Phần Không Tên 9
nương tựa
Nương tựa nhau để luôn ý thức tôn trọng và cần nhau chính là cấu trúc đẹp đẽ nhất của vũ trụ.
Tế bào cần cơ thể
Chưa bao giờ người ta cảm thấy cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt và lạc lõng như bây giờ. Có lẽ vì con người ngày càng đánh mất dần sự liên hệ mật thiết với những cá thể khác. Kinh tế phát triển, sự hưởng thụ tăng nhanh, đã làm cho nhiều người lầm tưởng rằng họ có thể sống an ổn vững vàng bằng chính tài năng và bản lĩnh của họ mà chẳng cần ai cả. Họ luôn giới hạn những mối quan hệ "không thực tế", không dám đặt niềm tin vào bất cứ ai vì họ cho rằng ai cũng có thể là đối thủ cạnh tranh nguy hiểm. Những người trẻ thì luôn muốn thoát ly gia đình. Họ tin rằng đó là cơ hội để tiến thân và cũng để thỏa mãn khát vọng được sống tự do mà không còn phải bị giám sát, kìm kẹp hay khiển trách. Rồi khi họ bị lôi cuốn vào sự đam mê tình cảm hay vật chất, thì ý niệm về mái ấm gia đình hay tình làng nghĩa xóm không còn đánh động nổi vào trí não họ nữa. Thậm chí, nhiều người trẻ còn dám tuyên bố rằng: "Trong từ điển của tôi không có hai tiếng làng quê", "Thoát khỏi gia đình như thoát khỏi lao ngục vậy". Và kể từ ấy họ sống như kẻ không có quê nhà.
Những lần họ về lại quê hương thường là những lúc họ rơi vào tình cảnh bế tắc mà không thể tự đương đầu hay giải quyết. Nhưng như thế là họ vẫn còn tin tưởng vào tình thương hay giá trị bình yên của gia đình và những người thân, trong khi nhiều bạn trẻ khác vì tự ái và sĩ diện nên không muốn công khai sự thất bại của mình. Họ thà cắn răng chịu đựng, hoặc chấp nhận buông thả vào đam mê trụy lạc để mong lãng quên tất cả, chứ nhất định không cầu viện với gia đình. Số bạn trẻ khác tuy đang sống trong gia đình nhưng lúc nào cũng chợt ẩn chợt hiện như bóng ma. Họ chẳng hề hay biết những gì đang xảy ra trong gia đình. Họ cũng chẳng cần quan tâm ai, chẳng có trách nhiệm với ai, cũng chẳng bao giờ chia sẻ những khó khăn của mình với ai. Họ có thế giới riêng của họ. Trò chơi điện tử, điện thoại và internet chính là nơi mà họ cho là thế giới phù hợp của họ. Ở nơi đó họ thấy thoải mái hơn, tự tin hơn, và thậm chí là "sống thật" hơn ngoài cuộc sống.
Cách đây chỉ chừng vài thập niên thôi, người ta còn sống rất gắn bó và chan hòa với nhau. Những bậc ông bà, cha mẹ luôn dành nhiều thời giờ để uốn nắn dạy dỗ con cháu mình nên người. Họ ý thức rằng con cháu chính là sự tiếp nối của mình và cũng là tương lai của xã hội. Bổn phận con cháu thì luôn luôn yêu kính và hết lòng học hỏi kinh nghiệm của những bậc đi trước, từ việc rèn luyện tác phong, lễ nghi, đến trau dồi nghệ thuật đối nhân xử thế. Gia đình chính là trường đời đầu tiên của họ. Nếu họ sống chan hòa và hạnh phúc được với những thành viên trong gia đình là họ có thể sống dễ dàng ở bất cứ nơi đâu. Chính vì được "cắm rễ" trên nền tảng tinh thần vững chắc như thế, nên sau này dù phải lập nghiệp ở phương xa thì họ vẫn luôn ý thức là mình đang sống cho gia đình, dòng họ, xóm làng và cả quê hương mình. Tuy phải đối đầu với muôn vàn khó khăn hay cám dỗ, nhưng họ luôn tự dặn lòng không được ngã xuống. Vì như thế niềm tin của tất cả những người thân cũng sẽ sụp đổ theo. Cho nên, điểm nương tựa cũng chính là nơi họ tôn thờ, giúp họ luôn có ý thức trân quý giữ gìn và cố gắng hoàn thiện bản thân cho xứng đáng.
Xóm làng cũng là chiếc nôi để giúp người trẻ trưởng thành. Khi họ có những khó khăn với gia đình mà không thể giãi bày, thì họ có thể chạy sang nhà chú Tư hay bác Sáu bên cạnh để trút cạn nỗi lòng. Và rồi họ cũng nhận được những lời khuyên nhủ chân tình để trở về nhường nhịn và làm lành với gia đình. Những người lớn luôn xem tất cả những người trẻ trong thôn xóm là con cháu của mình. Khi thấy người trẻ nào phạm sai lầm, họ sẵn sàng bỏ ra nhiều thời giờ, thậm chí pha một bình trà hay chuẩn bị một bữa cơm thân mật để mời chúng đến dùng rồi lựa lời nhắc nhở. Nếu sự khuyên nhủ bất thành thì họ lại chịu khó đến gặp trực tiếp người lớn trong gia đình để cùng bàn bạc và tìm cách giải quyết. Gặp khi gia cảnh nào có chuyện chẳng may, họ còn dám bỏ cả ngày làm việc để hăng hái phụ giúp. Có khi họ gác lại những buổi tiệc vui chơi riêng tư để cùng ta san sẻ khó khăn. Nhờ vậy mà con người thời ấy ít khi rơi vào trầm cảm, tâm thần hay tìm đến cái chết vì bế tắc như bây giờ. Cho nên, làm gì thì làm chứ ta không bao giờ dám để tai tiếng cho gia đình và xóm làng. Ta đã ý thức được rằng ta chính là tế bào, còn gia đình và xóm làng chính là cơ thể. Tế bào bắt buộc phải nương tựa chặt chẽ vào cơ thể. Nếu không, tế bào sẽ chết.
Đừng một mình ra khơi
Nương tựa là nguyên tắc bắt buộc của cuộc sống. Vì sự thật trong trời đất này không có cái gì có thể tồn tại riêng biệt cả. Nhờ lúc nào cũng có người luôn quan sát, nên ta sẽ cẩn trọng và cố gắng hoàn thiện mình hơn. Trong gia đình gọi đó là "con mắt gia đình", ngoài cộng đồng gọi đó là "con mắt cộng đồng". Con mắt ấy luôn kịp thời giúp ta phát hiện ra những vụng về yếu kém hay những khó khăn mà bản thân ta không nhìn thấy. Ngoài ra, những va chạm tuy đem tới cảm xúc hơi khó chịu ban đầu, nhưng đó là cơ hội để ta rèn luyện khả năng chịu đựng, khả năng ứng phó, hiểu thấu ngõ ngách tâm lý của mình và người khác. Huống chi, mỗi người đều có những cái hay cái đẹp, ai cũng có thể trở thành đối tượng để ta học hỏi. Nhất là được sống chung với những người từng trải, họ chính là quyển từ điển sống động mà ta vừa có thể học tập vừa thực hành theo dễ dàng. Điều quan trọng hơn nữa là nhờ sống trong tập thể mà ta luôn có cảm hứng phấn đấu, vì thói quen tùy hứng và tật lười biếng dễ khiến ta thay đổi lập trường và bỏ lỡ nhiều cơ hội quý giá. Giá trị lớn nhất của đời sống nương tựa chính là cơ hội giúp ta thấy rõ nguyên tắc tương tác giữa các cá thể, để ta bớt đề cao cái tôi của mình và làm lớn dậy hạt giống vị tha.
Nhà thiền thường hay nhắc câu: "Hổ ly sơn hổ bại; tăng ly chúng tăng tàn". Một con cọp khi tách rời khỏi núi rừng vốn là địa thế quen thuộc của nó thì thế nào cũng bại trận. Dù có khi đối thủ của nó chỉ là loài chồn hoang, nhưng nhờ sức mạnh đoàn kết thì lũ chồn hoang ấy vẫn có thể hạ gục được nó - "Mãnh hổ nan địch quần hồ". Một nhà tu nếu rời khỏi đoàn thể tu hành vốn là nơi có nhiều năng lực tinh tiến và hòa hợp bảo hộ thì cũng sẽ dễ dàng bị sa vào cạm bẫy hấp dẫn của cuộc đời, rồi đánh mất sự thanh tịnh trong tâm hồn. Bởi sự xâm nhiễm này diễn ra êm ái và tinh tế trong từng giây phút, nếu không có sự quan sát của "con mắt tăng thân" thì khó mà phát hiện ra được.
Tất nhiên, lời răn dạy dành cho số đông bao giờ cũng có tính tương đối, bởi cái gì cũng có ngoại lệ. Trong thực tế vẫn có những vị có sự tỉnh thức và tự chủ cao độ, thì dù sống ngoài đoàn thể cũng không có gì làm thay đổi được phẩm chất của họ. Sở dĩ họ phải sống xa đoàn thể là vì họ muốn thực hiện lý tưởng cao đẹp của mình, chứ không phải vì họ muốn đi tìm sự phóng túng tự do cho bản thân. Tuy vậy, bao giờ họ cũng tâm niệm rằng mình đang sống giữa đoàn thể, nên từ nếp ăn tới nếp nghĩ của họ đều phản ánh tinh thần của đoàn thể. Cho nên, lối sống "tự lập" chỉ đúng khi ta muốn tự phấn đấu vươn lên mà không thích dựa dẫm vào người khác. Dù ta đã dựng nên cơ nghiệp, nhưng ta vẫn nhớ rằng mình chưa bao giờ ngừng sự tiếp nhận tình thương và niềm tin từ những người thân. Nương tựa nhau để luôn có ý thức tôn trọng và cần nhau là cấu trúc đẹp đẽ nhất của vũ trụ.
Loài thiên nga luôn cùng bầy đàn của mình bay theo hình chữ V trong những chuyến di cư về phương Nam tránh giá rét và tìm kiếm thức ăn. Với đội hình như thế, nhịp vỗ cánh của con bay trước sẽ giúp cho con bay sau tiết kiệm được 70% sức lực so với khi chỉ bay một mình. Trên thực tế chưa bao giờ có con thiên nga nào dám một mình bay từ phương Bắc về phương Nam, vì đoạn đường có khi dài tới hàng chục nghìn dặm. Điều rất đáng chú ý là khi con đầu đàn đã thấm mệt thì nó lập tức lùi lại để con bay kế thay vào vị trí của mình. Chúng không bao giờ độc tài lãnh đạo. Điều đặc biệt hơn nữa là khi có một con thiên nga bất ngờ bị kiệt sức hay trúng thương, nó sẽ được hai con mạnh khỏe khác ở lại yểm trợ và cả đàn sẽ giảm tốc độ đến mức tối thiểu để chờ chúng đuổi theo. Chúng không bao giờ bỏ qua việc nâng đỡ đồng loại của mình.
Khi nhìn bầy thiên nga luôn gắn bó bên nhau, có thể ta sẽ rơi nước mắt. Vì ta luôn tự cho mình là văn minh, nhưng lại tôn sùng chủ nghĩa cá nhân để phục vụ cho sự ích kỷ nhỏ nhoi của mình. Ta không muốn ai đụng tới ta và ta cũng chẳng buồn quan tâm đến nỗi khổ của kẻ khác. Ngay với những người thân trong gia đình mà ta còn sống rất ơ hờ, thì đừng nói chi đến hai chữ "đồng loại" lớn lao kia. Mà có gì là lớn lao đâu. Nếu ta không thương được đồng loại của mình, không nâng đỡ được dân tộc của mình, không chia sớt được nỗi khổ niềm đau với quê hương mình thì ta lấy tư cách gì để đứng vững giữa trời đất này kia chứ? Sống mà chỉ biết đến bản thân thôi thì đâu có ý nghĩa gì để sống.
Vậy nên, ta hãy cố gắng vượt qua những cái nhìn hạn hẹp mà siết chặt tay nhau, để cùng giương lên những cánh buồm to lớn cho con thuyền đời lướt nhanh tới phía trước. Đừng ỷ vào tài năng hay sự may mắn rồi tự ban cho mình một vị trí quá lớn khiến ta trở nên khó hòa nhập với mọi người xung quanh. Không nhất thiết trở thành thuyền trưởng thì ta mới có thể tham dự cuộc hành trình vượt đại dương để đến bờ hạnh phúc. Mỗi thủy thủ chỉ cần tự biết trách nhiệm của mình và sẵn sàng hoán vị với nhau khi cần thiết. Nhờ đó ta kịp thời lấy lại phong độ để ứng phó với những đợt sóng vô tình phía trước. Hãy đi bên nhau để có cơ hội va chạm, để làm tan vỡ những thành trì cố chấp, để tập nhường nhịn và hòa điệu với nhau. Đó là những yếu tố quan trọng làm nên bản lĩnh và thành công của con người.
Ta hãy sống đời sống của một con người có hiểu biết và thương yêu. Hãy chấp nhận nhau như những con thiên nga luôn chấp nhận đồng loại của mình. Đừng vì nhu cầu hưởng thụ quá lớn, đừng vì cái tôi hẹp hòi bé nhỏ mà lúc nào ta cũng dựng lên trong lòng ngục thất của sự nghi ngờ, lo lắng và sợ hãi để ứng phó với nhau. Nếu ta còn có thể đi chung đường với nhau, còn nhìn nhau tận mặt, còn sẵn sàng lên tiếng nhờ nhau hay hết lòng nâng đỡ nhau, là ta vẫn còn giữ được phẩm chất của một sinh linh mầu nhiệm. Không có phẩm chất ấy thì ta không thể nào hạnh phúc. Vì hạnh phúc chỉ thật sự có được khi ta biết sẻ chia.
yếu đuối
Kẻ thiếu sức mạnh bên trong chính là kẻ nhiều khổ đau nhất.
Thói quen hưởng thụ
Do ảnh hưởng từ di truyền mà mỗi cá thể sở hữu một cấu trúc sinh lý khác nhau. Và tùy thuộc vào tác động của hoàn cảnh và sự luyện tập mà mỗi cá thể sở hữu cấu trúc tâm lý cũng khác nhau. Dù rằng tâm lý mới là yếu tố quyết định nên hành vi và thái độ sống, nhưng sinh lý cũng góp phần quan trọng để thay đổi hay hình thành nên tính cách con người. Thân với tâm vốn là một hợp thể gắn kết chặt chẽ, không thể tách rời ra được. Vì thế, lỡ như trong di truyền đã chứa sẵn hạt giống cảm xúc quá mạnh thì chắc chắn ta sẽ có khuynh hướng tìm kiếm cảm xúc tốt và tránh né cảm xúc xấu ngay từ thuở nhỏ. Khuynh hướng này vốn là bản năng tự nhiên. Nhưng nếu sống theo bản năng để thỏa mãn cảm xúc mà không xét đến hậu quả, thì ta chẳng bao giờ tìm thấy giá trị chân thật của hạnh phúc.
Thí dụ, ta thấy chương trình ti-vi chẳng có gì đáng xem hay các trang web mà ta đang dán mắt vào chẳng có gì bổ ích, nhưng ta không thể rời khỏi chúng vì sợ chẳng biết phải làm gì khi tâm tư đang lạc lõng. Ta biết thức dậy sớm sẽ có nhiều thời giờ tập thể dục, chuẩn bị chu đáo mọi thứ mà không phải hấp tấp khi đến công sở, nhưng ta lại không vượt qua nổi cảm giác dễ chịu của nệm ấm chăn êm. Ta luôn tự nhắc mình chỉ nên tiêu thụ những thực phẩm có tính nuôi dưỡng và trị liệu cho cơ thể để giữ gìn sức khỏe và điều tiết năng lượng sinh hoạt, nhưng ta không thể từ chối khi đối diện với những món ăn khoái khẩu. Ta ý thức rất rõ là nếu mình cứ tiếp tục đối xử thân mật với người ấy thì sẽ gây hiểu lầm, nhưng ta lại không thể tìm cách lánh xa họ vì không nỡ từ bỏ cảm giác quá ngọt ngào. Ta đã nhận ra giá trị thiết yếu của đời sống tinh thần và quyết tâm luyện tập, nhưng ta lại không đủ can đảm để giới hạn bớt sự hưởng thụ vật chất và dừng bớt những thú vui chơi.
Yêu thích cảm xúc tốt là đồng nghĩa với chán ghét cảm xúc xấu. Thí dụ, ta không thích chơi các môn thể thao, làm những việc nặng nhọc tay chân hay phải động não quá nhiều. Ta rất ghét lối sống kỷ cương, không thích kiểu làm việc quá nguyên tắc. Ta không ưa những lời góp ý thẳng thắn hay thiếu sự tôn trọng. Ta lại rất dễ bị tự ái, tổn thương trước những lời châm chích hay xúc phạm. Ta cũng luôn bị kích động trước những xáo trộn bất ngờ của hoàn cảnh. Và khi đối đầu với những khó khăn lớn thì ta chỉ biết than khóc chứ không thể bình tĩnh để tìm hiểu và giải quyết. Ta không tin mình có đủ sức vượt qua nghịch cảnh nên lúc nào cũng tha thiết mong cầu kẻ khác giúp đỡ. Ta rất muốn góp ý với người kia bằng tấm lòng chân thành, nhưng lại không dám mở lời vì sợ họ nổi giận rồi sẽ không quý mến mình nữa. Đến nỗi, ta rất muốn từ chối một lời đề nghị nào đó vì biết mình không đủ sức để gánh vác, nhưng lại sợ mất lòng nên đành cắn răng chịu đựng.
Biết điều nên làm mà ta không làm được, hoặc biết điều không nên mà ta vẫn cứ làm, thì đó là tình trạng yếu đuối - không vượt qua nổi chính bản thân mình.
Có quyền lực trong tay, được nhiều người nể trọng, hét một tiếng là người khác phải im lặng lắng nghe, nên ta cứ tưởng mình rất mạnh mẽ. Nhưng khi bất ngờ bị xúc phạm hay vu khống thì ta sụp đổ ngay lập tức. Ta khẩn trương tìm kiếm đồng minh để bênh vực, hay tức tốc kiện người kia ra tòa để đòi lại danh dự. Ta nghĩ phải trừng phạt đích đáng thì họ mới sợ mà không dám động tới ta nữa. Nhưng sự thật là ta đã thất bại. Pháp luật tuy có thể bảo vệ quyền lợi cho ta, nhưng nếu ta cứ dựa vào pháp luật để giải quyết mọi mâu thuẫn xung đột thì vô tình ta đã dung dưỡng cho sự yếu đuối của mình. Nếu ta có uy lực thật sự thì đâu có khó khăn gì để chấp nhận vài cuộc tấn công lẻ tẻ. Thậm chí, ta còn có thể dùng tài năng của mình để cảm hóa đối phương, biến chiến tranh thành hòa bình.
Có thể ta rất vững vàng khi đối đầu với những nghịch cảnh lớn lao, không hề nao núng trước những bạo lực, nhưng không ai ngờ ta lại là kẻ rất yếu đuối trong tình cảm. Ta gần như mất hết quyền chủ động trong khi yêu. Chỉ cần nghe những lời nói êm ái ngọt ngào, hay những tiếng khóc lóc thở than của người ấy là ta sẵn sàng chấp nhận tất cả mọi yêu sách. Sự đam mê - thái độ tự đồng hóa toàn bộ con người mình với cảm xúc yêu thích - đã biến ta thành kẻ nô lệ trung thành của tình yêu. Đôi khi ta còn dám làm những chuyện hết sức điên rồ như vứt bỏ cơ nghiệp đã khổ công gầy dựng, hay cắt đứt tình thâm với gia đình để lao theo tình yêu. Ta tưởng rằng mình đang sống chết để bảo vệ tình yêu, nhưng sự thật là ta đang bị cuốn hút hoàn toàn vào mãnh lực của cảm xúc. Nên khi bị phụ tình thì ta thấy mình chẳng còn giá trị gì để sống. Hai kẻ yêu đương cuồng nhiệt ghép chung cuộc đời với nhau thì chẳng khác nào hai kẻ yếu đuối đang muốn dựa dẫm vào nhau.
Thật ra, ai cũng có lúc yếu đuối. Đó là những lúc ta đánh mất sự tỉnh thức và để cho sự đam mê trỗi dậy, hay những lúc nghịch cảnh tấn công đột ngột khiến ta không kịp chống đỡ. Và rồi lý trí và năng lực rèn luyện vốn có sẽ đưa ta trở về vị trí chủ động đời mình. Nhưng nếu ta để cho sự yếu đuối trở thành thói quen lâu ngày, vẫn cứ mặc kệ mà không cố gắng chuyển hóa, thì ta sẽ gặp vô vàn khó khăn và cả thất bại thảm hại trước những thăng trầm của cuộc sống. Kẻ thiếu sức mạnh bên trong chính là kẻ nhiều khổ đau nhất.
Sức mạnh bên trong
Có lần tôi và hai sư đệ cùng ra sân vườn dọn dẹp những cành cây bị gãy đổ sau một cơn giông lớn. Bất ngờ thấy một con chuột nằm chết giữa đường, tôi liền đem nó đặt vào một gốc cây to. Đi được vài bước, tôi bỗng quay lại dùng bàn tay xới cát lên làm một cái mộ xinh xinh để chôn cất nó. Hai sư đệ bước tới trầm trồ: "Sư huynh từ bi quá!". Khi hai sư đệ đi khỏi, tôi thấy mình đang rơi vào khoảng trống chơi vơi lạ lùng như vừa sụp đổ một cái gì đó rất lớn. Thì ra tôi vừa có một màn trình diễn thật ngoạn mục. Hành động đặt con chuột vào gốc cây là thật - đó là sự xót thương đối với loài vật bé nhỏ; hành động đào mộ chôn cất cho con chuột là giả - đó là thái độ muốn chứng tỏ mình từ bi mà kỳ thật chỉ là cơn "khát" sự công nhận. Câu chuyện đã xảy ra gần hai mươi năm, nhưng mỗi lần nhớ lại tôi đều rùng mình. Không ngờ phiền não của mình quá tinh vi, ngay cả xác con chuột mà cũng có thể lợi dụng được. Sau này muốn giúp ai, tôi hay tự hỏi: "Mình làm việc này là vì cái gì đây?". Nếu thấy mình đang "khát" cảm xúc thì tôi cố gắng dừng lại ngay.
Khi ta quan niệm rằng càng được đón nhận cảm xúc tốt từ sự công nhận của người khác thì cuộc đời ta sẽ có giá trị hơn, tức là ta vẫn chưa tìm thấy sức mạnh bên trong của mình. Mà sự thật là càng trông chờ và dựa dẫm vào điều kiện thuận lợi bên ngoài thì ta càng không thể phát huy sức mạnh bên trong. Ta tuy là những phản ứng lao xao, phẫn nộ hay khát khao nông nổi, nhưng ta còn là cái-sâu-thẳm-bên-trong mà chỉ có những giây phút bình yên ta mới chạm tới được. Cũng như khi lặn sâu xuống lòng đại dương thì ta mới thấy đại dương còn là cái rất mênh mông và sâu thẳm, chứ không chỉ là những con sóng chợt sinh chợt diệt. Để tìm thấy đại dương trong chính mình, ta đừng tiếp tục tự đồng hóa toàn bộ con người mình với những con sóng cảm xúc. Tức là ta hãy tập quên đi hay cô lập bớt những đòi hỏi không cần thiết từ bên ngoài mà quay về sống với chính mình để thấu hiểu và làm chủ đời mình. Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ ở thế kỷ thứ 13 của Việt Nam cũng đã từng nhắc: "Nhìn lại chính mình là bổn phận của mỗi người, nắm bắt bên ngoài sẽ chẳng được gì đâu" (Phản quang tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc).
Tâm lý yếu đuối có liên hệ mật thiết với tâm lý lo sợ, nhút nhát. Có thể ta là mẫu người đằm thắm, hiền hòa và rất dễ thương. Lúc nào ta cũng sẵn sàng nhường nhịn kẻ khác, thậm chí thấy họ làm sai hay gây tổn thương cho ta mà ta chẳng hề phản ứng tức giận. Ta luôn được nhiều người yêu thích và luôn là đối tượng được chọn nhiều nhất để lắng nghe kẻ khác trút cạn nỗi lòng. Thế nhưng, khi làm việc chung với ta thì ai cũng phát hoảng. Dường như ta không thể quyết đoán được vấn đề gì cả, cứ phải rơi vào tình trạng "không biết phải làm sao". Lúc đầu, mọi người tưởng rằng ta có trái tim rất lớn để chấp nhận tất cả. Nhưng rồi họ cũng phát hiện ra ta vốn không có thói quen đối đầu với những rắc rối phiền phức, vì thế ta hay trốn vào "hải đảo thinh lặng" của mình để được an toàn.
Ngay cả việc cần phải lên tiếng để bảo vệ sự thật hay công lý mà ta cũng phớt lờ, tìm cách tránh né hay đùn đẩy trách nhiệm cho kẻ khác. Thái độ nhút nhát đã biến ta thành kẻ hèn nhát. Hèn nhát cũng chính là tác nhân quan trọng tạo nên sự lấn lướt cho kẻ khác. Thật không có gì bất mãn cho bằng khi ta biết việc ấy nên làm và nằm trong khả năng của mình, nhưng ta lại không thể cố gắng thêm một chút nữa để vượt qua cảm xúc xấu đang khống chế toàn bộ con người mình. Cảm xúc ấy đến từ thái độ sống sai lầm. Thái độ sống sai lầm bắt nguồn từ nhận thức sai lầm khi cho rằng ta hãy nên là chính mình, không cần sửa đổi chi cho mệt xác. Từ đó, ta luôn tìm mọi cách để cưng chiều hay thăng hoa cảm xúc yêu thích. Tài năng bẩm sinh đôi khi là nguyên nhân chính dẫn đến tính cách yếu đuối. Vì nhờ nó mà ta được nổi tiếng, nhiều người ngưỡng mộ, nên ta quên mất con người thật rất yếu đuối của mình. Vốn đã yêu thích cảm xúc tốt nay lại có thêm cơ hội để hưởng thụ lượng cảm xúc khổng lồ nên tuy ta được mệnh danh là kẻ có quyền lực nhất (vì nổi tiếng và được nhiều người mến mộ), nhưng kỳ thực ta chính là kẻ yếu đuối nhất (vì dễ tổn thương nhất).
Chí lớn tung trời
Đôi khi trước những tượng đài quá lớn, nhất là khi năng lượng của tượng đài ấy đang được cộng hưởng bởi năng lượng ngưỡng mộ to tát của đại chúng, ta bỗng thấy mình quá đỗi tầm thường rồi sẵn sàng nấp dưới bóng họ. Sự yếu đuối cũng dễ dẫn đến thái độ dựa dẫm rồi đánh mất chủ quyền sống. Càng yếu đuối càng dễ dựa dẫm và càng dựa dẫm lại càng yếu đuối. Thiền sư Quảng Nghiêm, thế kỷ 12 của Việt Nam, đã từng khuyên: "Làm trai chí lớn tung trời thẳm/ Sao dẫm chân theo dấu Phật thành" (Nam nhi tự hữu xung thiên chí/ Hưu hướng Như Lai hành xứ hành). Bắt chước rập khuôn theo kẻ khác, dù đó là một đức Phật, cũng chỉ đem lại xấu hổ và mệt mỏi chứ chẳng lợi ích gì. Bởi chuyển hóa tâm hồn là sự trải nghiệm của mỗi người chứ không phải do làm giống y như thần tượng tâm linh của mình mà được. Mà tại sao ta phải làm giống y người khác, khi ta và họ có cấu trúc cơ thể và tâm thức không hề giống nhau? Ta chỉ có thể học hỏi phần nào kinh nghiệm của người đi trước, còn lại ta phải tự đương đầu và khám phá bằng thực lực của mình. Thói quen hưởng thụ dễ khiến ta đánh mất khí phách hiên ngang có sẵn của mình.
Nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã từng than rằng: "Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp/ Giấc mơ con đè nát cuộc đời con/ Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp/ Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn". Giấc mơ của chúng ta là gì? Có phải là sự nghiệp hiển vinh với đời, chinh phục được người trong mộng, sở hữu cơ ngơi sang trọng thuộc bậc nhất, được bạn bè và mọi người xung quanh nể trọng? Vậy còn lý tưởng đâu? Sống mà không có ý chí muốn vươn tới mục đích cao cả thì đời sống ấy sẽ bị đóng khung trong không gian nhỏ hẹp và lạc lõng vô cùng. Thật ra, cũng không có gì để gọi là mục đích cao cả. Chia sẻ năng lực của mình để phụng sự cho cộng đồng hay cuộc sống mà mình đang nương tựa cũng chỉ là trách nhiệm căn bản của mỗi công dân mà thôi. Nếu ai cũng chỉ biết lo nghĩ đến hạnh phúc của riêng mình thì ai sẽ lo cho những cái chung? Ta không muốn kết tội nền khoa học hiện đại, vì bản thân nó đã đem tới biết bao tiện nghi cho con người. Nhưng sự thật là chính nó đã làm cho ma lực tham vọng của con người lớn mạnh hơn bao giờ hết. Nó đã đầu độc mục đích sống và nhấn chìm lý tưởng cao đẹp của hàng lớp người.
Đúng là ta đã đi qua thời chinh chiến, nhưng sự điêu linh trong lòng người có bao giờ chấm dứt đâu. Con người bây giờ vẫn miệt mài tranh đấu, nhưng không phải với tư cách của một chiến sĩ quên mình vì dân tộc. Ta nói ta yêu quê hương, tự hào về giống nòi, nhưng có bao giờ tự hỏi ta đã làm gì cho quê hương cho giống nòi mà không có quyền lợi của mình trong đó không? Đừng xem câu hỏi ấy là to tát. Đừng nổi giận vì bị chạm vào sự ích kỷ. Hãy can đảm nhìn vào sự thật. Quê hương và giống nòi vẫn còn vô vàn khó khăn, ta không gánh vác thì ai sẽ gánh vác bây giờ? Nếu ta vẫn tiếp tục ngoảnh mặt quay lưng với lý tưởng để bảo vệ "giấc mơ con" của mình, thì đừng hỏi tại sao cuộc đời mình quá nhỏ nhoi để rồi ta dễ dàng ném nó vào những chuyến hôn mê bất tận, đànhlòng làm đau khổ những người thân yêu hay góp phần tàn phá chính quê cha đất tổ của mình.
sám hối
Lầm lỗi do tâm ta gây ra thì phải từ nơi chính tâm ta thay đổi mà không có bất cứ năng lực tối cao nào từ bên ngoài có thể giúp ta thay đổi được.
Nhìn lại lỗi lầm
Khi ta vẫn còn mải mê đuổi theo những đối tượng hấp dẫn bên ngoài thì chắc chắn tâm ta sẽ còn bị chi phối và điều khiển. Vì thế cơ hội sống trong tỉnh thức để luôn làm chủ mọi hành vi của mình cũng sẽ bị giới hạn, và việc gây ra những vụng về lầm lỗi cũng là điều khó tránh. Dĩ nhiên, nếu chưa phải là bậc thánh thì không ai mà không có những lầm lỗi. Nhưng cũng đừng vì thế mà ta ban cho mình cái quyền tự tiện gây ra mọi lầm lỗi, bất chấp hậu quả cho bản thân hay ảnh hưởng đến những người xung quanh. Khắc phục và chịu trách nhiệm về những gì mình đã gây ra vốn là điều cần phải làm. Tuy nhiên, chính thái độ ăn năn hối cải về những lầm lỗi ấy và quyết tâm chuyển hóa để không lặp lại mới đích thực là việc làm quan trọng hàng đầu của kẻ phạm lỗi. Thái độ ấy chính là sám hối.
Thông thường, mỗi khi nhận ra mình vừa mới gây ra lầm lỗi, ta vội vàng tìm tới nạn nhân của mình để phân trần hay làm một điều gì đó để chuộc lỗi. Ta cho rằng đó là thái độ lịch sự hay có ý thức trách nhiệm. Nhưng ta làm như vậy với mục đích gì? Dường như ta chỉ đang khẩn trương tìm cách bù đắp cảm xúc tốt cho người kia, vì ta đã lỡ mang đến cho họ cảm xúc xấu, với mong muốn họ đừng giận mà đánh giá thấp hay giảm đi thiện cảm đối với ta mà thôi. Ta mang đến người kia một cảm xúc tốt đồng thời lại mong muốn được nhận lại một cảm xúc tốt thì đó chỉ là một sự trao đổi. Hành động xin lỗi như thế cũng vì bản thân mình chứ không thật sự muốn chữa lành vết thương trong tâm người kia. Chính vì thế mà những người tinh ý thường không dễ dàng chấp nhận những lời xin lỗi thiếu thành khẩn, hay cốt ý chỉ làm cho họ vui lòng. Thái độ xin lỗi ấy đôi khi còn khiến cho vết thương trong họ sâu đậm thêm. Bởi chiếu theo quy luật cân bằng cảm xúc, họ mới vừa đón nhận một cảm xúc xấu do ta đem đến, bây giờ họ phải cố gắng tạo ra cho ta một cảm xúc tốt bằng thái độ tha thứ và vui vẻ, thì rõ ràng họ đã quá thiệt thòi.
Trước khi muốn thể hiện sự ăn năn hối cải, ta hãy nên tự hỏi mình đã thật sự nhìn ra lầm lỗi chưa và tại sao mình lại hành xử tệ lậu như vậy? Ta đừng cố gắng trình diễn bằng những màn thật cảm động để mong khôi phục giá trị cao đẹp của mình trong mắt người kia, vì như thế ta chỉ tiếp tục làm hư tâm mình. "Xin lỗi" không có nghĩa là xin người kia đừng giận hay đừng ghét bỏ mình. Nó phải là thái độ cải hối - xin thu lại những lời nói hay hành động sai trái của mình và xin chịu hết trách nhiệm về chúng. Cho nên, khi ta chưa thật sự thấy mình sai trái, chưa muốn nhận lấy trách nhiệm, thì không nên vội vàng xin lỗi. Tệ hại nhất là ta cố gắng xin lỗi chỉ vì được ai đó khuyên bảo, hay vì biết người kia đang rất mong đợi lời xin lỗi của ta. Trừ trường hợp biết họ đang rất giận dữ và đau khổ thì ta đành vì họ mà chấp nhận mở lời xin lỗi trước. Tuy nhiên, ta cũng nên thành thật cho họ biết ngay bây giờ ta vẫn chưa thấy được chỗ sai trái của mình. Xin họ hãy chỉ lỗi giúp ta, hoặc ta hứa sẽ nhìn kỹ lại mình rồi sẽ trao đổi với họ trong thời gian sớm nhất.
Nếu như xin lỗi là hành động hướng tới đối tượng để hàn gắn vết thương trong tâm người khác thì sám hối là thái độ quay trở về chữa trị tì vết lỗi lầm trong tâm mình. Tất nhiên, tùy theo tình huống mà ta nên thể hiện hành động nào trước, nhưng quay về sám hối với chính mình rồi mới xin lỗi kẻ khác vẫn là giải pháp đúng đắn nhất. Sám hối phải mang hai đặc tính: ăn năn về lỗi lầm đã gây ra và quyết tâm không lặp lại lần nữa. Cả hai yếu tố này đều rất quan trọng và có liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu ta không thật sự ăn năn hối cải thì ta sẽ không bao giờ có quyết tâm thay đổi; và nếu ta không có quyết tâm thay đổi thì sự ăn năn hối cải kia cũng chỉ là cảm xúc nhất thời để xoa dịu vết thương trong ta mà thôi. Thay đổi chính mình để không lặp lại lỗi lầm khó hơn rất nhiều so với thể hiện sự ăn năn hối cải, bởi thay đổi chính mình tức là phải phá vỡ những cố tật phiền não.
Nên nhớ, chuyển hóa phiền não khác với ngăn chặn phiền não. Muốn ngăn chặn phiền não thì ta chỉ cần luôn tự nhắc nhở mình, rồi dùng ý chí mạnh mẽ để sẵn sàng đàn áp mỗi khi nó xuất hiện. Đây chỉ là cách giải quyết tạm thời, vì khi ta lơ là hay năng lực trong ta yếu kém thì nó sẽ quay trở lại ngay. Còn muốn chuyển hóa phiền não, ta cần phải hội đủ ba điều kiện. Thứ nhất, phải nhận diện rõ ràng mặt mũi của phiền não nào đã khiến ta gây ra lầm lỗi. Thứ hai, phải có phương pháp đúng đắn và cụ thể để chữa trị. Thứ ba, phải có quyết tâm mạnh mẽ để sẵn sàng dành mọi ưu tiên cho việc chuyển hóa này. Ngoài ra, còn một điều kiện nữa cũng khá quan trọng trong quá trình sám hối, đó là không được nôn nóng chuyển hóa sớm để trình diện trước người kia sự mới mẻ của mình. Thái độ này sẽ khiến ta tự gây thêm áp lực và đánh giá không chính xác mức độ chuyển hóa của mình. Người kia chắc chắn sẽ không trách giận khi biết ta đang cố gắng sửa đổi chính mình. Vì sự hoàn thiện bản thân chính là hành động xin lỗi giá trị nhất để cứu chuộc mọi lỗi lầm.
Chuyển hóa lỗi lầm
Tâm lý chung của hầu hết mọi người khi lỡ gây ra lầm lỗi là luôn muốn tìm cách cứu vãn tình thế. Mặc dù ta cố gắng nghĩ rằng mình đang gánh chịu trách nhiệm cho những sai trái do mình gây ra, nhưng sự thật trong thâm tâm ta đang mong muốn khẳng định lại cái tôi giá trị của mình. Ta muốn loan báo cho người kia biết rằng ta không phải tệ lậu như thế, hành động nông nổi vừa qua chỉ là một sai lầm nhất thời. Cho dù hành động chịu trách nhiệm ấy đã thật sự hàn gắn được vết thương trong tâm người kia, hay đã giúp ta lấy lại phong độ của mình trong mắt họ, thì tì vết lầm lỗi trong tâm ta vẫn còn nguyên vẹn đó. Đáng lẽ, ta phải lo thay đổi phần "gốc" hơn là khẩn trương giải quyết phần "ngọn". Vì nếu ta vẫn chưa nhìn ra phiền não của mình để thật sự chuyển hóa thì trước sau gì ta cũng lặp lại lỗi lầm kia với người ấy, hay gây ra những lỗi lầm khác với đối tượng khác.
Đạo Phật luôn khẳng định rằng: "Quay đầu là bờ". Khi ta đã thật sự từ bỏ con đường tăm tối để bước lên con đường tươi sáng thì sự chuyển hóa đã bắt đầu xảy ra. Nếu ta cứ giữ mức tinh tiến trên hành trình ấy thì thế nào ta cũng đi tới sự giác ngộ. Vì thế "quay đầu là bờ" không có nghĩa là vừa mới hồi tâm phản tỉnh là ta sẽ giác ngộ ngay lập tức. Mà đó chỉ là lời động viên khích lệ cho những ai khi đã quay đầu rồi thì một ngày nào đó cũng sẽ về tới bờ. Dù ta đã vụng dại gây ra những lầm lỗi tày trời, nhưng với quyết tâm thay đổi và có một con đường thật sự đúng đắn thì những tì vết phiền não ấy cũng sẽ được gội rửa và tan biến. Ta vẫn có thể trở về với con người lành lặn và trong sáng năm xưa. Dĩ nhiên, những năng lượng độc hại mà ta đã lỡ tạo ra quá nhiều thì không dễ dàng xóa sạch ngay được, nhất là khi nó đã để lại vết thương sâu đậm trong tâm người kia. Nhưng với năng lượng an lành sinh ra từ sự thành tâm hối cải và hành động chuyển hóa tích cực mỗi ngày, ta vẫn có thể hóa giải dần những năng lượng độc hại ấy. Cho dù phải nhận chịu quả báo, tức phải trả món nợ cảm xúc, thì ta vẫn đủ sức và vui vẻ chấp nhận. Vì nó đã không còn quá nặng nề như lúc đầu, nhất là nhờ vào thái độ hướng thiện lớn mạnh trong ta.
Điều đáng sợ nhất là ta không bao giờ biết ăn năn hối cải. Thái độ ấy sẽ mở ra cho ta rất nhiều cơ hội để tàn phá hay hủy diệt chính mình và những người xung quanh. Những người trẻ bây giờ thường hay tuyên bố rất hùng hồn: "Tôi không bao giờ ân hận về những gì mình đã làm". Nghe rất tự tin và bản lĩnh. Làm như thể ân hận là một thái độ xấu xa, vì ta đã tự công nhận sự thiếu chín chắn và bộc lộ sự hèn yếu của mình vậy. Sự thật là càng vô tâm hay càng cố tình lẩn tránh trách nhiệm thì ta càng làm cho tình trạng tồi tệ và khiến ta hèn yếu thêm. Không ai dám xây dựng mối quan hệ nghiêm túc hay lâu dài với một kẻ chẳng biết chịu trách nhiệm cho chính mình. Nhưng quan trọng hơn hết là khi ta đã gây ra lầm lỗi tức là cơ chế tâm lý của ta đã bị sai sót ở chỗ nào đó. Có thể nhận thức của ta đã sai lầm, hoặc những hạt giống phiền não trong ta đã bị kích động và đang hình thành nên một thói quen hay tính cách. Vết thương ấy sẽ không ngừng hành hạ ta. Nó cũng sẽ biến thành trở lực lớn lao khiến cho các năng lượng tốt lành không thể phát sinh.
Mặc dù sám hối là hành động quay về điều chỉnh lại tâm mình, nhưng nó cũng cần thực hiện như một nghi lễ. Hình thức trang nghiêm sẽ khiến cho ta dễ dàng chú tâm và thể hiện đúng mức thái độ muốn quay về sửa đổi. Ta nên chọn một không gian thật yên tĩnh và dành nhiều thời giờ để nhìn lại mình. Hãy cố gắng nhìn lại toàn vẹn thân tâm mình bằng thái độ không thành kiến, để thấu hiểu tận tường rồi mới tìm cách chuyển hóa. Đừng quá nhiều cảm xúc rồi trách móc hay tức giận bản thân. Giày vò bản thân đôi khi cũng là hình thức đề cao cái tôi của mình, vì ta không muốn chấp nhận những yếu kém ấy thuộc về mình. Và nếu ta cứ xa lánh ghét bỏ bản thân thì làm sao có thể thấu hiểu hết những yếu kém hay những ngõ ngách sâu kín của tâm ý. Mà chưa thấu hiểu thì chưa thể chuyển hóa.
Ta cũng có thể sám hối bằng cách tự viết thư cho mình. Cách này tuy đơn giản nhưng mang lại kết quả rất bất ngờ. Đầu tiên, ta nên ngồi xuống thật yên, theo dõi hơi thở chừng 15 phút để tâm tư lắng đọng. Ta cũng nên chọn một không gian yên tĩnh và dành nhiều thời giờ để viết một bức thư cho thật giá trị như ta đang viết cho một đối tượng đáng quý nào đó. Ta cứ gọi ngay cái tên thân mật nhất của mình. Tự đặt ra câu hỏi tại sao thời gian qua ta đã sống, đã hành xử với mọi người như thế? Hãy suy gẫm để tìm ra câu trả lời đúng đắn nhất và viết xuống một cách thành thật. Sau đó, ta cũng ghi ra lời hứa sẽ cố gắng sống sâu sắc hơn để không lặp lại những lỗi lầm đáng tiếc ấy nữa. Bức thư này nên đặt ở một chỗ gần gũi để ta thường xuyên lấy ra đọc lại. Mỗi lần đọc thư là mỗi lần ta soi lại lòng mình. Cách viết thư như thế sẽ giúp ta liệt kê một cách cụ thể và phân tích một cách sâu sắc thái độ sống của mình. Bức thư ấy cũng có thể xem là tâm kinh của mình.
Trong truyền thống văn hóa Việt Nam có một phương pháp sám hối rất thông dụng, đó là tìm tới một đối tượng mà mình tin tưởng và kính trọng nhất để bày tỏ sự ăn năn. Họ có thể là những người thân đang sống bên cạnh, hay cũng có thể là những bậc tiền nhân đã khuất. Mỗi khi bị cảm xúc ăn năn quá mạnh khiến ta không thể đứng vững, hoặc những lúc ta đang cần có sự yểm trợ tinh thần trong giờ phút chính thức quay về chuyển hóa, thì ta cũng nên có một đối tượng để nương tựa và chứng minh. Đây là thái độ biết giải cứu tâm lý của mình, không để nó rơi vào tình trạng bế tắc chứ không phải là thái độ lẩn tránh thực tại. Trong trường hợp đối tượng nương tựa là tổ tiên tâm linh hay tổ tiên huyết thống, ta cũng có thể đến trước bàn thờ thành tâm thắp hương, giãi bày tâm sự và quỳ lạy.
Khi lạy ta phải để cho toàn thân và nhất là đầu của ta cúi rạp sát xuống đất thật lâu để thể hiện sự phủ phục trước những tấm gương tuyệt vời của tổ tiên, đặc biệt là với đất. Đất cũng là tổ tiên của ta, là bà mẹ nhân từ luôn ôm ấp bao dung mọi thứ nhơ bẩn trên đời này. Buông mình vào lòng đất để ta học hạnh của đất, để ta tập mở lòng ra tùy thuận với mọi hoàn cảnh và mọi đối tượng mà không còn so đo hay kỳ thị nữa. Bởi bao lầm lỗi hay khổ đau cũng từ cái tôi quá lớn gây ra. Cho nên, hướng đến đối tượng khác cũng chỉ để phản chiếu lại tâm mình chứ không phải dựa dẫm hay van xin. Vì lầm lỗi do tâm ta gây ra thì phải từ nơi chính tâm ta thay đổi mà không có bất cứ năng lực tối cao nào từ bên ngoài có thể giúp ta thay đổi được. Nên ý thức rằng, lỗi lầm dù to tát đến đâu cũng chỉ là những hiện tượng tâm lý nhất thời, đó không phải là toàn vẹn con người của ta. Ta đừng tự đồng hóa mình với những yếu kém ấy mà đánh mất niềm tin vào bản thân hay mặc cảm. Tuy nhiên, nếu ta không quyết lòng chuyển hóa hết những lầm lỗi ấy, vẫn để nó thao túng mọi suy tư và hành động thì ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được con người thật của mình. Ta sẽ sống mãi với những vỏ bọc phiền não của mình. Đó là điều đáng tiếc nhất trong đời.
lười biếng
Những kẻ lười biếng không bao giờ có đời sống ổn định hay một tương lai tốt đẹp. Nói cách khác, vương quốc của sự thành công không bao giờ có bóng dáng của kẻ lười biếng.
Cuộc đời bỏ lại
Bản năng tự nhiên của con người luôn thích hưởng thụ. Nhưng bản chất của sự hưởng thụ chỉ là sự thỏa mãn cảm xúc trong nhất thời, chứ không thể mang lại giá trị hạnh phúc chân thật. Tất nhiên, không phải ai cũng nhận ra được sự thật này để cố gắng thuần phục bản năng hưởng thụ, và không phải ai cũng có đủ bản lĩnh để chiến thắng được chính mình. Nếu ta cũng là nạn nhân của cảm xúc, luôn bị cuốn theo cảm xúc tốt không cần thiết và phản ứng gay gắt với những cảm xúc xấu cần thiết, thì chắc chắn trong ta sẽ hình thành nên tính cách yếu đuối và một số thói quen khác có cấu trúc tương tự như dựa dẫm, nhàm chán, do dự, sợ hãi, lo lắng. Ngoài ra, còn một thói quen nữa cũng có cùng bản chất và cũng gây trở ngại không nhỏ cho công trình xây dựng hạnh phúc: đó là lười biếng.
Lười biếng là thói quen không muốn tách mình ra khỏi cảm xúc tốt cạn cợt để vươn tới những cảm xúc tốt khác sâu sắc hơn. Cũng như con mèo thích cuộn tròn mãi trong bếp tro hay chiếc khăn ấm, dù rất đói nhưng nó lại thấy tiếc khi phải rời xa cảm giác dễ chịu ấy để đón nhận cảm giác khó chịu là phải đứng dậy kiếm ăn. Những người mang tật lười biếng làm ít nhưng lại muốn hưởng nhiều, thích dựa vào sự giúp đỡ của kẻ khác hay cầu vận may mà không chịu nỗ lực. Họ luôn lánh nặng tìm nhẹ, hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho kẻ khác. Họ thích ăn, thích ngủ, thích những trò tiêu khiển giải trí. Họ chỉ hứng thú với những việc họ yêu thích. Tức là họ thích làm những việc thuộc về năng khiếu có sẵn hơn là do rèn luyện, hoặc nó không đòi hỏi phải vận động tay chân hay đào sâu suy nghĩ. Ta đã từng thấy nhiều người làm việc rất hăng say, nhưng chẳng qua những việc đó mang tới cảm xúc tốt cho họ thôi. Những việc khác dù rất quan trọng, có khi ảnh hưởng đến tương lai sự nghiệp mà hơi khó khăn thì họ cứ ngâm mãi. Nước đến chân họ mới chịu nhảy.
Nếu lỡ mang "cục" lười biếng quá lớn như thế thì ta sẽ gặp vô vàn khó khăn trong cuộc sống. Ta sẽ rất sợ dầm mưa dãi nắng hay thức khuya dậy sớm để làm việc. Gặp những đối tác không vừa ý, ta sẽ không chịu cố gắng cải thiện mối quan hệ để hợp tác. Ta sẽ vừa là nạn nhân cũng vừa là thủ phạm của sự trì trệ công việc và thâm hụt tài khoản. Khi chọn người bạn đời, chắc chắn ta sẽ có khuynh hướng tìm kiếm một đối tượng hết mực thương yêu và lo lắng chu đáo mọi thứ cho mình. Có thể nói lấy phải một người lười biếng thì cũng tệ như là mua nhầm chiếc xe hơi đời cũ. Tuy ngốn nhiều xăng, nhưng chạy được một quãng đường thì nó lại nằm ỳ ra đó. Phải tu bổ liên tục thì nó mới chịu chạy tiếp, nhưng rồi cũng chẳng hơn lần trước được bao xa. Dù người kia có nhiều thiện chí xây dựng mối quan hệ lâu bền với ta, nhưng nhìn vào thái độ sống thiếu cố gắng và uể oải của ta thì họ cũng nghi ngờ rằng đây là kẻ ích kỷ và đang lợi dụng họ. Nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ cũng vì sự thiếu cố gắng của một bên. Nếu bên kia gây ra lầm lỗi hay xuống cấp mà bên này ra sức nâng đỡ thì họ vẫn có thể đồng hành cùng nhau. Còn nếu bên này đã hết lòng nâng đỡ mà bên kia không chịu cố gắng sửa đổi thì cũng đành chịu thất bại mà thôi.
Những kẻ lười biếng không bao giờ có đời sống ổn định hay một tương lai tốt đẹp. Nói cách khác, vương quốc của sự thành công không bao giờ có bóng dáng của kẻ lười biếng. Dù họ có thông minh hay tài năng cỡ nào mà với sự phấn đấu kiểu ngập ngừng, nửa vời, một bước tiến ba bước lùi, thì suốt đời họ cũng không thể nào đạt được mục đích.
Chắc ai cũng biết câu chuyện con rùa thi chạy với con thỏ. Không ai có thể nghĩ rằng con rùa chậm chạp kia lại dám chạy đua với con thỏ vốn rất nhanh nhẹn.
Thế nhưng, con rùa rất tin tưởng vào sự cần mẫn của nó có thể cạnh tranh và chiến thắng sự ỷ lại và lười biếng của những kẻ lanh lẹ như con thỏ. Và con rùa đã làm nên kỳ tích, khiến muôn loài phải học hỏi tấm gương của nó. Ta thường hay nói: "Cần cù bù thông minh". Sự thật, đức tính chuyên cần quan trọng hơn cả sự thông minh. Nó được hình thành từ sự đào luyện, vượt qua chính bản thân mình, nên nó là thứ bảo bối giúp ta san bằng mọi trở lực và gầy dựng nên sự nghiệp vững vàng. Trong khi sự thông minh thuộc về bẩm sinh, không cần khổ luyện mà vẫn thành công và hơn người, nên kẻ thông minh thường ỷ lại chứ không chịu học hỏi hay mài giũa thêm. Chính sự chủ quan và lười biếng ấy là mồ chôn của biết bao tài năng. Họ tuy có "ngọc" bên trong nhưng lại không sử dụng được.
Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã nhắc nhở: "Thân ta ta phải lo âu". Ta đừng quên ta mới chính là kẻ chịu trách nhiệm chính cho cuộc đời mình. Khi ta đau hay khi ta khổ thì người thương yêu nhất của ta cũng không thể chịu thay cho ta được. Nhưng ta đã làm gì cho cuộc đời mình rồi? Ta đang sống vui vẻ và hạnh phúc bằng thực lực của chính mình hay là từ sự may mắn hoặc nâng đỡ của kẻ khác? Sự nâng đỡ cũng cần thiết. Nhưng nếu ta cứ dựa mãi vào đó thì vô tình ta đã dập tắt năng lực phấn đấu, làm chai cứng sức học hỏi và sáng tạo của mình. Thói quen lười biếng ấy đang mở ra cho ta những đoạn đường đầy gian nan phía trước. Ngay cả việc đơn giản như rèn luyện sức khỏe mà ta vẫn cứ hẹn lần hẹn lữa, lên kế hoạch không biết bao lần rồi bỏ đó thì làm sao ta có đủ nghị lực để liên tục chuyển hóa những năng lực tiêu cực trong tâm? Làm sao ta đủ bản lĩnh để góp phần thay đổi những khó khăn của những người thân sống bên cạnh? Sống mà không thể vươn tới, không thể phát huy, không có gì mới mẻ thì đó là kiếp sống mòn, vô nghĩa.
Nửa bước chưa rời
Nhà thiền hay nhắc đến câu: "Tích niên hành xứ, thốn bộ bất di". Nghĩa là nhìn lại chỗ khởi hành năm xưa, ta thấy mình chưa rời được nửa bước. Thật đáng hổ thẹn biết bao! Ta "hổ" với mọi người vì ta đã từng tuyên bố rất hùng hồn về lý tưởng cao siêu của mình, nhưng tới giờ ta vẫn còn tay trắng; ta "thẹn" với bản thân vì ta đã thấy rõ năng lực tiềm ẩn của mình nhưng vẫn không phát huy được. Thời gian qua ta đi đâu và đã làm những gì? Có phải là ta đã bị những lực hấp dẫn xung quanh kéo ta ra khỏi con đường lý tưởng không? Những gì ta đã và đang làm dường như chỉ để phát triển thêm sự hưởng thụ cho bản ngã, chứ nó không phản ánh được những giá trị chân thật như ta đã từng mong ước.
Mười năm, hai mươi năm nhìn lại mà thấy mình vẫn chưa bước thêm được bước nào thì đúng là thất bại lớn rồi. Ta có biết lý do tại sao không? Hay ta vẫn tiếp tục đổ thừa cho kẻ khác và hoàn cảnh? Có khi ta còn không biết mình đang dậm chân tại chỗ, vì ta đang lầm tưởng những thứ tiện nghi hấp dẫn mà mình đang nắm bắt chính là cứu cánh của cuộc hành trình. Nguyên nhân cốt lõi của sự rẽ hướng bất chợt ấy chính là sự bão hòa của cảm xúc. Ta không còn thấy hứng thú trên con đường lý tưởng, nhất là khi gặp phải những chướng ngại mang lại những cảm xúc xấu quá lớn mà ta không đủ sức đón nhận. Cho nên một người muốn có sự nghiệp lớn thì phải nỗ lực không ngừng để kìm hãm sự phát triển của bản năng, biết huy động những năng lượng tích cực để đương đầu với mọi nghịch cảnh.
Một hạt giống khi gieo xuống đất, tuy có đủ những điều kiện thuận lợi như ánh nắng, độ ẩm, phân bón hay khoáng chất, nhưng nếu thiếu đi yếu tố không-gián-đoạn (tức sự liên tục) thì hạt giống ấy cũng không thể nào nẩy mầm và phát triển được. Cũng như khi ta lấy hai thanh tre hoặc hai hòn đá đánh vào nhau để lấy lửa, nhưng sức đánh quá yếu ớt hoặc cứ ngưng lại hoài thì làm sao có lửa được. Việc gì cũng cần đến tính chất không-gián-đoạn thì mới thành công. Nếu ta để cho thói lười biếng và sự tùy hứng chen vào thì nó sẽ phá vỡ hết mọi công trình, nhất là công trình chuyển hóa tâm tính. Dù ta có bao nhiêu phương pháp tuyệt vời, được sự hướng dẫn cặn kẽ của những bậc thầy tài giỏi, có nhiều điều kiện thuận lợi để luyện tập, nhưng nếu ta chưa vượt qua được thói lười biếng thì ta sẽ không thể nào tham dự vào hàng ngũ của những người tỉnh thức. Ta sẽ mãi là chính ta - con người cũ kỹ không bắt kịp sự tinh khôi mầu nhiệm trong từng giây phút của cuộc sống.
Thêm một chút nữa
Muốn sửa tính lười biếng, ta cần phải có một quyết tâm cao độ tách mình ra khỏi những cảm xúc tốt không cần thiết và tập đối diện với những cảm xúc xấu cần thiết. Để không bị thất bại mãi với chính mình, ta nên cố gắng sống chung với gia đình hay những người vững chãi và năng động. Nhờ vào kỷ luật nghiêm khắc, không khí sinh động, sự động viên nhắc nhở thường xuyên hay nhìn vào tấm gương vượt khó của họ, ta sẽ không có điều kiện để dung dưỡng thói lười biếng. Bước đầu, ta đừng để cho mình rảnh rỗi. Phải sắp xếp thời gian làm việc sao cho khít khao để ta quên dần đi ý muốn tìm tới sự hưởng thụ, hay chìm đắm trong sự nghỉ ngơi bất tận. Thỉnh thoảng, hãy can đảm nhận lãnh vài công việc quan trọng và làm việc chung với một nhóm người siêng năng. Nhờ có trách nhiệm phải hoàn thành và tinh thần làm việc tích cực của tập thể mà ta giảm bớt sự hưởng thụ. Hay nhất là nên tham gia vào các sinh hoạt cộng đồng, các chương trình có tính chất sôi động phải vận dụng tay chân và trí não. Nói chung, ta cần làm mới nếp sinh hoạt trong môi trường mới để kéo ta ra khỏi "mê cung" hấp dẫn của sự lười biếng. Phải hòa mình vào sinh hoạt tươi tắn và lành mạnh của tập thể thì ta mới chiến thắng được nó.
Đừng hy vọng rằng mỗi lần lên kế hoạch mới là ta có thể buông bỏ được ngay thói quen lười biếng lâu năm của mình. Bí quyết có thể sớm thay đổi được cố tật lười biếng đó là "ráng thêm một chút nữa". Thí dụ, ta nên bắt đầu thức dậy sớm hơn mọi khi chỉ mười phút, hoặc hãy làm công việc khó khăn ấy thêm năm phút trước khi ta muốn kết thúc, hoặc cố gắng ngồi lại lắng nghe người kia chia sẻ thêm một chút nữa dù ta rất muốn đứng dậy làm việc khác. Nhờ những khoảng thời gian kiên trì nho nhỏ mà khối lười biếng kia dù cứng cỏi tới đâu cũng phải bị bào mòn. Thật ra, ta đang dùng cái tật cũ để biến thành liệu pháp mới đó thôi, vì thói quen lười biếng vốn được hình thành từ những cái "thêm một chút nữa" như thế. Một chút siêng năng được thay thế cho một chút lười biếng là một giải pháp rất thông minh và cũng rất dễ thành công. Chỉ cần ráng thêm vài phút thì cơn lười biếng sẽ đi qua. Còn nếu ta nghe theo nó mà buông xuôi công việc, thì vô tình ta làm cho khối năng lượng ấy càng lớn mạnh và cánh cửa thoát ra khỏi nó sẽ càng khép kín.
Lười biếng hay khiến ta thích nằm hoặc thích ngủ. Nên khi nào ta thấy ý chí không đủ sức kiềm chế thì hãy cố gắng bước ra ngoài trời, hoặc ít nhất làm một việc gì đó mà mình yêu thích chứ đừng dễ dãi đầu hàng. Tính lười biếng (giãi đãi) có liên quan mật thiết đến tính u ám (hôn trầm). Vì vậy, ta cần phải bắt đầu từ việc luyện tập cơ thể và điều chỉnh lại chế độ ăn uống sao cho thân thể luôn được nhẹ nhàng và tráng kiện. Nhờ đó ta mới giữ được sự cân bằng cảm xúc, bình tĩnh và sáng suốt để thấu hiểu và tìm ra giải pháp hữu hiệu.
Ngoài ra, ta cũng nên làm mới lại phòng ngủ hay phòng làm việc của mình. Không chỉ sắp xếp lại mọi thứ cho ngăn nắp sạch sẽ mà ta còn tự nhắc mình mỗi khi dịch chuyển bất cứ món đồ nào thì phải nhớ trả về đúng vị trí ấy. Quan sát kỹ ta sẽ thấy thái độ lười biếng của mình thể hiện rất rõ trong những hành động nhỏ nhặt như thế. Cách thức này tuy khá nhỏ nhặt nhưng rất hiệu nghiệm. Nó giúp ta có ý thức trách nhiệm về mỗi hành vi của mình. Đây cũng chính là chất liệu quan trọng để thiết lập mọi quan hệ, nhất là khi ta đã quyết định mời một người rất đặc biệt đồng hành với cuộc đời mình.
Lười biếng không phải là phiền não lớn có thể trói buộc ta vào khổ đau, nhưng nó lại là trở lực rất đáng sợ, khiến ta không thể vươn tới những ước mơ xa hay thậm chí không thể sống sâu sắc với thực tại. Lười biếng còn là năng lực châm ngòi cho nguồn cảm xúc bùng vỡ và dìm ta vào những cơn mê bất ngờ. Do đó, nỗ lực vượt qua được cố tật lười biếng để lúc nào cũng hăng hái đi tới là ta đã chính thức bước vào vương quốc của sự thành công.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top