hiep holmes 3
Sherlock Holmes 09
Tàng Thư Sher¬lock Holmes
Arthur Co¬nan Doyle
Nguồn : www.vn¬thuquan.net
Tạo ebook : Huyền Trang
Mục Lục
01. Người Khách Hàng Nổi Tiếng
Holmes và tôi đều thích tắm hơi. Trên lầu của cao ốc tại đại lộ Northum¬ber¬land có một cái góc tách biệt chứa tràng kỷ song đôi, chúng tôi choán 2 ghế này vào - ngày 3-9- 1902.
Tôi hỏi Holmes ở đây có gì vui không. Để trả lời, anh thò cánh tay dài ra khỏi các tấm "ra" để lấy một cái bì thư trong áo choàng treo gần đó.
- Cái này là của một người gây rối. Tuy nhiên, cũng có thể đây là một vấn đề sống chết. Tôi chả biết ngoài nội dung của nó.
Nội dung bức thư như sau:
"Ngài đa-mê-ry ngợi khen và sẽ tới nhà ông Sher¬lock Holmes vào lúc 4 giờ chiều mai. Ngài muôn tham khảo ý kiên ông Holmes về một vấn đề rất tế nhị và quan trọng. Do đó ngài hy vọng ông Holmes cố gắng thu xếp để được rảnh rỗi và xác nhận sự đồng ý qua điện thoại tại câu lạc bộ Carl¬ton".
- Đương nhiên là tôi đã đồng ý tiếp đón ông ta. Anh có biết gì về cái ông đa-mê-ry này không?
- Tên ông ta là chìa khóa vạn năng để bước vào xã hội thượng lưu.
- Tôi thì biết nhiều hơn một chút. Ông ta nổi tiếng về cái tài thu xếp những việc tế nhị mà báo chí không đề cập. Là một người hào hoa phong nhã và có thiên khiếu về ngoại gi¬ao, ông ta cũng thực sự cần chúng ta.
- Chúng ta?
- Đúng thế, nếu anh đồng ý.
- Tôi rất hân hạnh.
- Vậy đúng 4 giờ nhé.
Lúc đó tôi ngụ tại một căn hộ ở đường Hoàng hậu Anne, nhưng tôi tới đường Bak¬er sớm hơn giờ hẹn.
Ngài đa-mê-ry tỏ ra rất đúng giờ. Đó là một người to béo, lương thiện, hơi đua đòi một chút, khuôn mặt cá nhẵn, có giọng nói dễ nghe. Đôi mắt sáng tỏa rộng sự trung thực, đức tính hòa nhã lộ rõ trên đôi môi tươi cười. Cái mũ màu lợt, áo vét đen ngòm. Tất cả các chi tiết của y phục, từ hột trân châu trên cà-vạt cho đến đôi ghệt màu xanh tím bên trên đôi giày bóng loáng đã minh họa tính tỉ mỉ trong cách ăn mặc. Căn phòng nhỏ hẹp có vẻ bị đè bẹp khi nhà đại quý tộc bước vào.
- Đương nhiên tôi cũng muốn gặp cả bác sĩ Wat¬son - ông vùa nói vừa cúi đầu lễ độ - Sự hợp tác của ông ấy cực kỳ hữu ích, bởi vì lần này, thưa ông Holmes, chúng tôi phải đương đầu với một kẻ nguy hiểm nhất âu ch
- Tôi đã gặp nhiều đối thủ từng được gán cái danh hiệu "cao thủ".
- Holmes trả lời và cười.
- Mời ngài dùng thuốc.
- Vậy ngài cho phép tôi nhé.
- Đối thủ của ngài có nguy hiểm hơn cả cố giáo sư Mô-ri hoặc hơn cả đại tá Mô-ran không?
- Ông đã nghe nói đến hầu tước Ru-nê?
- Tên sát nhân người Áo?
Ngài đa-mê-ry tháo bao tay và cười to:
- Ông là bậc kỳ tài.
Như vậy là ông đã biết thành tích của y?
Nghề nghiệp bắt tôi phải theo dõi kỹ các vụ án tại lục địa. Tôi tin chắc rằng hắn đã giết vợ trong cái gọi là "Tai nạn tại đèo Splu¬gen". Tôi cũng biết hắn hiện ở Anh và chẳng chóng thì chầy hắn cũng tạo ra việc làm chống tôi.
Nhưng hầu tước Ru-nê đã giở trò gì mới. Tôi đoán là không phải cái thảm kịch xưa diễn lại.
- Không đâu, chuyện không nghiêm trọng hơn. Trừng trị kẻ gây tội ác là quan trọng, nhưng ngăn ngừa một tội ác lại càng quan trọng hơn. Thật là khủng khiếp, thưa ông Holmes! Khi chứng kiến sự chuẩn bị một biến cố ghê tởm, một tình huống bẩn thỉu, thấy trước kết quả tai hại mà ta không làm gì được để ngăn ngừa. Có ai lọt vào một cảnh ngộ đau đớn như thế chưa?
- Chuyện hiếm có!
- Vậy là ông cảm thông với người khách hàng mà tôi làm đại diện.
- Tôi không ngờ ông chỉ là người trung gi¬an. Vậy ai là đ chính?
- Tôi khẩn khoản xin ông đừng hỏi thêm. Tên ông ấy cần được giữ bí mật. Tất nhiên ông sẽ được thù lao trọng hậu.
- Tôi rất tiếc - Holmes nói - Thưa ngài, tôi sợ rằng tôi phải từ chối đề nghị của ngài.
Người khách vô cùng bối rối. Gương mặt tối sầm vì thất vọng.
- Ông Holmes. Ông đặt tôi vào một hoàn cảnh khó xử. Nhưng tôi đoán chắc rằng ông sẽ hãnh diện mà đảm nhiệm công việc, nếu tôi cung cấp đầy đủ chi tiết của nội vụ. Nhưng vì tôi đã hứa là tôi sẽ không để lộ tên nhân vật. Và vì vậy, tôi chỉ xin trình bày tất cả những gì tôi được phép tiết lộ.
- Nếu ông muốn? Nhưng ông nên nhớ, tôi không hứa hẹn gì cả.
- Đồng ý, chắc ông đã nghe nói về tướng Mê- vin. Ông ấy có một cô gái tên là Vi-ô-lét, trẻ đẹp vẹn toàn. Chính cô gái ngây thơ này cần được đưa ra khỏi nanh vuốt của loài quỷ dữ.
- Vậy là hầu tước Ru-nê hốt hồn con bé rồi?
- Hắn đẹp trai, có giọng nói đường mật, dáng vẻ tiểu thuyết và kỳ dị của hắn làm mê hoặc cô bé. Người ta đồn hắn đã chinh phục không biết bao nhiêu cô gái.
- Nhưng làm thế nào hắn lại quen được với cô gái ấy.
- Họ gặp nhau trong một chuyến đi chơi bằng tàu trên biển Địa Trung Hải. Ru -nê bám sát và cuối cùng chinh phục được con chim non. Cô ta mê mệt hắn. Ngoài hắn ra, cô ta chả thiết đến cái gì khác. Mọi phương cách đã được thử để chừa bệnh, nhưng vô ích. Tóm lại, cô ta dự trù lấy hắn vào tháng tới. Cô ta đã trưởng thành và cô ta có ý chí sắt đá. Vậy ta làm sao ngăn cản chuyện này?
- Cô ta có biết những chuyện hắn làm hồi còn ở nước áo không?
- Hắn có kể cho cô nghe những điều tai tiếng trong quá khứ của hắn, nhưng luôn luôn trong chiều hướng của một hánh tử đạo.
Cô ta chỉ nghe có một chiều.
- Tiếc thay, vì vô ý, ông đã tiết lộ danh tính của vị khách hàng của ông.
Đó là tướng Mê-vin.
Người khách nhỏm mạnh trên ghế.
- Tôi không phủ nhận, nhưng chuyện buồn này đã làm ông tướng mất hẳn tinh thần. Gân cốt cứng cáp tại trận địa đã rêu rã, ông đã trở thành một người bất lực trước thằng người áo này. Tôi là bạn tri kỷ của ông ấy.
Tôi xem con bé đó như là con tôi ngay từ hồi nó còn mặc váy ngắn. Tôi thấy không có lý do để cho Scot¬land Yard can thiệp vào. Chính do ông tướng gợi ý mà tôi tới tìm ông với điều kiện là ông ta không xuất đầu lộ diện trong nội vụ.
Gương mặt Holmes sáng rực với một nụ cười tinh nghịch:
- Tôi cam kết với ông điều đó.
Tôi sẵn sàng ra tay.
- Nhưng làm sao tiếp xúc với ông, khi cần?
- Luôn luôn có thể tìm ra tôi qua trung gi¬an của câu lại bộ Carl¬ton. Trong trường hợp khẩn cấp, đây là số điện thoại riêng của tôi: XX-31.
Holmes ghi chép, vẫn ngồi yên và cười ranh mãnh.
Cuốn sổ tay vẫn còn để mở trên đầu gối.
- Địa chỉ hiện tại của Ru-nê, xin ông vui lòng. Biệt thự Ver¬non, gần Kingston. Nhà lớn lắm. Hắn ta phất trong mấy cú đầu cơ tài chính gần đây. Do đó bội phần nguy hiểm.
- Hiện hắn ở tại Luân Đôn?
- Ngoài nhưng điều vừa mới nói, ông có thể cho thêm những thông tin dồi dào hơn về anh chàng này không?
- Hắn mê ngựa, mê gái. Hắn sưu tập sách và tranh. Hắn lại có ý thức thẩm mỹ cao nên hắn rất có uy tín về việc đánh giá các đồ sứ Trung Hoa và có viết một cuốn sách về nghệ thuật này.
- Một bộ óc phức tạp- Holmes nói - Tất cả các tội phạm lừng lẫy đều có bộ óc phức tạp. Ngài có thể thông báo với khách hàng của ngài rằng tôi đích thân chăm lo vụ này. Tôi tin rằng chúng ta sẽ tìm ra cách giải quyết.
Sau khi khách ra về, Holmes chìm đắm trong suy tư làm như không biết có sự hiện diện của tôi. Cuối cùng anh trở về với thực tại.
- Anh Wat¬son, có gì mới?
- Tôi đoán anh sẽ đi gặp con bé đó ngay.
- Ông tướng còn không làm cô bé động lòng thì tôi, một người xa lạ, sẽ làm được gì. Tuy nhiên, nếu mọi phương cách đều thất bại thì tôi sẽ tính sau. Còn bây giờ, ta phải bắt đầu dưới một góc cạnh khác. Có thể Si-oen sẽ giúp được tôi. Cho tới nay, tôi chưa có dịp nêu tên Si-oen bởi vì tôi chưa nói đến các vụ án bị phanh phui trong gi¬ai đoạn cuối của cuộc đời Holmes. Vào các năm đầu của thế kỷ này, Si-oen trở thành một phụ tá có tài năng.
Trước đó, Si-oen bị để ý dưới dạng một thằng ác ôn nguy hiểm, bị nằm nhà đá hai năm tại Parkhurst. Sau đó anh ta ăn năn, hối cải và liên minh với Holmes. Anh ta trở thành người được gài trong bọn côn đồ khét tiếng của Luân Đôn. Si-oen cung cấp cho Holmes những tin tức đôi khi có tính quyết định. Nếu anh ta làm mật báo cho cảnh sát, thì sẽ bị lột mặt nạ ngay. Nhưng vì anh ta hợp tác trong những vụ việc mà kết quả sau cùng không phải là việc truy tố ra tòa nên các bạn cũ của anh ta không hề hay biết. Nhờ hào quang hai năm khổ sai, Si-oen lọt vào tất cả các hộp đêm, các sòng bài với cái bộ óc phong phú cũng như năng khiếu quan sát, Si-oen trở thành một mật báo viên lý tưởng.
Khó mà theo dõi tất cả các xoay xở của Holmes, bởi vì về phần tôi, tôi cũng có những nhiệm vụ nghề nghiệp phải chu toàn. Anh ấy sẽ gặp tôi tại Simp¬son. Tại đây, ngồi trước một bàn nhỏ gần cửa sổ, anh báo cho tôi vài tin tức đồng thời quan sát làn sóng người đi đường trong khu náo nhiệt Strand.
Si-oen đã đi săn mồi - Holmes nói với tôi - Có thể y sẽ mang về vài cái rác rưởi móc từ những xó xỉnh tối tăm nhất của xã hội đen. Chính trong cái mớ rác rưởi đó, chúng ta sẽ sục sạo và khám phá ra các bí mật của đối tượng.
- Cô bé đã không nhìn nhận những sự việc đã có, thì cái phát hiện mới mẻ của anh sẽ có tác dụng gì?
- Biết đâu, Wat¬son. Tâm trí của người đàn bà là những bài toán khó hiểu. Một tội giết người có thể được bỏ qua, nhưng một vi phạm vặt vãnh có thể làm đau nhói con tim. Hầu tước Ru-nê có nói với tôi...
- Hắn có nói chuyện với anh?
- À, tôi chưa thông báo các dự định của tôi cho anh. Thì đây, tôi thích cận chiến. Tôi thích mặt đối mặt với đối thủ để tận mắt nhìn rõ, xem "cái cốt" của hắn là con gì.
Sau khi gi¬ao việc cho Si-oen, tôi đã kêu một chiếc xe ngựa, đến Kingston và phải nói rằng hầu tước rất khả ái.
- Hắn nhận ra anh?
- Trước đó, tôi đã đưa ra danh thiếp. Đó là một đồi thủ tuyệt hảo, lạnh như băng, nới năng ngọt lịm, nhưng nọc độc thì như nọc rắn hổ mang. Theo tôi, hắn thực sự thuộc gi¬ai tầng quý tộc và tội ác. Hắn lịch sự mời bạn uống trà nhưng sẵn sàng bỏ thuốc độc hại bạn. Vâng, tôi khoái nghiên cứu hầu tước Ru-nê.
- Anh nói hắn rất dễ thương!
- Dễ thương như mèo, dễ thương mà giết người như ngóe. Cái cách hắn đón tiếp tôi làm tỏ lộ bản chất của hắn.
- Tôi cũng đoán rằng thế nào tôi cũng gặp ông, ông Holmes à- Hắn nói với tôi - Có thể tướng Mê-vin đã thuê ông để ngăn cản đám cưới giữa tôi với con gái ông ta
Tôi đáp: - Vâng!
- Thưa ông - Hắn nói tiếp với tôi.
- Ông chỉ làm tổn hại cái danh tiếng khá xứng đáng của ông. Ông không thể nào thành công trong vụ này. Ông lao mình vào một việc vô bổ, lại nguy hiểm. Ông cho phép tôi mạnh mẽ khuyên ông nên rút lui tức khắc?
- Lạ chưa - Tôi đáp.
- Đó lại chính là lời tôi dự định khuyên ông. Tôi kính trọng cái khối óc của ông, thưa hầu tước, và mấy phút sơ gi¬ao cũng chưa làm sút giảm sự kính trọng đó. Chúng ta hãy nói chuyện giữa người lớn với nhau. Không ai muốn lùi về quá khứ và gây phiền hà cho ông. Quá khứ là quá khứ? Ông hiện đang bơi trong một khúc sông trong lành. Nếu ông ngoan cố tiến hành đám cưới, ông sẽ đụng chạm tới một số người có quyền thế. Họ sẽ ra tay phá ông cho tới khi ông bị đuổi khỏi nước Anh này. Ông khôn thì nên để yên cho cô bé. Ông đâu có được thoải mái khi mà một vài gi¬ai đoạn trong quá khứ của ông được tiết lộ cho cô ta?
Vị hầu tước có vài sợi lông thẩm mỹ lòi dưới mũi như ăng-ten của một côn trùng. Chúng lay động vì khoái trá khi ông ta nghe tôi nói và ông ta cười nhẹ rồi trả lời.
- Xin tha thứ cho sự hả hê của tôi, ông Holmes. Tuy nhiên làm sao không cười khi thấy ông đánh bài mà không cầm bài, không một lá bài, thưa ông Holmes? ông tuyệt đối không có một lá bài, nói chi đến nước bài?
- Ông tin như vậy à?
- Theo tôi biết là như vậy. Ông cho phép tôi giảng giải đầy đủ. Bài tôi tốt đến nỗi tôi có thể bày ra giữa bàn.
Tôi có cái may mắn là chinh phục trọn vẹn tình yêu của cô bé. Cô ta yêu tôi, mặc dù tôi đã cho cô biết tất cả các gi¬ai đoạn rủi ro trong quá khứ của tôi. Tôi cũng có dặn cô ta rằng vài kẻ mưu mô, vài kẻ nguy hiểm sẽ tới gặp và kể cho cô ta nghe các chuyện đó. Tôi đã cảnh giác cô ta và chỉ cách cho cô ta tiếp đón bọn đó. Ông có nghe đến cái hiệu quả sau thôi miên không, thưa ông Holmes! Ông sẽ thấy nó một cách cụ thể. Tôi chắc chắn cô ta không từ chối tiếp ông đâ. Cô ta nuông chiều tất cả ý muốn của cha ngoại trừ một chi tiết nhỏ.
- Anh Wat¬son, sau đó tôi kiếu từ với tất cả sự bình tĩnh và lạnh lùng. Nhưng khi vừa nắm lấy hột xoài mở cửa, tôi bị chận lại:
- Nhân tiện nói luôn, thưa ông Holmes, ông có quen ông Le Trun thám tử người Pháp không?
- Có!
- Ông có biết việc gì đã xảy ra cho y không?
- Hình như y bị vài thằng du đãng ở Mont¬marte đánh đòn và bị tật suốt đời.
- Đúng. Một trùng hợp lạ lùng, y xen vào công chuyện của tôi cách đó một tuần! Đừng xen vào chuyện của tôi, thưa ông Holmes, sẽ xui xẻo cho ông Lời khuyên chót của tôi. Ông đi đường ông, tôi đi đường tôi, chúc một đêm an lành?
- Tay hầu tước này có vẻ nguy hiểm - Cực kỳ nguy hiểm. Tôi từng biết rõ nhiều tên khoác lác, nhưng thằng này thuộc loại ít nói.
- Anh có bị bắt buộc phải bận tâm về hắn đâu. Hắn lấy cô bé đó thì có sao đâu?
- Vì chắc chắn hắn đã giết chết người vợ sau cùng, nên ta cần phải ngăn cản cuộc hôn nhân mới này. Mặt khác, phải làm theo lệnh của khách hàng.
Nhưng thôi, đừng có thảo luận điều này. Khi uống cà phê xong, anh đi theo tôi, bởi vì Si-oen sẽ đến báo cáo công việc.
Si-oen đã đến phố Bak¬er khi chúng tôi tới nơi. Đó là một tên khổng lồ, mặt hơi đỏ và thô, đôi mắt cực kỳ linh hoạt là dấu hiệu độc nhất của bộ óc xảo quyệt. Chắc chắn anh ta đã lặn ngụp trong gi¬ai tầng cặn bã.
Thật thế, cạnh Si-oen, trên ghế dài còn có một thiếu phụ trẻ trung mảnh khảnh, tóc đỏ hoe, khuôn mặt thê lương, tái mét, bị tội lỗi và ưu phiền tàn phá đến nỗi người ta mường tượng được những năm tháng khủng khiếp mà nàng đã trả
- Tôi xin giới thiệu cô Kít-ti - Si-oen nói và lay động bàn tay béo phị.
- Những gì cô ấy biết... Cô ấy sẽ tự động nói ra. Tôi chộp được cô ấy, thưa ông Holmes, không đầy một giờ sau khi nhận được giấy của ông.
- Tìm tôi không khó - Cô gái nói - Ai cũng có thể tìm ra tôi tại địa ngục của Luân Đôn. Chúng tôi là những bạn tâm gi¬ao. Nhưng mà, quỷ thần ơi, còn một thằng nữa thằng này lẽ ra phải ở một tầng địa ngục tệ hơn, nếu có công lý trên cõi trần này. Đó là cái thằng mà ông đang bận tâm, thưa ông Holmes.
Holmes cười:
- Tôi xin dự phần vào nguyện ước của cô, cô Kít-ti?
- Nếu tôi có thể giúp ông tống nó đến cái nơi mà nó phải ở theo luật, thì tôi rất sẵn sàng.
Người khánh nữ nói một cách hăng hái. Sự hận thù cao độ thoáng qua trên các đường nét căng thẳng và trong đôi mắt rực sáng.
- Ông khỏi phải bận tâm về quá khứ của tôi, thưa ông Holmes. Quá khứ của tôi chẳng có gì hay ho. Tôi chỉ là con chuột nhắt trong nanh vuốt của con mèo Ru-nê. Chờ khi tôi có thể kéo nó... - cô vung hai bàn tay một cách điên dại -... kéo nó xuống tới một cái hố, nơi mà nó đã đạp quá nhiều người xuống.
- Cô biết chuyện gì rồi?
- Si-oen đã nói với tôi. Thằng điếm hiện chạy theo một con nghe đáng thương và lần này thì hắn muốn cưới cô ta làm vợ. Phần ông, ông chắc đã biết quá nhiều về con quỷ cái này!
- Cô bé mất trí rồi. Cô ấy yêu nó như điên như dại. Cô ấy đã được cho hay, nhưng cô ấy không chịu nghe tí gì.
- Được cho hay về vụ ám sát?
- Vâng
- Chúa ơi. Con bé cừ thật? Ông không nhét bằng chứng vào cặp mắt ngu đần của nó?
- Cô có chịu giúp chúng tôi soi sáng cô ta không?
- Còn gì nữa. Tôi chưa phải là bằng chứng bằng xương bằng thịt sao? Tôi sẽ kể cho cô ta nghe cái cách tôi bị Ru-nê đối xử.
- Cô sẽ nói?
- Sao lại không?
- Nên thử làm coi. Thằng khốn đó đã thú nhận phần lớn các tội lỗi của nó và cô ta đã tha thứ cho nó rồi. Tôi không tin rằng. cô ta chịu trở lại vấn đề.
- Tôi sẽ chứng minh rằng nó chưa thú hết tội - Cô Kít-ti nói lớn tiếng.
- Tôi có biết sơ qua về hai hoặc ba cái án mạng chưa bị phanh phui. Hắn nói với cái giọng êm như nhung, rồi thản nhiên nhìn tôi và tiết lộ: Nó chết được một tháng rồi. Hắn không nói nhiều, và tôi cũng không chú ý lắm. Vì yêu hắn, bất cứ cái gì hắn làm, tôi cũng thích thú, y hệt như con bé ngu đần đáng thương kia. Chỉ có một chuyện làm cho tôi kinh hoảng. Quỷ thần ơi? Hắn có một cuốn sách đóng bằng da nâu, có ổ khóa đóng kín và có huy hiệu của hắn trên bìa. Hình như đêm đó hắn say, nếu không thì hắn đâu có cho tôi xem?
- Sách gì?
- Hắn sưu tập đàn bà. Hắn hãnh diện về bộ sưu tập đàn bà của hắn như người ta hãnh diện về những bộ sưu tập tiền xưa hoặc các loại tem. Hắn ghi đầy đủ trong sách đó những hình chụp lén, tên họ, và biết bao chi tiết khác. Đủ hết? Một cuốn sách mà không một người đàn ông nào, ngay cả giới cặn bã cũng không nhẫn tâm làm thế! Nhưng Ru-nê đã viết: "Các linh hồn mà tôi đã hủy diệt". Nhưng thôi, tôi không bình luận nữa, bởi lẽ cuốn sách đó không ích gì cho ông. Còn nếu nó hữu dụng thì làm sao lấy nó được?
- Nó ở đâu?
- Làm sao mà biết, bởi vì tôi đã tuyệt gi¬ao với hắn hơn một m rồi. Khi còn sống chung, thì tôi biết nó được giấu ở đâu. Về nhiều phương diện, hắn giống một con mèo, hắn có cái tính sạch sẽ và chính xác của mèo. Do đó, có thể quyển ấy ở trong tủ đồ gỗ. Chỗ trong văn phòng riêng của hắn.
- Tôi đã vào đó rồi - Holmes đáp.
- Ủa, rồi hả. Vậy ông đâu phải là tay mơ. Có lẽ hắn đang gặp phải một tay kỳ phùng địch thủ rồi. Văn phòng mà ông vào có cái tủ buýt phê lớn chứa đồ sứ Trung Hoa đặt giữa hai cửa sổ sau cái bàn, có cái cửa đi qua văn phòng riêng, nơi hắn cất giấy tờ và một ngàn lẻ một thứ khác.
- Ông ta không sợ ăn trộm à?
- Ru-nê đâu phải đồ thỏ đế. Đương nhiên hắn dư sức bảo vệ mạng sống và tài sản của hắn. Ban đêm thì có cả một hệ thống chuông báo động. Mặt khác trong nhà hắn có cái thứ gì đáng giá để quyến rũ bọn ăn trộm đâu? Ngoại trừ mớ đồ sứ Trung Hoa.
- Đồ vô giá trị- Si-oen mạnh mẽ nói lớn - Không một thằng cha, con mẹ chợ trời nào chịu mua một món đồ cua nó.
- Đồng ý- Holmes nói - Nào cô Kít-ti, đề nghị cô quay lại chiều mai lúc 5 giờ. Để tôi suy nghĩ về đề nghị đi gặp con bé của cô. Tôi sẽ xem xét coi có thể thu xếp một cuộc hẹn được không. Tôi thành thực cám ơn sự cộng tác của cô. Có lẽ tôi khỏi cần phải nhắc lại rằng người khách hàng của tôi rất hào phóng.
- Không - Cô gái la to - Tôi không đến đây vì tiền. Lôi được thằng khốn đó xuống bùn là tôi hả dạ! Nhét nó sâu xuống bùn và chân tôi đạp lên để giẫm nát cái mặt đáng nguyền rủa của nó! Tôi không muốn cái gì khác. Tôi sẽ gặp ông vào ngày mai và bất cứ lúc nào. Si-oen biết cách kiếm ra tôi.
Phải tới chiều hôm sau, tôi mới gặp Holmes tại quán ăn quen thuộc ở Strand. Anh nhún vai khi được hỏi xem cuộc hội ngộ có kết quả không? Holmes kể lại:
- Ông tướng điện thoại cho hay rằng mọi sự đã chuẩn bị xong. Kít -ti rất đúng hẹn, leo lên xe ngựa đi chung với tôi. Xe cho chúng tôi xuống lúc 5 giờ 30 tại tư dinh đồ sộ của ông tướng. Một người hầu mặt đồng phục đưa chúng tôi khách lớn.
Con bé đang ngồi đợi. Cô ta mặt tái xanh, nghiêm trang, sắt đá và lạnh lùng như tuyết. Tôi không biết cách mô tả cô bé, anh Wat¬son? Có thể trước khi câu chuyện kết thúc, anh sẽ gặp cô ta, chừng đó anh sẽ sử dụng năng khiếu văn sĩ của anh.
Cô bé đẹp, cái đẹp thanh thoát. Trong các kiệt tác của những nhà danh họa Trung Cổ, tôi gặp những khuôn mặt giống khuôn mặt của cô ta. Làm thế nào một con thú dữ có thể đặt vuốt của nó trên một con người như thế! Chuyện đó khó hiểu đối với tôi. Anh biết rằng những cái khác cực thì hút lẫn nhau, người thiên về tâm linh bị cuốn hút bởi người ác thú tánh. Đương nhiên là cô ta biết lý do của cuộc thăm viếng của chúng tôi.
Sự có mặt của cô Kít-ti làm cho cô ngạc nhiên một phút. Tuy vậy, cô ta vẫn chỉ hai ghế bành với vẻ mặt của một bà trưởng tu viện tiếp nhận hai người cùi trước đây đi ăn mày.
Cô ta nói giọng như vang dội ư một tảng băng.
- Thưa ông, tôi có được nghe nhiều về phương danh của ông. Ông tới đây, theo tôi hiểu là để vu khống vị hôn phu của tôi, hầu tước Ru-nê. Chỉ vì chiều theo ý cha tôi mà tôi tiếp ông, và tôi xin báo cho ông biết trước rằng không một lời nào của ông sẽ có ảnh hưởng đến các quyết định của tôi.
- Cô ta làm tôi đau nhói. Ngay lúc đó, tôi coi cô ta như con gái của tôi. Tôi hăng say biện giải, mô tả cho cô ta các tình huống địa ngục của một người đàn bà chỉ biết rõ tim người đàn ông sau khi đã lấy nhau, một người đàn bà phải chịu sự nhơ khổ của đôi bàn tay đẫm máu và đôi môi tanh tưởi. Tất cả các lời nói của tôi không thể đem lại một phút xúc động trên cái nhìn xa xăm của cô ta.
Tôi nhớ lại những gì thằng ác ôn nói về cái tác động sau thôi miên. Quả vậy, ta có thể tưởng tượng rằng cô bé đanh sống bên trên trái đất trong một sự mê sảng.
- Tôi đã nhẫn nại nghe ông nói, thưa ông Holmes. Hiệu quả của lời ông là đúng như hiệu quả mà tôi đã cho ông biết trước. Tôi biết rằng chồng chưa cưới của tô đã trải qua rất nhiều cơn giông tố của những phê phán rất bất công. Ông là người cuối cùng trong một loạt người vu khống. Có thể ông có mỹ ý với tôi, mặc dù tôi biết ông là người làm việc có thù lao, ông có thể bảo vệ quyền lợi của hầu tước cũng như quyền lợi các kẻ thù của hầu tước. Nhưng đó là quyền tự do của ông.
Phần tôi, tôi muốn ông hiểu dứt khoát rằng, tôi thương anh ấy, anh ấy cũng thương tôi, còn dư luận đối với tôi thì chỉ như chó sủa lỗ không. Nếu bản chất quý phái của anh ấy đôi khi có sai sót, thì có thể Chúa đã thu xếp để tôi đến nâng anh ấy lên vai vế cũ.
Quay qua phía cô Kít-ti cô ta nói thêm. "tôi không hiểu tại sao có sự hiện diện của thiếu phụ trẻ tuổi này".
Tôi sắp trả lời thì con bé bụi đời xen vào như cơn lốc. Anh hãy tưởng tượng cảnh lửa gặp băng, mặt đối mặt. "Tôi sẽ nói với cô, tôi là ai?"
Kít-ti nhảy dựng khỏi ghế và la lớn, miệng méo xẹo vì điên tiết.
- "Tôi là tình nhân cuối cùng của thằng đó. Tôi là một trong một trăm người đàn bà bị thằng đó cám dỗ, mê hoặc, tàn phá cuộc đời rồi liệng vào đống rác. Đống rác, đối với cô có thể là nấm mồ, có lẻ lại hay hơn. Tôi nhắc lại, đồ ngu như chó, lấy nó, cô sẽ tiêu tùng! Hoặc nó đập nát tim cô hoặc nó vặn cổ cô? kết quả sẽ là cái chết chắc chắn.
Hôm nay, không phải vì thương cô mà tôi nói. Cô sống hay cô chết mặc xác cô. Chính vì muốn phục thù rứa hận. Không nên nhìn tôi một cách miệt thị như thế, người đẹp ơi! Bởi vì người đẹp có thể sa sút một cách tệ hại hơn, không lâu lắm đâu.
- Tôi không muốn phải nói những chuyện như thế này. Tôi lặp lại một lần chót rằng tôi biết ba gi¬ai đoạn của cuộc đời của vị hôn phu của tôi. Trong đó anh ấy đã vướng phải thành phần đa mưu và tôi vững tin rằng anh ấy thành thật hối cải những sai trái cũ.
- Ba gi¬ai đoạn- Người nữ đồng hành của tôi thét to - Đồ ngu! Đồ ngu cực kỳ
- Ông Holmes, tôi yêu cầu ông chấm dứt cuộc nói chuyện này. Tôi vâng lệnh bố tôi mà tiếp ông, chứ tôi đâu bị bắt buộc phải nghe các lời nói mê sảng của người nà
Cô Kít-ti chửi thề như bắp rang, nhào ra phía trước, nếu tôi không nắm được cổ tay cô, thì cô Kít-ti đã chụp tóc con gái ông tướng. Tôi kéo cô ta ra hướng cửa và nhanh nhẹn đẩy cô ta lên xe ngựa, tránh được một sự tụ tập của những người hiếu kỳ. Về phần tôi, tuy tỉnh táo hơn, nhưng tôi cũng muốn phát điên khi vấp phải một thái độ cao ngạo của người đàn bà đang cố cứu mạng. Vậy là tôi đã báo cáo tình hình đầy đủ rồi đó. Đương nhiên, tôi phải mở ra một hướng đi khác. Tôi vẫn phải giữ nên lạc với anh, anh Wat¬son! Có phần chắc là tôi dành cho anh một vai trong vở kịch tới. Tôi đoán biết màn tới do họ chủ động đó.
Holmes đã đoán đúng đòn thù của họ giáng trả.
Đúng ra là của thằng điếm đó. Tôi điếng người khi đọc tin nhỏ trên một tờ nhật báo. Sự việc xảy ra giữa đại khách sạn Grand Ho¬tel và nhà ga Char¬ing Cross. Một anh què giò bày một tờ báo buổi chiều in hàng tít rất lớn bằng chữ đen trên nền vàng:
"Sher¬lock Holmes bị mưu sát".
Tôi đứng như phỗng đá một lúc lâu. Sau đó hình như tôi giật tờ báo từ tay người bán, và không trả tiền báo rồi tức tối chui vào trước cửa một tiệm thuốc tây để đọc:
"Chúng tôi đau đớn hay tin ông Sher¬lock Holmes là nạn nhân của một cuộc mưu sát. Hiện tại mọi dự đoán về tình trạng sức khỏe của ông là quá sớm. Biến cố xảy ra khoảng 12 giờ tại đường Re¬gent, gần quán cà phê Roy¬al.
Hai người dùng gậy đập tới tấp trên thân và đầu ông Holmes. Các bác sĩ cho rằng đây là trường hợp nghiêm trọng. Ông được chở vào nhà thương Char¬ing Cross nhưng ông nằng nặc đòi chở về nhà tại đường Bak¬er.
Những kẻ tấn công ăn mặc rất đàng hoàng. Họ thoát thân bằng cách chạy vào quán cà phê Roy¬al rồi đi ra bằng cửa sau và tan biến trên đường phố đông người. Đương nhiên họ thuộc gi¬ai tầng tội ác đã biết bao lần bị khốn khổ bởi tài năng của ông Sher¬lock Holmes".
Tôi nhảy lên một xe ngựa, bảo chạy tới phố Bak
Tại cửa có xe của ngài Lê-ly đang chờ. Khi vào hành lang, tôi gặp nhà giải phẫu nổi tiếng này.
- Bệnh không có gì nguy kịch - Bác sĩ Lê-ly nói với tôi - Rách da đầu hai chỗ, trầy trụa tứ tung. Phải vá nhiều. Tôi có chính mooc-phin, cần để ông ấy nghỉ ngơi, nhưng ông có thể vào gặp vài phút.
Tôi hối hả bước vào căn phòng tối om. Holmes gọi tôi. Bức sáo được kéo xuống ba phần tư nhưng có một tia sáng mặt trời lọt vào, nhờ đó tôi thấy rõ có vết máu thoát ra lớp băng trắng trên đầu Holmes. Tôi ngồi gần anh, lắc đầu.
- Không gì đâu, Wat¬son. Đừng giữ cái bộ mặt đưa ma đó - Holmes nói với giọng yếu ớt - Không nặng như người ta nói đâu?
- Thật là may!
- Tôi đánh gậy cũng không tệ, như anh biết, tôi đỡ được nhiều cú.
Họ 2 người, tôi thua là do cái người thứ hai này.
- Đương nhiên là do tên hầu tước khốn nạn đó giựt dây. Nếu anh cho phép, tôi sẽ xé xác nó ngay?
- Ta không thể làm gì trước khi cảnh sát thộp cổ mấy tên đồng phạm của nó. Chúng chuẩn bị kế hoạch chuồn hay lắm. Hãy chờ một lúc. Tôi có kế hoạch mới.
Việc thứ nhất phải làm là tung tin rằng bệnh trạng của tôi là rất nguy kịch. May mắn lắm thì sống thêm một tuần. Hãy phao tin rằng tôi đã nói sảng nói điên.
- Còn ngài Lê-ly.
- Ồ, khỏi lo, ông ấy phịa còn dữ hơn nữa. Tôi lo chuyện đó cho.
- Còn gì nữa không.
- Còn chứ. Cảnh giác Si-oen, bảo hắn đem cất giấu con bé bụi đời vào nơi an toàn. Bọn chúng sẽ làm thịt con bé. Khẩn trương lên, ngay đêm nay n
- Tôi đi ngay.
Còn gì nữa không?
- Để cái tẩu và bao thuốc trên bàn giùm.
Tốt lắm!
Mỗi sáng anh tới đây, chúng ta sẽ hoạch định kế hoạch hành động.
Ngay đêm đó tôi thu xếp với Si-oen để gởi cô Kít-ti qua vùng ngoại ở Paris chờ tới lúc sóng lặng gió yên.
Trong suốt sáu ngày, công chúng lầm tưởng Holmes đang thoi thóp, chờ chết. Các bản thông báo sức khỏe rất là bi quan, còn báo chí thì công bố những tin tức ảm đạm.
Trong khi đó Holmes bình phục nhanh chóng.
Ngày thứ bảy, người ta tháo chỉ các chỗ may. Cũng tối hôm đó họ loan một tin mà tôi phải thông báo ngay cho Holmes.
Trong đám hành khách trên con tàu rời Liv¬er¬pool vào sáng thứ sáu, có tên của hầu tước Ru-nê.
Hắn có những việc tài chính quan trọng phải giải quyết tại Hoa Kỳ trước ngày kết hôn đang gần kê. Sau khi nghe tin này, nét mặt Holmes tái mét.
- Thứ sáu. Holmes la lớn - Vậy chỉ còn có ba ngày thôi. Thằng ác ôn này muốn chạy trốn. Không được đâu, Wat¬son? Tôi muốn anh làm một cái di để giúp tôi.
- Thì tôi tới đây là để giúp anh.
- Vậy anh dành 24 giờ tới để nghiên cứu kỹ lưỡng các đồ sứ trung Hoa.
Holmes không giải thích thêm. Tôi cũng không đặt một câu hỏi nào. Mấy năm sống với anh tập cho tôi thói quen răm rắp vâng lời. Nhưng khi đã rời phòng của anh, đi dọc đường Bak¬er, tôi không biết làm sao chấp hành mệnh lệnh. Cuối cùng tôi đi đến thư viện ở quảng trường Saint-james, trình bày của tôi cho người bạn thân tên là La-may, phó quản thủ thư viện và quay về nhà với một cuốn sách đồ sộ kẹp ở nách. Suốt đêm, suốt sáng hôm sau, tôi học được cả ngàn chuyện và nhồi nhét vào đầu cả ngàn cái tên. Đầu óc nặng trĩu dưới gánh nặng của tài liệu này. Chiều hôm sau tôi đến nhà Holmes. Anh đang ngồi trên chiếc ghế bành, đầu quấn băng.
- Nếu tin theo các báo chí thì anh đang hấp hối?
- Đấy chính là điều tôi muốn phổ biến rộng rãi, còn anh đã học bài kỹ chưa?
- Ít ra tôi có thể hiểu một số điều.
- Hoan nghênh! Anh thấy đủ sức tranh luận một cách khôn ngoan về đề tài đó chưa?
- Dư sức.
- Vậy, vui lòng lấy giúp tôi cái hộp trên lò sưởi?
Holmes mở nắp, để lộ ra một đồ vật nhỏ được gói kỹ trong miếng lụa Đông phương.
- Phải cầm cho cẩn thận. Đây là dĩa sứ đá trứng đời nhà Minh. Cho tới nay chưa có ai làm hay hơn. Có đủ bộ.
Hình như không có bộ thứ hai, ngoài bộ ở Hoàng cung Bắc Kinh. Nhìn đồ vật này, một người sành điệu sướng phát điên.
- Tôi phải làm gì?
Holmes đưa cho tôi một danh thiếp trên đó có in hàng chữ "Bác sĩ Hin Bar¬ton, 369 Half Moon Street".
- Đêm nay anh mang tên này và đến nhà hầu tước Ru- nê. Tôi biết vài thói quen của hắn.
Lúc 8 giờ 30 có thể hắn rảnh. Anh hãy gởi danh thiếp báo trước. Anh nói với hắn rằng anh mang tới một mẫu của bộ sứ đời nhà Minh, hiếm có. Anh đóng vai bác sĩ thì dễ thôi, nhưng anh cần đóng vai người sưu tập nhiều hơn. Bộ đồ sứ này tình cờ lọt vào tay anh, anh có nghe đồn nó thích đồ sứ, và anh sẵn sàng bán với giá c
Bao nhiêu?
- Câu hỏi khôn ngoan đó. Anh sẽ bị lộ diện mau chóng nếu không biết giá cả của món hàng. Mẫu này do ông tướng của chúng ta mang lại. Anh không nói ngoa khi khẳng định là không có cái thứ hai trên thế giới này.
- Tôi có thể đề nghị bộ đồ sứ được đánh giá bởi một chuyên viên?
- Anh tuyệt hảo hôm nay. Vì tế nhị, anh không định giá mà đề nghị mời chuyên viên.
- Nhưng chắc gì nó tiếp tôi?
- Tiếp chứ. Hắn là một tay chơi đồ cổ, anh quên rồi sao? Hãy ngồi xuống, tôi đọc cho anh chép! Khỏi cần xin hồi ám, chỉ báo sẽ đến và cho biết lý do.
Ngay đêm đó, với cái đá quý giá trên tay và tấm danh thiếp mang tên bác sĩ Bar¬ton trong túi, tôi lao mình vào một cuộc phiêu lưu.
Ngồi nhà và khoảnh đất chung quanh cho thấy rằng hầu tước Ru-nê giàu sụ, đúng như ngài James đã nói. Những con đường dài uốn khúc giữa các bồn hoa lạ đưa tới một cái sân vuông rải sỏi, có dựng nhiều bức tượng. Cơ ngơi này được sắp đặt bởi một ông vua vàng của Nam Mỹ vào thời cực kỳ phát đạt.
Một quản gia ăn mặc nghiêm chỉnh mở cửa cho tôi, rồi gi¬ao cho một gia nhân mặc toàn đồ nhung sang trọng.
Cuối cùng hầu tước tiếp tôi.
Ông ta đứng gần cái tủ cao, đặt giữa hai cửa sổ, chứa một phần bộ sưu tập đồ sứ Trung Hoa. Khi tôi vào, ông quay mặt về hướng tôi, tay cầm một lọ nhỏ màu náu.
- Mời bác sĩ ngồi. Tôi đang ngắm nghía các báu vật của tôi và tự hỏi không biết có thể thực sự thêm vào đó một cái nữa không? Cái mẫu nhỏ đời Đường này thuộc thế kỷ thứ VII có thể làm ông thích. Tôi chắc chắn ông chưa bao giờ thấy một sự khéo tay nào và một sự pha trộn màu nào hài hòa hơn. Ông có mang theo cái đĩa đời Minh đấy
Tôi mở gói một cách cẩn thận và đưa cái đĩa ra. Hắn liền ngồi vào bàn, kéo cái đèn lại gần và quay đá qua lại, xem xét mọi khía cạnh. Trong lúc đó, ánh sáng màu vàng chiếu sáng khuôn mặt hắn cho phép tôi ngắm hắn một cách thoải mái.
Hắn thực sự đẹp trai, chiều cao trung bình nhưng dáng người thanh nhã, mềm mại. Khuôn mặt sạm nắng, vẻ Đông phương, đôi mắt to đen nhánh, mơ màng, có sức cuốn hút đàn bà một cách dễ dàng. Tóc và râu màu đen, râu kẽm, ngắn, mảnh mai, chải chuốt. Giọng nói hấp dẫn, điệu bộ sang trọng. Tôi đoán hắn chỉ ngoài ba mươi, nhưng thực ra, như sau này mới biết, hắn đã bốn mươi hai rồi.
- Rất đẹp!
Rất là đẹp. - Hắn khen luôn miệng.
- Ông có một bộ sáu cái? Có một điều là tôi chưa bao giờ nghe nói về cái bộ đĩa tuyệt trần này. Tôi biết tại Anh quốc có một bộ có thể sánh với bộ này. Nhưng chắc chắn họ không bán. Thưa bác sĩ, bác sĩ vui lòng tha thứ cho sự tò mò của tôi và cho tôi biết do đâu bác sĩ có được bộ này?
- Ông thích nó thật à?
- Tôi hỏi với một vẻ bình thản.
- Tôi đã biết nó là thứ thiệt. Về trị giá của nó, tôi đành phó thác cho sự định giá của một chuyên gia.
- Rất là bí hiểm - Hắn thì thầm, với đôi mắt đen lấp lánh một tia sáng ngờ vực.
- Khi muốn mua những đồ vật có giá trị lớn như thế này, ai cũng muốn phăng cho tới ngọn ngành. Cái đĩa đẹp, quý, là điều không ai chối cãi.
- Tôi không mảy may ngờ vực. Nhưng tôi phải cân nhắc nhiều điều... Bác sĩ không có quyền bán nó.
- Tôi bảo đảm!
- Thế thì tôi phải xét lại giá trị của lời bảo đảm
- Các ngân hàng của tôi sẽ trả lời cho ông về uy tín của tôi.
- Được thôi!
Dù vậy việc buôn bán này có hơi dị thường!
- Ông mua hay không, tùy ông - Tôi nói với vẻ cực kỳ bất cần - Tôi tới ông trước tiên, tại vì tôi được biết ông là người sành sỏi, chứ việc buôn bán này đâu có khó gì?
- Ai nói với ông rằng tôi là người sành sỏi?
- Tôi biết ông có viết một cuốn sách về đề tài này ông đọc rồi?
- Chưa.
- Chúa ơi. Càng lúc tôi càng rồi trí hơn. Ông là người sành sỏi kiêm nhà sưu tập. Ông có một đồ vật giá trị lớn trong bộ sưu tập, thế mà ông không chịu khó đọc cuốn sách độc nhất giúp ông tìm hiểu ý nghĩa và giá trị của cái đồ vật này. ông giải thích điều đó như thế nào?
- Tôi rất bận.
Tôi là thầy thuốc. Tôi có khách hàng phải phục vụ.
- Đó không phải là lời giải đáp! Nếu ham chơi đồ cổ, người ta luôn dành thời gi¬an cho nó bằng mọi cách. Trong thư, ông có nói ông là người sành sỏi.
- Đúng vậy.
- Vậy tôi hỏi ông vài câu để kiểm nghiệm. Tôi buộc lòng phải nói với bác sĩ rằng cái màn buôn bán này mỗi lúc mỗi lù mù. Nào, ông biết gì về nhà Bắc nguy và vị trí của họ trong lịch sử đồ gốm?
Tôi nhảy dựng khỏi cái ghế bành và giả đò nổi giận:
- Điều này không còn dung thứ được nữa. ông à? - Tôi la lớn - Tôi tới đây vì dành ưu tiên cho ông, chứ không phải để bị hạch hỏi. Kiến thức của t đồ sứ có thể thua sút ông, nhưng tôi từ chối trả lời những câu hỏi được đặt ra một cách xấc xược!
Hắn nhìn tôi đăm đăm, cái tính thơ mộng trong đôi mắt của hắn đã biến mất. Rồi đột ngột, đôi mắt này rực lửa. Tôi thấy sự ngời sáng của bộ răng trắng của hắn giữa cặp môi tàn nhẫn.
- Anh chơi trò gì. Anh tới đây để dò xét tôi, anh mưu toan gạ gẫm tôi. Hình như Holmes đã gần chết và y sai anh đến đây canh chừng tôi. Anh vào đây dễ dàng, nhưng anh sẽ thấy ra khỏi đây rất khó.
Hắn nhảy dựng lên, tôi lùi lại, chuẩn bị đối phó. Có lẽ lúc đầu hắn có nghi ngờ, qua cuộc thẩm vấn, hắn thấy rõ hơn. Hắn thọc tay vào hộc tủ, lục lạo túi. Thình lình một tiếng động vang lên làm hắn dừng lại để nghe.
- À- Hắn la lên rồi chạy vào căn phòng phía sau lưng. Tôi chạy ra đến cửa. Cửa sổ của căn phòng thứ hai ngó ra vườn bị mở toang hoác. Bên cạnh cửa sổ này, Sher¬lock Holmes xuất hiện như một con quỷ, sau đó, Holmes nhảy ra ngoài. Tôi nghe tiếng chân anh giẫm lên các nhánh nguyệt quế ngoài vườn. Chủ nhà nhảy theo, miệng gào thét như con cọp dữ.
Và lúc đó chỉ trong một giây, tôi thấy rõ một cánh tay đàn bà ló ra khỏi các cành nguyệt quế.
Thình lình Ru-nê la thất thanh.
Tiếng la rợn người. Hắn lấy hai bàn tay bụm mặt vừa gào vừa chạy vào phòng, đụng đầu vào tường, ngã sụm xuống thảm, cuộn tròn, quằn quại, rên la vang dội trong căn nhà mênh mông.
- Cho tôi nước lã!
Cho tôi nước! - Hắn la liên tục.
Tôi vớ lấy bình nước trên bàn, hối hả chạy tới. Cùng lúc viên quản gia và nhiều người bồi phòng khác cũng chạy tới. Tôi còn nhớ rằng một người trong bọn ngất xỉu khi nhìn thấy gương mặt của hắn bị tàn phá một cách dữ dội. Acid đang ngậm nhấm khuôn mặt hắn, đang chảy thành giọt xuống tai và xuống cằm. Một con mắt đã trắng đục con kia thì đỏ và sưng lên. Cái diện mạo mà ban nãy tôi tấm tắc khen thầm thì giờ đây nó giống như¬tranh đẹp bị nhòe, tèm nhem, trông rất gớm ghiếc!
Một cách ngắn gọn, tôi trình bày những gì đã xảy ra. Vài người bồi phòng nhảy qua cửa sổ, lục lọi ngoài vườn nhưng trời tối đen và mưa bắt đầu rơi.
- Chính là Kít- ti. Ồ, con quỷ cái đó sẽ phải đền tội! Đúng, nó sẽ phải đền tội. ôi! Đau quá, không thể nào chịu nổi! - Hầu tước Ru-nê la vang.
Tôi rửa mặt hắn bằng dầu, áp bông gòn vào da cháy rồi chích cho hắn một mũi thuốc giảm đau. Hắn bấu vào tay tôi, như thể tôi có quyền năng đem lại sự sống cho đôi mắt đang nhìn tôi chòng chọc.
Có thể tôi đã khóc trước cái đại họa này, nếu tôi quên được cái lòng lang dạ thú của hắn. Chính cái dã tâm của hắn là nguồn gốc của mối đại họa hôm nay. Tôi ghê tởm khi cảm thấy đang bị hắn bấu víu để cầu cứu... Bác sĩ chuyên môn của gia đình hắn đã đến, tôi được nhẹ nhõm. Tất nhiên một thanh tra cảnh sát không thể chậm chân. Tôi trình cái danh thiếp thật của tôi ở Scot¬land Yard, mọi người đều biết tôi y như biết Sher¬lock Holmes. Rồi tôi rời cái nhà xui xẻo này. Không đầy một giờ sau, tôi đã về tới đường Bak¬er. Holmes đang ngồi trong ghế bành quen thuộc, lắng tai nghe một cách kinh hoàng. Tôi mô tả sự thay đổi hình dạng của Ru-nê.
- Có vay thì phải trả. Vay sao, trả vậy! - Nói xong Holmes với tay lấy cuốn sách nâu để trên bàn.
- Đây là cuốn sách mà con bé bụi đời đã nói với chúng ta.
Nếu Vi-ô-lét khăng khăng không hủy bỏ sự đính hôn thì ta chịu thua thôi.
Nhưng cô ta sẽ hủy bỏ cuộc đính hôn!
Bắt buộc thôi, bất cứ người đàn bà nào có lòng tự trọng, cũng đều phải khuất phục lẽ phải.
- Cuốn sổ tình?
- Cuốn sổ tình dục thì đúng hơn. Ngay khi con bé Kít-ti cho biết, tôi hiểu ngay đó là một vũ khí lợi hại. Tôi lặng yên, không phát biểu gì vì sợ con bé không giữ miệng được. Tuy nhiên tôi suy tính lại mãi. Tiếp đến tôi bị tấn công, đó là cơ hội để làm cho Ru-nê lầm tưởng mà không đề phòng gì về phía tôi. Mọi việc trôi qua êm đẹp. Tôi tưởng đây mình còn phải chờ lâu. Không ngờ hắn dự định đi Mỹ. Tôi phải khẩn trương vì hắn sẽ không chịu để cuốn sổ này tại đây. Rất khó mà ăn trộm ban đêm, bởi vì hắn có một hệ thống báo động. Nhưng cướp đoạt vào ban ngày thì được, với điều kiện phải làm sao cho tâm trí của hắn bị chi phối. Đó chính là lý do tại sao anh và cái đá phải nhập cuộc.
Khổ nỗi tôi phải biết chính xác cuốn sách nằm ở đâu. Mặt khác, tôi không có nhiều thời gi¬an, bởi vì kiến thức của anh về đồ sứ Trung Hoa không có bao nhiêu. Đó là lý do tôi cho mời con bé bụi đời vào phút chót. Có Chúa mới đoán được con bé giấu vật gì trong áo choàng của nó!
Tôi lầm tưởng nó chỉ đến vì công việc của tôi, đâu có dè nó còn nghĩ tới chuyện riêng tư của nó.
- Thằng ác ôn biết chính anh sai tôi đi!
- Tôi cũng khá lo. Nhưng anh đã cầm cự đủ thời gi¬an để tôi chộp được cuốn sách! Kìa! Ngài James ngài tới, tôi mừng hết lớn.
Huân tước James thích thú nghe kể lại tất các biến cố.
- Một kỳ công! Đại kỳ công - Huân tước la to - Nếu thương tích của hắn tệ hại như bác sĩ Wat¬son mô tả thì cái kế hoạch phá đám cưới sẽ thành công, đâu cần tới cuốn sách bẩn thỉu này?
Holmes lắc đầu:
- Đàn bà loại như cô Vi-ô-lét không xử sự bình thường như chúng ta dự đoán. Cô ta càng thương hắn bội phần, dưới các đường nét ghê tởm ở mặt của người tử vì đạo. Không đâu, chính cái mặt đạo đức của hắn cần được tiêu hủy chứ không phải cái mặt thể chất. Cuốn sách này sẽ làm cho cô ta bừng tỉnh. Tôi không thấy có giải pháp thứ hai. Đây chính là chữ viết của tên nhơn nạn đó. Cô ta không thể phủ nhận.
James mang cuốn sách về, cùng với cái đá quý giá.
Tôi cũng cáo từ. Chiếc xe ngựa đang chờ, ông ấy nhảên, ra lệnh ngắn gọn cho người xà ích phóng xe nhanh.
Dù ông ta cố lấy vạt áo choàng che phủ huy hiệu trên cửa xe, tôi cũng có đủ thời gi¬an để nhận dạng cái huy hiệu đó.
Tôi há hốc mồm, quay vào và đến phòng của Holmes.
- Tôi đã phát hiện khách hàng của mình là ai - Tôi la lớn, hãnh diện vì cái tin tức mới của tôi!
Nè, Holmes!
- Đấy là một người bạn trung thực và nghĩa khí - Holmes chân ngang bằng cách khoát tay làm dấu.
Ba ngày sau, nhật báo The Morn¬ing Post loan báo rằng cuộc hôn nhân giữa hầu tước Ru-nê và cô Vi-ô-lét bị hủy bỏ. Số báo đó cũng tường thuật vụ cô Kít-ti ra tòa vì tội tạt acid. Nàng được hưởng trường hợp giảm kinh nên bản án không nặng lắm. Sher¬lock Holmes thì suýt bị truy tố vì tội trộm. Nhưng khi mục tiêu là tốt, và khách hàng là một thế gia vọng tộc, luật phát của Anh quốc cũng co giãn và có nhân tính. Holmes khỏi ngồi vào ghế bị cáo.
02. Người Lính Bị Vảy Nến
wat¬son bảo tôi hãy thử tường thuật một trong các cuộc phiêu lưu của hai chúng tôi. Sở dĩ như vậy là vì tôi luôn mồm chê bai cái bài tường thuật của Wat¬son là nông cạn, thường thiên về mục đích thỏa mãn công
Nhưng khi cầm viết trên tay, tôi lại thấy phải trình bày câu chuyện sao cho độc giả bị lôi cuốn. Câu chuyện tôi đang viết đây có lẽ sẽ thành công vì nó là một trong những chuyện dị thường nhất trong bộ sưu tập của tôi, tuy không được Wat¬son chú ý tới.
Tôi có thói quen ngồi quay lưng ra cửa sổ, khách ngồi ở ghế trước mặt, làm như vậy gương mặt họ được ánh sáng chiếu thật rõ. Ông Dodd có vẻ lúng túng, không biết bắt đầu câu chuyện bằng cách nào. Tôi cũng không gợi ý cho ông nói, vì ông càng bối rối, tôi càng có nhiều thời gi¬an để quan sát. Sau cùng, tôi đưa ra vài kết luận.
- Ông từ Nam Phi về, ông là...
- Thưa đúng?
- ông ấy đáp lại trong sự ngạc nhiên.
- Chí nguyện quân trong Đoàn ky binh Hoàng gia?
- Thưa đúng.
- Có lẽ là trung đoàn Mid¬dle¬sex?
- Ông quả là một phù thủy, thưa ông Holmes?
Sự kinh ngạc của khách làm tôi cười.
- Khi một hào kiệt dáng dấp hùng dũng bước vào phòng khách này, với một khuôn mặt quá sạm nắng so với người chính quốc, và khi khách để mù soa trong tay áo, chứ không phải trong túi, thì việc đoán gốc gác của khách đâu có gì khó. Ông để râu quai nón ngắn, chứng tỏ rằng ông đâu phải là một chiến sĩ hiện dịch. Ông lại mặc đồng phục của một kỵ binh. Còn về trung đoàn Mid¬dle¬sex thì căn cứ vào danh thiếp của ông, tôi biết rằng ông là nhân viên hối đoái ở phố Throg¬mor¬ton. Cái góc đường này
thì không thể đưa tới đơn vị nào khác hơn?
- Không gì qua lọt sự nhận xét của ông!
- Thưa ông Dodd, đâu phải sáng nay ông đến đây để thảo luận về khoa học quan sát.
Có chuyện gì tại Tuxbury old Park vậy?
- Thưa ông...
- Trong thư, ông xin gặp tôi, và lời lẽ khẩn thiết đến nỗi tôi chắc chắn đã có một cái gì đột ngột và quan trọng xảy ra.
- Đúng thế. Tôi viết thư hồi xế trưa, nhưng từ lúc đó đến giờ, nhiều biến cố đã xảy ra. Phải chi đại tá âm-vô đã không đuổi tôi ra khỏi cửa...
- Đuổi ra khỏi cửa?
- Vâng. Đại tá âm-vô là hiện thân của quân kỷ, nói năng thô bạo. Nếu không vì tình bằng hữu với Gô-rây, tôi đã không nhịn đâu.
Tôi đốt thuốc và dựa lưng ra sau một cách thoải mái.
- Có lẽ ông nên giải thích rõ hơn?
- Tôi đầu quân hồi tháng giêng 1901 (cách nay đúng 2 năm) và gặp Gô-rây. Nó tình nguyện trước tôi. Hai đứa ở cùng một đội. Nó là con trai độc nhất của đại tá âm-vô.
Trong toàn trung đoàn, không có đứa nào tốt hơn nó.
Chúng tôi trở thành đôi bạn thân, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Rồi trong một cuộc đụng độ gần đồi Di¬amond, nó bị một viên đạn của súng bắn voi. Tôi có nhận được hai lá thư của nó. Cái thứ nhất gởi từ bệnh viện Cap, cái thứ nhì gởi từ Southamp¬ton. Rồi sau đó bặt tin luôn. Khi chiến tranh chấm dứt, tất cả đều được giải ngũ.
Tôi viết thư cho bố nó, hỏi thăm nó ở đâu. Tuyệt nhiên, không có hồi âm. Tôi phải đợi, rồi lại viết lá thư khác. Lần này thì được phúc đáp: "Nó đi chu du thế giới, có thể phải cả năm mới về". Thư ngắn và lời lẽ cộc lốc như thế đấy? Tôi không vừa lòng thưa ông. Gô-rây tốt bụng lắm. Nó không thể bỏ rơi bạn bè như thế này. Ngoài ra, tôi còn biết rằng nó thừa kế một tài sản kếch xù, và giữa bố nó và nó có trục trặc. Do đó tôi quyết định tìm hiểu sự việc. Nhưng vì cần sắp xếp nên tuần rồi tôi mới có thời giờ lấy hồ sơ Gô-rây ra và nhất quyết bỏ hết mọi công chuyện, chỉ chú tâm vào việc này mà thôi.
Ông Dodd thuộc loại người để kết bạn, thứ không phải để gây thù. Đôi mắt xanh của ông nghiêm khắc và khi nói chuyện thì hai hàm của ông khít lại.
- Rồi ông làm gì?
- Đầu tiên tôi gởi một lá thư cho mẹ nó. Phải nói thẳng là tôi ớn cái ông già cộc lốc đó lắm: "Gô-rây là bạn thí thân của cháu, cháu không thể nào quên được các kỷ niệm chung. Nếu có dịp, cháu sẽ kể lại cho bác nghe một cách chi tiết. Cháu muốn tới nhà bác, thăm hai bác và hỏi thăm tin tức của bạn cháu. Bác có thấy bất tiện không?".
Sau đó, tôi nhận được một lá thư rất dễ thương. Bà cụ mời tôi đến nhà chơi. Tôi đến đó vào ngày thứ hai. Căn nhà của ông bà đại tá ở tại Tuxbury Old Park.
Xuống xe lửa, không có xe ngựa, tôi phải xách va-li đi bộ. Đó là một ngôi nhà bao la lọt giữa một cái vườn mênh mông. Lão quản gia Ráp, già nua và rêu rã như ngôi nhà, vợ lão trước kia là vú em của Gô-rây. Gô-rây có nói với tôi về bà này nó thương bà như mẹ ruột. Do đó tôi đặc biệt lưu ý tới bà dù rằng cái bề ngoài của bà khá dị thường. Thân mẫu của Gô-rây là một người đàn bà nhỏ thó, nhanh nhẹn khả ái. Chỉ có ông cụ là không thể nào ưa được.
Tôi được đưa vào văn phòng. Ông ngồi sau bàn: một con người dềnh dàng, lưng hơi gù, da sạm đen, râu quai nón màu tro. lỗ mũi có mạch máu hồng nổi cộm lên như mỏ kền kền. Cặp mắt hung tợn màu tro dưới hai đám lông mày rậm rạp chòng chọc nhìn tôi. Tôi hiểu tại sao ít khi Gô-rây đề cập tới bố nó.
- Sao, người bạn- ông hỏi tôi với giọng rốn ràng - Tôi muốn biết rõ các nguyên nhân thật của cuộc thăm viếng này?
- Thưa bác, cháu đã nói rõ trong thư.
- Đúng thế. Ông nói rằng ông quen Gô-rây ở châu Phi. Chúng tôi không có cách nào khác hơn là phải tin theo lời ông.
- Tôi còn giữ thư của nó trong tú
- Ông cho tôi xem?
- Ông liếc sơ hai cái thư rồi trả lại.
- Rồi sao nữa?
- Cháu rất quý Gô-rây. Nhiều sự ràng buộc và vô số kỷ niệm đã hợp nhất chúng cháu lại. Đương nhiên cháu phải ngạc nhiên trước sự bặt tin của nó và phải tìm xem hiện giờ nó ra sao.
- Tôi nhớ mang máng là đã viết thư cho ông biết rồi mà. Từ Nam Phi trở về, sức khỏe của nó suy sụp trầm trọng, vợ chồng tôi quyết định cho nó nghỉ ngơi hoàn toàn thay đổi hẳn không khí. Tôi khẩn khoản yêu cầu ông bạn giải thích cho các bạn khác của nó.
- Cháu xin ghi nhớ. Tuy nhiên cháu xin biết tên chiếc tàu và hãng hàng hải để có thể gởi cho nó một lá thư.
Thỉnh cầu của tôi có vẻ vừa gây bối rối vừa chọc giận người chủ nhà. Ông cụ chau mày và gõ nhẹ cộp cộp trên bàn như một người đánh cờ đang bị chiếu bí.
- Ông bạn thân mến, nhiều người sẽ bực bội trước cái cù nhầy của ông bạn và nghĩ rằng ông nói dai như đỉa đói.
- Thưa bác, tất cả chỉ vì thân tình với con trai bác.
- Đúng. Tôi ghi nhận điều đó. Nhưng tôi yêu cầu ông đừng hỏi thêm. Mỗi gia đình đều có chuyện riêng tư mà người ngoài không thể nào hiểu nổi. Bà nhà tôi rất thích nghe về cuộc đời quân ngũ của Gô-rây mà ông bạn khá rành, nhưng xin ông bạn hãy làm lơ hẳn cái hiện tại và tương lai của nó.
- Thưa ông Holmes, như vậy là tôi phải chấp nhận và tự nguyện giải quyết sự mù mờ về số phận của Gô-rây.
Tối hôm đó, bầu không khí khá tẻ nhạt. Ba người trầm lặng ăn cơm trong một gi¬an phòng âm u, đèn đóm lù mù.
Bà cụ háo hức muốn nghe tôi kể về con trai của bà, còn ông đại tá thì có vẻ u sầu. Cuộc thả luận này làm tôi phật ý đến nỗi có dịp tôi liền cáo lui về phòng. Đó là một phòng trống trơn và cũng thê lương như phần còn lại của ngôi nhà. Tuy nhiên sau thời gi¬an ngủ trên đồi cỏ Nam Phi, tôi đâu còn khó tánh về vấn đề chỗ ngủ nữa. Tôi vạch màn cửa ngắm cảnh vườn đêm dưới ánh trăng lưỡi liềm.
Kế đó tôi ngồi gần lò sưởi và cố gắng đọc một cuốn tiểu thuyết để tiêu khiển.
Lão Ráp mang thêm than đến.
- Tôi sợ ông bị thiếu than trong đêm khuya. Gió thì buốt, phòng thì rộng... Ông lão lưỡng lự như muốn nói điều gì. Khi tôi nhìn lên thì thấy ông đang đứng trước mặt tôi, vẻ đăm chiêu.
- Thưa ông, xin ông tha thứ cho cái tội nghe lén những gì ông nói về cậu Gô-rây trong bừa cơm tối. Ông biết không, vợ tôi là vú của cậu ấy, còn tôi thì phần nào như bố nuôi của cậu vậy. Đương nhiên chứng tôi có để ý đến cậu ấy. Ông có nói cậu ấy đối xử đẹp, phải không.
- Nó là người dũng cảm nhất trung đoàn. Có lần nó cứu tôi thoát chết. Không có nó, tôi đâu còn sống đến ngày nay.
Ông lão quản gia xoa đôi tay gân guốc.
- Thật đúng với tính cách của cậu ấy. Cậu ấy luôn can đảm. Ông ơi, không có cây cổ thụ nào ngoài vườn mà cậu ấy không leo. Ngay từ thuở đó, nó cũng đã là một cậu bé dũng cảm... và thưa ông, lớn lên cũng đã là một người đàn ông dũng cảm?
Tôi nhảy dựng lên, la lớn:
- Ông vừa nói "đã là"...
Vậy nó đã chết rồi sao? Gô- rây ra sao rồi?
Tôi nắm cứng vai ông lão, nhưng ông vùng ra.
- Tôi không hiểu ông muốn nói gì, thưa ông. Đề nghị ông hỏi ông chủ. Ông chủ biết đó.
ông lão sắp rời phòng, tôi năánh tay ông, níu ông lại, năn nỉ.
- Mong ông trả lời một câu thôi; bằng không, tôi giữ ông lại suốt đêm: Gô-rây chết rồi ư?
- Ông lão không thể nhìn thẳng vào mặt tôi. Ông ấy tựa như một con thỏ bị thôi miên. Câu trả lời vuột khỏi môi ông!
- Thà cậu ấy chết còn hơn!
Câu nói vừa đột ngột vừa hãi hùng?..
Ông vuột khỏi tay tôi, hối hả chạy ra khỏi phòng.
- Thưa ông Holmes, câu trả lời của ông lão hình như cũng chả giải thích được gì nhiều. Chắc chắn là bạn tôi đã bị kẹt trong một vụ hình sự. Nếu không thì cũng là một cái gì nhục nhã làm nguy hại đến danh dự của gia đình ông đại tá khiến ông phải tống cậu con đi xa.
Gô-rây thích phiêu lưu, nên có thể bị bạn bè lôi kéo dễ dàng. Nếu vậy, nhiệm vụ của tôi là phải tìm để giúp nó. Trong lúc tôi đang nghĩ ngợi thì bỗng Gô-rây xuất hiện trước mặt tôi...
Người khách hàng của tôi ngừng nói vì xúc động sâu xa..
- Ông hãy nói tiếp. Vấn đề này có những dữ kiện hết sức đặc biệt.
- Nó đứng ở phía ngoài cửa sổ! Phía ngoài. Nó áp sát mặt vào cửa kiếng. Hồi nãy tôi có nói là tôi ngắm trăng. Sau đó, tôi kéo màn nửa chừng. Hình dáng nó nằm gọn trong phần cửa sổ trống. Đây là loại cửa sổ lớn nên tôi thấy rõ nó từ đầu xuống gần hết chân. Nhưng gương mặt của nó làm tôi xúc động mạnh! Chưa bao giờ tôi thấy ai trắng bạch như thế. Khi thấy tôi nhìn nó, nó tức khắc nhảy lùi ra sau và biến mất trong đêm khuya.
Thưa ông Holmes, có một cái gì đó làm tôi thắc mắc vô cùng. Tôi đứng đó, trố mắt nhìn? Nhưng đã xông pha trận mạc trong 2 năm, tôi không hoảng hốt lắm, nên khi Gô-rây vừa đi khỏi thì tôi đã đứng tại cửa sổ. Cửa kẹt, nên tôi mở hơi lâu. Cuối cùng tôi ra được ngoài vườn. Tôi chạy dọc theo hướng nó chạy. Lối đi thì dài, mà trời lại mờ. Tôi thấy một cái gì đang di động lờ mờ trước mặt tôi. Tôi tiếp tục chạy, kêu ngay tên nó, nhưng không có kết quả. Cuối lối đi tôi đứng trước một ngả rẽ năm sáu đường mòn đi về nhiều phía. Tôi đứng đó, chần chừ. Chính lúc này tôi nghe rõ ràng tiếng một cửa lớn đang đóng lại. Không phải đàng sau lưng tôi ở trong nhà chính, mà là ở trước mặt tôi, đâu đó trong bóng tối. Tôi nghe khá rõ, vậy là Gô-rây chạy trốn tôi? Chính nó đóng cửa lại sau khi đã vào nhà.
Làm gì bây giờ. Qua một đêm không ngủ, tôi hy vọng tìm ra một giả thiết có thể giải thích suôn sẻ các dữ kiện. Hôm sau, tôi thấy ông đại tá dễ chịu hơn, và sẵn dịp bà vợ ông nhắc rằng chung quanh vùng này có những nơi hay hay, tôi bèn xin phép họ được lưu lại thêm một đêm nữa. Tôi đã biết chắc chắn rằng Gô-rây đang lẩn trốn.
không xa- Cái tư dinh bát ngát và nhiều hang hóc đến nỗi cả một trung đoàn ky binh có thể tìm đủ chỗ núp an toàn.
Nó có chừa một bí mật nào thì rất khó mà phát hiện.
Nhưng mà cái cửa tôi nghe đóng không phải của căn nhà chính. Tôi lục lạo khu vườn, đi lung tung một cách tùy tiện, vì ông bà chủ nhà đều bận rộn công việc.
Có nhiều căn nhà phụ nhỏ. Nhưng ở cuối vườn, có một cái nhà cô lập, khá bề thế, rất tiện lợi khi làm nhà ở cho một người làm vườn hay một người canh bọn ăn trộm.
Phải chăng tôi đã nghe tiếng cửa của căn nhà phụ này đóng lại- Tôi giả vờ khoan thai tới gần, như thể đang đi thăm toàn khu đất. Ngay lúc đó, một người đàn ông nhỏ con, râu quai nón, nhanh nhẹn, trang phục màu đen, mũ lông nón tròn, xuất hiện trước cửa. Lạ lùng thay, vừa ra khỏi cửa, ông ta vội vàng khóa cửa lại, và bỏ chìa khóa vào tủi, nhìn chòng chọc vào tôi, hỏi:
- Ông tới đây chơi vài ngày.
Tôi nói rõ danh tính rồi cho biết tôi là bạn thân của Gô-rây.
- Rất tiếc rằng nó đã đi du lịch, phải chi nó có ở nhà, nó sẽ mừng lắm.
Tôi nói bâng
- Chắc chắn như vậy?
Ông ấy trả lời hơi lấp lửng.
Tuy nhiên, tôi đề nghị ông trở lại đây vào một lúc khác thuận tiện hơn.
Ông ta chỉ nói bấy nhiêu rồi bỏ đi. Khi tôi quay lại thì thấy ông ấy đứng lẫn trong đám nguyệt quế, mắt canh tôi.
Khi đi ngang qua đó, tôi để ý thật kỹ ngôi nhà nhỏ với cửa sổ kéo màn dày. Thoạt nhìn, có vẻ đó là một căn nhà trống vắng. Tôi có cảm giác đang bị theo dõi nên tôi lững thững đi về phòng của mình.
Đêm đến, khi trời đã tối đen và mọi nơi đều im vắng, tôi lén nhảy qua cửa sổ, rón rén đi tới căn nhà huyền bí.
Tôi đã nói với ông rằng các cửa sổ đều kéo màn thật dày. Giờ đây các cửa lại đóng kín mít. Tuy nhiên, xuyên qua một khe hở của cửa sổ, một ánh đèn leo lét lôi cuốn sự tò mò của tôi. May mắn cho tôi màn không kéo kín hẳn.
Qua khe hở, tôi thấy rõ bên trong. Đó là một căn phòng khá vui, có một cái đèn lớn và một ngọn lửa sưởi. Trước mặt tôi là người đàn ông lùn mà tôi đã gặp hồi sáng, ông ta đang ngồi hút thuốc và đọc báo.
Một người thứ nhì ngồi quay lưng ra cửa sổ và tôi thề độc rằng đó là Gô-rây. Tôi không thấy rõ mặt, nhưng tôi nhớ độ cong của đôi vai. Nó tì cùi chỏ, thái độ cực kỳ u sầu, quay lưng ra phía lò sưởi. Trong lúc tôi chưa biết phải phản ứng ra sao thì có người vỗ vai tôi: đại tá âm-vô!
- Hãy đi theo tôi, ông bạn - ông cụ ra lệnh cho tôi với tiếng nói nhỏ nhẹ, rồi ông lặng thinh, đi về nhà chính.
Tôi đi theo ông tới phòng của tôi. Khi đi ngang qua hành lang? đại tá lấy một cái đồng hồ báo thức. "8 giờ rưỡi có tàu về Luân Đôn. Xe ngựa chờ sẵn ngoài cửa lúc 8 giờ ".Ông cụ giận run, mặt trắng bệch. Thú thật tôi cũng cảm thấy mình vừa lọt vào một tình huống khó xử nên chỉ ấp úng biện bạ
- Không dông dài làm gì - ông cụ nói cụt ngủn như thế - ông bạn đã khiếm nhã, đột nhập vào đời tư của kẻ khác. Ông bạn được tiếp như một thượng khách nhưng lại xử sự như một thằng gián điệp. Tôi không muốn gặp ông bạn lại lần thứ hai.
Lúc đó tôi mất nhẫn nại và có phần thất kính:
- Tôi đã nhìn thấy con trai ông và tôi chắc chắn ông giấu nó với đời. Tôi không hiểu gì về lý do khiến ông buộc nó mai danh ẩn tích nhưng tôi biết chắc chắn rằng nó mất tự do. Tôi cho ông biết trước, thưa đại tá, khi tôi chưa an tâm về sự an ninh của nó! Tôi vẫn cố gắng tối đa để làm sáng tỏ vấn đề.
Ông già nhìn tôi với đôi mắt đầy ác cảm rồi ông quay lưng, rời khỏi phòng tôi. Về phần tôi, tôi đi chuyến xe 8 giờ 30 và đi thẳng tới đây xin ông chỉ dạy và giúp đỡ.
Đó là bài toán mà khách trình bày cho tôi. Bài toán có nhiều khó khăn nghiêm trọng. Tuy nhiên, nó có nhiều chi tiết lý thú.
- Về tôi tớ?
- Tôi hỏi - Nhà đó có bao nhiêu người?
- Theo tôi, thì chỉ có người lão quản gia và bà vợ. Đời sống tại nhà đó khá đạm bạc. Trong căn nhà phụ, không có tôi tớ sao?
- Cái lão có râu quai nón, thuộc một gi¬ai tầng xã hội cao hơn.
- Rất là lý thú. Ông có để ý xem coi có phần cơm nước được đưa từ tòa nhà này sang tòa nhà khác không?
- Tôi nhớ có thấy lão Ráp xách giỏ đi về hướng căn nhà đó. Tôi không nghĩ rằng đó là một giỏ thức ăn.
- Ông đã mở cuộc điều tra xung quanh chưa?
- Có. Tôi đã nói chuyện với người trưởng ga và người chủ quán của làng. Tôi chỉ đơn giản hỏi họ có biết gì về người bạn Gô-rây của tôi không. Cả hai đều khẳng định với tôi rằng nó đang đi chu du thế giới. Sau chiến tranh, hình như nó có về rồi lại ra đi. Câu chuyện hiển nhiên được những người chung quanh chấp nhận, không thắc mắc.
- Họ không tỏ vẻ nghi ngờ gì hay sao?
- Không.
- Câu chuyện đáng được lưu tâm. Được. Tôi sẽ cùng đi với ông tới Tuxbury Old Park.
- Ngay hôm nay?
- Lúc này tôi đang bận một việc cần thiết khác.
Đầu tuần sau, tôi mới cùng với ông Dodd đi lên Bed¬ford. Trên đường đi, chúng tôi còn ghé rước một người nghiêm nghị, có mái tóc đen màu xám bạc mà tôi đã thu xếp trước. Tôi nói với Dodd:
- Tôi xin giới thiệu một ông bạn cũ. Sự hiện diện của ông ấy có lẽ là thừa, trừ khi tình thế xoay chiều thì sự có mặt đó sẽ rất hữu ích.
Dodd có vẻ ngạc nhiên nhưng không nói gì. Trên xe hơi, tôi hỏi Dodd, một việc mà tôi muốn cả người bạn đồng hành của chúng tôi cùng nghe.
- Ông có nới rằng ông thấy rõ mặt ông Gô-rây ở cửa sổ.
- Nó áp mũi sát vào kiếng, ánh sáng của đèn chiếu rõ mồn một.
- Có thể là một ai khác giống ông ta.
- Không đâu. Chắt chắn là nó.
- Nhưng ông nói gương mặt của Gô-rây có thay đổi?
- Chỉ nước da thôi! Làm sao tả gương mặt nó bây giờ? Mặt nó trắng như bụng cá.
- Trắng toàn thân không?
- Không đâu. Tôi không cho là như vậy. Tuy nhiên tôi chỉ thấy cái tnó khi nó áp sát vào cửa.
- Ông có gọi ông ấy không?
- Lúc ấy tôi điếng người. Tôi có đuổi theo nó, như đã nói với ông, nhưng vô ích thôi.
Sau một cuộc hành trình dài bằng xe ngựa, chúng tôi đến nơi. Chính lão quản gia Ráp mở cửa cho chúng tôi.
Tôi đã mướn nguyên xe này và có dặn ông bạn thân cùng đi hãy ngồi lại ngoài xe. Ráp ăn mặt trong y phục qui ước nhưng khác lạ là có đeo đôi bao tay da màu nâu, ông lão lật đật cởi ra để lên bàn ở ngay cửa. Như Wat¬son từng nhận xét: tôi được trời cho những giác quan bất bình thường. Một cái mùi yếu nhưng dai dẳng cũng làm xốn xang mũi tôi. Hình như nó phát ra từ cái bàn. Vừa bước vào, tôi lại quay ra sau để nón lên bàn và làm rớt nó. Khi cúi xuống lượm, tôi ghé mũi gần đôi bao tay. Rõ ràng là mùi dầu hắc. Giờ đây hồ sơ tôi đã đầy đủ. Than ôi. Khi đích thân tôi kể chuyện, thì tôi lại phơi bày các cái mánh của tôi, ngược lại Wat¬son thì giấu nhem các khâu này.
Đại tá âm-vô không có ở trong phòng. Tuy nhiên khi Ráp đem tin tới thì đại tá nhanh chóng ra ngay.
Chúng tôi nghe được bước chân nhanh và nặng của ông đi ngoài hành lang. Ông mở mạnh cửa, ào ào đi vào văn phòng, râu quai nón xồm xoàm, khuôn mặt hơi cáu. Chưa bao giờ tôi gặp mặt ông lão khủng khiếp như thế! Ông cầm trên tay tấm danh thiếp của chúng tôi, xé thành một nghìn mảnh.
- Này cái ông tào lao, tôi đã nói với ông rằng tôi không muốn thấy cái bản mặt đáng nguyền rủa của ông lần thứ hai. Nếu ông bất tuân, tôi có quyền sử dụng bạo lực. Tôi giết ông chết. Thật đó, tôi sẽ giết ông. Còn ông...
Đại tá quay lại phía tôi.
Lời đó dành luôn cho cả ông nữa. Tôi có biết cái nghề hạ lưu của mấy ông. Hãy phát triển tài năng của ông đi chỗ nào khác, không phải chỗ này?
- Tôi sẽ không bao giờ rời khỏi nơi đây - Người khách hàng của tôi dằn từng tiếng - Trước khi nghe chính miệng Gô-rây nói rằng nó không bị áp bức
Người chủ nhà cực kỳ giận dữ, bấm chuông vang trời.
- Ráp. Hãy điện thoại cho cảnh sát quận, yêu cầu viên thanh tra đưa tới đây hai cảnh sát viên. Bảo với họ rằng hiện có 2 kẻ cắp đang đục tường tại nhà mình.
- Cho tôi vài giây - Tôi nói xen vào - ông Dodd, ông phải biết rằng đại tá âm-vô có quyền làm như thế. Chúng ta không có một tư cách pháp lý nào tại đây. Ngược lại, tôi cũng khẩn thiết xin đại tá nhìn nhận rằng mọi việc làm của ông Dodd đều vì cậu con trai của đại tá. Tôi tin rằng nếu tôi được nói chuyện 5 phút với đại tá, tôi sẽ làm ông thay đổi quan điểm.
- Tôi không bao giờ để cho người khác ảnh hưởng đến mình - Người chiến sĩ già đáp - Ráp, hãy thi hành lệnh tôi. Còn đợi gì nữa? Gọi cảnh sát cho mau!
- Đại tá sẽ không bao giờ làm điều đó- Tôi nói vừa tựa lưng vào cánh cửa lớn - Sự can thiệp của cảnh sát sẽ gây ra cái tai họa mà đại tá muốn tránh.
Tôi lấy sổ tay ra rồi viết một từ, vỏn vẹn một từ, rồi trao cho đại tá.
- Chính đó là nguyên nhân khiến chúng tôi tới đây hôm nay - Tôi nói thêm.
Đại tá đăm chiêu nhìn tờ giấy, và mọi bực bội đều biến khỏi gương mặt ông, trừ sự kinh ngạc.
- Làm sao ông biết được?
Đại tá ấp a ấp úng rồi ngồi phịch xuống ghế dựa.
Đại tá ngồi trầm tư, lấy bàn tay gân guốc mân mê vài sợi râu, rồi chậm rãi nói:
- Vâng, quý ông muốn gặp Gô-rây thì quý ông sẽ được gặp. Nhưng nên nhớ là tôi không hề cho phép, chính quý ông đã cưỡng chế tôi.
- Ráp. Hãy báo trước cho Gô-rây và ông Kent biết rằng trong 5 phút nữa, chúng tôi sẽ đến đó.
Sau khi, năm phút đã trôi qua, chúng tôi băng qua vườn, đi đến căn nhà bí mật. Ông lão lùn có râu quai nón đứng trước cửa, có vẻ sửng sốt:
- Chuyện gì mà đột ngột vậy. Thưa đại tá, tất cả các kế hoạch của ta bị hỏng hết?
- Đành chịu vậy, ông Kent. Chúng ta bị bắt buộc. Gô-rây có thể tiếp khách không.
- Có.
Ông lão quay lại, đưa chúng tôi vào một phòng trang hoàng rất nhiều thứ đồ gỗ. Một người đàn ông đứng quay lưng ra lò sưởi. Khi nhìn thấy người đó, Dodd dang tay nhào tới.
- Ồ, bạn Gô-rây, thật là...
Nhưng người kia làm dấu xua đuổi.
- Đừng sờ tôi. Hãy giữ khoảng cách! Đúng, mày có thể mở mắt nhìn tao cho thỏa thích. Nhưng tao không còn là thằng binh nhất âm-vô sáng giá thuộc đội B nữa, phải không.
Quả vậy, bề ngoài của nó rất dị thường. Người ta có thể đoán ra rằng trước kia anh ta rất đẹp trai, với khuôn mặt bị sạm nắng bởi mặt trời Nam Phi. Còn bây giờ trên khuôn mặt màu nâu, những vết trắng đã làm cho da anh bị phai màu từng mảng.
- Đó là lý do tại sao tao không ra tiếp khách.
- Tao không phiền gì mày đâu, nhưng tao thích gặp mày một mình.
- Thật quá bất ngờ đối với tao.
- Tao muốn biết chắc rằng mày được vui vẻ, Gô-rây.
- Tao nhận ra mày ngay lúc mày tới ngó qua cửa sổ. Sau đó thì lòng tao không còn bình thản nữa.
- Lão Ráp cho tao hay tin và tao không thể không tới nhìn mày. Tao hy vọng mày không thấy tao. Tao chạy hụt hơi nghe cửa sổ mở.
- Vì lý do nào?
- Ồ, câu chuyện ngắn gọn thôi - Gô-rây vừa nói vừa đốt thuốc - Mày còn nhớ trận đánh vào một buổi sáng nọ ở trên tuyến đường sắt phía Đông?
Mày biết tao bị thương chứ?
- Đúng, tao có hay tin, nhưng không biết chi tiết khác.
- Ba đứa bọn tao bị lạc bầy. Địa thế trắc trở. Bọn tao đi thám sát, bị lọt ổ phục kích. Hai thằng kia tử thương.
Tao bị bắn vào vai bằng viên đạn bắn voi. Tuy vậy tao bám cứng vào ngựa, nó phi khoảng mười cây số trước khi tao té xỉu lăn cù dưới chân ngựa.
Khi tao tỉnh lại thì đã tối rồi. Tao đứng lên, nhưng thấy quá mệt. May thay có một cái nhà gần đó: căn nhà khá lớn có hàng hiên và rất nhiều cửa sổ. Trời lạnh ghê gớm, cái lạnh kinh khủng, khác hẳn với cái lạnh khô ráo và lành mạnh ở Anh. Tao bước đi khập khiễng, lê lết, mơ mơ màng màng. Tao nhớ mang máng là đã leo lên một bực thềm, bước vào một căn phòng rộng mênh mông có nhiều giường, tao đã bò lên đó. Cái giường rêu rã nhưng tao bất cần. Tao kéo "ra" đắp cái thân đang run cầm cập.
Một lát sau, tao ngủ thiếp đi.
Khi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Tao có cảm giác rằng thay vì lọt vào được một khu nhà an toàn thì tao lại sa vào cảnh ác mộng. Ánh nắng châu Phi ào ào tuôn xuống, xuyên qua các cửa sổ không màn che. Trước mắt tao có một người đàn ông rất lùn, nhỏ xíu, cái đầu thật to, đang bập bả bập bẹ tiếng Hòa Lan, hai tay múa may lung tung.
Sau lưng hắn là một đám đông. Khi nhìn kỹ, tao thấy họ không có dáng vẻ của một người bình thường: tất cả đều cong queo, méo mó, sưng phù.
Không ai nói tiếng Anh. Cái thằng lùn đầu to đang giận dữ. Nó gào thét như con thú, nó thộp tao bằng hai tay mất hình dạng, toan vứt tao xuống đất, dù máu từ vết thương của tao chảy lai láng, nó cũng mặc kệ. Con quái vật tí teo này mạnh như bò mộng. Tao chưa biết phải đối xử ra sao thì một người có tuổi thốt ra vài câu dõng dạc bằng tiếng Hòa Lan, và tên lùn bỏ đi. Ông già mới quay sang tao, kinh ngạc nhìn tao, hỏi:
- Anh đến đây bằng cách nàoTôi thấy anh kiệt sức và cái vai bị thương này cần được chăm sóc. Tôi là y sĩ, tôi sẽ băng lại cho anh. Nhưng anh hiện ở nhà thương của người cùi và anh mới vừa ngủ trên giường họ. Có lẻ mày đâu cần tao phải kể lể dông dài hơn nữa.
Ông y sĩ này cố nói với tao rằng mặc dù cơ thể ông đã được miễn nhiễm, ông cũng không bao giờ dám làm như tao. Sau đó, ông cho dời tao qua một căn phòng đặc biệt và đối xử với tao rất tử tế. Tám ngày sau, tao được di tản qua tổng y viện. Khi về đến nhà thì những triệu chứng bất thường xuất hiện; những gì mày thấy trên mặt tao....
- Làm sao bây giờ. Tao ngụ tại căn nhà cô lập này. Gia đình có hai gia nhân có thể tin cậy hoàn toàn. Lại có một căn nhà nhỏ để tao sống. Để giữ bí mật tuyệt đối, y sĩ Kent bằng lòng ở chung với tao. Nếu lộ ra một tí xíu sẽ bị sang cái địa ngục khác. Cả tao, cả mày, Jim... cả mày cũng không biết được rằng, tại sao bố tao đã nhượng bộ này. Đó là điều tao không bao giờ hiểu được.
Đại tá chỉ tay vào tôi, nói:
- Ông này ép buộc ba.
Rồi ông ấy mở ra tờ giấy ghi chữ "cùi" - Ba thấy hình như ông ấy đã biết quá nhiều nên tốt hơn hết là nói cho ông ấy rõ tất cả.
- Và giờ đây, tôi đã biết hết rồi - Tôi nói - Rồi đây có thể có những điều tốt đẹp xảy đến. Tôi nghĩ rằng chỉ có ông Kent mới biết rõ bệnh nhân. Thưa ông, tôi xin phép hỏi ông, trong trường hợp này, bệnh của bạn tôi có gốc nhiệt đới hay bán nhiệt đới?
- Tôi chỉ có những hiểu biết thông thường của một y sĩ - Kent trả lời giọng lạnh nhạt.
- Thưa ông, tôi không hề nghi ngờ chuyên môn của ông. Chắc ông sẽ chấp nhận một ý kiến thứ hai đó là với trường hợp này, ông sợ người ta
- Đúng thế!
- Viên đại tá trả lời.
- Tôi đã dự đoán cái tình huống này. Tôi có dẫn theo một người bạn thân: với người này, quý vị có thể tin rằng bí mật của chúng ta vẫn được bảo vệ. Trước kia, tôi có giúp ông ấy một việc. Giờ đây đương nhiên ông ấy sẽ sẵn lòng cho chúng ta một ý kiến, đồng thời cũng là của một chuyên gia. Đó là Uyn-đơ, ngài Uyn-đơ.
Mặt mày của ông Kent sáng rực vì ông mà được hầu chuyện với Uyn-đơ thì cũng giống như một binh nhì được nói chuyện với đại tướng.
- Tôi vô cùng hân hạnh - Bác sĩ Kent đáp.
- Vậy thì tôi sẽ mời ngài Uyn-đơ đến tận đây, ông hiện chờ ngoài xe. Trong khi chờ đợi, đề nghị đại tá đưa chúng tôi lên văn phòng của ông. Tại đây tôi sẽ giải thích.
Giờ đây, tôi quả thấy thiếu vắng Wat¬son. Wat¬son biến hóa tài nghệ giản dị của tôi khi tôi tự thuật, tôi không hưởng được cái ngón nghề này. Mặc kệ. Tôi sẽ tường thuật hầu quý độc giả cái tiến trình tư duy y hệt như khi tôi trình bày nó cho các thính giả của tôi. Sau đó tôi bước vào phòng của đại tá có cả bà mẹ Gô-rây tham dự. Tôi nói:
- Cái tiến trình đó, khi quý vị đã loại trừ những gì không thể chấp nhận, thì cái còn lại sẽ là chân lý, dù nó có vẻ khó tin thật. Có nhiều giả thiết. Trong trường hợp này, ta lần lượt xét từng cái một, cho tới khi gặp cái nổi cộm. Ngay từ phút đầu, tôi đã có ba lời giải thích về sự cách ly chàng trai trong một căn nhà thuộc lãnh địa của tổ phụ.
Thứ nhất là y trốn vì một tội đại hình.
Thứ hai là vì y bị điên nên cần nhốt lại để khỏi bị đưa vào nhà thương điên.
Thứ ba là y bị bệnh truyền nhiễm nên cần phải cô lập.
Lời giải thích thứ nhất không thể đứng vữ. Nếu người thanh niên này phạm tội đại hình, mà chưa bị phát hiện, thì gia đình sẽ phải tống y ra nước ngoài càng sớm càng tốt! Ai dại gì giấu y tại nhà? Bệnh điên thì dễ chấp nhận nhất. Sự hiện diện của một người thứ hai trong ngôi nhà nhỏ đó có thể được giải thích rằng: người thanh niên cần được canh chừng. Sự kiện người hộ vệ khóa cửa khi ra ngoài củng cố thêm cho giả thiết này; nhưng mặt khác anh chàng đã có thể đi ra khỏi căn nhà nhỏ, lần mò tới căn nhà chính để nhìn thoáng qua người bạn thân? Ngoài ra luật pháp đâu có cấm gi¬am giữ người điên tại nhà nếu người này được chăm sóc đúng theo y tế và chính quyền được báo cáo đều đặn. Vậy thì làm sao giải thích cái quyết tâm giữ bí mật tuyệt đồi? Lại một lần nứa lý thuyết bệnh điên không khớp với thực tế.
Vậy chỉ còn có giả thiết thứ 3. Trong giả thiết thứ ba này, tất cả các dữ kiện dị thường đều được giải thích thỏa đáng: Bệnh cùi không phải là hiếm hoi tại Nam Phi. Anh chàng bị lây. Gia đình không muốn đưa bệnh nhân vào trại cùi. Do đó phải giữ bí mật tuyệt đối để tránh sự đồn đại của quần chúng và sự can thiệp của nhà cầm quyền, một y sĩ tận tụy và được trả lương trọng hậu sẽ chấp nhận chăm sóc bệnh nhân. Do đó, đâu có lý do gì cấm cản bệnh nhân đi dạo khi màn đêm buông xuống. Da bị trắng là một hiệu quả thông thường của căn bệnh.
Thế là tôi quyết định hành động như thể giả thiết này đã được xác nhận và chứng minh từ trước. Khi tới đây, tôi để ý rằng lão bộc Ráp mang bao tay có khử trùng, thì các ngờ vực chót của tôi tiêu tan hẳn. Thưa đại tá, chỉ một từ mà thôi, cũng đủ cho đại tá thấy rằng bí mật của đại tá đã bị lộ. Còn việc tôi viết, thay vì nói, là nhằm bảo dám với đại tá sự kín miệng của chúng tôi.
Tôi đang hoàn tất bài phân tích ngắn này thì cửa mở và khuôn mặt khắc khổ của nhà khoa học tài danh về da xuất hiện. Lần đầu tiên ông cởi bỏ bộ mặt lạnh lùng.
Cái nhìn của ông rực sáng tình người. Ông đi về hướng đại tá, bắt tay ông ấy.
Nghề này của tôi thường là báo tin buồn - ông nói - Nhưng lần này, thì ngược lại.
Con trai của đại tá không mắc bệnh cùi.
- Sao
- Đó là một trường hợp cổ điển của một bệnh gần giống như bệnh cùi, hay bệnh vảy nến, một bệnh ngoài da. Da tróc vảy, khó coi. Bệnh dai dẳng, tuy nhiên có thể chữa được và chắc chắn không lây. Đúng thế, thưa ông Holmes, thật là một sự trùng hợp dị thường! Tôi không bao giờ hy sinh tiếng tăm của tôi để tuyên bố mà là vì trách nhiệm... Nhưng bà cụ xỉu kìa? Đề nghị bác sĩ Kent lo cho bà sớm tỉnh lại sau cú sốc vì tin mừng này.
03. Viên Đá Của Mazarin
Bác sĩ Wat¬son sung sướng vô cùng khi một lần nữa được quay trở về căn hộ trên gác ở phố Bak¬er, nơi xuất phát của biết bao cuộc phiêu lưu kỳ thú. Ông nhìn các bản đồ phác họa trên tường, cái bàn loang lổ vì acid, và ngổn ngang những hóa chất để thí nghiệm, cái bao vĩ cầm dựng ở một góc, cái xô than vẫn được dùng để đựng cái ống vố và thuốc lá. Cuối cùng ông nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của Bil¬ly, chú hầu nhỏ sâu sắc và tế nhị người đã giúp khỏa lấp cái hố sâu đơn côi và cô quạnh của nhà thám tử đại tài.
- Không có thay đổi gì nhiều lắm hả Bil¬ly? Cả cháu cũng không có thay đổi, tôi hy vọng ông ấy cũng thế.
Bil¬ly ái ngại nhìn về hướng phòng ngủ đóng kín.
- Có lẽ ông ấy đang ngủ.
Đã 7 giờ tối và cái ngày hè hôm đó rất đẹp. Bác sĩ Wat¬son khá quen với thời khóa biểu bất thường của người bạn cố tri, nên không hề ngạc nhiên chút nào.
- Nghĩ̀ ông ấy đang theo dõi một vụ nào đó?
- Đúng vậy, thưa ông. Một vụ mà ông ấy phải dốc toàn tâm toàn trí. Cháu lo cho sức khỏe của ông ấy lắm. Ông ấy tái mét, gầy đi, bỏ ăn. "Chừng nào ông mới thấy đói, hả ông Holmes?", bà Hud¬son thường hỏi thế. "Bảy giờ rưỡi ngày mốt", ông ấy trả lời như vậy. Bác sĩ thừa biết là ông ấy lo lắng tới mức nào một khi lo vào một vụ.
- Biết!
- Ông ấy đang bám theo ai đó. Hôm qua ông ấy ra đi người ta lầm tưởng là một công nhân đi kiếm việc làm. Hôm nay ông ấy giả làm đàn bà, ông ấy ngụy trang hay lắm. Mới đầu tôi còn bị lầm, nhưng bây giờ thì quen rồi.
Bil¬ly cười nhoẻn, tay chỉ về cây dù to tướng dựa vào cái ghế dài.
- Để ngụy trang làm một bà lão đó.
- Thuộc loại chuyện gì?
Bil¬ly hạ giọng như thể sắp sửa tiết lộ một bí mật lớn của quốc gia.
- Cháu xin kể, thưa ông, nhưng phải tuyệt đối giữ miệng. Đó là vụ Viên kim cương của Hoàng gia.
- Vụ trộm kim cương trị giá khoảng 100.000 bảng Anh?
- Đúng thế, thưa ông. Phải kiếm cho ra, ông biết không? Ông thủ tướng và ông bộ trưởng nội vụ đều đến ngồi tại ghế dài này. Ông Holmes tiếp họ rất lịch sự, trấn an họ và hứa sẽ cố gắng tối đa. Có cả huân tước Cantle¬mere...
- Thế à?
- Đúng thế, thưa ông. Ông có biết ông này không? Một mẫu người sắt đá, nếu cháu được phép nói thực lòng. Cháu khoái ông thủ tướng nhất, ông bộ trưởng cũng thế. Cháu có cảm giác đó là những người cần mẫn, lễ độ. Còn ngài huân tước, cháu không thể chịu đựng được! Ông Holmes cũng cùng một quan điểm với cháu, ông ạ. Hầu tước không tin tài của ông Holmes, chống đối việc sử dụng ông Holmes, và còn cầu mong ông Holmes thất bạ
- Ông Holmes biết không?
- Ông Holmes luôn luôn biết tất cả những gì cần phải biết...
- Vậy thì chúng ta hy vọng ông Holmes sẽ thắng và huân tước Cantle¬mere sẽ thất bại. Này Bil¬ly, cái màn căng ở cửa sổ để làm gì?
- Ông Holmes mới móc nó cách đây ba ngày và có để một cái ngồ ngộ ở đàng sau.
Bil¬ly tiến tới, kéo cái màn ngăn cách căn phòng với cửa sổ.
Bác sĩ Wat¬son không thể đè nén một tiếng la vì ngạc nhiên. Một mẫu tượng lớn như thật của Sher¬lock Holmes, mặc áo ngủ, mặt hướng ra cửa sổ, nhìn xuống như thể đang đọc một cuốn sách vô hình.
Bil¬ly gỡ cái đầu ra, rồi giơ cao lên.
- Ông Holmes luôn luôn cho đổi góc độ để có vẻ sống động. Chỉ khi nào bức sáo kéo xuống, cháu mới dám sờ tới nó. Khi bức sáo kéo lên, đứng bên kia đường, ông sẽ nhìn thấy rõ ông Holmes!
- Có lần chúng tôi cũng đã sử dụng cái màn này.
- Với cháu thì đây là lần đầu! - Bil¬ly nói, tay kéo bức sáo để ngó ra đường - Phía bên kia đường có người rình. Cháu thấy rõ một người tại cửa sổ, ông nhìn thử xem.
Bác sĩ Wat¬son mới vừa bước tới thì cánh cửa phòng mở, cho thấy cái dáng vóc lêu nghêu của Holmes. Khuôn mặt bơ phờ, nhưng bước đi vẫn nhanh nhẹn như thường ngày.
Holmes bước tới của sổ, kéo bức sáo xuống.
- Đủ rồi Bil¬ly! Nguy hiểm đấy! Sao hả Wat¬son? Gặp anh tại căn hộ thân ái này là thích thú vô cùng. Anh tới đúng lúc đấy!
- Hình như vậy!
có thể lui, Bil¬ly... Tôi lo cho thằng bé quá, Wat¬son à. Đâu có thể để cho nó chịu nguy hiểm
- Nguy hiểm gì?
- Chết bất đắc kỳ tử! Tôi đang đợi đêm nay.
- Đợi cái gì?
- Bị ám sát!
- Thật sao?
- Tuy nhiên, trong khi chờ chết, ta phải hưởng một chút tiện nghi phải không. Rượu chưa bị cấm. Cái ống quẹt và hộp xì gà vẫn nằm tại vị trí cũ. Anh hãy ngồi trên ghế bành để tôi nhìn anh thêm một lần nữa. Tôi hy vọng anh chưa tập xong cái thói quen ghét cái tẩu và cái mùi thuốc khen khét của tôi. Mấy bữa rày, nhờ nó mà khỏi ăn cơm.
- Tại sao lại không ăn?
- Năng lực sẽ bén nhọn hơn nếu ta ăn chay.
- Nhưng còn cái hiểm họa?
- À. Trong trường hợp mà sự đe dọa trở thành hiện thực, anh hãy nhớ lấy tên và địa chỉ của kẻ sát nhân đem nộp cho Scot¬land Yard. Tôi xin chúc lành cho anh! Hắn là bá tước Ne¬gret¬to Sylvius. Chép cái tên đi, Wat¬son, chép đi! 136 Moor¬side Gar¬dens N.W. Xong chưa?
Khuôn mặt của bác sĩ Wat¬son đầy lo âu.
- Cho tôi tham gia với. Tôi rảnh hoàn toàn trong 48 giờ.
- Đạo đức của anh chưa tiến, Wat¬son ạ. Ngoài các tật xấu khác, nay anh có thêm tật nói dối. Rõ ràng anh có dáng vẻ của một bác sĩ rất bận rộn.
- Không đến nỗi thế đâu. Nhưng anh không thể nhờ cảnh sát bắt hắn sao?
- Được chứ !
- Thế thì tại sao không nhờ cho rồi?
- Tại vì hiện tôi chưa biết viên kim cương nằm tại đâu.
- Bil¬ly có nói với tôi về viên kim cương trên vương miện.
- Đúng thế! Đó là viên đá Mazarin. Tôi đang thả mồi câu cá. Nhưng tôi lại không có viên đá.
- Và bá tước Sylvius là một trong những con cá đó?
- Đúng thế! Đó là một con cá mập. Thằng kia là Sam Mer¬ton, biết đánh quyền Anh. Thằng Sam không tệ đâu, nhưng nó bị bá tước xỏ mũi. Nó chỉ là một con cá chốt ngu đần đang vẫy vùng trong lưới của tôi.
- Bá tước Sylvius hiện ở đâu?
- Suốt buổi sáng nay tôi đứng sát bên hắn. Anh có thấy tôi ngụy trang thành một bà lão chưa, Wat¬son?
- Chưa bao giờ có bà lão nào quyến rũ như sáng nay. Hắn còn cầm dù giùm tôi trong một lúc. "Xin phép bà!". Hắn nói với tôi, giọng pha Ý. Hắn có cái dịu dàng của miền Nam trong cử chỉ lúc hắn vui, nhưng khi buồn, hắn là hiện thân của quỷ sứ.
- Có thể xảy ra thảm kịch?
- Có lẽ! Tôi đã theo hắn tới cửa hiệu của lão Strauben¬zee. Tay này làm một cây súng hơi, tôi đoán thế. Và tôi có đủ cơ sở để nghĩ rằng cây súng đó hiện giờ đang đặt tại cửa sổ trước nhà. Anh đã thấy hình nộm của tôi rồi đó. Hình nộm có thể ăn đạn bất cứ lúc nào. Ủa! Có gì vậy Bil¬ly?
Bil¬ly mang vào một tấm danh thiếp đặt trên mâm.
Holmes vừa nhìn vừa nhướng mày và cười thích thú.
- Đích thị là cái gã đó! Bất ngờ quá! Anh ta cầm cây củi ngay phía đang cháy, chì thật. Anh biết rằng hắn nổi tiếng là thợ săn mồi to? Anh ta định sẽ kết thúc đẹp đẽ bảng thành tích của mình, sau khi ghi được thêm tên tôi vào đó.
- Ta báo cho cảnh sát!
- Chưa cần! Anh nhìn kỹ ra ngoài cửa sổ xem có ai thơ thẩn phía đó không?
Wat¬son dạn dĩ vén bức màn.
- Một thằng to con đứng gần cửa lớn.
- Sam Mer¬ton đó. Hắn trung thành nhưng ngu dại. Ông ta hiện ở đâu rồi, Bil¬ly?
- Tại phòng khách, thưa ông.
- Khi ta bấm chuông thì cháu mời ông ấy lên. Dù không thấy ta cũng cứ đưa vào.
- Vâng!
Wat¬son đợi của lớn đóng rồi mới quay qua phía Holmes.
- Coi chừng, Holmes, có thể nó tới giết anh.
- Chuyện đó không làm tôi ngạc nhiên!
- Tôi xin được ở cạnh anh.
- Anh làm vướng tay, vướng chân tôi.
- Tôi không thể bỏ mặc anh được.
- Anh để tôi một mình mà anh vẫn có vai trò. Thằng cha này tới vì một lý do riêng của nó. Nhưng có thể nó sẽ ở lại vì lý do của tôi.
Holmes lấy sổ tay nguệch ngoạc vài dòng.
- Anh thuê xe ngựa chạy đến Scot¬land Yard, trao cái này cho Youghal, thuộc Ban truy nã đại hình rồi quay lại đây với cảnh sát. Màn bắt bá tước sẽ xảy ra sau đó!
- Được!
- Trước khi anh về tới, có lẽ kiếm ra cục đá.
Anh vừa bấm chuông vừa nói:
- Chúng ta hãy đi vào phòng ngủ, phương án thứ hai đôi khi khá hữu ích. Ngoài ra tôi cũng muốn nhìn con cá mập của tôi trong khi nó không thấy tôi.
Vài phút sau Bil¬ly đưa bá tước Sylvius vào. Nhà đi săn, nhà thể thao và người hào hoa nổi tiếng to béo có nước da sạm nắng, với một bộ râu xum xuê màu đen bao bọc một cái miệng hung ác, môi mỏng, mũi dài và cong như mỏ chim ó. Khi cửa đóng lại sau lưng, ông ta quan sát căn phòng với một cái nhìn hung tợn, mắt đăm đăm nhìn mỗi món đồ gỗ như sợ một cái bẫy. Ông ta giựt mình khi thấy cái đầu lạnh lùng của một người đang ngồi trên ghế bành trước cửa sổ. Lúc đầu gương mặt chỉ thể hiện sự kinh ngạc, nhưng sau đó, một tia hy vọng đen tối chiếu sáng trên đôi mắt khát máu. Ông ta nhanh chóng nhìn quanh rồi rón rén, cây gậy nặng nề giơ lên nửa chừng. Ông ta tới gần cái vóc dáng bất động, co mình để lấy đà thì một tiếng nói lạnh lùng từ cửa phòng ngủ vọng tới.
- Đừng đập nó, thưa bá tước!
Vị bá tước kinh ngạc. Hắn lại nâng cây gậy lên nhưng trước cái nhìn sắt thép và nụ cười chế nhạo, hắn thấy cần phải hạ tay xuống.
- Đó là một công trình nghệ thuật nhỏ đẹp! - Holmes nói, vừa tiến tới hình nộm - Nhà vẽ kiểu áo quần Tav¬ernier của nước Pháp nặn ra nó đó. Ông ấy cũng khéo tay trong việc nắn sáp như ông bạn Strauben¬zee của ngài khéo tay trong việc sản xuất súng hơi.
- Súng hơi? Ông muốn nói gì?
- Hãy để nón và gậy trên cái bàn tròn này. Cám ơn, xin vui lòng ngồi xuống, cởi súng lục luôn, được không? Cũng chả sao, nếu ngài muốn ngồi đè lên!... Ngài tới đúng lúc quá, tôi khát khao có được 5 phút riêng với ngài.
Gã bá tước làu bàu, chân mày sụ xuống, vẻ dọa nạt.
- Tôi cũng vậy, tôi muốn nói chuyện với ông. Tôi không phủ nhận rằng tôi có dự định hạ ô
- Tôi cũng lờ mờ thấy rằng trong đầu ngài đang nung nấu một dự án loại đó. Không hiểu tại sao ngài lại dành cho tôi quá nhiều sự lưu tâm?
- Tại vì ông theo chúng tôi, tại vì ông sai người theo dõi tôi.
- Người của tôi, tôi thề là không có chuyện đó.
- Láo toét! Tôi bị theo dõi và tôi sai người theo dõi lại chúng nó. Đó là một trò chơi có thể chỉ cần hai đối thủ.
- Thưa bá tước, ngài tiếp xúc thẳng với tôi có hay hơn không. Do nghề nghiệp tôi phải thân thiện phần nào với các tên ăn cướp trên thế giới. Còn ngài, thưa bá tước Sylvius, lui tới với bọn nó là coi không được.
- Đúng vậy.
- Hoan nghênh! Tuy nhiên ngài lầm khi cho ai đó là nhân viên của tôi.
Gã cười lớn một cách miệt thị.
- Đâu phải chỉ có một mình ông là người có tài quan sát sắc bén. Hôm qua là một người thất nghiệp già. Hôm nay là một bà lão, suốt ngày chúng bám tôi sát gót.
- Thật vậy sao? Ngài nói quá! Tới phiên ngài, ngài lại ca tụng cái trò ngụy trang vặt vãnh của tôi.
- Là ông? Chính là ông?
Holmes nhún vai.
- Trong góc kia là cái dù mà ngài có nhã ý xin cầm giùm...
- Nếu tôi biết, thì không bao giờ...
- Thì không bao giờ tôi trở về nhà được chứ gì. Tôi biết rõ mà! Tất cả chúng ta đều bỏ lỡ cơ hội, rồi sau đó lại hối tiếc. Nhờ ngài không nhận ra tôi mà chúng ta còn gặp nhau hôm nay
Đôi chân mày của gã bá tước sụp xuống một cách nặng nề hơn.
- Những lời ông nói chỉ làm cho không khí ngột ngạt thêm. Ông theo dõi tôi để làm gì vậy?
- Tôi cần tìm ra một viên kim cương màu vàng?
Hầu tước ngả lưng ra sau cười một cách gượng gạo.
- Tôi thề...
- Thật ra ngài biết tại sao tôi bám theo ngài. Hôm nay ngài đến đây là để dò xem tôi biết sự việc tới mức độ nào và nếu cần, ngài sẽ ra tay thủ tiêu tôi? Phải khách quan mà nói, ngài thủ tiêu tôi là điều tôi cần, bởi vì tôi đã biết hết, trừ một chi tiết nhỏ mà chính ngài sẽ tiết lộ.
- Thật ư?
- Phải.
Đôi mắt của Holmes chĩa thẳng vào mắt gã bá tước, teo lại như hai mũi dùi bằng thép.
- Ngài quả là một miếng nước đá trong suốt. Tôi thấy rõ cho tới tận đáy lòng ngài.
- Như vậy ông biết viên kim cương đó ở đâu Holmes.
Gã vỗ tay rồi đưa một ngón tay mỉa mai.
- Vậy là ngài biết, như ngài vừa nhìn nhận.
- Tôi có nhìn nhận cái gì đâu?
- Nào, thưa bá tước Sylvius, ngài nên tỏ ra biết điều. Bằng không, ngài sẽ gặp nguy hiểm.
Gã bá tước nhìn lên trần nhà.
Holmes nhìn ông ta một cánh chăm chú như người đánh cờ đang chiếu bí đối thủ rồi mở ngăn kéo, lấy ra một c sổ tay dày cộm.
- Ngài có biết tôi nắm ai trong cuốn sách này không?
- Không.
- Chính ngài.
- Tôi?
- Đúng vậy! Trọn vẹn tiểu sử của ông trong này, không sót một điều gì?
- Cầu Chúa tha thứ! - gã bá tước la to - Sự nhẫn nại của tôi có giới hạn, thưa ông Holmes.
- Vâng, đầy đủ ở trong này, thưa bá tước. Các sự kiện có liên quan tới cái chết của bà lão Harold, người để lại cho ông lãnh địa Bly¬mer mà sau đó ngài bán đi để nướng hết trong sòng bạc.
- Ông đang nằm mơ?
- Và nguyên cả cuộc đời của cô Min¬nie War¬ren¬der nữa!
- Ông chả làm được gì với những cái đó.
- Còn đây, câu chuyện hay hơn. Cuộc đánh cướp trên tàu hỏa sang trọng La Riv¬iera vào ngày 13-2-1892. Và đây là cái chi phiếu giả mà ngài dùng rút tiền tại ngân hàng tín dụng Ly¬on¬nais cũng hồi năm 1892.
- Không, điểm này ông nói sai?
- Thì tôi đúng trong cái điểm khác. Nào, thưa bá tước, trong khi đánh bài, mà đối thủ nắm hết các lá lớn, thì ngài nên bỏ bài đi.
- Đâu là cái mối liên quan giữa cuộc nói chuyện tầm phào này với viên kim cương?
- Từ từ, thưa bá tước. Tôi có một mớ tin tức có hại cho ngài đó, nhất là tôi có cả một hồ sơ hoàn chỉnh để tố cáo ngài và vệ sĩ của ngài trong vụ này
- Tôi có lời khai của anh xà-ích chở ngài đi White¬hall, và của anh xà ích chở ngài từ đó về . Tôi có lời khai của người đại diện thương mại thấy ngài đứng gần tủ kiếng, tôi có luôn lời khai của ông Ikey Sanders, người không chịu cho ngài cầm cái đó. Đủ chưa?
Các mạch máu trên trán của bá tước phồng to lên. Hai bàn tay sạm nắng, lông lá co thắt lại; ông ta muốn nói, nhưng chữ nghĩa đi đâu mất hết.
- Tôi đã đập bài xuống bàn rồi. Tôi còn thiếu một lá. Đó là lá bài "viên kim cương". Nó ở đâu?
- Ông sẽ không bao giờ biết!
- Ngài bá tước! Ngài hãy biết điều! Hãy nắm vững tình thế! Ngài sẽ ngồi nhà đá 25 năm. Sam Mer¬ton cũng thế! Ngài sẽ được gì trong 25 năm đó! Không được gì cả! Tuy nhiên, nếu ngài chịu hoàn trả thì tôi sẽ thỏa hiệp với tội ác. Chúng tôi không cần ngài lẫn Sam. Chúng tôi cần cục đá. Hãy trả nó lại cho chúng tôi thì ngài sẽ trở về nhà trong tự do và mãi mãi tự do, miễn là sống trong đàng hoàng.
- Nếu tôi từ chối thì sao?
- Thì sẽ rất tiếc!
Bil¬ly đã xuất hiện khi nghe chuông reo.
- Ngài bá tước, tôi đề nghị cho bạn thân của ngài tham dự vào cuộc nói chuyện này. Nói cho đúng, anh ta cũng đang bị lâm nguy. Nè Bil¬ly, ở trước cửa lớn có một anh chàng to con và xấu trai. Cháu mời anh ta lên đây.
- Nếu ông ta từ chối thì sao, thưa ông.
- Báo cho anh ta hay là bá tước cần gặp. Anh ta sẽ lên ngay.
- Ông sẽ làm gì?
Gã bá tước hỏi khi Bil¬ly đi khuất.
- Bạn thân của tôi là bác sĩ Wat¬son mới ra về. Tôi có khoe với ông ấy rằng trong ưới của tôi có một con cá mập và một con cá chốt. Giờ đây, tôi giở lưới. Tôi tóm cả hai con.
Gã bá tước ngồi thẳng lưng lên và đưa tay ra sau lưng. Holmes chĩa về hướng về y một đồ vật nổi cộm trong túi áo ngủ của mình.
- Ông sẽ không chết trên giường, ông Holmes!
- Tôi cũng thường đoán như vậy. Tuy nhiên có cần phải chết trên giường không? Chắc ông sẽ chết đứng, chứ không chết nằm đâu. Nhưng hãy chấm dứt các sự đoán mò bệnh hoạn này, tại sao không dứt khoát chọn lấy sự vui vẻ của hiện tại?
Một tia chớp của mắt thú dữ sáng lóe trong cái nhìn của tên tội phạm. Holmes chuẩn bị ứng phó với mọi tình huống. Đối thủ có vẻ kiêng dè.
- Mân mê cây súng lục chả có ích gì!
Holmes nói một cách bình thản.
- Ngài thừa hiểu rằng ngài không thể bắn, dù tôi có dành cho ngài đủ thời gi¬an. Súng lục là những dụng cụ dơ và ồn, thưa bá tước. Nên sử dụng súng hơi. Ủa, hình như có bước đi nhẹ của người bạn đáng nể? Chào ông Mer¬ton. Đứng ngoài đường nãy giờ mỏi chân chưa?
Tên võ sĩ quyền Anh là một thanh niên cốt cách nặng nề, vẻ mặt thì vừa ngu vừa lì. Hắn đứng một cách vụng về ngoài cửa, trơ mắt ếch nhìn quanh. Thái độ của Holmes làm hắn ngạc nhiên. Hắn nhận thấy mang máng rằng thái độ đó không thân thiện nhưng không biết phải chống trả như thế nào. Hắn quay qua ông chủ của hắn.
- Việc gì thế, bá tước? Thằng cha này muốn gì?
Giọng nói của hắn nghiêm trọng và khàn khàn. Gã bá tước vươn vai, Holmes trả lời thay.
- Để tóm tắt tình hình, ông Mer¬ton, tôi có thể nói rằng mọi chuyện đã tới hồi kết cuộc.
Tên võ sĩ tiếp tục hỏi
- Thằng cha này nói đùa hả? Phần tôi, tôi không cười được đâu.
- Tôi ái ngại lắm! - Holmes nói - Tôi có thể đoán chắc rằng càng khuya, ông sẽ càng bớt vui. Bây giờ, nghe tôi đây, thưa bá tước Sylvius. Tôi rất bận, tôi không có thì giờ để hoang phí. Tôi đi vào phòng tôi. Tôi yêu cầu ngài xem đây như nhà ngài trong lúc tôi vắng mặt. Ngài có thể giải thích rõ tình hình cho bạn ngài nghe. Tôi sẽ chơi một bản nhạc bằng vĩ cầm. Năm phút nữa, tôi sẽ quay lại để lấy câu trả lời dứt khoát của ngài. Ngài hãy lựa chọn: hoặc ngài hoặc viên đá?
Holmes ôm cây vĩ cầm, rời khỏi phòng. Một lát sau các nốt nhạc rên rỉ đầu tiên của điệu nhạc u buồn nhất trỗi lên từ phòng bên.
- Chuyện gì vậy? - Mer¬ton hỏi với vẻ âu lo - Hắn biết cục đá?
- Hắn biết quá nhiều điều liên quan tới cục đá. Tao sợ rằng hắn biết hết rồi.
- Chúa ơi!
Khuôn mặt của tên võ sĩ Anh tái xanh.
- Ikey Sanders đã mách lẻo.
- Nếu có tố cáo chúng ta, tôi thề sẽ phanh thây nó.
- Điều đó chả ích gì cho chúng ta. Điều cần bây giờ là quyết định phải làm gì?
- Chờ một chút!
Gã võ sĩ nói, rồi nhìn một cách ngờ vực về phía cửa.
- Con chim lạc bầy mà lại ra lệnh này nọ. Hắn có nghe lén không.
- Làm sao vừa nghe vừa chơi vĩ cầm?
- Đúng vậy. Có thể có người đằng sau bức màn. Phòng này sao có nhiều màn quá!
Nhìn qua nhìn lại, Mer¬ton thấy cái hình nộm tại cửa sổ. Hắn điếng người, không nói nên lời.
- Tuyệt! Đó là bức tượng. - gã bá tước giải thích!
- Giả hả? Giống y như thật! Còn mớ màn này, dùng làm gì, thưa bá tước.
- Ồ, bỏ qua mấy cái màn đó đi, đừng phí thời giờ. Chúng ta không còn nhiều đâu. Hắn có thể tống mình vào tù, vì viên đá đó.
- Nếu Ikey Sanders tố cáo, thì ta có thể bị nguy.
- Tuy nhiên, hắn ta sẽ làm ngơ nếu chúng ta nói cho hắn biết viên đá hiện ở đâu.
- Sao? Trả lại ư? Từ bỏ 100.000 bảng Anh?
- Phải chọn lựa thôi.
Mer¬ton gãi đầu.
- Hắn ta chỉ có một mình. Ta chỉ cần vào phòng, thanh toán hắn là xong mọi chuyện. Còn gì mà sợ?
Gã bá tước ra dấu bảo đừng.
- Hắn ta có súng trong người. Vả chăng, giết hắn rồi làm sao trốn thoát. Hơn nữa, có thể hắn đã nộp đầy đủ bằng cớ về chúng ta cho cảnh sát rồi.
Một tiếng động mơ hồ ở phía cửa sổ. Hai người im lặng, ngóng tai, nhưng ở cửa sổ, hình nộm vẫn ngồi ở ghế bành, Mer¬ton nói:
- Cái tiếng đó ở ngoài đường. Giờ đây, là phần việc của ông, ông chủ. Ông có đầu óc, chắc sẽ tìm ra kế để chúng ta thoát chân. Nếu viên đá là vô dụng thì ông nói thẳng với hắn đi.
- Tao đã bịp những tay cừ hơn hắn ta nhiều! - gã bá tước nói. - Viên đá đang ở trong túi tao. Tao không chịu cái rủi ro gi¬ao nộp nó. Ngay đêm nay, nó có thể ra khỏi nước Anh và bị c thành 4 miếng tại Am¬ster¬dam trước ngày chủ nhật này. Hắn ta không biết gì về Van Sed¬dar đâu.
- Vậy mà tôi tưởng Van Sed¬dar sẽ ra đi vào tuần tới.
- Đúng ra là thế! Nhưng theo tình hình mới, nó phải đi trên chuyến tàu tới. Hoặc mày, hoặc tao phải mang viên đá ra tới phố Lime gặp Van Sed¬dar.
- Nhưng viên đá giả chưa làm xong mà?
- Cứ cầm đá thật mà đi vậy. Ta đâu còn thì giờ.
Lại một lần nữa, với cái năng khiếu ngửi thấy sự nguy hiểm, gã bá tước dừng lại, nhìn về hướng cửa sổ. Đúng rồi, tiếng động hồi nãy phát sinh từ ngoài đường.
- Về phần gã Holmes - ông ấy nói tiếp - Tao sẽ gạt hắn một cánh dễ dàng. Hắn sẽ không làm cho chúng ta bị bắt đâu, nếu hắn còn hy vọng lấy lại được viên đá. Chúng ta sẽ hứa với hắn rằng hắn sẽ nhận được cục đá. Chúng ta cho hắn trật đường rầy. Đến khi hắn hay biết thì cục đá đã qua tới Hà Lan và chúng ta đã cao bay xa chạy.
- Tuyệt vời! - Mer¬ton la lớn.
- Mày hãy lên đường về bảo thằng Hà Lan nhanh lên. Phần tao, tao sẽ đi gặp con đỉa đó, sẽ cầm chân nó bằng một màn xưng tội giả. Tao sẽ bịa với nó rằng viên đá hiện đang ở Liv¬er¬pool. Trời ơi, âm nhạc trời đánh, nhức óc quá! Trong lúc nó lục lạo tại Liv¬er¬pool, thì viên đá đã qua tới Hà Lan, còn chúng ta thì đang bềnh bồng trên biển cả. Lại đây! Đây là viên đá.
- Tôi tự hỏi tại sao ông dám để nó trong túi mình?
- Vậy để ở đâu bây giờ? Nếu chúng ta đánh cắp nó tại White¬hall thì thằng khác cũng có thể đánh cắp nó tại nhà tao.
- Cho tôi xem nó một chút.
Gã bá tước nhìn người đồng phạm với vẻ hơi coi thường, và tỏ ý chê cái bàn tay bẩn thỉu
- Mày cho rằng tao sẽ giữ nó luôn sao? Hãy tới gần cửa sổ để nhìn thấy báu vật cho rõ ràng hơn. Đưa ra ánh sáng đó, Sam à!
- Xin cám ơn hai bạn! - Chỉ nhảy một cái, Holmes rời khỏi ghế bành của hình nộm và giựt lấy cái báu vật ngàn vàng, một tay cầm nó, một tay chĩa súng lục.
Hai tên trộm đi thụt lùi, mặt cắt không còn chút máu. Trước khi chúng hoàn hồn, Holmes đã nhấn chuông.
- Hỡi các bạn, hãy tuyệt đối tránh bạo lực. Các bạn hãy quý trọng các đồ gỗ của tôi. Các bạn không có lối thoát đâu. Cảnh sát đang ở dưới nhà.
Quá ngạc nhiên, gã bá tước không còn giận dữ mà chỉ sợ hãi:
- Ông Holmes, ông tài giỏi thật!
- Sự ngạc nhiên của ngài là hoàn toàn hợp lý. Ngài đâu thể ngờ rằng trong phòng tôi còn có cái cửa thứ 2 trổ ra sau cái màn này. Khi tôi dời hình nộm đi, tôi sợ bị lộ quá chừng, nhưng vận may đã mỉm cười với tôi, và tôi có cơ hội nghe cuộc đối thoại đặc biệt của hai vị.
- Chúng tôi nhìn nhận là mình đã thua, thưa ông Holmes. Tôi cho rằng ông là quỷ hiện hình. - Gã bá tước nói tỏ dấu bị khuất phục.
- Không! Tôi chỉ là anh em của quỷ! - Holmes đáp với một nụ cười lễ độ.
Trí óc đần độn của Sam Mer¬ton bắt đầu hiểu ra. Có những bước đi nặng nề ở cầu thang, phá vỡ sự yên lặng.
- Kỳ tài! Nhưng còn tiếng đàn? Tôi còn nghe tiếng đàn mà? - Mer¬ton nói.
- Anh nghe đúng trăm phần trăm! - Holmes đáp - Tiếng vĩ cầm tiếp tục thánh thót. Máy quay đĩa hát là một phát minh kỳ diệu!
Cảnh sát xuất hiện, các tội phạm bị còng, bị đưa xuống xe ngựa chờ dưới đường. Bác sĩ Wat¬son khen Holmes về cành nguyệt quế mới th vào cái vương miện của anh ta. Nhưng cuộc nói chuyện giữa hai người bị gián đoạn vì Bil¬ly đang mang danh thiếp vào.
- Huân tước Cantle¬mere, thưa ông.
- Đưa ông ấy lên, Bil¬ly. Đây là nhà quý tộc sáng giá, đại diện cho những quyền thế lớn. Đó là một nhân vật tuyệt hảo, rất trung thực, nhưng "hơi xưa" một chút. Ta sẽ nịnh cụ ấy một chút rồi đùa cụ ấy chơi. Ông không biết chuyện gì vừa xảy ra đâu.
Cánh cửa mở, một người gầy gò bước vào, khuôn mặt khắc khổ, được tô điểm bằng bộ râu mép to và đen không tương xứng với đôi vai cong và cái thân hình mảnh khảnh. Holmes tiến tới và bắt lấy một bàn tay mềm nhũn.
- Kính chào huân tước Cantle¬mere. Thời tiết còn lạnh nhưng trong một căn hộ thì nhiệt độ không đến nỗi nào. Đề nghị ngài cởi bỏ áo choàng.
- Cám ơn! Tôi thấy không cần thiết.
Holmes đặt một bàn tay trên cánh tay áo choàng.
- Xin ngài cho phép! Bạn tôi, bác sĩ Wat¬son, sẽ trách rằng những thay đổi thời tiết như vầy là quái gở?
- Tôi cảm thấy được, ông Holmes à! Tôi không ở lâu đâu! Tôi đến xem cuộc điều tra của ông đến đâu rồi.
- Thưa ngài, rất là khó khăn.
- Tôi đã biết trước rằng ông sẽ nói là rất khó khăn. - Một nụ cười chế nhạo hé lộ trong lời nói và thái độ của nhà quí tộc già. - Cuối cùng mỗi một chúng ta sẽ phát hiện ra các hạn chế của bản thân mình, thưa ông Holmes. Tuy nhiên, sự mở mắt của ông cũng chữa lành một sự tự mãn.
- Đúng vậy, thưa ngài! Tôi rất ân hận.
- Tôi đã thấy trước rồi mà !
Holmes mỉm nụ cười tinh nghịch:
- Tuy nhiên có một điểm đặc biệt mà tôi hy vọng được ngài giúp đỡ?
- Mãi tới bây giờ ông mới nói, tôi e là hơi trễ đó. Tôi đã ngỡ rằng phương pháp làm việc của ông sẽ giúp giải quyết tất cả. Nhưng thôi, dù sao tôi cũng sẵn sàng giúp ông.
- Thưa huân tước, chúng ta có thể lập hồ sơ về bọn trộm.
- Khi nào ta bắt được chúng kìa!
- Đúng vậy, nhưng mà vấn đề là làm sao còng kẻ tàng trữ đồ gi¬an?
- Có quá chủ quan và quá sớm không.
- Phải lập hồ sơ mới được. Theo ngài, phải làm sao để truy tố kẻ tàng trữ?
- Trường hợp họ bị bắt quả tang đang giữ viên đá!
- Điều đó, theo ngài, là đủ để bắt nhốt kẻ tàng trữ chứ gì?
- Đương nhiên!
Holmes vốn ít cười lớn tiếng, nhưng lần này thì cười hô hố.
- Nếu thế thì, kính thưa ngài, tôi cảm thấy đau lòng phải nhờ cảnh sát bắt ngài.
Huân tước nổi trận lôi đình.
- Ông suồng sã quá lố đó, ông Holmes. Trong 50 năm nay, tôi chưa hề gặp một sự bỡn cợt nào tương tự. Tôi đang rối đầu vì quốc gia đại sự; tôi không thích và cũng không có thời giờ để đùa cợt một cách xuẩn ngốc như vậy. Tôi cần nhắc lại cho ông biết rằng không bao giờ tôi tin vào khả năng của ông. Luôn luôn tôi chủ trương phải gi¬ao việc này cho cảnh sát công. Trân trọng cáo từ ông!
Holmes nhanh nhẩu nhảy ra, chân lại ở cửa
- Xin chờ một chút, thưa ngài! Sự ra đi với viên đá Mazarin là một tội ác tầy đình so với tội chỉ tàng trữ trong một thời gi¬an ngắn.
- Đã quá mức chịu đựng của tôi rồi đó. Hãy để cho tôi đi qua!
- Ngài hãy thọc tay vào túi áo choàng của ngài xem!
- Ông muốn nói gì?
- Ngài cứ làm như vậy đi!
Nhà quý tộc bỗng điếng người, mắt nhấp nháy hên hồi, cà lăm cà cặp. Viên đá to màu vàng đang nằm trong tay run rẩy của ông.
- Chúa ơi! Cái gì đây, ông Holmes?
- Quá đột ngột, quá chấn động, phải không, thưa huân tước. Xin ngài tha lỗi, tôi đã quá lố, khi bỏ cục đá vào túi ngài ngay từ đầu cuộc nói chuyện.
Ông huân tước già nhìn đăm đăm vào khuôn mặt rạng rỡ của Holmes.
- Thưa ông Holmes, tôi rất kinh ngạc. Quả thật là viên đá Mazarin! Chúng tôi mang ơn ông vô cùng. Ông đùa dai và thất kính, nhưng mà ông đã nhìn nhận. Phần tôi, tôi xin rút lại tất cả những gì đã nói về biệt tài siêu việt của ông. Nhưng...
- Sau này tôi sẽ nói các chi tiết, thưa huân tước. Tôi tin chắc rằng cái thú vị mà ngài tìm thấy trong việc tường thuật cái kết quả vui vẻ về viên đá trong hoàng gia sẽ bù đắp cái thất kính vừa rồi của tôi. Bil¬ly, hãy đưa ngài huân tước xuống và báo cho bà Hud¬son hay rằng tôi rất hạnh phúc nếu được bà cho thầy trò ta một bữa ăn tối thịnh soạn.
04. Vụ Án Ở "Ba Đầu Hồi"
Tôi cho rằng không có cuộc phiêu lưu nào của chúng tôi mà khởi sự một cách đột ngột và hồi hộp như vụ án ở biệt thự Ba đầu hồi. Tôi không gặp Hom¬les đã ba ngày và tôi không biết anh ấy đang chuyển các hoạt động về hướng nào. Nhưng sáng hôm đó anh nói dữ lắm. Anh vừa mời tôi ngồi vào cái ghế bành cạnh lò sưởi, thì khách đến.
Cửa mở, một gã da đen đồ sộ ào ào bước vào. Hắn mặc một bộ đồ màu xám, cà vạt màu da cam, khuôn mặt to, mũi xẹp, đôi mắt đầy ác cảm. Hắn lần lượt nhìn tôi, Hom¬les.
- Trong hai ông, ông nào là ông Hom¬les?
Hom¬les giơ cao cái tẩu và uể oải cười nhoẻn miệng.
- Ủa, ông đấy hả?
Người khách bước nhẹ đi để vòng qua cái bàn.
- Này, ông Hom¬les, ông hãy đặt chân vào nơi khác thì hơn. Hãy để cho người ta tự giải quyết lấy nhưng công việc của họ, ông hiểu chưa?
- Hãy tiếp tục nói nữa đi, tôi thích nghe ông nói.
- Ờ, thích nghe hả? Tôi cho ông dựng tóc gáy thì sẽ bớt thích. Trước đây tôi đã hạ được một vài người cùng loại với ông. Và họ không hề thích được tôi chăm sóc. Nhìn cái này đây, ông Hom¬les!
Người khách đưa một quả đấm đồ sộ dưới mũi bạn tôi. Hom¬les quan sát quả đấm đó kỹ, với vẻ chăm chú thật sự.
- Ông bẩm sinh như vậy, hay là ông để nó mọc lên từ
Có lẽ vì sự lạnh lùng như băng giá của Hom¬les hoặc vì tiếng động nhẹ do tôi gây ra khi cầm cái que cời than lên, người khách hạ giọng.
- Đó, tôi đã thẳng thắn cảnh cáo cho ông rồi đó. Tôi có một người bạn thân ở bên phía Har¬row... Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ? Và anh ta không muốn ông làm kỳ đà cản mũi. Hiểu chưa? Ông không phải là luật pháp. Tôi cũng không phải là luật pháp. Nhưng nếu ông xen vào thì tôi cũng xen vào. Đừng quên điều đó.
- Chính tôi cũng muốn gặp anh mấy bữa rày. Nhưng tôi không mời anh ngồi vì tôi không ưa cái mùi của anh. Anh có phải là Steve Dix¬ie, biệt danh Máy nghiền không?
- Chính là tôi. Tôi sẽ nhét cái tên đó vào họng ông, nếu ông làm gấy chân tôi.
- Thật là uổng nếu ông mất một cái quyến rũ nhất của ông - Hom¬les trả lời và nhìn vào đôi chân đồ sộ của khách. - Nhưng tôi hiện đang nghĩ tới cái chết của anh thanh niên Perkins trước cửa của bar Hol¬born... Ủa? Anh về à?
Gã đen đua nhảy dựng lên rồi thối lui, gương mặt xám xịt.
- Tôi không có thì giờ nghe ông lải nhải. Tôi dính dáng gì với thằng Perkins đó, ông Hom¬les? Vào lúc nó bị rắc rồi, tôi đang tập dượt tại câu lạc bộ Bull Ring ở Birm¬ing¬ham.
- Anh sẽ nói rõ chuyện đó với cảnh sát - Hom¬les nới - Phần tôi, tôi đã theo dõi cả anh lẫn Bar¬ney Stock¬dale.
- Ồ, ông Hom¬les?...
- Thôi đủ rồi! Đi đi! Khi tôi cần tới anh, tôi sẽ báo.
- Xin kiếu! Tôi hy vọng ông không phiền về sự thăm viếng của tôi?
- Cái đó còn tùy. Anh vui lòng cho biết ai sai anh tới?
- Ồ, đâu có gì là bí mật, chính cái anh chàng mà ông vừa nêu tê
- Và ai ra lệnh cho nó sai anh tới đây?
- Tôi thề là tôi không biết chi cả. Anh ấy chỉ bảo tôi: "Steve, anh hãy đi gặp ông Hom¬les và báo cho ông ấy biết rằng tính mạng ông ấy sẽ lâm nguy nếu ông ấy đứng về phía Har¬row".
Vừa dứt lời, người khách hối hả chạy ra khỏi phòng. Hom¬les cười thầm, rảy tro ra khỏi cái tẩu.
- Tôi mừng là anh khỏi phải chê cái đầu quắn đó, anh Wat¬son. Tuy nhiên nó chỉ là một người vô hại, có bắp thịt nhưng ngu dốt. Nó thuộc băng của Spencer John và có dự phần trong vài vụ nhớp nhúa mà tôi sẽ nhìn tới khi có thời gi¬an. Trưởng trực tiếp của nó là Bar¬ney thì ma lanh hơn. Đó là một băng chuyên về tấn công, dọa nạt. Điều tôi muốn biết là ai đã chi tiền để giựt dây trong vụ này.
- Nhưng tại sao hắn lại dọa anh?
- Vì vụ Har¬row Weald.
- Tôi không biết tí gì về vụ đó.
- Đây là bức thư của bà Maber¬ley. Chúng ta sẽ điện thoại báo trước rồi đến đó ngay.
Tôi đọc lá thư.
"Thưa ông Holmes,
Mấy bữa nay tôi gặp một loạt biến cố dị thường liên quan tới căn nhà này và tôi mong muốn được ông khuyên bảo. Ngày mai, tôi ở nhà suốt ngày. Xuống ga Weald, đi bộ một chút là tới. Dường như ông chồng vô vàn tiếc thương của tôi, Mor¬timer Maber¬ley, từng là một trong những khách hàng của ông.
Trân trọng
Mary Maber¬ley
Biệt thự Ba đầu hồi,
Har¬row Weald
- Anh Wat¬son, giờ đây, nếu anh rảnh, chúng ta đi xuống đó.
Đó là một biệt thự bằng gỗ và gạch, cất trong đất riêng, vốn là một đồng cỏ. Ba cục u mảnh mai bên trên các cửa sổ cao biện minh cho cái tên ba đầu hồi. Đằng sau nhà, lưa thưa vài cây ngô cằn cỗi, toát ra sự nghèo nàn và thê lương. Tuy nhiên nhà đầy đủ đồ gỗ, và người đàn bà tiếp chúng tôi có vẻ là một người dễ thương, có tuổi, có học và lịch lãm.
- Tôi nhớ ông nhà rất rõ, thưa bà! - Hom¬les nói - Tuy nhiên lâu quá rồi nên tôi không còn nhớ là vụ việc vặt vãnh nào.
- Có thể tên thằng Dou¬glas, con trai tôi, quen thuộc với ông hơn?
Hom¬les chăm chú nhìn bà chủ nhà:
- Chúa ơi! Bà là mẹ của Dou¬glas Maber¬ley ư? Tôi không quen anh ấy bao giờ. Tuy nhiên, toàn thể Lon¬don đều biết tên anh ấy. Một người tuyệt diệu. Hiện giờ anh ấy ở đâu?
- Cháu đã chết, thưa ông? Cháu được bổ nhiệm làm tùy viên sứ quán tại Ro¬ma, và chết ở đó hồi tháng rồi, vì chứng sưng phổi.
- Xin thành thật chia buồn với bà. Tôi không ngờ anh ấy lại vắn số đến thế. Chưa bao giờ tôi biết một người yêu đời đến thế. Anh ấy sống cuồng nhiệt.
- Quá cuồng vội, thưa ông Hom¬les. Đó là nguyên nhân đưa đến cái chết. Ông còn nhớ cháu chớ: hào hoa, phong nhã cực kỳ. Tuy nhiên, ông không thấy cháu lúc nó u sầu, tuyệt vọng.
- Thất tình ư?
- Một con quỷ cái! Tuy nhiên hôm nay không phải tôi mời ông đến đây để than vãn về đứa con đáng thương ấy.
- Thưa bà, bác sĩ Wat¬son và tôi chờ lệnh bà.
- Thưa ông Hom¬les, nhiều biến cố rất dị thường đã diễn ra tại đây. Tôi dọn về nhà này được một năm, vì chủ trương ẩn dật nên tô không quen nhiều với các láng giềng. Cách đây 3 ngày, tôi tiếp một nhân viên địa ốc. Ông ấy nói rằng một khách hàng của ông ấy rất thích căn nhà này. Nếu tôi bằng lòng thì vấn đề tiền bạc không phải là chuyện khó khăn. Tôi nhận thấy sự vận động này khá dị thường, vì xung quanh đây có biết bao nhà trống để bán hoặc cho thuê. Tuy nhiên, tôi có bị lôi cuốn bởi lời đề nghị đó. Tôi đưa ra một giá, cao hơn giá mua là 500 bảng. ông ấy không mặc cả, nhưng nói thêm rằng khách của ông thích mua luôn cả đồ gỗ và ông yêu cầu tôi ra giá. Một phần đồ gỗ đó là của gia đình để lại, rất tốt. Do đó, tôi làm tròn con số. Ông ấy chấp nhận ngay. Tôi luôn mơ được đi du lịch đó đây: lần này lời to; nhờ nó tôi sẽ có tiền sống đàng hoàng tới ngày chết.
Hôm qua, nhân viên địa ốc đó quay lại với văn tự bán nhà làm sẵn. Tôi đưa cho luật sư của tôi là ông Sutro xem qua. Ông này nói: "Văn tự rất kỳ lạ. Bà phải thấy rằng nếu bà ký thì bà sẽ không có thể lấy ra được cái gì, kể cả các vật dụng cá nhân?"
Khi nhân viên địa ốc quay lại vào buổi tối, tôi lưu ý ông ta về điều này, và tôi nhắc lại rằng tôi chỉ bán đồ gỗ mà thôi.
- Không được. Giá mua gồm luôn vật dụng lặt vặt của cá nhân bà.
- Cả quần áo và nữ trang của tôi nữa sao?
- Chúng tôi chấp thuận cho bà linh động về các vật dụng cá nhân. Nhưng không một thứ gì lấy ra khỏi nhà mà không được kiểm trước vị khách hàng rất hào phóng của tôi. Tuy vậy, ông ấy có nhưng sở thích bệnh hoạn và lối xử sự quái dị. Đối với ông ta thì hoặc là có tất cả, hoặc là không có gì hết.
- Như vậy thì, tôi chọn giải pháp. Không gì hết - Tôi nói với ông ta.
Nội vụ ngừng tại đó, nhưng nó dị thường đến nỗi tôi nghĩ rằng... Một sự gián đoạn cũng quái dị lại xảy ra.
Hom¬les giơ tay lên cao, yêu cầu sự yên lặng.
Rồi anh băng qua căn phòng, đột ngột mở cửa và kéo vào một người đàn bà cao lêu nghêu, da bọc xương. Bà này vùng vẫy như một con gà giò bị kéo ra khỏi
- Buông tôi ra? Ông làm gì thế - Mụ ấy la lên.
- Chuyện gì vậy, Su¬san?
- Thưa bà, tôi lên để hỏi các ông khách có ăn cơm trưa không, thì bị ông này vồ lấy.
- Tôi biết chị này đứng đây hơn năm phút rồi, nhưng vì không muốn cắt ngang một bài tường thuật hấp dẫn. Chị có bị suyễn sơ sơ phải không, chị Su¬san. Hơi thở của chị quá to, làm sao nhận lãnh công tác loại này?
Su¬san quay qua Hom¬les với một cái nhìn u buồn, nhưng ngơ ngác.
- Ông là ai? Ông sử dụng quyền gì mà quấy phá tôi như vậy?
- Chỉ vì tôi muốn đặt một câu hỏi có sự hiện diện của chị. Thưa bà chủ, bà có tâm sự với ai về dự định viết thư và xin tham khảo ý kiến tôi hay không?
- Không tâm sự với ai cả, thưa ông.
- Ai đã bỏ cái thư đó?
- Su¬san.
- Đương nhiên rồi! Giờ đây, Su¬san, chị viết thư và báo trước cho ai biết về cái ý định của bà chủ mời tôi đến đây.
- Ông nói sảng? Tôi không thông báo tin tức gì cho ai hết.
- Nghe đây, Su¬san? Người bệnh suyễn thường không sống lâu. Nói láo thì sa địa ngục đó. Chị đã viết thư cho ai?
- Su¬san - Bà chủ la lớn - Chị tệ lắm, chị đã phản bội tôi. Bây giờ tôi nhớ lại rằng chị có nói chuyện với ai đó tại hàng rào.
- Chuyện riêng tư của tôi
- Phải chăng với Bar¬ney Stock¬dale? - Hom¬les hỏi.
- Ủa, ông đã biết, sao còn hỏi?
- Trước đây, tôi còn ngờ ngợ. Giờ đây, thì chắc chắn rồi. Này Su¬san, tôi sẽ biếu chị 12 bảng nếu chị tiết lộ người đứng đằng sau Bar¬ney.
- Người ta cho tôi 1000 bảng mỗi lần. ông chỉ đề nghị có 10!
- Một ông giàu sụ? Không phải hả? Chị cười à? Vậy là một bà rồi! Đúng rồi! Vậy chị có thể tiết lộ tên người đàn bà đó để lấy 10 bảng.
- Phải gặp ông ở địa ngục trước đã?
- Ồ, Su¬san! Chị nới gì kỳ lạ vậy.
- Tôi đi đây. Tôi chán hết thảy mấy người. Mai tôi sẽ đến lấy va li
Su¬san đi về hướng cửa.
- Tạm biệt, Su¬san. Nhớ uống thuốc an thần nhé. Coi chừng đó?
Hom¬les nói tiếp và không còn tươi cười khi người đàn bà đã đóng mạnh cửa lại
- Bọn họ làm việc khá nhanh: thư của bà mang dấu bưu điện 10 giờ tối. Su¬san thông báo ngay cho Bar¬ney, nhờ vậy Bar¬ney có thời giờ đi kiếm người chỉ huy, để nhận chỉ thị. Thưa bà, ai là chủ trước của căn nhà này?
- Một sĩ quan hải quân hưu trí tên là Fer¬gu¬son.
- Bà có biết gì đặc biệt về ông này không
- Thưa không.
- Tôi nghi rằng ông ta đã chôn một cái gì tại đây. Thời đại này, khi cần giấu kho báu, người ta sử dụng két sắt tại ngân hàng. Nhưng trên trần thế mênh mông này luôn luôn có người lập dị.
- Trước tiên, tôi nghĩ đến một kho tàng bị chôn. Tuy nhiên, tại sao lại cần đồ gỗ của bà? Bà có một bức họa của Rapheal hoặc một ấn bản đặc biệt nào về Shake¬speare mà không hay biết?
- Không, tôi chỉ có một bộ đồ trà cổ thôi!
- Không hợp lý lắm! Tại sao chúng không công khai cái chúng muốn? Nếu chúng cần bộ ấm trà cổ thì chúng có thể đề nghị một mức giá hợp lý hơn là mua một mớ lằng nhằng. Không, tôi cho rằng có một cái gì đó bà có mà chính bà cũng không biết.
- Tôi cũng nghĩ vậy - Tôi nói.
- Bác sĩ Wat¬son cũng đồng ý đấy.
- Vậy, thưa ông Holmes, làm thế nào để biết được?
- Bây giờ chúng ta thử phân tích các sự kiện để có thể tím ra các manh mối. Bà đã ở đây một năm rồi.
- Cũng được gần 2 năm.
- Tốt! Trong suốt thời gi¬an đó, không ai hỏi han gì. Bây giờ, thình lình trong ba, bốn ngày nay lại có người yêu cầu. Điều đó có nghĩa là gì?
- Chỉ có một ý - tôi nói - là vật đó mới chỉ ở trong nhà gần đây thôi.
- Đúng rồi! Bây giờ, thưa bà Maber¬ley, gần đầy có vật gì được gửi cho bà không?
- Không. Tôi chưa hề mua sắm gì trong một năm nay.
- Quả vậy! Điều đó rất đáng chú ý. Tốt, tôi nghĩ chúng ta đã có một manh mối có thể phát triển cho đến khi chúng ta có rõ ràng hơn dữ liệu. Luật sư của bà là người có khả năng chứ?
- Ông Sutro là người rất khá.
- Bà có người hầu gái nào khác, ngoài Su¬san không?
- Tôi còn một cô hầu gái t
- Bà hãy cố gắng mời luật sư Sutro ngủ một hoặc hai đêm tài nhà. Có thể bà cần được bảo vệ.
- Vì sao vậy?
- Tôi không thể phát hiện món đồ mà người ta muốn lấy, nên tôi phải đi từ đầu kia. Nói rõ hơn là tôi tìm nhân vật chính trong tấn kịch này. Ông nhân viên địa ốc có để lại địa chỉ không?
- Chỉ có tên và nghề nghiệp. Haines-John¬son, nhân viên địa ốc và chuyên gia.
- Có lẽ ta sẽ không tìm thấy tên ông ta trong Niên giám Danh thiếp. Vậy tôi đề nghị bà báo ngay cho tôi mọi diễn biến kế tiếp. Bà hãy tin tôi.
Khi chúng tôi đi ngang qua cửa chính, đôi mắt Hom¬les đập xuống mớ rương và va li chất đống trong một góc.
- Mi¬lano, Lucerne. A! Hành lý này từ Ý gởi về?
- Đó là đồ đạc của thằng Dou¬glas đáng thương của tôi?
- Bà chưa khui ra. Bà nhận về được bao lâu rồi?
- Tuần trước.
- Vậy mà bà đã nói với tôi rằng... Vậy là cái mắt xích mà tôi thiếu là đây rồi! Có thể mấy cái rương này chứa một đồ vật quý giá?
- Không lẽ, thưa ông Hom¬les. Dou¬glas chỉ sống nhờ đồng lương và một khoản phụ cấp nhỏ. Làm sao nó có khả năng mua bán vật gì?
Hom¬les suy nghĩ hồi lâu.
- Yêu cầu bà làm ngay cho? - Cuối cùng Hom¬les nói - Hãy đưa mớ hành lý này lên phòng bà. Khám nghiệm chúng càng sớm càng tốt và nhớ lập bản kiểm kê. Mai tôi quay lại.
Đúng là biệt thự "Ba đầu hồi" bị canh gác. Khi chúng tôi đi hết đường mòn ở nơi cao ráo thì gặp gã võ si quyền Anh đang đứng núp trong bóng mát. Chúng tôi bị bất ngờ. Tại cái chỗ quạnh hiu này, nó có vẻ bất thường và dễ sợ. Hom¬les thọc tay vào túi.
- Ông kiếm súng lục hả, ông Hom¬les?
- Không đâu, bạn Steve. Kiếm chai dầu.
- Ông là người kỳ lạ.
- Tôi tin rằng anh không đùa với tôi, khi tôi nói chuyện rất đàng hoàng với anh. Sáng nay tôi đã cảnh cáo anh rồi mà.
- Thưa ông, tôi luôn nhớ lời ông dặn và tôi không còn muốn nói tới vụ ông Perkins. Nếu tôi có thể giúp gì ông, tôi sẵn lòng thôi.
- Vậy thì cho tôi biết ai đứng đằng sau vụ này.
- Tôi thề trước Chúa, thưa ông Hom¬les. Hồi sáng tôi đã nói sự thật. Tôi không biết đâu. Chủ tôi là Bar¬ney ra lệnh cho tôi. Thế thôi.
- Vậy thì anh nhớ kỹ rằng cái bà trong nhà này và tất cả những gì dưới cái mái này đều đặt dưới sự che chở của tôi. Đừng quên nhé, bạn Steve!
- Nghe rõ.
- Tôi nghĩ rằng tôi đã làm cho hắn tự lo cứu mạng hắn, - Holmes nói khi chúng tôi tiếp tục đi - Giờ đây hắn sẽ bán đứng chủ hắn nếu hắn biết "người bí ẩn". May là tôi biết đường đi nước bước của băng Spencer John, mà Steve là thành viên. Đây là phần việc của Lang¬dale Pike. Tôi phải đi tìm ông ta ngay.
Holmes biệt tích luôn ngày đó, nhưng tôi biết anh ấy sử dụng thời gi¬an này làm gì vì tôi biết Lang¬dale Pike là ai. Ông ta là quyển từ điển sống về các vụ scan¬dal trong xã hội. Ông ta lờ đờ ngồi hằng giờ trong một câu lạc bộ ở phố Saint James, và là một cái máy thu và phát tất cả các vụ động trời. Hình như thu nhập hàng tháng của ông ta là 4.000 bảng do đem bán các tin tức scan¬dal cho các nhật báo. Đôi khi Holmes cũng cung cấp tin cho Lang¬dale Pike. Để đền đáp, anh chàng này cũng thỉnh thoảng làm mật báo cho Holmes. Khi tôi gặp Holmes vào sáng sớm hôm sau, tôi thấy anh hoàn toàn thỏa mãn. Nhưng một bất ngờ lại xảy đến. Đó là cái điện tí với nội dung như sau:
"Yêu cầu tới ngay. Nhà của khách hàng bị trộm. Đêm qua cảnh sát đã đến. Sutro".
Holmes huýt sáo:
- Biến động xảy ra nhanh hơn tôi dự kiến. Đằng sau nội vụ là một nhân vật quyền thế lớn, anh Wat¬son à? Biến động này không làm tôi sửng sốt sau khi thu lượm tin tức xong. Đương nhiên ông Sutro này chỉ là một luật sư. Tiếc rằng tôi không nhờ anh ngủ lại để canh gác. Ông nội này tỏ ra cù lần quá. Thôi, ta đi tới Har¬row Weald.
Biệt thự "Ba đầu hồi", không còn là một cái nhà cao ngạo như hôm qua. Một nhóm vô công rồi nghề vây quanh hàng rào trong lúc hai cảnh sát viên khám xét hai cửa sổ và các bồn hoa. Vào trong nhà, chúng tôi được một người cao niên tóc hoa râm tiếp đón và tự giới thiệu là luật sư của bà Maber¬ley. Ông thanh tra cảnh sát lăng xăng, chào mừng Holmes như bạn cố tri.
- Tôi ngại rằng không có gì để phải nhờ đến cái tài xuất chúng của ông. Đây chỉ là một vụ trộm xoàng, thuộc phạm vi của đám cảnh sát xoàng xĩnh này.
- Tôi tin chắc rằng nội vụ đang nằm trong tay của những người có thực tài - Holmes nói - Ông có tin rằng đây chỉ là một vụ trộm đơn thuần?
- Đúng vậy. Chúng tôi biết khá rõ về các nghi can và chúng tôi biết phải tới đâu để tóm cổ chúng. Đó là cái băng Bar¬ney Stock¬dale với thằng mọi to con... chúng nó lảng vảng trong xóm này mấy bữa rày.
- Hoan hô! Chúng đã lấy cắp những gì?
- Hình như chúng không lấy gì nhiều. Bà Maber¬ley và cả nhà bị bỏ thuốc mê. Nhưng bà ấy đến kìa.
Bà chủ nhà có vẻ tái xanh và suy yếu, vịn vai người hầu đi vào phòng.
- Ông đã cho tôi một lời khuyên rất đúng. Thưa ông Holmes - Bà vừa nói vừa cười một cách buồn thảm - Tiếc thay, tôi đâu có nghe theo. Tôi ngại không dám làm phiền luật sư Sutro và tôi không
- Tôi mới nghe nói về điều đó sáng nay mà thôi? - ông luật sư nói lớn.
- Ông Holmes có khuyên tôi mời một người bạn ngủ lại ban đêm. Tôi coi thường lời khuyên này. Do đó, tôi phải trả giá cho sự bất cẩn này.
- Bà có vẻ khá mệt mỏi - Holmes nói - Tuy nhiên xin bà vui lòng kể lại cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện.
- Tất cả đều được ghi trong này rồi - ông thanh tra cảnh sát vừa đập tay vào một cuốn sổ lớn vừa nói. Tuy nhiên nếu bà Maber¬ley không quá mệt...
- Thật ra thì cũng không có gì nhiều để mà tường thuật. Chắc chắn con nhỏ Su¬san đã vẽ đường đi nước bước cho bọn chúng! Chúng đi đứng như người trong nhà. Có một giây lát, tôi ý thức bị đặt miếng bông có thuốc mê trên miệng. Nhưng tôi quên hẳn thời gi¬an bị hôn mê. Khi tôi tỉnh lại thì có một người đàn ông đứng bên cạnh, một người đàn ông khác đang đứng dậy cầm một cái gói lấy từ trong hành lý của con trai tôi. Mớ hành lý này bị mở một phần và rơi lung tung trên sàn nhà. Khi chúng chạy, tôi có nhảy lên và nắm tay được một đứa.
- Bà đã làm một điều khá nguy hiểm - Ông thanh tra cảnh sát nói thầm.
- Tôi bám vào nó, nhưng nó vuột ra và thằng kia đập tôi ngất xỉu. Mary nghe tiếng động, chạy ra cửa sổ báo động. Cảnh sát tới, nhưng bọn trộm đã cao bay xa chạy.
- Chúng lấy gì?
- Tôi tin rằng không có gì quý lắm đâu. Tôi chắc chắn không có cái gì đáng giá trong hành lý của con trai tôi.
- Bọn chúng có để lại vết tích gì không?
- Có một tờ giấy tôi giựt được từ thằng mà tôi nắm tay. Giấy nhàu nát dưới sàn nhà, nội dung do chính con trai tôi viết.
- Tờ giấy này chả có ích lợi gì cho cuộc điều tra - ông thanh tra nói - Tuy nhiên vì nó có nằm trong tay của kẻ
- Đúng thế - Holmes nói - Cho tôi xem thử?
Ông thanh tra rút trong quyển sổ của ông một tờ giấy đã xếp lại
- Không bao giờ tôi bỏ sót một chi tiết nào - Holmes nói một cách trịnh trọng - Trong 25 năm hành nghề, tôi đã học hỏi nhiều lắm. Có thể tìm thấy trong đó một dấu tay hoặc là một cái gì đó hữu ích.
Holmes khám nghiệm tờ giấy.
- Ông nghĩ sao, ông thanh tra?
- Hình như là đoạn kết cuộc của một cuốn tiểu thuyết.
- Chắc chắn là cái kết cuộc của một câu chuyện thường! - Holmes nêu ý kiến - Ông có để ý các con số trên đầu trang là 245. Vậy thì 244 trang kia đâu?
- Tôi đoán kẻ trộm đã cuỗm rồi.
- Dù sao cũng là chuyện lạ, kẻ trộm trèo tường vào, chỉ để đánh cắp mớ giấy đáng vứt vào sọt rác. Ông có thắc mắc không, ông thanh tra?
- Có chứ. Tôi cho rằng trong lúc vội vã, chúng đã gặp gì chôm nấy.
- Tại sạo chúng lại để ý tới đồ đạc của con trai tôi? - Bà Maber¬ley hỏi.
- Tại vì không có gì đáng giá dưới tầng trệt thì phải lên lầu thử thời vận. Ông nghĩ sao, ông Holmes?
- Tôi còn phải suy nghĩ thưa ông thanh tra. Hãy ra cửa sổ, Wat¬son.
Đứng cạnh nhau, chúng tôi cùng đọc tờ giấy. Bản văn bắt đầu ở giữa câu:
"...mặt chảy máu lai láng vì bị cắt và bị đánh thương không thấm vào đâu so với sự rướm máu của con tim nó, khi nó thấy cái khuôn mặt kỳ diệu - cái khuôn mặt mà nó tôn thờ - chứng giám sự ưu tư và nhục nhã của nó. Cô cười nụ. Chúa ơi. Cô ta cười được? Đồ quỷ cái! Chính đó là lúc mối tình tắt lịm và nảy sinh sự thù hận. Con người phải sống vì một mục đích gì đó. Nếu tôi không sống để được nụ hôn của cô, cô nàng ơi, thì chắc hẳn cô sẽ bị tiêu vong vì sự phục thù quyết liệt của tôi".
- Câu cú gì quá lạ lùng - Holmes cười và trả tờ giấy lại - Đang ở ngôi thứ ba (nó) rồi bỗng đột ngột chuyển ông ngôi thứ nhất (tôi). Tác giả mê viết tự thuật đến nỗi vào phút chót tưởng tượng mình là nhân vật chính.
- Văn sọt rác! - ông thanh tra nói thì thầm rồi cất tờ giây vào cuốn sô - Ủa, ông về sao ông Holmes?
- Nội vụ đã được nhà cầm quyền lưu tâm rồi tôi có lý do gì để nấn ná lâu hơn. Thưa bà Maber¬ley, bà có nói với tôi rằng bà thích đi du lịch?
- Đó là giấc mơ xưa nay của tôi.
- Bà thích đi đâu?
- Ồ, nếu có đủ tiền, tôi muốn đi khắp thế giới.
- Bà thấy đúng đó. Hãy chu du thế giới! Xin tạm biệt bà. Có thể tối nay, bà sẽ nhận được một lá thư của tôi.
Khi ra về, đi ngang cửa sổ, tôi thấy ông thanh tra cười và lắc đầu "có học thì phải điên điên?". Đó là cái mà tôi đọc được trên môi của ông thanh tra.
- Anh Wat¬son, giờ đây ta lên đường đi đến cái gi¬ai đoạn chót của chuyến đi ngắn này? - Holmes nói với tôi.
Chúng tôi trở về khu trung tâm Lon¬don.
- Tôi nghĩ rằng vụ này có thể giải quyết thật nhanh, tuy nhiên tôi thích anh đi theo, bởi vì nên có nhân chứng khi thương lượng với một người đàn bà có tầm cỡ như Isado¬ra Klein.
Chúng tôi đi xe ngựa tới quảng trường Grossven¬er. Holmes đột ngột ra khỏi cơn suy tư:
- Anh Wat¬son, tôi đoa trong trí anh mọi sự đã sáng như ban ngày rồi, phải không?
- Chưa đâu! Tôi đoán rằng chúng ta đang đi tới người đàn bà giật dây chuyện này?
- Đúng vậy? Cái tên Isado¬ra Klein không nhắc cho anh nhớ tới cái gì sao? Nàng đẹp nghiêng nước nghiêng thành, là một người Tây Ban Nha thuần chủng, nàng có dòng máu của những nhà chinh phục. Nàng lấy Klein, lão già người Đức biệt danh là Vua Đường. Nhờ đó nàng nổi danh là người góa phụ đẹp nhất và giàu nhất thế giới. Nàng có phiêu lưu một lúc, có nhiều nhân tình, trong số đó có cả Dou¬glas Maber¬ley, một trong những chàng hào hoa phong nhã nhất của Lon¬don. Theo lời đồn thì nàng và chàng có cái gì đậm đà hơn là một cuộc gi¬ao du ong bướm. Anh chàng này thì không thể là một con ong, con bướm, mà là một mẫu người cao đẹp, hy sinh tất cả và cũng đòi được hy sinh tất cả. Khốn thay, nàng thuộc loại đàn bà không chịu vấn vương. Sau khi thỏa mãn, là đoạn tuyệt. Nếu chàng ta u mê thì cô nàng biết cách mở mắt chàng.
- Vậy đây là chuyện tình của Dou¬glas?
- Tôi mới nghe tin rằng nàng sẽ kết hôn với quận công Lomond, nhỏ tuổi hơn nàng rất nhiều. Mẹ của quận công có thể coi thường sự so le tuổi tác, nhưng bà không thể coi thường một scan¬dal tình ái lăng nhăng. Do đó cô nàng cần phải... Mà, tới rồi?
Đó là một trong những căn nhà đẹp nhất ở khu West End. Một người hầu đưa tay nhận danh thiếp của chúng tôi, cứng đơ như người máy rồi quay lại cho hay rằng nữ chủ đi vắng.
- Được, - Holmes nói - Chúng tôi chờ vậy.
- Đi vắng, có nghĩa là đi vắng với hai ông - Người máy nói.
- Được - Holmes lặp lại - Có nghĩa là chúng tôi khỏi phải chờ lâu. Chú em vui lòng trình thiệp này cho nữ chủ của chú em.
Holmes ngoáy vài ba chữ trên giấy, xếp lại rồi đưa cho người giúp việc.
- Anh viết gì vậy?
- Chỉ có năm chữ: "Vậy thì đến" Tôi tin rằng nàng sẽ ra tiếp chúng ta.
Một phút sau, chúng tôi được đưa vào phòng khách của cảnh 1001 đêm. Tôi nghĩ rằng nữ chủ đã tới cái tuổi mà sắc đẹp vô song phải sóng đôi với sự chiếu sáng mờ ảo. Khi chúng tôi bước vào, nàng đứng dậy khỏi tràng kỷ. Vóc dáng cao, đi đứng bệ vệ như nữ hoàng, khuôn mặt thì cực kỳ giả tạo, đôi mắt đen Tây Ban Nha sắc bén như dao.
- Các ông đường đột như vầy để làm gì? Cái danh thiếp hỗn láo này có nghĩa gì. - Nàng hỏi và vẫy vẫy cái thiệp.
- Thưa bà, tôi thấy khỏi cần giải thích. Tôi quá tôn kính trí thông minh tuyệt vời của bà. Mặc dù cái trí thông minh đó đã cùn đi mấy bữa nay!
- Chuyện gì vậy, thưa ông?
- Dễ thường mấy tên anh hùng rơm do bà thuê mướn có thể dọa nạt, ngăn cấm được tôi làm nhiệm vụ nghề nghiệp. Không ai dại gì chọn cái nghề như tôi nếu bẩm sinh họ không thích nguy hiểm. Phải chăng chính bà đã buộc tôi nghiên cứu vụ anh chàng thanh niên Dou¬glas Maber¬ley.
- Tôi không hiểu gì về những lời ông vừa nói . Tôi có dính dáng gì đến mấy tay anh hùng rơm nào đó!
Holmesquay mặt đi như mệt mỏi.
- Rõ ràng là tôi đánh giá sai cái trí thông minh của bà. Thôi Xin tạm biệt.
- Hãy đứng lại, ông đi đâu?
- Tới Scot¬land Yard.
Chúng tôi chưa ra tới cửa chính thì nàng đã chạy theo và nắm cánh tay của Holmes. Từ sắt thép nàng chuyển qua nhung lụa ngay.
- Kính mời hai vị ngồi. Chúng ta nói chuyện thêm một chút nữa. Tôi cảm thấy tôi có thể thành thật với ông, thưa ông Holmes, ông có tình cảm của người quý phái. Bản năng đàn bà phát hiện điểm này nhanh lắm. Tôi muốn xem ông là bạn tri âm tri kỷ.
- Tôi không ể hứa chuyện "có đi có lại", thưa bà. Tôi không phải là luật pháp, nhưng tôi đại diện cho lẽ phải trong chừng mực mà các khả năng khiêm nhường của tôi cho phép. Tôi sẵn sàng nghe bà và tôi sẽ cho bà biết tôi sẽ hành động ra sao.
- Có lẽ tôi đã cực kỳ ngu muội khi sai người đi hù dọa một người dũng cảm như ông?
- Thưa bà, cái ngu muội là bà đã tự đặt mình trong tay một băng lưu manh; sau này chúng có thể tống tiền bà, hoặc tố cáo bà.
- Không, tôi không ngu muội đến thế! Vì tôi đã hứa sẽ thành thật với ông, tôi xin khẳng định với ông rằng ngoại trừ Bar¬ney và vợ nó là Su¬san, không ai khác biết danh tánh người giật dây. Hai đứa này, thì ai còn lạ gì...
Nàng cười nụ, quẹo cái đầu làm dáng một cách vô cùng quyến rũ .
- Tôi hiểu. Bà thử thách chúng rồi à?
- Chúng nó là những con chó ngoan, lăng xăng chạy theo chủ.
- Cái loại khốn nạn đó, không chóng thì chầy chúng sẽ cắn ngược lại chủ. Chúng sẽ bị bắt vì cái tội trộm. Cảnh sát đang truy lùng chúng.
- Chúng phải gánh lấy hậu quả một mình thôi. Tôi không ra tòa vì vụ này đâu.
- Trừ khi tôi đưa bà ra!
- Không đâu, ông sẽ không làm như thế. Ông là người mã thượng. Chuyện bí mật của phụ nữ mà.
- Trước tiên, bà phải trả lại cái bản thảo.
Nàng bật cười và đi về hướng lò sưởi, lấy que cời than quậy tán loạn.
- Phải trả lại à?
Trong lúc đứng trước mặt chúng tôi với một nự cười thách thức, nàng có vẻ bướng bỉnh và hấp dẫn đến nỗi tôi đoán rằng trong đám tộiHolmes phải đương đầu, chỉ có nàng là người làm cho Holmes nhức đầu nhất, tuy rằng tôi biết rõ anh là người chai như đá.
- Đó là điều làm cho đời bà tiêu tan - Holmes nói một cách lạnh lùng - Bà là người rất nhanh tay, nhưng trong vụ này, bà đi hơi xa.
Nàng liệng que cời than, la to:
- Ông thật là khắc nghiệt. Tôi xin phép kể hết câu chuyện.
- Tôi cho rằng bà có quyền đó.
- Nhưng tôi thiết nghĩ ông phải hiểu chuyện đó theo quan điểm của một người đàn bà đột ngột nhận chân rằng tất cả tham vọng của cuộc đời mình có thể bị tiêu tan vào phút chót. Một người đàn bà như thế có đáng trách hay không, lúc bà ấy xoay xở để tự vệ?
- Tội gốc do ai phạm vậy?
- Đồng ý với ông. Dou¬glas đẹp trai thật đó, nhưng khốn thay nó không phù hợp với các dự tính của tôi. Nó muốn lấy tôi. Lấy tôi, thưa ông Holmes. Nó là một thằng trung lưu, nghèo kiết xác. Vì tôi trót trao thân, nó nghĩ rằng tôi phải mãi mãi là của nó. Không thể nào chịu đựng được Cuối cùng tôi phải làm cho nó hiểu?
- Bằng cách thuê côn đồ hạ nó dưới cửa sổ của bà.
- Ông có vẻ biết hết mọi việc. Đúng như thế! Bar¬ney và tay chân đã đuổi nó, và tôi nhìn nhận, đã xử sự hơi thô lỗ. Kế đó, nó làm gì? Không bao giờ tôi ngờ rằng một người đàn ông có thể trù tính một chuyện hèn hạ đến thế. Nó viết một cuốn sách trong đó nó tường thuật đời tư của nó. Đương nhiên, trong đó tôi là con sói, nó là con cừu non. Nó kể từng li từng tí, đương nhiên dưới nhưng tên khác. Tuy nhiên, ở Lon¬don này ai mà không nhận ra chúng tôi? Ông thử xét xem?
- Suy cho cùng, nó có quyền đó?
- Như thể không khí Ý đã thâm nhập vào huyết quản của nó, tiêm vào máu cái nọc ác độc kỳ cựu của dân tộc Ý. Nó có viết thư cho tôi, có gởi cho tôi một bản thảo để tôi đau khổ vì lo sợ. Nó tiết lộ nó có hai bản: một bản cho tôi và một bản cho nhà xuất bản.
- Làm sao bà biết nhà xuất bản từ chối?
- Tại vì tôi đã dò hỏi và biết nhà xuất bản là ai. Rồi thình lình ngay sau đó tôi nghe Dou¬glas chết. Còn bản thảo kia có thể bị xuất bản, tôi cảm thấy không an tâm. Bản này chắc chắn nằm trong đồ đạc của Dou¬glas sẽ được chở về trả cho mẹ nó. Tôi vận dụng ngay cái băng lưu manh. Su¬san xin vào làm tôi tớ cho bà Maber¬ley. Tôi muốn hành động một cách lương thiện thôi. Thật thế, tôi sẵn sàng mua ngôi nhà với tất cả những thứ gì nó chứa. Tôi chấp thuận cái giá bà ấy đưa ra. Tôi chỉ dùng phương án hai khi mà phương án thứ nhất bị thất bại. Giờ đây, ông xét xem, dù rằng tôi quả có nghiệt ngã với Dou¬glas, tôi có thể làm gì khác khi mà tương lai tôi lâm nguy?
Holmes vươn vai.
- Được. Tôi đoán rằng tôi sẽ thỏa hiệp với tội ác. Đi chu du thế giới hạng nhất tốn bao nhiêu, thưa bà?
Người thiếu phụ trẻ nhìn anh ta với nét hoảng hốt.
- Không hơn 5.000 bảng đâu.
- Không, tôi không tin là đắt đến thế. Được Yêu cầu bà vui lòng ký một chi phiếu, với số tiền đó tôi sẽ lo gởi nó đến tận tay bà Maber¬ley. Bà cần cho bà cụ đó đổi gió. Trong khi chờ đợi, bà...
Holmes giơ một ngón tay cảnh cáo.
- Coi chừng chơi dao có ngày đứt tay!
05. Ma Cà Rồng Vùng Sussex
Holmes đọc kỹ một bức thư rồi cười và trao cho tôi.
- Anh Wat¬son, anh nghĩ sao về những chuyện pha trộn cái hiện đại với cái trung cổ, cái thực tế với cái ma quái cổ sơ Đây là một chuyện tiêu biểu?
Tôi đọc thư.
46 Old Jew¬ry, ngày 19 tháng 11 Vụ ma cà rồng.
Thưa ông, Khách hàng của chúng tôi, ông Robert Fer¬gu¬son, thuộc công ty Fer¬gu¬son và Muir¬head, buôn trà tại Minc¬ing Lanh, có gởi thư hỏi chúng tôi vài câu về ma cà rồng. Vì công ty chúng tôi không chuyên về chuyện này, chúng tôi chuyển theo đây lá thư của Robert gạ cho ông. Chúng tôi không quên sự thành công của ông trong các vụ đã qua.
Trân trọng hình chào ông, ' Mor¬ri¬son, Mor¬ri¬son và Dodd.
- Chúng ta biết gì về ma cà rồng?
- Chúng ta mà cũng đi điều tra về ma cà rồng hay sao?
- Có việc để làm còn hơn là phải ngồi không?
- Quả thật người ta đưa chúng ta vào không khí của chuyện cổ tích. Anh Wat¬son, xin vui lòng với lấy cuốn sách! Và chúng ta cùng xem mục "ma" nói gì?
Tôi quay ra sau, với lấy cuốn sách tham khảo đưa cho Holmes.
Anh đặt nó trên đầu gối, rồi từ từ đọc danh sách các vụ điều tra trước đây.
- Chuyến đi của con tàu Glo¬ria Scott.
Vụ nhớp nhúa! Vic¬tor Lynch, người mạo hóa. Thằn lằn có nọc
Người đẹp của gánh xiếc.. Đủ cả. Nghe đây, Wat¬son! Ma- cà-rồng ở Hung-ga-ri, Ma-cà-rồng ở Tran¬sy¬vanie?
Holmes lật nhanh các trang giấy, cắm cúi đọc, nhưng chỉ một lát sau thì vứt cuốn sách, rồi thốt lên một câu thất vọng:
- Chả có gì. Đọc làm gì các chuyện xác chết đi dạo nếu không bị đóng cọc giữa tim và ghim chặt vào cái hòm? Chuyện điên rồ?
- Nhưng mà ma-cà-rồng đâu bắt buộc phải là người chết. Người sống vẫn có thể là ma-cà-rồng. Tôi có đọc một chuyện quái vật hút máu trẻ em để trường sinh bất tử.
Anh có lý. Chuyện này eo trong danh mục của tôi, nhưng chả lẽ mình lại nghe theo những chuyện nhảm nhí đó Thế giới này đủ rộng để chúng ta hoạt động, đâu cần đến chuyện ma quái. Nhưng, lá thư của ông ta có lẽ cọ những tin tức chính xác hơn.
Holmes lấy lá thư thứ hai ở trên bàn, đọc nó rồi cười thích thú. Đọc xong, anh yên lặng hồi lâu, lá thư rung rung trên tay. Cuối cùng anh đột ngột rời khỏi giấc mơ. ' - Cheese¬man's Lam¬ber¬ley. Lam¬ber¬ley nằm ở đâu, anh Wat¬son?
- Trong vùng Sus¬sex, phía nam của Hor¬sham. Đâu có xa nhỉ?
- Còn Cheese¬man's?
- Tôi không biết.
Ở đó có nhiều ngôi nhà xưa hằng mấy thế kỷ, mang tên những người có công xây cất chúng,.. như là: Od¬ley's, hoặc Har¬vey's, hoặc Cam¬ton' s. Con người bằng xương bằng thịt thì đã bị trôi vào quên lãng nhưng tên họ vẫn sống trong căn nhà của họ.
- Đúng thế. Tôi có cảm giác rằng chúng ta sẽ biết rõ hơn về Cheese¬manls Lam¬ber¬ley. Đúng như tôi đã hy vọng, Robert Fer¬gu¬son gởi bức thư này. ông ta quen với anh đấy.
ông ta quen tôi?.
- Đọc đ
Holmes đưa thư cho tôi.
46 Old Jew¬ry, ngày 19 tháng 11 Thưa ông Holmes, Các luật sư của tôi khuyên tôi tiếp xúc với ông, nhung đây là một câu chuyện rất khó trình bày. Nó liên quan tới một người bạn của tôi. Tôi nhân danh người này mà tiếp xúc với ông. Cách nay năm năm, ông bạn tôi cưới một bà vợ người xứ Pérou. Cô gái rất xinh đẹp, nhưng cách sông và tôn giáo khác nhau, không mấy chốc đã làm xuất hiện những khác biệt về tình cảm giữa người chồng với người vợ. Tình yêu của người chồng nguội lạnh, và anh ta không khỏi tự hỏi xem việc kết hôn vừa rồi có phải là một sai lầm không! Đau khổ hơn cả, chính là việc nàng rất yêu thương anh ta và theo các biểu hiện bên ngoài thì nàng rất quyên luyến anh ta. Giờ đây, ta hãy đi vào điểm chính. Thư này chỉ có mục đích cho ông biết tình hình một cách khái quát và hỏi xem ông có vui lòng giúp đỡ không.
Vợ bạn tôi bắt đầu biểu hiện một nét quái dị, hoàn toàn trái ngược với cái dịu dàng và nét khả ái tự nhiên của nàng. Chồng nàng có một đứa con trai với người vợ trước.
Thằng bé năm nay được 15 tuổi. Tuy bị tật do một tai nạn lúc nhỏ, nó vẫn rất đẹp và hiếu thảo. Đã hai lần vợ của bạn tôi bị bắt gặp đang đánh đập thằng bé. Có lần nàng đánh nó bằng gậy, đánh mạnh đến nỗi hiện nay một cánh tay của nó bị yếu đi.
Nhưng chuyện đó không thấm vào đâu so với cái cách mà nàng đã cư xử với chính con trai nàng, chưa tròn một tuổi. Cách đây một tháng, người vú để cháu bé nằm một vài phút ở trong phòng. Bỗng bà ta nghe đứa bé la thất thanh, bèn vội chạy vào, bà thấy mẹ ruột của đứa bé cúi xuống cắn ngay gần cổ nó, vết thương nhỏ lồ lộ, máu còn chảy. Kinh hoàng, người vú muốn báo cho người cha, nhưng người mẹ năn nỉ và biếu cho người vú 5 đồng bảng đề bà này giữ bí mật. Nàng không hề giải thích gì về hành động đó và nội vụ trôi qua.
Nhưng làm sao xóa được cảm giác kinh tởm trong tâm trí người vú. Từ đó, bà vú canh nữ chủ một cách nghiêm ngặt và luôn luôn túc trực bên đũa bé. Bà thấy rằng trong khi bà canh người mẹ thì người mẹ cũng canh bà và mỗi lần bà phải rời đứa bé thì người mẹ vội vã tới gần. Nếu ngày lẫn đêm, người vú canh giữ thì ngày lẫn đêm, người mẹ rình rập bà vú. Đương nhiên ông thấy là khó. tin nhưng tôi mong ông hiểu đây là chuyện có thật..
Cuối cùng, cái ngày khủng khiếp đã đến: thần kinh của người vú không còn chịu đựng được sự căng thẳng, bà bèn nói huỵch tẹt với người cha. Thưa ông Holmes, bạn tôi thừa biết rằng vợ nó yêu thương nó rất mực và là một bà mẹ rất tận tuy, ngoại trừ các sự bạc đãi dành cho đứa con ghẻ. Do đó nó không tin! Nó bảo bà vú từ nay trở đi đừng có nói bậy bạ nữa. Nhưng trong lúc hai người đang bàn chuyện với nhau thì lại vang lên tiếng la của đứa bé.
Người vú và ông bà chủ hối hả chạy vào phòng. Bạn tôi thấy vợ nó đứng dậy và máu từ trên cổ của đứa bé chảy vuông tấm ga. Bạn tôi hốt hoảng, kéo mặt vợ ra ánh sáng. Có vệt máu trên môi nàng. Rõ ràng chính nàng uống máu của đứa bé.
Câu chuyện hiện ngừng tại điểm này. Người mẹ hiện nằm ì trong phòng. Tuyệt đối không giải thích một tí nào.
Bạn tôi gần như điên. Nó, cũng như tôi, chúng tôi chẳng biệt gì về ma-cà-rồng. Chúng ta có thể cùng nhau tìm hiểu được không Thưa ông Holmes, ông có tiếp tôi không ông có đồng ý dùng cái tài năng siêu việt của ông để cứu giúp một người đang bấn loạn tinh thần Nếu chấp nhận, ông đánh điện cho Fer¬gu¬son và tôi sẽ đến vào ' 10 giờ ngày mai.
Trân trọng Robert Fer¬gu¬son
TB: Tôi còn nhớ ông bạn thân Wat¬son chơi bóng bầu dục ở đội Black¬heath. Tôi là thằng trung vệ của đội Rich¬mond. Đó là điểm tự giới thiệu độc nhất mà tôi có thể đưa ra trong hiện tại.
Đương nhiên là tôi nhớ y - Tôi nói và để thư xuống Rô-be-mập, thằng trung vệ giỏi nhất của đội Rich¬mond. Lúc nào nó cũng vui vẻ.
Tôi mường tượng được cảnh nó lo âu cho bạn nó.
Holmes liếc mắt nhìn tôi và lắc đầu..
- Tôi không bao giờ thấy được hết khả năng của anh, anh Wat¬son. Anh có nhiều khả năng tiềm tàng lắm. Nè! anh nhờ người đi gởi bức điện tín này, vì a người tốt bụng: "ông Rô-be, chúng tôi vui vẻ xét trường hợp của ông".
Trường hợp của thằng Rô- be!. ' - Đừng để nó lầm tưởng rằng cơ sở này được điều hành bởi những thằng ngốc. Đây đúng là trường hợp của chính nó.
Thuở xưa, Rô-be là một lực sĩ cao lêu nghêu, dẻo' dai, chạy nhanh như gió. Trên đời này không gì đau đớn cho bằng khi phải chứng kiến "cái ngày già" của một lực sĩ mà mình quen biết lúc thịnh. thời. Lưng đã còng, tóc rụng gần hết, vai đã xệ.
Chào anh Wat¬son - Nó nói với giọng vẫn còn nồng nàn ấm áp - Anh không còn giống hẳn con người cua "Công viên Con Nai già".
-Tôi cũng có thay đổi chút ít.
Nhưng chính mấy ngày qua mới làm tôi già đi thực sự.
Điện tín của ông, thưa ông Holmes, dạy tôi biết rằng khỏi cần đóng kịch là đại diện của ai cả?
Nói thẳng nói thật thì có lợi cho công việc hơn.
- Holmes đáp.
- Đúng vậy. Nhưng ông hãy tưởng tượng cái khó của tôi khi phải nói về người đàn bà mà tôi rất mến yêu. Tôi có thể làm gì bây giờ? Tố cáo với cảnh sát? Nhưng tôi cũng cần phải bảo vệ hai thằng con trai nữa? Nàng điên rồi, phải không ông Holmes? Một tật xấu di truyền? Có bao giờ ông gặp một trường hợp tương tự không ông hãy giúp tôi, tôi tuyệt vọng rồi!
Không có gì lạ lùng lắm đâu ông. Rô-be! Giờ đây ông hãy ngồi xuống, hãy lấy lại bình tĩnh. Tôi cần nhưng câu trả lời chính xác và gọn ghẽ. Phần tôi, tôi bảo đảm với ông rằng tôi sẽ tìm ra giải đáp. Trước hết ông hãy cho tôi biết, ông đã quyết định nhưng gì? Vợ ông còn ở cạnh mấy đứa con thứ?
- Chúng tôi đã cãi nhau dữ dội. Đó là một người đàn bà rất yêu chồng. Nàng đau khổ biết bao khi tôi phát hiện ra cái bí mật kinh tởm của nàng. Nàng không nói gì. Tôi trách móc, nàng không hề trả lời, chỉ nhìn tôi một cách tuyệt vọng rồi chạy vào nằm luôn. Từ đó, nàng từ chối gặp tôi. Nàng có một tớ gái phục vụ từ trước khi lấy tôi Cô ta tên là Đô-Lo. Đúng ra là một cô bạn thân. Chính Đô Lo mang cơm cho nàng.
- Hiện thời đứa bé không có gì nguy ngập phải không?
- Bà vú thề với tôi là sẽ không bao giờ rời nó, dù ngày hay đêm. Tôi có thể tin tưởng vào bà ta. Tôi hơi lo cho thằng Jack đấy bị xử tệ hai lần như tôi đã nói trong thư.
- Nàng có cắn Jack đâu?
- Nhưng nàng đánh đập nó một cách tàn bạo. Việc này tệ hại hơn bởi vì Jack là một kẻ tàn tật.
Khuôn mặt của Rô-be dịu đi.
- Theo tôi thì ai cũng phải động lòng trước tình trạng đáng thương của nó. Vì nó té nên nó bị trật xương sống. Nó vô cùng hiếu thảo, thưa ông Holmes.
Holmes đem cái thư hôm trước ra đọc lại.
- Nhà ông gồm có những ai?
Hai tôi tớ mới vào làm. Một thằng bé giữ ngựa ngủ lại đêm. Vợ tôi, thằng Jack, đứa bé sơ sinh, cô Đô-Lo và bà vú ,tất cả chỉ có bấy nhiêu thôi.
- Tôi đoán rằng lúc cướp vợ, anh chưa biết về vợ anh nhiều lắm đâu?
- Ạ - Tôi quen nàng có vài tuần! ,
- Đô-Lo phục vụ bà ấy bao lâu rồi?
- Vài năm..
- Như vậy Đô-Lo hiểu rõ vợ anh hơn anh?
- Ông có lý.
Ạ Holmes ghi vài chữ..
- Tôi sẽ hữu í tại Lam¬ber¬ley hơn là ở tại đây.
Trường hợp này đặc biệt, cần phải hỏi từng người. Nếu vợ ông vẫn còn nằm trong phòng thì ông phải tránh, không để sự hiện diện của chúng tôi làm bà ấy bực bội hoặc buồn phiền. Chúng tôi sẽ ngụ tại quán của làng.
Rô-be cảm thấy nhẹ nhõm.
- Chính đó là điều tôi mong mỏi.
Lúc 2 giờ sẽ có chuyến tàu tại ga Vi¬to¬ria, nếu ông có thể đi.
- Chúng tôi sẽ đi chuyến đó. Đương nhiên, Wat¬son sẽ đi theo tôi. Nhưng trước khi lên đường, tôi cần biết chính xác vài chi tiết. Người đàn bà bất hạnh đó, đã bị bắt quả tang xử sự tệ hại với hai đứa bé?
Đúng.
- Nhưng hai cái xử tệ này không giống nhau, phải không?
- Bà ấy đập Jack.
Một lần đập bằng gậy, lần sau thì bằng tay, mà rất là tàn tệ.
- Bà ấy có giải thích không?
- Nàng chỉ nói là ghét nó.
Nàng nói đi nói lại nhiều lần như thế.
- Mẹ ghẻ mà! Chúng tôi gọi là ghen với người quá cố.
Bà ấy có bản chất ghen dữ dội?
Đúng!
Ghen quá lố!
Còn thằng bé.. Nó đã mười lăm tuổi, có thể nó có trí tuệ rất phát triển vì thân xác nó bị hạ́. Nó có giải thích cho ông biết tại sao nó bị đánh như thế không?
- Không, nó bảo nó không làm gì nên tội?
- Thường ngày thì hai người ấy hòa thuận với nhau chứ?
- Không!
Không bao giờ eo sự êm thấm giữa mẹ ghẻ con chồng!
vậy tại sao ông nới nó rất mực hiếu thảo?
- Trên đời này tôi chưa thấy có thằng con trai nào quyến luyến bố nó như Jack. Cuộc đời tôi là cuộc đời của nó. Nó mê say theo dõi những gì tôi nói hay làm.
Holmes lại ghi chép và suy nghĩ một lát.
- Hai cha con ông rất thân nhau trước khi ông tục huyền. Cái tang làm cho hai người gần gũi nhau hơn, phải không?.
- Đúng vậy!
Thằng bé hiếu thảo như thế, có lẽ nó rất quý những kỷ niệm về mẹ nó.
- Phải.
- Chắc chắn đó là một thằng bé rất lý thú. Xin hỏi thêm một chi tiết khác về các lần thằng bé bị đánh. Việc đồi xử với bé sơ sinh và với Jack xảy ra cùng một ngày?
- Lần đầu thì đồng thời, nàng như là nổi điên vậy; nàng như muốn đổ nổi điên lên cả hai đứa. Lần thứ nhì thì chỉ một mình Jack lãnh đủ. Bà vú không nhận thấy đứa sơ sinh bị thương tích gì?.
- Rất rắc rối.
-Tôi thưa hiểu ông muốn nói gì
Tôi có thói quen đặt giả thiết tạm và chờ thời gi¬an hoặc yếu tố mới chứng minh cho giả thiết đó ông Rô-be, chúng ta đâu có tài như thần thánh. Tôi ngại rằng anh bạn Wat¬son của ông đã khoác lác quá nhiều khi nói về các phương pháp khoa học của tôi. ông cứ tin chắc là chúng tôi sẽ lên chuyến xe hai giờ tại ga Vic¬to¬ria.
Đêm đó trời đầy sương mù. Sau khi để hành lý tại quán trọ, chúng tôi đi xe ngựa, băng qua vùng đất sét Sus¬sex, dọc theo một con đường ngoằn ngoèo để đến cái trang trại cổ lỗ và cô lập. Khắp nơi, cũ kỹ và đổ nát!
Rô-be đưa chúng tôi vào một phòng rộng thênh thang, có một lò sưởi đồ sộ kiểu năm 1670 đang cháy bừng bừng..
Tôi nhìn căn phòng, một sự pha trộn về thời đại và lục địa. Tường gần như bị che khuất bởi những chạm trổ trên gỗ từ đời ông trại chủ thứ nhất cánh đây ba thế kỷ.
Phần dưới có những bức tranh bằng sơn nước hiện đại, đúng thẩm mỹ. Trên cao, treo lủng lẳng một bộ sưu tập đẹp mắt về công cụ và vũ khí Nam Mỹ.
Holmes tò mò đứng lên chăm chú quan sát chúng.
Lát sau anh quay lại, đôi mắt đăm chiêu.
- Ồ ồ?
- Anh la to.
Một con chó xù tai quặp, rời cái thúng ở trong kẹt, lê lết tiến tới chủ nó. Chân sau nó kéo lê khó khăn, đuôi lệt bệt dưới đất. Nó tới liếm tay của Rô-be.
- Có chuyện gì vậy, ông Holmes?
- C
- Con chó sao vậy?
- Nó bị bại xui, nay sắp lành rồi!
- Phải vậy không, Ca-lo?
Con chó run rảy như tán đồng, quơ nhẹ cái đuôi lệt bệt, đôi mắt buồn nhìn chúng tôi. Nó biết chúng tôi thảo luận về trường hợp của nó.
- Chuyện xảy ra đột ngột hay sao?
Chi sau một đêm thôi.
- Lâu chưa?.
- Cách nay khoảng bốn tháng!
- Rất lý thú!
- Rất bổ ích?
- Ông thấy gì, ông Holmes?
- Một sự xác nhận?
- Xác nhận điều gì. Đối với ông chỉ là một thắc mắc, còn với tôi là vấn đề sống chết Ạ Vợ tôi eo thể là kẻ giết người' con tôi đang lâm nguy, thưa ông Holmes, ông không nên đùa giỡn với tôi.
Người cầu thủ bóng bầu dục run rẩy, Holmes để nhẹ một tay lên vai ông ta.
- Tôi biết rằng dù sự việc như thế nào, ông cũng đau khổ. Do đó, tôi sẽ giúp ông tối đa. Hiện nay tôi không thể nói nhiều hơn, nhưng trước khi ra về, tôi hy vọng có thể nói ra chính xác hơn.
- Cầu xin ơn trên tiếp tay với ông. Xin phép hai ông cho tôi lên thăm xem có gì mới không Trong mấy phút ông ta vắng mặt, Holmes lại ngắm nghía các vật lạ trên tường. Khi chủ nhà quay lại nét mặt bơ phờ của ông cho thấy không có tiến bộ gì! Một cô gái lêu nghêu, khuôn mặt sạm nắng đi theo sau ông.
- Trà đã pha xong chưa, cô đô-lo- ông chủ nhà nói Hãy lo cho xong để bà ấy cần gì là có ngay' Bà nhà đau nặng lắm - Con bé nhìn ông chủ một Cánh lo lắng - Bà không muốn ăn. Bà cần được một y sĩ.
chăm sóc. Tôi sợ lắm, vì tôi eo biết gì về y khoa đâu? " Rô-be nhìn tôi. Qua đôi mắt, tôi hiểu anh ta muốn hỏi ý tôi.
- Tôi sung sướng giúp đỡ anh!
- Bà nhà chịu gặp bác sĩ Wat¬son không
- Tôi đưa ông ấy lên - Cô Đô-Lo nói.
- Tôi đi theo cô ngay.
Cô gái cuống cuồng vì bị xúc động mạnh. Tôi đi theo lên cầu thang và dọc một hành lang cổ lối đưa đến một cái cửa to. Cô tớ gái 'tra chìa vào ổ khóa. Hai cánh cửa gỗ sồi đồ sộ kêu răng rắc trên mấy cái bản lề. Tôi bước vào, cô ta bám theo và cánh cửa được đóng ngay lại.
Trên giường, một người đàn bà nằm dài, rõ ràng đang sốt dữ dội. Nàng không tỉnh hẳn. Tuy nhiên, khi tôi vào, tôi vẫn thấy đôi mắt đẹp đang kinh hoàng nhìn tôi.
Thấy người lạ mặt đến gần, nàng an lòng, gục trở lại xuống gồi rồi thở dài. Tôi nói vài câu trấn an, rồi bắt mạch và lấy nhiệt độ. Tôi có cảm giác rằng bệnh tình của nàng là hậu quả của một sự kích thích tâm thần!
- Bà như vầy đã hai ngày nay. Tôi sợ bà chết - Cô Đô Lo nói..
Bà Rô-be quay về phía tôi, hỏi:
- Chồng tôi đâu?
- Ở dưới nhà.
ông muốn vào thăm bà. Ạ - Tôi sẽ không bao giờ chịu gặp ông ta.
Rồi nàng nới luôn miệng như đang trong cơn mê.
- Một con quỷ, một con quỷ' ? T làm gì với con quỷ này
- Tôi có thể giúp bà, hoặc về mặt này hoặc về mặt nọ"
- Không? Không ai giúp tôi được. Dù có làm gì, cũng đã tan nát cả rồi.
- Thưa bà, chồng bà rất thương yêu bà. ông hiệp đau khổ nhiều về chuyện vừa xảy ra.
Bà lại quay về hướng tôi, đôi mắt đẹp tuyệt trần!
- Ông ấy thương tôi? Đúng! Phần tôi, bộ tôi không thương ông ấy sao? Thà hy sinh còn hơn là làm cho tim ông ấy tan nát? Đáp lại, ông ấy lại liệt tôi vào các lọai người mà ông ấy dám nghĩ
- Ông ấy đau khổ dữ dội vì không hiểu nổi sự việc!
- Làm sao hiểu nổi?
- Nhưng phải tin tôi chứ?
- Bà có muốn gặp ông ấy không?
- Không, tôi không thể quên các lời khủng khiếp đó. Tôi không thể xua đuổi cái nhìn đó trên mặt ông ta. Tôi không muốn gặp ông ta. Giờ đây, ông hãy đi đi! ông không thể cứu tôi được đâu. Ông vui lòng nhắn với ông ấy một điều: trả con tôi cho tôi? Tôi có quyền đối với con tôi? Đó là điều độc nhất mà tôi muốn nói với ông ấy.
Tôi xuống nhà.
Rô-be và Holmes đang ngồi bên bếp lửa. Chủ nhà buồn bã nghe tôi thuật lại.
- Đâu có thể đưa đứa bé lên đó được
Rô-be nói
- Biết nàng nổi cơn lúc nào. Làm sao quên được cảnh nàng ngẩng đầu lên với máu me đầy miệng?
Cảnh này làm ông ta rùng mình' - Đứa bé được an toàn khi ở với baú - ông ta nới tiếp - Để yên đứa bé tại đó đi?
Một tớ gái dọn trà ra. Trong lúc cô rói trà, cửa mở và một cậu bé trai bước vào phòng. Mặt tái mét, tóc hoe, mắt xanh. Khi nhìn thấy cha nó, nó nhảy bổ tới, ôm lấy.
cổ âu yếm.
-Ồ, ba- Nó la lớn - Con không ngờ ba đã về rồi. Nếu biết con đã đi đón ba. ô, gặp lại ba, sung sướng làm sao!
Rô-be khôn khéo từ từ thoát ra khỏi sự ôm ấp này.
- Con trai của ba- ông ta vừa nói vừa xoa đầu cậu bé một cách trìu mến - Ba về từ sớm vì hai bác đây - ông Holmes và bác sĩ Wat¬son - chấp thuận đến chơi với chúng ta một đêm..
- Thám tử Sher¬lock Holmes?
- Đúng rồi.
Thằng bé nhìn chúng tôi đăm đăm, nhưng hình như thiếu thiện cảm.
- Còn thằng bé kế của ông, ông Rô-be?
- Holmes hỏi - Chúng tôi muốn xem mặt cháu nhỏ.
- Con nói với bà vú đem em xuống đây!
- Rô-be ra lệnh.
Thằng bé bước ra.
Dáng đi dị thường, lê lết, triệu chứng của xương sống yếu kém. Một lúc sau, nó quay lại.
Theo sau nó là một người đàn bà dong dỏng cao, tay bế một đứa bé rất đẹp, mắt đen, tóc vàng óng. Rô -be bế thằng bé, nâng mu nó.
- Không ai đủ can đảm làm cho đứa bé đau?
- Ông ta thì thầm và nhìn cái thẹo nhỏ màu đỏ trên cuống ho của đứa bé.
Vào lúc đó tôi tình cờ nhìn Holmes thì thấy mặt anh ấy se lại. Đôi mắt lạnh lùng của anh nhìn người cha và đứa bé, sau đó lại đăm đăm nhìn vào một điểm bên ngoài căn phòng. Tôi chắc anh đang quan sát cái gì ở bên ngoài, dường như Holmes đang tập trung thị giác vào cánh cửa sổ. Rồi Holmes cười nụ và lại tiếp tục nhìn đứ a b é.
Trên cái cổ hồng hào của nó, có một vết đỏ nhỏ.
Không nói lời nào, anh nhìn kỹ cái vết này.
Cuối cùng anh bắt tay nó?.
Cháu bé đã có một điểm dị thường khi bước vào đời Bà vú, tôi muộn gặp riêng bà...
Holmes kéo bà vú ra một góc và trang trọng nói chuyện với bà ấy..
- Tôi hy vọng nỗi lo âu của bà đã kết thúc rồi.
Sau đó, bà vú có vẻ thuộc loại người bướng bỉnh và lầm lì, bế bé đi ra khỏi phòng.
- Bà vú là người như thế nào?
- Holmes hỏi.
Tuy bề ngoài trông không dễ thương, nhưng bà ta có quả tim vàng và thương thằng bé lắm.
- Còn cháu Jack!
- Cháu thương bà vú không?
Đột ngột Holmes quay sang Jack.
Mắt nó vốn lay động, linh hoạt bỗng sa sầm ngay. Nó lắc đầu.
- Jack là một người đam mê, biết thương, biết ghét - Rô -be vừa nói vừa ôm con trai"May thay, tôi thuộc nhóm người nó thương ...
Thằng bé bắt đầu nói líu lo với bố rồi rúc đầu vào nách bố. ông này đẩy ra.
- Thôi con đi chơi - Rô-be nói một cách êm ái.
Nhìn con ra đi âu yếm, rồi quay về hướng Holmes, ông ta nói:
Tôi đã đưa hai ông vào một vụ kỳ lạ. Theo quan điểm của ông, chắc chắn ông thấy vụ này cực kỳ tế nhị và phức tạp.
- Chắc chắn là tế nhị - Holmes vừa nói vừa cười - Nhưng không phức tạp lắm. Khởi sự là suy luận. Khi sự suy luận này được xác nhận từng điểm bởi một loạt biến cố ngẫu nhiên, thì ta eo thể kết luận rằng mục đích ta đã ' đạt Trong thực tế, tôi đã có kết luận trước khi ra đi và mấy bước sau này chỉ là nhưng kiểm khứng.
Rô-be để bàn tay to tướng trên trán của mình.
- Thưa ông Holmes, nếu ông đã tìm thấy chân lý, xin đừng để tôi hồi họp.
- Tôi phải làm gì?
- Tôi bắt buộc phải giải thích.
Tuy nhiên ông có đồng ý cho tôi giải quyết nội vụ theo lối của tôi không?
là bà có thể tiếp chúng ta không, anh Wat¬son?
- Bà ấy bệnh nhưng rất biết điều.
- Được.
Phải có sự hiện diện của bà ấy, chúng ta mới eo thể làm sáng tỏ mọi việt. Ta hãy lên trên đó.
Nàng đâu chịu gặp tôi.
- Rô-be la lớn.
- Chịu chứ sao không - Holmes nói,iết vài dòng trên một tờ giấy - Anh Wat¬son, anh được đặc quyền, xỉn anh vui lòng trao tờ giấy này cho bà Rô-be.
Tôi leo lên cầu thang trao tờ giấy cho cô Đô-Lo này thận trọng chỉ hé cửa mà thôi. Một phút sau, tôi nghe một tiếng la ở trong phòng. Tiếng la trộn lẫn sự vui mừng và ngạc nhiên. Cô đô-lo bước ra:
- Bà ấy sẵn sàng tiếp, bà ấy sẽ lắng nghe.
Tôi gọi Rô-be và Holmes.
Khi chúng tôi vào, Rô-be tiến về phía vợ nhưng nàng dùng tay làm dấu ngăn lại.
Người chồng buông mình xuống ghế bành, trong lúc đó Holmes trịnh trọng cúi chào nữ chủ nhà rồi ngồi cạnh người chồng.
- Tôi nghe rằng cô Đô-Lo không cần ở đây
Holmes nói - Vâng, được thôi, thưa bà, nếu bà muốn, cô ấy cứ ở lại, tôi thấy không có gì bất tiện cả. Thưa ông Rô- be! tôi là một người rất bận việc. Do đó tôi xin vào đề ngay. Trước hết tôi xin nói điều anh cần biết nhất: bà Rô-be rất tốt, rất tận tình với gia đình, nhưng bà lại là nạn nhân của một sự bất minh lớn lao do ông gây ra.
Rô-be nhảy dựng lên.
- Ông hãy chứng minh điều đó. Tôi sẽ mang ơn ông. suốt đời
- Tôi sẽ chứng minh cho ông, nhưng tôi báo trước rằng sau đó ông sẽ đau đớn vô cùng!.
- Chả sao!
Tôi cần ông tẩy xóa mọi nghi ngờ đối với vợ tôi. Trên đời này không có gì quý hơn điều đó.
- Vậy tôi sẽ tiết lộ cái lý luận của tôi trước khi tôi lên đường đến đây. Ngay từ đầu, tôi bác bỏ ý tưởng ma-cà-rồng ở nước Anh, không bao giờ có cái tội ác này. Tuy nhiên, ông có nêu ra một nhận xét chính xác này: ông th¬bà nhà ngẩng đầu khỏi cái nôi của bé với máu ở trên môi bà.
- Đúng thế!
- Có bao giờ ông nghe rằng một vết thương bị hút chưa chắc là để lấy máu mà là để chữa lành vết thương?
Trong lịch sử của Anh quốc, một nữ hoàng đã hút một vết thương để lấy chất độc ra, ông còn nhớ không?
- Thuốc độc - ông đã nhìn kỹ những kỷ vật của Nam Mỹ. Do trực giác, tôi đã đoán biết sự hiện diện của các vũ khí trên tường. Thuốc độc có thể phát sinh từ một người khác, tuy nhiên tôi đã nghĩ tới mấy cái vũ khí đó. Khi tôi thấy cái ống bên cạnh cái cung bắn chim, thì tôi cho rằng điều tôi nghi ngờ là đúng. Nếu bé sơ sinh bị chích bởi một trong các mũi tên tẩm chất độc cu-ra hay một chất độc ma quái khác, thì sự chết sẽ mau chóng xảy đến, nếu không hút nó ra kịp.
- Còn con chó?
- Khi tôi thấy nó gần như bại xui, thì tôi hiểu "ngay. Cái cảnh tượng con chó lê lết rất ăn khớp với lý luận của tôi. Bây giờ, ông hiểu chưa nào? Vợ ông sợ loại chất độc này, vì bà nhà đã thấy một lần ở đâu đó, nhờ vậy bà ấy đã cứu mạng đứa bé. Bà ấy không muốn nói hết sự thật với ông, vì bà biết rằng ông thương các con ông, sợ ông lo buồn.
- Còn Jack?
- Tôi có quan sát nó. Lúc nãy, khi ông đưa đứa bé xuống, gương mặt của Jack được phản chiếu rõ ràng trên kiếng cửa sổ. Tôi thấy rõ có một sự ghen tuông, thù hận ác độc.Tôi chưa hề thấy khuôn mặt hận thù nào cao độ đến thế đó - Jack là vô vàn yêu quý của tôi!
- Ông phải chấp nhận, ông Rô- be. Đó là một thứ tình yêu. méo mó, cháu Jack quá yêu ông và quá yêu người mẹ quá cố, nên cháu có thể làm chuyện rồ dại.
Cháu dốc toàn tâm trí vào sự hận thù và ghen ghét đối với đứa bé xinh đẹp. Cái đẹp và sức khỏe này tương phản , với tật nguyền của riêng cháu!
- Chúa ơi! nh hãi quá!.
- Tôi nói đúng không, thưa bà
Bà Rô-be khóc nức nở, vùi mặt vào gối. Bà quay về.
phía chồng.
- Làm sao tiết lộ với anh được. Tôi biết anh sẽ đau khổ dường nào. Tôi phải cắn răng chịu đựng thôi, chờ sự thực được nói ra từ cửa miệng của người khác hơn là của chính tôi. Khi ông này có quyền năng siêu nhiên, viết giấy cho tôi hay rằng ông biết hết, tôi mừng vô hạn...
- Cái toa thuốc của tôi là phải đưa cậu Jack đi nghỉ mát một năm tại bờ biển
- Holmes vừa nói vừa đứng lên - Tuy nhiên còn một điểm chưa được sáng tỏ, thưa.
bà...
Chúng tôi hiểu rõ tại sao bà hung dữ với Jack: sự kiên nhẫn của một người mẹ có những hạn chế của nó. Nhưng tại sao bà dám bỏ bê đứa bé hai ngày nay?
- Tôi đã căn dặn bà vú tường tận rồi.
- Được lắm!
Đúng như tôi đã dự đoán.
Rô-be rung động, đứng cạnh giường, dang hai tay gồ ghề run rẩy ra...
- Wat¬son, đúng lúc ta phải rút lui
Holmes nói nhỏ vào tai tôi - Anh kéo cùi chỏ bên này, tôi thì kéo cùi chỏ bên kia của cô Đô-Lo quá thơ ngây vì trung nghĩa.
Khi khép cửa lại, Holmes nói thêm:
- Hãy để cho vợ chồng họ tự giải quyết với nhau
06. Ba Người Họ Garridebs
Cuối tháng 6-1902, không bao lâu sau cuộc chiến tại Nam Phi, Holmes phải nằm liệt giường mấy ngày liền. Thỉnh thoảng anh ta bị như vậy. Nhưng sáng đó, Holmes xuất hiện, tay cầm một văn kiện dài, một tia tinh nghịch rực sáng trong đôi mắt.
- Anh Wat¬son, đây là cơ hội để anh kiếm tiền: anh đã nghe cái họ Gar¬rideb rồi chứ?
- Chưa.
- Vậy thì, khi anh thộp được một người mang cái họ Gar¬rideb, anh sẽ thành triệu phú.
- Tại sao vậy?
- Chuyện dài lắm, chưa bao giờ chúng ta gặp một chuyện quái dị như vầy. Vài phút nửa, vai chính sẽ tới đây Nhưng trong khi chờ đợi, chúng ta cần tìm một người mang cái họ Gar¬rideb.
Tôi tìm trong cuốn danh bạ điện thoại và bỗng la to:
- Có một người nè!
Holmes cầm lấy cuốn danh bạ, đọc to.
- Narthan Gar¬rideb, số 136, phốg Lit¬tle Ry¬der. Wat¬son à, rất tiếc, đấy chính là anh chàng mà tôi đang đợi. Địa chỉ này được ghi trong thư nè. Ta cần một người Gar¬rideb khác!
Bà Hud¬son đi vào với một danh thiếp đặt trên mâm. Tôi lấy lên, liếc qua, và la to.
- Nó đây John Gar¬rideb! Cố vấn pháp luật Moorville, Kansas
Holmes cười nụ rồi nhìn cái danh thiếp.
- Tìm thằng khác, anh Wat¬son à. Thằng tha này cũng ở trong bàn cờ rồi. Tôi không ngờ đã gặp y hồi sáng này. Nhưng dù sao y cũng sẽ cung cấp cho chúng ta vài thông tin hữu ích.
Một lát sau, ông ta đã có mặt trong phòng. Ông John Gar¬rideb, cố vấn pháp luật, rất lạ nhưng nở nang, đôi mắt rực sáng của ông ta lôi cuốn sự chú ý của người đối thoại.
- Thưa, đây là ông Holmes? - Ông ta hỏi rồi lần lượt nhìn đăm đăm vào mặt chúng tôi. - À, đúng rồi! Ảnh chụp khá lắm, thưa ông, tôi mạn phép nêu ra nhận xét này. Tôi tin rằng ông có nhận được một lá thư của người trùng họ với tôi, ông Narthan Gar¬rideb?
- Mời ông ngồi! - Sher¬lock Holmes nói - Tôi đoán chúng ta còn phải nói chuyện lâu...
Holmes lấy một văn kiện trên giấy tốt.
- Ông tên là John Gar¬rideb, có tên trong văn kiện này ông có sống một thời gi¬an tại Anh quốc?
- Tại sao ông hỏi tôi câu này thưa ông Holmes?
Mắt ông ta toát ra một sự ngờ vực đột ngột.
- Toàn thể y phục của ông được may tại Anh!
Ông Gar¬rideb cười gượng gạo.
- Làm sao ông phát hiện được điều này?
- Cái cách cắt vai của áo vét-tông, cái mũi nghếch lên của đôi giày.. Bất cứ ai khác cũng thấy được như tôi.
- À, tôi không dè rằng tôi có vẻ như một người Anh chính cống. Công việc buộc tôi đến đây. Do đó, toàn thể y phục của tôi đều được mua sắm tại Lon¬don. Thôi, đề nghị chúng ta chuyển đề tài qua cái văn kiện trên tay ô
- Hãy nhẫn nại, ông Gar¬rideb, hãy nhẫn nại! - Holmes nói nho nhỏ. - Ủa, mà tại sao ông Narthan Gar¬ride¬bkhông cùng đi?
- Nhưng tại sao Narthan lại kéo ông vào vụ này? Tại sao vụ này lại cần đến ông? Đây là một cuộc nói chuyện hoàn toàn liên quan giữa hai người chúng tôi, thế rồi tại sao hắn nổi hứng đi mời một thám tử tiếp tay.
- Sáng kiến của ông ấy không hề nhằm chống lại ông, ông Gar¬rideb. Ông ấy muốn đạt mục đích mau hơn, có lợi cho cả hai ông. Ông ta biết rằng tôi có vài phương tiện thu nhặt tin tức, ông ta chạy tới nhờ vả tôi là chuyện thường.
Gương mặt của người khách sáng lên dần.
- Tốt thôi. Khi gặp hắn sáng nay, tôi được biết hắn có cầu cứu tới một thám tử, tôi liền xin ngay địa chỉ và chạy tới đây. Tôi không muốn cảnh sát can thiệp vào một việc riêng tư. Tuy nhiên nếu ông bằng lòng giúp chúng tôi kiếm ra người thứ ba, thì có gì là nguy hại?
- Đúng vậy. Và giờ đây, thưa ông, sẵn có ông ở đây, chúng tôi ước mong được chính ông trình bày câu chuyện cho rõ ràng. Ông bạn thân Wat¬son của tôi chưa được biết các chi tiết.
Ông Gar¬rideb nhìn tôi với đôi mắt thiếu thiện cảm.
- Ông ấy cần biết chuyện à?
- Chúng tôi có thói quen làm việc chung với nhau.
- Nếu vậy, tôi sẽ cố gắng trình bày cho gọn. Nếu quý vị là người gốc ở tiểu bang Kansas, tôi khỏi phải dông dài về ông Alexan¬der Hamil¬ton Gar¬rideb. Ông ta phát tài nhờ kinh doanh địa ốc và đầu cơ chứng khoán lúa mì ở Chica¬go. ông ta không có con cái nối dõi. Nhưng ông hãnh diện về cái tên họ lạ tai của mình. Đó là lý do khiến tôi và ông ấy quen nhau. Tôi ngụ tại Tope¬ka, lo về việc pháp lý. Một ngày nọ tôi được hân hạnh tiếp ông ấy. Ông ta kinh ngạc khi thấy có một người thứ hai mang họ ông. Tức thì ông ta dốc lòng tìm xem trên thế giới này còn ai khác mang cùng một họ Gar¬rideb.
"Hãy đi kiếm cho tôi một người nữa!", ông ấy bảo tôi. Tôi trả lời rằng tôi là một người rất bận rộn, không thể dành trọn cuộc đời đi chu du thế giới để tìm vài người mang họ Gar¬rideb.
"Chính đó là điều anh phải làm nếu chuyện đời diễn đúng như dự liệu", ông ta nói tiếp với tôi, và tôi tưởng ông ấy nói đùa thôi. Ai dè nó có ẩn ý. Thật vậy, ông chết trong năm đó, để lại một di chúc, di chúc kỳ dị nhất ở tiểu bang Kansas. Ông đã chia của cải của ông thành ba phần, trao cho ba người mang họ Gar¬rideb. Mỗi người sẽ được 5 triệu dol¬lar, nhưng chúng tôi chỉ có quyền được hưởng gia tài khi đã trình diện đủ ba người tại văn phòng công chứng.
Cái mồi này hấp dẫn đến nỗi tôi bỏ văn phòng cố vấn pháp luật để đi kiếm hai thằng Gar¬rideb nữa ở Hòa Kỳ không nơi nào có. Tôi bèn vượt Đại Tây Dương, quyết tìm khắp nước Anh này. Bước đầu tiên, tôi kiếm được một Narthan Gar¬rideb trong danh bạ điện thoại của Lon¬don. Tôi gặp ông ta hôm kia và cho ông ta hay chuyện đó.
Rủi thay, ông này không quen một Gar¬rideb nam giới nào khác. Vì chúc thư dặn: Ba người đàn ông. Vậy chúng tôi vẫn còn thiếu một Gar¬rideb. Nếu ông có thể giúp chúng tôi bổ khuyết chỗ trống đó, chúng tôi sẽ đền ơn trọng hậu.
- Wat¬son này, - Holmes vừa cười vừa hỏi tôi. - Tôi có cho anh hay trước rằng đây không phải là chuyện tầm phào, phải không? Thưa ông, phải chăng phương cách chắc ăn nhất để moi thêm một Gar¬rideb nữa, là nhắn tin trên báo.
- Tôi đã làm rồi, nhưng vẫn không có hồi âm.
- À, à. Nhân tiện, tôi xin hỏi thêm: Nghe ông từ Tope¬ka đến, tôi mừng lắm, tôi có liên lạc thư tín với một người nay đã chết. Đó là bác sĩ Lysander Starr. Ông này làm thị trưởng năm 1890 đó.
- Lão bác sĩ Starr đáng mến! - Khách nói lớn - Bên đó mọi người đều rất tôn kính ông cụ. Thưa ông Holmes, tôi đoán rằng chúng ta nên thông tin cho nhau. Hy vọng sẽ gặp ông trở lại vào một ngày rất gần.
Nói xong, người Hoa Kỳ kiếu từ.
Holmes đốt cái tẩu, ngồi lặng thinh hồi lâu với một nụ cười kỳ lạ trên m
- Sao? - Cuối cùng anh hỏi tôi - Tôi thắc mắc, anh Wat¬son, tôi rất thắc mắc.
- Thắc mắc điều gì?
Holmes rút cái tẩu ra khỏi miệng.
- Tôi không biết động cơ nào đưa thằng cha này tới đây. Suýt chút nữa là tôi hỏi thẳng hắn rồi. Nhưng tôi nghĩ kịp nên để hắn lầm tưởng đã bịp được chúng ta. Hắn mặc một cái vét-tông kiểu Lon¬don, một cái quần xệ tới đầu gối! Đồ cũ cả năm rồi! Theo văn kiện này và theo lời của hắn thì hắn là một người Hoa Kỳ tỉnh lẻ mới vừa đến Lon¬don? Có bài nhắn tin nào của hắn trên báo đâu? Tôi theo dõi cái mục này hằng ngày mà! Tôi có quen với bác sĩ nào tên là Lysander Starr tại Tope¬ka đâu. Hắn rất là gi¬an dối. Tôi cho rằng hắn quả là người Hoa Kỳ, nhưng giọng nói đã bớt cứng vì lưu trú tại Anh được vài năm rồi. Bí mật đàng sau cái màn tìm người phi lý này là cái trò gì đây? Hắn đáng được chúng ta lưu tâm vì chắc chắn hắn là một tên đại lưu manh. Ta cũng cần tìm biết xem người kia có cùng một băng bịp không. Hãy liên lạc điện thoại với y xem sao.
Bên kia đầu dây tôi nghe một giọng gà mái.
- Vâng, đây là Narthan Gar¬rideb, ông Holmes có đó không. Tôi rất cần gặp ông Holmes.
Holmes cầm ống nghe và tôi nghe cách hành văn thường lệ của anh:
- Vâng, ông ấy có đến đây... Từ bao lâu? Hai ngày thôi à?... Vâng, đương nhiên, viễn cảnh quả là hấp dẫn. Tối nay ông có ở nhà chứ? Tôi đoán là người cùng họ với ông sẽ không có mặt chứ?... Tốt lắm, chúng tôi sẽ đến, vì tôi cần nói chuyện với ông. Bác sĩ Wat¬son cũng sẽ có mặt. Vậy thì khoảng 6 giờ, chúng tôi sẽ đến ông. Đừng nói gì với ông bạn Hoa Kỳ cả nhé. Tốt lắm, kính chào ông!
Chúng tôi đến phố Lit¬tle Ry¬der vào lúc ánh hoàng hôn buông xuống khu phố. Ngôi nhà chúng tôi tới là một kiến trúc bao la theo lối cổ. Khách hàng của chúng tôi đã có mặt ở gió. Hai cửa sổ to tướng mà chúng tôi thấy thuộc cái phòng lớn, nơi chủ nhà làm việc lúc đêm khuya.
Holmes tôi cái bản đồ nhỏ ghi một tên họ lạ tai.
- Anh Wat¬son, đây đâu phải là cái bảng mới! - Holmes chỉ cái bảng phai màu. - Như vậy là họ thật đó.
Căn nhà có cầu thang thang cho tất cả mọi người ở thuê. Tại cửa chính có nhiều bảng đồng ghi tên các văn phòng hoặc cái căn hộ tư nhân. Khách hàng của chúng tôi đích thân ra mở cửa và giải thích rằng bà giúp việc ra về hồi 4 giờ. Ông Narthan Gar¬rideb khoảng lục tuần, cao lêu nghêu, ưỡn ẹo, lưng còm, gầy và hói. Ông có một khuôn mặt xương và nước da xám của người không bao giờ tập thể dục.
Căn phòng giống như một viện bảo tàng nhỏ, vừa rộng, vừa sâu; chỗ nào cũng tủ, cũng hộc, đầy nghẹt mẫu địa chất và mẫu sinh vật. Chính giữa là một cái bàn ngổn ngang những mảnh vụn, quây quần quanh một ống đồng to tướng của một kính hiển vi. Đàng này là một tủ kiếng đựng tiền xưa. Đàng kia là một cái hộc đầy ắp dụng cụ bằng đá lửa. Đàng sau cái bàn, giữa là một cái tủ lớn đựng xương hóa thạch. Chắc chắn đây là một người nghiên cứu lung tung. Trong lúc đứng trước mặt chúng tôi, ông cầm miếng da len chùi chùi một đồng tiền xưa.
- Thưa ông Holmes, ở đây có một chỗ ngồi. Để tôi dẹp các cái xương này qua một bên. Còn ông... à, thưa bác sĩ Wat¬son! Ông vui lòng nhích nhẹ cái lọ Nhật Bản này. Bác sĩ của tôi khuyên tôi ra ngoài nhiều hơn, nhưng đi chơi sao được khi công việc còn lu bù! Tôi có thể đoán chắc với hai ông rằng nếu cần kiểm kê một tủ thôi, có lẽ ba tháng cũng chưa xong.
Holmes quan sát căn phòng với cái nhìn buồn cười.
- Ông không bao giờ đi chơi thật sao?
- Thỉnh thoảng tôi đi xe ngựa tới Sothe¬by hoặc tới Christie là những tiệm đồ cổ mà tôi thích. Ngoài ra, tôi không bao giờ đi đâu khác. Nhưng thưa ông Holmes, ông có thể đoán biết cái chấn động khủng khiếp khi tôi nghe tin đó. Chỉ cần thêm một Gar¬rideb nữa là cuộc đời tôi huy hoàng. Chắc chắn là chúng ta sẽ kiếm ra anh chàng đó. Trên toàn thế giới này làm gì mà không có những Gar¬rideb khác. Tôi nghe nói rằng ông thường lo những công việc lạ. Đó là lý do tại sao tôi tiếp xúc với ông. Tôi nhìn nhận rằng anh chàng Hoa Kỳ đã không sai lầm khi trách cứ tôi không nghe theo lời y, nhưng tôi đã xử sự một cách tích cự
- Ông có lý. Nhưng ông có thực sự muốn có một mảnh đất tại Hoa Kỳ không?
- Chác chắn là không. Không có gì có thể thuyết phục tôi bỏ các bộ sưu tập của tôi Nhưng anh chàng Hoa Kỳ cam kết sẽ mua phần của tôi ngay khi quyền sở hữu của chúng tôi được nhìn nhận. Hắn chịu mua với giá 5 triệu. Hiện có khoảng một chục cái mẫu ngoài thị trường, tôi cần phải mua, nhưng không tiền. Ông hãy tưởng tượng tôi có thể làm biết bao việc với 5 triệu Mỹ kim. Tôi mơ ước một bộ sưu tập có tầm cỡ quốc gia. Tôi sẽ trở thành nhà sưu tầm lớn của thời đại?
Mắt ông ta sáng rực ở đàng sau cặp kiếng. Rõ ràng là ông Narthan Gar¬rideb sẽ không tiếc công để tìm ra một người đồng họ.
- Tôi chỉ tới đây để làm quen với ông. - Holmes nói - Và tôi cảm thấy không nên làm gián đoạn công việc nghiên cứu của ông lâu hơn. Tôi không cần phải hỏi han ông nhiều, bởi vì tôi có thư ông trong túi và thư này khá rõ ràng. Tôi đã bổ sung nó qua cuộc tiếp xúc với anh chàng Hoa Kỳ rồi. Tôi đoán rằng trước đây ông chưa hề quen biết với anh chàng này?
- Quả vậy, chỉ mới hôm thứ ba tuần vừa rồi. Ông ấy có cho ông biết qua về cuộc nói chuyện giữa ông ấy và tôi hôm nay không?
- Có, ông ấy đi thẳng tới nhà tôi sau khi gặp ông.
- Trước khi gặp ông, ông ấy giận dữ lắm.
- Tại sao?
- Hình như ông ấy cảm thấy bị xúc phạm. Nhưng sau khi gặp ông, thì tươi tỉnh lại rồi.
- Ông ấy có đề nghị với ông một cách hành động nào không?
- Thưa ông, không.
- Ông ta có hỏi hoặc đã mượn được tiền của ông chưa?
- Không, thưa ông.
- Ông không biết được mục đích của ông ta sao?
- Không, chỉ biết cái mục đích mà ông ta nói.
- Ông có cho ông ấy biết về cuộc gặp gỡ này của chúng ta bằng điện thoại không?
- Thưa ông, có.
- Tôi thấy rằng ông ấy đang thắc mắc.
- Trong các sưu tập của ông, ông có những cái mẫu giá trị lớn lắm phải không?
- Không, thưa ông. Đó là những sưu tập tốt, nhưng không có giá trị gì ghê gớm lắm đâu.
- Ông có sợ ăn trộm không?
- Thưa ông, không.
- Ông cư ngụ ở đây được bao lâu rồi?
- Gần 5 năm.
Cuộc chất vấn của Holmes bị gián đoạn bởi một cái đấm tay dữ dội trên cửa lớn. Thân chủ của chúng tôi vừa mở ra thì người Hoa Kỳ bước vào. Ông tỏ ra rất bực bội.
- À, có ông đây nữa! - ông ta vừa la to vừa vẫy một tờ nhật báo, - Tôi hy vọng đến đúng lúc, ông Narthan Gar¬rideb, xin chúc mừng ông! Hiện ông là một triệu phú! Về phần ông, thưa ông Holmes, chúng tôi rất tiếc đã quấy rầy ông một cách vô ích!
Ông ta đưa tờ báo ra ông này nhìn ngay vào một cái tin có đánh dấu chữ thập. Holmes và tôi nhìn qua vai thân chủ. Nội dung như sau:
"Howard Gar¬rideb.
Nhà lắp máy nông cơ, máy giặt, máy cày tay và cày hơi nước, máy đục lỗ, máy bừa, xe thực dụng trong trang trại, ước lượng về giếng
Liên lạc tại Grosve¬her, As¬ton".
- Hay quá! - Narthan Gar¬rideb nói - Vậy là ta có người thứ ba rồi.
- Tôi đã mở những cuộc vận động tại Birm¬ing¬ham. - Người Hoa Kỳ nói - Người đại diện của tôi đã gởi cho tôi bản tin này trong một tờ báo địa phương. Tôi đã khẩn trương viết thư cho người cùng họ và báo cho ông ta hay rằng ông sẽ gặp ông ta tại phòng của ông ta vào 4 giờ chiều mai.
- Ông muốn tôi đi gặp ông ấy à?
- Chớ sao! Tôi là một người Hoa Kỳ và tạt qua đây thôi, làm sao người ta tin được? Còn ông là một người Anh, có uy tín vững vàng, ông ta sẽ tin ông.
- Mấy năm nay tôi có đi đâu xa như thế bao giờ.
- Đừng ngại gì cả, ông Nathan. Tôi đã chuẩn bị chuyến đi cho ông. Ông khởi hành lúc 12 giờ và chắc chắn tới nơi khoảng sau 2 giờ. Ông có thể trở về ngay trong đêm. Công việc của ông là chỉ gặp người đó, trình bày câu chuyện và xin một chứng nhận rằng ông ấy còn sống.
- Chúa ơi! - Y nói thêm một cách hùng hồn - Tôi phải lăn lộn từ miền Trung Hoa Kỳ qua tới đây. Còn ông, ông chỉ bước một bước ngắn là đặt dấu chấm hết cho câu chuyện.
- Đúng vậy! - Holmes nói xen vào. - Tôi đồng ý hoàn toàn với ông cố vấn pháp luật.
Ông Narthan Gar¬rideb vươn vai, vẻ mặt buồn rầu:
- Nếu ông thấy cần, thì tôi sẽ lên đường,
- Vậy là đã dàn xếp xong. Xin ông nhớ báo cho tôi biết kết quả khi thuận tiện - Holmes nói.
- Dễ thôi! - Người Hoa Kỳ cam kết và nhìn đồng hồ - Tôi phải đi đây. Mai tôi sẽ đến thăm ông, ông Narthan và sẽ tiễn đưa ông lên tàu đi Birm¬ing¬ham. Xin tạm biệt ông,
Gương mặt của Holmes sáng rực khi người Hoa Kỳ đi ra.
- Ông vui lòng cho tôi xem bộ sưu tập của ông, ông Gar¬rideb - Holmes nói - Trong cái nghề của tôi không có loại kiến thức nào là dư thừa cả và phòng ông quả là một bảo tàng viện.
Narthan Gar¬rideb đỏ mặt lên vì sung sướng:
- Thưa ông. Nếu ông có thời gi¬an, tôi xin đưa ông đi giáp vòng ngay bây giờ.
- Rủi là tối nay tôi bận. - Holmes trả lời - Tuy nhiên tất cả các mẫu của ông được phân loại và dán nhãn kỹ lưỡng đến nỗi, tôi nghĩ đâu cần ông đích thân giải thích. Nếu ông cho phép, ngày mai, tôi hân hạnh được tham quan.
- Rất sẵn sàng. Căn hộ lúc đó khóa, nhưng trước 4 giờ chiều bà Saun¬ders dưới tầng trệt còn ở nhà, bà ấy có thể trao chìa khóa cho ông.
- Nếu ông dặn trước bà Saun¬ders thì thật là thuận lợi cho tôi. Nhân tiện xin ông cho biết người chủ nhà của ông là ai vậy?
Narthan Gar¬rideb có vẻ bỡ ngỡ trước câu hỏi này.
- Steele, ở đường Edge¬ware. Mà có chuyện gì vậy ông Holmes?
- Tôi là một nhà khảo cổ hạng trung về địa ốc, - Holmes vừa nói vừa cười, - tôi thắc mắc không biết căn nhà này được cất vào thời đại nữ hoàng Anne hay vào thời các vua Georges?
