi trong việc ủ rượu. Bữa trưa, nàng được thưởng thức qua đủ các loại rượu quý, và tất cả đều do Mộ Ngôn trả tiền. Sau đó thay vì đi dạo, nàng được y dẫn đến một trà lầu rất phong nhã gần khu chợ để nghe kể chuyện.

Quân Vĩ, người mà bị nàng vô tình quên bẵng suốt thời gian qua, hắn vẫn luôn cho rằng cánh đàn ông không thích đi dạo cùng với các nàng con gái, bởi vì nếu người con gái thích mua món gì, là đàn ông dĩ nhiên phải đứng ra trả tiền. Vậy họ có khác gì cái túi tiền để thích tiêu xài gì thì tiêu xài, nghĩ cũng tự ái. Còn nếu như người con gái không thích mua thứ gì... Giả thiết này vừa thành lập đã bị bác bỏ, bởi vì không thể tồn tại khả năng này. Quân Vĩ thật nông cạn, quan điểm này của hắn không thể đem áp dụng cho nàng và Mộ Ngôn. Sở dĩ bọn nàng đến trà lầu nghe kể chuyện chứ không đi dạo cùng nhau là vì bây giờ đang là tháng sáu, trời nắng như thiêu như đốt trên đầu, không thích hợp cho việc đi dạo.

Quán trà giờ này không còn chỗ trống, bọn nàng đành phải ngồi ghép bàn với những người khách khác ở gần phía cầu thang. Mộ Ngôn rút từ trong ống tay áo ra một chiếc quạt giấy mười hai nan, khi xòe ra, quạt khẽ đung đưa tạo thành cơn gió nhẹ phe phẩy. Lão tiên sinh kể chuyện ngồi ngay ngắn nghiêm chỉnh, ông đang giảng đến đoạn: "Đêm  hôm đó là ngày mười lăm tháng năm, nhị công tử Tô Tạ nghe nội giám truyền đến mật báo, nói 'Trần hầu bệnh lâu ngày, giờ Tuất một khắc đã trút hơi thở cuối cùng. Phút lâm chung, chỉ có tể tướng Doãn Từ ở bên long sàng hầu hạ. Nửa khắc trước, Doãn tể tướng đã phái tâm phúc gấp rút vượt tám trăm dặm đường xa để nghênh đón thế tử Tô Dự hồi cung, kế thừa tước vị. Nhị công tử nếu như muốn khởi sự thì đêm nay chính là thời cơ nghìn năm khó gặp. Còn nếu để thế tử Dự hồi cung, tất cả mọi chuyện đều không thể cứu vãn.'

Tô Tạ khổ tâm mưu tính nhiều năm, đợi mãi mới đến được ngày Trần hầu cưỡi hạc về Tây Thiên, huynh trưởng là người được thừa kế tước vị thì lại bị ái tình làm cho thương tổn, không biết đang phiêu bạt chân trời nào. Quả thật không còn dịp nào thuận lợi hơn thế. Màn đêm vừa buông xuống, Tô Tạ liền khởi binh bức cung đoạt vị, dọc đường thế như chẻ tre, thẳng tiến đến vương cung. Quan Vệ úy trấn thủ hoàng cung vừa lâm trận đã trở giáo đứng về phe Tô Tạ, khắp bảy mươi dặm Hạo thành, nơi nơi đều chìm trong ánh đuốc chập chùng, cả vương đô tràn đầy mùi máu tươi và nhựa thông cháy. Vương cung có biến lớn, thế tử Dự lại vắng mặt, ai nấy đều cho rằng đại cục đã định, Trần hầu kế nhiệm chắc chắn phải là Tô Tạ. Nhưng sự đời khó đoán, Tô Tạ còn chưa kịp tra bảo kiếm nhuốm máu vào vỏ, cánh cửa hoàng cung đang đóng chặt bỗng nhiên kêu kẽo kẹt một tiếng rồi chầm chậm mở ra..."

Nàng thở dài: "Cánh cửa này nhất định là chín năm rồi chưa được tu sửa."

Vừa nói dứt lời, nàng kinh ngạc khi nhìn thấy vẻ mặt của lão tiên sinh kể chuyện, lúc đó ông ấy gần như không còn sức để nói tiếp, phải uống ngụm nước để nhấp giọng; mà khi đó, những người nghe kể chuyện trong trà lầu thì vẫn chìm đắm trong không khí tiêu điều của vụ binh biến chốn cung đình, toàn bộ lầu hai im phăng phắc, yên tĩnh như đêm sâu, thành ra tiếng cảm thán này của nàng vang lên nghe rõ mồn một...

Mộ Ngôn phe phẩy quạt, trong mắt ngập đầy ý cười, nhưng lại không nói tiếng nào.

Nàng lè lưỡi, cúi mặt nhìn xuống bàn, tiếp nhận đủ mọi ánh mắt khinh bỉ của đám khách nhân trong quán. Ngoài cửa sổ là ánh mặt trời chói chang, lá liễu bị phơi nắng đến cong queo vàng cháy. Bọn ve sầu ẩn nấp trong tàng lá rậm rạp, kêu đến rát cổ bỏng họng những chuỗi âm thanh râm ran mùa hạ.

Lão tiên sinh uống nước xong, lại tiếp tục kể: "Theo lời đồn, Trần thế tử Tô Dự bí mật nuôi dưỡng ba trăm ảnh vệ, những ảnh vệ này có thể ví như ba trăm thanh kiếm sắc bén hợp lại thành một đội quân bất khả chiến bại. Trước đêm hôm binh biến, chuyện liên quan đến đội ảnh vệ nước Trần, đa phần chỉ là lời đồn thổi mà thôi. Nhưng chính thời điểm Tô Tạ làm phản, sau khi cánh cửa vương cung mở lớn, ba trăm ảnh vệ này cưỡi tuấn mã mở đường. Vó sắt của đoàn ngựa quét ra một đường máu thê lương, sắc trời nơi vương đô ảm đạm. Nghe thấy có tiếng vó ngựa thong thả đạp tuyết tiến ra, người ngồi trên lưng ngựa không phải ai khác mà chính là Tô Dự – vị thế tử đáng lẽ còn đang ở nghìn dặm xa xôi. Trong tay ngài vẫn còn cầm thủ cấp đầm đìa máu của quan Vệ úy Hình Vô Giai. Tình thế xoay chuyển trong nháy mắt. Mấy vị phó quan của Vệ úy thì có tới phân nửa là do Tô Dự cắt đặt. Tình thế như vậy, dẫu cho Tô Tạ có là hổ mộc thêm cánh cũng khó lòng chống đỡ được..."

Nàng cảm thấy sắp bị ru ngủ mất rồi, lời kể của lão tiên sinh trong trà quán chỉ còn là chuỗi âm thanh đều đều vang lên bên tai. Nàng cố gắng chống tay vào thái dương để không gục mặt xuống bàn, khẽ than: "Chuyện thật là dài."

 Mộ Ngôn nhấp ngụm trà: "Em muốn biết luôn kết quả cuối cùng không? Mọi chuyện rất đơn giản, Trần hầu kỳ thực không chết, chỉ hôn mê bất tỉnh một thời gian. Khi ông tỉnh lại, nhìn thấy đứa con trai bất tài thừa lúc ông lâm trọng bệnh mà làm phản, lập tức ban cho hắn cái chết. Nhị công tử Tô Tạ bị xử tử được vài ngày, nước Đường là láng giềng của nước Trần bị nước Tấn khởi binh xâm lược. Đường cầu cứu Trần. Trần hầu mới ốm dậy, lại đau xót vì mất đi đứa con, không định tham gia vào cuộc chiến Đường – Tấn mà muốn đứng yên làm ngư ông đắc lợi. Thấy ý tứ Trần hầu như vậy, thế tử Tô Dự ra sức can gián, xin ông xuất binh trợ Đường. Thuyết phục mấy ngày, cuối cùng ông cũng bằng lòng, thế là liên quân Trần – Đường hợp lực đánh bại cuộc xâm lăng của nước Tấn."

Nói xong, y lướt ánh mắt về phía nàng: "Những chuyện đánh tới đánh lui này, một cô bé con như em chắc là không thích nghe đâu nhỉ?"

Nàng gần như sắp bật khóc đến nơi, ai oán nhìn Mộ Ngôn: "Chẳng qua tôi chỉ than thở là câu chuyện kia hơi dài, đâu phải là tôi không muốn nghe đâu! Tại sao anh lại tiết lộ hết cả tình tiết ra thế này, lại còn kể rất rõ ràng nữa chứ!! Tôi ghét anh ghét anh!!!"

 Mộ Ngôn: "..."

.

.

.

Sau khi uống gần hết một bình trà, rốt cuộc lão tiên sinh cũng đã kể đến đoạn Đường – Trần tác chiến, ngoài cửa sổ là ánh nắng nhạt của buổi chiều buông, nắng trời xuyên qua tán liễu rủ, mềm mại hắt sáng vào gian phòng trong trà quán, những mảnh nắng như hoa bung nở, loang trên khắp phiến tường.

Sau khi bị Mộ Ngôn tiết lộ hết cho nghe hết những cơ mật, nàng hậm hực không thể ngủ tiếp, tâm trạng thì cứ buồn chán vô biên. Nàng nhoài người trên bàn nhìn ngắm nhân tình thế thái, thỉnh thoảng chán chán thì liếc nhìn ngón tay thon dài của Mộ Ngôn.

Hồi lâu, Mộ Ngôn đột nhiên nói: "Đoạn bình thư, họ giảng thực không sai. Nhưng đa số đều nói quá sự thật, tuy nhiên cách kể lại rất hấp dẫn."

Nói đến đây, có một cậu thanh niên hừng hực khí thế, nhanh mồn nhanh miệng nói: "Hóa ra tài của Tô Dự đó cũng chỉ có thế. Nếu là tôi, tôi sẽ mặc kệ cái vũng nước đục Đường – Tấn chứ không dại mà nhảy vào đâu. Chờ cho hai nước kia đấu đá nhau, lưỡng bại câu thương, lúc đó chỉ việc hưởng lợi, vậy không hay hơn sao?" Xung quanh vang lên tiếng phụ họa, nàng lắc lắc đầu có vẻ không đồng ý lắm, rồi với tay rót thêm chung trà.

Mộ Ngôn hờ hững thu quạt lại: "Em muốn nói gì sao?"

Nàng nhanh chóng ngẩng đầu liếc y, rồi ngay lập tức lại cúi đầu xuống: "Không có gì."

Y giúp nàng rót thêm trà: "Có gì thì cứ nói nghe thử xem?"

Nàng rầu rĩ: "Lời tôi nói lúc nào cũng dông dài. Sau đó anh lại bắt tôi ăn sủi cảo gì đó. Ăn xong, tôi cũng quên mất mình định nói gì. Thôi thì đừng nói cho xong."

Bàn tay y đang cầm ấm trà bỗng run lên, Mộ Ngôn bật cười thành tiếng: "Lần này nhất định sẽ không bắt em ăn cái gì nữa. Em thích nói gì thì cứ việc nói đi."

Nàng hào hứng: "Được, cũng không có gì, chẳng qua muốn bộc bạch một chút. Số phận cuộc đời con người ta cũng giống như quả lắc đồng hồ, nhìn vẻ bề ngoài thì chỉ thấy được có hai khả năng: hoặc nghiêng sang trái, hoặc nghiêng sang phải. Thật ra đúng là chỉ có hai khả năng này, nhưng trong quá trình con lắc dao động, lại phát triển thành vô số khả năng. À, cũng không thể gọi nó là khả năng được, chính xác chỉ là con đường dẫn đến khả năng mới đúng. Không nghiêng sang phải thì là nghiêng sang trái. Còn nếu không nghiêng sang bên nào, tức là cái đồng hồ chết."

Nói xong liếm liếm môi, hỏi y: "Anh hiểu chứ?"

Nét mặt y mang theo biểu tình không hiểu cái gì hết.

Nàng ngẫm nghĩ một chút, cố tìm ra một ví dụ khác đơn giản hơn để giảng giải cho Mộ Ngôn, suy nghĩ nửa ngày thì cũng tìm được: "Có thể hiểu là như thế này, con người ở trên đời, nếu như không phải nam thì là nữ, không phải nữ tức là nam. Còn nếu chẳng ra nam, chẳng ra nữ thì là nhân yêu*. Nhưng nếu làm một nhân yêu thì sẽ bị xã hội kỳ thị, hơn nữa còn rất khó tìm đối tượng."

Nói xong nàng lại liếm liếm môi: "Lần này anh nghe hiểu chứ?"

Nét mặt y vẫn mang theo biểu tình không hiểu cái gì hết.

Đúng là sắt không thể rèn thành thép được! Nàng đành nói trắng ra: "Chuyện rất đơn giản mà! Ý của tôi là, ở vào tình huống của Tô Dự, giả như y cứ giữ mình ở thế trung lập, ung dung đứng ngoài kệ cho Đường – Tấn sống chết mặc bay thì sau này y sẽ không thể tìm được đồng minh trong các nước chư hầu! Những người kia suy nghĩ quá đơn giản, họ không biết rằng trong thời loạn thế, không phải trắng thì là đen, không phải đen thì là trắng. Trừ phi quốc gia của họ đủ lớn mạnh để đứng riêng một mình một cõi, bằng không, không có tư cách để đứng ở thế trung lập. Nếu là một bậc quân vương anh minh trong thời loạn thế, lập trường lại càng phải rõ ràng. Đương nhiên, nếu như vị quân vương anh minh kia đã là bá chủ một cõi thì không có gì đáng nói."

Nàng nghiến răng nghiến lợi hỏi: "Lần này anh nghe có hiểu không?"

Khóe mắt y tràn ngập ý cười, rồi y nghiêm trang nhìn nàng: "Em muốn ăn món gì không? Ăn xong rồi nói tiếp."

"..."

.

.

.

Nếu nàng nhớ không lầm, đây là lần thứ hai nàng nghe người ta bàn tán về Tô Dự ở chốn đông người.

Nửa năm trước, Tô Dự dẫn theo mười vạn thiết giáp đánh bại Vệ quốc trong một tiếng cười nhạt ung dung. Người này đa mưu túc trí, dụng binh quỷ quyệt. Trong khoa thi ở thành Thiên Khải, y ra một đề thi hóc búa khiến cho đa phần những người dự thi đều rớt sạch, nhờ đó, y vinh dự được trở thành nhân vật chính trị bị giới trí thức ghét nhất trong năm. Qua đó có thể thấy Tô Dự này mai sau ắt trở thành nhân vật tiếng tăm. Nàng nói vậy không phải vì y tuổi còn trẻ mà đã nắm giữ quyền cao chức trọng hay là dụng binh như thần gì đó. Chẳng qua, những nhân vật trong lịch sử có khả năng tác động đến chuyện khoa cử hiện giờ đều đã chết sạch, Tô Dự lại còn sống sờ sờ ra đó, thật sự khiến người ta phải nhìn bằng con mắt khác. Hơn nữa, Tô Dự có thể bị nhiều người căm thù như vậy, đây cũng là một minh chứng hùng hồn cho việc sau này y sẽ vô cùng nổi tiếng. Có thể phỏng đoán một vài nguyên nhân: hoặc y có ngoại hình vô cùng xuất sắc, hoặc y có nhiều tiền, nếu không thì sẽ có năng lực hơn người. Cho dù cả ba điều trên đều không đúng, ít nhất, Tô Dự cũng là người có thể chứng minh được sự tồn tại của mình.

Dù nghĩ tới nghĩ lui thế nào chăng nữa, nàng cũng cảm thấy ngày hôm nay nàng đã có những trải nghiệm thật là phong phú.

———————————————–

(*) Nhân yêu: kiểu giống mấy ông thái giám ý ^^

====================

chương 3.2 : oanh ca

Trời buông màn đêm, gió mơn man khơi gợi tâm tư. Nàng ngồi bên ngọn đèn viết ra những điều tâm đắc trong ngày. Sau khi đã xong xuôi, nàng thu xếp gối chăn chuẩn bị lên giường ngủ. Vừa mới thổi tắt ngọn đèn cầy, song cửa sổ cách nàng hai bước đột nhiên vang lên tiếng lạch cạch ngắn ngủi, sàn nhà bằng gỗ nhãn khẽ rung, báo hiệu có kẻ vừa đột nhập. Nàng nghiêm giọng hỏi: "Ai đấy?"

Dường như có một vật thể lạnh lẽo áp sát cổ nàng, mà lúc đó, tay nàng còn đang bận lần tìm cái châm lửa. Về sau mỗi khi nhớ lại tình cảnh này, nàng đều cảm thấy mình đã thể hiện được khí chất anh hùng: thời khắc cận kề sinh tử cũng không có lấy nửa phần sợ hãi. Thật ra lúc đó không thấy sợ là vì chưa rõ cái gì đang áp vào cổ mình. Sau khi châm đèn lên rồi, nàng dè dặt cúi đầu liếc xuống: kề sát cổ nàng là một thanh đoản đao sáng loáng!

Ánh lửa mông mông lung lung, nếu miễn cưỡng thì cũng có thể chiếu sáng được một góc phòng. Trên sàn nhà là một đôi hài thêu viền trắng, phía trên đôi hài là chiếc váy dài màu tím. Trong bóng tối, người con gái dùng đoản đao kề sát cổ nàng khẽ cười: "Đao kiếm vô tình, nếu động đậy, cẩn thận yết hầu sẽ bị cắt đứt!" Tiếng cười thanh thanh của cô gái chỉ cách nào gang tấc, nàng nhìn sang xem kẻ đe dọa mình rốt cuộc là ai. Mặt đối mặt nhau, nàng bỗng cảm thấy kinh hãi vô cùng: cô gái này chính là người nàng đã gặp ở vương cung nước Trịnh, vị phu nhân bước ra từ bức tranh thủy mặc – Thập Tam Nguyệt!

Hoa Tư dẫn chứ có phải độc do Quân sư phụ bào chế đâu?! Một khi đã ra tay thì tuyệt không thể có điều gì sơ sót được. Nếu là độc của sư phụ thì còn đi một nhẽ, nhìn có vẻ ra dáng tử vong, nhưng đương lúc cử hành tang sự, người chết có thể bật dậy sống tiếp. Còn Hoa Tư dẫn nhất định không sảy tay như thế.

Cách đây nửa tháng, nàng còn nhớ rõ đó là tối ngày hai mươi lăm tháng năm, trong một khu vườn nở đầy hoa Đồ Mỹ ở Cẩm Du Viên – vương cung nước Trịnh, nàng đã tấu một khúc nhạc Hoa Tư, tự tay mình kết liễu tính mạng Thập Tam Nguyệt. Lúc này, vị phu nhân ấy đáng lẽ nên là một bộ xương trắng nằm dưới nấm mồ hoang lạnh. Cho dù Dung Tầm có dùng phương pháp tốt đến mấy để bảo quản thì lúc này cô ấy cũng nên giống như nàng: một người chết sắc mặt tái nhợt tái nhạt, xung quanh tràn ngập tử khí. Dĩ nhiên người bình thường khó mà nhận ra cái khí chất này, cho dù cảm nhận được chăng nữa, cũng chỉ thấy có điều gì hơi khác lạ mà thôi. Còn Thập Tam Nguyệt đang ở trước mặt nàng đây: sắc mặt hồng hào, so với lần gặp trước trong Trịnh vương cung thì diễm lệ hơn muôn phần. Cô chẳng có vẻ gì là người đã chết cả!

Nàng cẩn thận nhìn lại cô một lần nữa: "Tôi không biết chị, chị là ai?!"

Cô dựa người vào nàng một chút, nét mày hơi nhíu lại, khóe môi cong lên thấp thoáng ý cười: "Chỉ là một người đi đường thôi. Tôi muốn mượn tạm phòng cô để tránh kẻ thù và băng bó vết thương." Thanh đoản đao lại một lần nữa áp sát cổ nàng, dường như muốn tăng thêm hàm ý uy hiếp. Đáng tiếc là đầu óc của nàng lúc này hơi trì trệ một chút, mải nghĩ linh tinh nhiều thứ nên không thể kịp thời biểu diễn vẻ kinh sợ cho hợp với khung cảnh. Ý cười trong mắt cô gái kia lại càng thêm sâu, khóe miệng càng cong lên: "Cô can đảm lắm." Dường như gió đêm mang theo cả tiếng thở dài, lời của cô rơi bên tai nàng, nhẹ nhàng bay bổng. Một khắc sau, cô đột ngột đẩy nàng ép sát vào cửa, đoản đao sượt qua mái tóc nàng rồi ghim chặt vào cửa gỗ, ý cười trong mắt cô không giảm lấy nửa phần. Không rõ nụ cười trên đôi môi kia là thật lòng hay giả tạo, chỉ biết giọng nói của cô nhẹ bẫng: "Những lời vừa nãy của tôi, cô làm theo hay không làm theo?"

Nàng vội vã gật đầu: "Làm theo. Sẽ làm theo." Kết quả là nhân lúc nàng mở miệng, một viên thuốc nhỏ đã chui tọt vào cổ họng. Nàng mím môi lại, đăm chiêu suy xét một vấn đề phức tạp mới: "Không biết bị hạ thuốc gì đây? Quan trọng là không biết giao châu có tịnh hóa được độc tính của nó không đây?!"

Cô gái áo tím nói với nàng rằng tên cô là Oanh Ca. Nàng chỉ nghe thôi chứ tuyệt đối không tin, bởi lẽ tên gọi vốn chẳng có ý nghĩa gì nhiều nhặn lắm, ai hành tẩu giang hồ mà chẳng chuẩn bị cho mình một hai cái nghệ danh đâu!

Sau khi cho nàng nuốt viên thuốc xong, Oanh Ca thản nhiên ngồi xuống giường, sai bảo: "Tôi cần thuốc trị thương, vải băng, nước sạch, một con dao nhỏ và nến." Vừa sai khiển, Oanh Ca vừa nhíu mày gỡ bỏ vạt áo, lộ ra bả vai bị thương. Vùng da thịt nơi bờ vai quanh năm không lộ ra dưới ánh mặt trời giờ đây khi soi dưới ánh nến mang sắc màu trong suốt. Băng vải quấn chặt trên vai đã bị máu thấm đỏ, trông giống như một đóa mẫu đơn diễm lệ nở rộ trên bờ vai tuyết trắng.

Những thứ Oanh Ca yêu cầu đều sẵn có. Lúc nàng đưa cho cô thuốc cầm máu thì trông thấy vết thương trên vai cô. Vết thương ấy sâu đến nỗi có thể nhìn thấy được cả xương trắng. Nàng liếm liếm môi, xuýt xoa: "Chắc là đau lắm."

Oanh Ca nghiêng đầu nhìn nàng, răng cô cắn chặt vào môi đến bật máu, nhưng trong mắt vẫn chất chứa ý cười: "Cô đoán xem, trước khi xuất giá tôi đã làm nghề gì để sinh nhai?"

Nàng lắc đầu biểu thị không biết. Làm sao nàng biết được cô đã gả chồng rồi, lại càng không thể nào biết cô từng làm nghề gì để kiếm sống.

Oanh Ca cầm đoản đao hơ nóng trên lửa nến, rồi cô nhắm mắt lại, dùng con dao nhỏ róc vào da thịt, thản nhiên khoét đi chỗ bị trúng độc. Không khí trong phòng lặng im phăng phắc, rất lâu sau đó giọng của cô vang lên, khàn khàn, đứt quãng: "Trước khi gả cho chàng, tôi là một sát thủ, ngày ngày đều dùng cây đao để mưu sinh, hoặc là giết người, hoặc là bị người giết. Quỷ Môn quan cũng đã tới lui mấy lượt, đau đớn nào cũng đã từng nếm thử qua rồi." Trong bóng tối, tiếng cười của cô thanh thanh vang lên nghe có phần kì dị. "Chẳng thể ngờ ngờ mới nhàn rỗi vài năm, hôm nay gặp phải vết thương cỏn con như vậy đã tưởng như không chịu nổi." Ngừng một chút, cô rắc thuốc bột lên miệng vết thương; trên trán cô, mồ hôi đã túa ra ròng ròng, nhưng khóe môi thì vẫn cong lên: "Tôi có làm cô sợ không? Tôi chỉ làm phiền cô một đêm thôi, sáng mai sẽ lập tức lên đường. Sự chiếu cố của cô đêm nay, tôi xin ghi nhớ trong lòng."

Thực ra, nàng không hề cảm thấy sợ hãi, cũng không hiểu vì sao Oanh Ca lại kể cho nàng nghe những chuyện này. Nếu luận về ai sợ ai thì người sợ hãi nên là Oanh Ca mới phải! Thử nghĩ xem, cô đang sống sờ sờ ra đấy, thế mà dám ở chung phòng với một người đã chết, lại còn trao đổi chuyện nhân sinh với người chết nữa. Đổi lại, nếu nàng là Oanh Ca thì nàng mới cảm thấy đáng sợ! Trong lúc đang nghĩ lợi rất lung, tâm trí nàng bỗng nhiên được khai sáng trong khoảnh khắc. Dường như nàng sắp hiểu ra được điều gì rồi.  Nàng hỏi: "Oanh Ca là tên thật của chị à?"

Oanh Ca ngả người vào thành giường, thần sắc bắt đầu trở nên nhợt nhạt. Trên trán cô là những giọt mồ hôi tứa ra, bờ mi run nhẹ. Nàng thật không hiểu tại sao giữa cơn đau đớn thế này, gương mặt cô vẫn có thể biểu hiện những động tác có độ khó cao như vậy. Giọng của cô vẫn còn hơi khàn khàn nhưng đã có chút âm sắc: "Tên thật thì sao, tên giả thì sao? Bắt đầu từ lúc 11 tuổi, đã không còn ai gọi tôi là Oanh Ca nữa. Oanh Ca ư... cái tên này nghe cũng khá êm tai. Mà cô đừng nhìn tôi chằm chằm vậy, đây cũng chẳng phải cái tên gì đặc biệt. Tôi xuất thân nghèo khó, sau tôi có một em gái. Cha tôi đã dùng nửa vại dưa cải muối để nhờ vị tiên sinh trong thôn đặt cho tôi một cái tên nghe sao vừa dễ nghe lại vừa dễ nuôi. Khi ra đời, tiếng khóc của tôi so với em gái nghe vang hơn một chút, vậy nên tiên sinh ấy bảo nên đặt là Oanh. Nhưng hoàng oanh vốn là loài chim cao quý yêu kiều, nhà tôi thì nghèo, tôi lại là phận gái, đâu có xứng. Vị tiên sinh kia ngẫm nghĩ hồi lâu, sau đó quyết định ghép thêm chữ "Ca" ở đằng sau, để nếu như thần linh có nghe được cái tên này thì cũng tưởng đây là tên dành cho con trai, như vậy mới xứng với chữ "Oanh" kia.

Nàng tỏ ra ngạc nhiên nhìn cô: "Oanh Ca nghe thú vị mà", sau đó nàng lại hỏi tiếp: "Chị bảo sau chị còn có một em gái, vậy em chị tên gì?"

Ánh mắt cô trở nên mơ hồ. Sau khi nhìn lại nàng một lượt từ đầu đến chân, cô cười nhạt: "Quên rồi."

Trên đời này sẽ không có chuyện tồn tại hai người giống nhau như khuôn đúc. Ngay cả gà cùng một mẹ đẻ ra cũng mỗi con một vẻ, huống chi là người. Nàng nghĩ ngợi rất lâu, ví dụ như Oanh Ca và Thập Tam Nguyệt đã chết kia, thực chất chỉ là một người mà thôi. Như vậy cũng có điểm không thỏa đáng. Hay cái cô Oanh Ca này vốn mang một gương mặt khác, nhưng lại cố tình chỉnh dung cho giống với Thập Tam Nguyệt đã chết kia? Giả thiết này lại kéo theo một vấn đề mới là vì sao cô phải làm thế? Còn có một giả thiết khác nữa, đó là: người chị gái mà Thập Tam Nguyệt nhắc tới trong giấc mộng Hoa Tư, người chị đã làm cho Thập Tam Nguyệt thương tâm tột độ, cuối cùng phải tìm đến cái chết để giải thoát, chính là Oanh Ca!

Trong thuốc trị thương luôn kèm theo vị an thần, vậy nên Oanh Ca nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Quý hóa là trước khi ngủ, cô vẫn không quên việc lấy một sợi mảnh vải bố trói nàng lại.

Nàng chỉ đành nằm ở mép giường lặng yên quan sát cô. Đôi mắt Oanh Ca đã khép, nét mày khẽ chau. Nàng nghĩ nàng và Mộ Ngôn bôn ba bao dặm đường, cuối cùng đáp án muốn tìm lại ở ngay trước mắt, nhưng tâm trí người con gái này như một thứ quả cứng thật khó lòng mà khai mở. Tạm thời, nàng cũng không biết nên xử trí thế nào.

Trong đầu chỉ toàn là những suy nghĩ rối bời bời, nàng muốn ngủ cũng khó. Ước chừng một, hai canh giờ đã trôi qua; khi ánh trăng đã len vào ô cửa, có tiếng loạt xoạt vang lên: một con chuột bò đến gần ngọn đèn để trộm dầu. Nàng mở to mắt quan sát thật tỉ mỉ cảnh tượng trước mắt mình. Sau lưng nàng bỗng vang lên tiếng nức nở rấm rức trong màn đêm. Con chuột bị tiếng khóc thút thít ấy dọa sợ, rơi "bịch" một cái xuống đất. Nàng cũng bắt chước nó mà lăn xuống giường.

Vất vả lắm nàng mới đứng dậy được. Oanh Ca vẫn chưa tỉnh lại. Trên gò má trắng như tuyết rủ xuống vài sợi tóc đen ướt đẫm vệt nước mắt. Những giọt nước mắt ấy không ngừng xuôi theo khóe mi rồi lăn dài trên má, giọt từng giọt rơi thấm ướt cả chiếc gối. Nàng quỳ xuống bên cạnh giường, tỉ mỉ nhìn Oanh Ca. Có lẽ cô đang nằm mơ, nhưng không rõ là mơ chuyện gì. Quả hạch* cuối cùng đã lộ ra kẽ nứt, nếu muốn tách mở nó, đây chính là cơ hội. Nhưng lương tâm nàng lại lên tiếng hỏi: có nên lợi dụng giao châu để dò xét bí mật của người khác không? Có lẽ từ trăm nghìn năm nay, những người nắm giữ bí thuật về Hoa Tư dẫn đều phải đối mặt với lựa chọn khó khăn này. Vấn đề này với vấn đề "thiếu nữ mang thai trước khi kết hôn có nên nạo thai không" có chung một nét tương đồng, cả hai đều thuộc phạm trù đạo đức luân lý. Biện pháp giải quyết cho vấn đề thứ hai là: thiếu nữ mang thai trước khi kết hôn sẽ bị nhốt vào chuồng heo.

Thực ra dùng bạo lực để giải quyết vấn đề là không nên, bởi vì bản thân bạo lực đã chính là một vấn đề rất lớn rồi. Nói tóm lại, nàng đang do dự xem nên hay không nên đi vào giấc mộng của Oanh Ca. Đúng lúc đó, Oanh Ca bỗng nhiên giẫy giụa một hồi, tựa như đang mơ phải ác mộng. Nàng ngay lập tức tìm được lý do chính đáng: Oanh Ca đương lúc khó khăn, cần người tương trợ. Nàng phải đi vào giấc mơ của cô, giúp cô thoát khỏi cơn mộng dữ.

Nghĩ là làm, nàng nắm chặt lấy tay Oanh Ca, tập trung tinh thần để tiến vào cơn ác mộng của cô. Tuy đây là lần đầu tiên nàng mượn năng lực của giao châu để làm chuyện này, nhưng mọi chuyện lại diễn ra vô cùng thuận lợi. Có lẽ bởi vì nàng có một lợi thế hơn hẳn các bậc tiền bối tu luyện Hoa Tư dẫn khác: nàng là một người đã chết, trong lòng chẳng còn ham muốn gì với lẽ nhân sinh, tâm vô tạp niệm thì làm gì cũng thuận.

Trước mắt nàng xuất hiện một khoảng không tối om, tiếng mõ vang vang, một cây cầu nối mộng bắc qua nhánh sông, nàng đoán chừng đây chính là cây cầu để tiến nhập mộng của Oanh Ca. Nàng hít vào một hơi thật sâu, đang định bước vào cõi âm u đó thì cánh tay đột nhiên bị giữ lại, bên tai nàng vang lên một tiếng gọi trầm trầm: "A Phất." Nàng sững người, muốn vùng khỏi bàn tay đang nắm lấy mình, nhưng đã không kịp nữa rồi, tiếng mõ đã biến mất ở đầu bên kia bóng tối. Chớp mắt, nàng rơi vào giấc mộng của Oanh Ca.

Giữa chốn đất trời hoàn toàn xa lạ, nàng ngẩng đầu nhìn cái người vẫn đang nắm lấy tay phải của mình, khó hiểu: "Tại sao lại theo tôi đến đây?"

Mộ Ngôn hơi nhướng mày, ánh mắt y hướng về phía trước. Khung cảnh bày ra một con đường hẹp với hai bên là tường đen ngói xanh, trên cao là những mái hiên tuyết phủ, trăng thanh gió mát, bốn bề tĩch mịch. Y thu tầm mắt lại: "Tôi nghe thấy trong phòng em có tiếng động lạ, bèn qua xem thử có vấn đề gì không." Ngừng một chút rồi y nói tiếp: "Đây là đâu? Cô gái trong phòng em là ai?"

Nàng tóm tắt ngắn gọn lại cho Mộ Ngôn nghe những chuyện vừa xảy ra. Người nàng rét run vì lạnh, đây cũng chính là nỗi khốn khổ của người tu luyện giao châu: mỗi lần tiến nhập mộng đều không biết tình hình thời tiết bên trong nóng lạnh thế nào. Mộ Ngôn vẫn nắm chặt lấy tay nàng không buông không rời: "Sao tay em lạnh thế?"

Nàng cảm thấy y rõ thật là nói nhảm, tay người chết sao không lạnh được! Nàng rùng mình, định rút tay ra. Mộ Ngôn chăm chú nhìn nàng, nàng dè dặt trả lời: "Ừm... Có thể là vì... băng cơ ngọc cốt* trong truyền thuyết cũng nên."

*

Phía trước con hẻm nhỏ bỗng vang lên tiếng vó ngựa lộc cộc, đi kèm theo đó là tiếng bánh xe lăn trên đường đá. Nàng tiến về phía trước hai bước, lại thêm hai bước và nhìn chăm chú vào đứa ăn mày đang nằm co rúm bên góc đường. Mộ Ngôn kéo nàng lùi lại, nàng bèn giải thích với y: "Không ai nhìn thấy chúng ta đâu." Nghĩ một chút, nàng lại bổ sung thêm: "Vì đây là một giấc mơ, mọi người trong này đều không thể nhìn thấy chúng ta." Một chiếc xe ngựa mui đen chạy ra từ con hẻm sâu, sắp sửa đâm sầm vào đứa ăn mày. Người lái xe hoảng hốt ghìm chặt dây cương, con hắc mã kéo xe giương cao vó, dữ tợn hí vang. Trong xe vang tới một giọng sắc lạnh: "Chuyện gì?" Phu xe vội vã ghìm cương kéo ngựa lui về sau, bẩm báo: "Có tên ăn mày làm cản đường." Mành xe vén mở, lộ ra một cánh tay áo màu tím. Phu xe tiến lên trước một bước để trấn an con hắc mã rồi kéo đứa ăn mày sang một bên. Trên xe truyền ra mệnh lệnh: "Mang theo nó về phủ." Phu xe hơi ngẩn người: "Chúa thượng, đây là..." Sau bức mành che lại vang lên tiếng cười lạnh lẽo: "Không biết chừng đây chính là người trong số mệnh trời ban cho ta, là sát thủ tốt nhất của Dung gia."

Tiếng vó ngựa dần tan biến ở đầu bên kia con đường, khung cảnh trong chớp mắt hóa thành hư vô. Bọn nàng lại chuyển đến địa điểm mới là một căn phòng rộng rãi. Ánh nến nhạt nhòa, chiếc đỉnh hương đặt trên bàn tỏa ra làn khói thơm bảng lảng. Trên giường có một đứa bé gái, đoán chừng là tên ăn mày trong con hẻm lúc nãy. Có lẽ đứa trẻ này đã được sắp xếp thỏa đáng. Nàng không nhìn rõ gương mặt đứa bé lắm, phía trước giường xuất hiện một thiếu niên mặc áo choàng màu tím sang trọng, dáng vẻ nghiêm nghị. Thiếu niên hơi cúi đầu, hỏi: "Cô tên gì? Trong nhà còn ai nữa không?"

Cô gái nhỏ ngọ nguậy tỏ ý muốn ngồi dậy thì bị người hầu gái ngăn lại. Dưới lớp chăn gấm ngổn ngang hé lộ ra gương mặt chỉ lớn bằng bàn tay, sắc mặt thì xanh tái, nhưng giọng nói của cô gái nhỏ ấy lại không có vẻ gì là sợ hãi: "Oanh Ca. Nô tỳ tên là Oanh Ca. Năm trước, quê nhà bị lũ cuốn, cha mẹ đều đã chết. Trong nhà chỉ còn bà nội và một người em gái."

Nàng tiến gần thêm một chút để nhìn cho rõ, gương mặt cô gái nhỏ này quả thật có dáng dấp của Oanh Ca, nhưng nàng cũng không thể tin nổi người con gái áo tím với nụ cười nửa thật nửa đùa trên môi hôm nay đã từng là một đứa trẻ như thế này. Nhìn vào đôi mắt thẫm đen của cô, cuối cùng nàng cũng đã hòa hợp được với tinh thần cô rồi. Nhờ sự dẫn dắt của giao châu, tâm tư nàng và Oanh Ca trở nên tương thông. Điều này có cái hay là nàng sẽ biết được chuyện gì xảy đến với Oanh Ca, nhưng cũng có cái dở là dẫu cho có biết, nàng cũng chẳng thể làm gì. Nàng muốn nhìn nhận sự việc một cách khách quan nhất, nhưng cái nhìn của con người vỗn dĩ đầy định kiến.

"Oanh Ca?" Người thiếu niên áo tím cười cười: "Vậy em gái của cô chắc tên là Yến Vũ nhỉ?"

Đôi mắt đen thẫm của cô mở thật to và ngơ ngẩn nhìn về phía chàng trai ấy, tựa như không hiểu chàng muốn nói gì. Chàng hờ hững liếc nhìn gương mặt xanh tái của cô, rồi quay người trông về  phía bóng trăng mờ ảo ngoài cửa sổ. Chàng thờ ơ nói: "Oanh Ca... cái tên này có phần mỹ miều quá. Hôm nay là ngày mười ba tháng chạp, thời điểm trăng trên trời cao và sáng nhất. Từ nay sẽ gọi em là Tập Tam Nguyệt. Ta nhặt được em, sau này, em là người của ta, sẽ đi theo ta."

Theo ánh sáng tỏa ra từ chiếc đèn cầy, nàng nhìn thấy rõ gương mặt nghiêm nghị mà tuấn tú của người ấy. Gương mặt chàng vẫn còn mang vẻ non nớt của tuổi thiếu niên. Áo choàng tím, chiếc đai ngọc, khóe miệng đang cười mà nét mặt lại lạnh lẽo như tuyết rơi. Chàng chính là Bình hầu Dung Tầm thời niên thiếu. Nàng cúi xuống nhìn ngón tay mình, Thập Tam Nguyệt mà nàng kết liễu tính mạng nửa tháng trước, hóa ra chỉ là mận thế đào khô (*).

=======================================

(*) Quả hạch: Một loại quả cứng. Ý nói tâm tư Oanh Ca kín bưng rất khó tìm ra kẽ hở.

(*) Băng cơ ngọc cốt: xương thịt như băng ngọc

(*) Mận thế đào khô: chỉ sự đánh tráo ^^

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: