hixha-lenghiabk05

Tết Tây

Tác giả cho biết bà họ Nguyễn. Bút hiệu Đoàn Thị do họ chồng ghép với cái tên lót dành cho phụ nữ rất VN thời xưa, hiện làm việc trong một văn phòng thiết kế công chánh. Đoàn Thị chỉ mới tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010, nhưng cho thấy có sức viết mạnh mẽ. Các bài viết của cô thường đề cập những đề tài rất Mỹ, nhưng tác giả là cư dân Paris. Sau đây là bài viết mới cho năm mới dương lịch.

***

Năm đó vợ chồng tôi khăn gói lên Las Vegas đón tết Tây với gia đình cô cháu gái, quà mang theo mấy hộp chocolat, con nhỏ thích nhất chocolat có nhân đủ loại rượu trái cây, chồng mi là « thầy thử rượu » mà chỉ thích "rượu mùi », nghe tôi chê, nó phân trần, rượu xịn Bill uống rồi diễn tả cảm giác mùi vị coi như mình cũng thưởng thức luôn, uống rượu nhiều cháy lá gan làm sao "có gan" gánh cái gánh xiếc cha con nhà này.

Tôi ngạc nhiên, chồng con nhà mi làm răng mà mi gọi là gánh xiếc, bộ cha con nó say xỉn li bì rồi quậy phá, nó lắc đầu, say được cũng mừng, họ tỉnh táo quá mới phiền, tía con mỗi người đòi ăn một thứ, thằng cu lai mê cá kho nước mắm, tía nó mê mì ý, thế là hôm nào ăn đồ ý thằng nhãi nhìn tía với ánh mắt "ý ẹ mafia" phát rét. Tôi sốt ruột, đến bữa cơm cá kho tía nó làm răng, con nhỏ cười, tía độ lượng hơn thằng con, nhậu cá kho với rượu, cũng như bợm bên nhà nhậu xí quách vậy đó, nhậu hết cá rồi nấu mì gói ăn. Tôi nể thằng cháu rể Mỹ, cưới vợ Việt coi như bật gốc Ý và ẩm luôn cái bếp Việt. Ông xã tôi gốc Nam Định nhưng là "mít dỏm", kỵ nước mắm, tương chao ..., chỉ xì dầu, Maggi và muối, hỏi tại sao, chàng cười bí hiểm, chỉ có giời biết, tôi trộm nghĩ có thể hồi nhỏ chàng té vào lu nước mắm của bà mẹ chồng tôi chế biến nên thất kinh hồn vía đến bây giờ.

Đêm cuối năm cả nhà kéo nhau ra phố coi pháo bông, đại lộ The Strip cấm xe, thiên hạ đi bộ chặt cứng, xe đậu trong parking hoặc phía ngoài vành đai phố chính, gần giờ giao thừa đoàn người càng đông hơn, đám đông như dậm chân tại chỗ khi mọi người cùng đếm, one, zero ... Keng một cái pháo nổ tung toé, năm cũ rũ áo bỏ ta ra đi không thương tiếc, mặc cho ta nửa vui vì năm vừa qua sức ta chưa đến mức báo động, nhức xương vì hết xí quách, cao mỡ vì tội tham ăn, BS chỉ cảnh cáo, chưa dùng biện pháp "treo mỏ", nửa lo không biết sẽ ra sao năm sau. Trong giây phút nhấp nháy đó nhìn bầu trời lung linh ngàn sao ta mơ có ngôi sao xẹc để ta ước sang năm sức khoẻ vẫn ổn, chả ngôi sao nào chơi đẹp, xẹc một cái cho ta nhờ, chỉ có đám trẻ hôn nhau đến xẹc lửa chưa chịu buông nhau ra.

Xong màn pháo hoa, thiên hạ tảng hàng đi ăn đêm, quán ăn tấp nập khách xếp hàng rồng rắn, cô cháu bảo cả nhà ra xe đi coi đèn rồi về nhà ăn giao thừa, qua bên này tôi học thêm cụm từ "đi coi đèn", tức là ban đêm chạy xe vòng vòng xem phố lên đèn, cụm từ Việt gốc tỵ nạn đây, nhưng vui chứ không vương buồn như Người Di Tản của bác Nam Lộc.

Về đến nhà gần hai giờ sáng, bế hai đứa bé lên phòng thay đồ cho chúng ngủ, người lớn xuống bếp ăn cháo gà, món này do tôi đề xướng, ăn cho nhẹ dạ sau những bữa tiệc thừa thịt thiếu rau. Bill lôi rượu ra mời chúng tôi nhậu với gỏi gà, tuy BS có dặn chừa rượu, nhưng đêm nay coi như mình phá rào, uống mừng năm mới, uống cho cháu rể vui. Lúc vào phòng ngủ, ông xã diễu, mẹ nó chơi bạo lấy tiếng, vài bữa nữa BS viết bảng "cấm» coi như "đời chỉ đẹp khi ta không bị treo mỏ" nhé, tôi chống chế, "chỉ đêm nay thôi rồi mai ta sẽ chia tay" mà, tiếng ông xã vang vang, để rồi xem, hơi men chếnh choáng đưa tôi vào mộng.

Sáng hôm sau tôi thức lúc mười giờ sáng, uống ly cà phê dằn bụng, cơm trưa ăn trái cây là đủ sức đi shopping với cô cháu, để hai ông kẹ ở nhà chăn đám con lai, ông Mẽo cũng như ông Mít đâu có quen chăm sóc con nít, họ bày bộ loto ra, hai đứa bé bu vô là xong. Tôi nói, lên xứ này rồi không vào Casino cũng gầy sòng tại gia chứ làm sao thoát nổi cảnh đỏ đen, ông xã nói khẽ, chuyến này ông quyết thua để tụi nhỏ có tiền ăn kẹo, đen bạc đỏ tình ấy mà, mẹ nó chuẩn bị đêm nay đấy, tôi trợn mắt, tết nhất mà cũng chưa chịu "đình chiến", chàng huýt gío, đừng mơ em ơi, tết đến ta làm một cú "đắp bồ" (double) lấy trớn cho năm tới, tôi hoảng vía chạy ra xe.

Đi rạc giò hai dì cháu chưa mua được món nào để tặng chủ nhà mời tiệc tân niên chiều nay, Jane, bà chủ cung cấp rượu cho các casino lớn như Bellagio, Venetian, Caesars ... Tôi đề nghị, mang đến nhà Jane hộp chocolat king size và hộp gan ngỗng nửa ký, cô cháu nói mang thêm nồi cháo gà, tôi ngẩn ngơ, cháo gà, tụi Mỹ bị mi thuần hóa hồi nào mà biết ăn cháo gà, con nhỏ chắc mẩm, dì cứ tin cháu đi, tụi này hảo thức ăn á châu.

Hồi trước Jane đại diện cho hãng rượu ở New York buôn bán với casino ở đây, dọn về LV hơn một năm nay, Jane mở hãng và bán thẳng cho casino, thời gian đầu nhờ Bill giúp đỡ để chào hàng, nên cô kết thân với cháu của tôi.

Chúng tôi là đám khách đến sau cùng, trong nhà có đến bốn cặp trẻ và một bầy con nít, Jane biết vợ chồng tôi đến từ Châu Âu nên rất thích khi tôi đưa hộp gan ngỗng và chocolat, ngoài sân đàn ông đang nướng thịt, nghe có gan ngỗng với "bánh mì mềm" thiên hạ "giải lao" ăn bánh mì trét gan.

Rượu khai vị, rượu cocktail cây nhà lá vườn ê hề, ông xã cảnh cáo, mẹ nó liệu đấy, sa vào hầm rượu, tàn tiệc tôi không cõng nổi đâu, tôi nguýt chàng, khéo lo tôi đã đi xiêu vẹo bao giờ, chàng cười cầu hòa, nói trước cho chắc ăn, tối nay còn "tăng ca đêm" nữa đấy. Tôi cười thầm, đã thế thì bà quỵt đêm nay cho bỏ cái tật nhây, vừa lúc đó Jane kéo tôi ra sân bên cái bàn lớn bày những món khai vị. Cô giới thiệu món "xà lách cocktail" cô vừa sáng chế, tay buôn rượu thứ thiệt mà chế cocktail rau quả chắc phải ngon, tôi múc một đĩa xà lách, nghĩ vội, chuyến này mình trúng mánh, mấy bữa nay ăn thịt đến cứng bụng, giờ ăn rau để "tiêu mỡ". Món xà lách thập cẩm "tếch níc cô lo" trông bắt mắt, rau củ quả tươi trộn với thịt nguội pha sốt chua, Jane còn cho vào "mì gói sống". Jane cười đưa đẩy, bà dùng thử xem vị mì gói có đậm đà không, theo phép lịch sự Tây âu, tôi hiên ngang nhai "xà lách mì sống", cọng mì nhão ra, mùi vị kỳ dị phát rợn, lần đầu trong đời tôi hiểu, "Đông Tây" không thể gặp nhau... trong một thau xà lách kiểu này. Jane "lên men" lúc nào mà dám trổ tài "bếp Tây bếp Ta giao duyên» trong ngày Tân Niên, tây ta choảng nhau "tới bến", Jane nhìn tôi chờ đợi, tôi lơ lửng con cá vàng, vị lạ, tùy sở thích mỗi người, đúng là lần đầu gặp Jane tinh tú quây cuồng đến ngất ngư dù tôi chưa uống rượu.

Jane quay gót, tôi hớp một ngụm rượu để xua đi cái vị âu á ngang cổ họng, và cảnh báo ông xã, đừng ăn xà lách cocktail, ăn vào sẽ hối đấy, chàng hỏi tại sao, không có giờ giải thích, tôi nói ẩu, có NƯỚC MẮM, chàng rẽ qua hàng thịt nướng. Tôi tìm cô cháu báo động, xà lách mì gói, ăn vào "á khẩu", con nhỏ nhíu mày, có chuyện lọa đầu năm sao, thì ra Jane báo sẽ có "surprise", đúng là dân rượu nhà nghề bị ma men nhập, may là ăn vào không chết người, tôi châm biếm, chỉ "một nửa khẩu vị của ta mất đứt đuôi đêm tân niên" thôi.

Tôi chợt hỏi cô cháu, mi bày cho Jane ăn mì gói phải không, con nhỏ chắc cú, dĩ nhiên, mì gói ăn với hành lá chanh ớt ngon tuyệt, ai ngờ Jane ngẫu hứng tài tử quá đáng, hậu quả thật khó lường nếu có ai đó ôm bụng chạy vào restroom. Con nhỏ làm tôi đâm hoảng, không biết có qua đêm nay không, thế là tôi nốc thêm rượu để đẩy lùi cơn lo đang hoành hành, giờ này BS có can tôi cũng ba bảy liều "cãi lệnh" vì mùi mì gói nó ám đến khó tả.

Giời ạ, mì gói, món khoái khẩu đối với đám sinh viên chúng tôi sau năm 75, đi lao động cộng sản đào kênh đắp đê, bụng đói meo, chân tay bủn rủn, được xơi gói mì còn gì ngon hơn, vậy mà lúc này mì trở nên "dễ giận" đến thế.

Bữa tiệc rơm rã đến đêm, thiên hạ hỏi chúng tôi, Paris mùa đông có gì lạ ngoài cảnh tuyết rơi đẹp, thơ mộng và lãng mạn, tôi trả lời nửa vời, quý vị cứ đến rồi sẽ thấy, hay hoặc dở tùy nhãn quang mỗi người, thành phố du lịch đương nhiên phải hấp dẫn. Ông xã thúc cùi chỏ, sao mẹ nó bảo "dở", thủ đô ánh sáng mà lị, có sao nói vậy người ơi, đẹp thì có đẹp thật, nhưng đường phố Paris cũng lắm cứt chó, ngay đại lộ Champs Elysées du khách vừa bước ra khỏi khách sạn sang trọng năm sao, dẫm vào phân của chú cẩu coi như hôm đó Paris hết đẹp.

Thịt nguội, thịt nướng, mì ý, mì gói, rượu đủ loại, thiên hạ nít một bụng chắc nịch, Jane bảo, để "tiêu cơm" không gì hay bằng âm nhạc đưa đẩy ta vào điệu nhảy xì lô nhẹ nhàng giúp thức ăn "định vị" an toàn trong bao tử. Hình như Jane biết món xà lách đang nổi đình nổi đám trong bụng thiên hạ nên nàng dùng biện pháp "ngoài xoa" để giải vây cái món ăn chơi "bệnh thật" do nàng sáng tác đây. Thiên hạ kéo nhau ra sàn nhảy, dưới ánh đèn mờ nhấp nháy, ông xã nắm tay tôi, làm một bản tình tứ xem nào, tôi làu bàu, tình gì nổi, "rượu đang tán tỉnh mì gói" đây, chàng lim dim, thế thì ông ăn theo tán bà nhé, báo cho mẹ nó biết đêm nay ông chơi hết mình.

Chàng làm tôi phát hoảng, ngày đầu năm có nhiều điều lọa, mới thò mặt ra đã bị mì gói "chơi" một cú để đời, đêm nay ông đòi chơi hết mình, chắc tôi phải say xỉn may ra mới cầm cự nổi. Đang du dương, con bé lai níu tay tôi, bà ơi mẹ con nhờ bà coi nồi cháo, đành hy sinh điệu nhảy tình tứ để lo nồi "đặc sản", tôi giao chàng cho "hai bạn nhảy" nhỏ tuổi nhất đêm nay. Đến bên nồi cháo đặt trên lò barbecue nướng thịt, mùi cháo bốc lên thơm lừng, hàng Á thứ thiệt mùi nào vị đó, càng ăn càng nghiện, làm gì có chuyện ăn vào mất vía như "thứ kia", tôi như tỉnh rượu, nêm thêm ít muối rồi vào bếp tìm tô và thìa.

Nhà Mỹ làm gì có tô ăn cháo, lục hết tủ chén chỉ có chục bát trung trung để ăn cereal với sữa vào buổi sáng, tôi lấy thêm mấy cốc to uống bia chữa lửa. Đúng như cô cháu tôi dự đoán, nhảy đã đời, khách xếp hàng xin bát cháo nóng, có đủ hành lá, gừng thái nhuyễn, nước mắm chanh ớt tùy nghi sử dụng, đêm tân niên mà thiên hạ húp cháo ngon lành, may là dân Mỹ không dị đoan.

Nhớ những năm đầu tỵ nạn, đêm Tết Tây chúng tôi kết thúc bữa tiệc bằng nồi cháo gà, thằng bé con chị bạn hỏi tôi, nhà bác hết gạo phải không, ngẩn ngơ vài giây tôi chợt hiểu, Sàigòn dạo đó chỉ có ngô khoai, thằng bé chưa quên nơi chôn nhau cắt rún.

Khách bê bát cháo ngồi ngoài sân hì hụt húp, tôi đến bên hòn non bộ ngồi, tiếng nước chảy róc rách, nhâm nhi "cốc cháo", không có món ngon vật lạ nào trên đời hấp dẫn bằng cháo nóng lúc này, gừng đã "tàn sát mì gói", hú vía chưa ai bị "tào tháo mì gói" rượt đuổi.

Bầu trời đen nghịt những vì sao lăn tăn nhấp nháy, sương xuống lành lạnh khiến bát cháo nóng váng mỡ gà hành ngò thơm quyến rủ "khách ăn đêm", có người xin thêm một bát nữa, đâu cần cao lương mỹ vị, khéo tay xoay sở cơm cháo bỗng chốc biến thành món ăn sành điệu.

Khách tíu tít khen cô cháu của tôi khéo nấu, Bill muốn nổ lỗ mũi, cao hứng hắn mời khách ngày mai đến nhà dùng Phở, Jane là người đầu tiên tán thành, mấy người kia không hiểu phở là gì. Jane tình nguyện diễn tả món phở bò có hồi, quế, gừng ... tuyệt lắm, có người hỏi, có ngon như "chicken congee» này không, Jane léo nhéo kể tiếp.

Tôi khều cô cháu, Jane ăn phở nhà mi hồi nào mà rành "sáu câu" quá vậy, cô cháu cười, thường xuyên, lúc nào nấu phở Jane cũng ghé chơi... và xin một bát, ăn ngoài phố bị bột ngọt dần một trận nó tởn đến gìa, tiếc quá mai dì về Little Sàigòn rồi.

Hôm sau cô cháu, tường trình qua điện thoại, khách thưởng thức phở tái nạm gầu húp hết nước lèo, tiện tay Bill quảng cáo mì gói, thiên hạ ái ngại nhớ đến thau xà lách hôm qua ở nhà Jane. Để giải oan cho món "instant noodle soup", Bill làm một tô mì tại chỗ cho hành lá vài cục bò viên vào, thiên hạ cầm lòng không đặng, có người xin Bill một gói làm mẫu để đi chợ sau này.

Từ đó bên xứ sòng bài gia đình cô cháu của tôi có thêm món cháo gà trong dịp tết Tây, ăn vào nhẹ dạ để lòng thảnh thơi "sân si đủ thứ" trước thềm năm mới. Đám Mỹ ham vui ăn theo Mít cũng du nhập món này, dễ nấu dễ ăn, sự tích nồi cháo gà đêm tân niên chỉ thế thôi, còn cái cú "đắp bồ" của ông xã có bị tôi quỵt không, xin hẹn dịp khác.

Năm nay kinh tế "đao" (down) khiến thiên hạ đau lòng khi móc bóp chung chi những món quà đầu năm, đã thế bão tuyết rơi phủ khắp nơi, tiếc nhỉ gía như tiền cũng rơi hào phóng như tuyết còn gì sướng hơn, ông xã chỉnh, mẹ nó chỉ mơ hão, suốt ngày trên "phố ảo" đi trên mây như người mộng du.

Mộng du hồi nào, chỉ mộng mị tí thôi, mơ màng sang năm kinh tế phục hồi để nhân thế bớt vất vả, tiền không rơi như tuyết, thì xin mưa HỒNG ÂN AN LÀNH HẠNH PHÚC bao phủ trần gian, sao xẹt xuất hiện liền tù tỳ để nhân gian tha hồ ước "ngày mai tươi đẹp".

Để kết bài viết cuối năm mời quý vị thưởng thức bản nhạc HAPPY NEW YEAR của nhóm ABBA, xin chúc quý vị và gia quyến một đêm giao thừa vui vẻ ấm cúng và năm mới, VẠN SỰ NHƯ Ý.

Tinh Ca Hambuger - Nước Mắm

Tác giả là trưởng nữ một gia đình H.O., hiện hành nghề dược sĩ tại Virginia. Cô đã góp nhiều bài viết đặc biệt và được trao tặng giải thưởng tác phẩm xuất sắc nhất Viết Về Nước Mỹ năm 2004. Bài viết lần này của Karen là một chuyện gia đình chàng Mỹ và nàng Việt.

*

An mở tủ lạnh, nhìn xem trong tủ còn cái gì. Mấy hộp rau xà lách trộn với broccoli, cauliflower, cà rốt An cắt cho Jim đã biến mất. Vậy là Jim đã đem mấy hộp rau đến sở làm như mọi khi rồi. Mở ngăn freezer, An nhìn thấy một cái pizza, một vĩ thịt bò, mấy hộp frozen dinner, một túi bagel. Vậy là tối nay An hoặc là sẽ nướng cái pizza hoặc là sẽ nấu spaghetti cho Jim và An. Vậy là coi như kế hoạch tối nay ăn gì đã xong. An đóng cửa tủ lạnh, chuẩn bị đi ra chợ, bắt đầu tính toán trong đầu xem hôm nay mình sẽ mua món gì và sẽ ăn món gì.

Qua Mỹ mười mấy năm, An vẫn chuộng ăn cơm Việt Nam. Những năm đi học ở đại học, ở ký túc xá, An mong ngóng đến những ngày cuối tuần để về thăm nhà để gặp bố mẹ An và mấy anh chị em trong nhà đã đành, mà còn để ăn cơm Việt Nam mẹ nấu. Thịt kho trứng vịt nước dừa, cá kho tộ, cá chiên dầm nước mắm ớt, rau muống xào thịt bò, canh cải bẹ xanh, những món ăn mẹ An nấu cuối tuần, sao mà Anh nhớ chúng quá đỗi. Cuối tuần quay trở lại trên ký túc xá An bao giờ cũng khăn gói hộp lớn hộp nhỏ những món mẹ nấu để đem lên trường ăn dần trong tuần, hăm microwave lại mà ăn vẫn ngon gấp bội so với những món tụi bạn trong ký túc xá hay ăn như pizza, macaroni, ravioli.....

Rồi An ra trường có việc làm, dọn đi xa. Không còn những ngày thứ sáu mong ngóng hết giờ học lái xe về để ăn cơm mẹ nấu như ngày nào. Muốn ăn cơm Việt Nam ư, An phải chạy ra chạy chợ Tàu, chợ Việt Nam mua đồ về nấu, hoặc nếu lười thì chạy ra mấy tiệm ăn Việt Nam gần đó để mua. Không có cơm chỉ như ở Cali, Texas, nhưng những tiệm ăn Việt Nam An có thể lái xe đến cũng tạm đủ để cho An không phải khắc khoải bồn chồn suy nghĩ mãi hoài về những món ăn. Rồi An mua thức ăn, mua gia vị về bắt chước mẹ nấu ăn. Tài nấu nướng của An không phải hàng cao thủ, nấu cho một người ăn hóa ra không dễ như An nghĩ. Lúc đầu, lượng thức ăn An mua bao giờ cũng nhiều, An nấu xong món nào thì ăn cả hai, ba ngày mới hết, rồi từ từ khả năng nấu ăn của An có đôi chút tiến bộ sau những cú điện thoại cho mẹ, những dịp nói chuyện với mấy cô bạn Việt Nam khác, những dịp đọc sách nấu ăn và những lần nấu nướng không thành. An không nấu những món ăn Việt Nam ngon như mẹ nấu, nhưng rồi cũng đến lúc An có thể xem như cuộc sống độc thân của mình có phần thú vị hơn lên qua những bữa cơm Việt An nấu ở bếp nhà mình. Rồi An quen Jim.

Quen Jim một thời gian, An mời Jim đi ăn ở một nhà hàng Việt Nam. Khi An hỏi anh chàng waiter người Việt vậy chứ người Mỹ vào nhà hàng này hay kêu món gì, anh chàng sốt sắng gợi ý ngay: chả giò, tôm rang, bánh mì bò kho, cơm hấp với thịt gà trong trái dừa. An gọi mấy món đó và cảm thấy thú vị vô cùng khi thấy Jim tập cầm đôi đũa gắp cuốn chả giò chấm nước mắm, anh chàng ăn chả giò và khen ngon rối rít. Mấy món kia cũng được Jim chiếu cố nồng nhiệt. Vậy là Jim ăn được một số đồ ăn Việt Nam, An thầm nghĩ trong đầu. An không biết rằng đó là lần đầu tiên trong đời Jim đi ăn ở một nhà hàng Việt Nam. An không biết rằng sau đó mời Jim đi ăn thức ăn Việt Nam là cả một chuyện khó khăn không thể tả đối với An. Về sau khi hai đứa lấy nhau rồi Jim mới thú thật với An là hôm hai đứa mới quen nhau Jim đồng ý đi ăn và khen đồ ăn ngon như vậy vì sợ An phật ý, An có thích ăn đồ ăn Việt Nam thì cứ đi ăn hay mua về nhà tùy ý, nhưng đừng mời Jim ăn. Anh xin lỗi em, nhưng anh không quen ăn thức ăn Việt Nam, Jim nói với An như vậy.

Hôm khác Jim mời An đi ăn ở Red Lobster, em kêu món gì cũng được, nhưng không được chấm mấy chú Lobster đang bơi vòng vòng vô tư lự trong bồn kiếng nghe chưa, Jim dặn An như vậy. Tại sao vậy, An thắc mắc. Jim nói với An hồi anh còn nhỏ cỡ năm sáu tuổi ba anh đem về nhà hai chú lobster còn sống, rồi ông lấy cái nồi thật to, bỏ nước vào, đun sôi lên, bỏ hai chú lobster vào, anh chứng kiến hai con lobster bị luộc chết đau đớn trong nồi nước sôi, từ đó anh không bao giờ muốn ăn lobster nữa, Jim nói vậy. Vậy chứ Jim gọi món ăn có shrimp mười mấy con tôm chiên nằm ngoan trên đĩa được dọn ra kèm nước sốt để chấm. An thầm nghĩ trong đầu, nếu gọi là sát sanh thì giết mười mấy con tôm cho bữa ăn của Jim với lại giết một con lobster bên nào tội nặng hơn kìa, nghĩ vậy mà không dám nói ra. Nhưng bữa đi đến Red Lobster cho An thấy một chi tiết: Jim ăn tôm ăn tép được, Jim không phải là người ăn rau thuần túy, không phải là người ăn chay, không phải là người chuộng ăn mấy con thú trên cạn, mà Jim có thể ăn cả những con bơi bơi dưới nước những bộ hạ của thủy thần, An nhận xét được như vậy. Vậy là tốt, An nghĩ bởi An chuộng ăn cá, mực, tôm, cua, sò, ốc vô cùng. Suy nghĩ này của An đi trật đường rày mấy chục dặm! Jim, An về sau phát hiện ra chỉ biết ăn shrimp mà thôi.

Cuối tuần đến nhà Jim chơi, An được Jim mời ăn Pizza, ăn macaroni với chese, ăn spaghetti. Hai đứa ăn hambuger ở Mc Donald ăn đồ ăn Mễ ở Taco Bell, ăn buffet gà rán ở Kentucky Fried Chicken. Sau những dịp ăn "đồ ăn Mỹ" từ An thường dùng để gọi mấy món ăn củ Jim, An lại trở về nhà của mình, nấu cơm trắng ăn với đồ ăn Việt. Miếng ăn là miếng tồi tàn, ông bà ta nói vậy, An không bao giờ nghĩ đến một ngày nào đó An lại phải suy nghĩ hoài về chuyện đồ ăn, cho đến khi An nhận lời Jim cầu hôn, làm đám cưới và dọn về ở tại nhà Jim.

Đến lúc này thì chuyện ăn uống mới trở thành nan giải đối với An. Hóa ra là Jim chỉ ăn có mấy món, vòng qua vòng lại: chicken soup, pizza, macaroni với cheese, spaghetti. Pizza thì phải là loại pepperoni-cheese mua ở chợ safeway, mua mấy loại pizza khác ở mấy tiệm khác thì Jim chê là không ngon. Spaghetti sauce thì phải mua loại nào loại nào, thịt bò đem rán lên rồi chắt hết mỡ đẻ trộn với spaghetti sauce thì không được dùng quá 1 pound, dùng nhiều thịt bò quá hay mua loại sauce không đúng thì Jim cũng không thích. An shrimp, Jim hoặc là thích ăn shrimp luộc để trong tủ lạnh cho lạnh rồi chấm với ketchup bỏ thêm một nhúm horseradish cay cay hoặc là bỏ mấy chú shrimp vào chảo rồi xào nóng lên với scampi sauce béo ngậy. An theo mấy món của Jim mấy tuần, An bắt đầu cảm thấy vòng số 2 của mình có chiều tăng trưởng không theo ý mình muốn.

Jim ăn rau nhiều, ngày nào đi làm cũng mang theo một hai hộp rau xà lách trộn với cà rốt, broccoli, cauliflower, celery...để ăn trưa, thành ra trong tủ lạnh bao giờ cũng có đủ thứ rau. An bắt đầu ăn rau nhiều hơn với hy vọng để giảm cân, nhưng rồi sau đó lại thấy người mau đói hơn và lại thấy mình ăn pizza, spaghetti nhiều hơn lên thế mới khổ.

Hai vợ chồng ban ngày đi làm, buổi tối về không ăn cơm chung thì coi như mất đoàn kết quá xá, An nghĩ vậy. Nhưng ăn theo mấy món ăn bất di bất dịch của Jim, An bắt đầu thấy ngán ở cổ. Nhiều hôm đi ngủ An nằm mơ thấy mình ra khu shopping Việt Nam ăn mì bò viên, bánh canh, chè đậu nước dừa, bún bò giò heo, để rồi tỉnh giấc trong đêm tối nghe bao tử cồn cào, thấy nhớ đồ ăn Việt Nam dễ sợ là nhớ.

An có một cô bạn quen lấy chồng Mỹ, chắc cô này ăn hiền ở lành hay sao mà chồng bỗng nhiên trở thành người chuộng ăn cơm Việt Nam. Nhỏ X thuật cho An nghe nó nấu một nồi thịt kho nước dừa với trứng vịt cuối tuần định bụng sẽ ăn dần hai ba ngày trong tuần, quay qua quay lại ông chồng Mỹ của nó đã xơi hết gần nữa nồi thịt với cơm trắng, khen ngon rối rít. Chả lụa kho nước mắm, thịt gà luộc chấm muối tiêu ăn với lá chanh, thậm chí mắm chưng anh chàng cũng xơi tấp nập, ngay cả nhỏ X cũng ngạc nhiên. Ông chồng nó bây giờ ngày nào cũng bới một hộp cơm trắng kèm đồ ăn Việt Nam mang đi làm, bảo là ăn cơm chắc bụng. Trời ơi, An mong Jim được một góc như chồng nhỏ X mà không được.

Đầu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon

Ca dao Việt nam là như vậy, nhưng nếu An mà có mua trái bầu về nấu canh với tôm đi nữa, chỉ có mình An là ăn thôi. Ăn đầu tôm ư, Jim không thể tưởng tượng được là người ta có thể ăn mấy cái đầu tôm nhọn hoắc có mất con mắt tôm đen thui và râu tôm dài loằng ngoằng. Hai đứa đi ăn chines buffet có món tôm rang muối, Jim ngồi tỉ mỉ vặt đầu tôm, lột từng con tôm cho sạch vỏ rồi mới ăn phần thịt bên trong, còn An thì thích ăn cả phần vỏ có muối và gia vị mằn mặn, dòn dòn ăn cả phần đầu tôm dòn tan có lớp gạch tôm béo ngậy bên trong. An nhớ hoài ánh mắt Jim nhìn cái đĩa của An sạch trơn không có đầu tôm, vỏ tôm như đĩa Jim: "Bộ em ăn luôn cả mấy cái đầu tôm rồi hả"" hai con mắt Jim tròn xoe ngạc nhiên không thể tả. Những lần đi ăn buffet với Jim cứ hễ đem món tôm rang muối về là An lại thấy Jim nhìn mình cười cười, nhiều lúc An cũng phải vất mấy cái đầu tôm dòn tan mình thích để lại không ăn.

Đi ra khu shopping Việt Nam, vào mấy tiệm ăn An thấy có những người Mỹ vào ăn, có người cầm đũa thông thạo như người Việt vậy. An lâu lâu nhớ đồ ăn Việt Nam được nghỉ giữa tuần hay đi làm về sớm thì lái xe tạt qua mấy tiệm ăn Việt Nam để ăn cho đỡ nhớ. Nhìn những cặp vợ chồng, những đôi tình nhân ngồi ăn trong tiệm, bao lần An thầm mơ có ngày Jim và An đi ăn như vậy biết là chừng nào. Mơ thôi, bởi ngay cả chuyện cầm đũa gắp đồ ăn hai đứa lấy nhau lâu rồi mà Jim cầm đũa vẫn không thạo. Thì có ăn món gì mà cần đến đũa đâu kia chứ. An mua phở về nhà mời Jim ăn, anh chàng ăn được có một hai lần không tha thiết với món phở, thành ra An có muốn đi ăn phở thì đi solo mà thôi. Chuyện cuối tuần đi ăn dim sum lại càng là chuyện không mơ thấy nổi, bởi Jim không thể tưởng tượng được là có những món ăn như chân gà, lưỡi vịt tồn tại ở trên đời. Gọi món chân gà, cầm cái chân gà lên gặm trước mặt Jim, chuyện đó An không bao giờ dám.

Đừng nói tới chân gà, chỉ chuyện hột vịt lộn thôi là đã xém gây khói lửa chiến tranh giữa hai đứa rồi.

An thèm hột vịt lộn, mua mấy cái trứng vịt lộn về để ở nhà. Quên mua mấy loại rau sống để ăn kèm với hột vịt lộn, thành ra An để mấy cái trứng đó trên cái kệ trong bếp. Jim buổi tối vào bếp bất chợt nhìn thấy cái túi giấy trên kệ, tò mò nhìn vào, thấy mấy cái trứng, sao không để vào tủ lạnh, Jim hỏi An như vậy.

Chưa thấy ai để hột vịt lộn chưa luộc trong tủ lạnh hết, An nghĩ trong đầu như vậy. An nói với Jim, để ở ngoài được rồi, mai mốt thế nào An cũng ăn mấy cái trứng đó. Nếu dừng lại ở đó thì không đến nỗi. An vui miệng nói với Jim, mấy cái trứng đó là special đó nhe. Special là special làm sao, Jim hỏi. Special là tại vì bên trong trứng có con vịt con trong đó, con baby duck nhỏ xíu, An nói. Trời ơi, ăn vậy là giết con vịt con rồi còn gì, Jim bắt đầu phản đối dữ dội, em không được ăn món này nữa, nghe chưa. Có ăn thì ăn trong khi anh không có nhà, đừng bao giờ đem chuyện mấy cái trứng này ra nói với anh nữa, nghe chưa, ăn vậy là tàn nhẫn lắm, em biết không. Jim nói với An, chưa bao giờ An thấy Jim phẫn nộ đến như vậy. Hôm sau An len lén luộc mấy cái trứng lên ăn lúc Jim chưa đi làm về, hồi trước ăn hột vịt lộn thấy ngon ngọt biết chừng nào, hôm đó An ăn vào thấy miệng mình đắng ngắt. Coi như là farewell hột vịt lộn vậy, không hẹn ngày gặp lại.

An có mua mấy cái DVD chiếu toàn là cảnh ăn nhậu ở Saigon và ở Việt Nam, sau vụ hột vịt lộn An đem cất mấy cái DVD đó vào góc kẹt trong tủ. Không thể để Jim thấy An coi những đoạn phim chiếu những xe thịt chó dài dài ở ngã ba Ông Tạ với những chú chó quay vàng rộm treo đầy xe, những đoạn phim chiếu bà con đi ăn lẫu cá, thiên hạ gắp những con cá kèo còn sống dãy đành đạch bỏ vào những cái lẫu nước sôi sùng sục, những đoạn phim chiếu những con tôm hùm còn sống được đặt lên vĩ than đỏ hồng để nướng, những đoạn phim chiếu cảnh chặt đầu rắn, lấy trái tim rắn còn đập bình bịch và mật rắn bỏ vào rượu uống, những đoạn phim chiếu cảnh người bếp căng cánh của chú dơi ra cho khách xem rồi chặt đầu dơi cái bụp trên thớt, rót máu dơi vào ly pha với rượu....

Jim không ăn đồ ăn Việt Nam, thành ra mỗi lần đi với An đến nhà mấy đứa bạn Việt Nam của An nhân đám giỗ, đám tiệc gì đó thoạt đầu là cả một vấn đề với Jim. Lúc đầu trước khi đi với An đến nhà bạn, Jim ăn một cái bagel trước để dằn bụng, rồi sau đó đến nhà bạn An anh chàng sẽ ăn nhỏ nhẹ như mèo, nếu gia chủ có mời Jim ăn thử món này món kia thì Jim cũng sẽ lấy cho vào đĩa của mình nếm một chút xíu rồi sao đó rình xem nếu không có ai nhìn thì sớt hết qua đĩa An. Phải mất vô số lần đến nhà bạn bè An ăn đồ ăn Việt Nam, Jim mới ăn được cơm chiên, chả giò gỏi ngó sen tôm thịt, súp măng cua, sườn heo nướng ăn với bún. Ăn được ở nhà bạn An, nhưng về sau ở nhà khi An ngỏ ý muốn nấu mấy món tương tự như vậy để hai đứa ăn thì Jim lắc đầu quầy quay. Không là không. Vậy là An phải quay trở lại những món ăn Jim quen, những món ăn An bắt đầu ngán.

An lái xe ra khu thương mại Việt Nam. Vô số lần An phải nhìn nhận là mình may mắn vì khu thương mại này chỉ cách nhà An chưa tới 20 phút lái xe, có mấy chục tiệm và bán đủ thứ món ăn An thích. Job của An cứ hai tuần thì lại nghỉ 1 ngày trong tuần. Ngày nghỉ đó là ngày An thu xếp để ra chợ Việt Nam ăn hàng và mua những món An thích.

An đi vòng vòng, tiệm A đăng bảng hôm nay có ốc gạo, hừm ốc gạo ăn ngon nhưng ngồi lể mất công quá, An bỏ qua mục ốc gạo vậy. Ngang qua tiệm B, bà con xếp hàng dài dài để mua tàu hủ, xôi, sữa đậu nành mùi lá dứa nóng hổi mới nấu. An nhìn vào bên trong xem hôm nay tiệm B có bán xôi sầu riêng hay không, và thấy một ngăn xôi màu xanh vuông vức xới cao trong tủ kiếng. An bước vào tiệm hòa vào dòng người xếp hàng đông đúc trong tiệm. Tiếng Việt nổ rôm rả, người mua bánh cuốn mới tráng với cây giò, người mua hộp xôi mặn với chả lụa và lạp xưởng, người mua mấy ly chè chuối, chè bắp, chè thưng.... Từ ý định chỉ mua gói xôi sầu riêng có trãi một lớp đậu xanh màu vàng mịn màng rắc thêm đậu phọng. An bây giờ sau một lúc xếp hàng thấy mình cần thêm mấy cái bánh giò và xách thêm chai sữa đậu nành, những thứ bỏ vào tủ lạnh ăn dần mấy ngày sau vẫn thấy ngon.

An tạt qua tiệm bánh cuốn, gọi một đĩa bánh cuốn đặc biệt, bánh cóng chiên dòn rụm có rắc mấy hạt đậu xanh và có chú tôm khoanh tròn trên mặt nằm cạnh những lát bánh cuốn mỏng yêu kiều phô bày lớp nhân thịt beo béo có nấm mèo đen bên trong, kèm với những lát chả lụa màu mỡ xếp cạnh những cọng giá trắng trẻo, đầy đặn. An múc nước mắm ớt rưới lên đĩa bánh cuốn 1 muỗng, 2 muỗng, 3 muỗng rắc thêm một muỗng ớt đỏ tươi xắt nhỏ. Nước mắm không phải ngày nào ở với Jim cũng ăn, vị nước mắm sau mấy tuần An không nếm bỗng trở nên hấp dẫn vô cùng.

Gần hai tuần rồi An mới có dịp ghé qua chợ Việt nam, An đi từ tiệm này qua tiệm kia, nhìn những món ăn, những thứ trái cây bày bán. Tất cả gợi cho An nhớ về một đất nước Việt Nam mà An đã lìa xa từ bao năm rồi, và An vẫn nhớ trong lòng. An nhìn những trái ổi gọt rồi màu trắng xanh kèm gói muối ớt trông hấp dẫn làm sao, những miếng mít phô bày những múi thật to vàng óng, những trái thanh long cắt bổ đôi có ruột màu trắng trong điểm những hạt màu đen nhỏ xíu như hạt mè, những chùm nhãn, chùm trái vải tròn căng mọng nước mời mọc. An nhìn những vĩ gỏi cuốn, bò bía, bánh bèo nhân tôm thịt, những hộp gỏi đu đủ khô bò, những cái bánh tiêu, bánh cam ở trên quầy. Những món ăn Việt Nam, trái cây mà khi An mua về nhà chỉ có An là người tiêu thụ, còn ông chồng yêu quý của An thì không.....

An chầm chùm trái vải lên ngắm nghía. Những trái vải to tròn phía ngoài là lớp da sần màu nâu, lớp vỏ bên mặt kia lại đỏ hồng bóng loáng ôm lấy phần trái vải trắng dày cơm, mọng nước ngọt ngào, Jim đã thấy ở nhà bạn An những lần đám giỗ, Jim đã thấy An ăn và An có mời Jim mà anh chàng lắc đầu từ chối.... Mặc cho An thuyết phục Jim, kể cho Jim nghe chuyện huyền sử Dương Quý Phi bên Tàu ngày xưa muốn ăn trái vải thì có lính của Đường Minh Hoàng cỡi ngựa mấy ngày đêm không ngủ để đem trái vải từ nơi xa xôi về cho người đẹp dùng, Jim cũng ngoan cố không ăn. Jim không ăn trái vải, nhưng An thích, An lấy 1 chùm ra quầy trả tiền. Những cái túi An xách chứa những món đồ ăn, trái cây Việt Nam An mua bắt đầu làm cho tay An thấy mỏi. Vậy là đủ, An quyết định lái xe về nhà.

Những món ăn và trái cây An mua, đến khi Jim đi làm về thì một phần đã nằm trong tủ lạnh, phần còn lại nằm trong bao tử của An. An hỏi Jim thích tối nay ăn món gì, pizza hay spaghetti, An sẽ nấu. Pizza Jim chọn. Trong lúc chờ nướng cái pepperoni-cheese pizza, Jim và An ngồi coi tivi. Jim hỏi An hôm nay ngày nghỉ An làm gì, và An trả lời là mình ra chợ Việt Nam mua đồ. Nghe đến chuyện chợ Việt Nam. Jim nói với An "Ồ, hôm nay trong chỗ làm giờ lunch anh tình cờ đọc được một bài báo trong một cuốn tạp chí kia, nói về trái lichi, cái trái mà mình thấy ở nhà mấy người bạn em tuần trước đó, chừng nào ra chợ Việt Nam thì mua một ít trái đó, anh muốn ăn thử".

Jim muốn ăn thử trái vải ư, An nghe mà không tin được. An hỏi Jim cái bài báo nói về trái lichi đó nằm trong tạp chí nào vậy, An cũng tò mò muốn xem cho biết. Được thôi, cuốn tạp chí của người bạn cùng sở, Jim hứa sẽ hỏi mượn. Sau bữa ăn tối với mấy lát pizza, An lấy chùm trái vải ra khoe với Jim, tình cờ An mua hôm nay đó nha, An nói với Jim như vạu. Kỳ này thì anh chồng yêu quý của An ăn trái vải mà ăn thật tình, hết cả 7-8 trái. Trái này có mùi thơm như là cánh hoa hồng vậy "scent of rose petals" Jim nhận xét với An.

Bụt chùa nhà không thiêng, An nghĩ trong đầu. Mình thuyết phục Jim ăn đồ ăn Việt Nam, trái cây Việt Nam nói là ngon thì Jim không tin. Nhưng mấy bài báo do người Mỹ viết ca ngợi đồ ăn Việt Nam trái cây Việt Nam, An nghĩ có vẻ có tác dụng mạnh hơn là An nói. Ngày mai, An nghĩ hay cuối tuần An phải đi ra nhà sách xem có sách nào nói về thức ăn Việt Nam, khen đồ ăn Việt Nam ngon, mua về để trong tầm mắt của Jim để một ngày nào đó Jim sẽ đọc. Biết đâu chừng, ừ biết đâu chừng sẽ có lúc An và Jim đi ăn ở nhà hàng Việt Nam trở lại như cái ngày xửa ngày xưa hai đứa mới quen nhau, biết đâu

Sĩ Diện

Tố Tâm cho biết cô là con gái áp út của một gia đình HO9. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của cô là "Cưới Vợ", một truyện ngắn rất tươi tắn, linh hoạt. Sau đây là bài viết thứ hai, tươi hơn, linh hoạt hơn.

*

Hôm tôi về VN, xếp hành lý vào vali cho tôi, má dặn:

- Về VN nếu ai có hỏi thì cũng đừng nói là con bên đây đi làm nail, cứ nói là con làm nghề kỹ sư thôi nghe chưa!

- Má à, nghề nail thì cũng là một cái nghề Mà nhiều người thi ra thi vô cũng rớt hoài chớ bộ má tưởng dễ sao

- Không cần biết, miễn biết con đi làm nail thì họ nói chết.

Má tôi vẫn nằng nặc đòi tôi hô to cái nghề "kỹ sư", còn cái nghề nail thì giấu càng kín càng tốt.

Tôi ra trường, gần một năm nay ôm cái bằng kỹ sư chạy xuôi chạy ngược, gặp ai quen cũng đánh trống " thấy việc làm thì giới thiệu ". Họ ừ, rồi im luôn. Thời buổi kinh tế đi xuống, hãng xưởng đóng cửa hết rồi, bạn bè lâu lâu thì nghe tin "..... mới bị lay off" nghe mà phát rầu. Tôi vẫn thu hết tàn hơi kiên nhẫn ôm đơn xin việc rải đầy các hãng, xưởng y như rải truyền đơn. Suốt ngày lóc cóc gõ trên internet hòng kiếm cơ may trên mấy cái website. Rồi tôi nhận được điện thoại hẹn hò. Vài lần tôi đóng bộ thật lịch sự và mang bộ mặt mà "nếu người ta có chưởi cũng cười đi interview. Sau mỗi lần interview là lời hẹn hò "Tôi sẽ gọi lại cho cô." Rồi tôi dài cổ cò ngồi chờ.

Trng lúc cổ bắt đầu dài vì đợi chờ được nhận đi làm, tôi lò dò bước vào tiệm nail. Chị Sương vừa giũa móng tay cho khách vừa nói:

- Rảnh rỗi thì ra đây làm nail phụ giúp chị, kiếm tiền tiêu.

Vậy là sau mấy tháng bận rộn bài vở final để tốt nghiệp, rồi ra trường lu bu đi kiếm việc làm, tôi quay trở lại làm nail, làm full- time.

Hồi mới qua Mỹ, vợ chồng chị Sương giúp gia đình tôi bằng cách dắt tôi vô tiệm nail của ảnh chỉ rồi dạy nghề cho tôi. Anh chị Sương là người không bà con quyến thuộc gì với gia đình tôi cả nhưng họ đối xử tốt bụng và chân tình kinh khủng. Chị Sương là người "thầy" dạy tôi cách cầm cái kèm và cắt móng tay như thế nào lúc tôi mới lơ ngơ vào học nghề. Ngày đầu tiên run run cầm cọ sơn móng tay cho bà khách, không biết cảm tình như thế nào mà khi sơn xong một bộ móng giá chỉ có 8 đồng, bả còn rút túi cho tôi 5 đồng tiền tip. Tôi mừng húm. Chủ nhật tôi dắt con Hà em tôi ra tiệm Rite Aid mua cà rem ăn. Con Hà có tính xấu là thèm ăn cà rem kinh khủng. Mấy tờ tiền cent đi chợ người ta thối, nó gom lại để dành rồi cuối tuần rủ tôi đi ăn cà rem.

Tôi đã học tiếng Anh từ bên VN nhưng qua đây ai nói gì tôi cũng không hiểu mà tôi nói tiếng Anh cũng

chẳng ai chịu nghe cho. Cho nên đi làm khách nói cứ việc nói, tôi chỉ việc cười cười rồi gật đầu "yes "

hoặc lắc đầu quầy quậy kêu "no" , sau đó thì tùy theo tình huống mà đóan ra ý thích của khách. Tôi thuộc dạng khéo tay, cho nên những chuyện cắt giũa, sơn phết hay đắp bột làm móng giả, vẽ vời kiểu cọ lên móng tay (còn gọi là design ) tôi học rất lẹ và còn được khen làm đẹp nữa. Bữa đó có bà khách ăn mặc rất là sang trọng, xức nước hoa thơm phức đi vào và yêu cầu với chi. Sương là muốn một người thợthật khéo tay. Tôi là người được chọn. Bà khách xòe đôi bàn tay với bộ móng dài vừa nói vừa chỉ một hồi. Tôi yes yes lia lịa và luôn miệng cười với khách. Tôi đang chăm chú cắt cắt giũa giũa thì bà khách bổng rụt hẳn tay về, đứng phắt dậy, miệng xì xồ to tiếng. Tôi không hiểu bà ta nói gì nhưng biết được là bà ta tức giận ghê lắm! Tôi chỉ bập bẹ hiểu được một câu lúc bà ta như muốn xỉ vào mặt tôi la lớn: "...... learn more English "

Chị Sương chạy lại:

- Oanh ơi là Oanh, bả muốn để nguyên móng tay dài rồi sơn french tip, gắn hột xoàn (giả ) lên cho bả mà mày lại đi cắt phăng cái móng tay của bả đi...

Tôi mếu máo:

- Em thấy bả chỉ chỉ vô móng tay tưởng bả biểu cắt bớt rồi mới sơn...

Sau vụ đó chị Sương phải làm một bộ móng giả "đền" cho bà khách. Tôi tủi thân muốn bỏ nghề. Ai nói nghề nail là sướng. Tuy không bỏ vốn nhưng phải bỏ công bỏ sức ra làm và còn bị khinh khi nửa. Nhiều lúc ngồi mài mài giũa giũa móng những bàn tay mỹ đen to xù mà nước mắt tôi sém rơi mấy bận. Làm cực thì ít mà tủi thân thì nhiều. Những người quen thân thấy tôi đi làm nail rủng rỉnh tiền để đi shopping, giúp ba má trang trải trong gia đình thì nhìn tôi ra vẻ thương hại "Cái nghề nail tuy dễ kiếm tiền nhưng bần tiện", Rồi nào là làm nghề này dễ bị lao phổi, dễ bị ung thư da (ung thư ung thọt gì thì tôi không biết nhưng từ dạo đi làm thì da mặt tôi có vẻ xấu đi và nổi vài cục mụn), rồi con gái mà làm nghề này thì dễ bị... không có con. Tôi thất kinh! Trên đời này, có ít tiền thì người ta khinh, có nhiều tiền thì người ta ghét. Buồn, tôi tính kiếm nghề khác. Đi may, ngồi còng lưng biết kiếm được bao đồng" Tính tôi thì không kiên nhẫn. Đi làm nhà hàng thì cũng chỉ được ngày cuối tuần. Mà cái chi tiêu trong nhà tôi thì lại lớn vô cùng. Con Hà đi làm nhà hàng vào cuối tuần cọc cạch chỉ đủ cho nó tiêu vặt và chi tiêu vô chợ búa! Suy nghĩ lung tung rồi rốt cuộc tôi vẫn trung thành với nghề nail. Đi học về là tôi tranh thủ chạy ra tiệm nail để mài mài giũa giũa móng tay cho khách. Tôi dồn tiền để ba mua được chiếc xe Camry đời 2 năm cũ. Bạn bè tôi ở trường nói tôi "ngầu". Người quen biết thì cũng kêu tôi "ngầu" rồi câu tiếp theo là " tiền đi làm nail í mà" Nhiều lúc tủi thân tôi muốn khóc òa lên một cái nhưng nghĩ lại nghề nào cũng là nghề, cũng mồ hôi nước mắt đổ ra mới kiếm được tiền nên tôi nín. Và cho những lời bóng gió chê bai "nghề nail hạ cấp" là những lời của những kẻ vớ vẩn. Bởi vì đối với tôi cái nghề nail nó vĩ đại vô cùng.

Ngày tôi ra trường, cầm cái bằng kỹ sư trên tay tôi rưng rưng nghĩ không biết cái bằng kỹ sư này có giá trị bằng cái bằng nail kia của tôi không. Bởi vì tấm bằng nail nhỏ bé xinh xinh kia đã "nuôi" tôi lấy được cái bằng kỹ sư ngày hôm nay. Cũng cái nghề nail đã cho tôi một cái nhìn rất khác về bản chất con người và cuộc sống xô bồ hiện tai. Vài người thân quen của tôi lúc xưa đau xót nhìn tôi phải đi sơn, giũa móng tay thiên hạ để kiếm tiền đi học và phụ gia đình thì bây giờ họ cũng âm thầm lặng lẽ đi làm.... thợ nail. Cuộc sống và mưu sinh! Tiền là trên hết cho nên những ý tưởng trong vắt khi xưa nhìn thấy nghề nail là một cái nghề bần tiện nhất thì bây giờ cũng phải chấp nhận để ý tưởng bị vẩn đục. Có điều những người đó họ vẫn còn sĩ diện đầy mình cho nên vẫn cứ "Em không thích cái nghề này, nhưng vì cần tiền nên..." Tôi thì tôi không thể nào bạc bẽo như vậy được. Tôi qúy cái nghề nail kinh khủng. Bởi chính cái nghề nail đã giúp tôi đi hết đoạn đường Đại Học, và góp phần vào công cuộc cải tổ kinh tế trong gia đình tôi.