- Chắc chắn là vào thời các vua Georges.
- Tôi đoán là xưa hơn một chút. Sự kiểm nghiệm cũng không khó. Xin tạm biệt ông Gar¬rideb và chúc ông may mắn trong chuyến đi.
Người cho thuê nhà cư ngụ gần đó nhưng văn phòng đóng cửa nên chúng tôi quay về phố Bak¬er.
Sau buổi cơm tối, Holmes trở về với đê
- Bài toán nhỏ của tôi đã tới hồi kết thúc. Anh Wat¬son, anh đã thấy cái giải đáp rồi chứ?
- Một chuyện không đầu không đuôi.
- Cái đầu thì khá rõ rồi. Còn cái đuôi, ngày mai chúng ta sẽ thấy thôi. Anh không thấy điều gì trong cái tin rao vặt sao?
- Mấy cái giếng khoan?
- À, anh để ý đến cái giếng khoan . Hay quá, Wat¬son! Anh mỗi ngày một tiến bộ. Ở nước Anh, người ta hết xài đến chúng, ở Mỹ thì còn thịnh hành. Thành ra cái tin rao vặt này là gốc Mẽo!
- Theo tôi thì chính tay Mẽo John Gar¬rideb này mướn đăng. Nhưng để làm gì thì tôi không hiểu?
- Hắn "điệu hổ ly sơn", muốn ông lão này lên Birm¬ing¬ham. Lẽ ra tôi nên cho ông ấy hay trước là ông ta đi mò kim đáy biển, nhưng tôi cũng cần ông ấy đi cho trống nhà. Ngày mai anh sẽ rõ trắng đen.
Holmes thức dậy rời nhà sớm và trở về vào giờ cơm, nét mặt trầm tư.
- Anh Wat¬son, nội vụ nghiêm trọng hơn tôi đoán. Tôi báo trước, để anh có đủ hăng hái mà xông pha. Có nguy hiểm đó!
- Đây đâu phải là cái nguy hiểm đầu tiên mà tôi được chia sẻ. Nhưng lần này thì có gì đặc biệt?
- Ta đụng vào một công việc cực kỳ khó. Tôi đã xác định lý lịch của John Gar¬rideb, tay cố vấn pháp luật đó. Hắn chính là Evans Sát Thủ, một kẻ giết người nổi tiếng.
- Tôi cũng chưa thấy gì rõ cả.
- Phải, nghề nghiệp của anh không bắt buộc anh phải nhớ tên từng thằng sát nhân. Tôi có đến Scot¬land Yard gặp Lestrade. Đôi khi ông ấy thiếu trực giác và thiếu tưởng tượng, tuy nhiên về mặt phương pháp và về mặt công việc cần cù, sâu sát thì Scot¬land Yard đoạt giải quán quân trên thế giới. Tôi nhớ ra rằng chỉ có tàng thư của Scot¬land Y mới giúp ta biết tông tích anh chàng Mẽo này. Đương nhiên là tôi đã tìm ra cái khuôn mặt hồng hào của hắn trong đám chân dung của những kẻ giết người. Bên dưới có ghi: "James Win¬ter, còn được gọi là More¬croft, tức là Evans Sát Thủ"...
Holmes móc từ trong túi ra một phong bì.
- Tôi có ghi nguệch ngoạc vài chi tiết trong hồ sơ của hắn: Tuổi 44, sinh tại Chica¬go. Ba lần giết người tại Hoa Kỳ. Trốn tù khổ sai nhờ thời gi¬an xáo trộn chính trị và đến được Lon¬don vào năm 1893. Giết một người trên bàn cờ bạc tại một hộp đêm ở đường Wa¬ter¬loo năm 1895. Nạn nhân chết, nhưng nhân chứng xác nhận chính hắn là thủ phạm, Nạn nhân được nhận dạng là Rodger Prescott, người nổi danh làm bạc giả tại Chica¬go. Hắn ra tù năm 1901, bị cảnh sát theo dõi sát, sống đời lương thiện. Thành phần cực kỳ nguy hiểm, Luôn có súng và sẵn sàng nhả đạn. Đó là con mồi của chúng ta, Wat¬son à! Mồi ngon, anh đồng ý không?
- Nhưng hắn kiếm cái gì vậy?
- Đòn phép của hắn bắt đầu lộ nguyên hình. Tôi có tới người cho thuê nhà. Thân chủ của chúng ta đã ở đó từ 5 năm nay. Trước đó thì căn nhà này bỏ trống. Người ở trước, tên là Wal¬dron. Tại dịch vụ cho thuê nhà, mọi người đều nhớ rõ Wal¬dron này, người cao to, có râu quai nón, và đen đúa. Anh chàng đột ngột biến đâu mất, không ai nghe thấy tăm hơi gì. Còn Prescott, nạn nhân của Killer Evans, theo Scot¬land Yard, lại cũng là một người nâu, cao và râu ria xồm xoàm. Cho nên giả thiết khởi điểm là Prescott, tên cướp người Mẽo, đã sống tại căn hộ này. Hiện nay ông bạn vô tội Narthan Gar¬rideb của ta biến căn hộ này thành viện bảo tàng. Ta đã tìm ra một khâu trong cái dây chuyền.
- Còn cái khâu kế tiếp?
- Hãy từ từ.
Anh lấy một khẩu súng lục ở ngăn kéo và trao cho tôi.
- Nếu tên Mẽo này hãm hại người đồng họ, thì ta phải sẵn sàng. Anh Wat¬son, cho phép anh ngủ trưa một giờ. Sau đó chúng ta phiêu lưu tại phố Ry¬der.
Đồng hồ gõ vang bốn tiếng khi chúng tôi đến căn nhà của Narthan Gar¬rideb. Bà làm sắp về, bà tạo mọi dễ dãi cho chúng tôi. Holmes hứa sẽ thu xếp gọn ghẽ trước khi rời nhà. Bà ra đi, đóng cửa lại. Chỉ còn hai chúng tôi tại tầng trệt. Holmes liếc mắt quan sát căn hộ. Trong một góc tối có một cái tủ không, kê sát giường. Chúng tôi chui núp phía sau đó. Holmes thì thầm tiết lộ cho tôi đại cương của kế hoạch.
- Tên Mẽo muốn cho thân chủ của mình rời khỏi căn hộ này. Chuyện đó là rõ ràng. Vì nhà sưu tập không bao giờ đi xa nên hắn phải vẽ vời này no như anh đã thấy. Toàn câu chuyện về dòng họ Gar¬rideb chỉ phục vụ cho mục đính đó.
- Quỷ quái chưa! Nhưng để làm gì?
- Đó là điều chúng ta sẽ phát hiện. Dự án của hắn không ăn nhập gì với thân chủ của chúng ta. Nó chỉ liên quan tới người mà hắn đã giết. Trong căn hộ này có thể có một bí mật phi pháp. Lúc đầu, tôi lầm tưởng thân chủ của chúng ta có một cái gì đó quý giá. Nhưng sự kiện Rodger Prescott với tiếng tăm trong giới gi¬ang hồ, đã ngụ tại căn hộ này, làm tôi ước đoán một nguyên nhân tồi tệ hơn. Chúng ta chỉ còn một việc để làm thôi, đó là nhẫn nại chờ đợi.
Một lúc sau, tôi nghe có tiếng cửa mở và có tiếng chân người. Chúng tôi co ro ngồi xổm trong bóng tối. Kế tiếp là tiếng động khô khan ở ổ khóa. Chàng cao bồi bước vào căn hộ, nhẹ nhàng đóng cửa lại, nhìn quanh quan sát, cởi áo choàng và tiến về phía cái bàn giữa, nhanh nhẹn đẩy cái bàn qua một bên, giở tấm đệm trải dưới bàn, cuộn nó lại, rồi rút cái xà-beng ngắn ở túi trong ra, quỳ gối và bắt đầu đào. Một lát sau thì một lỗ vuông xuất hiện. Evans Sát Thủ đánh diêm thắp một khúc nến và chui xuống mất hút.
Holmes rờ nhẹ cổ tay tôi. Hai chúng tôi rón rén tới miệng lỗ. Dù chúng tôi di chuyển nhẹ nhàng nhưng sàn nhà cũ vẫn kêu cót két dưới chân. Cái đầu của tên Mẽo ló ra khỏi lỗ. Nó quay về hướng chúng tôi, bộ mặt giận dữ cùng cực. Nhưng gương mặt nó từ từ dịu lại khi thấy rõ hai họng súng.
- Được, đượ,c- Nó vừa chui lên vừa lạnh lùng nói - ông Holmes à! Ông đã thấy cái mánh của tôi ngay từ đầu. Tôi nhìn nhận và chịu thua ông và...
Trong một thoáng, hắn rút súng và bắn hai phát.
Tôi cảm thấy xé thịt trên đùi. Nhưng súng của Holmes b đầu anh ta. Tôi mơ hồ thấy Evans Sát Thủ ngã trên sàn, máu chảy đầy mặt và Holmes tước vũ khí. Cuối cùng tay của bạn tôi ôm lấy tôi, kéo tôi đến một chiếc ghế.
- Bị thương có nặng không, Wat¬son? Nặng không?
Thái độ cuống quít của Holmes quả xứng đáng để tôi bị thương. Trong một giây lát, tôi thấy đôi mắt rớm lệ và đôi môi cương nghị run bần bật.
Đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy nhịp đập mạnh của con tim cứng cỏi. Cái phát hiện này bù đắp đầy đủ tất cả những năm tháng cộng tác khiêm tốn và bất vụ lợi của tôi.
- Không sao, Holmes à, chỉ trầy trụa sơ.
Holmes lấy dao rạch quần tôi.
- Đúng! - Anh ấy nói lớn và thở phào nhẹ nhõm - Vết thương xoàng thôi.
Khuôn mặt của anh lại lạnh như đá. Khi nhìn tên tù của chúng tôi đang ngồi dậy, mặt mày ngơ ngáo nghe anh nói:
- Cũng may cho mày đó. Nếu mày giết Wat¬son thì mày sẽ không toàn thân mà rời căn hộ này đâu. Giờ đây mày có điều gì nói để biện minh không?
Hắn không nói, chỉ nhìn chúng tôi. Tôi tì tay vào Holmes và hai chúng tôi cùng nhìn cái hầm nhỏ còn được chiếu sáng bởi khúc nến. Mắt chúng tôi dừng lại trên mốt cái máy rỉ sét, nhiều cuộn giấy lớn, chai lọ và nhiều gói nhỏ cột dây cẩn thận xếp kỹ lưỡng trên một cái đàn.
- Một máy in... Toàn bộ trang bị của tên trùm bạc giả? - Holmes nói.
- Đúng, thưa ông!
Tên Mẽo nhìn nhận, rồi ráng đứng dậy nhưng cuối cùng buông mình xuống ghế trở lại. Đó là một tên trùm tiền giả đáng sợ nhất tại Lon¬don này. Đó là cái máy của Prescott và các gói trên bàn chứa hai trăm tờ năm bảng mà hắn đã sản xuất.
- Hai ông hãy sử dụng mớ đó, c như bù vào công lao và tha cho tôi!
Holmes cười to:
- Bọn tao không mưu sinh bằng lối này, Evans à? Mày đã giết Prescott phải không?
- Đúng, và tôi đã lãnh 5 năm về tội này, mặc dù chính nó tấn công tôi. Lẽ ra tôi phải được thưởng một huy chương thật to. Không ai có thể phân biệt được tiền của Prescott với tiền của ngân hàng Anh quốc? Nếu tôi không giết y thì Lon¬don đã tràn ngập tiền giả. Tôi là người độc nhất biết y sản xuất tại chỗ nào. Quý ông đã hiểu rõ tại sao tôi xoay xở mọi cách để đẩy ông già bắt bươm bướm ra khỏi đây vài giờ. Lẽ ra tôi giết chết ông ấy là gọn ghẽ hơn. Nhưng tôi không thể hạ sát một đối thủ không võ trang. Nói cho cùng, thưa ông Holmes, tôi đâu có tội.
- Cho tới phút này thì mày chỉ bị kết tội mưu sát. - Holmes nói - Mày sẽ biết rõ khi qua gi¬ai đoạn hai. Hiện điều chúng tao cần là cái thân xác quý giá của mày. Kêu điện thoại cho Scot¬land Yard đi, anh Wat¬son!
Đó là các sự kiện liên quan đến Evans Sát Thủ và cái sáng tạo tuyệt diệu của y về ba người cùng mang họ Gar¬rideb. Sau này chúng tôi biết rằng ông bạn khảo cổ đáng thương bị suy sụp luôn sau cái chấn động làm tan nát mộng đẹp của ông. Tin mới nhất cho biết ông đang ở một viện an dưỡng tại Brix¬ton. Đó cũng là một ngày huy hoàng đối với Scot¬land Yard khi họ phát hiện được trang thiết bị của Prescott, tên làm bạc giả nổi tiếng. Thực sự Evans có góp một công lớn, giúp cho nhiều viên chức cao cấp ngủ ngon. Cái viên chức này đương nhiên sẵn lòng đóng góp để mua một huy chương to bằng cái nồi súp cho Evans vào bốn bức tường kín cho hắn suy ngẫm.
07. Bài Toán Cầu Thor
vào một buổi sáng tháng 10, tôi vừa thay quần áo vừa ng những chiếc lá vàng tiêu điều cuối cùng nhởn nhơ trước gió. Tôi rời phòng, đi ăn điểm tâm và chuẩn bị để đương đầu với sự ủ rũ của anh bạn Holmes thường bị ngoại cảnh chi phối.
- Tôi sai lầm Wat¬son à! - Anh ta tươi cười nói. Cái vui loại này thường báo hiệu chuyện chẳng lành. Tôi liền hỏi:
- Lại có vụ án lớn, phải không Holmes?
- Đúng. Tôi có một vụ án lý thú.
- Tôi có được dự phần vào cuộc chơi lý thú này không?
- Chúng ta sẽ thảo luận về nó sau khi anh đã thưởng thức hai quả trứng luộc quá chín của bà đầu bếp mới. Hai quả trứng này rất dở, giống như số báo Fam¬ily Her¬ald hôm qua. Việc luộc trứng cũng đòi hỏi sự chú ý vào tiến độ của thời gi¬an.Mười lăm phút sau cái bàn được dọn sạch. Chúng tôi ngồi đối diện với nhau, Holmes móc một lá thư trong túi ra, hỏi:
- Anh biết ông Neil Gib¬son, vua vàng không?
- Ông ấy là nghị sĩ quốc hội Hoa Kỳ. Nhưng bây giờ thì nổi tiếng trong giới tài phiệt.
- Đúng thế, tôi có biết. Có lẽ ông ta đã sống một thời gi¬an tại Anh. Tên của ông ấy nghe rất quen?
- Đúng vậy. Cách đây 5 năm, ông ấy mua một lãnh địa mênh mông trong tỉnh Hamp¬shire. Anh có nghe cái chết thê thảm của vợ ông ấy không?
- Có! Tôi nhớ ra rồi. Tuy nhiên tôi không biết chi hết.Holmes chỉ mấy tờ báo trên ghế.- Tôi không ngờ là tôi sẽ phải điều tra vụ này. Quả vậy vấn đề tuy chấn động dư luận nhưng không khó khăn lắm đâu. Cái tư cách nhân hậu của bị cáo cũng không làm giảm thiểu được tính hiển hiện của bằng chứng. Cảnh sát tư pháp và tòa án cũng đồng quan điểm này. Nội vụ đang chờ tòa đại hình Winch¬ester xử. Tôi ngại rằng sẽ là công dã tràng. Nếu không tìm ra được dữ kiện lạ và bất ngờ, thì làm sao đáp ứng nguyện vọng của thân chủ?
- Thân chủ của a
- Ủa? Thì ra tôi đã nhiễm thói xấu của anh? Kể chuyện mà bắt đầu từ cái đuôi. Hãy đọc lá thư này.
- Tuồng chữ của thư là tuồng chữ của một người cương quyết và có tính kẻ cả.
Khách sạn Clar¬idge, ngày 3 tháng 10. Thưa ông Sher¬lock Holmes, tôi không thể chứng kiến việc kết án tử hình người đàn bà tốt nhất mà không cô gắng để minh oan. Tôi không thể giải thích, tuy tôi quả quyết rằng cô Dạ-lan vô tội. ông đã biết các dữ kiện rồi.
Cả nước đều biết, đều thảo luận nhưng không có ai lên tiếng bênh vực nàng. Một sự bất công như thể làm tôi phát điên. Nàng nhân hậu đến độ không giám giết một con ruồi. Mười một giờ trưa mai, tôi sẽ đến để xem ông có thể đem lại một tia sáng nào không. Có thể tôi được một chỉ dẫn! Tất cả những gì tôi biết, tôi có và tôi làm đều được đặt dưới quyền sử dụng của ông. Xin ông hãy tung hết khả năng vào vụ này.Trân trọng.J. Neil Gib¬son.
- Vậy đó!
Holmes nói, vừa khảy tro thuốc ra khỏi cái tẩu và chuẩn bị một điếu khác.
- Tôi đang chờ ông này.Về nội dung câu chuyện, anh không có thì giờ đọc tất cả các báo. Tôi sẽ tóm tắt trong vài câu. Gib¬son là một người có thế lực tài chính lớn nhất trên thế giới. Tính tình vừa hung bạo vừa khủng khiếp. ông cưới một bà vợ. Bà này hình như không còn trẻ đẹp. Trong nhà lại có một nữ gia sư cực kỳ quyến rũ, dạy hai đứa con nhỏ. Đó là ba người có liên quan. Sân khấu là một lâu đài cổ nằm giữa một lãnh địa, xưa kia thuộc quyền sở hữu của một vương tôn công tử Anh quốc.Người ta tìm thấy bà vợ ở ngoài vườn cách nhà 800 mét lúc gần nửa đêm, bà mặc áo dài dạ hội, quàng khăn choàng, chết vì một viên đạn súng lục bắn vào đầu. Gần xác chết không có khí giới, không có dấu vết của kẻ sát nhân. Để ý điều này, tội ác có thể được thực hiện khá khuya. Một người gác rừng phát hiện xác chết lúc 2 giờ đêm. Cảnh sát và pháp y khám nghiệm trước khi khiêng nạn nhân vào nhà. Câu chuyện có cô đọng quá không, anh có nắm các điểm chính không?
- Nắm vững, nhưng tại sao lại nghi cô gia sư?
- Vì một bằng chứng rất là trực tiếp: Một khẩu súng lục thiếu một viên đạn, có cùng nòng được tìm thấy trong tủ của nữ gia sư.Với đôi mắt bất động, Holmes lặp lại:
- Trong tủ của nàng?
Rồi anh trầm ngâm hồi lâu. Tôi đoán rằng anh đang suy luận. Tôi lặng yên để không làm gián đoạn tư tưởng của anh. Đột ngột anh trở về với sự thật.
- Đúng vậy, cái súng lục được tìm thấy trong tủ của người nữ gia sư. Mặt khác, trong tay nạn nhân còn có một miếng giấy hẹp gặp tại điểm đó do nữ gia sư ký. Anh nghĩ sao về điều này, rõ quá chứ gì? Còn đây là động cơ của tội ác: nghị sĩ Gib¬son không thiếu sức quyến rũ. Nếu vợ y chết, ai có thể thay thế bà này, ngoài cô ta mà theo nhiều nhân chứng, cô ta đã được ông chủ săn đón dồn dập. Tình yêu, sự nghiệp quyền thế, tất cả sẽ có được. Anh Wat¬son!- Rất ghê tởm!
- Đương nhiên là rất ghê tởm.Cô ta cũng có thể đưa ra các bằng cớ để chứng minh mình vô tội. Nhưng cô ta đã nhìn nhận rằng đêm đó cô có tới gần cầu Thor. Một người dân trong làng đi ngang qua, có thấy cô tại đó.
- Đủ để buộc tội rồi!
- Nhưng, cây cầu Thor, nơi xảy ra án mạng, là một nhịp đá độc nhất bắc ngang khúc hẹp nhất của một dòng nước dài và sâu. Hai bên cỏ lau sậy nghẹt cứng, dân địa phương gọi là ao Thor. Xác chết nằm ngay đầu cầu. Đó là những dữ kiện cốt yếu. Nhưng kìa? ông Gib¬son tới kia!
- Ông ấy đến khá sớm?
Bi-li mở cửa, nhưng đó không phải là Gib¬son mà là một người hoàn toàn xa lạ. Một người lùn xủn, gầy đét và nóng nảy. Ông có đôi mắt sợ hãi và những cử chỉ ngập ngừng. ông xưng tên là Mác-long.
- Ông có vẻ bị dao động, ông Mác-long - Holmes nói:
- Mời ông ngồi, tôi ngại rằng không thể tiếp ông lâu bởi vì tôi có một cuộc hẹn lúc 2
- Tôi biết điều đó?
Khách nói ấp úng như người hết hơi.
- Ông Gib¬son sắp tới, ông ấy là chủ tôi. Tôi là viên quản lý lãnh địa của ổng. Thưa ông Holmes, đó là một thằng nham hiểm... cực kỳ nham hiểm.
- Ông dùng từ ngữ khá nặng đó, ông bạn?
- Không đâu, thưa ông Holmes. Thời gi¬an của tôi có hạn. Tôi thà chết chớ không để ông ấy gặp tôi tại đây. Ông ấy sẽ tới ngay bây giờ. Nhưng tôi không thể tới sớm hơn.
- Thư ký của ông ta là Phe-gu vừa cho tôi hay sáng nay.
- Còn ông là quản gia của ổng?
- Tôi đã đưa đơn xin nghỉ việc rồi. Trong vòng mười lăm ngày nữa, tôi chấm dứt đời nô lệ khốn nạn của tôi.
Ông ta là một người sắt đá đối với tất cả những người xung quanh ông ta. Làm từ thiện chỗ này chỗ nọ là để che đậy những tội lỗi trong đời tư. Nạn nhân chính của ổng lại là vợ ổng. Ông ta quá vũ phu với bà ấy. Bà ấy chết cách nào tôi không biết nhưng tôi chắc chắn rằng ổng đối xử rất tệ với bà ấy. Bà ấy nguyên quán vùng nhiệt đới, sinh tại Brésil, có lẽ ông đã biết điều này rồi.
- Không đâu, tôi không để ý!
- Sinh quán nhiệt đới, tính khí nhiệt đới con gái của mặt trời và của đam mê. Bà ấy đã yêu ổng với tình yêu của loại đàn bà đó. Hình như trước kia bà là một bậc sắc nước hương trời, nhưng khi nhan sắc tàn phai, thì không còn kiềm chế ổng được nữa. Tất cả chúng tôi đều thương mến bà ấy, và rất ghét ổng. Đấy là những gì tôi muốn nói. Giờ đây tôi phải kiếu từ. ổng sắp tới rồi!
Nhìn đồng hồ của chúng tôi lần chót, người khách chạy vọt ra cửa và biến mất.
Holmes thốt lên sau một lúc yên lặng.
- Ông Gib¬son có những nhân viên trung nghĩa ngoài mức bình thường? Những điều nhắc nhở ấy không phải là vô ích. Giờ đây ta chỉ còn chờ chính nhân vật đó.
Đúng giờ hẹn, một bước đi nặng nề vang dội dưới cầu thang và nhà triệu phú nổi tiếng được mời vào. Thoạt nhìn ông ta, tôi thông cảm cho những nỗi sợ hãi và ghét bỏ của viên quản lý mà cả những lời nguyền rủa của vô số địch thủ của ông trên thương trường. Đôi mắt xám, lạnh lùng, tinh tế, lần lượt quan sát chúng tôi. ông lễ độ cúi chào tôi khi nghe Holmes giới thiệu rồi với thái độ của một đại gia, ông kéo một cái ghế về hướng Holmes, ngồi sát cạnh, gần như vai kề vai.
- Thưa ông Holmes, xin phép nói trước với ông rằng, trong vụ này, tiền bạc không là vấn đề. Ông có thể đốt tiền nếu cần để làm cho sự thực được nổ bùng. Cô giáo đó vô tội, nàng phải được minh oan. Ông lãnh sứ mạng đó. Ông hãy chính xác hóa con số!
- Thù lao của tôi được định theo một giá biểu cố định- Holmes lạnh lùng trả lời - Tôi không thay đổi bao giờ trừ khi tôi đặc miễn cho vài thân chủ.
- Vậy thì ông hãy nghĩ tới danh tiếng, nếu ông coi thường đồng đô- la. Nếu ông cứu được người đàn bà này, tất cả báo chí Anh, Mỹ sẽ ca tụng ông.
- Cám ơn ông. Tôi cảm thấy không cẩn ăn kẹo. Có thể ông sẽ ngạc nhiên khi biết rằng, tôi thích âm thầm làm việc và chỉ các bài toán mới lôi cuốn được tôi... Thôi, không nên mất thời gi¬an, ta hãy vào đề.
- Theo tôi thì đại cương của câu chuyện đã được báo chí ghi đầy đủ, tôi không có gì để bổ khuyết. Nhưng nếu cân hiểu rõ một chi tiêu nào đó, tôi sẵn sàng tiếp tay với ông.
- Một điểm mà thôi!
- Điểm nào?
- Tính chất chính xác của mối quan hệ giữa ông với cô Dạ-lan?
Ông vua vàng giựt mình nhổm dậy khỏi ghế, nhưng lại lấy lại bình tĩnh.
- Tôi đã nghĩ rằng ông sẽ hỏi tôi một câu như thế.
- Cả hai chúng ta đều phải nghĩ như vậy.
- Như vậy tôi có thể bảo đảm với ông rằng mối quan hệ giữa chúng tôi là mối quan hệ giữa một người chủ đối với một cô giáo mà chỉ nói chuyện và gặp cô ở cạnh mấy đứa nhỏ.
Holmes đứng dậy:
- Tôi là một người bận rộn, thưa ông. Tôi không rảnh và không thích nói những chuyện vô bổ. Xin kiếu từ ông.
Người khách của chúng tôi cũng đứng lên, và chế ngự Holmes bằng cái thân hình đồ sộ của ông. Một tia cuồng nộ lóe lên từ dưới đôi chân mày.
- Cái quỷ quái gì vậy ông Holmes?
Ông không bằng lòng với ý kiến của tôi à?
- Vâng?
- Tôi có cảm giác là tôi đã nói rõ ràng như ban ngày, nhưng tại sao vậy? Ông đòi thêm tiền hoặc ông sợ không muốn dính dáng vào nội vụ. Tôi cũng có quyền được biết.
- Tôi nói rõ ngay thôi. Chuyện này đã khá rắc rối ngay từ đầu, tôi không muốn nó bị vướng thêm khó khăn với những tin tức sai lạc.
- Nghĩa là ông bảo rằng tôi đã nói láo?
- Thưa ông, tôi đã cố gắng nói năng một cách tế nhị. Nhưng nếu ông nhấn mạnh đến từ đó, thì tôi không phản đối ông đâu.
Tôi vội vã đứng lên vì nhà triệu phú đã điên tiết và đã đưa ra cái nắm tay to tổ bố. Holmes trả lời ông ta bằng một nụ cười vô tư lự và đưa tay lấy cái tẩ
- Đừng ồn ào, ông Gib¬son. Tôi nghĩ rằng sau khi ăn điểm tâm thì dù cãi vặt cũng bị xáo trộn sinh lý. Tôi quan niệm rằng một sự đi bộ giữa khí trời bao la vào buổi sáng hoặc sự nằm nghỉ vài phút sẽ có lợi cho ông hơn.
Cố gắng lắm ông vua vàng mới kìm chế được cơn cuồng nộ. Tôi phải ngợi khen ông ấy vì sau đó lửa cuồng nộ bị dập tắt và nhường chỗ cho một sự điềm đạm lạnh lùng, khinh miệt.
- Được thôi, ông đã lựa chọn. Tôi đoán rằng ông biết cách làm ăn. Tôi không thể ép buộc ông phụ trách vụ này. Ông Holmes, sáng nay ông tự chuốc họa vào thân, bởi vì tôi đã từng bẻ gãy những kẻ cứng cỏi hơn ông. Không gì có thể cản đường tôi được. Không bao giờ!
- Tôi thường nghe những lời lẽ đe dọa - Holmes vừa cười vừa nói - Tôi vẫn sống, xin kiếu từ, ông Gib¬son. Ông còn phải học hỏi nhiều.
Người khách giận dữ bước ra, trong khi Holmes bắt đầu hút thuốc, im lặng nhìn lên trần nhà một cách mơ màng.
- Wat¬son không có ý kiến gì à?
- Cuối cùng anh hỏi tôi.
- Khi tôi xét một người có thói quen gạt qua một bên bất cứ chướng ngại nào và khi tôi nhớ rằng vợ của y đã trở thành một chướng ngại như Mác-long cho biết, thì hình như...
- Đúng lắm! Tôi cũng nghĩ như vậy.
- Nhưng mà mối quan hệ của y với cô gia sư ra sao, làm sao anh biết!
- Tôi đoán!
- Wat¬son à! Khi so sánh cái giọng đam mê, lời lẽ của bức thư với cái thái độ tự chủ và nghiêm nghị tại đây, tôi thấy rõ rằng tình cảm của y nghiêng về bị cáo hơn là về nạn nhân. Muốn đi tới sự thực, cần phải biết rõ tính chất của các quan hệ giữa các diễn viên. Anh thấy tôi đã tấn công trực diện và y đã đón nhận một cách thản nhiên. Tôi đã bịp y khi làm bộ nắm chắc sự việc, trong k đó thật ra tôi hãy còn ngờ vực!
- Ông ta quay lại chứ?
- Chắc chắn ông ta không thể dừng tại đó đâu. Chuông reo phải không? Đúng rồi. Tôi nhận ra bước đi của ông ta.
- Chào ông Gib¬son, tôi vừa nói với bác sĩ Wat¬son rằng ông sẽ trở lại.
Ông vua vàng đi vào phòng chúng tôi một cách ít ồn hơn lúc ra đi hồi nãy. Vết thương giáng xuống tính ngạo mạn của ông vẫn còn in rõ dấu vết trong cái nhìn của ông. Nhưng lương tri của ông đã cho ông thấy rằng muốn thắng lợi, ông phải nhượng bộ.
- Tôi đã suy nghĩ lại, thưa ông Holmes, và tôi nhìn nhận rằng tôi quả có nóng nảy khi hiểu lầm cái nhận xét của ông. Ông có lý khi muốn biết mọi dữ kiện, dù chúng là cái gì. Tôi càng kính nể ông hơn bội phần. Tôi có thể đoán chắc với ông rằng cả cô Dạ-lan và tôi đều không có ảnh hưởng gì đến nỗi vụ.
- Chúng tôi mới có quyền kết luận chứ!
- Đương nhiên, giống một y sĩ, ông phải biết hết các triệu chứng trước khi chẩn đoán.
- Quả vậy, sự so sánh đó là đúng. Bệnh nhân nào giấu đi một vài triệu chứng là lừa gạt y sĩ vì một mục đích?
- Có thể. Tuy nhiên ông nên xét rằng đa số đàn ông đều nhột khi đột ngột bị hỏi thăm về tính chất của mối quan hệ giữa họ với một người đàn bà... đặc biệt khi đã có một tình cảm xen vào. Tôi tin rằng phần lớn đàn ông đều có một lãnh địa nhỏ nhoi, riêng tư trong tận đáy lòng họ và họ không muốn người khác đột nhập. Ông đã thọc vào đó một cách khá đột ngột... Nhưng mục đích của ông tha thứ cho ông. Ông đã hành động như thế là vì muốn cứu cô ấy. Tóm lại, trận đầu đã xong, bãi chiến trường rộng mở, ông có thể dò la tùy thích, ông muốn biết gì?
Sự thực ông vua vàng ngồi yên lặng một hồi lâu, như thể để sắp xếp lại tư tưởng, mặt ông sa sầm lại và trở nên nghiêm nghị hơn.
- Thưa ông Holmes, ở đời có vài chuyện khó nói ra lắm. Tôi quen với vợ tôi lúc tôi đi đào vàng tại Brésil. Ma-rin là con của một viên chức chính phủ tại Man¬aos. Nàng rất đẹp. Lúc đó tôi còn trẻ và nồng nhiệt. Bây giờ khi bình tĩnh và khách quan nhớ chuyện xưa, tôi phải nhìn nhận rằng nàng đẹp rực rỡ. Nàng có một bản chất phong phú, sâu sắc, đam mê, trọn vẹn nhiệt đới, khác hẳn cái cô bé Hoa Kỳ mà tôi quen về trước. Tóm lại tôi thương và cưới nàng. Nhưng chỉ sau vài năm, cái gi¬ai đoạn mơ mộng tiểu thuyết bị chấm dứt. Lúc đó tôi mới thấy rằng giữa chúng tôi không có cái gì giống nhau, thế là tình yêu của tôi sút giảm. Phải chi tình yêu của nàng cũng sút giảm thì sự việc sẽ gọn ghẽ hơn. Đằng này, dù tôi quậy đến đâu, nàng cũng không tách xa khỏi tôi. Tôi bèn nghiệt ngã, vũ phu với nàng, vì tôi cho rằng những cái đó sẽ giết chết tình yêu hoặc biến nó thành hận thù, thì câu chuyện sẽ dễ dàng cho cả đôi bên. Khốn thay, không gì có thể thay đổi tình yêu của nàng được. Nàng tôn thờ tôi trong rừng Anh quốc này y hệt như nàng đã tôn thờ tôi hồi 20 năm về trước trên bờ sông Ama¬zone. Tôi quậy gì thì quậy, nàng vẫn gắn bó với tôi như trong ngày đầu.
Giữa lúc đó thì cô Dạ-lan xuất hiện. Chúng tôi rao vặt kiếm nữ gia sư. Cô đến và được thu dụng. Có thể ông đã thấy hình cô ta trên báo. Cả thế giới đều đã nhìn nhận rằng cô cũng là một người đàn bà đẹp phi phàm. Tôi phải thành thật thú nhận rằng, tôi không thể sống dưới một mái nhà với một người đàn bà đẹp như thế, mà không có một cảm tình dành cho nàng. Ông có trách tôi không, ông Holmes?
- Tôi không trách ông. Tôi sẽ trách, nếu ông đã không bày tỏ nó ra, bởi vì trong một chừng mực nào đó, cô bé kia thuộc trách nhiệm bảo vệ của ông.
- Có thể!
Ông triệu phú nhìn nhận và rùng mình trước lời trách cứ.
- Tôi không đạo đức giả. Tôi cho rằng trong suốt đời tôi, tôi chưa bao giờ thèm bất cứ cái gì khác hơn là tình yêu và cái quyền sở hữu đối với cô gái đó. Tôi có nói với cô ta điều đó.
- Ồ, vậy là có nói rồi?
- Tôi có nói với nàng rằng nếu có thể, tôi sẽ cưới nàng. Nhưng chuyện đó nằm ngoài quyền năng của tôi. Tôi có nói với nàng rằng tiền bạc không đáng. Tôi sẽ làm tất cả những gì trong khả năng vì hạnh phúc và tiện nghi cho nàng.
- Thật là hào phóng, ai cũng thấy thế.
Holmes vừa nói vừa cười nhạo.
- Ông Holmes. Tôi tới đây để nhờ ông chứng minh sự vô tội của nàng, chứ không để nghe ông dạy đạo đức. Tôi không cần sự phê bình của ông đâu!
- Chỉ vì cô bé mà tôi lưu ý đến nội vụ - Holmes trả lời - Giữa hai tội này, tôi không biết cái nào nặng, cái nào nhẹ: cái tội sát nhân mà cô ta bị buộc và cái tội dụ dỗ một cô gái bơ vơ thuộc trách nhiệm bảo vệ của mình.
- Tôi lấy làm lạ là lời trách móc này được đón nhận êm xuôi. Tới bữa nay tôi mới thấy rõ vấn đề. Tôi cám ơn Chúa rằng cái dự án của tôi không tiến triển như tôi hy vọng. Nàng đâu chịu nghe, nàng muốn rời nhà tức khắc. - Người khách nói.
- Thế tại sao nàng còn chần chờ.
- Trước tiên là vì sự mất việc sẽ là một đại họa đối với gia đình nàng. Nhất là khi tôi đã thành tâm hứa với nàng là không bao giờ gây bận tâm cho nàng. Nàng đã bằng lòng ở lại. Tuy nhiên, còn có lý do khác: nàng biết nàng có ảnh hưởng đến tôi! Nàng muốn sử dụng ảnh hưởng đó để làm điều tốt.
- Tôi không hiểu điều này?
- Nàng có biết sơ về chuyện làm ăn bên ngoài của tôi. Thưa ông, tôi không thể làm nên mà không phá nát. Chẳng những phá những con người mà phả cả cộng đồng thành phố, ngay cả các quốc gia cũng có thể bị tôi phát nát. Đó là một trò chơi nghiệt ngã, kẻ yếu kém phải gục chết. Tôi luôn chơi xả láng. Tôi không bao giờ rên, nên tôi không để ý tới những cái rên rỉ của kẻ khác. Ngược lại, nàng nghĩ và nói luôn miệng rằng cái thừa mứa của người giàu không nên xây dựng trên sự phá sản, nghèo đói của hằng trăm ngàn người khác. Nàng biết rằng tôi nghe lời nàng và nàng cho rằng nàng sẽ làm được một điều thiện khi có ảnh hưởng tốt đến việc làm của tôi. Do đó nàng ở lại và vì thế thảm kịch đã xảy ra.- Ông có thể cho tôi một vài tia sáng không?
Ông vua vàng lại im lặng một lần nữa, ông ôm đầu suy nghĩ.
- Toàn là nhưng yếu tố bất lợi cho nàng. Lúc đầu khi xúc động quá, mệt mỏi quá, tôi quả có ngã về hướng nghi ngờ nàng. Nhưng lại có một giải thích khác trong đầu tôi: hiển nhiên là vợ tôi ghen khủng khiếp. Vợ tôi thấy rõ rằng cô gái này có ở trong trí và có ở các hành động của tôi, một ảnh hưởng mà vợ tôi chưa bao giờ kiếm được. Vợ tôi điên vì hận thù và máu của nàng bừng bừng khí nóng của vùng Ama¬zone. Nàng có kế hoạch giết Dạ-lan hoặc dọa giết bằng súng lục, mục đích làm cho Dạ-lan sợ, phải rời khỏi nhà này. Có thể một cuộc ẩu đả đã xảy ra giữa hai người, và khẩu súng bị ướp cò, làm cho người cầm nó trên tay bị chết.
- Tôi cũng có tính tới khả năng này. Quả thực là giả thiết độc nhất, ngoài cái sự kiện là cô gái giết người có dự mưu - Holmes nói.
- Dạ-lan dứt khoát không nhận.
- Đương nhiên, nhưng liệu cô ta có thoát khỏi không. Giả thiết tạm là khi bị kẹt trong một tình huống sợ hãi, cô gái vẫn không quên nhặt cây súng để rồi nhạy về nhà, hốt hoảng liệng nó trong tủ quần áo, chả biết để làm gì. Và khi súng bị phát hiện thì chối phăng? Làm sao phá vỡ cái giả thiết này?
Chính bản thân cô Dạ-lan mới phá vỡ được.
- Có thể?
Holmes nhìn đồng hồ.
- Tôi tin chắc rằng sáng nay chúng ta có thể xin được giấy phép và đến Winch¬ester bằng chuyến xe tối. Khi gặp Dạ-lan rồi, có thể tôi giúp được ông. Nhưng tôi không hứa rằng các kết luận của tôi sẽ phù hợp với ý muôn của ông.
...
Sự xin phép thăm tội nhân không nhanh chóng như Holmes tưởng. Thay vì đến Winch¬ester ngay hôm đó, chúng tôi đi tới cầu Thor. Ông vua vàng không đích thân dẫn đi, nhưng chúng tôi có địa chỉ của thượng sĩ Coven¬try, thuộc cảnh sát sơ, là người đầu tiên thụ lý nội vụ.
Đó là một người cao lêu nghêu, có những cử chỉ bí hiểm lạ thường, tạo cảm giác rằng ông biết hoặc ngờ vực nhiều hơn là muốn nói. Ông tỏ ra là một cảnh sát viên đạt chuẩn, lương thiện, khiêm tốn, thú nhận mình đã lâm vào ngõ bí, cần được tiếp sức.
Dù sao đi nữa ông ấy nói với chúng tôi.
- Tôi thích có ông hơn là Scot¬land Yard. Khi Scot¬land Yard xuống thì cảnh sát địa phương mất hết công trạng, nếu cuộc điều tra thành công, còn khi họ thất bại thì chúng tôi bị làm vật hy sinh. Quý ông chơi lương thiện hơn, theo như người ta nói.
- Tôi không đòi được ghi công trong vụ án.
Holmes đáp, khiến người đối thoại của chúng tôi thở ra nhẹ nhõm.
- Nếu tôi làm sáng tỏ nó, tôi không muốn tên tôi được nêu lên.
- Rõ ràng ông chơi theo kiểu "anh hai"Và tôi cũng có thể tin cậy cả bạn thân của ông là bác sĩ Wat¬son, phải không? Giờ đây, thưa ông Holmes, trước khi ra hiện trường, tôi xin đặt cho quý ông một câu hỏi. Tôi không dám nêu nó ra với người nào khác.
Ông ấy nhìn quanh như ngại ngùng rồi nhỏ giọng:
- Quý ông có thấy nên lập hồ sơ truy tố đích danh ông Gib¬son không?
- Tôi đã nghĩ tới điều đó?
- Quý ông chưa thấy cô Dạ- lan. Về mọi phương diện, đó là một người phụ nữ tuyệt diệu. Có thể ông ấy muốn rảnh nợ. Mấy ông Hoa Kỳ bắn súng lục nhanh lắm. Súng của ổng đó!
- Sự kiện này đã được chứng minh chưa?
- Rồi, thưa ông. Ổng có hai cây. Khẩu súng tịch thu là một trong hai cây đó.
- Hai súng lục? Vậy thì cái kia đâ?
- Ổng có cả một lô khí giới đủ hiệu, đủ nòng. Quả thật, chúng tôi chưa nhận dạng được cây súng lục thứ hai. Nhưng bao súng chắc chắn là bao đôi.
- Nếu súng tìm ra được là thành phần của một cặp, thì lẽ ra ông phải nhận dạng cái kia?
- Ồ, chúng tôi đã gom tất cả vào một góc rồi. Nếu cần, ông hãy vào xem qua.
- Để sau này đã. Giờ đây, chúng ta hãy ra hiện trường.
Cuộc nới chuyện này diễn ra trong văn phòng chật hẹp của thượng sĩ Con¬ven¬try, dành cho chi cảnh sát địa phương. Sau khi đi bộ 800 mét, chúng tôi tới cổng phụ nhỏ của lãnh địa Thor.
Một đường đi băng ngang khu rừng nuôi chim trĩ.
Đứng từ một cửa, chúng tôi thấy ngôi nhà hùng vĩ, nằm chênh vênh trên đỉnh đồi. Chúng tôi đứng gần một cái ao hình số 8. Hai bên cầu, ao chia thành những cái hồ con con. Hướng dẫn viên của chúng tôi đứng tại đầu cầu rồi chỉ tay về một nơi trên đất.
- Xác bà Gib¬son nằm tại đây. Tôi có để một cục đá làm dấu.
- Đương nhiên ông phải đến trước khi xác được khiêng vào nhà?
- Đúng thế, tôi được kêu tới liền.
- Ai mời ông.
- Ông Gib¬son. Ngay khi được báo, ổng cùng chạy ra với các người khác và căn dặn giữ nguyên mọi nguyên trạng, chờ cảnh sát tới.
- Qua báo chí, tôi biết hung thủ đứng không xa lắm?
- Đúng thế.
- Gần màng tang bên
- Ngay sau màng tang bên phải, thưa ông. Không có dấu vết của ẩu đả, không có dấu tay, không có khí giới? Miếng giấy nhỏ của cô Dạ-lan được nạn nhân nắm chặt trong tay trái.
- Nắm chặt?
- Vâng, thưa ông, gỡ ra đổ mồ hôi hột.
- Sự kiện này vô cùng quan trọng. Nó loại trừ cái giả thiết cho rằng ai đó đã nhét tờ giấy vào trong tay bà Gib¬son sau khi bà bị giết. Chuyện lạ lùng! Nếu tôi nhớ không lầm tờ giấy viết rất ngắn. "Tôi sẽ ra cầu Thor, lúc 9 giờ. Dạ-lan". Phải vậy không?
- Đúng vậy, thưa ông.
- Cô Dạ-lan nhìn nhận có viết tờ giấy này?
- Vâng, thưa ông.
- Cô không giải thích ra sao?
- Cô ấy không giải thích gì cả, cô dành sự bào chữa của cô cho phiên tòa đại hình.
- Bài toán thật là lý thú.
- Cái mục về tờ giấy thật mù mờ phải không?
- Theo tôi thì tờ giấy ấy lại là điểm duy nhất sáng tỏ trong nội vụ.
Holmes lắc đầu.
- Tạm nhận rằng nó do chính bị cáo viết ra. Chắc chắn nó được nhận trước đó lâu rồi. Tạm nói là một hoặc hai giờ đi, tại sao bà đó vẫn giữ chặt nó trong tay? Tại sao phải mang theo kỹ lưỡng đến thế, trong khi nói chuyện với cô nữ gia sư? Điều này có lạ không?
- Nếu trình bày sự việc theo cách của ông thì quả là lạ, thưa ông?
- Tôi cần ngồi yên tại đây suy nghĩ một lúc - Holmes nói
Holmes ngồi trên bờ đá của cầu, tôi thấy đôi mắt xám và linh hoạt của anh dò xét tứ hướng. Thình lình, anh đứng lên chạy qua bao lơn đối diện, chùi cái kính lúp rút trong túi ra, và quan sát.
- Đây là một điều kỳ lạ? Anh nói.
- Đúng thế, chúng tôi có thấy một vết trầy trên thành cầu. Tôi nghĩ do một người đi đường tạo ra.
Thành cầu màu xám, nhưng tại điểm này xuất hiện một vết trầy to bằng một đồng tiền, có màu trắng. Khám kỹ, ta có thể thấy nó trầy là do một cú đánh mạnh.
- Phải có một cái lực rất mạnh - Holmes thì thầm một cách suy tư.
Holmes dùng gậy đập lên bao lơn nhiều lần mà không để lại dấu vết!
- Một cú cực kỳ mạnh- Holmes nói tiếp - tại một điểm! Một cú đập không phải từ trên xuống, mà từ dưới lên, bởi vì nó ở mép dưới của thành cầu.
- Nhưng nó cách xa xác chết đến 5 thước.
- Đúng, cách xác chết 5 mét. Có thể hai điều này chúng liên quan gì với nhau, tuy vậy ta cũng nên lưu ý tới chi tiết này. Hình như chẳng còn gì để dò tìm nữa. Không có dấu chân, thượng sĩ đã nói rồi?
- Đất cứng như sắt, thưa ông. Tuyệt đồi không có dấu chân.
- Vậy là chúng ta có thể rút lui ngay bây giờ. Trước hết ta hãy vào nhà nhìn qua cái mớ vũ khí mà ông nói, rồi chúng ta sẽ đi Winch¬ester. Tôi muốn gặp cô Dạ-lan trước khi tiếp tục cuộc điều tra.
- Ông Gib¬son chưa về, nhưng chúng tôi gặp ông Mác-long.
Với một cái thở ra u buồn, ông ấy chỉ một mớ súng ống đủ hiệu, đủ cỡ mà ông Gib¬son tích trữ.
- Ông Gib¬siều kẻ thù - ông quản gia nói.
- Dù ngủ, ổng cũng để cây súng nạp đạn vào trong một ngăn kéo ở đầu giường. Có nhiều lần chúng tôi run muốn chết. Tôi chắc chắn rằng đã hơn một lần, người đàn bà đáng thương đó mất hồn mất vía.
- Có lần nào ông mục kích tận mắt một cảnh bạo ngược của ông ta đối với vợ không?
- không tận mắt. Nhưng tôi có nghe ông ấy tuôn ra những lời miệt thị lạnh buốt xương, ngay cả trước mặt gia nhân.
- Nhà triệu phú của chúng tôi không sáng chói trong đời tư - Holmes nhận xét - Thôi chúng ta đi ra ga.
- Anh Wat¬son, chúng ta đã gom vô số dừ kiện trong đó có một vài cái hoàn toàn mới. Nhưng kết luận vẫn còn xa. mặc dù ông Mác-long quá tởm ông chủ, nhưng chính qua ổng mà tôi chắc chắn rằng tin dữ báo cho Gib¬son ở tại thư viện. Cơm tối đã được dọn lúc 8 giờ 30 và cho đến lúc bấy giờ thì mọi chuyện vẫn bình thường. Đúng là tin báo nhận được khá khuya trong lúc án mạng xảy ra đúng giờ ghi trên tờ giấy. Tuyệt đối không có bằng cớ nào chứng minh rằng ông Gib¬son ra khỏi nhà sau khi từ Luân Đôn về lúc 5 giờ. Mặt khác, cô Dạ-lan nhìn nhận rằng cô có hẹn với bà Gib¬son ở trước cầu. Ngoài lời khai này, cô không chịu giải thích gì thêm. Tôi cần hỏi cô nhiều câu hỏi quan trọng. Tôi sẽ nói rõ rằng nội vụ rất bất lợi cho cô ta, trừ một điểm.
- Điểm nào?
- Sự phát hiện cây súng trong tủ của cô.
- Kỳ nhỉ - Tôi nói lớn - Theo tôi đó là cái bằng cớ hùng hồn nhất.
- Không phải vậy đâu. Điểm này làm tôi nghi ngờ tức khắc? Giờ đây sau khi đã đi sâu vào vấn đề, tôi coi đó là văn bản vững chắc duy nhất để hy vọng. Chúng ta có nhiệm vụ kiếm ra cái gì cụ thể. Nếu thiếu, chúng ta phải coi đó là một màn lừa bịp.
- Tôi chưa hiểu?
- Giả sử anh là cô giáo đó, đang tỉnh táo dự mưu để gạt bỏ tình địch. Anh phải lập kế hoạch cho sít sao. Khi tội ác đã hoàn tất, tại sao anh không vứt súng vào một trong cả chục cái hồ con đầy lau lách chằng chịt. Như vậy thì ai sẽ kiếm ra? Ngược lại, tại sao anh lại đem súng về nhà, bỏ vào chỗ mà chắc chắn là sẽ bị lục soát đầu tiên. Tôi không tin rằng anh ngu xuẩn tới mức đó.
- Do cuống lên, vẫn được chứ!
- Không đâu. Không thể như vậy được. Hãy tin tôi, khi một án mạng đã được tỉnh táo dự mưu, thì các việc che giấu cũng đã được tỉnh táo dự liệu.
- Như vậy thì có vô số điểm cần phải được giải thích thỏa đáng!
- Chúng ta làm thử xem. Mà một khi quan điểm được thay đổi thì cái gì trước đây là điểm buộc tội sẽ trở thành một tang chứng của sự thực. Nhưng về cây súng lục, cô giáo bảo rằng không biết, theo giả thiết mới, cô ấy nói sự thực. Như vậy là súng được ai đó để vào tủ của cô.
- Ai vậy?
- Kẻ muốn cho cô chịu trách nhiệm về vụ án mạng?
- Kẻ này mới chính là thủ phạm. Lý luận theo lối này mở ra cho ta nhiều chân trời mới!
Sáng hôm sau, tháp tùng với ông luật sư Cư-minh, người biện hộ cho cô Dạ-lan, chúng tôi được vào phòng gi¬am. Theo tất cả những gì đã được nghe, tôi hy vọng sẽ gặp một thiếu nữ cực kỳ đẹp. Nhưng tôi không bao giờ quên cái ấn tượng mà cô Dạ-lan đã gây ra cho tôi.
Tôi hiểu rõ tại sao chính nhà triệu phú thấy ở cô ta một quyền lực mạnh hơn quyền lực của chính ông ta? Nhìn cái khuôn mặt cương nghị, dứt khoát, nhưng nhạy cảm, ta có cảm giác rằng dù cô có khả năng làm một cái gì mạnh bạo, cái tính khí cao đại bẩm sinh luôn luôn hướng cô đến điều thiện. Cô có nước da ngăm, thân hình cao, dáng dấp mảnh mai. Cô có uy đồi với kẻ khác, kể cả chúng tôi. Tuy nhiên qua ánh mắt cô, chúng tôi thấy sự tuyệt vọng của một con thú kẹt nhặt trong lưới. Khi cô hiểu ý nghĩa của s và sự trợ lực của bạn tôi thì má của cô hồng lại một chút và một tia hy vọng có lóe lên trong cái nhìn của cô.
- Có thể ông Gib¬son đã tiết lộ cho ông biết những gì đã xảy ra giữa chúng tôi? - Cô hỏi với giọng rền vang và run run.
- Có. Sau khi gặp cô, tôi nhìn nhận là đúng: tất cả những gì ông Gib¬son nói về ảnh hưởng của cô với ông ta và sự trong sáng trong mối quan hệ giữa ông ta và cô. Nhưng tại sao chi tiết này không được tiết lộ cho dự thẩm - Holmes nói.
- Tôi đâu có ngờ rằng, chuyện khó tin như thế lại được chấp nhận. Trước đây tôi cho rằng cứ nhẫn nại, nội vụ sẽ tự nó sáng tỏ, khỏi cần đào sâu vào những chi tiết đau lòng về đời tư của gia đình đó. Nhưng giờ đây tôi thấy thay vì sáng tỏ, câu chuyện lại trầm trọng thêm ra.
- Thưa cô - Holmes nói lớn - Tôi thỉnh cầu cô đừng nuôi ảo vọng gì về hướng đó. Luật sư Cư-minh sẽ cho cô biết rằng tất cả các lá bài đều bất lợi cho ta. Nói rằng sẽ không có gì nguy hại cho cô là ác độc, là lừa bịp. Cô hãy giúp chúng tôi để làm nổ bùng sự thật?
- Tôi sẽ không giấu gì quý ông?
- Vậy hãy cho chúng tôi rõ về mối quan hệ thực tế giữa cô và bà Gib¬son.
- Bà ấy ghét tôi, thưa ông Holmes. Bà ghét tôi với tất cả bạo lực của tính khí nhiệt đới của bà. Đó là một người đàn bà không bao giờ ngừng ở lưng chừng. Bà ấy thương ông bao nhiêu thì thù ghét tôi bấy nhiêu. Có thể bà ấy đã hiểu lầm về mối quan hệ giữa tôi với ông ấy. Tôi không hề muốn phá gia đình của bà ấy. Bà thương chồng nhiều đến nỗi bà không thể hiểu được cái mối liên lạc trí thức, đạo lý ràng buộc chồng bà với tôi. Bà không thể hiểu rằng chỉ vì muốn tạo ảnh hưởng tốt cho ông ấy mà tôi còn nấn ná ở trong căn nhà đó. Giờ đây, tôi mới hiểu là tôi sai lầm khi không chịu dứt khoát. Không thể nào biện minh sự hiện diện của tôi tại một nơi mà tôi là nguồn gốc của đại họa. Nhưng, dù tôi đã ra đi, sự bất hạnh vẫn tồn tại ở gia đình đó.
- Cô Dạ-lan, tôi khẩn khoản yêu cầu cô kê chúng tôi nghe những gì xảy ra đêm đó.
- Thưa ông, tôi biết gì thì kể nấy, nhưng không chứng minh gì được đâu. Nhưng có những dữ kiện thiết yếu mà tôi thấy không thể nào giải thích được.
- Nếu cô cung cấp đừ kiện cho chúng tôi thì may ra có người sẽ giải thích được.
- Sự hiện diện của tôi tại cầu Thor đêm đó do giấy mời của bà Gib¬son gửi lúc sáng. Giấy này để ở bàn phòng học, bà ấy yêu cầu tôi gặp bà sau cơm tối vì bà có một điều quan trọng cần nói với tôi. Vì bà ấy muốn rằng sự gặp gỡ đó được giữ bí mật nên thư hồi âm sẽ được đặt ở chỗ đồng hồ mặt trời ngoài vườn và bà còn yêu cầu tôi đốt bức thư của bà sau khi coi xong. Tôi đã ném bức thư gió vào trong lò sưởi. Bà này rất sợ chồng. ông này xử sự với bà rất thô bạo. Do đó, tôi nghĩ bà lén lút vì giấu chồng.
- Vậy mà bà ấy lại giữ rất kỹ lá thư cô trả lời.
- Đúng thế! Tôi rất ngạc nhiên khi biết bà cầm trong tay!
- Rồi chuyện gì xảy ra sau đó?
- Tôi đến như đã hẹn. Khi tôi đến nơi thì bà ấy đã có mặt ở đó. Thú thật, lúc bấy giờ, tôi mới lường được mức độ thù hận mà người đàn bà đáng thương này dành cho tôi.
Bà ấy như điên và tôi tin rằng bà ấy điên thật. Sự thù hận đã dồn nén bấy lâu. Tôi không lặp lại những gì bà đã nói với tôi. Chỉ biết là bà đã tuôn ra những thán từ ngữ hãi hừng, những lời lẽ mà tôi không bao giờ dám lặp lại. Tôi không trả lời tiếng nào. Tôi bịt tai, chạy trốn. Khi tôi bỏ đi, bà ta vẫn đứng ở đầu cầu gởi theo tôi đủ mọi lời nguyền rủa.
- Ngay tại chỗ người ta tìm ra xác chết của bà ấy?
- Cách đó vài thước.
- Nếu bà ấy bị bắn sau khi cô chạy chẳng được bao lâu thì tại sao cô không hề nghe gì cả
- Thưa ông Holmes, thật sự thì tiếng nổ làm tôi hoảng hốt đến độ chỉ muốn tìm sự bình yên trong phòng tôi thôi. Lúc bấy giờ tôi không còn để ý đến cái gì nữa.
- Cô nói cô quay về phòng. Từ lúc đó đến sáng cô có rời phòng không?
- Có! Khi cái tin bà ấy bị giết loan truyền, tôi cùng chạy ra với nhiều người khác.
- Cô có trông thấy ông Gib¬son không?
- Có ông ấy từ cầu về. Ông sai mời bác sĩ và cảnh sát.
- Theo cô thì ông ấy có bị chấn động chứ.
- Ông Gìbson là con người sắt đá, tự chủ cao độ. Tôi không tin rằng ông ấy để lộ nhiều xúc động ra ngoài. Nhưng, là người biết rõ ông ấy, tôi tin rằng ông ấy bị xúc động mạnh.
- Bây giờ, chúng ta đề cập đến điểm quan trọng nhất: cây súng lục được tìm thấy trong phòng cô, nhưng trước đó, cô có thấy cây súng này không?
- Chưa bao giờ, tôi xin thề!
- Nó bị phát hiện vào lúc nào?.
- Sáng hôm sau, khi cảnh sát bắt đầu điều tra.
- Ngay giữa đống đồ đạc của cô?
- Đúng vậy. Trong tủ của tôi, dưới cái áo dài.
- Cô không biết nó được để lại đó từ lúc nào.
- Sáng hôm trước không có ở đó!
- Sao cô biết?
- Vì tôi có dọn dẹp, sắp đặt tu
- Có lẽ có ai đó đã vào phòng cô, đặt cấy súng vào tủ cô để làm cho cô sẽ bị buộc tội.
- Có lẽ? Nhưng lúc nào?.. Có thể vào giờ cơm hoặc trong lúc tôi ở trong phòng học của đứa bé.
- Ở nơi cô nhận bức thư?
- Đúng thế! Tôi ở phòng học suốt buổi sáng.
- Cám ơn cô. Cô thấy còn có gì khác có thể giúp chúng tôi không?
- Không?
- Tôi có ghi nhận một dấu vết va chạm cực mạnh trên thành cầu. Vết tích mới toanh. Cô có một giải thích nào cho dấu vết này không?
- Có thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
- Nó cực kỳ dị thường cô Dạ-lan à. Tại sao có vết tích này lúc xảy ra án mạng? Tại sao lại ngay chỗ đó? Làm sao tạo ra nó được? Phải có sự đụng chạm rất mạnh chứ.
Holmes im lặng. Khuôn mặt nhọn của anh đột ngột có vẻ xa xăm, căng thẳng. Sự thay đổi này cho thấy tâm trí anh đang hoạt động mạnh. Tất cả từ luật sư, người nữ tù đến tôi không ai dám làm gián đoạn sự suy tư của anh. Bỗng anh nhảy ra khỏi ghế, la to:
- Wat¬son!
Đứng lên! Đứng lên!
- Có gì vậy Holmes!
- Hãy an tâm, cô Dạ-lan thân mến? ông Cư-minh? Tôi sẽ liên lạc với ông. Với sự tiếp tay của thần công lý, tôi sẽ nộp cho ông một hồ sơ làm rung chuyển nước Anh. Mai cô sẽ có tin, cô Dạ-lan. Hãy tin tôi, mây mù sẽ tan biến. Tôi có cơ sở để hy vọng rằng ánh sáng sự thực sẽ phá tan mây mù.
Từ Winch¬ester về Thor không bao xa, nhưng chuyến đi như đài dằng dặc vì sự nóng lòng của t cũng như của Holmes. Anh ta không ngồi yên được, cứ đi tới, đi lui trong toa xe, vừa gõ nhẹ lên đệm xe. Khi tàu gần tới nơi, anh ngồi lại, đối diện với tôi. Trong toa hạng nhất, chỉ có hai chúng tôi. Anh nhìn vào mắt tôi, tinh nghịch, nói:
- Wat¬son? Hình như dù đi dạo, anh cũng mang súng theo chứ!
- Đúng thế! Đôi khi tôi cũng đãng trí về mặt này.
Tôi rút súng trong túi ra. Đó là một cây súng ngắn, gọn, nhưng rất công hiệu. Holmes cầm súng, cài chốt an toàn, tháo đạn ra rồi khám xét kỹ.
- Nặng, quá nặng - Holmes nói - Anh biết không Wat¬son. Tôi cho rằng súng của anh có liên quan chặt chẽ với điều bí ẩn mà chúng ta sắp làm sáng tỏ.
- Anh đùa?
- Tôi nói nghiêm chỉnh đấy. Chúng ta phải thử nghiệm. Nếu đúng thì mọi việc sẽ sáng tỏ. hãy để dành lại một viên, chỉ lắp năm viên khác vào đây và đóng cái chốt an toàn. Xong nhé!
- Có dấu vết mới hả Holmes?
- Tất cả tùy thuộc sự vận hành của cây súng này.
- Nó đây nè.
- Tôi cần 10 mét dây nhợ. Quán trong làng sẽ bán cho chúng ta số lượng nhợ đó. - Đủ rồi - Holmes nói - Giờ đây, chúng ta lên đường đi nốt chặng nhất của cuộc hành trình.
Mặt trời xế bóng, biến cái bưng biền gợn sóng của Hamp¬shire thành một cảnh thu lộng lẫy. Thượng sĩ Con¬ven¬try đi cạnh chúng tôi. Đôi mắt thiếu tin tưởng cho thấy ông ngờ vực sự quân bình thần kinh của bạn tôi. Khi tới gần hiện trường, tôi thấy Holmes đang căng thẳng thần kinh.
Trong khi đi, anh ta cột chặt một đầu nhợ vào báng súng lục. Khi tới đầu cầu, theo sự hướng dẫn của người cảnh sát, Holmes thận trọng đánh dấu dưới đất vị trí chính xác của nơi xác chết nằm. Rồi anh lục lọi các bụi cây xung quanh, kiếm một viên đá to. Anh cột cục đá này vào đầu kia của sợi nhợeo nó trên bao lơn cầu sao cho nó đu đưa thoải mái trên mặt nước. Anh bèn đứng vào vị trí của xác bà Gib¬son, tay cầm súng, với sợi nhợ căng thẳng giữa báng súng và cục đá nặng.
- Vào việc?
Holmes la lớn. Vừa nói xong, anh giơ súng ngang đầu, rồi thả ra.
Trong một giây, cây súng bị kéo bởi sức nặng của cục đá, va vào bao lơn cầu một tiếng "cạch" khô khan, văng lên cao rồi lọt xuống nước.
Cây súng vừa rời khỏi tay thì Holmes chạy tới quỳ bên cạnh cầu xem xét. Anh hân hoan la lên:
- Chưa có chứng minh nào hoàn chỉnh hơn. Thấy không Wat¬son, cây súng của anh đã giải bài toán.
Vừa nói anh chỉ vào một vết trầy cùng một dạng với vết cũ trên thành cầu.
- Đêm nay ta sẽ nghỉ tại cái quán trong làng.
Anh nói tiếp rồi nhìn viên thượng sĩ cảnh sát đang ngạc nhiên.
- Chắc ông có cái vợt để vớt cây súng của bạn tôi? Cạnh đó ông cũng sẽ tìm thấy một cây súng nữa dính với sợi nhợ và cục đá mà người đàn bà mưu dùng để ngụy trang sự tự tử của mình và gán tội sát nhân cho một kẻ vô tội. Ông vui lòng thông báo cho ông Gib¬son hay rằng tôi sẽ gặp ông ấy vào sáng mai, sau khi những điều cần thiết đã được thực hiện để minh oan cho cô Dạ-lan.
Giữa đêm khuya, trong lúc chúng tôi thanh thản hút thuốc trong quán, Holmes tóm lược cho tôi diễn tiến nội vụ:
- Tôi sợ rằng ghép thêm vụ án cầu Thor chả tăng thêm danh tiếng cho tôi. Tôi quá chậm lụt, thiếu hẳn sự kết hợp giữa trí tưởng tượng và óc thực tế. Tôi thú thật rằng cái vết trầy là một chứng tích đủ để gợi cho tôi lời giải đáp đúng. Tôi tự chê trách là không thấy được sớm hơn.
Phải nhìn nhận cái hoạt động tinh tế và sâu sắc của người đàn bà bất hạnh ấy. Chắc chắn bà ấy còn kết t gia sư về những cử chỉ thô lỗ của chồng bà đối với bà. Do đó bà ta có ý định tự tử. Nhưng phải tự tử cách nào mà đối thủ của bà bị cột vào một vận mạng tồi tệ hơn cái chết của bà.
Bà khéo léo buộc cô Dạ-lan viết bức thư hồi âm. Tờ giấy này cho thấy rõ cô gia sư chọn phạm trường. Quyết chí làm cho giấy này phát hiện, bà giữ chặt tới phút chót.
Chỉ một điều này đủ cho cô giáo phải bị tạm gi¬am. Bà lại ăn cắp một trong các súng lục của chồng. Lại giấu thêm một súng khác, giống hệt, vào buổi sáng, trong tủ cô giáo sau khi vứt bớt một viên đạn ở ngoài rừng. Rồi bà ra cầu, bày ra cách khá tinh vi này để vứt bỏ vũ khí sau khi tự tử. Khi cô Dạ-lan xuất hiện, bà ta dùng những phút chót để tuôn ra tất cả những thù hận phứa chất trong người.
Và sau khi cô Dạ-lan không chịu nổi sự nhục mạ, đã bỏ đi, bà ta thực hiện ý định của mình.
Mỗi khâu đã được ráp và dây chuyền đã hoàn chỉnh. Báo chí có thể chê trách cảnh sát đã không nạo vét cái ao tức khắc. Nhưng khung cảnh rộng mênh mông lại, chằng chịt lau sậy thì làm sao nạo vét dễ dàng, hơn nữa lại không biết để kiếm cái gì.
08. Người Đi Bốn Chân
Một chiều chủ nhật đầu tháng 9-1903. Holmes gởi cho tôi một bức điện ngắn ngủi: "Tới ngay, dầu không rảnh cũng phải đến".
Sự hiện diện của tôi đã trở thành một trong các thói quen của Holmes, giống như cây vĩ cầm, thuốc lá nặng, cái tẩu cũ kỹ, các sach tham khảo... Khi mà công việc quá nhiều và cần một người tin cậy, thì tôi là người đầu tiên anh ấy nghĩ đến. Nhưng không chỉ vậy, tôi còn như một viên đá mài cho tâm trí anh. Anh thích sự có mặt của tôi, vì tôi cũng bắt chước suy luận như anh, những sai lầm của tôi, hoặc những ý kiến của tôi đôi khi làm lóe lên những gợi ý cho anh ấy.
Khi tới ngôi nhà ở phố Bak¬er, tôi thấy anh ngồi co ro trong ghế bành: hai đầu gối co lại, miệng ngậm cái tẩu, trán đầy rẫy vết nhăn. Chắc chắn anh đang rối trí về một bài toán hóc búa. Anh lấy tay đẩy ghế bành cho tôi.
- Wat¬son này, tôi đang nghĩ tới việc viết một chuyên khảo về công dụng của chó trong nghề thám tử.
- Đề tài này đã được nghiên cứu nhiều rồi.
- Có lẽ anh còn nhớ trong một vụ án mà muốn làm tăng tính giật gân, anh đã đặt tên là "Những cây dẻ đỏ". Trong vụ ấy, ta chỉ cần quan sát kỹ tính khí của một đứa bé, mà suy đoán ra các thói quen gây tội ác của một người cha.
- Vâng, tôi còn nhớ khá rõ.
- Cái lý luận của tôi về chó cũng tương tự. Con chó là phản ánh của đời sống gia đình. Có bao giờ anh gặp một con chó đú đởn trong một gia đình sầu thảm, hoặc một con chó u sầu trong một gia đình hạnh phúc không. Người càu nhàu có chó càu nhàu, người nguy hiểm có chó nguy hiểm. Còn một con chó ngông thì có thể phản ánh một gia đình kỳ khôi.
- Hơi võ đoán đó! - Tôi lắc đầu nói nhỏ.
Holmes nhét thuốc vào cái tẩu, không thèm để ý tới lời bình phẩm của tôi.
- Sự áp dụng những điều tôi vừa nói vào thực tế sẽ ăn khớp với cái vụ mà tôi đang điều tra. Tôi đang tìm một câu giải đáp "Tại sao Roy, con chó loại sói trung thành của giáo sư Pres¬bury lại cắn ông ấy?".
Tôi thả mình xuống ghế trở lại, thất vọng.
- Có phải vì cần trả lời một câu hỏi thô thiển này mà tôi bị đến đây?
Holmes liếc tôi.
- Anh bao giờ cũng vẫn thế! - Holmes nói to - Đến bao giờ anh hiểu được rằng một hậu quả nghiêm trọng nhất lại có thể bắt nguồn từ những chuyện lặt vặt. Không lạ sao, khi ta thoạt nghe một giáo sư cao niên, có danh vọng, có một con chó loại sói làm bạn thân nhất, rồi ông ta lại bị chính con chó ấy tấn công hai lần? Nào, Wat¬son anh nghĩ sao!
- Con này điên?
- Giả sử là thế, nhưng phải coi lại, vì nó không tấn công ai khác cả, nó chỉ tấn công ông chủ của nó vào những dịp rất đặc biệt. Lạ lắm, Wat¬son ạ!... Nhưng chàng rể tương lai Ben¬nett của ông ta lại đến trước hẹn. Tiếng chuông của anh ta đó. Tôi tưởng có thể nói chuyện với anh nhiều hơn trước khi tiếp anh ta.
Chúng tôi nghe tiếng bước chân đi nhanh nhẹn đến cầu thang, rồi những tiếng gõ cửa khô khan. Lát sau, một người bước vào. Đó là một người trạc 30 tuổi, cao ráo, gọn ghẽ, đẹp trai, nhưng có cái dáng của anh sinh viên rụt rè hơn là một người lịch lãm, Ben¬nett bắt tay Holmes rồi nhìn tôi ngạc nhiên.
- Việc này rất tế nhị, ông Holmes, tôi phải dè dặt khi nói chuyện đó trước một người thứ ba.
- Ông khỏi lo! Bác sĩ Wat¬son đây là hiện thân của sự dè dặt, và tôi cũng thú thật với ông rằng trong vụ này tôi thực sự cần một phụ tá.
- Tùy ông, ông Holmes, xin ông thông cảm cho tôi.
- Anh Wat¬son, đây là ông Trevor Ben¬nett, trợ lý kỹ thuật của vị giáo sư, sống cùng nhà đồng thời là vị hôn phu của con gái duy nhất của giáo sư Pres¬bury. Do đó, ta biết rằng giáo sư có thể tin vào lòng trung nghĩa và tận tụy của ông.
- Thưa ông Holmes, bác sĩ Wat¬son biết tình hình chưa?
- Tôi chưa có thời giờ để trình bày.
- Như vậy tôi phải quay lại các dữ kiện cũ trước khi qua cái mơ
- Tôi làm chuyện đó cho - Holmes nói chen vào - Giáo sư Pres¬bury nổi tiếng khắp châu Âu, ông dành hết thời giờ cho việc nghiên cứu, ông không có bị tai tiếng gì. Ông góa vợ và có một cô gái tên là Edith. Ông có tính thực tế, năng nổ. Cho tới cách nay vài tháng, tình hình là như thế.
Sau đó thì cuộc đời của ông bước qua một bước ngoặt. Lúc ông 61 tuổi, ông hứa hôn với con gái của giáo sư Mor¬phy, đồng nghiệp của ông tại bộ môn cơ thể học so sánh. Cô thiếu nữ Al¬ice Mor¬phy vẹn toàn cả hai mặt thể chất vả trí tuệ nên vị giáo sư của chúng ta có đủ lý do để chết mê chết mệt. Nhưng, gia đình không tán đồng.
- Chúng tôi thấy rằng sự đam mê này hơi lố bịch. - Thân chủ của chúng tôi xen vào, nói rõ hơn.
- Rất đúng! Lố bịch và dị hợm. Tuy nhiên giáo sư Pres¬bury giàu lắm, nên bố cô bé không phản đối đâu. Cô bé đương nhiên nhiều tham vọng.
- Cô ấy có vẻ thản nhiên về tuổi tác, bất chấp cái lập dị của vị giáo sư. Vào thời gi¬an này, một chuyện nhỏ đột ngột xảy ra, làm đảo lộn nếp sống đều đặn của vị giáo sư: ông làm những điều trước đây ông chưa hề làm. Ông ra đi mà không nói đi đâu, vắng nhà 15 ngày, rồi quay về trong trạng thái mệt nhoài. Nhưng ngẫu nhiên thân chủ của chúng ta là ông Ben¬nett đây, nhận được một bức thư của người bạn thời sinh viên tại Prague, Tiệp Khắc. Lá thư báo cho biết có thấy giáo sư Pres¬bury ở bên đó, nhưng không thể nói chuyện với nhau được. Nhờ vậy gia đình mới biết giáo sư đi Prague. Sau chuyến đi này, giáo sư thay đổi tính tình, ông trở nên thâm trầm, dè dặt. Gia đình có cảm giác rằng ông không còn là người cũ nữa.
Ông đang sống dưới một bóng đen che lấp các đức tính cao đẹp của ông. Trí thông minh của ông vẫn nguyên vẹn, các bài giảng cơ thể học so sánh vẫn tuyệt hảo như cũ. Tuy nhiên có một cái gì rất mới, làm cho gia đình buồn lo và kinh ngạc. Con gái ông rất thân thiết với ông, đã nhiều lần cố gắng khôi phục cái thâm tình cố cựu và đâm thủng cái mặt nạ bí mật này. Cả ông Ben¬nett đây cũng đã hết sức cố gắng, nhưng đành chịu thua. Và giờ đây, tôi xin nhường lời cho ông Ben¬nett để nói về mấy lá thư.
- Thưa bác sĩ Wat¬son, giáo sư không hề giấu tôi điều gì. Con trai hoặc em trai chưa chắc được ông tín nhiệ bằng. Với tư cách là thư ký riêng, tôi được phép bóc ra và phân loại các thư tín và giấy tờ của ông. Vài ngày sau khi từ Prague về, ông bảo tôi rằng một số thư có thể từ Lon¬don về, có đánh dấu chéo dưới con tem thì phải để riêng cho ông. Thực tế, có nhiều thư có đánh chéo, tuồng chữ của người gởi có vẻ là một người ít học. Tôi không biết ông ấy có trả lời những lá thư này hay không, vì các lá thư hồi âm không có qua tay tôi.
- Còn về cái hộp? - Holmes nói.
- Khi từ Prague về, giáo sư có mang một cái hộp bằng gỗ. Đó là một điêu khắc quái đản theo kiểu Đức. Ông để nó trong cái tủ dụng cụ. Một hôm trong lúc tìm cái mỏ vịt, tôi nâng cái hộp lên. Lạ lùng thay ông ấy bỗng nổi trận lôi đình và trách móc sự tò mò của tôi bằng các lời lẽ không được lịch sự. Tình huống này xảy ra lần đầu tiên với tôi, làm tôi đau khổ. Tôi cố giải thích rằng tôi chỉ đụng cái hộp hoàn toàn vì vô tình. Tuy vậy suốt đêm đó, ông nhìn tôi một cách thiếu thiện cảm và tôi thấy rõ ông nghi ngờ tôi một chuyện gì đó.
Ông Ben¬nett rút từ trong túi ra một tập nhật ký và nói thêm:
- Chuyện này xảy ra vào ngày 2 tháng 7.
- Ông đúng là một nhân chứng tuyệt hảo. Có lẽ tôi cần đến các ngày tháng mà ông ghi - Holmes nói lớn.
- Kể từ khi tôi để ý đến những cái bất bình thường trong cánh xử thế của ông thầy, tôi tự nhủ rằng tôi có nhiệm vụ nghiên cứu trường hợp của ông. Do đó tôi có thể xác định rằng cũng vào chính cái ngày 2-7 này mà con chó Roy tấn công ông khi ông rời văn phòng để ra hành lang.
Màn này được tái diễn vào những ngày 11-7 và 20-7. Sau các cuộc tấn công này, chúng tôi phải nhốt Roy vào chuồng ngựa. Đó là một con thú mà chúng tôi thương, vì nó rất yêu mến chủ... Tuy nhiên tôi ngại việc lạm dụng sự nhẫn nại của hai ông.
Ông Ben¬nett nói mấy tiếng sau với giọng trách móc, vì rõ ràng Holmes không chú ý nghe nữa. Mặt anh se lại, mắt nhìn lên trần nhà. Một lúc sau anh như tỉnh lại...
- Dị kỳ, rất dị kỳ - Anh thì thầm - Tôi các chi tiết này, ông Ben¬nett. Theo tôi thì chúng ta đã đến cái mấu chốt của nội vụ.
Khuôn mặt khả ái của thân chủ tôi sa sầm lại.
- Điều tôi sắp kể tiếp theo đây xảy ra vào đêm hôm kia, lúc 2 giờ sáng. Tôi nằm, nhưng không ngủ. Tôi nghe một tiếng động mạnh, dường như phát sinh từ hành lang...
- Vào ngày... ? - Holmes hỏi.
Khách của chúng tôi không che giấu được sự bực dọc trước sự ngắt ngang này.
- Tôi đã nói là đêm hôm kia, tức là nhằm ngày 4-9.
Holmes cúi đầu cười.
- Ông hãy tiếp tục.
- Tôi thỉnh cầu ông thầy ngủ ở cuối hành lang. Do đó nếu muốn đi xuống cầu thang, thì phải đi ngang qua cửa phòng tôi. Thật là hãi hùng, thưa ông Holmes! Hành lang tối đen, ngay giữa có một cửa sổ để lọt một ít ánh sáng. Nhờ đó, tôi thấy ai đang đi ở ngoài đó. Chính là ông, ông đang bò, thưa ông Holmes, đang bò! Đúng ra là đi bằng tay và chân, cái đầu đong đưa giữa hai tay. Giáo sư ta di chuyển khá dễ dàng. Tôi điếng người, đứng trơ như phỗng đá khi ông tiến tới cửa phòng. Tôi chận lại, hỏi xem để giúp đỡ. Ông đứng dậy ngay tức khắc, chửi vào mặt tôi rồi hối hả chạy xuống cầu thang. Tôi ngồi rình hơn một giờ, đến gần sáng mới về phòng.
- Nào, Wat¬son, anh nghĩ sao về hiện tượng này? - Holmes hỏi tôi với dáng điệu của một nhà sinh lý học.
- Có lẽ là đau lưng. Theo kinh nghiệm của tôi thì khi đau lưng nặng có thể buộc mình phải bò khi di chuyển nhưng không làm đổi tính khí của con bệnh.
- Giỏi đó, Wat¬son. Anh luôn đưa chúng tôi trở về với thực tế. Nhưng chúng ta khó mà chấp nhận giả thiết đau lưng vì ông ta có thể đứng thẳng tức khắc mà.
- Ông vẫn khỏe như trước giờ. - Ben¬nett nói. - Mấy lúc này lại khỏe hơn trước nhiều lắm. Nhưng mà sự việc cụ thể ràng ràng đó! Cảnh sát chả giúp đỡ chúng tôi được gì. Chúng tôi vô cùng lo lắng, có cảm giác đang đi tới một tai họa. Edith cũng đồng ý với chúng tôi rằng không thể khoanh tay ngồi chờ.
- Quả là một việc quái đản. Anh nghĩ gì đó Wat¬son?
- Về phương diện y khoa, tôi mong đây là bệnh tâm thần. Sự vận hành của não bộ bị xáo trộn bởi chuyện tình ái ông ta đi du lịch nước ngoài để chữa bệnh đó. Thư từ và cái hộp có thể liên quan tới một cuộc thương lượng riêng tư, thí dụ một sự vay mượn hay những cổ phiếu mà ông cất kỹ trong cái hộp.
- Còn con chó loại sói có thể không đồng ý với cuộc thương lượng nọ. Không đâu, Wat¬son à! Có chuyện khác trong nhất thời , tôi chỉ có thể gợi ý rằng...
Không ai có thể biết Sher¬lock Holmes sẽ gợi ý cái gì, bởi vì lúc đó cửa mở và một thiếu nữ bước vào. Ông Ben¬nett nhảy bổ tới, la to, gi¬ang hai tay về phía cô ta:
- Edith! Không gì hệ trọng chứ ?
- Em cảm thấy cần ở bên anh, ồ, em sợ lắm, ở một mình đằng đó không được đâu.
- Ông Holmes, xin giới thiệu vị hôn thê của tôi.
- Hồi nãy giờ chúng ta mò mẫm đi tới kết luận đó, phải không Wat¬son? - Holmes vừa nói vừa cười. - Thưa cô Pres¬bury, tôi đoán rằng câu chuyện vừa xảy ra là một bước ngoặt mới mà cô muốn thông báo với chúng tôi?
Người khách nữ của chúng tôi tóc hoe, đẹp, thuộc mẫu người Anh quốc, mỉm cười với Holmes, rồi đến ngồi bên cạnh Ben¬nett.
- Khi Ben¬nett ra khỏi nhà, tôi biết ngay là anh ta tới đây vì có nói sẽ nhờ đến ông. Thưa ông Holmes, ông có thể giúp đỡ người cha đáng thương của tôi không?
- Tôi hy vọng, thưa cô. Tuy nhiên, hiện giờ tôi vẫn còn lờ mờ. Cô có thể cho tôi một chút ánh sáng?
- Mới đêm qua thôi, suốtấy ông kỳ cục lắm. Tôi chắc chắn rằng có những lúc ông ta chẳng nhớ gì về việc đã làm. Ông cụ sống trong một giấc mơ dị thường. Và hôm qua là một thí dụ. Không phải cha tôi ở cạnh tôi. Hình hài là ông ta đó, nhưng tâm hồn thì không phải là ông.
- Cô vui lòng cho biết điều gì đã xảy ra?
- Giữa đêm khuya, tôi bị đánh thức bởi tiếng chó sủa dữ dội. Tội nghiệp Roy! Nó bị xích gần chuồng ngựa. Tôi cần nói thêm là tôi luôn luôn khóa cửa khi ngủ, vì chúng tôi sống trong sự sợ hãi liên tục. Phòng tôi ở lầu 2, tấm sáo trước cửa sổ của tôi được kéo lên. Bên ngoài trời sáng trăng. Trong lúc tôi nằm nhìn ánh trăng sáng, lắng nghe tiếng chó sủa thì tôi rất kinh ngạc khi thấy mặt cha tôi đang quan sát tôi. Tôi suýt chết vì ngạc nhiên và kinh hoàng. Ông cụ dán mặt vào khung kiếng, ông dơ một tay lên như để đẩy cửa kiếng lên. Nếu cửa sổ mở ra, có thể tôi đã điên rồi. Không phải là một ảo giác đâu. Thú thật, tôi im lìm trong 20 giây để canh chừng cái đầu đó.
Rồi nó biến mất, tôi không dám nhảy ra khỏi giường. Tôi ngồi trơ ra đó, lạnh cóng và run lập cập suốt đêm. Vào lúc ăn sáng, tôi gặp lại ông cụ nét mặt lạnh lùng, dữ tợn làm như ông không biết chuyện đêm qua. Tôi cũng chẳng nói gì, kiếm cớ đi Lon¬don và nhạy tới đây.
Holmes có vẻ ngạc nhiên một cách sâu xa.
- Thưa cô, cô có nói phòng cô ở lầu 2, ngoài vườn có cái thang dài không?
- Không có, thưa ông. Đó là khía cạnh giản dị của câu chuyện. Đâu có phương tiện sẵn để leo lên cửa sổ. Thế mà ông cụ lại có mặt ở cửa sổ!
- Chuyện này xảy ra ngày 5-9, đó là một điểm gây rắc rối! - Holmes nói.
Thiếu nữ có vẻ ngạc nhiên. Ben¬nett xen vào:
- Thưa ông, tôi đồng ý. Ông hay hỏi về các ngày tháng của biến cố, chúng quan trọng ra sao?
- Có thể quan trọng, hiện tôi còn thiếu nhiều yếu tố.
- Ông đang nghĩ tới mối tương quan giữa cơn điên và các gi¬ai đoạn của mặt trăng chăng?
- Không, chắc chắn là không. Tôi nghĩ đến một chuyện khác hẳn. Ông vui lòng để lại cuốn nhật ký, vì tôi cần kiểm tra lại các ngày đó. Wat¬son này, tôi nghĩ rằng kế hoạch hành động của chúng ta rõ ràng lắm rồi. Cô Pres¬bury đã cho tin rằng cha cô ít nhớ hoặc không nhớ gì cả vào những ngày đó. Do đó ta sẽ viếng ông ta như thể ông đã định hẹn với chúng ta vào cái ngày mà ông Ben¬nett ghi chép. Chúng ta sẽ mở chiến dịch tấn công, sau khi tiếp xúc với ông ta.
- Tuyệt vời! - ông Ben¬nett la lớn - Tuy nhiên tôi cũng cho hay trước rằng: Giáo sư có lúc phát cáu và hung bạo nữa.
Holmes cười:
- Có nhiều lý do vững chắc để chúng ta không nên chần chừ, những lý do hấp dẫn nếu giả thiết của tôi là đúng. Ngày mai, thưa ông Ben¬nett, ông sẽ gặp chúng tôi tại Cam¬ford. Nếu tôi chưa đãng trí, ở đó có một cái quán mang tên là "Che¬quers" bán rượu por¬to không đến nỗi tệ, còn giường nệm thì sạch sẽ. Anh Wat¬son, tôi nghĩ rằng mấy ngày tới chúng ta có thể sống ở những nơi kém dễ chịu hơn.
Sáng thứ hai chúng tôi lên đường đi đến thành phố có trường đại học nổi tiếng. Holmes chỉ nói công chuyện với tôi sau khi các va-li đã được đem vào khách sạn.
- Wat¬son này, chúng ta có thể bắt chẹt ông giáo sư ngay trước giờ cơm. Ông ta phải dạy tới 11 giờ, sau đó mới về nhà.
- Ta ra mắt ông ấy với lý do gì?
Holmes nhìn vào cuốn sổ tay.
- Đầu óc ông ta lộn xộn rồi. Hôm nay là 26-8. Ta cứ nói đại rằng hôm nay là ngày ông ta có hẹn với ta. Chắc ông ấy không cãi gì đâu. Anh có đủ trâng tráo để nói ẩu như vậy không?
- Dù sao cũng phải cố gắng.
- Hoan hô Wat¬son! Đó là phương châm của hãng mình. Người địa phương chắc chắn sẽ chỉ đúng ông thầy của c
Người địa phương đó là anh xà ích đánh xe đi qua các phân khoa đại học, quẹo vào một đại lộ mênh mông để đậu trước ngôi nhà xinh xắn, xung quanh có bồn cỏ xanh tươi. Khi xe ngựa ngừng, một cái đầu hoa râm xuất hiện tại cửa sổ mặt tiền, nhìn chúng tôi chòng chọc xuyên qua đôi mắt kiếng gọng đồi mồi.
Chúng tôi được đưa vào gặp nhà bác học, con người đầy bí ẩn đang đứng trước mặt chúng tôi. Thoạt nhìn, dáng dấp và cử chỉ của ông không lộ một nét lập dị nào, con người cao ráo, uy nghiêm. Đôi mắt có lẽ là điểm đặc sắc nhất: sắc bén, thông minh đến độ xảo quyệt, ông đọc các danh thiếp của chúng tôi.
- Xin mời hai ông ngồi! Tôi có thể giúp gì hai ông?
Holmes nở nụ cười.
- Chính đó là câu chuyện mà chúng tôi xin hỏi ông.
- Hỏi tôi, thưa ông?
- Có lẽ có sự lầm lẫn rồi. Qua một trung gi¬an, tôi được biết giáo sư Pres¬bury thuộc đại học Cam¬ford cần đến các dịch vụ của tôi.
- Thật vậy sao? Không có đâu!
Tôi có cảm giác như một tia hung hăng đang nhen nhúm trong đôi mắt to xám của ông.
- Ông vui lòng cho biết tên, họ của người báo tin.
- Rất tiếc, thưa giáo sư, chuyện mật mà. Nếu có lầm lẫn, không sao cả. Tôi thành thật xin lỗi đã làm phiền giáo sư.
- Đâu có dễ dàng như thế được. Tôi cần hỏi cho cặn kẽ, ông có một giấy viết tay, thư từ hoặc điện tín để làm bằng không?
- Không, thưa ông!
- Tôi đoán là ông không dám liều mạng nói rằng tôi đã mời ông
- Tôi thích im lặng hơn. - Holmes nói.
- Nhưng công việc đó đòi hỏi phải trả lời. - Giáo sư Pres¬bury nói với một giọng chua cay - Nhưng, tôi vẫn có, không cần đến mấy ông.
Ông băng qua văn phòng và bấm chuông, ông bạn Ben¬nett xuất hiện.
- Vào đây, ông Ben¬nett. Hai ông này từ Lon¬don tới có cảm giác rằng họ được mời đến. Thư từ của tôi đều qua tay ông, ông có thấy thư tôi gửi cho một người tên Sher¬lock Holmes không?
- Không, thưa ông. - Ben¬nett đỏ mặt trả lời.
- Dứt khoát chưa nào? - Giáo sư vừa nói vừa nhìn Holmes một cách thiếu thiện cảm - Giờ đây, ông...
Ông ưỡn ngực ra, xòe hai tay để lên bàn.
-... Đối với tôi thì hình như hai ông đây ở trong một tình huống cần giải thích.
Holmes vươn vai.
- Một lần nữa, tôi xin lỗi đã quấy rầy ông một cách vô ích.
- Chưa được đâu, ông Holmes? - ông già la to.
Diện mạo ông ta trở nên hung ác phi thường, tiếng nói vang vang như sấm sét, ông đứng chận ngang cửa đưa hai nắm tay:
- Hai ông không thể ra khỏi nơi đây một cách dễ dàng như thế!
Cơn thịnh nộ làm thay đổi hình dạng, đường nét của ông, làm ông mất hết lương tri. Tôi tưởng đâu sẽ phải ẩu đả để thoát ra.
- Kính thưa giáo sư! - ông Ben¬nett nói lớn - Xin nghĩ tới vị thế của giáo sư, kính xin giáo sư nghĩ tới sự tai tiếng của mình trong trường đại học. Ông Holmes là một nhân vật ai cũng biết tên. Giáo sư không thể thất lê
Miễn cưỡng, giáo sư tránh qua một bên cho chúng tôi đi qua. Sau đó, chúng tôi đi tìm sự êm ả ở ngoài đường phố.
- Hệ thống thần kinh của nhà bác học hơi xuệch xoạc. - Holmes nói nhỏ - Đột kích như vậy là liều lĩnh thật, nhưng tôi cần có cuộc tiếp xúc cá nhân này. Hãy coi chừng, anh Wat¬son. Hình như ông cụ đi theo chúng ta.
- Chắc chắn ông ấy phải đuổi theo...
Quả thật một ai đó chạy bịch bịch sau lưng chúng tôi. Nhưng may mắn không phải ông giáo sư mà là người cộng tác viên của ông ta.
- Tôi rất tiếc, thưa ông Holmes! Tôi thành thật xin lỗi hai ông.
- Không sao cả, ông Ben¬nett thân mến. Nhưng cái lặt vặt như vậy xảy ra rất thường đối với nghề nghiệp của chúng tôi.
- Chưa bao giờ tôi thấy ông ấy ở trong tình trạng tương tự. Giờ đây thì ông đã hiểu tại sao con gái ông ta và tôi sợ cuống cuồng. Nhưng tâm trí ông ta rất minh mẫn.
- Quá minh mẫn đi chứ! - Holmes nói - Tôi đã tính toán sai. Trí nhớ của ông ta minh mẫn hơn cả mức dự đoán của tôi. Nhân tiện, ông vui lòng chỉ cho chúng tôi cái cửa sổ của cô Pres¬bury.
Ông Ben¬nett rẽ một con đường xuyên qua các bụi cây và chúng tôi thấy một mặt của ngôi nhà.
- Kìa! Căn thứ nhì bên trái.
- Tôi không thể nào leo lên đó, cho dù có dây leo bên dưới và ống nước bên trên cung cấp một điểm tựa hay một chỗ để bấu vào.
- Chính tôi đây cũng phải trầy da tróc vẩy mới lên tới đó. - ông Ben¬nett nói.
- Đương nhiên. Đối với người bình thường đó là một thành tích đầy nguy hiểm.
- Tôi còn muốn nói với ông một nữa, ông Holmes. Tôi có tên của người bạn ở Lon¬don thường viết thư cho giáo sư. Sáng nay giáo sư có gởi cho ông ta một lá thư. Tôi có ghi lại cái địa chỉ của ông ta trên giấy thấm. Tôi đã làm một ông việc bẩn thỉu, trong lúc được tin cậy như bạn tri âm, nhưng biết làm sao bây giờ.
Holmes đọc tờ giấy mà Ben¬nett đưa, rồi bỏ nó vào túi :
- Do¬rak? Tên gì lạ kỳ? Hay quá, đây là một cái khâu to tướng trong cái dây chuyền. Chiều mai chúng tôi về Lon¬don, thưa ông Ben¬nett. Lưu lại đây chả có ích lợi gì cả. Chúng tôi không thể bắt nhốt giáo sư được vì ông ta có phạm tội ác gì đâu và cũng không thể xích ông ta lại được, bởi vì bệnh điên của giáo sư chưa chứng minh được. Cho tới giờ phút này không thể dự trù một biện pháp nào cả.
- Nhưng không lẽ chúng ta bó tay?
- Hãy kiên nhẫn! Sự việc sẽ qua một bước ngoặt. Nếu tôi tính toán không lầm, thì ngày thứ ba tới, giáo sư sẽ lên cơn. Ngày đó, chúng tôi sẽ có mặt tại Cam¬ford. Ngồi ở đây chờ đợi thì không thoải mái chút nào, ngoài ra tôi đề nghị cô Pres¬bury nên nán lại ở Lon¬don thêm một thời gi¬an nữa.
- Được.
- Tóm lại cô ấy phải nán lại Lon¬don cho đến khi nào bảo đảm rằng mọi hiểm nguy đã tan biến. Từ đây tới đó, ông chớ có chọc ông ta giận, ông ấy mà vui, mọi sự sẽ êm xuôi.
- Ông ấy kìa! - Ben¬nett nói nhỏ.
Xuyên qua các nhánh cây, chúng tôi thấy rõ cái dáng cao dong dỏng đứng trước cửa chính, nhìn tứ phương, ông nghiêng người ra phía trước, hai tay vung vẩy, đầu quay trái rồi quay phải. Viên thư ký vội vã thuồn, vượt các bụi rậm để về với giáo sư. Hai người cùng nhau trở vào nhà, nói chuyện huyên thuyên và hăng say.
- Tôi đoán rằng ông cụ đang cộng hai với hai. - Holmes nói với tôi trên đường về quán trọ - Ông ta tỏ ra có một não bộ log¬ic đặc biệt. Đành rằng ông hung dữ nhưng ở vị trí của ông, ông có đủ lý do để nổi điên. Ông ta thấy có thám tử theo dõi và chắc chắn nghi ngờ con gái và con rể tương lai đã báo động. Ông bạn Ben¬nett của chúng ta sẽ phải trải qua những giờ phút sóng gi
Holmes dừng chân tại bưu điện để đánh một bức điện tín. Ngay tối hôm đó chúng tôi nhận được hồi âm. Anh cho tôi xem: "Tôi đi tới đại lộ Com¬mer¬cial và đã thấy Do¬rak rồi. Người dễ thương, gốc Bo¬hemia. Sở hữu một cửa hàng lớn. Merci¬er".
- Anh chưa biết Mereier - Holmes giải thích cho tôi - Tôi mới tuyển. Anh ta sẽ lo công việc thường ngày. Chúng ta cần biết về người mà vị giáo sư liên lạc thư tín. Quốc tịch của người này làm tôi nhớ lại chuyến đi Prague của giáo sư.
- Cám ơn Thượng đế! - Tôi nói. - Mãi tới nay mới gặp cái màn này khớp với cái kia. Cho tới giờ phút này, chúng ta đứng trước một loạt dữ kiện không giải thích được và không có liên quan gì với nhau. Thí dụ có cái tương quan gì giữa một con chó dữ và một sự lưu ngụ tại Prague hoặc giữa hai dữ kiện này với một người mà vào một đêm nào đó, sẽ di chuyển bằng bốn chân.
Holmes vừa xua tay, vừa cười. Chúng tôi đang ngồi tại bộ xa-lông nhỏ của một khách sạn xưa, trước một chai rượu por¬to.
- Nào, để khởi sự, chúng ta lấy mấy ngày ra nghiên cứu cho vui.
Holmes nói rồi chúm các ngón tay lại, lấy dáng điệu của một thầy giáo làng đang lên lớp.
- Cuốn nhật ký của chàng thanh niên cho ta thấy rằng các xáo trộn bùng nổ trước tiên vào ngày 2-7 rồi cứ tái diễn 9 ngày một lần, trừ một biệt lệ. Cái cơn kế chót là 26-8, còn cơn chót là ngày 3-9 và sắp tới sẽ là ngày 12-9?
- Tôi đồng ý.
Chúng ta đưa ra giả thiết tạm như sau:
- Cứ 9 ngày, ông ta uống một liều thuốc mạnh, có hiệu quả thoảng qua nhưng cực kỳ độc hại. Tính khí ông già đương nhiên chịu ảnh hưởng của chất độc dược này. Ông có thói quen này lúc ở Prague và hiện nay thì qua trung gi¬an của một người ông ta vẫn được cung cấp thuốc. Mạch lạc chưa, Wat¬son?
- Còn con chó, còn cái đầu tại cửa sổ. Còn sự di chuyển bằng ́n chân ở ngoài hành lang?
- Chúng ta đã có một khởi điểm. Còn từ đây tới thứ ba tuần sau, vào ngày 12-9, tôi không hy vọng được cái gì mới. Trong khi chờ đợi, chúng ta chỉ có mỗi một việc làm là giữ mối liên lạc với bạn Ben¬nett và tận hưởng những niềm vui nhỏ tại thành phố đáng yêu này.
Sáng hôm sau, Ben¬nett trốn ra để cho tin mới. Đúng như Holmes dự đoán, anh ta phải trải qua những giây phút khá nhức đầu. Tuy không trực tiếp cáo buộc về việc chúng tôi đột nhập vào nhà, nhưng ông giáo sư nói năng với anh bằng một ngôn ngữ cực kỳ thô bạo và nghi ngờ anh về các biến cố đã xảy ra. Tuy nhiên, sáng nay ông trở lại bình thường, vẫn lên lớp một cách tuyệt hảo như thường lệ.
- Trừ những cơn khủng hoảng kỳ cục, - Ben¬nett nói - Tôi thấy ông dạt dào sinh khí hơn bao giờ hết, và não bộ của ông vận hành tuyệt hảo. Tuy nhiên ông không còn là người cũ, người mà chúng tôi quen thuộc.
- Theo tôi, không có chi phải sợ trong vòng một tuần. - Holmes đáp - Tôi có nhiều việc khác nữa. Còn bác sĩ Wat¬son cũng có một số bệnh nhân đang chờ. Ta dành phải hẹn nhau vào thứ ba tới, tại quán này. Trước khi tạm biệt nhau, tôi hy vọng sẽ có khả năng giải thích hoặc đánh tan các ưu tư làm cho gia đình ông điêu đứng. Từ đây tới đó, nhớ liên lạc với chúng tôi bằng thư.
Mấy ngày sau đó, tôi không gặp lại Holmes nữa. Nhưng tới thứ hai, tôi nhận một điện văn ngắn, bảo tôi đến vào ngày hôm sau. Trong lúc tàu lăn bánh về hướng Cam¬ford, Holmes báo cho tôi biết rằng không có biến cố mới xảy ra. Sự yên ấm ngự trị trong gia đình, vì giáo sư Pres¬bury đã xử thế hoàn toàn bình thường.
Khi gặp lại chúng tôi tại khách sạn vào tối hôm đó, Ben¬nett nói:
- Hôm nay ông có nhận từ Lon¬don một gói nhỏ và một cái thư có dấu chéo dưới con tem, ông không đụng tới. Ngoài ra, không còn gì khác để báo cáo.
- Bấy nhiêu có thể là đủ rồi. - Holmes thì thầm với một nụ cười ảm đạm. - Ông Ben¬nett, tôi tin rằng chúng ta sẽ đi tới kết luận này ngay đêm nay. Nếu các suy đoán của tôi mà đúng, thì vụ này đã chín mùi rồi. Từ giờ cho tới đó, ta phải liên tục cảnh giác. Nếu nghe ông bò ngang cửa phònganh làm lơ đi, chỉ kín đáo theo dõi. Bác sĩ Wat¬son và tôi chắc chắn quanh quẩn đâu đó. Nhân tiện cho tôi biết ai giữ chìa khóa của cái hộp nhỏ?
- Giáo sư móc nó vào dây chuyền đồng hồ.
- Vậy chúng ta phải bắt đầu nghiên cứu về hướng đó. Kẹt quá thì bẻ ổ khóa. Trong nhà còn người đàn ông nào khác có đủ sức khỏe không?
- Người xà ích.
- Ông ta ngủ ở chỗ nào?
- Trong chuồng ngựa.
Có lẽ chúng ta cần tới ông ta. Hiện giờ chúng ta không thể làm gì hơn trước khi sự việc đi vào ngõ rẽ! Tạm biệt. Tuy nhiên, tôi đoán chúng ta sẽ gặp nhau trở lại trước khi trời sáng.
Gần nửa đêm, chúng tôi rình ngoài các bụi rậm, trước cổng nhà của giáo sư. Đêm đẹp, nhưng lạnh, gió thổi, mây bay mau trên trời và thỉnh thoảng che khuất mặt trăng lưỡi liềm. Nếu không vì tò mò và nóng lòng muốn chứng kiến phút chót của cái chuỗi dữ kiện quái dị thì cái phiên gác của chúng tôi sẽ chán ngắt.
- Hễ giả thiết về chu kỳ 9 ngày mà đúng - Holmes nói - Thì chắc chắn đêm nay chúng ta thấy ông giáo sư lên cơn. Các triệu chứng tỏ lộ sau khi từ Prague về. Ông bí mật liên lạc thư từ với một thương gia tên Do¬rak, đặt trụ sở tại Lon¬don và là đại diện thương mại cho ai đó tại Prague. Ông ta có nhận từ thằng cha này một gói hàng vào hôm nay. Tất cả mấy chuyện này đều ăn khớp với nhau. Chúng ta không biết ông ta uống cái gì. Tại sao lại uống những thuốc gởi từ Prague tới. Ông ta uống theo sự hướng dẫn chính xác, 9 ngày một lần. Đây là điểm đầu tiên mà tôi để ý. Triệu chứng dễ thấy lắm, anh có để ý các cái khớp ngón tay của ông ta không.
- Không.
- Da dày và chai chưa từng thấy. Tiếp đến cái cổ tay áo sơ mi, đầu gối quần dài và đôi giày.
Holmes ngừng lại, vỗ trán.
- A, Wat¬son! Cái giả thiết của tôi khó tin nhưng chắc chắn nó đúng. Tất cả cái dữ kiện đều chĩa về hướng này. Vậy mà ta đâu có thấy các mối liên hệ nào giữa các dữ kiện này? Mấy cái khớp này... đều không được lưu ý đúng mức! Còn con chó? Còn đám dây leo? Đến lúc phải núp rồi! Coi chừng, Wat¬son! Ông ta kìa! Mau lên!
Cửa chính mở từ từ. Dáng cao dong dỏng của ông giáo sư nổi bật, ông ta mặc áo ngủ, và đứng thẳng, hơi nghiêng người về phía trước, hai tay đong đưa.
Giáo sư xuống sân. Lúc đó, một đột biến xảy đến. Ông ta khom người xuống, bắt đầu di chuyển bằng tay và chân, thỉnh thoảng nhảy nhót. Ông ta đi bằng bốn chân qua mặt tiền nhà rồi quẹo vào góc thì ông ta biến mất.
Ben¬nett lẻn ra khỏi nhà, rón rén theo sau.
- Tới đây, Wat¬son! - Holmes gọi nhỏ.
Chúng tôi hối hả băng qua bụi cây, đến một địa điểm có thể quan sát phía hông nhà được trăng lưỡi liềm chiếu sáng. Rõ ràng, ông giáo sư đang co ro dưới chân bức tường đầy dây leo. Rồi, nhanh nhẹn lạ thường, ông bắt đầu níu nhánh này, chuyền nhánh khác, chân tì chắc, tay bám chặt, hình như muốn thích thử tài leo chớ không có mục đích cụ thể nào, áo ngủ tung bay phất phới hai bên như một con dơi khổng lồ. Ông vẽ một vệt đen vuông trên tường.
Lát sau như chán trò chơi này, ông chuyền xuống, lại ngồi bệt xuống đất. Rồi lại đi như thú bốn chân đến chuồng ngựa. Con chó Roy chạy ra khỏi chuồng, sủa dữ dội. Nó kéo căng dây xích, lồng lộn như điên. Ông giáo sư ngồi ngay gần kề, nhưng ngoài tầm sợi dây xích, chọc ghẹo chó với trăm nghìn cách. Ông hốt cát hoặc nhặt sỏi tung vào mắt chó, lại lấy gậy chọc, đưa ngay dưới mõm chó, ông cố chọc cho chó tức giận cực độ. Chưa bao giờ chúng tôi chứng kiến một cảnh dị thường như thế. Người càng nặn ra những điều tàn ác để chọc ghẹo, chó càng điên tiết sủa vang, vùng vẫy bức xích. Rồi thình lình thảm cảnh nổ bùng. Dây buộc cổ tuột ra. Chó nhảy đến. Người và chó cùng nhau lăn lộn: chó gào rống, người la hét. Chó cắn vào cổ người, ông giáo sư ngất xỉu trước khi chúng tôi chạy đến. Nếu Ben¬nett không chạy tới kịp, ra oai với con chó thì chính chúng tôi cũng lâm nguy luôn.
Sự lao xao làm cho anh xà ích ngủ ở trên chuồng ngựa thức giấc, chạy ra với nét mặt còn ngái ngủ và kinh hoàng. Con chó lại bị xích. Chúng tôi đưa ông giáo sư về phòng. Ben¬nett có học về y, giúp tôi băng cuống họng bị thương. Sau nửa giờ tìm đủ mọi cách, chúng tôi cầm được vết thương nguy hiểm. Tôi chích một mũi mor¬phin làm cho ông ta ngủ mê man. Tôi đề nghị mời một y sĩ chuyên môn nhưng Ben¬nett phản đối vì không muốn chuyện xấu xa này bung ra ngoài, có hại cho thanh danh ông giáo sư và cho cô con gái.
- Đúng vậy - Holmes - Chúng ta sẽ ngăn cản mọi sự tái diễn. Ông Ben¬nett vui lòng gi¬ao cho tôi chiếc chìa khóa ở dây đồng hồ. Chúng ta đi xem cái hộp bí mật, còn anh xà ích thì hãy ở cạnh người bệnh.
Trong hộp không có gì nhiều: một chai nhỏ rỗng, một chai khác còn gần đầy, một ống kim thạch, nhiều bức thư chữ viết lí nhí của một người ngoại quốc mà các phong bì đều có dấu chéo. Tất cả đều xuất xứ từ đại lộ Com¬mereial và ký tên là Do¬rak. Chúng chứa hoặc những biên nhận hoặc báo tin một chai thuốc mới gửi đến. Có một bao bì với chữ viết của một người có học hơn và mang bưu ấn của Prague trên một con tem của nước áo.
- Đây là giải đáp của bài toán! - Holmes la lớn, rồi đọc to lên.
"Thưa đồng nghiệp kính mến! Kể từ ngày được ông chiếu cố, thăm viếng, tôi suy nghĩ nhiều về trường hợp của ông. Vì ông quá lo lắng nên tôi phải chữa trị cho ông, nhưng ông phải thận trọng, vì các kết quả mà tôi đạt được, cho thấy có kèm theo những nguy hiểm.
Nếu sử dụng loại serum của vượn-người, thì ông được an toàn hơn. Nhưng tôi thích sử dụng loại serum của con vượn Lan¬gur. Loại vượn này chuyên bò và leo, còn vượn-người thì đi thẳng như người. Tôi yêu cầu ông thận trọng tối đa để bài thuốc khỏi bị tiết lộ. Tôi còn một thân chủ khác ở Anh. Do¬rak là đại diện của tôi, phụ trách lấy thuốc cho cả hai ông. Ông nên báo cáo hàng tuần cho tôi biết.
Thân trọng kính chào
H. LOWEN¬STEIN".
Sau khi nghe đọc thư xong, tôi giảng giải cho Holmes và Ben¬nett biết
- Lowen¬stein. Cái tên này làm tôi nhớ lại một bài báo kể chuyện một nhà bác học vô danh đã tìm ra thuốc trường sinh bất tử. Lowen¬stein của Prague! Lowen¬stein với serum trường sinh đã bị đại học y khoa cấm vì ông không tiết lộ nguồn gốc của serum.
Ben¬nett lấy ra một cuốn động vật học, rồi đọc.
- Lan¬gur, giống khỉ to, đầu đen, sống trên cái triền núi Hy¬mala¬yar, là loài khỉ leo trèo, to con nhất và giống con người nhất. Ông Holmes, nhờ ông mà chúng tôi phăng lên ngọn ngành của tệ trạng.
- Ngọn ngành thực sự là câu chuyện chồng già vợ trẻ. Ông giáo sư lo sợ cuộc tình duyên sẽ sớm đổ vỡ nếu ông "không còn trẻ!". Không ngờ vì muốn trèo cao mà ông rủi ro tụt xuống thấp hơn.
Holmes ngắm nghía cái lọ cầm trên tay và suy nghiệm chất lỏng trong trẻo ở bên trong.
- Khi tôi viết xong cái thư qui trách nhiệm cho Lowen¬stein về tội lưu hành khất độc thì chúng ta sẽ không còn bực bội nữa. Theo tôi thì chả còn gì để nói thêm, ông Ben¬nett à. Con chó nhờ cái khứu giác nhạy bén của nó nên nó cảm nhận sự thay đổi nhanh hơn anh nhiều. Chính con khỉ, con khỉ thích leo trèo, bị Roy tấn công, chứ không phải ông giáo sư. Còn việc ông giáo sư nhìn vào phòng con gái là hoàn toàn ngẫu nhiên. Wat¬son này! Chút nữa có chuyến xe lửa đi Lon¬don, tôi đề nghị chúng ta đi uống trà trước khi lên tàu.
09. Cái Bờm Sư Tử
Sau khi giải nghệ, tôi rút về Sus¬sex sống cuộc đời êm ả giữa thiên nhiên. Lúc đó, thỉnh thoảng Wat¬son có tới thăm tôi. Biệt thự của tôi tọa lạc tại triền phía nam của dãy núi Downs, từ đó nhìn ra biển Manche. Tại đó, bờ biển toàn bằng đá vôi. Muốn xuống biển, phải theo một đường mòn độc nhất, rất dài, khúc khuỷu, quanh co, dốc thẳng đứng và trơn trượt. Cuối đường môn này có một bãi sỏi bề ngang 100 yard, khi nước lớn cũng không bị chìm hẳn. Đó đây có các chỗ trũng tạo thành những hồ tắm thiên nhiên đẹp mắt, nước được thay đều đặn vào lúc thủy triều lên. Cái bãi biển lý tưởng này trải dài mấy cây số, chỉ trừ tại một điểm có cái vịnh con và ngôi làng Ful¬worth.
Tôi, bà lão quản gia và đám ong mật quây quần với nhau trong lãnh địa mênh mông của tôi. Cách đó nửa dặm, là trường học "The Gables" nổi tiếng của ông Harold Stack¬hurst, với khoảng 20 thanh niên đang học nhiều nghề khác nhau dưới sự hướng dẫn của nhiều giáo sư. Ông Stack¬hurst là một tay chèo cừ khôi thời thanh niên và có kiến thức tổng quát rất giỏi. Chúng tôi kết bạn với nhau từ ngày tôi mới tới. Ông là người địa phương độc nhất có thể tới nhà tôi hàn huyên ban đêm, hoặc chính tôi qua bên ông ta mà không cần mời mọc. Khoảng cuối tháng 7-1909, một cơn bão lớn càn quét biển Manche. Sóng lớn đập rầm rầm vào chân bờ đá vôi. Sau khi nước rút, còn lại những cái đầm. Vào buổi sáng, gió đã lặng, toàn thể cảnh vật được tắm rửa sạch sẽ. Trước khung cảnh quyến rũ, điểm tâm xong, tôi đi dạo một vòng để hít thở khí trời trong lành. Tôi men theo đường mòn đi xuống bờ biển. Trong khi đi, tôi nghe tiếng kêu đàng sau: đó là ông Harold Stack¬hurst đang vẫy tay chào đón tôi.
- Trời thật đẹp, ông Holmes! Tôi đoán thế nào cũng gặp ông tại đây.
- Ông chuẩn bị đi bơi?
- Vâng, tôi vẫn còn giữ những thói quen tốt. - Ông vừa trả lời vừa sờ cái túi căng phồng của ông. - Đúng vậy, McPher¬son ra khỏi nhà sớm lắm. Tôi đoán cũng sẽ gặp ông ta tại đây.
Fitzroy McPher¬son là giáo sư khoa học, có vóc dáng đẹp nhưng tim yếu vì đau thấp khớp nặng. Tuy vậy ông ta cũng còn là một lực sĩ, giỏi về các môn thể thao. Mùa đông cũng như mùa hè, ông ta đều đi bơi. Tôi cũng là tay bơi, chúng tôi thường bơi với nhau ngoài khơi.
Liền khi đó, hai chúng tôi thấy McPher¬son xuất hiện trên đỉnh đá vôi, khởi điểm của đường mòn. Người ông thẳng đứng, nhưng lại lắc lư như một kẻ say rượu. Thình hình ông giơ cao hai tla lên một tiếng thất thanh, rồi té sấp xuống đất. Ông Stack¬hurst và tôi, đứng cách đó 50 yard, hối hả chạy tới, đỡ ông nằm lại. Mắt nhắm nghiền, mặt tái mét, McPher¬son đang hấp hối. Ông nói hai ba câu như muốn trối trăn... nhưng giọng quá yếu ớt. Chúng tôi chỉ nghe các tiếng cuối cùng: "Cái bờm sư tử" . Cái bờm sư tử? Thật là lạ lùng và bí hiểm? Tuy nhiên tôi chắc chắn đã nghe rõ mồn một. Đột nhiên McPher¬son muốn nhổm dậy, huơ tay nhưng ngã qua một bên và trút hơi thở cuối cùng.
Ông bạn Stack¬hurst sợ điếng người. Còn các giác quan của tôi đang ở tình trạng ứng chiến. McPher¬son chỉ mặc một cái áo khoác mỏng, cái quần, chân mang đôi dép không cột dây. Khi ông ngã xuống, chiếc áo khoác trên vai tuột ra, để lộ mình trần. Chúng tôi điếng người khi nhìn thấy cái lưng đầy rẫy những đường đỏ đậm như bị roi đồng mịn quất liên hồi. Chắc chắn chiếc roi có thể co giãn được vì các vết thương vẽ những đường cong trên vai và trên sườn. Cằm thì nhiều máu từ vết cắn môi dưới trong cơn đau.
Trong lúc tôi quỳ cạnh xác chết, Stack¬hurst đứng như trời trồng thì một bóng người chiếu xuống đất: Mur¬doch đã đến cạnh chúng tôi. Ian Mur¬doch là giáo sư toán, người cao ráo, da nâu, gầy gò, ít nói và hay giữ khoảng cách với mọi người đến nỗi không có lấy một người bạn. Hình như ông ấy chỉ sống trong vương quốc của những con số và những hình tròn, tách biệt hẳn với đời thường. Sinh viên cho ông ta là người kỳ cục, có lẽ sẽ trêu chọc ông cho vui nếu không gặp những lần ông đổ quạu. Một lần nọ, vì bị con chó của McPher¬son quấy nhiễu, ông thộp đầu nó, quăng qua cửa sổ. Sau thành tích này, lẽ ra Mur¬doch đã bị đuổi nếu ông hiệu trưởng Stack¬hurst không quí chuộng cái tài của Mur¬doch. Đó là chân dung của nhân vật dị thường, phức tạp, đột ngột xuất hiện cạnh chúng tôi. Mur¬doch có vẻ rất xúc động mặc dù chuyện con chó chứng tỏ rằng ông và người chết không hề có thiện cảm với nhau:
- Chúa ơi! Chúa ơi! Tôi có thể giúp được cái gì? Tôi phải làm gì để giúp quý ông?
- Hồi nãy ông có đứng cạnh McPher¬son không? Chuyện gì vậy?
- Không, hồi sáng tôi ra trễ. Tôi đâu có tắm. Tôi đi thẳng từ nhà ra đây. Tôi có thể làm gì?
- Chạy ra khi cảnh sát Ful¬worth trình bày
Không đáp lại tiếng nào, Mur¬doch tức tốc chạy đi.
Đương nhiên là tôi thụ lý nội vụ. Trong lúc đó, Stack¬hurst vẫn còn bàng hoàng trước thảm kịch, đang quanh quẩn bên cái xác. Việc đầu tiên của tôi là tìm biết lúc đó có ai.
Tôi đứng ở đầu đường mòn, nhìn nguyên cả bãi biển vắng tanh. Chỉ hai hoặc ba dáng người lờ mờ ở phía xa xa của ngôi làng Ful¬worth. Sau đó, tôi từ từ đi xuôi theo đường mòn. Thỉnh thoảng tôi gặp cùng một dấu chân đi xuống rồi lại đi lên. Không ai khác đi ra bãi biển bằng con đường mòn này. Tại một chỗ, tôi quan sát dấu của một bàn tay mở rộng, cái ngón chĩa theo hướng đi lên: điều này có nghĩa là khi leo lên dốc, McPher¬son đã bị té. Tôi cũng thấy những lỗ thủng hình tròn: như vậy là ông ta đã nhiều lần sụp gối xuống. Cuối đường mòn là một cái đầm lớn do nước ròng để lại. Khăn lau của ông còn vắt trên một tảng đá. Khăn còn xếp và khô: ông không có tắm.
Trên đám sỏi, tôi thấy vài mảng cát nhỏ ghi dấu dép và dấu chân đi đất của ông. Sự kiện cuối cùng này chứng tỏ rằng ông ta sắp sửa xuống nước, nhưng chiếc khăn khô cho thấy ông không xuống nữa.
Bài toán là như vậy. Thật là một chuyện lạ lùng McPher¬son không ở ngoài bãi biển lâu hơn 15 phút, bởi vì Stack¬hurst có để ý khi ông này ra khỏi nhà, ông chuẩn bị để tắm, như đôi chân đi đất chứng minh. Nhưng ông đột ngột mặc áo quần trở lại rồi chạy đi mà không kịp gài nút. Ra về mà không tắm hoặc ít ra là không lau khô? Tại sao McPher¬son lại đổi ý? Bị quất roi một cách man rợ, bị hành hạ đến nỗi phải cắn môi chảy máu và chỉ còn đủ sức để ngược đường mòn rồi chết! Ai đã tấn công ông ta? Quả có những hang động nhỏ dưới chân bờ đá vôi, nhưng mặt trời mới lên, chiếu sáng, không ai có thể dùng làm nơi ẩn náu được.
Có những dáng người xa tít trên bãi biển, nhưng họ ở quá xa, không thể dính dáng với vụ án. Hơn nửa cái đầm mênh mông nơi mà McPher¬son có ý định tắm ngăn cách với những người đó. Trên biển, vài chiếc xuồng đánh cá cũng ở khá gần. Các ngư phủ này có thể được thẩm vấn sau này. Như vậy có nhiều con đường mà chẳng có con đường nào đưa tới một hướng điều tra nhất định cả.
Khi tôi quay trở lại với xác chết thì một nhóm nhỏ đang bu quanh. Đương nhiên là có Stack¬hurst và Mur¬doch mới vào làng về cùng với An¬der¬son, viên cảnh sát địa phương. Anh chàng này to con, râu ngạnh trê, rõ ràng thuộc nòi giống Sus¬sex, câm lặng, chậm nhưng nhiệt tình. Anh ta nghe chúng tôi trình bày, ghi chép và cuối cùng kéo tôi ra một bên.
- Ông Holmes à, xin ông tiếp tay. Đối với tôi, đây là một vụ lớn lắm.
Tôi khuyên anh ta sai người đi báo cho cấp trên trực tiếp, mời pháp y, cấm không cho ai sờ mó gì và giới hạn tối đa sự tăng thêm dấu chân. Sau đó, tôi lục túi nạn nhân, và tìm thấy một mù soa, một dao lớn và một ví nhỏ. Trong ví này lò ra một miếng giấy con. Tôi đưa cho viên cảnh sát. Những dòng chữ nguệch ngoạc của phụ nữ: "Tôi sẽ có mặt tại đó, anh an tâm. Maudie". Có thể nào đây là một chuyện tình, một cái hẹn? Nhưng mà hẹn tại đâu? Lúc nào?
Viên cảnh sát để tờ giấy trở lại trong ví, rồi bỏ ví vào túi áo choàng. Sau khi dặn dò việc lục soát chân bờ đá vôi cho thật kỹ, vì không còn gì cần kiếm nữa, tôi về nhà ăn điểm tâm.
Một lát sau, Stack¬hurst tới nhà cho hay rằng xác chết đã được chở về trường The Gables để điều tra. Ông cũng mang lại vài tin tức chính xác và nghiêm trọng. Như tôi đoán trước, người ta không kiếm được gì trong các hang động dưới chân bờ đá vôi. Nhưng khi khám xét các giấy tờ trên bàn của McPher¬son; vài giấy tờ cho thấy có sự liên lạc thân mật giữa ông giáo sư khoa học trẻ tuổi này với một cô bé tên là Maud Bel¬lamy ở làng Ful¬worth. Như vậy là biết được tác giả tờ giấy trong túi nạn nhân.
- Cảnh sát đã lấy các bức thư, - Stack¬hurst nói - Tôi không thể mang lại đây cho ông. Có thể nói dứt khoát với ông rằng đó là những bức thư tình. Nhưng tôi thấy không có lý do vững chắc để móc chuyện tình này vào biến cố thê thảm, trừ khi quả có một sự hẹn hò từ phía cô bé.
- Không ai hẹn với bồ tại một hồ tắm mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể đến đó bất cứ lúc nào. - Tôi bác bỏ.
- Là một sự ngẫu nhiên hoàn toàn khi không có một toán sinh viên đi theo McPher¬son. - ông Stack¬hurst nói.
- Có phải là ngẫu nhiên thật không? - Tôi hỏi
Stack¬hurst cau mày suy nghĩ rồi nói:
- Mur¬doch giữ họ lại để giảng một chứng minh hình học quỷ quái gì đó trước bữa ăn sáng. Thằng khỉ! Trông bộ mặt nó là đủ thấy nó đau xót một cách thành thật.
- Vậy mà tôi tưởng họ mặt trăng mặt trời với nhau?
- Quả có vậy, nhưng chỉ trong một thời gi¬an mà thôi. Kể từ một năm nay, Mur¬doch lại là bạn của McPher¬son như đối với bất cứ ai khác. Tánh tình hắn như thế! Bản chất không có nồng nàn với bất cứ ai.
- Tôi hiểu. Hình như ông có kể cho tôi nghe về vụ con chó bị xử tệ.
- Vụ này được giải quyết êm xuôi rồi.
- Không còn có gì để phải trả thù?
- Không, tôi đoán chắc. Họ trở thành bạn thân của nhau.
- Vậy thì ta phải quay về phía cô bé, ông biết cô ta không?
- Mọi người đều biết cô ta. Đó là hoa hậu trong làng. Hoa hậu xứng danh, ông Holmes à! Đi đâu cũng được trầm trồ. Tôi biết rằng McPher¬son bị cuốn hút. Nhưng tôi không ngờ sự việc đi tới mức như các lá thư trao đổi cho nhau.
- Gốc gác cô ấy ra sao?
- Cô ta là con của ông già Tom Bel¬lamy, sở hữu chủ của tất cả các tàu biển và phòng tắm của làng Ful¬worth. Khởi sự chỉ là một ngư phủ thường, nhưng giờ thì phất lắm. ông ta và cậu con trai điều khiển cơ sở.
- Hay là ta đi vào làng một vòng để xem mặt họ.
- Viện cớ gì?
- Dễ mà! Đừng lo! Suy cho cùng, ông giáo sư McPher¬son này không tự mình hành hạ mình đến mức độ man rợ như thế. Vậy, phải có một bàn tay ở đầu roi, nếu ta đề ra giả thiết là nó giết ông ấy. Trong cái xó biển này, ông ấy không có nhiều quan hệ lắm đâu. Đi vòng này, chúng ta sẽ kiếm ra động cơ của vụ án, và sẽ phăng ra thủ phạm.
Làng Ful¬worth nằm sâu trong một cái vịnh. Sau xóm nhà cổ và biệt thự hiện đại được cất trên thửa ruộng nghiêng, Stack¬hurst đưa tôi tới một trong các biệt thự này.
- Đấy là biệt thự The Haven, tên do chính Bel¬lamy đặt. Đối với một người khởi sự bằng số không, thì quả là không tệ. Ơ, ơ... nhìn kìa, ông Holmes ơi!
Cửa vườn vừa mở: một người đi ra. Chúng tôi không thể lầm lẫn trước cái dáng người cao lêu nghêu, gân guốc, ưỡn ẹo. Đó là Mur¬doch.
- Ồ! Ê! - Stack¬hurst la to.
Mur¬doch chỉ gật đầu nhìn lấm lét như định làm lơ đi luôn, nếu không bị ông hiệu trưởng chận lại.
- Anh đi tới đó làm gì vậy? - Stack¬hurst hỏi.
Mặt của Mur¬doch đỏ rực, nổi cáu:
- Thưa ông, tôi là nhân viên của ông, nhưng chỉ trong khuôn viên nhà trường. Tôi đâu phải báo cáo với ông về đời tư của tôi.
Có lẽ trong một lúc nào khác, anh ta có thể phản ứng khéo léo hơn, nhưng lúc bấy giờ Mur¬doch mất hẳn bình tĩnh.
- Trong tình huống này, cách trả lời của ông là lếu láo ông Mur¬doch.
- Câu hỏi của ông hồi nãy cũng đâu có lễ phép gì!
- Đây không phai là lần đầu tiên tôi vấp phải sự ương ngạnh của ông. Lần này là lần cuối cùng. ông chuẩn bị càng sớm càng tốt để đi dạy nơi khác.
- Tôi cũng có ý định này. Hôm nay tôi đã mất đi một con người độc nhất để tôi có thể sống dưới mái tr
Nói xong, Mur¬doch bỏ đi. Ông hiệu trưởng giận sôi gan, im lặng đứng nhìn.
- Rõ ràng là không thể chịu đựng được nửa.
Ý tưởng nảy sinh trong tâm trí của tôi lúc bấy giờ mà Mur¬doch đã vồ lấy cơ hội để cao bay xa chạy. Một ngờ vực mơ hồ hình thành trong đầu tôi. Không biết cuộc viếng thăm gia đình Bel¬lamy sẽ soi một tia sáng mới nào không? Stack¬hurst bình tĩnh lại và chúng tôi tiếp tục đi về hướng biệt thự The Haven.
Ông Bel¬lamy cỡ ngoài 40, có bộ râu quai nón màu đỏ hung rất đẹp. Nhưng tánh khí có vẻ không đằm thắm lắm.
- Không đâu, tôi không thích chi tiết. Con trai tôi...
Vừa nói ông vừa chỉ một thanh niên lực lưỡng đang ngồi ủ rũ, cau có trong góc phòng khách.
- Con trai tôi cũng có ý hệt như tôi. Các dự định của ông McPher¬son đối với con Maud không đúng đâu? Cái từ "kết hôn" không bao giờ được thốt ra. Tuy nhiên cũng đã có những thư từ, những cuộc hẹn hò và những rối rắm khó khăn mà con trai tôi lẫn tôi đều bài bác. Con bé mất mẹ. Chúng tôi là điểm tựa độc nhất của nó. Chúng tôi quyết tâm...
Lời nói của ông ta bị cắt ngang bởi sự xuất hiện của cô bé. Vừa thấy cô, tôi hiểu ngay khuôn mặt đều đặn, nước da tươi mát, con người sắc nước hương trời này đã làm xao xuyến bao con tim đàn ông đã gặp cô. Cô xô cửa bước vào, đứng trước mặt ông Harold Stack¬hurst với đôi mắt mở to:
- Tôi đã biết Fitzroy đã chết. - Cô nói - Xin hai ông nói thẳng cho tôi nghe chi tiết.
- Có một anh chàng ở trường đến cho chúng tôi hay.- Người cha giải thích.
- Tôi không biết chuyện đó có liên quan gì đến em gái tôi.- Người con trai lẩm bẩm.
Maud nhìn qua anh một cách
- Thây kệ tôi, William! Anh hãy để cho tôi giải quyết theo ý tôi. Theo những gì tôi biết thì anh ấy bị ám sát. Nếu tôi có thể tiếp tay tìm ra thủ phạm thì đó là việc vặt vãnh nhất mà tôi cần phải làm.
Sau đó, cô lắng nghe sự trình bày ngắn của tôi. Qua đó tôi thấy cô ta vừa sắt đá, vừa quyến rũ. Có lẽ cô ta đã biết mặt tôi rồi nên cô quay qua phía tôi:
- Hãy tiếp tay đưa bọn họ ra trước công lý, thưa ông Holmes. Tôi cam kết lúc nào tôi cũng dành trọn cảm tình cho ông và sẵn sàng cộng tác với ông, dù bọn sát nhân là ai?
Tôi có cảm giác rằng trong khi nói chuyện, cô nhìn cha và anh với vẻ thách thức.
- Cám ơn cô! - Tôi đáp - Tôi cảm phục bản năng của phụ nữ trong những vụ như thế này. Cô có nói "họ". Vậy là theo cô, có nhiều thủ phạm trong vụ này.
- Tôi biết rằng anh McPher¬son gan dạ, mạnh lắm. Nếu họ chỉ là một người thì không thể gây cho anh ấy những vết thương như thế.
- Tôi có thể gặp riêng cô một chút được không.
- Này Maud, tao nhắc lại với mày, đừng xía mũi vào việc này. - Người cha la to.
Cô gái nhìn tôi một cách tuyệt vọng.
- Tôi có thể làm gì bây giờ?
- Không bao lâu nữa, mọi người sẽ biết rõ các sự việc .- Tôi đáp - Cho nên tôi có trình bày tại đây cũng không sao. Tôi thấy nên nói riêng với cô nhưng bố cô không cho phép thì ông ấy tham dự cuộc nói chuyện giữa cô và tôi.
Tôi nói về tờ giấy được tìm thấy trong túi ông McPher¬son.
- Bất cứ ai điều tra vụ này cũng phải hỏi về tờ giấy này. Xin cô vui lòng cho biết thêm!
- Tôi thấy không có lý do gì để che giấu câu chuyện giữa chúng tôi. Chúng tôi đã đính hôn, chỉ chờ làm lễ cưới. Chúng tôi còn giữ kín vì bác của anh gần chết, có thề truất quyền thừa kế, nếu anh ấy cưới vợ trái với ý muốn của ông ta.
- Lẽ ra con phải cho ba hay. - Người cha càu nhàu.
- Con đã tâm sự với ba rồi, nếu ba có một chút thiện cảm thì...
- Ba không muốn con gái của ba gi¬ao du với những thanh niên ngoại tịch.
- Thành kiến của ba như thế, con đâu dám cho ba hay trước chuyện kết hôn. Còn về tờ giấy hẹn thì...?
Cô ta ngừng lại, lục trong túi áo, rút ra một tờ giấy vò nát.
-... là để hồi âm tờ giấy này.
Cô ấy đọc to: "Em thân yêu, Như thường lệ, tại điểm cũ, ở bãi biển, thứ ba, sau khi mặt trời lặn. Đó là lúc duy nhất anh ra được. F.M"
Rồi cô ấy nói thêm:
- Thưa ba là hôm nay đây. Tôi dự định gặp anh ấy vào tối nay.
Tôi cầm tờ giấy và lật ngược lại.
- Bức thư ngắn này không gửi bằng bưu điện. Cô nhận nó bằng cách nào?
- Ông cho phép tôi khỏi trả lời vì nó không liên quan tới vụ án. Ngoài ra, tất cả những gì có liên quan, tôi sẽ trả lời đầy đủ.
Cuộc thẩm vấn không đem lại cái gì mới lạ. Cô không tin rằng vị hôn phu của cô có một kẻ giấu mặt, tuy cô đồng ý rằng có nhiều người nhiệt tình ngấp nghé cô.
- Xin phép được hỏi cô, ông Ian Mur¬doch có trong số người này không?
Cô ta đỏ mặt, có vẻ lúng túng.
- Có một dạo. Nhưng sau khi anh ấy biết rằng tôi rất thân thiết với Fitzroy thì tất cả đã thay đổi.
Lại một lần nữa, hình bóng con người lạ thường này dường như lộ rõ thêm. Phải tìm hiểu quá khứ của anh chàng Mur¬doch này. Phải lục kỹ phòng của anh ta. Stack¬hurst sẽ tận tình giúp đỡ tôi vì ông ta cũng ngờ vực.
Chúng tôi từ giã biệt thự The Haven với lòng khấp khởi mừng thầm đã nắm được một đầu cuộn chỉ.
Một tuần trôi qua. Cuộc điều tra vẫn giậm chân tại chỗ. Stack¬hurst đã kín đáo dò hỏi thêm về ông giáo sư dạy toán và đã lục soát phòng ngủ của ông ta. Nhưng không có kết quả gì. Về phần tôi, tôi phải quay lại điểm xuất phát và cật lực làm việc, nhưng vẫn hoài công. Trong lúc đó bỗng xuất hiện một biến cố nhỏ: vụ con chó. Bà quản gia của tôi nghe được trước tiên.
- Một chuyện bi thương, thưa ông. Chuyện con chó của ông McPher¬son. - Một tối nọ, bà nói. với tôi như thế.
Ít khi tôi khuyến khích bà nói chuyện tào lao. Nhưng lần này tôi nằng nặc đòi bà kể cho tôi nghe.
- Chuyện gì về con chó?
- Nó chết rồi. Nó chết vì thương tiếc chủ nó.
- Ai nói vậy?
- Chúa ơi! Người ta nói rùm beng. Nó nhớ chủ, bỏ ăn cả tuần nay. Hôm nay thì hai giáo sư trường The Gables gặp xác nó tại bãi biển. Đúng ngay chỗ chủ nó bị giết.
"Ngay chỗ.. chủ nó bị giết". Mấy từ này vang dội trong óc tôi. Đột nhiên, tôi có cảm giác mơ hồ rằng đây là một chi tiết thiết yếu. Con chó trung thành với chủ, chuyện đẹp thật. Nhưng tại sao lại chết ở chỗ đó. Tại sao ở cái bãi biển cô quạnh này. Con chó cũng là một nạn nhân chăng? Vô lý! Tôi có một cảm giác mơ hồ như thế. Một chặp sau, tôi tới trường gặp Stack¬hurst. Theo yêu cầu của tôi, ông mời Sud¬bury và Blount, hai sinh viên đã phát hiện ra xác
- Đúng, nó nằm ngay bờ của cái đầm. - Một trong hai sinh viên xác nhận với tôi - Có lẽ nó lần theo vết chân của chủ nó.
Tôi thấy xác con vật trung thành còn để trên một đệm rơm ở cửa ra vào. Xác nó cứng đơ, đôi mắt lồi ra, chân cẳng vặn vẹo. Sự đau đớn lộ rõ trên xác chết, dường như nó đã gào rống thảm thiết.
Sau đó, tôi đi xuống bãi tắm. Mặt trời đã lặn. Bờ đá vôi ngả bóng đen sì dưới mặt nước óng ánh. Quang cảnh thật là cô tịch. Ngoài hai con chim biển bay vòng vòng, không có một con gì khác nữa. Dưới ánh nắng chiều đang nhạt dần, tôi còn thấy dấu chân con chó ở chung quanh hòn đá mà chủ nó để khăn lau. Tôi đứng đó, suy ngẫm khá lâu. Chung quanh tôi, bóng đêm càng lúc càng dày thêm. Đầu tôi đầy ắp những ý tưởng cuồn cuộn mà tôi cảm thấy cần tìm một điểm hệ trọng quanh quẩn đâu đây tại nơi sặc mùi tử khí này. Cuối cùng, tôi chậm rãi, nặng nề bước về nhà.
Đi hết đường mòn, lên trên bờ đá vôi, đột ngột tôi thấy lóe sáng trong đầu óc tôi cái điều thiết yếu mà tôi hằng mong muốn, một cái gì liên quan đến vụ án, tuy còn rất lờ mờ. Tôi mường tượng thấy một giả thiết cần phải kiểm chứng.
Tôi chạy về nhà, lao lên cái gác xép nhỏ chứa đầy sách. Lục lọi cả giờ, tôi tìm được một cuốn sách nhỏ bìa nâu mạ bạc. Tôi ngấu nghiến đọc đi đọc lại chương sách mà tôi vừa nhớ lại. Tôi không ngủ được cho đến khi biết chắc chắn rằng tôi nghĩ không sai.
Rồi sáng đấy, tôi gặp phải một trở ngại bực bội. Vừa uống xong tách trà, chuẩn bị xuống bãi biển thì tôi phải tiếp thanh tra Bar¬dle, thuộc sở cảnh sát Sus¬sex. Ông ấy nhìn tôi.
- Thưa ông, tôi có nghe về những kinh nghiệm vô song của ông. Cuộc viếng thăm này không có tính chất chính thức nhưng tôi phải thú thực rằng tôi xui xẻo khi gặp cái vụ này! Thưa ông, có cần thi hành thủ tục bắt gi¬am hay không?
- Bắt gi¬am ông Ian Mur¬doch hả?
- Vâng, thưa ông. Nghĩ cho cùng thì ai khác bây giờ
- Ta siết vòng vây, siết, siết cho tới khi cái vòng thu hẹp lại.
- Nếu không phải là ông ấy thì ai bây giờ?
- Ông có bằng bằng chứng gì không?
- Tính tình của Mur¬doch. Cái bí mật quanh con người này! Chuyện con chó bị quăng ra cửa sổ! Nhất là Mur¬doch đang chuẩn bị bỏ sở! Không lẽ ông lại làm ngơ cho y chuồn êm với một hồ sơ bất lợi cho y như thế. - ông thanh tra cảnh sát xúc động hỏi tôi.
- Ông có những khiếm khuyết lớn trong cái hồ sơ đó! Buổi sáng hôm ấy, Mur¬doch dạy sinh viên học cho tới phút chót và chỉ sau khi phát hiện xác chết, ông ta mới tới. Ngoài ra, ông còn phải suy nghĩ đến một sự kiện quan trọng là một mình Mur¬doch có thể đánh bằng roi vào một người như McPher¬son cho đến chết không. Cuối cùng, còn phải xét đến dụng cụ đã gây ra các vết thương trên mình nạn nhân. Một cái roi co giãn hay cái gì cùng loại! Ông có khám nghiệm các dấu vết chưa?
- Tôi có thấy! Cả pháp y nữa!
- Phần tôi, tôi đã sử dụng tới kính lúp. Cái dấu vết có những đặc điểm lạ.
- Đặc điểm gì?
Tôi mời ông thanh tra vào văn phòng của tôi, cho ông ta xem một phóng ảnh.
- Trong những vụ như vậy, đây là cách làm việc của tôi. - Tôi nói.
- Đương nhiên là ông lúc nào cũng nghiêm túc.
- Chúng ta hãy xét kỹ cái vết roi ở vai phải. Ông không thấy gì đặc biệt sao?
- Không.
- Rõ ràng là các vết roi không đều, ở đây có máu chảy, chỗ kia thì không. Trên một lằn roi khác, chúng ta cũng thấy như thế! Tại sao
- Tôi không có ý kiến gì cả. Còn ông?
- Hiện tôi cũng còn lờ mờ, khi ta mô tả được cái dụng cụ tạo ra vết thương thì sẽ phăng ra thủ phạm ngay.
- Tôi có ý kiến, - ông thanh tra cảnh sát nói nhỏ, ngập ngừng - Nếu là một dây thép gai nung đỏ thì mấy vết đâm là các điểm có gai.
- Sự so sánh của ông tinh ý thật. Do đó, tôi lại nghĩ đến cái đuôi con mèo có cột nhiều nút nhọn nhỏ.
- Vậy là ông đã tìm ra!
- Trừ khi các sự kiện đó bắt nguồn từ một nguyên nhân khác, ông Bar¬dle à, ông phải thấy rằng hồ sơ của ông không đủ để bắt người. Ngoài ra, còn lời trối của nạn nhân: "Cái bờm sư tử" nữa.
- Ông có giả thiết nào khác không, ông Holmes?
- Có lẽ có. Nhưng tôi không dám bàn đến khi chưa có cơ sở vững chắc.
- Chừng nào?
- Trong vòng một giờ! Cũng có thể sớm hơn...
Ông thanh tra cảnh sát gãi cằm và nhìn tôi một cách bán tín bán nghi.
- Tôi muốn đọc những gì trong đầu ông, ông Holmes à! Có lẽ là các thuyền đánh cá?
- Không đâu, chúng ở xa lắm!
- Vậy là thằng cha Bel¬lamy và thằng con trai to con của y. Hai người này cũng đang bực bội McPher¬son.
- Không phải đâu! Ông sẽ không moi được gì ở tôi! - Tôi vừa cười vừa nói - Giờ đây, ông thanh tra à, chúng ta đều công tác riêng. Nếu ông rảnh, chúng ta hẹn gặp lại lúc 12 giờ.
Chúng tôi chuẩn bị chia tay thì một việc hãi hùng xảy ra, đánh dấu bước đầu của hồi tàn cuộc.
Cửa nhà tôi bị đẩy mạnh toang hoác và một người bước đi khập khễnh ở hành lang. Mur¬doch đi cà nhắc bước vào phòng tôi, mặt mày tái xanh, tóc tai bù xù, áo quần xốc xếch.
- Brandy! Brandy! Nhanh lên!
Nói xong, ông ta ngã phịch xuống chiếc tràng kỷ. Bước theo sau ông ta là Stack¬hurst, thở hổn hển, đầu không đội mũ, vẻ mặt hốc hác.
- Đúng thế, hãy cho ta uống Brandy. - Stack¬hurst kêu lớn - Hấp hối rồi. Đưa anh ấy tới được đây là may đó. Dọc đường, anh ta ngất xỉu hai ba lần.
Nửa cốc rượu mạnh tạo phép lạ. Mur¬doch phóng tay ngồi dậy và cởi áo vét.
- Hãy cho tôi dầu, thuốc giảm đau để xoa dịu cái đau kinh khủng này. - Anh ta rên rỉ.
Ông thanh tra cảnh sát và tôi cùng thốt lên tiếng kêu hãi hùng khi nhìn thấy những vết roi đỏ au trên vai trần của nạn nhân, những vết roi giống hệt trên mình của Fitzroy McPher¬son. Không những sự đau nhức cùng cực mà sự, hô hấp của nạn nhân thỉnh thoảng bị ngừng lại, mặt trổ màu đen, trán nhễ nhại mồ hôi và có lúc ông ta dùng tay đè mạnh lên tim như quá đau đớn.
Chúng tôi cho anh ta uống thêm Brandy. Cứ mỗi lần uống, anh ta lại tỉnh dần. Bông thấm dầu xà-lách hình như làm dịu được vết thương bí hiểm này. Cuối cùng, ông ta gục đầu xuống gối, nửa ngủ, nửa xỉu, nhưng ít ra thấy bớt đau. Chúng tôi không hỏi gì thêm được. Ngay khi chúng tôi hơi an tâm về tình trạng sức khỏe của Mur¬doch thì Stack¬hurst quay về hướng tôi.
- Chuyện gì vậy hở Holmes?
- Ông gặp anh ta ở đâu?
- Dưới bãi biển, ngay chỗ McPher¬son chết. Nếu Mur¬doch yếu sức như McPher¬son thì anh ta đâu về đến đây được. Trong khi cố dìu anh ta, mấy lần tôi tưởng anh ta chết rồi. Về trường thì quá xa, tôi bèn ghé vào đây.
- Ông thấy anh ta ở bãi biển?
- Tôi đang đi dạo dọc bờ đá vôi thì nghe tiếng kêu. Anh ta đang đứng gần bờ nước, lắc lư như người say rượu. Tôi lật đật chạy xuống, mặc áo quần qua loa rồi dìu về đây, ông Holmes. Ông phải tận lực để làm sáng tỏ vụ này. Với tài nghệ của ông, không lẽ ông không giúp được chúng tôi?
- Tôi tin là tôi làm được! Hãy đi theo tôi, cả ông thanh tra nữa. Chúng ta đi xem. Có thể tôi gi¬ao nộp kẻ sát nhân cho ông.
Bỏ Mur¬doch cho bà quản gia chăm sóc, chúng tôi xuống cái đầm chết người. Trên bãi sỏi còn quần áo, khăn lau của Mur¬doch. Tôi chậm rãi đi quanh cái đầm. Các bạn tôi theo sau. Nước đầm không sâu, khoảng 5 bộ, trong xanh như pha lê. Phía trong là một dãy đá tảng. Tôi đi dọc bờ nước dưới chân dãy đá vôi, vừa nhìn kỹ xuống nước, khi tìm được điểm sâu nhất thì tôi kêu lớn, biểu lộ sự đắc thắng.
- Một con sứa! - Tôi kêu to - Các ông hãy nhìn cái bờm của con sư tử.
Con vật dị thường mà tôi chỉ cho mọi người thấy, giống lông bờm con sư tử. Nó đang cuộn lại như trái bóng. Nó nằm dưới đáy đá cách mặt nước độ một yard. Nó có những cánh lông dài màu vàng điểm ánh bạc, đang co vào, giãn ra một cách chậm chạp, nặng nề.
- Nó gây tác hại đã nhiều rồi. Cho nó qua thế giới bên kia đi! - Tôi kêu lớn - Hãy giúp tôi, Stack¬hurst. Chúng ta trừ hậu họa.
Gần đó, có một hòn đá thật to. Chúng tôi lăn xuống đầm. Khi nước lặng, chúng tôi thấy con vật nằm dưới đáy hòn đá.
- Chuyện này vượt hẳn sức tôi. - ông thanh tra cảnh sát nói lớn - Tôi sinh ra và lớn lên tại đây, nhưng chưa bao giờ biết chuyện tương tự. Con vật này từ đâu tới chứ không có ở địa phương Sus¬sex này.
- Đó là cái không may mắn của Sus¬sex. Có lẽ cơn bão đã đưa nó tới. Thôi, hãy quay về nhà, tôi sẽ cho các ông biết kỷ niệm hãi hùng của một người gặp gỡ lần đầu cái tai ương của biển cả này
Khi trở về văn phòng, chúng tôi mừng rỡ thấy Mur¬doch đã khỏe hơn, tuy chưa hoàn hồn và thỉnh thoảng còn bị đau nhói. Anh cho biết là anh không hiểu việc gì xảy ra, đơn giản là anh cảm thấy đau tận xương tủy khi bị các móc nhọn quất vào mình. Anh đã cố gồng mình chạy lên bờ.
Tôi đưa ra cuốn sách mà tôi đã moi trên gác xép và nói:
- Đây là cuốn sách đã rọi các tia sáng đầu tiên vào một vấn đề đã nằm trong bóng tối mãi mãi. Quyển "Out of doors" (1) của nhà quan sát nổi tiếng J.G. Wood. Chính ông ta suýt chết khi gặp con vật khủng khiếp này. Do đó, đây là một tài liệu có cơ sở vững chắc. Cyanea Capil¬late là tên khoa học của thủ phạm. Tôi xin đọc qua một đoạn:
"Nếu bạn đi tắm mà gặp một khối tròn, mềm, màu hung hung đỏ, như lông bờm sư tử điểm bạc, cuộn tròn như trái bóng thì bạn phải coi chừng, vì nó quất đau điếng người. Những sợi dây hình như vô hình này dài đến 50 bộ".
Rồi sau đó, tác giả tường thuật việc chính ông gặp con sứa này trong khi bơi ngoài khơi bờ biển Kent.
"Cái mớ dây ấy để lại trên da tôi những vết thương màu hồng. Nhìn kỹ, các đường này là do sự tiếp nối của hằng hà sa số mụn nhọt li ti".
Wood lại giải thích:
"Cái đau như xuyên qua ngực. Tôi gục xuống như thể bị trúng nhiều phát đạn. Mạch máu như ngừng lại, tim đập mạnh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực".
Ông còn nói:
"Tôi đã uống nguyên chai brandy và hình như nhờ rượu này mà tôi còn sống".
Sau đó, quay qua phía ông thanh tra, tôi nói:
- Thưa ông thanh tra, tôi cho ông mượn cuốn sách này. Ông sẽ thấy rõ nguyên nhân cái chết của McPher¬son.
- Nhờ đó, hồ sơ của được trong sạch. - Ian Mur¬doch nói thêm với một nụ cười hơi gắng gượng - Tôi không phiền trách ông đâu, thưa ông thanh tra. Và tôi cũng không phiền trách ông đâu, thưa ông Holmes. Như vậy là nhờ vào sự kiện tôi chịu cùng một tai nạn với bạn tôi mà tôi được giải oan.
- Không đâu, ông Mur¬doch. Tôi đã tìm ra hướng đi. Phải chi đồng thời với phát hiện này, tôi có mặt ở bãi biển thì anh đã không chịu cuộc phiêu lưu hãi hùng này.
- Mà làm sao ông biết được, ông Holmes?
- Về mặt sách vở, tôi đọc lung tung, nhớ dai dẳng những chi tiết dị kỳ. Mấy tiếng "cái bờm sư tử" của McPher¬son ám ảnh tôi mãi. Tôi nhớ có đọc đâu đó một tình huống khá bất thường. Có lẽ con sứa đó nổi trên mặt nước lúc McPher¬son đứng trên bờ nên các lời trối trăng của ông ta là lời cảnh giác với tôi.
- Ít ra tôi đã được phục hồi danh dự - Mur¬doch nói và từ từ đứng thẳng người lên. - Tôi xin được giải thích thêm. Quả tôi có yêu cô Maud. Nhưng từ ngày cô chọn bạn chí thân của tôi, là McPher¬son thì tôi chỉ còn có một ý muốn giúp cô ấy tìm hạnh phúc. Tôi nguyện ước được sống gần họ, làm bạn tâm tình. Tôi thường làm con chim xanh giữa họ. Tôi chấp nhận làm điều đó, vì tôi nắm bí mật của họ và thân thiết đến nỗi tôi hối hả báo tin buồn cho cô ấy, sợ có ai khác cướp mất công trạng. Cô ấy không tiết lộ cái tình thân giữa cô ấy với tôi vì sợ rằng ông không hiểu được sự thành thật của tôi mà gây nên rắc rối cho tôi. Tôi xin phép về trường. Tôi cần phải nằm nghỉ.
Stack¬hurst giơ tay lên cao.
- Hai chúng ta đều buồn bực như nhau - Stack¬hurst nói với Mur¬doch - Anh tha thứ chuyện cũ của tôi. Trong tương lai, chúng ta sẽ hiểu nhau nhiều hơn.
Khi họ cặp kè ra đi, tôi đứng lại một mình với ông thanh tra cảnh sát.
- Ông đạt mục đích - ông ta nói to - Tôi có đọc nhiều về ông, nhưng chưa tin. Thật diệu kỳ.
Tôi bắt buộc phải gật đầu nhận một lời khen.
- Lúc đầu tôi tỏ ra chậm chạpối tiếc vô cùng. Phải chi xác McPher¬son được tìm thấy dưới nước thì tôi đã nghĩ ngay tới con sứa. Chính cái khăn lau đã đánh lạc hướng. Đương nhiên, nạn nhân đâu còn tâm trí để lau với chùi. Phần tôi, tôi lại nghĩ rằng McPher¬son không hề nhảy xuống nước. Kết quả là tôi đã đi lạc một lúc. Nào, thưa ông thanh tra, tôi thường qua mặt cảnh sát. Nhưng lần này quí ông được con sứa Cyanea Capil¬late phục thù giùm Scot¬land Yard.
10. Bà Thuê Nhà Mang Mạng Che
Suốt thời gi¬an 23 năm hành nghề của Sher¬lock Holmes, tôi đã có 17 năm diễm phúc được cộng tác với anh, chọn lọc và lưu lại những ghi chép của anh ấy dưới một cách trình bày trong sáng hơn. Cũng hoàn toàn sai lạc nếu suy đoán rằng tất cả các vụ án mà Holmes điều tra đều là những cơ hội để anh ta tỏ rõ các năng khiếu đặc biệt về trực giác và quan sát của anh. Thưa id="file¬pos715035">̀ng thường Holmes phải đổ mồ hôi mới hái được kết quả, nhưng đôi khi anh chỉ cúi xuống là có thể nhặt quả. Nhưng chính trong những vụ án mà Holmes khỏi phải trổ tài gì cả, ta mới thấy những trò bi thương nhất của loài người.
Một buổi sáng cuối năm 1896, tôi nhận được thư khẩn cấp của Holmes mời tôi đến đường Bak¬er ngay. Khi vào nhà, tôi thấy anh ngồi trong phòng sặc mùi thuốc lá trước một người đàn bà đứng tuổi có dáng dấp một bà chủ nhà trọ ở thủ đô. Holmes giới thiệu:
- Anh Wat¬son, đây là bà Mer¬rilow ở quận South Brix¬ton. Khói thuốc không làm phiền bà ấy đâu. Do đó anh có thể buông thả cái tật xấu của anh. Bà Mer¬rilow có một câu chuyện rất hay để kể cho chúng ta nghe. Chuyện này có thể có những diễn biến mà anh cần chứng kiến.
- Rất sẵn sàng!
- Thưa bà, nếu tôi đi gặp bà Ron¬der như bà muốn, tôi cần có một nhân chứng. Do đó, bà phải thuyết phục bác sĩ Wat¬son đây đi theo t
-Xin Chúa ban phước lành cho ông, thưa ông Holmes! - Bà chủ trọ nói lớn - Bà ấy rất cần gặp ông, cho nên ông có thể dẫn cả khu phố đi theo cũng được.
- Khoảng một, hai giờ chiều nay chúng tôi sẽ ra đi. Chúng tôi phải rà soát xem đã nắm vững các yếu tố của bài toán chưa. Bà nói rằng bà Ron¬der ở trọ nhà bà bảy năm, nhưng bà chỉ nhìn thấy rõ mặt bà ấy có một lần duy nhất?
- Là quá đủ, thưa ông Holmes!
- Mặt bà ta nát bấy hết à?
- Chúa ơi! Không thể gọi là cái mặt được. Người gi¬ao sữa cho tôi đứng ngoài cửa, nhìn thấy một lần: anh ta xúc động đến nỗi chai sữa tuột tay, đổ tứ tung. Hai ông hãy tưởng tượng thì biết mặt bà ấy ra sao! Khi tôi chợt nhìn thấy, bà ấy lập tức lấy tay che mặt ngay và nói: "Bà Mer¬rilow, giờ đây thì bà đã hiểu tại sao tôi luôn luôn che mặt bằng tấm khăn voan".
- Bà có biết tí gì về quá khứ của bà ấy không?
- Không biết tí gì cả.
- Khi dọn tới, bà ta không đưa ra một giấy tờ nào sao?
- Không, thưa ông. Bà ta trả tiền mặt, lại trả trước rất nhiều, không hề cò kè. Vào thời buổi khó khăn này, một người nghèo túng như tôi không ngu dại bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng như thế!
-Bà ấy có giải thích tại sao lại chọn nhà bà không?
-Nhà tôi xa đường cái, tương đối khá vắng vẻ. Ngoài ra, tôi lại không chồng, con. Tôi đoán bà ấy đã thử nhiều chỗ khác rồi. Cuối cùng thì bà ấy thấy căn nhà tôi hợp với bà ấy hơn.
- Bà có nói rằng bà ấy không để lộ mặt, trừ một trường hợp hoàn toàn ngẫu nhiên. Chuyện này khá dị thường đó. Do đó tôi hiểu vì sao bà tò mò.
-Đâu phải, thưa ông! Đối với khi mà tiền trọ thanh toán sòng phẳng... khó tìm một khách trọ bình lặng hơn, ít rắc rồi hơn.
-Vậy thì động cơ nào thúc đẩy bà tới đây?
- Sức khoẻ của bà ta, ông ạ. Dường như bà ta giữ một cái gì rất hãi hùng ở trong đầu. "Một sự giết người? Một cuộc ám sát?" Bà ấy la to về khuya như thế! Tiếng bà vang dội khắp nhà làm tôi sợ phát run! Sáng hôm sau, tôi tới thăm và nói: "Bà Ron¬der, nếu có điều gì u uất, bà nên tìm cha sở hoặc cảnh sát. Một trong hai người này sẽ giải quyết cho bà". Bà ấy đáp: "Xin đừng đề cập tới cảnh sát; còn cha sở thì không làm gì để thay đổi được quá khứ..." Rồi bà nói thêm: "Dù sao, tôi cũng nhẹ người nếu ai đó biết được sự thật trước khi tôi chết". Tôi bèn nói: "Nếu bà không muốn nhờ tới cảnh sát công thì bà hãy nhờ đến cái ông thám tử mà mọi người đều biết tiếng...". Bà đồng ý ngay: "Tôi cần loại người như thế! Tại sao tôi không nghĩ tới ông ấy sớm hơn? Bà vui lòng mời ông ấy đến đây. Nếu ông ta không chịu thì nhắc rằng tôi là Eu¬ge¬nia Ron¬der, vợ của Ron¬der, người dạy sư tử. Bà hãy nói như vậy, đồng thời cho ông ấy cái tên Ab¬bas Par¬va". Bà ấy viết tên đó cho tôi rồi kết luận: "Cái tên này sẽ khiến ông ta tới, nếu ông ta đúng là người tôi tưởng tượng".
-Tôi sẽ tới! - Holmes nói - Được rồi, bà Mer¬rilow. Tôi phải nói chuyện với bác sĩ Wat¬son đến trưa mới xong. Khoảng 3 giờ chiều chúng tôi sẽ có mặt tại nhà bà.
Bà khách vừa ra khỏi nhà thì Sher¬lock Holmes nhào tới đống tài liệu chất dưới đất trong góc phòng. Vài phút sau, phòng khách xào xạc tiếng lật sách. Một tiếng hứ thoả mãn, báo cho tôi biết rằng Holmes đã tìm ra điều gì Anh ngồi bệt xuống nền nhà, xếp bằng giữa đống sách báo, trên đùi một tập báo đang mở rộng.
- Hồi đó, tôi cũng đã ăn ngủ không ngon, anh Wat¬son? Anh hãy nhìn vào lời ghi chép bên lề thì biết. Tôi chú thích rằng tôi cũng chả kết luận được gì cả. Nhưng tôi chắc chắn là cảnh sát tư pháp đã lầm. Anh còn nhớ thảm kịch Ab¬bas Par¬va không?
- Không còn nhớ tí gì cả.
- Lúc đó, anh còn sống chung với tôi. Cảm giác cá nhân tôi lúc đó chắc chắn là rất sơ sài vì người ta không tìm ra được bằng chứng nào. Ngoài ra, không bên nào thuê mướn tôi cả. Anh đọc mấy tờ báo này.
- Đề nghị anh tóm lược trước.
- Dễ thôi! Từ từ anh sẽ nhớ ra hết. Ron¬der là một trong những giám đốc của các đoàn xiếc thú nổi tiếng vào thời đó. Nhưng về sau Ron¬der đâm ra rượu chè nên toàn đoàn và cả bản thân ông ta đang xuống dốc, chính vào lúc đó thì thảm kịch xảy ra. Đoàn ngừng lại một đêm tại Ab¬bas Par¬va, một làn nhỏ của vùng Berk¬shire, trên đường đến Wim¬ble¬don. Đoàn chỉ đóng trại, không trình diễn, vì dân số Ab¬bas Par¬va quá ít, không đủ bù đắp chi phí buổi diễn. Trong những con thú, có một con sư tử Bắc Phi rất đẹp, tên là Vua Sa¬hara. Ron¬der và vợ thường trổ tải trong chuồng nhất nó. Đây là một hình chụp trong một buổi trình diễn. Anh thấy rằng Ron¬der to như heo nọc trong lúc bà vợ lại tuyệt đẹp. Cuộc điều tra cho biết rằng vua Sa¬hara đã có những biểu hiện đáng ngại từ lâu. Tuy nhiên vì thói quen của nghề nghiệp nên vợ chồng Ron¬der coi thường các triệu chứng đó. Mỗi đêm, hoặc Ron¬der, hoặc vợ anh ta đem thức ăn đến cho sư tử. Có khi hai người cùng đi, có khi chỉ một người. Không bao giờ họ để cho ai khác đi thay. Do đó, họ tin rằng con sư tử sẽ không bao giờ hung ác với những người vú nuôi nó. Đêm đó, cách đây 7 năm, cả hai cùng vào chuồng: Một tai nạn khủng khiếp xảy ra và các chi tiết của tai nạn này chưa bao giờ được soi sáng.
Hình như toàn đoàn đều bị đánh thức vào giữa đêm bởi tiếng gào rống của con thú và tiếng la khủng khiếp của bà Ron¬der, mọi người hối hả cầm đèn chạy ra khỏi lều. Một cảnh tượng hãi hùng xuất hiện trước mặt họ: Ron¬der nằm sóng soài, sọ bị bể, da đầu bị tét, ở cách chuồng sư tử độ 10 yard và cửa chuồng mở toang. Gần cửa, bà Ron¬der nằm dưới chân con thú đang há miệng gào rống. Nó đã quào nát mặt bà đến nỗi ít ai tin là bà sẽ thoát chết. Nhiều nghệ sĩ của đoàn dưới sự hướng dẫn của Leonar¬do, lực sĩ, và anh hề Grig¬gs dùng gậy lùa con sư tử vào chuồng. Người ta đoán rằng vợ chồng Ron¬der dự định vào chuồng, nhưng cửa mới mở, con thú đã nhảy ra vồ họ. Cuộc điều tra không phát hiện thêm điều gì, chỉ biết rằng bà vợ liên tục la lớn trong cơn mê sảng: "Đồ hèn, Đồ hèn", lúc được khiêng ra xe. Phải sáu tháng sau, bà mới lấy lại sức khoẻ để làm chứng. Nhưng cuộc điều tra bị xếp bỏ do phán quyết của toà cho rằng Ron¬der chết vì tai nạn.
-Có giả thiết thứ hai à? - Tôi hỏi lớn.
- Sao lại không? Anh chàng Ed¬munds, thuộc sở cảnh sát Berk¬shire có để ý đến vài chi tiết nhỏ. Chú bé này khá lắm! Sau đó chú lại thuyên chuyển qua Al¬la¬habad. Đấy là lý do tại sao lúc đó tôi để ý tới vụ án: Chú bé đến đây, hút thuốc và thảo luận.
- Người gầy, tóc vàng.
- Thấy chưa, từ từ anh nhớ lại mà!
- Chú ấv để ý cái gì?
-Tôi và chú ấy đều thắc mắc. Diễn lại sự việc thì thấy không ổn. Anh hãy đứng ở quan điểm con sư tử. Khi được thả ra, nó sẽ làm gì đây? Nó lao tới, nhảy một, hai cái là tới sát Ron¬der, Ron¬der quay lưng chạy thoát thân, nhưng con sư tử quật vào ót ông ấy làm ông ngã lăn. Nhưng thay vì tiếp tục thả rong chơi, sư tử lại quay trở lại tìm bà Ron¬der đứng gần cửa chuồng, cào nát mặt bà ta. Lại còn tiếng thét của bà ấy hình như trách ông chồng. Thử hỏi con người xấu số này làm được gì để cứu bà. Vậy, bà đã trách ai?
- Lý luận đúng lắm.
- Còn một chi tiết khác luôn ám ảnh tôi, khi tôi nhớ lại vụ án này. Dù ít đù nhiều chúng ta cũng biết rằng trong lúc con sư tử gào rống và bà Ron¬der la hét còn có một tiếng đàn ông la thất thanh.
- Có lẽ là Ron¬der?
- Làm sao được, cái sọ vỡ rồi, ông này không đủ sức để la to như thế. Ít nhất có đến hai nhân chứng xác nhận rằng có tiếng la khác của một người đàn ông, ngoài ông Ron¬der.
- Tôi đoán rằng toàn trại đều la hét... Đối với phần còn lại, có lẽ tôi có thể giải thích được.
-Thật ư?
- Hai vợ chồng người dạy thú đứng cách chuồng 10 yard lúc con sư tử đi ra. Người chồng muốn chạy trốn thì bị quật nhào. Người vợ nảy ra sáng kiến chạy ngược vào chuồng, đó là cách duy nhất để ẩn náu. Ngay khi bà ấy đến cửa chuồng thì con thú đã vồ và quật ngã bà. Bà bực chồng vì ông này chạy trốn làm con thú bực dọc. Nếu cả hai đều trực diện với con thú thì có lẽ họ dương oai được Đó là lý do tại sao bà ấy la "đồ hèn"!
- Tuyệt hay, Wat¬son! Nhưng miếng pha lê còn dính cọng rơm.
- Cọng rơm nào?
- Nếu cả hai người đều đứng cách chuồng đến 10 yard thì làm sao con sư tử ra được?
- Có thể họ bị một kẻ thù mở cửa cho con thú ra.
-Và tại sao con thú đã tấn công họ rất dã man trong lúc nó quá quen với họ, thường đùa giỡn với họ trong chuồng?
- Có thể có một kẻ thù đã chọc giận nó trước rồi?
Holmes suy tư một lúc.
- Giả thiết của anh có cơ sở, anh Wat¬son! Ed¬munds tiết lộ với tôi là khi đã uống rượu, Ron¬der quậy dữ lắm, hắn cầm roi rượt tất cả những ai dám cưỡng lại. Có thể xem các tiếng la "Đồ quái vật" mà bà Ron¬der thường la trong đêm khuya là những hồi tưởng liên quan đến những trò thô bạo của người chồng quá cố. Thôi, đoán già đoán non có ích gì, khi chúng ta chưa có đủ dữ kiện trong tay. Giờ đi ăn trước đã.
Xe ngựa bỏ chúng tôi xuống trước nhà bà Mer¬rilow. Bà ta đã đứng choán cửa chân chúng tôi lại, năn nỉ đừng nói hoặc làm điều gì để bà phải mất một người khách trọ sộp. Trấn an bà xong, chúng tôi đi theo bà, leo lên cầu thang có trải đệm đã xơ xác. Cửa phòng hôi mùi mốc vì không thoáng. Sau gần một đời nhốt thú dữ trong chuồng, ngày nay người khách trọ như bị định mạng trả miếng lúc xế chiều.
Bà Ron¬der ngồi trên một ghế bành đã lung lay, trong một góc tối tăm. Mấy năm bỏ nghề làm dáng bà sồ sề ra. Tuy nhiên, với thân hình tròn trịa hấp dẫn hiện tại, cho thấy xưa kia bà là một phụ nữ đẹp cân đối. Chiếc khăn voan dày cộm che kín mặt mày, cắt ngang làn môi, để lộ một cái miệng tuyệt hảo và cái cằm trái xoan thanh tú. Giọng nói thanh tao cũng là yếu tố làm xao xuyến lòng người.
- Tên của tôi đâu có xa lạ gì với ông, phải không ông Holmes? - Bà ấy nói - Tôi rằng thế nào ông cũng đến.
- Vâng, thưa bà. Nhưng tôi không hiểu tại sao bà biết tôi lưu ý đến chuyện của bà.
- Tôi biết điều đó khi tôi bình phục lại và được ông Ed¬munds thẩm vấn. Tôi đâu có nói sự thật. Có lẽ tôi nên nói thật ngay từ lúc đó.
-Tại sao bà lại nói dối với ông ấy?
-Tại vì mạng sống của một người nào đó đang tuỳ thuộc vào lời khai của tôi. Tuy đó là một người không xứng đáng, nhưng tôi không muốn lương tâm tôi bị giày vò.
- Bây giờ bà hết áy náy rồi chứ?
- Hết rồi, vì người đó đã chết.
-Vậy, tại sao bây giờ bà không tới cảnh sát khai hết những gì bà biết?
- Tại vì còn một người nữa có liên quan. Đó là tôi. Tôi không thể chịu đựng được cái tai tiếng rùm beng. Tôi không còn sống bao lâu nữa, nhưng tôi muốn chết một cách thanh thản. Tôi muốn tìm một người có trí phán đoán đúng đắn lắng nghe tôi kể lại câu chuyện gớm ghiếc để khi tôi chết rồi, mọi chuyện đều được hiểu rõ ràng.
- Bà quá khen tôi, thưa bà? Nhưng tôi là một người có trách nhiệm. Có thể sau khi nghe bà xưng tội, tôi lại thấy có bổn phận phải đi khai báo với cảnh sát.
- Tôi không nghĩ như thế, ông Holmes. Tôi hiểu rõ tính khí và phương pháp làm việc của ông. Tôi đã theo dõi việc làm của ông từ mấy năm nay. Trong những ngày cuối cùng, cái thú độc nhất còn lại của tôi là đọc sách báo. Tôi sẽ có thể bị rắc rối, nhưng mặc kệ. Sau khi đã kể hết với ông, tâm trí tôi sẽ thanh thản.
- Bạn tôi và tôi rất hân hạnh nghe bà nói.
Bà ta đứng lên, tới hộc tủ lấy ra một tấm ảnh. Đó là ảnh của một lực sĩ, một diễn viên nhào lộn rất đẹp trai. Ông ta khoanh tay trên một bộ ngực nở nang, cười nhẹ dưới bộ râu ngạnh trê rậm rạp cười của "một tay bẻ biết mấy cành thiên hương".
- Leonar¬do đấy, - Bà ta nói.
- Leonar¬do, người khổng lồ của gánh xiếc làm nhân chứng?
- Đúng rồi. Còn đây, là ảnh chồng tôi.
Một bộ mặt gớm ghiếc: một con heo phị, hay đúng hơn một con gấu mang mặt người. Ta thấy rõ ràng cái miệng sôi sục sự thô bạo. Còn đôi mắt ti hí hiếm có. Một loại đâm thuê chém mướn.
- Hai ảnh này sẽ giúp các ông hiểu đời tôi. Tôi là nghệ sĩ nghèo của gánh xiếc, khôn lớn lên bằng cơm gạo của đoàn. Tôi nhảy vòng lúc chưa tới 10 tuổi. Với cái dục vọng của con người đàn ông đó, vào một ngày khốn nạn nọ, tôi trở thành đàn bà và tôi kết hôn với ông ấy. Kể từ đó tôi sống đời địa ngục. Ông ta là con quỷ có trọng trách hành hạ tôi. Mọi người trong đoàn đều hay biết. Ông ấy bỏ bê tôi, chạy theo những người đàn bà khác. Tôi mà than thì ông ấy trói lại, quất roi da. Mọi người đều thương hại tôi và nguyền rủa ông ta. Nhưng họ làm gì được? Họ sợ ông ấy như quỷ dữ. Lúc nào cũng hung tợn, còn khi say thì ông ta có thể giết người. Biết bao lần rắc rối với công lý vì đánh người hay bạc đãi thú. Nhưng vì ông giàu sụ nên tiền bạc đỡ qua cả. Các diễn viên thượng thặng bắt đầu xa lánh ông và đoàn xuống dốc, sống lay lắt qua ngày nhờ Leonar¬do, tôi, cùng chú bé hề Jim¬my Grig¬gs. Đâu còn gì thích thú để đùa cợt, nhưng thằng bé cũng cố gắng giữ trọn vai trò.
Leonar¬do đi vào đời tôi ngày càng sâu. Anh ấy đẹp trai như ông đã thấy. So với chồng tôi, anh ấy là thiên thần. Anh ấy thương hại tôi, giúp đỡ tôi. Cuối cùng thâm tình biến thành tình yêu, càng ngày càng sâu đậm và đam mê. Cái tình yêu mà tôi luôn mơ tưởng nhưng không bao giờ hy vọng thụ hưởng. Chồng tôi nghi ngờ, nhưng đê hèn, ông ấy sợ Leonar¬do. Ông ấy trả thù bằng cách hành hạ tôi nhiều hơn. Một đêm nọ, do tôi la hét dữ dội nên Leonar¬do chạy tới xe vợ chồng tôi và suýt có thảm kịch xảy ra. Sau đó, tình nhân tôi và tôi thấy rõ rằng điều đó không thể tránh khỏi. Chồng tôi không đáng được sống.
Leonar¬do tổ chức khéo lắm. Tôi không nói để trút bớt tội mình vì chúng tôi cùng quyết tâm làm mọi chuyện để cùng nhau lập lại cuộc đời.
Anh ta làm một cái chuỳ có gắn năm đinh sắt dài ở đầu, giống hệt các vuốt sư tử nhằm giáng một đòn chí tử xuống Ron¬der mà cuộc khám nghiệm sẽ lầm lạc.
Trời tối như mực khi vợ chồng tôi theo đúng lệ đem thức ăn cho sư tử. Leonar¬do núp sau chiếc xe kéo mà vợ chồng tôi phải đi qua trước khi đến chuồng. Anh ấy quá chậm nên khi chúng tôi đến gần chuồng, anh ấy mới sẵn sàng và rón rén lần mò đi theo. Tôi nghe tiếng chuỳ vung lên và chồng tôi ngã xuống. Tôi mừng một cách hoang dại và chạy tới mở khoá chuồng.
"Và lúc này mới xảy ra chuyện kinh tởm cho tôi. Có lẽ hai ông cũng hiểu rằng thú dữ đánh hơi mùi máu rất nhanh và mùi máu đánh thức bản năng hung bạo của chúng. Ngay khi tôi vừa rút các song sắt, con sư tử nhào ra vồ lấy tôi. Leonar¬do đã có thể cứu tôi nếu anh ấy chạy tới lấy chuỳ đập. Nhưng anh ta mất bình tĩnh. Tôi nghe anh ta la rồi anh quay lưng chạy thoát thân... đúng ngay lúc nanh con thú cắm sâu vào mặt tôi. Hơi thở nồng nặc và hôi thối của con thú làm tôi gần chết ngáp nên tôi chỉ cảm thấy cái đau nhẹ. Tôi lấy tay gỡ hai cái hàm đồ sộ máu me của con thú vừa kêu cầu cứu. Tôi ý thức được toàn đoàn đều rung động và tôi nhớ rõ một nhóm người gồm Leonar¬do, Grig¬gs và nhiều nữa kéo tôi ra khỏi vuốt con thú.
Khi tôi bình phục, tôi soi kiếng và lúc đó tôi nguyền rủa con sư tử ... Tôi nguyền rủa nó không tiếc lời vì... nó không giết tôi luôn. Rồi tôi chỉ còn một nguyện vọng: che kín bộ mặt ghê tởm này và sống kín một nơi không thân bằng quyến thuộc nào phát hiện được. Chúng tôi im lặng hồi lâu. Rồi Holmes đưa bàn tay dài của anh ta ra vuốt bàn tay của Eu¬ge¬nia với một mối thông cảm.
- Bà là người đáng thương? - Holmes nói - Định mệnh quả khắt khe, khó dò. Còn Leonar¬do thì sau này ra sao?
- Tôi không gặp lại anh ấy và không được tin tức gì về anh ấy. Có lẽ tôi sai lầm khi đã buông tha anh ấy chăng Nhưng tình yêu của người đàn bà không dễ dàng tan biến. Tuy anh ấy bỏ cho tôi bị sư tử quào, tuy anh ấy bỏ chạy thoát thân, nhưng tôi không nhẫn tâm đưa anh ấy đoạn đầu đài. Về phần tôi, tôi không lo nghĩ những gì xảy ra cho tôi. Còn gì hãi hùng hơn cuộc đời hiện tại của tôi.
- Ông ấy đã c
- Anh ấy chết đuối tháng trước. Tôi biết tin này qua báo chí.
- Sau vụ án mạng, ông ấy đã làm gì với cái chuỳ 5 đinh?
- Thưa ông Holmes, tôi chẳng biết gì cả. Nhưng gần chỗ chúng tôi đóng trại có một cái hầm khai thác đá vôi, nước đọng thành ao sâu. Có lẽ nó chìm xuống đáy ao này.
- Ồ, giờ đây thì nó đâu còn gì quan trọng nữa. Nội vụ đã xếp lại rồi.
- Đúng thế! - người đàn bà lặp lại. - Nội vụ đã xếp lại rồi!
Chúng tôi đã đứng lên để ra về. Đột ngột, Holmes quay về hướng người đàn bà đau khổ.
- Cuộc đời của bà không thuộc quyền của bà đâu - Holmes nói - Bà phải bảo trọng nó!
- Nó còn ích lợi cho ai?
- Tại sao bà nói xàm thế! Một bệnh nhân cam chịu số phận là một cái gương quý giá nhất trong cuộc đời thiếu nhẫn nại này.
Cách đối đáp của bà Ron¬der thật hãi hùng. Bà tháo khăn voan, bước ra ánh sáng:
- Tôi tự hỏi không biết ông có chịu đựng được nó không?
Thật là kinh tởm. Không có từ ngữ nào để mô tả cái khuôn mặt khi nó đã hoàn toàn tan nát. Hai con mắt long lanh cực đẹp giữa một cảnh hoang tàn rợn người. Holmes đưa hai tay lên trong cử chỉ thương hại và phản đối thái độ trắng trợn đến tàn nhẫn của người đàn bà. Hai ngày sau, khi tôi đến nhà, Holmes hãnh diện chỉ cho tôi một lọ dung dịch màu xanh lơ để trên lò sưởi. Tôi cầm lên xe. Lọ có dán nhãn "thuốc độc". Một mùi hạnh nhân dễ chịu toát ra khi tôi mở nút.
- Acid prux¬ic?
- Đúng rồi - Holmes đáp - Nó được gửi tới bằng đường bưu điện. "Tôi ửi tới ông cái cám dỗ tôi. Tôi nghe theo lời ông chỉ dạy". Đó là bức thư gửi kèm Wat¬son à, tôi tin rằng chúng ta có thể nói ra tên của người đàn bà can đảm đã gửi bưu kiện này.
11. Bí Ẩn Lâu Đài Shoscombe
Holmes nhìn đồng hồ có vẻ sốt ruột:
- Một thân chủ mới sẽ đến? Ông ta trễ hẹn rồi. Này, anh Wat¬son, anh có rành về đua ngựa không?
- Có biết qua!
- Vậy anh sẽ làm trợ lý cho tôi về ngành này.
Anh có biết ngài Rô-be không?
- Có ông ta cư ngụ tại lâu đài Shoscombe. Tôi khá rành nơi đó vì có lên chơi ngựa vào mùa hè. Suýt chút nữa thì ngài Rô-be đã làm anh bận tâm.
- Sao?
- Một hôm nọ, ông ta dùng roi da nện tới tấp vào một gã cho vay ăn lời cắt cổ.
Suýt chút nữa có án mạng rồi.
- Hay quá?
Ông ấy thường lên cơn điên lắm sao?
- Dù sao ông ấy cũng có tai tiếng là người nguy hiểm. Tay cưỡi ngựa liều lĩnh nhất nước mà? Cách đây mấy năm, ông ta về nhì trong giải toàn quốc! Theo lời đồn đại hiện nay ông ta sa sút lắm.
- Một phác họa tuyệt hảo. Tôi hình dung ra ông ta rồi. Giờ đây xin cho tôi biết lâu đài Shoscombe.
- Có gì lạ đâu! Nó nằm trong công viên Shoscombe, ở đó có một cái chuồng ngựa nổi tiếng và là khu trung tâm huấn luyện ngựa thôi.
- Huấn luyện viên trưởng - Holmes tiếp - Tên là Ma-sơn. Không phải tôi có thần thông gì đâu mà anh nhìn tôi lạ lùng thế, Wat¬son? Lá thư của hắn đây này. Anh cho tôi biết thêm chi tiết về Shoscombe?
- Ở đó có con chó ê-pa-nhơn - Tôi nói tiếp - Loại chó thuần chủng Anh quốc mà kỳ triển lãm chó nào cũng có mặt nó. Đó là mềm kiêu hãnh của bà chủ lâu đài Shoscombe.
- Bà ấy là vợ của ngài Rô-be?
- Ông này có kết hôn bao giờ đâu. Ông ta sống tại nhà chị ruột. Một quả phụ, mệnh phụ Pha-đơ.
- Ai ở nhà ai?
- Chủ bất động sản ấy là chồng bà ta. Còn ngài Rô-be này không có dính dấp gì đến gia tài cả. Người chị chỉ được quyền hưởng huê lợi. Về sau thì lãnh địa về tay em trai của chồng bà.
- Em trai của bà ta, ngài Rô-be này, xài đã tay.
- Gần như thế. Tay đó sinh ra là để phá bà ta. Nhưng hình như bà ấy thương em lắm. Chuyện gì đã xảy ra trong lâu đài thế.
- Đó thính là điều tôi cần biết. Nhưng, người biết điều đó sắp vào kìa!
Cửa mở và chú tiểu đồng đưa vào một người cao ráo, râu cạo nhẵn, vẻ mặt cương nghị, khắc khổ. Đó là ông Ma-sơn. ông ta lạnh lùng nghiêng mình cúi chào trước khi ngồi vào ghế do Holmes m
- Ông có nhận được thư của tôi, ông Holmes?
- Có, nhưng thư đâu có giải thích gì?
- Chuyện quá tế nhị, lại rắc rối nữa. Chỉ có thể trình bày bằng miệng thôi.
- Vậy thì chúng tôi sẵn sàng lắng nghe.
- Điểm thứ nhất, thưa ông Holmes: có lẽ ông chủ tôi, ngài Rô-be đã điên rồi.
- Vì sao vậy?
- Thưa ông, một người làm việc dị kỳ một đôi lần thì còn khoan dung được, nhưng nếu họ luôn luôn làm chuyện quái dị thì ai cũng phải thắc mắc thôi. Tôi nghĩ rằng con "Hoàng Tử" của Shoscombe và trường đua đã làm cho ông ta điên rồi.
- Ông huấn luyện một con ngựa con chứ?
- Tôi huấn luyện con ngựa số một tại Anh quốc. Ngài Rô-be muốn thắng cuộc đua này. Ông ta đổ hết tiền vào nó. Đó là cơ may cuối cùng của ông ta.
- Có sao đâu?
- Quần chúng đâu có biết là con ngựa đó tốt. Ngài Rô-be quỷ quyệt hơn bọn gián điệp. Ông chỉ phô trương con ngựa cùng mẹ khác cha của con "Hoàng Tử". Thật ra thì con "Hoàng Tử" chạy mau hơn! Ông ta đã đem đặt cả lâu đài Shoscombe vào đó. Hiện giờ thì ông ta lọt vào nanh vuốt bọn cho vay Do Thái, cho nên nếu con Hoàng tử thất bại thì tàn đời ông ấy.
- Trò chơi ngu dại, nhưng có gì là điên đâu?
- À, đêm ông ta không ngủ, chỉ thăm chuồng ngựa. Đôi mắt trở nên hung tợn, dễ nổi giận vì những chuyện lặt vặt và nhất là cách đối xử với mệnh phụ Pha-đơ.
- Ủa, đối xử thế nào?
- Hai chị em là đôi bạn thân nhất. Họ sở thích. Bà ấy cũng thích ngựa. Ngày nào cũng vậy, bà ấy đi xe ra thăm ngựa và bà đặc biệt thích con "Hoàng Tử".
Con ngựa vểnh tai khi nghe bánh xe ngựa sột soạt trên đường sỏi và chạy ra xe để được thưởng một miếng đường. Nhưng, giờ đây, tất cả những chuyện này không còn nữa.
- Tại sao vậy?
- Bà ấy lơ là hẳn đối với con ngựa. Trọn một tuần nay, khi chạy ngang qua chuồng ngựa, bà ấy chả thèm ghé lại.
- Chị em họ cãi lộn với nhau à?
- Nếu cãi lộn thì chắc chắn phải dữ dội lắm. Nếu không thì tại sao ông ta tống khứ con chó ê-pa-nhơn ra khỏi nhà. Cách đây mấy ngày, ông ta dẫn chó đến cho lão Bác-nơ, chủ quán ăn "Con Rồng Xanh" cách Shoscombe năm cây số.
- Đó quả là chuyện quái dị!
- Vì bị đau tim và đau bao tử, nên bà ấy không thể tiếp tục đi dạo với ông ta mỗi đêm. Tuy vậy, mỗi đêm ngài Rô-be vẫn đến đó chuyện vãn đến hai tiếng đồng hồ.
Nhưng những chuyện đẹp đẽ ấy nay không còn nữa. Bà ấy buồn, nhăn nhó và đâm ra nghiện ngập. Bà ấy uống rượu, ông Holmes à. Uống như hũ chìm.
- Trước kia không có uống à!
- Thỉnh thoảng, cũng có uống. Nhưng bây giờ thì mỗi đêm phải cả chai. Tất cả đều đã thay đổi. Chắc chắn đã có một điều gì trầm trọng vô cùng. À, còn chuyện này mới lạ chứ! Mỗi đêm ngài Rô-be đều xuống hầm nhà mồ ở sau vườn.
- Ông ta xuống đó để gặp ai vậy?
Holmes xoa tay.
- Ông cứ nói tiếp ông Ma-sơn!
Mỗi lúc ông làm chúng tôi say
- Ông quản gia thấy rõ ông ta đã đi xuống đó, ngay lúc nửa đêm, giữa cơn mưa tầm tã. Qua đêm sau, tôi thức chờ, ông chủ lại xuống. Chúng tôi rón rén theo sau. Ông ta tới cái nhà mồ có ma về đó, và lạ thay, một người đàn ông đang đợi ông ấy tại đó. - Con ma về đó à?
- Đúng vậy, thưa ông. Một nhà mồ cổ lỗ bỏ hoang ngoài vườn hoa, không ai biết xây dựng vào năm nào. Bên dưới có một cái hầm có nhiều tiếng đồn trong vùng. Ban ngày thì tối im, ẩm thấp. Đêm đến, đương nhiên thuê bạc triệu cũng không ai dám xuống. Riêng người chủ thì khác. Suốt cả đời, ông không sợ gì cả. Nhưng vào nửa đêm, có cái gì ở dưới đó?
- Này ông nói dưới đó có một người thứ hai. Chắc chắn đó là thằng giữ ngựa hay gia nhân. Sao ông không nhận dạng hay gạn hỏi.
- Tôi không quen với người đó!
- Làm sao ông biết được?
- Tôi thấy rõ y vào đêm thứ hai. Đêm đó trời sáng trăng, ngài Rô-be đi ngang qua bụi cây nơi tôi và ông quản gia núp, khiến chúng tôi run như cầy sấy. Người thứ hai đi theo sau ông. Khi ông chủ đi xa, chúng tôi chui ra, làm ra vẻ dạo chơi dưới trăng, tình cờ gặp y. Tôi kêu y:
"Nè. Ai đó?" Y quay ra sau, mặt tái mét, nhìn chúng tôi rồi thét lên và ù té chạy. Tôi không quen y. Y đến đó làm gì, chúng tôi cũng không biết.
- Ông thấy rõ vì trời có trăng?
- Đúng vậy. Mặt y vàng như nghệ. Hắn ta như có cái gì đó rất hợp với ông chủ.
Holmes lặng thinh suy tư.
- Ai hầu mệnh phụ Pha-đơ?
- Holmes hỏi.
- Nữ bồi phòng của bà là Ê-van, thâm niên khoảng năm năm rồi.
- Cô ấy ận tình với bà chủ chứ?
Ông Ma-sơn có vẻ lúng túng, hơi ngượng ngập.
- Cô ấy khá tận tình!
Nhưng tôi sẽ không nói rõ là tận tình với ai.
- Ông muốn nói gì vậy?
- Tôi Không muốn ngồi lê đôi mách.
- Vậy là tôi hiểu hết rồi. Theo bức chân dung mà bác sĩ Wat¬son mô tả về ngài Rô-be thì không một người đàn bà nào được an toàn nếu ở gần ông ta. Ông có cho rằng sự bất hòa giữa hai chị em họ bắt nguồn từ điểm này không.
- Mọi người đều sầm xì về điều này!
- Có thể là không hay biết. Nhưng đột nhiên bà ấy bắt gặp và tìm cách đuổi cô bé.
- Em trai bà không chịu.
- Vì là người tàn tật, bà ấy không có phương cách nào để thực hiện nên cô hầu phòng bị ghét bỏ vẫn tiếp tục phục vụ. Mệnh phụ tịnh khẩu, làm nư, uống rượu. Vì bà ấy nhăn nhó, ngài Rô-be bắt lại con chó. Ráp vậy có lớp lang chưa?
- Cũng có thể, nhưng chỉ đến đó thôi!
- Làm sao giải thích được việc ở nhà mồ?
- Không, thưa ông. Lại còn thêm một chuyện lạ nữa là tại sao ngài Rô-be lại đào một xác chết?
Holmes giật mình.
- Chúng tôi mới biết hôm qua, sau khi đã gửi thư cho ông. Hôm qua, ông chủ đi Luân Đôn, tôi và lão bộc chui xuống hầm mộ. Tất cả đều bình thường, ngoại trừ trong một góc hầm có vết tích của xác người.
- Ông đã báo cho cảnh sát rồi
Thân chủ của chúng tôi cười:
- Thôi ông ơi, tôi nghĩ là cảnh sát sẽ không thụ lý điều chúng tôi phát hiện đâu! Đó là một cái sọ và vài cái xương của một xác ướp có thể xưa ngàn năm. Có điều lạ là các tàn tích này trước đây không hề có tại đó. Chúng tôi khẳng định như thế. Chúng được xếp vào một góc, giấu dưới một tấm ván.
- Các ông làm gì nữa?
- Để chúng y tại chỗ.
- Tuyệt hay! Ông nói là ngài Rô-be đi vắng hôm qua. Hôm nay về chưa?
- Chúng tôi đoán ông ta sẽ về hôm nay.
- Ông ta tống khứ con chó lúc nào vậy?
- Đúng một tuần. Con chó sủa và tru rợn người khi tới gần nhà mồ xưa cổ ấy. Sáng hôm ấy, ông chủ gần như phát điên. ông thộp cổ nó, tưởng đâu sẽ đập đầu nó. Nhưng ông bảo một anh nài đem tặng nó cho lão chủ quán con Rồng Xanh.
- Tôi không hiểu ông muốn chúng tôi giúp gì trong vụ này, ông Ma- sơn. Ông nên nói rõ hơn.
- Việc này có thể làm cho nội vụ rõ hơn chăng.
Thân chủ của chúng tôi nói. Và ông ta rút trong túi ra một gói nhật trình, cẩn thận giở ra và đưa cho Holmes một khúc xương đã cháy thành than.
Bạn tôi chăm chú khám nghiệm.
- Ông nhặt nó ở đâu vậy?
- Dưới hầm lửa, bên dưới phòng của mệnh phụ, nơi đặt nồi nước của hệ thống sưởi ấm .Đã từ lâu không dùng nữa, nhưng gần đây ngài Rô-be than thở rằng trời lạnh, nên phải đun lại. Chính Ha-vây, một thuộc viên của tôi, phụ trách việc này. Sáng nay, y mang cái xương này tới tôi. Y bắt gặp khi cào tro bếp. Y rối trí về vụ này.
- Tôi cũng vậy - Holmes nói.
- ý kiến của anh ra sao? Wat¬son! Nó cháy thành than nhưng còn hình thù xương người.
- Khúc trên của xương ống chân?
- Tôi khẳng định.
- Đúng thế!
Holmes la lên rồi im lặng nghiêm nghị:
- Chú bé phụ trách bếp nước này làm việc giờ nào?
- Chỉ mỗi tối thì đến đổ nước vào!
- Thế thì, ban đêm bất cứ ai cũng có thể đến đó?
- Vâng ạ!
- Từ ngoài vào đó được chứ!
- Có cửa để ra ngoài. Một cửa khác để lên cầu thang theo hành lang đến phòng bà Pha-đơ.
- Chúng ta đang ở vùng nước sâu thẳm, ông Ma-sơn.
- Thật sâu thăm thẳm.
- Ông nói rằng đêm qua ngài Rô-be vắng nhà?
- Vâng, thưa ông?
- Như vậy thì chắc chắn ông ta không đốt xương?
- Đúng vậy, thưa ông.
- Cái quán ông nói tên là gì nhỉ?
- Rồng xanh!
- Ở vùng Berkeshire đó, câu cá được nhiều không?
Khuôn mặt của người huấn luyện viên hiền hậu lại lộ vẻ kinh ngạc, hơi ngớ ngẩn, nhưng ông ta cũng trả lời.
- Tôi nghe có cá hương dưới sông, khúc gần cối xay gió và có cá chép trong hồ của lâu đài.
- Chúng tôi chỉ cần biết bấy nhiêu thôi. Chúng ta đâu phải thợ câu nhà nghề, phải không Wat¬son? Ông có thể đến gặp chúng tôi tại quán Rồng Xanh. Tối nay, chúng tôi sẽ đến đó. Chúng tôi không đòi hỏi ông phải ra đó. Nhưng ông có cần nhắn tin hoặc chúng tôi cần gặp ông phải biết tìm ông ở đâu. Sau khi đào sâu thêm một chút, chúng tôi sẽ đưa ra ý kiến có cơ sở.
Chúng tôi đi xe Ạ lửa điện hạng nhất xuống Shoscombe vào một đêm trăng. Cái kệ trên đầu toa nhét đủ thứ đồ câu. Xuống xe, một xe ngựa nhanh chóng đưa chúng tôi đến một quán trọ kiểu xưa. Bác-nơ, người chủ quán khoái thể thao huyên thiên nói về câu cá trong vùng, xem chúng tôi là người điệu nghệ?
- Ông nghĩ gì về cá chép trong hồ lâu đài?
Holmes hỏi.
Mặt ông chủ quán đang tươi bỗng sa sầm.
- Đề nghị ông đừng nghĩ tới hướng đó. Ông có thể bị trấn nước trước khi được một con cá.
- Gì mà dữ dằn vậy?
- Ngài Rô-be rất ghét bọn gián điệp. Nếu hai ông đều là ngoại tịch mà đến gần chuồng ngựa, đích thân ông sẽ nghênh đón. Ông ấy chẳng ngại làm chuyện liều đâu. Đừng chọc ông ấy.
- Người ta đồn rằng ông ta có một con ngựa đăng ký vào cuộc tranh giải kỳ này?
- Đúng thế, một con ngựa tuyệt hảo. Chúng tôi đều nhắm vào nó, dốc hết túi như ngài Rô-be. Xin phép được...
Ông ấy nhìn chúng tôi, dáng nghi ngại.
- Hai ông cũng là dân đua ngựa?
- Không đâu. Chúng tôi là người Luân Đôn mệt nhọc đi đổi gió tại Berkeshire này thôi.
- Như vậy là hai ông lựa chọn đúng. Nhưng phải nhớ lời khuyến cáo của tôi về ngài Rô-be. Ông ta thuộc loại người làm trước, giải thích sau.
- Đương nhiên, thưa ông chủ. Này con chó đẹp đang nằm rầu rĩ ngoài cửa là của ai vậy?
- Ông nhận xét thật là đúng. Thuần chủng Shoscombe đó. Độc nhất vô nhị trong toàn nước Anh này.
- Tôi giống ông. Tôi rất thích chó - Holmes nói - Xin tha thứ cho sự tò mò của tôi! Một con chó giống như vậy giá bao nhiêu?
- Vô giá vượt hẳn khả năng của tôi. Chính ngài Rô- be biếu tôi đó. Vì vậy, tôi phải cột nó kỹ, nếu không chỉ trong nhấp nháy nó quay về lâu đài ngay.
Sau khi ông chủ quán rời chúng tôi, Holmes nói với tôi :
- Trong tay chúng ta chi có vài lá bài, Wat¬son à.
- Ván bài này không phải dễ chơi đâu.
- Nhưng trong một hai ngày, chúng ta có thể tìm ra đầu mối. Tôi tin rằng ngài Rô-be vẫn còn ở Luân Đôn. Tôi đề nghị tối nay chúng ta chui vào vùng cấm địa. Có vài chi tiết tôi muốn rà soát lại.
- Anh có giả thiết rồi à?
- Sơ sơ như vầy, Wat¬son à. Một chuyện đã xảy ra cách đây khoảng tám ngày, làm xáo trộn sinh hoạt tại lâu đài Shoscombe. Chuyện gì à? Này, hãy xét lại người em chấm dứt việc thăm viếng người chị tật nguyền. ông ấy tống khứ con chó mà bà chị cưng. Con chó thuộc quyền sở hữu của bà ấy, Wat¬son! Anh có thấy gì lạ không?
- Thù vặt thôi?
- Có thể. Hoặc là... ờ... tôi lại thấy... Ta hãy nghiên cứu lại tình hình. Từ lúc cãi lộn cứ tạm cho là có đi, mệnh phụ đổi thói quen, ở mãi trong phòng, có ra đi thì không ghé thăm chuồng ngựa nữa, rõ ràng nhất là đâm ra ương rượu. Nào, khớp nhau trăm phần trăm chưa.
- Còn chuyện ở nhà mồ.
- Chuyện đó lại phải theo một lý luận khác. Có tới hai con đường đừng lẫn lộn nhé. Một đường liên quan đến mệnh phụ lơ mơ một cách ảm đạm, anh không thấy sao?
- Tôi chịu bí thôi.
- Bây giờ, qua con đường kia, liên quan đến ngài Rô- be nhiều hơn ông ta mê mệt về cuộc đua ngựa sắp tới, và đã lọt vào nanh vuốt của bọn Do Thái cho vay nặng lãi. Nơm nớp lo sợ trắng tay với cái lãnh địa phát mãi, ngựa tịch biên. Lại thuộc dòng máu liều, rút rỉa người chị với cô bồi phòng là công cụ ngoan ngoãn. Đó, nãy giờ, chúng ta lần mò trên con đường chắc nịch chứ gì?
- Vẫn chưa rõ chuyện ở nhà mồ?
- À còn cái nhà mồ dưới đất. Giả thiết rằng... đó là giả thiết động trời rằng... Ngài Rô-be thanh toán chị ruột mình?
- Chuyện gì động trời vậy?
- Đành rằng, ngài thuộc thế gia vọng tộc. Nhưng trong một đàn cừu, biết đâu lại chẳng có một con chiên ghẻ. Ta cứ tạm chấp nhận giả thiết này đi. Ông ta chỉ có thể gây lại tài sản nếu thắng cuộc đua sắp tới. Muốn thế phải bỏ tiền để xoay xở. Gọn nhất là thanh toán cái xác của bà chị trám vào đó bằng một người khác. Việc này thỏa hiệp với người bồi phòng nữ đâu phải là chuyện khó.
Xác bà chị được đưa xuống nhà mồ, nơi ít ai lui tới. Đêm đến, lén lút thiêu ở bếp nấu nướng sưởi. Đó là nhưng điều mà chúng ta suy diễn được? Anh có ý kiến gì,
- Một khi mà anh chọn giả thiết kinh khiếp như vậy thì chuyện gì lại không được?
- Tôi định làm một thí nghiệm nhỏ vào ngày mai, Wat¬son à. Trong tạm thời, ta chỉ thu gọn vào mấy nhân vật đó thôi nơi này, ta nhậu với chủ quán, nói về cá này cá nọ là trúng đài của ông ta liền. Biết đâu nhờ tán gẫu mà ta biết thêm chuyện hữu ích.
Sáng hôm sau, Holmes phát hiện chúng tôi quên mang theo lưỡi câu nhỏ, nên ngày đó nghỉ câu. Khoảng một hai giờ, chúng tôi đi dạo một vòng và anh xin được chủ quán cho dẫn theo con chó tinh khôn.
- Đây là vùng tử địa - Holmes nói.
Khi chùng tôi tới trước cái cổng hai lớp song sắt có gắn huy hiệu của một dòng họ quý tộc.
- Ông Bác-nơ có cho biết, khoảng 12 giờ, bà mệnh phụ sẽ dùng ngựa đi dạo, và khi tới cổng, xe phải chạy chậm để chờ mở cổng. Anh Wat¬son, khi xe đến và lúc nó chạy chậm, anh hãy kiếm chuyện gì nói với xà ích. Phần tôi, ở đằng sau bụi cây và quan sát.
Chúng tôi khỏi phải chờ lâu. Một chút sau, một chiếc xe ngựa đồ sộ, màu vàng, không mui từ lâu đài chạy xuống. Hai con ngựa xám đẹp lộng lẫy, nhịp bước. Holmes ngồi trong bụi với con chó. Tôi đi phất phơ trên lộ. Người gác cổng chạy ra. Xe chạy chậm lại, ngựa đi từng bước.
Nhờ đó tôi có thể quan sát kỹ người trên xe. Một thiếu phụ trẻ, thân hình đều đặn, tóc vàng, ngồi bên trái. Bên phải là một bà lão, khăn choàng che khuất mặt và tai.
Chắc chắn là một bà lão tật nguyền. Khi xe ra đường cái tôi ra hiệu lệnh. Xà ích ngừng xe lại. Tôi hỏi thăm ngài Rô-be.
Cùng lúc đó, Holmes rời nơi ẩn nấp, thả con chó trung thành ra. Con vật vui mừng, sủa vang, leo lên xe.
Trong nháy mắt, nguồn vui cuống cuồng của nó biến thành sự thịnh nộ đằng đằng sát khí, nó muốn xé tà áo bà lã
- Cho chạy, cho chạy - Một giọng cứng cỏi ra lệnh.
Ngựa ăn roi, chiếc xe phóng đi nhanh.
Hai chúng tôi còn lại trên lộ.
- Thấy chưa Wat¬son, kế sách của ta tốt đẹp - Holmes nói lớn và cột con chó lại.
- Nó lầm tưởng là chủ nó, nhưng nó phát hiện người nào khác. Chó chưa khi nào lầm.
- Tiếng ra.
lệnh cho xe chạy là tiếng đàn ông - Tôi nói lớn.
Đúng thế. Ta có thêm một lá bài mạnh trong tay. Nhưng còn phải đổ mồ hôi nữa.
Sau đó, hình như không có chương trình gì nữa, chúng tôi xách đồ câu ra bờ sông gần cối xay gió, và bữa cơm tối chúng tôi có thêm da cá hương tươi. Cơm xong, chúng tôi đi dạo trên đường hồi sáng, đến ngay cổng sắt của lâu đài. Một dáng vóc cao ráo chờ đợi chúng tôi.
Chúng tôi nhận ra thân chủ Ma-sơn.
- Kính chào quý ông - ông ấy nói - Tôi có nhận được thư ông. Ngài Rô-be chưa về. Nhưng chúng tôi chuẩn bị đón ông ta đêm nay.
- Nhà mồ cách lâu đài bao xa vậy?
- Holmes nói.
- Khoảng bốn trăm mét.
- Vậy thì khỏi lo ông ta bắt gặp.
Ta cùng tới đó.
- Tôi không thể nán lại lâu đâu. Bởi khi về, ông ta gặp tôi ngay để hỏi thăm- Tôi hiểu. Chúng tôi sẽ tự xoay xở, ông Ma-sơn à. Ông chỉ cái nhà mồ rồi mặc chúng tôi.
Trời tối như mực. Ma -sơn dẫn chúng tôi băng qua cái đồng cỏ tới khi gặp một khối đen lù mù. Đó là một nhà mồ rêu phong, ăn sâu xuống đất. Chúng tôi chui qua một cái lỗ toang hoác, trước kia là cái cổng tới một cầu thang thẳng đứng đưa xuống hầm.
Ông ta đánh một que diêm. Cảnh vật được chiếu sáng lờ mờ một cách thê lương, ảm đạm. Tường sắp sập được kê thêm bằng những cục đá thô thiển. Những cái hòm bằng đá được xếp về một phía lên tận nóc. Holmes đã thắp chiếc đèn lồng, ánh sáng màu vàng của chiếc đèn tỏa ra trên cảnh tượng tang tóc, phản chiếu cái bảng đồng gắn trên các hòm. Bảng nào cũng đều ghi huy hiệu của dòng họ, dù ở vào cõi chết cũng vẫn còn kiểu cách.
- Ông Ma-sơn, ông có nói về đống xương, vui lòng chỉ cho chúng tôi.
- Ở góc này đây...
Người huấn luyện ngựa bước tới rồi đứng lại như trời trồng khi ngọn đèn lồng chiếu sáng góc phòng.
- Biến đâu mất rồi?
- Tôi đã đoán trước - Holmes vừa nói, vừa cười - Ta vẫn có thể tìm ra tro ở bếp nấu nước sưởi.
- Điên sao. Ai lại thiêu xương của một xác chết ngàn năm - Ma-sơn thắc mắc.
- Đó là lý do chúng ta xuống đây - Holmes trả lời - Vì sự nghiên cứu của chúng tôi có thể kéo dài, tôi không cần giữ ông lại. Nhưng chúng tôi chắc rằng chúng ta sẽ có giải đáp trước sáng mai.
Khi Ma-sơn đi rồi, Holmes bắt đầu làm việc. Trước tiên anh ấy khám nghiệm rất kỹ các hòm, từ chiếc hòm xưa nhất đến các hòm gần đây nhất. Một giờ sau, anh đến bên chiếc hòm bằng chì ngay cửa vào hầm.
Tôi nghe một tiếng la nhỏ, biểu hiện sự đắc chí của anh. Với kính lúp, anh khám kỹ cái mép của nắp hòm nặng nề. Anh rút trong túi một cái xà-beng nhỏ và nạy nó lên. Nắp được giở lên với tiếng động mạnh, một phần bên trong hòm vừa để lộ thì có sự gián đoạn đột ngột. Tiếng chân bước nhanh và nện mạnh xuống nhà mồ. Một luồng ánh sáng xuống dần cầu thang. Đi trước là một người đàn ông đồ sộ. Người này xuống đứng trước cửa ra vào, thái độ hung tợn. Ánh đèn lồng giơ lên, chiếu sáng khuôn mặt nghiêm nghị, râu ngạnh trê. Ông ta nhìn quanh căn nhà mồ trước khi dừng mắt nhìn chúng tôi một cách ngạc nhiên. ông hét to:
- Mấy người là ai?
Vào nhà tôi làm gì?
Holmes không trả lời, ông ta tiến xuống hai bậc cấp, giơ cao cây gậy cầm nơi tay, la lớn:
- Có nghe tôi hỏi không?
Các người là ai? Vào đây làm gì!
Rồi ông quơ gậy. Thay vì rút lui để né tránh, Holmes tiến tới trước mặt ông ta:
- Tôi cũng có một câu để hỏi ông, ngài Rô-be à- Holmes nói với giọng quả quyết - Ai đây? Sao bà ấy lại xuống đây?
Holmes quay lại, lật hết cái nắp hòm sau lưng. Nhờ ánh đèn, tôi thấy một xác chết gói gọn trong tấm vải trắng. Nhà quý tộc bước lui một cách khập khiễng, dựa mình vào chiếc hòm đá.
- Làm sao mấy ông biết được?
Tiếp đó, cái bản chất hung tàn nổi dậy, ông nói tiếp:
- Can dự gì đến mấy ông?
- Tôi là Sher¬lock Holmes. Cái tên này có lẽ ông đã nghe rồi. Dù gì đi nữa thì nhiệm vụ của tôi cũng như của mọi người công dân tốt, là buột người khác tuân thủ pháp luật. Theo tôi, ông có nhiều điều phải trả lời trước luật pháp. Ngài Rô-be nhìn Holmes một cách giận dữ, nhưng trước thái độ bình tĩnh của bạn tôi nên sau cùng nhà quý tộc dịu giọng:
- Tôi x thề trước Chúa, thưa ông Holmes, tôi không có vi phạm pháp luật - ông ta nói - Thoạt nhìn thì là do tôi, tôi nhìn nhận là đúng. Nhưng tôi không thể làm khác hơn.
- Tôi hân hạnh đồng ý với ông. Nhưng theo thiển ý thì các biện bạch của ông nên trình bày với cảnh sát.
Ngài Rô-be vươn vai.
- Vâng. Nếu bắt buộc thì ra cảnh sát vậy. Nhưng kính mời quý ông quá bộ vào nhà và tùy nghi phán xét.
Mười lăm phút sau, chúng tôi có mặt đông đủ ở phòng trưng bày khí giới của lâu đài cổ kính. Ngài Rô-be tạm vắng mặt một chốc. Rồi, ông quay trở lại với hai người đi theo. Người thứ nhất, là thiếu phụ trẻ trên chiếc xe ngựa. Còn người kia là một kẻ lùn tịt, mặt chuột có vẻ lấm lét. Cả hai đều ngạc nhiên vì rõ ràng là nhà quý tộc không có thời gi¬an để giải thích với họ.
Ngài Rô-be giới thiệu với chúng tôi:
- Đây là ông bà Nô-lét. Bà Nô-lét nhũ danh là Ê-van, là nữ bồi phòng tin cậy của chị tôi trong những năm qua. Tôi đưa họ tới đãy vì họ là hai người hiếm hoi có thể xác nhận những điều tôi nói.
- Có cần thiết lắm không, thưa ngài Rô-be. Ngài có biết rằng ngài đang làm gì không. - Lời đàn bà hỏi lớn.
Về phần tôi, tới phủ nhận mọi trách nhiệm - Người chồng nói.
Ngài Rô-be nhìn y một cách miệt thị.
- Tôi nhìn nhận mọi trách nhiệm - ông ta nói - Giờ đây, thưa ông Holmes, hãy nghe lời khai của tôi. Một lời khai rất thành thật. Các ông đã biết khá rõ về công việc làm ăn của tôi. Quý ông đã biết rằng tôi tin tưởng vào cuộc đua quốc gia này. Nếu tôi thắng, thì mọi sự êm ả. Nếu tôi thua... tôi cũng chả dám nghĩ đến.
- Tôi hiểu hoàn cảnh của ông!
- Tôi tùy thuộc vào chị tôi. Nhưng chị tôi chỉ được hưởng hoa lợi trên lãnh địa này nếu còn Về phần tôi, tôi đã lọt vào nanh vuốt của bọn Do Thái. Tôi biết rằng ngày nào chị tôi chết, bọn chủ nợ sẽ đổ xô đến như đàn kền kền để xiết đồ đạc. Tất cả sẽ đi tong: chuồng ngựa, ngựa và tất cả. Vậy mà, chị tôi chết cách nay tám ngày.
- Ông không thông báo cho ai cả?
- Thông báo sao được. Sẽ tiêu tan cả. Ngược lại, nếu tôi giấu nhẹm, tôi có cơ may thoát nạn. Chồng của cô bồi phòng, người này đây sẽ giả làm chị tôi trong thời gi¬an ngắn này. Điều cốt yếu là mỗi ngày tái diễn cái màn bà ấy vẫn đi xe ngựa. Bởi vì ngoài chị bồi phòng, có ai vào phòng bà ấy mà biết sự thực. Bà ấy già cỗi, tàn rụi dần, ai cũng biết thế.
- Chỉ có cảnh sát tư pháp mới kết luận được.
- Y sĩ riêng của bà ấy sẵn lòng xác nhận.
- Tạm nhận như vậy đi. Rồi ông đã làm gì?
- Đương nhiên là xác chết đâu có thể để sình tại nhà. Ngay đêm đầu, ông Nô-lét và tôi cùng khiêng ra bỏ ở cái nhà dù cũ kỹ luôn đóng kín cửa, không ai ra vào.
Khốn nỗi, con chó tinh khôn cứ bám sát chúng tôi, đứng trước cửa sủa hoài. Tôi phải tống con chó đi và khiêng xác xuống hầm nhà mồ. Tôi xin bảo đảm với ông Holmes rằng tôi chưa hề thất lễ, thất kính với chị tôi. Tôi cảm thấy an tâm trước linh hồn người chết.
- Lối xử sự của ông không thể tha thứ được.
Nhà quý tộc lắc đầu một cách bực dọc.
Làm lễ cầu hồn là dễ thôi. Nếu ông ở hoàn cảnh tôi có lẽ ông sẽ nghĩ khác. Tôi không thể khoanh tay nhìn tất cả hy vọng và dự án của tôi sụp đổ. Tôi vững tin rằng chị tôi sẽ được an nghỉ đàng hoàng nếu xác được đặt trong cái hòm của tổ tiên. Chúng tôi khui một cái hòm cũ, lấy xương cốt cũ ra, đặt xác chị tôi vào đó. Nô-lét và tôi đem xương cốt của tổ tiên về lâu đài, đem thiêu dưới bếp nước. Đó là câu chuyện của tôi.
Holmes lặng t một hồi.
- Trong lời tường thuật của ông, có một điểm còn lù mù. Cái đánh cuộc của ông hay cái hy vọng của ông về tương lai vẫn còn nguyên vẹn, cho dù các chủ nợ có đến tịch biên tài sản?
- Con người cũng sẽ bị tịch biên. Cái đánh cuộc của tôi có nghĩa lý gì đối với họ? Tôi tin chắc chắn là họ không đem con Hoàng Tử ra dự cuộc đua. Người chủ nợ chính của tôi lại là kẻ thù tệ hại, một thằng ăn cướp táng tận lương tâm mà tôi đã quất roi da vào mặt nó. Ông phải đồng ý với tôi rằng nó thù tôi đến chết.
- Thôi được, ngài Rô-be - Holmes vừa đứng dậy, vừa nói - Đương nhiên, nội vụ phải được trình báo cho cảnh sát. Tôi phải cho cảnh sát hiểu rõ vấn đề. Tôi đã làm rồi.
- Còn lối xử sự cá nhân của ông có hợp với đạo lý hay không, tôi không có quyền phán đoán.
Wat¬son à, đã nửa đêm rồi, chúng ta phải về thôi!
Câu chuyện kỳ quái này lại có một kết cục tươi sáng. Con Hoàng Tử đoạt giải nhất tại cuộc đua quốc gia.
Chủ nó lãnh được 80 ngàn bảng Anh. Các chủ nợ hết lo lắng và ngài Rô-be còn dư tiền để gây dựng lại cuộc đời.
Cảnh sát và tòa án cứu xét một cách khoan dung các hành vi sai trái của ngài. Sau khi bị khiển trách vì khai tử trễ cái chết của người chị, nhà quý tộc may mắn kia chắc chắn sẽ kết thúc phần cuối cuộc đời trong danh dự, xứng đáng với tên tuổi của dòng họ.
12. Người Bán Sơn Về Hưu
- Anh có thấy ông ấy không.
- Ông lão mới ra đấy à?
- Phải.
- Ông ta là thân chủ của anh?
- Scot¬land Yard giới thiệu qua. Cảnh sát cảm thấy không thể làm gì hơn.
- Chuyện của ông ta thế nào?
Holmes lấy trên bàn một tấm danh thiếp bẩn.
- Josi¬ah Am¬ber¬ley. Cổ đông của công ty Brick¬fall & Am¬ber¬ley, sản xuất hàng mỹ nghệ. Chúng ta thấy tên công ty này nhan nhản trên các hộp sơn. Sau khi đã dành dụm được kha khá, ông ta rũ áo về vườn; lúc đó ông ta 61 tuổi, mua được ngôi nhà tại phố Lewisham. Tương lai có vẻ khá bảo đảm.
- Thế là tốt quá rồi!
Holmes đọc vài lời ghi nguệch ngoạc sau một phong thơ.
- Ông ta về hưu năm 1896! Đến năm 1897 ông lấy bà vợ, nhỏ hơn ông 20 tuổi. Bà ấy khá xinh, nếu bức ảnh này đáng tin cậy. Có tiền, có vợ đẹp lại thêm hoàn cảnh thong thả, thật là một lộ trình thênh thang trước mặt. Nhưng chỉ không đầy hai năm sau, ông lão trở thành một kẻ khốn khổ, tàn tệ nhất trong đám khốn nạn dưới ánh sáng mặt trời này.
- Chuyện gì đã xảy ra?
- Một thằng bạn bất nghĩa và một con vợ bất trung. Am¬ber¬ley có một cái ghiền nhất trên đời: đánh cờ. Gần nhà có một bác sĩ trẻ tuổi, tên Ray Ernest cũng mê cờ. Thế rồi, qua lại thường ngày, mối thân tình nẩy nở giữa ông bác sĩ và bà Am¬ber¬ley. Tuần trước, đôi gi¬an phu dâm phụ đã cao bay x chạy. Đau đớn là chúng ôm theo cái két tiền dành dụm của ông lão. Chúng ta có thể tìm ra người phụ nữ ấy và lấy lại số tiền hay không?
- Anh sẽ làm gì?
- Anh Wat¬son, bây giờ, chính anh sẽ làm. Anh đã biết tôi đang bận vụ hai ông mục sư, đâu có thời giờ đến Lewisham. Anh sẽ đến đó với tư cách là người đại diện của tôi.
- Thôi được! Dẫu gì thì hiện tại tôi cũng rảnh rỗi
Thế là tôi đến Lewisham trong một chuyến đi nhẹ nhàng. Nhưng tôi không ngờ, không đầy một tuần, vụ án này gây một chấn động lớn trên toàn nước Anh.
Khi tôi trở lại phố Bak¬er thì đã quá khuya. Holmes còn ngồi trên ghế bành, mắt lim dim nhìn khói thuốc nhởn nhơ bay lên trần nhà. Có lúc tôi tưởng Holmes đã ngủ trong lúc tôi báo cáo nếu tôi không ngừng để lấy hơi, hoặc lúc lời tường thuật thiếu một vài chi tiết chính xác: bấy giờ mắt Holmes mở to, sáng quắc nhìn tôi.
- Ông Josi¬ah Am¬ber¬ley đặt tên cho căn nhà của ông ta là "Haven(1)". Người ta có thể nói rằng ông lão là một quý tộc khánh kiệt về sống chung đụng với gi¬ai tầng hạ lưu. Giữa khu đặc biệt này với những đường phố đơn điệu, những nhà gạch khiêm nhường lại trồi lên một ốc đảo của lối kiến trúc cổ, đầy đủ tiện nghi hiện đại: đó là một ngôi nhà cổ kính, bao bọc bởi một bức tường rêu...
- Cắt bỏ khúc văn chương lãng mạn đó đi, Wat¬son! - Holmes nghiêm giọng ngắt lời - Tôi cần biết đơn giản: tường gạch, cao...
- Vâng. Tôi không bao giờ biết đó là "Haven" nếu không dò hỏi một người lang thang ngoài đường. Tôi phải để ý đến thằng cha này vì người cao, da nâu, có râu ngạnh trê, thái độ nghênh ngang và có vẻ lính lắm. Hắn nhìn tôi một cách tò mò khi trả lời tôi. Vừa qua cổng, tôi đã thấy ông Am¬ber¬ley từ nhà bước ra. Hồi sáng, tôi chỉ mới thoáng thấy ông ta thôi, bây giờ gặp lại, mới nhận rõ ông ta là một con người bất bình thường.
- Đương nhiên, tôi đã biết rồi! - Holmes nói - Nhưng cảm tưởng cá nhân của anh cũng cần cho tôi.
- Ông ta ưu tư cùng cực, nhưng không bệ rạc như ta tưởng: hai vai vẫn lực lưỡng như một người khổng lồ, tuy dáng đi có vẻ nghiêng ngả.
- Chiếc giày trái bị nhăn, chiếc giày phải còn bóng.
- Tôi không để ý đến điểm này.
- Chân giả mà! Nhưng thôi, tiếp tục đi Wat¬son.
- Tôi lưu ý đặc biệt đến các lọn tóc bạc bẩn thỉu dưới chiếc mũ rơm và đặc biệt đến diện mạo của ông ta, những nét lõm sâu, sắc mặt dừ tợn.
- Hay lắm, Wat¬son! Ông lão đã nói gì với anh?
- Ông ta kể lể nỗi lòng khi cùng tôi đi dạo ngoài vườn. Chưa bao giờ tôi gặp một khu vườn lôi thôi như thế. Cỏ mọc tứ tung, hoa dại tự do phát triển. Tôi tự hỏi một người đàn bà đàng hoàng làm sao chịu đựng nổi cảnh này. Ông lão hình như đã ý thức được điều này và muốn sửa chữa, ở cửa chính có một lọ sơn to tổ bố và ông đang cầm cọ sơn các nẹp gỗ. Ông ta đưa tôi vào phòng khách mới dọn dẹp và chúng tôi hàn huyên rất lâu.
"Tôi đâu dám hy vọng rằng.. một người như tôi thì làm sao được ông Sher¬lock Holmes đích thân giúp", ông ta nói.
"Nhưng ông phải hiểu rằng, đối với Sher¬lock Holmes, tiền bạc không thành vấn đề", tôi đáp.
"Tất nhiên, ông Sher¬lock Holmes chỉ làm việc vì tính nghệ thuật. Nhưng ông ta cũng sẽ tìm thấy trong vụ này một điều gì đó để nghiên cứu. Thưa bác sĩ Wat¬son, đó là một sự bội bạc cùng cực! Tôi có bao giờ từ chối điều gì với cô ấy? Có người đàn bà nào được nuông chiều đến thế. Còn thằng bác sĩ trẻ tuổi. Nó đáng tuổi con tôi. Thế mà, họ đối xử với tôi như thế đấy! Bác sĩ ơi! Cuộc đời này quá tàn nhẫn".
Ông ta lải nhải như vậy suốt một giờ. Theo tôi, ông ta không nghi ngờ gì về tình yêu vụng trộm của bà vợ.
Hôm đó, muốn lấy lòng vợ, ông lão mua hai vé thượng hạng tại rạp Hay¬mark¬er. Vào phút chót, bà ta viện cớ nhức đầu, không đi được, ông phải đi một mình, ông ta có cho tôi xem cái vé chưa xé.
- Hay lắm! - Holmes đáp - Hãy nói tiếp đi! Hấp dẫn đấy! Anh có xem cái vé không? Có ghi số ghế không?
- Có chứ! - Tôi đáp với chút hãnh diện - Đó là số 31, trùng với số thứ tự của tôi trong danh sách học sinh thời trung học nên rất dễ nhớ.
- Hoan hô, Wat¬son. Như vậy số ghế kia là 30 hay 32.
- Đúng thế! - Tôi đáp một cách mỉa mai - Vào dãy B.
- Ngoài ra, ông ta còn nói gì khác không?
- Ông ta có cho tôi xem cái căn phòng kiên cố của ông. Thực vậy, nó kiên cố như một ngân hàng, các cửa lớn, cửa sổ đều bằng sắt. Nhưng bà ta dùng chìa khóa giả cuỗm khoảng 7.000 bảng tiền mặt và chứng khoán.
- Chứng khoán? Họ lấy để làm gì?
- Ông ta hy vọng là chúng sẽ vô dụng vì ông đã báo cho cảnh sát, ông ta đi xem hát về khoảng 1 giờ đêm. Cửa lớn, cửa nhỏ đều mở toang hoang, bọn trộm thì biệt tăm.
Holmes suy ngẫm vài phút.
- Anh nói ông ta đang sơn! Sơn gì vậy?
- Sơn lại hành lang và đã sơn xong cửa lớn cùng các nẹp cửa của văn phòng kiên cố đó.
- Theo anh, thì việc làm này có kỳ cục không? Nhất là trong tình huống này!
- Ông ta giải thích "Phải làm một việc gì để giải khuây". Quả là quái dị, nhưng tính tình lập dị là gốc của ông ta mà! Ông ta có xé một bức ảnh của vợ trước mặt tôi với vẻ dữ dằn và bảo "Tôi không bao giờ muốn gặp cái mặt đáng nguyền rủa này nữa".
- Hết rồi à, Wat¬son.
- Còn khi lên ga Black¬heath, tôi thấy một người đàn ông hối hả leo lên toa gần toa tôi. Đó là một người cao ráo, da nâu mà tôi đã hỏi thăm đường. Tôi lại gặp hắn tại Lon¬don Bridge và sau đó hắn mất hút trong đám đông. Chắc là hắn theo dõi tôi.
- Có thể lắm! - Holmes đồng ý - Anh nói một người cao, da nâu, râu ngạnh trê, đeo kính râm, nghênh ngang, phải không?
- Holmes, anh quả là phù thủy. Tôi đâu có nêu chi tiết kính râm mà anh biết?
- Còn cái kẹp cà-vạt của hội Tam điểm nữa!
- Ủa?
- Thật ra tất cả những gì đập vào mắt anh cũng lôi cuốn sự chú ý của tôi. Nhưng anh đã bỏ qua những cái quan trọng.
- Tôi bỏ qua cái gì?
- Anh bạn đừng buồn. Không ai giỏi hơn anh đâu. Nhưng anh đã bỏ những chi tiết thiết yếu. Người láng giềng nghĩ sao về lão Am¬ber¬ley và bà vợ? Về bác sĩ Ernest? Anh có hỏi thăm cô nhân viên bưu điện, vợ ông chủ tiệm tạp hóa gần đó không?
- Đúng là tôi đã không làm điều đó.
- Tôi nắm được vài điều thiết yếu. Tin tức thu lượm xác nhận lý lịch của ông lão. Ông ấy nổi tiếng là một người hà tiện, một người chồng thô bạo, khó tính. Chắc chắn ông ta có một số tiền lớn trong phòng kiên cố. Cũng đúng với sự thực là ông bác sĩ có chơi cờ với Am¬ber¬ley và chơi thân với vợ ông ta. Toàn chuyện thế đó, trơn tru, nhưng... nhưng...
- Anh còn thấy gì nữa?
- Trí tôi đang làm việc... ừ... Thôi tạm ngừng, Wat¬son à. Tối nay chúng ta hãy đi nghe nhạc.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy sớm. Trên bàn đã có sẵn một tờ giấy v nguệch ngoạc: "Wat¬son thân mến! Có một vài điểm tôi cần bàn lại với ông lão Josi¬ah Am¬ber¬ley. Tôi mong anh rảnh lúc 15 giờ vì tôi cần anh vào giờ đó! S.H."
Tới giờ hẹn, tôi mới gặp lại Holmes. Anh ta về nhà với vẻ mặt nghiêm nghị, ưu tư.
- Ông Am¬ber¬ley có đến không?
- Không.
- Vậy mà tôi đợi ông ta.
Một chặp sau, ông già đó tới với vẻ mặt khắc khổ, mệt lả và bối rối.
- Tôi nhận được một điện tín, ông Holmes à. Tôi chẳng hiểu gì cả.
Ông ta đưa cho Holmes xem.
Holmes đọc lớn:
"Tới ngay, đừng chậm trễ. Tôi có thể cho tin về sự mất mát mới đây của ông.
El¬man, nhà thờ chánh xứ".
- Điện tín đánh đi từ Lit¬tle Purling¬ton; lúc 14 giờ 10. Lit¬tle Purling¬ton thuộc quận Es¬sex, hình như gần Frin¬ton. Am¬ber¬ley, ông phải đi ngay. Cuốn danh mục của tôi đâu rồi? Đây, có rồi! J.C. El¬man, cao học, ngụ tại Moss¬moor, thuộc Lit¬tle Purling¬ton... này, Wat¬son, xem giùm lịch trình xe lửa.
- Có một chuyến lúc 17 giờ khởi hành từ ga Liv¬er¬pool.
- Tốt Wat¬son nên đi theo ông. Có thể ông cần người giúp đỡ.
Nhưng ông già có vẻ không muốn lên đường, ông ta nói:
- Thật là phi lý, ông Holmes à. Người đó làm sao biết được tai họa của tôi? Ai lại tốn thì giờ và tiền bạc một cách vô lối như thế!
- Nếu không có tin mới lạ, ông ấy đánh điện cho ông liện hồi âm cho biết.
- Ông sẽ lên đường ngay?
- Chưa chắc tôi đi đâu - Holmes ra vẻ nghiêm khắc: - Ông sẽ làm cho cảnh sát và tôi có cảm tưởng không hay về ông, ông Am¬ber¬ley. Đã có một lối mòn rõ ràng mà ông từ chối lần theo. Chúng tôi nghĩ rằng ông không muốn cuộc điều tra kết thúc chăng?
Am¬ber¬ley tỏ vẻ hoảng sợ:
- Ồ, đương nhiên phải đi. Thoạt nhìn thì khó tin một linh mục lại biết chuyện này nọ, nhưng nếu ông cho là...
- Tôi cho là như vậy! - Holmes trịnh trọng cắt ngang. Rồi anh kéo tôi qua một bên và căn dặn.
- Điều cần yếu là ông ta phải lên đường! - Holmes thì thầm với tôi - Nếu ông ta muốn trốn hoặc bỏ về thì anh chạy ngay tới bưu cục gần nhất gửi gọn cho tôi 2 chữ "vọt rồi". Tôi sẽ thu xếp cho ông ta phải tìm tôi.
Lit¬tle Purling¬ton nằm trên một đường phụ nên không phải là chỗ dễ đến. Trời đẹp, ấm, xe lửa chạy rề rề. Bạn đồng hành của tôi không nói năng, chỉ thỉnh thoảng chua cay nhận xét chuyến đi ngu xuẩn. Chúng tôi lại phải thuê xe ngựa tới nhà linh mục chánh xứ, cách ga 2 dặm. Chúng tôi được một tu sĩ bệ vệ và trịnh trọng đón tiếp. Bức điện hồi âm của chúng tôi còn để trên bàn.
- Thưa quý ông! - ông ta hỏi - Chúng tôi có thể làm gì để giúp quý ông?
Tôi giải thích :
- Chúng tôi đến theo lời mời của bức điện của linh mục!
- Bức điện của tôi? Tôi đâu có đánh điện cho quý ông?
- Tôi muốn nói bức điện linh mục gửi cho ông Josi¬ah Am¬ber¬ley về việc người vợ và tiền của ông ta.
- Đây là một trò đùa khiếm nhã. Tôi không bao giờ nghe đến tên anh chàng đó và tôi không hề đánh điện tín cho ai ca
Chúng tôi nhìn nhau một cách ngạc nhiên:
- Có thể có sự lầm lẫn! - Tôi nói - Có thể nào ở đây có hai nhà thờ chánh xứ không? Thưa linh mục, đây là bức điện mà chúng tôi nhận được, người ký tên là El¬ma.
- Chỉ có một nhà chánh xứ và một linh mục chánh xứ duy nhất. Bức điện này là một sự giả mạo đáng tởm, tôi sẽ kiện ra cảnh sát.
Ông lão Am¬ber¬ley và tôi trở lại con đường chính của làng, có lẽ đó là con đường cổ nhất của Anh quốc. Chúng tôi tới bưu cục nhưng đã đóng cửa. Nhờ điện thoại trong quán nhỏ trước ga, tôi liên lạc được với Holmes.
- Kỳ quá - Tiếng nói từ xa xôi dội vào tai tôi - Cực kỳ lý thú! Wat¬son thân mến, tối nay không có xe lửa, vô tình tôi đẩy anh vào một quán trọ đồng quê. Nhưng anh có thiên nhiên và Am¬ber¬ley thì cũng được rồi.
Tôi nghe tiếng Holmes cười và gác máy. Qua chuyến đi này, tôi thấy rằng lời đồn ông lão này hà tiện quả không ngoa. Ông ta cằn nhằn về các khoản chi phí cho chuyến đi, lại cò kè về chi phí quán trọ. Khi về tới Lon¬don, tôi nói với ông ta:
- Chúng ta nên ghé qua phố Bak¬er, Holmes có cần hỏi ta điều gì thêm không?
- Nếu đó là những chỉ thị cuối cùng thì tôi thấy cũng chả ích lợi gì! - Am¬ber¬ley vừa nói vừa cười chế nhạo.
Tuy vậy, ông ta vẫn đi theo tôi. Tôi đã đánh điện báo cho Holmes giờ về, nhưng tôi lại nhận được hồi âm: "Anh hãy đợi tôi tại Lewisham".
Tôi như bị rơi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Tại phòng khách của nhà ông Am¬ber¬ley lại có thêm một người đàn ông với khuôn mặt nghiêm trọng, lạnh nhạt ngồi cạnh. Ông ta mang kính râm và cà-vạt mang kẹp của hội Tam điểm.
- Tôi xin giới thiệu ông Bark¬er. - Holmes nói - ông Josi¬ah Am¬ber¬ley à, ông ta cũng quan tâm đến công việc của ông. Chúng tôi tuy hoạt động riêng rẽ nhưng cùng muốn hỏi ông một đ
Ông lão ngồi xuống một cách nặng nề, cảm thấy một nguy hiểm gần kề.
- Điều gì vậy, ông Holmes?
- Chỉ điều này thôi, ông đã vứt mấy cái xác chết đi đâu?
Lão ta nhảy dựng và la lên. Hai bàn tay xương xẩu huơ huơ trong không trung, miệng há hốc. Trong một thoáng, chúng tôi thấy rõ chân tướng của Josi¬ah Am¬ber¬ley. Khi ngồi lại xuống ghế, ông ta lấy tay che miệng như muốn chặn đứng một cơn ho. Holmes đột nhiên nhảy lên như con cọp, nắm cổ họng ông ta, đè cổ, chân cho đến lúc mặt ông ta chạm sàn nhà. Một viên thuốc màu trắng từ miệng ông ta lọt ra.
- Không có chuyện ấy được, ông Josi¬ah Am¬ber¬ley à! Sự việc phải theo tiến trình tự nhiên và đều đặn. Sao, Bark¬er?
- Một xe ngựa đang chờ ngoài cổng! - Bark¬er trả lời.
- Chúng ta cách bót cảnh sát chỉ vài trăm yard thôi. Tôi đi theo ông ra đó. Còn Wat¬son, anh ở lại đây, nửa giờ sau tôi trở lại.
Một lát sau Holmes quay lại với một thanh tra trẻ.
- Tôi để cho Bark¬er lo làm thủ tục. Wat¬son, anh chưa biết ông Bark¬er. Đó là một đồng nghiệp tài danh của tôi ở duyên hải Sur¬rey. Khi anh nói về một người da nâu, cao ráo, tôi đã biết ngay là ai rồi. Ông ấy có nhiều thành tích đẹp, phải không, ông thanh tra?
- Ông ấy đã góp phần vào nhiều vụ. - Viên thanh tra trả lời dè dặt.
- Đúng, các phương pháp của ông ta không chính quy. Cách làm việc của tôi cũng tương tự. Nhưng, đôi khi bọn này cũng hữu dụng đấy chứ? Ông thì muốn phải báo cho lão biết theo nghi thức, nhưng với thằng ăn cướp đó thì làm gì được một lời đầu thú?
- Có lẽ là không. Nhưng sau cùng cũng đạt mục đích. Ông vui lòng cảm thông với chúng tôi.
- Tôi sẽ không dành ông đâu, ông Mac¬Knon à. Tôi đoán chắc với ông rằng tôi xin rút lui, ông Bark¬er cũng chỉ làm theo chỉ thị của tôi thôi.
Viên thanh tra cảnh sát có vẻ nhẹ nhõm.
- Ông quả là hào phóng, ông Holmes. Có lẽ lời khen hay chê đối với ông không quan trọng. Nhưng đối với chúng tôi thì khác hẳn, khi mà báo chí bắt đầu tung tin ra.
- Đồng ý. Báo chí cũng sẽ phỏng vấn, ta nên chuẩn bị các lời đáp. Ông sẽ nói gì khi họ hỏi cái mấu chốt nào khiến ông ngờ vực và cuối cùng ông đã đề ra được một giả thiết.
Viên thanh tra lúng túng:
- Hình như chúng ta chưa nắm chi tiết cụ thể, ông nói rằng trước mặt ba nhân chứng, tội phạm gần như đã thú nhận, qua việc mưu toan tự sát sau khi đã giết đôi gi¬an phu dâm phụ.
- Ông có những sự kiện nào khác? Ông có dự trù một sự lục soát chưa?
- Ba cảnh sát viên đang trên đường đi tới hiện trường.
- Như vậy thì không bao lâu nữa, ông sẽ có mọi chứng cớ. Các xác chết có thể được chôn quanh quẩn đâu đó. Hãy lục dưới hầm rượu, ngoài vườn. Nhà này cổ lỗ quá, có thể được xây trước khi có nước máy. Thành ra xem đâu đó có cái giếng bỏ hoang. Hãy thử thời vận về các hướng đó!
- Nhưng làm sao ông đoán được cái cách mà tội ác đã được diễn ra?
- Trước hết, xin nói với ông về lão già Am¬ber¬ley này. Một kẻ quái đản đến nỗi tôi cho rằng nên cho lão vào nhà thương điên hơn là đưa đi chém. Lão là một tên hà tiện kinh khủng. Cái nhỏ nhen của lão đã biến vợ lão thành miếng mồi ngon cho bất kỳ một tên sở khanh nào; và viên thầy thuốc mê cờ đến đúng lúc. Am¬ber¬ley đánh cờ có hạng, nên lão có một trí thông minh đủ sức nghĩ ra các mưu mô khủng khiếp. Giống như các lão già hà tiện khác, lão ghen dữ dội. Khi lão già ngờ có một mối tình bất chính, lão quyết định phục thù và lập một kế hoạch cực kỳ quỷ quyệt. Hãy đi theo tôi !Holmes đưa chúng tôi vào hành lang. Anh đi quen thuộc như người trong nhà rồi ngừng trước chiếc cửa mở toang của căn phòng kiên cố.
- Trời ơi! Mùi sơn khó chịu quá! - Viên thanh tra nói lớn.
- Ông vừa gặp cái nút đầu tiên! - Holmes nói - Ông có thể cám ơn bác sĩ Wat¬son là người đã để ý đến cái mùi này. Tại sao trong lúc gia đình rối ren mà hắn lại cho tỏa cái mùi nồng nặc này? Dĩ nhiên là để khỏa lấp một mùi khác, mùi tội lỗi, một mùi gợi sự ngờ vực. Rồi tôi suy nghĩ về căn phòng này. Một căn phòng không ai khác vào được. Tôi chỉ giải đáp sau khi thân hành khám nghiệm căn phòng. Sở dĩ tôi cho rằng vụ này rất nghiêm trọng vì tôi đã hỏi thăm rạp hát Hay¬mar¬ket và biết chắc chắn số 30 và 32 của dãy B thượng hạng không có ai ngồi đêm đó cả.
Như vậy Am¬ber¬ley đâu có đi xem hát. Lão đã ngu dại lộ cho anh bạn Wat¬son biết số ghế của vé còn lại. Vấn đề là làm sao chui vào nhà của lão. Tôi đã sai một nhân viên khác đi thám hiểm. Tôi đã nhờ bác sĩ Wat¬son dẫn ông ta đi xa qua đêm. Tên của ông linh mục chánh xứ thì chỉ lục trong danh mục nhà thờ. Rõ ràng, minh bạch chưa nào?
- Tuyệt vời! - Viên thanh tra nói.
- Không ngại gì nữa, tôi phá cửa mà vào nhà. Tôi khoái cái màn đào ngạch lắm, nhưng thỉnh thoảng mới làm một lần. Hãy quan sát những gì tôi phát hiện được.
Ông thấy cái ống dẫn khí đốt chạy dọc theo nẹp gỗ, ống này chạy vào phòng, đến cái hoa hồng giữa trần nhà. Bất cứ lúc nào, mở khóa thì phòng bị ngập khí đốt vì đầu ống trên trần không đậy nắp. Cửa lớn, cửa nhỏ mà đóng kín lại thì chỉ cần hai phút là đủ giết bất cứ ai ở trong phòng này. Do quỷ kế nào mà đôi tình nhân bị dụ vào đó thì tôi không rõ.
Viên thanh tra lò dò khám nghiệm ống ga một cách thích thú.
- Một nhân viên của chúng tôi có ghi nhận mùi ga. - ông ta nói. - Nhưng lúc ấy cửa đã mở toang và việc quét sơn đã bắt đầu rồi. Theo lão già thì công việc bắt đầu từ hôm trước. Còn gì nữa, ông Holmes?
- Có một sự kiện bất ngờ. Rạng sáng, tôi chui cửa sổ nhà bếp ra thì bị một người chặn lại hỏi: "Này, anh chàng kia, anh tới đây làm gì?". Khi quay lại, tôi nhận ra đôi kính râm của Bark¬er, người bạn đồng nghiệp của tôi. Chúng tôi cười sặc sụa. Tôi nghĩ rằng ông ta được gia đình bác sĩ Ray Ernest thuê và trong lúc dò la đã đi đến kết luận y hệt. Ông ta canh ngôi nhà này đã mấy ngày, lầm tưởng bác sĩ Wat¬son là tòng phạm. Nghi ngờ, nhưng không có cớ để hỏi han; còn gặp tôi nhảy cửa sổ thì thộp ngay. Tôi thông báo các phát hiện của tôi và hai chúng tôi hợp tác để sớm hoàn tất nội vụ.
- Tại sao không hợp tác với chúng tôi?
- Tại vì tôi muốn làm cái thí nghiệm nhỏ nhoi. Quý vị đâu chịu đi "ngoài lề" như tôi!
Viên thanh tra cười mỉm.
- Chúng tôi đâu dám từ chối ông. Chúng tôi xin tất cả các kết quả. Và xin cám ơn ông nhiều.
- Đương nhiên! Thói quen của tôi mà!
- Thưa ông Holmes, nội vụ cho ông trình bày là sáng tỏ rồi, chỉ còn phải tìm cho ra các xác chết.
- Tôi sẽ chỉ cho ông một chút bằng chứng - Holmes nói tiếp - Tôi chắc chắn rằng cả lão Am¬ber¬ley cũng chưa thấy. Ông thanh tra à, ông sẽ thu lượm được kết quả nếu ông "suy bụng ta, ra bụng người", ông sẽ làm gì nếu ông lọt vào tình huống tương tự như cặp nạn nhân kia? Ông chỉ còn hai phút để sống và để phục hận cái người đang chế nhạo ông ở ngoài cửa? Ông sẽ làm gì?
- Viết một mẩu tin nhỏ.
- Đúng. Ông muốn rằng công chúng hay biết ông đã bị chết, ông hãy để ý những gì đã được viết trên tường. Nhìn kìa! "Chúng tôi đã...(2)". Chỉ bấy nhiêu thôi!
- Ông nghĩ gì về lời ghi này.
- Anh chàng đã nằm sóng soài, cách sàn nhà cả bộ, thoi thóp khi viết. Chưa hoàn tất thì đã tắt hơi!
- Anh ta muốn viết: "Chúng tôi đã bị ám sát"(3
- Tôi cũng hiểu như ông. Nếu mình tìm ra một cây viết chì đỏ ở các xác chết thì chúng ta càng rõ hơn.
- Ồ, chúng tôi sẽ lục lạo cho tới kỳ cùng. Còn các chứng khoán? Đâu có bị mất cắp. Nhưng ông ta có chứng khoán đấy! Chúng tôi kiểm tra rồi.
- Tôi đoán chắn với ông, lão già giấu chúng nơi an toàn rồi. Khi mọi sự rơi vào quên lãng, lão sẽ đột ngột tìm ra và nói láo rằng đôi gi¬an phu dâm phụ vì ăn năn đã gửi trả.
- Ông có lời giải đáp cho mọi thắc mắc. - Viên thanh tra nói - Đương nhiên lão sẽ khai báo với chúng tôi. Nhưng, tôi thắc mắc tại sao lão lại nhờ đến ông?
- Vì tự kiêu vụn vặt! - Holmes đáp - Lão tự cho là mình khôn ngoan, không ai vượt được trí lão. Lão có thể khoác lác với hàng xóm rằng, lão đã ra tới cảnh sát thám tử tư đủ cả.
Viên thanh tra cười to tiếng.
- Quả thật ông là một kỳ tài!
Hai hôm sau, Holmes đưa cho tôi tờ báo North Sur¬rey Ob¬serv¬er (4). Những tít nóng bỏng, khởi đầu là "Sự kinh hoàng tại biệt thự "Haven" và kết thúc bằng "Một thành công rực rỡ của cảnh sát". Một cột dài chữ lí nhí kể lại các sự kiện theo thứ tự thời gi¬an. Và đoạn chót: "Sự bén nhạy tuyệt vời giúp thanh tra phân biệt mùi nước sơn với một mùi khác, mùi khí thắp chẳng hạn. Sự bạo dạn suy đoán rằng cái phòng kiên cố cũng có thể là phòng tử thần. Cuộc điều tra sau đó đưa tới việc tìm ra xác chết trong một cái giếng bỏ hoang được che lấp dưới một cái nhà kho. Tất cả các điểm đó giúp minh họa trí thông minh tuyệt vời của các thám tử chuyên nghiệp".
- Tốt, Tốt, MacK¬in¬non là người bạn tốt, - Holmes nói với nụ cười khoan dung - Anh có thể sắp xếp vụ này vào nó trong những hồ sơ lưu trữ được rồi đấy, Wat¬son à.
(The Case Book of Sher¬lock Holmes-1927)
Hết
Thảm Kịch Tầu Korosko
Arthur Co¬nan Doyle
Nguồn : www.vn¬thuquan.net
Tạo ebook : Huyền Trang
Mục Lục
Chương 01
Có lẽ công chúng sẽ tự hỏi tại sao các báo chí không bao giờ kể lại câu chuyện những hành khách trên tàu Ko¬rosko. Ở vào một thời đại như thời đại của chúng ta, khi mà các hãng thông tin, báo chí nhìn soi mói vào khắp vũ trụ để tìm tòi những chuyện giật gân, thật không thể tin được là sự bí ẩn đã che đậy được lâu như vậy một sự cố quốc tế có tầm quan trọng như thế. Ta đành phải nói rằng sự kín tiếng này đã có cơ sở trên những lý do hết sức giá trị, cả về mặt chính trị lẫn về mặt riêng tư. Tuy nhiên, một số người nào đó đã biết rõ các sự việc, một lập luận của những người này đã xuất hiện ngay cả trong một nhật báo tỉnh lẻ và nó đã lôi theo ngay tức thì một bài cải chính. Bây giờ đây là những sự việc được ghi chép dưới dạng một bài thuật sự. Sự chính xác của chúng được bảo đảm bởi những lời khai báo được đưa ra qua sự tuyên thệ của đại tá Cochrane Cochrane, thuộc câu lạc bộ Lục quân và Hải quân, bởi các lá thư của cô Adams, ở Boston, Mass, cũng như bởi lời khai chúng thu lượm được trong quá trình điều tra mật của chính phủ được thực hiện ở Le Caire với đại úy Archer, và những lính cưỡi lạc đà người Ai Cập. Ông James Stephens đã khước từ việc thông báo cho chúng tôi lập luận về sự vụ của ông ấy trên giấy trắng mực đen; nhưng vì các bản in thử của tập sách này đã được gửi cho ông ấy xem, vì ông ấy đã không đưa ra một sự đính chính hay xóa bỏ nào, chúng tôi có quyền giả thiết là ông ấy đã không nêu ra được một sự sai trái cụ thể nào, và những sự phản kháng của ông ấy đối với sự công bố của chúng tôi đã xuất phát phần lớn từ những sự thận trọng, áy náy riêng tư.
Tàu Ko¬rosko có một cái bụng chìm dưới nước hình mai rùa, mũi tàu phình ra, phần lái tàu tròn, tầm nước là tám mươi cen-ti-mét và trắc diện bằng một cái bàn là (bàn ủi). Ngày 13 tháng 2 năm l895, nó nhổ neo từ Shel¬lal, ở gần thác nước thứ nhất, để đi tới Qua¬di-Hal¬fa. Tôi có được bản danh sách những hành khách của chiếc tàu tuần dương này; đây là bản danh sách đó:
Ðại tá Cochrane Cochrane Luân đôn
Ông Ce¬cil Brown Luân đôn
John H Head¬ing¬ly Boston, Hoa kỳ
Cô Adams Boston, Hoa kỳ
Cô S. Adams Worces¬ter, Mass, Hoa kỳ
Ông Fardet Paris
Ông và Bà Bel¬mont Dublin
James Stephens Manch¬ester
Giáo sĩ John Stu¬art Birm¬ing¬ham
Bà Shlesinger,cô vú em và 1 đứa nhỏ Flo¬rence
Ðó là những du khách khởi hành từ Shel¬lal, với ý
định là đi ba trăm ba mươi cây số ngược dòng sông Nil của nước Nu¬bie, quãng sông ngăn cách thác nước thứ nhất và thác nước thứ hai.
Nước Nu¬bie này, một xứ sở kỳ lạ! Chiều ngang của nó thay đổi trong khoảng vài cây số và vài mét, vì cái tên của nó chỉ được dùng cho một dải đất hẹp cầy cấy được. Với một màu xanh lục, không có bề dày và với những cây cọ mọc bao quanh, nó chạy dài ở mỗi bên của con sông rộng màu cà phê. Ở tít xa kia, trên bờ thuộc nước Libye, là chỗ khởi đầu của sa mạc hoang dã chạy dài trên suốt bề ngang của Châu Phi. Trên bờ bên kia, một phong cảnh cũng hoang vu như vậy tỏa rộng ra tới mãi Hồng Hải xa xôi. Nằm vào giữa hai miền mênh mông cằn cỗi này, nước Nu¬bie trải dài ra dọc theo con sông như một con giun đất xanh rì. Ở nhiều chỗ nó bị đứt đoạn: tại đó sông Nil chảy vào giữa, những hòn núi đen xì và rạn nứt vì trời nắng; những đụn cát di động màu cam là vật để trang trí cho các thung lũng. Ở khắp nơi người ta phát hiện ra các dấu vết của những giống người đã mất tích và những nền văn minh đã bị chìm ngập. Những ngôi mộ kỳ dị in dấu trên các sườn đồi hoặc nổi bật lên trước chân trời; các Kim Tự Tháp, những mộ xây bằng đá, những khối đá dùng làm mộ chí, nhưng ở khắp mọi nơi, toàn là mồ mả. Nơi này, nơi nọ, khi con tàu đi vòng quanh một mũi đất có nhiều núi, người ta nhìn thấy ở trên đỉnh cao một thành phố bỏ hoang, những cái nhà, những bức tường thành, những bờ lũy; ánh nắng xuyên qua các cửa sổ hoặc các lỗ hổng vuông. Người ta biết rằng thành phố đã được xây dựng bởi người La-mã, hoặc bởi người Ai Cập; có điều là tên nó và nguồn gốc của nó đã bị mất đi không còn cứu vãn được. Người ta thấy sửng sốt; người ta tự hỏi tại sao một giống người, dù họ là giống người nào đi nữa, lại đi xây dựng trong một cảnh hoang vắng thô lỗ như thế này. Người ta phải chấp nhận một cách khó khăn, cái thuyết theo đó thì các kiến trúc này không có mục đích nào khác hơn là bảo vệ lối vào vùng đồng bằng phì nhiêu chống lại bọn đạo tặc và bọn man rợ ở miền Nam. Nhưng dù sao thì chúng vẫn còn đứng nguyên, những thành thị im lìm và dữ tợn này; và ở đỉnh các ngọn núi, ta có thể nhìn thấy những nấm mộ ở đó các cư dân của chúng đã được chôn cất, nhìn từ xa chúng giống như những cửa sổ nhỏ của một chiếc thiết giáp hạm. Ðó là miền bí ẩn, không sinh khí mà những du khách đi ngược dòng sông tới biên giới Ai Cập đã đi qua trong lúc vừa hút thuốc, vừa nói chuyện dông dài, vừa tán tỉnh nhau.
Những hành khách trên tàu Ko¬rosko đã rất ăn ý với nhau. Họ đã tất cả cùng nhau đi gần hết đoạn đường từ Le Caire tới As¬souan; sông Nil có khả năng làm xúc động được tất cả mọi thứ lãnh đạm kể cả thứ bền bỉ nhất: sự lãnh đạm của dân Anh. Họ đã có một dịp may bất ngờ: nhóm họ đã không có một kẻ tính nết khó chịu, một kẻ mà ở trên một con tàu nhỏ cũng đủ làm hỏng sự vui thích của mọi người. Trên một chiếc tàu chỉ quan trọng hơn chiếc tàu phụ lớn đôi chút thì một kẻ quấy rầy, một kẻ trơ tráo, một kẻ càu nhàu làm mưa làm gió với tất cả hành khách. May mắn thay chiếc Ko¬rosko đã không chở trên tàu một người nào giống như một kẻ quấy rầy cả. Ðại tá Cochrane Cochrane, một trong các sĩ quan mà chính phủ Anh, đúng như qui luật, đã tuyên bố là không có khả năng trong ngành hiện dịch ở một độ tuổi nào đó, và đã chứng tỏ giá trị của qui luật bằng cách cống hiến phần còn lại của đời họ để đi thám hiểm nước Maroc hay đi săn bắn sư tử ở So¬ma¬lie. Nước da nâu, đứng rất ngay ngắn, ông đại tá đã tự ý biểu hiện lối xã gi¬ao lễ độ, nhưng cái nhìn của ông có vẻ lạnh lùng của một nhiệm vụ điều tra; rất kỹ càng trong lối ăn mặc, chính xác trong các thói quen, ông là một người quí phái tới tận đầu móng tay. Thực hành sự chán ghét của người Anh đối với việc thổ lộ tâm tình, ông đã tự giới hạn mình trong một sự thận trọng mà thoạt nhìn có vẻ như sự lãnh đạm thờ ơ, nhưng đôi khi ông thấy khó chịu phải che dấu lòng tốt và những tình cảm của con người là những thứ có ảnh hưởng tới các hành động của ông. Ðối với những bạn đồng hành của ông, ông đã gợi lên nhiều sự tôn kính hơn là lòng cảm mến; thật sự tất cả mọi người đều có cảm tưởng rằng ông không phải là người để cho sự liên hệ trong một chuyến tàu nảy sinh ra thành tình bạn. Tuy nhiên, một khi đã được đồng ý thì tình bạn này sẽ trở thành một bộ phận của bản thân ông. Râu mép ông đã lốm đốm bạc, trông rất ra vẻ nhà binh, nhưng ông giữ được mái tóc đen một cách khác thường ở vào tuổi ông. Trong khi trò chuyện không bao giờ ông nhắc tới rất nhiều chiến dịch trong đó ông đã tỏ ra xuất sắc; ông giải thích sự kín đáo này bằng cách nói rằng chúng đã diễn ra từ hồi khởi đầu kỷ nguyên của Nữ hoàng Vic¬to¬ria, và ông đã hiến tế sự vinh quang về binh nghiệp của ông lên bàn thờ của thời thanh xuân bất diệt của ông.
Ông Ce¬cil Brown (tôi lấy các danh tính theo thứ tự của bản danh sách) là một nhà ngoại gi¬ao trẻ tuổi thuộc về một tòa đại sứ ở trên lục địa; chưa hoàn toàn đoạn tuyệt hẳn với phong thái ở Ox¬ford, ông đã phạm phải chút ít lỗi lầm vì sự tỉ mỉ thái quá, nhưng sự nói chuyện của ông thì rất thú vị và chứng tỏ một trình độ văn hóa vững chắc. Ông có một bộ mặt xinh đẹp, buồn bã, một bộ ria mép nhỏ mà ông bôi sáp một cách kỹ càng ở các đầu chót, một giọng nói trầm trầm, và một sự lơi là về tâm tính mà một lối mỉm cười duyên dáng đủ đền bù lại mỗi khi ông đi quá trớn trong tính tình kỳ lạ của ông. Ông đã cố gắng kiềm chế những nhiệt tình ấu trĩ rất tự nhiên của ông bằng một sự hoài nghi có tính cách đùa cợt; trong trạng huống này ông bất chấp sự thật hiển nhiên để nói ra những ý nghĩ làm phật lòng người vừa mới gặp. Trong chuyến du hành, ông đã mang theo những sách của Wal¬ter Pa¬ter, và suốt cả ngày ông ngồi lại trong căn lều vải với một cuốn tiểu thuyết và một cuốn tập vẽ để bên mình, trên một cái ghế đẩu. Tư cách riêng của ông đã không cho phép ông tán tỉnh làm quen với những người khác, nhưng nếu các bạn đường của ông muốn tới nói chuyện với ông, thì ông tỏ ra vừa lịch sự, vừa khả ái.
Những người Mỹ đã lập thành một nhóm riêng biệt. Vốn quê quán ở Nowvelle-an¬gletrre và tốt nghiệp tại Har¬vard (một đại học danh tiếng ở Mỹ), John H Head¬ing¬ly bổ sung sự học vấn của mình bằng cuộc du lịch thế giới. Ông đã tượng trưng một cách toàn hảo cho người thanh niên Mỹ, sinh động, có đầu óc quan sát, nghiêm túc, thèm khát sự hiểu biết, và gần như không bị các thành kiến trói buộc, sôi động với một tình cảm đẹp đẽ về tôn giáo, không một chút đầu óc bè phái hẹp hòi, ông giữ đầu óc lạnh lùng ở giữa những cơn giông tố thình lình của tuổi thanh xuân. Ông có vẻ kém trí thức hơn nhà ngoại gi¬ao của Ox¬ford, nhưng thật sự ra ông còn trí thức hơn nữa, vì những cảm xúc sâu sắc hơn của ông đã bù lại cho những kiến thức ít phần chính xác. Cô Adams là cô của cô Sadie Adams : một người con gái già ở Boston, nhỏ bé, đầy nghị lực, với bộ mặt khó thương, cô đã đè nén một cách khó khăn sự trìu mến lớn lao chưa bao giờ được dùng tới; đây là lần đầu tiên cô rời khỏi nước Mỹ, và trong tất cả các nhiệm vụ có một nhiệm vụ làm cô say mê, kéo Ðông - Phương lên ngang hàng với Mas¬sa Chusetts. Vừa mới đặt chân lên đất Ai Cập, cô đã thấy rằng nước này cần được khai hóa; cô lo lắng về chuyện này một cách nóng nảy. Những con lừa lưng bị tróc da, những con chó đói, những con ruồi bám quanh mắt lũ trẻ nhỏ, những đứa bé trần truồng, những kẻ hành khất quấy rầy, những người đàn bà quần áo tả tơi, tất cả đều như thách thức lương tâm cô; do đó cô đã dũng cảm lao mình vào một công cuộc cải cách. Tuy nhiên vì cô không nói được một chữ của ngôn ngữ bản xứ. và vì cô không thể làm cho người ta hiểu được cô, nên chuyến đi ngược dòng sông Nil của cô đã để Ðông - Phương ở lại gần như trong tình trạng mà cô đã phát hiện ra nó, nhưng ngược lại đã cung cấp cho các bạn đồng hành của cô nhiều đề tài để vui đùa. Cháu gái Sadie của cô, người đã cùng chia sẻ với bà Bel¬mont danh dự là nữ hành khách được ưa chuộng nhất trên tàu Ko¬rosko, không phải là người cuối cùng thích bông đùa giải khuây về chuyện này. Rất trẻ, vừa mới rời khỏi trường Smith Col¬lege, cô còn giữ được phần lớn những tính tốt và tính xấu của tuổi ấu thơ, cô có một sự thành thật và một niềm tin hơi ngây thơ, sự ngay thẳng ngây thơ, sự dũng cảm, và cả tính nói nhiều và sự bất kính của lứa tuổi cô, nhưng ngay các tính xấu này cũng làm người ta vui thích, càng vui thích hơn khi mà cô con gái cao lớn và xinh đẹp này có vẻ già hơn là tuổi tác thật sự của cô, vì những lon tóc thấp viền quanh tai cô và những đường nét no đầy của thân mình cô. Tiếng xột xoạt của váy cô, giọng nói cương quyết và thành thật, tiếng cười vui tai của cô bao giờ cũng được hoan nghênh trên tàu Ko¬rosko. Ông đại tá biểu lộ tính lịch sự hào hiệp với cô, và nhà ngoại gi¬ao của Ox¬ford thôi không còn hoa mĩ lòe loẹt khi cô Sadie Adams ngồi bên cạnh ông.
Chúng tôi sẽ nói ngắn gọn hơn về những hành khách khác. Có vài người tỏ ta đặc sắc hơn những người khác, nhưng tất cả bọn họ đều đứng đắn và có tư cách đàng hoàng. Ông Fardet, một người Pháp hiền hòa mặc dầu có tính hay tranh luận, chủ trì những định kiến liên quan tới các mưu đồ chính trị của nước Anh, và sự bất hợp pháp của vị thế của nước này tại Ai Cập. Ông Bel¬mont, một người Ái-nhĩ-lan khỏe mạnh với mái tóc hoa râm, là người đã thắng hầu hết các cuộc thi bắn súng ở Wim¬ble¬don và Bisky; ông mang theo bà vợ, một người đầy sức quyến rũ và đài các, rất tao nhã, và vui vẻ một cách tế nhị như tính tình mọi người dân ở Ái Nhĩ Lan. Bà Shlesinger, một goá phụ ở độ tuổi trung bình, hiền hòa và nhu mì, người chỉ chăm chú vào đứa con sáu tuổi của mình. Giáo sĩ John Stu¬art là một vị mục sư phi quốc giáo ở Birm¬ing¬ham, thuộc trưởng lão giáo phái hay tự trị giáo đoàn. Ông được tạo hóa phú cho một sự phì nộn đáng nể kèm theo một sự chậm chạp lề mề; ông cũng có một cái vốn hài hước giản dị, mà theo những tin tức tôi được biết, đã làm cho ông trở thành một nhà truyền giáo thành công và một diễn giả hữu hiệu khi ông nói trên các diễn đài cực cấp tiến, mặc dù ông bị bệnh suyễn.
Sau hết là ông James Stephens một luật sư ở Manch¬ester (một người trong số các cộng sự viên của hãng Hick¬son, Ward và Stephens), người đi du lịch để làm tiêu tan hết các hậu quả của một bệnh cúm tệ hại. Stephens là người tự thân lập thân, ông đã bắt đầu từ việc lau rửa những hòn gạch vuông của công ty trước khi điều khiển công việc, trong ba mươi năm trời, ông đã tận tụy với một công việc khô khan, chuyên môn, và ông chỉ sống để làm vừa lòng những thân chủ cũ và lôì kéo những thân chủ mới. Tinh thần và linh hồn ông đều thấm nhuần chủ nghĩa hình thức và sự nghiêm ngặt của luật pháp mà ông có nhiệm vụ phải giải thích. Tuy vậy tính tình của ông cũng không thiếu sự cao cả và lòng trắc ẩn; nhưng các đức tính này đã bắt đầu tàn úa, cũng như tất cả các tính tốt của con người đã tàn úa ở chốn thị thành. Ông làm việc theo thói quen, và sống độc thân, ông không quan tâm tới một điều gì khác; tâm hồn ông đã chai lì, giống như thân mình một vị nữ tu thời Trung Cổ đôi khi ngẫu nhiên ông bị đau ốm, tạo hóa đã xô đẩy, tống xuất ông ra khỏi nơi ẩn náu của ông, và ném ông vào thế giới bao la, xa cách Manch¬ester và cái thư viện đầy những chứng điển, tiền lệ được đóng bằng da bê. Lúc đầu ông rất nhớ tiếc cái thư viện đó. Rồi dần dà mắt ông được mở rộng, và ông cảm thấy một cách mơ hồ rằng công việc của ông quá tầm thường bên cạnh cái vũ trụ kỳ diệu, đa dạng, không thể giải thích được này, mà ông đã không biết gì tới. Ngay cả có lúc ông đã tự hỏi liệu cái lúc ngưng nghỉ này trong nghề nghiệp của ông có thể tỏ ra quan trọng hơn chính bản thân nghề nghiệp của ông không. Những lợi ích mới tràn ngập lòng ông, và vị luật gia gần năm mươi tuổi này cảm thấy trong ông bùng lên những ngọn lửa cuối cùng của một thủơ thanh xuân mà việc đọc quá nhiều sách vở đã làm tắc nghẹt. Ông rất ương bướng không chịu nhìn nhận rằng các phong cách của ông lúc nào cũng khô khan, khúc chiết và ông đã dùng một ngôn ngữ hơi mô phạm. Tuy nhiên ông đẵ đọc, đã suy ngẫm và nhận xét; ông gạch ngang dưới hàng chữ và ghi chú sách của Bre¬dek¬er, cũng như thời trước ông đã gạch ngang dưới hàng và ghi chú các sách về luật của ông. Ông đã lên tàu ở Le Caire, và ông đã kết thân với cô Adams và cháu gái cô ấy. Lối nói năng thành thật và sự mạnh dạn của cô thiếu nữ Mỹ làm ông thích thú; để đáp lại, Sadie đã dành cho ông sự kết hợp của lòng tôn trọng và lòng thương do các kiến thức và các sự giới hạn của ông. Thế là họ trở thành những người bạn thân, và người ta mỉm cười khi nhìn thấy bộ mặt u ám của vị luật sư và khuôn mặt rạng rỡ của cô thiếu nữ cúi xuống trên cùng một quyển sách chỉ nam.
Con tàu Ko¬rosko nhỏ bé chạy ngược dòng sông Nil trong khi tung lên những luồng khói và bọt nước. Với năm hải lý một giờ, nó đã gây ra nhiều tiếng ồn và nhiều trắc trở hơn là một con tàu xuyên Ðại Tây Dương lúc ganh đua giành kỷ lục. Trên boong tàu, dưới tấm lều vải dày, cái tiểu gia đình của các hành khách ngồi ở đó, thường thường là sau vài giờ đồng hồ, con tàu tấp vào bờ để cho hành khách thăm viếng một loạt các đền đài mới thấy. Nhưng các cảnh hoang tàn đã trở nên mỗi lúc mỗi kém cổ kính đi, những du khách là những người đã được thỏa mãn ở Gizeh và Sakara khi ngắm nghía những đền đài cổ xưa nhất được con người xây dựng lên, đã bắt đầu chán nản với những ngôi đền mới có nhiều lắm là vào lúc khởi đầu kỷ nguyên cơ đốc giáo. Ở Ai Cập, người ta khó tìm ra những cảnh hoang tàn mà ở bất cứ nước nào khác đã là một nơi được sự sùng bái lạ thường. Do đó các du khách chỉ có những cái nhìn uể oải dành cho nghệ thuật nửa phần Hy Lạp của những hình chạm nổi ở Nu¬bie; họ leo lên chóp đỉnh của tàu Ko¬rosko để xem cảnh mặt trời mọc trên sa mạc hoang vu của Ðông Phương; họ đồng tình cảm phục ngôi đền lớn Abon-Sim¬bel, vì một chủng tộc cổ xưa đã đào vào một quả núi như đào một cục phô mai vậy. Sau cùng, buổi chiều của ngày thứ tư trong cuộc du hành, họ tới Qua¬di-Hal¬fa, thành phố biên thùy, với vài giờ chậm trễ gây ra bởi một sự trục trặc nhỏ trong các máy móc. Qua¬di-Hal¬fa cũng là một thành phố có quân trú phòng. Sáng hôm sau, họ phải đi du ngoạn trên núi Abousir lừng danh, ở đó người ta có được một cái nhìn tuyệt mĩ trên
thác nước thứ hai. Lúc tám giờ rưỡi, khi các hành khách đang ngồi trên boong sau bữa ăn tối, thì Man¬soor, người thông ngôn, một người Syrie lai ở Copte, đi tới để loan báo, như mỗi buổi tối, chương trình của ngày hôm sau.
Anh ta nói :
- Thưa các quí bà và các quí ông, ngày mai xin quí vị chớ quên thức dậy vào tiếng kẻng đầu tiên để cho cuộc du ngoạn được kết thúc vào buổi trưa. Khi chúng ta tới chỗ những con lừa đang chờ đợi chúng ta thì chúng ta sẽ cưỡi chúng để đi sâu vào sa mạc tám cây số; chúng ta sẽ đi qua trước một ngôi đền của Am¬mon¬ra, đã có từ triều đại thứ mười tám, rồi chúng ta sẽ tới núi Abousir mà sự lừng danh là độc nhất vô nhị. Khi quí vị tới nơi, quí vị sẽ thấy rằng quí vị đang ở chỗ ranh giới của nền văn minh, ngoài ra, đi thêm vài cây số xa hơn nữa, quí vị sẽ thấy mình ở trong xứ sở của các tu sĩ Hồi giáo; quí vị sẽ rõ điều này khi quí vị lên tới ngọn núi cao. Từ trên đó, quí vị sẽ thấy rõ thác nước thứ hai trong một khung cảnh gồm đủ mọi vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên. Tất cả các danh nhân trên thế giới đều đã khắc tên tuổi họ trên đá; vậy xin quí vị đừng bỏ qua nghi lễ này...
Man¬soor chờ đợi một tiếng cười nhỏ bị kìm hãm lại; anh ta nghiêng mình khi nghe thấy tiếng cười.
-...Quí vị sẽ trở lại Qua¬di-Haf¬ta sau đó, ở đó quí vị sẽ trải qua hai giờ với đàn quân lạc đà; quí vị sẽ dự khán sự trải lông các con vật, quí vị sẽ đi một vòng ở hiệu tạp phẩm. Tôi kính chúc quí vị một đêm vui vẻ và tốt đẹp.
Những cái răng trắng ởn của anh ta lóng lánh trước ánh đèn; rồi cái quần dài sậm màu, cái áo vét ngắn may theo kiểu ăng-lê và cái khăn bịt đầu đỏ của anh ta nối tiếp nhau mà biến dạng ở chân cầu thang. Tiếng rì rầm nói chuyện, mà sự xuất hiện của anh ta đã làm gián đoạn, lại tiếp nối rôm rả hơn.
CÔ Sadie Adams nói:
- Ông Stephens ạ, tôi trông cậy vào ông để biết được mọi thứ ở Abousir. Tôi rất thích biết rõ vật mà tôi nhìn khi tôi đang nhìn nó, chớ không phải sáu giờ sau đó trong phòng của tôi trên tàu. Chẳng hạn, tôi đã không nhớ được bao nhiêu về Abon-sim¬bel và những bức bích họa, mặc dù hòm qua tôi đã nhìn thấy chúng.
"Tôi thì không bao giờ hy vọng biết được chuyện gì" bà cô của nàng nói. "Khi tôi trở về bình an vô sự trong Ðại lộ Com¬mon¬wealth, và khi không còn anh thông ngôn nào để xô đẩy tôi, tôi sẽ có nhiều thì giờ để đọc sách, lúc đó tôi có thể say mê và mong muốn trở lại nơi này. Nhưng ông Stephens ạ, ông thật sự rất đáng yêu khi đã cố gắng cung cấp các tài liệu cho chúng tôi".
"Tôi nghĩ rằng bà và cô muốn có vài tin tức chính xác vì vậy tôi đã soạn thảo cho bà và cô một bản tóm tắt nhỏ" Stephens trả lời và đưa cho Sadie một tờ giấy.
Nàng liếc mắt nhìn vào tờ giấy dưới ánh sáng của ngọn đèn trên boong tàu và tiếng cười trẻ trung của nàng lan ra thành một tràng cười lớn.
Nàng đọc.
- Re Abousir! Này ông hiểu từ Re là cái gì hả ông Stephens? Ông đã viết "Re Ram¬ses II" trên tờ giấy cuối cùng mà ông đã đưa cho tôi mà!
Stephens nói.
- Cô Sadie ạ, đó là một thói quen mà tôi mắc phải. Một tục lệ trong nghề nghiệp mà tôi làm khi người ta viết một giác thư.
- Một cái gì hở ông Stephens?
- Một giác thư... Một bị vong lục, nếu cô thích vậy. Chúng tôi viết Re này hay Re nọ, để chỉ ra vật gì mà chúng tôi nói tới. "Tôi cũng muốn tin rằng đó là một phương pháp tốt", Sadie nói, "Nhưng đối với tôi nó có vẻ hơi lạ, khi nó được áp dụng vào các phong cảnh hay vào các vị hoàng đế Ai Cập Re Cheops... Ông không thấy như thế là buồn cười à?"
- Không, tôi không thể nói là tôi thấy nó buồn cười.
Cô thiếu nữ nói lẩm bẩm:
- Tôi tự hỏi có phải người Anh có ít tinh thần hài hước hơn người Mỹ không, hoặc có phải đó là một dạng hài hước khác chăng?
Nàng có một lối phát biểu ý kiến trầm tĩnh, trừu tượng, nàng cho người ta một cảm tưởng là nàng suy tưởng rất cao xa.
-...Tôi tin rằng họ có ít tính hài hước hơn, nhưng khi người ta suy nghĩ kỹ thì Dick¬ens, Thack¬er¬ay, Bar¬rie và một số các nhà văn hài hước khác mà chúng ta cảm phục đều là người Anh. Hơn nữa, ở rạp hát, tôi chưa từng bao giờ nghe một công chúng cười lớn hơn là công chúng ở Luân Ðôn. Nghe đây: chúng tôi có ở đằng sau chúng tôi một khán giả mà mỗi lúc ông ta cười đã gây ra một luồng không khí mạnh đến nỗi cô tôi phải quay lại để nhìn xem có phải một cái cửa đã bị để ngỏ không. Nhưng ông đã sử dụng một vài thành ngữ buồn cười đấy, ông Stephens ạ!
- Cô Sadie, cô còn thấy cái gì buồn cười nữa?
- Này nhé, khi ông gởi cho tôi cái vé vào thăm ngôi đền và tấm thiệp nhỏ ông đã khởi đầu lá thư: "Kèm theo đây, xin vui lòng tìm ra...". Và ở cuối lá thư, ông đã ghi giữa hai ngoặc đơn "Hai tấm vé đính liền nhau".
- Thưa cô, đó là những công thức hiện hành trong các việc gi¬ao dịch.
"Trong các việc gi¬ao dịch!", Sadie nhắc lại, giả bộ làm ra vẻ nghiêm trọng.
Một sư yên lặng đột ngột.
"Có một điều mà tôi mong muốn!" cô Adams dõng dạc nói với một dạng cứng cỏi và lanh lảnh để che dấu trái tim hiền dịu của cô. "Ðó là việc được gặp Quốc hội của nước này và được trình bày với họ một số sự việc. Một đạo luật bắt buộc việc sử dụng thuốc đau mắt nước sẽ là một trong các kiến nghị của tôi. Một kiến nghị nữa là hủy bỏ những thứ mạng che mặt mày, là thứ đã biến đổi các phụ nữ thành những kiện bông có dùi lỗ để làm hai mắt"
Sadie nói :
- Tôi không hiểu tại sao họ lại đeo mạng che mặt. Cho tới ngày mà tôi thấy được một người kéo mạng che mặt của cô ta lên. Lúc đó thì tôi đã hiểu!
Cô Adams bực bội kêu lên.
- Họ làm tôi mệt mỏi, những người phụ nữ này! Cũng như truyền giảng về nghĩa vụ, về phép lịch sự và về sự thanh khiết cho một khúc gỗ vậy! Còn nhớ không, ông Stephens mới hôm qua thôi ở Abou-sim¬bel, tôi đi qua trước một trong các căn nhà của họ (nếu ông có thể gọi là căn nhà cái đống bùn đó); tôi thấy hai đứa bé con trên bậc cửa với một đống ruồi thường lệ chung quanh hai mắt chúng, và những lỗ thủng lớn trên những cái áo dài nhỏ bé, nghèo nàn, màu xanh của chúng! Tôi từ trên con lừa tụt xuống; tôi xắn tay áo lên; tôi lấy khăn mùi xoa lau mặt cho chúng; tôi khâu lại áo cho chúng. Trong xứ sở này, khi lên khỏi tàu giá để tôi mang theo một hộp đồ may vá chắc còn tốt hơn là mang theo một cái dù trắng, ông Stephens ạ! Thế là tôi phấn khởi với công việc và tôi đi vào trong nhà. Cái nhà mới tệ làm sao! Tôi lùa những người ở trong đó ra ngoài và tôi dọn dẹp như một cô đầy tớ. Tôi đã không còn nhìn thấy đền Abou-Sim¬bel như là tôi đã chưa bao giờ rời khỏi Boston. Ngược lại, tôi đã trông thấy nhiều bụi bặm và cáu bẩn trong một căn nhà lớn như một cái buồng tắm ở New York, hơn là trong bất kỳ một căn hộ nào ở Mỹ. Giữa cái khoảnh khắc mà tôi xắn tay áo lên với cái khoảnh khắc mà tôi ra đi, với bộ mặt đen như đám khói này, đã không mất hơn một giờ đồng hồ; có lẽ tối đa là một tiếng rưỡi! Nhưng tôi đã để lại cái nhà này sạch sẽ cũng như một cái hộp mới. Tôi có mang theo một tờ báo New York Her¬ald tôi trải nó lên trên cái kệ của họ. Và này, ông Stephens, tôi đi rửa tay ở bên ngoài, và khi tôi trở vào, lũ trẻ con vẫn còn những con mắt bám đầy ruồi, và chúng không thay đổi gì cả, trừ việc mỗi đứa đội trên đầu một cái mũ nhỏ của lính sen đầm làm bằng tờ báo New York Her¬ald của tôi. Nhưng Sadie này, sắp mười giờ rồi, và cuộc du ngoạn ngày mai khởi hành sớm đó!
"Thật là tuyệt đẹp, bầu trời đỏ tía và những ngôi sao lớn bàng bạc!" Sadie lẩm bẩm nói "Hãy nhìn bãi sa mạc im lìm, và những bóng đen của các ngọn núi. Thật là đáng sợ!" Nhưng cũng khủng khiếp nữa. Khi người ta nghĩ rằng chúng ta đang thật sự ở chỗ rìa của nền văn minh, như anh thông ngôn vừa mới nói, không có gì khác hơn là sự man rợ và máu chảy tràn trề ở nơi xa kia mà chòm sao chữ thập chiếu sáng một cách quá đẹp này; người ta có cảm tưởng là đang đứng trong thế thăng bằng trên miệng một ngọn núi lửa!"
"Suỵt, Sadie! con ơi, chớ có nói nhảm nhí!" người cô kêu lên. "Con có thể gây ra mối lo sợ cho những ai nghe thấy con nói đó".
- Nhưng cô ơi, chính cô không cảm thấy điều đó à? Hãy nhìn bãi sa mạc lớn này, nó biến mất trong đêm tối mịt mù. Cô hãy nghe tiếng sì sào buồn bã của cơn gió đang thổi bên trén! Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một quang cảnh thiêng liêng hơn!
- Cô lấy làm sung sướng là sau cùng chúng ta đã tìm thấy một điều gì làm cho cháu trở nên trang nghiêm, cháu thân mến ạ! Ðôi khi cô nghĩ... nhân danh những người còn sống, điều đó là gì vậy?
Từ một nơi nào đó giữa các bóng đen của những ngọn núi, ở phía bên kia mặt nước, một tiếng kêu sắc nhọn vang lên. Tiếng kêu vút lên trên bầu trời đầy sao, và chấm dứt bằng sự tắt nghẹn đi trong một thứ rên rỉ ai oán.
"Ðó chỉ là một con chó rừng, cô Adams ạ" Stephens giải thích. "Tôi đã nghe thấy một con chó rừng kêu như vậy khi chúng tôi đi xem tượng Sphinx dưới ánh trăng sáng.
Nhưng cô gái Mỹ đã đứng lên, nét mặt cô biểu lộ một sự bối rối sâu đậm.
Cô nói.
- Nếu có một chuyến du lịch nữa, cô sẽ không xuống quá phía bên kia As¬souan. Cô không biết cái gì đã xui khiến cô đưa cháu đến tận nơi này, Sadie ạ, mẹ cháu sẽ nghĩ rằng cô đã hoàn toàn điên rồ, và nếu có một sự cố rắc rối nào xảy ra thì chắc không bao giờ cô còn dám nhìn thấy mặt mẹ cháu nữa. Cô đã nhìn thấy trên con sông này tất cả những gì mà cô muốn nhìn; cô muốn quay trở về Le Caire ngay.
Sadie phản đối:
- Ô kìa. cô ơi! Nhút nhát như vậy thật chẳng giống cô một chút nào!
- Sadie này, cô không biết cô có những tính gì, nếu không phải là những dây thần kinh bị căng thẳng, và cái con thú kêu meo meo ở đằng kia là quá lắm rồi. Cô tự an ủi khi nghĩ rằng ngày mai chúng ta sẽ quay về sau khi xem ngọn núi này hoặc ngôi đền này, cô không biết hơn nữa. Cô đã chán ngấy với núi non và đền đài rồi. Ông Stephens ơi! Tôi sẽ rất sung sướng nếu tôi không nhìn thấy thêm một trái núi, một ngôi đền nào nữa trong suốt đời tôi. Lại đây, Sadie! Chúc ngủ ngon!
- Chúc ngủ ngon! Chúc ngủ ngon, Cô Adams!
Bà cô và người cháu gái trở về phòng của họ.
Ông Fardet thầm thì to nhỏ nói chuyện vãn với Head¬ing¬ly, chàng thanh niên vừa tốt nghiệp ở Har¬vard giữa hai hơi thuốc lá, ông cúi khom người xuống để giải bày tâm sự với ông ta.
"Những tu sĩ Hồi giáo à, ông Head¬ing¬ly?" ông nói với một thứ tiếng Anh tuyệt hảo, nhưng thường tách rời các vần như phần lớn những người Pháp. "Nhưng không có các tu sĩ Hồi giáo đâu. Những tu sĩ Hồi giáo không hiện hữu mà!".
Ông người Mũ trả lời:
- Tôi thì tôi tin rằng sa mạc đầy rẫy các tu sĩ Hồi giáo đó. Ông Fardet ném một cái nhìn xéo tới chỗ mà đóm lửa đỏ của điếu xì gà của đại tá Cochrane đang lập lòe trong bóng tối mù mịt. Ông nói lẩm bẩm.
- Ông là người Mỹ, và ông không thích người Anh. Tất cả mọi người trên lục địa đều biết rằng người Mỹ hận thù người Anh.
- "Thú thật" Head¬ing¬ly nói với một giọng thong thả và chín chắn.
"Tôi không chối cãi là chúng tôi đã có những xích mích nhỏ, và một số người trong các đồng bào của tôi nhất là những người gốc gác Ái Nhĩ Lan, là những người bài Anh một cách điên cuồng; tuy nhiên đại đa số người Mỹ không nghĩ một điều gì xấu về mẫu quốc. Ðôi khi những người Anh có thể làm chúng tôi tức giận, nhưng họ là người trong gia đình chúng tôi, không bao giờ chúng tôi quên điều đó."
Ông người Pháp nói:
- Cho là thế đi! Ít nhất tôi đã có thể thổ lộ tâm tình với ông vì tôi không thể nói thế với những người khác mà không làm họ phật ý. Và tôi nhắc lại rằng không làm gì có những tu sĩ Hồi giáo. Những tu sĩ Hồi giáo đã được bịa đặt ra bởi Lord Cromer năm 1885.
Head¬ing¬ly kêu lên.
- Ông nói năng không nghiêm chỉnh đấy!
- Ðó là một việc ai cũng biết ở Paris; nó đã được công bố bởi tờ La Pa¬trie và những nhật báo thạo tín khác.
- Nhưng chuyện này là quan trọng đó! ông Fardet này, có phải từ việc này ông muốn nói rằng cuộc bao vây Khar¬toun và cái chết của Gor¬don, và tất cả những chuyện còn lại đều thuộc về một sự bịp bợm lớn lao không?
- Tôi không chối cãi là một vụ bạo động đã xảy ra, nhưng vụ đó chỉ là một sự cố địa phương, ông hiểu chứ? Một sự cố đã bị quên lãng từ lâu rồi. Từ đó nước Soudan đã được hưởng một nền hòa bình thật sự.
- Nhưng, thưa ông Fardet, tôi có nghe nói về những vụ cướp bóc và tôi đã đọc những báo cáo về các trận đánh nhau nữa, khi người Ả Rập toan tính xâm chiếm Ai Cập. Ngày hôm kia chúng ta đã vượt khỏi Tos¬ki; anh thông ngôn đã nói cho chúng ta biết là một trận đánh đã diễn ra ở đó. Việc này cũng là bịp bợm?
- Hừm, ông bạn của tôi ơi, ông không biết người Anh đâu! Ông nhìn thấy họ hút ống píp và nét mặt rạng rỡ, rồi ông nói: "Ðây thật là những người dũng cảm, những con người giản dị, những người không làm thương tổn cả đến một con ruồi!" Nhưng lúc nào họ cũng đắn đo suy nghĩ, họ rình rập, họ thảo ra những kế hoạch. "Ðây là nước Ai Cập yếu kém, họ nói. Chúng ta hãy tới đó!"
và họ chồm vào nước này như một con chim âu chồm lên một miếng bánh. Cả thế giới lên tiếng phản kháng. "Các ông không có quyền gì trên nước Ai Cập. Các ông cút đi!" Nhưng nước Anh đã bắt đầu thiết lập trật tự khắp nơi, giống hệt như cô Adams tốt bụng kia khi cô ấy chiếm cứ căn nhà một người Ả Rập. "Các ông cút đi!". mọi người trên thế giới nhắc lại câu nói "nhất định rồi, nước Anh đáp lại. Hãy đợi một phút thôi, để tôi có thì giờ làm cho tất cả đều sạch sẽ và gọn ghẽ". Rồi thế giới chờ đợi trong một năm hay hai năm, rồi họ lại nhắc nhở "Các ông hãy cút đi!" Và nước Anh lại trả lời: "Hãy kiên nhẫn một chút: có sự lộn xộn ở Khar¬toum; khi nào sự yên tĩnh được vãn hồi, tôi sẽ rất hài lòng để đi khỏi". Và thế giới kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng khi sự lộn xộn ở Khar¬toum đã chấm dứt, thế giới lại đòi nước Anh phải ra đi. Nước Anh hỏi: "Làm sao tôi có thể ra đi khi còn những vụ cướp bóc và những trận chiến đang diễn ra? Nếu tôi đi khỏi thì Ai Cập sẽ làm mồi cho lũ man di!" Và thế giới lấy làm kinh ngạc: "Không có những vụ cướp bóc, không có cả những trận đánh nhau!" Lúc đó nước Anh nói: "À, không có thật à?" Và trong tuần lễ sau đó báo chí của họ đã tràn đầy những bài tường thuật về các trận đột kích và các cuộc chinh phạt của các tu sĩ Hồi giáo. Không phải tất cả chúng tôi đều mù, ông Head¬ing¬ly ạ! Chúng tôi hiểu rất rõ cách thức người ta xếp đặt các công việc: một vài tên Bé¬donins, một khoản tiền thưởng nhỏ, nhưng viên đạn không đầu chì, và hãy chú ý một vụ cướp bóc!
"Ðược, được!" ông người Mỹ nói "Tôi lấy làm hân hạnh, được biết sự thật về vụ này, vì nó thường làm cho tôi quan tâm tới, nhưng trong vụ này thì nước Anh được lợi lộc gì?"
- Thưa ông, một đất nước.
- Tôi biết. Ông muốn nói là chẳng hạn là có một quan thuế biểu ưu đãi cho các hàng hóa của nước Anh phải không?
- Thưa ông, không ạ. Quan thuế biểu giống nhau cho tất cả mọi nước.
- Vậy thì hẳn là người Anh đã ký được các hợp đồng?
- Thưa ông, đúng như vậy.
- Thí dụ con đường sắt mà người ta làm dọc theo con sông và nó chảy ngang qua nước này đã là đối tượng một hợp đồng béo bở cho một công ty Anh phải không?
Ông Fardet có đầu óc tưởng tượng, nhưng ông ấy là người thật thà.
- Thưa ông, đó là một công ty của người Pháp đã ký được hợp đồng làm con đường sắt.
Ông người Mỹ ngạc nhiên, ông nói:
- Người Anh không có vẻ là đã kiếm được nhiều lợi lộc so với những khó khăn mà họ phải gánh chịu. Nhưng cuối cùng họ cũng phải hưởng được một vài mối lợi gián tiếp, chẳng hạn chắc chắn là Ai Cập phải trả tiền phí tổn cho tất cả những binh lính mặc y phục màu đỏ đó ở Le Caire chứ gì?
- Thưa ông, Ai Cập à? Không, những binh lính đó do nước Anh trả lương.
- Ðược rồi, không phải nhiệm vụ của tôi để nói với người Anh rằng họ làm cách nào để điều hành các quyền lợi của họ, nhưng tôi có cảm tưởng là họ tự làm khổ mình rất nhiều cho những thứ chẳng đáng bao nhiêu ! Nếu họ thích duy trì trật tự và bảo vệ biên cương với giá một cuộc chiến liên miên chống lại các tu sĩ Hồi giáo, thì tôi không hiểu tại sao có người lại lấy việc này ra để công kích. Sự thịnh vượng của đất nước đã gia tăng một cách đáng kể từ khi họ đến đây: những bản thống kê về sự thu nhập đã chứng tỏ điều này. Người ta cũng bảo đảm với tôi rằng hiện nay những dân nghèo đã được thừa nhận quyền lợi, điều này chưa từn bao giờ đã đến với họ.
"Nhưng nếu vậy thì họ ở đây làm gì?" ông người Pháp tức tối la lên. "Họ hãy trở về hải đảo của họ đi! chúng ta không thể dung thứ được việc họ cứ lan tràn như vậy trên khắp thế giới".
- Dĩ nhiên là người Mỹ chúng tôi, chúng tôi sống ở nước chúng tôi trên mảnh đất của riêng chúng tôi, chúng tôi thấy khó chịu phải nhìn nhận rằng các ông, những dân tộc âu châu, lúc nào các ông cũng tràn lan, vào những nước khác là những nước hoàn toàn xa lạ với các ông. Tất nhiên chúng tôi dám mạnh miệng nói như vậy, vì dân tộc chúng tôi có nhiều đất đai hơn sự cần thiết. Khi nào chúng tôi bắt đầu thặng dư dân số, chúng tôi cũng sẽ phải tiến hành các cuộc thôn tính. Nhưng hiện giờ thì chỉ riêng ở Bắc Phi thôi đã thấy nước Ý ở Abyssinie, nước Anh ở Ai Cập, nước Pháp ở Al¬gerie...
Ông Fardet nói lớn tiếng:
- Nước Pháp! nhưng Al¬gerie là thuộc về nước Pháp! Thưa ông, ông cười à? Tôi rất hân hạnh chúc ông một đêm ngủ ngon!
Bực bội trong lòng tự tôn ái quốc bị xúc phạm, ông đứng dậy đi về phòng mình.
Chương 02
Người đàn ông Mỹ ngẩn ngơ một lát ông muốn lên bộ để gửi bưu điện bài tường thuật về những cảm tưởng trong chuyến du hành mà ông thường gửi hàng ngày cho chị gái ông, nhưng những điếu xì gà của đại tá Cochrane và Ce¬cil Brown vẫn còn đỏ lập lòe ở đầu bên kia của boong tàu, và ông thì lúc nào cũng rình rập để lấy các tin tức. Ông không biết cách làm thế nào xen vào cuộc đàm thoại của họ, nhưng ông đại tá đã đẩy lại phía ông một cái ghế đẩu và gọi ông.
- Head¬ing¬ly, lại đây! Ðây là nơi lý tưởng cho một sự giải độc. Tôi tin chắc rằng Fardet vừa mới nói với ông về chính trị.
"Tôi luôn luôn nhận ra lối đề cập tới vấn đề chính trị quốc tế của ông ấy, chỉ cần trông thấy ông ấy cúi vai xuống để xông vào những cuộc bàn bạc thân mật", nhà ngoại gi¬ao sang trọng nói. "Nhưng đó là một sự xuẩn ngốc quá chừng vào một buổi tối như tối hôm nay! Mặt trăng mọc trên sa mạc thế này hứa hẹn với chúng ta một bầu trời đêm kỳ diệu màu xanh và trắng bạc. Trong một bản nhạc của Mendel-Sohn đã có một tình cảm hình như bao gồm được tất cả những điều đó: một sự cảm xúc về vô biên, về sự nhắc nhở, tiếng gió hú bên các khoảng không vô tận. Âm nhạc là nghệ thuật diễn dịch các cảm hứng vi diệu mà các từ ngữ không diễn tả được".
Ông người Mỹ đã ra nhận xét:
- Ðêm hôm nay tôi thấy phong cảnh có vẻ man rợ hơn, dữ tợn hơn bao giờ hết. Nó cho tói cảm giác của một sức mạnh tàn nhẫn, giống hệt như Ðại Tây Dương vào một ngày lạnh lẽo và u ám của mùa đông. Có lẽ cảm giác này nảy sinh ở việc là chúng ta biết rằng chúng ta đang ở chỗ ranh giới cùng cực của tất cả các loại pháp luật và các nền văn minh. Thưa đại tá Cochrane, theo ý ông thì chúng ta còn cách những tu sĩ Hồi giáo bao xa?
Vị đại tá trả lời.
- Trên mạn bờ thuộc Ả Rập, chúng ta có đồn binh Ai Cập ở Sar¬ras vào khoảng sáu mươi cây số về phía Nam của chúng ta. Bên ngoài nơi đó là những miền đất rất hoang vu nằm dài một trăm cây số trước mặt đồn canh của các tu sĩ Hồi giáo ở Akashek. Nhưng ở bờ bên kia thì không có một vật gì giữa họ và chúng ta.
- Abousir nằm ngay trên bờ bên đó phải không?
- Phải. Ðó là lý do tại sao hồi năm ngoái chuyến du hành đã bị ngăn cấm. Nhưng bây giờ thì sự yên tĩnh đã trở lại.
- Ai có thể ngăn không cho bọn tu sĩ Hồi giáo tràn vào nơi này?
"Hoàn toàn không có gì cả"!. Ce¬cil Brown đáp lại với một giọng hững hờ.
- Không có gì cả, ngoại trừ sự sợ hãi. Chắc chắn là họ có thể đến không khó khăn gì! Nhưng sự trở về sẽ nguy hiểm hơn: những con lạc đà kiệt sức của họ sẽ là những mồi ngon cho những con ngựa khỏe mạnh của đạo quân đồn trú ở Oua¬di-Hal¬fa. Họ cũng biết rõ điều này như chúng ta vậy : đó là lý do tại sao không bao giờ họ dám liều lĩnh làm việc đó.
Brown nói lớn:
- Suy luận về một cảm giác sợ hãi của những tu sĩ Hồi giáo là một điều không hợp lý. Không bao giờ chúng ta được quên rằng họ không tuân theo các động lực giống như những dân tộc khác. Họ đông người và mong mỏi được chết, và họ nhất trí tin tưởng một cách mù quáng vào định mệnh, người ta có thể coi họ là một sự ngoan cố tột cùng của tất cả các điều dị đoan, và chính đó là bằng chứng cho thấy sự cuồng tín và dị đoan đã dẫn con người thẳng tới tình trạng man rợ!
Ông người Mỹ hỏi:
- Ông có tin rằng dân tộc này tiêu biểu cho một sự đe dọa thật sự đối với Ai Cập không? Tôi đã từng nghe thấy nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, chẳng hạn như ông Fardet, ông ấy không nghĩ rằng mối hiểm nguy là rất cấp bách.
Ðại tá Cochrane trả lời, sau một sự yên lặng ngắn ngủi.
- Tôi không phải là người giàu có, nhưng tôi sẵn sàng đánh cuộc tất cả những gì mà tôi có là trong ba năm sau khi các sĩ quan Anh đi khỏi, những tu sĩ Hồi giáo sẽ tới bờ biển Ðịa Trung Hải. Lúc đó thì nền văn minh Ai Cập sẽ ra sao? Hàng trăm triệu bạc đã được đầu tư vào nước này sẽ ra sao? Và những đền đài mà cả thế giới đều ngưỡng mộ và sùng kính và đó là những công trình quí giá nhất của cổ thời sẽ ra sao?
Head¬ing¬ly cười lớn phản đối:
- Này, ông Ðại tá! Không phải là ông cũng định nói rằng họ sẽ phá hủy các Kim Tự Tháp đấy chứ?
- Không thể đoán trước được là họ sẽ làm gì! Không có một kẻ bài trừ thánh tượng nào lại điên cuồng hơn là một tên Hồi giáo cuồng tín. Trong cuộc xâm nhập cuối cùng của họ vào Ai Cập, các tu sĩ Hồi giáo đã đốt cháy thư viện ở Alexan¬drie: Ông biết rằng kinh Coran đã cấm đoán tất cả mọi sự hình dung cái mặt của con người. Do đó dưới mắt họ một pho tượng là một vật chống tôn giáo. Và bọn người man rợ này coi các cảm tính của Âu Châu như một điều xui xẻo. Ngược lại: họ càng lăng nhục chúng thì họ càng khoan khoái. Tượng Sphinx sẽ bị hạ xuống, pho tượng Col¬orse sẽ bị hạ xuống! Giống hệt như ở nước Anh, trước các quân lính của Cromwell, các vị thánh đều bị quăng xuống đất.
"Ta hãy xét kỹ một chút" Head¬ing¬ly nói với sự chậm chạp chín chắn của ông ấy. "Ta hãy chấp nhận rằng bọn tu sĩ Hồi giáo có đủ khả năng chinh phục Ai Cập và ta cũng chấp nhận là người Anh các ông ngăn cản họ làm việc đó. Nhưng vì lý do nào mà các ông chi ra nhiều triệu đô la đó và các ông hy sinh bao nhiêu sinh mạng người Anh như vậy? Các ông kiếm được bao nhiêu lợi lộc hơn là nước Pháp, nước Ðức hoặc bất cứ một nước nào không gánh chịu một sự rủi ro nào và không tiêu tốn một xu nào?
Ce¬cil Brown trả lời:
- Nhiều người Anh hiền lành cũng đặt ra câu hỏi như vậy. Theo ý tôi thì từ khá lâu rồi chúng tôi đã là những viên cảnh sát của thế giới: chúng tôi đã quét sạch bọn kẻ cướp và bọn buôn nô lệ khỏi các đại dương; hiện nay chúng tôi giải phóng trái đất khỏi tay các tu sĩ Hồi giáo và tất cả những lũ giặc cướp đe dọa nền văn minh. Nếu những người Kur¬des quấy rối trật tự công cộng ở Tiểu Á-tế-á, nhân dân trên thế giới muốn biết rằng tại sao Anh Quốc lại không trừng trị họ. Nếu xảy ra một cuộc binh biến ở Ai Cập hay ở Soudan, cũng vẫn là Anh Quốc có nhiệm vụ dẹp tan nó. Và tất cả công việc đó giữa những lời nói xấu cùng một giọng điệu khắp nơi, giống như một nhân viên cảnh sát đã nghe thấy khi anh ta bắt giữ một tên côn đồ trong một ngõ hẻm tối tăm. Chúng tôl chỉ nhận được những lời nói xấu và không có một lời cám ơn nào. Tại sao phải kiên trì như thế? Tốt nhất là ta nên để cho Âu Châu tự mình hoàn thành cái công việc bạc bẽo này.
"Thú thật là" đại tá Cochrane nói trong khi bắt chéo chân lên và khom mình về phía trước với vẻ cương quyết của một người đã có một ý kiến vững vàng "tôi không đồng ý với ông một chút nào, ông Brown ạ! và tôi cho rằng sự hẹp hòi trong lý luận của ông không phù hợp với những bổn phận của Anh Quốc. Tôi nghĩ rằng đằng sau các quyền lợi quốc gia, đằng sau công việc ngoại gi¬ao và tất cả mọi thứ còn lại, còn có một mãnh lực chủ đạo nữa (thực sự là một thiên mệnh) là điều từ xưa vẫn luôn luôn gạn lọc lấy phần tinh hoa nhất của mỗi dân tộc và dùng nó để làm điều tốt đẹp cho cả loài người. Khi một dân tộc thôi không tuân theo điều này tức là nó đã cằn cỗi để nằm trong cơn bệnh hoạn vài ba thế kỷ, như kiểu nước Tây Ban Nha hay nước Hy-Lạp: đó là vì những phẩm chất tốt đã rời bỏ họ, một người hay một quốc gia không phải chỉ được sinh ra trên trái đất này để làm việc gì thích thú hay việc gì mang lại lợi lộc. Thường khi người ta đòi hỏi chúng ta phải làm những việc vừa buồn chán, vừa tốn kém, nhưng nếu công việc là chính đáng thì chúng ta phải tiến lên và không lẩn tránh... "
Head¬ing¬ly gật đầu tán thành.
-... Mỗi nước có một sứ mạng riêng của mình ! Nước Ðức thì vượt trội trong tư tưởng trừu tượng; nước Pháp thì trong văn chương, trong nghệ thuật và sự thanh lịch. Nhưng các ông và chúng tôi (tất cả những người nói tiếng Anh đều ở trên một con tàu), chúng ta có trong giới thượng lưu của chúng ta một quan niệm cao cả hơn về tinh thần đạo đức và về nhiệm vụ chung so với bất kỳ một dân tộc nào khác mà đó là hai đức tính cần phải có để dẫn dắt một chủng tộc yếu kém hơn. Các ông không thể giúp đỡ các dân tộc yếu kém bằng tư tưởng trừu tượng hoặc bằng các nghệ thuật mua vui, nhưng chỉ có thể bằng cái tinh thần đạo đức này, nó giữ thăng bằng cho cán cân công lý và nó tự giữ được trong trắng, tránh khỏi mọi hoen ố. Ðó là cách mà chúng tôi cai trị Ấn Ðộ. Chúng tôi đã tới nơi đó bởi kết quả của một thứ luật thiên nhiên, giống hệt như không khí ùa vào để lấp kín một chỗ trống. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, đi ngược lại với quyền lợi trực tiếp của chúng tôi và bất chấp những ý định có sẵn của chúng tói, chúng tôi đã bị đưa đẩy tới chỗ phải làm cùng một việc như vậy. Ðiều này rồi sẽ đến với cả các ông đó: áp lực của định mệnh sẽ ép buộc các ông phải điều khiển tất cả Mỹ Châu, từ Mễ Tây Cơ cho tới mũi Horn.
Head¬ing¬ly bật ra một tràng huýt gió.
"Những anh ái quốc cuồng tín hẹp hòi của chúng tôi sẽ rất sung sướng được nghe ông nói đấy, đại tá Cochrane ạ!", ông ta nói. "Họ bỏ phiếu cho ông ở Thượng viện và sẽ làm ông trở thành một ủy viên của ủy ban ngoại vụ đấy!"
- Thế giới thì nhỏ bé, và mỗi ngày nó một thu nhỏ hơn. Nó tạo ra một cơ thể duy nhất: sự thối mục ở một địa phương sẽ có thể lan truyền và làm ung thối tất cả toàn thể. Trên trái đất không có chỗ cho những chính phủ gi¬an lận, không làm tròn những lời cam kết, chuyên chế, vô trách nhiệm. Sự tồn tại của họ bao giờ cũng là nguồn gốc của các vụ lộn xộn và hiểm nguy. Nhưng nhiều chủng tộc có vẻ như quá bất lực trong sự tiến bộ khiến ta không thể hy vọng một ngày nào đó họ có được một chính quyền tốt. Vậy thì ta phải làm gì? Ngày xưa Thượng đế giải quyết vấn đề bằng sự tận diệt một At¬ti¬la, một Tamer¬lan đã tỉa bớt những cành yếu kém nhất. Ngày nay thì những qui luật ít nghiêm ngặt hơn đã được thay vào đó: những Phó Vương ở Trung Á và những Quốc gia bảo hộ ở Ấn Ðộ là bằng chứng về điều này. Vì công cuộc này phải được hoàn thành, và bởi vì chúng tôi là những người có trang bị tốt nhất để thành công trong việc này, tôi nghĩ rằng bác - khước chúng tôi sẽ là một sự hèn nhát và một tội ác.
Ông người Mỹ phản đối.
- Nhưng ai giải quyết vấn đề để biết rằng các ông có phải là những người được trang bị tốt nhất để can thiệp hay không? Bất kỳ một quốc gia ăn cướp nào cũng có thể sử dụng chiêu bài này để thôn tính toàn thể trái đất.
- Chính những biến có sẽ giải quyết vấn đề. Những biến cố tàn khốc và không thể tránh được. Thí dụ ông hãy xem vụ Ai Cập đó. Vào năm 1881, ở nước chúng tôi không ai nghĩ tới việc can thiệp ở Ai Cập. Vậy mà năm 1882 chúng tôi đã chiếm giữ nước này. Sự tiếp diễn của các biến cố không để cho chúng tôi một sự lựa chọn. Một vụ tàn sát trong các phố ở Alexan¬drie, việc bố trí các súng đại bác để xua đuổi hạm đội của chúng tôi đang có mặt tại đó để làm tròn các trách vụ thiêng liêng của - một thỏa ước, như ông đã biết đó, đã khơi ngòi cho cuộc oanh kích. Cuộc oanh kích đã khai mào cho một cuộc đổ quân nhằm giải cứu thành phố khỏi bị hủy diệt. Cuộc đổ bộ dẫn tới sự mở rộng các cuộc hành quân... Và chúng tôi đang ở đây để trông nom, săn sóc đất nước này. Khi những vụ lộn xộn bùng lên, chúng tói đã khẩn cầu, năn nỉ người Pháp và nhiều nước khác tới giúp chúng tôi vãn hồi trật tự : họ đều ngoảnh mặt làm lơ, nhưng họ đã sẵn sàng để công kích chúng tôi. Khi chúng tôi định ra khỏi cái tổ ong vò vẽ này thì vụ nổi loạn của các tu sĩ Hồi giáo bùng ra, và chúng tôi đã phải trụ lại một cách vững chắc hơn bao giờ hết. Chúng tôi đã không đòi hỏi nhiệm vụ này; nhưng khi chúng tôi bị bắt buộc phải hoàn thành nó, thì ít nhất chúng tôi cũng phải làm cho tốt. Chúng tôi đã thiết lập công lý, thanh lọc bộ máy cai trị, bảo vệ những dân nghèo. Nước Ai Cập, đã tiến bộ nhiều hơn trong vòng mười hai năm qua, so với suốt cuộc xâm lăng của Hồi giáo từ thế kỷ mười bảy. Ngoài số lương của hai trăm người, những người này lại tiêu tiền của họ ở ngay trong nước Anh Quốc đã không lấy đi một cách trực tiếp hay gián tiếp, một xu nào trong suốt công cuộc này. Tôi không tin rằng ông lại có thể tìm ra trong lịch sử một sự nghiệp thành công tốt đẹp và vị tha hơn thế.
Head¬ing¬ly hít một hơi thuốc lá trong khi suy nghĩ.
"Ở Boston có một ngôi nhà gần với nhà chúng tôi" ông nói, "đã làm hư hại tất cả vẻ đẹp trên vùng biển. Những cái ghế bành cũ nát quăng bừa bãi trên sân đất trước nhà, những bức tường sụp đổ, khu vườn là một bãi bụi hoang, nhưng tôi không nghĩ rằng những người hàng xóm có ý định xâm nhập bằng bạo lực để cư ngụ tại đó và để xếp đặt các đồ vật theo sở thích của họ".
Ông đại tá hỏi:
- Nhưng nếu ngôi nhà bốc cháy thì sao?
Head¬ing¬ly cười lớn và đứng lên ông nói.
- Thưa ông đại tá, trường hợp này không được tiên liệu bởi chủ thuyết Mon¬roe! Tôi bắt đầu nhận thức được rằng nước Ai Cập hiện đại cũng hoàn toàn thú vị như nước Ai Cập cổ đại và rằng vua Ram¬sès đệ nhị đã không phải là người đàn ông cuối cùng sống ở nước này.
Ðến lượt họ, cả hai người Anh cùng đứng lên.
- Phải, đó là một sự mỉa mai của định mệnh đã xui khiến những cư dân một hòn đảo nhỏ trên Ðại Tây Dương cai trị mảnh đất của các vị Hoàng đế Ai Cập". Ce¬cil Brown đưa ra lời nhận xét. "Ðến lượt chúng ta, chúng ta sẽ tự tàn lụi, và chúng ta sẽ không để lại một kỷ niệm đặc biệt nào trong số những chủng tộc khác nhau đã cai trị đất nước này, vì người Anh không có thói quen khắc các hành động của họ lên đá. Những dấu vết của một hệ thống thoát nước ở Le Caire chắc chắn sẽ là vết tích duy nhất của sự dừng chân của chúng tôi ở đây. Vậy mà rất có thể là sau đây một ngàn năm những nhà khảo cổ sẽ cho rằng công trình này đã được thực hiện bởi triều đại Hyk¬sos. Nhưng kìa những bạn đồng hành khác của chúng ta đi dạo chơi thành phố đã trở về rồi.
Thật vậy, ở phía dưới họ, họ đã nghe thấy giọng nói Ái Nhĩ Lan êm ái của bà Bel¬mont và tiếng nói trầm trầm của ông chồng bà. Ông Stu¬art vị mục sư to lớn của Birm¬ing¬ham đang tranh cãi về vấn đề những đồng bạc với một anh chàng dắt lừa lắm mồm; những ý kiến và lời khuyên can tuôn ra từ khắp mọi phía. Rồi sự thỏa thuận được dàn xếp xong, tiếng ồn ào giảm dần, những người về muộn leo lên cầu thang, những tiếng "Chúc ngủ ngon" được trao đổi, những cánh cửa sập mạnh và con tàu nhỏ trở lại yên lặng trong bóng tối của bờ cao của con sông. Ở bên kia cái điểm cùng cực này của nền văn minh và sự tiện nghi, trải dài một bãi sa mạc vô biên, man rợ, vĩnh cửu, màu rơm dưới ánh trăng, lốm đốm những bóng đen xì của những dãy núi.
Chương 03
"Đứng lại! Lui lại" viên hoa tiêu người bản xứ quát bảo anh thợ máy người Âu Châu.
Cái phần mũi phình ra của con tàu xẹp xuống trên vũng bùn trơn tuột màu nâu, và dòng nước đã đẩy con tàu đi song song với bờ sông. Ngay sau khi cái cầu phao dài được thả xuống, sáu người lính lực lưỡng của đoàn hộ tống người Soudan đã bắt tay vào công việc. Dưới ánh sáng trong trẻo của buổi ban mai, họ có dáng bộ rất đẹp, với những bộ đồng phục màu xanh nhạt viền vàng và những chiếc mũ ca rô màu đỏ và vàng. Trên bờ sông, những con lừa được sắp đứng thành hàng, và lũ trẻ con làm ngột ngạt không khí với những tiếng reo hò của chúng. Những lời reo hò này là dành cho người nào bằng một kiểu cách bén nhọn nhất biểu dương được các phẩm chất của con lừa của mình và dèm pha các phẩm chất của con bên cạnh.
Ðại tá Cochrane và ông Bel¬mont cùng đứng trên mũi tàu, họ đội cái mũ trắng rộng vành cùng với cái khăn che mặt của khánh du lịch. Cô Adams và người cháu gái đứng tựa vào tấm lan can tàu bên cạnh họ.
Ông đại tá nói:
- Tôi lấy làm tiếc rằng quí phu nhân đã không cùng đi với chúng ta, ông Bel¬mont ạ.
- Tôi nghĩ rằng hôm qua bà ấy đã bị ngã nắng qua loa; bà ấy nhức đầu lắm.
Ông ấy có giọng nói của cái bóng của ông ấy : mạnh mẽ và mập mạp.
"Tôi tình nguyện ở lại để bầu bạn với bà ấy, ông Bel¬mont ạ" cô gái già người Mỹ nói. "Nhưng tôi nghe nói là bà Shlesinger thấy cuộc du ngoạn quá dài và bà ấy có nhiều thư từ phải viết để hôm nay gửi bưu điện, như vậy là bà Bel¬mont sẽ không cảm thấy quá đơn độc nữa".
- Cô rất khả ái, cô Adams ạ. Có lẽ chúng tói sẽ quay về vào lúc hai giờ đó.
- Chắc vậy không?
- Chắc chắn mà. Chúng tôi không mang theo bữa ăn sáng. Chúng tôi sẽ đói ngấu!
"Phải, tôi có cảm tưởng là chúng tôi sẽ chạy xô tới một cốc rượu vang Rhin và nước có hơi" ông đại tá phát biểu đồng tình. "Bụi ở sa mạc sẽ làm cho chúng tôi thấy thứ rượu vang tệ nhất cũng khoái khẩu rồi!"
"Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông!" Man¬soor, anh thông ngôn đang đi tới và nói lớn (người ta có thể nói đó là một vị linh mục với cái áo dài của anh ta bay phất phới trước gió và bộ mặt cạo nhẵn nhụi của anh ta) "Chúng ta phải khởi hành sớm để tránh cái nóng buổi trưa...".
Cái nhìn trìu mến của anh lướt qua nhóm du khách ít ỏi.
- Cô Adams, xin cô hãy đeo kính màu vào, vì trong sa mạc sự phản xạ rất mạnh. À, ông Stu¬art, tôi đã dành cho ông một con lừa! Một con lừa hảo hạng đấy, thưa ông, con lừa mà tôi thường vẫn để dành cho vị khách nào cường tráng nhất. Quí vị không cần đem theo vé. Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông, xin quí vị vui lòng!
Người này nối theo người nọ, các du khách đi qua cầu tàu. Ông Stephens đi đầu, người gầy gò, khô khỏng, nghiêm nghị, đầu đội một cái mũ rơm, quyển sách hướng dẫn cắp trong cánh tay, ông giúp cho cô Sadie và bà cô của nàng leo lên bờ và tiếng cười của cô thiếu nữ vang lên tươi mát và trong trẻo khi quyển sách hướng dẫn tuột ra và rơi xuống rìa vũng bùn. Ông Bel¬mont và đại tá Cochrane đi theo sau, những cái vành mũ của họ chạm vào nhau vì họ tranh luận với nhau về các ưu điểm của các loại súng Maus¬er, Lebel và Lee-Met¬ford. Ðằng sau họ Ce¬cil Brown bước đi một cách lơ đãng, với cái nhìn châm chọc, lặng lẽ. Vị mục sư cao lớn dùng thì giờ để leo lên đỉnh cao của bờ dốc. Vừa leo vừa càu nhàu về thân hình phì nộn của ông.
"Tôi thuộc vào loại những người mang tất cả mọi thứ ở phía trước họ", ông vừa rên rỉ vừa nhăn nhó nhìn thân thể tròn vo của ông. Những lời nói đùa của chính ông đã làm ông tươi tỉnh lại và ông cố nén một tiếng cười nhỏ.
Head¬ing¬ly, người cao và gầy, lưng hơi gù, và Fardet, người dân thành phố Paris, người thích lý luận, là hai người đi sau cùng.
Người đàn ông Pháp thì thầm với ông người Mỹ.
- Ông thấy đó, hôm nay chúng ta có một toán hộ tống!
- Vâng, tôi đã nhận ra việc này.
- Hừm! Tại sao lại không có một toán hộ tống giữa Paris và Ver¬sailles? Sự trang tri là một phần của căn phòng, ông Head¬ing¬ly ạ. Không ai bị lầm đâu, nhưng với căn phòng đó thì phải có sự trang trí này. Này, anh thông ngôn, tại sao chúng ta phải dẫn theo những anh lính kỳ cục đó?
Vai trò của người thông ngôn là làm vui lòng tất cả mọi người, do đó anh ta thận trọng nhìn quanh mình trước khi trả lời; anh muốn biết chắc rằng mấy người Anh không nghe thấy anh ta nói.
- Thưa ông, đúng là buồn cười đó! Nhưng ông muốn gì? Ðó là lệnh chính thức của giới chức Ai Cập.
Ông người Pháp kêu lên.
- Các giới chức Ai Cập à? Ý anh muốn nói các giới chức Anh hả! Lúc nào cũng là những người Anh đó!
Trong khi đó, các du khách đã chọn xong lừa, ngựa của họ, và những chiếc bóng của họ ngồi trên lưng ngựa nổi bật trên nền trời màu xanh xẫm. Bel¬mont ngồi một cách ngay ngắn, vững vàng trên một con lừa trắng bé nhỏ, vung vẩy cái mũ với bà vợ ông ấy vừa đi ra trên boong con tàu Ko¬rosko. Cochrane giữ rất thẳng người, với một cách ngồi nghiêm ngặt của nhà binh: hai bàn tay thấp xuống, đầu ngẩng cao lên, hai gót chân chỉ xuống đất. Bên cạnh ông, nhà ngoại gi¬ao trẻ, người đã được đào tạo ở Ox¬ford, đang quan sát phong cảnh với một cái nhìn nặng nề và cao ngạo, như thể ông ta nghi ngờ sự đáng kính của sa mạc nói riêng và của vũ trụ nói chung. Ở phía sau, các du khách khác tiến bước theo hàng dọc, dọc theo bờ dốc, khi thì vất vả ít nhiều, khi thì thoải mái đôi chút. Mỗi con lừa đều có một người dắt: những thằng nhỏ vừa ồn ào, vừa chai lì. Trên boong tàu màu chì, chiếc khăn mùi xoa của bà Bel¬mont vẫn còn nhấp nhánh. Dòng sông nâu vẽ ra những vòng lớn tới tận tám cây số đằng xa; những đồn canh trắng, vuông ở trên những trái núi đen xì và lởm chởm chỉ rõ miền ven của Oua¬di-Hal¬fa, nơi mà các du khách đã ra đi buổi sáng.
Sadie kêu lên một cách vui thích:
- Không phải là kỳ diệu hả? Tôi có một con lừa chỉ thích phi nước đại thôi, và các vị nhìn đây, cái yên của tôi mới sang trọng làm sao! Các vị đã từng nhìn thấy cái gì tinh xảo hơn những các hột kết thành chuỗi này và những thứ nhỏ nhặt khác quấn quanh cổ nó không? Chắc ông phải làm một bản bị vong lục về con lừa đó, ông Stephens ạ! Tôi sử dụng từ ngữ pháp lý có đúng không đó?
Stephens quay lại phía khuôn mặt xinh đẹp, sinh động đang nhìn ông dưới cái nón rơm đỏm dáng và ông rất muốn nói chính nàng mới là kỳ diệu, nhưng ông rất sợ làm phật lòng nàng và làm tan vỡ sự thân mật vui vẻ của họ nên thay vì tất cả những lời khen ngợi, ông chỉ tặng nàng một nụ cười.
Ông nói:
- Cô có vẻ rất sung sướng!
- Xem kìa! Ai có thể không cảm thấy sung sướng với không khí khô ráo và lành mạnh này, bầu trời xanh này, bãi cát vàng lạo xạo này, và một con lừa tuyệt diệu để chở bạn đi? Tôi đã có đủ tất cả mọi thứ cần có để làm cho tôi sung sướng!
- Tất cả mọi thứ?
- Tóm lại, tất cả mọi thứ tôi cần có trong lúc này.
- Tôi nghĩ là cô không biết thế nào là buồn bã phải không?
- À, khi tôi cảm thấy buồn khổ, tôi buồn khổ quá đi, không thể nói sự buồn tủi nên lời! Trong bao nhiêu ngày, hết ngày này tới ngày khác, tôi đã không ngừng khóc ở Smith Col¬lege; các cô con gái khác hỏi nhau tại sao tôi khóc và tại sao tôi không muốn nói với họ lý do mà tôi phải khóc. Lý do thật sự là chính tôi cũng không biết tại sao tôi khóc. Ông biết đó; đôi khi một bóng đen lớn tới lơ lửng bên trên người ông, ông không biết một chút gì về nó cả; nhưng ông chỉ còn có cách là tự xét lại mình và tự cảm thấy buồn khổ thôi.
- Nhưng cô đã không bao giờ có một lý do thật sự để buồn rầu mà?
- Không, ông Stephens ạ. Suốt cả đời tôi, tôi đã có rất nhiều thời kỳ tốt đẹp khiến cho khi tôi nhìn lại phía sau, tôi không tin là tôi đã từng có một lý do thật sự để buồn phiền.
- Ðược rồi, cô Sadie này, tôi hết lòng hy vọng rằng cô vẫn sẽ có thể nói điều này khi cô tới độ tuổi của bà cô của cô. Nhưng tôi nghe thấy tiếng bà ấy gọi chúng ta!
"Ông Stephens này, tôi muốn ông trừng trị tên dắt lừa của tôi bằng cái roi của ông nếu hắn còn đánh con vật khốn khổ của tôi!", cô Adams nói lớn, vì cô đã vớ phải một con lừa cao lớn chỉ có da bọc xương. "Nè, anh thông ngôn! nói với thằng ranh con này là tôi sẽ không dung thứ việc nó hành hạ những con vật: nó phải biết hổ thẹn chứ! Nó trưng ra với tôi những nụ cười như là một tấm hình quảng cáo của thợ làm răng vậy. Ông Stephens, ông có tin rằng nếu tôi đan một đôi bít tất len cho anh lính da đen này, thì anh ấy sẽ được phép mang không? Tên quỷ khốn khổ này chỉ có những băng vải quấn quanh chân!"
"Ðó là những cái xà cạp, cô Adams ạ" đại tá Cochrane quay lại giải thích. "Ở Ấn Ðộ chúng tôi đã nhận thấy rằng không có thứ gì tốt hơn để làm cho việc đi bộ được dễ dàng. Ðối với một người lính thì những cái xà cạp đượ ưa thích hơn những bít tất len rất nhiều".
- Vậy thì chúng ta không nói tới chuyện đó nữa! nhưng người ta nói một con ngựa bị thương. Tôi thấy chúng ta rất oai vệ với đoàn hộ tống có võ trang này. Nhưng ông Fardet khẳng định với tôi rằng chúng ta không có gì phải lo sợ cả.
"Ít nhất đó là ý kiến riêng của tôi, thưa cô!" người đàn ông Pháp vội vã đính chính. "Rất có thể là đại tá Cochrane lại có một ý kiến khác biệt"
"Ý kiến của ông Fardet trái ngược với ý kiến của những sĩ quan chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh ngoài biên giới", vị đại tá lạnh lùng trả lời. "Nhưng tôi nghĩ là tất cả chúng ta đều đồng ý để thấy rằng sự hiện diện của những người lính này sẽ đóng góp thêm vào sự tráng lệ của khung cảnh".
Bên phía tay phải của họ, sa mạc kéo dài những luống cát mềm mại mấp mô của nó, trông giống như những cồn cát bao quanh một cái biển cổ xưa đã bị quén lãng. Khi các du khách leo lên những cồn cát này, từ trên cao họ nhìn thấy những chóp đỉnh đen xì của những núi lửa kỳ quái đứng sững trên bờ sông về phía Libye. Những người lính tiến lên bằng những bước mau lẹ, khẩu súng lăm lăm trong tay, lúc thì những bóng của họ hiện lên trên các đỉnh cao, lúc thì chúng mất dạng trong các hang hõm.
"Họ được tuyển mộ ở đâu vậy?" Sadie hỏi. "Họ có cùng một màu da như những người gác thang máy ở Mỹ".
"Tôi đã nghĩ là cô sẽ đặt với tôi một câu hỏi về họ". Ông Stephens nói, ông là người không bao giờ hài lòng hơn là khi đoán trước được một ý nguyện của cô gái Mỹ xinh đẹp. "Sáng hôm nay tôi đã thực hiện một vài sự sưu khảo trong thư viện của con tàu. Ðây này... Ré.. Tôi muốn nói: Vấn đề những người lính da đen. Theo những điều ghi chép của tôi, họ thuộc về tiểu đoàn mười người Soudan trong quân đội Ai Cập. Họ được tuyển mộ trong các bộ lạc da đen Dinkas và Shilluks sinh sống ở miền Nam của xứ sở các thầy tu Hồi giáo, gần đường xích đạo".
"Làm cách nào mà các tân binh có thể đi qua xứ sở của những thầy tu Hồi giáo?" Head¬ing¬ly hỏi.
"Tôi nghĩ họ đã không gặp quá nhiều khó khăn đâu". Ông Fardet nói lẩm bẩm và nháy mắt với người đàn ông Mỹ.
- Những chiến binh lão luyện là những người sống sót của hai tiểu đoàn già nua lính da đen. Một vài người đã phục vụ dưới quyền của Gor¬don ở Khar¬toum và họ đã dành được một huy chương ở đó, những người khác thì phần lớn là các đào binh của đạo quân ở Mah¬di.
Cô Adams nói:
- Thú thật là khi mà chúng ta không cần tới sự phục vụ của họ thì trông họ cũng khá dễ thương trong bộ đồng phục xanh dương này. Nhưng khi gặp sự bực bội, tôi tưởng rằng ta nên cầu chúc cho họ đỡ phần trang trí đi và trắng hơn lên một chút!"
"Tôi không tin chắc ở điều đó, thưa cô", ông đại tá trả lời. "Tôi đã nhìn thấy những người này trên trận địa; người ta có thể tin ở sự dũng cảm của họ trong khói lửa"
"Nhưng này, tôi thích tin ở ông qua lời nói chứ không phải qua việc thực hiện một kinh nghiệm!" cô Adams tuyên bố với một giọng làm mọi người mỉm cười.
Con đường chảy dài theo bờ sông Nil, nước sông bị xao động bởi những xoáy nước dưới sâu, chảy theo sức mạnh của những thác nước ở thượng nguồn. Có chỗ đà chảy của dòng nước bị vỡ tung vì một tảng đá đen xì óng ánh ướt sũng những bọt nước. Ở trên cao hơn, các du khách nhìn thấy rõ ràng sự lấp lánh như bạc của những cái thác nước, những bờ sông đã bắt đầu hóa thành những bờ dốc thẳng đứng. Chẳng bao lâu một núi đá hình bán nguyệt hiện ra sừng sững. Người thông ngôn đã không cần phải nói rõ đó là ngôi đền có tên trong chương trình du ngoạn của họ. Một con đường bằng phẳng dẫn tới ngôi đền. Những con lừa đi vào con đường với nước kiệu nhỏ, ở giữa những tảng đá đen trên nền màu cam, những khúc cột chỉ thẳng lên trời, cũng như một quãng tường thành còn sót lại có mang những dòng chữ, cứ theo màu da xám xịt của nó và sự vững chãi của nó thì hình như nó đã được tạo ra bởi tạo hóa chứ không phải bởi con người. Chàng thông ngôn Man¬soor đã xuống ngựa và đợi cho những người đi chậm bắt kịp anh ta.
"Thưa quí ông và quí bà ngôi đền này", anh nói lớn với điệu bộ một nhân viên đấu giá đang chuẩn bị lần rao giá cuối cùng, "là một kiểu mẫu mỹ thuật rất đẹp dưới triều đại thứ mười tám. Ðây là khuôn ảnh của Hoàng đế Thotmes Ðệ Tam!" anh lấy cán roi ngựa chỉ vào những chữ tượng hình khắc sâu trong vách đá. "Ngài đã sống sáu trăm năm trước chúa cơ đốc, và tấm bia ký này là để kỷ niệm chuyến du ngoạn đắc thắng của ngài ở Mesopotamie. Trên những hình chạm nổi kia chúng ta có lịch sử của ngài, từ thuở ngài sống với mẹ cho tới khi ngài hồi cung với những tù nhân bị cột vào xe của ngài. Chỗ này quí vị trông thấy ngài được tấn phong bởi Ai Cập Hạ, và chỗ kia bởi Ai Cập Thượng, nước đã dâng một thánh lễ lên thần Am¬mon-Ra, để tôn vinh chiến thắng của ngài. Chỗ này những tù nhân đứng trước mặt ngài, và mỗi tên đều bị ngài cắt mất bàn tay phải. Trong góc kia, quí vị nhìn thấy một đống nhỏ, chỉ nguyên những bàn tay phải.
"Lạy chúa tôi, chắc tôi không muốn có mặt ở nơi này vào thời gi¬an đó!" cô Adams nói.
"Này, không có gì thay đổi cả!" Ce¬cil Brown đưa ra nhận xét. "Ðông phương bao giờ cũng là Ðông phương. Tôi không nghi ngờ chút nào rằng, cách chỗ mà hiện giờ cô đang đứng chừng một trăm năm mươi cây số hoặc có thể là ít hơn thế nữa... "
"Ông hãy im đi!" ông đại tá nói nhỏ.
Các du khách đi dọc theo bức tường thành trong khi ngẩng đầu lên và hất những cái mũ lớn của họ ra phía sau. Ðằng sau họ mặt trời đổ vào bức tường cổ xưa này một ánh sáng màu đồng và chiếu lên các tảng đá những cái bóng đen của các du khách lẫn lộn với những chiến binh da đen. Cái bóng đồ sộ của cha John Stu¬art ở Birm¬ing¬ham trong một lúc bao trùm cả ông vua ngoại đạo và vị thượng đế mà ông tôn thờ.
"Cái gì đây?" ông hỏi với giọng sắc nhọn trong khi giơ thẳng cái ba tôn màu vàng ở As¬souan lên.
"Một con trâu nước" anh thông ngôn trả lời.
Và tất cả các du khách cố nén một tiếng cười nhỏ vì con vật này có một nét nào đó của ông Stu¬art.
"Nhưng nó không lớn hơn một con heo con!" ông phản đối. "Hãy nhìn kìa, ông vua xiên nó trên ngọn giáo một cách dễ dàng".
"Nó đã được vẽ rất nhỏ, để chứng tỏ rằng so sánh với nhà vua nó chỉ là một vật bé nhỏ" anh thông ngôn giải thích. "cũng như quí vị có thể trông thấy các tù nhân chỉ đứng tới đầu gối nhà vua; đó không phải vì ông ấy có một thân hình đồ sộ mà vì ông ấy có rất nhiều quyền lực hơn họ. Xin hãy nhìn nữa đây, ông ấy to hơn con ngựa của ông ấy vì ông ấy là vua và một con ngựa chỉ là một con ngựa. Một thí dụ nữa: những người đàn bà bé bỏng mà quí vị nhận ra ở chỗ này hay chỗ khác đều là những người vợ tầm thường của ông ấy!"
"Thật đẹp mặt!" Cô Adams la lên với sự giận dữ. "Nếu người ta khắc được linh hồn của vị vua này, thì hẳn ta phải có một cái kính hiển vi để xem cái linh hồn đó. Liệu ta có thể chấp nhận được rằng ông ấy đã cho phép các bà vợ ông ấy được trưng bày ra theo cái cách thật lố bịch này không?"
"Nếu ông ấy sống vào thời đại chúng ta" ông người Pháp nói. "thì trong lĩnh vực này ông ấy sẽ vấp phải nhiều khó khăn hơn là ông ấy đã từng gặp phải ở Mé¬sopotamie. Nhưng thời gi¬an sẽ đem lại những sự phục hận. Có thể là rồi đây chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh một người đàn bà cường tráng và người chồng bé nhỏ tầm thường của bà ta, phải không?"
Ce¬cil Brown và Head¬ing¬ly đứng ở phía sau, vì những lời bình luân điên đảo thị phi của anh thông ngôn và những câu nói dông dài vô bổ của các du khách đã làm ngột ngạt cảm giác về sự trang nghiêm của họ. Họ lặng lẽ đứng nhìn cái đám rước kỳ quái của những chiếc mũ che nắng và những chiếc khăn trùm đầu màu xanh này diễu hành trước bức tường thành xám xì cổ lỗ. Bên trên đầu họ hai con chim sẻ quạt vừa bay chập chững vừa gọi nhau ở giữa những cây cột trụ đổ nát hoang tàn.
"Ðó có phải là một sự báng bổ không?" cuối cùng người đàn ông xuất thân từ Ox¬ford lẩm bẩm nói.
"Này, tôi hài lòng với cảm tưởng của ông! Nó tương hợp với ý của tôi" Head¬ing¬ly trả lời. "Tôi không biết rõ người ta phải tiếp cận loạt sự vật này như thế nào, một khi ta chấp nhận rằng họ phải tiếp cận chúng, nhưng chắc chắn đây không phải là cách đúng. Tóm lại tôi ưa thích những cảnh hoang phế mà tôi chưa nhìn thấy hơn là những cảnh mà tôi đã thấy... ".
Nhà ngoại gi¬ao trẻ ném cho ông ta một cái nhìn đầy nhiệt tình, mỉm cười, nhưng rồi ông lấy lại ngay bộ mặt của con người đã quá chai lì.
"... Tôi có một tấm bản đồ" ông người Mỹ nói tiếp, "Ðôi khi ở rất xa mọi sinh vật, ở tận giữa bãi sa mạc, không có nước, không có đường mòn, tôi đọc thấy "phế tích" hay "di tích một đền đài". Ngôi đền của Jupiter Am¬mon chẳng hạn, một trong những đền đài danh tiếng nhất trên thế giới lại ở cách xa hàng trăm cây số với bất cứ một vật nào. Ðó là những phế tích hẻo lánh bị che dấu, tồn tại qua nhiều thế kỷ, làm kích động trí tưởng tượng của con người. Nhưng khi tôi xuất trình một tấm vé ở ngoài cửa và khi tôi đi vào như tôi đã đi vào trong gánh xiếc Bar¬num, thì tất cả vẻ thơ mộng, tất cả sự vi diện đều tan biến".
"Hoàn toàn đúng! " Ce¬cil Brown trả lời trong khi nhìn ra sa mạc bằng một con mắt ảm đạm và khắt khe. "Nếu người ta có thể đi chơi ở đây một mình thôi, do sự tình cờ mà đi tới, và trong sự hiu quạnh hoàn toàn đứng trước những bức phù điêu kỳ quặc này thì thật là không thể cưỡng được. Có lẽ người ta sẽ muốn quỳ lạy trong sự kinh hãi và cảm mến. Nhưng khi Bel¬mont rít cái ống vổ kếch xù của ông ấy, khi Stu¬art bắt người ta phải nghe cái giọng khò khè hen suyễn của ông ấy, khi cô Sadie Adams phá lên cười...".
" Và khi con chim cà cưỡng thông ngôn này đọc bài của anh ấy!" Head¬ing¬ly thở dài. "Tôi chỉ có một mong muốn, ngồi im lặng và suy ngẫm, tôi đã không bao giờ thỏa mãn được sự mong muốn đó. Ðã có lúc tôi gần phạm phải tội sát nhân khi tôi đang đứng trước Kim Tự Tháp lớn và tôi đã không có thể hưởng được một khoảnh khắc yên tĩnh, vì người ta đã làm tôi điên đầu lên với những lời rao hàng. Tôi đã nện cho gã bán hàng một cái đá, cái đá này suýt nữa đã giết chết hắn ta trên mũi giày! Khi tôi nghĩ rằng tôi đã thực hiện một chuyến đi từ Mỹ Châu để xem Kim Tự Tháp, và một khi đứng trước nó, tôi đã chẳng thấy gì tốt đẹp hơn là việc tặng cho anh chàng người Ả Rập một cái đá!"
Người cựu sinh viên Ox¬ford cười một cách dịu dàng. Ông nói:
- Họ lại lên đường kìa!
Rồi họ thúc những con lừa của họ đi về phía trước để đi vào phía sau đám rước buồn cười này, bây giờ thì đám rước đi vào giữa những núi đá lớn, giữa những ngọn đồi lởm chởm đá. Một con đường nhỏ hẹp và ngoằn ngoèo len lỏi giữa những tảng đá. Phía sau các du khách chân trời bị che khuất bởi những ngọn đồi khác trông đen ngòm và kỳ quái như những đống bã quặng ở một cái giếng khai mỏ. Sự yên lặng ngự trị trong toán người. Nét mặt thường ngày vui vẻ của Sadie sa sầm lại như để suy ngẫm về sự phũ phàng của tạo hóa. Ðoàn hộ tống xích lại gần nhau, tiến bước theo hàng một. Ông đại tá và Bel¬mont vẫn phi ngựa đi tiên phong.
"Ông Bel¬mont, ông có biết không?" ông đại tá hạ thấp giọng nói. "Có lẽ ông sẽ cho tôi là ngu ngốc, nhưng tôi không thích cái chuyến du ngoạn nhỏ nhặt này".
Bel¬mont phát ra một tiếng cười gằn nhỏ.
"Từ trong phòng của tàu Ko¬rosko nhìn ra thì mọi thứ đều có vẻ hoàn hảo. Bây giờ khi chúng ta ở đây chúng ta cảm thấy một cách mơ hồ một cái gì đó trong không khí", ông ta nói. "Tuy nhiên tuần lễ nào các du khách cũng tới đây, và chưa từng bao giờ xảy ra một sự cố nhỏ nhặt nào".
"Tôi tự ý chấp nhận các sự rủi ro khi tôi đi trên con đường của chiến tranh", ông đại tá trả lời. "Chiến tranh rất thành thật, người ta biết rằng với nó thì người ta phải chạm trán với cái gì. Nhưng khi ta dẫn theo các phụ nữ, và khi ta được ban tặng một toán hộ tống tồl tệ như toán này, thì đúng là chơi đùa với lửa! Tất nhiên là có chín mươi chín phần trăm vận may là mọi việc sẽ suông sẻ, nhưng nếu điều trái ngược xảy ra... Tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó! Ðiều đáng khen là họ hoàn toàn không biết rằng xứ sở này rất nguy hiểm".
"Tôi à, tôi rất thích những cái áo dài của người Anh để đi bộ đường dài, ông Stephens ạ!" Sadie cất tiếng nói đằng sau họ. "nhưng với một cái áo dài để mặc buổi chiều thì tôi tin rằng các thợ may người Pháp có nhiều kiểu cách hơn là các đồng nghiệp người Anh của họ. Những người tạo mẫu thời trang của các ông có những sở thích nghiêm ngặt, và họ ít biết khai thác những dây băng và những cái nơ".
Ông đại tá mỉm cười.
"Dù sao thì cô ấy cũng có một tâm hồn trong sáng!" ông nói với Bel¬mont. "Tôi sẽ không nhắc lại với ai điều mà tôi vừa nói với ông, và tôi hy vọng rằng những nỗi lo sợ của tôi sẽ tự phơi bày ra là không có cơ sở vững chắc".
Bel¬mont trả lời:
- Xin ông hiểu cho là tôi cũng tưởng tượng rằng những băng đảng thầy tu Hồi giáo đang đi trộm cướp kiếm mồi nhưng sẽ không thể có chuyện là chúng đợi đúng cái ngày mà chúng ta đi qua nơi này.
- Biết rằng một cuộc quảng cáo rầm rộ đã được tung ra về các sự di chuyển của chúng ta và rằng mọi người đều biết trước một tuần các cuộc du ngoạn được xếp đặt cho chương trình của chúng ta, thì sự trùng hợp sẽ không có gì là kỳ lạ!
"Sự rủi ro một phần trăm, ông đã nói mà!" Bel¬mont lẩm bẩm nói, trong thâm tâm ông thấy vui thích khi biết rằng bà vợ ông được an toàn trên con tàu.
Chả mấy lúc họ ra khỏi vùng ngổn ngang sỏi đá, chỗ làm cản trở bước đi của những con lừa, bây giờ thì bãi cát vàng, mịn trải dài ra cho tới chân quả đồi hình chóp đứng sững trước mặt họ. "Ây-a! Ây-a!" những người dắt lừa vừa quát vừa lấy roi đánh vào mông các con vật, những con vật này chạy nước đại và lao mình vào trong cánh đồng. Chúng chỉ dừng lại ở dưới chân con đường nhỏ leo lên núi, theo lệnh của anh thông ngôn.
- Thưa quí bà và quí ông, bây giờ chúng ta đã tới chân ngọn núi Abousir lừng danh. Ðứng trên đỉnh núi này, quí vị sẽ phát hiện ra một toàn cảnh rất đa dạng, nhưng trước hết quí vị sẽ nhận thấy trên vách đá các bậc vĩ nhân đã khắc tên của họ vào đá, những vị này đã đi qua đây trong các cuộc hành trình của họ, có khi còn trước cả lúc Chúa Ki Tô giáng sinh.
"Ông có Moi¬se không?" Cô Adams hỏi:
"Cô ơi, cô làm cháu kinh ngạc đó!" Sadie kêu lên.
- Tại sao, hở cháu cưng? Ngài ở nước Ai Cập, đó là một bậc vĩ nhân, rất có thể là ngài đã du ngoạn ở nơi này.
"Rất có thể là tên của Moi¬se có ở đó, cũng như tên của Hérodote", anh thông ngôn tuyên bố một cách nghiêm trọng, "nhưng cả hai đều đã phải gánh chịu sự phũ phàng của thời gi¬an, ngược lại ở đằng kia, trên tảng đá màu nâu, quí vị sẽ đọc thấy tên của Bel¬zoni. Trên cao hơn là tên của Gor¬don. Không có một nhân vật nổi tiếng nào ở Soudom mà quí vị không thể tìm thấy tên nếu quí vị chịu khó tìm một chút. Và bây giờ, với sự cho phép của quí vị chúng ta sẽ để những con lừa ở đó để đi bộ leo lên bằng con đường này, từ trên đỉnh núi quí vị sẽ nhìn thấy con sông và sa mạc...".
Sau hai hay ba phút leo trèo các du khách đã tới chỗ bằng phẳng hình bán nguyệt nằm trên ngọn núi. Phía dưới chân họ, ở một bên, một ghềnh đá đen xì đứng thẳng, cao tới năm chục mét, cắm sâu xuống những xoáy nước sủi bọt của sông Nil. Tiếng ầm ì inh tai của con sông và tiếng rít lên của nước sông chảy ồ ạt giữa các tảng núi đá vang lên một cách quái dị trong không khí oi nóng và im lìm. Ðằng xa ở thượng nguồn hay hạ nguồn, họ trông thấy dòng sông rộng tới bốn trăm mét, mạnh mẽ, sâu thẳm và gần như đen kịt. Ở mạn bên kia, trải ra một khoảng bao la hoang vu, đó đây rải rác những tảng đá đen xì, vốn là những thứ đá vụn do sông Nil mang tới khi nó chảy tràn khỏi lòng sông. Không một nơi nào có vết tích của đời sống con người.
"Ở đằng kia", người thông ngôn chỉ về hướng Ðông "là con đường quân sự đi từ Oua¬di-Hal¬fa tới Sar¬ras. Sar¬ras ở về phía Nam, dưới cái núi đen này. Hai quả núi xanh mà quí vị trông thấy ở chân trời đều nằm trong sứ Don¬go¬la, cách Sar¬ras hơn một trăm cây số. Con đường xe lửa dài sáu mươi lăm cây số, nhưng nó đã chịu thiệt hại nhiều vì bọn thầy tu Hồi giáo, bọn này rất thích chế biến các đường rầy thành những ngọn giáo. Chúng cũng rất thích những sợi dây của máy điện báo. Bây giờ nếu quí vị muốn quay trở về, tôi sẽ giải thích với quí vị những gì quí vị sẽ có thể nhìn thấy ở mạn bên kia...".
Ðó là một toàn cảnh mà ta không thể quên được sau khi đã nhìn thấy một lần. Cái dải sa mạc hoang dã và liên tu bất tận này có phải là thuộc về một hành tinh đã tiêu mòn và nguội lạnh hay thuộc về trái đất khoan dung của chúng ta? Nó kéo dài cho tới một đám sương mù nhẹ màu tím có vẻ như là chỗ tận cùng của thế giới. Ở lớp thứ nhất, cát có một màu vàng đẹp rực rỡ mà nắng làm thành chói lòa. Sáu người lính trung thành da đen dừng lại ở phía dưới, họ im lìm bất động tựa vào những khẩu súng của họ, mỗi người chiếu ra một cái bóng có vẻ cũng chắc nịch như chính con người của họ vậy. Ở bên ngoài cái cánh đồng vàng hoe này những đống cặn kim loại đen xì xếp thành từng hàng, được phân cách nhau bởi những thung lũng cát thổ hoàng. Những đống cặn kim loại này bị che lấp bởi những quả đồi cao hơn và có hình dạng kỳ quái hơn, những quả đồi này xếp thành tầng và kề sát nhau cho tới lúc tan biến vào trong màn sương mù xa xôi, tím ngắt. Trong những quả đồi này, không quả nào có được một độ cao đáng kể; quả cao nhất có thể được một trăm năm mươi hay hai trăm mét; nhưng các chóp đỉnh hình răng cưa của chúng, những vách dựng đứng bằng đá đã bị nắng nung chín đã cho chúng một vẻ tàn bạo, khủng khiếp.
"...Bãi sa mạc của nước Libye" anh thông ngôn loan báo trong lúc giơ tay lên một cách kiêu hãnh. "Một sa mạc lớn nhất thế giới. Giả dụ quí vị đi từ chỗ này về hướng Tây, và quí vị không rẽ ngang về hướng Bắc hay về hướng Nam, thì những cái nhà đầu tiên mà quí vị nhìn thấy sẽ là những căn nhà ở nước Mỹ. Thưa cô Adams, tôi nghĩ rằng sự giả thiết này làm cho cô nhớ nhà phải không?".
Nhưng cô gái già người Mỹ đã không nghe anh nói nữa. Sadie đã nắm lấy cánh tay cô và với bàn tay kia nàng chỉ cho cô một vật gì trong bãi sa mạc.
"Ồ, đây là mức tột độ của sự mỹ lệ!", cô kêu lên, mặt đỏ bừng vì bị khích động. "Ông Stephens, hãy nhìn kìa! Chỉ còn thiếu một vật nữa là quang cảnh được hoàn hảo! Hãy nhìn những người ngồi trên lưng lạc đà đang nhô ra từ các ngọn đồi!".
Lúc đó tất cả bọn họ đều trông thấy một hàng dài những kỵ binh quấn khăn đỏ đang thúc những con lạc đà ra khỏi một khe núi. Một sự im lặng chụp xuống, im lặng quá đến nỗi họ có thể nghe rõ được tiếng vo ve của những con ruồi. Ðại tá Cochrane vừa bật một que diêm, rồi ông đứng im bất động không nghĩ tới việc châm lửa vào điếu thuốc lá, và ngọn lửa làm bỏng các ngón tay ông, Bel¬mont huýt sáo qua các khe răng. Anh thông ngôn đứng há hốc mồm ra, cặp môi béo mọng và đỏ thắm của anh ta, trở nên xám ngoẹt. Những người khác nhìn nhau, khó chịu trước màn phụ diễn bất ngờ của chương trình. Ông đại tá phá tan sự im lặng.
Ông nói:
- Ông Bel¬mont này, nhờ ơn trên phù hộ, tôi nghĩ rằng đây là một phần trăm sự rủi ro đã xuất hiện đó
Chương 04
"Man¬soor, thế này là nghĩa làm sao?" Bel¬mont kêu lớn với một giọng thô lỗ, "những người đó là ai, và tại sao anh đứng hai mắt trợn trừng như thể anh đã hóa thành pho tượng bằng muối vậy?"
Anh thông ngôn, trước khi trả lời, thè lưỡi liếm vào cặp môi khô khan của anh ta . Anh ta nói ấp úng: "Tôi không biết họ là ai".
"Họ là ai?" ông người Pháp quát lớn. "Anh chỉ cần nhìn cho rõ. Đó là những người có võ trang cưỡi lạc đà: những người Bé¬douins như là những người mà chính quyền trên biên giới thường thuê mướn".
"Xin ơn trên phù hộ, có lẽ ông ấy nói đúng, Cochrane ạ!" Bel¬mont quay lại phía viên đại tá và nói: " Tại sao những người kia lại không phải là những bằng hữu?"
"Chúng ta không có bằng hữu trên bờ bên này của sông Nil", ông đại tá trả lời với một giọng quả quyết. "Tôi hoàn toàn biết chắc về việc đó. Chúng ta sẽ sai lầm khi tự lừa dối mình. Chúng ta phải chuẩn bị cho điều tệ hại nhất".
Bất kể những lời nói này, các du khách vẫn im lìm bất động, đứng sát vào nhau và nhìn xuống cánh đồng. Sự kinh động bất ngờ này đã làm họ điếng người, họ đang sống trong một giấc mộng không có bản ngã của họ, mơ hồ và phi thực tại. Những kỵ binh đã đi ra từ một khe núi ở cách con đường họ vừa đi qua chừng một ngàn năm trăm mét, như thế là chúng đã cắt hết đường rút lui của họ. Theo như đám bụi bốc lên và chiều dài của đám người thì người ta có thể nói là cả một đoàn quân đang xuất hiện từ những quả đồi. Thật tình thì bảy mươi người cưỡi trên lưng lạc đà cũng che phủ được một mảng đất lớn.
Sau khi chúng đã tới cánh đồng cát, chúng xếp thành hàng và sau một hồi kèn chát chúa chúng xông lên theo hàng ngang, những cái bóng sặc sỡ nhiều màu của chúng chao đảo trên những cái yên của chúng; cát bốc tung lên thành một đám mây vàng lăn theo dưới chân những con lạc đà. Vừa nhìn thấy những sự việc này, sáu anh lính da đen đã lùi lại và ẩn mình trên sườn đồi đằng sau những tảng đá, như những binh sĩ đã thành thạo trong việc tập luyện, những hộp cơ bẩrn kêu lách cách cùng một lúc khi viên hạ sĩ ra lịnh cho họ nạp đạn vào súng.
Sự hoảng hốt đầu tiên của các du khách lúc đó đã nhường chỗ cho sự thi triển lớn lao về nghị lực, vừa cuồng nhiệt, vừa bất lực. Tất cả bọn họ đều bắt đầu chạy trên khoảng đất bằng trong sự vội vã không có mục đích, trông họ giống như một đàn gà vịt bị hoảng sợ trong sân chuồng. Họ đã không có thể quyết định nhìn nhận là họ không còn một phương cách nào để thoát hiểm cả. Đã nhiều lần họ cúi xuống bên trên cái mép của ghềnh đá lớn đâm sâu xuống sông Nil, nhưng người trẻ nhất và người táo bạo nhất trong nhóm họ cũng không bao giờ có thể tụt xuống chiều cao của cái vách đá nhẵn thín này. Hai người đàn bà níu chặt lấy tay của Man¬soor trong lúc anh này run lẩy bẩy, như thể các cô cho là anh ta phải chính thức chịu trách nhiệm về sự an toàn của mọi người. Stephens, người đại diện cho thân chủ trước tòa án, không rời khỏi Sa¬dle Adams và nói thầm thì như một cái máy hát: "Đừng sợ cô Sa¬dle ạ! Đừng sợ!" việc này cũng không ngăn cản được ngay chính ông ta đang run rẩy cả chân tay. Ông Fardet dậm chân, láy đi láy lại những chữ "r" khi lúng búng nói những câu không ai hiểu được và ném những cái nhìn bực bội vào các bạn đồng hành, ông thấy mình đã bị họ phản bội một phần nào đó. Ông mục sư to lớn đứng rất ngay ngắn dưới cái dù của ông và cặp mắt to, hoảng sợ của ông đang quan sát sự di chuyển của những gã kỵ binh. Ce¬cil Brown đang xoắn bộ ria ngắn của ông; ông tái người đi nhưng vẫn có vẻ khinh khỉnh. Ông đại tá, Bel¬mont và nhà khoa bảng trẻ tuổi của Har¬ward vận giữ được sự điềm tĩnh; họ là những người có nhiều thủ đoạn.
"Tốt nhất là chúng ta cùng đứng lại với nhau", ông đại tá nói, "không còn cách nào để tránh khỏi bọn chúng, do đó tốt nhất là chúng ta đừng rời xa nhau".
"Chúng đứng lại" Bel¬mont loan báo.
"Vì chúng quan sát chúng ta, chúng bịết chắc rằng chúng ta nằm trong quyền sinh sát của chúng; do đó chúng không vội vã. Tôi không nhìn thấy điều gì mà chúng ta sẽ có thể làm được".
"Nếu chúng ta dấu các phụ nữ đi có được không?" Head¬ing¬ly đề nghị. "Chắc chắn là chúng không biết chúng ta có bao nhiêu người. Khi chúng đã bắt được chúng ta rồi, các phụ nữ sẽ có thể ra khỏi nơi ẩn nấp và trở lại tàu thủy".
"Tuyệt diệu!" ông đại tá kêu lên. "Cô Adams, xin cô vui lòng lại đây. Man¬soor, hãy mời các bà tới chỗ này! Không còn một giây phút nào để bỏ mất nữa".
Một phần của khoảng đất bằng không thể nhìn thấy được từ bên dưới, những người đàn ông cuống cuồng dựng lên một chỗ trú ẩn nhỏ bằng những tảng đá, những tảng đá thì không thiếu; không cần phải lâu la gì để dựng nghiêng một tảng đá lớn nhất vào một núi đá; và theo lối đó làm thành một thứ mái che, rồi lấp kín hai bên bằng hai tảng đả khác cùng một màu với núi đá; thoạt mới nhìn chỗ ẩn nấp không quá lộ liễu đâu. Hai người đàn bà chui vào chỗ ẩn nấp và ngồi xuống. Sadie ôm choàng lấy bà cô trong hai cánh tay. Khi đã dựng xong chỗ trú ẩn, những nguời đàn ông đi ra nhìn những việc đang diễn ra trong cánh đồng với một tấm lòng nhẹ nhõm hơn. Lúc tới gần rìa của khoảng đất bằng, họ nghe thấy những phát súng đầu tiên; đó là toán hộ tống của họ bắn; nhưng những phát súng rời rạc đó đã mau chóng bị nhận chìm trong một tiếng ầm ì inh tai, và không khí tràn đầy tiếng rít của những viên đạn. Tất cả các du khách đều nằm nép xuống sau các tảng đá, ngoại trừ anh chàng người Pháp thì cứ tiếp tục dậm chân và lấy tay đấm mạnh vào cái mũ rơm của mình. Bel¬mont và Cochrane bò xuống nơi mà những người lính Soudan đang bắn một cách bình tĩnh và theo đúng phương pháp, với những khẩu súng kê trên các tảng đá.
Bọn nghười Ả - Rập dừng lại ở khoảng năm trăm mét, sự ung dung trong các cử động của chúng chứng tỏ rằng chúng đã biết rõ tình thế tuyệt vọng của các du khách. Chúng chỉ dừng lại để đếm số du khách trước khi xông lên tấn công, một phần lớn bọn chúng ngồi trên mông lạc đà mà bắn, nhưng một vài tên đã tụt xuống đất và quì xuống. Những vết trắng nhỏ, lung linh của chúng hiện rõ ràng trên những sắc vàng của hậu cảnh. Lúc thì chúng bắn lẻ tẻ, lúc thì chúng bắn hàng loạt. Quả đồi kêu gầm gừ như một bọng ong; những viên đạn văng vào núi đá với một tiếng khô khan.
"Ông đứng phơi mình ra như vậy chẳng có ích lợi gì đâu", Bel¬mont nói.
Ông kéo ông đại tá vào phía sau một tảng đá lớn, gồ ghề, nơi đã có ba người lính Soudan ẩn núp.
"Một viên đạn là điều mà chúng ta có thể hy vọng là tốt nhất", Cochrane trả lời với một nụ cười ảm đạm. "Bel¬mont ạ, tôi thật là ngu ngốc quá chừng khi không phản đối một cách cương quyết hơn cuộc du ngoạn kỳ cục này! Tôi hoàn toàn xứng đáng với những gì xảy ra
với tôi, nhưng khi tôi nghĩ tới những người bất hạnh kia, họ không nghi ngờ tới một chút hiểm nguy nào..."
- Tôi giả thiết rằng chúng ta không thể hy vọng có sự giải cứu?
- Không có một chút nào.
- Ông có nghĩ rằng những tràng súng này có thể gợi ý cho những toán quân ở Ouadl-Hal¬fa tới đây không?
- Ờ, nếu chúng ta không trở về, tàu thủy sẽ báo động!
- Và trong thời gi¬an đó chúng ta sẽ ở đâu?
"No¬rah khốn khổ của tôi! Em bé No¬rah khốn khổ!" Bel¬mont nói lẩm bẩm đằng sau bộ ria mép lốm đốm bạc của ông.
Sau một lúc yên lặng, ông hỏi:
- Ông Cochrane này, theo ý ông thì chúng sẽ làm gì với bọn ta?
- Chúng sẽ cắt cổ họng chúng ta, hoặc đưa chúng ta tới Khar¬toun để làm nô lệ. Tôi không biết trong hai cách đó thì cách nào dễ chịu hơn. Kìa dù sao thì một người trong bọn chúng ta cũng đã rũ sạch hết phiền muộn rồi !
Anh lính đang bắn bên cạnh họ vừa ngã ngồi phệt xuống, đầu anh ta gục xuống giữa hai đầu gối. Anh ta vừa bị một viên đạn bắn trúng giữa đầu. Anh ấy không động đậy nữa. Anh ấy không thốt ra một tiếng rên rỉ nào. Các bạn của anh cúi xuống bên trên xác của anh, rồi họ nhún vai và lại quay đầu về phía những tên Ả Rập. Bel¬mont lượm lấy khẩu súng của người chết cũng như cái bao đạn của anh.
"Hơn ba bì đạn. Cochrane ạ!" ông nói và để ba khúc đồng nhỏ lên lòng bàn tay. "Chúng ta đã để cho họ bắn quá sớm và bắn nhiều quá. Lẽ ra chúng ta phải đợi cho bọn thầy tu xông lên tấn công đã".
"Ông đã nổi tiếng là xạ thủ thuợng thặng đó, Bel¬mont ạ !" ông đại tá lẩm bẩm nói. "Ông không tin là ông sẽ có thể bắn hạ được tên chỉ huy của bọn chúng à?"
- Tên đó là thằng nào ?
- Tôi nghĩ nó là tên đang ngồi trên con lạc đà trắng ở bên phải. Tên đó đang nhìn về phía chúng ta, lấy hai bàn tay che lên mắt.
Bel¬mont nạp đạn vào súng và điều chỉnh thước ngắm. Ông nói:
- Ánh sáng xấu quá khó mà ước định khoảng cách. Được, tôi sẽ thử ở khoảng năm trăm mét!...
Ông bắn, nhưng không có gì nhúc nhích cả, cả con lạc đà trắng, cả người ngồi trên lưng nó.
-... ông có trông thấy cát bay lên không ?
- Không, tôi không trông thấy gì cả.
- Tôi chắc rằng tôi đã bắn quá xa.
- Hãy thử lại một lần nữa đi.
Bel¬mont ngắm với một sự tin chắc hoàn toàn, nhưng con lạc đà và tên chỉ huy vẫn không động đậy. Phát thứ ba chắc đã đi qua gần hơn, vì con vật nhích nhiều bước về bên phải như kiểu nó muốn di chuyển. Bel¬mont ném khẩu súng hết đạn xuống trong khi thốt ra một tràng than chán nản.
"Đúng là tự cái ánh sáng chết tiệt này ! " ông nói lớn, mặt đỏ bừng vì bực bội. "Cứ cho rằng tôi đã bắn uổng ba bì đạn! Ở Bis¬ley thì chắc tôi đã bắn rơi cái khăn của nó rồi, nhưng sự phản quang chết tiệt này... Điều gì đã xảy ra với anh chàng người Pháp?".
Ông Fardet dậm chân trên bãi cát với bộ điệu một người vừa bị ong vò vẽ đốt
"Đồ chết toi!", ông gào lên. "Đồ chết toi!".
Những cái răng trắng ởn của ông lóng lánh dưới bộ ria mép đen. Ông vặn xoắn một cách dữ dội bàn tay phải của ông và máu chảy dọc theo các ngón tay của ông. Một viên đạn đã làm sượt cổ tay ông. Head¬ing¬ly phóng mình ra khỏi nơi trú ấn mà ông đã nấp, chắc chắn là ông có ý định bắt buộc anh chàng người Pháp nằm xuống mặt đất, nhưng ông chưa đi được ba bước thì một viên đạn đã bắn vào lưng ông, ông ngã gục xuống giữa những hòn đá. Ông muốn đứng dậy, ông lảo đảo, rồi lại ngã xuống cùng một chỗ đó. Ông vùng vẫy tứ chi như một con ngựa bị gãy lưng vậy.
"Chúng bắn trúng rồi!" ông ấp úng nói.
Ông đại tá chạy tới cứu ông, nhưng Head¬ing¬ly không động đậy nữa, đôi má trắng bệch của ông tì lên những hòn đá đen xì. Một năm trước đây, khi ông đi dạo chơi dưới những cây du của trường Cam¬bridge, không bao giờ ông nghĩ rằng cuộc đời trần thế của ông sẽ bị chặt đứt trong sa mạc Libye bởi viên đạn của một tên hồi giáo cuồng tín.
Tiếng súng của toán hộ tống đã ngưng, những người lính đã hết đạn. Một người lính thứ hai đã bị giết, và một người thứ ba, người làm chức năng của hạ sĩ, đã bị một viên đạn vào đùi, anh ta ngồi trên một mảnh đá và băng bó vết thuơng với vẻ nghiêm trọng, chăm chú của một bà già đang cố gắng gắn lại những mảnh của một cái đĩa bị vỡ. Ba người khác cắm lưỡi lê lên nòng súng, họ quyết tâm bán mạng sống của họ càng đắt giá càng tốt.
"Chúng nó tới!" Bel¬mont kêu lớn, ông đang quan sát cánh đồng.
"Được, chúng cứ tới đi!" ông đại tá trả lời trong khi cho hai bàn tay vào túi quần. "Ồ, lũ súc sinh! Lũ súc sinh chết toi!l".
Chính số phận, những tên dắt lừa khốn khổ đã làm mất sự điềm tĩnh của người quân nhân già. Trong lúc những phát súng được bắn qua, bắn lại, lũ trẻ bụi đời nằm chất đống lên nhau, làm thành một nhóm người đáng thuơng giữa các tảng đá, dưới chân đồi. Khi chúng nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo xung kích, chúng nghĩ rằng chúng có nguy cơ trở thành những nạn nhân đầu tiên; thế là chúng nhảy tót lên lưng lừa, miệng thì gào thét vì sợ hãi, và chúng tìm cách chạy trốn qua cánh đồng. Nhưng tám hay mười kỵ binh đứng gác bên hông đã tiến lên trong lúc súng nổ. Chúng xông ngay vào lũ trẻ dắt lừa và chém chúng thành từng mảnh với một sự hung bạo lạnh lùng, một thằng nhỏ bụi đời chạy thoát khỏi bọn truy sát được một lúc, nhờ những bước chân dài của chúng, nhưng con lạc đà cuối cùng cũng bắt kịp con lừa của nó, con lừa này không còn trẻ trung nữa, và một tên Ả-Rập đã phóng ngọn giáo của y cắm sâu vào cái lưng đang cúi xuống. Những cái xác bé nhỏ mặc đồ trắng trông giống như một đàn cừu đang gặm cỏ trong bãi sa mạc.
Nhưng các du khách đã không có thì giờ để thuơng xót cho số phận những đứa bé dắt lừa. Chính ngay cả ông đại tá, sau sự bùng nổ của cơn giận dữ, ông cũng quên ngay bọn chúng. Bọn kỵ binh của toán tiền phong đã cho những con lạc đà phi xuống tới chân đồi; ở đó chúng nhảy xuống đất, và để mặc cho những con vật quì phục xuống một cách lặng lẽ, chúng tiến bước trên con đường nhỏ dẫn tới chỗ đất bằng. Chúng có năm mươi tên nhảy nhót từ tảng đá này sang tảng đá nọ. Không một phát súng, không chậm trễ, chúng tràn ngập ba người lính da đen, giết chết một người, và dẫm lên hai người khác, rồi chúng xuất hiện trên nền đất bằng, nơi đó một cuộc chống cự bất ngờ đã chặn chúng lại một lúc.
Đứng sát vào với nhau, các du khách đang chờ đợi bọn Ả Rập tới, mỗi người một tâm trạng khác nhau. Ông đại tá, tay đút trong túi quần, đang gắng gỏi huýt sáo miệng, mặc dù môi ông đã khô khổng. Bel¬mont thì khoanh tay đứng tay vào một tảng đá, đầu cúi gằm, ông cau mày một vẻ bực bội, trí não con người đã được sinh ra như vậy, cho nên anh chàng người Ái Nhĩ Lan cảm thấy bối rối vì ba viên đạn đã mất và vì một tì vết vào danh tiếng xa thủ thuợng thặng hơn là vì cái số phận đang chờ đợi ông. Ce¬cil Brown đứng thẳng người, cứng nhắc, nôn nóng kéo những cái đầu của những sợi râu mép lưa thưa. Ông Fardet vừa làu bàu vừa nhìn cái cổ tay đầy máu me của ông. Ông Stephens lắc đầu trong lúc suy nghĩ tới sự bất lực cực nhọc của ông và tiêu biểu khá đúng cho cái trật tự và luật pháp đang bị nhạo báng.
Ông Stu¬art, lúc nào cũng được che kín bởi cái dù của ông, thì có một bộ mặt lầm lì và một cái nhìn chăm chú. Head¬ing¬ly thì nằm bất động trên tảng đá : cái mũ của ông đã rơi mất; ông có vẻ rất trẻ với mái tóc vàng hoe bù xù và những đường nét rất rõ ràng. Anh chàng thông ngôn thì ngồi trên một hòn đá và vặn xoắn hai bàn tay một cách bồn chồn, nôn nóng. Đó là tình trạng của họ mà bọn Ả Rập đã bắt gặp trên lòng đường khi chúng tràn ra.
Và rồi trong lúc những tên xung kích đầu tiên xông tới để bắt những nạn nhân của chúng thì một sự cố hoàn toàn bất ngờ đã chặn chúng lại. Từ lúc nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo, vị mục sư to béo của Birm¬ing¬ham đã cho người ta ấn tượng một người toàn thân bị cứng đơ. Ông đã không nhúc nhích, ông đã không há miệng ra nhưng bất thình lình ông nhảy chồm lên với một khí lực vừa dũng mãnh, vừa oai hùng. Phải chăng ông đã bị thúc đẩy bởi ruột thứ cuồng điên nảy sinh từ sự hoảng sợ? Dòng máu của một vị tổ tiên đã đột ngột thức dậy trong các mạch máu của ông chăng? Sự thật là ông đã phát ra một tiếng kêu man dại, cướp lấy một cây gậy và bắt đầu đánh những tên Ả Rập với một sự hung hãn còn dữ tợn hơn cả sự hung hãn của chúng. Một người trong các nhân chứng của cảnh này đã khẳng định với tôi rằng trong tất cả những hình ảnh đã làm sáng rực ký ức của ông, không có hình ảnh nào được lưu lại rõ ràng hơn cái hình ảnh của con người to lớn này, mình đẫm mồ hôi và nhảy nhót với một sự mau lẹ không thể tưởng tượng được, dùng hết tay này tới tay khác đánh vào những tên Ả Rập vừa thoái lui, vừa la hét om sòm. Rồi từ phía sau một tảng đá một ngọn giáo bay từ thấp lên cao, và vị mục sư ngã quị xuống, rồi cả đàn những tên xung kích chạy ùa ra dẫm lên trên xác ông để bắt giữ các du khách. Những con dao lấp lóe sáng, nhưng bàn tay thô cục nắm lấy cổ tay họ và cổ họ, họ bị xô đẩy và đem đi một cách thô bạo trên con đường nhỏ, mà phía dưới nó những con lạc đà đang đứng đợi.
"Quốc vương vạn tuế!" Tù trưởng vạn tuế!" anh chàng người Pháp kêu lên trong lúc vung vẩy cái bàn tay không bị trói của anh ta.
Một nhát báng súng vào lưng bắt ông ta im lặng.
Vào lúc này thì cái nhóm nhỏ các khách du ngoạn đang đứng dưới chân núi Abousir, nếu bọn người Ả Rập không vung vẩy những khẩu súng của chúng thì họ đã có thể tưởng rằng họ bị sa vào tay những tên man rợ của thế kỷ thứ bảy. Thật sự không có một chút gì khác biệt giữa những kẻ bắt cóc họ với những chiến binh của sa mạc là những người đầu tiên đã mang biểu tượng lưỡi liềm ra ngoài nước Ả Rập. Đông phương là bất biến. Những tên kẻ cướp thầy tu Hồi giáo vẫn không kém dũng cảm, kém hung bạo, kém cuồng tín hơn là tổ tiên của chúng. Chúng đứng thành vòng tròn, tựa lên những khẩu súng hay những ngọn giáo của chúng, và ngắm nghía những kẻ bị bắt với những cái khăn đỏ thắt nút quanh cổ và quanh đầu, đến nỗi mà những cái nhìn hung hãn của chúng nom như toé lên từ một cái khung đỏ sẫm, những đôi giày màu vàng bằng da sống, một cái áo dài trắng với những mảnh nâu và vuông ghép lại với nhau. Tất cả bọn chúng đều được vỏ trang bằng súng, một tên trong bọn chúng nó một cái tù và đeo dưới nách. Một nửa trong bọn chúng là người da đen: hai gã đàn ông đẹp trai, mình đầy bắp thịt, những chàng Her¬cules da đen chính cống. Những tên Ả Rập bagar¬ras họp thành một nửa kia; người nhỏ bé, da nâu khô khan, nóng nẩy, với những con mắt hung ác và những cặp môi mỏng dính. Tên chỉ huy cũng là một tên Bagar¬ra nhưng y to lớn hơn những đồng bào của y, và một chòm râu đen dài xuống tới ngực y; dưới cặp lông mày rậm rạp đen xì đôi mắt lạnh lùng và cương nghị của y sáng long lanh như thủy tinh trong khi y kiểm tra các tù nhân của y. Ông Stu¬art đã được khiêng xuống phía dưới; ông đã bị mất cái mũ, ông vẫn còn bộ mặt đỏ bừng vì giận dữ, và ở một chỗ cái quần của ông bị dính vào cẳng chân. Hai người lính Soudan còn sống sót, những y phục màu xanh đầy các vết máu, đang đứng yên, không nhúc nhích và rất chăm chú, bên cạnh cái nhóm người xơ xác này.
Tên chỉ huy lần lượt nhìn vào mặt họ, từng người một trong khi lấy tay vuốt ve bộ râu của y. Sau đó y thốt ra mấy tiếng với một giọng khàn khàn, oai vệ, và Man¬soor bước ra, lưng khom xuống và những lòng bàn tay cầu khẩn. Bao giờ cũng có một cái gì đó hài hước trong cái váy của hắn kêu xột xoạt trước ngọn gió và trong cái kiểu áo tơi không có tay che phủ hai vai của hắn; nhưng lúc này, dưới ánh nắng buổi trưa, ở giữa vòng vây của những bộ mặt hung tợn, cái bóng của hắn đã cho thêm vào cảnh trí môt phần bổ sung kỳ cục của sự kinh hoàng. Chàng thông ngôn chào đi, chào lại như một con búp bê máy trước khi đột ngột ngã lăn ra, mặt úp xuống đất, sau một câu nói ngắn ngủi của tên chỉ huy. Anh ta vùi kín trán và hai bàn tay vào trong cát.
"'Thế là nghĩa làm sao, Cochrane?" Bel¬mont hỏi. "Tại sao hắn lại làm cho người ta chú ý như vậy nhỉ?"
Ông đại tá trả lời:
- Theo chỗ tôi hiểu thì tất cả đều chấm dứt với chúng ta.
"Nhưng thật là vô lý!" anh chàng người Pháp bị hoàn toàn khích động, kêu lớn lên. "Tại sao những người kia lại làm cho tôi phải đau khổ, dù là một chút ít thôi? Tôi chưa bao giờ làm hại họ cả. Ngược lại, lúc nào tôi cũng đã là bạn của họ. Nếu tôi có thể nói chuyện với họ, tôi sẽ làm cho họ hiểu được tôi. Ê này anh thông ngôn! Man¬soor!..."
Những điệu bộ đầy nhiệt tình của ông Fardet đã lôi kéo sự chú ý của tên chỉ huy bagar¬ra. Tên này lại phát ra một câu hỏi ngắn gọn. Man¬soor quì gối dưới chân y, trả lời y.
-... Nói với ông ấy rằng tôi là người Pháp, anh thông ngôn! nói với ông ấy rằng tôi là một người bạn của Quốc Vương, nói với ông ấy rằng các đồng bào của tôi không bao giờ có xích mích với ông ấy, mà những kẻ thù của ông ấy cũng là kẻ thù của chúng tôi!
Man¬soor nói:
- Ông chỉ huy hỏi ông theo tôn giáo nào. Ông ấy nói Quốc vương không cần chút nào tới tình bạn của những kẻ ngoại đạo và những kẻ vô tín ngưỡng.
- Hãy giải thích cho ông ấy rằng ở Pháp chúng tôi coi tất cả các tôn giáo đều tốt cả.
- Ông chỉ huy nói rằng chỉ có con chó báng bổ tôn giáo và đứa con trai của một con chó mới khẳng định rằng tất cả mọi tôn giáo cũng đều tốt như nhau. Ông ấy nói rằng nếu ông đích thực là bạn của Quốc Vương, thì ông sẽ tiếp nhận kinh Coran và sẽ trở thành ngay tại nơi đây một tín đồ chân chính. Trong trường hợp đó, ông ấy sẽ gởi ông về Khar¬toum bình an vô sự.
- Nếu không thì sao?
- Nếu không thì ông sẽ chiu chung số phận với những người khác.
- Vậy thì hãy trình lên ông chỉ huy những lời chúc tụng của tôi và nói với ông ấy rằng người Pháp không có thói tục thay đổi tôn giáo dưới sự cưỡng ép.
Viên chỉ huy nói ra một vài tiếng, rồi quay lại bàn bạc với một tên Ả Rập thấp lùn đứng bên cạnh y.
"Ông ấy nói, thưa ông Fardet" anh chàng thông ngôn nói tiếp, "nếu ông còn nói nữa thì ông ấy sẽ làm ông biến thành một miếng thịt băm để cho chó ăn. Xin ông đừng nói gì thêm làm cho ông ấy nổi giận, vì ông ấy đang quyết định số phận của chúng ta".
"Hắn là ai vậy?" ông đại tá hỏi.
- Ali Vabrahim. Chính là người năm ngoái đã mở cuộc hành quân vào làng của người Nu¬bie và là người đã tàn sát tất cả dân làng ở đó.
"Tôi đã nghe nói tới hắn ta", ông đại tá nói. Hắn ta đã nổi danh là một trong những tên trùm thầy tu Hồi giáo gan dạ nhất và cuồng tín nhất. Cảm ơn Thượng đế là các phụ nữ đã không lọt vào tay chúng!"
Hai tên Ả Rập trao đổi vài câu với sự dè dặt khắc khổ làm người ta kinh ngạc trong một chủng tộc ở miền Nam, chúng quay lại phía anh thông ngôn vẫn còn quì gối trên bãi cát. Chúng đưa ra nhiều câu hỏi linh tinh về các tù nhân trong khi chỉ chỏ hết người này tới người nọ. Chúng lại bàn bạc với nhau một lần nữa, và sau cùng thì chúng nói với Man¬soor một vài tiếng, cùng lúc kèm theo một cử chỉ khinh mạn bằng bàn tay để biểu thị rằng y có thể dịch những câu này cho các du khách.
"Thưa Quí vị, ta hãy tạ ơn trời, vì tôi tin rằng chúng ta được thoát nạn trong lúc này!" Man¬soor nói thì thào trong khi chùi cái trán lem luốc cát của y. "Ali Wad lbrahim nói rằng một kẻ vô tín ngưỡng chỉ đáng lãnh một nhát kiếm của người con trai của đấng tiên tri, nhưng đấng bề trên Om¬dur¬man cho rằng có số vàng mà gia đình các quí vị trả cho các quí vị thì tốt hơn. Cho tới khi nộp khoản tiền chuộc đó, quí vị sẽ có thể làm việc như những người nô lệ của Quốc Vương trừ khi ngài quyết định bắt quí vị phải chết. Quí vị sẽ leo lên lưng lạc đà và quí vị sẽ cùng đi với đoàn quân.
Chờ tới khi chấm dứt việc thông dịch, tên chỉ huy ra một cái lệnh ngắn gọn, một tên da đen bước một bước về phía trước và giơ cao lên một thanh gươm mũi cong, dài. Anh chàng thông ngôn co dúm người lại như một con thỏ khi trông thấy một con chồn đen và y lại phủ phục xuống trên bãi cát.
"Việc gì xảy ra vậy, Cochrane?" Ce¬cil Brown hỏi. Quả thực viên đại tá đã từng phục vụ ở Đông Phương và ông là người duy nhất trong bọn du khách đã có một vài hiểu biết về tiếng Ả Rập.
- Theo chỗ mà tôi hiểu được thì hắn ta nói giữ lại mạng sống của anh thông ngôn thật là vô ích, vì không có ai quan tâm tới chuyện trả tiền chuộc cho anh ta, và anh ta lại quá mập để làm một tên nô lệ tốt.
"Rõ tội nghiệp!" Brown kêu lên "Này, Cochrane, hãy nói với bọn chúng tha mạng cho anh ta. Chúng ta sẽ không để cho anh ấy bị sát hại trước mắt chúng ta chứ? Báo cho chúng biết là chúng ta sẽ gom góp tiền bạc trong chúng ta. Tôi đồng ý với bất cứ một số tiền phải chăng nào".
"Tôi cũng tham gia cho tới giới hạn các khả năng của tôi". Bel¬mont la lớn.
"Chúng ta sẽ ký một tờ bảo chứng", ông luật sư nói. "Nếu tôi có được một tờ giấy và một cái bút chì, tôi sẽ thảo văn bản trong một lát, và tên chỉ huy này sẽ có thể tin vào hiệu lực của nó".
Nhưng tiếng Ả Rập của ông đại tá còn kém quá và chính Man¬soor thì lại quá hoảng sợ không còn hiểu được cái đề nghị mà anh ta là đối tượng. Tên da đen nhìn lão chỉ huy để hỏi ý kiến, rồi cái tay dài thòng, đen đúa của y dãn ra. Nhưng anh chàng thông ngôn gào lên một câu làm nhát chém ngừng lại, tên chỉ huy và gã phụ tá bước tới gần hắn. Những tên khác làm thành một vòng tròn chung quanh con người đang phủ phục van xin lòng thương.
Ông đại tá không hiểu nguyên do của sự thay đổi đột ngột này, nhưng một bản năng đã cảnh báo Stephens làm ông tái mét đi vì hoảng sợ.
"Ôi đồ khốn kiếp! " ông la lớn mặt tái nhợt đi. "Câm miệng mi lại, đồ khốn nạn! Im miệng đi! thà rằng chết... Phải, chết một ngàn lần!"
Đã quá trễ rồi. Những du khách đã đoán ra với phương sách đê tiện nào tên hèn nhát hy vọng cứu vãn mạng sống của hắn; hắn sẽ tiết lộ những người đàn bà. Họ nhìn tên chỉ huy, mà nét mặt để lộ ra sự khinh bỉ của một con người dũng cảm, ra một dấu hiệu cao ngạo
tỏ sư ưng thuận; rồi Man¬soor nói một cách vội vã trong lúc chỉ lên đỉnh núi! Theo một hiệu lệnh của tên chỉ huy, hơn mười tên chiến binh leo lên con đường nhỏ và trở lại chỗ nền phẳng; tới đó các du khách không còn nhìn thấy chúng nữa, họ nghe thấy một tiếng kêu sắc nhọn, một tiếng gào thét kéo dài của sự kinh ngạc và khủng khiếp. Một vài lát sau bọn man rợ tái hiện, chúng đi vây quanh hai người đàn bà. Sa¬dle là người có đôi chân nhanh nhẹ nên đi xuống sườn đồi cùng với những tên đi đầu và cổ vũ người cô bằng cách quay đầu nhìn lại phía bà ấy! Người con gái già vùng vẫy chống cự giữa bọn chiến binh mặc đồ trắng, nàng có dáng điệu một con gà nhép bị lôi ra khỏi ổ.
Cặp mắt đen của tên chỉ huy, thản nhiên trước cảnh tượng của cô Adams, nhưng lại bốc lửa lên khi y nhìn thấy cô thiếu nữ. Theo lệnh của y, các tù nhân được dẫn tới chỗ những con lạc đà đang quì gối. Họ đã bị lục soát, các vật dụng trong túi họ được ném vào một cái bao mà Aail Wad Ibrahim đã tự tay mình lấy dây buộc lại.
"Này Cochrane" Bel¬mont thì thầm nói. "chúng đã không phát hiện được khẩu súng lục nhỏ mà lúc nào tôi cũng mang trong người. Nếu tôi bắn hạ tên không ngôn khốn kiếp kia về tội đã tố cáo các phụ nữ có được không?"
Ông đại tá lắc đầu.
"Tốt nhất là ông hãy giữ nó đấy". Ông trả lời với một giọng ảm đạm "Các phụ nữ sẽ có thể rất cần tới nó trước khi kết thúc mọi chuyện này!".
Chương 05
Những con lạc đà lông trắng hay màu hạt dẻ đang quì gối thành một hàng; những quai hàm của chúng luôn động đậy để nhai một cách nhịp nhàng và những cái đầu diễm lệ của chúng quay về bên phải hay bên trái với một bộ điệu õng ẹo. Đó là đặc điểm của phần lớn những con vật cao quí, là những con vật chính cống để chạy ở nước Ả Rập, chúng có những cái chân mảnh dẻ và cái cổ nhỏ là những thứ chứng thực cho chủng loại của chúng. Nhưng chúng cũng được kèm theo một vài con vật chậm chạp hơn, năng nề hơn, được nuôi nấng tồi tệ và trên da những con vật này ta còn nhìn thấy những vết sẹo đen của những trận đánh nhau từ trước. Lúc đi thì chúng chuyên chở lương thực và những túi da đựng nước uống của bọn kẻ cướp, được trút bỏ các vật nặng trên mình, các vật này được san sẻ ngay cho những con lạc đà khỏe mạnh, chúng lặng lẽ tiếp nhận những tù nhân. Chỉ có một mình ông Stu¬art là bị trói tay thôi : bọn người Ả Rập đã biết rằng đó là một giáo sĩ và vốn có thói quen liên kết tôn giáo với bạo lực, chúng thấy cơn nóng giận của ông là hoàn toàn bình thuờng thôi, tuy nhiên chúng đã coi ông như một kẻ nguy hiểm nhất và liều lĩnh nhất trong toán tù nhân của chúng. Ngược lại, những người khác không phải là đối tượng của một biện pháp phòng ngừa nào, hơn nữa sự chậm chạp của những con vật họ cưỡi sẽ ngăn cản mọi hy vọng đào thoát của họ. Trước những lời quát tháo của bọn Ả Rập, những con lạc đà đứng lên và đám rước dài chuyển động, quay lưng về phía con sông hiền hậu, đám rước hướng về phía đám sương mù tím lóng lánh bao quanh bãi sa mạc vừa rùng rợn vừa xinh đẹp, với màu sắc sặc sỡ như một tấm da cọp có màu đen và vàng ửng.
Đại tá Cochrane là người duy nhất trong đám du khách đã từng nếm mùi di chuyển trên lưng lạc đà. Những người bạn đường của ông thấy mình bị nhấc bổng lên khá cao bên trên mặt đất, với sự lắc lư quái dị của con vật, cộng với sự thiếu vững vàng của cái yên làm họ nôn mửa, và sợ hãi. Nhưng sự khó chịu về thể xác này không thấm thía gì so với cơn lốc trong đầu óc họ, một cái vực thẳm vừa được đào ra giữa quá khứ và hiện tại của họ. Được đào ra một cách mau lẹ quá, bất ngờ quá! Trước đây chưa đầy một giờ họ còn ở trên đỉnh núi Abousir cười nói huyên thuyên hay càu nhàu với sự nóng bức hay lũ ruồi. Head¬ing¬ly đã công kích dữ dội những màu sắc thái quá của tạo hóa, làm sao mà có khi nào họ sẽ quên được sự tái nhợt của đôi má của ông ấy khi ông ấy bị đánh chết nằm bất động trên núi đá đen xì? Sadic đã thuyết giảng về những chiếc áo dài và những quần áo, lúc này thì nàng đang bám chặt lấy cái núm của cái yên bằng gỗ, gần như phát điên cuồng, với tất cả hy vọng chỉ còn là ngôi sao đỏ của sự tự sát đang mọc lên trong bộ não non trẻ của nàng. Về lòng nhân đạo, về sự hợp lý, về cách lập luận, những điểm đó không còn là vấn đề nữa: chỉ có sự hạ nhục phũ phàng của bạo lực là còn lại. Trong lúc này tàu thủy của họ đang đậu phía sau mỏm đá thứ nhì, đang đợi họ ở nơi đó, tàu thủy của họ, những căn phòng của họ, quần áo tinh khiết, những cái cốc óng ánh, quyển tiểu thuyết sau cùng hợp thời trang, những tờ báo ở Luân Đôn. Họ không cần phải có một cố gắng lớn lao về trí tưởng tượng để hình dung ra cái lều vải trắng, bà Shlesinger dưới cái mũ màu vàng của bà ấy, và bà Bel¬mont nằm duỗl dài trên cái ghế dài! Phải, nó gần như hiện ra trong tầm mắt của họ, cái mảnh nhỏ bé đang nổi bập bềnh này của tổ quốc họ, và cứ mỗi bước chân không đều đặn, lặng lẽ là những con lạc đà lại làm cho họ cách xa con tàu một cách tuyệt vọng. Ngay cả buổi sáng hôm ấy, hình như đấng tối cao đã tỏ ra tốt bụng với họ! Và đời sống thoải mái biết bao! Có thể là hơi nhàm một chút, nhưng rất thư thái, rất an nhàn, còn bây giờ thì...
Cái khăn đỏ, những cái áo với nhiều mảnh chắp nối, những đôi giày vàng đã báo cho ông đại tá biết rằng những người này không hợp thành một bọn cướp của dân du mục, mà chúng thuộc về đạo quân chính qui của Quốc Vương. Càng đi vào sâu trong sa mạc, chúng càng tỏ ra là chúng có một kỷ luật thô bạo cần thiết cho nhiệm vụ của chúng. Cách môt ngàn năm trăm mét về phía trước và ở mỗi bên sườn, những tên xích hầu của chúng lặn vào và lại hiện ra ở giữa những cồn cát vàng. Ail Wad lbrahim dẫn đầu đoàn người, viên phụ tá của hắn chỉ huy toán hậu vệ. Đám rước kéo dài trên hai trăm mét, với nhóm nhỏ những tù nhân ở quãng giữa. Vì bọn Ả Rập không tìm cách cách li họ với nhau, ông Stephens đã có thể lướt con lạc đà của ông vào giữa những con lạc đà của hai cô gái.
"Chớ nản lòng, cô Adams ạ!" ông nói. "Rõ ràng đây là một sự lăng nhục không thể tha thứ được, nhưng không nghi ngờ gì là sẽ có những biện pháp thích ứng để dàn xếp công việc. Tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ không phải chịu đựng một thứ gì trầm trọng hơn là một vài sự bực bội tạm thời. Nếu không có tên đạo tặc Man¬soor, thì không ai phát hiện ra các cô!".
Chỉ trong thời gi¬an một giờ đồng hồ cô gái già ở thành phố Boston đã thay đổi một cách đáng thương: cô đã trở thành một bà lão rất già. Cặp má nâu của cô hõm xuống, cặp mắt cô long lanh một cách dữ tợn và không ngừng nhìn vào Sadie với sự lo sợ, những tai hoạ thường thường gây ra các kỳ tích của sự bất tư kỷ: tất cả những con người này đang đi tới số mạng của họ, đều đã vứt bỏ tất cả sự phù phiếm, tất cả lòng vị kỷ, mỗi người chỉ nghĩ tới người khác. Sadie thì nghĩ tới bà cô của nàng, bà này lại nghĩ tới Sadie. Bọn đàn ông nghĩ tới những phụ nữ, Bel¬mont nghĩ tới bà Bel¬mont, nhưng ông cũng nghĩ tới việc khác nữa, vì ông đã dẫn con lạc đà của ông tới độ cao bằng con lạc đà của cô Adams.
"Tôi có một điều muốn nói với cô" , ông thầm thì nói. "Chúng ta có nguy cơ là sắp phải xa nhau, do đó ta nên thực hiện những sự xếp đặt mà không để mất thì giờ".
"Xa nhau!" cô Adams rên rỉ.
- Nói nhỏ chứ, vì cái thằng quỉ Man¬soor kia có thể phản bội chúng ta một lần nữa. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không phải xa nhau, nhưng đó là một việc có thể xảy ra. Chúng ta phải chuẩn bị cho sự tệ hại nhất. Thí dụ chúng sẽ có thể quyết định trừ khử những đàn ông và giữ các cô lại.
Cô Adams rùng mình:
- Tôi phải làm gì? Cầu xin Thuợng đế, ông hãy nói cho tôi biết là tôi phải làm gì, ông Bel¬mont! Tôi là một phụ nữ già, tôi đã sống. Nếu chỉ có một mình tôi bị liên luỵ tôi sẽ có thể chịu đựng tất cả. Nhưng còn Sadie! Tôi đã hoàn toàn phát điên lên khi tôi nghĩ tới nó, mẹ nó đang chờ nó ở nhà, và tôi thì...
Cô chắp hai bàn tay nhỏ nhắn, gầy gò vào nhau trong một sự lo âu không thể diễn tả được.
"Hãy luồn một tay vào trong áo choàng của cô", Bel¬mont nói trong khi cho con lạc đà của ông đứng sát vào con lạc đà của cô gái già người Mỹ. "Chớ để nó rơi mất. Đó! Bây giờ hãy giấu nó bên trong áo dài của cô. Cô sê luôn luôn có một cái chìa khóa để mở cho cô bất kỳ một cái cửa nào".
Cô Adams sờ vào cái vật mà ông ta mới đưa cho cô và thoạt đầu cô nhìn ông với sự kinh hoàng. Rồi cô cắn môi và lắc cái đầu khắc khổ của cô với sự bất đồng ý. Cuối cùng thì cô nhét khẩu súng nhỏ dưới áo dài của cô, và cô tiếp tục tiến lên, tâm hồn trong một cơn bão tố. Có phải đúng là cô ấy không, cô Eliza Adams ở Boston, người đã sống một cuộc đời chật hẹp nhưng sung sướng giữa căn nhà êm ấm của cô ở Đại lộ Com¬mon¬wealth và giáo đường trưởng lão phái ở Tremont không? Kia kìa, cô đang ngồi chót vót trên một con lạc đà, bàn tay úp chặt trên một cái báng súng lục, và đang cân nhắc trong đầu sự biện minh cho một vụ sát nhân. Hỡi ôi cõi đời, cõi đời phản phúc, làm thế nào để đặt lòng tin vào mi? Khi mi phô bày những bộ mặt tồi tệ của mi với chúng ta thì chúng ta có thể đối phó được, nhưng khi mà mi làm ra bộ dịu dàng nhất và trơn tru nhất là khi mà chúng ta phải e sợ mi nhiều hơn.
"Cô Sadie ạ, cùng lắm thì chỉ là vấn đề tiền chuộc thôi", Stephens nói trong khi diễn tả sự trái ngược với điều mà ông đang thật sự suy nghĩ. Ngoài ra chúng ta vẫn còn ở rất gần Ai Cập và ở xa xứ sở bọn thầy tu Hồi giáo. Cô có thể tin chắc rằng sự truy lùng sẽ được thực hiện một cách ráo riết. Điều cần thiết là cô phải cố sức đừng để mất lòng can đảm, và phải hy vọng rằng mọi sự rồi sẽ qua đi một cách tốt đẹp".
"Không, ông Stephens ạ, tôi không sợ!" Sadie trả lời trong lúc quay về phía ông một bộ mặt trắng bệch, sự kiện này đã phủ nhận những lời nói của cô. "Chúng ta đang nằm trong tay Thuợng đế, và chắc chắn là Ngài sẽ không độc ác với chúng ta. Khi các sự việc diễn tiến tốt đẹp thì người ta dễ dàng nói chắc rằng người ta tin tưởng ở Ngài, nhưng bây giờ sự thử thách có tính chất quyết định đang tới gần, nếu Ngài có ở trần cao kia, đằng sau khoảng trời xanh...
"Ngài ở trên cao kia!" một tiếng nói ở phía sau họ đáp lời. Đó là vị mục sư ở Birm¬ing¬ham, người vừa theo kịp nhóm họ. Hai bàn tay bị trói của ông bám chặt lấy cái yên và ông lắc qua, lắc lại cái thân hình béo xị ở mỗi bước đi của con lạc đà, máu chảy nhỏ giọt ở cẳng chân bị thương của ông, và những con ruồi bám chặt vào đó, ánh nắng thiêu đốt của sa mạc giội lên đầu ông vì trong lúc đánh lộn ông đã đánh mất cái mũ và cái dù của ông. Sự khởi dầu của cơn sốt nóng lạnh đã làm hơi ửng hồng cặp má đồ sộ xanh mét của ông, mắt ông long lanh, với các bạn đồng hành của ông thì bao giờ ông cũng có vẻ với tầm thuờng. Lúc này thì ông đã biến đổi, ông đã trở thành thanh khiết, linh diệu và hăng say. Ông đã trở thành dũng mãnh một cách quá kỳ lạ khiến cho chỉ cần nhìn vào ông mà những người khác cũng cảm thấy dũng mãnh hơn lên. Ông nói về sự sống và sự chết, về hiện tại và về những hy vọng về tương lai của họ, đám mây đen của sự khốn khổ của họ đã bắt đầu thủng rách và để một tia ánh sáng lọt qua. Ce¬cil Brown nhún vai, vì không phải chỉ trong một giờ đồng hồ mà ông thay đối được các tín niệm của cả đời ông, nhưng số người còn lại của cái nhóm nhỏ này, kể cả Fardet, đều cảm thấy động tâm và tăng thêm nghị lực. Mọi người đều bỏ mũ ra khi ông cầu nguyện. Ông đại tá lấy khăn quàng cổ bằng lụa đỏ của mình làm ra môt cái khăn đội đầu và nài nỉ ông Stu¬art hãy quấn nó lên đầu. Với bộ y phục tăng lữ và cái khăn sặc sỡ này, trông ông giống như một người nghiêm nghị mà lại hóa trang để đùa với lũ trẻ con.
Rồi sự hành hạ bất khả kháng của sự khát nước tới góp thêm vào với những cơn nôn mửa do bước đi của những con lạc đà gây ra, nắng như thiêu đốt; ánh nắng phản chiếu trên bãi cát vàng; cánh đồng rộng lớn sáng long lanh đến độ mà họ có cảm tưởng là cỡi ngựa đi
trên một lớp kim loại đang bị nung chảy thành chất lỏng. Môi họ khô queo như bị nóng cháy, và lưỡi họ thì như là một tiếng da khô. Khi họ nói chuyện với nhau, họ nói một cách cứng đơ kỳ quặc vì họ chỉ phát âm được các nguyên âm là không cần cố gắng thôi. Cô Adams
cúi đầu xuống, cái mũ lớn đã che khuất bộ mặt của cô.
Sadie nói:
- Cô tôi sẽ ngất xỉu nếu người ta không cho cô ấy uống nước. Ông Stephens ơi, chúng ta không thể làm được một việc gì cả à?
Bọn thầy tu Hồi giáo đang ở gần đó đều là bọn bagar¬ras, ngoại trừ một tên da đen mà bộ mặt còn mang dấu vết của một bệnh đậu mùa mới lành. Hắn có vẻ ít hung ác hơn lũ bạn người Ả Rập của hắn, do đó Stephens đã đánh liều chạm vào khuỷu tay hắn và lần lượt chỉ cho hắn cái túi da đựng nước và cô gái già. Tên da đen lắc đầu một cách không đồng ý, nhưng hắn ném một cái nhìn đầy ý nghĩa vào những tên Ả Rập như thể muốn nói rằng nếu không có chúng ở đó thì hắn sẽ xử sự một cách khác. Rồi hắn đặt ngón tay trỏ đen đúa của hẳn lên ngực hắn.
"Tip¬py Tilly" hắn nói.
"Là cái gì?" đại tá Cochrane hỏi.
"Tip¬py Tilly" , tên da đen nhắc lại, hạ thấp giọng như thể hắn không muốn để cho lũ bạn của hắn nghe thấy.
Ông đại tá lắc đầu.
"Rõ ràng là tiếng Ả Rập của tôi quá tệ. Tôi không hiểu hắn muốn nói gì", ông càu nhàu.
"Tip¬py Tilly. Hicks Pacha", tên da đen nhắc lại.
"Tôi nghĩ rằng hắn không muốn làm hại chúng ta, nhưng tôi không hiểu một tiếng nào trong ngôn ngữ của hắn", ông đại tá nói với Bel¬mont. "Ông không nghĩ rằng hắn muốn nói tên hắn là Tip¬py Tilly và hắn đã giết chết Hicks Pacha chứ?"
Tên da đen nhe những cái răng lớn, trắng ởn ra khi hắn nghe thấy nhắc lại những từ mà hắn đã dùng.
Hắn nói:
- Ai¬wa, Tip¬py Tilly, Bim¬bashi Mormer... Boum!
"Đúng rồi! tôi hiểu rồi"' Bel¬mont nói lớn. Hắn cố sức nói tiếng Anh Tip¬py Tilly, đó là gần như tiếng pháo binh Ai Cập. Hắn đã phục vụ trong pháo binh Ai Cập dưới quyền Bim¬bashi Mor¬timer. Hắn đã bị bắt làm tù binh khi Hicks Pacha bị tiêu diệt và hắn đã trở thành thầy tu Hồi giáo để giữ lấy mạng sống của hắn. Hãy hỏi hắn xem tôi có lầm không!".
Ông đại tá nói vài tiếng và nhận được một câu trả lời nhưng hai tên Ả Rập tiến lại gần, tên da đen im tiếng và thúc lạc đà bước nhanh.
"Ông nói đúng", ông đại tá nói. "Tên da den này không muốn làm hại chúng ta một chút nào, và hắn thích chiến đấu cho Phó Vương Ai Cập hơn là cho Quốc Vương. Tôi không biết là bằng cách nào hắn sẽ có thể giúp đỡ chúng ta, nhưng tôi đã từng ở trong những tình thế tệ hại hơn trong hợp này, tuy nhiên tôi vẫn thoát nạn được. Tóm lại, không phải là chúng ta đã ở ngoài tầm tấn kích, và những người truy kích còn có thể bắt kịp chúng ta trong bốn mươi tám giờ nữa ".
Bel¬mont làm những con toán với sự chính xác thường lệ của ông.
"Khi chúng ta ở trên núi thì vào khoảng gần trưa", ông nói. "Ở trên tàu người ta bắt đầu lo lắng khi thấy chúng ta không trở về vào lúc hai giờ"
"Đúng", ông đại tá ngắt lời. "Chúng ta phải ăn điểm tâm lúc hai giờ. Tôi nhớ rằng tôi đã nói là khi trở về tôi sẽ uống rượu... Ồ, lạy Chúa, tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó nữa!".
"Viên thiếu tá là một ông già nhu nhược", Bel¬mont nói tiếp. "Nhưng tôi có lòng tin tuyệt đối vào sự mẫn nhuệ và tinh thần cương quyết của vợ tôi. Bà ấy sẽ đòi phải ban hành lệnh báo động. Giả thiết là họ đã lên đường lúc hai giờ rưỡi, thì họ sẽ tới Oua¬di-Hal¬fa lúc ba giờ, vì họ di theo dòng nước. Phải mất bao nhiêu thì giờ để cho đoàn quân cỡi lạc đà rục rịch di chuyển?".
- Ta hãy tính là một giờ đi.
- Thêm vào một giờ để chúng qua sông. Chúng sẽ tới núi Abousir vào lúc sáu giờ, và chúng sẽ thấy đường đi ngay tức thì. Vào lúc đó là sự truy lùng sẽ bắt đầu. Chúng ta chỉ đi trước có bốn giờ, và trong những con lạc đà này một vài con đã mệt lử. Chúng ta còn có thể
được giải thoát, Cochrane ạ !
- Phải, có thể một vài người trong bọn chúng ta. Nhưng tôi không nghĩ rằng ông mục sư còn sống đuợc tới sáng mai, cả cô Adams nữa. Không phải họ được sinh ra cho cái loại phiêu lưu, mạo hiểm này. Hơn nữa, chớ quên rằng bọn người này thường có thói ám sát các tù
nhân khi những người này tìm cách trốn khỏi tay chúng. Bel¬mont này, trong trường hợp mà ông thoát hiểm, chớ không phải là tôi, tôi có một vấn đề để áp mà tôi sẽ nhờ ông thanh toán thay tôi.
Họ tiến lại gần nhau để nói rõ hơn về các chi tiết của công việc.
Tên da đen tự đặt tên mình là Tip¬py Tilly đã tìm cách lén đưa một mảnh vải ướt sũng nước vào tay ông Stephens và cô Adams có thể làm ướt cặp môi. Một vài giọt nước này đã ban cho cô một sức mạnh mới, một khi qua khỏi sự chấn động đầu tiên, cái bản chất hăng hái, dẻo dai của cô lại y nguyên như trước.
"Ông Stephens này, những người này không có vẻ muốn làm hại chúng ta", cô nhận xét. "Họ phải có một tôn giáo giống hệt như chúng ta; chắc chắn là họ cũng thấy là xấu những gì mà chúng ta coi là xấu...".
Stephens lắc đầu không trả lời. Ông đã chứng kiến sự tàn sát những tên dắt lừa, việc mà cô gái già người Mỹ không nhìn thấy.
"... có lẽ" cô nói tiếp, "chúng ta được cử tới chỗ họ để dẫn dắt họ theo một con đường tốt hơn. Có lẽ chúng ta được cử ra để hoàn thành một công trình tốt đẹp trong nước họ".
Nếu cô cháu gái không có mặt tại đó thì cái tính tình dũng cảm, táo bạo của cô đã tìm được sự ủy lạo trong cái khả năng thực hiện một cuộc truyền giảng phúc âm rực rỡ ở Khar¬toum, hay sự biến đổi Om¬dur¬man thành cái mẫu nhỏ của một thành phố ở Nou¬velle-An¬gleter¬ru với những đại lộ rộng lớn.
"Cô có biết cháu đang không ngừng nghĩ tới một điều gì không?" Sadie hỏi. "Cô có nhớ tới ngôi đền mà chúng ta đã xem vào lúc nào nhỉ? Phải rồi, đó là vào sáng hôm nay!"
Cả ba người đều thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc. Phải, họ đã xem ngôi đền đó ngay buổi sáng hôm nay, vậy mà ký ức hình như xuất hiện từ một quá khứ xa xôi, mờ mịt, biến cố xảy ra trong đời họ càng đột ngột và sâu đậm, thì những ý nghĩ của họ càng đi theo một chiều huớng khác biệt. Họ ngồi trên lưng lạc đà di chuyển trong sự yên lặng, cho tới lúc Stephens nhắc nhở Sadie là nàng chưa nói hết câu nói của nàng.
- À phải! Tôi muốn nói về những hình chạm nổi ở ngôi đền. Ông có nhớ đoàn tù nhân khốn khổ bị kéo lê dưới chân vị Đại Vương không? Và hình như họ bị hạ sát giữa bọn chiến binh dẫn giải họ thì phải? Ai có thể nghĩ rằng chưa đầy ba giờ nữa chúng ta sẽ gặp cùng một
số phận như vậy! và ông Head¬ing¬ly ...
Nàng lấy tay che mặt và khóc òa.
"Sadie, cháu đừng buồn tủi như thế!" người cô thì thào nói. "Cháu có nhớ những điều mà ông mục sư đã nói không, tất cả chúng ta đều nằm trong lòng bàn tay của thượng đế. Ông Stephens, ông nghĩ rằng chúng sẽ dẫn chúng ta tới đâu?"
Cái mép đỏ của cuốn sách chỉ nam còn thò ra trên cái túi của ông luật sư, vì bọn người dã man đã không cho nó là đáng quan tâm. Ông vuốt ve nó bằng một cái nhìn.
- Nếu chúng để tôi giữ nó cho tới chặng dừng chân sau tôi sẽ chỉ cho cô xem vài trang. Trong khi chờ đợi tôi có một kiến thức tổng quát về nước này, vì hôm kia tôi đã vẽ một bản đồ nhỏ. Sông Nil chảy từ Nam tới Bắc. Vậy là chúng ta phải đi thẳng tới phía Tây. Tôi cho là khi đi dọc theo quá gần bờ sông chúng sợ bị truy kích. Tôi nhớ là có một con đường cho các đoàn xe, con đường này chạy song hành với sông Nil, vào khoảng một trăm cây số ở bên trong đất liền. Nếu chúng ta tiếp tục đi theo huớng này trong một ngày nữa thì chúng ta sẽ gặp con đường đó. Nếu tôi không lầm thì nó chảy ngang qua một dãy giếng nước khởi đầu từ Asslout, về phía Ai Cập, để chảy tới mạn bên kia trong lãnh thổ của bọn thầy tu Hồi giáo, cũng có thể...
Ông bị cắt ngang bởi một giọng nói sắc nhọn bất thần tuôn ra một tràng những từ ngữ không có mạch lac, mà cùng chẳng có ý nghĩa. Hai má của ông Stu¬art trở nên đỏ hồng, cặp mắt thất thần của ông sáng rực và vừa di chuyển trên lưng lạc đà, ông vừa nói những lời lảm nhảm không ai hiểu được. Đấng tạo hóa từ mẫu! Ngài không để cho lũ con của ngài phải chịu đựng quá nhiều sự hành hạ. "Thế là đủ rồi! ngài nói. Cái chân bị thuơng này, những cái vảy trên môi này, sự kinh sợ này, sự chán chường này... Này, hãy thoát ra một chốc lát, cho tới khi thể xác người lại trở thành nơi cư ngụ được!" Và ngài dẫn dắt linh hồn vào cảnh Nát bàn của sự nhiệt cuồng, trong lúc các tế bào chỉnh trang vá víu bên trong ngõ hầu mọi thứ được ở tình trạng hoàn hảo hơn để đón linh hồn trở về. Khi bạn nhìn thấy tấm màn của sự hung ác mà tạo hóa dựng lên, thì bạn hãy cố gắng kéo nó lên, khi đó bạn sẽ kinh ngạc phát hiện ra một bộ mặt khả ái và rất từ bi.
Bọn Ả Rập quan sát cơn đột biến bất ngờ của ông mục sư với vẻ hoài nghi, thật ra nó đi gần tới chỗ điên cuồng mà đối với họ bệnh điên là một điều siêu nhiên và đáng sợ. Một tên trong bọn chúng tách khỏi hàng để đi nhận lệnh của tù trưởng. Khi hắn trở lại, hắn nói với những tên bạn của hắn, rồi hai tên Ả Rập đi vây quanh gần con lạc đà của ông mục sư để giữ cho ông này khỏi ngã. Anh chàng da đen tốt bụng lướt tới bên ông đại tá và nói thì thầm vào tai ông hai hoặc ba câu.
"Bel¬mont này, chúng ta sắp dừng chân đó" , Cochrane loan báo.
- Cám ơn Thượng đế! Chúng sẽ cho bọn ta uống nước. Chúng ta không thể tiếp tục như thế này!
Tôi đã nói với Tip¬py Tilly là nếu y giúp đỡ chúng ta, chúng ta sẽ cho y làm bim¬bashi khi chúng ta đưa y trở lại Ai Cập. Tôi nghĩ là y không đòi hỏi gì hơn đâu, mà y cũng sẽ phải có quyền hành chứ. Này Bel¬mont, hãy quay đầu lại và nhìn con sông kìa!
Cho tới lúc này con đường của họ đã đi qua một khoảng bãi cát có rải rác những núi đá với các sông núi đen xì và lởm chởm; bây giờ thì nó chạy tới một cánh đồng khô cằn, chia thành nhiều thung lũng, phủ đầy những đá cuội tròn vo, những đợt sóng trập trùng lên xuống của địa hình kéo dài tới những ngọn đồi tím ngắt tận chân trời; chúng đều đặn quá, dài quá, nâu quân, khiến ta có thể tưởng chúng là những đợt sóng tối om của một cơn sóng khổng lồ đã bị đông đặc lại. Thỉnh thoảng một túm cỏ xanh nhỏ bé của lạc đà mọc lên giữa những tảng đá. Phía trước các tù nhân, không còn gì khác ngoài cái cánh đồng màu nâu và những ngọn đồi màu tím này. Đằng sau họ, trước hết là những núi đá lởm chởm đen xì mà họ vừa đi qua với những thung lung cát vàng ối, nhưng xa hơn, xa hơn rất nhiều, một đường màu xanh nhỏ nhắn chỉ rõ dòng sông Nil. Bên cạnh sự đơn điệu hoang dã này, đối với họ màu xanh lục ấy có vẻ tươi mát và kỳ diệu biết bao! Họ cũng nhận ra ngọn núi cao Abousir, ngọn núi mắc dịch đã gây ra sự tổn thất của họ. Ở đằng xa kia, con sông vạch ra những khúc quanh co óng ánh của nó. Ôi, cái thứ chất lỏng long lanh này. Ôi, những bản năng thô cục, sơ khai đã trỗi dậy ngay trong tâm hồn họ! Họ đã đánh mất gia đình, đánh mất tổ quốc, đánh mất tự do, nhưng họ đã quên tất cả để chỉ còn nghĩ tới thứ nước này. Trong cơn mê sảng, ông Stu¬art kêu lớn đòi những quả cam, nghe tiếng ông kêu thật là rùng rợn. Chỉ có một mình anh chàng thô lỗ người Ái Nhĩ Lan là vượt được lên trên con thú vật: cái đoạn sông mà ông đang ngắm chắc phải ở gần Oua¬di-Hal¬fa và chắc chắn là vợ ông đang ở chỗ đó. Ông kéo chụp mũ xuống bên trên mắt và miệng nhằn sợi râu mép đã bạc.
Mặt trời chậm chạp ngả về phương Tây, bóng của họ kéo dài ra trên con đuờng hẹp. Trời đã mát hơn, gió sa mạc đã nổi lên và thổi vi vu bên trên cánh đồng. Tên tù trưởng gọi tên phụ tá, cả hai đều nhìn kỹ các nơi phụ cận, lấy bàn tay che lên hai mắt, chắc chắn là chúng đang tìm một nơi để nghỉ chân. Rồi, thốt lên một tiếng gầm gừ thỏa mãn, con lạc đà của tên chỉ huy quì xuống trên các đầu gối, rồi tới trên các cổ chân và để bụng của nó lên mặt đất. Tất cả những con lạc đà đi tới chỗ cao của nó đều bắt chước nó, và đều nằm xuống trên cùng một hàng ngang. Các kỵ binh đặt chân xuống đất và bày ra trước mắt những con lạc đà các thức để ăn, nhưng trên các miếng vải, vì một con lạc đà giống tốt không bao giờ ăn trên mặt đất ngay chỗ nó đứng. Trong những con mắt hiền lành của các con vật, trong cung cách điềm tĩnh khi ăn, trong điệu bộ khoan đại của chúng, có một thứ gì là duyên dáng, là thuộc vẻ nữ tính: chúng gợi ra một cách không thế chối cãi được hình ảnh một buổi cắm trại của những cô gái già ở giữa bãi sa mạc của nước Libye.
Những tù nhân được để tự do trong các cử động của họ, làm sao mà họ có thể nghĩ tới việc đào thoát ở giữa cánh đồng bao la này? Tên tù trưởng bước lại gần, nhìn họ với những con mắt hắc ám, trong khi lấy các ngón tay chải chòm râu của y. Trong lúc run lẩy bẩy, cô Adams phát hiện ra là cái nhìn của tên chỉ huy quay trở lại dính chặt vào Sadie. Rồi, thấy rõ tình cảnh thể chất của họ, y phát ra một mệnh lệnh, một tên da đen mang tới một túi nước và rót cho mỗi người một nửa chén. Nước thì nóng, đầy bùn, nó có mùi vị của da thuộc, nhưng với khẩu-cái khô queo của họ, nó có vẻ ngon ngọt biết bao!
Tên tù trưởng nói một vài tiếng khô khan với gã thông ngôn rồi đi khỏi.
"Thưa quí bà quí ông!... " Man¬soor bắt đầu. Hắn định tự ý lấy lại vẻ quan trọng của hắn, nhưng trước một thứ tia sáng nào đó trong cặp mắt của ông đại tá hắn khởi đầu một bài biện hộ dài cho cách cư xử của hắn. Hắn rên rỉ:
-... Làm thế nào mà tôi có thể hành động khác đi được, với lưỡi gươm kề vào cổ họng?
"Nếu một ngày nào chúng ta trở lại Ai Cập, tôi hứa là sẽ cho anh một sợi dây thừng quấn vào cổ?" ông đại tá làu bàu một cách hung hãn. Trong khi chờ đợi...
"Đúng lắm thưa ông đại tá!" Bel¬mont cắt ngang. "Nhưng vì lợi ích của bản thân chúng ta, chúng ta phải biết là tên chỉ huy đã nói những gì".
- Đối với riêng tôi, tôi không còn muốn dính líu gì với đồ chó má này nữa!
- Tôi nghĩ đó là ta đi quá xa rồi. Chúng ta không thể tự cho phép mình làm ngơ những điều mà tên chỉ huy đã nói.
Cochrane nhún vai. Những sự thiếu thốn, đói khát đã làm cho ông trở nên hay bực bội. Ông phải cắn môi lại để kìm lại một câu trả lời chua chát. Ông đi xa ra một cách thong thả.
- Tôi thấy rằng hắn có vẻ dễ chịu hơn trước đôi chút. Hắn nói rằng khi nào còn có nước thì các vị sẽ có phần của các vị, nhưng nước đã không có nhiều. Hắn cũng nói rằng ngày mai chúng ta sẽ tới các giếng nước ở Se¬limah, và rằng mọi người sẽ có nhiều nước để uống,
kể cả những con lạc đà.
- Hắn không nói rõ với anh là chúng ta sẽ ở lại nơi này bao lâu à?
- Một sự nghỉ chân rất ngắn, hắn nói với tôi, rồi sau đó lại lên đường! Ồ, ông Bel¬mont!...
"Im lặng!" anh chàng người Ái Nhĩ Lan càu nhàu nói. Bel¬mont lại bắt đầu tính toán những thời hạn và những khoảng cách. Nếu tất cả mọi việc đều diễn ra như đã dự trù, nếu bà vợ ông đã rũ sạch được sự biếng nhát của viên thuyền trưởng để cho sự báo động được ban hành ở Oua¬di-Haf¬fa, thì những người truy lùng đã được tung ra theo dấu vết của bọn họ. Đạo quân cưỡi lạc đà hay đoàn kỵ binh Ai Cập di chuyển tốt và nhanh dưới ánh trăng hơn là dưới ánh sáng mặt trời. Ông biết rằng ở Oua¬di-hal¬fa người ta có tục lệ là lúc nào cũng giữ ít nhất một nửa trung đội kỵ binh trong tình trạng báo động. Ông đã ăn uống thâu đêm suốt sáng ở câu lạc bộ, và các sĩ quan đã giảng giải cho ông biết cách thức mà bán trung đội ky binh này trong trường hợp khẩn cấp có thể đánh xuyên thẳng ngay tức thì. Họ đã chỉ cho ông thấy những nơi dự trữ nước, thức ăn làm sẵn ở bên cạnh mỗi con vật và ông đã cảm phục sự chu đáo dành cho các việc chuẩn bị này mà không lúc nào nghĩ rằng ông sẽ có thể cần tới chúng. Muốn cho cả một đội đến trú cùng di chuyển thì phải tính tới một giờ sớm sủa. Có thể là sáng ngày hôm sau...
Những sự suy tư của ông bị cắt ngang một cách thê thảm, vùng vẫy như một thằng điên, ông đại tá xuất hiện trên đỉnh một cồn cát ở gần nhất, với một tên Ả Rập đeo cứng ở mỗi cổ tay ông. Mặt ông đỏ bừng vì giận giữ và lo sợ.
"Lũ sát nhân khốn kiếp!" ông la lớn. "Bel¬mont ơi, chúng đã giết chết Ce¬cil Brown rồi!"
Đây là sự việc đã xảy ra. Trong con tức giận, ông đại tá đã đi tới ngọn đồi gần nhất, trong thung lũng nhỏ ông chợt nhìn thấy một toán lạc đà và nhiều người đang tức giận nói lớn tiếng. Brown đang đứng ở giữa đám chiến binh; ông xanh mét, có một cái nhìn nặng nề, nhưng lúc nào ông cũng xoắn bộ ria mép và ông giả bộ ra một tư thế lơ là. Ông đã bị lục soát, nhưng bây giờ chúng có vẻ quyết định lột hết quần áo của ông với hy vọng tìm ra một vật gì mà ông còn dấu diếm. Một tên da đen xấu xí với những chiếc khoen đeo tai, nhăn mặt một cách giận dữ trước vẻ mặt bất động của nhà ngoại gi¬ao trẻ. Trong thâm tâm của mình, ông đại tá cho sự trầm tĩnh không thể lay chuyển được này là phi nhân tính và anh hùng. Quần áo của Ce¬cil Brown đã bị cởi hết cúc, cái bàn tay kếch xù của tên da đen bay tới cổ ông ta và xé tung áo sơ mi của ông cho tới thắt lưng. Nghe tiếng rách soạt này và thấy sự đụng chạm của những ngón tay thô kệch đó, người thị dân này, cái sản phẩm hoàn thiện của thế kỷ thứ mười chín bèn đoạn tuyệt ngay với các nguyên tắc của ông: ông trở thành một tên man rợ trước mặt một tên man rợ khác. Mặt ông đỏ bừng, môi ông mím lại, răng ông nghiến kèn kẹt, mắt ông đỏ ngầu. Ông chồm lên tên da đen và đánh vào mắt y nhiều lần. Ông đánh như một cô con gái, cánh tay tròn trĩnh và bàn tay xòe ra. Thoạt đầu bị hoảng sợ vì cơn điên dại bất chợt đó, tên da đen lùi lại, rốt hắn bật ra một tiếng cười gằn, rút một con dao từ ống tay áo thùng thình của hắn ra và phạt từ dưới lên trên dưới cái cánh tay đang quay cuồng. Brown ngã người xuống và bắt đầu ho, ông ho như một người bị nghẹn trong bữa ăn, hết cơn này tới cơn khác, không thể ngừng được. Cặp má của ông mà sự phẫn nộ đã làm đỏ ửng đã dần dần phủ màu tái nhợt của chết chóc. Cổ họng ông để lọt ra vài tiếng "ong-óc". Ông đặt một bàn tay lên miệng và nằm lăn xuống. Tên da đen phát ra một tiếng gầm gừ khinh bỉ và nhét con dao vào tay áo trong lúc ông đại tá điên cuồng trong cơn thịnh nộ bất lực đã để cho lũ người đứng xem nắm lấy và dẫn trở lại chỗ các bạn đồng hành đang hoang mang của ông. Chúng trói tay ông lại và ông ngồi gần bên vị mục sư bất cần ước lệ lúc nào cũng mê sảng.
Như vậy là Head¬ing¬ly đã chết, và Ce¬cil Brown cũng đã chết. Những người sống sót nhìn nhau với những con mắt đờ đẫn, như thể cố sức dò tìm những quyết định của số phận và tiên đoán xem người nào trong bọn họ sẽ là nạn nhân sắp tới. Trong mười du khách thì hai người đã chết và một người điên. Nhất định là những ngày nghỉ của họ đã kết thúc rất tệ.
Fardet, anh chàng người Pháp ngồi riêng một mình. Ông tì cằm trên hai bàn tay và những khuỷu tay trên đầu gối ông đang ngắm nhìn bãi sa mạc. Đột nhiên Bel¬mont nhìn thấy ông ta giật nảy người và dỏng tai lên như một con chó nghe thấy tiếng bước chân của một kẻ lạ, Rồi, đan những ngón tay vào nhau, Farđet khom mình về phía trước và mắt nhìn ngấu nghiến những ngọn đồi đen xì ở mạn Đông mà họ vừa vượt qua, Bel¬mont trông theo hướng nhìn của ông ta, và... Đúng, đúng! một vật gì đang động đậy ở phía đó ? Kim loại lóng lánh, một cái áo trắng bay phấp phới, một tên thầy tu Hồi giáo đi tuần tra bên hông doanh trại quay con lạc đà của hắn trở lại hai lần ra hiệu báo động, rồi bắn một phát súng chỉ thiên. Trống vang của phát súng chưa tắt lịm hẳn mà tất cả những tên Ả Rập và tất cả những tên da đen đều đã nhảy lên yên và thúc những con lạc đà đứng dậy, chúng thong thả đi về phía mà lệnh báo động đã được phát ra. Nhiều người có võ trang vây quanh các tù nhân, không quên lắp những bì đạn vào những khẩu súng trường của chúng để khuyên họ hãy đứng yên.
"Lạy trời, đó là những người cưỡi trên lưng lạc đà!" Cochrane kêu lên, trong ông tất cả mọi ưu lo đều tan biến. "Chắc chắn là những người của chúng ta!"
Trong sự hoang mang đều khắp, ông đã tự cởi trói cho hai bàn tay.
"Tôi không tin rằng họ lại nhanh chóng đến như thế" Bel¬mont lẩm bẩm nói, hai mắt ông sáng rực lên. "Tôi không trông đợi họ ít nhất là trước hai hay ba giờ. Hoan hô ông Fardet, như thế tốt hơn, phải không ?"
"Hoan hô! Hoan hô! Tốt một cách kỳ diệu! người Anh muôn năm! người Anh muôn năm!" anh chàng người Pháp kêu to, toàn thân bị kích động.
Một đoàn lạc đà từ trong các núi đá mà ra.
"nghe đây, Bel¬mont" ông đại tá nói lớn, "Chắc chắn là lũ kẻ cắp này sẽ muốn hạ sát chúng ta nếu công việc của chúng không trôi chảy. Tôi biết phong tục của chúng, và chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng. Ông có muốn nhảy tới tấn công thằng chột mắt không? Tôi, tôi sẽ bắt thằng da đen cao lớn, nếu hai cánh tay tôi có thể ôm vòng thân mình nó. Stephens, ông sẽ làm việc gì ông có thể làm được. Còn ông, Fardet, ông đã hiểu lời tôi nói chứ? Phải hoàn toàn đặt những tên cướp này ra ngoài tình trạng làm hại chúng ta trước khi chúng có thể làm tổn thương chúng ta. Còn anh, anh thông ngôn, hãy nói cho hai người lính Soudan biết... nhưng, nhưng... "
Giọng ông trảm xuống, ông nuốt nước miếng.
" Đó là những tên Ả Rập" ông nói.
Và không ai nhận ra giọng nói của ông nữa.
Trong tất cả cái ngày khủng khiếp này, đây là lúc khủng khiếp nhất. Ông Stu¬art, con người vui vẻ, nằm dài trên những hòn đá sỏi, tựa lưng vào hông con lạc đà của ông và ông nín những tiếng cười nhỏ mỗi khi các tế bào bên trong người ông bận rộn một cách vui vẻ để tái lập trật tự trong thân thể ông. Bộ mặt hồng hào, tươi tắn của ông toát ra vẻ thánh thiện nhưng với những người khác sự tuyệt vọng thật vô cùng! những người đàn bà oà lên khóc thổn thức, những người đàn ông thì núp náu trong một sự yên lặng còn tệ hơn là khóc lóc. Ông Fardet thì khổ sở vì những cơn nấc cụt, ngã sụm xuống, mặt úp xuống đất.
Bọn Ả Rập bắn súng chỉ thiên để chúc mừng sự may mắn cho các bạn của chúng. Bọn này phi lạc đà chạy trên cánh đồng trống, đáp lại bằng những loạt súng và vung vẩy những cây giáo của chúng. Cái toán mới này không đông bằng toán thứ nhất; nó không có tới quá ba mươi ky binh, chúng mang cùng một thứ khăn đỏ và những chiếc áo chắp nối nhiều mảnh. Một tên trong bọn chúng vác một lá cờ trắng nhỏ có trang hoàng một bản văn thêu màu đỏ. Nhưng sự chú tâm của các du khách, bất thần bị lôi cuốn bởi một vật khác. Lòng họ có cùng một điều lo sợ như nhau, cùng một sự xung động đã chế ngự sự im lặng. Ở giữa đám chiến binh của sa mạc một bóng trắng lảo đảo trên một con lạc đà.
"Chúng có ai đi với chúng vậy?" cuối cùng Stephens nói lớn. "Hãy nhìn kìa, cô Adams! Ta phải nói đó là một phụ nữ!".
Quả thực một hình dáng người hình như được đặt trên một con lạc đà, nhưng khó mà đặt cho hình dáng đó một cái tên. Khi hai toán người gập nhau, những kỵ binh tan hàng. Lúc đó thì các tù nhân mới hiểu.
- Đó là một người đàn bà da trắng!
- Tàu thủy đã bị tấn công.
Bel¬mont thốt ra một tiếng kêu như xé rách màn đêm. Ông gào lên,
- No¬rah, em yêu của tôi! Chớ để mất lòng can đảm! Tôi ở đây và mọi sự đều tốt đẹp.
Chương 06
Thế là tàu Ko¬rosko đã bị tấn công và chiếm đoạt; do đó những cơ may giải cứu mà họ tính toán (tất cả những con toán phức tạp về giờ giấc và khoảng cách) cũng tỏ ra hư huyễn như một ảo ảnh. Sự báo động sẽ không được loan ra ở Oua¬di-hal¬fa trước khi các nhà chức trách thấy rằng con tàu đã không trở về trong buổi tối. Vậy thì vào giờ này của buổi hoàng hôn khi mà sông Nil chỉ còn là một cái dải mỏng màu xanh dương ở rất xa đằng sau họ, chắc chắn là sự truy lùng chưa khởi sự. Và chỉ một trăm năm mươi cây số nữa thôi. có thể còn ít hơn nữa. đã chia cách họ với xứ sở của bọn thầy tu Hồi giáo. Hầu như không còn chút hy vọng nào là các lực lượng Ai Cập kịp thời gặp được họ. Khi đó một sự chán nản âm thầm, ảm đạm đã chiếm ngự các tù nhân, ngoại trừ Bel¬mont mà bọn Ả Rập phải kiềm chế vì ông muốn chạy tới cứu vợ.
Hai đôi quân đã nhập lại với nhau. Lũ Ả Rập trao đổi những lời chào và lời tán tụng một cách nghiêm trọng và oai vệ, trong khi bọn da đen cười, la lối. nói huyên thuyên với sự vui tính hồn nhiên mà kinh Coran đã bất lực không cải tạo được. Tên chỉ huy của bọn mới tới là một ông già mũi to, khoằm và có chòm râu bạc. hình dáng gầy gò. khổ hạnh, thô lỗ, hung bạo, điệu bộ rất võ biền. Anh thông ngôn rên rỉ khi nhận ra ông ta. Y giơ hai tay lên trời và lắc đầu, rõ ràng là y đã phát hiện ra một viễn cảnh mới của những sự bực bội.
"Đó là tù trưởng Ab¬der¬rah¬man" y nói. "Bây giờ thì tôi sợ rằng khi tới Khar¬toum chúng ta không còn sống nữa!"
Chỉ có một mình đai tá Cochrane là biết hắn qua lời đồn đãi: hắn nổi tiếng là một con quái vật của sự tàn ác và cuồng tin. là một tên hồi giáo khùng điên, là một nhà truyền giáo và một chiến sĩ không bao giờ ngần ngại khi áp dụng những chủ thuyết hung tàn của kinh
Coran cho tới chung cuộc của chúng... Lão khởi đầu bằng việc chuyện trò với tù trưởng Wad Ibrahlm, những con lạc đà của chúng đứng sát vào nhau. Chòm râu đen hòa lẫn với chòm râu bạc. Rồi cả hai tên cùng quay nhìn về phía toán tù nhân khốn khổ. Tên đàn em cung cấp rất nhiều lời giảng giải cho tên lớn tuổi, tên này lắng nghe, vẻ nghiêm trọng và không mảy may xúc động.
"Cái ông già có bộ râu trắng là ai vậy?" Cô Adams hỏi, cô là người đầu tiên đã trấn tĩnh lại sau cơn thất vọng. "Ông ta có dáng điệu rất phi phàm".
"Đó là tên chỉ huy mới" Cochrane đáp.
- Ông không muốn nói là hắn có cấp bậc cao hơn tên kia chứ?
-"Có thưa cô" anh thông ngôn nói "Hiện nay hắn là vị chỉ huy tối cao"
- Được như thế càng tốt! Hắn làm tôi nhớ tới ông già Math¬ews của giáo hội trưởng lão vào thời mục sư Scott. Cái lão chỉ huy có bộ râu đen và cái nhìn sáng rực như than hồng không nói với tôi một điều gì có giá trị cả. Sadie này, cháu cưng của cô. cháu cảm thấy dễ chịu hơn với sự mát mẻ phải không?
- Vâng thưa cô. Xin cô chớ bận tâm tới chuyện của cháu, chính cô, thì cô cảm thấy thế nào?
-Thực ra cô nhiều tin tưởng hơn lúc nãy. Cô đã cho cháu một tấm gương xấu Sadie ạ, cô đã bị hoàn toàn choáng váng bởi sự đột ngột của tất cả cuộc phiêu lưu này, rồi cô nghĩ tới mẹ cháu. Bà ấy đã gi¬ao phó cháu cho cô và cô tự hỏi bà ấy nghĩ thế nào khi nhìn thấy cả
hai cô cháu mình. Cô nghĩ là sẽ có một vài tiêu đề đặt bên trên trong tờ Boston Her¬ald! Và cô đánh cá rằng một người nào đó sẽ phải viết những bài tường thuật!
-"Ông Stu¬art đáng thương" Sadie kêu lên khi lại nghe thấy cơn mê sảng đơn điệu của ông mục sư. "Cô ơi. lại đây! Thử xem chúng ta có thể làm được điều gì cho ông ấy không".
"Tôi lo sợ về chuyện của bà Shlesmger và đứa con của bà ấy" đại tá Cochrane nói "Ông Bel¬mont này. tôi nhìn thấy rõ bà vợ ông, nhưng không nhìn thấy ai khác nữa".
Chúng dẩn bà ấy tới đây". Bel¬mont kêu lên. "Cám ơn Thượng đế! Chúng ta sẽ biết hết mọi chuyện. No¬rah, chúng đã không làm tổn hại mình chứ, tôi hy vọng...?"
Ông chạy tới chỗ bà vợ, và hôn bàn tay bà chìa ra để ông đỡ bà, từ trên lưng lạc đà xuống.
Cặp mắt xám hiền hậu và bộ mặt dịu dàng, trầm tĩnh của người đàn bà Ái Nhĩ Lan mang lại đôi chút khuây khỏa và hy vọng cho các tù nhân. Đây là một người phụ nữ công giáo thuần thành; mà tôn giáo của Giáo hội La Mã là một sự trợ lực tuyệt hảo trong giờ phút hiểm nghèo. Với bà, với ông đại tá là người theo Anh quốc giáo, với ông mục sư không theo nghi thức, với những phụ nữ Mỹ theo phái trưởng lão, và ngay cả với hai người Soudan ngoan đạo, dưới những phương diện khác nhau của nó, tôn giáo đã làm cùng một nhiệm vụ: nó không ngừng nhắc nhở rằng điều xấu xa mà con người có thể gây ra là điều rất nhỏ nhặt, và rằng bất kể sự khắc nghiệt bề ngoài, trên những con đường của Chúa, chúng ta không có điều gì tốt và khôn ngoan để làm hơn là cứ tự để cho cái Bàn Tay Vĩ đai dẫn dắt chúng ta. Những người bạn trong hoạn nạn này không có cùng chung một giáo
điều. Nhưng họ có lòng dũng cảm sâu đậm và lòng tin số mạng an- nhiên, cần thiết là những thứ đã tạo ra cái khuôn khổ cổ xưa của tôn giáo, những giáo điều mới đã mọc lên như loài rêu phù du trên mặt tảng đá hoa cương.
"Các ban khốn khổ! " người phụ nữ ái Nhĩ Lan nói lớn "tôi thấy rằng các bạn đã chịu khổ hơn tôi rất nhiều. Thật vậy đó anh John yêu quý ạ, tôi hoàn toàn khỏe mạnh mà ngay cả tôi không bị khát nữa, vì trên chúng tôi đã đổ đầy nước vào các túi da ở sông Nil, và tôi đã uống thỏa thuê theo ý thích. Nhưng tôi không trông thấy ông Head¬ing¬ly, cả ông Brown nữa. Và ông Stu¬art khốn khổ! ông ấy ra thế nào rồi?
"Head¬ing¬ly và Brown không còn biết ưu phiền nữa", ông chồng bà trả lời. "No¬rah này, mình không biết rằng hôm nay chúng tôi đã tạ ơn Thượng đế bao nhiêu lần về việc mình đã không cùng đi với chúng tôi! Vậy mà mình cung lại ở đây!"
-Tôi sẽ ở nơi nào tốt hơn là ở bên cạnh chồng tôi? Tôi thích một trăm lần, một ngàn lần ở đây hơn là được an toàn ở Ouadl-hal¬fa.
-Thành phố có được báo động không?" ông đại tá hỏi.
- Một cái ca nô đã trốn thoát được. Bà Shlesinger, con bà ấy và người vú nuôi đã ngồi trên ca nô đó. Khi bọn Ả Rập tấn công chúng tôi thì tôi ở bên dưới. Những người ở trên boong đã có thì giờ nhảy lên ca nô. Tôi không biết họ có bị thương không vì bọn Ả Rập đã bắn
theo trong một lúc lâu.
"Thật vậy à?" Bel¬mont kêu lên "như thế đoàn quân trú phòng phải nghe thấy tiếng súng bắn, ông nghĩ thế nào. ông Cochrane? Từ bốn giờ rồi họ phải được tung ra trên con đường của chúng ta! Từng phút một chúng ta có thể hy vọng trông thấy xuất hiện trên đỉnh đồi kia cái mũ cứng của một sĩ quan Anh!
Nhưng những sự thất vọng liên tiếp đã làm cho ông đại tá thành hoài nghi.
"Nếu họ không tới với lực lượng mạnh" ông đáp, " thì tốt hơn là họ đừng tới nữa. Bọn kẻ cướp này là những tên lính tinh nhuê và những tên chỉ huy giỏi, và trên chính địa thế của chúng, chúng sẽ kháng cự kịch liệt... "
Đột nhiên ông ngừng lại và nhìn về phía bọn Ả Rập. "...Lạy Chúa tôi!" ông lẩm bẩm nói. "Cái cảnh này rất đáng xem!"
Mặt trời to lớn, đỏ rực đã dấu một nửa cái đĩa của nó đằng sau đám sương mù tím lịm ở chân trời. Lúc này là giờ cầu nguyện của người Ả Rập. Một nền văn minh cổ đại hơn và thông thái hơn phải quay về hướng chân trời huy hoàng này và thờ phụng nó, nhưng những đứa con mọi rợ của sa mạc vốn có một tính chất cao quí hơn những người Ba Tư phong nhã, họ đặt tinh thần cao hơn vật chất. Vì vậy họ cầu kinh trong khi quay lưng về phía mặt trời và hướng mặt họ về phía ngôi đền chính của tôn giáo họ. Đó là cách họ cầu nguyện, những kẻ cuồng tín đó! Say sưa một cách sâu xa, với những cặp mắt long lanh và nét mặt rạng rỡ họ đứng lên, quì xuống, trán họ chạm vào tấm thảm để cầu kinh. Khi nhìn thấy một sự sùng kính như thế, ai còn dám nghi ngờ sự hiện hữu của một thế lực lớn lao trên toàn thế giới, phản động nhưng khủng khiếp, có sẵn trong tay hàng trăm triệu đứa con ở giữa mũi Ju¬by và những ranh giới của nước Trung Hoa? Nếu một ngày nào cùng một luồng gió đó đốt cháy họ, nếu một binh gia vĩ đại hay một nhà cai trị vĩ đại đứng lên để tổ chức họ, họ sẽ chẳng phải là khí cụ mà Đấng tối cao quét sạch miền Nam Châu Âu, nơi đã suy tàn, thối nât, ích kỷ, không có dũng khí, như chuyện đã xảy ra một ngàn hai trăm năm trước, để dọn chỗ sạch sẻ cho một chủng tộc tốt đẹp hơn.
Khi họ đứng dậy, một hồi tù và vang lên; lúc đó các tù nhân hiểu rằng sau khi đã đi suốt cả ngày, họ sẽ phải đi suốt cả đêm. Bel¬mont càu nhàu, vì ông đã hy vọng là những người giải cứu sẽ theo kịp họ trước lúc nhổ trại, nhưng những người khác thì đều đã quá sẵn sàng, để tuân theo sự không thể tránh được. Họ nhận được mỗi người một cái bánh dẹp của dân Ả Rập, rồi để làm tăng thêm phần sảng khoái, một chén nước thứ hai lấy từ những túi da của toán quân thứ nhì. Nếu xác thịt biết tuân lệnh của linh hồn một cách cũng dễ dàng như linh hồn tuân lệnh xác thịt thì trái đất đã là một thiên đường rồi! một khi các nhu cầu về thể chất đã được thỏa mãn, họ lấy lại can đảm và lại leo lên lưng những con lạc đà trong khi chấp nhận một cách độ lượng hơn cái khía cạnh lãng mạn của cuộc phiêu lưu khủng khiếp của họ. Ông Stu¬art cứ đeo đuổi những lời lảm nhảm trẻ con trên bãi cát ngay cả bọn Ả Rập cũng không nghĩ tới việc đặt ông ngồi lại trên yên lạc đà. Trong bóng đêm đang đổ xuống, bộ mặt to phì của ông ngẩng lên trời làm thành một vệt trắng.
"Anh thông ngôn!" ông đại tá quát lớn. "Nói với chúng là chúng bỏ quên ông Stu¬art".
"Thưa ông vô ích thôi!" Man¬soor đáp lại. "Họ nói rằng ông ấy mập quá, và họ không đem ông ấy đi xa hơn nữa. Họ nói là ông ấy sắp chết rồi, như thế bận tâm tới ông ấy có ích gì?".
Cochrane la lớn:
- Không đem ông ấy đi! Thế nào! nhưng ông ấy sẽ chết đói và chết khát! ông tù trưởng đâu?...
Ông gọi lão Ả Rập có bộ râu đen với cái giọng mà ông đã dùng để quở mắng một tên dắt lừa đến trễ. Tên chỉ huy không thèm trả lời ông, nhưng hắn nói hai hay ba tiếng với một trong những tên chiến binh, và tên này đánh vào mạng sườn ông đại tá một nhát báng súng. Người lính già ngã xấp xuống rồi được nâng lên yên lạc đà, gần như bất động. Những người đàn bà lại bắt đầu khóc; những người đàn ông thì lủng bủng những câu nguyền rủa và xiết chặt những nắm tay, họ có thể làm được việc gì trong cái địa ngục của sự bất công và những cách đối xử tàn tệ này? Bel¬mont tìm khẩu súng lục nhỏ của ông, nhưng ông nhớ ra là óng đã gi¬ao nó cho cô Adams. Nếu ông còn giữ nó thì tên tù trưởng đã bị hạ sát rồi, nhưng tất cả các du khách đều sẽ bị tàn sát hết.
Khi tiếp tục lên đường, họ thấy hiện ra trước mặt họ một trong những hiện tượng hy hữu nhất của sa mạc Ai Cập; đúng thực là các tình huống đã làm cho họ chẳng còn bụng dạ nào để thưởng thức cái đẹp. Khi mặt trời đã biến dạng, chân trời còn giữ lại một sắc tím như màu đá đen, nhưng bây giờ thì màn sương mù đó mỗi lúc mỗi trở thành sáng sủa, một bình minh giả hiệu hiện lên. Họ có thể cho là một vừng mặt trời đang lúng liếng mọc trở lại trong bầu trời theo con đường mà nó vừa lặn xuống. Một tấm màn màu hồng lơ lửng bên trên phía Tây đã trang hoàng cho cái rìa phía trên của nó bằng những ánh phản quang có màu xanh tươi mát và trang nhã, nhưng các màu sắc đó đã từ từ hòa tan vào một màu xám mờ mờ khởi đầu cho màn đêm. Trước đây hai mươi bốn giờ, ngồi trên những cái ghế dài hoặc những cái ghế đẩu, họ bàn luận về chính trị trên boong tàu Ko¬rosko, dưới ánh sáng những ngôi sao Mười hai giờ trước đây, họ ăn điểm tâm trước khi khởi hành cho cuộc du ngoạn cuối cùng của họ. Rồi từ lúc đó, họ đã khám phá ra cả một thế giới của những cảm giác mới lạ. Họ đã bị xô xuống từ đỉnh cao của sự sung túc với sự phũ phàng làm sao! Cũng là những ngôi sao bạc này, cũng là mảnh trăng lưỡi liềm này, nhưng giữa quá khứ và hiện tại đã có một hố sâu làm sao! Những con lạc đà cũng di chuyển lặng lẽ như những bóng ma vậy. Phía trước các tù nhân, phía sau họ những tên Ả Rập cũng không gây ồn ào nhiều hơn là những con vật chúng cưỡi. Không chỗ nào có một tiếng ồn. Không một chút tiếng ồn. Rồi thình lình từ rất xa về, phía sau, một tiếng người cất lên trong sa mạc, một tiếng mạnh, vo vo, không theo nhạc điệu mấy ti, dần dà một điệp khúc toát ra từ trong tiếng hát xa xăm ấy, các tù nhân có thể phân biệt ra trong điệp khúc ấy những câu:
"Ban đêm chúng ta dựng cái lều di động của chúng ta,
Chưa tới một ngày trước lúc trở về của chúng ta... "
Ông Stu¬art đã hồi phục thần trí rồi, hoặc đây chỉ là sự ngẫu nhlên trong cơn mê sảng mà ông đã chọn khúc ca này? Các bạn của ông quay nhìn lại, mắt đẫm lệ, họ biết chắc rằng người lữ hành này đã ở rất gần ngày trở về rồi... Tiếng hát dần dà thấp giọng xuống, nó chấm dứt bằng cách chìm ngập trong cái im lặng bao la của sa mạc.
"Ông bạn già thân mến, tôi hy vọng là ông không bị thương chứ?" Bel¬mont vừa hỏi vừa đặt một bàn tay lên đầu gối ông đại tá.
Cochrane ngồi dậy, nhưng ông còn thở hổn hển.
- Tôi hoàn toàn bình phục rồi. Xin ông vui lòng chỉ cho tôi thấy kẻ nào đã đánh tôi?
- Tên ăn cướp đứng trước mặt ông, tên mà con lạc đà của nó đứng ngang tầm con lạc đà của Fardet đó.
- Tên thanh niên với bộ ria mép... Với ánh sáng này tôi không phân biệt được nó rõ ràng, nhưng tôi tin rằng tôi sẽ nhận ra nó lúc ban ngày. Cám ơn Bel¬mont!
- Tôi nghĩ rằng nó đã đâm gãy xương sườn của ông.
- Không, nó đã cắt đứt hơi thở của tôi, tất cả cơ thể.
- Người ông chắc phải bằng sắt! Đó là một đòn khủng khiếp. Làm thế nào mà ông có thể hồi phục nhanh quá như vậy?
Ông đại tá gãi cổ và nói hơi lúng búng khi trả lời.
- Ông bạn Bel¬mont thân mến, sự thật là... Tôi tin chắc rằng việc này sẽ chỉ có hai chúng ta biết... nhất là đừng nhắc lại việc đó với các đàn bà!... Nhưng tôi có đôi chút già hơn điều mà tôi nhìn nhận, và thà rằng để mất phong thái quân cách là thứ lúc nào cũng quí giá với tôi, tôi...
"Ông mặc áo nịt ngực à, lạy Chúa tôi!" anh chàng người Ái Nhĩ Lan kêu lên.
"Thật tình, đó là một sự hỗ trợ nhân tạo!" ông đại tá nói một cách khô khan, và ông lái cuộc đàm thoại sang các sự may rủi của ngày hôm sau. "
Những người còn sống sót còn nhìn thấy trong những giấc mơ của họ cái đêm dài phải đi trong sa mạc ấy. Hơn nữa tất cả đều là một thứ mộng mơ: sự im lặng mà họ thấy trên những cái chân có sức đàn hồi của lũ lạc đà, và những cái bóng lờ mờ, chuyển động đang lắc lư ở bên trái và ở bên phải họ. Vũ trụ hình như được treo lơ lửng trước mặt họ như một cái mặt đồng hồ khổng lồ. Một ngôi sao lấp lánh ngay tại cuối con đường của họ. Thời gi¬an mà họ nhắm mắt lại, và lại mở mắt ra, một ngôi sao khác đã sáng rực lên bên dưới ngôi sao trước. Giờ này sang giờ khác, làn nước bao la của các vì sao vẫn trôi đi một cách chậm chạp trên cái nền màu xanh dương của trời đêm, những thế giới và những hệ thống thiên thể trôi giạt một cách uy nghi bên trên đầu họ, để làm đầy vòm trời mà sự hoành tráng đã an ủi một cách mơ hồ những người bị bắt, nhất là số phận riêng của họ và bản thân con người của họ hình như quá nhỏ nhoi bên cạnh một sự triển khai các uy lực như vậy, muốn diễn hành trên bầu trời, đám rước lớn của các tinh tú phải bắt đầu bằng việc leo lên nó, rồi đứng lại gần như bất động theo hàng dọc, và cuối cùng thì tụt xuống một cách không vội vã cho tới lúc về mạn đông hiện ra ánh sáng lạnh lẽo, đầu tiên, và khi các tù nhân bị sững sờ vì những gì mà nó làm cho họ thấy ở những bộ mặt của họ.
Ban ngày đã hành hạ họ bằng sự nóng bức, ban đêm đem lại cho họ một cái lạnh còn khó chịu đựng hơn. Bọn Ả Rập cuộn mình trong những cái chăn và trùm khăn lên đầu. Các tù nhân thì lạnh run lên, xoa tay vào nhau để làm cho người ấm lên. Cô Adams là người khổ sở nhất vì sự gầy còm và sự huyết mạch lưu thông xấu do tuổi tác của cô. Stephens cởi cái áo choàng của ông ra và khoác lên vai cô. Ông đi bên cạnh Sadie, miệng huýt sáo và lẩm nhẩm hát để làm cho cô nghĩ là bà cô của cô đã làm cho ông nhẹ nhõm khi chấp nhận việc mang hộ cái áo choàng của ông, nhưng ông đã gây quá nhiều tiếng ồn khiến người ta khó mà tin được là ông không bị rét lạnh. Tuy nhiên, thật tình thì ông cảm thấy đỡ lạnh hơn những người khác, vì ngọn lửa xưa cũ đang đốt cháy trái tim ông, và một niềm hân hoan kỳ dị hòa nhập lẫn lộn với những sự bất hạnh của ông, ông không thể nói cuộc phiêu lưu này là sự tệ hại nhất trong các điều tệ hại hay nó là một ân huệ lớn lao nhất của đời ông. Khi ở trên tàu, sự trẻ trung của Sadie, nhan sắc của nàng, sự thông minh của nàng và tính tình của nàng đã không cho phép ông hy vọng điều gì hơn là một lòng khoan dung từ ái đối với ông. Nhưng lúc này ông cảm thấy đối với nàng ông không phải là vô dụng; ông biết rằng mỗi giờ mới tới đều thúc đẩy nàng phải nhờ cậy vào ông nhiều hơn như người bảo vệ tự nhiên của nàng, và nhất là (nhất là!) ông đã phát hiện ra nhân cách riêng của ông; ông bắt đầu hiểu là đằng sau tất cả những tập quán của luật pháp, những thứ đã tạo ra cho ông một bản chất giả tạo, một con người mạnh mẽ và hoàn toàn đáng tin cậy đã hiện hữu thật sự. Một tia sáng nhỏ về lòng tôn kính cá nhân đã làm máu ông nóng lại. Thời trẻ trung, ông đã làm hư hỏng tuổi thanh xuân, nhưng lúc này thì nó bùng lên như một bông hoa nở muộn.
"Ông Stephens ạ, đó là tôi tin rằng ông đang vui thích lắm!" Sadie nói với ông bằng một giọng chua chát.
Ông trả lời.
-Tôi sẽ không đi tới chỗ khẳng định là tôi vui thích. Nhưng tôi hoàn toàn tin chắc rằng tôi không muốn rời xa cô ở đây.
Ông chưa từng bao giờ dịu dàng như thế trong lời nói; cô thiếu nữ nhìn ông, kinh ngạc.
-Tôi nghĩ rằng cho tới lúc này tôi đã là một người con gái rất ác độc" nàng nói, sau một lúc im lặng. "Bởi vì chính bản thân tôi được sung sướng, không bao giờ tôi nghĩ tới những người khốn khổ. Cuộc phiêu lưu này làm cho tôi nhìn thấy các sự việc dưới một ánh sáng khác. Nếu tôi thoát nạn, tôi sẽ hoàn hảo hơn trong tương lai, đứng đắn hơn, chín chắn hơn".
- Và tôi cũng vậy, tôi sẽ hoàn hảo hơn. Tôi giả sử rằng chính vì điều đó mà chúng ta phải trải qua cuộc phiêu lưu này. Hãy cho như là nó đã làm nổi bật các đức tính của tất cả các bạn bè chúng ta. Thí dụ hãy nói tới ông Stu¬art xấu số kia; đã có bao giờ chúng ta nghi ngờ tâm hồn cao cả và chung thủy của ông đâu? Và hãy nhìn Bel¬mont và vợ ông ấy ở trước mặt chúng ta kìa, họ nắm tay nhau tiến bước, không sợ sệt, người này chỉ nghĩ tới người kia. Và Cochrane, người mà khi ở trên tàu lúc nào cũng cho người khác cảm tưởng rằng ông ta có một tâm hồn hẹp hòi đểu cáng! Hãy suy nghĩ về lòng dũng cảm và sự phẫn nộ vô tư lợi của ông khi một người trong bọn chúng ta bị ngược đãi. Cả Fardet cũng can đảm như một con sư tử. Tôi nghĩ là sự bất hạnh đã làm điều tốt lành cho tất cả chúng ta.
Sadie thở dài.
- Phải, nếu mọi vịêc đều kết thúc tốt đẹp, thì ông nói đúng. Nhưng nếu chúng ta phải chịu sự khổ cực nhiều tuần hay nhiều tháng với cái chết ở một bên, tôi không biết chúng ta sẽ mót nhặt lợi ích của sự tiến bộ của chúng ta ở đâu. Giả dụ rằng ông rút tỉa được lợi ích từ đó, ông sẽ làm gì?
Ông luật sư ngần ngừ, nhưng các bản năng nghề nghiệp của ông vẫn còn mạnh mẽ.
- Tôi sẽ xem có thể phát khởi quyền tố tụng được không, và kiện ai. Rất có thể là, kiện những kẻ đứng ra tổ chức đã đưa chúng ta tới núi Abousir. Nếu không thì phải kiện chính phủ Ai Cập về tội không bảo đảm được an ninh ở biên giới của họ. Đây là một vấn đề thú vị của luật pháp! Và cô Sadie, cô sẽ làm gì?
Đây là lần đầu tiên ông đã không dùng từ "Cô" trước tên người con gái trẻ tuổi, nhưng nàng đang quá bận tâm nên không để ý tới điều này.
Nàng nói:
- Tôi se dịu dàng hơn với mọi người. Tôi sẽ cố gắng làm cho một người nào đó được sung sướng để nhớ lại những nỗi cực khổ mà tôi đã gánh chịu.
- Trong đời cô, cô đã không làm điều gì khác ngoài việc đem lại sự sung sướng. Cô không thể tự ngăn cản được.
Bóng tối đã giúp cho ông ra khỏi sự dè dặt vốn là thói quen của ông.
- Cô cần sự thử thách thô bạo này ít hơn bất cứ người nào khác, làm thế nào để tính tình của cô có thể trở nên tốt như vậy?
- Đúng là ông ít biết về tôi! Tôi là người rất khinh xuất, rất ích kỷ.
- Ít nhất là cô không cần tới tất cả những cảm xúc mạnh mẽ đó: cô đã sinh động một cách đầy đủ rồi. Với tôi thì khác hẳn.
- Ông Stephens, tại sao ông lại cần có những cảm xúc?
- Bởi vì tất cả đều thích thú hơn là sự ngưng trệ. Ngay cả sự đau khổ cũng tốt hơn là sự ngưng trệ. Tôi vừa mới bắt đầu sống, cho tới lúc này tôi chỉ là một cái máy trên trái đất. Tôi chỉ có một ý tưởng trong đầu, và một người chỉ có một ý tưởng trong đầu không thực sự sống một chút nào. Đó là những gì mà tôi bắt đầu hiểu trong tất cả những năm tháng này, tôi chưa bao giờ xúc động cả. Chưa bao giờ một luồng cảm xúc chân thật của con người đã động chạm tới tôi. Tôi không có thì giờ để cảm xúc. Tôi đã ghi nhận những cảm xúc ở người khác, và tôi đã mơ hồ tự hỏi phải chăng trong tôi đã có một khuyết điểm ngăn cản không cho tôi được chia sẻ kinh nghiệm của các bạn trong đời. Nhưng những ngày vừa qua đã nói cho tôi biết là tôi có thể sống một cách thật sự, rằng tôi có thể có được những hy vọng nóng bỏng và những sự kinh hoàng chí tử, rằng tôi có thể hận thù, và tôi có thể... Tóm lại là tôi cô thể cảm nhận bất kỳ một tình cảm mạnh mẽ nào. Tôi được sinh ra ở đời. Có thể ngày mai tôi sẽ đứng trên bờ huyệt mộ, nhưng ít nhất tôi sẽ có thể tự nói với mình là tôi đã sống.
- Và tại sao ông lại sống cuộc sống này ở Anh Quốc?
- Tôi là con người có nhiều tham vọng. Tôi muốn thành đạt, và tôi phải nghĩ tới mẹ tôi và các chị em tôi. Cám ơn Thượng đế, trời đã sáng rồi. Trong chốc lát bà cô của cô và cô sẽ thôi không thấy lạnh nữa.
- Và ông thì không có áo khoác ngoài!
- Ồ, bộ máy tuần hoàn của tôi thật tuyệt hảo! Tôi thấy rất dễ chịu khi mặc sơ mi trần.
Cái đêm dài lạnh rét, làm hao tốn sức lực đã đi qua. Bầu trời xanh đậm đã chuyển sang màu tím nhạt, những ngôi sao lớn nhất vẫn tiếp tục chiếu sáng. Phía sau cái ngói sao này, cái vạch màu xám của rạng đông đã bắt đầu gậm mòn bầu trời, đồng thời cũng tự tô điểm cho mình một màu hồng thanh nhã trong đó đã lung linh những tia sáng của vừng thái dương chưa xuất hiện. Bỗng chốc họ cảm thấy sức nóng của mặt trời ở trên lưng họ, ở trên bãi cát, những cái bóng dài đi trước họ, những thầy tu Hồi giáo bỏ những cái chăn của họ ra và bắt đầu nói ba hoa vui vẻ với nhau. Các tù nhân cũng bắt đầu hết cóng lạnh ngấu nghiến ăn những quả chà là mà người ta phân phát làm món điểm tâm. Đoàn người dừng lại, họ có quyền được mỗi người một chén nước.
"Tôi có thể nói chuyện với ông được không, đại tá Cochrane?" anh chàng thông ngôn hỏi.
"Không!" ông đại tá nói càu nhàu.
- Nhưng là việc rất quan trọng! Có lẽ sự thoát hiểm của chúng ta tùy thuộc vào nó.
Ông đại tâ chau mày lại, tay vuốt hàng ria mép. Cuối cùng ông nói:
- Được, đó là việc gì?
- Ông phải tin tưởng ở tôi, vì tôi cũng muốn trở về Ai Cập như ông! Một bên là vợ tôi, cái nhà của tôi, các con tôi, còn một bên là kiếp sống nô lệ. Ông không có lý do nào để nghi ngờ tôi.
- Nói đi!
- Ông biết tên da đen đã nói chuyện với ông chứ? Cái tên đi với Hlcks đó!
- Rồi sao nữa?
- Hắn đã nói chuyện với tôi hồi đêm. Tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với hắn. Hắn giải thích với tôi là ông không thể hiểu rõ ràng lời hắn nói, và hắn cũng hiểu rất ít lời ông nói. Đó là lý do tại sao hắn đến tìm tôi.
- Hắn đã nói gì với anh?
- Hắn nói với tôi là trong bọn Ả Rập có tám người lính Ai Cập, sáu tên da đen và hai tên nông dân. Hắn nói với tôi là hắn muốn có lời hứa của ông về một số tiền thưởng rất lớn nếu chúng giúp cho ông trốn thoát.
- Đồng ý, chúng sẽ có tiền thưởng đó!
- Chúng yêu cầu tôi một trăm bảng Ai Cập cho mỗi người.
- Chúng sẽ có số tiền đó.
- Tôi đã nói với hắn là tôi sẽ đặt vấn đề này với ông nhưng trước tiên tôi hãy trả lời về sự đồng ý của ông.
- Chúng có ý định làm không?
- Chúng còn chưa có thể hứa hẹn với tôi một điều gì cả nhưng chúng nghĩ sẽ đánh những con lạc đà của chúng đi gần với nhóm của ông, nhằm nắm lấy cơ hội đầu tiên khi nó xuất hiện.
- Được, quay lại gặp hắn đi và hứa với hắn hai trăm bảng cho mỗi người nếu chúng giúp được chúng ta một cách hữu hiệu. Anh không nghĩ rằng chúng ta có thể mua được vài tên Ả Rập à?
Man¬soor lắc đầu. Hắn trả lời:
- Làm thế việc này sẽ quá nguy hiểm. Nếu ta làm thử và nếu ta thất bại trong việc đó, thì đó sẽ là sự cáo chung của tất cả bọn chúng ta, tôi sẽ chuyển câu trả lời của ông cho hắn.
Các tù trưởng dự kiến sẽ dừng chân tối đa là nửa giờ đồng hồ, nhưng những con lạc đà có đóng yên chở các tù nhân thì nhọc mệt quá khiến người ta không thể bắt chúng tiếp tục lên đường sau một lúc nghỉ ngơi ngắn ngủi như thế. Chúng đã duỗi dài những cái cổ to lớn của chúng lên bãi cát, đối với chúng hiện tượng này là triệu chứng cuối cùng của sự mệt mỏi. Hai lão chỉ huy xem xét chúng, lắc đầu, và lão già khủng khiếp quay bộ mặt gầy ốm của y về phía các tù nhân. Y nói với Man¬soor anh chàng thông ngôn tái mặt đi khi nghe hắn nói.
- Tù trưởng Ab¬der¬rah¬man nói rằng nếu các ông không cải theo Hồi giáo, thì ông ấy sẽ không tốn công làm chậm trễ cuộc hành trình của tất cả đoàn chỉ vì có các ông. Ông ấy nói nếu không có các ông thì chúng tôi đã có thể đi nhanh hơn hai lần. Do đó ông ấy muốn biết dứt khoát là các ông có sẽ chấp nhận kinh Coran.
Rồi, cùng một giọng nói đó, làm như hắn tiếp tục thông dịch, hắn nói thêm:
-... Các ông sẽ làm được tốt hơn nhiều khi trả lời là có vì nếu các ông từ chối nhất định ông ấy sẽ giết tất cả mọi người.
Những người tù bất hạnh nhìn nhau, hai tên tù trưởng quan sát họ với vẻ nghiêm trọng.
Cochrane nói:
- Về phần tôi, tôi thích chết ở đây hơn là làm nô lệ ở Khar¬toum.
- Mình nói gì, No¬rah?
- John ạ, nếu chúng ta cùng chết với nhau, tôi nghĩ là tôi sẽ không sợ.
"Thật là kỳ cục nếu tôi phải chết vì một cái gì mà tôi đã không bao giờ tin tưởng" Farder tuyên bố. "Tuy nhiên danh dự của một người Pháp ngăn cấm hắn không được cải đạo theo cách này..."
Ông đứng thẳng người lên, và đặt cái cổ tay bị thương của ông lên mạn trước áo gi-lê. Ông kêu to:
- Tôi là người Cơ-đốc. Tôi vẫn là người Cơ-đốc, mỗi câu trong hai câu này đều là một sự nói dối dũng cảm.
"Còn ông, ông Stephens?" Man¬soor hỏi với một giọng cầu khẩn. "Nếu một người trong bọn các ông chịu cải đạo, có lẽ họ sẽ khoan nhượng hơn. Tôi thề với ông là chỉ làm những gì họ yêu cầu"
"Không, không thể được!" ông luật sư bình thản trả lời.
- Vậy còn cô, cô Sadie? cô nữa, cô Adams? các cô chỉ cần nói có ngay tức thì, là các cô được thoát nạn
"Cô ơi, cô có nghĩ rằng chúng ta có thể nói có được không?" cô thiếu nữ ấp úng nói. "Có phải đó là một điều rất tệ nếu chúng ta nói từ ấy không?".
Cô gái già ôm lấy cô thiếu nữ trong vòng tay. Cô thì thầm nói:
- Không, không, cháu Sadie yêu quí của cô! Cháu sẽ dũng cảm! Sau đó cháu sẽ tự oán hận mình rất nhiều! Hãy để nguyên bàn tay trên người cô, cháu ngoan ạ, và hãy cầu nguyện đi nếu cháu cảm thấy sự dũng cảm xa rời cháu. Đừng quên rằng người cô Eliza tuổi tác của cháu lúc nào cũng sẽ dẫn dắt cháu trong bàn tay.
Họ không thiếu lòng dũng cảm, những tay tài tử về các thú vui này! Tất cả mọi người đều nhìn thẳng vào cái chết và họ càng trông thấy nó đến gần thì họ càng ít sợ hãi nó. Họ còn thấy một cảm giác mơ hồ của sự hiếu kỳ, cũng như sự xốn xang của các dây thần kinh của một con bệnh khi sắp ngồi vào cái ghế của nha sĩ. Anh thông ngôn nhún hai tay và hai vai: anh đã cố gắng; và anh đã thất bại. Tù trưởng Ab¬der¬rah¬man ra một cái lệnh cho một tên da đen, tên này chạy đi khỏi.
"Tại sao y lại đòi lấy những cái kéo?" ông đại tá hỏi.
"Y sẽ khảo đả các phụ nữ" Man¬soor vừa trả lời, vừa phác họa cùng một cử chỉ của sự bất lực như trước.
Sự kinh hoàng làm họ lạnh toát người. Cái chết trong trừu tượng là một chuyện, nhưng các chi tiết quá cụ thể lại là một chuyện khác. Tất cả bọn họ đều chấp nhận chịu đựng bất kỳ một điều gì, mỗi người trong thân xác riêng của họ, nhưng họ còn ái ngại cho nhau, những người đàn bà không nói gì cả, những người đàn ông bắt đầu
cùng la hét.
"Khẩu súng lục, cô Adams!" Bel¬mont nói "Đưa nó cho tôi! Chúng tôi sẽ không chịu để cho cô bị tra tấn!"
"Man¬soor, lễ tiền cho chúng đi! Hãy dâng cho chúng tất cả những gì chúng muốn!" Stephens nói "Nghe đây, tôi sẽ cải đạo theo đạo Hồi nếu chúng hứa là không đụng tới các phụ nữ. Tóm lại, một trái vụ dưới sự cưỡng ép không có hiệu lực về mặt pháp luật. Nhưng tôi không muốn thấy các phụ nữ bị tra tấn!"
"Không, hãy đợi một chút, Stephens!" ông đại tá nói. "Chúng ta không nên mất đảm lực. Tôi tin rằng tôi đã thấp thoáng nhìn thấy một cửa đi ra. Này anh thông ngôn, hãy nghe tôi nói đây: anh lại nói với con quỉ già có bộ râu trắng kia rằng chúng tôi không biết một chút gì về cái tôn giáo tạp pí lù của y. Hãy dịch câu đó một cách dịu dàng. Nói cho y biết là y không thể chờ đợi ở chúng tôi việc chúng tôi cải đạo trước khi chúng tôi biết đó là trò bịp bợm gì. Nói với y rằng nếu y bằng lòng giảng dạy cho chúng tôi thì chúng tôi sẽ tình nguyện nghe sự giáo huấn của y, và anh sẽ có thể nói thêm là một tôn giáo đã sản sinh ra những thứ chó má như y hoặc như thằng quỉ khác cô bộ râu đen kia, chắc chắn đáng được bọn chúng ta chú ý"
Với sự trợ lực lớn của những cái khom lưng và những dáng điệu bộ tịch, anh chàng thông ngôn giảng giải rằng những người cơ đốc đã hoài nghi rồi, đã ở trên bờ của sự bội giáo, và chỉ cần một vài tia sáng mới để họ quyết định từ bỏ tôn giáo của họ. Hai lão tù trưởng vuốt râu với vẻ nghi ngờ. Rồi Ab¬der¬rah¬man nói một vài tiếng, và cả hai tên cùng đi khỏi, một lát sau đó, tiếng tù và mới đoàn người tiếp tục lên đường.
"Đây là điều mà ông ta đã nói" Man¬soor giảng giải với các tù nhân. "Vào khoảng buổi trưa thì chúng ta sẽ tới những giếng nước, và chúng ta sẽ dừng chân. Vị thầy giảng riêng của ông ta, một người rất tử tế và rất thông thái sẽ tới giảng dạy cho các quí vị một giờ về tôn giáo. Sau buổi học này, quí vị sẽ bày tỏ ý kiến. Một khi quí vị đã có sự chọn lựa rồi, các tù trưởng sẽ phán xét xem quí vị sẽ đi Khar¬toum, hoặc quí vị sẽ bị giết chết. Đó là tiếng nói sau cùng của ông ta.
- Chúng không nhận tiền chuộc à?
- Chắc chắn là Wad Ibrahim sẽ nhận, nhưng tù trưởng Ab¬der¬rah¬man thì khủng khiếp. Tôi khuyên quí vị nên nhượng bộ ông ta.
- Chính bản thân anh, anh đã làm gì? Anh cũng là người theo đạo Cơ đốc mà?
Man¬soor đỏ mặt lên.
- Sáng hôm qua tôi là người cơ đốc. Không chừng sáng mai tôi sẽ trở lại là người cơ đốc. Tôi phục vụ Chúa bao lâu mà những gì Người đòi hỏi có vẻ phải chăng đối với tôi, nhưng lần này thì rất khác.
Hắn thúc con lạc đà của hắn với một sự tự do trong điệu bộ để chứng tỏ rằng cuộc đàm thoại của hắn đã tạo cho hắn một cấp bậc riêng trong đám tù nhân.
Vậy là họ được hưởng một sự trì hoãn trong vài giờ, tuy nhiên cái bóng đen của tử thần đang chụp lên đầu họ. Vậy thì có cái gì trong cuộc sống mà chúng ta cứ phải cố níu lấy nó? Không phải những thú vui, vì những người mà cuộc đời đã là một chuỗi dài những đau khổ cũng lùi lại và khóc lóc khi vị tử thần từ bi chìa những cánh tay ủy lạo của ngài ra với họ. Không phải là xã hội, bởi vì chúng ta thay đổi toàn bộ các mối liên hệ của chúng ta tùy theo lề lối chúng ta tiến bước trên con đường rộng lớn mà mỗi cậu con trai, mỗi cô con gái của con người phải đi theo. Phải chăng đó là sự sợ hãi làm mất cái bản ngã của chúng ta, cái bản ngã thân thương mà chúng ta nghĩ là đã biết rất rõ, trong lúc nó luôn luôn làm ra những việc khiến chúng ta kinh ngạc? Tại sao người tự vẫn lại bám chặt một cách tuyệt vọng lấy cái cột chân cầu khi con sông nhận chìm hắn xuống? Phải chăng Tạo hóa sợ rằng các nghệ nhân mệt mỏi của ngài sẽ quăng dụng cụ và mở cuộc đình công, nên ngài mới phát minh ra cách này để giữ họ lại trong trách vụ hiện tại? Dù sao thì các du khách của tàu Ko¬rosko cũng đã bị phiền nhiễu và lăng nhục quá nhiều rồi: họ thấy vui thích được sống thêm vài giờ mới mẻ của sự đau khổ.
Chương 07
Trong khi họ tiến bước, không có gì chứng tỏ với các tù nhân là họ không đi quay trở lại những nơi mà họ đã đi qua hồi khuya tới buổi chiều khi mặt trời lên. Những quả đồi đen xẫm và cát vàng theo dọc bờ sông đã biến mất từ lâu rồi, họ thấy mình đang ở giữa một cánh đồng chập chùng, màu nâu với những hòn đá cuội tròn trịa, rải rác những cụm cỏ của lạc đà, và nó chạy dài mãi tới một dãy đồi tím, ở đằng xa trước mặt họ. Mặt trời còn chưa mọc khá cao để gây ra những ánh phản quang long lanh của miền nhiệt đới và cái phong cảnh mênh mông hiện ra với một sự rõ ràng tuyệt đối trong ánh sáng trong trẻo. Ðoàn người dài bước theo nhịp lê lết của những con lạc đà có đóng yên. Ở hai bên hông đoàn người, những tên lính do thám dừng lại ở mỗi chỗ gò cao, và xem xét chân trời phía đông trong lúc che mắt lại.
"Theo ý ông thì chúng ta ở cách sông Nil bao nhiêu xa?" ông đại tá hỏi.
Chính ông cũng luôn luôn ngoảnh lại để đo lường sự bao la của sa mạc.
"Ít nhất là tám mươi cây số! " Bel¬mont trả lời. "Không nhiều thế đâu!" ông đại tá cãi lại. "Chúng ta đã không đi quá mười lăm hay mười sáu giờ, và một con lạc đà không đi được trên bốn cây số một giờ nên nó không chạy nước kiệu. Ðiều này rút bớt khoảng cách chừng sáu mươi hay sáu mươi lăm cây số: tuy nhiên thật quá xa, tôi sợ thế, để cho chúng ta được giải cứu. Tôi không nghĩ rằng thời hạn ban cho chúng ta sẽ giúp chúng ta được điều gì lớn lao đâu. Chúng ta có gì để hy vọng? không có gì khác ngoài cái số mạng đang đợi chúng ta!"
"Chớ có chán nản!" người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói lớn. "Chuông báo chính ngọ chưa rung mà, phải làm nhu thể, Hamil¬ton và Hed¬ley, trong đạo binh lạc đà đều là những chàng trai dũng cảm, họ phải xông vào theo các dấu vết của chúng ta. Họ không có những con lạc đà đóng yên để làm họ phải chậm trễ, tôi cam đoan với ông! Tối hôm qua khi tôi dùng bữa với họ ở câu lạc bộ và khi họ giải thích với tôi cách thức họ chống trả lại một cuộc cướp bóc, tôi đã không nghĩ rằng tính mạng của chúng sẽ lệ thuộc vào họ".
"Cũng được, chúng ta sẽ theo đuổi cuộc chơi cho tới cùng!" Cochrane nói. "Nhưng tôi không có nhiều hy vọng lắm. Tất nhiên là chúng ta sẽ phải làm ra bộ cứng cỏi trước các phụ nữ. Tôi nhận thấy rằng Tip¬py Tilly là một người đúng mực, vì năm tên da đen này và hai tên Ả Rập đen xạm kia đúng là những người bạn mà y đã nói với chúng ta. Họ không rời xa nhau, vẫn đứng ngang tầm với chúng ta; nhưng tôi tự hỏi họ sẽ có thể làm được điều gì để giúp chúng ta".
"Tôi đã lấy lại khẩu súng lục của tôi rồi.... ", Bel¬mont nói thầm thào.
Ông nghiến răng và co giật hai quai hàm trước khi nói tiếp:
- ...Nếu chúng liều mạng đùa với các phụ nữ, tôi nhất quyết hạ sát cả ba người trong bọn họ bằng chính tay tôi, sau đó chúng ta sẽ chết, linh hồn thanh thản hơn!
"Ông là một anh chàng phong nhã!" ông đại tá lẩm bẩm.
Họ im tiếng. Vả lại cũng không ai nói nhiều cả. Một cảm giác mơ hồ không thể diễn tả được đang tràn ngập tất cả bọn họ, làm như họ đã nuốt một viên ma túy. Bao giờ tạo hóa cũng cho ta một thứ thuốc an thần khi một cơn biến động khốc liệt đã kích thích quá nhiều thần kinh của ta, sự thanh thản an bình của nỗi tuyệt vọng đã chiếm ngự lòng họ.
"Thật là đẹp một cách ma quỉ!"' Cochrane thở dài khi nhìn chung quanh ông. "Tôi thường nghĩ rằng tôi thích được chết trong làn sương mù vàng, lành mạnh của Luân Ðôn, nhưng chúng ta sẽ có thể thấy sự tệ hại hơn".
"Còn tôi, thì tôi thích chết trong lúc ngủ" Sadie nói. "Thật là một điều kỳ diệu khi thức dậy và thấy mình đang ở một thế giới khác! Ở đại học, Hen¬ry Smith luôn luôn nhắc nhở chúng tôi: "Ðừng nói với tôi một đêm tốt lành", mà hãy cầu chúc cho tôi "một buổi sáng tốt đẹp trong một thế giới hoàn mỹ".
Bà cô theo thanh giáo của nàng lắc đầu.
- Sadie này, trình diện trước đấng tối cao mà không có sự chuẩn bị thì thật là khủng khiếp!
"Chính sự cô đơn của cái chết mới là khủng khiếp". Bà Bel¬mont nói. "Nếu chúng ta cùng chết một lúc với tất cả những người mà chúng ta yêu mến thì chúng ta sẽ hình dung cái chết một cách đơn giản như một sự thay đổi chỗ ở".
"Nếu sự bất hạnh xảy ra, chúng ta sẽ không bị cô độc" , ông chồng bà đính chính. "Tất cả chúng ta sẽ cùng đi với nhau, và ở thế giới bên kia chúng ta sẽ gặp Brown, Head¬ing¬ly và Stu¬art đang chờ đợi chúng ta".
Người đàn ông Pháp nhún vai, ông không tin ở một kiếp sống khác sau cái chết, nhưng ông ghen tị với hai người công giáo về sự thanh thản trong lòng tin của họ. Ông cười thầm khi nghĩ tới các bạn ông ở tiệm cà phê Cu¬bat sẽ nói gì nếu họ biết rằng ông đã hy sinh mạng sống trên bàn thờ của tín ngưỡng Cơ đốc, cái ý nghĩ này càng làm ông thấy vui vui, thì nó lại càng làm ông bực bội, việc này không ngăn cản ông săn sóc cái cổ tay bị thương của ông như một bà mẹ ấp ủ đứa bé đau ốm của bà.
Ngang qua bãi sa mạc lởm chởm đá, một đường màu vàng dài và mỏng theo hướng từ Bắc tới Nam vừa mới hiện ra. Đó là một giải cát mà bề rộng không quá vài trăm mét và những chỗ phình lên cũng không vượt quá ba mét bề cao. Các tù nhân kinh ngạc khi thấy những tên Ả Rập ngắm nhìn nó với một nét mặt cực kỳ áy náy: khi chúng đi tới trước cái mép của nó, chúng dừng lại giống như khi chúng đứng trên bờ một con sông không lội qua được. Loại cát này rất nhẹ, nhiều bụi bặm, mổi luồng gió nhẹ cũng làm bay tung lên như một đám mây những con ruồi nhỏ, tù trưởng Ab¬der¬rah¬man cố thúc con lạc đà của y vào bên trong, nhưng đi được hai hay ba bước thì con vật đứng khựng lại, rên rỉ vì khiếp sợ. Hai tên chỉ huy bàn bạc với nhau một lát, rồi đoàn người đi về hướng Bắc, để lại giải cát ở phía bên trái họ.
"Có chuyện gì vậy?" Bel¬mont hỏi anh thông ngôn. "Tại sao chúng ta không tiếp tục đi thẳng về hướng Tây?"
"Cát di động", Man¬soor trả lời. Thỉnh thoảng gió cuốn cát đi thành một vạch dài như cái vạch kia. Ngày mai nếu gió nổi lên, có lẽ sẽ không còn lại một hạt nào, nhưng tất cả đống cát kia sẽ du ngoạn trên không trung. Có lần một người Ả Rập bị buộc phải rẽ ngang ra tới tám mươi hay một trăm cây số để đi vòng qua một dải cát di động. Nếu y muốn bước qua nó thì con lạc đà của y sẽ bị gẫy chân, và chính y cũng sẽ bị hút vào và nuốt chửng".
- Chiều dài của cái dải này là bao nhiêu?
- Không ai biết gì về nó cả.
- Này ông Cochrane, đó là diều thuận lợi cho chúng ta! Cuộc truy lùng càng dài thì những con lạc đà còn sung sức càng có nhiều cơ may.
Ðã đến lần thứ một trăm Bel¬mont quay đầu lại để quan sát chân trời phía sau họ: bãi sa mạc rộng lớn lúc nào cũng nâu và ảm đạm nhưng không có một chút lấp lánh của ánh thép, không có sự óng ánh của một cái mũ trắng.
Chẳng mấy chốc họ đi tới chỗ tận cùng của vật chướng ngại đã ngăn cản bước tiến của họ về hướng Tây. Dải cát kéo dài trong khi co hẹp lại, khi nó trở thành đủ hẹp để có thể bước qua bằng một cái nhảy, tuy nhiên những người Ả Rập thích đi dọc theo nó trong nhiều trăm mét nữa hơn là đi qua nó. Nhưng khi những con lạc đà lại thấy mặt đất tốt và rắn trước mặt chúng thì chúng bị thúc chạy nước kiệu và những tù nhân bị lắc lư trong một thứ chòng chành và nghiêng ngả kết hợp với nhau. Thoạt đầu họ mỉm cười về chuyện này; nhưng trò chơi đã mau lẹ biến thành bi kịch khi bệnh "say lạc đà" khủng khiếp làm họ đau đớn khắp mình mẩy và xương sống.
- Cô không chịu được nữa rồi, Sadie ạ! Cô Adams kêu lên. Cô đã làm những gì cô có thể làm. Cô sắp ngã đây này.
- Không, cô ơi, không! Nếu cô để mình bị ngã thì cô sẽ gãy xương. Hãy cố gắng thêm một chút; có lẽ họ sắp dừng lại đó!
- Cô hãy 'tựa người về' đằng sau, ông đại tá nói, và nắm lấy mạn sau cái yên. Thế đó. Tư thế này làm dễ chịu...
Ông tháo tấm mạng trên mũi của ông, buộc hai đầu lại và cột nó vào cái mấu phía trước của cái yên.
- Luồn bàn chân cô vào cái vòng, như thể nó là một cái chân nâng...
Sự thoải mái đến ngay tức thì. Stephens cũng làm việc đó cho Sadie. Nhưng sau đó một lát, một trong những con lạc đà sụm xuống vì mệt nhọc, trong một tiếng lách cách khô khan, những bàn chân nó xoạc ra như thể nó bị xé thành nhiều mảnh; đoàn lữ hành phải sử dụng lại một nước đi chừng mực hơn.
- Ở đằng kia không phải là một dải cát di động nữa hay sao ? ông đại tá hỏi.
- Không, đó là một dải trắng. Bel¬mont trả lời. Này, Man¬soor, cái gì ở đằng trước chúng ta thế?
Anh thông ngôn lắc đầu.
- Thưa ông, tôi không biết gì cả. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó.
Từ Bắc tới Nam, một vạch trắng kéo dài ra, cũng thẳng tắp và rõ ràng như thể nó được kẻ bằng phấn. Nó rất mỏng, nhưng nó trải dài từ chân trời này tới chân trời kia. Tip¬py Tilly chỉ dẫn cho Man¬soor.
- Ðó là con đường lớn của những đoàn lữ hành, ông thông ngôn giải thích.
- Vậy thì cái gì làm cho nó trắng như thế?
- Những hài cốt.
Thật không thể tin được, nhưng có thật! Khi họ đi tới gần, họ nhận thấy quả thực đó là một lối đi băng qua sa mạc, bị khoét sâu xuống bởi sự dẫm đạp của những con vật và những con người, và được cắm mốc một cách quá phong phú bằng những bộ xương người khiến cho người ta ấn tượng của một dải khăn trắng dài liên tu bất tận. Những con vật nằm duỗi dài, nom ghê gớm cắm mốc trên con đường, trong khi ở nhiều chỗ những dãy xương sườn nối tiếp nhau quá gần khiến người ta tính nói đó là cái xác của một con rắn quái dị. Con đường trắng lậpp lòe dưới ánh mặt trời như thể nó được lát bằng ngà. Từ mấy ngàn năm nay nó đã là con đường lớn xuyên qua sa mạc và tất cả những con vật của vô số kể các đoàn lữ hành đã chết ở đó đều được bảo tồn bởi không khí khô ráo và sát trùng. Do đó người ta không phải ngạc nhiên là không thể dẫm lên con đường mà không đồng thời dẫm lên những bộ xương của chúng.
- Ðây hẳn là con đường mà tôi đã nói với cô, Stephens nói. Tôi nhớ là đã nói tới nó trên tấm bản đồ mà tôi đã vẽ cho cô, cô Adams ạ. Sách chỉ nam của Baedek¬er nói là nó đã không được sử dụng từ khi cuộc nổi loạn của bọn thầy tu Hồi giáo làm gián đoạn mọi việc buôn bán, nhưng nó là con đường chính cho phép da thú và nhựa cây ở Dar¬four đi xuống tới Ai Cập Hạ.
Họ nhìn con đường với sự hững hờ: số phận của chính họ đã làm cho họ bận tâm khá nhiều rồi. Tới đó đoàn lữ hành đi theo hướng Nam bằng cách đi theo con đường cũ. Con đường Gol¬go¬tha này (theo Kinh Thánh, đó là con đường mà Chúa Ki - Tô đi tới nơi bị hành quyết, con đường chết) thật đúng là con đường thích hợp với nỗi thống khổ đang chờ đợi họ.
Giờ phút quyết định tới gần : số phận sắp đùa với họ. Bị kinh hoàng vì những viễn tượng rùng rợn mà ông hình dung ra đối với các phụ nữ, đại tá Cochrane, phải cố nén tính kiêu ngạo và cầu khẩn những lời khuyên của anh thông ngôn bội giáo, Man¬soor là một tên đểu cáng và hèn nhát, nhưng vốn là người Ðông phương nên hắn hiểu tính tình của người Ả Rập. Sự trò chuyện đã làm dễ dàng việc gi¬ao dịch của hắn với bọn thầy tu Hồi giáo, và hắn đã làm cho chúng nói năng dông dài. Tâm tính cứng rắn và quý tộc của Cochrane nổi lên chống cự dữ dội với ý nghĩ đi cầu khẩn lời khuyên của một con người như thế; cuối cùng, khi ông quyết định làm việc đó, ông nói với một giọng khản khản nhất và ít hòa dịu nhất.
- Anh biết rõ những tên kẻ cướp này, và anh có cùng một cách suy nghĩ về các biến cố như chúng, ông nói: Mục đích của chúng tôi là kéo dài tình trạng này trong hai mươi bốn giờ đồng hồ nữa. Một khi thời hạn đó trôi qua rồi, chúng tôi ít còn quan tâm "tới những gì: sẽ tới với chúng tôi nữa, vì chúng tôi sẽ không còn hy vọng được giải cứu nữa. Vậy làm cách nào để lần khân thêm được một ngày nữa?
- Ông đã biết những gì tôi nghĩ về việc này, anh thông ngôn trả lời. Tôi đã nói với ông điều đó rồi. Nếu các ông làm như tôi, chắc chắn là các ông sẽ tới được Khar¬toum một cách yên ổn, khỏe mạnh. Bằng không thì các ông sẽ không còn sống để rời khỏi chỗ trạm dừng chân sắp tới của chúng ta.
Cái mũi cong của ông đại tá lại vểnh lên và hai gò má gầy ốm của ông ửng đỏ. Ông lặng lẽ tiến bước trong một lúc, vì thời gi¬an phục vụ ở Ấn Ðộ đã tạo cho ông một tính nết lì lợm, và những cuộc phiêu lưu mới đây lại bổ sung thêm cho ông đôi chút ranh mãnh. ông đợi tới lúc có thể nói chuyện một cách điềm tĩnh.
- Hãy gác ý kiến đó sang một bên, cuối cùng ông nói. Có những việc có thể làm được và có những việc khác không thể làm được. Việc đó không thể làm được.
- Ông chỉ cần làm giả bộ là cải giáo.
- Việc đó đã nói nhiều rồi!
Man¬soor nhún vai.
- Ông hỏi ý kiến tôi làm gì, nếu ông tức giận khi tôi cho ông biết ý kiến của tôi? Nếu ông không muốn hành động như lời tôi khuyên thì ông hãy cứ làm việc gì mà ông cho là phải đi. Ít nhất ông sẽ không thể nói là tôi đã không làm hết sức mình để cứu các ông.
- Tôi không tức giận, ông đại tá trả lời với một giọng đỡ khô khan hơn. Nhưng như thế sẽ là hạ thấp chúng tôi tới quá mức mà chúng tôi có thể chịu đựng. Tôi nghĩ tới một việc khác. Có thể anh sẽ bằng lòng nói cho cái lão thầy tu và tên thầy giảng kia biết rằng chúng tôi đã bắt đầu nao núng. Với cái hố sâu mà chúng tôi đang bị lún xuống, tôi không nghĩ rằng hắn ta cho việc đó là bất bình thường. Rồi tới khi hắn ta tới giảng dạy cho chúng tôi, chúng tôi sẽ có thể đóng kịch giả vờ là quan tâm tới các bài giảng của hắn, yêu cầu hắn hoàn chỉnh sự học hỏi của chúng tôi và như vậy để kéo dài công việc trong hai mươi bốn tiếng hoặc bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Anh không nghĩ đó là ý kiến tốt nhất hay sao?
- Các ông sẽ làm điều gì các ông muốn, Man¬soor nói. Tôi chỉ cho các ông biết ý kiến của tôi một lần thôi. Nên ông muốn tôi nói với tên thầy giảng, tôi sẽ nói với hắn. Hắn là cái người nhỏ thó, tròn xoe, có vẻ hiền lành, có chòm râu bạc, ngồi trên con lạc đà màu hạt dẻ. Tôi có thể đoan chắc với ông rằng hắn đã nổi tiếng là một tay đạo sư giỏi trong việc cải đạo cho những kẻ vô tín ngưỡng, và danh tiếng của hắn là sự kiêu hãnh của hắn, và chắc chắn là hắn sẽ thích thấy các ông được tha chết, nếu hắn nghĩ rằng có cơ may cải giáo cho các ông theo đạo Hồi.
- Nói với hắn rằng chúng tôi có tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón tiếp những hạt mầm tốt, ông đại tá khẩn khoản nói. Tôi không tin rằng ông mục sư sẽ còn sống tới lúc đó, nhưng vì ông đã chết nên chúng tôi có thể làm sự nhượng bộ này. Man¬soor, đi tìm hắn đi và nếu anh làm việc tốt, chúng tôi sẽ quên những chuyện đã qua. Nhân tiện tôi hỏi, Tip¬py Tilly có nói gì với anh không?
- Thưa ông, không. Hắn đã tụ tập những người của hắn ở quanh hắn, nhưng hắn vẫn chưa tìm ra cách để giúp các ông.
- Tôi cũng chưa có cách gì cả. Anh đi gặp tên thầy giảng đi, trong khi tôi cho những người khác biết về kế hoạch của chúng ta.
Tất cả các tù nhân đều tán thành kế hoạch của ông đại tá ngoại trừ cô gái già ở Tân Anh Cát Lợi (Nou¬velle An¬gleterre trên đất Mỹ) là thẳng thắng bác bỏ việc giả vờ có một mối quan tâm nào đó với đạo Hồi.
- Tôi nghĩ rằng tôi đã quá già để quỳ gối trước thần Baal! Cô nói.
Trước những lời năn nỉ của ông đại tá, cuối cùng cô đã hứa là cô sẽ không biểu lộ sự phản đối về những gì mà các bạn cô sẽ có thể nói hay làm.
- Và ai sẽ ra tranh luận với tên thầy giảng kia? Fardet hỏi. Ðiều quan trọng là cuộc tranh luận phải diễn ra một cách hết sức tự nhiên, vì nếu hắn cho rằng chúng ta chỉ cố tìm cách kéo dài thời gi¬an, hắn sẽ từ chối không giảng dạy thêm cho chúng ta nữa.
- Tôi thấy rằng, Cochrane sẽ phải đảm trách việc này bởi vì ý kiến xuất phát từ ông, Bel¬mont nói.
- Xin tha lỗi cho tôi! Người đàn ông Pháp nói lớn. Tôi không muốn nói điều gì chống lại ông bạn đại tá của chúng ta, nhưng không thể nào cùng một người mà lại vượt trội về mọi thứ được. Nếu ông ấy đảm trách việc này tức là đi thẳng tới sự thất bại; tên thầy giảng sẽ phát hiện ngay ra mánh khóe của ông đại tá.
- Ông tin vậy à ? Ông đại tá hỏi với vẻ uy nghi.
- Phải, ông bạn ạ, hắn sẽ đọc thấy ở ông! Cũng giống như phần lớn các đồng bào của ông, ông hoàn toàn thiếu cảm tình đối với các tư tưởng của những dân tộc khác, và đó chính là khuyết điểm lớn mà tôi thường trách cứ nước các ông.
- Ồ, hãy dẹp chuyện chính trị đi! Bel¬mont không nhịn được nữa.
- Tôi không nói chuyện chính trị! Tôi nói chuyện thực tế. Làm cách nào mà đại tá Cochrane có thể làm cho tên thầy giảng tin rằng ông thực sự quan tâm tới tôn giáo của hắn, trong khi đối với hắn thì trên thế giới không còn một tôn giáo nào khác ngoài tôn giáo mà cái giáo phái nhỏ bé từng nuôi dạy hắn đã nhồi nhét cho hắn? Tôi xin nói thêm cho ông đại tá biết là tôi tin chắc rằng ông không có một chút tính nết nào của kẻ đạo đức giả. Ông sẽ không bao giờ có thể đóng màn kịch đủ khéo để đánh lừa tên Ả Rập đó!
Ông đại tá có một cái lưng cứng cỏi và bộ mặt cương nghị của một người đang tự hỏi rằng ông có nên coi đó là bị sỉ nhục hay được tán tụng.
- Vậy thì ông hãy đảm nhận cuộc tranh luận đi, nếu ông thích làm việc này, cuối cùng ông nói. Tôi rất sung sướng được thoát khỏi công việc khổ cực này.
- Quả thật tôi nghĩ rằng tôi là người thích hợp nhất với nhiệm vụ này, vì tất cả các tôn giáo đều làm cho tôi quan tâm như nhau. Khi tôi tìm hiểu, thì thật sự là tôi mong muốn được hiểu biết, chứ không phải để đóng một vai trò.
- Ðiều tốt nhất chắc chắn là việc ông Fardet đảm trách chuyện này, bà Bel¬mont nói với một giọng quả quyết, giọng nói của bà đã tập hợp được sự nhất trí của mọi người.
Mặt trời lúc này đã lên cao, và nó làm lóe sáng những bộ xương trắng cắm mốc trên đường. Khổ hình của sự khát nước lại hành hạ những tù nhân. Trong lúc họ bước đi, hình ảnh cái phòng trên tàu Ko¬rosko nhảy múa trước mặt họ như một ảo ảnh; họ nhìn thấy những khăn bàn ăn và những khăn mặt trắng tinh, cái thẻ của những chai rượu nho, những cái cổ dài của những cái chai, những chai nước có khí hơi. Sadie, người vẫn khỏe khoắn, tỉnh táo cho tới lúc này, bỗng nhiên lên một cơn u uất thật sự, và những tiếng cười vô cớ sắc nhọn của nàng đã làm các bạn đồng hành của nàng bực bội một cách khủng khiếp. Bà cô của nàng và ông Stephens cố hết sức làm nàng im tiếng cười, và sau một lát cô thiếu nữ kiệt sức, bị huyết áp lên cao, đã chìm vào trạng thái nửa chừng giữa giấc ngủ và sự hôn mê, chỉ còn níu lấy một cách lỏng lẻo cái núm của cái yên, chắc chắn là nàng sẽ ngã nếu nàng không được mọi người vây quanh nâng đỡ những con vật tải đồ cũng mệt mỏi như các người cưỡi chúng; những người này phải luôn tay kéo sợi dây thừng buộc vào đai bịt mồm, để ngăn không cho chúng quỵ xuống. Từ chân trời này tới chân trời nọ, trải dài cái vòm mông mênh của bầu trời xanh không một vết gợn; mặt trời lầm lì bò dọc theo cái lòng chảo dữ dội của nó.
Họ vẫn đi dọc theo con đường mòn cũ, nhưng họ đi rất thong thả. Nhiều lần hai tên tù trưởng tới xem xét những con lạc đà chở các tù nhân, và chúng lắc đầu. Con vật chậm chạp nhất do một tên lính Soudan bị thương cưỡi; nó đi khập khiễng và nó chỉ giữ được ngang hàng với những con khác nhờ sự thêm sức của những nhát roi. Tù trưởng Wad Ibrn¬him giơ súng lên, tì vào vai và bắn một phát đạn vào đầu nó. Người lính bị thương ngã xuống bên cạnh con vật hắn cưỡi. Những người bạn trong cơn bất hạnh quay đầu lại và thấy hắn lảo đảo đứng dậy. Ngay cùng lúc đó một tên bag¬gara từ trên mình lạc đà nhảy xuống, thanh gươm trong tay.
- Chớ có nhìn! Bel¬mont nói lớn với các phụ nữ.
Tất cả bọn họ đều quay đầu về hướng Nam. Họ không nghe thấy một tiếng ồn nào. Nhưng một lát sau tên bag¬gara đuổi kịp bọn họ. Hắn chùi thanh gươm lên lông cổ con lạc đà của hắn, lúc đi qua hắn nở một nụ cười nham hiểm với họ, nhe tất cả hàm răng trắng ởn của hắn ra. Nhưng những con người đang ở mức độ thấp nhất trong sự khốn khổ của loài người ít nhất cũng có một sự bảo đảm về tương lai: nụ cười khả ố này sẽ làm cho họ phát run lên hai mươi bốn giờ trước đây, nhưng lúc này thì nó chỉ gợi lên trong lòng họ một sự bất cần khinh bỉ.
Nếu họ mà ở trong tình trạng quan sát con đường mòn cũ kỹ của khách thương này với con mắt người du ngoạn thì họ đã chú ý tới rất nhiều điểm đáng quan tâm. Chỗ này, chỗ nọ còn thấy những cảnh hoang tàn suy sụp của những tòa lâu đài cổ, cổ quá đến nỗi chúng thách đố lịch sử, nhưng chúng đã được xây dựng vào thời một nền văn minh rất xa xưa với mục đích cung cấp cho các lữ khách một nơi tránh nắng và một chỗ trú ẩn chống lại bọn kẻ cướp. Những viên gạch đất bùn được dùng trong việc xây dựng chúng chứng tỏ rằng các vật liệu đã được chuyên chở từ sông Nil tới. Một lần đứng trên chóp đỉnh của một khu đất nhỏ gồ lên họ thấy một khúc cột bằng đá hoa cương đỏ ở As¬souan bị gãy; nó được trang hoàng hình tượng có cánh của vị thượng đế Ai Cập với khuôn ảnh của hoàng đế Ram¬sès ÌI. Sau ba ngàn năm không có cách nào để tránh khỏi những dấu vết không thể xóa bỏ được của ông vua ham chiến trận! Ðối với các tù nhân khuôn ảnh này là một biểu tượng của hy vọng, dấu hiệu là họ vẫn chưa rời khỏi phạm vi ảnh hưởng của người Ai Cập.
- Ngày xưa họ đã để danh thiếp lại, Bel¬mont nói. Tại sao họ không tới để danh thiếp lại một lần nữa?
Và mọi người đều gắng gượng mỉm cười.
Rồi họ đi tới trước một quang cảnh nhìn rất đã mắt, chỗ này, chỗ nọ, trong nhữmg nơi đất lõm, ở hai bên con đường mòn, họ nhìn thấy một vài cọng cỏ, sự hiện diện này có nghĩa là nước không cách xa mặt đất. Ðột nhiên con đường mòn đi sâu vào một lòng chảo lớn, dưới đáy lòng chảo là một khu rừng nhỏ những cây cọ trông thật mê hồn và một bãi cỏ xanh rờn tráng lệ. Mặt trời chiếu sáng chan hòa cái vệt có màu sắc trong sáng và tươi tắn này, ánh nắng làm nó lóng lánh như một viên ngọc bích thuần khiết được nạm vào miếng đồng bóng loáng. Nhưng vẻ đẹp của ốc đảo không làm quên được những hứa hẹn chứa chất trong nó: nước, bóng mát, tất cả những thứ mà những kẻ lữ hành đã kiệt sức có thể mong ước. Ngay cả Sadie cũng tỉnh lại khi nàng nhìn thấy phong cảnh tươi tốt này, những con lạc đà mệt lử lại đứng lên và bắt đầu chạy nước kiệu trong khi thở hít khí trời. Sau sự khắc nghiệt tàn nhẫn của sa mạc, các tù nhân không thể nhìn thấy điều gì tốt đẹp hơn nữa. Họ ngắm nghía bãi cỏ trên đó những bóng đen của các cây cọ đổ dài, rồi họ ngẩng mặt lên nhìn những tàu lá xanh lớn nổi bật lên trong màu xanh của nền trời và họ quên đi cái chết cận kề của họ trước vẻ đẹp của Tạo hóa mà trong lòng của Người họ sắp trở về.
Ở giữa rừng cây có bảy cái giếng; cần phải thêm vào đó hai cái vũng nhỏ chứa đầy môt thứ nước màu than bùn. Những con lạc đà và mọi người chạy xô tới uống lấy uống để. Sau đó bọn Ả Rập cột những con vật lại và trải chiếu dưới bóng cây để ngủ. Các tù nhân lãnh được một suất chà là và những cái bánh khô; họ được cho biết rằng họ có thể làm những gì họ muốn trong lúc nóng nực lúc ban ngày, và tên thầy giảng sẽ tới thăm họ trước khi mặt trời lặn. Các phụ nữ được hưởng bóng mát dày hơn của một cây keo; những người đàn ông thì nằm dài ra dưới những cây cọ. Những tàu lá xanh kêu sột soạt một cách nhẹ nhàng bên trên đầu họ. Họ nghe thấy tiếng líu lo không rành rọt của các giọng nói Ả Rập, tiếng dậm chân của những con lạc đà; rồi thì do kết quả của một phép lạ bí ẩn và không thể hiểu được, người thì thấy mình đang đứng trong một thung lũng xanh tươi ở Ái Nhĩ Lan, người khác thì trông thấy viên cảnh của đại lộ Com¬mon¬wealth, người thứ ba thì đang ăn ở một cái bàn nhỏ trước pho tượng bán thân của Nel¬son tại Câu lạc bộ Lục quân và Hải quân và tiếng xào xạc của những tàu lá trở thành tiếng các xe cộ đang chạy ở trong Pall Mall (con đường ở đó có trò chơi dùng vồ gỗ đánh những trái bóng gỗ). Cứ như vậy tâm tri họ di lang thang mỗi người một phía trên con đường của những ký ức riêng tư, trong khi thể xác buồn thảm của họ nằm trơ bên nhau, dưới những cây cọ của một ốc đảo trong sa mạc nước Libye.
Chương 08
Đại tá Cochrane bị kéo ra khỏi giấc ngủ bởi một người nào đang lay vai ông. Mắt ông mở ra sát với khuôn mặt đen lo sợ của Tip¬py Tilly. Người cựu pháo thủ Ai Cập để một ngón tay cong queo của hắn lên cặp môi dày cui, và hắn không ngừng nhìn hết bên phải tới bên trái. "Nằm yên! Chớ động đậy!" Hắn nói thì thào bằng tiếng Ả Rập. Tôi sẽ nằm xuống bên cạnh ông; người ta sẽ không phân biệt được tôi với những người khác, ông có thể hiểu những gì tôi nói với ông không?"
- Có, nếu anh nói thong thả
- Được. Tôi không đặt nhiều lòng tin vào thằng cha Man¬soor kia, tôi muốn nói chuyện trực tiếp với ông chỉ huy
- Anh có điều gì muốn nói với tôi?
- Tôi chờ đợi đã lâu cho tới lúc tất cả bọn chúng đã ngủ say. trong một giờ nữa chúng tôi sẽ đọc kinh buổi chiều. Trước hết đây là một khẩu súng lục, ông sẽ không thể nói là ông không có vũ khí.
Đó là một khẩu súng kiểu cổ, nhưng ông đại tá thấy ngay là nó đã được nạp đạn. Ông luồn nó vào túi áo trong của áo mặc ngoài của ông.
- Cám ơn! Xin hãy nói thật thong thả để tôi có thể hiểu được ạnh
- Chúng tôi có tám người muốn trở về Ai Câp. Trong nhóm các ông, ông có bốn người đàn ông. Một người trong bọn chúng tôi, Ma¬homet Ali, đã cột tất cả mười hai con lạc đà. Đó là những con nhanh nhất, kể cả những con của hai tù trưởng. Có những tên canh gác, nhưng chúng đứng rải rác trong mỗi xưởn¬ng. Mười hai con lạc đà đứng rất gần chỗ chúng tôi: phía sau cây keo. Nếu chúng ta cưỡi lên chúng và ra đi thì tôi nghĩ sẽ không có nhiều con khác có thể đuổi kịp chúng ta; ngoài ra những khẩu súng của chúng ta sẽ loại trừ chúng. Bọn lính gác không đủ nhiều để chặn bắt mười hai người chúng ta. Những túi da đựng nước đều còn đầy. Chúng ta sẽ có thể lại nhìn thấy sông Nil vào chiều nay.
Ông đại tá không nắm vững được tất cả nhưng ông cũng hiểu khá đủ để cho niềm hy vọng lại trỗi dậy trong lòng ông. Cái ngày cuối cùng đã để lại dấu vết một cách khủng khiếp trên bộ mặt xanh mét của ông, tóc ông trở nên bạc hết. Người ta có thể nghĩ ông là cha của viên sĩ quan được chăm nom kỹ. Chúng đã đi dạo những bước chân quân cách trên boong tàu Ko¬rosko
- Rất hay - ông nói - Nhưng còn những người đàn bà?
Anh lính da đen nhún vai
- Mặc kệ họ. - hắn nói - Một người thì đi Siria rồi. Và dù sao thì khi chúng ta trở về Ai Cập, chúng ta sẽ không thiếu đàn bà. Về phần những người này, sẽ không có gì nguy hiểm xảy ra với họ đâu. Họ sẽ được gởi tới hậu cung của Quốc vươg.
- Anh nói những chuyện vớ vẩn. - ông đại tá tuyên bố một cách nghiêm khắc - Hoặc là chúng tôi mang những người đàn bà đi với chúng tôi, hoặc chúng tôi sẽ không đi.
Anh lính da đen bực tức:
- Tôi nghĩ là chính ông mới nói những chuyện vớ vẩn! - Hắn nói lớn. - Làm sao ông lại có thể đòi hỏi chúng tôi và các bạn của tôi phải dấn thân vào một cuộc mạo hiểm mà cuối cùng sẽ bị thất bại? Chúng tôi đã chờ đợi cơ hội nhiều năm rồi. Hôm nay cơ hội tới, ông lại bắt chúng tôi đuổi nó đi vì những người đàn bà!
- Chúng tôi đã hứa với anh những gì nếu chúng tôi trở về được Ai Cập? - Cochrane hỏi
- Hai trăm bảng Ai Cập và sẽ thăng cấp trong quân đội Tất cả trong lời hứa danh dự của một người Anh
- Tốt lắm. Các anh sẽ lãnh được mỗi ngườl ba trăm bảng, nếu các anh triển khai một kế hoạch khác cho phép chúng tôi mang theo những người đàn bà.
Tip¬py Tilly lấy tay gãi cái đầu tóc rậm bù xù của hắn với vẻ bối rối
- Chắc chắn là chúng tôi sẽ có thể bịa ra một lý do nào đó để đem tới đây ba con lạc đà nhanh nhẹn khác. Nói thật ra còn ba con ngựa vẫn còn rất tốt trong đám những con được cột ở gần đống lửa. Nhưng làm thế nào để cho những người đàn bà cưỡi lên? Mà ngay cả khi chúng ta có thể nâng họ lên trên lưng chúng, chúng ta cũng biết chắc rằng họ sẽ ngã ngay khi những con vật bắt đầu phi nhanh Tôi cũng đã sợ rằng các ông, những người đàn ông, các ông cũng bị ngã, vì không phải là chuyện dễ để giữ được thăng bằng trên lưng một con lạc đà đang phi nước đại. Còn về những người đàn bà, đừng nói tới họ nữa? Không, chúng ta sẽ để những người đàn bà ở đây, và nếu các ông không muốn bỏ rơi họ, thì chúng tôi sẽ bỏ rơi tất cả các ông, và chúng tôi sẽ đi một mình
- Được lắm? Hãy đi đi! ông đại tá nói một cách khô khan
Và Cochrane lại nằm xuống để ngủ tiếp, ông biết rằng với những người Đông phương, chính kẻ im lặng không nói mới là kẻ đạt được mục đích.
Tên da đen đi khỏi và bò tới chỗ một tên trong bọn bạn của hắn, Ma¬homet Ali, người trông coi lũ lạc đà.
Cả hai tên bàn bạc một lúc, và cuối cùng thì người ta không từ bỏ một cách khinh suất ba trăm đồng tiền vàng
Tên da đen trở lại chỗ ông đại tá, vẫn bằng cách bò choài
- Ma¬homet Ali đồng ý. - hắn nói. - Hắn đã đi kiếm ba con lạc đà kia. Nhưng thật là điên rồ, và tất cả bọn chúng ta đều đi tới chỗ chết. Xin ông cùng đi với tôi, phải đánh thức những người đàn bà dậy và nói cho họ biết
Ông đại tá lay các bạn của ông và thì thầm nói cho họ nghe về kế họạch của Tip¬py Tilly. Bal¬mont và Fardet thì sẵn sàng đảm nhận bất cứ một sự rủi ro nào. Stephens là người đã hình dung một cách khá lạnh lùng viễn cảnh một cái chết thụ động. nay bị kinh họàng vì đề nghị của một hành đông tích cực để tránh cái chết; ông run rẩy tất cả chân tay, ông rút quyển sách chỉ nam ra và bắt đầu làm nhiệm vụ soạn thảo bản chúc thư của ông trên trang đầu quyển sách nhưng tay ông run đến nỗi chữ viết của ông không thể đọc được. Do một sự tập luyện kỳ cục của một linh thần pháp lý, cái chết, ngay cả có kèm theo nhiều bạo lực, nhưng được chấp nhận một cách điềm tĩnh vẫn có chỗ đứng trong trật tự hiện hữu của các sự vật. trong khi một cái chết đánh gục một người đang cưỡi lạc đà chạy một cách điên dại qua bãi sa mạc đối với ông có vẻ họàn toàn bất bình thường và hỗn lọan. Ông không sợ bị biến mất khỏi thế giới của những người sống. Nhưng ông sợ sự nhục nhã và sự thống khổ do một cuộc tranh đấu vô lý và uổng công chống lại cái chết làm nảy sinh
Đại tá Cochrane và Tip¬py Tilly đi cùng tới chỗ bóng mát của cây keo lớn, nơi mà những phụ nữ đang nằm duỗi dài - Sa¬dle và bà cô của nàng ôm nhau mà ngủ; đầu của cô thiếu nữ gối lên ngực bà già người Mỹ- Bà Bel¬mont được đánh thức dậy; bà đồng ý ngay tức thì.
- Nhưng các ông phải để tôi ở lại - CÔ Adams phản đối. - hãy nghĩ xem ở tuổl tôi thì còn quan trọng cái gì.
- Không, cô El¬lza. Không có cô cháu sẽ không đi! Cô đừng tưởng rằng cháu sẽ bỏ rơi cô! Cô thiếu nữ kêu lên. Hoặc là cô cùng đi với chúng cháu, hoặc là cả hai
- Thôi đi cô, thôi đi! Đây không phải là lúc tranh cãi. - Ông đại tá nói xen vào một cách thô tục. - mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào mọi cố gắng của các cô. Các cô hiểu rõ rằng chúng tôi không thể bỏ rơi các cô vào tay lũ kẻ cướp này!
- Nhưng tôi sợ bị ngã!
- Tôi sẽ cột cô lại bằng cái khăn choàng của tội Tip¬py, bây giờ thì tôi nghĩ rằng chúng ta có thể bắt đầu thi hành kế hoạch
Nhưng từ một lúc rồi anh lính da đen quan sát bãi sa mạc với một bộ mặt bối rối. Hắn quay lại và thốt ra một lời nguyền rủa
- Trông kìa! - Hắn nói với giong bực bội. - ông đã nhìn thấy kết quả của tất cả sự ba hoa của các ông! Các ông đã làm hỏng cơ may của chúng tôi và của các ông.
Một toán năm sáu người đàn ông cỡi lạc đà bỗng đột ngột xuất hiện trên bờ của lòng chảo; bóng của họ nổi bật lên rõ ràng trên nền trời lúc hoàng hôn. Họ phi nhanh và vung vẩy những khẩu súng trong tay. Một vài giây sau đó, tù và thổi lệnh báo động, và trại binh ồn ào lên như một đàn ong vỡ tổ. Ông đại tá chạy tới nhập bọn với các bạn bè, và Tip¬py Tilly chạy tới chỗ con lạc đà của hắn. Stephens có vẻ khoan khoái, Bel¬mont thì nhăn nhó, ông Farde cáu kỉnh.
- Đồ chó má! - ông kêu lên - Chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy kết cục của vụ này à? Sẽ không bao giờ chúng ta thoát khỏi bàn tay của những tên thày tu Hồi giáo.
- Ồ đúng thật là những tên thầy tu Hồi giáo phải không? - ông đại tá nói với một giọng chua chát - Tôi thấy hình như ông đã thay đổi ý kiến. Tôi cứ tưởng bọn thày tu Hồi giáo là một sự bịa đặt của chính phủ Anh. Chúng con quỉ khốn khổ đã hết sức chịu đựng rồi
Sự chế giễu của ông đại tá là một que diêm trong thùng thuốc nổ: người đàn ông Pháp nhảy chồm lên ông trong lúc tuôn ra hàng tràng lời chửi bới; ông ấy nắm lấy cổ họng Cochrane trước khi Bel¬mont và Stephens có thể can thiệp và tách hai người ra
- Nếu tóc ông không bạc - ông ấy la lên
- Quỉ tha ma bắt ông đi! - ông đại tá gào lên
- Nếu chúng ta phải chết, thì hãy chết như những người lịch sự, chứ không như lũ trẻ lang thang mất dạy.
Bel¬mont nói với vẻ đường họàng
- Tôi chỉ nói rằng tôi vui thích là ông Fardet đã học được một điều gì đó trong cuộc phiêu lưu của ông.
Ông đại tá trả lời, vẫn một giọng châm chọc
- Im lặng lại. Cochrane! - Người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói lớn - Tại sao ông cứ muốn dồn ông ta tới cùng đường
- Bel¬mont này, tôi chắc là ông quên thân phận của mình rồi. Tôi không cho phép bất cứ ai được nói với tôi bằng cái giọng đó
- Vây thì hãy coi chừng những lời nói của ông!
- Thưa quí ông, thưa quí ông, đây là các bà phụ nữ! - Stephens nói
Đang sôi sục trong cơn giận dữ, ba người nín thinh và vừa đi bách bộ vừa lấy tay giật manh hàng ria mép.
Khí sắc cáu kỉnh là một thứ rất hay lây, vì ngay chính cả Stephens cùng bắt đầu càu nhàu khi các bạn của ông đi qua, đi lại trước mắt ông. Họ đối diện với cơn nguy biến lớn nhất đời họ, bóng của tử thần đang bay lên bên trên đầu họ vậy mà họ tự để cho mình bị lôi cuốn vào những cuộc cãi cọ riêng tư mà nguyên nhân quá nhỏ nhặt đến nỗi họ không thể diễn tả ra bằng ngôn ngữ đươc. Hoạn nạn có thể mang tâm hồn con người lên tới những
đỉnh cao nhưng càng lên cao thì cán cân càng không ngừng động đậy.
Tuy nhiên ngay sau đó những nỗi khó khăn, một cấp độ khác đã nắm giữ sự chủ tâm của họ ở bên cạnh những cái giống một hội đồng chiến tranh đang nhóm họp. Hai tên tù trưởng lầm lì đang nghe bản báo cáo mà tên trong toán tuần tra liến thoắng trình bày. Các tù nhân nhận thấy đã hai, ba lần tên chỉ huy trẻ hơn lùa những ngón tay của hắn vào trong chòm râu đen dài một cách bực bội.
- Tôi tin rằng đàn quân lạc đà đã đi truy lùng rồi, - Bel¬mont nói. - Ngay cả họ không ở cách đây quá xa đâu. Ta có thể đoán thế bởi sự dao động này.
- Có thể đúng đó. Có điều gì đó làm chúng xôn xao?
- Kìa chúng đang ban hành mệnh lệnh. Lính gì đây? Ô này Man¬soor, có việc gì thế?
Anh thông ngôn bước rảo tới. một tia hy vọng làm rạng rỡ mắt hắn ta
- Tôi tin rằng chúng đã trông thấy một điều gì làm chúng hoảng sợ. Chắc hẳn các binh lính Ai Cập đang đi truy sát chúng. Chúng đã ra lệnh đổ nước đầy các túi da và chuẩn bị sẵn sàng để khởi hành khi trời bắt đầu tối. Nhưng tôi cũng phải tập hợp các ông lại, vì tên thày dòng sắp tới để dạy giáo lý cho các ông. Tôi đã nói với hắn là các ông đã có cảm tình tốt với đạo Hồi.
Man¬soor đã giữ được những lời lẽ mà hắn thông thuộc tới mức độ nào? Không bao giờ ta biết được cả. Tuy nhiên, người thày giảng Hồi giáo cũng bước tới chỗ các tù nhân với một nụ cười của kẻ đang sắp làm một nhiệm vụ dễ dàng. Hắn bị chột mắt và mập ú. Nhưng chắc ngày xưa hắn phải mập hơn rất nhiều vì mặt hắn có nhiều nếp nhăn mỡ. Hắn có một khoảng râu bạc và ở trên đầu có một khăn xanh của những khách tới hành hương ở La Mecque. Một tay hắn cầm một tấm thảm nhỏ màu hạt dẻ, tay kia cầm một bản kinh Coran bằng giấy da cừu. Hắn trải tấm thảm của hắn lên mặt đất và mời Man¬soor ngồi xuống bên hắn; rồi hắn lấy tay ra dấu vòng tròn cho các tù nhân làm thành một vòng tròn quanh hắn; cuối cùng hắn ra hlệu cho họ ngồi xuống. Con mắt độc nhất của hắn láo lơ nhìn vào mắt từng người một trong khi hắn trình bày những nguyên tắc của niềm tin mới hơn, thô bạo hơn, đam mê hơn của hắn. Họ chăm chú nghe và họ gật đầu môt cách ngụ ý mỗi khi Man¬soor thông dịch lại khích lệ; cứ mỗi dấu hiệu đồng ý là những cử chỉ của tên thày giảng lại trở nên khả ái hơn và bài giảng của hắn thân thiết hơn.
- Bởi vì tại sao các người lại đi tìm cái chết, hỡi những con chiên ngoan của ta. Trong khi tất cả những điều các ngươi được yêu cầu chỉ là vứt bỏ những gì sẽ đưa các ngươi vào hỏa ngục đời đời, và chấp nhận luật của đấng Al¬lah như nó đã được viết ra bởi bậc tiên tri, chắc chắn là luật này sẽ đem lại cho các người những niềm vui không thể tưởng tượng được, đúng như đã được hứa hẹn trong cuốn sách của con lạc đà! Bởi vì người đã tuyển chọn đã nói gì?
Rồi hắn đọc cho họ nghe một trong những bản giáo điều. những thứ mà được tất cả các tôn giáo đều lấy như là những luận cứ.
- Hơn nữa chẳng phải rõ ràng là Thượng đế ở với chúng ta, bởi vì từ lúc khởi đầu, khi chúng ta chỉ có gậy gộc để chống lại súng ống của người Thổ Nhĩ Kỳ. Chiến thắng đã luôn luôn mỉm cười với chúng ta! Chẳng phải chúng ta đã chiếm El Obeid, chiếm Kha¬toum đã hủy diệt Hs, đã giết Gor¬don, đã thắng tất cả những kẻ động chạm tới chúng ta đấy. Trong những tình huống này làm sao người dám không tin là sự tốt lành ở về phía chúng ta?
Trong lúc tên thầy giảng thuyết pháp với họ như thế, ông đại tá nhận thấy các tên thầy tu Hồi giáo lau chùi súng của chúng, đếm những viên đạn, và làm mọi việc chuẩn bị cho một trận đánh nhau. Hai tên tù trưởng bàn bạc với một vẻ nghiêm trọng. Tên trưởng tuần tra chỉ cho chúng súng của Ai Cập. Rõ ràng là một cơ hội giải cứu đã tới, với điều kiện là mọi việc có thể kéo dài thêm vài giờ nữa. Những con lạc đà chưa hồi phục sau cuộc hành trình dài của chúng. Nếu chiến binh lạc đà đã thật sự lên đường thì chắc chắn là họ sẽ bắt kịp chúng.
- Vì lòng thương của Thượng đế, hãy cố gắng kéo dài cuộc chơi đi, Fardet ạ! - ông nói - Tôi tin rằng chúng ta có một vận may nếu quả bóng còn lăn trong một giờ nữa.
Nhưng phẩm cách bị tổn thương của một người Pháp không nguôi ngoai được một cách dễ dàng. Ngồi tựa lưng vào cây cọ, ông Fardet cau cặp lông mày đen lại. Ông không nói gì, nhưng cứ tiếp tục gịât bộ ria mép cứng.
- Tiếp tục đi, Fardet! Vận mạng của chúng ta tùy thuộc vào ông đó. - Bel¬mont nói
- Cochrane cứ làm việc đó đi. - Fardet cau có trả lời - ông ấy đã quá tùy tiện làm việc này rồi mà, cái ông đại tá Cochrane này!
- Đô đốc Bel¬mont nói như thể ông tìm cách làm cho một đứa bé hay hờn dỗi vui vẻ trở lại Tôi tin chắc rằng ông đại tá sẽ bịểu lộ sự hối tiếc của ông ấy về sự cố lúc nãy, và ông ấy sẽ nhìn nhận các sai lầm của ông.
- Tôi sẽ chẳng làm gì về vụ đó cả! - ông đại tá càu nhàu nói
- Ngoài ra, chuyện cãi vã của ông chỉ liên quan tới môt mình ông thôi. - Bel¬mont nói tiếp. - Vì sự an toàn của cả bọn chúng ta mà chúng tôi muốn ông nói chuyện với tên thầy giảng. bởi vì tất cả chúng tôi đều cảm thấy ông là người có đủ tư cách nhất để làm việc này
Nhưng người đàn ông Pháp chỉ nhún vai thôi.
Tên thầy giảng nhìn họ, hết người này tới người nọ và nét mặt khả ái của hắn bắt đầu tối sầm lại; những nếp nhăn quanh miệng hắn xẹp xuống
- Lũ vô đạo này muốn chơi trò đóng kịch với chúng ta hả? - Hắn hỏi anh thông ngôn - Tại sao chúng nói với nhau và không nói gì với ta cả?
- Hắn nổi cáu rồi! - Cochrane thở dài - Có lẽ tốt nhất là tôi phải tự hy sinh tính mạng mình, vì thằng cha khốn kiếp người Pháp này làm dở dang chúng ta.
Nhưng trí mẫn tiệp của một người đàn bà đã cứu vãn được tình thế.
- Ông Fardet ạ. - bà Bel¬mont nói. - Tôi tin chắc rằng ông một người Pháp. Do đó một người hào hiệp, có tinh thần mã thượng, ông sẽ không chịu để cho một sự tổn thương tới tình cảm của ông chống lại việc thi hành lời hứa của ông và việc chu toàn các bổn phận của ông đối với ba người đàn bà bất hạnh chứ?
Fardet nhảy cẫng lên, ông đặt một bàn tay lên ngực
- Thưa bà, bà đã hiểu rõ bản chất của tôi! - ông nói lớn. - Tôi không có thể bỏ rơi một người đàn bà. Tôi sẽ làm hết sức mình. Bây giờ, Man¬soor, anh hãy nói với vị thánh nhân này rằng tôi muốn tranh luận với ông ta về các vấn đề cao siêu của tôn giáo của ông ta
Và ông đã tranh luận với một sự xảo diệu làm các bạn của ông kinh ngạc ngẩn người ra. Ông dùng giọng điệu của một người cảm thấy mình bị lôi cuốn mạnh mẽ, nhưng còn bị một sư nghi ngại nhỏ níu lại và một khi sự nghi ngại nhỏ này được ông thầy giảng quét sạch. Ông lại đưa ra vài sự phản chống thứ yếu là những điều còn níu ông lại. Trong tất cả những sự ngoắt ngoéo của lý luận của ông, ông đã không quên đưa ra những lời tán tụng ông thày giảng Hồi giáo, ông còn đi cả tới việc tự xưng tụng là nhóm ông đã có sự may mắn gặp được một người tài trí như thế, một nhà toán học thông thái như thế. Những cái bọng thịt của tên thầy giảng bắt đầu rung lên vì đắc ý. Hắn tự để cho mình bị lôi cuốn vào hết sự phản bác này tới sự phản bác khác, rồi tới sự phản bác thứ ba rồi tới những lần khác nữa. Trong lúc đó màu xanh của da trời đã chuyển sang màu tím, những tàu lá xanh đã trở thành đen sẫm. Cuối cùng những vì sao hiện ra giữa những lá cọ
- Về những gì thuộc về khoa học mà ông đã khen ngợi ta, hỡi con chiên của ta. - tên thày giảng nói để trả lời một lập luận của Fardet.- ta đã học ở đại học đường El Azaz ở Le Caire. Và ta biết ông ám chỉ tới điều gì. Nhưng khoa học của tín đồ không giống với khoa học của kẻ vô đạo, và chúng ta không được phép đi quá sâu vào những con đường của đấng Al¬lah. Các tinh tú đều có một cái đuôi, ôi con chiên ngoan ngoãn của ta, và những tinh tú khác thì không có đuôi; nhưng có ích lợi gì đâu để tìm hiểu đó là những tinh tú nào? Thượng đế đã tạo ra tất cả những tinh tú đó, và chúng sống yên ổn trong bàn tay Ngài. Do đó, hỡi anh bạn của ta, chớ nên bám lấy cái thứ khoa học vô nghĩa của Tây phương nữa, và hãy hiểu rằng chỉ có môt sự khôn ngoan: đó là sự tuân theo ý muốn của đấng Al¬lah như là bậc tiên tri được tuyển chọn của Ngài đã đặt ra trong sách này. Bây giờ
thì ta thấy rằng các người đã sẵn sàng đến với đạo Hồi. Hỡi các con chiên của ta, đã tới giờ rồI, vì tiếng tù và báo hiệu là chúng ta sắp sửa tiếp tục lên đường, và ngài Tù trưởng Ab¬de¬lah¬man siêu phàm đã ra lệnh rằng quyết định của các người phải đạt được trước khi chúng ta rời khỏi những giếng nước này
- Tuy nhiên, thưa cha, vẫn còn nhiều điểm khác mà tôi rất mong sẽ tiếp nhận được một sự giáo huấn bổ sung. - người đàn ông Pháp nói - Thật tình đúng là một điều khoái trá khi được nghe sự khúc chiết của lời nói của ngài, sau những lời mơ hồ mà chúng tôi đã nghe ở những vị giáo sư khác
Nhưng tên thầy giảng đã đứng dậy, và một tia nghi ngờ nhen nhóm lên trong con mắt độc nhất của y.
- Một sự giáo huấn bổ sung như vậy sẽ được thực hiện cho các người sau đây - y nói, - vì chúng ta còn cùng đi với nhau tới tận Khar¬toum. Với ta đó sẽ là một niềm hân hoan khi thấy các người trên đường đi đã tăng thêm được sự khôn ngoan và đức hạnh.
Y đi tới chỗ đống lửa, cúi xuống với sự chậm chạp oai vệ của một người phì nộn, rồi đi trở lại với hai cái que đã cháy ra than một nửa mà y đặt xuống thành hình chữ thập - Những tên thầy tu tập hợp lại khắp chung quanh để dự lễ kết nạp những tín đồ mới cải đạo trong giáo hội Hồi giáo. Ở bên trên họ những cái cổ dài và những cái đầu ngạo mạn của những con lạc đà đang lắc lư một cách thanh thản
- Bây giờ - tên thày giảng nói tiếp, tiếng nói của y đã mất cái giọng hòa hoãn và khuyên lơn- đã tới giờ rồi. Trên mặt đất dày này ta đã dùng hai cái que này làm vật tượng trưng mơ hồ và dị đoan cho cái tôn giáo cũ của các người. Các người sẽ dẫm chân lên chúng, tức là dấu hiệu là các người đã từ bỏ đạo; các người sẽ hôn kinh Coran, tức là dấu hiệu là các người đã chấp nhận nó; và tất cả sự giáo huấn bổ sung và các người cần có sự ban cho các người sau này.
Các tù nhân đã đứng dậy: bốn người đàn ông và ba người đàn bà này đang ở trong giờ phút quyết định của số phận họ. Có lẽ trong tất cả mọi người chỉ có cô Adam và bà Bel¬mont là có lòng xác tín vững mạnh về tôn giáo. Cả bảy người bọn họ đều là những đứa con của thế giới này, và một vài người đã phủ nhận tất cả những gì được tượng trưng bởi cái biểu tượng đặt trên mặt đất kia. Nhưng lòng kiêu hãnh của người Âu Châu, lòng kiêu hãnh của giống da trắng đang sôi sục trong người họ và giữ họ lại trong tín ngưỡng của các đồng bào họ. Động lực nhân đạo? Động lực tội lỗi? Động lực phi Cơ đốc? Bất kể động lực nào; nó sẽ biến họ thành những chứng nhân tử vì đạo của tín ngưỡng Cơ đốc. Trong sự im lặng, trong sự căng thẳng thành kính của họ, môt tlếng động yếu ớt bỗng chốc vang lên tới tai họ. Tiếng sì sào của những tàu lá cọ bên trên đầu họ không ngăn cản được họ nghe thấy từ xa tiếng chân phi nhanh của một con lạc đà.
- Đây là một việc gì đang tới. - Cochrane nói thì thào - Hay gắng chần chừ năm phút nữa, Fardet.
Người đàn ông Pháp tiến lên một bước và chào một cách lễ độ bằng cánh tay bị thương của ông, ông có vẻ như sẵn sàng cho bất cứ điều gì
- Anh lại nói với vị thánh nhân là tôi đã hoàn toàn sẵn sàng để cúi đầu trước lời giáo huấn của ông ấy. Và tôi cũng trả lời thay cho các bạn của tôi. - ông nói với anh thông ngôn. - Nhưng có một việc mà tôi muốn nhìn thấy ông ấy làm để loại bỏ tất cả những nghi ngại có thể còn vướng mắc trong lòng chúng tôi. Mỗi tôn giáo chân chính đầu tự chứng minh bằng các kỳ tích mà các môn đồ có thể thực hiện. Ngay chính tôi đây tôi chỉ là một tín đồ Cơ đốc thấp hèn, tôi cũng có thể làm được một vài phép như vào tư cách tôn giáo của tôi. Vậy thì ông, vì tôn giáo của ông cao siêu, chắc chắn là ông có thể thực hiện được nhiều hơn. Và tôi yêu cầu ông chứng tỏ cho chúng tôi thấy bằng một dấu hiệu Hồi giáo là tôn giáo.
Bọn Ả Rập đã cố sức chứng tỏ là đàng hoàng và kín đáo, nhưng chúng cũng rất hiếu kỳ. Sự im lặng bao trùm lên những kẻ đang lắng nghe chứng tỏ rằng những lời nói của Fardet do Man¬soor dịch lại đã làm chúng xúc động.
- Những việc như thế đều nằm trong tay đấng Al¬lah. - tên thầy giảng trả lời. - Chúng ta không có quyền đi ngược lại các luật lệ của Ngài. Nhưng nếu chính bản thân ngươi có các quyền năng mà ngươi tự gán cho mình, chúng ta sẽ vui lòng làm nhân chứng cho việc này.
Người đàn ông Pháp tiến lên, giơ một bàn tay ra quả chà là lớn kếch sù ông nuốt chửng quả chà là này, và ngay sau đó lấy ra một quả khác từ khuỷu tay trái của ông. Ông đã thường chơi cái trò tiểu xảo này trên tàu Ko¬rosko, và các bạn đồng hành thường cười nhạo ông, vì ông đã không đủ khéo léo để lừa gạt được tinh thần phê phán của những người Âu Châu. Nhưng lúc này họ tự hỏi liệu cái trò ảo thuật này có phải là nhân tố quyết định mà số mạng của tất cả bọn họ đang tùy thuộc vào. Một tiếng xì xào của sự kinh ngạc nổi lên từ đám người Ả Rập, và tiếng xì xào tăng lên gấp đôi khi người đàn ông Pháp lấy ra từ lỗ mũi một con lạc đà một quả chà là khác và ném nó lên trên không, và không thấy nó rơi xuống nữa, hay ít nhất hình như nó không rơi xuống nữa. Cái ống tay áo rộng ngoác của ông đã nhìn thấy rất rõ với các bạn ông. Nhưng ánh sáng lúc chiều tà đã phù trợ cho cái tài để mua vui trong lúc trà dư tửu hậu của ông. Đám người dự khán đã quá say mê, quá vui thích đến nỗi họ chú ý rất ít tới một kỵ sĩ mà con lạc đà đang phi nước đại ở gia những cây cọ. Tất cả mọi việc sẽ có thể kết thúc đẹp đẽ nếu Fardet đang sảng khoái vì sự thành công, không muốn bắt đầu lại trò ảo thuật của ông.
Quả chà là rơi ra khỏi bàn tay ông, và sự lừa bịp đã rõ ràng. Ông muốn chuyển ngay sang một trò khác, nhưng tên thầy giảng nói một vài tiếng và một tên Ả Rập đánh vào bả vai Fardet môt nhát cán giáo
- Khá đủ trò trẻ nít rồi - Tên thầy giảng gầm lên trong cơn giận dữ. - Chúng ta là người lớn hay là trẻ nít mà để các ngươi lừa gạt bằng cách này? Đây là cây thánh giá kinh Coran, các ngươi quyết định thế nào?
Fardet nhìn quanh mình với vẻ tuyệt vọng:
- Tôi không thể làm gì hơn nữa, ông yêu cầu tôi năm phút, ông có năm phút rồi. - Ông nói với đại tá Cochrane.
- Và có lẽ chúng cùng sẽ đủ đó, - ông đại tá trân lời - Những tên tù trưởng kia ...
Tên kỵ sĩ mà họ đã nghe thấy từ xa đi về phía hai tên chỉ huy Ả Rập để trình chúng một báo cáo ngắn gọn trong khi lấy tay chỉ về hướng mà hắn vừa từ đó tới. Hai tên tù trưởng trao đổi vài câu. rồi đi tới chỗ những tên thầy tu đứng vây quanh các tù nhân. Lão già hung hăng giơ một bàn tay lên và nói một câu ngắn gọn với một gịong cục cằn; những tên Ả Rập đáp lại bằng một thứ tiếng như chó sủa; nom chúng giống như một lũ chó săn trước tên thợ săn chỉ huy đàn chó, ánh lửa lấp lánh trong cặp mắt hách dịch của y đã truyền sang những tên đang nhìn y. Tới lúc đó mới đong thở phát lộ ra sức mạnh và sự nguy hiểm của phong trào bởi những bộ mặt bị co rúm vì sự đam mê, vì những khí giới được vung vẩy trên tay này, vì những tâm hồn cuồng tín này; chúng không đòi hỏi gì khác ngoài một cái chết đẫm máu, với điều kiện là nhanh tay chúng trước hết phải được vấy máu
- Các tù nhân có chịu theo lòng tin chân chính không? - Tù trưởng Ab¬der¬rah¬man hỏi trong khi cặp mắt độc ác của y nhìn chòng choc vào họ
Tên thày giảng đã có một danh tiếng tốt để gĩư gìn, hắn không chịu thú nhận sự thất bại
- Chúng sẽ cải đạo khi ...
- Này thầy giảng, hãy để việc này lại đó.
Y phát ra một hiệu lệnh. Tất cả những tên Ả Rập đều nhảy lên lưng lạc đà. Tù trưởng Wadl¬brahlm đi khỏi ngay tức thì cũng với phân nửa người của nhóm y. Những tên khác ngồi yên trên lạc đà, súng cầm trong tay.
- Chuyện gì xảy ra vậy? - Bel¬mont hỏi
- Những toán quân của chúng ta kéo lên rồi! - ông đại tá kêu lên. - Nhờ ơn trên phù hộ, tôi nghĩ rằng chúng ta sắp thoát nạn rồi. Toán quân lạc đà ở Ouadl-haifa tiến sâu vào theo dấu vết của chúng ta
- Làm sao ông biết việc này?
- Ông muốn rằng ai đã báo động cho họ như thế?
- Ông đại tá, ông thật sự tin rằng chúng ta sắp được giải cứu à? - Sa¬dle thổn thức nói
Sự chìm đắm vào nỗi bất hạnh đã làm tê cóng thần kinh của họ đến mức hình như họ không có thể thấy được những cảm giác mạnh, nhưng sự hồi phục đột ngột của niềm hy vọng lại đem tới cho họ sự đau khổ và lo âu. Chính ngay Bel¬mont cũng tràn đầy những nghi ngại. Lo sợ ông đã hy vọng ngược lại tất cả mọi hy vọng. Lúc này sự hiện thực của các ước mong của ông đã tới gần lại làm cho ông run sợ.
- Tôi hy vọng là họ sẽ tới với quân số đông. - Ông nói. - Saprletl, nếu viên tư lệnh chỉ gởi tới một liên đội yếu ớt thì phải đưa ông ta ra hội đồng chiến tranh? Dù sao thì chúng ta cũng nằm trong tay của thượng đế.
Bà vợ ông nói với vẻ bình tĩnh:
- Anh John thân quý, hãy quỳ xuống với em; có lẽ đây là lần cuối cùng; vợ chồng ta hãy cầu nguyện cho dù ở trên trời hay ở dưới đất chúng ta cũng sẽ không xa cách nhau
- Không! Xin các vị đừng quỳ! - ông đại tá hét lên lo sợ vì ông trông thấy tên thày giảng đang nhìn họ
Đã quá trễ rồi. Hai người công giáo La Mã đã quỳ xuống và đã làm dấu thánh giá. Sự giận dữ làm đỏ bừng mặt tên thầy giảng Hồi giáo khi hắn nhìn thấy bằng chứng công khai về sự thất bại của hắn. Hắn quay đi và nói
- Đứng lên. Hãy đứng dậy - tên Man¬soor quát bảo - ông ấy xin phép giết các vị đó.
- Thì hắn cứ việc làm việc gì hắn thích đi! - Người đàn ông bướng bỉnh Ái Nhĩ Lan trả lời - Chúng tôi sẽ đứng dậy khi các bài kinh của chúng tôi chấm dút, không đứng dậy trước!
Tên tù trưởng vừa nghe tên thày giảng nói vừa phóng cái nhìn hắc ám của hắn vào hai cái bóng đang quỳ. Hắn ra những mệnh lệnh. Bốn con lạc đà được dẫn tới. Những con lạc đà chở đồ mà không được dùng để cưỡi vẫn không được đóng yên và vẫn ở lại chỗ mà chúng bị cột
- Đừng có ngốc, Bel¬mont! - ông đại tá nói lớn. - Tất cả đều tùy thuộc vào tâm trạng mà chúng ta sẽ tạo ra cho chúng. Đứng dậy đi, bà Bel¬mont! Ông bà chỉ làm cho chúng đứng lên chống lại bọn ta.
Người đàn ông Pháp nhún vai:
- Trời ơi! - ông kêu lên - Sao lại có một dân tộc cố chấp như vậy kìa!
Hai phụ nữ Mỹ cũng quỳ xuống bên cạnh bà Bel¬mont
- Họ giống như những con lạc đà, một con nằm xuống, tất cả những con khác nằm theo! Thật là kỳ cục!
Nhưng ông Stephens cũng quỳ ở bên canh Sa¬dle. Ông đã giấu bộ mặt phờ phạc vào hai bàn tay dài và gầy gò của ông. Chỉ còn ông đại tá và ông Fardet là vẫn đứng thẳng. Cochrane ném một cái nhìn dò hỏi cho người đàn ông Pháp
- Dù thế nào, - ông nói. - người ta sẽ ngu ngốc khi cầu nguyện suốt cả đời, cũng như không cầu nguyên khi mà ta không còn điều gì khác để hy vọng ngoài lòng thương của đấng tối cao.
Ông để thân mình khuỵu xuống trên hai đầu gối.
Đứng thẳng như một người lính, những cam gục xuống ngực, người đàn ông Pháp nhìn các bạn của ông cầu nguyện, rồi đôi mắt ông chuyển sang những nét mặt bực tức của tên tù trưởng và tên thầy giảng
- Đồ chó má! - ông làu bàu - Chúng nghĩ rằng một người Pháp lại có thể sợ hãi?
Rồi vừa làm dấu thánh một cách đường hoàng công khai, ông vừa quỳ xuống bên cạnh các bạn của ông. Mình mẩy bẩn thỉu, khốn khổ, quần áo tả tơi, bảy tù nhân trong cái tư thế khúm núm dưới bóng tối của những cây cọ, đang chờ đợi số phận họ được định đoạt
Tên tù trưởng quay lại nhìn tên thày giảng với một nụ cười mai mỉa để chỉ cho hắn thấy kết quả sự thuyết giáo của hắn. Rồi y ban ra một mệnh lệnh mới. Ngay tức thì bốn người đàn ông bị lũ thầy tu túm lấy và trói hai cổ tay lại. Fardet rú lên một tiếng vì sợi dây thừng nghiến vào vết thương của ông. Những người khác chịu đựng cái luật của kẻ mạnh hơn với vẻ hiên ngang
- Các ông đã làm hỏng hết cả rồi! Tôi ngậm rằng chính tôi cũng đã bị các ông sát hại! - Man¬soor vừa kêu la vừa vặn vẹo hai bàn tay. - Các phụ nữ sẽ leo lên ba con lạc đà này.
- Không bao giờ? - Bel¬mont phản kháng - Chúng tôi sẽ không để bị chia cách.
Ông xông lên như một thằng điên, nhưng sự đói khát, thiếu thốn đã làm ông yếu đi, và hai tên Ả Rập khỏe mạnh nắm lấy tay gì ông lại.
- John, đừng tự làm khổ mình. - bà vợ ông nói lớn trong khi chúng đẩy bà tới chỗ con lạc đà. - Không có sự tệ hại nào chờ đợi em đâu. Đừng cựa quậy nữa! Bằng không chúng sẽ giết anh đó!
Bốn người đàn ông sợ run lên khi họ trông thấy những người đàn bà đang đi xa dần. Tất cả những sự lo sợ của họ đã không có một chút nào khi ở bên cạnh mấy người đàn bà. Sa¬dle và bà cô của nàng có vẻ gần như ngất xỉu đi vì kinh họàng Chỉ có bà Bel¬mont là còn giữ được nét mặt quả cảm. Một khi đã được nâng lên trên lưng những con lạc đà rồi, họ được đưa tới dưới cái cây mà bốn người đàn ông đang đứng ở phía sau
- Tôi có một khẩu súng lục trong túi áo. - Bel¬mont nói với bà vợ - Tôi sẽ hy sinh tính mạng để có thể đưa nó cho mình.
- Cứ giữ lấy nó, john. nó còn có thể dùng được. Em không sợ gì cả. Từ lúc chúng ta cầu nguyện, em có cảm tưởng là các vị thần hộ mạng đang che chở cho chúng ta bằng những đôi cánh của các ngài
Chính ngay bà trông cũng giống như một vị thần hộ mệnh vì bà đang quay lại phía cô Sa¬dle run rẩy và thì thầm nói với cô một vài lời đầy hy vọng và khích lệ.
Tên Ả Rập nhỏ bé, lùn chỉ huy toán hậu vệ của Wadl¬brahlm đi tới gặp tên tù trưởng và tên thày giảng, cả ba tên vừa bàn bạc với nhau vừa liếc mắt nhìn về phía các tù nhân. Rồi một tên tù trưởng nói với Man¬soor:
- Ông chỉ huy muốn biết ai là người giàu nhất trong bọn các ông? - Tên thông ngôn nói
Những ngón tay của hắn ngọ nguậy với một vẻ nóng nảy điên cuồng và hắn luôn luôn lau mồ hôi trên trán
- Tại sao hắn lại muốn biết? - ông đại tá hỏi
- Tôi không biết tại sao.
- Nhưng đó là sự hiển nhiên mà! - ông Fardet nói lớn - Hắn muốn biết ai là người giàu nhất để giữ người đó lại hòng đòi tiền chuộc!
- Tôi nghĩ là chúng ta phải cùng nhau xem xét vấn đề này - ông đại tá nói - ông Stephens này, chính ông nên khai ra, vì chắc chắn ông là người giàu nhất trong bọn.
- Có thể vậy - ông luật sư trả lời - Nhưng bất kỳ trong trường hợp nào tôi cũng không mong được xếp vào một loại riêng biệt
Tên tù trưởng lại cất tiếng với một giọng khắc nghiệt
- Ông ấy nói - Man¬soor thông dịch, - rằng những con lạc đà chở đồ đã mệt lử, và nay chỉ còn duy nhất một con là có thể tiếp tục lên đường. Ông ấy để thuộc quyền sử dụng của một người trong bọn các ông, và ông ấy để các ông có quyền lựa chon. Người giàu nhất trong bọn các ông sẽ được ưu tiên
- Hãy trả lời hắn rằng tất cả bọn chúng ta đều giàu bằng nhau.
- Trong trường hợp này, ông ấy nói là các ông phải chon ngay người nào sẽ có con lạc đà
- Còn những người khác?
Anh chàng nhún vai
- Đuợc - ông đại tá nói- Này các bạn, nếu chỉ có một người trong bọn chúng ta được thọát nan, thì tôi nghĩ rằng các bạn sẽ đồng ý với tôi người đó sẽ là Bel¬mont, bởi vì ông ấy đã có vợ.
- Phải, phảI! Người đó phải là ông Bel¬mont! - Fardet nói
- Tôi cũng nghĩ thế - Stephens nói
Nhưng người đàn ông Ái Nhĩ Lan không muốn nghe
- Không, chia đều - ông nói lớn - Chúng ta sẽ cùng chết hoặc sẽ cùng được giải cứu tất cả, và quỷ sứ bắt kẻ nào thối chí!
Một cuộc thi đấu ngoan mục về tính bất tự kỷ diễn ra sôi nổi. Một người nào đó nói rằng ông đại tá nên đi, vì ông là người già nhất. Cochrane trở nên giận dữ
- Người ta có thể nghĩ rằng tôi là ông già tám mươi - ông phản đối - sự nhận xét này đã hoàn toàn lỗi thời rồi
- Này. - Bel¬mont nói. - tất cả chúng ta đều từ chối không
- Đó không phải là điều khôn ngoan lắm! - Người đàn ông Pháp nói lớn - Các bạn hãy nghĩ xem! Thế là để cho các bà ở lại một mình à? Một người trong bọn ta phải ở gần các bà ấy để giúp ý kiến cho họ, đó là điều vô cùng tốt đẹp
Họ nhìn nhau bối rối. Rõ ràng là Fardet đã nói đúng. Nhưng làm sao mà một người trong bọn họ lại có thể bỏ rơi các bạn của mình? Tên tù trưởng nói xen vào để đề nghị một giải pháp
- Ông chỉ huy nói. - Man¬soor nhắc lại. - nếu các ông không thể tự quyết định được: chỉ còn có cách dành sự quyết định lại cho đấng Al¬lah và phải rút thăm
- Tôi không thấy giải pháp nào tốt hơn nữa. - ông nói
Ba người bạn của ông cũng đồng ý
Lúc đó tên thầy giảng chìa ra cho họ bốn miếng vỏ cây cọ và giữ một đầu của chúng lại trong các ngón tay
- Ông ấy nói ai rút được miếng dài nhất sẽ được cưỡi con lạc đà. - Man¬soor thông dịch
- Chúng ta đồng ý, một cách nghiêm chỉnh làm theo như vậy không? - Cochrane hỏi các bạn của ông
Họ đều hứa sẽ làm vây
Bọn thầy tu đã làm thành một vành bán nguyệt phía trước họ. Ngọn lửa trại chiếu ánh sáng đỏ của nó vào những diễn viên của màn kịch và vào các khán giả. Tên tù trưởng phòng rời mặt khỏi toán tù nhân. Đằng sau bốn người đàn ông là một hàng lính gác. Đằng sau những tên lính gác này là ba người đàn bà đang ngồi trên lưng lạc đà xem màn kịch. Với một nụ cười quái ác, tên thầy giảng đi tới gần Bel¬mont. Người đàn ông Ái Nhĩ Lan không thể nào khỏi thốt ra một tiếng rên rỉ làm cho bà vợ của ông cũng rên rỉ theo, vì miếng vỏ cây ông rút được nhỏ xíu. Người đàn ông Pháp rút được một miếng dài hơn một chút. Ông đại tá rút được một miếng dài gấp hai lần cả hai miếng kia hợp lại. Miếng của Stephens cùng vào cỡ miếng của Bel¬mont. Đại tá Cochrane là người thắng cuộc trong trò chơi xổ số khủng khiếp này
- Tôi sẵn lòng đổi chỗ của tôi cho ông đó, ông Bel¬mont ạ - ông lầm bầm nói - Tôi không có vợ cũng không có con. Họ hàng chỉ có vài người. Anh hãy đi với vợ ông đi! Tôi sẽ ở lại
- Tuyệt đối là không. Một gi¬ao ước là một gi¬ao ước. Tất cả đều phải trung thực
- Ông tù trưởng ra lệnh ông phải leo lên ngay tức thì. - Man¬soor nói
Một tên Ả Rập dẫn ông đại tá hai tay vẫn bị trói tới chỗ con lạc đà đang đứng.
- Hắn sẽ ở với toán hậu vệ - tên tù trưởng nói với tên phụ tá của hắn - Anh cùng sẽ trông coi những người đàn bà cùng đi với anh
- Còn con chó thông ngôn này?
- Với những tên kia?
- Và những tên kia?
- Khử đi!
Chương 09
Vì không có ai trong ba tử tội hiểu tiếng Ả Rập cả, lệnh của tên tù trưởng sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với họ khi không có sự phiên dịch của Man¬soor. Sau những trò phản phúc, những sự khom lưng, quỳ gối và sự bôi bác của hắn ta, anh chàng thông ngôn khốn khổ thấy rằng những sự lo sợ tệ hại của hắn sắp trở thành hiện thực. Vừa thốt ra một tiếng rú kinh họàng, con người khốn khổ đó vừa nằm phục xuống, mặt úp xuống đất và níu lấy vạt áo của tên tù trưởng. Tên này thấy khó mà gỡ ra khỏi sự nắm gĩư điên cuồng nên đã cho hắn một cái đá dữ dội. Cái khăn bịt đầu đỏ của anh thông ngôn bay tung lên trời. và Man¬soor nằm rên rỉ và ẻo lả ngay tại chỗ mà cái đá của tên Ả Ráp vừa xô hắn tới Lúc đó trại binh tràn ngập một sự xao động điên cuồng. Tên tù trưởng già leo lên lưng con lạc đà của y. Một vài tên trong toán của y phóng đi không còn chờ đợi để nhập bọn với các bạn của chúng. Tên phụ tá béo lùn, tên thày giảng và hơn hai chục tên thầy tu vây quanh các tù nhân. Chúng vẫn còn đi bộ, vì chúng đã được lệnh hành quyết ba người tù. Khi nhìn chúng, Bel¬mont, Stephens và ông Fardet biết rằng họ chỉ còn vài phút nữa để sống thôi. Tay họ vẫn còn bị trói, nhưng bọn lính canh đã thôi không gĩư tay họ nữa. Do đó cả ba người đều quay đầu lại để chào vĩnh biệt mấy người đàn bà
- Bây giờ thì tất cả đều chết rồi, No¬rah ạ! - Bel¬mont nói - Chúng tôi không có vận may, vì hy vọng đã tới rất gần. Mặc kệ! Chúng tôi đã làm hết sức mình
Đây là lần đầu tiên bà vợ của ông bị suy sụp tinh thần. Bà khóc thổn thức, giấu mặt vào hai bàn tay
- Đừng khóc, em yêu của anh ! Chúng ta đã cùng hưởng sung sướng rồi. Em hãy chuyển tất cả lòng kính mến của anh tới các bạn của chúng ta. Hãy nhớ lại cho anh kỷ niêm tốt đep của Amy Mo¬carthy và gia đình Bịess¬mgtn. Em sẽ có đầy đủ mọi thứ để sống nhưng anh muốn nhắc em nên hỏi ý kiến của Rodger trong việc đầu tư của em. Chớ quên điều đó !
- ôi John. không có anh em sẽ không sống được. 1 sự u buồn mà người đàn ông ái Nhĩ Lan cũng cảm thấy trong nỗi đãu buồn của bà vợ đã bắt ông khuất phục; ông gục đầu xuô'ng và tựa nó trên cái hông đầy lông của con lạc đà. Cả hai vợ chồng cùng bắt đầu khóc.
Trong lúc đó Stephens tiến lại gần Sa¬dle. Trong bóng tối chang vạng của lúc họàng hôn, nàng trông thấy bộ mặt gày ốm và nghiêm trọng của ông ngẩng lên về phía mình
- CÔ đừng lo sợ cho bà cô của cô, và cả cho cô nữa. Ông nói Tôi tin chắc rằng bà và cô sẽ được giải cứu: đại tá Cochrane sẽ săn sóc cho hai người. Những người Ai Cập không thể ở xa phía sau. Tôi hy vọng là bà và cô sẽ cô thể uống nước trước khi rời khỏi những cái giếng. Tôi rất muốn đưa cho bà cô của cô cái áo ngoài của tôi. vì chiều nay trời sẽ lạnh. Nhưng với những sợi dây trói này tôi nghĩ rằng tôi sẽ không thể cởi nó ra. Nói với bà ấy hay gĩư lại một ít bánh dự trữ để sáng
Ông nói một cách rất bình tĩnh; người ta có thể nói đó là một người đang sắp xếp các chi tiết cho một cuộc đi cắm trại ngoài trời - một cảm gíac bất chấp. Sự mến phục lối cư xử điềm tĩnh của người đàn ông sắp phải chết đã tràn ngập trong tim sôi động của Sa¬dle.
- Ông thật là tử tế ! Nàng kêu lên Tôi chưa bao giờ gặp được một người như ông. Người ta nói về các vị thánh. nhưng lúc này ông đang đứng trên ngưỡng cửa
tử thần, mà ông chỉ nghĩ tới chúng tôi ?
- CÔ Sa¬dle ạ, tôi muốn nói với cô một tiếng cuối cùng nếu cô cho phép. Như vậy tôi sẽ chết môt cách sung sướng hơn ! Nhiều khi tôi đã muốn nói với cô, nhưng tôi lại nghĩ có lẽ cô sẽ cười vào mũi tôi, vì không bao gìơ cô nhìn các sự việc môt cách quá nghiêm túc, phải vậy không? Với tính vui vẻ của cô thì việc đó cũng rất tự nhlên thôi, nhưng đối với tôi thì việc đó rất quan trong. Lúc này tôi đã là một người chết rồi, do đó những gì tôi nói không quan trọng lắm nữa.
- ồ có chứ. ông Stephens
- Tôi sẽ im tiếng, nếu vịệc nghe tôi nói làm cho cô khó chịu. Như tôi đã nói với cô, tôi sẽ chết sung sướng hơn. Nhưng tôi không muốn tỏ ra tôi là kẻ ích kỷ; nếu
tôi nghĩ rằng những lời nói của tôi sau đây sẽ làm u ám cuộc sống của cô, hoặc sẽ trở thành một kỷ niệm tệ hại cho cô, tôi sẽ không nói một tiếng nào nữa.
- ông muốn nói gì với tôi?
- Một cách đơn giản là tôi yêu cô biết bao. Tôi đã mãi mãi yêu cô từ lúc ban đầu tôi đã cảm thấy mình là một người khác khi tôi đứng với cô. Nhưng thật là vớ vẩn, chắc chắn thế! Tôi biết rõ điều này. Tôi đã không nói gì cả. và tôi đã cố không làm cho tôi trở thành lố bịch: nhưng tôi muốn rằng cô biết việc đó, lúc này thì việc đó không còn quan trọng nữa. CÔ sẽ hiểu rằng tôi thật lòng yêu cô khi tôi nói với cô rằng nếu đó chỉ là việc tôi nhìn thấy cô khổ sở và lo lắng, thì hai ngày vừa qua. trong đó chúng ta đã không rời xa thau, đã là những ngày sung sướng nhất trong đời tôi.
CÔ thiếu nữ vẫn tái mét, lăng lẽ, nhìn với con mắt ngạc nhiên bộ mặt đang quay về phía mặt nàng. Nàng không biết phải làm gì, nói gì trước mối tình đang tỏa ra ánh lửa quá sáng tỏ trong bóng tối của tử thần. Với trái tim thơ ấu của nàng. tất cả những điều này không thể hiểu được; tuy nhiên nàng cũng cảm thấy sự êm dịu
và tươi đep của nó
- Tôi sẽ không nói một điều gì khác với cô: Stephens nói tiếp - Tôi thấy là cô đang bối rối, nhưng tôi muốn cô phải biết. Bây gìơ thì cô biết rồi, tất cả đều tốt đẹp. Cám ơn cô đã nghe tôi nói một cách rất lịch sự và nhiều kiên nhẫn. Chào cô, cô Sa¬dle bé nhỏ! Tôi không thể giơ bàn tay lên được; cô có thể hạ thấp bàn tay cô xuống được không?
Nàng chìa một bàn tay ra cho ông Stephens đặt môi ông vào bàn tay nàng. Rồi ông quay đi, trở lại chỗ cũ giữa Bel¬mont và Fardet. Trong suốt cuộc đời tranh đấu
và thành công, chưa bao giờ ông cảm thấy một niềm hân hoan trầm lặng như gìơ phút này, khi mà ông sắp chết. Không có gì để tranh cãi về tình yêu. Nó là yếu tố thắm thiết nhất của đời sống con người . Nó là thứ làm lu mờ và biến đổi tất cả mọi yếu tố khác. Nó là yếu tố duy nhất đã được tuyệt đối vẹn toàn. Sự đau đớn trở thành
một khọái lạc. Sự cùng quẫn trở thành một nguồn an ủi. Cái chết là tất cả sự êm ái khi mặt trăng óng ánh vàng này tô điểm hào quang cho một con tim. Trước mặt những tên sát nhân, Stephens có thể ca hát vui vẻ. Thật tình ông đã không có thì giờ để nghĩ tới chúng. Điều quan trọng, sự kỳ diệu và chân quý là nàng sẽ không còn coi ông như một người bạn tình cờ. Suốt cả cuộc đời, nàng sẽ nghĩ tới ông. Nàng sẽ biết
Con lạc đà của đại tá Cohrane đi hơi xa xa phía bên, và viên sỹ quan già mà hai tay đã được cởi trói lặng nhìn quang cảnh và với tính bướng bỉnh cố hữu của ông, tự hỏi có thật sự phải từ bỏ mọi hy vọng không Ông biết chắc rằng bọn ả Rập tâp hợp hung quanh các nạn nhân vẫn ở đằng sau, còn những tên khác đã leo lên lưng lạc đà rồi sẽ phụ trách việc canh gĩư ba người đàn bà và ông. Ông không thể hiểu tại sao các bạn ông lại chưa bị chém cổ. Với sự tinh vi trong tính độc ác của người Đông phương, không chừng toán hậu vệ sẽ chờ cho tới lúc những lính Ai Cập tới thật gần mới ra tay
chăng? Những cái xác còn nóng hổi của các nạn nhân sẽ là một sự lăng nhục đối với những kẻ truy sát chúng Phải. chác chắn sự giải thích này là đúng, ông đại tá đã
từng nghe nói về những thủ đoạn như vậy. Nhưng trong trường hợp này sẽ không có quá mười hai tên ả Rập đi kèm các tù nhân. Trong bọn chúng không có tên nào có thể trở thành một đồng minh à?
Nếu Tip¬py Tilly và sáu người trong bọn y có mặt tại đó? Và nếu Bel¬mort có thể gỡ tay khỏi dây trói và cầm lấy khẩu súng lục của ông thì may ra họ có thể chạy thoát được. Ông đại tá vặn vẹo cái cổ nhưng lại càu nhàu thất vọng. Ánh lửa đã chỉ cho ông thấy những cái đầu của bọn lính canh. Bọn này tất cả đều là dân Ả Rập bag¬garas mà không ai có thể hy vọng ở lòng thương người hoặc ở việc chúng tự để cho mình bị hủ hóa. Chắc là Tip¬py Tilly và những tên khác đã phải đi trong toàn dẫn đầu. Đây là lần đầu tiên viên sĩ quan già đành bỏ rơi tất cả mọi hy vọng.
- Tạm bịêt các bạn! Xin Thượng đế ban phước lành cho các bạn! ông nói lớn
Một tên da đen tới kéo cái rọ mõm của con lạc đà của ông. Mấy người đàn bà tiến lên đằng sau ông, họ buồn khổ quá không thể nói năng gì. Đối với ba người đàn ông còn đứng lại thì sự khởi hành của họ lại là một sự nhức nhối trong lòng.
- Tôi rất sung sướng là các bà ấy đã đi khỏi . Stephens nói từ đáy lòng mình
- Phải, như thế còn tốt hơn - Fardet nói lớn - nhưng chúng ta còn phải đợi bao lâu nữa đây?
- Rất lâu hơn nữa? Bel¬mont trả lời với một giọng cay đắng
Bọn Ả Rập vây kín quanh họ Ra tới rìa ốc đảo: ông đại tá và ba người đàn bà quay đầu lại phía những thân cây cọ. Họ nhìn thấy đống lửa đã tàn. Bên trên toán người ả Rập họ nhận ra ba cái mũ trắng. Rồi những con lạc đà của họ bắt đầu chạy nước kiệu. Khi họ liếc lại phía sau một cái nhìn cuối cùng, khu rừng cọ chỉ còn là một khối tối sẫm với sắc lập lòe mông lung của đôi chút ánh sáng ở khoảng gĩưa.
Trong lúc họ nhìn với những con mắt khẩn cầu cái chấm đỏ trong lành tối tăm này thì họ cũng vượt qua cái bờ của lòng chảo; ngay tức thì bãi sa mạc mông mênh được
ánh trăng soi sáng đã bao trùm lên họ với sự im lặng của nó. Và ốc đảo đã biến khỏi tầm nhìn của họ. Ở mọi phía bầu trời xanh êm như nhung lốm đốm những vì
sao sà xuống phía bình nguyên bao la họang dã. Bầu trời và mặt đất đã trộn lẫn với nhau ở chân trời. Bị tuyệt vọng quá, những người đàn bà không còn đủ can đảm để nói chuyện nữa. Ông đại tá cũng im tiếng luôn: ông có thể nói cái gì đây? Bỗng dưng cả bốn người đều giật nẩy mình lên trên yên của họ, và Sa¬dle sế nén một tiếng kêu buồn khổ. Trong bóng đêm một phát súng đã nổ phía sau họ. Có một phát nữa. Rồi nhiều phát nữa. Và cuối cùng thì những tiếng nổ ngưng hẳn
- Có lẽ đó là những người Ai Cập, những cứu tinh của chúng ta ! - Bà Bel¬mont kêu lên -Đại tá Cochrne. ông không tin rằng đó là những người Ai Cập à?
- Có có ! Sa¬dle ấp úng nói. Đó phải là những người
ông đại tá đã lắng nghe một cách chăm chú, nhưng tất cả đều trở lại im lìm. Lúc đó, với một dáng điệu nghiêm trang, ông bộc lộ tâm tình. Ông nói:
- Bà Bel¬mont ạ, thật là vô ích khi chúng ta tự lừa dối mình. Chúng ta phải chấp nhận sự thật. Các bạn của chúng ta đã rời bỏ chúng ta, nhưng họ đã chết như những
người dũng cảm.
- Nhưng tại sao chúng lại bắn súng? Chúng đã có những ngon giáo của chúng mà .
Bà run rẩy toàn thân:
- Đúng thật vậy. - ông đại tá nói - Để đổi lấy bất kỳ vật gì trên đời tôi cũng không muốn làm mất niềm hy vọng thực tế của bà; nhưng ngược lại tốt nhất là dù sao
hãy đặt cho chúng ta một sự thất vọng phũ phàng. Nếu chúng nghe thấy một cuộc tấn công thì chúng ta cũng phải nghe thấy một sự phản kích. Ngoài ra, nếu những
lính Ai Cập đã tấn công, thì họ đã phải tấn công với lực lượng lớn. Thật thế. Như bà đã nói, đúng là hơi kỳ quái khi họ đã phí hoài những viên đạn. Lạy chúa tôi, hãy
nhìn kìa.
ông duớn thẳng tay về hướng Đông. Hai bóng người đang di chuyển trên sa mạc. Hai cái bóng lén lút mau lẹ của họ nổi bật rõ ràng hơn trên mặt đất. Họ trông thấy chúng leo lên và tụt xuống ở những nơi gồ lên, xẹp xuống của địa hình. Chúng biến đi và hiện ra sau đó dưới ánh sáng mập mờ. Chúng lẩn tránh bọn ả Rập. Rồi chúng
dừng lại trên đỉnh một đồi cát. Lúc đó các tù nhân phân biệt được chúng một cách rõ ràng. Đó là hai người đàn ông ngồi trên lưng lạc đà; nhưng chúng ngồi bỏ chân ra
hai bên, như một kỵ sĩ trên lưng ngựa vậy
- Những lính cưỡi lạc đà của Ai Cập ! ông đại tá
- Họ chỉ có hai người! Có Adams nói thầm thào với một giong thảm sầu
- Đó chỉ là những tên xích hầu, thưa cô! Họ đã tung ra các toán tuần thám trên suốt bề rộng của sa mạc. và đây chỉ là một toán? Đại bộ phận lực lượng không ở cách xa quá mười lăm cây số. Họ sẽ cho lính báo động. Những người lính lạc đà già, dũng cảm!
Ông đại tá dè dặt là thế, đúng mực là thế. mà cũng khó có thể nói ra lời, nhất là khi ông bực bội. Một ánh chớp đỏ chiếu sáng trên đỉnh cái đồi, rồi một cái chớp
thứ hai. Tiếng súng nổ lốp đốp tiếp theo. Hai cái bóng tan biến một cách cũng lặng lẽ và mau lẹ như hai con cá hồi trong một dòng nước chảy mạnh.
Bọn ả Rập đã dừng lại; chúng ngán ngẩm không muốn làm gián đoan cuộc hành trình để chạy đuổl theo hai cái bóng nọ. Nhưng bây gìơ thì chúng không còn gì để đuổi theo nữa, vì ở gĩưa những cồn cát nhấp nhô, những tên xích hầu đã có thể đi theo bất kỳ hướng nào. Tên tù trưởng phi nước đại quay trở lại, ra các mệnh lệnh. Những con lạc đà tăng tốc bước đi. Những hy vọng của các tù nhân khi đó đã bị loãng đi trong những cái lắc lư khủng khiếp mà họ phải chịu. Những người đàn bà cố hết sức bám chặt lấy cái núm yên, ông đại tá cũng gắng kiệt sức như họ. Nhưng ông luôn luôn rình rập một cách thèm thuồng dù là một dấu hiệu nhỏ nhặt của những người truy kích
- Tôi nghĩ rằng, Tôi nghĩ rằng. bà Bel¬mont nói - tôi trông thấy một vật gì đang động đậy phía trước
Ông đại tá ngồi thẳng dậy trên yên và che mắt tránh ánh sáng trăng
- Lạy chúa tôi, bà nói đúng đó. Ở đằng kia có người
Lúc này thì ông nhìn thấy họ rất rõ ràng: ở phía trước mắt họ một dãy kỵ binh đang trải dài ra trên sa mạc.
- Họ đi cùng một hướng với chúng ta - Bà Bel¬mont kêu lên. bà có cặp mắt tinh hơn ông đại tá Cochrane cố nén một lời chửi thề trong hàng ria mép
- Hãy nhìn những dấu vết trên mặt đất, ông nói - Chắc chắn đây là bọn tiền quân của chúng đã rời khỏi ốc đảo trước chúng ta Tên chỉ huy bắt chúng ta phải
dùng nước bài chết người này để chúng ta bắt kịp chúng.
Lúc hai bên tới gần nhau, họ nhìn thấy đó đúng là toán quân A Rập kia. Ngay sau đó tù trưởng Wad Ibrahlm tới gặp tù trưởng Ab¬de¬nah¬man Chúng chỉ về hướng mà
các xích hầu đã xuất hiên và lắc đầu; rõ ràng là chúng đã có nỗi bận tâm nghiêm trọng và những linh cảm xấu. Những chiến binh của sa mạc hợp thành một
đạo duy nhất đang rục nịch đi về hàng chòm sao chổi thấp, ngay phía trước họ ở chân trời. Trong nhiều giờ lối chạy nước kiệu khủng khiếp này cứ tiếp tục. Những
người đàn bà đang sắp ngất xỉu. Ông đại tá khích lệ họ gĩư vững tinh thần. và ông luôn luôn quay đãu lại để ngóng trông những người lính lạc đà. Máu đập mạnh trên thái dương của ông. Ông nói là ông nghe thấy tiếng trống đồng. Trong cơn mê
sảng ông nhìn thấy những đám đông lính lạc đà Ai Cập đang cất bước. Suốt cả cái đêm dài vô tận đó, ông tung ra những tin tốt lành để rồi tức thì bị đính chính bởi các
sự việc. Mặt trời lúc mọc lên cũng không tiết lộ được điều gì có thể an ủi được những kẻ khốn khổ
Những người đàn bà bị kinh hoàng vì vẻ mặt của người bạn đường của họ. Ông không còn là vị sĩ quan xuất sắc đã cùng đi với họ từ Le CAire nữa! Hình như
tuổi tác đã thình linh đổ ụp lên người ông. Mái tóc ông đã trở nên trắng như tuyết. Một bộ râu để đã ba ngày, cũng trắng như tóc ông đã làm lu mờ đường nét cương
nghị và rõ ràng của cái cằm ông. Các gân máu trên mặt ông phồng căng lên; những nếp nhăn lên được khơi sâu Lưng ông còng xuống, đầu ông thấp đi, nhưng trong cơn
mê sảng, mặc dù sự kiệt sức đang ở ngưỡng cửa của tử thần, ông vẫn gĩư được vẻ nghĩa hiệp và bao dung khi ông ngoảnh nhìn về phía ba người phụ nữ. Ông nói với
họ những lời ngắn gọn, những lời an ủi hay những lời khuyên răn, ông luôn luôn nhìn về phía sau như hy vọng trông thấy sự tiếp cứu không bao giờ tới đó.
Một giờ sau khi mặt trời mọc, đoàn người dừng lại. Đã có sự phân phát thức ăn và nước uống cho tất cả mọi người; sau đó đoàn người lại lên đường đi về phía Đông
Nam nhưng với những bước đi khoan thai hơn; nó trải dài bốn trăm mét trên sa mạc. Cứ xem cái vẻ ngoài vô tư lự và những sự nói năng huyên thuyên của chúng thì
chắc chắn là bọn ả Rập nghĩ rằng chúng đã vượt khỏi những kẻ truy kích chúng. Chúng có ý định quay trở lại sông Nil sau chuyến đi vòng vèo của chúng tới một nơi
nằm khá xa phía trên những triền núi Ai Cấp. Phong cảnh biến đổi dần dần. Chả mấy chốc những hòn đá cuội đã nhường chỗ cho những núi đá kỳ quái, đen ngòm và cho
cái thứ cây màu vàng cam mà các tù nhân đã nhìn thấy lúc khởi đầu chuyến đi thê thảm của họ ở bên phải và bên trái họ những quả đồi hình chóp, những khe sâu có
bờ lởm chởm đá đứng dựng lên bên trên những thung lũng cát. Những con lạc đà tiến bước theo hàng một, đi vòng qua các tảng đá lên hoặc dùng những bàn chân mềm mại có chất dính như keo để leo lên những tảng đá có thể làm một con ngựa phải lùi bước. Đoàn người tiến bứơc một cách lặng lẽ và chậm chạp vào một đường
đèo được bao quanh bởi những núi đá đen ngòm và cây vàng. bầu trời vẽ ra một vòng cầu hẹp bên trên khe núi
Cô Adams - người mà đêm dài lạnh lẽo đã thực sự làm cho tê cóng, nay đã bắt đầu hết cóng dưới cái nóng của mặt trời. Bà nhìn quanh mình và xoa hai bàn tay
- Này. Sa¬dle. - bà nói - cô nghĩ là đêm vừa qua cô đã nghe thấy tiếng cháu, và bây gìơ cô thấy là cháu đã khóc
- Cháu suy nghĩ đó, cô ạ
- Này. chúng ta phải cố gắng nghĩ tới những người khác, cháu cưng ạ. Chớ không phải đến bản thân chúng ta!
- Cô ơi cháu không nghĩ đến cháu đâu ..
- Có phải đặc biệt đến một người nào không?
- Đến ông Stephens, cô ạ. Ông ấy duyên dáng và dũng cảm biết bao! Khi cháu nghĩ tới lúc đứng giữa tất cả những tên sát nhân này mà ông vẫn thu xếp các chi
tiết nhỏ nhặt cho chúng ta. Ông ấy còn định cởi áo khọác ngoài ra? Cô ạ, ông ấy là ông thánh và là vị anh hùng của cháu trong suốt cuộc đời này.
- Thực tình ông ấy đã rũ sạch mọi ưu phiền rồi !
Cô Adams nói với sự cộc cằn của tuổi bà
- Vậy thì cháu cũng muốn chết theo
- CÔ không thấy việc đó sẽ có thể giúp được gì cho ông ấy
- Cháu nghĩ rằng ông ấy sẽ có thể cảm thấy đỡ cô đơn. Sa¬dle vừa nói vừa để cho cái cằm nhỏ nhắn mỹ miều của nàng trễ xuống.
Trong sự im lặng trở lại, ông đại tá vố trán với một điệu bộ bối rối
- Lạy Chúa tôi - ông kêu lên - Tôi phát điên lên
Trong lúc ban đêm các người bạn phái nữ của ông đã thấy rõ là ông bị mê sảng, nhưng từ lúc tảng sáng ông có vẻ đã hồi phục tinh thần. Sự điên đảo vì cơn khủng
họảng đột ngột này, các bà vẫn cố sẽ làm ông nguôi ngoai bằng những lời nói ngọt ngào
- Điên rồi. tôi nói với các bà. Họàn toàn điên rồi! ông quát to lên với họ. Các bà có biết tôi vừa nhìn thấy cái gì không ?
- Xin ông đừng sợ. Bà Bel¬mont vừa trả lời vừa cho con lạc đà đi sát lại gần để dịu dàng đặt một bàn tay lên bàn tay ông. Không có gì là lạ về việc ông đã bị mệt mỏi. Ông đã không ngừng suy nghĩ và hành đông cho tất cả bọn chúng ta ! Chả mấy chốc chúng ta sẽ dừng chân, ngủ được một vài giờ sẽ làm ông hoàn toàn bình tĩnh.
Nhưng ông đại tá lại nhìn lên trời và ông lại thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc
- Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi nhìn thấy cái gì rõ ràng hơn nữa . ông làu bàu nói - Kìa trên mỏm núi ở phía tay phải chúng ta, ông Stu¬art khốn khổ với cái
khăn phu-la đỏ của tôi quấn trên đầu, đúng hệt như lúc chúng ta rời xa ông ấy vậy.
Ba người đàn bà ngẩng mặt nhìn về nơi mà ông đại tá chỉ họ. Và họ cùng thốt lên một tiếng kêu kinh hoàng Trên mạn bên phải của cái khe sâu khủng khiếp mà
những con lạc đà đang leo lên, có một cái cạnh sắt đen ngòm chìa ra như một cái bao lơn có một chỗ nó nhô cao lên để tạo thành một thứ ngọn núi nhọn nhỏ. Và trên
ngọn núi đó đứng sững một cái bóng đơn độc im lìm, y phuc họàn toàn màu đen, nhưng trên đầu lại đội khăn đỏ. Trong bãi sa mạc của nước Libye chắc chắn là không
thể có hai cái bóng cùng to lớn và cũng thấp lùn như vậy, hai khuôn mặt cùng xanh xao như vậy ! Người đó cúi về phía trước và y hết sức chăm chú quan sát
nơi đầu cùng của ngọn đèo. Người ta có thể nói đó là một bức hoạt họa của Napoléon!
- Có thể nào đó là ông ta không? ông đại tá ấp úng.
- Đúng là ông ấy. Đúng là ông ấy! Những người đàn bà xác nhận. Trông kìa, ông ấy nhìn về phía chúng ta và ông ấy ra hiệu cho chúng ta
- Trời ơi? Chúng nó sẽ giết ông ấy! Cúi thấp xuống, đồ điên khùng. Nếu không các bà sẽ tự giết mình đó.
Ông đại tá muốn gầm lên nhưng cổ họng ông khô quá không thể phát ra những tiếng gì khác ngoài tiếng oang Nhiều tên thầy tu cũng trông thấy như họ sự xuất
hiện ly kỳ trên chóp núi; chúng đã cầm súng lên tay. Nhưng một cánh tay dài bất chợt giơ lên từ đằng sau vị mục sư ở Bir¬mmgham. Một bàn tay nâu nắm lấy quần
của ông, và ông biến mất như trong một trò ảo thuật.
Ngay ở phía dưới, tù trưởng Ab¬der¬rah¬man, sau khi nhảy lên một tảng đá lớn, bắt đầu la hét và vung vẩy cánh tay. Nhưng những lời quát tháo của hắn bị chìm đi trong
một loạt dài những tiếng súng bắn ra từ hai bên bờ khe sâu. Ngọn núi có hình một pháo đài có những nòng súng nhô ra, những khăn bịt đầu màu đỏ xõa xuống bên trên những cái cò súng. Cả về mạn đầu cùng của ngọn đèovà phía trước mặt, những tia lửa tóe lên kèm theo những tiếng nổ khô khan. Bị bắn lia lịa ở mặt trước và ở hai
bên; bọn kẻ cướp bị rơi vào một ổ phục kích. Tên tù trưởng gục xuống; hắn lại đứng lên môt cách khó khăn. Một vết máu lấm hoen bẩn bộ râu dài của hắn. Hắn không
ngớt khoa chân múa tay và ra thêm nhiều mệnh lệnh. Nhưng những người của hắn tản mát mọi nơi không tuân lệnh hắn. Có những tên lại tụt xuống khe sâu để tránh
khỏi bị làm bia đỡ đạn. Trái lại, những tên khác thì bị đẩy về phía trước bởi những tên đi sau của đoàn người. Một vài tên tụt xuống đất và toan leo lên chân núi đá.
gươm tuốt trần để xung phong lên chiếm pháo đài. Nhưng xác chúng bị trúng đạn chết lăn long lóc từ tảng đá này tới tảng đá nọ cho tới chân đèo. Sự tác xạ không được chính xác lắm, một tên da đen đã có thể đứng lên tận trên cao, mà không bị bắn trúng. nhưng một nhát báng súng đã đánh vỡ đầu hắn. Tên tù trưởng
đã ngã từ trên tảng đá của hắn xuống và hắn nằm không nhúc nhích trên mặt đất như một đống giẻ rách màu trắng và nâu hạt dẻ. Khi một phân nửa bọn A Rập đã bị loại khỏi cuộc chiến, những tên cuồng tín nhất phải nhìn nhận rằng không không còn giải pháp nào khác ngoài việc cấp tốc ra khỏi cái khe núi của tử thần này và quay trở lại sa mạc. Vậy là chúng quay lại và phóng nước đại chạy đi trên đường đèo. Thật là một sự khủng khiếp khi một con lạc đà phi nhanh trên một đia hình lởm chởm gồ
ghề. Sự kinh họàng đã chiếm hữu con vật. Bốn chân của nó cùng bay lên trên không trong một lúc. Những tiếng kêu rùng rợn của nó đi kèm theo những tiếng la hét của
kẻ cưỡi nó đang nảy lên bên lưng nó. Tất cả những cảnh này kết hợp lại để tạo thành một hình ảnh mà những ai đã nhìn thấy một lần khó lòng quên được. Khi làn sóng những con lạc đà điên cuồng tràn qua trước mặt họ, mấy người đàn bà trông rằng gìơ phút cuối cùng của họ đã tới. nhưng ông đại tá đã đẩy con lạc đà của ông và những con của các bà vào gĩưa những tảng đá đen; phía bên ngoài những tên ả Rập đang rút lui. Những viên đạn rít lên trong không khí, rít lên trên những tảng đá chung quanh họ.
- Hãy bình tĩnh! Chúng nó sẽ bỏ quên chúng ta.
Ông đại tá thì thào nói. Ông đã trở lại là ông trong lúc này, lúc mà gìơ hành động đã điểm. Tôi rất muốn gặp Tip¬py Tilly hoặc một vài người trong đám bạn của y. Họ sẽ có thể giúp đỡ đắc lực cho chúng ta!
Nhưng trong đám những kẻ chạy trốn đang phi nước đại trước mặt họ, ông không trông thấy người thủ pháo. May mắn thay, tất cả mọi người đều thấy rằng trong
lúc vội vã rời khỏi khe núi, bọn thày tu đã không nghĩ tới những tù nhân của chúng nữa. Đại bộ phận của đoàn người đã đi xa rồl, chỉ còn môt vài tên tụt hậu phải chịu
những loạt đạn bắn từ trên cao xuống. Tên cuối cùng là một tên bag¬gara trẻ tuổl có ria mép đen và râu cằm để nhọn. Lúc đi qua hắn ngẩng đầu lên và tay vung gươm trong một điêu bộ bực tức mà không làm gì được nhắm vào những tên lính Ai Cập. Ngay lúc đó một viên đạn bắn trúng con lạc đà của hắn và con vật ngã
quỵ trên mặt đất. Tên Ả Rập nhảy xuống đất, nắm lấy cái rọ mõm và lấy bản của thanh gươm đập một cách man rợ vào hông con lạc đà để bắt nó đứng lên. Nhưng
cặp mắt lờ đờ của nó báo cho hắn biết rằng nó đã bị đánh đến chết. Mà ở trên sa mạc thì cái chết của một con lạc đà thường xảy ra ít lâu trước cái chết của người
cưỡi nó. Tên bag¬gara phóng ra chung quanh hắn những cái nhìn nảy lửa của con sư tử lúc cùng đường. Hai vết đỏ phơi ra trên nước da cam nâu của hắn. Nhưng hắn
chẳng cau mày. Trông thấy các tù nhân hắn thốt lên một tràng kêu vui thích hung bạo và tung mình lại chỗ họ, tay vung vẩy thanh gươm trên đầu hắn. Cô Adams đứng ở gần hắn nhất. Khi bà thấy hắn xông tới, bà nhảy xuống khỏi lưng con lạc đà mà bà dùng làm vật để che chở cho bà. Tên ả Rập nhảy chồm lên một tảng đá và hắn muốn phóng một nhát đâm khủng khiếp vào bà Bel¬mont nhưng ông đại tá đã chĩa súng luc của ông và bắn hắn phọt óc ra ngoài. Trong cơn tức giận điên dại, còn dữ dội hơn sự hấp hối của cái chết, tên A Rập tuy đã ngã xuống đất rồi mà vẫn tiếp tục dãy dụa trong một lúc và chém vung vít những nhát gươm vào không khí
- Xin các bà đừng sợ nữa! ông đại tá nói lớn - Hắn chết thật rồi, tôi đoán chắc với các bà thế, tôi rất áy náy là đã tiến hành sự hành quyết hắn ở trước mặt các bà, nhưng con quỷ này rất nguy hiểm. Hơn nữa tôi cũng có một món nợ nhỏ phải thanh toán vớt hắn, vì hôm nọ hắn đã toan đâm thủng mạng sườn của tôi bằng khẩu rertling¬ton của hắn. Tôi hy vọng rằng bà không tự gây thương tích cho mình chứ, bà Adams. Đợi một lát, tôi leo xuống.
CÔ gái già Boston không hề hấn gì vì cô phòng bị ngã quá cao. Sa¬dle, bà Bel¬mont và đại tá Cochrane tự để mình tuột xuống trên những tảng đá. Bà Adams đứng thẳng người, vung vẩy một cách đắc thắng những mảnh còn lại của tấm khăn mỏng xanh lục của bà
- Hoan hô Sa¬dle? Hoan hô cô cháu cưng của ta ! Bà kêu to, chúng ta đã được giải cứu rồi. con ạ ! Dù sao thì chúng ta cùng đã được giải cứu rồi!
- Nhờ ơn trên, đúng, chúng ta đã được giải cứu
ông đại tá kêu lớn
Nhưng Sa¬dle đã học được lối nghĩ tới ngườii khác trong những ngày khủng khiếp này. Nàng ôm lấy bà Bel¬mont và áp má nàng vào má của bà
- ôi vi thần yêu quý của sự dịu hiền. nàng kêu lên. Làm sao mà chúng tôi còn có bụng dạ để vui đùa khi
- Nhưng tôi không tin một tí gì về chuyện đó ! Người đàn bà dũng cảm xứ ái Nhĩ Lan trả lời nàng - Không. tôi không tin một chút nào về chuyện đó khi mà tôi
chưa nhìn thấy xác của John. Nhưng nếu tôi trông thấy xác anh ấy thì cuộc đời tôi sẽ không muốn trông thấy một cái xác nào khác nữa!
Lúc này khe núi đã được quét sạch hết những tên thầy tu cuối cùng. Phía bên trên đầu họ, trên hai vách cao của đường đèo, họ trông thấy những người Ai Cập: cao lớn, mảnh khảnh với những cái vai vuông vắn. Họ hiện rõ nét trên nền trời xanh và họ họàn toàn giống như các chiến binh được cham trổ trong các bức phù điêu
cổ xưa. Họ đã buộc những con lạc đà của họ ở đáy khe sâu và họ vội vã đi gặp chúng. Một vài người lính đã bắt đầu đi vào đường đèo. Mắt họ sáng rực lên với sự
khích động của chiến thắng và của sự truy kích. Một người Anh nhỏ thó với một bô ria mép hoe vàng và một vẻ lì lợm cưỡi lạc đà đi dẫn đầu ông dừng con lạc đà lại
vào ngang tầm với các cựu tù nhân và chào các bà. Ông mang giày ống nâu và một dải đeo kiếm màu hung hung với những cái móc bằng thép trên bộ quân phục ka¬ki
- Lần này người ta đã tóm được chúng, và đã tóm khá tốt! - ông nói - Dĩ nhiên là rất vui thích đã có thể gíup đỡ được quý vị. Tôi hy vọng rằng các bà không đến nỗii vất vả lắm để thoát nạn. Đây không phải là môn thể thao rất dễ chịu đối với các bà.
- Tôi đoán rằng ông ở Ouadl - Haifa phải không ?
ông đại tá hỏi
- Không. Chúng tôi thuộc về một toán khác. Chúng tôi là đội trú phòng ở Sar¬ras. Chúng tôi đã gặp chúng trong ở mạc, chúng tôi đã đi vòng về phía trước chúng
và toán ở Ouadl - Haifa thì chờ chúng ở phía sau. Tôi xin nói với ông. Hãy leo lên các tảng đá và ông sẽ nhìn thấy sự tiếp diễn của các trận đánh. Lần này sẽ là một trận hạ đo ván trong một hiệp duy nhất.
- Chúng tôi còn bỏ lại ở chỗ những giếng nước một bộ phận của nhóm chúng tôi. Chúng tôi rất lo lắng cho số phận của họ ông không có tin tức nào về mạn áy à?
Cochrane hỏi
Viên sĩ quan trẻ trở nên nghiêm trọng và lắc đầu
- Một chuyện bẩn thỉu - ông ấy nói - Khi ông đẩy những ngườl đó tới chỗ đường cùng, họ trở nên độc ác. Hãy để cho tôi nói với ông rằng chúng tôi tuyệt nhiên
không nghĩ là sẽ tìm thấy các ông còn sống. Tất cả những gì chúng tôi hy vọng chỉ là trả thù cho các ông
- Không có người Anh nào khác đi với ông à ?
- Archer chỉ huy chi đội đang ở trên kia kìa. Ông ấyy sẽ phải đi qua đây, vì tôi không tin rằng còn có con đường nào khác để đi xuống. Chúng tôi đã lượm được
một người đồng bọn các bạn ông: một con chim ngộ nghĩnh với một cái mũi đỏ. Tôi hy vọng sẽ gặp lại ông sau này! Hẹn tái ngộ, thưa quý Bà!
Ông cầm lấy cái mũ cứng của ông, dắt con lạc đà và phi nước kiệu để bắt kịp những binh lính của ông
- Chúng ta không còn gì để làm tốt hơn là chờ cho mọi việc qua đi - ông đại tá nói
Quả thực những quân lính phục kích trên các đỉnh vách đèo đều phải mượn đường đèo để đi ra. Đi theo hàng một, họ tiến bước, da đen hay da nâu, người Soudan
và người Ai Cập, nhưng tất cả bọn họ đều có phong thái đẹp vì đạo quân lạc đà là đạo quân ưu tú của quân đội Ai Cập. Họ đeo một bao đạn lên trên ngực và khẩu súng ngang đùi. Một người đàn ông thân mình to lớn với bộ ria mép đen rậm nhìn xuống, ống nhòm cầm trong tay và cưỡi lạc đà đã đoạn hậu.
- Hê-lô, Archer! ông đại tá gọi
Viên sĩ quan nhìn vào mắt ông với một cái nhìn lạnh lùng trống rỗng như thể ông đại tá là người hoàn toàn xa lạ với ông ta
- Tôi là Cochrane đây này! Chúng ta đã cùng đi du ngoạn với nhau .
- Thưa ông, xin thứ lỗi - viên sĩ quan trả lời - Tôi có biết một đại tá Cochrane, nhưng không phải là ông, ông ấy cao hơn ông mười phân, tóc đen, và ..
- Rất đúng - ông đại tá nói lớn, trong lòng không khỏi bực bội - Hãy sống vài ngày với bọn thày tu Hồi giáo, rồi ông sẽ thấy sau đó các bạn bè của ông có nhận
ra ông không ?
- Trời ơi. Cochrane. Đúng là ông thật à ? Chả bao giờ tôi lại tin là có chuyện này! Lạy Chúa, nỗi thống khổ của ông mới tệ hại làm sao! Tôi đã từng nghe nói nhiều người có thể bạc đầu trong một đêm. Nhưng ...
- Được rồi - ông đại tá cắt ngang câu nói, mặt dỏ bừng - Cho phép tôi được đề nghị điều này, ông Archer ạ. Nếu ông có thể kiếm cho các bà này thứ gì để ăn và
thứ gì để uống, thay vì bàn cãi về thể chất của cá nhân tôi thì ông sẽ chứng tỏ là ông không thiếu tinh thần thực tế.
- Được lắm - đại úy Archer ưng thuận - ông ban Stu¬art của ông biết là ông ở đây và ông ấy sẽ mang một ít lương thực tới cho ông và các bà. Thức ăn sẽ ít thôi,
thưa các bà. Nhưng chúng tôi không thể cống hiến thứ gì tốt hơn cho các bà. Ông Cochrane, ông là một quân nhân già. Xin ông hãy leo lên các tảng đá. vì ông sẽ
nhìn thấy một cảnh đẹp. Tôi không có thì gìơ dừng lại, vì trong năm phút nữa chúng tôi sẽ tham chiến toàn bộ. Tôi có thể làm việc gì khác nữa cho ông trước khi lên đường không ?
- Ông không có cái gì giống như một điếu xì gà à? ông đại tá hỏi
Archer lấy từ trong cái túi da của ông ra một gói thuốc Para¬ga dày cộm và đưa cho ông cùng với mấy que diêm; rồi ông đi khỏi để nhập bọn với những người của ông. Cochrane ngồi dựa lưng vào một tảng đá, rít điếu xì gà một cách say sưa. Chính trong những lúc như thế này những dây thần kinh bị quá căng thẳng mới thấy
biết ơn tất cả những đức tính của thuốc lá, thứ thuốc an thần đáng yêu này là thứ đã vừa tăng cường, vừa trấn an. Trong một lúc ông nhìn những vòng khói lãng đang
xoay lòng vòng chung quanh ông, một sự uể oải dễ chịu chiếm ngự cái thân thể mệt mỏi của ông. Ba người dàn bà thì ngồi trên một tảng đá phẳng
- Lạy Chúa, Sadie này. Cháu có vẻ thế nào nhỉ?
CÔ Adams nói. cô đã hoàn toàn trở lại chính là cô. Mẹ cháu sẽ nói gì nếu bà ấy trông thấy cháu? Cháu có mái tóc đầy rơm rác và áo dài của cháu thật là quá bẩn thỉu
đến phát sợ lên.
- Cháu nghĩ là tất cả bọn chúng ta đều cần tắm rửa một chút. Sa¬dle nói với một giọng mà sự êm dịu làm cho không ai nhận ra tiếng của nàng. Bà Bel¬mont,
lúc nào bà cũng xinh đẹp, nhưng xin bà cho phép tôi sắp lại cái áo dài cho bà .
Cái nhìn của bà Bel¬monl đã bị chìm đi trong khoảng xa xăm. Bà lắc đầu một cách buồn bã và đẩy bàn tay của Sa¬dle ra.
- Tôi có vẻ ra sao cũng không có gì quan trọng tôi không nghĩ tới điều đó. - bà nói - Liệu cô có thể bận tâm về cái áo dài của cô, nếu cô đã bỏ lại sau lưng cô
người đàn ông mà cô yêu quý. Như tôi đã bỏ lại người yêu quý của tôi không?
- Tôi đã bắt đầu, Tôi đã bắt đầu nghĩ rằng tôi đã bỏ lại người đàn ông yêu quý của tôi - Cô Sa¬dle khốn khổ nức nở khóc
Và nàng giấu khuôn mặt nóng bỏng của nàng vào lòng lẻn mẫu của bà Bel¬mont.
Chương 10
Tất cả đạo quân lạc đà đã diễn hành trong khe núi mở cuộc truy kích bọn thầy tu Hồi giáo đang tháo lui . Trong một vài phút, những người được giải cứu đứng lại một mình. Nhưng chẳng mấy chốc một tiếng nói vui vẻ
gọi họ. Một cái khăn quàng đầu màu đỏ đang nhảy nhót giữa những tảng đá, và cái đầu lạc đà to phè của vị mục sư bất phục quy tắc hiện ra. Ông tựa mình trên một ngọn glâo vì cái chân bị thương của ông, và cái nạng kiểu nhà binh này kết hợp với bộ y phục hòa bình của ông đã cho ông một hình thù bất tương hợp: người ta tưởng tượng đến một con cừu bỗng nhiên mọc ra những móng vuốt khủng khiếp. Hai tên da đen đi theo ông vác một cái lồ và một túi da đựng nước.
- Ðừng nói gì cả! Ông nói lớn với họ, trong khi cập cẫng đi tới chỗ họ. Tôi biết một cách chính xác những gì các vị đang nghĩ ngợi. Chính tôi cũng đã ở trong trường hợp các vị. Ðem nước lại đây, Ali! Chỉ có nửa chén thôi, bà Adams ạ; các vị sẽ có thể uống thêm, một lát nữa đây. Ðến lượt bà, bà Bel¬mont! Lạy Chúa, lạy Chúa, những linh hồn khốn khổ, tôi đau lòng biết bao vì các vị! Trong cái lồ có bánh và thịt, nhưng các vị nên ăn vừa phải khi mới bắt đầu...
Ông khúc khích cười vui thích, ông vỗ tay trong khi nhìn họ ăn và uống.
- ...Còn những người khác? Ông hỏi với tất cả vẻ nghiêm trọng vừa lấy lại của ông.
Ông đại tá lắc đầu:
- Chúng tôi đã bỏ họ ở lại chỗ những cái giếng. Tôi sợ rằng tất cả đều đã kết liễu với họ.
- Suỵt, suỵt! Vị mục sư kêu lên với một giọng vang tai như muốn làm cho mọi người quên đi sự bối rối hiện ra trên nét mặt ông. Tất nhiên các vị cũng đã nghĩ là tất cả đều đã kết thúc với tôi rồi; thế mà tôi vẫn còn đây. Bà Bel¬mont, chớ mất can đảm! Chắc chắn là số phận của ông chồng bà không tuyệt vọng hơn số phận của tôi đâu.
- Khi tôi trông thấy ông đứng trên mỏm núi kia, tôi cứ tưởng rằng tôi bị mê sảng, ông đại tá nói. Nếu các bà đây đã không nhận ra ông như tôi thấy, thì không bao giờ tôi dám tin vào cặp mắt của tôi.
- Tôi nghĩ rằng tôi đã xử sự rất tệ. Ðại úy Archer nói rằng suýt nữa tôi đã làm hỏng tất cả các kế hoạch của họ, rằng tôi đáng bị đưa ra hội đồng chiến tranh và bị xử bắn. Sự việc là khi tôi nghe thấy bọn Ả Rập đi qua ở phía dưới, tôi đã không thể kháng cự lại ý muốn biết xem các bạn cũ của tôi có cùng đi với chúng không?
- Tôi hết sức kinh ngạc thấy rằng ông đã không bị xử bắn bên ngoài mọi hội đồng chiến tranh, ông đại tá nói. Ma quỷ đưa đường thế nào mà ông đến được đây?
- Ðội quân lạc đà ở Qua¬di - Hal¬fa đã tung ra đi theo con đường mòn của chúng ta lúc tôi bị bỏ lại, và họ đã nhặt được tôi trong sa mạc. Tôi đoán rằng tôi đã bị mê sảng, vì họ nói rằng họ đã nghe thấy tiếng tôi từ rất xa: hình như tôi đã gân cổ lên mà hát những bài thánh ca và thánh thi; chính là tiếng của tôi, với sự phù trợ của thượng đế, đã hướng dẫn họ tới chỗ tôi. Họ có một trạm cứu thương trên một con lạc đà; sáng hôm sau thì tôi bình phục. Chúng tôi bắt liên lạc với quân trú phòng ở Sar¬ras, và tôi lại đi cùng với họ, vì có một y sĩ đi theo họ. Vết thương của tôi không hề hấn gì cả. Viên y sĩ khẳng định với tôi rằng tôi sẽ khỏe mạnh rất nhiều hơn sau vụ mất máu này. Và bây giờ các bạn ...
Cặp mắt nâu, lớn của ông đã mất đi sự ranh mãnh và làm ra vẻ nghiêm trang, kính cẩn.
- ...Tất cả bọn chúng ta đều ở trên ngưỡng cửa của tử thần, và những người bạn đồng hành thân mến của chúng ta có lẽ ngay cùng lúc đó cũng giống như chúng ta. Cái quyền lực đã cứu vớt chúng ta có thể cũng đã cứu vớt họ. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho sự việc được như vậy. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu bất kể những lời cầu nguyện của chúng ta, sự việc không được như vậy, thì chúng ta sẽ phải chấp nhận sự thật như là quyết định hoàn hảo nhất và khôn ngoan nhất của đấng bề trên.
Ở giữa những tảng đá đen ngòm, tất cả năm người bọn họ đều quỳ xuống, và họ cầu nguyện như thể vài người trong bọn họ chưa từng bao giờ cầu nguyện trước đây. Thật thế, bàn luận về việc cầu nguyện với sự hời hợt và hoàn toàn có tính cách triết lý trên boong tàu Ko¬rosko là điều rất lý thú. Và thật không khó khăn gì để cảm thấy mình dũng mãnh và đầy lòng tự tin trong một cái ghế bành êm ái, trong lúc một tên Ả Rập đi quanh bàn dâng cà phê và rượu ngọt. Nhưng khi bất thần bị ném ra ngoài dòng đời bình lặng, họ bị tổn thương trước những sự thật khủng khiếp, rùng rợn của cuộc đời. Bị suy sụp vì nhọc mệt và sợ hãi, họ thấy cần phải bám víu vào một cái gì đó. Tin tưởng vào một định mệnh mù quáng và khắc nghiệt thật là khủng khiếp. Một quyền lực của sự nhu hòa, thao tác với trí thông minh nhằm vào một mục đích, một quyền lực sinh động, hữu hiệu, tách họ ra khỏi những lề lối tư tưởng thường nhật, trừ bỏ những thói quen bè phái nhỏ nhặt của họ, dẫn dắt họ vào một con đường tốt đẹp hơn, đó là những gì họ đã học và biết được trong những ngày kinh hoàng này. Những bàn tay vĩ đại đã khép lại trên con người họ, đã tạo cho họ những hình dạng mới, đã chuẩn bị cho họ đi vào một cuộc sống khác. Liệu cái quyền lực đó sẽ có thể không để tự mình mềm lòng bởi những sự van nài của con người không? Nó là tòa phúc thẩm tối cao mà loài người đau khổ có thể kêu cầu. Ðó là lý do tại sao tất cả bọn họ đều cùng nhau cầu nguyện, cũng như một gã si tình yêu đương hay một thi sĩ viết thơ với niềm sâu thẳm nhất của tâm hồn họ. Khi họ đứng dậy, họ nghiệm thấy cái cảm giác đặc biệt, phi lý của sự yên bình nội tâm và sự mãn nguyện mà chỉ có sự cầu nguyện mới có thể ban cho họ.
- Im lặng! Cochrane nói. Hãy lắng nghe!
Tiếng vang của một loạt súng lan ra trong khe núi hẹp. Nó được tiếp theo bởi một loạt khác, và nhiều loạt nữa. Ông đại tá dậm chân tức tối như một con ngựa già khi nghe thấy tiếng kèn săn và những tiếng sủa của đàn chó săn.
- Chúng ta có thể trông thấy những gì đang diễn ra ở nơi nào?
- Hãy tới đây! Tới đây, nếu ông vui lòng! Một con đường nhỏ leo lên tới đỉnh núi. Nếu các bà muốn theo tôi, tôi sẽ tránh cho các bà khỏi phải nhìn một cảnh tượng đau lòng.
Ông mục sư dẫn các bà theo một cách để các bà không nhìn thấy những xác chết nằm ngổn ngang dưới đáy khe sâu. Từ bên trên các mỏm núi, toàn cảnh thật khác thường. Ở dưới chân họ là bãi sa mạc trải dài ra với những đợt lượn sóng; nhưng ở lớp thứ nhất đang diễn ra một cảnh mà chắc chắn là không bao giờ người ta quên được. Trong cái ánh sáng trong trẻo và khô khan này, trên một cái nền màu hung hung, những cái bóng người hiện ra cũng rõ ràng như những anh lính bằng chì trên một cái bàn vậy.
Những tên thầy tu, hoặc đúng hơn là những kẻ còn lại, rút lui một cách chậm chạp thành một đám đông hỗn độn. Chúng không có vẻ gì là những kẻ bại trận. Những sự di chuyển của chúng được tính toán; nhưng chúng đã không ngừng thay đổi đội hình có vẻ như chúng đang ngập ngừng về chiến thuật phải theo. Sự rối rắm của chúng là chuyện bình thường thôi, vì những con lạc đà của chúng đều mệt lử, và chúng đang ở trong một tình thế gần như tuyệt vọng. Còn về phần những người ở Sar¬ras, thì họ đã từ trong khe núi ùa ra, nhảy xuống đất và buộc những con lạc đà của họ từng nhóm bốn con một; các xạ thủ dàn ra thành một hàng dài, bao quanh là một làn khói; họ bắn hết loạt này tới loạt khác. Bọn Ả Rập chống trả một cách rời rạc. Nhưng những người đứng xem không còn quan tâm nhiều tới bọn thầy tu hay tới các xạ thủ ở Sar¬ras nữa. Ở đằng xa trên bãi sa mạc, ba chi đoàn thuộc đạo quân lạc đà ở Qua¬di - Hal¬fa đang tiến lên trong một đoàn dày đặc để rồi trong chốc lát mở rộng ra để làm thành một vành bán nguyệt lớn. Bọn Ả Rập bị kẹp vào giữa hai hỏa lực.
- Lạy Chúa! Ông đại tá kêu lên. Hãy nhìn xem kìa.
Trong cùng một lúc, những con lạc đà của bọn thầy tu đều quỳ xuống, và những người cưỡi trên lưng chúng nhảy xuống đất. Ở hàng đầu, đứng sừng sững cái bóng uy nghi của tù trưởng Wad Ibrahim. Y quỳ xuống một lát để cầu nguyện. Rồi y đứng lên, lấy một vật gì từ cái yên ra, đặt vật đó một cách thận trọng trên bãi cát và đứng lên trên, đứng rất ngay ngắn.
- Một người dũng cảm! Ông đại tá kêu lên - Y đứng lên trên tấm da cừu của y.
- Ông hiểu ra sao về việc này? Stu¬art hỏi.
- Tất cả những người Ả Rập đều có một miếng da cừu để trên yên của họ. Khi một người Ả Rập thấy rằng tình thế của y đã hoàn toàn tuyệt vọng, và khi bất chấp mọi điều y cương quyết chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng, y lấy miếng da cừu ra và đứng lên nó cho tới khi chết. Nhìn kìa, tất cả bọn chúng đều đứng trên những miếng da cừu của chúng. Lúc này không có sự khoan dung của bên này hay bên kia!
Màn kịch đến gần đoạn kết một cách nhanh chóng. Một vòng khói và lửa bao quanh những tên thầy tu Hồi giáo đang quỳ gối, chúng chống trả tận lực. Gọng kìm xiết lại. Bọn Ả Rập đã bị mất nhiều người, bọn còn lại tiếp tục bắn với một sự anh dũng bất khuất. Hơn mười cái xác bận đồ ka¬ki đã chứng thực rằng những người Ai Cập cũng phải trả giá cho chiến thắng của họ. Một hồi kèn nổi lên trong đám quân lính ở Sar¬ras; một hồi khác đáp lại trong đám quân lạc đà ở Qua¬di - Hal¬fa. Những người này đã nhảy xuống đất và xếp thành hàng ngũ. Sau loạt súng cuối cùng, họ đi theo nhịp bước xung kích, trong khi thốt lên những tiếng la man rợ mà những dân da đen đã du nhập từ những miền bao la hoang dã của Phi Châu. Trong một phút, một cơn cuồng phong thật sự đã trộn lộn những ngọn giáo và những báng súng ở giữa một đám mây bụi mờ mịt. Rồi những tiếng kèn lại nổi lên. Nhưng binh lính Ai Cập lùi lại ngay tức thì để bố trí lại đội hình với sự quyết định nhanh chóng của một đạo quân có kỷ luật. Ở giữa bãi chiến trường, những tên cướp và tên chỉ huy của chúng nằm bất động, mỗi tên trên mảnh da cừu của hắn. Thế kỷ thứ mười chín đã trả thù cho thế kỷ thứ bảy.
Ba người đàn bà đã nhìn quang cảnh với những con mắt đờ đẫn, kinh hoàng. Sadie và cô nàng khóc sướt mướt. Ông đại tá quay lại phía họ để nói một vài lời khích lệ, nhưng ông im tiếng trước vẻ mặt của bà Bel¬mont, mặt bà cũng trắng bệch, cũng căng thẳng như thể được khắc trong một miếng ngà; bà có một cái nhìn không chớp mắt như thể là bà đang ở trong tình trạng xuất thần.
- Trời ơi, bà Bel¬mont, bà làm sao vậy? ông đại tá kêu lên.
Thay cho câu trả lời, bà chỉ một chấm nhỏ trên sa mạc, ở đằng xa, ở nhiều cây số cách nơi gi¬ao tranh, một toán nhỏ những kỵ binh đang tiến tới.
- Ðồ mắc dịch, đúng rồi! Kia có người đi tới. Họ là ai vậy?...
Họ cố căng mắt lên mà nhìn, nhưng khoảng cách quá xa. Họ chỉ biết được một điều: đó là chừng hơn một chục người cưỡi lạc đà.
- Ðó là những con quỷ dữ ở lại trong ốc đảo, Cochrane nói. Không thể là người nào khác. Niềm an ủi duy nhất của chúng ta là chúng sẽ không thể tránh khỏi số phận đang chờ đợi chúng. Chúng đang lao đầu vào tử địa.
Nhưng bà Bel¬mont vẫn tiếp tục nhìn với cùng một sự khẩn trương và cùng một nét mặt bằng ngà. Thình lình bà thốt lên một tiếng kêu vui thích và vung vẩy hai bàn tay.
- Ðúng là họ rồi! Họ được giải cứu rồi! Ðúng là họ, ông đại tá, đúng là họ! Ôi, bà Adams, đúng là họ!
Bà chạy nhảy lăng quăng trên đỉnh đồi. Mắt bà sáng rực lên như mắt một đứa trẻ đang bị khích động.
Các bạn đồng hành của bà không muốn tin lời bà, vì họ không nhìn ra một vật nào chính xác cả; nhưng trong một vài trường hợp các giác quan của chúng ta trở nên sắc bén lạ thường. Người ta bảo rằng linh hồn và tâm trí đã ban cho chúng tất cả nguyên khí. Bà Bel¬mont đã đi xuống con đường nhỏ gồ ghề đá sỏi để leo lên con lạc đà của bà, nhưng các bạn của bà vẫn chưa thấy điều gì đã mang lại cho bà tín điệp vui mừng này. Tuy nhiên, cuối cùng thì họ cũng phân biệt được trong nhóm người đang tiến tới ba cái chấm trắng long lanh dưới ánh mặt trời: ba chấm trắng đó chỉ có thể là ba cái mũ của những người âu. Ðến lượt họ, ông đại tá, bà Adams và Sadie đều đổ xô tới: họ nhận ra Bel¬mont, Fardet, Stephens, anh thông ngôn Man¬soor và người lính Soudan bị thương. Ðoàn hộ tống cùng đi với họ gồm có Tip¬py Tilly và những cựu quân nhân Ai Cập khác. Bel¬mont ngả vào hai tay bà vợ ông; Fardet nắm lấy tay ông đại tá.
- Nước Pháp muôn năm! Những người Anh muôn năm! Ông la lớn. Mọi sự đều tốt đẹp, có phải không, đại tá? A, lũ chó má! Cây thánh giá và những người cơ đốc giáo muôn năm!
Sự vui mừng làm cho ông hoàn toàn mất hết mạch lạc trong những lời nói.
Ông đại tá cũng tràn trề hồ hởi trong phạm vi mà bản chất của dân Anh Cát Lợi đã cho phép ông. Ông không thể khoa chân múa tay; nhưng ông bắt đầu cười khành khạch, đó là một chỉ dẫn của sự xúc cảm tột độ của ông.
- Ông bạn thân, tôi rất hài lòng được gặp lại tất cả các ông. Tôi đã coi như các ông bị chết cả rồi. Chưa bao giờ tói được sung sướng thế này! Làm cách nào mà các ông đã có thể thoát nạn?
- Chính ông đã làm tất cả mọi việc!
- Tôi à?
- Phải, ông bạn ơi, và khi tôi nghĩ tới việc tôi đã cãi vã với ông! Tôi thật là một kẻ vô ơn khốn nạn!
- Nhưng tôi đã cứu ông bằng cách nào?
- Ông đã bày mưu tất cả với anh chàng Tip¬py Tilly dũng cảm này, bằng cách hứa cho y tiền nếu y đưa chúng ta còn sống trở lại Ai Cập! Nhờ có bóng đêm, các bạn của y và y đã lẻn vào khu rừng cây cọ và họ ẩn núp ở đó. Khi ông đi rồi, họ đã bò tới với những khẩu súng và họ đã hạ sát những kẻ sắp hành quyết chúng tôi. Cái tên thầy giảng chết tiệt đó, tôi tiếc rằng họ đã giết hắn! Tôi tin rằng tôi sẽ có thể cải đạo cho hắn sang cơ đốc giáo. Và bây giờ, xin óng cho phép tôi được chạy tới ôm lấy cô Adams, vì Bel¬mont đã có vợ của ông ấy, Stephens có Sadie; vì thế tôi thấy rõ ràng là cảm tình của cô Adams sẽ dành cho tôi
Mười lăm ngày sau, chiếc tàu thủy được thuê riêng cho những người được cứu thoát đang vượt sóng ở phía Bắc As¬siout. Sáng hôm sau họ phải tới Be¬liani, rồi từ đó đi tàu tốc hành tới Le Caire. Do đó đây là buổi tối cuối cùng mà họ chung sống với nhau. Bà Shlesinger và đứa con của bà, những người mới tránh khỏi những viên đạn của bọn Ả Rập, đã được đưa tới biên giới rồi. Cô Adams đã bị ốm nặng sau những ngày thiếu thốn, đói khát, và đây là lần đầu tiên cô được phép lên boong tàu sau bữa ăn tối. Cô ngồi trên một cái ghế dài, người gầy hơn, khắc khổ hơn, nom khả ái hơn bao giờ hết. Sadie đứng bên cô, choàng một cái mền lên vai cô. Ông Stephens mang cà phê tới và đặt nó trên một cái bàn nhỏ. Ở mạn bên kia boong tàu, Bel¬mont và bà vợ ông đang ngồi, yên lặng và vui vẻ. Ông Fardet đứng tựa lưng vào bao lơn, ta thán về sự lơ là của chính phủ Anh trong việc tuần tra trên biên giới Ai Cập. Ông đại tá đứng trước mặt ông ta, người rất phẳng, và cái đầu có lửa của điếu xì gà lập lòe dưới hàng ria mép của ông.
Nhưng điều gì đã xảy ra với ông đại tá? Bất cứ ai đã nhìn thấy người đàn ông già đã bị suy sụp trong bãi sa mạc Libye này cũng không thể nhận ra ông. Tất nhiên là bộ ria mép vẫn lốm đốm bạc, nhưng mái tóc của ông đã lấy lại màu đen bóng, cái màu đã gây được sự cảm mến của tất cả mọi người trong chuyến đi của cuộc hành trình. Lúc trở về tới Oua¬di - Hal¬fa, với một bộ mặt trơ như đá và một sự lạnh lùng hiếm thấy, ông đã tiếp nhận rất nhiều lời ủy lạo liên quan tới các hậu quả của thời gi¬an ông sống với những tên thầy tu Hồi giáo. Rồi ông chạy về tự nhốt kín mình trong phòng của ông. Một giờ sau ông trở ra giống hệt như con người ông trước lúc bị cắt đứt hết mọi nguồn tiếp tế của nền văn minh. Và ông đã nhìn tất cả những ai đối diện với ông bằng một cách mà không ai dám đưa ra một nhận xét nhỏ nhoi nào về cái kỳ tích hiện đại này. Từ lúc này người ta chỉ có thể nói rằng nếu ông đại tá phải chạy, dù chỉ một trăm mét thôi, trong bãi sa mạc, thì ông vẫn mang theo trong cái túi bên trong áo ngoài của ông một cái chai đen nhỏ có dán một cái nhãn màu hồng. Nhưng những ai đã biết ông trong các tình huống mà một người đàn ông phải tự bộc lộ hoàn toàn thì đều nói rằng viên sĩ quan già đã có một trái tim và một trí óc trẻ trung, đó là một điều rất tự nhiên khi ông cố giữ những màu sắc trẻ trung.
Trên boong tàu, sự yên tĩnh, sự ngưng nghỉ mới hoàn hảo làm sao! Không một tiếng động nào khác ngoài tiếng bì bọp của nước đập vào thành tàu. Những ánh phản quang đỏ cuối cùng của mặt trời lặn đang phản chiếu lại trong con sông. Những người được giải cứu nhìn thấy những con cò đứng một chân trên rìa những bờ sông lầy cát. Xa hơn nữa, những cây cọ đứng xếp hàng, thành một đám rước uy nghi. Những ngôi sao bạc còn lấp lánh; cũng chính những ngôi sao trong sáng, trầm lặng, tàn nhẫn mà họ vẫn thường ngước mắt lên nhìn trong những đêm dài của sự thống khổ của họ.
- Bà Adams, bà xuống nơi nào ở Le Caire? Bà Bel¬mont hỏi.
- Tôi nghĩ là ở khách sạn Shep¬heard.
- Còn ông, ông Stephens?
- À, chắc chắn là ở khách sạn Shep¬heard rồi!
- Chúng tôi xuống khách sạn Con¬ti¬nen¬tal. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không mất liên lạc với nhau.
- Bà Bel¬mont ạ, không bao giờ tôi quên được bà, Sadie nói lớn. À, chắc bà sẽ phải tới Hoa Kỳ! Chúng tôi sẽ chuẩn bị cho bà một chuyến ở chơi tuyệt mỹ!
Bà Bel¬mont cười với sự duyên dáng cố hữu của bà.
- Chúng tôi có những nhiệm vụ ở Ái Nhĩ Lan, và chúng tôi đã lơi là chúng từ ít lâu nay. Chồng tôi có việc của ông ấy, còn tôi thì tôi có căn nhà của tôi, và mọi việc đều hỏng cả. Hơn nữa, bà nói thêm với một giọng ranh mãnh, nếu chúng tôi đi Hoa Kỳ, rất có thể chúng tôi sẽ không gặp cô ở đó.
- Tất cả bọn chúng ta sẽ phải lại gặp nhau nữa, Bel¬mont nói, dù là chỉ để nói chuyện lại chút ít về những cuộc phiêu lưu của chúng ta. Việc này sẽ dễ dàng hơn trong một hay hai năm. Chúng vẫn còn rất gần gũi mà.
- Tuy nhiên đối với tôi chúng có vẻ xa xôi lắm! Tôi thấy chúng như là một cơn ác mộng, bà vợ ông nói. Ðấng tối cao đã nhủ lòng thương làm nguôi đi những kỷ niệm đau buồn! Tôi có cảm tưởng là đã sống qua tất cả biến cố này trong một kiếp tiền sinh.
Fardet giơ cái cánh tay mà chỗ cổ tay còn bị quấn băng lên.
- Thể xác không thể cũng quên nhanh được như tinh thần, ông nói. Bà Bel¬mont ạ, vụ này không có gì là một cơn ác mộng cả!
- Thật là một điều tai hại khi một vài người được giải cứu và nhữmg người khác thì không! Sadie nói lớn. Chỉ cần có ông Brown và ông Head¬ing¬ly có mặt ở đây với chúng ta là tôi không còn ân hận gì nữa? Tại sao họ lại bị giết, mà không phải là chúng ta?
Ông Stu¬art khập khiễng trên boong tàu đi tới, trong tay ông cầm một quyển sách lớn mở ngỏ.
- Tại sao cái trái cây chín bị hái, và trái cây xanh thì bỏ lại? Ông nói để trả lời tiếng than van của cô thiếu nữ. Chúng ta không biết gì về tình trạng tinh thần của hai người bạn thân yêu, bất hạnh bị mất tích đó, nhưng người thợ làm vườn vĩ đại đã hái các trái cây của Ngài theo như sự hiểu biết của chính Ngài. Tôi xin đọc đoạn này để các bạn nghe...
Một cây đèn được đặt trên bàn, ông ngồi bên cây đèn. Ánh sáng vàng vọt soi sáng cặp má đồ sộ của ông và những đoạn màu đỏ của quyển sách. Cái giọng mạnh mẽ, trầm tĩnh của ông làm át cả tiếng nước rì rào.
- ..."Cầu xin phước lành cho họ, những người mà Chúa đã chuộc lại và giải thoát khỏi tay kẻ thù và tái hợp lại ở phương Ðông, ở phương Tây, ở phương Bắc và ở phương Nam. Họ đã bị lạc lõng trong sa mạc và họ đã không tìm thấy nơi trú chân tại đó. Bị đói, bị khát, họ đã mất can đảm và linh hồn họ đã suy sụp trong người họ. Vì vậy họ đã cầu khẩn Chúa, và Chúa đã giải thoát họ khỏi cơn hoạn nạn. Ngài đã dắt họ trên con đường thiện hảo, ngõ hầu họ có thể tìm lại thiên quốc, nơi mà họ đã từng cư ngụ. Ôi, cầu cho những người này có thể ca ngợi Chúa vì từ tâm của Ngài, và loan truyền các kỳ tích mà Ngài đã hoàn thành cho những con cái của loàn người!... "
Vị mục sư gập sách lại.
- ...Hình như những câu này đã được viết ra cho chúng ta; mặc dù chúng đã được viết từ hai ngàn năm nay. Bất cứ ở thời đại nào, con người đều bị bắt buộc phải nhìn nhận cái bàn tay đã dìu dắt họ. Về phần tôi, tôi không tin là sự hứng khởi đã được sinh ra từ hai ngàn năm nay, khi Ten¬nyson viết với bao nỗi hăng say và lòng xác tín.
"Ôi, chúng ta vẫn còn tin rằng điều thiện bất chấp mọi sự, sẽ là mục đích tối hậu của cái ác!"
là ông đã nhắc lại cái tín điệp đã được truyền cho ông giống hệt như Ezéchiel, khi thế giới còn non trẻ hơn, đã nhắc lại một tín điệp sơ đẳng hơn và thô kệch hơn.
- Tất cả những điều đó đều rất đẹp, ông Stu¬art ạ! Người đàn ông Pháp nói. Ông yêu cầu tôi ca ngợi Thượng đế vì Ngài đã làm tôi thoát khỏi hiểm nguy và đau khổ; nhưng điều tôi rất muốn biết là, khi Ngài đã cai quản mọi việc, tại sao Ngài lại đặt tôi vào giữa chốn đau khổ và hiểm nguy. Theo ý tôi, tôi có nhiều lý do để quở trách hơn là để ca ngợi. Ông sẽ không cám ơn tôi về việc tôi đã vớt ông từ dưới sông lên, nếu trước đó chính tôi đã đẩy ông xuống sông! Ðiều tối thiểu mà ông có thể đòi hỏi ở Thượng đế là Ngài phải chữa chạy những đau khổ mà chính bàn tay của Ngài đã gây ra cho ông.
- Tôi không phủ nhận sự khó khăn, vị mục sư chậm rãi trả lời. Người nào không tìm cách tự lừa dối mình thì sẽ không phủ nhận sự khó khăn. Hãy xem Ten¬nyson đã đương đầu với nó hăng hái thế nào cũng ngay trong bài thơ đó, bài thơ vĩ đại nhất, sâu sắc nhất và chắc chắn là hứng khởi nhất trong tất cả văn học nước Anh. Xin hãy nhớ lại kết quả mà nó đã gợi ý cho ông.
"Tôi sẩy chân ở nơi mà tôi bước đi rất vững vàng
Và tôi ngã xuống với gánh nặng ưu tư
Trên những bực thềm của bàn thờ lớn của cõi đời này
Nơi mà các bóng tối bay lên cao tới Thượng đế.
Tôi xòe những bàn tay vụng về trong niềm tin, tôi rờ rẫm
Tôi thu lượm bụi bặm và rơm rác, và tôi kêu gọi
Người mà tôi cảm thấy là Thượng đế của muôn loài
Và tôi hy vọng một cách yếu ớt vào một niềm hy vọng lớn hơn"
Ðó là bí ẩn cốt lõi của những sự bí ẩn : Vấn đề tội lỗi và đau khổ, sự khó khăn lớn lao duy nhất mà nhà luân lý học phải giải quyết nếu y muốn biện minh cho sự đối xử của Thượng đế với con người. Xin hãy lấy trường hợp của chính chúng ta làm thí dụ. Chỉ nói riêng về bản thân tôi, tôi biết rõ những gì tôi đã sở đắc trong chuyến phiêu lưu này. Tôi nói ra điều này với tất cả lòng khiêm tốn, nhưng tôi phân biệt được rõ ràng hơn trước đây những bổn phận của tôi. Nó đã dạy tôi nên ít lơi là hơn khi nói điều gì mà tôi cảm thấy là điều thiện.
- Còn tôi, Sadie nói lớn, nó đã dạy tôi nhiều điều hơn là quãng đời đã qua của tôi. Tôi đã học được nhiều, và cũng quên đi nhiều điều không nên nhớ. Tôi đã trở thành một con người khác.
- Cho tới lúc này tôi chưa bao giờ hiểu được bản chất của chính tôi, Stephens nói. Hơn nữa tôi khó có thể nói rằng tôi đã có một bản chất để tìm hiểu. Tôi đã sống cho những gì không quan trọng, và tôi lơi là với những gì là cốt yếu!
- Ồ, một sự rung chuyển nhẹ nhàng không bao giờ gây ra tệ hại! Ong đại tá nói. Một cái giường có nệm lông và bốn bữa ăn hàng ngày, chuyện đó chả có ích lợi gì cho một đấng nam nhi, cũng như cho một bọn quần thoa.
- Cảm tưởng sâu xa của tôi là, bà Bel¬mont nói xen vào, tất cả bọn chúng ta đều đã được nâng lên cao trong những ngày ở trong sa mạc này, hơn là những gì chúng ta đã làm từ trước hoặc những gì chúng ta sẽ làm sau này. Khi các tội lỗi của chúng ta được phán xét, chúng ta sẽ được tha thứ rất nhiều vì tình thương mà chúng ta đã chứng tỏ với nhau.
Họ ngồi yên lặng trong khi những bóng xám tối đen lại và lũ chim nước vạch ra những chữ V lớn bên trên bề mặt óng ánh của con sông lớn. Một luồng gió lạnh nổi lên từ mạn Ðông; Stephens cúi xuống gần Sadie.
- Cô có nhớ những gì cô đã hứa khi cô ở trong sa mạc không ? ông nói thì thào.
- Ðiều gì vậy?
- Cô đã nói rằng nếu cô được thoát nạn, trong tương lai cô sẽ cố gắng làm cho một người nào đó sung sướng.
- Vậy thì tôi sẽ phải làm điều đó.
- Thế là đã làm rồi, ông nói.
Và những bàn tay họ nắm lấy nhau phía dưới cái bàn.
(The tragedy of the "Ko¬rosko")
Hết
Vành Đai Khí Độc
Arthur Co¬nan Doyle
Nguồn : www.vn¬thuquan.net
Tạo ebook : Huyền Trang
Mục Lục
Chượng 01. Nhiễu Loạn Quang Phổ
Nhiệm vụ của tôi đã rõ ràng, tôi sẽ chẳng bỏ phí một giây! Trong tâm trí tôi, những sự kiện lạ lùng đó vẫn còn hiển hiện như mới vừa diễn ra nên tôi cần kể lại ngay một cách chính xác và chi tiết, e rằng để lâu thời gi¬an sẽ làm phai nhạt đi mất. Khi viết câu chuyện này, tôi không thể không cảm ơn điều kỳ diệu đã đưa những người bạn đã cùng tôi trải qua chuyến phiêu lưu mà tôi đã có dịp ghi lại trong phóng sự "Thế giới thẳm xa" (giáo sư Chal¬lenger, giáo sư Sum¬mer¬lee, huân tước John và tôi) hội ngộ với nhau trong cuộc trải nghiệm kỳ thú lần này.
Cách đây vài năm, khi tôi thuật lại chuyến du lịch giật gân của chúng tôi ở Nam Mỹ cho tờ Dai¬ly Gazette, tôi không hề nghĩ rằng một ngày nào đó tôi còn phải kể lại một cuộc phiêu lưu cá nhân còn lạ lùng hơn thế. Vậy mà đây lại chính là chuyến phiêu lưu có một không hai trong lịch sử nhân loại. Trải qua suốt chiều dài thời gi¬an, cuộc phiêu lưu này sẽ vượt trên tất cả, như một đỉnh núi hùng vĩ luôn làm lu mờ những đồi núi nhỏ xung quanh.
Chúng tôi đã cùng tụ họp với nhau để trải qua cuộc phiêu lưu này. Có một sự kết nối các tình huống hoàn toàn bất ngờ mà tôi sẽ cố gắng kể ra đây một cách ngắn gọn và chính xác nhất. Tôi biết, sẽ không bao giờ có thể thỏa mãn được hoàn toàn trí tò mò của công chúng, song tôi sẽ cung cấp cho quý vị độc giả một lượng tối đa các chi tiết liên quan đến câu chuyện này.
Hôm đó, thứ 6 ngày 27 tháng 8 (ngày mà lịch sử thế giới có thể sẽ không bao giờ quên), tôi đến toà báo và xin Mc Ar¬dle, trưởng ban biên tập, cho phép tôi được nghỉ ba ngày. Người đàn ông xứ Ê-cốt tốt bụng lắc đầu, vuốt vuốt túm tóc hung nhạt loà xoà trên trán và tỏ ý từ chối qua mấy câu sau:
- Anh Mal¬one, tôi đang nghĩ rằng, những ngày này, chúng tôi có thể giữ anh vì công việc. Tôi tự nhủ rằng đó là một việc rất đặc biệt... Tóm lại đó là một công việc chỉ có anh mới có khả năng xoay sở và giải quyết ổn thỏa.
- Tôi rất tiếc! Tôi cố gắng không biểu lộ nỗi thất vọng để trả lời ông. Dĩ nhiên, vì ngài cần đến tôi nên tôi không bàn cãi nữa. Nhưng tôi có một cuộc hẹn quan trọng và rất mật thiết. Nếu như ngài có thể cho phép tôi...
- Chính vì tôi không thể cho phép anh...!
Thuốc đắng quá. Nhưng tôi chỉ còn cách cố gắng nuốt trôi mà không nhăn mặt. Song nói cho cùng, đây cũng là lỗi tại tôi. Một nhà báo sao có quyền thực hiện những dự định riêng của mình cơ chứ? Thế là tôi tuyên bố một cách phóng khoáng:
- Được, không bàn cãi nữa. Ngài muốn tôi làm gì nào?
- Chỉ đơn giản là một cuộc phỏng vấn một con quỷ mang hình người sống ở Rother¬field.
- Giáo sư Chal¬lenger phải không? Tôi kêu lên
- Đúng rồi đó! Tuần vừa rồi, ông ta đã bám theo cậu Alec Simp¬son của tờ Cour¬ri¬er suốt 1500m khiến cu cậu ngã ngửa khi đang chạy xe tốc độ cao. Một tay ông ta nắm cổ áo vét còn tay kia tóm đũng quần. Anh đã đọc mục chuyện vặt chưa? Trong bản báo cáo của cảnh sát ấy! Đối với các đồng nghiệp của anh ở đây thì thà đi phỏng vấn một con cá sấu Bắc Mỹ hoang dã còn hơn. Nhưng còn anh, anh có thể thử xem sao, anh là một trong những người bạn cũ của ông ta...Tôi nghĩ rằng...
Đến đây, tôi hoàn toàn trút được gánh nặng
- Vậy thì tốt rồi. Đúng lúc tôi xin phép ngài để đi thăm giáo sư Chal¬lenger. Để kỷ niệm ba năm ngày chúng tôi cùng nhau phiêu lưu trên cao nguyên, ông ta đã mời cả bốn chúng tôi tới nhà dự họp mặt.
- Tuyệt! Mc Ar¬dle kêu lên, xoa xoa hai bàn tay và ném về phía tôi ánh nhìn lấp lánh sau cặp kính cận. Thật tuyệt, trong trường hợp này anh có thể khai thác thêm quan điểm của ông ta. Tôi nghĩ đây có thể chỉ là những suy tưởng hão huyền, song điều này chỉ diễn ra một lần, ai mà biết trước được.
- Nhưng khai thác về cái gì?
- Anh chưa đọc bức thư của ông ta về những "Khả năng khoa học" đăng trên tờ Times số ra hôm nay sao?
- Chưa.
Mc Ar¬dle cúi xuống sàn và lấy lên tờ báo.
- Anh hãy đọc to lên! Ông chỉ một cột báo và bảo tôi. Tôi sẽ rất vui lòng nghe lại vì khi đọc lần đầu tiên, tôi không chắc mình đã hiểu những gì quý ông này nghĩ trong đầu.
Và tôi đọc ngay cho ông chủ bút tờ La Gazette nghe. Bức thư như sau:
"Khả năng khoa học
"Tôi đã đọc bức thư đầy hợm hĩnh nếu không muốn nói là ngu xuẩn của ngài James - Wil¬son MacPhail được đăng mới đây trên tờ báo của ngài. Thú thực, tôi thấy buồn cười và hơi coi thường. Bức thư viết về sự nhiễu vạch quang phổ Frauen¬hofer của các hành tinh và các vì sao cố định. Theo ông ta điều này chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng đối với một người có đầu óc thông minh hơn ông ta, sự việc có thể mang một tầm quan trọng rất lớn, thậm chí có thể đe dọa cuộc sống của tất cả mọi người trên hành tinh, từ đàn ông, đàn bà đến trẻ em. Đối với tôi, ngôn ngữ khoa học là không thích hợp để trình bày quan điểm của tôi với công chúng, những người chỉ có vừa đủ trí thông minh để đọc giải trí những bài báo hàng ngày. Do vậy tôi sẽ cố gắng hạn chế và dùng lối lập luận loại suy để trình bày quan điểm của tôi. Lối lập luận này sẽ không vượt quá khả năng trí tuệ của độc giả của quí báo...."
- Đây là con át chủ bài, anh bạn thân mến của tôi ạ,! Một kỳ quan sống! Ông Mc Ar¬dle kêu lên. Ông ta làm dựng lông cả con bồ câu non, ông ta dám nhắc lại vụ giết người ở hội nghị Quak¬ers. Chẳng có gì là đáng ngạc nhiên khi ông ta không thể chịu được cả thành Luân Đôn! Thật đáng tiếc, Mal¬one ạ vì đây là một bộ óc vĩ đại! Nào, chúng ta hãy xem thử một chút lối lập luận loại suy của ông ta xem nào!
"Chúng ta hãy giả thiết rằng có một gói nhỏ các nút chai bó liền với nhau đượcvứt xuống một dòng chảy chậm chạp để trôi ra Đại Tây Dương. Dần dần, ngày qua ngày, trong điều kiện không đổi, các nút chai liên kết lại với nhau. Nếu các nút chai có năng lực cảm giác, chúng ta có thể tưởng tượng rằng chúng coi những điều kiện này là thường xuyên và chắc chắn. Nhưng chúng ta, với trình độ ý thức cao hơn, chúng ta đều biết rằng có thể có vô vàn sự kiện bất ngờ xảy ra cản trở hành trình của các nút chai. Chẳng hạn, nếu không bị mắc kẹt trong cỏ, chúng có thể va phải một chiếc tàu hay một con cá voi đang ngủ. Dù sao thì cuối cùng chuyến hành trình của chúng cũng kết thúc khi chúng bất ngờ cập bờ đá vùng Labra¬do. Nhưng làm sao chúng có thể nghi ngờ điều này khi chúng đang bình yên trôi trên vùng nước mà chúng vẫn tưởng là một đại dương mênh mông và không hề có trở ngại?
Theo giả thiết này, độc giả của ngài có thể nghĩ ngay rằng Đại Tây Dương là một đại dương ê- te trên đó chúng ta đang trôi nổi và một bó các nút chai tượng trưng cho hệ hành tinh nhỏ bé và tăm tối của chúng ta. Ánh mặt trời loại thứ ba kéo theo bóng của những vệ tinh rất nhỏ. Chúng ta cũng bị cuốn chung vào vòng xoáy đó với một mục đích nào đó mà tôi không rõ lắm. Chúng hãy tưởng tượng một tai hoạ khủng khiếp cuốn chúng ta đi tới tận cùng của không gi¬an và ném chúng ta vào một dòng ê-te Ni¬agara hay nghiền nát chúng ta trên một Labrador nào đó không thể tưởng tượng được. Tôi không hiểu điều gì đã khiến cộng tác viên của ngài, ông Win¬son Mac Phail có thể tỏ ra lạc quan một cách ngu ngốc và hời hợt như thế. Ngược lại, tôi lại thấy vô vàn lý do khiến chúng ta phải thật chú ý đến mọi dấu hiệu thay đổi khí quyển trái đất. Có thể số phận của chúng ta sẽ phụ thuộc vào yếu tố này."
- Ông ta có thể trở thành một bộ trưởng tài năng đấy, anh bạn thân mến. Mc Ar¬dle nói chen ngang với vẻ thán phục. Ông ta biết cách tạo ra cho những gì mình viết tiếng vang của một cây đàn. Nào bây giờ chúng ta hãy xem một chút những gì đang ám ảnh ông ấy!
* * * * *
Theo tôi, hiện tượng mờ toàn phần hoặc sự dịch chuyển của các vạch phổ Frauen¬hofer chứng tỏ có sự thay đổi lớn trong vũ trụ. Sự thay đổi này diễn ra rất tinh vi và kỳ lạ. Ánh sáng phát ra từ một hành tinh là ánh sáng phản chiếu của ánh mặt trời. Trong khi đó ánh sáng của một vì sao là ánh sáng tự nó phát ra. Vậy mà, trong trường hợp này, tất cả quang phổ của các ngôi sao và của các hành tinh đều cho thấy sự thay đổi giống nhau. Liệu đó có thể là hậu quả của sự thay đổi diễn ra trên các ngôi sao và các hành tinh đó không ? Một giả thuyết như vậy là không có căn cứ: làm sao có thể đồng thời diễn ra sự thay đổi như nhau ở cả các hành tinh và các ngôi sao? Vậy thì có thể là do khí quyển trái đất thay đổi? Có thể, nhưng đây là giả thiết rất mong manh vì chúng ta chưa phát hiện một dấu hiệu nào của hiện tượng này xung quanh chúng ta. Và hơn nữa, các kết quả phân tích hoá học không cho thấy điều này. Vậy giả thiết thứ ba là gì? Đó là sự biến đổi của môi trường dẫn, của đại dương ê-te mênh mông, nguyên chất trải rộng từ ngôi sao này đến ngôi sao khác và tràn khắp vũ trụ. Trong đại dương mênh mông đó, chúng ta trôi nổi trên những dòng lững lờ. Có thể cấm người ta tin rằng dòng chảy này sẽ dẫn chúng ta đến những trường ê-te mới với những đặc tính không thể tưởng tượng nổi hay không? Sự biến đổi đã diễn ra ở đâu đó. Nó có thể tiêu cực, tích cực hoặc trung tính: không tích cực cũng không tiêu cực. Chúng ta không hề biết gì về điều đó. Người quan sát bình thường có thể tuỳ ý đánh giá một cách hời hợt về vấn đề này. Nhưng đối với một người như tôi, một con người có hiểu biết sâu hơn tôi hiểu rằng trong vũ trụ có rất nhiều khả năng xảy ra và cách tốt nhất là bình tĩnh trước mọi biến cố bất ngờ. Chúng ta hãy lấy một ví dụ: Ai dám khẳng định rằng dịch bệnh bất ngờ và bí ẩn lây lan khắp dân bản xứ trên đảo Suma¬tra mà tờ báo sáng nay của ngài thuật lại không có mối liên quan nào với sự thay đổi trong vũ trụ? Có thể người dân bản xứ đảo Suma¬tra dễ chịu tác động của sự thay đổi này hơn so với những người dân Châu Âu. Tôi chỉ lên tiếng trước những vấn đề thực sự quan trọng. Trong tình hình hiện nay, khẳng định giả thiết này đúng hay sai cũng đều nực cười. Nhưng phải là một kẻ cực kỳ ngốc mới tin rằng khoa học không thể giải thích được hiện tượng này.
"Kẻ tận tuỵ của ngài,
" George Ed¬ward Chal¬lenger.
" Les Bruyères, Rother¬fiel."
* * * * *
- Một bức thư hay cho thấy trí thông minh tuyệt vời! Mc Ar¬dle bình luận trong khi cho thêm điếu xì gà vào ống điếu thuỷ tinh dài . Anh nghĩ gì về sự việc này, anh Mal¬one?
Tôi xấu hổ thú nhận rằng tôi hoàn toàn không biết gì về vấn đề được đề cập đến trong bức thư. Vạch phổ Frauen¬hofer là gì? Thật may là Mc Ar¬dle cũng vừa nghiên cứu vấn đề này bằng tài trí và những gì có được của một nhà bác học vườn. Ông hấp tấp rút từ trong ngăn bàn ra hai dải dài nhiều màu, giống như loại rubăng mà đôi khi người ta thấy đính trên mũ của các thành viên câu lạc bộ crick¬et trẻ. Ông chỉ cho tôi một số đường kẻ đen cắt ngang các dải màu sáng có sắc đỏ,tím và các cấp độ khác nhau như màu cam, vàng, xanh lá cây, xanh lục, chàm.
- Các đường kẻ đen đó là các vạch Frauen¬hofer. Ông giải thích cho tôi. Màu sắc chính là quang phổ của ánh sáng. Nếu anh phân tích bất kỳ loại ánh sáng nào bằng một lăng trụ kính cũng sẽ được các màu sắc như thế. Các loại màu sắc đó không cho chúng ta biết điều gì cả. Chỉ có các vạch phổ là quan trọng vì chúng thay đổi tuỳ theo nguồn phát sáng. Vậy mà hiện nay các vạch đen này bị rối loạn và tất cả các nhà thiên văn học đều đang tranh cãi về nguyên nhân của hiện tượng này. Đây là bức ảnh chụp lại các vạch đen bị rối loạn. Chúng ta sẽ đăng bức ảnh này trên số báo ra ngày mai. Cho tới giờ, công chúng vẫn không mấy lưu ý tới vấn đề này. Nhưng tôi cho rằng bức thư đăng trên tờ Times của ngài Chal¬lenger sẽ gây sự chú ý của độc giả.
- Thế còn câu chuyện trên đảo Suma¬tra?
- À! giữa hiện tượng rối loạn vạch phổ với dịch bệnh trên đảo Suma¬tra chẳng có quan hệ gì mấy. Câu chuyện đó chỉ để chứng minh là ông ta biết những gì ông ta nói. Nhưng đúng là ở đó đang xuất hiện một dịch bệnh kỳ lạ. Vừa có một bức điện tín cho chúng ta biết rằng các ngọn hải đăng ở eo biển Sonde đã ngừng phát sáng. Hậu quả là hai chiếc tàu mắc cạn ở bờ biển. Đây là chủ đề hay cho cuộc nói chuyện giữa anh và Chal¬lenger. Nếu có thông tin gì cụ thể hơn chúng ta sẽ viết bài cho số ra hôm thứ hai tới.
Ra khỏi phòng làm việc của trưởng ban biên tập, đầu tôi tràn ngập những hình ảnh về vụ việc này. Bất chợt tôi nghe tiếng ai đó trong phòng đợi gọi tôi. Một nhân viên điện báo đưa tôi bức điện khẩn.... Bức điện này chính là của người đàn ông mà chúng tôi vừa nói tới. Nó nội dung như sau:" Mal¬one, 17, Hill Street, Stretham. - Hãy mang theo ô- xy!.- Chal¬lenger."
"Mang theo ô-xy!" Tôi vẫn nhớ, vị giáo sư này có máu hài hước phong phú đến độ có thể nghĩ ra những trò đùa vừa thô vừa nặng nề. Phải chăng đây lại là một trong những trò khiến ông ta lăn ra cười đến mức người ta không còn nhìn thấy gì khuôn mặt ông ngoài một cái miệng há hốc và một bộ râu rung chuyển, loại trò đùa có thể xoá tan không khí trịnh trọng bao quanh ông như thể ông là thần Dớt trên đỉnh Olympia vậy.
Mặc dù đã ngẫm nghĩ rất lâu, tôi vẫn không tìm ra được dấu hiệu trêu đùa trong hai từ này. Chắc chắn đây là một lời ra lệnh: vừa rõ ràng vừa lạ lùng. Mà Chal¬lenger là người duy nhất trên thế giới tôi chưa bao giờ nghĩ là sẽ làm trái lời. Có thể ông đang tiến hành một vụ thử nghiệm hoá học nào đó. Có thể thế lắm! Có nhất thiết phải nghĩ tới nghĩ lui xem thực sự ông ấy muốn gì? Tôi cần mua ô-xy. Chỉ có thế.
Tôi còn một tiếng trước giờ tàu khởi hành từ ga Vic¬to¬ria. Tôi đi tắc-xi đến Công ty phân phối bình ô-xy, phố Ox¬ford.
Tôi đến trước cửa toà nhà của công ty. Có hai thanh niên từ đó đi ra, hai tay khiêng một bình sắt hình lăng trụ. Họ kéo chiếc bình lên và giữ nó cố định trong chiếc ô tô đang chờ, ngay trước mắt tôi. Tôi nhìn theo và thấy một người đàn ông đã có tuổi, giọng the thé đang nói với họ điều gì đó không mấy dễ chịu. Ông ta quay về phía tôi .... Không còn nghi ngờ gì nữa. Những nét khắc khổ và bộ râu kia chính là của ông bạn cục cằn và quàu quạu của tôi, giáo sư Sum¬mer¬lee.
- Cái gì thế này! Ông nhìn tôi kêu lên. Chắc hẳn anh cũng nhận được bức điện về ô-xy phi lý đó phải không?
Tôi rút bức điện từ trong túi ra.
- Đúng rồi, tôi cũng nhận được một bức điện y như thế! Anh biết đấy, tôi chẳng muốn làm chút nào. Bao giờ cũng thế, ông bạn già của chúng ta thực là không thể chịu nổi! Cứ như thể bình thường thì ông ta không thể mua ô-xy được ấy! Sao ông ta lại cứ muốn làm mất thời giờ của những nguời phải làm việc nhiều hơn ông ta cơ chứ. Sao ông ta không tự mình gọi ôxy nhỉ?
- Chắc hẳn là ông ấy phải cần ngay lập tức?
- Hoặc là ông ta nghĩ rằng ông ta cần ngay lập tức! Đó không phải là.... Ơ này, anh không định mua thêm một bình nữa đấy chứ? Bình tôi mua là đủ cho cả hai nguời rồi?
- Giáo sư ạ, tôi hoàn toàn thoải mái nếu mỗi người mang cho ông ấy một bình. Tôi sẽ làm như vậy.
Sum¬mer¬lee nhún vai, cằn nhằn, nhưng tôi vẫn không thay đổi ý định. Tôi mua một bình nữa rồi cũng để vào chỗ của bình thứ nhất vì ông mời tôi cùng đi tới Vic¬to¬ria.
Tôi đi trả tiền tắc- xi. Gã tài xế có vẻ cáu kỉnh muốn gây gổ và đòi tiền boa quá đáng. Cuối cùng tôi cũng giải quyết xong xuôi và quay trở lại phía giáo sư Sum¬mer¬lee. Ông suýt nữa thì đánh nhau với hai gã thanh niên vác bình ga. Ông tức giận và nổi xung lên: Tôi vẫn nhớ một trong hai gã đó đã gọi ông là "con vẹt màu già ngu độn". Câu rủa thứ hai khiến người lái xe cho Sum¬mer¬lee nổi giận. Bác ta xông ra khỏi xe để trừng trị kẻ vô lễ. May mà cuối cùng chúng tôi cũng tránh được một cuộc ẩu đả.
Tất cả những chi tiết này thoạt nghe có vẻ rất nhạt nhẽo và tầm thường, chẳng đáng được kể lại trong câu chuyện của tôi. Nhưng giờ đây, khi có thời gi¬an nhìn lại, tôi mới thấy rõ được vai trò của chúngtrong một chuỗi các sự việc mà tôi sẽ kể lại sau đây.
Tài xế của Sum¬mer¬lee có thể là một người mới lái xe hoặc đã mất bình tĩnh sau vụ tranh cãi vì bác ta lái xe rất vụng về. Chúng tôi gần đụng phải hai chiếc xe khác (cũng lái rất ẩu). Tôi nhớ là đã nói với Sum¬mer¬lee rằng trình độ nghề nghiệp của giới tài xế Luân Đôn đã xuống cấp. Sau đó chúng tôi lại đâm phải một đám đông đang tụ tập ở góc phố Mall để xem một vụ ẩu đả. Đám người bị kích động và kêu lên giận giữ, chửi "lão tài xế già" của chúng tôi. Một người trong đám đông nhảy lên bậc xe và huơ gậy lên đe doạ. Tôi đã phải đẩy anh ta ra. Chúng tôi nhẹ cả khi ra khỏi đó một cách an toàn. Tất cả những sự kiện lẻ tẻ như thế dần dần khiến đầu óc tôi căng lên. Còn ông bạn đồng hành của tôi thì bực bội đến mức không thể kiềm chế được sự thiếu kiên nhẫn của mình.
Chúng tôi lấy lại tâm trạng vui vẻ khi thấy huân tước John Rox¬ton đứng chờ trên sân ga. Vẫn dáng người cao, mảnh, ông mặc một bộ đồ len đi săn màu hạt dẻ sáng. Khi nhận ra chúng tôi, khuôn mặt nhỏ với đôi mắt ấn tượng vừa dữ tợn vừa tươi cười sáng lên niềm vui. Một vài sợi bạc đã xuất hiện trên bộ tóc hung đỏ và những nếp nhăn như hằn sâu thêm vì thời gi¬an, nhưng ông vẫn là huân tước John, người bạn đã cùng chơi rất thân với chúng tôi.
- Chào ngài giáo sư, chào cậu bé!
Ông chợt kêu lên vui vẻ khi trông thấy những bình ga mà một người khuân vác đang kéo theo sau chúng tôi.
- Các bạn cũng mang theo ư? Bình của tôi trên toa chở hàng. Chẳng biết cụ già đáng mến có thể làm gì với chúng đây?
- Đợi đã, tôi nói, ông đã đọc những bức thư trên tờ thời báo Times chứ ?
- Toàn những lời nhảm nhí! Sum¬mer¬lee tuyên bố rất nghiêm túc.
- Chẳng phải nó là khởi nguồn của câu chuyện về ô-xy này hay sao? Hay là tôi nhầm?
- Toàn những thứ nhố nhăng, phi lý! Sum¬mer¬lee lặp lại một cách hằn học không đáng có.
Chúng tôi đặt chỗ trong toa hạng 1 dành cho người hút thuốc và Sum¬mer¬lee châm chiếc tẩu đen, ngắn làm bằng rễ thạch thảo. Chiếc tẩu như làm chiếc mũi cao của ông càng thêm dữ tợn.
- Ông bạn Chal¬lenger là một người thông minh! Ông nói tiếp. Không ai phủ nhận điều đó. Mà có hoạ là điên mới phủ nhận điều đó. Cứ xem chiếc mũ của ông ấy thì biết. Bên dưới ấy là một bộ óc nặng 1,7 kg, một động cơ vĩ đại, hoạt động tốt và làm nhiều việc rất hiệu quả. Hãy cho tôi xem chiếc mũ, tôi sẽ cho anh biết trọng lượng của động cơ. Chỉ có điều, Chal¬lenger bản chất là một gã lang thang. Mọi nguời vẫn nhớ có lần tôi đã nói thẳng vào mặt ông ấy như thế chứ?. Ông ấy sinh ra là kẻ làm ảo thuật đường phố, một hạ sĩ lang thang. Ông ấy lúc nào cũng muốn mọi ánh đèn rọi vào mình. Khán giả yên lặng ư? Được thôi, vậy thì ông bạn Chal¬lenger sẽ tìm cách bắt người ta nói về mình. Các ông không nghĩ là ông ta tin tưởng một cách nghiêm túc vào luận điểm ngu ngốc của ông ta đấy chứ? Ông ta cho rằng hiện tượng biến đổi ê-te có thể đe doạ loài người hay sao? Về phía ông ta, đó chỉ là sự bịa đặt thuần tuý. Và tôi cho rằng đó là sự bịa đặt trắng trợn và táo bạo nhất chưa từng diễn ra trên trái đất này. Nhưng...
Ông có vẻ một con quạ già lạc bầy tinh tướng, lớn tiếng chê bai với nụ cười cay độc làm rung chuyển toàn thân.
Một cơn giận dần dần dâng lên trong tôi sau mỗi lời của Sum¬mer¬ler. Thật quá đáng khi nói về người đội trưởng của mình như vậy, người đã khiến chúng tôi trở nên nổi tiếng và cho chúng tôi những cơ hội trải nghiệm có một không hai. Tôi định phản bác nhưng huân tước John đã nói trước:
- Ông đã từng đấu với ông bạn già Chal¬lenger một lần, ông lạnh lùng nói với Sum¬mer¬lee, và ông đã bị hạ nốc - ao ngay từ hiệp đầu tiên. Hình như đối với tôi, thưa ông Sum¬mer¬lee, ông ấy thuộc đẳng cấp cao hơn ông. Điều tốt nhất ông nên làm là bước theo chân ông ấy. Ông hãy nhớ lấy duy nhất điều này thôi!
Lập tức tôi tiếp lời
- Hơn nữa, ông ấy luôn là người bạn tốt của chúng ta. Dù có lỗi gì đi nữa, ông ấy vẫn luôn là người thẳng thắn và tôi không tin rằng có một lúc nào đó ông ấy lại nói xấu bạn bè sau lưng.
- Nói hay lắm, cậu bé!
Huân tước John Rox¬ton cười ủng hộ tôi rồi thân mậtvỗ vai Sum¬mer¬lee.
- Nào, thưa ngài giáo sư , chúng ta sẽ không bắt đầu ngày hôm nay bằng một cuộc tranh cãi chứ hả? Chúng ta đã từng chứng kiến quá nhiều vụ cãi cọ rồi! Nhưng hãy cẩn thận, đừng đi qúa xa khi ông nói tới Chal¬lenger vì cậu thanh niên đây và chính tôi, chúng tôi yêu quý ông già giáo sư đáng mến ấy.
Thật bất hạnh là Sum¬mer¬lee không hề tỏ ra muốn dàn hoà. Mặt ông đanh lại, cau có, biểu hiện thái độ bất đồng nhất nhất không nao núng. Từ tẩu thuốc của ông thoát ra từng cụm khói dày giận dữ. Ông gằn giọng nói với huân tước John:
- Quan điểm của ông về một vấn đề khoa học cũng chẳng khác gì ý kiến của tôi về một mô hình súng trường mới. Tôi có đánh giá riêng của tôi, thưa huân tước đáng kính, và tôi vẫn sẽ giữ nguyên như thế chừng nào tôi muốn. Lẽ nào vì ông ta đã lừa tôi được một lần mà tôi phải chấp nhận mà không được phê bình bất kỳ một công trình nghiên cứu nào đó do ông ý đầu têu ra? Nếu thế, chúng ta sẽ có một vị Giáo hoàng trong khoa học chuyên đưa ra những mệnh lệnh cứng nhắc từ trên bục giảng đạo mà các con chiên tội nghiệp dù thế nào cũng vẫn phải nhất nhất phục tùng. Tôi lấy làm hân hạnh được thông báo với ngài, thưa ngài, rằng tôi cũng có một khối óc và tôi sẽ tự coi mình là một kẻ nô lệ hay một kẻ học đòi làm sang nếu như tôi không biết sử dụng nó. Ngài có thể tin rằng những giả thuyết thiếu nhất quán về ê- te và vạch phổ Frauen¬hofer của ông ấy là đúng, được, xin cứ việc. Nhưng ngài đừng nên yêu cầu một người lớn tuổi hơn ngài, học thức hơn ngài, phải đồng ý với sự ngu ngốc đó. Ngài thấy đó, nếu ê-te biến đổi đến mức như Chal¬lenger nói và nếu như hiện tượng này độc hại cho sức khoẻ con người thì lẽ nào tác hại lại không ảnh hưởng lên chính chúng ta?
Và ông ta bắt đầu cười, coi lập luận của mình là không thể bác bẻ được.
- Đúng vậy, thưa ngài, chúng ta đã khác với chính chúng ta! Thay vì ngồi yên trong toa và thảo luận về những vấn đề khoa học, chúng ta đã chứng tỏ một vài dấu hiệu nhiễm chất độc mà chúng ta đang nghiên cứu. Ngài thấy dấu hiệu rối loạn khí quyển vũ trụ ở đâu? Nào, thưa ngài, ngài trả lời đi! Nào, không lối thoát nhé! Tôi yêu cầu ngài trả lời đi chứ!
Tôi bắt đầu nổi giận. Trong thái độ của Sum¬mer¬lee có cái gì đó đáng ghét và hung hăng... Tôi không thể kiềm chế được nữa.
- Tôi tin rằng nếu ngài biết mọi việc rõ hơn một chút ngài sẽ không dám khẳng định chắc chắn như thế!
Sum¬mer¬lee bỏ tẩu thuốc, nhìn tôi chằm chằm bằng một vẻ ngạc nhiên lạnh lùng.
- Anh bạn, xin vui lòng cho tôi biết anh định ám chỉ điều gì trong lời nhận xét hỗn xược này chứ?
- Tôi chỉ muốn nói điều này: khi tôi rời toà báo thì nhận được một bức điện thông báo hiện nay đang có một dịch bệnh lây lan trong toàn bộ cư dân bản xứ trên đảo Suma¬tra. Bức điện báo này còn cho biết thêm rằng các ngọn hải đăng ở eo biển La Sonde không còn sáng lên được nữa.
Sum¬mer¬lee nổi hung lên:
- Sự điên loạn và ngu ngốc của con người cũng phải có giới hạn thôi chứ! Chẳng nhẽ các vị không hiểu rằng ê te là một chất có trong khắp bầu khí quyển và luôn đồng nhất ở tất cả mọi nơi trên thế giới hay sao? Và nếu đồng ý với giả thiết kỳ cục của Chal¬lenger, phải chăng các ngài đang cho rằng ê-te ở Kent khác với ê-te ở Sur¬rey. Liệu có lý không khi ê-te ở đảo Suma¬tra nguy hiểm chết người đến mức gây ra sự tê liệt hoàn toàn, trong khi ở đây, vào lúc này, người ta không nhận thấy bất cứ dấu hiệu nào của sự nhiễm độc? Riêng với tôi, tôi có thể khẳng định rằng chưa bao giờ tôi cảm thấy khoẻ khoắn và tinh thần minh mẫn như bây giờ!
- Có thể, tôi trả lời, tôi không phủ nhận phẩm chất của một nhà bác học nơi ông. Tuy nhiên, tôi đã nghe nói và nghe nhiều rằng khoa học của một thế hệ này vẫn thường bị thế hệ sau coi như một mớ lý thuyết sai lầm. Và chẳng cần phải hiểu biết nhiều mới thấy rằng giới khoa học vẫn còn biết rất ít về ê-te và loại khí này có thể bị rối loạn ở một địa phương nhất định, ở một vài điểm trên địa cầu và sau đó có thể sẽ lan tới chúng ta.
- Với những "có thể" với "giả sử" của anh, -Sum¬mer¬lee tức giận giận kêu kên, người ta có thể chứng minh mọi thứ! Lợn có thể bay. Đúng vậy, thưa anh, con lợn cũng có thể bay, nhưng sự thực là chúng không thể bay đuợc! Vả lại, tranh cãi với anh thật là vô ích! Chal¬lenger đã gieo vào đầu anh sự phi lý. Cả hai người các vị đều không còn khả năng tư duy. Nói chuyện với hai người thì tôi thà nói chuyện với những hành khách trong khoang bên kia còn tốt hơn!
Huân tước John nghiêm mặt:
- Giáo sư Sum¬mer¬lee, tôi buộc phải nói với ông rằng cung cách xử xự của ông chẳng cải thiện chút nào từ khi tôi hân hạnh được gặp ông lần đầu tiên!
- Đó là vì cái tư tưởng ông lớn ở trong ngài vốn không quen nghe sự thật. Chắc hẳn là ngài sẽ làm gì đó khi ai đó giúp ngài nhận ra rằng đằng sau tước hiệu của ngài là một kẻ ngu ngốc tội nghiệp đúng không?
- Tôi thề rằng, huân tước John quả quyết đáp lại, nếu ngài trẻ hơn tôi, ngài sẽ không dám nói với tôi với giọng điệu như bây giờ!
Sum¬mer¬lee vênh cằm, chĩa chòm râu ra phía trước.
- Tôi cho ngài hay, dù trẻ hay già, tôi chưa bao giờ sợ khi nói thẳng sự thật về môt gã thầy giáo ngu ngốc!... Ngay cả khi kẻ ngu ngốc này có thể khoác đủ các chức danh mà bọn nô lệ bịa ra và chỉ có những kẻ ngu mới tự hào về các chức danh đó!
Trong một lúc, mắt huân tước John long lên, nhưng ông đã kiềm chế được cơn giận. Ông dựa lưng vào chiếc ghế và khoanh tay lại. nhưng nụ cười gượng ẩn chứa nỗi cay đắng. Tôi cảm thấy nặng nề, trĩu buồn. Như một cơn sóng, kỷ niệm chung ngày xưa của ba người ào về: tình bạn chân thành, những ngày vui, những cuộc phiêu lưu và cả những nỗi đau, những lo sợ và công việc....tất cả những gì mà chúng tôi đã có. Và kết cục là như vậy sao? Thoá mạ, lăng nhục nhau...Và tôi oà khóc, những tiếng nấc nghẹn ngào, nức nở, không kìm nén được. Hai người bạn ngạc nhiên nhìn tôi. Hai tay ôm đầu, tôi nói:
-Các ông đừng bận tâm! Chỉ là....chỉ là... Tôi rất tiếc!
- Cậu ốm rồi, cậu bé! Huân tước John thì thầm. Ngay từ đầu tôi đã nhận thấy cậu có vẻ gì đó không bình thường.
Sum¬mer¬lee chen ngang vẻ nghiêm trang:
- Ba năm trôi qua mà anh vẫn không thay đổi được thói quen. Tôi cũng vậy. Ngay từ khi mới gặp lại anh tôi đã thấy thái độ của anh rất lạ lùng. Ngài đừng nên lãng phí tình thương làm gì, huân tước John ạ! Những giọt nước mắt kia chỉ là nước mắt của một gã say. Mal¬one đã uống rượu, thế thôi! Huân tước John ạ, tôi vừa gọi ngài là gã thầy giáo ngu ngốc quả có phần hơi quá. Nhưng từ này lại gợi cho tôi nhớ lại vài điều. Các ngài vẫn thường thấy tôi trong dáng vẻ một nhà bác học nghiêm túc phải không? Nhưng các vị vẫn chưa biết một số tài mọn khác của tôi, khi tôi còn là thầy giáo. Các ngài có tin không khi tôi nói rằng trong một số trường cho trẻ nhỏ tôi đã có uy tín xứng đáng (hoàn toàn xứng đáng, huân tước John ạ!) được là một chuyên gia bắt chước? Nhưng bắt chước cái gì? Tôi sẽ cho các ngài thấy hàng nghìn ví dụ. Tôi bắt chước một cách hoàn hảo tiếng những con vật nuôi. Thực như vậy đấy và đây sẽ là cách giết thời gi¬an tốt nhất ở đây! Ngài có vui lòng nghe tôi bắt chước tiếng gà trống gáy không?
- Không, thưa ngài, tôi chẳng hề muốn nghe! huân tước John trả lời. Ông vẫn còn bị lời xúc phạm làm tổn thương.
- Tôi bắt chước tiếng con gà mái kêu lúc nó làm vỡ trứng đã được người ta cho điểm trên trung bình đấy. Ông có muốn nghe không?
- Không, thưa ngài, tôi không muốn nghe!
Nhưng cuối cùng Sum¬mer¬lee quyết định không để ý đến ý kiến của huân tước John. Ông bỏ tẩu thuốc... Và từ lúc đó cho tới cuối chuyến đi ông đã làm cho chúng tôi vui vẻ (ít nhất thì ông cũng đã cố gắng làm cho chúng tôi vui vẻ) khi bắt chước lúc thì tiếng các loài chim, lúc thì tiếng các con vật khác nhau một cách rất phi lý đến mức tôi ngừng khóc như thích thú lắm. Tôi bất chợt phá lên cười khi nhìn, đúng hơn là khi nghe thấy vị giáo sư trịnh trọng đang ngồi đối diện với tôi bắt chước tiếng kêu ăng ẳng của một con chó bị kẹp đuôi vào cửa. Có một lúc nào đó huân tước John đã chuyển cho tôi tờ báo của ông. Ông ghi vào lề tờ báo dòng chữ bằng bút chì:"Con quỷ tội nghiệp. Ông ấy hâm nặng rồi". Dĩ nhiên là cách xử xự của ông ấy thật kỳ quặc, nhưng đối với tôi, những tài lẻ của ông ấy thật là thú vị.
Rồi huân tước John nghiêng người về phía tôi, kể cho tôi nghe một câu chuyện lê tha lê thê, không đầu không cuối, hình như là một câu chuyện về những con trâu hay về một hoàng tử nào đó ở ấn Độ thì phải. Tuy nhiên, đúng vào lúc mà câu chuyện trở nên hấp dẫn và giáo sư Sum¬mer¬lee đang hứng chí thì tàu đã đến ga Jarvis Brook, một ga nhỏ nghe nói là ở gần Rother¬field.
Chal¬lenger đã chờ chúng tôi ở đó. Ông có vẻ rất vui. Từ xưa tới nay, không một con công nào trên trái đất từ có thể sánh với ông về tính chậm rãi và kiêu ngạo. Ông dạo bước chầm chậm trên sân ga, nhìn ngắm mọi người với nụ cười đầy vẻ kẻ cả, quan sát... Nếu như ông có thay đổi theo năm tháng thì sự thay đổi chỉ in đậm thêm những nét đặc trưng trên con người ông. Cái đầu có vầng trán cao luôn rủ mấy lọn tóc nhuộm đen loà xoà dường như càng ngày càng to hơn. Bộ râu dài như thác nước đổ dường như dài hơn trước. Dưới mí mắt húp xuống nặng nề đầy thách thức là đôi mắt xám rất sáng phản chiếu ý chí thống trị kỳ lạ trong ông.
Ông giơ nắm đấm về phía tôi, miệng nở nụ cười khuyến khích, nụ cười mà người thầy giáo thường dùng để động viên những cậu trò ít tuổi nhất lớp, rồi quay sang nói chuyện với hai người bạn đi cùng tôi. Ông giúp chúng tôi tập hợp các bình ô-xy lại rồi dẫn chúng tôi đến một chiếc ô -tô to hơn.
Bác tài xế Austin có vẻ lãnh đạm. Bác ta vốn là người ít nói. Tôi đã từng thấy ở bác ta vẻ trịnh trọng của người chủ nhà khi tôi đến thăm giáo sư lần đầu tiên.
Chúng tôi đi lên con dốc men theo đồi. Cảnh vật thật tuyệt vời. Tôi ngồi ghế trên cạnh bác lái xe, có cảm tưởng như ở phía sau, tất cả ba người bạn của tôi đang cùng nói một lúc. Huân tước John đang kể lại câu chuyện về những con trâu trong khi giọng nói nặng nề của Chal¬lenger và giọng the thé của Sum¬mer¬lee đang bắt đầu một cuộc đấu tay đôi. Đây là dấu hiệu báo trước một cuộc tranh luận khoa học gay gắt và chuyên sâu. Bất chợt Austin hướng khuôn mặt rám nắng về phía tôi và trong khi mắt vẫn chăm chú nhìn tay lái, bác ta nói:
- Tôi đã bị đuổi việc.
- Chúa ơi!
- Hôm nay tất cả mọi thứ thật kỳ cục. Mọi người chỉ nói những điều lạ lùng, bất ngờ, cứ như trong mơ.
- Đây là lần thứ 47 rồi! Bác ta nói thêm sau một lúc im lặng.
- Khi nào bác đi?
- Tôi sẽ không đi đâu!
Lẽ ra câu chuyện đã có thể dừng lại nhưng Austin lại tiếp:
- Nếu tôi đi ai sẽ chăm sóc ông ấy? Bác hất đầu về phía chủ. Ông ấy sẽ tìm được ai để phục vụ cơ chứ?
- Cũng có thể ông ấy sẽ tìm được ai đấy khác?
- Ông ấy ư? Chẳng ai hết! Chẳng ai có thể ở được lâu hơn một tuần. Tôi đi mà thì nhà cửa sẽ lộn xộn như một chiếc đồng hồ hỏng hết bánh răng. Tôi nói với anh điều này vì anh là bạn của ông ấy, anh phải biết. Có lẽ tôi hơi quá lời nhưng thực sự tôi chẳng có bụng dạ nào! Ông ấy và bà chủ, họ giống như hai đứa trẻ bị bỏ rơi. Tôi toàn phải lo tất. Bây giờ thì thế đấy: ông ấy tống tôi ra khỏi cửa!
- Tại sao không người nào ở lại được? Tôi hỏi.
- Vì không ai chịu được ông ấy. Ông chủ quá thông minh! Thông minh đến mức đôi lúc ông ấy phát điên. Tôi thề với anh đấy! Tôi đã nhìn thấy lúc ông ấy điên lên. Này, anh có biết là sáng nay ông ấy đã làm gì không?
- Sáng nay ông ấy đã làm gì?
Austin ghé tai tôi.
- Ông ấy đã cắn chị giúp việc!
- Cắn ư?
- Vâng, thưa ông, ông ấy đã cắn vào chân. Tôi đã tận mắt thấy chị ta lao như bay ra khỏi tiền sảnh.
- Chúa ơi! Một con người lạ lùng làm sao!
- Cả anh cũng vậy, anh cũng sẽ cho ông ấy là điên nếu nhìn thấy ông ấy như tôi đã thấy. Ông ấy chẳng hề kết bạn với những người xung quanh. Có người nghĩ rằng khi ông ấy ở cùng với những con quỷ mà anh đã nhắc tới ấy, đó mới là nhà, là môi trường thích hợp với ông ấy. Người ta vẫn nói thế đấy. Nhưng tôi đã phục vụ ông ấy từ 10 năm nay, và ông ấy khiến tôi hài lòng. Chỉ có đôi lúc ông ấy tỏ ra dữ tợn thôi. Anh xem kìa, thế kia thì có thể gọi là hiếu khách được không? Anh đọc đi!
Xe chạy một cách chậm chạp qua đoạn đường cuối cùng có nhiều khúc quanh gấp. Trong góc một khúc quanh hiện ra một bảng nhỏ được dựng trên một hàng rào cắt tỉa cẩn thận. Austin có lý. Chiếc bảng này đáng được đọc dù rất khó.
Khuyến cáo
Không tiếp khách đến thăm, nhà báo, ăn mày.
G.E. Chal¬lenger
- Không thể nào gọi đây là một lời đón chào nồng nhiệt được, Austin lắc đầu nhắc lại.
Bác lắc đầu khi đi qua tấm bảng với dòng chữ đáng phàn nàn đó rồi tiếp.
- Điều này chẳng hay chút nào... Xin lỗi anh, nhiều năm qua tôi chưa bao giờ nói nhiều như ngày hôm nay. Nhưng hôm nay lại là một ngày không như mọi ngày khác! Ông ấy còn có thể cho tôi nghỉ việc, đuổi tôi ra cửa năm mươi lần nữa, nhưng tôi sẽ không đi. Đó là ông chủ của tôi, và sẽ mãi là ông chủ của tôi, tôi hy vọng thế, cho tới những ngày cuối đời.
Chúng tôi đi qua hàng cọc trắng trước cổng vào và tới một lối đi đầy hoa đỗ quyên hai bên. Cuối lối đi là một ngôi nhà gạch thấp với khung mái màu trắng, rất đẹp và tiện nghi. Bà Chal¬lenger nhỏ nhắn, xinh xắn và tươi cười đứng trên bậc cửa tiếp đón chúng tôi.
- Mình yêu quý! Chal¬lenger vội xuống xe và nói. Khách của chúng ta đây! Thật là kỳ diệu khi chúng ta có khách đến thăm phải không? Đúng là chúng ta đã sống phòng ngừa với những người xung quanh nhưng nếu như có cơ hội bỏ thuốc độc vào bánh mỳ mà người làm bánh mỳ mang đến cho chúng ta, tôi tin là họ sẽ không bỏ qua đâu.
- Thật khủng khiếp! Khủng khiếp! Người thiếu phụ kêu lên dở khóc dở cười. George luôn tranh cãi với tất cả mọi người. Trên đất này, chúng tôi chẳng có lấy một người bạn.
- Thế thì tôi mới có thể chuyên tâm chăm sóc người vợ tuyệt vời của mình chứ! Chal¬lenger vòng tay ôm vợ an ủi. (Các bạn cứ tưởng tượng đến một con khỉ và một con linh dương. Đó là hình ảnh gần như chính xác về cặp vợ chồng này). Nào, các quý ông đây đi đường đã mệt rồi. Phải chuẩn bị bữa trưa ngay. Sarah đã trở lại chưa?...
Bà Chal¬lenger lắc đầu. Vị giáo sư phá lên cười, ông vỗ vỗ nhẹ lên bộ râu với một vẻ mãn nguyện rõ rệt.
- Austin ! Ông gọi. Khi nào đỗ xe xong, bác vào giúp bà chủ làm cơm nhé! Còn bây giờ, mời các ngài vui lòng vào phòng làm việc với tôi ? Tôi có vài điều cực kỳ khẩn cấp cần trao đổi với các ngài.
Chương 02. Thủy Triều Chết
Khi chúng tôi đi qua tiền sảnh để vào phòng làm việc của giáo sư thì chuông điện thoại reo. Vậy là chúng tôi trở thành những thính giả bất đắc dĩ của cuộc nói chuyện giữa giáo sư Chal¬lenger và người lạ. Tôi nói là "chúng tôi "thôi chứ thực ra trong khoảng 100m, ai cũng có thể nghe thấy tiếng nói vang như sấm làm rung chuyển toàn bộ ngôi nhà của ông.
Những câu trả lời của vị giáo sư in trong óc tôi .
- Vâng, vâng, đúng là tôi... Đúng, chắc chắn, tôi là giáo sư Chal¬lenger, chính là giáo sư nổi tiếng Chal¬lenger đây... Đúng, tất nhiên rồi, từng chữ. Nếu không, tôi đã không viết... Điều đó sẽ không làm tôi ngạc nhiên... Hình như mọi thứ đều cho thấy điều đó... Trong khoảng một ngày hoặc nhiều nhất là hai ngày nữa... Ồ, tôi không thể ngăn chặn được điều gì cả; làm sao tôi có thể làm được điều đó?!... Rất đáng ghét, không nghi ngờ gì nữa, nhưng tôi nghĩ rằng điều đó có thể tác động đến nhiều người còn quan trọng hơn các ông. Chẳng cần thiết phải run sợ đâu... Không, tôi không thể: ông hãy tận dụng lấy cơ hội của ông đi... Đủ rồi, thưa ông! Tôi còn nhiều việc phải làm thay vì ngồi nghe những lời run sợ của ông!
Ông gác máy một cách khiếm nhã rồi dẫn chúng tôi lên tầng hai đến một căn phòng rất thoáng được dùng làm phòng làm việc của ông. Trên bàn làm việc bằng gỗ gụ rải rác 7 hay 8 bức điện tín chưa mở. Ông chỉ những bức điện tín và nói với chúng tôi.
- Tôi bắt đầu tin rằng tôi sẽ tiết kiệm được khối tiền cho những người viết thư cho tôi nếu tôi tự đặt ra một địa chỉ cho riêng mình đấy. Các ngài thấy sao về dòng chữ này"Noé, Rother¬field"?
Bị cuốn vào trò đùa không thể hiểu được này, ông phá lên cười. Tuy đứng dựa vào bàn làm việc nhưng toàn thân rung đến nỗi ông cầm những bức điện rất khó khăn. Ông kêu lên.
- Noé! Noé!
Mặt ông đỏ dừ. huân tước John và tôi mỉm cười thông cảm. Chỉ có Sum¬mer¬lee vẫn khó đăm đăm, bướng bỉnh lắc đầu để biểu thị sự bất bình sâu sắc. Khi Chal¬lenger bình tĩnh lại, ông bắt đầu mở các bức điện trong khi cả ba chúng tôi đang mải mê ngắm khung cảnh tuyệt vời đang trải rộng trước mắt qua khung cửa sổ.
Thật là một khung cảnh đáng chiêm ngưỡng! Con đường với nhiều khúc quanh, khi thì đột ngột khi thì chậm rãi đưa chúng tôi lên tới một độ cao khá lớn mà sau này chúng tôi được biết là khoảng 250 m. Ngôi nhà của Chal¬lenger nằm đúng trên đỉnh đồi. Từ mặt phía Nam của ngôi nhà, phía mà khung cửa sổ phòng làm việc nhìn ra, chúng tôi phóng tầm mắt xa tới tận những bình nguyên trắng màu đá và nhấp nhô tạo thành đường chân trời. Giữa những bình nguyên xa xa đó, một màn sương nhẹ thấp thoáng phủ lên thành phố Lewes. Ngay dưới chân chúng tôi là những bụi cây lúp xúp; xa chút nữa là những mảng xanh sáng của sân golf Crow¬bor¬ough điểm những chấm đỏ đang di chuyển. Đó là những người đang chơi golf. Xa hơn nữa về phía Nam, con đường từ Lon¬dre đi Brighton thấp thoáng ẩn hiện sau rừng cây. Sát ngôi nhà là khoảng sân nhỏ được rào cẩn thận nơi chiếc ô-tô đã chở chúng tôi đang đậu.
Tiếng kêu của Chal¬lenger làm cả ba chúng tôi quay lại. Ông đã đọc xong những bức điện và đã xếp chúng lên bàn làm việc một cách khoa học. Khuôn mặt với những đường nét bất cân đối, hay ít nhất là những phần không bị bộ râu che khuất của ông đỏ dừ. Chúng tôi đoán ông đang bị xúc động mạnh.
- Thưa các ngài, ông kêu lên với giọng điệu như trong các cuộc họp công khai với nhiều tranh luận, tôi rất vui mừng vì tất cả chúng ta đã có mặt tại đây! Tôi lại càng vui hơn nữa khi cuộc gặp này diễn ra trong một bối cảnh đặc biệt... Phải nói là trong một bối cảnh chưa từng có. Tôi có thể hỏi các ngài rằng các ngài có nhận thấy điều gì không bình thường trong chuyến hành trình từ Lon¬dre vừa qua không?
- Điều duy nhất mà tôi nhận thấy , Sum¬mer¬lee tuyên bố với nụ cười chua chát, đó là trong ba năm qua, anh bạn trẻ của chúng ta chẳng thay đổi gì cả. Tôi rất tiếc phải nói rõ rằng tôi đã phải phàn nàn về thái độ cư xử của anh ta lúc trên tàu. Và tôi sẽ là kẻ nói dối nếu tôi không nói thêm rằng thái độ của anh ta đã làm tôi vô cùng tức giận.
Huân tước John xen ngang.
- Chúng ta ai mà chẳng có lúc bực dọc, cáu gắt. Cậu bé này chẳng làm gì xấu cả. Dù sao thì cậu ấy vẫn là một cầu thủ bóng bầu dục cấp quốc tế. Và nếu cậu ấy có cần nửa giờ để thuật lại một trận đấu thì hơn ai hết cậu ấy hoàn toàn có quyền!
- Một nửa giờ để kể về một trận đấu sao?! Tôi kêu lên bất bình. Chuyện quái quỉ gì vậy?! Chính ngài đã kể cho chúng tôi nghe trong suốt thời gi¬an đó chuyện về những con trâu quái quỉ gì đó. Giáo sư Sum¬mer¬lee có thể làm chứng rằng...
- Khó có thể nhận xét ai trong số các vị gây khó chịu nhiều hơn, Sum¬mer¬lee nói. Nhưng tôi đảm bảo với ông, Chal¬lenger, tôi đã chán ngấy lên tận cổ những câu chuyện về bóng bầu dục hay về những con trâu rồi!
- Tôi chưa bao giờ nói về bóng bầu dục cả! Huân tước John rít lên chói tai. Sum¬mer¬lee lắc đầu ngán ngẩm:
- Lúc sáng sớm ấy! Ông ta thở mạnh. Thật tệ hại! Lúc mà tôi ngồi trong im lặng não nề và đầy suy tư...
- Trong im lặng ư? huân tước John phản đối. Thế là sao? Ông đã giới thiệu cho chúng tôi một loạt các vở diễn. Ông đã bắt chước các loài vật trong suốt chuyến đi. Ông giống như một cái máy phát thanh hơn là một nhà bác học!
Sum¬mer¬lee đứng lên.
- Ông nói đùa đấy hả, huân tước John?
- Tóm lại là thế nào? Chúng ta điên hết rồi sao? huân tước John kêu lên.
Mỗi người trong chúng ta dường như chỉ nhớ những gì mà người khác đã làm. Cả ngài, cả anh ta và cả chính tôi, tất cả đều không nhớ mình đã làm những gì. Nào, chúng ta hãy bắt đầu từ lúc đầu tiên! Chúng ta đã lên toa hạng nhất dành cho người hút thuốc, đúng không? Sau đó chúng ta đã tranh cãi về bức thư của ông bạn Chal¬lenger đăng trên nhật báo Times...
- Này, này, thật thế sao? Ông chủ nhà nhắm mắt kêu lên bất bình.
- Sum¬mer¬lee, ngài đã nói rằng những lời lẽ của Chal¬lenger chẳng hề có chút sự thật nào.
- Trời ơi! Chal¬lenger ưỡn ngực, tay vỗ nhẹ lên bộ râu... Không có chút sự thật ư? Dường tôi đã nghe những lời này ở đâu đó. Vậy thì tôi có thể hỏi ngài giáo sư Sum¬mer¬lee vĩ đại rằng vì lý do gì mà ngài đã phủ nhận ý kiến của một con người tầm thường tự cho phép mình trình bày một giả thiết khoa học? Trước khi phủ nhận sạch trơn ý kiến của một ai đó, liệu ngài có thể bằng lòng nói cho anh ta hay ngài đã dựa trên căn cứ nào để xây dựng một giả thuyết ngược lại?
Ông nghiêng mình, nhún vai sau đó chắp hai tay cầu xin.
- Một căn cứ khá chắc chắn, Sum¬mer¬lee đáp lại một cách bướng bỉnh. Thực ra, tôi nghĩ rằng nếu như khí ê- te bao quanh trái đất độc đến nỗi có thể gây ra một số triệu chứng nguy hiểm ở nơi nào đó thì tại sao trong toa tầu, ba chúng tôi lại hoàn toàn không cảm thấy tác động của hiện tượng đó.
Lời giải thích của Sum¬mer¬lee chỉ càng làm cho Chal¬lenger hăng lên. Ông phá lên cười và chỉ dừng lại khi mọi thứ trong phòng bắt đầu rung lên.
- Ngài Sum¬mer¬lee dũng cảm của chúng ta dù sao cũng có đôi chút thực tế. Và đây không phải là lần đầu tiên. Ông tuyên bố trong khi đưa tay lau vầng trán đã lấm tấm mồ hôi. Bây giờ, thưa các ngài, tôi chỉ biết giải thích quan điểm của tôi một cách tốt nhất bằng cách kể lại thật chi tiết những gì tôi đã làm sáng nay. Các ngài có thể bỏ qua những bất thường về tư duy hơn khi các ngài biết rằng tôi... chính tôi... Đã có những lúc tôi cảm thấy mất cân bằng. Thực ra, từ vài năm nay chúng tôi có một phụ nữ giúp việc, đó là chị Sarah... Tôi chưa bao giờ nhớ được chị ta có tên nào khác không. Đó là một phụ nữ có khuôn mặt nghiêm nghị đến dễ sợ. Chị ta luôn giữ một vẻ lãnh đạm và rất vững vàng. Chị ta có tính không bao giờ động lòng: chưa bao giờ tôi thấy chị ta xúc động dù chỉ là một thoáng. Sáng nay, khi tôi đang ăn sáng một mình... - thường thì buổi sáng bà Chal¬lenger vẫn ở trong phòng riêng - thì một ý nghĩ len lỏi trong đầu tôi. Tôi nghĩ rằng sẽ thật là thú vị và bổ ích khi biết người phụ nữ này có thể giữ được điềm tĩnh đến mức nào. Lúc đó tôi đã nghĩ tới một cách thử vừa đơn giản vừa hiệu quả. Tôi gạt đổ bình hoa nhỏ trên bàn, rung chuông và trốn ngay xuống gậm bàn. Chị ta đi vào, tin rằng trong phòng không có ai, chị ta tưởng tôi đã quay về phòng làm việc. Đúng như tôi chờ đợi, chị ta lại gần bàn ăn và cúi xuống để nhặt chiếc bình. Tôi nhìn thấy đôi bít tất bằng co¬ton và đôi giày ống có cổ, rất mềm. Và tôi đã làm gì? Tôi thò đầu ra và cắn vào bắp chân chị ta. Cuộc thử nghiệm thành công hơn cả mức tôi chờ đợi. Trong một vài giây, chị ta đứng sững sờ, chăm chăm nhìn đầu tôi thò ra qua tấm khăn trải bàn. Sau đó, chị ta kêu thét lên và vùng chạy ra khỏi phòng. Tôi đuổi theo chị ta để giải thích vì hình như tôi nghĩ rằng chị ta có quyền được nghe giải thích. Nhưng chị ta chạy nhanh như gió. Sau đó một lúc, qua ống nhòm, tôi thấy chị ta trên đường, vẫn đang chạy. Chị ta chạy về hướng Tây-Nam. Từ lúc ấy, tôi không gặp lại chị ta nữa. Tôi kể chuyện này để hình thành trong đầu óc các ông một ý niệm. Câu chuyện này có mang lại cho các ông chút ánh sáng nào không? Các ông có thấy câu chuyện đó liên quan đến những gì diễn ra trong đầu các ông không? Huân tước John, ông nghĩ thế nào về câu chuyện này?
Huân tước John lắc đầu một cách nghiêm túc.
- Nếu không dừng lại thì có một ngày ông sẽ gặp phải nhiều điều buồn phiền thực sự đấy.
- Sum¬mer¬lee, ông có nhận xét chứ?
- Ông phải nghỉ việc ngay lập tức, Chal¬lenger ạ, và đi nghỉ ba tháng ở một thành phố nước nóng nào đó ở Đức.
- Rất hay! ... Nào, đến lượt cậu, anh bạn trẻ... Có thể cậu sẽ nói ra điều khôn ngoan, sáng suốt hơn. Các bậc anh cả của cậu chẳng thể nói được điều gì hay ho nữa.
Và quả thật, tôi đã nói ra điều sáng suốt. Tôi trình bày một cách hoàn toàn khiêm tốn, nhưng dù sao, tôi đã nói. Tất nhiên các bạn đều biết điều gì đã xảy ra. Và các bạn sẽ thấy rằng câu trả lời của tôi là thực tế. Nhưng các bạn hãy nghĩ rằng, vào lúc này, mọi thứ vẫn còn mới mẻ và chẳng hề đơn giản để tìm câu trả lời. Với tất cả sức lực và niềm tin tuyệt đối, tôi đã nói ra câu cần phải nói.
- Các ông đã bị nhiễm độc! Bị nhiễm độc!
Khi nói ra câu này, tôi đã nhớ lại tất cả những gì diễn ra buổi sáng: huân tước John với con trâu của ông ta, Sum¬mer¬lee với cách cư xử làm mọi người mất lòng, những giọt nước mắt không thể cầm được của tôi; rồi những vụ va chạm kỳ quặc ở Luân Đôn: vụ ẩu đả ở công viên, thái độ của người lái xe, vụ tranh cãi ở cửa hàng bán bình ô-xy... Tất cả sự việc đó chỉ có thể được giải thích bằng ba từ:
- Bị nhiễm độc! Có chất độc trong không khí! Tất cả chúng ta đã bị nhiễm độc!
- Thật như vậy đấy! Chal¬lenger xoa xoa hai bàn tay vào nhau và nói. Tất cả chúng ta đang bị nhiễm độc. Hành tinh chúng ta đã bị một vành đai ê-te độc bao quanh. Và hiện nay, hành tinh của chúng ta càng ngày càng chìm sâu trong vành đai đó với vận tốc nhiều triệu km mỗi phút. Chỉ bằng một từ, anh bạn trẻ của chúng ta đã nói lên được nguyên nhân gây ra mọi rối loạn tinh thần của chúng ta: chất độc.
Chúng tôi im lặng nhìn nhau sững sờ. Còn có thể bình luận gì trong tình trạng như thế này?!
- Nếu như các ngài biết kiềm chế lý trí, các ngài sẽ nhận thấy và kiểm soát được những triệu chứng như vậy. Dĩ nhiên là tôi không hy vọng các ngài có thể kiềm chế được như tôi vì khả năng kiềm chế của mỗi người mỗi khác.Đó là chuyện bình thường. Nhưng không nghi ngờ gì nữa, hiện tượng này là có thực, nó tác động ngay cả đến anh bạn trẻ của chúng ta. Còn tôi, sau khi làm cho chị giúp việc hoảng hốt, tôi ngồi im lặng và suy nghĩ. Tôi phải công nhận là cho tới tận sáng nay, chưa bao giờ tôi muốn cắn một ai đó trong nhà. Do vậy, động cơ thúc đẩy tôi làm chuyện đó là hoàn toàn không bình thường. Trong một thoáng, tôi đã tìm ra sự thật. Tôi tự bắt mạch: nhịp tim đập nhanh hơn bình thường 10 lần, phản xạ nhanh và nhiều hơn. Tôi cố gắng lấy lại trạng thái cân bằng và bình tĩnh nhất, lấy lại trạng thái của một con người vững vàng sau tất cả những rối loạn nhỏ nhặt đó. Tôi tự yêu cầu tôi phải cảnh giác đối với tất cả những điểm yếu để không cho chất độc có thể ảnh hưởng tới. Lúc đó tôi đã nhận ra rằng tôi thực sự là người chủ của chính mình. Tôi biết cách nhận ra những rối loạn về lý trí và kiểm soát nó. Chẳng phải đó là một ví dụ tuyệt vời minh chứng cho sự chiến thắng của lý trí đối với vật chất hay sao? Vì đây chính là chiến thắng của lý trí đối với dạng vật chất đặc biệt có quan hệ mật thiết với lý trí. Tôi có thể nói rằng"Lý trí có tội nhưng tư cách của con người đã vực nó lên". Cũng như khi vợ tôi xuống cầu thang, tôi muốn lấp sau cánh cửa và hét lên thật man dại để làm cho bà ấy sợ, nhưng tôi đã kiềm chế được và tiếp đón bà ấy một cách thật trang trọng, lịch sự. Sau đó một lúc tôi lại muốn kêu lên như con vịt con, nhưng tôi cũng kiềm chế được... Khi tôi đi kêu xe, tôi thấy Austin nằm khòng kheo trên động cơ và chìm giữa đống đồ sửa chữa, lúc đó tôi đã giữ lại được bàn tay đang xoè ra đang giơ lên và tự nhủ không được làm gì khiến anh ta có thể lại như chị giúp việc; tôi chỉ vỗ nhẹ vào vai và bảo anh ta đánh xe ra để đi đón các ông ở ga tàu. Và ngay lúc này đây, tôi cũng định đánh giáo sư Sum¬mer¬lee để ông có thể thoát khỏi sự tác động của chất độc đã khiến ông trở nên ngu ngốc. Nhưng như các ông thấy đó, tôi đã hoàn toàn làm chủ được mình. Hãy cho phép tôi được khuyên các ông làm như tôi vừa kể.
- Tôi sẽ để ý đến con trâu của tôi! huân tước John nói.
- Còn tôi sẽ để ý đến trận bóng bầu dục!
- Có thể là ông có lý, giáo sư Chal¬lenger ạ, Sum¬mer¬lee thì thầm giọng dịu lại. Tôi công nhận là đầu óc tôi dường như thiên về chỉ trích hơn là góp ý. Nhưng tôi không giống như những kẻ hiếu kỳ thấy cái gì mới cũng vội vã a dua. Các ông cũng phải đồng ý với tôi rằng giả thiết này là cực kỳ hoang đường. Tuy nhiên, nhớ lại tất cả những chuyện bất thường sáng nay, điểm lại những hành động, cử chỉ ngớ ngẩn của hai ông bạn đồng hành của tôi đây, tôi bắt đầu nghĩ rằng có một chất độc thật sự kỳ lạ đang tác động lên bản thân tôi.
Giáo sư Chal¬lenger vui mừng vỗ nhẹ lên vai đồng nghiệp.
- Chúng ta đang tiến lên đấy, ông nói, thực sự đang tiến lên đấy.
Hết sức khiêm nhường, Sum¬mer¬lee hỏi:
- Vậy thưa giáo sư, xin ngài cho biết quan điểm của ngàì về tình hình của chúng ta hiên nay.
- Tôi xin phép trình bày đôi điều về vấn đề này. Giáo sư ngồi lên bàn, hai cái chân ngắn, mập đung đa đung đưa. Ông thản nhiên nói những lời khủng khiếp sau:
- Chúng ta đang được chứng kiến một sự kiện vừa hãi hùng, vừa tuyệt diệu. Tôi cho rằng chúng ta đang tiến tới ngày tận thế của trái đất.
Ngày tận thế! Không ai bảo ai, chúng tôi đưa mắt ra cửa sổ lớn. Ngoài kia là vẻ đẹp rực rỡ của thôn quê trong ngày hè với những triền đồi phủ đầy thạch thảo, những trang trại sung túc, những ngôi nhà tráng lệ, những con người nhàn tản khắp trên sân gôn. Ngày tận thế ư?... Tất nhiên là chúng tôi đã từng nghe đến những từ này. Nhưng chúng chưa bao giờ tác động đến chúng tôi một cách mạnh mẽ và đột ngột như bây giờ. Ý tưởng tận thế choáng ngợp không còn gắn với một ngày tiên tri nào đó mơ hồ xa xôi, nó đang ùa ra và đổ ập xuống chúng tôi thành những hình dung hoảng loạn, quay cuồng.
Chúng tôi yên lặng, kính cẩn chờ Chal¬lenger nói tiếp. Sự hiện diện đầy uy lực và dáng vẻ thô mộc của ông tạo cho ông một thứ sức mạnh gần như siêu thực. Trong giây phút, mọi biểu hiện vô lý, gàn dở trong con người ông dường như biến mất. Ông hiện ra trong mắt chúng tôi như một đấng oai nghiêm, vượt lên trên nhân loại thông thường. Rồi cũng trong lúc ấy, tôi nhớ lại hai chuỗi cười điên dại của ông khi chúng tôi mới vào phòng làm việc. Tôi chợt nghĩ sự điên rồ trong tư tưởng con người dầu sao cũng chỉ có giới hạn và tai hoạ mà giáo sư đang nhắc tới ở đây không nghiêm trọng, cấp bách như ông đang cố thuyết phục chúng tôi.
- Các ông cứ tưởng tượng một chùm nho, Chal¬lenger nói. Vỏ của chùm nho này có chứa vô số các vi khuẩn nhỏ xíu vô cùng có hại. Người làm vườn cho nó lội qua một môi trường sát khuẩn, có thể bởi vì ông ta muốn cấy vào đó những chủng ít độc hơn. Anh ta nhúng nó vào chất độc, thế là vi khuẩn chết sạch. Vào lúc này đây, có một người làm vườn vĩ đại đang nhúng thái dương hệ vào một môi trường sát khuẩn, và những vi khuẩn người ngoe nguẩy lúc nhúc ngoài vỏ địa cầu sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt.
Im lặng lại bao trùm lên chúng tôi. Bỗng có tiếng chuông điện thoại vang lên, xoá tan sự tĩnh mịch.
- Chắc là lại một trong vô vàn những con vi khuẩn người đang cầu cứu, giáo sư Chal¬lenger mỉm cười xầm xì. Loài người bắt đầu nhận ra rằng sự hiện hữu của họ chẳng là gì trong sự tồn tại của vũ trụ.
Ông rời khỏi phòng. Trong khoảng 1, 2 phút đó, chúng tôi không ai nói với nhau một lời. Không một thứ ngôn ngữ hay lời bình luận nào có thể diễn tả những gì đang xảy ra lúc này.
- Trạm y tế Br¬ish¬ton vừa gọi điện, Chal¬lenger nói với chúng tôi khi quay trở lại phòng. Vì một lý do nào đó, triệu chứng nhiễm độc ở vùng biển diễn ra nhanh hơn các nơi khác. Chúng ta đang có lợi vì chúng ta ở độ cao 250m. Mọi người có vẻ bắt đầu hiểu ra là tôi đã phát hiện hoàn toàn đúng vấn đề này. Lúc nãy, ông thị trưởng gọi cho tôi. Tôi có cảm giác ông ta tưởng mạng sống của ông ta quý giá lắm ấy. Tôi đã phải giúp ông ta điều chỉnh suy nghĩ của mình.
Sum¬mer¬lee đứng dậy và nhìn qua cửa sổ. Ông quay lại nhìn về phía Chal¬lenger, đôi bàn tay gầy gò, xương xẩu của ông run lên vì xúc động.
- Chal¬lenger, việc này quá nghiêm trọng. Không thể nói như nói chuyện phiếm thế này được. Đừng nghĩ là tôi đang tìm cách chọc tức ông khi tôi hỏi ông điều này. Liệu ông có nhầm lẫn gì trong thông tin hay trong lập luận của ông hay không? Mặt trời vẫn chiếu sáng trên bầu trời xanh, vẫn những cánh đồng thạch thảo, vẫn hoa cỏ, chim muông, vẫn những con người nhàn tản trên sân gôn, vẫn những nông dân đang bận bịu với mùa màng. Thế mà ông nói chúng tôi rằng tất cả bọn họ đang đứng trên bờ vực của sự huỷ diệt..., rằng ngày rực rõ nắng vàng này sẽ lụi tắt trong cái đêm tối mịt mù mà nhân loại vẫn lo sợ từ xưa tới nay. Ông dựa trên cái gì mà nói như thế? Dựa vào những dải màu kỳ lạ trên quang phổ..., dựa vào những lời đồn đại về căn bệnh của người dân Suma¬tra, dựa vào những kích động cá nhân trên mỗi chúng tôi ư? Trừ khi là triệu chứng này không nguy kịch đến mức chúng tôi không thể kiểm soát đựoc. Ông không việc gì phải vòng vo với chúng tôi, Chal¬lenger. Tất cả chúng ta đều đã từng phải đối mặt với cái chết. Vậy hãy nói cho chúng tôi biết chúng tôi đang ở đâu và theo ông, phía trước của chúng tôi là điều gì?
Đó là những lời nói hùng hồn và can đảm, một bài diễn văn chỉ có được ở một con người mà lý trí sáng suốt không bị axít ăn mòn và ám ảnh bởi những điều lập dị ở một nhà động vật học già. Huân tước John bật dậy bắt tay Sum¬mer¬lee:
- Tôi nhất trí. Giáo sư Chal¬lenger, xin ông cho chúng tôi biết tình hình. Ông cũng biết chúng tôi không phải là những người dễ bị kích động. Ông đã mời chúng tôi đến thăm vào ngày nghỉ cuối tuần, dễ cũng là ngày phán xét cuối cùng của chúng tôi. Chúng tôi có quyền được nghe giải thích chứ. Nỗi nguy hiểm đang đe doạ chúng tôi thực sự là gì? Nó lớn đến đâu và chúng tôi sẽ phải đối phó như thế nào?
Huân tước John đứng thẳng trong ánh nắng chiếu qua cửa sổ, hai tay đặt lên vai của Sum¬mer¬lee. Tôi ngả người sâu trên ghế, điều thuốc tắt ngấm vẫn còn trên môi, thần trí mơ màng và mọi xúc cảm tan biến. Đây có thể là một gi¬ai đoạn mới của sự nhiễm độc. Những kích động mạnh mẽ đã qua nhường chỗ cho một tâm trạng u buồn. Tôi dường như biến thành một người quan sát vô tâm. Dường như tất cả những tai hoạ này chẳng liên can gì tới tôi. Song trước mắt tôi là ba người đàn ông mạnh khỏe và việc quan sát tấn trò giữa họ khiến tôi cảm thấy đặc biệt thú vị. Chal¬lenger cụp mắt xuống, tay nghịch nghịch bộ râu. Ông ta lại sắp nói đây. Tôi đoán là ông đang cân nhắc từng chữ mà ông sẽ nói.
Ông hỏi:
- Trước khi rời khỏi Luân Đôn, tin tức mới nhất mà các ông nhận được là gì?
Tôi trả lời:
- Lúc 10h tôi đang ở toà báo Gazette. Có một điện tín của hãng Reu¬teur từ Sin¬ga¬pore cho hay người dân đảo Suma¬tra đồng loạt bị ngộ độc và ngọn hải đăng ở đó đã tắt ngấm.
- Từ lúc ấy, các sự kiện diễn biến rất nhanh. Chal¬lenger cầm xấp điện tín lên. Tôi có liên lạc mật thiết với cả chính quyền lẫn báo chí nên nhận được thông tin từ mọi nơi. Tất cả mọi người đều khẩn khoản mời tôi nhưng tôi nghĩ mình có lên đấy cũng chẳng để làm gì. Theo những báo cáo mà tôi nhận được, hậu quả ngộ độc ban đầu là tinh thần bị kích động. Sáng nay ở Paris đã xảy ra một cuộc bạo động, nghe nói là rất dữ dội. Những người thợ mỏ xứ Wales cũng đang phát động một cuộc biểu tình. ở gi¬ai đoạn này, triệu chứng ngộ độc tuỳ thuộc vào từng sắc tộc và từng cá nhân. Sau đó là gi¬ai đoạn đầu óc tỉnh táo, tâm thần phấn chấn vui vẻ. Tôi có nhận thấy một vài dấu hiệu ở anh bạn trẻ của chúng ta đây. Song đến một gi¬ai đoạn nào đó, chất độc sẽ tấn công trung khu hôn mê và nhấn chìm nạn nhân vào cõi chết. Theo những kiến thức về chất độc của tôi, đây chắc là một loại chất độc tác động vào hệ thần kinh thực vật...
- Như Datu¬ra chẳng hạn, Sum¬mer¬lee gợi ý.
- Chính thế, Chal¬lenger reo lên. Đặt tên cho một chất độc sẽ chứng tỏ độ chính xác của nghiên cứu khoa học. Ông bạn Sum¬mer¬lee thân mến, ông là người duy nhất có vinh dự đặt tên cho chất độc huỷ diệt nhân loại, chất sát khuẩn của Người làm vườn vĩ đại này. Vậy thì ta sẽ gọi những triệu chứng mà tôi vừa miêu tả ở trên là triệu chứng datur¬on. Tôi tin chắc là nó sẽ lan ra toàn cầu và lan tới đâu, nhân loại sẽ tuyệt diệt tới đó vì ête là môi trường đầy ắp vũ trụ. Cho tới bây giờ, tác động của nó lên những nơi mà nó đi qua còn rất khác nhau nhưng sự khác biệt này sẽ chỉ kéo dài trong vài giờ. Datur¬on giống như một cơn sóng triều chạy vào bờ cát theo những hình loang lổ nhưng sau cùng thì sẽ nhận chìm tất cả. Có những quy luật về khí động học chi phí tác động và sự phân bố khí datur¬on. Nếu chúng ta có thời gi¬an nghiên cứu, hẳn đây sẽ là đề tài hết sức thú vị. Những thông tin đầu tiên, ông liếc mắt về phía đám điện tín, cho thấy những dân tộc kém văn minh hơn là những dân tộc chịu hậu quả đầu tiên. Đã có những điều hết sức đáng tiếc xảy ra ở châu Phi. Những bộ lạc thổ dân châu Úc dường như đã bị tuyệt diệt. Những dân tộc phương Bắc có vẻ kiên cường hơn những dân tộc phương Nam. Các ông nghe nhé, cái điện này đến lúc 9h45 sáng nay từ Mar¬seilles: "Sự náo loạn diễn ra suốt đêm ở Provence. Những người trồng nho ở Nimes đang nổi dậy. Đảng xã hội dấy loạn ở Toulon. Sáng nay, một bệnh dịch đột ngột kèm theo hôn mê xuất hiện, tấn công vào dân chúng và gây hôn mê. Người chết đầy ngoài phố. Mọi hoạt động kinh doanh bị ngưng trệ. Tất cả lâm vào trạng thái hoảng loạn. Một giờ sau, cũng theo nguồn tin tức ấy: "Chúng tôi đang bị đe doạ huỷ diệt. Các giáo đường và nhà thờ tràn ngập người. Người chết nhiều hơn người sống. Cái chết đến đột ngột không đau đớn nhưng quá nhanh và thảm khốc". Tôi cũng nhận được một bức điện tương tự từ Paris nhưng tình hình diễn biến chậm hơn. Ấn Độ và Ba Tư dường như đã bị xoá sổ. Dân Slavone ở Áo đã gục nhưng dân Đức gần như không hề hấn gì. Theo những thông tin ít ỏi mà tôi nhận được, dân cư đồng bằng và duyên hải chịu hậu quả sớm hơn dân vùng núi hoặc sâu trong đất liền. Chỉ ở chênh lệch nhau một độ cao nhỏ, hậu quả của chất độc đã khác nhau rõ rệt. Bây giờ, nếu còn có ai đó sống sót, anh ta hẳn phải sống trên đỉnh Ararat nào đó. Ngọn đồi mà chúng ta đang ở đây có thể coi như một hòn đảo giữa đại dương thảm hoạ. Nhưng cứ cái đà này, chỉ một vài giờ nữa là tất cả sẽ bị nhận chìm.
Huân tước John Rox¬ton lau mồ hôi trán, nói không ra hơi "Tôi không hiểu tại sao như vậy mà ông vẫn có thể ngồi đây mà cười với chồng điện tín trên tay được. Như tất cả mọi người, tôi đã nhìn thấy người chết, song tất cả nhân loại đều chết thì khủng khiếp quá".
- Tại sao tôi cười ư? Chal¬lenger đáp lời. Xin các ông đừng quên là tôi cũng bị chất ête độc tác động như các ông thôi. Còn nỗi khiếp sợ về sự huỷ diệt nhân loại trong tâm trí ông, tôi xin phép nói là ông đã hơi quá phóng đại đấy. Nếu ông ra khơi một mình trên một chiếc thuyền không mui để đến một nơi vô định, ông sẽ sợ đến thót tim ấy chứ. Sự cô đơn, sự bấp bênh sẽ đánh gục ông ngay. Nhưng nếu ông đi trên một chiếc tàu lớn với gia đình và bạn bè thì dù có không biết mình sẽ đi đâu về đâu, ông vẫn có cảm giác được chia sẻ với mọi người đến giây phút cuối cùng. Một cái chết đơn độc có thể đáng sợ nhưng theo quan điểm của tôi, một cái chết đồng loạt không đau đớn như cái chết đang đến với chúng ta đây không phải là cái gì quá ghê gớm. Thực ra, tôi dễ dàng cảm thông hơn với nỗi sợ phải sống sót một mình trong khi tất cả những nhà khoa học, những con người nổi tiếng, danh giá trên thế giới đều chết hết.
Khác với mọi khi, Sum¬mer¬lee giờ đây tỏ ra rất nhượng bộ:
- Vậy theo ông, chúng ta nên làm gì bây giờ?
- Ăn trưa, Chal¬lenger trả lời.
Tiếng chuông báo ăn vang khắp căn nhà.
- Chúng tôi có một người đầu bếp làm món ốp lếp ngon tuyệt. Cũng chỉ có món sườn nướng của bà mới sánh được món này thôi. Không có sự xáo trộn vũ trụ nào có thể làm phương hại đến tài nấu ăn của bà ấy được. Tôi cũng có một chai Scharzberg¬er 96 đây.
Ông nhấc người ra khỏi chiếc ghế nơi ông vừa ngồi loan báo cho chúng tôi về ngày tận thế của hành tinh.
- Nào đi. Nếu chúng ta chỉ còn ít thời gi¬an thì phải tận hưởng một cách chính đáng và vui vẻ chứ.
Quả thật chúng tôi đã có một bữa ăn ngon và vui. Cố nhiên, chúng tôi không thể hoàn toàn quên tình cảnh bi thương của mình nhưng sự ám ảnh về giờ tận thế đang ở đâu đó xa lắm trong suy nghĩ của chúng tôi. Vả lại, chỉ những người chưa từng đối diện với cái chết mới sợ cái chết như thế. Còn mỗi người trong bốn chúng tôi đều đã nhiều lần cận kề với cái chết. Về phần bà chủ nhà, bà hoàn toàn tin tưởng vào sự mạnh mẽ của chồng và sẵn sàng đi theo ông tới bất cứ nơi nào. Tương lai là chuyện của số mệnh nhưng hiện tại đang thuộc về chúng tôi và chúng tôi đã trải qua những giờ phút tuyệt vời nhất của tình bạn thật sự và cảm giác sảng khoái trong lòng. Đầu óc của chúng tôi thật nhẹ nhàng. Còn giáo sư Chal¬lenger thật tuyệt vời. Chưa bao giờ tôi thấy một con người có thể đạt tới tầm tư duy vĩ đại lớn lao và vững vàng như thế. Sum¬mer¬lee thì vẫn đưa ra những lời châm chọc theo đúng kiểu chỉ trích của ông. Huân tước John và tôi chỉ cười chêm vào. Bà Chal¬lenger đặt tay lên tay chồng để kiềm chế sự gay gắt của nhà triết học. Sống, chết, định mệnh, thân phận con người..., tất cả đều được đưa ra tranh luận trong suốt bữa ăn. Bỗng dưng tôi cảm thấy trong đầu xuất hiện những kích thích đột ngột và các cơ bắp như có kim châm. Cơn thủy triều chết chóc vô hình dâng lên từ từ, chậm chậm quanh chúng tôi. Tôi nhận thấy một lần huân tước John đưa tay lên dụi mắt. Lúc khác, Sum¬mer¬lee ngồi sut xuống ghế. Mỗi hơi thở của chúng tôi đã thoáng bị chi phối bởi những năng lượng bí ẩn. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn giữ tinh thần vui vẻ và tỉnh táo. Ngay lúc đó, Austin mang thuốc là và xì gà lên.
Khi bác chuẩn bị rút lui, người chủ gọi:
- Austin
- Dạ, ông gọi?
- Cảm ơn bác đã giúp việc cho chúng tôi rất tận tuỵ và trung thành
Một nét cười kín đáo sáng lên trên gương mặt nhăn nheo của người gia nhân.
- Tôi chỉ làm bổn phận của mình, thưa ông chủ
- Tôi đang đợi ngày tận thế đây Austin ạ
- Vâng, thưa ông. Tận thế lúc mấy giờ ạ?
- Tôi không biết, Austin ạ. Trước tối nay.
- Vâng, thưa ông.
Austin cúi chào và ra khỏi phòng. Chal¬lenger châm lửa hút một điếu thuốc, kéo ghế đến cạnh vợ và nhẹ nhàng nắm lấy tay bà.
- Mình biết số phận của chúng ta phải không mình yêu quí. Tôi cũng đã giải thích với các bạn rồi. Mình không sợ chứ?
- Sẽ không đau đớn, phải không anh George?
- Sẽ chỉ như nha sĩ chích thuốc tê cho mình thôi. Đợi khi mình cảm thấy đau thì mình đã thực sự sang đến thế giới bên kia rồi.
- Vậy hẳn cảm giác thú vị lắm
- Có thể như vậy. Cơ thể già cỗi của chúng ta không thể ghi nhận được cảm giác ấy, nhưng chúng ta đã biết đến sự khoái lạc về tinh thần như vậy trong những cơn mơ hay hôn mê. Thiên nhiên có thể sắp đặt một cái cửa lộng lẫy, trướng rủ màn che để đón linh hồn của chúng ta sang thế giới bên kia. Từ tất cả những gì tôi biết, tôi luôn nhận thấy trong mọi sự vật, hiện tượng đều ẩn chứa cả sự khôn ngoan và sự dịu dàng. Nếu con người cảm thấy cần sự dịu dàng, chắc chắn là vì anh ta tưởng tượng cái chết khủng khiếp lắm... Không Sum¬mer¬lee, tôi không đồng ý với thuyết duy vật của ông vì, ít nhất, tôi quá vĩ đại, không thể chấm hết trong bản thể con người vật lý chỉ tương đương với 1 bịch muối và 3 xô nước này được. ở chỗ này, chỗ này đây..., ông gõ bàn tay to đùng và lông lá lên đầu, ở chỗ này có một thứ cực kỳ hữu dụng nhưng không tồn tại theo kiểu vật chất thông thường, một thứ có thể thủ tiêu được cái chết nhưng cái chết không thể tiêu diệt được nó.
- Tiện nói đến cái chết, huân tước John ngắt lời, xét về khía cạnh nào đó, tôi cũng là con chiên của Chúa. Nhưng tôi thấy là trong cái chết của tổ tiên chúng ta có một cái gì đó siêu nhiên. Các cụ được an táng với rìu, với cung, với tên... như thể các cụ sẽ sống một cuộc sống khác giống hệt như như cuộc sống ở trần gi¬an vậy...- ông nhìn quanh vẻ hồ thẹn rồi nói thêm - Tôi không chắc là mình sẽ cảm thấy thoải mái khi phải sang thế giới bên kia với chiếc Ex¬press 450 già cả và những linh tinh kèm theo: một khẩu súng trường ngắn báng cao su và một băng đạn. Thực điên rồ... Nhưng đúng là tôi nghĩ thế đấy. Thế còn ông, ông nghĩ sao về cái chết hả ông Sum¬mer¬lee?
- Tôi ư? Sum¬mer¬lee trả lời. Là ông hỏi tôi đấy nhé. Chết cái kiểu như ông vừa nói giống như chúng ta quay về thời đồ đá hay thậm chí còn cổ lỗ hơn nữa ấy. Tôi đang sống ở thế kỷ 20, tôi muốn chết như một người văn minh. Không biết tôi có sợ chết hơn các ông hay không chứ tôi già rồi. Gì thì gì, tôi cũng chả còn sống được bao nhiêu nữa. Nhưng tôi không thể chịu được cái cảnh ngồi chờ chết như một con cừu dưới lưỡi dao của tên đồ tể như thế này được. Chẳng lẽ chúng ta phải chịu bó tay sao, Chal¬lenger?
- Để tránh khỏi cái chết thì đúng là như thế. Nhưng kéo dài sự sống thêm vài giờ nữa để chứng kiến hậu quả của tấn thảm kịch vĩ đại này trước khi nó tiêu diệt chúng ta thì có thể được và tôi cũng đã có chuẩn bị đây rồi.
- Ôxy ư?
- Đúng, ôxy.
- Nhưng ôxy thì tác động được gì đối với sự nhiễm độc ête. Một cục gạch với một bình ga khác nhau thế nào thì ôxy với ête cũng khác nhau như thế. Đây là hai chất hoàn toàn chẳng có gì chung và không thể tác dụng lên nhau. Thôi đi, Chal¬lenger, ông đừng cố công bảo vệ cái giả thiết ấy.
- Ôi chà, ông bạn Sum¬mer¬lee thân mến ơi, chất ête độc này chắc chắn là đã bị ảnh hưởng bởi những tác nhân vật chất khác. Hãy nhìn bệnh dịch và cách phát tán của nó mà xem. Lúc đầu, chúng ta có thể không để ý nhưng sự thực hiển hiện ra đấy. Cho nên, tôi tin chắc rằng một chất khí như ôxy, vốn có tác dụng tăng cường sinh lực và sức đề kháng của cơ thể, sẽ có thể kiềm chế tác động của chất mà ông đã đặt tên là datur¬on đó. Cũng có khả năng là tôi nhầm, nhưng tôi tin lập luận của tôi rất chính xác.
- Dù thế nào chăng nữa, huân tước John phát biểu, nếu phải ngồi ngậm những cái vòi ôxy như trẻ con bú bình thế này thì tôi cũng xin kiếu.
- Không phải như thế. Chúng tôi đã có chuẩn bị cả rồi. Các ông phải cảm ơn bà nhà tôi. Cái phòng khách của bà ấy rất kín, lại có nệm và giấy dán tường.
- Này, Chal¬lenger, ông không định nói là ông sẽ ngăn hơi độc bằng giấy dán tường đấy chứ?
- Thế mà đúng đấy, ông bạn ạ. Ông chỉ được cái hay đi lạc đề. Chúng ta khổ sở ở trong này không phải để ngăn ête tràn vào mà là để ngăn ôxy đừng thoát ra. Tôi chắc rằng nếu chúng ta duy trì được môi trường giàu ôxy, chúng ta có thể giữ được sự tỉnh táo. Tôi có hai bình. Các ông lại mang đến thêm ba bình nữa. Không nhiều nhưng thôi cũng tạm được.
- Chúng sử dụng được trong bao lâu?
- Tôi không biết. Chúng ta chỉ mở chúng khi không thể chịu đựng thêm được nữa. Chúng ta sẽ chỉ tiếp ôxy cho những ai thật cần. Cũng còn tuỳ. Có thể chúng ta sẽ sống thêm được vài giờ hoặc vài ngày. Dù thế nào, chúng ta cũng sẽ chứng kiến được cảnh thế giới bị huỷ hiệt. Đó là tất cả những gì mà chúng ta có thể làm để lùi lại giây phút định mệnh ấy. ít nhất chúng ta sẽ có thể cùng nhau chứng kiến một sự kiện có một không hai. Năm người chúng ta sẽ là đội quân cuối cùng của loài người bước vào cõi hư vô. Nào, hãy giúp tôi sắp xếp các bình ôxy. Tôi cảm giác không khí đã ngột ngạt lắm rồi.
Khác với mọi khi, Sum¬mer¬lee giờ đây tỏ ra rất nhượng bộ:
- Vậy theo ông, chúng ta nên làm gì bây giờ?
- Ăn trưa, Chal¬lenger trả lời.
Tiếng chuông báo ăn vang khắp căn nhà.
- Chúng tôi có một người đầu bếp làm món ốp lếp ngon tuyệt. Cũng chỉ có món sườn nướng của bà mới sánh được món này thôi. Không có sự xáo trộn vũ trụ nào có thể làm phương hại đến tài nấu ăn của bà ấy được. Tôi cũng có một chai Scharzberg¬er 96 đây.
Ông nhấc người ra khỏi chiếc ghế nơi ông vừa ngồi loan báo cho chúng tôi về ngày tận thế của hành tinh.
- Nào đi. Nếu chúng ta chỉ còn ít thời gi¬an thì phải tận hưởng một cách chính đáng và vui vẻ chứ.
Quả thật chúng tôi đã có một bữa ăn ngon và vui. Cố nhiên, chúng tôi không thể hoàn toàn quên tình cảnh bi thương của mình nhưng sự ám ảnh về giờ tận thế đang ở đâu đó xa lắm trong suy nghĩ của chúng tôi. Vả lại, chỉ những người chưa từng đối diện với cái chết mới sợ cái chết như thế. Còn mỗi người trong bốn chúng tôi đều đã nhiều lần cận kề với cái chết. Về phần bà chủ nhà, bà hoàn toàn tin tưởng vào sự mạnh mẽ của chồng và sẵn sàng đi theo ông tới bất cứ nơi nào. Tương lai là chuyện của số mệnh nhưng hiện tại đang thuộc về chúng tôi và chúng tôi đã trải qua những giờ phút tuyệt vời nhất của tình bạn thật sự và cảm giác sảng khoái trong lòng. Đầu óc của chúng tôi thật nhẹ nhàng. Còn giáo sư Chal¬lenger thật tuyệt vời. Chưa bao giờ tôi thấy một con người có thể đạt tới tầm tư duy vĩ đại lớn lao và vững vàng như thế. Sum¬mer¬lee thì vẫn đưa ra những lời châm chọc theo đúng kiểu chỉ trích của ông. Huân tước John và tôi chỉ cười chêm vào. Bà Chal¬lenger đặt tay lên tay chồng để kiềm chế sự gay gắt của nhà triết học. Sống, chết, định mệnh, thân phận con người..., tất cả đều được đưa ra tranh luận trong suốt bữa ăn. Bỗng dưng tôi cảm thấy trong đầu xuất hiện những kích thích đột ngột và các cơ bắp như có kim châm. Cơn thủy triều chết chóc vô hình dâng lên từ từ, chậm chậm quanh chúng tôi. Tôi nhận thấy một lần huân tước John đưa tay lên dụi mắt. Lúc khác, Sum¬mer¬lee ngồi sut xuống ghế. Mỗi hơi thở của chúng tôi đã thoáng bị chi phối bởi những năng lượng bí ẩn. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn giữ tinh thần vui vẻ và tỉnh táo. Ngay lúc đó, Austin mang thuốc là và xì gà lên.
Khi bác chuẩn bị rút lui, người chủ gọi:
- Austin
- Dạ, ông gọi?
- Cảm ơn bác đã giúp việc cho chúng tôi rất tận tuỵ và trung thành
Một nét cười kín đáo sáng lên trên gương mặt nhăn nheo của người gia nhân.
- Tôi chỉ làm bổn phận của mình, thưa ông chủ
- Tôi đang đợi ngày tận thế đây Austin ạ
- Vâng, thưa ông. Tận thế lúc mấy giờ ạ?
- Tôi không biết, Austin ạ. Trước tối nay.
- Vâng, thưa ông.
Austin cúi chào và ra khỏi phòng. Chal¬lenger châm lửa hút một điếu thuốc, kéo ghế đến cạnh vợ và nhẹ nhàng nắm lấy tay bà.
- Mình biết số phận của chúng ta phải không mình yêu quí. Tôi cũng đã giải thích với các bạn rồi. Mình không sợ chứ?
- Sẽ không đau đớn, phải không anh George?
- Sẽ chỉ như nha sĩ chích thuốc tê cho mình thôi. Đợi khi mình cảm thấy đau thì mình đã thực sự sang đến thế giới bên kia rồi.
- Vậy hẳn cảm giác thú vị lắm
- Có thể như vậy. Cơ thể già cỗi của chúng ta không thể ghi nhận được cảm giác ấy, nhưng chúng ta đã biết đến sự khoái lạc về tinh thần như vậy trong những cơn mơ hay hôn mê. Thiên nhiên có thể sắp đặt một cái cửa lộng lẫy, trướng rủ màn che để đón linh hồn của chúng ta sang thế giới bên kia. Từ tất cả những gì tôi biết, tôi luôn nhận thấy trong mọi sự vật, hiện tượng đều ẩn chứa cả sự khôn ngoan và sự dịu dàng. Nếu con người cảm thấy cần sự dịu dàng, chắc chắn là vì anh ta tưởng tượng cái chết khủng khiếp lắm... Không Sum¬mer¬lee, tôi không đồng ý với thuyết duy vật của ông vì, ít nhất, tôi quá vĩ đại, không thể chấm hết trong bản thể con người vật lý chỉ tương đương với 1 bịch muối và 3 xô nước này được. ở chỗ này, chỗ này đây..., ông gõ bàn tay to đùng và lông lá lên đầu, ở chỗ này có một thứ cực kỳ hữu dụng nhưng không tồn tại theo kiểu vật chất thông thường, một thứ có thể thủ tiêu được cái chết nhưng cái chết không thể tiêu diệt được nó.
- Tiện nói đến cái chết, huân tước John ngắt lời, xét về khía cạnh nào đó, tôi cũng là con chiên của Chúa. Nhưng tôi thấy là trong cái chết của tổ tiên chúng ta có một cái gì đó siêu nhiên. Các cụ được an táng với rìu, với cung, với tên... như thể các cụ sẽ sống một cuộc sống khác giống hệt như như cuộc sống ở trần gi¬an vậy...- ông nhìn quanh vẻ hồ thẹn rồi nói thêm - Tôi không chắc là mình sẽ cảm thấy thoải mái khi phải sang thế giới bên kia với chiếc Ex¬press 450 già cả và những linh tinh kèm theo: một khẩu súng trường ngắn báng cao su và một băng đạn. Thực điên rồ... Nhưng đúng là tôi nghĩ thế đấy. Thế còn ông, ông nghĩ sao về cái chết hả ông Sum¬mer¬lee?
- Tôi ư? Sum¬mer¬lee trả lời. Là ông hỏi tôi đấy nhé. Chết cái kiểu như ông vừa nói giống như chúng ta quay về thời đồ đá hay thậm chí còn cổ lỗ hơn nữa ấy. Tôi đang sống ở thế kỷ 20, tôi muốn chết như một người văn minh. Không biết tôi có sợ chết hơn các ông hay không chứ tôi già rồi. Gì thì gì, tôi cũng chả còn sống được bao nhiêu nữa. Nhưng tôi không thể chịu được cái cảnh ngồi chờ chết như một con cừu dưới lưỡi dao của tên đồ tể như thế này được. Chẳng lẽ chúng ta phải chịu bó tay sao, Chal¬lenger?
- Để tránh khỏi cái chết thì đúng là như thế. Nhưng kéo dài sự sống thêm vài giờ nữa để chứng kiến hậu quả của tấn thảm kịch vĩ đại này trước khi nó tiêu diệt chúng ta thì có thể được và tôi cũng đã có chuẩn bị đây rồi.
- Ôxy ư?
- Đúng, ôxy.
- Nhưng ôxy thì tác động được gì đối với sự nhiễm độc ête. Một cục gạch với một bình ga khác nhau thế nào thì ôxy với ête cũng khác nhau như thế. Đây là hai chất hoàn toàn chẳng có gì chung và không thể tác dụng lên nhau. Thôi đi, Chal¬lenger, ông đừng cố công bảo vệ cái giả thiết ấy.
- Ôi chà, ông bạn Sum¬mer¬lee thân mến ơi, chất ête độc này chắc chắn là đã bị ảnh hưởng bởi những tác nhân vật chất khác. Hãy nhìn bệnh dịch và cách phát tán của nó mà xem. Lúc đầu, chúng ta có thể không để ý nhưng sự thực hiển hiện ra đấy. Cho nên, tôi tin chắc rằng một chất khí như ôxy, vốn có tác dụng tăng cường sinh lực và sức đề kháng của cơ thể, sẽ có thể kiềm chế tác động của chất mà ông đã đặt tên là datur¬on đó. Cũng có khả năng là tôi nhầm, nhưng tôi tin lập luận của tôi rất chính xác.
- Dù thế nào chăng nữa, huân tước John phát biểu, nếu phải ngồi ngậm những cái vòi ôxy như trẻ con bú bình thế này thì tôi cũng xin kiếu.
- Không phải như thế. Chúng tôi đã có chuẩn bị cả rồi. Các ông phải cảm ơn bà nhà tôi. Cái phòng khách của bà ấy rất kín, lại có nệm và giấy dán tường.
- Này, Chal¬lenger, ông không định nói là ông sẽ ngăn hơi độc bằng giấy dán tường đấy chứ?
- Thế mà đúng đấy, ông bạn ạ. Ông chỉ được cái hay đi lạc đề. Chúng ta khổ sở ở trong này không phải để ngăn ête tràn vào mà là để ngăn ôxy đừng thoát ra. Tôi chắc rằng nếu chúng ta duy trì được môi trường giàu ôxy, chúng ta có thể giữ được sự tỉnh táo. Tôi có hai bình. Các ông lại mang đến thêm ba bình nữa. Không nhiều nhưng thôi cũng tạm được.
- Chúng sử dụng được trong bao lâu?
- Tôi không biết. Chúng ta chỉ mở chúng khi không thể chịu đựng thêm được nữa. Chúng ta sẽ chỉ tiếp ôxy cho những ai thật cần. Cũng còn tuỳ. Có thể chúng ta sẽ sống thêm được vài giờ hoặc vài ngày. Dù thế nào, chúng ta cũng sẽ chứng kiến được cảnh thế giới bị huỷ hiệt. Đó là tất cả những gì mà chúng ta có thể làm để lùi lại giây phút định mệnh ấy. ít nhất chúng ta sẽ có thể cùng nhau chứng kiến một sự kiện có một không hai. Năm người chúng ta sẽ là đội quân cuối cùng của loài người bước vào cõi hư vô. Nào, hãy giúp tôi sắp xếp các bình ôxy. Tôi cảm giác không khí đã ngột ngạt lắm rồi.
Chương 03. Khí Độc Tràn Ngập
Căn phòng được dành làm bối cảnh cho sự phiêu lưu của chúng tôi là một phòng khách mang đậm vẻ nữ tính, mỗi chiều rộng chừng 4,5m. Phía cuối phòng là một bức màn nhung đỏ ngăn cách với phòng thay đồ. Bức màn nhung vẫn buông như toàn bộ không gi¬an có thể coi như một phòng kín duy nhất. Cửa ra vào và cửa sổ đã được dán giấy kín để ngăn không khí ra vào phòng. Ở phía trên, một cánh cửa ra vào khác mở ra chân cầu thang, nơi có một cái cửa thông gió gắn với một sợi dây. Khi thật cần thiết, có thể kéo sợi dây này xuống để cánh cửa mở ra. Mỗi góc phòng có một chậu cây cảnh lớn.
- Làm sao để xử lý khí cácboníc tối đa và tiêu tốn ôxy ít nhất là vấn đề cơ bản và nhạy cảm mà tôi phải nghĩ nát óc mới ra , Chal¬lenger nói khi nhìn năm cái bình oxy xếp dọc theo bức tường. Nhưng trong hoàn cảnh này, chúng ta làm thế nào được thì làm thôi. Những cái cây này cũng giúp giải quyết khí cácboníc đáng kể đấy. Hai bình ôxy sẵn sàng mở ra tức khắc, đảm bảo chúng ta sẽ không bị ngộp thở bất thình lình. Tất nhiên là không nên đi xa phòng này vì khí độc sẽ tràn tới một cách đột ngột.
Có một cửa sổ rộng và thấp mở ra ban công. Quang cảnh bên ngoài vẫn như những gì chúng tôi nhìn thấy qua cửa sổ phòng làm việc của giáo sư. Nhìn ra ngoài vẫn không thấy bất cứ một xáo trộn nào. Trước mắt tôi là đường ray xe lửa ngoằn nghèo chạy xuống sườn đồi. Một chiếc xe ngựa cổ còn sót lại từ thời xa xưa, những thứ chỉ còn thấy ở thôn quê, đang ì ạch bò lên sườn đồi như một nhà hiền triết già. Xa chút nữa là cô trông trẻ đang đẩy chiếc xe nôi, tay dắt theo một em nhỏ. Những làn khói xanh uốn lượn bốc lên từ nóc các trang trại và toả đi khắp hướng làm cảnh quan của cả một vùng rộng lớn đượm vẻ thanh bình, nhàn hạ. Trên trời xanh cũng như dưới mặt đất, ngày vẫn rực rỡ và không có bất cứ một dấu hiệu nào báo trước thảm họa. Đám thợ gặt vẫn làm việc trên đồng, những người chơi gôn vẫn từ từ tiếp tục cuộc chơi của mình. Đầu óc tôi quay cuồng, các dây thần kinh căng như dây đàn và phát sốt lên vì vẻ bình thản đến lạ lùng của họ.
- Họ có vẻ không cảm thấy ảnh hưởng của khí độc nhỉ? Tôi nói với huân tước John,
- Cậu đã chơi gôn bao giờ chưa?
- Chưa.
- À thế đấy, cậu bé. Khi nào chơi, cậu sẽ biết là một tay gôn thực thụ sẽ chẳng thèm bận tâm đến điều gì trước khi hoàn thành một vòng gôn 18 lỗ đâu... Ồ, lại điện thoại.
Trong suốt bữa ăn và sau đó, chốc chốc lại có tiếng chuông điện thoại thúc giục ông giáo sư. Sau khi nghe điện thoại, ông quay lại báo cho chúng tôi biết tình hình bằng vài câu ngắn gọn. Đó là những mẩu tin khủng khiếp mà nhân loại chưa từng nhận. Bóng đen tai họa khổng lồ từ phương Nam kéo đến như một cơn thuỷ triều chết. Ai Cập đã trải qua gi¬ai đoạn kích động và đang rơi vào hôn mê. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sau cơn bao động hoang dã trong đó giới tăng lữ và những vô chính phủ đánh nhau tới chết giờ đây đã chìm vào im lặng. Nam Mỹ bắt đầu bặt vô âm tín. Ở Bắc Mỹ, những cuộc chiến đẫm máu giữa người da đen và người da trắng đã tàn phá các bang ở miền nam trước khi khí độc tràn tới tiêu diệt. Tại bang Mary¬land và Cana¬da, triệu chứng ngộ độc chưa được biểu hiện rõ. Bỉ, Hà Lan và Đan Mạch lần lượt bị ngộ độc. Những điện tín hoảng loạn được tung ra khắp nơi, đến các trung tâm khoa học, các nhà hoá học và các thầy thuốc nổi tiếng thế giới. Các nhà thiên văn cũng ngập chìm trong đám điện tín hỏi lời khuyên. Nhưng không ai có thể làm gì được. Tai hoạ lớn quá và rộng quá. Nó vượt ra ngoài tầm hiểu biết và sức mạnh của con người. Chỉ một điều chắc chắn là cái chết, một cái chết không đau đớn nhưng chẳng chừa một ai. Già chết, trẻ chết, kẻ yếu chết, người mạnh chết, người nghèo chết mà kẻ giàu cũng không được tha. Một cái chết không thể tránh khỏi.. Đó là những tin tức hốt hoảng, rời rạc mà chúng tôi nhận được. Những thành phố lớn đã biết số phận của mình và chúng tôi đoán là họ đang nhẫn nhịn đón chịu định mệnh của mình một cách phục tùng. Thế mà ở đây, những người chơi gôn và những người nông dân vẫn như những con cừu non tung tăng trước lưỡi dao đồ tể. Thật đáng ngạc nhiên. Nhưng suy cho cùng, làm sao họ biết được tai hoạ này... Tai hoạ ập xuống nhanh quá. Các tờ báo buổi sáng chẳng cho họ biết được điều gì. Với lại, bây giờ mới có ba giờ chiều.
Tuy nhiên, tin tức dường như bắt đầu lan tới họ vì ngay tức khắc tôi thấy
những người thợ gặt hối hả rời khỏi cánh đồng và những người chơi gôn rời bỏ cuộc chơi, quay về câu lạc bộ. Họ chạy như chạy trốn một cơn mưa rào, kéo theo túi dụng cụ lắc lư phía sau. Một vài người vẫn thong thả chơi nốt cuộc chơi đang dang dở. Cô giữ trẻ cuống cuồng đẩy xe nôi quay trở lại, một tay đặt trên trán đứa bé. Một chiếc xe ngựa đậu lại bên đường, con ngựa mệt gục đầu xuống tận đầu gối để nghỉ. Phía trên kia vẫn là bầu trời trong xanh tuyệt diệu của mùa hè, lác đác vài cụm mây trắng phía chân trời. Nếu ngày tận thế diễn ra hôm nay thì cái chết cũng đến trong một quang cảnh huy hoàng, tuyệt đẹp. Nhưng chính vẻ thanh bình yên ả này khiến cho ý nghĩ về sự huỷ diệt khủng khiếp hơn. Ồ không, trái đất này quá đẹp đẽ, đáng yêu để con người có thể dễ dàng rời bỏ nó.
Như tôi đã nói, chuông điện thoại lại reo lên lần nữa. Bỗng tôi nghe
Chal¬lenger gọi lớn:
- Anh Mal¬one, điện thoại của anh...
Tôi hấp tấp chạy đến máy điện thoại. Mrc Arolle gọi tôi từ Luân Đôn.
- Anh Mal¬one phải không?, tôi nghe thấy tiếng nói quen thuộc. Ở Luân Đôn đang xảy ra một chuyện khủng khiếp. Nhân danh chúa, ông hãy hỏi Chal¬lenger xem ông ấy có làm được gì không.!
- Ông ấy không có giải pháp gì đâu, tôi trả lời. Ông ấy cho rằng đây là thảm họa toàn cầu và không thể tránh khỏi. Chúng tôi có một ít ôxy ở đây, nhưng chỉ có thể trì hoãn được số phận thêm vài giờ thôi.
- Ôxy ư? Giọng hoảng hốt cất lên. Không có thời giờ để mua đâu.. Sáng nay, lúc anh đi, toàn soạn rối tung hết cả lên. Đến lúc này, một nửa nhân viên đã bất tỉnh. Tôi cũng đang cảm thấy nặng trĩu cả người. Qua cửa sổ, tôi có thể nhìn thấy người chết nằm la liệt trên phố Fket. Xe cộ ngưng hết cả. Theo những điện tín mà tôi nhận được thì cả thế giới...
Giọng ông tự nhiên chìm xuống rồi im bặt. Một lúc sau, tôi nghe thấy một tiếng bụp qua điện thoại, như thể đầu ông ngã xuống đập vào bàn. Tôi hốt hoảng la to:
- Ông Ar¬dle...
Không có tiếng trả lời. Tôi hiểu là mình sẽ không bao giờ còn nghe giọng nói của ông ấy nữa.
Chính vào lúc ấy, đúng cái lúc mà tôi bước một bước rời khỏi chiếc điện thoại thì tai hoạ ập xuống. Tôi thấy mình chơi vơi như đang bơi, những con sóng vô hình dâng lên, ngập đến vai, rồi đột ngột phủ chụp qua đầu. Dường như có một bàn tay nào đó đang từ từ xiết lấy cổ tôi, nhẹ nhàng rút kiệt sinh lực của tôi. Một sức ép khủng khiếp đè lên ngực tôi, thái dương tôi giật giật, tai ù đi, choáng váng như sấm chớp chói loà trước mặt. Tôi cố sức bò đến tay vịn cầu thang. Ngay lúc ấy, Chal¬lenger xẹt qua tôi, thở phì phò như một con trâu bị thương. Trong ông thật khủng khiếp. Mặt ông đỏ tía lên như con tôm hùm, mắt vằn đỏ ngầu, tóc tai dựng ngược. ông vác bà vợ bé nhỏ ngất xỉu vắt vẻo trên vai. Với một nỗ lực bản năng, ông mò mẫm, loạng quạng băng qua làn khí độc lên cầu thang, thiên đường an toàn tạm thời lúc bấy giờ. Như được tiếp thêm năng lượng trước sự gan dạ và ý chí sắt đá của ông, tôi cũng gắng hết sức lao lên các bậc thang, bám chặt lấy tay vịn cho đến khi ngã sấp trên đầu cầu thang, gần như bất tỉnh. Những ngón tay thép của huân tước John nắm lấy cổ áo kéo tôi vào. Một lúc sau, tôi thấy mình nằm ngửa trên tấm thảm phòng khách, không đủ sức cất lời. Bà Chal¬lenger nằm xõng xoài cạnh tôi và Sum¬mer¬lee sụm xuống một đống trên ghế ngồi bên cửa sổ, đầu gục xuống tận đầu gối. Như trong mơ, tôi thấy Chal¬lenger bò trên sàn như một con cánh cam khổng lồ đến bên bình ôxy. Sau đó tôi nghe thấy tiếng ôxy thoát ra. Chal¬lenger hít hai ba hơi đầy lồng ngực rồi kêu lên: "Có hiệu nghiệm. Lý thuyết của tôi được chứng thực rồi". Ông vùng trở dậy, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Ông cầm bình ôxy chạy về phía vợ. Vài giây sau, bà rên nhỏ, động đậy và ngồi dậy được. Ông quay sang tôi, tôi ngồi thấy nguồn sống ấm nóng dào dạt chảy trong huyết quản. Lý trí bảo tôi rằng đây chỉ là những thời khắc sống tạm bợ nhưng mỗi giây phút lúc này quả thật vô giá. Chưa bao giờ tôi có cái cảm giác run lên vì sung sướng đến thế khi lấy lại được hơi thở và cảm giác tận hưởng không khí. Sức ép ở phổi tôi biến mất, cái vòng kim cô xiết quanh đầu bắt đầu nới lỏng ra. Một cảm giác yên tĩnh ngọt ngào, một cái gì ấm áp, dịu dàng trào dâng lên trong lòng. Tôi nằm yên nhìn Sum¬mer¬lee cũng hồi sinh theo cách đó, cuối cùng là huân tước John. Huân tước đứng bật dậy, kéo tay tôi đứng lên trong khi Chal¬lenger dìu vợ đến bên tràng kỷ.
- Ôi, George, bà nắm lấy tay chồng thầm thì, tiếc là mình đã gọi em trở lại. Mình nói đúng, cánh của của thần chết rất huy hoàng, có màn treo lỗng lẫy. Khi cảm giác ngạt thở qua đi, tất cả trở nên đẹp và yên ả đến lạ kỳ. Tại sao mình kéo em trở lại?
- Vì tôi muốn chúng ta cùng nhau vượt qua quãng đường này. Hai vợ chồng ta đã luôn bên nhau bao năm nay. Đến giây phút trọng đại này mà phải chia lìa thì đau khổ lắm vậy.
Khi nghe những lời lẽ dịu dàng đó, tôi bỗng phát hiện ra một Chal¬lenger khác hẳn, một Chal¬lenger không ngạo nghễ, huênh hoang, khó chịu và luôn gây sửng sốt, chấn động. Khi đối diện với cái chết, con người sâu thẳm trong Chal¬lenger mới hiện ra, con người biết cách chinh phục một tình yêu và giữ lại mãi mãi. Rồi thình lình, ông lấy lại dáng vẻ của một người thuyền trưởng chỉ đạo chúng tôi.
- Tôi là người duy nhất trong toàn thể nhân loại thấy và tiên đoán được thảm hoạ này, ông bắt đầu với giọng nói hân hoan của một nhà khoa học thắng lợi. Ông bạn Sum¬mer¬lee thân mến ơi, tôi tìn rằng những thắc mắc của sự rối loạn của các vạch quang phổ hẳn đã được giải đáp rồi chứ. Ông có còn cho rằng bài biết của tôi đăng trên tờ Times là một phán đoán sai lầm nữa không?
Ít ra thì lần này, ông bạn đồng nghiệp ưa chống đối của Chal¬lenger không phản ứng gì. Sum¬mer¬lee đang hít ôxy đầy lồng ngực và duỗi thẳng chân tay như để chắc rằng mình hãy còn sống trên cõi đời này. Hài lòng vì đã buộc được Sum¬mer¬lee im lặng, Chal¬lenger bước đến bình ôxy. Tiếng xì xì của ôxy thoát ra nhỏ dần, đến khi nghe như tiếng thầm thì thoang thoảng đâu đó.
- Chúng ta phải biết tiết kiệm. Không khí trong phòng giờ đây quá nhiều ôxy và tôi nhận thấy không ai trong chúng ta có những triệu chứng đáng ngại. Chỉ có thể qua thí nghiệm chúng ta mới biết đích xác chúng ta cần bao nhiêu ôxy để vô hiệu hoá chất độc. Phải thử xem đã.
Trong vòng năm phút, chúng tôi ngồi yên, thần kinh căng thẳng. Đúng lúc tôi tự hỏi sao thái dương lại bị ép như thế này, bà Chal¬lenger đã kêu lên là bà thấy muốn xỉu. Chồng bà mở thêm bình ôxy và nói:
- Thời tiền sử, thuỷ thủ thường nuôi chuột bạch dưới tàu thuyền vì giống vật này có cấu tạo cơ thể rất nhạy cảm với những dấu hiệu nhỏ nhất của không khí bị ô nhiễm, hơn các thuỷ thủ nhiều. Mình là con chuột bạch của chúng tôi đấy mình thân yêu. Tôi tăng lượng ôxy lên là mình cảm thấy khỏe hơn phải không?
- Vâng, em khoẻ hơn rồi.
- Có thể chúng ta đã tìm ra công thức chính xác rồi đây. Khi chúng ta biết được chính xác là mình cần bao nhiêu không khí để sống, chúng ta sẽ tính được là mình có thể sống được bao lâu nữa. Đáng tiếc là để cứu sống mình, chúng ta đã phí phạm phần lớn ôxy trong bình thứ nhất.
- Có quan trọng đến thế không? Huân tước John đang đứng gần cửa sổ thọc hai tay vào túi quần hỏi. Đằng nào cũng phải chết thì kéo dài cuộc sống phỏng có ích gì. Chẳng phải ông cho là chúng ta không có cơ hội sống sót sao?
Chal¬lenger mỉm cười lắc đầu. Huân tước nói:
- Vậy ông có nghĩ chúng ta nên lao thẳng vào cái chết, đường hoàng và hiên ngang, thay vì chờ tử thần đến gõ cửa hay không? Nếu đằng nào cũng không có hy vọng, tôi đề nghị chúng ta hãy cầu nguyện, đóng hết các bình ôxy lại và mở cửa sổ ra.
- Sao lại không nhỉ? Bà chủ nhà mạnh bạo đồng tình. Huân tước John nói đúng đấy, mình ạ. Chúng ta nên làm theo như thế.
Giọng hùng hổ của Sum¬mer¬lee cất lên:
- Tôi phản đối. Khi nào phải chết thì chúng ta sẽ chết. Nhưng cố gắng để chết sớm thì tôi thấy đúng là điên rồ không thể lý giải nổi.
- Còn anh, anh bạn trẻ, anh nghĩ sao? Chal¬lenger hỏi tôi.
- Tôi nghĩ chúng ta nên coi thảm hoạ đến phút cuối cùng.
- Tôi hoàn toàn nhất trí với anh.
- Nếu mình nói vậy, em cũng nghĩ như mình, bà chủ tiếp lời.
- Thôi được. Tôi chỉ nêu vấn đề lên thôi, huân tước John giải thích. Nếu tất cả mọi người thoả thuận chứng kiến thảm hoạ đến phút cuối, tôi cũng sát cánh cùng mọi người. Hẳn phải là một kinh nghiệm thú vị lắm. Tôi đã từng mạo hiểm nhiều, đã từng trải qua nhiều cảm giác mạnh... Nhưng tôi sẽ từ giã cõi đời với một cảm giác phi thường nhất.
- Mà nó lại cho phép ông sống thêm đấy, Chal¬lenger nói.
- Giả thiết hay quá nhỉ, Sum¬mer¬lee vặc lại.
Lúc đầu, Chal¬lenger chỉ yên lặng phản đối, sau đó nói như một nhà hiền triết:
- Sống thêm... Chẳng ai trong chúng ta có thể khẳng định mình có thể quan sát được đến đâu cái mà ta gọi là thế giới tinh thần và thế giới vật chất. Ngay cả với những đầu óc ấu trĩ nhất (ông liếc sang Sum¬mer¬lee), chỉ khi còn tồn tại trong cơ thể vật chất này ta mới có thể quan sát và phán đoán các hiện tượng vật chất được. Bởi vậy, chỉ khi cố gắng duy trì sự sống thêm vài giờ nữa, chúng ta mới hy vọng đem được sang thế giới bên kia một cái nhìn rõ ràng về biến cố vô tiền khoáng hậu vĩ đại nhất của vũ trụ này. Tôi cho rằng chúng ta đang trải qua một cuộc phiêu lưư kỳ thú nhất và mất đi phút nào là tiếc phút đó.
- Tôi hoàn toàn đồng ý với ông! Sum¬mer¬lee tuyên bố chắc nịch.
- Thông qua tuyệt đối, huân tước John tiếp lời. Ôi này, bác tài xế tội nghiệp của ông đã đi chuyến xe cuối cùng của bác ta rồi. Liệu chúng ta có nên mạo hiểm lao ra khiêng bác ta vào không nhỉ?
- Điên rồ, điên rồ hết sức, Sum¬mer¬lee kêu lên.
Huân tước John không nài nỉ nữa.
- Đúng là thế thật, ông khẽ khàng. Điều đó cũng chẳng làm bác ta sống lại được mà còn làm khí độc tràn vào phòng nữa. Ấy là giả sử ta còn có cơ quay trở lại. Lạy Chúa, nhìn mấy con chim nhỏ trên cành kìa.
Chúng tôi kéo ghế lại gần khung cửa sổ thấp chạy dài. Bà Chal¬lenger vẫn mơ màng không rời mắt khỏi chiếc tràng kỷ. Một hình ảnh khủng khiếp, rùng rợn, đột ngột kéo đến tâm trí tôi: chúng tôi ngồi trên bốn chiếc ghế sắp hàng dài chứng kiến hồi kết tấn bi kịch của thế giới. Cái ảo ảnh có lẽ được phóng đại lên nhiều lần do bầu khôngkhí nặng nề, tù túng mà chúng tôi đang hít thở.
Ngay trước mặt chúng tôi, dưới cái sân nhỏ là chiếc xe đang rửa dở dang. Bác tài xế Austin nằm xóng xoài bên bánh xe, trên trán nổi lên một cục tím bầm, chắc là do ngã đập đầu vào thành xe hoặc bậc để chân. Tay bác vẫn còn nắm vòi nước rửa xe. Vài cây tiêu huyền che mát cả một góc sân, dưới gốc cây có vài chú chim chết xù lông như trái banh, những cái chân nhỏ xíu co quắp hướng lên trời. Lưỡi hái tử thần không phân biệt kẻ yếu hay kẻ mạnh.
Con đường dẫn tới nhà ga phía bên kia bức tường bao quanh sân giờ ngổn ngang xác người. Những người thợ gặt mà chúng tôi lúc nãy nhìn thấy đang trên đường xuống đồi giờ nằm lộn xộn, co quắp lên nhau. Xa một chút, cô trông trẻ nằm ngã đầu và vai lên bệ cỏ ven đường. Cô bế đứa bé ra khỏi xe nôi, giờ là một bọc bất động trên tay cô. Ngay sau cô là bé gái nằm im, cứng đờ. Gần chúng tôi hơn, con ngựa già chết, đầu gục giữa hai càng xe. Người xà ích già nằm vắt vẻo qua cái chắn bùn như một con chim sẻ khổng lồ xấu xí, kỳ quặc. Qua cửa kính, chúng tôi nhìn thấy mờ mờ một cậu thanh niên đang nắm tay cánh cửa đã mở, chắc là đang cố nhảy xuống. Tiếp đến là sân gôn xanh nhạt. Giống như hồi sáng, chúng tôi vẫn nhìn thấy những bóng người đang rời khỏi sân, chỉ khác là những cái bóng này giờ đây nằm dài trên đường hoặc vắt qua những bụi cây ven đường. Chúng tôi đếm được tám cái xác của những những người chơi cặp bốn quyết tâm chơi đến phút cuối cùng. Không một bóng chim trên bầu trời cao rộng, không một dấu hiệu của sự sống trên cả bức tranh quê trải dài ngút tầm mắt. Mặt trời chiều đã thôi gay gắt, rải cái nắng dịu dàng lên quang cảnh tĩnh mịch và chết chóc, cái chết mà chẳng bao lâu nữa chúng tôi cũng phải nhập cuộc. Tạm thời lúc này, cánh cửa kính dày đang cách ly chúng tôi với số phận chung của đồng loại nhờ chút ôxy dự trữ để trung hoà độc tính của ête. Nhờ kiến thức và khả năng tiên liệu của một con người, trong một vài giờ, chúng tôi đã tạo ra được một ốc đảo sống nhỏ nhoi giữa mênh mông chết chóc. Rồi khi ôxy cạn, chúng tôi cũng sẽ ngã xuống như họ, co quắp trên tấm thảm phòng khách này. Thế là nhân loại chấm hết, sự sống bị xoá sổ trên địa cầu. Trong một lúc lâu, không khí quá nặng nề khiến không ai có thể mở miệng. Lặng lẽ, chúng tôi cùng nhau quan sát tấm thảm kịch bên ngoài.
- Nhìn những ngôi nhà đang cháy kìa, Chal¬lenger đột ngột nói và chỉ tay ra phía cột khói cuộn lên sau những tán cây. Có lẽ còn có nhiều ngôi nhà khác cũng đang cháy, khéo cả một thành phố cũng nên. Vì khi ngã xuống, chắc có nhiều người vẫn còn cầm đèn trong tay. Nhà vẫn còn cháy được chứng tỏ lượng ôxy trong không khí vẫn ở mức bình thường và chắc chắn ête là thủ phạm. Lại một đám cháy khác trên đỉnh đồi Crow¬bor¬rough. Nếu tôi không nhầm thì đây là câu lạc bộ chơi gôn. Chuông nhà thờ vẫn điểm. Các nhà triết học nếu còn sống hẳn sẽ rút ra khối điều hay ho khi mà những máy móc do con người chế tạo lại sống lâu hơn toàn bộ nhân loại.
- Trời ơi, huân tước John bật dậy kêu to. Những cuộn khói bên kia là những gì vậy? Tàu hoả ư?
Chúng tôi nghe thấy tiếng rầm rập, rầm rập rồi tức thì đoàn tàu lao vào tầm mắt của chúng tôi với một tốc độ khủng khiếp. Nó khởi hành từ đâu, đã được bao nhiêu cây số..? Chỉ có phép lạ mới giúp nó chạy được đến đây mà không bị xác người hoặc các vật khác làm lật. Nhưng trời ơi, chúng tôi sắp sửa phải chứng kiến kết cục thảm khốc của nó. Đang có một chiếc tàu chở than đứng sừng sững trên đường ray. Chúng tôi như ngừng thở khi chiếc tàu khách xầm xập lao đến. Cú đụng tàu thật kinh hoàng. Đầu máy và các toa tầu dồn cục lại, chỉ còn một đống gỗ và sắt ngổn ngang. Bỗng tất cả bốc cháy lên rừng rực. Trong nửa giờ, chúng tôi im lặng, sững sờ nhìn cảnh tượng tang thương này.
- Thật tội nghiệp những con người đó, sau cùng bà Chal¬lenger thốt lên và bám cứng lấy cánh tay chồng.
- Mình ơi, những hành khách trên tàu đó đâu có còn sống. Họ cũng nằm im lìm như những viên than trên chiếc tàu kia thôi. Lúc rời khỏi ga Vic¬to¬ria thì đó là con tàu chở người nhưng khi đến đến đây, nó chỉ còn là chuyến tàu chở xác chết trước khi cú đụng kinh hoàng này xảy ra.
- Và những thảm cảnh tương tự như vậy diễn ra khắp nơi trên thế giới. Tôi thốt ra những lời này một cách vô thức. Một sự sáng suốt kỳ lạ làm hiện lên trước mắt tôi tất cả những tai họa có thể diễn ra đâu đó trên hành tinh.
- Hãy nghĩ đến những con tàu ngoài biển. Chúng sẽ chạy liên tục. Chúng sẽ lênh đênh trên sóng cho đến khi những lò than tắt ngấm hoặc lao thẳng vào một bờ biển nào đó. Những chiếc thuyền buồm cũng vậy. Chúng sẽ mang theo những cánh buồm và xác của các thuỷ thuỷ trôi vô định trên đại dương đến khi ván mục ra, các mối nối rò gỉ và lần lượt chìm xuống Đại Tây Dương, bỏ lại đám vật dụng trôi nổi...
- Còn những thợ mỏ, Sum¬mer¬lee phụ hoạ sau cái tặc lưỡi chán nản. Nếu sau này còn có những nhà địa chất, chắc họ sẽ đặt ra vô số giả thiết kỳ dị về sự tồn tại của loài người qua hoá thạch của những người thợ mỏ.
Huân tước John nói vẻ tư lự:
- Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng tôi nghĩ sau vụ này, trái đất sẽ giống như một căn nhà cho thuê không có ai hỏi. Nhân loại đã bị xoá sạch khỏi địa cầu, làm sao loài người xuất hiện trở lại được nữa.
- Thì thời nguyên thuỷ, trái đất vốn trống rỗng đấy thôi. Loài người xuất hiện trên trái đất theo những quy luật khó mà cắt nghĩa được nguồn gốc. Tại sao một chu trình như vậy lại không thể lặp lại?
- Ông bạn Chal¬lenger thân mến, ông không định nói nghiêm túc đấy chứ?
- Tôi có thói quen nghĩ một đằng, nói một nẻo đâu, giáo sư Sum¬mer¬lee ạ. Lời nhận xét của ông đặt nhầm chỗ rồi đấy.
Nói rồi, Chal¬lenger nhắm mắt lại, mặt vênh lên.
- Ông đúng là một kẻ giáo điều cứng đầu
- Còn ông? Ông thì lúc nào cũng chỉ trích, chẳng có một tí sáng tạo nào và cũng chẳng bao giờ làm được việc gì khác ngoài chỉ trích.
- Cứ làm như ông chưa bao giờ bị chê là nghèo tưởng tượng ấy, Sum¬mer¬lee phản bác.
Huân tước John can ngăn:
- Này hai ông. Hai ông định hít hết khí trong những bình ôxy cuối cùng này để lấy sức thoá mạ nhau đấy hẳn. Con người có xuất hiện trở lại trên trái đất nữa hay không thì đâu có quan trọng gì. Chắc chắn khi chúng ta còn sống sẽ chẳng có chuyện đó đâu.
Chal¬lenger nghiêm sắc mặt trả lời:
- Ông nói vậy chứng tỏ ông rát nông cạn đấy. Điều này thì chúng tôi cũng không lạ. Một đầu óc khoa học chân chính không bao giờ tự trói mình trong một phạm vi không gi¬an và thời gi¬an giới hạn. Nhà khoa học xây dựng cho riêng mình một phòng thí nghiệm là hiện tại, làm cột mốc giữa quá khứ và tương lai. Từ đây, anh ta nghiên cứu sự việc, hiện tượng từ điểm khởi đầu cho đến khi kết thúc. Khi thần chết gõ cửa, nhà khoa học sẽ chết tại vị trí làm việc thường ngày¬của mình và vẫn theo những phương pháp mọi khi cho đến lúc chết. Anh ta không cần bận tâm đến sự phân rã tầm thường của thân xác vật chất, giống như mọi vật chất khác. Tôi nói có đúng không, giáo sư Sum¬mer¬lee?
Sum¬mer¬lee nhăn nhó càu nhàu:
- Với một chút dè dặt, tôi đồng ý.
- Một đầu óc khoa học chân chính (tôi nói như vậy để không quá tỏ ra tự phụ) là phải có khả năng tư duy về một vấn đề gì đó trừu tượng ngay cả khi anh ta bị rơi từ trên máy bay xuống. Đó là mẫu người không thể thiếu trong công cuộc chinh phục thiên nhiên và chân lý.
- Tôi có cảm giác là thiên nhiên đang trả thù đấy, huân tước John đáp lời, mắt nhìn qua cửa sổ. Tôi đã được đọc một số báo viết rằng các ông, những nhà khoa học, đang điều khiển cả thiên nhiên. Nhưng lần này, chính thiên nhiên lại đang dồn các ông đến bước đường cùng.
- Chỉ là một sự đảo lộn tạm thời, Chal¬lenger khẳng định đầy tin tưởng. Trong chu trình vĩ đại của thời gi¬an, mấy triệu năm thì có ý nghĩa gì. Thế giới thực vật, như các ông thấy, vẫn sống đấy thôi. Hãy nhìn cành lá của mấy cây tiêu huyền kia đi. Những con chim thì chết nhưng cây lá vẫn xanh tươi. Trong đám thực vật thuỷ sinh trong ao đầm, có những loài ấu trùng nhỏ xíu là đạo quân tiên phong của đời sống động vật. Đến lúc này đây, chúng ta lại là đạo quân cuối cùng. Khi hình thái sống thấp nhất xuất hiện, chắc chắn rồi con người rồi sẽ xuất hiện, chắc như là cây sồi thì nảy sinh từ hạt sồi vậy. Bánh xe luân hồi sẽ tiếp tục quay một vòng nữa.
- Nhưng còn chất độc, tôi hỏi. Chất độc có giết chết sự sống từ trong trứng hay không?
- Chất độc có thể chỉ là một lớp trong trường ête, một thứ Gulf-Stream siêu hình trong đại dương mà chúng ta đang trôi nổi. Hoặc giả có một dung sai nào đó cho phép cuộc sống thích nghi với những điều kiện mới. Một việc đơn giản là môi trường giàu ôxy hơn một chút đã có thể hoá giải được chất độc, chứng tỏ môi trường chỉ cần thay đổi không đáng kể là các động vật có thể chống chọi lại được với thảm hoạ này.
Ngôi nhà lúc nãy bốc khói giờ giờ cháy rừng rực, những lưỡi lửa chập chờn liếm lên bầu trời.
- Khủng khiếp quá, huân tước John thì thầm. Tôi chưa bao giờ thấy cái gì ấn tượng như thế
Tôi nói:
- Rốt cục thì cũng có sao. Thế giới đã chết, hỏa táng chắc chắn là cách xử lý xác chết tốt nhất.
- Nếu căn nhà này bị cháy, chúng ta sẽ kết thúc sớm thôi.
- Tôi đã nghĩ đến điều này, ông chủ nhà mỉm cười. Tôi dã bảo bà nhà tôi chuẩn bị các phương pháp đề phòng rồi.
- Em làm hết rồi. Nhưng đầu óc em lại bắt đầu quay cuồng rồi. Không khí trong phòng này ngột ngạt quá.
- Cần phải thay lượng khí này, Chal¬lenger nói rồi cúi xuống bình ôxy. Bình này gần hết rồi. Chúng ta đã sử dụng nó trong ba tiếng. Bây giờ có thể là tám giờ. Chúng ta sẽ qua được đêm nay an toàn. Tôi đồ là chúng ta sẽ hết sống vào chín giờ sáng mai. Chúng ta sẽ được chứng kiến cảnh mặt trời mọc cuối cùng trong đời.
Sau khi mở bình ôxy thứ hai, Chal¬lenger mở cánh cửa thông gió. Không khí đã có vẻ khá hơn nhưng các triệu chứng của chúng tôi lại đang trầm trọng dần. Thấy thế, chỉ nửa phút sau ông lại đóng cửa lại.
- Vả lại, con người đâu chỉ sống bằng ôxy, Chal¬lenger nói. Đến giờ ăn rồi đấy, thậm chí còn quá giờ là đằng khác. Tôi đảm bảo với các ông là khi mời các ông tới đây chứng kiến một sự việc thú vị như thế này, tôi rất muốn mời các ông thưởng thức tài nghệ nấu nướng tuyệt vời ở nhà tôi. Nhưng thôi kệ, có thế nào ăn thế ấy. Hẳn các ông cũng đồng ý với tôi là đốt bếp dầu lên để tiêu tốn chỗ ôxy quý giá này thì quả là điên rồ. Tôi có một ít thịt nguội, bánh mỳ, dưa chua với hai chai vang đỏ. Cám ơn em yêu, em lúc nào cũng đảm đang, tháo vát.
Thật dễ chịu khi nhìn một bà nội trợ nước Anh dọn bàn ăn chỉ trong vài phút, trải lên bàn một tấm khăn trắng như tuyết, bày khăn ăn và sắp đặt bữa ăn đơn giản bằng một vẻ thanh lịch nhất trần đời. Có cả một chiếc đèn pin ở giữa bàn. Tuyệt hơn nữa là chúng tôi bắt đầu cảm thấy đói bụng.
- Đói bụng hay không cũng phụ thuộc vào cảm xúc của chúng ta, Chal¬lenger nói với cái vẻ kẻ cả cố hữu khi ông vận dụng những tri thức khoa học để giải thích những sự việc tầm thường. Chúng ta đã trải qua một cuộc khủng hoảng lớn, làm xáo trộn ở cấp độ phân tử. Bất cứ niềm vui hay nỗi buồn lớn nào cũng khiến con người ta rất đói chứ không gây chán ăn như một số tiểu thuyết gia vẫn viết.
- Chả trách mà ở quê mỗi khi có đám ma là người ta hay tổ chức ăn uống linh đình.
- Chính thế. Anh bạn trẻ của chúng ta đã tìm ra một ví dụ minh hoạ đúng đấy. ăn miếng lưỡi này nhé.
- Ở các bộ tộc hoang dã cũng thế đấy, huân tước John vừa cắt thịt vừa nói. Tôi đã từng chứng kiến họ chôn tù trưởng của mình ở sông Arun¬wi¬ni và ăn thịt một con hà mã nặng bằng cả bộ lạc. Một số tộc người khủng khiếp ở New Gh¬inê còn ăn thịt cả người chết tội nghiệp như một cách khâm liệm vậy. Mà này nhé, trong tất cả các bữa tiệc đám ma, tôi cho rằng bữa tiệc chúng ta ăn đây là kỳ lạ nhất.
Bà Chal¬lenger xen vào:
- Điều kỳ lạ là bây giờ tôi không thể thấy xúc động trước những người chết nữa. Tôi còn bố mẹ ở Belford và tôi biết là họ đã chết. Thế mà trong thảm hoạ toàn cầu này, tôi không còn cảm thấy xót thương cho từng cá nhân được, kể cả cha mẹ mình.
- Mẹ già của tôi ở Ailen cũng thế, tôi tiếp lời. Tôi có thể hình dung ra cụ. Cụ choàng khăn và đội mũ len, ngả người ra chiếc ghế cao cạnh cửa sổ, mắt nhắm lại, bên người vẫn còn quyển sách và cặp kính. Nhưng tại sao tôi lại phải than khóc. Cụ đi rồi, tôi cũng sẽ đi thôi. Sang thế giới bên kia, tôi sẽ lại được gần cụ, có thể ở bất kỳ đâu đó ở Ailen hoặc Anh. Tuy nhiên, tôi vẫn đau lòng khi nghĩ rằng thân xác mình không còn sống nữa.
Chal¬lenger lên tiếng:
- Thân xác ư? Những chúng ta có bao giờ than khóc khi cắt móng chân móng tay đâu. Thế mà chúng cũng là một phần thân thể của chúng ta đấy. Giống như một người cụt chân không cảm thấy thương tiếc cái chân đã mất đi của mình. Thể xác vật chất của chúng ta là nguồn gốc của những đau đớn và mỏi mệt, là chỉ số thường trực cho thấy những giới hạn của chúng ta. Vậy tại sao phải đau buồn khi hồn lìa khỏi xác.
- Với điều kiện là hồn lìa khỏi xác thật sự kia, Sum¬mer¬lee càu nhàu. Nhưng dù sao, tất cả cùng chết như thế này cũng thật là khủng khiếp.
- Như tôi đã nói, Chal¬lenger đáp, chết tập thể xét cho cùng thì nhẹ nhàng hơn cái chết riêng lẻ nhiều chứ.
Huân tước John tỏ ý tán đồng:
- Cũng giống như trong chiến tranh. Nếu các ông nhìn thấy một người nằm chết trên sàn với một lỗ thủng trên đầu và bộ ngực nát bấy, các ông thế nào cũng sợ đến phát ốm lên. Nhưng ở Xu-đăng, tôi đã thấy mười nghìn người chết và tôi không có cảm giác ghê sợ. Bởi trong các cuộc chiến làm nên lịch sử, mạng sống của một cá nhân quá nhỏ, không ai buồn than khóc. Khi có đến một tỷ người chết một lúc như hôm nay, chúng ta không thể thương xót cho riêng một ai đấy cả.
- Ôi, em mong là tất cả chuyện này chấm dứt, bà Chal¬lenger run rẩy. Mình ơi, em sợ lắm.
- Khi giờ phút định mệnh đến, phu nhân bé nhỏ của anh, mình sẽ là người can đảm nhất trong chúng ta. Tôi chỉ là một gã chồng bẻm mép hay ba hoa thôi, mình yêu quý. Nhưng mình hãy luôn nhớ rằng tôi là người trước sau không thay đổi. Mình sẽ không cần đến một người chồng nào khác đấy chứ?
- Không ai cả, mình ạ. Nói rồi, bà choàng tay lên cái cổ bò tót của ông. Ba chúng tôi bước lại gần cửa sổ.
Bóng tối bao trùm lên cảnh vật, thế giới chết lặng chìm vào trong màn đêm. Bỗng ở phía Nam, một vạt sáng bung lên, nhấp nhô, chập chờn, thình lình quất vào nền trời những con sóng đỏ rực rồi buông xuống thành những dải lửa dài. Tôi kêu lên:
- Lewes cháy rồi!
- Không phải, đó là Brighton, Chal¬lenger băng ra nhập bọn với chúng tôi. Các ông có nhìn thấy đường cong của những đồi cỏ kia không? Đám cháy diễn ra ở sau đó. Chắc là cả thành phố đang bốc cháy.
Những đám cháy nổi lên khắp phía. Các đoàn tàu hoả chỉ còn cháy âm ỉ nhưng chỉ như một đám lửa nhỏ âm thầm chứ không hung hăng nhảy múa như đám đại hoả hoạn bên kia, phía Brighton. Bình thường, đây thực sự là một đề tài hay cho tờ Gazette. Bất kỳ một phóng viên nào khi gặp dịp may như thế này sẽ không đời nào bỏ lỡ. Bản năng phóng viên trong con người tôi thốt nhiên bừng tỉnh. Nếu các nhà khoa học vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu của mình đến phút cuối, tại sao tôi không ghi lại cảnh tượng này nhỉ. Sẽ chẳng còn có ai đọc những gì tôi viết ra đây, nhưng như thế ít nhất đêm dài sẽ qua mau. Hoàn cảnh này ai mà ngủ được, đặc biệt là tôi. Những ghi ghép này sẽ choán hết tâm trí tôi trong những giờ phút đen tối này và giữ cho nó được thanh thản. Vậy là tôi đặt quyển sổ đầy những dòng chữ nguệch ngoạc lên đầu gối và viết trong ánh sáng mờ mờ của đèn pin. Nếu tôi có chút khiếu văn chương, tôi sẽ làm cho những trang giấy này xứng với tầm sự kiện và mang đến cho người đọc bản ký sự trung thực nhất về cái đêm kinh hoàng đầy những cảm xúc hỗn độn này.
Chương 04. Nhật Ký Của Người Hấp Hối
Những chữ mà tôi nguệch ngoạc trên đầu trang giấy trắng mới kỳ lạ làm sao. Lạ hơn nữa là chính tôi, Ed¬ward Mal¬one, lại viết ra chúng. Tôi mới bắt đầu ra khỏi căn hộ của mình tại Streatham lúc mười hai giờ và hoàn toàn không có ý niệm gì về những sự kiện sẽ xảy ra với thế giới. Tôi lần lại từ đầu chuỗi sự kiện: cuộc nói chuyện với McAr¬dle, bức thư cảnh báo của Chal¬lenger gửi tờ Times, cuộc hành trình kỳ dị trên tàu, bữa trưa vui vẻ, thảm hoạ ập đến. Và bây giờ chỉ còn mấy chúng tôi sống sót trên hành tinh rỗng không này. Số phận của chúng tôi dã được quyết định. Những dòng chữ mà tôi viết theo bản năng máy móc của một phóng viên sẽ không bao giờ được ai đọc tới. Chúng giống như lời của người đã chết. Tôi viết đúng vào thời điểm ranh giới giữa sự sống mong manh và cái chết hoàn toàn trên hành tinh. Chal¬lenger đã sáng suốt biết bao khi nói rằng bi kịch thật sự là còn sống khi tất cả những gì là chân, thiện, mỹ đã không còn. Nhưng bây giờ, để sống sót thôi cũng không phải là điều đơn giản. Bình ôxy thứ hai của chúng tôi đã cạn. Chỉ trong một phút là chúng tôi có thể tính toán khoảng thời gi¬an ít ỏi còn lại của mình trên cõi đời.
Chúng tôi may mắn được nghe Chal¬lenger diễn thuyết trong 15 phút đồng hồ. Ông trở nên kích động đến mức mặt đỏ tía tai và thở phì phò giống như đang trình bày vấn đề trước những thính giả già bảo thủ của thính đường Nữ hoàng vậy. Giờ phút này, ông đang có một nhóm người nghe kỳ cục: vợ ông, người sẵn sàng lĩnh hội tất cả những gì ông nói cho dù không hiểu, Sum¬mer¬lee ngồi trong góc tối, luôn phản bác, chỉ trích nhưng tỏ ra chú ý, huân tước John nằm dài một góc và dường như chẳng mấy quan tâm; tôi ngồi cạnh cửa sổ, lúc thì để ý, khi lại lơ đãng nhìn vơ vẩn ra ngoài hoặc theo đuổi những suy nghĩ riêng.
Chal¬lenger ngồi trước cái bàn ở giữa phòng, chiếc đèn pin hướng vào chiếc kính hiển vi mà ông đem từ phòng thay đồ vào. Cái vòng sáng le lói hắt từ mặt gương lên dường như chia khuôn mặt thô mộc, râu ria xồm xoàm của ông làm hai nửa, nửa sáng rực, nửa tối đen. Lâu nay, ông nghiên cứu các dạng sống sơ đẳng nhất và điều làm ông thích chí là phát hiện ra con amíp ông chuẩn bị mẫu ngày hôm qua vẫn còn sống.
- Chính mắt ông coi đi, Sum¬mer¬lee, cho thoả tính hiếu kỳ. Mal¬one, tôi đề nghị anh kiểm chứng cho tôi những gì tôi nói. Những vi sinh vật hình que ở giữa là những tảo vỏ. Người ta có thể không để ý đến chúng vì chúng có vẻ giống thực vật hơn là động vật. Nhưng ở bên phải, các ông sẽ thấy một con amíp thực sự đang di chuyển từ từ trên giá thể. Con ốc phía trên dùng để điều chỉnh kính. Các ông coi đi, tận mắt coi đi.
Sum¬mer¬lee nhìn và yên lặng đồng ý. Đến lượt mình, tôi cúi xuống và nhìn thấy một thứ sinh vật nhỏ đang ngoe nguẩy trong một môi trường trong suốt. Huân tước John nằm dài trong góc phòng, sẵn sàng tỏ ra tin tưởng.
- Tôi chẳng tội gì vắt óc ra để tìm hiểu xem nó chết hay sống. Tôi và nó có bao giờ gặp nhau đâu. Tại sao tôi lại phải quan tâm đến mạng sống của nó chứ. Mà nó cũng chẳng quan tâm đến tình hình sức khoẻ của bọn ta đâu.
Tôi bật cười. Chal¬lenger lườm tôi lạnh lùng, kiêu kỳ:
- Sự dễ dãi của những người có chút ít giáo dục còn cản trở bước tiến của khoa học nhiều hơn là sự ngu dốt. Nếu huân tước hạ cố...
- Anh George, đừng hung hăng như thế, bà Chal¬lenger thì thầm và vuốt nhẹ lên bờm tóc đen của ông đang cúi xuống kính hiển vi. Com amíp sống hay chết thì có ý nghĩa gì?
- Ý nghĩa lắm chứ.
- Thôi được rồi. Vậy thì chúng tôi nghe ông đây, huân tước John lên tiếng vẻ chấp thuận. Nói về con amíp này cũng như nói về bất cứ thứ gì khác thôi. Nếu ông cho là tôi đã quá lơ là với nó hoặc động chạm đến tự ái của ông thì xin ông bỏ quá cho.
- Tôi không hiểu tại sao ông quan tâm đến mạng sống của con amíp ấy đến thế, Sum¬mer¬lee chen vào, giọng gây gổ. Chúng cũng sống trong môi trường như chúng ta và chất động không tác động được lên nó. Nếu nó ở ngoài căn phòng này, nó cũng sẽ chết như tất cả các sinh vật khác thôi.
Ước gì tôi vẽ được vẻ mặt khinh khỉnh và kẻ cả của Chal¬lenger khi ông trả lời ông bạn đồng nghiệp.
- Giáo sư Sum¬mer¬lee đáng kính ơi, nhận xét của ông chứng tỏ ông chẳng nắm được vấn đề gì cả. Mẫu vật này tôi chuẩn bị từ hôm qua, giá thể hoàn toàn kín. Ôxy không chui được vào đây nhưng ête thì có thể, giống như nó chui vào mọi ngóc ngách của vũ trụ vậy. Thế nhưng con amíp này vẫn sống. Từ đó suy ra là tất cả các con amíp ngoài căn phòng này vẫn sống chứ không chết như ông vừa nói. Chúng chống chọi lại được với thảm hoạ.
- Dù như vậy cũng không cần phải mừng rú lên như thế, huân tước John nói. Suy luận của ông có ý nghĩa gì?
- Có nghĩa là trái đất vẫn là một hành tinh sống chứ không phải là một hành tinh chết. Nếu ông có một chút óc tưởng tượng khoa học, ông hãy phóng tầm mắt ra xa hơn một chút. Trong một vài nghìn năm nữa, mà vài nghìn năm thì có thấm tháp gì trong dòng chảy vô tận của thời gi¬an, trái đất sẽ lại có sự sống của động thực vật, khởi thuỷ chỉ từ con trùng amíp bé nhỏ này. Ông đã nhìn thấy những đám cháy trên thảo nguyên bao giờ chưa? Ngọn lửa tàn phá cả một diện tích rộng, không còn bóng cây, ngọn cỏ. Sau đám cháy, tất cả chỉ là một vùng đen xầm xì. Ông cho rằng đó chỉ còn là một miếng đất cằn và muôn đời vẫn là miếng đất cằn thôi sao? Không đâu. Cái mầm sống vẫn còn và vài năm sau khi ông quay trở lại, ông sẽ không tìm thấy những vết sẹo đen đúa khổng lồ hồi xưa đâu. Và ở đây, con vi sinh vật bé nhỏ này ẩn chứa nguồn gốc của đời sống sinh vật và nó sẽ xoá sổ mọi dấu hiệu của thảm hoạ đang đến với chúng ta ngày hôm nay.
- Thú vị quá nhỉ! Huân tước John kêu lên và quyết định nhìn vào kính hiển vi. Thế ra cái con nho nhỏ này sẽ là tổ tiên của loài người trong tương lai. Nó mang một cái nút đen trên áo này, Chal¬lenger.
- Cái nút đen đó là nhân tế bào.
Chal¬lenger có cái vẻ của một cô bảo mẫu dạy em bé bảng chữ cái.
- Tốt quá, thế là tôi khỏi cảm thấy cô đơn rồi. Ngoài chúng ta ra thì ít nhất cũng có ai đó sống trên trái đất này, huân tước John thở dài.
Nhưng Sum¬mer¬lee xen vào:
- Đôi lúc tôi cho rằng chỉ có kẻ hợm mình mới nghĩ là mọi sự sắp đặt của tạo hoá là chỉ để dành cho hắn độc diễn.
- Về vấn đề này, tôi cũng không cùng quan điểm với ông. Nhưng cứ dẹp cái gọi là "những kẻ hợm mình" của ông sang một bên, chắc ông cũng phải công nhận với tôi rằng sự sống của con người là điều tối cao nhất trong tự nhiên.
- Chỉ cao nhất trong số những gì ta biết mà thôi.
- Vớ vẩn.
- Hãy nghĩ đến hàng triệu, thậm chí là hàng tỷ năm trái đất trống rỗng trôi lang thang trong vũ trụ... trống rỗng, hoặc chí ít là không một bóng người. Hãy nghĩ đến hành tinh này, tắm mưa, gội gió, dầu dãi nắng nôi suốt hàng bao nhiêu thế kỷ đằng đẵng. Như thế, theo những gì các nhà địa lý đo được, con người coi như mới chỉ xuất hiện từ ngày hôm qua thôi. Sao có thể nói tất cả những sự chuẩn bị vĩ đại đó chỉ dành để cho con người.
- Vậy ông cho là sự chuẩn bị đó là cho ai hay cho cái gì?
Sum¬mer¬lee nhún vai:
- Làm sao mà nói được. Có thể là vì một lý do nào đó ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Con người có thể chỉ xuất hiện một cách tình cờ và là một phế phẩm trong tiến trình tự nhiên. Con người giống như bọt nước trên đại dương hoặc như con chuột nhắt trong nhà thờ. Có lý nào cho rằng đại dương sinh ra là vì cái bọt nước và nhà thờ sinh ra là để con chuột có chỗ chui ra chui vào.
Tôi ghi lại cuộc tranh luận của họ cho đến khi nó biến thành một cuộc đấu khẩu. Mỗi bên tung ra một đống các thuật ngữ dài ngoằng. Phải may mắn lắm mới được nghe hai bộ óc siêu việt này tranh luận về những vấn đề cơ bản nhất. Nhưng vì họ không bao giờ thống nhất với nhau nên những đầu óc trần tục như tôi và huân tước John chẳng rút ra được gì hay ho từ những điều họ nói. Họ luôn tìm cách hạ bệ nhau nhưng rồi tất cả đều chẳng đi đến đâu. Cuối cùng thì dàn hợp xướng cũng im lặng. Sum¬mer¬lee ngồi bó gối trên ghế và Chal¬lenger tay vặn ốc điều chỉnh, miệng lẩm bẩm như sóng biển ì ầm sau cơn bão. Huân tước John lại gần tôi, cùng nhìn ra màn đêm.
Trăng hãy còn non nên rất nhạt. Đêm trăng cuối cùng được con người để mắt đến. Sao trời sáng lấp lánh. Ngay cả khi còn ở trên cao nguyên Nam Mỹ, tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy sao sáng đến thế. Hay là ête đã tác động lên ánh sáng? Lò thiêu ở Brighton vẫn cháy. Tôi lại nhìn thấy một vùng đỏ thẫm xa xa ở phía Tây. Chắc có gì không ổn ở Arun¬del, Chich¬ester, hay có thể là Portsmouth. Tôi ngồi lặng yên quan sát, thi thoảng ghi lại vài điều. Tuổi trẻ, sắc đẹp, tinh thần thượng võ, tình yêu... tất cả kết thúc rồi sao? Dưới ánh trăng, mặt đất thật thanh bình và dịu dàng. Ai nghĩ rằng trái đất chỉ còn là một đồi sọ khổng lồ, ngổn ngang xác chết. Thình lình tôi bật cười:
- Này cậu bé, huân tước John ngó tôi ngạc nhiên. Cậu vẫn còn cười được trong hoàn cảnh này ư? Cậu cười cái gì vậy?
- Tôi đang nghĩ đến những vấn đề lớn chưa giải quyết, tôi trả lời, những vấn đề mà người ta đang rất quan tâm, ví dụ cuộc xung đột Anh-Đức hay vấn đề Trung Quốc chẳng hạn. Ai mà đoán trước là tất cả sẽ được giải quyết như thế này.
Chúng tôi im lặng trở lại. Tôi cho là mỗi người trong chúng tôi đang lật lại những suy nghĩ của mình về những người bạn đã không còn. Bà Chal¬lenger thổn thức nhè nhẹ và huân tước chồng đang thì thầm gì đó vào tai bà. Đầu óc tôi điểm lại nhiều người rất khác nhau và thấy họ nằm thẳng băng và trắng toát như bác Austin tội nghiệp mà chúng tôi thấy trong sân. Mc Ar¬dle chẳng hạn.... Tôi biết chắc ông ngã gục trên bàn, tay vẫn đặt trên điện thoại. Chủ toà báo, ông Beau¬mond, cũng đã chết. Tôi cho là ông ta ngã trên tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ xanh và đỏ trang trí cho thánh địa của mình. Rồi cả những người bạn phóng viên của tôi nữa. Họ đang nằm trong phòng phóng viên: Mac¬dona, Mur¬ray, Bond. Chắc chắn là họ chết tại vị trí của mình với những giấy tờ đen đặc những ghi chép và cảm nhận cá nhân. Tôi hình dung thấy họ chạy đến phỏng vấn các thầy thuốc, đến West¬min¬ster, đến Saint-Paul... Chắc chắn họ đã chết khi trong tay có bức tranh toàn cảnh kỳ dị của thảm hoạ, sẵn sàng để đời sự kiện vĩ đại này bằng giấy trắng mực đen và những bài báo không còn ai có thể đọc được nữa. Tôi hình dung Mac¬dona sẽ viết như thế này: "Hội đồng y khoa không thất vọng. Phỏng vấn giáo sư So¬ley Wil¬son, ông tuyên bố: đừng bao giờ chán nản". "Đặc phái viên của chúng tôi đã tìm thấy nhà khoa học ngồi trên nóc nhà, chạy trốn đám đông bệnh nhân hoảng loạn tìm đến ông. Hành động này chứng tỏ ông thực sự nhân ra sự nguy cấp của tình hình song vẫn không chấp nhận rằng không còn một chút hy vọng nào nữa". Đó là cách Mac¬dona bắt đầu bài viết của mình. Rồi Bond nữa. Chắc là anh sẽ tới Saint-Paul. Cách viết của anh mang đậm chất văn hoa và đây sẽ là một chủ đề hay đối với anh. Anh sẽ viết đại khái như thế này: "Giờ đây, đứng an toàn trong căn phòng nhỏ dưới mái vòm bệnh viện Saint Paul, tôi nhìn thấy phía dưới mình một đám người quây lấy nhau trong sự tuyệt vọng, kéo lê số phận của mình đến giây phút cuối đời trước một đấng quyền lực mà họ chưa từng biết. Từ đám đông đang quỳ gối kia vẳng đến tai tôi một lời cầu khấn âm thầm, yếu mềm và hoảng loạn, tiếng kêu gọi một đấng siêu hình đến cứu giúp...".
Quả thực là một cái kết đẹp cho một bài báo. Nhưng cũng giống tôi, anh ấy đã tích luỹ nên những kho tàng không còn dùng được vào việc gì. Tội nghiệp Bond, có điều gì mà anh không dám làm để cho ra những bài phóng sự với chữ ký J.H.B như mọi khi.
Tôi đang viết những điều lẩn thẩn chỉ để giết thời gi¬an. Bà Chal¬lenger trở lại phòng thay đồ và giáo sư Chal¬lenger nói với chúng tôi là bà đi ngủ. Ông ngồi trước chiếc bàn ở giữa phòng, chú tâm tra cứu những quyển sách của mình như thể ông có hàng năm để làm việc đó. Ông viết bằng một chiếc bút lông kêu kèn kẹt như sẵn sàng phì ra sự khinh bỉ vào bất cứ ai không đồng ý với ông.
Sum¬mer¬lee ngồi sâu trong ghế bành, thỉng thoảng lại phát ra tiếng ngáy cấm cảu. Huân tước John nằm duỗi thẳng, mắt nhắm, hai tay cho vào trong túi. Làm sao họ có có thể ngủ trong tình cảnh này nhỉ.
Bây giờ là 3 giờ 30. Tôi vừa bật tỉnh dậy. Lúc nãy, khi tôi ghi chép những dòng cuối cùng này là 11giờ 15. Tôi còn nhớ là đã lấy lại đồng hồ và xem gìơ. Vậy là tôi đã phí phạm hơn 5 tiếng đồng hồ trong khoảng thời gi¬an ân hạn cuối cùng. Thật không thể tin được. Thế nhưng tôi cảm thấy sảng khoái hơn nhiều và hoàn toàn khoẻ mạnh để đón nhận số phận. ít nhất ấy là những gì tôi tự thuyết phục mình. Tuy nhiên, khi con người càng khoẻ thì càng tha thiết với cuộc sống và càng không dễ dàng chấp nhận cái chết. Tạo hóa thật sáng suốt và hào phóng. Dần dần, chính qua những chấn động nhỏ không nhìn thấy được mà Tạo hóa kéo dần chiếc neo lưu giữ con người trên mặt đất.
Bà Chal¬lenger vẫn ở trong phòng thay đồ, giáo sư Chal¬lenger đang ngủ trên ghế. Hình dáng ông lúc ngủ trông mới thật tức cười. Cả thân người to bè của ông tựa vào thành ghế, hai bàn tay lông lá bắt chéo trên chiếc áo gilê, cái đầu ngật hẳn ra đằng sau, lấp trong đám râu ria rậm rì. Người ông rung lên vì ngáy. Tiếng ngáy của ông trầm trầm, thỉnh thoảng lại được phụ hoạ thêm bởi tiếng ngáy sắc nhọn của Sum¬mer¬lee. Huân tước John cũng ngủ, người cuộn tròn quay sang một bên. Những luồng không khí lạnh đầu tiên của buổi ban mai lặng lẽ len vào phòng. Tất cả không gi¬an nhuốm một màu xám xịt và buồn bã.
Tôi lặng ngắm mặt trời lên. Dù trái đất không còn ai thì mặt trời vẫn mọc. Loài người không còn. Chỉ một ngày trôi qua cũng đủ sức quét sạch bóng dáng con người trên mặt đất. Thế nhưng hành tinh này vẫn tiếp tục nhịp vận động của nó. Những con sóng vẫn không ngừng dâng lên, hạ xuống, gió vẫn rì rầm mãi không thôi. Toàn bộ thiên nhiên vẫn tiếp tục chu trình của mình. Dưới sân, Austin vẫn nằm, chân tay duỗi dài trên đất, gương mặt nhợt nhạt vì ánh sáng buổi sớm, tay vẫn lăm lăm cái vòi nước. Một bức tranh biếm hoạ về thân phận con người ẩn trong hình ảnh nửa thô kệch nửa xót xa của bác tài xế già chết bên chiếc xe gắn bó bao năm của mình.
Đến đây kết thúc những ghi chép của tôi bấy giờ. Từ thời điểm đó trở đi, các sự kiện diễn biến rất nhanh và đau đớn khiến tôi không thể viết tiếp được nữa. Tuy nhiên trong trí nhớ của tôi vẫn còn hằn sâu các chi tiết.
Cổ họng bỗng nhiên đau thắt khiến tôi đưa mắt nhìn những chiếc bình ôxy và hoảng hốt vì những gì mình nhìn thấy. Lượng ôxy để duy trì sự sống của chúng tôi còn rất ít. Vào một lúc nào đó trong đêm, Chal¬lenger đã mở cái bình thứ tư và rõ ràng bình này cũng đang cạn khí.
Một cảm giác khủng khiếp, cảm giác thiếu không khí, khiến tôi ngộp thở. Tôi băng qua phòng và quyết định mở chiếc bình cuối cùng. Khi tôi chạm vào chiếc đinh ốc, sự hoang mang làm tim tôi thót lại. Nếu tôi lỡ tay, có thể tất cả bọn họ sẽ chết trong giấc ngủ. Nhưng mọi do dự biến mất khi tôi nghe tiếng bà Chal¬lenger vọng ra từ phòng thay đồ.
- George, em ngạt thở quá...
- Đừng lo, bà Chal¬lenger, tôi sẽ mở một bình dự trữ nữa.
Những người khác giật mình tỉnh giấc. Trong giây phút nguy cấp này, tôi không khỏi mỉm cười khi nhìn Chal¬lenger lúc thức dậy. Ông đưa bàn tay lông lá lên dụi mắt, trông như một đứa trẻ to đùng, râu ria. Sum¬mer¬lee run rẩy như người bị sốt rét. Khi nhận thấy tình cảnh của chúng tôi, nỗi sợ xâm chiếm lấy ông. Còn huân tước John tỉnh dậy với vẻ sảng khoái và tỉnh táo như chuẩn bị đi săn.
- Bình thứ năm và là bình cuối cùng, ông thốt lên khi nhìn bình ôxy. Này cậu bé, cậu không định nói với tôi là chính cậu đã viết những cảm nghĩ lẩn thẩn của cậu lên những tờ giấy này đấy chứ?
- Chỉ là ghi chép một chút cho hết đêm thôi.
- Lạy Chúa tôi. Chỉ có người Ailen mới làm được điều này. Tôi nghĩ chắc cậu phải chờ con amíp của Chal¬lenger lớn lên thì mới mong có ai đó đọc bài viết của cậu... Giáo sư ơi, ông thấy tình hình thế nào ?
Chal¬lenger ngắm nhìn màn sương mù buổi sáng giăng giăng trên cảnh vật. Đây đó những đỉnh đồi phủ cây nhô lên trên biển sương trắng như những hòn đảo nhỏ hình chóp.
- Trông như một mảnh vải liệm, bà Chal¬lenger mặc áo ngủ bước vào thì thầm. Anh còn nhớ bài hát yêu thích của anh không, George? "Người già đẩy cửa ra đi, người trẻ đẩy cửa bước vào". Điềm báo đấy... Ôi, các ông lạnh à. Trời ơi, cả đêm tôi ấm áp với chăn lông trong khi các ông thì run lập cập trên ghế... Xin chờ một chút, tôi sẽ giúp các ông thấy khoẻ khoắn trở lại.
Người phụ nữ bé nhỏ dũng cảm biến mất sau phòng thay đồ và ngay lập tức chúng tôi nghe tiếng nước reo. Bà Chal¬lenger đang chuẩn bị cho bọn tôi mỗi người một tách sôcôla nóng.
- Mời các ông dùng, bà nói. Uống xong, các ông sẽ cảm thấy khá hơn.
Uống xong, Sum¬mer¬lee xin phép được châm tẩu và chúng tôi xin phép hút thuốc để đỡ căng thẳng. Nhưng chúng tôi đã phạm sai lầm. Bầu không khí trong căn phòng trở nên ngột ngạt, không thể thở nổi. Chal¬lenger đã phải bật quạt lên.
- Chúng ta còn bao nhiêu thời gi¬an, ông Chal¬lenger? Huân tước John hỏi.
- Ba tiếng là cùng, giáo sư nhún vai.
- Em đã tưởng là mình rất sợ. Nhưng khi thời khắc càng đến gần, cái chết dường như bớt đáng sợ hơn. Mình có nghĩ rằng chúng ta nên cầu nguyện không, George?
- Mình cứ cầu nguyện đi, mình yêu quí, người đàn ông thì thầm thật nhẹ nhàng. Mỗi người trong chúng ta đều có cách cầu nguyện riêng của mình. Tôi hoàn toàn chấp thuận những gì mà định mệnh mang lại và vui vẻ tuân theo. Tôn giáo tối thượng nhất và khoa học siêu việt nhất, theo tôi, chính là hội tụ ở điểm này.
Sum¬mer¬lee tay cầm tẩu làu nhàu phản đối:
- Tôi thì còn lâu. Lý trí của tôi không đồng ý, vui vẻ tuân theo thì càng không. Tôi phải phục tùng chỉ vì tôi không làm thế nào khác được. Tôi thú nhận là nếu được sống thêm một năm nữa để hoàn thành việc phân loại hoá thạch phấn của tôi thì hay quá.
Chal¬lenger phản công:
- Sự dang dở này thì có thấm tháp gì so với công trình vĩ đại của tôi, cuốn "Những nấc thang của sự sống" mới chỉ được phác thảo những nét đầu tiên. Chất xám của tôi, kinh nghiệm của tôi, tri thức của tôi.. tóm lại tất cả những gì là của tôi đáng lẽ sẽ được hội tụ trong cuốn sách để đời này. Thế mà, các ông thấy đấy, tôi vẫn phải chấp nhận thôi.
- Tôi cho là chúng ta sẽ phải bỏ dở những gì chưa hoàn thành thôi, huân tước John nói. Cậu bỏ dở những gì, cậu bé?
- Tôi vừa bắt tay làm một tuyển tập thơ.
- Ồ, may là mọi người thoát được tuyển tập thơ của cậu. Rốt cuộc thì cũng có cái gì đó hay ho bù lại đấy chứ.
- Thế còn huân tước? Tôi hỏi lại.
- Tôi ấy à, tôi phải bỏ lại ngôi nhà sạch bóng như một đồng xu mới kính coong. Tôi đã hứa với Merviale là mùa xuân này sẽ cùng lão đi săn báo tuyết ở Tây Tạng. Nhưng, thư bà Chal¬lenger, hẳn bà tiếc hơn tôi nhiều, phải không. Căn nhà của bà thật xinh đẹp.
- Bất cứ anh George ở đâu thì đó là nhà của tôi. Mà tại sao chúng ta không đi dạo trên những triền đồi này trong không khí trong lành của buổi sáng nhỉ?
Tim chúng tôi rộn lên đồng tình khi nghe bà nói những lời này. Ngoài trời, mặt trời đang lên xoá tan màn sương mù. Quang cảnh bừng lên dưới ánh nắng vàng rực rõ. Với chúng tôi, khi phải ngồi trong không gi¬an tù túng này thì cảnh thôn quê trù phú, chói lọi và lộng gió quả là một giấc mơ tuyệt đẹp. Chúng tôi kéo ghế lại gần cửa sổ và sắp chỗ ngồi thành hình bán nguyệt. Không khí trở nên nặng nề dần. Tôi có cảm giác bóng tối chết chóc như rình rập đâu đó quanh đây, sẵn sàng đem chúng tôi đi. Một tấm màn vô hình dần dần cuốn nốt những người cuối cùng trên trái đất.
Sau khi hít một hơi dài, huân tước John hỏi:
- Cái bình này có vẻ không dùng được lâu nữa nhỉ?
- Lượng khí trong bình có khác nhau. Nó phụ thuộc vào lực nén và thao tác nén. Nhưng mà tôi đồng ý với ông, Rox¬ton, cái bình này không có nhiều khí.
- Thế là chúng ta lại bị mất thêm một giờ sống à, Sum¬mer¬lee hỏi.
Sau đó ông nói thêm, giọng the thé:
- Đây là minh chứng cuối cùng thuyết phục nhất cho cái thời đại cặn bã mà chúng ta đang sống. Này Chal¬lenger, nếu ông muốn nghiên cứu những hiện tượng chủ quan về sự phân huỷ vật chất thì tôi cho rằng đã đến lúc rồi đấy.
Chal¬lenger quay sang vợ:
- Mình ngồi xuống chiếc ghế này và đưa tay cho tôi. Các ông bạn ạ, tôi nghĩ không nên kéo dài sự sống trong cái bầu không khí không thể chịu đựng này nữa. Mình không muốn thế, phải không mình yêu quí.
Bà Chal¬lenger thốt ra một tiếng thở dài và gục đầu lên đùi chồng.
- Tôi đã nhìn thấy những người đi bơi vào mùa đông ở vùng Ser¬pen¬tine, huân tước John nói. Khi tất cả mọi người đều ở đó, chỉ có một vài người trên bờ rét run vì lạnh và ghen tỵ với những người đang vẫy vùng trong nước. Đó là những người phải chịu đau đớn nhất. Tôi thà nhảy xuống nước còn hơn. Tôi sống thế này là quá đủ rồi.
- Ông muốn mở cửa đón ête sao?
- Tôi thà chọn khí độc còn hơn là ngạt thở.
Sum¬mer¬lee ra hiệu đồng ý một cách miễn cưỡng, sau đó chìa tay cho Chal¬lenger:
- Chúng ta đã từng cãi nhau nhưng bây giờ hãy quên đi tất cả. Dẫu thế nào, chúng ta cũng là những người bạn tốt và tôn trọng lẫn nhau mặc dù ngoài mặt vẫn luôn hục hặc, phải không Chal¬lenger? Xin vĩnh biệt.
- Vĩnh biệt, cậu bé - huân tước John kêu lên. Nhưng này, giấy dán tường chắc lắm, không mở được cửa sổ.
Chal¬lenger cúi xuống vợ, nâng bà lên, ôm xiết bà vào trong lòng. Bà đưa tay lên choàng lấy cổ ông.
- Mal¬one, đưa cái kính hiển vi lại cho tôi, ông gọi vẻ nghiêm trọng
Tôi đưa cho ông.
- Hỡi Đấng Toàn năng đã tạo ra chúng con, chúng con xin về với Người.
Ông kêu lên những lời cuối cùng này một cách hào hùng rồi ném cái kính vào cửa sổ, cánh cửa kính vỡ vụn. Một làn gió trong lành và dịu dàng ùa vào gương mặt tím tái còn dính thuỷ tinh của chúng tôi.
Tôi không biết chúng tôi đã ngồi bao lâu trong sự im lặng kinh ngạc như vậy. Bỗng nhiên, tôi nghe Chal¬lenger hét to:
- Điều kiện bình thường của sự sống đây rồi. Trái đất đã thoát khỏi vành đai khí độc. Nhưng chúng ta là những người duy nhất còn sót lại trên hành tinh.
Chương 05. Thế Giới Chết
Cho đến bây giờ, tôi vẫn có thể hình dung cảnh chúng tôi ngồi trên ghế, hít căng lồng ngực làn gió nhẹ Tây Nam thổi từ biển vào làm lay động những tấm rèm cửa bằng mous¬se¬line và dịu dàng ve vuốt những gương mặt sung huyết của chúng tôi. Tôi tự hỏi chúng tôi đã ngồi bao nhiêu lâu như thế. Sau đó, chúng tôi gần như mê mụ đi, không ý thức được rõ ràng điều gì đang xảy ra. Chúng tôi đã gồng mình lên chuẩn bị đón cái chết nhưng sự kiện bất ngờ và khủng khiếp là sống sót sau khi loài người đã bị xoá sổ này đã rút kiệt sinh lực và hạ gục chúng tôi. Dần dần, đầu óc ngưng trệ của chúng tôi cũng hoạt động trở lại, các xung thần kinh trên bộ não bắt đầu truyền thông tin, các ý niệm dần dần xuất hiện lại. Với một sự tỉnh táo đến lạnh người, chúng tôi nhìn lại các mối liên hệ với quá khứ, hiện tại và tương lai, nhìn lại cuộc sống chúng tôi đã trải qua và cuộc sống đang chờ chúng tôi phía trước. Ánh mắt của chúng tôi trao nhau những xúc cảm câm lặng. Tất cả những gì chúng tôi yêu thương trên trái đất này đã bị cuốn đi vào cõi vô vùng và chúng tôi còn lại trơ trọi trên một hòn đảo cô đơn, không bạn bè, không hy vọng, không ước muốn. Chúng tôi sẽ sống hàng năm như những con sói hoang giữa những nấm mồ của toàn thể nhân loại, đợi chờ cái chết muộn màng nhưng đơn độc.
- Khủng khiếp quá, anh George, khủng khiếp quá, bà Chal¬lenger kêu lên hoảng sợ. Giá chúng ta cùng chết với tất cả mọi người khác thì lại hơn. Tại sao chúng ta phải sống sót? Em có cảm giác chính chúng ta mới chết còn những người khác thì đang sống.
Chal¬lenger đặt bàn tay to bè lông lá lên tay vợ, lông mày nhíu lại suy nghĩ. Tôi nhận ra rằng mỗi khi có điều gì lo buồn hoảng hốt, bà Chal¬lenger lại đưa tay về phía chồng như một đứa con hướng về phía mẹ. Cuối cùng, Chal¬lenger quyết định nói:
- Tôi không buông xuôi đến độ không bao giờ tranh đấu nhưng tôi phát hiện ra rằng khôn ngoan nhất là chấp nhận sự việc. Ông nói chậm rãi, tiếng nói sang sảng nghe đầy tâm trạng.
- Tôi thì tôi không chấp nhận, Sum¬mer¬lee châm chọc phản bác.
- Tôi thấy các ông có chấp nhận hay không thì cũng chẳng thay đổi được gì. Đằng nào thì cũng thế. Dũng cảm đương đầu hay phó mặc sự việc đâu có quan trọng gì. Có việc gì hỏi ý kiến của chúng ta rồi mới xảy ra đâu. Các ông nói thử tôi nghe xem chấp nhận hay không chấp nhận thì khác gì nhau nào?
- Đó chính là sự khác nhau giữa hạnh phúc và bất hạnh. Nếu đi đúng đường, ông cảm thấy đầu óc và tâm hồn mình thanh thản. Nếu ông đi sai đường, ông cảm thấy đau khổ và chán nản. Sự việc đang xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, vậy chúng ta nên chấp nhận và đừng mất công tranh cãi nữa.
Tôi đang ngắm bầu trời hoang vu và gửi lên sự tuyệt vọng nghe vậy bèn cất cao tiếng:
- Chúng ta sẽ làm gì với cuộc sống của chúng ta đây? Chẳng hạn như tôi, tôi sẽ làm gì? Không có các tờ báo nữa thì chút sở trường của tôi sẽ dùng vào việc gì?
- Cũng chẳng còn gì để săn và chẳng có cuộc chiến nào đang ngấp nghé, huân tước John phụ hoạ. Sở trường của tôi cũng sẽ trở nên vô nghĩa.
- Tôi thì còn người chồng và còn ngôi nhà. ơn Chúa, sở trường của tôi sẽ không phải là đồ bỏ.
- Của tôi cũng vậy, Chal¬lenger nói. Bởi vì khoa học không chết. Thảm họa này đặt ra biết bao vấn đề hấp dẫn để nghiên cứu.
Ông mở tất cả các cánh cửa và chúng tôi cùng ngắm nhìn quang cảnh im lìm bên ngoài.
- Chúng ta hãy suy nghĩ xem nhé, ông nói. Hôm qua, khi trái đất bị vây bọc trong một vành đai khí độc và không khí trở nên ngột ngạt là khoảng 3 giờ chiều. Bây giờ là 9 giờ sáng. Vậy câu hỏi đặt ra là: mấy giờ thì chúng ta thoát khỏi vành đai khí độc?
- Lúc mặt trời mọc không khí vẫn rất ngột ngạt, tôi phát biểu.
- Muộn hơn vẫn thế, bà Chal¬lenger kêu lên. Đến tận 8 giờ sáng nay em vẫn còn thấy cổ họng mình như bị bóp nghẹt.
- Có nghĩa là chất độc biến mất sau 8 giờ. Như vậy, trái đất đã bơi trong biển ête bị nhiễm độc trong mười bảy tiếng đồng hồ. Khoảng thời gi¬an này cho phép Người Làm Vườn Vĩ Đại khử tất cả các con vi khuẩn người ngo ngoe trên đám hoa quả của ông. Có thể sự tiệt trùng không được hoàn toàn vì trên trái đất vẫn còn người sống.
Huân tước John dè dặt tán thành:
- Tôi cũng tự hỏi tại sao chúng ta lại là những viên sỏi duy nhất sót lại trên bãi biển.
Sum¬mer¬lee phản đối:
- Cho rằng ai đó có thể đối diện trực tiếp với thảm hoạ này mà vẫn còn sống được thì thật vô lý. Các ông có nhớ là chất độc mạnh như thế nào khi mà một người khoẻ như trâu và thần kinh vững như thép như Mal¬one còn khổ sở lắm mới trèo lên được cầu thang trước khi ngất xỉu. Ai là người có thể chịu đựng được đến mười bảy phút, ấy là chưa nói đến mười bảy tiếng...
- Trừ khi anh ta tiên đoán được thảm hoạ và có sự chuẩn bị trước, như ông bạn già Chal¬lenger của chúng ta.
- Tôi đồng ý là điều này rất khó, Chal¬lenger trả lời. Ông hất bộ râu ra phía trước và cụp mắt xuống. Sự phối hợp giữa quan sát, diễn giải và trí tưởng tượng cho phép tôi tìm thấy được trong tai hoạ một sự kiện vĩ đạt hiếm khi ta có thể chứng kiến lần thứ hai trong đời.
- Thế ông kết luận rằng tất cả mọi người đều đã chết hết sao?
- Có thể. Tuy nhiên, khi đi từ thấp lên cao, có thể chất độc yếu dần đi tại các lớp trên của khí quyển. Kỳ lạ, nhưng mà đúng thế đấy. Chúng ta đang đứng trước một số lĩnh vực nghiên cứu đầy hấp dẫn. Giả sử bây giờ chúng ta đi tìm những người còn sống sót trên trái đất, có lẽ chúng ta nên đi tới những ngôi làng ở cao nguyên Tây Tạng hoặc những trang trại ở vùng núi Alpes cao đến hàng nghìn mét trên mặt nước biển.
- Thế ư? Huân tước John mỉm cười. Nhưng các ông nhìn lại xem. Bây giờ làm gì còn đường sắt hay tàu thuyền gì nữa. Nói như vậy có khác gì tìm người trên mặt trăng. Tôi thậm chí còn không biết sự nhiễm độc này đã biến mất hẳn chưa hay vẫn còn tác động một đợt nữa.
Sum¬mer¬lee vươn cổ ra nhìn như muốn thu lấy trọn cả chân trời. Ông thì thầm vẻ hoài nghi:
- Đúng là trời hôm nay rất xanh và rất đẹp. Nhưng hôm qua cũng thế. Tôi không chắc là chúng ta đã hoàn toàn thoát khỏi thảm hoạ.
Chal¬lenger nhún đôi vai lực lưỡng:
- Trong trường hợp đó, chúng ta lại quay trở lại thuyết định mệnh thôi. Nếu trước đây, trái đất đã trải qua thảm hoạ này (giả thiết này cũng không hoàn toàn bị loại trừ) thì sự kiện đó ắt phải diễn ra lâu lắm rồi. Bởi vậy, chúng ta có thể hy vọng rằng còn rất, rất lâu sau nữa nó mới lặp lại.
- Hay lắm, huân tước John trả lời. Nhưng trong trường hợp động đất, cơn địa chấn thứ hai hoàn toàn có thể xảy ra trước khi các ông kịp hoàn hồn sau cơn thứ nhất. Tôi nghĩ là trong mọi trường hợp, chúng ta cứ phải giải phóng đôi chân mình và đi hít thở không khí trong lành chừng nào còn có thể.
Một sự uể oải rất lạ xâm chiếm lấy chúng tôi. Nó là hệ quả của những cảm xúc mãnh liệt mà chúng tôi vừa trải qua. Nó vừa là một phản ứng cảm tính và lý tính. Chúng tôi có cảm giác rằng giờ đây không còn điều gì là quan trọng nữa, rằng mọi cố gắng chỉ là vô ích và chỉ dẫn đến mệt mỏi. Chal¬lenger cũng không còn sức sống. Ông ngồi trên ghế, gục mặt vào hai bàn tay. Huân tước John và tôi phải đứng hai bên xốc tay lên ông mới đứng vững. Thay vì cảm ơn, chúng tôi nhận được một tràng càu nhàu bực tức. Tuy nhiên, khi ra khỏi chỗ trói chân chật hẹp này, chúng tôi dần dần lấy lại được sức lực.
Nhưng phải bắt đầu từ đâu trong cái nghĩa địa mênh mông này? Khi thế giới bắt đầu sinh ra, chưa ai phải trả lời câu hỏi đó. Chúng tôi biết rằng những nhu cầu về vật chất của mình còn có thể thoả mãn được trên cả mức cần thiết, chỉ việc tự phục vụ. Tất cả các nguồn lương thực, thực phẩm, tất cả các loại rượu vang, tất cả các kho tàng nghệ thuật giờ đây là của chúng tôi. Nhưng chúng tôi sẽ làm gì đây? Đầu óc chúng tôi ngay lập tức nghĩ đến một số việc cỏn con, vụn vặt.
Chúng tôi xuống bếp, đặt hai người đầy tớ gái lên giường của họ. Khi chết, hai cô không có vẻ gì là đau đớn. Một cô ngồi trên ghế, một cô nằm gục trên sàn sau nhà bếp. Sau đó, chúng tôi đưa xác Austin vào nhà. Các cơ bắp của bác cứng đơ, chết chóc, cái miệng cong lên một nụ cười mỉa mai, cay độc. Đây cũng là triệu chứng của tất cả những người chết vì trúng độc. Ở tất cả những nơi mà chúng tôi đến, chúng tôi đều bắt gặp những khuôn mặt lặng lẽ, nhăn nhó, méo mó mỉm cười với những kẻ sống sót.
Khi chúng tôi cùng nhau ăn bữa ăn đạm bac, huân tước John đi đi lại lại trong phòng, sau đó dừng lại nói:
- Nghe nhé, tôi không biết cảm nghĩ của các ông như thế nào những tôi thì tôi không thích ngồi chết dí ở đây như thế này.
Chal¬lenger nhíu đôi lông mày:
- Vậy xin huân tước chiếu cố gợi ý cho chúng tôi biết là chúng ta nên làm gì?
- Hãy lên đường và xem điều gì đã xảy ra.
- Tôi cũng đang định đề nghị thế đấy.
- Nhưng không phải trong ngôi làng bé nhỏ này. Ở đây, chỉ cần nhìn qua cửa sổ là biết điều gì đang xảy ra.
- Vậy thì chúng ta đi đâu?
- Đến Luân Đôn.
- Hay quá nhỉ, Sum¬mer¬lee rên rẩm. Các ông thì có thể cuốc bộ 65 km chứ tôi, tôi không nghĩ là Chal¬lenger có thể đi được từng ấy đường đất với đôi chân vòng kiềng ngắn ngủn của mình. Về phần tôi, tôi dám chắc là tôi không đi được.
Chal¬lenger bực dọc phản đối:
- Nếu ông có thể giới hạn óc quan sát của ông vào những đặc điểm cá nhân của ông thì ông sẽ thấy có khối thứ phải bàn đấy.
- Tôi không có ý định xúc phạm ông đâu, ông bạn Chal¬lenger thân mến, kẻ lỡ lời kêu lên. Không ai phải chịu trách nhiệm về ngoại hình của mình. Nếu thiên nhiên đã quyết định ban cho ông một thân hình thô kệch và nặng nề thì làm sao ông tránh khỏi có đôi chân vòng kiềng ngắn ngủn được chứ.
Quá tức giận, Chal¬lenger không thèm trả lời. Mặt ông đỏ rần rần, mắt máy máy liên tục. Huân tước John vội vã can thiệp:
- Các ông tính đi bộ sao? Nhưng cớ gì phải đi bộ chứ.
- Thế ông định bảo chúng tôi đi tàu chắc? Chal¬lenger trả lời, giọng vẫn còn run lên vì giận
- Không, nhưng còn xe của ông đấy. Sao chúng ta không lấy xe đi.
- Thế mà tôi không nghĩ ra, Chal¬lenger trả lời, tính toán sau bộ râu. Ông có lý khi cho rằng trí thông minh của con người đôi khi cũng cần phải đủ linh hoạt để thích ứng với mọi hoàn cảnh. Ý của ông rất tuyệt, huân tước ạ. Tôi sẽ lái xe đưa tất cả đến Luân Đôn.
- Ông không có lái đâu đấy, Sum¬mer¬lee phản ứng mạnh mẽ.
- Ôi không, George, bà Chal¬lenger kêu lên. Mình đã thử lái một lần rồi còn gì. Mình có nhớ mình đã tông hỏng cánh cửa gara như thế nào không.
- Chỉ là do mất tập trung trong giây lát thôi, Chal¬lenger đáp. Thôi không bàn cãi nữa. Tôi sẽ chở mọi người đến Luân Đôn.
Huân tước John xen vào:
- Xe của ông là xe gì?
- Hum¬ber 20 mã lực.
- À được. Tôi lái loại xe này nhiều năm rồi. Nhưng xin thề với các ông là tôi chưa bao giờ nghĩ có ngày mình sẽ chở toàn thể nhân loại trong một chiếc Hum¬ber đâu nhé. Có đủ chỗ cho năm người đấy. Các vị chuẩn bị đi. Đúng 10 giờ tôi đợi mọi người ở cổng.
Chiếc xe nổ giòn và từ từ rời khỏi sân. Huân tước John cầm lái, tôi ngồi bên cạnh ông. ở phía sau, bà Chal¬lenger ngồi giữa hai nhà bác học mặt hầm hầm. Huân tước John giảm phanh, tăng tốc và xe chúng tôi lao vút đi, chuẩn bị bước vào chuyến đi phiêu lưu nhất trong đời.
Ngày hè tháng tám thật lộng lẫy với không khí trong lành của buổi sớm. Nắng vàng như trải mật, bầu trời cao không một gợn mây, xanh ngắt như những cánh rừng xứ Sus¬set trên những triền đồi phủ thạch thảo tim tím. Vẻ đẹp rực rỡ, đầy màu sắc của thiên nhiên quét đi mọi ý nghĩ về thảm hoạ song không che dấu được sự tĩnh mịch tuyệt đối đang bao trùm lên cảnh vật. Ở thôn quê vốn bao giờ cũng rộn rã những âm thanh vô cùng dễ chịu và sống động của cuộc sống: tiếng rì rào của những con sóng, tiếng líu lo của chim muông, tiếng râm ran của côn trùng, tiếng người, tiếng súc vật, tiếng chó sủa, tiếng xình xịch của tàu hoả, tiếng ô tô... Tất cả quyện lại với nhau thành một nốt trầm không dứt mà đôi tai con người không phân tách rành rẽ được. Thế mà giờ đây, âm thanh ấy không còn nữa. Tất cả chỉ còn là sự yên tĩnh chết chóc và ngạt thở. Sự tĩnh lặng hiện hữu đậm nét đến nỗi chúng tôi có cảm giác tiếng máy xe của chúng tôi giống như một thứ âm thanh trơ trẽn, một sự xỉ nhục đáng hổ thẹn vào bầu không khí yên lặng trong giờ phút báo tử của nhân loại này.
Và vô vàn là xác chết. Vô vàn những khuôn mặt méo xệch, nhăn nhó làm chúng tôi rùng mình kinh sợ. Cảm giác ập đến mạnh mẽ đến nỗi tôi không thể nào quên những hình ảnh mà chúng tôi bắt gặp trên đoạn đường đến nhà ga. Chúng tôi đi ngang qua xác của cô trông trẻ và hai em bé, đi ngang qua con ngựa già gục đầu đến tận gối giữa hai cái càng xe, qua bác xà ích già vẫn ngồi ngay trên ghế, qua cậu thanh niên vẫn còn nắm tay nắm cửa để nhảy ra. Phía dưới chút nữa là xác của sáu người thợ gặt chen chúc nhau, những đôi mắt trống rỗng vô hồn ngước lên trời như chất vấn. Nhưng ngay sau đó, những sợi dây thần kinh bị kích động quá mức của chúng tôi thôi không còn phản ứng nữa. Nỗi kinh hoàng khiến chúng tôi bỏ qua những chi tiết cụ thể. Cá nhân hoà mình trong tập thể, tập thể hoà lẫn trongđám đông, đám đông chìm đắm trong một tổng thể mà người ta bắt buộc phải chấp nhận mọi chi tiết. Chỉ trong những tình huống cụ thể với những sự kiện đặc biệt cảm động hay lố lăng đập vào não bộ thì đầu óc của con người mới có những cảm nhận cụ thể của riêng mình về thảm hoạ được.
Nhiều nhất vẫn là trẻ con. Tôi không còn nhớ đã bắt gặp bao nhiêu cảnh tượng khiến trong lòng chúng tôi trào lên nỗi xúc động, căm giận sự bất công không cách gì có thể tha thứ được. Bà Chal¬lenger khóc rất nhiều khi xe chúng tôi đi qua một ngôi trường lớn. Những cái xác nhỏ bé nằm rải rác thành hàng dài bên đường. Bọn trẻ được thầy giáo hoảng hốt cho về nhà và chất độc đã giết chết các em khi các em chạy về với mẹ. Rất nhiều người chết trên những cánh cửa mở rộng. Không có cánh cửa nào Tun¬bridge Well lại không có một xác người. Thiếu không khí, thiếu ôxy (thứ khí chỉ mình chúng tôi có đủ) khiến mọi người hấp tấp lao ra cửa. Các vỉa hè cũng đầy ắp xác đàn ông, phụ nữ và trẻ em, đầu trần, trang phục đôi khi rất xộc xệch đâm quáng bổ quàng ra khỏi nhà. Rất nhiều người ngã sấp ngay giữa đường. May mà huân tước John lái xe rất cừ. Không gì khó hơn là phải tránh những thây người đây đó khắp nơi. Chúng tôi mất rất nhiều thời gi¬an khi đi qua các thành phố và làng mạc. Một lần ở Tun¬brige, chúng tôi đã có phải dừng lại giải phóng các xác người cản đường chúng tôi.
Một số hình ảnh trong bức tranh chết chóc trên đường đi Sus¬set và Kent này vẫn còn đọng mãi trong tâm trí tôi. Tại cánh cửa một nhà trọ của South¬bor¬ough có một chiếc ôtô to bóng loáng đỗ lại, trên xe chắc hẳn chở những người vừa đi hội hè đình đám ở Brighton hay East¬bourne về. Có ba người phụ nữ ăn mặc rất đẹp, còn trẻ và xinh xắn. Một người bế một chú chó Bắc Kinh, đi cùng một người đàn ông đứng tuổi có vẻ mặt của kẻ ăn chơi trác táng và một chàng trai trẻ quý phái đeo trên mắt chiếc kính một tròng và điếu thuốc cháy dở giữa những ngón tay đeo găng. Cái chết đến với họ cùng một lúc, khiến họ đứng im lìm như những hình nhân bằng sáp. Người đàn ông có tuổi đang cố gắng cởi khuy áo cổ để thở nhưng những người khác trông như đang ngủ. Ông chủ nhà trọ ngã bên chiếc xe, hai chiếc cốc vỡ vụn ở bậc để chân. Phía bên kia, hai kẻ lang thang ăn mặc rách rưới một nam một nữ mắc kẹt tại nơi họ bị ngã. Người đàn ông giơ tay ra như muốn xin tiền. Trong tích tắc, chàng trai quyền quý, ông chủ quán trọ, những kẻ lang thang, con chó và những người phụ nữ xinh đẹp biến thành những sinh vật mẫu phòng thí nghiệm.
Tôi cũng nhớ một cảnh đặc biệt khác ở cách Luân Đôn vài cây số. ở bên trái là một tu viện lớn có một con dốc phủ cỏ cách đường. Con dốc đầy những trẻ em đang quỳ gối đọc kinh. Phía trước các em là những nữ tu đứng thành hàng. Cao hơn chút nữa là Mẹ bề trên, dáng người cứng nhắc. Không giống với những con người vui vẻ chúng tôi nhìn thấy trên ôtô, những người này dường như đã được cảnh báo trước thảm hoạ và lựa chọn một cái chết quây quần có thầy, có trò trong một bài giảng chung cuối cùng.
Đầu óc tôi vẫn còn quay cuồng với chuyến đi khủng khiếp này và tôi không thể tìm được những lời lẽ nào diễn tả cảm xúc đang xâm chiếm lấy chúng tôi. Có lẽ không nên thử tìm hiểu và bỏ mặc mọi việc lại hơn. Sum¬mer¬lee và Chal¬lenger cũng đã gục, bà Chal¬lenger nức nở, thổn thức. Chỉ có huân tước John là bận rộn lái xe. Ông không có thời gi¬an và cũng không muốn nói. Ông cứ lẩm bẩm không biết chán.
- Rất đẹp, phải không?
Câu nói lặp đi lặp lại này khiến tôi buồn cười. Thật là một lời bình luận chẳng ăn nhập gì với cái ngày chết chóc này. Nhưng đó là những gì huân tước John thốt lên mỗi khi nhìn thấy cái chết và cảnh đổ nát hiện lên trước mặt. "Rất đẹp, phải không?", ông nói khi chúng tôi đi từ Rother¬field tới ga. "Rất đẹp, phải không?", ông thốt lên khi chúng tôi đi trên con đường lớn Lewisham hoặc đường Kent già cả, hoang vu như sa mạc.
Ở đây, chúng tôi đã bị một cú sốc khủng khiếp. Chúng tôi nhìn thấy từ cửa sổ một ngôi nhà tồi tàn xuất hiện một chiếc mùi xoa bay phất phơ trên một cánh tay dài khẳng khiu vươn ra. Chưa một hình ảnh về cái chết nào làm tim chúng tôi thót lại rồi đập mạnh như dấu hiệu của sự sống bất ngờ này. Huân tước John đỗ xe dọc vỉa hè. Một lát sau, chúng tôi tiếng vào ngôi nhà đang mở cửa, leo lên cầu thang và bước vào căn phòng tầng hai nơi xuất hiện dấu hiệu mà chúng tôi nhìn thấy khi nãy.
Một bà cụ rất già ngồi trong chiếc ghế bành bên cạnh cửa sổ. Bên cạnh bà là chiếc bình ôxy nằm vắt ngang qua chiếc ghế đẩu, một chiếc bình nhỏ hơn nhưng đúng như những chiếc bình ôxy đã duy trì mạng sống cho chúng tôi. Khi chúng tôi bước qua ngưỡng cửa, bà lão quay gương mặt gầy dài với đôi mắt nhanh nhẹn dưới cặp kính sang nhìn chúng tôi.
- Tôi sợ bị bỏ rơi ở đây suốt đời mất, bà cụ nói. Tôi bị tàn tật, không thể cử động được.
- Bà ạ, rất may là chúng con đã qua đây đấy.
- Tôi có điều này nhất thiết phải hỏi các ông. Xin các ông cứ trả lời thẳng thắn cho. Các ông bảo liệu tình hình này có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu không, nhất là cổ phiếu của Đường sắt quốc gia.
Nếu không vì sự lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt bà lão khi đợi câu trả lời thì hẳn chúng tôi đã phá lên cười. Bà Burston (đó là tên bà lão) là một quả phụ già và nguồn thu nhập phụ thuộc vào một số cổ phiếu ở thị trường chứng khoán. Bà không thể hình dung nổi một cuộc sống mà tất cả các cổ phiếu chẳng còn chút giá trị nào. Chúng tôi hoài công thuyết phục bà rằng tất cả tiền bạc trên thế giới này bây giờ đều thuộc về bà nhưng giờ chúng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Đầu óc của bà không chấp nhận được ý nghĩ mới mẻ này. Bà bật khóc.
- Cổ phiếu là tất cả những gì tôi có, bà nhắc đi nhắc lại. Mất hết tiền thế này thì tôi đến chết mất thôi.
Qua những lời than khóc của bà, chúng tôi phát hiện ra lý do tại sao bà lão lại còn sống, như cái cây già nua còn sống trong khi cả khu rừng đã chết. Bà bị liệt và bị hen. Bệnh hen bắt bà phải thở ôxy. Khi thảm hoạ xảy ra, bình ôxy của bà còn đầy nguyên. Đương nhiên là khi nào cảm thấy khó thở, bà lại hít khí ôxy và điều đó làm bà thấy dễ chịu hơn. Dùng ôxy dè sẻn nên bà đã kéo dài được hết đêm. Sáng nay bà đang thiu thiu ngủ thì bị tiếng xe ô tô của chúng tôi đánh thức dậy. Vì chúng tôi không thể mang bà theo, mà bà cũng đã có đầy đủ những thứ cần thiết cho cuộc sống nên chúng tôi đã hứa là sẽ quay lại thăm bà trong hai ngày tới. Khi chúng tôi đi, bà lão vẫn không thôi than khóc cho đám cổ phiếu mất giá của mình.
Khi tới gần Tamise, các đường phố trở nên đông đúc và tắc nghẽn hơn. Các chướng ngại đủ loại làm chúng tôi mất phương hướng. Chật vật lắm chúng tôi mới qua được cầu Luân Đôn. Nhưng sau đó, chúng tôi không tiến thêm được nữa vì dòng xe cộ đang tê liệt ngoài đường. Một chiếc tàu neo dọc bến cầu đang cháy. Không khí vẩn lên những cụm bồ hóng, một mùi cháy khét lẹt bóp nghẹt cổ họng của chúng tôi. Đâu đó phía sau toà nhà Nghị viện bốc lên một đám khói mờ rất dầy nhưng chúng tôi không biết đích xác đám cháy phát ra từ đâu.
- Tôi không biết các ông nghĩ thế nào chứ tôi thấy quang cảnh ở nông thôn còn đỡ buồn hơn ở thành phố, huân tước John dừng xe nói. Sự chết chóc ở Luân Đôn làm thần kinh tôi căng thẳng quá. Tôi đề nghị là chúng ta chỉ đi quanh quanh thành phố xem thôi, sau đó trở về Rother¬field.
Giáo sư Sum¬mer¬lee đồng tình:
- Tôi không hiểu thực sự các ông hy vọng tìm thấy gì ở đây.
Chal¬lenger lớn tiếng, phá tan sự yên lặng vây quanh chúng tôi:
- Nếu không đi, làm sao chúng ta có thể hình dung trong bảy triệu công dân nước Anh chỉ có một bà lão duy nhất sống sót nhờ một điều đặc biệt hoặc một nhờ sự cố nào đó.
- Nếu bà lão không phải là người duy nhất sống sót thì chúng ta làm thế nào phát hiện ra họ, bà Chal¬lenger hỏi. Nhưng em đồng ý là không thử thì sẽ không biết được.
Thế là chúng tôi ra khỏi xe và vất vả đi xuống con đường King Wil¬iam ngổn ngang chướng ngại rồi bước vào một văn phòng bảo hiểm mở cửa. Đó là một toà nhà nằm ở góc phố. Chúng tôi chọn nó vì ở đây có thể nhìn ra mọi hướng. Chúng tôi trèo lên cầu thang và lặng lẽ băng qua một căn phòng có lẽ là phòng họp Hội đồng quản trị vì chúng tôi nhìn thấy tám người đàn ông có tuổi đang ngồi quanh một chiếc bàn dài trên tấm thảm màu xanh. Cửa sổ mở rộng và chúng tôi tiến ra ban công. Từ đây, chúng tôi có thể nhìn thấy các con phố toả đi khắp hướng. Dưới chân chúng tôi là con phố đen đặc một dòng xe bất động. Dường như tất cả xe cộ đều hướng ra phía ngoại ô. Quá mệt mỏi với cuộc sống thành thị, đến phút cuối cùng, ai nấy đều cố gắng đến tuyệt vọng về với gia đình. Đây đó, bên cạnh những chiếc xe ngựa giản dị là những chiếc xe ô tô mui bóng loáng của các thương gia giàu có. Tất cả mắc kẹt trong dòng xe bất tận. Ngay dưới tầm mắt của chúng tôi là một chiếc xe lộng lẫy. Chủ nhân chiếc xe, một ông già to béo đang nhô hẳn nửa thân người qua cửa xe, tay lấp lánh ánh kim cương giơ lên, dường như đang ra lệnh cho tài xế vượt lên lấy lối đi.
Khoảng một chục chiếc xe khách đỗ trên đường trông như những hòn đảo nhô lên trên đại dương đen kịt. ở tầng trên, hành khách chen chúc ngã dúi dụi vào người nhau như đang chơi một trò trẻ. Trên bốt đèn giữa đường, môt viên cảnh sát hùng dũng tựa lưng vào cột đèn. Dáng anh ta tự nhiên đến nỗi khó ai có thể nhận thấy rằng anh ta không còn sống. Một cậu bé bán báo rách rưới ngã dưới chân anh ta, chồng báo rơi bên cạnh. Môt tờ áp phích tung ra, trên là dòng chữ đen trên nền giấy vàng: "Ẩu đả ở Thượng viện. Một trận cầu bị gián đoạn". Đây chắc là số phát hành đầu tiên bởi chúng tôi đọc thấy trên những yết thị khác có ghi: "Liệu đây có phải là ngày tận thế không?", "Lời cảnh báo của một nhà khoa học vĩ đại", "Chal¬lenger đã có lý', "Những tai hoạ mới".
Chal¬lenger chỉ tay lên tấm yết thị có đăng tên ông. Tôi thấy ngực ông nở ra, đánh trống với bộ râu. ý nghĩ toàn thành phố Luân Đôn đi vào cõi chết khi trên miệng vẫn kêu tên ông và suy nghĩ đến những lời nói của ông đã vuốt ve sự kiêu hãnh của ông. Cảm xúc ấy hiện lên rõ mồn một khiến người đồng nghiệp không thể ngăn mình buông ra một nhận xét châm chọc:
- Chal¬lenger, ông đúng là một minh tinh cho tới tận phút cuối cùng.
- Có thể lắm, Chal¬lenger trả lời.
Chal¬lenger nhìn xuống dưới, nhìn xuống con phố tĩnh mịch chết chóc rồi nói"
- Tôi không hiểu tại sao chúng ta lại ở Luân Đôn lâu đến thế. Tôi đề nghị quay trở lại Rother¬field và bàn luận xem sẽ sử dụng những năm tháng trước mắt cách nào cho hiệu quả nhất.
Cảnh cuối cùng mà chúng tôi chứng kiến tại thành phố chết này là quang cảnh nhà thờ Sainte-Marie, gần nơi chúng tôi đỗ xe. Chọn một con đường giữa nhưng thân hình ngổn ngang trên lối đi, chúng tôi đẩy cửa bước vào. Thật là một quang cảnh đáng kinh ngạc. Nhà thờ đông nghẹt người đang quỳ gối trên các bục. Cho đến phút cuối cùng đáng sợ, dân chúng bỗng nhận ra sự thực, một sự thực kinh hoàng mà chúng tôi đã phải đối mặt và cũng may mới chỉ phải chứng kiến mà thôi. Họ đổ xô đến những ngôi nhà thờ cổ ở Luân Đôn mà từ hàng thế kỷ nay chẳng có ai lai vãng. Đàn ông và phụ nữ ở gần nhau đến mức họ ngã ra mà đầu gối vẫn quỳ. Một số người xúc động đến nỗi vẫn còn đội mũ trên đầu. Trên bục giảng đạo, một chàng trai trẻ ăn bận lịch sự dường như đang định nói gì đó với đám đông khi cơn sóng định mệnh ập lên họ. Anh ta chết tại chỗ như một con rối trên sàn diễn, đầu và tay buông thõng qua bục. Nhà thờ xám xịt và bụi bặm, những hàng ghế và những con chiên hấp hối, bóng tối và sự câm lặng... Thật là một cơn ác mộng. Chúng tôi nhón gót bước ra.
Bỗng dưng tôi nảy ra một ý. Tại một góc nhà thờ gần cửa ra vào có những bồn nước rửa tội và đằng sau có một chiếc giếng khá sâu trên có treo những sợi dây chuông. Tại sao không truyền đi một thông điệp mà cả Luân Đôn có thể cùng nghe thấy, ít ra là đối với những người còn sống. Tôi lại chạy vào và cố giật dây chuông. Tôi ngạc nhiên khi nhận ra rằng rất khó có thể làm cho quả chuông chuyển động. Huân tước John chạy theo tôi, cởi áo khoác ra và nói:
- Cậu bé to đầu ơi, cậu có ý hay đấy. Tôi sẽ giúp cậu một tay làm quả chuông này nhảy múa.
Nhưng cả hai chúng tôi cũng không ăn thua. Chal¬lenger và Sum¬mer¬lee phải xắn tay vào trợ giúp thì chúng tôi mới nghe thấy tiếng kêu và tiếng vang của quả chuông. Tiếng chuông mang theo thông điệp hữu nghị và hy vọng của chúng tôi gửi tới bất cứ ai còn sống sót trên nhân gi¬an. Lời kêu gọi hùng hồn của kim loại khiến chúng tôi thấy phấn khích hơn. Chúng đổ toàn bộ sức lực ra kéo chuông. Mỗi nhịp chuông rung lên là chúng tôi lại bị nhấc lên khỏi mặt đất tới nửa mét nhưng rồi chúng tôi cố kéo nó xuống. Chal¬lenger gần như nằm rạp xuống đất khi kéo. ông nhô lên rồi hụp xuống như một con ếch kỳ dị đang nhảy múa, hì hụi nghiến răng mỗi khi kéo. Đây là thời điểm lý tưởng để một nghệ sĩ họa lại bức tranh bốn chàng hiệp sĩ phiêu lưu mạo hiểm, những người bạn chiến đấu phải đối mặt với vô vàn hiểm nguy kỳ lạ và số phận đưa đẩy tới một cuộc phiêu lưu chưa từng thấy! Chúng tôi kéo chuông trong nửa giờ, mồ hôi túa đầy trên mặt, tay và bụng đau như rần. Sau đó chúng tôi lại đi ra cổng lớn, hồi hộp ngóng ra những con phố ùn tắc và câm lặng. Không một tiếng động hay cử chỉ nào đáp lại sự kêu gọi của chúng.
- Vô ích! Tất cả chết hết rồi, tôi kêu lên.
Bà Chal¬lenger tán thành:
- Chúng ta chẳng làm gì hơn được nữa. Anh George, vì lòng kính Chúa, chúng ta hãy quay trở lại Rother¬field thôi. ở trong thành phố câm lặng và chết chóc này thêm một giờ nữa thì em đến phát điên lên mất.
Chúng tôi trở lại xe, không ai nói với nhau một lời. Huân tước John quay xe và chúng tôi lên đường, hướng về phía Nam. Cuốn phim về cuộc phiêu lưu của chúng tôi dường như đã kết thúc. Chúng tôi không thể tưởng tượng rằng một trường đoạn mới sẽ lại mở ra.
Chương 06. Tỉnh Giấc
Bây giờ, tôi đã đi đến hồi kết về chuyến phiêu lưu kỳ lạ, kỳ lạ hơn bất kỳ chuyến phiêu lưu nào khác, không chỉ những chuyến phiêu lưu trong thời gi¬an tồn tại ngắn ngủi trong đời mỗi chúng tôi mà trong cả lịch sử chung của nhân loại. Như lúc đầu tôi nói, khi tôi bắt đầu ghi lại các sự kiện thì cuộc phiêu lưu này hiện ra, vượt lên trên tất cả các cuộc phiêu lưu khác, giống như một đỉnh núi nhô lên giữa những ngọn đồi xung quanh. Thế hệ chúng tôi hứa hẹn có một số phận đặc biệt vì được chọn để chứng kiến điều kỳ diệu tột bậc này. Chỉ có tương lai mới có thể cho chúng tôi biết những tác động của thảm hoạ kéo dài bao lâu cho đến khi nhân loại lấy lại được sự khiêm nhường và tôn trọng thiên nhiên mà cú sốc này đã dạy cho họ. Người ta có thể nghĩ rằng mọi việc sẽ không bao giờ còn như trước kia. Không ai nhận thức được sự bất lực và giới hạn tầm hiểu biết của mình. Không ai cảm thấy mình đang nằm trong sự điều khiển của một bàn tay vô hình chừng nào bàn tay ấy chưa vung lưỡi hái tử thần lên. Cái chết treo lơ lửng trên và chúng tôi biết rằng nó có thể quay trở lại bất cứ lúc nào. Bóng đen rình rập của nó khiến cuộc sống của chúng tôi tối xầm lại nhưng không thể phủ nhận rằng dưới cái bóng đen ấy, ý nghĩa của nghĩa vụ, sự đánh giá công bằng lại sự sống và mục đích của sự sống sống, sự ham thích được mở mang...dường như trở nên mãnh liệt hơn, mạnh mẽ hơn. Chúng tôi đưa tất cả những nhận định trên vào cuộc sống hàng ngày của chúng tôi để không ngừng tự hỏi: có phải xã hội đang hoàn toàn biến đổi? Vượt lên mọi thói quen, vượt lên mọi giáo lý, dường như có điều gì đó thay đổi trong chúng tôi. Một sự thay đổi cách nhìn, thay đổi nhận thức về tính tương đối, sự yếu đuối và kém cỏi của mình, cảm giác rằng mình tồn tại là do sự bao dung của tạo hoá, rằng mạng sống mong manh của mình bị treo lơ lửng trước những cơn gió lạnh chẳng biết từ đâu thổi đến. Nhưng theo tôi, thế giới già đi không có nghĩa là nó sẽ buồn thêm lên. Cố nhiên, chúng tôi đồng ý là những thú vui giản di ngày nay sâu sắc và lành mạnh hơn nhiều so với những trò ầm ỹ đến điên loạn hồi xưa. Thời gi¬an đó cũng không cách hiện tại bao xa nhưng những gì đã xảy ra giờ nhìn lại thật không sao chấp nhận nổi. Cuộc sống mà con người đã lãng phí trong những cuộc thăm viếng vô bổ tại những ngôi nhà lớn, những bữa ăn cầu kỳ và gò bó bây giờ được thay bằng thú vui đọc sách, nghe nhạc hoặc xum họp gia đình. Những thú vui sống động hơn và một sức khoẻ tốt khiến con người ta giàu có hơn ngay cả khi người ta vừa quyên hết tiền bạc của mình vào các quỹ dành cho sự phát triển và nâng cao mức sống của người dân tại các đảo nhỏ Anh quốc.
Chúng tôi không thống nhất về thời gi¬an bắt đầu cuộc tỉnh giấc. Chúng tôi chỉ đồng ý là do có sự chênh lệch múi giờ nên có một số nguyên nhân tại chỗ ảnh hưởng đến tác động của chất độc. Tất nhiên, trong các làng, xã, sự hồi sinh diễn ra đồng thời. Nhiều người nói là khi ấy tháp đồng hồ Big Ben chỉ 18h10. Đài thiên văn quốc gia khẳng định lúc đó là 18h12 theo giờ chuẩn quốc tế. Trong khi ấy, Laird John¬son, nhà quan sát tài năng của tờ East An¬glia ghi lại là 18h20. ở Hébrides, mốc thời gi¬an lưu được là 19h. Đối với bản thân chúng tôi, thời điểm đó chắc chắn là vào lúc 18h15 vì lúc bấy giờ chúng tôi đang ngồi trong phòng làm việc của Chal¬lenger và trước mặt tôi là chiếc đồng hồ.
Một sự chán chường vô bờ bến xâm chiếm lấy tôi. Tác động của liên tiếp những cảnh tượng khủng khiếp mà chúng tôi thấy hồi sáng đè nặng lên tâm trí tôi. Trước đây, với sức khỏe và năng lượng tràn trề của tuổi trẻ, tôi chưa bao giờ để mình suy sụp đến thế.
Tôi vốn giữ trong mình tính cách của một người Ailen luôn hài hước trong bất kỳ hoàn cảnh nào cho dù đen tối nhất. Nhưng lần này, tôi thấy thực sự chán nản và tuyệt vọng. Mấy người bạn của tôi ở dưới nhà và đang bàn về những kế hoạch trong tương lai. Tôi đi lại gần cửa sổ đang mở, tay chống cằm và suy nghĩ về tình cảnh khốn khổ của mình. Liệu chúng tôi có thể tiếp tục sống được nữa không? ít nhất đó là câu hỏi mà tôi tự đặt ra cho mình. Liệu có thể sống trong một thế giới chết được không? Trong vật lý, các vật thể lớn thường hút các vật thể nhỏ, liệu chúng tôi có thể chống chọi lại được sức hút khổng lồ của hầu hết nhân loại đang ở bên kia thế giới không? Cuộc sống của chúng tôi rồi đây sẽ kết thúc như thế nào? Chất độc sẽ quay trở lại đe doạ trái đất hay trái đất sẽ trở nên không thể sống nổi khi các xác chết bắt đầu thối rữa. Tôi cũng lo sợ rằng tình cảnh đáng sợ của chúng tôi sẽ khiến chúng tôi mất đi sự thăng bằng lý trí. Một người điên sẽ làm được gì trong một thế giới chết? Đầu óc tôi đang hình dung những gì sẽ đến với mình thì bỗng nghe một tiếng động nhỏ khiến tôi ngoái lại nhìn. Con ngựa già gục đầu trong chiếc xe đang nhỏm dậy.
Cùng lúc ấy, tôi ý thức được rằng lũ chim bắt đầu ríu rít hót, trong sân có ai đó đang ho và tất cả dường như hoạt động trở lại. Tôi nhớ rất rõ ràng, trước hết là hình ảnh con ngựa già vô lý và xấu xí thu hút sự chú ý của tôi. Sau đó, tôi nhìn sang thấy bác xà ích già ngồi dậy trên ghế và anh thanh niên nghiêng người qua cửa sổ ra lệnh. Không còn nghi ngờ gì nữa, sự sống đã quay trở lại.
Loài người đã sống lại. Tôi có bị ảo giác hay không? Cây chuyện về vành đai bị nhiễm độc quanh trái đất lẽ nào chỉ là một cơn ác mộng. Lúc đầu còn ngơ ngác, đúng là tôi cũng nghĩ như thế. Sau đó, tôi nhìn hai bàn tay. Trên hai tay tôi vẫn còn các vết lằn do kéo chuông ở nhà thờ Sainte-Marie. Tôi không mơ. Quả thực là thế giới đang hồi sinh. Giờ đây cơn sóng của sự sống đang bao trùm lên cả hành tinh. Đôi mắt tôi lướt nhìn toàn bộ quang cảnh nông thôn: tất cả đang bắt đầu trở lại, tất cả đang xuất phát trở lại từ điểm dừng trước đây. Hãy nhìn những chơi gôn. Liệu họ có tiếp tục cuộc chơi của mình không? Đúng vậy, một trong hai người vừa phát trái gôn đi xa, một số người khác trên bãi cỏ đang tìm cách đưa trái gôn vào lỗ. Những người thợ gặt chậm rãi đi ra đồng. Cô trông trẻ một tay xốc đứa bé lên, một tay đẩy chiếc xe nôi lên đồi. Mọi người vô tư tiếp tục mạch sống dở dang của mình.
Tôi lao xuống cầu thang. Cánh cửa tiền sảnh đã mở và tôi nghe thấy tiếng trầm trồ ngạc nhiên của những người bạn mình ngoài sân. Chúng tôi bắt tay nhau, cười vui hớn hở. Bà Chal¬lenger xúc động ôm hôn tất cả chúng tôi trước khi lao mình vào cánh tay to lớn của chồng.
- Rốt cục thì họ đâu có ngủ, huân tước John kêu lên. Quỷ tha ma bắt, Chal¬lenger, ông có tin được rằng những người này ngủ mà mắt vẫn mở trừng trừng, cơ bắp căng cứng và nụ cười nhăn nhó trên môi.
- Có thể là họ rơi vào trạng thái giữ nguyên thể trạng, Chal¬lenger trả lời. Đó là một hiện tượng tương đối hiếm mà trước đây người ta hay nhầm với cái chết. Trong trạng thái này, nhiệt độ có thể hạ, hoạt động hô hấp ngưng lại, không nhận thấy nhịp tim nữa. Thực tế, có thể coi đây là cái chết, nhưng là cái chết tạm thời. Đầu óc thông thái nhất...
Nói đến đây, ông cụp mắt lại và mỉm cười thoả mãn:
- ... cũng không thể nghĩ rằng trạng thái giữ nguyên thể của toàn bộ nhân loại lại diễn ra dưới dạng này.
- Ông có thể gọi đó là hiện tượng giữ nguyên thể trạng, Sum¬mer¬lee nói, nhưng kết cục thì nó cũng chỉ là một cái tên, không hơn. Chúng ta cũng không biết gì thêm về tác hại mà chất độc này gây ra. Tất cả những gì mà chúng ta có thể nói chỉ là: khí ête bị ô nhiễm gây ra cái chết tạm thời.
Austin ngồi trên bậc để chân của chiếc xe. Bác là người phát ra tiếng ho mà tôi nghe khi nãy. bác không nói gì, chỉ rùng mình lắc đầu. Giờ đây, bác bắt đầu ngắm nhìn chiếc xe, miệng lẩm bẩm:
- Rõ cái đồ ngớ ngẩn, chắc lại đụng vào cái gì đây.
- Chuyện gì thế Austin?
- Dầu chảy, thưa ông. Chắc có kẻ nghịch ngợm gì vào chiếc xe rồi. Tôi đoán đó là thằng bé con gã làm vườn.
Huân tước John có vẻ xấu hổ.
- Tôi không biết chuyện gì xảy ra nữa, Austin nói tiếp, đoạn khó nhọc đứng dậy. Tôi nhớ là tôi cảm thấy rất kỳ lạ khi đang rửa xe. Tôi nhớ là tôi cảm thấy rất kỳ lạ khi đang rửa xe. Tôi nhớ là tôi đã ngã xuống bậc để chân nhưng mà chắc chắn tôi đã để ý đến dầu xe.
Austin kể lại những gì đã đến với mình. Bác cũng lâm vào tình cảnh chung của toàn thể thế giới vào lúc ấy. Chúng tôi giải thích cho bác câu chuyện bí ẩn về dầu. Bác tài xế già nghe chúng tôi kể, lộ vẻ coi thường ra mặt gã lái am¬atơ đã lái chiếc xe của bác nhưng tỏ ra rất quan tâm khi nghe đến đoạn chúng tôi lái xe vào Luân Đôn đang say ngủ. Tôi nhớ bác nói:
- Vậy là các ông đã đến Ngân hàng nước Anh ạ?
- Đúng vậy, Austin.
- Tiền chất đầy trong nhà băng mà tất cả mọi người đều ngủ phải không ạ?
- Đúng vậy, Austin,
- Thế mà tôi lại không có ở đó, bác thở dài rồi quay ra lấy vòi nước rửa xe.
Có tiếng bánh xe nghiến rào rạo trên sỏi. Chiếc xe ngựa già dừng lại trước cửa nhà giáo sư Chal¬lenger. Tôi thấy người thanh niên dợm bước xuống. Một phút sau, người đầy tớ gái ngơ ngác như vừa say ngủ bước vào, mang theo chiếc khay đựng một tấm danh thiếp. Đọc tấm danh thiếp, Chal¬lenger khịt mũi dữ dội, chòm râu đen rung rung.
- Một phóng viên.
Ông gầm lên rồi nở nụ cười coi thường:
- Sau cùng, đương nhiên là toàn thể thế giới vội vã lao đến hỏi xem tôi suy nghĩ thế nào sau thảm hoạ lớn đến thế.
- Chắc chắn đó không phải là mục đích chuyến viếng thăm của anh ta, Sum¬mer¬lee nói. Tay phóng viên này đã ở trên xe trước khi thảm hoạ xảy ra.
Tôi cầm tấm danh thiếp và đọc thấy đó là James Bax¬ter, phóng viên thường trú tại Luân Đôn của tờ New York Mon¬itor.
- Ông sẽ tiếp anh ta chứ? Tôi hỏi.
- Không.
- Ôi George, mình phải hoà đồng chứ. Hãy tỏ ra dễ thương nào. Chẳng lẽ mình không rút ra bài học nào từ sự kiện vừa rồi sao?
Ông không trả lời, cái đầu lớn bướng bỉnh gục gặc. Sau đó, Chal¬lenger tuôn ra một tràng:
- Nhà báo chỉ là một lũ thối nát, phải không Mal¬one. Đó là loài tồi nhất trong xã hội văn minh hiện đại, là phường lừa gạt, là rào cản của mọi tiến bộ xã hội khi. Khi nào chúng mới chịu nói điều gì tốt đẹp về tôi?
- Còn ông thì sao? Có bao giờ ông chịu nói điều gì công bằng về họ không, tôi phản bác. Đây là một người nước ngoài lặn lội đường xa tới đây gặp ông, chắc ông không để anh ta thất vọng chứ?
- Thôi được rồi, được rồi, Chal¬lenger càu nhàu. Anh đi với tôi rồi thay tôi tiếp chuyện tay nhà báo. Tôi nói trước là tôi phản đối tiết lộ bất cứ điều gì phương hại đến cuộc sống riêng tư của tôi.
Ông cau có đi cùng tôi. Anh bạn người Mỹ trẻ tuổi sẵn sàng nhập cuộc. Anh ta lôi sổ ghi chép ra và vào thẳng vấn đề.
- Thưa ngài, tôi đến vì người dân Mỹ chúng tôi muốn nghe lời cảnh báo về mối nguy hiểm mà ông cho là đang đe doạ thế giới.
- Tôi chẳng biết mối nguy hiểm nào đang đe doạ thế giới cả, Chal¬lenger trả lời giọng cục cằn.
Gương mặt tay phóng viên lộ vẻ ngạc nhiên:
- Tôi muốn nói đến giả thiết về một vành đai nhiễm độc bao quanh trái đất của ngài đấy ạ.
- Bây giờ tôi không nghi ngờ bất cứ sự nguy hiểm nào như thế cả.
Tay phóng viên bối rối trông thấy.
- Có phải chính ngài là giáo sư Chal¬lenger không ạ?
- Đúng, là tôi đây.
- Vậy thì tôi không hiểu tại sao ngài lại có thể nói hiểm hoạ ấy không hề tồn tại. Tôi có cần nhắc lại lá thư có chữ ký của ngài gửi tờ Times đăng sáng nay không?
Đến lượt mình, Chal¬lenger ra vẻ ngạc nhiên:
- Sáng nay ư? Làm gì có tờ Times nào được phát hành ở Luân Đôn sáng nay.
- Chắc chắn là có. Tay phóng viên người Mỹ nói, tuồng như trách cứ. Chắc ngài còn nhớ tờ Times là tờ báo hàng ngày.
Anh ta rút một tờ Times từ trong túi ra.
- Đây là lá thư mà tôi lấy làm căn cứ.
Chal¬lenger thích thú xoa tay vào nhau:
- Tôi bắt đầu hiểu ra rồi đây. Thế ra sáng nay anh đọc tờ báo này hả?
- Vâng, thưa ngài.
- Và anh vội vã đến phỏng vấn tôi phải không?
- Vâng, thưa ngài.
- Thế anh có nhận thấy điều gì khác thường khi đi đến đây không?
- Có đấy ạ. Thú thực là mấy người đồng bào của tôi dường như sống tích cực hơn và nhân văn hơn mọi khi. Người vận chuyển hành lý đã ra khỏi khoang hành lý để kể chuyện cười cho tôi nghe. ở đất nước của chúng tôi, đây đúng là một sự lạ.
- Ngoài ra không có gì khác ư?
- Không thưa ngài. Tôi không nhớ cái gì khác cả.
- Xem nào, anh rời ga Vic¬to¬ria lúc mấy giờ
Tay phóng viên mỉm cười:
- Tôi đến phỏng vấn giáo sư nhưng tôi có cảm giác rằng chính ngài đang phỏng vấn tôi.
- Tôi thích thế đấy. Anh có nhớ anh khởi hành vào lúc nào không?
- Tất nhiên, đó là lúc 12 rưỡi trưa.
- Anh đến nơi lúc mấy giờ.
- 2h15.
- Sau đó anh đi xe ngựa phải không?
- Đúng vậy.
- Theo anh thì nhà ga cách đây bao xa?
- ít nhất là 3 cây số.
- Vậy theo anh, phải cần bao nhiêu thời gi¬an để đi quãng đường 3 cây số này?
- Với con ngựa già hen suyễn này thì có lẽ phải mất nửa tiếng.
- Tức là bây giờ sẽ là khoảng 3 giờ.
- Vâng, có thể muộn hơn một chút.
- Anh xem lại đồng hồ đi.
Tay phóng viên vâng lời và ngạc nhiên tột độ"
- Ô này, đồng hồ của tôi chết hay sao? Con ngựa này chắc chắn đã ngắc ngoải rồi. Mặt trời lặn mất rồi à, bây giờ tôi mới để ý. Ồ, ở đây đã xảy ra chuyện gì đó mà tôi không sao hiểu nổi.
- Anh không nhớ có một biến cố nào đó đã xảy ra khi anh đi lên đồi sao?
- Tôi nhớ hình như một lúc nào đó tôi đã rất buồn ngủ. Dường như tôi muốn nói điều gì đó với bác xà ích nhưng bác ta chẳng nghe thấy gì cả. Tôi nghĩ đó là do trời nóng. Tôi cảm thấy chóng mặt... Thế thôi.
- Cả nhân loại đều cảm thấy thế đấy, Chal¬lenger nói với tôi. Có lúc, tất cả bọn họ đều thấy chóng mặt. Chẳng ai nhận thức được điều gì đang xảy ra. Rồi tất cả mọi người đang làm việc bình thường. Bác Austin lại nhặt vòi nước lên hay như đám người chơi gôn lại tiếp tục cuộc chơi của họ vậy.
Ông tổng biên tập của anh, Mal¬one à, sẽ lại tiếp tục chuẩn bị ra số báo mới và một ngày nào đó sẽ kinh ngạc nhận ra rằng mình thiếu mất một số. Anh bạn trẻ của tôi, ông quay về phía tay nhà báo người Mỹ, anh sẽ rất thúc vị nếu biết rằng trái đất vừa lội qua một dòng ête giống như Gulf - Stream trong đại dương. Và để khỏi nhỡ các cuộc hẹn, xin anh nhớ cho là hôm nay không phải là 27 tháng 8 mà đã là 28 tháng 8 rồi. Anh đã ở trong chiếc xe ngựa trong trạng thái vô thức suốt 28 tiếng trên đồi Rother¬field.
Đến đây tôi đã có thể đặt dấu chấm hết cho câu chuyện của mình. Bạn đọc có thể hình dung là chỉ có một bài phóng sự đầy đủ và chi tiết nhất được đăng vào sáng thứ hai trên tờ Dai¬ly Gazette (bài phóng sự được coi là mang đậm tính báo chí nhất của mọi thời đại và bán được 3,5 triệu bản). Vẫn còn những cái tựa báo được đóng khung trong phòng làm việc của tôi.
Trái đất hôn mê trong 28 tiếng đồng hồ
Biến cố vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người
Chal¬lenger có lý
Phóng viên của chúng tôi không phải chịu chung cảnh ngộ
Câu chuyện ly kỳ
Căn phòng ôxy
Chuyến du hành kỳ lạ
Luân Đôn chết chóc
Trang sách thiếu đã tìm thấy
Những vụ hoả hoạn nghiêm trọng: nhiều người chết
Hiện tượng này còn quay trở lại không?
Dưới phần tựa đầy ấn tượng này là chín cột rưỡi báo. Đây là bài phóng sự duy nhất, là bài đầu tiên và cũng là bài cuối cùng về cái ngày dài nhất trong lịch sử hành tinh (vì ít nhất chỉ có một người quan sát có thể ghi lại).
Trong một bài báo khác, Chal¬lenger và Sum¬mer¬lee phân tích vấn đề dưới góc độ khoa học song chỉ có mình tôi viết phóng sự. Tất nhiên tôi có thể cho đây là đỉnh cao của mình vì sự nghiệp phóng viên của tôi chưa bao giờ được chứng kiến một sự kiện vĩ đại đến thế.
Nhưng tôi không muốn phải kết thúc câu chuyện với những tựa đề giật gân hay như một chiến thắng cá nhân. Tôi xin phép được trích ra đây những lời bình cuối cùng của tờ Times, tờ báo uy tín nhất, tờ báo mà tất cả những đầu óc trí thức phải kính nể.
"Loài người là một đám đông yếu đuối trước những thế lực vô hình và siêu nhiên xung quanh, chân lý ấy đã từng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Các đấng tiên tri cổ đại cũng như nhiều nhà triết học đương đại đã bao lần gửi bức thông điệp cảnh báo này. Nhưng càng nhắc đi nhắc lại, chân lý dường như mất đi tính thời sự và sức nặng của nó. Loài người cần một bài học, một kinh nghiệm nhãn tiền để nhận ra chân giá trị của lời cảnh báo. Và đây, chúng ta vừa trải qua một thử nghiệm lớn nhưng cũng vô cùng khủng khiếp. Thần trí của chúng ta vẫn còn bàng hoàng về sự đột ngột của nó nhưng tâm hồn chúng ta nhẹ nhõm hơn vì chúng ta đã đong đếm được giới hạn cũng như sự yếu đuối của mình. Thế giới đã phải trả một cái giá rất đắt để nhận được bài học ấy. Chúng ta vẫn còn chưa biết hết những hậu quả của tấn thảm kịch nhưng những vụ cháy huỷ diệt ở New York, ở Or¬léans và Brighton tự chúng đã là những bi kịch lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Đến khi thống kê hết những thảm hoạ đường sắt và đường biển, con người sẽ còn phải rùng mình kinh sợ. Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp, những thợ cơ khí hay lái tàu đã kịp tắt máy trước khi bị khí độc tấn công. Nhưng hãy gạt qua một bên những thiệt hại vật chất về tài sản và tính mạng con người cho dù là rất lớn bởi thời gi¬an rồi sẽ xoá nhoà tất cả. Nhưng có một điều không thể quên, ấy là khả năng của vũ trụ và ý thức rằng mảnh đất chật hẹp nơi thu nhận sự tồn tại thể xác của con người có thể phải chịu những hậu quả khôn lường. Từ những gì trải qua ngày hôm nay, loài người phải biết học lấy sự tôn trọng và tính nhân văn, bởi đây chính là cơ sở xây dựng những thế hệ hiểu biết hơn và biết khiêm nhường hơn.
Hết
Tập Truyện Giả Tưởng
Arthur Co¬nan Doyle
Nguồn : vn¬thuquan.net
Tạo ebook : Huyền Trang
Mục Lục
01. Những hầm mộ mới
- Hãy nói đi, anh Burg¬er - Kennedy nói - Tôi rất thích được tiếp nhận những điều bí mật của anh...
Hai nhà khảo cổ trứ danh, cả hai đều là những nhà chuyên môn về thời cổ đại La Mã, đang ngồi trong căn phòng của Kennedy ở đường Cor¬so, buổi tối trời lạnh lẽo. Họ đã kéo ghế bành của họ sát gần lại cái lò sưởi tồi tàn kiểu Ý, là thứ lò phun ra nhiều khói hơn là hơi nóng. Bên ngoài, dưới những vì sao trong sáng của mùa đông là thành phố La Mã hiện đại, dài dặc những cột đèn điện, những tiệm cà phê đèn sáng rực rỡ, những xe cộ chạy qua lại, một đám người đông đặc trên các hè phố. Nhưng ở bên trong căn phòng lộng lẫy của nhà khảo cổ trẻ tuổi và giàu có người Anh, thành phố La Mã cổ xưa đang trưng bày các kho tàng của nó. Trên các bức tường treo lủng lẳng những đồ trang sức đã nứt rạn hư hỏng. Những pho tượng cũ kỹ xám nhạt của những vị nguyên lão và những người lính, với những cái đầu hung bạo của họ được bày trong tất cả mọi xó xỉnh. Họ có vẻ rình rập những điều gì được nói ra trong căn phòng. Trên chiếc bàn kê giữa nhà, ở giữa một đống giấy tờ, những mảnh vỡ, những đồ trang trí linh tinh, người ta thấy nối bật lên sự tái tạo lừng danh của Kennedy về các nhà tắm của Carac¬ul¬la, một sự tái tạo mà khi trưng bày ở Berlin đã gây nên rất nhiều sự quan tâm và thán phục. Những chiếc bình cổ hai quai được treo trên trần nhà. Nhưng món đồ lạc xoong chính cống được bày ra trên một tấm thảm đỏ Thổ Nhĩ Kỳ rất đẹp. Tất cả những đồ vật được quy tụ lại như vậy đều có một nguồn gốc chính xác không chê trách vào đâu được, đều rất hiếm thấy và đều có một giá trị vô kể. Thật sự thì Kennedy chỉ mới ngoài ba mươi tuổi, nhưng trong lãnh vực sưu khảo về ngành chuyên môn này anh đã đạt được sự lừng danh ở Âu châu. Ta cũng cần nói ngay rằng anh có một túi tiền khá lớn, việc này có thể tạo nên một trở ngại hiểm nghèo hay một lợi thế đáng kể trong cuộc chạy đua tới danh vọng. Thường khi Kennedy tự để mình xao lãng bởi những đam mê khoái lạc. Nhưng anh có một tinh thần sâu sắc, có khả năng thực hiện các nỗ lực lâu dài và tập trung, và các nỗ lực này thường được tiếp nối bởi những phản ứng đột khởi của cơ thể. Gương mặt đẹp đẽ, vầng trán thanh thản và xanh tái, cái mũi dữ dằn của anh có vẻ một nét phóng túng ở miệng anh tất cả đều biểu hiện khá rõ ràng sự dung hòa được thiết lập giữa sức mạnh và sự yếu mềm.
Người bạn của anh là Julius Burg¬er thì lại là một kiếu người rất khác biệt. Người ta thấy một sự trộn lẫn kỳ lạ trong các nguồn gốc của anh. Là con của một người bố Đức và một người mẹ Ý, anh có được những đức tính mạnh mẽ của phương Bắc mà những phong cách sôi nổi hơn của miền Nam đã làm cho dịu bớt đi. Những ánh mắt màu xanh của dân Ten¬ten làm sáng ngời bộ mặt đã hóa ra màu đồng vì sạm nắng. Những lọn tóc nâu bao quanh vầng trán vuông vắn. Không có râu, điều này làm tăng thêm nét mạnh mẽ và vững chắc của quai hàm. Kennedy thường nhận xét rằng nó giống như quai hàm người La Mã ở các pho tượng cùng với sức mạnh thô bạo của giống người Đức, lúc nào cũng nổi lên tính chất tế nhị của người Ý. Nhưng nụ cười chân thật và cái nhìn thẳng thắn đã đế cho mọi người hiểu rằng sự tế nhị đó không ảnh hưởng gì tới tính tình của anh. Về tuổi tác và danh vọng thì anh cũng ngang hàng với anh bạn người Anh, tuy nhiên cuộc sống và công việc của anh đã vấp phải nhiều khó khăn hơn. Mười hai năm trước đây anh đã tới Rome với tư cách một sinh viên nghèo khố, từ đó anh sống ở đó với một số tiền còm cõi mà trường đại học Born đã trợ cấp đế anh theo đuổi công cuộc sưu tầm một cách cực nhọc, chậm chạp, ngoan cường, với một sự bền bỉ và một sức mạnh hiếm có về tinh thần, anh đã từng bước một leo lên các bậc thang danh vọng. Hiện nay anh là hội viên của Viện Hàn lâm Berlin, và người ta có đủ lý lẽ để tin rằng chẳng chóng thì chầy anh sẽ được mời nhận một chân giảng dạy trong trường đại học lớn nhất nước Đức. Nhưng nếu chỉ nhằm vào một mục đích, trên bình diện khảo cổ học, anh có thể đạt tới cùng một trình độ cao như ông bạn người Anh, thì trên mọi mặt khác anh đã bị thua sút rô ràng. Không bao giờ anh xao lãng một phút giây trong việc học hỏi để trau dồi sự hào hoa phong nhã. Chỉ những khi nào nói về nghiệp vụ thì anh mới tỏ ra thực sự linh hoạt và có một tâm hồn. Ngoài ra anh thường trầm lặng, lúng túng, có một ý thức thái quá về những khiếm khuyết của mình, và anh chịu đựng một cách bực bội những chuyện nhỏ nhặt mà những người không có ý kiến gì để phát biếu thường gặp phải.
Tuy nhiên từ một vài năm này giữa hai đối thủ rất khác biệt nhau này, mối quan hệ đã được ráp nối; mối quan hệ có vẻ dần dà tiến tới tình bằng hữu. Không có gì đáng ngạc nhiên về việc đó cả: họ cảm thấy họ là những người duy nhất trong đám thanh niên đã có được đầy đủ các kiến thức và nhiệt tình để hiểu biết giá trị của nhau. Sự tương đồng về các mối quan tâm cũng như về việc nghiên cứu của họ càng làm cho họ gần gũi nhau hơn khi mà mỗi người đều bị lôi cuốn bởi sự hiểu biết của người kia. Rồi còn có một cái gì hơn nữa đã len lỏi vào mối gi¬ao tình của họ: Kennedy rất thích thú vì sự thành thực và giản dị của đối thủ trong khi ngược lại, Burg¬er bị mê hoặc vì sự sinh động về tinh thần và sự khinh khoái về trí tuệ là những thứ đã làm cho Kennedy trở thành con người thời thượng của xã hội Rome. Tôi cố ý nói chữ "đã làm", vì hiện lúc này thì anh thanh niên người Anh đang phải chịu một hình thức phóng trục nào đó. Một chuyện tình mà những chi tiết không bao giờ dược biết tới đầy đủ đã phát lộ ra một sự thiếu can đảm và ngay cả một sự nhẫn tâm mà nhiều bè bạn của anh cho là đáng ghét, nhưng trong các giới nghệ sĩ và sinh viên mà anh thường thích lui tới thì các tiêu chuẩn về danh dự không quá khắc khe đối với những chuyện như vậy: sự tò mò và lòng ghen tị ở nơi đó mạnh hơn là sự chê trách.
- Hãy nói đi, Burg¬er!
Kennedy vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào bộ mặt trầm tĩnh của người bạn.
- Tôi rất thích dược tiếp nhận những điều thầm kín của anh.
Anh vừa nói vừa vung vẩy bàn tay về phía một tấm thảm trên tấm thảm có một trong những cái giỏ mây để đựng hoa quả, những cái giỏ dài và nông lòng, rất thông dụng ở xứ Cam¬pan¬ic. Và cái giỏ chứa đầy những hòn đá có chạm trổ, những đồ khảm, những tờ giấy bằng vỏ cây rách nát, những đồ vật kim loại han rỉ. Một người không ở trong nghề chắc sẽ cho rằng những món đồ này vừa từ chợ bán đồ lạc xoong tới. Nhưng một nhà chuyên môn sẽ nhận ra ngay rằng đây là những đồ quý hiếm có một không hai. Trong cái giỏ mây này có những thứ để thay thế một mắt xích bị thiếu trong chuỗi xích tượng trưng cho sự phát triển về mặt xã hội của loài người. Chính là anh chàng người Đức đã mang những món quý hiếm này vào phòng của anh chàng người Anh; cặp mắt của Kennedy sáng lên một cách nôn nóng.
- Tôi không muốn là kẻ trông chuyện, mà cũng không muốn can thiệp vào việc tìm kiếm kho tàng của anh, - anh nói tiếp trong khi Burg¬er châm một điếu xì gà, - thật tình tôi rất thích được nghe anh nói? Chắc là anh đã phát hiện ra một điều gì rất quan trọng anh sẽ làm đảo lộn tất cả Âu châu?
- Mỗi nhà khảo cổ học ở nơi đây đều có hàng triệu các thứ vụn vặt lẻ tẻ này? - Anh chàng người Đức trả lời, - nó có nhiều đến nỗi hàng chục nhà bác học sẽ có thể bỏ ra hết cả cuộc đời họ để nghiên cứu chúng và tạo ra một danh vọng vừng bền như "lâu đài" Saint Ange vậy?
Kennedy đứng lặng mải mê suy nghĩ, những nếp nhăn hằn lên trên trán. Anh lấy ngón tay vuốt ve chòm râu vàng hoe. Sau đó anh nói:
- Anh đã giấu đầu hở đuôi rồi, anh Burg¬er ạ! Những lời nói của anh chỉ thích hợp với một giả thuyết duy nhất? Anh đã khám phá ra những hầm mộ mới.
- Tôi cũng nghĩ là anh sẽ đi tới kết luận này ngay khi vừa nhìn thấy bộ sưu tập của tôi.
- Nghĩa là cái nhìn thoáng qua của tôi đã khiến cho tôi đưa ra giả thuyết; nhưng lời nhận xét của anh đã biến giả thuyết của tôi thành sự xác quyết. Ngoài các hầm mộ ra không có nơi nào lại có thể chứa đựng được một số lượng di chỉ, tàn tích như vậy.
- Đồng ý! Việc này không có gì là bí ẩn cả... Tôi đã tìm thấy những hầm mộ mới.
- Ở chỗ nào vậy?
- À, anh bạn Kennedy thân mến, đó là điều bí mật của tôi! Tôi chỉ cần nói với anh rằng địa điểm của chúng khó tin được đến nỗi không có cơ may trong một phần triệu lần cho một anh chàng hiếu kỳ nào khác dòm ngó tới. Chúng thuộc vào một thời đại khác hẳn mọi thời đại mà ta đã biết; chúng đã được dành làm nơi chôn cất những tín đồ Cơ đốc lừng danh nhất; do đó những tàn tích và di chỉ ở đó tuyệt đối không giống mọi thứ đã được phát hiện cho tới nay. Anh bạn ạ, nếu tôi không biết kiến thức và nghị lực của anh thì tôi đã không ngần ngại gì để nói tất cả với anh, với điều kiện là không được tiết lộ bí mật. Nhưng với cá tính của anh, tôi nghĩ là tốt hơn hết tôi phải soạn thảo bản tường trình của riêng tôi trước khi phải đương đầu với một cuộc ganh đua ghê gớm!
Kennedy yêu quý nghề nghiệp của anh với một nhiệt tình gần như một thứ bệnh hoạn (một lòng yêu thích mà anh luôn luôn tận tụy ngay ở giữa các trò vui nằm trong tầm tay một thanh niên giàu sang và ưa khoái lạc). Anh cũng có nhiều tham vọng; nhưng tham vọng của anh đi theo sau sự thích thú và quan tâm hoàn toàn trừu tượng mà anh dành cho tất cả những gì liên quan tới đời sống và lịch sử thành La Mã cổ xưa. Anh có một khát vọng điên cuồng muốn nhìn thấy cái hầm mộ mà người bạn vừa phát hiện.
Anh nói tiếp một cách rất nghiêm túc:
- Hãy nghe đây, anh bạn Burg¬er! Ttôi bảo đảm với anh rằng anh có thể đặt lòng tin một cách mù quáng vào tôi Tôi sẽ không viết gì về những điều mà tôi thấy mà không có sự cho phép rõ ràng của anh. Tôi hiểu rõ các cảm nghĩ của anh. Chúng cũng hoàn toàn tự nhiên thôi. Nhưng anh sẽ tuyệt đối không có gì phải lo ngại về tôi cả. Ngược lại, nếu anh không tin tôi, tôi sẽ tự mình thực hiện một cuộc tìm tòi có hệ thống, và chắc chắn tôi sẽ tìm ra những hầm mộ mới của anh. Trong trường hợp này chắc chắn là tôi sẽ sử dụng chúng theo ý thích của tôi, vì tôi không phải là người chịu ơn của anh.
Burg¬er cười mỉm với điếu xì gà trên môi. Anh nói:
- Anh bạn Kennedy ạ, tôi đã nhận thấy mỗi khi tôi cần một tin tức nào, anh không luôn luôn sẵn sàng cung cấp nó một cách mau lẹ như thế đâu?
- Có bao giờ tôi từ chối điều gì với anh không? Ngược lại, anh nhớ chứ: chính tôi là người đã trao cho anh tài liệu để viết bài nói về đền thờ các nữ thánh...
- Phải, nhưng việc đó không quan trọng như vậy! Nếu tôi hỏi anh về một vấn đề bí mật tôi phải tự hỏi là liệu anh có trả lời tôi không? Và những hầm mộ mới này đối với tôi là một vấn đề rất hệ trọng, và để trao đổi lại, tôi rất muốn được đón nhận ở anh một vài điều bí mật...
Chàng thanh niên người Anh nói:
- Tôi không hiểu anh muốn nói tới việc gì. Nhưng nếu anh có ngụ ý rằng anh sẽ chỉ trả lời câu hỏi của tôi về các hầm mộ mới đó với điều kiện là chính tôi phải trả lời mọi câu hỏi mà anh thích đặt ra, thì tôi xin nói với anh: đồng ý!
- Được lắm! - Burg¬er nói và ngồi xuống cái ghế bành với sự khoan khoái, miệng nhả ra một vòng khói xanh lớn - Vậy thì hãy kể cho tôi nghe sự thật về các liên hệ của anh với cô Mary Saun¬der¬son đi.
Kennedy nhảy chồm lên và nén một cái nhìn giận dữ vào người bạn tàn nhẫn của mình, anh la lên:
- Thế này là nghĩa làm sao? Đó là một câu hỏi à? Có lẽ anh nghĩ là anh nói đùa hả? Chưa bao giờ anh có một câu nói đùa tệ hại hơn thế!
- Không, - Burg¬er đáp lại với một vẻ thản nhiên. - Các chi tiết của vụ này làm tôi quan tâm. Tôi không hiểu biết nhiều về người đời, về phụ nữ, về đời sống thị thành, và về các loại chuyện này; một sự cố như vậy đã gây ra cho tôi sự mê hoặc của cái xa lạ. Anh, thì tôi đã biết anh. Cô ấy, tôi có biết mặt cô ấy... tôi cũng đã nói chuyện với cô ấy vài lần. Đúng thật là tôi rất muốn được nghe chính miệng anh nói ra câu chuyện chính xác về những gì đã xảy ra giữa anh và cô ấy.
- Tôi sẽ không nói với anh một tiếng nào về chuyện đó?
- Tùy ý anh. Ta hãy cho đó là một sự ngẫu hứng thôi. Tôi muốn xem rằng anh có chịu tiết lộ một điều bí mật cũng dễ dàng như tôi không, tùy anh, tôi sẽ nói ra điều bí mật của các hầm mộ của tôi. Anh muốn giữ kín điều bí mật của anh à? Được rồi? Tôi hãy chờ xem. Nhưng tại sao anh lại nghĩ rằng tôi sẽ không giữ điều bí mật của tôi?... Thôi, chuông nhà thờ Saint Jean đã điểm mười giờ: đã tới lúc tôi đi về đây.
- Không, hãy đợi một lát! - Kennedy nằn nì - Về phần anh thì sự ngẫu hứng này làm tôi kinh ngạc đấy, anh Burg¬er ạ? Muốn biết một câu chuyện tình mà sự kết thúc đã xảy ra từ nhiều tháng rồi... Anh có biết người ta thường coi một gã đàn ông đi rêu rao những chuyện trăng hoa của mình là thế nào không? Như là một tên khốn nạn nhất trên đời.
- Tất nhiên là vậy! - anh chàng người Đức đồng ý và cầm lấy cái giỏ của mình. - Khi một người phạm vào lỗi để lộ chuyện riêng tư đối với một phụ nữ mà không ai nghi ngờ, thì con người đó đúng là hạng người mà anh đã nói. Nhưng hẳn anh đã biết là cả thành phố La Mã này đã nói về câu chuyện của anh. Do đó tôi thấy anh không làm điều gì sai trái với cô Mary Saun¬der¬son khi kể lại câu chuyện với tôi. Sau hết, tôi kính trọng các nỗi băn khoăn của anh... và xin chúc anh một đêm ngủ ngon.
- Hãy đợi đó ! Hãy đợi một lát!..
Kennedy đặt một bàn tay lên cánh tay Burg¬er và nói thêm.
- Vụ những hầm mộ này làm tôi bị kích động quá; và tôi sẽ không buông tha anh một cách dễ dàng như vậy? Anh không muốn đặt một câu hói khác để trao đổi với tôi à? Một câu hỏi ít kỳ cục hơn có được không?
- Không, không có câu hỏi nào khác nữa! - Burg¬er vừa trả lời vừa khoác cái giỏ vào tay. - Anh đã từ chối rồi; không nói tới chuyện đó nữa? Chắc chắn là anh hoàn toàn có quyền không nói. Và chắc chắn là tôi cũng hoàn toàn có quyền như vậy. Vậy thì một lần nữa, xin chào tạm biệt, anh bạn Kennedy thân mến!
Anh chàng người Anh nhìn theo Burg¬er đi ra khỏi căn phòng. Anh chàng người Đức vừa đặt tay vào chốt cửa thì chủ nhà đã gọi anh ta lại với bộ điệu của một người cố làm vẻ tươi tỉnh trước một việc không thể tránh được.
- Anh bạn, dừng lại đi! Tôi thấy anh hoàn toàn lố bịch, nhưng vì là chuyện chẳng đặng đừng, tôi đành phải chịu theo các điều kiện của anh thôi, có phải không? Tôi rất ghét nói chuyện về một người đàn bà; tuy nhiên anh đã nói có lý; tất cả thành phố La Mã đều biết rồi và tôi tin rằng tôi sẽ không thể cho anh biết được thêm điều gì khi anh đã biết tất cả . Anh muốn biết điều gì nào?
Anh chàng người Đức thong thả đi lại gần lò sưởi, đặt cái giỏ xuống đất và ngồi phịch xuống cái ghế bành.
- Cho tôi xin một điếu xì gà nữa được không? - Anh hỏi - Cám ơn nhiều! Tôi không bao giờ hút thuốc lúc làm việc, nhưng tôi sẽ có lợi nhiều hơn trong một cuộc đàm luận khi tôi chịu ảnh hướng của thuốc lá. Bây giờ ta hãy trở lại chuyện cô thiếu nữ mà anh đã có một cuộc phiêu lưu nhỏ này. Rồi thì cô ta ra làm sao?
- Cô ấy vẫn sống với gia đình.
- À, ừ! Ở bên nước Anh hả
- Phải.
- Ở miền nào của nước Anh? Ở Lon¬don hả?
- Không, ở Twick¬en¬ham
- Anh bạn Kennedy thân mến, xin tha lỗi cho tính tò mò của tôi nhé? Xin hãy quy tính hiếu kỳ này vào sự kém hiểu biết của tôi về đời sống xã hội. Chắc chắn người ta vẫn cho là chuyện thường tình khi thuyết phục một cô thiếu nữ đi với bạn trong ba tuần lễ, và sau đó trả cô ta lại với gia đình cô ta ở... Anh đã gọi tên nói đó là gì nhỉ?
- Twick¬en¬ham.
- Đúng là tên đó, Twick¬en¬ham. Nhưng đây là những chuyện hoàn toàn mới lạ với tôi, và tôi không thể hình dung được anh đã hành xử như thế nào. Này nhé, nếu anh thật sự yêu cô thiếu nữ đó thì hẳn là tình yêu của anh đã không bốc thành hơi trong ba tuần lễ: do đó tôi suy diễn ra rằng anh chẳng yêu cô ta một chút nào. Nhưng nếu anh không yêu cô ta, thì gây ra vụ tai tiếng lớn này làm gì, vụ này làm anh phiền phức đôi chút, nhưng cô ấy thì phiền phức rất nhiều.
Kennedy buồn bã nhìn chằm chằm vào cái hốc đỏ lửa của lò sưởi.
- Đây đúng là một cách hợp lý để tóm tắt vấn đề. Tình yêu là một từ lớn để diễn dịch vô số kể các trạng thái của tình cảm. Tôi đã yêu cô ấy, và... Thực ra anh nói là anh đã gặp cô ấy mà. Vậy thì anh đã biết sự quyến rũ của cô ấy. Tuy nhiên, bây giờ nghĩ lại tôi thấy là tôi không bao giờ thật sự yêu cô ấy cả .
- Vậy thì, anh bạn Kennedy thân mến, tại sao anh lại hành xử như thế?
- Tôi nghĩ là vì sự đam mê phiêu lưu...
- Thế nào? Anh có sở thích về các chuyện phiêu lưu đến vậy cơ à?
- Không có những chuyện phiêu lưu thì tình sự biến động trong đời sống ở đâu? Tôi đã bắt đầu để ý tới cô ấy với dụng ý làm một cuộc phiêu lưu. Tôi đã săn bắn đủ mọi loại muông thú, nhưng không một con mồi nào quý bằng những người đàn bà đẹp, cộng thêm vào ý định đó là sự kích thích của nỗi khó khăn, bởi vì cô ta là bạn gái của phu nhân Emi¬ly Rood và muốn gặp riêng cô ta là một điều gần như bất khả... nhưng trên hết cả là trong tất cả các trở ngại làm tôi bị kích động, thì điều sau đây đã làm tôi quyết định: ngay từ buổi đầu chúng tôi gặp nhau, tôi đã nghe từ miệng cô ta nói ra là cô ta đã đính hôn.
- Lạy Chúa tôi! Đính hôn với ai?
- Cô ta không nói tên ai cả.
- Tôi tin rằng mọi người đều không biết tên người này? Thế là đối với anh, chính cái chi tiết này đã tô điểm thêm cho cuộc phiêu lưu phải không?
- Một chút hương liệu mà, anh hiểu chứ?
- Ồ, hãy tin tôi đi: tôi rất ngu dốt về nhưng điều đó!
- Anh bạn thân mến ơi, quả táo mà anh hái lén trên cây táo nhà hàng xóm có phải bao giờ cũng thơm ngon hơn quả táo rụng từ cây táo nhà anh xuống không?... Sau đó tôi phát hiện ra rằng tôi đã không hững hờ với cô ấy.
- Sao? Ngay gay là lập tức à?
- Ồ không! Sau ba tháng bao vây với đấy đủ hầm hố, mìn bẫy... nhưng cuối cùng tôi đã chinh phục được cô ấy. Cô ấy hiểu rằng tôi đang ly thân với vợ tôi và tôi không có thể kết thúc một cách bình thường mọi chuyện. Tuy thế cô ấy vẫn đến với tôi, và chúng tôi đã sống qua vài ngày kỳ thú.
- Thế còn người đàn ông kia? - Berg¬er hỏi.
Kennedy nhún vai:
- Tôi nghĩ là chúng ta đang đứng trước kết quả đấu tranh sinh tồn của kẻ mạnh hơn. Nếu anh chàng kia là kẻ mạnh hơn trong hai chúng tôi thì cô ấy đã không bỏ rơi anh ta. Thôi, bây giờ hãy nói chuyện khác; tôi đã chán chuyện này lắm rồi!
- Một câu hỏi nữa thôi. Làm thế nào mà anh đã dứt bỏ được cô ấy trong ba tuần lễ?
- Này, cả hai đứa chúng tôi đều đã thỏa mãn đôi chút nỗi khát khao, anh hiểu chứ? Cô ấy khăng khăng từ chối việc quay lại Rome là nơi mà cô ấy thấy mình buộc lòng phải gặp mặt những người cô ấy quen biết, mà nhất định Rome là tối cần thiết với tôi, và tôi cũng đã nhớ nhung công việc của tôi. Đó là lý do bình thường thứ nhất cua sự tan vỡ. Ngoài ra ông bố già của cô ấy lại thình lình tới khách sạn, và ông cụ đã la cho chúng tôi một trận... Thế là cuộc tình đã có một chiều hướng quá khó chịu khiến tôi thật sự thấy vui vẻ khi thoát khỏi nó, mặc dù tôi đã nhớ cô ấy một cách khủng khiếp trong ít lâu. Bây giờ tôi tin tưởng là anh sê không nhắc lại một chút gì về những chuyện tôi đã nói với anh.
- Bạn Kennedy thân mến, không bao giờ tôi dám làm việc đó đâu? Nhưng tất cả những gì anh kể lại làm tôi rất quan tâm vì tôi đã hiểu rõ được nhân sinh quan của anh. Nó hoàn toàn khác hắn quan niệm của tôi, bởi vì tôi đã biết rất ít sự đời . . . Và bây giờ anh muốn tôi nói cho anh biết về những hầm mộ mới của tôi phải không? Anh có cố gắng bảo tôi mô tả chúng ra cũng vô ích thôi. Không bao giờ anh tìm thấy chúng qua một sự mô tả sơ sài. Việc duy nhất phải làm là tôi phải dẫn anh tới đó.
- Thật là tuyệt diệu!
- Bao giờ anh muốn đến chỗ đó?
- Càng sớm càng tốt. Tôi rất nôn nóng...
- Sự thật là đêm nay rất đẹp, tuy rằng hơi lạnh một chút. Anh có muốn rằng chúng ta sẽ khởi hành trong một giờ nữa không? Phải hết sức thận trọng để khỏi bị theo dõi. Nếu có kẻ nào trông thấy chúng ta cùng đi săn lùng với nhau, hắn sẽ đánh hơi ngay ra một, vụ làm ăn mới.
- Đồng ý về sự thận trọng tối đa, - Kennedy đáp lại, - Có xa không?
- Vài cây số
- Không quá xa đế đi bộ tới chứ?
- Ồ không! Ta có thể dễ dàng đi tới đó.
- Vậy thì tốt nhất là đi bộ. Một anh đánh xe ngựa sẽ nói lung tung nếu anh ta để chúng ta xuống một nơi hoang vắng vào nửa đêm.
- Rất đúng! Chúng ta sẽ gặp lại nhau lúc nửa đêm ở chỗ góc đường Ap¬pi¬enne. Tôi phải về qua nhà để lấy diêm, nến và các đồ vật linh tinh.
- Tuyệt hảo, Burg¬er ạ! Tôi nghĩ rằng anh đã rất hào hoa khi cho tôi biết điều bí mật của anh, và tôi xin hứa là sẽ không viết gì trước khi anh công bố bản tường trình. Bây giờ, chào tạm biệt! Anh sẽ gặp tôi lúc nửa đêm ở góc đường Ap¬pi¬enne.
Không khí lạnh lẽo và trong trẻo vang vọng những tiếng chuông có nhạc điệu của cái thành phố lắm đồng hồ này khi Burg¬er, quấn mình trong một chiếc măng tô kiểu Ý, tay mang một cây đèn, đi tới chỗ hẹn gặp.
Kennedy từ trong bóng tối đi ra trước mặt anh.
- Hăng hái trong công việc cũng như trong tình yêu! - Anh chàng người Đức kêu lên và cười lớn.
- Đúng. Tôi đã tới đây từ gần nửa tiếng đồng hồ.
- Tôi hy vọng là anh đã không nói với ai một mảy may nào về mục đích cuộc hành trình của chúng ta chứ?
- Không ngu như vậy đâu! Xin thề có trời, tôi bị lạnh buốt thấu xương đây này! Đi thôi , Burg¬er, ta hãy đi bộ một lúc cho ấm người.
Họ đi những bước đều trên mặt đường đá, con đường này là tất cả những gì còn lại của một đại lộ nổi tiếng nhất trên thế giới. Một vài người nông dân từ trong quán nhậu đi ra để trở về nhà; có những chiếc xe đẩy chất đầy nông sản đi về phía thành Rome. Họ không gặp ai khác nữa. Ở bên phải, ở bên trái của họ, những ngôi mộ lớn nổi bật lên trong bóng tối. Cứ như vậy họ đi mãi tới khu hầm mộ Saint Cal¬ixte, và ở phía trước mặt, họ nhìn thấy dưới ánh trăng đang lên cao hiện ra rõ ràng cái pháo đài lớn, hình tròn Ce¬cil¬ia-metel¬la. Burg¬er đặt một bàn tay lên hông và dừng lại.
- Chân anh dài hơn chân tôi, và anh là người đi bộ giỏi, - anh nói và cười lớn. - Tôi nghĩ rằng chỗ mà chúng ta phải tách ra làm hai ngả cũng không xa đây. Phải, chúng ta tới nơi rồi, sau cái quán ăn, nhìn kìa, đường không rộng lắm; đế tôi đi trước; anh bước theo tôi.
Anh ta đốt đèn lên, con đường chật hẹp, khúc khuỷu chạy vòng vèo giữa các bãi lầy của miền Cam¬panie. Cái cống nước lớn của thành La Mã cổ xưa nằm yên như một con sâu khổng lồ trên cảnh vật dưới ánh trăng. Hai người đi qua dưới một vòm cao và đi men theo bức tường vòng tròn, tường này đánh dấu vị trí của đấu trường cổ xưa. Sau cùng Burg¬er dừng lại trước một cái chuồng bò nằm chơ vơ giữa đồng quê bát ngát, rồi anh móc trong túi ra một cái chìa khóa.
Kennedy kêu lên:
- Anh không làm cho tôi tưởng rằng các hầm mộ của anh nằm bên trong một căn nhà chứ!
- Có chứ, lối vào. Đây là những thứ bảo vệ cho chúng ta chống lại bọn tò mò.
- Ông chủ nhà có biết chuyện này không?
- Không, ông ta có tìm thấy một hai vật mà tính chất của chúng làm cho tôi nghĩ rằng cái chuồng bò này đã dược xây cất ngay bên trên một lối vào của những hầm mộ. Do đó tôi đã thuê cái chuồng bò và tự tay tôi đã tiến hành việc đào bới. Vào đi, và hãy đóng cửa lại nhé...
Hai người đang ở trong một tòa nhà dài và trống rỗng, những cái chậu và những cái máng treo trên một trong các bức tường. Burg¬er đặt cái đèn xuống đất và lấy áo măng tô che nó lại, trừ một phía đế hở.
Anh nói:
- Nếu có kẻ nào nhìn thấy ánh đèn trong chỗ hẻo lánh này thì những cái miệng tha hồ mà mách lẻo. Chỉ cần anh giúp tôi khiêng các tấm ván này ra...
Những tấm ván ở một góc đã được gỡ đinh ra; hai nhà khảo cổ lần lượt dựng chúng vào tường. Trước mặt họ hiện ra một lỗ vuông, bên trong lỗ đó có một cầu thang với các bậc bằng đá cũ kỹ dẫn xuống phía sâu thẳm của lòng đất.
- Cấn thận? - Burg¬er nói lớn với Kennedy trong khi anh chàng này quá nôn nóng bước ngay xuống mấy bực đầu tiên. - Dưới đó là một cấm địa thật sự đó: nếu anh đi lạc thì có đến một trăm phần trăm rủi ro là không bao giờ anh tìm ra đường về nữa. Hãy đợi tôi mang đèn tới.
- Nếu quả là nó rắc rối như vậy thì làm thế nào mà anh chỉ có một mình tự ra vào được?
- Lúc đầu có nhiều lần suýt nữa tôi đã bị lạc, nhưng rồi tôi học cách nhận ra lối đi. Cái mê cung này đã được kiến tạo theo một sơ đồ khá rõ ràng, nhưng kẻ nào đi lạc mà không có đèn thì không tài nào tìm thấy đường ra. Ngay cả bây giờ tôi còn phải thả một cuộn dây phía sau khi tôi đi sâu xuống. Trông kìa, mỗi hành lang này được phân ra và còn phân ra nhỏ hơn hàng chục lần, mỗi lần hàng trăm thước...
Ở sáu hay bảy thước phía dưới sàn chuồng bò, họ tới một căn phòng vuông khoét vào đá vôi mềm. Ngọn đèn chiếu ra một ánh sáng nhỏ lung linh trên các vách tường màu nâu đã rạn nứt hết. Ở tất cả mọi phía đều hiện ra những hành lang tối om đi từ cái ngã tư này.
- ... Anh phải theo sát bên tôi, anh bạn - Burg¬er ra lệnh - Chớ có dừng bước để nhìn một vật gì trên đường đi, vì tôi sẽ dẫn anh tới một nơi mà anh sẽ trông thấy nhiều thứ hơn là tất cá những thứ anh có thể thấy trong các hành lang. Nếu ta đi thắng tới đó thì ta sẽ tiết kiệm được thì giờ.
Anh đi vào một trong các hành lang. Anh chàng người Anh đi theo sát gót. Cứ một lúc là cái hành lang lại tẻ ra làm hai lối, nhưng Burg¬er không dừng chân và cùng không bao giờ ngần ngừ: đúng là anh đã có những dấu bí mật làm tiêu điểm. Suốt dọc các bức tường, chồng chất lên nhau như những giường ngủ trên một con tàu của các dân di cư, những người Cơ đốc giáo của La Mã cổ xưa nằm yên nghỉ. Ánh sáng vàng vọt của cái đèn soi rõ những khuôn mặt nhăn nhúm của những xác ướp, làm óng ánh những cái sọ tròn và những cánh tay dài và trắng bắt chéo trên những bộ ngực trơ xương. Kennedy phóng ra những cái nhìn đầy nuối tiếc và ham muốn về phía những hàng chữ nhiều vô số kể, những bình đựng tro cốt, những tranh ảnh trang trí, những quần áo, những đồ dùng vẫn nằm y nguyên như lúc những bàn tay sùng tín đã đặt chúng ở đó hàng nhiều thế kỷ trước. Ngay lúc vừa nhìn thấy, anh đã nghĩ chắc chắn rằng đây là những hầm mộ của một sự giàu sang hiếm có chứa đựng một số lượng rất lớn những di tích của thời đế quốc La Mã.
- Những cái đèn của anh tắt đi thì làm sao? - Anh hỏi trong khi họ vội vã đi tới nơi mà Burg¬er đã chỉ.
- Tôi có một cây nến để dự phòng và một bao diêm trong túi. À, anh Kennedy, anh có mang theo diêm không?
- Không. Anh phải cho tôi vài que mới được.
- Ồ, có gì đáng kể? Không vì lý do nào mà chúng ta phải rời xa nhau.
- Chúng ta sẽ đi tới đâu? Tôi thấy hình như chúng ta đã đi khoảng bốn trăm thước rồi, phải không?
- Tôi nghĩ rằng nhiều hơn thế. Những dãy mộ này dài vô tận... ít nhất là tôi chưa thấy chỗ tận cùng của nó. Nhưng vì bây giờ chúng ta đi tới một chỗ ngoắt ngoéo tôi phải thả cuộn dây ra.
Anh buộc một đầu sợi dây vào ruột hòn đá nhô ra rồi nhét cuộn dây vào bên trong áo măng tô và cứ bước tới đâu thì nhả nó ra tới đó. Kennedy nhận thấy sự thận trọng này không phải là vô ích, vì các lối đi mỗi lúc càng phức tạp thêm tạo thành một mạng lưới những con đường luôn luôn cắt ngang nhau. Nhưng tất cả mọi con đường đều dẫn tới một cái phòng lớn hình tròn, ở cuối phòng này có một cái bệ vuông mà một bên được che kín bằng một phiến cẩm thạch.
- Chúa ơi! - Kennedy kêu lên trong niềm sảng khoái - Đây là một bàn thờ của người Cơ đốc: không chừng là cái bàn thờ cổ xưa nhất. Cây thánh giá nhỏ của lễ phong thánh được khắc trên góc này. Chắc chắn là cái phòng hình tròn này đã được dùng làm giáo đường!
- Đúng vậy! - Burg¬er đáp lại - Nếu tôi có nhiều thì giờ, tôi sẽ chỉ cho anh thảy tất cả những cái xác được chôn trong các hốc dọc theo dãy tường: đó là xác của các vị giáo hoàng và giám mục đầu tiên của Giáo hội, cùng với các mũ mão, pháp trượng, y phục tôn giáo của các ngài. Này, chẳng hạn hãy nhìn cái xác kia xem...
Kennedy bước tới và ngắm nghía một cái đầu tái nhợt tỳ lên một cây pháp trượng đã nát thành bụi.
- Tuyệt diệu! - Anh thốt lên với một giọng nói vang dội cả những vách của khung vòm - Theo kinh nghiệm riêng của tôi, đây là việc có một không hai. Anh Burg¬er, đem cái đèn gần lại đi: tôi muốn được xem tất cả những cái xác.
Nhưng anh chàng người Đức lại đi tới đầu bên kia của căn phòng và anh ta đứng ở giữa cái vòng ánh sáng vàng vọt.
- Anh có biết từ chỗ này tới cầu thang có bao nhiêu chỗ rẽ làm ta lầm lạc không? - Anh ta hỏi - Hơn hai ngàn chỗ! Chắc chắn đó là một trong các phương tiện mà những người Cơ đốc đã dùng để tự bảo vệ cho họ. Giả dụ là ở chỗ này một người có mang đèn đi nữa thì anh ta cũng chỉ có cơ may một phần trên hai ngàn là sẽ tìm được lối ra. Và nếu không có đèn thì còn khó hơn rất nhiều?
- Đúng vậy!
- Bóng tối thật kinh khủng! Đã có một lần tôi thử nghiệm nó. Ta hãy thử một lần nữa.
Anh ta cúi xuống gần cái đèn và ngay tức thì như có một bàn tay vô hình bưng kín hai mắt của Kennedy. Trước giờ phút này không bao giờ anh biết thế nào là bóng tối. Bây giờ thì anh có cảm tưởng là nó dính chặt vào anh, nó làm anh nghẹt thở, nó là một chướng ngại vững chắc ngăn cản không cho người anh cử động, bước đi. Anh dang hai tay ra để đẩy lui nó.
- Thế là đủ rồi, Burg¬er! Cho lại chút ánh sáng đi.
Nhưng người bạn của anh bật cười lớn. Trong căn phòng hình tròn này, tiếng cười của anh ta giống như đồng thời phát ra từ mọi phía.
- Anh bạn Kennedy à, chắc anh khó chịu lắm phải không?
- Không sao, anh bạn ạ! Hãy đốt đèn lên đi!
- Thật là kỳ cục, Kennedy à. Nghe tiếng động tôi hoàn toàn không định được hướng anh đang đứng. Còn anh, anh có thể đoán được tôi đang ở chỗ nào không?
- Không. Tôi có cảm tưởng là anh đang đứng ở khắp mọi nơi chung quanh tôi.
- Nếu tôi không nắm lấy sợi dây thì tôi sẽ không biết phải làm thế nào để ra khỏi chỗ này.
- Tôi nghi ngờ về chuyện đó. Thôi đi, anh bạn, đánh lên một que diêm đi! Ta phải chấm dứt trò chơi kỳ cục này.
- Anh Kennedy này, hãy nói đi. Tôi nghĩ rằng có hai điều mà anh đặc liệt thích thú: sự mạo hiểm, và một trở ngại để vượt qua. Sự mạo hiếm sẽ là việc anh phải tìm một con đường để ra khỏi những hầm mộ này. Điều trở ngại sẽ là bóng tối và hai ngàn lối rẽ lúc nào cũng làm cho ta lầm lạc. Nhưng anh không cần vội vã; anh còn nhiều thì giờ mà. Khi anh dừng lại nghỉ, tôi mong rằng anh sẽ nghĩ một chút tới cô Mary Saun¬der¬son, và anh sẽ duyệt xét lại lương tâm xem anh có hoàn toàn chung thủy với cô ấy không.
Kennedy gầm lên.
- Đồ ác quỷ! Anh muốn nói gì đó?
Anh chàng người Anh chạy vòng quanh, vẽ ra những vòng tròn nhỏ, nhưng với hai bàn tay anh chỉ quờ thấy mà đêm.
- Tạm biệt - tiếng nói mỉa mai của Burg¬er vang lên, lúc này anh ta dã đi một quãng xa, - Kennedy ạ, ngay cả sau khi đã nghe các sự việc anh kể lại, tôi thật sự vẫn không tin là anh đã xử sự đúng đắn với "cô gái trẻ" trong câu chuyện. Và tôi thấy hình như anh còn không biết một chi tiết nhỏ: tôi phải bổ sung vào chỗ thiếu sót dó. Cô Mary Saun¬der¬son đã hứa hôn với một gã sinh viên nghèo nàn không có gì xuất sắc lắm; gã ta tên là Julius Burg¬er.
Ở một chỗ nào đó có tiếng sột soạt nghe không rõ ràng là tiếng gì, tiếng động nhẹ của một bàn chân vấp phải một hòn đá, rồi thì sự im lặng trở lại trong cái giáo đường Cơ đốc cũ kỹ này, một sự im lặng bất động và nặng nề bao trùm lên Kennedy như nước bao trùm
lên một kẻ chết chìm vậy.
Hai tháng sau, bài báo ngắn sau đây được lần lượt đăng trên báo chí Âu châu.
"Một trong những sự phát hiện thú vị nhất trong những năm vừa qua có liên quan tới các hầm mộ mới ở La Mã, gần mạn Đông của các khung vòm nổi tiếng Saint Cal¬ixte. Sự tìm ra khu mộ địa quan trọng này, nơi cực kỳ phong phú về các dấu tích thời khởi đầu kỷ nguyên Cơ đốc, là nhờ vào nghị lực và sự tinh tế của tiến sĩ Julius Burg¬er, nhà khảo cổ học trẻ tuổi người Đức là người đang chinh phục ngôi vị thứ nhất trong số các nhà bác học chuyên nghiên cứu về La Mã cổ xưa. Mặc dù đã là người trước nhất công bố bản tường trình về sự phát hiện này, hình như tiến sĩ Burg¬er đã bị dẫn trước bởi một nhà sưu khảo kém may mắn hơn. Vài tuần lễ mới đây, ông Kennedy, một nhà khảo cổ nổi tiếng người Anh đã đột nhiên biến mất khỏi căn hộ của ông tại chung cư Cor¬so. Người ta đặt ra một liên hệ giữa sự mất tích của ông và một vụ tai tiếng mới đây là điều có thể làm cho ông rời khỏi Rome. Bây giờ mới rõ rằng thật sự ông đã là nạn nhân của lòng hăng say về môn khảo cổ. Xác ông đã được phát hiện ở giữa các hầm mộ mới; qua tình trạng các bàn chân và đôi giày của ông, người ta biết chắc là ông đã phải đi bộ ngày này qua ngày khác trong các hành lang quanh co, là những thứ làm cho việc thám hiểm nơi mộ địa rất nguy hiểm. Với một sự khinh suất không thể tưởng tượng được, người quá cố đã đi vào mê cung này không có nến, không có diêm (ít nhất là theo những sự khám nghiệm đầu tiên) và cái chết của ông là hậu quả của sự liều lĩnh của ông. Điều làm cho câu chuyện buồn này thêm đau đớn hơn là việc tiến sĩ Julius Burg¬er là bạn chí thiết của ông Kennedy. Sự vui mừng mà ông được hưởng một cách chính đáng về khám phá phi thường này đã trở thành u ám vì số phận khủng khiếp của người đồng nghiệp và bạn thân của ông."
02. Vị giáo sư của trường Lea House
Ông Lums¬den, một trong những vị giám đốc của cơ quan giới thiệu chỗ làm cho các giáo sư, Lums¬den và West¬ma¬cott là một người nhỏ nhắn ăn mặc chỉnh tề, ông ta có những bộ điệu thô cục, một cái nhìn sắc sảo, một giọng nói sâu sắc.
Ông ấy hỏi tôi
- Thưa ông, tên ông là gì?
Ông ấy nhúng ngòi bút vào lọ mực; một cuốn sổ lớn có những gạch đỏ được mở ra trước mặt ông ấy!
- Harold Weld
- Ox¬ford hay Cam¬bridge?
- Cam¬bridge
- Bằng cấp gì?
- Thưa ông, không có.
- Là vận động viên hả?
- Tôi rất tiếc là không lỗi lạc lắm.
- Chưa bao giờ được tuyển chọn hả?
- Chưa bao giờ.
Ông Lums¬den lắc đầu với một vẻ chán nản rồi ông ấy nhún vai một cách làm giảm các hy vọng của tôi xuống tới số không.
Ông ấy nói với tôi.
- Ông Weld này, với các chức giáo sư sự tranh đua rất gay go đó. Ít khi có những chỗ trống, và các ứng viên thì nhiều vô kể. Một vận động viên vào loại nhất, một tay vô địch về chèo thuyền hoặc một hảo thủ về Criket, hoặc một người đã giật được một vài văn bằng một cách lỗi lạc thường kiếm được chỗ làm, một hảo thủ về Criket không bao giờ bị thất nghiệp trong ngành giáo dục, nhưng người trung bình (ông Weid ạ, nếu ông cho phép tôi dùng tính từ này) thì gặp những trở ngại rất lớn, nếu không nói là những trở ngại không thể vượt qua được. Trên các danh sách, chúng tôi đã có tên khoảng trên một trăm người trung bình; nếu ông nghĩ rằng tôi phải ghi thêm tên ông vào, thì tôi hy vọng rằng từ nay tới vài năm nữa chúng tôi sẽ có thể tìm cho ông một việc làm đó...
Ông ấy ngừng lại vì có ai đó gõ cửa, một nhân viên mang tới cho ông ấy một cái thư, ông Lums¬den mở phong bì ra.
- À này ông Weld, đây là một sự ngẫu nhiên đặc biệt thú vị. Tôi nghĩ rằng tôi đã biết ngành chuyên môn của ông là tiếng Latin và tiếng Anh, và trong ít lâu nữa ông sẽ chấp nhận một chỗ làm trong một lớp sơ đẳng, nơi đó ông sẽ có thì giờ để làm các công việc
riêng được chứ?
- Thật vậy.
- Lá thư này là lời thỉnh cầu của một trong các thân chủ kỳ cựu của chúng tôi, tiến sĩ Philps Mc¬Carthy ở trường học Wil¬low Lea House, West Hamp¬stead. Ông ấy yêu cầu tôi gởi ngay cho ông ấy một thanh niên có đầy đủ khả năng để dạy tiếng Latin và tiếng Anh cho một lớp nhỏ các bé trai dưới mười bốn tuổi. Tôi thấy hình như chức vụ này thích hợp một cách chính xác vớt việc mà ông tìm kiếm. Các điều kiện không có gì là khác thường: 60 bảng, nơi ăn ở đầy đủ, giặt ủi. Nhưng công việc không có gì là quá quắt, do đó ông sẽ có thể sử dụng nhưng buổi tối cho riêng ông.
- Đó là công việc làm được!
Tôi kêu lên với tất cả sự ham thích của một người sau nhiều tháng tìm kiếm hoài công nay cuối cùng đã kiếm được việc làm.
- Tôi tự hỏi liệu tôi có xử sự một cách đúng đắn với những người đã có tên trong sổ của tôi không? - ông Lums¬den lẩm bẩm nói trong khi liếc mắt nhìn vào cái danh sách đồ sộ của ông ấy - nhưng sự ngẫu nhiên thật quá kỳ tuyệt khiến cho tôi thấy rằng tôi phải dành sự ưu tiên cho ông.
- Thưa ông, tôi xin chấp nhận và tôi vô cùng biết ơn ông!
- Lá thư của Tiến sĩ Mc¬Carthy có chứa đựng một điều kiện. Ông ấy yêu cầu là ứng viên phải có tính nết rất tốt, rất tốt.
- Tôi có tính nết rất tốt! - tôi khẳng định với sự xác tín.
- Này - ông Lums¬den nói sau đôi chút ngập ngừng - tôi hy vọng rằng tính nết của ông cũng tốt được như lời ông đã nói, vì tôi có cảm tưởng là ông sẽ cần phải có tính nết tốt!
- Tôi giả thiết rằng bất kỳ một giáo sư nào trong một lớp sơ đẳng cũng phải có tính nết tốt.
- Phải, thưa ông. Nhưng tôi phải báo trước với ông rằng tình thế của ông có rủi ro sẽ gặp phải một vài trạng huống khá kinh khủng. Tiến sĩ Mc¬Carthy đã không đặt ra điều kiện này nếu không có một lý do khẩn yếu và quan trọng.
Tiếng nói của ông ấy có một giọng trang nghiêm làm cho sự vui mừng của tôi nguội lạnh đi đôi chút.
Tôi hỏi:
- Tôi có thể xin ông nói cho biết rõ hơn về thực chất của các trạng huống này không?
- Chúng tôi cố sức giữ sự công bằng giữa các thân chủ của chúng tôi, và tuyệt đối trung thành với từng người trong bọn họ. Nếu tôi thấy những trở ngại về phía bản thân ông, chắc chắn là tôi sẽ thông báo cho tiến sĩ Mc¬Carthy. Do đó, tôi không cảm thấy sự e ngại nào khi xử sự như vậy đối với ông...
Ông giở từng trang quyển sổ của ông ấy.
- ... Tôi đọc trong đây là trong khoảng 12 tháng qua, chúng tôi đã không cung cấp cho trường học Wil¬low Lea House dưới bảy giáo sư tiếng Latin. Bốn người trong bọn họ đã rời bỏ chức vụ một cách quá đột ngột đến nỗi họ đã không lĩnh lương của những tháng đầu tiên của họ, không một ai đã ở lại quá 8 tuần lễ.
- Còn những giáo sư khác? Họ có ở lại không?
- Chỉ có một giáo sư khác cư ngụ ở phía bên kia. Không có vẻ gì là ông ấy đã đổi chỗ. Ông Weld ạ, ông có thể hiểu rằng những sự ra đi nhanh chóng như vậy không phải là điều đáng khen trong phương diện một ông hiệu trưởng, bất kể những gì mà một người đại diện làm việc ăn tiền hoa hồng có thể nói ra để bênh vực họ. Tôi tuyệt nhiên không biết tại sao các vị đó đã khước từ công việc của họ. Tôi chỉ có thể chỉ cho ông thấy các sự kiện, và khuyên ông đến ngay tức thì để gặp tiến sĩ Mc¬Carthy và sau đó tự mình quyết định lấy.
Lớn lao thay là sức mạnh của một người không có gì để mất cả? Thế là với sự hoàn toàn thanh thản, nhưng do sự thúc đẩy của tính hiếu kỳ sôi nổi, vào lúc đầu giờ buổi chiều tôi bấm chuông ở trường học Lea House. Nhà trường là một tòa nhà đồ sộ vuông, xấu xí, được xây dựng ở giữa một khu đất tư, từ ngoài đường lộ có một lối đi rộng dẫn vào tới trường. Trường được xây khá cao, và từ đó ở một phía ta trông thấy những mái nhà xám
và những tháp chuông nhỏ ở mạn Bắc Lon¬don, ở phía kia là vùng có rừng cây và thoáng đãng viền quanh khu ven đô. Một chú hầu nhỏ ra mở cửa cho tôi, dẫn tôi vào một văn phòng bày biện sang trọng, ở đó vị hiệu trưởng đã mau lẹ tiếp đón tôi.
Những lời cảnh báo và những câu nói bóng gió của người đại điện đã làm cho tôi nghĩ rằng tôi sẽ phải đứng trước một người hay cáu kỉnh và không thể chịu đựng được mà cách cư xử phải là một chuỗi những sự gây gổ không thể dung thứ được đối với các thuộc viên của ông ấy. Nhưng sự thật lại tỏ ra hoàn toàn khác hẳn. Ông hiệu trưởng là một người hiền lành, ốm o, hơi gù một chút, mặt mày nhẵn nhụi, và ông ấy dùng một lối lịch sự gần như thái quá, mái tóc để kiểu bàn chải của ông ấy đã lốm đốm bạc, chắc ông ấy độ sáu mươi tuổi. Ông ấy nói một giọng ngọt ngào và dáng điệu ông ấy không thiếu vẻ cao nhã. Ông ấy hoàn toàn có dáng điệu một vị giáo sư đức độ phần lớn trong công việc về sách vở hơn là trong các khó khăn thực tế của đời sống.
- Ông Weld ạ, chúng tôi sẽ rất sung sướng được sự giúp đỡ của ông. - ông ấy nói với tôi sau vài câu hỏi về nghề nghiệp - Ông Per¬ci¬val Man¬ners đã rời bỏ tôi hôm qua, và tôi nhiệt liệt cầu mong rằng ông sẽ đảm nhận công việc ngay từ ngày mai.
Tôi hỏi thêm:
- Có phải là ông Per¬ci¬val Man¬ners ở Seluryn không?
- Đúng thế! Ông biết ông ấy à?
- Vâng, đó là một trong các người bạn của tôi.
- Một giáo sư tuyệt hảo, nhưng tính hơi nóng nảy, đó là khuyết điểm duy nhất của ông ấy. Bây giờ ta quay lại về chuyện của ông, ông Weld ạ. Ông có giữ vững được sự kiềm chế các dây thần kinh của ông không? Vì lòng tôn trọng sự tranh luận, ta hãy giả thiết rằng có khi tôi quên thân phận của mình đến đỗi thành ra vô lễ với ông, hoặc là nói năng thô lỗ với ông, hoặc là bằng cách này hay cách khác làm thương tổn các tình cảm riêng của ông, liệu chúng ta có thể tin vào sự kiềm chế các phản ứng của ông không?
Tôi mỉm cười nghĩ rằng cái anh chàng nhỏ thó, hiền lành và lịch sự này sẽ có thể làm cho tôi nổi giận.
- Thưa ông, tôi nghĩ là tôi có thể trả lời được câu này.
Ông ấy nói.
- Những cuộc cãi lộn rất cực nhọc đối với tôi. Tôi muốn rằng dưới mái trường của tôi, sự hài hòa phải được toàn diện. Tôi không chối cãi rằng ông Per¬ci¬val Man¬ners đã bị khiêu khích, nhưng tôi muốn rằng ở đây phải có một người nào biết vươn lên bên trên những sự khiêu khích, và khi sự việc xảy ra, có thể hy sinh các tình cảm riêng tư vì lợi ích của sự hòa thuận và sự thân thiện.
- Thưa ông, tôi sẽ cố gắng hết sức mình.
- Ông Weld này, ông không thể nói thêm gì được nữa. Thế là tối nay tôi sẽ đợi ông, nếu khoảng thời gi¬an ngắn ngủi này đủ cho ông chuẩn bị đồ đạc, quần áo.
Không những thời gi¬an đủ cho tôi thu dọn quần áo cho vào va-li, mà nó còn cho phép tôi đi tới câu lạc bộ Bene¬dict ở Pic¬cadil¬ly, nơi mà tôi biết cách tìm thấy Man¬ners nếu ông ta còn ở thủ đô. Quả thật tôi đã phát hiện ra ông ấy ở phòng hút thuốc, và tôi lợi dụng cơ hội này để hỏi ông ấy xem vì lý do nào mà ông ấy đã từ bỏ việc làm.
- Ngay cả anh định không loan báo với tôi là anh tới trường học của tiến sĩ Mc¬Carthy à? -ông ấy sửng sốt kêu to lên. - Anh bạn thân ơi, đừng thử nữa, vô ích thôi! Chắc chắn là anh sẽ không thể trú lại ở đó đâu.
- Nhưng tôi đã gặp ông ấy mà! Tôi thấy ông ấy có vẻ thuộc hạng người hiền lành, không làm hại ai. Tôi chưa từng thấy ai cù lần hơn.
- Ông ấy hả? Ồ, ông ấy thì rất tốt! Với ông ấy, không có gì phải sợ cả. Anh có trông thấy Theophilus St.James không?
- Chưa bao giờ nghe thấy cái tên đó! Y là ai vậy?
- Bạn đồng nghiệp của anh đó, một giáo sư khác.
- Không, tôi không gặp hắn ta.
- Chính hắn mới là sự khủng khiếp! Nếu anh có thể chịu đựng được hắn, thì chỉ có một trong hai trường hợp thôi; hoặc anh là một tín đồ Cơ đốc gương mẫu, hoặc anh là một kẻ nằm dưới cả số không. Không có ai vô giáo dục và kiêu căng hơn hắn nữa.
- Nhưng tại sao Mc¬Carthy lại bao dung hắn ta?
Ông bạn tôi suy nghĩ một lát sau làn khói điếu thuốc lá của ông, và ông nhún vai.
- Anh sẽ tự mình đưa ra ý kiến đi. Về phần tôi, tôi đã có ý kiến gần như ngay tức thì, và không gì làm thay đổi được nó.
- Anh đã giúp tôi rất nhiều khi cho tôi biết việc này.
- Khi anh thấy một người ở trong nhà hắn ta mà chịu để cho công việc của mình đi tới chỗ thất bại, chịu để cho sự yên ổn của mình bị hủy, chịu để cho quyền hành của mình luôn luôn bị làm hư hỏng bởi một trong các thuộc viên của mình, mà hắn vẫn lẳng lặng tòng phục tình trạng đó không một lời phản kháng thì ý kiến của anh như thế nào?
- Hẳn là gã thuộc viên đã khống chế được ông hiệu trưởng.
Per¬ci¬val Man¬ners gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
- Anh đoán đúng đấy? Anh đã bắn trúng đích ngay từ phát đạn đầu tiên. Tôi thấy là hình như không còn cách giải thích nào khác. Vào một thời kỳ nào đó trong đời ông ấy, ông tiến sĩ Mc¬Carthy nhỏ bé đã phạm một sai lầm. Là con người thì ai mà chẳng có lúc mắc sai lầm. Tất cả chúng ta đều đã làm những điều xằng bậy. Nhưng sai lầm của ông ấy đã rất trầm trọng, và anh chàng kia đã biết chuyện này nên bắt bí ông ấy. Đó là sự thật. Từ cội nguồn câu chuyện, rút lại là một vụ bắt bí. Nhưng vì hắn ta không có một uy quyền nào đối với tôi và vì không có một lý do nào để tôi phải chịu đựng sự láo xược của hắn ta, nên tôi bỏ đi, và tôi trông đợi là anh cũng sẽ làm như vậy trong chẳng bao lâu.
Thế là tôi không thấy tâm trạng vui vẻ lắm khi tôi đứng trước mặt người mà tôi vừa được biết nhiều chuyện xấu xa. Tiến sĩ Mc¬Carthy tập hợp chúng tôi trong văn phòng của ông ấy để giới thiệu người này với người nọ ngay trong buổi tối đầu tiên.
Ông ấy nói với một giọng rất nhu hòa.
- Đây bạn đồng nghiệp mới của ông, ông St.James. Tôi hy vọng rằng cả hai ông đều sẽ rất thông cảm nhau và dưới mái trường này tôi sẽ chỉ thấy cảm tình và lòng tôn trọng giữa mọi người với nhau.
Chắc chắn là tôi cùng chia sẻ niềm hy vọng với tiến sĩ Mc¬Carthy, nhưng khi tôi tiến hành một cuộc xét nghiệm kỹ càng người bạn đồng nghiệp của tôi thì những viễn tượng không tỏ ra khích lệ chút nào với tôi. Hắn ta chừng 30 tuổi, hắn có cặp mắt và mái tóc đen, một cái cổ của con bò rừng, tất cả đều có vẻ chứng tỏ rằng hắn được trời phú cho một thể lực phi thường. Tuy nhiên hắn có một chiều hướng rõ ràng về sự mập phì, điều này chứng tỏ là nhà thể thao này đang trong thời kỳ tập luyện. Hắn có một bộ mặt phì nộn, cục cằn, thô bạo và cặp mắt đen, nhỏ của hắn nằm sâu trong các hố mắt. Cái quai hàm nặng nề của hắn, đôi tai vểnh lên của hắn, hai cái chân vòng kiềng và vằn đầy bắp thịt của hắn đã làm trọn vẹn một hình ảnh ít được cảm tình cũng như khó gây ấn tượng.
Hắn nói với tôi với một vẻ cục cằn.
- Hình như anh chưa bao giờ dạy học phải không? Hãy tin tôi đi, đó là một nghề buồn nản ! Rất nhiều công việc lương lậu chết đói... Anh sẽ mau chóng hiểu rõ?
Ông hiệu trưởng nói xen vào.
- Nhưng cũng có một vài sự đền bù. Ông đã rất vừa lòng phải không, ông St.James?
- Ông thấy vậy à? Tôi à, tôi không bao giờ có thể phát hiện ra điều đó. Ông gọi những sự đền bù là cái gì?
- Lúc nào cũng thấy mình ở trước mặt lũ trẻ nhỏ là một đặc lợi: nó cho phép ta được trẻ trung mãi, vì ta được hưởng cái phản ánh của sự hăng hái và tính yêu đời của chúng.
- Những con vật nhỏ, ừ! - anh bạn đồng nghiệp của tôi la lớn.
- Này, này, ông St.James! Ông xét đoán chúng quá nghiêm khắc đó.
- Cứ trông thấy chúng là tôi bực bội rồi ? Nếu tôi có thể đốt lên một ngọn lửa ăn mừng bằng chính lũ chúng, bằng những quyển tập mắc dịch của chúng, bằng những quyển sách của chúng và những cái bảng đen bằng đá của chúng, thì tôi sẽ đốt ngay buổi chiều hôm nay !
- Đó là cách nói năng của ông St.James, - ông hiệu trưởng nói với tôi, kèm theo một nụ cười hơi bực bội - xin ông chớ quá chấp nhất vào câu chữ. Ông Weld này, ông đã biết phòng của ông ở đâu rồi chứ? Chắc chắn là ông cũng phải thu xếp một vài việc nhỏ. Ông càng xếp đặt sớm chừng nào thì ông càng nhanh chóng cảm thấy quen ngay mà.
Tôi có cảm tưởng là ông ấy muốn tránh ngay cho tôi khỏi cái uy lực của anh chàng đồng nghiệp kỳ quái nà, và tôi thấy khoan khoái được đi ra. Cuộc nói chuyện đã có một vẻ khó chịu.
Một thời kỳ trong đời tôi đã bắt đầu như vậy, có lẽ là thời kỳ đặc biệt nhất mà tôi phải trải qua. Trong nhiều khía cạnh tôi thấy trường học là rất tốt. Tiến sĩ Philps Mc¬Carthy là một ông hiệu trưởng lý tưởng. Ông sử dụng những phương pháp hiện đại, hợp lý. Sự tổ chức thì không chê vào đâu được. Tuy nhiên trong lòng bộ máy hoàn hảo này, cái lão St.James kỳ quái nọ đã đem tới một sự rắc rối không thể mô tả được. Hắn gây ra bởi những điều thất thố chồng chất của hắn ta. Hắn phụ trách việc dạy tiếng Anh và toán, tôi không biết hắn ta dạy dỗ thế nào vì các lớp học của chúng tôi được dạy trong các phòng riêng biệt. Tuy nhiên điều tôi biết chắc chắn là lũ trẻ con sợ hắn ta và ghét hắn ta. Chúng đã có những lý do đúng để làm điều này, vì thường khi lớp tôi dạy bị gián đoạn bởi những tiếng gầm thét giận dữ, và ngay cả bởi tiếng các ngọn roi của hắn đánh. Tiến sĩ Mc¬Carthy đã dành phần lớn thì giờ của mình trong lớp của hắn ta, để trông coi thầy giáo nhiều hơn là trông coi học trò, và để trấn tĩnh tính nóng nảy của hắn ta khi nó đe dọa trở thành nguy hiểm.
Cách cư xử của chàng đồng nghiệp này đối với ông hiệu trưởng thì lúc nào cũng đáng ghét. Buổi nói chuyện đầu tiên mà tôi đã kể lại thật sư là điển hình cho việc gi¬ao tiếp của họ. Hắn không ngần ngại gì khi thẳng thừng bắt bẻ ông ấy! Không bao giờ hắn bày tỏ một chút lễ độ nào đối với ông ấy, và tôi thú thật là tôi đã phát cáu lên khi nhìn thấy sự phục tùng êm ả của tiến sĩ Mc¬Carthy, và sự nhẫn nại mà ông đáp lại cách đối xử hèn hạ này. Tuy nhiên ngay trong lúc đó tôi không thể bảo vệ mình khỏi một nỗi kinh hoàng nào đó khi nghĩ tới cái giả thuyết mà anh bạn tôi đã đưa ra nếu giả thuyết này đúng (và tôi không mường tượng ra một lối giải thích nào khác), phải chăng sự "ngu xuẩn" của ông hiệu trưởng già đã quá bẩn thỉu làm cho ông phải cúi đầu trước thằng cha này, và vì sợ hãi một sự tiết lộ trước công chúng, đã bắt buộc ông phải chịu đựng những sự quỵ lụy thế này! Ông già hiền lành này có thể là một tên giả mạo, một anh giả đạo đức đến tận tâm can, một tên tội phạm, một tên mang tội đầu độc chăng?... chỉ một sự bí mật ở tầm cỡ này mới có thể biện minh được sự tòng phục hoàn toàn của ông ấy trước một gã đàn ông trẻ tuổi. Nếu không thể, tại sao ông ấy lại chấp nhận trong trường học của ông ấy một sự hiện diện đáng căm hận như vậy, và một uy thế độc hại như vậy? Tại sao ông ấy chịu chấp nhận những điều sỉ nhục đã làm nổi lên sự phẫn nộ của những kẻ bàng quan?
Nếu sự việc là đúng như vậy thì tôi phải buộc lòng mà thú nhận rằng ông hiệu trưởng đã đóng vai trò của mình với một sự mập mờ kỳ tuyệt. Không bao giờ ông ấy tỏ ra bằng lời nói hay bằng cử chỉ là sự hiện diện của anh chàng đồng nghiệp của tôi làm cho ông ấy khó chịu. Đúng là tôi có trông thấy ông ấy buồn bực sau một vài chuyện bất như ý này nọ nhưng theo ý tôi thì những chuyện đó phần lớn là có liên quan tới lũ học trò nhỏ hoặc tới chính bản thân tôi, chớ không phải vì hắn ta. Ông ấy nói St.James, hoặc là ông ấy nói với hắn với sự khoan dung; ông ấy mỉm cười với những việc làm tôi giận sôi lên. Trong cung cách ông ấy đối xử với hắn ta không có một chút dấu vết nào của sự hận thù, mà là một thứ thiện chí e dè và khẩn khoản. Ông ấy tự nguyện tìm kiếm sự bầu bạn với hắn, và họ cùng ở bên nhau nhiều giờ đồng hồ trong văn phòng của ông ấy hay ngoài vườn.
Về phần những sự gi¬ao tiếp của tôi với Thes¬philus St.James thì tôi đã nhất quyết ngay từ đầu là giữ sự bình tĩnh và tôi kiên quyết làm như vậy: Nếu ông tiến sĩ Mc¬Carthy chọn cách để dung thứ sự thiếu tôn trọng này và để tha thứ cho những lời nhục mạ của hắn ta thì đó dù sao cũng là chuyện riêng của ông ấy, chớ không phải là chuyện của tôi. Tất nhiên là ông ấy chỉ muốn một điều: là sự hòa thuận diễn ra giữa chúng tôi; mà sự giúp đỡ to tát nhất mà tôi có thể đem tới cho ông là chấp nhận lời ước nguyện này. Cách tốt nhất để đạt tới ước nguyện này là nên né tránh anh bạn đồng nghiệp của tôi. Khi sự tình cờ làm chúng tôi gặp mặt nhau, tôi giữ vẻ điềm tĩnh, lễ độ xa vắng. Về phần hắn ta, hắn không biểu lộ với tôi một ý muốn xấu xa, cố chấp, nhưng hắn giả bộ một sự vui vẻ thô kệch, một sự thân mật khó chịu như thể hắn muốn cầu thân với tôi. Hắn tới tấp đưa ra những lời ve vãn để buổi tối dẫn dụ tôi vào trong phòng hắn, với mục đích là uống rượu và đánh cờ.
Hắn nói với tôi:
- Chớ quan tâm tới ông già Mc¬Carthy ! Đừng sợ ông ta. Chúng ta cứ làm điều gì mà chúng ta thấy muốn làm, tôi đoan chắc với anh rằng ông ấy sẽ không thấy gì bất tiện trong các việc đó đâu.
Tôi chỉ tới phòng hắn có một lần. Một buổi tối buồn bã làm sao! Khi tôi đi ra, ông chủ nhà say như chết, nằm ngáy o o trên giường. Sau đó tôi viện cớ phải học hành, và tôi sống những buổi tối trong phòng của tôi.
Tôi rất muốn biết cái trò xảo quyệt này đã diễn ra từ ngày nào, St.James đã nắm vững sự uy hiếp của hắn lên tiến sĩ Mc¬Carthy từ bao giờ? Tôi không tài nào khai thác từ người này hay người kia một mảy may tin tức làm cho tôi tính toán được sự có mặt của anh chàng đồng nghiệp này ở Lea House. Những câu hỏi mà tôi đặt ra về vấn đề này đều được tránh né hay làm lơ đi một cách quá rõ rệt khiến cho tôi đi tới kết luận là cả hai người đều muốn che dấu sự thật về điểm này. Nhưng một buổi tối khi nói chuyện dông dài với bà Corter, nữ quản gia (ông hiệu trưởng goá vợ), tôi đã lấy được thông tin mà tôi đang tìm kiếm. Tôi không cần phải tra hỏi bà ta dò la tin tức, vì tình thế hiện nay làm bà ta phẫn nộ, và bà ta căm ghét anh chàng đồng nghiệp của tôi.
Bà ấy nói với tôi:
- Ông Weld ạ, đã ba năm rồi, hắn ta làm ô uế cái bực cửa này lần đầu tiên. Ôi chà, đối với tôi đó là ba năm trời khủng khiếp. Ông có thể tin lời tôi! Trường học có năm mươi trẻ nhỏ, hôm nay chỉ còn có hai mươi đứa. Đó là kết quả của ba năm trời. Thêm ba năm nữa. chắc sẽ chẳng còn một mống nào. Còn tiến sĩ Mc¬Carthy, vị thánh về tính nhẫn nại này! Ông đã thấy ông ấy bị đối xử như thế nào, trong khi gã nọ thật không đáng buộc dây giày cho ông ấy? Nếu không có tiến sĩ Mc¬Carthy thì ông có thể tin chắc rằng tôi sẽ không ở lại một giờ dưới cùng một mái nhà với một con người như vậy, ngoài ra tôi đã nói thẳng vào mặt hắn ta, tôi ấy. Ông Weld ạ! Nếu chỉ nguyên một việc tiến sĩ Mc¬Carthy cứ khư khư giữ hắn ta trong công việc... nhưng tôi nghĩ là tôi đã nói nhiều hơn những điều mà tôi không nên nói!
Bà ấy cố sức ngừng lại, và không trở lại câu chuyện này nữa. Bà ấy nhớ ra rằng tôi vừa mới đến trường học, và bà ấy lo sợ có sự trống chuyện về phần tôi.
Hai hay ba chi tiết có vẻ kỳ cục đối với tôi. Trước hết tôi nhận thấy anh bạn đồng nghiệp của tôi ít khi tập thể dục. Không bao giờ hắn đi ra khỏi bãi tập thể thao, bãi này nằm trong khuôn viên nhà trường. Nếu lũ trẻ nhỏ đi ra ngoài dạo chơi, thì là tôi hoặc tiến sĩ Mc¬Carthy đi kèm bọn chúng, St.James viện cớ là hắn bị đau đầu gối từ mấy năm trước đây và sự đi lại rất vất vả đối với hắn; tôi, thì tôi quy cho sự lười biếng của hắn. Vả chăng đã hai lần từ cửa sổ của tôi, tôi trông thấy hắn lén lút đi ra khỏi trường sở vào một giờ khuya khoắt, lần thứ nhì tôi thấy hắn trở về lúc sáng sớm tinh mơ, và hắn lẻn vào trong nhà qua một cái cửa sổ để ngỏ. Không bao giờ hắn đả động một chút gì tới những cuộc đi chơi lén lút này, những cuộc đi chơi đã phủ nhận câu chuyện bịa đặt về đầu gối hắn, nhưng càng làm tăng thêm sự ghê tởm mà hắn đã gợi ra cho tôi.
Tôi ghi nhận một điểm khác nữa tuy là nhỏ nhặt nhưng cũng đáng lưu ý; gần như hắn không bao giờ nhận được thư từ, những lá thư duy nhất gởi tới cho hắn rõ ràng là những hóa đơn của các hãng buôn. Vì tôi thường hay dậy sớm, tôi có thói quen tự mình ra lấy thư tín trong một đống thư để trên bàn ngoài phòng lớn. Do đó, tôi có thể nhận thấy là hầu hết không bao giờ có một thứ gì cho ông Thes¬philus St.James. Tôi thấy tình trạng đặc biệt này có vẻ là những điềm xấu. Vậy thì gã này là hạng người thế nào mà trong quãng đời 30 năm lại không có bạn bè nào? Nhưng dù sao thì ông hiệu trưởng và hắn cũng rất thân mật nhau? Đã hơn một lần, khi vào một căn phòng, tôi thấy họ đang thì thầm nói chuyện với nhau. Rồi họ khoác tay nhau đi ra hóng mát trong vườn nhưng chủ yếu là để tiếp tục câu chuyện. Tôi trở nên quá hiếu kỳ muốn biết thực chất của mối liên hệ đã kết hợp họ với nhau đến nỗi sự hiếu kỳ này đã lấn át tất cả những mục đích khác trong đời tôi. Ở trong trường học, ở ngoài trường học, tôi chỉ còn quan tâm tới việc theo dõi ông tiến sĩ Philps Mc¬Carthy và anh chàng Thes¬philus St.James, ngõ hầu làm sáng tỏ sự bí ẩn bao trùm họ.
Khốn khổ thay, tính hiếu kỳ của tôi lại có đôi chút quá lộ liễu. Tôi không có tài che giấu các sự nghi ngờ của tôi và tôi đã biểu lộ rất rõ ràng những gì mà tôi căm hận. Một buổi tối tôi bắt gặp Thes¬philus St.James đang chăm chú nhìn tôi với một cái nhìn hằn thù và đe dọa. Tôi có linh cảm là một sự cố ghê gớm đang được chuẩn bị thực hiện, và do đó tôi không ngạc nhiên chút nào khi được tiến sĩ Mc¬Carthy mời tới văn phòng ông ấy vào buổi sáng ngày hôm sau.
Ông ấy nói với tôi:
- Tôi rất buồn, ông Weld ạ. Nhưng tôi buộc lòng phải khước từ sự giúp đỡ của ông.
- Có lẽ ông sẽ vui lòng chỉ rõ lý do sự sa thải này chứ? - Tôi biết chắc chắn là tôi đã làm tròn nhiệm vụ với sự rất hài lòng của ông ấy, và tôi chỉ muốn thấy ông ấy nêu rõ cái lý do mà tôi đã nghi ngờ.
- Tôi không có lầm lỗi về nghề nghiệp nào để khiển trách ông. - ông ấy trả lời tôi, trong khi mặt trời đỏ hồng lên.
- Ông đuổi tôi theo lời yêu cầu của anh bạn đồng nghiệp của tôi phải không?
Ông ấy nhìn ra chỗ khác.
- Ông Weld này, chúng ta sẽ không bàn về vấn đề này. Tôi không thể bàn về vấn đề đó. Để khỏi làm thiệt hại ông, tôi sẽ cấp cho ông một chứng chỉ tối ưu dành cho chức vụ sau này của ông. Tôi không thể nói nhiều hơn về vấn đề này với ông được. Tôi mong rằng ông cứ tiếp tục công việc ở đây cho tới khi ông tìm được việc làm ở một chỗ khác.
Sự bất công của sự việc làm tôi giận sôi sục lên, thưng làm sao mà tôi chống lại được? Tôi đành chịu khuất phục và ra khỏi văn phòng, lòng nặng trĩu và đắng cay.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là thu dọn hành trang và rời khỏi nhà trường ngay tức thì. Nhưng ông hiệu trưởng đã cho phép tôi ở lại cho tới khi nào tìm được một việc khác, trong khi đó St.James lại muốn tôi đi khỏi càng sớm càng tốt, đó là một lý do tốt để tôi ở lại. À, sự có mặt của tôi làm hắn khó chịu chăng ? Được, tôi sẽ làm cho hắn bực tức càng lâu càng tốt! Tôi bắt đầu căm thù hắn. Tôi nhất quyết trả mối thù. Nếu hắn khống chế được ông hiệu trưởng thì đến lượt tôi, tôi sẽ không thể khống chế được ông ấy hay sao? Để làm cho ông ấy e dè sự hiếu kỳ của tôi chắc là ông ấy phải tự thấy mình rất yếu kém. Tôi ghi tên lại ở sở giới thiệu việc làm, nhưng tôi vẫn tiếp tục giữ công việc tại trường học của tiến sĩ Mc¬Carthy, điều này cho phép tôi được tham dự vào kết cục của tình trạng hy hữu này.
Trong tuần lễ đó (vì sự kết thúc xảy ra trong tám ngày tiếp theo), tôi có thói quen đi ra ngoài sau giờ làm việc để kiếm một việc làm mới. Một buổi tối tháng ba, trời lạnh và có gió lớn, tôi vừa bước ra khỏi cửa căn phòng lớn thì tình cờ mắt tôi nhìn thấy một cảnh bất ngờ. Một người đàn ông ngồi thu mình trước một trong những cửa sổ của tòa nhà và mắt y dán vào một vệt ánh sáng nhỏ giữa tấm màn che và khung cửa sổ. Cái cửa sổ này chiếu ra một ô vuông ánh sáng phía trước nó; ở giữa cái ô vuông đó, cái bóng đen của người khách ban đêm này được hiện ra rõ ràng. Tôi chỉ nhìn thấy y trong một thoáng qua, vì y ngẩng đầu lên, trông thấy tôi, và lẩn tránh qua các bụi cây. Tôi nghe thấy tiếng chân y chạy trên đường.
Bổn phận của tôi nhất định là phải quay trở lại và báo cho ông tiến sĩ Mc¬Carthy biết. Ông ấy đang ở trong văn phòng. Tôi chờ đợi để nhìn thấy ông ấy bực bội vì sự cố xảy ra, nhưng chắc chắn không phải là sự hoảng hốt mà ông ấy biểu lộ ngay từ những tiếng đầu tiên của câu chuyện của tôi. Ông ấy ngồi lui lại trên cái ghế, mặt tái xanh lại, miệng há hốc ra như thể một người vừa bị đánh một đòn chí tử
- Cửa sổ nào hả ông Weld? - ông ấy hỏi tôi, tay thì chấm mồ hôi trên trán. - Cửa sổ nào,
xin ông nói đi?
- Cái cửa sổ tiếp nối với những cửa sổ phòng ăn cái cửa sổ của ông St.James đó.
- Trời ơi ! A, đúng vậy, thật là khủng khiếp? Một người nhìn vào cửa sổ của ông St.James.!
Ông ấy vặn vẹo hai bàn tay. Ông ấy có vẻ hoàn toàn phát điên lên.
- Thưa ông, tôi phải đi qua trước sở cảnh sát. Ông có muốn tôi vào đó và tôi làm một tờ khai báo không?
- Không, không! - ông ấy kêu lên trong khi kiềm chế một cách khó khăn sự xúc động của ông ấy. - Chắc chắn đây là một tên du thủ. du thực có ý định tới xin bố thí. Tôi không đặt một sự quan trọng nào vào sự cố này. Không một sự quan trọng nào, ông nghe rõ chứ? Ông Weld ạ, nhưng tôi không muốn giữ ông lại, nếu ông cần phải đi ra.
Tôi cáo từ ông ấy. Những lời lẽ để trấn an của ông ấy đã bị phủ nhận bởi vẻ kinh hoàng còn hiện rõ trên nét mặt ông ấy. Khi tôi đi ra, tôi có những linh cảm xấu cho vị hiệu trưởng nhỏ bé của tôi. Khi quay nhìn lại cái ô vuông ánh sáng của cái cửa sổ phòng anh bạn đồng nghiệp của tôi bỗng nhiên tôi nhận thấy hình dáng nhìn nghiêng của tiến sĩ Mc¬Carthy đi qua trước cái đèn. Vậy là ông ấy đã vội vã rời khỏi văn phòng để báo động cho St James? Vậy thì tất cả cái không khí bí ẩn này, sự kinh hoàng không thể giải thích được này, những sự mật thiết giữa hai người khác biệt nhau đến thế này là nghĩa làm sao? Tôi suy nghĩ trong khi chân bước về phía trung tâm Lon¬don, mặc dầu chẳng thế nào đưa ra được một kết luận thích hợp với các sự kiện. Tôi không nghi ngờ chút nào rằng tôi đã đến rất gần một đáp án.
Tôi trở về nhà rất muộn, trời đã gần nửa đêm. Tất cả các ánh sáng đều đã tắt đi, trừ có ánh sáng trong văn phòng ông hiệu trưởng. Tôi đi vào tòa nhà với cái chìa khóa chung của tôi, và khi sắp vào phòng của tôi thì nghe thấy tiếng kêu nhỏ sắc nhọn của một người đang bị đau đớn. Tôi đứng yên bất động và chờ đợi, một bàn tay đặt lên chốt cửa của tôi.
Trong căn nhà, tất cả đều yên tĩnh, ngoại trừ một tiếng nói thì thào xa xôi vọng tới, tôi biết điều này, từ văn phòng ông hiệu trưởng. Tôi lén bước đi trong hành lang. Tiếng thì thầm được phân ra một cách rõ ràng thành hai giọng: giọng chát chúa và mạnh mẽ của St.James và giọng êm dịu hơn của tiến sĩ Mc¬Carthy, anh chàng đồng nghiệp của tôi có vẻ nằn nì, khẩn khoản, ông hiệu trưởng thì tranh luận, biện hộ. Bốn vệt ánh sáng mỏng manh trong bóng tối chỉ rõ cửa lớn của văn phòng. Tôi rón rén bước lại gần cái cửa. Giọng nói của St.James mỗi lúc mỗi mạnh mẽ hơn; những lời nói của hắn nổi bật lên một cách rõ ràng.
- Tôi muốn lấy tất cả tiền bạc! Nếu ông không cho tôi, tôi cũng sẽ lấy. Ông có nghe rõ chưa?
Câu trả lời của tiến sĩ Mc¬Carthy không thể nghe thấy, nhưng giọng nói bực bội lại cất lên.
- Không để lại cho ông một xu nào à? Tôi bỏ lại cho ông cái mỏ vàng nhỏ là cái trường học này. Tôi cho rằng chỗ đó là đủ cho một ông già rồi, không được à? Làm thế nào để tôi đi châu Úc mà không có tiền? Ông hãy nói đi!
Giọng nói dàn hòa của tiến sĩ Mc¬Carthy nghe không được rõ rệt nhưng câu trả lời của ông ấy chỉ làm tăng thêm sự giận dữ của người bạn ông ấy.
- Những điều ông đã làm cho tôi hả? Ông đã làm những gì, ông không bị bắt buộc phải làm chứ? Ông chỉ quan tâm tới cái thanh danh của ông thôi, không bao giờ ông làm việc gì cho sự an toàn của bản thân tôi. Nói làm nhàm thế là đủ rồi! Tôi phải ra đi trước khi trời sáng. Ông có muốn mở cái két bạc của ông hay không nào?
- Ôi James, làm sao anh có thể đối xử với tôi như thế này? - một giọng rên rỉ kêu lên.
Ngay sau tiếng than van này, tôi nghe thấy một tiếng kêu đau đớn nhỏ. Tiếng kêu cứu này làm mất đi sự trầm tĩnh mà tôi từng tự hào. Người ta không còn có thể đứng yên lặng một cách khách quan nếu có kẻ nào dùng tới bạo lực! Trong tay tôi còn cầm cái ba¬ton khi đi dạo chơi. Tôi xông vào trong văn phòng. Cũng ngay lúc đó tôi nghe thấy một tiếng giật chuông mạnh mẽ ngoài cửa vào
Tôi quát lớn.
- Đồ kẻ cướp! Đồ vô lại! Hãy để ông ấy bình yên! Buông ông ấy ra!
Hai người đang đứng trước một cái két nhỏ được kê dựa vào một bức tường của văn phòng hiệu trưởng. St.James nắm lấy cổ tay ông già, và hắn bẻ văn cánh tay ông ấy để bắt ông ấy đưa cái chìa khóa cho hắn. Ông hiệu trưởng nhỏ bé của tôi, mặt tái xanh đi nhưng vẫn kiên quyết, dẫy dụa một cách giận dữ dưới sự xiết chặt của tay lực sĩ. Gã này ngoái đầu lại nhìn tôi, tôi thấy trên nét mặt hắn cả vẻ kinh hoàng lẫn sự điên dại. Nhưng khi hắn biết là tôi chỉ có một mình thì hắn buông nạn nhân của hắn ra và nhảy sổ vào người tôi.
Hắn quát lên.
- Tên mật thám khốn kiếp? Trước khi ra đi tao phải thanh toán mày!
Vì tôi không phải là người khỏe mạnh lắm, nên tôi cố giữ hắn ở một khoảng cách. Đã có hai lần tôi quất cho hắn một nhát ba¬ton, nhưng hắn đã áp đảo được sự phòng thủ vụng về của tôi, và hắn nắm lấy cổ áo của tôi trong khi phát ra một tiếng gầm lớn. Tôi ngã ngửa về phía sau, lôi hắn ngã theo, hắn tiếp tục xiết chặt cổ họng tôi, tôi cảm thấy sự sống rời bỏ tôi. Cặp mắt hung ác dữ dằn, vàng khè của hắn nhìn trừng trừng vào mắt tôi chỉ cách nhau vài cen-ti-mét, hai màng tang của tôi bắt đầu đập và hai tai bắt đầu kêu o o, đúng lúc tôi mất hết tri giác thì tôi lại nghe thấy cái chuông ở lối vào kêu inh ỏi.
Khi tôi tỉnh lại, thấy mình được đặt nằm trên chiếc ghế dài trong văn phòng của tiến sĩ Mc¬Carthy, và ông hiệu trưởng đang ngồi bên cạnh tôi. Chắc chắn là ông ấy đã canh chừng tôi với sự lo lắng. Khi tôi mở mắt ra, ông ấy kêu lên một tràng lớn khoan khoái.
Ông ấy nói:
- Cám ơn Thượng đế!
- Hắn đâu rồi? - tôi hỏi trong khi nhìn quanh mình.
Lúc đó tôi mới nhìn thấy là các đồ đạc ở tình trạng hết sức lộn xộn và cái văn phòng đã bày ra các vết tích của một cuộc vật lộn dữ dội rất nhiều hơn cuộc vật lộn mà tôi đã là nạn nhân.
Ông tiến sĩ Mc¬Carthy úp mặt vào hai bàn tay. Ông rên rỉ nói :
- Họ đã bắt lại nó rồi. Sau những năm gi¬an khổ này, họ đã bắt lại nó. Nhưng tôi xin cám ơn Thượng đế là những bàn tay nó đã không bị vấy máu một lần nữa?
Trong khi ông hiệu trưởng nói, tôi nhận thấy một người đàn ông mặc sắc phục sĩ quan cảnh sát đứng ở bậc cửa và mỉm cười với tôi.
Ông ấy nói với tôi:
- Vâng, thưa ông. Ông đã may mắn thoát khỏi tay nó? Nếu chúng tôi không nhảy chồm lên người nó vào giây phút cuối cùng thì ông đã không còn ở đây để nói ba hoa nữa. Tôi không nghĩ rằng đã từng bao giờ nhìn thấy một người nào đến gần cái chết quá như vậy?
Tôi ngồi dậy, đưa hai bàn tay lên sờ cổ họng. Tôi nói lớn:
- Thưa tiến sĩ Mc¬Carthy! Đối với tôi sự bí ẩn vẫn còn nguyên vẹn đó. Tôi sẽ rất sung sướng nếu ông có thể giải thích cho tôi rõ gã đàn ông đó là ai, và tại sao ông đã chịu đựng hắn trong nhà ông lâu đến như vậy.
- Ông Weld ạ, tôi còn nợ ông một lời giải thích. Hơn nữa ông đã gần như hy sinh mạng sống của ông, một cách rất nghĩa hiệp, để bảo vệ cho tôi. Bây giờ tôi không còn gì để giấu diếm nữa. Nói tóm lại, ông Weld ạ, tên thật của thằng khốn nạn đó là James Mc¬Carthy, và nó là thằng con trai độc nhất của tôi.
- Con trai ông?
- Than ôi, đúng vậy! Tôi đã làm nên tội tình gì để phải gánh chịu một sự trừng phạt thế này? Từ thuở nó còn rất thơ ấu, nó đã là sự bất hạnh của đời tôi: hung bạo, nóng nảy, ích kỷ, không biết phép tắc là gì. Lúc mười tám tuổi, nó đã là một tên tội phạm. Khi hai mươi tuổi trong một cơn nóng giận, nó đã giết chết một người trong lũ bè bạn trụy lạc của nó và nó đã bị kết án về tội sát nhân. Nó đã thoát được giải đài trong đường tơ kẽ tóc, nhưng một án tù khổ sai chung thân đã được xử phạt cho nó. Ba năm sau đó nó đã đào thoát được và tới được nhà của tôi, qua hàng ngàn trở ngại. Việc nó bị kết án tù đã làm tan nát trái tim của bà vợ tôi. Vì nó đã kiếm được quần áo thường dân nên không có ai đây có thể nhận ra nó. Trong nhiều tháng trời nó ẩn náu trong một cái rầm thượng để chờ đợi khi cảnh sát đến chỉ những cuộc truy tầm ban đầu. Rồi tôi cho nó việc làm ở trường học, mặc dù với sự thô lỗ trong các xử của nó, nó đã làm cho cuộc sống của tôi không chịu được, với tôi và với các bạn đồng nghiệp khác của nó. Ông Weld ạ, ông đã ở đây từ bốn tháng nay. Không một người nào trong các vị tiền nhiệm của ông đã cầm cự được lâu như thế. Bây giờ tôi xin đưa ra tất cả những lời cáo lỗi của tôi về những gì mà ông đã phải chịu đựng, nhưng xin ông hãy đặt mình vào địa vị của tôi: tôi thể làm gì khác được? Vì nhớ đến người mẹ quá cố của nó, tôi không thể để cho sự bất hạnh đến với nó, khi mà tôi còn đủ sức bảo vệ cho nó tránh khỏi bất hạnh. Chỉ có ở nhà tôi là nó mới có một nơi nương náu. Làm thế nào để giữ nó lại mà không gây ra những lời phẩm bình nếu tôi không tìm cho nó một việc làm? Do đó tôi đã làm nó trở thành một giáo sư Anh văn, và tôi đã che chở nó trong ba năm. Chắc chắn ông đã nhận thấy không bao giờ nó đi ra ngoài lúc ban ngày. Hôm nay thì ông đã hiểu lý do của việc đó, nhưng tối hôm nay, khi ông báo cáo với tôi về sự hiện diện của một người đàn ông đang nhìn qua cửa sổ, thì tôi biết rằng nơi lẩn tránh của nó đã bị phát hiện. Tôi bảo nó ra đi ngay tức thì, nhưng nó đã uống rượu, thằng khốn nạn, và nó làm lơ đi. Sau hết, khi nó quyết định bỏ đi, nó muốn lấy tiền của tôi lấy tới đồng xu cuối cùng mà tôi đang có. Sự đột nhập của ông đã cứu được tôi, và sau đó sự xuất hiện của cảnh sát đã cứu được ông khi đến lượt ông bị nạn. Tôi đã vi phạm luật pháp khi chứa chấp một tên tù tại đào. Tôi ở lại đây dưới sự canh chừng của ông thẩm sát viên nhưng nhà tù làm cho tôi ít sự hãi hơn là ba năm mà tôi đã sống ở đây.
Lúc đó ông thẩm sát viên nói chen vào:
- Theo tôi thấy thì nếu ông vi phạm luật pháp thì ông cũng đã bị trừng trị đầy đủ rồi.
- Có Thượng đế biết điều này! - Tiến sĩ Mc¬Carthy kêu to lên, nước mắt đầm đìa.
03. Sự việc đã xảy ra như thế nào?
Bà ấy là bà cốt, một chuyên gia về lối chữ viết tự động. Dưới đây là những lời bà ấy viết :
Tôi có thể nhớ lại một vài điều về cái buổi tối hôm đó với rất nhiều sự chính xác, trong khi những điều khác thì giống như những giấc mộng mơ hồ, đứt đoạn. Tôi tuyệt nhiên không biết lý do nào đã đưa tôi tới Luân Đôn, từ nơi này tôi đã trở về nhà rất muộn. Buổi tối hôm đó đã lẫn lộn với tất cả những lần khác tôi lưu ngụ ở Luân Đôn. Nhưng từ lúc tôi xuống xe ở cái nhà ga nhỏ miền quê, tất cả mọi sự đều rõ ràng một cách kỳ diệu. Tôi có thể sống lại từng lúc một của thời gi¬an này.
Tôi nhớ một cách rõ ràng là tôi đã đi dọc theo sân ga và đã nhìn cái đồng hồ được soi sáng của nhà ga : nó chỉ mười một giờ rưỡi. Tôi cũng nhớ là tôi đã tự hỏi liệu tôi có sẽ về nhà trước lúc nửa đêm không. Rồi tôi nhớ tới cái xe đồ sộ với những ngọn đèn pha sáng chói cà sự sáng chói cửa những miềng đồng của nó, đang đợi tôi ở bên ngoài. Đó là cái xe Robur mới 30 mã lực của tôi, vứa mới được gi¬ao cho tôi đúng vào ngày hôm đó. Tôi còn nhớ là đã hỏi Perkins người tài xế của tôi, rằng nó chạy ra sao, và đã nghe thấy anh ấy trả lời rằng đó là một cái xe rất tốt.
- Tôi sẽ chạy thử nó, tôi đã nói thế trong khi ngồi vào trước tay lái.
- Những tốc độ không phải cùng một thứ, anh ấy trả lời tôi. Thưa ông, có lẽ tốt nhất là hãy để cho tôi điều khiển nó ...
- Không, thật tình tôi muốn chạy thử nó.
Và chúng tôi khởi hành để vượt tám cây số ngăn cách chúng tôi với nhà của tôi.
Cái xe cũ của tôi có những bánh pi-nhông có khấc trên một thanh sắt. Ngược lại trong cái xe này ta phải kéo cái cần qua một hàng song sắt để thay đổi tốc độ. Việc này không khó khăn lắm, và chả mấy chốc tôi tin rằng mình đã nắm vững được sự vận hành của máy móc. Tất nhiên thật là ngu ngốc khi muốn mình thành thạo với một phương pháp mới trong lúc ban đêm, nhưng người ta thường phạm chúng. Mọi việc đều trôi qua một cách tốt đẹp cho tới chân đèo Claystall. Đó là một trong những cái đèo tệ hại nhất của nước Anh, nó dài hai cây số rưỡi, với một tỷ lệ là 17% ở nhiều nơi và ba khúc ngoặt gấp. Hàng rào sắt của cái hoa viên của tôi nằm ngay ở phía bên kia ngọn đèo này; ngay ở dưới chân đèo, trên con đường lớn đi Luân Đôn.
Chúng tôi đã chạy gần tới đỉnh đèo thì những sự bực bội của tôi khởi sự. Tôi đã chạy hết ga, và tôi muốn xuống dốc để thả bật hơi, nhưng bột phận li kết bị kẹt, và tôi đành phải trở lại số ba. Cái xe chạy rất nhanh, tôi tìm cách tác động hai cái thắng, hết cái này tới cái nó, chúng đã phản bội tôi. Khi cái bàn đạp dưới chân tôi vang lên một tiếng khô khan, tôi đã không đến nỗi quá sợ hãi, nhưng khi tôi dùng hết sức lực kéo cái thắng tay, và khi cái cần đã lên mãi trên cao mà thắng vẫn không ăn, thì tôi toát mồ hôi lạnh. Chúng tôi phóng xuống đèo với hết tốc độ. Nhưng ngọn đèn pha chiếu sáng rất tốt. Tôi chạy qua khúc ngoặt thứ nhất một cách không chê trách được. Trong khúc ngoặt thứ hai tôi chạy sát cái hố, nhưng tôi đã lách ra được. Khúc ngoặt thứ hai cách xa khúc ngoặt thứ ba một ngàn năm trăm thước, tính theo đường thẳng; sau khúc ngoặt cuối cùng, tôi chỉ còn phải vượt qua hàng rào sắt của hoa viên nhà tôi. Nếu tôi lái được vào cái bến này thì tất cả mọi việc sẽ tốt đẹp cả, vì có một cái dốc đứng thẳng từ hàng rào sắt tới căn nhà của tôi, chắc chắn là cái xe sẽ tự nó dừng lại.
Perkins đã ứng xử một cách tuyệt diệu. Tôi muốn rằng chi tiết này phải được mọi người biết. Anh ấy hoàn toàn bình tĩnh, và chuẩn bị sẵn sàng cho mọi sự cố. Thoạt tiên tôi đã tính lao xuống bờ dốc, và anh ấy đã đoán được ý định của tôi.
- Thưa ông, nếu tôi thì tôi sẽ không làm như thế, anh ấy nói với tôi. Với tốc độ này chúng ta sẽ ngã đổ nhào
Anh ấy đã hoàn toàn có lý, anh ấy đã cắt đứt công tắc, chúng tôi đã chạy nhanh bằng những bánh xe được thả lỏng, không có động cơ, nhưng vẫn với một tốc độ khủng khiếp. Anh ấy đặt tay lên tay lái.
- Tôi sẽ giữ tay lái, anh ấy đề nghị với tôi, nếu ông muốn nhảy ra. Chúng ta sẽ không còn sống được để ra khỏi khúc ngoặt này. Thưa ông, tốt nhất là ông hãy nhảy ra đi !
- Không, tôi trả lời anh ấy. Tôi ở lại. Perkins à, nếu anh muốn, thì hãy nhảy ra đi.
- Thưa ông, tôi ở lại với ông.
Nếu là chiếc xe cũ thì tôi đã kéo cái cần tốc độ cho xe chạy giật lùi, và tôi đã thấy rõ điều gì sẽ xảy ra. Nhưng với cái xe mới thì thật là vô vọng. Những bánh xe kêu vù vù như một cơn gió lớn. Sườn xe kêu răng rắc và rên rỉ, nhưng các đèn pha vẫn chiếu sáng, và tôi có thể lái một cách chính xác. Tôi còn nhớ là tôi đã tưởng tượng ra cái hình ảnh khủng khiếp là chúng tôi sẽ tông vào người nào tình cờ đi tới từ hướng ngược chiều với chúng tôi. Con đường thì hẹp, người bất hạnh nào muốn gặp chúng tôi sẽ chết một cách khủng khiếp.
Chúng tôi chạy vào khúc ngoặt với một bánh xe nằm cách một thước bên trên bờ dốc. Tôi đã nghĩ rằng chúng tôi sẽ lật nhào, nhưng sau khi bị lắc lư một lúc, chiếc xe đã lấy lại được thăng bằng và lại tiếp tục chạy. Tôi đã vượt qua khúc ngoặt thứ ba, khúc cuối cùng. Bây giờ chỉ còn hàng rào sắt của hao viên. Nó đứng ở trước mắt chúng tôi, nhưng bất hạnh thay, không phải thẳng ngay trước mặt. Nó nằm vào khoảng hai mươi thước về phía bên trái, bên trên con đường. Có thẻ là tôi sẽ thành công, nhưng tôi nghĩ rằng bộ phận tay lái đã bị hư hại trong lúc chúng tôi chạy trên bờ dốc. Tay lái đã không văng lời tôi một cách tốt đẹp. Tôi trông thấy, ở phía bên trái, hàng rào sắt đươc mở ngỏ. Tôi đã nhằm thẳng vào với tất cả sức lực của các cổ tay của tôi. Perkins và tôi, cả hai chúng tôi đều gần như nằm rạp xuống. Trong một giây đồng hồ tiếp theo đó, đang chạy với tốc độ tám mươi cây số một giờ, bánh xe bên phải của tôi đụng vào cái cột của hàng rào sắt. Tôi nghe thấy sự chấn động. Tôi cảm thấy tôi bị bay tung lên không, rồi thì ... Rồi thì ...
Khi tôi tỉnh lại, tôi thấy mình nằm giữa những bụi cây, dưới bóng những cây sồi ở lối đi, ở mạn nhà của người gác cửa. Một người đàn ông đứng ở gần tôi. Tôi tưởng đó là Perkins, nhưng khi nhìn y một cách chăm chú thì tôi nhận ra là Stan¬ley, một bạn học cũ mà tôi cảm thấy sự quý mến thật sự. Nhân cách của Stans¬ley bao giờ cũng gợi lên trong tôi một cảm tình sôi động, và tôi thấy tự hào khi nghĩ rằng một sự tương ứng đã nảy sinh. Tuy nhiên tôi cũng khá kinh ngạc khi thấy anh ở đó, nhưng tôi giống như một người đang nằm mơ, người choáng váng, đật nát; hoàn toàn sẳn sàng chập nhận không cần bàn cãi mọi sự việc như chúng đã xảy ra.
- Tai nạn mới gớm làm sao ! Tôi nói. Trời ơi, tai họa mới lớn làm sao !
Anh ấy gật đầu đồng ý; trong bóng tối tăm tôi lại nhìn thấy nụ cười khả ái, thông minh của anh ấy.
Tôi đã hoàn toàn bất lực không ngọ nguậy được. Thật ra tôi đã không có một chút ý thích nào để thử ngọc nguậy. Trái lại, các giác quan của tôi vẫn tỉnh táo một cách đặc biệt. Tôi nhìn thấy cái xác xe nát vụn của tôi mà những ngọn đèn lồng đang soi sáng, những ngọn đèn lồng luôn luôn động đậy, tôi nhìn thấy một ít nhóm ít người và tôi nghe thấy những tiếng nói nghẹn ngào. Ở đó có người gác cửa và vợ anh ấy, cộng thêm vài người khác. Họ không bận tâm tới tôi, nhưng họ bu túm chung quanh cái xe. Bỗng nhiên tôi nghe thấy một tiếng kêu đau đớn.
- Sức nặng nghiền nát anh ấy, hãy nâng nó lên một cách nhẹ nhàng ! Một tiếng nói quát lên
- Chỉ có chân tôi thôi, một tiếng nói khác rên rĩ mà tôi nhận ra như là tiếng của Perkins. Ông chủ của tôi đâu rồi ?
- Tôi ở đây này ! Tôi trả lời.
Nhưng không có ai tỏ vẽ nghe thấy tôi nói. Tất cả mọi người đểu cúi xuống trên một vật gì nằm phía trước cái xe.
Stan¬ley đặt một bàn tay lên vai tôi, và sự đụng chạm này là cực kỳ an ủi đối với tôi. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm và sung sướng, bất chấp tất cả mọi sự.
- Tất nhiên là anh không đau đớn chứ ? Anh ấy hỏi tôi.
- Không đau đớn chút nào.
- Không bao giờ người ta đau đớn cả
Lúc đó bỗng nhiên sự kinh hoàng tràn ngập lòng tôi. Stan¬ley ! Stan¬ley ! Nhưng kìa, Stan¬ley đã chết vì bệnh thương hàn trong trận chiến tranh của người Boers rồi mà !
- Stan¬ley ! Tôi gào lên, cổ họng nghẹn lại. Stan¬ley, bạn đã chết rồi mà !
Anh ấy nhìn tôi với nụ cười khả ái, thông minh xưa cũ của anh ấy.
- Anh cũng vậy, anh ấy trả lời tôi.
04. Hồn ma hiện lên từ đáy biển
Khi nào mà các đại dương vẫn còn những lợi gân nối liền các phần khác nhau của Đế quốc Anh thì chúng ta vẫn sẽ không tránh khỏi những chuyện hoang đường. Vì linh hồn người ta tự để cho bị khuấy động bởi nước, cũng giống hệt như nước phải vâng theo mặt trăng và khi những con đường lớn của một đế quốc bị bao quanh bởi nỗi hỉêm nguy muôn thuở, cũng phong phú về những cảnh trí và âm thanh kỳ lạ, người ta phải có một tinh thần khá thâm hậu để giữ được thản nhiên trước những điều ác hại của chúng. Hiện nay nước Anh đang vươn ra rất xa bên ngoài chính quốc, khi mà ba ngàn dặm hải phận của mỗi mạn duyên hải làm thành cương giới mà nó đã đoạt được bởi cái búa, cái khuôn dệt và cái cuốc nhọn hơn là bởi những nghệ thuật của chiến tranh. Quả thật lịch sử đã đoán chắc với chúng ta rằng không một ông vua nào, không một đạo quân nào có thể cản đường của một người chỉ có hai đồng tiền trong két sắt nhưng biết rằng ở nơi nào y sẽ có thể biến hai đồng tiền thành ba đồng, và để hết trí thông minh vào việc đi tới nơi đã định. Và vì cương giới đã mở xa ra, trí thông minh của Anh Quốc cũng được nới rộng và tràn lan ra một cách đầy đủ trên khắp thế giới để cho tất cả mọi người thấy rằng những con đường của hải đảo có tính cách châu lục, giống hệt như những con đường của châu lục đều có tính cách hải đảo.
Nhưng để tới được chỗ đó, người ta đã phải trả một cái giá, và cái giá này cứ tiếp tục tốn kém hơn. Cũng giống như con quái vật thời xưa phải nhận được dưới dạng cống phẩm hàng năm một người trai trẻ, với đế quốc của chúng ta cũng thế, hàng ngày chúng ta phải hy sinh cái tinh hoa của thế hệ thanh niên của chúng ta. Guồng máy thì bao la và dũng mãnh nhưng nhiên liệu duy nhất làm cho nó vận hành là sinh mạng của dân Anh. Đó là lý do tại sao khi ở trong những giáo đường cổ kính màu xám chúng ta nhìn thấy những danh tính xa lạ: những danh tính mà cả những người xây các bức tường này cũng không biết, vì chính ở Pe¬shawar, ở Um¬bel¬lah, ở Ko¬rti, ở Fort Pear¬son mà những chàng trai trẻ chết, mà chỉ để lại phía sau họ truyền thuyết và một tấm biển. Nếu bên trên mỗi cái xác người Anh có một đài kỷ niệm được dựng lwn thì người ta sẽ không cần vạch ra cương giới, vì một sợi dây thừng của những ngôi mộ sẽ chỉ rõ làn sóng của dân Anh và Celtes đã vờ tới nơi nào.
Cả điều đó nữa, đồng thời với những khối nước nối liền chúng ta với thế giới, đã đóng góp vào những chuyện hoang đường mà chúng ta thấm nhuần. Khi mà bao nhiêu người đàn ông và đàn bà đã có ở phía bên kia đại dương những người mà họ yêu quý và những người này đang tiến lên dưới làn đạn của dân sơn cước hoặc trong những đầm lầy của bệnh sốt rét rừng, thì lúc đó tâm hồn đi vào sự gi¬ao cảm với tâm hồn, và những truyện ly kỳ nẩy sinh, những mộng mị, những sự linh cảm, những ảo tưởng trong đó một bà mẹ trông thấy con trai bà đang chết và bà ngất đi trong cơn tuyệt vọng, ngay cả trước khi cái tang của anh ta được loan báo cho bà. Mới gần đây khoa học đã chiếu cố tới vấn đề này và đã ban cho nó một cái nhãn hiệu, nhưng chúng ta đã biêt gì hơn nếu không phải là việc một linh hồn bị hành hạ và tới bước cũng đã có thể phóng qua mặt đất, vào một khoảng cách mươi lăm ngàn cây số, cái hình ảnh của tình cảnh đau buồn của y tới tận tâm trí của người thân cận nhất của y? Tôi không hề phủ nhận cái quyền năng đó, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải khôn ngoan trong những vấn đề như vậy, vì ít nhất đã có một lần tôi biết rằng những điều trong khuôn khổ các định luật tự nhiên có thể hoàn toàn nằm ngoài những vấn đề này.
John Van¬sit¬tart là hội viên thứ nhì của công ty Hud¬son et Van¬sit¬tal, công ty xuất khẩu cà phê ở Cey¬lan ( Tích Lan). Ông vốn là người gốc Hà Lan, nhưng 100% Ăng-Lê trong lòng các phong độ. Đã nhiều năm tôi làm đại diện cho ông ở Luân Đôn. Khi ông tới Anh quốc để nghỉ ngơi ba tháng, ông nói với tôi để có những sự giới thiệu cho phép ông làm quen với đời sống ở thị thành và ở thôn quê. Ông đã rời khỏi các văn phòng của tôi với bảy bức thư trong túi áo. Trong một vài tuân, những bức thư ngắn từ nhiều nơi khác nhau gửi tới báo tin cho tôi biết là ông đã lấy được cảm tình của các bạn tôi. Rồi tôi được tin là ông đã đính hôn vơi Emi¬ly Law¬son, thuộc ngành thứ của gia đình nhà Here¬ford Law¬son, và gần như ngay sau đó họ đã thành hôn: sự tán tỉnh của một du khách chỉ có thể chóng vánh thôi, và cái ngay ông phải xuống tàu của công ty, một cái tàu buồn một ngàn tấn: đó sẽ là chuyến đi chơi tuần trăng mật của họ.
Thời đó là thời cực kỳ thuận lợi cho các nhà trồng cà phê ở Cey¬lan, họ đã chưa từng biết cái mùa khủng khiếp mà chỉ trong vài tháng thôi, nhưng đã làm lụi bại tất cả một cộgn đồng này nhờ ở sự dũng cẩm và kiên trì, sẽ lại dành được một thắng lợi thứ hai: quả thực những cánh đồng trà ở Tích Lan là một đại công trình của lòng dũng cảm của dân Anh, giống hệt như con sư tử ở Wa¬ter¬loo. Nhưng trong năm 1872 chưa có một đám mây nào đe doạ ở chân trời. Những hy vọng của các nhà trồng tỉa thật tràn trề, Van¬sit¬tart trở lại Luân Đôn cùng với cô vợ trẻ đẹp của ông. Ông giới thiệu cô với tôi, chúng tôi cùng ăn bữa tối với nhau, và cuối cùng thì ông đồng ý rằng, vì các công việc củng đòi hỏi sự có mặt của tôi ở Tích Lan, tôi sẽ là bạn đồng hành của họ trên tau East¬ern Star, mà sự nhổ neo rời bến đã được định trước vào ngay thứ hai sắp tới.
Tôi gặp lại ông vào buổi tối ngày chủ nhật. Ông đi vào trong nhà tôi với một vẻ băn khoăng và bực bội. Khi tôi bắt tay ông, tôi nhận thấy bàn tay ông nóng và khô.
- Ông Atkin¬son ạ, ông nói với tôi, tôi muốn ông bảo người nhà pha cho tôi một chút nước chanh và nước lạnh. Nói theo nghĩa đen, tôi đang chết khát đây, và tôi càng uống bao nhiêu thì tôi càng muốn uống nữa.
Tôi bấm chuông và gọi lấy một bình nước và những cái cốc.
- Ông đang bị sốt nóng lạnh, toi nói với ông, ông có vẻ đang khó ở đó.
- Không, tôi không cảm thấy khoẻ mạnh lắm. Tôi bị đau phong thấp ở lưng, và tôi ăn không ngon. Chính cài thành phố Luân Đôn chết tiệt này làm tôi nghẹt thở. Tôi không quen hít thở cái không khí mà bốn triệu buồng phổi cùng khuấy trộn lên cùng một lúc.
Ông vung vẩy hai bàn tay co quắp trước mặt ông: thật sự ông đã cho người ta một ấn tượng của sự ngột ngạt.
- Một khi ông ở trên mặt biển, ông sẽ cảm thấy khoẻ khoắn ngay.
- Đúng. Về điều đó thì tôi đồng ý với ông, Đó là việc cần thiết của tôi. Tôi không cần tới một vị y sĩ khác. Nếu ngày mai tôi không xuống tàu thì tôi sẽ phát ốm.....
Ông uống một hơi hết cốc nước chanh và ông xoa chỗ sống lưng bằng hai bàn tay ông.
- Người ta nói rằng điều đó sẽ tốt cho tôi, ông nói tiếp trong khi nhìn tôi với một con mắt rầu rỉ. Bây giờ tôi cần có sự giúp đỡ của ông, ông Atkin¬son ạ, vì tôi đang ở trong một hoàn cảnh tế nhị.
- Hoàn cảnh thế nào?
- Đây này, bà mẹ vợ tôi bị ngã bệnh và bà ấy đã đánh điện gọi vợ tôi tới bên giường bệnh của bà ấy. Tôi đã không thể đi theo vợ tôi (ông biết rõ hơn ai hết là tôi đã bị cầm chân lại ở đây ) và vợ tôi đành phải đi một mình. Bây giờ tôi lại vừa nhận được một bức điện khác nói là ngày mai vợ tôi không thể tới được, nhưng nàng sẽ bắt kịp con tàu ở Fal¬mouth vào ngày thứ tư. Ông biết đó, chúng tôi sẽ đạu lại ở đó: nhưng Atkin¬son ạ, tôi thấy thật là khó cho người ta đòi hỏi một người phải tin vào sự huyền bí, và người ta sẽ nguyền rủa, nếu y không thể tin vào điều đó, người ta sẽ nguyền rủa y, ông hãy hiểu tôi đi!
Ông cúi xuống phía trước và khịt mũi làm như thể ông sắp khóc oà lên.
Lúc đó tôi nghĩ tới việc người ta đã nói rất nhiều với tôi về những tập tục ở hải đảo và về cách thức người ta uống rượu không pha ở đó. Chắc hẳn rượu đã là nguyên nhân của những lời nói khó hiểu này và của những bàn tay đang lên cơn sốt này! Tôi cảm thấy một sự lo sợ mạnh mẽ khi trông thấy một người trai trẻ cao quý như vậy nằm trong tay một con quỉ ghê tởm nhất trong số tất cả những con gái.
- Ông phải đi nằm nghỉ! Tôi nói một cách nghiêm nghị.
Ông dụi mắt như thể ông tìm cách tự làm cho mình tỉnh lại, và ông nhìn tôi với vẻ kinh ngạc.
- Tôi sẽ đi tới đó, ông nói với tôi một cách bình thản, lúc nãy tôi cảm thấy hơi choáng váng, nhưng bây giờ tôi đã hồi phục rôi. Này, tôi đang nói về về việc gì thế? À, dĩ nhiên là về vợ tôi rồi! Nàng sẽ xuống tàu ở Fal¬mouth. Tôi tin rằng sức khoẻ của tôi tuỳ thuộc vào sự đi đường biển. Tôi cần có chút ít không khí trong lành trong phổi tôi để tôi có thể hoàn toàn bình phục. Do đó tôi xin ông hãy làm cho một việc với tư cách bạn bè, ông sẽ đí tới Fal¬muoth bằng xe lửa, phòng trường hợp mà chúng tôi tới trẻ, và lúc đó ông sẽ trông nom cho vợ tôi. Ông hãy tới khách sạn Roy¬al; tôi sẽ đánh điện cho nàng là ông trú chân ở đó. Em gái của nàng sẽ đi theo nàng tới tận đó, như thế là mọi việc sẽ tốt đẹp.
- Rất vui lòng, tôi trả lời. Thật sự tôi không đòi hỏi gì hơn là được đi tới Fal¬muoth bằng xe lửa, vì từ đây tới Colom¬bo chúng ta sẽ có nhiều thời gi¬an thưởng thức biển cả. Tôi cũng nghĩ rằng ông có một nhu vầu khẩn thiết về sự thay đổi không khí. Nếu ở địa vị ông tôi sẽ đi nằm nghỉ ngay tức thì.
- Phải. Đêm hôm nay tôi sẽ ngủ trên tàu. Ông thấy đó một thứ sương mù còn lởn vởn trước mắt ông.
- ....Mấy đêm nay tôi không ngủ được nhiều, tôi đã gặp mâu thuẫn với các nhà thần học....nghĩa là.....
Trong một sự cố gắng tuyệt vọng, ông kêu lên :
- ....Bởi những sự hoài nghi có tính cách thần học...Xì! Tôi tự hỏi tại sao đấng tối cao toàn năng lại tạo ra chúng ta, tại sao. Ngài lại làm cho chúng ta ngu độn và gài những sự đau đớn lặt vặt vào sống lưng của chúng ta. Có lẽ là tối nay tôi sẽ khá hơn!
Ông đứng dậy và bám thấy cái lưng ghế của ông.
- Ông Van¬sit¬tart! Xin ông hãy nghe tôi! Tôi nói với sự nghiêm trọng. Tối nay tôi sẽ mời ông ở đây với tôi, ông không ở trong tình trạng để đi ra ngoài được. Ông không đi ngay ngắn được. Ông đã uống những thứ pha trộn của rượu...
- Rượu hả ?
Ông nhìn thằng vào mắt tôi với một cái nhìn ngớ ngẩn .
- Thường nhật thì ông chịu đựng khá hơn khi uống rượu mà.
- Ông Ank¬in¬son này, tôi thề với ông là đã từ hai ngày nay tôi không uống một cốc rượu, tôi không biết là tôi đã uống cái gì. Tôi giả thiết rằng ông nghĩ đó là hiệu ứng của rượu....
Ông nắm lấy bàn tay tôi và đặt nó lên trán ông.
- Lạy chúa tôi! Tôi kêu phải lên.
Ông có làn da mỏng như một dải nhung, dưới lớp da tôi cảm thấy như một lớp chi chít những miêng chỉ lụn vụn.
- Ông chớ lo sợ, ông nói trong lúc cười mỉm. Tôi đã mắc bệnh lở mụn nước rất tệ.
- Nhưng chuyện đó không dính líu gì tới bệnh lở mụn nước mà !
- Không, đó là Luân Đôn. Đó là việc thở hít cái không khí tệ hại đó. Ngày mai tôi sẽ mạnh khoẻ hơn nhiều. Trên tàu có một y sĩ, thế là tôi sẽ được săn sóc chu đáo. Bây giờ tôi sẽ đi đây.
- Không, tôi nói với ông trong khi bắt ông phải ngồi xuống. Việc đó sẽ là đưa sự đùa cợt đi quá xa đấy. Ông sẽ không nhúc nhích khỏi nơi này trước khi gặp một vị y sĩ. Hãy ở yên chỗ ông đang ngồi.
Tôi cầm lấy cái mũ và vội vã đi tới nhà một vị y sĩ ở ngay gần nhà tôi. Tôi đưa ông ấy về nhà tôi ngay lập tức, nhưng phòng khách của tôi trống không và Van¬sit¬tart đã đi khỏi. Tôi bấm chuông, anh đầy tớ báo với tôi rằng vị quý khách đã sai gọi một cỗ xe. Ông ấy bảo người đánh xe đưa ông ấy đến bến tàu.
- Vị quý khách có vẻ ốm yếu không? Tôi hỏi.
- Ốm yếu à? Anh đầy tớ mỉm cười trả lời. Thưa ông không, ông ấy hát ầm ĩ!
Sự bào tin này đã không làm tôi yên tâm chút nào, nhưng tôi nghĩ rằng ông đi tới tàu East¬em Star, và có một y sĩ ở trên tàu, tôi không thể làm được gì nữa cho ông. Tuy nhiên, khi tôi nhớ tới sự khác nước của ông, nhớ tới hai bần¬ty nóng bỏng của ông, con mắt nặng chĩu của ông, những lời nói vô ý nghĩa của ông, và cuối cùng là cái trán lở lói bệnh cùi của ông, thì tôi đã mang theo lên giường nằm của tôi một ký ức khó chịu về người khách của tôi và sự tới thăm của ông ấy.
Sáng hôm sau, vào lúc mười một giờ, tôi đi tới bến tàu, nhưng tàu East¬ern Star đã bắt đầu chạy xuôi dòng sông và đã fần tới Gravesend. Tôi đi với Gravesend bằng xe lửa, nhưng khi tôi tới nơi thì chỉ còn trông thấy các cột buồm của nó ở một khoảng cách khá xa, được mở đường phía trước bởi một lùm khói của một cái tàu kéo. Thế là tôi không có tin tức nào của ông bạn tôi nữa trước khi tới Fal¬muoth. Khi tôi trở về văn phòng của tôi, một bức điện tín đã đợi tôi. Bà Van¬sit¬tart đã tới Fal¬muoth; buổi tối ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau ở khách sạn Roy¬al, tại đó chúng tôi phải đợi tàu East¬ern Star. Mười ngày đã trôi qua, chúng tôi không nhận được tin tức gì của con tàu.
Tôi sẽ không dễ dàng quên được mười ngày đó! Khi tàu East¬ern Star rời khoti sông Tamise, một cơn bão lớn phát khởi; nó thổi trong gần cả một tuần lễ không ngừng nghĩ chút nào. Trên bờ biển miền nam, chưa bao giờ người ta thấy một trận bảo dài như thế và cuồng nộ như thế. Từ các cửa sổ khách sạn của chúng tôi, mặt biển hình như bị bao trùm trong sương mù. Gió đè một cách quá nặng nề lên những đợt sóng khiến cho mặt biển không thể vùng lên được: ngọn của từng đợt sóng đã bị ngắt đi ngay tức thì. Những đám mây, gió, mặt biển đều ùn ùn kéo về hướng tây. Ở giữa những thế lực hung hăng này, tôi chờ đợi hết ngày này qua ngày khác với sự bầu bạn duy nhất của một người đàn bà xanh xao và trầm lặng, mà cặp mắt phản ảnh sự kinh hoàng; từ sáng tới chiều, nàng cứ đứng dán mắt vào cửa kính, đăm đăm nhìn vào tấm xịt qua đó một con tàu có thể hiện ra. Nàng không nói gì cả, nhưng nét mặt nàng là một khúc bi ca dài dặc.
Sang tới ngày thứ năm tôi hỏi ý kiến một thủy thủ già. Ý tôi muốn được ngồi một mình với ông ấy, nhưng nàng đã trông thấy tôi mở lời với ông ấy, và nàng tới ngay tức thì, miệng hé mở và đôi mắt khẩn cầu.
- Khởi hành từ Luân Đôn đã bảy ngày rồi à? Ông ấy nói. Vậy là năm ngày trong giông bão. Này, biển Manche đã bị quét sạch bởi cơn gió này! Có ba giả thuyết, trận bão có thể bắt nó phải tìm nơi trú ẩn trong một hải cảng của Pháp. Điều này có thể là đúng.
- Không phải thế đâu! Ông ấy biết rằng chúng tôi đang ở đây. Lẽ ra ông ấy phải đánh điện cho chúng tôi.
- À phải! Vậy thì có thể là nó đã chạy ra khơiđể tránh bão, nếu đúng vậy thì lúc này chắc nó không ở xa Madere. Thưa bà, điều đó hoàn toàn có thể xảy ra; bà có thể tin lời tôi nói !
- Và giả thuyết thứ ba?
- Tôi có nói với bà về một giả thuyết thứ ba à? Không, tôi nghĩ chỉ có hai thôi. Tôi không tin là tôi đã nói tới một giả thuyết thứ ba. Con tàu của bà đang ở một nơi nào đó ở giữa Đại Tây Dương, và chả mấy chốc bà sẽ có tin tức của nó, vì thời tiết săp thay đổi. Thưa bà, bà chớ lo lắng. Hãy đợi tới ngày mai, ngay từ buổi sáng bà sẽ có một bầu trời xanh, đẹp.
Người thủy thủ già đã tiên đoán đúng: ngày hôm sau trời quang đãng ngoại trừ một đám mây thấp bay ở phía tây, và đó là mảnh cuối cùng của cơn cuồng nộ của trận bão tố. Dù trời đã quang đãng chúng tôi cũng vẫn không có một tin tức nào về chiếc tàu thủy. Ba ngày bực bội, lo âu nữa đã trôi qua, rồi một thủy thủ tới trình diện ở khách sạn với một bức thư, tôi thốt lên một tiếng kêu vui mừng. Bức thư tới từ vị thuyền trưởng của tàu East¬ern Star. Khi đọc qua mấy dòng đầu tiên, tôi đã muốn giấu nhẹm là thư đi, nhưng nàng đã giật lấy nó từ tay tôi.
- Tôi đã đọc đoạn đầu, nàng nói với một giọng bình thản. Vậy thì tôi có thể đọc chỗ tiếp theo.
Lá thư viết như sau :
" Kính thư ông, ông Van¬sit¬tart đang ở trên tàu với bệnh đậu mùa, và chúng tôi đã bị đẩy ra quá xa mũi đất của chúng ta nên chúng tôi không biết phải làm sao: ông ấy đã phát cuồng và ông ấy không còn khả năng để ra lệnh cho chúng tôi. Theo những sự tính toán phỏng chừng của tôi thì chúng tôi chỉ còn cách Fan¬chal chừng bốn trăm hai mươi cây số thôi. Tôi cũng giả thiết là nên đi tới đó, đưa ông Van¬sit¬tart vào bệnh viện, và đợi ông tới ở trong vịnh. Người ta nói với tôi là trong vài ngày nữa một tàu buồm sẽ từ Fal¬muoth đi tới Fan¬chal. Lá thư này sẽ được mang tới ông bằng sự môi giới của thuyền nhỏ Mar¬ian ở Fal¬muoth, phải trả viên thuyền trưởng của nó năm bảng. Kính chào ông. Jno Hines. "
Nàng thật là tuyệt diệu, cô thiếu nữ vừa mới rời khỏi đại học này! Cũng trầm tĩnh và cương nghị như một bậc nam nhi vậy. Nàng không nói gì cả. Nàng mím chặt môi và đội mũ lên đầu.
- Cô đi ra ngoài à? Tôi hỏi.
- Vâng.
- Tôi có thể giúp gì cho cô không?
- Không, tôi đến nhà vị y sĩ.
- Sao?
- Phải. Để biết cách người ta điều trị bệnh đậu mùa.
Nàng loay hoay bận rộn súôt cả buổi tối. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi xuống tàu đi Madere, trên chiếc tàu Róe ò Shảon. Gió biển thổi mười nút một giờ. Trong năm ngày chúng tôi chạy với tốc độ đều đặn, và chúng tôi đã tới nơi không xa hải đảo. Sang ngày thứ sáu gió nổi lên đột ngột, chúng tôi lâm vào tình trạng không nhúc nhích được như đi trên dầu nhớt.
Lúc mười giờ tối, Emi¬ly Van¬sit¬tart và tôi cùng đứng tựa vào bao lớn bên phải của mạn cuối tàu; mặt trăng sáng rực đằng sau chúng tôi và chiếu xuống chân chúng tôi bóng đen của con tàu và bóng hai cái đầu của chúng tôi trên mặt nước lóng lánh như tấm gương. Từ chỗ bóng tối một con đường của ánh trăng trải dài ta và vừa đi xa, vừa tan rộng cho mãi tới chân trời hiu quạnh. Chúng tôi nói chuyện trong khi cúi thấp đầu xuống, chúng tôi nói dông dài về sự yên tĩnh, về cơ may của một cơn gió thuận lợi, về trạng thái của bầu trời, thì bỗng nhiên có một tiếng bõm trên mặt nước, như thể một con cá hồi vừa nhảy lên, và kìa, dưới ánh sáng trăng vằng vặc John Van¬sit¬tart nhô lên từ dưới mặt biển và ngẩng đầu lên về phía chúng tôi.
Tôi chưa bao giờ thấy một vật gì rõ rệt hơn thế. Ánh trăng soi sáng ông ấy rõ mồn một, ông ấy ở cách xa chúng tôi tầm độ ba tầm chèo. Ông ấy có bộ mặt phồng lên lớn hơn là lần gặp mặt cuối cùng của chúng tôi, da ông có nhiều chỗ lốm đốm những vẫy đen; mặt và miệng ông mở lớn ra như thể một người vủa gặp một sự kinh ngạc lớn lao. Từ hai vai của ông, một chất trắng đục chảy xuống thành những dãi dài; một bàn tay của ông giơ lên gần tai, bàn tay kia thì gặp lại để ngang ngực ông. Tôi trông thấy ông vọt lên khỏi mặt nước, và trên mặt phẳng yên tĩnh của đại dương, những gợn sóng vẽ thành các vòng tròn cho mãi tới hông tàu. Rồi ông lại chìm xuống, và tôi nghe thấy một tiếng rập gẫy, một tiếng xé rách, như thể trong một đêm băng giá một bó củi khô nổ lép bép trong đống lửa bập bùng. Khi tôi nhìn lại tôi không còn trông thấy một chút dấu vết nào của ông đã xuất hiện. Tôi không thể nói là tôi đã đứng ở đó bao lâu cúi khom người trên các đầu ngón chân, một tay vịn chặt lấy cái lan can và tay kia đỡ lấy người đàn bà bất tỉnh. Tôi đã là một kẻ trái ngược hẳn với người hay nhạy cảm, lần này thì ít nhất tôi đạp chân lên boong tàu để biết chắc tôi vẫn còn làm chủ được các cảm giác của chính tôi, và đây không phải là sự sáng tạo điên khùng của một bộ óc hỗn loạn. Emi¬ly Van¬sit¬tart run lẩy bẩy, mở mắt ra, nàng đứng dậy, hai tay tì vào cái lan can, nhìn ra mặt biển long lanh dưới ánh trăng; mặt nàng đã già đi mười năm trong một đêm hè.
- Ông có nhìn thấy ông ấy không? Nàng thì thào nói.
- Tôi đã nhìn thấy một vật gì.
- Đó là ông ấy! Đó là John! Ông ấy đã chết!....
Tôi ấp úng nói một vài lời có tính cách hoài nghi.
- ...Chắc chắn là ông ấy vừa mới chết, nàng nói nhỏ. Ở bệnh viện Madère. Tôi đã đọc qua những truyện vào loại đó. Các yd nghĩ của ông ấy đều nghĩ tới tôi. Thị quan của ông ấy đã tới với tôi. Ôi John, người yêu quý của tôi, người yêu quý đã mất đi mãi mãi của tôi !
Nàng oà lên khóc nức nở: tôi đưa nàng về phòng của nàng và để nàng ở đó với nỗi lo buồn của nàng. Một cơn gió nhỏ bắt đầu thổi trong lúc ban đêm, và buổi tối hôm sau chúng tôi bỏ neo trong vịnh Fan¬chal. Tàu East¬ern Star đang đậu gần đó, lá cờ kiểm dịch được treo cao trên cột buồm lớn và cờ hiệu của nó để rũ xuống.
- Ông trông kìa! Bà Van¬sit¬tart nói với tôi.
Cặp mắt nàng khô ráo, nàng biết rằng không một giọt lệ nào trả lại được người chồng cho nàng. Trong lúc ban đêm chúng tôi nhận được giấy phép cho lên tàu East¬ern Star. Viên thuyền trưởng, ông Hines, đợi chúng tôi trên boong, sẹ lo buồn và bối rối đã hằn lên trên bộ mặt da đồng của ông, và ông tìm những từ để loan báo hung tin: nàng ngắt lời ông.
- Tôi biết rằng chồng tôi đã chết, nàng nói, ông ấy đã chết tối hôm qua, vào lúc mười giờ, ở bệnh viện Madère, có phải vậy không?
Người thủy thủ nhìn nàng, sững sờ.
- Khồn, thưa bà. Ông ấy chết tám ngày rồi, ở trên biển và chúng tôi đã buột lòng phải thủy táng ông ấy ở đó, vì chúng tôi thấy mình đang ở một khu vực yên tĩnh và chúng tôi đã không biết khi nào thì chúng tôi sẽ tới bờ.
Đó là những sự kiện chính yếu liên quan tới cái chết của John Van¬sit¬tart, cũng như về sự xuất hiện của ông ấy tại một nơi nào đó vào khoảng độ 35 bắc vĩ - tuyến và độ 15 tây kính tuyến. Một hồn mà hiện hình rõ rệt hơn thật ít khi xảy ra, do đó nó đã là đề tài của nhiều cuộc tranh luận, của nhiều bài viết. Nó đã được xác nhận bởi giới bác học và nó đã làm dầy thêm tập hồ sơ mới được mở ra gần đây về sự thần gi¬ao cách cảm. Về phần tôi, tôi chủ trương là sự thần gi¬ao cách cảm không có gì để nghi ngờ, nhưng tôi muốn rút trường hợp này ra khỏi tập hồ sơ và tôi muốn nói rằng chúng tôi đã không trông thấy sự xuất hiện của hồn ma John Van¬sit¬tart, mà đúng là John Van¬sit¬tart bằng xương bằng thịt, vọt lên từ đáy sâu của Đại Tây Dương dưới ánh trăng. Tôi luôn luôn tin rằng một sự ngẫu nhiên phi thường (Một trong các sự ngẫu nhiên rất ít có khả năng xảy ra này, tuy nhiên lại vẫn thường xảy ra ) đã làm cho chúng tôi đứng bất động bên trên chính ngay cái chỗ mà người đàn ông đó đã bị chôn vùi trên biển một tuần lễ trước. Về phần còn lại, vị y sĩ đã nói với tôi là quả tạ bằng chì không được cột chặt, và bảy ngày đã mang tới cho cái xác chết vài sự thay đổi nào đó có thể làm cho nó nổi lên mặt nước. Quả tạ đã làm nó chìm sâu xuống đấy biển. Nếu quả tạ tách rời ra xác chết có thể lại chồi lên mặt nước với sự đột ngột mà chúng tôi đã chứng kiến. Đó là lời giải thích của vị y sĩ. Tới chỗ muốn biết rõ ràng hơn nữa, tôi coi đó là phận sự của tôi, và nếu nhắc lại với bạn về cái tiếng động khô khan của sự rập gẫy, của sự xé rách, cũng như sự xao động trong nước biển. Những con cá mập kiếm ăn trên mặt nước, và chúng đông lúc nhúc trong miền này.
05. Sự khủng khiếp giữa trời cao
Tất cả những ai đã biết vụ án này đều không chịu tin rằng câu chuyện kỳ lạ mà người ta gọi là "Một mảnh của Joyce - Am¬strong " là một sự huyền hó thêu dệt bởi một kẻ lạ mặt do sự gợi hứng của một tâm tính sa đọa. Một anh chàng hề cô hồn nhất và lém lỉnh nhất chắc cũng phải nhìn vào sự vật này hai lão lần trước khi dồn cả cái đầu óc tưởng tượng đầy bệnh hoạn của anh vào những việc không thể chối cãi được một cách bi đát đã dựng nên câu chuyện này, mặc dù câu chuyện này đầy rẫy những lời xác quyết rùng rợn và có khi quái đản nữa, nó vẫn không thiếu tính chất đáng tin và nó khiến chúng ta phải xét lại một quan niệm mà ngày nay đã có vẻ lỗi thời. Chỉ có một lằn ranh an toàn mỏng manh để che chở cho con người chống lại một sự nguy hiểm bất ngờ. Trước khi thuật lại câu chuyện nguyên thủy trong cái hình thức không toàn vẹn một cách khốn khổ của nó, tôi xin trình lên các dộc giả cả mọi sự việc mà người ta được biết vào ngày hôm đó. Trước hết tôi xin nói với các bạn có tính đa nghi đã ngờ vực câu chuyện của Joyce - Arm¬strong rằng các sự việc có dình líu tới đại uý Myrthe trong Hải quân Hoàng gia và ông Hay Con¬nor đã được phối kiểm: Đúng là họ đã chết như người thuật truyện đã mô tả.
" Một mảnh của Joyce - Arm¬strong " đã được tìm thấy tại một cánh đồng được gọi tên là Hay¬cock Ha, ở khoảng một cây số rưỡi về phía Tây làng Withy¬ham trên ranh quận Kent và quận Sus¬sex. Ngày 15 tháng chín vừa qua, một anh nông dân là Jamé Fly¬nn, làm công cho trại chủ Math¬ew Dodd, thuộc Nông Trại Chauntry ở Withy¬ham, trông thấy một cái vố làm bằng rể cây Bruyen ở cạnh con đường chạy dọc theo hàng rào của Hay¬cock Hạ. Cách xa hơn một vài thước nữa, anh ta tìm thấy cặp mắt kính đeo mắt bị bể. Sau rốt, trong những cây gai ở cái hố anh ta phát hiện ra một quyển sách mỏng gáy vải: Đó là một quyển sổ tay, một vài tờ bị long ra và bay tung toé chỗ chân hàng rào. Anh ta nhặt nhanh tất cả: Ba tờ giấy trong đó có hai tờ đầu, đã không thể nào kiếm thấy được. Anh nông dân mang chiến lợi phẩm này về cho ông chủ của anh, rồi ông này đưa cho bác sĩ Ather¬ton ở Hart¬field xem. Vị quý nhân này tháy ngay rằng cần có một sự giám định chuyên môn. Vậy là bản thảo được đưa tới câu lạc bộ Hàng không ở Lon¬don, nơi mà nó vẫn còn tới bây giờ.
Hai trang dầu của bản thảo bị mất. Một trang khác cũng bị rơi mất ở đoạn kết thúc câu chuyện, nhưng sự mạnh lạc của toàn thể không hề hấn gì. Người ta cho rằng đoạn khởi đầu phác hoạ lại giấu tưởng lục của ông Joyce - Arm¬strong, bằng tưởng lục mà người ta có thể tạo lại một cách dễ dàng và nó vẫn là thứ độc nhất vô nhị trong nghành hàng không Anh quốc. Trong nhiều năm trời Joyce - Arm¬strong vẫn được coi như một trong những nhân viên phi hành táo bạo nhất và uyên bác nhất. Sự kết hợp các tài năng này đã cho phép ông phát minh và thí nghiệm nhiều phương pháp mà tên tuổi ông vẫn còn được gắn liền. Tất cả bản thảo của ông được viết bằng mực một cách đằng tả, trừ những dòng cuối cùng viết nguệch ngoạc bằng bút chì, gần như không thể đọc được, người ta đoán rằng chúng được viết một cách rất vội vã trên ghế một phi cơ đang bay. Ta cần nói thêm rằng có những vết bẩn làm lem luốc trang cuối cùng và tờ bìa, các giàm định chuyên môn của Bộ Nội vụ tuyên bố rằng đó là những vết máu, có thể là máu người, nhưng chắc chắn là máu của động vật có vú. Sự kiện là việc phân tích chất máu này đã phát hiện một vật gì rất giống con vi khuẩn bệnh sốt rét rừng ( Joyce - Arm¬strong thường bị những cơn sốt rét ) là một thí dụ đáng kể về những vũ khí mới mà khoa học hiện đại đã đặt vào tay các thám tử của chúng ta.
Bây giờ hãy nói qua tới nhân cách của tác giả một tài liệu sẽ mở ra một kỷ nguyên mới. Nếu ta tin được qua lời một vài người bạn đã biết nhiều về ông, thì Joyce - Arm¬strong là một người hay mơ mộng và là một thi sĩ, cũng như là một nhà phát minh và một kỹ thuật gia của ngành cơ giới. Ông đã tiêu phầ lớn tài sản đáng kể để thoả mãn sở thích vẻ hàng không trong các xưởng của ông ở gần De¬vizes. Ông có bốn phi cơ tiêng. Và trong năm ngoái, ông đã bay không dưới 170 lần. Tính nết của ông thường ảm đảm. Trong những dịp này ông tự cách ly và tránh mặt mọi sự tiếp xúc với xã hội. Đại uý Dan¬ger¬field, một người bạn đường thân nhất của ông công nhận rằng trong một vài trường hợp tính cổ quái của ông gần đi tới chỗ điên khùng, ông chẳng thường có thói quen mang theo lên ohi cơ một khẩu súng săn đó ư ?
Hơn nữa vụ tai nạn xảy ra với Trung Úy Mur¬tle đã khiến ông xúc động một cách hai hại. Trong khi định phá kỷ lục về độ cao, Myr¬tle đã bị rơi từ một độ cao chừng mười ngàn mét, một sự việc khủng khiếp! Cái đầu ông ta hoàn toàn biến mất, tuy nhiên chân tay và tất cả phần còn lại của thân thể ông vẫn còn giữ được hình thể nguyên thuỷ, mỗi khi các phi công họp mặt với nhau, Joyce - Arm¬strong lại hỏi với một nụ cười bid hiểm: " Các bjan đã tìm thấy cái đầu của Myr¬tle chưa? "
Một buổi tối sau bữa ăn tại câu lạc bộ của trường huấn luyện phi công tại Sal¬is¬bury, ôn đã gây ra một cuộc tranh luận về đề luận sau đây: Trong các sự hiểm nguy đối với các phi hành gia thì cái nào là lớn nhất và thường xảy ra nhất? Sau khi đã nghe các ý kiến được phát biểu về các lỗ hỗng trong không khí, các khiếm khuyết trong việc chế tạo, các trận bảo tố, ông nhún vai từ chối không đưa ra ý kiến riêng của ông. Nhưng ông cho thấy rằng nó hoàn toàn khác với những gì mà ông vừa được nghe.
Thiết tưởng không phải là vô ích để nói rằng một ngày sau khi ông mất tích người ta phát giác ra rằng ông đã thu xếp các công việc của ông đâu vào đó với một sự tỉ mỉ cho phép ta tin rằng ông đã linh cảm được sự cáo chung đang chờ đợi ông.
Nhưng sự chỉ dẫn tiên khởi này rất cần thiết. Bây giờ tôi xin chuyển dịc một cách thật đúng câu chuyện như nó đã được ghi bắt đầu từ trang ba của quyển sổ tay bị dính máu.
"....Tuy nhiên, khi tôi ăn bữa tối ở Reions với Cosetli và Gus¬tave Roy¬mond, tôi phải nhận thấy rằng không có người nào ý thức được sự hiện hữu của một mối nguy hiểm đặc biệt trên những tầng cao của khí quyển, tôi không nói rõ hết với họ những điều tôi suy nghĩ trong đầu óc tôi, nhưng tôi dùng cách nói bóng gió và nếu họ có những ý nghĩ tường đồng với ý nghĩ của thôi thì hẳn họ đã phát biểu chúng ra. Hỡi ôi, hai anh chàng kiêu căng ngu xuẩn này không nghĩ tới điều gì khác hơn là thấy tiên họ được in trên báo. Tôi đã chú tâm ghi nhận rằng cả hai anh chàng đó không người nào đã bay lên cao quá bảy ngàn, bảy ngàn năm trăm mét, chắc chắn là phải ở trên độ cao đó thì phi cơ mới đi vào vùng nguy hiểm ( luôn luôn giả thiết rằng những giả thuyết của tôi là đúng ) ?
Đã hơn hai mươi năm trời con người bay trên phi cơ? Nếu có ai hỏi tôi rằng tại sao mãi cho tơi ngày nay hiểm họa này mới tự phát hiện, câu trả lời sẽ thật đơn giản. Vào thời những động cơ khiêm nhường khi người ta ước tính rằng động cơ 100 mã lực Gnome hay Green là đủ để đáp ứng tất cả mọi nhu cầu, các phi cơ đã không thể vượt quá những gứoi hạn nào đó. Bây giờ, các động cơ 300 mã lực đã là quy luật chớ không phải là ngoài lệ nữa và những chuyến bay trên những tầng cao của khì quyển đã trở nên dễ dàng hơn, thông thường hơn, một vài người trong bạn chúng ta nhờ lại rằng, khi chúng ta còn trẻ trung Gar¬ros đã lừng danh khắp thế giới khi đjat tới độ cao sáu ngàn mét và việc bay bên trên núi Alpes được coi là một thành tích hết sức ghê gớm. Từ đó mức trung bình của chúng ta đã cãi tiến một cách đáng kể và đã có hai mươi chuyến bay lên tới độ cao mà xưa kia chỉ có một chuyến. Thật thế,phần lớn các chuyến bay đã được thực hiện với sự an toàn tuyệt hảo và những độc cao mười ngàn mét đã được đạt tới nhiều lần mà không gặp những trở ngại nào khác ngoài cái lạnh và sự nghẹt thở. Nhưng sự kiện này đã chứng tỏ điều gì? Một người khách lạ sẽ có thể xuống hành tinh chúng ta hàng ngàn lần mà không bao giờ nhìn thấy một con cọp. Tuy nhiên, những con cọp vẫn hiện hữu và nếu vì rủi ro vị khách của chúng ta hạ chân xuống trong rừng già, ông có thể bị nhai ngấu nghiến. Ở trên thượng tầng không khí cũng có những rừng già, nơi cư ngụ của những loài còn khủng khiếp hơn là cọp. Tôi tin rằng sẽ có lúc những rừng già này sẽ được thông bào một cách chính xác trên những bản đồ. Cho tới bây giờ có thể định vị được hai khu rừng già đó, một khu ở bên trên vùng Pau-Biar¬ritz nước Pháp. Một vùng khác ở bên trên đầu tôi trong khi tôi đang viết tại phòng tôi trên chiếc Wilt¬shire. Tôi tin một cách đầy đủ là có một khu rừng thứ ba ở vùng Wies¬baden.
Chính một vài vụ án mất tích của các phi hành gia đã tạo cho tôi ý nghĩ về các khu rừng già này, chắc chắn là người ta thường nói rằng họ bị rớt xuống biển, nhưng sự giải thích này không làm tôi thỏa mãn chút nào. Trước hết đã có Ver¬ri¬er ở Pháp, phi cơ của ông đã được tìm thấy ở gần Bay¬onne, nhưng không bao giờ người ta phát hiện ra xác ông. Cũng còn có trường hợp của Bax¬ten người đã mất tích, mặc dù động cơ của ông và một vài mảnh sắt vụn đã được nhận dạng trong một cánh rừng ở Laices¬tern¬hire. Bác sĩ Mid¬dle¬ton ở Ame¬abury, người đã theo dõi chuyến bay với kính đeo mắt, đã khai rằng ngay trước khi những đám mây làm tối mù mục trường của ông, ông nhìn thấy phi cơ ở một độ cao khá lớn bỗng nhiên lồng lên theo chiều thẳng trong một loạt rung lắc với một sức mạnh cuồng bạo không thể tưởng tượng được. Đó là hình ảnh cuối cùng được ghi nhận về phi cơ của Bax¬tẻ. Sau đó còn nhiều trường hợp tương tự khác, rồi tới cái chết của Hay Con¬nor. Đã có bao nhiêu lời nói dông dài vô ích về sự bí ẩn không được làm sáng tỏ này. Đã có bao nhiêu cột trong các báo cáo nhưng người ta đã cố tránh không đi sâu vào các sự việc. Ông ta đã xuống bằng lối bay là là từ độ cao không ai biết rỏ. Ông ta đã không thoát khỏi phi cơ, ông ta đã chết trên ghế ngồi. Ông ta chết vì cái gì mới được chứ? " Đau tim " các y sĩ trả lời như vậy. Vô lý! Tim của Con¬nor cũng mạnh khoẻ như tim của tôi. Ven¬ables đã khai báo thế nào? Ven¬ables là người duy nhất ở cạnh ông ta khi ông ta chết. Ông xác nhận rằng Hay Con¬nor bị lắc lư vì những cơn run rẩy và ông ta có vẻ kinh hoàng " Chết vì sợ hãi ". Ven¬ables nói vậy mà không thể tưởng tượng nổi cái gì đã làm ông ấy sợ hãi. Con¬nor chỉ nói thì thào với Ven¬ables có một tiếng. Một tiếng giống như "quái dị "trong cuộc điều tra không ai có thể hiểu rõ cái chữ "quái dị "này chỉ định vào cái gì. Tôi,tôi có thể sẽ hiểu được nó chỉ định vào cái gì! Những con quái vật! Đó là tiếng nói cuối cùng của Har¬ry Hay Con¬nor xấu số! Và thực tình ông đã chết vì sợ hãi. Ven¬ables nói đúng.
Rồi thì lại cái đầu của Myr¬tle. Bạn có thực sự tin rằng ( Có người nào đó thực sự tin ) một cái đầu người ta lại có thể hoàn toàn thụt vào sâu cái mình sau khi bị rơi từ trên cao xuống không? Tôi, dù thế nào đi nữa, không bao giờ tôi tin vào lời giải thích cho vụ Myr¬tle. Va vết mỡ trên quần áo ông ấy " Quần áo dính dầu mỡ ", một người nào đó đã khai trong cuỗ điều tra, thật lạ lùng khôngcó ai chịu suy nghĩ về chuyện này! Tôi thì tôi đã suy nghĩ quả thực tôi đã suy nghĩ từ lâu rồi. Tôi đã làm thử ba lần ( Và Dager¬field trêu chọc tôi vì tôi đã mang theo súng săn!) nhưng tôi không lên đủ độ cao. Bây giờ, với chiếc Paul Wroner mới, nhẹ và động cơ Rubur 175 mã lực của nó. Ngày mai tôi sẽ phải đạt một cách dễ dàng tới độ cao 10.000 mét. Tôi sẽ làm thử kỷ lục. Có thể là tôi cũng sẽ làm thử với tử thần!...Tôi không phủ phận nguy hiểm, nhưng nếu một người muốn tránh hiểm nguy thì ông ta chỉ có việc thôi đừng bay nữa và sống suốt đời với lối đi giày vải và mặc đồ ngủ thôi- Ngày mai tôi sẽ thám hiểm khu rừng già trên không gi¬an. Nếu có chuyện gì trong đó thì tôi sẽ biết. Nếu tôi trở về được tôi sẽ trở thành một nhân vực lừng danh, một ngôi sao sáng. Nếu tôi không trờ về được, cuốn sổ tay này sẽ chứng nhận những gì tôi định làm và tôi đã chết như thế nào, trong khi thử làm việc đó. Nhưng cầu ơn trên ban phước lành, không có chuyện lẩm cẩm về một " tai nạn " hay một sự " bí ẩn ".
Tôi đã chọn chiếc phi cơ một tầng cánh Paul Veroner để dùng trong công việc nhỏ mọn này. Chỉ cần chiếc phi cơ một tầng cánh này như thế khi người ta thực sự muốn thành công trong một việc gì. Ông Beau¬mont đã nhận ra việc này ngay từ lúc đầu. Chẳng hạn sự ẩm ươt không ảnh hưởng gì tới nó, mà thời gi¬an hiện tại cho ta thấy trước rằng ta sẽ luôn luôn bay trong những đám mây. Đây là một loại phi cơ nhỏ, xinh xắn dễ điều khiển như một con ngựa non dưới tay tôi. Động cơ của nó là máy Rubur mười si lanh sức mạnh 175 mã lực. Phi cơ được trang bị những dụng cụ tấn tiến nhất của kỷ thuật; thân máy bọc thép, các bánh xe để hạ canh có vòng cong cao bộ thắng mạnh, những bộ phận ổn định hồi chuyển, ba tốc độ các bình diện theo nguyên tắc những tấm sáo có lá sách di động. Tôi có mang theo một khẩu súng săn và hơn một chục viên đạn chì lớn chắc các bạn đã thấy cái đầu của Perkins, anh thợ máy già của tôi, khi tôi nhờ anh ấy để súng đạn vào trong phi cơ. Tôi mặc quần áo theo kiểu nhà thám hiểm Bắc Cực, với hai áo len dài tay có cổ cao bên trong bộ đồ bay của tôi, những đôi tất dầy bên trong đôi ủng lót lông, một mũ kết có vành và cặp mắt kính bằng mi ca. Ra bên ngoài, gần những xưởng phi cơ, tôi bị nghẹt thở nhưng tôi muốn bay lên vượt khỏi độ cao của đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, nhất định là tôi phải mặc y phục thích hợp, Perkins có vẻ nghi ngại một điều gì và anh năn nỉ tôi cho anh ta theo. Nếu tôi sử dụng phi cơ hai tầng cánh, có thể tôi đã phải ưng thuận lời yêu cầu của anh, nhưng với phi cơ một tầng cánh mà ta muốn có tốc độ tối đa để vọt lên cao thì chỉ là công việc của một người thôi. Dĩ nhiên là tôi mang theo một bong bóng dướng khí, một phi hành gia muốn thử lập một kỷ lục bay cao mà không mang theo dướng khí thì sẽ chết cóng hay chết ngộp hoặc bị cả hai sự tệ hại chồng chất lên.
Trước khi vào chỗ ngồi tôi đã kiểm soát các hành trình. Khi đã hài lòng với sự kiểm tra của tôi, tôi mở máy và cho chạy một cách êm đềm, tôi cất cánh ở số một, tôi bày hai vòng quanh bãi đâu để làm cho động cơ nóng lên đôi chút. Sau khi vẫy tay tôi chào tạm biệt Perkins và những người khác. Tôi vọt đi và xả hết sức máy. Phi cơ trườn đi trong gió như một con nhạn trong khoảng độ mười lăm cây số. Tôi hướng mũi nó lên cao và bắt đầu leo lên, vạch thành một vòng tròn xoáy trên ốc lơn hướng vào những đám mây dầy đặc. Điều tối quan trọng là phải lên cao một cách thong thả để thích ứng với áp lực của không khí.
Thời tiết nặng nề và oi nóng đối với một ngày tháng 9 nước Anh. Trời có vẻ muốn mưa. Từng cơn gió một từ phía tây nam thổi tới; một trong những cơn gió này đã ậo tới lúc tôi không đề phòng và đã đẫy tôi bay trệch đường một cách phủ phàng. Tôi nhớ lại lúc mà những cơn gió và những lỗ hỗng không khí đã trở thành những nguy hiểm nghiêm trọng vì các động cơ của chúng ta không đủ sức mạnh. Ngay lúc tôi bay tới các tầng mây thì trời bắt đầu mưa; đồng hồ đo độ cao của tôi chỉ một ngàn mét. Trời ơi! Trận mưa lớn lắm sao! Mưa đập lốp bốp vào cánh phi cơ, tát vào mặt tôi gần như roi quất làm mờ kính mắt của tôi, tôi gần như không còn thấy gì nữa, mưa làm cản trở tốc độ trung bình của tôi, nhưng biết làm thế nào? Trong lúc tôi vọt lên cao, nó trở thành mưa đá và tôi phải tìm cách đi vòng qua nó, một trong các si lanh của tôi không hoạt động được nữa; chắc chắn là một bu gi đã bị đóng cặn, tuy nhiên tôi vẫn có thể tiếp tục leo lên không mật một chúc sức mạnh nào. Chỉ ít lâu sau đó, sự bực bội về máy móc của tôi đã chấm dứt và tôi lại nghe thấy tiếng nổ đều đặn, ròn rã của mười si lanh cùng háy lên trong một tiếng hài hoà tuyệt diệu. Đây là công việc của phép lạ của máy hãm thanh hiện đại của chúng ta, rút cục ta đã có thể kiểm soát được các động cơ của chúng ta bằng tai. Khi chúng không quay một cách đều đặn, làm như chúng thét lwn, chúng cự nự chúng thổn thức! Thời xưa tất cả những tiếng kêu cứu đó đều mất đi, bị chìm ngập vào tiếng ồn ào dữ dội của động cơ. À, giá mà những bạc tiên phong của ngành hàng không có thể sống lại để nhìn thấy sự hoàng hảo về cơ giới là thứ đã được mua bằng giá mạng sống của họ.
Khoảng chín giờ rưỡi tôi tới sát gần những đấm mây. Bên dưới chân tôi chỗ nào cũng mịt mù trong mưa. Cánh đồng Salíbủy chạy dài bao la: năm sáu chiếc phi cơ chậm dãi bay ở độ cao ba hay bốn trăm mét, người ta có thể nói đó là những con chim sẽ. Tôi có cảm tưởng rằng họ đã tự hỏi tôi đang làm gì trong những đám may. Đột nhiên một tấm màn xám được chắng ra bên dưới tôi buồn bã, nhưng tôi đã thắng được trận mưa đá và thế là đã thắng nhiều rôi, mây cũng u ám và dày đặc như sương mù ở Lon¬don. Vì mong muốn ra khỏi mây mà tôi kéo cần tốc độ chô tới khi chuông báo nguy tự reo lên. Tôi bắt đầu thấy giật lùi, những cánh đồng ướt sũng làm cho tôi nặng thêm hơn là tôi đã nghĩ, nhưng rồi tôi cũng tới được một vùng mây đỡ dày đặc hơn, rồi tôi lên được một lớp mây thứ hai màu trắng đục, lổng phổng như bông đang chờ tôi ở độ cao bên trên đầu tôi, nó làm thành một cái sàn màu đen nhẵn thín được trãi dài ra, giữa hai cái trần và sàn chiếc phi cơ một tầng hai cánh của tôi đang bay tới giữa trời. Trong khoảng cách không gi¬an bao là này, người ta cảm thấy một đàn thủy điểu bay thẳng hàng về hướng Tây, tôi thú thực rằng sự hiện diện của chúng làm tôi vui thích, tôi nghĩ rằng đó là những con mồng két, nhưng tôi là một nhà động vật học hạng tồi. Bây giờ con người đã hóa thành những con chim, ta phải học để nhận ra những người anh em của chúng ta ngay khi vừa nhìn thấy.
Bên dưới chân tôi, gió khuấy động cái cánh đồng mây rộng lớn. Vào một lúc nào đó, nó gây ra mọt sự xáo trộn dữ dội, khơi ra một cái hố sâu và qua lỗ hổng cái ống khói của nó. Tôi nhìn thấy mặt đất, một chiếc phi cơ lớn màu trắng đang bay rất thấp, chắc chắn đó là chuyến bay thường xuyên buổi sáng Bris¬tol - Lon¬don. Rồi cơn lốc lại bắc đầu xoay sang hướng khác và tôi lại cảm thấy sự cô quạnh của tôi. Sau lúc mười giờ ít lau, tôi tiếp cận với cái vành phía dưới của tầng mây bên trên, những lớp mây này là hơi nước nhẹ, trong lờ mờ đang thông thả trôi về hướng đông. Sức gió tăng lên một cách đều đặn, nhiệt độ đã rất lạnh, mặc dù cao độ kế của tôi mới chỉ có ba ngàn mét. Động cơ quẫy đều đặn một cách đáng khen, mây đã dày đặc nhiều hơn là điều tôi ước tính, nhưng cuối cùng cũng mỏng manh đi thành một đám sương màu vàng và tôi được tiếp đón bởi một bầu trời hoàn toàn trong trẻo và một vầng mặt trời rực rỡ. Bên trên đầu tôi, chỉ toàn là màu xanh và vàng, ở phía dưới toàn là bạc lóng lánh. Đã mười giờ mười lăm phút, cây kim của khí áp biểu chỉ bốn ngàn hai trăm mét, tôi tiếp tục cuộc lên cao, hai tai lắng nghe tiếng nổ đều đều của động cơ, hai mắt luôn luôn nhìn vào đồng hồ, kim chỉ vòng quay, mức độ ét xăng, bộ phận bơm nhót không có gì đáng ngạc nhiên khi các phi hành gia được coi là những người không sợ hãi điều gì họ phải nghĩ tới quá nhiều việc khiến họ không có thì giờ để nghĩ tới chính mình chính vào lúc đó mà tôi nhận thấy rằng một cái địa bàn ít đáng tin vậy khi người ta vượt qua một độ cao nào đó bên trên mặt đất, may măn thay, mặt trời và gío đã cho tôi những toạ độ chính xác.
Tôi hy vọng tìm thấy một sự yên tĩnh vĩnh hằng trong khi cứ bay trên cao mãi, nhưng càng lên cao thì bão tố càng tăng thêm một cách cuồng bạo. Chiếc phi cơ một tầng cánh của tôi rên rỉ, run lên tới tận mọi con ốc của nó, chao đảo như một tờ giấy khi tôi muốn chuyển hướng. Nó lướt nhanh hơn trong gió, có lẽ không có một con người nào đã từng bay nhanh như vậy. Tôi phải luôn luôn giữ phi cơ cho thẳng và bay vát ngọn gió, vì tôi không chỉ có tham vọng riêng về kỷ lục độ cao: theo cách tính toán của tôi khu rừng già trên không trung toạ lạc ngay bên trên khu tiểu Wilt¬shire nếu tôi chinh phục các tầng cao của khí quyển ở những nơi khác, tôi sẽ mất hết kết quả cố gắng của tôi.
Vào khoảng giữa trưa tôi đạt tới sáu ngàn mét. Gió quá bạo cuồng khiến tôi phải lo lắng nhìn vào những sợi dây ở cánh phi cơ của tôi. Lúc nào tôi cũng tưởng là sẽ thấy chúng giãn ra hay đứt hẳn. Tôi đã tháo cái dù ở đằng sau và móc nó vào cái khoen ở đây lưng tôi ngõ hầu đề phòng điều tồi tệ nhất! Chính vào những lúc như thế này mà một việc làm vội vã, cẩu thả của một anh thợ máy có thể làm mất mạng một phi công! Nhưng phi cơ đã chống chỏi một cách dũng cảm, những dây và những bộ phận chống đỡ của nó kêu o o và run lên như là những sợi dản vậy. Tuy nhiên, tôi cũng kinh ngạc là bất chấp những sự va đập và lay động của gió đánh vào nó làm thế nào mà nó vẫn theo đuổi được sứ mạng chinh phục bầu trời của nó. Phải có một cái gì thàn thánh trong con người để anh ta lên tới cao như thề này bên trên những giới hạn mà hình như tạo hoá đã ấn định cho con người. Và để cho con người lên cao nhờ vào sự kế tục vô tư lợi, dũng cảm này mà sự chinh phục không gi¬an đã chứng tỏ, người ta nói tơi sự sa đoạ của con người! Đến khi nào một câu chuyện tương tự thế này mới được viết vào sách biên niên của nòi giống chúng ta?
Với những ý nghĩ đó trong đầu tôi cứ luôn luôn thúc đẩy phi cơ của tôi lên cao hơn nữa, những cơn gió lúc thì quất vào mặt lúc thì rít lên sau tai tôi. Giải bình nguyên những đám mây phía dưới tôi đã lùi xa, những chỗ nhấp nhô, phập phồng màu bạc của nó đã rộn lên lộn vào một mặt bằng phẳng sáng rực rỡ, chắc chắn là tôi đã là nạn nhân của một sự thăng trầm chưa bao giờ có, chắc chắn là tôi đã biết người ta bị nguy hiểm thế nào khi ở trong tình trạng mà các ông bạn láng giềng ở phía bên kia biển Manche gọi là một cơn lốc, nhưng tới một mức độ như thế nào thì tôi chưa từng thấy bao giờ. Cái luồng gió khủng khiếp này có thể quét sạch tất cả. Mà hình như ngay trong lòng nó còn có những sự xao động cũng khủng khiếp như chính nó nữa. Không có một điềm báo trước nào, tôi bị cuốn một cách tàn bạo vào một trong hai sức mạnh đó trong một hay hai phút tôi đã quay tròn với một tốc độ làm tôi suýt nữa ngất đi. Rồi tôi bị rơi vào xuống, cạnh bên trái xuống trước, cái lỗ hỗng của ống khói chính khoảng chân không mà tôi rơi xuống mà không bị thứ gì cản trở cả, như một hòn đá, trong gần 300 mét, tôi còn ngồi được trên ghế là chỉ nhờ vào cái dây lưng của tôi thôi. Sự rung chuyển làm tôi nghẹt thở và xỉu đi nửa tỉnh, nửa mê trên thành của thân phi cơ, nhưng ( và đây chính là đức tính của một phi hành gia trong tôi ) bao giờ cũng đủ triển khai những nỗ lực siêu phàm. Tôi nhận thấy rằng tốc độ rơi xuống của tôi là một ống khói viên hình trụ. Và tôi tiến gần tới đỉnh cao của hình chóp này, phải chịu đựng một sức xoắn vặn ghê gớm. Bằng cách dồn tất cả trọng lực của tôi vào một bên, tôi lấy thăng bằng lại cho dôi cánh và giành lại sự điều khiển phi cơ để bay ra khỏi chỗ xáo trộn. Bị te tua nhưng đắc thắng, tôi lại kéo cần lái và lại bắc đầu leo lên cao. Lúc một giờ chiều, tôi đã ở bảy ngàn mét bên trên mức mặt biển, tôi hết sức mãn nguyện là tôi đã tới chỗ bên trên cơn bão tố, tôi càng lên cao thì không gi¬an càng yên tĩnh. Ngược lại, trời rất lạnh và tôi bắt đầu thấy cảm, thấy nôn mửa đặc biệt thường đi kèm với sự loãng không khí của tôi và trong những khoảng cách đều đặn. Tôi hít chất hơi thần diệu này, tôi cảm thây khoan khoái gần như say sưa. Tôi kêu lên, tôi ca hát trong khi vạch ra những quỹ đạo của tôi trong bầu trời băng giá.
Tôi tin chắc rằng sự thất bại mà Glaish¬er và ở một mức độ thấp hơn, Coxwell đã là nạn nhân khi vào năm 1892 họ dùng kinh khí cầu lên tới độ cao mười ngàn mét bị gây ra bởi sự mau lẹ quá sức mà sự vọt thẳng lên cao bằng khinh khí cầu đã thực hiện. Khi ta lên cao theo một giác độ vừa phải và ta tậo làm quen dần với sự suy giảm của áp suất không khí thì ra sữ tránh được loại khó khăn đó. Về phần tôi ở một dộ cao tương đương, tôi nhận thấy rằng ngay dù không có bình dưỡng khí tôi cũng vẫn có thể thở mà không có sự khó khăn quá quắt. Tuy nhiên csi lạnh trở nên dữ dội, nhiệt kế của tôi chỉ mười tám độ âm. Lúc một giờ rưỡi chiều tôi ở khoảng gần mười một ngàn mét bên trên địa cầu và tôi cứ tiếp tục leo lên một cách đều đặn. Tuy nhiên không khí lỏng loãng nâng đỡ cặp cánh của tôi không được như trước và gi¬ao độ cao của tôi bị sút giảm một cách đáng kể. Tôi biết rằng ngay với một phi cơ nhẹ như thế này và một động cơ cực mạnh tôi cũng sẽ sắp sửa đạt tới tột đỉnh của tôi. Lại có sự rủi ro: một bu¬gi dở chứng, động cơ của tôi bắt đầu trục trặc.
Trong lúc tôi đang lo sợ một sự thất bại thì một việc hoàn toàn kỳ dị diễn ra. Một vật bay vược qua tôi, tiếng kêu ù ù và nhả khói ra ở phía sau rồi nổi lên trong một tiếng rít lơn ở giữa một đám may hơi nước. Tôi bị sững sờ trong một lúc. Rồi tôi nhớ lại rằng trái bất đã bị bắn phá một cách liên tục bởi những vân thạch này không hoá thành hơi nước khi chúng chạm tới những tầng cao của khí quyển. Đây là một hiểm hoạ mới cho những tay tài tử của không gi¬an, vì có hai vân thạch khác bay gần tôi khi tôi tới độ cao mười hai ngàn mét. Ở chỗ ranh giới vỏ bọc trái đất, hiểm hoạ chắc phải rất lớn và rất thực tại.
Kim áp kế của tôi chỉ mười hai ngàn ba trăm mét khi tôi biết rằng sẽ không thể bay lên cao hơn nữa. Về thế lực tôi sẽ có thể chịu đựng được một cố gắng nữa, nhưng phi cơ của tôi đã đạt tới giới hạn của nó rồi. Không khí lỏng loãng không còn nâng đỡ một cách đầy đủ cặp cánh của tôi: Khi hơi nghiêng đi một chút phi cơ đã chúc cánh xuống và không chịu theo sự điều khiển nữa. Có lẽ nếu động cơ không lộn xộn thì tôi đã lên thêm được ba bốn trăm mét nữa. Nhưng những tiếng nổ sì hơi mỗi lúc một nhiều thêm và tôi thấy hình như trong mười si lanh thì hai cái đã bị liệt. Nếu tôi chưa ở khu vực mà tôi tìm kiếm thì nhất định lúc này tôi không thể nào bay lên tới nơi được! Nhưng tôi đã chẳng lọt vào khu vực đó rồi sao? Vạch ra những vòng tròn và bay lượn như một mình và với cặp ống nhòm tôi quan sát một cách cẩn thận vùng chung quanh. Bầu trời quang đãng một cách tuyệt mỹ. Không có gì để cho ta dự đoán sự hiện hữu của những hiểm nguy mà tôi e ngại.
Tôi đã nói rằng tôi bay lượng trong khi vạch ra những vòng tròn. Tôi nghĩ rằng tôi đã đạt kết quả mỹ mãn hơn nhiều khi thăm dò một vùng rộng lớn hơn, một người thợ săn vào một trong những rừng già trên trái đất mà lại không đi xuyên từ đầu này tới đầu nọ của khu rừng đó với hy vọng phát hiện ra con mồi hay sao? Mà theo sự suy đóan của tôi, khu rừng già trong không gi¬an mà tôi nhắm tới chắc chẳng phải toạ lạc nơi nào đó bên trên trái đất Wilt¬shire, nghĩa là phía Tây Nam của tôi. Tôi thực hiện một sự chồm lên theo sau mặt trời, vì địa bàn đã hỏng và tôi không còn phân biệt được trái đất nữa. Tôi lao về hướng đã chọn. Bay thật thẳng, vì tôi đã tính rằng chỉ còn đủ ít xăng cho một giờ nữa thôi. Nhưng tôi muốn chơi ngông là chạy cho tới cạn giọt xăng cuối cùng. Vì một lối bay lượng là là tuyệt diệu sẽ đưa tôi trở lại mặt đất không khó khăn gì.
Bỗng nhiên tôi cảm thấy một cái gì mới lạ. Trước mặt tôi, không khí đã mất sự trong sáng của pha lê, nó chứa đựng những hình thù dài xoắn xoeo của một chất gì mà tôi chỉ có thể so sánh với luồng khói rất mỏng của thuốc lá, những tràng những vòng của chúng lăn đi một cách chậm chạp trong ánh sáng mặt trời. Khi chiếc phi cơ một tầng cánh xuyên qua cái chết lạ hoắc đó. Tôi thấy trên môi có một vị mơ hồ của dầu nhớt và cái sả của phi cơ phủ đầy một thứ bọt của chất mỡ. Một chất mỡ hữu cơ vô cùng vi tế hình như đang lơ lững trong khí quyển. Có phải đó là đời sống không? Cái chất mỏng manh, thô sơ này kéo dài ra hàng nhiều mẫu tây rồi bươm tua vào khoảng hư không, đó không phải là thuộc về đời sống! Nhưng có thể là những dấu vết của đời sống, món ăn của một đời sống cổ quái? Chất mỡ đơn sơ của đại dương chính là món ăn của con cá voi dũng mãnh. Tôi còn đang nghĩ ngợi việc đó thì khi nhìn lên tôi rất thích thú thấy một điều hoàn toàn độc đáo. Liệu tôi có hy vọng thuật lại với các bạn đúng như nó đã xuất hiện trước tôi hôm thứ ba trước không?
Các bạn hãy tưởng tượng một con sứa như ta từng thấy tại các biển vùng nhiệt đới, có hình thù cái chuông nhưng tầm vóc cực lớn! Theo tôi thấy thì lớn hơn vòm nhà thờ Saint Paul, nó có màu hồng đạm với những vân xanh nhạt, nó có một khí chất rất vì tế khiến nó có vẻ chỉ như một hình thù huyền ảo trên nền trời màu xanh rủ xuống lòng thòng, lúng liếng một cách chậm chạp từ phía sau và từ phía sau ra phía trước, làm trọn vẹn hình thể của nó. Cái ảo ảnh huy hoàng này diễn ra trên đầu tôi với một vẻ uy nghi thầm lặng nhẹ nhàng và mong manh như một cái bọt xà bông. Nó tiếp tục một cách đường bệ con đường của nó.
Tôi đổi hướng phi cơ để nhìn nó rõ hơn, nhưng bổng chốc tôi phát hiện ra rằng tôi đang bị bám quanh bởi toàn những sinh vật như vậy, với những tầm vóc một trái banh cỡ trung bình. Cách cấu tạo sinh đẹp và màu sắc của chúng làm tôi nhớ tới hàng thủy tinh của Venise. Màu hồng và màu xanh lá cây nhạt là những màu chủ yếu, nhưng chúng trở thành lóng lánh đủ màu khi mặt trời nở rộ với những hình thù mảnh mai của chúng. Hàng trăm con đã lướt qua gần tôi như vậy. Hình thù và thể chất của chúng đã hoà hợp một cách quá hoàn hảo với sự tinh khiết của những độ cao này khiến ta không thể nào hình dung được một thứ gì đẹp đẽ hơn.
Nhưng rồi sự chú tâm của tôi lạii bị thu hút bởi một hiện tượng khác: những con rắn của ngoại tầng không gi¬an, các bạn hãy tưởng tượng ra những cái ống dài, mỏng manh, kỳ ảo bằng một chất gì nom giống như hơi nước. Chúng quay lộn vặn vẹo mình với một tốc độ không thể ngờ được, mắt ta khó có thể thưo kịp sự biến hoá của chúng, một vài con trong những con vật ma quái này có thể dài tới tám hay mười mét, nhưng thật là bực bội khi muốn ước lượng đường kính của chúng như sương mù và hình như tan loãng trong không khí. Những con rắn không gi¬an này có một màu xám rất sáng ở phía trong có rạch những đường sậm hơn khiến ta có cảm tưởng rằng chúng là những sinh vật thực tại. Một con trong bọn chúng vờn qua mặt tôi. Tôi cảm thấy chạm phải một vật gì lạnh và ẩm ướt, chúng không có vẻ gì là vật thể cả, khiên tôi tuyệt nhiên không nghĩ tới một nguy hiểm nào về thể chất có thể xảy ra khi quan sát chúng gần như vậy. Hình thù của chúng cũng thiếu sự vững chắc như đám bọt của một ngọn sóng khi tan vỡ.
Một kinh nghiệm khủng khiếp hơn được dành cho tôi. Từ trên một độ rất cao lao xuống, một vệt hơi nước màu tía lúc đầu tôi tưởng là nhỏ, nhưng nó lớn lwn rất mau khi tớigần tôi. Mặc dù được cấu tạo bởi một thứ chất liệu trong vắt nom giống như băng, nó vẫn có một hình thù rất rõ rệt và một sự đông đặc chắc hơn những thứ mà tôi đã nhìn thấy cho tới lúc này, tôi cũng nhận ra những dấu vết rõ hơn một thứ sinh vật có thể chất. Đặc biệt là hai tấm hình trònkhá rộng, có đóng rợp ở mỗi bên, có thể là những con mắt và giữa hai tấm đó có một vật gì màu trắng, rất vững chãi nho hẳn ra ngoài và cũng cong lại nữa, có vẽ cũng hung dữ như cái mỏ của một con diều hâu.
Toàn thể dáng dấp của con quái vật này thật ghê gớm, đáng sợ. Nó luôn luôn thay đổi màu sắc, chuyển từ màu tím nhạt sáng sủa sang màu đỏ tối sẫm ghê người. Tôi không thể phủ nhận khối thể chất của nó vì nó đã giọi ra một cái bóng khi nó len vào giữa mặt trời và phi cơ. Ở khoảng cong phía trên của mình nó có ba cái bướu lớn mà tôi không biết mô tả thế nào hơn là so sánh chúng với những chỗ da phồng cực lớn. Tôi nghĩ rằng chúng chứa đựng một thứ hơi cực nhẹ dùng để chống đỡ cái khối lượng không hình thù gì và nữa đặc loãng này trong bầu không khí loãng lỏng. Di chuyển một cách nhanh nhẹn, con quái vật đi theo tốc lực chiếc phi cơ một tầng của tôi không cần sự cố gắng nào, trong khoảng độ ba chục cây số bay là là bên trên tôi giống như con chim săn mồi đang sửa soạn nhào xuống nạn nhân của nó. Muốn tiến lên, cách thức của nó là tung ra phía trước một vật gì như một cái ống dài loãn xoãn, bày nhầy, để rồi hình như cái ống này lôi kéo phần còn lại của thân mình. Nó rất chun dãn, có rất nhiều chất dính nên không bao giờ nó giữ nguyên một hình dáng trong hai phút liền, nhưng mỗi sự biến đổi hình dạng lại làm cho nó càng đáng sợ hơn, càng khủng khiếp hơn.
Tôi biết nó là kẻ thù của tôi, mỗi bộ phận đỏ ửng của thân mình nó đề nói lên sự thù hận của nó, những con mắt lớn, không rõ ràng của nó không rời khỏi tôi. Nom chúng lạnh lẽo, tàn độc, bị xao động bởi một hận thù xuất tự tâm can. Tôi hạ thấp mũi phi cơ của tôi như một nhát roi. Khi va chạm phải động cơ nóng bỏng, tôi nghe thấy một tiếng rít sắc nhọn và cái vòi vọt trở lại như là do sự đau đớn bất thần. Tôi muốn nhào thẳng xuống, nhưng một cái vòi lại đâm xuống phi cơ. Cánh quạt đã cắt nó với một sự dễ dàng như cắt một cuộn khói vậy. Một cái ống dài dính vào một cái bể mặt nhẵn lì như nhựa, xé rách nó và tôi được giải thoát nạn trong một lát; nhưng ngay tức khắc một cái ống khác lại quấn vào chân tôi với một sự hung hãn phía sau.
Trước sự tấn công này, tôi nhả đạn cả hai nòng súng của tôi. Đúng là tôi cũng giống như một người đi săn và tấn công con mồi mình bằng chiếc ống sì đồng (ống thổi bắn các viên tròn bất để giết loài chim nhỏ ) nhỏ bé. Làm sao tôi có thể hy vọng rằng một thứ vũ khí của con người mà làm tê liệt được một tiếng nổ vang một trong những viên đạn chì của tôi. Tôi đã đoán đúng: các bướu này căng phồng lên hơn vì khí hơi. Thật sự kẻ thù của tôi đã lăn trên phía bên, vặn vẹo một cách tuyệt vọng để lấy lại thăng bằng cho nó, cái mỏ trắng há ra và gõ lộp bộp vì điên dại, nhưng tôi đã thực hiện một lối nhào thẳng xuống liều lĩnh nhất mà tôi có thể làm thả hết ga. Nói một cách khác, tôi đã rơi xuống theo đúng nghĩa đen của từ, như một cục vân thạch. Từ phía xa đằng sau tôi một vệt đỏ từ từ thu nhỏ lại một cách nhanh chóng, rồi tan lẫn vào màu xanh của nền trời. A! Tôi đã hoàn toàn vô sự thoát khỏi khu rừng già khủng khiếp này của ngoại tầng không gi¬an.
Một khi đã ở ngoài tầm nguy hiểm, tôi đóng ga lại, vì không có gì làm hư hỏng một động cơ tệ hơn là bổ nhào xuống với tất cả sức mạnh của nó. Từ độ cao sấp sỉ mười hai ngàn mét tôi thực hiện việc lượn là theo hình xoáy trôn ốc, thoạt đầu cho tới lơp mây màu bạc rồi tới những đám mây đầy bão tố ở phía dưới và sau hết qua một đám mây mưa dồn dập, cho tới mặt đất. Khi trồi ra khỏi những đám mây, tôi nhìn thấy biển Manche bên dưới tôi, vì tôi còn lại được đôi chút ít xăng tôi vượt đi bộ ba chục cây số trong nội địa và tôi đáp xuống một cánh đồng, cách làng Ash¬combe nửa cây số. Ở đó, tôi đi mua ba bình ét xăng. Lúc sáu giờ mươi phút buổi chiều tôi đạu xuống bãi Davizé của tôi sau một chuyến du hành mà không một người nào trước tôi trên trái đất đã đi chót lọt để kể truyện về chuyến đi của mình. Tôi đã nhìn thấy vẻ đẹp và sự khủng khiếp ở giữa trời cao! Cái đẹp và sự khủng khiếp vượt khỏi tất cả những gì mà con người đã thấy trên trái đất.
Bây giờ chương trình của tôi là lại bay lên một lần nữa trước khi loan báo những kết quả của tôi với thế giới, phải làm như vậy. Tôi phải màng về một thứ bằng chứng nào trước khi làm bận tâm các đồng bào của tôi về một câu chuyện như vậy! tất nhiên những phi hành gia khác rồi đây sẽ xác nhận những lời nói của tôi, nhưng tôi muốn có ngay lòng tin của công chúng. Những cái bọtkhông khí đẹp đẽ để lóng lánh nhiều màu sắc đó nhất định là phải bắt được; chúng bay đi một cách chậm chạp, một phi cơ một tầng cánh bay nhanh có thể ngăn chặn được chúng. Rất có thể là chúng sẽ tan đi trong lớp khí quyển nặng hơn và tôi sẽ chỉ mang về mặt đất một đống băng nhỏ không có hình dạng gì, việc đó không quan trọng: ít nhất tôi cũng sẽ có một cái gì đó để xác quyết câu chuyện của tôi. Được tôi sẽ lại bay lên, ngay dù tôi có thể gặp những hiểm hoạ lớn hơn! Những con quái vật đỏ đó có vẻ không nhiều, chắc chắn là tôi sẽ không thấy một con nào, nếu tôi nhìn thấy một con, tôi sẽ trêu chọc ngay. Khi cần tới, tôi sẽ dùng tới khẩu súng và sự hiểu biết của tôi về....."
Tới đây, bất hạnh thay một trang của tập viết tay bị mất. Ở trang tiếp theo, những chữ này được viết nguệch ngoạc: " Mười ba ngàn một trăm mét. Không bao giờ tôi còn thấy lại trái đaast nữa. Chúng có ba con ở phía dưới tôi. Xin thượng đế phù hộ cho tôi, chết như thế này thật là ác độc!"
Đây là tất cả câu chuyện về Joyce - Arm¬strong, không bao giờ người ta còn biết một tin tức gì về người phi công ấy nữa, những mạnh vụn của chiếc phi cơ một tầng cánh của ông đã được nhận ra trong khu rừng săn bắn của ông Bud¬dlush¬ing¬ton, trên ranh giới hai quận Kent và Su¬sex, cách nơi quyển sổ tay được phát hiện vài cây số. Nếu giả thiết của nhà phi hành gia xấu số là đúng, nếu khu rừng già trên không trung, như ông ấy gọi tên, quả thật hiện hữu bên trên miền Tây Nam nước Anh, thì chắc ông đã phải mở hết tốc lực để chạy trốn. Nhưng ông đã bị bắt kịp và bị nhai nuốt ngấu nghiến bởi những quái vật khủng khiếp đó bên trên nơi mà phi cơ đổ xuống. Hình ảnh chiếc phi cơ một tầng cánh đang từ trên trời lao xuống, với sự khủng khiếp vô kể xông ra cản đường nó về mặt đất và mau chóng xiết vòng vây vào nạn nhân của chúng là những hình ảnh làm cho một người có đầu óc quân bình không ham sống lâu dài nữa. Tôi biết rằng những người có tính hoài nghi sẽ cười chế nhạo trước sự trình bày các sự việc, nhưng rút lại họ cũng sẽ phải nhìn nhận sự mất tích của Joyce - Arm¬strong! Tôi khuyên họ nên suy ngẵm về hai câu của ông ấy " Quyển sổ tay này sẽ chứng nhận những điều tôi định làm và tôi đã thiệt mạng ra sao khi thử làm việc đó. Nhưng xin đừng nói chuyện lẩm cẩm, vớ vẩn về một "tai nạn" hay một sự " bí ẩn"!
06. Vụ án B.24
Tôi đã kể câu chuyện khi tôi bị bắt, và không ai muốn nghe tôi nói cả. Rồi tôi đã nhắc lại chuyện đó ở phiên tòa: nói tất cả, đúng hệt như sự việc đã xảy ra, không thêm, không bớt một chữ nào. Tôi đã nói hết sự thật, tôi xin thề đúng vậy? Tất cả những gì mà phu nhân Man¬ner¬ing đã nói, tất cả những gì mà tôi đã nói và đã làm, tôi đã kể lại không thay một dấu phẩy, và tôi đã được lợi lộc gì trong vụ này? "Phạm nhân đã mải mê trong một lời khai lan man và không đúng sự thật, không thể tin được vì các chi tiết của nó, và không dựa trên một sự khởi đầu nào của những bằng chứng hỗ trợ". Đó là tin mà một nhật báo ở Luân Đôn đã loan đi. Những nhật báo khác thì lại làm như tôi không tự bào chữa cho mình. Tuy là chính mắt tôi đã trông thấy ngài Man¬ner¬ing bị ám sát, và tôi cũng vô tội trong vụ án này như bất cứ một ủy viên nào trong bồi thẩm đoàn đã kết tội tôi.
Thưa ngài, ngài là người tiếp nhận đơn xin ân xá của các phạm nhân. Tất cả tùy thuộc vào ngài. Tôi chỉ xin ngài một điều: đọc lá đơn của tôi, chỉ cần đọc nó thôi, rồi thực hiện một cuộc điều tra nhỏ về tính tình của vị "phu nhân" Man¬ner¬ing này, để xem bà ấy có giữ được cái danh hiệu mà bà ấy đã mang từ ba năm trước, khi tôi gặp bà ấy để chuốc lấy tù tội và sự tan nát của đời tôi. Ngài sẽ có thể gi¬ao vụ điều tra này cho một thám tử tư hay một người của tòa án; ngài sẽ mau chóng biết rõ đầy đủ về sự việc để hiểu rằng câu chuyện của tôi là đúng sự thật. Xin ngài hãy nghĩ tới sự vinh quang mà ngài sẽ đạt được nếu tất cả các nhật báo đều loan tin rằng một vụ án bất công không thể dung thứ được chắc chắn sẽ xảy ra nếu không có lòng kiên trì và sự tinh tế của ngài. Đó sẽ là phần thưởng của ngài, vì tôi nghèo túng và tôi không thể biếu tặng ngài một thứ gì. Nhưng nếu ngài khoanh tay ngồi yên, thì ngài sẽ có thể không bao giờ thấy được một giấc ngủ ngon trên giường! Sẽ chẳng có đêm nào trôi qua mà ngài không thấy bị ám ảnh bởi ý nghĩ về một con người đang chết dần, chết mòn trong nhà tù vì ngài đã không làm tròn nhiệm vụ mà ngài được gi¬ao phó! Nhưng thưa ngài, ngài sẽ làm tròn nhiệm vụ đó, tôi tin chắc ở điều này. Ngài chỉ cần làm một hay hai cuộc điều tra nhỏ, và ngài tự nhắc nhở mình rằng kẻ duy nhất được hưởng lợi trong vụ án mạng là phu nhân Man¬ner¬ing, vì vụ án mạng đã làm cho một người đàn bà khốn khổ trở thành một góa phụ giàu sang. Tôi đã đặt vào tay ngài một đầu mối. Ngài chỉ cần đi theo nó; ngài sẽ thấy nó dẫn ngài tới nơi nào.
Thưa ngài, xin ngài lưu ý rõ ràng là tôi không kêu ca gì về các việc liên quan tới vụ trộm. Tôi không ta thán gì về những điều mà tôi đáng phải chịu, và cho tới nay tôi chưa phải nhận hình phạt nào nhiều hơn là hình phạt mà tôi đáng phải chịu. Quả thật là đã có một vụ trộm và ba năm tù của tôi là để đền tội đó. Trong phiên tòa, người ta chỉ ra rằng tôi đã tham dự vào vụ của Mer¬ton Cross, và rằng tôi đã ngồi tù một năm vì chuyện đó, đó là lý do tại sao lời khai của tôi đã được tiếp nhận một cách tệ hại như thế. Một kẻ tái phạm thì bao giờ cũng bị tình nghi. Tôi nhìn nhận vụ ăn trộm. Nhưng khi người ta nói với tôi về vụ án mạng đã khiến tôi bị kết án tù chung thân (và bất cứ một vị quan tòa nào ngoài ngài James, đều rất có thể đưa tôi lên đoạn đầu đài) thì tôi trả lời tôi không dính líu gì trong vụ này và tôi vô tội. Bây giờ tôi sẽ trở lại cái đêm hôm 13 tháng 12 năm 1894, và tôi sẽ kể lại một cách chính xác với ngài về những gì đã xảy ra. Nếu tôi nói sai sự thật một chút nào thì xin bàn tay của Thượng Đế hãy giết chết tôi đi.
Vào khoảng giữa mùa hè, tôi đi tới Bris¬tol để tìm việc làm, nhưng tôi chợt nảy ra ý nghĩ là tôi sẽ có thể xoay xở được ở Portsmouth, vì tôi là một thợ máy giỏi; vì vậy tôi đi ngang qua miền nam nước Anh, bằng cách nhận các công việc làm trên đường đi mỗi khi mà tôi kiếm được việc làm. Tôi cố gắng để khỏi có những sự phiền muộn, vì tôi đã đền tội một năm trong nhà tù ở Ex¬eter, và điều đó cũng đủ với tôi rồi. Nhưng không có gì khó khăn bằng sự đi tìm việc làm khi mà tên của mình đã bị một dấu chữ thập đen dính vào; suýt nữa thì tôi đã bị chết đói. Sau cùng, sau khi trải qua mười ngày đi chặt củi và đập đá vụn để kiếm một đồng lương chết đói, tôi đã tới gần Sal¬is¬bury với hai đồng bạc trong túi, và một lòng kiên nhẫn cũng tồi tệ như đôi giày của tôi vậy. Trên đường đi, khoảng giữa Blan¬ford và Sal¬is¬bury, có một quán rượu với tấm bảng hiệu "Thiện chí". Tối hôm đó, tôi thuê một cái giường ở quán rượu này. Tôi ngồi có một mình trong tửu quán, một ít lâu trước giờ đóng cửa, khi chủ quán, một người tên là Allen, đi tới ngồi cạnh tôi và bắt đầu nói với tôi về những chuyện tầm phào trong xứ. Đó là một người thích nói và muốn có người nghe hắn nói; tôi là kẻ chẳng có việc gì để làm, tôi ngồi lại đó để hút thuốc trước một bình rượu bia mà hắn đem cho tôi. Tôi đã nghe hắn nói một cách lơ đãng, cho tới lúc hắn bắt đầu nói ba hoa (hình như ma quỷ nhập vào hắn) về những nhà đại phú ở lâu đài Man¬ner¬ing.
Tôi hỏi:
- Đó là cái nhà lớn ở mạn bên phải trước khi tới ngôi làng phải không? Cái nhà nằm giữa một hoa viên tư phải không?
- Đúng thế!
Tôi sẽ nhắc lại hết cuộc nói chuyện của chúng tôi để ngài thấy rằng tôi nói đúng sự thật và tôi không giấu ngài một điều gì.
- Tòa nhà trắng dài với những cây cột. Ở cạnh con đường Bland¬ford.
Vâng, tôi đã để ý tới nó khi đi qua; tôi đã tự nhủ một cách rất ngu xuẩn rằng đó là một căn nhà rất dễ ăn trộm với một dãy dài các cửa sổ lớn và những cửa lớn lồng kính. Tôi đã xua đuổi ý nghĩ này, và nay thì anh chàng chủ quán lại nhắc tới cái nhà đó với câu chuyện những nhà phú hào cư ngụ tại lâu đài Man¬ner¬ing. Tôi không nói gì cả, nhưng tôi lắng tai nghe, và làm như một việc khẩn thiết, hắn ta quay trở lại câu chuyện.
- Lúc còn trẻ, ông ta đã bần tiện rồi. Đó, anh nghĩ là với tuổi tác ông ta vẫn không cải đổi gì cả. Tuy vậy, với tiền bạc của ông ta, ông ta đã làm nhiều việc không đến nỗi tệ lắm.
Tôi hỏi:
- Ông ấy đã có thể làm được việc gì, với tiền bạc mà ông ấy không dám tiêu pha?
- Hà, ông ta đã có thể mua được người đàn bà đẹp nhất nước Anh! Đó không phải là điều quá tệ. Cô ấy tưởng tượng là cô ấy sẽ có tiền bạc tiêu xài; hôm nay thì cô ấy đã vỡ mộng rồi.
- Cô ấy là ai vậy?
Tôi đã đặt những câu hỏi, chỉ là để có chuyện mà nói thôi.
- Một cô gái cầu bơ, cầu bất trước khi được nhà quý tộc già cưới làm vợ. Cô ta từ Luân Đôn tới. Một vài người nói chắc rằng cô ấy là diễn viên, nhưng không ai chứng thực được điều này. Nhà quý tộc già vắng nhà trong một năm. Khi ông ta trở về, ông ta dẫn theo một phụ nữ trẻ, người mà từ đó không ra khỏi tòa lâu đài nữa. Stephens, người đầu bếp, đã có lần kể lại với tôi rằng cô ấy là ánh sáng trong căn nhà khi cô ấy tới đó nhưng với những cung cách bần tiện và kiêu căng của ông chồng, với sự cô độc bao quanh ông ta (vì ông ta ghét tiếp khách) và với lời nói khắc bạc của nhà quý tộc (vì ông ta có một cái lưỡi như nọc ong vò vẽ), tất cả cuộc sống bây giờ hình như đã xa lánh cô ấy: cô ấy trở nên xanh xao, trầm lặng, suốt ngày đi thơ thẩn trên những con đường quê, lòng nặng ưu phiền. Cũng có nhiều người nói rằng cô ấy yêu một người đàn ông khác, rằng cô ấy đã không cầm lòng được trước sự cám dỗ của tiền tài, và bây giờ thì cô ấy trở nên tiều tụy buồn phiền vì cô ấy đã mất người yêu mà cũng chả có giàu sang. Bất kể tiền bạc của chồng, cô ấy là người đàn bà nghèo nhất trong giáo xứ.
Thưa ngài, chắc ngài hiểu rõ rằng những chuyện cãi cọ giữa một nhà quý tộc và một bà phu nhân chẳng ăn nhằm gì đến tôi cả. Việc cô ấy căm ghét tiếng nói của ông chồng hoặc ông ta làm cô ấy bực bội vì những lời mai mỉa, chế giễu với hy vọng là làm hủy hoại tâm hồn cô ấy, hoặc là ông ta nói với cô ấy như chưa từng bao giờ nói như vậy với một người trong bọn tôi tớ của ông ta, có thể làm tôi bận tâm ư? Gã chủ quán đã kể cho tôi nghe hàng lô chuyện ở đó, nhưng chúng đã ra khỏi đầu óc tôi, vì chúng không liên can gì tới tôi. Ngược lại, điều tôi muốn biết là tài sản của nhà quý tộc Man¬ner¬ing gồm những thứ gì? Những chứng khoán, những cổ phần đều chỉ là những giấy tờ và là nguồn gốc của tai họa nhiều hơn là lợi lộc cho kẻ nào chiếm đoạt chúng. Trái lại, quý kim và các đồ nữ trang mới đáng với sự mạo hiểm. Như thể hắn ta đã đoán được tất cả ý nghĩ của tôi, gã chủ quán nói với tôi về bộ sưu tập lớn lao các huy chương bằng vàng của nhà quý tộc Man¬ner¬ing; hắn nói với tôi rằng khắp trên thế giới không có bộ sưu tập nào như vậy; người ta đã tính rằng nếu đem bỏ chúng vào một cái bao thì người lực lưỡng nhất trong giáo xứ cũng không nâng nổi nó. Tới lúc đó thì vợ hắn gọi hắn đi ngủ; chúng tôi chia tay nhau.
Thưa ngài, không phải là tôi đang tự biện hộ cho tôi, nhưng tôi xin ngài suy xét lại các sự việc, và xin hỏi ngài rằng có người nào lại bị cám dỗ một cách tàn bạo hơn tôi nữa. Tôi nhìn nhận rằng rất ít người có thể chống cự lại được. Đêm hôm đó tôi nằm duỗi dài trên giường, không chút hy vọng mà cũng chẳng có công việc làm, với một đồng bạc cuối cùng trong túi. Tôi đã cố sức làm người lương thiện: những người lương thiện đã quay lưng lại với tôi; họ quở trách tôi đã là một tên ăn cắp và đồng thời họ đẩy tôi trở lại thành một kẻ ăn cắp. Tôi đã dấn thân vào dòng nước; tôi không thể ra thoát khỏi nữa. Rồi thì ở nơi đó tôi đã gặp cơ hội như vậy. Một tòa nhà lớn với tất cả những cửa sổ của nó, những huy chương bằng vàng là thứ dễ nấu chảy ra, y như là để một miếng bánh trước một kẻ đang đói mà nghĩ rằng hắn sẽ không nhai ngấu nghiến miếng bánh đó. Tôi đã cưỡng lại được một lúc, nhưng vô hiệu. Tôi ngồi dậy, và tôi thề rằng, ngay tối hôm nay, hoặc là tôi sẽ giàu có và tôi sẽ có được các phương cách để chào vĩnh biệt tội ác, hoặc là những cái còng lại một lần nữa khép lại trên cổ tay tôi. Tôi mặc quần áo vào tôi đặt một đồng bạc trên bàn (vì gã chủ quán đã đối xử tử tế với tôi và tôi không muốn lường gạt hắn). Tôi đi ra bằng ngả cửa sổ và tôi thấy mình đứng trong vườn của quán rượu.
Một bức tường cao bao quanh khu vườn. Tôi phải vất vả lắm để leo lên tường; nhưng khi đã sang tới bên kia tường thì mọi việc đã dễ dàng. Tôi đã không gặp một người nào trên đường đi, và tấm lưới sắt của ngõ vào để mở ngỏ. Không có gì động đậy ở nhà của người gác cổng. Trăng sáng vằng vặc, xuyên qua một vòm cong các cây cối, tôi nhận rõ tòa nhà lớn màu trắng. Tôi đi vào khoảng bốn trăm mét, và tôi đã tới trước cái cửa ở bên cạnh lối đi; nấp mình trong bóng tối, tôi quan sát tòa nhà dài với những cửa sổ lấp lánh dưới ánh sáng trắng như bạc. Tôi tự hỏi tôi sẽ tìm thấy lối vào dễ nhất ở chỗ nào đây, cái cửa sổ ở chỗ góc cho tôi cảm tưởng là nó ở nơi khuất nẻo nhất vì cây trường xuân rủ xuống từng chùm rậm rạp khắp chung quanh. Tôi bước lại phía cái cửa số này trong khi lẩn dưới các cây cối, rồi tôi bò đi dưới bóng của cái nhà. Một con chó sủa lên, co kéo sợi dây xích của nó; tôi đợi cho nó nằm im; tôi lại tiến bước một cách lén lút, và cuối cùng tôi đã đi tới dưới cái cửa sổ mà tôi đã ghi nhớ.
Thật là đáng ngạc nhiên khi thấy ở miền quê mọi người thường lơ là, vô tâm? Tưởng rằng ở xa thành thị, người ta không bao giờ nghĩ tới những tên ăn trộm. Thật đúng là nhứ một con quỷ khốn khổ khi bàn tay nó đặt lên cánh cửa, mở nó ra không một chút khó khăn.
Trong trường hợp của tôi thì không phải hoàn toàn đơn giản như vậy, nhưng cái cửa sổ (một cái cửa sổ có cánh sập xuống) lại không cài chốt; tôi mở nó bằng cách dùng một lưỡi dao lớn. Tôi nâng nó lên, tôi nhét con dao vào giữa các tấm cánh cửa, tôi đẩy chúng về phía trước và tôi tụt xuống căn phòng.
- Chào ngài! Ngài tới thật đúng lúc - một giọng nói cất lên.
Trong đời tôi, đã có lúc tôi giật mình đến nẩy người lên, nhưng chưa bao giờ tôi bị giật nảy lên đến như vậy. Ở trong tầm các ngón tay của tôi, ngay trước các cánh cửa sổ mở ngỏ, một người đàn bà đứng không nhúc nhích, tay cầm một cây nến nhỏ, người cao lớn, mảnh mai, cô ta đứng thẳng người, cô ta có một khuôn mặt trắng, đẹp trông như được tạc bằng cẩm thạch; nhưng tóc và mắt thì đen sẫm như màn đêm. Cô ta mặc một áo ngủ màu trắng dài tới gót chân. Với cái áo đó và bộ mặt cũng trắng như vậy, cô ta nom giống như một con ma từ trên trời bước xuống đứng trước mặt tôi. Hai đầu gối tôi lẩy bẩy đụng vào nhau, tôi phải vịn vào một cánh cửa sổ để khỏi sụm xuống. Nếu tôi còn đủ sức lực thì tôi đã quay đầu chạy trốn. Nhưng tôi chỉ có thể đứng nhìn cô ta, miệng há hốc ra.
Bất chợt cô ta đã kéo tôi về với thực tế. Cô ta nói với tôi:
- Đừng có sợ...!.
Đó là những lời kỳ lạ để một bà chủ nhà nói với một tên ăm trộm.
- Tôi đã nhìn thấy anh từ cửa sổ phòng của tôi trong lúc anh ẩn nấp dưới các cây cối. Tôi đã đi xuống và đã nghe thấy anh ở phía bên kia cái cửa sổ. Tôi sẽ tự ý mở cửa cho anh nếu anh đợi thêm một lúc, nhưng khi tôi đến nơi thì anh đã tự một mình xoay xở được.
Tay tôi còn cầm con dao dài có khớp hãm mà tôi đã dùng để mở cánh cửa sổ. Tôi đã không cạo mặt, và trên hai má tôi có đầy bụi bặm trong tám ngày đi đường ít người dám nhìn thẳng vào mặt tôi lúc chỉ có hai người, vào một giờ đêm như thế này. Người đàn bà này thì trái lại, nếu cô ta đã có hẹn với tình lang, thì chắc cô ta cũng không nhìn hắn bằng con mắt đáng yêu hơn. Cô ta đặt một bàn tay lên cánh tay tôi, và cô ta kéo tôi vào bên trong căn phòng.
- Thưa bà, thế này là nghĩa làm sao? Xin chớ đem những sự cám dỗ nhỏ nhen mà thử thách tôi.
Tôi đã cất giọng nói lớn, và khi tôi cố sức nói như vậy thì tôi có thể có vẻ rất hung dữ.
- Nếu bà muốn giở trò lừa gạt tôi, thì mặc kệ bà!
Tôi chìa con dao ra với cô ta.
Cô ta trả lời:
- Tôi không muốn lừa gạt anh. Ngược lại, tôi là bạn của anh và tôi muốn giúp đỡ anh.
- Thưa bà, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi khó tin được việc này. Tại sao bà lại muốn giúp đỡ tôi?
- Vì những lý do riêng tư...
Bỗng nhiên, với những con mắt đen sáng rực trên khuôn mặt trắng, cô ta gần như gào lên với tôi:
- Vì rằng tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy! Bây giờ thì anh hiểu rồi chứ?
Tôi nhớ lại những điều mà gã chủ quán đã nói với tôi và rồi tôi đã hiểu. Tôi nhìn vào mặt cô ta: phải, tôi có thể tin ở cô ta? Cô ta muốn trả thù người chồng. Cô ta muốn đánh lão ấy vào chỗ trọng yếu nhất: vào cái túi tiền. Cô ta hận lão đến nỗi chịu hạ mình đặt tin tưởng vào một người như tôi, nếu cô ta có thể đạt được mục đích. Trong đời tôi, tôi đã từng thù hận nhiều người, nhưng tôi không nghĩ rằng tôi đã hiểu được thế nào là hận thù, trước khi nhìn thấy bộ mặt của cô ta dưới ánh sáng của cây nến.
- Bây giờ thì anh tin tôi rồi chứ? - cô ta hỏi tôi trong lúc lại một lần nữa đặt bàn tay dịu dàng lên cánh tay tôi.
- Vâng, thưa phu nhân.
- Thế ra anh biết tôi à?
- Tôi đoán ra cô là ai.
- Tôi biết rằng sự bất hạnh của tôi là câu chuyện được đồn đại trong khắp xứ. Nhưng ông ấy có bận tâm về việc đó không? Ông ấy chỉ bận tâm về một điều trên đời này, và điều đó là thứ mà anh sẽ lấy trộm của ông ấy ngay đêm hôm nay. Anh có một cái túi không?
- Thưa phu nhân, không.
- Hãy đóng các cánh cửa sổ lại. Không ai có thể nhìn thấy ánh sáng. Anh được an toàn triệt để. Bọn đầy tớ ngủ ở chái nhà bên kia. Tôi sẽ chỉ cho anh thấy nơi để những đồ vật quý giá nhất. Anh sẽ không thể mang đi tất cả: anh sẽ chọn lựa những thứ đẹp nhất.
Căn phòng mà tôi lẻn vào thì dài và có cái trần thấp; những tấm thảm, những tấm lông thú nằm rải rác trên một sàn ván đẹp, đánh xi bóng loáng. Có những tủ kính nhỏ. Những bức tường được trang trí với các cây giáo, các thanh gươm, các mái chèo và những đồ vật khác thường được bày trong các viện bảo tàng. Cũng có cả những thứ y phục kỳ lạ đã được mang về từ các nước xa lạ; vị phu nhân cúi mình xuống và nhặt một cái túi bằng da đen.
- Cái túi để nằm ngủ này sẽ được việc - cô ta nói - Hãy theo tôi, tôi sẽ chỉ cho anh rõ nơi cất các huy chương.
Thoạt giống như một giấc mộng: người đàn bà cao lớn mặc toàn màu trắng này, vốn là nữ chủ nhân của tòa nhà, lại tiếp tay cho tôi ăn trộm nhà cô ta?... Tôi đã định cười phá lên, nếu trên khuôn mặt nhợt nhạt của cô ta tôi không phát hiện ra một điều gì làm giá lạnh nụ cười trên môi tôi. Cô ta đi qua trước mặt tôi như một hồn ma, với cây nến trong tay, và tôi đi theo cô ta với cái túi trong tay tận tới cái cửa lớn ở phía cuối phòng bảo tàng này. Cái cửa được khóa kín, nhưng chìa khóa nằm trong ổ khóa; cô ta mở cửa ra và chúng tôi đi vào.
Căn phòng kế cận thì nhỏ bé, có treo những tấm màn vẽ. Trên một tấm là hình một cuộc săn hươu, tôi nhớ rất rõ về tấm màn này, và dưới ánh sáng của cây nến người ta có thể nghĩ rằng những con chó và những con ngựa từ trong tường xông ra. Vật duy nhất khác trong căn phòng là một dãy tủ kính bằng gỗ hồ đào, với những trang trí bằng đồng và những mặt trên bằng kính. Thoạt vừa nhìn tôi đã nhận thấy rất nhiều huy chương bằng vàng, được xếp thành từng hàng, trong số đó một vài cái lớn bằng những cái đĩa và có bề dày tới ba hay bốn phân tây; chúng được đặt trên nhung đỏ; ánh vàng của chúng lấp lóe trong bóng tối. Tôi thấy các ngón tay ngứa ngáy và tôi luồn con dao vào ổ khóa của một trong các tủ kính để làm bật nó ra.
- Đợi một lát. - cô ta nói với tôi trong khi lại bắt đầu đặt bàn tay lên cánh tay tôi - Anh có thể tìm được thứ quý hơn.
Tôi đáp:
- Chỗ này là quá đủ cho tôi rồi. Và tôi vô vàn cảm ơn phu nhân về sự giúp đỡ tôi.
Nhưng cô ta vẫn khăng khăng:
- Tôi nói với anh là còn nhiều thứ quý giá hơn. Những vị vua chúa bằng vàng sẽ có lợi cho anh nhiều hơn là những tấm huy chương này.
- Vâng, đúng thế! Các vị vua chúa bằng vàng, còn thứ gì quý hơn nữa.
- Được rồi. Ông ấy ngủ ngay bên trên đầu chúng ta. Ta chỉ cần lên một cầu thang nhỏ. Bên dưới giường của ông ấy, ông ấy giấu một cái hòm nhỏ đựng khá nhiều tiền đủ nhét đầy cái túi của anh.
- Nhưng tôi làm thế nào để lấy nó mà không làm ông ấy thức giấc?
- Có gì là quan trọng nếu ông ấy thức giấc?!...
Cô ấy nhìn chằm chằm vào mặt tôi khi nói câu này.
- Anh biết rõ cách ngăn cản không cho ông ấy kêu lên chứ?
- Dạ không, thưa bà! Không có chuyện đó. Tôi không làm được đâu
- Tùy ý anh đó! Lúc mới gặp tôi cứ nghĩ anh là một người cứng cỏi, nhưng tôi thấy là tôi đã lầm. Nếu anh sợ hãi một ông già thì tất nhiên là để mặc xác số vàng bên dưới giường ông ấy. Anh là vị quan tòa tốt hơn tôi về các việc riêng của anh, nhưng tôi nghĩ rằng tốt nhất là anh nên chọn một nghề khác.
- Tôi không muốn có một vụ sát nhân đè nặng lên lương tâm tôi.
- Anh có thể khống chế mà không làm tổn thương ông ấy. Tôi không bao giờ nói tới việc giết người. Tiền để ở dưới giường. Nhưng nếu anh sợ thì tốt nhất là anh đừng mạo hiểm làm việc gì cả.
Đó là cách thức mà cô ta đã tác động tôi: một phần với sự mai mỉa của cô ta, một phần với số vàng mà cô ta đem ra làm lóe mắt tôi. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ nhượng bộ và tôi sẽ trở nên liều lĩnh tại nhà của nhà quý tộc già nua nếu tôi không chú ý tới đôi mắt của cô ta: đôi mắt này đã phụ giúp cho cuộc đấu tranh nội tâm của tôi bằng một sự biểu lộ quá gi¬an xảo, quá hung dữ khiến tôi hiểu ngay rằng cô ta cố gắng làm tôi trở thành công cụ cho sự trả thù của cô ta, và cô ta không để cho tôi một sự chọn lựa nào khác ngoài việc loại trừ ông chồng ra khỏi tình trạng có thể làm hại cô ta hoặc để cho tôi bị ông ấy bắt được. Cô ta đã cảm thấy rõ là ý đồ đã bị phát lộ, và tức thì ban tặng cho tôi một nụ cười thân mật; nhưng đã quá muộn rồi; tôi đã có một sự cảnh giác của tôi.
Tôi bèn nói.
- Tôi không muốn lên lầu. Tôi đã có đủ mọi thứ tôi cần đây rồi.
Cô ta đã làm tôi choáng người vì sự khinh bỉ của cô ta.
- Được lắm. Anh có thể lấy những cái huy chương này đi. Tôi nghĩ rằng anh nên bắt đầu từ phía bên kia. Chắc chắn là khi đã nấu chảy ra rồi thì tất cả chúng đều cùng có một giá trị như nhau thôi, nhưng các huy chương này là những thứ hiếm có hơn do đó là thứ quý báu hơn đối với ông ấy, không cần phải bẻ các ổ khóa. Nhấn mạnh vào cái nút đồng này, anh sẽ chuyển động một cái lò so bí mật. Kia kìa! Hãy lấy cái này trước: đó là con người trong mắt lão ta...
Cô ấy mở một cái tủ kính; tất cả những đồ vật đẹp đẽ được phơi bày ra trước mặt tôi. Tôi đã dặt tay lên tấm huy chương mà cô ta vừa chỉ thì bỗng nhiên tôi thấy nét mặt cô ta thay đổi, và cô ta giơ một ngón tay.
- Suỵt! Cái gì vậy?...
Trong sự im lặng của tòa nhà chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân lê đi rất nhẹ, ngay tức thì cô ta đóng tủ kính lại.
- Đó là chồng tôi! Anh đừng sợ! Mọi việc sẽ tốt đẹp thôi. Tôi sẽ dàn xếp mọi việc. Chỗ này? Mau lên, đằng sau tấm thảm!...
Cô ta đẩy tôi vào phía sau những tấm màn sơn, tôi và cái túi rỗng không trong tay - rồi cô ta cầm lấy cây nến và nhanh nhẹn đi trở vào phòng bảo tàng, nơi mà chúng tôi vừa ra khỏi. Từ chỗ tôi đứng, tôi có thể nhìn thấy cô ta qua cái cửa mở ngỏ.
Cô ta nói lớn:
- Có phải mình không, Robert?
Ánh sáng của một cây nến lóe lên phía sau cái cửa của phòng bảo tàng; tiếng bước chân tới gần. Rồi tôi thấy hiện ra trên bậc cửa một bộ mặt lớn, nặng nề, đầy những vết nhăn và những nếp da bùng nhùng mỡ, với một cái mũi cong khoằm có mang kính gọng vàng. Ông ta rất cao lớn to. Với cái áo ngủ, ông ta đứng che kín cả cái cửa - ông ta có mái tóc bạc, xoắn lại thành từng cuộn, nhưng ông ta không có râu. Miệng ông ta thì nhỏ, mỏng, chúm lại, bị mờ nhạt đi dưới sự uy hiếp của cái mũi ngạo nghễ. Ông ta đứng yên bất động, quan sát vợ với một cái nhìn xa lạ, hiểm ác mới thoạt nhìn tôi đã hiểu ngay là ông ta biểu lộ với vợ những tình cảm mà cô ta đã dành cho chồng.
Ông ta hỏi vợ:
- Thế này là nghĩa làm sao? Một sự nổi hứng mới à? Tại sao lại có cuộc đi dạo chơi ban đêm này trong nhà? Làm sao mà cô lại không đi ngủ?
- Tôi không thể ngủ được...
Cô ta nói một giọng chán chường, thê thảm. Nếu ngày xưa cô ta đã lên sân khấu, thì hắn cô ta đã không quên nghề nghiệp của mình.
- Tôi có cần gợi ý cho cô là một lương tâm trong sáng sẽ giúp một cách rất hiệu lực cho giấc ngủ không?
Ông ta lại lên tiếng với cũng một giọng chế nhạo như vậy
Cô ta trả lời:
- Tôi không tin điều đó, bởi vì ông vẫn có những giấc ngủ rất ngon mà.
- Trong suốt cuộc đời tôi, tôi chỉ xấu hổ về một chuyện thôi... - Tóc ông ta dựng đứng lên lởm chởm vì tức giận; ông ta nom giống như một con ác điểu. - Cô biết hơn ai hết là tôi nói việc gì. Và sự trừng phạt đã theo sau lỗi lầm.
- Đối với tôi, cũng đúng như thế: chớ quên điều này.
- Cô còn phàn nàn cái gì? Chính tôi đã tự hạ thấp mình xuống; còn cô, cô đã được cao sang.
- Cao sang?
- Đúng vậy! Tôi nghĩ rằng cô sẽ không chối cãi là cô đã được mãn nguyện khi tới đây, tới lâu đài Man¬ner¬ing. Tôi đã phạm sai lầm lớn khi đem cô ta ra khỏi môi trường thật sự của cô.
- Nếu đúng là ông nghĩ như vậy, tại sao chúng ta không chia tay nhau?
- Bởi vì một sự bất hạnh riêng tư còn tốt hơn là một sự nhục nhã trước mọi người. Bởi vì ngấm ngầm đau khổ về một lỗi lầm còn dễ hơn là thú nhận nó. Và cũng bởi vì tôi thích có cô ở trước mắt và biết rằng cô không thể quay trở lại với hắn.
- Đồ vô lại! Đồ hèn nhát?
- Đúng vậy, Mi¬la¬dy. Tôi biết tham vọng thầm kín của cô, nhưng khi tôi còn sống, nó sẽ không thực hiện được đâu và rất có thể là tôi sẽ có những cách xếp đặt để sau khi chết rồi tôi vẫn còn canh chừng để khi cô trở về sống với hắn mà không có một đồng xu dính túi. Cô và anh chàng Ed¬ward yêu quí của cô, không bao giờ các người được toại nguyện phung phí tiền bạc của tôi, phải nói cho cô biết ý định này, Mi¬la¬dy ạ. Tại sao các ô cửa và cửa số lại mở ngỏ thế này?
- Tôi thấy căn phòng có mùi hôi.
- Đó không phải là sự khôn ngoan. Biết đâu lại không có một tên du đãng đi dạo quanh đây? Cô có biết rằng bộ sưu tập huy chương của tôi có giá trị hơn bất cứ bộ sưu tập nào trên thế giới không? Cô cũng để cửa lớn mở ngỏ nữa. Ai sẽ có thể ngăn cản được một tên ăn cắp lấy trộm đồ của tôi?
- Có tôi ở đây mà.
- Tôi biết điều đó. Tôi đã nghe thấy cô đi trong phòng dể huy chương; đó là lý do tại sao tôi đi xuống. Cô đã làm gì ở đó?
- Tôi xem các tấm huy chương. Tôi còn có thể làm gì khác được?
- Sự hiếu kỳ này là mới mẻ đấy!
Ông ta ném cho vợ một cái nhìn nghi ngờ và ông ta đi vào phòng nhỏ chứa các huy chương. Cô ta đi theo chồng.
Ngay vào lúc đó tôi nhìn thấy một vật làm tôi phát run lên. Tôi đã đế con dao có khớp hãm lưỡi mở sẵn trên mặt tủ kính. Nó nằm phơi ra đó, mắt thường cũng nhìn thấy được. Cô ta đã nhìn thấy con dao trước ông ta, và với tất cả sự sắc bén của một người đàn bà, cô ấy nâng cao cây nến lên để ngọn lửa nến len vào khoảng giữa con dao và cặp mắt của nhà quí tộc Man¬ner¬ing. Rồi tay trái cô ta cầm lấy con dao và áp nó sát vào áo ngủ của mình không để ông ta nhìn thấy. Ông ta kiểm soát các tủ kính, lần lượt từng cái một; có một lúc nào đó tôi đã có thể đặt bàn tay tôi lên cái mũi dài của ông ta. Như không có gì chứng tỏ là có người đã đụng chạm tới các tấm huy chương, ông ta đi ra, kéo lê hai chân tới gi¬an phòng lớn..
Và bây giờ tôi phải nói tới một điều mà tôi nghe thấy chớ không phải là nhìn thấy, nhưng tôi xin thề với ngài, cũng đúng thật như một ngày nào mà tôi trình diện trước đấng tối cao, là tôi sẽ nói sự thật với ngài.
Khi họ đi vào phòng bảo tàng, tôi trông thấy ông ta đặt cây nến trên góc bàn, rồi ông ta ngồi xuống, nhưng vừa đúng ngoài tầm nhìn của tôi. Cô ta thì đứng sau lưng ông ta, theo như tôi có thể biết vì cây nến chiếu ra bóng của nhà quí tộc già trên sàn nhà trước mặt ông ta. Lúc đó ông ta lại nói đến gã đàn ông mà ông ta gọi tên là Ed¬ward, ông ta nói nhỏ, và tôi không hiểu tất cả nhưng theo những điều tôi nghe được thì giống như cô ta bị những ngọn roi quật vào mình... Thoạt đầu cô ta trả lời bằng những từ ngữ rất bén nhọn, rồi thì cô ta im tiếng; ông ta cứ tiếp tục làm tổn thương vợ, chửi mắng, hành hạ vợ bằng giọng nói lạnh lùng và chế nhạo; tôi tự hỏi tại sao cô ta lại có thể giữ được im lặng khi nghe ông ta nói thế. Bỗng nhiên tôi nghe thấy ông ta nói với một giọng sắc bén:
- Đừng đứng đằng sau tôi nữa! Buông cổ áo tôi ra! Cái gì thế cô muốn đánh tôi à?
Đúng là tôi đã nghe thấy một tiếng động giống như một nhát đánh một thứ tiếng đục và nhẹ, rồi tôi nghe thấy ông ta kêu lớn: "Lạy chúa tôi, nhưng đây là máu mà!" ông ta cựa quậy hai bàn chân như muốn đứng lên. Lúc đó tôi lại nghe thấy một nhát đánh nữa, và ông ta thét lên: "ôi, đồ quỉ cái". Và sau một tiếng đổ vật trên sàn nhà và tiếng một chất lỏng chảy, sự im lặng lại bao trùm.
Tôi vội vã đi ra khỏi chỗ ẩn nấp và tôi chạy vào gi¬an phòng lớn, tôi run rẩy cả chân tay; tôi bị kinh hoảng. Nhà quí tộc già đã tụt xuống khỏi cái ghế và trên lưng ông ta cái áo ngủ, làm thành một cái bướu khủng khiếp. Cái đầu ông ta vẫn còn đeo kính, lăn sang một bên; cái miệng nhỏ bé của ông ta há hốc ra như một con cá chết. Tôi không trông thấy máu chảy ra từ nơi nào, nhưng tôi nghe thấy nó rơi lộp độp trên sàn nhà. Còn cô ta? Kia kìa, môi cô ta mím chặt, đôi mắt long lanh, và lúc này thì cặp má hồng ửng lên. Cô ta chỉ thiếu một chút sắc hồng nhạt này để trở thành người đàn bà xinh dẹp nhất mà tôi đã
từng thấy.
Tôi ấp úng nói:
- Cô đã giết ông ta?
- Phải, - cô ta trả lời tôi với sự điềm tĩnh cố hữu, - Bây giờ tôi đã giết ông ta.
Tôi hỏi:
- Cô sẽ làm thế nào? Cũng chắc chắn như hai với hai là bốn, cô sẽ bị bắt giữ về tội sát nhân.
- Anh khỏi phải lo sợ cho tôi. Đời sống chẳng có gì làm tôi quan tâm cả; sự sống không quan trọng đối với tôi. Hãy giúp tôi một tay để đặt lại ông ta lên ghế, nhìn như thế này khủng khiếp lắm!
Tôi phụ giúp cô ta. Chỉ chạm vào ông ta mà người tôi đã lạnh giá như băng. Một ít máu chảy lên bàn tay tôi. Tôi buồn nôn.
- Bây giờ thì hoặc là anh hay kẻ nào khác lấy những tấm huy chương này - cô ấy dõng dạc nói - Hãy lấy đi và đi khỏi!
- Tôi không muốn lấy chúng. Tôi muốn đi khỏi, có thế thôi. Chưa bao giờ tôi bị dính vào một vụ như thế này.
- Thật là ngu ngốc. Anh tới đây vì những tấm huy chương; chúng nằm kia, thuộc quyền sử dụng của anh. Tại sao anh không lấy? Không có ai ngăn cản việc anh lấy chúng đi.
Trong tay tôi còn cầm cái túi trống rỗng. Cô ấy mở tủ kính, cả hai chúng tôi bỏ chừng một trăm tấm huy chương vào cái túi. Chúng đều nằm trong cùng một tủ kính; tôi không muốn đợi lâu hơn nữa. Tôi đi về phía cửa sổ vì không khí trong tòa nhà làm tôi ngộ độc sau những gì tôi đã trông thấy và nghe thấy. Tôi quay đầu lại. Tôi thấy cô ta vẫn đứng yên, mảnh mai, cao lớn, đài các, với cây nến trong tay, giống hệt như lúc tôi nhìn thấy cô ta lần đầu tiên Cô ta vẫy tay nói lời tạm biệt với tôi. Tôi đáp lại cô ta cũng bằng dấu hiệu đó. Tôi nhảy qua cửa sổ vào lối đi lát sỏi.
Tôi cảm ơn Thượng đế là tôi có thể đặt tay lên trái tim mà thề rằng tôi đã không bao giờ phạm tội ác; nhưng có lẽ tôi sẽ không có thể thề việc này, nếu tôi đọc được ý nghĩ trong đầu người đàn bà này. Nếu tôi đoán được những gì ẩn nấp sau nụ cười cuối cùng của cô ta, thì lúc đó sẽ có hai xác chết trong gi¬an phòng thay vì chỉ có một xác thôi. Nhưng tôi chỉ nghĩ tới một việc: Tẩu thoát để khỏi bị bắt giữ. Tôi hoàn toàn không nghĩ tới chuyện cô ta đang tròng dây thừng vào cổ tôi. Tôi chưa đi được năm bước ở bên ngoài bằng cách men theo tòa nhà và ẩn mình trong bóng tối thì tôi đã nghe thấy một tiếng la đủ sức làm thức giấc tất cả giáo xứ; rồi một tiếng thứ hai, và còn một tiếng thứ ba nữa.
- Có án mạng! - cô ta kêu lớn - có án mạng! Cấp cứu!
Tiếng cô ta vang lên trong sự yên tĩnh của ban đêm, và tiếng vọng lan ra khắp cả mọi nơi. Tiếng kêu rùng rợn đó, nó đã xuyên thủng đầu. tôi Trong một khoảng khắc, những ánh sáng đã hiện ra, đã chuyển động, và các cửa sổ được mở tung: không phải chỉ trong tòa nhà đằng sau tôi mà cả trong nhà người gác cửa và các chuồng ngựa trên đường đi của tôi. Như một con thỏ hoảng hốt, tôi lao mình trong lối đi và tôi chạy với hết tốc độ của đôi chân, nhưng tấm lưới sắt đã đóng lại trước khi tôi có thể tới chỗ nó. Tôi giấu cái túi đựng huy chương dưới một đống củi và tôi toan chạy trốn qua công viên, nhưng một người nào đó đã trông thấy tôi, và chả mấy lúc dã có năm, sáu người với những con chó đuổi theo tôi. Tôi náu mình sau các bụi cây; nhưng những con chó chồm lên người tôi và tôi đã rất mừng khi mọi người chạy tới, nếu không tôi đã bị chúng nuốt sống.
Họ túm lấy tôi và dẫn tôi trở lại căn phòng mà tôi đã bỏ chạy khỏi đó.
Người lớn tuổi nhất hỏi:
- Có phải người này không, thưa phu nhân?
Từ trước tôi đã biết người này là anh đầu bếp trưởng.
Cô ta cúi mình bên trên xác chết, cô ta chùi mắt bằng một chiếc khăn mùi xoa, rồi quay lại phía tôi, bộ mặt của một mụ đàn bà hung ác, ôi, một nữ diễn viên tài giỏi làm sao!
- Phải, đúng là nó! - Cô ta kêu lên - Ôi, thằng ăn cướp! Thằng tàn ác! Đối xử như vậy với một ông già!
Trong đám người đứng quanh đó, có một người có vẻ là nhân viên cảnh sát trong làng. Ông ta đặt một bàn tay lên vai tôi, ông ta hỏi tôi:
- Anh có gì để trả lời việc này?
- Chính cô ấy đã giết ông ta!- Tôi gào to lên trong khi chỉ tay vào cô ta.
Cô ta vẫn điềm nhiên, tiếp tục nhìn tôi với một cái nhìn tỉnh táo.
Người cảnh sát nói:
- Nào, anh còn, lời bào chữa khác không?
Một tên trong bọn đầy tớ đã đấm tôi một cú đấm rất mạnh.
- Tôi đã nói với ông là tôi nhìn thấy cô ấy giết người! Cô ấy đã đâm ông ta hai nhất bằng một con dao. Thoạt đầu cô ấy đã giúp tôi lấy trộm đồ của ông ta; rồi cô ấy giết ông ta.
Tên đầy tớ muốn đánh tôi một lần nữa, nhưng cô ta đã giữ tay hắn lại. Cô ta nói thì thầm:
- Đừng làm tổn thương hắn. Tôi tin rằng pháp luật sẽ đảm nhiệm việc trừng phạt hắn.
- Thưa phu nhân, tôi sẽ lo việc đó! - người cảnh sát trả lời - Phu nhân đã chứng kiến rõ
ràng vụ án phải không ạ?
- Phải, phải! Tôi đã chính mắt nhìn thấy vụ án. Thật là khủng khiếp. Chúng tôi đã nghe thấy tiếng động và chúng tôi cùng đi xuống. ông chồng xấu số của tôi đi trước. Người này đã mở dược một tủ kính, và hắn ta đang nhét đầy cái túi da đen hắn cầm trong tay. Hắn định chạy trốn, nhưng ông chồng tôi đã bắt hắn lại; hai người đánh nhau, và hắn đã đâm ông ấy hai nhát dao găm. Hãy nhìn xem: hắn còn máu trên hai bàn tay. Nếu tôi không lầm thì con dao vẫn còn nằm trong lưng chồng tôi.
- Các ông trông kìa; cô ấy có những bàn tay đẫm máu. - tôi dã kêu lên.
- Cô ấy đã đỡ cái đầu của ông lớn, đồ dối trá đê tiện - gã đầu bếp cãi lại.
- Và đây là cái túi mà phu nhân nói tới lúc nãy - người cảnh sát nói, ông ta vừa được một tên chăn ngựa đem tới cho cái túi mà tôi đã quẳng đi trong lúc chạy trốn. Và những tấm huy chương nằm ở bên trong. Như thế là quá đủ cho tôi rồi - tối hôm nay chúng ta hãy giừ hắn ở đây và ngày mai sẽ giải hắn tới Sal¬is¬bary.
Người đàn bà nói:
- Đồ ma quỉ xấu xa! Về phần tôi, tôi tha thứ cho hắn về sự thương tổn hắn đã gây ra cho tôi. Ai biết được sự cám dỗ nào đã đưa đẩy hắn tới tội ác? Lương tâm của hắn và luật pháp sẽ trừng phát hắn một cách thích đáng để tôi khỏi phải nói ra những lời nguyền rủa hắn.
Tôi đã không thể trả lời được câu nào, thưa ngài, tôi xin đoan chắc với ngài là tôi không thể trả lời được câu nào. Tôi bị bối rối vì sự trắng trợn của người đàn bà này. Vì sự im lặng của tôi có vẻ như đã xác nhận tất cả những điều cô ta nói, tôi đã bị người cảnh sát kéo vào trong căn hầm, tại đó tôi bị nhốt qua đêm.
Đấy thưa ngài, tôi đã nói với ngài tất cả chuyện về các biến cố dẫn tới vụ giết chết nhà quí tộc Man¬ner¬ing bởi vợ ông ta trong đêm 14 tháng 9 năm 1894. Có lẽ ngài sẽ bác bỏ sự trình bày các biến cố của tôi, như người cảnh sát ở lâu đài Man¬ner¬ing, như vị quan tòa ở tòa án địa phương hoặc có lẽ ngài sẽ tìm ra một tia chân lý, điều sẽ làm ngài bận tâm, và ngài sẽ mãi mãi giữ vững thanh danh một người không lùi bước trước bất kỳ một trở ngại nào để làm sáng tỏ chân lý và sự công bằng. Thưa ngài, tôi chỉ có thể khẩn cầu với ngài, nếu ngài rửa sạch được tên tuổi tôi khỏi sự cáo buộc gi¬an dối này, tôi sẽ đội ơn ngài cho tới hết đời. Nhưng nếu ngài bỏ rơi tôi, thì tôi xin thề với ngài là trong vòng một tháng kể từ hôm nay tôi sẽ tự treo cổ trên thanh sắt cửa sổ của tôi, và từ ngày này trở đi tôi sẽ trở về đêm nào cũng kéo giật chân ngài và tôi sẽ làm khổ ngài với khả năng một con ma có thể làm được. Điều mà tôi cầu xin ngài rất đơn giản, xin tiến hành một cuộc điều tra về người đàn bà này, canh chừng cô ta, truy tìm quá khứ của cô ta, dò hỏi xem cô ta làm gì với số tiền mà cô ta dược thừa hưởng, phối kiểm xem trong cuộc sống hiện nay của cô ta có người nào tên là Ed¬ward như tôi đã chỉ ra không. Nếu cuộc điều tra của ngài phát hiện tính cách thật sự của cô ta, nếu nó tỏ ra hỗ trợ cho câu chuyện mà tôi vừa kể lại với ngài, thì chắc chắn rằng tôi sẽ có thể tin vào lòng tốt của ngài và ngài sẽ cứu được một người vô tội.
07. Tên tử tù bất tử
Hồi đó tôi là y sĩ trưởng ở Los Ami¬gos. Tất nhiên mọi người đều nghe nói tới nhà máy điện chính là nơi cung cấp điện lực cho thành phố cũng như hàng mấy chục thị trấ và làng xung quanh. Do đó có rất nhiều xưởng máy ở trongkhu vực. Những cư dân ở Los Ami¬gos đều công nhận rằng đó là những xưởng máy lớn nhất trên trái đất. Họ cũng nói rằng đó là những xưởng máy lớn nhất trên trái đất. Họ cũng nói rằng tất cả những thứ gì hiện hữu ở Ló Ami¬gos đều là những thứ vĩ đại nhất trên trái đất, ngoại trừ các nhà tù và tử xuất (tỷ lệ người chết) nếu ta tin vào lời nói của của họ, là những thứ nhỏ nhất trên thế giới.
Với một nhà máy điện trung tâm đồ sộ như thế, chúng tôi suy nghĩ rằng chúng tôi sẽ phạm phải một sự tăng phí đáng tội về dây gai nếu những tên tội phạm của Los Ami¬gos bị đem ra hành quyết như thời cổ xưa tốt đẹp đó. Chúng tôi biết rằng những vụ hành quyết bằng cách cho điện giật đã diễn ra ở phương đông, nhưng dù sao thì các kết quả của chúng cũng đã không mau lẹ ngay tức thì như người ta đã hy vọng, các vị kỹ sư của chúng tôi cau mày lại khi họ được các tờ báo cho biết rằng những diện tích quá yếu đã được sử dụng để làm cho người ta chết; họ xét thấy rằng ở Los Ami¬gos, khi một kẻ bất khả hoàn lương được gi¬ao cho họ thì hắn ta sẽ được xử lý một cách lịch sự và được hưởng sự quy tụ của tất cả những máy phát điện cực lớn. Những ông kỹ sư nói rằng ta không nên bủn xỉn trong những trường hợp như thế, và một tên tử tội phải "lẫnh đủ", không ai dám liều lĩnh tiên đoán một cách chắc chắn hiệu quả đạt được, nhưng tất cả mọi người nghĩ tằng tất cả mọi người đều đống ý xác nhật là nó sẽ huỷ diệt và gây tử vong, một vài người nghĩ rằng kẻ tử - tội sẽ bị phân hủy, đúng theo nghĩa đen của từ ngữ, nhiều người khác thì nghĩ tới dự tan rã của y. Chỉ có kinh nghiệm mới có thể chấm dứt được cuộc tranh luận. Chính vào lúc đó thì Dun¬can Warn¬er bị bắt.
Từ nhiều năm nay Warn¬er đã luôn bị luật pháp truy tìm. Một đầu óc cuồng dại, một kẻ sát nhân thủ phạm của vô số kể những vụ hành hung trấn lột trên các tuyến xe lửa, hoặc trên các nẻo đường, y đã tự đạt cho mình ra ngoài tình thương của nhân loại. Y đã có mười hai lần đáng tội chết và những người Los Ami¬gos hứa hẹn với y một cái chết thật hào hoa. Có vẻ như y tự cho là mình không xứng đáng với chiếu cố của họ, nên đã hai lần y vượt ngục. Y người to lớn, khoẻ mạnh, đầy bắp thịt, y có một cái đầu của con sư tử, những bờm tóc đen rối bù, một bộ râu cằm hình rẽ quạt che kín nửa trên của thân mình. Khi y bị đem ra xét sử, không có người đàn ông nào đẹp hơn trong đám đông ngồi chật ních pháp đình. Đôi khi trên ghế các bị cáo người ta thấy người đẹp hơn. Tuy vậy, cái bộ mã đẹp đẽ này không làm sao bù lại được các hành động xấu xa của y. Vị luật sư của y đã cố gắng hết sức mình, nhưng Dun¬can Warn¬er vẫn bị phó thác cho những cái máy phát điện khổng lồ của Los Ami¬gos.
Khi vụ của y được đem ra thảo luận thì tôi có tham dự cuộc họp của ủy ban. Thực ra hội đồng thành phố đã chỉ định một ủy hội gồm bốn chuyên gia để quyết định vụ hành quyết. Ba vị trong bốn người này là những tay cừ khôi. Joseph M'Con¬nor đã sáng chế và lắp đặt các máy phát điện; Joshua West¬ma¬cott chủ trì vận mạng vủa công ty Điee¬jn lực tại Los Ami¬gos, tôi thì là y sĩ trưởng của thành phố. Người thứ tư là một ông già người Đức tên là Pe¬ter Stulp¬nagel. Ở Los Ami¬gos có rất nhiều người Đức; tất cả bọn họ đều bỏ phiếu cho người đồng bào của họ. Đó là lý do tại sao ông ấy được bầu vào ủy ban. Người ta nói rằng khi còn ở nước Đức, ông ấy đã là một tay thợ điên, những vật cách điện và những bình điện, nhưng vì đã chẳng có gì nảy sinh ra từ những công việc này, vì ông đã không đạt được một thành quả nào đáng được công bố với mọi người, người ta đã đi tới chỗ coi ông như một kẻ cuồng si vô hại đã biến khoa học thành sự đam mê của mình. Bọn ba người chúng tôi, những con người thực tế, chúng tôi mỉm cười khi được biết là ông ấy sẽ ngồi bên cạnh chúng tôi. Trong buổi họp của ủy ban, chúng tôi đã dàn xếp mọi việc với nhau không cần bận tâm tới ông già hiền hậu đang ngồi nghe, với một bàn tay để quanh tai làm cái loa, vì thính giác của ông ấy không được tốt lắm. Ông ấy đã không tham gia vào cuộc tranh luận cũng như các đại diện báo chí là người chỉ ghi chép những điêu cần thiết trên những cái ghế dài ở cuối phòng.
Chúng tôi đã tốn ít thời giờ để quyết định tất cả mọi việc. Ở New York, phải chăng một sự phóng điện hai ngàn volt đã diễn ra mà cái chết của tử tội lại không mau lẹ tức thì? Điện thế đã không đủ, đó là tất cả lý do! Los Ami¬gos sẽ không tái phạm lỗi lầm này. Dòng điện sẽ mạnh hơn sáu lần, như vậy nó sẽ có hiệu lực sáu lần nhiều hơn. Không có gì là hợp lý hơn nữa. Tất cả công suất tập trung của những máy phát điện khổng lồ sẽ được sử dụng trên người Dun¬can Warn¬er.
Tất cả bọn ba người chúng tôi đã đưa ra những quyết định đầy đủ và chúng tôi đang sắp kết thúc phiên họp thì người bạn thầm lặng của chúng tôi mới hé miệng lần đầu tiên.
- Thưa quí vị, ông nói với chúng tôi, tôi thấy các ông có vẻ dốt nát một cách đặt biệt về các hiệu ứng của điện lực, các ông không biết những nguyên lý đầu tiên của tác động của nó lên một con người.
Ủy ban đang sắp trả lời một cách thẳng thừng cho lời phê bình sống sượng đó, nhưng ông chủ tích công ty điện lực xoa một bàn tay lên trán để yêu cầu sự khoan dung như đối với một người mắc bệnh tâm thần.
- Thưa ông, ông có thể chỉ cho chúng tôi là ông đã thấy chỗ khiếm khuyết nào trong các kết luận của chúng tôi? Ông hỏi với một nụ cười mỉa mai.
- Sự giả định của các ông cho rằng một liều lượng mạnh sẽ làm tăng thêm hiệu ứng của một liều lượng nhỏ hơn. Các ông không tin rằng rất có thể nó sẽ gây ra một hiệu ứng hoàn toàn khác biệt à? Bằng những cuộc thí nghiệm thật sự, các ông có biết một điều gì về các hiện tượng của một sự chấn động thế không?
- Chúng tôi biết điều đó bằng cách loại suy, ông chủ tịch trả lời. Tất cả mọi thứ thuốc đều có một hiệu ứng gia tăng khi ta gia tăng liều lượng. Thí dụ...thí dụ....
- Rượu uýt ki! Joseph M'Con¬nor mách nhỏ.
- Đúng vậy! Rượu uýt ki. Bằng chứng là ở đó.
Pe¬ter Stulp¬nagel lắc đầu và mỉm cười.
- Lập luận của ông không vững, ông ta nói. Khi tôi uống uýt ki, tôi htấy một cốc làm tôi uể oải, nhưng sáu cốc làm cho tôi ngủ gục, điều này đúng là sự trái ngược. Nay hãy giả thiết rằng điện cũng tác động như vậy, với một hiệu năng theo tỷ lệ trái ngược với sức mạnh của nó thì ông sẽ làm gì?....
Bọn ba người chúng tôi những con người thực tế, chúng tôi phá lên, chúng tôi biết rằng ông bạn đồng chức của chúng tôi là người tài hoa, nhưng không bào giờ chúng tôi nghĩ rằng ông ấy lại đưa trí tưởng tượng tới chỗ đó.
- Và sao nữa, Pe¬ter Stulp¬nagel thúc giục.
- Chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm về những sự rủi ro, ông chủ tịch trả lời.
- Tôi xin các ông hãy suy nghĩ. Pe¬ter nói, là những người thợ chạm vào các dây điện và chỉ nhận được sự phóng điện của vài trăm vôn thôi mà cũng bị chết ngay tại chỗ. Sự kiện này ai cũng biết. Ấy vậy mà khi một lực lớn hơn đã được sử dụng với một tên tội phạm ở New York, tên đó còn giẫy giụa được một lúc lâu, các ông không thấy một cách rõ ràng là một liều lượng nhỏ hơn là thứ làm chết người nhiều hơn à?
- Thưa quí vị, tôi nghĩ rằng cuộc tranh luận này đã kéo dài một cách đầy đủ rồi, ông chủ tịch tuyên bố trong khi đứng lên. Tôi nghĩ rằng điểm này đã được giải quyể bởi đa số uỷ ban và Dun¬can Warn¬er sẽ bị hành hình trên ghế điện ngày thứ ba bằng sự phóng điện của tất cả luồng điện của những máy phát điện ở Los Ami¬gos. Có đúng vậy không?
- Tôi đồng ý, Joseph M'Con¬nor chấp thuận.
- Tôi cũng vậy, tôi nói.
- Còn tôi, tôi phản đối! Pe¬ter Stulp¬nagel nói lẩm bẩm.
- Vậy là nghị quyết đã được chuẩn nhận, nhưng sự phản kháng của ông sẽ được ghi vào biên bản, ông chủ tịch kết luận.
Và phiên họp bế mạc.
Những người tham dự cuộc hành quyết không đông lắm. Dĩ nhiên là có bốn ủy viên của ủy ban, cũng như tên đao phủ là người phải hành động theo lệnh của họ. Ngoài ra còn có viên tư lệnh Hiến binh của nước Mỹ, viên giám đốc lao thất, cha tuyên úy và ba nhà báo. Căn phòng, một gi¬an nhà nhỏ xây bằng gạch, vốn là một phòng phụ thuộc của trạm điện trung ương, nó đã được dùng làm nơi giặt giũ, ở một góc vẫn còn một cái nồi và củi vụn, nhưng không có đồ vạt nào khác, ngoại trừ một cái ghế lẻ loi và độc đáo dành cho người tử tội. Một tấm kim loại được đặt phía trước cái ghế để dành cho bàn chân của Warn¬er, tấm kim loại này được nối vào một sợi dây cáp lớn có vỏ bọc cách điện. Ở phía trên cái ghế, một sợi dây cáp khác thòng xuống từ trần nhà, sợi cáp này có thể được nối vào một thanh kim loại nhỏ nhô ra từ một thứ mũ nồi được chụp lên đầu hắn ta. Khi sự nối kết này được hoàn tất, lúc đó sẽ là giây phút tử vong của Dun¬can Warn¬er.
Chúng tôi im lặng đợi chờ người tù tới. Các kỹ sư có vẻ hơi tái mặt đi, và họ loay hoay mọt cách nôn nóng với những sợi dây cáp. Ngay cả viên tư lệnh hiến binh, mặc dù đã chai lỳ cũng thấy khó chịu, vì một sự treo cổ tầm thường là một chuyện, và sự hủy diệt thịt và máu lại là một chuyện khác. Về phần các nhà báo, họ đã trắng bẹch ra hơn là những tờ giấy của họ, người duy nhất tỏ ra không bị một chút ảnh hưởng nào của những sự chuẩn bị độc ác này là anh chàng người Đức nhỏ bé mắc bệnh di cuồng, ông ta đi tới chỗ người này rồi tới chỗ người nọ với một nụ cười trên môi và cặp mắt long lanh đầy vẻ tinh quái. Ông còn quên cả địa vị của mình đến nỗi phá lên cười hai, ba lần, việc này khiến cho ông bị vị tuyên uý nhắc nhỏ phải giữ trật tự.
- Làm thế nào mà ông có thể biểu lộ một sự khinh xuất không đúng chỗ như vậy, thưa ông Stulp¬nagel? Tôi ngạc nhiên hỏi. Ông cười trước mặt cái chết à!
Nhưng ông già người Đức không lộ ra một vẻ bối rối nào.
- Nếu tôi đứng trước cái chết, tôi sẽ không cười, ông ta nói. Nhưng vì tôi không đứng trước cái chết mà, tôi có quỳen tự do làm những gì tôi thích.
Câu trả lời xác xược này chắc chắn sẽ làm nảy sinh một câu khác, còn nghiêm khắc hơn về phía vị tuyên uý. Nhưng cái cửa đã mở ra và hai viên giám thị đẩy Dun¬can Warn¬er vào trong phòng. Y nhìn quanh mình y với một vẻ quả cảm, tiến lên với một bước chân vững vàng và người xuống cái ghế điện.
- Ra tay đi! Y nói.
Kéo dài sự chờ đợi của y thật là một điều man rợ. Vị tuyên uý nói thì thào một vài câu vào tai y, tên đao phủ chụp cái mũ nồi lên đầu y, tất cả bọn chúng tôi đều nín thở, sự nối kết đã được thiết lập giữa dây cáp và tấm kim loại.
- Chư vị thánh thần! Dun¬can Warn¬er kêu lớn.
Y chồm lên trên cái ghế khi sự phóng điện khủng khiếp nổ bung ra trong cơ thể y. Nhưng y không chết. Ngược lại hai mắt y long lanh một tia sáng linh hoạt hơn. Y chỉ trải qua một sự biến đổi thôi, mà sự biến đổi này thật là bất ngờ, màu đen đã mất dạng trên tóc y và râu y giống hệt như một bóng đêm đã rời khỏi một cảnh quan. Tóc và râu y bây giờ đã trắng như tuyết. Ngoài việc đó ra, y không mang một dấu vết nào của sự phân hủy. Y có làn da tươi mát, mịn màng, bóng loáng của một đứa trẻ con.
Viên tư lệnh hiến binh ném sang cho ủy ban một cái nhìn đầy vẻ trách móc.
- Tôi có cảm tưởng rằng đã có một điều gì sai trái đó thưa quí vị! Ông ta nói.
Bọn ba người chúng tôi, những người có đầu óc thực tế lẳng lặng nhìn nhau.
Pe¬ter Stulp¬nagel cười mỉm với vẻ trầm ngâm.
- Tôi nghĩ rằng một lần phóng điện khác sẽ làn xong chuyện, tôi nói.
Luồng điện lại chạy qua. Dun¬can Warn¬er lại nhảy bật lên trên ghế và kêu lên; nhưng đúng là chỉ vì y vẫn cón ngồi trên cái ghế nên chúng tôi mới nhận ra y. Trong một phần nhỏ của giây đồng hồ, y đã mất hết cả rau và tóc trên đầu, và căn phòng trông giống như một cửa hiệu cắt tóc vào buổi tối thứ bảy. Y vẫn còn ngồi yên, hai mắt vẫn còn sáng ngời, làn da óng ánh của một sức khoẻ hoàn hảo, nhưng y có một cái sọ trọc lóc như một miếng phô ma Hòa Lan và một cái cằm không còn một sợi râu nào. Y bắt đầu vung vẩy một trong hai tay của y, vung một cách thong thả và với sự hoài nghi lúc bắt đầu, nhưng rồi mỗi lúc càng thêm tin tưởng.
- Hồi trước tôi bị nhức nhối ở cái tay này, y nói. Mấy ông thầy thuốc vùng Thái Bidnh Dương chữa trị uổng công. Vậy mà lúc này hình như nó được tân trang lại, và nó cũng mềm mại như một nhánh mai châu vậy.
- Anh cảm thấy khoẻ mạnh chứ? Ông già người Đức hỏi.
- Trong suốt cả đời tôi, chưa bao giờ tôi cảm thấy khoẻ khoắn như thế này. Dun¬can Warn¬er đáp lại một cách hớn hở.
Tình thế thật là bực bội. Viên tư lệnh hiến binh nhìn thẳng đôi mắt nảy lửa về mạn ủy ban, Pe¬ter Stulp¬nagel nhe răng ra cười và xoa hai bàn tay vào với nhau. Các ông kỹ sư thì gãi đầu. Gã tù nhân bị mất từng mảng da đầu đang vung vẫy cái tay của y và có vẻ khoan khoái.
- Tôi nghĩ rằng một sự phóng điện nữa.... ông chủ tịch đánh liều nói.
- Không, thưa ông! Viên tư lệnh hiến binh chặn lại. Chỉ trong một buổi sáng mà chúng ta đã có khà nhiều sự ngu xuẩn rôi. Chúng ta tới đây để làm một vụ hành quyết, sự hành quyết sẽ diễn ra!
- Ông có ý kiến ra sao?
- Trên trần nhà có một cái khoen có thể dùng được việc. Hãy đi tìm một sợi dây thừng, và công việc sẽ được giải quyết.
Trong lúc mấy anh giám thị đi kiếm dây thừng thì một khoảng thời gi¬an trôi qua trong sự khó chịu mỗi lúc một gia tăng. Pe¬ter Stulp¬nagel nghiêng đầu lại phía Dun¬can Warn¬er và nói một vài tiếng gì vào tai y. Kẻ tử tội nhìn ông ta một cách ngơ ngác, sửng sốt.
- Không thật vậy chứ? Y hỏi.
Ông già người Đức gật đầu khẳng định
- ....Thế nào! Không có cách nào à?....
Pe¬ter lắc đầu, lần này thì một cách phủ định, và hai người cười phá lên như thể họ vừa trao đổi một câu chuyện vui thú vị. Các anh giám thị mang dây thứng tới, và vị tư lệnh hiến binh tự tay mình chòng cái dây thòng lọng vào cổ tên tội phạm. Rồi hai viên giám thị, tên đao phủ và chính cả ông nâng bổng nạn nhân của họ lên trên không, tại đó y đu đưa lơ lửng. Trong một nửa giờ đồng hồ y bị treo thõng trên trần nhà. Đó là một cảnh tượng khủng khiếp. Rồi thì trong một sự im lặng trang nghiêm, họ hạ sợi dây thừng xuống, một viên giám thị đi ra ngoài để kiểm một cái quan tài. Nhưng khi vừa chạm chân xuống tới mặt đất, Dun¬can Warn¬er đã đưa hai bàn tay lên cổ y, tháo lỏng sợi dây thòng lọng và hít một hơi không khí thật dài và thật sâu.
- Việc buôn bán của Paul Jef¬fer¬son trôi chảy lắm! Y nói. Từ trên cao tôi trông thấy đám đông chen chúc trong cửa tiệm của ông ta.
Y chỉ vào cái móc ở trên trần nhà.
- Treo lên một lần nữa đi! Viên tư lệnh hiến binh gầm lên. Chúng ta sẽ kết thúc một cách tốt đẹp bằng sự tước bỏ mạng sống của y!
Họ lại treo cổ y lên lần nữa.
Họ để cho y hai chân lủng lẳng trong khoảng không trong một giờ đống hồ. Khi họ lại hạ y xuống, tính ba hoa của y vẫn không cạn kiệt chút nào.
- Ông già Plun¬ket thường tới quán rượu Ar¬cady quá nhiều lần! Y xác nhận. Trong một giờ đồng hồ tôi đã trông thấy ông ta vào đó ba lần. Phải nói rằng ông ta có một gia đình! Ông Plun¬ket nên chừa rượu đi thì phải.
Việc này thật là quái gở, không thể tin được, nhưng đúng thật là thế.
Không có gì để cãi cọ nữa, tên tử tội cứ nói lung tung trong khi lẽ ra y đã phải chết rồi, nhưng vị tư lệnh hiến binh Car¬pen¬tier không phải là người tự để cho mình bị lừa phỉnh một cách dễ dàng như thế. Ông kéo chúng tôi vào một góc, người tù đứng một mình ở giữa gi¬an phòng.
- Dun¬can Warn¬er, ông từ tốn nói với y, anh có mặt ở nơi đây để đóng vai trò của anh. Và tôi có mặt ở đây để đóng vai trò của tôi. Vai trò của anh là cố sức sống càng lâu càng tốt, vai trò của tôi là cố gắng làm cho luật pháp được chấp hành. Anh đã đánh bại chúng tôi về điện năng, tôi ghi cho anh một điểm. Anh đã đánh bại chúng tôi về sợi dây thừng, mà tôi thấy hình như không thành công lắm đối với anh. Nhưng bây giờ đến lượt tôi đánh bại anh, vì tôi phải hoàn thành nhiệm vụ của tôi.
Ông lấy từ trong áo ra một khẩu súng ru-lô có sáu viên đạn, và nhả tất cả những viên đạn vào thân thể của người tù. Căn phòng đầy đặc những khói đến nỗi chúng tôi không còn có thể trông thấy gì nữa. Khi khói đã tan đi, người tù không nhúc nhíc trong chỗ đứng, cũng như trong thái độ y chỉ ngắm nhìn với sự chán ngán mặt trước cái áo của y.
- Ở đây thì những quần áo không được tính giá đắt y nói. Cái áo này đã làm tôi tosn mất ba mươi đô-la, và xin ông hãy nhìn những gì ông đã làm cho nó! Sáu lỗ thủng ở phía trước thế cũng là khá tệ rồi! Nhưng có bón viên đạn đã xuyên qua mình tôi, từ bên này tới bên nọ, cái lưng chắc cũng không còn lành lặn.
Viên tư lệnh hiến binh buông khẩu súng ra để nó rơi xuống đất, và ông để thõng tay xuống, đó là một kẻ chiến bại.
- Có lẽ một người nào trong bọn các ông, thưa quý ông sẽ có thể nói cho tôi biết việc này có nghĩa làm sao? Ông hỏi ủy ban với sự tuyệt vọng.
Pe¬ter Stulp¬nagel bước lên một bước về phía trước.
- Tôi sẽ giải thích tất cả với các ông.
- Tôi thấy hình như ông là người duy nhất ở đây biết một điều gì.
- Tôi là người duy nhất ở đây biết được tất cả mọi việc, tôi đã cố cảnh báo các quý vị này. Nhưng các ông ấy đã không muốn nghe lời tôi, thế là tôi đành trông đợi vào những gì mà họ học được bằng kinh nghiệm. Các ông có biết những gì mà các ông đã làm với sức điện lớn lao của cácông không? Một cách đơn giản, các ông đã làm gia tăng sức sống của tên tử tội; hiện nay y có đủ khả năng thách thức cái chết trong nhiều thế kỷ.
- Nhiều thế kỷ!
- Phải. Phải mất nhiều trăm năm để làm cạn kiệt cái năng lượng vô biên về thần kinh mà các ông đã chích vào người y. Điện năng là sự sống, các ông đã cung cấp điện năng tới mức tối đa cho y. Có lẽ là trong vòng năm mươi năm các ông sẽ có thể hành quyết y, nhưng tôi không dám đóan chắc điều đó.
- Trời ơi! Nhưng tôi sẽ làm gì với y? Viên tư lệnh bất hạnh của sở hiến binh kêu lên.
Pe¬ter Stulp¬nagel nhún vai.
- Và nếu chúng ra rút hết điện năng của y ra bằng cách treo ngược y lên bằng hai bàn chân không có được không? Ồn chủ tịch đánh liều hỏi.
- Không, việc đó sẽ vô dụng thôi.
- Dù sao thì y cũng sẽ không làm điều sai quấy ở Los Ami¬gos nữa, viên tư lệnh hiến binh nói tiếp với một sự quyết định. Y sẽ vào lao thất mới. Cái lao thất này sẽ tồn tại lâu hơn y.
- Trái lại, Pe¬ter Stulp¬nagel trả lời. Tôi tin rằng y sẽ tồn tại lâu hơn là cái lao thất.
- Đó là một sự thất bại lớn, và trong nhiều năm trời, đã không bao giờ chúng tôi nói về vụ đó trong bọn chúng tôi. Những ngày này thì sự bí mật đã phơi bày, và tôi nghĩ rằng ông sẽ thích đặt câu chuyện vào bộ sưu tập các án lệ của ông.
08. Câu chuyện về Sannox phu nhân
Sự liên lạc giữa Dou¬glas Stone và vị phu nhân trứ danh San¬nox đã được nhiều người biết tại các phòng khách thính sang trọng mà nàng là một ngôi sao sáng chói cũng như tại các trường đại học khoa học, nơi mà chàng được kể vào hàng những hội viên lỗi lạc nhất. Do đó người ta nhận thức được lòng thương cảm được khuấy động lên một buổi sáng nọ bởi cái tin là bà phu nhân đã vào nhà tu kín, một cách cương quyết và vĩnh viễn và rằng không bao giờ mọi người sê được gặp lại bà nữa. Khi để làm đậm đà thêm tin này, lại có tin đồn được loan truyền rằng nhà phẫu thuật đại tài, người có những giây thần kinh bằng thép, cũng buổi sáng hôm đó được anh em bồi phòng nhìn thấy đang ngồi ở thành giường miệng mỉm cười vu vơ một cách duyên dáng, hai bàn chân cùng xỏ vào một ống quần với bộ óc mềm nhũn như cháo lòng, thì sự việc tỏ ra khá khích động để làm say mê những người không bao giờ tin rằng cảm tính đã bị chai lì của họ còn có thể xúc động được nữa.
Dou¬glas Stone, giữa thuở hoa niên, đã là một trong những người lỗi lạc nhất ở Anh quốc. Nhưng có thật đúng là chàng đã ở độ hoa niên khi nỗi phiền muộn nhỏ nhặt này xảy ra với chàng? Chàng mới chỉ có ba mươi chín tuổi. Các bạn thân thiết nhất của chàng đoan chắc rằng trong hàng chục nghề có thể chàng cũng sẽ đạt được công danh lừng lẫy giống như trong cái nghề giải phẫu vậy. Chàng sẽ có thể chinh phục được vinh quang trên một chiến địa, đạt được vinh quang nhờ những cuộc thám hiểm liều lĩnh, đạt được vinh quang trên một sân quần vợt, hoặc tạo ra vinh quang trong tư cách một kỹ sư với đá và sắt. Chàng được sinh ra với một phần số ngoại hạng, vì chàng có thể trù định những điều mà không ai dám hoàn thành và hoàn thành những diều mà không một ai dám trù định. Về khoa giải phẫu, chàng không có đối thủ. Sự quân bình về thần kinh của chàng, trí phán đoán của chàng, trực giác của chàng đều là ngoại hạng. Đã rất nhiều lần, trong khi khu trừ cái chết, con dao mổ của chàng đã lướt qua ngay những cội nguồn của sự sống và những người phụ tá của chàng mặt mày cũng trở thành trắng bệch như con bệnh vậy. Ký ức về nghị lực của chàng, về sự táo bạo của chàng, về lòng tự tin mãnh liệt của chàng còn lởn vởn tại phía Nam đường Mary¬lanone và phía Bắc phố Ox¬ford.
Những khuyết điểm của chàng cũng quan trong như đức tính của chàng nhưng lại vô cùng thơ mộng hơn. Những lợi tức khá lớn của chàng (trong tất cả thành phố Lon¬don chỉ có hai đồng nghiệp kiếm nhiều tiền hơn chàng) đã vẫn rất thấp so với sự xa hoa trong nếp sống của chàng. Tại đáy sâu của bản chất phức tạp cua chàng, có sự lưu thông của một luồng nhục cảm mạnh mẽ mà sự tác động đã ban cho cuộc sống của chàng tất cả giá trị của nó. Các vị thầy học của luồng nhục cảm này tên là mắt, tai, bàn tay, khẩu vị. Số vàng ồ ạt đổ vào nhà chàng đã biến thành một mùi rượu vang lâu năm, thành các chai dầu thơm ngoại quốc hiếm có, thành những chén đĩa mà sự tinh vi của nước men và kiểu dáng là thứ có một không hai ở Âu Châu. Và rồi chợt nảy sinh sự say mê điên rồ, đột ngột phu nhân San¬nox. Chỉ mới một lần tương kiến mà hai mắt đã cùng liếc, hai lòng cùng ưa, một tiếng thì thầm... thế là chàng đã như lửa cháy bùng. Nàng là người đàn bà kiều diễm nhất Lon¬don (theo ý chàng thì đó là người đàn bà duy nhất ở Lon¬don). Chàng là một trong những người đàn ông đẹp nhất Lon¬don (với nàng thì không có người dàn ông duy nhất nào ở Lon¬don). Vì nàng có một sở thích thu thập những kinh nghiệm mới lạ nên nàng đã tỏ ra dễ dãi dối với phần lớn những người đàn ông chạy theo tán tỉnh nàng. Phải chăng đó là nguyên nhân, hay là kết quả? Ngài San¬nox, người mới có ba mươi sáu tuổi mà nom như đã ngoài năm mươi tuổi.
Ngài San¬nox này là một người trầm lặng, ít nói, xuề xòa. Ông có cặp môi mỏng và những mí mắt nặng. Ông rất thích công việc vườn tược và ông thích ở nhà. Ngày xưa ông đã hoạt động kịch trường, ông đã thuê cả một phòng ở Lon¬don. Chính ở các sân khấu mà lần đầu tiên ông gặp cô Mar¬ion Dor¬son; ông đã dâng cho nàng tên tuổi ông, chức vụ ông và một phần ba lãnh địa của ông. Từ khi lấy vợ ông đã từ bỏ sở thích ngông cuồng này; ông còn cảm thấy chán ghét sở thích đó. Ngay cả trong các câu lạc bộ tư nhân ông cũng từ chối những tràng vỗ tay hoan nghênh một tài năng không thể chối cãi được. Ông thấy sung sướng đứng giữa những cây hoa lan và hoa cúc của ông, với chiếc cuốc dấy cỏ và chiếc bình tưới nước.
Một vấn đề rất quan trọng là mọi người tự hỏi liệu có phải ông hoàn toàn ngốc nghếch hay ông đã thiếu can đảm một cách đáng thương. Phải chăng ông đã biết lối ăn ở của vợ ông và ông đã tha thứ cho bà ấy? Hay ta coi ông là một anh chàng lẩm cẩm mù quáng? Người ta đã bàn tán nhiều về chuyện đó trong các thính phòng tin tức ở Lon¬don bên trên những chén trà và trên các khung cửa sổ các câu lạc bộ trong khi hút xì gà. Các ông thì nói về ông ta với một vẻ nghiêm khắc chua chát. Trong bọn họ chỉ có một người là không họa theo và ông ta đứng câm như hến: ông ta đã nhìn thấy ông khuất phục một con ngựa tại trường Đại học và về việc đó ông ta đã giữ một kỷ niệm lâu bền.
Khi Dou¬glas Stone trở thành người sủng ái, người ta không được phép nghi ngờ nữa: Stone không biết tới những trí trá của tính đạo đức giả; những cung cách độc đoán và ngạo mạn của chàng đã bất chấp mọi sự dè dặt, coi thường sự thận trọng. Vụ tai tiếng tự hiện ra. Một hiệp hội văn hóa báo cho người tình nhân đang thỏa mãn đó rằng tên chàng đã bị xóa trong danh sách những vị phó chủ tịch. Lấy danh nghĩa vì danh giá trong nghề nghiệp của chàng, hai người bạn đã uổng công nài nỉ chàng. Chàng đuổi những nhà luân lý ra cửa và chàng đi mua một chiếc vòng tay giá năm mươi đồng ghi-nê để tặng vị hoàng hậu của lòng chàng. Tối nào chàng cũng đến nhà nàng. Mỗi buổi chiều chàng cho nàng mượn xe của chàng. Cả chàng và nàng không ai tỏ ra một mảy may cố gắng để che dấu mối gi¬ao du của họ, nhưng một sự cố tầm thường đã làm gián đoạn các liên lạc này.
Vào một buổi tối mùa đông ảm đạm, gió thổi từng cơn: gió gầm gào trong các ống khói, gió đập vào các cánh cửa sổ. Mưa rơi rào rào trong các máng xối. Dou¬glas đã ăn xong bữa tối. Chàng ngồi trong phòng làm việc bên lò sưởi, trên một cái bàn bằng đá khổng tước một ly rượu por¬to hảo hạng đặt dưới tầm tay của chàng; chàng nâng ly rượu lên trước ánh sáng của ngọn đèn và thưởng thức với tư cách một người sành sỏi những váng li ti bập bềnh trong ly rượu vang đỏ ối của chàng. Trong ánh sáng rực rỡ, ngọn lửa đã chiếu sáng khuôn mặt được cạo nhẵn nhụi, táo bạo của chàng. Chàng mỉm cười. Thật ra chàng đã đoạt được cái quyền hài lòng với mình: cưỡng lại ý kiến của 6 bạn đồng nghiệp, chàng vừa mới thành công trong một cuộc giải phẫu mà cuộc giải phẫu này chỉ mới có hai tiền lệ trên thế giới và kết quả đã vượt quá những kỳ vọng. Không một ai ở Lon¬don có sự táo bạo để trù định và sự khéo léo để hoàn thành một thành tích oai hùng như vậy.
Nhưng chàng đã hứa với phu nhân San¬nox là tới thăm bà và đã tám giờ rưỡi rồi. Lúc chàng đang vươn tay về phía cái chuông để gọi xe thì chàng nghe thấy tiếng trầm đục của thanh sắt chặn ngang ở cửa ra vào. Một lát sau có tiếng chân kéo lê ở phòng ngoài, một cách cửa được đóng lại.
- Có một bệnh nhân của ngài trong phòng mạch! - Viên quản gia loan báo.
- Ông ta tới khám bệnh cho chính ông ta à?
- Thưa ngài không. Tôi nghĩ rằng ông ta muốn mời ngài đi vào thành phố.
- Muộn quá rồi! - Dou¬glas Stone kêu lên một cách bực bội. - Tôi không đi.
- Đây là danh thiếp của ông ta, thưa ngài.
Viên quản gia đưa trình tấm danh thiếp đặt trên cái khay bằng vàng mà bà vợ ông Thủ tướng đã biếu ông thầy giáo của bà.
- Hamin Ali Smock... Hừ! Đây là một người Thổ Nhĩ Kỳ, tôi đoán vậy.
- Thưa ngài vâng. Nom ông ta có vẻ từ xa tới. Ông ta có vẻ lo lắng lắm.
- Tặc, tặc! Tôi có cái hẹn. Tôi phải đi. Nhưng trước khi tôi đi tôi sẽ gặp ông ta. Pim, hãy đưa ông ta vào đây.
Thế là viên quản gia đi ra kiếm một người đàn ông nhỏ thó và già yếu. Người này đi vào chỗ Dou¬glas Stone với cái đầu cúi về phía trước và hai mắt nhấp nháy như kiểu những người cận thị thường đi. Ông ta đội cái khăn mút-sơ-lin trắng có sọc đỏ; tay kia là một cái túi nhỏ bằng da linh.
- Chào ông! - Dou¬glas Stone lên tiếng, khi viên quản gia đã thép cửa lại. - Ông nói tiếng Anh được chứ, tôi nghĩ thế.
- Thưa ông vâng. Tôi quê ở Trung Đông, nhưng tôi nói tiếng Anh một cách thong thả được.
- Có phải ông muốn mời tôi đi vào thành phố không?
- Thưa ông vâng. Tôi rất mong ông tới xem cho bà vợ tôi.
- Tôi sẽ có thể thăm bà ấy vào sáng mai. Tối nay tôi có một cuộc hẹn.
Câu trả lời của người Thổ Nhĩ Kỳ thật là bất ngờ. Ông ta kéo sợi giây thắt miệng túi da linh và ông ta đổ ra trên bàn một đống vàng.
- Đây là một trăm bảng Anh, - ông ta giải thích. - Tôi xin đoan chắc với ông rằng công việc sẽ không làm ông mất quá một tiếng đồng hồ. Ở ngoài của tôi đã có sẵn một chiếc xe đang đợi chúng ta.
Dou¬glas Stone nhìn đồng hồ của chàng. Nếu chàng nhận lời, chàng cũng sẽ tới nhà phu nhân San¬nox không quá trễ (chàng đã từng tới thăm bà ta vào một giờ còn bất tiện hơn nữa). Và số tiền thù lao này thật đã cao một cách đặc biệt; mới đây các chủ nợ đã quấy rầy chàng đôi chút. Chàng có nên bỏ qua một dịp may như thế không? Chàng không có quyền bỏ qua một dịp may như vậy.
- Bệnh gì vậy?
- Ôi, một chuyện rất buồn! Đây là một chuyện rất buồn! Có lẽ ông không nghe nói tới những con dao găm của người An¬mhate?
- Chưa bao giờ.
- Ôi, đó là những con dao găm của người Đông Phương rất cổ xưa và có một hình thù đặc biệt. Cái chuôi của nó giống như cái mà các ông gọi là cái bàn đạp. Tôi là một người buôn những đồ trang trí vặt, ông hiểu chứ? Và vì công việc nên tôi tới nước Anh, nhưng tuần sau tôi trở về Smoch. Tôi có mang theo nhiều món hàng kỳ lạ và nay thì không còn món nào cả; nhưng khốn khổ thay tôi lại giữ lại một trong những con dao găm đó.
- Xin ông nhớ cho rằng tôi đang có một cái hẹn. - Nhà giải phẫu cắt ngang, không giấu giếm thái độ nóng vội. - Xin ông làm ơn giới hạn cho các chi tiết cần thiết.
- Những điều tôi nói với ông đều là thiết yếu cả: ông sẽ phán đoán các điều đó. Hôm nay vợ tôi bị xỉu đi trong phòng nơi mà tôi để các món hàng của tôi và khi té xuống bà ấy bị con dao găm đáng nguyền rủa này của người An¬mo¬hate cứa đứt môi dưới.
- Tôi hiểu rồi, - Dou¬glas Stone vừa nói vừa đứng dậy. - Ý ông muốn tôi khâu lại vết thương chứ gì.
- Ồ, không phải! Còn tệ hơn thế nữa.
- Vậy là cái gì?
- Những con dao găm này có tẩm thuốc độc.
- Tẩm thuốc độc ư?
- Vâng. Và không có người nào trên đời này, dù ở Đông phương hay ở Tây phương, có thể xác định tính chất của thuốc độc, cũng không thể chỉ ra một thứ thuốc chống độc. Nhưng tôi biết các hậu quả của thuốc độc đó, vì cha tôi đã làm nghề buôn bán trước tôi và những khí giới có tẩm thuốc độc này đã làm cho chúng tôi rất khổ sở.
- Những triệu chứng của chúng ra sao?
- Một giấc ngủ say, rồi sau ba mươi tiếng đồng hồ là chết.
- Và ông nói rằng không có phương thuốc chữa. Vậy thì tại sao ông lại trả tôi số tiền thù lao lớn như vậy?
- Những gì là một thứ thuốc chống độc không thể làm được thì lưỡi dao mổ sẽ có thể làm được.
- Làm cách nào?
- Thuốc độc chỉ thấm vào cơ thể một cách thong thả. Trong nhiều giờ đồng hồ nó còn đọng lại nơi vết thương.
- Và bằng cách rửa chỗ vết thương...
- Cách đó không công hiệu. Thuốc độc này rất tinh vi và rất tàn bạo.
- Có lẽ nên cắt bỏ chỗ đau đi chăng?
- Đúng đó phải cắt bỏ. Nếu vết thương ở ngón tay, phải cắt ngón tay. Đó vẫn là điều cha tôi đã nói. Nhưng xin ông nghĩ tới chỗ bị vết thương, xin ông nghĩ tới đó là vợ tôi... Thật là khủng khiếp!
Tình cảm vốn rất dễ chai lì đi ở một người đã quen thuộc với nhiều trường hợp đau đớn. Dou¬glas Stone thấy rằng sự việc không phải là chuyện thường. Chàng đã gạt qua những lời phản đối yếu ớt của người chồng, coi như chúng không phải lúc đưa ra.
- Hình như sự thật là phải làm điều đó hoặc thôi chẳng làm gì cả! - Chàng nói một cách cộc lốc. - Thà chịu mất môi còn hơn là mất đời sống.
- Vâng ông nói đúng! Rút lại, đó là định mệnh: ta phải đương đầu với định mệnh. Tôi có một cỗ xe. Xin ông tới với tôi và xin ông giải phẫu cho.
Dou¬glas Stone lấy từ một ngăn kéo ra một hộp dao mổ và chàng xếp nó vào với một cuốn băng để buộc vết thương và một miếng vải ép, bỏ vào túi của chàng. Nếu chàng muốn tới nhà Phu nhân San¬nox cho đúng giờ chàng không còn một phút nào để mất đi nữa.
- Tôi đã sẵn sàng, - chàng vừa nói vừa mặc áo khoác ngoài vào. - Ông có vui lòng uống một ly por¬to trước khi ra ngoài không khí giá lạnh này chăng?
Người khách lùi lại một bước và giơ một bàn tay lên để phản đối.
- Ông quên rằng tôi là người Hồi giáo và là môn đồ trung thành của đấng tiên tri à! - ông ta trả lời. - Nhưng xin ông nói cho tôi biết cái chai xanh mà ông bỏ vào trong túi của ông là chai gì vậy?
- Thuốc mê Chlo¬ro¬forme đó.
- A, cả thứ đó cũng bị cấm đối với chúng tôi. Chlo¬ro¬forme chứa chất rượu. Không bao giờ chúng tôi uống rượu.
- Thế nào? Ông sẽ chấp nhận việc vợ ông chịu một cuộc giải phẫu mà không được gây mê à?
- Hỡi ôi! Nàng sẽ không còn cảm giác gì cả, cái linh hồn thân yêu khốn hhổ ấy. Giấc ngủ đã đè nặng lên nàng, thuốc độc bắt đầu tác động. Và rồi tôi đã cho nàng một chút thuốc phiện Smock của chúng tôi. Thưa ông, xin ông tới cho, một giờ đã trôi qua kể từ lúc nàng gặp tai nạn.
Khi họ lặng lẽ đi vào bóng tối ngoài phố, những hạt mưa quất vào mặt họ. Tại phòng bên ngoài đèn đã tắt ngủm, dù rằng nó đã được treo trên cánh tay của một cột trụ hình người bằng cẩm thạch. Pim, viên quản gia phải tựa cả hai vai vào để đóng cánh cửa nặng nề lại. Gió càng thổi mạnh dữ dội. Hai người lần mò bước tới chỗ ánh sáng vàng yếu ớt chỉ cho họ thấy chiếc xe. Sau đó chưa đầy một phút, họ ngồi xe đi tới nơi phải đến.
- Có xa không? - Dou¬glas Stone hỏi.
- Ồ, không xa! Chúng tôi ở một chỗ nhỏ bé rất yên tĩnh sau đường Eu¬ston.
Nhà giải phẫu ấn vào rét-so của cái đồng hồ có chuông báo hiệu và chàng lắng nghe những tiếng kêu nhỏ dùng để cho chàng biết giờ. Chín giờ mười lăm phút. Chàng tính các khoảng đường, thì giờ mà chàng sẽ phải có cho sự mổ xẻ của chàng. Có thể là chàng sẽ tới nhà San¬nox phu nhân lúc mười giờ. Qua những tấm kính phủ đầy hơi nước chàng nhìn thấy những trụ đèn rối rắm nhảy múa trên đường đi của chàng và đâu đó là ánh sáng mạnh hơn của một mặt trước cửa hàng hay một cửa kính. Mưa rơi thình thình trên mui xe, các bánh xe làm tung tóe bùn và đất sét. Trước mặt chàng chiếc khăn trắng của người bạn đường lấp lánh một cách yếu ớt trong bóng tối. Nhà giải phẫu lục soát trong các túi áo của chàng và chuẩn bị kim khâu, móc gài, kẹp. Chàng bắt đầu cáu kỉnh. Trên sàn xe hai chân chàng đập thình thịch một cách mất kiên nhẫn.
Chiếc xe đi chậm lại và dừng hẳn. Dou¬glas Stone bước xuống ngay tức thì, ông nhà buôn người Smock theo chân chàng.
- Đợi tôi nhé!
Ông ra lệnh cho người đánh xe. Họ đứng trước một căn nhà xập xệ trong một phố bẩn thỉu. Nhà giải phẫu biết rõ thành phố Lon¬don của chàng trên đầu ngón tay. Chàng cố nhìn xuyên qua bóng tối, nhưng không nhìn thấy vật gì cho phép phỏng nhận ra phương hướng; không có cửa tiệm, không có người di dạo, không có gì khác ngoài hai dãy nhà buồn thảm, ngoài hai hàng lối đi lát đá ướt sũng và bóng nhoáng, ngoài hai tia nước từ các máng xối nhỏ giọt xuống các tấm lưới của những lỗ cống. Cái cửa mà họ ngừng lại phía trước có một màu không thể đặt tên được Một ánh sáng còm cõi lọt qua khung cửa sổ nhỏ đặt trên cánh cửa lớn soi sáng phần lớn là bụi rậm và sự bẩn thỉu che phủ cái cửa sổ nhỏ đó. Ở trên cao, phía sau những cửa sổ của phòng ngủ, có ánh sáng của một ngọn đèn vàng. Người lái buôn đập cửa một cách mạnh mẽ. Khi ông ta quay mặt về mạn ánh sáng, Dou¬glas Stone nhận thấy ông ta có những nét căng thảng vì lo âu. Người ta kéo một cái chốt cửa; một người đàn bà có tuổi tay cầm một cây nến hiện ra trong khung cửa; bà ta che ngọn lửa bằng những ngón tay sù sì.
- Mọi việc đều yên lành cả chứ? -Người lái buôn hổn hển nói.
- Bà vẫn ở trong tình trạng như lúc ông để bà nằm đó, thưa ông.
- Bà không nói gì à?
- Không, bà ngủ rất say.
Người lái buôn đóng cánh cửa ra vào; Dou¬glas Stone tiến bước vào trong hành lang chật hẹp và không ít ngạc nhiên về những gì chàng quan sát chung quanh. Trên mặt đất không có vải sơn, cũng không có thảm đay. Không có mắc áo trên tường. Ngược lại mạng nhện hàng tràng nặng trĩu và từng lớp bụi bám đầy ở khắp mọi nơi mà chàng nhìn tới. Khi leo lên một cầu thang hình xoáy tròn, bà lão già đi trước Dou¬glas Stone bước theo bà ta, với người lái buôn già theo bén gót chàng. Tiếng bước chân của họ vang lên một cách ảm đạm trên những bực thang không có lấy một mảnh thảm che phủ. Phòng ngủ ở tầng lầu hai, ít nhất ở đó cũng có đồ vật. Sàn gác bừa bãi những rương nhỏ Thổ Nhĩ Kỳ, những chiếc bàn khảm, những áo lưới sắt, những cái ống kỳ dị và những khí giới quái dị. Những đồ vật kỳ quái này nằm chất đống trong các góc nhà. Trên một cái bàn chân quỳ có một ngọn đèn đang cháy. Dou¬glas Stone chộp lấy nó, tìm một lối đi tới cái giường kê ở một góc và trên giường đó một người đàn bà y phục kiểu Thổ Nhĩ Kỳ đang nằm, với khăn che mặt và tấm mạng mỏng. Phần dưới của bộ mặt đó được để hở, nhà giải phẫu nhìn thấy một vết cắt chặt ngoằn ngoèo dọc theo nếp của môi dưới.
- Xin ông vui lòng thứ lỗi cho chiếc khăn che mặt, - người Thổ Nhĩ Kỳ nói. - Ông đã biết các quy luật của chúng tôi về các phụ nữ.
Nhưng nhà giải phẫu không nghĩ tới khăn che mặt. Trước mặt chàng không có người phụ nữ mà là một vụ giải phẫu. Chàng cúi xuống để xem xét cẩn thận vết thương.
- Không có một dấu hiệu nào về sự sưng phù cả, - chàng lẩm bẩm. - Ta có thể hoãn sự mổ cắt cho tới khi các triệu chứng xuất hiện rõ ràng.
Người chồng vặn vẹo hai bàn tay trong một tình trạng dao động điên cuồng.
- Ồ không, thưa ông! Xin ông đùng nói đùa. Ông biết đấy. Đây là một trường hợp chết người. Tôi thì tôi biết! Và tôi đoan chắc với ông rằng một cuộc giải phẫu là tuyệt đối cần thiết. Chỉ có con dao mổ là có thể cứu được bà ấy.
- Tuy nhiên tôi vẫn muốn chờ đợi! - Dou¬glas Stone trả lời.
- Thế là đủ rồi! - Người Thổ Nhĩ Kỳ phản đối một cách giận dữ. - Tôi phải tính từng phút một. Và tôi không muốn ngồi đây và để cho vợ tôi chìm dần vào cái chết. Thưa ông, tôi muốn cám ơn ông đã tới đây; tôi sẽ đi tìm một nhà giải phẫu khác trước khi quá muộn.
Dou¬glas Stone ngần ngừ. Phải trả lại một trăm bảng Anh thật chẳng có gì là dễ chịu. Và nếu chàng từ chối việc cắt mổ thì bắt buộc chàng phải hoàn trả lại số tiền thù lao. Ngoài ra nếu người Thổ Nhĩ Kỳ nói đúng và nếu bà vợ ông ta chết thì chàng sẽ có thể bị truy tố trước một vị quan tòa và tên tuổi của chàng sẽ bị tai tiếng thế nào! Chàng hỏi:
- Ông đã có kinh niệm bản thân về thứ thuốc độc này chưa?
- Có.
- Và ông xác nhận với tôi rằng một cuộc giải phẫu là cần thiết phải không?
- Tôi xin thề về điều này với tất cả những gì thiêng liêng nhất.
- Mặt của bà vợ ông sẽ bị hủy hoại một cách tội nghiệp.
- Tôi nghĩ rằng miệng bà ấy sẽ không còn được ngon lành lắm để hôn...
Dou¬glas Stone giận dữ quay lại nhìn kẻ đối thoại với mình. Ý kiến này làm chàng bực bội. Nhưng chàng nghĩ rằng người Thổ Nhĩ Kỳ có những lối suy nghĩ và phát biểu riêng của họ. Và giờ này không phải là giờ để cãi nhau. Dou¬glas Stone lấy một con dao mổ từ trong cái hộp ra, chàng mở con dao ra và thử lưỡi dao vào ngón tay trỏ của chàng. Chàng nhấc cái đèn lại gần giường. Từ kẽ hở của khăn che mặt hai con mắt đen láy đang nhìn chàng chằm chằm. Chàng chỉ phân biệt được những lòng đen của cặp mắt và mãi mới nhận ra được con ngươi.
- Ông đã cho bà ấy uống một liều thuốc phiến rất mạnh.
- Vâng, bà ấy đã uống một liều mạnh!
Chàng ngắm nghía một lúe cặp mắt đen này đang nhìn thẳng vào mắt chàng. Chúng lờ đờ không có tia sáng; tuy nhiên cái nhìn của chàng làm nảy ra một tia sáng nhỏ chao đảo và cặp môi rung động. Chàng nói:
- Bà ấy không hoàn toàn mất hết tri giác.
- Làm việc cắt xẻo khi bà ấy không cảm biết gì cả chẳng tốt hơn à?
Nhà giải phẫu cũng có một ý nghĩa như vậy nên chàng dùng một cái kẹp chặt cái môi bị thương. Với hai nhát dao mổ thần tốc chàng cắt xẻo một miếng thịt lớn hình chữ V. Người đàn bà chồm lên thốt ra một tiếng thét rùng rợn. Bà giật miếng mải che mặt ra. Đó là một khuôn mặt chàng quen biết. Mặc dù làn môi trên bị vêu lên và đống bọt dãi lẫn máu đỏ ngầu ở dưới, đúng, đó là một bộ mặt mà chàng quen biết. Bà ta giữ nguyên bàn tay đặt lên chỗ đau và hét lên hoài. Dou¬glas Stone ngồi chỗ cuối giường với cái kẹp và con dao mổ của chàng. Căn phòng quay cuồng xung quanh chàng. Chàng cảm thấy phía sau tai một cái gì như tiếng quần áo bị xé rách. Một người dự khán chắc sẽ nói rằng giữa nàng và chàng thì chàng là người bị tái nhợt hơn. Như là trong một giấc mộng, hoặc như là đang dự một màn kịch, chàng chợt thấy mái tóc và bộ râu của người Thổ Nhĩ Kỳ đặt trên bàn và ngài San¬nox đứng tựa vào tường, tay ôm bụng và cười. Ông ta cười không thành tiếng. Những tiếng la hét yếu dần, rồi ngừng hẳn. Lúc này thì bộ mặt Dou¬glas Stone không nhúc nhích; ngài San¬nox còn cười sằng sặc trong cổ họng.
- Thật ra cuộc cắt xẻo nhỏ nhặt này rất cần thiết cho Mar¬ion (tên bà San¬nox); - cuối cùng ông ta nói. - Không phải về mặt thể xác, nhưng về mặt tinh thần, ông hiểu chứ? Về mặt tinh thần!...
Dou¬glas Stone cúi mình về phía trước và tay mân mê cái mép của tấm khăn trải giường. Con dao mổ tuột khỏi bàn tay chàng, nó rơi keng một tiếng lớn trên nền nhà.
- Đã từ lâu rồi tôi có ý định nêu một tấm gương nhỏ, - ngài San¬nox nói một cách ngọt ngào. - Mảnh giấy của ông hôm thứ tư đã đưa lầm người nhận và tôi đang giữ nó trong ví đây. Để thi hành ý định này tôi cũng phải đôi chút cực nhọc... Nói về vết thương: tôi đã gây ra vết thương đó với nhà nữ hiệp sĩ của tôi. Không có gì nguy hiểm cả, như ông đã thấy...
Ông ta ném một cái nhìn bén nhọn vào người bạn vẫn ngồi yên lặng của ông, rồi ông ta nạp đạn khẩu súng lục nhỏ mà ông có trong túi áo ngoài của ông. Nhưng Dou¬glas Stone đang nhai tấm khăn trải giường.
- Tóm lại ông đã trung thành với buổi hẹn! - Ngài San¬nox lẩm bẩm.
Chính câu nói này đã làm bật thành tiếng cười của Dou¬glas Stone. Chàng đi ra với một tiếng cười vang dội, không chấn dứt được. Ngài San¬nox thì không cười nữa. Một thứ kinh hoàng đã làm rắn rỏi và rõ rệt dáng điệu của ông. Ông rón rén đi ra khỏi phòng. Người đàn bà già đợi ở ngoài cửa.
- Hãy săn sóc bà chủ của bà khi bà ấy thức dậy! - Ngài San¬nox ra lệnh.
Rồi ông đi ra ngoài phố. Chiếc xe vẫn còn ở đó. Người đánh xe đưa một bàn tay lên ngang mũ của anh ta. Ngài San¬nox nói:
- John! Trước hết anh hãy đưa bác sĩ về nhà ông ấy. Ông ấy sẽ cần có người đỡ khi đi xuống cầu thang, tôi nghĩ vậy. Anh nói với viên quản gia của ông ấy rằng ông ấy bị khó chịu trong một cuộc giải phẫu.
- Thưa ngài, vâng.
- Rồi anh sẽ đưa phu nhân San¬nox về nhà.
- Còn ngài...
- À, trong một vài tháng địa chỉ của tôi sẽ là Khách sạn Di Ro¬ma ở Venise! Hãy bảo họ gửi thư từ theo tôi. Và nói với Steven là thứ hai sau phải tổ chức cuộc triển lãm các hoa cúc đỏ. Hắn sẽ đánh điện cho tôi rõ về kết quả cuộc triển lãm nhé.
09. Lô số 249
Về những hành động của Ed¬ward Belling¬ham chống lại William Monkhouse Lee, và về lý do của sự hoảng sợ lớn lao của Aber¬crom¬bie Smith, thật là khó mà đưa ra một sự phán đoán dứt khoát, chắc chắn là chúng ta đã có được sự tường thuật rõ ràng và đầy đủ của chính ông Smith, điều mà Thomas Styles, tên đầy tớ cha bề trên Plumptree Pe¬ter¬son hội viên của nghiệp đoàn trường Đại học, và nhiều nhân chứng khác của vụ này, vụ nọ đã làm cho vững chắc thêm. Tuy nhiên câu chuyện chỉ dựa trên một mình Smith thôi, và hình như nhiều người lại muốn nghĩ rằng một bộ óc mặc dù bề ngoài thì có vẻ lành mạnh cũng sẽ thấy bực bội về một sự phiền nhiễu nhỏ nhặt, hơn là chịu chấp nhận rằng tiến trình bình thường của tạo hóa có thể bị đảo lộn tại một trung tâm của khoa học và ánh sáng như Đại học Ox¬ford này. Nhưng khi ta ngẫm nghĩ về những khúc quanh co và về sự hẹp hòi của cái tiến trình bình thường ấy của tạo hóa, về nỗi khó khăn mà ta trải qua để truy tìm nó bất kể mọi sự soi sáng của khoa học, và về các khá năng lớn lao, khủng khiếp phát sinh một cách hỗn độn từ các khoảng tối tăm bao quanh nó, người ta phải rất dũng cảm, ngay cả rất liều lĩnh nữa, để đặt ra một giới hạn ở những con đường quanh co mà trí tuệ của nhân loại có thể đi qua.
Trong một chái nhà ở nơi mà chúng ta sẽ gọi là Vieux¬Col¬lege tại Ox¬ford, có một cái tháp rất cũ kỹ. Cái vòm nặng nề nằm trên cái cửa mở ngỏ đã oằn xuống ở quãng giữa dưới sức nặng của những tháng năm. Những tảng đá xám, bám đầy rêu được ghép lại với nhau bởi những cây trường xuân và những nhánh liễu giống như có một bà mẹ già đã thận trọng đưa chúng ra thử thách với gió, mưa. Phía sau cái cửa là một cầu thang bằng đá leo cuốn vòng tròn lên tới tầng thứ ba; những phiến đá lát của nó đã bị khoét trũng xuống và trở thành xấu xí dưới những bước chân của nhiều thế hệ những người đi tìm kiến thức. Cuộc sống đã lan tràn ra như nước chảy dọc theo cái cầu thang xoáy trôn ốc này, và cũng như nước, nó đã để lại những rãnh mòn nhẵn nhụi. Từ những cậu học sinh đóng bộ chỉnh tề với chiếc áo dài lệt bệt thời Plan¬ta¬genet cho tới những chàng sinh viên mặc đồng phục trong những năm vừa qua, một làn sóng mạnh mẽ của tuổi trẻ nước Anh đã chảy qua nơi đây. Và bây giờ còn lại những gì của tất cả những hy vọng dó, những cố gắng đó những nghị lực kinh khủng đó, nếu không phải là một vài dòng chữ trên tấm mộ bia hoặc một nắm bụi trong một quan tài nằm lây lất nơi nghĩa địa? Nhưng cái cầu thang thầm lặng và bức tường già nua xám xịt còn được trang hoàng bằng các huy hiệu thì vẫn tồn tại mãi;
Vào tháng 5 năm 1884, có ba chàng thanh niên chiếm ngụ ba căn hộ nằm trên ba đầu cầu thang. Mỗi căn chỉ có một phòng khách nhỏ và một phòng ngủ. Ở tầng trệt, những phòng nằm dưới ba căn hộ đó được sử dụng theo cách một phòng như là hầm đựng than củi, một phòng khác làm chỗ ở cho đầy tớ. Thomas Styles đã làm việc cho ba chàng sinh viên cư ngụ ở bên trên đầu y. Ở bên phải và bên trái là một dãy phòng lớp học và văn phòng, quá tốt để cho những người ở thuê cái tháp cũ kỹ tận dụng được một sự cô quạnh, rất quý giá cho những chàng trai chăm chỉ học hành. Mà ba người cư ngụ hồi đó là những người rất chăm chỉ học hành: Aber¬crom¬bie Smith ở tầng thứ ba, Ed¬ward Belling¬ham ở dưới, và William Monkhouse Lee ở tầng thứ nhất.
Đã mười giờ tối. Trời đêm sáng sủa Aber¬crom¬bie Smith ngồi lọt thỏm trong ghế bành, hai chân để lên khung che lò sưởi miệng ngậm ống píp. Trong cái ghế bành thứ hai, cũng được kê một cách không kém phần thoải mái, người bạn lâu năm Jephro Hastie của anh ngồi uể oải ở phía bên kia lò sưởi. Cả hai người đều mặc quần áo nỉ, vì họ đã chơi cả buổi tối trên sông; tuy nhiên chỉ cần nhìn bộ mặt tỉnh táo với những nét cứng cỏi của họ cũng đoán được rằng họ yêu thích không khí bao la với tất cả những gì là khang kiện và cường tráng. Hastie là trưởng nhóm bơi lội ở trường cao đẳng của anh; Smith là người chèo thuyền còn giỏi hơn, nhưng viễn ảnh đen tối của một kỳ thi sắp tới đã tạm thời cầm chân anh ở nhà, ngoại trừ mỗi tuần vài giờ do sự đòi hỏi của sức khỏe. Một đống sách y khoa trên bàn, những mẩu xương rải rác, những cái khuôn đúc, những bản khắc mô hình cơ thể cho thấy tính chất các môn học của anh. Phía trên lò sưởi một cặp gậy và những găng đánh bốc chỉ rõ bằng cách nào, với sự trợ giúp của Hastie, anh đã giữ được thân hình khỏe mạnh. Họ đã hiểu biết nhau rất nhiều: nhiều đến nỗi họ có thể ngồi yên một cách thanh thản không nói năng gì với nhau, đây là một mức độ cao trong tình bạn bè.
- Một chút whisky nhé! - Sau cùng, Aber¬crom¬bie Smith đưa đề nghị ra giữa hai làn khói thuốc lá - Rượu scoth thì ở trong bình, còn rượu Ir¬land thì ở trong chai.
- Không, cảm ơn. Tôi đang tập chèo thuyền. Tôi không uống rượu khi tập luyện. Còn anh?
- Tôi làm việc cực nhọc. Tôi nghĩ không nên gây ra những sự hỗn tạp.
Hastie gật đầu đồng ý. Họ lại chìm vào một sự yên lặng thoải mái.
Sau đó một lát, Hastie hỏi:
- Smith này, hãy nói đi, anh có quen với hai anh chàng ở phía dưới cầu thang của anh không?
- Khi chúng tôi gặp nhau thì chỉ gật đầu chào. Khô ng nói gì hơn cả.
- Hừ! Ở địa vị anh tôi sẽ ngừng lại ở đó! Tôi có biết đôi chút về cả hai người đó. Không biết nhiều lắm, nhưng cũng đủ đối với sở thích của tôi; tôi không nghĩ rằng nếu tôi ở đây tôi sẽ thân thiết ngay với họ. Không phải vì cái tính xấu ở anh chàng Monkhouse Lee.
- Anh chàng gầy còm hả?
- Phải. Một anh chàng bé nhỏ có vẻ khá lịch sự. Tôi không nghĩ rằng chính bản thân anh ta xấu. Chỉ cố một điều là anh không thể lui tới nhà anh ấy mà đồng thời không lui tới nhà Belling¬ham.
- Anh chàng to lớn hả?
- Phả. Anh chàng to lớn đó. Và hắn ta là loại người mà tôi không thích gi¬ao du.
Aber¬crom¬bie Smith nhướng cặp lông mày lên và ném một cái nhìn chăm chú vào người bạn.
- Tại sao vậy? - Anh hỏi - Hắn uống rượu à? Hắn chơi bài bạc à? Hắn có máu vô lại à? Thường khi anh không hay phán xét nghiêm khắc cơ mà!
- A, tôi thấy rõ là anh không biết hắn rồi. Nếu anh biết rõ hắn, thì anh đã không hỏi tôi tại sao. Ở hắn có đủ những gì gớm ghiếc; những gì đê tiện làm cho tôi ghê tởm. Tôi coi hắn như một kẻ có những tật xấu được che giấu, một kẻ trụy lạc. Tuy nhiên, hắn không ngu ngốc. Người ta nói rằng trong bộ môn của hắn thì hắn là một trong những phần tử tài giỏi nhất mà trường cao đẳng đã từng biết tới.
- Y khoa hay văn học cổ điển?
- Ngôn ngữ Đông phương. Hắn thật đáng sợ! Mới đây Chill¬ing Worth đã gặp hắn tại một nơi nào đó bên trên thác nước số hai; anh ấy kể lại với tôi rằng hắn đã nói chuyện con cà con kê với những người Ả Rập như thể hắn đã được sinh ra ở vùng đó. Hắn nói tiếng Coptes với người Coptes, tiếng Héfreux với người Héfreux, tiếng Ả Rập với người Bé¬douins, họ sẵn sàng cúi hôn vạt áo dài của hắn. Có một vài nhà ẩn sĩ ngồi trên các mỏm đá, họ thường có thói cười ngạo đời, gắt gỏng và nhổ nước bọt xuống đất khi nhìn thấy một người lạ mặt. Vậy mà khi Belling¬ham chưa nói với họ hết năm tiếng, họ đã nằm sấp xuống và xun xoe trước mặt hắn! Chill¬ing Worth xác nhận với tôi rằng, anh ấy chưa từng thấy một chuyện như vậy bao giờ. Belling¬ham có vẻ rất thoải mái; hắn có dáng điệu một người đang hành xử một quyền lực tự nhiên của mình; hắn ung dung đi lại ở giữa bọn họ và giảng huấn lý cho họ. Không có gì là tệ hại cho một sinh viên Ox¬ford phải không?
- Tại sao anh lại nói rằng người ta không thể tới thăm Lee mà không tới thăm Belling¬ham được?
- Bởi vì Belling¬ham đã đính hôn với em gái của Lee. Smith này, phải nói rằng Eve¬line là một thiếu nữ rất xinh đẹp Tôi biết rất rõ tất cả gia đình này. Thật là đáng chán khi nhìn thấy cô ấy đi với anh chàng thô lỗ ấy? Một con cóc và một con bồ câu, họ giống hệt như vậy đó.
Aber¬crom¬bie cười mỉm và gõ cái píp vào lò sưởi để đổ ra hết tro ở trong.
- Anh bạn già ơi, anh bày thêm chuyện rồi đó! - anh nói với người bạn. - Anh là một vị quan tòa mới thiên vị làm sao! Thực tình anh đâu có gì thù ghét thằng cha đó, ngoại trừ việc này.
- Anh muốn nói gì? Tôi biết cô ấy từ khi cô ấy chưa lớn bằng cái píp của anh, và tôi không muốn thấy cô ấy gặp những sự rủi ro, và cô ấy đang gặp rủi ro đó. Hắn có điệu bộ một con thú hoang dã. Và hắn có một tính tình man rợ, một tính cách độc địa. Anh có nhớ vụ cãi cọ của hắn với Long Nor¬ton không?
- Không. Anh luôn luôn quên rằng tôi là một người mới tới đây.
- Đúng vậy. Câu chuyện trở ngược lại mùa đông năm ngoái. Chắc chắn thế! Anh biết con đường để kéo thuyền ở gần sông không? Có nhiều cậu trai dạo chơi ở đó. Dẫn đầu là Belling¬ham. Họ gặp một bà già hiền lành bán hàng ở chợ. Trời thì mưa, và hẳn anh đã biết khi trời mưa thì những cánh đồng trông giống cái gì rồi. Con đường chạy ở giữa con sông và một cái ao lớn cũng rộng gần bằng con sông. Này, anh có biết cái thằng con lợn đó làm gì không? Hắn không cần bận tâm hắn cứ tiếp tục đi thẳng, và hắn đã đẩy bà già hiền lành xuống bùn làm bà ấy bị bẩn bê bết, cả hàng hóa của bà. Đó là cách cư xử của cầm thú! Tuy nhiên Long Nor¬ton là người hiền lành nhất trong đám đó, đã nói thẳng với hắn những điều anh ấy nghĩ. Lời qua tiếng lại một lát, và kết cục là Nor¬ton đã quật cho hắn một gậy rất đau vào giữa hai bả vai. Vụ này được loan truyền khắp nơi, và không có gì buồn cười hơn là nhìn cái đầu của Belling¬ham khi hắn gặp Nor¬ton. Trời ơi, anh Smith, sắp mười một giờ rồi...
- Không có gì phải vội vã! Hãy châm một píp nữa đi
- Không. Theo nguyên tắc thì tôi đang ở thời kỳ tập luyện. Vậy mà tôi còn ngồi đây nói lung tung thay vì đã nằm trên giường rồi Tôi muốn mượn cái sọ người của anh, nếu anh chưa dùng tới. Williams đã lấy cái của tôi từ một tháng nay. Và tôi cũng sẽ mang đi những mẩu xương con ở tai, nếu anh đoan chắc với tôi là anh không cần đến chúng. Cám ơn. Không, lại không có túi xách? Tôi sẽ dư sức cắt chúng trong cánh tay. Ngủ ngon nhé cậu trai của tôi? Và hãy theo lời khuyên của tôi về vấn đề gã hàng xóm của anh.
Khi Hastie đã có đủ chiến lợi phẩm về giải phẫu học, bước ra khỏi phòng, Aber¬crom¬bie Smith ném cái píp vào giỏ giấy vụn; kéo ghế bành lại gần ngọn đèn, rồi chúi đầu vào một quyển sách đồ sộ bìa xanh, có in những họa đồ lớn tô màu trưng ra cái vương quốc, xa lạ và thân cận mà chúng ta là những nhà vua bất hạnh. Anh đúng là một người mới ở Ox¬ford, anh không phải là người mới bước chân vào ngành y; trong bốn năm, anh đã làm việc ở Glas¬gow và ở Berlin, và kỳ thi sắp tới phải cho phép anh giật được mảnh bằng. Với đôi môi cương nghị, vầng trán cao, dáng điệu cẩn trọng, anh tự chứng tỏ là phải trở thành một người, dù không có các tài năng lỗi lạc, thì cũng có đầy đủ sự bền bỉ, sự kiên nhẫn và sức mạnh để có thể vượt trội người khác. Người nào đã biết chút ít về anh giữa những sinh viên Tô Cách Lan và sinh viên miền bắc Đức đều hiểu, tất cả bọn họ không phải là những kẻ coi thường được! Smith đã để lại ở Glas¬gow và ở Berlin một danh tiếng tuyệt hảo; anh biết rất rõ rằng anh cũng đáng được tiếng tăm như vậy ở Ox¬ford vì sự tận lực làm việc và tôn trọng kỷ luật.
Anh đã đọc từ khoảng một giờ đồng hồ, khi bỗng nhiên anh nghe thấy một tiếng kỳ quái; một tiếng động chói tai, chát chúa; một tiếng gì giống như tiếng hít vào rít lên của một người đang thở khi bị xúc động mạnh. Smith để sách xuống và lắng tai nghe. Vì không có một ai ở bên cạnh hay ở phía trên anh, chắc chắn là tiếng động đã tới từ người láng giềng phía dưới của anh, chàng sinh viên mà Hastie đã phác họa một hình ảnh chẳng tốt đẹp chút nào. Smith chỉ biết anh ta dưới bộ mặt một chàng trai xanh xao, yếu đuối có thói quen sống yên lặng và chăm chỉ làm việc, và ngọn đèn của anh ta thường chiếu ra một vạch vàng trên cái tháp cổ xưa ngay cả sau khỉ anh đã tắt ngọn đèn của anh. Sự cảm thông trong những đêm thức khuya kéo dài này đã tạo ra giữa họ một thứ liên hệ bí mật. Khi những giờ đã trôi qua gần tới rạng đông, Smith thích cảm thấy rằng ngay ở gần bên, một sinh viên khác cũng coi khinh giấc ngủ như anh. Và đúng vào lúc đó, khi mà các ý nghĩ của anh đều hướng về người bạn láng giềng một cách ngoài ý muốn, anh chỉ cảm thấy những tình cảm tốt đẹp. Hastie là một chàng trai dũng cảm, nhưng thô lỗ, rất khỏe mạnh và không có óc tưởng tượng cũng như sự thông cảm. Anh ta không thể chịu đựng được một người không được đào tạo theo cái mẫu mực cường tráng mà anh ta đã dứt khoát chọn lựa. Nếu người nào không thể được đo lường theo các tiêu chuẩn này, thì nhất định là người đó sẽ chuốc lấy sự ác cảm của Hastie. Giống như nhiều chàng trai khỏe mạnh về thể chất, anh ta tỏ ra lầm lẫn cấu trúc của cơ thể với tính tình, anh ta không ngần ngại gì để gán tội vô nguyên tắc cho một việc khi việc đó chỉ là một lỗi nhỏ. Smith có tinh thần cởi mở hơn: anh biết cái bệnh của bạn anh và anh thể tất nó.
Vì tiếng động kỳ quái đó không tiếp diễn nữa, Smith đang sắp cầm lấy quyển sách, thì bỗng nhiên lại một tiếng rên rỉ khô khan một tiếng kêu thực sự chọc thủng sự yên tĩnh của màn đêm. Đó là tiếng gọi của một người bị khích động và đau đớn vượt khỏi sự kiềm chế. Smith chồm ra khỏi ghế bành bỏ quyển sách xuống. Mặc dù anh có bộ thần kinh vững vàng, tiếng kêu khủng khiếp đột ngột đó cũng làm máu anh lạnh toát như băng và làm anh nổi da gà. Được phát ra trong một nơi như thế này? Và sao một giờ như thế này? Nó đã gieo vào đầu óc anh hàng ngàn giả thuyết kỳ quái. Anh có nên chạy ngay xuống bên dưới không, hay là hãy đợi xem sao? Cũng như tất cả các đồng bào của anh, anh ghét việc làm cho mọi người chú ý hay tự đề cao mình, và anh biết rất ít về người hàng xóm nên anh không có ý định xen lấn vào công việc của hắn một cách khinh suất. Anh đắn đo trong một khoảnh khắc; nhưng những bước chân mau lẹ đã vang lên trong cầu thang, và chàng thanh niên Monkhouse Lee, nửa mình để trần, mặt mày tái mét, chạy xộc vào phòng anh.
"Xuống đi?" anh ta lắp bắp nói. "Belling¬ham bị bệnh!" Aber¬crom¬bic Smith đi theo anh ta tới tận căn phòng khách nhỏ nằm ngay phía dưới phòng khách của anh, dù dã dồn hết tâm trí vào sự việc xảy ra, anh cũng không thể kiềm chế được việc ném một cái nhìn kinh ngạc quanh mình khi anh bước qua bậc cửa. Đó là một căn phòng hình như chưa bao giờ anh nhìn thấy trước đây: một viện bảo tàng hơn là một phòng làm việc. Các bác tường và trần nhà gần như được toàn bộ che phủ bằng hằng hà sa số những thành tích kỳ lạ xuất xứ từ Ai Cập và Đông phương. Những bóng ma cao lớn mang những gánh nặng hay những khí giới treo một cách ngạo nghễ trên một tấm vải thô chạy vòng quanh căn phòng. Phía. trên, được chạm vào trong đá là những cái đầu bò rừng, đầu hạc, đầu cú mèo, cùng với các pho tượng những vua chúa có những con mắt hạt hạch nhân, trên đầu quấn những con rắn độc và những vị thần kỳ quái trông giống như những con giáp trùng đẽo bằng ngọc bích Ai Cập. Ho¬rus, Isis và Os¬ins đang ngồi ngắm nghía căn phòng khách có nhiều hốc trong tường và tất cả những cái kệ, ngang trần nhà, một đứa con chính thống của sông Nu cổ đại, con cá sấu lớn với cái miệng há rộng, được treo lủng lẳng bằng một nút dây kép.
Ở giữa căn phòng không tầm thường này, có một cái bàn vuông lớn rải rác những giấy tờ, chai lọ và những lá khô của một loại cây cọ rất đẹp, những vật linh tinh này đã bị đẩy ra thành từng đống lộn xộn để lấy chỗ đặt một cái thùng xác ướp được lấy ra từ trong bức tường (đúng như khoảng trống nó để lại trong tường đã chứng thực điều này), và nó được đặt nằm ngang qua cái bàn. Về phần cái xác ướp, thì nó là một vật khủng khiếp, đen xì và khô héo, chìa ra một cái đầu xám như than trên một cái cây nhỏ đầy mấu đốt, một nửa thân hình nó thòi ra bên ngoài cái thùng; một cái bàn tay trong giống như một cái kìm và một cánh tay xương xấu nằm trên bàn. Một cuộn giấy bằng lá chỉ thảo được dựng tựa vào cái quan tài; phía trước cuộn giấy, người chủ căn phòng dang ngồi trong một cái ghế bành gỗ, đầu anh ta ngả về phía sau; hai mắt mở lớn nhìn dán chặt vào con cá sấu; cặp môi xanh tái và run rẩy một cách nặng nề theo từng hơi thở.
- Trời ơi! Anh ấy chết mất! - Monkhouse sợ hãi kêu lên.
Monkhouse Lee là một chàng trai mảnh khảnh có cặp mắt đen và nước da xanh tái; anh ta có cốt cách Tây Ban Nha hơn là cốt cách Anh Cát Lợi; tính tình cởi mở của người Celtes ở anh trái nghịch lại với tính lạnh lùng của dân Sax¬on ở Aber¬crom¬bie Smith.
- Tôi nghĩ rằng đây chỉ là sự ngất xỉu đi thôi - anh sinh viên y khoa trả lời - Hãy giúp tôi một tay. Nắm lấy hai chân anh ấy. Bây giờ chúng ta hãy đặt anh ấy nằm lên trên ghế dài. Anh có thể dẹp hết những dỗ quỷ quái lắt nhắt bằng gỗ ra khỏi cái ghế dài được không? Thật là bừa bãi! Kia kìa? Nêu ta cởi cúc áo ở cổ anh ấy ra và cho anh ấy uống một ít nước thì sẽ rất tốt đó Điều gì xảy ra cho anh ấy thế?
- Tôi không biết một tý gì cả. Tôi nghe tiếng anh ấy kêu to, tôi chạy ngay lên. Tôi quen biết anh ấy lắm, anh hiểu chứ? Anh thật quá tốt bụng khi đi xuống đây.
- Tim anh ấy đập như một cái lục lạc ấy - Smith nói sau khi để tay lên ngực Belling¬ham khi anh này vẫn còn bất tỉnh - Người ta sẽ nói rằng anh ấy bị quá hoảng sợ. Giội nước lên người anh ấy đi. Bộ mặt anh ấy trông mới kỳ cục làm sao!...
Thực sự vẻ mặt Belling¬ham trông vừa kỳ dị vừa đáng sợ, cả về thần sắc lần về dáng điệu. Nó trắng bệch, không phải sự tái xanh thông thường do sự sợ hãi gây ra, mà là sự trắng bệch, hoàn toàn không có màu sắc ở bụng một vài loại cá. Anh ta khá mập, nhưng cho ta ấn tượng là trước đây anh ta còn mập hơn nhiều, vì da anh ta lõng thõng thành những nếp và vết hằn ngang dọc. Mái tóc nâu để kiểu bàn chải dựng đứng lởm chởm trên đầu, trong đôi mắt màu xám vẫn mở trừng trừng, các đồng tử giãn căng ra, sự chăm chú của cái nhìn trông thật khủng khiếp. Smith cúi xuống trên người anh ta, tự nhủ thầm là anh chưa bao giờ nhìn thấy rõ ràng như thế này những tín hiệu của sự khủng khiếp trên diện mạo một con người; ngay tức thì anh nhớ lại với ít hoài nghi hơn lời cảnh báo của Hastie.
Anh hỏi:
- Vậy thì điều gì đã làm cho anh ấy kinh hoàng tới mức độ này?
- Cái xác ướp
- Xác ướp à? Tại sao như vậy?
- Tôi không biết. Nó hôi thối và gây bệnh hoạn, lẽ ra tôi đã muốn cho anh ấy quăng nó đi. Đây là lần thứ nhì anh ta làm cho tôi kinh sợ. Mùa đông năm ngoái cũng một lần như thế này. Tôi đã thấy anh ta đúng hệt như hôm nay, với cái vật đáng ghét này để trước mặt anh ta.
- Vậy anh ấy tìm kiếm cái gì ở cái xác ướp?
- Ồ, thật là một kẻ cuồng dại Một kẻ cuồng dại về xác ướp. Anh ấy hiểu biết về các xác ướp nhiều hơn là bất kỳ một người dân Anh nào hiện đang còn sống. Nhưng tôi thì tôi mong rằng anh ấy nên biết ít hơn về những thứ đó. A, anh ấy tỉnh lại rồi kìa!
Những màu sắc mờ nhạt bắt đầu nhuốm ứng đôi gò má tái mét của Belling¬ham; mí mắt anh ta nhấp nháy; anh ta nắm chặt bàn tay lại và lại duỗi bàn tay ra, hít một hơi dài không khí qua kẽ răng, rồi đột nhiên ngẩng đầu lên và đưa mắt nhìn quanh một cái nhìn dò xét Khi mắt anh nhìn tới cái xác ướp, anh đứng phắt dậy, cầm lấy cuộn chỉ thảo, quẳng nó vào một ngăn kéo và khóa nó lại, rồi lảo đảo quay trở lại cái ghế dài.
Anh ta hỏi:
- Chuyện gì đã xảy ra? Các bạn muốn gì ở tôi vậy?
- Anh đã kêu lớn và làm ồn ào quá - Monkhouse Lee đáp lại - Nếu ông bạn hàng xóm của chúng ta ở tầng trên không đi xuống, thì tôi tự hỏi là một mình tôi sẽ làm được việc gì đây.
- À, đây là Aber¬crom¬bie Smith! - Belling¬ham nhìn anh và nói - Thật là anh đã tử tế quá khi tới đây! Tôi là một thằng ngốc thật! Trời ơi, sao mà tôi ngu ngốc thế!
Anh ta gục đầu vào hai bàn tay và bật lên mọt tiếng cười điên dại không còn ngưng được nữa.
- Coi chừng đó! Dừng lại! - Smith quát to và nắm lấy vai anh ta lắc mạnh - Các dây thần kinh của anh bị hoàn toàn rối loạn rồi. Anh phải vứt bỏ những trò chơi nhỏ nhặt về nửa đêm với những cái xác ướp đi nếu không anh sẽ mất trí đó. Lúc này anh là một cục pin điện đó.
Belling¬ham trả lời:
- Tôi không nghĩ rằng anh cũng sẽ bình tĩnh được như tôi nếu anh trông thấy...
- Cái gì vậy?
- À, không có gì cả! Tôi chỉ muốn nói rằng tôi không tin là anh có thể ngồi suốt một buổi tối với một cái xác ướp mà các dây thần kinh không bị nôn nao. Anh nói rất đúng, trong thời gi¬an gần đây tôi đã làm việc quá nhiều. Nhưng tôi cảm thấy đã hoàn toàn bình phục. Xin hãy đợi vài phút, và tôi sẽ trở lại như thường.
- Căn phòng có mùi khó chịu quá - Lee đưa ra nhận xét và anh đi mở cửa sổ để cho không khí mát mẻ ban đêm lùa vào.
- Đó là chất nhựa thơm...
Belling¬ham giơ lên một chiếc lá khô và làm nó quăn lại trên miệng cái đèn. Nó biến thành những cuộn khói dày đặc; một mùi hăng khó chịu tràn ngập căn phòng.
- Đó là thứ cây linh không thứ cây của các vị thầy tu - anh ta giải thích - Anh Smith, anh có biết gì về các ngôn ngữ Đông phương không?
- Không biết gì hết. Không biết một chữ.
Câu trả lời có vẻ làm cho nhà Ai Cập học thấy nhẹ nhõm. Anh hỏi:
- Về chuyện này, từ lúc cái anh chạy vào tới lúc tôi tỉnh lại có lâu không?
- Không lâu. Khoảng bốn hay năm phút
- Hình như tôi thấy rằng tôi đã không bị bất tỉnh lâu hơn! - anh vừa nói vừa hít vào một hơi dài - nhưng sự ngất xỉu thật là một điều kỳ lạ! Không có cách nào để đo lường thời gi¬an của nó. Theo các cảm giác của riêng tôi, tôi không tài nào nói chắc được là tôi đã bị ngất đi trong vài giây hay vài tuần lễ. Cái ông khách nằm trên bàn kia đã được tẩm liệm đã bốn mươi thế kỷ rồi; nếu ông ấy lại nói được, ông ấy sẽ bảo chúng ta rằng cái khoảng thời gi¬an này chỉ thoảng qua như thời gi¬an mà ta cần có để nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra. Đó là mộ t xác ướp tuyệt đẹp, anh Smith ạ!...
Smith lại gần cái bàn và nhìn cái hình thù đen đúa và cong queo bằng con mắt của nhà chuyên môn. Bộ mặt tuy đã bị mất màu sắc một cách khủng khiếp nhưng vẫn còn nguyên vẹn; hai nhãn cầu nhỏ bé còn nằm trong hốc sâu của những lỗ mắt đen ngòm. Cái cằm có vân như cẩm thạch bị kéo vẹo sang một bên, và những sợi tóc to và đen rủ xuống hai tai. Hai chiếc răng nhỏ như răng chuột phủ lên cái môi dưới đã teo lại. Trong tư thế ngồi xổm, với những khớp xương cong lại và cái đầu nghểnh về phía trước, cái vật khủng khiếp này tỏa ra một cảm giác về khí lực làm đảo lộn tinh thần của Smith. Những cái xương sườn hằn rõ như dược bọc bởi một cái vỏ bằng da thuộc, cũng như cái bụng màu xám chì, bị rạch theo chiều dài bởi người ướp xác; nhưng hai chân thì vẫn còn được quấn các băng vải vàng. Những lá đinh hương, những mảnh vụn nhựa mật nhi lạp và trái ba đậu còn rải rác trên cái xác hoặc vương vãi bên trong cái hòm.
- Tôi không biết tên hắn, - Belling¬ham nói trong lúc đưa bàn tay lên cái trán nhăn nheo của anh - Các anh nhìn đấy: tôi thiếu mất cỗ quách bên ngoài cùng với những chữ ghi chép của nó. Lô số 249, đó là tất cả danh hiệu của hắn hiện nay. Hãy dọc chữ này trên cái hòm. Đó là con số hắn mang trong cuộc bán đấu giá mà tôi đã mua được.
Aber¬crom¬bie Smith nói:
- Lúc sinh thời, chắc chắn hắn là một người đàn ông đẹp trai.
- Một anh khổng lồ. Cái xác ướp của hắn đo được hai mét chiều dài; ở nơi đó, hắn phải là một anh khổng lồ vì giống người ở đó đã không được phát triển mấy. Hãy thử sờ vào mấy cái xương lớn quăn queo xem. Không ai dại dột mà trêu chọc hắn.
- Có thể là những bàn tay này đã góp sức vào việc xây dựng các ngôi Kim tự Tháp chăng? - Monkhouse Lee góp ý trong khi ngắm nghía những bàn tay với sự kinh tởm.
- Chớ nên tin gì vào việc đó! Anh chàng nay đã được ướp một cách kỹ càng trong một kiểu cách tốt nhất. Người ta không đối xử tử tế như vậy với những anh thợ nề tập sự đâu. Muối hoặc dầu hắc cũng là quá tốt rồi. Người ta đã tính là cái thứ công việc vớ vẩn phải tốn vào khoảng 730 bảng tiền của chúng ta. Ít nhất anh bạn của chúng ta cũng là một nhà quý tộc. Anh Smith, anh nghì thế nào về cái dòng chữ nhỏ ở gần hai bàn chân hắn?
- Tôi đã nói với anh là tôi không biết một thứ ngôn ngữ Đông phương nào mà.
- À phải! Đó là tên của người ướp ít nhất tôi cũng giả thiết là vậy. Ông ta phải là một nghệ nhân rất có lương tâm nghề nghiệp. Tôi đã tự hỏi rằng liệu có bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật hiện dại sẽ tồn tại được bốn ngàn năm!...
Anh ta tiếp tục nói với vẻ giễu cợt, nhưng Aber¬cromb¬ne Smith nhận thấy anh ta vẫn còn run rẩy vì sợ hãi. Tay anh ta có những cử động thiếu tự chủ, môi dưới của anh ta run run và mắt anh ta lúc nào. cũng nhìn vào người bạn gớm ghiếc của mình! Tuy nhiên, bất kể nỗi sợ sệt anh ta vẫn có một vẻ đắc thắng trong giọng nói và trong thái độ. Mắt anh ta sáng ngời, bước chân nhanh nhẹn và khinh khoái khi đi đi, lại lại trong eăn phòng. Người ta có thể nói đó là một người vừa trải qua một cuộc thử thách phũ phàng, còn mang các dấu vết của cuộc thử thách, nhưng đã đạt được mục đích của mình.
- Anh không bỏ đi đấy chứ? - anh ta kêu lên khi Smith từ ghế dài đứng lên.
Trước viễn ảnh đơn độc, những mối lo sợ hình như lại tấn công anh ba và anh ta vươn tay ra như thể giữ Smith ở lại.
- Đúng, tôi phải đi đây. Công việc đang đợi tôi. Anh đã hồi phục rất khá rồi. Tôi nghĩ rằng với hệ thần kinh của anh, anh nên chuyên tâm vào những môn học ít bệnh hoạn hơn. - Ô, thông thường tôi không bao giờ bị suy yếu cả? Và tôi đã từng tháo vải bọc cho nhiều xác ướp mà.
- Lần trước anh cũng đã bị ngất xỉu - Monkhouse Lee đưa ra lời lưu ý.
- À, phải! Này, tôi sẽ phải dùng một liều thuốc bổ cho các dây thần kinh. Anh không bỏ đi chứ, anh Lee?
- Tôi sẽ làm theo ý anh muốn, Ned ạ.
- Vậy thì tôi sẽ xuống phòng anh, và tôi sẽ ngủ trên cái ghế dài của anh. Chúc ngủ ngon nhé Smith. Tôi rất buồn vì đã làm phiền anh với những trò ngu ngốc của tôi.
Họ bắt tay nhau; chàng sinh viên y khoa leo mỗi bước bốn bậc thang để trở về phòng của mình, anh nghe thấy tiếng hai người bạn đi xuống phía căn hộ ở tầng thứ nhất.
Đó là lý do tại sao Ed¬ward Belling¬ham và Aber¬crom¬bie đã làm quen với nhau, chàng sinh viên y khoa không có ý định gắn bó xa hơn nữa, nhưng Belling¬ham có vẻ như say mê anh hàng xóm; anh ta đã có những cử chỉ mở đầu một cách thân thiện quá đến nỗi chỉ một kẻ thật sự thô lỗ mới dám khước từ. Đã hai lần anh ta tới phòng Smith để cảm ơn về sự giúp đỡ; rồi sau đó anh ta gõ cửa để mang tới cho anh các sách, báo và mọi thứ lặt vặt mà hai anh hàng xóm độc thân có thể tặng, biếu cho nhau. Smith đã phát hiện ra ngay là anh ta đọc rất nhiều, anh ta có một trí nhớ phi thường. Lối cư xử của anh ta rất khả ái, rất dịu dàng khiến cho sau một thời gi¬an nào đó người ta quên đi cái diện mạo thể chất ít gây được cảm tình của anh ta. Phải làm việc quá sức như Smith, mà anh cũng không thấy anh ta gây khó chịu chút nào; anh đã mau chóng có thói quen về các cuộc thăm viếng của anh ta, và khi có cơ hội anh cũng tới thăm anh ta.
Belling¬ham đúng là một người thông minh không ai chối cãi được tuy nhiên Smith đã phát hiện ở anh ta một đôi chút khùng điên, ít nhất cũng ở bề ngoài. Đôi khi anh ta có những lúc nói năng lưu loát, khoa trương trái ngược hẳn với sự giản dị trong lối sống.
Anh ta kêu lên:
- Thật là một điều kỳ thú khi cảm thấy rằng ta có thể sai khiến được các quyền lực của điều thiện và điều ác rằng ta có thể là một ông thánh cứu nhân, độ thế hay một ác quỷ của sự hận thù!...
Và đối với Monkhouse thì anh ta nói:
-... Lee là một anh chàng dũng cảm, một người lương thiện nhưng anh ấy không có nghị lực, mà cũng không có tham vọng. Anh ấy sẽ không phải là người cộng tác tốt cho người nào muốn lập một sự nghiệp lớn lao. Anh ấy không phải là một người cộng tác tốt với tôi.
Khi nghe những lời như vậy, anh chàng Smith khỏe mạnh chỉ rít ống píp một cách nghiêm trang và nhường cặp chân mày lên và lắc đầu.
Belling¬ham đã mắc phải một thói quen mà Smith biết là nó biểu lộ một tinh thần suy nhược; anh ta nói liên miên, nói lớn tiếng. Lúc đêm đã khuya, khi không có thể còn khách khứa nào trong phòng anh ta, Smith nghe thấy anh ta nói một mình với một giọng tắc nghẹn trầm xuống gần như tiếng thì thầm, nhưng sự yên lặng ở chung quanh làm cho nghe rõ mồn một. Sự lảm nhảm một mình này làm chàng sinh viên y bực bội quá dện nỗi chàng phải cự nự anh hàng xóm. Belling¬ham ngượng đỏ mặt trước lời buộc tội và chối phăng là anh ta đã không nói một tiếng nào; thực sự anh ta có vẻ như đang bực bội điều gì đó.
Nếu Aber¬crom¬bie Smith có những nghi ngờ về thính giác của mình thì anh đã không cần phải đi xa hơn nữa để được xác nhận về sự phát hiện của anh. Tom Styles, gã đầy tớ nhỏ bé nhăn nheo là người đã làm việc từ lâu cho ba người khách trọ của cái tháp, cũng thấy bực bội về cùng một vấn đề này.
- Thưa ông, - một buổi sáng khi đang quét dọn căn phòng phía trên, hắn hỏi - ông có nghĩ rằng ông Belling¬ham là khỏe mạnh không ạ?
- Khỏe mạnh hả, Styles?
- Vâng, thưa ông. Là đầu óc ông ấy ở tình trạng tốt
- Và tại sao đầu óc ông ấy lại không ở tình trạng tốt hả?
- Thưa ông, tôi thề là tôi không biết gì cả. Từ ít lâu nay ông ấy đã có những chứng cuồng mới. Ông ấy không phải là cùng một con người như ngày trước nữa mặc dù tôi xin được mạn phép nói với ông rằng chưa bao giờ ông ấy hoàn toàn giống như người lịch sự như ông Has¬tic hoặc như ông vậy. Ông ấy cứ nói chuyện một mình, đó là một điều gì có vẻ đáng sợ. Tôi tự hỏi liệu chuyện đó có làm phiền cho ông không? Thưa ông, tôi không biết nghĩ về ông ấy thế nào đây.
- Anh Styles này, tôi không thấy chuyện đó có liên quan gì tới anh cả.
- Vâng, thưa ông Smith, đó là vì tôi quan tâm tới thôi! Có lẽ đó là một thiên kiến của tô , nhưng tôi không thể tự ngăn cản để khỏi nghĩ tới việc đó. Đôi khi tôi cảm thấy như tôi là cha mẹ của những vị công tử trẻ trung của tôi. Mọi trách nhiệm đều đổ lên đầu tôi khi có các sự việc chẳng tốt lành và khi các vị phụ mẫu tới thăm, nhưng thưa ông Belling¬ham, ông... Tôi rất muốn biết một đôi khi có ai đó đi trong phòng của ông ấy - lúc ông ấy ra khỏi và lúc cửa được khóa ở phía bên ngoài.
- Vậy hả? Anh nói nhảm nhí rồi Styles ạ!
- Có lẽ là thế, thưa ông. Nhưng chính tai tôi đã nghe tiếng động đó hơn một lần nữa.
- Chuyện tầm phào, Styles ạ!
- Được rồi, thưa ông khi nào ông cần xin bấm chuông gọi tôi.
Aber¬crom¬bie Smith không mấy để ý tới những lời nói của gã đầy tớ lâu năm, nhưng vài ngày sau đó một sự cố nhỏ đã dể lại cho anh một ấn tượng khó chịu và nhắc nhở với anh những lời nói đó một cách mãnh liệt.
Belling¬ham đi lên gặp anh vào một giờ đã muộn, anh ta đang kể cho anh nghe những điều rất thú vị về các ngôi mộ của dòng họ Beni Has¬san ở Bắc Ai Cập, thì Smith, vốn là người có cặp tai rất thính, nghe thấy rõ ràng tiếng một cánh cửa mở ra ở tầng dưới. Anh nói với Belling¬ham:
- Có người đi vào hay đi ra khỏi phòng anh.
Anh chàng này đứng phắt dậy và cứ chứng yên hoàn toàn bị bối rối trong vài giây; anh ta có vẻ nửa không tin, nửa kinh hãi.
- Chắc chắn là tôi đã đóng cửa rồi mà. Tôi hoàn toàn tin chắc là tôi đã đóng cửa - anh ta hổn hển nói - không ai có thể mở được nó.
- Này, bây giờ tôi nghe thấy tiếng một người đi lên các bậc thang.
Belling¬ham chạy vội ra cửa, mở cửa, đóng đánh sầm một tiếng sau lưng anh ta và nhẩy xuống cầu thang. Khoảng giữa chừng, Smith nghe thấy anh ta đứng lại, và anh tưởng như bất chợt nghe thấy tiếng nói thì thầm. Một lát sau cánh cửa của tầng dưới đóng lại, một cái chìa khóa cọt kẹt trong ổ khóa, và Belling¬ham trán đẫm mồ hôi nhỏ giọt, lại lên cầu thang và đi vào trong phòng.
- Không có chuyện gì cả - anh ta nói và ngồi phịch xuống một cái ghế - Đó là cái con chó ngốc nghếch. Nó đã đẩy cửa ra. Tôi không biết tại sao tôi lại quên không khóa cửa lại.
- Tôi không biết là anh có một con chó, - Smith nói trong khi ngắm nhìn một cách đầy tư lự nét mặt bối rối của người bạn.
- Phải. Tôi đã không nuôi chó từ lâu rồi. Tôi sẽ phải vất nó đi, nó làm tôi phiền phức quá.
- Tôi thấy hình như đóng cửa mà không khóa lại là chưa đủ, phải không?
- Tôi muốn ngăn cản không cho lão Styles để nó chạy ra. Đó là một con vật đắt giá, anh hiểu chứ? Và để mất thì thật là ngốc.
- Tôi là một tay chơi tài tử về chó - Smith nói trong khi tiếp tục vẫn liếc mắt quan sát người bạn của mình - Anh có thể vui lòng cho tôi xem con chó đó được không?
- Dĩ nhiên là được rồi! Nhưng không phải tối nay, xin anh vui lòng. Tôi có một buổi hẹn. Đồng hồ treo của anh chạy có đúng không? Trời ơi, tôi đã bị trễ mất mười lăm phút rồi! Xin anh tha lỗi cho nhé được không?
Anh ta chộp lấy cái mũ và vội vã rời khỏi phòng. Một buổi hẹn à? Smith nghe thấy anh ta trở về phòng và khóa cửa lại ở phía bên trong.
Cuộc nói chuyện này đã gây một cảm tưởng không vui cho chàng sinh viên y khoa. Belling¬ham đã nói dối anh; và nói dối một cách quá vụng về khiến người ta phải nghĩ rằng có những nguyên do rất cấp thiết để che giấu sự thật. Smith biết chắc chắn là anh hàng xóm này không có chó. Anh cũng biết rằng tiếng bước chân trong cầu thang không phải là tiếng bước chân của một con vật. Trong trường hợp này thì là tiếng bước chân của ai? Smith nhớ lại những diều mà lão Styles đã nói với anh về những tiếng động mà hắn bất chợt nghe thấy trong khi người chủ căn phòng vắng mặt. Có thể là một người đàn bà chăng? Smith nghĩ tới giả thuyết này. Nếu sự hiện diện của một người dàn bà bị các giới chức nhà trường phát hiện thì Belling¬ham sẽ bị đuổi học ngay lập tức; sự cố có thể xảy ra này có thể giải thích được sự lo lắng và sự dối trá của anh ta. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng một sinh viên lại giữ được một người đàn bà trong phòng mình mà không bị phát giác ngay tức thì. Dù cho sự giải thích là thế nào đi nữa, chắc chắn nó cũng không tốt đẹp gì. Smith trở lại với các tập sách của anh, quyết định sẽ làm nản lòng tất cá mọi ý định kết thân mới cua người hàng xóm, một người nói thì rất hay mà hành động thì rất tệ.
Nhưng số trời đã định là anh không thể làm việc một cách yên tĩnh buổi tối hôm đó. Anh vừa mới nối xong sợi dây đứt đoạn thì một bước chân nặng nề và chắc chắn leo lên từng ba bậc một trong cầu thang, và Hastie, với áo vét và quần bằng nỉ, chạy xộc vào phòng anh.
- Còn làm việc à! - anh ta có kêu lên tuột cách kinh ngạc và ngồi phịch ngay xuống chiếc ghế bành ưa thích của anh ta - người đâu mà chăm học thế? Tôi nghĩ rằng nếu có một trận động đất làm nát bấy thành phố Ox¬ford này, thì anh cũng sẽ chồi lên hoàn toàn bình thản trên những đổ nát, với quyển sách cầm trong tay. Yên tâm đi, tôi sẽ không ngồi lại lâu đâu. Ba hơi thuốc lá thôi, rồi tôi sẽ chuồn đi.
- Có tin tức gì không? - Smith vừa hỏi vừa lấy ngón tay trỏ nhấn một chút thuốc lá trong cái píp.
- Không có gì quan trọng. À, có đấy! Anh có biết tin Long Nor¬ton bị tấn công không?
- Không. Bị tấn công à?
- Phải. Ngay ở góc đường High Street, cách hàng rào song sắt của trường cao đẳng một trăm mét.
- Nhưng bởi ai?...
- À, xem đó! Nếu anh nói bởi cái gì và không nói bởi ai, thì anh đã tỏ sự tôn kính hơn đối với ngữ pháp đó. Nor¬ton đoan quyết rằng anh ấy không bị tấn công bởi một con người; nhìn những vết xây xước ở cổ họng anh ấy, thú thực là tôi cũng gần tin lời anh ấy nói.
- Tóm lại, hãy nói rõ ràng đi! Trò ma quỉ à? Abeciom¬bie Smith phà khói ra với vẻ khinh khỉnh của nhà khoa học.
- Không, đúng vậy. Tôi nghĩ rằng một lái buôn nào đó đã bị mất một con khỉ lớn, và con vật này đi lang thang. Nor¬ton tối nào cũng đi qua nơi đó, anh biết việc đó chứ gì, và gần như vào cùng một giờ đó, một cái cây có những cành thấp xòa xuống mặt đường: cây du to lớn ở vườn Rainy, Nor¬ton tin rằng con vật đã giấu mình và tụt xuống từ trên cây để chồm lên người anh ấy. Anh ấy nói thật sự anh ấy đã bị xiết gần nghẹt thở bởi hai cánh tay cũng mạnh mẽ và cũng mảnh mai như những thanh thép vậy. Anh ấy không trông thấy gì cả. Chỉ có những cánh tay tàn bạo này xiết chặt lấy anh mỗi lúc một mạnh hơn. Anh ấy đã hét lên gần tới nổ cuống họng, và có hai người bạn chạy tới, tới đó thì con vật chạy qua phía bên kia tường như một con mèo. Anh ấy đã không bao giờ nhìn rõ ràng được nó. Dù sao thì anh chàng Nor¬ton khốn khổ này cũng bị kinh động một cách kỳ lạ! Tôi đã nói với anh ấy rằng muốn cho khuây khỏa tâm hồn thì cần đi nghỉ tám ngày ở bờ biển.
- Một kẻ siết cổ người ta, đúng hệt như vậy? - Smith góp ý - chắc chắn là vậy rồi. Nor¬ton đoan chắc là không phải, nhưng mặc kệ những gì anh ấy nói. Kẻ siết cổ đó có những móng tay dài và nó biết nhẩy tường rất giỏi. Hãy nói đi anh hàng xóm hay mê hoặc người khác của anh sẽ thích thú nếu hắn ta biết được chuyện này. Hắn ta có mối hận với Nor¬ton, và tôi không tin rằng hắn ta là người quên được những món nợ ấy. Nhưng này, này! Ành bạn già, cái gì chạy qua đầu anh thế?
- Không có gì cả... - Smith trả lời với giọng thô lỗ. Anh giật nẩy người lên trên ghế bành, hai mắt mở to ra làm như đầu óc anh đang có một ý nghĩ khó chịu chạy ngang.
- Người ta có thể nói rằng mẩu chuyện nhỏ của tôi đã làm anh nổi nóng phải không? Tiện thể đây tôi hỏi, anh đã quen ông B. từ khi tôi gặp anh phải không? Gã thanh mền Monkhouse Lee đã nói một cách mơ hồ về chuyện đó với tôi.
- Phải. Tôi biết anh ấy nhiều hơn đôi chút. Anh ấy đã lên đây hai hay ba lần.
- Hà, anh cũng khá to con và khá nhanh nhẹn để tự lo liệu cho mình Hắn không phải thứ người mà tôi gọi là thanh niên lành mạnh, nhưng tóm lại thì hắn rất thông minh, và phần còn lại. Đó, anh sẽ tự mình phát hiện ra tất cả. Lúc là một anh chàng tốt một thanh niên rất dũng cảm. Tạm biệt, anh bạn thân. Thứ Tư sau tôi sẽ chèo thuyền thi với Mullins để tranh giải thưởng của ông phó viên trưởng, nếu anh tới được thì điều này làm tôi vui thích.
Với sự bướng bỉnh đầu bò, đầu bướu, Smith chặt píp xuống và cầm lại những quyển sách. Nhưng dù với ý chí mạnh nhất trong đời, anh vân cảm thấy thật khó mà nghĩ tới những điều anh đang đọc, lúc nào tâm trí anh cũng lãng đãng về phía anh hàng xóm ở tầng dưới và về sự bí ẩn tại căn hộ của anh ta. Rồi anh lại nghĩ tới vụ tấn công mà Hastie vừa kể lại với anh, và về mối hận thù mà hình như Belling¬ham đã nhằm vào nạn nhân. Hai ý nghĩ này không ngừng trộn lộn với nhau trong' đầu óc anh, như có một sợi dây chặt chẽ kết nối chúng lại với nhau. Tuy nhiên, sự nghi ngờ thật quá mơ hồ, quá mù mờ khiến nó không thể diễn tả bằng lời nói được.
- Quỉ bắt thằng cha Billing¬ham ấy đi? - Smith kêu lên và ném quyển sách về bệnh lý của anh sang góc phòng bên kia - Hắn đã làm mất buổi tối làm việc của tôi; đây đã là một lý do đầy đủ để cho tôi không còn vướng víu với con người của hắn nữa?
Trong mười ngày, chàng sinh viên y khoa đã đắm mình một cách quá trọn vẹn vào việc học hành đến nỗi anh không nhìn thấy và cũng không nghe thấy một anh hàng xóm nào. Vào những giờ mà Belling¬ham có thói quen tới thăm anh thì anh đã thận trọng khóa cửa lại, và ngay cả khi nghe thấy tiếng gõ anh cũng không mở cửa. Tuy nhiên, một buổi nhiều, anh bước xuống cầu thang, và ngay lúc anh đi qua cửa phòng của Belling¬ham, thì thấy cánh cửa mở toang, chàng thanh niên Monkhouse Lee ở trong đi ra, mắt tóe lửa và hai má đỏ ửng vì giận dữ. Belling¬ham chạy theo sau; cái mặt to bè nhưng ốm yếu của anh ta run run vì nóng giận.
Anh ta la lớn:
- Đồ ngốc! Rồi anh sẽ hối tiếc về việc này!
- Rất có thể - anh kia trả lời - Hãy nhớ lấy những diều tôi đã nói với anh: thế là hết rồi? Tôi không muốn nghe nói những chuyện đó!
- Anh đã hứa với tôi trong mọi tình huống...
- À, anh cứ yên tâm! Tôi sẽ không nói đâu, nhưng tôi muốn thà là con nhỏ Eva chết đi còn hơn. Chỉ một lần thối, thế là hết!
- Nó sẽ làm điều mà tôi nói. Chúng tôi không còn muốn nhìn thấy anh, không bao giờ nữa.
Smith không thể tránh khỏi phải nghe cuộc đối thoại này, nhưng anh rảo bước, vì anh không muốn bị lôi cuốn vào cuộc tranh cãi của họ một chút nào. Họ hục hặc với nhau một cách nghiêm trọng, việc này đã rõ ràng, và Lee sẽ khơi ra sự tan vỡ cuộc đính hôn của em gái anh ta với Belling¬ham. Nhớ lại sự so sánh của Hestie con cóc và con bồ câu, Smith thấy toại nguyện với giải đáp này. Cái đầu của Belling¬ham khi giận dữ thật khó coi. Thật tình một cô thiếu nữ thơ ngây sẽ lầm lỗi rất nhiều khi phó thác đời mình cho anh ta. Vừa đi Smith vừa tự hỏi nguyên nhân cuộc cãi lộn là cái gì, và tính chất của lời hứa mà Belling¬ham đã khẩn thiết nhắc nhở Mankhouse Lee có thể là việc gì.
Hôm ấy là ngày có cuộc thi chèo thuyền giữa Hastie và Mullins và rất nhiều người đi về phía sông Jsis. Mặt trời tháng năm chói lọi và hun nóng không khí; những cây du phóng ra những vệt bóng đen trên con đường màu vàng. Ở hai bên đường là những bức tường của trường cao đẳng màu xám, từ trong đó đi ra các vị giám thị mặc đồ đen, những vị giáo sư đạo mạo, những chàng thanh niên xanh xao, những vận động viên da bóng như đồng mặc áo thun trắng hay áo vét sặc sỡ nhiều màu. Tất cả mọi người đều vội vã đi về phía con sông màu xanh, con sông vạch những nét quanh co giữa các cánh đồng của Ox¬ford.
Aber¬crom¬bic Smith, với trực giác của một tay bơi thuyền lảo luyện, đã chọn chỗ đứng ở nơi mà anh biết chắc là cuộc thi đấu sẽ diễn ra. Từ đằng xa, một tiếng ồn ào dữ dội báo cho anh biết rằng lệnh khởi hành đã được phát ra, anh nghe thấy tiếng hò la ầm ĩ loan báo sự tới gần của các đấu thủ: nhiều người chạy đi, các khán giả theo dõi cuộc đua bằng tàu thủy thì la hét. Nhìn tới sái cổ, Smith mới thấy Hastie với tay chèo đều đặn ở nhịp ba mươi sáu, đã vượt trước Mal¬hns một đoạn dài, trong khi anh này chèo một cách không đều tay ở nhịp bốn mươi. Sau khi tung ra tiếng hoan hô dành cho người bạn của mình anh lấy đồng hồ ra xem, và anh sắp đi trở lại con đường trở về căn hộ thì anh cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình chàng trai Monkhouse Lee đang đứng cạnh anh.
- Tôi đã trông thấy anh, - anh ta nói với một giọng vừa ngại ngần vừa khẩn khoản - Tôi muốn nói chuyện với anh, nếu anh có thể dành cho tôi một nửa giờ. Cái nhà nhỏ này là của tôi, tôi ở chung với Har¬ring¬ton, mời anh tới uống trà với tôi.
Smith đáp:
- Tôi phải về nhà ngay bây giờ, trong lúc này tôi đang nướng bánh trên vỉ. Nhưng tôi sẽ vui lòng dành cho anh mấy phút. Nếu Hastie không phải là người bạn chí cốt thì tôi đã không ra đây.
- Anh ấy cũng là bạn của tôi. Anh ấy có một lối chèo tuyệt vời phải không? Mullins không phải là đối thủ, nhưng hãy vào đây. Chỗ tôi ở không được rộng rãi, nhưng tôi thấy thoải mái khi làm việc ở đây trong những tháng hè.
Đó là một căn nhà nhỏ, trắng và vuông vắn, với một cửa lớn và những cánh cửa màu xanh lá cây và một cái cửa ngăn cổ lỗ, ở cách con sông chừng năm chục mét. Bên trong căn nhà, phòng chính được bầy biện một cách thô kệch để làm phòng học: một cái bàn bằng gỗ mộc, những cái kệ dã phai màu chất đầy sánh, một vài bức tranh loại rẻ tiền ở trên tường. Một ấm đun nước đang sôi réo lên trên cái bếp cồn, và một cái khay để uống trà trên bàn.
- Mời anh ngồi xuống cái ghế này và lấy thuốc lá hút đi - Lee nói - Tôi đi rói cho anh một chén nước trà. Anh quá bộ tới đây thật là quí hóa, vì tôi biết là anh rất bận rộn. Tôi muốn nói với anh rằng nếu ở địa vị anh thì tôi đã dọn đi ngay tức khắc.
- Hả?
Smith nhìn anh ta, một tay cầm que diêm đang cháy, và tay kia cầm điếu thuốc lá.
- Phải. Điều này có vẻ kỳ dị đối với anh, và tệ hơn nữa là tôi không thể nói rõ lý do với anh, vì tôi bị ràng buộc bởi một lời hứa thiêng liêng. Phải, một lời hứa rất thiêng liêng. Tuy nhiên tôi cũng có thể tự cho phép mình nói với anh rằng tôi không tin là Belling¬ham là một kẻ mà ở bên hắn, ta có thể sống trong sự an toàn. Tôi có ý định cắm trại ở đây càng lâu càng tốt trong một thời gi¬an.
- Không có an toàn à? Anh muốn nói gì?
- A, đó là điều mà tôi không thể giải thích Nhưng xin anh hãy theo lời khuyên của tôi, và rời khỏi căn hộ của anh. Hôm nay chúng tôi vừa có một vụ cãi lộn lớn với nhau. Chắc anh đã nghe thấy chúng tôi cãi nhau, vì lúc đó anh đang đi xuống cầu thang.
- Tôi đã trông thấy các anh đang cãi vã.
- Đó là một thằng cha đáng ghét, anh Smith ạ! Đó là một từ duy nhất thích hợp với hắn. Tôi đã có những nghi ngờ về hắn từ buổi tối mà hắn ngất xỉu đi. Anh còn nhớ chứ: buổi tối mà tôi đến tìm anh đó. Hôm nay tôi hỏi lại hắn về tối hôm đó, và hắn đã nói với tôi những chuyện làm tôi rợn tóc gáy lên. Hắn muốn tôi cộng tác với hắn. Tôi không phải là người lên mặt đạo mạo, nhưng tôi là con trai của một mục sư, anh biết đấy và tôi tin rằng có những hành động không bao giờ được làm. Tôi cầu xin Thượng Đế cho hắn tỉnh ngộ trước khi đã quá muộn, vì hắn sẽ lấy vợ là người trong gia đình tôi.
- Tất cả việc đó đến rất tốt đẹp, Lee ạ - Aber¬crom¬bie Smith nói. - Nhưng hoặc là anh đã nói với tôi quá nhiều vì chuyện đó, hoặc là anh đã nói với tôi quá ít vì chuyện đó.
- Tôi đưa ra cho anh một lời cảnh báo.
- Nếu đã có một lý do xác đáng cho lời cảnh báo đó, thì không một lời hứa nào có thể ràng buộc được anh ta. Nếu tôi trông thấy một tên cướp sắp sửa làm nổ tung một cái nhà bằng thuốc nổ, thì không có gì ngăn cản được tôi làm đủ mọi cách để tên cướp không thực hiện được ý đồ của nó.
- À, nhưng tôi không thể làm được việc gì để hắn bị thất bại. Tôi chỉ có thể cảnh báo anh thôi.
- Mà không nói rõ là anh bảo tôi phải đề phòng cái gì?
- Đề phòng Belling¬ham đó.
- Thật là chuyện con nít! Tại sao tôi phải sợ hắn chức hắn hay bất cứ kẻ nào khác?
- Tôi không thể nói điều đó với anh. Tôi chỉ có thể khuyên anh nên dọn đi. Nơi mà anh đang ở, anh gặp nguy hiểm đó. Tôi cũng không nói rằng Belling¬ham muốn hại anh. Nhưng sự bất hạnh sẽ có thể xảy tới cho anh, vì bây giờ hắn là một người hàng xóm nguy hiểm.
- Có lẽ tôi còn biết về hắn nhiều hơn là anh nghĩ, - Smith vừa nói vừa quan sát vẻ mặt non nớt nhưng nghiêm trang của cậu thanh niên, - Hãy giả thiết rằng tôi nói với anh là có một người nào khác đang ở căn hộ của Belling¬ham...
Monkhouse Lee run người lên dưới hiệu ứng một sự kích động không thể kiềm chế được. Anh ta ấp úng hỏi:
- Anh cũng biết à?
- Một người đàn bà phải không?
Lee ngồi phịch xuống ghế, miệng thốt ra một tiếng.
Anh ta nói:
- Môi tôi bị gắn kín rồi. Tôi không được nói.
- Được, dù sao đi nữa, - Smith dõng dạc nói và đứng dậy, - thật là khó tin được rằng tôi lại để tự mình hoảng sợ đến nỗi phải rời bỏ một nơi cư ngụ hoàn toàn thích hợp với tôi. Về phần tôi thì đó là một sự đớn hèn lớn lao nếu tôi dọn đi chỉ vì cái cớ mà anh xác nhận là Belling¬ham sẽ có thể làm hại tôi theo một cách thức không ai biết là gì. Tôi nghĩ là tôi sẽ chấp nhận các rủi ro và tôi sẽ ở lại chỗ tôi đang ở; tôi thấy hình như gần năm giờ rồi, tôi xin anh thứ lỗi cho.
Anh cáo từ chàng sinh viên trẻ và trở về cái tháp nhỏ của mình, lòng nửa hồi hộp, nửa vui thích, giống như tất cả mọi người đàn ông khỏe mạnh và ít trí tưởng tượng khi bị đe dọa bởi một sự hiểm nguy mơ hồ.
Mặc dù sự cấp bách của công việc đang làm, bao giờ Abererom¬bie Smith cũng tự ban cho mình một điều ham thích nho nhỏ. Mỗi tuần hai lần, ngày thứ Ba và thứ Sáu, anh đi bộ tới tận Far¬ling¬ton, nơi cư ngụ của bác sĩ Plumptru Pe¬ter¬son, ở cách Ox¬ford hai cây số rưỡi. Pe¬ter¬son là một người bạn thân của người anh cả của Smith, Fran¬cis; ông ta sống độc thân, giàu có với một hầm rượu ngon và một tủ sách còn quý hơn nữa; ngôi nhà của ông ta là một cái đích thích thú cho những tay đi bộ tài tử; mỗi tuần hai lần, chàng sinh viên y khoa dấn bước vào những con đường tối tăm của miền quê và sống một giờ thoải mái trong phòng làm việc đầy đủ tiện nghi của ông Pe¬ter¬son để nói huyên thuyên, trên một cốc rượu mùi về những chuyện vớ vẩn mới nhất ở trường đại học, hoặc về những tiến bộ gần đây nhất của y học và của khoa giải phẫu.
Buổi tối hôm sau cái ngày mà anh đã nói chuyện với Monkhouse Lee, Smith gấp sách lại vào lúc 8 giờ 15; đó là giờ mà anh có thói quen đi tới nhà người bạn. Lúc rời khỏi phòng tình cờ anh nhìn thấy một trong những quyển sách mà Belling¬ham đã cho anh mượn, và anh cảm thấy áy náy là đã chưa trả lại anh ta. Dù người đó có đáng ghét như thế nào đi nữa, anh ta cũng không đáng để cho mình thiếu phép xã gi¬ao Anh cầm lấy quyển sách, đi xuống cầu thang và gõ cửa phòng anh hàng xóm. Không có tiếng trả lời. Anh xoay nắm cửa và nhận thấy cánh cửa không khóa. Khoan khoái vì viễn tượng tránh dược một cuộc nói chuyện, anh nhẹ bước đi vào bên trong và đặt quyển sách cùng vời tấm danh thiếp của anh lên trên bàn ở chỗ dễ nhìn thấy.
Ngọn lửa của cây đèn đã bị vặn nhỏ xuống, nhưng Smith cũng có thể nhìn khá rõ ràng các chi tiết của căn phòng. Căn phòng không có gì thay đổi: tấm màn treo trên trần những cái đầu thú vật, con cá sấu và cái bàn bề bộn giấy tờ và lá cây phơi khô. Cái hòm đựng xác ướp được dựng vào tường (nhưng cái xác ướp không có ở bên trong). Anh không nhìn thấy một dấu vết nào của một kẻ thứ hai cư ngụ trong căn phòng, và anh vừa đi ra vừa tự nghĩ là có lẽ anh đã bất công với Belling¬ham. Nếu anh này muốn giữ kín một điều bí mật tội lỗi thì anh ta đã không để ngỏ cửa phòng, mặc cho ai tới thì tới.
Cần thang xoáy trôn ốc tối đen như mực. Smith đi xuống một cách thận trọng những bậc thang gồ ghề, thì bỗng nhiên anh thấy có người vừa đi ngang qua anh trong bóng tối. Anh nhận ra một tiếng động nhỏ, một sự chuyển động không khí, một cái chạm nhẹ vào khuỷu tay anh, cái chạm nhẹ quá khiến anh tự hỏi có phải là anh đang mơ ngủ chăng. Anh dừng bước và lắng tai nghe, nhưng gió thổi rì rào trong cây trường xuân, và anh không thể nghe được tiếng gì khác.
Anh la lớn:
- Có phải anh không, Styles?
Không có tiếng trả lời, phía sau anh tất cả đều im lìm và lặng lẽ; chắc chắn đây là một luồng gió, vì trong cái tháp cũ kỹ này không thiếu gì những khe nứt. Tuy nhiên, anh tin chắc là anh đã nhận thấy tiếng bước chân đi gần sát chỗ anh. Lúc anh đi ra tới sân, bụng đang suy nghĩ vê sự cố này, thì một người băng ngang qua bồn cỏ chạy tới.
- Có phải anh đấy không, Smith?
- Chào Hastie.
- Vì lòng thương của Thượng Đế, anh đến ngay đi? Anh chàng Lee bị chết đuối. Har¬rk¬ing¬ton báo cho tôi tin đó. Y sĩ đi mất rồi. Chỉ cần anh là đủ. Nhưng chạy nhanh lên, anh bạn già! Có lẽ anh ta còn chưa chết hẳn.
- Anh có rượu cô nhắc không?
- Không.
- Để tôi đi kiếm rượu. Trên bàn của tôi có một chai.
Smith leo bốn bậc một của ba tầng nhà, cầm lấy chai rượu, và chạy xuống cầu thang; nhưng khi anh đi qua cửa phòng Belling¬ham, anh thấy một vật gì làm anh đứng không nhúc nhích được trên đầu cầu thang, miệng thở hổn hển.
Cái cửa mà anh đã đóng lại khi đi ra thì bây giờ bỏ ngỏ, và ngay trước mặt anh, dưới ánh sáng của ngọn đèn, là cái hòm đựng xác ướp. Trước đây ba phút, cái hòm trống rỗng. Anh sẵn sàng thề về sự việc này. Bây giờ thì nó bao kín cái xác gầy ốm của gã khách trọ đáng sợ đang đứng, hung hiểm và cứng đờ, với cái mặt co rúm quay ra cửa và có vẻ như không còn sự sống. Nhưng Smith có cảm tưởng là, cứ nhìn mãi vào bộ mặt đó nó còn tích tụ được một tia sinh khí, một dấu hiệu mơ hồ của ý thức trong cặp mắt nằm phía sau những hốc mắt trống rỗng. Anh quá đỗi kinh hoàng về việc này đến nỗi quên luôn tai nạn của Monkhouse Lee; anh ở nguyên đó, đứng như trời trồng trước cái cửa mở ngỏ, hai mắt dán chặt vào cái xác trơ xương đó; tiếng nói của người bạn gọi anh trở về với thực tế. Anh bạn kêu to:
- Mau lên, Smith! Đây là vấn đề sinh, tử, anh bạn già ạ! Nhanh chân lên!
Khi chàng sinh viên y khoa ra tới ngoài sân, anh ta nói thêm:
-... Ta cùng chạy mau đi. Chưa đến một ngàn năm trăm mét. Ta phải tới đó trong năm phút. Một mạng sống đáng để cho ta chạy như khi đoạt một kỷ lục về tốc độ.
Sát cánh nhau, họ lao mình đi trong đêm tối, và họ chỉ dừng lại trước cửa căn nhà nhỏ, khi đã hết hơi và kiệt sức. Anh chàng trai trẻ Lee, mình ướt đẫm nước nom như một cái cây nhỏ mọc dưới nước bị gẫy rập, được đặt nằm dài trên cái tràng kỷ; trong tóc anh ta còn thấy chất bọt xanh lục của nước sông, và một ít bọt trắng trên cặp môi xám như chì. Quỳ ở bên anh ta, Har¬ring¬ton, người bạn cùng phòng, đang cố gắng làm nóng lại chân tay cứng đơ của anh ta.
Sau khi đặt bàn tay lên tim của Lee, Smith nói:
- Tôi nghĩ là anh ấy còn sống. Hãy áp mặt kính đồng hồ của anh vào môi anh ấy đó. Phải, có hơi nước trên mặt đồng hồ. Hastie à, hãy nắm lấy một cánh tay. Bây giờ hãy làm như tôi, và chẳng bao lâu ta sẽ làm anh ấy hồi tỉnh.
Trong mười phút họ cùng làm những động tác nhằm làm cho ngực của Lee phồng lên và xẹp xuống, rồi cơ thể anh ta rung động đôi môi run rẩy, và anh ta mở mắt ra, ba chàng sinh viên lúc đó bừng lên một mềm vui không thể kìm hãm dược.
- Tỉnh dậy đi, anh bạn già. Anh đã làm chúng tôi sợ hãi.
- Một chút cô nhắc! Hãy uống một hớp trong cái chai.
- Tốt lắm rồi. - người bạn đồng phòng Har¬rk¬ing¬ton nói lớn. - Lạy Chúa, tôi đã sợ hãi biết chừng nào. Tôi đang đọc sách ở đây, anh ấy đi ra ngoài để dạo một vòng ở phía con sông; tôi nghe thấy một tiếng kêu và. tiếng ngã xuống nước. Tôi chạy ngay ra, lúc tôi tìm ra anh ấy và vớt anh ấy lên thì hình như sự sống đã rời bỏ anh ấy. Và Simpsin không thể chạy đi tìm một y sĩ, vì hắn bị què; lúc đó tôi phải chạy thật nhanh. Các bạn ạ, không có các bạn thì tôi không biết sẽ phải làm thế nào. Mọi sự tốt lành, anh bạn già ạ. Ngồi dậy đi!
Monkhouse Lee chống hai tay ngồi dậy, nhìn quanh anh hỏi:
- Việc gì xảy ra thế? Tôi bị ướt đẫm thế này. À, phải rồi. Tôi nhớ ra rồi.
Sự sợ hãi hiện ra trong mắt anh; anh úp mặt vào hai bàn tay.
- Làm thế nào mà anh lại ngã xuống nước?
- Tôi không bị ngã.
- Thế nào?
- Tôi đã bị quăng xuống nước. Tôi đang đứng trên bờ; tôi đã bị nâng bổng lên từ đằng sau và bị ném xuống sông. Tôi đã không trông thấy gì cả, tôi đã không nghe thấy gì cả. Nhưng mặc dù vậy tôi cũng vẫn biết đó là cái gì.
- Tôi cũng vậy! - Smith nói lẩm bẩm.
Lee liếc sang anh một cái nhìn kinh ngạc.
- Vậy là anh cũng biết chuyện à? Anh còn nhớ lời khuyên của tôi nói với anh chứ?
- Có, và tôi bắt đầu nghĩ là tôi sẽ theo lời khuyên của anh.
Hastie nói:
- Tôi không biết là anh nói cái gì; nhưng nếu tôi là anh thì tôi bắt buộc Lee phải nằm xuống ngay. Khi nào anh ấy khỏe lại, ta sẽ có thì giờ để bàn về lý do tại sao và sự việc thế nào. Anh Smith ạ, tôi nghĩ là chúng ta có thể để anh ấy ở lại một mình lúc này. Tôi trở lại trường học, nếu anh cũng di đường ấy thì chúng ta sẽ có thể nói chuyện phiếm một lát.
Cuộc nói chuyện phiếm rất mau lẹ, Smith rất bận tâm về các sự cố trong buổi tối: sự vắng mặt cái xác ướp trong phòng khách của gã hàng xóm, sự động chạm phớt qua mà anh cảm thấy trong cầu thang, sự tái hiện không thể giải thích được và kỳ quái của cái xác ướp đáng sợ, rồi tới cuộc tấn công vào Lee đã giống một cách quá kỳ dị với cuộc tấn công trước đây vào Nor¬ton (hai kẻ thù của Belling¬ham). Anh xoay di đảo lại những dữ kiện này trong đầu óc, cung như những chi tiết nhỏ đã khiến anh khó chịu với anh chàng hàng xóm và những tình huống không bình thường đã bắt buộc anh phải đến phòng của anh ta lần đầu tiên. Những gì trước kia chỉ là một sự nghi ngờ mơ hồ, đầy tưởng tượng, thì nay bỗng nhiên đã thành hình, hiện ra trong trí óc anh dưới hình dạng một sự việc không thể chối cãi được. Tuy nhiên, một sự việc mới quái gở làm sao! Một sự việc chưa từng có bao giờ? Ở ngoài tất cả mọi tưởng tượng của con người. Một vị quan tòa vô tư, ngay cả đến một người bạn đi theo sát bên anh, đều sẽ nói một cách đơn giản rằng cặp mắt anh đã lừa dối anh rằng cái xác ướp lúc nào cũng nằm trong cái hòm của nó, rằng cậu trai Lee bị ngã xuống nước vị bất cẩn, và rằng những viên thuốc màu xanh là vị thuốc tuyệt hảo cho một buồng gan không hoạt động tốt. Anh cảm thấy anh cũng sẽ nói như vậy nếu cái ngôi vị được thay đổi ngược lại. Tuy nhiên anh có thể đoan chắc rằng kỳ thực Belling¬ham là một kẻ sát nhân, và hắn ta có một loại khí giới mà chưa bao giờ có ai sử dụng trong lịch sử của tội ác.
Hastie đã từ biệt anh để trở về phòng, không quên làm anh nhức óc bởi những lời bình phẩm nghiêm ngặt và khoa đại về sự thiếu xã gi¬ao của người bạn hàng xóm của anh. Aber¬crom¬bie Smith đi ngang qua cái sân, và khi đi về phía cái tháp nhỏ, anh cảm thấy một mối ác cảm dữ dội đối với các căn hộ và những người ở trọ. Anh sẽ theo lời khuyên của Lee và sẽ dọn đi càng sớm càng tốt vì làm sao mà anh có thể làm việc được nếu lúc nào tai anh cũng phải căng ra để rình nghe bất cứ một tiếng thầm phào nào hay một tiếng bước chân nhẹ nhất trong căn phòng bên dưới? Anh nhận thấy rằng cửa sổ của Belling¬ham còn thắp đèn sáng. Khi anh đi qua trước cửa phòng hắn, thì cánh cửa mở ra và Belling¬ham bằng xương bằng thịt bước tới chỗ anh. Với cái mặt béo phị và hung ác, anh ta có dáng bộ một con nhện mập mạp từ trong mạng tơ giết người đi ra.
Anh ta nói:
- Xin chào! Anh có muốn vào chơi không?
- Không! - Smith hét lên với một giọng hung hãn.
- Không à? Lúc nào cũng bận rộn như thế phải không? Tôi muốn hỏi thăm anh về tin tức của Lee. Tôi rất buồn nghe tin tai nạn xảy ra với anh ấy.
Anh ta có một vẻ mặt nghiêm trọng; nhưng trong khi nói hai mắt anh ta sáng ngời một sự mãn nguyện được che giấu một cách vụng về; Smith nhìn thấy điều đó; suýt nữa thì anh chồm lên người anh ta.
Anh đáp lại:
- Anh sẽ còn buồn hơn nữa khi biết rằng Monkhouse Lee rất khỏe mạnh và anh ấy đã hoàn toàn thoát khỏi hiểm nguy. Lần này thì các thủ đoạn quỷ quái không thành công rồi. Ồ, vô ích thôi, đừng cố làm ra vẻ bạo dạn nữa! Tôi đã biết hết rồi.
Belling¬ham lùi lại một bước trước chàng sinh viên đang nổi giận, và anh ta khép cái cửa lại một nửa hình như để tự bảo vệ.
Anh ta nói:
- Anh điên à! Những lời anh nói là nghĩa làm sao? Anh có ý cho rằng tôi có liên can tới vụ tai nạn của Lee?
Smith gầm lên:
- Phải! Anh và cái bao xương phía sau anh kia kìa. Chính anh đã bày mưu lập kế tất cả vụ này. Tôi sẽ nói cho anh rõ việc này, ông B. ạ? Bây giờ người ta không còn thiêu sống những kẻ thuộc loại người như anh, nhưng người ta còn các cột xử giảo và những đao phủ, và xin thề có thánh Ge¬oges, nếu bất cứ một người nào trong trường học bị chết vì tai nạn trong khi anh ở đây là tôi sẽ cho bắt giữ anh, và nếu anh không bị treo lủng lẳng ở đầu một sợi dây thừng, thì dó không phải lỗi ở tôi, hãy tin tôi đi! Anh sẽ thấy rằng những thủ phạm dê hèn kiểu Ai Cập không có hiệu lực ở nước Anh này.
- Anh là một thằng điên nói mê sảng!
- Được lắm! Chỉ cần anh nhớ lấy những điều tôi đã nói với anh; nếu không, anh sẽ có thể nhận thấy rằng tôi là một kẻ giữ lời hứa!
Cánh cửa đóng sập lại; Smith tức giận điên cuồng, đi lên phòng mình đóng và khóa cửa lại, rồi thức suốt một nửa đêm hút cái píp cũ kỹ làm bằng rễ cây của anh để suy nghĩ về các biến cố kỳ quặc trong buổi tối.
Sáng hôm sau Aber¬crom¬bie không nghe thấy động tĩnh gì trong căn hộ của gã hàng xóm; nhưng buổi chiều thì Har¬rk¬ing¬ton tới gặp anh để báo tin rằng Lee đã gần như hoàn toàn hồi phục. Suốt cả ngày Smith đã làm việc như một kẻ điên khùng; lúc chiều tối, anh quyết định đi thăm người bạn là bác sĩ Pe¬ter¬son, nơi mà anh đã muốn tới trước đây hai mươi bốn giờ. Một cuộc đi dạo và một buổi chuyện trò thân mật sẽ rất bổ ích cho các dây thần kinh đang căng thẳng của anh.
Cửa phòng của Belling¬ham đóng kín; nhưng khi anh quay đầu lại ở trong sân, nơi cách cái tháp nhỏ một khoảng ngắn, anh trông thấy một bên đầu của gã hàng xóm ở cửa sổ; ánh sáng ngọn đèn soi rõ toàn thể người anh ta, mặt anh ta đang áp sát vào cửa kính, làm như đang nhìn xoi mói vào khoáng tối tăm. Tránh xa tình trạng quái gở của anh ta, dù chỉ là trong một vài giờ, cũng là một điểm hay! Smith rảo bước đi, hít thở không khí mùa xuân căng đầy buồng phổi. Vành trăng một nửa nhô lên ở phía tây giữa hai tháp chuông kiểu gô tích. Một cơn gió mát nhẹ nhàng đẩy những đám mây nhỏ ùn ùn như những nắm bông trên trời. Trường cao đẳng tọa lạc ngoài rìa thành phố, chả mấy chốc Smith đã thấy mình đi giữa những hàng rào trên con đường nhỏ của thị trấn Ox¬ford¬shire thơm ngát mùi hương của ngày hè.
Con đường nhỏ ít người qua lại, như con đường dẫn tới nhà của bạn anh? Tuy đêm chưa khuya mà Smith chẳng gặp một người nào. Anh đi tới trước tầm lưới sắt mở vào lối đi dài lát sỏi dẫn lên tới Far¬ling¬ford. Trước mặt anh, anh nhìn thấy những ánh sáng đỏ và dịu dàng của các cửa sổ lập lòe qua lớp lá cây. Anh dừng lại, một bàn tay đặt lên sợi dây xích sắt của tấm lưới sắt và anh quay lại nhìn con đường nhỏ mà anh vừa đi qua một vật gì đang di chuyển rất nhanh, đang chạy tới phía anh đứng.
Đó là một hình thù đen sẫm, lom khom lướt đi dưới bóng tối của hàng rào, một cách lặng lẽ và lén lút trên cái nền đen kịt này, thật khó mà nhìn thấy nó. Trong lúc anh quan sát nó, thì nó đã rút ngắn dược hai mươi bước khoảng cách giữa nó và anh. Nó đang làm một cuộc săn đuổi anh. Từ trong bóng tối âm u hiện ra một cái cổ trơ xương và hai con mắt mà anh ghi mãi trong ký ức cho tới khi lìa bỏ cõi đời. Anh quay người lại thốt lên một tiếng kêu kinh hoàng, và lao người vào lối đi với tất cả tốc độ của đôi chân. Ở cuối lối đi có những ánh sáng màu đỏ, sự an toàn không còn bao xa. Smith là một chân chạy cừ khôi; chưa bao giờ anh lại chạy nhanh đến như tối hôm nay.
Tấm lưới sắt nặng nề đã khép lại sau lưng anh, nhưng anh nghe thấy nó lại mở ra dưới sức đẩy của kẻ đuổi theo anh. Vừa chạy một cách điên cuồng, anh vừa lắng tai nghe tiếng động nhỏ, khô khan của những bước chân vội vã đang mỗi lúc mỗi tới gần anh. Anh ngoái cổ nhìn lại phía sau: con quái vật nhảy chồm lên đuổi theo bén gót anh như một con cọp với cặp mắt tóe lửa và một cánh tay đầy gân chằng chịt đã duỗi thẳng ra để túm lấy anh, may thay, cái cửa lại mở hờ hờ: Anh nhìn thấy một vệt sáng mỏng manh của ngọn đèn trong đại sảnh chiếu xuống. Tiếng bước chân đã vang lên ngay đằng sau anh. Anh nghe thấy một thứ tiếng gì cộc cộc ngay sát vai anh. Anh vừa hét lên vừa lao sang phía bên kia cánh cửa, sập cửa và cài chốt lại, rồi anh gục xuống, nửa tỉnh nửa mê trên cái ghế bành ở lối ra vào
- Đội ơn trời đất, Smith? Chuyện gì đã xảy ra? - Pe¬ter¬son hỏi khi ông vừa xuất hiện trên bậc cửa phòng làm việc của ông.
- Cho tôi xin một ly cô nhắc!
Pe¬ter¬son đi khỏi để rồi lại trở ra một lát sau đó với một cái cốc và một cái bình pha lê.
- Anh cần có rượu - ông vừa nói vừa nhìn khách uống một hơi cốc rượu mà ông vừa rói. - Trời ơi, anh bạn trẻ, trông anh trắng bệch như là một cục phô mai ấy?
Smith để cái cốc xuống, đứng lên, và hít vào một hơi dài.
Anh nói:
- Tôi đã hoàn hồn rồi. Chưa bao giờ tôi để mình bị đánh ngã gục như thế này nhưng ông Pe¬ter¬son ạ, xin ông cho phép tôi được ngủ lại ở đây đêm nay, vì tôi không tin rằng tôi sẽ có thể mạo hiểm trên con đường này trừ khi vào lúc ban ngày. Chắc chắn đó là một sự hèn nhát; nhưng tôi không thể làm gì hơn được.
Pe¬ter¬son chăm chú nhìn anh với một con mắt dò hỏi.
- Tất nhiên rồi, nếu anh thích thì anh cứ ngủ ở đây. Tôi sẽ bảo bà Bar¬ney thu xếp giường để anh nằm nghỉ. Bây giờ anh đi đâu?
- Xin ông hãy cùng tôi lên chỗ cái cửa sổ nằm trên cái cửa ra vào. Tôi muốn cho ông nhìn thấy điều gì mà tôi đã trông thấy.
Họ cùng đứng ở chỗ cửa sổ từ nơi đó họ có thể quan sát các nơi xung quanh căn nhà. Con đường đi, những cánh đồng nằm hai bên con đường đều yên tĩnh và lặng lẽ dưới ánh trăng.
Pe¬ter¬son nói thì thào:
- Smith à, thực sự ra tôi biết rõ rằng anh không bao giờ uống đến say mà. Vậy thì cái gì đã làm anh sợ hãi quá đến thế?
- Tôi sẽ nói cho ông biết. Nhưng nó đã có thể đi đâu nhỉ? À, chú ý nhìn kìa! Nhìn đi! ông nhìn thấy chỗ ngoẹo của con đường chứ, ngay bên ngoài tấm lưới sắt của ông đó?
- Có, tôi nhìn thấy. Anh không cần phải nhéo tay tôi Tôi trông thấy một người đi qua. Tôi nghĩ rằng đó là một người đàn ông có vẻ gầy còm, và cao lớn, rất cao lớn. Nhưng hắn là ai chứ? Và hắn có gì liên hệ với anh? Anh run rẩy như một cái lá liễu vậy?
- Chỉ cách hai ngón tay nữa là tôi đã bị con quỷ này chộp được, đó là tất cả câu chuyện. Nhưng ta hãy xuống phòng làm việc của ông, tôi sẽ kể tất cả câu chuyện cho ông nghe...
Anh kể lại câu chuyện. Dưới ánh đèn sáng, một cốc rượu trong tay, trước vẻ mặt tươi cười của người bạn, anh thuật lại tất cả mọi biến cố lớn và nhỏ đã hên tiếp xảy ra một cách quá bất thường. Rồi anh kết luận:
-... Sự việc như thế đấy! Nó thật là quái dị, không thể tin dược, nhưng lại là có thật.
Bác sĩ Plumptree Pe¬ter¬son vẫn ngồi yên không nói gì, rõ ràng là ông rất băn khoăn... Rồi ông nói:
- Tôi chưa bao giờ nghe thấy một chuyện như vậy, chưa từng bao giờ! Anh đã cho tôi biết các sự việc. Bây giờ xin anh cho tôi biết sự suy diễn của anh.
- Ông chỉ cần lấy ra những sự suy diễn của chính ông thôi!
- Phải, nhưng tôi muốn biết sự suy diễn của anh. Anh đã suy nghĩ nhiều về sự việc. Không phải tôi.
- Nói một cách miễn cưỡng, kết luận của tôi sẽ đôi phút mơ hồ về các chi tiết, nhưng tôi thấy nhưng điểm chính khá rõ ràng. Gã Belling¬ham, trong các môn học về Đông phương, đã học được một bí quyết ma quái nào đó, nhờ bí quyết này một cái xác ướp, hoặc có thể chỉ nguyên cái xác ướp này, có thể được tạm thời làm cho sống lại. Hắn ta đang thử nghiệm thủ đoạn ghê tởm đó vào buổi tối mà hắn ngất xỉu đi. Chắc chắn là cảnh tượng cái xác này bắt đầu cứ động đã quá mãnh hệt đối với các dây thần kinh của hắn, ngay cả khi hắn đang chờ đợi sự việc. Ông còn nhớ rằng những tiếng đầu tiên hắn thốt ra là dùng để nói hắn là đồ ngu ngốc. Sau đó hắn trở thành chai lì và hắn kiên tâm theo đuổi mà không ngất xỉu nữa. Sức sống mà hắn có thể đưa vào cái xác ướp chỉ là một sức sống thoảng qua trong chốc lát, vì tôi đã nhìn thấy nó không biết bao nhiêu lần trong cái hòm của nó, nó cũng bất động như cái bàn này. Tôi đoán rằng nhờ vào một phương cách phức tạp hắn đã đạt tới chỗ gọi lên được và trừ bỏ được sức sống đó. Khi hắn đã nắm vững được phương cách, dĩ nhiên là hắn có ý tưởng dùng cái xác ướp của hắn như là một tên tay sai. Nó có trí thông minh và sức mạnh. Vì một mưu đồ nào đó, hắn đã cho Lee biết bí mật; nhưng Lee vốn là một tín đồ Cơ đốc ngay thẳng, đã không muốn nghe một chút nào: do đó mới có sự cãi lộn, và Lee thề rằng anh ta sẽ nói cho em gái biết về bản chất thật sự của Belling¬ham. Lúc đó ý định của Belling¬ham là nhằm ngăn cản không cho Lee tiết lộ việc này, và hắn ta đã gần đạt được mục đích khi tung cái xác ướp đuổi theo Lee. Hắn cũng đã thử quyền năng của hắn với một thanh niên khác là Nor¬ton, người mà hắn có một mối hận thù. Nếu hắn không bị hai vụ án mạng đè lên lương tâm cũng hoàn toàn vì sự ngẫu nhiên thôi? Rồi lúc tôi kết tội hắn là một tên sát nhân, thì hắn có đủ mọi lý do để gạt tôi ra khỏi con đường của hắn trước khi tôi có thể nói chuyện này với một người nào khác. Hắn đã thử thời vận lúc tôi đi ra khỏi nhà, vì hắn biết rõ các thói quen của tôi và hắn biết tôi đi đâu. Tôi đã thoát được tay hắn một cách yên lành, ông Pe¬ter¬son ạ, và cũng là một sự ngẫu nhiên mới nữa nếu ông đã không phát hiện ra tôi nằm chết trên bậc cửa nhà ông. Nói chung ra, tôi không phải là người nhút nhát, nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng tôi lại sợ hãi như tôi đã sợ lúc vừa rồi.
Ông bạn của anh nói:
- Anh bạn trẻ ơi, anh đã xem xét các sự việc một cách quá quan trọng đó! Anh đã có các dây thần kinh bị hủy hoại vì công việc của anh, và anh đã phóng đại các sự cố. Làm thế nào mà một cái xác ướp lại có thể đi dạo chơi trong các đường phố của Ox¬ford, ngay cả vào ban đêm, mà không bị nhìn thấy?
- Nó đã bị nhìn thấy. Tất cả thành phố đều nói về một con khỉ sổng chuồng, họ gọi nó như vậy.
- Đúng là thế, tình tiết câu chuyện thật kỳ lạ! Anh bạn trẻ ạ, tuy nhiên anh cũng phải chấp nhận rằng mỗi sự cố tự thân nó cũng có thể được giải thích một cách hợp với tự nhiên hơn.
- Thế nào! Ngay cả tai họa của tôi buổi tối nay à?
- Chắc chắn là vậy, anh ra khỏi nhà rất căng thẳng, đầu óc chứa đầy các lý thuyết quái gở. Một tên lang thang sắp chết đói đi theo gót anh, thấy anh chạy nó cũng vội vã chạy theo sau anh. Sự sợ hãi và óc tưởng tượng của anh đã làm nốt phần còn lại.
- Không, Pe¬ter¬son ạ. Luận điểm của ông không đứng vững. Tôi bác bỏ nó.
- Và còn nữa, nghe đây, về nhuyễn cái hòm đựng xác ướp bị bỏ trống rồi lại có cái xác! Ngọn đèn bị vặn nhỏ đi và anh đã không có một lý do đặc biệt nào để nhìn cái hòm một cách chăm chú. Rất có thể là lần đầu tiên anh đã không nhìn thấy cái xác ướp.
- Chắc chắn là không! Tôi không nghi ngờ chút nào!
- Rồi thì Lee ngã xuống nước, và Nor¬ton là nạn nhân của một tên bóp cổ. Rõ ràng là một sự giả định đáng sợ chống lại Belling¬ham, nhưng nếu anh đưa việc này ra trước một vị quan tòa thì ông ấy sẽ cười vào mũi anh.
- Tôi biết rõ điều đó. Đó là lý do tại sao tôi muốn một mình giải quyết vụ này.
- Thế nào?
- Đúng vậy. Tôi có cảm tưởng là tôi có một nhiệm vụ đối với sự lành mạnh của xã hội và hơn nữa tôi phải hành động cho sự an toàn của chính bản thân tôi: nếu không, có thể nói rằng, tôi thích bị xua đuổi ra khỏi trường cao đẳng bởi một cái xác ướp; đó sẽ là một sự hèn nhát không thể tưởng tượng được? Tôi đã quyết định việc mà tôi sắp làm. Và trước hết, tôi có thể mượn cái bút của ông trong một giờ được không?
- Được thứ!
Aber¬crom¬bie Smith ngồi trước một tờ giấy học trò, và trong một giờ đồng hồ, rồi trong một giờ thứ hai, ngòi bút của anh lướt đi một cách nhẹ nhàng. Ông bạn của anh ngồi một cách thoải mái trong chiếc ghế bành, nhìn anh với vẻ hiếu kỳ và nhẫn nại. Sau cùng, Smith thốt lên một tiếng kêu đứng phắt lên, gom nhưng tờ giấy nhỏ của anh, xếp lại theo thứ tự và đặt tờ sau cùng lên bàn giấy của Pe¬ter¬son.
- Xin ông vui lòng đặt chữ ký vào trong tư cách một người làm chứng, - anh nói.
- Người làm chứng? Làm chứng cái gì?
Làm chứng chữ ký của tôi và làm chứng ngày tháng. Ngày tháng là điều quan trọng nhất. Ký đi ông Pe¬ter¬son, tính mạng của tôi có thể tùy thuộc vào nó!
- Anh Smith thân mến ạ, anh nói như một người quá kích động. Anh cho phép tôi mời anh lên giường nằm.
- Ngược lại! Chưa từng bao giờ mà tôi nói với sự điềm tĩnh hơn bây giờ. Và tôi hứa với ông là tôi sẽ đi nằm ngay tức thì sau khi ông đã ký vào.
- Nhưng đó là giấy gì thế?
- Đây là lời khai chứa đựng tất cả những việc mà tôi đã kể lại với ông tối hôm nay. Tôi muốn ông chứng nhận đây đúng là chữ ký của tôi.
- Chắc chắn rồi! - Pe¬ter¬son trả lời trong lúc ký tên vào phía dưới chữ ký của bạn ông. - Ký rồi đó! Nhưng ý nghĩ của anh ra sao?
- Xin ông vui lòng cất giữ tài liệu này, và xuất trình nó trong trường hợp tôi bị bắt giữ.
- Bị bắt giữ ư? Vì nguyên nhân nào?
- Vì tội giết người. Sự việc hoàn toàn có thể xảy ra. Tôi lo chuẩn bị sẵn trước bất kỳ một biến cố nào. Tôi chỉ còn một việc phải làm, và tôi nhất quyết hoàn thành việc đó.
- Nhân danh Chúa, anh chớ nên làm việc gì một cách khinh suất!
- Ông hãy tin ở tôi: mọi phương pháp khác đều còn liều lĩnh hơn nữa. Tôi hy vọng là tôi sẽ không phải làm phiền ông, nhưng tinh thần tôi sẽ bình tĩnh hơn nếu tôi biết là ông đã cất giừ tờ biện minh cho các động lực của tôi. Và bây giờ thì tôi đã sẵn sàng để theo lời khuyên của ông, vì tôi muốn được hoàn toàn khỏe mạnh vào lúc sáng mai.
Aber¬crom¬bie Smith không phải là người để đùa cợt nếu anh có một kẻ thù. Chậm rãi và điềm đạm, anh lại rất đáng sợ khi bị buộc phải hành động. Anh mang tới các mục đích của đời anh cùng một sự quyết tâm đã làm cho anh nổi bật giữa các sinh viên y khoa. Anh đã quyết định gác bỏ công việc trong một ngày, nhưng anh hiểu rõ rằng cái ngày đó không phải là uổng phí. Anh từ chối không thông báo các kế hoạch của anh với ông chủ nhà, và vào lúc 9 giờ thì anh đi trở về Ox¬ford.
Đến đường High Street anh ghé vào hiệu Clif¬ford bán vũ khí, và mua một khẩu súng ru-lô lớn với một hộp đạn. Anh nhét sáu viên đạn vào ổ súng, lên cò và để súng vào túi áo. Sau đó anh đi tới phòng của Hastie; anh chàng chèo thuyền cường tráng đang vừa đọc tờ Sport¬ing Times vừa nhấm nháp bữa điểm tâm.
- Hà! Chuyện gì vậy? - Anh ta hỏi - Anh uống một tách cà phê nhé?
- Không, cảm ơn. Hastie này, tôi muốn anh đi với tôi, và anh sẽ làm điều gì mà tôi yêu cầu làm.
- Đồng ý, chàng trai của tôi!
- Và tôi muốn anh mang theo một cái gậy.
- Này, này...
Hastie trợn mắt, ngạc nhiên.
- Đây là cái gậy đi săn, nó có thể đánh gục một con bò.
- Thứ khác nữa. Anh có một hộp dao giải phẫu. Đưa cho tôi cái dài nhất.
- Đây này. Tôi thấy như anh đang đi ra trận chiến.
- Không còn gì khác nữa à?
- Không, thế là đủ rồi.
Smith dắt con dao giải phẫu vào trong áo và dẫn Hastie tới phía sân nhà anh.
- Cả anh và tôi, chúng ta không phải là hạng người hèn nhát, Hastie ạ. - anh nói - Tôi nghĩ rằng tôi có thể hành động một mình nhưng tôi yêu cầu anh đi với tôi là để phòng hờ. Tôi sẽ nó i chuyệ a vớ Belling¬ham. Nếu tôi chỉ có chuyện với mình hắn, thì tôi sẽ không cần tới anh. Tuy nhiên, nếu tôi kêu lên thì anh sẽ chạy lên và sẽ dùng cái gậy đập hết sức mạnh vào tất cả những gì xuất hiện. Hiểu chứ?
- Hiểu. Tôi sẽ chạy lên nếu tôi nghe thấy anh kêu.
- Trong khi chờ đợi, anh cứ ở đây. Có lẽ tôi sẽ vắng mặt trong chốc lát thôi, nhưng chớ động đậy gì trước khi tôi đi xuống.
- Tôi không nhúc nhích một tí nào.
Smith leo lên cầu thang, mở cửa phòng Belling¬ham và đi vào Belling¬ham đang viết trên bàn. Bên cạnh hắn, cái hòm đựng xác ướp đứng ngay ngắn, với số 249 ghi bên ngoài và kẻ chiếm ngụ gớm ghiếc cứng đờ ở bên trong. Smith quan sát kỹ càng các ngõ ngách trong phòng, đóng cửa lại, đi về phía lò sưởi, đánh một que diêm và đốt lửa lên. Belling¬ham nhìn anh với một vẻ lẫn lộn vừa hoảng sợ vừa tức giận điên cuồng.
- Này, anh tưởng là nhà anh đây hả? - Anh ta nói với một giọng thiếu tự tin.
Smith ngồi xuống một cách cương quyết, để cái đồng hồ của anh lên bàn, móc súng ru-lô ra, kiểm tra lại để thấy nó vẫn có đạn trong ổ, và đặt nó trên đầu gối anh. Rồi anh móc con dao giải phẫu từ trong túi ra và quăng nó cho Belling¬ham.
Anh nói:
- Bây giờ bắt tay vào công việc! Hãy cắt nát cái xác ướp này đi cho tôi.
- Ồ, là như vậy à? - Belling¬ham cười ngạo nghễ.
- Phải, là như vậy! Người ta nói chắc với tôi rằng pháp luật không thể làm gì chống lại anh. Nhưng tôi đem đến một thứ pháp luật, nó sẽ giải quyết vụ việc. Nếu trong năm phút mà anh không bắt tay vào công việc, tôi xin thề có thượng đế là người đã tạo ra tôi là tôi sẽ bắn nát óc anh!
- Anh ám sát tôi à?
Belling¬ham đứng nhỏm lên khỏi ghế, mặt anh ta xám ngắt.
- Phải.
- Nhưng tại sao?
- Để chấm dứt những hành vi tệ hại của anh. Đã quá bốn phút rồi.
- Nhưng tôi đã làm gì?
- Tôi biết diều đó, và anh biết điều đó.
- Thật là chuyện bịp bợm!!!
- Ba phút.
- Nhưng tóm lại, hãy cho tôi biết các lý do của anh! Anh điên rồi... một thằng điên nguy hiểm! Tại sao tôi lại phải phá hủy các xác ướp của tôi? Nó thuộc về tôi mà, và nó đắt tiền lắm!
- Anh phải cắt rời nó ra và anh phải đốt nó đi!
- Không đời nào!
- Anh chỉ còn hơn một phút nữa thôi.
Smith nâng khẩu súng lục lên và nhìn Belling¬ham với cặp mắt không thương xót. Trong khi cây kim giây của đồng hồ đang quay, anh nhằm vào Belling¬ham và đặt ngón tay lên cò súng.
- Này! Này! Tôi sẽ đốt nót - Belling¬ham gào to.
Trong một sự vội vã mê loạn anh ta giật lấy con dao giải phẫu và cắt vụn thân mình của cái xác ướp, vừa cắt vừa quay nhìn lại để coi chừng người khách khủng khiếp đang theo dõi anh ta, cái xác ướp kêu lắc cắc và xúm xuống với những tiếng khô khan dưới mỗi nhát cắt của lưỡi dao sắc bén. Từ thân thể nó túa ra một lớp bụi dày đặc màu vàng. Những hương liệu, những tinh dầu đã khô cạn vương rải rác trên sàn gác. Bỗng nhiên, trong một tiếng rách xoạt lớn, cái xương sống gãy vụn và cái xác ướp đổ ụp xuống thành một đống màu nâu những chân và tay rời rạc.
- Cho vào lửa! - Smith ra lệnh.
Những ngọn lửa bốc lớn lên và nổ lốp bốp khi chúng bén vào các mảnh vụn, giống như củi khô này. Căn phòng nhỏ có thế giống như buồng đốt lò của một chiếc tàu biển. Hai người đàn ông mồ hôi nhỏ giọt; một người tiếp tục cúi gằm xuống và quăng những mánh cuối cùng còn lại của cải xác ướp vào trong lừa, trong khi người kia canh chừng người này. Một luồng khói dày đặc có mùi thịt cháy khét tuôn ra từ lò sưởi; mùi nhựa thông làm ngột ngạt không khí. Sau mười lăm phút, ở lô số 249 chỉ còn lại vài cái que nhỏ đã cháy thành than.
- Có lẽ anh đã mãn nguyện rồi chứ? - Belling¬ham càu nhàu. Cặp mắt nhỏ xám xì của anh ta bộc lộ sự hằn học và lo sợ
- Không. Tôi phải trừ bỏ hết các vật liệu của anh, để cho không bao giờ anh còn chơi những trò ma quỷ của anh với chúng tôi nữa. Đốt tất cả những giấy tờ này đi? Chúng có thể liên hệ với các âm mưu của anh.
- Và bây giờ, còn gì nữa? - Belling¬ham hỏi, khi những tờ giấy đã được quặng vào lò than hồng.
- Bây giờ hả? Cuộn chỉ thảo mà anh để trên bàn tối hôm nọ. Nó ở trong ngăn kéo này, tôi nghĩ vậy.
- Không! - Belling¬ham kêu lên - Đừng đốt chỉ thảo! Này, anh bạn, anh không biết là anh đang làm gì? Nó là vật độc nhất. Nó chứa đựng một bài học về sự khôn ngoan mà ta không tìm được ở bất cứ nơi nào khác!
- Đốt đi!
- Nhưng này, Smith, không thể được! Tôi sẽ chia sẻ với anh kiến thức của tôi. Tôi sẽ dạy anh tất cả những điều ở trong đó. Ít nhất là hãy để cho tôi chép lại trước khi anh đem đốt nó.
Smith tiến lên một bước và mở ngăn kéo. Anh cầm lấy cuốn giấy đã ngả màu vàng và ném nó vào đống lửa. Belling¬ham vừa la lớn vừa muốn giật cuốn giấy ra khỏi đống lửa. Smith đẩy anh ta ra một cách thô bạo và đứng yên, chân đè trên cuốn chỉ thảo cho tới khi nó biến thành những mảnh tro không hình dạng.
- Bây giờ thì, thưa ngài B., tôi tin rằng tôi đã nhổ hết răng của anh. Anh sẽ nhận được tin tức của tôi nếu tôi lại bắt gặp anh chơi cái trò này. Và bây giờ thì chào tạm biệt, vì tôi còn phải tiếp tục làm việc.
Đây là câu chuyện của Aber¬crom¬bie Smith về các biến cố diễn ra trong trường cao đẳng Ox¬ford cổ kính vào mùa xuân năm 1884, hình như Belling¬ham rời bỏ trường đại học ngay sau đó và hình như anh ta định cư ở Soudan, không ai có thể đưa ra sự kết tội chống lại anh ta. Nhưng trí tuệ của con người thì nhỏ, mà những đường đi của tạo hóa thì lạ lùng; ai dám liều lĩnh đặt để một giới hạn cho những sự huyền bí là những thứ có thể được khám phá bởi những kẻ săn tìm chúng không mệt mỏi?
10. Cuộc thí nghiệm ly kỳ tại Keinplatz
Trong tất cả các khoa học thường gây ra sự hồ nghi cho con người, thứ làm cho giáo sư Baum¬garten say mê là thứ thuộc về khoa tâm lý học và những sự liên quan không rõ ràng giữa tinh thần và vật chất. Vốn là một nhà giải phẫu tiếng tăm, một nhà toán học nổi danh, một người có thẩm quyền ở châu Âu về khoa tâm lý học, ông đã cảm thấy thật sự khoan khoái khi từ bỏ những sở trường chuyên môn đã có và sử dụng những kiến thức đã đắc thủ được của ông vào việc nghiên cứu về linh hồn và vào mối liên hệ bí ẩn của các hồn ma. Lúc khởi đầu hồi còn trẻ tuổi, ông đã tưởng như lạc lõng trong một xứ sở xa lạ, nơi mà mọi thứ đều lộn xộn và tối tăm, ngoại trừ một vài sự việc không thể giải thích được và chẳng có liên hệ gì với nhau đã xuất hiện trước mặt ông. Những năm tháng qua đi và kiến thức của vị giáo sư lỗi lạc càng tích tụ thêm (vì kiến thức sinh ra kiến thức, vốn đẻ ra lời), phần lớn những điều xưa kia tỏ ra kỳ lạ với ông nay bắt đầu mang một vẻ mặt mới. Những hệ thống suy luận mới mẻ đã trở nên quá quen thuộc đối với ông và ông đã nhận ra mối liên hệ tại các nơi mà trước đây ông đã không phát hiện ra chút gì. Nhờ vào những kinh nghiệm rải rác trong hai mươi năm, ông đã thu thập được một căn bản của các sự việc và dựa vào đó ông có tham vọng kiến tạo một khoa học mới, chính xác bao gồm môn chữa bệnh bằng nhân điện, môn thông thần học và tất cả các học thuyết cùng loại đó. Mọi việc trở nên dễ dàng với ông nhờ sự hiểu biết toàn hảo của ông về những yếu tố phức tạp nhất trong môn sinh lý học động vật, là môn nghiên cứu về các luồng thần kinh và về các công việc của bộ óc. Thực ra thì Von Baum¬garten là Giáo sư Đại học môn sinh lý học tại trường đại học Kein¬platz và ông có sẵn trong tay tất cả tài liệu trong phòng thí nghiệm của ông để dùng vào những cuộc sưu tập mới mẻ nhất.
Cao lớn và mảnh khảnh, giáo sư Baum¬garten có một bộ mặt thô kệch và một cặp mắt màu thép xám linh hoạt một cách dị thường và rất sắc sảo. Sự suy tư đã vạch ra nhiều nếp nhăn trên trán ông cũng có vẻ cau có, nhưng người ta sẽ lầm nếu coi cái bề ngoài này là sự thật, vì nếu ông là người khắc khổ, ông lại có từ tâm. Các sinh viên rất mến ông, sau mỗi buổi học họ đứng vây quanh ông và họ say sưa nghe ông đưa ra những lập luận kỳ lạ. Ông thường nhớ tới những người tình nguyện trong bọn họ để thử một cuộc thí nghiệm sảng khoái về cách chữa bệnh bằng nhân điện.
Anh chàng nồng nhiệt nhất trong đám môn đệ trẻ về khoa học đó tên là Von Har¬man. Các bạn bè của anh ta đôi khi kinh ngạc khi thấy một gã con trai dữ dằn và lông bông, chắc chắn anh là một gã ngông nghênh nhất trong bọn các thanh niên quê quán ở thung lũng sôn Rhin, mà lại dành rất nhiều thời giờ để tìm những công việc mơ hồ hoặc để phụ giúp vị giáo sư trong các cuộc thí nghiệm của ông. Thật ra, Har¬man là một tên láu cá, anh ta đã rõ những gì anh ta làm. Trước đó nhiều tháng anh ta đã tỏ tình với cô thiếu nữ Elise, cô gái có mái tóc vàng nâu và đôi mắt màu xanh, ái nữ của vị Giáo sư, mặc dù anh đã được nghe tự chính miệng cô nói ra rằng không phải cô đã vô tình trước sự ân cần của anh, nhưng chưa bao giờ anh dám ra mắt cha mẹ cô trong tư cách một vị hôn phu. Do đó anh đã gặp nhiều khó khăn để gặp cô thiếu nữ, nếu anh không kiếm ra được cái cớ là tới phụ giúp vị Giáo sư. Với mưu chước này anh thường tới nhà vị thông thái già cả và anh đã mạnh dạn tham dự vào mọi cuộc thí nghiệm có thể làm được và có thể tưởng tượng được nếu như anh có cơ hội nhìn thấy cặp mắt long lanh của Elise hay sờ vào bàn tay nhỏ bé của cô.
Chàng thanh niên Von Har¬man là một anh con trai khá đẹp và như ngươì ta nói, một số ruộng đất đáng kể sẽ lọt vào tay anh khi nào cha anh chết đi. Nhiều bậc cha mẹ sẽ hài lòng với một chàng rể như vậy cho con gái của họ. Nhưng bà giáo sư đã cau mày mỗi khi bà nhìn thấy anh trong nhà bà và bà cằn nhằn ông Giáo sư về việc đã rước một con sói vào gần con cừu non của họ. Thật sự thì Har¬man đã mang tiếng không được tốt lành tại Kein¬platz, chẳng có cuộc đánh lộn nào, cuộc đọ kiếm nào, vụ tai tiếng nào mà anh chàng thanh niên thung lũng sông Rhin này lại không đứng đầu sổ. Không ai dám dùng một ngôn ngữ phóng túng hơn và ngỗ nghịch hơn. Không ai uống rượu nhiều hơn, không ai say mê bài bạc hơn, không ai lại vô tích sự hơn, ngoại trừ trong lãnh vực rất đặc biệt này? Do đó ta không lấy gì làm kinh ngạc về việc bà Baum¬garten phải gìn giữ cô gái cưng của bà và tỏ ra khinh miệt sự ve vãn của anh chàng bất hảo này. Về phần vị giáo sư lỗi lạc, ông đã quá say mê với các công việc của riêng ông nên ông chả có ý kiến gì.
Đã nhiều năm nay, một vấn đề đã làm ông nhức nhối. Tất cả những cuộc thí nghiệm của ông điều xoay quanh một điểm duy nhất. Mỗi ngày hàng trăm lần, vị giáo sư tự hỏi rằng liệu hồn một người có thể tự rời bỏ thể xác trong ít lâu và sau đó lại trở về được không. Lần đầu tiên khi giả thuyết này hiện ra trong đầu óc ông, ông đã tự phẫn nộ với mình: giả thuyết đó đã vấp phải một cách kịch liệt những ý tưởng có từ trước và những định kiến của nền học vấn sơ thủy của ông. Tuy nhiên, trong khi ông tiến hành trên con đường nghiên cứu độc đáo của ông, ông cũng dần dà từng bước một thoát ra những trở ngại lỗi thời và trở nên sẵn sàng đối diện với bất kỳ một kết luận nào phù hợp có thể tồn tại bên ngoài vật chất. Sau hết ông nảy sinh ý nghĩ cho rằng với một cuộc thí nghiệm táo bạo chưa ai dám thử bao giờ, vấn đề này có thể sẽ được giải quyết dứt khoát.
Ông đã viết một bài báo nổi danh đăng trong một tờ báo về y học ở Kein¬platz vào thời đó nói về các thực thể mà mắt con người không thể nhìn thấy được, một bài báo đã làm điên đầu các giới khoa học. Đại khái ông nói: Rõ ràng là trong một vài hoàn cảnh nào đó linh hồn hay tinh thần tự động tách rời khỏi thể xác. Trong trường hợp một người được chữa bệnh bằng phép thôi miên, thể xác nằm yên trong trạng thái bất tỉnh nhưng linh hồn thì đã rời bỏ đi. Người ta có thể trả lời tôi rằng linh hồn vẫn còn ở đó, nhưng nó trong tình trạng ngủ say. Tôi xin trả lời rằng chắc chắn là không phải như vậy: ta sẽ giải thích thế nào về khả năng thấu thị, tức là nhìn thấy quá khứ, vị lai, là thứ đã bị mất uy tín vì cái trò bịp bợm láo khoét của một vài kẻ đê tiện, nhưng vẫn là một sự kiện đã được chứng minh và không thể chối cãi được? Chính tôi đây là một người nhạy cảm, tôi đã có thể đạt được một sự mô tả chính xác những điều gì diễn ra rong một căn phòng hay một căn nhà bên cạnh. Làm thế nào để giải thích sự hiểu biết đó, nếu không phải bằng giả thuyết là linh hồn của người đó đã rời khỏi thể xác và đi lang thang trong không gi¬an? Trong một lúc nó được quay về bởi tiếng nói của người phù phép và nó đã nói về những gì nó nhìn thấy rồi nó lại bay đi. Vì lẽ bản chất của linh hồn là không ai nhìn thấy được nó, chúng ta không thể trông thấy nó đi hay tới, nhưng chúng ta thấy ảnh hưởng của những chuyến đi và tới đó trong thể xác của người chịu thí nghiệm, khi thì cứng đơ và bất động, khi thì cố gắng để mô tả những cảm giác của anh ta, những cảm giác anh ta không bao giờ đạt tới bằng các phương tiện tự nhiên. Tôi nhận thấy có cách chứng minh khả dĩ chấp nhận được cho sự kiện này. Mặc dù nằm trong xác thịt của chúng ta, chúng ta không thể nhìn thấy những linh hồn này, những linh hồn của chính chúng ta, nếu chúng ta có thể tách rời chúng khỏi thể xác của chúng ta, chúng sẽ ý thức được sự hiện diện của chúng. Dó đó tôi có ý định làm bằng phép thôi miên một người học trò của tôi sau đó tôi sẽ tự làm mê tôi theo một cách thức đã rất quen thuộc với tôi. Rồi thì nếu giả thuyết của tôi là đúng, thì linh hồn của tôi sẽ không gặp một khó khăn nào để bắt liên lạc với linh hồn anh học trò của tôi, linh hồn cả hai chúng tôi đều tách rời khỏi thể xác của chúng. Tôi hy vọng sẽ có thể công bố các kết quả của cuộc thí nghiệm lý thú này trong số sắp tới của tờ báo Y Học Kein¬platz.
Khi vị Giáo sư đức độ giữ lời hứa và cho công bố bản báo cáo về cuộc thí nghiệm của ông, câu chuyện của ông có vẻ dị thường quá đến nỗi nó được đón nhận với một sự nghi ngờ chung của mọi người. Luận điệu của một vài tờ báo còn có vẻ rất gay gắt trong những bài bình luận của họ. Nhà thông thái giận dữ tuyên bố rằng từ nay ông sẽ không bao giờ mở miệng nói về vấn đề này nữa. Và ông đã giữ đúng lời nói của ông. Tuy nhiên câu chuyện kể ra sau đây đã được rút ra từ những nguồn tin xác thực nhất và các sự việc được kể lại có thể được xem là chính xác một cách thực tế.
Ít lâu sau cái ngày mà vị giáo sư tiết lộ ý định về cuộc thí nghiệm, vừa đề cập trên đấy, trong khi trở về nhà ông gặp một toán sinh viên hay quấy phá ồn ào đang từ một quán rượu bên cạnh nhà ông đi ra (và toán này được dẫn đầu bởi anh thanh niên Har¬man đang say bí tỉ). Vì ông vừa trải qua nhiều giờ mệt mỏi trong phòng thí nghiệm, nên ý ông muốn lảng tránh họ, nhưng cậu môn đồ đứng ra chận đường ông đi:
- Ủa này, ông thầy đáng kính của tôi. - Anh ta la lên, níu lấy ống tay áo của nhà thông thái già cả và đi sát bên cạnh ông. - Tôi có một chuyện để nói với thầy và nó rất dễ cho tôi nói với thầy bây giờ hơn là vào lúc nào khác, khi mà rượu bia ngon đang kêu vo vo trong đầu tôi.
- Điều gì vậy, Har¬man? - Nhà sinh lý học hỏi lại, trong khi nhìn anh ta với một vẻ dịu dàng và ngạc nhiên.
-Thưa thầy, tôi nghe tin thầy sắp làm một cuộc thí nghiệm rùng rợn, ý thầy muốn đem một linh hồn khỏi một thể xác, rồi sau đó làm cho nó trở lại với thể xác. Có phải thật như vậy không?
- Đúng vậy, Har¬man ạ.
- Thưa thầy kính mến, thầy có nghĩ rằng thầy có thể sẽ gặp khó khăn để tìm ra một người nào đó chịu làm một cuộc thí nghiệm như vậy không? Thử nghĩ rằng linh hồn bay đi và không chịu trở về nữa, đây thật là một việc nguy hiểm. Ai mà dám chơi cái trò nguy hiểm này?
- Nhưng mà này Har¬man, - Vị Giáo sư kêu lên, ông rất bối rối vì ý kiến này đối với công việc của ông. - Tôi trông đợi vào sự giúp đỡ của anh đó. Này, anh đừng làm tôi lỡ việc nhé! Anh suy nghĩ gì về danh dự và sự vinh quang!
- Chà, chà! - Anh sinh viên cười nhạo. - Dễ thường lúc nào tôi cũng bị gán ghép những trò vớ vẩn ấy à? Có phải là tôi đã ngồi yên hai tiếng đồng hồ trên cái ghế cách điện bằng thủy tinh trong khi truyền điện vào thân thể tôi không? Có phải là thầy đã kích động vào dây thần kinh của tôi, hủy hoại bộ máy tiêu hóa của tôi với một dòng điện chạy quanh bao tử của tôi không? Thầy đã làm tôi mê ba mươi tư lần và tôi có được lợi lộc gì ở đó không? Chả có quái gì hết. Đến bây giờ thầy lại muốn làm cho tôi xuất hồn, như kiểu thầy tháo máy một cái đồng hồ vậy. Thật là quá sức chịu đựng của xác thịt con người!
- Lạy chúa tôi! - Vị Giáo sư kêu lên, vẻ bối rối. - Điều đó rất đúng, Har¬man ạ! Trước đây tôi không bao giờ nghĩ tới điều đó! Nếu anh có thể đề nghị một hình thức đền bù nào, anh sẽ thấy tôi sẵn lòng làm anh thỏa mãn.
- Vậy thì xin thầy hãy nghe đây, - Har¬man nói một cách nghiêm trang - Nếu thầy hứa tôi rằng sau cuộc thí nghiệm này, thầy sẽ gả cô con gái thầy cho tôi thì tôi sẽ bằng lòng phụ giúp thầy. Bằng không thì xin thầy đừng trông đợi gì ở tôi nữa! Đó là những điều kiện của tôi.
- Nhưng phải hỏi ý kiến con gái tôi đã chứ? - Vị Giáo sư hỏi lại sau khi đứng lặng đi một lúc.
- Cô ấy sẽ bằng lòng - Chàng thanh niên đáp lại. - Chúng tôi đã yêu nhau lâu rồi.
- Vậy thì nó sẽ là vợ anh, - nhà sinh lý học tuyên bố một cách chắc chắn. - Vì anh là một thanh niên dũng cảm và là một trong những con bệnh thần kinh khá nhất mà tôi được biết. Tôi xin nói rõ khi anh không bị ảnh hưởng bởi men rượu! Mùng bốn tháng sau tôi sẽ hoàn tất cuộc thí nghiệm của tôi. Anh phải có mặt vào buổi trưa tại phòng thí nghiệm khoa sinh lý học nhé. Đây sẽ là một cuộc biểu diễn kỳ diệu, Har¬man ạ. Ông Von Gruben sẽ từ Lé¬na tới và ông Hilter¬stein sẽ từ Bâle tới. Các nhà thông thái vĩ đại nhất của miền Nam nước Đức sẽ có mặt tại đó.
- Tôi sẽ đúng giờ giấc! - Anh sinh viên hứa.
Và họ chia tay nhau. Ông Giáo sư đi về nhà, chân bước nặng trĩu, vừa đi vừa nghĩ tới việc đại sự sắp tới nơi, trong khi chàng thanh niên chệnh choạng đi tìm các bạn bè gây om sòm của anh ta, trong đầu chỉ nghĩ tới cô nàng Elise có cặp mắt xanh, cũng như nghĩ tới cuộc mặc cả mà anh vừa thỏa thuận được với ông bố vợ tương lai của anh.
Vị Giáo sư đã không phóng đại chút nào khi ông nói tới sự chú tâm mà cuộc thí nghiệm mới mẻ về tâm lý của ông đã gây ra ở hầu hết mọi nơi. Còn rất sớm trước giờ ấn định, căn phòng đã bị choán hết chỗ bởi một số đông đảo các vị thông thái. Ngoài mấy vị đức cao vọng trọng mà ông đã kể ra, còn có đại giáo sư Lor¬shire, người vừa trở nên lừng danh bởi một công trình xuất sắc nói về các trung tâm của sống cổ, cũng từ Lon¬don tới. Nhiều tài năng lỗi lạc về khoa thông linh học cũng vui lòng chẳng ngại đường xa tới họp mặt, ngay cả một mục sư Tân giáo cũng tới dự với hy vọng là cuộc thí nghiệm sẽ có thể rọi một tia sáng mới vào các chủ thuyết của giáo phái Rose Groix.
Cả hội nghị những con người lỗi lạc này bùng lên trong tràng pháo tay khi giáo sư Von Baum¬garten và môn đệ của ông xuất hiện trên bục. Vị thuyết giảng viên, bằng một vài lời được lựa chọn cẩn thận, đã trình bày ý kiến của ông và giải thích tại sao ông có ý định đem ý kiến này vào một cuộc thí nghiệm có tính cách quyết định. Ông nói:
- Tôi tin chắc rằng khi một người bị nằm trong ảnh hưởng của giấc ngủ thôi miên thì trong một thời gi¬an nào đó linh hồn anh ta được giải thoát khỏi xác thịt và tôi thách thức bất kỳ một ai có thể đưa ra một giả thuyết khác để giải thích sự nhìn được quá khứ, vị lai! Tôi hy vọng rằng khi đưa anh bạn trẻ của tôi vào giấc ngủ thôi miên và đồng thời sau đó làm cho chính tôi cũng ngủ luôn, linh hồn của chúng tôi sẽ có thể nói chuyện với nhau, trong khi thể xác của chúng tôi vẫn nằm yên bất động. Sau một thời gi¬an nào đó, tạo hóa sẽ nắm lại quyền của mình, linh hồn của chúng tôi sẽ tái nhập, hồn nào về thể xác của hồn ấy và mọi việc sẽ trở lại như trước. Với sự cho phép của quý vị, bây giờ chúng tôi xin bắt đầu cuộc thí nghiệm.
Những tiếng vỗ tay lại vang lên; sau đó các khán giả yên lặng trông chờ. Trong một vài thoáng qua nhanh chóng, vị Giáo sư đã đánh mê gã thanh niên, khiến anh ngồi rũ xuống trên ghế, người nhợt nhạt và cứng đơ. Rồi ông móc ở trong túi ra một trái cầu tròn bằng thủy tinh và ông tập trung nhãn tuyến của ông vào trái cầu đó và làm một nỗ lực lớn lao về tâm thần, ông đã đạt tới chỗ tự đặt mình vào cùng một tình trạng như vậy. Thật là một quang cảnh dị thường và cảm kích khi nhìn thấy ông già và cậu sinh viên trẻ, cả hai người cùng ngồi trong sự mê man bất tỉnh. Vậy thì linh hồn họ đã bay đi đâu? Đó là một câu hỏi mà tất cả mọi người tham dự đều tự đặt ra cho mình.
Năm phút đã trôi qua, mười phút, rồi mười lăm phút và rồi mười lăm phút nữa. Ông Giáo sư và cậu học trò của ông vẫn ngồi nguyên bất động trên bục gỗ và các nhà thông thái hội họp tại đó vẫn chưa nghe thấy một tiếng động nhỏ nào. Tất cả mọi cặp mắt đều đổ dồn vào hai khuôn mặt tái mét để chờ đón dấu hiệu đầu tiên của sự tỉnh lại của họ. Gần nửa giờ đã trôi qua và sự kiên nhẫn của các khán giả đã được đền bù lại. Những màu sắc mơ hồ đã trở lại trên đôi má của giáo sư Baum¬garten: linh hồn đã trở về nơi cư trú trên trái đất của nó. Đột nhiên, ông duỗi thẳng hai cánh tay dài, gầy guộc của ông, như ông đã thức giấc. Ông dụi mắt, đứng lên và nhìn chung quanh mình ông; ông có vẻ như không biết là mình đang ở đâu.
- Kỳ cục quá! - ông kêu lên trước khi xổ ra một tràng chửi thề của miền Nam nước Đức, trước sự vô cùng kinh ngạc của cử tọa và trước sự xấu hổ của người đệ tử của Swe¬den¬borg (người sáng lập ra một giáo phái mới). - Đồ quỷ sứ, tôi đang ở đâu đây, việc gì đã xảy ra? À phải, bây giờ thì tôi nhớ ra rồi! Đây là một trong các cuộc thí nghiệm ngu xuẩn về lối làm mê bằng nhân điện... Lần này không có kết quả, vì tôi không nhớ một chút gì từ lúc tôi mê đi. Vậy là tất cả các ngài đều đi chơi uổng công, các ông bạn quý về khoa học của tôi ạ. A, đúng là một chuyện nhảm!
Nói xong vị Giáo sư sinh lý học phá lên cười và lấy tay vỗ vào đùi một cách hết sức tục tĩu, những vị khách của ông đã quá bực bội khi thấy mình bị đối xử như vậy, đến nỗi sự lộn xộn chắc chắn sẽ nổ ra nếu không có sự can thiệp khéo léo của chàng thanh niên Von Har¬men vừa tỉnh dậy khỏi giấc ngủ li bì. Tiến bước tới mãi rìa bục gỗ, anh sinh viên cố gắng xin lỗi về lối cư xử đáng giận của ông Giáo sư. Anh tuyên bố:
- Tôi lấy làm tiếc mà nói rằng đó là một thứ lộn xộn đầu óc, mặc dù có sự nghiêm chỉnh mà anh ta đã giả bộ lúc bắt đầu mở cuộc thí nghiệm. Anh ta còn bị sự phản ứng của cơn ngủ mê nhân tạo và quý vị không thể bắt anh ta chịu trách nhiệm về ngôn ngữ của anh ta.
Còn như về chính buổi thí nghiệm, tôi không coi nó là một sự thất bại. Rất có thể là linh hồn của chúng tôi đã nói chuyện với nhau trong không gi¬an trong giờ phút đã trôi qua đó; nhưng khổ thay cái trí nhớ thô kệch của thân xác chúng ta là thứ khác biệt với linh hồn của chúng ta và chúng tôi không thể nhớ lại những gì đã xảy ra. Từ nay tôi sẽ dành nghị lực của tôi để tìm ra một phương cách nhờ đó các linh hồn sẽ có thể nhớ lại những gì chúng đã làm trong tình trạng tự do của chúng, tôi hy vọng rằng sau khi tìm thấy phương cách đó tôi sẽ rất hân hạnh được gặp lại tất cả quý vị ở đây, trong căn phòng này và thông báo tới quý vị các kết quả của tôi.
Bài diễn từ ngắn này, do một chàng sinh viên trẻ như vậy phát biểu, đã gây ra một sự kinh ngạc mạnh mẽ trong các thính giả; một vài người cảm thấy bị chạm lòng tự ái một cách khó hiểu và cho rằng anh ta đã có những điệu bộ quá quan trọng. Tuy nhiên, đa số những vị khách dự khán đều coi anh ta là một thanh niên có nhiều tương lai; khi rời khỏi phòng thí nghiệm, họ chỉ có thể so sánh cách cư xử đầy đủ tư cách của anh với sự nông nổi của vị Giáo sư, người mà trong khi anh học trò đưa ra các lời nhận xét, chỉ đứng trong một góc cười luôn miệng, chẳng tỏ ra bối rối chú nào trước thất bại của cuộc thí nghiệm.
Những con người này của giới khoa học đã ra về với cảm tưởng là họ đã chẳng thấy điều gì là đáng chú ý cả, tuy nhiên một trong những việc đáng kinh ngạc nhất trong lịch sử thế giới vừa diễn ra trước mắt họ. Giáo sư Baum¬garten đã được công nhận cho lý thuyết của ông theo đó trong một khoảng thời gi¬an nào đó, linh hồn ông và linh hồn anh học trò ông đã rời khỏi thể xác của chúng. Nhưng một chuyện rắc rối bất ngờ đã xảy ra: hồn của Von Har¬men đã nhập vào xác Baum¬garten và hồn của Baum¬garten thì lại nhập vào xác Von Har¬man. Do đó mới có cái thứ ngôn ngữ toàn tiếng lóng vọt ra từ miệng vị Giáo sư nghiêm nghị; cũng do đó mới có lời tuyên bố đầy vẻ thận trọng của anh sinh viên lông bông. Thật là một sự việc không tiền, khoáng hậu! Không có ai nhận ra việc này cả, hai đương sự lại càng không nhận ra hơn là các người dự khán.
Thể xác vị Giáo sư tức khắc cảm thấy khát khô cả cổ. Ông đi ra phố. Ông vẫn còn cười về kết quả cuộc thí nghiệm, vì hồn của Har¬man đang nằm trong đó rất vui thích vì đã kiếm được vị hôn thê một cách dễ dàng như vậy. Hành động đầu tiên của anh muốn làm là đi tới gặp nàng, nhưng sau khi suy nghĩ anh thấy tốt hơn là nên chờ cho bà Baum¬garten được ông chồng báo tin về sự thỏa thuận đã thì mới thành đạt. Thế là anh đi xuôi về phía tiệm rượu Grune¬man, nơi hẹn hò hợp ý của những tên cà chớn tệ hại và anh vung vẩy cây ba toong một cách vui vẻ khi anh bước vào căn tiệm nhỏ hẹp, ở đó đã họp mặt Spi¬gene, Muler và hàng nửa tá những tên bạn vui nhộn khác.
- A, a, các con của ta! - Anh kêu lên, - tớ biết rằng tớ sẽ gặp các cậu ở đây. Hãy uống đi, tất cả chúng ta cùng uống, hãy gọi những gì mà các cậu thích! Hôm nay tớ đãi tất cả một chầu!...
Nếu con người nghiêm nghị mô phạm bất chợt đi vào một quán cà phê và gọi một chai rượu vang thì có lẽ các anh sinh viên cũng không sửng sốt hơn. Trong hai ba phút đồng hồ họ ngẩn người ra mà nhìn ông, không thể trả lời một câu gì trước lời mời thân ái của ông.
- Đem rượu tới đây mau lên! - ông Giáo sư kêu lên trong cơn tức giận. - Các cậu mắc bệnh gì đó? Các cậu ngồi đó mà nhìn tớ như những con heo con bị dính chặt vào một cái ghế. Có chuyện gì vậy?
- Đây là một vinh dự bất ngờ! - Spi¬gene ấp úng nói.
- Vinh dự? Đồ cục cứt! - Vị Giáo sư đáp lại. - Dễ thường các cậu nghĩ rằng vì tớ mới đi biểu diễn phép gây giấc ngủ nhân tạo cho những lão khọm xem nên mới hóa ra quá kiêu hãnh không thèm chơi với những bạn cố tri như các cậu phải không? Hãy rời khỏi các ghế bành này, Spi¬gene, con trai của ta, để tớ ngồi cử tọa. Rượu bia nhé? Hay rượu vang? Hay Schnappse? Hãy gọi thứ gì mà các cậu thích, các con của tớ. Tớ khao mà!
Chưa bao giờ tiệm Grune¬man lại có một bữa chiều nhộn nhịp hơn. Những bình rượu bia sủi bọt , những chai rượu vang cổ dài miền sông Ranh được chuyển quanh một cách náo nức. Dần dà các cậu sinh viên đã hết vẻ e dè trước mặt vị Giáo sư của họ. Trong khi ông này la hét, hát hỏng, nói năng lung tung, gầm gừ: ông đặt một cái ống vố dài nằm cân bằng trên cái mũi lớn của ông và ông thách một cuộc thi chạy 100 thước với bất kỳ ai. Đứng phía sau bực cửa lớn, ông chủ tiệm và cô hầu gái của ông ta đang trao đổi những điều họ suy nghĩ bộc lộ sự kinh ngạc của họ trước một cách cư xử như vậy; họ nói, đó có phải là cái cung cách thích đáng cho một vị giáo sư chủ nhiệm của trường Đại học Kein¬platz cổ kính không? Rồi đây họ sẽ còn nhiều chuyện để kể lại cho nhau nghe, vì nhà thông thái còn lột cái đáy mũ của ông chủ tiệm và chạy ôm lấy cô hầu gái ở trong bếp.
- Thưa quý vị! - Giáo sư bắt đầu.
Ông ta đứng lên chỗ đầu cao của cái bàn, người hơi lảo đảo và ông quơ quơ ly rượu vang của ông trước cái mũi lớn của ông.
-... Bây giờ tôi phải giải thích nguyên nhân của cuộc vui này.
- Xin lắng nghe! Xin giữ yên lặng! - Các cậu sinh viên vừa la hét vừa lấy các bình đựng rượu bia gõ mạnh xuống mặt bàn. - Một bài diễn từ! Một bài diễn từ!
- Thưa các bạn, sự việc là tôi hy vọng rằng tôi sắp sửa cưới vợ, - ông Giáo sư tuyên bố, hai mắt ông sáng rực sau cặp kính.
- Cưới vợ! - Một cậu sinh viên ngổ ngáo hơn những cậu khác la lớn lên. - Vậy là bà nhà ta đã qua đời rồi à?
- Bà nào?
- Ô kìa, tất nhiên là Baum¬garten!
- À, à! - ông Giáo sư vừa kêu lên vừa cười lớn. - Tớ thấy rằng các cậu đã biết những trở ngại nhỏ của tớ. Không, bà ấy không chết. Nhưng tớ có đủ lý do để tin tưởng rằng bà ấy sẽ không phản đối đám cưới của tớ.
- Bà ấy thật là một người tử tế! - Một cậu sinh viên đưa ra nhận xét.
- Thực ra bây giờ bà ấy còn phải được thuyết phục rằng bà ấy phải giúp cho tớ tìm lấy một cô vợ, - vị Giáo sư nói tiếp. - Bà ấy với tớ không bao giờ thông cảm lẫn nhau cả; nhưng tớ hy vọng rằng các mối bất đồng sẽ chấm dứt và khi tớ cưới vợ bà ấy sẽ tới ở tại nhà tớ.
- Một gia đình sung sướng làm sao! - Một anh chàng có tính hài hước thở dài nói.
- Tớ thề là tớ nói thực đó! Và tớ tính rằng tất cả các cậu sẽ tới dự đám cưới tớ. Tớ sẽ không nêu lên tên tuổi một anh nào, nhưng tớ uống để mừng vị hôn thê bé nhỏ của tớ.
- Chúc mừng vị hôn thê nhỏ bé của ông ấy! - Lũ con trai cà chớn rú lên những tiếng cười lớn. - Chúc mừng sức khỏe của cô nàng. Xin các bạn nâng ly, uống!
Trong lúc có cuộc vui nhộn tại tiệm Grune¬man thì một cảnh hoàn toàn khác biệt diễn ra ở một nơi khác. Anh thanh niên Von Har¬man, với một bộ mặt nghiêm trang và một dáng dấp kiểu cách, đã tra xét lại các dụng cụ về toán học sau cuộc thí nghiệm; sau đó, anh ra một cái lệnh có tính cách bắt buộc cho người canh gác phòng thí nghiệm, rồi anh đi ra và thong thả đi về phía nhà của vị thông thái. Phía trước anh, anh chợt thấy Von Al¬thos, giáo sư khoa Giải phẫu; anh bước mau chân và bắt kịp ông ta.
- Hãy nói cho tôi nghe, Von Al¬thos! - Anh kêu lên và đập vào cánh tay ông ta. - Hôm nọ ông có hỏi tôi một điều cần biết về cái vách ở giữa của các động mạch não bộ. Tôi đã khám phá ra...
- Lạy chúa tôi! - Von Al¬thos la lớn lên, ông vốn là một ông già dễ nổi nóng mà. - Sự láo xược này là nghĩa làm sao? Thưa ông, tôi sẽ đưa ông ra Hội đồng Kỷ luật của trường Đại học về cái tính ngông nghênh của ông.
Nói xong lời đe dọa đó, ông xoay gót chân và đi khỏi. Von Har¬man hết sức kinh ngạc bởi sự tiếp đón này: "Đây là hậu quả của sự thất bại trong cuộc thí nghiệm của mình." anh tự nhủ vậy. Và anh buồn bã đi tiếp con đường.
Tuy nhiên sự kinh ngạc mới còn chờ đợi anh. Hai cậu sinh viên chạy đằng sau anh để bắt kịp anh. Mấy cậu thanh niên này, thay vì bỏ mũ ra hoặc chứng tỏ một dấu hiệu tối thiểu về sự tôn kính đối với anh, đã thốt ra một tiếng la hét man rợ tỏ vẻ vui mừng và mỗi cậu nắm lấy một ống tay áo của Von Har¬man muốn lôi anh đi với họ.
- Đồ mất dạy! - Von Har¬man gầm lên. - Một sự nhục mạ có chủ ý như vậy là nghĩa làm sao? Các anh muốn dẫn tôi đi đâu?
- Đi đập bể đầu một chai rượu vang! - Hai anh sinh viên đáp lại. - Vậy đấy! Hãy đi với chúng tôi! Anh chưa từng từ chối lời mời đó bao giờ mà.
- Tôi chưa từng thấy sự hỗn xược như thế này bao giờ! - Von Har¬man la lớn lên. - Buông tay tôi ra. Nếu không tôi sẽ đuổi các anh ra khỏi trường! Buông tôi ra, tôi nói với các anh!
Trong tâm trạng điên cuồng không thể kìm hãm được, anh lấy chân đá lung tung.
- Ồ, nếu anh nghĩ như vậy thì anh muốn đi đâu thì đi! - Các sinh viên nói với anh. - Chúng tôi sẽ đi uống ngon lành chẳng cần có anh.
- Tôi biết các anh. Các anh sẽ phải đền tội này! - Von Har¬man nói với theo họ.
Anh tiếp tục đi về nơi mà anh cho là nhà của anh, rất bực bội vì hai sự cố vừa qua.
Bà Baum¬garten đang đứng ở cửa sổ nhìn ra vì bà ngạc nhiên thấy ông chồng về trễ để ăn bữa trưa, bà chợt nhìn thấy anh sinh viên trẻ đi trên đường. Như chúng tôi đã nói, đối với anh này bà đã tỏ rõ một mối ác cảm mạnh mẽ và mỗi khi anh ta mạo hiểm tới nhà bà thì đó là nhờ sự bao che của vị Giáo sư. Sự kinh ngạc của bà khi nhìn thấy anh ta đi tới một mình còn tăng thêm khi anh ta mở cánh cửa phên thưa và bước vào lối đi với dáng điệu của một người tự coi mình là chủ nhân của tình thế. Thấy khó có thể tin ở cặp mắt mình, bà chạy vội ra cửa, tất cả các bản năng của người mẹ đều xao động. Từ các cửa sổ trên cao, cô gái Elise xinh đẹp cũng nhận xét thấy dáng điệu nghênh ngang của tình nhân của cô; tim cô trở nên hồi hộp, cả vì kiêu ngạo lẫn bối rối.
- Chào ông! - Bà Baum¬garten nói với anh chàng đang tự do đột nhập vào nhà bà bằng cách ngạo nghễ, chặn đường anh ta ở ngưỡng cửa.
- Martha ạ, thật đúng là một ngày đẹp đẽ! - Anh ta đáp lại. - Đi vào đi, chớ có đứng ở đây như một pho tượng nữ thần ấy, nhưng xin bà hãy gấp gấp dọn bữa ăn trưa đi, vì tôi gần chết đói rồi đây này.
- Martha! Bữa ăn trưa! - Bà vợ của vị Giáo sư nhắc lại, suýt chút nữa thì bà té ngửa xuống.
- Ờ, bữa ăn trưa, Martha ạ, bữa ăn trưa! - Von Har¬man gầm lên, lúc đó anh đã trở nên dễ nóng giận. - Lời yêu cầu này có gì là khác thường với một người đã làm việc suốt cả buổi sáng? Tôi đợi ở trong phòng ăn. Đem cho tôi bất cứ món gì: xúc xích, củ su, trái mơ, những thứ gì mà bà sẵn có. Nhưng bà làm gì mà cứ đứng nhìn tôi miệng há hốc ra như vậy? Này bà, bà có chịu cất bước đi không nào?
Câu nói sau cùng này, kèm theo một cái dậm chân có vẻ điên dại, đã có hiệu lực làm cho bà Baum¬garten hiền hậu bỏ trốn. Bà đóng cửa đứng trong nhà bếp, ở đó bà bị một cơn khủng hoảng thần kinh. Trong khi đó, Von Har¬man đi vào phòng ăn và ngồi phịch xuống ghế tràng kỷ. Anh ta đang hết sức cáu kỉnh.
- Elise đâu? - Anh ta gọi. - Bọn đàn bà quỷ bắt! Elise!
Bị triệu thỉnh với một cái giọng quá thô lỗ đó, cô thiếu nữ e dè từ trên phòng cô đi xuống.
- Người tình của em! - Cô kêu lên trong lúc âu yếm ôm lấy anh ta. - Em biết rằng anh đã xử sự như vậy là vì anh yêu em. Có phải đó là một mưu chước để gặp em không, anh nói đi?
Von Har¬man quá giận dữ với rắc rối mới này đến nỗi anh ngồi lặng đi không nói được một câu nào; anh chỉ có thể phóng ra những cái nhìn giận dữ và nắm chặt hai nắm tay lại, đồng thời cố chống đỡ những cái hôn của cô thiếu nữ. Sau hết, khi anh lấy lại được sự ích dụng của ngôn ngữ, anh đã bị lôi cuốn vào một cơn bão tố của sự phẫn nộ quá dữ dội khiến cho Elise phải lùi lại và khiếp sợ ngồi phịch xuống một cái ghế bành.
- Chưa bao giờ tôi phải sống một ngày như thế này! - Von Har¬man vừa dậm chân vừa la lên. - Cuộc thí nghiệm của tôi đã thất bại. Von Al¬thos đã làm nhục tôi. Hai thằng sinh viên đã ôm lấy tôi trên đường đi. Vợ tôi suýt nữa thì ngất xỉu khi tôi bảo bà ấy cho tôi ăn bữa trưa và con gái tôi nhẩy nhổm lên người tôi để xiết chặt lấy tôi như một con gấu hoang vậy.
- Anh bị bệnh rồi, anh yêu quý của em! Đầu óc anh bị lộn xộn rồi. Anh chưa hôn em một lần nào!
- Không và tôi không có ý định hôn hít gì cả. - Von Har¬man tuyên bố một cách cương quyết. - Con phải biết thấy thế là xấu hổ chứ. Tại sao con không đi kiếm cho ba đôi giày vải của ba, mà cũng không vào phụ giúp má con làm bữa trưa cho ba?
- Có phải là em đã yêu anh đắm đuối hơn 10 tháng nay để rồi đi tới sự thể như thế này? - Elise kêu lên và chúi gục mặt vào tấm khăn lau mặt của cô. - Em đã phải đương đầu với cơn giận dữ của má em như thế nào? Ôi, anh đã đập nát trái tim em! Vâng, anh đã đập nát trái tim em.
Cô nức nở một cách tuyệt vọng
- Thế là quá lắm rồi, quá sức chịu đựng của tôi rồi! - Von Har¬man gầm lên. - Đứa con gái này muốn nói chuyện quỷ quái gì? Ba đã làm gì từ 10 tháng nay để gợi ra cho con một lòng yêu mến đặc biệt tới như vậy? Nếu con yêu ba nhiều thì con nên đi kiếm cho ba một ít xúc xích và một ít bánh, thay vì đứng đấy nói lảm nhảm những điều kỳ cục.
- Ồ, anh yêu quý của em! - Cô thiếu nữ khốn khổ kêu lên và lao vào vòng tay của con người mà cô tưởng là Von Har¬man. - Hãy nói với em rằng anh chỉ bông đùa để làm cho Elise bé bỏng của anh sợ hãi thôi.
Sự ngẫu nhiên muốn rằng lúc mà vòng tay ghì xiết vừa đắm đuối vừa bất chợt này diễn ra thì Von Har¬man đang ngồi tựa vào một đầu của ghế tràng kỷ, mà ghế này, giống như trường hợp thường xảy ra với các đồ gỗ của người Đức, đã bị xộc xệch và khủng khiễng. Sự ngẫu nhiên còn muốn nói rằng chỗ dưới đầu tràng kỷ có một cái chậu đầy nước, trong đó nhà sinh lý học đã tiến hành vài thí nghiệm về các trứng của cá và ông để trong phòng ăn để giữ một nhiệt độ ngang bằng. Sức nặng của cô thiếu nữ kết hợp với sự mãnh liệt của cái đà xô tới của cô đã làm gẫy nát chiếc ghế tràng kỷ; anh chàng sinh viên kém may mắn té ngửa về phía sau vào trong cái chậu: đầu và hai bàn tay anh bị kẹt cứng trong đó một cách bất tiện, trong khi hai chân anh giẫy dụa một cách tuyệt vọng trong khoảng không. Nỗi cay đắng của anh thật đã quá thể rồi. Phải chật vật lắm anh mới thoát được khỏi tình trạng bực bội này, anh kêu lên một tiếng tức tối chẳng ra mạch lạc gì tay cầm lấy mũ và đi ra chẳng muốn nghe những lời nài nỉ của Elise. Người ướt sũng, nước nhỏ giọt lòng thòng, anh quay trở lại phía thành phố, để kiếm trong một nhà hàng thức ăn và những tiện nghi mà anh đã bị từ khước ở nhà anh.
Trong khi hồn của Baum¬garten nằm trong thể xác của Von Har¬man bước vội trên con đường ngoằn ngoèo dẫn tới thành phố nhỏ bé, ông chợt thấy một ông già đang đi tới phía ông và người này rõ ràng là đang say rượu. Von Har¬man đứng né ra rìa đường để quan sát người này đang khất khưởng vừa bước đi xiên xọ vừa hát bằng một giọng ồ ề một điệp khúc của bọn sinh viên. Thoạt đầu ông chỉ chú ý tới sự tương phản giữa một ngoại hình đáng kính và một tình trạng buồn khổ như vậy. Rồi ông nghĩ rằng ông rất quen biết người này, tuy nhiên ông không thể nhớ được là ông gặp người này khi nào và ở đâu. Cảm tưởng này trở nên quá mạnh khiến cho khi người lạ đi tới trước mặt ông, ông đứng chắn trước mặt người đó và chăm chú nhìn kỹ ông ta.
- Này, cậu con trai của ta? - Người say rượu hỏi và đến lượt ông ta cũng nhìn kỹ Har¬man và đứng lảo đảo trước mặt anh. - Tôi đã gặp anh ở nơi quỷ quái nào ấy nhỉ? Tôi biết rất rõ anh cũng như tôi biết chính tôi vậy. Anh là đồ ma quỷ nào vậy?
- Tôi là giáo sư Baum¬garten, - người sinh viên đáp lại. - Cho phép tôi hỏi ông rằng ông là ai vậy? Bộ mặt ông không phải là xa lạ đối với tôi.
- Không bao giờ anh được nói dối, anh bạn trẻ. - Người kia nói. - Chắc chắn anh không phải là vị Giáo sư vì đó là một ông già hiền hậu, xấu xí sắp kề miệng lỗ rồi mà anh thì là một thanh niên ngổ ngáo có đôi vai to lớn. Tôi tên là Von Har¬man, muốn sẵn sàng giúp đỡ anh.
- Chắc chắn là không phải như vậy! - Thể xác của Von Har¬man kêu lên. - Cùng lắm ông có thể là bố anh ta. Nhưng xin ông nói cho tôi rõ, ông có biết là ông đang mang những cái cúc yếm sơ mi của tôi và sợi giây đồng hồ của tôi không?
- Đồ trời đánh! - Người kia nói như nghẹn tiếng - Nếu anh không đang mặc cái quần của tôi, mà vì cái quần này mà lão thợ sắp may tới xiết nợ tôi, thì tôi, không bao giờ uống rượu bia nữa.
Bực bội vì những việc kỳ cục mà anh ta đã là nạn nhân suốt cả buổi sáng, Von Har¬man đặt một bàn tay lên trán và nhắm mắt lại. Sự ngẫu nhiên muốn biết rằng (một lần nữa) anh ta chợt nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chính mình trong một cái vũng nước mà trận mưa đã để lại trên mặt đường. Quá kinh ngạc khi anh nhận thấy anh có một cái đầu của một sinh viên trẻ và trên hết cả mọi phương diện anh là cái phản đề sống động của cái bóng người nghiêm trang và khắc khổ mà linh hồn anh thường quen trú ngụ. Trong một vài phút đồng hồ bộ óc tinh tế của anh ôn lại mọi sự việc xảy ra và đi tới một kết luận không thể tránh được Suýt nữa là anh ngất xỉu đi vì sự kích động.
- Đúng rồi! - Anh kêu lên. - Tôi đã thấy rõ tất cả. Linh hồn chúng ta đã lầm thể xác. Tôi là anh và anh là tôi. Lý thuyết của tôi đã được chứng minh, nhưng với một giá quá đắt! Linh hồn thông thái nhất châu Âu có thể nào đi chơi dưới một cái bề ngoài xoàng xĩnh như thế này không? Ôi, thế là tiêu tan hết những công trình suốt một đời người!
Với sự thất vọng, ông tự đấm vào ngực mình.
- Hãy nói đi! - Chàng Von Har¬man chính cống nấp trong thân xác vị Giáo sư đưa ra nhận xét. - Tôi thấy rõ sức mạnh của những nhận xét của thầy, nhưng tôi xin thầy đừng vỗ lên người tôi như thế. Thầy đã tiếp nhận thể xác của tôi trong tình trạng tuyệt hảo, nhưng tôi nhìn thấy rằng thầy đã làm nó ướt át và thương tổn và thầy đã làm áo sơ mi của tôi toàn mùi thuốc lá.
- Ăn thua gì việc đó! - Người kia kêu lên một giọng sầu thảm. - Chúng ta sẽ phải sống như thế này mãi. Lý thuyết của tôi đã được chứng minh một cách rực rỡ, nhưng với cái giá khủng khiếp.
- Nếu tôi cũng tin tưởng như vậy thì thực tế cũng sẽ rất buồn phiền. Tôi sẽ làm gì được với những cái chân tay già nua cứng đờ này? Làm thế nào để tôi sẽ tán tỉnh cô Elise và thuyết phục cho cô ấy hiểu rằng tôi không phải là bố cô ấy. Lạy chúa tôi! Mặc dù rượu bia đã làm tôi say mềm, tôi thấy có một cách để thoát ra khỏi tình trạng này.
- Cách nào? - Vị Giáo sư thở hổn hển hỏi lại.
- Này nhé, bằng cách bắt đầu lại cuộc thí nghiệm. Ta lại giải thoát linh hổn chúng ta một lên nữa; rất có thể là chúng sẽ nhập lại vào thể xác liên hệ với chúng.
Chưa bao giờ một người chết đuối lại bám lấy một cọng rơm chặt chẽ hơn là hồn của Baum¬garten bám lấy ý kiến này. Trong một sự vội vã điên cuồng, ông kéo lấy cái thân xác của chính ông lên cạnh đường và làm cho nó ngủ mê nhân tạo. Rồi ông lấy từ trong túi ra quả cầu bằng thủy tinh, rồi cũng đi vào một tình trạng như vậy.
Những sinh viên, những nông dân đi qua chỗ đó đều rất kinh ngạc khi nhìn thấy vị Giáo sư lỗi lạc khoa sinh lý và cậu học trò cưng của ông, cả hai cùng ngồi trên một bãi cỏ be bét bùn và hoàn toàn bất động. Sau một tiếng đồng hồ, cả một đám đông tụ tập lại; những người tò mò đang định gọi một chiếc xe tải thương tới để chở họ đi bệnh viện, thì nhà thông thái mở mắt ra và nhìn chung quanh ông. Trong một vài phút, ông có vẻ như quên mất tại sao mà ông lại ở chỗ này; nhưng rồi ông làm mọi người kinh ngạc bằng cách vung vẩy đôi tay gầy guộc của ông bên trên đầu và hét lên với sự mãn nguyện:
- Trời đã giúp chúng tôi! Tôi lại trở lại là tôi! Tôi biết điều đó!
Sự sửng sốt của khán giả cũng lớn lao không kém khi cậu sinh viên đứng phắt dậy, cũng thốt ra một tiếng kêu như vậy; rồi cả hai người đều hoan hỉ nhảy nhót ở ngay giữa đường.
Trong một thời gi¬an nào đó dân cư ở Kein¬platz có ý nghi ngờ về sự cán bằng tâm thần của hai diễn viên trong màn kịch này. Khi ông Giáo sư công bố báo cáo về cuộc thí nghiệm của ông trong tờ báo Y học, như ông đã hứa từ trước, ông đã vấp phải từ phía đồng nghiệp của ông đủ mọi thứ ý kiến được trình bày một cách rõ ràng không nhiều thì ít, nhưng đều tóm tắt lại ở điểm này: ông cần phải để ý tới sức khỏe tâm thần của ông, vì một bản công bố khác vào loại này sẽ đưa ông thẳng tới một dưỡng trí viện. Về phần cậu sinh viên, cuộc thí nghiệm cũng dạy cho cậu biết rằng cậu nên im tiếng đi thì có lợi hơn.
Dù sao thì buổi chiều hôm đó khi vị Giáo sư lỗi lạc về tới nhà mình, ông đã không nhận được sự tiếp đãi thân mật mà ông có quyền mong đợi sau những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của ông. Trái lại ông bị bà vợ và cô con gái cằn nhằn một cách thô lỗ, vừa về việc ông thở ra mùi rượu bia, mùi rượi vang và thuốc lá, mà cũng cả về việc ông đã vắng nhà trong khi một tên du đãng trẻ tuổi xâm nhập nhà ông và nhục mạ vợ con ông. Phải mất rất nhiều thời gi¬an, không khí gia đình trong nhà ông Giáo sư mới êm ả được và mất nhiều thời gi¬an hơn nữa để cho bộ mặt dễ gây cảm tình của Von Har¬man tái xuất hiện trong nhà ông. Tuy nhiên, sự kiên trì thường lật đổ mọi chướng ngại: anh sinh viên đã thành công trong việc làm nguôi ngoai hai người đàn bà phẫn nộ và chiếm lại trái tim cô Elise. Bây giờ anh không còn phải sợ hãi những lời sấm sét của bà Baum¬garten, vì anh đã trở thành Trung úy Von Har¬man trong đạo kỵ binh của Hoàng đế và cô Elise yêu kiều đã tặng anh hai cây giáo nhỏ làm dấu hiệu cho lòng khoan dung của cô.
11. Chiếc nhẫn giải thoát
Ông John Vans¬ta Smith, hội viên của Hội Hoàng Gia, cư ngụ tại số nhà 147A đường Gow¬er, là người có một nghị lực và một khả năng trí tuệ đáng lẽ có thể đưa ông lên hàng đầu của những người nghiên cứu về khoa học. Nhưng ông lại là nạn nhân của một tham vọng muốn bác đủ mọi thứ, tham vọng này thúc đẩy ông muốn tỏ ra lỗi lạc trong nhiều lảnh vực hơn chỉ là vượt trội trong ngành thôi. Tuy hãy còn trẻ, ông đã tỏ ra có những sở kiến làm người ta kinh ngạc về khoa động vật học và thảo mộc học; các bạn của ông đã coi ông là một Dar¬win thứ hai, khi mà lẽ ra chỉ còn có việc giật lấy chức giác sư ông đã bắt thần từ bỏ nghề đó và tự để mình tự cuốn hút bởi môn hoá học, nhành mà các sự nghiên cứu của ông về các quang phổ của những kim loại đã đưa ông vào Hội Hoàng Gia. Mồi lửa rơm! Ông đã vắng mặt trong một năm trời tại phòng thí nghiệm của ông. Khi quay về, ông gia nhập Hội Đông Phương và công bố một bản tin về các văn bia ở El Kab. Chắn chắn là ông vừa đa năng vừa đa tài.Tuy nhiên những anh bay bướm lắm rút lại thể nào cũng mắc kẹt. John Vans¬ta Smith cũng không thoát khỏi quy luật này. Ông càng đi sâu vào lãnh vực Ai Cập học ông càng thấy say sưa vì khoảng đất bao la mở ra trước mắt ông và vì tầm quan trọng vô cùng của một vấn đề chỉ có thể mang lại những tia sáng về những mầm mống đầu tiên của nền văn minh nhân loại và về nguồn gốc phần lớn các mỹ thuật và khoa học của chúng ta. Ông Smith bị say mê đến mức ông cưới một cô nữ sinh viên trẻ trong môn Ai Cập học, người đã viết một bài luận án về đệ lục triều đại. Đã vững lòng với một căn bản vững chắc dể hoạt động, ông đi kiếm các tài liệu dành cho một công trình hợp nhất sự nghiên cứu của Lep¬sius với sáng kiến của Cham¬pon¬llion. Việc chuẩn bị cho tác phẩm vĩ đại này bao gồm nhiều chuyến thăm các bộ sưu tầm về Ai Cập tại bảo tàng viện Lou¬vre. Chuyến sau cùng diễn ra vào trung tuần tháng mười năm ngoái; đó là cơ hội của một cuộc mạo hiểm không tầm thường, đáng được thuật lại.
Các chuyến xe lửa thì đi chậm lại và biển Manche rất xấu; vì vậy nhà bác học của chúng ta tới được Paris thì thể xác phát sốt, phát nóng và tinh thần mờ mịt. Tại khách sạn Đại Pháp trên đường Laf¬fitte, ông đã nằm dài trong hai tiếng đồng hồ trên một ghế dài; nhưng ông không thể ngủ được, mặc dù còn mệt mỏi ông quyết định đi tới viện bảo tàng Lou¬vre, để phối kiểm một chi tiết mà vì nó ông đã phải đi tới đây, rồi lại đi chuyến xe lửa buổi chiều tới Dieppe, ông mặc một áo choàng dài, vì trời mưa và ông đi bộ qua con đường lớn Des Ital¬iens và đường Opera. Tại viện bảo tàng Lou¬vre, ông cảm thấy như ở nhà ông vậy; ông vội vã hướng tới chỗ bộ sưu tầm các sách viết bằng chỉ thảo mà ông có ý định tra cứu.
Những người ái mộ điên cuồng nhất của John Vans¬ta Smith chắc cũng phải ngần ngừ khi nói rằng ông là người đẹp trai. Cái mũi lớn mỏ diều hâu và cái cằm nhô ra của ông cho ta một ý niệm về sự linh lợi và đặc tính sắc bén của trí thông minh của ông. Ông mang cái đầu như một con chim và cũng như một con chim, ông ném ra những lời phản đối và những câu ứng đối. Với dáng dấp như vậy, hôm đó ông đứng ở bảo tàng viện Lou¬vre với chiếc cổ áo choàng kéo lên đến tận mang tai, khi tự nhìn mình trong các tủ kính vuông mà ông kiểm kê, có lẽ ông cũng nhận thấy thực ra ông đã có một dáng điệu bình thường, ông đã bị bực bội một cách dũ dội khi ở phía sau lưng ông một giọng nói người Anh đã thốt ra một cách rất rõ ràng:
- Con người kỳ cục!
Nhà bác học không phải là người không có tính kiêu ngạo của ông được biểu lộ bằng sự hoàn toàn hững hờ đối với mọi ý kiến cá nhân. Ông mím môi trong khi nhìn chăm chú cuộn chỉ thảo của ông, nhưng lòng ông chứa đầy mỗi cay đắng đối với tất cả nòi giống của người Anh đang đi nghỉ mát.
- Vâng, - một tiếng nói khác tỏ sự đồng ý. - Đúng thật là một điển hình!
Người thứ nhất nói tiếp:
- Người ta có thể gần như tin chắc rằng cứ ngắm nghía mãi những xác ướp, anh chàng này sẽ tự mình trở thành xác ướp một nửa.
- Thật ra anh ta có diện mạo và dáng dấp của một người Ai Cập.
John Vans¬ta Smith quay gót lại với ý định làm cho các bạn đồng hương của mình xấu hổ bởi một vài lời nhận xét cay độc. Ông đã ngạc nhiên và thấy nhẹ nhõm hẳn khi phát hiện ra rằng hai người thanh niên người Anh đang nói ba hoa đứng quay lưng về phía ông và những lời nói của họ nhằm vào một trong những người bảo vệ viện bảo tàng Lourve đang đánh bóng một mảnh đồng ở phía bên kia của căn phòng.
- Carter sẽ đợi chúng ta ở Palais-Roy¬al, - một trong những người khách du lịch nói, mắt nhìn đồng hồ.
Họ đi xa dần, để nhà bác học ở lại với công việc của ông.
"Ta muốn tò mò biết con người mà mấy thằng cha xuẩn ngốc gọi là một diện mạo và một dáng dấp của người Ai Cập!" John Smith nghĩ. Ông bước nhẹ nhàng để nhìn thấy người đó. Quả thật đó là khuôn mặt mà các cuộc nghiên cứu của ông đã làm ông trở nên quen thuộc. Những nét đều đặn và bất động, vầng trán rộng, cằm tròn trĩnh, nước da màu nâu đen nhạt, tất cả đều là sự mô phỏng chính sác của vô số pho tượng, bức họa để trang hoàng các bức tượng tại nhà ông. Sự việc vượt quá mọi trùng hợp ngẫu nhiên. Người này phải là một người Ai cập. Sự vuông vắn của đôi vai này, sự thót hẹp chỗ hông, anh ta cũng đủ để nhận dạng quốc tịch của anh ta.
Nhón bước trên đầu bàn chân, John Vans¬ta Smith tiến tới chỗ người bảo vệ để nói chuyện với anh ta. Vốn không quen chuyện tầm phào, ông thấy khó tìm được một giọng điệu đúng múc ở giữa sự cộc cằn của kẻ cao sang và lịch thiệp của kẻ ngang hàng. Anh bảo vệ quay nghiêng người. John Vans¬ta Smith chăm chú nhìn nước da của con người mà ông cho là dân Ai Cập, ông có cảm tưởng rằng nước da này có cái gì đó không bìng thường. Chỗ thái dương và lưỡng quyền, nó cũng nhẵn lì và bóng loáng như một miếng da khô vậy. Không thể nhìn thấy các lỗ chân lông. Không thể tưởng tượng được một chút ẩm ướt nào trên khoảng da khô khằn đó. Trái lại nó bị vạch thành từng hằn sâu, từ trán xuống tới cằm, bởi hàng ngàn vết nhăn li ti, vết này cắt vết kia, cắt đi, cắt lại trong một hình vẽ lộn xộn.
- Bộ sưu tầm Mephis ở chổ nào? - Nhà bác học hỏi bằng tiếng Pháp.
Ông có vẻ ngượng ngập của một người đặt ra một câu hỏi chỉ với mục đích là để mào đầu một cuộc nói chuyện.
- Đằng kia kìa! - Người bảo vệ trả lời với một giọng thô lỗ, ngấc đầu ra hiệu chỉ về phía bên kia của căn phòng.
-Anh là người Ai Cập, có phải không?
Người bảo vệ ngẩng cao đầu lên nhướng mắt nhìn kẻ đối thoại với mình. Hai mắt anh ta u ám, mở lờ đờ khô khan, như có ám sương mù, chưa bao giờ ông Smith nhìn thấy những con mắt đó, ông nhận thấy trong đáy nước sâu thẳm của chúng có một cảm xúc mạnh, giống như một sự trộn lẫn của hận thù và kinh hoàng.
- Không, thưa ông. Tôi là người Pháp.
Người bảo vệ quay đi và lại cúi xuống cái vật mà anh ta đang đánh bóng. Nhà bác học hết sức ngạc nhiên, chăm chú nhìn anh ta trong một lúc, không nói năng gì cả, rồi ông đi tới ngồi trên một cái ghế ở trong một góc khuất nẻo, phía sau một cánh cửa, ông ghi chép một vài kết quả của công việc sưu tầm của ông về những cuốn chỉ thảo. Nhưng tinh thần ông không ổn định trước thứ tự thường lệ của các công việc của ông, nó cứ nhất mực quay về với người bảo vệ kỳ bí với bộ mặt nhân sự và nước da thuộc khô vậy.
"Ta đã nhìn thấy những con mắt như thế ở đâu nhỉ?" John Vans¬ta Smith tự hỏi mình. "Chúng có vẻ giống như con mắt thằn lằn, mắt một con vật bò sát; loài rắn có một màng thuấn làm cho mắt sáng long lanh. Nhưng trong cái nhìn của con người này có một cái gì hơn thế. Có một sự biểu lộ về quyền lực, về sự khôn ngoan, về sự chán chường sâu đậm và về sự tuyệt vọng không gì mô tả được. Có phải là trí tưởng tượng của ta quá nhiều không? Ta cần phải tra xét lại một lần nữa!"
Ông đứng dậy và ông đi một vòng qua các phòng trưng bày cổ vật ở Ai Cập; nhưng người bảo vệ đã mất dạng.
Thế là ông trở lại ngồi trong cái góc nhà yên tĩnh của ông. Ông đã tìm thấy các tin tức mà ông kiếm trong các cuốn chỉ thảo, ông chỉ còn có việc viết nó trong ký ức của ông còn tươi tắn. Trong một vài phút, cây bút chì của ông đã bay lượn trên tờ giấy; nhưng rồi những dòng chữ của ông đều đi xiêu vẹo và sau cùng thì cây bút chì rơi xuống đất trong khi đầu nhà bác học gục xuống trước ngực. Quá mệt mỏi vì chuyến đi, ông đã ngủ một giấc quá say trong cái góc hẻo lánh sau cánh cửa để đến nỗi những vòng tuần tiễu của bọn bảo vệ, những lời nói trao đổi giữa các khách du lịch và ngay cả tiếng chuông kéo dài báo hiệu giờ đóng cửa cũng không làm ông tỉnh giấc.
Hoàng hôn đã đi sâu vào đêm tối, tiếng ồn ào của sự lưu thông ngoài phố Rivoli đã lắng dịu, chuông đồng hồ nhà thờ Notre Dame đã gióng lên một cách nặng nề mười hai tiếng nửa đêm, nhưng John Vans¬ta Smith vẫn không động đậy. Chỉ mãi tới khoảng một giờ sáng ông mới mở bừng hai mắt. Thoạt đầu ông tưởng là ông đang nằm ngủ ở nhà, trong phòng làm việc. Nhưng qua những tấm kính không có cánh cửa có ánh trăng chiếu sáng và khi ông nhận ra những hàng xác ướp và tủ kính thì ông nhớ lại ông đang ở đâu và tại sao ông lại ở đó. Duỗi thẳng chân tay đang uể oải, ông nhìn đồng hồ và ông vừa nhìn đồng hồ vừa hít hà vui thích. Nhà bác học không phải là người nhút nhát một mảy may và ông có tính ưa thích một hoàn cảnh mới, đây là một trong nhiều đặc tính của giống nòi ông. Diễn biến này sẽ là một câu chuyện thích thú để cho một bài báo sắp tới; một thứ gì để làm nhẹ bớt những suy tư nghiêm túc hơn, hệ trọng hơn. Ông không thấy nóng nực quá, trái lại ông rất thoải mái. Ông không ngạc nhiên về việc người bảo vệ không chú ý tới ông, cánh cửa đã chiếu bóng của nó chùm đúng lên người ông. Một tên trộm chắc cũng không thể mơ tưởng được một nơi ẩn náu tốt đẹp hơn.
sYên lặng hoàn toàn. Ở bên trong hay ơ bên ngoài, không nơi nào có một tiếng động nhỏ, dù là một tiếng nhẹ nhàng nhất. Chỉ có một mình ông với những người chết của một nền văn minh đã chết. Tuy nhiên, ở phía bên kia các bức tường, thành phố đang phun ra mọi thứ chất độc tàn bạo và những cám dỗ sống sượng của thế kỷ 19. Nhưng trong căn phòng nảy thực sự không có một thứ gì, từ bông lúa màu nâu cho tới chiếc hộp có màu sắc sặc sỡ của nhà họa sĩ nhưng không được giữ gìn từ 4.000 năm nay. Ông đứng giữa những tàn tích được mang về từ cái đế quốc xa lắc biển thời gi¬an rộng lớn: từ thành Thèbes oai nghiêm, từ thành Louq¬sor quý tộc, từ những ngôi đền lớn Héliopo¬lis, từ hàng trăm ngôi mộ đã bị đào bới. Nhà bác học đảo mắt qua những hình hài của con người đã chết, ông đã để bị xâm chiếm bởi một tình cảm xâu xa của sự tôn kính. Ông nghĩ tới những sự nông nổi buổi thiếu thời của ông, tới sự vô nghĩa của chính bản thân ông. Ngồi tựa lưng vào ghế, ông mơ màng nhìn dẫy phòng chiếm ngự tất cả cái chái của toà nhà rộng lớn. Và bỗng nhiên, ông nhìn thấy sáng vàng vọt của một ngọn đèn.
John Vans¬ta Smith ngồi thẵng dậy trên ghế. Ngọn đèn tiến lên một cách thong thả, thỉnh thoảng ngừng lại bất động, rồi lại tiếp tục đi tới. Người mang ngọn đèn di chuyển không một tiếng động, bước chân của y không làm rộn rã yên lặng chung quanh. Ông khách người Anh nghĩ rằng có lẽ đây là những tên kẻ trộm và ông ngồi thu mình trong cái góc nhà. Ngọn đèn đu đưa trong căn phòng thứ nhì trước mặt ông, nó đi vào căn phòng bên cạnh, vẫn không gây một tiếng động nhỏ nào. Bị sợ sệt một cách mơ hồ, nhà bác học nhìn thấy một cái đầu, cái đầu này nom như trôi nổi bập bềnh trong không khí, phía sau ánh sáng của ngọn đèn. Cái đầu người bị bóng tối che phủ, nhưng vẫn được ánh sáng soi rất rõ. Ông không thể lầm được: cặp mắt màu kim loại này, nước da như một xác chết này đều thuộc về anh chàng bảo vệ mà ông đã từng trò chuyện.
Cử động đầu tiên của John Vans¬ta Smith là đi tới gặp y. Chỉ cần một vài lời giải thích là đủ và ông sẽ có thể đi ra bằng một cái gì đó ra vẻ lén lút, điều này làm thay đổi ý định của ông. Rõ ràng là anh bảo vệ không đi tuần tiễu, dưới chân anh ta mang một đôi giày đế bằng nỉ và anh ta nhìn quanh mình trong khi thở hổn hển. John Vans¬ta Smith đứng nép vào một xó để canh chừng anh ta. Ông tin chắc rằng anh bảo vệ chỉ tới đây với một mục đích thầm kín và rất có thể bất hảo.
Dù với mục đích nào đi nữa, anh ta vẫn không tỏ ra một chút e dè nào. Anh ta bước nhanh tới một trong những tủ kính lớn, rút ở trong túi ra một chiếc chìa khóa và mở tủ kính đó. Anh lấy từ ngăn kệ phía trên xuống một cái xác ướp; anh đặt xác ướp này xuống mặt đất với rất nhiều vẻ thận trọng và cả sự trìu mến nữa. Anh đặt ngọn đèn bên cạnh cái xác ướp rồi ngồi xổm xuống theo lối người Đông Phương, với ngững ngón tay dài và run rẩy anh bắt đầu gỡ lớp vải bọc ngoài và những dải vải buộc quanh xác ướp. Những lớp vải này mở ra đến đâu thì một mùi thơm nồng nặc tỏa ra đến đấy, tràn ngập cả căn phòng; những mảnh vụn gỗ thơm và hương liệu rải rác trên các phiến lát của nền nhà.
John Vans¬ta Smith biết rằng xác ướp này chưa bao giờ bị lột bỏ vải bọc. Do đó công việc này đã có một cái gì đó làm ông chú ý một cách say mê. Từ chỗ ngồi quan sát phía sau cửa; ông đã chìa cái mũi lớn của ông ta ra với một sự tò mò càng lúc càng mãnh liệt. Khi đoạn dây vải cuối cùng rơi khỏi một cái đầu đã có tới bốn ngàn năm tuổi tác, ông đã phải kiềm hãm một tiếng kêu vì sự kinh ngạc, sững sờ. Thoạt đầu một làn suối những lọn tóc dài đen óng ánh được bảo vệ; hiện ra một vần trán trắng và thấp được trang điểm bởi một cặp lông mày cong vút một vẻ đài các, một cặp mắt sáng với những lông mi dài, một cái mũi thẳng một cái miệng dịu dàng nhạy cảm và mũm mĩm, rồi tới một cái cằm lẹm vào một cách tuyệt diệu. Khuôn mặt này đều đặn màu cà phê. Nhưng thật là kỳ công của nghệ thuật ướp xác! John Vans¬ta Smith trầm trồ với sự mãn nguyện, hai mắt trố ra.
Tuy nhiên hiệu lực mà cảnh tượng này gây ra cho nhà Ai Cập học cũng chỉ là việc nhỏ thôi nếu đem so sánh với hiệu lực mà anh chàng bảo vệ kỳ lạ cảm thấy. Anh ta giơ hai tay lên trời, anh lẩm bẩm những lời không ai hiểu được, rồi nằm sấp xuống bên cạnh xác ướp, anh ta ôm lấy nó, hôn nhiều lần lên môi và trán của xác ướp.
- Em cưng của anh! Em cưng khốn khổ của anh. - Anh ta rên rỉ bằng tiếng Pháp.
Do sự xúc cảm, giọng nói của anh ta nghẹn ngào, nhưng nhờ có ngọn đèn nhà bác học có thể nhận thấy cặp mắt anh ta vẫn khô khan như hai cục thép vậy. Anh ta cứ nằm như vậy trong nhiều phút, nét mặt cúm rúm, miệng thốt ra những tiếng rên rỉ than van ở bên trên cái đầu xinh đẹp của người đàn bà. Rồi anh ta nở một nụ cười, anh ta đọc lên một vài tiếng của một ngôn ngữ xa lạ và anh ta bỗng đứng dậy với sức mạnh của một kẻ gồng mình lên vì một cố gắng lớn lao.
Ở giữa căn phòng có một tủ kính tròn lớn chứa đựng một bộ sưu tập quý giá các nhẫn đeo tay của người Ai Cập và những viên đá quý. Anh bảo vệ lại gần cái tủ đó và mở nó ra. Anh đặt cái bàn trên mép kệ phía bên và bên cạnh cái đèn này là một cái bình nhỏ bằng đất mà anh vừa lấy ở túi ra. Sau đó anh lấy từ trong tủ kính ra một nắm nhẫn và trên mặt hằn lên một sự hệ trọng lớn lao, anh lần lượt nhỏ lên từng chiếc nhẫn một chất lỏng chứa trong cái bình bằng đất, rồi anh chìa chúng ra trước ánh sáng. Nắm nhẫn đầu tiên chắc chắn đã làm anh thất vọng, vì anh đã vứt chúng nháo nhào vào trong tủ kính và anh lấy ra những cái khác. Thoạt đầu anh chọn lấy một cái nhẫn to thù lù có nạm một miếng pha lê lớn để đưa nó vào thử chất nước kỳ bí. Bất chợt anh thốt lên một tiếng kêu vui thích và giơ hai tay lên. Cử động hấp tấp của anh làm đổ chiếc bình bằng đất; chất lỏng chảy tràn ra mãi tới chân của ông khách người Anh. Anh bảo vệ lấy từ áo ngoài ra một cái khăn màu đỏ, cúi xuống chùi những phiến đá lát nhà và anh ta đã đứng đối diện với John Vans¬ta Smith.
- Xin thứ lỗi cho tôi! - người Anh nói với tất cả sự lễ độ ta có thể tưởng tượng được. - Tôi vì không may mà phải ngủ đằng sau cánh cửa này.
- Và ông đã canh chừng tôi?
Người bảo vệ nói bằng tiếng Anh, bộ mặt như xác chết của anh ta có một biểu hiện tàn độc.
Nhà bác học không hề biết nói dối.
Ông đáp:
- Tôi thú thực rằng tôi đã quan sát cử động của anh và chúng đã gợi óc tò mò của tôi tới chỗ cùng cực.
Lúc đó người kia đã lấy ở trong mình ra một con dao dài lưỡi để trần.
- Nếu tôi phát hiện ông sớm hơn mười phút thì có lẽ tôi đã moi tim ông rồi. Dù sao đi nữa, nếu ông đụng tới người tôi hoặc ông cản trở tôi bất cứ bằng cách nào đó, ông sẽ là một người chết.
- Tôi không muốn cản trở anh. Sự có mặt của tôi ở đây hoàn toàn do sự ngẫu nhiên thôi. Tất cả những gì tôi yêu cầu chỉ là xin anh vui lòng cho tôi ra khỏi viện bảo tàng.
Ông đã nói với một giọng hết sức ngọt ngào vì anh bảo vệ ấn mũi nhọn con dao của anh ta vào lòng bàn tay anh, làm như anh muốn thử lưỡi dao sắc; sắc diện anh ta vẫn còn giữ vẻ hung hãn như trước.
- Nếu tôi tin... - anh ta cất lên tiếng nói âm hiểm. - Nhưng không! Có lẽ như vậy cũng tốt... Ông tên là gì ?
Người Anh nói tên mình cho anh ta biết.
- John Vans¬ta Smith? - Người kia nhắc lại. - Có phải ông là ông John Vans¬ta Smith, người đã viết một bài về El Bak trong một tạp chí ở Lon¬don không? Tôi có đọc một đoạn trích dẫn của bài đó. Sự hiểu biết của ông về vấn đề này thật đáng khinh.
- Thưa không! - Nhà Ai Cập học phản đối.
- Tuy nhiên nó vẫn cao hơn sự hiểu biết của nhiều nhà thông thái, những người khoa trương nhiều kỳ vọng lớn hơn. Muốn hiểu đời sống cổ xưa của chúng tôi tại Ai Cập, cả những văn bia lẫn những đền đài đều không có tính cách quan trọng. Điều đáng kể là khoa luyện đan của chúng tôi và khoa học kỳ bí là những thứ trên thực tế đã lọt khỏi tay các ông.
- Đời sống cổ xưa của chúng tôi? - Nhà bác học nhắc lại, hai mặt mở to ra. - Lạy chúa tôi! Hãy nhìn bộ mặt của xác ướp!
Người bảo vệ kỳ lạ quay người lại và soi ánh sáng của ngọn đèn vào cái xác người, anh ta thốt lên một tiếng kêu dài đau đớn. Tác động của khí trời đã hủy hoại trọn vẹn nghệ thuật của người ướp xác. Làn da đã xẹp xuống, hai mắt đã chìm vào phía trong, cặp môi hé mở và trưng ra những chiếc răng màu vàng, tuy nhiên cái vết nâu trên trán vẫn còn chỉ rõ rằng đây chính là cùng một khuôn mặt đó, khuôn mặt mấy phút trước đây đã phát lộ biết bao sự trẻ trung và xinh đẹp.
Người bảo vệ vặn vẹo hai bàn tay trong sự buồn thương và kinh hoảng. Rồi anh ta lấy lại bình tĩnh và anh lại phóng cặp mắt đanh thép của anh vào người Anh.
- Việc này không quan trọng, - anh lẩm bẩm với một tiếng nói ồ ề. - Quả thật không quan trọng! Tối nay tôi tới đây với một mục đích đã được cân nhắc kỹ lưỡng. Mục đích đó đã hoàn thành. Tất cả những gì còn lại đều không đáng kể. Lời nguyền ngày xưa không còn hiệu lực nữa. Tôi có thể gặp lại nàng. Có lợi ích gì để tôi kề cà mãi trên cái vỏ ngoài bất động của nàng vì linh hồn nàng đang chờ tôi phía bên kia mức màn.
- Những lời nói kỳ lạ! - John Vans¬ta Smith đưa ra lời phê bình, mỗi lúc ông một tin chắc rằng ông đang đứng trước một thằng điên.
- Thời gi¬an gấp lắm rồi; tôi phải đi, - người kia nói tiếp - Cái giờ phút mà tôi đã chờ đợi từ rất lâu đã tới gần. Nhưng trước hết tôi phải đưa ông ra. Đi theo tôi...
Anh ta cầm lấy cái đèn, đi ra khỏi phòng, vẻ rất bối rối và anh đưa nhà bác học đi qua các phòng về Ai Cập, về As¬syrie và Ba Tư. Tới đầu căn phòng cuối cùng về Ba Tư, anh ta đẩy một cánh cửa nhỏ đục trong tường và anh ta đi xuống một cầu thang xoáy trôn ốc. Ông người Anh cảm thấy trên trán mình không khí tươi mát của ban đêm. Trước mặt là một cánh cửa chắc là để mở ra đường, ở bên tay mặt có một cái cửa khác mở hé để lọt vào một tia sáng vàng khè ở hành lang.
- Vào đây! - Anh bảo vệ ra lệnh.
John Vans¬ta Smith ngần ngừ: ông tưởng rằng cuộc phiêu lưu của ông đã chấm dứt và ông sẽ thấy mình ở bên ngoài. Vì sự tò mò của ông khá lớn, ông muốn được biết lý do bí ẩn của sự kỳ bí. Do đó ông dã đi theo người bạn đường kỳ lạ của ông vào trong căn phòng có đèn sáng sủa.
Đó là một phòng nhỏ, tương tự như chỗ ở của một người gác cửa. Một ngọn lửa đốt bằng củi nổ lách tách trong lò sưởi. Ở một bên phòng có một cái giường có bánh xe lăn. Phía bên kia là một cái ghế gỗ; ở giữa là một cái bàn còn mang những tàn tích của một bữa ăn. Ông người Anh không thể chế ngự được một cái rùng mình: tất cả những chi tiết nhỏ nhặt của căn phòng hình như được lấy ra từ một tiệm chạp phô thời cổ xưa. Những đế cắm nến, những cái bình trên lò sưởi, những cái giá sắt để gác củi, những đồ trang trí trên tường đều gợi lên một quá khứ đã trôi qua. Anh bảo vệ buông mình ngồi bịch xuống thành giường và anh ta mời vị khách của mình ngồi trên cái ghế.
- Phải chăng tất cả việc này đều do sự tình cờ mà ra, - anh ta bắt đầu nói với ông bằng thứ tiếng Anh tuyệt hảo. - Có lẽ trời đã định rằng tôi phải để lại sau tôi một lời cảnh cáo dành cho những con người ngông cuồng muốn đem óc thông minh của họ ra chống lại các quy luật của tạo hóa. Tôi sẽ gi¬ao lời cảnh cáo đó cho ông. Ông sẽ làm điều mà ông muốn làm. Bây giờ tôi đang nói với ông từ ngưỡng cửa của thế giới bên kia.
"Như ông đã đoán, tôi là một người Ai Cập. Không phải là một trong những mẫu người của cái nòi giống nô lệ hiện đang sống tại châu thổ sông Nil, nhưng là một người còn sót lại của dân tộc hùng mạnh hơn nhiều và kiêu hãnh hơn nhiều, cái dân tộc đã đánh bật dân Do Thái, đã đẩy lùi người Ethiopia trong các sa mạc mạn Nam và đã xây dựng những công trình lớn mạnh làm tràn đầy sự thèm muốn và ngưỡng mộ ở những thế hệ sau. Tôi được sinh ra dưới triều đại Tuth Os¬es, 1.600 năm trước ngày sinh của Chúa Ki Tô. Ông lùi lại à? Xin ông hãy đợi một chút: ông sẽ mau lẹ nhận thấy rằng tôi đáng được thương xót hơn là đáng sợ hãi.
"Tên tôi là Sos¬ra. Cha tôi là đại tu sĩ đạo Oriris trong đền Abaris. Tôi được nuôi dưỡng trong ngôi đền và được học hỏi tất cả các nghệ thuật mà Thánh Kinh của các ông đã nói tới. Tôi là một người học trò giỏi. Năm 16 tuổi tôi đã biết tất cả mọi thứ mà một người tài trí nhất trong giới tu sĩ đã có thể dạy tôi. Từ lúc đó, tôi tự mình nghiên cứu những điều bí ẩn của tạo hóa và tôi không truyền thụ kiến thức của tôi cho bất cứ người nào.
"Trong tất cả các vấn đề làm tôi say mê, những vấn đề lôi kéo sự chú ý của tôi nhiều hơn lại thiên về bản chất của đời sống. Tôi đã dò tìm một cách sâu xa nguyên lý của sự sống. Mục đích của y học là khu trừ tật bệnh khi nó xuất hiện: về phần tôi, tôi nghĩ rằng có thể phát minh ra một phương pháp để làm cho thân thể được khỏe mạnh, làm thế nào mà mọi sự suy yếu và ngay cả sự chết cũng không làm gì được nó. Chắc là không có ích lợi gì nếu tôi kể cho ông nghe tất cả các việc nghiên cứu của tôi. Nếu tôi mạo muội kể ra, ông cũng sẽ không thể hiểu được. Tôi đã theo đuổi những cuộc nghiên cứu này khi thì ở các loài vật, khi thì ở bọn nô lệ, khi thì ở ngay người tôi. Cũng cần nói với ông rằng kết quả những sự nghiên cứu ấy đã cho phép tôi tìm được một chất, mà một khi được trích vào máu, chất đó ban cho thân thể một sức mạnh khiến nó chống lại được các ảnh hưởng của thời gi¬an, của bạo lực hay của bệnh tật. Chất đó không làm cho người ta thành bất tử nhưng quyền lực của nó bao gồm nhiều thiên niên kỷ. Tôi đã thí nghiệm nó vào một con mèo và sau đó tôi cho nó ăn một thứ thuốc độc có sức giết người mạnh nhất, hiện nay con mèo đó vẫn còn sống ở miền Hạ Ai Cập. Xin ông chớ nghĩ tà thuật. Đó chỉ là một phát minh về hóa học, việc này có thể được tìm lại một cách hoàn hảo.
"Lòng yêu đời rất mạnh ở một người tuổi trẻ. Khi đó hình như tôi đã thoát khỏi mọi nỗi ưu tư của con người vì tôi đã loại bỏ được sự đau đớn và đẩy lùi cái chết tới một kỳ hạn rất xa xôi. Với một tâm hồn thư thái, tôi đã trích cái chất đáng nguyền rủa vào các mạch máu của tôi. Rồi tôi đi tìm một người nào đó ở quanh tôi để cho họ được hưởng lợi ích trong sự phát minh của tôi. Một tu sĩ trẻ ở đền Thoth tên là Parme đã chiếm được lòng ưu ái của tôi hởi tính tình trang nghiêm và học vấn của anh ta. Tôi nói cho anh biết bí quyết của tôi; theo lời yêu cầu của anh, tôi đã chích cho anh thứ thuốc của tôi. Tôi nghĩ rằng như vậy là tôi sẽ có một người bạn cùng tuổi tác với tôi.
"Sau sự phát minh lớn đó, tôi có vẻ lơi là trong các công việc của tôi, nhưng Pamer thì vẫn theo đuổi công việc của anh ta với một nghị lực tăng gấp đôi. Hàng ngày tôi thấy anh loay hoay với các chai lọ của anh và lò cất lọc nước của anh trong đền Thoth nhưng anh không cho tôi biết về kết quả sự nghiên cứu của anh. Về phần tôi, tôi đi dạo trong thành phố và tôi nhìn quanh tôi với một vẻ đắc thắng trong khi tôi nghĩ rằng tất cả những gì mà tôi nhìn thấy đều sẽ phải qua đi, nhưng riêng tôi thì sẽ sống mãi. Các cư dân cúi đầu chào tôi khi họ gặp tôi, vì tiếng tăm về kiến thức của tôi đã lan rộng.
"Vào thời kỳ đó, một cuộc chiến tranh đã diễn ra và vị Đại Quốc Vương đã gởi quân lính ra biên giới phía đông để đánh đuổi quân Hyk¬sos. Một viên thống đốc tới Abaris để trấn đóng thành phố của chúng tôi cho quốc vương. Tôi nghe người ta khoe khoang về nhan sắc tuyệt trần của cô ái nữ của vị thống đốc. Một ngày kia, trong khi đi đạo chơi với Parme, chúng tôi đã gặp cô đó được kiệu trên vai mấy tên nô lệ. Thật là một tiếng sét ái tình. Mới thoạt nhìn tôi đã yêu nàng. Trái tim tôi lịm đi. Một suýt nữa thì tôi đã quỵ xuống chân mấy người khiêng kiệu. Nàng là "vợ tôi". Tôi không thể nào sống mà không có nàng: Tôi đã thề trước đấng Tối cao là nàng sẽ phải thuộc về tôi. Tôi đã thề điều này với vị tu sĩ thành Thoth. Anh ta đã ngoảnh mặt đi, vầng trán tối sầm lại, nom u ám như bầu trời lúc nửa đêm vậy.
"Tôi khỏi cần thuật lại với ông về những buổi đầu của mối tình chúng tôi. Nàng đã yêu tôi cũng như tôi yêu nàng. Tôi được biết là Parme cũng đã gặp nàng và đã tỏ cho nàng biết rằng anh ta cũng yêu nàng; nhưng tôi có thể mỉm cười về sự say mê đó vì tôi biết là nàng đã hiến trái tim nàng cho tôi.
"Bệnh dịch hạch phát sinh trong thành phố, nhiều người bị mắc bệnh, nhưng tôi đặt bàn tay tôi lên trán họ và tôi đã chữa khỏi bệnh cho họ không chút sợ hãi nào. Nàng thán phục sự ngổ ngáo của tôi. Lúc đó tôi thì thầm nói cho nàng nghe về bí quyết của tôi và tôi khẩn khoản xin nàng để cho tôi thi triển tài nghệ của tôi vào người nàng.
"Tôi nói với nàng:
- Em yêu! Hãy nghĩ rằng bông hoa của em sẽ không bao giờ tàn úa ! Mọi vật khác đều sẽ qua đi, nhưng em và anh, cũng như sự tương thân, tương ái nồng thắm của chúng ta sẽ sống lâu hơn ngôi mộ của vua Chéops.
"Nhưng nàng đưa ra lời phản đối rụt rè, đáng yêu để chống lại tôi.
- Như vậy có đúng không? - Nàng hỏi tôi. - Như thế có phải là cản trở ý muốn của các vị thần linh không? Nếu đấng Osiris cao cả muốn cho chúng ta sống lâu như vậy, tại sao ngài không tự chính mình ban chất nước thuốc này cho các chúng sinh?
"Với những lời tình tứ và âu yếm, cuối cùng tôi đã thắng được sự lo sợ của nàng. Tuy nhiên nàng vẫn còn ngần ngại. Đó là một vấn đề trọng đại! Nàng thở dài. Nàng suy nghĩ về việc này suốt cả đêm. Sáng dậy nàng cho tôi biết quyết định của nàng. Chắc chắn rằng một đêm không phải là quá lâu để cho ta suy nghĩ. Nàng muốn kêu thần Isis để xin ngài chỉ bảo.
"Trong lòng tràn đầy một điều buồn thảm, tôi bỏ mặc nàng lại với những tỳ nữ của nàng. Buổi sáng, sau khóa lễ đầu tiên, tôi vội vã đi tới nhà nàng. Một tên nô lệ đầy vẻ khiếp sợ chặn tôi lại trên bục thềm để nói với tôi rằng bà chủ của hắn bị bệnh, bệnh rất nặng. Tôi chạy xộc ngay vào phòng của nàng; nàng nằm trên giường, đầu tựa trên một cái gối, người rất xanh xao, mắt lờ đờ. Tôi nhận thấy một vệt đỏ trên trán nàng. Tôi biết cái dấu xưa cũ này của địa ngục, đó là cái thẹo của bệnh dịch hạch, một bản án của tử thần.
"Tại sao cứ nói tới thời kỳ khủng khiếp này? Trong nhiều tháng, tôi gần như phát điên cuồng; tôi bị sốt nóng lạnh, tôi mê sảng và tôi không thể chết được. Chưa bao giờ có một người Ả Rập sắp chết khát lại quằn quại đi tìm những cái giếng giống như tôi đã quằn quại đi tìm cái chết. Nếu thuốc độc hay lưỡi dao thép có thể cắt đứt mạch sống của tôi thì ngay tức thì tôi sẽ nối lại mối tình của tôi ở bên kia cánh cửa hẹp. Tôi đã làm thử uổng công. Cái ảnh hưởng đáng nguyền rủa của nước thuốc thật quá mạnh. Một tối nọ, khi tôi nằm lịm trên giường, người suy yếu và chán nản, thì Parme, vị tu sĩ đền Thoth, đi vào phòng tôi. Anh ta tiến vào vòng ánh sáng của ngọn đèn và nhìn tôi với những con mắt sáng rực vẻ vui mừng.
- Tại sao anh để cô thiếu nữ chết? - Anh ta hỏi tôi - Tại sao anh không tăng cường sức khỏe cho cô ta như là anh đã tăng cường sức khỏe cho chính tôi?
- Tôi tới muộn quá. Nhưng tôi không quên một điều gì. Anh cũng yêu nàng mà. Anh là người bạn đường trong sự bất hạnh của tôi. Nghĩ tới nhiều thế kỷ sẽ trôi qua trước lúc chúng ta gặp lại nàng chẳng phải là điều khủng khiếp à? Chúng ta thật đã điên rồ khi coi cái chết là một kẻ thù!
- Anh có quyền nói điều đó! - Anh ta kêu lên trong khi cười một cách man rợ. - Những lời này là tự nhiên trong miệng anh. Đối với tôi, chúng không còn một chút ý nghĩa nào.
- Anh muốn nói gì? - Tôi la lên trong khi chống khuỷu tay nhỏm dậy. - Anh bạn ơi, chắc chắn là sự buồn thương đã phá rối đầu óc anh rồi!
"Sự vui mừng rạng rỡ trên khắp mặt anh ta. Anh ta run rẩy, co dúm người lại như thể bị quỷ ám.
- Anh có biết rằng tôi đi đâu không? - Anh ta hỏi tôi
- Không. Tôi không biết gì về chuyện đó cả.
- Tôi đi gặp lại nàng. Nàng đã được ướp trong ngôi mộ xa xôi nhất, ở gần những cây cọ bên ngoài bức tường thành.
- Tại sao anh lại đi tới đó?
- Để chết! - Anh ta la lên. - Để chết! Tôi, tôi không bị giữ lại bởi những phiền lụy của trái đất.
- Nhưng anh có nước thuốc trong máu anh!
- Tôi có thể bất chấp nó và thắng được nó, - anh tuyên bố với tôi. - Tôi đã khám phá ra một nguyên tố mạnh hơn để triệt tiêu nó. Ngay trong lúc này nó đang hoạt động trong các mạch máu của tôi và trong một giờ đồng hồ tôi sẽ là một người chết. Tôi sẽ gặp lại nàng. Còn anh, anh sẽ ở lại một mình.
"Trong khi chăm chú nhìn anh ta, tôi hiểu rằng anh ta không nói dối tôi. Ánh sáng rối rắm trong cái nhìn của anh phát lộ rằng anh đã thoát khởi quyền lực của nước thuốc.
- Anh hãy dạy tôi nguyên tố của anh đi! - Tôi nói lớn.
- Không bao giờ!
- Tôi van anh hãy dạy tôi! Nhân danh sự khôn ngoan của Thoth, nhân danh sự cao cả của Anu¬bis!
- Vô ích! - Anh ta lạnh lùng trả lời tôi.
- Vậy thì tôi sẽ khám phá ra nó!
- Anh sẽ không thành công đâu! Tôi đã khám phá ra nó nhờ sự tình cờ. Nó có một thành tố mà không bao giờ anh kiếm được. Ngoài cái thành tố nằm trong chiếc nhẫn của đền Thoth, không còn đâu có nữa.
- Trong cái nhẫn của đền Thoth! - Tôi nhắc lại. - Vậy cái nhẫn của đền Thoth ở đâu?
- Cả cái nhẫn ấy nữa, không bao giờ anh biết được nó. - Anh ta trả lời tôi. - Anh đã chiếm được trái tim nàng. Nhưng rút cục lại ai đã thắng? Tôi để anh ở lại với cuộc đời trần tục bẩn thỉu của anh. Những dây trói buộc tôi đã dứt rồi. Tôi phải đi thôi!
"Anh ta quay người đi và trốn khỏi phòng tôi.
"Sáng hôm sau, tôi được tin về cái chết của tu sĩ đền Thoth.
"Tôi dành những ngày sau đó để nghiên cứu. Tôi phải tìm được thứ thuốc độc tinh vi đủ mạnh để thắng được nước thuốc trường sinh. Từ sáng tinh mơ cho tới nửa đêm, tôi cặm cụi trên các ống thí nghiệm và lò lửa. Tôi đã thu thập các chỉ thảo và các chai lọ của tu sĩ đền Thoth. Than ôi, những thứ này chẳng dạy tôi được bao nhiêu! Có nhiều khi tôi tưởng là đã khám phá ra một chi tiết thiết yếu, nhưng rút lại chẳng có ích lợi gì. Tôi đã tìm tòi hết tháng này tới tháng khác. Khi tôi tuyệt vọng, tôi đi tới mộ nàng ở gần những cây cọ. Ở đó, đứng bên cỗ quan tài mà người ngọc đã bị cướp khỏi tay tôi, tôi cảm thấy sự hiện diện dịu dàng của nàng và tôi thề với nàng rằng một ngày kia tôi sẽ gặp lại nàng nếu có bộ óc thông minh của loài người có thể làm sáng tỏ điều kỳ bí.
"Parme nói rằng sự phát minh của anh ta liên quan tới chiếc nhẫn của đền Thoth. Tôi nhớ lại một cách mơ hồ về món trang sức bé nhỏ ấy. Đó là một cái vòng tròn lớn và nặng. Không phải làm bằng vàng, mà bằng một kim loại hiếm có hơn và nặng hơn, lấy về từ các mỏ tại núi Har¬tal. Đó là chất bạch kim, như các ông thường gọi tên cho nó. Tôi nhớ là chiếc nhẫn có nạm một miếng pha lê rỗng, bên trong miếng pha lê này có thể đã được giấu một vài chất lỏng. Tôi tin chắc rằng bí quyết của Parme không dính gì tới một mình thứ kim loại đó, vì ngôi đền có đầy rẫy những đồ vật bằng bạch kim. Có lẽ đúng là anh ta đã giấu chất thuốc độc quý giá đó trong lỗ hổng của miếng pha lê. Khi tôi vừa mới đi tới kết luận đó thì bằng cách tìm hiểu rõ ý nghĩa một trong các giấy tờ của anh ta, tôi khám phá ra rằng tôi đã có lý và chỉ còn một ít chất lỏng trong miếng pha lê của chiếc nhẫn đền Thoth.
"Nhưng làm thế nào tìm thấy chiếc nhẫn đó? Parme không mang nó trong mình khi anh ta được lột bỏ quần áo để ướp xác: tôi biết rất chắc chắn về điều này. Nó cũng không có ở trong các tư trang của anh ta. Tôi đã tốn công lục lọi tất cả mọi căn phòng mà anh ta đã đi lại, tất cả các hộp đựng đồ, tất cả các chai lọ, tất cả các đồ vật của riêng anh. Tôi đã xem xét tỉ mỉ cát tại sa mạc ở những nơi mà anh ta thường tự dạo chơi. Nhưng chiếc nhẫn đền Thoth vẫn không tài nào tìm thấy. Có lẽ nỗi vất vả và những sự nghiên cứu của tôi cuối cùng sẽ thắng được các trở ngại nếu một tai họa mới không xảy ra.
"Chiến tranh đã được phát động chống lại người Hyk¬sos, nhưng các đạo quân của Đại Quốc Vương đã bị đánh tan tành trong sa mạc. Những bộ lạc du mục xông vào chúng tôi như đàn cào cào trong những năm hạn hán. Trong khắp nước ban ngày thì máu chảy, ban đêm thì những đám cháy hoàn hành. Abaris là thành lũy của nước Ai Cập, nhưng chúng tôi đã không thể đẩy lui bọn man rợ. Thành phố bị thất thủ. Viên thống đốc và các binh sĩ đều bị chặt đầu. Tôi cùng với nhiều người khác bị bắt mang đi.
"Trong bao nhiêu năm dài dằng dặc tôi đã chăn cừu trong những đồng bằng lớn ở gần sông Eu¬phrate. Ông chủ của tôi chết, con trai của ông cũng trở nên già lão, nhưng lúc nào tôi cũng ở xa cái chết như vậy. Sau cùng tôi đã trốn đi được trên một con lạc đà chạy nhanh và tôi trở về Ai Cập. Người Hyk¬sos định cư trong nước mà chúng đã chinh phục được, vị vua của chúng tri vì nước Ai Cập. Abaris đã bị san bằng, thành phố bị cháy rụi và các ngôi đền lớn lao chỉ còn lại một mô đất mà người ta khó lòng nhận ra. Khắp mọi nơi, các ngôi mộ đều bị đào bới và các đền đài đều bị phá hủy. Không còn một vết tích nào về ngôi mộ của nàng tiên của tôi. Mộ được chôn trong bãi cát của sa mạc; những cây cọ để làm dấu cho nơi đó đã biến dạng. Những giấy tờ của Parme và những di vật của ngôi đền Thoth vương vãi rải rác trong các sa mạc của Syrie. Đi tìm kiếm chúng thật cũng uổng công.
"Bắt đầu từ lúc đó, tôi từ bỏ hy vọng một ngày nào đó tìm thấy chiếc nhẫn và khám phá ra liều thuốc tinh vi. Tôi đành phải sống một cách kiên nhẫn mà tôi có thể chịu đựng được, chờ đợi cái ngày mà hiệu lực của nước thuốc tan đi. Làm sao mà ông có thể hiểu được cái tội ác của thời gi¬an, ông là người chỉ biết có một khoảng cách thu hẹp đi từ cái nôi trẻ nít tới nấm mồ! Tôi đã biết được tội ác của thời gi¬an với cái giá mà tôi phải trả bằng cách trôi nổi trên dòng lịch sử. Tôi đã già khi thành Il¬ion thất thủ. Khi Hérodote tới Mem¬phis thì tôi đã rất già. Khi Tân Thánh kinh xuất hiện trên trái đất thì tôi đã mệt mỏi vì những năm tháng chồng chất. Tuy nhiên, tới ngày nay ông vẫn còn thấy tôi giống như nhiều người khác. Thứ nước thuốc đáng nguyền rủa đó đã bảo vệ tôi chống lại điều mà tôi đã hết lòng mong mỏi. Bây giờ thì, rút lại, tôi đã tới kỳ hạn!
"Tôi đã chu du khắp thiền hạ; tôi dã cư ngụ với tất cả mọi dân tộc trên trái đất. Tôi nói được đủ mọi ngôn ngữ. Tôi học các ngôn ngữ đó để giết thì giờ. Tôi không cần nói rằng những năm tháng đi chậm chạp làm sao, kể từ buổi bình minh dài dặc của nền văn minh cận đại, những năm tháng khủng khiếp thời trung cổ, những thời gi¬an đen tối thuở man rợ. Tất cả những điều này bây giờ đều ở đằng sau tôi. Tôi đã không bao giờ nhìn một người đàn bà khác với lòng thương mến. Nàng tiên của tôi biết rằng tôi vẫn chung thủy với nàng.
"Tôi có thói quen hay đọc tất cả những gì các nhà bác học công bố về Ai Cập cổ đại. Tôi biết tất cả mọi hoàn cảnh: khi thì thoải mái dễ chịu, khi thì khốn khổ, nhưng bao giờ tôi cũng có đủ tiền để mua các báo bàn về đề tài này. Chín tháng trước đây, ở San Fran¬cis¬co tôi được đọc một báo cáo về một vài khám phá thực hiện trong miền Abaris. Suýt nữa thì tim tôi ngừng đập. Bài báo nói rằng chuyên viên về các cuộc đào bới đã dò tìm những ngôi mộ vừa mới phát hiện. Trong một trong những ngôi mộ này, ông ấy đã tìm thấy xác ướp còn nguyên vẹn với một tấm bia xác định rằng đây là xác người con gái của viên thống đốc thành phố vào thời Tuth¬moris. Bài báo thêm rằng khi mở quan tài ra, nhà bác học đã tìm thấy một cái nhẫn lớn bằng bạch kim có nhận một miếng pha lê đặt trên mình người đàn bà được ướp. Đó đúng là nơi mà Parme đã cất giấu chiếc nhẫn của đền Thoth! Đúng thật anh ta đã có lý khi nói rằng không bao giờ tôi tìm thấy chiếc nhẫn đó, vì không có người Ai Cập nào lại đi làm vẩn đục linh hồn mình bằng cách đào bới mồ mả của một người bạn đã được vùi sâu chôn chặt.
"Ngay chiều hôm đó tôi rời khỏi San Fran¬cis¬co; một vài tuần lễ sau đó tôi đã ở Abaris, nhìn nhận rằng một vài đống cát và đá cũng xứng đáng để mang tên cái thành phố phồn thịnh này. Tôi vội vàng chạy tới chỗ những người Pháp là những người thực hiện các vụ đào bới này và tôi hỏi họ xem chiếc nhẫn để ở đâu. Họ trả lời tôi rằng xác ướp và cái nhẫn đã được gởi tới viện bảo tàng Boulak ở Le Caire. Tôi đi tới Le Caire, tại đó tôi được biết rằng Ma¬ri¬ette Boy đòi quyền sở hữu các thứ đó và đã đưa chúng xuống tàu chở về viện bảo tàng Lou¬vre. Tôi đuổi theo chúng. Sau cùng, trong căn phòng cổ vật Ai Cập, sau một thời kỳ ngăn cách bốn ngàn năm, tôi đã tới bên di thể của nàng tiên của tôi và bên chiếc nhẫn mà tôi đã tìm kiếm bấy lâu.
"Nhưng làm cách nào để đoạt lại những thứ đó? Làm cách nào đem về với chúng tôi? Tình cờ một chân bảo vệ bị bỏ trống. Tôi tìm gặp ông giám đốc. Tôi nói cho ông tin rằng tôi biết rất nhiều về các vấn đề thuộc Ai Cập. Trong lúc nôn nóng tôi đã nói quá nhiều về những vấn đề này. Ông ta bảo tôi rằng có lẽ một chức giáo sư sẽ thích hợp với tôi hơn là một chân gác cửa. Tôi biết nhiều việc hơn ông ấy. Chỉ với sự vụng về quá sức, bằng cách làm cho ông ấy tin rằng ông ấy đã đánh giá quá cao các khả năng của tôi, tôi mới xin được phép ở trong căn phòng này với vài thứ tư trang của tôi. Đây là đêm đầu tiên và cũng là đêm cuối cùng của tôi ở đây.
"Đó là câu chuyện của tôi, ông Vans¬ta Smith ạ. Tôi sẽ không nói nhiều hơn với một người có sự tinh tế như ông. Nhờ một sự trùng hợp kỳ lạ của hoàn cảnh mà đêm hôm nay ông đã thấy khuôn mặt của người đàn bà mà tôi đã yêu vào cái thời quá xa xưa ấy. Tủ kính chứa đựng rất nhiều nhẫn với những miếng pha lê nạm ở mặt và tôi phải thử chất bạch kim để thấy rằng chất lỏng quả thực nằm trong cái nhẫn này và cuối cùng tôi sẽ có thể giải thoát tôi khỏi cái sức khỏe đáng nguyền rủa đó thêm nữa. Tôi cảm thấy đã được giải thoát. Ông có thể kể lại câu chuyện của tôi hay giữ bí mật nó tùy thích ở ý ông. Tôi mắc nợ ông sự bồi thường này, vì đêm nay ông đã chỉ còn cách chết có trong gang tấc. Đúng ra tôi đã phải làm bất cứ một điều gì để khỏi bị cản trở. Nếu tôi đã thấy ông khi tôi đi tới, thì tôi tin rằng tôi đã phải làm cho ông mất hết khả năng làm hại tôi hoặc lên tiếng báo động, hoặc chống lại ý định của tôi. Đây là cửa ra vào. Nó mở ra phố Rivoli. Thôi chào ông".
Trên hè phố, người Anh quay nhìn lại. Trong một vài giây, cái bóng mảnh khảnh của người Ai Cập hiện rõ trên ngưỡng cửa hẹp. Rồi cánh cửa đóng sập lại và tiếng chốt cửa ken két vang lên trong sự yên lặng của ban đêm.
Sáng hôm sau nữa, sau ngày ông trở về Lon¬don, ông John Vans¬ta Smith đã đọc một bài báo ngắn rõ ràng của thông tín viên báo Times ở Paris gởi về:
"Tin vặt kỳ lạ tại viện bảo tàng Lou¬vre. Sáng hôm qua, một sự kiện kỳ lạ đã xảy ra trong căn phòng chính về Đông Phương. Những công nhân phụ trách việc lau chùi các phòng và đã tìm thấy một trong những người bảo vệ nằm chết ở đó; hai tay anh ra ôm choàng lấy một cái xác ướp với một vòng tay xiết quá chặt khiến người ta phải hết sức vất vả mới tách rời họ ra khỏi nhau. Một tủ kính đựng những nhẫn và cà rá loại có giá trị đã bị mở ra. Nhà chức trách nghĩ rằng anh bảo vệ đang bê cái xác ướp đi với ý định bán nó cho một nhà sưu tập tư nhân nào đó; nhưng anh ta bị chết bất thần vì bệnh đau tim mà anh ta mắc phải từ lâu. Đó là một người đàn ông với một tuổi tác khó đoán và anh ta có những thói quen dị thường, anh ta không để lại một người nào để thương khóc cái kết cục bi thảm và chẳng hợp thời của anh."
12. Hang Blue John
Câu chuyện được kể ra dưới đây đã được tìm thấy trong những giấy tờ của bác sỹ Jaines Hard¬cas¬tle, người đã chết vì bệnh lao phổi ngày 4 tháng 2 năm 1908 tại số 36 ở khu nhà Up¬per Coun¬try South Kesing¬ton. Những bè bạn thân thiết của ông đã không chịu bày tỏ một ý kiến nào về sự gi¬ao dịch có tính cách đặc biệt giữa ông và họ, nhưng họ đã nhất trí nói rằng người bạn quá cố ấy có một tinh thần khoa học và điềm đạm, ông không có vẻ gì là một người giàu trí tưởng tượng và không thể bịa đặt những chuyện ly kì ra ngoài sự bình thường. Tập truyện được để trong một phong bì bên ngoài có hàng chữ như sau: "Bản lược thuật những sự cố đã xảy ra tại vùng lân cận trang trại của cô Aller¬ton, ở Der¬byshire miền tây bắc vào mùa xuân năm trước". Phong bì có dấu niêm kín. Ở mặt sau có những dòng chữ bằng bút chì.
"Bạn Seaton thân mến,
"Chắc chắn bạn sẽ thấy thích thú, có lẽ đôi chút sợ hãi, là sự hoài nghi của bạn khi tiếp nhận câu chuyện của tôi, đã làm tôi không dám nói tới vấn đề này. Do đó tôi để tài liệu này trong các giấy tờ của tôi, sau khi tôi chết rồi không chừng những người xa lạ sẽ bày tỏ sự tin tưởng về tôi còn hơn là bạn của tôi?
Những sự sưu tra được thực hiện để tìm ra nhân vật Seaton đó đều vô hiệu. Tôi xin phép được nói thêm rằng thời gi¬an cư ngụ của người quá cố tại trang trại Aller¬ton cũng như sự mô tả đại cương về các tình huống (tôi không nói tới sự giải thích của ông về vụ này) đã được kiểm chứng rõ ràng. Tôi xin ngưng lời mào đầu ở đây để ghi lại câu chuyện đúng như nó đã được phát hiện.
17 tháng tư - Tôi đã cảm thấy ngay sự bổ ích mà không khí kỳ diệu của vùng cao nguyên mang lại cho tôi. Trang trại nhà Aller¬ton tọa lạc ở độ cao năm trăm thước bên trên mặt biển do đó khí hậu rất lành mạnh. Ngoài những cơn ho thường lệ vào buổi sáng, tôi không cảm thấy một điều gì khó chịu cả. Với sữa tươi và thịt cừu trong vùng, có thể là tôi sẽ lên cân. Tôi tin rằng Saud¬er¬son sẽ hài lòng.
Hai cô con gái nhà Aller¬ton đều có vẻ độc đáo và đáng yêu một cách quý phái; cả hai cô đều là gái lớn tuổi, cùng nhỏ bé, nhưng cần mẫn như nhau, họ sẵn sàng dành cho một người bện xa lạ tất cả tấm lòng mà họ có thể hiến dâng cho người thân yêu của họ. Đúng thật, các cô gái già là những người rất hữu ích! Đó là một trong những sức mạnh mà xã hội gìn giữ để dự phòng... nguời ta hay có thiện kiến coi các cô gái già như những người đàn bà vô dụng nhưng nếu không có sự giúp đỡ tận tâm của họ thì một gã đàn ông khốn khổ vô dụng sẽ làm được việc gì? Trở lại câu chuyện, các cô rất mau chóng để lộ ra qua thái độ giản dị cái lý do mà Saun¬der¬son đã giới thiệu tôi tới nhà họ. Vị giáo sư là người tự lập thân, hồi trai trẻ đã làm thuê cho các trang trại ở quanh vùng này.
Nơi đây rất hẻo lánh; những cuộc dạo chơi không thiếu gì cảnh đẹp. Trang trại có những đồng cở nằm sâu trong một thung lung lũng lởm chởm đá. Ở hai bên đường có những quả đồi đá vôi kỳ ảo; những tảng đá ở đó rất mềm đến nỗi ta có thể dùng tay bóp vỡ chúng.
Tất cả vùng quê này đều có vẻ như trống rỗng. Nếu tôi có thể đập vào nó bằng một cái búa khổng lồ, chắc nó sẽ vọng lên như một cái trống, nếu nó không tan vụn ra và để lộ một cái biển ngầm dưới mặt đất. Đúng, chắc chắn phải có một cái biển ngầm lớn, vì ở khắp mọi phía đều có những con suối uốn khúc quanh sườn núi, rồi biến mất trong lòng đất, không bao giờ xuất hiện lại nữa. Ở khắp mọi nơi giữa các tảng đá đều có những hang động. Nếu đi vào đó, người ta sẽ vào trong những hang động lớn xuyến sâu vào tận lòng trái đất với vô số khúc quanh. Tôi có một cái đèn nhỏ; và với tôi đó là một sự vui thú lớn khi mang nó theo trong những nơi hoang vắng kỳ bí này và được ngắm nhìn các hiệu ứng của màu đen và màu trắng khi chiếu ánh đèn lên những nhũ đá che phủ các khung vòm cao khi tắt đèn đi; ta đang đứng trong những màn đêm tối tăm nhất. Đốt đèn lên đó là một cảnh tiên trong truyện ngàn lẻ một đêm.
Một trong các hang động kỳ quái này làm tôi đặc biệt quan tâm vì nó là một tác phẩm của con người chớ không phải là của tạo hóa. Trước khi đặt chân đến nơi này, chưa bao giờ tôi nghe thấy người ta nói tới Blue John. Đây là một cái thên đặt cho một thứ kim loại có màu tía rực rỡ, mà người ta chỉ tìm thấy ở hai hoặc ba vùng trên thể giới. Nó quý hiếm đến nỗi một cái bình tầm thường bằng Blue John cũng có giá rất đắt. Với bản năng kỳ lạ của họ, người La mã đã tìm ra kim loại đó trong thung lũng này và họ đã đào một cái hầm xuyên ngang rất sâu trên sườn núi. Cái hầm mỏ của họ được đặt tên là hang Blue John: một vòm cầu đục vào vách núi dùng làm lối ra vào; những bụi cây rậm đã phủ kín miệng hang. Những thợ mỏ La mã đã khoét một hành lang đẹp đẽ chạy xuyên qua những hang động lớn đã bị nước xói mòn đến nỗi nến người nào đi sâu vào hang Blue John, thì tốt hơn hết là nên đánh dấu các tiêu điểm và phải mang theo rất nhiều nến; bằng không sẽ có sự rủi ro rất lớn là có thể không bao giờ còn lại nhìn thấy ánh sáng mặt trời nữa. Tôi chưa dám mạo hiểm; nhưng hôm nay tôi dừng lại ở lối vào của cửa vòm, và đưa mắt nhìn kỹ vào các ngõ ngách tối tăm mà tôi thấy lờ mờ ở phía trong. Tôi tự hứa hẹn rằng ngay sau khi bình phục, tôi sẽ dành những ngày nghỉ để thám hiểm những bí ẩn dưới mặt đất để xem những người La mã đã vào tới độ sâu bao nhiêu trong các ngọn đồi ở Der¬byshire này.
Những người dân quê dị đoan quá chừng! Tuy vậy chàng thanh niên Ar¬mitage đã gây cho tôi một ấn tượng tuyệt vời! Anh ta có nghị lực và có học vấn; tôi đã đặt anh ta cao hơn vị trí xa hội thực sự của anh ta. Và trong khi tôi dừng bước trước hang Blue John, thì anh ta đi qua đồng cỏ đến nơi và nói với tôi.
- Chào bác sỹ, ông không sợ à, ít ra ông cũng biết sợ chứ?
- Sợ à? Và tôi sợ cái gì cơ chứ?
- Sợ nó đó, anh ấy trả lời tôi và lấy ngón tay cái chỉ vào cái vòm đen sì. Sợ con quái vật sống trong hang động Blue John đó!
Sự dễ tin khiến các chuyện hoang đường được loan truyền trong một vùng hẻo lánh thật không thể ngờ được! Tôi hỏi anh ta về nguồn gốc của sự xác quyết ấy. Hình như ai cũng biết rằng thỉnh thoảng có những con cừu đã mất tích trong đồng cỏ. Ar¬mitage quả quyết rằng chúng đã bị bắt đi. Anh ta nhất định không chịu tin là chúng đã bỏ đi lang thang, và bị lạc trong núi. Một lần người ta đã tìm thấy một vũng máu và một vài búi lông. Nhưng tới đó người ta vẫn phải chấp nhận một lối giải thích khá tự nhiên. Hơn nữa, nhũng con cừu mất tích chỉ vào những đêm không có trăng, trời tối đen như mực; tôi phản đối, ai cũng biết rằng một tên ăn trộm bắt gà bắt vịt tầm thường cũng thích chọn những đêm tối mịt để hành nghề nữa là, một lần khác, một lỗ hổng đã được khoét ở một bức tường, và những hòn đã đã bị khuân đi bỏ vương vãi tại một khoảng cách khá xa; theo ý tôi thì đây là công việc của một hay nhiều người. Cuối cùng, Ar¬mitage đã tóm tắt tất cả lập luận của anh ta bằng cách kể lại cho tôi nghe rằng anh ta đã nghe rõ ràng tiếng con quái vật và bất cứ ai cũng có thể nghe tiếng của nó, với điều kiện là phải đứng rình khá lâu ở gần hang. Đó là một tiếng gầm xa xôi, với một sức mạnh khủng khiếp. Tôi chỉ có thể mỉm cười vì tôi biết những tiếng vòng kỳ dị phát ra bởi luồng nước ngầm dưới mặt đất chảy quanh co trong các hang sâu đước kết tạo bằng đá vôi. Thái độ không tin của tôi làm Ar¬mitage bực bội, và anh ta đã từ giã tôi một cách hơi vội vã.
Nhưng đây là một việc kinh dị nhất trong chuyện này. Tôi vẫn đứng yên ở lối vào hang, và tôi đang ngẫm nghĩ tới tất cả những lời giải thích mà các sự kiện do Ar¬mitage kể lại có thể chấp nhận được thì bỗng nhiên từ đáy sâu của hang dội lên một tiếng động hết sức kỳ quái. Biết mô tả nó ra sao đây? Trước hết, nó có vẻ như vọng tới từ một nơi rất xa, phát ra ngay trong ruột của quả đất. Hai là, mặc dù sự xa xôi đó, chắc chắn là rất mạnh. Sau hết, đây không phải là tiếng nổ ầm ầm, cũng không phải tiếng khối băng tan tức khắc gây ra một thác nước hay sự sụp lở các tảng đá; đó là một thứ tiếng rên rỉ chói tai, rung đông, ngâm nga, giống như tiếng hí của một con ngựa. Không còn chối cãi được nữa, tôi thấy mình đang đứng trước một điều gì hết sức đặc biệt, và tôi phải đặt một ý nghĩa mới vào những lời nói của Ar¬mitage. Tôi đợi trong một nửa giờ trước cửa hang Blue John, nhưng tôi không nghe thấy gì nữa; do đó tôi quay về trang trại, lòng rất băn khoăn vì sự việc xảy ra. Tôi quyết định sẽ thám hiểm cái hang này khi đã phục hồi sức khỏe! Chắc chắn là sự giải thích của Ar¬mitage quá mơ hồ, không đáng bàn luận; nhưng nó cũng không ngăn cản được sự thật là tiếng động kia rất quái dị. Nó vẫn còn vọng trong tai tôi khi tôi viết những dòng này.
20 tháng tư- Trong ba ngày vừa qua, tôi đã thực hiện vài chuyến dạo chơi chung quanh hang Blue John, tôi đã đi vào cả phía bên trong, nhưng không vào quá xa vì cái đèn của tôi không được sáng lắm. Tôi muốn tiến hành một cuộc thăm dò kỹ lưỡng. Tôi không nghe thấy một tiếng động nào giống như tiếng mà tôi tình cờ nghe thấy hôm nọ, đến nỗi tôi phải tự hỏi rằng có phải tôi đã là nạn nhân của bệnh ảo giác có lẽ được gây ra bởi buổi nói chuyện với Ar¬mitage? Chắc chắn là ý nghĩ của anh ta không đứng vững được! Tuy nhiên tôi phải nhìn nhận rằng các bụi cây một phần nào lấp kín cửa hang có vẻ như đã bị rẽ ra và bị dẫm nát bởi một con vật to lớn. Tôi bắt đầu thích thú. Tôi không hé một lời với các tiểu thư nhà Aller¬ton: các cô gái đã quá dị đoan rồi! Nhưng tôi mua những cây nến và đơn độc một mình mở cuộc điều tra.
Sáng hôm nay, tôi nhận thấy trong số rất nhiều búi lông cừu rải rác trên các bụi cây ở gần cái hang có một búi nhuốm máu. Tất nhiên là lý trí của tôi bảo tôi rằng nếu những con cừu mạo hiểm vào những nơi thế này, chúng rất dễ bị thương tích vì các tảng đá gồ ghề. Tuy nhiên, khi nhìn thấy những vết máu đỏ thẫm này, tôi run lên và kinh hoàng lùi lại, một luồng hơi hôi thối hình như bốc lên từ những khoảng sâu tăm tối mà tôi cố căng mắt thăm dò một lần nữa. Thật sự có thể có một con vật không có tên, khủng khiếp ẩn nấp trong đó không? Vào lúc hoàn toàn mạnh khỏe, chắc hẳn tôi không thể nào có được loại cảm giác này, nhưng khi ta bị yếu kém về sức khỏe, ta trở nên nhút nhát hơn và óc tưởng tượng gây ra sự quái dị.
Lúc đó, quyết tâm của tôi yếu đi và tôi cảm thấy sẵn sàng từ bỏ việc thám hiểm cái hầm mỏ cũ, và nhìn nhận rằng cái hầm mỏ đó có một điều bí mật. Nhưng chiều hôm nay tôi lấy lại sự hăng hái, những dây thần kinh của tôi đã bình tĩnh lại. Tôi hy vọng là ngày mai tôi sẽ đi sâu hơn vào vấn đề này.
22 tháng tư - Tôi phải dùng cách viết ra giấy để kể lại chính xác tối đa cuộc mạo hiểm ly kỳ của tôi ngày hôm qua. Tôi đã khởi hành vào buổi chiều và đi tới hang Blue John. Tôi xin thú thật rằng những điều linh cảm của tôi lại hiện ra; khi thăm dò những chỗ sâu thẳm của cái hang, đúng ra tôi nên phải có một người bạn đồng hành trong cuộc thám hiểm. Nhưng tôi đã lấy lại sư can đảm, tôi thắp nến lên, vượt qua hàng rào cản của những bụi cây và đi vào bên trong hang.
Trong khoảng chừng hai mươi thước, hang hơi dốc thoai thoải; mặt đất phủ đầy những đá vụn. Tiếp theo là một lối đi dài chạy theo chiều ngang được khoét vào đá kiên cố. Tôi không phải là nhà địa chất học nhưng chắc chắn là cái vòm cong phia bên trong đã được cấu tạo bằng một chất cứng hơn đá vôi; đó đây, ở một vài chỗ, tôi còn nhìn rõ thấy dấu vết của những dụng cụ do những thợ mỏ thời xưa bỏ lại khi họ đào cái hầm này, các dấu vết còn rất rõ ràng và nguyên vẹn như mới có ngày hôm qua, tôi đi chập choạng từng bước một trong cái hành lang cổ xưa như trái đất; ngọn lửa yếu ớt của cây nến chỉ tỏa ra một vòng ánh sáng mập mờ quanh tôi, vào nó còn làm cho bóng tối đen đặc hơn, đáng sợ hơn. Cuối cùng, tôi đi tới một chỗ mà cái hành lang của người La mã đưa tới một cái hang rộng mênh mông do bị xói mòn, với những nhũ đá vôi tích tụ lại trông như cây nến dài. Từ căn phong trung tâm này, tôi nhận ra một cách mơ hồ rằng có nhiều hành lang do các suối ngầm tạo ra đã ăn sâu vào trong lòng trái đất. Tôi lưỡng lự: tôi nên quay trở lại hay cứ liều mạng bước tới trong cái mê cung hiểm nghèo này? Bỗng nhiên tôi cảm thấy dưới chân có một điều gì khác thường.
Một phần lớn mặt đất trong hang được phủ những cục đá hay những tảng vôi. Nhưng ngay ở chỗ tôi đứng, cái vòm rất cao có nước nhỏ xuống làm thành một lớp bùn nhão. Và ở giữa lớp bùn này, tôi phát hiện ra một vết hằn sâu có bề mặt khá lớn; một vết hằn trong một vũng bùn hình thể không rõ ràng, sâu, rộng không đều đặn như kiểu một tảng đá lớn đã rơi xuống nơi này. Nhưng không có một tảng đá nào nằm quanh nơi này và tôi cũng không trông thấy điều gì có thể cho tôi biết về nguyên ủy của vết hằn. Nó rộng qua không thể do một con vật nào gây ra được; hơn nữa, nó là một vết duy nhất, cái vũng bùn không thể bằng một bước mà vượt qua được. Sau khi xem xét kỹ càng, tôi quay ra tìm hiểu bóng tối đen đặc vây quanh tôi, và tôi phải thú thật là trong một vài khoảnh khắc tim tôi đã đập nhanh hơn, và mặc dù tôi đã cố gắng giữ, cây nến vẫn cứ run lên trong bàn tay tôi.
Sau đó, tôi lấy lại ngay can đảm, trong khi nghĩ ngợi rằng vết hằn này, cú theo hình dạng và tầm cỡ phi thường của nó, không thuộc về một con vật quen thuộc nào; ngay cả nó cũng quá lớn để cho là do một con voi đã gây ra. Do đó tôi quyết định là những nỗi lo sợ vu vơ không thể ngăn cản được việc tiếp tục cuộc thám hiểm của tôi. Trước khi đi vào xa hơn, tôi đã thận trọng ghi nhận một gờ đã được hình thành một cách kỳ lạ trên vách đá, gờ đá này sẽ giúp tôi nhận ra cửa vào của cái hành lang của người La mã. Đây là sự thận trọng cần thiết, vì cái hang lớn là gi¬ao điểm của rất nhiều hành lang. Sau khi đã ấn định các tiêu điểm, tôi kiểm soát lại số nến và diêm mang theo, và khi đã vững bụng, tôi thong thả tiếp tục tiến bước trên bề mặt gồ ghề lởm chởm đá của cái hang.
Và bây giờ thì tôi gặp một trở ngại làm tôi vất vả, một con suối rộng chừng năm hay sáu thước chảy ngang qua đường đi của tôi; thoạt đầu tôi đi dọc theo nó trong ít lâu để cố tìm ra một chỗ đi qua nó mà không phải lội. Cuối cùng tôi đã nhìn thấy một tảng đá phẳng làm thành một chỗ cạn mà tôi có thể nhảy một bước là tới. Nhưng tảng đá đứng gập ghềnh trong dòng nước chảy đã nghiêng đi khi tôi đặt chân lên và tôi đã ngã xuống nước lạnh như băng. Cây nến tắt ngúm; tôi phải mò mẫm, bì bõm trong khoảng tối tăm mù mịt.
Tôi đã đứng lên được, lòng thấy vui thích hơn là hoảng sợ vì sự rủi ro này. Cây nến đã tuột khỏi tay và bị nước suối cuốn đi. Nhưng tôi còn hai cây khác trong túi áo. Sự cố không có gì quan trong cả. Tuy nhiên, tới lúc tôi muốn châm cây nến thứ hai tôi mới cảm thấy hết sự khó khăn của hoàn cảnh này. Bao diêm đã ướt sũng sau khi tôi ngã xuống nước. Không thể đánh một que diêm nào ra lửa.
Tôi có cảm giác như có một bàn tay bằng đá đề nặng lên trái tim tôi. Bóng tối đục mờ một cách khủng khiếp. Với sự cố gắng lớn lao, tôi tự trấn tĩnh và pháchọa lại trong ý nghĩ hình thể mặt đất của cái hang như tôi vừa nhìn thấy. Hỡi ôi, các tiêu điểm mà tôi có trong đầu lại ở khá cao trên các vách đá và tôi không thể tìm ra chúng bằng cách lấy tay sờ soạng. Tôi nhớ khá rõ ràng vị trí các vách của hành lang; do đó tôi hy vọng là bằng cách lần mò tôi cũng sẽ tới được lối vào hành lang của người La mã. Tôi bắt đầu cất bước di chuyển rất chậm chạp, luôn luôn va vào các vách đá.
Tôi đã mau lẹ hiểu rằng cách thức này sẽ chẳng lợi ích gì. Trong bóng tối dày đặc của màn đêm, tôi đã mất hết mọi ý niệm về phương hướng. Sau khi đi chừng mười bước, tôi không còn biết mình đang ở chỗ nào. Tiếng nước vỗ ì oạp là âm thanh duy nhất tôi nghe thấy, nó chỉ rõ cho tôi biết con suối chảy nơi nào, nhưng từ lúc rời khỏi bờ suối tôi đã bị lạc đường. Tôi phải từ bỏ việc tìm đường trong bóng tối dày đặc.
Tôi ngồi trên một tảng đá lớn và ngẫm nghĩ về cảnh ngộ nguy nan này. Không có ai biết về dự định cuộc thám hiểm của tôi, do đó có rất ít cơ hội để có một toán cứu hộ mạo hiểm vào trong hang Blue John. Tôi chỉ còn trông cậy vào khả năng của chính mình.
Khi tôi bị ngã xuống nước, chỉ có một nửa người tôi bị ướt thôi. Bên vai phải của tôi nằm trên mức nước nên vẫn khô. Tôi cầm lấy bao diêm và tôi đặt nó vào nách bên trái. Tác động của không khí ẩm ướt trong hang có thể đựợc hóa giải bằng hơi nóng thân thể tôi. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, tôi cũng vẫn không có ánh sáng trong vài giờ đồng hồ. Tôi chỉ còn cách là phải đợi.
May mắn là tôi đã nhét mấy cái bánh bích quy vào túi trước khi rời khỏi trang trại. Tôi nhai ngấu nghiến chúng bằng cách làm cho chúng ẩm đi với một ngụm cái thứ nước chết toi nàym vốn là nguyên nhân của tất cả mọi khốn khổ của tôi. Rồi tôi tìm ra một chỗ ngồi thoải mái hơn tỏng số các tảng đá. Sau khi lần¬mò một lúc, tôi đã tìm thấy một chỗ mà tôi có thể dựa lưng vào. Tôi ngồi xuống và duỗi chân ra. Bị ướt đẫm và lạnh cứng người, tôi cố tự trấn an bằng cách nghĩ rằng khoa học hiện đại đã quy định cho căn bệnh của tôi những cửa mở bao gồm những cuộc tản bộ trong mọi thời tiết. Được ru ngủ bằng tiếng rù rì buồn tẻ của con suối, bị mệt lử vì màn đêm đen đặc, tôi đã đắm chìm vào một giấc ngủ đầy lo âu sợ hãi.
Tôi đã ngủ bao lâu rồi? Tôi không biêt gì cả. Có lẽ là một giờ, có lẽ là nhiều giờ. Bỗng nhiên tôi ngồi nhỏm dậy, thần kinh căng thẳng và các giác quan tỉnh táo. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi đã nghe thấy một tiếng động. Một tiếng động hoàn toàn khác hẳn tiếng rù rì của nước. Tiếng động đã ngừng, nhưng tôi vẫn còn thấy âm vang trong tai tôi. Có phải đó là một toán cứu hộ không? Chắc hẳn là họ đã gọi lên; nhưng cái tiếng mà tôi vừa nghe, dù rất mơ hồ, không phát ra từ con người. Tim tôi đập thình thịch, tôi không dám thở mạnh... Lại tiếng động đó! Và lại nó nữa! Và lúc này nó trở nên liên tiếp. Có tiếng chân bước. Đúng, chắc chắn là tiếng chân bước của một sinh vật! Nhưng tiếng bước chân kỳ dị làm sao! Nghe tiếng bước chân này, tôi có cảm tưởng là một khối lượng đồ sộ được chống đỡ bằng những bàn chân xốp nhẹ nên sự di chuyển chỉ phát ra một tiếng động tắc nghẹn. Trong bóng tối mịt mùng, tiếng bước chân vẫn đều đặn rõ ràng. Và chắc chắn là nó đang hướng về phía tôi.
Tôi thấy rợn tóc gáy, toàn thân tôi lạnh như băng. Vậy là có một con quái vật sống trong cái hang động lắm ngõ ngách này? Với sự mau lẹ trong bước đi của nó, chắc chắn là nó nhìn thấy trong đêm tối cũng rõ như lúc ban ngày. Tôi ngồi co rúm lại trên tảng đá. Tôi muốn làm cách nào chui sâu vào trong tảng đá. Những bước chân đi tới gần. Tôi nghe thấy chúng dừng lại. Rồi tôi đoán phỏng chừng rằng con vật dừng lại để uống nước trong suối. Rồi sự yên lặng trở lại, nó chỉ bị ngắt quãng bởi những tiếng khụt khịt và tiếng thở phì phò khủng khiếp. Con quái vật có ngửi thấy tôi không? Lỗ mũi tôi đã bắt đầu ngửi thấy một mùi nặng nề hôi thối độc hại. Những bước chân lại vang lên trong bóng tối, lần này thì ở mạn bờ suối mà tôi đang ngồi. Cách chỗ tôi vài thước, những hòn đá lăn đi, bị nghiền vỡ và kêu lách cách. Không dám thở mạnh nữa, tôi cố thu nhỏ thân mình lại được chừng nào hay chừng ấy. Rồi những bước chân xa dần. Tôi nghe thấy những tiếng ì oạp lớn của nước khi con vật lội qua suối, sau đó những bước chân im bặt trong khoảng xa ở hướng mà chúng đã vọng lên.
Tôi đã ngồi rất lâu trên tảng đá, bị kinh hoàng đến nỗi không nhúc nhích được. Tôi nghĩ tới tiếng động phát ra từ những hố thẳm của cái hang, tới sự sợ hãi của Ar¬mitage, tới vết hằn trong vũng bùn. Sau hết, tôi đã có chứng cớ hẳn hoi là có một con quái vật ngoài sức tưởng tượng sống trong hang, nó không giống bất cứ một con vật nào mà ta biết trên mặt đất; và nó ẩn náu trong lòng núi. Nói về tính chất hay hình dạng của nó, tôi không thể hình dung được nó thế nào; tôi chỉ biết rằng con vật khổng lồ này có những bước chân nhẹ nhàng. Giữa lý trí và các giác quan của tôi đã có một cuộc đấu tranh. Lý trí của tôi nói rằng, những con quái vật loại này không thể có trên đời và các giác quan của tôi lại nói rằng những con vật đó có thật hòan toàn. Rút cục lại, tôi cảm thấy sẵn sàng chấp nhận rằng chuyến mạo hiểm này chỉ là một cơn ác mộng và cho rằng tình trạng bệnh hoạn của tôi có thể gây ra một ảo giác. Nhưng một sự cố sau cùng đã sớm xua tan ngay khỏi tâm trí tôi mọi khả năng nghi ngờ.
Tôi lấy những que diêm trong nách ra, sờ tay vào thấy chúng đã khô hẳn. Tôi cúi xuống chỗ khe hở giữa các tảng đá và bật thử một que. Trước nỗi vui mừng của tôi, nó đã bật thành lửa ngay nhát quẹt thứ nhất. Tôi đốt một cây nến, không khỏi nhìn về sau lòng đầy kinh hãi, tôi vội vàng bước về phía hành lang của người La mã. Trên đường đi, tôi đứng lặng người đi, không phải chỉ có một vết thôi, mà những ba vết. Ba vết lõm giống nhau, cùng một kích cỡ khủng khiếp, cùng một đường nét không rõ ràng, cùng một chiều sâu chứng tỏ cái khối nặng đã tạo ra chúng. Một sự kinh hoàng khó tả tràn ngâp lòng tôi. Cúi gập người xuống, lấy bàn tay che cây nến, tôi chạy thẳng đến bậc thềm cửa hang Blue John. Mệt đứt hơi, tôi nằm vật xuống đám cỏ tươi, dưới ánh sáng thân thương của những ngôi sao. Khi tôi về tới trang trại thì đã ba giờ sáng. Hôm nay, tôi vẫn còn run rẩy toàn thân. Tôi không nói gì cả. Tôi phải xử sự một cách dũng cảm. Nếu tôi kể lại cuộc mạo hiểm của tôi cho những người đàn bà yếu đuối cô đơn hay cho những người nông dân quê mùa thì có trời mới biết được là họ sẽ phản ứng ra sao? Tôi chỉ nói với người nào có thể hiểu được tôi thôi.
25 tháng tư - trong hai ngày liền tôi đã không rời khỏi giường nằm, một cuộc mạo hiểm không thể tin được. Tôi dùng tính từ này là có dụng ý. Từ sau chuyến đi thám hiểm hang Blue John tôi đã trải qua một kinh nghiệm cũng khiến cho tôi hoang mang gần như việc phát hiện ra con quái vật vậy. Tôi đã nói là tôi sẽ tim quanh quẩn nơi đây, một người nào có thể hiểu được tôi và giúp đỡ ý kiến cho tôi. Có một ông bác sĩ đang hành nghề cách đây vài cây số tên là Mark John¬son, và giáo sư Saun¬der¬son đã giới thiệu tôi với ông. Khi cảm thẩy đủ khỏe khoắn để thực hiện một chuyến đi bằng xe hơi, tôi liền tới nhà ông và kể cho ông nghe tất cả câu chuyện của tôi. Ông đã nghe tôi nói với sự chăm chú đặc biệt. Sau đó ông đã khám bệnh hết sức kỹ càng cho tôi, nhưng chỉ đưa cho tôi tấm danh thiếp của một ông Pic¬ton nào đó ở Cast¬len¬ton, khuyên tôi nên tới gặp ông đó ngay tức thì, và bảo tôi hãy thuật lại chính xác những sự việc mà tôi vừa mô tả xong. Theo ý ông bác sĩ này thì ông Pic¬ton mới thực sự là người mà tôi cần tới. Thế là tôi đi theo hướng nhà ga và đi xe lửa tới cái thành phố nhỏ cách xa chừng mười lăm cây số. Chắc là ông Pic¬ton phải có một địa vị rất quan trọng, vì tấm biển đồng của ông ấy được gắn trên cái của một tòa nhà lớn ở ngoại ô thành phố. Tôi đang sắp bấm chuông thì một linh cảm đã ngăn bàn tay tôi lại. Tôi đi sang bên kia đường, và hỏi thăm một người bán hàng. Tôi hỏi ông ta: "Ông có thể vui lòng cho tôi biết ông Pic¬ton là ai không ạ?" - "Được chứ! Đó là một bác sĩ tâm thần hay nhất ở Der¬byshire, và ông ấy trông coi cái nhà thương điên mà ông nhìn thấy kia kìa", người bán hàng trả lời tôi. Chắc ai cũng đoán được là tôi đã vội vàng rời khỏi Castle¬ton như thế nào. Tôi quay về trang trại, dọc đường không khỏi chửi thầm những gã bụng đầy chữ nghĩa nhưng thiếu óc tưởng tượng, không thể quan niệm được trong thiên nhiên một thứ gì khác ngoại những vật mà chính họ nhìn thấy bằng cặp mắt thiển cận của họ. Dù sao lúc này tôi cũng đã bình tĩnh hơn, tôi nhận thấy là bác sĩ John¬son đã không dành cho tôi một niềm tin lớn hơn niềm tin mà tôi đã dành cho Ar¬mitage.
27 tháng tư - Khi còn là một sinh viên tôi đã nổi tiếng là can đảm và liều lĩnh. Tôi nhớ trong một lần đi rình ma ở Colt¬bridge, chính tôi đã tự ý ở lại trong cái nhà có ma. Có phải tại vì tôi đã có tuổi (tuy nhiên tôi mới có 35 tuổi) hay vì tôi bị đau ốm khiến cho các đức tính thuở xưa bị cùn nhụt? Nói tóm lại, chỉ nguyên việc nghĩ tới cái hang khủng khiếp ở trong núi và khi tôi tự nhủ rằng cái hang đó có một con quái vật là tim tôi đã ngừng đập rồi. Tôi sẽ làm gì đây? Không một giờ phút nào mà tôi không tự đặt ra câu hỏi này. Nếu tôi không nói gì thì sự bí ẩn cứ còn nằm nguyên đó. Nhưng nếu tôi nói ra thì tôi sẽ bị đặt trước hai khả năng, một là người ta sẽ cho tôi là một thằng điên và người ta sẽ nhốt tôi lại, hai là tôi sẽ làm cho cả vùng quê kinh động. Nói tóm lại, tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi hãy chờ đợi, và chuẩn bị một chuyến thám hiểm có chuẩn bị kỹ hơn và cũng hữu hiệu hơn lần trước. Những việc thu xếp đầu tiên đã đưa tôi tới Castle¬ton, tôi mua sắm những vật dụng cần thiết: một cái đèn khí đá tốt và một khẩu súng săn hai nòng lớn. Tôi đã thuê khẩu súng này, nhưng đã mua hơn một chục viên đạn để săn thú lớn, những viên đạn này bắn chết được cả tê giác. Bây giờ tôi cảm thấy đã sẵn sàng để đương đầu với anh bạn quái vật trong hang sâu. Nếu tôi có sức khoẻ tốt hơn và nếu tôi có một sự đột khởi về nghị lực, chắc tôi sẽ mau chóng kết thúc được vụ này. Nhưng vụ này liên quan tới ai, hay tới cái gì đây? À, đây là một vấn đề làm tôi không ngủ được. Bao nhiêu là giả thuyết đã hiện ra trong đầu tôi và tôi đã gạt đi hết cái này tới cái nọ. Tất cả đều không thể xảy ra được! Nhưng cái tiếng kêu, cái vết hằn lõm những bước chân trong hang, tôi buộc lòng phảI nhìn nhận chúng là những sự thật. Tôi nghĩ tới những con rồng trong huyền thoại cổ xưa. Phải chăng, những con quái vật đó tồn tại ở những nơi khác bên ngoài truyện thần tiên? Có thể nào mà tôi, một người trong giữa muôn người, lại được số mệnh định cho việc phát hiện ra sự sinh tồn có thực của chúng?
3 tháng năm - Tôi nằm ỳ trên giường trong nhiều ngày vì những biến chuyển thất thường của mùa xuân ở nước Anh, và trong thời gi¬an đó một vài sự cố đã xảy ra; ngoài tôi ra không ai có thể cảm nhận được bản chất thật sự của nó. Tôi xin nói thêm rằng, chúng tôi đã có những đêm đầy mây mù và không có trăng; và theo điều người ta nói với tôi thì trong những đêm ấy, những con cừu đã biến mất dạng. Đúng thế, những con cừu đã hoàn toàn biến dạng. Hai con thuộc về chị em nhà Aller¬ton, một con là của ông già Pear¬son, và một con khác là của bà Mour¬ton. Bốn con trong ba đêm. Chúng không để lại một dấu vết nào cũng không nơi nào người ta thấy những gã bụi đời và những tên ăn trôm gia súc. Nhưng còn việc quan trọng hơn nữa - Anh thanh niên Ar¬mitage cũng mất tích luôn. Khoảng chập tối hôm thứ tư, anh ta rời khỏi nhà ở ngoài cánh đồng và từ đó không ai nghe thấy nói tới anh ta nữa. Vì đó là một người không có họ hàng thân thích nên sự mất tích của anh ta chỉ khơi lên một nỗi xúc động vừa phải. Những kẻ lắm chuyện thì nói rằng anh ta mắc nợ, đã kiếm được việc làm ở nơi khác và sẽ mau chóng cho biết tin về mình, dù là chỉ để thu nhặt những thứ còn bỏ lại trong ngôi nhà cũ. Nhưng tôi thì lại có những linh cảm khác đáng sợ hơn. Rất có thể là sự mất tích của những con cừu đã thúc đẩy anh ta lao mình vào một cuộc mạo hiểm gây ra sự mất tích của anh ta. Chẳng hạn như anh ta đã rình con quái vật và nó đã bắt được anh ta, lôi anh ta tới một xó xỉnh hóc hiểm trong đáy sâu của dãy núi thì sao? Thật là một số phận không thể tưởng tượng được cho một người dân văn minh của nước Anh ở thể kỷ hai mươi này! Không thể tưởng tượng đựoc nhưng tôi thì đoán rằng nó có thể xảy ra và ngay cả nó đã là một sự thật, trong vụ này chỉ có một điều là tôi phải chịu trách nhiệm đến bao nhiêu về cái chết của anh ta? Tôi sẽ chịu trách nhiệm đến mức độ nào về sự bất hạnh khác có thể sắp xảy ra? Tôi không được phép nghi ngờ nữa; ý thức được những điều mình đã biết, tôi không thể lảng tránh; bổn phận của tôi là phải tự đảm bảo với mình rằng phải làm một điều gì đó và nếu cần thì chính bản thân tôi sẽ làm việc này được rồi. Tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Sáng hôm nay tôi tới Ty cảnh sát để thuật lại câu chuyện của tôi. Viên thanh tra đã ghi chép vào một quyển sổ lớn, ông ta đã chào tôi một cách vô cùng trịnh trọng; nhưng ngay sau khi tôi khép cửa lại thì tôi đã nghe thấy những tiếng cười lớn. Chắc hẳn ông ta đã chế nhạo sự ngây thơ của tôi. Tôi sẽ tự xoay sở một mình vậy.
10 tháng sáu - Tôi viết tiếp cuốn nhật ký này trên giường nằm, sau sáu tuần ngưng viết. Tôi đã bị một cú sốc khủng khiếp cả về tinh thần lẫn thể xác, sau một cuộc mạo hiểm mà người ta rất hiếm khi phải trải qua. Nhưng ít nhất tôi cũng đã đạt tới mục đích mà tôi tự đặt ra cho mình. Sự hiểm nguy phát sinh từ con quái vật ở hang Blue John đã được loại trừ vĩnh viễn. Đây là một việc mà tôi, một kẻ tật bệnh sắp hết hơi, đã hoàn thành cho xã hội. Tôi xin thuật lại một cách hết sức rành mạch những điều đã xảy ra.
Hôm thứ sáu., mồng 3 tháng năm, đêm tối như mực. Đây là một đêm lý tưởng cho sự xuất hiện của con quái vật. Vào lúc mười một giờ đêm, tôi rời khỏi trang trại, mang theo cái đèn khí đá và khẩu súng, sau khi để lại trên bàn trong phòng một mảnh giấy ghi lại là nếu sự vắng mặt của tôi kéo dài thì phải tìm tôi ở hang Blue John. Tôi đi tới lối vào của cửa vòm kiểu La mã. Tôi khôm mình trên một tảng đá dốc nghiêng chỗ lối vào, tôi tắt đèn đi và ngồi rình, khẩu súng đã nạp đạn cầm sẵn trong tay.
Một phiên gác buồn nẫu ruột! Trên các sườn đồi, tôi nhận ra những ánh đèn của các trang trại rải rác ở đó đây. Chuông của giáo đường Chapel - le - Dale điểm từng giờ một cách yếu ớt. Những biểu hiện sự có mặt ở xa xôi của các đồng bào của tôi chỉ làm tăng thêm cảm giác cô đơn thay vì thúc ép tôi phải khắc phục nỗi kinh hoàng làm cho tôi muốn quay về trang trại và dứt khoát từ bỏ việc này. Nhưng mỗ người chúng ta đều có lòng tự trọng nằm sâu trong tâm khảm, lòng tự trọng này chống lại việc bỏ dở một công cuộc vừa mới bắt đầu. Cảm nhận về lòng kiêu hãnh cá nhân đã giúp đỡ tôi rất nhiều, chỉ nhờ vào một mình nó mà tôi đứng vững được trong khi tất cả mọi bản năng của tôi đều xui tôi bỏ trốn. Lúc này tôi rất sung sướng đã có được sức mạnh ấy. Bất kể những gì nó bắt tôi phải trả, phẩm cách người của tôi đã không có gì để phải xấu hổ.
Chuông đã điểm nửa đêm. Rồi một giờ. Hai giờ. Đây là lúc tối nhất của một đêm. Những đám mấy thấp bay bên trên mặt đất. Trên trời không có một ngôi sao. Ở một nơi nào đó trên các ghềnh đá, một con cú rúc lên, tiếng thở dài êm dịu cách quãng của gió là tiếng động duy nhất mà tai tôi thu nhận được, rồi thì bỗng nhiên tôi nghe thấy nó! Từ đằng xa, ở phía dưới, trong cái hang vang lên tiếng chân như bị tắc nghẹn của con vật, bước chân vừa nhẹ nhàng vừa nặng nề. Tôi cũng nghe thấy tiếng những hòn đá lăn đi khi con quái vật dẫm chân lên. Những bước chân đã tới gần. Con vật đã tiến tới rất gần chỗ tôi. Tôi nghe thấy tiếng các bụi cây kêu lắc rắc khi bị con vật rẽ ra và làm gãy nát chung quanh lối vào; rồi một cách lờ mờ trong bóng tối tôi nhận ra một khốI đồ sộ một loại thú không ra hình dạng gì, kỳ quái, từ trong hang chui ra một cách mau lẹ và yên lặng. Sự sợ hãi và kinh hoàng làm tê kiệt cả người tôi. Tuy là tôi đã ngồi rình rất lâu, nhưng đứng trước con quái vật, tôi trở thành bất động, không còn chút sức lực nào. Con vật cứ tiến tới, nó đi qua gần sát chỗ tôi và nó đã biến mất trong màn đêm. Tôi chuẩn bị hết can đảm để đợi lúc nó trở về. Trong làng quê đang ngon giấc ngủ, không một tiếng động nào phát lộ sự hiện diện của nó. Tôi không tài nào ước tính được khoảng cách mà nó đang đứng hay đoán được nó đang làm gì, hay tính được giờ phút nó trở về hang. Nhưng tôi đã thề là cân não của tôi sẽ không chùn lại lần thứ hai tôi đặt khẩu súng đã nạp đạn lên trên các tảng đá.
Thế mà suýt nữa tôi đã để dịp may qua khỏ. Tôi đã hoàn toàn không nghe thấy tiếng con vật đi qua đồng cỏ. Bốn nhiên tôi nhận ra thân hình đò sộ của nó đáng đi về phía cửa hang. Một sự suy giảm lần nữa về ý chí đã ngăn cản tôi bóp cò súng, tôi phảI cố gắng hết sức mình đề động đậy ngón tay trỏ. Trong khi các bụi cây đang bị dập nát bởI bước chân của con vật (nó đã lẫn lộn với bóng tối của lỗ hang) thì tôi nổ súng. Dưới tia sáng loè của phát súng, tôi nhìn thấy một khối lớn có lông dài rậm rạp, màu xám của lông chuyển thành màu trắng ở phần bên dưới thân mình nóm phần này tận cùng bằng những cái chân cong queo, to lớn. Tôi chỉ nhìn thấy nó trong khoảng khắc một ánh chớp. Rồi nghe thấy tiếng những hòn đá lăn lộc cộc, con quái vật rút lui vào trong hang ổ của nó. Ngay tức thì, bởi một sự chuyển biến phấn khởi trong tâm trạng, tôi gạt bỏ được hết nỗi sợ sệt, gỡ tấm che chiếc đèn khí đá ra, tôi nhảy ra khỏi tảng đá và khẩu súng lăm lăm trong tay, tôi tiến sâu vào hành lang của người La mã, đuổi theo con quái vật.
Cái đèn khí đá chiếu ra trước mặt tôi một tia sáng mạnh không thể so sánh một chút nào với ánh lửa vàng lập loè của cây nến đã dẫn đường cho tôi mười hai ngày trước đây trong cùng một vòm cong này. Trong khi tôi chạy, tôi nhìn thấy con quái vật đang lảo đảo trốn tránh; cái thân mình đồ sộ của nó choán hết chỗ trống giữa các vách đá, lông nó giống như dây gai thô và rủ suống từng búi lớn xoắn vào nhau và đung đưa theo mỗi bước chân; ta có thể nói là bộ lông không bị cắt xén của một con cừu khổng lồ, nhưng rõ ràng là nó lớn như một con voi và nó có vẻ vừa to vừa cao. Tôi vẫn còn sững sờ khi tôi nghĩ rằng tôi đã dám săn đuổi một con quái vật như thế này vào tận lòng trái đất; nhưng khi máu đã nóng lên và khi con mồi đang tìm cách tẩu thoát thì cái bản năng cố hữu của người thợ săn đã trỗi dậy và xin chào giã biệt sự khôn ngoan! Thề là với khẩu súng trong tay, tôi chồm theo con quái vật với hết cả tốc độ của đôi chân.
Tôi nhận thấy nó nhanh nhẹn dị thường. Nhưng rồi tôi cũng nhận thấy một cách băng khoăn lo ngại là nó không kém phần quỷ quyệt. Tôi tưởng là nó chạy trồn vì bị kinh hoàng và bây giờ tôi chỉ việc đuổi theo thôi. Không một giây phút nào mà tôi không nghĩ là nó có thể quay lại và lao vào tôi. Ở đoạn trên, tôi đã nói rõ là cái hành lang của ngườI La mã dẫn tới một cái hang lớn chính giữa. Tôi vội vã chạy tới đó, đầu óc bị lởn vởn nỗi lo sợ làm mất dấu vết con quái vật. Nhưng con quái vật đã quay lại, và tôi với nó đứng đối mặt nhau.
Cảnh tượng này được soi sáng một cách mãnh liệt bởi ngọn đèn khí đá, nó sẽ còn mãi mãi khắc sâu trong ký ức của tôi. Con quái vật đứng thẳng lên bằng hai chân sau như một con gấu và nó khom xuống phía trên đầu tôi, to lớn và đầy đe dọa; không một ác mộng nào có thể hình dung được nó. Tôi đã nói là nó khom xuống như một con gấu, thật sự trong dáng vẻ của nó cũng có một vài nét của con gấu (khi ta chấp nhận rằng có thể có một loại gấu mười lần lớn hơn một con gấu thường), trong những cái bàn chân trước quắp lại với những cái móng trắng như ngà của nó, trong bộ lông bù xù trong cái mõm đỏ há hốc ra lởm chởm những cái răng gớm ghê. Chỉ có một điểm làm nó khác với con gấu hay bất kể một con vật nào sống trên mặt đất, khi phát hiên ra điều này, tôi run rẩy khắp tứ chi, cặp mắt long lanh trước ánh đèn của tôi là những cục tròn lớn, lồi ra, trắng bệch và không có thị giác. Trong một vài giây, nó lắc lư những bàn chân to lớn của nó trên đầu tôi. Rồi ngã về phía trước đè lên người tôi, cả tôi và cái đèn đều bị đè gí trên mặt đất và tôi không còn nhớ được gì nữa.
Khi tôi tỉnh lại thì thấy mình đang ỏ trong trang trại của gia đình Aller¬ton. Hai ngày đã trôi qua kể từ cuộc mạo hiểm khủng khiếp của tôi trong hang Blue John. Hình như tôi đã nằm bất tỉnh suốt đêm trong cái hang, sau vụ chấn thương với những chỗ gãy nguy hiểm ở cánh tay trái và hai cái xương sườn. Sáng ra, hai chị em nhà Aller¬ton phát hiện ra mảnh giấy của tôi, độ hơn một chục tá điền đã họp nhau lại, lần theo dấu vết của tôi và tôi đã được đưa về phòng mình trong cơn mê sảng dữ dội. Họ không tìm thấy một vết tích nào chứng tỏ sự hiện diện của con quái vật, họ không tìm thấy vết máu chứng tỏ rằng viên đạn của tôi đã bắn xuyên qua mình nó. Ngoài các thương tích của tôi và những hằn sâu trên vũng bùn, không có gì chứng minh cho những lời nói của tôi.
Sáu tuần lễ đã trôi qua, và tôi đã có thể đi ra bên ngoài ngồi phơi nắng. Ngay trước mặt tôi là một cái sườn đồi màu xám xịt, và tôi phân biệt được cái khe hở đen làm dấu cho miệng hang Blue John. Nhưng lỗ hang này không còn là nguồn gốc sự kinh hoàng nữa. Không bao giờ còn con quái vật từ cái hành lang gơm ghiếc này xông ra thế giới của con người, nhưng đầu óc trí thức, những nhà bác học, bac sĩ John¬son và rất nhiều người khác chắc sẽ mỉm cười khi đọc bài tường thuật của tôi. Nhưng các dân quê vùng lân cận không bao giờ nghi ngờ sự thật của câu chuyện này. Sau khi tôi có thể nói được một ngày, họ đã tụ tập vài trăm người chung quanh hang Blue John. Tôi đọc tờ báo Castle¬ton Couri¬er.
"Đặc phái viên của chúng tôi và các vị có nhiệt tâm tới từ Mat¬loc Bux¬ton, v.v..., đã hoài công tự hứa là sẽ đi xuống cái hang để thám hiểm đến nơi đến chốn, với ý định là kiểm chứng sự xác thực của câu chuyện giật gân của bác sỹ James Hard¬cas¬tle. Những người trong khu vực đã đảm đương vụ này và ngay từ lúc sáng tinh mơ họ đã làm việc một cách cực nhọc để lấp kín cái hang Blue John. Cái hang chạy vào một hành lang dốc và những hòn đá lớn được một số đông người tình nguyện chở tới đã được quăng vào bên trong cho tới khi miệng hang bị bít kín. Đó là chương cuốI cùng của câu chuyện đã làm say mê cả nước. Dư luận ở địa phương vẫn còn bị chia rẽ kịch liệt. Ở một bên thì có nhiều người nêu lên tình trạng sức khoẻ yếu kém của bác sỹ Hard¬cas¬tle và họ nói rằng, các vết thương trong não bộ có nguồn gốc từ bện lao đã có thể sinh ra những ảo giác kỳ quái, cũng theo các giới chức này, một ý tưởng mạnh mẽ đã có thể dẫn dắt vị bác sỹ đi vào trong hang, và chỉ một cái ngã mạnh cũng thành nguyên nhân các vết thương của ông. Về phía bên kia thì cái truyền thuyết về con quái vật sống trong hang đã được lan truyền rất lâu trước khi bác sĩ Hard¬cas¬tle tới vùng này, những tá điền cho rằng truyền thuyết này được làm vững thêm bởi câu chuyện của vị bác sĩ cũng như bởi các vết thương của ông, Sự việc này sẽ còn nguyên ở chỗ đó, vì người ta không biết làm thế nào để có một giải pháp dứt khoát vào lúc này.
Trước khi bài báo này được ấn hành, lẽ ra tờ báo ấy phải khôn ngoan một chút để gởi thông tín viên của họ tới gặp tôi. Tôi đã suy nghĩ về vụ này nhiều hơn bất cứ ai khác, và không nghi ngờ gì lẽ ra tôi đã có thể làm sáng tỏ một cách có khoa học sự bí mật vẫn còn tồn tại trong dân chúng. Ở đây, tôi chỉ đưa ra lời giải thích duy nhất mà tôi thấy là có thể làm sáng tỏ được tất cả mọi việc. Giả thuyết của tôi có thể có vẻ không xảy ra được dù sao thì cũng không có ai lại liều lĩnh mà cho rằng nó không thể xảy ra.
Tôi tin rằng (và tờ báo cũng vạch ra rằng quan điểm của tôi đã được hình thành từ trước lúc khởi sự các cuộc mạo hiểm cá nhân của tôi) trong phần đất này của nước Anh có một cái biển ngầm tiếp nhận nước từ vô số những con suối chảy lòng vòng và biến dạng trong núi đá vôi nơi nào có khối dự trữ mưốc quan trọng thì cũng sinh ra sự nước bốc thành hơi, và có sương mù hay mưa; do đó có khả năng sinh ra cây cỏ. Lập luận này lại gợi ý rằng một đời sống động vật có thể phát sinh theo kiểu đời sống thực vật, những dòng giống và những chủng loại xuất hiện lúc khởi đầu lịch sử thế giới, khi sự gi¬ao tiếp với không khí bên ngoài còn dễ dàng hơn. Do đó ở nơi này, những động vật và thực vật đặc biệt đã phát sinh, bao gồm cả những quái vật mà tôi đã nhìn thấy: có thể là một con gấu già ở các hang động đã đượ¬clàm to hơn và biến đổi hình dạng rất nhiều vì môi trường mới của nó. Trong những khoảng thời gi¬an dài vô tận, hai loại sinh vật, một loại ở bên trong và một loại ở bên ngoài đã sống riêng biệt sinh trưởng một cách đều đặn ở cách xa nhau. Rồi một khu vực nào đó đá xuất hiện trong đáy sâu thẳm của núi, khe nứt này đã để cho một trong số các con quái vật đó leo lên phía mặt đất, và nhờ vào các đường hầm của người La mã thở hít được không khí trong lành. Giống như tất cả các loài sinh vật sống bên dưới mặt đất, con quái vật cũng mất thị giác, nhưng sự tật nguyền này chắc chắn đã nhận được của tạo hóa những đền bù ở các phương diện khác. Nhất định là nó đã có một phương tiện để định hướng đi và để săn bắt những con cừu trên các sườn núi. Còn về cái sở thích của nó đối với các đêm tối mịt, thì giả thuyết của tôi cho rằng ánh sáng đã làm cho nó rất đau đớn và con quái vật chỉ thích hợp với một thế giới tối đen như mực. Có lẽ cái đèn khí đá của tôi đã cứu sông tôi khi tôi và nó đứng đối mặt nhau. Đây là cách thức mà tôi giải bài toán hiểm hóc. Tôi trao lại các sự kiện này cho hậu thế; nếu bạn có thể giải thích được các sự kiện này, xin đừng bỏ qua chúng; nếu bạn nhún vai cũng không sao. Cả sự hoài nghi lẫn sự tán thành của bạn đều chẳng thay đổi được các sự việc và càng không thể gây ảnh hưởng tới một người mà sứ mệnh trên cõi đất này đã sắp chấm dứt.
Đó là câu chuyện ly kỳ của bác sĩ James Hard¬ces¬tle.
13. Cái thang máy
Ông phi đội trưởng Stan¬gate đã có đủ mọi thứ để trở thành một người sung sướng. Ông đã ra khỏi cuộc chiến tranh yên lành và khỏe mạnh, với cái danh tiếng vững bàn đạt được trong một binh chủng có nhiều vị anh hung nhất. Ông vừa mới được ba mươi tuổi, một sự nghiệp lớn lao và hoàn mỹ đang mở ra trước mắt ông. Và nhất là mỹ nhân Mary MacLean đang đi vịn vào cánh tay ông và nàng đã hứa với ông rằng suốt cả đời này sẽ ở bên cánh tay đó. Tuy nhiên, một mối lo buồn đang đè nặng lên trái tim ông.
Ông đã không thể tự giải thích điều đó cho ông, và ông đã cố gắng tìm cách lý giải để rũ bỏ nó đi. Bên trên đầu ông, bầu trời xanh thẳm, cũng như mặt biển phía trước ông xanh thẳm, và khắp chung quanh trải ra những những khu vuờn đẹp đẽ cùng với một đám đông những khách nhà du hân hoan vui thú. Và nhất là bộ mặt dịu hiền đang quay về phía ôngvới một sự khẩnkhoản đầy vẻ thắc mắc, Tại sao ông không thể tham gia vào một cảnh quan¬vui tươi như thế? Ông đã đưa ra nhiều cố gắng nhưng chúng vẫn chưa đỉ để dụ hoặc cái bản năng cấp táo của một tình nương.
- Có việc gì vậy, Tom? Nàng hỏi ông với sự bồn chồn lo lắng. Em nhận thấy có điều gì làm anh buồn bã. Hãy nói cho em biết xem em có thể giúp đỡ anh bằng cách nào đó chăng.
Ông bật cười lớn, đôi chút mắc cỡ.
- Thật là một tội lỗi khi làm hỏng cuôc du ngoạn nhỏ của chúng ta đó! Ông nói. Khi anh nghĩ tới điều này, anh lại muốn tự đánh đòn mình. Em cớ lo sợ, em cưng ạ, vì anh biết những đám mây mù của anh sẽ tan đi trong chốc lát. Anh tìn rằng anh còn đầy đủ khí lực, hình như nghề phi hành đã bẻ gẫy mọi khí lực hoặc đã bảo đảm cho chúng ta đến suốt đời.
- Vậy là không có gì là dứt khoát à?
- Không. Không có gì là dứt khoát cả. đó chính là điều tệ hại. Nếu điều này là đúng, anh sẽ có thể chiến đấu một cách dễ dàng hơn. Đúng là một sự trầm cảm nặng nề ở đây, ở trong ngực và ở trong đầu. Em yêu của anh, anh xin lỗi nhé! Anh là một kẻ thô bạo đã làm em u buồn với những sự ngu ngốc như vậy
- Nhưng em lại muốn được chia sẻsự bực bội nhỏ bé nhất của anh mà!
- Này, nó đã đi khỏim biến mất tàn lụi rồi. Chúng ta không nên nói tới nó nữa.
Nàng ném cho ông một cái nhìn thấu tận tim gan.
- Không, Tom, chỉ cần nhìn vào anh thôi. Hãy nói với em đi, có phải anh thường tự cảm thấy như vậy không? Thật sự anh không có vẻ khỏe mạnh lắm. Anh hãy ngồi xuống đây, anh yêu quí, dưới bong mát và nói cho em biết anh lo buồn về chuyện gì.
Họ cùng ngồi xuống dưới bóng của cây Tháp lớn cao hai trăm mét ở bên cạnh họ.
- Anh có một năng khiếu kỳ cục, ông nói. Anh không nghĩ rằng anh đã nói điều này với bất kỳ một ai. Nhưng khi một sự hiểm nguy tức thì đe dọa anh thì anh bị bao vây bởi những linh cảm kỳ lạ. Chắc chắn là hôm nay, thật kỳ cục. Em hãy nhìn kìa, cái gốc cây thật hiền hòa... Tuy nhiên đây là lần thứ nhất mà sự bực bội này đưa anh tới chỗ nhầm lẫn
- Anh đã cảm nhận thấy nó lúc nào trước đây à?
- Khi anh còn là đứa trẻ con, anh đã cảm thấy nó vào một buổi sáng: suýt nữa anh bị chết đuối vào buổi chiều. Anh đã cảm thấy nó khi một tên trộn lẻn vào Mor¬ton Hall và khi cái áo dài của anh bị một viên đạn xuyên qua. Rồi trong cuộc chiến tranh anh đã cảm thấy nó hai lần trước khi bị tập kích thình lình và đã thoát nạn một cách thần kỳ; nó đã nhập vào anh trong lúc anh đang leo lên máy bay của anh. Rồi nó tan biến một cách đột ngột, tựa như một đám sương mù trước ánh nắng mặt trời. Em này, nó đi đó, nó đá đi khỏi rồi! hãy nhìn vào anh! Có thật vậy không?
Đúng thật vậy. Trong vòng một phút, bộ mặt bơ phờ đã biến thành bộmặt trẻ con cười toe toét. Mary bật cười lớn. Rõ ràng là trong tâm hồn của Tom nay chỉ còn sự hoan lác sinh động của tuổi thanh xuân.
- Tạ ơn thựong đế! Ông kêu lên. Mary này, chính là đôi mắt than thương của em đã chữa khỏi bệnh cho anh. Anh không còn có thể chịu dược sự u buồn sầu mông trong cai nhìn của em. Thật là một cơn ác mộng xuẩn ngốc là sao! Bây giờ thì anh sẽ không bao giờ còn tin vào những sự linh cảm của anh nữa. Em yêu quý, chúng ta chỉ còn vừa đủ thì giờ để đi dạo một vòng trước bữa điểm tâm. Chúng ta sẽ đi xem một trò vui trong chợ phiên hay đi xem quay bánh xe lớn hay trên tàu thủy bay, hay xem gì đây?
- Anh nghĩ thế nào về cái Tháp? Nàng hỏi trong khi ngẩng cái mũi xinh đẹp lên. Cái không khí tuyệt diệu ở đó và cái toàn cảnh từ trên cao nhìn xuống chắc chắn sẽ xua đuổi những đám mây cuối cùng ra khỏi tâm trí anh.
Ông nhìn đồng hồ của ông.
- Đã quá trưa rồi nhưng anh nghĩ là chúng ta có thể làm việc đó trong một giờ đồng hồ. Này thang máy không vận hành. Anh bán vé, chuyện gì xảy ra vậy?
Người nhân viên lắc đầu gtrong khi chỉ vào một toán nhỏ đang tập hợp trước lối vào.
- Họ đang đợi, thưa ông. Thang máy bị hỏng, nhưng lúc này thì bộ phận máy móc đang được kiểm tra lại và tín hiệu sẽ được phát ra trong một vài phút. Nếu ông nhập bọn với những người khác, tôi xin hứa việc đó sẽ không lâu đâu.
Khi họ vừa chiếm được chỗ đứng trong nhóm người thì cái vách thép của thang máy lướt đi trên cái cạnh. Thế là đã có hy vọng cho tương lai gần cận. Các du khách ùa vào chỗ mở ngỏ và chờ đợi trên sân. Họ cũng không đông lắm vì đám đông thường xuất hiện nhiều nhất vào buổi chiều, nhưng đó là những người miền Bắc khả ái và vui vẻ, họ sống những ngày nghỉ ỏ Northam. Tất cả bọ họ đều nhìn lên không, và theo dõi một cách chăm chú một người đàn ông đang tụt xuống dọc theo cái sườn bằng thép. Đây không phải là một trò chơi của trẻ con, nhưng nếu anh ta đi cũng nhanh như một người thế tục bình thường trên các bậc của một cái cầu thang.
- Trời oi! Người bán vé nói khi chính anh ta cũng ngẩng đầu lên nhìn. Sáng hôm nay Jim đã làm việc gấp gáp.
- Người đó là ai? Thiếu tá Stan¬gate hỏi.
- Thưa ông, đó là Jom Barnes, người thợ giỏi nhất đã từng leo lên một cái sàn. Anh ấy gần như lúc nào cúng sống ở trên đó. Tất cả những trôn đinh ốc, những đinh con tán đều nằm dưới sự coi sóc của anh ấy. Anh chàng Jim này là một thứ người làm cho ta cảm kích.
- Nhưng chớ có tranh luận về tôn giáo với anh ta. Một người nào đó trong nhóm nói.
Người nhân viên bật cười lớn.
- À, vậy là ông có biết anh ta hả? Người ấy nói. Không, tốt nhất là ông đừng bàn cãi về tôn giáo với anh ta.
- Tại sao? Viên sĩ quan hỏi.
- Bởi vì anh ấy coi những câu chuyện về tôn giáo là rất nghiêm trọng. Anh ấy là ánh sáng của giáo phái của anh ấy.
- Không có gì là khó khăn trong việc đó. Người vừa nói xong lại cất tiếng nói. Người ta bảo tôi rằng trong giáo hội của anh ta chỉ vỏn vẹn có sáu người. anh ta tưởng tượng rằng bầu trời không lớn hơn cái nghị hội của riêng anh tam và anh loại ra ngoài tất cả những nghị hội khác.
- Tốt nhất là đừng nói với anh ta trong khi tỏng tay anh ta đang cầm cái búa kia. Người bán vé thì thầm. Chào Jim, sáng nay có khỏe không?
Người đàn ông lướt nhanh dọc theo quãng mười mét cuối cùng rồi y lấy thăng bằng đứng yên trên một thanh ngang để nhìn xuống nhóm nhỏ người trong thang máy. Với cách y đứng ở đó, trong bộ quần áo bằng da, với những cái kìm và các dụng cụ khác đeo lủng lẳng ở cái dây thắt lưng nâu. Y vẫn giữ được cái nhìn của một tay nghệ sĩ. Rất cao, rất gầy, chắc là y phải có sức vóc của một anh khổng lồ. Y có những chân tay dài, mềm dẻo, một bộ mặt đẹp trai, vừa cao quý, vừa khắc khổ, cặp mắt và mái tóc đen sậm , một cái mũi cong, một chòm râu sậm. Y giữ chắc thăng bằng bằng một bàn tay gân guốc, trong khi bàn tay kia làm lắc lư trên đầu gối y một cái búa bằng thép.
- Mọi sự đều sẵn sàng ở trên đó, y nói. Tôi sẽ đi lên cùng quý vị.
Y nhảy từ cái thanh ngang xuống và nhập bọn với các du khách trong cái thang máy.
- Tôi nghĩ rằng lúc nào ông cũng đang canh chừng chúng phải không? Mary MacLean nói.
- Thưa cô, chính vì việc đó mà tôi được trả lương. Từ sáng tới tối, và thường khi từ tối tới sáng, tôi phải ở đây. Có nhiều lần, tôi cảm thấy hình như tôi không phải là một con người mà là một con chim trời. Những con chim bay quanh tôi, những đồ súc vật, khi tôi đứng trên những giàn đỡ và chúng kêu với tôi hàng đống tiếng cho tới khi ngay chính tôi cũng bắt đầu kêu lên như chúng.
- Đây là một công việc rất quan trọng! Viên thiếu tá nói lẩm bẩm trong khi nhìn mặt nghiêng bằng thép của cái Tháp đang nổi bật lên rõ ràng trên bầu trời xanh
- Đúng vậy, thưa ông. Và không có một đinh vít hay một trôn ốc nào mà không nằm dưới sự trách nhiệm của tôi. Đây là cái búa của tôi để làm cho chúng kêu lên rõ ràng và cái mỏ lết vặn đinh ốc để xiết chặt chúng lại. Giống như vị chúa tể trên mặt đất, tôi là, phải, tôi là chúa tể của cái Tháp với đủ quyền sinh sát. Mà đúng vậy, quyền sinh sát!
Động cơ thủy lực đã bắt đầu chạy, cái thang máy chuyển động rất chậm chạp và bắt đầu đi lên. Toàn cảnh huy hoàng của bờ biển phơi bày ra mỗi lúc một rõ ràng. Những hành khách đã quá mải mê đến nỗi không một mảy may nhận thấy là cái thang máy đã đột ngột dừng lại giữa những đầu thang ở khoảng một trăm sáu mười mét bên trên mặt đất. Barnes, người thợ máy làu bàu rằng chắc đã có gì trục trặc ở trên đó, y nhảy như một con mèo vào cái lỗ hổng toang hoác ngăn cách họ với tấm lưới sắt của cái sườn bằng kim loại, và y biến dạng trong khoảng không. Nhóm người nhỏ bị treo lơ lửng giữa trời và mắt đất đã mất đi đôi chút tính em lệ của dân Anh, khi gặp những tình huống như thế, và các du khách bắt đầu trao đổi cảm tưởng của họ. Một cặp trai gái tên là Bil¬ly và Dol¬ly nói với các bạn đồng hành rằng họ là những minh tinh của chương trình tại trường đua ngựa và họ làm khuây khỏa những người đứng bên bằng sự lém lỉnh của họ, một người đàn bà tươi mát, tròn trĩnh, đứa con trai của bà, hai cặp vợ chồng làm thành nhóm thính giả say mê của họ.
- Cháu thích làm thủy thủ anh? Bil¬ly, nhà hài kịch hài hước nói khi trả lời một nhận xét của đứa bé. Coi chừng đó, đồ nhóc con, cháu sẽ là một xác chết đẹp nếu cháu không đề phòng. Cháu hãy nhìn y đứng trên cái rìa kia kìa! Vào một giờ phút như thế, tôi không thể chịu đựng được việc trông thấy cảnh đó.
- Từ giờ nào trở đi thì ông mới có thể chịu đựng được? Một người đi chào hàng cao lớn hỏi.
- Trước lúc buổi trưa thì các khí lực của tôi chẳng ra trò trồng gì. Thật tình khi tôi nhìn xuống bên dưới và khi trông thấy mọi người giống như các chấm đen nhỏ li ti thì tôi sợ hãi vô cùng. Trong gia đình tôi, tất cả mọi người đều giống nhau, vào buổi sáng.
- Tôi có cảm tưởng rằng, Dol¬ly nói, nàng là một phụ nữ trẻ da dẻ hồng hào, tất cả bọn họ đã giống nhau lúc tối hôm qua.
Mọi người đều cười lớn.
- Bil¬ly bị đo ván rồi. Chàng kịch sĩ hài hước tuyên bố. Nhưng nếu người ta chế nhạo gia đình tôi, tôi sẽ rời khỏi phòng.
- Thực sự đúng là đã tới giờ mà chúng ta rời khỏi căn phòng, người đi chào hàng nói, ông ta có vẻ bực bội. Thật là xấu hổ cho cái kiểu mà họ giữ chúng ta trên không thế này! Tôi sẽ viết thư về công ty.
- Cái nút bấm chuông ở đâu? Bil¬ly hỏi. Tôi sẽ bấm chuông.
- Và gã ... gã con trai? Mary MacLean hỏi.
- Người bán vé, người tài xế, người... tôi không biết ai đã làm cho chiếc ô tô buýt cũ kỹ này lên xuống? Có phải họ bị trục trặc về xăng? Có phải họ bị gãy lò xo lớn? Hay là cái gì đây?
- Dù sao đi nữa thì cảnh quan cũng rất đẹp! Viên thiếu tá nói.
- Xin thú thật về cảnh quan thì tôi đã có khá nhiều rồi! Bil¬ly nói. Tôi chỉ muốn đi xuống thôi!
- Tôi đã bắt đầu cảm thấy bực bội rồi đó! Người đàn bà tươi mát và tròn trĩnh lêu lớn. Tôi hy vọng là không co gì bị gãy trong cái thang máy.
- Dol¬ly, hãy nắm lấy vạt áo của tôi! Tôi sẽ nhin bên trên cái rìa. Ôi, lạy Chúa, tôi phát ốm lên đây, tôi buồn nôn đây! ở phía dưới có một con ngựa, nó không lớn hơn một con chuột. Và tôi không trông thấy người nào quan tâm tới chúng ta. Cái ông già tiên tri cùng lên với chúng ta đó đâu rồi?
- Ông ấy đã để cho chúng ta rơi xuống khi ông ấy biết trước là chúng ta sẽ có sự truc trặc.
- Vậy thì hãy nói đi, Dol¬ly nói xen vào, nàng có vẻ bối rối, tôi không thấy chuyện này là dễ chịu đâu! Chúng tta đang ở một trăm sáu mươi mét trên không trung, tôi có cảm tưởng là chúng ta sẽ chịu thế này suốt cả ngày. Tôi đang được chờ đợi cho cuộc trình diễn buổi sảng ở Trường Đua ngựa. Nếu tôi không có mặt khá sớm ở dưới đó thì mặc kệ công ty. Tôi đã được dán quảng cáo trong khắp cả thành phố cho một bài hát mới.
- Một bài hát mới à? Bài nào vậy hả Dol¬ly?
- Một chậu gừng chính cống, tôi đoán chắc là thế! Bài đó có tên là "Trên đường tới As¬cot". Để hát bài này tôi đã có một cái mũ đường kính một thước hai.
- Vậy thì Dol¬ly này, hãy làm cuộc tổng diễn tập trong khi chúng ta chờ đợi!
- Không! Vị cô nương trẻ kia không hiểu đâu.
- Tôi rất thích thú được nghe hát bài đó! Mary MacLean nói lớn. Nhất là cô đừng thấy khó chịu vì tôi!
- Những lời hát được viết trên cái mũ. Tôi không thể hát những câu thơ mà không có cái mũ, nhưng có một điệp khúc thú vị:
"Nếu bạn muốn có một bùa hộ thân nhỏ bé
khi bạn đi trên đường tới As¬cot
hãy sờ mó vào người đàn bà có cái mũ to như bánh xe bò..."
Nàng có một giọng dịu dàng và ý thức về vần điệu.
- Bây giờ mời tất cả mọi người cùng hát! Nàng nói lớn.
Và cái nhóm nhỏ những người tình cờ hội ngộ đó ráng hết hơi sức hát theo nàng.
- Chác là chúng ta sẽ phải đánh thức một người nào đó dậy! Bil¬ly nói. Không nên à? Vậy thì tất cả chúng ta cùng la lên!
Sự cố gắng thật là mạnhmẽ, nhưng vô hiệu quả. Không có tiếng trả lời từ bất cứ nơi nào. Ban quản trị ở bên dưới hoặc là không biết hoặc là bất lực.
Các hành khách bắt đầu lo sợ. Người đi chào hàng to lớn đã mất hết sắc diện hồng hào. Bil¬ly vẫn còn gắng gượng nói bông đùa, nhưng không thành công. Viên sĩ quan y phục màu xanh nước biển tức thì thay thế an¬hvới tư cách trưởng nhóm. Tất cả mọi người đều nhìn ông ta, cầu cứu ông ta.
- Thưa ông, ông khuyên chúng tôi nên làm gì? Ông không nghĩ rằng có sự hiểm nguy là bất thần bị rơi xuống phải không?
- Không một chút nào! Nhưng dù sao thì cũng rất khó chịu khi cảm thấy bị kẹt ở đây. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ có thể nhảy một cái vượit qua khoảng không này để đứng lên giàn đõ rồi xem cái gì bị trục trặc...
- Không, Tom? Vì lòng kính Chúa, cin đừng rời bỏ chúng tôi.
- Có những người có lòng dũng cảm vững vàng! Bil¬ly nói, nhảy qua trên một khoảng trống mổt¬tăm sáu mươi mét.
- Tôi tin rằng trong thời chiến tranh, vị trượng phu này đã làm những việc còn tệ hại hơn thế.
- Nhưng tôi, tôi sẽ khôngl àm việc đó! Ngay cả nếu họ dán cho tôi những chữ to như thế này trên những tấm bích chương của họ. Đó là công việc của lão thày bói già. Tôi không muốn làm lão ta bị thất nghiệp dù tôi chắng tốn kém gì.
Ở ba mặt cái thang máy có những vách bằng gỗ với những cửa sổ để ngắm phong cảnh. Mặt thứ tư nhìn ra biển thì được mở ngỏ. Sa¬tan¬gate cúi mình xuống chỗ đó để nhìn ra khoảng không. Từ trên chỗ cao hơn lọt tới tai ông một tiếng động khô khan, đặc biệt âm vang của kim loại, như thể một sợi dây đàn rất căng vừa được đẩy lên. Một khoảng cách nào đó phía trên ông, có lẽ chhừng ba mươi mét, ông chợt trông thấy một cánh tay¬dài, nâu, đầy bắp thịt đang vung vẩy một cách điên cuồng giữa những sợi dây cáp. Ông không trông thấy cáiđầu của người đó nhưng ông đã bị mê hoặc bởi cái cánh tay trần đang kéo, víu và đẩy.
- Mọi việc đều tôt đẹp, ông loan báo. Có một người nào đó đang làm việc trên đó để xếp đặt lại mọi sự đâu vào đó.
Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm.
- Đó là ông thầy bói già Isaie, Bil¬ly vừa nói vừa uốn éo cái cổ. Tôi không trông thấy lão ta nhưng cái cánh tay của lão thì có thể nhận ra trong hàng ngàn cái cánh tay. Lão ta có cái gì trong tayvật? Người ta sẽ nói là một cái tuốc-nơ-vít... Không, lạy Chúa, đó là một cai dũa!
Trong khi anh ra nói thì một tiếng động khô khan và âm vang nữa vang lên trong khoảng không, vầng trán của viên sỹ quan nhăn lại.
- Thật kỳ quái, người ta có thể nói đúng là tiếng động giống như tiếng động mà sợi dây cáp bằng thép của chúng tôi phát ra khi nó đứt hết sợi này đến sợi khác ở Dix¬mude. Cái thứ này sẽ bi thảm đến thế nào? Ơ kìa! Các ông định làm gì đây?
Người đàn ông đã làm xong công việc; y thong thả đu xuống dọc theo cái sườn bằng sắt.
- ... Y tới kìa, Stan¬gate loan báo cho các bạn đồng hành đang ngỡ ngàng của ông, mọi sự đều tôt đẹp, Mary ạ! Các ông, các bà đừng sợ sệt! Thật là xuẩn ngốc để nghĩ rằng y tìm cách là yếu sợi dây đang nắm giữ chúng ta.
Ở trên không xuất hiện một đôi giày. Rồi tới cái quần bằng da, cái thắt lưng với các dụng cụ đeo lủng lẳng, cái thân mình nổi vằn các bắp thịt, và cuối cùng là bộ mặt hung hãn, sạm đen của anh công nhân. Y đã cởi bỏ áo ngoài, và cái áo sơ mi không ài cúc phơi trần cái thân mình đầy lông lá. Ở trên cao một tiếng rung động nữa vang lên, cũng vẫn khô khan, cũng vẫn giống như một tiếng lách cách. Người đàn ông đó tụt xuống không vội vã. Y lấy thế thăng bằng đứng trên cái giàn đỡ chặn ngang, tựa vào cái sường và đứng yên ở đó, hai tay khoanh lại, chằm chằm nhìn các hành khách chen chúc trên sàn đứng của thang máy.
- Ê này! Stan¬gate gọi. Có sự cố gì vây?
Người đàn ông vẫn vô cảm và im lặng, cái nhìn trừng trừng của y có một vẻ gì có tính đe dọa.
Viên phi công nổi giận
- Anh trở nên điếc rồi anh? Ông quát lên với y. Anh định để chúng tôi phải treo ở đây bao lâu nữa đây?
Người đàn ông đó vẫn không nhúc nhích. Y có điệu bộ của một con quỷ dữ.
- Anh con trai này, tôi sẽ khiếu nại về anh đó! Bil¬ly nói với một giọng run rẩy. Sự việc sẽ không nằm yên ở đó đâu, tôi hứa với anh điều này!
- Hãy nghe tôi nói đây! Viên sĩ quan quát lớn. Chúng tôi có mang theo các phụ nữ và anh đang làm cho họ sợ hãi. Tại sao chúng tôi lại bị kẹt ở đây? Có phải thang máy bị hỏng không?
- Các ông ở đây, bởi vì tôi đã chêm một cái đòn cân vào sợi dây cáp phía trên các ông.
- Anh đã làm nghẽn đường dây hả? Tại sao anh lại dám làm một việc như thể? Có phải đó là một sự đùa cợt hay là cai gì? Rút ngay đòn cân đó ra nếu không thì mặc kệ anh...
Người đàn ông không trả lời gì cả
- ... Anh có nghe thấy lời tôi nói không? Tại sao anh không trả lời? chúng tôi đã chịu đựng khá nhiều rồi, tôi đoan chắc với anh về điều đó!
Bị một cơn hoảng hốt độe ngột, Mary MacLean nắm lấy tay vị hôn phu của nàng.
- Ôi, Tom! Nàng kêu lên. Hãy nhìn mắt y kìa! Hãy nhìn cặp mắt khủng khiếp của y! Đó là một thằng điên!
Người công nhân đột nhiên phục hồi khả năng nói của y. Bộ mặt u ám của y đã thay đổi dưới sự bùng nổ của cơn cuồng nộ. Cặp mắt y sáng rực lên như những cục than hồng, y vung vẩy một cánh tay.
- Xem đây! Y quát lên, những người bị coi là điên dại đối với lũ trẻ con ở đời này thật sự là những đứa con của Chúa và là những cư dân của miếu đường trong nội tâm. Ta là người sẵn sàng đứng ra làm chứng ở cấp độ tối cao, vì thật ra bây giờ đã tới ngày mà người hèn mọn sẽ được xưng dương và kẻ ác bị loại trừ trong tội lỗi của nó!
- Mẹ! Mẹ! Thằng con trai nhỏ phát điên khùng kêu lên.
- Kìa, mọi việc đều tốt đẹp, Jack ạ! Người phụ nữ tươi mát và tròn trịa nói. Tại sao anh lại muốn làm cho đứa bé này phải khóc? À, anh là một kẻ dị hợm bảnh bao, đúng thế!
- Thà để cho nó khoc bây giờ còn hơn là phải khóc ở màn đêm tăm tối bên ngoài. Hãy để cho nó tìm sự cứu rỗi trong khi hãy còn đủ thì giờ!
Viên sĩ quan đo lường khoảng trống bằng một con mắt lão luyện. Nó phải tới hai mét rưỡi, và gã điên kia sẽ có thể làm cho ông chao đảo trước khi ông có đủ thì giờ đặt chân lên. Đây sẽ là một ý định vô vọng. Ông co nói một vài lời có tính cách xoa dịu.
- Này cậu trai trẻ của ta, cậu đã đưa sự đùa cợt quá xa rồi đó! Tại sao cậu lại muốn làm hai chúng ta? Hãy leo lên trên ấy đi và rút cái nêm ra. Chúng ta sẽ không nói tới chuyện này nữa...
Một tiếng động khác của sự rách đứt laịiphát ra từ trên cao.
- ... Lạy chúa, sợi dây cáp sắp đứt rồi! Stan¬gate la lớn. Này! Hãy đứng sang một bênm tôi sẽ leo lên để xem việc gì đang xảy ra.
Anh công nhân đã rút cái búa ra khỏi thắt lưng y và y vung vẩy cái búa một cách điên cuồng.
- Hãy lùi lại đó, anh trai trẻ! Lùi lại đi! Nếu anh nhảy lên anh sẽ chỉ làm cái chết của anh tới mau hơn thôi!
- Tom, nhân danh Chúa, đừng có nhảy lên! Cấp cứu! Cấp cứu! Các hành khách đồng thanh la hét. Gã đàn ông đó mỉm cười vẻ hung ác.
- Không có ai sẽ tới cứu giúp các người đâu. Nếu họ có muốn tới giúp đỡ các người thì họ cũng sẽ không htể tới được. Các người sẽ tỏ ra khôn ngoan hơn khi xét lại lưông tâm mình để khỏi bị ném vào hỏa ngục muôn đời. Đúng, hết sợi này tới sợi nọ, sợi dây cáp treo các người đang giãn ra. Nghe đây. Lại một sợi nữa bị đứt đó! Mỗi khi có một sợi bị đứt, sự căng lại gia tăng lên những sợi khác. Các người còn đủ số sợi cho năm phút nữa và sau đó là cõi vĩnh hằng.
Một tiếng rên rỉ kinh hoàng nổi lên từ nhóm các tù nhân của cái thang máy. Stan¬gate cảm thấy một lớp mồ hôi lạnh trên trán ông khi ông luồn cánh tay quanh thân mình người thiếu nữ đang lảo đảo. Nếu ông có thể làm cho con quỷ chứa đầy thù hận này sao lãng đi chỉ trong một lát thôi thì ông sẽ nhảy lên và đánh liều với số mạng trong một trận cận chiến.
- Nghe đây, anh bạn! Leo lên đi và hãy cắt đứt sợi dây cáp nếu anh muốn! Ông la lên. Chíng tôi không thể làm được điều gì. Anh là kẻ mạnh nhất. Leo lên đi! Và mong rằng mọi chuyện sẽ chấm dứt!
- Để anh có thể nhảy lên đây mà không gặp nguy hiểm hả? Gã đàn ông cưồi khẩy. Ta đã làm chấn động tất cả rồi, ta chỉ còn phải chờ thôi.
Sự phẫn nộ tràn đầy tâm trí viên sĩ quan trẻ tuổi.
- Đồ đạo tặc! Ông hét lên với y. Tại sao người còn đứng đất nhe răng ra cười. ta sẽ cho ngươi một vật nào đó để cười, chính ta đây. Đưa cho tôi cái ba-toong của người nào đó!
Gã đàn ông vung vẩy cái búa của y.
- Tới đây, vật thì hãy tới đây! Hãy trình diện trước vị quan tòa của anh!
- Y sẽ giết anh, anh Tom! Ồ không, toi van xin anh, nếu chúng ta phải chết thì ít nhất là sẽ cùng chết với nhau!
- Thưa ông, ở vào địa vị ông thì tôi sẽ không mạo hiểm trong việc này! Bil¬ly nói. Y sẽ đập lên đầu ông trước khi ông đặt được chân lên. Cố chịu đựng đi, Dol¬ly! Sự ngất xỉu sẽ không dàn xếp được việc gì cả. Thưa cô, cô hãy nói với ông ấy đi. Có lẽ ông ấy sẽ nghe lời cô.
- Tại sao anh muốn làm hại chúng tôi? Mary hỏi. Chúng tôi đã làm gì hại anh bao giờ? Tôi tim chắc rằng anh sẽ phải tội sau đó, nếu sự bất hạnh xảy ra cho chúng tôi. Bây giờ anh hãy tỏ ra tử tế và biết điều, và giúp cho chúng tôi đi xuống.
Trong một vài khoảnh khắc, cặp mắt hung tợn của gã đàn ông dịu đi trước bộ mặt dịu hiền đang nhìn y. Rồi diện mạo y lại trở nên cứng rắn.
- Bàn tay ta là dành cho công việc này, hỡi người đàn bà kia. Không phải việc của người đầy tớ là bỏ bê nhiệm vụ của mình.
- Nhưng tại sao đó lại là nhiệm vụ của anh?
- Bởi vì một tiếng nói, trong đáy lòng ta xác nhận điều đó. Ta đã nghe thấy tiếng nói đó lúc ban đêm, và cả lúc ban ngày nữa. Khi ta nằm một mình trên giàn đỡ và khi ta trông thấy bọn gi¬an ác bên dưới chân ta, trong các đường phố, kẻ nào cũng hối hả trong một mục đích xấu xa. "John Barnes, John Barnes, tiếng nói bảo ta, mii ở đây để phát một tín hiệu cho cái thế hệ của những kẻ tội lỗi! Một tín hiệu để chỉ cho chúng thấy rằng chúa đã nhìn thấy và kẻ có tội lỗi sẽ bị phán xét". Ta là ai mà dám bất tuân lời nói của Chúa?
- Tiếng nói của quỷ dữ, Stan¬gate đính chính. Cô thiếu nữ này đã mắc những tội lỗi gì để bắt buộc người phải phàm cho họ chết?
- Anh cũng giống như những người khác. Không tốt, mà cũng không xấu. Suốt cả ngày, họ đi trước mặt ta, hết toán này đến toán khác, với những tiếng la lối ngu xuẩn, những bài hát điên khùng và những lời nói lảm nhảm vô ích của họ. Tư tưởng của họ bị cột chặt vào những mục đích của xác thịt. Đã quá lâu rồi ta đã đứng tách ra, đã quá lâu rồi ta không thèm biểu lộ! Nhưng bây giờ thì ngày cuồng nộ nó đã tới và sự hiến tế đã sẵn sàng. Chớ tưởng rằng một giọng lưỡi của đàn bà sẽ làm ta từ bỏ bổn phận của ta!
- Tất cả đều vô ích thôi! Mary kêu lớn. Vô ích! Tôi trông thất sự chết trong mắt y!
Một sợi nữa của dây cáp lại đứt.
- Các người hãy sám hối đi! Gã điên quát lên, còn một sợi nữa và đó là sự kết thúc!
Thiếu tá Stan¬gate có cảm tưởng là ông đang sống trong một cơn ác mộng ly kỳ, khủng khiếp. Có thể nào là sau bao lần thoát chết trong cuộc chiến tranh, mà luc này ở giữa nước Anh thanh bình, ông lại phải nằm dưới quyền sinh sát của một thằng điên, và vị hôn thê của ông, người mà ông mong được bảo vệ chống lại ngay cả cái bóng của sự hiểm nguy lại là nạn nhân của gã điên khùng khủng khiếp này? Tất cả lòng dũng cảm, tất cả sự cường tráng của ông đều căng thăng trong một nỗ lực siêu phàm.
- A, chúng ta sẽ không chết như những con cừu trong lò sát sinh! Ông hét lên trong khi lao hết trọng lượng của ông vào một trong các bức vách gỗ của thang máy và lấy chân đạp lên phía trên. Hãy xông tới đi các bạn! Đạp lên trên! Đó chỉ là sự ghép lại của các tấm ván. Nó lung lay rồi, làm cho tấm ván đổ xuống! Được rồi. Tất cả mọi người cùng làm một lần nữa! Đó! Bây giờ tất cả cái vách! Đẩy sập nó xuống! Tuyệt diệu...
Cái vách ngang của căn phòng nhỏ đã bị đẩy sập và bung ra những mảnh gỗ bay vào khoảng không. Barnes nhón một bước vũ điệu trên giàn đỡ, cái búa ở trên không.
- Chớ có vượt qua! Y hét lớn. Không làm gì được đâu! Chắc chắn là ngày ấy đã tới!
- Từ chỗ này tới giàn đỡ không quá sáu mươi phân. Viên sĩ quan quát lên. Hãy bước qua đi! Mau lên! Mau lên! Tất cả mọi người! Tôi sẽ khống chế con quỷ này!
Ông giật lấy cái ba-toong kếch xù của người chào hàng và ông đứng đối diện với gã điên khùng, thách y nhảy xuống.
- Bây giờ đến lượt ngươi đó, anh bạn! Ông rít lên, tới đây, ngươi và cái búa của ngươi. Ta đợi ngươi đó!
Ở phía trên đầu ông, ông nghe thấy một tiếng lách cách khô khan nữa và cái sàn đứng mảnh mai bắt đầu chao đảo. Ông liếc mắt về phía sau, các bạn đồng hành của ông tất cả đều bình yên và mạnh khỏe trên cái giàn đỡ ngang. Trông họ giống như một hàng những người bị đắm tàu đang kinh hoàng. Họ bám lấy tấm lưới thép. Nhưng chân họ thì ở trên tấm giàn đỡ bằng sắt. Với hai bước chân và một cái nhảy, ông đã tới bên cạnh họ, cũng trong lúc đó, tên tội phạm vung vẩy cái búa, nhảy xuống sàn đứng của thang máy. Họ trông thấy y ở đó, nét mặt dúm dó, hai mắt tóe lửa đang cố đứng vững trên cái sàn lắc lư. Một giây đồng hồ sau đó, họ không còn trông thấy gì nữa, trong một tiếng lách cách hung bạo, cái thang máy và y đã biến dạng. Một sự yên lặng dài, rồi tới một tiếng động nặng chịch và tiếng loảng xoảng vỡ của một sự rơi khủng khiếp ở mãi xa.
Mặt trắng bệch ra vì sợ hãi, những người được thoát nạn còn bám chặt lấy những thanh thép lạnh lẽo và nhìn xuống đáy của cái hố sâu toang hoác. Viên thiếu tá phá tan sự im lặng.
- Bây giờ họ sẽ tới kiếm chúng ta! Chúng ta đã được cứu thoát! Ông nói lớn trong lúc lau mồ hôi trên trán nhưng nhờ ơn Chúa, chúng ta đã thoát nạn rồi.
14. Chiếc phễu bằng da
Người bạn của tôi là Li¬onel Dacre cư ngụ ở đại lộ Wa¬gram, thủ đô Paris, trong một căn nhà nhỏ có hàng rào lưới sắt và một thảm có khiêm nhường nằm trên hè phố bên trái khi ta đi từ Khải hoàn môn xuống. Tôi cho là căn nhà này đã có từ lâu trước khi đại lộ được kiến thiết, vì đã có rêu mọc trên các hòn ngói màu xám và những bức tường mốc meo phai màu. Từ ngoài phố nhìn vào, nó có vẻ nhỏ bé: năm cửa sổ ở mặt tiền, nếu tôi nhớ đúng; nhưng tại nó kéo dài ra phía sau bằng một căn phòng dài tại đó Dacre đã xếp đặt bộ sưu tập các sách về khoa học của anh và thu thập những món đồ vặt vãnh hay những vật kỳ dị vốn là sở thích của anh và là những thứ làm khuây khỏa các bạn hữu của anh. Là một người giàu có, tao nhã, cổ quái, anh đã giành một phần đời của anh và tài sản của anh để quy tụ một bộ sưu tập riêng độc nhất vô nhị các tác phẩm nói về Do Thái Pháp điển và về ma thuật, trong đó có nhiều vật hiếm có và rất đắt. Các sở thích của anh đã làm cho anh thiên về phía những sự kỳ diệu và quái đản, người ta đoan chắc với tôi rằng các kinh nghiệm của anh hướng tới thế giới xa xăm vượt qua mọi ranh giới của nền văn minh và các nghi thức.
Với những be bạn người Anh, anh không hề thốt ra một tiếng về công việc đó nhưng một người Pháp, người có cùng sở thích với anh xác nhận với tôi rằng những sự thái quá tệ hại của những buổi lễ quỷ quái đã từng được thực hiện trong văn phòng lớn này có bày biện sách vở và các tủ kính.
Khía cạnh thể chất của Dacre đã bộc lộ tính chất sự chú tâm mà anh giành cho các vấn đề tâm linh trước hết là phương diện trí tuệ. Bộ mặt nặng nề của anh không có một chút gì của con người khổ hạnh cả, nhưng cái hiếm hoi của anh như là một chỏm núi bên trên một khu rừng thông, đã làm cho ta thấy một sức mạnh đáng kể về tinh thần. Các kiến thức của anh nhiều hơn sự khôn ngoan của anh một cách rõ rệt, những con mắt nhỏ, sáng của anh nằm sâu trong bộ mặt nung núc thịt long lánh vẻ thông minh và một sự tò mò không bao giờ thỏa mãn, nhưng đó là những con mắt của một kẻ đầy nhục cảm và tự kỷ trung tâm. Nói về anh ta như vậy là khá đủ rồi, vì ngày nay anh đã chết rồi, cái con quỷ xấu số đó: chết ngay đúng vào lúc mà anh tin rằng cuối cùng anh đã khám phá ra nước thuốc trường sinh, ngoài ra tôi không có ý định nói với các bạn về tính tình phức tạp của anh; tôi muốn kể lại với các bạn một sự việc không thể giải thích được đã xảy ra trong một lần tôi đến thăm anh hồi đầu xuân năm 1882.
Tôi biết Dacre ở Anh quốc vì tôi đã bắt đầu các việc sưu tầm của tôi trong căn phòng về As¬syrie tại viện bảo tang Anh quốc vào thời kỳ mà anh đang cố gắng gán một ý nghĩa thần kỳ và bí truyền cho các biển của Baby¬lon và sự cùng chung quan tâm này đã đưa chúng tôi lại gần nhau, những ý kiến ngẫu nhiên đã đưa tới những cuộc tranh luận hàng ngày và rút lại chúng tôi đã kết bạn với nhau. Tôi hứa với anh rằng tôi sẽ tới thăm anh trong chuyến qua Paris sắp tới của tôi, ngay cả khi tôi sắp thực hiện lời hứa, tôi cũng ở trọ tại Fontainebleau, vì thường không có các chuyến xe lửa buổi chiều nên anh mời tôi ngủ lại đêm ở nhà anh.
- Tôi chỉ có cái giường này để mời anh, anh nói với tôi trong khi chỉ một cái đi-văng lớn trong căn phòng rộng của anh. Tôi hy vọng rằng dù sao anh cũng sẽ có thể ngủ một cách thoải mái ở đó.
Thật là một căn phòng đặc biệt để người ta nằm ngủ, căn phòng với những bức tường cao được che phủ khắp nơi bằng những cuốn sách màu nâu! Nhưng với một người ham mê sách cũ như tôi, lối trang trí này rất thích thú và tôi quý trọng cái mùi thanh thoát bốc ra từ một cuốn sách cũ. Tôi trả lời anh rằng tôi không ước muốn một căn phòng nào vui mắt hơn thế này cũng không mong ước một khung cảnh nào có nhiều cảm tình hơn thế này.
- Nếu sự thiết trí này cũng kém vẻ thực tế như kém tính chất ước lệ. Ít nhất nó cũng bắt tôi phải trả một cái giá đắt, anh nói với tôi trong khi đảo mắt nhìn một vòng trên các ô tủ của anh. Tôi đã tiêu tốn tới một phần tư triệu để có được tất cả những thứ ở chung quanh anh. Những quyển sách, những khí giới những viên đã quý và những bức điêu khắc, những tấm thảm, những bức họa... mỗi vật đều có lịch sử riêng của nó và thường là một lịch sử thú vị.
Anh ngồi ở một bên lò sưởi và tôi ngồi một bên khác cái bàn mà anh dung làm mắt giấy thì ở về mạn tay phải của anh, trên bàn là một ngọn đèn rất mạnh tở ra một vòng ánh sáng vàng óng, một tấm da mới trải ra một nửa nằm ở giữa bàn, vây quanh bởi những thứ linh tinh chỉ đáng làm đồ lạc soong. Trong đám những đồ này nọ có một cái phễu như là thứ phễu mà ta thường dung để đổ rượu vang vào đầy các thùng, nó có vẻ như bằng gỗ đen và nó được đánh đai chung quanh bằng một khoạn trên bằng đồng đã phai màu.
Tôi nói với anh:
- Đây là một vật kỳ dị. Lịch sử của nó ra thế nào?
- A! đó chính là câu hỏi mà tôi đã nêu lên nhiều lần, xin anh hãy cầm lấy nó trong bàn tay và xem xét nó...
Tôi làm theo những gì anh bảo và tôi thấy rằng cái phễu không phải bằng gỗ mà bằng da nhưng bị thời gi¬an là cho khô đi tới một mức đô quá thái. Nó khá lớn; khi đổ đầy nó phải chứa được một lít chất lỏng. Chiếc khoen đồng bao quanh cái phần lớn nhất nhưng phía dưới cổ phễu cũng có một vòng kim loại.
- ...Anh nghĩ sao về cái phễu này? Dacre hỏi tôi
- Tôi cho là nó thuộc về một anh hàng rượu hoặc một anh làm kẹp mạch nha thời trung cổ, ở Anh quốc, tôi đã nhìn thấy những cái chai phình bụng rất lớn bằng da có từ thế kỷ thứ mười bảy: người ta gọi chúng là những cái "roi bọc da", những cái vồ đập chết trâu chúng cũng cùng một màu và cùng một sức to bền như cai phễu này.
- Tôi nghĩ rằng cái phễu này chắc cũng có vào khoảng cùng một thời kỳ đó, người chủ của cái phễu trả lời tôi và chăc chắn là nó được dung để đổ đầy một cái lọ. Nhưng trừ khi có sự lầm lẫn về phần tôi, đây là một nhà buôn rất đặc biệt đã dung cái phễu này để đổ đầy một cái thùng cũng không kém phần đặc biệt. Anh không nhận thấy gì khác thường ở phía dưới cổ phễu à?
Tôi nhìn cái phễu dưới ánh sáng của cây đèn và lúc đó tôi nhận thấy ở một chỗ phía trên cái khoen đồng nhỏ độ mười phân, cỏ phễu bị sây sát, có rạch, như đã bị một người nào cắt khía với một con dao cùn, chỉ có tại chỗ đó cái bề mặt đen mới mất vẻ xù xì
- Một người nào đó định cắt cái cổ phễu
- Cắt nó, anh nghĩ vậy à?
- Hình như nó bị xé rách ra. Bất kể người ta dùng một khí cụ nào, phải có sức mạnh mới gây được các vết tích này lên một vật cứng như vậy! Nhưng về phần anh, ý kiến anh ra sao? Tôi tin rằng anh đã biết nhiều hơn là điều mà anh đã nói.
De¬cre mỉm cười và cặp mắ nhỏ ranh mãnh của anh ta đã tiết lộ cho tôi thấy là tôi không lầm.
Anh hỏi tôi:
- Trong các cuộc nghiên cứu về triết học của anh , anh có quan tâm tới môn tâm lý học về các giấc mơ không?
- Tôi không biết là đã có một khoa tâm lý học về loại này.
- Quan ngài quý mến của tôi, anh có trông thấy cái ngăn ở phía trên tủ kính đựng các đá quý không? Nó chứa đầy ắp các sách từ thời Al¬bert le Grand (một nhà thần học và triết gia ở thế kỷ thứ mười ba) nói về chủ đề này, môn tâm lý học về các giấc mơ là một khoa học giống như các môn khoa học khác.
- Một khoa học của các tay phương sĩ ảo thuật!
- Nhà phương sĩ bao giờ cũng là người tiền đạo. Từ nhà chiêm tin¬hđã nảy sinh ra nhà thiên văn học, từ nhà luyện đan, nảy sinh ra nhà hóa học, từ nhà chữa bệnh bằng khoa thôi miên nhân điện nảy sinh ra nhà tâm lý học kinh nghiệm, nhà phương sĩ ảo thuật ngày hôm qua là giáo sư của ngày mai. Sẽ có một ngày mà cả những điều tế vi không thể sờ mó được mà chúng ta gọi là những giấc mộng sẽ được xếp loại, chia ra từng bộ, hệ thống hóa. Tới ngày đó, những sự sưu tầm của những người bạn của chúng ta đang nằm choán tất cả cái ngăn này, sẽ không còn là một đề tài mua vui cho người thích chuyện thần bí mà sẽ là nền tảng cho một môn khoa học.
- Cho rằng sự việc là như vậy đi thì khoa học về các giấc mơ có dính líu tới một cái phễu lớn bằng da có đánh đai đồng?
- Tôi sẽ nói với anh về chuyện đó. Anh biết rằng tôi đã trả lương cho một nhân viên, người này lúc nào cũng theo dõi những đồ hiếm có và kỳ lạ giành cho bộ sưu tập của tôi, cách đây vài ngày ông ta được biết tin một lái buôn ở các bến tàu mới mua được một số cổ vật, các cổ vật này được tìm thấy trong tủ tách chén căn nhà cổ tọa lạc chỗ tận cùng một phố của Khu phố La tinh. Phòng ăn của căn nhà đã được trang hoàng một tấm biển huy chương với các huy hiệu: những hình chữ V và gạch đỏ trên nền bạc, một cuộc sưu tra nhanh chóng chứng tỏ rằng đó là huy chương của Nico¬las de la Reynie, một trong những quan chức cao cấp của vua Louis thứ XIV. Không ai được phép nghi ngờ điêu gì nữa: những cổ vật khác trong tủ tách chén đã có từ lúc khởi đầu triều đại Đức vua Mặt trời. Do đó, tôi suy đoán rằng tất cả các cổ vật này đều thuộc về ông Nico¬las de la Reynie đó, ông là sĩ quan cảnh sát trưởng do đó phụ trách sự áp dụng và đôn đốc việc thi hành các luật lệ khắc nghiệt của thời đó.
- Và sao nữa?
- Bây giờ xin anh hãy cầm lấy cái phễu và xem kỹ cái khoen đồng ở phía trên. Anh không nhìn thấy một cái gì giống như một chữ à?
- Chắc chắn là đã có những bế trầy trên cái khoen bằng đồng, thời gi¬an đã gần như xóa nhòa chúng. Đúng, xó thể thật sự đã có những chữ, chữ cuối cùng có vẻ phảng phất giống chữ B.
- ... Anh có phân biệt rõ một chữ B không?
- Có.
- Tôi cũng vậy, ngoài ra tôi tin chắc đó là một chữ B.
- Nhưng quý nhân mà anh nói tới đã có một cái tên bắt đầu bằng chũ R?
- Đúng thế! Đó là chỗ ly kỳ của câu chuyện. Ông ấy sở hữu vật kỳ lạ này, vậy mà vật đó lại mang những chữ bắt đầu bằng tên của một người nào khác, tại sao?
- Tôi không biết chút gì về việc này cả. Còn anh?
- Chúng ta hãy cố đoán xem, ở xa hơn một chút trên cái khoen đồng, anh không nhìn thấy một thứ hình vẽ à?
- Có một cái mũ phải không?
- Đó là một cái mũ, không chối cãi được, nhưng nếu anh nhìn nó lúc ban ngày, anh sẽ thấy đó không phải là một cái mũ thường. Đó là một cái mũ có huy hiệu, biểu trưng cho một địa vị xã hội, nó được cấu tạo bằng sự xen kẽ của bốn viên ngọc trai và những lá dâu, đó là mũ của một vị hầu tước. Do đó, chúng ta có thể suy luận ra rằng người mà chữ tắt cuối cùng là một chữ B đã có quyền đặt cái mũ nhỏ này.
- Vậy là cái phễu da vô tích sự này đã thuộc về một vị hầu tước à?
De¬cre mỉm cười.
- Hay thuộc về một người trong gia đình một hầu tước, chúng ta đã suy diễn tất cả mọi việc đó từ chiếc khoen được chạm trổ này.
- Nhưng một lần nữa, có liên quan gì với những giấc mơ? Liệu tôi có nên gán một cảm giác đột ngột của sự ghê tởm, sự kinh hãi vô lý đang xâm chiếm người tôi, lúc đó cho một cái nhìn mà tôi tưởng là tôi đã phát hiện ra ở De¬cre hoặc cho một cái gì mà tôi không biết rõ đã ngấm ngầm trong thái độ của anh.
- Đã hơn một lần, tôi nhận được những thông tin rất quan trọng qua một giấc mơ, anh bạn trả lời tôi với cái giọng thầy giáo mà anh ưa thích. Bây giờ tôi đã đặt thành quy luật là mỗi khi tôi ngần ngại về một chi tiết vật chất thì tôi đặt cái vật đó bên cạnh tôi trong khi tôi ngủ và nhất quyết hy vọng một sự thiên khải. Đối với tôi, phương pháp này không có vẻ tối tăm lắm, mặc dù nó không được sự tán thưởng của khoa học chính thức vào thời buổi này, theo giả thuyết của tôi, bất kể vật nào có liên hệ mật thiết với bất kỳ một sự xúc động cao độ nào đó của con người, dù vui vẻ hay đau khổ, đều lưu giữ được một không khí hay một sự thấm nhiễm có thể truyền thông cho một tâm hồn bén nhạy và dễ cảm thụ. Với những tâm hồn bén nhạy, tôi tuyệt nhiên không có ý định nói tới một tâm hồn bình thường, tôi chỉ nói tới một tâm hồn có rèn luyện và có học vấn, như anh hay tôi là những người đã có một tâm hồn như vậy.
- Thí dụ ý anh muốn nói là nếu tôi nằm ngủ bên cạnh thanh gươm cổ treo ở trên tường này thì tôi có thể nằm mộng thấy một vụ đổ máu mà thanh gươm đã tham dự vào à?
- Anh đã rất khéo chọn ví dụ của anh! Quả thật tôi đã dùng phương pháp mà tôi vừa nói với anh đối với thanh gươm này và trong một cơn mộng tôi đã chứng kiến cái chết của người chủ của nó; ông ta đã chết trong một cuộc gi¬ao tranh nhỏ mà tôi không thể biểt rõ rệt là ở nơi nào, nhưng nó đã xảy ra vào thời chiến tranh "Bắn nhau bằng các hòn đá". Nếu muốn suy ngẫm kỹ càng, một vài tín ngưỡng trong dân gi¬an đã chứng tỏ rằng tổ tiên chúng ta cũng đã nhìn nhận sự thật này, mà với sự khôn ngoan của chúng ta, nay chúng ta đã liệt vào loại các dị đoan.
- Thí dụ?
- Chẳng hạn khi người ta đặt chiếc bánh hôn lễ bên dưới gối để cho người ngủ có được những giấc mơ vui thích. Anh sẽ tìm thấy nhiều trường hợp tương tự khác trong một tập sách nhỏ mà tôi đang viết. Nhưng xin quay về với vấn đề lớn của chúng ta, một đêm tôi đã nằm ngủ với cái phễu này ở bên cạnh mình và tôi đã có một cơn mộng chiếu một ánh sáng kỳ lạ vào nguồn gốc và công dụng của nó.
- Anh đã nằm mộng thấy gì?
- Tôi đã mộng thấy...
Anh ngừng lại và anh đột nhiên có vẻ rất chú tâm.
- ...Lạy Chúa, đây là một ý kiến mà tôi tin là tốt, anh nói tiếp, thật sự đây là một cuộc thí nghiệm rất bổ ích. Anh là một người thiên về tâm linh, anh có những giây thần kinh phản ứng cấp kỳ được với bất cứ một cảm giác nào...
- Tôi chưa bao giờ thực hiện những cuộc thử nghiệm kể trên.
- Được, chúng ta sẽ thử nghiệm anh tối hôm nay! Liệu tôi có thể yêu cầu anh coi như anh giúp tôi một việc lớn, vì anh sẽ ngủ ở đây tối hôm nay, nằm ngủ với chiếc phễu cũ kỹ này để bên cạnh gối của anh không?
Đối với tôi, lời thỉnh cầu có vẻ vô lý, buồn cười, nhưng một trong những mặc cảm của tôi là sự khao khát vô biên về tất cả những gì liên quan tới sự kinh dị và kỳ lạ. Tôi không tin ở thuyết của De¬cre tí nào và tôi không nghĩ gì tới sự thành công trong cuộc thí nghiệm của anh, tuy nhiên không co gì làm tôi bực bội khi đem làm thử cuộc thí nghiệm này. Với vẻ nghiêm trọng, De¬cre đem tới đầu đi-văng của tôi một cái ghế đẩu trên đó được đặt cái phễu. Chúng tôi còn truyện trò ba hoa một lúc, rồi anh chúc tôi ngủ ngon và để tôi một mình.
Tôi còn ngồi lại một lát bên bếp lửa để hút một điếu thuốc lá và tôi suy ngẫm tới cuộc nói chuyện của chúng tôi. Tôi thấy mình hoài nghi quá, đã có một cái gì lúng túng trong sự vững lòng của De¬cre; tôi cảm thấy xúc động vì khung cảnh hơi khác thường mà tôi đang sống vì căn phòng rộng mênh mông chứa các đồ vật rất lạ lùng và đôi khi quái gở này. Sau cùng tôi cởi bỏ quần áo, tắt đèn và nằm xuống. Sau nhiều lần trằn trọc trở mình, tôi ngủ thiếp đi. Xin các bạn cho phép tôi cố sức mô tả với một sự chính xác nhất khả dĩ có được về giấc mộng mà tôi đã thấy; những tình tiết của nó tồn tại trong ký ức của tôi rõ ràng hơn bất cứ một cảnh trí nào mà tôi thực sự tham dự.
Về khung cảnh thì nó là một căn phòng vòm cong. Ở những góc, bốn cổng tường leo tới một cái mái có cạnh sắc. Lối kiến trúc thô kệch nhưng vững chắc là căn phòng này thuộc về một tòa nhà đồ sộ.
Ba người đàn ông mặc đồ đen, đội những cái mũ nhung đen có vẻ nặng nề ngồi xếp hàng trên một cái bục có trải thảm đỏ. Họ có vẻ rất nghiêm trang, rất buồn bã. Phía bên trái, hai người đàn ông mặc áo dài, mỗi người cầm một cái ví nom như nhét đầy giấy tờ. Phía bên phải, một người con gái bé nhỏ tóc nâu với cặp mắt kỳ dị màu xanh trong sáng, những con mắt của trẻ con đang nhìn về phía tôi. Cô không còn trong tuổi hoa niên nữa, nhưng cô vẫn còn trẻ, người mập, tròn trĩnh, cô có một phong cách kiêu hãnh vững vàng, khuôn mặt tái xanh nhưng tinh khiết. Khuôn mặt kỳ dị, dễ thương với một cái gì có vẻ giả dối như một đôi chút tàn độc trên cái miệng mỏng và thẳng và cái cằm đầy thịt. Cô quấn mình trong một thứ áo dài rộng và trắng. Bên cạnh cô một tu sĩ gày guộ đầy nhiệt tình đang nói nhỏ vào tai cô, co quay đầu đi và nhìn một cách chăm chú, ngoài tầm cây thánh giá, ba người đàn ông mặc đồ đen mà tôi cảm thấy hẳn là các vị quan tòa xử cô.
Ba người đàn ông đứng dậy và nói một vài tiếng mà tôi không nghe rõ, đó là người đàn ông ngồi giữa nói. Rồi họ đi ra khỏi căn phòng, hai người đàn ông mang ví đi theo họ. Ngay cùng lúc đó nhiều người mặc quần áo chẽn đi vào trong phòng, cuốn tấm thảm đỏ rồi tới những tấm ván là thành cái bục, nhanh chóng thu dọn gọn gàng. Khi màn cảnh đó biến mất rồi, tôi nhận thấy sự hiện diện của những đồ vât kỳ dị; một thứ nom giống như một cái giường với những bánh xe nhỏ bằng gỗ ở hai đầu và một cái cân quay tay để điều chỉnh chiều dài, một thứ khác là một con ngựa gỗ; cũng có cả những dây thừng treo lủng lẳng bên trên các bánh xe lăn, người ta có thể nói đó là một phòng tập thể dục tối tân.
Khi căn phòng được chuẩn bị sẵn sàng, một nhân vật mới xuất hiện trong khung cảnh đó. Đó là một người đàn ông lớn và gầy gò, mặc toàn màu đen. Khuôn mặt xương xẩu và khắc khổ của ông ta làm tôi phát run lên. Quần áo của ông lóng lánh chất mỡ và đầy những vết bẩn. Ông đi đứng với một vẻ đường bệ, mực thước, oai nghiêm, như thể từ lúc bước vào căn phòng ông đã nắm quyền điều khiển mọi công việc. Bất kể tới cái dáng điệu thô vụng và những y phục bẩn thỉu của ông, lúc này là phần vụ của ông, căn phòng này là của ông và chính ông là người ra mệnh lệnh. Cánh tay trái của ông mang một cuộn dây thừng nhỏ người đàn bà nhìn ông với một cái nhìn dò xét, nhưng sắc diện của cô ta không hề thay đổi chút nào, chỉ có đôi chút thách thức phụ thêm vào vẻ tự tin vững vàng. Về phần vị tu sĩ thì mặt ông tái đi, tôi nhìn thấy mồ hôi nhỏ giọt trên vầng trán cao và gồ của ông. Ông chắp tay cầu nguyện, ông luôn luôn cúi xuống người đàn bà để thì thận với cô ta những lời khích lệ.
Người đàn ông mặc đồ đen tiến lên, cầm một trong những sợi dây thừng nhỏ và buộc hai bàn tay người đàn bà lại với nhau. Cô ta dịu dàng chìa hai tay cho ông. Rồi ông nắm lấy vai cô ta một cách hung bạo và ông đưa cô ta tới trước¬con ngựa gỗ, con ngựa gỗ cao hơn thân mình cô một chút. Ông nhấc bổng cô lên trên, đặt cô nằm dài lên lưng con ngựa, cô nhìn lên trần nhà. Vị tu sĩ tứ chi run rẩy, chạy ù ra khỏi phòng, cặp¬môi của người đàn bà mấp máy một cách mau lẹ; tôi không nghe thấy gì cả nhưng tôi biết cô đang cầu nguyện, hai chân cô bỏ thõng ở hai bên mình con ngựa, tôi trông thấy những tên phụ việc mặc quần áo chẽn đã cột các cổ chân cô và buộc đầy dây thừng vào những cái khoen sắt gắn ở ván lót nền phòng. Tim tôi se lại trước những sự chẩn bị hiểm ác này. Tuy nhiên bị đờ đẫn ra vì sự kinh hoàng, tôi không thể quay mắt đi khỏi hoạt cảnh này, một người đàn ông đi vào, mỗi tay xách một thùng nước. Đến lượt người thứ nhì đi vào với một thùng nước thứ ba. Họ đặt những cái thùng bên cạnh con ngựa gỗ, người đàn ông thứ nhì cũng mang một cái chậu nhỏ bằng gỗ có cái cán thẳng. Y đưa cái chậu gỗ nhỏ này cho người đàn ông mặc đồ đen. Cùng trong lúc đó, một trong những tên đầy tớ tiến lại gần, hắn cầm một vật sẫm màu mà vừa nhìn thấy, dù là trong giấc mơ của tôi, nó đã nhắc tôi nhớ tới một cái gì. Đó là một cái phễu bằng da. Với một sức mạnh đầy tội lỗi, hắn cắm sâu cái phễu... Nhưng tôi không thể chịu đựng cảnh này nhiều hơn nữa. Tóc tôi dựng đứng lên vì kinh hãi. Tôi co quắp người lại, tôi giãy giụa, tôi làm đứt đoạn giấc ngủ của tôi và tôi tỉnh dậy kêu lên một tiếng lớn...
Tôi tỉnh lại kinh hoàng trong cái thư viện rộng lớn mắt trăng trải anh sáng xanh xao qua cửa sổ và chiếu ra những lằn màu đen và màu bạc trên bức tường đối diện. Ôi , thật là khoan khoái biết bao khi cảm thấy được trở lại thể kỷ XIX, khi nhận ra tôi đã rời bỏ căn phong của thời trung cổ đó để trở về một thế giới mà những cư dân đã có một trái tim khả dĩ gợi ra cho họ những tình cảm của con người! Tôi ngồi trên đi-văng, người vẫn còn run rẩy, tâm thần pha trộn giữa sự tri ân và nỗi kinh hoàng. Nghĩ ngợi tới những việc như vậy đã được thực hiện, đã có thể thực hiện được mà đấng thượng đế không trừng phạt những kẻ vô lại đã thi hành các việc đó! Phải chăng, đó là một truyện giả tưởng nảy sinh ra bởi trí tưởng tượng của tôi, hay đó là một sự việc đã thật sự xảy ra trong những ngày u ám độc ác của lịch sử thế giới. Tôi gục đầu vào hai bàn tay run rẩy của tôi. Và rồi bỗng nhiên tim tôi ngừng đập và ngay cả tôi không thể cất tiếng kêu lên được khi mà tôi kinh khiếp quá. Qua bóng tối của thư viện, có một người nào đó đang tiến lại chỗ tôi. Sự kinh hoàng được chồng chất thêm làm tiêu hủy lí trí con người. Không còn đủ sức để suy luận, để cầu nguyện, tôi chú mục nhìn cái bóng người đen sẫm đang bước tới gần. Cái bóng đen đó vừa đi qua một tia ánh trăng; lúc đó tôi lấy lại được hơi thở. Đó là De¬cre, trên mặt anh tôi thấy rằng anh cũng kinh hãi như tôi.
- Có phải anh đấy không? Nhân danh thượng đế, việc gì xảy ra thế? Anh nói với tôi với một giọng nói hốt hoảng.
- Ồ, anh De¬cre! Tôi sung sướng được thấy anh! Tôi mới xuống địa ngục, thật là khủng khiếp!
- Vậy chính anh mới kêu lên đó anh?
- Tôi nghĩ là vậy.
- Tiếng kêu vang dội khắp căn nhà. Bọn đầy tớ bị kinh hoàng...
Anh bật một que diêm và đốt đèn lên.
- ... Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể nhóm lại lửa...
Anh quăng một vài khúc củi lên đống than hãy còn đỏ hồng.
- ... Trời ơi, anh có vẻ xanh xao quá này, anh bạn quý. Người ta sẽ nghĩ là anh vừa mới nhìn thấy ma.
- Tôi đã nhìn thấy ma... nhiều ma!
- Vậy là cái phễu da đã đóng vai trò của nó?
- Dù cho tôi tất cả vàng trên thế giới tôi cũng không muốn ngủ một lần bên cạnh vật quỷ quái này.
De¬cre bật ra một tiếng cười nhỏ. Anh nói với tôi.
- Tôi đã trù liệu rằng anh sẽ có một đêm nơi náo động, nhưng anh đã trả thù rồi, vì tiếng la hét của anh không phải là rất êm ái để mọi người nghe vào lúc hai giờ sáng, theo lời anh nói, tôi tưởng tượng là anh đã nhìn thấy tất cả sự việc khủng khiếp đó phải không?
- Sự việc khủng khiếp gì?
- Sự hành tội bằng nước. "vấn đề dị thường"như người ta đã nói dưới thời Vua Mặt trời. Anh có chịu đựng được cho tới cùng không?
- Không, lạy chúa tôi! Tôi đã thức dậy trước khi việc đó khởi sự.
- À, càng hay cho anh, tôi thì tôi đã cầm cự tới thùng nước thứ ba. Dẫu sao thì đó cũng là câu chuyện từ cổ xưa, những vị anh hùng giờ đây đã bị chôn vùi dưới đất rồi! Chắc chắn là anh không có một chút ý kiến gì về cái quang cảnh mà anh đã chứng kiến phải không?
- Việc hành tội môt nữ phạm nhân nào đó. Hẳn cô ta đã phạm những trọng tội ghê gớm nên mới phải chịu một hình phạt như vậy!
- Việc đáng kể là chúng ta đã có được sự an ủi nhỏ nhoi này, De¬cre trả lời tôi, trong khi cuộn mình trong chiếc áo ngủ và bước lại gần lò sưởi, những tội ác của cô ta tương xứng với hình phạt của cô ta. Ít nhất nếu tôi không lầm về lý lịch của người đàn bà này.
- Làm thế nào mà anh có thể khám phá ra lý lịch của cô ấy.
Thay cho câu trả lời, De¬cre lấy từ kệ tủ ra một cuốn sách cổ.
- Hãy nghe điều này! Anh bảo tôi. Anh sẽ tự mình phán đoán xem có phải tôi đã tìm ra lời giải đoán của việc bí ẩn. "Người nữ tù nhân bị đem ra xét xử trước Đại Pháp Viện của Tối Cao Pháp Viện họp tại tòa án với tội danh là đã ám sát ông Dreux d'An¬bray, thân sinh ra cô và hai anh trai cô, các ông d'An¬bray, một người là tài phấn dân sự và người kia là Ủy viên Tối Cao Pháp Viện. Hình như khó mà tin rằng cô là thủ phạm của những tội ác quái gở như vậy, vì cô có vẻ dịu hiền, cô người nhỏ nhắn, cô có một màu da nâu và những con mắt màu xanh. Tuy nhiên tòa án đã phán quyết cô là thủ phạm, buộc cô phải chịu sự thẩm vấn thường và sự thẩm vấn đặc biệt ngõ hầu bắt cô phải khai tên tuổi những kẻ đồng lõa, rồi bị dẫn giải bằng xe bò tới công trường Genève, ở đó cô sẽ bị chém đầu, xác cô sẽ bị thiêu và tro tàn bị trải tung cho gió cuốn"
"Ngày tháng của sổ đăng lục này là ngày mười sáu tháng bảy năm 1676"
- Thú vị đó! Tôi trả lời. Nhưng không đủ sức thuyết phục. Làm thế nào anh chứng minh được rằng là đó là cùng một người đàn bà này?
- Tôi chứng minh được, câu chuyện kể lại thái độ của người đàn bà trong cuộc thẩm vấn: "Khi kẻ hành tội đến gần cô, cô nhần ra hắn ta vị những dây thừng nhỏ mà hắn ta cầm trong tay và ngay tức thì cô chìa những bàn tay cô cho hắn trong khi mắt nhìn hắn từ đầu tới chân mà không thốt ra một câu nào". Có đúng vây không?
- Đúng.
- "Cô thản nhiên nhìn con ngựa gỗ và những khoen là những thứ đã vặn gãy rất nhiều tay chân và những tiếng kêu đau đớn. Khi mắt cô nhìn tới ba thùng nước đã được chuẩn bị sẵn, cô mỉm cười nói: "Tất cả số nước này được mang tới đây với dụng ý làm tôi chết chìm, thưa ông. Tôi cho rằng ông không nghĩ tới việc bắt một người nhỏ bé như tôi phải nuốt hết chỗ nước này chứ?". Tôi có cần đọc cho anh nghe những chi tiết của sự hành tội không?
- Không, vì lòng lành của Thượng đế!
- Đây là một câu chứng tỏ cho anh thấy rằng những gì được kể trong quyển sách này đúng là cái cảnh mà anh đã chứng kiến hôm nay: "Đạo sư Piror hiền hậu không thể đứng nhìn những sự đau khổ mà người đàn bà bị hành tội sắp phải chịu đựng, đã bước vội ra khỏi căn phòng". Điều này có thuyết phục anh không?
- Hoàn toàn thuyết phục. Không còn nghi ngờ gì, đây đúng là cùng một việc, nhưng như vâỵ thì cái người đàn bà rất duyên dáng này là ai mà phải chịu một kết cục quá khủng khiếp như thế?
De¬cre bước lại gần tôi và anh đặt cây đèn nhỏ trên cái bàn ở đầu giường, cầm nâng cái phễu chết tiệt lên, anh quay cái khoen bằng đồng lại để cho ánh sáng soi rõ nó. Khi nhìn như vậy tôi thấy những hình chạm rõ hơn là vào buổi tối.
- Chúng ta đã nhận xét rằng đây là biểu trưng của một vị hầu tước hay là một nữ hầu tước, chúng ta đã xác định rằng chữ cuối cùng là một chữ B.
- Đúng, không thể chối cãi được.
- Bây giờ tôi chưa đưa ra một ý kiến, những chữ khác từ trái qua phải, không phải là một chữ M, một chữ M nữa và một chữ d nhỏ, một chữ A, một chữ d nhỏ rồi một chữ B tận cùng hay sao?
- Đúng, tôi nghĩ rằng anh nói có lý. Tôi nhận ra hai chữ d nhỏ một cách hoàn toàn rõ ràng.
- Những gì mà tôi vừa đọc cho anh nghe, De¬cre tuyên bố, là sự ghi chép chính thức về vụ án Marie Madeleine d'An¬bray, nữ hầu tước đất Brinvil¬lien, một trong những người đàn bà can tội đầu độc chứ danh nhất của mọi thời đại.
Tôi đứng yên không nói được lời nào. Tôi bị choáng váng vì tính chất kỳ dị của sự việc và vì tính cách hình thức của bằng chứng mà De¬cre đã cung cấp cho tôi. Tôi nhớ lại một cách mơ hồ một vài chi tiết về sự nghiệp của người đàn bà này, sự trụy lạc buông thả của cô ta, những sự hành hạ có tính toán và cố ý mà cô đã bắt ông bố ốm đau của cô phải chịu; việc ám sát hai người anh trai của cô vì những lý do quyền lợi trong nhà. Tôi cũng nhớ tới sự dũng cảm mà cô đã biểu lộ vào những giờ phút cuối cùng của cô và sự dũng cảm mà cô đã chuộc lại một phần những tội ác của cô, cũng như mối cảm tình mà tất cả thành phố Paris đã bày tỏ với cô lúc cô bị hành hình; một vài ngày sau khi chửi rủa cô là kẻ đầu độc, những người dân thành phố Paris lại thực sự tôn sùng cô như là một vị thánh tử vì đạo. Có một điều phản đốii và một điều thôi đã nói lên trong đầu tôi:
- Làm thế nào mà các chữ viết tắt của tên cô và huy hiệu của cô lại có thể được khắc trên cái phễu? Tôi nghĩ rằng người ta không đưa sự sùng kính thời trung cổ đối với các bậc quý phái tới mức phải đi trang hoàng các dụng cụ để hành tội họ với các danh vị của họ, phải vây không?
- Điều này đã làm tôi suy nghĩ, De¬cre công nhân, nhưng nó chỉ có thể có một sự giải thích. Thời đó, vụ này đã gây ra một mối quan tâm đáng kể, không có điều gì tự nhiên hơn là cái việc ông La Raynie, vị phán quan về cảnh sát đó, đã giữ lại cái phễu làm kỷ niệm. Việc một nữ hầu tước của nước Pháp phải chịu cuộc thẩm vấn đặc biệt đâu phải là chuyên thường xảy ra. Chắc chắn ông đã sai khắc lên trên những chữ bắt đầu của từ Brinvil¬lien để thỏa mãn những kẻ tò mò; hẳn là ông ta có thói quen làm những thể thức đó.
- Và còn cái này? Tôi hỏi và chỉ vào những dấu vết trên cổ cái phễu.
- Cô La Brinvil¬lien là một con cọp cái hung ác, De¬cre vừa trả lời tôi vừa bỏ đi ra. Tôi nghĩ rằng cũng như những con cọp cái khác, cô ta có những cái răng nhọn và cứng.
15. Bàn tay nâu
Ai cũng biết ngày Do¬minic Hulden, một y sĩ danh tiếng tại Ấn Độ, đã chọn tôi làm người thừa kế của ông; và cái chết của ông sẽ biến đổi một anh y sĩ nghèo nàn, vất vả thành một ông chủ giàu sang, mọi người cũng đều biết rằng ít nhất có năm người cũng có thể ngấp nghé vào việc thừa kế ấy như tôi và rằng sự lựa chọn của ngài Do¬minich đã tỏ ra với một vài người là quá độc đoán và kỳ cục. Mặc kệ! Về phần tôi, tôi xác nhận rằng ngài Do¬minich đã có những lý do rất vững vàng để bày tỏ lòng ưu ái đối với tôi, mặc dù tôi chỉ mới biết ông trong những năm cuối cùng của đời ông . Tôi cũng dám nói rằng những điều tôi đã làm cho ông chú tại nước Ấn Độ này chưa bao giờ có ai từng làm được cho một người khác . Tất nhiên là tôi không thể hy vọng là người khác tin ở lời tôi, khi câu chuyện của tôi không phải là thứ truyện tầm thường . Nhưng tôi có cảm tưởng rằng tôi sẽ không làm tròn bổn phận nếu tôi không kể lại câu chuyện đó . Vậy thì sau đây là câu chuyện đó . Các bạn có tin ở tôi hay các bạn sẽ không tin tôi, đó là tùy ý các bạn .
Ngài Do¬minic là hội viên của Hội Or¬dre du Bain, có Huy Chương Ấn Độ Bội Tinh ... lúc sinh thời là một vị y sĩ cực kỳ lỗi lạc, ông đã từ giã quân ngũ để định cư tạI Bom¬bay và mở phòng mạch chữa cho các con bệnh thường dân . Ông thường được mời đi thăm bệnh; ông đã đi tới tất cả các tỉnh của Ấn Độ . Tên tuổi ông được gắn liền mãi với bệnh viện Đông Dương mà ông đã tạo lập và khai triển . Vào một thời điểm nào đó, cái cơ thể vững như thép của ông đã biểu hiện những dấu hiệu của sự mệt mỏi, tiếp theo sự căng thẳng quá độ lâu năm mà ông đã bắt nó phải gánh chịu . Các đồng nghiệp của ông (có thể là không hoàn toàn bất vụ lợi trong trường hợp này) đã khuyên ông trở về Anh . Ông vẫn cố chịu đựng cho tới khi các triệu chứng thần kinh xuất hiện rõ ràng một cách đáng sợ . Lúc đó ông mới trở về cố hương Wilt¬shire của ông, tâm trí rất chán chường . Ông mua một tài sản đẹp đẽ, với một trang trại cũ, gần cánh đồng Sal¬is¬bury và ông giành những ngày tàn của ông cho việc nghiên cứu môn so sánh bệnh lý học; môn học này đã là lý tưởng của một đời ông và ông đã đạt được một sự lừng danh bất khả tranh biện về nó .
Là những người trong gia đình ông, như các bạn đã thấy, chúng tôi rất xôn xao khi nghe tin ông chú giàu có và không có con cái này trở về Anh . Mặc dầu không tỏ ra có tính hiếu khách hào sảng, ông vẫn biểu lộ một đôi chút ý niệm về các bổn phận đối với gia tộc ông; lần lượt từng người một, bọn chúng tôi đã được mời tới thăm ông .
Cứ tin ở lời năm người anh em họ của tôi đã tới thăm ông trước tôi thì chuyến đi về vùng quê này chả có gì là vui thích cả . Như vậy là với những tình cảm lẫn lộn, cuối cùng tôi đã nhận được một lá thư bảo tôi tới Ro¬den¬hurst. Vợ tôi đã bị gạt ra khỏi danh sách một cách quá cẩn thận khiến cho hành động đầu tiên của tôi là khước từ lời mời; nhưng liệu tôi có quyền lợi cùng với những quyền lợi của lũ con tôi không ? Với sự đồng ý của vợ tôi, một buổi chiều tháng mười tôi di Wilt¬shire . Tôi đã không có chút tưởng tượng nào về các hậu quả của chuyến du hành này .
Tài sản của chú tôi tọa lạc ở một nơi mà những khỏanh đất canh tác được của cánh đồng bắt đầu nhỏ về hướng các vách đá vôi, một nét đặc thù của lãnh địa . Ngồi xe từ nhà ga Đin¬ton vào lúc hoàng hôn của một ngày mùa thu đó, tôi đã bị trấn áp một cách kinh khủng bởi những dấu tích đồ sộ của đời sống tiền sử đến nỗi hiện tại hình như chỉ là một giấc mộng ở bên cạnh những sự thật ngạo nghễ, đầy sức ám ảnh của quá khứ . Con đường vạch ra những lối ngoằn nghèo trong các thung lũng được bao quanh bởi từng dãy đồi liên tiếp nhau và chóp đỉnh của tất cả những trái đồi này đều được đẽo gọt thành những công sự khá phức tạp, hình tròn hoặc hình vuông, những công sự này đã đứng ngạo nghễ trước gió và mưa hành bao nhiêu thế kỷ . Nhiều người nói chúng là của người La Mã, nhiều người khác bảo rằng chúng là của người Anh . Thật ra, nguồn gốc chân thật của chúng không bao giờ được làm cho sáng tỏ cả, cũng như các lý do tại sao trong cả các nơi, miền này lại có nhiều thành lũy như vậy . Rải rác đây đó, trên những triền xanh ô liu kéo dài và phẳng phiu, nổi cao lên những mô đất nhỏ, tròn trĩnh . Những ngôi mả này chứa đựng tro tàn của những người đã đào sâu những ngọn đồi, những bình đựng đầy tro bụi, đó là tất cả những gì còn lại của những người xưa kia đã lao động dưới ánh mặt trời .
Chính là phải đi qua miền quê bí hiểm này mà tôi đã tới gần Ro¬den¬hurst, nơi cư ngụ của chú tôi; ngôi nhà rất hòa điệu với những khung cảnh chung quanh . Hai cây cột bị đổ và lem luốc vì tuổi tác, trên mỗi cây đều có một tấm huy hiệu đã bị sứt mẻ, chúng đỡ lấy một tấm lưới mở ra trên một lối đi được chăm sóc một cách cẩu thả . Một cơn lạnh lẽo rít lên trong đám cây du thụ mọc bên cạnh lối đi . Không khí xào xạc những lá bay lả tả . Ở cuối lối đi, dưới một mái cây uốn cong, một ánh sáng vàng vọt lóe ra . Trong cái ánh sáng của giờ giấc này giữa lúc chạng vạng tối, tôi nhận ra một tòa kiến trúc dài và thấp xòe ra đôi cánh không cân đối, nóc nhà thoai thoải có những mái chìa ra ngoài, những xà nhà theo kiểu thời Tu¬dor bắt chéo nhau trên các đầu tường . Một ngọn lửa ấm cúng nhảy múa phía sau bức cửa sổ lớn hình lục lăng ở bên trái cửa lớn ra vào; nó chỉ cho thấy nơi kê bàn giấy của chú tôi; và đó là nơi mà người quản gia đưa tôi tới để ra mắt ngài Do¬minic .
Chúng tôi đã ăn xong bữa, những kẻ hầu hạ đã rời khỏi phòng sau khi mang cho chúng tôi một ly por¬to, khi cuộc trò chuyện của chúng tôi quay sang một đề tài làm nẩy sinh một kết quả bất ngờ cho các vị chủ nhà của tôi . Tôi không còn nhớ làm thế nào mà chúng tôi đã đi tới chỗ đề cập tới vấn đề siêu nhiên; đại khái là tôi chỉ cho họ thấy là trong các cuộc thí nghiệm về tâm linh, sự bất bình thường là một vấn đề mà tôi, cũng như nhiều bác sĩ thần kinh học, đã giành rất nhiều sự chú tâm và tôi kết luận bằng cách kể lại một kinh nghiệm bản thân: với tư cách hội viên của Hội nghiên cứu Tâm linh, tôi đã tham dự một ủy ban để ngủ lại qua đêm tại một căn nhà có ma; mặc dù câu chuyện chẳng có gì là say mê, cũng chẳng có sức thuyết phục, cuộc mạo hiểm của tôi cũng khiến cho các vị thính giả của tôi chú ý với mức độ rất cao . Họ nghe tôi nói mà không bao giờ ngắt lời tôi . Tôi bắt gặp giữa họ có một vẻ gì về sự đồng lõa mà tôi không biết giải thích như thế nào . Bà Hold¬en đứng dậy và để bọn tôi ở lại một mình .
Ngài Do¬minic đẩy một hộp xì gà về phía tôi . Chúng tôi yên lặng hút thuốc trong một lúc . Khi ông để điếu xì gà lên miệng, bàn tay xương xẩu to lớn của ông run rẩy . Những dây thần kinh của ông chắc chắn phải rung lên như những sợi dây đàn . Linh tính của tôi báo trước cho tôi biết rằng ông đang sắp sửa có điều gì thổ lộ tâm can và tôi định bụng không nói gì cả, sợ làm ông cụt hứng . Cuối cùng ông quay lại phía tôi với một cử động mau lẹ của một người vừa rủ sạch được nỗi áy náy sau cùng .
- Bác sĩ Hardane ạ, chú ít biết về cháu, ông bắt đầu nói . Tuy nhiên, đối với chú hình như cháu mới đúng là người chú muốn gặp .
- Thưa chú, hẳn chú thấy cháu rất sung sướng về điều chú nói .
- Chú có cảm tưởng cháu là người bình tĩnh và cháu có can đảm . Cháu đừng nghĩ rằng chú tìm cách phỉnh phờ cháu, vì hoàn cảnh rất trầm trọng khiến cho chú không thể làm thiếu đi bất cứ một chút gì cho sự thành thực . Cháu đã nắm vững một vài quan điểm của một triết gia, điều đó đã làm cho cháu tránh được một sự kinh hoàng tầm thường . Chú giả thiết rằng cảnh ma quỷ xuất hiện sẽ không làm cháu hoảng sợ quá mực .
- Thưa chú, cháu không nghĩ là cháu sẽ hoảng sợ .
- Và thậm chí có thể nó còn làm cho cháu thích thú nữa ?
- Cháu rất thích thú .
- Vốn là một quan sát viên về tâm linh, chắc chắn là cháu đã nghiên cứu về vấn đề đặc biệt này một cách khách quan cũng như một nhà thiên văn học nghiên cứu ngôi sao chổi bay ở trên trời chứ ?
- Vâng, đúng hệt như vậy .
- Ông bật lên một tiếng thở dài .
- Hãy tin ở chú, bác sĩ Hardane ạ, đã có thời chú có thể nói chuyện với cháu như cháu đang nói chuyện với chú lúc này . Ở Ấn Độ, sự dũng cảm của chú đã trở thành chuyện truyền khẩu . Ngay cả cuộc binh biến lớn lao cũng không làm suy yếu lòng dũng cảm của chú một phút nào . Tuy nhiên, cháu nhìn thấy ngày nay chú đã hóa thành một thứ đồ phế thải như thế nào: chú đã trở thành một kẻ nhút nhát nhất trong khắp vùng Wilt¬shire . Cháu chớ có ngổ ngáo quá trong lãnh vực này; nếu không có khi cháu sẽ bị vướng vào một cuộc thử thách lâu dài giống như cuộc thử thách mà chú đang vướng phải . Một cuộc thử thách chỉ sẽ chấm dứt trong một nhà thương điên hoặc trong nấm mồ .
Tôi cố kiên nhẫn chờ ông quyết định đi ngay vào điểm chính của mối bận tâm của ông . Khỏi cần phải nói thì ai cũng biết lời mở đầu của ông đã làm tôi say mê .
- ... Từ một năm nay, ông nói tiếp, đời sống của chú và đời sống của thím bị buồn phiền . Nguyên nhân rất kỳ cục khiến người ta muốn bật cười . Tuy nhiên tính cách quen thuộc của nó khiến cho người ta không thể chịu đựng được . Trái lại, ngày tháng qua đi, các giây thần kinh của chú càng suy mòn một cách thảm thương . Nếu cháu không bị nỗi lo sợ về thể chất, bác sĩ Hardane ạ, thì chú rất sung sướng được nghe ý kiến của cháu về cái hiện tượng đã làm chúng ta mâu thuẫn nhau rất nhiều .
- Ý kiến của cháu, dù nó có giá trị thế nào đi nữa, xin đặt tùy quyền định đoạt của chú . Cháu có thể hỏi chú về bản chất của hiện tượng đó không ?
- Chú nghĩ rằng kinh nghiệm của chính cháu sẽ hữu ích hơn nếu cháu không biết trước những gì mà có thể cháu sẽ khám phá ra . Chắc cháu đã hiểu sự hoạt động của não bộ và những cảm nghĩ chủ quan đã bao hàm một sự mập mờ khó hiểu như thế nào . Chú nghĩ tốt hơn hết là cháu nên tránh điều đó .
- Vậy thì bây giờ cháu phải làm gì ?
- Chú sẽ nói cho cháu nghe . Cháu có vui lòng theo chú lại chỗ này không ?
Rồi ông dẫn tôi ra khỏi phòng ăn, đi vào một hành lang tới cái cửa . Sau tấm cửa này là một căn phòng lớn không bày biện đồ đạc gì, được trang bị thành phòng thí nghiệm, với một số dụng cụ khoa học và nhiều chiếc bình . Trên một mảnh xích đồng đặt dọc theo mặt tường, có một dẫy xếp đầy những bình đựng các mẫu về bệnh lý học và các bộ phận được giải phẫu .
- ... Cháu thấy là chú không xao lãng công việc cũ của chú, ngài Do¬minic nói . Những bình này chỉ là phần còn sót lại của những gì mà trước đây đã là một bộ sưu tầm quý giá . Bất hạnh thay chú đã đánh mất phần lớn cac mẫu này trong vụ hỏa hoạn làm cháy tiêu tan căn nhà của chú ở Bom¬bay nay 1892 . Trong nhiều phương diện vụ cháy tai hại này đã làm chú thiệt thòi quá nhiều . Chú đã có những loại mẫu rất hiếm và bộ sưu tầm của chú về bộ phận lá lách có thể coi là bộ duy nhất trên thế giới . Đây là những thứ đã cứu vãn được ...
Tôi đảo mắt nhìn, khá đầy đủ để cho ta thấy rằng quả thực chúng có một giá trị rất lớn và trên phương diện bệnh lý học, đó là những thứ cực kỳ hiếm thấy; các cơ quan tụ đặc lại, các nang thũng rộng ngoắc, các mảnh xương biến dạn, những ký sinh trùng đáng ghét, tóm lại một cuộc trưng bày độc đáo về các sản phẩm của Ấn Độ .
- ... Như cháu đã nhìn thấy, ở đây còn có một ghế tràng kỷ, ông chú tôi nói tiếp . Chú không hề nghĩ tới việc giành cho một vị khách một tiện nghi xoàng xĩnh như thế này . Nhưng qua cuộc nói chuyện của chúng ta, chắc cháu sẽ rất vui lòng chấp nhận việc ngủ qua đêm trong căn phòng này . Chú xin cháu đừng ngần ngại gì, mà cứ nói đi nếu lời đề nghị của chú làm cháu phật ý .
- Không có gì phật ý cả, tôi đáp lại . Điều này rất dễ chấp nhận .
- Phòng của chú là căn thứ nhì về bên trái . Trong trường hợp cháu thấy cần có người bầu bạn, cháu chỉ việc gọi chú . Chú sẽ tới ngay tức khắc .
- Cháu hy vọng rằng cháu sẽ không bị buộc lòng phải quấy phiền chú .
- Khó có chuyện là chú ngủ được . Chú không ngủ nhiều được nữa . Cứ gọi chú, chớ ngần ngại gì .
Thế là chúng tôi đã thỏa thuận với nhau, chúng tôi đi ra gặp lại bà Hold¬en trong phòng khách và chúng tôi nói chuyện về những đề tài dí dỏm hơn .
Tôi công nhận không một chút màu mè nào rằng viễn ảnh của cuộc mạo hiểm này làm tôi vui thích . Tôi không muốn tỏ ra can đảm hơn những người ở bên cạnh tôi, nhưng khi người ta đã quen thuộc với một vấn đề, người ta coi thường những nỗi sợ hãi vu vơ và mập mờ đã làm kinh động một bộ óc giàu tưởng tượng . Bộ óc con người chỉ có thể tiếp nhận một cảm xúc mạnh trong một lúc nào đó : nếu nó đang nôn nóng vì tò mò hay nhiệt tình khoa hoc, thì sợ hãi không còn chỗ trong nó nữa . Đúng thật ông chủ tôi đã nói rằng lúc mới đầu ông cũng đã chia sẻ quan điểm của tôi; tôi nghĩ rằng sự suy sụp hệ thần kinh của ông có thể là do bốn mươi năm ông đã sống ở Ấn Độ, cũng như do bất cứ một cuộc mạo hiểm tâm linh nào . Còn về phần tôi, ít nhất tôi cũng vững vàng, nói về phương diện thần kinh và tâm lý; đó là lý do tại sao tôi đã cảm thấy sự hồi hợp dễ chịu mà người thợ săn thường cảm thấy khi ngồi rình gần tổ con mồi, khi tôi đóng sập cánh cửa phòng thí nghiệm sau lưng tôi . Tôi cởi bỏ một phần quần áo, rồi tôi nằm dài trên ghế trường kỷ trải những tấm da thú .
Nếu là một phòng ngủ thì khung cảnh không phải là lý tưởng . Không khí nặng trĩu mùi hóa chất, trong đó mùi cồn chín mươi sặc sụa nhất . Hơn nữa, cách trang trí không có chút gì làm người ta muốn ngủ . Cái dẫy những bình bày trong đó nổi lập lờ các vết tích của những bệnh tật và những sự đau đớn, đang phơi bày ra ngay trước mặt tôi . Trên cửa sổ không có cánh cửa, cũng không có màn che; một vầng trăng khuyết tuôn ánh sáng xanh xao vào căn phòng và vạch ra trên bức tường đối diện một hình vuông màu bạc, trong đó những hình lục lăng chồng chéo lên nhau . Khi đã có một vẻ huyền hoặc và rối rắm . Một sự yên lặng hoàn toàn chiếm ngự tất cả căn nhà cũ kỹ; tiếng xào xạc nhẹ nhàng của các cành cây ngoài vườn lọt tới tai tôi một cách dịu dàng . Phải chăng đó là lời ru ngủ của những tiếng rì rầm liên tục ? Hay đó là sự mệt mỏi của một ngày qua ? Tôi đã cố chống cự để gìn giữ tất cả sự tỉnh táo cho các giác quan của tôi, tôi đã ngủ một giấc ngủ say sưa .
Một tiếng động trong phòng thí nghiệm làm tôi thức giấc . Ngay tức thì tôi chống khuỷu tay ngồi nhỏm lên . Chắc tôi đã ngủ được một vài giờ đồng hồ, vì vệt sáng hình vuông trên tường đã di chuyển chếch xuống phía dưới và lúc này nó nằm nơi chân ghế trường kỷ của tôi . Phần còn lại của căn phòng bị chìm sâu trong bóng đêm tối sầm . Mới đầu tôi không thể phân biệt được chút gì cả rồi mắt tồi làm quen với bóng tối, rồi thì tôi nhận ra, với một cảm giác ớn lạnh, rùng mình mà các thói quen thiên về khoa học của tôi đã tỏ ra bất lực không thể kìm hãm được, đó là một vật gì đó đang di chuyển thong thả dọc theo bức tường . Thính giác trở nên bén nhạy hơn của tôi ghi nhận thấy một tiếng động nhẹ vừa tắt đi, tiếng động của những chiếc giày vải kéo lê trên mặt đất và tôi phân biệt ra một cách mơ hồ một bóng người bước đi một cách lén lúc; bóng này từ phía của ra vào đi tới; bóng đó nhô ra trong phần được chiếu sáng bởi ánh trăng và tôi đã nhìn thấy nó rõ ràng . Đó là một người đàn ông nhỏ và thấp, mặc một thứ áo dài màu xám đậm, dài thẳng từ hai vai tới chân . Ánh trăng soi sáng một bên mặt hắn ta, tôi nhận thấy da mặt màu sôcôla và hắn ta có một búi tóc đen phía sau đầu . Hắn ta đi thong thả, mũi ngẩng lên trời, hướng về cái xích đông nơi có những bình chứa đựng các mảnh vụn của những người đã chết . Hắn có vẻ xem xét tỉ mỉ từng bình một . Khi hắn xem xét xong, ngay chỗ cuối giường tôi, hắn dừng lại, quay mặt về phía tôi, giơ hai bàn tay lên một vẻ tuyệt vọng và biến mất .
Tôi nói rằng hắn giơ hai bàn tay lên; lẽ ra tôi nên viết rằng hắn giơ hai cánh tay lên, vì khi hắn ta làm dáng điệu tuyệt vọng đó, tôi nhận thấy một điều đặc biệt: hắn chỉ có một bàn tay! Khi những ống tay áo tụt xuống dọc theo những cánh tay giơ lên của hắn, tôi nhìn thấy rõ ràng bàn tay trái, nhừng còn bàn tay phải chỉ là một cái cùi tong teo gớm ghiếc . Ngoài cái bàn tay cụt đó ra, hắn ta có vẻ rất bình thường, tôi đã nhìn thấy hắn và nghe hắn một cách rất rõ rệt đến nỗi tôi tự hỏi có phải hắn là một trong những tên đầy tớ người Ấn Độ của ngài Do¬minic tới kiếm một vật gì trong phòng thí nghiệm không . Nhưng sự biến mất thình lình của hắn gợi ra cho tôi một sự giải thích thiếu bình thường . Tôi đứng bật dậy, thắp nến lên và xem xét tỉ mỉ căn phòng . Vì tôi không tìm thấy một dấu vết nào của người khách của tôi, tôi phải chấp nhận rằng sự hiện diện của hắn đã một phần nào vượt ra ngoài khuôn khổ các qui luật tự nhiên . Tôi không ngủ lại nữa; nhưng đêm qua đi mà không có một sự cố nào khác .
Bao giờ tôi cũng dậy sớm; nhưng ông chú tôi đã dậy sớm hơn tôi: ông đang đi bách bộ trên thềm cỏ trước nhà; khi ông thấy tôi đứng trên bực cửa, ông chạy lại .
- Thế nào ? ông nói lớn . Cháu có thấy hắn không ?
- Một gã Ấn Độ chỉ có một bàn tay ?
- Đúng .
- Vâng, cháu đã thấy hắn .
Tôi kể lại cho ông nghe những việc đã diễn ra . Sau đó, ông dắt tôi vào phòng làm việc của ông .
- Chúng ta có đôi chút thời giờ trước khi ăn điểm tâm, ông nói với tôi khoảng thời gi¬an đó đủ để cho cháu nghe một cách giải thích về sự việc dị thường này, theo như chỗ chú có thể giảng nghĩa cho cháu một điều mà thật ra không thể nào giải thích được . Trước hết khi chú nói cho cháu hay rằng từ bốn năm nay không bao giờ chú ngủ được trọn vẹn một đêm, dù là ở Bom¬bay, dù là ở trên tàu thủy, dù là ở nước Anh, mà không bị quấy rầy trong giấc ngủ bởi con người đó, cháu sẽ hiểu tại sao chú lại trở thành con người tàn tạ . Chương trình của hắn ta không thay đổi . Hắn hiện ra bên cạnh giường chú, lay mạnh vào vai chú, đi từ phòng chú vào phòng thí nghiệm, đi thong thả trước dãy bình của chú, rồi biến mất . Ít nhất hắn đã làm như vậy hàng ngàn lần .
- Hắn đòi hỏi gì ở chú ?
- Bàn tay hắn .
- Bàn tay hắn à ?
- Ừ, khoảng độ 10 năm trước, chú được mời tới khám bệnh ở Pes¬sawa; trong chuyến công tác của chú, người ta yêu cầu chú xem bàn tay một người bản xứ đi qua thành phố cùng với một đoàn xe của người Afghanistan . Hắn ta gốc gác ở một bộ lạc sơn cước sinh sống ở từ xa, phía bên kia dẫy núi Kafiris¬tan và hắn nói một thổ ngữ gần như không ai hiểu được . Hắn bị bệnh sưng phù biến nhan ở một trong các khớp xương bàn tay và chú cố sức nói cho hắn ta hiểu là hắn chỉ có thể cứu lấy mạng sống bằng cách hy sinh bàn tay của hắn . Phải vất vả lắm chú mới thuyết phục được hắn ta; sau hết hắn đồng ý việc giải phẫu . Ngay khi việc giải phẫu xong xuôi, hắn ta hỏi chú là hắn phải trả bao nhiêu tiền . Thằng quỷ khốn khổ đó gần như một tên ăn xin, nên chú không lấy tiền của hắn . Nhưng chú trả lời hắn với sự bông đùa rằng chú bằng lòng lấy bàn tay của hắn và rằng chú có ý định lấy bàn tay đó để thêm vào bộ sưu tập về bệnh lý của chú .
"Trước sự kinh ngạc vô cùng của chú, hắn ta đưa ra nhiều lý lẽ để phản đối . Hắn ta cắt nghĩa cho chú thấy là theo tôn giáo của hắn, thật là tối quan trọng việc thể xác phải hợp nhất lại sau khi người ta chết, để dùng lam nơi trú ngụ hoàn hảo cho linh hồn . Như cháu đã biết, sự tín ngưỡng này đã có từ rất lâu đời và những xác ướp của người Ai Cập cũng xuất phát từ một mối dị đoan tương tự . Chú hỏi hắn ta là hắn ta làm cách nào để bảo tồn nó . Hắn nói hắn sẽ cho ngâm nó vào nước muối và hắn sẽ luôn luôn mang nó bên mình . Chú bảo hắn rằng chắc chắn là nó sẽ được an toàn ở nhà chú hơn là ở trong người hắn và rằng chú có sẵn những chất liệu tốt hơn để bảo tồn nó . Khi hắn hiểu rằng chú thực bụng muốn bảo toàn bàn tay ấy, sự chống đối của hắn chấm dứt hình như với sự hoan hĩ . "Nhưng xin ông nhớ rằng, ông quan thầy, hắn nói với chú, rằng tôi sẽ trở lại tìm nó khi tôi chết ." Chú bật cười và sự việc đã kết thúc . Chú quay về với các thân chủ của chú và chắc hắn có thể tiếp tục lên đường đi Afghanistan .
"Như chú đã nói với cháu về việc đó chiều hôm qua, nhà của chú ở Bom¬bay hầu như bị cháy rụi hoàn toàn . Cùng với nhiều đồ vật khác, bộ sưu tầm về bệnh lý học của chú đã bị thiêu hủy gần như hoàn toàn, trong đó có cả cái bàn tay của anh chàng người sơn cước đó . Việc đó xảy ra đã sáu năm rồi ."
"Ngay lúc đó chú không nghĩ tới việc thương tiếc cái bàn tay đó . Nhưng hai năm sau vụ hỏa hoạn, một đêm chú đã bị đánh thức dậy bởi một kẻ nào đó, hắn giật ống tay áo của chú một cách giận dữ . Chú ngồi dậy, nghĩ rằng con chó cưng của chú muốn làm chú thức giất . Thay vì con chó, chú đã nhìn thấy anh chàn bệnh nhân người Ấn Độ thưở trước, mặc một cái áo dài màu xám, là bộ y phục dân tộc của anh ta . Hắn ta hua cái cùi tay cụt lên va nhìn chú với một vẻ trách móc . Sau đó hắn đi tới phía những bình của chú, mà khi đó chú giữ ở trong phòng của chú; hắn xem xét những bình này một cách chăm chú; rồi hắn đưa ra một điệu bộ giận dữ và biến mất . Chú đoán rằng hắn ta vừa mới chết và hắn ta tới nhắc lại với chú lời hứa của chú và đòi lại bàn tay của hắn ."
"Như vậy đó ! Cháu đã biết tất cả, bác sĩ Hardane ạ . Mỗi đêm, cứ vào giờ đó, từ bốn năm nay, cái cảnh đúng hệt như vậy cứ diễn ra . Nó làm chú mòn mỏi đi như một hòn đá bị mòn đi vì một giọt nước cứ đều đặn rơi xuống hoài . Nó đã mang tới cho chú sự mất ngủ, vì chú không thể nào ngủ được, chú chờ đợi sự xuất hiện của thằng cha người Ấn Độ . Việc này đã đầu độc những ngày tàn của chú và những ngày tàn của vợ chú là người cũng dự phần vào nỗi lo âu lớn này . Nhưng chú vừa nghe tiếng kẻng của bữa điểm tâm; chắc bà ấy nôn nóng muốn biết đêm qua cháu ngủ nghê như thế nào . Chú thím rất cảm ơn cháu về sự độ lượng của cháu, vì việc được chia sẻ điều bất hạnh của chú thím với một người bạn, dù chỉ là một đêm thôi, cũng làm cho chú thím được thư thái đôi chút; và đã làm vững lòng chú thím trên sự quân bình về tâm thần mà đôi khi chú thím đã có ý nghi ngờ ."
Đó là câu chuyện kỳ lạ mà ngài Do¬minic đã tâm sự với thôi, chắc chắn là nhiều người có thể cho đó là một câu chuyện lố bịch không đúng với sự thật; nhưng tôi đã thừa đủ kinh nghiệm đêm hôm trước và tôi đã quen thuộc từ lâu rồi với những vấn đề như vậy, tôi sẵn sàng chấp nhận chuyện đó như một việc hiển nhiên . Tôi cầu cứu tới tất cả những việc nghiên cứu của tôi và tất cả những ký ức của riêng tôi và sau bữa điểm tâm tôi đã làm cho các vị chủ nhà của tôi sửng sốt khi báo tin cho họ biết rằng tôi sẽ trở về Lon¬don bằng chuyến tàu sớm nhất .
- Cháu bác sĩ thân mến của chú, ngài Do¬minic kêu lên, vẻ bối rối, như thế là cháu làm cho chú hiểu rằng chú đã thất thố một cách nặng nề về các qui luật của sự tiếp đãi khách bằng cách lôi kéo cháu dính vào cái việc vất vả này . Lẽ ra phải một mình chú mang lấy gánh nặng .
Tôi đáp lại:
- Trái lại, chính vi việc của chú mà cháu trở về Lon¬don . Nhưng có lẽ chú đã lầm khi tưởng rằng việc mạo hiểm đêm qua đã làm cháu khó chịu . Ngược lại, cháu còn xin phép chú được trở lại đây chiều nay và được ngủ lại một đêm nữa trong phòng thí nghiệm của chú . Cháu rất khao khát muốn gặp lại người khách của chú .
Ông chú tôi rất muốn biết tôi toan tính làm điều gì, nhưng vì e ngại ông sẽ có những hi vọng sai lầm, tôi không muốn nói gì cả . Sau bữa ăn trưa, tôi về tới phòng mạch của tôi, nơi đó tôi bồi bổ ký ức bằng cách đọc lại một vài đoạn quyển sách mới xuất bản nói về khoa học huyền bí .
"Trong trường hợp những linh hồn bị ràng buộc vào trái đất, tác giả nói, chỉ cần một ý nghĩ nào ám ảnh họ vào giờ phú lâm tử cũng đủ để giữ họ lại trong thế giới vật thể của chúng ta . Họ là những lưỡng thể của cõi đời này, cõi đời sau, họ có thể đi từ đời này sang đời khác giống hệt như con rùa đi từ nước lên đất liền . Những nguyên nhân kết nối một cách vững vàng một linh hồn vào một đời sống mà thể xác của linh hồn đó đã từ bỏ là những cảm xúc dữ dội . Tính keo kiệt, sự trả thù, sự lo âu, tình yêu, lòng thương là những điều mà ta đều biết dể gây nên sự linh hiển này, một sự việc thường xảy ra từ một ý nguyện chưa được hoàn thành . Khi ý nguyện đã được thành toàn, mối dây nối liền với vật thể sẽ nới lỏng . Người ta ghi chép nhiều trường hợp nêu rõ sự bướng bỉnh đặc biệt của những vị khách này; và cả sự biến đi của họ khi những ý nguyện của họ đã được thành toàn, hoặc đôi khi một sự giàn xếp ổn thỏa được đạt tới ."
Một sự giàn xếp ổn thỏa ... Đây chính là những từ mà tôi đã tìm kiếm suốt một buổi sáng và bây giờ tôi mới thấy trong bài viết . Ở Ro¬den¬hurst, không thể có vấn đề một sự tu chỉnh thực sự; nhưng một sự giàn xếp ổn thỏa ! Không để mất một phút nào, tôi đi tới bệnh viện Chartwell của hải quân, nơi mà viên y sĩ giải phẫu tại chức là anh bạn cố tri, Jack Hewell của tôi . Không cần giải thích tình thế với anh, tôi nói với anh điều mà tôi muốn .
- Một bàn tay đàn ông màu nâu ! Anh nhắc lại với một vẻ kinh ngạc . Đồ quỷ quái, tại sao anh lại muốn có một bàn tay màu nâu ?
- Xin chớ tìm hiểu . Hôm khác tôi sẽ nói chuyện đó với anh . Tôi biết rằng anh có những người Ấn Độ chật ních các phòng của anh .
- Thật vậy ! Nhưng mà một bàn tay ...
Anh suy nghĩ một lát rồi bấm chuông .
- ... Tav¬erne, anh bảo một người y tá, những bàn tay của anh thủy thủ mà chúng ta đã cắt hôm qua bây giờ ra sao ? Tôi nói cái anh chàng ở bến cảng Đông Ấn đã bị cuốn trục quay chạy hơi nước đó .
- Chúng hiện ở trong phòng giảo nghiệm, thưa ngài .
- Lấy cho tôi một chiếc, để nó vào các hộp khử trùng và trao nó cho bác sĩ Hardane .
Tôi về tới Ro¬den¬hurst trước bữa ăn tối với cái gói nhỏ của tôi . Tôi không nói gì với ngày Do¬minic cả nhưng tôi đóng cửa phòng lại để ngủ đêm trong phòng thí nghiệm và tôi để cái bàn tay của người thủy thủ vào một trong những cái bình ở cuối giường tôi .
Kết quả cuộc thí nghiệm này làm tôi say mê đến mức tôi không thể nào ngủ được . Ngồi yên với một ngọn đèn được che kín đặt bên cạnh, tôi chờ đợi người khách của tôi . Lần này tôi nhìn thấy hắn ta một cách rõ ràng từ lúc bắt đầu . Hắn hiện ra bên cạnh cửa lớn, nom lờ mờ trong vài ba phút, rồi hình dáng hắn tụ đặc lại và trở thành vững chắc nom như hình dáng của một người sống vậy . Đôi giày vải đỏ của hắn lê đi dưới tấm áo dài màu xám của hắn . Cũng như đêm hôm trước, hắn đi kiểm soát dẫy bình một cách thong thả và hắng dừng lại trước cái bình có đựng cái bàn tay . Hắng đứng nhón người lên trên các đầu bàn chân; mặt hắn run run vì sự thèm muốn; hắn cầm lấy cái bình, xem xét nó, nhưng mặt hắn co rúm lại vì điên cuồng và thất vọng và hắn quăng cái bình xuốn đất . Tiếng loảng xoảng của chất thủy tinh bị bể vang dội lên khắp căn nhà . Gã Ấn Độ cụt tay biến mất như bởi sự bùa chú . Cửa mở ra và ngài Do¬minic chạy vội vào phòng tôi .
- Cháu không bị thương chứ ? Ông kêu lên .
- Không, nhưng thành thực là bị thất vọng .
Ông nhìn một cách sững sờ những mảnh thủy tinh vỡ và cái bàn tay màu nâu nằm trên mặt sàn nhà .
- Lạy chúa tôi ! Ông kêu lên . Thế là thế nào ? ...
Tôi nói cho ông biết về ý nghĩ của tôi và về kết quả hẩm hiu của nó . Ông chăm chú nghe tôi nói nhưng ông lắc đầu .
- ... Lý luận như thế là đúng lắm, ông nói với tôi . Nhưng chú sợ rằng những nỗi đau khổ của chú không chấm dứt một cách giản dị như vậy đâu . Ngược lại, chú tuyệt đối nhấn mạnh tới một điểm . Bất cứ vì lý do nào, cháu cũng sẽ không được ngủ ở đây nữa . Nỗi lo sợ mà chú trải qua lúc nãy khi nghĩ rằng có điều gì xảy ra cho cháu, lúc nghe tiếng loảng xoảng đó đã là sự kinh hoàng rùng rợn nhất mà chú từng biết . Chú sẽ không muốn chịu đựng một lần thứ hai .
Tuy nhiên ông vẫn cho phép tôi ngủ nốt đêm đó trong phòng thí nghiệm, nơi mà tôi nằm bực bội nghĩ về sự thất bại của tôi . Những tia sáng đầu tiên của bình minh rọi tới soi sáng cái bàn tay của người thủy thủ còn nằm trên sàn nhà; tôi nhìn nó một cách máy móc ... Và một ý nghĩ đột ngột xuất hiện trong đầu tôi .
Tôi nhảy xuống khỏi ghế trường kỷ và tôi cầm lấy cái bàn tay màu nâu lên . Đúng, tôi đã có lý ! Đó là chiếc bàn tay bên trái của người bị cắt cụt tay .
Tôi trở về Lon¬don bằng chuyến tàu sớm nhất và vội vã tới bệnh viện hải quân . Tôi nhớ rằng người thủy thủ trong câu chuyện nó bị cắt cụt cả hai tay, nhưng tôi cứ thấp thỏm lo sợ rằng cái bộ phận quý giá khiến tôi đến đây để tìm đã bị quăng vào lò thiêu rồi . Nỗi lo sợ của tôi sau đó được xua tan: bàn tay phải còn nằm trong phòng giải nghiệm . Thế là tôi lại đi Ro¬den¬hurst ngay buổi chiều hôm đó, nhiệm vụ của tôi đã hoàn tất và cái bàn tay nâu thứ hai nằm trong túi tôi .
Nhưng ngài Do¬minic không muốn nghe gì cả khi tôi loan báo tôi sẽ ngủ một đêm thứ ba trong phòng thí nghiệm . Ông cứ làm ngơ trước lời thỉnh cầu của tôi . Lòng hiếu khác của ông bị thương tổn: ông tỏ ra không gì lay chuyển được . Thế là tôi phải để cái bàn tay phải vào một cái bình, như tôi đã để cái bàn tay trái đêm hôm qua và tôi đi vào nằm trong một căn phòng rất đầy đủ tiện nghi ở đầu bên kia của căn nhà .
Nhưng số trời đã định rằng giấc ngủ của tôi vẫn cứ bị phá rối . Vào lúc nửa đêm, vị chủ nhà của tôi chạy xộc vào phòng tôi . Ông quấn người trong một chiếc áo choàng và với thân hình đồ sộ của ông, có lẽ ông sẽ làm cho một người yếu bóng vía sợ hãi ông hơn là con ma người Ấn Độ . Nhưng không phải sự xuất hiện của ông làm tôi kinh ngạc: nhưng đó là vẻ mặt và một dáng điệu mà tôi chưa từng thấy có ở ông . Trông ông trẻ ra tới hai mươi tuổi, hai mắt ông sáng ngời, diện mạo ông rạng rỡ sự vui thích . Ông vung vẩy một tay bên trên đầu ông, với một vẻ chiến thắng . Tôi ngồi dậy, thấy lo sợ một cách mơ hồ, lời nói của ông làm tôi thức tỉnh hoàn toàn .
- Thế là xong rồi ! Chúng ta đã thành công ! Cháu Hardane thân yêu của chú, chú làm thế nào để đền ơn cháu cho đủ ?
- Hẳn chú không muốn nói là mưu mẹo đã trót lọt ?
- Trót lọt chứ ! Chú tin chắc rằng cháu sẽ không giận chú nếu chú đánh thức cháu dậy để báo cho cháu biết một tin tốt đẹp như vậy .
- Giận chú ư ? Thật tình cháu không nghĩ tới chuyện đó . Nhưng chú có chắc vậy không ?
- Chú không có một mảy may nghi ngờ, cháu thân mếnt của chú ạ, chú là người mắc nợ cháu, từ trước không bao giờ chú mắc nợ bất cứ một ai và chú cũng không mong mắc nợ ai ! Không biết chú có thể làm gì để xứng đáng với công việc mà cháu vừa làm cho chú ? Đúng là trời đã xui khiến cháu tới giúp chú . Cháu đã cứu vãn cả linh hồn và đời sống của chú . Và vợ chú nữa ! ... Bà ấy chết dần, chết mòn ở trước mắt chú . Chưa bao giờ chú dám nghĩ rằng một con người lại có thể gỡ cho chú thoát khỏi gánh nặng đó .
Ông nắm lấy tay tôi và xoắn chặt nó trong hai bàn tay ộng
- Đó chỉ là một cuộc thí nghiệm, một sự mạo hiểm lúc tuyệt vọng, tôi nói nhưng trong thâm tâm, tôi rất vui thích là công việc đã thành công . Làm thế nào chú biết rằng mưu mẹo đã trót lọt ? Chú đã nhìn thấy những gì ?
Ông ngồi xuống cạnh giường tôi .
- Chú đã thấy đầu đủ, ông đáp lại . Khá đủ để tin chắc rằng từ nay chú sẽ không bao giờ còn bị quấy nhiễu bởi anh chàng Ấn Độ đó . Chú sẽ nói cho cháu rõ những gì đã xảy ra . Đêm hôm qua, hắn ta cũng tới vào giờ thường lệ của hắn ta và hắn lay chú một cách dữ dằn hơn mọi khi . Chú đoán rằng sự thất vọng của hắn đêm qua đã làm tăng thêm sự nóng giận của hắn . Sau khi nhìn chú một cách hung bạo, hắn lại ra đi trong cuộc dạo chơi mỗi đêm của hắn . Nhưng sau một vài phút, hắn quay lại phòng chú . Đây là lần đầu tiên từ khi bắt đầu sự quấy nhiễu của hắn, hắn mỉm cười . Chú nhìn thấy những chiếc răng trắng của hắn sáng long lanh . Hắn đứng trước mặt chú, ở cuối giường, rồi hắn cúi đầu rất thấp ba lần, đây là một kiểu chào kính cẩn của người Đông Phương, một cách chào từ biệt đầy vẻ trang nghiêm, lần cúi thứ ba, hắn đã giơ cả hai tay lên khỏi đầu, chú nhìn thấy hai bàn tay hắn . Và hắn biến mất, theo chú nghĩ, có lẽ sẽ vĩnh viễn biến mất .
Đó là cuộc phiêu lưu kỳ lạ đã khiến cho tôi chiếm được lòng cảm mến và sự biết ơn của ông chú tôi, vị y sĩ nổi danh tại Ấn Độ . Các điều dự đoán của ông đã thể hiện : không bao giờ ông còn bị quấy nhiễu bởi anh chàng người sơn cước lang thang đi đòi lại cái bàn tay bị mất của hắn ta . Ngài Do¬minic va phu nhân Hold¬en đã hưởng một tuổi già sung sướng, không bị bận tâm bởi một chuyện nhỏ nhặt nào và họ đã qua đời trong thời bệnh dịch cúm hoành hành, mỗi người chết cách nhau vài tuần lễ . Khi ông còn sống, ông luôn luôn hỏi ý kiến tôi để tiếp thu những lời khuyên về cách xử sự của người Anh mà ông biết rất ít; tôi cũng giúp ông trong việc khai thác tài sản của ông . Từ lúc đó còn gì mà tôi phải ngạc nhiên với việc tôi đã vượt qua đầu năm ông anh họ đang giận dữ và trở thành chủ nhân của một lãnh địa lớn tại Wilt¬shire ? Dù sao thì tôi cũng có lý do để tôn kính cái ký ức về con người có bàn tay bị cắt cụt và cái ngày mà tôi có được sự may mắn giải thoát Ro¬den¬hurst khỏi sự hiện diện phiền toái của hắn ta .
16. Con mèo Brasil
Với một người trẻ tuổi, thật là một sự khổ cực khi mang vào mình những sở thích xa hoa, những ước vọng lớn lao, những phong độ quý phái trong gia đình, nhưng lại không có một đồng xu dính túi, cũng chẳng có nghề nghiệp gì khiến cho người đó kiếm ra tiền. Thế mà cha tôi, một người vô tư lự, đã đặt lòng tin quá mạnh vào sự giàu có và lòng tử đến của Lord Souther¬ton, anh cả của cha tôi (ông này sống độc thân) đến nỗi ông cứ đinh ninh rằng tôi, đứa con duy nhất của ông không bao giờ phải làm việc để mưu sinh cả. ông cứ tưởng tượng rằng nếu không có chỗ làm cho tôi ở các hội đồng hành chánh của các cơ sở Souther¬ton thì chắc chắn người ta sẽ mời tôi vào một chức vụ trong các cơ sở ngoại gi¬ao là những ngành vẫn còn là các đặc hữu của gi¬ai cấp được ưu đãi của chúng tôi. Cha tôi đã chết quá sớm nên ông không thể đo lường được sự sai lầm trong các tính toán của ông. Cả ông bác tôi lẫn nhà nước chả ai thèm bận tâm đến tôi một chút nào. Thỉnh thoảng có một cặp trĩ hoặc một lồng thỏ, đó là tất cả những thứ tới tay tôi để nhắc cho tôi nhớ rằng tôi được thừa hưởng tài sản Otwell, một trong những tài sản lớn nhất ở Anh quốc. tôi còn độc thân, tôi sống tại Luân Đôn, tôi ở một căn hộ trong khu nhà Grosvenor, và suốt ngày tôi đi bắn chim bồ câu và chơi pô lô ở Hurling¬ham. Hết tháng này sang tháng khác, các khó khăn về tài chính của tôi cứ chồng chất lên. Sự suy thoái đang rình rập tôi; mỗi ngày nó càng hiện rõ hơn; nó là điều hoàn toàn không thể tránh khỏi.
Tôi cũng căm hận sự nghèo khổ của tôi như là sự sung túc trong gia tộc tôi, ấy là không nói tới sự giàu sang vô tận của Lord Souther¬ton. Sau ông bác tôi thì người có họ gần nhất là Ed¬ward King, cháu của cha tôi và là anh em con chú con bác với tôi người đang sống một cuộc đời phiêu lưu ở Brasil và vừa trở về nước Anh để hưởng thụ sự giàu có. Không bao giờ chúng tôi biết là ông ta đã kiếm tiền bằng cách nào, nhưng hẳn là ông ta phải có rất nhiều tiền, vì ngay sau khi về nước, anh ấy đã mua tài sản của gia đình Grey¬lands ở gần Clip¬ton-on-the-Marsh, trong vùng Suf¬folk. Trong năm đầu tiên ở Anh quốc, ông ta chẳng quan tâm gì đến tôi hơn là ông bác keo kiệt của tôi; và rồi một buổi sáng mùa hè, tôi nhận được mộtlá thư mời xuống chơi lâu đài Grey¬lands ngay ngày hôm đó. Trong khi tôi đang băn khoăn về sự phá sản sắp tới của tôi, lời mời này đối với tôi thật sự là sự hiện thân của một ân huệ của Thượng đế. Chỉ cần tôi tạo được những gi¬ao tình tôt đẹp với ông anh họ chưa biêt mặt này, tôi sẽ moi được chút đỉnh đây; vì danh dự của gia tộc, ông ta sẽ không để tôi suy sụp. thế là tôi sai anh hầu phòng sửa soạn hành trang và buổi chiều thì tôi khởi hành đi Clip¬ton-on-the-Marsh.
Sau khi sang xe ở Ip¬swich để lên một chuyến xe lửa chạy trong vùng, tôi xuống một ga nhỏ vắng hoe, nằm giữa những đồng cỏ lởm chởm, với một con song chảy uể oải giữa các bờ cao lầy bùn uốn khúc quanh co trong thung lũng; thủy triều đã chứng tỏ ảnh hưởng của nó tới tận nơi này. Không có một cái xe nào đón tôi cả (sau đó tôi mới biết rằng điện tín của tôi đã bị trễ). Tôi đành phải thuê một cái xe ở quán trọ gần đó. Trên đường đi, anh đánh xe, một kiểu người mạnh bạo, không ngừng tán tụng người anh họ tôi, và do đó, tôi được biết là Ed¬ward King đã trở thành một người có thế lực ở trong vùng này; ông ta tổ chức một ngày hội cho các học sinh, đã mở cửa trang trại tiếp khách, đã góp tiền vào các công cuộc từ thiện. Tóm lại, anh đánh xe chỉ giải thích sự hào phóng đó bằng giả thuyết là ông anh họ tôi muốn được bầu làm dân biểu.
Sự chú ý của tôi bị mang đi khỏi những lời tán tụng đó vì sự xuất hiện của một con chim rất đẹp đậu trên một cột dây thép ở bên đường. Thoạt mới nhìn, tôi tưởng đó là một con chim cà cưỡng nhưng nó to hơn nhiều và lông nó sáng hơn. Người đánh xe nói rằng con chim đó là của anh họ tôi, một người có tật kỳ cục là thích thuần hóa các thú vật lạ. Ông đã mang từ Brasil về những con chim và những con thú mà ông cố gắng nuôi ở Anh quốc. Khi đã vượt các hàng rào song sắt của công viên Grey¬lands, tôi mới nhận thấy là người đánh xe không nói dối tôi. Những con hươu nhỏ bé, một con lợn rừng kỳ quái mà tôi nghĩ có tên là dã trư, một con hoàng oanh có bộ lông tuyệt đẹp, một con vật họ hàng của giống trút, và một loại chồn rất lớn, nhô ra trong khi bọn tôi chạy xe trên lối đi vào.
Ông Ed¬ward King đứng ở thềm của và đã trông thấy chúng tôi từ đằng xa và đã đoán ra tôi là ai rồi. Ông có phong cách khả ái, tử tế; người lùn và khỏe mạnh, ông khoảng bốn mươi lăm tuổi, đầu ông tròn vì bị thiêu đốt bởi nắng vùng nhiệt đới nên nổi lên hàng ngàn vết nhăn li ti. Theo kiểu các nhà trồng tỉa, ông mặc một bộ quần áo bằng vải trắng. Với điếu xì gà trên môi và cái mũ rơm lớn hất về phía sau, giá kể ông đứng ở trước một cái nhà nghỉ mát có hàng hiên thì đúng hơn là đứng trước ngôi nhà lớn của người Anh đã có từ thời Georges.
"Mình ơi!" Ông quay người lại và kêu lên. "Người khách của chúng ta đây rồi. Chú rất được hoan nghênh ở Grey¬lands, chú em họ Mar¬shall ạ! Tôi rất hài lòng được biết chú, và tôi coi sự có mặt của chú ở nơi thôn quê nhỏ bé cô quạnh này là một lời chúc tụng chú đã dành cho tôi"
Sự đón tiếp nồng nhiệt của ông làm cho tôi khoan khoái ngay tức thì. Nhưng tất cả sự thân mật đó đã không đủ để bù lại sự lạnh nhạt, tôi có thể nói là sự vô lễ mà bà vợ của ông tỏ ra với tôi. Người to lớn, và gầy ốm, tôi nghĩ rằng bà ta là dân gốc Brasil, dù bà nói tiếng Anh rất giỏi. Thoạt đầu, tôi cho rằng bà có thái độ đó là vì không biết phong tục của chúng tôi. Thật ra và ta không tìm cách che giấu tôilà sự có mặt của tôi ở lâu đài Grey¬lands không làm bà vui thích chút nào. Lời lẽ lúc nào cũng nhã nhặn nhưng bà có một cặp mắt đen có sức biểu lộ đặc biệt, nhìn mắt bà tôi thấy ngay rằng bà hết lòng mong mỏi tôi trở về Luân Đôn càng sớm càng hay.
Tuy nhiên những món nợ của tôi đang quá khẩn cấp và những dự kiến mà tôi xây dựng trên sự hào phóng của ông anh họ giàu sang này lại quá quan trọng, dễ gì cái tính xấu của bà King làm thay đổi được các kế hoạch của tôi. Tôi làm ra vẻ không nhận thấy sự lạnh nhạt của bà vợ và khi nói chuyện với người chồng, tôi đáp lại với sự thân mật không kém sự thân mật của ông. Ông dành mọi thứ để làm cho tôi được thoải mái, dễ chịu. Căn phòng của tôi rất đẹp. Ông bảo tôi cứ nói rõ cho ông biết tất cả những thứ gì có thể cần thêm cho tiện nghi của tôi. Tôi đã toan trả lời rằng một tấm ngân phiếu để trống sẽ thỏa mãn đủ các nguyện vọng của tôi, nhưng chắc chắn sự thật thà như vậy là hơi hấp tấp vì chúng tôi vừa mới quen nhau mà. Bữa ăn tối thật là sang trong. Sau đó chúng tôi cùng ngồi hút thuốc lá Ha¬vane và uống cà phê. Ông nói với tôi là cả thuốc lá và cà phê đều từ các đồn điền của ông mang tới. Đúng thế, tất cả những lời tán tụng của người đánh xe tôi thấy hình như đã được chứng minh; chưa bao giờ tôi gặp được một người hiếu khách hơn.
Tuy vậy lòng hào hiệp và tính khả ái bẩm sinh của ông cũng không ngăn cản được ông có một ý chí và một khí chất rất hung hăng. Tôi đã có một thí dụ ngay buổi sáng ngày hôm sau. Vào lúc ăn điểm tâm, sự ác cảm kỳ quái của bà Ed¬ward King đã đi tới những mức độ gần như nhục mạ. ngay sau khi ông chồng rời khỏi phòng ăn, bà không tự kiềm chế được nữa. Bà nói với tôi:
- Chuyến tàu ban ngày tốt nhất khởi hành vào mười hai giờ mười lăm phút buổi trưa.
- Nhưng tôi không nghĩ rằng tôi đi hôm nay! - tôi trả lời với tất cả sự thành thật.
Sự thành thật có kèm theo một chút thách thức, vì tôi đã nhất quyết không để cho mụ đàn bà này đuổi tôi ra khỏi cửa.
- Ồ, cái đó là do chú quyết định...
Rồi bà quay gót đi trở vào nhà.
Sự nhục mạ thật là hỗn xược và thô bạo quá khiến tôi đứng lặng người. tôi cứ bất động như vậy cho đến khi ông chủ nhà đi tới. Ông đã vui vẻ trở lại nói với tôi.
- Tôi hy vọng là vợ tôi đã xin lỗi chú về những lời nói ngu ngốc của bà ấy?
- Vâng, vâng! Đã nói rồi!
Ông ấy nắm lấy tay tôi và chúng tôi cùng đi bách bộ trên sân cỏ. Ông khẩn khoản.
- Chú đừng để bụng chuyện đó. Tôi sẽ buồn phiền không tả được nếu chú cắt ngắn chuyến ở chơi một giờ đồng hồ thôi. Sự thể là bà vợ thân yêu của tôi có tính hay ghen không thể tưởng tượng được (không có lý do gì để chúng tôi chơi trò ú tim giữa họ hàng với nhau) bà ấy không thích một người nào, bất kể đàn ông hay đàn bà xen lẫn vào giữa hai vợ chồng chúng tôi dù trong một chốc lát. Lý tưởng của bà ấy là một đời sống vĩnh cửu bên nhau trên một hoang đảo. Đó là lý do của một vài phản ứng mà tôi xin thú nhận với chú là gần giống như một sự điên rồ, chú hãy hứa với tôi là chú không nghĩ tới chuyện đó nữa nhé!
- Đồng ý! Tôi sẽ không nghĩ tới chuyện đó nữa.
- Vậy thì hãy hút điếu xì gà này, tôi sẽ cho chú xem vườn thú nhỏ bé của tôi.
Suốt cả buổi sáng được dành cho cuộc thăm thú này; ông cho tôi xem những con chim những con thú và cả những con rắn Mary ông đã mang từ nước ngoài vào. Có những con được thả tự do, nhiều con khác bị nhốt trong chuồng, một vài con được ở trong nhà. Với sự hứng khởi, ông nói với tôi về những thành công và những thất bại của ông, những vụ thú vật sinh đẻ và thú vật bị chết; khi chúng tôi tới gần thì một con chim sặc sỡ cất cánh bay lên hay khi một con vật kỳ lạ chạy ra, nếu ông không reo lên vui mừng như một cậu học trò thì cũng đúng lẽ thôi. Sau chót, ông dẫn tôi vào một hành lang dài chạy suốt một chái nhà và tận cùng ở một cái cửa nặng nề có cánh kéo ra kéo vào được. Bên cánh cửa, một cái cần để quay tay bằng sắt nối liền vào một cái bánh xe và một cái trục quay nhỏ ra khỏi tường, một hàng chấn song kiên cố ngang qua hành lang.
- Tôi sẽ cho chú xem một vật quý hiếm trong bộ sưu tập của tôi, - ông nói với tôi. Hiện nay con nhỏ ở Ros¬ter¬dam đã chết rồi, ở châu Âu chỉ còn một con nữa thôi. Đó là một con mèo Brasil".
- Nó khác với một con mèo khác thế nào?
Ông cười và trả lời tôi.
- Rồi chú sẽ thấy. Chú có muốn đẩy cái cửa ra và nhìn vào bên trong không?
Tôi đồng ý. Tôi trông vào một căn phòng lớn, trơ trụi được lát đá, có những cửa sổ nhỏ có chấn song sắt ở trên bức tường trước mặt. Ở giữa căn phòng này, một con¬vật rất lớn cỡ một con hổ,nhưng kông đen và bóng nhoáng như gỗ mun đang nằm dưới một tia nắng. Đó là một con mèo khổng lồ được chăm sóc rất cẩn thận. Nằm cuôn tròn mình lại, nó tự sưởi ấm một cách bình thản như bất cứ một con mèo nào. Trông nó thật đài các, thật khỏe mạnh, thật đẹp đẽ, thật quỷ quái một cách cao ngạo khiến cho tôi phải dừng lại ở trước cái cửa một lúc lâu để ngắm nghía nó.
- Trông nó có kỳ không? - Ông chủ nhà hỏi tôi với một vẻ hứng khởi.
- Tuyệt diệu! Tôi chưa bao giờ thấy một con vật đẹp hơn.
- Đôi khi người ta gọi nó là con cọp đen, nhưng thật ra nó không phải là một con cọp, từ đầu tới đuôi nó đo được ba thước rưỡi. Bốn năm trước đây nó chỉ là một nắm tròn phủ kín lông đen, để lộ ra đôi con mắt vàng thôi. Người ta đã bán ngay cho tôi sau khi nó được sinh ra ở một vùng hoang vu gần những con suối tai Ri¬one¬gro. Mẹ nó đã bị hạ sát bằng những nhát giáo vì nó đã giết chết khoảng một chục người dân địa phương.
- Vậy chúng là loại thú dữ anh?
- Những con vật khát máu nhất và phản phúc nhất trong các con vật sống trên trái đất! Hãy nói về một con mèo Brasil với một người da đỏ ở vùng cao nguyên và chú sẽ thấy hắn giật nảy người lên... Những con mèo Brasil thích thiẹt người hơn là bất cứ con mồi nào. Con mèo này chưa được nếm máu một sinh vật nào. Nhưng ngày nào nó được nếm thì nó sẽ trở thành một nỗi khủng khiếp. Hiện bây giờ nó không chịu cho một người nào ngoài tôi ra vào trong chuồng của nó. Ngay cả Bald¬win là người coi chuồng cũng không dám đến gần nó. Nhưng tôi, tôi vừa là bố nó, vừa là mẹ nó.
Vừa nói ông vừa mở phăng cái cửa ra, trước sự kinh ngạc lớn lao của tôi và ông bước vào bên trong sau khi đóng sập ngay cửa lại ở phía sau ông. Nghe tiếng ông nói, con vật kếch xù mềm mại đứng lên, ngáp và cọ cái đầu tròn và đen của nó một cách âu yếm vào chủ nó, khi ông vuốt ve nó.
- Tom¬my, bây giờ vào chuồng đi!
Con mèo quái dị bước về một góc của gi¬an phòng và nằm xuống duới một cái lưới sắt. Ed¬ward King đi ra và ông bắt đầu quay cái cần quay tay bằng sắt mà tôi đã nói tới. Lúc đó, hàng song sắt của hành lang bị chuyển động và trượt qua một kẽ hở trong tường để đóng kín mặt trước của lưới sắt. Khi cái chuồng di động này được khép kín rồi, ông mở cửa ra và mời tôi đi vào căn phòng trong đó không khí nặng nề nồng nặc mùi đặc biệt của những loại thú lớn ăn thịt sống.
Ông nói với tôi.
- Đó là cách thức mà chúng tôi làm việc. Chúng tôi để cho nó được sử dụng căn phòng để nó vận động, đi lại; nhưng buổi chiểu thì chúng tôi nhốt nó vào chuồng. Chúng tôi có thể cho nó đi ra bằng cách quay cái cần quay tay ở hành lang hoặc là chúng tôi có thể cũng bằng cách đó nhốt nó lại, như chú vừa thấy đó. Không, không, đừng làm như vậy!...
Tôi vừa cho bàn tay qua các song sắt để vuốt ve cái hông bóng loáng của con vật. Ông ấy giật bàn tay tôi lại phía sau.
- Tôi đoán chắc với chú rằng cần phải đề phòng. Chú đừng tưởng rằng vì tôi gần gũi được với nó mà bất cứ ai cũng có thể tự cho mình cái quyền thân mật với nó. Nó rất khó tính trong sự lựa chon bạn bè, phải không, Tom¬my? À, nó biết là bữa ăn sáng của nó đang tới! Hả, con trai của ta?...
Một bước chân vang lên trong hành lang lát đá; con mèo Brasil đứng vụt dậy cặp mắt nó long lanh, cái lưỡi nó lia đi lia lại trên những cái răng trắng ớn và sắc nhọn, nó bắt đầu đi đi lại lại trong cái chuồng chật hẹp. Một anh coi chuồng đi vào với một đùi thịt đặt trên một cái mâm và quăng đùi thịt qua lớp chấn song cho nó. Con vật đớp lấy miếng thịt đang bay tới rồi mang vào một góc; tại đó nó cặp đùi thịt vào các móng chân và xé vụn từng mảnh, thỉnh thoảng lại ngẩng cái mõm dính đầy máu lên nhìn chúng tôi. Thật là một cảnh tàn bạo nhưng hấp dẫn.
- Chú không còn ngạc nhiên nữa khi thấy tôi yêu nó lắm phải không? - ông anh họ nói với tôi khi chúng tôi rời khỏi căn phòng - Chính tôi đã nuôi nấng nó. Đem nó từ vùng đất ở giữa Nam Mỹ về đây không phải là một chuyện nhỏ! Nhưng cuối cùng thì đây này, nó vẫn khỏe mạnh, yên lành, như tôi đã nói với chú, nó là con vật đẹp nhất ở Âu châu! ở sở thú, người ta thèm chết đi được để mua nó, nhưng thực sự tôi không có can đảm rời xa nó. Thôi, tôi nghĩ là tôi đã làm chú bận tâm khã nhiều về những tính kỳ cục của tôi; tốt hơn hết là ta hãy bắt chước con Tom¬my, đi điểm tâm đã.
Người anh em vùng Nam Mỹ của tôi quá say mê với rang trại và những con vật kỳ dị của ông khiến tôi không nghĩ rằng ông còn có thể quan tâm tới một điều gì khác. Nhưng rồi tôi biết ngaylà mình đã lầm; ông ta tiếp nhận rất nhiều điện tín, điều này có nghĩa rõ ràng là ông co những công việc khác, và đó là những công việc khẩn cấp. Những bức điện tín tới bất cứ vào giờ nào; bao giờ ông cũng là người mở chúng ra và ông giải mã chúng với sự thích thú. Việc làm ăn của ông có phải là trường đua ngựa, hay Sở hối đoái không? Trong mọi tình huống, chúng không có một sự liên quan nào với các khu đồi trọc ở Sus¬sex. Trong thời gi¬an sáu ngày tôi sống ở Grey¬lands không ngày nào mà ông nhận dưới ba hay bốn bức điện tín; thường thường là bảy đến tám bức.
Trong sáu ngày đó, tôi đã hành xử rất khôn khéo, khiến cho các liên hệ của tôi với ông anh họ đã trở nên cực kỳ thân thiết, mỗi buổi tối, hai chúng tôi đều thức rất khuya trong phòng chơi bi¬da, và ông đã kể cho tôi nghe những chuyến mạo hiểm kinh dị nhất của ông ở châu Mỹ: những câu chuyện của ông quá rùng rợn, quá khủng khiếp, mà ông kể lại với một vẻ vô tư quá đỗi khiến cho tôi khó mà tin được rằng người anh hùng trong các câu chuyện đó lại là con người nhỏ bé, má phính đang ngồi bên cạnh tôi. Để đánh đổi lại, tôi cũng nỏia từ trong ký ức vài mẩu gi¬ai thoại về cuộc sống ở Luân Đôn; những gi¬ai thoại này làm ông thích thú đến nỗi ông hứa rằng sẽ tới Luân Đôn thăm tôi và sẽ ở lại nhà tôi ở khu nhà Grosvenor. Ông rất muốn được hội nhập vào cái thế giới của những cư dân của thủ đô; ông còn có thể nhờ vào người hướng dẫn nào thành thạo hơn nữa, tuy nhiên tôi phải đợi tới ngày cuối cùng mới đề cập tới vấn đề chính yếu của tôi. Tôi thành thật kể cho ông rõ những điều phiền phức về tai chánh của tôi và sự suy sụp đang rình rập tôi; sau đó, tôi hỏi ý kiến của ông, trong lòng hy vọng một điều gì cụ thể hơn. Ông lắng nghe tôi nói, miệng luôn phì phèo điếu xì gà.
Rồi ông hỏi tôi:
- Nhưng mà này, chú chính là người thừa kế của ông bác chúng ta, Lord Souther¬ton, phải không?
- Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng không bao giờ ông ấy cho tôi môt xu.
- Tôi có nghe nói về tính keo kiệt của ông ấy. Chú Mar¬shall khốn khổ ơi! Chú gặp cảnh quá khó khăn đó! Nhân nói về chuyện đó, chú có nhận được tin tức mới nào về sức khỏe của Lord Souther¬ton không?
- Từ khi tôi còn nhỏ tý ty, lúc nào ông ấy cũng đau ốm, không nhiều thì ít.
- Đúng thế, sự thừa kế của chú còn có thể chậm trễ lâu hơn nữa. Lạy Chúa, nhưng hoàn cảnh của chú thật kỳ cục!
- Thưa anh, tôi hy vọng là anh đã biết rõ các sự việc và anh có thể vui lòng giúp cho tôi...
- Đừng nói thêm gì nữa, chàng trai thân mến của tôi! - Ông kêu lên với sự nồng nhiệt - Ta sẽ nói về chuyện này tối hôm nay và tôi hứa với chú là tôi sẽ làm tất cả những gì trong khả năng của tôi!
Tôi không thấy có gì phật ý khi thấy những ngày lưu lại đây của tôi sắp kết thúc, vì không có gì khó chịu bằng việc cảm thấy mình kothích hợp với và chủ nhà. Nét mặt vàng nhạt và cặp mắt lạnh như băng của bà King càng ngày càng trở nên đáng ghét đối với tôi. Bà không còn tỏ ra công khai vô lễ nữa; bà quá sợ ông chồng nên không dám có thaid độ hỗn xược. Nhưng bà đẩy tính ghen tuông ngu xuẩn của bà tới chỗ là làm lơ tôi đi; không bao giờ bag nói với tôi một lời; và bà nghĩ mọi cách để làm cho sự lưu ngụ của tôi tại Grey¬lands trở nên cực kỳ buồn tẻ. Nhất là vào ngày cuối cùng, bà tỏ một thái độ quá trắng trợn khiến tôi tính bỏ đi ngay tức thì, nếu tôi không đặt nhiều hi vọng vào cuộc hội kiến mà tôi cần phải có trong buổi tối.
Cuộc hội kiến này diễn ra rất muộn. Ông anh họ tôi đã tiếp nhận trong lúc ban ngày nhiều bức điện tín hơn là thường lệ và sau bữa ăn ông đã tự nhốt mình trong văn phòng; ông chỉ bước ra khi nọi người trong nhà đã đi ngủ. Tôi nghe thấy ông đi vòng quanh nhà để khóa các cửa ngõ, theo như thói quen của ông. Sau cùng, mình choàng một cái áo ngủ và chân đi đôi giày đỏ hở gót, ông tới gặp tôi trong phòng chơi bi¬da. Ông ngồi phịch xuống cái ghế bành bà tự tay rót một cốc Whisky So¬da; tôi không thể làm gì khác hơn là nhận thấy lượng Whisky nhiều hơn là nước so¬da.
Ông thở dài:
- Trời! Một đêm thật dễ sợ!...
Thật vậy, gió gào thét, rên rỉ khắp chung quanh căn nhà; những cửa sổ kêu răng rắc và cọt kẹt làm như chúng sắp bị phá vỡ tung. Ánh sáng của những ngọn đèn và mùi thơm xì gà của chúng tôi đã tạo ra một khung cảnh thoải mái hơn.
- ... Bây giờ, chàng trai của tôi ơi, - ông chủ nhà nói tiếp - cả ngôi nhà và bầu trời đêm đều thuộc về chúng ta. Chú có muốn chỉ cho tôi thấy một cách chính xác tình trạng công việc của chú không? Tôi sẽ xem làm cách nào để chỉnh đốn chúng lại. Cho tôi biết mọi chi tiết đi.
Sau khi được khích lệ nhu vậy, tôi lao mình vào một bài thuyết trình đầy đủ trong đó có tên tuổi tất cả những người bán hàng và chủ nợ của tôi, từ ông chủ nhà cho tới anh hầu phòng. Tôi lập cho ông một bản kết toán mà tôi tự hào là một kiểu mẫu trong loại này. Nhưng tôi hơi bực bội khi thấy rằng người bạn của tôi có một cái nhìn trống rỗng của một kẻ mà sự chú tâm đang để ở mãi đâu đâu. Mỗi lần khi ông ngắt lời tôi chỉ là để đưa ra một nhận xét hời hợt chẳng ăn nhằm vào đâu; tôi tin chắc là ông chẳng theo dõi những lời giải thích của tôi một chút nào. Thỉnh thoảng ông ngồi ngay ngắn người lại, hình như tự làm cho tỉnh táo lại, ông bảo tôi nhắc lại một số câu hay bổ sung câu đó bằng một sự chính xác phụ thêm, rồi lại đắm chìm trong các suy tư riêng rẽ của ông. Cuối cùng, ông đứng lên và quăng điếu xì gà vào ống khói. Ông nói với tôi.
- Tôi xin thú thật với chú một vài điều, chàng trai của tôi ạ. Từ xưa không bao giờ tôi giỏi về tính nhẩm và tôi rất tiếc điều đó. Chú phải viết tất cả những việc đó lên giấy và làm con tính cộng của chú bằng cách viết ra. Tôi sẽ hiểu các con số khi tôi đọc trên giấy trắng mực đen...
Lời đề nghị không có gì là quá đáng cả. Tôi hứa là tôi sẽ thực hiện.
- Và bây giờ là lúc chúng ta đi ngủ. Ồ, đã một giờ rồi!
Tiếng chuông đồng hồ ở phòng ngoài đã chế ngự được sự ồn ào của bão táp trong giây lát.
- Tôi phải đi xem con mèo của tôi trước khi lên lầu đi ngủ. Một cơn gió lớn cũng làm nó bực bội. Chú có muốn đi với tôi không?
- Nhất định rồi.
- Vậy thì hãy đi nhẹ nhàng và đừng nói chuyện vì mọi người đang ngủ.
Chúng tôi lặng lẽ đi qua phòng ngoài, rồi qua cái cửa mở và hành lang lát đá ở cuối chái nhà. Tất cả đều tối tăm, nhưng có một ngọn đèn lồng ở chuồng ngựa được treo vào một cái móc. Ông anh họ tôi cầm lấy và đốt lên. Những chấn song sắt không nhìn thấy được trong hành lang; vậy là con vật đang nằm trong chuồng.
Ông anh họ tôi mở cửa và nói với tôi.
- Vào đi!
Một tiếng gầm gừ dữ dội báo cho chúng tôi biết con vật đang rất giận dữ vị thời tiết xấu. Dưới ánh sáng chập chờn của cái đèn lồng, chúng tôi nhìn thấy nó. Cái khối đen kếch xù đang co rút lại trong một góc ổ của nó, chiếu ra một cái bóng lùn tịt trên bức tường quét vôi trắng; đuôi nó đập xuống nệm rơm một cách tức tối.
- Con Tom¬my khốn khổ không được hài lòng lắm. Ed¬ward King nói và giơ cao đèn lồng lên để nhìn nó. - Trông nó giống như một con hắc quỷ lắm phải không? Tôi sẽ cho nó ăn tối để cho nó dịu đi. Chú cầm hộ tôi cái đèn lồng một lát được không?
Tôi cầm lấy cái đèn này từ tay ông đi tới chỗ cái cửa.
- Tủ thức ăn của nó để ở bên cạnh. Chờ tôi một chút có được không?
Ông đi ra và cánh của khép lại sau lưng ông với một tiếng lanh canh của kim loại. tôi rùng minh. Một nỗi kinh hoàng mơ hồ đột nhiên tràn ngập lòng tôi. Ý nghĩ hoang mang về một sự phản trắc đầy tội lỗi làm máu tôi lạnh buốt như băng. Tôi chồm lên cánh của nhưng ở phía trong không có chốt cài.
Tôi kêu lên.
- Này! Cho tôi ra đi!
Từ ngoài hành lang ông anh họ tôi đáp lại.
- Đừng la om sòm lên! Chú có cái đèn lồng mà, phải không?
- Vâng, nhưng tôi chẳng có thích thú nào khi bị nhốt một mình như thế này.
- Thế nào? Chú không thích bị nhốt một mình à?
Tôi nghe thấy tiếng cười đùa cợt nhả của ông ấy.
- ... Chú sẽ không phải ông đó một mình lâu đâu, tôi hứa với chú điều này!
- Này, ông anh, hãy để tôi ra đi! - tôi giận dữ nhắc lại - Tôi đoan chắc với anh rằng tôi không phải là hạng người dễ bỏ qua những lối đùa cợt như thế này.
- Những sự đùa cợt thật đúng lf danh từ thích hợp! - Ông đáp lại với một tiếng cười nhỏ nữa.
Và bỗng nhiên, giữa sự ồn ào của bão tố tôi nghe thấy tiếng kèn kẹt và tiếng rè rè của cái cần quay tay, và tiếng các chấn song sắt bắt đầu trượt vào kẽ hở. Trời ơi, ông ấy đag thả con mèo Brasil ra!
Dưới ánh sáng của cái đèn lồng, tôi nhìn thấy các chấn song sắt từ từ di chuyển. Đã có một khoảng trống rộng ba mươi cen¬timet ngăn cách chúng với bức tường ở phía bên kia. Hét lên một tiếng lớn, tôi rúc vào cái song sắt cuối cùng và tôi kéo nó với sự điên cuồng của một kẻ mất trí. (Đúng là tôi đã trở nên điên dại vì nóng giận và kinh hoàng). Trong khoảng chừng hai phút, tôi giữ cái song sắt đứng yên. Tôi biết rằng ông anh họ tôi đang dùng hết sức lực đè vào cái cần quay tay, và cuối cùng thì sức mạnh đòn bẩy sẽ đánh bại sự chống cự của tôi. Tôi chỉ lùi từng cen¬timet một; bàn chân tôi trượt đi trên nền lát đá, nhưng tôi vấn không ngừng nài nỉ tên quái vật vô nhân đạo hãy tha cho tôi khỏi một cái chết tàn bạo như thế này. Tôi cầu khẩn ông ta với danh nghĩa họ hàng của chúng tôi. Tôi kêu gọi lòng hiếu khách của ông. Tôi nài nỉ ông nói cho tôi biết là tôi đã bao giờ làm điều gì tệ bạc với ông chưa! Nhưng câu trả lời duy nhất của ông là những chấn động mà ông đặt vào cái cần quay tay; trong khi đó, cứ mỗi lần chấn động thì lại có một song sắt nữa biến mất vào khe hở. Cứ như thế tôi tự để cho mình bị kéo lê đi dọc theo cái chuồng, cho tới lúc cuối cùng, hai cổ tay đau nhừ, những ngón tay đẫm máu, tôi đành phải bỏ cuộc trong trận đấu không cân bằng này. Khi tôi thả tay ra, bức tường của các song sắt hoàn toàn mất dạng. Một lúc sau đó, tôi nghe tiếng đôi giày đỏ hở gót đi xa dần trong hành lang; cánh cửa ở cuối hàng lang đóng lại một cách nhẹ nhàng. Bây giờ tất cả đều yên lặng.
Trong lúc này, con vật không động đậy, nó nằm trên nệm rơm; đuôi nó đã thôi không vùng vẫy nữa. Cái cảnh tượng một người bị dính chặt vào các song sắt và bị kéo lê trước mặt có vẻ đã làm cho nó khiếp sợ. Tôi trông thấy đôi mắt lớn của nó trừng trừng nhìn tôi. Tôi đã để cái đèn lồng xuống đất khi tôi muốn bám chặt vào các song sắt vì nó vẫn còn đang cháy, tôi muốn cầm lấy nó, với ý nghĩ là ánh sáng có thể che chở cho tôi thì con vật gầm lên một tiếng khủng khiếp. Tôi dừng lại và đứng bất động, với sự kinh hoàng. Con mèo (khi chấp nhận rằng ta có thể gọi một con vật khủng khiếp như vậy bằng cái tên khả ái) ở cách xa tôi không quá ba mét. Cặp mắt nó sáng như hai cục lan tinh tròn trong đêm tối. Trông chúng như có phép thôi miên. Tôi không thể rời mắt khỏi chúng. Trong những giây phút căng thẳng thế này, tạo hóa đã đùa với chúng ta những trò kỳ lạ; các tia sáng này cứ tăng lên và giảm đị theo một nhịp độ đều đặn. Lúc thì chúng giống như hai điểm bé xíu với một ánh sáng cực mạnh, như những tia điện lóe lên trong mộtcăn phòng tối mịt, lúc thì chúng tỏa rộng ra và lớn lên cho tới lúc tất cả cái góc phòng mà con vật ngồi đều tràn đấy cái ánh sáng ma quỷ ấy. Rồi chúng tắt đi một cách đột ngột.
Con vật đã nhắm mắt lại. Tôi không biết có một sự thật nào không trong cái ý nghĩ cổ xưa về uy lực của cái nhìn của con người, do đó con mèo Brasil có thể đã ngủ. Có vẻ như thay vì biểu lộ một ý định hung hăng, thì nó lại tỳ cái đầu đen và óng ánh của nó lên hai bàn chân trước kếch xù và có vẻ như muốn ngủ. Tôi không dám nhúc nhích, sợ rằng sẽ làm thay đổi thái độ của nó, nhưng ít ra tôi cũng có thể suy nghĩ vì cặp mắt khủng khiếp của nó không nhìn tôi nữa. Thế là tôi đã bị nhốt một đêm với con dã thú này. Bản năng của tôi kết hợp với những lời nói của tên đểu cáng đã lừa tôi vào bẫy cảnh báo rằng tôi đang phải đương đầu với một con vật cũng tàn bạo như chủ của nó. Làm thế nào để tránh khỏi sự nguy hiểm cho tới sáng? Về phía cái cửa, không có một hy vọng nào; còn về các cửa sổ, chúng rất hẹp và có song sắt. Không ở chỗ nào có một nơi lánh nạn, một chỗ trú ẩn trong căn phòng trần trụi này. Gọi cầu cứu cũng là vô bổ; tôi biết rằng cái hang dã thú này là một căn phòng phụ thuộc và cái hành lang nối liền nó với chái nhà của ngôi nhà dài tới ba mươi hay bốn mươi mét. Ngoài ra, với giông bão đang hoành hành bên ngoài, những tiếng kêu của tôi sẽ không ai nghe thấy. Tôi chỉ còn có thể trông cậy vào lòng can đảm và sự khôn khéo của tôi mà thôi.
Hỡi ôi, một lớp sóng tuyệt vọng mới đã nhận chìm tôi! Trong mười phút nữa, cái đèn lồng sẽ tắt ngúm. Tôi chỉ còn có mười phút để hành động. Tôi tự biết rằng tôi không còn khả năng tự vệ nếu tôi ở trong đêm tối mịt mù cùng với con dã thú này. Nghĩ tới chuyện này, tôi như tê liệt toàn thân. Cặp mắt hoảng sợ của tôi nhìn một vòng quan¬hcăn phòng nhốt tử tội này; chúng dừng lại ở một nơi duy nhất tuy không hứa hẹn cho tôi một sự an toàn trọn vẹn nhưng ở đó tôi sẽ đỡ bị lộ ra hơn là ở trên sàn nhà trơ trụi.
Cái chuồng có một cái mái, và cũng có một cái mái ngoài; cái mái này vẫn nằm ngang khi cái mái ngoài được kéo tuột vào trong kẽ hở. Khung sườn của nó được làm bằng những thanh sắt đặt cách nhau độ vài cen¬timet và được phủ bằng một lớp lưới dây thép, nó được dựng ở mỗi bên một cái trụ rất lớn. Trông nó giống như một cái lọng lớn được căng ra, bên trên cái bóng mờ nằm trong góc phòng. Giữa cái dàn bằng sắt này và trần nhà là khoảng bảy mươi hay tám mươi cen¬timet. Chỉ cần tôi có thể lên được đó và ngồi gọn vào giữa các song sắt và trần nhà thì tôi sẽ chỉ còn bị nguy hiểm ở một phía thôi, sự an toàn của tôi được bảo đảm ở phía dưới, ở đằng sau, ở đầu và hai chân. Tôi chỉ có thể bị tấn công ở mặt bị bỏ ngỏ phía trước thôi. Ở phía này thật tình tôi sẽ không lợi dụng được một sự che chở nào. Ít ra tôi cũng không phải đứng trên lối đi của con vật khi nó đi vòng trong hang ổ của nó. Muốn vồ được tôi, nó phải thay đổi các thói quen của nó. Nhưng nếu tôi muốn hành động thì phải làm ngay bây giờ, nếu không chẳng bao giờ làm được nữa, vì một khi cái đèn lồng đã tắt, tôi sẽ không còn khả năng để làm gì nữa. Với một sự nôn nòng hồi hộp ứ lên tận cổ họng, tôi tung mình lên. Tôi bám lấy cái mép sắt của mái chuồng và thở hổn hển, tôi cố lấy lại sức để đu người lên phía trên. Tôi nằm sấp xuống một cách nhẹ nhàng để nhận thấy rằng cái nhìn của tôi chiếu thẳng vào cặp mắt khủng khiếp của con mèo. Nó phì vào mặt tôi hơi thở hôi hám của nó, tôi có cảm tưởng là mình đang nằm bên trên một cái nồi nấu những thứ ô uế ghê tởm.
Tuy nhiên, nó có vẻ kinh ngạc hơn là tức giận. Nó duỗi tất cả bề dài của cái lưng đen xì của nó ra, đứng dậy, vươn vai và ngáp dài; sau đó nó đứng thẳng ên trên hai chân sau, chống một chân trước vào tường và giơ chân kia lên, lấy móng quơ vào những sợi dây thép của mạng lưới mắt cáo mà tôi nằm trên. Một cái móng trắng nhọn hoắt xé rách quần tôi (tôi vẫn còn mặc bộ quần áo dạ hội) và để lại một vết xước dài trên đầu gối tôi. Nói đúng ra thì đó không phải là một sự tấn công, nhưng chỉ là một sự thăm dò. Quả tình là tôi đã để thốt ra một tiếng kêu đau nhỏ và con thú lại ngã ra phía sau, đứng trên bốn chân. Nó bước một cách nhẹ nhàng bắt đầu đi vòng quanh căn phòng, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu lên nhìn về phía tôi. Tôi cố sức lùi vào để áp lưng vào bức tường. Tôi càng ngồi xa cái mép bao nhiêu thì nó càng khó tấn công tôi bấy nhiêu.
Từ lúc bắt đầu cử động, nó có vẻ bực bội hơn. Nó bước nhanh hơn và lặng lẽ vòng quanh căn phòng, đi qua, đi lại dưới chỗ ẩn náu của tôi. Thật là tuyệt diệu, khi được thấy một khối thịt đồ sộ như vậy đi lại như một cái bóng mag không co một tiếng động nào khác ngoài tiếng đập trầm, nhẹ nhàng của những bàn chân bọc nhung của nó! Ánh lửa của cái đèn lồng đã gần như không còn nhìn thấy được nữa; tôi khó mà nhìn rõ con vật. Và rồi sau một tia sáng cuối cùng, ngọn đèn tắt ngúm. Còn lại một mình với con thú dữ trong cảnh tối tăm.
Khi người ta biết rõ là mình đã làm hết sực lực và ngay¬cả đã làm những điều không thể làm được thì người ta sẽ đương đầu với sự hiểm nguy một cách tốt đẹp hơn: ta chỉ còn có việc chờ đợi một cách thanh thản tiếp diễn của các sự việc. Trong tình huống hiện thời, tôi đã chiếm cứ được một chỗ duy nhất để đảm bảo cho tôi một sự an toàn tương đối. Do đó, tôi nằm duỗi thẳng người ra và tự để cho mình được vỗ về bởi cái hi vọng là con vật có thể quên đi sự có mặt của tôi, nếu tôi không làm điều gì để nhắc nhở nó việc đó. Tôi tính nhẩm là chắc đã tới hai giờ sáng. Tới lúc bốn giờ, trời sẽ sáng. Phải chò đợi hai giờ đồng hồ nữa!
Ở bên ngoài, giông bão vẫn còn dữ dội, và mưa đập mạnh vào các cửa sổ nhỏ. Ở bên trong thì không khí hôi hám. Tôi không thể trông hay nghe thấy con mèo. Tôi có không nghĩ tới nó nữa. Chỉ có một điều có thể làm tôi xao lãng tình thế khủng khiếp của tôi lúc này, đó là sự phản phúc của người anh họ tôi, sự đạo đức giả không gì so sánh được của ông ta, sự hận thù quái ác của ông ta đối với tôi. Dưới cái mặt nạ phúng phính, vui vẻ đã ẩn núp linh hồn của một kẻ sát nhân thời trung cổ. Nghĩ lại chuyện đó, tôi đã nhìn thấy rõ ràng hơn cách thức ông ta chuẩn bị cho kế hoạch của mình như thế nào. Bề ngoài thì rõ ràng là ông ta đã lên lầu đi ngủ cùng một lúc với mọi người khác, chắc chắn là ông ta sẽ có những người làm chứng để xác nhận việc này, rồi ông ta lẻn xuống nhà, dẫn dụ tôi vào cái hang thú này và bỏ mặc tôi trong đó. Câu chuyện ông ta bịa ra cũng sẽ đơn giản thôi. Ông ta sẽ nói rằng ông ta để tôi ngồ lại trong phòng chơi bi¬da hút nốt điếu xì gà, rằng tôi đã tự ý đi xem con mèo một lần chót, rằng tôi đã đi vào trong phòng mà không nhận thấy cái chuồng đã mở ra, và rằng tôi đã bị ăn thịt. Làm thế nào mà một vụ án như thế lại có thể đổ lỗi cho ông ta được? Có thể là người ta sẽ nghi ngờ ông ta; nhưng lấy bằng chứng nào để buộc tội ông ta? Không có một bằng chứng nào cả.
Hai giờ đó mới chậm chạp làm sao. Có một lần tôi nghe thấy một tiếng chà xát; tôi độ chừng là con vật đang liếm lông của nó. Có nhiều lần, cặp mắt xanh lè của nó quay về phía tôi, nhưng không bao giờ nhìn chăm chú vào tôi. Tôi bắt đầu hy vọng là thật sự nó đã quên tôi, hoặc nó muốn lơ tôi đi. Cuối cùng, ánh sáng đầu tiên của bình minh đã lọt qua cửa sổ. Thoạt đầu tôi nhìn thấy hai ông vuông màu xám trên bức tường đen rồi màu xám trở thành màu trắng; lúc đó tôi lại nhìn thấy rõ ràng người bạn cùng phòng khủng khiếp của tôi. Nhưng than ôi, chính nó cũng có thể nhìn thấy chỗ tôi nằm!
Ngay tức khắc, tôi đoán ra rằng tính nết nó còn hung hăng hơn nhiều, còn nguy hiểm hơn nhiều. Cái lạnh buổi ban mai làm cho nó cáu kỉnh, và chắc là nó đã đói bụng. Nó gầm gừ không ngừng và đi qua đi lại ở phía căn phòng đối diện với tôi và là chỗ cách xa nơi ẩn núp của tôi nhất. Râu nó dựng đứng lên, đuôi ve vẩy một cách giận dữ, khi nó xoay bước ở các góc phòng, cặp mắt dữ tợn của nó ngước lên về phía tôi. Tôi nhìn trong mắt nó thấy rõ ràng một sự đe dọa khủng khiếp nhất; tôi biết là nó muốn giết tôi. Tuy nhiên, ngay cả vào lúc đó tôi cũng không thể ngăn cản mình khỏi cảm phục dáng bộ uyển chuyển của con vật quỷ quái này, những bước đi dài và mềm mại của nó, màu lông óng ảnh ở hai bên hông nó, sự động đậy của cái lưỡi đỏ lắt lẻo dưới cái mõm đen xì. Nó gầm gừ mỗi lúc một lớn hơn. Hết phút này qua phút khác, tôi chờ đợi sự tấn công của nó.
Thật quá buồn thảm khi phải chết như thế này! Tôi thấy lạnh, tôi run lập cập trong bộ quần áo dạ hội mặc lúc chiều tối, tôi đau đớn một cách tuyệt vọng trên cái lưới sắt cực hình của tôi. Tôi cố sức nâng cao tâm hồn tôi lên trên cái số phận đang chờ đợi tôi, nhưng đồng thời với sự tỉnh táo vốn là đức tính đặc biệt của một người đã sẵn sàng chập nhận nọi chuyện. Tôi đảo mắt tìm xem liệu có vật gì có thể giúp cho tôi thoát khỏi con vật. Lúc đó tôi nhận ra rằng nếu cái khung sườn các song sắt làm thành mái trước của cái chuồng quay trở lại chỗ cũ như trướ¬clúc gã anh họ tôi chuyển động cái cần quay tay, tôi sẽ có thể tự nhốt mình vào trong cái chuồng và kiếm được chỗ ẩn náu sau hàng song sắt. Nhưng làm cách nào để kéo các song sắt mà không gây ra sự chú ý của con vật? Và ngay cả làm sao tôi có thể di chuyển các song sắt mà không có sự giúp đỡ của cái cần quay tay ở bên ngoài? Một cách rất thong thả tôi chìa ra một bàn tay và tôi đặt nó lên cái song sắt cuối cùng chưa tụt vào trong tường. Tôi thấy rất kinh ngạc khi nhận ra rằng cái khung chấn song sắt đã dễ dàng tuân theo sức kéo của tôi. Tất nhiên là có sự bất tiện nếu kéo nó ra vì tôi đang bám vào nó. Tuy nhiên tôi cứ kéo từng nấc nhỏ, từ trong bức tường đã chồi ra mười cen¬timet của mái trước của cái chuồng. Chắc chúng đã được gắn trên các bánh xe nhỏ. Tôi kéo nữa. Và bất thần con mèo chồm lên.
Cái nhảy chồm này quá nhanh, quá đột ngột đến nỗi thực sự tôi không nhìn thấy. Tôi chỉ nghe thấy một tiếng gầm man rợ và ngay sau đó những con mắt màu vàng lóe sáng, cái đầu đen với cái lưỡi đỏ hoét và những cái răng trắng nhởn của nó đã ở sát tầm bàn tay của tôi. Sự va chạm làm rung động tấm lưới sắt mà tôi đang nằm ở trên; tôi tưởng rằng nó sẽ sụm xuống. Bám lủng lẳng ở ngoài mép bằng hai chân trước, con mèo bắt đầu đu đưa thân mình; mõm và các móng vuốt của nó gần chạm tới người tôi; hai chân sau của nó quắp lấy lưới mắt cáo để cố tìm một điểm tựa. Hơi thở của nó làm tôi muốn nôn ọe. Nhưng nó đã tính lầm bước nhảy và không thể giữ cho thân mình cân bằng được. Nó nhăn nhó điên cuồng cắn vào những song sắt, đu đưa về phía sau trước khi rơi xuống sàn nhà một cách nặng nề. Nó vừa gầm gừ vừa quay lại ngay tức khắc và lấy sức để chồm lên lần thứ nhì. Tôi biết rằng số phận tôi sẽ được định đoạt trong những giây sắp tới. kinh nghiệm lần đầu đã dạy khôn cho con vật. Nó sẽ không sai lầm lần thứ hai, khi cần tôi phải hành động nhanh chóng và liều lĩnh, nếu tôi muốn có cơ hội để sống còn. Tôi đã có một ý nghĩ: tôi cởi áo vét của tôi ra và tôi quăng nó lên đầu con vật. Cùng lúc đó tôi để mình rơi xuống qua mép mái chuồng, tay nắm chặt lấy cái khung chấn song sắt của mái hiên và dùng hết sức kéo vào phía bên trong.
Cái khung song sắt trượt đi một cách dễ dàng hơn là tôi đã nghĩ. Tôi đi ngang qua tất cả chiều rồng của căn phòng kéo cái khung song sắt đằng sau tôi. Nhưng có sự nhầm lẫn chết người nữa, tôi lại đang đứng bên ngoài của song sắt! Nếu tôi đứng ở bên trong thì tôi sẽ thoát nạn không hề hấn gì. Vậy mà tôi lại đang đứng bên ngoài của song sắt. Vậy là tôi phải dừng lại một lát để lách qua khe hở mà tôi còn để ngỏ giữa bức tường và song sắt. Khoảng khắc này cũng đủ để làm cho con vật vuột ra khỏi cái áo vét mà tôi đã chùm lên đầu nó và để cho nó chồm lên. Tôi len qua khe hở và tôi đẩy các song sắt nhưng trước khi tôi có thể đẩy hết các song sắt và tới bức tường bên kia thì con mèo Brasil đã tấn công vào một chân tôi. Một cú vồ của cái chân khổng lồ của nó đã xé rách một cách tàn bạo bắp chân của tôi. Người be bét máu, kiệt sức vì xúc động, tôi ngã vật xuống cái đệm rơm hôi hám; một dãy song sắt đầy thiện cảm đã ngăn cách tôi khỏi con dã thú, trong khi nó điên cuồng tới tấp nhào vào các song sắt một cách uổng công.
Quá đau đớn không còn động đậy được nữa, quá yếu ớt không còn cảm thấy sợ hãi nữa, tôi chì còn có thể nằm dài ra, có nhiều phần chết hơn là phần sống, và dòm chừng kẻ thù. Nó lấy cái ngực lớn den xì đè vào các song sắt và cố tìm cách móc tôi ra bằng những bàn chân cong lại của nó, như cách những con mèo nhỏ thường làm trước một cái bẫy chuột! Nó quào vào quần áo của tôi, nhưng nó không thể chạm tới người tôi. Tôi có nghe tới hậu quả kỳ cục của sự tê cứng sinh ra bởi các vết thương do các thú dữ lớn gây nen; tôi sẽ kiểm chứng thuyết này; thật vậy tôi dần dần mất hết mọi giác quan của con người, và tôi theo dõi các ý định của con mèo như thể tôi không phải là con mồi, nó đang rình rập. Rồi thì đầu óc tôi hôn mê dần dần trong những giấc mộng hỗn độn ở đó luôn hiện ra cái đầu đen xì và cái lưỡi đỏ loét của nó. Cuối cùng, tôi chìm vào cõi nát bàn của sự hôn mê, sự thanh thản thánh thiện mà tạo hóa dành cho những kẻ bị đặt vào một thử thách quá phũ phàng.
Sau đó, ôn lại trong đầu trình tự các diễn biến, tôi đi tới kết luận là tôi đã phải ngất đi trong hai giờ đồng hồ. Điều làm cho tôi ra khỏi cơn hôn mê là tiếng kim loại lanh canh của ổ khóa mà từ đó bắt đầu cuộc mạo hiểm của tôi. Trước khi tôi tỉnh lại hẳn hoi để có một cảm nhận rõ ràng về các sự vật, tôi nhìn thấy bộ mặt tròn trịa và phúc hậu của ông anh họ tôi, ông ta đang nhìn qua cái cửa mở ngỏ. Hẳn là cảnh tượng trước mắt đã làm ông ta kinh ngạc. Con mèo nằm dài dưới đất, còn tôi thì ở trong chuồng, đang nằm ngửa, mặc sơ mi trần, quần áo rách tả tơi, người đầm đìa máu me. Tôi còn nhìn thấy vẻ kinh hoàng của ông ta vì ông ta được ánh nắng soi sáng rất rõ. Ông ta nhìn về phía tôi, nhìn nhiều lần. Rồi ông ta đóng cửa ở phía sau lại tiến tới cái chuồng để xem tôi đã chết hẳn chưa.
Tôi không thể nói chính xác được những việc đã xảy ra. Tôi không ở một trường hợp để dùng một nhân chứng. Tôi chỉ xác nhận được rằng tôi biết là ông ta quay lưng về phía tôi để đối diện với con vật.
Rồi ông ta kêu to:
- Tom¬my ngoan ngoãn của ta! Hỡi Tom¬my già dũng cảm!...
Ông ta bước giật lùi tới gần cái chuồng và quát lớn:
- Bỏ chân xuống, con vật ngu ngốc! Nằm xuống! Mày không nhận ra chủ của mày nữa à!
Và lúc đó, trong tâm trí mơ hồ của tôi, một ký ức bừng lên. Ông ta có nói với tôi rằng mùi máu tươi sẽ biến con mèo này thành một con ác quỷ, máu tôi đã chảy và ông ta sẽ phải trả giá cho máu của tôi.
Ông ta hét lên.
- ... Cút đi! Cút đi, đồ ác quỷ! Bald¬win! Bald¬win! Ối, trời ơi.
Tôi nghe thấy tiếng ông ta ngã, ông ta đứng dậy rồi lại ngã nữa. Tôi cũng nghe hình như có tiếng vải bị xé rách. Tiếng la hét của ông ta yếu đi, nghẹn lại rồi tắt lịm trong tiếng gầm thét hung dữ của con mèo. Tôi nghĩ là ông ta đã chết. Nhưng tôi trông thấy như trong một cơn ác mộng một hình thù con người chẳng còn hình dạng, tơi tả máu chảy đầm đìa, chảy một cách điên dại khắp quanh gi¬an phòng. Đó là hình ảnh cuối cùng mà tôi nhận được trước khi tôi lại bị ngất đi.
Tôi phải mất nhiều tháng trời mới bình phục được. Thực ra tôi không thể nói là tôi đã bình phục vì tôi sẽ phải chống gậy để đi cho tới hết đời, để kỷ niệm cái đêm mà tôi sống với con mèo Brasil đó. Bald¬win anh coi chuồng thú và những người làm khác không thể giải thích được việc đã xảy ra, khi họ bị lôi cuốn bởi những tiếng kêu thảm khốc của chủ nhân họ. Họ đã thấy tôi ở phía sau các song sắt trong khi những mảnh còn lại của người anh họ tôi (chỉ mãi sau đó họ mới phát hiện ra rằng đólà những mảnh còn lại của ông ta) nằm vương vãi dưới móng vuốt của con dã thú mà ông ta đã nuôi dưỡng. Họ dồn con mèo vào một góc bằng những thanh sắt nung đỏ đến trắng toát lên rồi họ đánh ngã nó qua cái ô nhỏ trên cánh cửa lớn; chỉ tới lúc sau đó họ mới có thể mang tôi ra khỏi cái chuồng. Tôi được khiêng vào phòng của tôi, và ở đó, dưới mái nhà của kẻ đã quyết tâm sát hại tôi, tôi đã trải qua nhiều tuần giữa cái sống và cái chết. Được săn sóc bởi một y sĩ ở Clip¬ton và một nữ điều dưỡng ở Luân Đôn, sau một tháng tôi đã có thể được đưa về lâu đài Grosvenor.
Từ cơn bệnh này, tôi giữ được một hình ảnh có lẽ nó cũng góp phần nào vào cơn mê sảng, trong đó đầu óc tôi đang giãy giụa. Một buổi chiều, trong khi cô nữ điều dưỡng vắng mặt, cửa phòng tôi mở ra, một người đàn bà cao lớn mặc tang phục lặng lẽ bước vào chỗ tôi. Khi bà ta cúi bộ mặt vàng khè trên giường tôi, tôi nhận ra đó là người đàn bà Brasil mà ông anh họ tôi đã cưới làm vợ. Bà nhìn tôi ới một vẻ mặt rất khả ái.
Bà hỏi tôi.
- Chú đã tỉnh lại hẳn chưa?
Tôi trả lời bằng một cái gật đầu nhẹ vì tôi còn rất yếu
- ... Này, tôi chỉ muốn làm cho chú nhìn nhận rằng những việc xảy ra cho chú là lỗi của chú. Tôi đã chẳng làm tất cả những gì tôi có thể làm cho chú đấy ư? Ngay từ lúc đầu tôi đã cố sức làm cho chú bỏ đi. Bằng mọi cách kể cả sự đánh liều phản bội chồng của tôi, tôi đã hết sức cứu chú. Tôi biết là ông ta có một lý do mạnh mẽ để mời chú tới Grey¬lands. Tôi biết ông ta sẽ không bao giờ để cho chú trở về. Không ai biết ông ta hơn tôi, tôi là người đã đau khổ rất nhiều vì ông ta, tôi đã không dám nói chuyện ấy với chú. Ông ta đã toan giết chết tôi. Nhưng tôi không thể tự trách mình một điều gì. Tôi đã coi chú là ngu ngốc, mà quả thật chú đã xử sự như một thằng ngốc!
Nói tới đó, người đàn bà kỳ quái này đi ra khỏi phòng tôi. Tôi không bao giờ còn gặp lại bà nữa. Với số tiền mà bà lấy được từ tài sản của ông chồng, bà trở lại cố hương; sau đó tôi được tin là bà đã vào nhà tu ở Per¬nam¬bone.
Sau khi tôi trở về Luân Đôn được ít lâu, các bác sĩ cho phép tôi được tiếp tục các công việc thường ngày. Sự cho phép đã không làm cho tôi thích thú chút nào, vì tôi sợ rằng sau đó sẽ là một đám chủ nợ của tôi. Nhưng người khách đầu tiên mà tôi tiếp lại là Sum¬mers, viên quản lý văn khế của tôi.
Ông ta mở đầu câu chuyện.
- Tôi rất sung sướng nhận thấy ngài đã khỏe mạnh rất nhiều! Tôi đã chờ đợi rất lâu trước khi trình lên ngài những lời chúc tụng của tôi.
- Ông muốn nói gì thể, ông Sum¬mers? Bây giờ không phải là lúc nói đùa, ông tin tôi chứ?
- Tôi muốn nói một cách chính xác điều mà tôi đã nói. Từ sáu tuần lễ nay, ngài đã là Lord Souther¬ton; nhưng chúng tôi sợ rằng tin này sẽ làm trở ngại cho sự bình phục của ngài.
Lord Souther¬ton! Một trong những nhà quý tộc giàu nhất nước Anh! Tôi không thể tin được tai mình về chuyện đó. Rồi thì bỗng nhiên tôi nghĩ tới khoảng thời gi¬an đã trôi qua từ ngày ông ấy qua đời.
- Thế là Lord Souther¬ton đã chết gần với thời gi¬an tôi gặp nạn à?
- Ông ấy chết cùng ngày hôm đó...
Sum¬mers chằm chằm nhìn tôi. Là người rất sắc sảo, chắc chắn ông ấy đã đoán ra tính chất thật sự của cái "tai nạn" của tôi. Ông ấy ngừng lại một lát, hình như ông ấy đợi chờ một sự thổ lộ của tôi, nhưng tôi không thấy được lợi lộc gì để làm rùm beng một vụ tai tiếng trong gia đình.
- ... Vâng, thật là một sự trùng hợp kỳ lạ! - ông ấy nói tiếp với cái nhìn soi mói - Tất nhiên ngài cũng biết rằng ông anh họ Ed¬ward King của ngài là người đứng sát ngay sau ngài trong thứ bậc thừa kế. Vậy thì nếu ngài đã bị nhai ngấu nghiến thay cho ông ấy bởi con hổ đó hoặc một con vật hung dữ nào tôi không rõ, thì hẳn là ông ấy hôm nay đã trở thành Lord Souther¬ton chớ không phải ngài.
- Chắc chắn là vậy!
Ông Sum¬mers nói thêm:
- Nhất định là cái viễn tưởng đó đã làm ông ấy quan tâm rất nhiều. Tình cờ tôi được biết rằng tên đầy tớ của người quá cố Lord Souther¬ton là tay sai cho ông ấy, và y thường xuyên gởi điện tín cho ông ấy mỗi ngày nhiều lần để báo cho ông ấy biết về tình trạng sức khỏe của con bệnh. Việc này xảy ra vào thời kỳ mà ngài đang ở Grey¬lands; không phải là kỳ cục hay sao khi ông ấy mong mỏi được tin tức đến như vây, vì ông ấy đã biết rằng ông ấy không phải là người thừa kế trực tiếp?
Tôi trả lời.
- Rất kỳ cục! Và bây giờ, ông Sum¬mers ạ, xin ông vui lòng mang lại cho tôi tất cả biên lai và một quyển chi phiếu mới, chúng ta sẽ có thể bắt đầu chỉnh đốn lại công việc của tôi.
17. Chơi với lửa
Tôi không có ý định nói về những gì đã xảy ra một cách chính xác ngày mười bốn tháng tư vừa qua tại số nhà 17 đường Bad¬der¬ly¬Gar¬dens. Khi viết ra trên giấy trắng mực đen, các giả thiết của tôi có vẻ quá lố bịch để được mọi người coi là truyện đứng đắn. Tuy vậy đúng là có truyện gì đó đã xảy ra: một truyện quá lạ lùng khiến chúng tôi phải nhớ tới cho tới khi chết; câu chuyện này chắc chắn đáng tin cũng như có sự chứng nhận của năm người. Tôi sẽ không để mình bị lôi kéo vào những cuộc tranh luận hay những sự suy diễn. Tôi chỉ xin đưa ra một kiểu lời khai mà tôi đã đưa cho John Moire, cho Harv¬er Dea¬con và bà De la Mer xem qua; tôi chỉ công bố lời khai này sau khi được họ công nhận từng chi tiết trong đó. Tôi buộc phải bỏ qua sự chấp nhận của Paul Le Duc vì ông đã rời khỏi nước Anh.
Chính John Moire, hội viên thứ nhất của công ty Moire, Moire và Sander¬son là người đầu tiên đã lôi kéo sự chú ý của chúng tôi tới các vấn đề của khoa học huyền bí. Giống như nhiều thương gia rất cương quyết và thực tế, ông có một khía cạnh huyền bí, chính khía cạnh này đã đưa ông tới sự khảo sát và chấp nhận, khi có cơ hội, các hiện tượng huyền
hoặc mà người ta đã gói ghém lại cùng với nhiều điều ngu xuẩn và giả trá dưới nhãn hiệu thông linh học. Ông đã bắt đầu các cuộc nghiên cứu với một tinh thần tự do, chẳng mấy chốc những nghiên cứu đó đã mang bộ mặt của các giáo điều; lúc đó ông cũng trở nên tích cực và cuồng tín như một người sùng đạo mù quáng. Trong nhóm người nhỏ bé của
chúng tôi, ông tiêu biểu cho những người huyền bí đã tạo lập một tôn giáo mới dựa theo các hiện tượng lạ lùng này.
Bà De la mer, bà đồng của chúng tôi, là em gái ông và cũng là vợ của nhà điêu khắc De la mer. Kinh nghiệm đã cho chúng tôi thấy rằng đụng tới những vấn đề này mà không có người ngồi đồng thì chỉ uổng công, cũng như một nhà thiên văn muốn tiến hành quan sát mà lại không có kính viễn vọng vậy. Mặt khác không bào giờ chúng tôi muốn đưa vào
nhóm chúng tôi một bà đồng chuyên nghiệp; các bà này rõ ràng chỉ cốt moi tiền chúng tôi nên mới làm việc đó và dễ quay ra lừa bịp; làm sao chúng tôi có thể tin được những hiện tượng được tạo ra với giá biểu một đồng bạc một giờ?
May mắn thay, Moire đã khám phá ra rằng cô em gái ông có khả năng lên đồng, nói theo cách khác bà ta là một cục pin của năng lượng nhân điện, hình thức năng lượng duy nhất khá tế nhị để có thể vận dụng hữu hiệu trên bình diện tinh thần cũng như trên bình diện vật chất của chúng ta. Tất nhiên khi nói đến điều này tôi tuyệt đối không có ý khẳng định
những gì liên hệ tới vấn đề là xác thực: tôi chỉ nhắc tới các lý thuyết nhờ vào đó chúng tôi đã giải thích, có thể là sai mà cũng có thể là đúng, những điều chúng tôi đã nhìn thấy. Bà đồng này đã tới, tuy không hoàn toàn được ông chồng đồng ý. Dù không bao giờ bà cho ta có cảm tưởng bà có một sức mạnh rất lớn về tâm linh, chúng tôi vẫn thấy những kiểu thần gi¬ao cách cảm theo thói quen vừa ngây thơ ấu trĩ vừa không thể giải thích được. Chiều chủ nhật nào cũng vậy, chúng tôi gặp nhau tại phòng làm việc của Harv¬er Dea¬con ở Bed¬der¬ly Gar¬dens trong căn nhà ở góc đường Mer¬ton Park. Đầu óc giàu tưởng tượng của Harv¬er Dea¬con đã phung phí trong nghệ thuật của ông làm bất cứ ai nhìn thấy cũng
phải coi ông là một tay chơi tài tử rất hăng say về tất cả những gì kỳ quái và dễ gây xúc động. Chắc chắn sự ngoạn mục trong việc nghiên cứu các khoa học huyền bí đã lôi cuốn ông lúc khởi đầu; nhưng rồi sự chú tâm của ông đã nhanh chóng chuyển sang một vài hiện tượng mà tôi vừa nói tới, và ông đã đi tới kết luận rằng những điều ông từng coi là một cuộc mạo hiểm lãng mạn để chơi đủa, như một sự giải trí trong lúc trà dư tửu hậu, thật ra là một sự thực rất đáng sợ. Vốn có bộ óc thông minh và duy lý nổi tiếng, trong cái thế giới nhỏ bé của chúng tôi ông là hình ảnh của một phần tử hay phê phán, một người không có thành kiến lúc nào cũng sẵn sàng theo dõi các sự việc đúng như ông nhìn thấy chúng và luôn khước từ việc đưa ra trước một lý thuyết về những thông tin của ông. Sự khôn ngoan của ông đi ngược lại ý của Moire, giống hệt như chuyện đức tin mạnh mẽ của ông này làm trò cười cho Dea¬con. Nhưng theo cách của họ, cả hai đều là những kẻ loạn trí.
Còn tôi? Tôi có thể tự coi mình là người thế nào đây? Tôi không phải là người mộ đạo. Tôi cũng không phải là một người phê bình theo lối khoa học. Cứ cho rằng tôi là một anh thị dân có tính tài tử, thích được thấy mình trong một trào lưu thời thượng, biết ơn tất cả những cảm xúc mới làm tôi say mê và mở cho tôi những hướng đi mới về đời sống. Bản
thân tôi không phải là người có nhiệt huyết, nhưng tôi thích gi¬ao du với những người có nhiệt huyết. Những ý kiến của Moire cho tôi cảm tưởng chúng tôi đã có một giấy thông hành đặc biệt để mở cánh cửa của cõi chết, và làm tôi hoàn toàn mãn nguyện. Tôi thấy rất thoải mái với bầu không khí ấm cúng của buổi họp mặt dưới ánh sáng mờ ảo. Nói tóm lại, chuyện này làm tôi thích thú. Đó là lý do tại sao tôi đã có mặt tại đó ngày 14 - 4, để chứng kiến một cảnh rất kỳ lạ mà tôi sẽ thuật lại ngay bây giờ.
Trong số đàn ông thì tôi là người tới trước nhất, nhưng bà De la mer đã có mặt trong phòng làm việc của Dea¬con rồi, vì bà đã uống trà với bà Dea¬con. Hai bà và ông Dea¬con đang đứng trước một bức hoạchưa hoàn tất đặt trên giá. Tôi không phải là người sành sỏi về hội hoạ và không bao giờ dám nói là hiểu ý nghĩa các bức hoạ của Dea¬con. Tuy nhiên
trong trường hợp nay, tôi thấy bức hoạ tuyệt đẹp, rất kỳ ảo, thấm đượm vẻ thần tiên, chứa đầy các loài vật và những hình ảnh tượng trưng đủ loại. Các bà ngợi khen ông hết lời, hiệu lực của màu sắc quả là tuyệt mỹ.
- Ông nghĩ thế nào, ông Markham? Ông ta hỏi tôi.
- Thú thật điều này vượt quá mức hiểu biết của tôi! Tôi đáp lại. Những con thú này... Đó là những con gì vậy?
- Những con quái vật trong thần thoại, những con vật tưởng tượng, các kiểu huy chương. Một đám rước kỳ dị, bí ẩn.
- Với một con ngựa trắng đi đầu!
- Đó không phải là một con ngựa!
Ông đã phản đối lại với một giọng nghiêm nghị, điều làm tôi kinh ngạc vì ông vốn có tính tình rất tốt và không bao giờ tỏ ra quá trang nghiêm.
-Vậy đó là cái gì?
-Ông không trông thấy cái sừng trên trán nó à? Đó là một con kỳ lân. Tôi đã nói với ông đó là những con thú tưởng tượng. Ông không thể nhận ra con nào cả sao?
-Tôi thấy thất vọng, ông Dea¬con ạ!
Có vẻ như ông đã bị xúc phạm dữ dội, nhưng ông bật cười lớn.
-Hãy tha thứ cho tôi, ông Markham ạ! Ông nói với tôi. Thật ra tôi đã làm một công việc điên rồ với con thú này. Suốt cả ngày tôi vẽ nó, vẽ đi vẽ lại, cố tưởng tượng xem nếu như có một con kỳ lân sống thì nó giống cái gì. Sau cùng tôi tin rằng tôi đã thành công. Ít nhất tôi cũng đã hy vọng vậy, nhưng khi ông không nhận ra nó, tôi thấy bị chạm tự ái dữ dội.
-Chắc chắn đó là một con kỳ lân! Tôi kêu lên với vẻ tin tưởng, vì tôi thấy ông bực bội bởi sự mù tịt của tôi. Tôi phân biệt rất rõ cái sừng, nhưng chưa bao giờ tôi nhìn thấy kỳ lân cả, ngoài những thứ được vẽ trên các huy hiệu hoàng gia, và tôi tuyệt đối không tin là có con thú này. Những con thú khác là những con quái vật đầu sư tử, những con mãng xà và
rồng đủ loại, có phải thế không?
-Vâng, với những con này tôi không gặp một khó khăn nào. Chỉ có con kỳ lân này là làm cho tôi bực mình. Thôi, thế cũng tạm đủ cho tới ngày mai.
Ông quay lật bức hoạ lại ở trên giá và chúng tôi chuyển câu chuyện sang đề tài khác.
Chiều hôm đó ông Moire tới trễ. Chúng tôi ngạc nhiên khi thấy ông đi cùng một người Pháp thấp nhỏ và khoẻ mạnh, mà ông giới thiệu với chúng tôi dưới cái tên là Paul Le Duc. Tôi nói rằng chúng tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi giữ quy luật là một sự xâm nhập vào nhóm thông linh học của chúng tôi sẽ làm xáo trộn tình thế và đưa vào một phần tử khả nghi.
Chúng tôi biết có thể tin cậy lẫn nhau, nhưng tất cả kết quả của chúng tôi sẽ có nguy cơ bị hoài nghi bởi sự hiện diện của một người ngoài cuộc. Tuy nhiên, ông Moire đã mau lẽ trấn an chúng tôi. Ông Paul Le Duc là một môn đồ danh tiếng của khoa thần bí học. Ông du lịch tới nước Anh mang theo một thư giới thiệu của ông chủ tịch hội Huynh đệ những người dân Paris của giáo phái Rose-Croix gửi cho ông Moire. Như vậy thật hoàn toàn bình thường khi ông được mời tới dự cuộc ngồi đồng của chúng tôi; chúng tôi còn thấy vinh dự về sự có mặt của ông.
Như tôi đã nói, ông ta nhỏ bé và khoẻ mạnh, nom bề ngoài không có gì đặc biệt. Trên khuôn mặt lớn được cạo nhẵn của ông chỉ có đôi mắt to màu nâu là đáng kể mà thôi. Ông ăn mặc lịch sự, có điệu bộ của một người thượng lưu và nói tiếng Anh bằng một giọng khiến các bà tủm tỉm cười. Bà Dea¬con vốn không muốn tắt bớt đèn đi như thường lệ và
chúng tôi kéo nhích ghế lại gần chiếc bàn vuông bằng gỗ bạch đàn được kê ở giữa phòng. Ánh sáng yếu ớt nhưng cũng đủ để chúng tôi nhìn thấy nhau rất rõ ràng. Tôi nhớ là tôi còn có thể nhìn thấy rõ ông người Pháp có hai bàn tay nhỏ nhắn mũm mĩm với những ngón tay vuông.
-Thật vui nhỉ! Ông nói với chúng tôi. Đã từ nhiều năm nay tôi không ngồi dự theo lối này, tuy nhiên tôi rất thích việc này. Bà là bà đồng đúng không? Có phải bà hành nghề lên đồng không?
-Không hoàn toàn đúng, bà De la mer đáp lại. Nhưng bao giờ tôi cũng cảm thấy một sự chập chờn nửa thức nửa ngủ.
-Đó là gi¬ai đoạn đầu. Chỉ cần thúc đẩy thêm là nó tới chỗ đồng nhập. Khi đồng nhập rồi thì linh hồn bé nhỏ của bà bay đi và một linh hồn khác tới thế chỗ của nó, do đó mà bà đã có giọng nói và tuồng chữ tự động phát sinh. Bà đã để cho người khác nằm quyền điểu khiển cơ thể của bà, phải vậy không? Nhưng những con kỳ lân thì có gì dính líu tới chúng
ta?
Harv¬er Dea¬con giật nảy người lên. Ông người Pháp từ từ quay đầu lại và chăm chú nhìn vão những bức màn tối sẫm che phủ các bức tường.
-Nom có vẻ ngồ ngộ! Ông ta lẩm bẩm. Luôn luôn là những con kỳ lân. Ai đã nghĩ tới một đề tài kỳ cục như vậy với một cường độ mạnh như thế?
-Thật là kỳ diệu! Dea¬con kêu lên. Suốt cả ngày tôi đã cố sức vẽ ra một con. Tại sao ông lại biết được?
-Ông đã nghĩ tới những con kỳ lân trong căn phòng này à?
-Chắc chắn là thế!
-Những tư tưởng là vật thể đó ông bạn ạ! Khi ông tưởng tượng tới một vật gì là ông đã tạo ra vật đó. Ông không biết như thế à? Nhưng tôi có thể nhìn thấy những con kỳ lân của ông và không phải chỉ có thể nhìn bằng mắt thôi đâu.
-Có phải ông muốn nói rằng tôi đã tạo ra một vật chưa bao giờ có thật cả chỉ bằng cách nghĩ đến nó thôi à?
-Rõ ràng là thế. Đó là một sự kiện nằm trong tất cả mọi sự kiện khắc. Đó là lý do tại sao một ý nghĩ xấu cũng là một sự nguy hiểm.
-Tôi lại nghĩ đó là trên bình diện siêu nhiên chứ? Ông Moire hỏi lại.
-À, đó chỉ là những từ thôi, ông bạn ạ! Những con vật đó ở kia kìa, tại một nơi nào đó, tại khắp mọi nơi, tôi không thể nói rõ được. Tôi nhìn thấy chúng. Tôi có thể sờ mó vào chúng.
-Ông không thể làm cho chúng tôi nhìn thấy chúng được à?
- Chỉ cần làm cho chúng trở thành hiện thực. Xin các ông chú ý lắng nghe, đây sẽ là cuộc thí nghiệm. Nhưng cần phải có quyền uy. Trước hết hãy đo lường quyền uy mà chúng ta có được, sau đó chúng ta sẽ thấy chúng ta có thể làm gì. Các vị có thể cho phép tôi được xếp cho ngồi cho quý vị theo ý muốn của tôi không?
-Chắc chắn ông là người thành thạo hơn chúng tôi, Dea¬con trả lời. Tôi mong rằng ông sẽ điều khiển mọi việc.
-Có thể các điều kiện không được hoàn hảo nhưng chúng ta sẽ làm những gì có thể làm. Xin bà cứ ngồi yên tại chỗ cũ, tôi sẽ ngồi cạnh bà ấy và quý ông đây sẽ ngồi bên tôi. Ông Moire sẽ ngồi cạnh bà, vì sự xen kẽ giữa màu nâu và vàng nâu là rất tốt. Vậy là được rồi. Và bây giờ xin quý vị cho phép tôi tắt hết đèn đi.
-Bóng tối thì có lợi ích gì? Tôi hỏi.
-Xung lực mà chúng ta liên hệ tới là một sự rung động của ête, giống hệt như ánh sáng vậy.Bây giờ chúng ta có những sợi dây liên lạc đặc biệt riêng của chúng ta, các vị hiểu không? Thưa bà, bà sẽ không thấy sợ hãi trong bóng tối chứ? Một buổi lên đồng như thế này thật rất vui!
Mới đầu chúng tôi thấy hoàn toàn tối mịt; nhưng sau một vài phút mắt chúng tôi quen dần với bóng tối: chúng tôi có thể nhận ra bóng của chúng tôi một cách rất mơ hồ và rất lộn xộn, tôi phải thừa nhận như vậy. Tôi không thể nhìn thấy những đồ vật khác trong phòng làm việc. Cả bọn chúng tôi đều trang nghiêm hơn rất nhiều so với những lần trước.
- Xin quý vị hãy đặt bàn tay ra trước mặt quý vị. Chúng ta không có cơ hội nào để đụng chạm vào nhau vì chúng ta quá ít người quanh một chiếc bàn kích thước lớn như vậy. Thưa bà, xin bà hãy chuẩn bị. Nếu cơn buồn ngủ kéo tới xin bà đừng cưỡng lại. Còn bây giờ chúng ta hãy ngồi yên lặng và chờ đợi.
Vậy là chúng tôi đều ngồi yên lặng chờ đợi trong khi phải nhìn xoi mói vào bóng tối trước mặt mình. Ngoài hành lang, tiếng đồng hồ kêu tích tắc. Xa xa một con chó sủa lên từng hồi. Hai hay ba lần có tiếng xe ngựa chạy lạo xạo ngoài phố, ánh sáng chập chờn từ những ngọn đèn của chúng lọt qua kẽ mành đã tạo nên một vài khoảng ấm cúng trong
buổi thức thâu đêm của chúng tôi. Tôi cảm thấy các triệu chứng về thể xác đã trở thành quen thuộc qua các buổi lên đồng trước đây: đôi bàn chân giá buốt, bàn tay như bị kiến bò, một cảm giác ấm áp dịu dàng ở lòng bàn tay và một luồng gió lạnh lẽo trên lưng, những cơn đau nhức nhỏ, kỳ lạ nhất là ở hai cánh tay (đặc biệt là ở cánh tay trái, cánh tay gần vị khách của chúng tôi nhất). Những cảm giác này chắc chắn là do sự lộn xộn của hệ thống thần kinh mạch, nhưng dù sao cũng đáng lưu ý. Đồng thời tôi cảm thấy một cảm giác căng thẳng của sự nôn nóng chờ đợi, một cảm giác gần như đau đớn vậy. Cứ xét qua sự im lặng nghiêm ngặt tuyệt đối của các bạn tôi thì đủ biết họ cũng có các dây thần kinh
căng thẳng như tôi.
Rồi đột nhiên một tiếng động nổi lên từ bóng tối: một tiếng rít trầm trầm. Đó là tiếng thở nhanh và nhẹ của một người đàn bà, càng lúc càng nhanh hơn, càng lúc càng nhẹ hơn, như thể hơi thở lọt qua hai hàm rằng nghiến chặt; rồi chúng tôi nghe thấy một tiếng nấc cụt khá mạnh, kèm theo một tiếng sột soạt của vải.
- Cái gì vậy? Có bình thường không? Một người hỏi trong bóng tối.
- Hoàn toàn bình thường, ông người Pháp trả lời. Đó là tiếng thở của bà ấy. Bà ấy đã nhập đồng. Thưa quý vị, bây giờ nếu quý vị vui lòng chờ đợi một cách bình thản, quý vị sẽ thấy một vật mà tôi tin sẽ làm quý vị vô cùng thích thú.
Vẫn còn tiếng tích tắc ngoài hành lang. Vẫn còn hơi thở, nhưng lúc này sâu hơn, dài hơn, của bà đồng. Vẫn còn những tia sáng chập chờn của những ngọn đèn xe ngựa, nhìn thấy rõ hơn bao giờ hết. Chúng tôi đang lấp đầy một cái vực thẳm gớm ghê ! Ở một bên là bức màn của sự vĩnh hằng đã hé lên một nửa, bên kia là những xe cộ của thành phố Lon¬don. Chiếc bàn rung lên một nhịp thở mạnh mẽ. Nó lắc lư một cách đều đặn, nhịp nhàng, nó tự nâng lên, hạ xuống một cách nhẹ nhàng bên trong những thớ gỗ của nó; ta có thể nói đó là tiếng một bó củi đang nổ lách tách trong lò sưởi vào một đêm đông.
- Có rất nhiều quyền uy! Ông người Pháp lẩm bẩm. Các vị hãy nhìn trên bàn kìa!...
Tôi đã tưởng tôi là một kẻ làm trò cười cho ảo giác của riêng mình, nhưng tất cả mọi người đều nhìn thấy một thứ như tôi. Một thứ ánh sáng lân tinh màu vàng hơi xanh nhạt (có lẽ tôi nên gọi là một thứ hơi nước có ánh sáng hơn là một thứ ánh sáng!) trụ lại trên mặt bàn. Nó lăn đi, uốn éo, xoắn lại thành những nếp lập loè mờ ảo xoay quanh và tự xoay tròn như những đám mây khói. Qua ánh sáng kỳ diệu đó tôi có thể nhìn thấy hai bàn tay trắng trẻo và những ngón tay vuông của ông người Pháp.
- Tuyệt diệu! Ông ta kêu lên. Thật là thích thú.
- Ta có nên đòi các mẫu tự không? Ông Moire hỏi.
- Không! Chúng ta có thể đạt được những điều tốt hơn nhiều. Vị khách của chúng tôi đáp. Làm cho cái bàn lúc lắc ở mỗi chữ trong bảng chữ cái chỉ là trò trẻ con; với một bà đồng như quý bà đây, chúng ta phải làm được hơn thế.
- Vâng, các vị sẽ làm được nhiều hơn, một tiếng nói cất lên.
- Ai nói vậy? Có phải ông đấy không, ông Markham?
- Không, không phải tôi nói.
- Đó là bà đây đã nói.
- Nhưng không phải tiếng của bà ấy.
- Có phải bà không, thưa bà De la mer?
-Không phải là bà đồng đâu nhưng đó là quyền uy đã sử dụng cơ thể của bà đồng, tiếng nói trầm trầm xa lạ đáp lại.
-Bà De la mer đâu rồi? Tôi hy vọng rằng điều này sẽ không làm gì hại tới bà phải không?
- Bà đồng rất sung sướng trong một bình diện khác của đời sống. Bà đã ngồi vào chỗ của tôi, cũng như tôi đã ngồi vào chỗ của bà.
- Ông là ai?
- Điều đó không có gì quan trọng với ngài. Tôi là một người đã từng sống cũng như ông đang sống bây giờ và đã chết cũng như ông sẽ chết một ngày nào đó.
Chúng tôi nghe thấy tiếng ken két của bánh xe ngựa dừng lại trước cửa một ngôi nhà bên cạnh. Bên ngoài, người ta đang cãi nhau về giá cả chuyến xe, và vừa đánh xe đi bác đánh xe vừa càu nhàu một câu tục tĩu. Đám mây màu vàng xanh vẫn còn xoay tròn trên mặt chiếc bàn, lờ đờ trên toàn bộ bề mặt của nó, trừ một tia sáng yếu ớt; như thể nó dồn cả vào trước mặt bà đồng. Tim tôi như đóng băng vì lạnh và sợ hãi. Hình như chúng tôi đã khinh suất và dại dột đi tới gần sự thiêng liêng thực tại nhất và cao cả nhất; sự cảm thông với những người chết mà các cha của Giáo hội đã nói tới.
- Các ông không thấy rằng chúng ta đã đi quá xa à? Có lẽ chúng ta phải cắt đứt buổi lên đồng này đi thôi. Tôi kêu lên.
Nhưng những người khác rất muốn được coi tới phút chót. Sự áy náy của tôi làm họ bật cười.
- Tất cả mọi quyền uy đều được tạo ra cho người ta sử dụng, Harv¬er Dea¬con trả lời tôi. Nếu chúng ta có thể sử dụng được thì chúng ta phải sử dụng. Tất cả những điểm xuất phát mới của tri thức đều đã bị coi là bất hợp pháp vào lúc khởi đầu. Đó là một điều đúng và hợp lý khi chúng ta tìm hiểu về bản chất của cái chết.
- Đó là đúng và hợp lý, tiếng nói tiếp lời.
- Đó! Ông còn muốn đòi hỏi gì hơn nữa? Ông Moire kêu lên, vẻ rất xúc động. Ta hãy làm một trắc nghiệm. Ông có vui lòng cho chúng tôi một bằng chứng rằng ông thật sự có mặt ở nơi đây không?
- Ông muốn thử nghiệm như thế nào?
- Đây này... Tôi có một ít tiền lẻ trong túi. Ông có thể nói cho tôi biết là bao nhiêu không?
- Chúng tôi tới đây với hy vọng là để giáo dục và giác ngộ, chứ không phải để giải đáp những câu đố trẻ con.
- A, a, ông Moire ơi, đó lả ông đã bị chỉnh rồi đó. Ông người Pháp kêu lên. Nhưng lời chỉ trích hoàn toàn đúng.
- Đây là một tôn giáo chứ không phải là một trò chơi, tiếng nói lạnh lùng và cứng rắn lại cất lên.
- Đúng thế. Tôi cũng có ý kiến như vậy. Ông Moire nói lớn. Tôi rất tiếc đã đặt ra một câu hỏi như vậy. Ông không thể vui lòng cho chúng tôi biết ông là ai à?
- Việc đó có liên quan gì tới ông?
- Chắc ông phải là một hồn ma từ lâu lắm rồi phải không?
- Vâng.
- Bao lâu rồi?
- Chúng tôi không tính thời gi¬an như các ông. Hoàn cảnh đời sống của chúng tôi khác hẳn.
- Ông có sung sướng không?
- Có.
- Chắc ông không muốn trở lại trái đất nữa?
- Không. Chắc chắn là không.
- Ông có bận rộn lắm không?
- Chúng tôi sẽ không thể sung sướng được nếu chúng tôi không rất bận rộn.
- Ông làm việc gì?
- Tôi đã nói rằng hoàn cảnh của chúng tôi hoàn toàn khác biệt mà.
- Ông có thể cho chúng tôi một ý niệm về công việc của ông không?
- Chúng tôi làm việc cho sự tiến bộ của chính chúng tôi, cho sự thăng tiến của những người khác.
- Ông có thích tới đây chiều hôm nay không?
- Tôi thấy sung sướng được tới nếu sự tới thăm của tôi có thể làm được điều thiện.
- Vậy thì mục đích của ông là làm điều thiện à?
- Đó là mục đích của đời sống trên mọi bình diện.
- Ông Markham, ông thấy đó; đây là câu trả lời cho sự áy náy của ông.
- Đúng thật vậy. Những mối nghi ngờ của tôi đã tan biến: tôi đã thích thú một cách kỳ diệu.
- Ông có gặp những sự đau đớn trong cuộc sống của ông không? Tôi hỏi.
- Không. Sự đau đớn là một việc của thể xác.
- Ông có những điều đau khổ vè tinh thần không?
- Có. Bao giờ người ta cũng có thể buồn rầu hoặc lo lắng.
- Ông có gặp những bạn hữu mà ông đã bỏ lại trên trái đất không?
- Một vài người.
- Tại sao lại chỉ có một vài người?
- Chỉ gặp những người nào có cảm tình thôi.
- Những người chồng có gặp lại vợ họ không?
- Những ngưởi nào yêu họ một cách chân thực.
- Còn những người khác?
- Họ chẳng là cái gì đối với nhau cả.
- Liệu có một sợi dây liên hệ tinh thần không?
- Chắc chắn là có!
- Những điều chúng tôi làm có tốt không?
- Nếu các ngài làm điều đó với tinh thần thiện hảo.
- Vậy cái gì gọi là tinh thần xấu xa?
- Sự tò mò và sự khinh xuất.
- Như vậy có thể đưa tới điều gì tai hại không?
- Rất nhiều điều tai hại.
- Tai hại như thế nào?
- Các ông có thể làm nảy sinh những sức mạnh mà các ông không thể chế ngự được.
- Những sức mạnh tồi tệ à?
- Những sức mạnh không được khai hoá.
- Ông nói rằng chúng rất nguy hiểm. Nguy hiểm cho thể xác hay cho linh hồn?
- Đôi khi cho cả hai.
Một sự im lặng bao trùm. Bóng tối hình như sẫm hơn, trong khi đám sương mù màu xanh quay cuồng trên mặt bàn.
- Ông có muốn đưa ra câu hỏi nào nữa không, ông Moire? Harv¬er Dea¬con hỏi.
- Một câu thôi: Trong thế giới của ông, ông có cầu nguyện không?
- Người ta phải cầu nguyện trong mọi thế giới.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì đó là cách để biết những sức mạnh ở bên ngoài chúng ta.
- Ở đó các ông theo tôn giáo nào?
- Chúng tôi theo nhiều tôn giáo, giống như các vị vậy.
- Ông không có sự hiểu biết chắc chắn?
- Chúng tôi chỉ có đức tin thôi.
- Những vấn đề tôn giáo này sẽ được sự quan tâm của người Anh là những người trang nghiêm, nhưng chúng tôi không phải là thứ giải trí đâu. Tôi thấy rằng với quyền uy hiện hữu ở đây, ta có thể đạt được lợi ích từ một kinh nghiệm lớn, phải không? Về một điều gì đó mà ta có thể nói.
- Nhưng không có gì thích thú hơn điều đó! Moire chống lại.
- Nếu ông nghĩ được như vậy, được rồi, rất tốt. Ông người Pháp đáp lại với giọng bực bội. Về phần tôi, trước đây tôi đã nghe điều đó rồi và tôi tưởng chiều nay ta nên thử làm một việc khác, nhờ tất cả những quyền uy mà chúng ta được ban cho. Nhưng nếu ông có những câu hỏi khác, xin ông cứ đưa ra đi. Khi nào ông hỏi xong, chúng ta sẽ thử làm
chuyện khác.
Hỡi ôi, sự say mê đã bị đứt đoạn. Chúng tôi hỏi, hỏi mãi mà không có kết quả: bà đồng ngồi yên lặng trên ghế. Chỉ có nhịp thở sâu, đều đặn của bà chứng tỏ bà còn ngồi ở đó. Đám sương mù vẫn còn quay tròn trên mặt bàn.
- Ông đã huỷ diệt sự hoà điệu. Bà ấy không muốn trả lời.
- Nhưng chúng ta đã biết được tất cả những gì bà có thể nói với chúng ta, phải không? Về phần tôi, tôi muốn thấy một cái gì đó mà chưa bao giờ tôi được thấy.
- Cái gì vậy?
- Ông có vui lòng để tôi thử làm không?
- Ông muốn làm điều gì?
- Tôi đã nói với ông rằng những ý nghĩ là những sự việc, những vật thể. Bây giờ tôi muốn chứng tỏ điều đó với ông và chỉ cho ông thấy cái vật vốn chỉ là một ý nghĩ. Vâng, tôi có thể làm việc đó và các vị sẽ thấy. Bây giờ tôi xin các vị hãy giữ im lặng, không nói gì cả và cứ đặt bàn tay của quý vị lên mặt bàn.
Căn phòng càng tối tăm hơn, lặng lẽ hơn bao giờ hết. Cũng cái cảm giác lo sợ ấy đã đè nặng lên tôi lúc bắt đầu buổi lên đồng lúc này lại dằn vặt trái tim tôi. Tôi thấy rờn rợn ở các chân tóc như có kiến bò.
- Được rồi đó! Ông người Pháp nói lớn.
Đám sương mù có ánh sáng từ từ rời xa chiếc bàn; nó vẫn bay chập chờn uốn éo trong phòng làm việc. Nó bay tới một góc tối tăm nhát, nơi đó nó tụ lại và phát ra một tia sáng, rồi thì nó đông đặc lại thành một cái nhân sáng và rõ ràng thành một vệt tia sáng đang tìm đường lẩn trốn, không soi sáng và không phát các tia sáng vào bóng tối, màu sắc của
nó chuyển từ màu vàng xanh nhạt sang một màu đỏ lờ đờ hơi nâu đen nhạt. Chung quanh cái nhân này, một chất tối sẫm, mờ mờ như khói cuốn thành vòng và cứ dày đặc mãi lên, mỗi lúc một đặc thêm và đen kịt. Rồi ánh sáng tắt ngúm, như bị bóp nghẹt bởi cái vật mà nó bao quanh.
- Hắn đi rồi.
- Suỵt! Có một vật gì đó trong căn phòng.
Cái vật đó, chúng tôi nghe thấy nó ở góc phòng mà ánh sáng đã chuyển tới. Một vật gì thở phì phò và cựa quậy.
- Cái gì vậy? Ông Le Duc, ông đã làm gì vậy?
- Tốt đẹp cả. Sẽ không có gì tệ hại xảy ra đâu.
Tiếng nói của ông người Pháp run run vì xúc động.
- Trời đất ơi, ông Moire, có một con vật lớn kếch xù trong căn phòng. Nó đây này. Nó tựa vào ghế của tôi đây này. Cút đi! Cút đi!
Đó là tiếng nói của Harv¬er Dea¬con; rồi thì chúng tôi nghe thấy một cái gì đó rơi trên một vật rắn. Rồi thì ... Rồi thì ... Biết nói thế nào với các bạn về những gì xảy ra! Một con vật kếch xù chạy xông lại chỗ chúng tôi trong bóng tối. Một con vật gì đó đứng chồm hai chân trước lên, nó dậm chân, nó nhảy, nó thở phì phì, nó có thể dẫm nát tất cả mọi thứ trên đường đi của nó. Chiếc bàn bay tung lên thành từng mảnh. Chúng tôi chạy tản mác ra mọi hướng. Con vật đó gầm lên một tiếng kinh hồn, xô đẩy chúng tôi, xông hết góc này tới góc khác của căn phòng với một sức mạnh tàn bạo. Tất cả chúng tôi gào lên vì hoảng sợ, chúng tôi quỳ rạp xuống bốn chân để cố né tránh sự tấn công của con vật đó. Tôi không rõ cái gì đó dẫm lên bàn tay tôi, tôi cảm thấy những đốt xương của tôi gãy rau ráu dưới sức nặng.
- Thắp đèn lên! Một người nào đó kêu.
- Ông Moire, ông có diêm đấy chứ? Diêm?
- Không, tôi không có diêm. Ông Dea¬con, diêm để ở đâu? Diêm, lạy chúa tôi!
- Tôi không thể tìm thấy chúng. Này, ông, ông người Pháp, hãy chặn nó lại!
- Điều này nằm ngoài quyền năng của tôi. Ôi, lạy chúa tôi, tôi không thể ngăn chặn được cái gì cả! Cửa ra vào! Cửa ra vào ở đâu?
Tình cờ tay tôi đụng phải nắm đấm của cửa ra vào trong khi tôi quờ quạng trong bóng tối. Con vật có hơi thở phì phò xông tới bên cạnh tôi và va đập vào bức vách gỗ với một tiếng động khủng khiếp. Tôi vặn nắm đấm và tất cả chúng tôi chạy ra ngoài, đóng cánh cửa lại phía sau chúng tôi. Ở bên trong sự ồn ào khủng khiếp cứ tiếp tục không ngừng.
- Con gì vậy? Lạy chúa tôi, con vật đó là con gì vậy?
- Một con ngựa. Tôi đã nhìn thấy nó khi cửa được mở ra. Nhưng còn bà De la mer?
- Chúng ta cần phải quay vào tìm bà ấy. Vào đi, Markham, chúng ta càng đợi lâu thì càng nguy hiểm.
Ông mở rộng cánh cửa và chúng tôi chạy xổ vào phòng làm việc. Bà De la Mer nằm lịm trên mặt đất giữa đống mảnh vụn của chiếc ghế của bà. Chúng tôi nắm lấy bà, nhanh chóng lôi bà ra ngoài. Sau khi đã bước tới ngưỡng cửa, tôi ngoái lại nhìn phía sau. Trong bóng tối hai con mắt kỳ lạ nảy lửa lên khi nhìn chúng tôi; tôi chỉ có đủ thì giờ đóng sập
cửa lại. Phía bên kia tiếng động khủng khiếp vang lên, cánh cửa bị chẻ đôi từ trên xuống dưới.
- Nó sắp đi qua cửa! Nó đây này!
- Chạy đi! Chạy đi nếu quý vị còn muốn sống! Ông người Pháp la lớn.
Một tiếng động khủng khiếp khác vang lên trước khi một vật gì đó lao xuyên qua khe nứt của cánh cửa. Đó là một chiếc sừng trắng, dài, long lanh dưới ánh sáng. Trong chốc lát, con vật đứng ngay trước mặt chúng tôi, rồi với một tiếng động khô khan nó biến mắt.
- Mau lên! Mau lên! Lại đây! Harv¬er Dea¬con kêu lên. Khiêng bà ấy lại đây! Mau lên!
Chúng tôi ẩn náu trong phòng ăn và đóng chặt cánh cửa nặng nề bằng gỗ sến lại phía sau chúng tôi. Chúng tôi đặt người đàn bà bất tỉnh nằm dài trên ghế tràng kỷ. Moire, con người của công việc có sức khoẻ bền bỉ, ngã gục ngất xỉu đi trên tấm thảm trải nhà. Harv¬er Dea¬con, trắng bệch như một xác chết, co rúm lại và nhảy lên như một kẻ động
kinh. Trong một tiếng đổ vỡ kinh hoàng, cánh cửa phòng làm việc bắn tung lên thành những mảnh vụn; chúng tôi nghe thấy tiếng dậm chân và tiếng hí ở hành lang, tiếng đi đi lại lại, căn nhà rung chuyển dưới cơn thịnh nộ đó. Ông người Pháp, hai tay ôm lây đầu, khóc nức nở như một đứa trẻ đang khiếp sợ.
- Ta phải làm gì? Tôi hỏi ông ta đồng thời lắc mạnh hai vai của ông. Trong trường hợp thế này, một khẩu súng có thể có ích không?
- Không! Nhưng quyền uy sẽ biến đi. Rồi sẽ hết.
- Ông là một người điên kỳ quái, suýt nữa ông đã giết chết tất cả chúng ta với những thử nghiệm ma quỷ của ông.
- Tôi không biết. Làm sao tôi có thể đoán trước được nó lại bị khiếp sợ như vậy? Nó đã điên cuồng vì kinh hoàng? Tất cả đều do lỗi của nó mà ra, nó đã đánh con vật ấy.
Harv¬er Dea¬con nhảy cẫng người lên.
- Lạy chúa tôi!
Một tiếng gào lớn vang dội khắp căn nhà.
- ... Đó là vợ tôi! Tôi đây này! Tôi ra đó! Dù ma quỷ hiện hình cũng không ngăn cản được tôi ra!
Ông mở cửa và chạy bổ ra hành lang. Ở chân cầu thang, bà Dea¬con nằm bất tỉnh, quá kinh khiếp vì những gì bà nhìn thấy. Nhưng ngoài ra không còn ai khác nữa. Với những con mắt đờ ra vì kinh hoàng, chúng tôi nhìn chung quanh, nhưng tất cả đều hoàn toàn yên tĩnh. Tôi đi tới gần ô vuông đen sì của khung cửa phòng làm việc; cứ từng bước một
tôi chờ đợi nhìn thấy một bóng mờ kinh khủng vọt ra. Nhưng không có gì vọt ra cả. Phía trong căn phòng hoàn toàn yên tĩnh. Với sự đề phòng, chúng tôi tiên tới phía ngưỡng cửa, chúng tôi lục tìm trong bóng tối. Hoàn toàn yên lặng; nhưng trong một góc ngoài bóng tối còn có một vật gì khác nữa, một đám mây có ánh sáng màu đỏ nhạt với một tấm diềm
sáng rực bập bềnh; các vành cạnh của nó lờ mờ không rõ rệt; hình thể của nó cứ mỏng dần và tan loãng; rồi thì ở tại góc đó chỉ còn có bóng tối dày đặc, êm mướt như nhung lan tràn khắp căn phòng. Khi tia sáng cuối cùng đã tắt, ông người Pháp thốt ra một tiếng kêu vui thích.
- Thích thú biết bao! Không ai bị nguy hại gì: chỉ có một cánh cửa bị phá huỷ và các bà bị sợ hãi. Nhưng các bạn ạ, chúng ta đã làm được điều từ trước tới nay chưa ai làm được bao giờ.
- Và trong quyền hạn của tôi, chúng ta sẽ không bao giờ tái diễn nó nữa, ông Harv¬er Dea¬con nói.
Đó là những gì đã xảy ra ngày 14 tháng 4 tại số nhà 17 đường Bad¬der¬ly Gar¬dens. Ở đoạn trên tôi đã nói thật là kệch cỡm khi ta cổ vũ cho những gì đã thực sự xảy ra. Nhưng tôi đã trình bày các cảm nghĩ của tôi, các cảm nghĩ của chúng tôi ( vì chúng tôi có những cảm nghĩ như vậy, Dea¬con, Moire và tôi), về những điều mà các cảm nghĩ ấy đáng được
trình bày. Nếu các bạn muốn, các bạn có thể tưởng tượng rằng chúng tôi đã là những nạn nhân của một sự huyền hoặc phức tạp và dị thường. Hoặc các bạn cũng có thể nghĩ như chúng tôi rằng chúng tôi đã trải qua một kinh nghiệm rất thực tế và rất kinh khủng. Nhưng có thể là các bạn còn biết về vấn đề này nhiều hơn chúng tôi và liệu các bạn có thể thông báo cho chúng tôi rõ về những cuộc mạo hiểm tương tự không? Trong trường hợp này một lá thư gửi cho William Markham, Al¬bany, sẽ giúp chúng tôi thấy rõ thêm những gì còn rất tối tăm đối với chúng tôi.
Dịch Thuật: Kim Lương
Hết
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top