Má tôi hình như cũng sợ cái gọi là "sĩ diện" cho nên lúc tôi về VN cứ dặn đi dặn dặn lại tôi phải giấu nhẹm cái nghề nail vĩ đại của tôi đi mà trương ra cái nghề "kỹ sư ". Mặc dầu lúc đó cũng đã gần một năm trời tôi ôm cái bằng kỹ sư trong lòng chịu thất nghiệp.

Tôi bây giờ không còn đi làm nail nữa. Sau bao phen bôn ba kiếm việc, cuối cùng cũng có một hãng điện tử ở Anaheim nhận tôi. Thỉnh thoảng cuối tuần rảnh rỗi, nhớ nghề, tôi vẫn ôm kềm ôm giũa ra tiệm chị Sương để làm móng tay cho khách. Không có nghề nào xấu cả. Chỉ có tấm lòng con người không tốt mà thôi. Xuất thân từ một người thợ nail, tôi cảm thấy mình cũng là một người đem lại vẻ đẹp cho xã hội. Không phải mỗi lần đi tiệc tùng là các cô các bà lại rủ nhau đi làm móng tay, tân trang móng chân đó sao.

Bé Trang con tôi bây giờ đang lẫm chẫm tập đi. Bé vừa tròn một tuổi. Hôm sinh nhật, bé cười rất tươi chìa bốn cái răng mới mọc, hai tay quơ quàng vọc vào ổ bánh kem, trên má phính dính đầy kem. Sau này con lớn tôi sẽ kể cho con nghe cái "giai thoại " đi làm nail của tôi. Tôi sẽ dạy cho con tôi biết rằng không có nghề nào là xấu, chỉ có tấm lòng con người xấu chớ nghề không xấu.

Hai Tháng Trong Camp Pendleton, California

Tác giả Lê Ngọc Minh là một chuyên viên đồ án xây cất nặng về dầu hỏa và dàn khoan dầu ngoài biển; sinh năm 1939 tại Thái-Bình, di tản sang Mỹ năm 1975, hiện cư ngụ tại La Habra, California. Lần đầu dự viết về nước Mỹ, ông gửi cùng một lúc 5 bài viết liên tiếp, hợp thành một hồi ký về thời đầu ở Mỹ. Tất cả đều được viết kỹ từng chi tiết, bằng một bút pháp chừng mực mà chững chạc hiếm có. Sau đây là bài viết thứ hai. Bài này tác giả đề riêng tặng ông bà Nguyễn Đình Vũ và ông bà Lữ Liên.

Nửa đêm ngày 17-5-1975 gia đình tôi gồm 4 người, gồm hai vợ chồng, cháu trai tên Cương 5 tuổi và cháu gái tên Thu Tâm, 2 tuổi rưỡi được đưa vào Camp Pendleton, California làm thủ thục nhập trại. Trước đó, chúng tôi đã sống hai tháng trong trại tạm cư Fort Chaffee tại thành phố Fort Smith, tiểu bang Arkansas.

Hai quân nhân Mỹ trên chiếc xe Dodge đến đón chúng tôi tại phi trường San Diego lúc nửa đêm, đưa chúng tôi vào trại 5, trại lều vải bố nhà binh dựng trên nền đất. Mỗi người được phát một chiếc ghế bố, 4 cái chăn dạ nhà binh màu olive, thau rửa mặt, bàn chải đánh răng, khăn mặt, khăn tắm... Tôi chuyển trại sang Camp Pendleton để lãnh một đứa cháu con của ông anh vợ đi lạc từ Việt Nam sang Mỹ; gia đình cậu em rể tôi hiện coi sóc cháu, sau khi trao đứa cháu, sẽ đi định cư tại Shreveport, Louisiana.

Bước vào lều, chúng tôi thật ngạc nhiên vì chúng tôi ở cùng lều với ông bà Lữ Liên, vốn là thân hữu từ khi ở bên nhà.

Camp Pendleton là một căn cứ của Thủy quân Lục Chiến Mỹ thật rộng ở bờ biển vùng Nam California, nhưng chữ Camp Pendleton mà tôi đề cập trong bài này chỉ trại tạm cư cho người tị nạn Việt Nam trong khi chờ đợi làm thủ tục ra định cư. Trại do TQLC Mỹ quản trị. Trại gồm 9 trại nhỏ đánh số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và trại Talega (trại Talega gồm mấy căn nhà kiểu tò vò gọi là quonset). Cổng vào là Trung tâm điều hành, sau đó là trại 8. Toàn trại trải dài theo một con đường trải đá, mỗi khi xe chạy ngang là bụi bay mù trời.

Trại tạm cư đặt trong một thung lũng hẹp, rìa thung lũng có mấy cây oak, cây mapple khá lớn, vùng lều trại đa số không có cây cối, đất và đá lổn nhổn; chú em rể tôi cho biết, hồi mới đến, sàn lều toàn cỏ, đá... có người đánh chết được con rắn rung chuông, rắn độc của vùng hoang dã California.

Tiện nghi trại 5 này không có gì đáng khích lệ: giữa tháng 7, mùa hè mà ban ngày lều nóng như lò lửa, chúng tôi phải cuốn hai bên lều lên cho thoáng gió, nhưng lãnh bụi; chiều tối cái lạnh trên núi kéo xuống, hai chăn dạ gấp đôi để làm nệm, hai chăn dạ gấp đôi để đắp, có nghĩa là 4 lớp trên, 4 lớp dưới, bốn góc cột chặt vào ghế bố, mà mỗi khi trở mình vẫn còn lạnh; tắm thì không có nước nóng (hai ba ngày trước khi chúng tôi xuất trại họ mới bắt cho nước nóng! ); tiêu tiểu thì dùng cầu tiêu dã chiến bằng plastic (ngày nay chúng ta vẫn sử dụng tại các công trường xây cất hay vào những ngày biểu tình, họp chợ...) trông như cái tủ lạnh, dân tị nạn gọi là cầu tiêu tủ lạnh!

Mỗi trại có một nhà ăn, cũng là lều dã chiến; thực phẩm do mấy ông đầu bếp TQLC Mỹ nấu, dĩ nhiên là theo kiểu nhà binh TQLC, mấy ngày đầu ăn còn lạ miệng, nhưng sau hai ba tuần, thực đơn cứ bổn cũ soạn lại, cách nấu cũng khác người, phe ta chỉ có nước ăn cho xong việc, nhắm mắt mà nuốt cho sống chờ ngày xuất trại, vì ngán tới cần cổ!

Tôi không còn nhớ ngày, nhưng dường như thứ ba, thực đơn có thịt gà, dân ta sắp hàng đông đủ; thứ năm có cá hồng luộc, tanh rần trời, dân ta sắp hàng thưa thớt. Khi có anh nạn nhân Mít tị nạn mang đĩa đi tới, anh lính TQLC Mỹ xúc cho một đĩa cá đầy, hai anh nhìn nhau cười: anh lính đế quốc cười nham nhở, còn anh Mít tị nạn cười như mếu! Không sao, ăn được bao nhiêu thì ăn, chỗ còn lại đổ vào thùng rác!

Còn việc đoàn tụ với cháu gái. Số là tôi có đứa cháu gái như đã nói trên, tên Thu Dung, 2 tuổi rưỡi, con ông anh vợ. Anh chị Hưng cùng thân mẫu và 3 cháu nhỏ tính di tản qua đường Phước Tỉnh, nhưng do một éo le định mệnh không thể hiểu được, cả nhà anh chị ở lại, chỉ có một mình cháu Thu Dung lọt được xuống thuyền, ra hạm đội 7 phía gần Côn Sơn, được một thiếu nữ dễ thương và tử tế ở Phước Tỉnh là cô Nữ đưa lên tàu và nuôi nấng chăm xóc qua đến Guam. Tại Guam, cô trao cháu Thu Dung cho em gái tôi, vì cô biết dường như gia đình anh vợ tôi và gia đình em gái tôi có cái liên hệ gia đình gì đó! Nhận xét của cô thật là tinh tế và chúng tôi cảm ơn cô vô cùng. Thế là gia đình chú em rể tôi đem cháu vào lục địa Mỹ và hôm đó, 15-7-1975 chúng tôi từ Fort Chaffee sang Camp Pendleton nhận lãnh cháu.

Sáng hôm sau chúng tôi đem hồ sơ chuyển từ Fort Cheffee, lên trình diện cơ quan thiện nguyện HIAS Camp Pendleton đặt tại Processing Center cách trại 5 khoảng hơn một cây số đi bộ, thêm tên cháu Thu Dung vào hồ sơ gia đình. Tôi cũng nhắc với HIAS làm hồ sơ định cư của gia đình tôi cho chúng tôi ra Long Beach, California. Họ bảo chúng tôi chờ. HIAS là cơ quan định cư dân tị nạn của người Do Thái, chỉ nhận gia đình nào có ít nhất một người biết nói tiếng Anh, có nghề chuyên môn, định cư tại các thành phố lớn (Fort Chaffee giới thiệu như vậy! ). Sau đó chúng tôi sang hội Hồng Thập Tự, cảm ơn họ đã tìm ra chúng tôi để chúng tôi được lãnh cháu bé.

Số là trước kia, ở Sài Gòn, tôi làm trưởng phòng họa đồ tại chi nhánh của hãng đồ án Quinton-Budlong, sau đổi tên thành Quinton-Redgate, chuyên về trù hoạch đồ án cầu, đường và phi trường. Quinton đã làm đồ án hầu như gần hết các cầu trên quốc lộ 20 (từ Dầu Giây lên Đà Lạt) và quốc lộ 11 (từ Đà Lạt xuống Phan Rang) và một số cầu trên quốc lộ 4. Khi Quinton-Redgate được chọn để hướng dẫn lớp trù hoạch cầu bê tông tiên áp tại cục Công Binh ở Phú Thọ thì tôi là thành phần ban giảng huấn. Khi sang Fort Chaffe, tôi điện thoại cho hãng ở Los Angeles, xin họ bảo lãnh. Họ nói hãng nay đã dọn về Long Beach và họ đồng ý sẽ mướn tôi làm tại phòng đồ án và mướn nhà tôi làm thư ký, còn việc bảo lãnh, họ sẽ nhờ một nhà thờ ở Long Beach phụ trách. Mọi việc coi như êm thấm. Chúng tôi chỉ phải chờ để HIAS làm giấy tờ theo thủ tục.

Trong khi đó, bé Thu Dung bị bệnh. Không biết vì lý do gì, cháu đi cầu ra máu, nặng mùi hôi, mặc dù trông vẫn mạnh khoẻ và hoàn toàn không có dấu hiệu gì bệnh tật. Thoạt đầu, nhà tôi đem cháu lên lều y tế trại 5 khai bệnh. Họ cho cháu ăn cracker, uống 7 Up. Tuần sau, bệnh vẫn không thuyên giảm, trại 5 gửi cháu lên trại Talega. Nơi này chuyển cháu lên bệnh viện của TQLC Camp Pendleton: họ cân, đo, chụp X Ray, thử máu, cracker, 7 Up... một tuần mà cháu cũng không thuyên giảm. Trại bèn cho chuyển cháu bằng xe ambulance lên Naval Hospital, nơi có đầy đủ bác sĩ chuyên ngành, máy móc tối tân có thể nói là tân tiến nhất miền Tây nước Mỹ.

Naval Hospital yêu cầu để cháu Thu Dung ở lại bệnh viện để họ thử nghiệm và quan sát. Lại thử máu, chụp X Ray, cân, đo và gì gì nữa... Trong khi đó, nhà tôi cứ ngày ngày cuộc bộ lên Processing Center, leo lên chiếc xe bus nhà binh lên Naval Hospital thăm cháu, chiều lại thất thểu về... và như thế cả hai tháng. Ba tuần sau khi nhập viện, qua đủ mọi khám xét, thử nghiệm, bác sĩ cho nhà tôi biết họ không tìm ra điều gì khác lạ và họ quyết định cho chạy thử radiation. Hôm đó về, nhà tôi cho biết, sau khi chạy radiation, phần bụng dưới và gần ngực của cháu "đỏ như con tôm luộc" (!) nhưng cháu không tỏ vẻ gì đau đớn hay khó chịu. Sau đó, bệnh tình của cháu cũng không có dấu hiệu thuyên giảm và họ cũng không biết nguyên nhân vì đâu. Cuối cùng Naval Hospital đề nghị để họ mổ cháu ra xem "What went wrong "". Nhà tôi không đồng ý. Ông bác sĩ đề nghị, nếu không mổ, chỉ còn một cách là cho cháu ra điều trị ở bệnh viện dân sự ngoài thành phố, có thể họ quen thuộc với bệnh nhi đồng hơn. Nhà tôi xin ông viết điều đó vào hồ sơ của cháu như vậy và ông bác sĩ đồng ý. Khi đưa hồ sơ y tế dầy khoảng hai đốt ngón tay cho nhà tôi, ông trung tá bác sĩ quân y nói:

- Tôi chưa gặp trường hợp nào như thế này. Bệnh viện ngoài họ chữa ra sao, xin bà vui lòng viết thư cho tôi được biết!

Vào thời điểm đó, chúng tôi đã ở Camp Pendleton được hơn hai tháng. Sau khi đưa cháu Thu Dung từ Naval Hospital về lại trại 5, chúng tôi lên văn phòng HIAS báo cho họ biết về bệnh tình cháu Thu Dung và yêu cầu HIAS liên lạc với Quinton-Redgate để chúng tôi có thể xuất trại sớm để chữa cho cháu, cô Robin người thường trực văn phòng HIAS nói:

- Tôi không tin có chuyện như vậy. Naval Hospital là nhà thương tân tiến bậc nhất của Hải quân và có lẽ của cả nước Mỹ, không có lý do gì họ không chữa được cái bệnh tầm thường như vậy. Ông bà phải chờ theo thứ tự nhập trại trước sau!

Nói qua nói lại, tôi thấy cô Robin lộ vẻ cóc cần, nguyên tắc rởm, lý sự cùn, tự ái và có vẻ như khinh người. Tôi nổi đóa, tuy vậy tôi vẫn nói năng nhẹ nhàng nhưng chắc chắn:

- Tôi làm hồ sơ với HIAS từ khi tôi mới đến Fort Chaffee cách đây hơn 4 tháng, tôi không phải người mới tới! Tôi tự tìm ra người bảo trợ và họ cho vợ chồng tôi việc làm, HIAS chỉ cần tiếp xúc với họ và làm giấy tờ cho tôi ra định cư, lần nào lên nhắc cô cũng nói chúng tôi phải chờ! Việc giản dị như vậy mà HIAS đã không làm. Nay cháu tôi bị bệnh gần chết mà cô và HIAS cũng không cộng tác và giúp đỡ chúng tôi. Cháu tôi mà chết, tôi sẽ trình việc này lên bà Taft (1), kiện cô và cả HIAS của cô, vì mấy người trễ nải mà cháu tôi chết! !!

Đến đây thì cô có vẻ đâm hoảng, nhưng vẫn nói cứng, đòi xem hồ sơ bệnh lý của Naval Hospital. Tôi trở lại trại 5 lấy hồ sơ, bỏ cả bữa cơm trưa, trở lại liền (đi bộ hơn ba cây số) đưa cho cô Robin xem. Bấy giờ cô mới tin và nói năng tử tế hơn và có vẻ cộng tác hơn. Giờ này cô mới làm lành, mời tôi và nhà tôi mỗi người một ly cà phê.

Trước mặt hai vợ chồng chúng tôi, cô quay điện thoại ra Long Beach tiếp xúc với hãng Quinton-Redgate về việc hãng bảo trợ và cho việc chúng tôi. Hãng trả lời quả có đúng như vậy, nhưng chờ lâu quá, không thấy HIAS tiếp xúc, họ mướn người khác rồi. Họ nói thêm:

- Khi cần người, chúng tôi không thể chờ cả tháng!

Cô Robin quay sang xin lỗi vợ chồng tôi về việc này. Như vậy có nghĩa là hai tháng nay cô hứa như vẹt là sẽ tiếp xúc với Quinton-Redgate, bắt chúng tôi chờ, mà thực tế, cô chẳng làm gì cả. Cô xin kiếu vào trong để nói chuyện với xếp của cô. Năm mười phút sau cô ra, cô hỏi tôi có muốn đi định cư tại Elizabeth, New Jersey " Cô dụ chúng tôi: Elizabeth ở gần New York, nghề của tôi có thể tìm việc rất dễ ở New Jersey, hoặc New York, ở ngay bên kia sông. Cả hai nơi tôi có thể dùng chuyên chở công cộng, rất tiện dụng, không cần xe riêng. Tôi nói OK. Cô điện thoại văn phòng HIAS ở Elizabeth, họ nói họ còn 5 gia đình tị nạn chưa định cư được, không thể nhận thêm. Cô Robin hỏi chúng tôi có muốn đi định cư tại Chicago " Cô lại dụ chúng tôi: Chicago là thành phố kỹ nghệ lớn, nghề nghiệp của tôi tìm việc rất dễ dàng. Tôi nói OK. Cô điện thoại văn phòng HIAS ở Chicago, nơi này trả lời là họ còn 12 gia đình tị nạn chờ định cư, đang nuôi trong khách sạn, không thể nhận thêm. Cô Robin lại hỏi chúng tôi có muốn đi đinh cư ở Norwalk, California " Cô cười giả lả: nơi này chỉ cách Disneyland khoảng 10 phút lái xe và công việc hợp với khả năng của tôi thì ê hề! Tôi nói OK. Cô điện thoại văn phòng HIAS Los Angeles, họ nói OK. Cô Robin như trút được gánh nặng, mặt mày tươi như... hoa cứt lợn:

- Ông bà sẽ thích khí hậu và con người ở vùng Norwalk, nơi này không xa Chinatown Los Angeles và ông bà sẽ thích Chinatown! Thực phẩm Á đông ở đây là nhất nước Mỹ!

Hai hôm sau, ngày 25-9-1975, gia đình tôi và 5 gia đình tị nạn Việt Nam nữa được một chuyến xe bus chở ra định cư tại Norwalk. Gia đình tôi, nay gồm 5 người, được xắp xếp vào một căn apartment một phòng ngủ ở 11251 Pioneer Blvd., Norwalk.

Khi chúng tôi đến, đã có mấy gia đình người Do Thái tình nguyện chờ đợi sẵn, giúp đỡ chúng tôi bằng cách hướng dẫn trên bản đồ, như đi chợ thì đi hướng này, tới Imperial Highway, ngoẹo phải hai blocks là chợ Albertson's; mở trương mục ngân hàng thì ra Crocker Bank gần chợ Albertson's... đau ốm thì đi Rosecrans Medical Group... toàn là những cơ sở của người đồng hương của họ. Muốn đi xe bus thì chờ ở đây hay ở đây... thành phố Santa Fe Springs kế bên có một chiếc xe bus chạy suốt ngày, miễn phí...

Nhà tôi nói chuyện với một cặp vợ chồng tình nguyện về trường hợp cháu Thu Dung. Họ chỉ chúng tôi cách ra văn phòng sở xã hội, xin thẻ medicare khẩn cấp, sau đó đến Rosecrans Medical Group ở đường Rosecrans, Norwalk. Hôm sau nhà tôi đem hồ sơ bệnh lý ra văn phòng sở xã hội xin thẻ y tế cho cháu và được chấp thuận ngay. Đem cháu Thu Dung đến Rosecrans Medical Group, ông bác sĩ xem hồ sơ bệnh lý của cháu xong rồi nói:

- Tất cả những gì cần phải làm, Naval Hospital đã làm cả và nếu họ không tìm thấy gì thì chúng tôi cũng không thể làm gì hơn được. Tôi chỉ có một đề nghị là mổ cháu để xem "What went wrong "".

Mổ một con bé 2 tuổi rưỡi ra xem để xem có gì sai trái, trong khi bác sĩ không biết bệnh gì hoặc tại sao " Nhà tôi từ chối và đem cháu về, dự tính sẽ đưa cháu ra bệnh viện công của county xem sao. Trong khi đó, bệnh tình của cháu vẫn như cũ, không có gì khác hơn.

Tối hôm đó, nhà tôi nói chuyện bằng điện thoại với bà Thúy Liễu, tức bà Lữ Liên, sau những lời thăm hỏi về sức khoẻ, về định cư... bà hỏi thăm nhà tôi về bệnh tình cháu Thu Dung. Nhà tôi kể tự sự, bà nói:

- Chị không biết sao em ạ, nhưng chị biết có một bà bạn cũng gặp trường hợp như cháu của em, bà ấy cho đứa bé ăn cơm trắng nấu nhão và thịt heo nạc luộc, không có mắm muối gì cả, mà nó lành đấy em ạ. Em thử cho cháu ăn vậy xem!

Chuyện thật khó tin, nhưng nào có mất mát tốn kém gì đâu. Nhà tôi cho cháu Thu Dung ăn cơm trắng nấu nhão và thịt heo nạc luộc, sau ba ngày bệnh cháu giảm hẳn, sau bẩy tám ngày bệnh khỏi luôn và không bao giờ tái phát cả và chúng tôi cũng không biết là vì sao. Bây giờ, 27 năm sau, cháu mạnh cùi cụi, là một y tá trong lục quân Mỹ, hiện đóng tại Đức (có thể bị gửi sang chiến trường Iraqcuối năm nay! ), đã lập gia đình và có một cháu trai gần 5 tuổi!

Có một điều, mỗi lần nghĩ tới vẫn làm chúng tôi ân hận, đó là vì bận rộn với tìm việc, kiếm sống, học hành, mất việc, tìm việc, mất việc... chúng tôi quên béng việc viết thư cho ông bác sĩ ở Naval Hospital, nói cho ông biết việc "người ta" đã chữa cho cháu Thu Dung như thế nào. Hai mươi bẩy năm đã qua, giờ này chắc ông bác sĩ đã giải ngũ từ lâu và không biết ông đang lưu lạc nơi nào trên đất nước rộng lớn này. Hồ sơ bệnh lý của cháu với chữ viết tay của ông chúng tôi vẫn còn giữ. Mỗi lần nghĩ tới, chúng tôi vẫn còn ân hận.

LÊ NGỌC MINH

(1) Bà Taft là cháu của cố tổng thống Taft, năm 1975 được tổng thống Ford chỉ định làm chủ tịch chương trình định cư người tị nạn Đông Dương tại Mỹ.

Câu cá xuyên đại dương

Ông bảo, điều vui sướng nhất trong đời là được... ăn cơm ngoài biển!

"Ăn cơm ngoài biển ngon hơn ăn ở nhà. Còn gì thú vị hơn là sau những "trận chiến" với những chú cá dũng mãnh, được tự tay làm món gỏi cá biển "sở trường" từ những "chiến quả" để bạn bè cùng nhâm nhi, thưởng thức", ông giải thích cái sướng của mình như vậy.

Ông tên là Võ Văn Ghinh, nhưng những bạn câu thường chỉ gọi ông một cách đơn giản là ông Sáu Việt kiều. Mỗi năm, ông chỉ ở Mỹ có một tháng, thời gian còn lại là ở Việt Nam. Ông giải thích: "Ở Mỹ mà đi câu thì rất tốn kém, lại không thú vì phải cuối tuần may ra mới gặp bạn. Còn ở Việt Nam thì muốn câu cả tuần cũng có thể có bạn".

Dân ghiền câu thì không hiếm, nhưng đam mê như ông thì không nhiều. Năm năm trước, hồi ông cũng đã ở tuổi 60, ông từng một thân một mình xách cần ra Hàm Tân, Phan Thiết xin theo ghe của ngư dân để câu cá. Một chủ ghe, khi nghe ông nài nỉ sẽ chịu tiền dầu, tiền ăn cho ghe để đi theo, đã cộc lốc: "15 ngày một chuyến, có theo nổi không?". Thực tế thì ông đã theo nổi không chỉ một mà đến 6 chuyến như vậy. Đến nỗi vợ con ông phải khuyên ngăn chuyện ông trở thành một bạn câu "thứ thiệt" của Bình Thuận. Không chỉ có "bắt quen" với dân câu Bình Thuận, ông còn làm thân với một số ngư dân Long Hải, Nha Trang...

Có lần, khi qua Úc thăm một bà chị, thấy người ta đi câu ở các đảo, ông ở lại đến... 6 tháng để câu. Ông kể: "Ở Newcastle, khi câu phải ra một triền dốc lài xuống khoảng 30 độ, phía dưới là vực. Để đi xuống, phải dùng một sợi dây thừng lần xuống, lỡ có bị sụt đất thì cũng còn có cái để bảo toàn mạng sống!". Phía dưới vực là những con sóng dữ vỗ vào ghềnh, những đàn cá sửu cũng theo đó mà vô sát bờ. Cần câu không cầm ở hai tay mà được cắm xuống đất rồi cột dây, bởi hai tay còn phải thủ sợi thừng...

Như tàu du lịch năm sao

Ở Mỹ, có lần vì quá nôn nóng đi tới những điểm câu, ông đã bị cảnh sát Mỹ phạt vì cái tội chạy quá tốc độ. Ông thường dùng xe đi câu ở một hồ nước mặn cách California khoảng 300km hoặc xuôi tàu xuống San Diego để từ đó qua vịnh Mexico câu cá.

Những chuyến đi câu ở Mexico là những chuyến "chạy đuổi" theo những đàn cá. Tàu câu là tàu của người con rể nên ông có thể cho tàu chạy đến bất kỳ điểm câu nào được thông tin trên những trang web của các công ty dịch vụ câu biển. Không phải cứ việc đến đúng tọa độ được thông tin rồi câu là có thể được cá, phải bắt đầu rà tìm đàn cá bằng hai cần "câu chạy". Khi đã phát hiện được đàn cá thì cho tàu dừng máy, thả mồi giữ cá và buông cần. Lúc đàn cá tan phải chạy đón đầu hoặc rà tìm đàn cá khác...

Ông Sáu cũng từng nhiều lần đi câu cùng với các công ty dịch vụ câu biển của Mỹ ở vùng vịnh Mexico. Giá của hai ngày câu khá đắt, 510USD, nhưng dịch vụ thì khỏi chê. Tàu như tàu du lịch 5 sao, đầy đủ tiện nghi, còn phục vụ thì ở mức "tận răng". Ông Sáu kể: "Mỗi lần mình câu được cá là có những người phục vụ đến móc cá lên. Để giữ cho con cá được nguyên vẹn tặng bạn bè ăn sống, mình kêu họ móc ở đầu thì họ móc ở đầu, rất chuyên nghiệp". Cứ mỗi lần như vậy, ông Sáu thường "boa" cho các anh phục vụ 5USD, nên có anh khá xăng xái mỗi khi ông dính cá. Cá của người nào thì được bấm mã theo của người ấy, sau đó được cho xuống hầm bảo quản nên khi lên bờ vẫn còn rất tươi. Đi câu ở bên ấy thì dễ có cá hơn ở Việt Nam do chính phủ các nước trên bảo vệ nguồn cá rất tốt. Có chuyến ông câu được gần 20 con, đa phần trên dưới 20 kg, các loại yellow tail hay bluefin mà ông bảo ăn sống theo kiểu Nhật rất ngon.

Vẫn chưa bằng dân chuyên nghiệp

Ở TP. HCM, có lẽ ông là người có nhiều bộ đồ câu biển nhất với 6 - 7 bộ hoàn chỉnh. Cầm chiếc máy câu shimano vàng chóe, loại máy ngang, ông nói: "Ở TP.HCM chắc chưa có ai xài loại máy này". Cần câu ông dùng cần paraphit loại nhỏ, chỉ chịu lực 15 - 40 pound, nhưng theo ông, vẫn có thể bắt được loại cá đến 30kg.

Ông cũng đã từng bỏ cả nhiều tuần đi câu cá lăng ở suối hay cá bông lau ở sông, nhưng đối với ông, chuyện câu cá thật sự chỉ là câu cá biển. Ông bảo: "Câu sông câu hồ là mình chỉ đi vì nể bạn bè thôi, chứ cá sông cá hồ thì mình không chiến đấu với nó. Cá biển chiến đấu rất dữ". Trong chuyến đi câu ở Côn Đảo vào đầu tháng 10 qua, ông là một trong những người ít bị sẩy cá hơn cả. Cái khó cho việc câu cá ở rạn là cá sau khi đớp mồi thường rút vào rạn, rất dễ đứt dây câu, và dây câu thì thường không được quá to để cá không thấy được dây. Ông nói: "Tỷ lệ là năm ăn năm thua, khi cá lôi được vào rạn thì san hô, hà sẽ cắt đứt ngọt dây câu. Kỹ thuật là phải uyển chuyển, linh hoạt, lúc cương lúc nhu như đang ghìm cương một con ngựa hoang lần đầu bị thuần phục. Dây to mà bắt cá to là chuyện ai cũng làm được, nhưng dây nhỏ mà bắt cá to mới là nghệ thuật, mới là điều thú vị của môn câu. Ở Mỹ, những tay câu nào dùng dây càng nhỏ mà bắt cá càng to thì càng được nhiều người khen ngợi và các hãng sản xuất dụng cụ câu cá cũng theo đó mà có thưởng".

Là dân câu nhưng ông không chấp nhận khái niệm "sát cá". Chuyện câu giỏi hay không tùy thuộc rất nhiều vào sự chú tâm học hỏi. "Không có chuyện có "tay sát cá"", ông bảo, "hai người cùng ném mồi, nhưng con mồi của ai ngon, mạnh thì cá sẽ ăn trước". Ông nói đã học được nhiều kinh nghiệm khi đi với dân câu chuyên nghiệp Mỹ và các ngư dân chuyên sống bằng nghề câu biển ở Việt Nam, "nhưng ở mức muời phần thì chắc chỉ được bốn".

Câu Cá Lóc Bông Ở Mỹ

________________________________________

Cá Lóc bông hay snake head hiện nay đã lan tràn ở Mỹ và có lẽ chính phủ Mỹ sẽ không ngăn chận được cũng như dòng big head carp lan tràn ở Illinois river và giờ đây đang có nguy cơ tấn công vào lake Michigan. Nhớ lại hồi nhỏ khi còn ở VN tôi vẫn thường theo anh Năm Phi đi câu cá, tụi tui chỉ toàn câu cá nhỏ lâu lắm mới được cá lóc bằng cổ tay nhưng trong nhóm câu cá có ông bác sĩ quân y mà mọi người gọi là bác sĩ Mã.

Bác sĩ Mã là người đầu tiên sử dụng cần câu máy mà tui thấy, ổng chuyên câu cá lóc bông và thường kéo được những con rất to. Lúc đó tui mơ có ngày tôi cũng câu được cá như bác sĩ Mã và tôi mê cái cần câu của ổng lắm. Có người xúi tôi lấy cây ăn ten trên xe jeep quân đội làm cần câu hết xẩy nên tôi rình mấy ông lính vô quán nhậu,lén cưa lấy cây ăn ten đem về.Chẳng thấy hết xẩy chỗ nào,cây ăn ten quá nặng mà lại oằn èo còn thua mấy cây trúc. Sau này lớn hơn tôi gửi tiền cho anh Năm Phi nhờ bạn Mỹ mua trong PX cho cái cần Jebco33,anh nói không có cái nào giống như của bác sĩ Mã,lúc này anh Năm Phi đi lính Không quân.

Sau này sang Mỹ tôi mới biết máy ông Mã xài là Mitchell 302 làm ở Pháp,năm 1980 tôi mua 1 cái y như vậy giá 35 đô và hiện giờ vẫn còn giữ.Tôi chưa về VN lần nào nhưng anh Năm Phi nói(hiện giờ đang ờ CA) cá bây giờ hết sạch rồi vì bị ô nhiễm quá. Tưởng rằng sẽ không bao giờ câu được cá lóc bông nữa.

Thế mà tuần trước,người hàng xóm của tôi lúc còn ở Illinois tên Jason ghé thăm và cho tôi 20 con lóc bông, câu ở FL. Lúc tôi rời IL, Jason khoảng 15 tuổi, nó thường cắt cỏ dùm tôi để tôi có thì giờ chở đi câu (tự nó làm,tôi không bao giờ đòi hỏi nó cắt cỏ). Hiện giờ nó đã trưởng thành, lấy vợ người Lào và sống ở FL.

Theo Jason thì cá lóc bông rất chịu mồi giả, hầu như tất cả mồi cho bass (largemouth bass) đều dùng được, hiện giờ ở FL đã có nhiều lóc bông nhưng chưa có con lớn. Rapalas số 9 xài tốt nhất và cũng gây nhiều thích thú nhất vì người câu thấy rõ khi cá bắt mồi. Cá Jason cho ăn rất ngon,không có mùi bùn như cá lóc ở VN (người ta nói vậy chứ tôi chưa thử). Phen này không cần phải về VN vẫn câu được lóc bông mà lại muốn giữ bao nhiêu cũng được, câu rồi cấm thả lại dù bất cứ size nào.

Câu cá hồi ở Prince Rupert ngày hè

Nhận được lời mời đi câu cá hồi trên biển của người hàng xóm - ông Ray, người sở hữu chiếc thuyền dài 9m, chúng tôi háo hức chuẩn bị lên đường. Chuyến du ngoạn ba tuần bắt đầu từ thành phố Edmonton, Canada.

Chúng tôi dùng một chiếc xe tải để kéo chiếc thuyền của ông Ray đến bến tàu. Hành trình đi theo con đường màu tím dài hơn 1.500 km từ thành phố Edmonton đến thị trấn cảng Prince Rupert nằm ở bờ biển phía tây Canada, xuyên qua rừng quốc gia rộng lớn thuộc dãy núi Rocky Mountain tuyệt đẹp. Mất hai ngày lái xe nếu lái khoảng 9 tiếng/ngày, chưa kể thời gian dừng đổ xăng, ăn uống, ngủ nghỉ.

Trên đường đi có rất nhiều phong cảnh đẹp, hoa dại mọc đầy hai bên đường, đẹp rực rỡ nhưng do đường cao tốc phải chạy 100-120km/g nên không thể dừng lại vãn cảnh. Sau một ngày lái xe qua vô số đồi núi sông suối thác, cuối cùng chúng tôi cũng tới được thị trấn Prince Rupert và tiến thẳng tới cảng Rushbrook.

Cuộc gặp gỡ bất ngờ

Chúng tôi để thuyền tại bến, vào thị trấn kiếm khách sạn ngủ qua đêm để lên đường ra biển vào sáng sớm hôm sau. Vào ăn tối ở một nhà hàng hải sản, gọi món xong mới biết chủ nhà hàng là một phụ nữ Việt Nam. Bà chủ cho biết có riêng một tàu chuyên đánh bắt hải sản để bán và cung cấp cho chính nhà hàng của mình, vì vậy hải sản ở đây rất tươi ngon. Nhà hàng tên "Cu's", lấy theo tên ông chủ quán Cư.

Ở thị trấn nhỏ này chỉ có vài trăm người Việt Nam sinh sống nên mọi người đều biết nhau và ai cũng biết nhà hàng hải sản người Việt này.

Sáng hôm sau, đang chuẩn bị ra khơi thì có thêm hai người bạn người bản địa ở thị trấn đòi gia nhập phút chót. Nhóm vì vậy gồm sáu người và hai chiếc thuyền, trong đó mình tôi là phụ nữ. Các ông chuẩn bị đồ đạc cho chuyến ra khơi 3 ngày liền. Không gặp may vì trời mưa, mây mù, không nhìn rõ các hòn đảo phía xa nhưng trên tàu có thiết bị định vị GPS giúp chúng tôi lái đúng hướng và khám phá các quần đảo xung quanh.

Thả cần không lâu, chúng tôi câu được chú cá rockfish đầu tiên trong ngày. Bruce Klassen, một thành viên trong đoàn, làm thịt ngay con cá làm bữa trưa, ăn lấy hên cho ngày đầu ra quân. Không lâu sau đó chúng tôi câu được hai con cá hồi, mỗi con nặng khoảng 4 kg. Tuy nhiên, cả buổi chiều hai thuyền chỉ câu thêm được 5 con, chúng tôi làm thịt một con cho bữa tối và kiếm một cái vịnh ít gió neo tàu lại ngủ qua đêm.

Thử tài câu cá

Ngày hôm sau thời tiết đẹp hơn rất nhiều, trời xanh, biển xanh biếc một màu trong veo. Dường như cá cũng thích ngày nắng đẹp nên trồi lên bơi lội tung tăng. Bù lại ngày hôm trước, chúng tôi còn có dịp thưởng lãm khá nhiều cá heo bơi theo bầy quanh tàu chơi đùa.

Nắng vàng rực rỡ nên ai cũng hào hứng hi vọng có một ngày câu cá thành công. Chúng tôi thả ba cần câu máy dưới độ sâu 30-40m. Hai tay câu cá lão luyện trên tàu, ông Bruce và Ray vừa uống rượu whisky vừa chờ cá cắn câu. Khi thấy chiếc cần câu máy giật giật, tất cả cùng reo lên và không khí nhộn nhịp bắt đầu. Người phụ kéo dây câu, người lấy lưới vớt cá, người lái tàu, người giữ cần câu lên cao để khỏi bị sổng cá...

Tất cả là một sự phối hợp nhịp nhàng, vì cách câu cá hồi khá đặc biệt là không đứng một chỗ mà phải lái tàu chầm chậm kéo theo mồi để cá đuổi theo đớp.

Buổi sáng ngày thứ hai của hành trình, chúng tôi câu được ba chú cá hồi, mỗi chú nặng khoảng 4 kg. Cứ mỗi lần câu được thêm một con cá, ông Ray lại sung sướng dùng bộ đàm liên lạc với chiếc thuyền kia khoe ầm ĩ.

Mike, một "phó ngư phủ" trong đoàn, trổ tài làm cá. Ở Canada đàn ông hầu như ai cũng biết làm cá vì phụ nữ... chẳng bao giờ làm! Những công việc nặng nhọc và tanh hôi được... ưu tiên cho đàn ông và họ không hề nề hà. Tôi dùng dao tách thịt cá ra để làm món cá shasimi theo kiểu Nhật, tức là ăn cá sống chấm với tương và mù tạt wasabi. Đây là món ăn chúng tôi mong đợi nhất trước khi đi câu, vì các nhà hàng bán khá đắt lại không tươi ngon thế này.

Bữa trưa tự nấu của chúng tôi trên tàu cũng khá thịnh soạn với những món ăn truyền thống của người dân Canada như khoai tây non chiên, bắp, cá hồi hấp hành và trứng cá hồi chiên. Cá hồi tươi cực kỳ ngọt, lần đầu tiên tôi được thưởng thức cá hồi tươi ngon như thế! Và vị cá hồi dường như càng ngọt hơn khi thưởng thức cùng với súp bắp, kiểu ăn đặc trưng của người dân vùng Bắc Mỹ.

Sau bữa trưa, chúng tôi tiếp tục đến các quần đảo khác với hi vọng sẽ câu thêm được nhiều cá hồi. Con cá đầu tiên câu được không lâu sau bữa trưa nặng đến gần 5 kg. Trong vòng 3 tiếng, chúng tôi câu được tới 6 con cá hồi. Hơn cả sự mong đợi! Chúng tôi làm thịt lần lượt từng con, đầu thì dùng để bẫy cua, sau đó bỏ vào thùng đá khô - một loại đá khó tan. Thùng đá khô có thể chứa hơn chục con cá hồi và trữ lâu đến khoảng 5 ngày.

Thành quả "công nghệ"

Tổng cộng ba ngày thuyền chúng tôi câu được 10 con cá hồi, trong khi thuyền bạn câu được 7 con. Theo luật, mỗi người chỉ được phép giữ 8 con cá hồi trong một chuyến đi câu, không cần biết bạn đi câu trong bao lâu, vài ngày hay vài tuần. Sau 3 ngày, tất cả cập cảng và chuyển 17 con cá câu được đến công ty chuyên đóng gói chế biến cá hồi cho khách du lịch.

Sau vài ngày, người gửi cá có thể quay lại lấy số cá được chế biến theo bất cứ kiểu nào mình thích: đóng hộp, xông khói, cá hồi ngọt (candied salmon, kiểu chế biến này có thể mở ra ăn liền giống như cá hồi xông khói, không phải nấu nướng)... Cá hồi sau khi chế biến có thể để trong tủ đông ăn dần cả năm với nhiều kiểu nấu nướng như: chiên, nướng, đút lò, hấp...

Để được phép giữ cá phải mua giấy phép đi câu. Tốn hết 31 đô Canada cho một người và phải giữ giấy phép này trong trường hợp bị kiểm tra xem có giữ đúng số cá được quy định hay không. Trong khi chờ số cá được chế biến, chúng tôi tiếp tục đi câu trên biển thêm cả tuần nữa. Tổng cộng số cá sau khi chế biến cả chuyến đi khoảng 50 con với số cá đã chế biến đến cả 100kg. Chúng tôi chia đều cho các thành viên đoàn và bỏ vào tủ đông ăn dần.

Mất 5-6 đô Canada cho 1 kg cá hồi được chế biến tại công ty chuyên nghiệp. Trên túi đóng gói cá hồi thành phẩm có dán bao bì cẩn thận với nội dung: "Được chế biến riêng cho Bruce Klassen (tên một "ngư phủ" trong đoàn), cá hồi xông khói, sản phẩm thể thao, không dùng để bán lại, hãy thưởng thức thành quả của mình!".

Chuyến đi câu cá lý thú dài ba tuần rồi cũng kết thúc trong sự tiếc nuối của riêng tôi. Kể cũng đáng khi đánh đổi những cơn say sóng lấy những ngày đi câu trên biển mùa hè vô cùng thú vị...

"Câu cá, bắt cua, mò sò, bắt ốc!"

Chiều hôm qua Bí Bếp sang nhà chú bạn để đọc kinh cầu nguyện 100 ngày cho bố của anh ta. Thời gian cầu nguyện chẳng lâu, chưa đến 1 giờ nhưng đây là cơ hội để một số dân chai lọ thân quen được "miễn chiếu bài" từ các "gấu mẹ vĩ đại" của họ (hi vọng sẽ không có ai phàn nàn về cụm từ nầy vì thỉng thoảng Bí Bếp cũng thấy có người dùng chúng ở đây) để gặp nhau ăn uống và lai rai vài ba chai. Trước đó chú bạn của Bí Bếp có điện thoại trước để hỏi cách "xử lý" một số sò mà chú ta mua được từ một số người mình đi bán dạo. Chú em nầy nói tiếng Việt tương đối rành, tuy nhiên một số danh từ bình dân xứ mình thì lắm lúc chú cũng bị ... khó giải thích vì chú ta sinh ra bên Phi và lớn lên bên Mỹ mặc dù cả bố và mẹ đều là người Việt mình.

Chú ta giải thích cho Bí Bếp về hình dáng con sò qua điện thoại:

- Em không biết nó là sò gì nhưng lớn lắm, nó bự bằng nắm tay lận.

Bí Bếp moi óc suy nghĩ...; khi còn nhỏ, có lần tản cư chiến tranh, Bí Bếp ở nhà ông Cố sát vùng biển ở Bình Định; Bí Bếp suy ra được cách bắt sò gộp, thứ sò cũng bự bằng nắm tay, sống ở mạn bùn trộn cát vùng nước lợ; dân địa phương tìm bắt chúng bằng cách dùng cái rựa (cái dao bự, to bản dài gần cỡ 0.5 mét, nhưng phần đầu khoắm như cái móc), mà người miền Trung thường dùng; Thường vào sáng sớm hoặc chiều mát, họ dùng đầu rựa rà xuôi, rà dọc theo bờ sông, khi đầu rựa chạm con sò kêu cái "gộp" (có lẽ vì thế mà dân ở đó đặt tên là ốc gộp chăng? Trong lúc chúng thuộc họ sò cơ mà?) là họ móc chúng lên, mang về bán. Riêng Bí Bếp thì chờ khoảng bao trưa, cứ thả bộ rải dọc bờ sông, chú ý nhìn những nơi có nước thổi lên (tiếng Mỹ gọi là siphon), nếu phía dưới có chút kẻ cát hoặc bùn dài cỡ 3-4 phân, thế nào chổ đó cũng có chú sò "gộp"; chúng khá nhạy, khi mình đi đến gần là chúng không còn thổi nước lên nữa, nhưng dấu tích của chúng vẫn còn đó nên chú ý một tí là mình có thể "định vị" chúng không mấy khó.

Ở bang Washington, có giống sò bự như sò "gộp" như thế, mà thổ dân ở đây (người Indians, mà dân mình gọi là người da đỏ, trong lúc họ cũng thuộc giống da vàng như người mình) gọi là Quahog clam. Giống sò nầy thịt nhiều và khá ngọt. Biết cách làm, mang nấu cháo hoặc lấy thịt xào sơ với hành tỏi, trộn thêm tí lá răm thái nhỏ, cho lên ít tiêu vào ớt cay thái mỏng, vắt thêm tí chanh tươi là ... :) Ở các hàng bán đồ biển ở xứ Mưa, Bí Bếp chưa bao giờ thấy họ bán giống sò Quahog nầy; số người mình mà bắt mang về bán dạo được, rất có thể họ đã "bắt lậu" chăng? ::)

Bí Bếp rất ít khi thấy người Mỹ trắng đi bắt sò, bắt ốc như người mình hoặc một số sắc dân da màu khác. Ở một số tiểu bang miền nam như Louisiana, Texas, v.v. có khá nhiều ốc bưu mà dân địa phương cũng không đụng đến; còn người mình thì đi bắt chúng mang về có thể làm bao nhiêu món ăn chơi lẫn ăn thiệt, nào là bún ốc, bung ốc, ốc bưu xào lá lốt, ốc bưu xào sả ớt, v.v. Có lần ông bạn của Bí Bếp cũng đi mò ốc ở một cái hồ vịt nho nhỏ sát cạnh cái công viên (công viên tự nhiên họ gọi vậy, có đường chạy bộ, v.v. dài cả mấy cây số). Mấy người Mỹ chạy tà tà qua khu đó thấy mấy ông da vàng khom lưng mò thứ gì dưới hồ họ tò mò:

- Tụi bay đang mò vàng đó à?

Nở nụ cười tươi như hoa cứt lợn, dân ta trả lời:

- Không bọn tui đang bắt sờ neo (snails) về cho thú nuôi (pets)

Có lẽ thoả mãn sự hiếu kỳ, họ bỏ đi.

- Hey guys, làm gì dưới hồ, come here.

Nhìn lên lần nầy, một thầy đội phú lít (police) đang vẫy tay ngoắc bọn tui vào.

-Dạ, tụi tui bắt ốc về .... làm mồi câu cá.

Chúng tôi tự nguyện lấy lái xe và bằng câu cá từ ví ra đưa cho thầy đội xem. Thầy đội cầm chỉ liếc sơ, chẳng nói rằng gì mà thầy rút bút ra ghi ghi, chép chép, xong trao cho bọn tui mỗi đứa một thẻ phạt.

- Sir, wait a minutes; chúng tôi có bằng câu cá mờ?

Tụi tui gân cổ cãi.

- Biết rồi, nhưng các ông phạm luật của thành phố: No Wading No Swimming in this lake (cấm bơi lội hoặc xuống hồ).

Tức mình, bọn tui cãi tiếp:

- Làm sao tụi tui biết có luật cấm nầy, bản cáo thị ở đâu?

Thầy đội phớt tỉnh, hất hàm chỉ về hướng cái cây cách chổ đứng chừng vài mươi mét; kéo sang thì bọn tui thấy cái bản nhỏ xíu cỡ 2 tấc bề ngang và 3 tấc chiều dài, có đề chữ: No Wading No Swimming. Mèn đéc, ai mà để ý đến cái bản nhỏ xíu treo ở cái cây bự tổ chảng như vậy. Chúng tôi nhận vé phạt mà lòng buồn rười rượi; kỳ bắt ốc nầy bị "lỗ tổn" nặng. :-\

Nhớ mấy năm trước, có một ông đại sứ xứ mình cũng bị cảnh sát bắt và phạt tội mò sò ở bãi biển Long Island. Chuyện nhỏ như hột tiêu vậy mà lắm báo chí VN ở bên Mỹ làm rùm trời, rùm đất. Bên Mỹ, bất kỳ ai làm gì phạm luật là họ bắt, họ phạt; đó là việc làm và chức năng của họ. Có nơi cảnh sát có "quota" rõ ràng; mỗi tháng họ cần "bổ xung" mấy ngàn đô cho ngân quỹ thành phố; không ghi giấy phạt, lỡ mất việc thì ai nuôi gia đình họ. Thế nên lỡ bị phạt mình chớ năn nỉ cho tốn công hơi và chớ bao giờ hối lộ họ vì đó là việc "tối kỵ"; chuyện bé sẽ xé thành to, có thể bị truy tố "tù tội" chớ chẳng dễ

Bắt sò bắt ốc

"Anh em ta

Cùng mẹ cha

Nhớ chuyện cũ

Quên tích xưa

Tay nắm tay

Đi bắt nghêu

Cùng mò sò

Bị chúng bắt

Khi thế gian

Còn mù mờ ...."

Dạo này tháng ba miền bắc Tếch xát mưa nhiều , làm tôi nhớ đến những ngày mưa ở quê nhà , lội xuống bùn ruộng rau muống mò ốc gạo ốc bưu về luộc chấm nước mắm gừng ớt chanh .

Các hồ chung quanh đây rất nhiều , như Lake Worth , Eagle Mountain , Arlington , Benbrook , Joe Pool , Grapevine v.v... Cách đây chừng chục năm bạn bè có dắt tới tận nơi 1 cái hồ ở Grand Prairie để mò sò . Từ chỗ tôi ở đến hồ này đi xe hơi , gần 1 giờ . Lúc đó tháng 6 nước ấm , nên mò mẫm bằng bàn chân dưới đáy hồ . Nước ngập tới ngang cổ , hễ thấy cái gì tròn tròn dưới lòng bàn chân thì lặn xuống moi nó lên , đó là giống sò dai , có con to bằng bàn tay . Mò chừng một giờ được chừng vài kí sò . Coi bộ đủ ăn rồi . Về nhà luộc lên , cho gia đình tôi ăn trước . Ăn thử dai quá , nên bỏ hết .

Một hôm anh Hai Phèo rủ tôi đi mò ốc ở một cái hồ tại Dallas , gần phi trường Love Field . Đó là một hồ vịt nho nhỏ , trong một công viên (park) có đường mòn lát xi măng để dân chúng có thể chạy thể thao (jogging) . Nước chỉ tới đầu gối , và cúi lưng xuống là mò được ốc ngay , nó nằm lẫn với lá và cành vụn . Nó to bằng và đen như ốc bưu , nhưng đít nó nhọn , có người gọi là ốc đá .

Mấy người Mỹ đang chạy tà tà ngang đó , thấy mấy ông da vàng khom lưng mò cái gì dưới hồ :

- Bộ tụi bay mò vàng ở dưới đó sao ?

Nở nụ cười tươi như hoa c't lợn , tôi trả lời :

- Không , tụi tui bắt sờ neo (snail) về cho gà vịt xơi .

Có lẽ thỏa mãn lòng hiếu kỳ , họ bỏ đi .

- Hey man , làm gì dưới hồ , come here .

Ngước đầu lên , gặp thầy đội policeman đang vẫy tay lên đón chào .

- Dạ , tôi bắt ốc về làm mồi câu cá .

Chúng tôi đưa bằng câu cá cho thầy coi . Xem xong thầy không nói gì hết , rút sổ phạt ra ghi chép .

- Wait ! wait ! Tụi tui có bằng câu mà .

- Biết rồi , nhưng các ông phạm luật lệ của city : No Wading ( Cấm lội bộ xuống hồ) , No Swimming ( Cấm bơi ) .

Tức mình , tôi hỏi lại :

- Đâu , you chỉ cho tôi xem bảng cấm ở đâu ?

Hắn lấy ngón tay chỉ đến một thân cây , cách chỗ đang đứng mấy chục mét , một bảng nhỏ kích thước 20 X 30 cm , có đề chữ : No Wading No Swimming .

Ai mà để ý đến cái bảng nhỏ xíu , treo lên thân cây to tổ chảng . Chúng tôi tay cầm ticket mà lòng buồn vô chừng .

Nhớ mấy năm về trước , có một ông đại sứ gốc mít bị cảnh sát New York bắt và phạt vì tội mò sò ở bãi biển Long Island . Chuyện cỏn con như vậy mà mấy báo chí VN ở đây la ùm xùm trời đất . Bất cứ ai , ở Mỹ này phạm luật thì họ bắt , họ phạt . Cái job , công việc chức năng của họ . Tháng tháng vài ngàn đô , họ không làm , không ghi giấy phạt . Mất việc ai nuôi gia đình họ . Cho nên bạn đừng năn nỉ cho mất công , và chớ đừng hối lộ họ .

Tôi mà gặp được ông ấy , sẽ kết bạn tâm giao , bạn mò sò (Thấy sang bắt quàng làm quen ).

. ĐI BẮT BÀO NGƯ

Trời vào giữa tháng 10 năm 2010, nắng dịu. Cái nóng của ngày hè không còn. Tôi được báo để chuẩn bị cho chuyến 'đi coi bắt bào ngư' từ mấy ngày trước .

Nhóm đi bắt bào ngư 4 người, với tôi và đứa con gái đi xem cho biết nữa là 6, hẹn nhau tập trung vào 11 giờ trưa tại nhà con trai tôi ở thành phố Alameda, một hòn đảo nhỏ trên Vịnh San Francisco.

Bắt bào ngư phải theo dõi thủy triều, khi nước xuống, trời tốt là tới biển, vì nước triều xuống mới có thể lặn kiếm bào ngư dễ dàng.

Cũng vì phải theo thủy triều nên thường là đi vào 5 giờ sáng. Rất ít dịp đi vào buổi trưa. Buổi sáng 5 giờ khởi hành từ Alameda thì từ SanJose tôi phải đi 4 giờ sáng. Chuyện này đối với bô lão 8 bó như tôi muốn theo coi bắt bào ngư hay ra biển hóng gió cũng không thể nào theo nổi.

Sau khi đã tập trung đủ và đưa 'đồ nghề' lên xe, chúng tôi khởi hành đúng 11 giờ, và mất hơn 3 giờ từ Bay Farm, Alameda tới Sonoma, kể cả có 1 đoạn nghỉ chừng 15 phút đổ xăng.

Alameda đến Salt Point State Park , Quận Sonoma phải qua cầu Richmond. Cây cầu bắc ngang Vịnh San Francisco từ Richmond đi San Rafael.

Cầu dài gần 9 km, đươc đưa vào xử dụng từ 1-9-1956 và cũng từ ngày này chấm dứt việc dùng phà qua Vịnh. Đây là cây cầu cuối cùng trong số 4 cây câù bắc qua Vinh San Francisco. Kinh phí 44 triệu usd, nhưng khi hoàn tất còn dư 4 triệu

Con đường đi gần đến Salt Point State Park , Quận Sonoma, ngoằn ngoèo, lên giốc, xuống đèo. Đường có 1 lane đi và 1 lane về. Có nhiều đoạn cua gắt làm cho tôi hồi hộp nhớ lại quãng đường đèo Ngoạn Mục mà thập niên 50 thế kỷ trước tôi đã đi qua, từ Đà Lạt đi Nha Trang. Đèo này người Pháp đặt tên là Belle Vue, mà ta dịch ra là Ngoạn Mục. Tôi chẳng thấy nó Belle Vue ở chỗ nào mà chỉ thây phập phồng lo sợ , khi nhìn xuống vực sâu thăm thẳm, nếu như ông tài lạc tay lái là đời mình tiêu tùng.

Tới Salt Point State Park, xe đậu vào khoảng trống sát vách núi, Chỗ này rất rộng , chạy dài gần 1 mile, không tráng nhựa.

Tôi cũng theo toán bắt bào ngư , đi xuống quãng đường mòn, vòng vo theo vết chân người, hai bên là cỏ tranh vàng úa và những mô đá lớn nhỏ, chừng gần 1 cây số là tới ven biển. Nhưng bờ biển chỗ này không thoai thoải mà là vách đá đứng , cao chừng 4 tới 5 mét so với mặt nước nên tôi chỉ có thể đứng trên bờ .

Lấy máy hình ra chộp vài chục kiểu, khoảng chừng 20 phút là gió biển thổi mạnh. Gió gặp thành vách đá ập vào càng mạnh, đem theo hơi nước pha muối làm mắt tôi cay sè dù mang kiếng lão.

Tôi ngó xuống chổ các con cháu đang bơi lặn tìm bào ngư, ráng thêm ít phút rồi cũng chịu không nổi ngọn gió làm cay mắt, dù là đã quay ngược lại vài phút tránh gió.Tôi kiếm mô đá lớn ngồi nấp một lát cho mắt dễ chịu rồi quay trở lên bãi xe chờ.

Bào ngư (Abalone) là hải sản thuôc loại quí hiếm. Thời xa xưa thường chỉ có trong các bữa tiệc cứơi của nhưng nhà khá giả, hoặc các nhà hàng lớn.

Ngày nay bào ngư tuy vẩn còn đắt giá nhưng đã có bán ở nhiều nhà hàng trên khắp thế giới.

Tôi còn nhớ trên 20 năm trước , khi đặt chân tới xứ cờ Hoa, con tôi dẫn vợ chồng tôi đi ăn ở một tiệm thành phố Milpitas, trong bữa ăn nó gọi 1 món cháo bào ngư cho 8 người ăn.

Nhà hàng đưa lên 1 tô lớn và 8 chén . Nhân viên phục vụ múc ra vừa vặn cho 8 người. Giá 120usd. Từ cái xứ "xã hội chủ nghĩa rất tốt đẹp" (!) đang nhá bo bo , khoai mì dài dài, qua đây thấy 1 món ăn mà giá 120 usd thì quả là 'đau bụng', dù rằng ăn có ngon, và ăn cho biết, nhưng không thể tránh đươc 'tiếc tiền'.

Bào ngư nhỏ (có thể nhập cảng , vì ở Mỹ không cho bắt loại bào ngư nhỏ, hoặc có thể là bào ngư nuôi) giá bán ở Houston loại khoảng 2inch 5 là 10 usd 1 lb, và ở Bắc Cali có loại như con sò, khoảng 1 inch, chỉ có 4usd 1 pound. Con bào ngư giá cao trên dứơi 100usd cho 1 con 7 inch. Con càng lớn số pound càng nhiều và càng đắt. Bào ngư 8 inch cân cả vỏ nặng 4 lbs = 1kg 8.

Tô cháo bào ngư tôi được ăn năm 1990 chắc loại hào ngư 4usd hay loại 10 usd, vì loại 7 inch trở lên tương đối hiếm, không thấy bán trong chợ.

Dăm bảy năm nay, do con đi bắt đươc bào ngư , nên thông thường hàng tháng tôi vẫn được con gửi cho 1 hoặc 2 con. Những năm đầu không biết làm nên ăn ngon nhưng dai dù thái mỏng, nấu cháo bào ngư hay xào với cải ngọt. Trong đầu óc tôi thắc mắc cố tìm ra giải đáp nhưng vẫn không tìm ra cách làm thế nào cho bào ngư mềm. Tôi có hỏi con nhưng con tôi cũng không rành.

License-

Ở Mỹ làm cái gì cũng phải có Licence,. Đi học ra trường dù tốt nghiệp bác sĩ, luật sự, muốn mở văn phòng hay phòng mạch cũng phải có Licence.

Học làm thợ nail hay thợ hớt tóc tốt nghiệp xong muốn hành nghể cũng phải xin license, hoặc đi làm thợ sửa nhà , làm landscape cũng phải có licence. Nó là cái giấy phép hành nghề.

Đi bắt bào ngư cũng vây.

License bắt bào ngư còn có thể câu cá, bắt vòi voi (Horse neck clam) (2) hay con Nhum. ( Sea Urchin) (3).Giá hiện nay là 44usd cho 1 fishing license trong một năm. Nếu muốn bắt bào ngư phải mua thêm stamp bào ngư, là cái giây cột bào ngự, giá 1 năm là 20usd. Mùa cho bắt bào ngư từ tháng 4 đến tháng 6, và tháng 8 đến tháng 11. Được phép bắt 24 con, theo qui định phải từ 7 inch trở lên. Bắt dưới 7 inch nếu bị kiểm soát là bị phạt.

Vụ phạt này tôi nhớ lại hổi đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, tên đại sứ Việt cộng Lê văn Bàng, cuối tuần lò dò ra hồ bắt sò, hắn bắt sò thiệt chứ không phải như bác cáo dâm bắt sò của Nông thị Xuân.

Bàng không có licence nên hắn bị bắt. Tôi không theo dõi tiếp tin này nên không rõ về sau Bàng nạp phạt hay đưa cái thẻ ngoại giao ra và nhân viên coi hồ có 'tha tào' không.

Vụ này um sùm lên 1 dạo, và Bàng được đưa về Bộ Ngoai giao Việt cộng, lại được thăng làm thứ trưởng ngoại giao.(!) Thế mới là Việt cộng.

Muốn đi câu phải có cần câu và mổi.

Muôn đi bắt bào ngư phải có 'đồ nghề". Trước hết phải có bộ quần áo cao su người nhái, giá bèo cũng 300usd 1 bộ nếu mua mới. Loại tốt có thể 1.000usd. Nhưng lên web coi có khi gặp những người muốn bán thì có thể chỉ 80usd hay 100usd là có bộ đồ sài được.

Ngoài ra còn phải sắm: Phao, Mũ, Giày, Kiếng đeo. Cái nạy (chĩa) để nạy bào ngư khi tìm được và thêm những thỏi chì khoảng từ 18 lbs đến 20 lbs, đeo quanh người để giúp lặn sâu dễ dàng. Mua chì khoảng 70usd, nhưng mua trên web thì có thể 20 đến 30usd. Không có chì, rất khó lặn nhanh xuống đáy biển 8 hay 9 feet.

Vì giơí hạn cho mỗi người 1 ngày chỉ được bắt 3 con , nên người đi bắt bào ngư không được quyền đem theo bình hơi .Vì nếu để tự do đem bình hơi thì chỉ 1 hay 2 ngày là khu vực này sẽ không còn một con.

Người đi bắt phải nín hơn khoảng 30 giây đến 1 phút , đủ để xuống sâu 8, 9 feet kiếm bào ngư. Bắt Vòi voi hay con Nhum thì không phải mua stamp, và mỗi lần đi được bắt 10 con mỗi loại.

Tôi đã viết ở phần trên, những năm đầu vì không biết cách làm nên mỗi lần ăn bào ngư đã mất thời gian mà ăn vẫn dai. Cho mãi đền năm 2009, vào một dịp lợp lại mái nhà, tôi được gặp anh Út. Anh nằm trong toán thợ sửa nhà và cũng là người rất rành trong việc bắt bào ngư. Trong bữa cơm trưa, tôi hỏi anh Út:

- Anh Út có thể cho biết, anh đi bắt bào ngư từ thời trước khi Việt cộng chiếm miền Nam, anh có cách nào làm cho bào ngư mềm dễ nhai không?

Anh Út cho biết, muốn bào ngư mềm rất dễ. Đem con bào ngư, đã tách vỏ và làm sạch ,trong tủ đông lạnh ra ngoài, chừng 8 giờ cho rã đá, để con bào ngư vào thớt dày, dùng con dao loại lớn thường dùng chặt xương, lấy bản dao đập nhiều nhát ở một mặt, sau đó lật con bao ngư lại và đập phía kia.

Tùy theo sức mỗi người, tôi thường đập mỗi bên 20 cái là bào ngư mềm..

Đây cũng kể như bí quyết, nếu anh Út không chỉ dẫn thì tôi vẫn phải ăn bào ngư dai nhách.

Ngoài ra khi bắt bào ngư về, bào ngư còn tươi, rất khó tách vỏ để làm sạch.

Vì vậy bắt bào ngư về phải cho vào động lạnh 1 đêm. Sáng hốm sau bỏ ra cho rã đá 6-8 giờ. Đến chiều, đeo bao tay cao su nạy một vòng chung quanh, rồi nạy mạnh là con bào ngư tách khỏi mai.

Sau đó dùng dao cắt bỏ phần ruột ở rìa và rửa sạch. Có thể phải dùng bàn chải chà vào khe quanh con bào ngư để hết phần chất nhầy đen. Phần ruột này tôi nghe nói có người đã đem nấu cháo, sau khi rửa sạch, sát muối. Nghe vậy thôi, tôi chưa dám ăn món cháo này.

Vài dòng về anh Út-

Anh Út khi tôi gặp năm 2009, ở tuổi 54. Anh người nhỏ và thấp, hay nói nôm na là hơn lùn, da ngăm đen. Nhưng anh nhanh nhẹn và khỏe mạnh.

Anh quê ở Nha Trang. Thời niên thiếu từng theo người lớn ra biển đánh cá, và anh đã quen lặn biển trong giai đoạn này dù rằng lúc đó không có đồ nghề đày đủ như bây giờ.

Khi Việt cộng chiếm Nha Trang, rồi chiếm Saigon, gia đình anh ở lại sống trong sự cai trị hà khắc của Viêt cộng nên chịu không nổi và đã cho anh vượt biên.

Sang Mỹ anh ở vùng Oakland. Chỉ vài năm, sau khi kiếm việc làm ổn định anh lại tìm cách ra biển và anh trở thành người huấn luyện cho bạn bè cách bắt bào ngư.

Nhóm anh Út thường là mấy người hàng ngày làm công việc xây dựng nhà cửa: Tèo , Tí, Victor.

Tèo, Tí là tên gọi thường, nhưng tên khai sinh của Tèo là Luân và Tí là Dũng. Victor là người Mỹ gốc Tàu Việt.

Mỗi lần anh Út ra biển chỉ khoảng không tới nửa giờ dưới nước là anh đã bắt đủ 3 con bào ngư theo qui định.

Sau gần một giờ ở dưới biển, toán bốn người bắt bào ngư lần lượt trở về bãi đậu xe. Trong bốn người, có người bắt được bào ngư, có người không bắt được con nào. Bốn người tổng số chỉ được 7 con. Đặc biệt trong chuyến đi lần này con tôi bắt được một con bào ngư lớn 9 inch, năng 5 pounds.

Trở về đến nhà là 11 giờ khuya. Chuyến đi có mệt nhưng có một dịp nào đó đi theo coi bắt vòi voi chắc tôi cũng ráng, để vừa thay đổi không khí vừa biết đươc sự sống của một loại sinh vật biển.

Lên thành phố... bắt cua!

Thứ Ba, 13/03/2012 10:39

(TT&VH) - Dưới cái nắng chói chang, những dáng người quần áo xốc xếch, lấm lem bùn đất rướn từng bước chân trên các bãi sình nằm rải rác dọc kênh Thầy Tiêu chảy qua địa bàn quận 7, huyện Nhà Bè TP.HCM để bắt từng con cua, con cá...

Trên chiếc ghe nhỏ xíu chỉ vừa đủ cho 3 người, chúng tôi theo anh Nguyễn Văn Hơn, Nguyễn Thành Lững, 2 thợ "săn cua" có thâm niên nhất ở đây, lần mò tìm đến những bãi sình, len lỏi vào những gốc dừa nước để săn cua.

Gian nan nghề "săn"... cua

Gửi chiếc xe gắn máy "cà tàng" ở quán cà phê cóc quen thuộc từ nhiều năm qua trên đường Lê Văn Lương, xã Phước Kiểng, huyện Nhà Bè, anh Nguyễn Thành Lững, 35 tuổi, mặc quần cộc, chiếc áo xanh công nhân với làn da đen sạm, mái tóc cháy nắng dẫn chúng tôi đi bộ hơn 2km để đến bờ kênh Thầy Tiêu nơi chiếc ghe nhỏ của "thợ săn" Nguyễn Văn Hơn, 37 tuổi đang đứng chờ sẵn.

Mất gần nửa tiếng đồng hồ, chiếc ghe tròng trành đưa chúng tôi đi đến bãi sình nằm ngay dưới chân cầu Ánh Sao, khu đô thị Phú Mỹ Hưng, quận 7. Sau khi neo đậu cẩn thận, anh Lững và anh Hơn xách chiếc thùng nhựa, một thanh sắt dài còn gọi là "cù nèo", để lại đôi dép trên ghe, bước xuống bãi sình để bắt đầu công việc quen thuộc của mình. "Con nước xuống thì tùy theo từng ngày, thông thường nước rút khoảng từ 7h đến 10h sáng. Hôm nay nước rút tầm khoảng 8h, giờ tụi tôi xuống "thăm" bãi coi có cua không nghen" - anh Lững nói.

Nói xong, hai "thợ săn" cua dầm mình dưới lớp sình đặc quánh, mỗi người đi mỗi hướng để tìm hang cua. Một lúc sau, trở lại ghe, người lấm lem bùn đất, anh Hơn cười nói: "Bãi có hang cua nhưng cua nhỏ không à, nhưng chỗ này còn có cả cá bống sao, cá bống xệ nữa. Mấy anh ngồi trên đừng có dại mà bước xuống nghen, để tụi tôi "mần" chút".

Theo các thợ săn cua, nghề này quan trọng nhất là phải kiên nhẫn chờ đợi con nước, vì lúc nước lên, cua sẽ bò ra hang kiếm ăn. Đến khi nước rút, con cua lại đào hang lẩn sâu xuống dưới. Do đó, cách mà người "thợ săn" có thể nhận biết hang cua khi thấy những lớp đất bùn mới được đùn lên cao nhưng nói vậy cũng chưa chắc là đã có cua mà đó là hang của con còng.

Anh Lững cho biết: "Tính ra mỗi ngày đi từ sáng đến 3h chiều cũng có đến 5 - 7 cây số lội sình lầy để truy tìm hang cua. Có ngày lặn lội cả buổi chỉ bắt được lèo tèo vài con cua nhỏ. Cho nên nghề này đòi hỏi phải kiên nhẫn, nhanh tay, lẹ mắt mà quan trọng nhất là phải có "nghề" chứ không thì cua kẹp cho đứt tay".

Theo anh Lững và anh Hơn, khi thò tay xuống hang để bắt cua, cảm nhận của bàn tay rất quan trọng vì biết phải chọn phần mu cua mà nắm hoặc nhanh tay gí xuống bùn để "khóa" cho con cua khỏi chạy mất. "Nhớ hồi mới đi làm, tôi bị cua kẹp hoài, nhức gần chết. Có lần còn thò vào hang rắn nước bị cắn luôn. Nhưng giờ thì con gì cũng bắt, rắn độc cũng bắt, sợ gì!" - anh Hơn nói.

Mưu sinh ở phố

Anh Lững và anh Hơn đã gắn bó với nhau trong nghề bắt cua đã gần 6 năm qua. Anh Lững quê tận Cà Mau, lập gia đình và sống tại huyện Cần Giuộc, Long An. Anh Lững kể: "Tôi cũng giống như vài người ở tỉnh Tiền Giang, Long An lên đây bắt cua để lo cho cuộc sống. Vì những người làm nghề này đều nghèo không có đất mà đi làm mướn thì kiếm không đủ ăn, mà chưa chắc được người ta thuê làm thường xuyên. Thôi thấy người ta chịu khó chạy lên Sài Gòn bắt cua vậy mà kiếm được nhiều hơn, còn lo được cho gia đình nên mình cũng bắt chước làm theo cho đến bây giờ".

Theo anh Lững, cứ khoảng 5 - 6h sáng là mọi người bắt đầu đi xe đạp, xe máy đến mấy chục cây số từ quê lên quận 7, huyện Nhà Bè để bắt cua. Theo những người làm nghề này cho biết, những bãi sình lầy bao quanh là nơi trú ngụ của rất nhiều cua mà họ thường gọi là "cua biển". "Đây là vùng nước ngọt mà không biết sao họ gọi là "cua biển" nữa, nhưng cua ở đây thịt ngọt và đến mùa cua có gạch nhiều lắm. Nếu cua lớn bán được tới 150 ngàn đồng/1kg, còn mấy con cua "rạng" vậy mà cũng 70 - 80 ngàn đồng/1kg rồi. Ngoài cua ra, cá bống sao cũng có giá 70 ngàn đồng/1kg, cá bống xệ thì 40 ngàn/1kg. Gì chứ, cua nhỏ với cá bống thì nhiều vô kể".

Không chỉ có những người dân ở các tỉnh lên thành phố bắt cua, ngay cả những người dân sinh sống tại quận 7 như anh Hơn cũng đã chọn nghề này để mưu sinh. Anh Hơn tâm sự: "Nhà tôi ở đường Tân Phú, quận 7 từ thời cha, mẹ tôi còn cày ruộng. Sau này làm ruộng hết sống được, giờ đất bỏ hoang phế, mà chẳng còn người dân nào thiết tha làm ruộng nữa. Giờ chỉ còn biết bám vào nghề bắt cua, bắt cá này để lo cho gia đình".

Gần 3h chiều, bãi sình ở ngay dưới chân cầu Ánh Sao, qua khu đô thị Phú Mỹ Hưng sang trọng, hiện đại là hình bóng của 2 người đàn ông đang dầm mình dưới bùn lầy gần 7 tiếng đồng hồ để bắt mớ cua, mớ cá... Nhìn vào thùng nhựa, anh Lững nói: "Từng đây chắc cũng chỉ được 200 ngàn đồng. Làm nghề này hên xui vậy đó, chỉ mong còn có cua, còn cá là còn sống được".

Thú hái rau dại ở Mỹ

Cập nhật lúc :9:55 AM, 17/05/2009

Đối với người Việt lớn tuổi ở Mỹ, đi hái rau dại về vợ chồng xúm nhau nhặt rồi xào nấu cũng là một thú vui vừa dân dã vừa gợi nhớ kỷ niệm quê nhà.

Hẹ bông mọc đầy trong cỏ.Ở Mỹ, giữa tháng Tư, sau cơn mưa xuân tầm tã, rau dại bắt đầu hồi sinh, mọc chen với cỏ trên những bãi đất trống.

Gọi là rau dại chứ thật ra đều là những thứ rau người Việt mình hay ăn như diếp cá, cần tây, hẹ bông, dền cơm, bô-rô, càng cua, rau muống, rau má, xà lách soong, lá giang...

8h sáng tại Fort Worth (bang Texas), ông Phước gọi điện thoại rủ vài người bạn đi hái hẹ bông và dền cơm tại khu đất trống rộng chừng hai mẫu tây của khu nhà di động trên đường Landcaster cách nhà 4 km. Ông đến nơi thì đã thấy một nhóm kẻ hái người bứt đọt bông hẹ. Ai đó kêu: "Trời ơi! Bông hẹ bán ngoài chợ đâu có rẻ. Một đồng một bó chỉ lớn bằng cườm tay!"

Vài người Mỹ nhà gần đó thấy lạ ra xem, chừng nghe giải thích mới biết mình sống cạnh vườn rau mà chẳng biết. Chị Joanna cười: "Tui cứ tưởng là cỏ. Mấy năm trước thứ này mọc chỉ vài nhúm, giờ lan ra quá chừng!". Chị ngắt vài bông hẹ đưa lên mũi ngửi rồi bảo mùi thì thơm nhưng không dám ăn vì sợ rau hoang dễ nhiễm thuốc diệt cỏ.

Ông Đạt tỏ vẻ hài lòng sau khi hái đầy hai bịch nhựa toàn đọt bông hẹ và một bịch rau dền cơm. Ông nói: "Hồi ở quê, ba thứ dền cơm, rau đắng đâu ai trồng cũng mọc đầy vườn. Dân Mỹ đâu có cái thú dân dã như người Việt mình, cái gì cũng ra chợ mua".

Ông kể, có lần con trai ông đi câu cá ở hồ Benbrook thì phát hiện ở một nhánh hồ vắng có rất nhiều cải xà lách soong. Con ông không dám hái vì sợ bị phạt. Đến chừng hỏi thì nhân viên quản lý hồ nói rau mọc hoang, lâu lâu họ còn phải hốt đem bỏ rác. Bữa đó con ông chở về nhà cả chục bao tời xà lách soong đem chia cho láng giềng.

Hầu hết các bãi đất trống có rau dại thường gần khu có đông người Việt sinh sống. Lý do là nhà người Việt nào cũng có một miếng vườn rau con con. Cuối thu, vạt rau bắt đầu úa, gió hoặc chim muông phát tán hạt mầm khô ra các bãi đất trống, nhất là hẹ bông.

Dân Mỹ gọi hẹ bông mọc đầy trên nhiều đồng cỏ nuôi bò ở ngoại ô TP Dallas là "cỏ lạ". Họ xem các loại rau thơm người Việt hay ăn như diếp cá, rau má là cỏ kiểng trồng cho đẹp ở công viên. Tất nhiên thứ cỏ kiểng này không được hái, cảnh sát bắt gặp phạt tiền rất nặng. Còn rau mọc hoang thì tha hồ hái mang về.

Đối với người Việt lớn tuổi, đi hái rau dại về vợ chồng xúm nhau lặt rồi xào nấu cũng là một thú vui vừa dân dã vừa gợi nhớ kỷ niệm quê nhà.

Rau dại sau vườn

Nhà xa chợ. Gà, hai con thả rong, vịt mấy con thả rong để nhặt thóc rơi vãi và có mấy quả trứng gọi là. Cá trong ao, theo con nước lớn ròng mà vào từ hồi nào. Dây bí đỏ mẹ trồng bò lưa thưa, chẳng thấy quả nào, chỉ có vài cái hoa vàng ươm, những đọt non mơn mởn trong tô canh.

Nhà nhiều thứ sẵn có, mẹ ra tay "đầu bếp" cho có đồ ăn ngon lành những bữa cơm đạm bạc. Những thứ tầm thường nhất bỗng dưng trở thành của ngon vật lạ.

Món hột vịt, hột gà luộc dầm nước mắm chấm rau vườn đủ loại, vừa nhanh, vừa ngon, vừa lành, vừa mát, luôn được chào đón với niềm háo hức.

Một kỷ niệm vui của gia đình, một "vụ án" liên quan tới cái trứng và con kiki. Chuyện là bọn trẻ chúng tôi ngày xưa không biết sao mắc chung cái tật: có thứ gì ngon cũng dành lại đến sau cùng mới ăn.

Có lần nhà ăn cơm với trứng luộc, phần mỗi người một trứng. Chị tôi muốn để dành miếng ngon lại sau cùng, đành ăn cơm với nước măm.

Thế là đến lúc vét tới hột cơm cuối cùng, vét tới vét lui, quả trứng rơi độp xuống đất. Mà cũng chưa kịp tiếp đất, nó đã chui vô miệng, vô bụng con Kiki.

Vậy là chị tôi ấm ức khóc. Vậy nên, có thứ gì quí thì nên cẩn thận, đặc biệt là thức ăn ngon, tốt nhất là "tiêu diệt" nó càng sớm càng tốt. Đó là bài học mà tôi có được từ việc quả trứng bị con Kiki lủm mất!

Trở lại với món rau chấm trứng. Trước tiên là công đoạn chuẩn bị nguyên liệu. Rau trong vườn mùa nào thức ấy. Tha thẩn cắp rổ tre, tung tăng ra vườn, bị sâu bắn, kiến cắn chút xíu, thế nào cũng thu hoạch được một rổ đầy ắp rau. Nào sâu, nào kiến, có thể có cả rắn, cũng không ngán tụi mày đâu nhé! Vì là hái rau, chớ đâu phải hái hoa mà mong gặp bướm rập rờn.

Vườn nhà rộng, toàn cây tạp (hốn tạp). Cây lấy gỗ, cây ăn trái, cây cao cây thấp, cây bụi cây đơn, thân cỏ, thân bò... đủ cả. Vậy mà nhìn tứ phía, đâu đâu cũng thấy những thứ cây cỏ ăn được. Một ít rau diệu, rau chai, rau dền mọc ở phía này. Một ít nhãn lồng, bìm bìm bò tràn lan ở phía kia...

Còn đủ thứ, nhưng bấy nhiêu là cơ bản đủ cho món rau luộc "thập cẩm" hay "thất bát cẩm" gì đó. Vậy là một nồi nước sôi to đùng, bỏ thêm vài cái trứng, một rổ rau luộc đã sẵn sàng, vừa ngon vừa no, vừa bổ.

Trứng luộc chín, bóc vỏ, bỏ vô cái tô thiệt bự, cho nước mắm vào, dằm trứng ra. Thơm quá, mùi mước mắm nồng nồng, mùi trứng beo béo, mùi rau thập cẩm thoang thoảng trong gió.

Một món ba trong một: Một tô nước mắm dầm trứng. Một dĩa rau nghi ngút khói. Một tô nước rau luộc. Tất cả đã đủ cho một bữa cơm vét nồi, cơm cháy cũng bị giành giật.

Giờ thì mấy chị em mỗi đứa một nơi. Đứa thành phố đứa thị xã, đứa chợ búa. Đứa nào cũng no đủ với thịt, với cá, với cua, với tôm đủ cách chế biến. Ăn quá nhiều những thức ăn ngon lành đó, nghe nói mau bệnh, lại toàn bệnh nặng, khó chữa.

Nhưng không vì sợ mà nhớ món rau dại sau vườn, nhớ hột vịt, hột gà nhà dằm nước mắm, nhớ quay nhớ quắt trong nỗi nhớ má khi con cái khôn lớn thì đã về với ông bà!

Hương Việt trên đất khách

Bữa cơm đầu tiên sau khi đáp máy bay xuống phi trường LAX (Los Angeles), tôi ngơ ngác khi nghe bà bác thông báo "chúng ta sẽ có món chả cá ăn với bún và mắm tôm". Sốc hơn khi nhìn một rổ rau bao gồm: tía tô, lá mơ, rau húng cây, húng quế..

Bài: Nguyễn Phạm Khánh Vân

Chuyến bay hơn 21 tiếng làm tôi chao đảo cả tinh thần lẫn thể xác. Bay từ Việt Nam ban ngày, đến Mỹ ban đêm, trời đất tối hù. Tôi chỉ nhớ mang máng là mình té cái bịch vô xe, bác tôi lái thẳng về nhà còn tôi bò vô giường ngủ lăn quay. Thề không thể nhớ được là cái nhà của bác ra sao chứ đừng nói về rau. Sau bữa ăn trưa, tôi bước ra vườn tham quan. Trời tháng tư, vẫn còn vương hơi lạnh dù nắng rất vàng. Đập ngay vào mắt tôi là một hàng rào lá mơ xanh tím lên tươi tốt. Thật bất ngờ! Tôi thoáng chút buồn cười vì căn nhà tôi đang ở là trên đồi Hollywood, gần như là hàng xóm của Paris Hilton và Lindsay Lohan. Cái hàng rào lá mơ lông ngăn cách giữa nhà bác tôi và một luật sư nổi tiếng người Israel, nghe nói trong nhà còn có một diễn viên, tuy nhiên chưa nổi tiếng lắm! Dưới chân giàn lá mơ là một thùng đất trồng rau chua, một thứ rau thoạt nhìn giống cây cải con nhưng lá dày hơn, nếm thử thấy có vị chua. Rau này chuyên trị bánh xèo. Gần đó có húng quế, húng cây... tất cả đều lên tươi tốt. Tất cả rau đều được trồng vào những thùng đất nhỏ, nhìn đẹp như những chậu cây kiểng, chen lẫn giữa hoa hồng trắng, đỏ, cam nở to bằng cái tô.

Bước lên vườn trên, tôi reo lên bất ngờ khi nhìn thấy một cây chanh Thái thật to. Cây này còn được gọi là cây trúc (không phải tre trúc). Đây là gia vị chính trong các món gà chiên lá chanh hay món Tom yam trứ danh, nước cốt dùng ướp gà, nấu lẩu. Lá mang tinh dầu như lá chanh nhưng có phần đậm mùi hơn. Dưới gốc cây trúc là cơ man rau má, dấp cá, húng lủi... Nghe kể thì có vẻ như một khu vườn Việt bình thường, nhớ quê và cần ăn rau thì trồng thôi! Thế nhưng, không đơn giản như thế! Đầu tiên là thời tiết. Bác tôi kể có những ngày đông, sáng ra nước đá đóng băng cả giàn lá mơ, nhìn xót xa. Trời lạnh là thế, ban đêm có khi phải bưng mấy chậu cây vô nhà, đợi khi nắng hửng lên tí mới bê ra. Có lúc phải thắp đèn sưởi ngoài vườn cho khỏi chết cây. Tiếp theo là nhân công. Khỏe khoắn không nói làm gì, trời lạnh bao tay cứng như đá, bác tôi phải thuê hai người Mễ đến làm vườn mỗi tuần hai lần: cuốc đất, bón phân, nhổ cỏ... chẳng khác gì nông dân Việt.

Ở lâu một chút bên Mỹ, tôi phát hiện ra dường như trồng vài ba thứ cây gia vị là cách duy nhất để người Việt xa quê có cảm giác gần nhà. Phải nói là ở những vùng thuộc California - nơi người Việt sống nhiều thì thời tiết có những lúc ấm áp, cũng dễ dàng trồng trọt hơn. Thấy bác tôi nâng niu khóm sả mới thấy thương làm sao! "Sả Mỹ" mập, ngắn và trắng hơn "sả Việt Nam". "Rau Mỹ" mượt mà, mập mạp hơn "rau Việt Nam" nhưng đảm bảo không thể thơm bằng. Nghe nói vào những năm 80, chỉ với việc trồng mướp, cà tím, sả, ớt, bạc hà... cung cấp cho cộng đồng Việt mà rất nhiều người thành công khi vừa đặt chân đến Mỹ.

Chuyện tự cung tự cấp ở Mỹ cũng lắm công phu. Bác tôi sau khi trồng được một vườn rau đay vào mùa nắng ấm, lại nghĩ cách làm sao để có rau nấu canh cua ăn vào mùa đông. Bà rửa rau thật sạch, nấu nước trụng, rồi phơi ráo bỏ ngăn đông. Đến khi cần thì lấy ra từng ít nấu canh tôm, cua.

Ông cậu tôi sống trong một khu nhà liền kế ở Los Angeles. Buổi chiều đi dạo ngang hiên nhà kế bên, tôi bỗng thấy chạnh lòng khi nhìn thấy những cọng rau răm bé nhỏ trồng trong một cái chậu có lỗ chuyên dùng trồng lan. Không có nắng, chẳng có đất, chỉ có những cơn gió lạnh buốt. Thế nên ba tháng sau tội quay lại nơi ấy, chậu lan vẫn còn, cây rau răm cũng chẳng dài ra tí nào! Chắc được chăm sóc quá nên nó không chết!

Tôi đến bang Minnesota vào buổi sáng sớm. Khá quen với thời tiết Mỹ, tôi không còn cảm giác ngầy ngật như lần đến Los Angeles. Ở Minnesota trời tiết lạnh hơn rất nhiều, tháng 4 mà còn lạnh cóng (đối với tôi). Không thể trồng rau trồng vườn, cô tôi trồng ngay trên bệ cửa sổ. Hai ông bà già đi Home Depot (siêu thị giống cây trồng, các dụng cụ gia dụng) mua về mấy cái chậu nhỏ xinh, gieo vào đó ít cọng hành, ít rau húng cây. Tội nghiệp mớ cây nhỏ nhoi, ra ngoài thì lạnh, vô nhà thì thiếu nắng nên bị nấm trắng! Thế mà, hai ông bà già cưng lắm, ngày ngày chăm tưới, có ăn được đâu nhưng phải làm một chút gì đó để có hương vị miền Trung xa xôi! Trời ấm lên một chút, vì Minnesota nổi tiếng là nơi có nhiều hồ nên có rất nhiều những bãi đất ẩm. Chẳng có "đồng chiều cuống rạ" như câu thơ ngày xưa của Hoàng Cầm, chỉ có những người dân Việt đi hái rau dại như một thú vui nhà quê. Dễ dàng tìm thấy những vạt xà lách xoong lên xanh mướt. Hợp thời tiết, từng đọt rau xanh lên mơn mởn. Loại rau này không phải thứ xà lách xoong cọng nhỏ rí như ở Hóc Môn mà là loại xà lách xoong Đà Lạt, trộn thịt bò ăn ngọt và giòn chứ hoàn toàn không đắng. Chiều chiều mấy người bạn rủ nhau đi câu cá (câu cá bên Mỹ phải có giấy phép và đóng thuế đàng hoàng nhé!), chị em phụ nữ rủ nhau hái rau về trộn thịt bò. Bên Mỹ có loại bò băm, thường bán ở Cosco rất rẻ và mềm, phi thơm tỏi, xào lên thơm phức rồi trộn xà lách ăn rất ngon. Thỉnh thoảng còn có dền cơm, càng cua mọc hoang, ai nhìn thấy cũng phải thích. Tuy nhiên, có khu được phép hái, có khu không được, còn người Mỹ thì dù thèm đến mấy cũng không dám hái vì sợ thuốc diệt cỏ. Kệ, dù ăn được hay không thì cũng hái cho đỡ ghiền!

Vậy mới thấy, thèm vài cọng rau, đôi khi chẳng nhói lòng bằng thèm cái không khí!

Mưu sinh nơi đồng hoang

Cập nhật lúc 22:04, Thứ Hai, 26/12/2011 (GMT+7)

Nhìn 5 con bò đang đói cỏ tươi kêu gào, ông Năm Phiến xót dạ bốc điện thoại gọi Út Hiếu mang cỏ tươi về gấp. Nơi đồng hoang, Út Hiếu bảo chỉ mới cắt được 2 bao cỏ, số còn lại chiều anh sẽ đi cắt rồi giao cho ông Năm Phiến.

* Nghề cắt cỏ thuê

Sau khi đem hai con bò nuôi rẻ (nuôi ăn chia với chủ bò) ra cột ngoài vườn nhà hàng xóm, Út Hiếu (ấp Bình Ý, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu) vội vã nổ máy xe chạy về hướng phường Thống Nhất (TP.Biên Hòa) để cắt cỏ bán. Tiếp chuyện chúng tôi, Út Hiếu cho hay, nếu gặp được đám ruộng ngon, buổi sáng anh cắt được 3 bao cỏ. Đến 2 giờ chiều, anh quay lại cắt tiếp 2 bao nữa là đủ số lượng cỏ giao cho ông Năm Phiến. Mỗi bao cỏ nặng chừng 30 kg, giá 25 ngàn đồng. Ngoài số cỏ bỏ mối cho ông Năm Phiến, anh Hiếu không quên cắt thêm "khẩu phần" cỏ cho hai con bò nhà mình.

Dựng xe máy vào đám ruộng bỏ hoang ở khu phố 5, phường Thống Nhất để tìm cỏ, Út Hiếu phân trần: "Thấy cỏ nhiều vậy chứ không dễ cắt đâu. Tui phải lựa loại cỏ bông, cỏ cú, cỏ ống... mềm, non, sạch mới cắt. Còn ba cái thứ cỏ như: cỏ lát, cỏ sậy... già, chát và dai bò chê nên không bán được".

Mặc cho muỗi vi vu quần thảo quanh mình, Út Hiếu không nói thêm lời nào với chúng tôi. Anh lao ngay vào đám cỏ, cắm cúi cắt lấy, cắt để như sợ ai đó cắt hết phần. Tiếng lưỡi liềm trên tay Út Hiếu lướt trên đám cỏ nghe xoèn xoẹt ê cả răng. "Coi chừng mấy đám ruộng hoang đó có nhiều kim tiêm của dân xì ke và cả mảnh chai vỡ đó" - chúng tôi cảnh báo Út Hiếu. "Tui gặp riết nên quen rồi. Miễn sao nơi đó có cỏ ngon là được"- Út Hiếu trả lời gọn lỏn.

Thêm một chiếc xe máy khác tấp vào đám ruộng hoang, Út Hiếu cắt cỏ nhanh tay hơn và nói ngắn gọn khi chúng tôi chào tạm biệt: "Chút nữa gặp hén. Giờ tui bận lắm".

Riêng người đàn ông vừa tấp xe máy vào, thấy chúng tôi lại gần liền bắt chuyện. Ông tên Mạnh, nhà ở xã Bình Hòa (huyện Vĩnh Cửu), ông cũng là người chuyên đi cắt cỏ bán cho các chủ nuôi bò trên địa bàn xã Bình Hòa. Ông Mạnh bày tỏ, do người nuôi bò không có đất để thả, quanh năm nhốt trong chuồng nên cần đến những người cắt cỏ thuê như ông. Mùa nắng cỏ hiếm nên nhu cầu tiêu thụ cỏ càng cao và người làm nghề này nhiều hơn. "Người nào cắt giỏi, ngày cũng chỉ kiếm được 100 ngàn đồng. Cái nghề này mùa nắng mới có việc làm. Trời càng nắng cỏ càng hiếm và mối lái càng nhiều"- ông Mạnh nói.

Nhìn đám ruộng hoang đầy cỏ dại, lấp xấp nước, tiềm ẩn nhiều điều đáng sợ như: kim tiêm, mảnh chai vỡ, tổ ong, tổ kiến, rắn rết... chúng tôi tỏ vẻ lo ngại thì ông Mạnh từ tốn đáp: "Nói không sợ thì nói dối mấy chú. Thật tình, khi nghĩ đến chuyện bị dính Si-da tui cũng ớn lắm. Nhưng vì miếng cơm, tụi tui phải liều thôi".

Mặt trời dần cao, Út Hiếu, ông Mạnh cũng cắt được kha khá cỏ tươi nhưng chưa vội bỏ vào bao. Chợt điện thoại trong túi quần Út Hiếu reo lên cái giọng cải lương não nề: "Sao anh nỡ đành quên...". Út Hiếu dừng cắt cỏ và nhận cuộc gọi. Bên kia đầu dây, giọng ông chủ bò Năm Phiến réo rắt: "Mày về chưa Út Hiếu ? Mấy con bò tao đói quá, nó kêu tao gọi mày nè...".

* Gà, vịt cũng xót ruột

Trong khi đó, ông Bảy Hoàng (ấp 2, xã An Hòa, TP.Biên Hòa) thì bị lũ gà, vịt trong xã xót cỏ gọi. Ông Bảy Hoàng cho hay, ông bám đồng hoang hành nghề hái rau mát (một loại rau dại sống ở bờ ao, đồng ruộng) để bán cho các hộ nuôi gà, vịt trong xã làm thức ăn được hơn 5 năm nay. Mỗi ngày, ông Bảy Hoàng hái được 1 tạ rau, bán giá 300 ngàn đồng/tạ. "Hái xong tui còn chở về nhà, phân ra từng bó nhỏ chừng 1,5 kg đem ra chợ ngồi bán lẻ hoặc chở đi bỏ mối. Tính ra tiền ngày công hái rau mát của tui cũng bằng thợ hồ mà thôi"- ông Bảy Hoàng bộc bạch.

Để mỗi ngày hái được tạ rau mát, trời vừa hừng sáng, ông Bảy Hoàng đã có mặt tại các cánh đồng hoang, đầm lầy ở quận 9 (TP.Hồ Chí Minh); xã Mã Đà, xã Trị An (huyện Vĩnh Cửu); huyện Long Hải (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu)... Ông Bảy Hoàng nói: "Chớ nghĩ nơi đồng hoang vắng vẻ, buồn tẻ. Hàng ngày, nơi đây luôn nhộn nhịp người cắt cỏ, bắt cua ốc, rà cá, săn bắt chim và hái rau mát như tui để mưu sinh đó".

Do ông Bảy Hoàng gợi tò mò, chúng tôi liền ngỏ ý xin đi theo xem. Ông Bảy Hoàng gật đầu đồng ý và nói: "Đường khó đi lắm đó, phải lội kênh, lội đồng, ngâm mình dưới dòng nước ô nhiễm... các chú có biết bơi và chịu cực nổi không mà đi theo". Lời ông Bảy Hoàng thật sự làm cho chúng tôi cụt hứng khi nghĩ đến chuyện theo ông lặn lội nơi đồng hoang cả ngày để nhìn thấy cảnh ông hái rau mát, người khác thì mò cua ốc, rà cá, cắt cỏ. Tuy vậy, chúng tôi vẫn chống chế: "Chú hái rau, còn chúng tôi ngồi trên bờ coi xe hoặc đi lòng vòng trên bờ nhìn cũng được". "Ừ, tùy các chú. Tui thì quen rồi, chỉ cần có tiền thì tui không ngại hôi, ngứa gì cả. Miễn sao gà vịt nuôi nhốt xót dạ thèm rau mát của tui mà thúc chủ tìm tui mua là được"- ông Bảy Hoàng nói vui.

Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, người làm nghề hái rau mát như ông Bảy Hoàng ở xã An Hòa còn có ông Tư Nhí. Khác với ông Bảy Hoàng, ông Tư Nhí chỉ quẩn quanh khu vực Long Thành để tìm rau nên hái bữa có bữa không, mối bán không nhiều. Ông Tư Nhí bày tỏ, do con gà nuôi nhốt xót cỏ nên người ta còn cần tới ông. Vì vậy, ngoài công việc cắt cỏ bán cho những người chăn nuôi bò, ông còn tranh thủ hái rau mát về bán cho người nuôi gà, vịt trong xã để kiếm thêm thu nhập. "Rau mát ngọt và thơm, người cũng ăn được nên gà, vịt rất khoái"- ông Tư Nhí cho hay.

Cà kê chuyện đời với những người làm nghề cắt cỏ, hái rau mát như ông Bảy Hoàng, ông Mạnh, Út Hiếu... chúng tôi vỡ ra một điều: nơi đồng hoang luôn nhộn nhịp cảnh mưu sinh của những người khốn khó như các ông. Dù nơi đây tiềm ẩn nhiều hiểm nguy, như: rắn, rết, kim tiêm, mảnh vỡ, bệnh ngoài da... nhưng vì cơm áo gạo tiền nên các ông đành bấm lòng dầm mình dưới nước, làm bạn với cỏ cây, hiểm họa để: "Mỗi ngày tui chỉ cần kiếm được 100 ngàn đồng là vui rồi"- ông Tư Nhí tâm sự sau khi kể về gia cảnh khó khăn của bản thân.

Rau lộn xộn

Theo www.xaluan.com - 1 năm trước

Những bát canh rau lộn xộn nơi miền Trung nắng cháy đã dẫn tôi đi qua biết bao mùa hè, những mùa hè tuổi thơ vô tư và vụng dại. Để lớn lên, đi xa nhớ về và thương quê, thương mẹ đến vô bờ...

Miền Trung của tôi gió thổi rát mặt người vào những ban trưa mùa hè gay gắt. Ở trong nhà ngó ra tưởng như mọi cây cỏ đều khô cong dưới những tia lửa dữ dội của mặt trời. Quê tôi hiền lành mà lắm tai ương, vừa hết mùa lũ lụt đã đến mùa hạn hán, những con người hiền lành nơi đây sau khi ngửa cổ than "khổ chi mà khổ rứa" thì lại tiếp tục bền gan chiến đấu với đất trời.

Trẻ con quê tôi đi qua những ngày nóng ấy bằng những bát canh rau mát lịm từ tay mẹ và hương quê. Canh rau quê tôi đạm bạc và giản dị, một ít me đất nấu với cá cơm, cá khoai hay lá ngót nấu với thịt băm (thịt băm thì ít mà lá ngót thì xanh đầy nồi) hoặc rau dền luộc chấm với xì dầu...

Những bát canh ấy dẫn chúng tôi đi qua biết bao mùa hè, những mùa hè tuổi thơ vô tư và vụng dại. Để lớn lên đi xa nhớ về và thương quê, thương mẹ đến vô bờ..

Tôi nhớ nhiều nhất là canh rau lộn xộn, nghe cái tên buồn cười và thật thà quá. Rau lộn xộn bán ở chợ quê tôi được bày trong từng rổ lớn, trong đó có mồng tơi, dền đỏ, dền xanh, bông lý, rau khoai lang, rau tập tàng...

Nói chung là bất cứ loại rau gì ăn được người ta đều hái rồi bỏ chung vào với nhau, xáo đều lên và đem bán. Còn ở nhà, nếu có một cái vườn be bé thì cứ cắp rổ ra vườn hái được dăm bảy ngọn rau lang, vài lá mồng tơi, mấy ngọn rau dền, tuốt thêm ít lá ngót... vậy là đã có một bát canh thật to, thơm dìu dịu và mát lịm.

Cứ để chung mấy loại rau ấy rửa sạch rồi cho vào nấu, nếu sang thì cho vài con tôm, không thì chỉ cần ít gia vị và một muỗng ruốc là đã đủ đậm đà và ngon đến da diết.

Tôi không còn nhớ mình đã bao lần đi thơ thẩn theo mẹ ra vườn bứt lá này, lá kia... mà lá nào mẹ cũng gật.

Tôi không còn nhớ là đã bao trưa nắng, tôi chan canh nghe thơm và ngọt những mùi vị khác nhau của những loại rau quen thuộc ấy. Chỉ biết rằng mỗi khi nắng đổ lửa bên ngoài trời, tôi lại quay quắt nhớ bát canh rau lộn xộn xưa lẫn trong hương thơm của mẹ và yêu dấu tuổi thơ tôi...

Đi chợ Việt ở Mỹ

Theo www.sggp.org.vn - 4 năm trước

Tôi đặt chân đến nước Mỹ với tâm trạng lo ngại không biết cái bao tử của mình làm sao để thích nghi vì biết chắc ẩm thực Mỹ căn bản là bơ, sữa và sôcôla mà tôi vốn sinh ra và lớn lên bên thùng nước mắm. Nhưng mọi lo lắng của tôi đã được giải toả ngay ngày hôm sau, khi tôi cùng một người bạn đến một khu chợ chính hiệu Việt Nam.

Chợ đa quốc gia

Ở Mỹ có rất nhiều khu chợ do các cộng đồng sắc tộc sống tập trung dựng nên để phục vụ cộng đồng của mình như chợ của người Việt, chợ của người Hoa, của người Mexico, của người Mỹ, Hàn Quốc, Nhật... Bên cạnh đó, còn có các tập đoàn lớn chuyên xây dựng các khu trung tâm thương mại như tập đoàn Wall Mart, chuyên bán tất cả các loại hàng hoá công nghiệp tổng hợp; tập đoàn Fry's chuyên cung cấp các sản phẩm điện tử và điện gia dụng; tập đoàn Kroger chuyên kinh doanh thực phẩm tươi sống và nông sản; tập đoàn Micro Center chuyên bán hàng điện tử với giá sỉ... Ngoài ra, còn có các khu chợ bình dân thu hút dân lao động thu nhập thấp như tập đoàn chợ Sack 'n' Save chuyên cung cấp các mặt hàng phục vụ đời sống sinh hoạt gia đình như thịt cá, rau cải, trái cây... với giá bình dân.

Một tập đoàn thương mại quy mô, tuy ít khách nhưng không thể thiếu đó là những khu thương mại mang tên Home Depot chuyên bán lẻ các mặt hàng dành để sửa chữa, xây dựng nhà cửa như đinh vít, sơn, tôn, ván, dây điện... Đặc biệt nhất là tập đoàn thương mại Mall với quy mô hoành tráng, chủ yếu bán những mặt hàng công nghiệp như quần áo, giày dép, mỹ phẩm, hàng da, điện tử... với các thương hiệu nổi tiếng thế giới.

Lạ mắt và vui nhất vẫn là những khu chợ trời với đủ thứ loại hàng hoá được bày bán ở một khu đất trống hàng chục hecta, chỉ nhóm họp vào thứ bảy và chủ nhật hoặc ngày lễ. Hàng hoá được bày bán bên dưới các mái che hoặc trên tấm bạt ngoài khoảng đất trống. Giá cả hàng hoá rất bình dân, dễ mua.

Chợ của người Việt

Trên đất Mỹ, nơi nào có đông đảo người Việt tập trung sinh sống đều có chợ riêng phục vụ cho cộng đồng dân tộc mình do chính người Việt làm chủ. California, tiểu bang có nhiều người Việt sinh sống nhất, có vài chục đến cả trăm khu chợ Việt như Thuận Phát, Nam Hưng, Sài Gòn... Tiểu bang Oklahoma có chợ Cao Nguyên, chợ Bình Minh. Vùng Fort Woth và Dallas thuộc tiểu bang Texas có vài chục khu chợ Việt Nam như chợ Hiệp Thái, chợ Hồng Công, chợ Sài Gòn - Tapei, chợ Hiệp Phong, Nguyên Lợi, Trường Nguyên...

Các khu chợ này do người Việt làm chủ và các nhân viên phục vụ đa số là người Việt nên đã trở thành những địa điểm mang đậm chất cộng đồng Việt trên đất khách. Người Việt sống ở Mỹ nhưng không phải ai cũng biết nói tiếng Anh, đặc biệt là những người lớn tuổi không còn cơ hội học ngoại ngữ hay những người chỉ chuyên ở nhà lo việc bếp núc. Đối với họ, chợ Việt là nơi dễ dàng lựa chọn những mặt hàng quen thuộc của quê hương và là nơi bà con đồng hương có dịp cùng nhau nói tiếng Việt.

Lần đầu tiên bước vào ngôi chợ của người Việt trên đất Mỹ, tôi cứ ngỡ mình đang ở trong một siêu thị nào đó tại Sài Gòn, Hà Nội hay Cần Thơ. Đến các khu chợ này, bà con người Việt đồng hương dễ dàng tìm thấy các loại thực phẩm căn bản để chế biến các món ăn truyền thống trong bữa ăn gia đình Việt Nam. Thịt heo, thịt bò tươi được phân loại và đóng gói đảm bảo an toàn vệ sinh. Các loại cá tươi sống bơi tung tăng trong bể kính như lóc, rô, điêu hồng... Các loại chả cá sống như cá thác lác, cá basa; các loại rau củ tươi như mồng tơi, diếp cá, khoai lang, ngò gai, bầu, bí, thơm (khóm), nấm rơm...; các loại thực phẩm thuộc loại đặc sản truyền thống như nước mắm Phú Quốc, mắm tôm, khô cá tra phồng, gạo Nàng Hương Chợ Đào... ở đây đều có. Đặc biệt, các loại nguyên liệu chế biến các món ăn truyền thống như bún riêu, phở, bún bò Huế, mì Quảng... xin thưa: có đủ.

Vợ chồng người bạn cũ đang sống ở thành phố Dallas, thuộc tiểu bang Texas, mời tôi đến nhà chơi vào dịp cuối tuần, hứa sẽ đãi tôi món bún riêu. Tôi băn khoăn: "Chắc không bằng bún riêu ở Việt Nam đâu", chị vợ đoan chắc: "Sẽ không làm anh thất vọng đâu". Quả thật, hôm tôi đến nhà chị, những tô bún riêu bày ra bàn ăn có đủ rau muống bào, bắp chuối xắt nhuyễn, mắm tôm, ớt tươi bằm nhuyễn, chanh, rau tía tô; nồi nước lèo có đủ thịt cua giã, huyết heo xắt miếng, giò heo và đặc biệt là cọng bún tươi ngon.

Chị Nguyễn Thị Nga ở thành phố Garland biết chồng chị thích món phở Bắc nên mỗi tuần chị đều đi chợ mua đủ nguyên liệu về nấu đãi cả nhà. Hôm gặp tôi, chị mời đến nhà thết món phở Bắc do chính tay chị nấu mà không hề thiếu một thứ nguyên phụ liệu nào so với phở ở trong nước, từ cọng ngò om cho đến cọng rau quế, giá sống hay miếng thịt tái nạm...

Chị Ngọc Thuý ở thành phố Allen là gốc người Quảng Nam, chồng chị là người gốc Đà Nẵng, hết lòng mời tôi đến nhà chơi và thưởng thức món mì Quảng. Lúc đầu tôi nghi ngờ món ăn không đúng hương vị vì biết gia đình chị sang Mỹ đã hơn 25 năm nhưng thật bất ngờ, ngay cả miếng bánh tráng nướng giòn, hạt đậu phộng rang vàng hay thìa ớt sa tế đều có đủ trong tô mì Quảng chị nấu. Thấy tôi thắc mắc về sự có mặt của những nguyên liệu để làm nên hương vị món mì Quảng, chị Thuý bảo: "Mặc dù ở Mỹ nhưng không thiếu bất cứ một loại nguyên liệu nào làm nên hương vị Việt, chịu khó đi tìm là có ngay. Đó là một trong những cách để bảo tồn văn hoá dân tộc, khẳng định hình ảnh con người Việt Nam nơi đất khách".

Những cửa hàng bánh mì Việt nổi tiếng trên nước Mỹ

(DVT.vn) - Phóng viên J. Michelman đi tìm câu trả lời cho câu hỏi "Ai làm bánh mì Việt ngon nhất đất Mỹ?", qua bài viết trên trang New York Times.

Từ một chiếc bánh mì dài, người ta rạch ra tưới nước mắm tỏi rồi đặt vào bên trong ngồn ngộn các lớp nhân, bao gồm: thịt lợn nướng, đậu phụ, thịt xông khói thái lát, rồi tới thịt lợn pa-tê, thịt gà nướng, thịt viên chiên, rau ghém và đôi khi còn có cả cá mòi.

Các nguyên liệu được phối hợp theo vài cách khác nhau, nhưng thường có một công thức chung: Bánh mì kẹp có rau cải xoăn non tươi lẫn với củ cải, cà-rốt, nước chấm, đi cùng vài lát ớt và vài lá ngò tươi. Món ăn này có thể dễ dàng được tìm thấy trong các hiệu bánh hay các quán ăn ở khu cộng đồng Việt với giá không hề đắt, thường là khoảng hơn 6 đô-la/chiếc.

Cộng đồng người Việt ở tây-bắc Hoa Kỳ đang lớn dần từng ngày, theo đó, thành phố Seattle cũng có đến cả tá các cửa hàng bán bánh mì kẹp ngon lành. Trong đó phải kể đến tiệm Saigon Deli, nằm ở khu International District ồn ào. Có thể thấy Saigon Deli như một khu chợ trong nhà, bao gồm: các quầy bán đồ ăn trưa, ăn nhẹ xen lẫn cửa hàng bánh. Khu chợ này cũng có chút lộn xộn, khách quan mà nói thì khu đỗ xe quả là "kinh khủng". Thế nhưng, nói tới bánh mì kẹp thôi thì không thứ gì ngon bằng loại bánh mì 3 đô-la ở đây. Loại bánh mì nổi tiếng này có cái tên đầy đủ là "bánh mì 3 đô-la đặc biệt" và nhân chính bao gồm: thịt lợn, thịt xông khói và pa-tê gan gà.

Sau vài tiếng chạy xe theo hướng nam tới thành phố Portland, bang Oreon, men theo đại lộ Hoa Hồng (Đại lộ 82), thực khách có thể thưởng thức loại bánh mì kẹp ngon hảo hạng tại tiệm ăn có tên Best Baguette. Best Baguette phục vụ loại bánh mì thịt nướng với phần bánh được nướng ngay tại lò của tiệm. Phần nhân có thịt lợn nướng và pa-tê, tưới thêm nước mắm tỏi vàng ươm dậy mùi rau húng. Nước cam tươi ép thường được dùng chung với loại bánh mì này.

Người New York ưa những bữa trưa rẻ thường lái xe đến Baguette, ghé vào một trong ba địa điểm: Murray Hills, Wall Street và Gramercy để được thưởng thức loại bánh mì kẹp Việt Nam cũng như loại "bánh mì cá da trơn" có một không hai, được ăn kèm với mù tạt vàng và hành tím muối.

Quán bar có tên Momofuku Ssäm của ông chủ David Chang lại giới thiệu một loại bánh mì kẹp khác ăn cùng 3 loại nhân pa-tê khác nhau. Nếu dạo bộ qua khu phố Chinatown ở Sunset Park, thực khách cũng có thể tìm thấy một vài tiệm bánh mì kẹp đáng thưởng thức như Ba Xuyen và Tan Thanh.

Người ta có thể tìm thấy một vài loại bánh mì kẹp ngon nhất nhì Việt Nam ở miền nam nước Mỹ. Riêng ở New Orleans, món ăn này được gọi tên là "Vietnamese Po Boy". Những tay sành ăn thường tìm đến phía đông khu phố thuộc xa lộ Chef Menteur Highway để thưởng thức món ăn này. Trong số đó, phải kể đến tiệm bánh Dong Phuong Oriental Bakery, nơi khách hàng đứng tụm thành các đám đông ngay phía sau hiệu bánh để đợi mua những chiếc bánh mì Pháp thái lát, phủ thịt lợn và thịt gà thơm lừng, quết thêm bơ trộn sốt mayonnaise béo ngậy.

Làn sóng người Việt nhập cư ồ ạt vào Atlanta đã biến xa lộ Buford Highway thành thiên đường cho những ai yêu bánh mì. Bắt đầu nhẩn nha với bánh mì chiên giòn thơm chấm nước mắm ở tiệm Lee's Bakery, sau đó lê la tới tiệm Quoc Huong nổi tiếng chuyên phục vụ bánh mì kẹp thịt lợn, đậu phụ chiên và trứng rán. Bánh ở tiệm Quoc Huong thường có giá khoảng 2,5 đô-la/chiếc và cứ mua 5 chiếc, thực khách lại được tặng thêm 1 chiếc. Vì vậy, không quá bất ngờ khi món bánh này của tiệm luôn được đánh giá cao trong số các món ăn tốt nhất ở Atlanta.

California cũng không đứng ngoài danh sách nên đến khi ta nhắc tới bánh mì kẹp. Bánh mì kẹp hiệu Lee's Sandwiches có cả tá cửa hàng trên khắp bang California, trong đó đặc biệt nhất là bánh mì xá xíu, kẹp thịt lợn viên.

Ở Los Angeles, cái tên Nom Nom Truck cũng tự tạo dựng tên tuổi của mình với món bánh mì "Vietnamese taco" có thịt gà nướng sả.

Tiệm San Francisco's Saigon Sandwich cũng không kém cạnh trong danh sách này. Bánh mì kẹp của tiệm đặc trưng bởi mùi thơm ngậy của thịt lợn nướng kèm pa-tê gan gà, tưới nước sốt mayonnaise kèm vài lá ngò thơm. Không gian ở Saigon Sandwich không có gì nổi bật, nhưng bánh mì lại hấp dẫn theo kiểu rất riêng: sạch, rẻ, và cực ngon. Đây có lẽ là là bánh mì Việt ngon nhất nước Mỹ.

Văn hóa ẩm thực Việt Nam trên đất Mỹ

Đã qua rồi cái thời mà người Việt Nam chân ướt chân ráo đến Mỹ thường than thở thức ăn ở xứ này khó ăn, vị nhạt nhạt, beo béo, ăn bánh mì, bơ sữa, pho mát cứ thấy lạt miệng, càng thèm cơm.

Giờ đây, nơi nào có người Việt sinh sống, ở đó chợ Việt Nam và ngoài chợ không thiếu thứ gì. Tuy nhiên, theo ý nhiều người, để giữ gìn và duy trì bản sắc văn hóa ẩm thực Việt Nam cho các thế hệ kế tiếp không phải là chuyện dễ!

Chất Việt trong thực phẩm

Nước Mỹ quy tụ nhiều sắc dân, nhiều phong tục tập quán nên về thực phẩm luôn có sự phân biệt vì các dân tộc vẫn giữ được truyền thống riêng của họ. Do đó, đã hình thành các chợ thực phẩm phục vụ cộng đồng dân cư đến từ các nước khác nhau: chợ Hàn Quốc, chợ Hoa, chợ Mễ, chợ Trung Đông (không bán thịt heo), chợ Việt Nam...

Tất nhiên, người Việt sống trên đất Mỹ thích đi chợ Việt Nam vì chỉ ở đó mới có những nguyên liệu chế biến món ăn đậm chất quê hương. Chợ Việt Nam có đủ các loại rau nấu canh như rau muống, rau đay, mùng tơi, rồi bầu bí, mướp, có cả các loại rau thơm như húng quế, tía tô, kinh giới, diếp cá... Muốn mua bún, bánh phở, mì sợi, mì gói, nấm mèo, măng khô, các loại gia vị để nấu phở bò, phở gà, cà ri, bún bò Huế, bún riêu, bò kho, cá kho tộ thì đến chợ Việt Nam đều được như ý. Riêng gạo thường đóng gói khoảng 25kg/bao, giá rẻ hơn nhiều so với chợ Mỹ.

Dạo sau này, nhiều loại trái cây đặc sản của miền nhiệt đới cũng được nhập vào Mỹ như sầu riêng, nhãn, vải, chôm chôm, măng cụt...

Thịt, cá ở chợ Việt Nam cũng phong phú và rẻ hơn so với các chợ Mỹ. Chợ Mỹ chỉ có vài loại cá thông thường như cá hồi, cá basa, cá hồng, cá rô phi ở dạng fillet và giá khá đắt. Trong khi đó, chợ Việt Nam có đủ loại cá quen thuộc như chim đen, chim vàng, mú, điêu hồng, mè, thu... Đặc biệt, hầu hết các chợ Việt Nam đều có dịch vụ làm cá, chiên cá miễn phí, rất thuận tiện cho các bà nội trợ.

Có được điều đó là do nhiều trại rau của người Việt đã hình thành. Do biết áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến nên người trồng rau có rau cung cấp quanh năm cho các chợ với giá rẻ, khiến cho các gia đình người Việt không cần trồng rau ở vườn sau nhà như trước nữa.

Bữa cơm gia đình của người Việt

Ở Mỹ, dù cả hai vợ chồng đều đi làm hay chỉ có một người đi làm thì người kia cũng rất bận rộn với công việc nhà cửa, con cái. Gia đình nào cũng đi chợ vào một trong hai ngày cuối tuần. Mỗi lần như vậy ai cũng mua thật nhiều, chất đầy xe đẩy của chợ. Nhà nào cũng phải có một cái tủ lạnh lớn cỡ 280 lít trở lên mới chứa hết thức ăn cho cả tuần.

Gia đình chị Minh trước kia ở Philadelphia. Khi người anh đầu của chị ở California bảo lãnh cha mẹ già từ Việt Nam sang Mỹ, vì muốn gần gũi cha mẹ, vợ chồng chị Minh chấp nhận chuyển công việc, bán nhà lớn ở Philadelphia, mua nhà nhỏ ở Garden Grove để sống chung với cha mẹ.

Do gia đình vừa có người già, vừa có con nhỏ, khi đi chợ, ngoài thịt cá mua về chia ra bỏ vào những túi nhỏ để dễ xả đá mỗi lần nấu ăn, lúc nào chị Minh cũng phải mua vài bó rau đay, mồng tơi, rau dền, mướp, bầu, bí... để nấu những món mà cha mẹ chị thích cho đỡ nhớ quê hương. Các con chị ăn trưa ở trường, dù quen thức ăn Mỹ nhưng chúng cũng rất thích những món ăn Việt như cá bông lau kho tộ, thịt bò xào rau muống, canh chua cá mú, canh cá nấu ngót...

Bạn bè con chị rất thích ăn món phở do chị chế biến, nhất là đám bạn người Mỹ. Chúng thích thú thưởng thức vị ngon ngọt của nước lèo hay ngắt từng lá rau húng quế, ngò gai bỏ vào tô phở và đặc biệt là cách sử dụng đũa của người Việt.

Vào dịp đi chợ cuối tuần, các bà nội trợ thường trổ tài, chế biến những món ăn đặc biệt hơn như phở, bún bò, bún riêu, gỏi... để cả gia đình cùng... nức nở khen ngon.

Đặc sản Việt Nam

Người Việt ở Mỹ vẫn giữ thói quen thỉnh thoảng tổ chức gặp gỡ, ăn uống nhân dịp lễ lạt, giỗ chạp... Trong những bữa tiệc luôn có món chả giò và gỏi cuốn - hai món không chỉ người Việt thích mà người bản xứ cũng rất mê. Chị Minh vì có cha mẹ ở cùng nên nhà chị là nơi các anh chị thường tập trung đến để chuyện trò, ăn uống.

Các món chả giò, gỏi cuốn tôm thịt, mì xào luôn hiện diện trong những dịp này. Đây cũng là món mà người Việt thường giới thiệu cho bạn bè thuộc dân tộc khác. Đôi khi chị làm thêm món bánh xèo vì nguyên liệu làm bánh xèo cũng có sẵn ở chợ (từ bột bánh xèo, đến các loại rau sống, chanh, ớt, tỏi làm nước mắm).

Theo chị Minh, bí quyết giúp chả giò có độ giòn lâu là chiên hai lần. Chị mua chả giò đông lạnh trong các tiệm food to go gần nhà. Ở đó, sau khi cuốn chả giò, người ta chiên sơ một lần cho hơi vàng, sau đó bỏ vào tủ cấp đông. Chị Minh mua chả giò về cho vào tủ lạnh, khi sắp chiên thì lấy ra, không cần xả đá, bỏ thẳng chả giò vào chảo dầu, chiên nhỏ lửa. Ở các cửa tiệm food to go, những món ăn Việt Nam như cơm chiên, gỏi, mì xào thập cẩm, nem nướng... cũng có đủ. Nhiều người bận việc vẫn mua thức ăn chế biến sẵn ở đó.

Nỗi lo đặc biệt

Giờ đây, tuy thức ăn Việt Nam không thiếu, nhưng nhiều người phải công nhận một sự thật là giới trẻ sinh ra và lớn lên tại Mỹ đã dần bị Mỹ hóa, kể cả phương tiện ẩm thực.

Vợ chồng anh T. sống ở Mỹ đã ba mươi năm. Khi còn nhỏ, các con anh rất thích món ăn Việt Nam, nhưng lớn lên, chúng lại bị "dị ứng" với các món mà vợ chồng anh quen ăn như canh rau đay, mùng tơi, cà pháo, mắm tôm... Anh T. cho rằng có lẽ thế hệ anh là thế hệ cuối cùng ở Mỹ biết ăn loại canh này. Các con anh bảo cơm có quá nhiều carbonhydrate, ăn một chén cơm chan canh rau mùng tơi không được bao nhiêu chất bổ mà chỉ làm cho cơ thể mập ra! Thế rồi chúng dứt khoát không ăn nữa!

Chúng đâu biết rằng một bó rau đay nhỏ giá 2 USD chỉ đủ nấu nồi canh, trong khi đó một ký thịt heo chỉ có 3 USD! Dù vào mùa hè, các nông trại trồng rau nhiều nên giá rẻ nhưng so với các loại rau của người bản xứ như bắp cải, xà lách, đậu hòa lan, broccoli, spinach... thì rau Việt Nam vẫn đắt hơn nhiều.

Xem ra, người Việt trẻ giờ đây bắt đầu chê một số món ăn đậm chất quê hương và khoái ăn hamburger, hot dog với rau lạnh như coleslaw, mash potato, khoai tây chiên, pizza và spaghetti của Ý, taco của Mễ, sushi của Nhật... Không biết đó có phải do thói quen ăn uống được hình thành từ nhỏ ở các trường học Mỹ hay là sự "giao thoa văn hóa ẩm thực" giữa các dân tộc, kiểu như người bản xứ thích món chả giò, mì xào, phở của Việt Nam?

Người Việt ở Mỹ không còn cái thời ăn một bó rau muống cũng tiếc đứt ruột vì quá đắt. Các gia đình chẳng còn phải cặm cụi trồng rau sau vườn. Giờ đây, muốn gì ra chợ là có, vậy mà các bà nội trợ cũng bắt đầu kêu ca rằng quanh đi quẩn lại chỉ nhiêu đó món, riết rồi không biết nấu món gì!

Trong gia đình, có người thích món ăn Việt, có người lại thích món Mỹ. Do đó, để dung hòa, hầu như gia đình nào cũng duy trì bữa cơm "hợp chủng quốc", vừa có món Việt, vừa có món Mỹ. Tuy nhiên, điều mà nhiều người Việt lớn tuổi e ngại nhất là đến lúc nào đó, bọn trẻ chẳng những không biết chế biến, mà cũng chẳng biết ăn và quan tâm đến văn hóa ẩm thực Việt Nam nữa!

Chuối đồng và chuối vườn

Chuối đồng là cá, chuối vườn là hoa. Cá chuối đồng nấu với hoa chuối vườn là món ăn có "quê nhà" ở mọi nơi.

Con cá tanh mùi đồng ấy có bụng vàng nhờ, cái thân đen xám, bóng loáng. Nó chùi chũi như một cái liềm, hình dáng gần như quả chuối nên gọi là cá chuối (nhiều địa phương gọi là cá quả). Cá chuối đồng không lớn được, nếu đúng nó. Cái gì ít, nhỏ cũng ngon, đó là nói về cái sự ăn.

Buổi sáng tinh mơ bước ra đầu bờ ruộng, bất chợt gặp chú cá chuối vướng trên cỏ ướt, nó quẫy, nó oằn oại vật đuôi để thoát. Cái mùi tanh của vẩy, cái mùi nồng của nước đồng, ngai ngái của cỏ, cái thơm của sương làm tỉnh cả người. Đó là ngày tốt lành của làng quê chứ sao. Ai bảo "chim sa, cá nhảy"(?)

Cả đời tôi là một cuộc câu cá bất thành nhưng úp cá bằng nơm và tát cá thì thật khó có chú nào thoát. Những chú chuối đồng xâu lạt qua mang luôn là "chiến công hiển hách" mỗi ngày. Đó là một phần dấu tích tuổi thơ tôi trên những cánh đồng quê lầm lũi, ngậm ngùi.

Những chú cá chuối được đánh vẩy bằng dao sắc, mổ bụng và moi ruột rồi xát sạch bằng muối hạt. "Dàn đồng ca" của cá chuối nấu hoa chuối còn có lá lốt, nghệ giã nhỏ, hành khô, hành hoa, ớt tươi cả quả, khế chua, cà chua, thì là và mẻ. Phải có mẻ, có lá lốt mới "dậy" mùi cá.

Hoa chuối vườn của mùa hè tháng sáu là lúc đang non. Nó chưa xòe ra mà lùi lũi như quả B40 cỡ lớn. Những cây chuối ra hoa như người mẹ mang thai sắp ở cữ, lá cứ rũ ra chứ không còn phành phạch ràn rạt trong gió nữa.

Cá chuối ở cánh đồng không hiểu sao lại làm bạn với hoa chuối ở trên cây. Cái vị chan chát của hoa chuối thái mỏng, cái xồm xộm của những sợi hoa chuối khi dầm trong nước nấu cá vàng nghệ với đủ "dàn đồng ca" của các loại lá, quả, gia vị, bỗng dưng lại chuyển vị bùi đến tận mang tai.

Nấu cá chuối và hoa chuối không khó nhưng nhất thiết phải theo trật tự". Cá chuối được rán nhẹ trên lửa nhỏ cùng với hành khô thái mỏng. Lần lượt cà chua xếp lớp cùng khế chua. Nghệ giã để nguyên bã trộn với mẻ đã lọc kỹ. Nước đun sôi chế dần vào nồi để cá không tanh. Một chút nước mắm để "dậy" mùi. Mười lăm phút sau đã thoảng thấy mùi chua của khế, mẻ, mùi nước mắm. Mùi lá lốt ngai ngái và mùi thơm của nghệ là nổi bật và độc đáo nhất.

Quê tôi vẫn gọi đùa món chuối nấu hoa chuối là món xông hơi, giải cảm. Một bát nước lưng lửng rải hành hoa, thơm, mùi...húp toát mồ hôi hột. Cá thì nhấc ra đĩa, gỡ dần uống với rượu quốc lủi thì khó "mồi" nào bằng. Hoa chuối trộn bún rối, rưới chút nước mắm chanh ớt, hạt tiêu thì lùa nhanh như gió thổi.

Thế mới hiểu tại sao mọi món giản dị thuở xưa của đồng quê thành đặc sản bây giờ. Hơi khó tìm chứ không phải không có, vì bây giờ toàn cá nuôi trong bể to 2,3 cân, thịt chẳng thơm tho, bùi béo gì. "Công nghệ nấu" cũng ẩu hơn hoặc không được "chuyển giao công nghệ" đúng cách.

Thế là phí cả "đời cá" lẫn "đời hoa".

Của hiếm cua da

Đầu mùa rét năm ngoái, tôi được người bạn ở Bắc Giang gọi điện nói sẽ tặng tôi mười lăm con cua sông Cầu. Tôi cười, thầm nghĩ "mười lăm con thì ai ăn ai đừng".

Nhưng ngạc nhiên sao chỉ mười lăm con cua thôi mà nặng tới gần hai cân. Hỏi ra mới biết, đó là một loại cua sông cỡ bằng con ghẹ nhưng có nhiều điểm khác lạ. Phía trên và dưới hai càng cua đều có một lớp da, trên lớp da ấy là một lớp lông trông giống như đám rêu! Bữa cua lạ miệng ấy đã thôi thúc tôi tìm xem ở đâu sinh ra loại cua kỳ dị ấy?

Cua da, cua gia hay là... cua ra?

Khi nhận những con cua lạ ấy, tôi đã hỏi người đem tới biếu đây là cua gì mà sao trông kỳ lạ thế? Câu trả lời là cua da. Còn viết chính xác thế nào (da, ra, gia) thì chịu. Cho đến bây giờ, khi đã để tâm tìm hiểu, tôi vẫn không biết tên gọi đích thực của loài cua ấy. Có người nói rằng phải gọi là cua ra vì loài cua này gắn với câu tục ngữ "Tháng chín cua ra, tháng ba cua vào".

Có người lại nói, phải gọi là cua da vì loài cua này có một lớp da trên càng. Đó là điểm rất khác biệt mà các loài cua biển, cua đồng không có được. Phe thứ ba thì cho rằng phải gọi cua gia, vì đơn giản là tên gọi ấy nghe có vẻ hay hơn, hợp hơn. Tôi tạm gọi theo quan điểm thứ hai, cua da.

Loài cua này chỉ bắt được vào cữ heo may đến tháng mười một âm lịch là hết. Cua da, về hình thức cơ bản trông giống loài cua đồng nhưng chân dài hơn mình to gấp gần chục lần cua đồng.

Vì chân dài nên khi thả xuống đất, cua da chạy rất nhanh và luôn chọn được những nơi cư trú tối ưu. Người ta cho rằng, lớp da, lông phía trên và phía dưới càng cua là cái bẫy đã được nguỵ trang để cua bắt mồi sau khi vùi mình dưới bùn.

Sau kỳ sinh sản, những chú cua ở sâu dưới đáy sông mới rời hang kiếm mồi và khi ấy người dân vùng sông nước mới có cơ hội buông lưới, bắt cua. Cua da chủ yếu cư ngụ ở sông Cầu, sông Thái Bình (và rất có thể có ở những con sông nào đó khác nữa mà tôi chưa nghe chăng?). Điều thú vị là, cũng trên sông Cầu thì chỉ có đoạn qua xã Yên Lư, Tư Mại và Thắng Cương của huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang người dân mới bắt được cua.

Cua da từ cho không ai lấy trở thành đặc sản

Hàng trăm năm nay, người dân sông nước xã Thắng Cương, Yên Lư đã bắt được cua da rồi. Thực ra, trong quá trình đánh cá, ngẫu nhiên cua mắc vào lưới. Khi ấy, cua da thường cuốn, xé rách cả một mảng lưới và để gỡ chúng ra, nếu không chịu hy sinh cắt lưới, người ta thường phải mất khá nhiều thời gian để gỡ, sao cho cua không bị gãy chân, gãy càng. "Cua gãy chân bán không được giá, cá bong vảy bán chẳng được tiền".

Chỉ dăm bảy năm trước, cua da chẳng được người dân Thắng Cương coi ra gì. Bắt được mấy chục con mang về sống trong bể, ăn chẳng ăn được, mang cho lại sợ người ta mắng! Thế là cua da chủ yếu để nuôi lợn.

Ông Phạm Văn Ly năm nay đã 77 tuổi ở thôn Tân Cương, xã Thắng Cương là người có thâm niên bắt cua da hơn năm chục năm qua cười khà khà, giải thích vì sao cua da lại bị ghét: "Cua da tanh lắm, luộc lên ai muốn ăn thì phải mang ra góc sân, bờ giếng mà ăn kẻo mùi tanh ám vào quần áo, nhà cửa. Ăn xong thì phải lấy lá cúc tần, thậm chí cả xăng để lau mồm lau miệng. Vì cua da không được ưu chuộng, nên có người khi nhấc lưới thấy cua da là kê vào mui thuyền lấy mái chèo đập cho nát cua rồi giũ cho sạch lưới".

Cua da ngày xưa là thế. Bây giờ, khi người dân đã biết ăn cua da bằng cách hấp bia, có xả, có gừng nhâm nhi cùng thứ rượu nếp thơm nồng nút bằng lá chuối; biết giã ra nấu riêu cua ăn với bún có đệm rau sống cùng một chút hoa chuối thì nó trở thành đặc sản.

Thịt cua da ngọt, lớp vỏ ở chân cua, càng cua khá mềm nên có thể dùng tay cũng tách ra được dễ dàng. Để có một nồi canh cho 5 người ăn chỉ cần 3-4 con cua là đủ sánh đặc ngọt lịm... Tuy vậy, không chỉ với người Hà Nội sành ăn mà không ít người dân sống ở Yên Dũng cho đến bây giờ vẫn chưa biết cua da là "mặt mũi" thế nào? Đa số những thứ quý đều được gia tăng giá trị từ yếu tố...hiếm.

Cua da cũng vậy. Không những đặc biệt do là loài cua sông có kích cỡ rất to lại có lớp da, lông ở càng mà cua da còn hấp dẫn người ta bởi chúng chỉ có ở một số khúc sông, chỉ bắt được trong vòng hai ba tháng rét.

Vì thế, những người đã biết mùi cua da thì ai ai cũng tủm tỉm khoe với bạn hữu: "Anh đã ăn cua da bao giờ chưa, hoặc anh đã thấy cua một con nước ngọt nặng gần hai lạng bao giờ?".

Sau những "úp mở" ấy là sự săn lùng, đặt hàng và chiêu đãi bạn bằng được món cua da. Một người săn cua sẽ chẳng là gì nhưng nếu mười người, một trăm người cùng săn lùng thì giá cua da sẽ đội lên cao là điều đương nhiên theo quy luật cung cầu.

Nếu như một cân cua da năm ngoái phổ biến ở mức khoảng 70.000 đến 90.000 đồng thì năm nay, giá một cân cua đầu mùa là 150.000 đồng. Cua da ngày càng được nhiều người biết tới, nhắc đến.

Nỗi lo mất nguồn đặc sản

Gió mùa đông bắc đã về, mùa cua da đã đến. Người dân làng chài đã sẵn sàng vào vụ săn cua da. Anh Trần Văn Đóa, người dân làng chài Thắng Cương nói rằng, cua da thường sống ở những ghềnh đá dưới đáy sông, để bắt cua người dân thường đánh lưới dầm vào ban đêm và không gõ mái chèo, gặp may mỗi đêm có thể đánh được từ dăm bảy cân, không thì vài ba cân.

Cua da chủ yếu cư ngụ ở sông Cầu, sông Thái Bình (và rất có thể có ở những con sông nào đó khác nữa mà tôi chưa nghe chăng?). Điều thú vị là, cũng trên sông Cầu thì chỉ có đoạn qua xã Yên Lư, Tư Mại và Thắng Cương của huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang người dân mới bắt được cua.

Thịt cua da ngọt, lớp vỏ ở chân cua, càng cua khá mềm nên có thể dùng tay cũng tách ra được dễ dàng. Để có một nồi canh cho 5 người ăn chỉ cần 3-4 con cua là đủ sánh đặc ngọt lịm...

Bây giờ cua da được giá nên nhiều người đi bắt hơn và cũng giúp không ít gia đình thoát nghèo. Nghe anh nói, tôi bày tỏ nỗi lo cua da cạn kiệt, thậm chí tuyệt chủng vì bị khai thác quá nhiều. Anh Đóa cười cười không trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi.

Anh bảo: "Sợ nhất là dòng sông bị ô nhiễm như nước sông Thị Vải gì đó ở Đồng Nai. Bên kia sông là huyện Quế Võ của tỉnh Bắc Ninh cũng đang xây dựng nhà máy chế biến rác thải, chúng tôi rất lo nước thải của nhà máy sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường sống của cua cá trên sông Cầu. Khi nước sông không bị nhiễm và nếu cứ đánh bắt tự nhiên thì cua da chắc chắn sẽ vẫn còn tồn tại, vì tôi chưa từng bắt được hoặc nghe nói ai đó bắt được một con cua da có trứng hoặc có con con bao giờ. Điều đó chứng tỏ người dân chỉ bắt được cua da đã trưởng thành sau mùa sinh sản".

Nửa chiếc lá mồng tơi mình cũng biết quí!

Sống xa quê hương hơn một thập niên giữa xứ đắt đỏ bậc nhất nhì châu Âu như Vienna (Áo), chị Kiều Lưu thấm nhuần bài học tiết kiệm ngay từ khi còn là sinh viên ngành máy tính đến khi làm việc và định cư lâu dài ở xứ người.

"Sống ở xứ Tây mà không tiết kiệm sẽ rất khó xoay xở đời sống sinh hoạt hằng ngày, chưa kể đến những khoản giải trí, du lịch, sắm sửa tiện nghi nhà cửa..." - chị Kiều, 34 tuổi, ở quận Vienna 11, đúc kết.

Với đồng lương nhân viên bình thường hằng tháng rót đều đặn qua tài khoản ngân hàng, những người Việt xa quê như chị Kiều đủ để chi tiêu vào việc đi chợ châu Á và siêu thị Tây vào mỗi cuối tuần. Nhưng "nội những khoản thanh toán bắt buộc hằng tháng như tiền mua nhà trả góp, tiền điện, nước... đã chiếm quá nửa đồng lương". Vì thế người sở hữu thẻ nhà băng ở Áo mặc dù được phép chi xài đến con số âm 2.000 euro (khoảng 60 triệu đồng VN) trong tài khoản của mình nhưng ít ai dám vung tay quá trán, nếu không muốn sẽ bị thiếu trước hụt sau dài dài sau này.

Ngay cả khi là sản phụ không đi làm vẫn được hưởng chế độ lương bổng và phúc lợi khá tốt theo qui định xã hội tiên tiến như Áo, chị Kiều vẫn không cậy đó để thả lỏng tiêu xài hoang phí. Nếp sống ở gia đình rất rõ ràng: tắm vòi hoa sen thì vặn nước phun vừa đủ chứ đừng quá mạnh hao nước, buổi tối luôn nhớ tắt đèn mỗi khi bước ra khỏi phòng riêng... Và đặc biệt là bài học tiết kiệm lý thú từ việc lặt những bó rau muống hay mồng tơi - vốn là loại rau dân dã ở quê nhà nhưng lại rất đắt nơi xứ người (giá 2-3 euro/bó, ngang ngửa với giá mua một con gà ở siêu thị!). Khi nấu ăn, chị Kiều bảo: "Một nửa chiếc lá mồng tơi mình cũng phải biết quí", khi cầm lá rau chỉ cắt bỏ một phần bị úa nhưng vẫn giữ lại nửa kia lành lặn để nấu ăn bình thường.

Chuyện tiết kiệm của người gốc Việt còn rộng hơn ở rất nhiều khía cạnh như là một tâm tính sống cần thiết không của riêng ai. Anh Niên Tạ - người Việt điều hành phần mềm tại công ty nữ trang đắt tiền Schullin ở quận Vienna 1 - kể chuyện đi rửa xe hằng tháng: "Nếu chỉ rửa xe bốn phía mặt ngoài thì giá 6 euro, còn thuê vệ sinh luôn bên trong xe giá phải trả có thể lên đến 50 euro". Cách chọn lựa tiết kiệm của chủ xe là sau khi rửa xong bên ngoài sẽ tự mình dùng máy hút bụi làm sạch nội thất bên trong với giá chỉ 1 euro.

Hay khi xây dựng lại nội thất bên trong căn hộ chung cư mới dọn về, gia đình anh chị Nam Ngân ở phía bên kia lưu vực sông Danube, gần trung tâm Vienna, đã tự tay "chồng sơn, vợ vẽ" các mảng tường nhà "cho đỡ tốn kém chi phí thuê nhân công đắt đỏ". Đây chỉ là chuyện riêng đơn cử của một hộ gia đình người Việt, nhưng qua đó cũng cho thấy một lối sống tiết kiệm thật sự đã trở thành "nếp nhà" của những người Việt trên đất khách.

Về Việt Nam tôi lại nhớ Mỹ

(22/02/2011) - Ở Việt Nam ba tuần lễ đầu vui vẻ, nhưng dần dần tôi cảm thấy nhớ nhà bên Mỹ, nhớ cuộc sống êm đềm sáng lái xe đưa con đi học, chiều tan sở về hai vợ chồng cùng nhau nấu cơm, cho con cái ăn uống, làm bài tập xong đi ngủ.

Tôi xa Việt Nam năm 20 tuổi, thoáng chốc đã 1/4 thế kỷ sống nơi xứ người. Năm đầu sang Mỹ, đêm nào cũng khóc, nhớ bạn bè, nhớ con hẻm nhỏ, nhớ người bán hàng rong. Ngày ấy người Việt Nam ở Mỹ còn ít, không có báo điện tử, không có Internet liên lạc dễ dàng như bây giờ, nên nỗi nhớ càng da diết.

Buổi sáng trong nhà ăn của khu nội trú đại học, nhìn bát cháo mạch lỏng bỏng, xám xịt, nhớ quay quắt đĩa bánh cuốn nóng với những khoanh chả trắng muốt điểm mấy nhúm hành phi vàng ruộm. Buổi trưa nhai miếng hambuger khô khan thèm bát phở tái chín thơm lừng. Buổi tối ánh đèn vàng leo lắt nhớ ánh điện neon sáng xanh mát mắt. Nhìn xung quanh nhà cửa lúc nào cũng đóng cửa im ỉm, nhớ Việt Nam hàng xóm đông đúc chạy qua, chạy lại lúc tối lửa tắt đèn. Cái gì cũng làm cho tôi nhớ và khóc.

Năm thứ hai, tiếng Anh đã khá hơn nhiều, bài vở cũng nhiều hơn, thêm việc làm part-time nên về đến nhà là ngủ say như chết. Nỗi nhớ Việt Nam vẫn còn đó nhưng không còn nhiều thì giờ để nghĩ đến nữa.

Năm thứ tư, thứ năm... mỗi năm một trôi qua, công việc cứ ngày càng nhiều, cuộc sống như một vòng xoay khổng lồ, con người cũng quay tròn. Bên cạnh đó, tình yêu đến và gia đình, con cái tiếp theo. Ngày tháng trôi nhanh như chớp mắt, thoáng chốc đã 25 năm trời.

Vừa rồi tôi cùng gia đình về thăm lại Việt Nam lần đầu tiên. Cái cảm giác đầu tiên là Sài Gòn đông đúc, náo nhiệt và giàu mạnh hơn ngày xưa rất nhiều. Về lại con phố xưa, tôi ngỡ ngàng nhìn không ra, không biết đâu là nhà cũ của mình. Nhà nào cũng xây mới, cao ngất nghểu, sơn phết đủ màu sắc theo ý thích của mỗi chủ nhà. Những con đường ngập lá me bay của một thời mơ mộng giờ tràn đầy hàng quán ồn ào, nhộn nhịp. Sài Gòn bây giờ có nhiều tòa nhà thương mại tràn ngập các mặt hàng cao cấp, xe hơi nườm nượp trên đường. Có nhiều cái đẹp hơn, tốt hơn, nhưng cũng có nhiều thứ xấu hơn, tệ hơn. Tôi như lạc lõng giữa Sài Gòn, 25 năm -một thời gian khá dài cho một đời người và cho một thành phố đầy sức sống như Sài Gòn.

Ở Việt Nam ba tuần lễ đầu vui vẻ, nhưng dần dần tôi cảm thấy nhớ nhà, nhớ cuộc sống êm đềm sáng lái xe đưa con đi học, chiều tan sở về hai vợ chồng cùng nhau nấu cơm, cho con cái ăn uống, làm bài tập xong đi ngủ. Nhớ ngày nào khóc vì thèm nghe tiếng rao hàng, tiếng xe cộ buổi sáng ở Việt Nam, giờ lại khó chịu vì sự ồn ào. Nhớ buổi sáng thức sớm thật yên tĩnh bên Mỹ, xung quanh không có tiếng động ngoài mấy con chím hót ríu rít trên cao, hai vợ chồng lại làm cà phê, bữa sáng, coi tin tức rồi đưa con đi học, mình đi làm. Cuộc sống có vẻ tẻ nhạt, đơn điệu so với người Sài Gòn có nhiều bạn bè đông vui, náo nhiệt. Nhà cửa ở Việt Nam san sát nhau lúc xưa thấy vui, giờ thấy thèm một khoảng không gian xanh, một mảnh vườn nhỏ như Mỹ.

Ở Mỹ gia đình là chủ yếu, ngoài giờ làm việc, mọi người về thẳng nhà ít có người nào phải đi xã giao, quan hệ công việc làm ăn. Hợp đồng ít khi được ký kết trên bàn tiệc nên không có việc ngoài giờ làm ra còn phải đi ăn nhậu. Có những người đi làm thêm hai công việc hay làm ngoài giờ, nhưng đó là làm việc thật sự và có trả lương (double nếu overtime). Bạn bè không tự động đến nhà, rủ rê đi chơi nhất là trong ngày làm việc. Vợ chồng phải giúp đỡ lẫn nhau, người nấu cơm thì người rửa bát, dọn dẹp. Các ông chồng ở đây rất giỏi việc nhà, cơm nước, lo lắng cho các con không thua gì một phụ nữ. Ở đây cũng hiếm người mướn osin nên mọi việc đều san sẻ với nhau. Về Việt Nam thấy cảnh chiều nào quán ăn, quán nhậu cũng đông nghẹt người, nhất là các ông. Tôi tự hỏi giờ đó vợ con của các ông ở đâu mà ông chồng không về dùng cơm tối với gia đình?

Về Việt Nam 4 tuần lễ, tôi mới cảm nhận những sự việc trước giờ thấy rất bình thường trong đời sống hằng ngày của Mỹ mà mình không để ý: xếp hàng, nhường đường cho người đi bộ, không xả rác bừa bãi nơi công cộng, giữ cửa cho người đi sau, nói lời cảm ơn và xin lỗi... bỗng nhiên thành quan trọng. Thiếu những cái đó mình cảm thấy bực bội và khó chịu, cứ tự hỏi tại sao những việc rất nhỏ, đơn giản mà không ai chịu làm.

25 năm sống ở xứ người, giờ về lại xứ ta để hiểu rõ lại mình. Thì ra thời gian sống ở Mỹ đã dài hơn ở Việt Nam, hội nhập và hòa tan đã khiến mình thay đổi lúc nào không hay.

Quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn chỉ có một, nhưng hạnh phúc thì ở nơi nào mình tìm thấy niềm vui và sự yên bình trong tâm hồn.

CHÚ CHÈO MUÔN NĂM!"

(đăng lại)

Nhóm công nhân mặt bám bụi than đen nhẻm đang ngồi ăn cơm giữa ca trước cửa lò. Cơm đựng trong hộp nhựa, lổn nhổn cá kho, thịt. Họ vừa ăn vừa nói cười rôm rả. Chợt, một công nhân nhìn thấy chiếc xe con đi tới vội reo lên:

- Chúng mày ơi, sếp Chèo tới!

- Chúng mày ơi, đề nghị sếp thưởng đi.

Cả nhóm ngừng ăn, đồng tình:

- Đúng rồi. Đề nghị sếp thưởng vượt năng suất.

Chèo từ trên xe bước xuống. Anh cũng mặc bảo hộ, đI ủng, đội mũ lò. Từ xa, Chèo vồn vã:

- Chào anh em.

Cả nhóm thợ đứng lên, đồng loạt:

- Em chào sếp ạ.

- Cháu chào sếp ạ.

Chèo vỗ vai người đứng cạnh, thân mật:

- Từ nay anh em đừng gọi tao là sếp nữa. Nom xa lạ, quan cách lắm.

Một công nhân, hỏi:

- Vậy chúng cháu gọi thế nào ạ?

- Cứ gọi là chú Chèo cho thân mật. Thực ra, enh em đây cũng toàn người nhà, cùng làng Đồng Xa cả chứ xa lạ gì, phải không nào?

Chèo nhìn vào hộp cơm của một công nhân đang ăn dở, hỏi:

- Anh em ăn thế này đủ no không?

Cả nhóm:

- Dạ, đủ ạ.

Chèo nuốt nước bọt, tiếp:

- Khẩu phần thế này là đủ cờ phờ rôm típ, liu bít rồi (chắc Chèo muốn nói tới thành phần protit và lipit trong thực phẩm). Cũng nhiều ý kiến đề nghị tao đầu tư xây dựng lò bánh mì rồi mua sữa cho anh em ăn. Nhưng tao gạt. Chết đói! Sức thanh niên mà chấm chấm mút mút mẩu bánh mì, sao mà đủ sức vào lò! Nên tao quyết cứ cơm mà quại cho chắc dạ. Anh em thấy thế nào?

- Dạ đúng ạ.

- Chú Chèo tâm lí quá!

Chèo:

- Tâm lí cái đéo gì! Ngày xưa ở quê, tao đi đóng gạch, một bữa ăn bảy tám bát cơm với dưa còn thòm thèm. Sức thanh niên, tao còn lạ.

Nói đoạn, Chèo với cái điếu làm bằng ống cao su ( loại ống đẫn khí ép vào lò cung cấp cho máy khoan), đầu kia bịt đất, trổ một lỗ để nhồi thuốc, ngắm nghía:

- Chà. Sáng tạo đấy. Nhưng tao còn có loại điếu tiện lợi hơn nhiều.

Một công nhân:

- Điếu bằng nửa viên gạch ống khoét lỗ làm nõ, phải không ạ?

- Vứt!

- Cháu biết rồi.Điếu làm bằng vỏ chai lavi.

- Cũng vứt! Chúng mày xem này...

Nói đoạn, Chèo chụm bàn tay trái rồi nhồi thuốc lào vào khe hở tạo bởi ngón trỏ và ngón cái; môi ngậm vào khe hở tạo bởi ngón út và lòng bàn tay. Tay kia, Chèo châm lửa. Chèo rít. Thuốc cháy đỏ rực trong tay Chèo. Rồi Chèo nhả khói mù mịt trong tiếng vỗ tay của công nhân:

- Hoan hô chú Chèo!

- Chú Chèo giỏi quá !

Chèo:

- Giỏi cái đéo gì. Tao hút thuốc lào từ khi dái bằng hạt kê! À, tao có thuốc lá đây...

Nói rồi Chèo lấy bao thuốc Ba Số Năm đưa cho anh em:

- Chúng mày hút đi. Thuốc thằng bạn người Mỹ cho đấy. Thuốc lá xịn mang từ Mỹ sang chứ không phải ba số rởm bán đầy ngoài quán đâu nhá.

Chèo thường gọi mấy ông lãnh đạo và mấy ông Tây là thằng. Đám thợ bóc bao thuốc chia nhau. Người châm lửa hút, khen ngon; người dắt mang tai. Chèo nhìn xoáy vào mặt một thanh niên vẻ tiều tụy:

- Thằng Đang. Mày làm sao mà như thằng ốm đói thế hả?

Đang:

- Dạ, em có sao đâu ạ.

- Đừng hòng qua mắt tao. Mày bập vào con Nhàn rồi phải không?

- Thì sao ạ?

- Thì mày là con chó, hiểu chưa? Tao đưa mày vào đây để mày chí thú làm ăn ; mày góp nhóp tiền đi học cho mở mày mở mặt chứ để mày bao gái hả ? Tao biết hết. Mày hùng hục đi làm chỉ để để nuôi con bớp ! Nhục quá !

- Anh không được xúc phạm đến cô ấy

Chào túm cổ áo Đang. Ông Tạch già can. Chèo buông cổ áo Đang, nói:

- Thôi được, nể lời ông Tạch, tao tha. Lần sau mà bập vào ba cái trò tệ nạn là tao tống cổ về quê cho sướng, nghe chưa? Không chỉ riêng thằng Đang mà thằng nào cũng vây.Tao mà bắt được thằng nào cờ bạc, hút ít, đánh bớp là tao tống khứ về quê.

Ngừng một lúc, Chèo tiếp:

- Tao biết. Anh em ở quê ra, thiếu thốn tình cảm vợ con, gia đình.Vì thế tao đầu tư xây dựng cái nhà văn hóa đa năng kia. Mấy tỷ bạc đấy. Trong đó có ti vi, loa đài. karaoke, đủ cả. Anh em cứ vào đấy mà xem, mà hát. Thoải mái. Nhưng phải lành mạnh. Thằng nào mà dắt bớp vào, đừng có trách!

Tất cả:

- Vâng ạ.

Chèo hỏi ông Tạch:

- Tình hình dưới lò thế nào hả, bác?

Ông Tạch gãi đầu:

- Lò hơi bị yếu, nước nhiều. Nhưng tôi đã đã hướng dẫn chúng cháu củng cố, chắc chắn lắm rồi ạ.

Chèo:

- Tôi hoan nghênh!.

Ông Tạch:

- Ca này chúng tôi đã khai thác được một nghìn hai trăm tấn, vượt ba trăm tấn so với ca trước đấy sếp ạ.

Chèo:

- Tôi hoan nghênh!.

Ông Tạch:

- Chúng tôi còn tận dụng vì chống cũ nên tiết kiệm được hơn hai khối gỗ chống lò.

Chèo:

- Tôi hoan nghênh!

Ông Tạch:

- Chúng tôi còn tận dụng đá thải để chèn lò, tiết kiệm hơn ba khối gỗ nữa.

Chèo:

- Tôi hoan nghênh!.

Ông Tạch:

- Anh em đề nghị sếp thưởng để cổ động phong trào thi đua.

Chèo:

- Thưởng à? Chuyện vặt. Anh em làm tốt thì phải thưởng chứ.

Nói đoạn, Chèo móc túi lấy ra xấp tiền, mệnh giá 500 nghìn, cao hứng phát cho mỗi người một tờ. Tất cả ngạc nhiên, vui sướng rồi đồng loạt vỗ tay. Một công nhân không kìm được xúc động liền hô:

- Chú Chèo muôn năm!

Lập tức, tất cả đồng loạt hô vang:

- Muôn năm! Muôn Năm! muôn năm!.

Đến núi rừng Trường Sơn, thưởng thức món đọt mây

5:36 PM Thứ năm, ngày 15 tháng ba năm 2012- Chuyên mụcTin tức|Sự kiện hàng ngày |

Đến với núi rừng Trường Sơn thuộc huyện biên giới Tây Giang (Quảng Nam), bạn sẽ được thưởng thức các món ăn chế biến từ đọt mây (c'rêê, ha'vây) của đồng bào Cơ Tu.

Mây thường mọc ở các khu rừng thâm u trên dãy Trường Sơn, với hàng chục loài như mây song, mây nước, mây voi... Mây mọc thành bụi, có dây mây mọc dài hàng chục mét. Muốn lấy đọt phải

Mây voi là loại được ưa chuộng nhất bởi nõn ăn giòn, béo và vị ngọt, đắng nhẹ. Đọt mây được chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn như các món xào, hấp cơm, nướng chín với lửa than hoặc giã nát nấu với thịt khô (cá khô) trong ống tre là món canh ngon nhất của đồng bào. Đối với mây nước, chỉ cần có khoảng 20 đọt ngọn mây là vừa một nồi canh cho cả nhà ăn.

Đầu tiên, bóc lớp vỏ ở đọt mây ra, lấy nõn non thái và ngâm qua nhiều nước cho hết nhựa đỏ. Đến nước cuối cùng thì cho thêm chút muối cho bớt đi vị chát, sau đó chế biến các món ăn.

Người Cơ Tu dùng nõn mây xắt ra xào (ađiing) với mỡ hoặc dầu ăn, có hương vị rất riêng mà không có loại đọt cây nào có được. Món đọt mây nướng (bóh) được vùi dưới than hồng giống như nướng củ sắn tươi, có hương vị rất thơm, bùi và không dai vì còn giữ được nước. Đọt mây nướng ăn với muối hột giã với tiêu rừng (amất) mới "hợp gu".

Đặc biệt, món cháo bột sắn nấu với nõn mây của người Cơ Tu được chế biến khá cầu kỳ: Dùng sắn tươi bào ra bột hoặc sắn xắt lát phơi khô, sau đó bỏ vào cối giã thành bột để làm bánh hoặc nấu cháo (apưr). Lấy bột sắn hòa với nước nấu khoảng 8-10 phút cho cháo chín, khi nấu nhớ dùng đũa quấy đều để tránh khê, cháy, sau đó cho nõn mây, tôm, tép, ốc đá... và rau tươi (ađhớc hay anệêng), muối, mì chính, tiêu rừng, ngò tàu (abắt) là thành món ăn thơm ngon, khoái khẩu.

Người già đã rụng hết răng rất thích ăn món này vì không cần nhai. Những người già Cơ Tu bảo: "Nõn mây thường được đồng bào nơi đây dùng để giải độc rượu, trị đầy hơi, trướng bụng...".

Cua đồng kho củ sắn

12:39 PM Thứ năm, ngày 23 tháng hai năm 2012- Chuyên mụcĐời sống|Ẩm thực|

Đó là món ăn đã xa tít mù tăm. Chiều nay về quê, đi qua cánh đồng làng, thấy lơ thơ mấy con cua đang bò bên mép ruộng. Hương vị nồi cua đồng kho với củ sắn (người Bắc gọi là củ đậu) ngày xưa ùa về. Tôi với thằng cháu xắn quần lội xuống ngay.

Mấy chục năm rồi mới được sục chân vào bùn, cúi mặt sát chân lúa để bắt những con cua màu tím than. Đã nhất là bị... cua cắn, nỗi đau dịu dàng giống như được người thân mắng yêu vậy.

Chị Hai nhìn túi cua rồi nhìn những vệt bùn trên người tôi, nói không ngờ "phố xá" như cậu mà cũng nhớ món cua đồng kho với củ sắn. Tôi giã cua bằng cái cối đá mẻ quai. Xưa mẹ thường nói cái cối này, tuổi của nó lớn hơn tuổi của chị em tôi cộng lại. Chị Hai từ sau vườn đi vào với một mớ củ sắn. Chị lột vỏ, rửa sạch rồi xén thành từng miếng cỡ quân cờ. Chị vừa làm vừa nói giữa một rừng món ngon thành thị mà cậu còn mê món này là "thủy chung" đó. Bọn trẻ bây giờ đi xa về thường bĩu môi với những món dân dã làng quê.

Chị cho cua đã giã nhuyễn vào bịch vải rồi treo ở góc hiên, lọc lấy tinh chất, bỏ xác. Chị bắc nồi nước cua lên bếp khuấy nhẹ. Một lát, nước cua đã đông lại thành từng mảng.

Ngồi bên cửa bếp nhìn chị loay hoay, trong tôi hiện lên những mùa đông xa lắc, lạnh tái tê, mưa giăng trắng trời. Hai chị em tôi mỗi đứa một áo tơi, xách cái đụt ra đồng bắt cua. Có lần ham cua lớn, tôi thọc tay vào hang sâu và rút ra một con rắn nước.

Chị trút củ sắn vào nồi riêu cua. Nhúm muối hột, ít bột ngọt và mấy lát ớt cũng được cho vào ngay sau đó. Chị nói phải nêm ngay rồi cho lửa riu riu để củ sắn thấm no nê chất riêu cua và gia vị. Chị không đậy vung vì sợ miếng sắn mềm rục và nước sẽ không thanh. Khi riêu cua bám quanh những miếng sắn vàng nâu, nước ở đáy nồi quánh lại, chị nhắc nồi xuống rồi múc ra tô đặt giữa mâm cơm.

Cắn miếng sắn, tôi nghe âm ấm chân răng, nghe ngòn ngọt thanh thanh xen lẫn tí chua mặn hăng nồng. Hình như đấy là hương đồng, là vị dìu dịu của cây trái vườn quê. Hay một cái là dù đã "hóa thân", nhưng vị cua thì cứ chầm chậm "bò" trong từng miếng sắn, lắng trong từng miếng cơm khiến mùi thơm cứ mãi chùng chình.

Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì tại "hiện trường" không thấy cua đâu, nhưng người ăn vẫn nhận ra cái thơm ngon của cua trong cái ngọt giòn của miếng sắn. Đúng là "cặp đôi hoàn hảo".

Cơm Hến

Cái thuở ban đầu "cơm hến" nớ!...

Cơm Hến Huế cũng giống như tình cảm của người con gái Huế: Chắt chiu mà hào sảng, đơn giản mà thâm trầm.

Làm người Huế là một cái "nghiệp" vì nói như mấy o nữ sinh trường Đồng Khánh - những nàng tiên áo trắng dịu hiền, cắn cơm không bể cắn tiền bể tư - rằng: "Huế là quê hương đi để mà nhớ, chứ không phải ở để mà thương". Trái lại, biết ăn Cơm Hến Huế là một cái "duyên" vì dù ở bất cứ phương trời nào, cơm hến cũng là một tấm giấy thông hành tình cảm để cho những người có chút duyên nợ với Huế tìm về nhau mà chan, mà húp, mà nghẹn ngào và rơm rớm nưóc mắt vì...cay!

Không phải người Huế nào cũng biết ăn, thích ăn và ghiền ăn cơm hến, cũng như không phải ngưòi Bắc nào cũng khoái rau muống bảy món và người Nam nào cũng mê cá rô kho tộ. Ăn cơm hến có "ăn dòng" và "ăn theo". Ăn dòng là những người Huế chính thống, sinh ra từ miệt An Hòa, An Lăng, An Cựu, Bao Vinh, Vỹ Dạ, Chợ Dinh, Chợ Nọ trở vào thành phố, đó là những người mới sinh hôm trước, sáng hôm sau đã có o bán cơm hến gánh triêng gióng, nồi niêu ngồi lù lù ngay trước cửa nêm cơm hến rồi. Còn ăn theo là dân Huế thuộc phận gái chữ tòng hay thân trai dài lưng tốn vải từ quê lên tỉnh học hoặc trong Quảng ra thi rồi "lỡ bước sang ngang" mà ở lại đất Thần Kinh. Với những gã si tình nhưng tình không si lại mà gặp những trận mưa héo úa tâm hồn của Huế, thì cơm hến là cơm "phù thủy" và đây là đất Thất Kinh.

Nhất ẩm nhất trác còn giai do tiền định- ăn một miếng, uống một hớp đều có trời cao định đoạt- huống chi là cái sự... ăn cơm hến. Luận về cái tính tiên thiên tiền định trong cơm hến tôi cảm thấy đã đến lúc cần phải phát huy tinh thần "về nguồn" của một người con dân xứ Huế, nghĩa là thử nhớ lại mình đã tìm đến với cơm hến khi mô, như Ngưu Lang đã gặp và mê Chức Nữ trong trường hợp nào.

Làng tôi ở cách Thành Phố Huế khoảng 10 cây số. Quanh làng có đủ sông hồ ao lạch với nhiều loại hến trùng trùng điệp điệp, rứa mà chẳng hề nghe ai trong làng tự nấu cơm hến cả. Bao nhiêu hến bắt được đều đem ra nấu canh, nấu cháo và xào hến. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghe nam thanh nữ tú trong làng nói đến "cơm hến bên Cồn" một cách trang trọng và hào hoa như khi nói đến cơm ngọc Giang Châu hay cơm chiên Thượng Hải. Tuổi thơ, tôi vẫn mơ một ngày nào đó lên Huế học, được dắt tay một cô nàng áo trắng, đội nón bài thơ trên mái tóc thề thần thoại để hai đứa cùng qua ăn cơm hến bên Cồn.

Ngày đó tới, khi tôi 17 tuổi, học lớp Đệ Nhị trường Quốc Học. Tôi đến thăm nhà một người bạn cùng lớp ở vùng Chợ Xép, người bạn có cô em gái xinh xinh học ban C trường Đồng Khánh. Tôi thuộc loại con nhà nghèo, trai quê, học giỏi nên cũng dễ dàng lọt qua mắt xanh của mấy cô tiểu thư chợ Xép có bà già là tiểu thương chợ Đông Ba. Bởi vậy ngay hiệp sơ ngộ ra mắt, tôi đã được chiêu đãi cơm hến, sau khi bà già mời "phủ đầu" một cách rất chi là... Huế:

- Nì, buổi sáng con ưng ăn chi hè? Cơm hến hỉ?

Một thoáng, tôi nghĩ nhanh về hình ảnh cơm hến bên Cồn mà cảm thấy lặng người vì xúc động. Tôi trả lời, không phải với bà già đứa bạn, mà với một hình ảnh trong mơ nào đó:

- Điểm tâm mà được ăn cơm hến bên Cồn thì tuyệt.

Bà già khen một cách ngọt ngào làm tôi chột dạ:

- Ngó bộ con cũng rành ăn cơm hến dữ hí!

Bà bỗng cất tiếng gọi với vào bên trong:

- Út của mạ mô rồi? Ra kêu thím Bòng Cồn Hến gánh cơm vô đây con.

Có tiếng "dạ" nhỏ nhắn vọng ra từ bên trong. Rồi cô em gái người bạn học bước ra phòng ngoài, nơi có những "bậc rành ăn cơm hến" đang ngồi đợi. Thấy tôi, cô bé cất tiếng chào lí nhí, cái "lí nhí" chết người của những cô gái Huế.

Cái ngõ có hai hàng gia tàu xanh bỗng sáng lên vì màu áo lụa hồng và mái tóc dài vờn bay miên man của cô bé tìm cơm hến. Tôi chưa ăn mà đã cảm nhận được "răng mà cơm hến ngon dễ sợ!"

Thím Bòng đặt cả giang sơn cơm hến trên đôi vai gầy guộc của thím. Trời mùa hạ, nắng tháng tám nám trái bưởi, vậy mà thím vẫn mặc chiếc áo dài nâu, chân chạy, vạt áo dài bay lất phất. Lần đầu tiên tôi được tận mắt nhìn một gánh cơm hến truyền thống của Huế. Thực tế không lãng mạn và nên thơ như tôi tưởng tượng "trong cơm hến có xác sông Hương và có hồn núi Ngự". Gánh cơm hến nhỏ nhắn thế kia mà chứa đủ cả một giang sơn khói lửa đủ mắm ruốc tiêu hành. Một đầu là nồi nước luộc hến đặt trên bếp lửa có sức nóng vừa phải, nóng quá thì nồi nước bốc hơi mà nguội quá thì nước hến không đủ ấm. Đầu gánh bên kia là cả một "câu lạc bộ" thu nhỏ: "Tầng trệt" là thúng cơm, tầng hai là rau đủ màu, đủ loại. Tầng "chót vót" vừa ngang tầm tay người ngồi là cái trẹc lớn bày biện hơn chục cái chai, thẩu, tô, chén. Mỗi cái đựng một thứ gia vị đặc biệt; từ ruốc, muối, mè, ớt, bột ngọt, tóp mỡ đến hến luộc, hến xào, hến trộn... Quanh hai chiếc gióng mỏng manh vẫn còn chỗ để treo ba bốn cái đòn cho khách sang không quen ngồi chò hõ. Đặc biệt nhất là cái thau nước rửa chén cỏn con mà rữa hoài không cạn vì thím Bòng "chùi" nhiều hơn là rữa!

Bà mẹ người bạn giục thím Bòng:

- Thím làm cho một tô đặc biệt để đãi khách quý. Cháu ni ở miệt dưới làng nên ăn cơm hến rành rõi lắm. Thím gia đồ màu sơ sơ thôi, rồi để đó cháu Út nêm lại cho mặn miệng.

Thím Bòng nhìn tôi một phát từ đầu tới chân và vừa hỏi vừa chuẩn bị tô cơm hến:

- Rứa "chơ" cậu ở mô lên?

Tôi đáp không một chút e dè hay đề phòng gì cả:

- Dạ, con ở vùng Quận Hương Trà.

Nghe xong, thím Bòng cười tủm tỉm một cách bâng quơ mà kiêu bạt như ca sĩ Paris By Night cười ca sĩ Karaoké hát trong quán cóc Sài gòn. Thím phát biểu làm tôi giật mình:

- Dân miệt ruộng có người bạc "trốt" chưa biết cơm hến mặt ngang mặt dọc ra răng, rứa chơ cậu ni biết ăn cơm hến hồi mô?

Tôi liền trả lời ra cái vẻ anh hùng sành điệu mà sau nầy nghĩ lại, thấy mình u mê không thể tả:

- Dạ, con biết ăn cơm hến từ lúc mạ con mới đẻ.

Thím hỏi lại:

- Ngó bộ hồi nớ cậu bú sữa hến chơ chi nữa!

Biết là đang gặp đại chưởng môn cơm hến, tôi im re luôn. Bà già người bạn thắc mắc:

- Khi hồi thím nói chi hè? Dân ở miệt dưới làng không biết ăn cơm hến răng?

Thím Bòng lên giọng nói làm đày:

- Hử, khỏi nói cũng biết! Dân trưa ruộng ăn chắc mặc bền, ăn cơm hến vô, ra làm mạnh tay vài tráo là cái bụng xép ve, còn hơi sức mô nữa mà cuốc đất lật cỏ.

Câu trả lời rất bình dân học vụ của thím Bòng đã giải đáp được sự thắc mắc nhiều năm của tôi rằng, "Tại sao cơm hến thịnh hành quanh thành phố Huế và vùng phụ cận nhưng lại vắng bóng trên quê tôi?" Câu trả lời rõ ràng là tại vì cơm hến dễ tiêu, mau đói, không thích hợp cho những người làm lao động nặng như nông dân.

Thím Bòng miệng nói nhưng tay vẫn thoăn thoắt múc, trộn, thêm, bớt, pha chế để đưa tất cả hương vị chuẩn bị sẵn vào tô cơm. Nhìn bàn tay cần cù và vẻ mặt đam mê của thím, tôi có cảm tưởng đang xem nhạc trưởng của một giàn nhạc giao hưởng.

Cô em gái người bạn chừng như đã quen rơ "nhạc trưởng" sẽ điều khiển ban nhạc chơi tấu khúc nào tiếp nên đã lẹ làng đón tô cơm hến từ tay thím Bòng. Cô múc một chút nước từ trong tô và tự nhiên đưa lên miệng nếm "chíp" một cái ngon ơ. Tôi có thể nghe tiếng gió gào và nước cuốn chạy qua đôi môi chín mọng chúm lại tròn xoe của cô. Tôi có thể "nhìn" được hương vị của cơm hến qua nét mặt với cái cau mày, cái nhăn mặt, cái gật gù, cái đăm chiêu...của ngưòi nếm. Biết có người đang theo dõi từng động tác của mình, cô em quét một cái nhìn nhanh như điện. Tôi bắt kịp tia nhìn ấy và nói thầm trong bụng: " Nếu đời mà có em nêm cơm hến, tôi sẽ ăn cơm hến suốt 100 năm, mỗi năm 365 ngày và mỗi ngày 4 bữa!". Chừng như để mở màn cho ước mơ "hoang dại" đó, cô em đưa cho tôi tô cơm hến có sẵn cái muỗng sành mà em đã đưa lên môi, lên lưỡi nếm nhiều lần. Tôi nhìn cô em như muốn hỏi: "Em có muốn tôi ăn chung muỗng với em không?". Bà mẹ giục:

- Ăn đi con. Cơm hến phải ăn nóng, ăn xốc vác mới ngon. Để lâu cơm nở, rau xìu, hến nguội mất ngon.

Tôi "dạ" ngoan ngoãn, nhưng hơi ngỡ ngàng vì chưa biết cơm hến phải ăn như thế nào cho đúng điệu. Nhìn lớp ớt đỏ như phù sa sông Hồng phủ trên mặt tô mà tôi chột dạ. Đến nước nầy thì tôi hết đường lựa chọn. Đã trót lên ngựa thì phải ra roi nên tôi xúc muỗng cơm hến đầu tiên đưa lên miệng. Cảm giác tức thời là mùi thơm ngây ngất của các lọai rau, khế, chuối cây, chuối bắp hòa với vị ngọt mượt mà của nước hến, vị mặn nồng nồng của ruốc, vị béo ngầy ngậy của tóp mỡ, vị chua thanh thanh của khế, vị chát the the của chuối và nổi bật nhất vị cay quỷ khốc thần sầu của ớt tương. Muỗng cơm hến "khai hỏa" đối với tôi có một mùi vị nồng nàn vừa quen vừa lạ. Cái quen đến từ những chất liệu truyền thống của quê hương và cái lạ phát ra từ cách pha trộn và chế biến.

Muỗng cơm hến thứ hai vừa ăn xong hình như có một cái gì làm tôi chững lại. Một cảm giác nóng bỏng chạy dài râm ran từ cổ họng, lên hai mang tai, tràn qua mắt, trôi vào mũi. Tôi chợt nhận ra đây là cái cay ác liệt của ớt tương mà cả thím Bòng và cô em gái bạn tôi đã thi đua trỗ tài nêm vào tô cơm hến.

Muỗng cơm hến thứ ba đủ sức đánh tan những mộng mơ và thành sầu chất ngất trong tôi. Mồ hôi, nước mắt, nước mũi chan chứa chảy dài. Mẹ người bạn lên tinh thần cổ võ:

- Ăn cơm hến phải cay hít hà như rứa mới ngon!

Nhìn phần còn lại của tô cơm hến, tôi thấy mênh mông như biển hồ lai láng. Để rút ngắn con đường chịu đựng gian khổ, tôi nghiến răng nhắm mắt ăn một lèo sạch tô cơm hến như Kinh Kha phi ngựa sang Tần. Than ôi! hành động chạy làng nầy lại được diễn dịch như một người khát khao ăn cơm hến nhiệt tình. Mắt tôi muốn hoa lên khi nghe mẹ người bạn kêu thím Bòng: "Cho thêm tô nữa nhanh lên ăn cho kịp". Và, lòng tôi chùng xuống, sũng nước mưa Thành Nội, khi nghe cô em gái người bạn hỏi nũng nịu: "Em nêm cơm hến như rứa anh có thích không?". Tôi dám chắc rằng, cho dù Từ Hải với râu hùm, hàm én, mày ngài có sống dậy, cũng không đủ can đảm trả lời "không" với một người con gái Huế đã mở lời qua nét nhìn e ấp nhưng sâu thẳm, với đôi môi cười chúm chím và đôi má ửng hồng, cho nên tôi đã trả lời giống như mấy tỷ thanh niên đa tình mà dại dột trên trái đất nầy:

- Có, anh thích lắm!

Hậu quả của câu trả lời nầy là tôi bị "ban" cho một tô cơm hến nữa. Tôi chỉ kịp van vái: "Bà mụ ơi, cứu con với!". Trước khi bà mụ kịp ra tay cứu độ thì tô cơm hến long lanh màu ớt đỏ đã sẵn sàng trước mắt. Tôi ở trong tình thế phải giữ gìn tiết tháo của chàng trai nước Việt "thà chết chớ không hề lui" nên âm thầm lên phương án: Bước một là múc xác ăn trước cho đỡ cay và bước hai là húp một lèo cạn tô tới mô thì tới. Tiến trình bước một đang tiến hành đẹp như mơ thì bị bà mẹ bạn phát hiện:

- Người ta nói "khôn ăn 'nác', dại ăn xác". Cơm hến, phải ăn đều nước, đều xác mới ngon. Út mô rồi? Thêm cơm cho anh đi con!

Dưới sức ép đầy tình cảm thân thương của gia đình người bạn, tôi chỉ còn biết trân trọng chìa tô cơm hến lõng bõng toàn cả nước ra cho cô em thêm chén cơm đầy vào. Tô cơm hến lại đầy như xưa! Dẫu sao, tôi cũng phải đi cho trọn đường trần may ra thoát hiểm bằng cách ngồi nhích ra xa, hít một hơi thật sâu để nâng cao tinh thần chiến sĩ và húp một hơi dài cho đến khi nước cạn trong tô. Tưởng đã qua cơn sóng gió, ngờ đâu tôi húp kỹ quá, âm thanh nước cạn réo lên như hút thuốc lào đã làm bà mẹ bạn chú ý. Tôi chỉ còn biết kêu lên nho nhỏ "mẹ ơi!" khi nghe lời ra lệnh như điệu nhạc thúc quân của bà mẹ:

- Út ơi! Thêm nước và nêm đồ màu vô tô cơm hến của anh đi con!

Trên đường về lại, bụng tôi cồn cào vì quá tải cơm hến và cái cay giờ lưu lại một cảm giác tê tê ở đầu lưỡi. Giá như nhà thơ Thế Lữ có đi ăn cơm hến Huế lần đầu, thưởng thức cái cay và cái ngọt ngào của Huế thì cũng phải kêu lên:

Cái thuở ban đầu... "cơm hến" ấy,

Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên (!)

Bắt đầu làm quen với cơm hến Huế là kể như bị trúng độc hoa tình giống trong truyện kiếm hiệp, nghĩa là sẽ đi đến chỗ thích cơm hến Huế, thèm cơm hến Huế và ghiền cơm hến Huế cho hết cả một đời sau. Trúng độc hoa tình thì khó tìm ra thuốc giải, nhưng ghiền cơm hến Huế thì "giải" rất dễ. Muốn biết cách giải như thế nào, xin xem tiếp hồi sau sẽ rõ.

Người Việt trên đất Mỹ nhớ thịt heo

Lò mổ tại một trang trại trên đất Mỹ

"Nhớ thịt heo quá!" Nghe qua chắc bạn đọc cảm thấy lạ! Ở cái xứ sở mà siêu thị tràn lan, thực phẩm cũng bày bán tràn lan mà thịt heo là một trong những thực phẩm chủ lực thì cần gì phải nhớ.

Cứ đánh xe ra siêu thị làm vài ký, thậm chí thích thì vài chục ký về ăn cho đã, nhớ nỗi gì (?)

Thế nhưng với những ai đã từng sống trên đất Mỹ, có một chút tâm hồn ăn uống thuần...Việt thì mới thấy nỗi nhớ là có thực.

Thịt heo bày bán ở các siêu thị tại Mỹ quả thực rất nhiều, nhưng theo cách phân phối kiểu Mỹ, thịt heo từ trang trại được giết thịt, thông qua nhà phân phối để đến được siêu thị là một quá trình khá dài. Vì thế, để đến tay người dùng, những thớ thịt heo đó đã nằm trong phòng lạnh có khi đến cả tháng.

Xơi thứ thịt đông lạnh đó có người Việt nào lại không chạnh lòng nhớ đến món thịt, nấu lên còn ngọt vị tươi mềm ở Việt Nam? Đó là chưa kể người Mỹ không ăn các thứ lục phủ ngũ tạng của con heo (Nếu có may ra chỉ là món gan nhưng cũng đã được chế biến thành pate đóng hộp) nên cái món lòng heo muốn ăn cũng e rằng khó kiếm nơi đất Mỹ.

Thế nhưng người Việt vẫn có cách để làm được món lòng heo đầy chất Việt ấy ngay tại Mỹ. Nhớ hồi cuối năm ngoái khi sang Mỹ, tôi đến nhà Thắng chơi.

Thắng bảo: "Cuối tuần này, anh em mình đi kiếm con heo về nhậu chơi!". Nói thì đơn giản nhưng để có được buổi đi kiếm heo Thắng phải xin nghỉ ở hãng một buổi, lại còn phải vận động mấy người Việt ở gần cùng tham gia để giảm chi phí. Được cái dân Việt ở Mỹ đa phần đều có "nỗi lòng" với thịt heo tươi nên chẳng ai từ chối bữa tiệc trên.

Một góc trang trại nuôi lợn ở Mỹ

Sáng thứ 7, trời còn tờ mờ tối chúng tôi đã lên chiếc xe tải nhẹ của Thắng. Cùng đi với tôi và Thắng còn có Thanh- một "Đồ tể giết heo" theo lời giới thiệu.

Thanh ngượng nghịu: "Thì hồi ở Việt Nam tôi cũng chỉ biết làm heo sơ sơ thôi, qua đây làm riết lên tay, nhưng cũng không bằng mấy ông đồ tể ở bên nhà đâu!". Nơi giết heo là một trang trại chăn nuôi cách nhà Thắng gần 3 giờ chạy xe.

Trang trại rộng có khi đến cả vài hécta với những dãy chuồng liên tiếp nhau chứa có khi đến cả chục ngàn con heo. Ngay gần cổng trang trại là một lò mổ khá chuyên nghiệp với hệ thống ròng rọc, dao mổ điện, lò nấu nước sôi, những ống dẫn ga, dẫn nước được bày sẵn.

Thắng giải thích đây là một trong những nơi cung cấp thịt cho thị trường, hàng đêm đội ngũ công nhân sẽ giết cả trăm con heo tại đây để phân phối tới các siêu thị.

Nhưng ông chủ trang trại cũng thích kiếm thêm tí tiền tươi nên ai tới mua lẻ một vài con, ông cũng bán. Hơn nữa ông còn giúp người mua chế biến con heo theo yêu cầu mà không đòi hỏi thêm một chi phí nào cả.

Chúng tôi vào trại chọn con heo nhỏ nhất. Nói là nhỏ nhất thì nó cũng nặng cỡ trên 100 kg. Chỉ con nào, nhân viên lò mổ sẽ lùa con heo đó lên xe kéo, đưa thẳng vào trong lò mổ, treo ngược lên ròng rọc.

Có vẻ đã quen với những khách hàng người Việt, họ chọc và hứng tiết mà không cần hỏi một câu. Giao bình tiết có dễ đến cả 5 lít cho chúng tôi, họ nhanh chóng đưa nhúng nước, cạo lông rồi mổ bằng dao điện khá thành thạo.

Trao hết lục phủ ngũ tạng của con heo, họ cắt luôn con heo ra làm 5 mảnh. Tất cả chỉ bằng hệ thống ròng rọc và con dao điện với lưỡi cưa dài như cưa gỗ. Thế là xong nhiệm vụ của họ.

Giờ nhiệm vụ của chúng tôi là phải xử lý bộ lòng khá lớn này trước khi đưa về nhà. Thanh đã khá quen thuộc với vụ này nên thản nhiên lấy mấy cái thau lớn và vòi nước của trang trại, ngồi xuống một góc lò mổ cầu kỳ làm từng phần.

Phải nói hệ thống cống của lò mổ này được thiết kế khá tốt nên những phần thải ra đều biến mất ngay sau cú xịt nước. Chính vì thế nên khắp lò mổ đều không có mùi hôi, mùi khai vốn...rất đặc trưng ở các lò mổ thủ công tại Việt Nam.

Cạnh chỗ chúng tôi, 2 người khách mua đang xoay trần thui con heo bằng hơi ga. Thắng cho biết đó là những người gốc Secbia, họ cũng có thói quen đến trang trại mua heo sống như người Việt, nhưng sau khi giết heo, họ không mổ ngay mà để nguyên con heo và thui đến cháy bên ngoài.

Sau đó họ dùng đá mài đánh sạch da bị cháy và thui tiếp cho đến khi con heo chín hẳn, họ dùng dao lọc từng miếng ăn trực tiếp ngay góc trang trại.

Cả vợ chồng con cái cùng ăn, vừa ăn vừa hát khá vui vẻ. Những người hay đến trang trại mua heo còn có dân gốc Mexico, họ giết heo nhưng cũng không mổ bụng mà để nguyên con heo quăng vào trong cái hầm tự chế, đốt bên trên cho đến khi heo chín. "Nhưng chỉ có người Việt mới ăn cả bộ lòng thôi"- Thắng bảo.

Về đến nhà thì trời đã sang chiều, vợ Thắng đã đi chợ Việt Nam mua gia vị rau cỏ, chúng tôi cùng bắt tay vào làm. Đa số đều dân nghiệp dư nên phải loay hoay mãi đến hơn 4 giờ chiều, bộ lòng heo mới... ra tấm ra món. Cũng có dồi nướng, có tim gan phèo phổi, tai lưỡi luộc và một món không thể thiếu là tiết canh.

Lúc này, Thắng đã kịp gọi bạn bè người Việt tới. Chưa vào bữa nhưng mỗi người cũng cố rón lấy vài miếng lòng, miếng thịt còn nóng hôi hổi, vừa ăn vừa thổi.

Dù món chấm chỉ là chén nước mắm dầm ớt nhưng ai nấy đều xuýt xoa vì... ngon quá. Thân - một anh chàng mới qua Mỹ được hơn 1 năm và chưa bao giờ được ăn miếng thịt heo tươi nào tại Mỹ tặc lưỡi vì sung sướng: "Trời ơi! Thịt tươi ngọt, thơm quá. Được ăn miếng thịt này mới thấy ngày xưa ở Việt Nam sao mà sướng". Thân cứ hai tay hai miếng, vừa ăn vừa kể lể.

Ăn vụng trước nên khi dọn mâm nên nhiều người đã ngán, nhưng đâu hề gì, còn món tiết canh nãy giờ không... bốc được, giờ mọi người mới hối hả nặn chanh, xúc xì xụp. Một điều lạ là có nhiều phụ nữ ở Việt Nam chê tiết canh là thế, giờ qua Mỹ cũng từng chén, từng chén làm sạch sẽ.

Không thể thiếu rượu, một ly đưa cay cũng đủ cho mọi người ấm lòng với khẩu vị quê nhà. Và không thể nào thiếu được món cháo lòng từ nước luộc, tô nọ đến tô kia ăn riết mà chẳng ai than no.

Cuối bữa, những gì còn lại được mọi người chia nhau một gói đem về nhà cho những người không đi được. Với người Việt trên đất Mỹ, thứ đặc sản này quý lắm.

......

Thế nhưng từ ngày cúm heo tới giờ, các trang trại đều không cho người lạ bén mảng. Dù rằng thịt heo ngoài siêu thị vẫn ê hề nhưng khi ngồi với nhau, những người Việt vẫn than thở vì không thể kiếm được bữa thịt heo tươi. Một vài người nhớ lòng heo quá thì mua đại bộ lòng làm sẵn ngoài siêu thị của người Tàu.

Thế nhưng cũng giống như thịt heo, món lòng ở đây cũng ngâm lạnh cả tháng trời, người bán lại không biết cách xử lý, ăn vừa nhạt vừa thum thủm mùi nên chẳng có ai mua.

Trong những lúc trà dư tửu hậu, ngồi với nhau mấy người lại than thở: "Trời ơi! Biết bao giờ hết cúm heo để kiếm miếng lòng heo bây giờ?" Tất cả đều bảo nếu về đến Việt Nam, chắc chắn món lòng heo sẽ là món lựa chọn đầu tiên cho đã cơn thèm.

Nghề Thọc Huyết Heo Đến Mỹ

________________________________________

Tác giả: Nguyễn Lê

Sau khi tham dự Thánh Lễ nhà thờ, phái đoàn chúng tôi rủ nhau xuống hội trường của nhà thờ ngay dười basement thì được chứng kiến những đĩa tiết canh đỏ tươi điểm vài cọng húng quế xanh mát, lốm đốm những hạt đậu phụng rang vàng nhạt xen lẫn với những miếng gan màu nâu đậm. Đúng y chan những đĩa tiết canh mà 50 năm về trước tôi đã từng được thưởng thức tại Hà Nội, miền Bắc Việt Nam.

Món tiết canh, cháo lòng, lòng nhồi huyết, bộ lòng dồi tràng, gan, tim là những món ăn cổ truyền tổ tiên để lại nay tôi lại được nhìn thấy ngay tại hội trường của nhà thờ vùng Woodlyne, N.Jersey. Nhờ có ông cha xứ vui vẻ, đầu óc phóng khoáng đã khuyến khích và giúp đỡ bổn đạo, con chiên tình nguyện góp của, góp công tạo được một không khí, 1 cảnh tượng tấp nập ngay sau Thánh Lễ.

Vừa thưởng thức món tiết canh với bia Heineken Hòa Lan tôi hỏi thăm bạn bè thì được biết 2 vợ chồng ông bà chuyên nghề "thọc huyết heo" từ vùng Hố Nai Biên Hòa nhập cảng vào đất Mỹ món ăn cổ truyền dân tôc.

Hai ông bà năm nay sấp sỉ ngũ thập niên, cư ngụ vùng Pensauken, N.J. tác giả của 12 người con, vượt biên qua Mỹ theo diện con lai, thập niên 80 bằng máy bay sau rất nhiều lần thất bại, tính vượt biên bằng tàu bè.

Qua được đất Mỹ ngoài giờ làm tại hãng, những ngày cuối tuần ông bà lại tiếp tục hành nghề cũ mà ông bà đã thành thạo khi mới ở tuổi đôi mươi.

Tờ mờ sáng ông bà đã leo lên xe tới vùng ngoại ô của thủ đô New Jersey tỉnh Trenton để vào vựa nuôi heo do người Pueto Rico làm chủ. Vì ông bà đã quá rành nghề nên chủ vựa để cho ông đích thân được "thọc huyết heo"

Sau khi lựa 3 con heo mà theo ông giống tốt, thịt ngon ông đã đánh dấu bằng phấn trắng để chủ vựa cho giật điện bất tỉnh rồi cột chân dốc ngược đầu heo xuống . Ông đã thủ sẵn con dao thọc huyết dài khoảng gang tay đưa vào giữa cổ con heo, lưỡi dao nhọn đâm xuống tận tim heo, bao nhiêu huyết trong con heo chảy hết vào container ông đã hãm muối cho huyết không đông để ông chuẩn bị làm món tiết canh. Huyết của 2 con heo còn lại ông pha thêm nước để khi luộc, huyết heo mềm mại, ông làm món cháo huyết.

Sau khi thọc huyết, giữ được 2 thứ huyết đúng như ý muốn, ông để chủ vựa cạo lông heo cho sạch và xẻ con heo làm đôi, giao cho ông. Trong chốc lát ông bà đã phanh thây, xẻ thịt con heo ra từng món: nào thịt heo ba rọi, thịt mông heo, thủ heo, chân giò, thịt sườn coteletle và nhất là bộ lòng: tim, gan, dồi tràng.v.v...

Với 3 con heo mỗi tuần đem từ vựa về, ông phục vụ được 3 loại khách hàng. Thứ nhất là bạn bè, bà con lối xóm tuần nào cũng vác về nhà món thịt heo tươi , nào tiết canh lòng heo, nào thịt ba rọi kho tàu, món chân giò nấu bánh canh giò heo, sườn cotelletle ướp sả làm món cơm tấm bì sườn, đầu tai heo luộc lên phục vụ làng nhậu nhẹt.

Sửa soạn đủ mặt hàng vào ngày thứ bảy, sáng sớm Chủ Nhật sau khi tham dự Thánh Lễ ông bà đã bày hàng tại hội trường nhà thờ. Bạn bè bà con được dịp chia xẻ niềm vui bằng những món ăn khoái khẩu, hợp khẩu vị, ăn uống no nê còn take out đem về. Đặc biệt sau khi bán hàng, 2 ông bà đều cống hiến vào quỹ nhà thờ, nhờ vậy mà sinh hoạt tại nhà thờ rất sôi động, hào hứng. Các thanh thiếu niên con cháu của các bổn đạo được dịp gặp gỡ, tất cả đều coi nhau như anh em trong một đại gia đình.

Sau cùng khách tiêu thụ hàng của ông bà là những tiệm ăn bên thành phố Philadelphia, thành phố lân cận của tiểu bang New Jersey. Từ nay dân Philadelphia không còn phải bay sang vùng Little Saigon, quận Cam để thưởng thức món tiết canh lòng heo tại tiệm phở Nguyễn Huệ, hoặc tại tiệm tiệm cháo lòng trên đường Bolsa gần Thương xá Phước Lộc Thọ.

Ông bà hành nghề "Thọc huyết heo" này quý chuộng nghề nghiệp rất khác người là mỗi năm cứ đến dịp gần Tết ta, ông bà lại trở về nơi chôn nhau, cắt rốn mà ông bà trước khi ra đi có để lại 1 ngôi nhà 3 tầng cho họ hàng trông nom.

Ông bà lại trổ nghề "Thọc huyết heo" phục vụ bà con tại quê nhà bằng cách xẻ thịt heo nấu bánh chưng nhân dịp Tết, phục vụ làng nhậu bằng món tiết canh, đầu tai heo luộc, ruốc heo với thịt đông dưa chua.

Các con ông bà 12 nhân mạng nay đã tốt nghiệp kỹ sư làm tại các hãng xưởng, các nhà băng đầu tư, lại thêm 3 dược sĩ phục vụ tại các dược phòng đại tư bản như C.V.S, Walgreen, Rite Aid.

Các cô, các cậu khi không dám nối nghiệp nghề của bố mẹ vì khi nhìn thấy dòng máu đỏ từ cổ heo các cô cậu không còn hồn vía nào để mà tiếp tục sự nghiệp của bố mẹ.

Ông bà nay đã vui thú điền viên với căn nhà gạch ngay tại ngã tư đường. Thời giờ rảnh rỗi ông trông nom săn sóc ngôi vườn thiết kế xung quanh nhà nào hành lá, rau dăm, húng quế, húng lủi, đủ mọi loại rau, đủ mọi loại trái cây ăn quả cành lá xanh tươi, rậm rạp nhờ loại phân bón đặc biệt của ông do loài heo phế thải.

Thú vui của bà ngoài việc hãm tiết canh, luộc lòng heo là trông nom đàn cháu nội ngoại đông đảo mỗi khi bố mẹ chúng bận đi shopping.

Tết Đinh Hợi vừa qua, ông về Việt Nam làm được 2 việc mà ông bà rất hài lòng là phục vụ bà con tại quê nhà bằng món xả thịt heo ăn Tết và giới thiệu 3 gia đình người Việt tại Mỹ về trồng răng, sửa răng tại Việt Nam. Các ông bà bạn này than phiền là 2 hàm răng chiếc rụng chiếc hư, thưởng thức món tiết canh lòng heo của ông không còn thú vị như trước nữa.

Hai ông bà bạn thăm nha sĩ Mỹ. Họ cho biết mỗi chiếc răng cấy vào hàm trên dưới 10 ngàn đô một cặp. Hai ông bà phải nhờ nha sĩ cấy 6 cái vị chi mất toi 30 ngàn đô la. Nha sĩ tại Việt Nam tính có 1,200 đô 1 chiếc, 6 cái răng tổng cộng sấp sỉ gần 8,000 đô. hai ông bà bạn dùng số tiền sai biệt đi du lịch Úc Châu và Cambodge trong vòng hai tháng trời khi ở Việt Nam trong thời gian chờ nha sĩ khám và trồng răng.

Đến tuổi về hưu 2 ông bà bạn nữa đem 10 ngàn đôla, ông làm lại hàm răng giả tốn 1,000. Ông biếu bà con bên nội và ăn xài hết luôn 4,000. Bà xã ông cũng biếu bà con bên ngoại hết luôn số tiền 5,000 còn lại.

Tất cả trở lại Mỹ với 2 hàm răng đều đặn như hạt na, không phải che mồm che miệng dấu những chiếc răng sứt, chiếc vàng khè. Tất cả đều vui vẻ, cười nói vang nhà trong lúc thưởng thức món tiết canh lòng heo nổi tiếng hơn 30 năm từ vùng Hố-Nai, Việt Nam nay sang tận đất Mỹ tiểu bang New Jersey và Pennsylvania.

Khoai tây, gà Mỹ ở Tây Nguyên

QĐND - Thứ Năm, 25/08/2011, 21:15 (GMT+7)

QĐND Online - Đến Lữ đoàn Pháo binh 40 ( Binh đoàn Tây Nguyên), chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi được tận mắt thấy kho chứa khoai tây đơn vị mới thu hoạch củ to và tròn đều. Khoai tây là loại cây có nguồn gốc xứ lạnh và được trồng vào vụ đông ở miền Bắc nước ta, nhưng ở Tây Nguyên quanh năm nắng và gió, thời tiết nóng, đơn vị vẫn trồng được khoai tây năng suất cao.

Thiếu tá Phạm Văn Võ, Chủ nhiệm hậu cần cho biết: Lữ đoàn Pháo binh 40 là đơn vị đầu tiên trên địa bàn Tây Nguyên trồng được khoai tây năng suất cao. Xuất phát từ nhu cầu dự trữ rau, củ, quả phục vụ bữa ăn bộ đội trong mùa mưa và qua thực tế tham khảo cho thấy: Tây Nguyên chủ yếu đất đỏ ba- zan, tơi xốp; trong năm, nhiệt độ xuống dưới 25oc từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau, đây là khoảng thời gian phù hợp nhất cho khoai tây phát triển. Đơn vị đã mạnh dạn quy hoạch 1.000 m2 đất và mua khoai tây giống ở miền Bắc về trồng. Sau hơn 3 tháng chăm sóc, Lữ đoàn đã thu hoạch được hơn 3 tấn khoai tây. Với giá thị trường hiện nay, trừ chi phí, đơn vị thu lãi hơn 40 triệu đồng. Anh Võ cho biết thêm: điều cần chú ý nhất khi trồng khoai tây là phải bón lót nhiều phân chuồng hoai mục và bón lót nhiều vôi bột để chống mối ăn khi khoai tây ra củ. Đây là yếu tố kỹ thuật quan trọng quyết định đến năng suất, hiệu quả khi trồng khoai tây.

Cùng với việc trồng rau xanh phục vụ bữa ăn bộ đội, Lữ đoàn Pháo binh 40 còn đầu tư trên 100 triệu đồng để cải tạo một số khu nhà cũ thành chuồng nuôi gà Mỹ theo hướng bán công nghiệp đạt hiệu quả cao. Đây là giống gà thường được nuôi tập trung ở miền Bắc. Qua nghiên cứu, tìm hiểu đơn vị nhận thấy, giống gà Mỹ thịt thơm, ít dịch bệnh, chăm sóc đơn giản, sinh trưởng nhanh, thức ăn cho gà có thể tận dụng thức ăn dư thừa của bộ đội. Với khí hậu, thời tiết ở Tây Nguyên, có thể nuôi giống gà này quanh năm. Nếu chăm sóc tốt, sau 2 tháng, trọng lượng mỗi con gà nặng trên 4 kg, trừ chi phí, lãi từ 40- 50 nghìn đồng/con.

Với mô hình trồng khoai tây và nuôi gà Mỹ hiệu quả, Lữ đoàn Pháo binh 40 đã chủ động về thực phẩm phục vụ bữa ăn bộ đội và tạo nguồn thu ổn định cho đơn vị.

Bài, ảnh: Lương Thảo

Chợ "chồm hổm" trên đất Mỹ

Chợ "chồm hổm" trên đất Mỹ.

Với tôi, ở Mỹ sướng nhất là quanh năm chẳng ai dòm tới mình và mình cũng chẳng dòm tới ai. Tại Houston (Texas) tôi ở một mình căn hộ 4 buồng cư xá Golf Green, ra vào bấm code mở cổng như ba-ri-e xe lửa. Trộm đứng ngoài nhìn vào mà khóc. Có lần đi chơi xa vài ngày quên không đóng cửa, tưởng đồ đạc bị khuân hết, ngờ đâu chẳng suy suyển gì . Khu cư xá nằm trong sân gôn ngay giữa thành phố mà suốt ngày vắng ngắt. Mỗi tuần hai lần kéo thùng rác ra cửa, hoạ hoằn gặp hàng xóm giơ tay "say hello" rồi lại tụt vào nhà bấm nút hạ cổng sắt xuống là chẳng ai thấy ai. Vào dịp lễ như Tạ Ơn, Giáng Sinh, tết Dương lịch...nhà nào nhà nấy chăng đèn kết hoa ở ...ngoài cổng. Tối đến đèn bật sáng trưng nhưng tụ tập hết trong nhà, chẳng ai thò mặt ra nên đường xá vắng tanh. Hoạ hoằn mới gặp đôi vợ chồng già người Đài Loan bên hàng xóm dắt nhau liêu xiêu tản bộ trên con đường vắng.

Vào dịp giáp Tết, thời tiết Houston na ná như Sapa ở ta , rét có lúc không độ nhưng vẫn nắng vàng hoe và trời xanh ngăn ngắt. Trừ lúc phóng xe ra Fiesta ( chợ Mễ) mua thức ăn, suốt ngày tôi ngồi thu lu trong nhà hoặc ra vườn...sưởi nắng. "Khách" duy nhất trong ngày chỉ có...đàn vịt. Chúng sống ở hồ nước trong sân gôn. Con nào con nấy mập thù lù. Tôi thường đổ cơm thừa ra hàng rào cho chúng tới ăn thành quen, cứ gần trưa là kéo nhau đến "cạc, cạc" ỏm tỏi. Có hôm anh Hùng, bạn tôi ở khu Memorial, khu nhà giàu, tới thăm. Thấy tôi chơi với vịt, anh kêu lớn

Này chớ có xớ rớ tiết canh con nào mà chết đó..."

Tôi cười cười :

" Vịt hoang mà...của ai đâu mà lo !"

Hùng trợn mắt :

" Hoang cũng không được thịt. Dân ở đây biết nó gọi điện cho "county" là cảnh sát tới phạt liền..."

Thảo nào đàn vịt đông thế, con nào con nấy béo hú mà cả tháng chẳng thấy suy suyển. Dân nhậu quê tôi mà vớ được thì phải biết, cho lên đĩa hết...

Hùng nhìn ra khoảnh vườn trơ trọi rủ rê :

" Vườn rộng thế sao không mua ít cây giống về trồng ."

" Ở Mỹ cũng có bán cây giống ?"

" Người giống cũng có huống hồ cây giống..."

Thấy mặt tôi thộn ra, Hùng hớn hở giải thích :

" Giả dụ ông là chồng già, vợ còn trẻ, muốn có con nhưng ông lại hết con"cung quăng". No problem...nó sẵn sàng bán giống cho ông cấy vào bụng vợ. Giả dụ vợ ông bốn chục cái lá vàng rơi mà vẫn hám có con. No problem...nó cho ông thuê bụng để cấy giống của ông bà vào. Đẻ thuê ở bên này đã trở thành dịch vụ có giá đó."

Tôi nghe bùi tai, hôm sau theo Hùng leo lên xe phóng tới trại cây giống. Trại cách trung tâm chừng hơn nửa giờ chạy xe, rộng bát ngát, vừa bước chân vào đã hoa cả mắt vì các loại kỳ hoa dị thảo. Nào phong lan, nào cúc vạn thọ, nào mãng đình hồng, nào vạn niên thanh...Rồi cây táo, cây bưởi, cây cam....không thiếu cây gì. Khách mua cây chẳng khác gì mua đồ trong siêu thị. Cũng lấy một cái xe tự đẩy sâu vào vườn chọn cây . Ưng cây nào tự bưng lên xe. Chọn xong đẩy xe ra quầy thanh toán tiền. Nói thì gọn vậy nhưng vườn rộng mênh mông chia thành nhiều lô tuỳ theo các loại cây, đẩy xe toát mồ hôi mới rảo xong một góc. Hùng lôi tôi đi rạc cẳng mới chọn được hơn chục chậu, đẩy ra chỗ tính tiền, chủ Mỹ chặt hơn trăm đô làm tôi méo cả miệng :

" Í trời ôi... chỗ cây này ở Việt Nam giỏi lắm là 200 ngàn tức 15 đô chứ mấy."

Hùng càm ràm :

" Ông tiêu tiền ở Mỹ cứ quy ra tiền Việt thì đố ông dám mua gì. "

Tôi phì cười. Còn nhớ hồi mới sang đi chợ mua mớ hành 1 đô quy ra tiền ta là 16 ngàn, mớ thìa là 2 đô quy ra là 32 ngàn, nửa ký thịt bò 10 đô tính ra trăm sáu...mới sơ sơ vài món tính sang tiền Việt đã hết triệu bạc . Rồi ăn phở nữa. Chơi tô lớn, thêm cái hột gà cộng thêm tiền "bo" là mất đứt 12 đô gần 200 ngàn mà thua phở Nam Ngư Hà Nội là cái chắc. Sau tôi phải quên đi, không quy tiền Mỹ sang tiền Việt nữa mới dám đi chợ. Chợ Mỹ bao giờ cũng đắt hơn chợ Việt. Chợ Việt lại đắt hơn chợ Mễ. Thế là cứ nhằm chợ Mễ mà mua dù rau cỏ không phong phú bằng chợ Việt.

Đánh xe ra khỏi trại cây, Hùng cười bí mật :

" Tớ có món này hay lắm...dám chơi không ?"

Mắt tôi sáng rực :

" Thịt chó hả ?"

" Oh My God...vợ tớ có chân trong hội animal right..nó thì giết...thì giết..."

" Tiết canh dê à ?"

Hùng cười hô hố :

" Gần đúng. Tiết canh vịt. Lòng lợn mắm tôm. Và còn cái này nữa mới độc ..."

Tim tôi đập thình thịch :

" Rươi hả ? ối trời ôi chả rươi vỏ quýt ..."

Hùng lắc quày quạy :

"Mùa này kiếm đâu ra rươi ? Lá húng...húng Láng hẳn hoi..."

Tôi giật mình :

" Ấy chết...hải quan Mỹ khám được phạt mấy chục ngàn tội mang cây cỏ vào Mỹ đó..."

" Bà mẹ vợ tớ điếc không sợ súng. Biết ông con rể ham ăn nên giấu một mớ dưới đáy va li gửi baggage. Nào, lên đường ..."

Hùng hăm hở đánh xe chạy xa khỏi thành phố. Xe rẽ vào một cánh rừng thưa , băng qua cổng một khu đất có vẻ trang trại rồi dừng trước ngôi nhà gỗ. Chủ nhân trạc ngoài 50, vạm vỡ lực điền reo lên mừng rỡ :

" May quá vừa xong xuôi hết. Xin mời vào..."

Phòng khách sơ sài với bộ bàn ăn, cái bếp ga chẳng khác gì vùng quê Việt Nam. Ông chủ mở tủ lạnh bưng ra một đĩa tiết canh đỏ lự và một đĩa thịt vịt chặt khẩu mía. Ông vỗ hai tay vào nhau vui vẻ :

" Tế sớm khỏi ruồi...xin mời...xin mời... "

Hùng rót rượu ra ly, giơ cao :

" Nào...hai ông...một ông lính Bắc Kỳ...một ông lính Nam Kỳ...cụng ly với nhau trên đất Mỹ để hoà hợp dân tộc ..."

Hoá ra Quân, chủ nhà, theo lời kể của Hùng, ngày xưa là đại uý Lữ đoàn 258 Thuỷ Quân Lục Chiến đã từng hành quân ở Ba Gia, Quảng Ngãi , Bời Lời Tây Ninh... Quân cụng ly tôi cái cốp, cất giọng :

" Ngày trước, hồi tôi còn ở đơn vị..."

Bất chợt Quân nhìn mặt tôi, hơi ngẩn ra rồi cười phá :

" Ông yên trí...tôi không kể chuyện "hồi ấy" tôi đóng chức gì, chỉ huy ở đâu , chiến đấu ra sao đâu ? Ông sang đây chắc nghe nhiều chuyện "hồi ấy" nên mới thoáng hai tiếng đó đã xanh mặt lại kìa. Tôi chỉ muốn kể chuyện "hồi ấy" tôi cũng đánh...tiết canh vịt nhưng lần nào cũng hỏng. Sau có thằng lính mách tôi muốn tiết đông đẹp, mầu sắc tươi rói, đại uý cứ nhỏ vào tiết vài giọt ...nước tiểu. Bí quyết nhà nghề đó. Quả nhiên thành công mỹ mãn..."

Hùng kêu toáng :

" Vậy rồi đĩa tiết này ông có áp dụng "công nghệ" đó không ?"

Quân cười lắc đầu :

" Đã sang Mỹ rồi ai còn làm trò man rợ vậy ? Tiết canh này tôi hãm bằng nước mắm với nước xôi đúng theo công nghệ các cụ ta."

Sau món tiết canh, vịt luộc chấm nước mắm tỏi, Quân bưng ra món lòng lợn mắm tôm và sau cùng là giả cầy ăn với bún. Chẳng khách sáo gì, cả ba chúng tôi chén chú chén anh, hăm hở lao vào "tiêu diệt" sạch . Tôi khoái nhất món giả cầy, thật không ngờ trên đất Mỹ cũng có giềng, có mẻ . Quân lắc quày quạy :

Không không...giềng thì có, mẻ thì không, tôi thay bằng...yaourt đó..."

Tôi ngạc nhiên :

" Yaourt...tức sữa chua ?"

Quân gật đầu :

" Chứ sao ? Anh ăn có thấy thua gì mẻ không ?"

" Bái phục, bái phục...còn hơn cả mẻ nữa kìa..."

Lúc chia tay, Quân có vẻ bịn rịn :

" Chủ nhật tới lại mời hai ông xuống đây xơi đặc sản ..."

Hùng vui vẻ :

" Xin nhận lời cả hai tay. Nhưng còn món gì nữa đây ?"

Quân long trọng :

" Lợn, bò, gà vịt ăn cả rồi. Tuần tới phải rờ tới món...quốc hồn quốc tuý..."

Hùng kêu to :

" Cày tơ ?"

" Đúng thế ...tuần tới xin đãi hai ông thịt chó..."

Hùng giơ cả hai tay lên trời :

" Oh My God...thiệt không ? Ông nói thiệt không ?

" Thiệt chớ sao không ? Tuần tới không có cái món "cờ tây" đó xin cứ đem đầu tôi ra chặt !"

Tôi thắc mắc :

" Thịt chó berger à ?"

Quân lắc quày quạy :

" í trời, ai thèm, gây bỏ mẹ. Tôi đãi hai ông cày ta đàng hoàng ..."

Ra khỏi nhà Quân, Hùng lắc đầu :

" Bên Mỹ này đa số sợ cholesterol , tiểu đường . Anh nào cũng kè kè cái máy đo. Riêng cha Quân này đớp xả láng. Tôm, cua, óc lợn...toàn những thứ dầy đặc cholesterol mà cha cứ chén tì tì..."

Tuần sau Hùng lại tới nhưng không rủ tôi tới nhà Quân ăn thịt cày mà lại đi tận ... New Orleans xa tới 6 giờ chạy xe. Quân bảo tới đó dự ngày Mardi Gras của dân Mỹ gốc Pháp rồi đi chợ "chồm hổm", đặc sản không đâu có của bà con Việt kiều trên đất Mỹ.

Tôi bùi tai OK liền. Thế là hai anh em trên một chiếc xe VAN phăm phăm chạy trên hệ thống xa lộ chằng chịt miền Tây Nam nước Mỹ. Hùng không thạo đường, bù lại anh có hộp định vị vệ tinh GPS toàn cầu ( Global Positional Satellite ) đi tới đâu có tiếng nói trong hộp chỉ đường tới đó, thật chẳng khác gì con ma xó. Hoá ra cái hộp quái quỷ này cũng không đắt lắm, bỏ ra $200 mua nó mình có thể chu du khắp nước Mỹ mà không sợ lạc. Đường xá ở Mỹ có hệ thống biển báo thật hết chỗ chê. Mấy ngày đầu cứ hoa cả mắt vì đèn xanh đèn đỏ nhưng dần dà rồi cũng quen hoá ra hệ thống tín hiệu giao thông chi li chặt chẽ đến thế này thì cảnh sát giao thông đến thất nghiệp. Quả thực chạy xe cả mấy tiếng đồng hồ, qua bao nhiêu là thị trấn, đường giao...mà chẳng thấy chú cảnh sát nào, thật chẳng bù cho Việt Nam ta cứ ra ngõ là gặp mấy chú.

Hùng cho xe ghé trạm đổ xăng, bơm xe... tuốt tuột đều dùng máy tự phục vụ . Xem ra tiết kiệm nhân lực là một cố gắng lớn của người Mỹ. Chỉ những phần việc máy không làm hết phải có con người nhúng tay vào như làm cỏ vườn, dọn dẹp nhà cửa... mới phải dùng tới ... "người Mễ" sáng sáng tập trung đầy ở các "chợ lao động" gần công viên, cây xăng, đa số nhập cư lậu , Sở di trú biết thừa mà lờ đi vì nếu làm dữ lấy ai làm "cỏ vê" cho dân Mỹ ?

Tôi vào tiệm mua hai ổ bánh mì kẹp thịt rồi lại tiếp tục rong ruổi trên đường thiên lý. Gần tới thành phố New Orleans, Hùng chỉ tôi coi một mái vòm khổng lồ bên tay trái xa lộ :

" Superdome đó....sân vận động lớn nhất thế giới . Hồi bão Katrina dân Mỹ chạy vào đây tránh bão ..."

Hùng kể vào tháng 9 năm 2005, cơn bão Katrina với sức gió 170 km/ giờ, gây thiệt hại 300 tỉ USD - tức vượt quá chi phí Mỹ bỏ ra cho 2 cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq trong vòng 4 năm, ngay ngày đầu đã làm vỡ đê khiến New Orleans ngập sâu tới vài mét. Dù có lệnh cưỡng bức di tản, nhưng hàng trăm ngàn người vẫn mắc kẹt do không kịp hay không có phương tiện. Hai mươi lăm ngàn người phải trú tạm nhiều ngày trong điều kiện thiếu thốn và mất vệ sinh tại sân vận động có mái che Superdome này. Tôi ngoái nhìn cái mái vòm khổng lồ cố tưởng tượng ra cơn cuồng phong gào rú quanh đây.

New Orleans, dân ta gọi là Ngọc Lân, trung tâm công nghiệp và cảng biển, lớn nhất tiểu bang Louisiana, giữa bờ sông Mississippi và hồ Pontchartrain.Thành phố được đặt tên theo Philippe II, Công tước Orleans, công tước nhiếp chính Pháp,và là một trong những thành phố cổ nhất nước Mỹ. New Orleans có riêng một khu phố Pháp ( French Quartier) trong đó phố Bourbon với những ban công, đường phố mang dáng dấp "phố tây" cổ ở Hà Nội, san sát cửa hàng, cửa hiệu, khách sạn mang tên Pháp. New Orleans là cái nôi ra đời và phát triển của nhạc Jazz. Louis Armstrong, nhạc sĩ Jazz vĩ đại nhất của mọi thời đại chọn nơi này khởi đầu sự nghiệp âm nhạc lừng lẫy của mình từ những năm 20. Và lịch sử sơ khai thể loại nhạc này cũng được nghiên cứu và ghi chép đầy đủ nhất nơi đây chứ không phải bất kỳ nơi nào khác. New Orleans còn là nơi mại dâm được hoạt động hợp pháp với một số "Nhà Thể Thao" (tiếng lóng chỉ Nhà Thổ) thuộc loại tinh tế và lịch sự nhất nước Mỹ.

Hùng đưa tôi trọ một khách sạn nhỏ phố Bourbon. Mardi Gras là lễ hội đặc trưng của New Oleans với ẩm thực, hoá trang và nhạc jazz. Ngày mai mới lễ chính nhưng cả đêm hôm đó từng tốp du khách đã chơi nhạc jazz và nhảy nhót suốt đêm . Thành phố đã hồi sinh sau cơn bão Katrina, vào dịp này, ít nhất 23.000 phòng trong tổng số 28.000 phòng toàn thành phố đã có khách trọ.

Sáng sớm hôm sau, Hùng đánh thức tôi dậy xuống nhà ăn sáng "miễn phí" rồi đi chợ Pháp ( French Market) mua mấy thứ lưu niệm . Chúng tôi thả bộ dọc theo phố Crescent City dọc bờ sông Missisippy qua những đám hát múa, vẽ chân dung, thổi kèn...san sát hai bên đường. Cảnh sát đi ngựa xuất hiện nhưng không phải để dẹp trật tự mà chính là phô diễn một nét văn hoá đẹp cổ xưa . Ở vườn hoa tôi bắt gặp một đám các bà già hoá trang thành những cô gái "thi hoa hậu" trong trang phục áo tắm . Bia chảy như suối và các bếp nướng ngoài trời đủ món bốc khói nghi ngút. Quá nhiều đồ uống nhiều thức ăn khiến dân Mỹ phải chiến đấu với cái "dạ dầy" rất quyết liệt mà người vẫn béo phì. Quả thực cố tìm trong đám đông mà hiếm thấy cô gái nào ở tuổi thiếu nữ lại có vòng 2 dưới ...1 mét. Nghe tôi phàn nàn, Hùng bật cười :

" Thiếu nữ mình ve dáng liễu phải ở New York hoặc Washington DC trong Mỹ quý tộc mới có nhiều kìa..."

Đi bộ mỏi chân mới ghé quán Cafe du Monde - trung tâm văn hoá Pháp ở French Quartier này. Phải chờ mãi mới có chỗ ngồi để vừa nhâm nhi ly cà phê vừa thưởng thức một dàn nhạc jazz chơi hết mình. Lúc đứng dậy, ngoài tiền cà phê, tôi tự nguyện móc túi trả thêm $20 nữa để được nhận bộ ly kỷ niệm của quán cà phê nổi tiếng thế giới dẫu rằng cũng chẳng ngon hơn cà phê Ban Mê Thuột là mấy .

Sáng hôm sau trước khi rời New Orleans chúng tôi ghé khu Versaille, nơi tập trung đông bà con Việt kiều. Hùng chạy xe chầm chậm theo con phố ven biển. Khu trung tâm sầm uất đã lui lại phía sau. Vết tích của cơn bão năm trước dần dần lộ rõ. Hai bên đường những dãy nhà, những công xưởng , những trạm xăng ...đổ nát vẫn bỏ hoang. Có rất nhiều người đã bỏ đi sau cơn bão và không quay trở về . Chúng tôi đi qua một thị trấn hoang vắng và đổ nát, ghé một xóm nhỏ ven biển. Hoá ra cả một vùng dân Mỹ bỏ đi hết nhưng dân Việt mình vẫn trụ lại. Những đường phố vắng lạnh, tôi nhìn thấy biển phố mang tên Sàigòn trơ trọi bên dãy nhà hoang. Và rồi đột ngột trước mắt tôi là một xóm nhỏ. Đây là bà con dân chài trôi dạt mãi từ Vũng Tàu - Long Hải sang đây lập nghiệp. Cơn bão quái ác Katrina đã cướp đi tất cả - thuyền tàu, lưới đánh cá, cơ sở chế biến và cả nhà ở lẫn người đàn ông trong gia đình. Vậy nhưng bà con vẫn trụ lại. Trên một mảnh đất trống có rất nhiều người ngồi "chồm hổm" bày ra những mẹt hàng đủ loại nào gạo, nào rau tươi, nào tôm cá, cả những mặt hàng "thuần Việt" như bánh trưng, bánh tét, bánh cuốn thật không thể tưởng tượng lại xuất hiện nơi cùng trời cuối đất trên xứ Mỹ này.

Một bà mẹ áo nâu xồng, chít khăn mỏ quạ, run run giọng trong mưa lạnh :

" Bão làm tan tành hết trơn rồi. Giờ bán ba con tôm qua ngày . Con mua giùm má đi..."

Tôi nghẹn lời :

" Sao má không di cư sang Houston như những người khác ?"

" Má sang đây vài chục năm nay rồi. Mồ mả người thân cũng chôn đây rồi. Đời người đã một lần đi tìm quê hương mới. Đành trụ lại đây chứ còn biết đi đâu ..."

Hoá ra chợ "chồm hổm" nổi tiếng trên đất bão ở nước Mỹ là đây. Tôi bước đi trong xóm nhỏ đã thấy ánh đèn le lói trong những căn nhà dựng lại. Xóm đạo người Việt mình rồi sẽ lại hồi sinh, chiều chiều sẽ lại vang lên tiếng chuông nhà thờ, tiếng cầu kinh, tiếng trẻ thơ oe oe như thời trước bão. Ở nơi cùng trời cuối đất này tôi chợt thấy một cách hết sức cụ thể sức sống muôn đời bất diệt của dân tộc mình. Bất chấp bão tố, biển cả và muôn ngàn bất hạnh ...vượt lên trên tất cả vẫn là sức sống mãnh liệt của con người, con người Việt Nam

Đau lòng cảnh săn bắt khỉ

Ở Việt Nam từ lâu đã tồn tại một đội ngũ săn bắt động vật rừng hoang dã chuyên nghiệp. Nhiều người trong số đó săn bắt theo kiểu cha truyền con nối, họ có những kinh nghiệm sâu rộng, đáng nể trong lĩnh vực này. Rừng với họ là nhà. Như vậy, nếu lực lượng này còn thì sự biến mất một số động vật hoang dã chỉ là vấn đề thời gian.

Gian nan một cuộc vây bắt

Như bất kỳ cuộc săn bắt thú rừng nào, việc đầu tiên của những tay săn bắt khỉ là phải lùng sục trong rừng để tìm dấu vết. Đó có thể là dấu tay khỉ khi leo trèo trên các thân tre, phân chúng trên mặt đất, những con đường chúng đi tạo nên trong rừng... Khi thấy các dấu hiệu trên, những tay săn bắt thú sẽ dùng bắp trái treo trên các bụi cây để nhử. Sau đó khoảng một tuần, bọn họ lên kiểm tra lại. Nếu phát hiện khỉ đã ăn bắp, họ tiếp tục treo bắp lần hai, rồi lần ba. Đến lần này thì họ làm thum để núp rình xem khỉ ăn bắp là khỉ cộc hay khỉ đuôi dài. Khỉ đuôi dài nhỏ con, dễ vận chuyển, lại có giá vì thị trường Trung Quốc ưa chuộng nên cánh lái buôn luôn khuyến khích các thợ rừng săn bắt. Mỗi con khỉ đuôi dài từ 2kg trở xuống có giá ít nhất 3 triệu đồng.

Với mục đích cho khỉ ăn no nê để chúng quen dần với lưới cước mà con người bao quanh nơi treo bắp, số lượng bắp treo lên có khi lên đến vài trăm ký vì phải treo lặp đi lặp lại nhiều lần và kéo dài vài tháng. Từ bên ngoài lưới, khỉ muốn vào ăn bắp phải đi qua những thân tre làm cầu do các tay săn bắt khỉ tạo ra. Cầu này được cột bằng một sợi dây chắc chắn, kéo vào thum nơi con người đang núp (đã nói ở bài 1). Khoảng thời gian núp đợi trong thum có thể coi là giai đoạn thử thách lòng kiên nhẫn của những kẻ săn bắt khỉ.

Bốn giờ sáng, tất cả phải thức dậy làm vệ sinh, để bảo đảm trong suốt ngày hôm đó không ai phải chui ra ngoài. Tuyệt đối không được nói chuyện, không được phát ra bất kỳ một tiếng động nào. Ăn uống, nấu nướng đều tuân thủ nguyên tắc "nấu không khói, nói không tiếng". Trong thum từng người một phân công nhìn qua một lỗ nhỏ để canh đàn khỉ. Mặc dù vậy cũng không dễ bắt được đàn khỉ. Bởi trước khi vào ăn bắp khỉ đầu đàn núp ở đâu đó ngoài rừng quan sát động tĩnh. Khi cảm thấy không an toàn, khỉ đầu đàn ra lệnh không được vào mà cả bầy ngồi im lặng hàng giờ quan sát. Cũng có khi khỉ đầu đàn quyết định một mình vô ăn bắp, vừa ăn vừa dọ thám tình hình. Nếu nguy hiểm thì chỉ một mình nó gánh chịu, cả gia đình khỉ vẫn bình yên. Còn như sớm phát giác nguy hiểm đang rình rập, khỉ đầu đàn sẽ dẫn cả đàn đi luôn vào rừng sâu nhiều ngày không trở lại. Trong trường hợp này, cuộc vây bắt tốn kém coi như thất bại.

Biết ác nhưng vẫn làm

Khi những thước phim tư liệu Tội ác rừng xanh hoàn thành, tôi có đưa cho người thân, bạn bè xem thử. Rất nhiều ý kiến lên án hành vi tội ác rùng rợn của đám thợ săn, thậm chí đòi trừng phạt. Nhưng tôi lại có ý nghĩ khác. Với kinh nghiệm hơn mười năm lang thang trong rừng để chụp ảnh động vật rừng, tôi biết thợ săn chỉ là những nông dân địa phương nghèo.

Để săn bắt được động vật rừng, họ phải ở chui rúc trong rừng, nhiều người bị sốt rét hành và mắc các loại bệnh tật khác. Vì miếng cơm manh áo, họ phải mạo hiểm, đã có nhiều "sát thủ" rừng xanh tâm sự thật lòng rằng do sinh kế nên họ phải làm cái nghề mà chính họ cũng cho là độc ác. Trong thực tế họ chỉ làm giàu cho những kẻ mua bán động vật hoang dã mà thôi, còn họ mãi mãi là những người nghèo khó, quanh năm túng thiếu.

Ăn của rừng...

Tận mắt chứng kiến những kẻ săn bắt thú rừng thản nhiên giết hại loài khỉ, nói thật tôi bất lực và cả giận nữa. Nhưng tôi giận những người kinh doanh động vật trái phép, giận những người sử dụng các sản phẩm từ động vật hoang dã hơn là giận những người đi săn.

Cuộc sống khốn khó khiến họ làm liều. Nhiều người trong số họ đã bị bắt. Đương nhiên làm sai thì luật pháp phải trừng phạt. Nhưng đừng coi đấy là giải pháp hữu hiệu, bởi bắt được người này sẽ lại mọc ra người khác. Giáo dục nhận thức và tạo thu nhập để người ta thoát nghèo, từ đó từ bỏ ý định săn bắn trái phép là giải pháp khả thi hơn. Chúng ta cứ quen nói, săn bắn là "ảnh hưởng tới đa dạng sinh học", nhưng thuật ngữ này xa xôi với người dân lắm. Hơn thế khi người ta nghèo thì người ta đâu có quan tâm. Phải giải quyết từ cốt lõi. Tại sao không sử dụng chính những người săn bắn động vật trái phép làm người bảo vệ động vật?

Chúng ta cần tìm đến họ, cần có một tổ chức nhà nước hoặc độc lập quản lý họ. Những nơi này sẽ thu phục, huấn luyện, truyền tri thức khoa học, giao trọng trách cho họ bảo vệ động vật rừng, hoặc được vay vốn để thay đổi cuộc sống, thu nhập của họ từ công việc mới sẽ đủ để nuôi sống gia đình. Nếu chúng ta sử dụng họ làm người giữ rừng, trả lương cho họ, tôi nghĩ đấy sẽ là những người giữ rừng tốt nhất. Họ biết đường ngang ngõ tắt của rừng. Họ mà bảo vệ, đố ai ho he được! Trước đây tôi từng viết thư cho một tổ chức nước ngoài xin tài trợ cho một dự án biến những người phá rừng thành bảo vệ rừng, nhưng không được hồi âm...

Sau đây là một số hình ảnh đau lòng của gia đình nhà khỉ:

Bữa cơm toàn đặc sản được lấy từ sông suối vùng Phong Nha - Kẻ Bàng, nào là cá chình, tôm càng khe, rau tớn (một loại rau sạch như đọt cây dương xỉ)... nhưng cái sự "không nên ăn thịt khỉ..." của bạn khiến tôi không khỏi thắc mắc. Bởi từ lâu nó đã được dân nhậu vùng này mệnh danh là "G. Khỉ". Mê khỉ hơn mê gái, gần như ngày nào nó cũng ăn thịt khỉ, vậy mà hôm nay...

Hỏi thì sợ khiếm nhã, lần lừa mãi đến gần cuối bữa ăn, lấy tư cách là bạn tri kỷ tôi đặt vấn đề "sao hôm nay ông không ăn thịt khỉ?".

Bạn tôi cười nhăn nhở "ông thích ăn thì tí nữa đi chỗ khác, còn ăn ở đây không sớm thì muộn sẽ toi mạng. Khỉ ở các nhà hàng hầu hết là do người ta dùng bả chuột Trung Quốc để bắt về đấy".

Bạn tôi tiếp: "Đây là công nghệ bắt khỉ mới được phát kiến tại vùng này và hiệu quả hơn rất nhiều lần so với các phương pháp truyền thống như đặt bẫy hay dùng nỏ, súng đạn hoa cải.

Đặt bẫy, năm thì mười họa mới được một con, còn dùng súng săn thì cũng chỉ được vài con, nghe tiếng nổ là cả đàn chạy biến hết".

Theo bạn tôi, để bắt được nhiều khỉ người ta dùng bả chuột Trung Quốc, với liều lượng thật nặng, tẩm vào các thứ mà khỉ thích ăn như: chuối, khoai lang, cơm... đặt ở những vị trí khỉ hay tụ tập hoặc nơi trú ngụ của chúng. Khỉ là giống có tính bầy đàn rất cao, một con ăn thì kiểu gì cả đàn cũng ăn, thế là chết hàng loạt.

Đặc điểm của giống khỉ là dù có chết, chúng cũng lết về đúng nơi trú ngụ để chết, nên người ta cứ buổi chiều đi đánh bả, sáng ra chỉ cần đến một địa điểm để thu gom.

Mỗi nhóm đi đánh bả, kiếm được vài chục con khỉ là chuyện thường ngày, có khi lên đến cả trăm con. Có được khỉ người ta đem nhập cho các nhà hàng đặc sản, dùng không hết thì đem nấu cao hoặc ép khô bán cho dân nhậu. Món khỉ ép khô được dân nhậu ở vùng cao gọi là "mực khô".

Nhiều khỉ nhất vẫn là vùng núi xung quanh trạm kiểm lâm Trộ Mơợng, trên đường Hồ Chí Minh nhánh Tây, thuộc vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Ở đây mà dùng bẫy và súng thì xúc phạm các bác kiểm lâm, nên dùng cách đánh bả là an toàn, hiệu quả và không làm mất lòng ai" - Bạn tôi nói.

"Làm sao để phân biệt được khỉ bắt bằng phương pháp truyền thống và khỉ được bắt bằng đánh bả chuột Trung Quốc?" - Tôi thắc mắc.

Bạn tôi cười, sau cái nháy mắt, đứng lên nói ra vẻ thành thật: "Bà chủ đâu, có chú khỉ nào còn nguyên lấy một con để biếu bạn mang về xuôi nhậu". Bà chủ từ trong bếp chạy ra đon đả: "Bao nhiêu cũng có".

Bà chủ quán dẫn hai chúng tôi vào một gian phòng nhầy nhụa nước dưới nền, ở góc phòng là một cái tủ lạnh chuyên dụng khá to. Mở nắp, phía trong có 5 chú khỉ nhăn nhở, cứng đơ đông lạnh.

Xách một con lên, chừng 8kg, bạn tôi rỉ tai: "Xem cho kỹ, khỉ mà được đánh bả là trên người không hề có vết thương, toàn thân tím tái, còn nếu mổ ra thì toàn bộ nội tạng bị nát như tương".

Một vụ hành quyết hậu duệ Lão Tôn

Sau một hồi chê đắt, chê rẻ không mua, chúng tôi rút. Vừa ra khỏi cửa quán, bạn tôi hỏi "ăn thịt khỉ sạch nhé?". Tôi gật.

Chiếc xe lao thẳng theo hướng đường Hồ Chí Minh nhánh Đông chừng mươi phút là đến Khe Gát, thuộc xã Xuân Trạch (Bố Trạch), rẽ theo hướng nam đường Hồ Chí Minh nhánh Tây một lúc nữa, chúng tôi đến một xóm nhỏ nằm ngay cạnh trạm kiểm lâm Trộ Mơợng.

Ngôi nhà mà chúng tôi vào nằm ven đường. Nhìn những vật dụng trong nhà đều được dùng bằng các loại gỗ quý, cũng đủ biết chủ nhân của nó thuộc hạng đại gia...nhờ rừng.

Một người đàn ông chừng trên dưới 40 tuổi đon đả đón khách "nghe chú gọi điện có khách quý anh đã sai mấy thằng đệ lấy một con khỉ sạch về đây rồi, đang làm ở phía sau".

Nhấp một ngụm trà từ tay chủ nhà mời, tôi xin phép đứng lên để ra phía sau xem mọi người làm thịt khỉ. Một chú khỉ đực chừng 10kg, đã nhúng nước sôi và đang được hai người cạo lông nằm sóng soài trên nền xi măng.

Một trong hai người làm giới thiệu: "Đây là giống khỉ đuôi lợn vừa bị một thợ săn trong làng bắn được sáng nay nên còn tươi lắm". Tôi xin phép họ được quay phim, chụp ảnh, mọi người cười: "Anh cứ thoải mái, mình làm ở nhà ăn chứ phải buôn bán chi mà sợ".

Tận mắt chứng kiến cảnh hành quyết hậu duệ Lão Tôn tôi cứ gai lạnh dọc sống lưng. Sau khi nhổ sạch lông, trắng bạch như một đứa trẻ, chú khí được đưa lên lửa thui cho đến khi da vàng ươm rồi đưa xuống để mổ. Lúc này tôi mới nhìn kỹ, thì ra chú khỉ này bị một phát đạn ở ngực khiến máu đọng lại ở đấy rất nhiều.

Toàn bộ thịt được róc ra ướp với gia vị để nướng, tay chân và những thứ còn lại được cho vào nồi để nấu cháo. Một trong hai người làm có vẻ sành sỏi giới thiệu: "Em có thể làm được bảy món như cầy, nhưng nghe nói bác vội nên hôm nay chỉ làm hai món thôi".

Đang trò chuyện với chủ nhà thì món nướng được đưa lên. Mật khỉ được cho vào can rượu đế và cuộc nhậu bắt đầu. Hình ảnh chú khỉ trắng bệch như đứa trẻ nằm sóng soài trên nền xi măng khiến tay tôi run bật khi cầm đũa.

Chủ nhà vồn vả: "Ăn đi, kiếm ra khỉ sạch mà ăn trong thời buổi này là hiếm lắm đấy. Thi thoảng chỉ một vài tay săn trong làng "máu nghề" kiếm vài con về cung cấp cho dân sành nhậu như chúng tôi thôi".

Một lúc thì bốn bàn tay và chân được đưa lên. Nhìn những ngón tay, ngón chân, được để trong một cái tô sành khiến tôi rùng mình. Mọi người cùng ép: "Đây là thứ ngon nhất và bổ nhất của khỉ, ông là khách quý nên nhường ông thưởng thức".

Từ chối mãi không được, tôi đành cho một bàn tay vào bát của mình và trân trối nhìn nghẹn đắng. Mọi thực khách trên bàn mặt đỏ phừng vì ngấm rượu và bắt đầu bình phẩm về món khỉ "kích âm, bổ dương".

Khi chia tay, bạn tôi hỏi: "Cảm nhận thế nào?". Tôi cười méo xệch: "Ông không nhìn xuống gầm bàn à?".

Trở về Đồng Hới, tôi cứ vương vít mãi câu nói của bạn tôi khi chia tay: "Cố mà ăn đi, với công nghệ bắt khỉ bằng bả chuột như hiện nay thì mai mốt có muốn cũng không còn khỉ mà nhìn đâu".

TRUY SÁT HEO RỪNG & Dân Nhậu Tìm Mua Ếch Đồng, Rắn...

Theo báo Sài Gòn, gần đây, tại miền Trung, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, chẳng hiểu vì sao, nhất là trong giới kinh doanh rộ lên thông tin ăn càng nhiều heo rừng tài lộc vô càng nhiều. Chưa biết thực hư chuyện này như thế nào, nhưng heo rừng thì ngày càng mất dấu vì bị truy sát. Báo Thanh Niên ghi nhận hiện trạng này qua đoạn ký sự như sau.

Mới hơn 8 giờ sáng, hai quán chuyên bán thịt thú rừng ở xã miền núi Hòa Sơn, Hòa Ninh huyện Hòa Vang (Đà Nẵng) là T.B và H.Đ đã đông nghịt khách khứa đủ hạng, từ dưới phố lên. Nhiều chiếc xe ô tô bóng lộn đậu dày hai bên con đường hẹp dẫn vào quán. Với lợi thế gần cửa rừng và án ngữ đường vận chuyển thịt rừng các loại về thành phố, hai quán này không lúc nào thiếu các món ăn đặc sản như nhím, chồn, hươu, nai, mang, trĩ... Riêng thịt heo rừng thì lúc nào cũng ê hề. Bước vào quán, các cô tiếp viên không hề úp mở khi khách có nhu cầu dùng thịt rừng và đọc vanh vách từng món mà quán chuyên chế biến. Nào là heo rừng luộc chấm mắm cáy hay muối ớt xanh cay xè ăn kèm với đĩa rau sống xanh non; hay món heo rừng xào lăn; heo rừng nướng mọi... lúc nào cũng tươi roi rói.

Theo một số người dân sống ở địa phương, mỗi ngày hai quán nói trên tiêu thụ vài chục ki lô gam heo rừng. Ngoài hai quán này, ở xã H.B cũng có nhiều quán bán thịt rừng sẵn sàng phục vụ khách từ sáng đến tối. Ở các xã miền núi huyện Hòa Vang, quán M.H ở xã Hòa Phong cũng nổi tiếng không kém. Quán này nằm trên đường Quốc lộ 14B (cũ), lúc nào cũng đầy khách. Do nằm trên tuyến đường huyết mạch nối các huyện miền núi Quảng Nam như Nam Giang, Đông Giang, Tây Giang, Phước Sơn nên quán M.H không bao giờ thiếu thịt rừng! Hỏi một chủ quán chuyên bán thịt rừng vì sao khách hàng lại mê món heo rừng, ông này giải thích gọn lỏn: "Vì họ nghĩ lông heo rừng có 3 chấu tượng trưng cho ba chữ Phúc - Lộc - Thọ. Chỉ có vậy thôi...".

Để có tiết canh heo rừng thì chủ quán phải đặt hàng với các đầu nậu chuyển heo rừng còn sống xuống phố. Vận chuyển heo rừng về Đà Nẵng có ba con đường chính. Một theo đường từ xã Hòa Bắc đến Hòa Sơn xuống Quốc lộ 1A. Một theo Quốc lộ 14B từ các huyện miền núi Quảng Nam về Đà Nẵng. Ngoài ra, đường sông Cu Đê cũng thường xuyên được các tay chuyên cung cấp heo rừng ở Đà Nẵng chọn lựa. Heo rừng còn sống được trói gô, bỏ vào túi lưới, bên ngoài bọc một bao tải rồi nhét lên xe đò, lên ghe chở hàng hay dùng xe gắn máy chở xuống phố giao cho khách. Heo rừng rất hiếm khi bẫy được mà còn sống nên món tiết canh heo rừng trở thành quý hiếm đối với dân nhậu chuyên nghiệp. Nhiều người còn thêu dệt rằng, ăn một dĩa tiết canh heo rừng công hiệu tương tự như uống... Viagra.

Nhiều quán ở Đà Nẵng muốn tìm heo rừng sống cũng không phải dễ. Bởi thời gian gần đây, heo rừng bị truy lùng gắt gao nên phải lùng đặt bẫy tuốt tận rừng sâu mới có. Thợ săn khi bẫy được heo, nếu gặp con to trên 20 kg là giết chết, mổ lấy thịt mang về. Vì vậy, heo rừng dính bẫy mang về phố là loại nhỏ, chỉ từ 15 kg trở xuống. Heo càng nhỏ thì tiết càng ít. Và đây cũng là cơ hội để các quán hét giá khi khách có nhu cầu xơi một chén tiết canh heo rừng.

Trở lại với việc vận chuyển heo rừng sống về phố. Quy trình này hết sức khó khăn. Theo ông Đ.Th, ở thị trấn Thạnh Mỹ (Quảng Nam) một trùm cung cấp heo rừng sống cho các quán nhậu ở Đà Nẵng: "Vận chuyển heo rừng về xuôi nhờ xe chở khách. Nhưng phải nhét dưới gầm, bởi nước tiểu heo rừng rất khai và khó chịu. Người có nghề chỉ thoáng nghe mùi là biết ngay trên xe có chở heo rừng hay không".

Truy sát

Theo anh N.V.H, một chuyên gia săn heo rừng ở huyện Đông Giang, những năm trước, heo rừng nhiều, dạn dĩ kéo về hàng đàn, dễ săn bắn. Khi dân thành phố ghiền món heo rừng thì cũng là lúc người người, nhà nhà đổ xô vào rừng tìm diệt heo rừng, bất kể chúng còn nhỏ hay trưởng thành. Theo một đầu nậu ở Nam Giang, mỗi ngày có không dưới 50 con heo rừng bị tiêu diệt để đưa về Đà Nẵng. Anh H tâm sự: "Ngày xưa các thợ săn ngầm thỏa thuận với nhau chỉ bắn những con heo trưởng thành, heo độc thân. Nay do khan hiếm và có quá đông sát thủ nên hễ gặp heo là họ ra tay bất kể heo lớn, heo nhỏ. Thậm chí có những con heo mẹ vừa mới sinh con còn đỏ hỏn cũng bị bắn và xẻ thịt ngay tại chỗ".

Thịt heo rừng, ngày mỗi hiếm, nên giá cũng nhảy tưng tưng theo nhu cầu của thực khách. Giá một ki lô gam heo rừng mua tại đầu nậu đã vọt lên 150 ngàn - 200 ngàn đồng. Với heo rừng còn sống thì khỏi phải nói, giá cả bao giờ cũng ở trên mây. Mỗi chú heo rừng sống cỡ chừng 10 kg khi về đến Đà Nẵng có giá cao ngất ngưởng, từ 2 triệu 500 ngàn đến 3 triệu đồng/con. Giá cao vậy, nhưng không phải lúc nào đặt hàng cũng có ngay. Có lần phóng viênthử đặt hàng với tay Đ.Th ở Thạnh Mỹ. Ông này phán: "Phải chờ, bao giờ có sẽ điện. Hàng bây giờ hiếm lắm. Giá cũng phụ thuộc vào... thợ săn người ta có bẫy được mấy chú tầm tầm hay không". Dạo gần đây, khi heo rừng khó tìm thì người ta thường hay bắt heo rừng nuôi nhốt trong các trang trại để bán. Có rất nhiều cách để làm giả heo rừng, thường những tay cung cấp "tạo ra vết thương" theo kiểu đánh bẫy trên thân thể heo nuôi để lừa khách.

Dân Nhậu Tìm Mua Ếch Đồng, Rắn...

Lâu nay, khi muốn chế biến thật ngon, thật đúng điệu những món "hẩu" như ếch xào cà ri, lươn um, rắn bầm xúc bánh đa.v.v..., dân nhậu sành sõi thường không thèm "xài" thứ ếch nuôi, lươn nuôi bán đầy dẫy ở các chợ mà cất công mò ra vùng ngoại ô để kiếm cho đúng nguồn nguyên liệu hoang dã. Như ở gần cầu Bến Phân (quận 12) mới có vài người dân chuyên bán hàng tươi sống, nhiều nhất là ếch đồng (giá 70,000 đồng/kg, trong khi ếch nuôi bán ở các chợ giá 50,000 đồng/kg) và lươn sống ở ao, rạch với giá 60,000 đồng/kg (ảnh). Trong danh sách động vật hoang dã này còn có những giống "đặc sản" mắc mỏ hơn, như rắn nước (ri cá, hàm lức) và mắc nhất và ít có thường xuyên là rắn hổ hành, hổ đất, cạp nong... Ai cũng đồng ý là dù không to con, mẫy mình như loài được nuôi nhưng ếch đồng, lươn hoang bao giờ cũng cho thịt có vị ngon ngọt, đậm đà hương vị đồng nội. Hình trên: Ếch, lươn đồng thứ thiệt bán ở gần cầu Bến Phân (quận 12), ngoại ô Sài Gòn.(Photo VB)

Cách sơ chế: thịt rừng, rắn, rùa, bò, ốc, ếch, lươn, chim

Các lọai động vật nêu trên thụôc lọai tanh hôi, cách sơ chế và cách nấu tương tự như nấu các món làm thịt bò như: xào lăn, cary, ragout, rô ti, quay, đút lò, khìa, kim tiền nấu rựơu, xào các lọai rau cải, bao lá mướp (lá bạc hà, lá cách, mỡ chài....) xào sả ớt...

Tất cả các món nầy nguyên liệu chuẩn bị và cách nấu giống thịt bò, chỉ khác 1 vài món có thêm mắm tôm, đậu nành....

Tóm lại các bước chuẩn bị, cách nấu món chấm, rau kèm theo đều tương tự như thịt bò. Đặc biệt thịt rừng các món khô ngon hơn hết.

Cách sơ chế: đối với các lọai động vật hôi nhiều, trước khi thọc tiết cho con vật đó uống thêm 1 xị rượu đế, độ 15, 20 phút mới thọc tiết. Khi cạo lông, cạo vảy xong nên đập sả nhét vào bụng con vật đem nướng vàng (móc ruột rồi mới nướng ) hoặc chặt ra từng khối thịt lớn ướp gừng (hoặc củ riềng ) giã nhỏ pha với rượu, muối, đem rang vàng.

Lòng chà rửa bằng xà bông, hoặc muối, giấm (chanh) rử lại bằng nước lã vài lần để ráo nước. Bắc chảo lên bếp nóng lên khói, cho lòng vào xào vàng, dằn 1 ít nước mắm, rồi đem rửa lại bằng nước lã.

Khi ram (nướng) vàng ngâm nước lã độ 15-20p dùng dao cạo bỏ lớp đen. Rửa sạch vớt ra ráo nước. Bắc chảo mỡ nóng, sôi phi gừng (củ riềng) hành, tỏi, sả, ớt vàngchó trong các động vật lên xào, xào săn, sả đập dập cắt khúc, rượu đế, ngũ vị hương, muối, ngò, om, ngò gai, hành lá vào xào độ 5-7 p. Dội nước lã vào, đậy nắp, đun lửa to, sau đó hạ bớt lửa, đun đến khi mềm, nước cạn, xào vàng, lấy ra rửa lại bằng nứớc lã để ráo nước. Từ đó, chặt, thái, băm nấu các món.

Bầu Bí một giàn

Người xưa viết rằng, tha hương mà gặp người quen biết cũ là một trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghĩ, cần chi phải là quen biết cũ, tha hương mà gặp một đồng hương, cũng mừng đến lịm người đi chứ. Đó là trường hợp của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái thành phố Morris nhỏ bé, có dân số bảy ngàn người nầy, vào năm 1981. Tôi vì cơm áo, mà trôi dạt đến đây, gặp anh Hy. Việt Nam trong thành phố nhỏ hiền hòa nầy. Không quen biết trước, mà chúng tôi quý và thân thiết nhau còn hơn cả anh em ruột thịt. Gia đình anh Hy có năm người, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên gặp chúng tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt rưng rưng vì mừng, bà cứ vuốt ve lưng bàn tay vợ tôi mãi. Vợ tôi thân thiết ngồi ép sát vào bà.

Bà cười nói sung sướng, như vợ tôi là đứa con gái của bà thất lạc nhiều năm mới tìm lại được. Gặp người đồng hương là sung sướng thế đó. Chị vợ anh Hy thì không dấu được niềm vui, cười nói tíu tít, và nhìn hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm. Anh Hy hiền lành, ít nói, nhưng nụ cười trên môi nở mãi không tàn. Hai đứa con chưa biết gì, chạy nhảy, reo hò. Gia đình anh Hy sung sướng, chúng tôi cũng hân hoan mừng.

Một buổi tối, tôi đi làm về, được điện thoại của anh Hy, anh hớn hở báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia đình Việt Nam tị nạn đến thành phố nầy. Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà người Mỹ bảo trợ mới thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp đặt thì giờ, để cùng mấy người trong họ đạo đi đón người mới đến, vào thứ tư tuần tới. Tôi vội vã báo tin mừng cho vợ, và trong lòng nghe lâng lâng vui. Có thêm càng đông đồng hương, càng đở buồn, và thỉnh thoảng qua lại chuyện trò cũng bớt cô đơn nơi quê người. Vợ tôi bàn thêm, nếu thuận tiện, thì chúng tôi cùng đi đón gia đình Việt Nam tị nạn nầy cho vui, và tỏ cái tình thân thiết lúc ban đầu.

Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ tôi soạn nồi niêu, chén bát, ly tách, muỗng đủa, chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà tặng cho gia đình mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo trợ tiết lộ một tin tức gì về người sắp đến, chị vợ anh Hy vội vã điện thoại báo cho chúng tôi biết ngay.

Máy bay sẽ chở gia đình người tị nạn đến phi trường Chicago vào hôm thứ tư, lúc mười một giờ đêm. Hôm đó anh Hy bị cảm mạo, lên cơn sốt, thân nhiệt nóng hơn một trăm độ F. Hai ông bà người Mỹ bảo trợ kêu điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi tôi mới đi làm việc về. Họ yêu cầu tôi thay anh Hy, đi cùng họ, để đón người tị nạn mới tới. Bỏ tắm rửa, tôi ăn vội vã, để khởi hành lúc tám giờ rưỡi, phòng khi đường sá có gì bất trắc. Ông Mỹ bảo trợ tên là Gary có vợ là bà Eva, cả hai ghé nhà tôi để hướng dẫn và chỉ đường trên bản đồ. Tôi cũng run lắm, vì chưa bao giờ đi đến phi trường nầy, và thấy cái bản đồ ghi chằng chịt đường sá đan nhau, như cái nùi chỉ rối. Ông bảo tôi chạy bám sát xe ông, nhưng chưa được mười phút thì đã lạc nhau. Khi cách phi trường ba mươi dặm, thì xa lộ bị tắc nghẽn, vì chiếc xe vận tải hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị đóng hoàn toàn. Khi vào đến phi trường, tôi bị lạc đường hai lần, chạy quanh mãi mới vào được nhà đậu xe. Ông bà Gary cũng đi lạc, và đến sau tôi. Tuyết rơi quá dày, nên máy bay cũng đến trể. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề tên người chủ gia đình là Phan Ly, đưa lên cao trước cỗng đi ra của hành khách.

Thăm Trại Gà ở Austin, Texas

Các chủ trại gà gốc Việt hàng năm đang cung gấp cả tỉ pounds thịt gà cho thị trường Mỹ. Chỉ tại "khu tam giác gà" tại Austin, Texas, đã có hơn 100 chủ trại gà gốc Việt. Riêng một trại gà của ông Hiệp, rộng 60 mẫu, mỗi năm ra lò gần 6 triệu lbs, dzớt ngọt hơn 300,000 đô. Hiệp ngày nay đã là lão làng trong nghề chăn gà. Anh nói sẵn sàng hướng dẫn cho những ai muốn vào nghề... Đó là sơ lược bài viết.

Đỗ Tiến Bình Minh sinh năm 1952, khóa 29 Võ Bị Đà Lạt, cựu thuyền trưởng, là tác giả đã tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2001, với bài viết đặc biệt "Nghề Đánh Tôm Tại Texas" ký bút hiệu Bình Minh.

***

Tuần trước, tôi đi Austin Texas để dự tang lễ Linh Mục Nguyễn Thanh Hùng, người bảo trợ gia đình chúng tôi lúc mới qua Mỹ năm 1981. Nhân chuyến đi này tôi định ghé thăm trại gà của Nguyễn Văn Hiệp G29, bạn cùng khóa 29 Võ Bị. Trại gà này nằm giữa khu tam giác của ba thành phố lớn Houston, Dallas và Austin. Từ ba thành phố này lái xe đến trại chỉ mất từ hai đến ba tiếng đồng hồ, nên rất tiện cho các "Áp Trại Phu nhân" của trại đi về mua sắm.

Sau khi tang lễ hoàn tất, tôi đã bắt được liên lạc với Lê văn A ở Austin. May mắn cho tôi, Lê văn A, cũng bạn cùng khóa (Hắn tên A nhưng lại thuộc đại đội B) đang thất nghiệp nên sẵn sàng chở tôi vào thăm trại.

Chín giờ sáng, A đến đón tôi, trên xe có thân mẫu của A mới từ Cali qua chơi cũng muốn đi xem cho biết, mặc dù mắt của bà bị lòa.

Chúng tôi đến trại lúc 11 giờ 30 trưa sau khi ghé Mc Donald ăn sáng. Sở dĩ chúng tôi phải ăn một chút trước khi vào trại, vì sợ vợ chồng Hiệp quá bận rộn với công việc không có thì giờ để nấu nướng. Nhưng trái với điều chúng tôi suy đoán, đến nơi thì vợ chồng hắn đã tắm rửa sạch sẽ đâu vào đó, đang chuẩn bị món bánh cua nướng và nồi súp, cũng nấu với cua đãi khách. Chúng tôi hơi ngạc nhiên, vì cứ tưởng đến trại gà sẽ được đãi ăn món gà rô ti, gà cà ri hoặc gà xé phay... ai ngờ lại được đãi ăn món cua Alaska mà đáng lẽ chỉ được ăn khi đến thăm bè bạn làm nghề chài lưới. Có thể là vợ chồng Hiệp đã ngán thịt gà đến tận cần cổ, cho nên cứ tưởng ai cũng ngán món này như vợ chồng hắn.

Tay bắt mặt mừng, vì không mấy khi có khách phương xa đến thăm trại như vầy; hàn huyên một lát, Hiệp dùng xe truck chở tôi và A đi thăm khu chuồng trại.

Trang trại của Hiệp tọa lạc trên một miếng đất rộng 60 mẫu tây. Từ đường cái vào, có một con đường trải đá trắng phau trải dài đến tận cuối dãy chuồng để xe công ty có thể ra vào dễ dàng. Khu chuồng trại và khu nhà ở cách xa nhau năm trăm mét được khai quang sạch sẽ và bằng phẳng, cỏ mọc xanh rì, phần đất còn lại là rừng cây dầy đặc, nên không rõ đâu là ranh giới ngăn cách với trại gà khác, nếu muốn biết rõ phần đất của mình chắc phải nhờ city đến cắm mốc.

Cách đây bốn năm, đang làm ăn vui vẻ ở Westminster, không biết vì lý do gì, Hiệp vội vã khăn gói trực chỉ Houston.

Đã có nhiều lời đồn đãi trong chốn giang hồ và các bạn đồng khóa về lý do ra đi của chàng: Nào là y mới trúng số; nào là có một phụ nữ yêu chàng tha thiết, mà vì muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình nên y trốn lên nơi thâm sơn cùng cốc mà tu.... nhưng nay thì mọi sự đã rõ ràng. Chàng tuyệt tích giang hồ chỉ vì mê mẩn mấy em gà tơ trên rừng núi Texas.

Trại có sáu dãy chuồng, mỗi chuồng có chiều dài 500 feet và chiều ngang 60 feet được trang bị đầy đủ máng ăn và nước uống tự động, để gà có thể ăn suốt ngày đêm, mà không cần phải có người châm đồ ăn như kiểu nuôi gà cổ điển. Trại cũng có cả hệ thống sưởi, cũng như hệ thống giải nhiệt để điều chỉnh nhiệt độ thích hợp với thân nhiệt của gà giúp chúng mau lớn và không bị chết vì nhiệt độ quá khắc nghiệt của Texas (Trời nóng có khi tới 110 độ F và lạnh có khi xuống tới 28 độ F).

Có nhiều phương cách nuôi gà, nhưng đặc biệt có hai kiểu trại nuôi gà mà người Việt mình thích làm, đó là nuôi gà để lấy trứng giống (Tức là gà đẻ phải có trống để đem trứng đi ấp ra gà con) và nuôi gà thịt. Trại của Hiệp là loại thứ hai, chuyên nuôi gà thịt.

Khi chúng tôi đến thăm trại thì gà của Hiệp chỉ mới nuôi được khoảng ba tuần lễ, thế mà con gà đã lớn bằng con gà giò ở Việt Nam đã được nuôi hơn ba tháng. Một lứa gà chỉ nuôi đến bảy tuần là được bán, lúc đó con gà đã nặng đến 6 pounds. Gà lớn mau quá, không thể tin nổi, thế mà là chuyện có thật đấy!

Tôi tò mò hỏi Hiệp mua trại gà này hết bao nhiêu tiền. Hiệp cho biết trại mua cách đây bốn năm, với giá một triệu rưỡi. Tôi kêu lên:

- Bộ mày trúng số hay sao mà có số tiền lớn như vậy?

- Không ! Nếu trúng số thì tao đâu cần mua trại gà làm gì. Có một triệu rưỡi tiền mặt thì tao chỉ việc tậu một cái villa, mua một cái xe cho láng, tiền còn lại thì bỏ vô nhà băng kiếm lời, rồi ngồi không mà hưởng cho sướng cái thân già, chứ lặn lội vào đây làm chi cho mạt gà nó cắn.

(Con mạt gà nhỏ li ti như đầu kim, nó sống ký sinh dưới lông loài chim hay gà vịt, cắn ngứa gãi không kịp)

-Thế mày đào đâu ra số tiền đó?

- Tao có ba trăm ngàn (equity) nhờ bán căn nhà tao mua rẻ mười lăm năm về trước để đặt cọc. Số tiền còn lại ngân hàng cho trả góp mười lăm năm.

- Ồ! Thì ra là thế. Nếu vậy thì dân Cali có nhiều người có đủ điều kiện để mua trại gà lắm nhỉ.

- Đúng rồi, đa số dân trại gà ở đây là từ Cali qua.

-Nội ở khu vực quanh đây mày có biết có bao nhiêu người Việt mình mở trại không?

-Tao không có con số chính xác, nhưng chắc chắn phải có trên trăm trại. Hàng xóm của tao hai bên đều là người Việt Nam.

- Thế thì vui quá nhỉ, rảnh rỗi cứ rủ nhau vật dê, vật bò nhậu nhẹt với nhau còn gì thích bằng.

- Lúc đầu chưa đến tao cũng nghĩ như thế, nhưng sau khi nhận đất và bắt tay vào việc rồi mới thấy đó chỉ là điều mơ tưởng. Công việc bận rộn đến nỗi không có thì giờ để ăn cho ra bữa nữa thì còn đâu mà nhậu với nhẹt. Vả lại trong hợp đồng trại gà có ghi các trại chủ và nhân viên các trại nên hạn chế bớt việc đi lại thăm viếng nhau. Lý do là để tránh truyền nhiễm bệnh từ trại gà này sang trại kia.

- Mỗi trại cần bao nhiêu người điều hành?

- Càng nhiều càng tốt, nhưng lúc nào cũng phải có một người trong trại để đề phòng máy móc trục trặc đặng báo cho thợ sửa ngay kẻo để lâu gà không đủ nước uống có thể bị chết. Như trường hợp của tao đây, tao ở đây có một mình thôi, bà xã tao bả sợ mùi cứt gà nên theo đứa con trai ra phố ở, thỉnh thoảng mới nghé về ngó xem tao còn sống hay chết.

-Theo tao nghĩ, bởi vì mày tham việc, làm có mình ên nên mày mới bị bận rộn đến thế, có đúng không?

-Mày nói đúng, lúc đầu tao hùn hạp với một người khác, nhưng họ bỏ cuộc ngay từ lứa gà đầu tiên nên tao lãnh đủ.

-Sao mày không mướn người làm phụ?

Tao có thử một lần, mướn một anh Mễ Amigo phụ nhặt gà chết, nhưng ảnh làm ăn cẩu thả, cứ để sót gà chết, khiến gà bị nhiễm bệnh, nên từ đó tao cạch, làm lấy một mình cho chắc ăn, vừa an tâm vừa tiết kiệm được tiền. Nay thì tao quen việc rồi nên dù làm một mình tao cũng có rất nhiều thì giờ rãnh rỗi, bằng chứng là mày đến chơi với tao từ trưa đến giờ tao có phải làm gì đâu, nhưng cái vụ nhậu nhẹt lai rai với hàng xóm thì tao vẫn chưa có thói quen đó, mặc dù quanh đây họ vẫn làm như vậy.

- Mỗi ngày, với một hai người làm như trại của mày phải làm việc tới mấy tiếng mới xong?

- Tùy ngày, nhưng thông thường nếu máy móc chạy tốt thì chỉ mất độ bốn tiếng một ngày để nhặt gà chết rồi báo cáo cho hãng. Thời giờ còn lại thì làm việc nhà hoặc coi phim bộ. Những trại khác có nhiều người hơn thì họ thay phiên nhau làm việc, nên nhàn nhã hơn và có nhiều thì giờ để lên tỉnh du hí.

-Trại gà nào cũng chỉ có sáu chuồng thôi hay sao?

-Không nhất thiết là như vậy, nhưng thường thì sáu chuồng là đủ cho một gia đình làm chủ mà không cần phải mướn người làm. Có một chủ trại gà người Việt ở gần đây có tới sáu chục chuồng. Họ phải mướn hàng chục nhân công mới coi xuể.

-Tại sao mày không mua một miếng đất nhỏ hơn để cho đỡ tiền vốn đầu tư?

-Theo luật lệ của chính phủ thì mỗi nhà gà được xây lên, phải có ít nhất sáu mẫu đất bao bọc nó. Nhưng thường thì trại nào cũng có nhiều đất hơn với số quy định, có càng nhiều đất càng tốt, vì về sau này muốn khuếch trương trại gà lên thì mình đã có sẵn đất rồi. Phần nữa tiền mua đất không phải là vấn đề lớn, giá một trăm mẫu đất chỉ khoảng hai đến ba trăm ngàn đô la mà thôi. Tiền xây trại gà mới đáng kể. Một chuồng gà mới toanh giá bây giờ là 280,000 đô la.

Trời đất ơi! Một chuồng gà của mày còn đắt hơn căn nhà tao đang ở nữa đó. Lợi tức nhiều như vậy sao mày không cất một căn nhà ngói ở cho thoải mái, mà lại ở trong căn nhà tiền chế (mobile home) nhỏ như lỗ mũi này vậy.

-Bộ mày tính trù cho tao ở luôn trong xó rừng này hay sao! Bất cứ người nào khi bắt đầu mua trại, họ đều tính trả nợ ngân hàng cho hết mười lăm năm là ôm mấy triệu đô la về tỉnh tậu nhà, tậu xe rồi nghỉ hưu cho sung sướng, chứ có ai dại gì mà chôn suốt cuộc đời trong đám phân gà này đâu. Ở nhà tiền chế có cái lợi là tránh được thuế thổ trạch (Property tax) mà thuế này rất cao ở tiểu bang Texas.

-Bầy gà của mày còn nhỏ xíu như vậy mà đã đẻ rồi hay sao mà mày có trứng gà cho tụi tao vậy? Loại trứng gà gì mà lớn quá trời, còn to hơn trứng ngỗng nữa? Hay là trứng gà Tây.

-Bậy! Gà tao nuôi chưa kịp phổng phao đã bị người ta chở ra chợ bán mất rồi làm sao kịp đẻ trứng. Đây là trứng hai tròng nhặt ra từ trại trứng giống bên hàng xóm, loại trứng này không thể cho ấp được nên phải nhặt ra bỏ đi. Chủ trại tiếc rẻ giữ lại để đổi lấy báo đọc, hoặc tặng hàng xóm lấy thảo.

-Nè, cho tao hỏi mày câu nữa: Mày có thể cho tao biết một chút về trại gà trứng giống được không?

-Trại trứng giống là trại nuôi gà để lấy trứng cho mấy lò ấp. Cứ mấy con gà mái thì họ thả vào đó một con gà trống. Chuồng gà giống được thiết kế đặc biệt để mỗi khi gà đẻ trứng sẽ tự động lăn vào máng, rồi được tự động chuyển về căn phòng có máy đều hòa không khí, để sàng lọc ra trứng có trống và tốt, để công ty đem đi ấp thành gà con. Nuôi gà loại này công việc nhẹ nhàng hơn, nhưng mất nhiều thời gian và cũng cần đông người hơn, vì thế lợi tức của trại gà loại này cũng được trả cao hơn. Cái nguy hiểm của người làm trong trại này là lúc đi nhặt gà chết và trứng bị mắc kẹt trong chuồng, thường bị bọn gà trống tấn công, chắc chúng tưởng mấy ông này vào "dê đào" của chúng(?)

Mày có cho tao biết là lợi tức của trại gà có từ hợp đồng với Công Ty Sanderson Farm Inc.. Công ty cho hưởng 5 cents trên mỗi pound thịt gà bán được. Mày có tin là công ty họ đối xử công bằng và sòng phẳng với các chủ trại gà không? Ý tao muốn nói là họ có cho mình biết số cân đúng không, hay họ có thể báo cáo số cân ít đi để hưởng lợi nhiều hơn?

-Nếu làm ăn với người Tàu hay người Việt Nam mình có thể nghi ngờ điều đó, nhưng làm ăn với một công ty Mỹ thì mình phải nghĩ lại coi mình có sòng phẳng với họ không! Để tao kể cho mày nghe một trường hợp xảy ra như thế này: Tao có quen với một chủ trại gà ở gần đây. Anh ta nuôi gà rất giỏi, không biết bằng cách nào, gà anh ta nuôi rất mau lớn, cũng trong bảy tuần lễ gà của anh ta nặng tới bảy pounds trong khi gà những trại khác chỉ cân nặng có sáu pounds. Ai cũng cứ tưởng rằng công ty sẽ khen ngợi và cho anh hưởng thêm huê hồng. Điều không ngờ là anh lại bị công ty khiển trách vì đã không theo đúng hợp đồng. Anh đã để cho gà nuôi mập quá, gà mập thì có quá nhiều mỡ.

Điều đó có nghĩa rằng mọi việc đã được họ tính toán rất rõ ràng và chính xác, nhờ đó mình cũng có thể đoán được số lợi tức của mình qua số lượng gà sống và chết trong quá trình chăn nuôi. Trong bốn năm làm việc tao rất hài lòng với cung cách làm ăn của họ. Họ giúp đỡ tụi tao rất nhiều để đạt được số lợi tức cao nhất.

Bếp Việt trên đất Mỹ

lý do khác nhau cũng đều mang theo những gì thuộc về quốc hồn quốc túy. Một trong những điều thiết yếu nhất ấy là bếp ăn.

Người Hoa là cộng đồng gốc Á đến Mỹ sớm nhất, có những phố ăn uống kiểu Tàu nổi tiếng ở New York, San Francisco và Los Angeles.

Người Nhật, người Hàn cũng có những phố ăn uống của họ nhưng không hình thành một phố ăn uống rộng lớn như Little Sài Gòn của người Việt ở quận Cam mặc dù người việt đến Mỹ sau họ rất nhiều năm .

Phần lớn người Việt rời bỏ quê hương những ngày đầu đều không có tài sản đáng kể, chỉ nhờ vào sự cần cù để mưu sinh, chịu học, chịu làm để có ngày hôm nay: một Tiểu Sài Gòn trù phú, hoàn toàn nói tiếng Việt và ăn cơm Việt. Ngoài Tiểu Sài Gòn của quận Cam - California còn phải kể đến các phố người Việt ở San Jose, Houston,Washington D.C, Seattle...Bếp Việt đã được mang theo và luôn luôn đỏ lửa trong từng ngôi nhà và phố phường của người Việt ở Hoa Kỳ.

Trong những lần đến thủ đô Washington D.C, tôi được ăn cơm Bắc trong gia đình anh chị Hợp với thịt đông dưa chua, canh giò thìa là... ; ăn bún bò Huế với cách đánh ruốc tuyệt vời của chị Tuyết Nhung, bà xã hoạ sĩ Đình Cường; ăn cá nục cuốn với rau muống kiểu Nha Trang ở nhà chị Trương Vũ...

Nhưng điều đáng nói hơn tại đây là sự thành công vượt ra khỏi cộng đồng Việt Nam của hiệu phố 54 của anh bạn Lê Thiệp. Lúc tôi đến Mỹ lần đầu vào năm 1996, Thiệp đã có năm tiệm phở và tôi đã chứng kiến cảnh người Mỹ da trắng, da đen, da vàng xếp hàng vào ăn phở. Đây là món ăn Việt duy nhất đã chính thức đi vào đời sống hàng ngày của người Mỹ. Cũng từ sự thành công này của phở mà câu thành ngữ tiếng Anh " So far so good" đã được ví von thành "so phở so good".

Trở lại với quận Cam - thủ phủ của văn hoá ẩm thực của người Việt xa xứ, những phố ăn uống sầm uất nhiều ngôi chợ Việt đầy ắp hàng hoá dành cho bếp Việt đã chiếm lĩnh hoàn toàn một khu vực rộng lớn gồm các khu phố Garden Grove, Westminster, Santa Ana, Fountain Valley, Orange. Người Việt ở ngoài vùng thường về thăm Tiểu Sài Gòn để mua sắm ăn uống.

Bạn sẽ dễ dàng tìm thấy đủ loại mắm như mắm tôm, mắm thái, mắm nêm, mắm Phú Quốc...;các loại rau từ rau muống đến rau húng , rau ngổ... Các loại cá, có cả cá hấp kiểu Phan Thiết. Nếu bạn muốn nấu món bung có chuối già, bạc hà...

Thậm chí để cho món phở gà hoặc gà luộc lá chanh ngon như ở Việt Nam, người Mỹ gốc Việt đã có những trại nuôi gà thả và những nông trại trồng rau xanh ngay trên đất Mỹ để đáp ứng khẩu vị của người Việt. Có điều đất nào thì cây ấy. Rau ở đây xanh tốt và to khỏe gấp ba, bốn lần rau ở Việt Nam mà không phải bón phân.

Tuy nhiên, rau không thơm bằng rau ở Việt Nam, thịt bò thịt heo không tươi và ngọt vì đều bị đông lạnh. Ớt Mễ cay hơn ớt hiểm của Việt Nam nhưng lại không thơm, không giòn như ớt Huế. Món bung ở đây dở vì sườn non của heo Mỹ bị nặng mùi...

Người Việt đã tổ chức thật chu đáo cho từng loại bếp Việt để đáp ứng khẩu vị của từng cộng đồng nhỏ người Việt như người Huế, người Quảng Nam, người Bắc, người Nam... từ ăn sáng ăn trưa và ăn tối.

Ngày nay, người Việt định cư ở Hoa Kỳ hầu như không thiếu bất cứ một thứ gì để thực hiện bữa ăn Việt Nam theo sở thích riêng của họ, kể cả món tiết canh vịt. Chỉ có một món mà họ phải lén lút nấu nướng là " thịt chó".

Bếp Việt trên đất Mỹ ngày nay không chỉ mang ý nghĩa của sinh tồn của một bộ phận nhỏ người Việt xa xứ mà nó đã trở thành một bản sắc văn hoá sinh động, kiêu hãnh đóng góp vào bảng màu văn hoá Hoa Kỳ vốn đã phong phú bởi hàng trăm dân tộc khác nhau ...

Ẩm thực-" Món "Mộc tồn trong văn hoá ẩm thực Hàn Quốc [/green]

Cũng như người Trung Quốc, Việt Nam và một số nước châu Á khác, người Hàn Quốc rất khoái món "mộc tồn". Qua số liệu điều tra cho thấy, mỗi năm người Hàn Quốc giết tới 1 triệu con chó để thoả mãn món khoái khẩu này. Thịt chó đã trở thành "mỹ vị" trên bàn ăn của tuyệt đại đa số dân chúng.

92% đàn ông và 68% phụ nữ Hàn Quốc ở tuổi trưởng thành khi được phỏng vấn đã cho rằng thịt chó là một trong những món ăn ngon nhất đối với họ. Thế nhưng vì món mộc tồn này mà giải World Cup tổ chức vào tháng 6/2002 ở Hàn Quốc/Nhật Bản phải gặp trắc trở. Một số tổ chức bảo vệ động vật quốc tế đã vận động và gây sức ép để buộc chính phủ Hàn Quốc ra lệnh cấm ăn thịt chó. Lý do họ đưa ra là: ăn thịt chó là hành vi ngược đãi chó - một loài vật nuôi, bạn của con người. Sự việc đã trở nên rắc rối khi FIFA cũng đứng về phía những người bảo vệ động vật để gây sức ép với chính phủ Hàn Quốc. Đòi hỏi này của FIFA và những người bảo vệ động vật đã bị dân chúng Hàn Quốc phản đối mạnh mẽ. Họ cho rằng: ăn thịt chó là nét văn hoá ẩm thực của Hàn Quốc cần phải được bảo vệ, không việc gì phải khuất phục trước áp lực của người ngoài.

Tại sao người Hàn Quốc thích thịt chó ?

Theo các kết quả thống kê, thịt chó là thức ăn được sử dụng nhiều thứ tư ở Hàn Quốc, sau thịt lợn, thịt bò và thịt gà. Người Hàn Quốc đã nuôi chó để giết thịt từ nhiều thập kỷ nay, cũng như nuôi ngựa và lợn. Thịt chó trở nên quen thuộc với người Hàn Quốc vì nó đem lại cho họ nguồn protein mà họ thiếu vì họ không thể giết ngựa một cách tràn lan do con vật này có tầm quan trọng đặc biệt đối với công việc đồng áng.

Những người bảo vệ động vật cho rằng, ăn thịt chó là không thể chấp nhận được vì chó là một loại động vật gần gũi với con người. Nhưng lập luận này rất thiếu sức thuyết phục đối với đông đảo người dân Hàn Quốc bởi họ cho rằng như vậy cũng không nên ǎn thịt gà hoặc lợn bởi những con vậy này cũng được nuôi như gia súc.

Ngay ở Hàn Quốc, thói quen ăn thịt chó không phải lúc nào cũng được ủng hộ tuyệt đối. Vào những thời điểm nhất định, khi cần phải nâng cao thể diện quốc gia vì một lý do quan trọng mang tầm quốc tế, thói quen ăn thịt chó của người Hàn Quốc cũng gặp phải những hạn chế nhất định. Trong thời gian diến ra thế vận hội 1988 ở Seoul, chính phủ Hàn Quốc đã yêu cầu các chủ nhà hàng bán thịt chó tạm thời đóng cửa hoặc di chuyển sang các khu phố xa trung tâm. Với việc hàng trăn ngàn khách du lịch sẽ đến Hàn Quốc để dự World Cup 2002, một lần nữa những tranh cãi xung quanh món mộc tồn lại trở nên hết sức sôi nổi, thậm chí có phần căng thẳng.

Các món ăn chế biến từ thịt chó rất phổ biến ở Hàn Quốc. Nhiều người cho rằng việc ăn thịt chó bắt đầu từ thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, khi nạn đói lan tràn khắp nơi. Lúc đó, người dân giết chó ăn thịt chỉ để chống chọi với cái đói, giống như những chiến binh cổ xưa phải giết ngựa để ăn thịt. Dần dần, thịt chó trở thành món ăn quen thuộc và khi chiến tranh kết thúc, thói quen ăn thịt chó không những chẳng tàn lui mà ngày càng trở nên phổ biến. Các nhà hàng ngày càng nghĩ ra nhiều món ăn khoái khẩu chế biến từ thịt chó. Từ một món ăn chống đói, thịt chó trở thành một thứ đặc sản !

Tuy nhiên, nếu ghé vào bất cứ của hàng thịt chó nào ở Seoul và nói chuyện với ông chủ cửa hàng hoặc những thực khách đang say sưa thưởng thức một thực đơn toàn những món thịt chó, bạn sẽ nhận được những lời khẳng định như đinh đóng cột rằng thói quen ăn thịt chó bắt nguồn từ Trung Quốc và đã du nhập vào Hàn Quốc từ hàng trăm năm nay. Sự phổ biến của các món ăn chế biến từ thịt chó một phần còn do Hàn Quốc là một dân tộc đặc biệt quan tâm đến sức khoẻ mà thịt chó lại được coi là một món ăn bổ dưỡng. Niềm tin này cũng bắt nguồn từ Trung Quốc. Ý thức về vị trí độc tôn của người đàn ông trong xã hội Hàn Quốc cũng góp phần làm cho thịt chó trở thành món ăn đặc biệt trong ẩm thực của người Hàn. Phần lớn những người thưởng thức thịt chó là đàn ông và tương truyền, món ăn này có tác dụng đặc biệt đối với việc tăng cường sinh lực cho người đàn ông trong chuyện chăn gối.

Theo một trong những cuốn sách mà Hải thượng Lãn Ông, ông tổ của y học phương Đông để lại, thịt chó được coi là một vị thuốc quý: có tác dụng tốt đổi với lục phủ ngũ tạng, thúc đẩy tuần hoàn máu, tǎng cường khả năng sinh lý ở nam giới ... và nhìn chung là là bồi bổ rất tốt cho cơ thể. Theo quan niệm của người Hàn Quốc, thịt chó có tác dụng giải nhiệt mùa hè và giúp cơ thể tăng sức đề kháng với các loại bệnh dịch.

Tới Hàn Quốc, bạn vào một nhà hàng, gọi một đĩa lớn thịt nghi ngút khói và ngồi bên cạnh một bếp lò. Phía dưới tấm kính, cả thịt lẫn rau xanh và rau diếp cùng sôi sùng sục. Các vị cay của gừng, chua của dấm và bùi của dầu mè ngấm vào từng thớ thịt. Món thịt hầm này được dùng theo cách "sambap" của người Hàn Quốc, tức là dùng rau diếp gói miếng thịt và chêm thêm các gia vị cần thiết.

Ở Hàn Quốc, thịt chó thường được chế biến thành một món xúp có tên gọi là boshintang mà người dân nơi đây cho rằng rất bổ dưỡng cho sức khỏe. Món súp này hội tụ gần như tất cả các vị của các món súp truyền thống của Hàn Quốc, như món doenjang hay súp kim chi. Khác biệt duy nhất là trong món súp này có thịt chó. Những người bảo vệ món này cho biết khi ăn, một số người cảm thấy như họ bị lừa bởi vị của món thịt này rất giống với thịt ngựa. Trong khi đó, tập tục ẩm thực của người Hàn Quốc là phải cho người ăn biết họ đang ăn thịt gì. Hơn nữa, thịt chó lại rất thơm ngon và bổ dưỡng, và giúp bổ sung năng lượng cho một người đang phải chịu cái nóng khủng khiếp của mùa hè.

Thịt chó, theo một số người ủng hộ, bao gồm các enzyme mà trong cơ thể con người cũng có. Hơn nữa, thịt chó rất giống với thịt người, khiến cho nó trở nên khó tiêu hoá. Theo họ, đây chính là điều khiến thịt chó có khả năng phục hồi năng lượng cho người ăn.

Dù nguồn gốc của việc ăn thịt chó như thế nào, phần lớn người Hàn Quốc hôm nay tin tưởng một cách nhiệt thành rằng đây là một món ǎn bổ dưỡng vô cùng hiệu quả. Trong đơn thuốc điều trị, nhiều bác sĩ Hàn Quốc đã chỉ định việc sử dụng thịt chó cho bữa ăn hàng ngày để phục hồi sức khỏe cho các bệnh nhân sau phẫu thuật hoặc tăng cường sinh lực cho các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo.

Tất cả những yếu tố trên khiến cho người Hàn Quốc ngày càng ưa chuộng thịt chó. Xét về mức độ tiêu thụ phổ biến, thịt chó từ vị trí thứ tư đã tiến lên vị trí thứ ba trong những năm gần đây trong xã hội Hàn Quốc và hiện nay người Hàn ăn nhiều thịt chó hơn là thịt bò.

Người Hàn Quốc cũng hiểu rất rõ rằng, nhiều nước trên thế giới không chấp nhận thói quen ăn thịt chó của họ. Tuy nhiên, trên khắp đất nước nhỏ bé này vẫn có tới 6000 cửa hàng bán thịt chó và cùng với một số đông đàn ông thường xuyên đến thăm các cửa hàng này, còn rất nhiều người coi thịt chó như một thức thực phẩm bổ dưỡng hoặc thậm chí như một thức thuốc bổ và sử dụng chúng theo đơn thuốc của bác sĩ.

Mặc dầu, Hàn quốc đang tiếp tục đón nhận sự thâm nhập của các tư tưởng và thói quen phương Tây, nhưng truyền thống ẩm thực vẫn còn hết sức vững chãi nếu không nói là trường tồn. Thế hệ trẻ Hàn Quốc đang thay đổi rất nhanh, họ có thể nói tiếng Anh như gió, nhai singum suốt ngày, mặc quần jean và nghe nhạc Mỹ nhưng rất nhiều người trong số họ vẫn xem việc ăn thịt chó là một phần trong cách sống của người Hàn Quốc. Bởi thế bạn đừng ngạc nhiên nếu bước chân vào một quán ăn Hàn Quốc, gặp những thanh niên vừa nghe walkman vừa ăn thịt chó.

Chấp nhận hay không chấp nhận thói quen ăn thịt chó là quyền của bất cứ du khách nào khi đến Hàn Quốc. Họ có thể thưởng thức món ăn khoái khẩu này cùng với những người dân Hàn Quốc, hoặc có thể không chấp nhận và quay lưng bỏ đi. Nhưng điều đó sẽ không làm thay đổi đuợc thói quen của người Hàn Quốc.

Để tìm kiếm đồng minh trong cuộc đấu tranh bảo vệ món "quốc tuý" này, các phương tiện truyền thông của Hàn Quốc đã cho phát bài trả lời phỏng vấn của ông Lý Tân - Đại sứ Trung Quốc tại Seoul - về vấn đề này. Đại sứ Lý nói: "Văn hoá ẩm thực là một bộ phận của nền văn hoá truyền thống của một quốc gia. Trong vấn đề này, bất cứ quốc gia nào cũng không được dùng tiêu chuẩn của mình để áp đặt cho nước khác. Hiện nay thế giới là một xã hội đang đề xướng đa nguyên hoá. Vì vậy đặc điểm ẩm thực của Hàn Quốc cần được tôn trọng". Thịt chó cũng là món "mỹ thực" trong văn hoá ẩm thực Trung Hoa, phát biểu của đại sứ Lý Tân cũng là hành động đón trước để phòng ngừa một số kẻ giương chiêu bài bảo vệ động vật để quấy phá việc Trung Quốc tổ chức Thế vận hội Bắc Kinh 2008. Có vẻ một cuộc đấu tranh mới về quyền được ăn thịt chó bên lề các sự kiện thể thao lớn đã bắt đầu mở màn

Ăn thịt chó không có nghĩa là người Hàn không yêu chó ?!

Những chủ nhà hàng thịt chó luôn khẳng định chắc chắn rằng người Hàn Quốc phân biệt rạch ròi đâu là chó để ăn thịt và đâu là chó kiểng. "Nếu người Hàn Quốc chúng tôi ăn thịt chó thì đó là thức ăn chứ không phải vật cưng", Nam Sang-Min, chủ một nhà hàng, nói. "Người nước ngoài nên hiểu rõ rằng thịt chó là món ăn truyền thống của Hàn Quốc. Nếu họ thử nếm một miếng thịt chó thì biết đâu họ cũng sẽ thích nó". Ông Nam cho biết, từ khi nổ ra cuộc tranh cãi, việc kinh doanh thịt chó đã trở nên tiến triển hơn bao giờ hết. Nhiều chủ nhà hàng thịt chó ở Hàn Quốc đang ủng hộ những động thái của các nhà làm luật nhằm đưa ra một đạo luật hợp thức hóa việc kinh doanh thịt chó.

Hiện nay, ở Hàn Quốc đã và đang xuất hiện nhiều quán cà phê dành cho người yêu chó. Tại những nơi này, khách có thể vừa uống cà phê vừa đùa nghịch với những chú chó hiền hòa và thân thiện với con người. Hiện tại đã có khoảng 11 quán cà phê như thế đã được mở ra ở Hàn Quốc. Ngoài việc được phục vụ nước hay một chiếc bánh sandwich, khách đến những quán cà phê này còn có thể tham quan những "mỹ viện" nho nhỏ dành cho chó hoặc mua những đồ "chuyên dùng" như xích chó chẳng hạn. Họ cũng có thể mua thức ăn cho các chú chó mà họ cho ngồi bên cạnh trong khi đang ở đây.

"Tôi thích chó từ hồi còn nhỏ. Tôi luôn luôn dắt theo một con chó khi đi bất kỳ đâu" - Jeong Gwang-ho, 40 tuổi, chủ quán cà phê "Chó là bạn tốt của chúng ta" ở Ilsan phát biểu với báo Korea Herald. Quán của ông bắt đầu mở cửa cách đây sáu tháng và hiện nay mỗi ngày quán đón tiếp hơn 100 khách. Cá biệt vào những ngày cuối tuần, lượng khách trong ngày có thể lên đến con số 150. Tại đây có 25 loại chó cho khách hàng nhìn ngắm.

Tương tự như Jeong Gwang-ho, Jeong Jin-woo (không có quan hệ gì với Jeong Gwang-ho), chủ quán cà phê Bau House ở Hongdae, cũng bắt đầu công việc làm ăn của mình bằng sự yêu thích chó. Anh nói: "Tôi đã từng ăn boshintang, nhưng giờ tôi không ăn món này nữa". Chó không phải dùng để ăn thịt mà nên là những con vật cưng. Quán cà phê Bau House của anh hiện có 11 chú chó, bao gồm 8 chú chó thuần chủng, mở cửa phục vụ khách từ 2 giờ chiều đến tận nửa đêm. Gwang-ho khẳng định: "Nhiều người nước ngoài nghĩ rằng chúng tôi chỉ ăn thịt chó là không đúng. Nếu họ nhìn vào những bức tranh cổ, họ sẽ thấy chúng tôi cũng nuôi chó như là những con vật cưng trong nhà mình vậy".

Theo báo Korea Herald, cà phê có chó đang trở thành một nếp sống của người Hàn Quốc, một "phát minh" mới của một nền kinh tế đang phát triển mạnh và một quốc gia đang bùng nổ dân số. Hiện tượng này cũng chứng tỏ dân tộc Triều Tiên cũng có vô vàn "tình thương mến thương" đối với loài vật trung thành và dễ thương như chó. Người Hàn Quốc ủng hộ việc đấu tranh chống đối sự tàn bạo đối với các loài vật, nhưng không thấy có điều gì sai trái khi ăn thịt chó. "Đó là văn hoá ẩm thực của chúng tôi và dù ai có nói gì đi nữa thì chúng tôi cũng sẽ tiếp tục ăn thịt chó". Chúng tôi phân biệt rất rõ giữa chó cảnh và chó thịt. Đừng nghĩ rằng người Hàn Quốc tàn nhẫn đến mình buối sáng âu yếm vuốt ve chú chó cảnh còn buổi chiều thì cho vào nồi nấu súp. Người Hàn Quốc không bao giờ ăn thịt chó Bắc Kinh, chó Nhật hay các loại chó cảnh khác. Chó thịt được nuôi tại các trang trại giống hệt như nuôi gà, bò, lợn.

Việc người Hàn Quốc ăn thịt chó không có nghĩa là họ ăn thịt cả những con chó cảnh được yêu thương và chăm sóc cản thận. Sự khác biệt trong văn hoá ẩm thực thực ra cần phải được tôn trọng !

10 Con Vật Không Thể Tin Là Con Người Có Thể Ăn

10. Voi

Loài voi nguy hiểm nhất - voi rừng không chỉ bị săn bắt để lấy ngà mà còn để lấy thịt. Một con voi có thể cung cấp hơn 1.000 kg thịt - một gia sản nhỏ cho người săn nó. Điều này, cộng thêm với sự phổ biến của việc ăn thịt voi, càng làm cho vấn đề bảo tồn voi trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.

9. Khỉ Đột

Khỉ đột có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng cư dân bản địa của một số quốc gia châu Phi có ăn thịt khỉ thì không quan tâm. Ăn thịt khỉ đột (và tinh tinh) là một truyền thống lâu đời ở châu Phi và vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay.

8. Nhộng

Nhộng là thành phần chính trong một món ăn rất phổ biến tại Hàn Quốc. Lúc đầu, người ta sử dụng những con nhộng con bị thối, sau này chuyển sang chế biến nhộng đực vừa mới chết. Những con nhộng bị đập nát, bẻ vụn và chiên trong chảo dầu. Ở một số nơi, người ta đơn giản chỉ xiên que và chiên chúng lên (như trong hình).

7. Kiến

Kiến là một loại phụ gia phổ biến trong nguyên liệu làm bánh kẹo ở một số quốc gia. Ở một số nước khác, những con kiến lớn được chiên hoặc nướng lên, dùng làm thức ăn. Thành thật mà nói, điều đó có vẻ ghê ghê, nhưng đó chỉ là ý kiến của riêng tôi mà thôi. Nếu bạn muốn thưởng thức những con kiến ở Pháp thì bạn có thể mua chúng trong những thanh sô cô la.

6. Cá nóc

Thành thật mà nói, ai lại có thể ăn những con cá chứa độc chết người này? Thật sự là đã có người ăn thử từng bộ phận của con cá này để biết được rằng phần nào có độc, còn phần nào thì không.

5. Chuột

Điều này có thể không phải là một bất ngờ gì lắm bởi vì chuột được biết đến như là một thực phẩm chủ yếu ở các nước khan hiếm nguồn thực phẩm protein. Ở một số nước, người ta ăn thịt chuột để chống chọi với nạn đói (như trường hợp ở Bắc Triều Tiên). Người La Mã cổ đại thường ăn loài chuột sóc. Hiện tại một số nước châu Âu vẫn còn ăn loài vật này, Ở đó, thịt chuột được xem là một món cao lương Mỹ vị.

4. Ngựa

Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng thịt ngựa rất rất phổ biến ở một số nước phương Tây. Ví dụ như ở Pháp có những cửa hàng chuyên bán thịt ngựa, và người bán được gọi là "chevaline boucherie", tức là người mổ ngựa. Tại tám quốc gia ăn thịt ngựa hàng đầu thế giới, hơn 4 triệu con ngựa được tiêu thụ mỗi năm.

3. Chó

Người phương Tây có thể không tưởng tượng nổi việc một số nước khác có thể ăn thịt một con chó. Tuy nhiên, điều này lại rất bình thường ở các nước châu Á và Nam Thái Bình Dương. Ở đó, chó là một nguồn cung cấp dinh dưỡng. Những con chó được giết thịt một cách nhân đạo nhất có thể. Và thành thật mà nói, nếu gạt vấn đề tình cảm sang một bên thì một người ăn thịt chó cũng đâu có gì tệ hại hơn người ăn thịt bò đâu?

2. Rùa

Rùa là một món cao lương phổ biến trong thời Victoria. Tuy nhiên, do sự suy giảm số lượng cùng với sự gia tăng phản đối thịt rùa vì vấn đề môi trường, rùa trở thành loài vật được bảo vệ ở phần lớn các quốc gia trên thế giới. Ở Mỹ, việc ăn thịt rùa là được phép đối với những loài rùa nước ngọt sinh trưởng rất nhiều ở đây. Nhưng tại một số quốc gia châu Á, nơi những loài rùa biển quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng, người ta vẫn săn bắt và giết thịt trái phép. Với tốc độ tăng trưởng chậm của rùa biển, việc làm này là một thảm họa đối với loài rùa

1. Nhện

Nhện phải nằm đầu tiên trong danh sách này. Ý nghĩ ăn một con nhện có thể làm cho chúng ta nôn nao, ít nhất là vậy. Nhưng ở một số quốc gia, nhện lại là món ăn đặc sản. Nhện nướng xuất hiện nhan nhản trên các quầy thức ăn vỉa hè ở Campuchia, nơi mà người dân đã chế biến nhện thành một món ăn khi họ bị chính quyền Pol Pot bỏ đói.

Khi thịt Tôn ngộ không trở thành .. đặc sản ! | In |

Người đưa bài: daudua

17/02/2004

Lâu nay thịt khỉ đã trở thành món đặc sản quanh năm suốt tháng của hạng người lắm tiền ở thị trấn miền rừng Hương Khê (Hà Tĩnh). Đặc biệt món óc khỉ "ăn tươi nuốt sống" rất được ưa chuộng mặc cho hành động chặt óc khỉ của các chủ quán rất dã man...

Tôi ngồi xe ôm vòng vo khắp các ngõ ngách của vùng ga Hương Phố để tìm đến nhà lão Toản - một tay buôn thú khét tiếng. Vừa nghe tôi muốn mở quán thịt khỉ, lão đã cười hề hề rồi khoát tay lia lịa như dao chém xuống nước, nói: "Chú mi cứ mở quán vô tư. Xe tải, xe khách, xe con ở trong tay tớ cả. Còn nguồn khỉ thì đã có đường dây. Nhưng muốn mở quán thành công chú mi phải đi thực tế cái đã''.

Hành hình khỉ

Làm thịt khỉ không có gì khác so với làm thịt chó, ngoại trừ công đoạn đầu tiên là chặt óc khỉ. Sở dĩ phải có công đoạn này là do óc khỉ bán rất chạy cho người thích "ăn óc bổ óc" hoặc người mắc chứng đau đầu kinh niên. Để tránh ăn phải óc khỉ dỏm, khách đều cất công đến tận quán để ăn óc tươi. Cho nên trước khi hóa mình thì con khỉ nào cũng phải chấp nhận bước lên đoạn đầu đài. Đầu đài là cái mặt bàn được chủ quán khoét sẵn một lỗ vừa vặn 1/3 đầu con khỉ nhô từ dưới lên. Khi khách đã ngồi vào bàn tận mắt nhìn thấy con khỉ với đầy đủ rau thơm, gia vị để cạnh thì chủ quán cầm con dao sắc ngọt phạt một nhát ngang chỏm đầu con khỉ.

Lão Toản bảo : "Hồi mới khai sinh nghề bán cháo khỉ những chủ quán non gan không dám cầm dao chặt óc khỉ nên phải dùng điện gí vào đầu con khỉ cho đến chết. Có người sợ việc gí điện thì đem khỉ bỏ vào bao tải dìm xuống nước cho chết ngạt rồi đem lên cắt tiết. Hôm nào vắng khách ăn óc thì khỉ thoát nạn lên đầu đài nhưng phải chịu cắt tiết như cắt tiết chó. Tiết khỉ được pha thành rượu huyết uống cùng mật khỉ. Khi khách đang dùng óc thì chủ quán cạo lông, bật đèn khò (đèn khò vàng) hoặc thui khỉ bằng cồn để thịt vàng, sực mùi thơm và căng lên. Thịt được róc ra khỏi xương cho vào tủ lạnh chờ khách nhậu gọi món. Da cho vào cối xay nhỏ. Xương khỉ bỏ vào nồi hầm lẫn với xương bò, lợn thành thứ nước dùng nấu cháo (thường xương khỉ chỉ được chủ quán ninh qua loa, sau đó vớt ra phơi khô đem cất để nấu cao khỉ).

Các món nhậu từ thịt khỉ gồm luộc, rán, quay, nướng (hoặc băm nhỏ rồi tao hành mỡ cho vào món cháo). Một bát cháo khỉ loại thường 8.000 đồng. Loại đặc biệt từ 10.000 - 12.000 đồng. Đa số khách gọi cháo đặc biệt. Còn khách nhậu ưa nhất món thịt khỉ nướng trong bếp điện ba tầng ăn vừa giòn, vừa sạch, vừa om được nguyên vẹn mùi ngầy ngậy mỡ khỉ .

Tại quán chuyên cháo khỉ mà lão Toản dẫn tôi đến, đoạn đầu đài của khỉ không phải là mặt bàn khoét lỗ sẵn mà là cái cột phía sau hồi nhà. Có một khách bụng phệ đang ngồi chờ sẵn để được ăn óc tươi. Chủ quán tóm cổ con khỉ cỡ 2 kg để buộc vào cột. Cái chuồng bằng lưới sắt bên cạnh có ba chú khỉ mặt đỏ đang chải lông cho nhau vội vàng ré lên rồi co rúm lại. Trên người ba chú khỉ này lở loét những vết thương do chó săn cắn hoặc do dây thép cứa khi bị sập bẫy. Lúc con khỉ sắp bị chặt óc, nó đưa hai tay chắp vào nhau rồi vái lia lịa trước khi ôm cột. Chủ và khách tỏ ra vô cảm do không để ý hoặc đã quá quen với cảnh hành hình này.Phập! Tiếng dao lia qua đầu khỉ. Một tiếng rú man dại như tiếng của đứa con nít thét lên. Vị khách điềm nhiên múc óc khỉ lẫn huyết đỏ tứa ra nuốt tuồn tuột vào bụng cùng với rau húng, lá diếp cá! Lão Toản nói: "Cháo khỉ lời nhất ở bộ óc với giá hơn 100.000 đồng, túi mật: 50.000 đồng, rồi đến thịt: 120.000 đồng/kg".

Và săn khỉ

Lão Toản là một tay buôn thú sành sõi nên rất chu đáo trong việc chỉ dẫn đường dây tiêu thụ khỉ cho khách hàng mới. Lão tiết lộ: "Tớ ở giữa trung tâm của ba nguồn hàng. Từ Lâm - Liên (xã vùng rừng Hương Lâm, Hương Liên), Chúc A (Lâm trường Chúc A) cho đến tận Cha Lo (Quảng Bình). Nguồn này tuy xa nhưng mỗi tháng cung cấp về đây bốn đợt hàng khỉ bằng tuyến tàu hỏa Đồng Hới - Vinh. Nguồn lớn nhất là ở Hòa Hải thuộc vùng đệm vườn bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang". Lão Toản cao hứng: "Tớ có ba toán chó nhà nghề đặc biệt tinh nhuệ chuyên săn lùng khỉ. Chó nhỏ nhưng biệt tài săn tìm siêu đẳng. Đó là loại chó thoóc, dân đi rú còn gọi là chó "đòi" (săn) khỉ".

Phải lần thứ ba quay lại xã Hòa Hải tôi mới tiếp cận được đàn chó "đòi" khỉ trong vai thợ săn đi mua chó săn. Tôi gặp Tiến - chủ đàn chó sáu con. Tiến rót rượu tiếp chuyện: "Ở chốn rừng này muốn phát tài thì phải có đàn chó săn. Trước đây khi chưa có nghề săn khỉ, nhà bọn tôi trên lợp tranh dưới không có một tấm mên thưng. Nay nghề săn khỉ phát mới có nhà ngói, tường bao, sắm sanh đủ thứ trên đời". Thấy tôi yêu cầu thử tài đàn chó trước khi ngã giá, Tiến đập mạnh bàn tay lên mặt bàn rồi nhìn ngược bìa rừng hú vang: Roách! Roách! Roách! hu... hu... hu. Hụi!... Hụi!... Khoang này Khoang... Mực! Mực! Mực! Hụi, hụi! Hu...

Lần đầu tiên trong đời tôi nghe tiếng gọi chó của một tay săn khỉ chuyên nghiệp. Tiếng hú vừa bay đi, từ trong các ngả rừng từng con chó săn hộc tốc chạy về hít hít dưới chân chủ. Tiến giới thiệu con Roách, con Vàng, con Khoang. Tuyệt nhất là con Mực.Mắt nó sâu, nhỏ như mắt lươn và nổi vằn đỏ như tiết. Ấy là loại chó ác. Tiến bảo con này có mua mấy triệu anh ta cũng không bán vì phải mất hai năm mới huấn luyện được. Tiến tỏ ra tự hào: "Rèn sao cho chó biết trêu tức khỉ khiến khỉ đang trèo trên cây phải nhảy xuống đất để vồ lấy. Cách rèn nhanh nhất là cho nó vờn và cắn chết dăm con khỉ loại 10 kg. Sau đó trên đường săn tự nó nhận biết mùi khỉ, trêu và vồ khỉ. Thợ săn chỉ mất công đan rọ nhốt, gùi khỉ về". Trước khi vô rừng đàn chó săn được săn sóc bằng chế độ bồi dưỡng với nước cơm hầm xương, thịt mỡ, canh chua (để cho thanh giọng, sủa vang) và hàng chục quả trứng vịt. Cứ dẫn chó đi sau năm ngày đến khi nào không gùi nổi khỉ nữa thì đám thợ săn mới rời rừng.

Quán cháo khỉ mà Toản dẫn tôi đến vốn ở trong Lâm trường Chúc A - một vùng rừng nối với dãy Trường Sơn nằm cách phố ga chừng 10 km. Gần 10 năm sát hại không biết bao nhiêu con khỉ rừng tội nghiệp, họ dư tiền tậu đất thị trấn (ở cách Hạt Kiểm lâm huyện Hương Khê dăm chục mét) để tiếp tục kinh doanh cháo khỉ. Vậy mà hạt phó kiểm lâm Nguyễn Văn Minh vẫn nói tỉnh bơ: "Bây giờ thị trấn Hương Khê làm gì còn quán cháo khỉ. Mọi nguồn cung cấp khỉ đã khan hiếm từ lâu". Còn theo cơ quan công an huyện thì "chưa bao giờ chính quyền huyện Hương Khê có quy định về việc cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển các loài động vật hoang dã, quý hiếm (trong đó có các loài khỉ)".

Sau khi cọp, beo, trâu rừng, gấu... bị kẻ ác tận diệt không tiếc thương, bây giờ lại tới phiên con cháu của Tôn Ngộ Không. Thay vì bảo vệ loài động vật rừng này, thì lại có những kẻ săn khỉ, những quán thịt khỉ giết khỉ hằng ngày cứ tiếp tục tồn tại trướcmắt bàn dân thiên hạ chưa bị dẹp trừ! Đáng trách thay!

Tôi từng chứng kiến sự vật lộn, khóc lóc của 2 đứa trẻ khi bạn chúng chú cún Míc bị làm thịt. Hai đứa trẻ cứ hét lên "Không được giết bạn cháu. Bạn cháu đang bị ốm". Tiếng kêu khóc nghe thật nao lòng.

Chuyện xảy ra cách đây chừng 20 năm, khi tôi còn chưa là Phật tử. Thời đó tôi đang là một chàng sinh viên. Vào một dịp hè tôi đến thăm người bạn và ở lại chơi mấy ngày. Trong nhà có 1 con chó rất đẹp, ai cũng rất yêu quý chú cún này. Thế nhưng đợt đó chú chó bị ốm. Thế là bố bạn tôi tuyên bố... thịt.

Ông gọi người em kết nghĩa đến. Gọi con trai, gái, dâu, rể về. Kêu các cháu nội ngoại đến đủ. Tất cả chuẩn bị cho việc thịt chó.

Hai cháu con chị gái bạn tôi là Yến và Oanh vô cùng buồn khi biết tin này. Hai đứa cương quyết ngăn cản việc giết thịt vì chú cún Míc được xem là người bạn rất thân của cả nhà, nhất là với hai đứa.

Cuộc chiến và sự giằng co xảy ra giữa 2 bên bắt đầu. Một bên là người lớn còn bên kia là trẻ con. Một bên là những người đang thèm thịt, nhất là thịt chó (thời đó thịt rất hiếm và quý) và bên kia là tình yêu thương dành cho người bạn của mình.

Nhìn cảnh này tôi cảm thấy nao lòng. Chỉ mới mấy ngày trước, tôi còn chứng kiến cả nhà bạn tôi lo cho Míc, chăm sóc Míc. Còn Yến và Oanh thì đi đâu cũng lo cho cún, yêu thương cún, nhớ cún.

Vậy mà hôm nay, cả nhà bắt, trói Míc lại và làm thịt. Tôi là người chứng kiến những giọt nước mắt của Míc. Nhớ lại đôi mắt ướt ướt của chú chó tôi khó lòng quên được cảnh giãy giụa của con cún vốn đang bị bệnh.

Tôi lại chứng kiến sự vật lộn và khóc lóc của 2 đứa trẻ khi bạn chúng bị giết. Chúng thét lên "Không được giết bạn cháu. Bạn cháu đang bị ốm". Nghe càng thảm thương. Lúc này người lớn chỉ còn cách duy nhất là bế gọn 2 cháu nhỏ cho lên buồng và khóa cửa lại.

Hai đứa nhỏ vẫn thi nhau khóc. Chúng gào lên. Chúng đập cửa. Chúng phản đối việc giết bạn của chúng.

Bữa trưa đó cả nhà đánh chén say sưa. Các món nhậu và rượu. Riêng hai cháu Yến và Oanh nhịn ăn. Chúng tuyệt thực nguyên ngày. Phải mất một thời gian, Yên và Oanh mơi nguôi cơn buồn mất bạn.

Trong suốt bữa liên hoan tôi không hề ăn một miếng thịt chó. Cậu sinh viên trẻ tuổi ngồi nhìn và thấy xót lòng cho con chó đáng thương. Ngày hôm qua còn là bạn thân của cả nhà, nay người ta đang đang hả hê nâng cốc, cười nói và ăn thịt!

Từ ngày đó tôi không bao giờ ăn thịt chó nữa. Ngay thịt mèo cũng tuyệt nhiên không. Bởi từ những gì được chứng kiến tôi thấy rằng con người ta thật dã man: mèo và chó là bạn của ta tại sao ta nỡ lòng đè ra làm thịt và ăn. Thật không thể tưởng tượng nổi!

Sát sinh là giết hại chúng sinh. Mình coi trọng tính mạng của mình thì rõ ràng cần trân trọng tính mạng của kẻ khác. Làm sao có thể đang tâm lấy đi mạng sống của những chúng sinh như ta. Còn giết hại mạng sống của bạn mình, bạn thân của mình như trường hợp nêu trên thì thật là... hết chỗ nói.

Mà không hiểu sao các quán thịt chó, mèo vẫn nhan nhản ngoài đường nhỉ? Mà cũng lạ mới tuần trước tôi lại nhận được lời mời của chú người bạn tôi mời đến ăn thịt chó. Chú nói, chó nhà nuôi. Tôi hỏi lại, sao nuôi, làm bạn lại còn thịt. Chú bảo thế mới là thịt sạch. Ăn thịt chó ngoài quán có thể là chó bị đánh bả, nguy hiểm lắm. À ra vậy! Trời đất.

Một số vùng quê còn có tục lệ khó tin: cứ đám cưới, đám giỗ là thịt chó, thịt mèo. Lại sát sinh. Không những giết hại chúng sinh mà lại giết những người bạn thân thiết của mình. Ăn thịt bạn mình... ngon lành lắm ư ?!!!

Tóp mỡ ngào đường (Vũ Bằng)

Có những người trai thương gái quan niệm tình yêu một cách kỳ lạ lắm: yêu, nhưng mà đòi hỏi người yêu phải đẹp bất cứ phương diện nào: nói phải đẹp, cười phải đẹp, ăn phải đẹp. Thực ra, muốn như thế cũng cứ được đi, nhưng tôi không chịu được những người đàn ông nào cho rằng người đẹp chỉ có thể nằm trên nhung lụa nhìn ra cửa sổ có rủ màn đăng-ten mới đẹp, người đẹp chỉ ngồi sa-lông rủ tóc xuống chải đầu mới đẹp, hay người đẹp ngồi đu đưa bàn chân ở trong một cái quán trên hồ, khẽ nhúng đôi môi hồng vào ly rượu màu trắng và nhón một ngón tay cầm một trái ô-liu đưa lên miệng nhai nhởn nha mới đẹp.

Đâu có thế! Lòng mà yêu thành thực, yêu hết sức là yêu thì ăn mặc thế nào cũng đẹp, mồ hôi mồ kê nhễ nhại cả lưng cũng đẹp, và ngồi trong bếp lửa rán mỡ nổ lung tung, làm nhầy nhợt cả chân tay, vẫn đẹp. Đó là cảm giác của tôi, vào một buổi chiều tháng mười, khi nhìn thấy cô Năm Lệ đang ngồi thắng mỡ trước một ông nổi rau ám khói. Ơ miệt quê nghèo, làm gì có than để đốt? Củi đun bếp là những cái lá dừa phơi khô, những nhánh ổi, nhánh cam bẻ ra để chụm. Khói bốc lên mù mịt cả chái nhà sau. Người ta muốn như ngộp thở. Ngán chưa là cái kiếp sinh làm con nhà nghèo, có tài có sắc cũng chẳng làm gì, ngoài công việc nuôi tằm, hái dâu hay buôn tần bán tảo ở mom sông cuối chợ, về đến nhà lại đâm đầu vào bếp làm cơm nấu nước: thế thôi, không có một thứ gì khác cả và cứ quanh năm như thế.

Chẳng biết từ khi tôi về nghỉ ở đây cô có thấy gì biến đổi trong lòng hay không, nhưng thành thực trong lòng mà nói, chính cái hôm cô đang thắng mỡ dưới nhà, mà tôi sực bước vào, tôi thấy cô đẹp não nùng ơi là đẹp. Cô Năm Lệ bảo tôi:

- Anh về ở chơi với anh em tại cái đất khỉ ho cò gáy này hẳn là buồn lắm?

- Đâu có. Tôi thấy thảnh thơi rất nhiều.

- Anh đừng nói dối em. Chính anh buồn, em biết. Anh uống rượu nhiều. Anh có biết rượu là thuốc độc không?

- Tôi cũng nghe thấy người ta nói thế. Nhưng biết làm thế nào khác được? Tôi không muốn uống thuốc độc vì đời đẹp quá nhưng tôi cũng lại thích rượu, biết tính làm sao bây giờ?

Cô Năm Lệ cho là tôi nói quấy. Cứ đối đáp mãi như thế, bao giờ cho xong. Sau cùng, cô thấy tốt hơn là đấu dịu. Cô hỏi:

- Anh thích uống rượu, thế thì ở thành anh nhắm rượu với gì?

- Bất cứ cái gì cũng nhắm. Đậu phọng, củ kiệu, nhãn, ớt, cốc... Nếu không có mấy thứ đó, tôi ngồi ở tiệm nhìn ra đường phố có người đẹp đi qua và tôi uống rượu nhằm... các cô gái đẹp - từng bộ phận.

Cô suy nghĩ một giây rồi nói:

- Em không đẹp được bằng các cô gái ở tỉnh thành, nhưng vì anh thích rượu, hôm nay em quyết định có một cái này lạ lắm để cho anh nhắm.

Ấy đấy, các cô con gái miền Nam ăn nói thực thà như thế đấy. Nếu là người khác, tất nhiên phải nghỉ ngay rằng "cái lạ" đó là một cái gì tình tứ lắm, bí mật lắm để tặng riêng cho khách giang hồ lạc phách. Riêng tôi, không thế. Thực thà không kém, tôi cũng hỏi ngay để cho khỏi phải nghĩ vẫn vơ trong óc:

- Cảm ơn cô Năm nhiều. Nhưng ngay từ bây giờ, tôi có thể được cô cho biết "cái lạ" đó là cái gì không?

- Tôi làm món tóp mỡ cho anh nhậu.

Chao ôi, tưởng cái lạ đó thế nào, chớ tóp mỡ thì ai mà còn lạ. Tôi nhớ hồi còn bé, mỗi khi mẹ tôi thắng mỡ, lấy tóp đem cất vào trong chạn. Tôi ăn đến phát ngấy lên. Nhưng mà ngấy lên đến mang tai - có khi phát ốm - lần nào nhà thắng mỡ tôi vẫn cứ ăn vì nó bùi, nó béo, mà lại ngầy ngậy thơm... nhưng sau rốt thì mẹ tôi cấm hẳn, không cho tôi ăn nữa vì ăn nhiều tóp mỡ có hai cái hại: một là đầy bụng khó tiêu, hai là khan cổ, có khi mất tiếng.

Lớn lên, tôi chịu cái nhận xét ấy đúng nhưng tóp mỡ - nhất là về mùa rét - vẫn cám dỗ tôi. Tôi vẫn ăn nhưng hình như, cùng với tuổi, cái thú ăn tóp mỡ kém đi, một phần vì phần khác cũng vì các tiệm ăn, quán cóc có nhiều món nhậu khác thú hơn, và cũng tiện kiếm hơn.

Vì thế, khi nghe thấy cô đãi tôi món tóp mỡ, tôi không thấy háo hức trong lòng, nhưng ngay buổi tối hôm đó, tôi đã thấy mình lầm một cách đáng thương. Thì ra ở miền quê Nam Việt, người ta không thưởng thức món tót mỡ một cách giản dị như ở Bắc, chỉ ăn có tóp mỡ không, tóp mỡ kẹp bánh đa (bánh tráng) cùng lắm thì chấm nước mắm chanh ớt là cùng.

Cái món tóp mỡ cô Năm Lệ làm hôm đó cho tôi cùng nhậu với anh cô là một món đặc biệt chế tạo hơi" kỳ" theo quan niệm của người Bắc chúng ta.

Chế hóa ra sao? Rồi đây cô Năm sẽ nói cho ta rõ. Nhưng có một điểm đặc biệt là nhậu cái món này, ta không nên bầy bàn và ngồi ghế. Vài anh em, sau một ngày mệt mỏi, trải một cái chiếu ở ngoài hiên và thắp một ngọn đèn dầu đặt chính ngay giữa chiếu. Anh em ngồi quây lấy ngọn đèn, uống đế và lấy tay nhón từng miếng tóp mỡ ngào đường, vừa nhai nhỏ nhẹ vừa nói chuyện chiến tranh đây đó. Ở dưới nhà, thằng Lưu pha một ấm nước chè Huế thật nóng mang lên. Người nào tửu lượng kém, có thể vừa uống nước vừa nhắm nhót món quà đặc biệt này,nhưng ai có máu rượu, xin cứ tùy nghi, uống cả đêm cũng không ai cấm. Ở ngoài vườn, bốn bề tối như bưng. Xa xa có một bóng đèn dầu đỏ. Thỉnh thoảng trong lùm cây lại có một vài tia lửa đỏ: không, đó không phải là những con đom đóm,nhưng là những cây nhang trên những "bàn thiên" các nhà lối xóm.

Đến quá nửa đêm, anh nào cũng say mèm. Ơ mà cũng lạ, bốn người uống có ba lít đế mà sao lại say quá thế này? Hai người khệnh khạng đôi guốc gỗ khua lóc cóc trên con đường đất rắn đi về nhà gần đấy.

Một ông chân nam đá chân chiêu đi ra cái điếm ở ngã tư xem dân vệ canh gác ra sao. Còn chủ nhân thì nằm khèo ra ngủ tự lúc nào không biết.

Gió về khuya thổi làm mát cả thịt cả da nhưng cũng làm cho xương sống ơn ớn lên một chút. Ơ bờ ao sau nhà có tiếng con chằng hiu kêu đều đều,y như thể nó kêu cả thế kỷ rồi mà vẫn không mỏi miệng. Trên trời, có một cánh chim bay.

Lúc ấy chính là lúc hoa dạ lan hương tiết ra một mùi thơm huyền ảo, làm cho trời đất mơ hồ một vẻ liêu trai. Chính vào giờ khắc huyền ảo đó, cô Năm Lệ và tôi, bên ánh sáng ngọn đèn đài, ngồi trò chuyện với nhau:

- Vừa rồi các anh nói bốn người uống có ba lít đế mà say - cái đó không có gì lạ hết. Thực tình em không biết nhưng em nhớ lúc ba em còn sống đã nhận thấy như thế nhiều lần. Theo cụ, cái tóp mỡ ngào đường này, nhắm với rượu, nó cứ lừ lừ say lúc nào không biết, mà say thắm thía, say dai dẳng, say lâu mới tỉnh. Có lẽ ở trong tóp mỡ có một chất gì giữ men rượu lại lâu chăng? Hay là tại chất ngọt của đường hòa với mỡ nó làm ra như thế, cũng như rượu chát pha đường, sâm-banh pha đường dễ làm người ta say bí tỉ?

Ấy là vì trong cái món nhậu này, phân lượng của đường có thể nói là nhiều hơn mỡ. Mỡ thắng lên rồi, để nguội, chắt lấy nước cất đi. Những cái tóp mỡ để riêng ra một chỗ. Người nội trợ lấy đường thắng lên; khi nào đường xe lại,quánh như kẹo thì lấy tóp mỡ cho vào trộn lên, đánh đều tay cho đến khi nào đặc quánh lại như kẹo mạch nha thì lấy ra.

Lúc ấy tóp mỡ và đường ôm chặt lấy nhau thành một khối, ăn vừa béo, vừa bùi, vừa thơm, vừa ngọt, nghe hay hay đáo để. Ông nào thích mắm có thể cầm một miếng chấm nước chấm chanh ớt nhưng muốn ăn cho thật đúng kiểu thì chỉ nên ăn không với tí tiêu tí muối.

Vào những ngày mưa dầm gió lạnh, có nhà nào cũng làm như thế để ăn chơi, nhởn nha uống nước trà điểm giọng. Thay vì tóp mỡ, người ta lấy cơm khô rang lên trộn vào nước đường đã thắng rồi. Ăn cái cơm khô ngào đường này không béo như tóp mỡ ngào đường nhưng có phần bùi hơn mà cũng không chóng ngán. Cơm khô ngào đường làm cho ta nhớ lại cái thứ cơm cháy rưới mỡ ở Bắc về mùa rét: cơm nóng dỡ ra liễn rồi, còn cháy ở đáy nồi, rưới mỡ lên rồi đậy vung lại đặt lên lò lửa riu riu khoảng năm mười phút: bắc nồi cơm ra, khói bốc lên thơm lừ, ta lấy cái "sạng" ra cậy, cháy róc ra cả mảng, ăn cứ giòn tanh tách.

Cô Năm hạ giọng nói như nói một câu tâm sự:

- Vừa đây, anh ăn món tóp mỡ ngào đường của em làm, thấy ra sao?

Còn thấy ra sao nữa? Cái thân phiêu bạt, gối sầu mà nhìn mây trôi theo tháng ngày có một hôm kia ngã vào nhà khách lạ, được thương yêu như thể tình ruột thịt, còn dám đòi gì, còn dám phẩm bình gì? Ăn cơm hẩm với cà vẫn cứ là ngon,lấy cái lá đu đủ hay ra hàng rào hái một nắm lá nhãn lồng về luộc thay canh, cũng là quý hóa lắm rồi! Vậy mà người em lúc nào cũng chỉ sợ người anh xa nhà tủi cho thân thế mà chẳng nói ra lời, nên nay nghĩ làm món này, mai kiếm trái cây nọ để người anh lạc bước ngồi trông mây Tần uống rượu, họa có quên đi được chút lòng sầu xứ nào chăng.

Em ơi, em ơi, "còn thấy ra sao" nữa? Chỉ nghĩ đến tấm lòng xót xa, thương cảm của em,người anh trai không may mắn nâng một chén cháo cá nhám, gắp một miếng tôm xào với lá mồng tơi hay thưởng thức món chả giò cá trê cũng đã thấy ngon thật là ngon. Huống chi lúc ngồi nhậu món tóp mỡ ngào đường, chính anh lại biết rằng em làm món đó để đãi người anh lạc phách! Một món ăn như thế ngon một mà thành ra ngon ngàn,ý nhị, đậm đà, bát ngát. Ăn như thế là ăn cả một tấm lòng thương yêu của người đẹp viễn phương gởi về hoa bướm của xứ sở mình vào đó, gửi cả hồn trinh bạch của mình vào đó... ngìn đời muôn thưở bao giờ mà quên cho được.

Chưa một đêm xanh nào, ngồi kể lể chuyện tâm tình với một người thương yêu, tôi lại hề thấy có người đẹp như cô Năm Lệ đêm hôm ấy. Nhưng em ơi, đẹp làm gì, yêu làm gì để cho ai mai kia đây, lê bước chốn quan sơn, lại phải mang trong lòng thêm một thương nhớ oan khổ nữa.

Đến lúc có tiếng gà rừng gáy ở xa, chúng tôi hãy còn nói chuyện. Không hiểu lan man thế nào, cô Năm Lệ hỏi tôi:

- Bao giờ anh trở về thành?

- Mai đây, mốt nọ. Chưa biết ngày nào nhất định.

Cô cúi đầu không nói, tôi đứng dậy ngắt một bông hoa chanh cài lên tóc cô Năm và nói:

- Anh về thành buồn lắm, nhưng biết làm thế nào khác được? Chẳng biết rồi chúng mình còn có phen nào gặp nhau lần nữa để em lại vì anh, làm món tóp mỡ ngào đường uống với trà Huế như đêm nay nữa hay không.

Cô Năm cười:

- Thời buổi chiến tranh, được ngày nào hay ngày ấy. Biết đâu một mai anh trở lại đây, em gái đã chết vì bom đạn hay hoả tiễn rồi. Chết cách gì cũng không ân hận, em chỉ ân hận một điều là không được ở gần anh để chăm nom miếng ăn giấc ngủ cho anh.

- Sau này, tôi cứ nhớ mãi câu nói đó và những đêm mưa gió đìu hiu buồn, lại nhớ đến tóp mỡ ngào đường của cô Năm, tôi thấy se sắt cả lòng và tự nhắc lại cho mình nghe câu nói cuối cùng của cô mà tự nhủ:

- Trời dài đất rộng, tóp mỡ ngào đường ăn mềm dẻo ngọt ngào bùi béo, mềm dẻo, ngọt ngào và ý nhị hơn nhau?

1. Các món ăn độc đáo và hiếm của Việt Nam

Cá heo sông Hậu

Món cá heo chúng tôi đề cập trong bài viết này hoàn toàn không phải làm từ thịt của loài cá heo to lớn thường được huấn luyện biểu diễn nhào lộn. Đây là cá heo sông, giống cá chép, miệng kêu éc éc như tiếng heo, thường thấy ở vùng sông Hậu.

Cá heo sông Hậu là những con cá mình dẹp, bự nhất cỡ 3 ngón tay người lớn, dài chừng một tấc. Thân cá màu xanh đen, đuôi vi kỳ cá màu đỏ cam đẹp mắt. Khi lặn dưới nước, người ta nghe tiếng chúng kêu éc éc và khi bị bắt lên bờ chúng giẫy giụa cũng phát ra âm thanh giống tiếng heo kêu nên người dân lưu vực sông Hậu đặt tên chúng như vậy.

Muốn thưởng thức đặc sản mới này, tại các quán ăn ở Long Xuyên hay Châu Đốc có bán với giá khá bình dân. Cá heo ký: 180.000 đồng, lẩu cơm mẻ cá heo 60.000 đồng, cá heo kho thố 25.000 đồng, cá heo nướng 60.000 đồng, cá heo kho lạt 30.000 đồng.

Ngày xưa người ta xem cá heo sông là loài vô dụng, khi chài lưới được thường loại bỏ không thương tiếc. Nhưng mới đây, thật bất ngờ khi nó được xuất hiện trong thực đơn ở một số nhà hàng lớn tại thành phố Long Xuyên và thị xã Châu Đốc của tỉnh An Giang. Không biết người ta đánh bắt ra làm sao mà số lượng cá heo được chế biến thành thực phẩm ở địa phương này rất phong phú.

Cũng giống như cá kèo, cá chốt, cá linh - những loài cá bị người dân địa phương xưa kia coi thường - cá heo bây giờ cũng đã trở thành đặc sản. Cá heo được chế biến thành bốn món. Giản tiện nhất là cá heo nướng. Bếp than với cái vỉ nhôm được đặt trên mặt bàn. Những con cá heo tươi xanh tuần tự gắp để trên vỉ nhôm dưới sức nóng của than đước tỏa mùi đặc trưng mà bếp gas không có được. Trở mặt cá lần nữa, trong chốc lát màu sắc đẹp của cá trở thành màu vàng rộm tỏa mùi thơm nức. Chúng được gắp ra chấm vào chén cơm mẻ giằm ớt xanh, ăn kèm với rau thơm các loại, xà lách, dưa leo, khóm, chuối chát. Thịt cá ngọt được điểm xuyết vị cay của ớt thật khoái khẩu.

Cầu kỳ hơn một chút là cá heo kho thố. Vị cay của tiêu bột, vị ngọt của thịt cá, vị béo của mỡ heo, vị mặn, ngọt của muối, nước mắm, đường hòa nhau trong khẩu cái trở thành thứ hương vị tuyệt vời. Món này dùng để ăn cơm thì khó biết chừng nào no bụng! Lẩu cơm mẻ cá heo cũng là món vừa để ăn cơm vừa để lai rai khi có bạn bè. Món này ăn kèm với loại "rau sạch" là bông điên điển thật ăn ý làm sao. Vị cá ngọt, vị giòn nhẩn của bông điên điển hòa trong vị chua của cơm mẻ, tạo nên bữa ăn thú vị. Nhưng bông điên điển bóp nhẹ giấm lại hợp cá heo kho lạt với me non đầu mùa. Đây cũng vừa là món ăn cơm vừa là món nhậu rất "bắt mồi" khiến khách phương xa ngẩn ngơ lòng dạ! Món nào cũng đều khiến thực khách ưng ý với xương và đầu cá giòn mềm trong răng, vị đắng nhẹ của mật và ruột cá heo lan lan mặt lưỡi vì khi chế biến thành thức ăn người ta chỉ rửa sạch cá là xong, không moi bỏ ruột.

''Pa Pỉnh Tộp'' - Món ăn cổ truyền của dân tộc Thái

Từ ngàn xưa, người Thái đã định cư ở những thung lũng lớn, màu mỡ ven các con sông, con suối, nơi có những cánh đồng lúa phì nhiêu nổi tiếng như Mường Tấc, Mường Thành, Mường Lò...

Hệ sinh thái thung lũng đã tạo nên định hướng sản xuất truyền thống của dân tộc Thái là trồng trọt lúa và đánh bắt, nuôi cá để kiếm kế sinh nhai.

Việc chế biến các món ăn hợp khẩu vị không những trở thành nhu cầu hàng ngày không thể thiếu được đối với đồng bào Thái, mà còn là một tiêu chuẩn để nhận xét, đánh giá con người, nhất là đối với thanh niên nam nữ mới đi làm dâu, làm rể. Cơm nếp thơm, ăn cùng với các món ăn được chế biến từ thịt, cá và các loại rau rừng là những món ăn ngon đặc sắc của người Thái thể hiện sự hoà quyện giữa thiên nhiên với lòng kiên trì, nhẫn nại, tính sáng tạo tuyệt vời của cư dân Thái. Về hình thức, các món ăn Thái nhìn chung không cầu kỳ kiểu cách nhưng khi đã được thưởng thức thì không dễ quên được, trong đó đặc biệt là món '' Pa Pỉnh Tộp" (tức là cá nướng úp) đậm đà bản sắc dân tộc.

Tục ngữ Thái có câu: '' Cáy măn mọk má ha, Báu to pa pỉnh tộp ma sú'' nghĩa là: '' Gà tơ tần đem đến, không bằng cá Pỉnh Tộp đem cho''. Người ta đánh giá món cá nướng này sang trọng không chỉ bởi giá trị ẩm thực của nó mà còn bởi sự ước lượng chuẩn xác và bàn tay kehó lép của người làm ra nó. Từ xa xưa, cá và các loại thuỷ sản khác đã là nguồn thực phẩm quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của người Thái. Khi đứa con mới đẻ người mẹ lấy đôi đũa mới gắp miếng cá nướng chấm vào miệng con trẻ, làm như vậy có nghĩa là bé sinh ra hưởng miếng cơm cá mà lớn khôn. Đối với đồng bào Thái, ''Cơm trắng, miếng cá bạc'' là biểu tượng cho sự no đủ, hạnh phúc.

Để làm được món '' Pa Pỉnh Tộp'', người ta chọn loại cá chép khoảng 0,5 kg trở lên, béo và còn tươi sống. Trước khi mổ phải cạo vảy để gia vị ướp ngấm đều vào cá, không mổ cá đằng bụng mà phải mổ đằng dọc sống lưng để khi gấp úp, con cá mềm mại dễ gấp hơn và để phần gia vị nhồi trong bụng cá khi tiếp xúc với than hồng sẽ toả mùi thơm ngấm vào thịt cá. Dao mổ cá phải là dao sắc lẹm, khía thẳng, dứt khoát, không khía nhiều lần gây nát cá. Sau khi bỏ mật cá bắt đầu ướp nhồi gia vị.

Các món ăn Thái mang hương vị đặc trưng khó quên cũng là nhờ sự pha trộn khéo léo và hợp lý giữa các loại gia vị cay, chua, đắng, mặn, ngọt như ớt, tỏi, gừng, sả, riềng, mắc khén và các loại rau thơm, trong đó đặc biệt là ớt và tỏi là hai thứ không thể thiếu trong bữa ăn của người Thái. Nói về các gia vị của người Thái để chế biến món cá Pỉnh Tộp cũng như các món đặc sản khác thì vô cùng đa dạng phong phú. Pa Pỉnh Tộp phải ướp bằng ớt bột khô thì khi nướng cá mới thơm ngon và ướp đậm muối hơn một chút so với cá đem rán. Sau khi tẩm ướp con cá, để khoảng 5-10 phút, người ta nhồi vào bụng cá những loại rau thơm đã được thái nhỏ như: gừng, tỏi, sả, hành, rau thơm rừng (Hom mu chưn) và mầm măng của cây sa nhân. Gấp úp đôi con cá lại, xoa một lớp bột riềng và thính gạo ra ngoài vỏ cá rồi kẹp vào gắp nướng. Que gắp nướng (Híp Pỉnh) phải bằng cây tre bương dày, tươi càng tốt, chẻ thành đôi hoặc ba, bốn chạc để kẹp con cá cho chắc chắn. Sau đó phải nướng cá trên cây củi gỗ núi đá. Nếu nướng trên than cây tre và các loại cây gỗ tạp thì cá không chín vàng đều và không thơm ngon. Người ngồi nướng cá cần phải kiên trì hơ cho con cá chín dần, chín đều, không nóng vội dí sát cá vào bếp lửa cá sẽ cháy sém bên ngoài nhưng chưa đủ độ chín thơm bên trong. Khi gỡ cá ra đĩa, người Thái có sáng kiến dùng sợi chỉ vuốt dọc theo chiều gắp, con cá được gỡ ra vẫn nguyên vẹn, không vỡ nát.

Khách quý tới nhà, sau khi đôi lời chia vui, cảm ơn quý khách chủ nhà sẽ chia phần '' Pa Pỉnh Tộp'' cho khách và mọi người với ý niệm: đây là món ăn quý trọng, mến khách, hẹn gặp lại không bao giờ quên! Thưởng thức miếng cá nướng vàng rộm, thơm lừng với cơm nếp xôi dẻo ta mới thấy hết cái vị ngọt béo của cá, vị cay của quả ớt đầu sàn nhà mẹ, qủa Mắc khén ven bản, màu xanh của hành, của rau thơm lẫn màu đỏ của ớt, màu vàng của cá nướng - tất cả màu sắc của bức tranh thiên nhiên ấy đã đi vào bữa ăn cụ thể của đồng bào Thái giản dị mà ngẫu nhiên. Cơm xôi ăn với '' Pa Pỉnh Tộp'' của người Thái cũng được ví như cơm tám nấu niêu đất ăn với cá bống kho của người miền xuôi vậy.

Vừa là món ăn giành đãi khách quý, nhưng cá Pỉnh Tộp cũng còn là món ăn đời thường, rất thuận tiện cho việc gói cơm đi làm nương rẫy, đồng áng. Cơm xôi ăn với cá nướng, chấm muối ớt giã (chẳm chéo), cùng với can nước mát đã đủ sức làm ấm lòng những người cày cuốc trên nương, ngoài ruộng.

Có thể nói, bữa ăn dân tộc Thái là tấm gương trung thực phản chiếu môi trường tự nhiên, cách thức và trình độ chinh phục môi trường đẻ tạo ra nguồn thức ăn đặc sắc, hợp khẩu vị. Món '' Pa Pỉnh Tộp'' của người Thái là món ăn đã trở thành nổi tiếng, là nhu cầu đòi hỏi đối với du khách khi tới thăm bản của người Thái.

Huyền thoại gia vị miền Tây Bắc

Điều kiện trên núi cao, cùng với cuộc sống cơ bản dựa vào núi rừng khiến mỗi dân tộc đều có phương thức sống riêng biệt, từ ngôn ngữ, phong tục tập quán..., cho tới cách chế biến món ăn.

Một dải núi rừng hoang sơ bí hiểm, khởi đầu từ mạn Mộc Châu, Yên Châu, nối tới Thuận Châu, rồi trải miên man tới những địa danh xa xôi với người miền xuôi như Nghĩa Lộ, Sơn La, Điện Biên...là nơi cư trú ngàn đời của dân tộc người Thái, Hà Nhì, La Hủ, Mông...Điều kiện cư trú trên núi cao cách trở cùng với cuộc sống cơ bản dựa vào núi rừng đã khiến mỗi dân tộc đều có phương thức sinh sống riêng biệt, từ ngôn ngữ, phong tục tập quán, hoa văn thổ cẩm, kỹ thuật trồng trọt cho tới cách chế biến món ăn. Lẽ dĩ nhiên đa số các tộc người vùng cao đều có cách ăn uống cơ bản giống nhau, song nổi bật là những món gia vị kỳ lạ, những điểm xuyết vào thức ăn đôi khi lại thành dấu ấn mạnh mẽ trong nền văn hóa của từng vùng.

Nhắc tới gia vị miền Tây Bắc, phải nói tới một loại gia vị đã đi vào huyền thoại, sau này còn chinh phục cả người kẻ chợ.

Mắc khén - loại gia vị dường như chỉ người Thái đen hay chế biến cho những bữa ăn của mình, tới nay cũng không rõ dịch ra là gì. Theo tiếng Thái đen hay chế biến cho những bữa ăn của mình, tới nay cũng không rõ chính xác dịch ra là gì. Theo tiếng Thái, "mắc" có nghĩa là quả. Nhưng còn "khén" thì không hề có chữ gì đồng nghĩa ngay cả trong ngôn ngữ bản địa. Bởi vậy, mắc khén sẽ mãi mãi là một tên riêng, tự nhiên tồn tại như chính bản thân núi rừng hoang dã, bí hiểm mà cũng quá đỗi quen thuộc với con người. Bản thân mắc khén là một loại cây dại thuộc họ hồi, có tinh dầu, khi đơm trái sẽ kết thành những chùm quả nhỏ li ti, tỏa hương thơm dịu. Người chốn sơn lâm chỉ việc lên sườn núi, tìm những cành mắc khén chín về phơi khô rồi xoa cho rời cành. Hầu như không có bữa ăn nào quan trọng của người Thái lại thiếu được mắc khén, hệt như một dạng muối vừng với người Kinh vậy. Song để chế biến thành gia vị cũng phải kỳ công. Rang nóng trên chảo, mắc khén được giã thành bột mịn, nhưng gia vị thơm phức chuyên dùng để ăn với xôi nếp nương thơm ngon chắc dẻo này còn phải qua nhiều công đoạn nữa. Ớt khô bỏ hạt nướng giòn, muối rang khô, tất cả cùng giã thành bột mịn và trộn đều cùng bột mắc khén. Tới lúc đó thì một loại gia vị hoàn toàn quen thuộc đã thành hình. Đó là chéo một thứ bột thành phẩm tỏa mùi thơm hăng hắc, dịu như vị ô mai, nhưng cũng phảng phất chất núi rừng thơm cay nồng nàn như hương hồi, hương quế. Chéo thông dụng nhất dùng để chấm xôi, những chõ xôi nếp nương mà nếu thu hoạch từ cánh đồng Tú Lệ dưới chân đèo Khâu Phạ chia đôi Nghĩa Lộ- Than Uyên thì chắc chắn không có hương vị nào sánh bằng. "Nếp Tú Lệ - Tẻ Mường Lò - Xòe Kinh Bạc".

Thời xa xưa, khi những cánh rừng đại ngàn còn che chở bản làng, khi thú rừng rong chơi và những người thợ săn vẫn đêm đêm lặn lội theo dấu con mồi, thì chéo nhất quyết không thể thiếu trong túi đồ thợ săn. Một bộ phận người Thái đen cho tới nay vẫn tin con thú sẽ được Thần Rừng cho sống lại sau khi chết, bởi vậy mỗi khi bắn được con mồi, họ không bao giờ lấy bộ lòng. Xả thịt con mồi ngay giữa rừng, thợ săn sẽ đặt lại toàn bộ tim, gan, ruột...của nó lên tảng đá và khấn khứa, đại ý: "Thưa Thần Rừng, hôm nay tôi mượn một con vật của Thần. Tôi đã để lại bộ lòng, xin Thần Rừng cho nó cái vỏ khác để nó có quyền chạy nhảy...". Bài khấn xong là lúc những người đi săn có quyền đánh chén. Và tục lệ bắt buộc phải ăn hết con mồi tại chỗ đã khiến việc sử dụng chéo xát vào bên trong, bên ngoài con vật trước khi nướng trở thành thông dụng.

Bột chéo giúp thịt thú rừng trở lên ngon đặc biệt. Cũng không chỉ dùng cho các loài thú săn trên rừng, chéo còn được người Thái đen sử dụng trong cách nướng cá "pa pẻng toh" có nghĩa là "cá nướng gập" đầy quyến rũ. Cá mang về nhà rửa sạch ruột, xát chéo cả bên trong và bên ngoài, sau đó banh cá ra gập ngang thân cho đầu gặp đuôi, kẹp que nướng trên lửa. Người chưa ăn bao giờ cũng phát thèm khi tưởng tượng, huống gì khách đã ăn quen. Kiểu gập cá độc đáo này giúp cá nướng chín đều, bản thân nước bên trong được giữ lâu hơn và khiến thịt cá không bị cháy. Hương vị của chéo tỏa ra thơm phức, vị dịu của mắc khén, vị cay nồng nàn của ớt, vị mặn mòi của muối.

Cũng trên vùng Tây Bắc này, khách miền xuôi luôn luôn được người dân bản địa giới thiệu đầy tự hào về nậm pịa, thứ đồ chấm phổ biến mang mầu sắc hoang sơ vào bậc nhất núi rừng. Cũng là cách lấy phần ruột non trong con vật như cách lấy phèo lợn theo phong tục người Kinh, nhưng nậm pịa còn ly kỳ hơn bởi khâu chế biến. Cũng khá thú vị nếu biết rằng, nậm pịa chỉ được lấy ở những con vật ăn cỏ như trâu, bò, dê và các loài ăn cỏ khác ở rừng, trong đó dê được đánh giá cao nhất chính bởi khả năng dê có thể hồn nhiên chén rất nhiều loài lá có độc mà các con vật khác tránh xa. Dường như năng lực tự nhiên đã khiến dê tạo nên những chất có khả năng kháng độc trong cơ thể, từ đó nậm pịa dê có tính năng tiêu độc, giúp cơ thể con người tiêu hóa tốt hơn.

Nếu người miền xuôi chủ yếu lấy phèo lợn để luộc lên ăn như món thời trân thượng hạng, thì nậm pịa lại đòi hỏi công phu hơn. Phần ruột non ngay sau khi được lấy ra phải dùng lạt thắt chặt hai đầu ngăn cách với ruột già và dạ dày, để chất nhũ tương trong ruột non không pha tạp. Chất dịch nhũ tương trong ruột non là phần tinh túy nhất, là thức ăn đã được chuyển hóa chuẩn bị ngấm qua mạch máu nuôi dưỡng cơ thể, đồng thời mang vị đắng của mật, vị ngọt của protein. Phần ruột non đó sau đó sẽ được cắt khúc ngắn, trộn cùng lá rau thơm, bột mắc khén, rau mùi tầu, tỏi, ớt...tất cả đều băm nhỏ rồi đun sôi, cho tới khi trở thành sền sệt thì thành món nậm pịa trứ danh. Theo phong tục, người Thái mỗi khi mổ trâu, bò, dê...đều thiên về món nướng và phần thịt khi đặt trên mâm sẽ hơi tái để giữ vị ngọt tự nhiên. Nậm pịa chuyên dùng như thứ đồ chấm thịt nướng sẽ khiến miếng thịt trở nên thơn ngon đặc biệt, nổi bật hương vị của đồ nướng hòa quyện các vị cay, mặn, ngọt, thơm...Ngày nay nậm pịa đúng kiểu cách xưa thì e rằng hơi khó, khó bởi chính từng công đoạn tỉ mẩn, cũng khó bởi không phải lúc nào chủ nhân cũng hào phóng chiêu đãi khách nậm pịa đặc không pha. Song nếu có khi nào được thưởng thức nậm pịa đặc chính tông kiểu dân tộc Thái, chắc hẳn sức quyến rũ miền núi rừng sẽ khiến nhiều bước chân trở nên quyến luyến hơn.

Bao bọc trong làn sương gió, xứ sở Tây Bắc mỏng manh cánh hoa Ban lúc nào cũng có những loại gia vị độc đáo, như thế đấy, những gia vị góp phần tạo nên huyền thoại chốn sơn lâm.

Gỏi rết, món sơn hào miền bảy núi

Phần đông cư dân từng ăn gỏi gà, gỏi vịt, chớ ít ai được thưởng thức gỏi thịt rít, món ăn dân dã, khá lạ miệng do con người đi khai phá vùng đất mới để định cư buổi đầu chế biến cho thích nghi với hoàn cảnh môi trường núi rừng hoang dã để sống.

Thực tế, ai đã đọc truyện võ hiệp của Kim Dung, nhà văn lớn Trung Quốc từng mô tả nhân vật Hồng Thất Công, vị trưởng lão trong đội ngũ Cái bang đã bắt rít luộc, xé phay trộn gỏi "nhậu rượu" phà phà. Dân Trung Quốc nổi tiếng khắp hoàn cầu về nghệ thuật chế biến ẩm thực ngon hết chỗ chê, đến nỗi tục ngữ dân gian từng ca ngợi " ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, cưới vợ Nhật" là 3 đặc điểm thượng sách; chẳng hóa ra cũng từng ăn thịt rít trộn gỏi,chớ lạ gì xứ sở của ta đâu!

Tỉnh An giang, đặc biệt có dãy Thất Sơn, gồm nhiều ngọn núi, nơi ẩn náu và sinh trưởng của nhiều loài bò sát, nhất là loại rít sinh sản nhanh và dồi dào ở núi Dài, núi Bà Đội Om, núi Két, núi Côtô . . . dẫn dài đến núi Sập, núi Ba Thê , núi Chóc, núi Chọ... tương truyền rằng, thuở xa xăm, vùng Thất Sơn còn hoang vu, cây cỏ rậm rịt, thú dữ tha hồ hoành hành. Còn bọn du thủ du thực cũng lợi dụng địa thế núi non hiểm trở ẩn núp chiêu la dụ đảng làm điều phi pháp. Vào một đêm, có bọn cướp núi vào bắt bò của cư dân trong xóm dắt về sơn trại, giấu trước cửa hang chờ trời sáng để bán. Nào ngờ bầy rít to tướng cỡ con trăn, bò đến quấn chặt thân bò, rít vận dụng cả chục đôi chân, xé tét da bò để ăn thịt. Rạng sáng hôm sau, bò chỉ còn trơ lại nắm xương trắng. Nhân dân mất bò lùng sục, truy tìm, loan tin khớp nơi... Qua đó, không ai bén mãng đến vùng này coi như vùng "cấm địa" nên núi dài còn có tên là núi Cấm. Từ đó thịt rít đã trở thành món đặc sản dành chiêu đãi khách sang trọng. Muốn bẫy rít: người ta sắm ***g bằng lưới giống y ***g bẫy chuột, nhưng lớn hơn gấp nhiều lần, năm phía cửa ***g kết liến nhau chỉ chừa cửa miệng có nắp đậy căng lò xo, bên trên làm chốt gài. Họ dùng con mồi thích hợp để bẫy rít là thịt gà sống, chặt từng miếng cỡ ngón chân cái gài trên tấm vĩ khớp với cái chốt gài. Rồi chọn chỗ bụi rậm kín đáo hoặc hốc đá để đặt bẫy. Rít bắt mùi thịt gà tìm đến chui vào giương càng ra kẹp mồi, cửa ***g xập xuống nhốt rít vào ***g. Nhiều con to cỡ con lươn, hay con rắn hổ hành. Mỗi bữa đặt vài chục cái bẫy, ngày nào hên kiếm được mươi con rít... Đem về, bắc nước sôi hé miệng ***g trút rít vào. Màu nước sôi đang trong, rít tiết chất độc từ từ thành màu đen sẩm. Đợi cho nước sôi vài dạo khoảng mươi, mười lăm phút vớt rít ra để nguội, chặt bỏ đầu, đuôi, tuốt luôn lớp da giòn cứng ra, để lộ các thớ thịt phồng lên trắng phau từng khoảng tựa hồ thịt tôm luộc. Dùng mũi dao nhọn rạch bụng vứt bỏ bộ lòng xé thịt ra từng sớ hoặc chặt khúc vừa miếng ăn. Xong bẻ bắp chuối hột xắt ghém làm gỏi, nếu không có bắp chuối thay bằng đu đủ mỏ vịt hoặc ngó sen, bắp cải, dưa leo, cà rốt xắt nhuyễn trộn chung vào. Để cho ráo nước cho hành tiêu ngâm giấm, đường, muối, bột ngọt, nước mắm, ớt nêm vừa ăn, rắc rau răm trộn đều, rồi đem thịt, rít trải lên trên mặt đĩa gỏi, thêm một ít đậu phộng giòn giã dập tăng độ béo và thơm. Lúc ăn, chấm với nước mắm hòn với tỏi, ớt, chanh mới thấy đậm đà hương vị. Mời các bạn thử ăn một lần cho biết mùi vị sâu lắng của đất rừng phương Nam. Tuy là món ăn sơn hào dân dã của miền Thất Sơn, nhưng hiện nay rất quí hiếm. Chắc gì nhà hàng sang trọng đã có ?!

Chuyện ăn uống - Xưa và nay

Ăn uống là chuyện muôn thuở của con người. Sử sách đã từng ghi lại nhiều món ăn lạ đời, không giống ai của một số nhân vật trứ danh trong lịch sử, đến những món ăn thô mộc, bình dị của giới bình dân nhưng trường tồn mãi với thời gian do ngon, bổ, rẻ mà đậm đà hương vị của tình đất, tình người.

Xin kể lại một số món ăn từ xưa nay hiếm đến những món ăn đồng quê của Cà Mau Nam bộ không thể phai nhòa trong tâm trí của những con người luôn hướng về cội nguồn, gắn bó với quê hương để hầu chuyện, giúp vui cho bạn đọc trong những ngày vui Xuân đón Tết.

Các vị vua chúa ngày xưa có 8 món ăn được liệt vào hàng bát trân, đó là: Nước dãi yến, nem công, chả phụng, môi đười ươi, da tê ngưu, bàn tay gấu, thịt chân voi và gân nai. Các đầu bếp thời xưa rất được vua quan sủng ái, hưởng lộc cả đời, nên không ngừng biến tấu tìm những món lạ miệng phục vụ cho tầng lớp thượng lưu.

Lịch sử Trung Quốc có ghi lại chuyện một nhà vua do mê ăn cá mà chết. Thời Chiến quốc, Công tử Quang và tướng Ngũ Tử Tư mưu sát vua nước Ngô là Ngô Vương Liêu nhưng bất thành, bởi vua Ngô không mê tửu sắc, tướng lĩnh khó tiếp cận. Ngũ Tử Tư phát hiện nhà vua rất mê ăn cá nướng nên tìm cách chiêu dụ đầu bếp Chuyên Chư. Món cá nướng do đầu bếp quái dị này nêm nếm rất lạ đời, chẳng giống ai, gia vị là mật ong trăm năm lấy trên đỉnh núi cheo leo. Tên gọi của món cá nướng này là "Tứ tai bi mật tiến" thơm ngon một cách khác thường làm vua Ngô thèm ăn quên phòng bị nên bị người của Công tử Quang và Ngũ Tử Tư phục kích sát hại mà chết.

Từ Hy Thái hậu của nhà Thanh còn có nhiều món ăn cầu kỳ và rùng rợn hơn. Trong một lần tiếp và chiêu đãi các sứ thần ngoại quốc, Từ Hy Thái hậu cho người mang đến trước mặt các sứ thần mỗi người một cái cũi đóng kín, trong đó trói gô một con khỉ lại, chỉ lú lên trên mỗi cái đầu khỉ, dùng dao cạo sạch lông đầu, vạt sọ đầu, nặn chanh, rưới muối, dùng muỗng múc óc ra mời các sứ thần ăn. Con khỉ đau đớn la cái ré, các sứ thần tái mặt, rùng mình, run sợ. Ngoài ra, Từ Hy còn có hai món ăn trứ danh khác là chuột và sâu. Chuột nuôi được cho ăn toàn bằng nhân sâm, khi đẻ giết bỏ chuột mẹ, tiếp tục cho chuột con ăn bằng nhân sâm và đến thế hệ thứ ba thì bắt đầu ăn, bằng cách bắt chuột con mới sinh thoa một lớp ngoài bằng bột, không chế biến xào nấu gì, cứ thế đưa lên miệng nhai từ tốn. Còn món sâu thì cho quân lính lên rừng thẳm, núi cao tìm bắt những con sâu ăn lá nhân sâm đem về xào với tinh dịch của trai tơ để ăn.

Còn các món ăn của vua chúa Việt Nam thì sao?

Món ngon vật lạ ở Việt Nam không hiếm, thậm chí vào thời Bắc thuộc, các triều đại phong kiến của nước ta còn phải bắt quân lính và nhân dân lên rừng xuống biển tìm sản vật quý để cống nạp cho triều đình phương Bắc, nhưng do thái độ thân dân, sống chan hòa, gần gũi, chia sẻ với nhân dân nên ít thấy sử sách ghi lại chuyện các vua chúa Việt Nam ăn uống cầu kỳ, xa hoa như bên Trung Quốc.

Ngày nay khi xã hội phát triển, con người đông đúc, những món ăn ngon có sẵn trong tự nhiên ngày một khan hiếm, cho nên người ta đã ăn tất cả từ những món sơn hào hải vị cho đến rắn rít, cóc nhái, côn trùng và thậm chí các nhà khoa học còn khẳng định côn trùng có chất dinh dưỡng rất cao, có tác dụng tốt cho sức khỏe con người. Từ đó con người đã săn bắt đến tận diệt các loài thú rừng, bò sát, côn trùng... gọi chúng là đặc sản, đến nỗi bây giờ người ta phải nuôi chúng để cung cấp cho thị trường. Nhưng thôi, ở phạm vi bài viết này, chỉ xin nêu một số món ăn hiếm và cầu kỳ, để giúp bạn đọc giải khuây trong những ngày vui Xuân đón Tết.

SÂM CẦM

Đây là một giống chim di trú từ phương Bắc về phương Nam, chúng chuyên đào bới và ăn các loại nhân sâm trên các đỉnh núi ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Xưa kia, sâm cầm là món tiến vua và nghe nói rằng, vua Tự Đức của triều Nguyễn rất khoái khẩu món này. Người ta truyền miệng rằng, do chúng ăn nhân sâm và đã chuyển thành máu huyết nên người ăn thịt chim sẽ bồi bổ sinh lực, tinh thần được minh mẫn. Mấy mươi năm trước sâm cầm còn xuất hiện nhiều ở Hồ Tây - Hà Nội, nhưng nay còn rất ít, bởi bị con người săn lùng tận diệt.

NHÁI ÔM MĂNG

Đây là món ăn đặc sản của tỉnh Yên Bái và một số tỉnh phía Bắc nước ta. Nhái sau khi bắt về, người ta ngâm trong nước vo gạo nấu cơm trong 3 ngày, sau đó thay nước khác, rồi quậy trứng gà với sữa cho chúng ăn, đến một tháng sau thì lên rừng hái măng về, chẻ thành từng miếng vừa ăn, bỏ vào nồi chung với nhái sống, đậy nắp lại, đun lửa, nước nóng từ từ, các chú nhái ôm măng để bám víu, để chống lại cái nóng, rối cả măng và nhái đều chín. Thế là có món "đặc sản" nhái ôm măng, nghe nói là rất ngon và bổ.

Nếu như ở miền Bắc có cá Anh Vũ nổi tiếng được các bậc vua chúa và giới thượng lưu ưa chuộng, thì ở miền Tây Nam bộ cũng có loài cá cháy kỳ lạ như huyền thoại. Cá cháy chỉ xuất hiện ở ngay khúc sông Hậu đoạn giáp ranh giữa Trà Ôn (tỉnh Vĩnh Long) và Cầu Kè (tỉnh Trà Vinh), ra khỏi đoạn này ít ai thấy chúng. Cá cháy màu trắng, con nặng lắm khoảng 2kg - chỉ xuất hiện trước và sau Tết Nguyên đán - khi sương mù dày đặc là cá cháy nổi lên mặt nước đớp khí và khi bắt lên khỏi mặt nước là chúng chết ngay. Người ta cho rằng, cá được hấp thụ bởi sương khí của đất trời nên thịt mới dai, mềm, sạch và cực kỳ bổ dưỡng. Ăn cá cháy cũng như được hấp thụ tinh khí của đất trời.

ĐUÔNG CHÀ LÀ

Đây là ấu trùng của một loài côn trùng có cánh gọi là Kiến Vương, chúng có nhiều ở rừng ngập mặn Cà Mau. Những người lớn tuổi thì không ai lạ, nhưng đối với giới trẻ thì chỉ nghe kể lại hoặc đọc qua sách vở. Nhà văn Sơn Nam - một người rất gắn bó với vùng đất Nam bộ đã ví von đuông chà là bằng cái tên thật ngộ: Hồ đa tử. Còn ông Nguyễn Nhã Ý - tác giả lỗi lạc của bộ đại từ điển Việt Nam thì cho rằng đuông chà là là món ăn quý và bổ dưỡng. Nhắc đến đuông chà là không thể bỏ qua giai thoại vui ở xứ sở công tử Bạc Liêu, đó là Hội đồng Điều - thông gia của Hội đồng Trạch rất mê ăn món đuông chà là. Để tìm ra hương vị lạ, ông hội đồng Điều khoét lỗ trong cây mía, bỏ đuông chà là vào, đến khi thấy cây mía bị đuông ăn xơ xác, ông mới bổ mía, lôi đuông ra ăn. Cách ăn đuông lạ đời này đã để lại câu chuyện nửa hư nửa thực, bổ sung cho những câu chuyện ẩm thực kỳ thú của vùng đất Nam bộ.

NHỮNG MÓN ĂN MANG ĐẬM HƯƠNG VỊ ĐỒNG QUÊ

Vùng đất Nam bộ nói chung và Cà Mau nói riêng sản sinh ra niều món ăn đậm đà hương vị đồng quê. Những món ăn ấy được chế biến không cầu kỳ, lại rẻ tiền, nhưng nếu ai được một lần nếm thử thì không sao quên được, đặc biệt đối với những người Nam bộ, người Cà Mau đi xa thì cái hương vị đồng quê ấy sẽ đeo bám suốt đời, đó là các món mắm, canh chua, cá kho tộ, tôm khô và ấn tượng hơn cả là món cá lóc nướng trui.

Động vật quý hiếm và các món đặc sản

Vũ Hoàng, phóng viên RFA 2011-06-15

Việc sử dụng động vật quý hiếm phục vụ nhu cầu ẩm thực không còn là chuyện mới mẻ.

Nhân viên kiểm lâm kiểm tra những chú rùa tịch thu từ một vụ buôn lậu thú rừng ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội hồi tháng 3, 2008

Nhưng mới đây, kết luận của Tổ chức Bảo vệ Động vật hoang dã thống kê rằng có hơn một nửa số dân sống và làm việc ở Sài Gòn sử dụng động vật hoang dã. Vũ Hoàng tổng hợp những nguyên nhân dẫn đến trào lưu này.

Càng hoang dã càng thích

Khi cuộc sống được cải thiện, thì chuyện "ăn ngon mặc đẹp" lại tiếp tục được nâng lên một mức mới, ăn lạ, ăn sang để thể hiện mức độ đẳng cấp của các "thượng đế" tại Việt Nam. Hiếm một quốc gia nào như Việt Nam khi mà người dân ở đây khoái khẩu với các đồ ăn chế biến từ hầu hết các loài vật: từ chuột, rắn, cho đến nhện, sâu bọ...

Nếu có dịp ghé đến các nhà hàng "thịt thú rừng" nằm ngay giữa các đô thị lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng, thực khách không khỏi ngạc nhiên trước những món ăn trên thực đơn của các nhà hàng này nằm trong nhóm bát trân (8 món ngon nhất của cung đình ngày xưa như: bàn tay gấu, yến sào, thịt chân voi...), ngoài ra còn các món cũng khá đặc biệt như tê giác, vượn tay trắng hay cày hương.

Khái niệm ăn uống đã vượt ra ngoài khả năng cảm nhận cái ngon, cái lạ của ẩm thực, mà đến với những nhà hàng này, khách hàng còn thể hiện sự chịu xài tiền vì mỗi món ăn đều có giá tiền triệu trở lên. Chẳng thế, trong cơn bão giá, vẫn có những đại gia sẵn sàng bỏ ra hàng trăm triệu cho một bữa ăn bởi vì mỗi bữa vị này phải ăn 2 con rùa vàng (mỗi con 85 triệu đồng). Một tuần không ăn 2 lần rùa vàng là cảm thấy khó.

Việt Nam

Động vật quý hiếm và các món đặc sản

Vũ Hoàng, phóng viên RFA 2011-06-15

Việc sử dụng động vật quý hiếm phục vụ nhu cầu ẩm thực không còn là chuyện mới mẻ.

AFP

Nhân viên kiểm lâm kiểm tra những chú rùa tịch thu từ một vụ buôn lậu thú rừng ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội hồi tháng 3, 2008

Nhưng mới đây, kết luận của Tổ chức Bảo vệ Động vật hoang dã thống kê rằng có hơn một nửa số dân sống và làm việc ở Sài Gòn sử dụng động vật hoang dã. Vũ Hoàng tổng hợp những nguyên nhân dẫn đến trào lưu này.

Càng hoang dã càng thích

Khi cuộc sống được cải thiện, thì chuyện "ăn ngon mặc đẹp" lại tiếp tục được nâng lên một mức mới, ăn lạ, ăn sang để thể hiện mức độ đẳng cấp của các "thượng đế" tại Việt Nam. Hiếm một quốc gia nào như Việt Nam khi mà người dân ở đây khoái khẩu với các đồ ăn chế biến từ hầu hết các loài vật: từ chuột, rắn, cho đến nhện, sâu bọ...

Nếu có dịp ghé đến các nhà hàng "thịt thú rừng" nằm ngay giữa các đô thị lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng, thực khách không khỏi ngạc nhiên trước những món ăn trên thực đơn của các nhà hàng này nằm trong nhóm bát trân (8 món ngon nhất của cung đình ngày xưa như: bàn tay gấu, yến sào, thịt chân voi...), ngoài ra còn các món cũng khá đặc biệt như tê giác, vượn tay trắng hay cày hương.

Khái niệm ăn uống đã vượt ra ngoài khả năng cảm nhận cái ngon, cái lạ của ẩm thực, mà đến với những nhà hàng này, khách hàng còn thể hiện sự chịu xài tiền vì mỗi món ăn đều có giá tiền triệu trở lên. Chẳng thế, trong cơn bão giá, vẫn có những đại gia sẵn sàng bỏ ra hàng trăm triệu cho một bữa ăn bởi vì mỗi bữa vị này phải ăn 2 con rùa vàng (mỗi con 85 triệu đồng). Một tuần không ăn 2 lần rùa vàng là cảm thấy khó.

Một tổ chức buôn bán hổ bị phác giác ở Ninh Bình, nhiều con hổ đông lạnh chưa kịp chuyển đi bị tịch thu.

Theo bài báo mới đây nhất trên tờ Đất Việt Online cho biết, trong 6 con vật "kỳ lạ nhất hành tinh" cá thòi lòi, một loại cá nước lợ có thể sống, chạy, nhảy, kiếm mồi và thậm chí có thể leo cây, đang được các nhà khoa học thế giới quan tâm nghiên cứu. Tại Việt Nam, và nhất là ở các tỉnh đồng bằng Nam Bộ lại đang rộ lên trào lưu đặc sản cá thòi lòi. Tất nhiên, câu chuyện con cá thòi lòi chỉ là một phần nhỏ, mà ẩn chứa sau đó là ý thức cũng như hiểu biết của người Việt Nam về vấn đề bảo vệ động vật quý hiếm, động vật hoang dã đang cần được bảo tồn.

Trong quan niệm của những người rủng rỉnh tiền bạc thì dường như các món ăn càng đắt tiền, các lạ lẫm thì lại được ưa chuộng và họ lấy đó làm một thú vui. Theo lời anh Hoàng Mạnh Cường, chủ trang trại nuôi thú quý hiếm tại TP Buôn Ma Thuột cho đài chúng tôi biết:

Người nước ngoài rất có ý thức cái điều là có sử dụng động vật hoang dã làm thực phẩm. Nhưng thói quen của Việt Nam mình thì càng hoang dã thì họ càng thích dùng làm thực phẩm.

Tiêu thụ và xuất khẩu

Theo kết quả của một thống kê mới nhất Tổ chức Bảo vệ Động vật hoang dã công bố ngày 23/5 vừa qua, có hơn một nửa số dân sống và làm việc ở Sài Gòn từng sử dụng động vật hoang dã, trong đó gần một nửa sử dụng từ 3 lần trở lên trong một năm.

Trong đó, nam giới sử dụng sản phẩm động vật hoang dã nhiều hơn nữ giới, phổ biến nhất là hình thức ăn thịt, tiếp đến là uống rượu, làm thuốc, làm cảnh và làm đồ trang trí, thời trang. Theo những người tiêu dùng, thịt rừng được xem là món ăn lạ miệng, không gây ngán như các loại thịt heo, gà, bò thông thường nên vẫn thích chọn mua

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: