Hiệp Cốt Đan Tâm
Hồi 31
Mấy phen buồn bã cất giọng ca
Cõi lòng đau đớn gửi tiêu ngọc
Phong Tử Siêu thấy hai cha con nhà này bất giác cả kinh! Té ra người có vẻ như ông lão nhà quê chính là đà chủ của Hồng Anh hội Công Tôn Hoằng!
Phong Tử Siêu nghĩ bụng:
"Ả nha đầu này có lẽ là Công Tôn Yến con gái của y.
Nghe nói ả được cha nuông chiều, xuất đạo chưa đầy một năm mà còn thích lo chuyện bao đồng hơn cả người cha, nhiều nhân vật thành danh trên giang hồ đều sợ ả.
Hỏng bét, hỏng bét, ả thấy thế này chắc chắn sẽ xen vào? Vả lại Công Tôn Hoằng sẽ nhận ra lai lịch võ công của Văn Thắng Trung!".
Nghĩ chưa dứt, chợt nghe giọng Công Tôn Hoằng:
"Ồ, trận đấu cũng hay lắm, Yến nhi, con chưa thấy Thiên Sơn kiếm pháp, lần này có thể mở rộng tầm mắt, kiếm pháp của tên tiểu tử kia hơi kém hơn nhưng Tam tượng thần công hình như cũng khá lắm". Trong lúc Tát phủ bị quần hùng đại náo, Công Tôn Hoằng đã thấy Lệ Nam Tinh nhưng chưa gặp Văn Thắng Trung. Bởi vì lần đó Văn Thắng Trung không đi cùng Văn Đạo Trang. Công Tôn Hoằng thầm nhủ:
"Con trai của Văn Đạo Trang chắc cũng chẳng phải hạng tốt lành gì, nhưng mình làm sao có thể động thủ với một đứa hậu sinh, có cách nào giúp Lệ Nam Tinh đây?".
Công Tôn Yến hỏi:
"Thiên Sơn kiếm pháp quả nhiên tinh diệu, những hình như y không đánh lại đối thủ, không biết là vì cớ gì?".
Công Tôn Hoằng nói:
"Đó là vì y vừa mới trải qua một trận bệnh. Vả lại đối thủ của y dùng huyền thiết bảo kiếm, thanh kiếm này nặng hơn loại kiếm bình thường gấp mười lần, con có nhận ra không?".
Văn Thắng Trung nghe thế cả kinh, thầm nhủ:
"Không ngờ lão nhà quê này lại là bậc võ học tôn sư! Không những y đã nhận ra võ công của mình mà còn biết đây là huyền thiết bảo kiếm". Lệ Nam Tinh cũng ngạc nhiên, thầm nhủ:
"Công Tôn Hoằng quả nhiên danh bất hư truyền, chỉ vừa nhìn thì đã biết mình đã bị thương. Nghe Trục Lưu nói, lần đó y thoát ra khỏi Tát phủ cũng nhờ Công Tôn Hoằng giúp đỡ. Nhưng mình không thể ỷ lại ngươi khác".
Văn Thắng Trung xưa nay cuồng ngạo, nghe Công Tôn Hoằng đứng một bên bình luận, lời lẽ rõ ràng đề cao Lệ Nam Tinh mà hạ thấp mình, trong bụng rất tức tối, nên cố giở hết bản lĩnh ra, y múa tít thanh huyền thiết kiếm dồn tới từng bước, lòng thầm nhủ:
"Ngươi bảo ta không bằng tên tiểu tử này, ta sẽ giết y cho ngươi xem!".
Lệ Nam Tinh không muốn mất mặt trước mặt Công Tôn Hoằng, cũng dốc hết sức ra chống trả. Nhưng đáng tiếc chàng đã đuối sức, binh khí lại kém hơn, cuối cùng vẫn bị Văn Thắng Trung ép thối lui từng bước.
Trong lúc kịch chiến Văn Thắng Trung đánh ra một chiêu Lực phách hoa sơn, múa tròn thanh kiếm bổ ngang tới như đại đao. Lệ Nam Tinh lách ra sau gốc liễu, chỉ nghe ầm một tiếng, cây huyền thiết kiếm đã chém đứt cây liễu.
Công Tôn Yến nói:
"Đúng thế, quả nhiên là bảo kiếm hiếm có". Rồi nàng nhảy vọt ra, quát:
"Này, đưa thanh kiếm cho ta!".
Văn Thắng Trung hỏi lại:
"Tại sao phải đưa cho ngươi?".
Công Tôn Yến nói:
"Đối thủ của ngươi vừa mới khỏi bệnh, ngươi đã được lợi lại còn dùng huyền thiết bảo kiếm, đánh như thế đâu có công bằng?".
Văn Thắng Trung tức giận:
"Ngươi tính lo chuyện bao đồng?".
Công Tôn Yến đáp trả:
"Ta xưa nay rất thích lo chuyện bao đồng, ngươi muốn ta không xen vào cũng được. Nhưng ngươi đánh nhau phải công bằng. Ngươi ỷ có bảo kiếm mà làm dữ, ta thấy trái tai gai mắt lắm! Bây giờ ta sẽ đưa ra hai con đường cho ngươi lựa chọn, thứ nhất ngươi hãy đưa bảo kiếm cho ta rồi đổi lấy một thanh kiếm bình thường. Nếu đánh thắng ta sẽ trả lại ngươi, đánh thua thì sẽ đưa kiếm cho đối thủ của ngươi. Ta chỉ là người làm chứng chủ trì công đạo, không hề có ý muốn lấy kiếm của ngươi".
Văn Thắng Trung hỏi:
"Ai nhờ ngươi chủ trì công đạo? Ngươi tránh xa ra, nếu không đừng trách bảo kiếm của ta không có mắt!" Văn Thắng Trung miệng nói, tay vẫn không lơi lỏng, Công Tôn Yến càng bước tới càng gần, lúc này đã đứng bên cạnh Lệ Nam Tinh.
Công Tôn Yến cười lạnh:
"Được, ngươi không chịu chọn con đường thứ nhất thì chỉ còn có đường thứ hai. Ta sẽ đấu với ngươi, ngươi đã đấu trước một trận, nhưng trong tay có bảo kiếm coi như đã công bằng!" Nói xong chen liền vào ở giữa hai người, đẩy Lệ Nam Tinh ra. Lệ Nam Tinh biết nàng là con gái của Công Tôn Hoằng, nghĩ bụng nàng không đến nỗi thua Văn Thắng Trung nên yên tâm nhường cho nàng.
Văn Thắng Trung thấp thỏm lo âu, nhưng đành buông kiếm nói:
"Ngươi muốn đấu với ta cũng được, nhưng nếu ngươi thua thì đừng sinh chuyện nữa!".
Công Tôn Yến hỏi:
"Ngươi sợ cha ta giúp ta? Hừ, ngươi không xứng đấu với cha ta. Cha, cha hãy nói một câu để tên tiểu tử này yên tâm".
Công Tôn Hoằng cười ha hả:
"Lão phu xưa nay không động thủ với hạng tiểu bối. Đó là con gái của ta ham lo chuyện bao đồng, ngươi có bản lĩnh cứ giết nó, ta cũng sẽ đứng yên không xen vào!".
Công Tôn Yến cười:
"Ngươi yên tâm? Cứ mặc sức mà đâm bảo kiếm về phía ta, ta nhường ngươi xuất chiêu?".
Văn Thắng Trung nổi giận trong bụng, nghĩ rằng:
"Lão già này hình như là bậc tôn sư võ học. Hừ, chỉ cần lão chịu đứng yên, chả lẽ mình sợ ả nha đầu này?" Rồi nói liền:
"Được, quân tử nói một lời xe bốn ngựa khó đuổi! Ngươi hãy rút ra binh khí đi!".
Công Tôn Yến quát:
"Ngươi cứ mặc sức phát chiêu, đừng lắm lời!".
Văn Thắng Trung chưa bao giờ bị coi thường như thế này nên lửa giận bốc cao, nghiêng người bước tới như chim nhạn giang cánh, cây huyền thiết bảo kiếm từ trên chặt xuống. Chiêu này có tên gọi Loan cung xạ điêu, đó chính là chiêu đắc ý nhất của Văn Thắng Trung.
Văn Thắng Trung tưởng rằng nếu không chặt đứt được cánh tay của nàng ít nhất cũng khiến cho nàng bị thương. Nào ngờ Công Tôn Yến lướt người né tránh, nhát kiếm của Văn Thắng Trung đã đâm hụt. Chỉ nghe Công Tôn Yến cười khanh khách:
"Cũng chẳng lợi hại gì mấy. Được, có qua phải có lại, tiếp chiêu!" Rồi nàng xoay người tháo sợi đai cột ở eo ra, dùng lực vung mạnh, sợi đai cuộn tới Văn Thắng Trung như ngọn roi mềm.
Văn Thắng Trung nghĩ bụng:
"Bảo kiếm của ta có thể chặt gãy sắt thép, lẽ nào sợ sợi đai của ngươi?" Nào ngờ sợ đai tơ của Công Tôn Yến tựa như con linh xà, Văn Thắng Trung chém tới một kiếm nhưng không chặt đứt được, sợi đai cuộn tới vỗ bốp một tiếng vào trán của Văn Thắng Trung. Tuy chỉ là một sợi đai tơ nhưng không kém gì roi mềm, trên trán Văn Thắng Trung sưng lên một cục.
Công Tôn Yến bật cười:
"Đáng tiếc không có gương cho ngươi xem, trên đầu ngươi đã mọc một chiếc sừng".
Văn Thắng Trung vừa sợ vừa giận, vội vàng múa tít bộ Tam tài kiếm pháp nhanh như gió. Lúc này y đã biết bản lĩnh của Công Tôn Yến nào dám khinh địch, cho nên đã dốc hết toàn lực ý muốn giết Công Tôn Yến.
Khi Văn Thắng Trung dốc hết toàn lực, sợi đai tơ của Công Tôn Yến cũng không đánh vào được trong luồng kiếm quang của y. Có điều bảo kiếm của y cũng chẳng chém đứt được sợi đai tơ của nàng. Đai tơ bay lên vun vút, bảo kiếm múa tít kêu lên vù vù, kiếm phong dồn ra đẩy đai tơ bay ngược ra trở lại.
Huyền thiết bảo kiếm nặng đến cả trăm cân, Văn Thắng Trung sử dụng cũng cảm thấy rất mất sức. Không bao lâu y toát mồ hôi đầm đìa, thở phì phò như trâu.
Phong Tử Siêu đã biết Công Tôn Yến là con gái của Công Tôn Hoằng, lòng thầm nhủ:
"Dù Văn Đạo Trang và Sử Bạch Đô đến đây e chẳng làm gì được lão già này. Xem ra tên tiểu tử Văn Thắng Trung đã thua chắc. Chao ôi, thanh huyền thiết bảo kiếm không lấy cũng được, ba mươi sáu kế chạy là hay nhất". Y lập tức nhảy lên con ngựa của Văn Thắng Trung, kêu to:
"Văn thế huynh, ngươi cứ đánh đi nhé, xin thứ lão phu không thể chờ được".
Rồi y ra roi phóng ngựa đi. Y chỉ lo chạy cho nên cũng mặc kệ con gái. Phong Diệu Thường vừa tức giận vừa khó chịu, nàng thẫn thờ nhìn theo bóng cha. Lệ Nam Tinh hạ giọng nói:
"Phong cô nương, đừng buồn, cứ mặc ông ta".
Phong Tử Siêu vừa chạy làm Văn Thắng Trung vừa kinh vừa giận, tinh thần càng rối loạn hơn. Y càng lúc càng đuối sức, còn Công Tôn Yến thì vẫn nhẹ nhàng linh hoạt, chiêu số càng lúc càng thần diệu!
Công Tôn Yến cười lạnh lùng:
"Bản lĩnh của ngươi quá kém, không xứng dùng cây huyền thiết bảo kiếm. Đưa kiếm đây rồi cút cho ta!" Nói chưa dứt cuộn sợi dây tơ màu đỏ lên, tựa như một áng mây chiều bao bọc lấy luồng ánh sáng màu trắng, sợi dây tơ đã cuộn lấy chuôi kiếm, giật cây huyền thiết bảo kiếm từ trong tay Văn Thắng Trung.
Văn Thắng Trung co dò bỏ chạy, vừa chạy vừa kêu lên:
"Đây là vật của bang chủ Lục Hợp bang, nha đầu nhà ngươi dám lấy có dám báo tên không?" Y đã thua liểng xiểng nhưng vẫn muốn dựa thế Sử Bạch Đô để lấy lại chút sĩ diện.
Công Tôn Hoằng cười ha hả:
"Lão phu Công Tôn Hoằng, ngươi về nói với Sử Bạch Đô ta đã lấy thanh bảo kiếm này. Nếu y không phục cứ đến tìm ta. Nếu một mình y không dám đến cứ bảo Văn Đạo Trang đi cùng!".
Lúc này Văn Thắng Trung mới biết ông già nhà quê này chính là tổng đà chủ của Hồng Anh hội nên nào dám đốp chát lại, chạy nhanh như chân bôi dầu, Công Tôn Hoằng cười ha hả, không thèm đuổi theo y.
Lệ Nam Tinh và Phong Diệu Thường bước đến bái tạ, Công Tôn Hoằng rất mừng:
"Yến nhi, Lệ công tử chính là người đã từng cùng Kim Trục Lưu đại náo thọ đường của Tát phủ".
Lệ Nam Tinh cúi đầu:
"Đa tạ ơn giúp đỡ của cô nương". Công Tôn Yến cười:
"May mà không nhục mệnh, vật xin trả lại cho chủ". Lệ Nam Tinh nói:
"Thần binh lợi khí trong thiên hạ thuộc về người có đức, cô nương đã đoạt được thanh bảo kiếm này thì xin lệnh tôn hãy giữ lấy". Công Tôn Yến cười:
"Cha tôi không bao giờ dùng binh khí, người bảo muốn lấy bảo kiếm chẳng qua là dọa Sử Bạch Đô mà thôi". Công Tôn Yến nói như thế, nếu Lệ Nam Tinh cứ từ chối nữa thì quá coi thường Công Tôn Hoằng. Lệ Nam Tinh dành nhận lấy.
Công Tôn Hoằng hỏi:
"Lệ huynh, sao huynh lại đánh nhau với Văn Thắng Trung ở đây?" Lệ Nam Tinh đáp:
"Nói ra thì dài". Rồi bèn kể lại mọi chuyện ở Dương Châu.
Công Tôn Hoằng hỏi:
"Tôi cứ tưởng ở Cái Bang có hai thiếu niên cao thủ? Té ra đó là thiếu hiệp và Kim Trục Lưu". .
Lệ Nam Tinh hỏi:
"Công Tôn tiền bối nghe được tin gì?".
Công Tôn Hoằng đáp:
"Mấy ngày trước tôi đã đến Dương Châu, nghe nói Sử Bạch Đô không muốn tiếp khách, bằng hữu ở Dương Châu đã kể lại đại khái chuyện này nhưng tôi vẫn không biết mọi chuyện thật ra như thế nào".
Lệ Nam Tinh vội vàng hỏi:
"Kim Trục Lưu có còn ở Dương Châu không? Lão tiền bối có đến phân đà của Cái Bang không?".
Công Tôn Hoằng đáp:
"Phân đà Cái Bang đã được dời đi nơi khác, tôi đến nơi chẳng thấy ai cả". Đã tìm không ra Cái Bang, tất nhiên cũng chẳng có tin tức của Kim Trục Lưu.
Lúc này Công Tôn Yến và Phong Diệu Thường cũng đứng một bên trò chuyện.
Công Tôn Yến tính tình phóng khoáng, tâm địa nhân từ, kéo tay Phong Diệu Thường nói:
"Phong tỷ tỷ, tôi đã nghe tỷ cãi nhau với cha". Phong Diệu Thường đỏ mặt, nước mắt tuôn ra.
Công Tôn Yến an ủi:
"Phong tỷ tỷ, tỷ đừng buồn. Tỷ đúng là gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, tôi rất khâm phục tỷ. Phong tỷ tỷ, tỷ định đi đâu?" Phong Diệu Thường đáp:
"Tôi là người có nhà mà không thể quay về, đành tới đâu hay tới đó".
Công Tôn Yến nói:
"Nếu tỷ không chê, xin hãy làm bạn với tôi!".
Phong Diệu Thường mừng rỡ:
"Được tỷ tỷ giúp đỡ tôi đã yên lòng. Nhưng chỉ e gây thêm phiền phức cho tỷ tỷ". Công Tôn Yến:
"Sao lại nói thế, tôi đi lại trên giang hồ không quá một năm, hiểu biết còn kém, sau này chúng ta kết bạn đi cùng, mong Phong tỷ tỷ chỉ giáo cho tôi". Phong Diệu Thường rất ngạc nhiên lòng thầm nhủ:
"Cha của nàng là bang chủ Hồng Anh hội nổi tiếng giang hồ, sao nàng lại bảo thế?
Nhưng nàng nói rất chân thành, chắc là không phải lời khách sáo".
Công Tôn Hoằng chợt cười rằng:
"Yến nhi, có phải con vẫn nhớ đến cuộc hẹn với Trúc Thanh Hoa không?".
Công Tôn Yến làm ra vẻ giận dỗi:
"Cha, ai bảo cha không chịu đi theo con, con chỉ đành tự tìm bạn đi cùng".
Công Tôn Hoằng mỉm cười, quay đầu lại hỏi Lệ Nam Tinh:
"Lão đệ, đệ định đi đâu?" Lệ Nam Tinh đáp:
"Tôi muốn đến Tây Xương một chuyến".
Số là chàng đoán Sử Bạch Đô sớm muộn gì cũng đưa em gái mình đến Tây Xương để gả cho Soái Mạnh Hùng. Chàng nghĩ Kim Trục Lưu chắc chắn cũng sẽ biết điều này nên đến Tây Xương thế nào cũng sẽ gặp Kim Trục Lưu.
Công Tôn Hoằng cười:
"Được, vậy ba người hãy đi cùng nhau".
Lệ Nam Tinh ngạc nhiên:
"Ồ, lệnh ái cũng muốn đến Tây Xương ư?".
Công Tôn Hoằng cười:
"Yến nhi đến núi Đại Lương ở phía bắc Tây Xương. Núi Đại Lương là căn cứ địa của Trúc Thượng Phụ. Lão đệ có nghe danh Trúc Thượng Phụ không?".
Lệ Nam Tinh gật đầu:
"Tôi đã từng nghe Kim Trục Lưu nói, nghe nói Trúc tiền bối là bằng hữu của Giang Hải Thiên, võ công siêu quần chẳng kém gì Giang đại hiệp".
Công Tôn Hoằng đáp:
"Trúc Thượng Phụ có một người con gái tên gọi Trúc Thanh Hoa, năm ngoái tôi và tiểu nữ đã làm khách ở nhà họ Trúc, bọn chúng tính tình hợp nhau, coi như chị em, Trúc Thượng Phụ bị mất Tây Xương, lui vào trong núi Đại Lương, tiểu nữ rất nhớ Trúc Thanh Hoa. Gần đây mới nhận được tin sang năm Trúc Thanh Hoa sẽ xuất giá, gả cho đồ đệ của Giang Hải Thiên là Lý Quang Hạ".
Lệ Nam Tinh mừng rỡ:
"Đúng thế, Trục Lưu cũng đã nói với tôi, y có một sư điệt tên Lý Quang Hạ, là con của anh hùng kháng Thanh Lý Văn Thành. Sang năm sư điệt của y sẽ thành hôn với con gái của Trúc Thượng Phụ, y chắc chắn cũng đến uống rượu mừng". Chàng nghĩ có chuyện vui này, khả năng gặp Kim Trục Lưu càng lớn hơn.
Công Tôn Hoằng nói:
"Đáng tiếc tôi còn bận việc của Hồng Anh hội nên không thể uống rượu mừng của họ được. Những tiểu nữ thì đòi đi cho bằng được, tôi đang lo không có ai làm bạn với nó, giờ thì đã ổn, có hai người đi cùng, tôi đã yên tâm. Lệ lão đệ, nó là ả nha đầu ngang ngạnh, làm phiền lão đệ hãy chăm sóc cho nó".
Rồi hai cha con chia tay nhau, Công Tôn Hoàng trở về tổng đà Hồng Anh hội, Công Tôn Yến thì cùng Lệ Nam Tinh, Phong Diệu Thường đến Tây Xương.
Vết thương ngoài da của Lệ Nam Tinh đã lành lại nhưng vết thương lòng vẫn còn chưa hết, trong lòng đầy tâm sự nên trên đường chẳng hề nói gì.
Phong Diệu Thường vừa mới cãi nhau với cha mình, trong lòng cũng nặng nề.
May mà Công Tôn Yến là cô gái vô tư hồn nhiên, tính tình phóng khoáng nên trên quãng đường mọi người cũng bớt buồn tẻ.
Ba người ngày đêm lên đường không quá một tháng thì đã qua Giang Tô, An Huy, bước vào địa phận Thiểm Tây. Lúc này đã là tháng chín mùa thu. Đến Thiểm Tây đi toàn là đường núi, Lệ Nam Tinh đã chuẩn bị màn trướng, vì phải tranh thủ lên đường cho nên có lúc không tìm được nơi ở phải đành qua đêm trong rừng.
Hôm nay họ đi ngang qua dãy núi Thất Bàn, khi vượt qua đoạn dốc hiểm trở thì bất giác trời đã về chiều. Công Tôn Yến ngước mắt nhìn thấy phía trước có bãi cỏ hoa dại nở rực rỡ, làn suối trong xanh lượn quanh, cây rừng cao chọc trời. Ở phía xa xa núi cao ngất trời, sương phủ là đà lưng chừng núi. Công Tôn Yến mừng rỡ:
"Đây là nơi rất đẹp, trời tuy chưa tối nhưng tôi cũng không muốn đi nữa. Chúng ta cứ nghỉ ở đây một đêm".
Cắm trại xong, Công Tôn Yến bảo:
"Phong tỷ tỷ, tỷ thổi cơm, tôi sẽ tìm một ít thức ăn". Phong Diệu Thường nói:
"Lệ đại ca, huynh hãy đi cùng Công Tôn tỷ tỷ".
Công Tôn Yến lắc đầu:
"Không cần, tôi rất thích đi săn, không cần đông người". Lệ Nam Tinh đang rầu rĩ trong lòng, Công Tôn Yến không muốn chàng đi cùng, chàng cũng đành thôi.
Công Tôn Yến có ý muốn để cho họ có thời gian ở lâu bên nhau, tuy mau chóng bắt được hai con thỏ hoang, nhưng cố ý đến trời tối mời trở về, vừa đến bìa rừng chợt nghe tiếng sáo lúc trầm lúc bổng vọng tới.
Số là Lệ Nam Tinh rất thích âm nhạc, chàng đã tặng cây cổ cầm cho Kim Trục Lưu, mấy ngày trước chàng đã tự làm cho mình một cây tiêu. Cơm đã làm xong nhưng chưa thấy Công Tôn Yến trở về, ngồi rảnh rỗi lấy tiêu ra thổi.
Lệ Nam Tinh từ khi biết mối quan hệ giữa Sử Hồng Anh với Kim Trục Lưu, tuy lòng đã không còn mong muốn gì nữa, chàng đã quyết ý vung tuệ kiếm chém đứt tơ tình, nhưng tơ tình có thể đứt, vết thương lòng không thể lành trong khoảng thời gian ngắn. Lúc nào chàng cũng rầu rĩ cho nên mượn tiếng tiêu để thổ lộ tâm tình. Tiếng tiêu vang lên ai như oán, như khóc như than khiến nàng Công Tôn Yến xưa nay chẳng biết lo buồn nhưng nghe một hồi thì không khỏi nhói lòng.
Công Tôn Yến thầm nhủ:
"Lệ đại ca chắc chắn có tâm sự gì, nếu không suốt cả quãng đường y chẳng lặng lẽ như thế. Ôi, tiếng tiêu nghe sao mà thê lương buồn bã thế này. Lệ đại ca sao mà khổ đến thế?" Nàng nấp trong bìa rừng nghe một hồi rồi đưa ánh mắt nhìn về phía Phong Diệu Thường, chỉ thấy Phong Diệu Thường ngồi xoay lưng về phía Lệ Nam Tinh, lấy khăn tay ra lau nước mắt.
Công Tôn Yến chợt vở lẽ ra nhủ thầm:
"Đúng thế, chắc chắn họ đã có xích mích gì đây, y tưởng Phong tỷ tỷ không thích mình cho nên mới đau lòng như thế. Nhưng Phong tỷ tỷ tại sao lại khóc? Nàng không thích Lệ đại ca ư? Hay là Lệ đại ca không biết dịu dàng khiến cho nàng giận?".
Công Tôn Yến nào biết Phong Diệu Thường nghe tiếng tiêu nên nhớ đến Tần Nguyên Hạo, vì thế đau lòng rơi nước mắt. Nàng và Tần Nguyên Hạo hai lòng tuy đã mến nhau, nhưng không có cơ hội thổ lộ cho nhau biết. Tần Nguyên Hạo là đệ tử của danh môn chính phái, dù có Kim Trục Lưu làm mai nhưng cũng chưa chắc thành.
Phong Diệu Thường tự ti vì những hành vi xấu xa của cha mình. Lúc này càng suy nghĩ mới cảm thấy tiền đồ mờ mịt, vì thế mới rơi nước mắt.
Công Tôn Yến ho một tiếng, bước tới cười bảo:
"Lệ đại ca! Huynh thổi tiêu chẳng hay tý nào, huynh làm cho Phong tỷ tỷ khóc rồi kìa. Huynh hãy thổi một khúc dễ nghe được không".
Phong Diệu Thường lau nước mắt:
"Không, tôi nghe rất hay. Lúc nãy có hạt bụi rơi vào mắt, tôi đâu có khóc?".
Lệ Nam Tinh ngừng thổi, cười khổ sở:
"Tôi không thổi được bài dễ nghe".
Công Tôn Yến gật đầu:
"Thôi được. Huynh không thổi cũng được, hãy giúp tôi làm thức ăn".
Dùng xong bữa tối, Lệ Nam Tinh vào trại nghỉ ngơi trước. Công Tôn Yến nói:
"Ở đây là nơi thế ngoại đào viên, hiếm khi trời đẹp như thế này, Phong Diệu Thường hãy cùng muội đi hái hoa dại, một lát nữa rồi ngủ!".
Phong Diệu Thường đồng ý:
"Tôi vốn không muốn ngủ, được, chúng ta cứ đi một chập".
Hai người ra khỏi trướng khoảng trăm bước, Công Tôn Yến chợt hỏi:
"Phong tỷ tỷ, tỷ thấy Lệ đại ca thế nào?".
Phong Diệu Thường hiểu nhầm ý của Công Tôn Yến, thầm cười rằng:
"Té ra ả nha đầu đã động lòng xuân". Rồi nói:
"Lệ đại ca văn võ toàn tài, đương nhiên rất tốt!".
Công Tôn Yến bật cười:
"Thôi được, cuối cùng tỷ đã nói lời thực, sáng mai ta sẽ cho Lệ đại ca biết, chắc y sẽ vui mừng lắm".
Phong Diệu Thường ngạc nhiên:
"Có nghĩa là sao?".
Công Tôn Yến nói:
"Phong tỷ tỷ, tỷ đừng giả vờ nữa, hai người đang giận nhau, tỷ tưởng rằng tôi không biết sao?".
Lúc này Phong Diệu Thường mới hiểu ra, té ra là nàng đã hiểu nhầm, bất giác cười:
"Tỷ đã sai cả rồi".
Công Tôn Yến hỏi:
"Sao, chả lẽ tỷ không thích Lệ đại ca?".
Phong Diệu Thường nghĩ bụng:
"Lệ đại ca vẫn chưa có ý trung nhân, sao mình không làm mai cho y? Công Tôn Yến đã hiểu nhầm như thế, mình phải nói sự thực".
Rồi nàng cười rằng:
"Tỷ muốn làm hồng nương cho tôi phải không? Nhưng tôi cũng muốn làm hồng nương cho tỷ!".
Công Tôn Yến bất giác ngẩn người:
"Tôi đang nói thực, sao tỷ lại đùa như thế?".
Phong Diệu Thường đáp:
"Tôi đang nói chuyện rất nghiêm túc. Chẳng phải tỷ đã đồng ý Lệ đại ca rất tốt rồi sao? Cho nên tôi không cần tỷ làm hồng nương, nhưng tỷ lại cần tôi làm hồng nương!".
Công Tôn Yến lộ vẻ không vui:
"Tỷ nói như thế là có ý gì, sao tôi có thể cướp người tỷ thương mến?".
Phong Diệu Thường cười:
"Tỷ đã hiểu nhầm".
Công Tôn Yến ngạc nhiên:
"Chả lẽ tỷ không thích y?".
Phong Diệu Thường đáp:
"Tôi kính trọng Lệ đại ca, nhưng không hề có tình cảm nam nữ, tỷ đã hiểu chưa?".
Công Tôn Yến lúc này mới vỡ lẽ:
"Ồ, té ra tỷ đã có ý trung nhân?".
Phong Diệu Thường đỏ mặt, thì thầm:
"Cho nên tôi mới bảo tỷ không cần lo lắng. Đã có người làm hồng nương cho tôi từ trước".
Công Tôn Yến mừng rỡ hỏi:
"Sao tỷ không nói sớm cho tôi biết, người đó là ai?".
Phong Diệu Thường đáp nhỏ:
"Đó là Tần Nguyên Hạo của phái Võ Đang".
Công Tôn Yến:
"Tần Nguyên Hạo? Ồ cái tên này nghe rất quen!".
Tần Nguyên Hạo là thiếu hiệp anh hùng ở phái Võ Đang, Phong Diệu Thường nghĩ Công Tôn Yến nghe được tên chàng cũng chẳng có gì là lạ, vì thế cũng không hỏi. Công Tôn Yến lại cứ hỏi dấn tới, Phong Diệu Thường không dấu, kể lại mọi chuyện. Công Tôn Yến cười nói:
"Ồ, té ra tỷ không vui vì không nghe được tin của Tần Nguyên Hạo". Nói đến đây thì chợt kêu lên:
"Tôi nhớ rồi!".
Phong Diệu Thường ngạc nhiên hỏi:
"Tỷ nhớ điều gì, sao lại kêu lên như thế?".
Công Tôn Yến đáp:
"Chưởng môn của phái Võ Đang Lôi Chấn Tử có phải có một đệ tử họ Tần không?" Phong Diệu Thường gật đầu:
"Đúng thế". Công Tôn Yến nói:
"Đó chắc chắn là Tần Nguyên Hạo! Khi cha nghe chuyện này cũng đã từng nhắc đến cái tên Tần Nguyên Hạo. Chả trách nào muội thấy quen tai như thế, nhưng nhất thời không nhớ ra".
Phong Diệu Thường vừa mừng vừa lo, vội vàng hỏi:
"Tỷ biết tung tích của Tần Nguyên Hạo? Đó là chuyện gì?".
Công Tôn Yến đáp:
"Trong vòng ba ngày, tôi đảm bảo tỷ sẽ gặp được Tần Nguyên Hạo!".
Phong Diệu Thường hầu như không dám tin vào đôi tai mình, một lát sau nàng mới thốt ra hai chữ:
"Thật không?".
Công Tôn Yến đáp:
"Đương nhiên là thật, tôi gạt tỷ làm gì. Tỷ đừng nôn nóng.
Hãy nghe cho kỹ đây ở phía nam Bảo Kê, dưới chân Tần Lĩnh, có một sơn thôn, trong sơn thôn có một trang viên tên gọi Thủy Vân trang. Trang chủ Vân Long là võ lâm thế gia, trên giang hồ cũng có tên tuổi lắm tỷ biết không?".
"Tôi rất ít đi lại trên giang hồ, quả thật hiểu biết nông cạn, tôi chưa từng nghe nói tới Thủy Vân trang. Chả lẽ Tần Nguyên Hạo ở Thủy Vân trang?".
"Đúng thế".
"Tại sao y lại ở Thủy Vân trang?".
"Ở Tần Lĩnh có một đám giặc cướp, kẻ cầm đầu tên gọi La Đại Đấu, là cao thủ sử dụng thủ hổ đoạn môn đao, y có ba huynh đệ kết nghĩa võ công cũng rất siêu phàm. Vân Long có một người con gái tên gọi Vân Trung Yến".
Phong Diệu Thường không nhịn được, ấn tiếng hỏi:
"Vân Trung Yến thế nào?".
Công Tôn Yến từ tốn trả lời:
"Vân Trung Yến rất xinh đẹp, có người yêu mến nàng!" Nói đến đây thì nàng cố ý ngừng lại.
Phong Diệu Thường quả nhiên thất kinh hỏi:
"Người đó là ai?".
Công Tôn Yến cười khanh khách:
"Tỷ đừng lo, đó chẳng phải là Tần Nguyên Hạo mà là tên cường đạo La Đại Đấu. Y đến Thủy Vân trang cầu thân, Vân trang chủ đương nhiên không chịu. La Đại Đấu không chịu bỏ ý định ấy, ba ngày sau lại sai người đưa một bức thư bảo rằng đã chọn ngày tốt đón dâu. Tại sao La Đại Đấu không lập tức cướp cô dâu? Bởi vì y e ngại Thủy Vân trang. Cho nên y phải mời cao thủ giúp đỡ. Cũng thế, Thủy Vân trang vì đối phó với bọn người này cho nên đã mời bằng hữu các nơi đến tương trợ. Hồng Anh hội chúng tôi có một hương chủ tên gọi Thạch Huyền, vừa lúc đó đến Bảo Kê thăm bằng hữu, người bằng hữu của ông ta rất thân thiết với Vân Long, nhận được thư cầu viện của Vân Long thì lập tức kéo Thạch Huyền cùng đến Thủy vân trang. Nghe nói hôm ấy La Đại Đấu dắt người đến cướp cô dâu, đôi bên đã ác chiến với nhau. Đối phương thế đông người mạnh, lúc đầu phía Thủy Vân trang rất bất lợi. Khi sắp đại bại, chợt có một thiếu hiệp anh hùng tới kịp.
Người này tỉ thí với La Đại Đấu, chàng bị La Đại Đấu chém bảy nhát đao, nhưng cuối cùng đã đâm xuyên kiếm vào buồng tim của La Đại Đấu, kết liễu mạng của y!".
Phong Diệu Thường đã đoán được mấy phần, vội vàng hỏi:
"Thiếu hiệp anh hùng ấy là ...".
Công Tôn Yến cười:
"Đó chính là ý trung nhân Tần Nguyên Hạo của tỷ. Chưởng môn phái Võ Đang Lôi Chấn Tử là bằng hữu của Vân Long, tuy ông ta chưa nhận được thư cầu viện của Vân Long nhưng đã biết chuyện này cho nên sai đệ tử đắc ý nhất của ông ta đến. Thạch Huyền và Tần Nguyên Hạo không quen biết nhau, lúc đó chỉ nghe người ở Thủy Vân trang kêu là Tần thiếu hiệp khi quay về kể lại với cha tôi, cha tôi bảo đó chắc chắn là Tần Nguyên Hạo. Phong tỷ tỷ, Thủy Vân trang cách đây không quá ba ngày đường, chúng ta hãy đến đấy!".
Phong Diệu Thường vừa lo vừa mừng, nàng cắt lời Công Tôn Yến:
"Tỷ bảo Tần Nguyên Hạo đã trúng bảy nhát đao, vậy vết thương của chàng ...".
"Tỷ đừng lo, Tần Nguyên Hạo tuy bị thương không nhẹ, nhưng vẫn không nguy hiểm đến tính mạng. Thủy Vân trang có thuốc kim sang rất tốt".
"Vậy Tần Nguyên Hạo ở lại Thủy Vân trang dưỡng thương? Đó là chuyện lúc nào?".
"Đó là chuyện sáu tháng trước. Nghe Thạch Huyền nói, Tần Nguyên Hạo không nguy hiểm đến tính mạng nhưng mất máu quá nhiều, e rằng phải dưỡng thương đến nửa năm. Ba ngày sau chúng ta đến Thủy Vân trang, có lẽ Tần Nguyên Hạo vẫn chưa khỏe hẳn, tỷ sẽ gặp được chàng".
Phong Diệu Thường nghe thế như cất được tảng đá trong lòng, nói nhỏ:
"Mong không có chuyện gì là tốt". Nói đến đây, nàng chợt thấy Công Tôn Yến như đang suy nghĩ điều gì, Phong Diệu Thường hỏi:
"Yến tỷ, hình như tỷ có điều gì muốn nói phải không?" Công Tôn Yến đáp:
"Tôi nghĩ chắc là không có điều gì lo ngại. La Đại Đấu bị giết, đám giặc cướp ở Tần Lĩnh cũng giải tán. Tần Nguyên Hạo dưỡng thương ở Thủy Vân trang, người của Thủy Vân trang chắc biết lo liệu?".
Thật ra Công Tôn Yến cũng nghĩ đến điều "bất trắc". Công Tôn Yến chợt nhớ lại Thạch Huyền đã cho nàng biết một chuyện, đó là trang chủ Thủy Vân trang cảm kích ơn lớn của Tần Nguyên Hạo, có ý gả con gái của mình cho Tần Nguyên Hạo.
Người của Thủy Vân trang xì xầm bàn tán cho nên Thạch Huyền đã nghe biết.
Nhưng Công Tôn Yến không muốn cho Phong Diệu Thường biết chuyện này.
Sáng sớm hôm sau, Công Tôn Yến kể lại cho Lệ Nam Tinh nghe, Lệ Nam Tinh cũng rất vui mừng:
"Được, chúng ta hãy đến Thủy Vân trang tìm Tần Nguyên Hạo rồi cùng đến Tây Xương. Phong cô nương, cô và Tần Nguyên Hạo sắp đoàn tụ với nhau, xin chúc mừng". Phong Diệu Thường đỏ ửng mặt, nhưng trong lòng mừng rỡ vô hạn.
Ba người vội vã lên đường, đến chiều hôm sau đến huyện Long. Thủy Vân trang nằm ở dưới chân Tần Lĩnh. Vừa đến huyện Long đã nhìn thấy dãy núi Tần Lĩnh ở phía xa. Lệ Nam Tinh nói:
"Đêm nay chúng ta hãy ở lại huyện thành, trưa ngày mai sẽ tới Thủy Vân trang. Nếu tiếp tục đi canh ba đêm nay sẽ tới nơi. Nhưng nửa đêm đến gõ cửa nhà người hơi bất tiện. Phong cô nương, cô nương không vội chứ?".
Phong Diệu Thường đỏ mặt:
"Lệ đại ca đùa mãi, đương nhiên ngày mai đi cũng được".
Công Tôn Yến chợt bảo:
"Lệ đại ca, đại ca có chú ý tới một chuyện không?" Lệ Nam Tinh hỏi:
"Có phải cô nương bảo những người chúng ta gặp trên đường không?".
Số là hai ngày qua họ đã gặp những người cưỡi ngựa mang theo binh khí trên đường, vừa nhìn đã biết đó là những nhân vật giang hồ.
Công Tôn Yến nói:
"Đúng thế! Ở đây là nơi núi non, theo lý ít người đi đường mới phải. Không biết tại sao có nhiều nhân vật giang hồ như thế? Chả lẽ ở núi Tần Lĩnh có bang phái nào tụ hội?".
Lệ Nam Tinh nói:
"Chúng ta cứ đến Thủy Vân trang hỏi thử, chắc Vân trang chủ sẽ biết".
Phong Diệu Thường gạt đi:
"Cần gì phải nghi ngờ như thế? Chúng ta đừng để ý".
Công Tôn Yến trả lời:
"Không phải tôi thích lo chuyện bao đồng, nhưng có chút kỳ lạ".
Ba người đang nói chuyện, chợt có hai thớt ngựa chạy tới, một người kêu lên:
"Đó chẳng phải Công Tôn cô nương đó sao? Công Tôn cô nương có nhận ra tôi không?".
Hai người này nhận ra Công Tôn Yến, lập tức xuống ngựa thi lễ. Công Tôn Yến ngẩn người ra, hỏi:
"Ngài có phải Lý trại chủ ở Ẩm Mã Xuyên đó không?".
Người ấy đáp:
"Cô nương nhớ dai thật, tôi chính là Lý Hổ Nhi, còn đây là bằng hữu của tôi, Trương Bằng Phi ở trại Khiêu Hổ. Té ra năm ngoái Lý Hổ Nhi đã từng đến Hồng Anh hội thăm Công Tôn Hoàng, Công Tôn Yến từng bưng trà mời y uống.
Công Tôn Yến hỏi:
"Sao các người lại tới đây?" Lý Hổ Nhi đáp:
"Chúng tôi đi uống rượu mừng. Ngày mai phải đến Thủy Vân trang".
Công Tôn Yến thất kinh:
"Uống rượu mừng của ai?".
Lý Hổ Nhi đáp:
"Ngày mai con gái của Vân trang chủ sẽ xuất giá. Chắc cô nương biết Vân trang chủ chứ? Nửa năm trước Thạch hương chủ của quý hội đã từng đến Thủy Vân trang".
Công Tôn Yến đáp:
"Tôi có nghe Thạch Huyền nói. Con gái của ông ta tên Vân Trung Yến đúng không?" Lý Hổ Nhi. đáp:
"Đúng rồi, ngày mai là ngày vui của nàng".
Công Tốn Yến hỏi:
"Không biết ai sắp trở thành nữ tế của Vân trang chủ?".
Hồi 32
Hỏi thế gian sao lắm muộn phiền
Một đoạn tơ tình gỡ chẳng xong
Lý Hổ Nhi trả lời:
"Nghe nói là một anh hùng thiếu hiệp họ Tần!".
Y vừa nói ra câu ấy, Phong Diệu Thường cảm thấy như sấm nổ giữa trời xanh, cả Công Tôn Yến cũng trợn mắt buột miệng:
"Tần gì?".
Lý Hổ Nhi ngạc nhiên, thầm nhủ:
"Chả lẽ nàng có mối quan hệ gì với kẻ họ Tần ấy sao?" Rồi mới đáp:
"Tôi chỉ biết y họ Tần, chúng tôi nghe Vân trang chủ gả con gái mới đến đây chứ không nhận được thiệp mời của ông ta".
Trương Bằng Phi không thấy Công Tôn Yến đã đổi sắc mặt, bèn nói tiếp:
"Nghe nói anh hùng thiếu hiệp họ Tần này đã từng giúp Thủy Vân trang, chắc cô nương biết mùa xuân năm nay La Đại Đấu đến Thủy Vân trang cướp cô dâu, bị người họ Tần này giết chết. Chúng tôi đã từng bị bọn La Đại Đấu bức hiếp, lần đó chúng tôi không đến kịp để giúp, nên tuy không nhận được thiệp mời cũng phải nên đến chúc mừng và đáp tạ! Công Tôn cô nương, các người đi đâu thế? Vân trang chủ xưa nay rất hiếu khách, cũng từng có giao tình với quý hội, nếu cô nương chịu đến Thủy Vân trang, Vân trang chủ chắc sẽ rất vui mừng".
Công Tôn Yến hừ một tiếng:
"Sớm muộn gì ta cũng phải đến Thủy Vân trang, không đợi ngươi thay Vân Long mời khách".
Trương Bằng Phi nghe thế ngạc nhiên. Lý Hổ Nhi biết không ổn, vội vàng nói:
"Được, nếu Công Tôn cô nương có chuyện khác thì chúng tôi đi trước!" Rồi vội vàng lên ngựa, quên cả hỏi lên Lệ Nam Tinh và Phong Diệu Thường.
Công Tôn Yến rất bực đọc:
"Phong tỷ tỷ, tỷ đừng buồn, tôi và tỷ sẽ đến Thủy Vân trang tìm Tần Nguyên Hạo tính sổ!".
Phong Diệu Thường lúc này cảm thấy như có muôn ngàn mũi tên đâm vào tim, nàng cố kìm nước mắt mà rằng:
"Tôi còn đến Thủy Vân trang làm gì?".
Công Tôn Yến gằn giọng:
"Tìm Tần Nguyên Hạo! Cô nương tha cho y nhưng tôi thì không!" Lúc này Phong Diệu Thường không kìm được nước mắt, nàng bảo:
"Yến tỷ, tỷ đừng như thế, tôi chỉ trách mình số khổ, làm sao trách được Tần Nguyên Hạo.
Chúng tôi vốn không có hôn ước, làm sao cấm được người ta?".
Công Tôn Yến vẫn bực tức:
"Nếu không có hôn ước y cũng phải biết tình ý của tỷ giành cho y! Hừ? Tỷ còn biện giải cho y!".
Lệ Nam Tinh thở dài:
"Chuyện trên đời chẳng theo ý mình, sự thay đổi của tình trường càng khiến cho người ta bất ngờ. Chuyện hôn nhân không thể cưỡng ép, chuyện gì thuộc về quá khứ thì cứ để cho nó đi qua".
Công Tôn Yến vẫn chưa chịu:
"Theo ý của huynh, chúng ta không nghĩ đến chuyện này nữa sao?" Lệ Nam Tinh lắc đầu:
"Cô nương, cô nương đừng như trẻ con nữa".
Công Tôn Yến bĩu môi:
"Ý huynh muốn bảo một đại anh hùng như huynh thì không thèm lo đến chuyện này hay sao?".
Lệ Nam Tinh cười khổ:
"Không phải thế. Nhưng đó là chuyện người ngoài không thể quản được, vả lại còn có việc gấp hơn chuyện này nữa".
Công Tôn Yến hỏi:
"Ý huynh bảo chuyện đến Tây Xương phải không?".
Lệ Nam Tinh đáp:
"Đúng thế, đến Tây Xương giúp nghĩa quân đánh đuổi bọn Mãn Châu, chẳng phải chuyện này quan trọng hơn hay sao? Trong thiên hạ có rất nhiều chuyện không như ý, nếu đã không cứu vãn được thì chỉ đành buông xuôi". Lệ Nam Tinh nói mấy câu này thực sự để cho Phong Diệu Thường nghe.
Phong Diệu Thường gật đầu:
"Lệ đại ca nói phải".
Công Tôn Yến hỏi:
"Vậy đêm nay chúng ta có vào thành tá túc không?".
Lệ Nam Tinh cười:
"Đã đến đây, chả lẽ còn ở ngoài? Huyện Long cũng có đường đến Tây Xương, Sáng ngày mai chúng ta sẽ lên đường, nhưng không cần đến Thủy Vân trang nữa".
Công Tôn Yến nghĩ bụng:
"Các người buông xuôi nhưng ta vẫn phải làm cho ra lẽ. Được, cứ đến huyện Long rồi tùy cơ hành sự".
Ba người vào đến huyện thành, tìm một khách sạn nghỉ ngơi. Khi họ vào đến khách sạn đã có hai người ngồi ở đấy. Hai người này đều là hán tử tướng mạo thô hào, vừa nhìn đã biết là nhân vật giang hồ. Vừa bước vào cửa, chợt nghe người trẻ tuổi hơn hỏi:
"Đường nào đến Thủy Vân trang?".
Chưởng quỹ trả lời:
"Ra từ cửa nam, đi thẳng về hướng nam đến chân núi rồi rẽ sang hướng đông, ở đó chính là Thủy Vân trang".
Người lớn tuổi hơn nói:
"Ngày mai trời chưa sáng hãy kêu ta dậy. Đến trưa bọn ta phải tới Thủy Vân trang".
Chưởng quỹ trả lời:
"Khách quan hãy yên tâm. Tôi sẽ không làm lỡ dịp uống rượu mừng của hai vị ở Thủy Vân trang".
Tên tiểu nhị dắt khách về phòng, Công Tôn Yến hỏi:
"Thủy Vân trang cách đây có xa không?".
Chưởng quỹ trả lời:
"Nói xa thì không xa, bảo gần thì không gần, khoảng bốn năm mươi dặm đường. Sáng sớm ngày mai đi, đến trưa có thể tới nơi. Các vị cũng đến Thủy Vân trang uống rượu mừng ư?".
Công Tôn Yến nói:
"Không, ta chỉ hỏi mà thôi. Bởi vì từ nhỏ tôi đã nghe đại đanh của Thủy Vân trang chủ".
Chưởng quỹ cười rằng:
"Đúng thế, Vân trang chủ được người ta gọi là Tiểu Mạnh Thường, mấy ngày nay có rất nhiều khách đi ngang qua đây, cho nên tôi mới tưởng các vị cũng đến uống rượu mừng".
Ngay lúc này ở ngoài cửa có một người khách đi ngang qua. Phong Diệu Thường đang nghe chưởng quỹ nói chuyện cho nên không để ý. Người ấy đứng lại ở trước cửa, mặt lộ vẻ ngạc nhiên, kêu ồ một tiếng rồi vội vàng bỏ đi. Công Tôn Yến lường rằng đó chỉ là người muốn tìm nơi ở, tuy cảm thấy y kỳ quặc nhưng không để ý.
Lệ Nam Tình thuê hai phòng gần nhau. Hai thiếu nữ ở cùng một phòng. Phong Diệu Thường vào phòng đóng cửa lại, thì thầm:
"Yến tỷ, tỷ đừng làm càn".
Công Tôn Yến cười:
"Tỷ hãy yên tâm, tôi đâu phải là trẻ con?" Nhưng trong lòng thầm bảo:
"Tỷ gặp phải hạng đàn ông phụ bạc, tỷ không tiện ra mặt, nhưng tôi thì được!" Rồi lại nghĩ:
"May mà Tần Nguyên Hao ngày mai mới thành hôn, có thể y vẫn chưa biết tình cảm của Phong tỷ tỷ đối với y, đến khi mình nói với y, chắc có thể cứu vãn được". Vì từ nhỏ Công Tôn Yến được cha nuông chiều, cho nên nghĩ chuyện gì cũng dễ dàng, thường có những ý nghĩ hết sức kỳ quặc. Nàng tưởng rằng mình không phải là trẻ con nhưng thực sự vẫn còn là đứa trẻ.
Dùng cơm tối xong, Lệ Nam Tinh ngủ sớm để ngày mai lên đường. Phong Diệu Thường ngổn ngang tâm sự cho nên cứ xoay qua trở lại không thể nào ngủ được.
Đến gần nửa đêm, Công Tôn Yến chợt lay nhẹ nàng, nói:
"Phong tỷ tỷ, tỷ đừng nghĩ nữa, ngủ đi".
"Tỷ mặc tôi, cứ ngủ trước đi".
Công Tôn Yến cười rằng:
"Tỷ không ngủ được tôi làm sao ngủ. Tỷ phải ngủ tôi mới yên tâm. Phong tỷ tỷ, ngoan nào, nghe lời tôi, ngủ đi!" Rồi nàng đột nhiên vung tay điểm vào huyệt hôn thụy của Phong Diệu Thường. Phong Diệu Thường nằm mơ cũng không ngờ Công Tôn Yến lại điểm huyệt đạo của mình. Công Tôn Yến cười nói:
"Phong tỷ tỷ đừng trách tôi. Sáng mai tôi quay về, không chừng tỷ sẽ tạ ơn tôi đấy".
Nàng điểm rất nhẹ nhàng cho nên chỉ cần hai ba canh giờ thì huyệt đạo sẽ tự giải.
Công Tôn Yến thay áo đã hành, đẩy cửa sổ rồi lặng lẽ phóng ra. Khinh công của nàng rất cao cường, Lệ Nam Tinh ngủ ở phòng bên cạnh mà chẳng hề hay biết.
Công Tôn Yến thi triển khinh công tuyệt đỉnh, chạy hơn một canh giờ đến nơi, chỉ thấy trước cổng của Thủy Vân trang treo đèn kết hoa, quả nhiên đang có việc mừng. Nhưng lúc này đã quá canh ba, những khách đến sớm đều đã ngủ, cổng cũng đã đóng chặt, không có người trông coi. Công Tôn Yến cũng chẳng nghe ngóng được gì.
Nàng thầm nhủ:
"Mình phải tìm Tần Nguyên Hạo nói chuyện riêng với y". Chợt nhớ mình không biết Tần Nguyên Hạo, làm sao tìm y? Nhưng đã đến đây thì phải vào rồi tính tiếp. Nào ngờ vừa mới nhảy vào sân, chợt có người quát:
"Ai, đứng yên!".
Trong chốc lát, trong bụi hoa, sau hòn non bộ có bảy tám người phóng ra. Trong đó có hai hán tử cao lớn, một người vừa ra tay đã phóng ám khí, còn người kia thì đã chém thanh giới đao xuống.
Công Tôn Yến phất ống tay áo đánh rơi ba mũi thấu cốt đinh. Khi hán từ kia vung đao chém tới, nàng cũng đã rút kiếm ra khỏi vỏ rồi xoay người tiến lên. Chỉ nghe keng một tiếng, thanh miến đao đã bay lên không trung. Nàng đã dùng tự quyết chữ "giảo" cuộn thanh miến đao của người ấy vuột khỏi tay, lập tức nói lớn:
"Ta đến đây không phải đánh nhau!".
Người ấy kêu lên:
"Ồ, té ra là một nữ tử!".
"Ta còn tưởng bọn giặc cướp ở Tần Lĩnh!" Một giọng nói lạnh lùng vang lên:
"Chả lẽ Tần Lĩnh không có nữ tặc sao?".
Công Tôn Yến tức giận:
"Nói bậy! Tên La Đại Đấu ở Tần Lĩnh làm tùy tùng cho ta còn không xứng! Các người dám bảo ta là nữ tặc. Hừ hừ, ta vốn đến đây không phải đánh nhau, nhưng nếu các người nhất định đánh thì ta cũng chiều!".
Những người này là đệ tử của Vân Long, nghe nàng có khẩu khí lớn như thế hoảng hồn. Nhị đệ tử Lâm Cương của Vân Long là đầu lĩnh của bọn người này, y cầm chuôi kiếm hỏi:
"Vậy cô nương đến đây vì chuyện gì, có thể cho biết hay không?".
Công Tôn Yến ngẫm nghĩ, việc đã đến nước này chỉ đành nói rõ với họ. Vì thế đáp sẵng:
"Bảo tân lang ra đây, ta có chuyện muốn nói với y!".
Đám người ấy nghe xong thì đều ngạc nhiên. Lâm Cương hỏi:
"Tân lang đã ngủ say, cô nương muốn gặp y làm gì?" Công Tôn Yến đáp:
"Ta đương nhiên có chuyện mới tìm y, ngủ say cũng bảo y dậy!" Lâm Cương trả lời:
"Được, cô nương cứ đợi một lát, tôi sẽ kêu y".
Lâm Cương đang định vào bẩm cáo với sư phụ, nhưng Vân Long đã bước ra, nghe có nàng thiếu nữ xinh đẹp muốn tìm nữ tế của mình không khỏi ngạc nhiên.
Công Tôn Yến hỏi:
"Đây có phải là Vân trang chủ không? Xin thứ vãn bối nửa đêm xông vào quý trang, kinh động lão tiền bối".
Vân Long liếc nhìn Công Tôn Yến rồi trả lời:
"Đúng thế, lão phu chính là Vân Long, xin hỏi cô nương tên họ là chi?".
Công Tôn Yến nói:
"Vãn bối là Công Tôn Yến. Tổng đà chủ của Hồng Anh hội Công Tôn Hoằng là phụ thân của vãn bối, Vân trang chủ chắc biết".
Vân Long vừa nghe không khỏi cả kinh, nói:
"Té ra lệnh tôn là Công Tôn đà chủ? Vân mô từ lâu đã ngưỡng mộ lệnh tôn, đã từng nhận ơn của quý hội, hiếm có dịp cô nương ghé đến, xin thứ cho tiểu đồ không biết chuyện".
Công Tôn Yến nói:
"Nào dám, nào dám. Vãn bối chưa báo tên mà đã cầu kiến, đó là cái sai của vãn bối. Chỉ vì có chuyện gấp cho nên cũng đành chịu". Vân Long thắc mắc lắm, hỏi:
"Ồ, vậy cô nương đến đây là có chuyện gì?".
Công Tôn Yến đáp:
"Nghe nói lệnh ái ngày mai sẽ xuất giá?" Vân Long trả lời:
"Đúng thế". Công Tôn Yến nói:
"Chính vì chuyện này mà vãn bối đến. Xin tiền bối hãy gọi lệnh tế ra, tôi phải nói chuyện với y, lúc đó tiền bối sẽ hiểu ngay".
Vừa nói đến đây, con gái và con rể của Vân Long cũng chạy ra, Vân Long nói:
"Các con đến đây, Công Tôn cô nương muốn gặp các con". Công Tôn Yến thấy đó là nữ tế của ông ta, nhưng Vân Long lại không muốn để cho họ nói chuyện riêng, vì thế mới kéo theo con gái của mình.
Công Tôn Yến hỏi:
"Đây có phải là Vân Trung Yến tỷ tỷ không? Được, tỷ đứng đây thì càng tốt, chúng ta cứ ba mặt một lời nói cho rõ".
Vân Trung Yến đã nổi lòng ghen tuông, nàng lạnh lùng:
"Cô nương tìm chàng làm gì?" Công Tôn Yến nói:
"Tôi khuyên tỷ đừng lấy y thì tốt hơn, y là kẻ bạc tình!".
Vân Trung Yến chợt đổi sắc mặt, lạnh lùng:
"Hay lắm, đại sư ca, té ra huynh đã có cô nương khác mà lại giấu muội!".
Tân lang lo lắng, vội vàng nói:
"Công Tôn cô nương, sao lại nói thế. Tôi và cô nương có quen biết nhau đâu?".
Công Tôn Yến chưng hửng, dậm chân:
"Đâu có dễ dàng thế, đương nhiên ta chẳng quen biết gì với ngươi, ta muốn nói Phong Diệu Thường. Chả lẽ ngươi bảo không hề quen biết Phong Diệu Thường?".
Tân lang nhíu mày:
"Phong Diệu Thường là ai, tôi chưa hề nghe cái tên này!".
Công Tôn Yến giận dữ:
"Không ngờ ngươi phủi sạch sành sanh. Vậy ngươi có phải là Tần Nguyên Hạo không?".
Tân lang ngạc nhiên:
"Ồ, bây giờ ta đã hiểu. Có phải cô nương tìm người tên Tần Nguyên Hạo không?".
Công Tôn Yến hỏi:
"Ngươi không phải Tần Nguyên Hạo?".
Tân lang cười:
"Tôi họ Tần, nhưng Tần Nguyên Hạo không phải là tôi!".
Vân Long xen vào:
"Y là tên tiểu đồ Tần Thiếu Dương. Tần Nguyên Hạo là cao đồ của chưởng môn phái Võ Đang. Công Tôn cô nương, cô nương muốn tìm ai?".
Công Tôn Yến đỏ mặt, lúc này mới biết mình nhận lầm người, nên gây ra trò cười cho thiên hạ. Lúc này khách khứa cũng đã kéo tới, họ không biết xảy ra chuyện gì, chỉ nghĩ có kẻ thù đến gây sự cho nên định giúp đỡ. Lý Hổ Nhi và Trương Bằng Phi cũng có mặt trong số đó.
Công Tôn Yến thẹn thùng, nhận ra hai người ấy thì trút giận về phía họ:
"Toàn là các ngươi hồ đồ, tại sao các ngươi lại bảo tân lang là Tần Nguyên Hạo?".
Lý Hổ Nhi không nén được, cười:
"Cô nương có nhớ nhầm không? Tôi chỉ nói tân lang họ Tần chứ đâu có bảo là Tần Nguyên Hạo?".
Công Tôn Yến vùng vằng:
"Các người bảo tân lang là anh hùng thiếu hiệp đã giết chết La Đại Đấu, đó chẳng phải là Tần Nguyên Hạo hay sao?".
Trương Bằng Phi rất phóng khoáng, chịu nhận sai trước, đáp:
"Đó là tại tôi hồ đồ. Tôi cũng như cô nương, cứ nghĩ hai người họ là một người".
Vân Long giải thích:
"Là thế này, Thiếu Đương là đại đệ tử của tôi, đã xuất sư từ lâu, hai năm nay ở nhà thì ít mà ở ngoài thì nhiều. Mùa xuân năm nay bọn giặc cướp Tần Lĩnh đến sinh sự, hôm trước hắn mới từ Tiểu Kim Xuyên trở về. Danh tiếng của tiểu đồ đương nhiên không bằng Tần thiếu hiệp của phái Võ Đang, cho nên có nhiều bằng hữu không thân thiết, có thể bàn qua tán lại tưởng rằng hai người họ là một.
Thực ra cũng tại tôi, vì tôi không muốn kinh động nhiều người không thân thiết, không gửi thiệp mời cho họ khiến họ đến Thủy Vân trang mới biết tên của tân lang".
Tần Thiếu Dương nghe thế trong lòng đương nhiên khó chịu. Vân Trung Yến ghé vào tai y, thì thầm:
"Bọn người ấy chỉ biết phái Võ Đang có một Tần thiếu hiệp, nhưng trong lòng muội chỉ có một mình huynh!" Tần Thiếu Dương nghe thế cảm thấy mát lòng mát dạ.
Số là Vân Long quả thật cũng muốn gả con gái cho Tần Nguyên Hạo, nhưng Trung Yến và đại sư ca đã có tình cảm từ trước, biết cha có ý như thế, không đợi ông ta mở miệng đã thổ lộ tâm sự của mình. Vân Long lại thử Tần Nguyên Hạo, biết Tần Nguyên Hạo cũng có người khác, nếu hai bên đã không chấp nhận, Vân Long cũng đành thôi vậy. Thực ra ông ta không phải không thích Tần Thiếu Dương, nếu không đã không lập y làm đệ tử chưởng môn. Sở dĩ ông ta muốn gả con gái của mình cho Tần Nguyên Hạo là vì muốn báo đáp ân đức của chàng mà thôi. Sau đó ông ta biết tâm sự của con gái lập tức sai người đến Tiểu Kim Xuyên bảo đại đệ tử về thành hôn.
Lại nói Công Tôn Yến sau khi biết sự thực hổ thẹn đến nỗi đỏ mặt, chỉ đành xin lỗi tân lang và tân nương. Vân Long cười nói:
"Chỉ là một chút hiểu lầm nhỏ nhoi, cần gì phải để trong lòng? Hiếm có dịp cô nương đến đây, xin mời hãy ở lại, ngày mai cùng uống chén rượu mừng".
Công Tôn Yến hỏi:
"Không biết Tần Nguyên Hạo có còn ở quý trang hay không? Tôi muốn mời y cùng tôi đi gặp Phong Diệu Thường, sau đó cả bọn chúng tôi sẽ đến uống rượu mừng của lệnh ái!" Vân Long đáp:
"Tần thiếu hiệp đang ở tệ trang, nhưng hôm nay có chút việc đã ra huyện thành, giờ vẫn chưa quay về".
Lâm Cương nói:
"Thật lạ, sao Tần thiếu hiệp vẫn chưa quay về? Có cần bảo vài người vào thành tìm y không?".
Công Tôn Yến chột dạ hỏi:
"Hôm nay Tần Nguyên Hạo ra thành mặc đồ màu gì?".
Lâm Cương nói:
"Mặc một bộ trường bào màu lam mới may".
Công Tôn Yến kêu ối chao một tiếng:
"Hình như Tần Nguyên Hạo đã gặp chúng tôi. Tôi phải về đây!" Nàng là người tính tình nóng vội, nói xong mấy câu thì đã vội vàng bỏ chạy khiến cho bọn người ở Thấy Vân trang sơn trang đều ngạc nhiên. Vân Long chỉ đành bảo vài đồ đệ đi theo xem có chuyện gì.
Công Tôn Yến đoán không sai, người khách đứng ở ngoài của khách sạn chính là Tần Nguyên Hạo. Lúc đó Tần Nguyên Hạo vì thấy Phong Diệu Thường đứng cùng với một thiếu hiệp, nên không bước vào kêu nàng. Nhưng sau khi bỏ đi thì chẳng thể nào yên lòng.
Tần Nguyên Hạo vẫn chưa biết Kim Trục Lưu làm mai cho mình, nhưng có một người thích làm mai hơn Kim Trục Lưu đã đến núi Võ Đang nói chuyện với sư phụ của chàng. Người này chính là bang chủ của Cái Bang Trọng Trường Thống. Té ra ban đầu Trọng Trường Thống không thích mối duyên này, nhưng sau khi bị Kim Trục Lưu vặt cho một trận ở núi Tồ Lai thì ông ta cảm thấy đuối lý, vì thế chạy đến núi Võ Đang làm mai trước Kim Trục Lưu. Lôi Chấn Tử cảm thấy chuyện này rất buồn cười bởi vì ông ta chưa biết nhà gái thế nào mà đã làm mai. Trọng Trường Thống nói rõ thân phận của phía nhà gái thì bảo:
"Phong Tử Siêu là một tên khốn kiếp nhưng con gái của y gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Cho nên không cần hỏi đến Phong Tử Siêu, chỉ cần con gái của y chấp nhận là được. Phong cô nương đã thương mến lệnh đồ từ lâu, ăn mày già đã biết chuyện này. Giờ đây chỉ coi người làm sư phụ như ông có phản đối hay không mà thôi". Lôi Chấn Tử nể mặt Trọng Trường Thống, chỉ đành chấp nhận không can thiệp vào. Tuy thế trong lòng ông ta cũng không đồng ý lắm.
Hai năm qua, Tần Nguyên Hạo cũng mong ngóng tin tức của Phong Diệu Thường, chàng đã dưỡng bệnh ở Thủy Vân trang nửa năm, lần đầu tiên ra huyện thành thì lại gặp Phong Diệu Thường. Nhưng chàng không ngờ Phong Diệu Thường đi cùng một người khác.
Tần Nguyên Hạo rời khỏi khách sạn, lòng vẫn nghi ngờ không yên:
"Chả lẽ nàng đã kết hôn? Nếu không sao lại đi cùng một người khác? Nhưng biết đâu chừng họ chỉ tình cờ gặp nhau Tần Nguyên Hạo cảm thấy lòng dạ rối bời, không thể nào yên tâm được. Chàng ngồi ngẩn người ra trong quán trà một hồi, bất giác trời đã tối, chàng chợt nảy ra một ý:
"Mình cần gì ở đây đoán bừa, chi bằng đêm nay âm thầm đến xem, nếu họ ở cùng phòng thì chính là phu thê".
Đến canh ba, Tần Nguyên Hạo rón rén vào trong khách sạn, đúng lúc gặp Công Tôn Yến vừa chạy ra khỏi khách điếm nhưng hai người không gặp mặt nhau. Khách sạn này không quá mười căn phòng, Tần Nguyên Hạo bước về phía trước thăm dò.
Chàng bước đến trước căn phòng của Phong Diệu Thường, len lén nhìn vào khe cửa sổ. Phong Diệu Thường đang nằm xoay mặt ra ngoài ngủ say. Tần Nguyên Hạo nhận ra nàng, lòng đã bớt căng thẳng, lòng thầm nhủ:
"Té ra nàng và người ấy chẳng phải phu thê". Trong lúc mừng rỡ chàng không cần thận, tay chạm vào song cửa phát ra tiếng.
Lệ Nam Tinh nằm ngủ ở phòng bên cạnh, vừa nghe tiếng thì biết có người quấy rối.
Lệ Nam Tinh đẩy cửa sổ trầm giọng quát:
"Ai?" Vì chàng không biết đối phương là ai cho nên không dám phóng ám khí. Tần Nguyên Hạo đương nhiên không tiện giải thích, nghe chàng quát cả kinh vội vàng bỏ chạy.
Tần Nguyên Hạo bỏ chạy, Lệ Nam Tinh nghĩ chàng là kẻ xấu, đang định đuổi theo chợt chột dạ:
"Không xong, tại sao không nghe họ lên tiếng? Bản lĩnh của hai người không kém, dù không phát giác, nhưng nghe tiếng mình kêu lẽ nào vẫn nằm im!".
Lệ Nam Tinh chỉ đành đẩy cửa vào, kêu lên:
"Công Tôn cô nương, Phong cô nương!" Nhưng chàng vẫn không nghe tiếng trả lời. Lệ Nam Tinh không còn nghi ngại gì, chàng bước vào phòng đốt đèn lên xem, chỉ thấy có một mình Phong Diệu Thường nằm ngủ trên giường.
Lệ Nam Tinh vừa nhìn đã biết nàng bị người ta điểm hôn huyệt, nhưng chàng không biết đó là Công Tôn Yến. Rồi chàng vội vàng giải huyệt cho Phong Diệu Thường hỏi ngay:
"Cô nương ... cô nương có bị tặc tử hiếp đáp không?" Phong Diệu Thường dụi mắt hỏi:
"Tặc tử nào? Ồ, Yến tỷ đi đâu rồi, huynh có biết không?".
Lệ Nam Tinh yên lòng, không hỏi nhiều nữa mà nói:
"Được, tôi đi bắt tên tặc tử đây!" Rồi nghĩ bụng:
"Có lẽ bọn chúng không chỉ một người, Phong Diệu Thường bị bọn chúng điểm huyệt đạo, Công Tôn Yến bản lĩnh cao hơn, chưa bị ám toán đã đuổi ra. Hừ, bọn chúng nửa đêm mà dám chạy vào phòng nữ khách, chắc chắn là thứ giặc hái hoa!".
Lệ Nam Tinh ghét ác như thù, bèn lập tức đuổi theo!
Lúc nãy Lệ Nam Tinh chạy vào phòng Phong Diệu Thường, Tần Nguyên Hạo đang ở trên mái nhà. Chàng thấy Lệ Nam Tinh chạy vào phòng của Phong Diệu Thường, bất giác lòng đau nhói, thầm nhủ:
"Bọn họ dẫu không phải là phu thê thì ít nhất cũng là tình nhân. Mình không thể để cho họ đuổi kịp được! Nếu Diệu Thường thấy mình cô ấy sẽ nghĩ như sao đây?".
Khinh công của Tần Nguyên Hạo hơi kém hơn Lệ Nam Tinh, nhưng chàng đã chạy trước thành ra Lệ Nam Tinh không đuổi kịp.
Lại nói Công Tôn Yến từ Thủy Vân trang chạy về, thấy một thiếu hiệp đang chạy như bay. Tần Nguyên Hạo đã thay đồ dạ hành, Công Tôn Yến kêu lên:
"Này, ngươi là ai?" Hỏi chưa dứt, chợt nghe Lệ Nam Tinh ở phía sau kêu lên:
"Mau chặn y lại, y là giặc hái hoa đấy!".
Tần Nguyên Hạo thầm kêu khổ, nhủ rằng:
"Đêm hôm khuya khoắt mà mình đứng ngoài cửa sổ nhìn lén Diệu Thường, làm sao giải thích cho y biết đây? Nhân lúc Diệu Thường vẫn chưa tới mình phải chạy cho nhanh!".
Nào ngờ khinh công của Công Tôn Yến rất cao cường, Tần Nguyên Hạo toan chạy trước, Công Tôn Yến đã chặn trước mặt chàng, quát:
"Đứng lại, ta muốn hỏi ngươi!".
Tần Nguyên Hạo kêu lên:
"Cô nương, tôi không phải là giặc hái hoa đâu!" Rồi chàng lách người chạy vòng qua hướng khác.
Công Tôn Yến hỏi:
"Ngươi không phải là giặc hái hoa cần gì phải lo?" Lệ Nam Tinh kêu lên:
"Bắt y lại rồi tính tiếp?" Công Tôn Yến đuổi theo như hình với bóng, quát:
"Ngươi là ai, nói mau, nếu không đừng trách cô nương không khách sáo!".
Tần Nguyên Hạo đáp:
"Tôi chỉ là khách qua đường, tôi đang có việc gấp, cô nương hãy tha cho tôi!".
Công Tôn Yến nói:
"Vớ vẩn, ngươi không nói thực là không được!" Rồi nàng đuổi tới điểm một chỉ vào sau lưng của chàng.
Tần Nguyên Hạo chỉ đành trở tay chụp lại, phá giải chiêu ấy của Công Tôn Yến.
Công Tôn Yến vừa đấu mấy chiêu thì đã biết chàng là người của phái Võ Đang.
Lệ Nam Tinh đuổi tới, nói to:
"Công Tôn cô nương, hãy giao tên tặc tử cho tôi".
Chàng tự nhủ một mình có thể bắt được Tần Nguyên Hạo cho nên không muốn lấy hai địch một.
Công Tôn Yến hỏi:
"Khoan đã, có phải ngươi muốn chạy về Thủy Vân trang không?".
Tần Nguyên Hạo thất kinh, hỏi lại:
"Sao cô nương biết?".
Công Tôn Yến nói:
"Vậy ngươi chẳng phải là Tần ..." Nói chưa dứt lời, chợt thấy Phong Diệu Thường đã lật đật chạy tới, kêu lên:
"Yến tỷ hãy nương tay, y ... y là Tần Nguyên Hạo!" Phong Diệu Thường không biết chuyện gì đã xảy ra, chỉ tưởng Công Tôn Yến tìm Tần Nguyên Hạo gây sự, từ Thủy Vân trang đánh ra tới đây.
Lệ Nam Tinh cả kinh:
"Cái gì, y ... y là Tần Nguyên Hạo? Vậy tại sao y điểm huyệt đạo của cô nương?".
Công Tôn Yến bật cười nói:
"Tôi đã điểm huyệt đạo của Phong tỷ tỷ".
Tần Nguyên Hạo đỏ ửng cả mặt, vái dài Phong Diệu Thường:
"Chúc cho hai người bạc đầu bên nhau. Đêm nay tôi chỉ muốn gặp cô nương một lần chứ không có ác ý gì, cô nương có thể cho tôi đi chưa?".
Phong Diệu Thường ngơ ngác hỏi:
"Huynh nói gì? Huynh giờ đây đã là nữ tế của Thủy Vân trang, tôi phải chúc huynh cùng Vân cô nương bạc đầu bên nhau mới phải".
Công Tôn Yến cười ha hả, nàng không biết nên nói trước với ai mới phải thế rồi chỉ đành nói:
"Y không phải là tân lang!" Cười xong thì mới giải thích:
"Tôi đã đến Thủy Vân trang, tân lang tên Tần Thiếu Đương, là đại đệ tử của Vân trang chủ. Phong tỷ tỷ, lần này chúng ta đã hiểu lầm nhiều lắm, cả tôi cũng gây ra chuyện".
Tần Nguyên Hạo ngạc nhiên:
"Xin hỏi cô nương tên họ là chi, chúng ta không quen biết nhau, tại sao lại đến Thủy Vân trang tìm tôi?".
Công Tôn Yến vừa cười vừa đáp:
"Tôi tên Công Tôn Yến, là tỷ muội với Phong tỷ tỷ, Phong tỷ tỷ tưởng huynh là nữ tế của Vân gia, nhưng tỷ tỷ không dám hỏi cho rõ ràng, tôi đành đi thay tỷ ấy".
Tần Nguyên Hạo vừa lo vừa mừng:
"Té ra nàng vẫn chưa thay lòng, nếu không nàng đã chẳng sợ mình làm nữ tế nhà người khác. Nhưng nàng có quan hệ gì với người này?".
Công Tôn Yến biết Tần Nguyên Hạo đã hiểu nhầm liền nói:
"Tần thiếu hiệp, huynh có phải là bằng hữu tốt của Kim Trục Lưu không?".
Tần Nguyên Hạo đáp:
"Chính thế. Tôi đang định dò hỏi tung tích của y".
Công Tôn Yến hỏi:
"Được, vậy hai người lẽ ra phải là bằng hữu. Huynh có biết y là ai không?" Phong Diệu Thường mới nói tiếp:
"Lệ đại ca là huynh đệ kết bái của Kim Trục Lưu, nhờ y cứu mạng muội, nếu không hôm nay chúng ta đã không gặp nhau".
Lệ Nam Tinh nói:
"Cô nương chỉ nói đúng một phần ba, thực ra cô nương đã cứu tôi trước, còn người giúp cho cô nương là Công Tôn cô nương chứ không phải tôi".
Thế rồi nàng kể hết mọi chuyện ra. Lúc này Tần Nguyên Hạo mới biết là hiểu nhầm, vội vàng đáp tạ Lệ Nam Tinh và Công Tôn Yến.
Công Tôn Yến hỏi:
"Ba người chúng tôi đang định đến Tây Xương tìm Kim Trục Lưu, huynh có đi không?" Nói đến đây, nàng chợt bật cười rồi nói tiếp:
"Tôi đã biết rõ rồi mà còn hỏi, có Phong tỷ tỷ huynh nhất định phải đi cùng! Tần thiếu hiệp, tôi xưa nay thích đùa với người khác, huynh đừng chê cười".
Tần Nguyên Hạo đã hiểu ra mọi chuyện, lòng cảm thấy ngọt ngào, thế rồi mới bật cười:
"Công Tôn cô nương, cô đã đoán sai rồi tôi phải quay về Thủy Vân trang".
Công Tôn Yến hỏi lại:
"Huynh không đến Tây Xương ư"" Tần Nguyên Hạo đáp:
"Ngày mai tôi còn phải dự hôn lễ, cô nương không biết ư?".
Công Tôn Yến nói:
"Ồ, té ra là thế. Tôi còn tưởng huynh không đi".
Tần Nguyên Hạo nghiêm nghị:
"Dự hôn lễ xong tôi nhất định phải đi".
Tần Nguyên Hạo nói tiếp:
"Vân trang chủ rất mến khách, các người ..." Nói chưa dứt lời thì chỉ thấy bọn Lâm Cương đã chạy tới phía họ.
Rồi cả bọn cùng đến Thủy Vân trang, đến khi dự xong hôn lễ thì bốn người cùng lên đường đến Tây Xương.
Tần Nguyên Hạo và Phong Diệu Thường trải qua nhiều trở ngại mới gặp lại nhau, cả hai đều rất hạnh phúc. Lệ Nam Tinh thấy cảnh ấy thì càng đau lòng hơn.
Công Tôn Yến đã nhận ra điều đó, nàng thầm nhủ:
"Trước đây mình cứ nghĩ Lệ đại ca và Phong tỷ tỷ thương yêu nhau. Nhưng Lệ đại ca tại sao lại buồn bã như thế?".
Nàng vẫn giữ nỗi thắc mắc trong lòng, đến Tây Xương mà vẫn chưa có dịp hỏi.
Hôm nay, họ đi vòng qua Tây Xương đến núi Đại Lương.
Trúc Thanh Hoa và Lý Quang Hạ ra nghênh đón, Công Tôn Yến gặp Trúc Thanh Hoa mừng rỡ, cười nói:
"Muội đến đây uống rượu mừng của tỷ, hai người đã định ngày tốt chưa?".
Trúc Thanh Hoa đỏ mặt, thì thầm:
"Vẫn chưa. Ý của cha là phải đợi lấy lại Tây Xương mới lo chuyện cho chúng tôi". Trúc Thanh Hoa cũng giống như Công Tôn Yến, đều là cô nương phóng khoáng vô tư.
Công Tôn Yến cười:
"Chắc mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Võ công của Trúc bá phụ tuyệt thế, lại có nhiều hào kiệt giúp đỡ, lẽ nào không đoạt lại Tây Xương được?".
Trúc Thanh Hoa nói:
"Muội đừng coi thường kẻ địch, Soái Mạnh Hùng võ công không kém, gần đây triều đình lại liên tục tăng viện cho Tây Xương, nói không chừng bọn chúng sẽ tấn công chúng tôi trước. Ồ những người bằng hữu của tỷ là ai ...".
Công Tôn Yến cười:
"Ở đây có một trưởng bối của tỷ, tỷ phải đến hành lễ trước".
Trúc Thanh Hoa thấy Lệ Nam Tinh, Tần Nguyên Hạo cũng trạc tuổi mình, còn Phong Diệu Thường hình như nhỏ hơn nàng, bất giác ngạc nhiên:
"Ai là trưởng bối của tôi?" Chưa dứt câu Lý Quang Hạ đã bước tới, cung kính ra mắt Lệ Nam Tinh:
"Lệ thúc thúc giá lâm, tiểu điệt Lý Quang Hạ xin ra mắt". Té ra Tần Nguyên Hạo đã cho chàng biết mối quan hệ giữa Lệ Nam Tinh với Kim Trục Lưu. Công Tôn Yến cười bảo:
"Lệ đại ca là nghĩa huynh kết bái của Kim Trục Lưu".
Trúc Thanh Hoa liền hành lễ với Lệ Nam Tinh rồi mọi người vào sơn trại, Trúc Thượng Phụ nghe nói Lệ Nam Tinh là nghĩa huynh của Kim Trục Lưu thì có ý thử bản lĩnh của chàng, khi hành lễ thì dùng tay đẩy nhẹ, Lệ Nam Tinh cảm thấy một luồng đại lực tựa như nâng mình lên, chàng vội vàng dùng thân pháp trụ vật.
Trúc Thượng Phụ vuốt râu cười nói:
"Lệ lão đệ quả nhiên danh bất hư truyền, tôi nghe nói lão đệ và Kim Trục Lưu đại náo kinh thành, đúng là anh hùng xuất thiếu hiệp".
Lệ Nam Tinh nói mấy câu khiêm nhường rồi hỏi:
"Kim Trục Lưu có đến đây hay không?".
Trúc Thượng Phụ:
"Ai bảo y đến đây?" Lệ Nam Tinh nói:
"Nghe Công Tôn đà chủ bảo, Kim Trục Lưu và người của Cái Bang đã rời khỏi Dương Châu. Khi ở Bắc Kinh tôi cũng nghe y bảo sẽ đến chỗ của tiền bối, tôi tưởng y đến đây".
Trúc Thượng Phụ:
"Có lẽ trên đường họ gặp trắc trở, vài ngày nữa chắc sẽ tới".
Lệ Nam Tinh không gặp được Kim Trục Lưu có hơi ngạc nhiên. Lòng thầm nhủ:
"Bọn họ lên đường trước mình tại sao vẫn chưa tới? Chả lẽ Kim Trục Lưu đã âm thầm vào Tây Xương?".
Trúc Thượng Phụ hình như biết ý chàng, nói:
"Hiện nay có mười mấy đại nội cao thủ đến tiếp xúc, binh lực tăng thêm mấy phần, trong thành canh gác rất nghiêm ngặt, tôi đang đợi nghĩa quân ở Tiểu Kim Xuyên đến mới cùng tấn công vào thành. Nếu không có gì cần thiết, người của chúng ta tốt nhất đừng vào Tây Xương". Lệ Nam Tinh vốn muốn đến Tây Xương dò thám tin tức, nghe Trúc Thượng Phụ nói như thế cũng đành tạm gác qua.
Mấy ngày nữa trôi qua mà vẫn chẳng thấy Kim Trục Lưu, Lệ Nam Tinh lo lắng nhưng phải giữ kỷ luật của nghĩa quân, cho nên không thể tự tiện xuống núi chỉ đành đợi trong trại.
Người rầu rĩ nhất là Công Tôn Yến. Trúc Thanh Hoa và Phong Diệu Thường đều đã có đôi có cặp, nàng không tiện xen vào họ. Công Tôn Yến ở trong nữ doanh, cũng không thể thường xuyên gặp mặt Lệ Nam Tinh, không biết thế nào mà mỗi khi buồn bã nàng thường muốn gặp Lệ Nam Tinh. Nàng không dám nói ra tâm sự này, tại sao như thế? Cả bản thân nàng cũng cảm thấy lạ. Trước khi gặp Lệ Nam Tinh, nàng vốn là người rất vô tư hồn nhiên.
Đêm nọ, Công Tôn Yến di dạo một mình trong rừng, chợt nghe có tiếng tiêu như thở như than từ trong rừng vọng lại. Công Tôn Yến nghĩ:
"Chắc Lệ đại ca cũng buồn bã như mình, một mình nấp trong rừng thổi tiêu. Nhưng tại sao y cứ thổi mãi khúc nhạc đau buồn đến thế?" Rồi bất giác nàng đi về hướng tiếng tiêu Chỉ thấy Lệ Nam Tinh thổi một hồi rồi đột nhiên thở dài, cất giọng ngâm một bài thơ. Công Tôn Yến không hiểu ý thơ nhưng nghe tiếng ngâm rất đau khổ, càng buồn hơn tiếng tiêu lúc nãy.
Hồi 33
Bốn bề vắng lặng không tăm cá
Tứ phía phong sương đường chập chùng
Công Tôn Yến nghĩ:
"Mình phải đùa với y để y khỏi rầu rĩ nữa". Rồi nàng len lén vốc một nắm cát vãi về phía Lệ Nam Tinh.
Lẽ ra Lệ Nam Tinh đã có thể nghe thấy, nhưng lúc này nỗi buồn đang xâm chiếm lòng chàng. Hơn nữa đây là căn cứ địa của nghĩa quân, chàng không hề đề phòng có người đánh lén. Nên khi Công Tôn Yến ra tay thì chàng mới phát giác có người.
Công Tôn Yến vãi cát vào huyệt tiếu yêu của chàng, Lệ Nam Tinh cười hì một tiếng. Nếu bị đánh vào huyệt tiếu yêu sẽ cười không ngớt cho đến khi đứt hơi mà chết.
Nhưng Công Tôn Yến chỉ vãi một nắm cát, vả lại nàng không mạnh tay, công lực của Lệ Nam Tinh lại hơn nàng, cho nên chỉ cười một tiếng thì huyệt đạo đã bị chàng vận khí hóa giải cho nên không cười nữa.
Công Tôn Yến bước ra cười hì hì, Lệ Nam Tinh ngạc nhiên:
"Té ra là muội, muội cũng thật nghịch ngợm".
Công Tôn Yến cũng cười:
"Muội không thích khúc nhạc thê lương như thế, huynh hãy thổi khúc nhạc nào nghe vui tai được không?".
"Xin lỗi, huynh không biết".
"Vậy muội hát cho huynh nghe nhé?".
Lệ Nam Tinh không muốn làm nàng cụt hứng:
"Hay lắm, hay lắm. Muội hát đi!".
Công Tôn Yến hát rằng:
"Có chàng thiếu hiệp chẳng biết mùi vị buồn tẻ là gì.
Lên lầu cao ngâm nga khúc nhạc trải lòng mình".
Bài ca này chê cười những người trẻ tuổi không bệnh mà rên rỉ, Lệ Nam Tinh nghĩ bụng:
"Làm sao muội biết tâm sự của ta?" Rồi cười khổ:
"Công Tôn cô nương, tôi thật ngưỡng mộ cô nương".
"Ngưỡng mộ điều gì?".
"Ngưỡng mộ cô là một tiểu cô nương không biết lo không biết buồn".
"Huynh đừng làm ra vẻ già dặn, chẳng qua huynh chỉ lớn hơn muội vài tuổi, năm nay muội đã mười chín, đã không còn là một tiểu cô nương nữa!".
Lệ Nam Tinh cười rằng:
"Được, coi như là đại tiểu thư".
Công Tôn Yến bĩu môi:
"Chúng ta đừng đấu khẩu nữa, huynh bảo muội không biết âu sầu, vậy huynh âu sầu chuyện gì?".
"Sao muội biết ta âu sầu?".
"Huynh làm sao gạt được muội, suốt quãng đường huynh cứ lặng lẽ, ai mà không biết? Mỗi lần thổi tiêu, huynh lại thích thổi khúc nhạc đau khổ này".
Lệ Nam Tinh nghĩ thầm:
"Không ngờ tiểu nha đầu này lại quan tâm mình đến thế". Chàng cười rằng:
"Ta chẳng có chuyện gì lo buồn cả. Nhưng trên đời này có hai loại người, một loại giống muội, đều cảm thấy lạc quan với tất cả mọi chuyện. Một loại người giống ta, bi quan nhiều, lạc quan ít. Đó chẳng qua là do tính cách mỗi người mà thôi!".
Công Tôn Yến lắc đầu:
"Muội không tin, chả lẽ mỗi người sinh ra đều có tính cách không đổi sao? Tại sao huynh cứ lặng lẽ không vui, chắc là có nguyên nhân gì đó?".
"Có lẽ hoàn cảnh xuất thân của huynh không giống muội. Huynh lớn lên ở đảo hoang ngoài biển khơi, từ nhỏ không có bằng hữu cho nên tính tình cô độc".
Công Tôn Yến cười:
"Theo muội thấy, bề ngoài huynh tuy lạnh nhưng lòng rất nhiệt tình".
Lệ Nam Tinh cười:
"Thật vậy ư? Hình như muội còn hiểu huỳnh hơn cả bản thân huynh!" Rồi chàng thầm nhủ:
"Mình chỉ tưởng nàng là ả nha đầu không hiểu chuyện, té ra nàng lại tinh tế đến thế, coi như cũng có thể là tri kỷ của mình".
Công Tôn Yến tiếp tục:
"Lệ đại ca, huynh nói không sai. Bằng hữu phải quan tâm nhau. Nếu huynh có chuyện gì không vui, nên nói với người khác sẽ đỡ buồn hơn.
Nhưng e rằng trong lòng huynh, muội chẳng thể là bằng hữu của huynh được!".
Lệ Nam Tinh nói:
"Đừng nói như thế. Công Tôn cô nương, tôi ..." Công Tôn Yến ngẩng đầu lên nhìn chàng, hỏi:
"Thế nào?".
"Tôi rất cảm kích ý tốt của cô nương. Nhưng phiền não của tôi là do tự chuốc lấy, chẳng liên quan gì đến người khác. Tôi tin rằng rồi dần dần mọi chuyện sẽ qua.
Sau này tôi sẽ cho cô nương biết".
"Bây giờ huynh không chịu nói với muội, muội cũng không ép, nhưng mong phiền não của huynh sẽ mau chóng qua đi".
"Ồ hình như có người kêu ta. Đêm đã khuya, cô nương hãy quay về trước".
Công Tôn Yến nghiêng tai lý nó nghe, quả nhiên hình như Tần Nguyên Hạo đang gọi Lệ Nam Tinh. Nàng tuy vô tư hồn nhiên, nhưng lúc này hoa tình vừa mới nở, nàng sợ bị Tần Nguyên Hạo nhìn thấy, bèn bảo rằng:
"Được, muội về trước đây.
Huynh hãy ngủ cho khỏe, ngày mai muội sẽ lại đến tìm huynh".
Sau khi Công Tôn Yến bỏ đi, Lệ Nam Tinh ngồi lặng lẽ nhìn sao trời, lòng thầm nhớ Sử Hồng Anh, chàng bất giác rơi nước mắt.
Tần Nguyên Hạo kêu lên:
"Lệ đại ca!" Tiếng chân càng lúc càng gần. Lệ Nam Tinh lau nước mắt:
"Tôi ở đây".
Tần Nguyên Hạo nói:
"Té ra huynh ngồi thổi sáo một mình ở đây, đệ tìm đến khổ. Lý Mậu đã đến!" Lệ Nam Tinh hỏi:
"Còn Kim Trục Lưu?".
"Nhưng Kim Trục Lưu vẫn chưa tới!".
Lệ Nam Tinh ngạc nhiên:
"Tại sao?".
"Nghe nói một mình y đi Tây Xương. Lý Mậu vừa tới, đệ đã ra tìm huynh. Nếu muốn biết rõ ràng huynh hãy hỏi Lý Mậu".
Lại nói Công Tôn Yến sau khi trở về nữ doanh, suốt đêm nằm trên giường mà cõi lòng xao xuyến, nàng xoay qua trở lại, khó khăn lắm mới đi vào giấc ngủ. Đến khi tỉnh dậy thì nghe Phong Diệu Thường kêu:
"Nha đầu lười biếng, hãy mau thức dậy.
Ta và tỷ đi gặp một tỷ tỷ mới đến".
Công Tôn Yến ngồi dậy, hỏi:
"Là ai thế!" "Tỷ tỷ này tên gọi Thạch Hà Cô, là vị hôn thê của Trần Quang Chiếu. Trần Quang Chiếu cũng là bằng hữu của Kim Trục Lưu". Hai người đang nói thì Trúc Thanh Hoa và Thạch Hà Cô đã bước vào. Công Tôn Yến gặp mặt Thạch Hà Cô, đang định hỏi nàng thì Trúc Thanh Hoa đã nói:
"Có một người đã ra đi!" Công Tôn Yến hỏi:
"Là ai?" Trúc Thanh Hoa nói:
"Là Lệ Nam Tinh!" Công Tôn Yến thất kinh:
"Lệ đại ca đi đâu?".
Thạch Hà Cô kể:
"Là thế này, khi chúng tôi đi ngang Lư Châu nghe nói anh em Sử Bạch Đô và Tứ đại hương chủ của Lục Hợp bang đang đi ở phía trước chúng tôi, đã vào đến Tây Xương. Kim Trục Lưu nghe tin này rất nôn nóng. Chúng tôi vốn định đi vòng qua Tây Xương vào thẳng đây, Kim Trục Lưu biết tin này thì một mình chạy đến Tây Xương".
Phong Diệu Thường cười:
"Đêm qua chúng tôi đã bàn với Trúc lão tiền bối nên tiếp ứng Kim Trục Lưu như thế nào". Cả bốn người ngồi trò chuyện một hồi thì ai nấy tản ra đi làm việc của mình.
Đêm nay Công Tôn Yến lại không chợp mắt được, nàng chợt nghĩ:
"Tại sao mình cứ nhớ đến y? Chả lẽ mình đã thích Lệ đại ca?" Nàng chợt phát hiện bí mật trong lòng mình nên không khỏi đỏ mặt.
Công Tôn Yến là thiếu nữ dám yêu dám nhận, nàng nghĩ thầm:
"Nam nữ thương yêu nhau là chuyện thường tình, dù mình thích Lệ đại ca cũng chẳng phải là chuyện xấu hổ. Lệ đại ca mạo hiểm vì bằng hữu, tại sao mình không thể mạo hiểm vì y?
Mình sẽ đến Tây Xương giúp Lệ đại ca. Ai cười thì mặc họ. Được, cứ như thế".
Công Tôn Yến nghĩ xong rón rén ngồi dậy đẩy cửa sổ lẻn ra ngoài.
Công Tôn Yến vội vàng xuống núi nên không mang lương khô. Nàng thi triển khinh công chạy một mạch đến trời sáng bất giác cảm thấy hơi đói. Ở giữa chốn hoang vắng không có gì ăn, Công Tôn Yến chỉ đành chạy vào rừng hái quả dại.
Lúc này trời đã cuối thu, mùa đông sắp tới nhưng khí hậu ở cao nguyên tây bắc còn lạnh hơn cả mùa đông ở Giang Nam. Công Tôn Yến tìm kiếm cả buổi trời mà chẳng có thứ gì cho vào bụng được. Nàng thở dài, thầm nhủ:
"Mình đành nhịn đói chạy tiếp". Vừa ra khỏi rừng khí trời đột nhiên thay đổi, hoa tuyết rơi xuống trắng xóa, Công Tôn Yến đang buồn bực, chợt nghe như có tiếng xe ngựa, nàng vui mừng thầm nhủ:
"Có người đến thật là tốt". Nàng nghĩ chưa dứt chợt nghe có tiếng quát tháo.
Công Tôn Yến trèo lên cây cao nhìn ra ngoài rừng. Nàng thấy có hai người ăn mặc như võ quan đang chặn chiếc xe la tra hỏi. Trên xe có bảy tám người, trong đó chỉ có một ông già, còn lại đều là phụ nữ, trên tay cầm các loại nhạc khí, hình như là những nghệ nhân hát xướng trên giang hồ.
Hai võ quan nọ quát:
"Xuống mau, xuống mau! Các người là ai, từ đâu đến, đang đi đâu?".
Công Tôn Yến nhìn thấy hai võ quan nọ không khỏi thất kinh.
Hai võ quan này một cao một thấp, người cao thân hình khôi ngô, đầu trọc lóc láng bóng như bôi dầu, người thấp hai huyệt thái dương nhô cao, trong eo cắm một đôi phán quan bút. Công Tôn Yến tuy chưa từng gặp hai người này, nhưng vừa nhìn bộ dạng thì có thể đoán được lai lịch.
Công Tôn Yến thầm nhủ:
"Hai người này đầu sao cũng là nhân vật thành danh trên giang hồ, cả phụ nữ yếu đuối mà cũng bức hiếp. Mình không thể không ra mặt được. Nhưng cha bảo bản lĩnh của hai người này hơn mình".
Nghĩ chưa dứt, chỉ thấy người trên xe đều đã xuống. Ông già đáp rằng:
"Chúng tôi là gánh hát ở Xuyên Tây, đang đến Tây Xương".
Số là người cao chính là Bành Cự Vinh, còn kẻ thấp sử dụng cây phán quan bút chính là Liên Thành Hổ. Bành Cự Vinh kêu lên:
"Ồ, té ra là đến Tây Xương. Người là chủ gánh hát?" Ông già cúi người đáp:
"Đúng thế". Không biết có phải vì ông ta hoảng sợ hay không mà khi nói thì giọng run run. Bành Cự Vinh kéo ông qua một bên:
"Được, ngươi hãy nghỉ ngơi". Khi kéo ông ta thì đầu ngón tay đã âm thầm bóp vào mạch môn của ông già, vừa thử biết ngay ông già chẳng hề có nội lực, ông già tựa như biết đối phương chỉ cần dồn nội lực vào mình sẽ chết ngay cho nên ngoan ngoãn đứng sang một bên. Bành Cự Vinh buông tay, lòng thầm nhủ:
"Dù Hà lão đại có biến thành tro mình cũng nhận ra, người này không biết võ công, giọng nói lại chẳng giống, chắc không phải Hà lão đại".
Liên Thành Hổ chợt chỉ một thiếu nữ trong đám nói:
"Ả là ai?" Ông già đáp:
"Là dưỡng nữ của tôi". Trên tay thiếu nữ cầm một cái lê hoa giản, Liên Thành Hổ hỏi:
"Người có biết kể chuyện sách không?" Thiếu nữ cúi đầu đáp:
"Đã học vài năm, nhưng hát không được hay lắm". Liên Thành Hổ nói:
"Hát một đoạn cho ta nghe thử".
Thiếu nữ chợt đỏ ửng mặt, cầm lê hoa giản mà tay run run, ông già giục:
"Đừng sợ, đại nhân sẽ không làm khó con, con cứ hát một đoạn".
Rồi nàng cất giọng hát một đoạn trong Tây xuân ký, tuy giọng hát hơi run nhưng nghe cũng tạm được. Hai người Liên, Bành lắng nghe khẩu âm của nàng, quả thực có mang khẩu âm miền Xuyên Tây, lòng thầm nhủ:
"Con gái của Hà lão đại hát giọng Sơn Đông, xinh xắn hơn ả này nhiều, nhưng thân hình lại rất giống nhau, bọn chúng đi lại trên giang hồ rất giỏi thuật cải trang, phải coi kỹ hơn chứ đừng để ả gạt".
Liên Thành Hổ nhìn thiếu nữ với ánh mắt dò xét rồi chợt bảo:
"Rút cây ngân châm trên đầu ngươi cho ta xem thử?".
Ngân châm cũng chẳng phải là vật hiếm gì, nhưng trên cây ngân châm có khắc hình con chim phượng đang múa trông rất sống động. Cây ngân châm chỉ bằng ngón tay út nhưng hình con chim phượng hiện lên rất rõ ràng! Liên Thành Hổ khen rằng:
"Thủ công thật tinh tế!" Bành Cự Vinh hừ một tiếng rồi nói:
"Ngươi chỉ là một nữ tử hát xướng, sao lại có vật trang sức quý giá như thế này?".
Ông già khúm núm cười rằng:
"Đây là sính lễ của nó, vị hôn phu của nó làm việc trong ngân lâu, tay nghề rất giỏi, chính hắn đã khắc cây ngân châm này".
Liên Thành Hổ hỏi:
"Tại sao không khắc vật khác mà lại khắc chim phượng?".
Ông già nói:
"Điều đó thì tôi không biết, chắc là lấy theo ý nghĩa loan phượng hòa minh".
Công Tôn Yến không nhìn thấy rõ, cây ngân châm nhưng nghe họ hỏi đáp như thế thì không khỏi thất kinh:
"Té ra đó là Thái Phượng tỷ tỷ. Thuật dị dung của tỷ ấy thật khéo léo, nếu không có cây ngân châm này mình đã không nhận ra".
Lần này hai người Bành, Liên mang quà của Tào Chấn Dung đến Tây Xương tặng cho Soái Mạnh Hùng. Soái Mạnh Hùng là tướng cầm trọng binh, Tào Chấn Dung muốn lôi kéo y cho nên phái hai thủ hạ đắc lực từ xa mang quà đến.
Lại nói hai người Bành, Liên nhìn thấy cây ngân châm liền nghi hoặc, lòng thầm nhủ:
"Giọng nói và diện mạo tuy không giống, nhưng lại biết kể chuyện sách, biết hát sách, hình chim phượng khắc trên cây ngân châm hợp với tên ả. Nếu đúng là ả này, mình sẽ bắt về dâng cho Tào công tử".
Liên Thành Hổ trầm ngâm một lát rồi hỏi gặng:
"Các người đến Tây Xương làm gì?".
Ông già trả lời:
"Ngày kia là đại hôn của Soái tướng quân, ngài đã mời chúng tôi đến góp vui. Đây là thiệp mời".
Liên Thành Hổ phất tay, gạt:
"Không cần xem nữa, ta không nghi ngờ các ngươi nói dối, nhưng bọn ta phải dắt ả này đi".
Ông già cả kinh:
"Nó là trụ cột trong gánh hát chúng tôi, chuyện này ...".
Liên Thành Hổ cười:
"Chính vì điều đó ta mới dắt ả đi!".
Ông già run rẩy:
"Nhưng chúng tôi cũng phải đến Tây Xương, tại sao ngài lại dắt nó đi?".
Liên Thành Hổ đáp:
"Xe la của các ngươi đi rất chậm, ngựa của bọn ta chạy nhanh. Ta dắt ả đi cùng, ngày mai có thể đến Tây Xương". Té ra Liên Thành Hổ đã nghi ngờ thiếu nữ này chính là Hà Thái Phượng, cho nên y muốn dắt nàng đi trước, đến phủ tướng quân thì chỉ cần dùng nước sạch rửa mặt có thể khiến nàng lộ ra mặt thật. Hà Thái Phượng thầm thất kinh, đang suy nghĩ cách ứng phó, Liên Thành Hổ đã cười:
"Nào, ta và nàng cùng ngồi một ngựa, nàng đừng sợ, ta sẽ không bắt nạt nàng".
Nói chưa đứt thì chợt nghe tiếng ngựa hí rất thê lương. Hai người Bành, Liên vội vàng quay đầu nhìn, cả hai không khỏi biến sắc, Liên Thành Hổ há hốc mồm.
Té ra sau khi cả hai xuống ngựa thì hai thớt ngựa gặm cỏ bên bìa rừng, nhưng lúc này chợt chạy lồng lên, trên mông hai thớt ngựa cắm một cây trủy thủ sáng quắc.
Hai người Liên, Bành vừa lo vừa giận, đồng thanh quát:
"Tên tiểu tặc ở đâu dám ám toán ngựa của ta?" Rồi không thèm để ý đến Hà Thái Phượng nữa mà vội vàng đuổi theo.
Công Tôn Yến phóng hai ngọn trủy thủ rồi cố ý phát ra tiếng cười. Hai người Liên, Bành một người đuổi theo ngựa, một người chạy vào rừng tìm kiếm. Bản lĩnh thật của Công Tôn Yến thua Bành Cự Vinh nhưng khinh công lại hơn hẳn y. Mà Bành Cự Vinh ở chỗ sáng, nàng ở chỗ tối, cây trong rừng um tùm, Công Tôn Yến có ý muốn bỡn cợt y, làm sao để cho y tìm ra được.
Công Tôn Yến dụ cho y chạy ra xa rồi mới lẳng lặng quay trở lại.
Bành Cự Vinh tìm không thấy càng thất kinh. Y chỉ tưởng bản lĩnh của kẻ địch hơn hẳn mình, sợ rằng trong rừng sẽ bị ám toán nên vội vàng chạy ra.
Lúc này Liên Thành Hổ đã đuổi kịp theo hai thớt ngựa, nhưng ngựa lại chảy máu quá nhiều, tuy chưa chết nhưng cũng không thể dùng được nữa. Hai người bàn bạc một hồi, Liên Thành Hổ hơi nhát gan, nói:
"Khinh công của người ấy giỏi như thế, không biết có phải là Kim Trục Lưu không?".
Bành Cự Vinh đáp:
"Chỉ cần chúng ta đi cùng nhau thì tên tiểu tử Kim Trục Lưu chẳng làm gì được" Liên Thành Hổ:
"Không biết y có còn đồng bọn hay không, theo tôi thấy, chi bằng chúng ta cứ chạy gấp đến Tây Xương có lẽ tốt hơn. Dù sao ả này cũng đến Tây Xương, cử để ả đi một mình vậy. Không lo chẳng có cách tìm ra lai lịch của ả".
Lúc này bọn chúng đã mất ngựa, nếu dắt theo thiếu nữ này càng phiền hơn.
Công Tôn Yến thấy bọn chúng đã đi xa mới bước ra gặp Hà Thái Phượng, Hà Thái Phượng vừa lo vừa mừng, reo:
"Công Tôn muội muội, té ra muội nấp trên cây giúp tỷ. Nhưng tại sao muội đến đây?".
Công Tôn Yến trả lời:
"Nói ra thì dài, vậy còn tỷ?".
Hà Thái Phượng nói:
"Lúc nãy muội không nghe thấy ư? Tỷ đến Tây Xương mãi nghệ!".
Công Tôn Yến:
"Muội không tin tỷ chịu đến góp vui cho Soái Mạnh Hùng. Mau nói thực!".
Lúc này Hà Thái Phượng mới nói:
"Góp vui là giả, hành thích là thực". Công Tôn Yến thất kinh, kêu:
"Soái Mạnh Hùng võ nghệ cao cường, không thể đùa được!".
Hà Thái Phượng nói:
"Chính vì y võ nghệ cao cường cho nên chúng ta mới phải hợp lực với nhau". Rồi nàng giải thích:
"Đây là kế hoạch của Lý Đôn! Ngày kia có rất nhiều hảo hán đến 'góp vuí cho Soái Mạnh Hùng".
Công Tôn Yến gật đầu:
"Đúng thế, nghe nói tỷ và Lý Đôn đã thành thân. Tỷ phu đâu?" Hà Thái Phượng đáp:
"Chàng đã đi trước". Công Tôn Yến nhìn ông chủ gánh hát râu tóc bạc phơ mà lòng thắc mắc, nàng buột miệng:
"Lão bá này là ...".
Hà Thái Phượng nói:
"Người là bằng hữu của cha tôi, đúng là một chủ gánh hát.
Muội tưởng ..." Công Tôn Yến cười gượng:
"Muội cũng tưởng là cha của tỷ cải trang.
Thuật dị dung của tỷ thật khéo léo".
Hà Thái Phượng hỏi:
"Tỷ đã nói xong chuyện của tỷ, còn muội thì sao?" Công Tôn Yến cười:
"Muội cũng muốn nhờ tỷ cải trang để muội đi theo gánh hát này".
Rồi nàng lần lượt kể lại mọi chuyện cho Hà Thái Phượng. Hà Thái Phượng mới nói:
"Điều này thì dễ, tỷ có dịch dung đơn, sau khi cải trang đảm bảo sẽ không ai nhận ra muội". Rồi nói:
"Nếu muội không bận chuyện gì, ngày kia có thể cùng nghĩa quân núi Đại Lương đánh thẳng vào Tây Xương".
Công Tôn Yến hỏi:
"Sao tỷ biết nghĩa quân sẽ đánh vào Tây Xương? Muội cũng từ Đại Lương ra đây, tại sao không biết tin này?".
Hà Thái Phượng nói:
"Theo kế hoạch của Lãnh Thiết Tiều ở phía Tiểu Kim Xuyên thì tối ngày kia sẽ đánh vào Tây Xương, ông ta cầm một toán nghĩa quân đang đến núi Đại Lương hợp với Trúc Thượng Phụ, cha của tỷ phụ trách liên lạc giữa Tiểu Kim Xuyên với núi Đại Lương, có lẽ chiều tối hôm nay sẽ tới nơi".
Hai người bàn bạc một hồi, Hà Thái Phượng lấy đồ nghề ra cải trang cho Công Tôn Yến trở thành một người bệnh trong gánh hát.
Lại nói Lệ Nam Tinh một mình đến Tây Xương, lúc này cũng đang gặp khó khăn cho nên không vào thành được!
Chàng vốn muốn dùng khinh công, nửa đêm lẻn vào Tây Xương, nhưng khi đến nơi bất giác sợ lạnh mình.
Hồi 34
Song hùng liên thủ bắt ác tặc
Hiệp lực đồng tâm đặt kế hay
Chỉ thấy trên tường thành đèn đuốc rực rỡ, gươm đao sáng choang, binh lính đứng canh đặc như sắp gặp đại địch. Trong tình hình ấy, Lệ Nam Tinh đương nhiên không thể nào lẻn vào được.
Lệ Nam Tinh cũng định cải trang thành dân quê vào thành lúc ban ngày, nhưng chàng lại không biết nói thổ ngữ của Tây Xương, vả lại mang theo thanh huyền thiết bảo kiếm nên chắc chắn sẽ bị nhận ra ngay.
Lệ Nam Tinh đang khổ sở vì không có kế nào hay, bất giác trăng đã lên đến đỉnh đầu, lúc này đã gần tới canh bốn. Tuyết rơi phủ trắng xóa ngọn núi gần đó. Lệ Nam Tinh ngẩng đầu lên nhìn, chợt thấy có hai người ăn mặc theo kiểu võ quan xuất hiện.
Lệ Nam Tinh thất kinh, vội vàng nấp vào.
Chợt nghe có người vỗ nhẹ ba cái, hai võ quan ấy cũng vỗ ba cái đáp lại, sau tiếng vỗ tay có một người chui ra khỏi bụi cỏ, Lệ Nam Tinh nói:
"Té ra hai người này có hẹn với người khác. Thật lạ, tại sao họ lại lén lút như thế?".
Chàng nghĩ chưa dứt, chợt nghe có người quát:
"Lý Đôn, té ra là ngươi! Ngươi xem ta là ai?" Rồi y ném chiếc nón xuống, để lộ đầu trọc lóc sáng bóng. Té ra tên đầu trọc ấy là Bành Cự Vinh, còn người kia là Liên Thành Hổ. Cả hai người bị Công Tôn Yến dọa cho một trận cho nên hoảng hồn không dám qua đêm trên đường cho nên nửa đêm đã đến Tây Xương. Không ngờ tới ngọn núi ở phía đối diện thành Tây Xương thì nghe Lý Đôn vỗ ba tiếng.
Hai người Liên, Bành là kẻ già dặn giang hồ, vừa nghe đã biết ngay đó là tiếng vỗ tay làm ám hiệu của người khác, vì thế bọn chúng cũng vỗ tay lại để dụ người ấy ra.
Lý Đôn vốn hẹn với hai gián điệp trong thành, nhưng trong đêm tối, chàng nấp trong bụi cỏ nên không nhìn thấy rõ, vừa thấy hai bóng người xuất hiện tưởng rằng đó là người của mình, nghe đối phương vỗ ba tiếng thì liền nhảy ra.
Hai người Liên, Bành vừa phát giác ra Lý Đôn liền đó Liên Thành Hổ đã lao tới.
Lý Đôn thầm kêu lên không xong, lúc đó Bành Cự Vinh cũng nhảy bổ tới. Lý Đôn quát:
"Xem đây!" Rồi chàng vung tay lên, một trái ám khí hình cầu nổ bùng ra, khói trắng lan tỏa, trong làn khói có nghe tiếng loạt soạn Bành Cự Vinh đảo người ra phía sau, lập tức vỗ chưởng liên tục, quát:
"Ám khí này có thể làm gì được ta?" Chưởng phong kêu lên vù vù, ánh lửa bị tắt ngấm. Khói bay tứ tán, mai hoa châm trong khói cũng bị y đánh rơi!
Nhưng sau khi khói bay Lý Đôn đã biến mất. Bành Cự Vinh cười lạnh:
"Ngươi có trốn lên đằng trời! Liên huynh, chúng ta chia nhau lục soát!" Liên Thành Hổ nghĩ bụng:
"Không cần phải phí sức, chúng ta sẽ có cách buộc y ra!".
Lúc đầu Lệ Nam Tinh chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, sau đó mới thấy Lý Đôn phóng ra ám khí hơi ngạc nhiên:
"Đây là độc vụ kim châm liệt diễm đạn của Thiên ma giáo, sao người này lại biết dùng?" Rồi chàng chợt nhớ ra:
"Chả trách nào mà mình thấy tên y quen thuộc, té ra y chính là người đã học được Bách độc chân kinh". Chính Kim Trục Lưu đã kể lại chuyện này cho chàng. Chàng biết Lý Đôn là bằng hữu của Kim Trục Lưu cho nên đương nhiên không đứng yên nhìn. Bành Cự Vinh đang đánh đá lửa, Lệ Nam Tinh chợt nhảy ra rút kiếm chém về phía y.
Bành Cự Vinh đã nhận ra không phải là Kim Trục Lưu, cười lạnh nói:
"Ngươi là ai mà dám lo chuyện bao đồng?" Trong tiếng cười lạnh y đã phát ra hai đòn Phách không chưởng.
Chưởng phong của Bành Cự Vinh vốn có thể đánh bạt các loại đao kiếm bình thường, nhưng đây là cây huyền thiết bảo kiếm nặng đến cả trăm cân, chưởng phong của Bành Cự Vinh chẳng làm gì được.
Trong màn chưởng phong kiếm ảnh, chỉ thấy Lý Nam Tinh lách người, cây huyền thiết bảo kiếm vẫn chém xuống. Bành Cự Vinh cả kinh muốn chạy cũng không kịp, Lệ Nam Tinh chém xuống một kiếm, chặt người y ra thành hai đoạn!
Lệ Nam Tinh cảm thấy ngực như bị giáng một nhát búa, chàng cũng thầm thất kinh, lúc đó mới biết mình đã giết một cao thủ thuộc hàng nhất lưu trên võ lâm".
Lúc đầu Liên Thành Hổ cũng coi thường Lệ Nam Tinh, tưởng rằng chàng chỉ là một tiểu tử trẻ tuổi, Bành Cự Vinh có thể đối phó nổi. Nào ngờ vừa mới một chiêu Bành Cự Vinh đã bị chàng chém chết. Đến khi Liên Thành Hổ nhận ra thì cứu đã không kịp nữa. Liên Thành Hổ vừa kinh vừa giận, quát:
"Tiểu tử, hôm nay không phải ngươi chết thì ta vong!" Rồi hai bút điểm tới. Lệ Nam Tinh trở tay chém tới một kiếm. Soạt một kiếm vang lên, tà áo đã bị dầu bút trái của y đâm xuyên qua.
Lệ Nam Tinh vội vàng thay đổi chiến thuật, múa cây huyền thiết bảo kiếm thành một vòng ánh sáng che toàn thân rồi bước sát tới Liên Thành Hổ. Song bút điểm tứ huyệt của Liên Thành Hổ là tuyệt kỹ trên võ lâm, nhưng gặp phải huyền thiết bảo kiếm thì không thể nào phát huy được sở trường.
Liên Thành Hổ đã biết đối phương sử dụng bảo kiếm, nhưng không ngờ huyền thiết bảo kiếm lại nặng nề như thế. Y sử dụng những chiêu số linh diệu, cố gắng né tránh chạm phải kiếm của đối phương, nhưng Lệ Nam Tinh đâu phải là kẻ tầm thường, Liên Thành Hổ tránh được chiêu thứ nhất không tránh được chiêu thứ hai, trong lúc kịch chiến kiếm quang của Lệ Nam Tinh mở rộng, chàng chém tới ngang eo đối thủ bằng một chiêu Hoành phong đoạn vân. Liên Thành Hổ đành giơ hai cây bút lên đỡ, y nghĩ hai cây bút của mình được rèn bằng tinh cương, dù cho có chạm phải bảo kiếm cũng chưa chắc gãy. Nào ngờ gặp phải huyền thiết bảo kiếm thì soạt một kiếm, hai cây bút của Liên Thành Hổ đã bị chặt gãy, hổ khẩu đã bị chảy máu đầm đìa!
Lý Đôn kêu lên:
"Để lại mạng cho y!" Lệ Nam Tinh gắt:
"Được, ta sẽ lấy gậy ông đập lưng ông!" Rồi chàng đẩy mũi kiếm về phía trước điểm vào huyệt đạo của Liên Thành Hổ.
Lý Đôn vui mừng ra mặt:
"Các hạ có phải là Lệ Nam Tinh nghĩa huynh của Kim Trục Lưu không?" Lệ Nam Tinh đáp:
"Đúng thế, đây chắc là Lý Đôn đại ca. Sao huynh biết tiểu đệ là Lệ Nam Tinh?".
Lệ Nam Tinh đáp:
"Tôi nhận ra thanh huyền thiết bảo kiếm này".
Lệ Nam Tinh vui mừng:
"Huynh có gặp Kim Trục Lưu chưa? Có phải huynh đang đến Tây xương gặp y không?".
"Đúng thế".
"Tây Xương đang phòng thủ nghiêm ngặt, e con ruồi cũng không bay lọt qua được!".
"Đừng lo tôi đã có cách".
Chưa dứt lời, chợt nghe ba tiếng vỗ tay vang lên, ở góc núi có xuất hiện hai bóng người. Lệ Nam Tinh tưởng rằng kẻ địch, đang định rút kiếm Lý Đôn đã bước tới vỗ ba tiếng.
Hai người hớt hải chạy tới, một người nói:
"Lý đại ca, không xong, không có cách nào cả!".
Lúc này bọn họ đã phát hiện cái xác ở dưới đất và Lệ Nam Tinh, cả hai không khỏi kinh hoảng. Lý Đôn cười:
"Lệ đại ca là bằng hữu của chúng ta còn kẻ nằm ở dưới đất là tôi tớ của Tào Chấn Dung. Lúc nãy tôi nhận lầm người suýt tý nữa đã sa vào tay bọn chúng, may mà có Lệ đại ca rút kiếm tương trợ".
Hai người không hẹn mà đều ồ lên một tiếng:
"Hai kẻ này có phải là Bành Cự Vinh và Liên Thành Hổ không?".
Lý Đôn cười rằng:
"Huynh không ngờ chứ gì, chỉ trong vòng một chiêu mà bọn chúng đã bị Lệ đại ca đánh bại!".
Hai người nghe xong thì đều khâm phục sát đất. Lệ Nam Tinh thầm kêu một tiếng hổ thẹn, nhủ rằng:
"Nếu không nhờ huyền thiết bảo kiếm, chỉ e kẻ bị thương là mình".
Rồi Lý Đôn giới thiệu:
"Đây là Lưu đại ca, còn đây là Quan đại ca, họ đều là người của chúng ta, chúng ta vào thành Tây Xương được hay không là nhờ họ".
Người họ Quan cười khổ sổ:
"Chỉ e không thể vào được!".
Lý Đôn hỏi:
"Một người dắt một người bằng hữu vào không được sao?".
Người họ Lưu nói:
"Ngày kia Soái Mạnh Hùng kết hôn, y sợ hảo hán giang hồ thừa cơ vào thành gây sự cho nên mấy ngày nay canh gác rất nghiêm ngặt, chỉ cho phép đi ra chứ không cho đi vào. Dù cho quan quân dưới trướng y muốn dẫn người thân vào thành cũng không được. Hai người lại nói tiếng của vùng khác, e rằng chẳng còn cách nào nữa!".
Lý Đôn mỉm cười:
"Tôi có một cách". Rồi mò người Liên Thành Hổ lấy ra một cái tráp.
Vừa mở tráp ra nhìn đã thấy có một đôi dưa hấu bằng ngọc. Lý Đôn nói:
"Cặp dưa hấu này có lẽ đến cả vạn lượng bạc".
Lệ Nam Tinh nói:
"Ý của Lý đại ca có phải là giả mạo thành người của tướng phủ hay không? Nhưng Sử Bạch Đô và Diệp Mộ Hoa đều có thể nhận ra tiểu đệ!".
Lý Đôn lại mò xác Bành Cự Vinh mà vẫn không phát hiện ra thư tín, món quà này chỉ ghi tên Tào Chấn Dung chứ không ghi rõ do ai đem đến.
Hai người Liên, Bành xuất thân là đại đạo giang hồ, lại có quen biết với Sử Bạch Đô, mà tướng phủ lại không thể thu nhận đại đạo giang hồ, Tào Chấn Dung không muốn để người ta bắt bẻ mình cho nên đã không viết thư giới thiệu.
Lý Đôn cười bảo:
"Tào Chấn Dung không ghi rõ do ai tặng quà, mấy người tặng quà, chúng ta cứ giả mạo thành tùy tùng của Liên Thành Hổ".
Hai người Quan, Lưu vỗ tay:
"Cách này rất hay, trước ngày kết hôn, Soái Mạnh Hùng chắc sẽ rất bận rộn. Chắc chắn y sẽ không để ý đến những kẻ tùy tùng như chúng ta".
Lệ Nam Tinh ngờ vực:
"Lẽ nào Liên Thành Hổ ngoan ngoãn nghe theo chúng ta?".
Lý Đôn đáp:
"Lệ đại ca tinh thông dùng độc, lẽ nào không biết biện pháp lấy độc công độc?".
Lệ Nam Tinh vỡ lẽ ra:
"Đáng tiếc vì tôi ghét dùng độc hại người cho nên không bao giờ mang theo thuốc độc trên người".
Lý Đôn nói:
"Thuốc độc cũng như đao kiếm, chỉ cần dùng đúng thì có hề gì? Lệ đại ca, huynh hãy giải huyệt đạo cho tên này trước". Lệ Nam Tinh nghe chàng nói như thế đoán biết chàng đã chuẩn bị sẵn.
Quả nhiên trong khi Lệ Nam Tinh giải huyệt đạo cho Liên Thành Hổ, Lý Đôn đã đâm một cây độc châm vào người Liên Thành Hổ.
Liên Thành Hổ chỉ cảm thấy ngực hơi nhói lên. Y biết ngay độc tính của loại độc châm này rất lợi hại, bèn giận quát:
"Ngươi muốn giết thì cứ việc, cần gì phải hành hạ ta như thế?".
Lý Đôn nói mau:
"Ngươi dắt bọn ta vào, sau khi xong việc ta sẽ đưa thuốc giải cho ngươi, nếu không tính mạng của ngươi chẳng thể giữ nổi trong ba ngày".
Liên Thành Hổ nửa tin nửa ngờ trầm ngâm không nói.
Lý Đôn gằn giọng:
"Bọn ta là người của nghĩa quân nói là làm".
Liên Thành Hổ rối bời trong lòng, vẫn im lặng không nói, Lý Đôn đã đoán được y đang nghĩ gì, chàng bảo:
"Sau khi xong chuyện ngươi không thể trở về tướng phủ nữa. Nhưng ngươi vốn là con nhà võ, cần gì phải làm tôi tớ cho người ta? Từ nay ngươi phải đổi tà theo chính, phú quý tuy không có duyên với ngươi, nhưng ít ra đêm ngủ cũng yên giấc. Đó chẳng tốt hay sao?".
Liên Thành Hổ nghe sắc mặt lúc xanh lúc đỏ, hận không thể chui xuống đất trốn.
Liên Thành Hổ tuy đã đem thân vào tướng phủ, nhưng khác hẳn với Bành Cự Vinh.
Vì công danh lợi lộc Bành Cự Vinh đã không ngại phản bội sư môn cam chịu làm ưng khuyển. Còn Liên Thành Hổ vốn là con em nhà võ học thế gia, chỉ vì kết giao lầm kẻ xấu cho nên mới từng bước đi vào con đường tối. Mấy năm nay đã từng chịu nhục ở chốn quan trường, mỗi khi đêm về tự xét lại cũng cám thấy mình đã làm nhục gia môn.
Lý Đôn nói mấy câu đó trúng tim đen của y, y không khỏi thầm hổ thẹn, nhủ rằng:
"Quá lắm chỉ là chết, nếu bị người ta mắng là ưng khuyển, chi bằng chết vì hiệp nghĩa còn để lại tiếng thơm. Huống chi đi lần này cũng chưa chắc chết!" Nghĩ đến đây liền quệt mồ hôi nói:
"Được, tôi nghe theo Lý đại ca!".
Lý Đôn giỏi thuật cải trang, vì thế hai người giả mạo thành tùy tùng của Liên Thành Hổ, quả nhiên đã vào Tây Xương thuận lợi.
Sau khi vào thành, vốn là phải đến khách sạn nghỉ ngơi, sau đó mới cùng Liên Thành Hổ đến phủ tướng quân tặng quà. Theo lý Đôn, mấy ngày nay có rất nhiều người đến tặng quà, tuy bảo người của tướng phủ có thân phận không tầm thường, nhưng Soái Mạnh Hùng cũng chưa chắc đến khách sạn bái kiến sứ giả, quá lắm chỉ là khi Liên Thành Hổ đến phủ tướng quân thì y đích thân tiếp kiến.
Nào ngờ Lý Đôn chỉ đoán được một nửa. Soái Mạnh Hùng không đến nhưng đã nhờ Sử Bạch Đô thay mình ra nghênh tiếp.
Họ chưa đến khách sạn đã thấy Sử Bạch Đô đang chờ ở đấy. Y quen biết với Liên Thành Hổ, vừa thấy Liên Thành Hổ đã bật cười ha hả:
"Té ra là huynh, nhưng huynh và Bành huynh xưa nay chẳng rời nhau, sao lần này Bành huynh không tới?".
Liên Thành Hổ chỉ đành bịa chuyện:
"Y phải đi cùng Tào công tử vào kinh".
Sử Bạch Đô vừa như nói vừa như hỏi:
"Té ra là thế. Liên huynh, lần này huynh tới đây phải ở lại đây vài ngày. Hiếm có dịp chúng ta gặp nhau, có thể chỉ điểm cho tôi vài đường bút pháp được không?".
Khi hai cao thủ gặp nhau thường khen ngợi tuyệt kỹ của đối phương, đó chỉ là những lời khách sáo của Sử Bạch Đô, nhưng Liên Thành Hổ nghe thế đỏ mặt. Đôi phán quan bút của y đã bị Lệ Nam Tinh chặt gãy nào có thể chỉ điểm được gì nữa?
Lòng thầm nhủ:
"Không thể để cho y thấy sơ hở". Đành cười gượng rằng:
"Tiểu đệ nào dám múa rìu qua mắt thợ?".
Sử Bạch Đô nghe Liên Thành Hổ nói như thế mới hơi để ý, quả nhiên thấy y không mang theo binh khí, bất giác hơi ngạc nhiên, cười rằng:
"Chả lẽ huynh đã đánh rơi phán quan bút?".
Liên Thành Hổ lúng túng cười đáp:
"Trong thành Tây Xương cao thủ đầy rẫy, tôi cần gì phải mang theo binh khí?" Thật ra lời này không thể che đậy cho mình, Sử Bạch Đô nghĩ bụng:
"Đến đây mà ngươi không chịu mang theo binh khí, chả lẽ trên đường ngươi không sợ?" Nhưng Liên Thành Hổ là người của Tào Chấn Dung, đương nhiên y không nói dối. Sử Bạch Đô tuy thắc mắc nhưng cũng không dám nghĩ Liên Thành Hổ làm chuyện gì bất lợi cho Soái Mạnh Hùng.
Sử Bạch Đô nghĩ bụng:
"Lúc này đông người, đợi khi mình vào phủ tướng quân mình sẽ hỏi kỹ". Liên Thành Hổ sợ sinh thêm chuyện rắc rối, vội vàng nói:
"Sử bang chủ, ngày mai lệnh muội thành hôn, huynh chắc chắn sẽ bận lắm. Tôi không dám chiếm nhiều thời gian của huynh, tôi sẽ để hành lý tại khách sạn rồi vào bái kiến Soái tướng quân, xin mời huynh hãy về phủ trước".
Sử Bạch Đô liếc mắt nhìn Lý Đôn và Lệ Nam Tinh, lòng ngạc nhiên:
"Hình như mình đã thấy hai người này ở đâu?" Miệng lắp bắp:
"Không bận, không bận. Hai người này là ...".
Liên Thành Hổ nói:
"Họ là tùy tùng của tôi, này, sao các ngươi chẳng biết phép tắc gì cả, Sử bang chủ đang hỏi các người, các người hãy mau trả lời!" Liên Thành Hổ sợ mình nói sai điều gì cho nên chỉ đành đẩy cho họ trả lời.
Hai người Lý, Lệ đành bước lên ra mắt, bịa ra hai cái tên giả. Sử Bạch Đô cười ha hả:
"Các người không cần đa lễ".
Lệ Nam Tinh giấu cây huyền thiết bảo kiếm trên người, đương nhiên không giấu nổi cặp mắt của Sử Bạch Đô cho nên Sử Bạch Đô thử bản lĩnh của chàng trước.
Hai tay chạm vào nhau, Sử Bạch Đô nhả ra ba phần nội lực, hai ngón tay nắm chặt vào mạch môn của chàng. Trong khoảnh khắc ấy, Lệ Nam Tinh trải qua một cuộc khảo nghiệm khó khăn nhất đời.
Chàng không biết Sử Bạch Đô có nhận ra mình hay không, nếu không vận nội lực chống lại thì Sử Bạch Đô sẽ ngầm hạ độc thủ. Nếu vận công thì thân phận sẽ bị bại lộ. Chàng đã giao thủ mấy lần với Sử Bạch Đô, luồng nội công chính tà hợp nhất không thể nào giấu nổi Sử Bạch Đô.
Cuối cùng chàng quyết định mạo hiểm, chàng kêu ối lên một tiếng rồi nói:
"Sử bang chủ mạnh tay quá!".
Sử Bạch Đô tuy nghi ngờ nhưng lại sợ đả thương gia nhân của tướng phủ, thấy chàng không biết nội công thì cười ha hả, buông tay nói:
"Tôi đã quen thô lỗ, lão ca đừng trách. Không biết lão ca là đệ tử của phái nào?".
Lệ Nam Tinh đáp:
"Tôi chỉ học được vài chiêu công phu mèo quào của mấy giáo đầu trong phủ, nhưng không biết họ thuộc môn phái nào!".
Sử Bạch Đô hỏi ngược:
"Có thể cho tôi mượn thanh kiếm xem thử không?".
Lệ Nam Tinh nào dám lấy huyền thiết bảo kiếm ra cho y xem, chàng mạnh dạn nói:
"Đó chỉ là một thanh kiếm bình thường mua trong tiệm binh khí, không đáng cho bang chủ xem". Sử Bạch Đô nói:
"Xem thử thì có sao đâu?".
Lệ Nam Tinh thầm nhủ:
"Nếu y nhất định xem, mình chỉ đành liều mạng". Đang định rút kiếm chợt thấy Viên Hải hòa thượng vội vàng chạy với, nói với:
"Bang chủ, Đổng Thập Tam nương mời ngài trở về".
Sử Bạch Đô hỏi:
"Chuyện gì?".
"Tôi ... tôi cũng không rõ lắm, nghe nói là chuyện của tiểu thư, Đổng Thập Tam nương không dám quyết định cho nên phải mời bang chủ về". Viên Hải ấp úng tựa như có chuyện gì khó khăn, không muốn nói trước mặt người ngoài.
Sử Bạch Đô thất kinh, lòng thầm nhủ:
"Chả lẽ ả nha đầu lại đòi sống đòi chết?".
Lệ Nam Tinh thuận nước đẩy thuyền, nói:
"Nếu bang chủ có việc, sau này tôi sẽ đến thăm, nhân tiện nhờ bang chủ chỉ giáo vài đường kiếm pháp!".
Sử Bạch Đô nghĩ bụng hai kẻ tùy tùng dù là giả mạo nhưng đang trong Tây Xương cho nên mọc cánh cũng khó thoát. Vì thế y liền nói:
"Không dám làm phiền đại giá, mời hai vị đại ca vào khách sạn nghỉ ngơi, chốc nữa tôi sẽ quay lại".
Sử Bạch Đô quay về thấy Đổng Thập Tam nương vội vàng hỏi:
"Xảy ra chuyện gì?" Đổng Thập Tam nương cười lạnh:
"Ả nha đầu thật có lắm trò, ngài hỏi ả thì sẽ biết".
Sử Bạch Đô bước vào phòng, thấy Sử Hồng Anh đang ngồi soi gương trang điểm, thần sắc vẫn bình thường. Sử Bạch Đô hơi yên tâm, dọa nạt:
"Muội muội, ngày mai đã là ngày đại hỷ của muội, muội đừng giở trò nữa!".
"Ai giở trò? Nhưng nếu huynh muốn muội giúp thì phải hứa với muội vài chuyện".
Sử Bạch Đô cười hì hì:
"Muội muội, muội đừng làm khó huynh!".
"Muội cũng chẳng làm khó huynh gì cả, chuyện này rất dễ".
"Có thật không?".
"Chuyện dễ như thế mà các người không làm được thì đừng hòng muội lấy Soái Mạnh Hùng".
"Thôi được, muội nói ra nghe thử".
"Trên giang hồ Lục Hợp bang chỉ kém Cái Bang, Soái Mạnh Hùng nắm giữ trọng binh, trấn giữ một phương. Hôn lễ này phải náo nhiệt mới được!".
Sử Bạch Đô cười ha hả:
"Đương nhiên. Muội đâu cần phải lo lắng".
"Vậy tại sao phải đóng cửa thành Tây Xương không cho trăm họ vào thành?".
"Sao muội biết, ai nói?".
"Huynh không cần phải biết, chuyện này có thật không?".
Sử Bạch Đô nghĩ bụng:
"Không biết kẻ nào lắm chuyện như thế, may mà cũng không phải chuyện gì lớn". Y vội nói:
"Muội muội có điều không biết, vì Soái tướng quân không muốn xảy ra chuyện nên mới cẩn thận như thế! Muội nghĩ xem, cách thành Tây Xương một trăm dặm là núi Đại Lương, nơi đó có bọn cường đạo Trúc Thượng Phụ. Nếu cửa thành mở rộng thì cường đạo trà trộn vào, dù bọn chúng không làm gì được nhưng chúng ta cũng sẽ mất vui!".
Sử Hồng Anh lạnh lùng:
"Đóng cửa thành lại lén lút cử hành hôn lễ, đó đâu phải là náo nhiệt? Trong thành Tây Xương, Soái Mạnh Hùng có mười vạn đại quân, lại có bang chủ Lục Hợp bang, còn ai dám gây rối? Hừ, nếu đồn ra ngoài để giang hồ hảo hán biết chẳng phải bọn họ sẽ cười chê hay sao? E rằng họ không khen Soái Mạnh Hùng cẩn thận mà sẽ cười huynh và Soái Mạnh Hùng nhát gan như chuột!".
Sử Bạch Đô trợn mắt, nàng tiếp lời:
"Muội cũng muốn trăm họ ở đây cùng chung vui, từ ngày mai trở đi phải mở rộng cửa thành, cho phép trăm họ vào thành, từ ngày kia các tửu lầu trà quán trong thành cứ để mặc cho trăm họ ăn uống, tướng quân phủ trả tiền".
Sử Bạch Đô cười:
"Không ngờ muội cũng ham hư danh như thế?".
Sử Hồng Anh cười lạnh:
"Nếu không muội cần gì phải lấy một tướng quân?".
Sử Bạch Đô cười khổ sở:
"E làm thế sẽ xảy ra lắm chuyện. Nhưng muội đã kiên quyết thì ta đành nói với Soái tướng quân".
"Huynh hãy bảo cho y biết, nếu không làm được thì đừng hòng lấy muội!".
"Muội còn điều kiện gì nữa không?".
"Chuyện thứ hai là chuyện riêng của muội. Huynh biết Thược Dược xưa nay là nha đầu hầu hạ muội, ả và biểu ca của ả đã có cái hẹn chung thân, ả không muốn đi cùng muội, muội cũng không muốn làm khó ả. Cho nên muội muốn huynh trả ả về".
"Ta có thể chấp nhận chuyện này, chừng nào hôn lễ cử hành xong, ta sẽ dắt ả quay về".
"Không, ả muốn ngày mai phải quay về!".
"Tại sao lại vội vàng thế?".
"Muội biết Soái Mạnh Hùng muốn huynh giữ thành, một hai tháng huynh mới trở về được. Ả nha đầu này đang nhớ nhà, muội đã hứa phải giúp cho ả, tại sao không để cho ả quay về sớm?".
Sử Bạch Đô không muốn cãi nhau chỉ vì chuyện nhỏ cho nên nói luôn:
"Ta chẳng qua chỉ nghĩ cho Thược Dược mà thôi, ở đây binh mã loạn lạc, một mình ả quay về e rằng không tiện".
"Ả cũng biết chút ít võ nghệ, chỉ cần huynh xin Soái Mạnh Hùng một cây lệnh tiễn cho ả, trên đường không có quan binh quấy rối ả là được".
"Thôi được, ta chiều theo muội, còn chuyện thứ ba?".
"Chuyện thứ ba huynh phải trả lại binh khí cho muội?" Số là khi bị bắt, Sử Bạch Đô đã thu giữ ngọn roi mềm và một cây đoản kiếm của nàng.
Sử Bạch Đô cười:
"Muội đã sắp trở thành tân nương tử cần binh khí làm gì?".
"Có phải huynh sợ muội hành thích Soái Mạnh Hùng không? Hừ! Nếu muội không chấp nhận lấy y, không có binh khí chả lẽ không thể hại chết được y sao?
Huynh thu giữ binh khí của muội, coi muội như kẻ tù phạm, lại còn bảo muội giúp huynh kiếm công danh phú quý? Nếu thế thì ngày mai huynh bảo Đổng Thập Tam nương lên kiệu hoa đi!".
Sử Bạch Đô vò đầu bứt tai, cười khổ sở:
"Thôi được, huynh sẽ trả lại roi và kiếm cho muội". Sử Hồng Anh nói:
"Còn chuyện cuối cùng, muội không ưa Đổng Thập Tam nương. Từ nay trở đi, Đổng Thập Tam nương không được bước vào phòng của muội".
Số là từ khi đến Tây Xương, Đổng Thập Tam nương đi theo nàng, buổi tối luôn luôn ngủ chung phòng. Mẫu Đơn và Thược Dược là hai nha đầu tâm phúc của Sử Hồng Anh nhưng đã bị Đổng Thập Tam nương cách ly.
Sử Bạch Đô nghĩ bụng:
"Mình muốn giám thị ả, nếu để Mẫu Đơn đến cùng ả, chủ tớ đồng mưu thì e rằng sẽ xảy ra chuyện".
Sử Hồng Anh dọa:
"Nếu muội muốn chết thì đã chết từ lâu, Đổng Thập Tam nương có theo dõi muội cũng vô ích. Muội không muốn huynh coi muội như kẻ tù phạm!".
Sử Bạch Đô nghĩ cũng có lý, liền bảo:
"Thôi được, nếu đã thế thì ta sẽ bảo Mẫu Đơn vào cùng muội".
Sử Hồng Anh hỏi:
"Chuyện mở thành và xin lệnh tiễn cho Thược Dược thì như thế nào?".
"Huynh sẽ đi nói với Soái tướng quân ngay. Này, Đổng Thập Tam nương, hãy trả binh khí lại cho Hồng Anh".
Đổng Thập Tam nương đứng bên ngoài canh gác, đã nghe hết tất cả những lời của Sử Hồng Anh. Sử Bạch Đô bỏ ra ngoài, Sử Hồng Anh gọi Mẫu Đơn, Thược Dược vào rồi đóng cửa phóng lại. Nàng biết Đổng Thập Tam nương chắc chắn đang nghe lén bên ngoài cho nên ba người chỉ nói những chuyện không quan trọng. Nhưng Sử Hồng Anh miệng vừa nói, tay vừa chấm nước trà viết lên mặt bàn để bàn bạc đối sách với hai người.
Lại nói Sử Bạch Đô vội vàng chạy đến phủ tướng quân. Tới nơi viên tổng quản cho y hay rằng:
"Tướng quân đang tiếp kiến sứ giả của tướng phủ, Sử bang chủ đợi một lát hay phải gặp tướng quân ngay?".
Sử Bạch Đô nghĩ bụng:
"Té ra Liên Thành Hổ đã tới! Hừ, không những hai tên tùy tùng đáng nghi ngờ mà cả bản thân y cũng thật kỳ lạ" Nghĩ như thế liền bảo:
"Ta không vào. Hãy gọi Hạ đại nương đến cho ta".
Hạ đại nương vừa thấy Sử Bạch Đô đã cười:
"Sử bang chủ, lúc này ngài đang bận rộn mà vẫn muốn gặp bà lão này ư?".
"Tào tướng quốc đã phái đến một sứ giả, tôi thấy y rất khả nghi".
"Có phải sứ giả là Liên Thành Hổ không? Y theo Tào tướng quốc đã nhiều năm, sao bang chủ lại nghi ngờ y?".
"Tuyệt kỹ của Liên Thành Hổ là đôi phán quan bút, nhung y không mang theo, bà thấy có lạ không?".
"Ồ nói thế cũng hơi kỳ lạ. Nhưng Liên Thành Hổ không đến nỗi có mưu đồ xấu xa? Nếu muốn thế thì y phải đem theo đôi phán quan bút?".
Sử Bạch Đô:
"Bản thân Liên Thành Hổ ta không nghi ngờ, nhưng ta nghi ngờ y bị người ta kìm chế. Hình như ta đã gặp hai tên tùy tùng của y ở đâu nhưng nhất thời không nhớ ra".
Hạ đại nương chợt vỡ lẽ, mới bảo:
"Chắc là ngài muốn tôi xem thử Liên Thành tổ có trúng độc đúng không?":
"Đúng thế".
"Nhưng y đang nói chuyện với Soái tướng quân, sao tôi có thể tự tiện xông vào nhìn y được?".
Sử Bạch Đô dặn dò:
"Điều này thì dễ, bà cứ làm như thế như thế!" Hạ đại nương luôn miệng kêu kế hay rồi ra ngoài.
Hồi 35
Liều mình đánh tan kẻ cường địch
Tình cũ gắn bó tựa keo sơn
Liên Thành Hổ đang nói chuyện với Soái Mạnh Hùng, chợt thấy có một bà già bưng mâm trà run rẩy bước tới trước mặt mình mời:
"Liên đại nhân, xin mời dùng trà!".
Soái Mạnh Hùng ngạc nhiên:
"Hạ đại nương ... bà ... bà sao thế ..." Nói chưa dứt lời Hạ đại nương đã nháy mắt với y, rồi mới nói tiếp:
"Mấy ả tiểu nha đầu thật lười biếng, không có ai hầu hạ quý khách, tôi chỉ đành ra bưng trà".
Liên Thành Hổ nhất thời không nghĩ có điều gì bất trắc, nghe Soái Mạnh Hùng nói như thế chỉ nghĩ Hạ đại nương là kẻ ăn người ở trong nhà, vội vàng nói:
"Không dám, không dám!".
Đang định bưng chén trà, tay Hạ đại nương run run, chén trà nóng đổ vào người Liên Thành Hổ. Hạ đại nương giả vờ hốt hoảng, lấy tay lau cho Liên Thành Hổ. Liên Thành Hổ rất lúng túng:
"Không sao, bà hãy quay vào đi". Khi đang nói ngón tay của Hạ đại nương đã lướt qua cổ tay của y.
Theo quy củ trong quan trường, dâng trà cho khách lần thứ hai là chủ muốn tiễn khách. Vì thế Hạ đại nương tiến vào Liên Thành Hổ liền đứng dậy cáo từ.
Soái Mạnh Hùng đưa y ra cửa, không ngờ vừa mới bước xuống bậc cấp Sử Bạch Đô kịp vội vàng chạy tới gọi:
"Liên huynh, hãy khoan đã!".
Liên Thành Hổ ngạc nhiên:
"Sử bang chủ có gì chỉ giáo?".
Sử Bạch Đô nói:
"Xin mời Liên huynh chỉ giáo cho vài thủ pháp điểm huyệt!".
Nói chưa dứt thì đưa tay chụp về phía Liên Thành Hổ, Liên Thành Hổ cả kinh, vội vàng xỉa ngón tay ra hướng về phía hổ khẩu của Sử Bạch Đô. Sử Bạch Đô lật cổ tay lại tóm được mạch môn của y.
Soái Mạnh Hùng:
"Sử đại ca, huynh ... huynh làm gì thế?" Đồng thời nghĩ bụng:
"Bọn họ tuy là bằng hữu thân thiết nhưng đùa như thế này thật quá đáng!".
Sử Bạch Đô cười ha hả rồi buông tay:
"Xin Liên huynh thứ lỗi, không phải là tiểu đệ vô lễ, chỉ vì Liên huynh có tật giật mình, tiểu đệ vì muốn cứu Liên huynh nên dành mạo phạm!" Lời ấy vừa nói ra Liên Thành Hổ lập tức mặt như đổ chăm.
Lúc này Soái Mạnh Hùng mới biết có nội tình:
"Ồ, té ra Liên đại nhân đang bị bệnh?".
Sử Bạch Đô cười:
"Không phải là bệnh mà đã bị người ta ám toán. Nhưng Liên huynh đừng lo. Lúc nãy bà già bưng trà cho huynh chính là cao thủ của Thiên ma giáo, bà ta giỏi dùng độc, cũng giỏi trị độc?".
Soái Mạnh Hùng cả kinh:
"Liên đại nhân đã trúng độc?".
Liên Thành Hổ ấp úng không dám trả lời, Sử Bạch Đô đã đáp thay y:
"Theo Hạ đại nương nói, nếu y không có thuốc giải thì ba ngày sau sẽ phát độc mà chết! Vừa rồi y điểm huyệt đạo của tôi mà ngón tay không có lực, xem ra Hạ đại nương nói chẳng sai!".
Soái Mạnh Hùng lúc này mới vỡ lẽ ra, té ra lúc nãy Sử Bạch Đô cố ý thử nội lực của Liên Thành Hổ. Sử Bạch Đô cười:
"Liên huynh, chúng ta là bằng hữu, huynh có chuyện gì khó cứ từ từ bàn bạc".
Soái Mạnh Hùng gật đầu:
"Đúng thế, Hạ đại nương không tiện đến khách sạn trị bệnh cho huynh, huynh cứ ở đây". Hai người Soái, Sử đẩy Liên Thành Hổ vào mật thất, Sử Bạch Đô hỏi:
"Liên huynh, huynh đừng nên giấu tôi, hai tên tùy tùng của huynh có phải là giả mạo không? Huynh có phải bị bọn chúng ám toán không?".
Liên Thành Hổ tuy có lòng bỏ tối theo sáng, nhưng ý chí vẫn chưa kiên định, lúc này biết chẳng giấu được, nghĩ bụng:
"Nếu có Hạ đại nương giải độc cho mình, mình không sợ Lý Đôn nữa". Rồi bèn kể ra hết mọi chuyện.
Sử Bạch Đô nghe xong vừa kinh vừa giận, gằn giọng:
"Té ra là hai tên tiểu tử này!".
Soái Mạnh Hùng cười ha hả:
"Hiếm có dịp bọn chúng tự chui đầu vào lưới, lần này chúng mọc cánh cũng khó thoát! Liên đại nhân, huynh hãy nghỉ ngơi một lát, đợi tôi bắt được hai tên tiểu tử này sẽ bảo Hạ đại nương giải độc cho huynh". Té ra y muốn giữ Liên Thành Hổ làm con tin, Liên Thành Hổ thầm kêu khổ, hối hận cũng đã muộn.
Soái Mạnh Hùng và Sử Bạch Đô đi vào hậu đường, Soái Mạnh Hùng nói:
"Sử đại ca, may mà huynh vạch trần gian kế của kẻ địch, tên tiểu tử Lệ Nam Tinh đến đây vì Hồng Anh. Hừ, trước ngày thành hôn của ta mà y dám đến quấy rối!".
Sử Bạch Đô quả quyết:
"Lát nữa tôi sẽ đích thân đi bắt bọn chúng!".
"Tại sao không đi ngay bây giờ?".
"Hai tên tiểu tử này không ngờ rằng chúng ta đã vạch trần gian kế của chúng, nay chúng đang ở thành Tây Xương nên không thể nào chạy thoát được".
"Chả lẽ Sử đại ca còn có việc gì gấp khác?".
"Cũng không có chuyện gì gấp cả, hừ hừ, nói ra thật ngại quá, xá muội cứ như trẻ con ...".
Soái Mạnh Hùng cả kinh:
"Chả lẽ ... chả lẽ nàng đã hối hận?".
"Không phải, xá muội muốn tướng quân làm hai việc".
Soái Mạnh Hùng như cất được tảng đá trong lòng, cười ha hả:
"Chỉ cần lệnh muội chịu thành hôn với tôi, đừng nói là hai chuyện, mười chuyện tôi cũng chấp nhận".
"Ả muốn tướng quân mở rộng cửa thành để dân chúng cùng chung vui. Còn chuyện khác là ả muốn xin một cây lệnh tiễn".
"Tại sao?".
"Ả muốn thả một ả nha đầu trở về". Rồi đành nói rõ yêu cầu của Sử Hồng Anh.
Soái Mạnh Hùng nghe xong cười:
"Té ra chỉ là hai chuyện nhỏ này, huynh hãy về bảo với lệnh muội tôi sẽ tuân lệnh!".
Sử Bạch Đô hơi ái ngại:
"Mở rộng cửa thành không sợ có người trà trộn vào gây rối hay sao?".
Soái Mạnh Hùng cười:
"Trong thành canh gác nghiêm ngặt, dân chúng bình thường nào dám vào? Người vào thành nào dám ăn không của tôi?".
Sử Bạch Đô ngập ngừng:
"Chỉ e cũng có bọn dân đen nghèo khổ vào thành buôn bán".
Soái Mạnh Hùng nói:
"Tôi bảo thủ hạ kiểm tra gắt gao, nếu có người trong giang hồ trà trộn vào cũng sẽ không thoát được cặp mắt của thủ hạ tôi. Vả lại chúng ta chỉ hứa với Hồng Anh, nếu phát hiện có chuyện gì không ổn, chả lẽ không đóng cửa thành được hay sao?".
Sử Bạch Đô cười ha hả:
"Đúng, đúng! Tôi quả là không tùy cơ ứng biến bằng tướng quân".
Soái Mạnh Hùng dặn:
"Nhưng chúng ta không thể không đề phòng ả nha đầu được Hồng Anh thả ra".
Sử Bạch Đô đáp:
"Tướng quân tính toán rất kỹ càng, chúng ta hãy sai người theo dõi ả. Đa tạ tướng quân đã nhắc nhở". Thực ra Sử Bạch Đô cũng đã nghĩ tới điều này rồi.
Sử Bạch Đô định cáo từ. Soái Mạnh Hùng hỏi:
"Có cần tôi phái thêm vài người hay không?" Sử Bạch Đô đáp:
"Hai tên tiểu tử ấy chưa biết tôi đã phát hiện ra bí mật của chúng, nếu đi đông người thì sẽ đánh cỏ động rắn".
Soái Mạnh Hùng:
"Được, tôi sẽ đợi tin tốt lành". Thế rồi Sử Bạch Đô đến khách sạn. Không ngờ đến khách sạn chẳng thấy người Lệ, Lý đâu nữa. Người quản sự trong khách sạn thưa:
"Hai người này ăn cơm tối xong là ra ngoài. Họ nói đi dạo một lát sẽ trở về".
Sử Bạch Đô nói:
"Được, ta sẽ đợi ở đây một lát, ngươi hãy bảo người đi tìm họ về".
Nào ngờ chờ cả canh giờ mà chẳng thấy bóng đáng của hai người Lệ, Lý đâu.
Cũng chẳng ai phát hiện tông tích của họ. Số là Sử Bạch Đô tướng rằng họ không phòng bị, nhưng thực ra họ đã tính toán từ trước. Lúc này họ đã nấp ở một nơi bí mật trong thành Tây Xương.
Sử Bạch Đô đợi đến canh hai cũng chẳng thấy, biết đã trúng kế, chỉ đành nhắn người lục soát, nghĩ bụng:
"Y đã đến vì Hồng Anh, chắc y sẽ không bỏ chạy".
Sáng sớm hôm sau, Sử Hồng Anh đòi cây lệnh tiễn và hai thớt ngựa. Sử Bạch Đô hỏi:
"Hai thớt ngựa làm gì?" Sử Hồng Anh đáp:
"Muội phải đưa ả ra thành!".
Sử Bạch Đô nhíu mày:
"Ngày mai muội đã là tân nương tử, sao lại lộ mặt như thế?".
Sử Hồng Anh nói:
"Ai mà không biết muội là người trên giang hồ, sao lại phải sợ? Soái Mạnh Hùng hứa để mở cửa thành, muội cũng phải tuần tra một vòng xem thử y có mở thật hay không?".
Sử Bạch Đô đành chịu:
"Được, ta đi cùng muội!" Sử Hồng Anh cười lạnh:
"Huynh sợ muội bỏ chạy phải không, hừ, nếu muội muốn bỏ chạy thì đã không cùng huynh đến Tây Xương?".
Sử Hồng Anh xuất hiện ở ngoài phố khiến toàn thành xôn xao. Ai nấy đều tranh nhau ra nhìn mặt tân nương tử. Tuy có vệ sĩ của tướng quân phủ tiền hô hậu ủng không cho người ta đến gần nhưng trên mái nhà hai bên đường đều có đông người đứng.
Ra ngoài thì quả nhiên thấy cổng thành đã mở, người ra vào tuy không nhiều nhưng cũng liên miên không ngớt. Có một chiếc xe la tiến vào thành, trên xe có một ông già và có bảy cô gái, bọn lính giữ thành đang định tra hỏi, thấy Sử Hồng Anh bước tới thì vội vàng nghênh tiếp.
Sử Hồng Anh hỏi:
"Những kẻ này là ai?" Võ quan giữ thành đáp:
"Là một gánh hát, tướng quân mời đến trợ hứng". Sử Hồng Anh cười lạnh:
"Chỉ là một gánh hát toàn đàn bà con gái, lại là tướng quân mời đến, các người còn tra xét, hình như đã quá khắt khe với trăm họ! Như thế thì cần gì mở thành, cứ đóng lại có lẽ tốt hơn".
Vì gánh hát này quả thật có thiệp mời của tướng quân, vả lại Sử Hồng Anh đứng ra can thiệp cho nên viên võ quan giữ thành đành nghe theo. Hà Thái Phượng và Công Tôn Yến đều thở phào. Hà Thái Phượng lau mồ hôi:
"May mà Bành Cự Vinh và Liên Thành Hổ không đích thân tra xét!".
Trong khi đó Sử Hồng Anh chợt nghe có người nói nhỏ vào tai:
"Tiếp lấy!" Sử Hồng Anh vừa mừng vừa lo, chỉ cảm thấy có gió lướt qua, nàng đã chụp một vật trong tay, khi bóp nhẹ mới biết đó là một hòn giấy.
Sử Hồng Anh vội vàng cất vào trong áo. Nàng đưa mắt nhìn thấy Sử Bạch Đô đang đứng xoay lưng nói chuyện với võ quan giữ thành. Mẫu Đơn và Thược Dược đứng bên cạnh nàng vẫn bình thản. Xem ra không ai phát hiện. Nhưng Sử Hồng Anh cũng không biết ai đã ném viên giấy cho nàng.
Sử Hồng Anh hoang mang, thầm nhủ:
"Chả lẽ là chàng đã tới?".
Ra khỏi cửa thành, Sử Hồng Anh trao lệnh tiễn cho Thược Dược, nói:
"Hôm nay chia tay nhau, e rằng ngày sau chẳng có dịp gặp lại. Chúc muội lên đường bình an, người có tình cuối cùng sẽ ở bên nhau".
Thược Dược thưa:
"Tiểu thư hãy bảo trọng, chúc tiểu thư cũng được như thế". Sử Hồng Anh cười khổ sở:
"Chỉ e tỷ không được như muội?".
Sử Bạch Đô hỏi ngay:
"Có thể về chưa?".
Sử Hồng Anh lau nước mắt chia tay với Thược Dược, khi về đến phòng thì đóng cửa lại mở tờ giấy ra xem. Chỉ thấy bên trong có bọc một cây ngân châm, đầu ngân châm đen kịt, trên tờ giấy viết mấy chữ nhỏ xíu:
"Huynh đã đến, đừng lo. Giữ độc châm này lại mà dùng". Đó chính là bút tích của Kim Trục Lưu. Sử Hồng Anh cả mừng, nghĩ:
"Quả nhiên chàng đã đến. Nhưng chàng chưa bao giờ dùng ám khí tẩm độc, cây độc châm này ở đâu mà có? Chả lẽ Lệ Nam Tinh cũng đến? Chắc là Lệ Nam Tinh đã đưa cây độc châm này cho chàng!".
Sử Hồng Anh chỉ đoán trúng một nửa, Kim Trục Lưu và Lệ Nam Tinh đều đã đến, nhưng họ vẫn chưa gặp mặt nhau. Khi Kim Trục Lưu đại náo Lục Hợp bang ở Dương Châu, Hạ đại nương đã dùng cây độc châm này ám toán chàng, sau đó Lý Đôn dùng nam châm hút ra. Kim Trục Lưu giữ lấy vốn muốn báo thù Hạ đại nương, giờ đây té ra lại có ích.
Sử Hồng Anh vừa lo vừa mừng, thầm nhủ:
"Kim Trục Lưu không hổ là tri kỷ của mình, y đã biết mình giả vờ chấp nhận hôn sự, mục đích là hành thích Soái Mạnh Hùng. Mình đang lo không có cách ra tay, có cây độc châm này thì tiện hơn nhiều".
Lại nói Thược Dược sau khi ra khỏi thành liền phóng ngựa chạy một đoạn, thớt ngựa ấy đột nhiên càng lúc càng chậm, đi một hồi nữa bỗng sùi bọt mép. Té ra Sử Bạch Đô đã âm thầm hạ độc thớt ngựa này.
Lúc này đang giữa chốn núi rừng, Thược Dược thấy con ngựa đã chết thì biết không xong. Nghĩ chưa dứt chợt nghe tiếng vó ngựa gấp gáp vọng tới, một thớt ngựa đuổi tới, ngồi trên ngựa chính là Đổng Thập Tam nương. Thược Dược chạy vào trong rừng, Đổng Thập Tam nương quát:
"Chạy đi đâu, sao còn chưa đứng lại".
Thược Dược giữ bình tĩnh, gượng nói:
"Đổng hương chủ, té ra là bà, tôi cứ tưởng giặc cướp. Bà đến thật đúng lúc, không biết sao ngựa của tôi đã chết?" Đổng Thập Tam nương cười lạnh:
"Nếu ngươi ngoan ngoãn nghe lời, ta sẽ cho ngươi một con ngựa khác để cho ngươi về nhà".
Thược Dược hỏi:
"Đổng hương chủ có gì căn dặn?".
"Đưa cho ta vật của tiểu thư giao cho ngươi?".
Thược Dược lấy ra một nắm bạc lẻ:
"Tiểu thư cho tôi làm lộ phí, hương chủ lấy cũng được, trên đường tôi không cần dùng đến".
Đổng Thập Tam nương giận dữ:
"Ai cần bạc của ngươi, có thư từ gì hay không?".
Thược Dược ngạc nhiên:
"Thư từ gì? Bà biết đấy, trong phòng tiểu thư đâu có giấy bút gì?".
"Vậy tiểu thư có căn dặn gì?".
Thược Dược đỏ mặt, ấp úng:
"Chuyện này ...".
Đổng Thập Tam nương quát:
"Nói mau ..." Thược Dược làm ra vẻ hổ thẹn:
"Tiểu thư biết tôi và biểu ca có hôn ước, tiểu thư thương tình ... tôi ... tôi mới ...".
Đổng Thập Tam nương cười lạnh:
"Ai hỏi chuyện riêng của ngươi? Ta muốn hỏi chuyện riêng của tiểu thư kìa! Tiểu thư muốn ngươi báo tin cho ai?".
Thược Dược chối:
"Đâu có!" Đổng Thập Tam nương hừ một tiếng:
"Ngươi chưa biết lợi hại của ta!" Rồi nhảy xuống ngựa tát Thược Dược mấy bạt tai, Thược Dược cố nén đau không lên tiếng. Đổng Thập Tam nương tức giận:
"Ngươi thật cứng đầu, được, nếu ta tìm ra thì sẽ từ từ hành hạ ngươi!" Rồi điểm vào ma huyệt của Thược Dược sau đó lục soát khắp người.
Trong người Thược Dược ngoài nắm bạc lẻ chẳng có gì khác. Đổng Thập Tam nương cười lạnh:
"Ngươi không nói ta sẽ lột sạch quần áo của ngươi!" Rồi soạt một tiếng, xé rách tà áo của nàng, Thược Dược kêu lên:
"Bà cứ giết tôi đi, sao lại làm nhục tôi như thế?" Nàng vẫn không chịu khai, nhưng bộ dạng thì ra vẻ rất hoảng sợ.
Đổng Thập Tam nương gằn giọng:
"Đâu có đề như thế!" Rồi soạt một tiếng nữa, xé ra áo giữa của nàng. Thược Dược kêu lên một tiếng rồi ngất đi. Một chiếc khăn tay rơi ra.
Đổng Thập Tam nương cầm chiếc khăn tay lên định mở ra nhìn, chợt thấy ám khí xé gió bay tới, Đổng Thập Tam nương né tránh không được, cổ tay bị trúng hòn sỏi, mảnh khăn rơi xuống đất. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, người ấy đã lướt tới nhanh như cơn gió!
Đổng Thập Tam nương kinh hoảng ngẩng đầu lên, chỉ thấy người ấy đã lao tới trước mặt mình, đó chẳng phải ai khác mà chính là Kim Trục Lưu.
Té ra Kim Trục Lưu đã lẻn vào Tây Xương, sau khi ném viên giấy cho Sử Hồng Anh định trở về. Nhưng chàng nghĩ bụng:
"Hồng Anh trịnh trọng đưa ả nha đầu ra khỏi thành chắc là có nguyên cớ". Rồi lại nghĩ tiếp:
"Chắc Sử Bạch Đô cũng sẽ đoán được như thế. Đã thế, mình làm sao có thể đứng yên?" Thế rồi len lén ra khỏi thành.
Nhờ thế chàng đã đến kịp lúc. Đổng Thập Tam nương biết khinh công của Kim Trục Lưu cao minh, muốn né tránh cũng không được, đành liều mạng với chàng.
Trong màn kiếm quang tiên ảnh, chỉ nghe soạt một tiếng, dây đai của Đổng Thập Tam nương đã bị Kim Trục Lưu giật đứt, Đổng Thập Tam nương đỏ mặt, mắng:
"Thằng giặc con kia, dám bỡn cợt lão nương!" Kim Trục Lưu cười hì hì:
"Mụ già đã trách nhầm ta, Kim Trục Lưu này tuy háo sắc nhưng cũng không thèm bỡn cợt mụ! Hì hì, chẳng qua ta lấy gậy ông đập lưng ông mà thôi!".
Đổng Thập Tạm nương chưa mắng hết câu Kim Trục Lưu đã lướt tới chụp vào xương tỳ bà của mụ. Đổng Thập Tam nương chợt cúi người quét cây roi dài ra. Tuy trong lúc đó, hai ngón tay của Kim Trục Lưu đã kẹp vào cổ áo mụ, người xoay một vòng lột áo ngoài của mụ xuống. Đổng Thập Tam nương thúc ngang chỏ trái, Kim Trục Lưu tung mình vọt lên, ngọn roi quét qua bàn chân chàng. Kim Trục Lưu không dám chụp vào xương tỳ bà của mụ nữa mà lộn người né tránh cú thúc chỏ, nhẹ nhàng hạ xuống cách đó một trượng. Cười rằng:
"Ta chỉ lấy lại công bằng cho tiểu cô nương này, mụ già đừng hiểu nhầm".
Khi đang nói đã lướt tới bên cạnh Thược Dược, giải huyệt đạo cho nàng:
"Chắc chiếc áo này vừa vặn với cô nương".
Thược Dược mặc chiếc áo của Đổng Thập Tam nương, trong bụng thích thú lắm:
"Kim đại hiệp, ngài hãy tát đùm tôi hai cái tát!".
Đổng Thập Tam nương cả giận quát:
"Ta sẽ liều mạng giết ả nha đầu thối này!".
Kim Trục Lưu vung kiếm múa tít, gạt hết ám khí của Đổng Thập Tam nương ra.
Mụ ta thối lui từng bước, Kim Trục Lưu cười ha hả:
"Uổng cho mụ là hương chủ của Lục Hợp bang mà ỷ mạnh hiếp yếu! Có ta ở đây mụ muốn giết người đâu có dễ!" Nói chưa dứt liền vung trường kiếm, một luồng kiếm quang cuộn tới phía sau Đổng Thập Tam nương. Đổng Thập Tam nương trở tay đánh ra ba roi, khó khăn lắm mới giải được một chiêu nhưng ngọn roi dài đã bị Kim Trục Lưu chặt thêm một đoạn nữa.
Đổng Thập Tam nương không thoát khỏi màn kiếm quang của Kim Trục Lưu, muốn liều mạng nhưng không được, mụ toan trở mũi kiếm đâm vào ngực mình.
Không ngờ mụ ta muốn sống không được, muốn chết không xong. Kim Trục Lưu lướt tới trước mặt mụ ta, đoạt lấy thanh đoản kiếm.
Đổng Thập Tam nương kêu lớn:
"Ta muốn chết ngươi cũng không cho ư?" Kim Trục Lưu cười đáp:
"Không cần phải chết". Rồi chàng búng ngón tay vào huyệt quan nguyên ở hổ khẩu của Đổng Thập Tam nương, cây roi dài rơi xuống đất, còn Đổng Thập Tam nương thì chẳng thể nhúc nhích được nữa.
Kim Trục Lưu nói:
"Ngươi không phải là kẻ thủ ác, tội chết có thể miễn, nhưng ngươi ỷ mạnh hiếp yếu, tội sống khó tha!" Thế rồi vỗ bốn cái tát vào mặt Đổng Thập Tam nương, xong xuôi thì chàng quay đầu lại hỏi Thược Dược:
"Có đủ chưa?" Thược Dược cười ngặt nghẽo, cười xong nói rằng:
"Kim đại hiệp đừng đánh mụ nữa, tiểu thư có chuyện bảo tôi nói với đại hiệp".
Kim Trục Lưu ném Đổng Thập Tam nương vào bụi cỏ, khoảng mười hai canh giờ nữa huyệt đạo của mụ mới tự giải được. Đến khi quay ra Thược Dược đang nhặt mảnh khăn lên.
Kim Trục Lưu hỏi:
"Tiểu thư bảo cô nương tìm tôi?, Thược Dược thưa:
"Đúng thế. Tiểu thư bảo tôi đến Cái Bang dò hỏi tin tức của đại hiệp, không ngờ lại gặp nhau ở đây".
Kim Trục Lưu bảo:
"Tôi đã gặp nàng ở trong thành nhưng không có cơ hội nói chuyện".
Thược Dược nói:
"Thật là trùng hợp, tôi đang tìm đại hiệp đưa thư". Rồi nàng lấy ra mảnh khăn đưa cho Kim Trục Lưu. Trên khăn đề rằng:
"Tôi tuy không phải là nam tử, nhưng cũng muốn bắt chước Kinh Kha làm một thích khách. Năm xưa Kinh Kha vì báo ơn tri ngộ của Thái tử Đan mà hành thích Tần Thủy Hoàng; còn tôi vì không muốn phụ lòng mong mỏi của huynh nên hành thích Soái Mạnh Hùng. Tôi vốn là người trong sạch, nào chịu dễ dàng bán đứng bản thân? Mong huynh hiểu dụng ý của tôi. Lần này tôi liều chết hành thích Soái Mạnh Hùng chỉ e không thể quay trở về bên huynh được. Tôi may mắn được kết giao với huynh, đôi bên tuy không nói ra tâm sự của mình nhưng tin rằng huynh đã hiểu! Có điều duyên phận của chúng ta chỉ hư vô như mây nước".
Bức thư viết rất thắm thiết, Kim Trục Lưu đọc mà bất giác rơi nước mắt. Thược Dược nói:
"Kim đại hiệp, sao ngài lại khóc? Khóc có ích gì, ngài phải tìm cách cứu tiểu thư mới được!" Nàng không hiểu Kim Trục Lưu sao lại rơi nước mắt, chỉ tưởng rằng chàng đau lòng vì sinh li tử biệt.
Kim Trục Lưu giật mình:
"Đúng thế! Ta phải quay về tìm cách cứu tiểu thư nhà cô, cô cũng nên đi cho mau". Con ngựa của Thược Dược đã trúng độc, may mà Đổng Thập Tam nương để lại con ngựa tốt. Kim Trục Lưu cất mảnh khăn vào áo, trong lòng cảm thấy ngọt ngào ấm áp lắm. Nhưng chàng chợt có một ý nghĩ:
"Hồng Anh yêu mình say đắm, nhưng Lệ đại ca chưa chắc đã biết. Y cứ tưởng tình bằng hữu của Hồng Anh giành cho y là tình yêu!".
Kim Trục Lưu đọc lại bức thư, bao nhiêu hiểu lầm đã tiêu tan, giờ đây chàng đã hiểu tất cả. Chàng biết tình cảm của Sử Hồng Anh đối với Lệ Nam Tinh chỉ là tình bằng hữu, nàng không cần giải thích vì sao lần trước nàng lại chấp nhận thành hôn với Lệ Nam Tinh, Kim Trục Lưu cũng đã đoán được. Song chàng lại nghĩ dẫu sao hai người cũng đã bái đường thành thân, vì danh phận thì nàng đã là vợ của Lệ Nam Tinh.
sao chàng có thể cướp đoạt nàng được? Chàng không muốn làm cho Lệ Nam Tinh đau lòng?
Lại nói Lệ Nam Tinh và Lý Đôn thoát ra khỏi khách sạn, ở trong nhà một người bằng hữu của Lý Đôn, người này tên là Quan Đại Luân, là một trong những gián điệp của nghĩa quân, hiện giờ là một võ quan nhỏ trong phủ tướng quân. Chính vì vậy mà khi đêm qua quan binh đi tra xét, chỉ ngó sơ qua nhà của y chứ không lục soát kỹ càng. Hai người Lệ, Lý mới thoát được.
Sử Hồng Anh xuất hiện ở ngoài thành khiến cả thành đều xôn xao, hai người Lệ, Lý đương nhiên cũng biết. Lệ Nam Tinh đoán Kim Trục Lưu chắc chắn sẽ xuất hiện ở nơi Sử Hồng Anh đi qua nhưng đáng tiếc chàng không thể ra ngoài.
Đến trưa thì Quan Đại Luân đem về một tin:
"Lý đại ca, huynh hãy yên tâm, đại tẩu đã vào thành bình an, nhưng còn có một người đi cùng, Lý đại ca có biết người ấy là ai không?".
Lý Đôn nghe nói Hà Thái Phượng đã vào thành bình an, trong lòng rất mừng rỡ:
"Chắc đó là một thiếu nữ. Có phải Trúc Thanh Hoa không?" Quan Đại Luân nói:
"Không phải, đó chính là Công Tôn Yến của Hồng Anh hội. Thật không ngờ!".
Lý Đôn vừa lo vừa mừng:
"Đúng là không ngờ thật. Công Tôn đà chủ cũng đến Đại Lương?".
Quan Đại Luân đáp:
"Không biết. Nhưng con gái của ông ta đến cũng khiến cho Sử Bạch Đô lo lắng". Y ngừng một lát rồi tiếp:
"Đại tẩu cũng đã biết huynh đang ở chỗ tôi. Nhưng tôi đã bảo khoan hãy đến thăm huynh. Huynh không trách tôi đã ngăn trở hai người chứ?".
Lý Đôn cười rằng:
"Cẩn thận vẫn hơn. Quan đại ca đừng nghĩ ngợi nhiều".
Quan Đại Luân lại bảo:
"Họ đã biết Lệ đại ca đến Tây Xương, Công Tôn cô nương đã nhờ người dò hỏi tin tức của Lệ đại ca?".
Lệ Nam Tinh biết Công Tôn Yến cũng đến Tây Xương thì không yên bụng, suốt đêm cứ lăn qua trở lại chẳng ngủ được, chàng thầm nhủ:
"Chắc chắn là nàng đã lén Trúc Thượng Phụ đến tìm mình. Không ngờ nàng lại quan tâm mình như thế, không ngại mạo hiểm vì mình? Đáng tiếc giờ đây lòng mình đã nguội lạnh, chỉ e sẽ phụ tấm lòng nàng". Tuy nói là thế nhưng khi Lệ Nam Tinh nhắm mắt hình ảnh của Công Tôn Yến lại hiện ra trong đầu.
Hôm sau là ngày thành hôn của Soái Mạnh Hùng, hôn lễ sẽ cử hành vào buổi trưa. Lệ Nam Tinh, Lý Đôn cải trang thành tùy tùng của Quan Đại Luân vào trong phủ tướng quân.
Trong phủ tướng quân có rất nhiều quan viên địa phương và khách khứa ở các nơi, bên ngoài lễ đường là một mảnh sân rộng lớn, phía đông có sân khấu hát tuồng, phía tây là nơi biểu diễn của gánh hát kể chuyện sách và thanh xướng, trong hoa viên cũng có vài sân khấu nhỏ. Những người không có tư cách vào lễ đường xem lễ đều tập trung ở ngoài sân và vườn hoa xem ca hát.
Bọn Quan Đại Luân chen vào đến sân thì chỉ thấy xung quanh toàn là vệ sĩ mặc thường phục. Đổng Thập Tam nương đang đứng ở cổng lễ đường.
Hai bên của Đổng Thập Tam nương là Thanh Phù đạo nhân và Viên Hải hòa thượng, ba người này cứ nhìn những người vào lễ đường với ánh mắt đò xét. Lệ Nam Tinh lẻn tới trước sân khấu, chàng chợt nghe Viên Hải nói:
"Tên tiểu tử Kim Trục Lưu dù hóa thành tro bụi ta cũng nhận ra, nếu y dám tới thì ta sẽ liều mạng này báo thù hôm ấy". Đổng Thập Tam nương nói:
"Ngươi bảo cái gì? Chả lẽ muốn bôi mặt ta ư? Hừ, ta sợ tên tiểu tử ấy không đến!".
Viên Hải ậm ờ:
"Đúng, đúng. Thì ta không nói vậy!" Nhưng y vẫn buông thêm một câu:
"Chả trách nào muội nổi giận, hôm qua quả thật rất thiệt thòi!".
Số là Đổng Thập Tam nương bị Kim Trục Lưu điểm huyệt đạo, sau mười hai canh giờ mới có thể tự giải, bọn Sử Bạch Đô chờ mãi mà không thấy mụ trở về cho nên phái Thanh Phù, Viên Hải đi tìm. Vì thế mụ đương nhiên không muốn tha cho Kim Trục Lưu.
Soái Mạnh Hùng biết Kim Trục Lưu quả thật đã đến Tây Xương, trong lòng thầm thất kinh, do đó càng tăng cường phòng bị.
Bản thân Quan Đại Luân có tư cách vào lễ đường xem thử, nhưng không tiện dắt tùy tùng đi theo. Bọn Đổng Thập Tam nương đang đứng trước cửa lễ đường dò xét, Lý Đôn và Lệ Nam Tinh tuy đã thay đổi dung mạo nhưng cũng sợ không qua nổi cặp mắt của họ. Cả hai cũng chẳng còn cách nào, chỉ đành lẻn vào trong đám đông.
Lệ Nam Tinh vừa mừng vừa lo, thầm nhủ:
"Quả nhiên Trục Lưu đã tới, xem ra lễ đường được canh gác rất nghiêm ngặt, nếu y lẻn vào lễ đường chắc chắn sẽ bị phát hiện. Nếu bên trong không xảy ra chuyện thì chắc y đã ở ngoài sân". Rồi chàng đeo chiếc nhẫn hàn ngọc vào, hy vọng Kim Trục Lưu nhìn thấy chiếc nhẫn thì nhận ra mình. Đồng thời chàng cũng để ý những người khách trong sân.
Chàng tìm mãi mà chẳng thấy ai giống Kim Trục Lưu, nên thất vọng thầm nhủ:
"Kim Trục Lưu chắc chắn sẽ tới, nhưng sao đến giờ vẫn chưa thấy y xuất hiện?".
Các cô gái trong gánh hát đã lên sân khấu, Hà Thái Phượng đang kể chuyện sách. Lý Đôn chen tới trước sân khấu, bọn Lệ Nam Tinh không thấy Kim Trục Lưu cũng đành tạm đứng nghe kể chuyện sách.
Tuy Công Tôn Yến đã cải trang nhưng Lệ Nam Tinh có thể nhận ra đôi mắt lanh lợi của nàng.
Chàng đang tìm cách gọi Công Tôn Yến, chợt nghe tiếng nhạc vang lên, pháo cũng bắt đầu nổ lốp bốp. Kiệu hoa của tân nương đã được khiêng tới cửa phủ.
Sử Bạch Đô đi sát kiệu, khách trong sân nhường ra một lối, Sử Bạch Đô đỡ Sử Hồng Anh ra khỏi kiệu, bà mai và một ả nha đầu đi ở phía sau. Ả nha đầu này chính là a hoàn Mẫu Đơn của Sử Hồng Anh. Nàng đã quyết lòng đồng sinh cộng tử với Sử Hồng Anh.
Hồi 36
Dấu phấn trên tay, máu trên kiếm
Bóng người trong kiếm, hoa trong mây
Khi Sử Hồng Anh bước lên bậc cấp, chậm rãi tiến vào lễ đường, chung quanh lễ đài đã đông đảo chúng nhân.
Cả bốn người đều muốn Sử Hồng Anh hành thích Soái Mạnh Hùng, nhưng họ không có dịp tiếp cận Soái Mạnh Hùng, chỉ mở to mắt nhìn Sử Hồng Anh bước vào lễ đường.
Lệ Nam Tinh đã phát hiện ra Công Tôn Yến nhưng Công Tôn Yến không nhận ra chàng, trong lòng nàng rất lo lắng.
Nhưng người lo lắng nhất vẫn là Lệ Nam Tinh, chàng có lòng muốn chuộc tội, quyết ý hy sinh mình để cứu Sử Hồng Anh. Nhưng ở lễ đường bọn Đổng Thập Tam nương đã canh giữ, bên cạnh Sử Hồng Anh lại có Sử Bạch Đô, chàng không tìm thấy Kim Trục Lưu, biết có liều mạng cũng vô ích, chàng chợt nghe Lý Đôn thì thầm bên tai:
"Mạo muội ra tay chỉ đánh cỏ động rắn, hỏng việc lớn". Thế rồi chàng cũng đành yên tâm chờ đợi.
Nàng đã gắn một cây độc châm trong chiếc nhẫn đeo ở ngón giữa. Nàng biết thế nào Kim Trục Lưu cũng xuất hiện bảo vệ cho mình. Sử Hồng Anh bóp nhẹ. Tay Mẫu Đơn, Mẫu Đơn đã quyết chết cùng nàng, điều nàng lo lắng duy nhất là sẽ liên lụy cho nha đầu này. Nàng phát giác lòng bàn tay Mẫu Đơn toát mồ hôi lạnh. Khi Sử Hồng Anh bóp tay Mẫu Đơn, Mẫu Đơn như cảm thấy được truyền một nguồn sức mạnh vô hình khiến nàng trấn tĩnh trở lại.
Trong lễ đường nhạc đã tấu lên, hôn lễ sắp bắt đầu.
Lúc này không ai muốn xem kịch, ai nấy đều vươn cổ ra nhìn vào lễ đường. Tuy chỉ cách khoảng mười mấy bậc cấp, nhưng chẳng ai thấy chuyện gì đang xảy ra trong lễ đường. Lệ Nam Tinh nắm tay Lý Đôn, thì thầm hỏi:
"Làm thế nào?".
Lý Đôn cũng chẳng nghĩ ra được điều gì, cười khổ sở:
"Chỉ đành tùy cơ hành sự!".
Khi tiếng nhạc đang vang lên, chợt có ba người bước xuống sân khấu tuồng, lúc này Hà Thái Phượng vẫn đang kể chuyện.
Một người là tổng quản An Đình Tuấn của phủ tướng quân, một người là Liên Thành Hổ, còn người kia là Hạ đại nương.
Ba người họ lẳng lặng bước tới, không ai để ý nhưng Lý Đôn đã nhận ra. Lý Đôn lo lắng, Liên Thành Hổ đã bị chàng thâu phục, nhưng lúc này lại đi cùng An Đình Tuấn, Lý Đôn biết không xong, vội vàng cùng Lệ Nam Tinh đi sau lưng họ.
Ông chủ gánh hát thấy tổng quản tới, vội vàng bước tới chào hỏi. An Đình Tuấn dặn:
"Cứ tiếp tục!".
Hà Thái Phượng miễn cưỡng hát xong hai đoạn, đang định đổi người thì An Đình Tuấn nói:
"Cô nương này hát rất hay, ta muốn cô nương nể mặt hát thêm một đoạn Hồng phất dạ bôn!".
Hồng phất dạ bôn là đoạn mà Hà Thái Phượng đã hát ở Hồ Đại Minh. Nay An Đình Tuấn bảo nàng hát đoạn sách này, không cần nói cũng biết đó là ý của Liên Thành Hổ, y rõ ràng có ý thăm dò. Hà Thái Phượng biết bọn chúng chẳng có ý tốt lành gì, nhưng không thể không hát. Nàng thầm cắn răng rồi nghĩ bụng:
"Mình phải bình tĩnh, bình tĩnh! Nhất định không được lộ sơ hở!".
An Đình Tuấn đảo cặp mắt nhìn dò xét, tựa như đang muốn tìm kiếm điều gì.
Một hồi sau đưa mắt sang nhìn Liên Thành Hổ, cả hai đều gật đầu. Té ra Liên Thành Hổ tham sống sợ chết, bị An Đình Tuấn, Sử Bạch Đô bức cung, không những đã khai ra Lý Đôn và Lệ Nam Tinh mà còn kể lại chuyện đã phát hiện trên đường tới đây. An Đình Tuấn không bắt được hai người Lý, Lệ thì vẫn chưa chịu bỏ qua.
Hà Thái Phượng hát chưa xong thì An Đình Tuấn chợt quát:
"Dừng!".
Ông chủ gánh hát thất kinh, lo lắng nói:
"Ả hát không hay, có cần thay đổi ...".
An Đình Tuấn cười hềnh hệch, nói:
"Hay, hay lắm! Chính vì ả hát quá hay cho nên ta muốn bảo ả xuống lãnh thường?".
Hà Thái Phượng đặt lê hoa giãn xuống, nhẹ nhàng vuốt tóc làm ra vẻ e thẹn nói:
"Tiểu nữ tử hát không hay, đại nhân đã quá khen". Lúc này nàng thấy Lý Đôn và Lệ Nam Tinh cùng chen tới bên sân khấu. Hà Thái Phượng vẫn ung dung kéo dài thời gian.
Còn An Đình Tuấn chắc mẩm Hà Thái Phượng không thể nào thoát khỏi nanh vuốt của mình nên cứ giở trò mèo vờn chuột, y lại cười bảo:
"Ta là kẻ thô lỗ, không biết hay như thế nào, may mà ở đây có một người tri âm! Liên đại nhân, hay là ông hãy nói nàng đã hát hay ra sao để cho họ biết chúng ta thưởng phạt phân minh!".
Liên Thành Hổ cười ha hả:
"Không ngờ ở đây mà còn nghe được Lê hoa đại cổ của Sơn Đông, đúng là diệu phẩm! Hà cô nương, cô trà trộn trong gánh hát Xuyên Tây chẳng phải đã thiệt thòi cho bản thân lắm ư? Hì hì! Trước mặt chân nhân cần gì phải nói dối, hãy mau theo ta lãnh thưởng!".
Té ra Hà Thái Phượng đã giả giọng miền Xuyên Tây để biểu diễn, mọi người đều không nghe được. Nhưng Liên Thành Hổ lại buộc nàng phải hát bài Hồng phất dạ bôn, nàng tuy rất bình tĩnh nhưng cuối cùng cũng không khỏi để lộ sơ hở nên Liên Thành Hổ có thể biết được giọng nói của nàng.
An Đình Tuấn cười lạnh lùng:
"Ông chủ, hình như gánh hát của ông còn một cô nương nữa, hì hì, đúng là cô nương này! Ông hãy bảo cô ta đi lãnh thường?" Rồi chỉ tay về phía Công Tôn Yến! An Đình Tuấn đã nhìn thấy cây nhuyễn kiếm Công Tôn Yến dắt trong người!
Công Tôn Yến không bình tĩnh như Hà Thái Phượng, nàng lập tức rút thanh kiếm nhảy xuống sân khấu! Hà Thái Phượng đành ra tay, cười lạnh:
"Liên đại nhân, ông muốn lãnh thưởng, tôi sẽ giúp ông?" Rồi nàng vung tay, cây dùi gõ trống bay về hướng Liên Thành Hổ. Đây là ám khí độc môn của nàng, bên ngoài cây dùi được sơn một lớp màu đen, trông giống như làm bằng gỗ nhưng thực ra làm bằng sắt.
Công Tôn Yến chùn chạm chân xuống đất Hạ đại nương cũng phóng ám khí ra, đó là ba trái độc tật lê. Đây là loại ám khí rất nặng nề, Hạ đại nương thấy khinh công của nàng cao cường, nghĩ bụng bản lĩnh của nàng không tệ, chỉ e dùng những loại ám khí nhẹ như mai hoa châm sẽ bị chưởng phong của nàng quét rơi, nên mới dùng loại độc tật lê nặng nề này! Cũng nghĩ bụng nàng đang ở trên không trung dù khinh công giỏi đến mức nào cũng không thể né tránh hoặc đánh rơi.
Tuy Hạ đại nương tính như thế nhưng không biết bọ ngựa bắt ve, chim sẻ ở phía sau, khi trái độc tật lê của mụ bay lên sân khấu, sắp trúng vào mình Công Tôn Yến đột nhiên nghe có một tiếng quát lớn!
Sau tiếng quát ấy là một đạo bạch quang bay tới, chỉ thấy Lệ Nam Tinh cả người lẫn kiếm hóa thành một luồng cầu vồng lướt vụt tới, tiếng kim khí giao nhau nghe nhức cả tai. Ba trái độc tật lê của Hạ đại nương đã bị cây huyền thiết kiếm của chàng chặt gãy thành sáu mảnh, bay ra xung quanh, khách khứa trong sân vội vàng né tránh!
Lệ Nam Tinh kéo tay Công Tôn Yến, hai người nhẹ nhàng hạ xuống đất. Công Tôn Yến vừa lo vừa mừng, kêu lên:
"Lệ đại ca, là huynh đấy ư!" Nàng hầu như tưởng mình đang nằm chiêu bao.
Phía bên kia cây dùi của Hà Thái Phượng cũng bị An Đình Tuấn đánh rơi.
An Đình Tuấn cũng chẳng phải tay vừa. Vừa đánh rơi ám khí của Hà Thái Phượng lập tức phóng lên tóm lấy nàng. Chỉ nghe kình phong vù vù, té ra đó chính là Đại lực ưng trao công!
Lý Đôn quát:
"Nằm xuống!" An Đình Tuấn sắp chụp trúng vào mặt Hà Thái Phượng, chợt thấy gió lướt tới, mai hoa châm của Lý Đôn đã cắm vào hậu tâm của y!
An Đình Tuấn biết cây độc châm này bắn vào ba đại huyệt sau lưng của mình!
An Đình Tuấn vội vàng phóng người lên cao, ba mũi độc châm lướt qua bàn chân y.
An Đình Tuấn né được độc châm, cũng không bắt được Hà Thái Phượng. Khinh công của Hà Thái Phượng không tệ, nàng lập tức lướt qua một bên, rút kiếm đâm về phía Liên Thành Hổ.
Liên Thành Hổ đã trúng độc hai ngày, công lực chẳng còn, lòng lo sợ, thở dài:
"Dù sao ta cũng chẳng muốn sống nữa, cứ giết ta đi!" Hà Thái Phượng chưa bao giờ giết ai cả, thấy kẻ địch không chống trả không thể nào xuống tay được. Đang lúc chần chừ An Đình Tuấn đã nhảy bổ tới vung đao chém về phía nàng.
Lý Đôn bước tới, vỗ nhẹ vào vai Liên Thành Hổ, cười lạnh:
"Liên đại nhân, coi như ông không có lỗi với bằng hữu! Ông chỉ vì công danh phú quý, tôi cũng không thể đưa thuốc giải cho ông. Nhưng tôi cũng không giết ông, ông cũng nên ăn năn hối cải đi!".
Lý Đôn rút phắt thanh kiếm ra khỏi vỏ, hai vợ chồng liên thủ cùng chống địch.
Liên Thành Hổ nấp qua một bên, trong lòng vừa hổ thẹn vừa hối hận. Hạ đại nương quát:
"Hay lắm, tên tiểu tử họ Lệ kia, nếu ngươi chưa chết, lão nương sẽ giúp cho ngươi, để các ngươi làm đôi uyên ương đồng mệnh?".
Lệ Nam Tinh nói:
"Cẩn thận, trên móng tay mụ yêu phụ có độc!" Ngay lúc đó Hạ đại nương đã chụp tới bối tâm của Công Tôn Yến, Công Tôn Yến lướt người tránh qua một bên. Lệ Nam Tinh giận dữ quát:
"Hôm nay ta phải chặt đứt độc trảo của ngươi!" Rồi chàng lùi ra sau ba bước, múa tít thanh huyền thiết bảo kiếm. Hạ đại nương đã biết sự lợi hại của bảo kiếm, nào dám tấn công về phía chàng!
Bọn vệ sĩ mặc thường phục lẩn trong khách khứa đều rút ra binh khí phóng tới, Công Tôn Yến cười lạnh:
"Cho các người biết sự lợi hại của bổn cô nương!" Rồi đột nhiên chỉ thấy ánh hàn quang loang loáng, tà áo phấp phới, Công Tôn Yến đã thi triển thân pháp độc môn, lúc này nàng trông giống như bươm bướm xuyên hoa, chuồn chuồn giỡn nước, thanh trường kiếm cứ đâm trái chọc phải, chỉ nghe tiếng leng keng vang lên không ngớt bên tai, rồi sau đó là tiếng kêu thảm thiết, trong chớp mắt binh khí của bọn vệ sĩ đã rơi xuống đất! Kiếm chiêu của Công Tôn Yến nhanh như điện chớp, mỗi chiêu đều đâm vào mạch môn của đối thủ. Bọn vệ sĩ chỉ thấy trước mắt ánh hàn quang lóe lên, cổ tay đã trúng kiếm, chẳng có kẻ nào chống đỡ nổi.
Công Tôn Yến hớn hở quát:
"Mụ yêu bà, hãy nếm thử một kiếm của ta!" Rồi cây thanh cương kiếm vung lên đâm soạt về phía Hạ đại nương. Chợt nghe tiếng kình phong nổi lên, một đại hán chợt nhảy bổ ra từ trong đám đông, chen vào giữa Công Tôn Yến và Hạ đại nương, trở tay lại tóm về phía cây trường kiếm của nàng. Người này chính là Trịnh Hùng Đồ, vốn đã đi theo đại nội tổng quản Tát Phúc Đỉnh. Cổ tay của Trịnh Hùng Đồ cũng trúng một kiếm nhưng không trúng vào mạch môn, y lại luyện công phu Thiết sa chưởng, tuy bị mũi kiếm vạch rách da nhưng cũng đã giật được thanh kiếm của Công Tôn Yến.
Hai tên vệ sĩ thấy thế múa kiếm xông lên. Hai người này cũng coi như là cao thủ kiếm thuật trong phủ tướng quân. Hai người này tấn công từ phía hai bên. Lệ Nam Tinh thấy thế thì kinh hoảng, không khỏi kêu lên "ối chao" nhưng chàng đã bị Hạ đại nương giữ chân cho nên không thể xông qua.
Công Tôn Yến cười rằng:
"Không sao, để bọn chúng thấy công phu đoạt kiếm của tôi!" Hai tên vệ sĩ đang đâm kiếm tới đột nhiên thấy bàn tay nhẹ hẫng, hai thanh kiếm đồng thời vuột khỏi tay. Thủ pháp đoạt kiếm của Công Tôn Yến còn nhanh nhẹn hơn cả công phu đoạt kiếm của Trịnh Hùng Đồ!
Công Tôn Yến giật được hai thanh kiếm, cười lớn:
"Lấy một đổi hai coi như ta đã lợi!" Nói chưa dứt đã xông tới chặn đường của Trịnh Hùng Đồ.
Trịnh Hùng Đồ quát:
"Buông kiếm!" Rồi lại dùng công phu Thiết sa chưởng giật chuôi kiếm của nàng, cây kiếm trên tay phải của Công Tôn Yến đâm ngược lại nhanh như điện chớp, phía sau vang lên hai tiếng "ối chao", hai tên vệ sĩ đã trúng kiếm ngã xuống, đó là đòn khoái kiếm thanh đông kích tây, các hảo thủ kiếm thuật đứng trong sân đều không biết nàng đã đâm ra như thế nào!
Trịnh Hùng Đồ không giật được kiếm của Công Tôn Yến, hai tên vệ sĩ đã ngã xuống đất. Y chợt lạnh mình, lúc này mới biết kiếm pháp của Công Tôn Yến không như y tưởng tượng, thế là không dám khinh địch nữa. Công Tôn Yến cười lạnh:
"Bây giờ đến lượt ngươi, có bản lĩnh thì hãy giật kiếm nữa!" Rồi nàng hơi lắc người, còn Trịnh Hùng Đồ thì nhìn chằm chằm vào mũi kiếm, y định phát ra một đòn Thiết sa chưởng nữa thì đột nhiên thấy vai đau nhói, té ra đã trúng một kiếm của Công Tôn Yến!
Số là không phải Công Tôn Yến thua Trịnh Hùng Đồ, chỉ vì lúc nãy nàng không muốn giết người cho nên chỉ đâm kiếm vào cổ tay của đối phương mà không biết bản lĩnh của Trịnh Hùng Đồ hơn hẳn bọn vệ sĩ cho nên đã tính toán sai lầm, vì thế mới bị Trịnh Hùng Đồ giật kiếm.
Nay nàng đã chuẩn bị, ra tay vừa chính xác vừa nhanh thì Trịnh Hùng Đồ làm sao có thể giật được kiếm của nàng?
Trịnh Hùng Đồ đã trúng kiếm ở trên vai, cả giận quát lớn:
"Nha đầu, ta liều với ngươi!" Trịnh Hùng Đồ ỷ y mình có công phu Thiết sa chưởng, cho nên dù có bị trúng một kiếm nữa cũng phải giết chết nàng. Nào ngờ thân pháp của Công Tôn Yến kỳ quặc vô cùng, hai chưởng của Trịnh Hùng Đồ đánh xuống đột nhiên nàng xoay người ra phía sau của y. Trịnh Hùng Đồ chưa bao giờ thấy lối đánh kỳ quặc như thế này, y đang phân tâm, hai chưởng tuy vẫn tấn công mãnh liệt nhưng tốc độ đã hơi chậm lại.
Chỉ chậm trong khoảnh khắc đột nhiên nghe Công Tôn Yến quát:
"Trúng chiêu!" Hai kiếm đâm trở ngược lại nhanh đến mức khó hình dung, hai tiếng soạt soạt vang lên, tiếp theo là một tiếng keng, lòng bàn tay trái của Trịnh Hùng Đồ đã bị kiếm đâm xuyên qua, rồi lòng bàn tay phải thì bị rạch một chữ thập, vì chưởng lực của y hơi mạnh cho nên cũng đánh rơi được kiếm.
Nhưng Công Tôn Yến chẳng qua chỉ mất một thanh kiếm, còn hai bàn tay Trịnh Hùng Đồ đã bị thương, vết thương này còn nặng hơn cả vết thương trên vai. Trịnh Hùng Đồ không nén đau được, gầm một tiếng nhảy vọt ra sau ba bước rồi ngã xuống.
Hạ đại nương ở phía sau lưng y, lúc này bị y va vào Hạ đại nương không biết là địch hay bạn, chợt cảm thấy có người nhảy bổ tới sau lưng trở tay lại đẩy mạnh một cái, quát:
"Đi!" Trịnh Hùng Đồ bị đẩy ra đến hơn một trượng.
Công Tôn Yến nhảy bổ tới như hình với bóng, lại đâm soạt thêm một kiếm nữa.
Trịnh Hùng Đồ không mở chưởng ra được, hai tay nắm thành quyền đấm xuống nhưng trên người lại trúng thêm một kiếm.
Trịnh Hùng Đồ vốn muốn liều với Công Tôn Yến, cho nên dù đã trúng một kiếm nhưng vẫn đấm quyền xuống. Công Tôn Yến thấy y hung hãnh như thế trong bụng thầm thất kinh?
Nào ngờ quyền của Trịnh Hùng Đồ chưa đấm xuống người Công Tôn Yến hai tay đột nhiên sụt xuống. Công Tôn Yến tung ra một cú đá, thân hình cao lớn của Trịnh Hùng Đồ ngã ngửa ra phía sau, y chỉ rên lên một tiếng rồi đứt hơi. Nhưng Công Tôn Yến cũng ngạc nhiên thầm nhủ:
"Nhát kiếm của mình không đâm vào chỗ chí mạng, sao y lại chết?".
Té ra y cũng bị Hạ đại nương chụp một cú. Móng tay của Hạ đại nương có độc, vừa vặn chụp vào vết thương trên vai của y, chất độc thấm vào máu, trong chớp mắt đã phát độc mà chết!
Khi cao thủ giao đấu với nhau kị nhất là phân tâm, khi đẩy Trịnh Hùng Đồ ra, Hạ đại nương hơi chậm tay lại, đã tạo cơ hội cho Lệ Nam Tinh phản công, Lệ Nam Tinh vỗ ra một chưởng đẩy Hạ đại nương ra rồi bồi thêm một nhát kiếm. Hạ đại nương chỉ nhờ độc trảo tấn công đối phương, nào có thể chịu nổi một đòn của huyền thiết bảo kiếm? Mụ ta đẩy hai chưởng ra, nhưng chưởng lực không đủ đánh lệch đầu kiếm, chỉ nghe soạt một tiếng, hai bàn tay của Hạ đại nương đều bị chặt đứt. Công Tôn Yến nhảy bổ tới bồi một kiếm, đâm vào xương tỳ bà của mụ ta.
Lệ Nam Tinh nói:
"Mau giúp Lý đại ca!".
Công Tôn Yến trả lời:
"Được!" Cũng trong lúc này, chợt nghe có một tiếng ầm vang lên, tiếp theo là tiếng kêu thảm. Té ra Liên Thành Hổ thấy Hạ đại nương đã mất mạng, bất đồ chán nản, thầm nhủ:
"Hạ đại nương đã chết, mình còn biết xin thuốc giải ở đâu? Lý Đôn tuy tha cho mình nhưng mình cũng không sống nổi, cần gì phải chịu khổ thêm mấy ngày?" Vì thế liền đâm đầu vào hòn non bộ tự sát!
Khách khứa trong sân có mấy lúc thấy cảnh ác đấu như thế này? Ai nấy đều trách cha mẹ chỉ xin cho mình một đôi chân, trong chớp mắt đã chạy sạch chẳng còn một mống. Có vài người nhát gan không chạy nổi, ngã xuống đất bất tỉnh.
Lúc này khách khứa đã chạy hết, Cao Đại Thành và Đỗ Đại Nghiệp vốn đã được Sử Bạch Đô mời tới, một người cầm lang nha bổng, một người múa hộ thủ câu nhảy tới chặn Lệ Nam Tinh và Công Tôn Yến.
Lệ Nam Tinh chém tới một kiếm, Cao Đại Thành giơ cây bổng lên đỡ, Cao Đại Thành ỷ mình có sức lực trời cho, nào ngờ kiếm và bổng giao nhau chỉ nghe keng một tiếng, cây lang nha bổng đã bị huyền thiết kiếm chặt gãy. Còn Cao Đại Thành hổ khẩu chảy máu, y vội vàng né tránh nhưng vẫn giữ chặt cây lang nha bổng. Lệ Nam Tinh cũng cảm thấy hổ khẩu tê rần, chàng lách người phóng lướt về phía Cao Đại Thành.
Công Tôn Yến đâm tới một nhát kiếm, Cao Đại Thành cả giận quát:
"Ả nha đầu dám bắt nạt ta!" Rồi y giơ ngang cây lang nha bổng chặn lại trước ngực, nào ngờ thanh trường kiếm chợt lệch sang một bên, đâm soạt vào tay trái của Cao Đại Thành.
Đỗ Đại Nghiệp múa đôi song câu đâm ra, song câu là loại binh khí khắc chế đao kiếm, Công Tôn Yến đâm gấp ra bảy kiếm, tuy mũi kiếm không bị y khóa lại nhưng cũng không phá nổi chiêu số của y.
Cao Đại Thành chỉ bị thương nhẹ, y càng nổi giận hơn, cây lang nha bổng múa tít kêu lên vù vù, nhanh đến nỗi gió mưa không lọt. Công Tôn Yến muốn đâm trúng y cũng không thể, hai người này võ công cao cường, khi liên thủ với nhau đã đẩy Công Tôn Yến từng bước thối lui. Công Tôn Yến không thể phát huy được uy lực kiếm pháp của mình nên dần dần núng thế.
Phía bên kia An Đình Tuấn bị vợ chồng Lý Đôn liên thủ tấn công. Lệ Nam Tinh phóng tới, lập tức đánh ra một chiêu Lực phách hoa sơn, An Đình Tuấn nghe luồng kình phong quét tới thất kinh, thầm nhủ:
"Tên tiểu tử thật ghê gớm, chỉ e mình không địch nổi y!" Rồi xoay người né tránh song kiếm của vợ chồng Lý Đôn, cây roi bảy đốt trong tay phất nhẹ, sử dụng tự quyết chữ "đới", bạt huyền thiết kiếm sang một bên.
Tuy thế cây roi bảy đốt của y cũng bị bảo kiếm gọt đứt một đốt.
Lệ Nam Tinh liên tục đánh ra ba nhát kiếm, cây roi của An Đình Tuấn lại bị chặt đứt thêm hai đốt nữa, roi bảy đốt giờ đây chỉ còn bốn đốt, An Đình Tuấn kêu lớn:
"Người đâu!" Lúc này ở ngoài sân chỉ có những cao thủ thuộc hàng thứ nhì. Cao thủ thuộc hàng nhất lưu vẫn ở trong lễ đường.
Ngoài sân có chuyện lớn xảy ra nhưng người trong lễ đường không hề biết, cũng chẳng ai ra cứu viện. An Đình Tuấn rất ngạc nhiên, nên buộc phải kêu cứu.
Không ngờ lúc này trong lễ đường cũng nhốn nháo, có người cũng kêu:
"Người đâu!" Có người từ lễ đường phóng ra, nhưng đó chỉ là đám khách khứa bỏ chạy. Té ra bên trong lễ đường cũng xảy ra chuyện, những chuyện này càng kinh người hơn!
Lại nói Sử Hồng Anh vịn Mẫu Đơn từ từ bước vào lễ đường. Nàng lén nhìn qua mảnh khăn che đầu, chỉ thấy cha con Văn Đạo Trang, Văn Thắng Trung và chú cháu Sa Thiên Phong, Sa Trọng Sơn cùng bọn Dương Hạo cũng đứng lố nhố trong số khách khứa. Lại thêm Sử Bạch Đô và ba hương chủ của Lục Hợp bang, có thể nói trong lễ đường lúc này toàn là cao thủ.
Sử Hồng Anh thấy thế trong lòng thầm thất kinh! Nàng không phải lo cho mình, bởi vì nàng đã có ý muốn liều mình. Nàng chỉ lo cho Kim Trục Lưu!
Nàng vẫn chưa thấy Kim Trục Lưu, nhưng vẫn tin chắc rằng chàng đã đến.
Nhưng có quá nhiều cao thủ ở đây, Kim Trục Lưu trừ phi không lộ mặt, nếu không chắc chắn sẽ nguy hiểm đến tánh mạng.
Nghĩ chưa dứt thì chỉ nghe "án lễ sinh" lên tiếng:
"Tân nương lên đường, xin mời tân lang!".
Soái Mạnh Hùng hớn hở bước tới, trong tay cầm một cây quạt xếp. Theo phong tục lúc này, y phải dùng cây quạt xếp hất tấm khăn của tân nương ra rồi sau đó cùng tân nương bái đường.
Tân lang đã ra đón tân nương, Sử Bạch Đô có vai trò hộ tống tân nương cũng phải thối lui qua một bên. A hoàn theo Sử Hồng Anh xuất giá vẫn đứng phía sau lưng nàng.
Khi tân lang giơ cây quạt xếp ra, chợt nghe tân nương cười lạnh, tân lang kêu lên:
"Nàng ..." Rồi đột nhiên chỉ thấy tân nương tự ném khăn của mình, tay phải cầm một cây đoản kiếm sáng quắc tay trái nắm một ngọn roi dài. Ngọn roi thì quét ngang, đoản kiếm thì đâm thẳng vào ngực tân lang?
Số là Sử Hồng Anh đã cắm cây độc châm vào vai Soái Mạnh Hùng.
Soái Mạnh Hùng cũng không phải không phòng bị, nhưng Sử Hồng Anh giấu cây độc châm trong móng tay của mình khiến y không ngờ tới.
Còn ngọn roi và đoản kiếm giấu trên người Mẫu Đơn. Soái Mạnh Hùng, Sử Bạch Đô chỉ để ý đến Sử Hồng Anh chứ chẳng lưu tâm đến nha đầu của nàng. Mẫu Đơn đã dám đồng mưu với Sử Hồng Anh, không ngại hy sinh tính mạng của mình, bọn họ có nằm mơ cũng không ngờ được.
Sử Hồng Anh bắn ra cây độc châm, tiếp theo vung roi, rút kiếm, xuất chiêu, toàn bộ các động tác thực hiện liền một mạch, nhanh như điện chớp! Trong tiếng kêu kinh hoảng, chỉ thấy ánh hàn quang lóe lên, đoản kiếm của Sử Hồng Anh đã đâm vào trước ngực Soái Mạnh Hùng, dù xung quanh toàn là cao thủ nhưng cũng không thể cứu mạng được y!
Trong khoảnh khắc này, tim mọi người như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, ai cũng tưởng rằng hoa đường sẽ nhuốm máu! Không ngờ chỉ nghe soạt một tiếng vang lên, Soái Mạnh Hùng nhảy vọt ra sau ba bước, tránh qua một bên, nhưng không ngã xuống, trên người cũng chẳng chảy máu!
Số là Soái Mạnh Hùng võ công cao cường, lại trải qua hàng trăm trận chiến, trong lúc nguy nan đã trúng độc châm nhưng không hề rối loạn. Y không kịp rút ra thanh kiếm mang theo bên mình, nhưng đã biết dùng cây quạt làm binh khí, y bật quạt ra, dùng công phu Nghị lực hóa kình thượng thừa nhất dồn lên cây quạt, đoản kiếm của Sử Hồng Anh lướt qua, mũi kiếm lệch sang một bên. Mũi kiếm tuy đâm xuyên qua cây quạt nhưng không trúng vào người y được.
Sau tiếng kêu soạt ấy vang lên, chỉ nghe tiếng "ối chao" kêu lên tiên tục. Té ra Sử Hồng Anh khi đâm kiếm về phía trước ngọn roi dài cũng đã quét ngang ra. Ngọn roi này quét trúng khách đang đứng xem lễ, cuộn những người này đứng chặn giữa nàng với Soái Mạnh Hùng. Soái Mạnh Hùng may mắn thoát mạng, y cả giận đang định thi triển cầm nã thủ nhưng bị những người này che lại.
Những người đủ tư cách vào lễ đường xem lễ chỉ toàn là quý nhân, Soái Mạnh Hùng sợ ném chuột vỡ đồ cho nên vung hai chưởng ra tóm lấy hai người khách đẩy nhẹ sang một bên. Lúc này Sử Hồng Am đã liên tục quét ra ba roi, đã có mấy người khách ngã xuống đất.
Sử Bạch Đô vừa kinh vừa giận, quát:
"Ả nha đầu khốn kiếp phản rồi! Ngươi ...
ngươi không muốn sống nữa!" Sử Hồng Anh cười lạnh:
"Đúng thế, tôi đã phản rồi, tôi không muốn sống nữa, nhưng ít nhất cũng có một người cùng chết với tôi, đó chính là Soái Mạnh Hùng!".
Soái Mạnh Hùng giả vờ bình tĩnh, buông giọng cười lớn:
"Chỉ một mũi độc châm thì làm sao có thể lấy được mạng ta. Sử cô nương, cô hãy ném binh khí rồi mau mau chuộc lỗi với khách khứa, chúng ta còn có thể thương lượng được". Lúc này Soái Mạnh Hùng đã biết Sử Hồng Anh quyết chẳng làm tân nương của mình nữa, nhưng y sợ làm quá Sử Hồng Anh sẽ ra tay đả thương khách khứa!
Soái Mạnh Hùng tưởng rằng nội công của mình thâm hậu, lúc đầu đúng là chẳng lo nghĩ gì, không ngờ cười chưa xong chợt thấy nửa bên người đã tê rần, lúc này mới biết độc châm chẳng phải tầm thường, y vội vàng vận công chống độc, không dám vọng động nữa.
Sử Bạch Đô giục:
"Soái tướng quân hãy nghỉ ngơi chốc lát, để tôi trừng trị con tiện tì này!" Sử Hồng Anh múa roi không ngừng, quát:
"Nếu huynh dám đến, không chỉ một người chết theo tôi!".
Sử Bạch Đô cười lạnh:
"Công phu của ngươi là do ta dạy, ngươi dám hung hãn trước mặt ta?" Liền vỗ ra một đòn Phách không chưởng, quét ngọn roi của Sử Hồng Anh ra rồi phóng người lên.
Một tên phó quan của Soái Mạnh Hùng kêu lớn:
"Sử bang chủ, đừng lỗ mãng!".
Lúc này khách khứa đã chạy ra ngoài cửa, nhưng lúc này có mười mấy người bị Sử Hồng Anh đánh ngã vẫn nằm ngổn ngang ở dưới đất.
Trong lễ đường tuy có nhiều cao thủ nhưng nếu đánh nhau thì làm sao giữ được tính mạng của những người này?
Sử Bạch Đô nói:
"Không sao?" Chỉ thấy y tiến về phía trước, hai cước tung ra liên tục, những người ở dưới đất đều bị y đá bay ra ngoài cửa. Nói ra cũng rất lạ, những người này bị trúng một cước của y nhưng khi rơi xuống vẫn đứng vững cứ như được y dùng tay đỡ nhẹ lên rồi đặt xuống. Té ra Sử Bạch Đô dùng lực rất khéo léo, nên tung cước mà không hề làm ai bị thương. Ngọn roi của Sử Hồng Anh bị chưởng phong của y quét ra nên cũng khó thi triển.
Có vài người tuy không bị thương, rơi xuống ở trước cửa mà vẫn còn chưa biết chạy, chỉ dựa vào người khác. Phó quan lúc nãy vội vàng kêu vệ sĩ đỡ họ ra ngoài.
Trong chớp mắt khách trong lễ đường đã chạy cả ra ngoài.
Mẫu Đơn vẫn còn đứng bên cạnh Sử Hồng Anh, Sử Bạch Đô quát lớn một tiếng, tung ra một cước đá về phía nàng, y hận nàng ta đồng mưu với Sử Hồng Anh nên quyết giết chết nàng.
Sử Hồng Anh hít một hơi, dồn hết khí lực toàn thân trở tay đánh lại một roi. Sử Bạch Đô vung tay chụp lấy ngọn roi của nàng. Cú đá của y hơi chậm lại nhưng vẫn bay về phía Mẫu Đơn.
Tưởng rằng Mẫu Đơn khó giữ mạng, Sử Hồng Anh cũng không thoát khỏi ma trảo, nhưng trong lúc nguy cấp ấy chợt nghe một tiếng ầm vang lên, té ra có người từ trên không trung nhảy xuống, người đó chẳng phải ai khác, chính là Kim Trục Lưu.
Té ra đêm qua sau khi Kim Trục Lưu lẻn vào thành, chàng đã âm thầm chui vào lễ đường, nấp sau tấm biển lớn ở trên.
Sử Bạch Đô tung cú đá ra, đột nhiên cảm thấy lòng bàn chân chấn động, té ra Kim Trục Lưu đã phóng một đồng tiền vào lòng bàn chân của y. Sử Bạch Đô mang giày đế dày, lại đang dùng lực đá ra, đương nhiên một đồng tiền nhỏ bé không thể làm y bị thương. Dù Sử Bạch Đô lớn gan nhưng thấy Kim Trục Lưu bất ngờ xuất hiện cũng hoảng hồn. Lúc này đã bị đánh lén, y không biết Kim Trục Lưu còn có trò gì lợi hại nữa cho nên đành co chân buông tay, né sang một bên.
Cái biển đề ba chữ "Tướng quân phủ" bị Kim Trục Lưu đánh một quyền vỡ nát, rơi từ trên không trung xuống, bọn vệ sĩ đứng ở ngoài cửa vội vàng né tránh. Có hai người khách chạy ở sau cùng bị gỗ rơi trúng đầu.
Kim Trục Lưu nhân lúc Sử Bạch Đô còn thất kinh, né sang một bên, chàng nhấc bổng Mẫu Đơn, ghé vào tai nàng giục:
"Chạy mau!" Rồi vung tay ném Mẫu Đơn ra ngoài cửa.
Sử Bạch Đô quát:
"Hảo tiểu tử, ngươi cũng thật lớn gan!" Kim Trục Lưu cười ha hả:
"Đa tạ đã quá khen, được, hãy xem thủ pháp của ta!" Cười chưa dứt thì hai bên đã lao tới nhanh như điện chớp, dùng kiếm đối kiếm, dùng chưởng đối chưởng, trong chớp mắt đã đánh ra ba chiêu.
Kim Trục Lưu đánh hờ quyền trái rồi thúc chỏ ra, đột nhiên đấm ra một quyền, phất ngón trỏ nhô ra, gõ vào mang tai của Sử Bạch Đô. Chiêu này ta gọi Linh dương quải giác, vừa nhìn cứ tưởng quyết sẽ đấm vào quai hàm, xương mềm ở mang tai rất yếu ớt, nếu bị đấm trúng không chết cũng tàn phế.
Sử Bạch Đô trả lại một chiêu Thiên vương thác tháp, tay phải co lại, mu bàn tay phất ra ngoài để thi triển một đòn cầm nã thủ.
Sử Bạch Đô dùng công làm thủ, hóa giải rất hợp lý mà lại hiểm hóc. Không ngờ đó chỉ là hư chiêu của Kim Trục Lưu, Sử Bạch Đô chụp hụt chỉ nghe "ối chao" một tiếng, bên cạnh có người lảo đảo chạy ra, người ấy há mồm phun ra một ngụm máu.
Kim Trục Lưu cười lớn:
"Sử bang chủ, ngươi thấy thủ pháp nhổ răng trong miệng hổ của ta như thế nào?" Rồi chàng vung tay, một luồng gió tanh lướt tới trước mặt Sử Bạch Đô, Sử Bạch Đô chỉ nghĩ đó là ám khí có độc, không dám tiếp lấy nên đành phất ống tay áo cuộn lấy, khi nhìn lại thì té ra đó là hai cái răng cửa dính đầy máu.
Người bị đánh gãy răng là Sa Thiên Phong, té ra Sa Thiên Phong thấy Kim Trục Lưu đấu với Sử Bạch Đô, Kim Trục Lưu hình như đang núng thế, y muốn kiếm lợi cho nên phóng lên đánh lén. Nào ngờ Kim Trục Lưu giả vờ không biết, miệng vẫn nói với Sử Bạch Đô, chưởng và kiếm cũng đánh về phía Sử Bạch Đô, tuy Sa Thiên Phong len lén bước tới sau lưng chàng, chàng mới đột nhiên chuyển hư chiêu ra phía sau làm thực chiêu, tung một cú đấm làm gẫy răng Sa Thiên Phong. Sa Thiên Phong tuy thua Kim Trục Lưu, nhưng không đến nỗi nhục nhã như thế này.
Văn Đạo Trang quát:
"Kim Trục Lưu chớ làm dữ!" Rồi phóng người lên. Sử Hồng Anh quét ngọn roi cuộn về phía eo của Sa Thiên Phong, Sa Thiên Phong chưa đứng vững nào có thể né tránh được, chỉ cảm thấy be sườn tê rần, đã bị ngọn roi của Sử Hồng Anh cuộn lấy nhấc bổng lên.
Văn Đạo Trang đang chạy tới, Sử Hồng Anh vung ngọn roi ném Sa Thiên Phong về phía Văn Đạo Trang. Văn Đạo Trang đương nhiên không thể ra đòn, đành đưa hai tay đỡ lấy Sa Thiên Phong. Sa Thiên Phong liên tục bị nhục, tức giận đến nỗi kêu ầm lên.
Công lực của Sử Bạch Đô vốn hơn Kim Trục Lưu, nhưng y không khỏi thầm thất kinh trước những chiêu số khó lường của Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu cười lớn:
"Sử bang chủ, ông có muốn nếm thử thủ đoạn nhổ răng trong miệng cọp của tôi không?".
Sử Bạch Đô giận dữ quát:
"Nhà ngươi cũng dám bắt nạt ta?" Tuy y nói ngoài miệng như thế, nhưng trong bụng cũng hơi sợ Kim Trục Lưu lại có quái chiêu gì bỡn cợt mình.
Lúc này Kim Trục Lưu đang rất bất lợi. Sử Bạch Đô đoán rằng chàng không thoát ra được, nên có ý trước tiên phòng bại rồi mới cầu thắng, Kim Trục Lưu chợt lao tới nên y lách mình sang một bên. Nào ngờ đó lại là hư chiêu của chàng, trong chớp mắt, chỉ nghe Kim Trục Lưu hú dài, phóng vọt người lên rồi lướt về phía Soái Mạnh Hùng!
Soái Mạnh Hùng không ngờ Kim Trục Lưu lại nhanh như thế, trong lòng hết sức kinh hoàng. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Trục Lưu trở tay lại tóm lấy mạch môn của y.
Soái Mạnh Hùng bị kẻ địch chụp lấy cổ tay, nhưng lập tức hạ thấp người xuống, dồn lực ra hai cánh tay, cổ tay trầm xuống rồi xoay người đẩy bật Kim Trục Lưu ra.
Kim Trục Lưu thầm kêu đáng tiếc, nếu chàng dùng cả kiếm lẫn chưởng đã sớm đâm chết Soái Mạnh Hùng. Chỉ vì chàng có ý bắt y làm con tin mà không ngờ rằng Soái Mạnh Hùng tuy đã trúng độc châm nhưng vẫn có thể vận dụng chân lực. Kim Trục Lưu không tóm được y là thời cơ đã mất.
Trong lúc này, hai bóng người lao về phía Kim Trục Lưu. Người bên trái là Dương Hạo, người bên phải là Văn Đạo Trang. Dương Hạo luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ chín, người chưa tới thì chưởng đã phát, dù Kim Trục Lưu có Thần công hộ thể cũng không khỏi rùng mình.
Văn Đạo Trang vỗ ra một chiêu Hoành thân đả hổ về phía sau lưng của Kim Trục Lưu.
Kim Trục Lưu chợt phóng vọt người lên, Tam tượng thần công của Văn Đạo Trang và Tu la âm sát công của Dương Hạo tương đương với nhau, quyền phong và chưởng phong chạm vào nhau phát ra một tiếng kêu ầm, cả hai bên đều thối lui ba bước. Lúc này Kim Trục Lưu đã lướt qua đỉnh đầu Văn Đạo Trang.
Văn Đạo Trang tuy đánh lén không thành công nhưng cũng đã thực hiện xong kế vây Ngụy cứu Triệu. Cao thủ trong lễ đường đều lo cứu Soái Mạnh Hùng nên trong nhất thời không rảnh đối phó với Sử Hồng Anh.
Lúc này Sử Hồng Anh chỉ giao thủ với Sử Bạch Đô. Bản lĩnh của Sử Bạch Đô tuy hơn em gái của mình nhưng trong khoảnh khắc Kim Trục Lưu tấn công Soái Mạnh Hùng, y phân vân không biết chạy đến cứu viện hay bắt em gái mình trước! Sử Hồng Anh không đánh lại anh trai của mình, nhưng vẫn có thể chống đỡ được vài chiêu, Sử Bạch Đô hơi chần chừ thì Kim Trục Lưu đã phóng vọt về nhanh như điện chớp!
Soái Mạnh Hùng thoát khỏi cú chụp của Kim Trục Lưu cảm thấy toàn thân tê rần, rõ ràng độc khí đã dâng lên. Soái Mạnh Hùng thất kinh, lòng thầm nhủ:
" Phải tìm mau Hạ đại nương!" Y không biết rằng Hạ đại nương đã bị Lệ Nam Tinh giết chết.
Lúc này khách khứa đã chạy tứ tán, Soái Mạnh Hùng đang đứng ở ngoài cửa, không thấy Hạ đại nương vội vàng kêu lớn:
"Hãy mau gọi đại nương trở về!".
Nói chưa dứt lời thì chỉ nghe soạt một tiếng, một trái cầu lửa phóng lên không trung, trong khoảnh khắc bốn phía đều có pháo hoa bắn lên trời tựa như trong đêm Nguyên Tiêu!
Bọn vệ sĩ trong sân kêu ầm lên:
"Có gian tế, có gian tế!" Trong tiếng quát ầm ĩ, bọn chúng nghe tiếng pháo nổ đánh thành.
Pháo hoa rõ ràng là tín hiệu tiếp ứng. Không cần nói đã biết gian tế đã mai phục trong thành!
Số là trái cầu lửa lúc đầu là xà diệp tiễn của Hà Thái Phượng bắn ra, người của nghĩa quân trong thành vừa thấy xà diệp tiễn phóng pháo hoa theo, đó chính là tín hiệu trong ứng ngoại hợp mà họ ước hẹn từ trước.
Soái Mạnh Hùng không hổ là một đại tướng, lúc nguy mà không loạn, y một mặt kêu người ra lệnh cho quân trấn thủ phải bình tĩnh đối phó, một mặt điều động hảo thủ đến bắt bọn Lệ Nam Tinh.
Nhưng bản thân y cũng trúng độc châm cho nên không thể chỉ huy được. Lúc này y lo lắng ngoại địch nhưng càng muốn tìm thuốc giải hơn, vì thế không thèm để ý đến cuộc đấu trong lễ đường mà bỏ đi tìm Hạ đại nương.
Kim Trục Lưu cả mừng:
"Lệ đại ca đang ở bên ngoài!" Rồi chàng múa kiếm nhanh như gió mở đường máu thoát ra.
Sử Bạch Đô không chống nổi đòn tấn công của chàng và Sử Hồng Anh nên đành nhường ra một lối.
Trong lễ đường cao thủ nhiều như mây, nhưng cao thủ thuộc hàng nhất đẳng chỉ có vài người, Dương Hạo và Văn Đạo Trang đánh nhầm nhau, lúc này đang vội vàng vận khí điều tức để tránh nội thương. Sa Thiên Phong tuy bị thương không nặng nhưng lúc này không dám tiến lên nữa. Những người khác như Đổng Thập Tam nương, Thanh Phù đạo nhân, Viên Hải hòa thượng, Cung Bình Dã, Văn Thắng Trung võ công tuy giỏi nhưng cũng coi như là cao thủ thuộc hàng số hai, những người này vốn sợ Kim Trục Lưu nên thấy chàng phóng ra thì không ai dám cản.
Kim Trục Lưu quát lớn một tiếng, vung kiếm đâm về phía Viên Hải. Viên Hải giơ ngang đao gạt ra, keng một tiếng, cây giới đao đã bị chặt gãy, Viên Hải hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán vội vàng né qua một bên, va phải hai tên vệ sĩ.
Lúc này Kim Trục Lưu đuổi xong Viên Hải nhát kiếm thứ hai xoay đâm về phía Đổng Thập Tam nương, chàng cười lạnh lẽo:
"Mụ thối tha, đêm qua ta đã tha mạng cho mụ, mụ còn dám quay lại, có muốn ta lột áo nữa không?".
Tính ra Đổng Thập Tam nương vẫn có thể chống được hai ba mươi chiêu, nhưng trong lúc này vừa lo lắng vừa hổ thẹn, nên chiêu thế hỗn loạn, Kim Trục Lưu hất ngọn roi dài của mụ ta ra, đánh tiếp một chiêu Kiếm trung hiệp chưởng!
Đổng Thập Tam nương vội vàng hụp người xuống, tuy nhanh nhưng không tránh được, chỉ nghe bốp một tiếng, té ra đã bị Kim Trục Lưu tát một bạt tai nổ đom đóm mắt!
Sử Hồng Anh múa ngọn roi, Văn Thắng Trung không biết nàng lợi hại nên chạy đến chặn, chưa kịp lướt tới thì đã trúng một roi vào người nên kêu lên oai oái. Thanh Phù đạo nhân múa kiếm đánh tới, Sử Hồng Anh cười lạnh:
"Ta thấy ngươi hãy trở về làm đạo sĩ đi thôi!" Thanh Phù đạo nhân làm điều ác chưa nhiều, cũng chẳng có xích mích gì với Sử Hồng Anh, thấy thế hạ giọng:
"Đa tạ tiểu thư đã khuyên". Rồi quả nhiên tránh ra.
Với kiếm pháp của Thanh Phù đạo nhân, Sử Hồng Anh chưa chắc thắng được y, nhưng không ngờ y không đánh mà lui, do đó Sử Hồng Anh dễ dàng xông qua. Sử Bạch Đô cả giận, hừ một tiếng rồi lướt người tới, tung một cú đá khiến Thanh Phù đạo nhân lộn nhào rồi chụp về phía hậu tâm của Sử Hồng Anh, miệng quát:
"Bắt được con nha đầu này ta sẽ tính sổ với tên lỗ mũi trâu nhà ngươi!".
Kim Trục Lưu trở tay thay Sử Hồng Anh tiếp một chiêu. Thanh Phù đạo nhân ngồi dậy, kêu:
"Tôi là người ngoài mà không nỡ đả thương tiểu thư, bang chủ là đại ca mà lại lợi dụng em gái của mình cấu kết quyền quý, tôi thấy thật trái tai gai mắt, từ rày về sau đường ai nấy đi. Tôi sẽ ở Tam Thanh quán đợi bang chủ, chỉ e bang chủ không còn cơ hội tìm tôi tính sổ!".
Thanh Phù đạo nhân sở dĩ dứt khoát phản Sử Bạch Đô là vì bị y đá cho một cước nên không dằn được cơn tức. Những điều quan trọng hơn là y đã thấy tình thế không xong, lúc này đã có thể nghe thấy tiếng gào thét của thiên quân vạn mã ở ngoài thành. Xem ra nghĩa quân sắp phá thành xông vào, y sợ nghĩa quân vào thành, coi mình là kẻ cùng một giuộc với Sử Bạch Đô nên mới dám trở mặt Sử Bạch Đô, lấy lòng Sử Hồng Anh.
Lúc này trong ngoài đều hỗn chiến, vệ sĩ của phủ tướng quân đang bận rộn đối phó với kẻ địch, không ai biết Thanh Phù đạo nhân. Nhưng Thanh Phù đạo nhân cũng không dám tấn công Sử Bạch Đô, y chỉ len lén chuồn ra!
Sử Bạch Đô bị Kim Trục Lưu đánh một chưởng cả giận quát:
"Dù cho Tây Xương có bị các ngươi lấy lại, ta cũng phải lấy tính mạng của ngươi!" Văn Đạo Trang lớn giọng:
"Đúng thế, dù thế nào đi nữa cũng không thể tha cho bọn chúng! Trung nhi, theo ta!".
Văn Đạo Trang công lực thâm hậu, lúc này đã điều tức xong cho nên tiến tới, hai chưởng múa tít, chưởng trái đánh Kim Trục Lưu, chưởng phải đánh Sử Hồng Anh. Y hận Sử Hồng Anh đã đánh con trai mình một roi cho nên có mười thành công lực thì bảy thành đánh Sử Hồng Anh. Sử Bạch Đô nghĩ thầm:
"Ngươi biết Kim Trục Lưu lợi hại mà lại cứ để ta đối phó với y". Rõ ràng y hơi áy náy khi hạ độc thủ với em gái của mình cho nên thà cứ để người khác giết nàng. Vì thế Sử Bạch Đô cũng chẳng giận Văn Đạo Trang, lập tức múa kiếm vận chưởng đánh Kim Trục Lưu.
Dương Hạo đã điều tức xong cho nên cũng lao tới. Hai người Kim, Sử giờ đây muốn chạy cũng đã khó .
Hồi 37
Điệu ca tiếng hát bừng sát khí
Thần quyền bảo kiếm cùng tồn vong
Lúc này Lệ Nam Tinh đang tiến về phía Công Tôn Yến nhưng vẫn chưa hợp nhau được. Công Tôn Yến đang đối phó với Cao Đại Thành, Đỗ Đại Nghiệp, hai người này có võ công cũng không tệ.
Cây lang nha bổng của Cao Đại Thành rất nặng nề, chiêu số thuần thục. Còn đôi hộ thủ câu của Đỗ Đại Nghiệp nhẹ nhàng linh hoạt, chuyên dùng khắc chế đao kiếm.
Cả hai phối hợp với nhau rất kín kẽ. Công Tôn Yến giở hết bản lĩnh ra mà cũng không thể phá nổi đòn liên thủ của họ. Kiếm thuật của nàng tuy tinh diệu nhưng lại kém khí lực, cho nên một lát sau thì mồ hôi đầm đìa, dần dần đã núng thế.
Lệ Nam Tinh vốn cùng vợ chồng Lý Đôn đối phó với An Đình Tuấn, lúc này đã có thêm bốn võ sĩ trong tướng quân phủ cho nên đôi bên đã thành cục diện ba địch năm. Bốn võ sĩ này võ công cũng thuộc hàng nhị lưu, nhưng bọn chúng đã luyện bộ côn pháp, phối hợp bốn người, cả bốn người như cùng một thể, công thủ đều kín kẽ, đủ đối phó với cao thủ thuộc hàng nhất đẳng. Vả lại đây là loại tề miên côn rất nặng nề, cây huyền thiết bảo kiếm không thể trong cùng một chiêu có thể chặt gãy được loại côn này. Võ công của An Đình Tuấn cũng rất cao, nhờ bốn người này giúp nên đã lấy lại thế cân bằng.
Lệ Nam Tinh nghe Kim Trục Lưu kêu lên một tiếng "Lệ đại ca" vội ngẩng đầu lên, chỉ thấy Kim Trục Lưu và Sử Hồng Anh đang bị ba cao thủ vây đánh, xem ra cũng đang đuối thế. Lệ Nam Tinh vừa lo vừa mừng, nhưng trong lòng hơi nhói đau.
Chàng chỉ hơi phân tán tinh thần thì An Đình Tuấn đã nhìn thấy sơ hở, y phất tới một roi, trên vai Lệ Nam Tinh đã hằn lên một đường máu!
Nhưng roi này khiến Lệ Nam Tinh tỉnh lại, chàng thầm nhủ:
"Vì tri kỷ, chết có đáng gì?" Chàng nghĩ tới đó lập tức cảm thấy máu nóng dâng trào, không biết nhờ đâu mà có thần lực, tức thì chém vù ra một kiếm, cây tề miên côn nặng hơn hai ba mươi cân đã bị chặt gãy ra làm hai đoạn, mũi kiếm vẫn còn đà chém đứt thêm một đốt roi của An Đình Tuấn. Lúc này cây roi bảy đốt của An Đình Tuấn chỉ còn lại ba đốt. Bốn võ sĩ này cùng tiến cùng lui tựa như một thể, một cây tề miền côn đã bị chặt gãy lập tức trận pháp đã bị phá. Lệ Nam Tinh xông ra, chỉ một lần trồi hụp thì đã lướt về phía Công Tôn Yến. Cao Đại Thành nghe phía sau lưng có tiếng gió cả kinh, vội vàng quay lại chống đỡ. Y chống đỡ tuy nhanh nhưng vẫn còn chậm nửa bước, cây lang nha bổng vừa mới giở lên Lệ Nam Tinh đã chém kiếm xuống! Cao Đại Thành làm sao chống đỡ nỗi uy lực của huyền thiết bảo kiếm, keng một kiếm, cây lang nha bổng bị chặt gãy liền, còn Cao Đại Thành hổ khẩu tóe máu, bật ra ngoài đến hơn một trượng.
Đỗ Đại Nghiệp vội vàng bỏ chạy, Công Tôn Yến phóng kiếm theo, chỉ nghe soạt một tiếng, mũi kiếm đã đâm vào huyệt hoàn khiêu ở đầu gối của y. Đỗ Đại Nghiệp khụy xuống đất.
Lệ Nam Tinh gọi:
"Yến muội, hãy mau tiếp ứng vợ chồng Lý Đôn?" Chàng chỉ nói vội được một câu rồi chạy về phía Sử Hồng Anh và Kim Trục Lưu. Công Tôn Yến vốn muốn chạy theo Lệ Nam Tinh nhưng quay đầu lại nhìn thấy vợ chồng Lý Đôn đang nguy hiểm!
Nàng thấy thế thất kinh, đành quay trở lại. Lệ Nam Tinh lướt qua hai hòn non bộ liền gặp phải Soái Mạnh Hùng. Soái Mạnh Hùng quát lớn:
"Hay lắm, tên tiểu tử nhà ngươi cũng đến chịu chết!" Nói rồi phóng lên hòn non bộ, từ trên cao đánh xuống.
Lệ Nam Tinh cười lạnh:
"Mụ yêu phụ họ Hạ đã chết, ngươi xuống dưới suối vàng mà tìm mụ!" Rồi chàng múa cây huyền thiết bảo kiếm lập tức xông tới.
Soái Mạnh Hùng không biết là thực hay giả, lòng thầm nhủ:
"Thu phục tên tiểu tử rồi tính tiếp". Trước kia y đã giao thủ với Lệ Nam Tinh, lần đó Lệ Nam Tinh bị y đánh cho một chưởng trọng thương, nên y tuy biết chàng đang cầm cây huyền thiết bảo kiếm nhưng cũng không hề sợ hãi.
Nhưng đao kiếm vừa mới giao nhau thì keng một tiếng vang lên, cây trường đao trong tay Soái Mạnh Hùng đã bị chặt gãy thành hai đoạn.
Soái Mạnh Hùng kinh hoảng, lập tức tung cước đạp đá trên hòn non bộ rơi xuống. Lệ Nam Tình vung kiếm lên, chém tảng đá làm đôi. Soái Mạnh Hùng liên tục tung cước. Lệ Nam Tinh chém một mạch năm tảng đá rồi chàng cũng lao lên được ngọn non bộ. Soái Mạnh Hùng nghiêng người, trở tay chụp vào cổ tay của chàng. Lệ Nam Tinh chém một luồng kiếm khí vào hòn non bộ.
Lúc này Soái Mạnh Hùng đã chụp được vào cổ tay của Lệ Nam Tinh. Nhưng nhát kiếm vừa rồi của chàng quá uy mãnh, luồng kiếm phong dội tới khiến y đứng không vững cho nên lôi Lệ Nam Tinh ngã theo mình. Lệ Nam Tinh không kịp xoay người vung kiếm, chàng quát lớn một tiếng "Đi!" Rồi đá một cước vào tim của y, Soái Mạnh Hùng rơi xuống hòn non bộ.
Khi Soái Mạnh Hùng giao thủ với Lệ Nam Tinh, hảo thủ ở bên trong cũng chạy ra nhưng không cứu nổi y.
Tuy Lệ Nam Tinh đá trúng Soái Mạnh Hùng, chưa đủ trả thù nhưng chàng phải chạy đến chỗ Kim Trục Lưu.
Trong đám người chạy ra cứu Soái Mạnh Hùng có Sa Thiên Phong, Cung Bình Dã, Đổng Thập Tam nương và Viên Hải. Khi Lệ Nam Tinh nhảy vọt ra thì bọn người ấy đã đến phía dưới hòn non bộ. Trong chớp mắt Sử Bạch Đô cũng phóng ra!
Lệ Nam Tinh lo lắng thầm nhủ:
"Chỉ một mình Kim Trục Lưu e không chống đỡ nổi. Hôm này cần phải liều chết!" Lúc này Sử Bạch Đô đã phóng lên hòn non bộ.
Lệ Nam Tinh đã quyết lòng, liền kêu lớn:
"Hiền đệ, tiếp kiếm!" Rồi chàng ném thẳng thanh huyền thiết bảo kiếm về phía Kim Trục Lưu!
Thanh kiếm nặng nề từ trên cao bay tới có uy thế rất kinh người. Sử Bạch Đô đã công lực cao cường cũng không dám chụp lấy, đành lách người cho thanh kiếm bay qua đầu y.
Lúc này chỉ có Văn Đạo Trang, Dương Hạo giao thủ với hai người Kim, Sử, bản lĩnh của Kim Trục Lưu nhỉnh hơn họ, còn Sử Hồng Anh không bằng. Lấy hai địch hai thì nhất thời khó phân cao thấp. Lúc này cây huyền thiết bảo kiếm đã bay tới, Văn Đạo Trang biết thanh kiếm này lợi hại, cả Sử Bạch Đô cũng không dám tiếp, nên y và Dương Hạo đều tránh qua hai bên, cây huyền thiết bảo kiếm bay về phía Kim Trục Lưu.
Kim Trục Lưu lách người, giơ chưởng ra vỗ vào chuôi kiếm, cây kiếm xoay hướng, đà bay hơi chậm lại, Kim Trục Lưu tóm lấy chuôi kiếm. Té ra Lệ Nam Tinh được cha của Kim Trục Lưu truyền thụ kiếm pháp, đây chính là một chiêu trong Đại tu di kiếm thức, Kim Trục Lưu đương nhiên hiểu loại kiếm thức này, nên khi Lệ Nam Tinh dám ném kiếm cho chàng, Kim Trục Lưu đã dễ dàng chụp được thanh kiếm.
Nhưng Kim Trục Lưu tiếp được bảo kiếm mà vẫn lo lắng chứ không vui:
"Lệ đại ca bỏ bảo kiếm thì đối phó với Sử Bạch Đô thế nào?".
Cây huyền thiết bảo kiếm nặng đến hơn trăm cân, từ trên ném xuống thì dễ, mà từ dưới ném lên lại khó hơn nhiều. Kim Trục Lưu định ném kiếm trả cho Lệ Nam Tinh. Ngay lúc này, chàng chợt nghe Lệ Nam Tinh gầm lớn một tiếng, té ra chàng đã bị Sử Bạch Đô đánh trúng một chiêu lăn cù cù xuống dưới hòn non bộ!
Lệ Nam Tinh rơi vào giữa hai hòn non bộ, Kim Trục Lưu và Công Tôn Yến đứng ở phía sau đều không biết tình hình như thế nào! Nhưng họ chỉ thấy Sử Bạch Đô nhảy xuống, chắc là đã bắt Lệ Nam Tinh.
Kim Trục Lưu lòng đau như cắt, nghiến răng nghĩ:
"Mình quyết không thể để Lệ đại ca mất mạng vì mình!" Rồi chàng múa kiếm như gió, gầm lớn quát:
"Kẻ nào cản ta sẽ chết!" Sử Hồng Anh chạy theo phía sau chàng xông ra phía trước.
Dương Hạo sử dụng Tu la âm sát công đến tầng thứ chín định cản họ lại. Nhưng sự lợi hại của Tu la âm sát công không phải ở chưởng lực mà là luồng khí âm hàn, Kim Trục Lưu không sợ Tu la âm sát công, chàng múa kiếm chém tới, chưởng lực của Dương Hạo làm sao có thể chống chọi nổi bảo kiếm?
Dương Hạo thấy không thể chặn lại được bèn gầm lớn một tiếng, tóm lấy một tên vệ sĩ làm tấm bia, Kim Trục Lưu chém xuống, chỉ thấy máu tuôn ra, tên vệ sĩ mất mạng ngay tại trận. Còn Dương Hạo may mắn thoát chết ném xác tên vệ sĩ bỏ chạy.
Bọn vệ sĩ xung quanh thấy Dương Hạo tàn nhẫn như thế thì nào dám xông tới!
Văn Đạo Trang ỷ đã luyện Tam tượng thần công đến mức lô hỏa thuần thanh, bọn vệ sĩ chạy tán loạn còn y một mình phóng lên, hừ một tiếng lớn:
"Ta phải thử uy lực huyền thiết bảo kiếm!".
Kim Trục Lưu quát:
"Được, ngươi cứ đến!" Rồi đánh ra một chiều Hoành vân đoạn phong, chém cây bảo kiếm ngang eo Văn Đạo Trang! Văn Đạo Trang rút ra một loại binh khí vừa dài vừa nhỏ, trả lại một chiêu Đại mạc cô yên, điểm nhẹ vào cây kiếm của Kim Trục Lưu.
Loại binh khí này rất quái dị, tựa như đao mà không phải đao, tựa như kiếm mà không phải kiếm, chỉ rộng khoảng hai ngón tay nhưng dài đến năm thước. Té ra Văn Đạo Trang đã dùng mười thanh miến đao để đánh thành một thanh nhuyễn kiếm. Bản thân miến đao là bách luyện tinh cương, tập trung tinh hoa của miến đao mới luyện thành thanh kiếm này.
Số là Văn Đạo Trang biết uy lực của thanh huyền thiết bảo kiếm, trên đời này không có loại binh khí nào chống nổi, nhưng y cũng hiểu có thể lấy nhu khắc cương.
Y luyện thành thanh nhuyễn kiếm này chính là để đối phó với cây huyền thiết bảo kiếm. Nhuyễn kiếm có lực bật rất mạnh, nên khi chạm vào vật này thì không thể nào gãy được.
Chỉ nghe keng một tiếng, mũi nhuyễn kiếm điểm nhẹ vào sống của huyền thiết kiếm, nhuyễn kiếm lập tức cong lại như cây cung nhưng nguồn lực của huyền thiết bảo kiếm cũng bị y hóa giải mấy phần, chiêu này Văn Đạo Trang tuy hơi đuối thế nhưng coi như cũng chống trả nổi.
Kim Trục Lưu cảm nhận được lực phản kích của y, cũng không khỏi giật mình nhủ thầm:
"Kẻ này có thể dùng cây nhuyễn kiếm phát huy Tam tượng thần công của mình, quả thật không thể coi thường! Nhưng nếu mình không đánh lùi được y làm sao cứu Lệ đại ca thoát hiểm! Đành liều mạng với y mới được!".
Kim Trục Lưu quát lớn một tiếng, chém cây huyền thiết bảo kiếm qua. Trong lúc gấp rút, chàng không biết đã lấy đâu ra thần lực mà múa cây kiếm nhẹ tênh, trong chớp mắt đã đánh ra bảy chiêu? Tiếng leng keng vang lên như tiếng tỳ bà kêu, mũi kiếm của Văn Đạo Trang cứ rung lên bần bật không ngừng! Vốn là Văn Đạo Trang ỷ công lực của mình hơi cao hơn Kim Trục Lưu, nào ngờ sau bảy chiêu cảm thấy hổ khẩu tê rần, hầu như không nắm được thanh kiếm. Sau mỗi lần chạm nhau nhuyễn kiếm lại cong thêm một chút. Văn Đạo Trang cả kinh, lòng thầm nhủ:
"Nếu cứ đánh thẳng tới như thế này e rằng kiếm gãy người chết!" Đành chỉ đành lách qua một bên để cho Kim Trục Lưu đi qua.
Lúc này Sử Hồng Anh đã đánh lùi được bọn Văn Thắng Trung, đuổi theo Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu nghe tiếng thở của nàng có chút kỳ lạ, thất kinh hỏi:
"Muội sao thế?" Sử Hồng Anh run lên lập cập:
"Không ... không sao". Té ra nàng đã bị nhiễm phải hàn khí của Tu la âm sát công, lại trải qua một trận kịch chiến, nội công của nàng không bằng Kim Trục Lưu nên không chịu nổi.
Kim Trục Lưu vừa nhìn sắc mặt nàng đã biết, chàng nắm chắc tay trái của Sử Hồng Anh, dồn nội lực vào lòng bàn tay nàng giúp nàng đẩy hàn khí ra. Sử Hồng Anh nói mau:
"Hãy mau cứu Lệ đại ca trước đã!" Kim Trục Lưu:
"Vâng!" Một tiếng rồi kéo Sử Hồng Anh chạy đi, khinh công của hai người tương đương nhau, Sử Hồng Anh được Kim Trục Lưu dùng nội lực tương trợ nên chạy chẳng kém gì khi sức lực còn sung mãn, trong chớp mắt hai người đã đến hòn non bộ phía bên kia.
Bọn Đổng Thập Tam nương, Viên Hải, Sa Thiên Phong, Cung Bình Dã thấy Kim Trục Lưu chạy tới đều hoảng hốt né tránh không dám tiếp kiếm. Kim Trục Lưu nhảy qua hòn non bộ, gọi lớn:
"Lệ đại ca, Lệ đại ca!".
Chỉ thấy Sử Bạch Đô cười ha hả:
"Lệ Nam Tinh đã bị ta giết chết, ngươi cứ đến suối vàng tim y!" Kim Trục Lưu đưa mắt nhìn xung quanh, chỉ thấy giữa hai hòn non bộ có mười mấy người đứng lố nhố, nhưng chẳng thấy Lệ Nam Tinh đâu. Xác người cũng nằm ngổn ngang dưới đất nhưng cũng chẳng có xác chàng. Kim Trục Lưu nghĩ thầm:
"Chắc là Lệ đại ca đã hội họp với bọn Lý Đôn". Nhưng đó chỉ là nghĩ về mặt tốt, nếu nghĩ về mặt xấu thì Lệ Nam Tinh đã mất huyền thiết bảo kiếm, đương nhiên đánh không lại Sử Bạch Đô, bị nhiều cường địch bao vây thì làm sao có thể chạy thoát?
Kim Trục Lưu cả giận, quát:
"Ngươi dám nguyền rủa Lệ đại ca của ta, hãy nếm một kiếm!" Thế rồi mặc kệ Sử Bạch Đô nói thật hay giả, chàng lập tức vung kiếm chém xuống!
Sử Bạch Đô buông trường kiếm ra, buông giọng cười:
"Kim Trục Lưu, ngươi đánh cắp huyền thiết bảo kiếm của ta, ngươi tưởng ta không làm gì được ngươi? Đừng nói là một kiếm, dù có một trăm kiếm cũng chẳng hề chi!".
Chỉ nghe rắc một tiếng, Kim Trục Lưu đã chém gãy kiếm của Sử Bạch Đô thành hai đoạn. Nhưng công lực của y hơn hẳn chàng, nên Kim Trục Lưu cũng bị thối lui ba bước.
Sử Hồng Anh vội vàng chạy đến, Kim Trục Lưu nói mau:
"Muội hãy tìm Lệ đại ca!" Lúc này Sử Bạch Đô đã cầm một cái độc cước đồng nhân, quát:
"Nha đầu thối, tránh ra! Ta không muốn chính tay giết ngươi!".
Độc cước đồng nhân tuy không nặng bằng huyền thiết bảo kiếm nhưng cũng đến năm mươi cân. Kim Trục Lưu đâm kiếm tới, keng một tiếng, ánh lửa bắn ra tung tóe, đồng nhân bị chém một mảng nhỏ, Kim Trục Lưu cũng cảm thấy đau nhói ở khổ khẩu. Sử Bạch Đô chuẩn bị độc cước đồng nhân là để đối phó với huyền thiết bảo kiếm.
Trong chớp mắt, Kim Trục Lưu đã đánh ra mười bảy mười tám kiếm, Sử Bạch Đô múa tít cái đồng nhân, chặn lại từng chiêu kiếm. Chỉ nghe tiếng kim khí vang lên nhức cả tai, trên người đồng nhân đã bị mẻ nhiều chỗ nhưng cũng khắc chế được huyền thiết bảo kiếm.
Lúc nãy Sa Thiên Phong trúng một roi của Sử Hồng Anh, trong lòng vẫn còn ôm hận, thấy Kim Trục Lưu đã giao thủ với Sử Bạch Đô mới yên tâm đến bắt Sử Hồng Anh. Y cười lạnh lẽo:
"Có bản lĩnh hãy đánh ta một roi nữa xem!".
Sử Hồng Anh chẳng kém gì Sa Thiên Phong, nhưng sau một hồi kịch chiến, đã đuối sức. Mười mấy chiêu trôi qua, nàng toát mồ hôi ướt đẫm cả người. Sa Thiên Phong múa tít hai chưởng buộc nàng thối lui từng bước.
Cung Bình Dã thấy thế cũng nhảy vào vòng chiến, giúp cho Sa Thiên Phong cùng tấn công Sử Hồng Anh.
Tu la âm sát công của Cung Bình Dã không bằng Dương Hạo, nhưng cũng đã luyện đến tầng thứ bảy. Chưởng phong phát ra, gió lạnh dồn tới. Sử Hồng Anh đang tỏa nhiệt toàn thân, đột nhiên bị khí lạnh dồn tới bất đồ rùng mình, hoa dung thất sắc, càng cảm thấy không cầm cự nổi.
Sa Thiên Phong quát:
"Buông roi!" Chưởng trái bạt ra, tay phải sử dụng một đòn Hổ trảo thủ tóm lấy đầu roi của Sử Hồng Anh.
Sử Hồng Anh nghiến răng, dồn lực vào đầu roi không chịu buông tay. Tuy đầu roi đã bị đối phương nắm nhưng nàng vẫn có thể phản kích. Sa Thiên Phong chợt cảm thấy kẽ ngón tay tựa như có một con rắn nhỏ chui qua, lúc này đầu ngón tay của y đau nhói.
Sa Thiên Phong cả giận, quát:
"Hay lắm, nha đầu thối nhà ngươi còn dám làm dữ" Rồi trầm vai tọa mã, sử dụng công phu Thiên cân trụy dùng lực giật mạnh. Sử Hồng Anh đã dốc hết sức, bị y kéo chồm về phía trước. Cung Bình Dã nhảy vọt lên toan chụp xuống xương tỳ bà của nàng.
Tưởng rằng Sử Hồng Anh khó thoát khỏi ma chưởng, chợt nghe Kim Trục Lưu quát lớn một tiếng, vung kiếm chém về phía Sa Thiên Phong.
Số là độc cước đồng nhân của Sử Bạch Đô tuy đủ chống lại huyền thiết bảo kiếm nhưng không linh hoạt bằng kiếm. Kim Trục Lưu thắng y không được nhưng muốn tránh y cũng dễ.
Sa Thiên Phong tưởng rằng Kim Trục Lưu không thể lo cho Sử Hồng Anh được, lúc này thấy chàng đột nhiên phóng tới, cây roi của Sử Hồng Anh bị y kéo căng như sợi dây cung, chợt thấy ánh kiếm lóe lên, ngọn roi đã bị chặt đứt, Sa Thiên Phong phóng vọt người ra, hoảng sợ đến nỗi mặt chẳng còn sắc máu!
Số là Kim Trục Lưu chém xuống quá nhanh, y vốn muốn lập tức buông ra nhưng cuối cùng vẫn bị chàng chặt đứt đầu roi. Nhưng cũng may y né tránh lanh lẹ, nếu không cả bàn tay cũng không thoát!
Cung Bình Dã vốn có thể chụp vào xương tỳ bà của Sử Hồng Anh, nhưng Kim Trục Lưu quát lớn một tiếng bất đồ giật mình, cú chụp hơi chậm lại, Kim Trục Lưu đã trở tay vỗ bình ra một chưởng khiến y té nhào dưới đất.
Sử Hồng Anh quét ngọn roi, cười lạnh:
"Sa Thiên Phong, chính ngươi đã bảo ta đánh đấy nhé!".
Sa Thiên Phong tránh được huyền thiết bảo kiếm nhưng không tránh được roi, ngọn roi quất vào mặt của y khiến cho y tối tăm mặt mũi, trên mặt hằn lên một vết máu. Đáng tiếc khí lực của Sử Hồng Anh còn thiếu không thể đánh vỡ xương đầu của y.
Kim Trục Lưu nắm tay trái Sử Hồng Anh dồn một luồng kình lực qua giúp nàng đẩy hàn khí. Lúc này Sử Bạch Đô cũng đã nhảy bổ xuống, y giơ cái đồng nhân đánh xuống, Sử Hồng Anh kêu lên:
"Đừng lo cho muội, huynh hãy chạy trước đi". Nàng biết Kim Trục Lưu có khinh công trác tuyệt, trong tay lại có huyền thiết bảo kiếm, nếu muốn chạy người khác không thể nào ngăn cản. Kim Trục Lưu nói:
"Sống chết có nhau!" Chàng vẫn nắm chặt tay Sử Hồng Anh, tay phải vung kiếm đỡ cái đồng nhân.
Mấy tiếng leng keng vang lên, Sử Bạch Đô đè đồng nhân xuống phía trước, Kim Trục Lưu không chống nổi luồng kình lực của y, người tuy chưa di chuyển nhưng hai chân đã lún xuống bùn.
Sử Bạch Đô kêu lên:
"Mau đến đây!" Kim Trực Lưu chia chân lực ra làm hai, lúc này chỉ có thể miễn cưỡng cầm cự. Nếu có người đánh lén, chàng chắc chắn sẽ mất mạng. Đáng tiếc Sa Thiên Phong và Cung Bình Dã đã sợ mất mật, bị thương tuy không nặng nhưng vẫn không dám tiến về phía trước.
Kim Trục Lưu cảm thấy lòng bàn tay của Sử Hồng Anh hơi nóng mới buông tay ra, chàng quát một tiếng rồi rút hai chân ra, dồn khí lực của toàn thân lên kiếm đẩy mạnh một cái, đồng nhân của Sử Bạch Đô lại thêm một vết thương, còn y thối lùi một bước.
Chợt nghe có người kêu:
"Đáng tiếc, ta đến muộn một bước! Nhưng cũng không quá muộn" Té ra Văn Đạo Trang đã vội vàng chạy tới.
Văn Đạo Trang dồn Tam tượng thần công vào kiếm múa tít, kiếm phong kêu lên vù vù, chỉ mấy chiêu đã tách Sử Hồng Anh ra khỏi Kim Trục Lưu. Sử Bạch Đô nói:
"Ông hãy giúp ta bắt con nha đầu này, tên tiểu tử Kim Trục Lưu không phải là đối thủ của ta". Kim Trục Lưu đã giúp Sử Hồng Anh xua hàn khí cho nên đã mất vài phần chân lực, công lực của chàng vốn không bằng Sử Bạch Đô nhưng lúc này càng cách nhau xa hơn. Dù có huyền thiết bảo kiếm trong tay, Sử Bạch Đô nghĩ bụng vẫn có thể thắng được chàng cho nên không muốn Văn Đạo Trang cướp công mình. Văn Đạo Trang cũng biết thế, nhưng y vẫn e ngại Kim Trục Lưu, vì thế mỉm cười nói:
"Được".
Chợt nghe có giọng nói của thiếu nữ vang lên:
"Lệ đại ca, huynh sao thế? Huynh ở đâu?" Té ra Công Tôn Yến đã phóng tới.
Công Tôn Yến đứng một bên hòn non bộ, nàng không thấy cảnh Lệ Nam Tinh đánh nhau với Sử Bạch Đô, nhưng nàng nghe thấy tiếng thét xé tim rách phổi của Lệ Nam Tinh.
Trong lúc gấp gáp Công Tôn Yến liều mạng đánh ra toàn sát chiêu. Nàng vốn cùng vợ chồng Lý Đôn chống cự An Đình Tuấn và bốn võ sĩ. Trong bốn võ sĩ này thì có một kẻ đã bị Lệ Nam Tinh chém gãy cây côn, đến khi bị thiếu một người thì uy lực đã giảm nhiều. Chỉ trong chốc lát, ba người kia đều bị thương dưới kiếm của Công Tôn Yến, chỉ còn lại An Đình Tuấn, Công Tôn Yến đoán vợ chồng Lý Đôn có thể đủ ứng phó nên vội vàng đi tìm Lệ Nam Tinh.
Khoái kiếm gia truyền của Công Tôn Yến thuộc loại nhất tuyệt trên võ lâm, chỉ thấy chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc, tà áo phất phới, kiếm quang sáng ngời, bọn Cung Bình Dã, Văn Thắng Trung làm sao có thể chặn nổi người. Trong chớp mắt lại có ba tên võ sĩ trúng kiếm, Công Tôn Yến đã vượt qua hòn non bộ đến chỗ hai người Kim, Sử.
Kim Trục Lưu thất kinh:
"Cô nương có thấy Lệ đại ca không?" Chính vì vậy chàng cũng đã phân thần, Sử Bạch Đô nhân cơ hội này quát lớn một tiếng đè cái đồng nhân xuống. Cây huyền thiết bảo kiếm của Kim Trục Lưu không đỡ nổi, bị y đẩy lui ra sau. Sử Bạch Đô có bản lĩnh cách vật truyền công, Kim Trục Lưu nắm chặt chuôi kiếm, chợt cảm thấy một nguồn lực dồn tới, ngực như bị một cái búa tạ giáng vào, chấn động đến nỗi khí huyết nhộn nhạo, lục phủ ngũ tạng chấn động!
Tưởng rằng Kim Trục Lưu sẽ bị trọng thương, Sử Bạch Đô đang đắc ý, kêu lên:
"Buông kiếm?" Chợt cảm thấy tiếng gió dồn tới, Công Tôn Yến đánh một chiêu Thất tinh tụ hội, cây trường kiếm đâm thẳng vào hậu tâm của Sử Bạch Đô.
Sử Bạch Đô nghe tiếng gió biết Công Tôn Yến đang đâm vào bảy huyệt đạo ở phía sau lừng y! Dù Sử Bạch Đô võ công cao cường cũng không khỏi thất kinh, thế rồi đành giảm nhẹ áp lực đối với Kim Trục Lưu, tay trái trở lại vỗ ra một chưởng, đánh bật mũi kiếm của Công Tôn Yến.
Lúc này Sử Hồng Anh cũng đang gặp nguy hiểm. Kim Trục Lưu đã được giảm áp lực, chàng lập tức quay đầu lại múa thanh huyền thiết bảo kiếm bổ một chiêu Lực phách hoa sơn xuống đầu Văn Đạo Trang. Văn Đạo Trang thất kinh vội vàng tránh sang một bên, thật ra lúc này Kim Trục Lưu vẫn chưa điều hòa hơi thở, nếu Văn Đạo Trang dám tiếp chiêu ấy thì Kim Trục Lưu quyết chẳng phải là đối thủ của y.
Sử Bạch Đô đánh bật mũi kiếm của Công Tôn Yến lập tức chuyển thành Đại cầm nã thủ, y lướt người tới toan cướp binh khí của Công Tôn Yến, tuy Công Tôn Yến chống trả lại được nhưng vì khoảng cách quá gần, nàng cảm thấy chưởng phong quét vào mặt, hầu như không thở nổi.
Công Tôn Yến lướt người qua ba thước, gọi:
"Sử Bạch Đô bắt nạt con, sao cha chưa mau đến giúp con?" Sử Bạch Đô giật mình không dám tấn công nữa, nói:
"Ta và cha ngươi là hảo bằng hữu, ngươi đừng làm càn, hãy chạy cho mau!".
Sử Bạch Đô thầm nhủ:
"Lão già Công Tôn Hoằng rất ghê gớm, dù y có tới thật hay không mình cũng không nên kết oán với y". Sử Bạch Đô quay đầu lại, cùng liên thủ với Văn Đạo Trang tấn công Kim Trục Lưu.
May mà có Công Tôn Yến cầm chân Sử Bạch Đô, Kim Trục Lưu có cơ hội nghỉ tay, Thần công hộ thể đã phát huy tác dụng, nguồn nội lực dồn ra không ngớt, tính ra cũng được bảy tám phần. Chàng tiếp tục múa trường kiếm vạch ra một vòng tròn, bên trái tấn công Sử Bạch Đô, bên phải tấn công Văn Đạo Trang. Chiêu đánh Sử Bạch Đô chỉ là hư chiêu, chàng không muốn chạm vào đồng nhân của y, nhưng kiếm thế rất hiểm hóc, chỉ trong vòng một chiêu mà tấn công vào bảy đại huyệt của y.
Sử Bạch Đô xoay đồng nhân lại hộ thân, chỉ nghe keng một tiếng, Văn Đạo Trang đã bị Kim Trục Lưu đánh lùi hai bước. Thanh nhuyễn kiếm của Văn Đạo Trang tuy chưa bị chàng chặt gãy nhưng cũng không thể nào chống nổi uy lực của huyền thiết bảo kiếm.
Công Tôn Yến tìm chẳng thấy Lệ Nam Tinh, Văn Thắng Trung cười lạnh:
"Tên tiểu tử họ Lệ đã bị Sử bang chủ giết, nhà ngươi hãy theo ta thì hơn!" Văn Thắng Trung vốn có tánh háo sắc, tuy biết Công Tôn Yến võ công cao cường, nhưng nghĩ nàng đã rơi vào vòng vây, mọc cánh cũng khó thoát. Vì thế y mới dám táo tợn liên thủ với Cung Bình Dã phóng người lên bắt nàng.
Công Tôn Yến nghe Kim Trục Lưu bảo không thấy Lệ Nam Tinh trong bụng đã cảm thấy không hay. Văn Thắng Trung vừa nói ra lời ấy thì nàng cảm thấy như sấm nổ giữa trời xanh, Công Tôn Yến suýt nữa ngất đi.
Văn Thắng Trung thấy nàng ngẩn người ra, lập tức phóng về phía nàng định kiếm chác, Công Tôn Yến chợt giật mình, Cung Bình Dã kêu lên:
"Cẩn thận!" Nói chưa dứt chợt thấy kiếm quang lóe lên, Công Tôn Yến đã đâm soạt mũi kiếm xuyên qua vai trái của Văn Thắng Trung.
Công Tôn Yến rút kiếm đâm về phía Sử Bạch Đô, Sử Bạch Đô nói:
"Ta nể mặt cha ngươi, chỉ cho ngươi một con đường sống mà ngươi vẫn chẳng biết điều, ta không khách sáo với ngươi nữa!".
Công Tôn Yến kêu lên:
"Có phải ngươi đã giết Lệ Nam Tinh hay không?" Sử Bạch Đô nghĩ bụng:
"Nếu mình nói không phải người ta sẽ nghĩ mình sợ Công Tôn Hoằng, ngạo mạn gật đầu:
"Té ra nhà ngươi thích tên tiểu tử này, y có gì tốt? Đúng thế, chính ta giết! Ngươi đừng đau lòng, ta sẽ bồi thường cho ngươi một tên khác".
Thật ra Lệ Nam Tinh chỉ bị Sử Bạch Đô đánh trọng thương, còn sống chết thế nào y cũng không biết.
Công Tôn Yến kêu lên:
"Lệ đại ca đã chết, ta cũng chẳng thiết sống nữa? Hôm nay ta liều với ngươi". Nói chưa dứt đã đâm về phía Sử Bạch Đô mười mấy nhát kiếm.
Sử Hồng Anh và Kim Trục Lưu đều nghĩ bụng:
"Té ra Lệ đại ca đã có ý trung nhân". Trong lòng cũng cảm thấy an ủi, nhưng nghĩ Lệ Nam Tinh vẫn chưa rõ sống chết không khỏi lo lắng. Giờ đây đang đối mặt với kình địch chỉ đành cố gắng cầm cự chứ chẳng dám nghĩ nhiều.
Nơi họ đang đứng rất nhỏ hẹp, mà lại là cao thủ thuộc hàng nhất đẳng, khi ba cao thủ đang trực chiến, không ai có thể chen vào được. Cung Bình Dã không biết tự lượng sức mình, phóng lên trợ chiến, bị huyền thiết bảo kiếm quét một đường kiếm phong, đâm đầu vào cái đồng nhân của Sử Bạch Đô nên mất mạng như chơi.
Văn Đạo Trang lo cho con trai, kêu lên:
"Thắng Trung, con sao thế?" Văn Thắng Trung rên rỉ:
"Con đã bị ả nha đầu đâm bị thương!" Văn Đạo Trang không biết con trai đã bị thương như thế nào, bất giác trong bụng hơi lo. Sử Bạch Đô trấn an:
"Lệnh lang không nguy hiểm tính mạng, ông hãy yên tâm". Văn Đạo Trang nói:
"Hình như hắn bị thương rất nặng".
Sử Bạch Đô lạnh lùng:
"Dù có chết cũng phải hết sức vì hoàng thượng". Văn Đạo Trang giật mình, nghĩ bụng:
"Đúng thế, lúc này mình không thể rút lui".
Lúc này hai bên đã đi vào cục diện hai chống ba, tuy phía Kim Trục Lưu hơn một người nhưng Sử Hồng Anh, Công Tôn Yến bản lĩnh hơi kém hơn, vả lại đã đuối sức. May mà Sử Bạch Đô e ngại Công Tôn Hoằng cho nên không dám ra tay mạnh đối với Công Tôn Yến. Còn Văn Đạo Trang lo cho con trai cho nên không tập trung tinh thần, hai bên quả khó phân thắng bại.
Đang lúc kịch chiến chợt nghe tiếng pháo nổ ầm ầm càng lúc càng lớn. Không lâu sau đã nghe thấy tiếng hò reo của nghĩa quân vọng tới.
Lại nói Soái Mạnh Hùng không tìm ra Hạ đại nương, nghe tiếng pháo nổ hết sức thấp thỏm lo âu, chợt thấy An Đinh Tuấn bị một đôi nam nữ đuổi chạy, té ra trợ thủ của y bị Công Tôn Yến đả thương một mình y không chống lại nổi vợ chồng Lý Đôn.
Soái Mạnh Hùng chạy tới đỡ cho An Đình Tuấn một chiêu, y tuy đã bị thương nhưng công lực vẫn hơn hẳn vợ chồng Lý Đôn. Soái Mạnh Hùng đánh lui vợ chồng Lý Đôn lập tức hỏi:
"Hạ đại nương đâu?" An Đình Tuấn thở đốc, đáp:
"Hạ đại nương đã bị tên họ Lệ giết chết". Soái Mạnh Hùng lạc giọng kêu:
"Cái gì bà ta đã chết?".
Rồi chợt nôn ra một ngụm máu.
An Đình Tuấn cả kinh:
"Soái tướng quân, ngài sao thế?" Nói chưa dứt lời chỉ thấy có một người chạy tới hớt hải kêu lên:
"Soái tướng quân, Soái tướng quân!" Soái Mạnh Hùng hít một hơi, cố trấn tĩnh mở mắt ra nhìn, chỉ thấy đó là một tên tham tướng đã được y phái đi thị sát quân tình, y vội vàng hỏi:
"Bên ngoài thế nào rồi?".
Tham tướng ấy đáp:
"Cửa thành đông tây đã bị phá, hai vị thống lĩnh Trương, Mạnh mời tướng quân đích thân đốc sư, nếu không khó giữ nổi". Soái Mạnh Hùng đã bị trúng độc châm, tuy có thể cầm cự được nhờ nội công thâm hậu nhưng tổn hao nguyên khí nhiều rồi. Hạ đại nương đã chết, chẳng ai còn thuốc giải nữa. Lúc này y đang cố cầm cự, nào có tinh thần ra đốc sù? Nhưng nghĩa quân đã tiến vào thành, trong chốc lát sẽ đánh tới đây, cứ rúc ở trong phủ tướng quân cũng chẳng phải là kế sách hay ho gì. Y cố trấn tĩnh, đáp:
"Được, ta sẽ lập tức ra đốc chiến. An phó tướng, ngươi hãy điều động hết cung tiễn thủ trong phủ ra đây, bảo chúng dùng độc tiễn bắn chết bọn loạn tặc!".
An Đình Tuấn hỏi:
"Không sợ ngộ thương Sử Bạch Đô và Văn Đạo Trang ư?".
Soái Mạnh Hùng giận dữ quát:
"Không thể lo được nhiều hơn!" Y đang căm giận Kim Trục Lưu đến thấu xương, đã quyết đánh liều giết chết Kim Trục Lưu và Sử Hồng Anh.
Soái Mạnh Hùng miệng là nói đốc sư nhưng bụng thì nghĩ:
"Cửa bắc chưa bị phá, nhân lúc hỗn chiến mình giả thành một tên tiểu binh bỏ chạy. Tìm một nơi an toàn trị thương, tính mạng an toàn hơn, mặc kệ công danh phú quý". Nghĩ chưa xong chợt nghe tiếng gào thét càng lúc càng gần, xem ra nghĩa quân đã tiến đến gần quá.
Soái Mạnh Hùng tóm lấy một tên vệ binh, lột sạch quần áo của y, mặc vào người rồi vội vàng bỏ chạy.
Vừa chạy ra đến cửa thì gặp một ông già cao lớn, râu tua tủa, hai người vừa gặp mặt nhau ông già quát:
"Soái Mạnh Hùng, hãy nếm một chưởng của ta!" Người đó chính là Thượng Quan Thái.
Hai chưởng giao nhau kêu bình một tiếng, Soái Mạnh Hùng văng ra sau đến hơn một trượng, miệng nôn ra một ngụm máu tươi. Thượng Quan Thái không biết y đã tổn thương nguyên khí, chỉ đánh một chưởng đã đẩy y thối lui cảm thấy ngạc nhiên. Còn Soái Mạnh Hùng lồm cồm bò dậy chạy ra cửa.
Đổng Thập Tam nương không biết sự lợi hại của Thượng Quan Thái, quát:
"Lão thất phu này ở đâu ra?" Rồi mụ phóng người lên quét ra một chiêu Hồi phong tảo liễu.
Hà Thái Phượng kêu lên:
"Mụ yêu phụ này đáng ghét lắm, Thượng Quan tiền bối, đừng tha cho mụ?" Thượng Quan Thái nói:
"Vậy ư?" Miệng nói, tay trái đã tóm được sợi roi trong tay, chưởng phải chém xuống, chặt đứt sợi roi làm hai đoạn. Đổng Thập Tam nương ngã chổng cẳng lên trời. Lý Đôn, Hà Thái Phượng phóng hai mũi phi đao tới, lập tức lấy mạng mụ ta. Khi còn ở Lục Hợp bang, Lý Đôn đã bị mụ ta bức hiếp, lúc này mới trút được mối giận. Viên Hải thấy Đổng Thập Tam nương mất mạng hoảng hồn quay đầu bỏ chạy.
Trong tướng quân phủ vốn cao thủ nhiều như mây, nhưng lúc này lòng người rối loạn, chẳng ai dám bán mạng cho Soái Mạnh Hùng! An Đình Tuấn cố gắng lắm mới tìm ra được mười mấy cung tiễn thủ, bảo chúng nấp ở sau hòn non bộ phóng tên.
Sử Bạch Đô cả giận quát:
"Sao lại có lẽ này, cả ta mà bọn ngươi cũng muốn bắn chết!" Y nôn nóng cầm cái độc cước đồng nhân nhảy lên hòn non bộ định tìm An Đình Tuấn tính sổ, chợt một trận ám khí bay tới, nhưng không phải phóng về phía Kim Trục Lưu, chỉ nghe tiếng "ối chao" vang lên, mười mấy cung tiễn thủ đều trúng ám khí lăn xuống hòn non bộ.
Chỉ thấy trên đầu tường có mười mấy bóng người lao xuống như bay. Họ chính là Vũ Văn Hùng, Giang Hiểu Phù, Lý Quang Hạ, Lâm Đạo Hiên, Thượng Quan Hoàn, Trúc Thanh Hoa. Lại còn có cả Trần Quang Chiếu, Thạch Hà Cô, Tần Nguyên Hạo, Phong Diệu Thường.
Đại đội nghĩa quân chưa đến nhưng mười mấy người này như thiên tướng từ trên trời bay xuống, đã đủ khiến cho kẻ địch lạnh mình. Thượng Quan Thái quát:
"Nghĩa quân đã phá thành, ai muốn sống hay mau đầu hàng". Bọn vệ sĩ trong phủ có kẻ bỏ chạy, có kẻ bị thương, những người còn lại biết có chống cự cũng vô ích nên đành ngoan ngoãn hạ vũ khí.
Sử Bạch Đô cầm cái đồng nhân giáng xuống, quát:
"Ai muốn chết thì tới đây?".
Vũ Văn Hùng nói:
"Được, ngươi có phải là bang chủ của Lục Hợp bang không? Ta phải coi thử ngươi lợi hại thế nào?" Rồi chàng chém một nhát kiếm vào trên cái đồng nhân, chỉ cảm thấy hổ khấu buốt nhói, Vũ Văn Hùng đánh ra một chiêu Thất túy bát tiên.
Sử Bạch Đô thất kinh:
"Tên tiểu tử này vẫn không ngã". Nghĩ chưa xong chợt thấy tiếng gió dội tới, cây trường kiếm của Trúc Thanh Hoa đã đâm ra sau lưng y. Sử Bạch Đô phóng vọt người lên cao đến bảy tám thước, rồi giáng cái đồng nhân, Trúc Thanh Hoa bị đồng nhân tạt vào người, nàng cảm thấy như vừa bị giáng một búa, đã biết lợi hại thế nào vội lách người ra, Sử Bạch Đô đánh hụt một đòn không khỏi cả kinh.
Lúc này Lý Quang Hạ, Lâm Đạo Hiên cùng xông lên, một đao một kiếm tấn công xuống phần hạ bàn của Sử Bạch Đô, đao thì chém vào đùi, kiếm thì đâm vào đầu gối. Sử Bạch Đô sử dụng đồng nhân cho nên kém linh hoạt, hạ bàn chính là điểm yếu. Sử Bạch Đô thất kinh:
"Hai tên tiểu quỷ này thật lợi hại". Rồi hai chân liên tục tung cước, cây trường kiếm của Lâm Đạo liên bị y đá bật ra, Lý Quang Hạ chém một đao vào gót chân của y, bị y đẩy lui đến mấy bước. Nhưng Sử Bạch Đô cũng không khỏi cả kinh:
"Bọn tiểu quỷ này thật lợi hại! Nếu không chạy mau chỉ e chết chắc".
Té ra sau một hồi kịch đấu với Kim Trục Lưu, công lực của Sử Bạch Đô không còn như lúc đầu, bọn Vũ Văn Hùng mới có thể khống chế được y.
Lý Quang Hạ kêu lên:
"Tiểu sư thúc, tiểu sư thúc!" Y rất thân thiết với Kim Trục Lưu, lúc này tìm mãi vẫn không thấy chàng cho nên kêu lớn lên. Lý Quang Hạ kêu chưa xong chợt nghe một tiếng hú dài, Kim Trục Lưu trả lời:
"Ta đây!" Rồi chợt có hai bóng người phóng vọt lên. Một người là Kim Trục Lưu, người kia lại là Văn Đạo Trang.
Thật ra Văn Đạo Trang cũng chẳng muốn đánh đấm gì nữa, y chỉ muốn tìm Văn Thắng Trung. Văn Đạo Trang đưa mắt nhìn xung quanh, một lát sau đã tìm ra Văn Thắng Trung, Văn Thắng Trung đang bị một thiếu nữ dồn ép đến luống cuống tay chân, trên người toàn là vết máu.
Thiếu nữ này chính là Phong Diệu Thường. Số là Cung Bình Dã đã bỏ chạy trước, Văn Thắng Trung đã bị thương, sợ chết trong đám loạn binh, chỉ đành cố gắng tìm chỗ trốn. Y chưa kịp chui vào trong hốc đá thì đã bị Phong Diệu Thường chặn lại.
Phong Diệu Thường vẫn còn nhớ cái hận bị y ép hôn, nhưng cũng không muốn giết y, Văn Thắng Trung kinh hoảng, vừa thấy nàng đã vội kêu:
"Thường muội, xin hãy nghĩ tình xưa tha cho tôi đi?" Y tưởng rằng nàng sẽ bỏ qua, nào ngờ Phong Diệu Thường vẫn nhớ mối hận xưa. Nàng cười lạnh:
"Ta và ngươi có tình gì? Hừ, nếu ta thả cho ngươi đi thì rõ ràng ta là người không đoan chính!" Nói chưa xong liền đâm soạt tới một kiếm.
Văn Thắng Trung đã bị thương, làm sao có thể chống đỡ nổi? Chỉ mấy chiêu Phong Diệu Thường đã đâm trúng cổ tay của y, chỉ nghe keng một tiếng, cây trường kiếm trong tay Văn Thắng Trung vuột ra bay lên không trung.
Văn Đạo Trang quát:
"Đừng hại con ta!" Nói chưa dứt thì y đã phát một đòn Phách không chưởng vào cây kiếm đang lơ lửng trên không trung, cây kiếm đổi hướng bay như điện xẹt về phía Tần Nguyên Hạo. Y vội vàng chạy tới tay trái ôm con trai, tay phải cầm cây nhuyễn kiếm đâm về phía Phong Diệu Thường, may mà Tần Nguyên Hạo đánh ra một vòng kiếm hóa giải kình đạo, cây kiếm cắm xuống đất, chuôi kiếm vẫn còn run lên bần bật!
Tần Nguyên Hạo hóa giải đường bay của thanh kiếm thì dễ, còn Phong Diệu Thường muốn tránh nhát kiếm của Văn Đạo Trang khó hơn nhiều. Chỉ thấy kiếm quang lóe lên, tà áo của Phong Diệu Thường bị chém bay lả tả. Tần Nguyên Hạo phóng tới đánh ra một chiêu Bạch hồng quán nhật đâm vào Văn Thắng Trung. Văn Đạo Trang buộc phải rút kiếm về chặn đỡ, Phong Diệu Thường mới thoát hiểm.
Văn Thắng Trung vẫn chưa hết sợ, y nghiến răng:
"Cha, hãy giết tên tiểu tử này!".
Hồi 38
Ai nấy tránh xa đành tự sát
Người chết thành tan hận đường cùng
Giọng nói của Văn Thắng Trung run run, rõ ràng bị thương không nhẹ. Văn Đạo Trang cũng không biết có thể giữ được mạng của con hay không, lòng đau nhói, rên lên:
"Được, cha sẽ giúp con!" Lập tức cây nhuyễn kiếm vẽ ra một vòng tròn, nhốt Tần Nguyên Hạo và Phong Diệu Thường vào trong.
Phía bên kia Trần Quang Chiếu cũng dụng phải Viên Hải hòa thượng. Chàng quát một tiếng rồi cây kiếm hóa thành một đạo ngân hồng chém tới. Viên Hải dựng cây giới đao, keng một tiếng, đao và kiếm chạm vào nhau, mũi kiếm của Tần Nguyên Hạo lệch sang một bên, Viên Hải đột nhiên cảm thấy vai đau nhói, thì ra y đã trúng một kiếm, hai người vốn không hơn kém nhau mấy, Viên Hải dù có kém cỏi cũng không thể chỉ trong vòng một chiêu đã bị Trân Quang Chiếu đâm bị thương, đó là vì sau khi y thấy Đổng Thập Tam nương chết thảm, trong bụng đã lo lắng, Trần Quang Chiếu nhớ thù xưa cho nên vừa gặp mặt đã sử dụng sát chiêu!
Đối phương đâm kiếm thẳng tới trung lộ nhưng vai lại trúng kiếm khiến cho Viên Hải bất ngờ! Viên Hải toan co giò bỏ chạy. Tần Nguyên Hạo đuổi theo đâm tiếp ba nhát kiếm, Viên Hải có thể né được hai nhát đầu những nhát cuối cùng không tránh được, huyệt đại chạy ở phía sau lưng bị trúng một kiếm, mạng đã ô hô.
Thạch Hà Cô đứng một bên thấy tình thế hỗn chiến vội nói:
"Vũ Văn Hùng vây đánh Sử Bạch Đô không nguy hiểm lắm, nhưng Tần Nguyên Hạo và Phong Diệu Thường có lẽ không địch lại Văn Đạo Trang!" Trần Quang Chiếu gật đầu:
"Được, chúng ta đi mau!".
Văn Đạo Trang chỉ nghĩ hai chiêu ba thức có thể lấy mạng Tần Nguyên Hạo, nào ngờ bản lĩnh của Tần Nguyên Hạo tuy không bằng y nhưng y cũng không thể hạ chàng trong vòng mười chiêu. Lúc này Trần Quang Chiếu, Thạch Hà Cô đang phóng tới. Phía bên kia Kim Trục Lưu đã nhảy vọt lên hòn non bộ phát ra một tiếng hú dài.
Văn Đạo Trang biết Trần Quang Chiếu là con của Giang Nam đại hiệp Trần Thiên Vũ, bản lĩnh hơn hẳn Tần Nguyên Hạo, còn Thạch Hà Cô giỏi dùng độc, nên cũng không thể coi thường. Văn Đạo Trang tuy không sợ họ nhưng bốn người họ đã liên thủ y muốn thắng cũng không dễ. Huống chi Kim Trục Lưu đã thoát hiểm, giờ đây nếu chàng quay lại hậu quả không thể tưởng tượng nổi.
Văn Đạo Trang thầm thở dài, nghĩ bụng:
"Trung nhi, không phải cha không muốn báo thù cho con nhưng kẻ địch quá đông, chỉ có thể giữ mạng con trước". Rồi liền vung tay đánh một chiêu Đẩu chuyển tinh di, đẩy Tần Nguyên Hạo, Phong Diệu Thường thối lui rồi phóng vọt ra.
Trần Quang Chiếu đang nôn nóng cứu bằng hữu, người chưa đến đã phát ra ám khí Băng phách thần đạn trước.
Tuy Băng phách thần đạn lợi hại nhưng cũng chẳng làm gì được Văn Đạo Trang.
Văn Đạo Trang vỗ ra một chưởng, băng đạn vỡ nát hóa thành một luồng khói.
Văn Đạo Trang cười lạnh:
"Chỉ vài giọt nước làm gì được ta!" Rồi y nhảy bổ về phía Thạch Hà Cô, Trần Quang Chiếu vội vàng chạy lên tiếp ứng, nào ngờ Văn Đạo Trang chỉ là thanh đông kích tây, dụ cho họ tụ lại một chỗ rồi y bế con mình chạy ra đường khác.
Văn Đạo Trang chạy ra khỏi phủ tướng quân lòng mới bớt lo, Kim Trục Lưu cũng không đuổi theo, y tưởng rằng đã thoát hiểm, đang định cho con trai uống thuốc đột nhiên phát giác Văn Thắng Trung đã cứng đờ. Té ra Văn Đạo Trang tuy không sợ Băng phách thần đạn, nhưng con trai của y thì không cầm cự nổi.
Nếu Văn Thắng Trung chưa bị thương thì có lẽ Văn Đạo Trang có thể dùng huyền công cứu mạng y. Nhưng Văn Đạo Trang vừa mới bị thương, lại bị nhiễm khí lạnh, máu lập tức ngưng tụ, dù Biển Thước hay Hoa Đà sống lại cũng không thể nào cứu được nữa.
Văn Đạo Trang phát giác con trai đã chết, lòng đau đớn đến khó hình dung, nhưng lúc này y một tay khó vỗ nên kêu, nào dám quay lại trả thù, đành ôm xác con trai bỏ chạy.
Lại nói Sử Bạch Đô bị mọi người vây đánh, y múa tít cái độc cước đồng nhân, chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc mà vẫn không hề nao núng. Tuy thế nhưng trong lòng thầm thất kinh. Không lâu sau thì thấy Văn Đạo Trang chạy lướt qua hòn non bộ, Kim Trục Lưu lại không đuổi theo.
Sử Bạch Đô càng lo hơn:
"Văn Đạo Trang thật chẳng ra gì, chỉ lo chạy một mình". Nghĩ chưa đứt thì chợt thấy gió lướt tới, một thanh kiếm đã đâm vào ngực y.
Sử Bạch Đô không khỏi thất kinh:
"Kiếm pháp của ả nha đầu này thật ghê gớm!" Té ra Giang Hiểu Phù đã tới, từ nhỏ Giang Hiểu Phù đã được cha đích thân truyền thụ võ công, nên nàng chẳng kém gì Kim Trục Lưu.
Sử Bạch Đô vội vàng hóp ngực thu bụng, người phóng vọt ra sau nửa thước, dù y hóa giải được chiêu này, nhưng vai trái cũng bị mũi kiếm vạch rách một đường.
Sử Bạch Đô quát lớn một tiếng phóng vọt người lên, giơ cái đồng nhân bổ về phía Giang Hiểu Phù, Kim Trục Lưu quát:
"Chết đến nơi mà còn hung hăng!" Sử Bạch Đô đang ở trên không trung, cảm thấy có một luồng kình phong đâm tới. Nếu y vẫn bổ cái đồng nhân xuống có thể lấy được mạng của Giang Hiểu Phù nhưng bản thân y cũng chết dưới kiếm của Kim Trục Lưu. Sử Bạch Đô lộn người trên không trung rồi ném cái đồng nhân về phía Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu vung kiếm đánh rớt đồng nhân, Sử Bạch Đô lộn một vòng qua hòn non bộ phía bên kia, thoát khỏi vòng vây.
Lúc này Sử Hồng Anh đã phóng lên hòn non bộ, thấy anh trai mình thất bại thê thảm không khỏi than rằng:
"Nếu huynh biết ăn năn từ sớm thì đâu có ngày hôm nay".
Kim Trục Lưu thì thầm:
"Hồng Anh hãy nghỉ một lát". Rồi nắm tay nàng giúp nàng điều khí. Sử Bạch Đô nhảy vọt qua hai hòn non bộ, y vừa mới thở phào không ngờ sóng trước chưa lui sóng sau đã nổi. Bọn Vũ Văn Hùng tuy chưa đuổi theo nhưng Trần Quang Chiếu và Thạch Hà Cô đã chặn ở trước mặt.
Thạch Hà Cô vừa thấy y đã quát:
"Gian tặc, chạy đi đâu?" Rồi nàng quét ngọn kim xà tỏa tới, kim xà tỏa là binh khí độc môn của nàng, được tạo thành bởi bảy cái vòng vàng nối lại với nhau, có thể sử dụng như ám khí. Ở đầu rắn lại có chứa thuốc bột, có thể khiến người ta trúng độc mà không hề hay biết. Sử Bạch Đô lúc này đã ném đồng nhân, y biết Thạch Hà Cô giỏi dùng độc, sợ mắc mưu của y cho nên giấu tay vào tay áo, quát:
"Hà Cô, tránh ra!" Rồi cuộn ống tay áo, cười lạnh lẽo:
"Rơi!".
Lập tức cuộn kim xà tỏa của Thạch Hà Cô lại.
Không ngờ Thạch Hà Cô tuy đã mất binh khí nhưng bảy cái vòng cũng bung ra.
Sử Bạch Đô ác đấu liên tục, lúc này đã đuối sức, ống tay áo chỉ cuộn được cái đầu rắn nhưng không thể quét bảy cái vòng kia.
Sử Bạch Đô tuy không còn đủ sức quét bảy cái vòng nhưng trong lúc nguy cấp đã đề một ngụm chân khí phóng vọt lên hơn một trượng. Chỉ nghe tiếng leng keng vang lên, bảy cái vòng vàng bao bọc Sử Bạch Đô, suýt nữa đã cắm vào người y, Sử Bạch Đô quát lớn rồi lộn người trên không trung, nhưng trên trán đã bị lủng một lỗ, máu tuôn ra như suối. Nhưng y vẫn không ngã xuống, té ra trên bảy cái vòng này đều có gai bén. Sử Bạch Đô tránh được sáu cái vòng, nhưng cái vòng thứ bảy đã cứa vào trán của y. May mà y lộn người nhanh nhạy, nếu không thiên linh cái đã trúng đòn.
Sử Bạch Đô có mang theo thuốc kim sang, y vội vàng lấy ra bôi lên trán, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Trần Quang Chiếu thấy Thạch Hà Cô đã bị rơi binh khí, chàng vội vàng lướt tới đâm kiếm về phía Sử Bạch Đô.
Sử Bạch Đô quát:
"Hay thật, tên tiểu tử nhà ngươi cũng dám bắt nạt ta!" Trong kiếm quang nhân ảnh, chỉ nghe keng một tiếng, cây trưởng kiếm của Trần Quang Chiếu đã bị Sử Bạch Đô búng trúng, Sử Bạch Đô đã tụ hết công lực cả đời để tung đòn này, hổ khẩu của Trần Quang Chiếu đổ máu, nhưng chàng vẫn nắm chặt cây trưởng kiếm.
Sử Bạch Đô đánh một chiêu đắc thủ, nghĩ bụng:
"Mình không lấy mạng được Hà Cô nhưng cũng không để cho tên tiểu tử này kiếm lợi". Y đang định nhảy bổ tới ra đòn sát thủ, chợt cảm thấy toàn thân ngứa ngáy, không thể nào đề chân khí được, vừa mới nhảy vọt lên đã rơi lại xuống đất. Vốn là y định phóng tới hơn một trượng, kết quả chỉ nhảy được hơn ba thước, cho nên đòn Phách thông chưởng cũng chẳng làm gì được Trần Quang Chiếu.
Té ra trong cái đầu rắn của kim xà tỏa có chứa chất độc, tuy không làm cho người ta mất mạng nhưng nếu bị dính vào thì sẽ ngứa ngáy khó chịu. Lúc nãy Sử Bạch Đô cuộn đầu rắn, không để ý nên bị dính thuốc bột.
Y có thể chịu nổi đau đớn, nhưng không thể chống nổi cơn ngứa ngáy. Trần Quang Chiếu đã rơi kiếm, chàng đề phòng y lao tới cho nên vung tay đánh ra ba viên băng đạn.
Sử Bạch Đô rùng mình mấy cái, không những nổi da gà mà cảm thấy lạnh đến thấu tim. Nếu bình thường ba viên băng đạn chẳng làm gì được y, nhưng lúc này y đã tổn thương nguyên khí cho nên cảm thấy rét buốt.
Sử Bạch Đô cắn đầu lưỡi, cảm giác đau đớn khiến y dễ chịu một chút. Lúc này y cảm thấy đau đớn chứ không thấy ngứa ngáy nữa, người cũng không còn cảm thấy lạnh.
Sử Bạch Đô nào dám ham đánh, Trần Quang Chiếu lại không dám tấn công tới.
Sử Bạch Đô hơi điều tức, vội vàng phóng vọt ra. Nhưng như thế y đã để lộ nhược điểm của mình. Trần Quang Chiếu cười lạnh lùng:
"Sử bang chủ, chẳng phải ngươi muốn lấy mạng ta ư? Sao cụp đuôi mà chạy thế?" Thạch Hà Cô thúc:
"Chúng ta cứ tấn công y!" Trần Quang Chiếu quát:
"Được!".
Sử Bạch Đô rất căm tức trong lòng nhưng lúc này y cũng chẳng dám làm dữ, chỉ đành nén giận chạy thục mạng.
Thượng Quan Thái canh ở cổng lớn, cười lớn:
"Muốn chạy hãy vượt qua ải của ta trước!" Sử Bạch Đô nghiến răng, tụ hết chân khí còn lại vào lòng bàn tay rồi chạm một chưởng với Thượng Quan Thái. Thượng Quan Thái thối lui ba bước, Sử Bạch Đô cũng phun máu miệng.
Thượng Quan Thái là bậc võ lâm tiền bối, đương nhiên không muốn đánh người đã ngã ngựa. Ông ta cảm thấy Sử Bạch Đô trải qua nhiều trận kịch chiến mà vẫn còn có chưởng lực như thế không khỏi có chút bội phục. Vì thế cũng không làm khó y nữa.
Nào ngờ Sử Bạch Đô lấy dạ tiểu nhân do lòng quân tử, y đương nhiên không tin lời Thượng Quan Thái, chỉ thấy Thượng Quan Thái thối lui liền vận kình định tung ra sát chiêu. Lúc này có một tên quân chạy phía sau lưng y, Sử Bạch Đô trở tay lại tóm lấy tên quân này giở lên, làm ám khí ném về phía Thượng Quan Thái. Tên quân sĩ kêu lên oai oái. Thượng Quan Thái mềm lòng, thầm nhủ:
"Kẻ này tội không đáng chết, cần gì phải lấy mạng y!" Lúc này ông ta đã né tránh không kịp, chỉ đành tiếp lấy tên quân ấy. Nào ngờ chỉ vì một chút nhân từ mà chút nữa đã mất mạng bởi công phu Cách vật quyền công.
Nếu Thượng Quan Thái đánh bật tên quân ấy ra ông ta sẽ không bị thương, nhưng ông ta muốn giữ mạng của tên quân này nên đỡ lấy y, nguồn lực đạo của Sử Bạch Đô cộng với thân hình nặng hơn trăm cân của tên quân dè xuống người ông ta tựa như một tảng đá lớn. Nguồn xung lực này rất ghê gớm, dẫu cho Thượng Quan Thái có công lực thâm hậu nhưng cũng cự lại không nổi.
Trong khoảnh khắc này, Thượng Quan Thái cảm thấy như bị búa tạ giáng vào, trước mắt hoa lên, hai tay rụng rời, tên quân rơi xuống, mạng đã ô hô. Thượng Quan Thái tuy có lòng nhân từ nhưng không cứu được y, bản thân ông ta lại bị nội thương.
May mà ông ta lập tức buông tay thối lui, hóa giải vài phần lực đạo cho nên không bị thương nặng lắm. Thượng Quan Hoàn, Trúc Thanh Hoa, Vũ Văn Hùng thấy Thượng Quan Thái bị thương thì vội vàng chạy tới, Thượng Quan Hoàn nói:
"Cha, cha sao thế?" Thượng Quan Thái cười khổ sở:
"Không sao. Nhưng ta không ngờ y cứ như nổi điên". Sử Bạch Đô sau khi đọ một chưởng thì bị thương càng nặng hơn Thượng Quan Thái. Y chạy ra tới cổng lớn, chỉ cảm thấy nửa thân người tê rần, té ra loại thuốc bột mà y dính phải với hàn khí của băng đạn đều phát tác khi sức đề kháng trong người y giảm xuống.
Sử Bạch Đô cố vận huyền công, một mặt chịu đựng cơn ngứa, một mặt đề khí cao giọng:
"Huynh đệ Lục Hợp bang theo ta phá vòng vây!" Lần này các đầu mục trong bang đều theo y đến đây, Tứ đại hương chủ tuy một chạy ba chết nhưng cũng còn hơn một trăm đầu mục. Những người này ai cũng biết võ công, dù không phải là cao thủ nhưng cũng có thể cố gắng chống chọi được. Nếu Sử Bạch Đô cùng một trăm người này phá vòng vây thì có thể sẽ có một tia hy vọng.
Hơn một trăm người của Lục Hợp bang đang tụ tập ở bên ngoài sân của tướng quân phủ. Nhưng y hơi thấy làm lạ tại sao những người này không bỏ chạy mà lại tập trung với nhau!
Xưa nay Sử Bạch Đô ra lệnh ai cũng phải nghe theo. Nào ngờ y nói chưa dứt lời chỉ nghe một trăm người đồng thanh nói:
"Sử Bạch Đô, ngươi làm việc trái lẽ trời, ai còn nhận ngươi làm bang chủ?".
"Bọn ta ủng hộ Sử cô nương làm bang chủ!".
Té ra chuyện này là công lao của Lý Đôn, số là những người này định bỏ chạy, nhưng Lý Đôn khuyên họ:
"Nghĩa quân đã vào thành, muốn chạy cũng không thoát được. Các người chỉ là tòng phạm, chỉ cần đổi tà theo chính, chắc chắn sẽ được khoan dung". Trong số những đầu mục không ít người là bạn của Lý Đôn, vốn đang đợi cơ hội cải tà quy chính, nay thấy thế lớn đã hết, lại thêm Lý Đôn khuyên nhủ cho nên ai nấy đều nghe theo.
Sử Bạch Đô gầm quát:
"Hay lắm, các người dám phản ta, ta sẽ giết chết từng tên một!" Rồi y cắn đầu lưỡi, phun ra một ngụm máu tươi, tóc tai rối bù, lao tới phía trước trông giống như một con thú hoang đã bị thương, té ra vì mọi người đã xa rời mình, y đã tức điên lên.
Những đầu mục bình thường đã bị Sử Bạch Đô chèn ép, lúc này thấy y nổi điên xông tới, tuy biết rõ là y không còn sống được bao nhưng cũng không khỏi e ngại. Sử Bạch Đô đưa mắt nhìn ra, y thấy tên mã phu của mình đang giữ thớt ngựa đứng ở một góc. Sử Bạch Đô quát:
"Ai dám xông tới, ta đánh chết một tên đã đủ vốn, đánh hai tên đã có lời!" Rồi gầm một tiếng phóng vọt người ra chạy đến thớt ngựa. Thớt ngựa của y gọi là Chiếu dạ sư tử mã, ngày có thể đi ngàn dặm, nếu y đoạt được thớt ngựa quý này may ra có tia hy vọng sống.
Tên mã phu ấy rút thanh đoản đao, sắc mặt hoảng sợ đến nỗi tái xanh, nhưng vẫn chặn trước đầu ngựa. Sử Bạch Đô quát:
"Ngươi là cái thứ gì mà cũng dám phản ta?" Rồi y bước tới đấm vù ra một quyền.
Sử Bạch Đô tưởng rằng tên mã phu này không dám kháng cự. Nhưng không ngờ tên mã phu lại quát lên:
"Ngươi chẳng coi ta là người, tại sao ta không dám phản ngươi? Được, tính mạng ta chẳng đáng giá, ta liều với ngươi?" Sử Bạch Đô đấm ra một quyền, tên mã phu cũng chém một đao về phía Sử Bạch Đô!
Té ra tên mã phu này ban đầu vốn muốn bỏ chạy, y rút ra thanh đoản đao chỉ là vì muốn tự vệ mà thôi. Nhưng Sử Bạch Đô lại hung hăng đối với y, muốn lấy mạng y, trong khoảnh khắc, y nhớ lại Sử Bạch Đô bình thường đã bắt nạt mình như thế nào, bất giác khí giận bốc cao, lửa thù như cháy phừng phừng ở trong lòng, rồi cả khiếp nhược cũng trở thành dũng sĩ, trong khoảnh khắc ấy y đã quên đi tất cả nỗi lo sợ.
Sử Bạch Đô thấy tên mã phu dám động thủ với mình không khỏi ngõ ngàng. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, y chỉ thấy đau nhói, đầu quyền đã trúng một đao, ngón tay đã gãy, máu thịt bầy nhầy. Sử Bạch Đô trúng một đao lập tức tiến bước lướt người, trở tay giật thanh đao, chém ngược trở lại, rồi y tung một cước đá tên mã phu lộn nhào.
Sử Bạch Đô cười ha hả, phóng vọt người lên mình ngựa. Không ngờ cười chưa dứt, người cũng chưa rơi xuống yên ngựa đột nhiên thấy hai chân sút xuống, thế là té lộn đầu xuống đất. Té ra y đã là đèn khô dầu cạn, chỉ nhờ khí điên mà làm hung. Sau khi bị tên mã phu chém một đao nhuệ khí bị chặn lại, trở nên như một quả bóng da xì hơi, không thể nào cầm cự được nữa.
Tên mã phu ngồi dậy, cười ha hả:
"Sử bang chủ, ngươi cũng có ngày này ư?
Ngươi giết ta đi! Ngươi không giết được ta thì ta sẽ giết ngươi!".
Sử Bạch Đô cũng bò dậy, y mở to hai mắt nhìn tên mã phu chậm rãi bước về phía mình, không khỏi than thầm. Y tung một cước mà không đá chết tên mã phu này lập tức biết mình chẳng còn hơi sức.
Bọn đầu mục trong Lục Hợp bang thấy tên mã phu mà cũng dám liều mạng với Sử Bạch Đô không khỏi thầm than một tiếng "hổ thẹn", thế rồi kêu ầm lên chạy đến bao vây y.
Kim Trục Lưu hỏi:
"Sử Bạch Đô, ngươi có ngày hôm nay có biết hối hận chưa?".
Sử Bạch Đô đối diện với tên mã phu, trước ánh mắt đầy lửa căm thù của đối phương, y cũng không khỏi rùng mình, nghĩ bụng:
"Mình ngang ngược nửa đời, bình thường muốn đánh là đánh, muốn mắng là mắng, chả trách nào bọn chúng hận mình đến thế. Dù Kim Trục Lưu tha cho mình, những kẻ này có tha cho mình không? Dù bọn chúng chịu tha cho mình, uy phong của mình đã chẳng còn, sau này cũng chẳng thể ngóc đầu lên được".
Trong đời Sử Bạch Đô không biết đã gặp bao nhiêu cường địch, nhưng chưa bao giờ khiến y hoảng sợ như thế này. Chỉ là một tên mã phu nhỏ nhoi, một kẻ thường ngày y chẳng thèm coi vào đâu thế nhưng lại khiến cho y run sợ trong lòng. Không phải vì bản lĩnh của mã phu này cao cường mà bởi vì y cảm nhận được cảm giác đáng sợ khi bị người ta phản bội và xa rời từ đôi mắt của tên mã phu! Đáng tiếc lúc này y mới hiểu được, kể ra cũng đã quá muộn.
Mặc dù y là người rất ngoan cố, mặc dù trước khi chết y cũng muốn làm anh hùng hảo hán, nhưng trước hàng trăm đôi mắt căm thù, y không thể nào kìm được cơn sợ hãi trong lòng, y cúi gục đầu xuống đám đông. Y né tránh ánh mắt của tên mã phu, thở dài:
"Không cần ngươi giết ta, ta sẽ giao mạng này cho các ngươi?" Phập một tiếng, Sử Bạch Đô đã dùng cây đoản đao đâm vào ngực mình, kết liễu tính mạng.
Sử Hồng Anh đã biết đại ca sẽ có kết cuộc như thế, nhưng nàng không muốn thấy cảnh tượng thê thảm ấy, nàng quay đầu đi, tay vịn vào Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu nói:
"Soái Mạnh Hùng vẫn chưa bị bắt, chúng ta đi tìm y. Còn ...". Sử Hồng Anh gật đầu:
"Đúng thế, Soái Mạnh Hùng là kẻ chủ mưu, không thể để y lọt lưới, còn tung tích của Lệ đại ca nữa. Chúng ta phải tìm cho ra mới được". Kim Trục Lưu sợ Sử Hồng Anh đau buồn vì cái chết của anh trai cho nên mới nhắc chuyện khác để cho nàng quên đi.
Mã phu dắt con Chiếu dạ sư tử mã đến trước mặt Sử Hồng Anh, thưa:
"Sử cô nương, xưa nay cô đối xử với chúng tôi rất tốt, cô hãy làm bang chủ. Tôi bức tử Sử Bạch Đô, nếu cô nương thấy không ổn, tôi cam chịu ...". Sử Hồng Anh nhẹ giọng:
"Cũng không thể trách ngươi, anh trai của ta phải chịu tội như thế. Ngươi hãy yên tâm ra sức cho bổn bang". Tên mã phu đáp:
"Vâng. Con ngựa này xin trao cho cô nương".
Lúc này Sử Hồng Anh vẫn chưa bình tâm, nàng không muốn nói nhiều, chỉ gật đầu nhảy lên ngựa.
Cuộc chiến trong và ngoài thành Tây Xương đã kết thúc, số binh lính tử thương và đầu hàng chiếm hơn một nửa, còn một nửa thì bỏ thành chạy, quân giữ thành Tây Xương có đến mười vạn người, nhưng nghĩa quân công thành chỉ bằng một nửa số này, nghĩa quân đột kích thành công, không muốn buộc chúng đến đường cùng cho nên mở ra một mắt lưới, không đuổi theo những kẻ đã bỏ chạy.
Sử Hồng Anh vừa dò hỏi các đầu mục trong nghĩa quân, nghe nói đại đội của quân Thanh chạy ra từ cửa bắc liền phóng ngựa đuổi theo. Chỉ trong chớp mắt đã bỏ Kim Trục Lưu ở phía sau. Kim Trục Lưu sợ nàng gặp nguy hiểm đành cướp một thớt ngựa trong đám loạn quân rồi đuổi theo phía sau.
Bên ngoài thành Tây Xương diễn ra một trận chiến truy kích. Quân Thanh chẳng còn ý chí chiến đấu chạy tán loạn. Nghĩa quân chỉ muốn xua đuổi kẻ địch, cho nên đuổi ra đến hơn mười dặm liền gióng trống thu binh, chỉ để lại một nhóm nhỏ tuần tra ở phía trước.
Kim Trục Lưu phóng ngựa ra đuổi theo, chẳng thấy Soái Mạnh Hùng, cũng chẳng thấy Lệ Nam Tinh đâu. Sử Hồng Anh chạy ra đến hơn mười dặm thì gặp một đầu mục tuần tra, đầu mục này không biết Soái Mạnh Hùng, chỉ nói rằng:
"Có vài tên võ quan chạy vào trong vùng núi, chúng tôi đã cho người vào lục soát. Nhưng không biết có Soái Mạnh Hùng trong số ấy hay không". Sử Hồng Anh lại tiếp tục phóng ngựa vào trong vùng núi.
Đến nơi cây cối rậm rạp, chợt nghe tiếng quát tháo trong rừng vọng ra, Sử Hồng Anh vội vàng phóng ngựa tới, khi đến nơi cuộc chiến đã kết thúc. Chỉ thấy một nhóm nghĩa quân bắt được ba tên tù binh, phía nghĩa quân thì có đến bảy tám người bị thương, còn ba tên tù binh này là võ quan dưới trướng Soái Mạnh Hùng.
Sử Hồng Anh rất thất vọng, hỏi:
"Soái Mạnh Hùng đâu?" Ba tên tù binh yên lặng không nói. Sử Hồng Anh quát:
"Hay lắm, có phải các ngươi muốn che giấu cho Soái Mạnh Hùng không?" Rồi nàng phất cây roi dài định bức cung.
Một đầu mục nghĩa quân khuyên rằng:
"Sử cô nương, bọn chúng đã buông vũ khí làm tù binh, chúng ta không nên hành hạ bọn chúng". Té ra đó là mệnh lệnh của thống lĩnh nghĩa quân Diệp Mộ Hoa ban ra. Mệnh lệnh yêu cầu không được hành hạ tù binh.
Lúc đầu ba tên tù binh tưởng rằng rơi vào tay kẻ địch sẽ chết chắc, lúc này thấy nghĩa quân bắt được bọn chúng mà cũng chẳng đánh chẳng mắng, lại còn ngăn không cho Sử Hồng Anh bức cung mình, bèn vui mừng nên mới chịu nói. Một người nói:
"Chúng tôi thật tình không biết Soái Mạnh Hùng chạy về hướng nào". Một người nói:
"Nhưng tôi biết y đã bị trọng thương, chắc là chạy không xa". Một người nói:
"Chúng tôi tuy không biết tung tích của Soái Mạnh Hùng nhưng tổng quản An Đình Tuấn vừa mới chạy thoát".
Tuy vẫn không biết hướng chạy của Soái Mạnh Hùng nhưng coi như Sử Hồng Anh cũng đã có chút manh mối. Nàng nói:
"Ồ, té ra An Đình Tuấn vừa mới chạy thoát". Đầu mục của nghĩa quân đáp:
"Nhưng y chạy đã xa, e rằng đuổi theo không kịp". Sử Hồng Anh nói:
"Không sao, chắc chắn tôi sẽ đuổi kịp!".
Người ấy khuyên:
"Sử cô nương cần gì phải mạo hiểm như thế?" Sử Hồng Anh đáp:
"Ta và Soái Mạnh Hùng thù sâu như biển, nếu không bắt được y thì ta quyết không cam lòng".
Đầu mục ấy thấy không khuyên được nàng, chỉ đành cho nàng biết hướng chạy của An Đình Tuấn rồi bảo:
"Sử cô nương, tôi biết bản lĩnh của cô nương rất cao nhưng cũng mong cô nương cẩn thận".
Sử Hồng Anh đáp tạ đầu mục ấy rồi lập tức phóng ngựa chạy về phía trước. Sử Hồng Anh phóng ngựa chạy một hồi, quả nhiên thấy An Đình Tuấn ngồi trên một thớt ngựa gầy hớt hải bỏ chạy. Sử Hồng Anh quát:
"An Đình Tuấn, ngươi chạy không thoát đâu?".
Bản lĩnh của An Đình Tuấn thật ra chẳng kém Sử Hồng Anh, nhưng không biết phía sau Sử Hồng Anh có người hay không, nên y chẳng dám ham đánh. Khi thấy Sử Hồng Anh đến gần mới vung tay phóng ra ba ngọn phi đao.
Thớt Chiếu dạ sư tử mã vừa thấy nguy hiểm thì tung bốn vó nhảy sang một bên.
Nhờ con ngựa quý, Sử Hồng Anh tránh được hai mũi phi đao, còn mũi thứ ba nàng tung ngọn roi cuộn về.
Thớt ngựa của Sử Hồng Anh nhảy qua một bên, kéo dài khoảng cách giữ hai người. Sử Hồng Anh quát:
"Có đi thì phải có lại!" Rồi nàng vung ngọn roi, mũi phi đao ấy bắn ngược trở lại. Chỉ nghe phập một tiếng, mũi phi đao đã cắm vào mông con ngựa của An Đình Tuấn. Nhưng vì Sử Hồng Anh không đủ khí lực, cho nên phi đao chỉ vạch một vết thương trên mông ngựa chứ không cắm sâu vào. Sử Hồng Anh thầm kêu:
"Đáng tiếc?" Rồi vỗ ngựa tiếp tục đuổi theo.
An Đình Tuấn tuy không trúng phi đao nhưng cũng cả kinh, y thầm nhủ:
"Dù ngựa của mình không bị thương cũng chạy không thoát, nay chẳng còn kế gì nữa".
Thế rồi y nảy ra ý liều với Sử Hồng Anh, nhưng lại sợ nàng có hậu viện nên vẫn không đủ gan đứng lại.
Chỉ trong khoảnh khắc, thớt khoái mã của Sử Hồng Anh đã chạy đến sau lưng của An Đình Tuấn, hai người chỉ cách nhau mấy trượng. An Đình Tuấn liếc mắt chợt phát hiện ra một điều, vội vàng nói:
"Sử cô nương, cô đuổi theo tôi làm gì? Chẳng qua tôi chỉ giúp Trụ làm ác mà thôi, Soái Mạnh Hùng mới là kẻ thù của cô nương!".
Sử Hồng Anh nói:
"Được, ngươi nói ra tung tích của Soái Mạnh Hùng ta sẽ tha cho ngươi". An Đình Tuấn đáp:
"Xa tận chân trời, gần ngay trước mắt, Soái Mạnh Hùng đang ở trong đám người kia".
Sử Hồng Anh gật đầu:
"Được, nếu ngươi nói dối, ta sẽ tìm ngươi tính sổ".
Sử Hồng Anh chạy theo hướng An Đình Tuấn chỉ, chỉ thấy mấy tên quân Thanh nấp trong bãi cỏ. Sử Hồng Anh rất thất vọng, nghĩ thầm:
"An Đình Tuấn quả nhiên đã gạt mình". Đang định quay trở lại tìm An Đình Tuấn bỗng thấy vài tên quân Thanh xông về phía mình, té ra bọn này không nhận ra Sử Hồng Anh, tưởng nàng là một tiểu cô nương xinh xắn, chưa thoát hiểm nhưng đã nổi lòng háo sắc, muốn xông lên toan bắt người cướp ngựa.
Sử Hồng Anh không muốn lạm sát kẻ vô tội, nàng phất ngọn roi một vòng, chỉ nghe tiếng leng keng vang lên không ngớt bên tai, binh khí của bọn chúng đều bị nàng giật lấy, ném ra phía xa. Cả bọn thất kinh tháo chạy.
Sử Hồng Anh định quay trở lại đường cũ, nàng chợt nhìn thấy một tên Thanh binh tựa như bị trọng thương, nằm ngửa ở dưới đất chẳng hề nhúc nhích, cũng chẳng biết là sống hay chết.
Sử Hồng Anh nổi lòng trắc ẩn, nói:
"Nghĩa quân không giết tù binh, y đã bị thương, mình sẽ đem y về cho nghĩa quân chữa trị". Người ấy vẫn chẳng hề nhúc nhích, Sử Hồng Anh nghĩ thầm:
"Hay là y đã chết?" Nàng chợt phát giác dáng người này rất quen thuộc, Sử Hồng Anh phất ngọn roi định kéo y lên nhìn cho rõ mặt.
Nào ngờ người ấy bật người dậy, trở tay tóm được đầu roi, quát lớn:
"Xuống ngựa!" Cú giật ấy vừa nhanh vừa mạnh khiến Sử Hồng Anh thất kinh rơi xuống ngựa.
Té ra người này chính là Soái Mạnh Hùng. Y thay y phục của quân sĩ bình thường, bôi đen mặt chạy ra khỏi Tây Xương. Lúc đầu y vốn muốn đi cùng An Đình Tuấn, nhưng trong lúc gấp gáp An Đình Tuấn bỏ chạy một mình, bỏ y ở lại.
Soái Mạnh Hùng nằm trong đám cỏ, thấy Sử Hồng Anh đuổi tới biết nếu mình chạy sẽ bị nàng phát giác, đành cứ giả chết vận huyền công kết tụ nội lực, định rằng nếu lừa được thì tốt, không lừa được thì liều.
Soái Mạnh Hùng đã trúng độc châm, công lực chỉ còn lại hai thành, nhưng Sử Hồng Anh vừa trải qua một trận kịch chiến, vẫn chưa hồi phục công lực. Công lực của Soái Mạnh Hùng vốn cao hơn nàng, nay chỉ còn lại hai thành nên chẳng hơn được nàng. Chỉ vì y tấn công bất ngờ cho nên chiếm được thượng phong.
Sử Hồng Anh kéo Sử Hồng Anh xuống ngựa, lập tức chém một chưởng vào ngực của nàng. Sử Hồng Anh lách người, tay phải giật roi, tay trái điểm huyệt đạo của y.
Soái Mạnh Hùng trầm tay lách người tiến lên chụp vào ngực nàng.
Sử Hồng Anh cúi người, điểm chỉ vào huyệt lao cung trên lòng bàn tay của y.
Khi đánh sáp lá cà, ai mạnh thì thắng, ai yếu thì bại. Sử Hồng Anh điểm vào lòng bàn tay của Soái Mạnh Hùng, cổ tay của Soái Mạnh Hùng tê rần, nhưng y cũng kịp phất vào hổ khẩu của nàng. Sử Hồng Anh phải buông cây roi ra, người bất giác lùi ba bước. Soái Mạnh Hùng bị điểm trúng huyệt lao cung, chỉ trong chớp mắt tay phải tê rần, chẳng thể nào dùng lực được nữa, chỉ sợ Sử Hồng Anh lại tung thêm một đòn nữa nên vội vàng nhảy sang một bên.
Lúc đầu y còn muốn bắt Sử Hồng Anh làm con tin, đến khi phát giác khó chế phục nàng lại quay sang toan cướp lấy con Chiếu dạ sư tử mã.
Nào ngờ con ngựa này rất khôn, ngoại trừ hai anh em Sử Bạch Đô, Sử Hồng Anh, nó chẳng cho ai khác ngồi lên lưng. Ngày trước khi Kim Trục Lưu bắt nó, nó đã đá Kim Trục Lưu, chàng phải dùng võ công mới chế phục được nó.
Nếu Soái Mạnh Hùng không bị thương thì chế phục con Chiếu dạ sư tử mã không khó, những lúc này y chỉ tự chuốc lấy khổ. Soái Mạnh Hùng toan nhảy lên lưng ngựa, con ngựa nhảy lồng lên, cao đến hơn một trượng, Soái Mạnh Hùng bị trúng một cước ngay trán, lập tức rơi xuống lại.
Lúc này chỉ nghe tiếng gió lướt tới, Sử Hồng Anh đã rút thanh đoản kiếm nhảy bổ tới. Soái Mạnh Hùng lăn xuống đất mấy vòng, nhặt được một cành cây, đứng bật đậy cười lạnh:
"Sử Hồng Anh, ngươi không nỡ xa rời ta phải không? Tục ngữ nói rất đúng, lấy gà thì phải theo gà, lấy chó thì phải theo chó, được, hôm nay ngươi hãy xuống suối vàng làm vợ chồng với ta!".
Lúc này y đã trúng hai kiếm của Sử Hồng Anh, sát cơ nổi lên, đã quyết lòng cùng chết với Sử Hồng Anh.
Soái Mạnh Hùng tuy đã đuối sức, nhưng nếu y muốn liều mạng không thể coi thường, y sử dụng cành cây khô trong tay như đao kiếm và phán quan bút, chiêu nào cũng đâm vào huyệt đạo quan trọng của Sử Hồng Anh.
Lúc nãy Sử Hồng Anh bị trúng một chưởng của y, tuy chưa bị nội thương nhưng khí lực đã hao phí rất nhiều, vì y tấn công quá mạnh mẽ cho nên trong chốc lát đã rơi vào nguy hiểm, chỉ có thể chống đỡ mà thôi.
May mà lúc này đôi bên đều đã đuối sức, Soái Mạnh Hùng bị thương nặng hơn nàng. Vả lại lúc nãy y vừa bị nàng điểm vào huyệt lao cung, tay phải không thể vận động được, tuy y đã vận khí hoạt huyết, nhưng trong lúc gấp gáp cánh tay phải cũng chẳng còn linh hoạt. Trong lòng y lúc này cũng đang sợ có nghĩa quân đuổi tới.
Sử Hồng Anh thấy Soái Mạnh Hùng sắp phát độc, nàng bình tĩnh ứng phó, khinh công của nàng cao hơn đối phương, trong mấy mươi chiêu nàng chỉ né tránh, sau hơn năm mươi chiêu Soái Mạnh Hùng chẳng làm dữ được nữa, Sử Hồng Anh đã tìm ra sơ hở, soạt một tiếng nàng chặt gãy cành cây của y.
Soái Mạnh Hùng ném cành cây, lại sử dụng những chiêu số tay không đoạt binh khí.
Chợt nghe tiếng vó ngựa lọc cọc, có một thớt ngựa xuất hiện ở trong rừng, Sử Hồng Anh mừng ro kêu lớn:
"Trục Lưu, mau đến đây!" Nhưng đến khi nhìn lại thì đó chính là An Đình Tuấn.
Té ra sau khi thớt ngựa của An Đình Tuấn bị thương, càng đi càng chậm. Sử Hồng Anh và Soái Mạnh Hùng đánh nhau đã hơn một cây nhang nhưng An Đình Tuấn vẫn chưa ra khỏi khu rừng.
Lúc đầu An Đình Tuấn còn sợ có truy binh đuổi theo, vốn muốn bỏ chạy cho xong, nhưng sau một cây nhang y vẫn nghe Sử Hồng Anh đánh nhau với Soái Mạnh Hùng, vả lại hình như Soái Mạnh Hùng đã chiếm thượng phong cho nên y bạo dạn quay trở lại.
Nhưng y quay trở lại không phải là giúp Soái Mạnh Hùng mà chỉ thấy gió bẻ đà, giả sử Soái Mạnh Hùng đã nắm chắc phần thắng thì y sẽ tiện tay giết chết Sử Hồng Anh, giả sử không thể chế phục được Sử Hồng Anh ngay y sẽ cướp con Chiếu dạ sư tử mã bỏ chạy.
Sử Hồng Anh thấy không phải Kim Trục Lưu mà là An Đình Tuấn không khỏi thầm kêu khổ. Nhưng cũng may nàng kêu lên như thế khiến cho An Đình Tuấn phải lo sợ vài phần. An Đình Tuấn thầm nhủ:
"Tên tiểu tử Kim Trục Lưu quả nhiên đi cùng ả, nếu không ả chẳng kêu như thế. Có lẽ con Chiếu dạ sư tử mã này chạy quá nhanh, trong một lúc y đuổi theo không kịp. Nhưng khinh công của tên tiểu tử này trác tuyệt, hành động như ma quỷ, không thể đảm bảo y không đuổi theo kịp".
Lúc này Sử Hồng Anh đã chặt gãy cành cây của Soái Mạnh Hùng, chiếm được ưu thế. An Đình Tuấn nghĩ bụng giết chết Sử Hồng Anh không khó, nhưng cũng phải đánh đến mấy chục chiêu nên có hơi chần chừ.
Soái Mạnh Hùng thấy An Đình Tuấn cứ chần chừ, không khỏi nôn nóng vội vàng kêu lên:
"An Đình Tuấn, ngươi hãy mau giết chết con nha đầu này, ta đảm bảo ngươi sẽ được thăng quan, ít nhất cũng là một tham tướng". Nhưng trong lòng thì thầm mắng:
"Ngươi thấy ta đã đường cùng mà còn muốn bán đứng ta. Nếu ta thoát được sẽ từ từ tính sổ với ngươi".
Bởi vì chỉ có một mình An Đình Tuấn biết Soái Mạnh Hùng đã cải trang bỏ chạy, nên Soái Mạnh Hùng tuy không thấy rõ An Đình Tuấn chỉ đường cho Sử Hồng Anh nhưng cũng biết chắc chắn là An Đình Tuấn bán đứng mình.
Soái Mạnh Hùng không hứa phong quan cho y thì thôi, một khi đã hứa phong quan thì lại khiến cho An Đình Tuấn thầm lo. Y nghĩ bụng:
"Mình đã chỉ đường cho Sử Hồng Anh, dẫu rằng y không biết nhưng hôm nay mình bỏ mặc y, lẽ nào y không nhớ hận trong lòng? Lúc này y đã nhờ mình cho nên chuyện gì cũng hứa. Sau này thì ai đảm bảo y sẽ không trở mặt! Bọn Văn Đạo Trang, Sử Bạch Đô thân thiết với y như thế mà y vẫn muốn dùng loạn tiễn bắn chết, huống chi là mình?" An Đình Tuấn vì đã hiểu quá rõ tính cách của Soái Mạnh Hùng, nên không khỏi lạnh mình.
Sử Hồng Anh thấy An Đình Tuấn vẫn còn ngần ngừ, đã đoán được lòng dạ của cả hai người, nàng nảy ra một kế, cười rằng:
"An tổng quản, xin đa tạ ông, ông đã không gạt ta!".
An Đình Tuấn thất kinh, vội vàng nói:
"Sử cô nương, cô đừng nói càn!" Sử Hồng Anh nói:
"Soái Mạnh Hùng đã là con cọp sắp chết, ông còn sợ y sao? Được, nếu thế ông đứng sang một bên cũng không sao. Tôi sẽ báo công chỉ đường của ông cho nghĩa quân. Nhưng nếu ông giúp tôi đánh chết con cọp này, công lao họ chẳng phải lớn hơn hay sao?" Soái Mạnh Hùng trầm giọng:
"Y sẽ không nghe lời nha đầu nhà ngươi, An tổng quản, ông đừng lo, hãy mau tới giết chết con nha đầu này!" Tuy y nói thế nhưng An Đình Tuấn đã biết Soái Mạnh Hùng nghi ngờ mình, nếu không đã không nói với giọng van nài như thế.
Ngay lúc này, chợt nghe tiếng của Kim Trục Lưu vọng tới:
"Hồng Anh, đừng lo.
Huynh đến đây!" Soái Mạnh Hùng cũng kêu lớn:
"Đình Tuấn, đừng sợ, tên tiểu tử này còn cách đây mấy dặm, chúng ta hợp lực giết chết con nha đầu này, rồi sau đó cướp Chiếu dạ sư tử mã của ả!".
Soái Mạnh Hùng tuy đã bị thương nặng nhưng y phán đoán không sai tý nào. Té ra Kim Trục Lưu vẫn chưa phát hiện Sử Hồng Anh, chàng dùng công phu Truyền âm nhập mật cho nên tiếng có thể vang di đến mấy dặm.
Nhưng An Đình Tuấn lại sợ Kim Trục Lưu nhiều hơn, y không thể không lo. Vả lại y vốn đến đây để thấy gió bẻ đà, nay thấy hướng gió không thuận theo mình, y làm sao dám bán mạng cho Soái Mạnh Hùng?
Soái Mạnh Hùng nhắc đến con Chiếu dạ sư tử mã khiến y tỉnh táo hơn. An Đình Tuấn đã quyết tâm, nghĩ bụng:
"Đúng thế, có con ngựa này mình cần gì phải phụ với y? Mình chạy một mình chẳng phải tốt hơn hay sao? Vả lại khỏi phải chăm sóc cho y!" Nghĩ tới liền chạy về phía con Chiếu dạ sư tử mã, tung người vọt lên lưng ngựa.
Con ngựa lồng lên nhưng An Đình Tuấn vẫn chưa bị thương, cho nên có thể khống chế được con ngựa, y nắm lấy bờm ngựa, trở tay vỗ vào mông, con Chiếu dạ sư tử mã chạy vào trong rừng.
Từ xa An Đình Tuấn còn nói vọng lại:
"Soái tướng quân, ông có võ công trùm đời, chả lẽ không đối phó nổi một ả nha đầu hay sao? Dẫu có thêm tên tiểu tử Kim Trục Lưu cũng chẳng đáng gì! Bỉ chức không dám tranh công với tướng quân, xin thứ không thể chiều thêm".
Chỉ nghe giọng nói của Kim Trục Lưu lúc phía đông lúc phía tây, nhưng người vẫn chưa xuất hiện. Sử Hồng Anh hít một hơi rồi kêu lên:
"Trục Lưu, muội đang ở đây, đến đây!" Nàng nói chưa dứt lời thì đã nghe Kim Trục Lưu kêu lên:
"Đây rồi!".
thật ra chàng đã nghe thấy tiếng trả lời của Sử Hồng Anh, nhưng trong lúc gấp gáp làm sao tới kịp! Khi Kim Trục Lưu nói một tiếng "Đây rồi!" Soái Mạnh Hùng cũng cười lạnh:
"Không kịp nữa rồi!".
Vì Sử Hồng Anh muốn Kim Trục Lưu nghe được tiếng của mình cho nên nàng phải dốc ra hết khí lực. Điều đó tạo cơ hội cho Soái Mạnh Hùng, chỉ nghe y gầm lớn rồi phóng vọt người lên, tay trái điểm chỉ vào đôi mắt Sử Hồng Anh, tay phải chém vào cổ tay của nàng. Sử Hồng Anh chợt cảm thấy hổ khẩu tê rần, tuy nàng đã chém thanh đoản kiếm ra nhưng cũng chẳng làm gì được Soái Mạnh Hùng. Thanh đoản kiếm liền rơi xuống đất.
Sử Hồng Anh xoay người bỏ chạy. Soái Mạnh Hùng quát lên:
"Chạy đi đâu?".
Rồi y hất mũi chân, thanh đoản kiếm bay lên, tay vươn ra chụp thanh đoản kiếm ném về phía Sử Hồng Anh.
Sử Hồng Anh hụp người, thanh kiếm lướt qua tóc nàng. Sử Hồng Anh không dám kêu lên nữa, nàng chỉ chạy về hướng Kim Trục Lưu phát ra tiếng. Khinh công của nàng vốn cao hơn Soái Mạnh Hùng nhưng đáng tiếc lúc này sức nàng đã đuối, Soái Mạnh Hùng lại dốc hết sức ra thề cùng chết với nàng. Sử Hồng Anh không dám quay đầu, nhưng vẫn nghe tiếng bước chân càng lúc càng gần hơn.
Chợt thấy ở bìa rừng có một bóng người hiện ra, té ra đó là Kim Trục Lưu, Sử Hồng Anh cả mừng kêu lên:
"Trục Lưu, đến đây mau?" Không ngờ lúc này hai người vẫn còn cách nhau đến mười mấy trượng, Sử Hồng Anh rướn sức nhảy bổ về phía trước nhưng mũi chân vấp phải hòn đá loạng choạng ngã phịch xuống đất.
Soái Mạnh Hùng cười ha hả:
"Xem thử ngươi có thoát ra khỏi lòng bàn tay của ta hay không!" Rồi y phóng tới trước, năm ngón mở ra chụp xuống đầu Sử Hồng Anh.
Sử Hồng Anh lộn một vòng, Soái Mạnh Hùng chụp hụt, y nhặt một hòn đá lên, cười hềnh hệch:
"Ả nha đầu thối nhà ngươi phải chết trước ta!" Rồi dồn lực ném ra.
Sử Hồng Anh chưa kịp ngồi dậy thì hòn đá đã rơi xuống. Sử Hồng Anh nghe tiếng gió lạnh mình nhủ thầm:
"May mà Trục Lưu đã đến đây, chàng sẽ báo thù cho mình!".
Sử Hồng Anh nhắm mắt đợi hòn đá rơi xuống, không ngờ chỉ nghe bốp một tiếng mà chẳng thấy đá rơi xuống, tựa như có vật gì nổ ra, đá vụn rơi xuống như mưa trên đầu nàng. Sử Hồng Anh bật người dậy, chưa đứng vững đã được người ta ôm lấy. Sử Hồng Anh cả kinh, chỉ nghe tiếng kêu thảm của Soái Mạnh Hùng vang lên, tiếp theo là giọng nói dịu dàng của Kim Trục Lưu:
"Hồng Anh, không sao rồi! Chỉ trách huynh không tốt, đã đến muộn khiến cho muội thất kinh!".
Lúc này Sử Hồng Anh mới biết mình đang trong lòng Kim Trực Lưu, khi mở mắt ra nhìn thấy Soái Mạnh Hùng nằm ngửa ở dưới đất, trên lưng còn cắm một thanh trường kiếm, chuôi kiếm vẫn còn rung lên bần bật.
Té ra khi Soái Mạnh Hùng ném tảng đá, Kim Trục Lưu cũng ném thanh huyền thiết bảo kiếm ra, thanh bảo kiếm táng vỡ tảng đá, lực vẫn còn dư nên cắm thẳng vào hậu tâm của Soái Mạnh Hùng xuyên thẳng ra phía trước, ghim y xuống đất.
Hồi 39
U cốc hoa rơi chôn xác hiệp
Trời trong biếc xanh chứng lòng son
Sử Hồng Anh ngã người vào lòng Kim Trục Lưu, nàng chỉ cảm thấy êm ái lạ thường. Kim Trục Lưu thì thầm bên tai nàng:
"Hồng Anh, xin đa tạ bức thư của muội, lúc này huynh mới biết mình là tên ngu ngốc. Không cần đến kiếp sau, kiếp này chúng ta sẽ được bên nhau". Hồng Anh thì thầm:
"Muội còn lo Thược Dược không gặp được huynh, té ra hai người đã gặp nhau hôm ấy".
Kim Trục Lưu ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy Diệp Mộ Hoa cùng một toán nghĩa quân chạy về phía mình. Kim Trục Lưu rút thanh huyền thiết bảo kiếm lau máu rồi tra vào bao, bước lên cười nói:
"Mộ Hoa, ngươi đến thật đúng lúc, ta muốn tặng một món lễ vật cho nghĩa quân".
Diệp Mộ Hoa nhảy xuống ngựa, cúi người hành lễ nói:
"Té ra tên tặc tử Soái Mạnh Hùng đã bị sư thúc giết chết, chúc mừng sư thúc đã lập được công lớn. Đây có phải là Sử cô nương không?" Kim Trục Lưu đáp:
"Chính thế!" Rồi giới thiệu Sử Hồng Anh cho Diệp Mộ Hoa rồi nói:
"Y tuy là sư điệt của huynh, nhưng bản lĩnh trận chiến còn cao hơn huynh nhiều, chính y đã chỉ huy trận này". Diệp Mộ Hoa nói:
"Sư thúc đã quá khen, trận này toàn là do huynh đệ nghĩa quân dũng cảm chiến đấu, nhưng công lao của Sử cô nương cũng không nhỏ. Tôi vẫn chưa đáp tạ Sử cô nương".
Rồi mọi người quay trở lại Tây Xương, bọn Tần Nguyên Hạo, Phong Diệu Thường, Vũ Văn Hùng, Giang Hiểu Phù ra nghênh đón. Kim Trục Lưu không thấy vợ chồng Lý Đôn, đang định hỏi thì Tần Nguyên Hạo đã nói:
"Vợ chồng Lý Đôn cùng Trần Quang Chiếu, Thạch Hà Cô đã chia nhau xuất phát đi tìm Lệ Nam Tinh. Người của Lục Hợp bang biết Lệ Nam Tinh đều đi theo họ tìm kiếm. Kim huynh, huynh hãy yên tâm, chỉ cần Lệ đại ca còn sống, chúng tôi sẽ tìm ra y". Kim Trục Lưu hỏi:
"Còn Công Tôn cô nương đâu?" Thạch Hà Cô đáp:
"Công Tôn cô nương đã ra khỏi thành từ sớm. Cô ta đi tìm Lệ Nam Tinh".
Tần Nguyên Hạo vội nói:
"Tiệc mừng công đã bày xong, đang đợi các người trở về". Kim Trục Lưu biết nhiều người đi tìm Lệ Nam Tinh thì hơi yên tâm, vì thế bảo:
"Được, tôi đến gặp Trúc lão tiền bối trước đã".
Trúc Thượng Phụ bước ra nghênh đón, Kim Trục Lưu hành lễ xong, Trúc Thượng Phụ cười ha hả:
"Tôi và Giang sư huynh của thiếu hiệp là thông gia với nhau, chúng ta có vai vế bằng nhau, thiếu hiệp đừng khách sáo". Kim Trục Lưu nói:
"Không dám!" Trúc Thượng Phụ cười to:
"Người xưa nói anh hùng xuất thiếu hiệp, quả thật rất đúng. Kim thiếu hiệp, không cần đến mười năm, có lẽ thành tựu của thiếu hiệp còn hơn cả Giang đại hiệp?".
Tiệc mừng công bày trong phủ tướng quân, ai nấy lần lượt ngồi vào chỗ. Kim Trục Lưu, Sử Hồng Anh, Diệp Mộ Hoa ngồi cùng với Trúc Thượng Phụ.
Trúc Thượng Phụ mất Tây Xương cho đến nay đã được hai năm, nay mới quay lại chỗ cũ trong lòng rất vui mừng. Ông ta uống xong vài chén hứng chí nói:
"Năm xưa ta đã bị Soái Mạnh Hùng ám toán ở đây. Nay chúng ta lại ngồi đây uống rượu mừng công, Soái Mạnh Hùng đã đầu lìa khỏi cổ, tuy không phải đích thân ta giết, coi như thù cũng đã trả được! Nào, nào! Xin mời Kim thiếu hiệp ba chén, đa tạ thiếu hiệp đã lấy đầu Soái Mạnh Hùng cho tôi!".
Kim Trục Lưu đáp:
"Đây đều là công lao của mọi người, chúng ta hãy cùng uống ba chén!" Mọi người uống cạn ba chén, Trúc Thượng Phụ lại nói:
"Năm xưa vì tôi sơ suất cho nên mất Tây Xương, trong lòng rất hổ thẹn. Nay may nhờ có mọi người giúp tôi đoạt lại, Trúc mỗ quyết không để mất lần nữa! Nếu quân Thanh có đến, tôi thề chết giữ thành!" Nói xong ném ngay chén rượu xuống đất. Đột nhiên có một người vọt khỏi chỗ, tiếp lấy chén rượu, người ấy chính là Diệp Mộ Hoa.
Trúc Thượng Phụ ngạc nhiên:
"Diệp huynh, sao lại không cho Trúc mỗ phát thệ?".
Diệp Mộ Hoa mỉm cười:
"Trúc lão tiền bối thề chết giữ thành, tráng chí thật đáng mừng. Nhưng theo vãn bối thấy chi bằng bỏ Tây Xương có lẽ tốt hơn".
Nếu người khác nói ra lời này Trúc Thượng Phụ chắc chắn sẽ nổi giận bừng bừng, nhưng Diệp Mộ Hoa là người chỉ huy thật sự trong chiến trường, Trúc Thượng Phụ biết y tinh thông binh pháp, tính toán chu toàn, nghe y nói như thế trong bụng tuy không hài lòng nhưng cũng hỏi:
"Diệp huynh, tôi thật không hiểu. Nếu phải bỏ Tây Xương thì hôm nay cần gì phải lấy lại. Trúc mỗ đang muốn mong nghe cao kiến!".
Diệp Mộ Hoa đáp:
"Lời của vãn bối chẳng có gì cao minh cả, chỉ là nói theo binh pháp mà thôi. Nay chúng ta tuy đoạt được Tây Xương nhưng binh lực của quân Thanh nhiều hơn chúng ta. Nếu bọn chúng tập trung binh lực đánh Tây Xương mà chúng ta cứ cố thủ chắc sẽ thất bại nặng nề".
Trúc Thượng Phụ không vui, hỏi:
"Diệp huynh tuy nói đúng nhưng nếu sợ địch lớn mạnh chúng ta đâu có phải là anh hùng hảo hán gì, hơn nữa dù ta yếu địch mạnh, nhưng ta có quyết tâm bọn chúng chưa chắc hơn được chúng ta".
Diệp Mộ Hoa nói:
"Không phải là chúng ta sợ kẻ địch, song đánh trận cũng như buôn bán, phải xem thử có lời hay không có lời. Binh lực của địch lớn hơn chúng ta nhiều, dù một người chúng ta giết được vài tên cũng chẳng có lợi. Theo ý của vãn bối, muốn đánh thắng trận, tốt nhất phải chọn địa điểm, thời gian có lợi cho chúng ta, chắc thắng mới đánh, nếu không chắc đừng đánh. Đánh đuổi Thát Đát, khôi phục Trung Hoa là việc lớn, cần phải suy nghĩ cho toàn cuộc chứ không nên vì sự được mất của một thành hay một trì. Trong tình hình địch mạnh ta yếu, điều quan trọng là phải tiêu diệt sức của địch, dần dần biến thế yếu của chúng ta thành thế mạnh, đó mới chính là thượng sách".
Trúc Thượng Phụ vỡ lẽ ra, gật đầu:
"Được, Diệp huynh hãy nói tiếp".
Diệp Mộ Hoa nói:
"Lần này chúng ta đột kích thành công là vì điều kiện mọi phương diện đều có lợi. Một là Soái Mạnh Hùng ỷ binh nhiều lương đủ, tưởng rằng chúng ta không dám tấn công mạnh, vả lại đang có chuyện vui nên lơi lỏng phòng bị.
Hai là chúng ta có nội ứng, Sử cô nương đả thương Soái Mạnh Hùng, quan quân như rồng không đầu, cho nên chúng ta tấn công càng dễ dàng hơn đã tính toán. Ba là Lý đại ca chiêu hàng được huynh đệ Lục Hợp bang, coi như đã cắt một cánh tay của Soái Mạnh Hùng, do đó chúng ta mới dễ dàng hạ được phủ tướng quân. Trận này chúng ta không tổn thương nhiều, nhưng đã phá được kẻ địch, coi như cuộc làm ăn này vốn ít mà lời nhiều. Nhưng chúng ta cũng không thể đánh thêm một trận như thế này nữa.
Nếu chúng ta tử thủ Tây Xương, lúc đó kẻ địch sẽ chủ động, còn chúng ta bị động.
Đánh như thế sẽ không có lợi cho chúng ta. Cho nên theo ý tôi là chi bằng ra ngoài chọn lựa địa điểm có lợi. Bên ngoài rộng rãi, đa số bá tánh đều giúp chúng ta, chúng ta ở giữa bá tánh như cá gặp nước! Vả lại chúng ta có thể đánh được thì đánh, đánh không được thì chạy. Đánh như thế chẳng phải sẽ có lợi lớn cho chúng ta hay sao?".
Trúc Thượng Phụ nghe thế khâm phục đến sát đất, cười ha hả:
"Đúng là nghe một lời của người còn hơn mười năm đọc sách. Như thế chi bằng chúng ta trở về núi Đại Lương?" Diệp Mộ Hoa nói:
"Ý của vãn bối chính là như thế. Nhưng cũng không cần nôn nóng, quan binh vừa mới bại trận, trong thời gian ngắn chưa thể tập trung binh lực, chúng ta cứ đóng ở Tây Xương mười ngày nửa tháng để phủ dụ trăm họ. Nếu có ai muốn theo chúng ta đến núi Đại Lương, họ cũng có thời gian chuẩn bị".
Trúc Thượng Phụ gật đầu:
"Đúng thế, đây quả là cách vẹn cả đôi đường".
Kế hoạch đã định, mọi người đều vui vẻ chúc rượu lẫn nhau. Kim Trục Lưu và Sử Hồng Anh vẫn nhớ đến Lệ Nam Tinh cho nên không được vui lắm.
Mấy ngày sau, từng tốp người tìm Lệ Nam Tinh đều đã trở về nhưng không ai biết tung tích của chàng.
Đến ngày thứ sáu thì vợ chồng Lý Đôn cùng Trần Quang Chiếu, Thạch Hà Cô cũng quay về. Họ cũng chẳng tìm được Lý Nam Tinh, nhưng còn có một người không quay về, đó chính là Công Tôn Yến.
Cho đến nay cũng không ai biết nàng đi về đâu, tìm không ra Lệ Nam Tinh, Công Tôn Yến lại mất tích, Kim Trục Lưu càng lo lắng gấp bội. Vì thế chàng và Sử Hồng Anh quyết định đi tìm họ.
Lại nói ngày hôm ấy Công Tôn Yến ra khỏi thành, trên đường chỉ lo tìm kiếm Lệ Nam Tinh, bất giác đã rời khỏi đội ngũ nghĩa quân. Công Tôn Yến thầm tính:
"Lệ Nam Tinh đột nhiên biến mất, nếu chàng chưa chết thì chắc chắn đã bị người ta bắt sống. Người bắt sống chàng chắc chắn chẳng phải là kẻ tầm thường, nếu không phải là võ quan dưới trướng Soái Mạnh Hùng cũng là hảo thủ giang hồ được Soái Mạnh Hùng mời tới. Những người này biết thân phận của Lệ Nam Tinh cho nên bắt chàng để sau này lấy công chuộc tội".
Công Tôn Yến một mình một ngựa chạy hai ngày hai đêm nhưng chẳng thấy tung tích của Lệ Nam Tinh.
Đến ngày thứ tư, Công Tôn Yến đang đi đường bỗng gặp một người quen, người đó chính là Cung Bỉnh Phan, nàng vui mừng hỏi:
"Cung thúc thúc, sao người lại đến đây?".
Cung Bỉnh Phan cười đáp:
"Chính vì tiểu thư, đà chủ không yên tâm cho nên bảo tôi đi tìm tiểu thư. Nghe nói Tây Xương đã bị nghĩa quân tấn công, không biết là thật hay giả, tôi đang muốn đi đến Tây Xương đây!".
"Đương nhiên là thật. Kim Trục Lưu cũng ở đấy".
"Tại sao tiểu thư không ở Tây Xương mà lại chạy ra đây một mình?".
"Tôi tìm một người bằng hữu đã bị thương, tôi nghi ngờ y đã bị bắt. Cung thúc thúc, người có phát hiện có một thiếu niên bị người ta áp giải hay không?".
Cung Bỉnh Phan lắc đầu:
"Không thấy. Nhưng không biết tiểu thư nói ai thế?".
"Chính là Lệ Nam Tinh".
"Ồ, té ra là y, võ công của Lệ Nam Tinh cũng rất cao, ai đã bắt y?".
"Tôi chỉ biết y bị Sử Bạch Đô đả thương, chứ không biết ai bắt y". Nói tới đây Công Tôn Yến rất thất vọng, nàng hỏi:
"Vậy trên đường thúc thúc có gặp ai khả nghi hay không?".
Cung Bỉnh Phan nghĩ ngợi rồi cười:
"Người như thế nào mới là khả nghi, ta cũng không biết. Nhưng nghe tiểu thư nói thì ta đã nhớ lại. Ta gặp một cặp thầy trò rất ít lộ mặt trên giang hồ, có thể nói kẻ này cũng có chút khả nghi".
Công Tôn Yến vội vàng hỏi:
"Cặp thầy trò đó là ai?".
Cung Bỉnh Phan nói:
"Chính là Dương Hạo và Cung Bình Dã".
"Vậy thúc thúc gặp họ khi nào, ở đâu, tại sao cảm thấy họ đáng ngờ?".
Cung Bỉnh Phan đáp:
"Ở phía trước có một trấn nhỏ tên gọi Hắc Thạch Nham, tôi đã gặp bọn họ trong một khách sạn nhỏ. Tôi và Dương Hạo không qua lại với nhau, nhưng cũng gặp mặt vài lần. Khi tôi bước vào khách sạn y đang nói chuyện với chưởng quỹ ở ngoài. Theo lý y phải chào hỏi tôi, nhưng không biết cớ gì y giả vờ không thấy tôi, mà vội vàng lẩn vào phòng. Tôi nghe Cung Bình Dã hỏi bên ngoài có ai bị Dương Hạo suỵt một tiếng rồi lại nói rất nhỏ. Tôi không để ý, nghĩ bụng kẻ này chỉ kiêu ngạo, không thèm nhìn tôi, tôi cần gì phải để ý đến y cho nên cũng không theo dõi họ đang nói gì".
Công Tôn Yến cả mừng:
"Chắc chắn là bọn chúng. Đáng tiếc, đáng tiếc, chắc là Lệ Nam Tinh bị bọn chúng điểm huyệt đạo giấu trong phòng".
"Hình như Dương Hạo rất ít qua lại với quan phủ, sao lần này y lại xuất hiện ở phủ tướng quân?".
"Thầy trò bọn chúng là thượng khách của Soái Mạnh Hùng, khi trận chiến nổ ra cả hai thầy trò biến mất".
Cung Bỉnh Phan chợt hiểu ra:
"Chả trách nào Dương Hạo không dám gặp ta, có lẽ sợ ta tra hỏi".
"Bây giờ chúng ta đuổi theo, chắc vẫn còn kịp".
"Ta đang nóng lòng đến Tây Xương tìm tiểu thư, sáng hôm nay tôi là người đầu tiên rời khỏi khách sạn, lúc đó thầy trò Dương Hạo vẫn chưa thức dậy. Phía trước Hắc Thạch Nham có hai con đường, một đường đi về Lan Châu, một đường đi về Hoàng Trung, nhưng không biết thầy trò của họ đã đi về hướng nào".
"Được, chúng ta chia nhau tìm!".
"Khoan đã!".
"Cung thúc thục có gì căn dặn?".
"Dương Hạo đã luyện Tu la âm sát công, chúng ta không thể coi thường. Chúng ta chia nhau ra tìm, nếu tiểu thư phát hiện được y đừng vội động thủ. Ở đây có một cây xà diệp tiễn, khi phát hiện tung tích của bọn chúng thì tiểu thư hãy lập tức phóng tên làm ám hiệu, phía tôi cũng thế".
Công Tôn Yến gật đầu:
"Được!" Rồi nàng cầm lấy cây xà diệp tiễn, cả hai chia tay nhau, một người đi về hướng đông, một người đi về hướng tây. Thớt ngựa của Công Tôn Yến đã hơi đuối sức. Nàng phóng ngựa chạy hơn một canh giờ ngựa dần dần chạy chậm lại, phía trước lại là đường núi rất khó đi.
Công Tôn Yến lo lắng, thầm nhủ:
"Đáng tiếc quan quân đang ở phía sau, mình không cướp được ngựa, chỉ e nếu không đổi ngựa thì không lên đường được".
Nghĩ chưa dứt chợt nghe tiếng tiêu vọng tới như ai như oán, như khóc như than.
Công Tôn Yến cả mừng, bất giác quên cả lời dặn của Cung Bỉnh Phan, lạc giọng kêu lên:
"Lệ đại ca, Lệ đại ca!" Cũng chẳng biết người thổi tiêu phía trước có phải là Lệ Nam Tinh hay không, nhưng nàng kêu hai tiếng Lệ đại ca tiếng tiêu ngừng bặt.
Công Tôn Yến giật mình, thầm nhủ:
"Không xong, mình kêu như thế chắc Dương Hạo biết mình đuổi tới chỉ e bất lợi đối với Lệ đại ca!" Nhưng dù sao cũng đã sai, nàng chỉ đành lập tức bắn cây xà diệp tiễn lên rồi thúc ngựa đuổi theo.
Vòng qua chân núi, quả nhiên thấy có ba người ngồi trên tảng đá, ba người này chính là Dương Hạo, Cung Bình Dã và Lệ Nam Tinh.
Dương Hạo vốn đã điểm huyệt đạo của chàng, những nơi này cách Tây Xương đã xa, đường núi lại gập ghềnh khó đi, thầy trò Dương Hạo không muốn cõng Lệ Nam Tinh nên Dương Hạo đã giải huyệt đạo của chàng để chàng tự đi. Y đoán rằng Lệ Nam Tinh đã bị thương, có giải huyệt đạo chàng cũng chẳng làm gì được. Dương Hạo bắt Lệ Nam Tinh không phải dâng cho triều đình mà là muốn lợi dụng chàng lập lại Thiên ma giáo.
Lệ Nam Tinh muốn sống không được muốn chết không xong, trong lòng đầy u uất, nên thổi tiêu giải cơn sầu, không ngờ Công Tôn Yến đã tìm tới nơi, Lệ Nam Tinh nhìn thấy nàng vội vàng kêu lên:
"Yến muội, muội hãy quay về!".
Dương Hạo quát:
"Câm họng!" Cung Bình Dã rút soạt thanh trủy thủ kề vào cổ Lệ Nam Tinh, quát:
"Sư phụ bảo ngươi im miệng quạ lại, ngươi có nghe không?".
Thật ra Lệ Nam Tinh đã không còn sức chống cự, Cung Bình Dã cũng không cần làm như thế mà chỉ cần điểm á huyệt của chàng. Y làm thế là chỉ để dọa Công Tôn Yến.
Công Tôn Yến vừa lo vừa giận, kêu lên:
"Ngươi dám động một cọng lông của chàng, ta bảo cha sẽ giết toàn bộ các ngươi!".
Dương Hạo cười ha hả:
"Cha ngươi thì thế nào, ngươi đừng lấy tên cha của ngươi ra dọa bọn ta!" Công Tôn Yến nghe thế hơi sợ hãi, miệng tuy còn cứng nhưng khí đã nhụt, nàng hỏi:
"Chúng ta có thể thương lượng không?".
Dương Hạo nói:
"Nói thực cho ngươi biết, bọn ta chẳng có ác ý với Lệ công tử.
Không những thế bọn ta còn muốn đưa y lên làm giáo chủ của Thiên ma giáo! Nhưng y lại không chịu cho nên bọn ta chỉ đành đối xử như thế này. Công Tôn cô nương, nếu cô nương giúp bọn ta khuyên y làm giáo chủ, còn cô nương thì làm giáo chủ phu nhân, họ chẳng tốt hay sao?".
Lệ Nam Tinh kêu lên:
"Yến muội, đừng nghe lời bọn chúng, hãy nghe lời huynh, mau trở về?".
Cung Bình Dã tát hai cái vào mặt Lệ Nam Tinh, quát:
"Câm miệng, ta nói là làm!" Thế rồi y vạch một đường trên cổ của Lệ Nam Tinh một vệt máu chảy ra nhưng Lệ Nam Tinh vẫn mỉm cười khinh miệt.
Dương Hạo quát:
"Bình Dã, dừng tay lại?" Công Tôn Yến tức giận đến nỗi toàn thân phát run, nàng kêu lên:
"Ngươi ... các ngươi dám bức hiếp chàng!" Dương Hạo nói:
"Tên học trò của ta rất thô lỗ, ngươi đừng giận. Công Tôn cô nương, thế này nhé, ta cho cô nương đi theo bọn ta, cô nương không khuyên y cũng được, nhưng có thể chăm sóc cho y". Công Tôn Yến hơi chần chừ rồi đột nhiên nói:
"Được?" Rồi nàng vung roi, quả nhiên thúc ngựa chạy lên. Té ra Công Tôn Yến vẫn chưa biết sự lợi hại của Dương Hạo, nàng muốn bất ngờ bắt sống Dương Hạo buộc y trả Lệ Nam Tinh.
Nào ngờ Dương Hạo cũng tính bắt nàng để uy hiếp Công Tôn Hoằng. Lệ Nam Tinh đột nhiên tung người từ trên sườn núi nhảy xuống, người đang ở trên không miệng đã la lên:
"Yến muội hãy trở về!" Lệ Nam Tinh nghĩ rằng nếu mình chết thì Công Tôn Yến dù đau lòng cũng phải quay về.
Lệ Nam Tinh đang bị thương, không muốn chịu nhục, vả lại chàng biết Công Tôn Yến không bằng thầy trò Dương Hạo cho nên quyết ý chết cho xong. Cung Bình Dã không ngờ chàng lại làm thế, đến khi nghe chàng kêu lên, muốn vươn tay ra chụp lại cũng đã không kịp nữa.
Trong khoảnh khắc này, cả Công Tôn Yến và Dương Hạo đều sững người ra!
Khi Công Tôn Yến sững người, nàng cảm thấy trước mắt như trời xoay đất chuyển, đầu óc trống rỗng, tựa như cả bản thân mình cũng biến mất. Nàng kêu lên:
"Lệ đại ca!" Rồi cứ xông lên phía trước theo bản năng!
Khi Dương Hạo ngẩn người ra lại động sát cơ, y cần phải giết chết Công Tôn Yến diệt khẩu để sau này Công Tôn Yến không để lộ ra chuyện y bức tử Lệ Nam Tinh.
Hai người đều đang xông về phía đối phương, Dương Hạo dồn lực vào chưởng tâm, phát ra một đòn Tu la âm sát công!
Công Tôn Yến ngồi trên ngựa bị chấn động bởi đòn Phách không chưởng, người bị đánh bay lên. Cũng nhờ thế mà nàng không bị trúng chưởng nhưng con ngựa của nàng đã gục xuống.
Một luồng khí cực kỳ lạnh lẽo dồn tới khiến cho Công Tôn Yến hơi tỉnh táo hơn, nàng lộn người trên không trung rồi đánh ra một chiêu ưng kích trường không, người đảo xuống đâm kiếm về phía Dương Hạo.
Dùng Tu la âm sát công rất hao phí chân lực, Dương Hạo không kịp ngưng tụ chân lực để phát tiếp ra một đòn nữa, y chỉ thấy ánh hàn quang lóe lên, mũi kiếm đã đâm tới đỉnh đầu y.
Dương Hạo kinh hoảng, vội vàng phất ống tay áo lên, búng ngón tay ra. Chỉ nghe một tiếng keng nhẹ vang lên, ống tay áo của Dương Hạo đã bị chém một mảnh, đầu ngón tay cũng bị mũi kiếm vạch rách nhưng y vẫn có thể né được kiếm ấy của nàng.
Dương Hạo xoay người tung ra toàn chiêu sát thủ, Công Tôn Yến tuy né tránh được nhưng hổ khẩu đã bị móng tay của y quét trúng đau nhói lên. Dương Hạo cười hềnh hệch:
"Ngươi đã chẳng trả thù được nữa, chi bằng cứ để ta giúp cho bọn ngươi, để ngươi và Lệ Nam Tinh làm một cặp uyên ương đồng mệnh!".
Công Tôn Yến chợt nghĩ bụng:
"Đúng thế, mình phải xem Lệ đại ca thế nào".
Rồi nàng quát:
"Tránh ra". Sau đó đánh liên tiếp ba chiêu liên hoàn, mỗi chiêu đều như muốn liều mình với đối phương, Dương Hạo cũng hơi thất kinh, vội vàng tránh sang một bên.
Công Tôn Yến đâm soạt sang một bên, Cung Bình Dã cả kinh, chỉ tưởng nàng chạy tới lấy mạng mình, trong lúc gấp gáp không kịp vận khí hành công, đành liều chống đỡ. Nhưng chợt thấy ánh kiếm lóe lên, mũi kiếm của Công Tôn Yến đã đâm soạt vào mặt y. Cung Bình Dã dùng chưởng phải đẩy lên cổ tay nàng, chưởng trái móc lại, đó chính là thủ pháp tay không đoạt binh khí, nào ngờ đường kiếm của Công Tôn Yến rất nhanh, Cung Bình Dã chưa kịp đắc thủ vai đã trúng một kiếm. Công Tôn Yến phất chưởng trái, quát lên một tiếng:
"Tránh ra!" Lập tức trên mặt Cung Bình Dã xuất hiện năm dấu ngón tay, còn người thì té ngửa xuống đất. Cung Bình Dã lạnh mình thầm kêu:
"Mạng ta đã xong?" Không ngờ Công Tôn Yến không thèm để ý đến y, sau khi y ngã xuống đất nàng tung người vọt qua người y chạy lên phía trên.
Công Tôn Yến cúi người xuống nhìn, chỉ thấy bên dưới mây mù chặn lối, thoang thoảng hương hoa chứ không thấy Lệ Nam Tinh đâu. Tuy không nhìn thấy gì nhưng trong đầu Công Tôn Yến lại hiện ra một bức tranh, tựa như bên dưới là chốn đào nguyên ngoài đời, Lệ Nam Tinh đang mỉm cười, giơ tay ôm lấy nàng.
Công Tôn Yến kêu lên:
"Lệ đại ca, chờ muội!" Ngay lúc này chỉ nghe Cung Bỉnh Phan kêu lớn:
"Tiểu thư! Đừng!" Nhưng đã muộn, Công Tôn Yến đã nhảy xuống vực.
Cung Bỉnh Phan vừa thấy cây xà diệp tiễn bắn lên thì lập tức phóng ngựa đuổi tới, không ngờ đã muộn một bước, y tận mắt chứng kiến Công Tôn Yến nhảy xuống vực tự sát, không thể cứu được nàng, bất đồ trong lòng cả giận, y phóng vút ra khỏi lưng ngựa, nửa chừng rút kiếm ra khỏi vỏ đâm như điện xẹt về phía Dương Hạo.
Dương Hạo kêu lên:
"Cung hương chủ, ông đã tận mắt chứng kiến Công Tôn cô nương đã tự nhảy xuống vực, không liên quan gì đến tôi!".
Cung Bỉnh Phan quát rằng:
"Khốn kiếp, không phải tại ngươi, tiểu thư sao lại tìm đến cái chết?" Nói chưa xong thì đã đánh ra ba mươi sáu kiếm! Trước lượt tấn công nhanh như gió của Cung Bỉnh Phan, Dương Hạo không thể nào vận công đành thấy chiêu phá chiêu, thấy thức phá thức, tạm thời giữ được tính mạng.
Dương Hạo không thi triển được tuyệt kỹ Tu la âm sát công, cảm thấy lòng run sợ, da đầu cứ mát rười rượi, tựa như mũi kiếm của đối phương cứ vạch qua vạch lại trước mặt y, có thể lấy mạng y bất cứ lúc nào. Dương Hạo sợ đến nỗi hồn bay phách tán, vội vàng hô lên:
"Bình Dã, mau dùng Tu la âm sát công!".
Cung Bình Dã cũng đã hoảng hồn, nhưng y biết nếu sư phụ chết dưới kiếm Cung Bỉnh Phan, y cũng chẳng thoát. Miễn cưỡng thâu nhiếp tinh thần, ngưng tụ nội lực đứng sang một bên chờ đợi cơ hội đánh lén.
Cung Bỉnh Phan càng đánh càng nhanh, y chợt quát một tiếng:
"Trúng!" Rồi trở tay đâm lại một kiếm, Dương Hạo hụp người xuống, chỉ cảm thấy da đầu mát rượi, một mảng tóc đã bị lưỡi kiếm chém rơi!
Cung Bỉnh Phan không giết được Dương Hạo, thầm kêu trong bụng:
"Đáng tiếc!" Đang định thi triển sát thủ chợt thấy một luồng gió lạnh thổi tới, té ra Cung Bình Dã nấp sau một gốc cây đã lén đánh ra một đòn Tu la âm sát công.
Cung Bình Dã chỉ mới luyện được đến tầng thứ năm, chưa đủ giết Cung Bỉnh Phan. Nhưng Cung Bỉnh Phan cũng không khỏi hơi run run, kiếm chiêu chậm lại thành ra Dương Hạo mới qua cơn nguy cấp.
Cung Bỉnh Phan vận khí chuyển ba vòng đẩy hết khí hàn độc trong người, vừa định triển khai thế công Cung Bình Dã đã kịp ngưng tụ được chân khí, lại phát ra một đòn Tu la âm sát công.
Cung Bỉnh Phan nổi cơn giận, quát lên:
"Hảo tiểu tử, ta đánh chết ngươi trước!".
Nói đến chữ "chết" lập tức xoay người chuyển bước, nhảy bổ tới nơi Cung Bình Dã nấp. Cung Bình Dã hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán, muốn chạy cũng không kịp nữa. Chỉ nghe một tiếng kêu thảm vang lên, khi kiếm quang cuộn tới y đã bị chặt thành hai đoạn.
Cung Bỉnh Phan tuy dễ dàng giết chết Cung Bình Đã nhưng đã tạo cơ hội cho Dương Hạo sử dụng Tu la âm sát công.
Cung Bỉnh Phan vừa xoay người chợt cảm thấy gió lạnh quét vào mặt, một luồng chưởng lực như dời núi lấp biển dồn tới.
Cung Bỉnh Phan quát lớn:
"Ta liều với ngươi!" Trong chưởng phong kiếm ảnh Dương Hạo kêu lớn một tiếng, nhảy vọt ra sau mấy trượng, trên người đã trúng ba nhát kiếm!".
Cung Bỉnh Phan đang định vận kiếm đâm tiếp, cổ tay chợt tê rần hầu như không nắm nổi kiếm nữa. Té ra ông ta đã bị trúng một đòn Tu la âm sát công, máu trong người như ngưng tụ, các khớp cũng cứng đờ.
Dương Hạo dựa vào tảng đá thở hổn hển:
"Ngươi đến đây?" Y không biết Cung Bỉnh Phan bị thương như thế nào, không dám mạo hiểm tấn công, nhưng cũng nghĩ rằng Cung Bỉnh Phan bị thương không nhẹ, điểm mấu chốt lúc này là ai có thể cầm cự được lâu hơn cho nên y quyết định lấy khỏe đợi mệt.
May mà Dương Hạo không dám mạo hiểm tấn công, Cung Bỉnh Phan phát giác không xong, lòng thầm nhủ:
"Xem ra hôm nay không thể trả thù, mình phải giữ lại mạng để về bẩm cáo với đà chủ". Rồi ông ta ngã lăn xuống dốc núi, con chiến mã thấy chủ nhân lăn xuống lập tức chạy lên đón lấy. Cung Bỉnh Phan cố gắng vận khí ngồi dậy nhảy lên lưng ngựa.
Dương Hạo lúc này mới biết Cung Bỉnh Phan bị thương nặng hơn mình, thầm hối hận lúc nãy đã nhát gan nên để ông ta chạy trốn. Nhưng y lập tức nghĩ:
"Y đã trúng Tu la âm sát công của mình, không thuốc nào chữa được, rốt cuộc cũng phát độc mà chết".
Dương Hạo đã bị thương cũng không nhẹ, may mà không phải nội thương, sau khi bôi thuốc kim sang vẫn có thể đi lại được. Y sợ nghĩa quân tìm tới cho nên chỉ chạy cho xa chứ không dám quay đầu lại đuổi theo Cung Bỉnh Phan.
Quả đúng như Dương Hạo dự liệu, Cung Bỉnh Phan chạy được một đoạn cảm thấy toàn thân lạnh buốt, càng lúc càng khó chịu, cuối cùng không cầm cự được rơi xuống lưng ngựa ngất đi.
Lại nói Sử Hồng Anh và Kim Trục Lưu cùng đi tìm Lệ Nam Tinh, hôm nay cũng đang đi trên con đường này, chợt thấy có một nông phu đi về phía họ, nhìn họ rồi hỏi:
"Các người có phải từ Tây Xương đến hay không?" Kim Trục Lưu đáp:
"Đúng thế".
Nông phu này nói:
"Nghĩa quân có còn ở Tây Xương không?" Kim Trục Lưu đáp:
"Ông tìm nghĩa quân làm gì?" Nông phu ấy nói:
"Không phải tôi tìm nghĩa quân mà Trương đại bá trong thôn của tôi nhờ tôi nhắn cho một người trong nghĩa quân".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Chúng tôi chính là nghĩa quân, không biết Trương đại bá tìm ai?" Nông phu ấy vui mừng:
"Té ra tôi đã đoán trúng. Trương đại bá nhờ tôi nhắn cho một người tên Kim Trục Lưu, không biết huynh đài có quen không?" Kim Trục Lưu ngạc nhiên:
"Kim Trục Lưu chính là bằng hữu của tôi, ông có chuyện gì thì cứ nói với tôi rồi tôi sẽ chuyển lời lại." Trong bụng chàng thầm nhủ:
"Không biết Trương đại bá nào lại quen mình?".
Nông phu nói:
"Thật tốt còn gì bằng. Hôm qua Trương đại bá cứu một người, người này đã bị trọng thương không thể cử động. Y bảo có quen một người tên Kim Trục Lưu trong nghĩa quân, nhờ Trương đại bá chuyển lời cho Kim Trục Lưu, bảo Kim Trục Lưu đến gặp y. Trương đại bá có cháu nhỏ không đi được nên đã nhờ tôi".
Kim Trục Lưu vừa lo vừa mừng, chỉ nghĩ rằng người ấy chính là Lệ Nam Tinh, vội nói:
"Tôi sẽ đến ngay".
Thế rồi nông phu ấy dắt hai người Kim, Sử đến nhà Trương đại bá. Kim Trục Lưu bước vào nhìn chỉ thấy trên giường có một người đang nằm, nhưng đó lại là Cung Bỉnh Phan. Kim Trục Lưu cả kinh:
"Cung huynh, sao thế?" Nông phu họ Trương buồn bã nói:
"E rằng người bằng hữu này đã sắp không xong, sáng hôm nay vừa mới hôn mê, bây giờ chân tay lại cứng đờ!".
Kim Trục Lưu thử bắt mạch, thấy toàn thân y phát lạnh, nhưng mạch tức vẫn chưa dứt. Sử Hồng Anh hỏi nhỏ:
"Còn cứu được không?" Kim Trục Lưu đáp:
"Y đã bị trúng Tu la âm sát công, hàn độc đã xâm nhập vào phủ tạng, chỉ e không thể hồi phục lại võ công".
Sử Hồng Anh vui mừng:
"Nói thế có thể giữ được mạng của ông ta, huynh hãy mau cứu ông ta?".
Kim Trục Lưu thầm vận huyền công, đồn chân lực của bản thân thôi cung quá huyệt cho Cung Bỉnh Phan.
Nửa canh giờ sau, đỉnh đầu Kim Trục Lưu bốc khói trắng nghi ngút, mồ hôi đổ ròng ròng. Sắc mặt Cung Bỉnh Phan dần dần hồng trở lại cuối cùng từ từ mở mắt. Ông già nông phu họ Trương mừng rỡ kêu lên:
"Sống rồi! sống rồi!".
Cung Bỉnh Phan nhận ra Kim Trục Lưu, miệng nở nụ cười, khóe môi mấp máy, Kim Trục Lưu kề tai vào miệng ông ta, nghe ông ta nói:
"Thiếu hiệp đã đến, tôi có chuyện cần nhờ ...". Kim Trục Lưu nói:
"Cung huynh, huynh hãy nghỉ ngơi trước rồi nói". Nụ cười trên mặt Cung Bỉnh Phan biến mất, giọng ông ta buồn bã:
"Tôi không khỏe được nữa, trừ phi thiếu hiệp có thuốc cải tử hoàn sinh. Làm thế chỉ hao tổn công lực mà thôi. Thiếu hiệp hãy nghe tôi nói ...". Kim Trục Lưa cười:
"Tôi đang có thuốc cải tử hồi sinh, ông đừng lo, hãy cứ nghỉ ngơi trước".
Sử Hồng Anh kéo Kim Trục Lưu sang một bên, thì thầm hỏi:
"Huynh lấy thuốc ở đâu ra?" Khí hàn độc của Tu la âm sát công đã xâm nhập vào ngũ tạng, dù Kim Trục Lưu có nội công giỏi đến mức nào cũng không thể đẩy hết ra cho nên Sử Hồng Anh nửa tin nửa ngờ, tưởng rằng Kim Trục Lưu nói như thế là để an ủi người bệnh.
Kim Trục Lưu cười:
"Không sai tí nào. Linh dược này là vật của nhà muội. Muội quên rồi ư?" Sử Hồng Anh ngạc nhiên:
"Vật gì?" Kim Trục Lưu cười:
"Muội đã quên món lễ vật đại ca của muội tặng cho Tát Phúc Đỉnh ư?" Lúc này Sử Hồng Anh mới vỡ lẽ:
"Ồ té ra là cây thiên niên hà thủ ô!".
Kim Trục Lưu gật đầu:
"Huynh vốn định để cây hà thủ ô này cho muội, huynh vẫn đang mang theo bên mình. May mà muội không bị thương cho nên chúng ta có thể dùng nó cứu mạng Cung đại ca".
Kim Trục Lưu lấy cây hà thủ ô chặt ra rồi chưng thành trà cho Cung Bỉnh Phan uống. Một cây hà thủ ô có thể uống ba lần. Kim Trục Lưu bảo:
"Nếu không có gì thay đổi, ba ngày sau ông ta sẽ khỏe!".
Cung Bỉnh Phan uống xong chén thuốc, sáng ngày thứ hai tinh thần có phần sảng khoái, nói chuyện cũng không còn mệt nhọc nữa.
Hồi 40
Nào ngờ đường lạ đụng cường địch
Ai biết chốn xa gặp cố nhân
Cung Bỉnh Phan đã khỏe hẳn nên kể lại mọi chuyện hôm trước. Khi ông ta nói đến đoạn Công Tôn Yến nhảy xuống vực sâu cùng Lệ Nam Tinh như chợt nhớ ra một điều, nói:
"Màu đất trên ngọn núi ấy không giống với những nơi khác!".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Không giống thế nào?".
Cung Bỉnh Phan kể:
"Màu đất đỏ như máu, khắp núi đều là hoa dại".
Nông phu họ Trương chợt nói:
"Tôi biết nơi ấy, đó gọi là núi Xích Thạch, bên dưới có một cốc sâu tên là Đào Hoa Cốc. Đào Hoa Cốc cách thôn này bảy mươi dặm về hướng nam, rất dễ tìm".
Kim Trục Lưu mừng rỡ:
"Được, tôi lập tức đến nơi ấy!".
Nông phu họ Trương nói:
"Nhưng cũng không dễ tới!".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Tại sao?".
Người nông phu trả lời:
"Xung quanh Đào Hoa Cốc là núi non trùng điệp, không có ai ở. Muốn xuống đáy cốc chỉ có thể nhảy từ trên núi Xích Thạch xuống".
Kim Trục Lưu thản nhiên:
"Cũng không sao".
Nông phu họ Trương lại nói:
"Nhảy từ trên núi xuống cũng không khó lắm, nhưng ở dưới đáy cốc thì rất nguy hiểm!".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Nguy hiểm thế nào?" Nông phu ấy đáp:
"Trong Đào Hoa Cốc có hàng ngàn hàng vạn gốc hoa đào, giờ đang là mùa xuân". Kim Trục Lưu ngạc nhiên:
"Vậy có liên hệ gì?" Nông phu đáp:
"Mỗi khi đến mùa xuân, trong Đào Hoa Cốc sẽ có đào hoa chướng". Kim Trục Lưu hỏi:
"Đào hoa chướng có phải là mây mù tà độc hay không?" Nông phu trả lời:
"Đúng thế, trong cốc hàng ngàn hàng vạn gốc hoa đào tự nở tự rụng, mặt đất ẩm ướt, mỗi khi đến mùa xuân hoa đào thối rữa, chướng khí bốc lên như mây mù, cảnh sắc trông đẹp mê hồn. Mười mấy năm trước trong thôn chúng tôi có vài thiếu niên bạo dạn đến đó xem mây mù nhưng có đi mà không trở về!".
Kim Trục Lưu gật đầu:
"Lão trượng đừng lo, tôi có linh đơn giải độc, chướng khí dù ghê gớm đến mức nào cũng chẳng làm gì được chúng tôi!".
Nông phu họ Trương thấy chàng đã cứu sống Cung Bỉnh Phan thì cũng tin mấy phần. Vì thế dặn:
"Được, nhưng thiếu hiệp phải cẩn thận!".
Kim Trục Lưu đáp tạ rồi một mình đến núi Xích Thạch.
Chàng quả nhiên đứng từ trên núi đã nhìn thấy Đào Hoa Cốc. Kim Trục Lưu thử hít một hơi cảm thấy choáng váng trong đầu. Chàng vội vàng ngậm một viên bích linh đơn rồi thi triển khinh công tuyệt thế trèo xuống, không đến một cây nhang đã đặt chân xuống đáy cốc. Kim Trục Lưu thầm thất kinh:
"Từ trên vách núi cao trăm trượng rơi xuống đáy cốc, chướng khí lại nồng nặc như thế này, e rằng họ lành ít dữ nhiều!".
Nhưng khi đặt chân xuống đất, Kim Trục Lưu lại không khỏi thầm ngạc nhiên.
Té ra dưới đất là một lớp hoa đào mềm mại tựa như phủ thảm lông ngỗng. Kim Trục Lưu kêu lớn:
"Lệ đại ca! Công Tôn cô nương!" Nhưng vẫn không nghe tiếng trả lời.
Chàng đi khắp Đào Hoa Cốc cũng chẳng thấy một bóng người.
Đến khi ra khỏi đường đào bỗng thấy một dòng thác từ trên vách núi đổ xuống kêu ầm ầm, phía trước đã hết đường đi.
Kim Trục Lưu nổi lòng tò mò, nhủ thầm:
"Dẫu họ đã chết thì cũng phải còn xương cốt". Từ trên vực cao nhảy xuống, phía dưới lại có chướng khí, lẽ nào họ có thể thoát chết? Kim Trục Lưu càng nghĩ càng lạ, chàng phải mất cả ngày trời mới leo lên trên núi trở lại được Khi trở lại nhà nông phu họ Trương, Cung Bỉnh Phan đã có thể vịn vách tường thử đi được. Kim Trục Lưu kể lại tình hình trong Đào Hoa Cốc, Cung Bỉnh Phan cũng nghĩ họ đã chết, nhớ lại mình đã phụ lòng mong mỏi của bang chủ, không khỏi rơi nước mắt. Sử Hồng Anh ngẩn người một lát rồi bảo:
"Huynh nói dưới đất phủ đầy hoa đào, nếu từ trên cao rơi xuống nói không chừng cũng không thể chết được ...".
Kim Trục Lưu nói:
"Cũng mong là thế. Nhưng họ đã bị thương, nếu vẫn còn sống vẫn không thể thoát khỏi Đào Hoa Cốc được. Nay chỉ e ..." Chàng tránh không nói bốn chữ "lành ít dữ nhiều".
Cung Bỉnh Phan thở dài:
"Chi bằng chúng ta hãy tìm cách trả thù cho họ. E rằng trong thời gian ngắn tôi không thể khỏe lại ngay, chuyện báo tin ...".
Kim Trục Lưu nói:
"Tôi sẽ lo chuyện này. Nhưng Cung huynh cũng phải tìm một nơi ngơi ngơi".
Kim Trục Lưu tìm thuê một chiếc xe la, đưa Cung Bỉnh Phan đến căn cứ của nghĩa quân ở núi Đại Lương. Mọi người biết tin Lệ Nam Tinh và Công Tôn Yến mất mạng ở Đào Hoa Cốc thì ai nấy đều rầu rĩ.
Hai người Kim, Sử rời khỏi núi Đại Lương, đó là chuyện xảy ra sau một tháng Lệ Nam Tinh mắc nạn. Kế hoạch của Kim Trục Lưu trước tiên là gặp Công Tôn Hoằng sau đó về Dương Châu.
Trên đường bình an chẳng có chuyện gì, hôm nay họ đã đến huyện Hoa Âm của Thiểm Tây. Ngọn Hoa Sơn nổi tiếng nằm ở phía nam huyện Hoa Âm. Lúc này đang là tháng ba mùa xuân, hoa dại nở rộ, én lượn đầy trời. Hai người đi ngang qua chân núi Hoa Sơn, nhìn thấy cảnh núi tinh thần thảnh thơi. Kim Trục Lưu nói:
"Trước đây trên núi Hoa Sơn có một danh y đệ nhất thiên hạ, là bằng hữu của cha huynh. Lại là nghĩa phụ của đại sư huynh. Nghe nói người này y thuật thông huyền, có thể chữa được tất cả mọi loại bệnh. Đáng tiếc y thuật của ông ta giờ đây đã thất truyền".
Sử Hồng Anh hỏi:
"Có phải Hoa Sơn y ẩn Hoa Thiên Phong?" Kim Trục Lưu gật đầu:
"Đúng thế. Muội cũng nghe nói đến ông ta ư?" Sử Hồng Anh cười rằng:
"Ông ta tuy đã mất sớm nhưng y thuật không hề thất truyền".
Kim Trục Lưu nói:
"Đúng thế, ông ta còn có một người con gái kế thừa y thuật.
Nhưng huynh nghe cha nói Hoa nữ hiệp đã lấy một quốc vương ở miền Tây Vực, trở thành hoàng hậu đương nhiên không chữa bệnh cho người khác nữa. Vả lại y thuật của Hoa tiền bối truyền đến Tây Vực đối với Trung Nguyên coi như cũng đã thất truyền".
Sử Hồng Anh nói:
"Không, Hoa lão tiền bối còn có một truyền nhân, nhưng hình như không giỏi bằng con gái của ông ta".
"Vậy ư, huynh lại không biết điều này".
"Người này là một đạo đồng của ông ta, có thể lúc này đã ngoài năm mươi tuổi.
Pháp danh của người này là Thấu Thạch, mười tám năm trước Thanh Phong đạo nhân của bổn bang bị trúng độc tiêu của Hoài âm Song Sát, chính ông ta đã trị lành vết thương cho y, cho nên muội mới biết lai lịch của ông ta".
"Có lẽ là vì khi cha huynh quen biết Hoa lão tiền bối, Thấu Thạch đạo trưởng vẫn còn nhỏ tuổi cho nên cha mới không nhắc tới. Đáng tiếc chúng ta đang có việc gấp, nếu không cũng nên lên núi thăm ông ta".
Hai người đang nói chợt thấy có một nông phụ từ trên núi đi xuống mà khóc hu hu. Sử Hồng Anh bước tới an ủi:
"Đại thẩm có chuyện gì đau lòng mà lại khóc thế?".
Nông phụ này vừa khóc vừa nói:
"Tiểu cô nương, đa tạ lòng tốt của cô nương nhưng cô không thể giúp được". Kim Trục Lưu hỏi:
"Chuyện gì thế?" Nông phụ ấy vừa khóc vừa nói:
"Số tôi thật khổ! Con trai tôi bị mắc bệnh lao, khó khăn lắm mới mượn tiền nhờ một đại phu trong thành coi bệnh, đại phu này lắc đầu nói là tuyệt chứng không thể trị được. Ngoại trừ một vị đạo trưởng trên núi Hoa Sơn".
Sử Hồng Anh hỏi gấp:
"Vậy là đại thẩm đến núi Hoa Sơn? Lẽ nào đạo trưởng ấy không trị? Theo tôi biết, ông ta là người lòng dạ từ bi, vẫn thường chữa trị cho người cùng khổ kia mà!".
Thiếu phụ ấy khóc tấm tức:
"Cô nương nói phải lắm, nhưng chỉ trách tôi không may". Kim Trục Lưu hỏi:
"Có phải ông ta ra ngoài vân du hay không?".
"Hôm qua vị đạo trướng ấy đã chết!" Nói đến đây thì bất giác oà khóc lên.
Sử Hồng Anh cả kinh:
"Đã chết?" Nghĩ bụng:
"Thấu Thạch đạo nhân chẳng qua chỉ mới hơn năm mươi tuổi, bản thân lại biết võ công và y thuật, chưa phải suy yếu lắm sao lại chết?".
Nông phụ ấy nói:
"Quan tài vẫn còn đặt trong quán, người đến điếu tang cũng chưa ra về, còn có thể giả".
Kim Trục Lưu nói:
"Đại thẩm đừng đau lòng, bệnh lao chẳng phải tuyệt chứng, tôi có thể trị được". Nông phụ ấy ngừng khóc, nhìn Kim Trục Lưu nửa tin nửa ngờ, Kim Trục Lưu nói:
"Đại thẩm cứ đem viên thuốc này về cho con trai của bà uống, ngoài ra tôi còn tặng mười lạng bạc mua thêm chút đồ bổ để bồi dưỡng".
Số là viên thuốc này chính là tiểu hoàn đơn mà Cơ Hiểu Phong đã đánh cắp ở chùa Thiếu Lâm. Kim Trục Lưu tuy không biết y thuật nhưng vẫn nhớ câu:
"Ngũ lao thất thương", bệnh lao là một trong những bệnh nội thương, chắc có thể dùng tiểu hoàn đơn để chữa trị.
Nông phụ ấy thấy Kim Trục Lưu tuổi còn trẻ nửa tin nửa ngờ, nhưng chàng đã có lòng tốt cho nên bà cũng đáp tạ rồi cầm thuốc và bạc về nhà.
Nông phụ ấy đi xa, Sử Hồng Anh mới nói:
"Trục Lưu, muội thấy chuyện này có điều kỳ quặc".
Kim Trục Lưu gật đầu:
"Đúng thế, chúng ta sẽ lên xem thử". Thế rồi hai người cùng lên núi, đi được nửa chừng thấy một tòa đạo quán, trước cửa có treo một cái đèn lồng màu xanh. Bên trong vọng ra tiếng ồn ào. Số là Hoa Thiên Phong vốn ở Hoa Sơn tuyệt đỉnh, đến thời Thấu Thạch đạo nhân, để tiện chữa bệnh cho dân quê cho nên đã xây tòa đạo quán này ở lưng chừng núi.
Kim Trục Lưu ngạc nhiên:
"Chắc đây là đạo quán của Thấu Thạch đạo nhân.
Thật kỳ lạ, ông ta đã chết, sao trong quán lại có tiếng cãi nhau?" Hai người bước vào đạo quấn, bỗng nghe có tiếng quát lên rằng:
"Ta không tin, mở nắp quan tài ra cho ta xem?" Một giọng nói khác trả lời:
"Gia sư thật tình đã chết, nắp quan tài đã được đóng đinh".
Người kia nói:
"Đóng đinh cũng phải mở ra!" Khi hai người Kim, Sử vào đến linh đường thấy người ấy đang mở nắp quan tài.
Vài đại hán ở hai bên bước tới xem:
"Ồ, đúng là thấu Thạch đạo nhân!".
"Tôi nói gia sư đã chết, các người lại không chịu tin lại cứ mở quan tài của người. Hừ, bây giờ các người đã tin chưa?".
"Thật quái lạ, hình như trúng độc!".
"Chắc chắn có bàn tay của bọn Thiên ma giáo!".
Kim Trục Lưu thất kinh, lòng thầm nhủ:
"Sao ông ta lại bị Thiên ma giáo hạ độc thủ?" Chàng mới vội vàng chen vào, nói:
"Để tôi cũng xem thử". Trong quan tài có một cái xác, ở chân mày có một luồng hắc khí, lỗ mũi cũng có máu rịn ra. Kim Trục Lưu thấy thế càng kinh ngạc, thầm nhủ:
"Xem ra có lẽ trúng độc châm của Thiên ma giáo, nhưng mụ yêu bà họ Hạ đã chết, còn ai biết dùng độc châm hại người? Đương nhiên Lý Đôn không làm như thế".
Hai người vừa bị Kim Trục Lưu đẩy ra quát lên:
"Tên tiểu tử nhà ngươi ở đâu mà chen lấn thế này?" Người vừa mở nắp quan tài cũng quay đầu lại, chợt lạc giọng kêu:
"Sử cô nương, cô nương cũng đến! Người bằng hữu này là ...". Sử Hồng Anh ngạc nhiên, nàng chợt nhớ ra:
"Ông có phải là Tôn hương chủ của Trường Kinh bang hay không?" Người ấy nói:
"Cô nương nhớ thật dai, tôi là Tôn Bách Thọ, các vị đừng ồn, đây chính là em gái của bang chủ Lục Hợp bang". Sử Hồng Anh nói:
"Đây là Kim Trục Lưu thiếu hiệp, sư đệ của Giang Hải Thiên đại hiệp".
Trường Kình bang vốn là một bang hội nhỏ hoạt động ở hai bờ sông Hoàng Hà, bang chủ Tôn Bách Lộc là anh trai của Tôn Bách Thọ. Trường Kình bang là "thuộc bang" của Lục Hợp bang, mỗi năm đều tiến cống cho Lục Hợp bang. Tôn Bách Thọ cũng từng thay anh đưa quà cho Lục Hợp bang cho nên nhận ra Sử Hồng Anh. Nhưng đến giờ y vẫn chưa biết Sử Bạch Đô đã chết ở Tây Xương còn Sử Hồng Anh là bang chủ mới của Lục Hợp bang. Mọi người nghe thế vừa mừng vừa lo, vội vàng tạ lỗi.
Tôn Bách Thọ hỏi:
"Sử cô nương, sao cô lại đến tìm Thấu Thạch đạo nhân, chả lẽ Thiên ma giáo dám bức hiếp Lục Hợp bang?" Rồi lại nói:
"Kim thiếu hiệp, huynh đến thật đúng lúc, có lẽ chuyện này chỉ có lệnh sư huynh mới chủ trì công dạo được cho chúng tôi". Kim Trục Lưu hỏi:
"Chuyện này như thế nào?".
Tôn Bách Thọ đóng nắp quan tài lại, quay về phía tiểu đạo sĩ xin lỗi rồi kể:
"Chúng tôi đều đến đây nhờ Thấu Thạch đạo nhân trị bệnh, không ngờ ông ta cũng bị hạ độc thủ, trong nhất thời nóng nảy nên thất lễ, mong Kim thiếu hiệp đừng cười".
Kim Trục Lưu nhìn bọn họ không có vẻ gì là bệnh hoạn cả, đang định hỏi thì Tôn Bách Thọ đã kể:
"Không phải chúng tôi bị bệnh. Chúng tôi thuộc năm bang hội khác nhau, bang chủ của chúng tôi đều bị Thiên ma giáo hạ độc!".
Kim Trục Lưu nói:
"Chẳng phải hai mươi năm trước Thiên ma giáo đã bị giải tán rồi sao, vả lại sao các người biết là do Thiên ma giáo hạ độc?".
Tôn Bách Thọ đáp:
"Đúng thế, hai mươi năm trước Thiên ma giáo đã giải tán.
Nhưng giờ đây xuất hiện một giáo chủ mới, Thiên ma giáo đã mở lại hương đường.
Chúng tôi xích mích với Thiên ma giáo là vì chuyện này mà ra".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Giáo chủ mới của Thiên ma giáo là ai?".
Tôn Bách Thọ đáp:
"Nghe nói là cháu của Lệ Thắng Nam, tên gọi Lệ Nam Tinh!".
Kim Trục Lưu cả kinh:
"Sao lại là Lệ Nam Tinh? Các người có nhầm không?".
Tôn Bách Thọ đáp:
"Khi y mở hương đường, đã từng gửi thiệp mời chúng tôi đến xem lễ, trên thiệp viết rõ ba chữ Lệ Nam Tinh, lẽ nào là sai? Kim thiếu hiệp, huynh quen người này ư?".
Những người này thuộc những bang hội không quang minh chính đại, Kim Trục Lưu không muốn nói nhiều với họ cho nên chỉ đáp bừa rằng:
"Tôi biết người này, y đã từng đại náo thọ đường của Tát Phúc Đỉnh ở kinh thành. Lúc đó tôi cũng có mặt.
Theo lẽ y không phải là kẻ đê tiện ám toán hại người".
Tôn Bách Thọ tức giận:
"Đương nhiên y không đích thân ra tay mà là thủ hạ của y, nếu y không cho phép chắc là bọn chúng cũng không dám làm càn".
Kim Trục Lưu đang nôn nóng biết chân tướng nên hỏi vội:
"Các người đã kết oán với Thiên ma giáo như thế nào?".
Tôn Bách Thọ kể:
"Tôi sẽ kể chuyện của Trường Kình bang. Những bang hội khác cũng lâm vào cảnh giống như chúng tôi. Chuyện này xảy ra vào đầu tháng trước, một hôm nọ có một kẻ tự xưng là sứ giả của Thiên ma giáo đến, y bảo Thiên ma giáo sắp mở lại hương đường, mời bang chủ của chúng tôi đến xem lễ. Y còn bảo trước đây Trường Kình bang chúng tôi phục tùng Thiên ma giáo, giờ đây đã có giáo chủ mới, bọn tôi phải tìm lễ vật gì đó đem đến dâng. Sử cô nương, mười mấy năm nay Trường Kình bang chúng tôi đã theo quý bang, làm sao có thể nghe mệnh lệnh của Thiên ma giáo. Bởi vậy tuy y nói thế nhưng chúng tôi cũng chẳng thèm đi xem lễ". Y nói câu này là muốn Sử Hồng Anh khen lòng trung của mình.
Sử Hồng Anh nghĩ bụng:
"Đáng tiếc y không đến xem lễ, nếu không có thể biết là thật hay giả. Nhưng giáo chủ của Thiên ma giáo chắc chắn không phải Lệ đại ca".
Bèn nói:
"Chúng ta đều là bang chủ của một bang, dù bang hội có lớn có nhỏ nhưng cũng phải có tôn ti trật tự, y đã ỷ thế hiếp người, cũng chả trách ông không nể mặt y".
Tôn Bách Thọ nói:
"Cô nương đúng là người hiểu lý lẽ, khiến người ta khâm phục. Nhưng tên tiểu tử Lệ Nam Tinh không như thế, đúng là miệng chó không nói được tiếng người".
Kim Trục Lưu nhíu mày:
"Ông khoan hãy mắng người khác, y nói thế nào?".
Tôn Bách Thọ đáp:
"Sứ giả còn bảo, Lệ bang chủ đã nói trước phải mời các người đi xem lễ là nể mặt các người, các người nếu muốn uống rượu mời thì tốt, nếu muốn uống rượu phạt cũng được. Đi hay không là tùy ở các người. Chúng tôi là người sống trên đường đao mũi kiếm, nên chẳng sợ y dọa dẫm. Nhưng chúng tôi cũng không dám coi thường Thiên ma giáo cho nên phòng bị rất nghiêm ngặt. Không ngờ y không phải dọa suông, tuy chúng tôi đã phòng bị nghiêm ngặt nhưng bang chủ vẫn không thoát khỏi độc thủ của bọn chúng. Ngày hôm ấy bang chủ chúng tôi uống một bát trà ở trà đình. Ông chủ trà đình là người quen của chúng tôi, có lúc còn làm tai mắt cho chúng tôi, đương nhiên bang chủ chẳng hề nghi ngờ ông ta. Nào ngờ uống xong bát trà, chỉ đi được một đoạn bang chủ cảm thấy trong người nóng như lửa đốt, càng lúc càng thấy không ổn nên mới biết đã trúng độc. May mà hai huynh đệ đi theo bang chủ một người đưa bang chủ về nhà, một người tìm ông già tính sổ. Đến khi quay lại trà đình thấy ông chủ trà đình đã bị giết chết, bên cạnh cái xác còn có một bức thư, trong thư có viết mấy chữ rằng:
'Nếu muốn sống hãy mau đến Thiên ma giáo xin chữa trị'. Rõ ràng bọn chúng muốn dìm chết Trường Kình bang chúng tôi. Chúng tôi không muốn thần phục nên mới tìm Thấu Thạch đạo trưởng. Không ngờ Thấu Thạch cũng bị bọn chúng hại chết".
Tôn Bách Thọ kể xong những người khác cũng nói ra chuyện của mình, quả nhiên cũng chẳng khác gì chuyện của Trường Kình bang.
Tôn Bách Thọ nói:
"Kim thiếu hiệp, thủ đoạn của tên tiểu tử họ Lệ này thật thâm độc, y mới làm bang chủ, vì muốn ra oai mà không ngại tàn hại đồng đạo giang hồ, lại còn giết chết người vô tội như Thấu Thạch đạo nhân, khiến chúng tôi chẳng còn biết cầu cửa nào, chỉ có thể khuất phục bọn chúng. Chúng tôi thấy không đấu lại Thiên ma giáo, nay mời hai vị giúp đỡ, thay chúng tôi khẩn cầu Giang đại hiệp và Sử bang chủ lấy lại công đạo". Kim Trục Lưu nói:
"Được, ta sẽ giúp các người điều tra sự thật. Nhưng bang chủ của Lục Hợp bang đã chết".
Tôn Bách Thọ cả kinh:
"Sử bang chủ võ công trùm đời, chả lẽ ... chả lẽ cũng bị tên Lệ Nam Tinh ám toán?".
Kim Trục Lưu đáp:
"Chính Sử Bạch Đô đã tự giết hại mình!".
Tôn Bách Thọ ngạc nhiên, trợn tròn hai mắt hỏi:
"Có nghĩa là sao?".
Kim Trục Lưu nói:
"Làm lắm chuyện bất nghĩa sẽ tự chôn mình, các người có nghe câu này chưa? Sử Bạch Đô võ công cao cường nhưng đáng tiếc y cam lòng làm ưng khuyển cho triều đình, cuối cùng bị mọi người xa rời, chẳng còn lối đi cho nên tự kết liễu tánh mạng".
Bọn người này nghe Kim Trục Lưu nói như thế bất đồ đưa mắt nhìn nhau, không dám đáp lời. Kim Trục Lưu biết bọn chúng e ngại Sử Hồng Anh, nói rằng:
"Chắc các người vẫn chưa biết chuyện xảy ra ở Tây Xương, Sử Bạch Đô giúp Tây Xương tướng quân Soái Mạnh Hùng, các đầu mục trong Lục Hợp bang không phục y, sau khi y tự sát thì đã lập Sử cô nương làm bang chủ. Sử cô nương và Sử Bạch Đô tuy cùng một mẹ sinh ra nhưng không hề giống nhau. Soái Mạnh Hùng cũng bị nàng giết, Lục Hợp bang nay đã ra nhập nghĩa quân".
Sử Hồng Anh nói:
"Đại ca chết là đáng tội, tôi không thể khuyên y cải tà quy chính, tôi cũng rất lấy làm áy náy. Cũng mong các người lấy y làm tấm gương đừng đi theo vết xe đổ của y nữa".
Tôn Bách Thọ nghe Sử Hồng Anh nói như thế vội mới kêu mọi người hành lễ:
"Thuộc hạ tham kiến bang chủ, mong bang chủ dạy bảo".
Sử Hồng Anh nói:
"Tôi đã nói, bang hội tuy có lớn nhỏ nhưng không có tôn ti, trước kia đại ca của tôi làm bang chủ Lục Hợp bang, ỷ mạnh hiếp yếu, buộc các người nghe lệnh của y, hàng năm đều phải tiến cống, từ rày về sau ta không cần như thế nữa. Lục Hợp bang và các bang phái khác kết thành huynh đệ, có chuyện lớn phải thương lượng với nhau, đôi bên cùng gánh vác. Khi đã đặt ra minh ước, chúng ta phải tuân theo. Các người bảo có tốt hay không?".
Bọn người Tôn Bách Thọ xưa này thần phục Lục Hợp bang thực ra chỉ bằng mặt mà không bằng lòng, chỉ vì thế lực còn yếu cho nên đành chịu lép. Nghe Sử Hồng Anh nói như thế đều cả mừng.
Sử Hồng Anh nói:
"Phó bang chủ của bổn bang Lý Đôn có thể giải độc của Thiên ma giáo, các người không cần lo lắng, ta sẽ bảo y giải độc cho bang chủ các người. Còn chuyện kết minh sau này hãy tính".
Mọi người càng mừng hơn lại một lần nữa đáp tạ Sử Hồng Anh nói:
"Tệ bang đương nhiên cũng sẽ ra sức đối phó với Thiên ma giáo. Nhưng chuyện này còn có nhiều điều gút mắc, tôi và Kim thiếu hiệp phải điều tra sự thực. Trước khi mọi việc rõ ràng, các vị đừng nóng nảy, không được xung dột với Thiên ma giáo". Tôn Bách Thọ thưa:
"Vâng, tất cả nghe theo Sử bang chủ sắp xếp". Sử Hồng Anh nói:
"Được, ngày sau chúng ta sẽ gặp lại, tôi và Kim thiếu hiện phải đi trước đây".
Hồi 41
Hào kiệt ngay thẳng bị hiểu lầm
Mưu ma chước quỷ thật khó phòng
Sau một hồi bàn bạc hai người quyết định đi tìm Công Tôn Hoằng rồi tính tiếp.
Công Tôn Hoằng vốn ở Võ Ấp. Trên đường đến Võ Ấp, họ gặp vài người phóng ngựa ngược chiều, ai cũng quay đầu lại nhìn, tựa như rất chú ý đến họ:
Sử Hồng Anh nói:
"Có lẽ những người này thuộc Hồng Anh hội, biết chúng ta đến gặp bang chủ của họ nên để ý". Kim Trục Lưu cười đáp:
"Chúng ta vốn không muốn làm lớn chuyện, không ngờ lại kinh động đến ông ta".
Công Tôn Hoằng ở trong một sơn thôn tại thành nam, hai người Kim, Sử băng qua một khu rừng tùng, từ xa đã nhìn thấy một tòa nhà lớn, Kim Trục Lưu cười nói:
"Phía trước chính là nhà của Công Tôn Hoằng. Ồ, muội nhìn xem, có người bước ra!".
Sử Hồng Anh nheo mắt nhìn, quả thấy có một đám người đang đứng bày trận trên sườn núi, Sử Hồng Anh nhận ra hai hương chủ trong Hồng Anh là Trang Viễn và Tần Xung. Cả hai vội vàng chạy tới, Kim Trục Lưu vội nói:
"Không dám làm phiền ...
Ồ các người ... các người làm gì thế"" Trang Viễn, Tần Xung dắt mấy mươi người đột nhiên bao vây hai người lại ở giữa. Ai nấy đều nghiến răng nghiến lợi, trừng mắt nhìn họ.
Trang Viễn quát:
"Kim Trục Lưu, không liên quan gì đến ngươi, ngươi đứng sang một bên". Tần Xung chỉ Sử Hồng Anh mắng:
"Hồng Anh hội không đến nỗi sợ Lục Hợp bang các người, ả nha đầu thối nhà ngươi dám cuồng ngạo, đến tận đây bắt nạt bọn ta?".
Sử Hồng Anh cả kinh:
"Sao lại nói thế? Chúng tôi đến đây bái kiến tổng đà chủ của quý hội! Trước kia tệ bang hành sự không đúng, hãy cho tôi gặp Công Tôn đà chủ ...".
Nàng nói chưa đứt lời bọn họ đã bắt đầu quát tháo ầm lên. Trang Viễn trừng mắt, chỉ tay mắng:
"Công Tôn đà chủ vẫn chưa chết, ngươi đến dò hỏi tin tức e rằng vẫn còn sớm!" Tần Xung gằn:
"Dò hỏi tin tức gì? Rõ ràng là đến bắt nạt chúng ta? Trang đại ca, đừng nói nhiều lời với ả nữa!".
Trang Viễn quát:
"Sử Hồng Anh, chúng ta đơn đả đốc đấu với nhau. Rút binh khí ra!".
Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Nếu chỉ vì xích mích giữa hai bang hội, bọn họ quyết không nổi giận như thế, chắc là có nguyên nhân gì đấy". Chàng vội bước ra kêu lên:
"Có chuyện gì hãy từ từ nói, cho chúng tôi gặp Công Tôn đà chủ trước!".
Tần Xung quát:
"Kim Trục Lưu, ta nể mặt lệnh sư huynh mới không đối xử với ngươi như con yêu nữ này, nếu ngươi muốn bảo vệ cho ả đừng trách bọn ta không khách sáo?".
Phía bên này nói chưa dứt lời ở phía bên kia Trang Viễn đã ra tay. Trang Viễn quát lên:
"Ngươi không rút ra binh khí, chúng ta sẽ dùng chưởng!" Dứt lời tay trái nâng lên, đánh ra một chiêu Huyền điệu hoạch sa, hai ngón tay xỉa vào huyệt kim lâu và ngọc quyết trên ngực Sử Hồng Anh, Tần Xung chém vào cổ Sử Hồng Anh. Đó là một đòn đại cầm nã thủ và miên chưởng công của Thiếu Lâm, Sử Hồng Anh có sở trường ở kiếm pháp và tiên pháp, công phu quyền cước không bằng y. Nàng đành lướt người né tránh. Nhưng vẫn bị chưởng phong quét vào mặt.
Kim Trục Lưu quát lên:
"Ngừng tay!" Lúc này Kim Trục Lưu đã không nén giận được nữa.
Tần Xung rút thanh thiếc đao ra, cười lạnh:
"Bọn ta đã sớm biết ý đồ của ả nha đầu này, ngươi rốt cuộc là giúp bên nào?" Người của Hồng Anh hội kêu:
"Không cần hỏi, tên tiểu tử này đã bị ả yêu nữ mê hoặc, đương nhiên giúp ả bức hiếp chúng ta!".
Tần Xung giơ ngang đao chặn Kim Trục Lưu lại là vì nể mặt Giang Hải Thiên, chỉ muốn ngăn chàng không đến cứu Sử Hồng Anh, nên vẫn chưa ra tay.
Thủ pháp đại cầm nã của Trang Viễn rất lợi hại, khi Kim Trục Lưu đang đối đáp với Tần Xung y đã đẩy lùi Sử Hồng Anh, lúc này người của Hồng Anh hội đã bao vây bọn họ ở giữa, nên tuy nói là đơn đả độc đấu nhưng xung quanh nàng là bức tường người, dù có khinh công giỏi cũng khó xoay chuyển.
Trong tình huống như thế, Kim Trục Lưu biết mình không thể biện giải. Ngay lúc này, Trang Viễn áp sát tới sử dụng thủ pháp liên hoàn Bôn lôi chưởng, xem ra đã sắp trúng vào Sử Hồng Anh.
Kim Trục Lưu không kịp suy nghĩ, quát lên một tiếng:
"Tránh ra?" Rồi chàng hạ người xuống lướt qua cánh tay của Tần Xung, Tần Xung không ngờ thủ pháp của chàng kỳ quái đến thế, chưa kịp trở đao lại chém Kim Trục Lưu đã phóng đến chỗ Sử Hồng Anh.
Kim Trục Lưu đánh ra một chiêu Bát phương phong vũ, hai chưởng tung ra liên tục, chưởng lực đánh ra bốn mặt tám hướng, Trang Viễn cảm thấy một luồng chưởng lực mềm mại đột nhiên dồn tới trước mặt mình, luồng chưởng này tuy không bá đạo nhưng đã đẩy chưởng lực của Trang Viễn ngược trở lại khiến y thối lui ba thước. Té ra Kim Trục Lưu dùng Đại tu di chưởng thức có thủ mà không công, tuy có thể phản công đối phương nhưng không đả thương họ.
Luồng chưởng này đánh về bốn mặt tám hướng, không những đã đẩy lùi Tần Xung, người của Hồng Anh hội đứng xung quanh cũng phải thối lùi ra sau, vòng vây lập tức mở rộng.
Tần Xung cả giận:
"Tiểu tử, đừng trách ta có lỗi với ngươi!" Rồi y nhảy bổ tới chém xuống một đao. Tuy y mắng Kim Trục Lưu nhưng lại chém về phía Sử Hồng Anh. Rõ ràng y vẫn còn e ngại chàng.
Kim Trục Lưu nghe tiếng đao sau lưng bèn giật ngay một cây thanh đồng giản của một kẻ đứng gần đấy, rồi chàng trở tay lại hất ra phía sau, cây đao của Tần Xung bay lên không trung, nhưng cây thanh đồng giản cũng bị y chặt gãy làm hai đoạn.
Kim Trục Lưu cướp binh khí chứ không làm cho y bị thương, nhưng trong bụng cũng thầm phục khí lực của Tần Xung.
Bọn người Hồng Anh hội thấy thanh thiết đao đã rơi xuống đất, đều không khỏi cả kinh, vội vàng né tránh.
Hai người Kim, Sử chỉ trong chớp mắt đã thi triển khinh công tuyệt đỉnh, lướt qua đầu bọn người Hồng Anh, hạ xuống một tảng đá cách đó không xa.
Tần Xung tung mình chụp lấy thanh đơn đao, giận đến nỗi mặt mũi đỏ gay, chỉ Kim Trục Lưu quát:
"Có giỏi ngươi đừng chạy, chúng ta lại quyết trận thư hùng!".
Kim Trục Lưu cười đáp:
"Tôi đến đây bái kiến tổng đà chủ của quý hội, việc gì tôi phải phân cao thấp với các người?".
Tần Xung tức giận quát:
"Công Tôn đà chủ sẽ không gặp ngươi!".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Sao ngươi lại biết?".
Trang Viễn lại hạ giọng khuyên:
"Kim thiếu hiệp! Lệnh tôn và lệnh sư huynh có giao tình với bốn bang, thiếu hiệp không chống đối chúng tôi, chúng tôi cũng chẳng làm khó thiếu hiệp. Tôi khuyên thiếu hiệp đừng lo chuyện bao đồng, nên bỏ đi thì hơn. Dù thế nào đi nữa thiếu hiệp cũng không gặp được đà chủ của chúng tôi, chúng tôi sẽ không thông báo cho thiếu hiệp".
Võ công của Trang Viễn cao hơn Tần Xung nhiều, lúc nãy Kim Trục Lưu dùng Đại tu di chưởng lực đẩy lùi y, y đã biết chàng nương tay, không đả thương y. Y ngăn cản Tần Xung động, võ với Kim Trục Lưu, đương nhiên là biết rõ Tần Xung không phải là đối thủ của chàng, nhưng cũng vì biết chàng chẳng có địch ý.
Kim Trục Lưu nói:
"Xin đa tạ ý tốt, nhưng tôi phải gặp Công Tôn đà chủ. Không cần các người thông báo, để tự tôi tới cũng được". Rồi chàng lớn giọng nói:
"Kim Trục Lưu, Sử Hồng Anh cầu kiến Công Tôn đà chủ, không biết vì cớ gì mà hương chủ của quý hội ngăn cản, mong Công Tôn đà chủ cho phép gặp mặt".
Kim Trục Lưu dùng công phu truyền âm nhập mật, giọng nói tuy không lớn nhưng chấn động lỗ tai của những người xung quanh. Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Theo lời họ nói, hình như Công Tôn Hoằng đã gặp phải chuyện gì không may, có thể cũng đang bị bệnh. Nhưng chỉ cần ông ta ở trong nhà thì chắc sẽ nghe tiếng của mình".
Bọn người Hồng Anh hội đều kinh hoảng thất sắc Kim Trục Lưu cố ý để lộ võ công cho nên rút thanh huyền thiết kiếm, lẩm bẩm:
"Chỗ này thật khó ngồi, mình phải tốn chút công phu". Rồi chàng rút thanh huyền thiết bảo kiếm chém vào tảng đá một hồi, cho thấy ánh bạch quang lóe lên, đá vụn tung bay, chỉ trong chớp mắt tảng đá đã bằng phẳng, bề mặt láng như gương!
Tần Xung vốn định bao vây để bắt sống Sử Hồng Anh. Nhưng lúc này thấy oai lực của huyền thiết bảo kiếm y trợn mắt há mồm, không đợi Trang Viễn ngăn cản, bọn họ đã không dám tiến bừa lên nữa.
Kim Trục Lưu mỉm cười:
"Hồng Anh, chúng ta hãy ngồi nghỉ ngơi một lát đợi Công Tôn đà chủ". Hai người thản nhiên ngồi xuống, Tần Xung chỉ tức giận chứ không dám lên tiếng nữa.
Khoảng nửa cây nhang sau, quả nhiên có người bước ra cao giọng nói:
"Kim thiếu hiệp, Công Tôn đà chủ mời thiếu hiệp vào". Người này chính là Thạch Huyền.
Kim Trục Lưu hỏi:
"Còn Sử cô nương thì sao?" Thạch Huyền nói:
"Xin mời Sử cô nương đợi một lát, Công Tôn đà chủ muốn nói chuyện riêng với Kim thiếu hiệp".
Kim Trục Lưu đưa mắt nhìn xung quanh, thấy bọn Tần Xung đang nhìn gườm gườm, chàng không thể nào yên tâm, tự nhủ:
"Nếu Hồng Anh ở lại một mình, bọn người này làm khó thì chẳng phải sẽ hỏng bét sao?".
Thạch Huyền hình như hiểu tâm ý của Kim Trục Lưu, bèn nói:
"Đà chủ có lệnh, bang chủ Sử Bạch Đô của Lục Hợp bang tuy là kẻ thù của chúng ta, nhưng không liên quan gì đến em gái của ông ta. Sử cô nương đã cùng đến với Kim thiếu hiệp, các người phải lễ phép với cô ta". Trang Viễn cúi đầu "vâng" một tiếng, Tần Xung tuy không trả lời nhưng cũng chẳng nói gì thêm.
Lúc này Kim Trục Lưu mới yên tâm, cùng Thạch Huyền đi vào nhà của Công Tôn Hoằng. Trên đường Kim Trục Lưu mới hỏi tên của Thạch Huyền, khi chàng biết y chính là người đã giúp Tần Nguyên Hạo ở Thủy Vân sơn trang liền nảy sinh thiện cảm, nghĩ bụng Thạch Huyền là người trung hậu chính trực, chắc sẽ nói lời thực, vì thế hỏi:
"Quý hội và Lục Hợp bang xưa nay có hiềm khích, điều này tôi đã biết, nhưng chuyện này đã diễn ra từ lâu. Hôm nay các hương chủ của quý hội hình như rất căm hận Sử cô nương, không biết là vì nguyên nhân gì khác?".
Thạch Huyền đáp:
"Chuyện này tôi không tiện nói, Kim thiếu hiệp gặp Công Tôn đà chủ thì sẽ biết ngay". Kim Trục Lưu hỏi:
"Xin thứ tôi đoán bừa, Công Tôn đà chủ có phải bị bệnh không?" Thạch Huyền đáp:
"Nếu bảo bệnh thì cũng không phải, dù sao đi nữa thiếu hiệp cũng sẽ gặp được ông ta". Kiểu trả lời nhát gừng này khiến cho Kim Trục Lưu càng nghi ngờ hơn, chàng nghĩ bụng:
"Bệnh là bệnh, tại sao lại chưa chắc?".
Tuy Kim Trục Lưu thắc mắc nhưng Thạch Huyền không chịu nói, chàng cũng chẳng tiện hỏi tiếp. Thạch Huyền dắt chàng đến trước thường của Công Tôn Hoằng liền lui ra.
Chỉ thấy Công Tôn Hoằng nằm trên giường, mặt vàng như nghệ, ở mi tâm có một luồng hắc khí mờ nhạt, Kim Trục Lưu cả kinh, lúc này mới biết Công Tôn Hoằng trúng độc. "Chả lẽ y cũng bị Thiên ma giáo ám toán? Nhung y võ công cao cường sao lại dễ dàng bị người ta ám toán thế này?".
Giọng Công Tôn Hoằng yếu ớt:
"Trục Lưu, ngươi đã đến rồi, tốt lắm. Ngồi xuống đây, chúng ta trò chuyện".
Kim Trục Lưu hành lễ, đang định hỏi y Công Tôn Hoằng đã nói:
"Ta biết ngươi thắc mắc lắm, đang muốn hỏi ta. Nhưng ta cũng có nhiều nghi vấn đang muốn hỏi ngươi".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Chẳng hay Công Tôn tiền bối muốn biết chuyện gì?" Công Tôn Hoằng hỏi lại:
"Có phải ngươi từ Tây Xương trở về không?" Kim Trục Lưu:
"Đúng thế". Công Tôn Hoằng nói:
"Ta có một đưa con gái tên gọi Công Tôn Yến cũng ở Tây Xương, ngươi có gặp nó không?".
Kim Trục Lưu hơi chần chừ, chàng thầm nhủ:
"Mình vốn đến báo tin hộ cho Cung Bỉnh Phan, không ngờ Công Tôn tiền bối đã trúng độc, lúc này ông ta đang bệnh mà báo tin xấu chỉ e chỉ khiến cho ông ta bệnh nặng hơn".
Công Tôn Hoằng thở dài:
"Có phải cô gái của ta đã gặp chuyện bất hạnh không?
Kim thiếu hiệp, ngươi đừng giấu ta, ta đã biết cả rồi. Chỉ là ta hy vọng chuyện này không xảy ra mà thôi".
Kim Trục Lưu bất giác ngạc nhiên, thầm nhủ:
"Ai nói với ông ta chuyện này?
Ngoại trừ mình và Hồng Anh, người trong nghĩa quân vẫn chưa quay về!" Nhưng nghe Công Tôn Hoằng bảo đã biết, đành buồn bã nói:
"Nếu lão tiền bối đã biết thì tôi không cần phải nói nữa. Nhưng tôi đã từng đến Đào Hoa Cốc tìm lệnh ái, lại không phát hiện được xác của nàng, không chừng cũng còn hy vọng".
Công Tôn Hoằng ngạc nhiên:
"Ngươi bảo sao? Con gái ta không phải chết trong thành Tây Xương?".
Kim Trục Lưu càng cảm thấy kỳ lạ, chàng vội vàng hỏi:
"Công Tôn tiền bối, tiền bối nghe được tin gì?" Công Tôn Hoằng nói:
"Nếu không phải nó chết ở thành Tây Xương, vậy ai đã hại nó?" Té ra hai người đều nôn nóng biết sự thực, bất giác đồng thời hỏi nhau.
Kim Trục Lưu biết sự việc có gút mắc, mới hỏi:
"Chính là Dương Hạo đã buộc lệnh ái và Lệ Nam Tinh rơi xuống cốc sâu!".
Công Tôn Hoằng kêu lên:
"Cái gì? Ngươi bảo người hại con gái ta là Dương Hạo? Lệ Nam Tinh cũng cùng bị hại với con gái ta. Làm ... làm sao có thể tin được?".
"Vậy theo lão tiền bối biết thì kẻ đó là ai?".
"Chẳng phải là bang chủ Sử Bạch Đô của Lục Hợp bang sao?".
"Ai báo tin này?".
"Chính là Lệ Nam Tinh!".
Kim Trục Lưu rất kinh ngạc:
"Có đúng là Lệ Nam Tinh không?" Công Tôn Hoằng lộ vẻ không vui:
"Mười ngày trước tôi đã gặp y, chính y đã nói cho tôi biết, sao có thể là giả được?".
Kim Trục Lưu chợt nảy ra một ý, hỏi liền:
"Công Tôn tiền bối, hình như ông đã trúng độc, là ai đã hạ độc?".
"Cũng chính là Lệ Nam Tinh!".
"Chuyện này thật khiến cho vãn bối chẳng hiểu gì cả, Lệ Nam Tinh đã có ý tốt báo tin, sao lại âm thầm hạ độc?" Công Tôn Hoằng là người già dặn, nghe Kim Trục Lưu nói như thế thì biết chắc chắn còn có nội tình, bèn kể:
"Chuyện này nói ra thì dài.
Chúng ta cứ từng bước tìm ra chân tướng. Kim thiếu hiệp. ngươi bảo con gái của ta bị Dương Hạo hại chết, có phải ngươi chính mắt thấy hay không?".
Kim Trục Lưu đáp:
"Cung Bỉnh Phan đã chứng kiến. Còn tôi thì đã tận mắt nhìn Sử Bạch Đô tự sát. Khi Sử Bạch Đô chết thì lệnh ái vẫn còn sống! Bởi vậy giáo chủ mới của Thiên ma giáo có phải là Lệ Nam Tinh hay không, chắc chắn tin y báo cho tiền bối là giả!".
"Nếu Cung Bỉnh Phan đã tận mắt chứng kiến, tại sao y không quay về báo tin?".
"Vì y đã trúng Tu la âm sát công của Dương Hạo". Thế rồi kể lại mọi chuyện cho Công Tôn Hoằng biết.
Nếu người khác nói chuyện này Công Tôn Hoằng chưa chắc đã tin. Nhưng giờ đây chính miệng Kim Trục Lưu đã nói, y tuy kinh ngạc nhưng cũng không thể không tin được.
Công Tôn Hoằng thở dài:
"Nói như thế, ta đã mắc mưu bọn chúng". Kim Trục Lưu nói:
"Nghe nói trên giang hồ có thuật dịch dung, người tinh thông thuật này có thể cải trang thành người khác". Công Tôn Hoằng trầm ngâm một lát rồi bảo:
"Nghe ngươi nói như thế ta cũng hơi nghi ngờ. Được, ta sẽ kể lại mọi chuyện".
Công Tôn Hoằng ngừng một lát, uống nửa bát canh sâm rồi tiếp tục kể:
"Năm ngoái ta và tiểu nữ đã gặp Lệ Nam Tinh và Phong Diệu Thường bên bờ sông Trường Giang, tiểu nữ cùng họ đến Tây Xương, chắc chuyện này ngươi đã biết?".
Kim Trục Lưu gật đầu:
"Phong cô nương và Tần Nguyên Hạo đã thành hôn ở núi Đại Lương vào tháng trước, tôi uống rượu mừng của họ mới trở về".
Công Tôn Hoằng mỉm cười:
"Ồ, té ra Phong cô nương đã có được trượng phu như ý, đây là chuyện đáng mừng". Rồi nghĩ thầm:
"Mình chỉ tưởng Phong cô nương và Lệ Nam Tinh là đôi tình nhân, té ra là không phải". Số là Công Tôn Hoằng đã từng có ý gả con gái của mình cho Lệ Nam Tinh, chỉ vì hiểu nhầm cho nên không dám nói ra.
Nay biết Phong Diệu Thường đã kết hôn với Tần Nguyên Hạo ông lại nhớ đến tâm sự lúc ban đầu. Nhưng chợt nghĩ lại:
"Con gái mình đã chết, Lệ Nam Tinh là thật hay giả, là xấu hay tốt đến nay vẫn chưa biết, mình còn nghĩ chuyện đó làm gì?" Nghĩ đến đây lòng không khỏi buồn bã.
Kim Trục Lưu biết ông ta đau lòng, an ủi:
"Nếu Lệ Nam Tinh vẫn chưa chết, lệnh ái có lẽ vẫn còn sống. Nay chúng ta hãy điều tra rõ ràng Lệ Nam Tinh là thật hay giả".
Công Tôn Hoằng nói:
"Đúng thế, chúng ta trở lại chuyện lúc nãy". Rồi nói tiếp:
"Tiểu nữ cùng họ đến Tây Xương đã lâu mà không có tin tức, ta rất nhớ nhung.
Nhưng sau khi ta phái Cung Bỉnh Phan đến Tây Xương thì nhận được thiệp mời của Lệ Nam Tinh".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Có phải mời tiền bối đi xem lễ không?" Công Tôn Hoằng đáp:
"Đúng thế. Sứ giả của y mời ta đi trước hai ngày. Kết quả là chỉ gặp mặt y chứ không xem lễ được. Đó là nguyên nhân tại sao ta trúng độc!" Nghĩ bụng mình là kẻ từng trải, lại là tổng đà chủ của một bang hội lớn, thế mà lại bị một tên tiểu tử ám toán không khỏi cười khổ.
Kim Trục Lưu hỏi:
"Vậy hai người đã nói với nhau những gì? Y đã ám toán tiền bối như thế nào?".
Công Tôn Hoằng tiếp tục kể:
"Thật ra ta không tán đồng Lệ Nam Tinh lập lại Thiên ma giáo".
"Lão tiền bối nói rất đúng, lúc trước Lệ Nam Tinh cũng từng từ chối lời mời của Dương Hạo".
"Ồ, vốn có chuyện này hay sao?" Kim Trục Lưu đáp:
"Cho nên tôi mới không tin rằng Lệ Nam Tinh đổi ý".
Thế rồi Công Tôn Hoằng lại tiếp tục kể:
"Ta tuy không tán đồng nhưng vì muốn biết tin tức của con gái cho nên đã đến trước hai ngày, gặp y tại núi Tồ Lai".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Tiền bối đến núi Tồ Lai có gặp Dương Hạo không?".
"Chính Dương Hạo đã ra tiếp đãi ta. Đáng tiếc lúc đó ta không biết y là kẻ thù đã hại Yến nhi".
"Dương Hạo nói như thế nào?".
"Y bảo Lệ giáo chủ vừa mới từ Tây Xương trở về, trên đường đã nhiễm bệnh, giờ đây vẫn chưa khỏe hẳn, có lẽ không thể nói nhiều được". Kim Trục Lưu chen vào:
"Bọn chúng sợ Lệ Nạm Tinh giả nói nhiều sẽ lộ sơ hở!".
Công Tôn Hoằng tiếp tục nói:
"Lúc đó ta bảo, quý giáo chủ không khỏe, theo lý ta phải thăm bệnh. Ta cũng sẽ không để cho y nói nhiều, chỉ muốn biết y muốn bàn bạc với ta chuyện gì". Dương Hạo trả lời:
"Điều đó đương nhiên, Công Tôn đà chủ đã đến đây lẽ nào tệ giáo chủ không gặp? Tôi chẳng qua phải nói trước để tiền bối khỏi trách mà thôi thế rồi y dắt ta vào nội đường gặp Lệ Nam Tinh". Kim Trục Lưu lại hỏi:
"Tiền bối có nhìn kỹ hay không?".
Công Tôn Hoằng trả lời:
"Người này trông bệnh hoạn, tướng mạo rất giống Lệ Nam Tinh, chỉ là hơi ốm hơn. Lúc đó ta tưởng vì bệnh mà thôi chứ không để ý phân biệt".
Kim Trục Lưu nghĩ bụng:
"Ông ta chỉ gặp Lệ đại ca hai lần. Dương Hạo tìm một người tướng mạo giống để giả dạng đại ca, mà lại đang nằm trên giường bệnh, ông ta không hề nghi ngờ cho nên dễ dàng bị gạt".
Công Tôn Hoằng tiếp tục:
"Bây giờ ta mới nhớ lại, ngoại trừ hơi ốm so với Lệ Nam Tinh, kẻ này còn có một điểm đáng nghi, tiếng nói của y nghe khàn khàn, rất khác khẩu âm của Lệ Nam Tinh. Nhưng đáng tiếc lúc đó ta chỉ nghĩ đó là vì y bị bệnh cho nên không hề nghi ngờ đến nỗi bị bi hạ độc thủ".
"Chỉ cần điều tra ra chân tướng, chúng ta sẽ từ từ tính sổ với y".
"Đúng thế, chuyện đã qua có tiếc nuối cũng vô dụng. Giáo chủ mới ấy nói, sau khi y và tiểu nữ đến Tây Xương tham gia nghĩa quân đánh vào phủ tướng quân, tiểu nữ không may chết trong tay Sử Bạch Đô, y cũng bị thương, may mà được sư thúc Dương Hạo cứu chạy về đây. Ta nghe được tin ấy bi phẫn vô cùng, còn y khuyên ta liên thủ với Thiên ma giáo đối phó Lục Hợp bang, nhân lúc Sử Bạch Đô chưa trở về nên thôn tính Lục Hợp bang, cắt vây cánh của y để sau này dễ trả thù hơn".
Kim Trục Lưu nghe đến đây không khỏi lạc giọng kêu lên:
"Kế hoạch thật thâm độc!".
Công Tôn Hoằng nói:
"Ta không hiểu điều này cho nên muốn hỏi lão đệ. Lục Hợp bang dựa vào triều đình, nay lão đệ đã chứng thực Dương Hạo và Sử Bạch Đô cùng một giuộc, tên giáo chủ ấy là tấm bình phong của Dương Hạo, tại sao y lại muốn nuốt Lục Hợp bang?".
Kim Trục Lưu đáp:
"Lão tiền bối không biết đó thôi, Lục Hợp bang đã có bang chủ mới, đó chính là Sử Hồng Anh cô nương. Sử Bạch Đô đã chết ở Tây Xương, Dương Hạo đoán rằng, Sử cô nương trở thành bang chủ, Lục Hợp bang sẽ không theo triều đình nữa mà gia nhập nghĩa quân cho nên muốn mượn đao giết người, dùng sức của Hồng Anh hội thâu tóm Lục Hợp bang cho y".
"May mà ta không mắc lừa. Lúc đó tuy ta đã tin y nhưng ta nghĩ nếu muốn báo thù phải quang minh lỗi lạc, làm sao có thể thừa lúc Sử Bạch Đô vắng mặt mà bắt nạt thủ hạ của y? Huống chi Lục Hợp bang cũng không phải hoàn toàn cam lòng theo triều đình! Ta từ chối lời đề nghị của y, lại khuyên y bỏ ý đồ lập lại Thiên ma giáo.
Thế là hai bên không hợp nhau, vả lại ta cũng chẳng muốn quấy rối người bệnh, cho nên đứng dậy cáo từ. Giáo chủ mới bưng trà tiễn khách".
Kim Trục Lưu tuy đã biết trước kết quả nhưng nghe đến đây không khỏi căng thẳng kêu lên:
"Chén trà ấy chắc chắn có độc! Tiền bối có uống không!".
"Ta cứ tưởng y là Lệ Nam Tinh, tuy nói không hợp nhau nhưng không hề nghĩ y sẽ bỏ độc trong trà, ta đương nhiên đã uống. Vừa uống vào liền cảm thấy có gì không ổn, nhưng đã muộn, chỉ nghe keng một tiếng, kẻ ấy ném chén trà, lẩn vào trong nội thất, té ra ở sau giường bệnh của y có một cánh cửa ngầm. Ta đưa tay chụp hụt, Dương Hạo lập tức dùng Tu la âm sát công tấn công ta, cười lạnh nói:
'Công Tôn đà chủ, ông đã đến đây xin mời ông ở lại!' Hừ, tuy ta đã trúng độc nhưng Dương Hạo làm sao giữ nổi ta? Y cười chưa dứt đã bị ta đánh gãy hai xương sườn! Đáng tiếc ta chỉ phát huy chưởng lực không đến năm thành cho nên không lấy được mạng y! Căn mật thất ấy có cơ quan, Dương Hạo bị ta đánh bay ra cửa, lập tức phát động cơ quan hạ ba cánh cửa sắt xuống nhốt ta".
Kim Trục Lưu thất kinh:
"Nhưng bọn chúng đã bố trí chu toàn như thế, sau đó tiền bối làm sao thoát hiểm?".
Công Tôn Hoằng cười:
"Bố trí tuy chu toàn nhưng cũng có sơ suất. Bọn chúng không ngờ rằng ta đã xông lên mái nhà?".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Có phải tiền bối dùng công phu miên chưởng phá mái nhà ra không?".
Công Tôn Hoằng cười nói:
"Đúng thế, ta xông ra được bên ngoài lại còn cướp một con ngựa của bọn chúng, không ai dám ngăn cản. Ta chạy về nhà mới gục xuống".
Hai bên đã kể ra hết mọi chuyện, tuy vẫn chưa tìm ra hết sự thật nhưng đã biết chắc chắn rằng giáo chủ mới của Thiên ma giáo là giả mạo. Vì thế Công Tôn Hoằng cho mời Sử Hồng Anh vào. Hai người Trang Viễn, Tần Xung phải xin lỗi Kim Trục Lưu và Sử Hồng Anh.
Thế rồi sau một hồi bàn bạc, Kim Trục Lưu và Sử Hồng Anh quyết định đột nhập vào hương đường của Thiên ma giáo ở núi Tồ Lai để vạch mặt Lệ Nam Tinh giả mạo.
Công Tôn Hoằng lại vẽ một bức địa đồ của Thiên ma giáo trao cho họ. Thế là mọi việc đã xong, Kim Trục Lưu ở lại nhà Công Tôn Hoằng một đêm, sáng sớm hôm sau cùng Sử Hồng Anh thẳng tiến đến tổng đà của Thiên ma giáo.
Hồi 42
Xua áng mây mù ra sự thật
Nửa thật nửa ảo nhớ chuyện xưa
Trong đêm trăng lờ mờ, núi Tồ Lai vẫn yên ắng lạ thường, đôi lúc chỉ nghe tiếng lá rơi xào xạc. Đó không phải là tiếng chim bay mà là có hai người khinh công cao cường đang lướt đi trong đêm tối, hai người đó chính là Sử Hồng Anh và Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu đang đi phía trước, được một hồi bỗng thấy trên sườn núi có một tòa miếu cũ. Kim Trục Lưu nói:
"Đó chính là thần miếu của Thiên ma giáo, theo Công Tôn đà chủ nói, Dương Hạo đã lập hương đường tại đây".
Đi tới gần hơn, Sử Hồng Anh kêu lên:
"Trong miếu có ánh lửa! Hình như có mùi thơm, chả lẽ có ai đang nướng thức ăn?" Nói chưa dứt lời thấy Kim Trục Lưu phóng vọt người lên, Sử Hồng Anh lại nghe tiếng nói của Kim Trục Lưu như vẫn bên tai mình:
"Muội hãy mau đến xem thử tòa miếu ấy, cẩn thận?" Té ra Kim Trục Lưu vừa phóng về phía trước bằng khinh công tuyệt đỉnh, vừa dùng nội công Truyền âm nhập mật nói chuyện với nàng. Cho nên tuy chàng đã cách mười mấy trượng mà vẫn như nói bên tai nàng.
Sử Hồng Anh ngạc nhiên:
"Sao chàng lại không vào?" Khinh công của nàng kém hơn Kim Trục Lưu, sau khi nàng bước vào tòa miếu, trong chốc lát Kim Trục Lưu cũng đã trở lại.
Sử Hồng Anh hỏi:
"Bên trong chỉ có một đống lửa chứ không thấy người. Lúc nãy huynh đi đâu thế?".
Kim Trục Lưu đáp:
"Huynh vào rừng tìm một người". Sử Hồng Anh ngạc nhiên:
"Tìm ai?" Kim Trục Lưu đáp:
"Lúc nãy muội không thấy có một bóng người nấp sau bức tường gạch hay sao?" Sử Hồng Anh ngạc nhiên hỏi lại:
"Thật không? Muội không hề thấy. Ồ, có lẽ muội không để ý".
Kim Trục Lưu:
"Huynh vừa phát hiện người ấy liền biến mất như bóng ma. Ở phía sau miếu lại không có nơi ẩn mình, trừ phi y phải nấp trong rừng".
Sử Hồng Anh cười bảo:
"Chả trách nào bỗng dưng huynh lại phóng về phía trước, vậy huynh có phát hiện gì không?".
"Chẳng phát hiện gì cả".
Sử Hồng Anh nói:
"Theo khinh công của huynh mà luận, trên đời này chỉ vài người theo kịp, theo lý mà nói, lẽ ra huynh phải đuổi kịp người đó".
"Đúng thế, dù không đuổi kịp cũng phải thấy bóng dáng của y. Cây rừng lại không rậm rạp lắm, huynh đi một vòng mới trở lại nhưng cũng chẳng phát hiện được gì. Huynh không tin người này nấp nhanh như thế. Nhưng ngoài trời có trời, ngoài người có người ...".
Sử Hồng Anh nói:
"Giả sử người đó có khinh công cao hơn huynh thì chuyện này thật kỳ lạ!".
Kim Trục Lưu cũng nghĩ như thế, nên mới nói:
"Đúng thế, giả sử người này là bằng hữu của chúng ta phải ra gặp mặt. Nếu là kẻ địch thì phải lên tiếng cảnh cáo, nhưng đã một lúc lâu như thế này mà chẳng có động tĩnh gì, huynh thật nghĩ không ra".
Sử Hồng Anh như đang ngẫm nghĩ gì đó, nàng chợt ngẩng đầu lên:
"Chả lẽ là ...". Kim Trục Lưu vội vàng:
"Muội đoán là Lệ Nam Tinh?" Sử Hồng Anh gật đầu:
"Không hiểu sao muội có dự cảm này, chắc chắn Lệ đại ca chưa chết, y biết có người giả mạo mình cho nên đến điều tra. Nói không chừng đêm nay y cũng đến".
Kim Trục Lưu gật đầu:
"Huynh cũng mong đó là sự thật".
"Huynh không tin y vẫn còn sống?".
"Dù y vẫn còn sống đã bị trọng thương, đã thế Tây Xương cách đây ngàn dặm.
Không những vậy mà khinh công còn rất cao cường! Hơn nữa, Lệ đại ca thấy chúng ta phải vui mừng chạy ra gặp mặt mới phải!".
"Thật kỳ lạ, đành chịu vậy. Dầu sao đêm nay chúng ta đến đây cũng điều tra chân tướng, nhưng chắc chắn ở đây đã có người. Huynh xem, đống lửa vẫn còn chưa tàn, khoai nướng vẫn còn ở đây".
Lúc này đã gần đến canh ba, hại người cảm thấy rét buốt, sắc trời cũng trở nên âm u hơn. Đêm nay là mùng bốn tháng ba, ánh trăng mờ ảo, tầm nhìn rất hạn chế.
Vừa lên đến trên núi chỉ thấy một tòa nhà sừng sững, Kim Trục Lưu nói:
"Chỉ trong thời gian hai ba tháng ngắn ngủi mà Dương Hạo có thể xây dựng lại hương đường của Thiên ma giáo, xem ra người của y cũng không ít".
Rồi hai người thi triển khinh công phóng lên ngọn cây cao mấy trượng, từ trên nhìn xuống tình thế của tòa nhà. Chỉ thấy bên ngoài là một lớp tường, bốn bên là bốn cánh cửa sắt. Bên trong tường có khoảng mười lớp nhà, lớp nhà có mái cao nhất chính là nội hương đường theo như trong bức địa đồ của Công Tôn Hoằng đã vẽ. .
Bốn cánh cửa sắt này đang đóng chặt, ở mỗi cửa đều có một tên lâu la cầm mõ đánh canh. Trên cửa có treo ngọn đèn lồng rất sáng, nếu có người lẻn vào không thể nào qua nổi cặp mắt của y.
Sử Hồng Anh thì thầm:
"Bức tường tuy cao nhưng không làm khó được chúng ta.
Nhưng làm thế nào mới đối phó được tên lâu la kia". Tên lâu la này đang đánh canh, nếu y bị giết, bên trong không nghe được tiếng đánh canh sẽ phát giác ra có người đột nhập. họ đang ngồi trên cây cổ thụ trước cánh cửa phía đông, nghe tên lâu la ấy lẩm bẩm:
"Lẽ ra đã đến lúc đổi canh, sao không thấy ai ra thế này?" Một lát sau quả nhiên có hai hán tử đến, một người là tên đầu mục tuần đêm, một người kia là lâu la thay phiên trực. Đầu mục ấy hỏi:
"Có phát hiện điều gì đáng nghi không?" Tên lâu la trả lời:
"Đêm nay lạnh lẽo, cả chim cú cũng trốn vào ổ, có phát hiện gì đâu?" Đầu mục ấy bảo:
"Được, các người hãy đổi phiên đi. Trời tuy lạnh nhưng cũng phải cẩn thận". Nói xong lại tiếp tục đi tuần tra. Tên lâu la vừa mới ra thay thở dài:
"Thật xui xẻo, đến phiên ta gác trời lại mưa. Ngươi có thể đi ngủ còn ta lại phải chịu đựng cho đến khi trời sáng".
Tên này trông rất yếu ớt, xem ra rất sợ lạnh, chỉ nghe y rên lên hừ hừ. Chốc chốc lại thở dài. Tên lính canh thở dài, còn Kim Trục Lưu mừng rỡ, chàng đột nhiên nghĩ ra một kế, bèn ngắt một chiếc lá, khi tên lính canh xoay người liền bắn chiếc lá vào hôn thụy huyệt sau lưng của y.
Tên lính canh chưa kịp kêu lên đã đổ người xuống. Kim Trục Lưu từ trên ngọn cây lướt xuống như chim bay, y chưa kịp ngã xuống đất chàng đã chụp lấy y Một tay cầm lấy cái mõ, miệng rên lên hừ hừ. Lúc này tên đầu mục đi tuần đêm đã trở vào.
Tuy ở mỗi cánh cửa chỉ có một người canh, nhưng có thể nghe tiếng gõ mõ của nhau, tiếng gõ mõ không ngừng lại, ba người kia đương nhiên không biết đã xảy ra chuyện.
Sử Hồng Anh vọt xuống, thì thầm:
"Huynh tính thế nào?" Kim Trục Lưu nói:
"Mau, thay đồ!" Tên lâu la này trông rất nhỏ bé, Sử Hồng Anh mặc áo ngoài của y, đội áo tơi lên mà vẫn còn rộng, nhưng nàng kéo áo che lên nửa mặt không ai nhận ra được.
Kim Trục Lưu nói:
"Hồng Anh, muội hãy thay y" Sử Hồng Anh cầm cái mõ rồi bắt đầu gõ lóc cóc. Kim Trục Lưu vác tên lâu la lên chạy ra ngoài đặt y vào giữa kẽ hai tảng đá, cười rằng:
"Bằng hữu, ở đây ấm áp hơn nhiều, ngươi đã được lợi rồi đấy!".
Giải quyết xong tên lâu la này, Kim Trục Lưu trở về bên cạnh Sử Hồng Anh, thì thầm:
"Thời tiết xấu như thế này chắc là tên đầu mục canh đêm lâu lắm mới ra trở lại. Nếu có người ra, muội cứ giết y. Huynh chỉ cần nửa canh giờ".
Tổng đà của Thiên ma giáo được canh phòng rất nghiêm ngặt, tuy bức tường cao hơn ba trượng cắm đầy đinh sắt nhưng không làm khó được Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu lẻn vào nội hương đường của giáo chủ Thiên ma giáo không hề phát ra tiếng động. Lúc này trong phòng đèn vẫn còn sáng, trên cửa sổ có in hình bóng người, Kim Trục Lưu nằm phục phía sau lưng hòn non bộ, nheo mắt nhìn vào, không khỏi thất kinh:
"Kẻ này trông chẳng khác gì Lệ đại ca!".
Hình như người ấy đã phát giác được điều gì nên nghiêng tai lắng nghe, đột nhiên y thổi tắt đèn. Kim Trục Lưu bạo dạn nhảy vọt ra, đẩy cửa sổ phóng tọt vào.
Người ấy trầm giọng quát:
"Ai?" nói chưa dứt lời Kim Trục Lưu đã chụp lấy y. Nhưng Kim Trục Lưu nghe giọng nói của y không khỏi ngạc nhiên.
Không những bề ngoài mà cả giọng nói của kẻ này cũng giống y như Lệ Nam Ti nhi "Trên đời này này sao lại có người giống nhau như thế Kim Trục Lưu đương nhiên không khỏi ngạc nhiên.
Võ công của người này rất cao, bị Kim Trục Lưu chụp một cái nhưng đã mau chóng thoát ra, trở tay điểm ngược lại vào huyệt khí du của Kim Trục Lưu, trong đêm tối chẳng mảy may sai tý nào.
Kim Trục Lưu ồ lên một tiếng, đánh ra một chiêu Phất vân thủ đẩy cú điểm của người ấy ra, kêu lên:
"Ngươi là ai?".
Kim Trục Lưu không phải chấn động bởi bản lĩnh của kẻ này mà bởi chiêu số y vừa sử dụng chính là chưởng pháp do cha chàng sáng tạo.
Người ấy cũng ngạc nhiên kêu lên:
"Ngươi là Trục Lưu hiền đệ?" Y vừa mới giao thủ hai chiêu nhanh như điện chớp với Kim Trục Lưu mà đã nhận ra chiêu số của chàng.
Kim Trục Lưu thất kinh thầm nhủ:
"Chả lẽ đây là Lệ đại ca? Không đúng?".
Chàng chợt lướt người ra phía trước, giơ tay chặn trước ngực đề phòng đánh lén, một tay kia lần mò cái đế đèn, chuẩn bị đất đèn lên để xem cho kỹ.
Người ấy kêu:
"Đừng đốt đèn!" Rồi hạ giọng ngâm bài thơ lúc trước Lệ Nam Tinh đã tặng cho Kim Trục Lưu. Đó là bài thơ do chính Lệ Nam Tinh sáng tác, ngoại trừ chàng và Kim Trục Lưu, người khác không thể nào đọc ra được!
Kim Trục Lưu nghe bài thơ ấy không còn nghi ngờ nữa. Rồi chàng lạ lẫm nói:
"Té ra ngươi là Lệ đại ca, nhưng chuyện gì thế này?" Ngay lúc này, chợt có tiếng bước chân vọng tới, Lệ Nam Tinh nói:
"Ta mời đệ xem một vở tuồng, đệ sẽ hiểu ngay". Rồi kéo Kim Trục Lưu nấp vào sau bức tường. Chỉ nghe Dương Hạo nói:
"Đêm nay ngươi hãy nghĩ kỹ lại, ngày mai chúng ta bàn tiếp".
Lệ Nam Tinh kề tai Kim Trục Lưu nói nhỏ:
"Người đi cùng với Dương Hạo chính là kẻ giả mạo ta làm giáo chủ".
Giáo chủ ấy kêu vâng một tiếng rồi nói:
"Dương sư bá, con còn muốn bàn với sư bá, sư bá hãy vào đây ngồi một lúc". Số là y nhớ lúc nãy khi đi ra đã đóng cửa sổ, nhưng giờ đây phát hiện cửa sổ đã mở biết bên trong chắc chắn có biến, không thể không đề phòng có người nấp trong phòng, y không dám lên tiếng mà chỉ ngầm bảo Dương Hạo.
Kim Trục Lưu kề bên tai Lệ Nam Tinh nói:
"Bọn chúng đến thật đúng lúc!".
Chưa dứt lời chợt nghe bình một tiếng, Dương Hạo đã tung một chưởng đẩy cánh cửa phòng, hai chân chưa bước vào đã phát ra một đòn Tu la âm sát công!
Dương Hạo tưởng rằng kẻ đích nấp trong phòng, nhưng y nằm chiêm bao cũng không ngờ rằng Kim Trục Lưu và Lệ Nam Tinh. Y nghĩ bụng trước tiên phải cho tên này nếm đòn rồi tính tiếp. Nào ngờ kẻ nếm đòn không phải là gian tế mà trái lại là y!
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Trục Lưu đã sớm nhảy vọt ra xỉa chỉ vào huyệt toàn cơ trước ngực của y. Dương Hạo cũng thật ghê gớm, y bất ngờ bị tấn công mà không hề rối loạn, trở tay móc lại chụp một đòn cầm nã thủ vào mạch môn của Kim Trục Lưu! Kim Trục Lưu hóa chỉ thành chưởng, vỗ một đòn Đại tu di chưởng thức vào ngực y.
Hai chưởng giao nhau, Dương Hạo không khỏi thối lui ba bước, té ra y đã bị chưởng lực của Kim Trục Lưu đánh bật ra cửa. Còn Kim Trục Lưu chỉ hơi chiếm thượng phong chứ không bắt được y.
Dương Hạo lúc này đã rất kinh hoảng! Y đã mấy lần giao thủ với Kim Trục Lưu, tuy chưa thấy rõ mặt chàng nhưng cũng đã nhận ra. Giáo chủ ấy đứng sau lưng Dương Hạo, đang định bước vào đã nghe Dương Hạo vội vàng nói:
"Chạy mau?" Kim Trục Lưu cười vang:
"Chạy không thoát đâu!" Rồi chàng nhóng vọt người lên không trung sau đó nhảy bổ xuống tên giáo chủ, Dương Hạo biết y không thể chịu nổi một chưởng của Kim Trục Lưu, cũng chỉ đành nhảy vọt lên chạm với Kim Trục Lưu một chưởng trên không trung.
Giáo chủ ấy vừa chạy vừa la lên:
"Có gian tế, người đâu!" Chạy được mấy bước đột nhiên cảm thấy xương tỳ bà trên vai tê rần, té ra đã bị Kim Trục Lưu chụp trúng.
Dương Hạo đối một chưởng với Kim Trục Lưu, ngực như bị búa tạ giáng vào, từ trên không trung rơi xuống, lộn người qua hòn non bộ chiếm địa hình có lợi, chuẩn bị tấn công Kim Trục Lưu. Y cười lạnh:
"Kim Trục Lưu, dù ngươi có ba đầu sáu tay hôm nay cũng khó thoát khỏi nơi này! Ngươi đừng tưởng rằng bắt được giáo chủ của bọn ta thì có thể kìm chế được bọn ta, chúng ta hãy thương lượng đi thôi!".
Bọn người trên dưới của Thiên ma giáo nghe tiếng kêu của giao chủ đã chạy ra bắt gian tế. Lệ Nam Tinh lôi tên giáo chủ ấy vào phòng, kêu:
"Hiền đệ, trở lại đây?".
Kim Trục Lưu ngạc nhiên, lòng thầm nhủ:
"Lệ đại ca thật lẩm cẩm, địch nhiều ta ít nên phóng ra ngoài. Trốn ở trong phòng chẳng phải sẽ bị người ta khua nước bắt cá hay sao!" Nhưng Lệ Nam Tinh đã kéo vào, chàng đương nhiên không thể một mình phá vòng vây, đành di theo vào.
Dương Hạo hơi sợ Kim Trục Lưu xông ra liều mạng vối mình, lúc này thấy hai người Kim, Lệ vào phòng trở lại không khỏi cười lớn:
"Kim Trục Lưu, các người không thể làm rùa rút đầu suốt đời? Người đâu, chuẩn bị độc tiễn, ống phun!" Lúc này người của Thiên ma giáo đã kéo tới, chỉ trong chốc lát đã bao vây căn phòng trùng trùng! Dương Hạo đắc ý vô cùng, cười lớn:
"Cho ngươi biết trước sự lợi hại!".
Rồi lấy một bộ cung tên từ tay một đầu mục, hai tiếng soạt soạt vang lên, hai mũi tên bay xuyên qua cửa sổ cắm lên vách tường, Dương Hạo cười lạnh lẽo:
"Kim Trục Lưu, ngươi hãy kiểm tra xem hai mũi độc tiễn ấy có phải là loại kiến huyết phong hầu hay không?" Rồi lại lấy một cái ống phun, vừa đè vào cái lẫy thì một luồng lửa phụt ra, táp vào cửa sổ. Kim Trục Lưu đánh ra một đòn Phách không chưởng dập tắt đốm lửa, nhưng mùi khét đã lan khắp phòng, rõ ràng trong ống phun là độc hỏa.
Dương Hạo quát:
"Kim Trục Lưu, hôm nay dù ngươi có ba đầu sáu tay hay mười cái mạng cũng không thể thoát được!".
Kim Trục Lưu nhìn ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy cung tên lấp lánh như sao xa, từng cái ống phun đen ngòm đang chưa vào cửa sổ.
Dương Hạo cười:
"Nhìn rõ chưa? Ta cho ngươi nửa canh giờ để thương lượng với nhau, hãy ngoan ngoãn đầu hàng còn bằng không thì ta sẽ ra tay!".
Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Xem ra khó thoát. Nhưng làm sao có thể bó tay chịu chết!" Đang định nói chuyện với Lệ Nam Tinh thì Lệ Nam Tinh đã kề tai nói nhỏ:
"Huynh có cách thoát hiểm bình an, đệ hãy canh tên này nhưng không cần điểm huyệt đạo của y".
Kim Trục Lưu đang nắm xương tỳ bà của tên giáo chủ ấy, quát:
"Ngươi động đậy là mất mạng!" Chỉ thấy Lệ Nam Tinh dời cái giường lớn rồi nằm phục xuống đất mò mẫm, lẩm bẩm:
"Cách tường ba thước sáu lấc, trên gạch có vòng tròn lõm xuống.
Ồ đây rồi?" Năm xưa khi cha mẹ Lệ Nam Tinh xây nơi đây làm phòng ngủ đã dùng loại gạch rất dày, cho nên đã hơn hai mươi năm trôi qua mà chẳng hề suy suyễn. Lần này Dương Hạo sửa sang lại phòng ốc, chỉ lợp mái chứ không bỏ gạch ở dưới đất.
Lệ Nam Tinh moi ra hai viên gạch, lộ ra một cái hang, một luồng khí ẩm mốc bốc lên. Kim Trục Lưu lấy hai viên bích linh đơn ra chia cho Lệ Nam Tinh một viên còn mình uống một viên, thế rồi cả hai kéo Lệ Nam Tinh giả cùng xuống dưới hang.
Lệ Nam Tinh đốt mồi lửa lên, thấy đó là một đường hầm dài dằng dặc. Ở lối vào có hai cánh cửa đá, Lệ Nam Tinh khóa cánh cửa đá từ bên trong lại, Cười nói:
"Bọn chúng không biết cách mở, muốn phá cánh cửa đá này ít nhất cũng phải mất ba ngày".
Giáo chủ ấy nằm mơ cũng không ngờ rằng ở dưới giường của mình lại có một đường hầm bí mật, y không khỏi kêu ồ lên, vừa mới mở miệng đã hít uế khí vào mồm.
Mùi hôi ấy khiến cho lục phủ ngũ tạng của y như lộn ngược lên, lập tức nôn oẹ một hồi. Kim Trục Lưu ngậm viên bích linh đơn trong miệng mà cũng không khỏi bịt mũi.
Lệ Nam Tinh cười lạnh lùng:
"Tuy ngươi giả mạo ta làm giáo chủ, nhưng ngươi cũng không biết nơi này. Hãy mau khai thật, ngươi và Dương Hạo có âm mưu gì?".
Giáo chủ ấy không chịu nổi uế khí, khổ sở van xin:
"Không liên quan đến tôi, tất cả đều do Dương Hạo sắp xếp. Lão là sư bá của tôi, lão bảo tôi có tướng mạo giống người, cho nên bảo tôi giả mạo làm giáo chủ, tôi không dám không nghe. Y muốn lợi dụng tôi lập lại Thiên ma giáo rồi sau đó sẽ theo triều đình kiếm một món tiền lớn.
Mong giáo chủ tha mạng?".
Lệ Nam Tinh hừ một tiếng:
"Ta không ham làm giáo chủ! Hừ, ngươi chẳng phải là kẻ chủ mưu, nhưng lại ham phú quý vinh hoa, ngươi cũng phải bị trừng phạt. Tội chết có thể tha nhưng tôi sống khó miễn" Rồi điểm vào ma huyệt của y, khiến cho y nằm cứng đờ ở đấy, cười lạnh:
"Ngươi cứ nằm ở đây ba ngày, Dương Hạo phá cánh cửa đá thì tự nhiên sẽ thả ngươi ra. Nếu không phá được thì coi như ngươi xui xẻo!".
Giáo chủ ấy thầm kêu khổ.
Lệ Nam Tinh giải quyết xong người này rồi mới có thời gian hỏi Kim Trục Lưu:
"Hiền đệ, sao hiền đệ lại biết chuyện này? Còn Sử cô nương đâu, sao không thấy đi với đệ?" Kim Trục Lưu đáp:
"Nàng đang ở ngoài, nhưng không biết có bị phát hiện hay chưa?" Rồi lại hỏi:
"Đệ đã gặp Công Tôn Hoằng. Công Tôn Yến đâu?" Chàng nghĩ bụng Lệ Nam Tinh chưa chết, chắc Công Tôn Yến vẫn còn sống. Quả nhiên Lệ Nam Tinh trả lời:
"Nàng cũng đợi ở ngoài, được, chúng ta hãy ra tiếp ứng họ".
Lệ Nam Tinh dắt Kim Trục Lưu vừa đi vừa kể lại mọi chuyện.
Ngày hôm ấy chàng từ trên vực núi nhảy xuống, nghĩ bụng chắc chắn sẽ chết, nào ngờ khi người chạm đất cảm thấy như bị ngã trên tấm nệm rất đày, tuy hơi đau nhưng không hề bị thương.
Trong Đào Hoa Cốc khí hậu nóng ẩm, đây là lúc cuối đông đầu xuân, bên ngoài rất lạnh lẽo, nhưng bên trong cốc thì muôn hoa đang nở rộ. Lệ Nam Tinh từ từ ngồi dậy, đưa mắt nhìn chỉ thấy khắp nơi đều là hoa đào, thêm tinh thần sảng khoái, nghĩ bụng đây quả thực là một kỳ ngộ hiếm có trong đời.
Không ngờ điều kỳ lạ hơn còn ở phía sau? Gió núi thổi tới chàng nghe văng vẳng có tiếng quát, Lệ Nam Tinh thầm nhủ:
"Sao Công Tôn Yến hình như vẫn chưa chạy?".
Chàng nghĩ chưa dứt thì nghe tiếng gió vù vù, một người lại rơi xuống ngay bên cạnh chàng. Lệ Nam Tinh vội vàng đỡ người ấy dậy, té ra người ấy chính là Công Tôn Yến.
Hai người thoát khỏi cái chết, gặp nhau mà như đang nằm chiêm bao! Lệ Nam Tinh xúc động vô cùng, chàng nhảy xuống cốc vì không muốn liên lụy Công Tôn Yến, tưởng rằng Công Tôn Yến thấy chàng chết sẽ tự bỏ chạy, nào ngờ nàng lại nhảy theo xuống đây!
Bất giác hai người đều tuôn nước mắt, hai tay nắm chặt lấy nhau, Lệ Nam Tinh nói:
"Yến muội, muội cần gì phải khổ như thế?" Công Tôn Yến thì thầm:
"Huynh chết rồi muội còn sống làm gì!" Lệ Nam Tinh nói:
"Không ngờ chúng ta đều chưa chết. Nhưng chúng ta đã trúng Tu la âm sát công, chỉ e không thoát nổi u cốc này.
Làm thế nào đây?" Công Tôn Yến nói:
"Dù sao muội cũng đã quyết định, sống hay chết chúng ta đều cùng ở bên nhau. Không thoát được thì có gì đáng lo?".
Mấy câu ấy nghe như chém đinh chặt sắt khiến cho Lệ Nam Tinh cảm thấy hổ thẹn, chàng vốn nghĩ rằng không thể còn thương yêu ai được nữa, tuy biết rõ Công Tôn Yến có ý với mình nhưng chàng lại giả vờ không biết, cứ coi Công Tôn Yến như muội muội. Lúc này cảm động vì nàng, không khỏi nghĩ:
"Không ngờ nàng si tình đối với mình như thế! Cổ nhân nói rất phải, dễ kiếm được báu vật vô giá, khó kiếm được tình lang. Đối với phụ nữ tuy như thế, nhưng đối với nam tử cũng đâu có khác gì? Yến muội vì mình mà coi nhẹ cái chết, mình không thể phụ lòng nàng nữa". Nghĩ đến đây thì bất giác kéo Công Tôn Yến vào lòng, cười nhẹ:
"Bây giờ huynh đã không muốn chết nữa. Còn muội?" Công Tôn Yến cũng cười:
"Muội chẳng phải đã nói rồi ư, huynh sống đương nhiên muội sẽ sống cùng huynh".
Lệ Nam Tinh nói:
"Không biết ông trời có cho chúng ta như ý hay không?" Công Tôn Yến hạ giọng:
"Có thể sống được một ngày thì tính một ngày. Muội nghĩ đại nạn không chết chắc có phước ở sau. Chắc chắn chúng ta sẽ thoát khỏi nơi này". Lệ Nam Tinh nói:
"Đúng thế, ở đây dưỡng thương xong thì nghĩ cách".
Tuy là nói thế nhưng chẳng qua Lệ Nam Tinh chỉ an ủi Công Tôn Yến mà thôi.
Họ còn có cách gì nữa? Đã bị thương bởi Tu la âm sát công chẳng thể nào chữa trị được nổi, ngoại trừ nội công của bản thân đã đến lúc đăng phong tạo cực mới có thể tự vận công đẩy hàn độc. Đừng nói là Công Tôn Yến làm không được, Lệ Nam Tinh cũng còn kém rất xa. Có lẽ Công Tôn Yến chưa biết Tu la âm sát công không chữa trị được, nhưng Lệ Nam Tinh rất hiểu điều đó Cũng như Công Tôn Yến nói:
"Sống được một ngày thì tính một ngày". Lệ Nam Tinh muốn rằng trước khi chết sẽ trải qua những ngày hạnh phúc, đương nhiên cũng muốn sống.
Nếu muốn sống trước tiên phải tìm thức ăn. Hai người đã bị trúng Tu la âm sát công, nhưng trước khi hàn độc phát tác không hề đau đớn, vẫn có thể đi lại được, chỉ là không thể vận công được mà thôi.
Chướng khí trong Đào Hoa Cốc rất dày, không những người mà thú cũng không thể sống, chim chóc cũng không có. Lệ Nam Tinh đi một hồi trong rừng đào thì biết đào hoa chướng rất lợi hại, do đó chỉ đành hái trái đào ăn đó đói mà thôi. Nhưng ở đây có đào hoa chướng, trái đào đương nhiên cũng có độc ...
Công Tôn Yến cười nói:
"Mặc kệ có độc hay không, dù sao chúng ta cũng chết Lệ Nam Tinh can:
"Khoan hãy ăn, đợi huynh thừ xem có thứ gì khác hay không".
Lệ Nam Tinh thầm nhủ:
"Đúng là phúc vô song chí, họa bất đơn hành, rơi xuống u cốc đã là đường cùng, trong cốc lại có đào hoa chướng cực độc, đừng nói không tìm ra thức ăn, dù có tìm ra e rằng cũng chỉ sống không quá ba ngày".
Công Tôn Yến lại cười:
"Sao Lệ đại ca lại rầu rĩ như thế, hoa đào ở đây nở rất đẹp, nếu chúng ta được chết ở nơi đây cũng không uổng một đời!" Lệ Nam Tinh nghe thế bất giác cười khổ.
Lệ Nam Tinh đang tuyệt vọng chợt một ý nghĩ nảy ra, chàng nghĩ:
"Thật kỳ lạ, tại sao mình hít chướng khí mà vẫn không hề choáng váng". Rồi chàng nhìn lại sắc mặt của Công Tôn Yến, chỉ thấy nàng hình như càng tươi tỉnh hơn.
Lệ Nam Tinh nói:
"Yến muối, muội hãy thử hít sâu một hơi, coi thử trong ngực có cảm giác khó thở không?" Công Tôn Yến không biết có đào hoa chướng cho nên hít sâu mấy hơi nói:
"Thơm thật! Thật thoải mái!".
Trong một lúc Lệ Nam Tinh cũng không biết nguyên nhân, thầm nhủ:
"Chả lẽ đúng là ông trời phù hộ, độc trong chướng khí có thể làm giảm hàn độc của Tu la âm sát công?".
Bất giác cả hai đã đi đến gần dòng suối, Công Tôn Yến vỗ tay cười rằng:
"Đại ca mau đến xem có đồ ăn đây rồi". Té ra trong đầm nước dưới ngọn thác có cá bơi vô số.
Lệ Nam Tinh không khỏi ngạc nhiên, trong Đào Hoa Cốc không có chim chóc, nhưng dưới nước lại có cá, điều đó khiến chàng thắc mắc.
Công Tôn Yến nói:
"Đáng tiếc muội không có cần câu. Uống nước trước rồi tính". Lệ Nam Tinh nói:
"Đừng!" Công Tôn Yến đã cúi xuống uống mấy ngụm nước.
Nàng ngẩng đầu lên cười tươi:
"Sao lại đừng, nước ở đây vừa mát vừa ngọn".
Lệ Nam Tinh thầm nhủ:
"Chướng khí không hại được chúng ta, chắc nước ở đây có thể uống được. Hình như đây là loại cá đặc biệt. Dù sao cũng phải chết, cứ liều một phen xem sao".
Lệ Nam Tinh tinh thông thủy tính, nói:
"Không cần cần câu, huynh sẽ bắt cá cho muội". Thế là đêm ấy họ đã có được một bữa cá nướng.
Cá ở đây vừa thơm vừa béo, ăn vào miệng có hương vị rất đặc biệt, tựa như hít phải hương hoa. Hai người ăn luôn cả xương cá. Công Tôn Yến cười nói:
"Mỗi ngày có cá tươi ăn, huynh và muội có thể sống suốt đời ở Đào Hoa Cốc".
Không ngờ vui quá hóa buồn, sau khi ăn cá nướng xong đột nhiên ở đan điền có luồng khí nóng bốc lên, một lát sau toàn thân phát nóng như lửa đốt.
Công Tôn Yến rên rỉ:
"Muội sắp chết rồi, muội sắp chết rồi!" Rồi nàng nhảy ào xuống đầm nước. Lệ Nam Tinh kinh hoảng nói:
"Hình như nước trong đầm có độc?".
Rồi cũng nhảy xuống kéo nàng lên, Công Tôn Yến cười nói:
"Thật dễ chịu, muội thà trúng độc mà chết chứ không thể chịu nổi cái khổ bị nóng như lửa đốt!".
Lệ Nam Tinh chợt nghĩ bụng:
"Mình vốn đã trúng Tu la âm sát công, tại sao nhảy xuống đầm nước mà chẳng hề thấy lạnh? Chả lẽ chướng khí và cá trong đầm có thể trị hàn độc?".
Lệ Nam Tinh đã từng đọc qua Bách độc chân kinh, lúc này mới hiểu ra đạo lý lấy độc công độc, vì thế không ngăn cản Công Tôn Yến nữa mà cùng nàng bơi trong đầm.
Quả nhiên sau ba ngày ăn cá nướng, hai người thử vận công thì chân khí đã vận hành thông suốt. Đến ngày thứ năm hàn độc trong người đã không còn. Lệ Nam Tinh biết không còn hàn độc nữa vui vẻ nói:
"Không thể ăn loại cá này nữa, nếu ăn thì chúng ta sẽ trúng nhiệt độc".
Công Tôn Yến nói:
"Đúng thế hôm nay muội cũng cảm thấy có gì không ổn, hình như tinh thần không giống như như hai ngày trước nữa. Lệ đại ca, huynh có cảm thấy váng đầu không?".
Lệ Nam Tinh trả lời:
"Đó là bởi vì hàn độc trong người chúng ta đã không còn, cho nên bắt đầu cảm thấy bị ảnh hưởng bởi chướng khí. Dù có thức ăn, chúng ta cũng không thể ở lại nơi này nữa".
Công Tôn Yến nói:
"Hỏng bét, làm thế nào bây giờ? Ồ, Lệ đại ca, đại ca đang nghĩ gì thế?" Lệ Nam Tinh trầm ngâm rồi đột nhiên kêu lên:
"Chúng ta có thể thoát hiểm, muội hãy theo huynh!".
Công Tôn Yến nửa tin nửa ngờ:
"Huynh đã phát hiện ra điều gì? Công lực của muội vẫn chưa hoàn toàn hồi phục, làm sao trèo lên?".
Lệ Nam Tinh cười:
"Không cần phí sức, ở u cốc này còn có một con đường nữa".
Công Tôn Yến vui mừng, còn tưởng Lệ Nam Tinh an ủi mình, nàng hỏi lại:
"Thật không?".
Lệ Nam Tinh chỉ dòng thác:
"Chính là ở đằng sau dòng thác!".
Hồi 43
U cốc hoa rơi giấu bóng hiệp
Sao tỏ trăng mờ chứng uyên ương
Công Tôn Yến vừa mừng vừa ngạc nhiên:
"Sao huynh biết?".
Lệ Nam Tinh đáp:
"Cá trong đầm từ trên thác bơi xuống, muội có thấy không?".
Công Tôn Yến hỏi:
"Thì sao?".
"Cá rất khó sống trong dòng thác, do đó có thể đoán rằng không phải từ trên núi xuống. Mấy ngày nay huynh đã quan sát, cá từ trên dòng thác trôi xuống, cao nhất cũng chẳng qua xuất hiện ở núi cao hơn ba trượng. Ở độ cao này, lượng nước đột nhiên dâng lên, màu nước cũng hơi tối, đó là hiện tượng sinh ra do hai dòng nước hợp lại với nhau. Bởi vậy huynh đoán rằng sau dòng thác chắc chắn có nguồn nước, chúng ta hãy tìm nguồn nước ấy thì có thể có được lối ra".
Lệ Nam Tinh tinh thông thủy tính, Công Tôn Yến lớn lên bên bờ sông Trường Giang, tuy không giỏi như chàng nhưng cũng không kém. Thế rồi hai người thi triển khinh công phóng lên ở chỗ cao hơn ba trượng, dùng thân pháp Yến tử phiên liên nhảy vọt vào dòng thác, quả nhiên đã phát hiện một cái hang.
Trong hang này có một dòng nước chảy ra, may mà nước trong hang không sâu, chỉ đến eo lưng mà thôi. Công Tôn Yến và Lệ Nam Tinh ra khỏi cái hang ấy quả nhiên phát hiện có một lối ra.
Kim Trục Lưu nghe đến đây cười rằng:
"Hôm đó đệ đã đến Đào Hoa Cốc tìm hai người, cũng phát giác dòng thác nhưng đáng tiếc đã không nhảy xuống xem, cũng không ngờ rằng phía sau dòng thác có hang".
"Sau khi chúng tôi thoát ra vốn muốn đến tìm đệ. Nhưng trên đường đã nghe được tin nghĩa quân rút khỏi Tây Xương, căn cứ ở núi Đại Lương cũng dời đi nơi khác.
Chúng tôi không cách nào nghe ngóng tin tức của nghĩa quân đành bỏ ý nghĩ đi tìm đệ. Công Tôn Yến sợ cha nàng nhớ nhung cho nên chúng tôi định quay về mời cha nàng trả thù. Nhưng chúng tôi không đến Hồng Anh mà đến nơi này trước, đó là chuyện không thể ngờ được. Đệ đã gặp Công Tôn đà chủ, chắc là đã biết nguyên nhân?".
Kim Trục Lưu nói:
"Trên đường quay về miền nam, có phải hai người biết chuyện Công Tôn đà chủ gặp nạn không?".
Lệ Nam Tinh đáp:
"Đúng thế, chúng tôi biết có người giả mạo tôi lập lại Thiên ma giáo, Công Tôn đà chủ lại bị thương, sau khi cân nhắc nặng nhẹ, chúng tôi đã đến đây trước. Huynh nghĩ Công Tôn đà chủ không đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng".
Kim Trục Lưu nói:
"Huynh đoán không sai, Công Tôn tiền bối vài ngày nữa sẽ khỏe".
Lệ Nam Tinh nói:
"Gia mẫu đã đưa cho huynh một tấm bản đồ bí mật của tổng đà Thiên ma giáo, vốn muốn huynh tìm tung tích của cái chuông có khắc Bách độc chân kinh. Sau đó huynh biết cái chuông đồng này không còn nữa, nên không tới, không ngờ hôm nay lại dùng đến tấm bản đồ này".
Kim Trục Lưu cười rằng:
"Té ra là thế, chả trách gì huynh chẳng hề lo lắng, như thế Công Tôn cô nương chắc là đang đợi huynh ở lối vào địa đạo?".
Lệ Nam Tinh hỏi:
"Đúng thế. Còn Sử cô nương đâu?".
Kim Trục Lưu nói:
"Anh muội cải trang thành tên lính canh, ở đây xảy ra nhiều chuyện, không biết nàng có bị phát hiện hay chưa?" Lúc này họ đã đến gần lối ra, Kim Trục Lưu chợt kêu ồ một tiếng rồi kêu:
"Hình như bên ngoài có tiếng binh khí chạm nhau!".
Lại nói Sử Hồng Anh đang canh ở ngoài, trời đang mưa, gió lạnh căm căm nhưng trong lòng nàng lại như lửa đốt, chờ mãi mà vẫn chẳng thấy Kim Trục Lưu ra, không biết chàng như thế nào? Khoảng một canh giờ trôi qua mà cũng chẳng thấy động tĩnh gì, Sử Hồng Anh không dám tự tiện bỏ đi chỉ đành chờ đợi.
Đang lo lắng thì chợt thấy có bốn đầu mục đi về phía mình. Sử Hồng Anh giật mình thầm nhủ:
"Lúc nãy chỉ có một người tuần đêm, sao lúc này lại có đến bốn người?" Nàng cảm thấy không xong, nhưng chỉ sợ đánh cỏ động rắn hỏng chuyện lớn nên nhất thời vẫn chưa dám ra tay.
Nào ngờ Sử Hồng Anh chưa dám ra tay đối phương đã tiên hạ thủ vi cường?
Chợt nghe tiếng gió vù vù, bốn người đó đã đồng thời ra tay, bốn mặt ám khí đã đánh tới. Dù Sử Hồng Anh lách về phía bên nào cũng khó tránh bị trúng. Sử Hồng Anh nghe tiếng ám khí xé gió biết đó là bốn cao thủ. Nàng chưa rút vũ khí ra khỏi vỏ, chỉ sợ không thể chụp được bằng tay không.
Cũng may nàng xoay người, lột cái áo tơi ra, cái áo tơi lập tức biến thành một cái thuẫn bài, bốn mặt ám khí đều bị nàng phất chiếc áo tơi đánh rơi xuống. Hành tung nàng đã bị lộ, bốn người kia quát lên:
"Tên tiểu tử quả nhiên là gian tế!".
"Tiểu tử nào, ả ... là con tiện tỳ Sử Hồng Anh!".
"Ta tưởng là ai, té ra là con yêu nữ mưu hại huynh trưởng!".
"Dương lão tiền bối thần cơ diệu toán quả nhiên tính không sai!".
Té ra lúc này Dương Hạo đã phát hiện ra hai người Kim, Lệ, y đã điều binh khiển tướng mà Sử Hồng Anh chẳng hề hay biết.
Dương Hạo là người già dặn, tại sao Kim Trục Lưu đột nhập vào bên trong mà bọn lính canh chẳng hề hay biết? Y liệu rằng chàng chắc chắn có người đi cùng, nếu không tên lính canh lúc nãy là đồng đảng của chàng. Vì thế y sai bốn người ra, đó chẳng phải là bốn đầu mục tầm thường, mà là cao thủ thuộc hàng nhất lưu của Thiên ma giáo! Công phu đánh rơi ám khí của Sử Hồng Anh chính là tuyệt kỹ gia truyền Triêm y thập bát điệt của nhà họ Sử, có ba người đã từng thấy Sử Bạch Đô sử dụng cho nên vừa nhìn lập tức nhận ra Sử Hồng Anh.
Bốn người này lập tức phóng vọt lên. Một người sử dụng một cây khai sơn đao sóng dày, một người sử dụng thủy ma cường tiên, một người dùng thanh đồng giản.
Người cuối cùng là một ông già mặc áo vàng chỉ có đôi tay không. Nhưng bản lĩnh của lão già này hơn hẳn bốn người kia.
Ông già áo vàng đi sau nhưng đến trước, Sử Hồng Anh phất cái áo tơi, đánh ra chiêu số Dạ chiến bát phương, phối hợp với công phu Triêm y thập bát điệt, đánh bạt khai sơn đao và thủy ma cương tiên, không ngờ lại không thể chặn nổi ông già tay không, chỉ trong chớp mắt chiếc áo tơi đã bị ông già xé rách thành hai mảnh.
Sử Hồng Anh xoay người đổi bước, kêu lên:
"Đến rất đúng lúc!" Đột nhiên nàng thấy chưởng khí lạnh lẽo, một luồng bạch quang chói mắt lóe lên, một thanh kiếm đã thò ra khỏi chiếc áo tơi.
Ông già áo vàng không ngờ nàng rút kiếm nhanh như thế, vội vàng rút tay phải lại, tay trái co lại thúc chỏ ra. Chỉ thấy ánh hàn quang chớp lên, ống tay áo của ông già áo vàng bị chém một mảnh, may mà lão giấu tay trong ống, nhát kiếm chỉ chém hụt nửa tấc, nếu không năm ngón tay của lão đã rơi xuống đất, Sử Hồng Anh suýt nữa cũng bị lão thúc chỏ trúng, nàng loạng choạng bước xéo hai bước, ném cái áo tơi đã bị rách, tay trái tháo ngọn roi mềm xuống.
Chỉ trong vòng một chiêu mà đôi bên đã sử dụng chiêu số sát thủ, đúng là nguy hiểm đến cực điểm! Sử Hồng Anh đương nhiên thầm kêu khổ, chỉ e nàng không thể phá vòng vây. Ông già áo vàng cũng không khỏi thất kinh, vốn là Ưng bảo thủ của lão đánh ra liên tục ba chiêu, nhưng trước kiếm pháp hiểm hóc của Sử Hồng Anh, lão đành rút tay chứ không dám tấn công.
Hán tử sử dụng cái thanh đồng giản tựa nhiên nhận ra Sử Hồng Anh không vững bước chân, tưởng rằng có thể lấn tới, quát rằng:
"Cùng nhau xông lên!" Liền đánh ra một chiêu Cử hỏa thiêu thiên, cái thanh đồng giở lên định giáng xuống cây trường kiếm của Sử Hồng Anh, hán tử sử dụng thủy ma cương tiên nghe quát như thế lập tức đánh ra một chiêu Thiết lê canh địa, cây roi dài quét tới, đánh vào hai chân của Sử Hồng Anh.
Hai người đã phối hợp với nhau rất kín kẽ, nếu Sử Hồng Anh ứng phó sai sót thì thế nào cũng trúng đòn.
Nào ngờ bước chân của nàng tuy xem của có vẻ loạng choạng nhưng đó chính là bộ pháp Túy bát tiên.
Hai người này tuy phối hợp rất kín kẽ nhưng chẳng làm gì được nàng. Lúc này nàng đã tháo roi xuống, dùng roi chống roi, cây roi mềm cuộn vào thủy ma cương tiên của người ấy. Còn cây kiếm chống lại thanh đồng giảng, mũi kiếm lệch qua một bên, dùng tự quyết chữ "ngự" nhẹ nhàng bạt cây thanh đồng giản sang một bên. Hán tử sử dùng thủy ma cương tiên trầm eo tọa mã, dùng lực giật lại!
Sử Hồng Anh chồm bên về phía trước, chân vẫn thi triển bộ pháp Túy bát tiên, nàng thuận thế chồm về phía trước, đâm soạt ra một kiếm từ phương vị mà hán tử sử dụng thanh đồng giản không ngờ đến. Mũi kiếm suýt nữa đâm xuyên vào xương tỳ bà của y. Lúc này lão già áo vàng đã nhảy bổ lên.
Sử Hồng Anh nghe tiếng gió, lập tức trở tay đâm lại một kiếm, hoá giải tuyệt chiêu ưng trảo công của đối thủ! Rồi nàng nhanh như chớp rút ngọn roi mềm ra, buông hán tử sử dụng thủy ma cương tiên, người lướt nhẹ, cây roi dài quét ra một chiêu Phong quát lạc hoa, quét cây khai sơn đao chém tới từ bên mặt mình.
Với bản lĩnh của Sử Hồng Anh, nếu đơn đả độc đấu kể cả bốn người cũng chẳng phải là đối thủ của nàng, nhưng vì bọn chúng vây đánh cho nên Sử Hồng Anh hơi khó ứng phó. Nếu kéo dài chắc chắn sẽ thua thiệt, nàng thầm nhủ:
"Không biết Trục Lưu bên trong đã như thế nào? Nhưng mình bị người ta phát hiện như thế này, không cần lo đánh cỏ động rắn nữa". Rồi dùng liền công phu Truyền âm nhập mật nói lớn:
"Trục Lưu, ra đây mau?" Nàng nào biết, lúc này Kim Trục Lưu và Lệ Nam Tinh đang ở trong đường hầm.
Bốn người này là cao thủ thuộc hạng nhất lưu trong Thiên ma giáo, cảm thấy vây đánh một thiếu nữ là chuyện quá mất mặt, dù đang núng thế cũng không dám cầu viện.
Ông già áo vàng liên tục đánh ra những chiêu cầm nã thủ hiểm hóc khiến Sử Hồng Anh phải tránh đông né tay. Y đắc ý, cười ha hả:
"Tên tiểu tử họ Kim ấy đã bị bắt, ngươi hãy ngoan ngoãn hạ binh khí theo ta vào trong!".
Nói chưa dứt lời, chợt nghe có tiếng ám khí xé gió bay tới, một giọng nói trong trẻo vang lên:
"Còn ta ở đây nữa! Không cần Kim Trục Lưu đích thân ra tay, ta và Sử tỷ tỷ sẽ thu thập bọn ngươi".
Hán tử sử dụng khai sơn đao nghe tiếng ám khí xé gió bay tới vẫn không chịu né tránh, y chợt cảm thấy ở hông tê rần, té ra đã trúng một mũi tiền tiêu, kêu lên oai oái rằng:
"Hảo nha đầu, ngươi ... ngươi dám ám toán ...". Chưa kịp nói ra hai chữ "lão tử".
đã đổ ầm xuống. Té ra mũi tiền tiêu đã đánh trúng vào huyệt khí du của y!
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ thấy một thiếu nữ áo đen hai tay cầm hai cây kiếm lao tới như con gió! Sử Hồng Anh vừa lo vừa mừng, kêu lên:
"Công Tôn tỷ tỷ, cô ... cô té ra ...". Công Tôn Yến cười tươi:
"Đúng thế tôi vẫn chưa trả thù nên không nỡ chết!" Bốn người kia thấy Công Tôn Yến đột nhiên xuất hiện không khỏi cả kinh! Bọn họ không phải sợ Công Tôn Yến mà bởi sợ cha của nàng!
Công Tôn Hoằng uống phải thuốc độc, lại trúng một đòn Tu la âm sát công vẫn thoát ra khỏi tổng đà của Thiên ma giáo khiến cho người trong Thiên ma giáo đều kinh hãi! Ai nấy cũng sợ sau khi ông ta dưỡng thương xong sẽ tìm đến trả thù.
Lúc này thấy Công Tôn Yến tới trong bụng mọi người đều nghĩ:
"Chắc chắn Công Tôn Yến không đi một mình đến, nói không chừng Công Tôn Hoằng nấp một bên rồi lát nữa đối phó với chúng ta!".
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Công Tôn Yến lướt tới như con gió, hai kiếm múa như rồng bay, tay trái đánh ra một chiêu Đại bàng cô yên, thanh kiếm đâm thẳng lên như mũi tên, xỉa vào yết hầu của ông già áo vàng, tay phải đánh một chiêu Trường hà lạc nhật, kiếm thế chém thẳng vào hán tử sử dụng khai sơn đao.
Ông già áo vàng vội vàng kêu lên:
"Ta rất kính nể lệnh tôn, không dám đắc tội cô nương. Cô nương có điều chi hãy nói!" Nhưng Công Tôn Yến xuất kiếm rất lợi hại, ông già áo vàng nói chưa dứt lời cảm thấy be sườn tê rần, té ra đã bị Công Tôn Yến đâm trúng huyệt đạo. Số là ông già này tuy không bằng Công Tôn Yến nhưng cũng không cách nhau xa lắm, ít nhất phải đến trăm chiêu mới bại, nhưng chỉ vì trong lòng hoảng hốt, chẳng còn ý chí chiến đấu cho nên vừa chạm mặt đã bị trúng đòn của Công Tôn Yến.
Hán tử sử dụng khai sơn đao bản lĩnh kém hơn, nhưng lại là tâm phúc của Dương Hạo, lớn gan hơn ông già áo vàng, nên khi Công Tôn Yến đâm kiếm về phía y, y lập tức múa đao chống đỡ, lòng thầm nhủ:
"Dù lão già Công Tôn Hoằng đến đây, mình cũng phải đánh rơi kiếm của ả rồi tính tiếp!".
Công Tôn Yến đâm một kiếm trúng ông già áo vàng, quát:
"Thấy ngươi kính trọng cha ta, ta tha chết cho ngươi!" Rồi cười lạnh lùng, kiếm trái đánh ra một vòng, vòng kiếm chạm vào cây khai sơn đao, kiếm phải rút ra đâm soạt vào vòng kiếm ấy, cười lạnh:
"Còn ngươi thì vỗ lễ, ta không thể tha!".
Chỉ nghe soạt một tiếng, một cánh tay của người ấy đã bị Công Tôn Yến chặt đứt, ở trước ngực cũng trúng một kiếm, đau đến nỗi ngất đi.
Khi Công Tôn Yến thu thập hai kẻ này, Sử Hồng Anh cũng đã vung roi đánh nát xương tỳ bà của hán tử cầm thủy ma cương tiên, rồi tiếp theo đâm bị thương hán tử sử dụng cây thanh đồng giản. Cả hai người này cũng đều ngã xuống đất không bò dậy nổi.
Sử Hồng Anh vui mừng đến nỗi chẳng nói ra lời, Công Tôn Yến cười bảo:
"Tỷ không ngờ gặp tôi ở đây chứ gì? Nghe nói tỷ đã là bang chủ của Lục Hợp bang, xin chúc mừng!".
Sử Hồng Anh gạt đi:
"Khoan hãy nói chuyện này, Lệ đại ca đâu?" Công Tôn Yến đáp:
"Có kẻ giả danh chàng làm giáo chủ Thiên ma giáo, chàng đã tìm y tính sổ".
Lúc này Dương Hạo đang chỉ huy đồng đảng bao vây hai người Kim, Lệ, trong hương đường có tiếng quát vọng ra. Sử Hồng Anh nói:
"Tôi và Kim Trục Lưu đến vì chuyện này. Ồ, tỷ nghe xem! Hình như bên trong có tiếng đánh nhau. Chúng ta vào xem thử!".
Công Tôn Yến cười:
"Không cần vào, tỷ hãy đi theo tôi, chắc chắn sẽ gặp được họ". Nói chưa dứt lời thì nghe có tiếng la lên:
"Bắt gian tế, hãy mau ra bắt gian tế!".
Công Tôn Yến thúc:
"Chạy mau, chạy mâu!".
Sử Hồng Anh không biết nàng có ý đồ gì, đành chạy theo nàng. Những kẻ vừa mới la lên chỉ là những tiểu đầu mục, cho nên chẳng ai dám đuổi theo họ. Công Tôn Yến chạy trước dẫn đường, trong chốc lát thì đã đến hậu sơn, lúc này truy binh đã ở phía xa, cả tiếng la hét cũng không nghe thấy.
Công Tôn Yến ngừng bước, lẩm bẩm:
"Đúng thế, chính là nơi này". Sử Hồng Anh nói:
"Tỷ dắt tôi ra đây làm gì?" Té ra họ đang đứng trong một bụi gai.
Công Tôn Yến nói:
"Ở đây có một đường hầm, có thể dẫn đến nội hương đường của Thiên ma giáo. Lệ đại ca đã hẹn với tôi, nếu bên trong xảy ra chuyện gì thì y sẽ thoát ra từ địa đạo này".
Sử Hồng Anh mới hiểu ra:
"Té ra là thế, nhưng không biết họ đã gặp nhau chưa?".
Công Tôn Yến nói:
"Nếu tỷ nóng lòng chúng ta cứ vào xem thử. Dù sao bên trong cũng không có người".
Công Tôn Yến đang định chỉ nàng cách mở địa đạo Sử Hồng Anh kêu ồ một tiếng:
"Hình như có tiếng gì đó, chẳng lẽ là ..." Nói chưa đứt lời chỉ nghe tiếng gió lướt tới, quả nhiên có một người chạy tới. Sử Hồng Anh thất kinh:
"Kẻ này là ai, khinh công sao lại cao minh như thế?" Công Tôn Yến quát:
"Ai?" Đột nhiên một bóng đen hiện ra trước mặt họ, kẻ ấy cười lạnh lùng:
"Té ra là hai con nha đầu thối nhà ngươi, hay lắm, đêm nay các người đụng phải ta, hãy thường mạng cho Trung nhi của ta!".
Kẻ này chính là Văn Đạo Trang. Sử Hồng Anh thấy bản lĩnh của y ghê gớm như thế lập tức tiên phát chế nhân, nàng đâm soạt tới một kiếm vào huyệt kiên tĩnh trên vai trái của y. Công Tôn Yến lướt xéo người tiến tới tựa như cơn gió, phối hợp với Sử Hồng Anh đâm vào vai phải của y.
Kiếm pháp của hai người này đều có sở trường nhanh nhẹn, không ngờ họ đâm kiếm ra tuy nhanh nhưng cũng bị hụt.
Trong chưởng phong kiếm ảnh, chỉ nghe bình một tiếng, một gốc cây to như cái bát bị chém gãy. Chưởng lực của Văn Đạo Trang dồn tới như dời núi lấp biển, dù Sử Hồng Anh né tránh lanh lẹ nhưng thấy thanh thế của y cũng không khỏi thầm thất kinh. Văn Đạo Trang cười lên điên cuồng:
"Có biết lợi hại chưa?" Rồi vỗ vù một chưởng về phía Công Tôn Yến. Công Tôn Yến rút kiếm hộ thân, chỉ nghe tiếng ong ong vang lên không ngớt bên tai, mũi kiếm bị chưởng lực đánh rung lên bần bận Sử Hồng Anh thấy tình thế không xong, vội vàng múa kiếm tấn công, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chưởng thứ ba của Văn Đạo Trang đã dồn tới nhưng không hề phát ra tiếng, Sử Hồng Anh ngạc nhiên, nàng chợt chột dạ, cảm thấy một luồng chưởng lực đồn tới ào ạt. May mà khinh công của nàng cao cường, vừa cảm thấy không xong lập tức tung người nhảy vọt ra. Nàng né tránh tuy nhanh nhưng ngực như cũng bị giáng một nhát búa, lục phủ ngũ tạng nhộn nhạo cả lên, té ra đó chính là Tam tượng thần công.
Sử Hồng Anh vừa thất kinh, vừa ngạc nhiên. Nàng đã từng thấy Văn Đạo Trang sử dụng Tam tượng thần công nhưng không ghê gớm như lúc này. Sử Hồng Anh thầm nhủ, sao chỉ cách có ba tháng mà y lại tiến bộ nhiều như thế.
Sử Hồng Anh không hề biết rằng, té ra Tam tượng thần công là loại nội công lưng chừng giữa chính và tà có thể luyện bằng hai cách, nếu bằng con đường chính tông thì công lực chỉ tiến bộ rất chậm nhưng lại tinh thuần, chẳng hề có hại cho sức khỏe. Nếu luyện bằng con đường bá đạo sẽ thấy hiệu quả rất nhanh nhưng rất có hại cho mình.
Hỏa hầu của Văn Đạo Trang còn cách xa cảnh giới lô hỏa thuần thanh, y vốn không dám luyện theo cách của tà phái, nhưng sau khi con trai đã chết, y nóng lòng muốn trả thù nên rơi vào trạng thái điên cuồng, đã luyện Tam tượng thần công bằng cách bá đạo nhất. Sau khi đại công cáo thành mới phát giác mình đã sắp bị tẩu hỏa nhập ma, nhiều thì một năm, ít thì nửa năm sẽ trở thành một người tàn phế. Y đã bước vào ma đạo, khi phát giác mình sắp tẩu hỏa nhập ma lại nôn nóng hơn, càng muốn trong nửa năm phải giết cho sạch kẻ thù. Lần này y đến núi Tồ Lai là muốn liên thủ với Dương Hạo giết sạch hết kẻ thù của mình.
Mấy tháng qua Sử Hồng Anh đi bên cạnh Kim Trục Lưu đã học được rất nhiều, nàng được Kim Trục Lưu truyền thụ tâm pháp nội công chính tông, nay cũng có chút ít thành tựu. Nên tuy cảm thấy rất mất sức nhưng vẫn có thể gắng gượng chống đỡ nổi. Rồi nàng vận khí ba vòng trầm khí xuống đan điền, cơn đau nhói ở ngực tan biến.
Kiếm pháp của Công Tôn Yến cực kỳ tinh diệu nhưng công lực hơi kém hơn Sử Hồng Anh. Trước những đòn tấn công mãnh liệt của Văn Đạo Trang, Sử Hồng Anh có thể cầm cự, còn Công Tôn Yến đã đuối sức Lúc này Công Tôn Yến đang đứng ở trước cửa đường hầm, nàng mong Kim Trục Lưu và Lệ Nam Tinh nhưng chẳng thấy, nên trong lòng rất lo lắng. Thế rồi nàng đánh hờ ra một chiêu, chạy vòng qua gốc cây rồi vội vàng phát ra một tiếng huýt sáo dài.
Nàng huýt tiếng sáo ấy là để gọi hai người Kim, Lệ nhưng Văn Đạo Trang lại nghĩ rằng nàng hối thúc cha mình, y mới nghĩ:
"Không ngờ lão già Công. Tôn Hoàng lại đến đây, bên trong có tiếng la hét chắc là lão ta đang đánh nhau với bọn Dương Hạo.
Nếu lão ra đây giúp cho hai tên nha đầu này thì chẳng có lợi cho thình".
Công Tôn Yến rất lanh lẹ, nàng phát giác Văn Đạo Trang hơi khựng người lại, chưởng lực hình như giảm yếu đi, đoán liền được ý của đối phương, nàng kêu lên:
"Cha, mau đến đây!".
Công Tôn Yến vốn muốn quấy rối tinh thần của đối phương để mong có thể kéo dài thời gian. Nhưng nào ngờ lại khiến cho Văn Đạo Trang ráng sức tung sát chiêu.
Văn Đạo Trang chợt cười khảy, nói gọn từng tiếng:
"Dù lão già Công Tôn đến dây ta cũng không sợ. Ngươi cũng không thể sống mà gặp mặt cha ngươi nữa!".
Chợt nghe ầm một tiếng, Vãn Đạo Trang chém gãy một gốc cây, Công Tôn Yến đứng sau gốc cây ấy suýt nữa cũng bị đè trúng.
Lối ra của đường hầm là một mảnh đất trống đầy gai, chỉ có gốc cây này che lại.
Gốc cây ngã xuống, Công Tôn Yến cũng khó né tránh, Văn Đạo Trang đánh liền ra ba chưởng như sấm sét!
Sử Hồng Anh dùng cả roi lẫn kiếm, nàng vung cây roi dài cuộn lấy chân Văn Đạo Trang, còn tay cầm đoản kiếm lướt sát tới, mạo hiểm đồng thời tấn công vào ba nơi yếu hại trên người của y, nhát đâm bên trái hướng vào huyệt nhũ đột, nhát đâm bên phải hướng vào huyệt kim tĩnh, nhát đâm ở giữa hướng vào huyệt khí du. Chiêu này hiểm hóc lạ thường, Văn Đạo Trang đành tạm thời buông Công Tôn Yến, y xoay người lớn giông quát:
"Ta giết ả nha đầu thối nhà ngươi trước!" Chưởng lực tức thì dồn tới, ánh kiếm quang lập tức bị tán loạn, ngay lúc này Sử Hồng Anh chỉ cảm thấy vai hơi đau nhói, soạt một tiếng, áo trên vai phải đã bị Văn Đạo Trang xé rách! Té ra Văn Đạo Trang muốn bóp nát xương tỳ bà của nàng, Sử Hồng Anh vội vàng tránh ra.
Đồng thời Công Tôn Yến cũng đã đâm kiếm tới để cứu Sử Hồng Anh. Động tác của ba người đều nhanh như điện chớp, Văn Đạo Trang không kịp đuổi theo Sử Hồng Anh y xoay người búng keng một tiếng, đánh bật cây kiếm của Công Tôn Yến ra rồi mau chóng hóa chỉ thành chưởng, vạch ra nửa hình vòng cung, hai chưởng đồng thời đánh ra chiêu Điện lôi giao oanh!
Công lực Công Tôn Yến hơi kém hơn Sử Hồng Anh, chiêu này là một đòn sát thủ, vả lại Văn Đạo Trang đã dồn ra hết công lực của mình, Công Tôn Yến làm sao có thể chống đỡ nổi!
Chỉ nghe keng một tiếng, thanh cương kiếm rơi xuống đất! Công Tôn Yến phóng vọt người về phía trước, Văn Đạo Trang quát:
"Chạy đi đâu!" Rồi đuổi theo như hình với bóng!
Khi Văn Đạo Trang sắp chụp được bối tâm của Công Tôn Yến thì chợt nghe ầm một tiếng vang lên. Tảng đá ở cửa đường hầm lăn ra, Kim Trục Lưu, Lệ Nam Tinh đồng thời phóng ra.
Sử Hồng Anh bị chấn động bởi chưởng lực, bất đồ xoay mấy vòng, lúc này vẫn chưa thể đứng vững. Hai người Kim, Lệ đều cả kinh, Kim Trục Lưu nhảy về phía Sử Hồng Anh, còn Lệ Nam Tinh thì chạy theo chặn Văn Đạo Trang.
Văn Đạo Trang quát lên:
"Trả mạng con ta đây!" Rồi hai tay vung ra, tay trái chụp xuống thiên linh cái của Lệ Nam Tinh, tay phải vận Tam tượng thần công vỗ vào ngực của chàng, chân trái đồng thời tung cước đá vào bụng dưới.
Lệ Nam Tinh cả kinh, thầm nhủ:
"Có lẽ kẻ này đã điên!" Chàng vội vàng thi triển Thiên la bộ pháp tránh cú đá của Văn Đạo Trang, hai chưởng hợp lại đẩy cú chụp của Văn Đạo Trang ra. Nhưng chàng cũng không thể nào tránh được chưởng lực của y, hai bóng người vừa phân lại vừa hợp, Lệ Nam Tinh kêu lớn một tiếng rồi lộn người ra xa đến cả hơn một trượng. Hai người vừa chạm mặt nhau chàng đã bại dưới tay Văn Đạo Trang, lúc này cả Kim Trục Lưu cũng không khỏi cả kinh!
Sử Hồng Anh vội vàng kêu lên:
"Muội vẫn chưa bị thương, huynh lên mau!".
Không cần nàng thúc giục, Kim Trục Lưu đã phóng vọt ra phía trước! Văn Đạo Trang quát:
"Hay lắm, tên tiểu tử Kim Trục Lưu nhà ngươi cũng tới! Đúng là thiên đường có lối ngươi không vào, địa ngục không cửa ngươi lại đến! Hay lắm, trả mạng con ta đây!".
Kim Trục Lưu lướt đi như làn khói, Văn Đạo Trang liên tục vung chưởng, Kim Trục Lưu đột nhiên vọt lên chỉ trong khoảnh khắc một trồi một hụp thì chàng đã đánh ra bảy quái chiêu, hóa giải tất cả các chưởng thế hung mãnh tuyệt luân của Văn Đạo Trang!
Sử Hồng Anh kêu lên:
"Dùng huyền thiết kiếm?" Kim Trục Lưu giao thủ với Văn Đạo Trang, chàng không khỏi ngạc nhiên, không hiểu tại sao võ công của y lại tiến bộ nhanh đến thế.
Trong lúc kịch chiến Văn Đạo Trang chém tới một chưởng, Kim Trục Lưu kêu ối chao ngã xuống đất? Lệ Nam Tinh thất kinh kêu lên, đang định chạy đến, không ngờ vừa mới bước tới chợt cảm thấy khí huyết trong ngực nhộn nhạo, té ra chàng đã bị chưởng lực của Văn Đạo Trang đánh chấn động, tuy không bị thương nhưng không thể thở đều được, thế là hai chân cũng không chịu nghe lời nữa.
Lệ Nam Tinh thầm kêu hỏng bét, chợt nghe Sử Hồng Anh cười:
"Lệ đại ca đừng lo?" Lệ Nam Tinh ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy Kim Trục Lưu đã phóng vọt người dậy, tay cầm cây huyền thiết kiếm lớn giọng nói:
"Văn Đạo Trang, hãy rút binh khí ra, chúng ta tỉ thí kiếm pháp!" Trên tay Văn Đạo Trang đang nắm một mảnh vải rách.
Té ra Kim Trục Lưu được Sử Hồng Anh nhắc nhở, nhưng chàng chưa kịp rút kiếm ra cho nên giả vờ ngã xuống, lộn một vòng rồi mới rút kiếm được. Còn Văn Đạo Trang thì đã mau chóng xé được mảnh áo của Kim Trục Lưu. Lúc này chàng đã rút kiếm ra, Văn Đạo Trang chỉ có đôi tay không, Kim Trục Lưu vốn có thể dùng huyền thiết bảo kiếm hạ Văn Đạo Trang nhưng chàng không muốn chiếm phần lợi của người. Văn Đạo Trang đã biết huyền thiết bảo kiếm lợi hại, lòng thầm nhủ:
"May mà tên tiểu tử này kiêu ngạo, nếu không y tấn công trước đêm nay mình khó thoát!".
Sử Hồng Anh thất kinh kêu lên:
"Đáng tiếc!" Văn Đạo Trang cười lớn:
"Tiếc cũng muộn!" Rồi một luồng ánh sáng cuộn tới Kim Trục Lưu!
Té ra Văn Đạo Trang sử dụng một thanh nhuyễn kiếm, khi không dùng thì làm đai lưng. Lần trước giao thủ ở Tây Xương y đã dùng thanh kiếm này đối phó với huyền thiết bảo kiếm. Lệ Nam Tinh kêu lên:
"Hiền đệ cẩn thận, đấy là độc kiếm!".
Té ra sau khi bại trong tay Kim Trục Lưu, Văn Đạo Trang đã dùng độc tẩm vào nhuyễn kiếm. Chỉ cần chạm vào da thịt thì sẽ đổ máu chết ngay.
Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Chả trách nào thanh kiếm lại đen kịt như thế, té ra đã được tẩm độc!" Dù chàng cũng đề phòng nhưng vẫn kiêu ngạo không sợ vung kiếm đánh ra một chiêu Ngũ đinh khai sơn! Nào ngờ Văn Đạo Trang đã luyện thành Tam tượng thần công cho nên ghê gớm hơn lúc trước nhiều!
Hai kiếm giao nhau, chỉ nghe keng một tiếng, thanh nhuyễn kiếm cong lại như cây cung, còn huyền thiết kiếm cũng không thể chặt gãy được nó. Văn Đạo Trang quát:
"Xem kiếm!" Đột nhiên cây nhuyễn kiếm bắn ngược phải trở lại đâm vào ngực của Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu hạ ngang kiếm xuống, nhuyễn kiếm lại một lần nữa bật ra, nhưng mau chóng đâm vào huyệt kiên tĩnh của chàng. Kim Trục Lưu dùng Thiên la bộ pháp né qua một bên, chỉ trong khoảnh khắc mà hai kiếm đã chạm nhau mười bảy mười tám lần!
Vài lần đầu không có gì. Sau khi giao thủ được mười mấy chiêu Kim Trục Lưu chỉ cảm thấy lực đạo dần dần tăng lên. Thanh nhuyễn kiếm của Văn Đạo Trang chỉ rộng hai ngón tay, nhưng rất mỏng, chẳng xứng với cây huyền thiết bảo kiếm tí nào.
Kim Trục Lưu dốc hết toàn lực múa cây bảo kiếm nặng nề, lúc đầu còn có thể đè bẹp được nhuyễn kiếm của y, nhưng sau đó mỗi khi tung đòn đều bị y chặn lại.
Ba mươi chiêu trôi qua, mũi kiếm của Kim Trục Lưu như có cột thêm một tảng đá, càng lúc càng nặng nề, kiếm pháp cũng không còn linh hoạt như trước.
Kim Trục Lưu không khỏi thầm thất kinh, chàng biết Văn Đạo Trang đã sử dụng công phu Cách vật truyền công, có ý đồ đánh chấn thương lục phủ ngũ tạng của mình.
Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Nếu mình không thắng nhanh chắc chắn sẽ thua thiệt!".
Trong lúc kịch chiến, Kim Trục Lưu sử dụng thân pháp cổ quái, mũi kiếm đều đâm ra ở phương vị mà Văn Đạo Trang không ngờ khiến y thất kinh, thầm nhủ:
"Kiếm pháp của tên tiểu tử này thật tinh diệu!".
Nhưng Văn Đạo Trang đã thay đổi chiến thuật tạm thời thủ thế. Kim Trục Lưu chém kiếm kêu lên vù vù nhưng không chạm được vào người y.
Bọn Lệ Nam Tinh đứng nhìn mà kinh tâm động phách, nhưng Công Tôn Yến đã bị thương nhẹ, khí lực của Lệ Nam Tinh và Sử Hồng Anh chưa hồi phục, không thể nào chen vào giao đấu được. Nếu cố chen vào thì trái lại sẽ tăng thêm khó khăn cho Kim Trục Lưu.
Lệ Nam Tinh chỉ đành nhắm mắt vận công để khỏi phân thần, chỉ mong chân lực sớm hồi phục để chạy ra giúp cho Kim Trục Lưu.
Hai bên càng đấu càng gấp, chợt nghe Văn Đạo Trang quát:
"Hảo tiểu tử, cho ngươi biết sự lợi hại của ta!" Hai kiếm giao nhau, keng một tiếng, lần này không phải thanh nhuyễn kiếm bị đè bẹp mà cây huyền thiết bảo kiếm không chịu nổi áp lực của đối phương, Kim Trục Lưu thối lùi mấy bước!
Té ra đó là bởi vì khí lực của Kim Trục Lưu đã giảm một nửa, cho nên chàng không thể phát huy được uy lực của huyền thiết bảo kiếm.
Lệ Nam Tinh vốn đang nhắm mắt vận công, lúc này nghe Công Tôn Yến và Sử Hồng Anh kêu hoảng, bèn mở bừng mắt ra nhìn. Vừa nhìn bất đồ thầm thất kinh, chàng muốn tĩnh tâm vận công cũng không thể được nữa.
Họ không hề biết rằng, lúc này áp lực mà Kim Trục Lưu phải chịu hơn hẳn so với họ tưởng tượng. Cây kiếm của Văn Đạo Trang đã tẩm chất kịch độc, tuy chưa thể chạm vào da thịt của Kim Trục Lưu nhưng cũng khiến cho chàng bị ảnh hưởng. Kim Trục Lưu chợt có cảm giác ngứa ngáy ở lòng bàn tay, té ra khi hai kiếm giao nhau nhiều lần, cây huyền thiết kiếm cũng bị dính chất độc. Lúc này chất độc đã xâm nhập vào lòng bàn tay của chàng.
Đây là loại kịch độc khí huyết phong hầu, may mà Kim Trục Lưu chưa bị thương, tuy như thế nhưng chàng cũng phải vận công phòng độc.
Lúc này họ đã đoạt gần nửa canh giờ, thế công của Kim Trục Lưu chậm lại, chàng vốn đã lọt xuống thế hạ phong, giờ đây lại phải vận công phòng độc cho nên đương nhiên rất mất sức, nhưng Văn Đạo Trang vẫn sợ cây huyền thiết bảo kiếm, vả lại Thiên la bộ pháp của Kim Trục Lưu rất ảo diệu, tuy chàng lọt xuống thế hạ phong nhưng Văn Đạo Trang cũng chẳng dễ dàng thắng được chàng.
Công lực của Lệ Nam Tinh chỉ mới hồi phục bốn năm phần, biết mình không thể giúp đỡ được rất lo lắng. Không ngờ phúc vô song chí, họa bất đơn hành, lại thêm một kẻ cường địch đến.
Lại nói Dương Hạo xua bọn lâu la bao vây canh phòng, sau nửa canh giờ không thấy Kim Trục Lưu trả lời, y liền hạ lệnh phá cửa xông vào, Đến khi vào bên trong chẳng thấy ai, Dương Hạo mới biết đã trúng kế. Y tìm một hồi phát hiện lối vào đường hầm, nhưng hai cánh cửa đá đã bị Lệ Nam Tinh khóa lại, muốn phá cửa cũng không dễ. Dương Hạo mới nghĩ:
"Hai tên tiểu tử này chắc đã đi ra bằng ngõ khác". Y không biết lối ra của đường hầm cho nên đích thân điều tra.
Tiếng la hét của Văn Đạo Trang và Kim Trục Lưu từ hậu sơn vọng tới, nhờ đó Dương Hạo đã tìm được họ.
Dương Hạo vừa nhìn đã thấy Văn Đạo Trang nắm chắc phần thắng, y cả mừng.
Người y sợ nhất là Kim Trục Lưu, còn Lệ Nam Tinh, Công Tôn Yến, Sử Hồng Anh y chẳng coi vào đâu. Huống chi y tưởng Lệ Nam Tinh, Công Tôn Yến đều đã bị trúng Tu la âm sát công. Chỉ cần y ra tay thì không khó bắt trọn bọn họ. Y bật cười ha hả:
"Tên tiểu tử họ Lệ, ta tưởng ngươi đã cúp đuôi bỏ chạy, té ra vẫn không thoát nổi bàn tay ta?".
Lệ Nam Tinh cả giận:
"Ta đang muốn tìm ngươi tính sổ!" Lập tức cùng Sử Hồng Anh thủ thế đứng chờ. Dương Hạo vỗ ra một chưởng, gió lạnh cuộn tới, lập tức trong vòng mười trượng trở nên lạnh lẽo như trong hố băng!
Lệ Nam Tinh và Công Tôn Yến lắc lư nhưng vẫn không hề kêu lên một tiếng, ngược lại Sử Hồng Anh run lập cập.
Té ra sau khi hai người xua được khí hàn độc ở trong Đào Hoa Cốc, cơ thể đã nảy sinh công năng chống lại hàn độc, cho nên không sợ Tu la âm sát công nữa.
Lệ Nam Tinh tuy không sợ hàn độc nhưng khí lực vẫn chưa hồi phục, Công Tôn Yến không hề cảm thấy lạnh lẽo, biết Tu la âm sát công chẳng làm gì được mình, nàng cả mừng nên bạo dạn hơn nhiều. Nàng vung kiếm lên cười rằng:
"Dương lão tặc, đa tạ ngươi đã quạt mát cho ta!" Rồi nàng vung ra ba đóa kiếm hoa liên tục đâm vào ba huyệt phong thị, hoàn khiêu, duy dương. Còn Sử Hồng Anh cũng đâm ra ba nhát kiếm hướng vào huyệt huyền khu, trung lăng, sùng minh ở thân trên của Dương Hạo.
Nội công của Sử Hồng Anh đã có căn cơ, mấy tháng nay lại được Kim Trục Lưu chỉ cho nội công tâm pháp chính tà hợp nhất nên càng thêm vững. Vì thế tuy bị hàn khí dồn tới nhưng vẫn có thể chịu đựng nổi.
Dương Hạo liên tục vỗ ra hai chưởng, chưởng trái đánh bạt trường kiếm của Công Tôn Yến, chưởng phải sử dụng thủ pháp đại cầm nã thủ thi triển công phu tay không đoạt binh khí, đẩy lùi Sử Hồng Anh, đôi chân tung liên hoàn cước phá giải chiêu số của Lệ Nam Tinh. Một mình y địch ba người mà vẫn hơi nhỉnh hơn.
Tuy nhỉnh hơn nhưng suýt nữa đã bị Công Tôn Yến đâm trúng. Dương Hạo cũng không khỏi ngạc nhiên:
"Kỳ lạ, tại sao bọn chúng không sợ Tu la âm sát công của mình?" Y thấy công phu độc môn của mình chẳng làm gì được đối phương bất giác hơi khiếp sợ. Cũng nhờ thế mà Lệ Nam Tinh, Công Tôn Yến, Sử Hồng Anh vốn đã mệt nhọc mới dần dần ngang sức với y.
Nhưng Kim Trục Lưu càng lúc càng nguy hiểm hơn. Lúc này chân lực của chàng đã hao phí hơn một nửa, chân lực của Văn Đạo Trang đương nhiên cũng hao phí nhưng không bằng Kim Trục Lưu. Rõ ràng Kim Trục Lưu đã đuối thế.
Văn Đạo Trang thấy nắm chắc phần thắng đã lộ vẻ điên cuồng, cười ha hả:
"Trung nhi, cha trả thù cho con, trước tiên sẽ giết chết tên tiểu tử Kim Trục Lưu, rồi giết ả nha đầu thối Sử Hồng Anh, đương nhiên ta cũng không thể tha con gái của Công Tôn Hoằng và Lệ Nam Tinh. Ha ha, có bốn kẻ này chôn cùng con, con cũng nên yên nghỉ. Nếu con thấy chưa đủ, cha có thể bắt Phong Diệu Thường đến thiêu trước mộ con!" Lúc này y tựa như kẻ điên, nhưng lực đạo của thanh nhuyễn kiếm không hề giảm.
Số là Văn Đạo Trang lúc này đã cảm thấy ngực nóng như lửa đốt, đó là triệu chứng bị tẩu hỏa nhập ma? Số là lẽ ra ba tháng sau y mới tẩu hỏa nhập ma nhưng trải qua một trận ác chiến, y không thể nào khống chế được cho nên đã phát tác trước.
Lúc này thần trí của Văn Đạo Trang đã dần mơ hồ, chỉ có một ý nghĩ còn rõ ràng, đó chính là báo thù cho con.
Hồi 44
Tẩu hỏa nhập ma khó tự cứu
Truyền công vận kiếm lộ thần thông
Kim Trục Lưu vốn chẳng sợ trời chẳng sợ đất, nhưng thấy Văn Đạo Trang trở nên điên cuồng, cười rú lên rồi nhảy bổ về phía chàng, chàng cũng không khỏi kinh hoảng. Chàng chợt cảm thấy công lực của đối phương dồn ra, như nước triều, Kim Trục Lưu thi triển Thiên la bộ pháp nhưng né cũng không được, lúc này chàng như con thuyền nhỏ dập dềnh trong cơn sóng lớn, người không khỏi lảo đảo.
Kim Trục Lưu cả kinh, thầm nhủ:
"Thật kỳ lạ, sao khí lực của y đột nhiên tăng lên thế này?" Vốn là trước khi tẩu hỏa nhập ma người có võ công cao cường sẽ lâm vào trạng thái điên cuồng, tiềm lực trong người tuôn ra. Đó chính là hiện tượng hồi quang phản chiếu.
Sử Hồng Anh liếc mắt nhìn, thấy Kim Trục Lưu hình như không đỡ nổi, bất giác kêu hoảng. Chính vì nàng phân tâm, Dương Hạo thúc ngang một chỏ, đánh lui Công Tôn Yến, rồi đột nhiên biến thành một đòn Long bảo thủ xé toạc tay áo của Sử Hồng Anh. Kim Trục Lưu không hề biết Văn Đạo Trang đã lâm vào trạng thái hồi quang phản chiếu, lòng chỉ nghĩ:
"Mình không thể để cho Hồng Anh lo lắng!" Liền thâu nhiếp tinh thần, sử dụng bộ Đại tu di kiếm thức, đây là bộ kiếm thức phòng thủ rất nghiêm ngặt, do thủy tổ của phái Thiên Sơn là Lăng Mạt Phong sáng tạo, sau đó Kim Thế Di được Đường Hiểu Lan truyền lại rồi ông ta đã cải tiến hơi khác đi. Bộ kiếm pháp này có thể chống đỡ cao thủ giỏi hơn mình nhiều, lại thêm Kim Trục Lưu sử dụng cây huyền thiết bảo kiếm cho nên lực phòng ngự mạnh hơn gấp nhiều lần kiếm bình thường? Do đó chàng tuy không biết đối phương chỉ là hồi quang phản chiếu nhưng đã áp dụng đúng chiến thuật. Tuy chỉ có đỡ chứ không trả đòn được, nhưng tình thế của chàng cũng đã tạm ổn.
Sau khi Văn Đạo Trang tấn công mấy mươi chiêu, y dần dần đuối sức, Kim Trục Lưu thở phào, lớn giọng nói:
"Hồng Anh, huynh đã đối phó được y, muội đừng lo lắng! Các người hãy hạ lên lão tặc Dương Hạo rồi đến giúp ta cũng không muộn".
Dương Hạo một mình địch ba người hơi chiếm thượng phong, nhưng một lúc lâu sau cũng lo trong bụng. Sớm y tưởng rằng Văn Đạo Trang sẽ mau chóng hạ thủ Kim Trục Lưu, lúc này không khỏi thất vọng, thầm nhủ rằng:
"Võ công của Kim Trục Lưu thật quái dị, rõ ràng đã bại nhưng không biết sao trong chớp mắt đã lấy lại cân bằng.
Vạn nhất Văn Đạo Trang không đánh bại mình sẽ hỏng bét?" Ngay lúc này, chỉ cần một bên thắng trước thì có thể giúp cho phe mình.
Dương Hạo sợ Văn Đạo Trang không kìm được Kim Trục Lưu cho nên càng nôn nóng cầu thắng.
Sử Hồng Anh đã yên tâm nên ngưng thần đối địch. Lệ Nam Tinh, Công Tôn Yến vẫn chưa hồi phục khí lực, trong ba người thì Sử Hồng Anh có công lực cao hơn.
Những đòn sát thủ Dương Hạo đánh ra đều bị nàng hóa giải. Công Tôn Yến né tránh chính diện, sử dụng chiến thuật du đấu, chuyên đâm vào các huyệt đạo yếu hại của Dương Hạo. Nàng và Lệ Nam Tinh đều không sợ Tu la âm sát công cho nên cứ áp sát người tấn công, vì thế cũng gây nguy hiểm cho Dương Hạo.
Dương Hạo đánh mãi không thắng, bất đồ trong lòng lo như lửa đất, thầm nhủ:
"Kỳ lạ, sao bọn chúng vẫn chưa tới?" Họ đã đánh nhau nửa canh giờ, ở đây cách hương đường của Thiên ma giáo chỉ có mấy dặm lẽ ra thủ hạ của Dương Hạo đã chạy tới.
Nhưng Lệ Nam Tinh còn lo hơn y. Lúc này, tình thế của Kim Trục Lưu tuy đã đỡ hơn nhưng cũng chỉ gắng gượng chống trả mà thôi. Nhìn bề ngoài Văn Đạo Trang vẫn chiếm thượng phong.
Lệ Nam Tinh thầm nhủ:
"Lần nay Trục Lưu vì mình mà không ngại nguy hiểm, đi vào hang hùm điều tra chân tướng, sao mình có thể để cho y bị thương bởi tay Văn Đạo Trang?" Lúc này khí lực của chàng đã hồi phục được năm thành, nếu hợp lực ba người thì có thể giúp Kim Trục Lưu đánh thắng nhưng trước tiên phải trừ Dương Hạo.
Lệ Nam Tinh lướt người tới mạo hiểm tấn công, bị Dương Hạo tìm ra sơ hở, chỉ nghe y quát lớn một tiếng rồi chụp lấy vai của Lệ Nam Tinh!
Công Tôn Yến theo sát Lệ Nam Tinh, thấy thế lập tức vung kiếm đâm tới. Hai động tác đều nhanh đến cực điểm, Dương Hạo không kịp bóp nát xương tỳ bà của Lệ Nam Tinh, đành nhả kình lực ra lòng bàn tay, xoay người đối phó với kiếm chiêu.
May mà Dương Hạo không đủ lực cho nên Lệ Nam Tinh chỉ bị ném lên không trung, chàng lộn hai vòng rồi rơi xuống mà chẳng hề bị thương.
Trong kiếm quang nhân ảnh, chợt nghe Dương Hạo quát:
"Buông kiếm!" Hai cây kiếm của Công Tôn Yến hóa thành hai luồng ngân hồng bay lên không trung. Cả người của Dương Hạo cũng bay theo, vụt lui ra sau đến ba trượng, té ra nàng đã bị Dương Hạo đoạt lấy hai thanh kiếm, may mà nàng vừa mất kiếm thì đã nhảy vọt ra.
Ngay lúc này, chợt nghe giọng nói già nua quát rằng:
"Ai dám bắt nạt con gái ta?".
Tiếng quát ấy như sấm nổ giữa trời xanh, Dương Hạo chấn động, bất đồ thối lui mấy bước, không dám tấn công Sử Hồng Anh nữa. Thật ra người ấy vẫn chưa tới, nếu Dương Hạo dám tấn công thì Sử Hồng Anh chẳng đỡ nổi một đòn đánh toàn lực của y.
Nhưng Dương Hạo vừa nghe thì đã biết kẻ ấy là ai cho nên hoảng hốt thối lui!
Người ấy chính là tổng đà chủ Công Tôn Hoằng. Đâu chỉ có một mình Công Tôn Hoằng, đi cùng với Công Tôn Hoằng là một người nữa, đó chính là thiên hạ đệ nhất cao thủ Giang Hải Thiên! Dương Hạo ngẩng đầu nhìn lên thấy Giang Hải Thiên lập tức hồn bay phách tán.
Công Tôn Yến vui mừng ra mặt, kêu lên:
"Cha, con không sao!" Công Tôn Hoằng nắm hai tay nàng, ngạc nhiên hỏi:
"Con không cảm thấy lạnh ư?" Công Tôn Yến cười nói:
"Tu la âm sát công không thể đả thương được con, con đang nóng nực trong người".
Công Tôn Yến nắm hai tay cha, chợt cảm thấy lòng bàn tay có một luồng nhiệt lực truyền vào, trong khoảnh khắc đã lưu chuyển khắp toàn thân, trong người cảm thấy rất thoải mái dễ chịu. Té ra Công Tôn Hoằng đã dùng chân lực của bản thân đả thông kỳ kinh bát mạch, giúp cho nàng tự vận thành nội tức. Công Tôn Yến hít sâu một hơi, nàng cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, bất đồ kêu lên:
"Nam ca, đến đây!".
Lệ Nam Tinh bị rơi từ trên không trung xuống, chàng thử vận khí liền biết mình vẫn chưa bị thương. Bèn mới chạy đến gặp Công Tôn Hoằng.
Công Tôn Hoằng nhìn dò xét nàng rồi cười ha hả. Công Tôn Yến ngạc nhiên hỏi:
"Cha, tại sao cha lại nhìn Nam ca như thế?" Công Tôn Hoằng cười nói:
"Yến nhi, lần trước ta đã gặp giáo chủ Thiên ma giáo, kẻ ấy giống hệt như Nam ca của con".
Lệ Nam Tinh đã nghe Kim Trục Lưu kể lại chuyện này, bèn thưa:
"Đó chính là Dương Hạo đã bày trò. Kẻ mạo danh là sư điệt của y".
Công Tôn Hoằng nói:
"Được, tên Dương Hạo này đáng ghét như thế, lát nữa ta sẽ dạy cho y một bài học".
Công Tôn Hoằng và con gái cứ nói chuyện với nhau, tựa như chẳng hề để ý Dương Hạo. Dương Hạo đứng ngẩn người một bên, không dám động thủ, cũng không dám bỏ chạy. Y biết Công Tôn Hoằng hơn mình mười lần, dù có chạy cũng không thoát.
Dương Hạo chẳng còn cách nào, đành đánh liều nói:
"Lão già Công Tôn kia, võ công của ngươi cao hơn ta, nhưng cũng đừng hòng bức hiếp ta. Chết trong tay ngươi cũng đáng, ngươi muốn thế nào thì cứ đến đây!".
Văn Đạo Trang lúc này đã rơi vào trạng thái điên cuồng, chỉ nghe Dương Hạo nói như thế bỗng đột nhiên cười ha hả, khua chân múa tay kêu lên:
"Dương Hạo, lão già khốn kiếp nhà ngươi đừng cướp đối thủ của ta. Công Tôn Hoằng, Giang Hải Thiên, ha ha, các ngươi đến thật đúng lúc, ta sẽ giết sạch các ngươi báo thù cho con ta!".
Văn Đạo Trang khua chân múa tay trong rối loạn nhưng đều là những chiêu sát thủ. Giang Hải Thiên thấy thế hết sức kinh hãi, lòng thầm nhủ:
"Chiêu số của sư đệ quả nhiên cao hơn mình nhiều".
Kim Trục Lưu thấy Giang Hải Thiên tới tinh thần phấn chấn, hóa giải được hết các đòn tấn công cổ quái của Văn Đạo Trang. Nhưng vì trước khi Văn Đạo Trang lâm vào tình trạng tẩu hỏa nhập ma khí lực tăng lên rất nhiều, Kim Trục Lưu đành chịu ở thế hạ phong.
Công Tôn Hoằng nắm tay Lệ Nam Tinh dồn nội lực vào, chỉ trong chốc lát sắc mặt của Lệ Nam Tinh đã hồng hào. Ngay lúc này Dương Hạo mới lên tiếng khiêu chiến với ông ta.
Công Tôn Hoằng cười ha hả:
"Ngươi là cái thứ gì mà xứng giao thủ với ta. Yến nhi, còn hãy cùng Lệ đại ca thay ta phế võ công của y!" Công Tôn Yến, Lệ Nam Tinh đều vâng một tiếng rồi cả hai nhảy vọt ra.
Dương Hạo thầm mừng nhưng giả vờ nổi giận:
"Lão già Công Tôn, người đừng coi thường ta như thế! Nếu ta lở tay đả thương bọn chúng thì đừng trách ta!".
Công Tôn Hoằng cười:
"Ngươi hãy yên tâm, nếu có thể chạy thoát trong tay của bọn chúng, từ rày về sau ta không tìm ngươi tính sổ nữa".
Dương Hạo nghe Công Tôn Hoằng hứa không xen vào, trong lòng cả mừng, rồi nói lớn:
"Được, quân tử nói một lời xe bốn ngựa khó đuổi! Công Tôn cô nương, ngươi và Lệ công tử cứ đến đi!".
Sử Hồng Anh không biết họ đã được Công Tôn Hoằng giúp hồi phục công lực, đang chần chừ suy nghĩ có nên giúp họ hay không. Công Tôn Yến cười nói:
"Sử tỷ tỷ, tỷ và Kim đại ca cứ đánh Văn Đạo Trang, chúng ta hãy xem thử ai thắng trước, được không?".
Sử Hồng Anh nghe nàng nói như thế nghĩ bụng:
"Chắc họ nắm chắc phần thắng nên mới nói như thế". Liền nói:
"Được, tôi sẽ cố gắng hết sức, xem thử ai hơn ai".
Văn Đạo Trang cười quái dị:
"Tiểu yêu tinh, ngươi cũng đến đây! Ngươi có gan hại chết đại ca của ngươi thì cũng đi theo con trai ta". Sử Hồng Anh mắng:
"Đồ điên, đừng nói vớ vẩn?" Rồi nàng đánh ra một chiêu Ngọc nữ đầu thoa, mũi kiếm xỉa vào hậu tâm của Văn Đạo Trang. Văn Đạo Trang sau lưng như mọc thêm đôi mắt, y trở tay lại đánh ra một chưởng, đẩy bật mũi kiếm của Sử Hồng Anh, ba ngón tay chụp vào mạch môn của nàng. Đó chính là thủ pháp tay không đoạt binh khí.
Kim Trục Lưu quát:
"Chớ làm hung!" Rồi cây huyền thiết bảo kiếm chém xuống Văn Đạo Trang tuy thần trí không còn tỉnh táo nhưng cũng rất lanh lẹ, y hạ người, cây nhuyễn kiếm bật ngược ra, chặn huyền thiết bảo kiếm lại, rồi y vung thanh kiếm, ánh hàn quang xẹt tới, lại thêm một chiêu kiếm hiểm hóc nữa, đâm vào huyệt khí du ở be sườn của Kim Trục Lưu.
Lúc này Văn Đạo Trang đã sắp rơi vào trạng thái tẩu hỏa nhập ma, nên trong khoảnh khắc công lực giữa hai bên cách nhau không xa. Văn Đạo Trang đỡ được cây huyền thiết bảo kiếm, tuy vẫn có thể phản công nhưng không còn đủ sức đánh Sử Hồng Anh. Sử Hồng Anh phất bàn tay, hóa giải thủ pháp đại cầm nã của y, quát:
"Trúng chiêu!" Rồi lập tức đánh ra một chiêu Kim châm độ kiếp đâm vào huyệt đan điền của y.
Văn Đạo Trang bước đi loạng choạng tựa như kẻ say, nhưng né tránh được đòn sát thủ ấy của Sử Hồng Anh. Sử Hồng Anh tưởng rằng nhát kiếm này có thể lấy mạng y không ngờ y vẫn có thể né tránh trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, trong bụng cũng kinh hãi. Nhưng Văn Đạo Trang cũng không thể đâm trúng được Kim Trục Lưu.
Phía bên kia Lệ Nam Tinh và Công Tôn Yến cũng bắt đầu giao thủ với Dương Hạo.
Dương Hạo không biết họ đã hồi phục công lực, thầm nhủ:
"Nếu mình đánh trọng thương ả nha đầu này, lão già Công Tôn tuy đã nói trước nhưng cũng chưa chắc tha cho mình. Vậy mình phải đả thương Lệ Nam Tinh". Nghĩ chưa dứt, nào ngờ Lệ Nam Tinh đã đâm kiếm tới, kình lực mạnh hơn lúc trước nhiều. Dương Hạo không khỏi cả kinh. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Công Tôn Yến đã đâm ra ba kiếm liên hoàn, mục tiêu là cổ họng, vai trái và hai be sườn của y khiến Dương Hạo luống cuống tay chân. Lệ Nam Tinh lướt người vung kiếm, Dương Hạo vung ngang chưởng gạt ra, chỉ nghe soạt một tiếng, vai trái đã bị Công Tôn Yến chém một mảng thịt. Té ra y dùng tám thành chưởng lực đánh bật kiếm của Lệ Nam Tinh, không còn đủ sức đối phó với kiếm chiêu quỷ dị của Công Tôn Yến.
Công Tôn Hoằng cười ha hả:
"Cả con gái của ta mà ngươi không đánh lại được, còn muốn ta động thủ?" Dương Hạo cố nén đau gầm rít:
"Lão già Công Tôn, ngươi biết ta nể mặt không ..." Công Tôn Yến cười lạnh:
"Ai cần ngươi lấy lòng cha ta, ngươi có bản lĩnh gì thì cứ giở ra hết!".
Dương Hạo lúc này biết đã khó thắng, nhưng muốn thắng vẫn còn được, rồi quát:
"Ngươi đừng hối hận!" Hai chưởng liền vung ra, sử dụng Tu la âm sát công đến tầng thứ tám toàn lực tấn công Công Tôn Yếm Lệ Nam Tinh múa kiếm như gió, trong vòng một chiêu đã liên tục đâm vào bảy đại huyệt của Dương Hạo. Công Tôn Yến đâm soạt một kiếm từ phương vị mà y không ngờ tới. Dương Hạo chưa phát hết chưởng lực vai trái lại bị trúng một kiếm nữa.
Nhưng Công Tôn Yến cũng bị chưởng lực của y đánh thối lui mấy bước. Công Tôn Yến tuy không sợ Tu la âm sát công nhưng công lực của bản thân nàng cũng kém hơn y một bậc.
Dương Hạo liên tục trúng hai kiếm, may mà chỉ bị thương ở ngoài da thịt nhưng cũng cảm thấy đau đớn khó chịu. Y tức đến nỗi kêu oai oái, lại lao lên liều mạng.
Trong những ngày ở Đào Hoa Cốc, cả hai đã luyện một bộ kiếm pháp đối địch, lúc nãy không đủ sức cho nên không thể phối hợp, nay mới có cơ hội thử với Dương Hạo.
Công lực của Lệ Nam Tinh cao hơn, có thể chống địch từ phía chính diện, hóa giải thế công của Dương Hạo. Thân pháp của Công Tôn Yến linh hoạt, đánh kiếm nhanh như chớp giật, có thể đột kích kẻ địch từ mặt bên. Hai người tuy lần đầu tiên chống địch, nhưng một người công một thủ rất kín kẽ. Công Tôn Hoằng thấy thế lòng hoa nở rộ, vuốt râu mỉm cười nghĩ bụng:
"Có được rể quý như thế này còn cần gì nữa!".
Một hồi sau chỉ thấy hai kiếm tung bay, kết thanh một màn lưới kiếm nhốt Dương Hạo vào ở giữa. Dương Hạo tựa như con mãnh thú bị thương, tả xung hữu đột mà vẫn không thoát được. Lúc này mới biết quả nhiên muốn thoát cũng khó.
Giang Hải Thiên thấy thế ngạc nhiên, cười rằng:
"Công Tôn tiền bối, chúc mừng ông. Công Tôn tiểu thư tuổi còn trẻ mà có thể hóa giải được Tu la âm sát công đến thứ tám! Đúng là trường giang sóng sau xô sóng trước. Đáng mừng! Đáng mừng!".
Công Tôn Hoằng nói:
"Giang đại hiệp đã quá khen. Thật không dám giấu, không phải tôi dạy nó công phu chống ngự hàn độc, tôi nghĩ Lệ thiếu hiệp đã được lệnh sư truyền thụ. Nói là biết phá giải Tu la âm sát công, trên đời này chỉ có lệnh sư làm được, nhớ lại năm xưa lệnh sư đánh bại Mạnh Thần Thông, đó mới thật sự là hóa giải Tu la âm sát công đến tầng thứ chín!".
Giang Hải Thiên ngạc nhiên, nghĩ thầm:
"Tại sao lúc này ông ta lại nhắc đến chuyện xưa?" rồi cũng vỡ lẽ ra:
"Té ra ông ta muốn mượn cơ hội này, mong mình nhắc Lệ Nam Tinh phá giải Tu la âm sát công của Dương Hạo. Ông ta đã từng nói phế công phu của Dương Hạo". Bèn nói:
"Gia sư đã từng nói, chỉ cần luyện nội công đến mức không sợ hàn độc, muốn phá giải Tu la âm sát công dễ như trở bàn tay. Lệnh ái đã không sợ hàn độc, lần này Dương Hạo không thể nào thoát khỏi bàn tay của họ!" Trong câu nói của Giang Hải Thiên, ông ta nhắc đến hai chữ "bàn tay", Lệ Nam Tinh nghe thế liền hiểu ngay.
Số là người luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ chín trở lên, khí âm hàn chắc chắn ngưng tụ ở lòng bàn tay, nếu đâm xuyên huyệt lao cung của kẻ ấy thì chắc chắn sẽ phá được võ công của y.
Thế rồi Lệ Nam Tinh lướt người đâm kiếm vào lòng bàn tay của Dương Hạo, Dương Hạo quả nhiên kinh hoảng vội vàng rụt tay lại.
Dương Hạo chẳng phải hạng tầm thường, Lệ Nam Tinh muốn đâm vào huyệt lao cung của y cũng không dễ. Giang Hải Thiên thấy Lệ Nam Tinh đâm kiếm ra thì biết chàng đã lãnh ngộ, vì thế quay đầu sang xem hai người Kim, Sử đối phó với Văn Đạo Trang.
Công lực của Kim Trục Lưu vốn không kém Văn Đạo Trang nhiều, được Sử Hồng Anh giúp đỡ chiếm ngay được thượng phong.
Văn Đạo Trang kêu lên ối chao, đột nhiên phun ra một ngụm máu, vẻ mặt càng điên cuồng hoài Giang Hải Thiên thất kinh kêu:
"Sư đệ cẩn thận!".
Công Tôn Hoằng ngạc nhiên:
"Theo tôi thấy y sắp không thể giữ được mạng mình. Giang đại hiệp còn lo điều gì?".
Giang Hải Thiên nói:
"Lão tiền bối nói phải, có lẽ y đã biết, khó giữ mạng.
Nhưng y phun ra một ngụm máu tươi không phải là vì bị nội thương mà đang sử dụng Thiên ma giải thể đại pháp!".
Thiên ma giải thể đại pháp là một loại nội công của tà phái, sau khi nôn máu ra công lực cũng tăng lên gấp bội. Nhưng sử dụng loại công phu này rất tổn hao nguyên khí, sau đó không chết cũng tàn phế. Cho nên cao thủ tà phái chỉ khi muốn ôm nhau cùng chết với đối phương mới dám sử dụng.
Văn Đạo Trang cắn đầu lưỡi sử dụng Thiên ma giải thể đại pháp, quả nhiên thế công càng mãnh liệt hơn, cây huyền thiết bảo kiếm của Kim Trục Lưu hầu như không thể chặn được. Sử Hồng Anh càng không thể tiến gần vào người y.
Công Tôn Hoằng thất kinh:
"Như thế chúng ta không cần nghĩ đến quy củ giang hồ gì nữa. Giang đại hiệp, hai chúng ta ai sẽ ra tay đây?".
Giang Hải Thiên nói:
"Tiền bối đừng nhọc lòng".
Ý như muốn nói đương nhiên là mình ra tay. Nhưng sau khi nói thì vẫn thảnh thơi đứng nhìn.
Văn Đạo Trang cười lên điên cuồng:
"Kim Trục Lưu, ngươi có huyền thiết bảo kiếm mà chẳng làm gì được ta, ta là thiên hạ đệ nhất, ngươi có phục chưa?" Thế rồi hai chưởng đánh ra liên tục. Hai người Kim, Sử thi triển Thiên la bộ pháp tránh trái né phải, bị y đẩy lùi đến hơn một trượng, lúc này ngực đều cảm thấy bị dồn ép, hầu như không thở nổi.
Văn Đạo Trang cười chưa dứt thì chợt rú lên:
"Trung nhi, con ở dưới chín suối thật cô đơn buồn bã! Cha sẽ bảo người xuống làm bạn cùng con!" Y cứ gào lên khiến Sử Hồng Anh phải kinh hoảng. Lúc này Văn Đạo Trang vung kiếm chém soạt một cái, ngọn roi mềm của Sử Hồng Anh đã bị đứt một đoạn. Kim Trục Lưu cả kinh, vội vàng xông đến trước mặt Sử Hồng Anh vung kiếm che lại. Nhưng chưởng lực như dời núi lấp biển của Văn Đạo Trang cứ dồn tới, thanh huyền thiết bảo hiểm không thể nào thi triển được. Kim Trục Lưu sử dụng thân pháp Thiên cân trụy mà người vẫn phải lảo đảo như con thuyền nhỏ trong cơn sóng lớn.
Chợt nghe Văn Đạo Trang quát lớn một tiếng, người chợt xoay mồng mọng, cây nhuyễn kiếm vung lên, cây huyền thiết bảo kiếm bị y đánh bật ra, Văn Đạo Trang xoay mấy vòng đến trước mặt Sử Hồng Anh, vung năm ngón tay chụp xuống thiên linh cái của nàng! Lúc này Sử Hồng Anh đối diện với y, chỉ thấy cơ mặt của y đã biến đổi, trông rất kinh dị, Sử Hồng Anh bất giác kêu lên ối chao!
Công Tôn Hoằng thấy thế kêu lớn:
"Không xong?" Rồi bất giác bước ra, nhưng ông ta vừa mới bước ra đã cảm thấy tiếng gió lướt qua bên mình, thân pháp của Giang Hải Thiên nhanh đến khó hình dung, chỉ trong chớp mắt đã đến trước mặt Văn Đạo Trang. Còn hai người Kim, Sử đang nắm tay thoát ra khỏi vòng chưởng của Văn Đạo Trang. Cả Công Tôn Hoằng cũng không thấy Giang Hải Thiên cứu Sử Hồng Anh thoát hiểm như thế nào. Công Tôn Hoằng bất giác nóng ran mặt, thầm nhủ:
"Giang đại hiệp quả nhiên là thiên hạ đệ nhất cao thủ! Đúng là núi này cao còn có núi khác cao hơn!".
Văn Đạo Trang trợn đôi mắt trắng dã, nhìn đăm đăm vào Giang Hải Thiên rồi nói:
"Ta nhận ra ngươi, ngươi là Giang Hải Thiên! Sư phụ của ngươi không ở Trung Nguyên, ai cũng nói võ công của ngươi là thiên hạ đệ nhất. Ngươi có dám đánh với ta không?" Giang Hải Thiên lạnh lùng:
"Võ công không có đệ nhất. Sư phụ của ta đánh khắp thiên hạ không địch thủ, nhưng chính người đã nói với ta câu ta vừa nói với ngươi".
Văn Đạo Trang cười ha hả:
"Ai bảo võ công không có đệ nhất, ta chính là thiên hạ đệ nhất. Ngươi sợ ta phải không? Hừ, ngươi sợ ta, ta cũng đánh ngươi, ai bảo ngươi đã giết chết con trai của ta, ta sẽ trả thù cho nó!" Lúc này thần trí của y đã mê loạn, thấy ai cũng nghĩ là kẻ thù giết con mình.
Giang Hải Thiên nói:
"Ta không sợ ngươi, cũng chẳng muốn giết ngươi". Văn Đạo Trang ha hả cười:
"Ngươi không giết ta nhưng ta sẽ giết ngươi!" Rồi đâm soạt tới một kiếm.
Chỉ nghe keng một tiếng, cây kiếm của Văn Đạo Trang bay lên không trung!
Công Tôn Hoằng khen rằng:
"Hay cho công phu Đàn chỉ thần thông!" Văn Đạo Trang nói:
"Ngươi có thần công ta cũng có thần công!" Rồi ném thanh kiếm hai tay đẩy ra, trong vòng mấy trượng cát bụi tung bay, đó là đòn đánh ngưng tụ công lực cả đời của y! Tuy y đã mê loạn nhưng cũng biết Giang Hải Thiên là kẻ cường địch lớn nhất cho nên dồn hết tinh lực ra! Giang Hải Thiên vẫn đứng vững như núi, chẳng hề nhúc nhích. Chỉ nghe bốp một tiếng, bốn chưởng giao nhau chẳng hề rời ra.
Chỉ trong khoảnh khắc, Văn Đạo Trang cảm thấy lòng bàn tay của mình như bị kim nhọn đâm vào một cái lỗ, chân khí trong người tuôn ra không ngớt tựa như cái bóng da bị xì hơi, tứ chi bải hoải, y đứng nhìn Giang Hải Thiên ngẩn ngơ.
Thật kỳ lạ, chân khí của y tuôn ra không ngớt nhưng thần trí dần dần tỉnh táo lại.
Tuy tứ chi bải hoải nhưng trong người rất dễ chịu!
Giang Hải Thiên chậm rãi bảo:
"Ngươi chỉ mất một đứa con mà đi khắp nơi trả thù, cha con của ngươi đã giết bao nhiêu người, người khác cũng trả thù ngươi làm thế nào?".
Văn Đạo Trang biết mình đã bị Giang Hải Thiên phế bỏ võ công, nghe ông ta nói như thế bất giác gật đầu, chép miệng than rằng:
"Đúng thế, ta muốn người ta thường mạng cho con trai ta, ta cũng phải thường mạng cho người ta. Giang đại hiệp, tôi đánh không lại ông, ông hãy giết tôi đi!".
Giang Hải Thiên nói:
"Buông đao đồ tể, lập địa thành phật. Nếu từ nay ông biết hướng thiện vẫn có thể còn làm được người tốt". Văn Đạo Trang đã nhụt chí:
"Nay tôi đã là một phế nhân sống trên đời còn có ích gì?" Giang Hải Thiên nói:
"Không phải, không phải. Tuy ông không còn Tam tượng thần công nhưng ít nhất có thể truyền cho hậu nhân". Té ra Giang Hải Thiên phế bỏ võ công của y là muốn giúp y thoát khỏi tẩu hỏa nhập ma.
Người luyện nội công tà phái sợ nhất là tẩu hỏa nhập ma, cho nên tuy Văn Đạo Trang mất nội công nhưng thoát khỏi nỗi khổ này thì cũng cam tâm tình nguyện. Sau khi y tỉnh táo, ý muốn cầu sinh trỗi dậy, chỉ đành tỏ lời cảm kích Giang Hải Thiên.
Giang Hải Thiên nói:
"Năm xưa gia sư làm thế đối với lệnh thúc cũng là muốn Tam tượng thần công của quý phái không bị thất truyền, tôi cũng chỉ bắt chước theo gia sư mà thôi. Mong Văn tiên sinh hiểu nỗi khổ của gia sư".
Công Tôn Hoằng nói:
"Văn Đạo Trang, tôi khuyên ông từ rày về sau phải chọn lựa đồ đệ cho tốt, theo ý của tôi trước tiên phải dạy hắn làm người, sau đó mới dạy võ công. Ông hãy lấy mình làm tấm gương để đồ đệ của ông khỏi đi vào đường xấu".
Văn Đạo Trang hổ thẹn cúi đầu:
"Đa tạ hai vị đại hiệp đã chỉ bảo". Công Tôn Hoằng xua tay:
"Được, ông nhớ thì tốt. Ông hãy đi đi!".
Tuy Văn Đạo Trang mất võ công nhưng thể lực cũng chẳng kém người thường, y miễn cưỡng mới bẻ một cành cây làm gậy chống xuống núi.
Công Tôn Hoằng cười:
"Giang đại hiệp, tôi rất khâm phục khí lượng của ông.
Không những ông đã chữa trị cho Văn Đạo Trang mà còn khuyên nhủ y làm người tốt".
Kim Trục Lưu, Sử Hồng Anh bước tới:
"Chúc mừng Công Tôn tiền bối, ông đã hoàn toàn khỏe". Công Tôn Hoằng cười:
"Cũng đều nhờ sư huynh của thiếu hiệp, nếu không mười ngày nữa tôi mới ngồi dậy được". Té ra mấy ngày trước Giang Hải Thiên đến chỗ ông ta, đã dùng nội công thuần dương giúp ông ta xua tan hàn độc. Thời còn trẻ Giang Hải Thiên đã từng uống thiên tâm thạch, luyện thành môn nội công thuần dương, đây chính là khắc tinh của hàn độc.
Kim Trục Lưu nhìn sang chỗ Lệ Nam Tinh, thấy chàng và Công Tôn Yến liên thủ đã chiếm được thượng phong, nắm chắc thế thắng rồi mới yên tâm cười rằng:
"Đã sắp có kết quả. Nhưng sao vây cánh của Dương Hạo vẫn chưa tới?".
Công Tôn Hoằng đáp:
"Thiếu hiệp sẽ hiểu ngay thôi", đang định nói tiếp thì chợt nghe Sử Hồng Anh kêu lên kinh hoảng:
"Không xong!".
Kim Trục Lưu cả kinh, ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy Dương Hạo phóng người vọt lên, hai chưởng vỗ xuống thiên linh cái của Công Tôn Yến! Đây chính là một tuyệt chiêu ôm nhau cùng chết!
Té ra Dương Hạo không tin Công Tôn Yến và Lệ Nam Tinh tha cho y, càng không biết rằng Lệ Nam Tinh đã được Giang Hải Thiên chỉ điểm, đâm vào huyệt lao cung của y chẳng qua là chỉ muốn phế võ công mà thôi. Y tưởng rằng sau khi Lệ Nam Tinh phế võ công của y thì sẽ từ từ hành hạ mình, cuối cùng rồi cũng khó thoát cái chết. Cho nên y đánh liều, nhân lúc Lệ Nam Tinh chưa ra tay được liền liều mạng với Công Tôn Yến. Đó là bởi vì võ công của Lệ Nam Tinh tương đối cao hơn, nên y chọn Công Tôn Yến.
Chỉ nghe có tiếng người kêu lên kinh hoảng, hai đạo ngân quang bay lên không trung, Công Tôn Yến lướt xa mấy dặm, Dương Hạo té xuống đất, bốn vó chổng lên trời, mặt chảy đầy máu.
Té ra khi Dương Hạo vỗ hai chưởng xuống, Lệ Nam Tinh đã đâm vào huyệt lao cung trên lòng bàn tay của y. Chưởng lực của Dương Hạo đánh rơi kiếm của Công Tôn Yến, chân khí đã thoát ra từ huyệt lao cung, thế là hậu kình không đủ cho nên dù Công Tôn Yến bị y vỗ vào vai nhưng không hề gì. Công Tôn Yến nhảy vọt ra sau mấy trượng chỉ là do bản năng mà thôi, thực ra võ công của Dương Hạo đã bị phế, y cũng chẳng làm gì được nữa.
Trong khoảnh khắc hai thanh kiếm của Công Tôn Yến bị chưởng lực của Dương Hạo đánh bay lên, mũi kiếm vạch vào mặt y, đâm vào một con mắt của y. Công Tôn Hoằng đỡ con gái dậy, thấy nàng chẳng hề bị thương mới yên lòng, trấn an:
"Cha cũng thật sơ suất, khiến con phải thất kinh. Nhưng đây cũng là một bài học cho các con, tuy nắm chắc phần thắng nhưng cũng không nên khinh địch".
Lệ Nam Tinh mắng:
"Tên cẩu tặc này, ta vốn đã muốn tha cho ngươi nhưng ngươi lại thâm độc như thế!".
Dương Hạo bò dậy, hỏi:
"Công Tôn đà chủ, ông có giữ lời không?".
Trước khi giao thủ, Công Tôn Hoằng đã căn dặn Lệ Nam Tinh và con gái chỉ phế võ công của y chứ không nói lấy mạng của y.
Công Tôn Hoằng đáp:
"Ta đã hứa đương nhiên giữ lời". Lệ Nam Tinh đút kiếm vào bao, cười lạnh lẽo:
"Từ rày về sau ngươi cũng không thể làm điều xấu được nữa.
Được ngươi hãy đi đi!".
Dương Hạo cũng bẻ một cành cây làm gậy chống xuống núi như Văn Đạo Trang.
Công Tôn Yến nói:
"Kẻ này đáng ghét hơn Văn Đạo Trang, kết quả như thế thì thật có lợi cho y!".
Công Tôn Hoằng chợt quát:
"Khoan đã?" Dương Hạo cả kinh:
"Lão già Công Tôn, ngươi muốn đổi ý ư?" Công Tôn Hoằng đáp:
"Đừng sợ, ta đã bảo không lấy mạng ngươi tức sẽ không. Nhưng ngươi không thể bỏ đi, chuyện của Thiên ma giáo vẫn chưa giải quyết xong, ngươi đã mời rất nhiều bằng hữu đến giúp đỡ, chả lẽ ngươi không nói gì với họ sao?".
Công Tôn Yến cười:
"Đúng thế, phải bắt y ra mặt để cho bọn yêu nghiệt biết y có kết quả như thế nào!" Dương Hạo tiếc không thể chui xuống dưới đất, lòng thầm nhủ:
"Bị nhục như thế chết còn hơn!" Nhưng nghĩ lại:
"Mình không thể nào trả mối thù này được nữa, nhưng có thể truyền Tu la âm sát công cho sư điệt của mình, đời này trả không được sẽ đời sau. Chỉ cần mình còn một hơi thở thì quyết phải báo thù".
Y xảo quyệt hơn Văn Đạo Trang nên mới nuốt nhục, giả vờ cảm kích:
"Công Tôn đà chủ, đa tạ ông đã không giết, tôi đương nhiên nghe lời ông".
Thế rồi Giang Hải Thiên, Kim Trục Lưu cùng Dương Hạo lên núi trở lại, đi ngang qua góc núi chợt nghe có tiếng ồn ào.
Hồi 45
Trung Nguyên đón rước anh hùng tới
Kiếm khách hải ngoại liên tục vào
Kim Trục Lưu ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy trên núi lố nhố bóng người, tựa như hai bên đang đối địch.
Công Tôn Yến chợt vỡ lẽ kêu lớn:
"Cha, té ra không phải cha đến đây một mình".
Công Tôn Hoằng bảo:
"Các hương chủ nghe ta nói tới núi Tồ Lai tìm Dương Hạo tính sổ, mọi người đều đòi theo, ta cũng không ngăn được nên đành mặc họ".
Công Tôn Hoằng bảo tiếp:
"Sử cô nướng, Lý phó bang chủ của quý bang cũng dắt theo rất nhiều người tới". Công Tôn Yến đáp:
"Chả trách nào không thấy vây đảng của Dương Hạo, té ra đã bị bọn họ chặn lại".
Lúc này họ đã lên đến đỉnh núi. Người của cả hai phe đều đã thấy họ.
Phía Hồng Anh hội có Thạch Huyền, Tần Xung và Trang Viễn, Lý Đôn đang nói chuyện với một ông già ở phía đối phương.
Kim Trục Lưu nhìn kỹ chợt reo lên:
"Sáu người chúng ta đã gặp ở Hoa Sơn cũng đã đến".
Vây cánh của Dương Hạo thấy lão quá thiểu não, lại bị người ta áp giải đều thất kinh. Người của Thiên ma giáo nhận ra Lệ Nam Tinh lại càng kinh ngạc. Bọn họ rõ ràng đã nghe tiếng kêu cứu của "giáo chủ" trong đường hầm, nhưng chưa đục được cửa đá ra, không hiểu tại sao "giáo chủ" lại xuất hiện ở đây. Lý Đôn cười ha hả:
"Đây mới đúng là giáo chủ thật của các người, nay sự việc đã rõ ràng, các người đã tin tôi chưa?".
Ông già đang nói chuyện với Lý Đôn rất trung thành với Thiên ma giáo. Thấy thế vội nói:
"Chuyện này rốt cuộc là như thế nào?".
Lệ Nam Tinh hỏi lại:
"Ông có phải là phó hương chủ Hàn Chính Đạt của Trung Tự đường hay không? Năm xưa gia phụ bị thương ở Dự Nam, được ông hộ tống về núi, gia phụ vẫn thường nhắc đến ông".
Hàn Chính Đạt chưa bao giờ kể với ai chuyện này, vả lại chỉ có vài người biết chức vụ của ông ta ở Thiên ma giáo, Hàn Chính Đạt cả mừng:
"Người ... người quả nhiên là thiếu chủ nhân của tôi! Vậy giáo chủ kia là giả hay sao".
Lệ Nam Tinh gật đầu:
"Đây chỉ là trò lừa bịp của Dương Hạo. Tôi sẽ lôi y ra đây để y khai trước mọi người!".
Người của Thiên ma giáo chợt ồ lên, có người nửa tin nửa ngờ:
"Tại sao Dương Hạo muốn bỡn cợt chúng tôi?".
Lệ Nam Tinh:
"Cứ để cho Dương Hạo nói chân tướng của sự việc!".
Dương Hạo chỉ đành kể ra hết sự việc. Trong khi đó Lệ Nam Tinh và Hàn Chính Đạt vào nội hương đường, mở cánh cửa đá lôi tên giáo chủ giả ra. Người ấy đã hít đầy uế khí nhưng may mà vẫn chưa đứt hơi.
Kim Trục Lưu lôi y ra bên ngoài, lúc này Dương Hạo đã khai xong chuyện xấu của mình, thế là mọi việc đã rõ ràng, người của Thiên ma giáo đều mắng Dương Hạo, bọn người do Dương Hạo mời tới cũng hùa theo mắng y ra trò bởi vì sợ Công Tôn Hoằng và Giang Hải Thiên trị tội mình, nên đẩy hết mọi trách nhiệm cho Dương Hạo.
Công Tôn Hoằng cười bảo:
"Dương Hạo đã bị xử tội cứ để cho y ra đi. Còn bằng hữu của y ..." Ông ta cố ý ngừng lại, bọn người ấy nhao nhao lên rằng:
"Chúng tôi cũng bị lừa!" Công Tôn Hoằng cười ha hả:
"Đừng lo, chúng tôi chỉ trị tội kẻ đầu đảng chứ không hỏi những kẻ a dua theo. Nhưng nay các người phải biết hối hận sửa đổi mình. Thôi được, các người hãy đi đi!".
Bọn người nọ chỉ mong có thế, cho nên co giò chạy không còn một mống, chỉ có người của Thiên ma giáo vẫn còn ở lại.
Sử Hồng Anh chợt phát hiện Kim Trục Lưu đã không còn bên cạnh nàng. Sử Hồng Anh thất kinh, kêu lên:
"Ồ, Trục Lưu đi đâu rồi?" Công Tôn Yến cũng ngạc nhiên:
"Lúc nãy tôi thấy y còn đứng bên cạnh tỷ, sao trong chớp mắt đã biến mất?".
Sử Hồng Anh nói:
"Thôi đành mặc kệ chàng vậy!" Tuy là nói như thế nhưng trong lòng cũng hơi khó chịu, nàng thầm nhủ:
"Nếu gặp người quen cũng phải nói với mình một tiếng". Lúc này Dương Hạo cùng bè đảng đã bỏ đi.
Công Tôn Hoằng đuổi bè đảng của Dương Hạo đi xong rồi mới bảo:
"Nam Tinh lão đệ, chuyện của Thiên ma giáo tôi không tiện xen vào".
Rồi Hàn Chính Đạt bước ra thay mặt người trong Thiên ma giáo mời Lệ Nam Tinh lên ngôi giáo chủ nhưng chàng một mực từ chối, nói rằng:
"Tôi có một cách đẹp cả đôi đường, mong các vị suy xét. Hiện nay Hồng Anh hội và Lục Hợp bang đều là những bang hội quang minh chính đại trên giang hồ. Nếu các vị có ý muốn tái xuất giang hồ, có thể gia nhập vào hai bang hội lớn này, chúng ta cần gì phải nhóm lại lò lửa cũ?".
Người của Thiên ma giáo thấy Lệ Nam Tinh một mực từ chối, vả lại lời lẽ cũng rất có lý, sau khi bàn bạc thì cũng đồng ý. Hàn Chính Đạt nói:
"Hôm nay toàn là chuyện vui, hiếm có dịp các vị đến đây, xin cho chúng tôi được tiếp đãi quý vị". Vì thế mọi người vào trong tổng đà của Thiên ma giáo dự tiệc mừng công của Hàn Chính Đạt.
Sử Hồng Anh đang tìm Kim Trục Lưu, đột nhiên thấy vài hán tử chạy đến hành lễ với nàng, thực đó chính là năm người mà họ gặp ở núi Hoa Sơn. Té ra họ nghe tin Lý Đôn đã đến đây giúp Sử Hồng Anh cho nên đưa cả bang chủ của mình đến để nhờ Lý Đôn giải độc.
Sử Hồng Anh hỏi:
"Bang chủ của quý bang ở đâu?" Tôn Bách Thọ nói:
"Được Hàn lão tiền bối của Thiên ma giáo chiếu cố, nay đang nghỉ ngơi trong tịnh thất, chỉ chở Sử bang chủ ra ơn".
Sử Hồng Anh nói:
"Tôn đà chủ quá lời, đây là việc nên làm". Thế rồi bảo Lý Đôn đến gặp họ. Lệ Nam Tinh nói:
"Lý đại ca, tôi giúp huynh".
Lúc này bóng trời đã ngả về tây, Giang Hải Thiên thấy sư đệ vẫn chưa quay về không khỏi lo lắng, vì thế cùng Sử Hồng Anh đi tìm, năm người kia và các đầu mục của Lục Hợp bang cũng chia nhau đi tìm giúp họ.
Kim Trục Lưu đã đi đâu? Té ra chàng phát hiện trong đám vây cánh của Dương Hạo có một người quen, đó chính là Phong Tử Siêu.
Khi đám người vội vàng xuống núi, Kim Trục Lưu chỉ thấy một người lẩn vào người đám người này, người này đã mặc áo tơi, che cả đầu nhưng Kim Trục Lưu vẫn nhận ra là ai.
Kim Trục Lưu nhớ lại chuyện làm mai cho Tần Nguyên Hạo, lúc này phát hiện Phong Tử Siêu thì liền nhủ thầm:
"Chuyện này vẫn chưa giải quyết xong, Phong Tử Siêu đến thật đúng lúc?".
Lúc này Phong Tử Siêu đã đi xa, Kim Trục Lưu lẳng lặng bám theo cho nên Sử Hồng Anh chẳng hề phát giác.
Khi vòng qua một góc núi, chỉ thấy Phong Tử Siêu đang đứng cùng với hai người, y đang cúi đầu thì thầm. Bè đảng của Dương Hạo đều đã chạy xuống núi.
Nhưng ba người này lại ra hậu sơn, hình như không muốn đi cùng với đám người kia.
Kim Trục Lưu lướt người ra phía sau của Phong Tử Siêu, vỗ vào vai y cười rằng:
"Ngươi có còn nhớ ông mai này không. Con gái của ngươi đã xuất giá, ngươi chưa đa tạ ông mai này đấy".
Chưởng thế của Kim Trục Lưu đã bao bọc người Phong Tử Siêu, dù y muốn né tránh như thế nào cũng không thể thoát khỏi bàn tay chàng.
Kim Trục Lưu vốn chẳng thèm để ý đến hai kẻ đi cùng Phong Tử Siêu, chàng định rằng nhanh chóng điểm huyệt của Phong Tử Siêu rồi xem thử hai kẻ ấy như thế nào, nếu hai người này dám lên tiếng đối phó cũng không muộn.
Nào ngờ chàng mới vỗ chưởng xuống chợt nghe hán tử phía bên phải cười lạnh:
"Công Tôn Hoằng đã cho bọn ta đi mà tên tiểu tử họ Kim nhà ngươi còn chặn lại.
Được, ta xem thử nhà ngươi có bản lĩnh gì mà coi thường người khác như thế!" Hai chưởng giao nhau, Kim Trục Lưu cảm thấy lòng bàn tay của đối phương đỏ ửng như sắt bị nung đỏ, nóng đến nỗi khiến chàng không thở được, bất đồ trong lòng cả kinh!
Người ấy miệng đang nói chuyện nhưng chưởng lực đã dồn ra, chưởng phong như thổi ra từ lò lửa, nóng bỏng vô cùng. Kim Trục Lưu dùng liên tiếp mấy chiêu Đại tu di chưởng thức nhưng không thể nào thoát được.
Tuy không thoát nhưng chàng đã dần dần hóa giải được chưởng lực của đối phương. Người ấy nói đến câu cuối cùng chỉ nghe soạt một tiếng, Kim Trục Lưu đã búng ngón tay vào huyệt lao cung trong lòng bàn tay của kẻ ấy.
Huyệt lao cung không phải là huyệt chí mạng nhưng kẻ ấy bất giác giật mình, vội vàng thâu chưởng. Kim Trục Lưu cười lạnh:
"Ta tưởng là ai, té ra là bại tướng dưới tay Trọng bang chủ, hừ, công phu của ta tuy không bằng Trọng bang chủ, nhưng Lôi thần chưởng cũng chẳng thể thắng được ta?".
Té ra người này là Âu Dương Kiên, con trai của Âu Dương Bá. Tuyệt kỹ gia truyền của họ là Lôi thần chưởng, mấy mươi năm trước Âu Dương Bá nổi đanh chỉ kém đại ma đầu Mạnh Thần Thông. Sau đó Âu Dương Bá đã tỉ thí võ công với bang chủ Cái Bang Trọng Trường Thống trên núi Hoa Sơn, bị Trọng Trường Thống phế võ công.
Ba năm trước Âu Dương Kiên vì báo thù cho cha, đã tỉ thí với Trọng Trường Thống tại núi Tồ Lai, kết quả là Âu Dương Kiên vẫn bại trận.
Ngày hôm đó Kim Trục Lưu và Tần Nguyên Hao đến núi Tồ Lai tìm Phong Diệu Thường nên đã chứng kiến trận ác đấu này.
Trọng Trường Thống là nhân vật lừng lẫy võ lâm, Âu Dương Kiên bại trong tay y vốn chẳng phải là nỗi nhục gì lớn lao. Nhưng y cực kỳ tự phụ, khi Trọng Trường Thống đánh bại y ông ta đã là một ông già ngoài sáu mươi, mà y lại đang tuổi tráng niên, y đang muốn báo thù cho cha mình, nghĩ rằng chắc chắn sẽ thắng, nên sau khi thảm bại lại cho rằng đó là một nỗi nhục lớn, không muốn ai nhắc lại.
Lúc này, y bị Kim Trục Lưu điểm vào huyệt lao cung, tuy chẳng hề bị thương nhưng rốt cuộc vẫn thua một chiêu, y lại nghe Kim Trục Lưu mỉa mai mình, bất đồ thẹn quá hóa giận, hừ một tiếng rồi cười lạnh:
"Được, nếu ngươi không sợ Lôi thần chưởng của ta thì hãy thử tiếp xem sao?".
Hai người lại giao phong lần nữa, Âu Dương Kiên tung hai chưởng ra liên tục.
Kim Trục Lưu biết lợi hại nên thi triển Thiên la bộ pháp né tránh chứ không chạm chưởng với y. Nhưng hễ chàng thấy sơ hở thì dùng Truy phong chưởng thức tấn công.
Nếu luận về bản lĩnh chân thật, Kim Trục Lưu không hề kém Âu Dương Kiên, nhưng vì chàng đã đấu một trận với Văn Đạo Trang, lúc này tuy đã qua hơn một canh giờ, nhưng tinh lực vẫn chưa hoàn toàn hồi phục. Mà Âu Dương Kiên trải qua ba năm khổ luyện công lực đã cao hơn lúc trước nhiều nên đấu được một hồi Kim Trục Lưu cảm thấy như đang đứng trong lò lửa, chàng bất giác thở phì phò, mồ hôi toát đầm đìa.
Phong Tử Siêu đứng nhìn, hình như có chút lo lắng không yên, Kim Trục Lưu thấy y không bỏ chạy hết sức ngạc nhiên, lòng thầm nhủ:
"Dù cho mình đánh không lại nhưng Giang sư huynh và Công Tôn tiền bối đang ở đây, sớm muộn gì cũng tới.
Phong Tử Siêu đã không giúp gì được Âu Dương Kiên, tại sao y không bỏ đi?".
Còn có một người nữa đứng xem, đó là một hán tử trung niên ăn mặc như thư sinh, chỉ thấy y phe phẩy cây quạt xếp, bộ dạng trông rất nhàn nhã, nhìn một hồi bật cười rằng:
"Nóng quá, nóng quá! Chúc mừng Âu Dương huynh, Lôi thần chưởng của ông đã cáo thành, hơn hẳn lệnh tôn năm xuôi Âu Dương Kiên nghe y khen đắc ý lắm, cười ha hả:
"Võ công của đảo Phù Tang tuyệt thế, chỉ một chút võ nghệ của tôi làm sao dám nhận lời khen của Mâu huynh, nhưng dùng để đối phó với tên tiểu tử thì vẫn có thể thắng được".
Kim Trục Lưu thất kinh, thầm nhủ:
"Nghe nói võ công của đảo Phù Tang đã thất truyền từ lâu, sao lại xuất hiện hán tử họ Mâu này? Chả lẽ y là con cháu của Mâu Thương Lãng".
Té ra võ công của đảo Phù Tang có nguồn gốc rất xa xôi, thủy tổ là Loạn Nhiêm Khách thời Đường. Lúc đó thiên hạ đại loạn, Loạn Nhiêm Khách vốn có ý muốn thống nhất Trung Nguyên, sau đó gặp Đường Thái Tông Lý Thế Dân, khâm phục khí độ của ông ta, không dám tranh bá với Lý Thế Dân nên bỏ ra đảo Phù Tang, tự lập làm vương, Loạn Nhiêm Khách truyền cho Mâu Thương Lãng, Mâu Thương Lãng là một tông sư võ học lừng lẫy thời Đường, chẳng kém gì Không Không Nhi, Thiết Ma Lạc, từ sau thời Mâu Thương Lãng, trải qua bốn triều Tống, Nguyên, Minh, Thanh cũng không thấy loại võ công ấy xuất hiện nữa. Nhiều năm trước đây, Kim Thế Di đã đến Phù Tang, muốn tìm hậu nhân của nhà họ Mâu nhưng không kiếm ra được.
Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Loạn Nhiêm Khách, Mâu Thương Lãng không những là đại hiệp lúc đó mà còn là bậc võ học tông sư đời sau tín ngưỡng, nếu người này đúng là con cháu của Mâu Thương Lãng, không đi con đường hiệp nghĩa mà kết giao với bọn yêu tà, họ chẳng phải đã hủy hoại gia phong hay sao?".
Âu Dương Kiên được người kia khen, đang đắc ý dương dương chợt người ấy lại khen Kim Trục Lưu:
"Nhìn con như thế này thì biết cha. Võ công của Kim Thế Di quả là danh bất hư truyền. Tiểu ca này cũng không hổ danh là con của Kim đại hiệp!".
Âu Dương Kiên nghe rất bực bội, chỉ hừ một tiếng chứ không nói gì nữa, hai chưởng tấn công càng gấp hơn. Lòng nhủ thầm:
"Ngươi cứ khen tên tiểu tử này, ta sẽ đánh y thua liểng xiểng cho ngươi xem".
Kim Trục Lưu tuy vẫn có thể cố gắng ứng phó được nhưng mồ hôi ra đầm đìa, hán tử họ Mâu lại phe phẩy cây quạt:
"Nghe nói Kim Thế Di đã sáng chế ra bộ kiếm pháp tập trung sở trường của các nhà. Huyền thiết bảo kiếm là vua của binh khí. Sao tiểu ca không dùng kiếm?".
Âu Dương Kiên thu chưởng:
"Kim Trục Lưu, ngươi rút kiếm ra đi! Để người ta khỏi bảo ta bức hiếp ngươi!".
Số là nếu Kim Trục Lưu dùng huyền thiết bảo kiếm thì sẽ không đến nỗi nhọc sức như thế này, nhưng chàng là người háo thắng, hán tử họ Mâu thách chàng dùng kiếm chàng càng không chịu. Âu Dương Kiên thâu chưởng thế, chàng liền tấn công hai chưởng tới, quát:
"Tiếp chiêu!" Âu Dương Kiên nổi giận:
"Bảo ngươi dùng kiếm, ngươi có điếc không? Ta không dùng bảo kiếm cũng chính là vì để người ta khỏi bảo ta bức hiếp ngươi! Ngươi dùng thứ gì thì ta dùng thứ ấy, ta quyết không chiếm phần hơn".
Truy phong chưởng thức của Kim Trục Lưu phiêu hốt khó lường, Âu Dương Kiên bị chàng tấn công tới tấp, đành phải chăm chú đối phó. Y hận không đánh chết Kim Trục Lưu, tuy lúc nãy đã tạo cơ hội cho chàng đánh ra một mạch mấy mươi chiêu.
Hán tử họ Mâu lắc đầu, thầm nhủ:
"Tên tiểu tử này thật cứng cỏi". Y biết Kim Trục Lưu tuy tạm thời chiếm thượng phong, nhưng cứ đánh tiếp chắc chắn sẽ thua thiệt. Vì thế lại bảo:
"Cao thủ tỉ thí phải giở hết sở trường ra. Lôi thần chưởng là tuyệt kỹ gia truyền của Âu Dương huynh, Đại tu di kiếm thức là tinh hoa kiếm thuật của nhà họ Kim. Nếu Kim Trục Lưu nhà ngươi không dùng kiếm là đã tự chuốc lấy khổ, nhưng cuộc tỉ võ này cũng không phải công bằng. Có phải ngươi cố khiến cho Âu Dương Kiên bị người ta chê cười không?".
Âu Dương Kiên là người trọng sĩ diện, y vừa mới lấy lại thế công bị người ta chê bai, bất giác đỏ ửng cả mặt, cảm thấy rất ngượng ngùng. Thu chưởng cũng không được mà không thu chưởng lại càng không phải.
Khi y tiến thoái lưỡng nan chợt nghe một giọng nói già nua cất lên:
"Âu Dương Kiên, ta sẽ tỉ thí với ngươi! Ta phải xem công phu của ngươi lúc này thế nào?".
Kim Trục Lưu cười:
"Trọng bang chủ, tôi chẳng qua chỉ đùa với gã này mà thôi, vẫn chưa thực sự quyết trận thư hùng!" Té ra chàng thấy Trọng Trường Thống tuổi đã già mà võ công của Âu Dương Kiên lại hơn hẳn ba năm trước, chàng sợ rằng Trọng Trường Thống không địch nổi y, tổn hại đến tiếng tăm cho nên không muốn để Trọng Trường Thống thay mình.
Trọng Trường Thống cười ha hả:
"Lão đệ, ngươi sợ bộ xương già này không chịu nổi ư? Không sao, ta đang muốn thư giãn gân cốt. Lão đệ, hãy tránh sang một bên".
Chưa dứt tiếng Trọng Trường Thống đã lướt tới trước mặt Âu Dương Kiên, rồi lại nói tiếp:
"Ngươi đã đánh trước một trận, nhưng tuổi ta gấp đôi ngươi, ngươi không bảo ta đã chiếm phần hơn chứ?".
Âu Dương Kiên biết nếu Kim Trục Lưu sử dụng bảo kiếm, y nắm được phần thắng. Nhưng nếu Kim Trục Lưu không dùng kiếm, y thắng chàng cũng chẳng vinh quang gì, vả lại còn bị kẻ họ Mâu chê cười. Thế là y đang mừng vì có cơ hội xuống nước. Lòng thầm nhủ:
"Lão ăn mày già này đã bước một chân vào quan tài, ba năm trước mình đánh không lại lão, chả lẽ bây giờ vẫn thua?".
Âu Dương Kiên thấy có thể nắm chắc phần thắng, bèn cười lạnh lùng:
"Lão ăn mày, nếu ngươi đã tự tìm đến cái chết, ta đành giúp ngươi. Nhưng ta cũng không muốn lấy mạng ngươi, năm xưa ngươi hủy võ công của cha ta, nay ta chỉ cần trả lại như thế mà thôi?".
Trọng Trường Thống cười lớn:
"Ta đã chán sống, ngươi không cần nương tay.
Nhưng ai phế võ công của ai thì phải xem mới biết!".
Trọng Trường Thống cương quyết đòi ra tay, Kim Trục Lưu đành nhường cho ông ta.
Âu Dương Kiên buông giọng cười lớn:
"Ăn mày già, hôm nay e rằng ngươi không cuồng ngạo được nữa?".
Dứt lời Âu Dương Kiên tung chưởng ra, trong chưởng như có sấm sét, Trọng Trường Thống hờ hững vỗ ra một chưởng, hai chưởng giao nhau, đôi bên đều không khỏi thầm thất kinh.
Âu Dương Kiên tưởng Trọng Trường Thống đã già dễ bức hiếp, nào ngờ vừa chạm chưởng liền cảm thấy chưởng lực của đối phương mềm mại vô cùng, y tựa như chạm phải một khối bông dày, kình lực của y không thể nào phát huy được. Lúc này y mới biết Trọng Trường Thống tuy đã già nhưng nội công còn tinh thuần hơn cả ba năm trước.
Trọng Trường Thống cũng thầm thất kinh, nghĩ bụng:
"Tên tiểu tử này quả nhiên đã khá hơn ba năm trước nhiều. Trong vòng một trăm chiêu mình chắc chắn có thể chống chọi nổi, nhưng ngoài một trăm chiêu khó nói".
Kim Trục Lưu không biết Trọng Trường Thống đã dùng hết toàn lực, chỉ thấy ông ta hờ hững đánh ra một đòn hóa giải Lôi thần chưởng thì thầm bội phục, nhủ rằng:
"Đúng là gừng càng già càng cay".
Thế rồi chàng cất được nỗi lo trong lòng, lướt mắt nhìn thì thấy Phong Tử Siêu đang muốn nói gì với mình.
Kim Trục Lưu đang định nói chuyện với y chợt thấy hán tử họ Mâu phe phẩy cây quạt xếp bước tới phía trước. Kim Trục Lưu có ý muốn kết giao với y, bèn ôm quyền nói:
"Võ học của các hạ cao thâm, tiểu đệ khâm phục vô cùng. Không biết có gì chỉ giáo?" Trong bụng thì nghĩ:
"Lão già Phong Tử Siêu này hình như không có ý bỏ chạy, mà muốn chạy cũng không thoát khỏi bàn tay của mình, đợi lát nữa mình sẽ hỏi kỹ càng cùng không muộn".
Hán tử họ Mâu nói:
"Tục ngữ nói, người đứng bên ngoài thì sáng suốt. Ta đứng bên ngoài nói vài câu còn được. Nếu thực sự tỉ thí thì e không phải là đối thủ của lão đệ".
Kim Trục Lưu ngẩn người, không biết y nói thế là có ý gì, chàng nghĩ chưa dứt hán tử họ Mâu lại nói tiếp:
"Không biết lão đệ có tinh thần đánh thêm một trận nữa không?".
Kim Trục Lưu bất đồ nổi giận, thầm nhủ:
"Té ra y muốn tỉ thí với mình!" Chàng vốn là người có vài phần cuồng ngạo, tuy lúc này chưa khỏe hẳn, nhưng vẫn nói cứng rằng:
"Từ lâu đã ngưởng mộ võ học của xứ Phù Tang, tôi tưởng rằng đã thất truyền.
Hiếm có dịp được nhìn thấy, tôi đang muốn các hạ chỉ giáo".
Hán tử ấy cười ha hả:
"Kim thiếu hiệp đừng khách sáo, e rằng tôi không bằng người xưa. Lệnh tôn mới đúng là bậc võ học tôn sư đời nay. Tại hạ mong được biết kiếm thuật vô song của Kim thiếu hiệp".
Kim Trục Lưu nghĩ bụng võ công của người này chắc chắn hơn Âu Dương Kiên, liền mới rút thanh huyền thiết bảo kiếm ra:
"Cung kính chi bằng tuân lệnh, mời các hạ rút kiếm!".
Hán tử họ Mâu phe phẩy cây quạt xếp:
"Kim thiếu hiệp đã đánh hai trận, chúng ta tuy chỉ trau dồi võ thuật với nhau nhưng tôi cũng không muốn chiếm tiện nghi. Tôi sẽ dùng cậy quạt này tiếp vài chiêu của thiếu hiệp, mong thiếu hiệp đừng hiểu nhầm tôi coi thường bản lĩnh của người".
Lúc đầu Kim Trục Lưu quả thật cũng hơi bực tức trong lòng, tưởng rằng y có ý coi thường, nay nghe y đã nói chặn đầu như thế cũng không tiện lên tiếng, thầm nhủ:
"Mình có bại cũng không sao, chỉ e làm hỏng uy danh của cha mà thôi. Khí lực của mình không đủ, đành nhờ vào cây bảo kiếm này. Dẫu có thắng cũng chẳng sợ ai cười chê". Vì thế cười rằng:
"Được, chúng ta chỉ trau dồi với nhau thì nên dừng lại đúng lúc. Mong các hạ ban cho vài chiêu!" Hán tử ấy nói:
"Khách không hơn chủ, mong Kim thiếu hiệp ban trước cho vài chiêu!".
Kim Trục Lưu cũng không nói nhiều nữa, chàng tiền đâm soạt thanh kiếm tới.
Người ấy đè nhẹ cây quạt vào sống kiếm, đẩy cây bảo kiếm nặng cả trăm cân lệch sang một bên. Kim Trục Lưu thất kinh, lập tức biến chiêu đẩy thanh kiếm ra hóa giải kình lực của y, chặt ngang vào cổ tay của đối phương. Người ấy khen một tiếng "hay" cây quạt đột nhiên xỉa vào huyệt khí du trước ngực của Kim Trục Lưu, đó cũng là một chiêu kiếm pháp cao minh!
Kim Trục Lưu vốn không có ý liều mạng với y, chỉ rút kiếm về chặn lại. Hán tử họ Mâu thấy chàng biến chiêu thần tốc buông lời khen thêm một tiếng "hay".
Kim Trục Lưu không khỏi thầm hổ thẹn, nghĩ rằng:
"Chả trách nào võ công của đảo Phù Tang lừng danh thiên hạ, mình dùng cây bảo kiếm mà không đấu lại cây quạt xếp của y?".
Hán tử họ Mâu cũng khâm phục, thầm nhủ:
"Nếu y muốn liều mạng với mình, dẫu mình không đến nỗi thất bại nhưng cũng khó ứng phó". Té ra kẻ này vốn có ý tìm Kim Thế Di tỉ thí, chưa gặp được Kim Thế Di lại gặp con của ông ta, mà đối phương đã đánh liên tục hai trận, còn mình chẳng qua chỉ nhỉnh hơn một chút quả không thể gọi là hơn được.
Hai người đều mến tài nhau, nhưng vì danh dự của bổn môn cho nên không ai chịu thua. Kim Trục Lưu biết khí lực không đủ, nên thi triển Đại tu di kiếm thức, giữ chặt môn hộ không để cho đối phương thừa cơ đánh vào. Hán tử họ Mâu sử dụng cây quạt xếp đến mức xuất thần nhập hóa, lúc sử dụng như kiếm, lúc sử dụng như phán quan bút, một cây quạt mà đánh ra rất nhiều chiêu số của các món binh khí khác nhau. Tuy như thế, trong nhất thời y cũng không thể phá nổi thế phòng ngự chắc chắn của Kim Trục Lưu.
Chợt một giọng nói già nua vang lên:
"Lại có người làm càn ở đây, để ta xem thử là ai? Ồ, té ra là Trọng bang chủ! Còn tên tiểu tử này là Âu Dương Kiên!" Rồi một giọng nói trong trẻo vang lên:
"Giang đại hiệp, ông mau đến xem, Kim Trục Lưu e rằng không phải là đối thủ của kẻ này!" Té ra đó chính là Công Tôn Hoằng, Sử Hồng Anh và Giang Hải Thiên, Công Tôn Hoằng đầu tiên chỉ chú ý đến Trọng Trường Thống và Âu Dương Kiên, còn Sử Hồng Anh thì quan tâm đến Kim Trục Lưu.
Công Tôn Hoằng nhìn về phía Kim Trục Lưu, ông ta không khỏi thất kinh kêu lên:
"Kẻ này là ai mà ghê gớm đến thế? Xem ra y chẳng qua mới chỉ khoảng ba mươi tuổi mà thôi, nếu mình ở tuổi y thì e rằng không phải là đối thủ của y!".
Giang Hải Thiên thấy thế cũng không khỏi kêu lạ, nói với Công Tôn Hoằng:
"Không biết người này thuộc môn phái nào, nhưng xem ra không có ác ý. Chúng ta đừng vội xen vào".
Công Tôn Hoằng khen phải:
"Nhưng tên tiểu tử Âu Dương Kiên lại muốn liều mạng với Trọng bang chủ? Chúng ta làm sao đây?".
Trọng Trường Thống cười ha hả:
"Ăn mày già chỉ đùa với tên tiểu tử mà thôi, Công Tôn lão đệ, ông đừng xen vào!".
Lúc này Âu Dương Kiên và ông ta đã đấu hơn trăm chiêu, tình thế hai bên đã cân bằng. Trọng Trường Thống đương nhiên khí lực không đủ, nhưng Lôi thần chưởng của Âu Dương Kiên rất hao tổn nguyên khí, đấu ra ngoài trăm chiêu cũng dần dần đuối sức.
Công Tôn Hoằng và Giang Hải Thiên tuy chỉ đứng nhìn nhưng Âu Dương Kiên thấy họ đến không khỏi lo trong bụng. Đang lúc kịch chiến chợt nghe Trọng Trường Thống quát:
"Đi!" Hai chưởng giao nhau vang lên như sấm, Âu Dương Kiên lộn một vòng ra đến mấy trượng.
Trọng Trường Thống cười lạnh:
"Ngươi hãy về luyện tiếp mười năm nữa, nhưng mười năm sau e rằng lão ăn mày già này không gặp được ngươi rồi. Mong ngươi hiểu rằng ta đã tha cho ngươi, mười năm sau làm lại người tốt". Té ra Trọng Trường Thống đã dùng Hỗn nguyên nhất khí công phá Lôi thần chưởng, tuy Âu Dương Kiên không hoàn toàn bị phế võ công nhưng nếu muốn luyện lại Lôi thần chưởng ít nhất cũng mười năm sau.
Âu Dương Kiên nào dám đáp lời, y lộn người ra đến mấy trượng lập tức co giò bỏ chạy. Phong Tử Siêu kêu ối chao một tiếng, thẩn thờ nhìn theo Âu Dương Kiên.
Phong Từ Siêu bước tới gần nhìn Trọng Trường Thống, rồi lại nhìn Giang Hải Thiên, mặt lúc xanh lúc đỏ, tựa như muốn nói điều gì đó nhưng lại ấp úng không ra lời.
Trọng Trường Thống hỏi:
"Phong Tử Siêu. Ngươi muốn nói gì?".
Phong Tử Siêu ấp úng:
"Tôi ... tôi có một chuyện ... muốn ... muốn nói với Giang đại hiệp!" Trọng Trường Thống quát:
"Có chuyện gì hãy mau nói!".
Phong Tử Siêu nghe ông ta quát càng hoảng hơn, ngay lúc này Sử Hồng Anh kêu ồ lên một tiếng, Giang Hải Thiên ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy Kim Trục Lưu đang chém kiếm xuống, còn hán tử họ Mâu thì lại đè nhẹ cây quạt xếp vào sóng kiếm, dẫn bảo kiếm sang một bên. Kim Trục Lưu hình như có ý muốn biến chiêu nhưng không rút ra được. Cây quạt của đối phương dán chặt vào thanh kiếm cũng không rút ra được. Hai người cứ đứng cứng đờ ra đó như hai pho tượng đá, trên đầu có luồng khí nóng bốc lên nghi ngút.
Giang Hải Thiên nói:
"Được, ngươi cứ nghĩ cho kỹ lát nữa nói cũng không muộn". Ông ta vừa nói vừa bước đến trước hai người Kim, Mâu cười rằng:
"Hai người không phân thắng thua, nên dừng đi thôi!" Nói xong thì búng nhẹ vào cây huyền thiết kiếm.
Hai người Kim, Mâu đồng thời cảm thấy hổ khẩu nóng ran, cây huyền thiết kiếm dời ra mấy tấc, cây quạt xếp cũng được thu lại. Hai người nhảy vọt ra sau ba bước, bất đồ đều thầm kêu lên "hổ thẹn".
Té ra cả hai đều không chịu nhận thua cho nên hán tử họ Mâu đã sử dụng nội công lấy nhu khắc cương, toan đoạt cây bảo kiếm, nào ngờ Kim Trục Lưu tuy không biết nội công tâm pháp của đảo Phù Tang nhưng hán tử họ Mâu muốn mượn lực đánh lực cũng không thể. Hai bên đều không thể hóa giải lực đạo của đối phương, kiếm và quạt giao nhau thành ra tình thế tỉ thí nội lực. Kim Trục Lưu vì đã đánh hai trận cho nên nội lực kém hơn, nhưng chàng hơn được đối phương ở binh khí. Hán tử họ Mâu dùng một cây quạt chống lại bảo kiếm của chàng, một khi đỡ không nổi sẽ gặp họa sát thân. Kim Trục Lưu cũng nguy hiểm như thế, nội lực của chàng không bằng đối phương, nếu không cầm cự được cuối cùng không chết cũng bị trọng thương.
Cả hai vốn chỉ muốn thử tài nhau nhưng cuối cùng thành ra tỉ thí nội lực, đến nước này ai cũng không muốn dừng tay, ngoại trừ có một người công lực cao hơn đến hóa giải, nếu không cả hai đều sẽ bị thương.
Giang Hải Thiên bước ra hóa giải thật ra cũng rất mạo hiểm. Giả sử nội lực của ông không hơn nổi nội lực của hai người Kim, Mâu cộng lại không những hóa giải chẳng được mà nội lực của họ sẽ đánh vào người ông ta, ông ta sẽ bị trọng thương.
Hán tử họ Mâu thấy Giang Hải Thiên nhẹ nhàng búng một cái tách họ ra, không khỏi cảm kích và hổ thẹn, lòng thầm nhủ:
"Học trò của Kim Thế Di đã như thế, mình làm sao tranh hùng với ông ta?" Rồi vội vàng thu cây quạt, thi lễ với Giang Hải Thiên:
"Giang đại hiệp có tuyệt thế thần công, xin bội phục!".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Mâu tiên sinh có phải là truyền nhân của đảo Phù Tang không?" Giang Hải Thiên thất kinh, vội vàng cung tay nói:
"Võ công của quý phái đã lừng lẫy hàng ngàn năm nay, tôi tưởng đã thất truyền, không ngờ hôm nay may mắn được gặp, quả nhiên danh bất hư truyền, tại hạ càng khâm phục hơn!".
Giang Hải Thiên nói lời ấy chẳng phải khách sáo, sớm ông ta có được nội lực hơn người vì bởi thời còn trẻ đã ăn thiên tâm thạch. Giang Hải Thiên thầm nhủ:
"Tâm pháp nội công của bổn môn đương nhiên kỳ diệu vô cùng, nhưng nếu mình không ăn thiên tâm thạch, ở tuổi của y mình không có được công lực như thế. Người này chỉ dùng một cây quạt xếp mà có thể khắc chế các loại binh khí khác, tuy nói chưa chắc bằng sư phụ, nhưng mình không theo kịp y".
Công Tôn Hoằng cười ha hả bước tới, nói:
"Võ công của đảo Phù Tang xuất hiện trở lại ở Trung Nguyên là chuyện mừng của võ lâm. Nhưng lão phu có điều không hiểu tại sao Mâu tiên sinh lại đi cùng với Âu Dương Kiên, chả lẽ Mâu tiên sinh không biết lai lịch của y sao?".
Hồi 46
U uất những mong quên oán cũ
Đôi lòng mến mộ kết kim lan
Lúc này Kim Trục Lưu cũng bước lên hỏi họ tên. Hán tử đáp:
"Tôi tên Mâu Tông Đào. Việc tôi quen biết Âu Dương Kiên cũng có chút liên quan đến Giang đại hiệp". Giang Hải Thiên ngạc nhiên:
"Sao, chuyện này như thế nào?".
Mâu Tông Đào hỏi:
"Nói ra thì dài, trước tiên tôi phải nói tại sao tôi đến Trung Nguyên".
Giang Hải Thiên đang muốn biết lai lịch của y, nên nói ngay:
"Xin mời".
Mâu Tông Đào kể:
"Đệ tử của tiên tổ Thương Lãng công không nhiều, nhưng trải qua hàng ngàn năm đã chia ra làm ba nhánh chứ không hề thất truyền. Đảo Phù Tang bị người Ngụy chiếm lĩnh, con cháu họ Mâu đa số đều phải mai danh ẩn tích không dám lộ mặt, võ công ngày càng sa sút, đến hôm nay chỉ giữ được một hai phần.
Những con cháu họ Mâu khác thì hoặc ẩn cư ở chốn núi sâu hoặc thay tên đổi họ, làm nghề nghiệp khác, dù có gặp tôi cũng không biết họ đồng tông với tôi".
Kim Trục Lưu nghĩ thầm:
"Té ra là thế, chả trách nào cha mình đến Phù Tang tìm hậu nhân của nhà họ Mâu nhưng chẳng gặp ai".
Mâu Tông Đào tiếp tục kể:
"Còn hai chi khác ra miền hải ngoại sinh sống, tôi cũng không biết hai chi này có bao nhiêu người. Nhưng tôi có tâm nguyện đi thăm những đồng môn khắp nơi, hy vọng có thể chỉnh lý võ học của tổ tiên".
Giang Hải Thiên khen rằng:
"Nếu Mâu tiên sinh thành công chắc chắn sẽ lừng lẫy võ lâm!" Công Tôn Hoằng thầm nhủ:
"Té ra y muốn khai tông lập phái, kế thừa di nghiệp của tổ tiên, dã tâm quả thật không nhỏ".
Mâu Tông Đào tiếp tục kể:
"Tôi đã đi khắp nơi nhưng thu hoạch được rất ít. Tôi nghĩ có thể cũng có người trở về Trung Nguyên nên tôi muốn đến Trung Nguyên tìm họ. Từ lâu tôi đã nghe danh Kim đại hiệp. Kim đại hiệp quen biết khắp thiên hạ, nên tôi cũng đã từng đến chỗ của ông ta, đáng tiếc ông ta đã đi ra ngoài cho nên không gặp được".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Chuyện này xảy ra khi nào?".
Mâu Tông Đào đáp:
"Cách đây khoảng nửa năm, tôi tìm không được lệnh tôn thì mới trở về Trung Nguyên".
Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Cha bảo sẽ trở về Trung Nguyên một chuyến, chả lẽ người cũng đã ra đi?" Rồi nói:
"Vậy huynh có gặp Cơ bá bá của tôi không? Ông ta có nói cha tôi đi đâu không?".
Mâu Tông Đào nói:
"Thần Thâu Cơ Hiểu Phong không may đã qua đời, tôi lên đảo mà chẳng thấy ai, chỉ thấy ngôi mộ của Cơ lão tiền bối".
Kim Trục Lưu lạc giọng kêu lên:
"Cơ bá bá đã chết ư?" Trọng Trường Thống hỏi:
"Cơ lão tiền bối năm nay chắc đã tám mươi?" Kim Trục Lưu đáp:
"Khi tôi đến Trung Nguyên, người đã tám mươi mốt tuổi". Trọng Trường Thống nói:
"Con người chẳng ai thoát được cái chết, lão đệ cũng đừng đau lòng".
Mâu Tông Đào đáp:
"Trên đường quay về tôi đi ngang qua một tiểu đảo phong cảnh tuyệt dẹp, gặp một nhân vật võ công cao cường, tuy chưa chắc bằng lệnh tôn và Giang đại hiệp nhưng tại hạ có thể kết giao được với y cũng là may mắn".
Công Tôn Hoằng cảm thấy ngạc nhiên, thầm nhủ:
"Võ công của đảo Phù Tang đã đủ kinh thế hãi tục, ngoại trừ Kim đại hiệp thì còn có ai đáng cho y khâm phục?".
Trọng Trường Thống, nghĩ đến đây thì chợt vỡ lẽ ra:
"có phải cao nhân ấy họ Diệp không?".
Mâu Tông Đào nói:
"Đúng thế, cao nhân này là Diệp Xung Tiêu". Công Tôn Hoằng nghĩ bụng:
"Ồ té ra là y". Diệp Xung Tiêu vốn là hoàng tử ở một nước nhỏ thuộc miền Tây Vực, ông ta đã nhường ngôi vua cho em trai của mình, ra biển ẩn cư.
Mâu Tông Đào tiếp tục nói:
"Tôi đã đàm luận với Diệp đảo chủ ba ngày ba đêm, đôi bên rất hợp ý nhau nên kết thành bạn vong niên. Ông ta biết tôi trở về Trung Nguyên nên nhờ tôi hai chuyện. Chuyện thứ nhất là đến thăm Giang đại hiệp, hỏi thăm hộ ông ta". Cốc Trung Liên là em gái của Diệp Xung Tiêu, Diệp Mộ Hoa lại là con của Diệp Xung Tiêu, đôi bên là người thân của nhau, cho nên Giang Hải Thiên nghe thế mừng rỡ nói:
"Nghe nói ba năm trước ông ta muốn quay về, nhưng sao bây giờ vẫn chẳng thấy?".
Mâu Tông Đào đáp:
"Ông ta đang dồn sức nghiên cứu loại võ công thượng thừa Bát nhã chưởng, ông ta bảo sau khi luyện thành mới trở về được".
Giang Hải Thiên mỉm cười, thầm nhủ:
"Tính háo thắng của Diệp đại ca vẫn không giảm". Té ra anh em Diệp Xung Tiêu từ nhỏ đã thất lạc nhau, năm xưa khi Giang Hải Thiên mới xuất đạo, không biết Diệp Xung Tiêu là anh trai của Cốc Trung Liên, đã từng tỉ thí Bát nhã chưởng với ông ta, Diệp Xung Tiêu thua nhưng không phục, thề rằng phải luyện Bát nhã chưởng hơn hẳn tiền nhân để thắng cho bằng được Giang Hải Thiên.
Mâu Tông Đào kể tiếp:
"Chuyện thứ hai là Diệp đảo chủ thay phu nhân của ông ta nhờ tôi. Bà muốn biết tin tức của người nhà cho nên tôi muốn đi tìm Âu Dương Kiên".
Té ra vợ của Diệp Xung Tiêu Âu Dương Uyển là cháu gái của Âu Dương Bá, là chị em họ với Âu Dương Kiên. Nhưng bà ta lớn tuổi hơn Âu Dương Kiên nhiều.
Âu Dương Bá không hề chấp nhận hôn sự của họ, vì y muốn gả bà cho Văn Đạo Trang. Thế là cả hai người đã bỏ trốn. Khi Diệp Xung Tiêu ra đến hải đảo, đã kịp cắt đứt quan hệ với nhà họ Âu Dương. Cha mẹ của Âu Dương Uyển buồn bã chết, sau khi bị Trọng Trường Thống phế võ công mấy năm Âu Dương Bá cũng chết. Nay Âu Dương Uyển chỉ còn lại một mình Âu Dương Kiên là thân thiết nhất. Đó cũng chính là lý do tại sao Trọng Trường Thống không nỡ giết y.
Nhà họ Âu Dương xưa nay làm toàn chuyện ác, sau đó tuy Âu Dương Uyển lấy Diệp Xung Tiêu, Giang Hải Thiên và họ cũng trở thành thông gia nhưng hai nhà không hề qua lại với nhau.
Mâu Tông Đào tiếp tục nói:
"Số là tôi định bái phỏng Giang đại hiệp trước, nhưng nghe nói Giang đại hiệp đã đến Tiểu Kim Xuyên, tôi đành tìm Âu Dương Kiên, tôi biết Âu Dương Kiên có quan hệ bà con với Diệp đảo chủ nhưng không biết con người của y như thế nào".
Công Tôn Hoằng áy náy:
"Tôi cũng không biết các hạ lần đầu tiên đến Trung Nguyên cho nên đã thất lễ, mong đừng trách".
Mâu Tông Đào nói:
"Công Tôn tiền bối trách tôi không nên đi cùng với Âu Dương Kiên cũng là ý tốt".
Kim Trục Lưu cười nói:
"Huynh đã gặp sư huynh của tôi, tại sao không nói sớm?".
Mâu Tông Đoạn nói:
"Âu Dương Kiên dắt tôi đến tìm Dương Hạo, bảo rằng Dương Hạo quen biết rất nhiều, người của Thiên ma giáo lại đông, có thể giúp tôi tìm đồng môn, tôi không hiểu cho nên cứ đi theo y. Đi đến đây tên giáo chủ giả bị vạch mặt, Giang đại hiệp và Công Tôn tiền bối kéo tới, tôi đã biết Thiên ma giáo chỉ là bịp bợm. Còn các người lại tưởng tôi là vây đảng của Dương Hạo, nhưng muốn giải thích phải tốn nhiều lời. Vả lại tôi vừa đến Trung Nguyên đã được Âu Dương Kiên khoản đãi, tôi cũng không muốn làm cho y khó xử. Cho nên tôi chỉ đành đi theo y, định rằng các người giải quyết xong công việc ở đây tôi sẽ đến gặp Giang đại hiệp. Không ngờ Kim thiếu hiệp đã phát hiện chúng tôi nên đuổi theo, tôi đành phải lộ mặt".
Giang Hải Thiên cười ha hả:
"Chúng ta gặp mặt nhau sớm chẳng phải tốt hơn hay sao? Nay xin mời Mâu tiên sinh cùng trở về để tôi kính Mâu tiên sinh một chén".
Lúc này trời đã sụp tối, Giang Hải Thiên sợ mọi người ở tổng đà lo lắng nên mời Mâu Tông Đào về cùng dùng tiệc. Nhưng Mâu Tông Đào một mực từ chối, Giang Hải Thiên thấy thế đành nói:
"Được, nếu Mâu tiên sinh đã có việc tôi không giữ nữa.
Cũng mong ước nguyện của tiên sinh sớm ngày hoàn thành, sau này chúng ta sẽ gặp lại".
Phong Tử Siêu đứng một bên, thấy Mâu Tông Đào sắp xuống núi, nhưng y vẫn chưa chịu đi. Công Tôn Hoằng nói:
"Phong Tử Siêu, đến lượt ngươi!" Kim Trục Lưu nói:
"Hình như y đã có ý hối hận, chúng ta hãy nghe y nói gì".
Ý chàng muốn bảo Công Tôn Hoằng đừng làm khó Phong Tử Siêu. Giang Hải Thiên rất mừng trong bụng, thầm nhủ:
"Sư đệ chỉ đi lại trên giang hồ mấy năm mà đã chững chạc hơn nhiều".
Phong Tử Siêu đỏ ửng mặt, nói:
"Tôi ... tôi có chuyện muốn bẩm cáo với Giang đại hiệp và Kim thiếu hiệp, không biết mọi người có chịu tha thứ cho tôi không?".
Phong Tử Siêu đưa mắt nhìn Kim Trục Lưu, mặt lộ vẻ lo lắng. Kim Trục Lưu cười nói:
"Đúng thế, ông vẫn còn chưa đa tạ ông mai này!".
Phong Tử Siêu nói:
"Ngày trước tôi muốn lợi dụng con gái mình để tìm kiếm phú quý, phụ lòng tốt của Kim thiếu hiệp. Tôi không những chẳng còn mặt mũi nào gặp thiếu hiệp mà cũng chẳng thể nào gặp con gái của mình. Nhưng tôi rất muốn biết tin của nó, thiếu hiệp có thể cho tôi biết không?".
Kim Trục Lưu nói:
"Có nghĩa là ông chấp nhận hôn sự này?".
Phong Tử Siêu nói:
"Tần thiếu hiệp là đệ tử của phái Võ Đang, e rằng y không chịu nhạc phụ như tôi".
Kim Trục Lưu cười lớn:
"Chỉ cần ông biết hối lỗi thì ông mai này sẽ khiến cho con rể của ông cúi đầu nhận cha vợ. Họ hiện giờ đang ở núi Đại Lương, vẫn bình an vô sự, ông đừng lo".
Phong Tử Siêu mừng rỡ:
"Được,vậy tôi đã yên tâm". Nói đến đây vẻ lo lắng không còn nữa. Kim Trục Lưu nói:
"Ông muốn nói chuyện gì? Đừng cứ mãi đa tạ tôi nữa".
Phong Tử Siêu ấp úng:
"Giang đại hiệp, tôi ... tôi có một việc có lỗi với ông".
Giang Hải Thiên trong nhất thời vẫn chưa hiểu ý, tưởng rằng y nói chuyện lúc trước, bèn nói:
"Tôi đã tha thứ cho ông rồi" Công Tôn Hoằng nói:
"Hình như y nói chuyện khác" Phong Tử Siêu nói:
"Đúng thế, chuyện này đang xảy ra, tôi sẽ cho các vị biết".
Giang Hải Thiên giục:
"Được, đã như thế thì ông cứ nói".
Phong Tử Siêu nói:
"Lần này tôi từ kinh thành ra, Tát Phúc Đỉnh có lệnh bảo tôi hại người nhà của ông!".
Kim Trục Lưu cười ha hả:
"Tát Phúc Đỉnh thật coi trọng ông!".
Bởi vì vợ của Giang Hải Thiên là chưởng môn của phái Mang Sơn, võ công tuy không bằng chồng nhưng cũng là một trong mười cao thủ hiện nay, nhưng Phong Tử Siêu không phải là đối thủ của bà ta.
Phong Tử Siêu đỏ mặt:
"Tát Phúc Đỉnh chỉ báo tôi làm trợ thủ cho Âu Dương Kiên".
Công Tôn Hoằng ngẩn người:
"Ồ, té ra tên tiểu tử Âu Dương Kiên đã quy thuận triều đình. Trọng bang chủ, lúc nãy ông đã thả nhầm y". Nghĩ bụng:
"Chả trách nào khi Âu Dương Kiên chưa đi, Phong Từ Siêu không dám nói".
Công Tôn Hoằng cười:
"Muốn đối phó với Giang phu nhân, tên tiểu tử Âu Dương Kiên ấy e rằng vẫn chưa đủ sức".
Giang Hải Thiên trầm ngâm một lát rồi hỏi:
"Có phải còn có cao thủ khác không?".
Kim Trục Lưu nói:
"Ngoại trừ Văn Đạo Trang và Dương Hạo, Tát Phúc Đỉnh còn có cao thủ nào nữa?".
Giang Hải Thiên nghiêm mặt:
"Trong thiên hạ này nơi nào chẳng có người giỏi?" Kim Trục Lưu đỏ mặt, im lặng không nói.
Phong Tử Siêu nói:
"Giang đại hiệp nói đúng, quả thật có cao thủ khác".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Đó là ai?".
Phong Tử Siêu nói:
"Tôi không biết, nhưng cũng có thể là Mâu Tông Đàm".
Y vừa nói ra mọi người đều kinh hãi, Giang Hải Thiên nói:
"Không thể. Lúc nãy y đã nói rõ, hình như y không phải là hạng tiểu nhân thâm độc".
Công Tôn Hoằng bảo:
"Giang hồ hiểm ác, lòng người khó lường!" Trọng Trường Thống gật đầu:
"Chúng ta tạm thời đừng nên suy đoán, hãy nghe Phong Tử Siêu nói tiếp". Giang Hải Thiên nghĩ thầm:
"Hình như Trọng bang chủ biết điều gì đó".
Phong Tử Siêu nói:
"Chuyện là như thế này, Văn Đạo Trang từ Tây Xương chạy về kinh thành, báo tin rằng Giang đại hiệp cùng đệ tử đều ở Tiểu Kim Xuyên và Tây Xương, Tát Phúc Đỉnh vừa nghe cho đó là cơ hội rất tốt để rửa mối nhục cho triều đình".
Sử Hồng Anh nghe thế hỏi hèn:
"Tát Phúc Đỉnh ám toán người nhà của Giang đại hiệp, tại sao lý do lại lớn lao đến thế?".
Kim Trục Lưu nói:
"Không phải Tát Phúc Đỉnh đã khoác lác, huynh đã nghe cha kể chuyện này". Kim Trục Lưu nói:
"Tổ sư của phái Mang Sơn Độc Tý Thần Ni là công chúa triều Minh, từ lâu triều đình đã biết bí mật này nhưng không dám để lộ ra ngoài. Sau đó hoàng đế Ung Chính bị đệ tử của Độc Tý Thần Ni là Lã Tứ Nương đâm chết, triều đình nhà Thanh đương nhiên coi phái Mang Sơn là cái đinh trong mắt, hận không thể nào nhổ ra được! Nhưng chuyện này là một mối nhục đối với hoàng gia, nên âm thầm báo thù. Hàng trăm năm qua, triều đình đã nhiều lần phái cao thủ ám toán nhân vật đầu não của phái Mang Sơn nhưng đều không thành công. Lã Tứ Nương là chưởng môn đời thứ hai của phái Mang Sơn, mẹ của tôi là chưởng môn đời thứ ba, họ đều là tội phạm của triều đình, trong đời đã trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm. Còn sư tẩu của tôi là chưởng môn đời thứ tư, tuy thời gian đã kéo dài cả trăm năm nhưng vụ án này vẫn chưa kết thúc, cho nên Tát Phúc Đỉnh muốn ám toán bà ta không phải chuyện lạ, do đó y mới bảo triều đình phải rửa mối hận cả trăm năm này!".
Phong Tử Siêu tiếp tục nói:
"Lúc đầu Tát Phúc Đỉnh định nhờ Văn Đạo Trang làm chuyện này, sau đó Văn Đạo Trang vì luyện Tam tượng thần công đã tẩu hỏa nhập ma, ngày càng điên loạn. Tát Phúc Đỉnh đành nhờ người khác. Nhưng đáng liếc tôi vẫn chưa biết người đó là ai. Y chỉ bảo tôi đến núi Tồ Lai giúp Âu Dương Kiên.
Âu Dương Kiên bảo với Tát Phúc Đỉnh sẽ mời cao thủ đủ đối phó với Giang đại hiệp cho nên mới được trọng dụng. Lúc đầu tôi còn tưởng người đó là Dương Hạo, đến núi Tồ Lai mới biết Dương Hạo đang bận rộn việc lập lại Thiên ma giáo, y có hứa giúp Âu Dương Kiên nhưng y không chịu lộ mặt, người này đương nhiên không phải là y.
Âu Dương Kiên định làm chuyện này sau khi Thiên ma giáo đã khai đàn, nhưng không ngờ Kim thiếu hiệp đã phá âm mưu của bọn chúng. Tuy không biết tên họ Mâu này là ai, nhưng thấy y cũng đi theo Âu Dương Kiên nên tôi tưởng kẻ mà Âu Dương Kiên nói chính là y".
Mọi người nghĩ kỹ lại:
"Kẻ có thể đối địch với Giang đại hiệp, lại có mối giao tình với Âu Dương Kiên chỉ có Mâu Tông Đào".
Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Giả sử lúc nãy Mâu Tông Đào lừa gạt sư huynh rồi chạy đi ám toán sư tẩu thì thật đáng lo. Một mình sư tẩu chắc không thua y, nhưng muốn thắng y cũng khó. Nếu y có kẻ giúp đỡ thì sư tẩu quyết không ứng phó nổi".
Công Tôn Hoằng nhớ đến lần trước Phong Tử Siêu đã lừa gạt Lệ Nam Tinh, nên vẫn nửa tin nửa ngờ hỏi:
"Phong Tử Siêu, nhà ngươi nói có thực không?".
Phong Tử Siêu lộ vẻ khổ sở, đang định nói chuyện thì Trọng Trường Thống đã lên tiếng:
"Phong Tử Siêu đã thành tâm bỏ tối theo sáng, ăn mày già này có thể chứng minh, lần này y nói thật!".
Công Tôn Hoằng "Ồ" một tiếng:
"Tin tức của Cái Bang xưa nay rất nhanh nhạy, Trọng bang chủ nói như thế chắc là đã biết được nhiều điều gì đó?".
Trọng Trường Thống đáp:
"Đúng thế. Thật chẳng dám giấu, ăn mày già này chính vì nghe nói Giang đại hiệp ở đây cho nên đến báo tin cho ông ta. Giang đại hiệp, tôi khuyên ông hãy trở về nhà".
Giang Hải Thiên nói:
"Tôi không tin Mâu Tông Đào bị triều đình lợi dụng".
Trọng Trường Thống nói:
"Nghe nói Tát Phúc Đỉnh đã mời vài cao thủ chưa bao giờ lộ mặt trên giang hồ, nhưng tôi không biết Âu Dương Kiên cũng tham dự chuyện này. Nếu không lúc nãy tôi đã không tha cho y. Nhưng tin tức của tôi rất hợp với những điều Phong Tử Siêu vừa nói, do đó tôi đoán y nói sự thực". Ông ta ngừng một lát rồi nói:
"Tuy tôi không biết Mâu Tông Đào có tham gia vào chuyện này không nhưng tôi đoán rằng những cao thủ chưa lộ mặt trên gia là hồ chắc là đồng môn sư huynh đệ của y".
Công Tôn Hoằng gắt:
"Ăn mày già, lần này là ông đã không đúng. Ông đã biết chuyện này sao không phòng bị cho Giang phu nhân?".
Trọng Trường Thống đáp:
"Công Tôn lão đệ, ăn mày già vẫn chưa nói xong kia mà. Tôi đã báo cho phái Mang Sơn, bảo bốn đại đệ tử của phái Mang Sơn mau chóng đến giúp đỡ".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Phong tiên sinh, có phải ông còn muốn nói điều gì không?".
Phong Tử Siêu giật mình, nói:
"Đúng thế, tôi còn có một tin phải báo cho thiếu hiệp, ở đây đông người không tiện nói".
Công Tôn Hoằng cười khảy:
"Ngươi thật lắm tin tức, được, hãy nói cho mau, đừng chậm trễ nữa".
Phong Tử Siêu vừa nói ra tin ấy, Công Tôn Hoằng kêu ồ một tiếng:
"Lại có ai đến nữa?" Chưa dứt lời, chỉ thấy trong rừng có hai bóng người hiện ra, Phong Tử Siêu ngẩng đầu lên nhìn mừng rỡ kêu lên:
"Thường nhi, các con đã trở về!".
Té ra đôi nam nữ ấy là Phong Diệu Thường và Tần Nguyên Hạo. Phong Diệu Thường thấy cha đứng cùng bọn Giang Hải Thiên, Kim Trục Lưu cũng bất ngờ, trong nhất thời không nói nên lời.
Kim Trục Lưu cười nói:
"Các người đến thật đúng lúc, Tần huynh hãy mau đến khấu đầu trước nhạc phụ!".
Tần Nguyên Hạo vội vàng chạy đến quỳ xuống trước mặt Phong Tử Siêu gọi hai tiếng:
"Nhạc phụ".
Phong Tử Siêu mừng rỡ đỡ Tần Nguyên Hạo đứng dậy, lòng thầm nhủ:
"May mà mình quay đầu vẫn chưa muộn, nếu không chẳng kiếm được phú quý mà mất cả con cái".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Tần huynh, sao hai người đến đây?".
Tần Nguyên Hạo đáp:
"Công Tôn cô nương đi tìm Lệ đại ca không quay về.
Huynh và Sử cô nương cũng thế. Trúc lão tiền bối lo lắng cho nên chúng tôi mới đến đây tìm huynh".
Kim Trục Lưu chợt quay sang Phong Tử Siêu nói:
"Lúc nãy ông nói muốn nói chuyện gì, có phải có liên quan đến nghĩa quân không?".
Phong Tử Siêu nói:
"Triều đình đối phó với nghĩa quân. Tát Phúc Đỉnh bảo sẽ lôi kéo năm tù trưởng ở vùng Thanh Hải để đối phó với các người".
Giang Hải Thiên thất kinh:
"Thủ đoạn này thật thâm độc, nếu âm mưu của y mà thành, không những cánh nghĩa quân của Trúc Thượng Phụ khó đứng chân ở núi Đại Lương, mà e rằng sẽ diễn thành cuộc chiến giữa hai tộc Hán và Hồi".
Số là miền Tây Khang và Thanh Hải là nơi có nhiều dân tộc sống chung với nhau, nhưng chủ yếu là tộc Hán và tộc Hồi, số người Hán ở Tây Khang nhiều hơn tổng số các dân tộc khác cộng lại, nhưng ở Thanh Hải thì tộc Hồi là nhiều nhất, tộc Hán trái lại chỉ là dân tộc thiểu số.
Kim Trục Lưu nói:
"May mà chúng ta biết sớm tin này, chúng ta phải mau báo cho Trúc tiền bối biết để ông ta tìm cách ngăn cản tù trưởng của các tộc ở Thanh Hải".
Phong Tử Siêu kể:
"Tát Phúc Đỉnh đã phải sử giả đi lôi kéo những tù trưởng này".
Giang Hải Thiên:
"Chúng ta cũng phải phái người đi trước sứ giả của y".
Kim Trục Lưu:
"Đệ sẽ gánh vác chuyện này".
Giang Hải Thiên vốn muốn đích thân đi, nghe Kim Trục Lưu nói thế nghĩ bụng:
"Công phu của sư đệ hơn mình, nếu hắn đi mình rất yên tâm". Thế rồi mọi người quay trở về tổng đà của Thiên ma giáo.
Hàn Chính Đạt đang lo lắng, thấy họ trở về mừng rỡ mời:
"Tiệc rượu đã bày xong, xin mời mọi người vào tiệc!".
Giang Hải Thiên kể rõ lại mọi chuyện, Hàn Chính Đạt mừng càng thêm mừng nói:
"Xin mời vào, tôi cũng có chuyện báo cho mọi người".
Khi vào đến hương đường đã thấy bang chủ của bang Trường Kình là Tôn Bách Lộc cùng nhân vật đầu não của các bang hội khác ra nghênh đón, té ra họ đã được Lệ Nam Tình, Lý Đôn chữa trị, tuy chưa khỏe hẳn nhưng đã có thể đi lại được.
Tôn Bách Lộc tạ ơn Sử Hồng Anh rồi nói:
"Lâu nay chúng tôi đi theo quý bang, sau này cũng thế. Sử cô nương có gì sai bảo, chúng tôi dù có nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng không từ chối!".
Sử Hồng Anh nhún nhường:
"Lục Hợp bang muốn kết minh cùng các vị giúp đỡ nghĩa quân, không biết ý các vị thế nào?".
Tôn Bách Lộc nói:
"Sử bang chủ đã chỉ cho chúng tôi một con đường sáng, Tôn mỗ bất tài, mong Sử bang chủ làm minh chủ cho chúng tôi". Y vừa nói ra. những người khác đều tán đồng.
Sử Hồng Anh nói:
"Tôi tuổi vẫn còn trẻ, làm sao có thể gánh vác trách nhiệm nặng nề này. Theo ý của tôi, chi bằng mời Công Tôn đà chủ của Hồng anh hội làm minh chủ của chúng ta thì hơn!" Công Tôn Hoằng cười ha hả:
"Ta tuổi đã già, rằng không thể gánh vác nổi nữa". Trọng Trường Thống bảo:
"Thôi được, các người đừng nhường nhau nữa. Tôi đã nghĩ đến một người thích hợp nhất".
Sử Hồng Anh cả mừng:
"Nếu có người ấy thì còn tốt bằng!".
Trọng Trường Thống:
"Tôi nghĩ y làm minh chủ võ lâm thì hợp hơn".
Thạch Huyền chợt hiểu ra, nói:
"Ồ, tôi đã hiểu? Trọng tiền bối, có phải ông nói ...".
Trọng Trường Thống ỡm ờ:
"Đúng thế. Xa tận sân trời, gần ngay trước mắt, người đó chính là Giang Hải Thiên đại hiệp!".
Trọng Trường Thống vừa nói ra tên ông ta, tất ít mọi người đều hài lòng, đồng thanh:
"Nhưng chỉ e Giang đại hiệp không chịu". Giang Hải Thiên vội vàng từ chối nhưng tất cả mọi người đều đồng loạt tán thành ông ta làm minh chủ võ lâm. Ông cũng không tiện đùn đẩy cho người khác nữa. Thế là chuyện lớn đã định, mọi người đều coi ông ta là minh chủ, buổi tiệc tàn dần, ai nấy đều thay phiên nhau chúc mừng Giang Hải Thiên.
Ở cái bàn cạnh góc điện, có bảy tám người là đầu mục của các bang hội nhỏ, ngoài ra có một hán tử mặc thanh bào không rõ lai lịch, nhưng bọn người này lần đầu tiên ngồi chung với nhau, ai nấy đều tưởng rằng y chỉ là một nhân vật tầm thường trong bang hội, nên cũng không ai hỏi đến y.
Có một người nói:
"Võ công của Giang đại hiệp hiện nay là thiên hạ đệ nhất, nhưng sau này e rằng không phải là ông ta".
Một người khác hỏi:
"Người đó là ai?" Người này đáp lại:
"Chính là Kim Trục Lưu sư đệ của ông ta". Người lúc nãy mới cười rằng:
"Ta tưởng là ai, té ra là Kim thiếu hiệp, sư huynh cũng được, sư đệ cũng được, tóm lại là người một nhà".
Hai người nhắc đến Kim Trục Lưu, mọi người đều nói về chàng.
Có người hỏi:
"Trong ngày hôm nay, Kim thiếu hiệp đã liên tục đánh bại ba cao thủ, các người có biết không?".
Đầu mục của Trường Kình bang nói:
"Ta nghe Kim thiếu hiệp đã đánh với Dương Hạo một trận, sau đó đã trải qua một trận kịch chiến ở hậu sơn, nhưng không biết hai cao thủ kia là ai".
"Một người là Văn Đạo Trang. Nghe nói y đã luyện xong Tam tượng thần công, nhưng kết quả vẫn thua trong tay Kim thiếu hiệp".
"Ồ đáng tiếc ta không được nhìn thấy. Còn cao thủ kia là ai?".
"Người kia còn lợi hại hơn Dương Hạo và Văn Đạo Trang. Nghe nói y là truyền nhân đời thứ hai mươi bảy của Loạn Nhiêm Khách, là người ở đảo Phù Tang!".
"Loạn Nhiêm Khách là ai? Đảo Phù Tang ở đâu?".
Vì thế người ấy bắt đầu thao thao bất tuyệt về chuyện của Loạn Nhiêm Khách và đảo Phù Tang. Khi kể toàn thêm mắm dặm muối vào. Người nghe không biết thật hay giả nhưng hầu như đều tin lời y. Y nói ra một câu, mọi người lại kêu ồ một tiếng.
Người ở các bàn khác đều buông đũa đến nghe ké. Người này càng nói càng cao hứng, khua chân múa tay tựa như đã tận mắt chứng kiến Kim Trục Lưu đánh với Mâu Tông Đào.
Thực ra lúc nãy Kim Trục Lưu đã rất vất vả khi giao thủ với Mâu Tông Đào, nếu không nhờ Giang Hải Thiên giải vây có lẽ chàng đã bị trọng thương. Nhưng trong đám đông có một người không hề lên tiếng, kẻ ấy chính là hán tử mặc thanh bào.
Người kia kể xong thì có người bảo:
"Có lẽ nay Kim thiếu hiệp đã trở thành thiếu hiệp đệ nhất". Có người nói:
"Không, bây giờ vẫn là Giang đại hiệp, nhưng mấy năm sau thì chắc chắn y sẽ là thiên hạ đệ nhất!".
Khi mọi người đang khen Kim Trục Lưu quái khách mặc thanh bào đột nhiên cười lạnh ba tiếng, tiếng cười nghe rất chối tai!
Tiếng cười ấy khiến cho mọi người đều kinh ngạc, đầu mục của Trường Kình bang trừng mắt hỏi:
"Các hạ cười cái gì?".
"Không có gì, ta chỉ cười bọn ngươi chỉ là ếch ngồi đáy giếng mà thôi!".
Hồi 47
Tuyệt kỹ huyền công kinh hào kiệt
Cao sĩ thần quyền lộ dị năng
Người này chỉ nói mấy câu, giọng nói lại không vang nhưng nghe như kim khí gõ vào nhau kêu loảng xoảng, gần ngàn người trong tòa đại đường rộng lớn đều nghe rõ ràng.
Những câu nói này đã rất chối tai, lại thêm giọng nói quái dị của y càng khiến cho người ta khó nghe hơn, tất cả mọi ánh mắt đều đổ dồn vào người y.
Tiểu đầu mục của Trường Kình bang tức giận đỏ mặt, đứng phắt dậy nắm chặt nắm đấm định lao tới. May mà có người đã kéo y lại. Tiểu dầu mục ấy chợt nghĩ bụng:
"Kẻ này hơi quái dị, chỉ e mình chẳng phải là đối thủ của y. Y cũng chẳng phải đắc tội với một mình mình, đương nhiên có người sẽ ra mặt". Thế rồi chỉ đành nuốt giận, hỏi:
"Tại sao lại bảo chúng tôi là ếch ngồi đáy giếng, mong các hạ chỉ giáo?".
Người ấy lạnh lùng cười:
"Thiên hạ này rộng lớn, các người thấy được bao nhiêu cao nhân, hở ra một tý đã vội cho là thiên hạ đệ nhất, chẳng phải đáng buồn cười hay sao?".
Tần Xung, một trong tứ đại hương chủ của Hồng Anh hội nghe thế lửa giận bốc cao, gắt lớn:
"Nói như thế, ngươi đã tự nhận là cao nhân, chẳng xem Giang đại hiệp và Kim thiếu hiệp ra gì!".
Chưa bao giờ có kẻ nào dám vô lễ với Giang Hải Thiên, không ngờ người ấy lại ngạo mạn nói:
"Không dám, ta chỉ là kẻ thất phu ở chốn núi rừng, nào hợp với hai chữ cao nhân? Nhưng theo ta thấy, bản lĩnh của Giang đại hiệp và Kim đại hiệp của các người cũng khá nhưng chưa chắc đã là thiên hạ đệ nhất cao thủ!".
Tần Xung quát:
"Được, Giang đại hiệp không phải là thiên hạ đệ nhất, vậy ngươi là thiên hạ đệ nhất! Tần mỗ này chỉ biết vài môn công phu mèo cào, mong các hạ chỉ giáo!".
Người ấy nở nụ cười lạnh lẽo:
"Thứ nhất, ta không bảo võ công của ta là thiên hạ đệ nhất. Thứ hai ta không bảo công phu của lão ca là mèo cào. Tất cả đều do ngươi nói, ta chẳng qua chỉ nói Giang Hải Thiên và Kim Trục Lưu không phải thiên hạ đệ nhất, nếu ngươi không tin ta sẽ lãnh giáo với hai người ấy!".
Y vừa nói ra câu này mọi người đều kinh ngạc! Hơn một ngàn người đều biến sắc, nghĩ thầm:
"Kẻ này thật lớn gan, dám công nhiên khiêu chiến với Giang đại hiệp và Kim thiếu hiệp!".
Tần Xung nổi giận đùng đùng:
"Giang đại hiệp, ông nhất định phải dạy cho tên cuồng ngạo này một bài học!".
Giang Hải Thiên nhìn kỹ lại thấy người ấy vẫn lạnh lùng, mặt chẳng hề biểu cảm, không khỏi ngạc nhiên, thầm nhủ:
"Người này có ý đến tỉ thí với mình, nhưng hình như sợ mình vạch trần mặt thật của y, y là ai?".
Số là Giang Hải Thiên nghe người này nói chuyện biết y dùng nội công thượng thừa phát ra tiếng từ cổ họng chứ không phải nói bằng giọng thật của mình, vẻ mặt lại không hề có sắc máu, rõ ràng đã đeo mặt nạ.
Giang Hải Thiên bước về phía người ấy thi lễ:
"Giang mỗ không biết thân nhân, quả thật rất hổ thẹn, xin hỏi tên họ của các hạ là gì?".
Người ấy cười nói:
"Đừng gấp, để ta thỉnh giáo Giang đại hiệp xong thì báo họ tên cũng không muộn". Giang Hải Thiên nghĩ thầm:
"Tại sao y đòi tỉ thí xong mới báo tên? Chả lẽ y sợ mình biết lai lịch của y rồi không chịu tỉ thí?" Ông liền nói:
"Chân nhân bất lộ tướng, lộ tướng không phải là chân nhân. Nếu các hạ đã bảo thế, Giang mỗ cũng không miễn cưỡng. Lúc nãy các vị bằng hữu chỉ vì thương mến mà khen Giang mỗ, mong các hạ đừng cho là thật. Mời các hạ ngồi lên để Giang mỗ thỉnh giáo, còn chuyện tỷ võ Giang mỗ không dám bêu xấu!".
Người ấy lắc đầu, nói:
"Nói một câu công bằng, dù ông không phải là thiên hạ đệ nhất cũng coi như là một cao thủ. Chẳng dám giấu gì, tôi có ý muốn mở rộng tầm mắt, nếu ông không chịu ban cho vài chiêu là đã làm tôi thất vọng đấy!".
Giang Hải Thiên càng khiêm nhường người ấy càng cuồng ngạo, mọi người nghe đều nổi giận. Công Tôn Hoằng nói:
"Võ lâm đồng đạo trau dồi với nhau để ấn chứng cũng là chuyện bình thường. Giang đại hiệp sao lại phụ tấm lòng của bằng hữu này?".
Trọng Trường Thống cũng khích:
"Đúng thế, Giang đại hiệp hãy ấn chứng với bằng hữu này một phen, chúng tôi cũng muốn mở rộng tầm mắt!".
Giang Hải Thiên còn đang chần chừ, Kim Trục Lưu đã nói:
"Sư huynh không chịu xuống, hay là để đệ thay vậy? Dầu sao bằng hữu này cũng đã từng nói sẽ chỉ giáo cho đệ".
Té ra Kim Trục Lưu cũng thấy người này giấu mặt, vả lại cũng thay đổi giọng nói. Chàng nghi ngờ người này là nhân vật ở đảo Phù Tang.
Kim Trục Lưu tò mò muốn vạch trần thân phận của y nên bước ra muốn thế cho sư huynh.
Quái khách mặc thanh bào liếc nhìn Kim Trục Lưu rồi bảo:
"Hôm nay thiếu hiện đã đấu ba trận, hình như vẫn chưa hoàn toàn hồi phục khí lực?" Kim Trục Lưu nói:
"Chúng ta dừng lại đúng lúc, không luận thắng bại, nếu ngươi hơn ta, ta cũng không tìm cớ che đậy thất bại".
Quái khách mặc thanh bào mỉm cười:
"Đáng khen cho dũng khí của ngươi, nhưng ta không thế chiếm phần hơn. Thế này nhé, ta vốn muốn biết công phu của hai người, cả hai cứ cùng tiến lên để ta khỏi mất công!".
Y vừa nói ra, ai nấy đều giật mình, Tần Xung nén không được quát:
"Các người nghe thử xem, trong thiên hạ này sao có hạng người cuồng vọng như thế!" Quái khách mặc thanh bào hờ hững:
"Cứ chờ ta thua rồi nói câu này cũng không muộn. Giờ vẫn chưa phân thắng bại, sao lại bảo ta cuồng vọng?".
Kim Trục Lưu vừa kinh vừa giận quát:
"Chỉ một mình ngươi mà muốn đấu với chúng ta?" Quái khách mặc thanh bào gật đầu:
"Đúng thế, đâu có gì là lạ?" Kim Trục Lưu nghĩ thầm:
"Chắc y điên rồi!" Nhưng nghĩ chưa xong chợt nghe Giang Hải Thiên nói:
"Sư đệ, cung kính chi bằng tuân lệnh. Đa tạ tiền bối đã coi trọng chúng ta, chúng ta theo lý cũng phải chiều theo!".
Giang Hải Thiên đột nhiên nói ra câu ấy thì mọi người đều không khỏi kinh ngạc. Xưa nay chưa có ai dám đánh tay đôi với Giang Hải Thiên, nay ông lại chấp nhận liên thủ với sư đệ của mình để đối phó với quái khách mặc thanh bào, mọi người đều bất ngờ! Vả lại ông ta cũng không chịu giao thủ với người này, tại sao lại chợt đổi ý?
Kim Trục Lưu cũng không đoán ra điều này, nhưng chàng chợt nghĩ:
"Sư huynh không màng đến thân phận của mình, chả lẽ võ công của người này đúng là kinh thế hãi tục, cả mình cũng không nhận ra?".
Quái khách mặc thanh bào nói:
"Quả nhiên Giang đại hiệp mau mắn, được, chúng ta bắt đầu thôi". Đã có người dời bàn ghế chừa ra một chỗ trống. Quái khách mặc thanh bào bước vào ở giữa, ôm quyền mỉm cười.
Kim Trục Lưu nổi giận đùng đùng, thầm nhủ:
"Kẻ này thật tự đại". Rồi lập tức nhảy ra động thủ với y Giang Hải Thiên chợt kéo chàng lại, cùng chàng sánh vai bước tới cúi đầu. Rõ ràng Giang Hải Thiên rất coi trọng người này. Mọi người đều không khỏi ngạc nhiên, cho rằng ông ta đã khiêm nhường quá đáng. Kim Trục Lưu đành cố nhịn, ôm quyền nói:
"Thôi được, anh em chúng tôi tuân lệnh chiều theo, mong lão tiền bối ban chiêu!" Miệng thì nói ba chữ "lão tiền bối" nhưng lời lẽ không cung kính tý nào.
Quái khách mặc thanh bào liếc mắt nhìn, hỏi:
"Còn huyền thiết bảo kiếm đâu, tại sao chưa lấy ra?" Kim Trục Lưu cười lạnh:
"Ngươi định tỉ thí với huyền thiết bảo kiếm bằng tay không?".
Quái khách thanh bào nói:
"Đúng thế, ta nghe nói huyền thiết bảo kiếm là binh khí có uy lực nhất trong thiên hạ, ta cũng muốn xem cho biết!".
Kim Trục Lưu lạnh lùng:
"Nhưng đao kiếm không có mắt!" Quái khách thanh bào cười ha hả:
"Ngươi hãy yên tâm, huyền thiết bảo kiếm tuy lợi hại nhưng muốn đả thương ta cũng không dễ!".
Tần Xung nén không được kêu lên:
"Người này không phải kẻ điên thì muốn tự sát!" Đó là lời mà ai cũng muốn nói, cả Công Tôn Hoằng và Trọng Trường Thống tuy đã thấy quái khách mặc thanh bào võ công cao cường nhưng cũng cảm thấy y hơi cuồng ngạo. Nhưng sắc mặt của Giang Hải Thiên càng lúc càng nặng nề, tựa như đang suy nghĩ điều gì đó. Ai Giang Hải Thiên cung kính nói:
"Sư đệ, nếu lão tiền bối đã muốn đệ dùng bảo kiếm, chắc cũng muốn chỉ giáo cho đệ vài đường kiếm pháp, đệ không nên bỏ qua cơ hội này!".
Kim Trục Lưu nghĩ bụng:
"Ngươi đã cuồng ngạo như thế ta cũng đành chịu".
Đang tức giận lắm nhưng chàng giả vờ cung kính vâng một tiếng rút ra thanh kiếm.
Giang Hải Thiên nói:
"Xin tiền bối ban chiêu".
Quái khách nói:
"Các ngươi muốn ta chỉ giáo thì phải trổ tài cho ta xem trước đã?" mọi người nghe thì đều lắc đầu thầm nhủ:
"Đúng là đồ mặt dày, Giang Hải Thiên càng khách sáo y càng vô phép?".
Giang Hải Thiên vừa nói "vâng!" Liền sử dụng Thỉnh thủ thức của phái Thiên Sơn, hai chưởng hợp lại đánh về phía người ấy, đó là chiêu thức mở đầu khi bề dưới đánh với bề trên, tỏ ý tôn kính đối phương. Nhưng Giang Hải Thiên đánh ra chiêu này uy lực rất lớn, có thể phá đá vỡ bia, kẻ có võ công kém e rằng phải đứt gân gãy xương. Công Tôn Hoằng thấy Giang Hải Thiên vừa ra tay đã dùng tám thành công lực, tuyệt đối chẳng hề lưu tình, lòng thầm nhủ:
"Có thể mình cũng không chịu nổi chiêu Thỉnh thủ thức này, xem thử y đối phó ra sao?".
Nghĩ chưa dứt đã thấy quái khách thanh bào phất tay, chẳng hề giống chiêu thức nào, nhưng thật kỳ lạ, y vừa phất tay ra thì nắm đấm của Giang Hải Thiên đã lệch qua, vả lại hình như không kìm được người, thân hình cứ lắc lư.
Công Tôn Hoằng và Trọng Trường Thống nhìn nhau, buột miệng kêu lên:
"Thật lạ!".
Kim Trục Lưu nhìn những lộ số của đối phương, nhưng không để ý đến sư huynh.
Không ngờ đối phương đánh ra chẳng giống chiêu số mà Giang Hải Thiên đã lui xuống. Kim Trục Lưu không nhìn thấy rõ sư huynh đã bại như thế nào, bất giác hết sức ngạc nhiên, không biết sư huynh của mình bại thật hay là nhường? Chàng liền sử dụng Thiên la bộ pháp lướt người tiếp lên, chưởng trái vạch ra một vòng cung đánh vào ngực của đối phương.
Kim Trục Lưu dùng chín thành lực đạo trong chưởng này, tưởng rằng dẫu không thể đánh ngã đối phương thì ít nhất cũng khiến đối phương lộ ra tuyệt kỹ, nào ngờ y chỉ giở chưởng phải lên hất xéo, ngón tay lướt nhẹ qua cạnh bàn tay của Kim Trục Lưu, luồng lực đạo của chàng bị y dẫn qua một bên, lập tức hóa giải chẳng còn tăm hơi.
Kim Trục Lưu không hề cảm thấy đối phương vận kình chống trả, cũng chẳng biết đối phương có tài nghệ ra sao.
Quái khách tiện tay hóa giải chiêu tấn công của Kim Trục Lưu, hờ hững nói:
"Đại tu di chưởng thức thuộc về thuần chính hòa bình, luồng lực đạo này quá mạnh, hình như không đúng lắm?".
Hiện nay trên võ lâm có rất ít người biết Đại tu di chưởng thức. Nhưng người này không những đã biết mà còn chỉ ra khuyết điểm của Kim Trục Lưu, khiến chàng không khỏi cả kinh, thầm bội phục. Tuy chàng bội phục nhưng cũng không hoàn toàn tâm phục. Quái khách hình như đã biết chàng nghĩ gì, liền báo:
"Ngươi vẫn chưa dùng bảo kiếm, hãy yên tâm mà đâm tới!".
Lúc nãy Kim Trục Lưu không dám dùng kiếm vì còn e ngại sợ đả thương đối phương. Nay chàng biết võ công của quái khách thâm sâu khó lường, không cần khách sáo nữa. Chàng liền nói:
"Đa tạ chỉ giáo!" Rồi cây huyền thiết bảo kiếm đâm soạt tới đối phương bằng một chiêu Đại mạc cô yên!
Quái khách khen rằng:
"Chiêu này cũng khá lắm!" Đây là kiếm pháp thượng thừa hiểm hóc vô cùng, nhiều danh gia kiếm thuật nằm mơ cũng không đánh xuất thần được như chàng, không ngờ chỉ được khen ba chữ "cũng khá lắm!" Lời khen của quái khách hoàn toàn là lời lẽ của bề trên đối với bề dưới, ai nghe cũng đều bực mình.
Chỉ thấy Kim Trục Lưu vừa đâm kiếm tới, y đã xoay người, ống ta áo phất nhẹ và dẫn ra sau, cây bảo kiếm lệch sang một bên. Quái khách thu tay vào trong ống tay áo, y chẳng "ra tay" mà đã hóa giải kiếm pháp thượng thừa. Còn tay áo của y cũng nguyên vẹn. Mọi người lúc này mới thất kinh, biết rằng quái khách đúng là một cao thủ thân mang tuyệt kỹ.
Kim Trục Lưu càng thất kinh hơn, thanh kiếm của chàng nặng đến cả trăm cân, ống tay áo là vật vừa mềm vừa nhẹ, chỉ cần phất nhẹ vào mà đã xoay chuyển lực đạo của bảo kiếm đánh ra. Công phu này chính là tuyệt kỹ Bốn lượng đẩy ngàn cân trong võ học!
Kim Trục Lưu cũng học công phu này nhưng không xuất thần nhập hóa như y.
Kim Trục Lưu sử dụng cả kiếm lẫn chưởng mà chẳng hề dò được tài nghệ của đối phương, tuy trong lòng đã phục nhưng không chịu ngừng, chàng thầm nhủ:
"Mình bại trận mà cũng chẳng biết đối phương thuộc tông phái nào, há chẳng phải đáng buồn cười hay sao? Dù thế nào mình cũng phải ép y lộ hai chiêu ba thức mới được".
Rồi đánh tiếp lên, miệng kêu:
"Sư huynh, người ta đòi tỉ thí với cả hai chúng ta, sao huynh vẫn chưa lên?" Lúc này chàng đã biết liên thủ với Giang Hải Thiên chưa chắc thắng nổi, nhưng ít nhất vẫn có thể buộc đối phương "ra tay".
Quái khách mặc thanh bào cười ha hả:
"Đúng thế. Giang đại hiệp không cần khách sáo, cứ sánh vai xông lên. Lúc nãy chẳng qua ông chỉ mới sử dụng Thỉnh thủ thức, các người cũng chưa chắc thua kia mà!".
Giang Hải Thiên biết rằng thật sự mình đã thua một chiêu. Ông đương nhiên muốn nhận thua nhưng lòng hiếu kỳ đã nổi lên, vả lại cũng sợ sư đệ thua thiệt, thầm nhủ:
"Nếu mình đoán không đúng, mình nhận thua không sao, nếu sư đệ bị thương ắt mình có lỗi với sư phụ lắm". Té ra ông ta đã đoán ra người này nhưng vẫn chưa dám chắc chắn.
Quái khách đã nói trước là sẽ đấu với cả hai người, ông ta vừa mới thua một chiêu, cũng coi như chưa thua. Vì thế Giang Hải Thiên ôm quyền nói:
"Xin thứ cho vãn bối phóng túng, vãn bối không dám nói tỉ thí, mong tiền bối chỉ giáo". Quái khách ấy cười:
"Ngươi không ra tay, ta chỉ cho ngươi thế nào đây? Đừng nhiều lời, có bản lĩnh gì cứ giở ra!" Giang Hải Thiên cung kính trả lời "vâng" một tiếng hai chưởng đánh về phía quái khách.
Giang Hải Thiên đánh ra hai chưởng, Kim Trục Lưu đã dùng cả kiếm lẫn chưởng, hai người đánh tới từ hai bên trái phải, quái khách mặc thanh bào chỉ dùng có hai tay, dù đề phòng Bốn lượng đẩy ngàn cân thần diệu như thế nào cũng không thể hóa giải chiêu số của họ. Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Được, xem thử ngươi có lộ võ công hay không?" Kim Trục Lưu thông hiểu võ công của các phái chính tà, nghĩ bụng kẻ này lộ một chiêu nửa thức chắc chắn chàng sẽ biết lai lịch của y.
Quái khách khen rằng:
"Rốt cuộc sư huynh cao minh hơn nhiều, Đại tu di chưởng thức có thể nói đã đến mức lô hỏa thuần thanh!" Đây là bộ võ công tuyệt chiêu của Giang Hải Thiên mà quái khách lại chỉ bảo là "có thể nói".
Trong chưởng phong kiếm ảnh, chỉ thấy quái khách mặc thanh bào nhẹ nhàng bạt qua, cây huyền thiết bảo kiếm đâm tới trước, đã bị ông ta đẩy lệch hướng, đâm về phía Giang Hải Thiên. Giang Hải Thiên đẩy hai chưởng ra, một luồng chưởng lực Phách không chưởng đánh bật vào cây kiếm. Cả hai người thối lui ba bước.
Quái khách này đã sử dụng công phu mượn lực đánh lực, lợi dụng cây kiếm của Kim Trục Lưu để đối phó với Giang Hải Thiên mà y không hề để lộ bản lĩnh.
Hai người Kim, Giang tách sang hai bên trái phải, quái khách không hề thừa cơ tấn công chỉ đứng lại nói:
"Đến đây, đến đây! Giang đại hiệp, ông đã ra tay hơi nhanh, chậm một chút thì tốt hơn!" Giang Hải Thiên nói:
"Đa tạ tiền bối chỉ giáo!
Vãn bối không dám nhận hai tiếng đại hiệp". Quái khách ấy cười:
"Ông đừng khách sáo, ta không phải khen võ công của ông, ta chỉ khen cách hành xử của ông mà thôi, ông quả xứng với hai chữ đại hiệp!".
Cả hai sư huynh đệ lại tiến lên, Giang Hải Thiên tập trung tinh thần sử dụng Đại tu di chưởng thức như đang biểu diễn cho sư phụ xem. Quái khách vừa hóa giải vừa gật đầu lia lịa, tỏ ý khen ngợi.
Kim Trục Lưu nói:
"Chúng tôi đã thi triển bản lĩnh, mong tiền bối cũng cho chúng tôi mở rộng tầm mắt!" Chàng thấy sư huynh cung kính với người này bất giác cũng nghi ngờ nên lời nói cũng không dám bất kính nữa.
Quái khách ấy cười ha hả:
"Ta chỉ biết công phu tầm thường, thật ra ngươi không nhìn cũng biết. Ngươi muốn biết, vậy ta sẽ cho ngươi biết".
Khi đang cười quái khách đột nhiên mau chóng trầm eo tọa mã, đấm thẳng quyền ra, đẩy lui Giang Hải Thiên, còn chưởng gạt Kim Trục Lưu ra. Y vừa mới xuất chiêu tất cả mọi người đều xì xầm:
"Ồ, chẳng phải là Tứ bình quyền sao?" "Thật kỳ lạ, sao y lại dùng loại quyền pháp bình thường đối phó với hai người?".
Bộ Tứ bình quyền này là bộ quyền phổ biến nhất giành cho những người mới nhập môn, các bậc cao thủ trong võ thuật không hề để ý tới.
Công Tôn Hoằng nhìn một hồi không khỏi cả kinh, thì thầm nói với Trọng Trường Thống:
"Công phu của người này đã đến mức xuất thần nhập hóa, ăn mày già, ông có biết lai lịch của người này không? Trọng Trường Thống đáp:
"Xem ra người này dùng loại võ công gì cũng phát huy uy lực vô cùng. Năm xưa Kim Thế Di hình như cũng không có được tài nghệ như y".
Ngoài Công Tôn Hoằng và Trọng Trường Thống, ai nấy cũng ngạc nhiên. Họ đoán rằng Kim Trục Lưu có ý bỡn cợt, còn Giang Hải Thiên lại cố ý nhường chiêu.
Nào biết hai người Kim, Giang đang thầm kêu khổ.
Té ra người này tuy sử dụng Tứ bình quyền nhưng hình như đều dự liệu được mỗi chiêu mỗi thức của hai người Giang, Kim. Kim Trục Lưu tưởng rằng trừ phi y không ra tay, nếu vừa ra tay sẽ biết được môn phái của y, nào ngờ y chỉ sử dụng Tứ bình quyền là bài quyền ai cũng biết, nên Kim Trục Lưu đành bó tay. Kim Trục Lưu thầm lo lắng:
"Cả hai sư huynh đệ thua người ta mà chẳng biết lai lịch, quả thật là chuyện đáng cười!" Chàng đột nhiên hú dài, đánh ra một chiêu kiếm pháp cực kỳ cổ quái, cây huyền thiết bảo kiếm lúc đâm tới lúc rút về, như chặn như khóa, như thủ như công.
Không ai biết Kim Trục Lưu đã sử dụng loại kiếm pháp gì. Té ra đây là một chiêu mới Kim Trục Lưu đánh cắp một nửa, sáng tạo một nửa. Lúc nãy thi tỉ thí với Mâu Tông Đào, Mâu Tông Đào đã sử dụng chiêu số quái dị tuyệt luân, chàng tuy chưa hoàn toàn lãnh ngộ nhưng đã nhớ kỹ được mười chiêu kiếm pháp tinh diệu nhất.
Mâu Tông Đào sử dụng cây quạt như phán quan bút và ngũ hành kiếm, cây quạt xếp là vật rất nhẹ, Mâu Tông Đào dùng quạt thay kiếm, nên kiếm chiêu rất khó nắm bắt.
May mà Kim Trục Lưu rất thông minh, lại có căn cơ kiếm thuật, sau khi tỷ võ cố suy nghĩ nghiền ngẫm, lúc này mới lãnh hội ra.
Nay Kim Trục Lưu đang dùng cây huyền thiết bảo kiếm nặng nề, nếu không thể bắt chước y hệt Mâu Tông Đào, chắc chắn sẽ khéo quá thành vụng, nên chàng đã biến hóa, giữ lại phần cất lõi kiếm pháp này rồi tự mình sáng tạo thêm nữa.
Kim Trục Lưu dùng chiêu kiếm pháp cổ quái để đối phó với quái khách cũng là có dụng ý, võ công của quái khách cao minh vô cùng, kiếm pháp này tuy ảo diệu nhưng muốn thắng được y, cả bản thân Kim Trục Lưu cũng biết là vọng tưởng. Nhưng Kim Trục Lưu không phải muốn thắng y mà là muốn dò lai lịch của y mà thôi".
Lúc đầu Kim Trục Lưu tưởng rằng quái khách này chính là Mâu Tông Đào, sau đó lại thấy không giống, nhưng vẫn nghi y là cao thủ của xứ Phù Tang. Bởi vì ở Trung Nguyên quả thật không thể tìm ra một người có bản lĩnh như y, mà võ công của xứ Phù Tang đã tách ra thành ba nhánh, Mâu Tông Đào chỉ học được một phần mười của người xưa, đương nhiên không có cao thủ nào giỏi hơn y.
Mà hễ bậc cao minh gặp phải chiêu lạ sẽ dùng võ công của bổn môn hóa giải, bởi vì đó là phản ứng bản năng.
Kim Trục Lưu đánh ra chiêu này, quái khách hình như hơi ngạc nhiên bật kêu ồ một tiếng, Kim Trục Lưu thầm mừng, thầm nhủ:
"Được, lần này coi ngươi có lộ nguyên hình hay không?".
Nào ngờ quái khách tuy kêu ồ một tiếng, nhưng khi kiếm chiêu của Kim Trục Lưu đâm tới y vẫn dùng Tứ bình quyền hóa giải kiếm pháp của chàng.
Kim Trục Lưu rất thất vọng. Nhưng chàng chợt nảy ra một ý, lóe lên hy vọng trong thất vọng. Té ra khi Kim Trục Lưu dùng võ công gia truyền đối phó với quái khách, quái khách đã hóa giải bằng Tứ bình quyền mà không hề mất sức, nay cũng thế. Nhưng Kim Trục Lưu có thể nhận ra y đã hơi lúng túng.
Kim Trục Lưu liếc mắt nhìn sư huynh, rồi liên tục đánh ra những chiêu mới của mình.
Giang Hải Thiên thầm cười:
"Sư đệ thật háo thắng, may mà đối phương không có ác ý, chỉ đánh ra những đòn phòng ngự!" Nhưng vì không muốn sư đệ thất vọng, đồng thời cũng lo nếu sư đệ bị thương không ổn tý nào. Bởi vậy Giang Hải Thiên tuy đã nhận thua nhưng vẫn phối hợp chặt chẽ với Kim Trục Lưu.
Kim Trục Lưu đánh ra một mạch mười chiêu, mọi người đều nhìn hoa cả mắt, đột nhiên keng một tiếng, cây huyền thiết bảo kiếm rơi xuống đất, người cũng văng ra đến hơn một trượng! Té ra khi chàng đánh đến chiêu thứ mười ba thì liều mạng lướt sát tới trước mặt quái khách, bị quái khách búng vào hổ khẩu, cây huyền thiết bảo kiếm rơi xuống đất liềm Giang Hải Thiên cả kinh, không biết sư đệ bị thương như thế nào, đang định chạy tới đổ chàng, không ngờ Kim Trục Lưu đã đứng dậy, kêu lớn:
"Cha, té ra là cha đùa với con!".
Giang Hải Thiên như cất được tảng đá trong lòng, cả mừng nói:
"Sư phụ, quả nhiên là người!" Rồi vội vàng quỳ xuống dập đầu.
Quái khách cười ha hả:
"Hải Thiên, ngươi cũng khá lắm, công phu đã tiến bộ hơn rất nhiều".
Rồi đưa tay xoa lên mặt, lột cái mặt nạ da người xuống, quả nhiên đó chính là Kim Thế Di. Kim Thế Di nay đã hơn sáu mươi tuổi, nhưng nội công thâm hậu, lại biết thuật trụ nhan cho nên vẫn như hơn bốn mươi.
Trọng Trường Thống cả cười:
"Tôi quả thực lẩm cẩm, lẽ ra phải nghĩ đến đại hiệp. Không ngờ đại hiệp vẫn còn thích đùa như năm xưa".
Kim Thế Di cười:
"Tôi chỉ muốn thử bọn chúng, mới biết bọn chúng không lười biếng. Hừ, nói ra tôi còn chưa trách ông!".
Trọng Trường Thống hỏi:
"Sao lại trách tôi?".
Kim Thế Di nói:
"Các người là bậc trướng bối mà cũng khen bọn chúng là thiện hạ đệ nhất, chẳng phải sẽ làm cho chúng kiêu ngạo hơn sao?".
Trọng Trường Thống nói:
"Ông có được học trò như thế này thì còn chưa hài lòng".
Kim Thế Di nói:
"Tôi chẳng lo gì Hải Thiên, hắn khiêm nhường như thế thật hiếm có, Trục Lưu, con còn kém xa sư huynh lắm. Võ công không giỏi bằng sư huynh, đạo đức thì càng kém. Con phải lấy sư huynh làm gương".
Trọng Trường Thống nói:
"Kim đại hiệp, như thế cũng hơi bất công. Võ công của lệnh lang không bằng sư huynh, nhưng biết tự sáng tạo chiêu mới, người khác khó bằng! Công phu không bằng sư huynh cũng là vì tuổi còn trẻ".
Giang Hải Thiên cung kính:
"Đúng thế. Đệ tử không thông minh bằng sư đệ.
Nếu không nhờ sư đệ lên tiếng, con vẫn chưa biết là người". Thực ra Giang Hải Thiên đã nghi ngờ quái khách này là Kim Thế Di. Nhưng người lên tiếng trước vẫn là Kim Trục Lưu.
Kim Thế Di nói:
"Đáng tiếc nó thông minh không đúng chỗ. Hải Thiên, con cũng bị nó gạt rồi. Con tưởng nó nhận ra ta nhờ võ công ư! Hừ, nó đã thi triển bản lĩnh của Cơ Hiểu Phong dạy cho đối với ta. Ta phạt nó ngã xuống đất coi như cũng đã có lợi cho nó".
Té ra Kim Trục Lưu lướt sát người tới là để lấy một món đồ trên người của quái khách mặc áo xanh nên mới biết đó là cha mình.
Trọng Trường Thống cười ha hả:
"Kim đại hiệp, té ra ông thua một chiêu nên không phục. Theo tôi thấy, lệnh lang sử dụng bản lĩnh Diệu thủ không không rất đúng chỗ!".
Công Tôn Hoằng cười nói:
"Kim đại hiệp, ông đã quay về thì danh hiệu thiên hạ đệ nhất.cao thủ thuộc về ông". Mọi người nghe thế đều bật cười. Kim Thế Di chợt nghiêm mặt:
"Thiên hạ này rộng lớn, ở đâu mà chẳng có người giỏi? Lúc nãy tôi không phải nói bừa. Các người tưởng ta là thiên hạ đệ nhất ư, sai rồi, sai rồi!".
Trọng Trường Thống lại nói:
"Tôi tưởng ông vẫn không đổi tính, té ra là sai.
Trước kia ông đâu có khiêm nhường như thế, có phải ông học từ đồ đệ không?".
Kim Thế Di đáp:
"Trước kia tôi không biết thiên hạ rộng lớn, nay mới biết mình chỉ là ếch ngồi đáy giếng. Không giấu gì các người, hôm qua ta đã đấu kiếm với người ta, đã thua cho một người!".
Trọng Trường Thống nghe thế quá ngạc nhiên:
"Tôi không thể tin nổi trong thiên hạ lại có người thắng được đại hiệp!".
Kim Thế Di nói:
"Các người không tin Trục Lưu, hãy lấy chiếc nhẫn hàn ngọc con đánh cắp trên người của ta ra đây!".
Kim Trục Lưu lấy chiếc nhẫn hàn ngọc ra, Kim Thế Di đưa chiếc nhẫn cho Trọng Trường Thống nhìn:
"Các ông hãy nhìn xem, trên nhẫn chẳng phải có một vết chém hay sao?" Công Tôn Hoằng vừa nhìn thì thất kinh:
"Đây là vết kiếm?".
Hồi 48
Thấy dấu kiếm lạ trên nhẫn ngọc
Hoàn thành tâm nguyện tìm đồng môn
Kim Thế Di nói:
"Đúng thế. Lúc đó tôi đã dùng công phu Đàn chỉ thần thông bắn vào kiếm của đối phương, y tuy đánh rơi kiếm nhưng đã để lại vết kiếm trên chiếc nhẫn hàn ngọc của tôi. Cũng may mà tôi đeo chiếc nhẫn này, nếu không đã không giữ được ngón tay?".
Mọi người nghe Kim Thế Di nói thì đều ngạc nhiên, nhất là những người biết lai lịch của hàn ngọc lại càng kinh hoàng thất sắc!
Hàn ngọc là một loại bảo bối có thể phòng thân, trong số ba món báu vật Kim Thế Di lấy được ở bảo tàng của Kiều Bắc Minh, có một bộ cung tên do hàn ngọc chế thành. Sau đó Kim Thế Di đã đánh bộ cung ngọc thành một bộ giáp bằng ngọc, tặng cho Cốc Trung Liên. Ba mũi tên đánh thành ba chiếc nhẫn ngọc tặng cho Lệ Nam Tinh, Kim Trục Lưu, còn một chiếc thì giữ lại. Hàn ngọc rắn chắc vô cùng, nay thấy trên chiếc nhẫn ngọc có vết kiếm, mọi người có thể biết không những người đó đã sự dụng bảo kiếm mà công lực cũng tương đương Kim Thế Di.
Công phu Đàn chỉ thần thông của Kim Thế Di độc bá thiên hạ, thế nhưng dù búng rơi kiếm của đối phương mà vẫn bị đối phương chém vào chiếc nhẫn thì coi như đôi bên đã hòa.
Mọi người đều nhao nhao hỏi:
"Người ấy là ai? Hiện giờ ở đâu?" Cả Giang Hải Thiên cũng ngạc nhiên, hỏi:
"Sao sư phụ lại giao thủ với người ấy, y có phải là kẻ địch của chúng ta không?".
Kim Thế Di nói:
"Ta không biết lai lịch của bọn người này, nhưng biết thế nào bọn chúng cũng tìm đến con. Nói cách khác bọn chúng là địch thủ của con".
Kim Thế Di dùng "bọn người này", rõ ràng không phải là một người, mọi người càng thêm ngác nhiệm Kim Trục Lưu nói chưa đứt lời chợt nghe bên ngoài có tiếng ồn:
"Ai thế?".
"Ngươi đến đây làm gì?".
"Bọn chúng ta không quen các hạ, nếu các hạ muốn tìm Giang đại hiệp lát nữa bọn ta sẽ thông báo".
Xem ra bên ngoài có người lạ đến, mà những người này lại tìm Giang Hải Thiên.
Nhưng chỉ nghe tiếng ồn của người canh cửa chứ chẳng nghe tiếng của bọn người nọ.
Trọng Trường Thống hừ một tiếng:
"Quả nhiên đã tìm đến nơi, chúng ta ra xem thử tên tiểu tử nào lớn gan đến thế?".
Giang Hải Thiên vội chạy ra trước, vừa ra đến cửa đã gặp liền người ấy. Chỉ thấy người ấy đang dùng một chiêu Đồng tử bái Quan âm vái dài Giang Hải Thiên. Những người đứng bên cạnh Giang Hải Thiên đều té liểng xiểng!
Công Tôn Hoằng ở phía sau, cả kinh:
"Lão ăn mày, đây là Bát nhã chưởng lực của Phật môn chính tông!".
Trọng Trường Thống cười rằng:
"Đúng thế, Công Tôn lão đệ, ông thật tinh mắt!".
Giang Hải Thiên vái lại trả lễ, chỉ thấy người ấy hơi nhún vai, tà áo của Giang Hải Thiên cũng gợn sóng như nước, xem ra Giang Hải Thiên công lực cao hơn. Công Tôn Hoằng không nhận ra người ấy, trong lòng thầm ngạc nhiên:
"Kẻ địch của Giang Hải Thiên tìm đến nơi, sao lão ăn mày lại hớn hở như thế? Bát nhã chưởng có thể đả thương kỳ kinh bát mạch, nếu Giang đại hiệp bị thương thì chẳng phải chuyện chơi!".
Nghĩ chưa dứt, chợt thấy Giang Hải Thiên nắm chặt tay người ấy, cười ha hả:
"Diệp đại ca, Bát nhã chưởng của huynh đã luyện thành công, tiểu đệ hổ thẹn không bằng. Bội phục, bội phục!" Người nọ đáp:
"Hai mươi năm không gặp, công lực của huynh cao hơn trước nhiều. Dù tôi luyện thế nào cũng không thắng nổi huynh. Mộ Hoa đâu?".
Lúc này Công Tôn Hoằng mới biết kẻ ấy là người quen, mọi người cũng thở phào.
Té ra người này chính là Diệp Xung Tiêu. Diệp Xung Tiêu ít khi đến Trung Nguyên, hơn hai mươi tuổi đã ra đảo cho nên các nhân vật võ lâm Trung Nguyên ít người biết đến ông ta.
Kim Thế Di cười lớn:
"Ai cũng có sở trường, nếu luận về Bát nhã chưởng, Hải Thiên không bằng Xung Tiêu, luận về kiếm pháp ta chưa chắc thắng tên tiểu tử hậu sinh đêm qua".
Diệp Xung Tiêu nói:
"Thế bá đã quá khen, tôi còn kém Giang huynh nhiều lắm, nhưng công phu ám khí và kiếm chưởng của những người ấy thật hiếm có trên đời, nếu không có thế bá đứng bên cạnh, tiểu diệt đã thua to".
Trọng Trường Thống nói:
"Chuyện gì đã xảy ra đêm qua?".
Kim Thế Di đáp:
"Chính là chuyện tôi vừa mới nói".
Khi nói đến chuyện này, ai nấy cũng tò mò muốn biết kẻ đã thắng Kim Thế Di một chiêu là ai.
Kim Thế Di chợt cười rằng:
"Họ đã đến, Hải Thiên, cứ để Trung Liên kể cho con nghe vậy".
Nói chưa dứt lời có vài người chạy vào báo:
"Hai đời chưởng môn của phái Mang Sơn đều đến đây!" Giang Hải Thiên cả mừng:
"Té ra sư mẫu cũng đến".
Nói chưa dứt lời đã thấy Cốc Chi Hoa và Cốc Trung Liên cùng bước vào, đi với họ lại còn có cả Âu Dương Uyển và Cam Nhân Long, người đứng đầu trong bốn đại đệ tử của phái Mang Sơn.
Giang Hải Thiên chợt vở lẽ:
"Sư phụ, có phải sư phụ gặp những cao thủ ấy trong nhà của con không?".
Kim Thế Di nói:
"Đúng thế, những kẻ này là cao thủ của triều đình phái đến đối phó với vợ chồng các con".
Cốc Trung Liên nói:
"Sáng hôm qua, Cam sư huynh và ba vị đồng môn từ Mang Sơn vội vã chạy tới, bảo rằng nghe tin triều đình đối phó với muội. Quả nhiên đến tối bọn người ấy dẫn xác tới. May mà chúng tôi phòng bị cho nên không hề thương tổn gì. Bọn này gồm có bảy tên, có cả nam lẫn nữ, võ công ai nấy cao cường! Thật hổ thẹn, muội chẳng biết lai lịch của bọn chúng. Sau một hồi ác chiến, Bạch sư huynh, Lộ sư huynh, Lý sư huynh đều bị trọng thương, muội và Cam sư huynh may mắn không bị thương nhưng cũng sức cùng lực kiệt, không thể nào chống cự được nổi. Bọn người này bao vây muội và Cam sư huynh, buộc chúng tôi đầu hàng. Lúc đó muội đã định tự cắt đứt kinh mạch, thà chết chứ không chịu, không ngờ trong lúc nguy ngập thì sư phụ, sư mẫu cùng đại ca, đại tẩu đã đến, chúng tôi mới chuyển bại thành thắng!".
Mọi người nghe thế đều kinh hãi, Kim Thế Di nói:
"Đây không phải là chuyện trùng hợp, chúng tôi đến Mang Sơn mới biết tin này".
Diệp Xung Tiêu tiếp lời:
"Khi chúng tôi đến nơi nghe tiếng binh khí giao nhau, tôi sơ ý nào ngờ đã thua thiệt".
Số là Diệp Xung Tiêu đã luyện thành đại thừa Bát nhã chưởng, khi về đến Trung Nguyên đang muốn tìm cơ hội thử xem sao. Khi ông đến nhà họ Giang thì Cốc Trung Liên đang bị bao vây. Ông ta tuy biết bọn người này rất ghê gớm nhưng cũng sơ ý, một mình phóng lên.
Lúc đầu Diệp Xung Tiêu cũng nghĩ như thế, nhưng khi thấy bọn họ đánh vài chiêu thì mới biết không xong. Thế rồi vội vàng ra tay nhưng cũng đã muộn nửa bước.
Diệp Xung Tiêu cười khổ sở nói:
"Bảy người này bày trận theo Thất tinh bắc đẩu, tôi tưởng rằng sẽ đánh cho bọn chúng tơi bời. Nào ngờ đối phương giữ trận rất kỹ, chỉ có một người đối phó với tôi. Đó là một hán tử trung niên, tôi chạm với y ba chiêu, không những chẳng chiếm được phần hơn mà còn bị thua thiệt".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Diệp đại ca, huynh có dùng Bát nhã chưởng không?".
Diệp Xung Tiêu gật đầu:
"Đương nhiên có dùng, người ấy tiếp một chưởng hừ một tiếng, người chỉ lắc lư chứ không ngã xuống. Y lại đánh tiếp hai chiêu, kiếm lẫn chưởng đều dùng. Tôi chỉ đối phó được với kiếm của y chứ không thể nào chống nổi chưởng chỉ của y, chỉ thấy be sườn tê rần. May mà Kim thế bá mau chóng đẩy tôi ra, nếu không tôi đã trọng thương".
Nói xong đưa tay vạch áo, chỉ thấy ở dưới be sườn có ba dấu tay đỏ bầm, Diệp Xung Tiêu cười khổ sở:
"Đối phương đã dùng chỉ thay kiếm, chỉ pháp rất tinh kỳ, tôi chưa từng thấy bao giờ! May mà y không dùng kiếm thật!".
Mọi người thấy vết thương trên người Diệp Xung Tiêu đều trợn mắt há mồm.
Kim Thế Di cười:
"Xung Tiêu, ngươi cũng không cần quá khiêm nhường, ba người của bọn chúng tiếp chưởng của ngươi thực ra cũng bị trọng thương. Nhưng ngươi không thấy mà thôi. Cũng nhờ thế mà vợ chồng ta mới có thể phá nổi Thất tinh trận của bọn chúng!".
Trọng Trường Thống chợt kêu lên:
"Đáng tiếc, trận đấu này chắc chắn rất kịch liệt, nhưng tôi không có phước chứng kiến. Kim đại hiệp, ông đã thắng như thế nào, hãy mau kể lại cho chúng tôi nghe thử".
Kim Thế Di lắc đầu:
"Nói ra thật hổ thẹn, vợ chồng chúng tôi tuy may mắn phá trận nhưng không hề biết lai lịch võ công của bọn chúng. Bảy người này sử dụng bảy loại binh khí khác nhau, mỗi người đều có chỗ độc đáo nhưng hình như bọn chúng cùng một môn phái. Chiêu số của bọn chúng rất quái dị nhưng đều biến hóa từ kiếm pháp mà ra. Hai tên sử dụng kiếm là võ công cao cường nhất, tôi dùng chỉ thay kiếm, thi triển Đại tu di kiếm thức mà vẫn chẳng hơn được bọn chúng".
Kim Thế Di không muốn khoe khoang cho nên chỉ nói đại khái. Ai nấy đều không thỏa mãn, đòi Diệp Xung Tiêu bổ sung thêm.
Diệp Xung Tiêu:
"Võ công của tôi còn kém Kim đại hiệp, đôi bên đều sử dụng võ công thượng thừa, tôi nhìn mà hoa cả mắt, thật hổ thẹn, tôi không thể nào biết được sự ảo diệu bên trong".
Ông ta lại cười nói tiếp:
"Bảy người bọn chúng, ngoại trừ hai kẻ sử dụng chưởng, năm người kia đều bị Kim đại hiệp đoạt binh khí, chỉ có một kẻ thà bị trúng một chưởng của ông ta chứ không buông kiếm. Cuối cùng bọn chúng đã bỏ chạy". Nói đến đây thì chợt hỏi Kim Thế Di:
"Kim đại hiệp, lúc đó ông có thể lấy mạng y, nhưng tại sao ông lại tha cho y?".
Kim Thế Di nói:
"Người này có thể tiếp được bảy chiêu của tôi mới bại, coi như cũng là cao thủ trên đời sao tôi có thể còn làm khó y?" Diệp Xung Tiêu mới biết đó là vì Kim Thế Di mến tài đối phương.
Lệ Nam Tinh lúc này mới có cơ hội đến chào Kim Thế Di, Kim Thế Di nói:
"Té ra con và Trục Lưu đã quen biết nhau".
Nói chưa dứt lời, lại thấy có một người bước vào. Kim Trục Lưu cười nói:
"Ồ, té ra là Mâu Tông Đào". Rồi chàng bước lên nói:
"Mâu huynh, huynh đến thật đúng lúc.
Cha tôi đã trở về".
Mâu Tông Đào cả mừng nói:
"Tôi còn lo tin tức không chính xác, té ra lệnh tôn đã trở về. Tôi đang muốn bái kiến lệnh tôn".
Kim Trục Lưu ngạc nhiên, định hỏi y tại sao biết được tin này, Kim Thế Di đã đứng dậy, nói:
"Không dám, tôi là Kim Thế Di. Dám hỏi các hạ cao tính đại danh, tôn sư là ai?".
Mâu Tông Đào cung kính hành lễ rồi nói:
"Kẻ hậu bối Mâu Tông Đào ở đảo Phù Tang bái kiến Kim đại hiệp".
Kim Thế Di lúc này mới vỡ lẽ, té ra những người mà ông ta gặp phải là nhân vật ở đảo Phù Tang, rồi mới nói:
"Tổ sư của quý phái có phải là Loạn Nhiêm Khách thời nhà Đường không?".
Mâu Tông Đào nói:
"Đúng thế". Kim Thế Di vừa lo vừa mừng, nói:
"Loạn Nhiêm Khách là bậc võ học tôn sư hiếm có, không ngờ võ công của ông ta lại xuất hiện ở Trung thổ, quả thật đáng mừng?".
Mâu Tông Đào nói:
"Hàng ngàn năm trôi qua nương dâu cũng thành biển xanh, võ học của tiên tổ đã chẳng còn nguyên vẹn, e rằng vãn bối chỉ học được một phần mười mà thôi. Kim đại hiệp khen ngợi như thế, vãn bối thật không dám nhận".
Kim Trục Lưu nói:
"Mâu huynh đến Trung Nguyên là để tìm đồng môn".
Mâu Tông Đào nói:
"Vãn bối có một tâm nguyện, hy vọng có thể tìm được võ học thất truyền của bổn phái tại Trung thổ, tuy không dám mong khôi phục lại toàn bộ nhưng chỉ cần được một ít đã đủ an ủi tiên sư".
Kim Thế Di nói:
"Mâu huynh có tâm nguyện như thế, nhất định sẽ đạt được".
Mâu Tông Đào nói:
"Mong làm đại hiệp giúp đỡ".
Kim Thế Di nói:
"Vậy Mâu huynh có gặp đồng môn chưa?" Mâu Tông Đào đáp:
"Vẫn chưa?" Kim Thế Di ngạc nhiên:
"Nói như thế, lúc nãy Mâu huynh đã gặp cao thủ ở phái nào?".
Mâu Tông Đào cả kinh, ngạc nhiên hỏi:
"Làm sao Kim đại hiệp biết?".
Kim Thế Di nói:
"Nghe giọng nói của Mâu huynh, hình như kinh mạch thiếu dương đã bị chấn thương, cho nên trung khí không đủ. Không biết tôi có nói sai không?".
Mâu Tông Đào cả kinh, vẫn im lặng không nói. Kim Thế Di mỉm cười:
"May mà Mâu huynh nội công thâm hậu, tuy kinh mạch thiếu dương bị chấn thương nhưng cũng không sao. Chỉ nghỉ vài ngày thì sẽ khỏe. Nhưng tên cường địch ấy là ai?" Kim Thế Đi lúc đầu còn tưởng rằng y đã gặp đồng môn, đôi bên ấn chứng võ công. Nay thấy không đúng mới ngạc nhiên, thầm nhủ:
"Không ngờ trên đời lại có cao thủ như thế!".
Mâu Tông Đào đáp:
"Đó là một đôi vợ chồng không rõ lai lịch, thật hổ thẹn, tôi không biết tông phái của họ".
Té ra sau khi Mâu Tông Đào rời đảo, vì lần đầu tiên gặp cao thủ Trung Nguyên, tỉ thí với Kim Trục Lưu, tuy hơi chiếm được thượng phong nhưng cũng không thắng nổi cây huyền thiết bảo kiếm, lại biết nội lực của Giang Hải Thiên cho nên càng hổ thẹn không bằng. Vì thế trong lòng rầu rĩ, chỉ mong sớm ngày tìm ra đồng môn để thu thập bí cấp võ công của bổn phái, lúc đó mới mong ngóc đầu lên được.
Lòng đang nghĩ vẩn vơ thì chợt nghe có tiếng chuông ngựa vang lên, có một đôi nam nữ trung niên cưỡi ngựa đi ngược qua y. Hai người này đang nói chuyện với nhau. Khi đi ngang qua, Mâu Tông Đào hình như nghe họ nhắc đến tên Kim Thế Di.
Mâu Tông Đào chột dạ, vội vàng chạy theo, chỉ nghe người đàn ông nói:
"Vợ chồng Kim Thế Di và Cốc Trung Liên vừa mới đi ngang qua con đường này, xem ra chắc là từ nhà họ Giang chạy ra đến núi Tồ Lai, không biết Phù Tang thất tử có gặp y hay không?".
Mâu Tông Đào giật mình, thầm nhủ:
"Phù Tang thất tử mà y vừa mới nói chả lẽ là đồng môn của mình? Đi khắp nơi không ngờ lại nghe tin đồng môn ở đây, mà lại có đến bảy người!".
Thế là Mâu Tông Đào đuổi theo họ.
Người đàn bà nói:
"Mặc kệ bọn chúng có gặp hay không, chúng ta phải báo tin Kim Thế Di trở về cho Phù Tang thất tử".
Người đàn ông đáp:
"Đúng thế. Ồ, có ai đi theo sau thế?" Lúc này y đã phát hiện Mâu Tông Đào đuổi theo.
Mâu Tông Đào đề khí kêu rằng:
"Xin hại vị dừng lại một lát!" Rồi phóng vọt qua chặn trước đầu ngựa.
Hai vợ chồng thấy thân thủ của Mâu Tông Đào hết sức ngạc nhiên, rồi mới xuống ngựa đồng thanh hỏi:
"Ngươi là ai? Bọn ta không quen biết người, tại sao lại chặn đường?".
Hai vợ chồng nhà này mũi cao mắt sâu, tròng mắt hơi có màu xanh, xem ra không phải người Hán, nhưng nói tiếng Hán rất trôi chảy. Mâu Tông Đào ngần ngại, hỏi:
"Tôi là Mâu Tông Đào. Không biết hai vị có nghe tên tôi chưa?".
Người đàn ông lạnh lùng:
"Ngươi có phải là nhân vật lừng lẫy không? Xin lỗi, bọn ta hiểu biết cạn hẹp, chưa nghe qua đại danh của các hạ".
Mâu Tông Đào cười rằng:
"Tôi không có ý này, tôi chẳng qua chỉ là một tên vô danh tiểu tốt mà thôi. Nhưng tôi từ Phù Tang đến đây, tôi nghĩ bằng hữu của hai người biết tên tôi".
Hai vợ chồng này nghe Mâu Tông Đào bảo từ Phù Tang đến đều thất kinh.
Người chồng nhìn kỹ Mâu Tông Đào một hồi rồi hỏi lại:
"Ngươi biết bằng hữu của ta?".
Mâu Tông Đào nói:
"Hình như lúc nãy các hạ nhắc đến Phù Tang thất tử, không biết tôi có nghe nhầm hay không? Nếu không nhầm, tôi muốn hỏi Phù Tang thất tử có phải là bảy người đến từ đảo Phù Tang hay không?".
Người đàn ông lại hỏi nữa:
"Ngươi có đúng là hậu nhân của nhà họ Mâu ở Phù Tang hay không?".
Mâu Tông Đào đáp:
"Chính thế!".
Người đàn bà nói:
"Hình như không đúng? Nếu người nói là thực, tại sao bọn chúng không biết nhà ngươi?".
Mâu Tông Đào thầm nhủ:
"Có lẽ là đồng môn ở chi phái khác, chỉ cần mình ấn chứng võ công với họ, họ sẽ tin mình ngay". Vì thế liền đáp:
"Là thật hay giả, mong hai vị dắt tôi đến gặp họ sẽ biết ngay".
Người đàn bà nửa tin nửa ngờ, nói:
"Dắt ngươi đi gặp bọn chúng thì dễ. Nhưng ta không biết lai lịch của ngươi, làm sao dễ dàng hứa với ngươi?" Rồi nhủ thầm:
"Nếu kẻ này là gian tế của đối phương, sau này có gì sai sót, Phù Tang thất tử họ chẳng phải sẽ trách vợ chồng chúng ta hay sao?".
Mâu Tông Đào gặp bảy người kia mới có thể chứng thực được thân phận của mình, nhưng hai vợ chồng nhà này lại không chịu tin chàng, thế là Mâu Tông Đào đành nói:
"Các người muốn thế nào mới tin tôi, được các người cứ hỏi đi!".
Người đàn ông ra chiều suy nghĩ, chợt hỏi:
"Lúc nãy ngươi từ đâu tới?".
Mâu Tông Đào nói:
"Từ núi Tồ Lai".
"Ồ, người đã đi ngang qua núi Tồ Lai, có gặp Kim Thế Di không?".
"Không gặp, nhưng tôi đã gặp con trai của ông ta".
"Có phải Kim Trục Lưu không?".
"Đúng thế. Tôi đi cùng Âu Dương Kiên, suýt nữa hiểu nhầm với y, sau đó tôi nói rõ may mà y chịu tin tôi".
"Ngươi nói rõ cái gì?".
"Tôi muốn nhờ cha của y hỏi thăm giùm tin tức của đồng môn".
"Y nói thế nào?".
"Y bảo chờ cha y đến tôi mới nhờ được. Đúng rồi, tôi muốn hỏi hai vị, có phải đã gặp Kim đại hiệp không?".
Người đàn bà nghe Mâu Tông Đào gọi Kim Thế Đi là Kim đại hiệp thì nhướng mày, tựa như đã nổi giận nhưng người đàn ông nháy mắt ngăn lại.
Mâu Tông Đào đã thấy không ổn, đang ngạc nhiên bỗng nghe người đàn ông lạnh lùng nói:
"Nói như thế, ngươi vừa gặp Kim Trục Lưu đã thân thiết với y!".
Mâu Tông Đào đáp:
"Đúng thế, tuy chúng tôi mới gặp nhau nhưng nói ra cũng có liên quan với nhau, Kim Thế Di đã từng đến đảo Phù Tang tìm hiểu tình hình của tệ phái cho nên chúng tôi nói chuyện rất hợp nhau".
Người đàn ông trả lời:
"Lúc nãy ngươi bảo mới gặp y hiểu lầm ngươi, đó là chuyện gì?".
Mâu Tông Đào đáp:
"Tôi nghe tin triều đình làm chuyện bất lợi dối với Giang Hải Thiên, nhưng lại không biết Âu Dương Kiên là ưng khuyển của triều đình. Lúc nãy hai vị bảo Kim đại hiệp từ huyện Đông Bình tới, không biết có nghe tin tức gì của nhà họ Giang không?".
Người đàn bà chợt cười lạnh:
"Ngươi hỏi thăm cũng hơi nhiều đấy!".
Mâu Tông Đào ngạc nhiên:
"Xin lỗi, tôi biết không nên hỏi thế. Mong hai vị dắt tôi đi gặp quý hữu, có được không?" Lúc ấy y đã cảm thấy có điều gì không ổn.
Người đàn ông thì hờ hững bảo:
"Dắt ngươi đi cũng được, nhưng ngươi phải làm cho ta tin ngươi là người Phù Tang".
Mâu Tông Đào không nén được nữa, lớn giọng hỏi:
"Vậy thế nào mới khiến các hạ tin đây?".
Người đàn ông nói:
"Rất dễ, ta muốn thỉnh giáo vài chiêu!".
Mâu Tông Đào nghe thế, không biết đối phương có ý tốt hay ý xấu liền bảo:
"Được, chúng ta nên dừng lại đúng lúc, không luận thắng bại".
Người đàn ông bảo:
"Đừng nói nhiều, lên đi!" Chưa đứt lời liền ra chiêu trước.
Mâu Tông Đào vừa nhìn biết ngay đó là một chiêu sát thủ, bất đồ lửa giận bốc lên, thầm nhủ:
"Ta coi ngươi là bằng hữu mà ngươi lại coi ta là kẻ địch".
Mâu Tông Đào lách người, vung cây quạt xếp vạch thành một vòng tròn, tựa như điểm tựa như chọc, đầu quạt hướng vào huyệt lao cung của đối phương.
Chiêu này phiêu hốt bất định, có thể sử dụng như phán quan bút, cũng có thể coi là ngũ hành kiếm. Khi đánh như phán quan bút, chỉ trong vòng một chiêu đã điểm vào bảy đại huyệt của đối phương. Khi sử dụng như ngũ hành kiếm, trong vòng một chiêu có thể đâm vào ba đại huyệt của đối phương. Đó chính là kiếm pháp thượng thừa nhất của Phù Tang!
Người đàn ông kêu ồ một tiếng biết quả nhiên Mâu Tông Đào là con cháu của Loạn Nhiêm Khách, nhưng y vẫn làm ngơ tiếp tục đánh tới.
Mâu Tông Đào thất kinh, thầm nhủ:
"Chả lẽ y có thể phong bế huyệt đạo của toàn thân, không sợ thủ pháp điểm huyệt của mình".
Vì y không biết đối phương là địch hay bạn nên cũng hơi lo. Nghĩ chưa dứt thì chợt thấy lực đạo trong hai chưởng của đối phương phát ra như nối với nhau, còn người y bất đồ xoay một vòng, thế là cây quạt điểm hụt, suýt nữa đã bị người ấy giật mất.
Té ra người này luyện một loại chưởng lực có cả cương lẫn nhu, là một loại võ công cực kỳ đặc biệt. Mà Mâu Tông Đào vì hơi e ngại, không dám dùng đủ mười thành công lực cho nên vừa chạm mặt đã đuối thế.
Người này cười lạnh:
"Võ công của đảo Phù Tang chỉ có thế thôi sao?" Rồi y được nước lấn tới, tiếp tục tung ra hai chưởng.
Mâu Tông Đào tức giận đến nỗi thất khiếu bốc khói, thầm nhủ:
"Ta và ngươi chỉ ấn chứng võ công, ngươi lại muốn lấy mạng ta!" Vì thế cũng cười lạnh:
"Ngươi mới biết võ công của đảo Phù Tang cũng khó!" Rồi rùng người xuống, liên tục trả lại ba chiêu.
Lần này chưởng lực của người ấy không thể xoay Mâu Tông Đào nữa, y cố gắng hóa giải ba chiêu rồi chỉ nghe soạt một tiếng, tà áo đã bị Mâu Tông Đào xé rách, nhưng Mâu Tông Đào cũng cảm thấy khí huyết nhộn nhạo.
Mâu Tông Đào vung một chưởng đánh lui đối phương, lạnh lùng nói:
"Võ công của đảo Phù Tang thế nào?" Người ấy cũng lạnh lùng:
"Chẳng thế nào cả!" Rồi lại tiến lên, hai chưởng vung ra một chiêu, Mâu Tông Đào chỉ biết chưởng trái của y là lực dương cương, chưởng phải là lực âm nhu, vì thế vẫn đối phó như cách lúc nãy, không ngờ đột nhiên cảm thấy chưởng lực của đối phương tăng lên lạ lùng, té ra hai chưởng của người ấy tuy là một cường một nhu nhưng có thể thay đổi cho nhau, lúc thì hai chưởng đều cương, lúc thì hai chưởng đều nhu. Mâu Tông Đào suýt nữa đã bị trúng đòn, may mà hóa giải nhanh, sau khi liên tục thối lui ba bước đã chặn lại được một nửa lực đạo của đối phương, nhưng huyết khí trong ngực nhộn nhạo, tựa như bị giáng một nhát búa vào.
Người đàn bà khen "hay" một tiếng rồi nói:
"Nếu ngươi có bản lĩnh như thế hãy thử công phu của ta!".
Hồi 49
Trung thổ quay về tìm bí kíp
Hoa Sơn khéo gặp thử kỳ chiêu
Người đàn bà ấy khen mà như mỉa mai, Mâu Tông Đào hừ một tiếng rồi giục:
"Vợ chồng nhà ngươi cứ cùng xông lên!" Nói chưa dứt lời chợt thấy cầu vồng chói mắt, gió quét rát mặt, té ra người đàn bà đã tháo sợi đai tơ màu hồng ở eo làm vũ khí, quét tới trước mặt Mâu Tông Đào.
Mâu Tông Đào múa quạt phất ra, chỉ nghe soạt một tiếng, cây quạt chạm vào sợi đai như vào một vật cứng y có thể cảm nhận được kình lực của đối hương. Mâu Tông Đào thất kinh, lòng nhủ thâm:
"Nội công của người đàn bà này vừa chính vừa tà, xem ra rất quái dị".
Lúc nãy Mâu Tông Đào đánh tay đôi với người đàn ông có hơi chiếm được thượng phong, khi cả hai vợ chồng họ liên thủ lại cảm thấy khó đối phó.
Hai vợ chồng này, người chồng đánh sáp lá cà với Mâu Tông Đào, hai chưởng cứ múa tít, toàn tấn công vào chỗ hiểm của y, còn người vợ lại vung sợi đai đâm tới, chiêu số càng kỳ ảo khó lường.
Nếu đơn đả độc đấu, Mâu Tông Đào có thể dùng thân pháp Thiên cân trụy đối phó với chưởng lực của người chồng, nhưng người vợ lại tấn công một bên, sợi đai tơ cứ nhẹ múa tựa như rồng bay, nếu đứng yên lại rất khó đối phó. Mâu Tông Đào đành tùy cơ ứng biến, lúc tiến lúc lùi, lúc công lúc thủ, khó khăn lắm mới ứng phó được ba mươi chiêu, dù nội công của y thâm hậu nhưng cũng không khỏi toát mồ hôi trán.
Người chồng lạnh lùng:
"Ta thấy võ công đảo Phù Tang của các hạ cũng chẳng có gì hay ho". Người vợ bảo:
"Cái gì mà võ công của đảo Phù Tang, tôi thấy y là giả mạo. Bản lĩnh của Phù Tang thất tử cao hơn y nhiều, họ mới là thật". Người chồng tiếp:
"Đúng thế, chúng ta bắt y để tra khảo". Hai vợ chồng này rõ ràng biết Mâu Tông Đào là người Phù Tang, nhưng lại có ý một tung một hứng chọc giận khiêu khích Mâu Tông Đào.
Mâu Tông Đào cố nén giận, thầm nhủ:
"Hai vợ chồng này rõ ràng có ác ý, mình còn khách sáo với bọn chúng làm gì?".
Người chồng thấy Mâu Tông Đào đột nhiên lao bổ tới thất kinh, quát:
"Tên tiểu tử nhà ngươi chán sống hay sao!" Mâu Tông Đào quát lớn:
"Cho ngươi thấy võ công của đảo Phù Tang!" Cây quạt đột nhiên mở bật ra, quạt vào mặt, che cặp mắt của đối phương, điểm vào hai ma huyệt, một tử huyệt của đối phương.
Người vợ nào để Mâu Tông Đào thi triển đòn sát thủ đối với chồng? Sợi tơ chợt đánh ra chiêu số của tiểu hoa thương, đâm vào hai mắt của Mâu Tông Đào. Mâu Tông Đào há mồm ngoạm lại, cây quạt vẫn đâm về phía người đàn ông. Không ngờ người vợ sử dụng sợi đai tơ kỳ ảo vô cùng, Mâu Tông Đào vừa ngoạm mụ ta đã giật lại.
Những sợi đai tơ của mụ ta cũng không thể đâm vào mắt của Mâu Tông Đào mà chỉ chạm vào đầu mũi của y. Mâu Tông Đào hắt hơi một cái thật mạnh.
Còn người đàn ông giơ ngang chưởng che tứ huyệt lại, để mặc cho Mâu Tông Đào đâm vào ma huyệt của mình.
Chính vì Mâu Tông Đào đã hắt hơi một cái cho nên chân khí tiết ra mấy phần, bị chưởng lực của y đánh chấn thương kinh mạch thiếu dương, không thể nào đánh tiếp nữa.
Người vợ thấy chồng mình thối lui hai bước đột nhiên đứng ngẩn ra thất kinh, vội vàng chạy tới đó y, hỏi:
"Sao rồi?" Mâu Tông Đào thừa cơ bỏ chạy. Người chồng tự giải huyệt đạo nói:
"Không sao, đáng tiếc đã để tên tiểu tử chạy thoát". Người vợ bảo:
"Y chạy cũng chưa xa, chúng ta đuổi theo!" Lúc này Mâu Tông Đào đã chạy vòng qua hẻm núi, y vẫn còn nghe văng vẳng mấy câu ấy. Mâu Tông Đào cũng không khỏi thất kinh:
"Mình điểm mạnh vào ma huyệt của y mà y vẫn có thể tự giải huyệt. Nếu bị y đuổi kịp thì sẽ hỏng bét?".
Lại nói Kim Thế Di nghe Mâu Tông Đào kể xong mới nói:
"Theo ta biết, ba mươi năm trước có một đại tông sư võ học ở xứ A Thích Bá tên là Đề Ma Đạt Đa, đã từng tỉ thí leo núi với trưởng lão chưởng môn của phái Thiên Sơn ở ngọn Châu Mục Lang Ma, kết quả đã chết vì lạnh. Người này luyện âm chưởng, nghe thiếu hiệp nói, người chồng phát ra loại chưởng lực cương nhu có lẽ là truyền nhân của Đề Ma Đạt Đa ở Trung thổ".
Nói đến đây, Kim Thế Di buồn bã chép miệng "Không ngờ nhiều cao thủ võ lâm đều đã bị triều đình mua chuộc, chỉ e võ lâm từ nay sẽ có nhiều chuyện xảy ra".
Mâu Tông Đào giật mình, nghĩ rằng:
"Nếu chỉ hai vợ chồng nhà này, Kim đại hiệp đã không bảo 'rất nhiềú. Chả lẽ có cả Phù Tang thất tử?".
Mâu Tông Đào đang định hỏi chợt nghe Kim Thế Đi hỏi:
"Mâu tiên sinh, tiên sinh có biết tại sao đôi vợ chồng ấy lại coi tiên sinh là kẻ địch không?" Mâu Tông Đào đáp:
"Vãn bối đang không hiểu cho nên mong đại hiệp chỉ giáo".
Kim Thế Di nói:
"Nói ra tiên sinh đừng đau lòng, tôi cũng đã gặp đồng môn của tiên sinh, họ chính là Phù Tang thất tử!".
Mâu Tông Đào cả kinh, đã đoán được vài phần, nói với giọng run run:
"Kim đại hiệp gặp họ ở đâu?" Kim Thế Di đáp:
"Ở trong nhà của tiểu đồ". Mâu Tông Đào nghe thế kinh hãi thất sắc:
"Té ra họ là những cao thủ mà Âu Dương Kiên đã nói, sao lại gây rối ở nhà Giang đại hiệp?".
Kim Thế Di gật đầu:
"Hình như là thế. Không chỉ có bọn họ, cả đôi vợ chồng ấy cũng cùng một phe với họ".
Rồi Kim Thế Di kể lại chuyện giao thủ với bảy cao thủ cho Mâu Tông Đào nghe một lượt. Mâu Tông Đào nghe xong lặng lẽ cúi đầu. Kim Thế Di an ủi:
"Chắc họ cũng giống như tiên sinh, lần đầu tiên đến Trung Nguyên nên không hiểu trắng đen thị phi, đã bị Tát Phúc Đỉnh lôi kéo. Nếu tiên sinh có thể khuyên họ trở về đường sáng, quả thực công đức ấy không thể đếm xuể".
Mâu Tông Đào gật đầu:
"Cũng mong là thế. Tôi cũng muốn tìm họ nói chuyện".
Kim Thế Di nói:
"Nếu họ vẫn không tỉnh ngộ, lúc đó tiên sinh há chẳng phải tự chui đầu vào lưới hay sao? Chuyện này phải suy nghĩ kỹ mới được".
Mâu Tông Đào nói:
"Phái Phù Tang chúng tôi đã có giới luật không cho tàn hại đồng môn. Tôi nghĩ họ đã đi vào đường tối, nhưng chắc vẫn còn tình đồng môn!".
Kim Thế Di hỏi:
"Vậy tiên sinh tính thế nào?".
"Tôi định đi tìm họ".
"Nếu họ đã trở thành người của Tát Phúc Đỉnh, tiên sinh có thể lên kinh dò tìm.
Nhưng chúng ta nên phòng bị, tôi sẽ đi cùng tiên sinh".
Mâu Tông Đào mừng rỡ:
"Không dám làm phiền Kim đại hiệp".
"Tôi lên kinh không phải chỉ vì chuyện này, hai mươi năm nay tôi không về Trung Nguyên, muốn nhân dịp này thăm vài người bạn".
Mâu Tông Đào hẹn thời gian và địa điểm gặp mặt ở Bắc Kinh với Kim Thế Di rồi cáo từ.
Kim Thế Di lại hỏi đến tình hình phản Thanh hai mươi năm nay của võ lâm, Kim Trục Lưu nói:
"Chắc cha đã biết, Trúc Thượng Phụ đã trở thành đầu lĩnh của nghĩa quân miền tây bắc". Giang Hải Thiên tiếp:
"Đầu lĩnh nghĩa quân ở miền Tiểu Kim Xuyên Tiêu Chí Viễn cũng là một trang hảo hán. Nhưng sau khi sư phụ rời khỏi Trung Nguyên mới xuất đạo, có lẽ sư phụ chưa biết chuyện này?".
Kim Thế Di rất mừng:
"Hai mươi năm nay trên võ lâm có nhiều người tài, quả thật là chuyện đáng mừng, các bằng hữu của ta đều có sự nghiệp oanh liệt".
Giang Hải Thiên nói:
"Triều đình coi núi Đại Lương và Tiểu Kim Xuyên là gai trong mắt, đang có âm mưu đối phó với Trúc lão tiền bối". Rồi kể lại lời của Phong Tử Siêu lúc nãy.
Kim Thế Di giục:
"Vậy các người phải lên đường sớm".
Kim Trục Lưu vâng dạ:
"Ngày mai con cũng sẽ lên đường".
Tần Nguyên Hạo nói:
"Chúng tôi cũng phải quay về chờ lệnh, tôi sẽ dẫn đường cho huynh. Trúc lão tiền bối ở trong rừng sâu rất khó tìm".
Sử Hồng Anh và Kim Trục Lưu bàn sẽ cùng nhau đi, nhưng trước mặt vợ chồng Kim Thế Di họ ái ngại không dám nói ra.
Lý Đôn biết ý nàng, nói:
"Bang chủ, hãy yên tâm đi cùng Kim đại ca, chuyện trong bang đã có tôi lo liệu lại còn có Công Tôn đà chủ giúp đỡ chắc không xảy ra chuyện gì!".
Kim Thế Di ngẫm nghĩ rồi chợt cười:
"Trục Lưu, con và Sử cô nương vẫn chưa có danh phận, nếu đi cùng nhau sẽ rất bất tiện. Chi bằng các con cứ đính hôn trước, đợi khi nào con quay về ta sẽ đến Tiểu Kim Xuyên chủ trì hôn lễ cho các con".
Mọi người đều khen hay, Sử Hồng Anh mừng rỡ nhưng mặt đỏ ửng, cúi đầu e thẹn.
Cốc Chi Hoa tháo thanh sương hoa kiếm xuống nói:
"Đây là báu vật gia truyền của sư phụ tặng cho ta, giờ đây ta tặng cho con làm sính lễ, coi như là quà gặp mặt của ta".
Năm xưa Lã Tứ Nương đã dùng cây sương hoa kiếm này giết chết Ung Chính hoàng đế.
Đêm ấy tiệc lại mở linh đình, mọi người đều chuốc rượu cho đến trời sáng.
Trời vừa hửng sáng bốn người Kim Trục Lưu, Sử Hồng Anh, Tần Nguyên Hạo và Phong Diệu Thường đã từ biệt mọi người.
Trên đường không có chuyện gì xảy ra, khi tới chân núi Hoa Sơn trời đã về chiều. Ngẩng nhìn ngọn Hoa Sơn cao chọc trời, mây vờn quanh đỉnh núi, xa xa ráng chiều bồng bềnh, cảnh tượng khiến lòng người xao xuyến. Tần Nguyên Hạo chưa bao giờ đến núi Hoa Sơn, bất giác khen rằng:
"Người xưa nói trong Ngũ Nhạc đứng đầu là Tây Nhạc, quả thực danh đồn không ngoa".
Kim Trục Lưu cũng nói:
"Tôi đã hai lần đến Hoa Sơn, đáng tiếc đều vội vã đi ngang qua mà chẳng có dịp dừng lại ngắm nhìn. Đêm nay chúng ta chưa thể tới được thị trấn, chi bằng cứ ở lại đây. Khấu Thạch đạo nhân không may qua đời, chúng ta cũng nên thắp nhang cho ông ta".
Rồi cả bốn người lên núi Hoa Sơn, khi đến Thanh Phong quán trời đã tối. Các đạo sĩ của Thanh Phong quán đều ngạc nhiên, vội vàng chạy ra mở cửa. Kim Trục Lưu hỏi:
"Sau ngày hôm ấy có kẻ xấu nào đến quấy nhiễu mọi người không?".
Đạo sĩ cười khổ:
"Không, nhưng một lần bị rắn cắn mười năm thấy dây thừng cũng sợ. Nói ra thật hổ thẹn, chúng tôi chỉ học được một ít y thuật của gia sư. Còn võ công chẳng hề biết".
Kim Trục Lưu nói:
"Đã có người trả thù cho tôn sư".
Đạo sĩ cả mừng:
"Đa tạ Kim đại hiệp. Không biết kẻ thù của gia sư có phải là giáo chủ của Thiên ma giáo Lệ Nam Tinh hay không?" Y chỉ nhìn người trả thù cho sư phụ mình là Kim Trục Lưu, còn Kim Trục Lưu khiêm nhường cho nên không chịu nói ra.
Kim Trục Lưu cười rằng:
"Hoàn toàn ngược lại, người trả thù cho lệnh sư chính là Lệ Nam Tinh. Nhưng y không phải là giáo chủ của Thiên ma giáo".
Đạo sĩ rất ngạc nhiên, Kim Trục Lưu đành kể lại mọi chuyện, chập nghe xong, đạo sĩ chép miệng:
"Thiện có thiện báo, ác có ác báo, nếu chưa báo thì thời gian vẫn chưa tới. Câu này thật đúng. Tên lão tặc Dương Hạo tuy chưa chết nhưng đã trở thành phế nhân cũng đủ giải mối hận cho chúng tôi".
Đạo sĩ đưa cả bốn người vào linh đường, sau khi thắp nhang xong liền đưa lọ về phòng.
Đương nhiên Tần Nguyên Hạo và Kim Trục Lưu ở cùng một phòng. Hai người đang ngồi trò chuyện trong phòng, Kim Trục Lưu chợt nghiêng tai lắng nghe, Tần Nguyên Hạo hỏi:
"Ồ, hình như có tiếng hổ gầm?" Té ra họ nghe văng vẳng có tiếng gầm.
"Không giống tiếng hổ gầm, hình như tiếng người hú".
"Canh khuya nửa đêm có ai lên Hoa Sơn phát ra tiếng hú?".
Chợt Tần Nguyên Hạo lắc đầu xua tay, nói:
"Im nào! Nội công của chàng không bằng Kim Trục Lưu cho nên sau một hồi mới nghe rõ hơn.
Kim Trục Lưu thấy mặt chàng có sắc lạ, hỏi:
"Thế nào, đã nghe rõ chưa?".
Tần Nguyên Hạo ngạc nhiên:
"Ồ, quả thật là tiếng hú của người có võ công cao cường". Đến đây tiếng hú ngừng lại. Nhưng vẫn còn văng vẳng trong sơn cốc.
Kim Trục Lưu nói:
"Chúng ta phải đi gặp cao nhân này, nếu huynh không muốn đi cùng tôi thì cứ chờ ở đây".
Tần Nguyên Hạn nổi lòng tò mò, vỗ ngực:
"Được tôi đi cùng huynh!".
Kim Trục Lưu mừng rỡ, cười rằng:
"Chúng ta đi thôi".
Cả hai người định lén Sử Hồng Anh và Phong Diệu Thường ra ngoài, không ngờ vừa mới mở cửa đã thấy có hai nàng đang đi về phía họ.
Kim Trục Lưu vừa lo vừa mừng, hạ giọng hỏi:
"Các người đã nghe rồi ư?" Sử Hồng Anh gật đầu:
"Có phải hai người định ra ngoài xem không?" Kim Trục Lưu hỏi lại:
"Muội có muốn đi không?" Sử Hồng Anh đáp:
"Nếu không, muội cũng chẳng tìm huynh". Kim Trục Lưu nói:
"Được, chúng ta lén ra ngoài, đừng đánh thức đạo sĩ trong quán".
Cả bốn người đi khoảng một canh giờ thì Kim Trục Lưu nghe văng vẳng như có tiếng cười. Chàng vừa lo vừa mừng, lẩm bẩm:
"Hình như có vài người đang trò chuyện. Chúng ta hãy mau đến đấy".
Đi một lúc nữa Tần Nguyên Hạo kêu lên:
"Ồ, đúng là bên đó có người!".
Kim Trục Lưu nhìn theo hướng chàng chỉ, chợt thấy phía trước có một cây cầu đá dài khoảng sáu bảy trượng bắt ngang qua hai ngọn núi. Phía bên kia có vài cây gỗ tùng cao lớn, có hai người, tựa như một nam một nữ. Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Nghe tiếng cười lúc nãy, hình như không chỉ có hai người. Hãy đến xem thử".
Sử Hồng Anh thấy địa thế hiểm trở, cảnh cáo:
"Trục Lưu, cẩn thận!" Kim Trục Lưu nói:
"Mọi người cứ ở đây chờ tôi, tôi đi xem thử là ai". Chàng biết Sử Hồng Anh lo mình hụt chân cho nên trong bụng cười thầm nàng nhát gan. Nhưng Sử Hồng Anh lại có ý bảo chàng đề phòng có người đánh lén.
Kim Trục Lưu phóng người vọt lên cây cầu đá, chỉ thấy từng đóa mây trắng bay trước mắt, Kim Trục Lưu bất đồ khen:
"Đẹp lắm, đẹp lắm! Hồng Anh đừng sợ, muội đến đây nào!" Cười chưa dứt hai người đã hiện ra, đi về phía cây cầu đá. Người đàn ông để râu ba chòm, người đàn bà thì tóc búi cao, trông khoảng ngoại bốn mươi., Kim Trục Lưu lớn giọng gọi:
"Vãn bối ngưởng mộ đã lâu, mong được bái phỏng".
Chưa đứt lời chợt thấy người đàn ông phóng vọt người nhảy lên cây cầu, đi thẳng về phía Kim Trục Lưu, nói lớn:
"Không dám, té ra là công tử của Kim đại hiệp đến đây. Đa lễ như thế, chúng tôi nào gánh nổi!".
Cây cầu rất nhỏ, người này bước tới mà chẳng hề có ý né tránh. Kim Trục Lưu cả kinh, lúc này mới biết y không có ý tốt, rõ ràng là muốn dồn mình vào chỗ chết? Kim Trục Lưu đang đứng giữa cây cầu không thể né tránh sang hai bên, nếu quay đầu đi ngược lại thì người ấy chỉ cần đẩy nhẹ chàng rơi xuống liền. Vả lại người ấy đi thẳng tới, dầu cho Kim Trục Lưu không xoay người lại mà bước lùi ra sau cũng khó tránh độc thủ.
Kim Trục Lưu nổi giận, cười lạnh lẽo:
"Không dám làm phiền đại giá nghênh đón, tôi tự qua được!" Chàng không lùi nữa mà tiến tới, lòng nhủ thầm:
"Ta xem thử ngươi có bản lĩnh gì đẩy ta xuống được!" Khi hai người sắp va vào nhau, kẻ ấy không khỏi thất kinh, thầm nhủ:
"Y là con trai của Kim Thế Di, võ công chắc chắn không tầm thường, nếu mình chạm với y e rằng không đấu lại". Người ấy nghĩ như thế cho nên lập tức đứng lại, nói:
"Không dám!" Rồi hai chưởng chắp lại vái một cái về phía Kim Trục Lưu.
Nhìn bề ngoài động tác này như thi lễ với Kim Trục Lưu nhưng thực sự là một đòn sát thủ lợi hại, ẩn giấu chiêu thức Đồng tử bái Quan âm. Đây vốn chỉ là một chiêu bình thường nhưng người ấy sử dụng rất khéo léo, chẳng khác gì một kiếm chiêu, ngón tay đâm thẳng vào huyệt đan điền của Kim Trục Lưu. Vả lại khi y chắp tay, một luồng chưởng lực đã dồn ra đè về phía Kim Trục Lưu.
Kim Trục Lưu cười lạnh lẽo:
"Các hạ không cần nhiều lễ?" Rồi hai tay ôm hờ lại làm ra vẻ trả lễ, nhưng thực sự đã hóa thành chiêu thức Phất vân thủ hóa giải chưởng lực của đối phương. Luồng nhu kình của Kim Trục Lưu chợt biến thành một loại chưởng lực cương mãnh chém tới. Người ấy vội vàng rút tay, chạm với Kim Trục Lưu một chưởng.
Kim Trục Lưu mượn luồng chưởng lực ấy phóng vọt qua đầu y qua đến đầu cầu bên kia, trong lòng thầm kêu một tiếng may mắn.
Chiêu số chưởng lực của người này vốn cổ quái lạ thường, Kim Trục Lưu may mắn thấy được chiêu này lần trước nên mới có thể ung dung đối phó được. Người này thoát hiểm, cũng thầm kêu lên:
"May mắn!" Rồi quay trở lại khen:
"Kim thiếu hiệp, công phu giỏi?".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Có phải người là một trong Phù Tang thất tử không?".
Người ấy không khỏi cả kinh, nói:
"Kim thiếu hiệp thật tinh mắt" Nghĩ bụng:
"Y tiếp của mình một chiêu mà đã biết được lai lịch của mình thật không thể coi thường!" Rồi cười ha hả:
"Chắc là lệnh tôn đã từng nói với công tử. Chúng tôi đã lãnh giáo võ công tuyệt thế của lệnh tôn, hôm nay vừa khéo gặp công tử thật là may mắn!".
Kim Trục Lưu lạnh lùng:
"Có phải người muốn tỉ thí với tôi không?".
Người ấy bảo:
"Tôi là bại tướng trong tay lệnh tôn, vốn không dám bày trò trước mặt công tử, nhưng công tử chịu ban chiêu ắt tôi cũng rất muốn xem kiếm pháp gia truyền tuyệt thế vô song của công tử!".
Người ấy nói rất khiêm nhường nhưng khẩu khí rất cuồng ngạo, lúc nãy Kim Trục Lưu suýt bị y đẩy xuống cầu, chàng làm sao có thể nhịn được! Dù đối phương không khiêu chiến, chàng cũng muốn tỉ thí. Kim Trục Lưu rút phắt thanh huyền thiết bảo kiếm, quát:
"Ta cũng đang muốn biết thêm về kiếm thuật của đảo Phù Tang, mời xuất chiêu?".
Người này thấy thanh huyền thiết bảo kiếm đen kịt, bất đồ thất kinh thầm nhủ:
"Thanh kiếm này không hề có chút ánh sáng, chắc chắn là rất kỳ quái". Rồi cẩn thận đánh ra một chiêu Nhật xuất Phù Tang, mũi kiếm vẫy nhẹ.
Đây là khởi thủ thức trong kiếm thuật của Phù Tang, cũng là chiêu thức thăm dò, trông rất nhẹ nhàng linh hoạt. Kim Trục Lưu khen một tiếng "hay" rồi vung kiếm chém xuống.
Người này thấy cây huyền thiết bảo kiếm không phải vật thường, nhưng không ngờ nó lại nặng nề đến thế, hai kiếm chưa tiếp xúc nhau thì đã cảm thấy một nguồn lực dồn tới. May mà y chỉ dùng kiếm chiêu thăm dò hư thực của đối phương, vừa cảm thấy không ổn lập tức mũi kiếm điểm nhẹ, nhảy vọt ra sau ba thước.
Y đã chặn lại một nửa nguồn lực này của Kim Trục Lưu, chàng không khỏi thất kinh nhủ thầm:
"Nội công của người này chẳng kém gì Mâu Tông Đào, nhưng kiếm thuật hình như còn hơn cả Mâu Tông Đào. May mà mình đã từng giao thủ với Mâu Tông Đào, ít nhiều cũng hiểu được kiếm thuật của y! Người ấy vọt xéo ba thước, đỡ ngang kiếm chém lại, đó lại là một chiêu kiếm pháp có cả công lẫn thủ. Kim Trục Lưu cười rằng:
"Ta mới sáng tạo vài chiêu thức, cũng giống với kiếm thuật của quý phái, mong các hạ chỉ giáo!".
Vừa dứt lời chàng đã đánh soạt ra ba chiêu liên hoàn, đó là những chiêu mới biến hóa từ những chiêu tinh diệu nhất trong kiếm thuật của phái Phù Tang, lập tức kẻ ấy luống cuống chỉ đành thối lui.
Mười chiêu đã xong, người ấy càng lúc càng thất kinh, thầm nhủ:
"Chả lẽ kiếm phổ của bổn phái đã rơi vào trong tay y?" Y chỉ học được ba bốn phần kiếm thuật của bổn môn, nay phát giác Kim Trục Lưu sử dụng còn tinh diệu hơn cả mình đâm ra không khỏi nghi ngờ.
Người vợ thấy chồng thua thiệt cả kinh rút kiếm ra quát:
"Hay lắm, tên tiểu tử nhà ngươi đánh cắn kiếm phổ của phái ra, đã thế còn dám giở trò, nếu không chớ trách bọn ta không tha cho ngươi". Kim Trục Lưu cười ha hả:
"Buồn cười, buồn cười!".
Người đàn bà hỏi giật giọng:
"Buồn cười cái gì?".
Kim Trục Lưu nói:
"Mấy trăm năm trước, quý phái đã chia thành ba nhánh, kiếm phổ đã thất truyền, các người không hề có hộ kiếm phổ hoàn chỉnh, ta đánh cắp từ đâu?".
Hán tử thất kinh, ngạc nhiên:
"Sao ngươi biết rõ như thế?" Người đàn bà vội bảo:
"Kiếm thuật của bổn phái tinh diệu tuyệt luân dù ngươi học được một ít cũng đủ vùng vẫy trên võ lâm. Đáng tiếc hôm nay ngươi gặp bọn ta, ta khuyên ngươi đừng bẻm mép nữa, hãy trả lại kiếm phổ cho bọn ta!".
Kim Trục Lưu vốn muốn kể lại chuyện của Mâu Tông Đào cho hai vợ chồng này nghe, nhưng nghe họ nói như thế bất giác nổi giận, cố ý ngửa đầu lên trời rồi lại cười ha hả ba tiếng.
Người đàn bà hỏi:
"Tên tiểu tử nhà ngươi có gì buồn cười?".
Kim Trục Lưu đáp:
"Ta cười bọn ngươi là ếch ngồi đáy giếng, chẳng biết quái gì cả".
Người chồng nghe thế không hề nổi giận, thành thục hỏi:
"Kim công tử tại sao bảo chúng tôi là ếch ngồi đáy giếng?".
Kim Trục Lưu nói:
"Theo ta biết, võ thuật Trung thổ có nguồn gốc sâu xa, thủy tổ của quý phái là Loạn Nhiệm Khách cũng từ Trung thổ mà ra đi. Hàng ngàn năm qua, Trung thổ có nhiều người tài, dù không hơn tiền nhân nhưng cũng đã sáng tạo được không ít võ công mới. Các người bảo kiếm thuật của quý phái tinh diệu tuyệt luân, hình như đã có ý coi thường Trung thổ!".
Hán tử nói:
"Công tử cười chúng tôi hiểu biết có hạn, vậy mong công tử ban cho chúng tôi vài chiêu kiếm pháp cao minh của Trung thổ để chúng tôi mở rộng tầm mắt.
Nếu quá thực thắng được tại hạ, tại hạ mới phục". Người vợ chen vào:
"Đúng thế, ngươi tâng bốc võ thuật Trung thổ cao minh, vậy cần gì phải dùng đến kiếm pháp Phù Tang?".
Kim Trục Lưu cười nói:
"Chẳng dám giấu gì, mấy chiêu kiếm pháp vừa rồi của tôi tuy biến hóa từ kiếm pháp của quý phái nhưng cũng là chiêu mới đã tự tôi sáng tạo, nếu các người không tin, ta sẽ dùng kiếm kiếm pháp gia truyền để ấn chứng với các người!".
Hán tử này chính là người đã dùng cây kiếm chém vào chiếc nhẫn hàn ngọc của Kim Thế Di, lúc đó Kim Thế Di không hề dùng binh khí, chỉ nhờ Đàn chỉ thần thông đánh bật thanh kiếm của y ra, nên tuy bại trong tay Kim Thế Di nhưng y lại rất tự tin đối với kiếm pháp của mình. Y nghĩ bụng:
"Kiếm pháp của Kim Thế Di là thiên hạ vô song, nhưng mình chưa từng thấy, không biết là thật hay giả? Theo tình hình hôm ấy, mình đã hơn y nửa chiêu kiếm pháp, không biết con trai của y có thắng được mình hay không?" Vì thế nói:
"Được, nếu ngươi dùng kiếm pháp bổn môn thắng được ta, ta sẽ chấp nhận cúi đầu!".
Kim Trục Lưu cười ha hả:
"Cũng không cần như thế!" Lập tức múa ra một đóa kiếm hoa chậm rãi đâm về phía người ấy.
Chính là:
Kiếm thuật thông huyền đạt biến hoá, Nào ngờ Trung thổ thắng Phù Tang.
Muốn biết chuyện tiếp theo thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI Trung thổ quay về tìm bí kíp.
Hoa Sơn khéo gặp thử kỳ chiêu.
Người đàn bà ấy khen mà như mỉa mai, Mâu Tông Đào hừ một tiếng rồi giục:
"Vợ chồng nhà ngươi cứ cùng xông lên!" Nói chưa dứt lời chợt thấy cầu vồng chói mắt, gió quét rát mặt, té ra người đàn bà đã tháo sợi đai tơ màu hồng ở eo làm vũ khí, quét tới trước mặt Mâu Tông Đào.
Mâu Tông Đào múa quạt phất ra, chỉ nghe soạt một tiếng, cây quạt chạm vào sợi đai như vào một vật cứng y có thể cảm nhận được kình lực của đối hương. Mâu Tông Đào thất kinh, lòng nhủ thâm:
"Nội công của người đàn bà này vừa chính vừa tà, xem ra rất quái dị".
Lúc nãy Mâu Tông Đào đánh tay đôi với người đàn ông có hơi chiếm được thượng phong, khi cả hai vợ chồng họ liên thủ lại cảm thấy khó đối phó.
Hai vợ chồng này, người chồng đánh sáp lá cà với Mâu Tông Đào, hai chưởng cứ múa tít, toàn tấn công vào chỗ hiểm của y, còn người vợ lại vung sợi đai đâm tới, chiêu số càng kỳ ảo khó lường.
Nếu đơn đả độc đấu, Mâu Tông Đào có thể dùng thân pháp Thiên cân trụy đối phó với chưởng lực của người chồng, nhưng người vợ lại tấn công một bên, sợi đai tơ cứ nhẹ múa tựa như rồng bay, nếu đứng yên lại rất khó đối phó. Mâu Tông Đào đành tùy cơ ứng biến, lúc tiến lúc lùi, lúc công lúc thủ, khó khăn lắm mới ứng phó được ba mươi chiêu, dù nội công của y thâm hậu nhưng cũng không khỏi toát mồ hôi trán.
Người chồng lạnh lùng:
"Ta thấy võ công đảo Phù Tang của các hạ cũng chẳng có gì hay ho". Người vợ bảo:
"Cái gì mà võ công của đảo Phù Tang, tôi thấy y là giả mạo. Bản lĩnh của Phù Tang thất tử cao hơn y nhiều, họ mới là thật". Người chồng tiếp:
"Đúng thế, chúng ta bắt y để tra khảo". Hai vợ chồng này rõ ràng biết Mâu Tông Đào là người Phù Tang, nhưng lại có ý một tung một hứng chọc giận khiêu khích Mâu Tông Đào.
Mâu Tông Đào cố nén giận, thầm nhủ:
"Hai vợ chồng này rõ ràng có ác ý, mình còn khách sáo với bọn chúng làm gì?".
Người chồng thấy Mâu Tông Đào đột nhiên lao bổ tới thất kinh, quát:
"Tên tiểu tử nhà ngươi chán sống hay sao!" Mâu Tông Đào quát lớn:
"Cho ngươi thấy võ công của đảo Phù Tang!" Cây quạt đột nhiên mở bật ra, quạt vào mặt, che cặp mắt của đối phương, điểm vào hai ma huyệt, một tử huyệt của đối phương.
Người vợ nào để Mâu Tông Đào thi triển đòn sát thủ đối với chồng? Sợi tơ chợt đánh ra chiêu số của tiểu hoa thương, đâm vào hai mắt của Mâu Tông Đào. Mâu Tông Đào há mồm ngoạm lại, cây quạt vẫn đâm về phía người đàn ông. Không ngờ người vợ sử dụng sợi đai tơ kỳ ảo vô cùng, Mâu Tông Đào vừa ngoạm mụ ta đã giật lại.
Những sợi đai tơ của mụ ta cũng không thể đâm vào mắt của Mâu Tông Đào mà chỉ chạm vào đầu mũi của y. Mâu Tông Đào hắt hơi một cái thật mạnh.
Còn người đàn ông giơ ngang chưởng che tứ huyệt lại, để mặc cho Mâu Tông Đào đâm vào ma huyệt của mình.
Chính vì Mâu Tông Đào đã hắt hơi một cái cho nên chân khí tiết ra mấy phần, bị chưởng lực của y đánh chấn thương kinh mạch thiếu dương, không thể nào đánh tiếp nữa.
Người vợ thấy chồng mình thối lui hai bước đột nhiên đứng ngẩn ra thất kinh, vội vàng chạy tới đó y, hỏi:
"Sao rồi?" Mâu Tông Đào thừa cơ bỏ chạy. Người chồng tự giải huyệt đạo nói:
"Không sao, đáng tiếc đã để tên tiểu tử chạy thoát". Người vợ bảo:
"Y chạy cũng chưa xa, chúng ta đuổi theo!" Lúc này Mâu Tông Đào đã chạy vòng qua hẻm núi, y vẫn còn nghe văng vẳng mấy câu ấy. Mâu Tông Đào cũng không khỏi thất kinh:
"Mình điểm mạnh vào ma huyệt của y mà y vẫn có thể tự giải huyệt. Nếu bị y đuổi kịp thì sẽ hỏng bét?".
Lại nói Kim Thế Di nghe Mâu Tông Đào kể xong mới nói:
"Theo ta biết, ba mươi năm trước có một đại tông sư võ học ở xứ A Thích Bá tên là Đề Ma Đạt Đa, đã từng tỉ thí leo núi với trưởng lão chưởng môn của phái Thiên Sơn ở ngọn Châu Mục Lang Ma, kết quả đã chết vì lạnh. Người này luyện âm chưởng, nghe thiếu hiệp nói, người chồng phát ra loại chưởng lực cương nhu có lẽ là truyền nhân của Đề Ma Đạt Đa ở Trung thổ".
Nói đến đây, Kim Thế Di buồn bã chép miệng "Không ngờ nhiều cao thủ võ lâm đều đã bị triều đình mua chuộc, chỉ e võ lâm từ nay sẽ có nhiều chuyện xảy ra".
Mâu Tông Đào giật mình, nghĩ rằng:
"Nếu chỉ hai vợ chồng nhà này, Kim đại hiệp đã không bảo 'rất nhiềú. Chả lẽ có cả Phù Tang thất tử?".
Mâu Tông Đào đang định hỏi chợt nghe Kim Thế Đi hỏi:
"Mâu tiên sinh, tiên sinh có biết tại sao đôi vợ chồng ấy lại coi tiên sinh là kẻ địch không?" Mâu Tông Đào đáp:
"Vãn bối đang không hiểu cho nên mong đại hiệp chỉ giáo".
Kim Thế Di nói:
"Nói ra tiên sinh đừng đau lòng, tôi cũng đã gặp đồng môn của tiên sinh, họ chính là Phù Tang thất tử!".
Mâu Tông Đào cả kinh, đã đoán được vài phần, nói với giọng run run:
"Kim đại hiệp gặp họ ở đâu?" Kim Thế Di đáp:
"Ở trong nhà của tiểu đồ". Mâu Tông Đào nghe thế kinh hãi thất sắc:
"Té ra họ là những cao thủ mà Âu Dương Kiên đã nói, sao lại gây rối ở nhà Giang đại hiệp?".
Kim Thế Di gật đầu:
"Hình như là thế. Không chỉ có bọn họ, cả đôi vợ chồng ấy cũng cùng một phe với họ".
Rồi Kim Thế Di kể lại chuyện giao thủ với bảy cao thủ cho Mâu Tông Đào nghe một lượt. Mâu Tông Đào nghe xong lặng lẽ cúi đầu. Kim Thế Di an ủi:
"Chắc họ cũng giống như tiên sinh, lần đầu tiên đến Trung Nguyên nên không hiểu trắng đen thị phi, đã bị Tát Phúc Đỉnh lôi kéo. Nếu tiên sinh có thể khuyên họ trở về đường sáng, quả thực công đức ấy không thể đếm xuể".
Mâu Tông Đào gật đầu:
"Cũng mong là thế. Tôi cũng muốn tìm họ nói chuyện".
Kim Thế Di nói:
"Nếu họ vẫn không tỉnh ngộ, lúc đó tiên sinh há chẳng phải tự chui đầu vào lưới hay sao? Chuyện này phải suy nghĩ kỹ mới được".
Mâu Tông Đào nói:
"Phái Phù Tang chúng tôi đã có giới luật không cho tàn hại đồng môn. Tôi nghĩ họ đã đi vào đường tối, nhưng chắc vẫn còn tình đồng môn!".
Kim Thế Di hỏi:
"Vậy tiên sinh tính thế nào?".
"Tôi định đi tìm họ".
"Nếu họ đã trở thành người của Tát Phúc Đỉnh, tiên sinh có thể lên kinh dò tìm.
Nhưng chúng ta nên phòng bị, tôi sẽ đi cùng tiên sinh".
Mâu Tông Đào mừng rỡ:
"Không dám làm phiền Kim đại hiệp".
"Tôi lên kinh không phải chỉ vì chuyện này, hai mươi năm nay tôi không về Trung Nguyên, muốn nhân dịp này thăm vài người bạn".
Mâu Tông Đào hẹn thời gian và địa điểm gặp mặt ở Bắc Kinh với Kim Thế Di rồi cáo từ.
Kim Thế Di lại hỏi đến tình hình phản Thanh hai mươi năm nay của võ lâm, Kim Trục Lưu nói:
"Chắc cha đã biết, Trúc Thượng Phụ đã trở thành đầu lĩnh của nghĩa quân miền tây bắc". Giang Hải Thiên tiếp:
"Đầu lĩnh nghĩa quân ở miền Tiểu Kim Xuyên Tiêu Chí Viễn cũng là một trang hảo hán. Nhưng sau khi sư phụ rời khỏi Trung Nguyên mới xuất đạo, có lẽ sư phụ chưa biết chuyện này?".
Kim Thế Di rất mừng:
"Hai mươi năm nay trên võ lâm có nhiều người tài, quả thật là chuyện đáng mừng, các bằng hữu của ta đều có sự nghiệp oanh liệt".
Giang Hải Thiên nói:
"Triều đình coi núi Đại Lương và Tiểu Kim Xuyên là gai trong mắt, đang có âm mưu đối phó với Trúc lão tiền bối". Rồi kể lại lời của Phong Tử Siêu lúc nãy.
Kim Thế Di giục:
"Vậy các người phải lên đường sớm".
Kim Trục Lưu vâng dạ:
"Ngày mai con cũng sẽ lên đường".
Tần Nguyên Hạo nói:
"Chúng tôi cũng phải quay về chờ lệnh, tôi sẽ dẫn đường cho huynh. Trúc lão tiền bối ở trong rừng sâu rất khó tìm".
Sử Hồng Anh và Kim Trục Lưu bàn sẽ cùng nhau đi, nhưng trước mặt vợ chồng Kim Thế Di họ ái ngại không dám nói ra.
Lý Đôn biết ý nàng, nói:
"Bang chủ, hãy yên tâm đi cùng Kim đại ca, chuyện trong bang đã có tôi lo liệu lại còn có Công Tôn đà chủ giúp đỡ chắc không xảy ra chuyện gì!".
Kim Thế Di ngẫm nghĩ rồi chợt cười:
"Trục Lưu, con và Sử cô nương vẫn chưa có danh phận, nếu đi cùng nhau sẽ rất bất tiện. Chi bằng các con cứ đính hôn trước, đợi khi nào con quay về ta sẽ đến Tiểu Kim Xuyên chủ trì hôn lễ cho các con".
Mọi người đều khen hay, Sử Hồng Anh mừng rỡ nhưng mặt đỏ ửng, cúi đầu e thẹn.
Cốc Chi Hoa tháo thanh sương hoa kiếm xuống nói:
"Đây là báu vật gia truyền của sư phụ tặng cho ta, giờ đây ta tặng cho con làm sính lễ, coi như là quà gặp mặt của ta".
Năm xưa Lã Tứ Nương đã dùng cây sương hoa kiếm này giết chết Ung Chính hoàng đế.
Đêm ấy tiệc lại mở linh đình, mọi người đều chuốc rượu cho đến trời sáng.
Trời vừa hửng sáng bốn người Kim Trục Lưu, Sử Hồng Anh, Tần Nguyên Hạo và Phong Diệu Thường đã từ biệt mọi người.
Trên đường không có chuyện gì xảy ra, khi tới chân núi Hoa Sơn trời đã về chiều. Ngẩng nhìn ngọn Hoa Sơn cao chọc trời, mây vờn quanh đỉnh núi, xa xa ráng chiều bồng bềnh, cảnh tượng khiến lòng người xao xuyến. Tần Nguyên Hạo chưa bao giờ đến núi Hoa Sơn, bất giác khen rằng:
"Người xưa nói trong Ngũ Nhạc đứng đầu là Tây Nhạc, quả thực danh đồn không ngoa".
Kim Trục Lưu cũng nói:
"Tôi đã hai lần đến Hoa Sơn, đáng tiếc đều vội vã đi ngang qua mà chẳng có dịp dừng lại ngắm nhìn. Đêm nay chúng ta chưa thể tới được thị trấn, chi bằng cứ ở lại đây. Khấu Thạch đạo nhân không may qua đời, chúng ta cũng nên thắp nhang cho ông ta".
Rồi cả bốn người lên núi Hoa Sơn, khi đến Thanh Phong quán trời đã tối. Các đạo sĩ của Thanh Phong quán đều ngạc nhiên, vội vàng chạy ra mở cửa. Kim Trục Lưu hỏi:
"Sau ngày hôm ấy có kẻ xấu nào đến quấy nhiễu mọi người không?".
Đạo sĩ cười khổ:
"Không, nhưng một lần bị rắn cắn mười năm thấy dây thừng cũng sợ. Nói ra thật hổ thẹn, chúng tôi chỉ học được một ít y thuật của gia sư. Còn võ công chẳng hề biết".
Kim Trục Lưu nói:
"Đã có người trả thù cho tôn sư".
Đạo sĩ cả mừng:
"Đa tạ Kim đại hiệp. Không biết kẻ thù của gia sư có phải là giáo chủ của Thiên ma giáo Lệ Nam Tinh hay không?" Y chỉ nhìn người trả thù cho sư phụ mình là Kim Trục Lưu, còn Kim Trục Lưu khiêm nhường cho nên không chịu nói ra.
Kim Trục Lưu cười rằng:
"Hoàn toàn ngược lại, người trả thù cho lệnh sư chính là Lệ Nam Tinh. Nhưng y không phải là giáo chủ của Thiên ma giáo".
Đạo sĩ rất ngạc nhiên, Kim Trục Lưu đành kể lại mọi chuyện, chập nghe xong, đạo sĩ chép miệng:
"Thiện có thiện báo, ác có ác báo, nếu chưa báo thì thời gian vẫn chưa tới. Câu này thật đúng. Tên lão tặc Dương Hạo tuy chưa chết nhưng đã trở thành phế nhân cũng đủ giải mối hận cho chúng tôi".
Đạo sĩ đưa cả bốn người vào linh đường, sau khi thắp nhang xong liền đưa lọ về phòng.
Đương nhiên Tần Nguyên Hạo và Kim Trục Lưu ở cùng một phòng. Hai người đang ngồi trò chuyện trong phòng, Kim Trục Lưu chợt nghiêng tai lắng nghe, Tần Nguyên Hạo hỏi:
"Ồ, hình như có tiếng hổ gầm?" Té ra họ nghe văng vẳng có tiếng gầm.
"Không giống tiếng hổ gầm, hình như tiếng người hú".
"Canh khuya nửa đêm có ai lên Hoa Sơn phát ra tiếng hú?".
Chợt Tần Nguyên Hạo lắc đầu xua tay, nói:
"Im nào! Nội công của chàng không bằng Kim Trục Lưu cho nên sau một hồi mới nghe rõ hơn.
Kim Trục Lưu thấy mặt chàng có sắc lạ, hỏi:
"Thế nào, đã nghe rõ chưa?".
Tần Nguyên Hạo ngạc nhiên:
"Ồ, quả thật là tiếng hú của người có võ công cao cường". Đến đây tiếng hú ngừng lại. Nhưng vẫn còn văng vẳng trong sơn cốc.
Kim Trục Lưu nói:
"Chúng ta phải đi gặp cao nhân này, nếu huynh không muốn đi cùng tôi thì cứ chờ ở đây".
Tần Nguyên Hạn nổi lòng tò mò, vỗ ngực:
"Được tôi đi cùng huynh!".
Kim Trục Lưu mừng rỡ, cười rằng:
"Chúng ta đi thôi".
Cả hai người định lén Sử Hồng Anh và Phong Diệu Thường ra ngoài, không ngờ vừa mới mở cửa đã thấy có hai nàng đang đi về phía họ.
Kim Trục Lưu vừa lo vừa mừng, hạ giọng hỏi:
"Các người đã nghe rồi ư?" Sử Hồng Anh gật đầu:
"Có phải hai người định ra ngoài xem không?" Kim Trục Lưu hỏi lại:
"Muội có muốn đi không?" Sử Hồng Anh đáp:
"Nếu không, muội cũng chẳng tìm huynh". Kim Trục Lưu nói:
"Được, chúng ta lén ra ngoài, đừng đánh thức đạo sĩ trong quán".
Cả bốn người đi khoảng một canh giờ thì Kim Trục Lưu nghe văng vẳng như có tiếng cười. Chàng vừa lo vừa mừng, lẩm bẩm:
"Hình như có vài người đang trò chuyện. Chúng ta hãy mau đến đấy".
Đi một lúc nữa Tần Nguyên Hạo kêu lên:
"Ồ, đúng là bên đó có người!".
Kim Trục Lưu nhìn theo hướng chàng chỉ, chợt thấy phía trước có một cây cầu đá dài khoảng sáu bảy trượng bắt ngang qua hai ngọn núi. Phía bên kia có vài cây gỗ tùng cao lớn, có hai người, tựa như một nam một nữ. Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Nghe tiếng cười lúc nãy, hình như không chỉ có hai người. Hãy đến xem thử".
Sử Hồng Anh thấy địa thế hiểm trở, cảnh cáo:
"Trục Lưu, cẩn thận!" Kim Trục Lưu nói:
"Mọi người cứ ở đây chờ tôi, tôi đi xem thử là ai". Chàng biết Sử Hồng Anh lo mình hụt chân cho nên trong bụng cười thầm nàng nhát gan. Nhưng Sử Hồng Anh lại có ý bảo chàng đề phòng có người đánh lén.
Kim Trục Lưu phóng người vọt lên cây cầu đá, chỉ thấy từng đóa mây trắng bay trước mắt, Kim Trục Lưu bất đồ khen:
"Đẹp lắm, đẹp lắm! Hồng Anh đừng sợ, muội đến đây nào!" Cười chưa dứt hai người đã hiện ra, đi về phía cây cầu đá. Người đàn ông để râu ba chòm, người đàn bà thì tóc búi cao, trông khoảng ngoại bốn mươi., Kim Trục Lưu lớn giọng gọi:
"Vãn bối ngưởng mộ đã lâu, mong được bái phỏng".
Chưa đứt lời chợt thấy người đàn ông phóng vọt người nhảy lên cây cầu, đi thẳng về phía Kim Trục Lưu, nói lớn:
"Không dám, té ra là công tử của Kim đại hiệp đến đây. Đa lễ như thế, chúng tôi nào gánh nổi!".
Cây cầu rất nhỏ, người này bước tới mà chẳng hề có ý né tránh. Kim Trục Lưu cả kinh, lúc này mới biết y không có ý tốt, rõ ràng là muốn dồn mình vào chỗ chết? Kim Trục Lưu đang đứng giữa cây cầu không thể né tránh sang hai bên, nếu quay đầu đi ngược lại thì người ấy chỉ cần đẩy nhẹ chàng rơi xuống liền. Vả lại người ấy đi thẳng tới, dầu cho Kim Trục Lưu không xoay người lại mà bước lùi ra sau cũng khó tránh độc thủ.
Kim Trục Lưu nổi giận, cười lạnh lẽo:
"Không dám làm phiền đại giá nghênh đón, tôi tự qua được!" Chàng không lùi nữa mà tiến tới, lòng nhủ thầm:
"Ta xem thử ngươi có bản lĩnh gì đẩy ta xuống được!" Khi hai người sắp va vào nhau, kẻ ấy không khỏi thất kinh, thầm nhủ:
"Y là con trai của Kim Thế Di, võ công chắc chắn không tầm thường, nếu mình chạm với y e rằng không đấu lại". Người ấy nghĩ như thế cho nên lập tức đứng lại, nói:
"Không dám!" Rồi hai chưởng chắp lại vái một cái về phía Kim Trục Lưu.
Nhìn bề ngoài động tác này như thi lễ với Kim Trục Lưu nhưng thực sự là một đòn sát thủ lợi hại, ẩn giấu chiêu thức Đồng tử bái Quan âm. Đây vốn chỉ là một chiêu bình thường nhưng người ấy sử dụng rất khéo léo, chẳng khác gì một kiếm chiêu, ngón tay đâm thẳng vào huyệt đan điền của Kim Trục Lưu. Vả lại khi y chắp tay, một luồng chưởng lực đã dồn ra đè về phía Kim Trục Lưu.
Kim Trục Lưu cười lạnh lẽo:
"Các hạ không cần nhiều lễ?" Rồi hai tay ôm hờ lại làm ra vẻ trả lễ, nhưng thực sự đã hóa thành chiêu thức Phất vân thủ hóa giải chưởng lực của đối phương. Luồng nhu kình của Kim Trục Lưu chợt biến thành một loại chưởng lực cương mãnh chém tới. Người ấy vội vàng rút tay, chạm với Kim Trục Lưu một chưởng.
Kim Trục Lưu mượn luồng chưởng lực ấy phóng vọt qua đầu y qua đến đầu cầu bên kia, trong lòng thầm kêu một tiếng may mắn.
Chiêu số chưởng lực của người này vốn cổ quái lạ thường, Kim Trục Lưu may mắn thấy được chiêu này lần trước nên mới có thể ung dung đối phó được. Người này thoát hiểm, cũng thầm kêu lên:
"May mắn!" Rồi quay trở lại khen:
"Kim thiếu hiệp, công phu giỏi?".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Có phải người là một trong Phù Tang thất tử không?".
Người ấy không khỏi cả kinh, nói:
"Kim thiếu hiệp thật tinh mắt" Nghĩ bụng:
"Y tiếp của mình một chiêu mà đã biết được lai lịch của mình thật không thể coi thường!" Rồi cười ha hả:
"Chắc là lệnh tôn đã từng nói với công tử. Chúng tôi đã lãnh giáo võ công tuyệt thế của lệnh tôn, hôm nay vừa khéo gặp công tử thật là may mắn!".
Kim Trục Lưu lạnh lùng:
"Có phải người muốn tỉ thí với tôi không?".
Người ấy bảo:
"Tôi là bại tướng trong tay lệnh tôn, vốn không dám bày trò trước mặt công tử, nhưng công tử chịu ban chiêu ắt tôi cũng rất muốn xem kiếm pháp gia truyền tuyệt thế vô song của công tử!".
Người ấy nói rất khiêm nhường nhưng khẩu khí rất cuồng ngạo, lúc nãy Kim Trục Lưu suýt bị y đẩy xuống cầu, chàng làm sao có thể nhịn được! Dù đối phương không khiêu chiến, chàng cũng muốn tỉ thí. Kim Trục Lưu rút phắt thanh huyền thiết bảo kiếm, quát:
"Ta cũng đang muốn biết thêm về kiếm thuật của đảo Phù Tang, mời xuất chiêu?".
Người này thấy thanh huyền thiết bảo kiếm đen kịt, bất đồ thất kinh thầm nhủ:
"Thanh kiếm này không hề có chút ánh sáng, chắc chắn là rất kỳ quái". Rồi cẩn thận đánh ra một chiêu Nhật xuất Phù Tang, mũi kiếm vẫy nhẹ.
Đây là khởi thủ thức trong kiếm thuật của Phù Tang, cũng là chiêu thức thăm dò, trông rất nhẹ nhàng linh hoạt. Kim Trục Lưu khen một tiếng "hay" rồi vung kiếm chém xuống.
Người này thấy cây huyền thiết bảo kiếm không phải vật thường, nhưng không ngờ nó lại nặng nề đến thế, hai kiếm chưa tiếp xúc nhau thì đã cảm thấy một nguồn lực dồn tới. May mà y chỉ dùng kiếm chiêu thăm dò hư thực của đối phương, vừa cảm thấy không ổn lập tức mũi kiếm điểm nhẹ, nhảy vọt ra sau ba thước.
Y đã chặn lại một nửa nguồn lực này của Kim Trục Lưu, chàng không khỏi thất kinh nhủ thầm:
"Nội công của người này chẳng kém gì Mâu Tông Đào, nhưng kiếm thuật hình như còn hơn cả Mâu Tông Đào. May mà mình đã từng giao thủ với Mâu Tông Đào, ít nhiều cũng hiểu được kiếm thuật của y! Người ấy vọt xéo ba thước, đỡ ngang kiếm chém lại, đó lại là một chiêu kiếm pháp có cả công lẫn thủ. Kim Trục Lưu cười rằng:
"Ta mới sáng tạo vài chiêu thức, cũng giống với kiếm thuật của quý phái, mong các hạ chỉ giáo!".
Vừa dứt lời chàng đã đánh soạt ra ba chiêu liên hoàn, đó là những chiêu mới biến hóa từ những chiêu tinh diệu nhất trong kiếm thuật của phái Phù Tang, lập tức kẻ ấy luống cuống chỉ đành thối lui.
Mười chiêu đã xong, người ấy càng lúc càng thất kinh, thầm nhủ:
"Chả lẽ kiếm phổ của bổn phái đã rơi vào trong tay y?" Y chỉ học được ba bốn phần kiếm thuật của bổn môn, nay phát giác Kim Trục Lưu sử dụng còn tinh diệu hơn cả mình đâm ra không khỏi nghi ngờ.
Người vợ thấy chồng thua thiệt cả kinh rút kiếm ra quát:
"Hay lắm, tên tiểu tử nhà ngươi đánh cắn kiếm phổ của phái ra, đã thế còn dám giở trò, nếu không chớ trách bọn ta không tha cho ngươi". Kim Trục Lưu cười ha hả:
"Buồn cười, buồn cười!".
Người đàn bà hỏi giật giọng:
"Buồn cười cái gì?".
Kim Trục Lưu nói:
"Mấy trăm năm trước, quý phái đã chia thành ba nhánh, kiếm phổ đã thất truyền, các người không hề có hộ kiếm phổ hoàn chỉnh, ta đánh cắp từ đâu?".
Hán tử thất kinh, ngạc nhiên:
"Sao ngươi biết rõ như thế?" Người đàn bà vội bảo:
"Kiếm thuật của bổn phái tinh diệu tuyệt luân dù ngươi học được một ít cũng đủ vùng vẫy trên võ lâm. Đáng tiếc hôm nay ngươi gặp bọn ta, ta khuyên ngươi đừng bẻm mép nữa, hãy trả lại kiếm phổ cho bọn ta!".
Kim Trục Lưu vốn muốn kể lại chuyện của Mâu Tông Đào cho hai vợ chồng này nghe, nhưng nghe họ nói như thế bất giác nổi giận, cố ý ngửa đầu lên trời rồi lại cười ha hả ba tiếng.
Người đàn bà hỏi:
"Tên tiểu tử nhà ngươi có gì buồn cười?".
Kim Trục Lưu đáp:
"Ta cười bọn ngươi là ếch ngồi đáy giếng, chẳng biết quái gì cả".
Người chồng nghe thế không hề nổi giận, thành thục hỏi:
"Kim công tử tại sao bảo chúng tôi là ếch ngồi đáy giếng?".
Kim Trục Lưu nói:
"Theo ta biết, võ thuật Trung thổ có nguồn gốc sâu xa, thủy tổ của quý phái là Loạn Nhiệm Khách cũng từ Trung thổ mà ra đi. Hàng ngàn năm qua, Trung thổ có nhiều người tài, dù không hơn tiền nhân nhưng cũng đã sáng tạo được không ít võ công mới. Các người bảo kiếm thuật của quý phái tinh diệu tuyệt luân, hình như đã có ý coi thường Trung thổ!".
Hán tử nói:
"Công tử cười chúng tôi hiểu biết có hạn, vậy mong công tử ban cho chúng tôi vài chiêu kiếm pháp cao minh của Trung thổ để chúng tôi mở rộng tầm mắt.
Nếu quá thực thắng được tại hạ, tại hạ mới phục". Người vợ chen vào:
"Đúng thế, ngươi tâng bốc võ thuật Trung thổ cao minh, vậy cần gì phải dùng đến kiếm pháp Phù Tang?".
Kim Trục Lưu cười nói:
"Chẳng dám giấu gì, mấy chiêu kiếm pháp vừa rồi của tôi tuy biến hóa từ kiếm pháp của quý phái nhưng cũng là chiêu mới đã tự tôi sáng tạo, nếu các người không tin, ta sẽ dùng kiếm kiếm pháp gia truyền để ấn chứng với các người!".
Hán tử này chính là người đã dùng cây kiếm chém vào chiếc nhẫn hàn ngọc của Kim Thế Di, lúc đó Kim Thế Di không hề dùng binh khí, chỉ nhờ Đàn chỉ thần thông đánh bật thanh kiếm của y ra, nên tuy bại trong tay Kim Thế Di nhưng y lại rất tự tin đối với kiếm pháp của mình. Y nghĩ bụng:
"Kiếm pháp của Kim Thế Di là thiên hạ vô song, nhưng mình chưa từng thấy, không biết là thật hay giả? Theo tình hình hôm ấy, mình đã hơn y nửa chiêu kiếm pháp, không biết con trai của y có thắng được mình hay không?" Vì thế nói:
"Được, nếu ngươi dùng kiếm pháp bổn môn thắng được ta, ta sẽ chấp nhận cúi đầu!".
Kim Trục Lưu cười ha hả:
"Cũng không cần như thế!" Lập tức múa ra một đóa kiếm hoa chậm rãi đâm về phía người ấy.
Hồi 50
Bàn tay thay kiếm kinh thần kỹ
Nước mắt giai nhân kiếm người xưa
Kiếm pháp thượng thừa chú trọng sự linh hoạt bay bổng, người ấy chưa bao giờ thấy có ai sử dụng kiếm pháp chậm như thế nên không khỏi ngẩn người.
Người đàn bà cười lạnh:
"Đây là kiếm pháp gì? Đại ca, tên tiểu tử này coi thường huynh, huynh còn khách sáo với y làm gì?" Té ra bà ta cho rằng Kim Trục Lưu làm thế là cố ý coi thường mình.
Người chồng cẩn thận hơn nhiều, chẳng hề dám khinh địch, lòng nghĩ thầm:
"Dù y dùng kiếm pháp gì mình phải cẩn thận mới được". Rồi cây trường kiếm xỉa tới nhanh như chớp! Tuy người ấy xuất kiếm nhanh nhưng cũng có phòng bị. Đây chính là chiêu kiếm tinh hoa trong kiếm pháp của phái Phù Tang, trong chiêu chứa chiêu, trong thức có thức, biến hóa rất phức tạp!
Người này có ý đồ lấy nhanh thắng chậm, nhưng mũi kiếm vừa đâm vào vòng kiếm của Kim Trục Lưu lập tức phát giác bốn mặt tám hướng đều bị kiếm thế của Kim Trục Lưu chặn lại.
Té ra Kim Trục Lưu đã sử dụng chiêu kiếm lấy tĩnh chế động trong Đại tu di kiếm thức! Bất cứ loại kiếm pháp cao minh nào cũng không thể hoàn toàn vừa công vừa thủ được, nếu nghiêng về công cũng có vài chỗ sơ hở, yếu quyết của Đại tu di kiếm thức là lấy tĩnh chế động, tìm nhược điểm của đối phương.
May mà chiêu số của người này còn có biến hóa, y vừa thấy không ổn thì lập tức biến chiêu, mũi kiếm lướt qua nhanh như chớp, tuy như thế nhưng cũng hơi thua thiệt, chỉ nghe keng một tiếng, cây trường kiếm của người này đã bị mẻ một miếng.
Kim Trục Lưu chiếm được thượng phong không khỏi thầm khâm phục kiếm pháp của đối phương. Về mặt chiêu thức, tuy chàng có thể chiếm tiên cơ nhưng vì dùng cây huyền thiết bảo kiếm nên mới có thể chặt mẻ kiếm của đối phương. Nếu dùng một cây kiếm bình thường thì chỉ có thể hơi chiếm được thượng phong mà thôi.
Thật ra kiếm thuật của phái Phù Tang không thua gì Đại tu di kiếm thức, nhưng người này thiệt ở chỗ là chưa từng thấy Đại lu di kiếm thức mà Kim Trục Lưu lại biết kiếm thuật của y. Chàng có ngộ tính rất cao, cứ nhằm vào nhược điểm của đối phương để biến hóa thêm.
Người vợ thấy chồng mình vừa mới chạm mặt Kim Trục Lưu đã thua thiệt, cả kinh cười lạnh:
"Tên tiểu tử nhà ngươi nhờ có cây bảo kiếm chứ chẳng có bản lĩnh chân thực gì cả!" Kim Trục Lưu nói:
"Được, hãy đổi kiếm với ta!" Sử Hồng Anh đứng ở phía bên kia cầu kêu lên:
"Đừng mắc lừa!".
Thật ra Kim Trục Lưu cũng không yên tâm đổi kiếm, nhưng chàng lại háo thắng, không thể chịu được lời mỉa mai của mụ ta, nên nói:
"Hồng Anh, đến đây, đổi kiếm với huynh". Người đàn bà ấy bảo:
"Không cần, ta cũng muốn lãnh giáo kiếm pháp của ngươi. Ngươi có bảo kiếm, còn bọn ta có hai người coi như cũng công bằng!" Kim Trục Lưu cười:
"Công bằng, công bằng lắm!" Rồi nghĩ bụng:
"Cha chỉ có đôi chưởng mà đánh bại Phù Tang thất tử, mình có huyền thiết bảo kiếm chắc cũng chẳng hề gì".
Kim Trục Lưu muốn thử thực lực của mình, người đàn bà ấy lại tưởng chàng mỉa mai, bất đồ đỏ ửng mặt, thầm nhủ:
"Được, lát nữa ngươi sẽ biết tay bọn ta!" Rồi nghiến răng đâm soạt tới một kiếm.
Hai người liên thủ quả nhiên thực lực đã tăng lên rất nhiều. Cây trường kiếm của người đàn bà vạch thành một hình vòng cung tựa công tựa thủ, phiêu hốt bất định.
Kim Trục Lưu chặn ngang kiếm, vẫn sử dụng kiếm chiêu lấy tịnh chế động. Còn cây trường kiếm của người đàn ông hất ngược lên đánh tới. Hai kiếm chạm nhau kêu keng một tiếng, cây trường kiếm của người đàn ông đã bị bảo kiếm đánh bạt ra, còn kiếm của người đàn bà lại tấn công từ chỗ trống, lập tức phá được Đại tu đi kiếm thức. May mà Kim Trục Lưu dùng Thiên la bộ pháp né tránh đòn sát thủ của người đàn bà. Dù thế, tà áo cũng bị mũi kiếm vạch rách.
Người đàn bà vừa chạm một đòn với huyền thiết bảo kiếm, tuy không hề hấn gì nhưng ngực như bị đè nặng, cũng không khỏi cả kinh. Rồi mụ ta lập tức tấn công bằng những chiêu kiếm nhanh nhạy, cả hai vợ chồng triển khai thế công như mưa bão, khiến Kim Trục Lưu không thở nổi.
Kim Trục Lưu nổi giận, thầm nhủ:
"Được, ta liều mạng không tin không đánh lùi được bọn ngươi". Kiếm chiêu liền thay đổi, cũng tung ra những đòn tấn công.
Hai vợ chồng đều giật mình:
"Kiếm pháp của Trung Nguyên quả nhiên chẳng kém bổn phái!" Hai vợ chồng nháy mắt rồi kiếm pháp cũng thay đổi. Chỉ thấy người vợ múa tít thanh kiếm, tựa như đang luyện tập chiêu thức, không áp sát tấn công Kim Trục Lưu nữa mà lách qua một bên, từng vòng kiếm tuôn ra trùng trùng điệp điệp như sóng lớn cuộn tới vây lấy Kim Trục Lưu. Tuy hai người cách một trượng nhưng Kim Trục Lưu chỉ cần không cẩn thận thì sẽ bị trúng kiếm liền.
Nếu đánh tay đôi, kiếm pháp của người đàn bà này tuy quái dị nhưng Kim Trục Lưu cũng có cách phá giải. Có điều chàng phải chống lại cả hai người nên cũng hơi lúng túng.
Người đàn bà vạch ra từng vòng kiếm bọc lấy người Kim Trục Lưu, còn người đàn ông múa kiếm như gió dồn tới! Mỗi chiêu kiếm đều đâm thẳng tới, ngược lại với những chiêu kiếm đánh tròn của người vợ, nhưng lại phối hợp rất kín kẽ khiến Kim Trục Lưu đánh cũng không được mà thủ cũng không xong. Chiêu thức của hai người xem ra rất đơn giản nhưng trong trong đó chứa nhiều biến hóa phức tạp.
Kim Trục Lưu toàn thần ứng phó, chú ý quan sát họ biến hóa kiếm pháp, có chiêu giống Mâu Tông Đào, có những chiêu chàng chưa thấy nhưng có thể đoán được kiếm ý, dù vậy nhưng vì đối phương phối hợp quá kín kẽ, Kim Trục Lưu không biết được chiêu sau cũng chẳng thể nào hóa giải được. Nhưng cũng may là Kim Trục Lưu rất thông minh, nắm được kiếm ý của họ, nếu không chỉ e càng khó ứng phó hơn.
Kim Trục Lưu hít một hơi, thầm nhủ:
"Cứ đánh mãi thế này mình chắc chắn sẽ thua, muốn liều cũng không được nữa!" Nếu ở chỗ đất bằng, Kim Trục Lưu có thể thi triển khinh công, nhưng ở nơi này lui ra phía sau là vực sâu trăm trượng, hai người này làm sao có thể dễ dàng để cho chàng đi qua cây cầu. Nếu không thể lui được thì chỉ còn cách cắn răng chịu trận.
Tần Nguyên Hạo, Phong Diệu Thường và Sử Hồng Anh đứng phía bên kia cầu càng lo hơn Kim Trục Lưu. Hai người Tần, Phong thấy bản lĩnh còn kém xa, muốn giúp cũng không được, Phong Diệu Thường nói:
"E rằng Kim đại ca không ổn, bọn chúng ỷ đông hiếp ít, chúng ta cùng xông lên?" Tần Nguyên Hạo nhíu mày, im lặng không nói. Chàng không sợ cường địch nhưng chỉ sợ mình nhúng tay vào thì Kim Trục Lưu càng vướng víu tay chân.
Sử Hồng Anh nói:
"Cứ để tôi qua, nếu vẫn không được thì các người cứ đến".
Phong Diệu Thường gạt:
"Không, chúng ta cùng qua. Nguyên Hạo, huynh hãy chạy về báo tin cho Kim đại hiệp". Phong Diệu Thường cũng biết mình kém cỏi nhưng nàng không muốn để một mình Sử Hồng Anh mạo hiểm, đành nghĩ ra một cách giữ mạng Tần Nguyên Hạo. Tần Nguyên Hạo cảm động lắm, Sử Hồng Anh cũng rất cảm kích cho tấm lòng của nàng.
Tần Nguyên Hạo nghiến răng:
"Không, muội hãy trở về báo tin cho Kim đại hiệp, huynh và Hồng Anh tỷ tỷ sẽ ở lại". Nói chưa dứt lời, chợt nghe có người cười lạnh:
"Các người chưa lo nổi thân mình, còn cãi nhau cái gì? Nếu các người muốn chết, chi bằng cứ để ta giúp!".
Lời chưa dứt người ấy đã chụp xuống Phong Diệu Thường.
May mà Sử Hồng Anh rút kiếm ra nhanh, khi người ấy chụp xuống Sử Hồng Anh đã đâm soạt một kiếm về phía y. Lúc này Phong Diệu Thường mới né tránh được, nhìn kỹ lại thì té ra kẻ ấy chính là Âu Dương Kiên.
Thì ra Âu Dương Kiên cũng ở gần đây, đôi vợ chồng giao thủ với Kim Trục Lưu là khách trong nhà y.
Từ sau khi thất bại ở núi Tồ Lai, y không dám trở về kinh mà nấp trong nhà luyện thêm võ công. Phù Tang thất tử bại trong tay Kim Thế Di nên cũng phân tán khắp nơi. Đôi vợ chồng này tìm đến Hoa Sơn, họ biết Âu Dương Kiên là trợ thủ đắc lực của Tát Phúc Đỉnh, nên đến đây tìm y.
Bản bốn người Kim Trục Lưu hôm nay cũng đến Hoa Sơn. Đôi vợ chồng này nghe Âu Dương Kiên nói thân phận của Kim Trục Lưu, vốn là có ý muốn tìm Kim Trục Lưu tỉ thí, Âu Dương Kiên chưa biết bản lĩnh của hai vợ chồng này, sợ rằng bọn chúng không địch lại Kim Trực Lưu nên đã nghĩ ra một kế dụ địch. Thế là trong đêm khuya chúng phải ra tiếng hú dụ Kim Trục Lưu chạy đến nơi này mới ám toán. Âu Dương Kiên đã nấp, không để Kim Trục Lưu thấy.
Âu Dương Kiên thấy đôi vợ chồng nhà này chiếm được thượng phong cả mừng vì thế bước ra đi vòng qua cây cầu đá tấn công Sử Hồng Anh và vợ chồng Tần Nguyên Hạo.
May mà Sử Hồng Anh phát giác kịp thời rút kiếm ra nhanh mới cứu được Phong Diệu Thường. Phong Diệu Thường nhận ra Âu Dương Kiên mắng liền:
"Tên tặc tử này hại cha ta còn chưa đủ, nay lại đến hại ta!".
Âu Dương Kiên cười đáp:
"Ngươi phải nói ngược lại mới đúng, cha ngươi đã làm liên lụy đến ta mà ngươi còn trách ta?".
Phong Diệu Thường mắng rằng:
"Vớ vẩn!" Rồi đâm soạt tới một kiếm, Âu Dương Kiên cười lớn:
"Ả nha đầu nhà ngươi cũng xứng động thủ với ta ư?" Rồi vung tay ra búng mạnh một cái, cây kiếm bật ra, Tấn Nguyên Hạo, Sử Hồng Anh vung hai kiếm chặn đường của y.
Âu Dương Kiên muốn bắt Phong Diệu Thường để lấy công chuộc tội, nay Sử Hồng Anh đã ra tay cùng với Tần Nguyên Hạo, nếu y khinh địch chỉ e sẽ bại trong tay nàng.
Sử Hồng Anh đánh ra một loạt sát chiêu khiến Âu Dương Kiên phải thối lùi.
Nhưng sau khi thối lùi vài bước Âu Dương Kiên vận huyền công rồi cười lạnh quát:
"Các ngươi chạy đi đâu!".
Âu Dương Kiên vỗ ra một chưởng, luồng gió nóng toát ra vù vù, đó chính là Lôi thần chưởng, nhưng khi dùng rất hao phí chân lực cho nên chưa đến lúc quan trọng y không dễ dàng dùng.
Nhưng chỉ trong chốc lát, bọn Sử Hồng Anh đều đã toát mồ hôi đầm đìa, đầu óc choáng váng. Sử Hồng Anh có công lực tương đối cao còn đỡ hơn, Phong Diệu Thường công lực kém nhất đã cảm thấy ngộp thở. Sử Hồng Anh nói:
"Thường tỷ, hãy nghỉ một lát". Liền rút ngọn roi dài ra, tay trái cầm roi tay phải dùng kiếm phóng vọt người lên chặn đòn tấn công của Âu Dương Kiên.
Âu Dương Kiên tưởng rằng đã bớt đi một đối thủ sẽ thắng dễ dàng hơn, nào ngờ Sử Hồng Anh giỏi cả kiếm lẫn roi, vả lại thuật đánh roi còn giỏi hơn thuật đánh kiếm.
Âu Dương Kiên chỉ hơi sơ ý mu bàn tay đã trúng một roi, cả giận phóng người đánh tới, Sử Hồng Anh vung cây đoản kiếm múa ra ba đóa kiếm hoa, bên trên đâm vào yết hầu, bên dưới đâm vào đan điền, ở giữa đâm vào huyệt toàn cơ trước ngực.
Âu Dương Kiên thấy nàng liều mạng không khỏi thất kinh, không dám áp sát tới, chỉ đành thối lui ra sau.
Lúc này Tần Nguyên Hạo đã xông lên từ mặt bên, bản lĩnh của chàng tuy hơi kém nhưng Liên hoàn đoạt mệnh kiếm của phái Võ Đang là loại kiếm pháp hiểm hóc nhất trong thiên hạ, lúc này chàng liều mạng tiến tới, y đương nhiên cũng lo ngại, chỉ đành liên tục đánh ra công phu Lôi thần chưởng, đẩy lùi Tần Nguyên Hạo. Tần Nguyên Hạo nóng bỏng toàn thân nhưng chàng vẫn nghiến răng chịu đựng.
Sử Hồng Anh dùng cây roi dài đánh địch, cây đoản kiếm thì phòng thân, Tần Nguyên Hạo đánh tới từ mặt bên, cả hai người liên thủ cự địch còn tốt hơn khi cả ba người cùng tiến lên. Đó là bởi vì Tần Nguyên Hạo không cần lo lắng cho Phong Diệu Thường.
Âu Dương Kiên đấu được mấy mươi chiêu mà không thể thắng, bất đồ thầm kêu khổ:
"Dù mình có thắng cũng phải mất đến ba năm công lực".
Té ra Âu Dương Kiên ác chiến với Trong Trường Thống ở núi Tồ Lai, bị trọng Trường Thống dùng Hỗn nguyên nhất khí công đánh chấn thương, cần phải khổ luyện ba năm nữa mới hồi phục công lực. Cũng chính vì thế mà uy lực của Lôi thần chưởng không còn như cũ, nên hai người Tần, Sử, mới có thể cầm cự được đến mức này.
Nhưng hai người Tần, Sử lại càng lo hơn. Kiếm pháp và tiên pháp của họ tuy tinh diệu nhưng dưới làn gió nóng rất mất sức, cả hai cố gắng cầm cự nhưng cũng đã sắp sức cùng lúc kiệt.
Phía bên kia Kim Trục Lưu càng nguy hiểm hơn Sử Hồng Anh.
Đôi vợ chồng này càng đánh càng gấp nhưng cũng chẳng làm gì được Kim Trục Lưu.
Có điều cuộc chiến của Sử Hồng Anh khiến cho chàng phân tâm! Chính vì thế mà chàng dần dần đuối sức. Người chồng đã thấy cây huyền thiết bảo kiếm là báu vật, cười ha hả:
"Hảo tiểu tử phải nhận thua đi! Ngươi dập đầu trước ta ba cái bỏ bảo kiếm xuống, ta sẽ cho ngươi xuống núi".
Kim Trục Lưu quát:
"Vớ vẩn!" Rồi múa cây kiếm đánh ra một chiêu Lực phách hoa sơn. Hán tử thất kinh, nhủ thầm:
"Mình tưởng y đã đuối sức, thế mà vẫn có thể sử dụng chiêu cương mãnh như thế này!" Y cũng không dám quá cuồng ngạo, liền dùng một chiêu kiếm pháp nhẹ nhàng hóa giải chiêu này, nhưng cũng không khỏi thối lui một bước.
Té ra Kim Trục Lưu đã dồn hết chân lực ra để đánh chiêu này. Hai vợ chồng liên tiếp hóa giải chiêu số tấn công của Kim Trục Lưu, biết chàng đã đuối sức.
Kim Trục Lưu đang định thi triển đòn sát thủ Lưỡng bại câu thương, nhưng ngay lúc này, chợt nghe có người kêu ồ lên một tiếng, tựa như giọng của một phụ nữ. Đôi vợ chồng ấy cũng nghe nên càng lộ vẻ ngạc nhiên.
Kim Trục Lưu ngẩng đầu lên nhìn, thấy có một thiếu nữ bước ra từ trong rừng, mái tóc đen huyền, đôi mắt rạng ngời, trông khoảng hai mươi tuổi.
Thiếu nữ này nửa đêm xuất hiện trên đỉnh Hoa Sơn, chắc không phải là con nhà bình thường. Kim Trục Lưu vừa ngẩng đầu lên thấy bóng dáng nàng, chỉ trong chớp mắt nàng đã đến trước mặt mình, Kim Trục Lưu thất kinh thầm nhủ:
"Khinh công của nàng ta chẳng kém gì mình. Thân pháp này không giống với các môn phái ở Trung Nguyên, quá nửa là cùng một bọn với Phù Tang thất tử". Nhưng Kim Trục Lưu đã gạt được sự sống chết sang một bên, chàng cũng không sợ có thêm một kẻ địch nữa.
Thiếu nữ ấy kêu ồ lên một tiếng, đột nhiên nhặt mấy hòn đá ném về phía họ.
Kim Trục Lưu múa tít thanh kiếm, một hòn đá táng vào vỏ kiếm của chàng, chỉ nghe keng một tiếng, hòn đá nát thành bột!
Nhưng thiếu nữ này không chỉ ném đá đánh Kim Trục Lưu, đồng thời còn có hai viên đá bay về phía cặp vợ chồng nọ. Cặp vợ chồng nọ chỉ dùng cây kiếm bình thường, chỉ nghe hai tiếng leng keng vang lên, hòn đá bật ra mà không vỡ nát.
Cả ba người đều cảm thấy hơi tê, tuy không hề hấn gì nhưng cũng cả kinh.
Kim Trục Lưu vốn tưởng nàng ta cùng một giuộc với bọn Phù Tang thất tử, nhưng thấy nàng làm thế lại cũng không biết nàng là địch hay bạn!
Đôi vợ chồng ấy thất kinh, đồng thanh quát:
"Người là ai? Nha đầu miệng còn hôi sữa mà cũng dám lo chuyện bao đồng?".
Thiếu nữ ấy cười khanh khách, không đáp lời họ mà hỏi Kim Trục Lưu:
"Có phải huyền thiết bảo kiếm đấy không, vậy chắc người là Kim Trục Lưu?" Kim Trục Lưu thấy nàng không có ý xấu, trả lời rằng:
"Không dám, tôi là Kim Trục Lưu, cô nương có gì dạy bảo?".
Thiếu nữ ấy quay đầu sang nói với hai vợ chồng:
"Ngươi không quen biết ta, nhưng ta lại biết các ngươi. Các ngươi có phải là người của phái Phù Tang không?".
Người vợ trả lời:
"Phải thì thế nào?".
Thiếu nữ đáp:
"Ta nghe nói trong Phù Tang thất tử có một đôi vợ chồng, người chồng là Thạch Vệ, người vợ tên gọi Tang Thanh, chắc là hai người phải không?".
Thạch Vệ ngần ngừ rồi đáp:
"Ngươi còn trẻ tuổi như thế sao biết lai lịch của bọn ta?".
Tang Thanh quát rằng:
"Ngươi theo dõi bọn ta là có ý gì? Nói mau!".
Thiếu nữ đáp:
"Mâu Tông Đào có phải đi cùng với các ngươi không?".
Tang Thanh hỏi:
"Mâu Tông Đào là ai?".
Thạch Vệ cả kinh nói:
"Người đó có phải là hậu nhân của nhà họ Mâu ở đảo Phù Tang không?" Thiếu nữ nói:
"Đúng thế". Thạch Vệ hơi bất ngờ, nói:
"Nhà họ Mâu cũng có người đến Trung Nguyên ư?".
Thiếu nữ nói:
"Té ra các người không đi cùng nhau, vậy là ta đã yên tâm. Thật ra ta đã biết, chàng không thể đi cùng với các ngươi".
Tang Thanh hỏi:
"Ngươi muốn gì?".
Thiếu nữ nói:
"Đảo Phù Tang tuy ở ngoài biển nhưng thủy tổ của phái Phù Tang Loạn Nhiêm Khách là hiệp sĩ ở miền Trung Nguyên, đệ tử của phái Phù Tang phải nên học theo tổ sư, sao có thể là kẻ địch của người hiệp nghĩa Trung Nguyên?".
Người đàn bà hừ một tiếng lạnh lùng:
"Ngươi muốn dạy bảo cho chúng ta đấy ư?".
Thiếu nữ nói:
"Không dám, tôi chỉ nghĩ như thế này, nếu Mâu Tông Đào đến Trung Nguyên, chàng lẽ ra phải nhớ lời dạy của tổ tiên, không thể đối địch với cha con Kim đại hiệp".
Kim Trục Lưu cả mừng nói:
"Cô nương, cô đoán không sai chút nào".
Tang Thanh nổi giận gằn giọng:
"Ta mặc kệ tên họ Mâu là ai, nhưng ngươi bảo bọn ta không đúng, ngươi dựa vào cái gì mà dạy đời bọn ta?".
Thiếu nữ ấy nói:
"Hành động của các người nếu không trái với lời dạy của tổ sư, cần gì phải sợ người khác?".
Người đàn bà gọn giọng:
"Ngươi mở miệng là tổ sư, ngậm miệng cũng tổ sư, ngươi có phải là đệ tử của phái Phù Tang không? Dù cho ngươi là đệ tử của bổn môn, cũng không xứng đem lời dạy của tổ sư ra áp chế bọn ta. Ngươi hãy lộ bản lĩnh cho ta xem thử, nếu có thể thắng được ta thì lúc đó có muốn dạy bọn ta cũng không muộn".
Thiếu nữ hờ hững nói:
"Cũng được, ta sẽ lãnh giáo kiếm pháp bổn môn của các người". Nàng nói bốn chữ "kiếm pháp bổn môn" đã đủ chứng minh nàng là đệ tử của phái Phù Tang.
Thật ra người đàn bà này cũng đoán được nhưng cũng chỉ muốn thử nàng mà thôi. Thiếu nữ ấy tiện tay bẻ một cành cây rồi nói:
"Tang sư tỷ, ra chiêu đi!" Người đàn bà hỏi:
"Người dùng cành cây này tỉ thí với ta?".
Thiếu nữ nói:
"Nói tỉ thí thì hơi quá, tiểu muội chỉ muốn ấn chứng với Tang sư tỷ mà thôi!" Người đàn bà cười lạnh:
"Nếu quả nhiên ngươi sử dụng kiếm pháp của bổn môn, địch nổi mười chiêu của ta lúc đó kêu ta sư tỷ cũng không muộn!".
Thiếu nữ lắc đầu, nghĩ thầm:
"Ta cũng chẳng mong có đồng môn như ngươi?".
Rồi bảo:
"Được, nhưng cũng chưa chắc đến mười chiêu". Nói xong giở cành cây vạch nhẹ, quả nhiên đó là Khởi thủ thức của phái Phù Tang.
Tang Thanh cười lạnh:
"Không cần nhiều lễ!" Rồi đâm soạt tới một kiếm, thiếu nữ phất nhẹ cành cây, thanh kiếm của Tang Thanh rõ ràng đã chạm vào cành cây, nhưng không biết thế nào mà chẳng chặt gãy được, trái lại bị cành cây dẫn sang một bên. Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Phù Tang kiếm pháp của thiếu nữ này hình như còn cao minh hơn cả Tông Đào?".
Tang Thanh cũng không khỏi kinh hoảng, nên không dám khinh địch, múa tít cây thanh cương kiếm đến nỗi gió mưa không lọt. Còn Kim Trục Lưu động một bên đếm:
"Chiêu thứ nhất, chiêu thứ hai ... chiêu thứ năm, chiêu thứ sáu ... ha ha chiêu thứ tám?".
Trước khi giao thủ Tang Thanh bảo trong vòng mười chiêu sẽ đánh bại nàng thiếu nữ, Kim Trục Lưu sợ mụ ta tráo trở cho nên mới đếm chiêu số giùm nàng thiếu nữ.
Vừa nói đến chiêu thứ tám, đột nhiên thiếu nữ lộn người cành cây đột nhiên chọc vào vòng kiếm của Tang Thanh, chỉ nghe vèo một tiếng, cây trường kiếm đã rời khỏi tay.
Té ra nàng đã dùng cành cây điểm vào mạch môn của Tang Thanh.
Thiếu nữ cười khảy nói:
"Kiếm pháp của bổn môn mà tỷ vẫn chưa nắm vững, tôi khuyên tỷ đừng nên bắt nạt người khác!".
Khi nàng xuất chiêu tà áo bay bay, ở gấu áo xuất hiện một con phí ngư thêu bằng chỉ đỏ, Thạch Vệ đã nhìn thấy.
Y cả kinh lạc giọng kêu lên:
"Cô nương, Lâm đảo chủ của Phi Ngư đảo là người thế nào với cô nương?".
Thiếu nữ đáp:
"Chính là gia phụ. Người đã không còn là đảo chủ của đảo Phi Ngư. Ông có gặp người ư?".
Thạch Vệ nói:
"Tét ra là thiên kim của Lâm Sư bá, xin thứ chúng tôi đã vô lễ".
Tang Thanh buồn bã nhặt kiếm nói:
"Đi thôi, chả lẽ huynh muốn đến gặp Lâm sư bá ư".
Thiếu nữ nói:
"Kim thiếu hiệp, Kim thiếu hiện có biết tin gì về Mâu Tông Đào không?".
Kim Trục Lưu đáp:
"Biết, nhưng cô nương hây đợi một lát".
Kim Trục Lưu đang định đến giúp Sử Hồng Anh, chợt thay Âu Dương Kiên xoay người bỏ chạy, Kim Trục Lưu chưa quay trở lại đầu cầu thì y đã chạy xuống núi mất dạng. Té ra Âu Dương Kiên đã hao tổn công lực, thấy vợ chồng Thạch Vệ đã thua cho nên y không dám ham đánh nữa.
Lúc này nàng thiếu nữ mới có cơ hội nói chuyện với bọn Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu hỏi:
"Chẳng hay tại sao cô nương đến nơi này, làm sao biết lai lịch của tôi?".
Thiếu nữ đáp:
"Chuyện Phù Tang thất tử làm khó lệnh tôn, cha tôi đã biết.
Nhưng chúng tôi vẫn không biết Mâu Tông Đào có đi cùng bọn Phù Tang thất tử hay không cho nên tôi đến đây tìm y. Sở dĩ tôi có thể đến đây được là nhờ một người bằng hữu của cha tôi chỉ đường".
Kim Trục Lưu cười hỏi:
"Vậy cô nương có thể cho chúng tôi biết họ tên lai lịch hay không?".
Thiếu nữ đáp:
"Tôi họ Lâm, tên là Vô Song, chúng tôi đến đảo Phù Tang sinh sống đã mấy đời, Mâu Tông Đào là biểu huynh của tôi".
Sử Hồng Anh nói:
"Té ra là thế, các người đến Trung Nguyên từ lúc nào, có nhận được tin của Mâu Tông Đào không?".
Lâm Vô Song nói:
"Chúng tôi về đây đã gần mười năm". Rồi nàng nói tiếp:
"Lúc còn bé, chúng tôi sống chung với nhà họ Mâu, mẹ tôi là cô mẫu của Mâu Tông Đào. Người đã dạy tôi và y kiếm pháp. Nhưng y lớn hơn tôi mười tuổi, khi chúng tôi trở về Trung Nguyên tôi chỉ mới mười hai tuổi, nên nếu gặp lại tôi, e rằng y không nhận ra".
Kim Trục Lưu nói:
"Các người trở về Trung Nguyên, Mâu Tông Đào có biết không?".
Lâm Vô Song đáp:
"Ban đầu chúng tôi và nhà họ Mâu ở cùng một nơi, sau đó gia phụ không quen sống với người Nụy, cho nên cùng một số ngư dân vượt biển đến một hoang đảo, khai hoang trồng trọt. Cuộc sống rất tự do. Cha tôi gọi đấy là đảo Phi Ngư. Đáng tiếc những ngày tháng ấy không kéo dài được bao lâu".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Tại sao?".
"Chính vì trước đây đảo Phi Ngư hoang vắng chẳng ai để ý, đến khi khai phá xong thì lại có người thèm muốn".
"Có phải là hải tặc không?".
"Không phải, nhưng còn ghê gớm hơn hải tặc. Người Nụy đã chiếm lĩnh đảo Phi Ngư".
Lâm Vô Song thở dài, tiếp tục nói:
"Do đó chúng tôi đành trở về Trung Nguyên, tính ra cũng đã mười năm. Mười năm nay chúng tôi ẩn cư ở một làng chài nhỏ, không ai biết lai lịch của chúng tôi, ngoại trừ một bằng hữu của gia phụ".
Kim Trục Lưu nói:
"Người đó là ...".
Lâm Vô Song trả lời:
"Sau khi gia phụ trở về Trung Nguyên đã kết giao người bằng hữu này. Ông ta tên gọi Uất Trì Đồng".
Kim Trục Lưu nói:
"Ồ té ra là Uất Trì Đồng?".
Lâm Vô Song gật đầu:
"Đúng thế, Uất Trì Đồng tuy không biết Mâu Tông Đào nhưng ông ta đã từng đánh với Phù Tang thất tử. Chính ông ta đã cho gia phụ biết tin tức của bảy người này".
Kim Trục Lưu mừng rỡ:
"Uất Trì Đồng là bằng hữu của sư huynh tôi, tôi đang rất nhớ ông ta. Ông ta thế nào rồi?".
Hồi 51
Roi thừng ám khí là song tuyệt
Khoái mã vung đao gặp thật hùng
Lâm Vô Song tiếp tục nói:
"Một buổi tối nọ vợ chồng Uất Trì Đồng đến nhà tôi, hỏi lai lịch của Phù Tang thất tử".
Thế rồi nàng kể lại câu chuyện vợ chồng Uất Trì Đồng đã gặp trên đường.
Đó là một ngày mùa thu tuyết trời mát mẻ, vợ chồng Uất Trì Đồng đang trên đường đến Bảo Định. Hai người đang phóng ngựa chợt nghe tiếng vó ngựa lọc cọc vang lên ở phía sau, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy bụi bốc cao, té ra đó là một tốp ngựa phóng tới có cả nam lẫn nữ, có cả già lẫn trẻ, tổng cộng là bảy người.
Uất Trì Đồng vốn xuất thân từ mã tặc, giỏi xem tướng ngựa, vừa nhìn đã thất kinh nói:
"Bảy thớt ngựa này là ngựa tốt hiếm có, những người này chắc có lai lịch không tầm thường".
Kỳ Thánh Ân đùa:
"Không chừng là đồng đạo của huynh, muốn chiếu cố đến chúng ta".
Uất Trì Đồng cười ha hả:
"Nếu họ đúng là mã tặc, huynh sẽ nhập bọn với họ".
Đang nói thì đám người ấy càng lúc càng gần họ, Uất Trì Đồng gióng ngựa sang một bên nhường lối cho họ.
Không ngờ những người này lại giật cương cho ngựa đi chậm lại, cách hai vợ chồng Uất Trì Đồng khoảng mười trượng.
Uất Trì Đồng thắc mắc:
"Chả lẽ bọn chúng đối phó với mình?" Rồi nháy mắt với vợ, giả vờ chạy lúc nhanh lúc chậm, những người ấy quả nhiên cũng đuổi theo.
Uất Trì Đồng thầm buồn cười:
"Nếu bọn chúng là mã tặc đã xui xẻo quá. Mình đang muốn đổi một con ngựa tốt".
Uất Trì Đồng không muốn giao thủ với bọn người này, đến chỗ hoang vắng đột nhiên dừng lại. Thế là bảy người kia chia làm hai tốp bao vây hai vợ chồng lại.
Uất Trì Đồng buông giọng cười lớn:
"Bằng hữu, các ngươi đã hoa mắt rồi!" Câu này ý muốn nói bọn chúng đã cướp nhầm người không nên cướp.
Hán tử râu dài khựng người rồi hỏi:
"Ngươi có phải là Uất Trì Đồng không?".
Uất Trì Đồng cả kinh, định thần nhìn lại trên bảy thớt ngựa đều có một dấu ấn đặc biệt, đó là dấu ấn của ngựa đại nội.
Uất Trì Đồng lại cười ha hả:
"Té ra là ta đã hoa mắt, tưởng các người là bằng hữu trên chốn hắc đạo, té ra là bọn ưng khuyển của Thát Đát!".
Một thiếu phụ nói:
"Vệ ca, y nói gì thế?" Té ra mụ ta không hiểu Uất Trì Đồng nói ưng khuyển có nghĩa là gì.
Người đàn ông trả lời:
"Huynh cũng không hiểu, chắc là không phải lời tốt gì!".
Người đàn ông kia đáp:
"Hừ, y nói chúng ta là chó săn của triều đình".
Té ra Phù Tang thất tử đến Trung Nguyên chưa kịp gặp người hiệp nghĩa trong võ lâm lập tức thủ hạ của Tát Phúc Đỉnh đã biết. Thế là bọn họ bị Tát Phúc Đỉnh lôi kéo.
Đương nhiên sau này bọn chúng cũng sẽ biết. Nhưng hai người cầm đầu quá ham công danh lợi lộc, vừa đến Trung Nguyên đã muốn có một chỗ dựa, bởi vậy sau khi biết Tát Phúc Đỉnh lợi dụng mình chống lại nghĩa sĩ võ lâm vẫn chấp nhận. Những người này đã quen sống tiêu dao tự tại ở ngoài đảo, về đến Trung Nguyên cũng chẳng quan tâm đến thời cuộc. Kẻ cầm đầu nói như thế nào thì bọn chúng làm theo thế ấy.
Bọn chúng chỉ nghĩ rằng mình là cao nhân đã được Tát phúc Đỉnh coi trọng chứ không cho rằng mình là ưng khuyển của triều đình.
Thiếu phụ ấy cả giận nói:
"Sao lại có lẽ này, nói càn! Tông sư thúc, còn đợi gì nữa, dạy cho y một bài học!".
Uất Trì Đồng buông giọng cười lớn:
"Các người không phải là chó săn thì là gì?
Uất Trì Đồng này rất thích giết chó săn! Tất cả cùng xông lên để ta khỏi tốn thời giờ!".
Rồi soạt soạt hai kiếm vung lên, ánh bạch quang lóe mắt, Phù Tang thất tử đã rút kiếm ra, hán tử râu dài quát:
"Chúng ta tự biết thân phận của mình, đừng để ý y nói gì cả!".
Thạch Vệ nói:
"Đúng thế, chỉ một tên Uất Trì Đồng đâu có đáng cho chúng ta cùng ra tay?" Những kẻ rút kiếm lúc nãy đều lui kiếm.
Điều này khiến cho Uất Trì Đồng bất ngờ, thầm nhủ:
"Bọn này đúng là hơi kỳ lạ!".
Hán tử râu dài điềm nhiên nói:
"Uất Trì Đồng, ngươi đừng coi thường người khác. Ngươi có dám đánh cược với ta không?".
Uất Trì Đồng nói:
"Đánh cược cái gì?".
hán tử râu dài bảo:
"Chúng ta hãy đánh cược bằng đao kiếm".
Uất Trì Đồng ngạo mạn trả lời:
"Tốt lắm! Các ngươi cùng ra tay cũng được, đánh tay đôi cũng được, Uất Trì Đồng này sẽ chiều tất!".
Hán tử râu dài trả lời:
"Hai vợ chồng ngươi cứ cùng xông lên, chỉ cần các ngươi thắng được cây kiếm trong tay của ta ...".
Uất Trì Đồng cả giận:
"Vớ vẩn, ngươi là cái thứ gì mà đáng cho hai vợ chồng ta liên thủ đối phó?".
Hán tử râu dài vẫn không hề nổi giận, trái lại cười rằng:
"Thế nào, ngươi có nếm được mùi vị bị người ta coi thường chưa? Tại sao lúc nãy ngươi bảo đấu với bảy người bọn ta?".
Uất Trì Đồng đã đi khắp trời nam đất bắc, có bao giờ bị người ta mỉa mai như thế? Nhưng vì y hào khí xông mây, gặp những người cứng rắn giống mình thích thú lắm cho nên tuy nghe như thế nhưng cũng không hề nổi giận, trái lại cười ha hả:
"Hình như ngươi rất tự phụ! Được, nếu tự tin thắng được ta thì ngươi cứ ra tay!".
Hán tử râu dài nói:
"Phía ngươi có hai người, phía ta có bảy người, đôi bên đều có nam có nữ. Bọn ta không ỷ đông hiếp ít, nam đấu với nam, nữ đấu với nữ, cứ đơn đả độc đấu xem ai hơn ai?".
Uất Trì Đồng nói:
"Được, hay lắm! Ta phải lãnh giáo cao chiêu của các hạ". Kỳ Thánh Ân tiếp lời:
"Ai sẽ chỉ giáo cho tiểu muội?".
Hai người đàn bà đồng thời bước lên, hán tử họ Tông nói:
"Hà nhi, hãy nhường cho Tang sư tỷ của con", người trẻ hơn đáp:
"Vâng", rồi đút kiếm vào vỏ lui xuống.
Hán tử râu dài nói:
"Được, nếu các ngươi thua ta ..." Uất Trì Đồng cười lạnh:
"Ta sẽ lập tức vung đao tự sát!".
Hán tử râu dài cười:
"Không cần như thế. Nếu ngươi thua, phải theo ta lên kinh đầu thú. Ta có thể đảm bảo không lấy mạng ngươi".
Số là Uất Trì Đồng đã từng gây vài vụ án lớn ở kinh thành, Tát Phúc Đỉnh sở dĩ muốn bắt y là chỉ muốn phá án, tìm lại tang vật chứ không phải vì y là lãnh tụ của nghĩa quân.
Uất Trì Đồng cả cười:
"Loài ưng khuyến vẫn chỉ là loài ưng khuyến, đã giấu đầu lộ đuôi rồi! Được, ngươi có bản lĩnh thắng được ta, ta sẽ theo ngươi! Còn ngươi thua thì sao?".
Hán tử râu dài nói:
"Mặc cho ngươi xử lý!".
"Ta cũng không cần lấy mạng ngươi, chỉ cần con ngựa của ngươi mà thôi!".
"Được, quân tử nói một lời xe bốn ngựa khó đuổi?".
Kỳ Thánh Ân cũng hỏi:
"Tục ngữ nói chồng nói vợ theo, ta cũng như chồng ta, ngươi có chịu hay không?".
Tang Thanh cả giận:
"Tùy ngươi, dù sao ta cũng thắng ngươi!".
Kỳ Thánh Ân nói:
"Cũng chưa chắc!" Rồi đánh vút tới một roi. Tang Thanh vội vàng chém ra ba kiếm. Không ai chiếm được phần hơn.
Uất Trì Đồng nói:
"Vợ ta đã ra tay trước ta nhường cho ngươi" Hán tử râu dài quát:
"Được?" Nhưng vẫn không rút kiếm ra khỏi vỏ.
Uất Trì Đồng quát:
"Sao còn chưa rút kiếm, còn đợi gì nữa?" Hán tử râu dài cười rằng:
"Sao lại nôn nóng như thế!" Rồi đột nhiên bóp vào vỏ kiếm vung nhẹ, cây kiếm trong vỏ đột nhiên phóng vút ra, điều đó khiến Uất Trì Đồng bất ngờ, trong chớp mắt chỉ thấy ánh sáng chói mắt, tuy thế nhưng vẫn giơ ngang cây đao gạt qua một bên, cười ha hả:
"Nhà ngươi sắp bước tới cửa tử mà còn giở trò!".
Hán tử râu dài chỉ mỉm cười rồi chụp lấy đuôi kiếm, lập tức đâm tới.
Té ra hán từ râu dài cũng biết Uất Trì Đồng chẳng phải hạng vừa, nếu không đánh bất ngờ thì chẳng thắng được cho nên vừa ra tay đã muốn làm rối loạn tinh thần của y.
Uất Trì Đồng không ngờ hán tử râu dài lại nhanh nhẹn như thế, quả nhiên hơi phân tâm, bị đối phương tấn công luống cuống tay chân. Hán tử râu dài là sư thúc của sáu người còn lại, trong Phù Tang thất tử y là người có bản lĩnh cao nhất, vừa tấn công đã đánh vào toàn những chỗ yếu hại của Uất Trì Đồng!
Uất Trì Đồng đứng vững như núi, một bước chẳng dời, chỉ nghe tiếng leng keng vang lên không ngớt bên tai, trong chớp mắt hán tử râu dài đã đánh ra ba mươi chiêu, nhưng vẫn tìm không ra sơ hở của Uất Trì Đồng. Kiếm thế như cầu vồng, ánh đao như tuyết trắng, rõ ràng hai người ngang tài ngang sức nhau? Hán tử râu dài tựa như cảm thấy đang đứng trước một bức tường đao. Xưa nay y tự phụ nội lực thâm hậu, nhưng cũng không khỏi thầm phục đối phương!
Uất Trì Đồng cũng ngạc nhiên hơn. Bình sinh y đã gặp biết bao nhiêu kình địch, nhưng chưa kẻ nào giỏi như hán tử râu dài, dù cho y đã sử dụng hết toàn bộ bản lĩnh của mình, múa tít cây đao đến nỗi gió mưa không lọt, nhưng cảm thấy kiếm quang như rọi vào mắt, khí lạnh dồn vào da, tựa như có mấy mươi thanh kiếm từ bốn hướng tám phương đánh về phía mình. Uất Trì Đồng hít một hơi, thầm nhủ:
"Kiếm pháp của kẻ này khác hẳn các môn phái ở Trung Nguyên, cũng không biết y chui ra từ đâu.
Kiếm pháp của y tinh diệu như thế, nếu mình chỉ phòng thủ có lẽ sẽ bại".
Sau năm mươi chiêu, Uất Trì Đồng đã dần dần hóa giải thế công của đối phương, y chợt quát lên một tiếng:
"Xem khoái đao của ta!" Rồi chém ra một đao, mũi đao vạch thành một vòng tròn, những người bên cạnh thấy y chỉ đánh ra một chiêu, nhưng thực sự trong chiêu này hàm chứa mười tám chiêu thức phức tạp khác, chỉ vì đao pháp của y quá nhanh cho nên bọn họ chỉ thấy ánh đao mà thôi.
Chỉ nghe tiếng binh khí giao nhau, hán tử râu dài bất đồ thối lui mấy bước.
Phía bên kia, Kỳ Thánh Ân và Tang Thanh cũng khó phân thắng bại. Kỳ Thánh Ân vừa ra tay đã đánh liên tục mười bảy mười tám chiêu khiến Tang Thanh thối lui từng bước. Tang Thanh là người kiêu ngạo, tưởng rằng với bản lĩnh của mình khi đến Trung Nguyên sẽ ngang dọc thiên hạ, nào ngờ vừa gặp phải Kỳ Thánh Ân đã bị đánh thối lui, bất giác lạnh mình, mới biết rằng từ trước tới giờ mình chỉ ngồi dưới đáy giếng mà nhìn trời.
Kỳ Thánh Ân tung đòn liên tục mà vẫn không đánh bại được đối phương cũng thầm thất kinh. Đang lúc kịch chiến bỗng Tang Thanh hú dài một tiếng, thanh kiếm múa ra một chiêu Lưu tinh truy nguyệt, vẫy ra ba đóa kiếm hoa, bên trái đâm vào huyệt bạch hải, bên phải đâm vào huyệt nhũ đột, ở giữa đâm vào huyệt toàn cơ của đối phương. Đó là một chiêu sát thủ trong kiếm pháp của phái Phù Tang, Kỳ Thánh Ân không dám mạo hiểm tấn công nữa, đành lách người qua một bên đổi thành thế thủ.
Tang Thanh đã lấy lại chủ động, lòng háo thắng tại trỗi dậy, vung kiếm tấn công liên tục.
Kiếm pháp của phái Phù Tang không giống với các môn phái ở Trung Nguyên, nhưng võ công thượng thừa rốt cuộc vẫn tương thông với nhau cho nên cũng có nhiều chiêu số tương tự như kiếm pháp của Trung Nguyên, tuy lương tự nhưng cũng có chỗ khác nhau. Kỳ Thánh Ân không hiểu điều đó, có vài chiêu bà ta tưởng là kiếm pháp mình quen thuộc, bèn phá giải theo cách mình đã biết. Không ngờ chỉ là tựa như chứ không phải, cho nên đã mắc lừa. Sau vài chiêu quả nhiên đã bị Tang Thanh chuyển khách thành chủ, còn mình chỉ có thể chống đỡ, Kỳ Thánh Ân nhìn qua, thấy chồng đang đánh nhau với hán tử râu dài, cũng không hơn được nhiều. Kỳ Thánh Ân thầm nhủ:
"Đại ca không thể thua, nếu mình thua thì trận này đại ca cũng không thể thắng.
Ta quyết không liên lụy đến chàng, dù thế nào đi nữa cũng không thể thua mụ đàn bà thối này?".
Tang Thanh thấy đối phương có vẻ như hơi đuối sức, quát:
"Ngươi rõ ràng chẳng phải là đối thủ của ta sao còn chưa nhận thua?".
Kỳ Thánh Ân cười lạnh lẽo:
"Ngươi đừng khoác lác, trong vòng ba chiêu ngươi sẽ rơi kiếm!" Tang Thanh tức giận:
"Được, xem thử ai rơi kiếm!" Rồi đâm soạt tới một kiếm, Kỳ Thánh Ân đột nhiên vung tay ném thanh đoản kiếm về phía Tang Thanh!
Tang Thanh tưởng rằng buộc phải ném kiếm, vì chiêu kiếm của mình quá lợi hại, cả mừng kêu lên:
"Chỉ cần một chiêu ngươi đã buông kiếm, sao còn chưa nhận thua?".
Chưa dứt lời, chỉ thấy thanh đoàn kiếm bay thẳng về phía mình!
Tang Thanh vừa thấy thế kiếm bay tới thì biết đó là thủ pháp ám khí rất lợi hại, thầm nhủ:
"Ngươi đừng mong tìm thắng trong bại, chỉ cần ta đánh rơi kiếm của ngươi thì ngươi phải nhận thua!".
Tang Thanh vung kiếm ra chém, nào ngờ thanh đoản kiếm bay tới trước mặt lại vòng sang một bên, mũi kiếm vừa chạm vào thanh đoản kiếm thì thanh đoản kiếm đã bay cao hơn.
Tuy không đánh rơi được thanh đoản kiếm nhưng cũng chẳng bị thương, Tang Thanh cả mừng kêu lên:
"Ngươi còn nói được gì nữa? ôi chao, ôi ..." Tiếng kêu mừng rỡ biến thành tiếng kêu kinh hãi, chỉ trong khoảnh khắc, đột nhiên cảm thấy hổ khẩu đau nhói, té ra khi Kỳ Thánh Ân phóng cây đoản kiếm ra thì đã bắn thêm một mũi mai hoa châm. Hai loại binh khí một nặng một nhẹ, đồng thời phát ra cũng đồng thời bay tới. Thiếu phụ đâu ngờ thủ pháp phóng ám khí của Kỳ Thánh Ân lại cao minh đến thế, bà ta chỉ ứng phó với thanh đoạn kiếm chứ không hề phát giác có mai hoa châm nên đã mắc lừa!
Mũi mai hoa châm đâm vào hổ khẩu, thiếu phụ kêu ối chao một tiếng, cây trường kiếm vuột khỏi tay.
Kỳ Thánh Ân cười lạnh:
"Ngươi rơi kiếm hay ta rơi kiếm". Rồi phóng vút người tới hớt lấy thanh đoản kiếm đang rơi xuống.
Hán tử râu dài thấy Kỳ Thánh Ân ném kiếm ra biết Tang Thanh sẽ thất bại, lập tức lấy công làm thủ, đánh ra một chiêu Trường hà lạc nhật, đâm kiếm vào cổ họng Uất Trì Đồng, hy vọng đánh bại Uất Trì Đồng để cứu vãn tình thế.
Hán tử râu dài tưởng rằng có thể đả thương được Uất Trì Đồng, nào ngờ Uất Trì Đồng quát lớn một tiếng, trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt, cây đao chém mạnh xuống. Đây chẳng phải là chiêu số gì cả mà là lối đánh ôm nhau cùng chết! Vì hai bên đều nhanh đến cực điểm không thể rút lui được cho nên phải coi ai lớn gan hơn mà thôi!
Hai bên đều ra đòn nhanh đến cực điểm, trong khoảnh khắc tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc, hai bên chẳng thể nào chần chừ được. Nếu hán tử râu dài tiếp tục đâm tới, đương nhiên có thể đâm vào cổ họng của Uất Trì Đồng, nhưng nhát đao của Uất Trì Đồng cũng chém xuống, đầu của y cũng sẽ toác làm đôi! Hán từ râu dài nhát gan hơn, khi ánh đao chém xuống, nhảy lùi ra sau theo bản năng, đồng thời rút kiếm về chặn lại.
Y vốn đâm kiếm về phía trước, nay lại rút kiếm về chặn, tuy kiếm pháp của y có thể thu phát theo ý, nhưng trong lúc vừa thu vừa phát kình đạo đã giảm đi vài phần.
Uất Trì Đồng chỉ cảm thấy ngực mát lạnh, vẫn chém đao xuống, khí lực của Uất Trì Đồng vốn hơn hán tử râu dài. Sau một hồi kịch chiến, một bên bạo gan hơn, một bên hoảng sợ rút lui, kết quả đương nhiên Uất Trì Đồng đã thắng.
Đao kiếm giao nhau kêu keng một tiếng, cây kiếm của hán tử râu dài vuột ra bay lên không trung, may mà y nhảy vọt ra phía sau ba thước mới tránh khỏi bị thương.
Uất Trì Đồng cười ha hả:
"Ngươi còn nói gì nữa!" Rồi phóng vọt người tới chỗ con ngựa của hán tử râu dài.
Hán tử râu dài quát:
"Kiếm pháp của ta vẫn chưa thua ngươi đâu, ngươi phải hiểu điều này!".
Uất Trì Đồng quát:
"Không thua kiếm pháp nhưng đã thua người? Đã là hảo hán thì đứng lắm lời!" Kỳ Thánh Ân nói:
"Đại ca, mặc kệ y, chúng ta đi thôi!" Lúc này nàng cũng đã cướp được thớt ngựa của Tang Thanh.
Tang Thanh thua nhưng vẫn không phục, mắng rằng:
"Dùng ám khí hại người đâu phải là hảo hán gì?" Kỳ Thánh Ân cười rằng:
"Ngươi đâu có bảo là không cho dùng ám khí? Vả lại ta và ngươi đều là đàn bà, sao có thể gọi là hảo hán được! Thua thì chính là thua!" Rồi lập tức vung roi thúc ngựa chạy đi.
Uất Trì Đồng vốn là một mã tặc, thuật cưỡi ngựa rất cao siêu, ba sư điệt của hán tử râu dài thúc ngựa từ ba hướng phóng tới vây y lại ở giữa, Uất Trì Đồng giật dây cương, quát lớn một tiếng, thớt ngựa phóng vọt lên cao hơn một trượng, bay vút qua đầu một gã trong số đó khiến y hoảng sợ nhào người xuống ngựa.
Hán tử râu dài và Tang Thanh đã mất ngựa, năm người còn lại vẫn phóng ngựa đuổi theo.
Kỳ Thánh Ân cười lạnh:
"Được, cho các ngươi xem công phu ám khí của ta!".
Rồi hai tay nắm hai nắm ám khí phóng ra phía sau, ám khí cứ bay như sao xa.
Bọn người đuổi theo biết đó là loại ám khí lợi hại, đã sớm chuẩn bị, rồi vừa vận công đóng huyệt đạo lại, vừa múa kiếm phòng thân, chỉ nghe tiếng leng keng vang lên không ngớt bên tai.
Thạch Vệ quát:
"Chỉ vài món ám khí nhỏ nhoi, có thể làm gì được ta?" Nói chưa dứt lời, thớt ngựa của y đột nhiên hí dài, bốn chân khụy xuống đất, suýt nữa đã ném y xuống. Không chỉ con ngựa của y, chỉ trong chớp mắt bốn thớt ngựa còn lại cũng đột nhiên khụy xuống.
Té ra Kỳ Thánh Ân phóng ám khí để tấn công ngựa chứ không phải người, bà ta biết bản lĩnh của bọn người này rất cao cường, đương nhiên ám khí chẳng làm gì được bọn chúng, nên cứ phóng bừa ám khí về phía bọn chúng để buộc chúng ra tay ứng phó. Bọn chúng chỉ bảo vệ cho mình đương nhiên không lo được cho ngựa, được nên toàn bộ ngựa đều bị Kỳ Thánh Ân phóng mai hoa châm đâm mù hai mắt.
Uất Trì Đồng thấy thế chép miệng:
"Đáng tiếc, đáng tiếc!" Lúc này cả hai vợ chồng đều đã phóng đi xa. Phù Tang thất tử cũng chẳng thể nào đuổi theo được.
Lại nói vợ chồng Uất Trì Đồng gặp Phi Ngư đảo chủ, tức là cha của Lâm Vô Song, kể lại chuyện ngày hôm ấy, Phi Ngư đảo chủ vừa lo vừa mừng, lo là vì bảy cao thủ của phái Phù Tang đến Trung Nguyên, mừng là vì bằng hữu đã an toàn, thế rồi thở dài nói:
"Hùng phong của Uất Trì huynh vẫn còn như xưa, thật là đáng mừng.
Nhưng không ngờ bọn họ vừa đến Trung Nguyên thì đã đi theo triều đình".
Uất Trì Đồng nghe khen mà chẳng hề vui mừng, chỉ cười khổ đáp:
"Thực ra nếu luận về kiếm pháp, tôi vẫn thua tên hán tử râu dài ấy, huynh xem ..." Rồi cởi áo ngoài ra, chỉ thấy trên áo có ba cái lỗ nhỏ.
Uất Trì Đòng nói:
"Đây là chiếc áo tôi mặc hôm trước, nếu chẳng phải y rút kiếm chống đỡ, mũi kiếm đi sâu vào thêm nửa phân, trên người tôi đã có ba cái lỗ!".
Kỳ Thánh Ân vẫn không biết chuyện này cho nên vừa nghe đã không khỏi thất sắc.
Lâm Vô Song chợt nói:
"Chiêu này gọi là Tam chuyển pháp luân, Mâu đại ca đắc ý nhất là chiêu này. Không biết y có phải là một trong bảy người này hay không?".
Phi Ngư đảo chủ trầm ngâm một lúc rồi nói:
"Nghe nói Uất Trì đại ca nói, ta đã biết bốn người trong số họ". Lâm Vô Song hỏi:
"Hán tử râu dài có phải là Tông sư thúc ở đảo Đoàn Sa hay không?".
Phi Ngư đảo chủ đáp:
"Đúng thế, người này đã từng đến đảo Phi Ngư, nếu nói về phổ hệ sư môn, vai vế của y bằng ta. Y tên Tông Thần Long, còn đôi vợ chồng kia là Thạch Vệ và Tang Thanh, được gọi là phu thê song hiệp trong phái Phù Tang".
Uất Trì Đồng cười lạnh:
"Nay bọn chúng đã trở thành ưng khuyển cho triều đình, đâu cần xưng gọi là phu thê song hiệp?".
Phi Ngư đảo chủ nói:
"Khi họ ở Phù Tang đã từng đi khắp nơi bênh vực kẻ cô thế, cũng từng tham gia chống lại người Nụy. Không chừng vì họ mới về Trung Nguyên, chưa hiểu đại cuộc cho nên bị mắc lừa Tát Phúc Đỉnh".
Kỳ Thánh Ân cười rằng:
"Đại ca, tục ngữ nói, đường dài mới biết sức ngựa, lâu ngày mới biết lòng người ...".
Uất Trì Đồng nói:
"Được, chúng ta hãy chờ đợi xem thử, cũng mong là họ biết sai để thay đổi".
Phi Ngưỡng chủ nói:
"Tiếng tăm của Tông Thần Long rất xấu, không chừng chính vì y tham lam lợi lộc mà liên lụy sáu người còn lại đi vào đường tối. Bởi vì sáu người kia là vãn bối của y".
Lâm Vô Song hỏi:
"Cha nói đã biết lai lịch của bốn người trong số đó, còn một người nữa là ai?" Phi Ngư đảo chủ đáp:
"Chính là thiếu nữ định ra tay với Uất Trì đại tẩu, đó là Luyện Thái Hồng. Luyện Thái Hồng là bạn thời còn bé của Lâm Vô Song, nàng là con nhà đánh cá, lớn hơn Lâm Vô Song hai tuổi, đã từng theo Phi Ngư đảo chủ học võ công hai năm. Sau đó đảo Phi Ngư bị người Nụy chiếm lĩnh, gia đình họ không chạy theo cha con Lâm Vô Song. Sau đó nghe nói nàng được vợ của Tông Thần Long nhận làm đệ tử, cũng không biết đó là tin thực hay giả".
Lâm Vô Song nói:
"Nếu đúng là Luyện tỷ tỷ ắt rất tốt, chỉ cần con gặp tỷ, tỷ nhất định sẽ nghe lời con. Không biết Mâu đại ca có phải là một trong ba người còn lại hay không, Uất Trì thúc thúc, ba người còn lại có bộ dạng như thế nào, thúc thúc có nhớ không?".
Uất Trì Đồng đáp:
"Ngoài Tông Thần Long, bốn nam tử trung niên còn lại đều có nước da đen đúa, chỉ có Thạch Vệ hơi sạch sẽ hơn. Bốn người này thân hình cũng tương đương nhau, cháu bảo ta kể lại dung mạo của bọn chúng, ta chẳng nhớ rõ nổi".
Phi Ngư đảo chủ cười lớn:
"Con và Mâu Tông Đào đã cách biệt mười năm, e đến khi gặp lại các con chẳng thể nhận ra nhau".
Lâm Vô Song nói:
"Dù thế nào đi nữa chúng ta vẫn phải tìm Mâu đại ca".
Uất Trì Đồng nói:
"Hai ngày trước tôi gặp đệ tử của Cái Bang, đã bắt được một tin. Té ra Phù Tang thất tử không những nhận lệnh của Tát Phúc Đỉnh đối phó với tôi mà cũng từng đối phó với Giang đại hiệp".
Phi Ngư đảo chủ lắc đầu:
"Đúng là lớn gan táo tợn!".
Uất Trì Đồng cười:
"Không chỉ như thế. Bọn chúng đến nhà Giang đại hiệp, Giang đại hiệp không có ở nhà nhưng gặp phải sư phụ của ông ta".
Phi Ngưỡng chủ thất kinh:
"Có phải Kim Thế Di đại hiệp không?".
Uất Trì Đồng gật đầu:
"Đúng thế. Bọn chúng cũng động thủ với Kim đại hiệp.
Nhưng không phải đánh tay đôi mà cả bảy tên cùng xông tới".
Lâm Vô Song kể tới đây liền bảo:
"Vì gia phụ có chút xích mích với Tông Thần Long, tạm thời không muốn lộ mặt cho nên tôi chỉ đành đến đây một mình".
Lúc này trời đã hừng sáng, Lâm Vô Song nói:
"Kim thiếu hiệp, tôi đã kể lại mọi chuyện tôi biết. Biểu ca của tôi ...".
Kim Trục Lưu sực nhớ ra, cười rằng:
"Đúng thế, tôi cũng phải cho cô nương biết tin tức của Mâu Tông Đào".
Lâm Vô Song nghe nói Mâu Tông Đào đã đến Bắc Kinh, vừa lo vừa mừng:
"Té ra biểu ca của tôi quả nhiên không phải là một trong bảy người này. Nhưng chàng không chịu đi theo Tông Thần Long, e rằng y sẽ không buông tha cho chàng. Kim thiếu hiệp, tôi cũng phải đi đây, xin tạm biệt".
Thế rồi mọi người quay về Thanh Phong quán thu dọn hành lý xuống núi. Khi về đến căn cứ của nghĩa quân ở núi Đại Lương, vợ chồng Uất Trì Đồng cùng bọn Lâm Đạo Hiên, Lý Quang Hạ ra nghênh đón.
Khi bọn Kim Trục Lưu vào bên trong trại bàn tiệc đã được dọn sẵn. Té ra bọn Lâm Đạo Hiên đã biết họ đến đây nên chuẩn bị sẵn tiệc tẩy trần cho họ.
Trong buổi tiệc mọi người lại bàn bạc công việc tiếp theo. Cuối cùng Trúc Thượng Phụ quyết định sai Uất Trì Đồng đi cùng Kim Trục Lưu đến Thanh Hải. Ông ta viết một bức thư rồi trao cho Uất Trì Đồng, nói:
"Ở Thanh Hải có năm bộ tộc thiểu số, trong đó Y Khắc Chiêu Minh đứng đầu. Các người dùng thân phận sứ giả của nghĩa quân đến gặp thổ vương của Y Khắc Chiêu Minh. Không cần để ý y đã bị triều đình lôi kéo hay chưa, trước tiên phải phân tích rõ quan hệ lợi hại để xem y trả lời thế nào? Chỉ cần y chịu liên kết với chúng ta, bốn tộc còn lại tự nhiên sẽ đi theo".
Kim Trục Lưu hỏi:
"Nếu Thổ vương không chịu liên kết với chúng ta thì sao?".
Uất Trì Đồng nói:
"Bọn chúng đều tham của cải, chúng ta nên tặng bọn chúng một ít lễ vật".
Trúc Thượng Phụ cười:
"Tôi đã chuẩn bị". Rồi lấy ra một đôi dưa hấu băng bích ngọc, một cây nhân sâm ngàn năm, dặn:
"Đây chính là lễ vật cướp được trong ngày mừng thọ của Tát Phúc Đỉnh, nay chúng ta mượn hoa cúng Phật. Các người cứ đến đấy, xem thái độ của Thổ vương như thế nào rồi tùy cơ hành sự".
Hôm sau vợ chồng Uất Trì Đồng chia tay nhau, Kỳ Thánh Ân cùng vợ chồng Lâm Đạo Hiên, Lý Quang Hạ về lại Bảo Định.
Trúc Thượng Phụ tiễn Uất Trì Đồng, Kim Trục Lưu một đoạn đường, trước khi trở về ông ta nhớ ra một chuyện, nói:
"Y Khắc Chiêu Minh theo Bạch giáo, Đại Lạt Ma ở đó tên gọi Tông Đạt Hoàn Chân, là đại đệ tử của pháp vương Bạch giáo, pháp vương Bạch giáo và lệnh tôn là bằng hữu, Tông Đạt Hoàn Chân cũng từng gặp lệnh tôn. Khi đến Y Khắc Chiêu Minh, thiếu hiệp hãy gặp y, có lẽ y sẽ giúp đỡ chúng ta".
Hai người từ rừng sâu đến thảo nguyên Thanh Hải, trải qua nhiều gian nan khổ cực, may mà trên đường đi không có chuyện gì xảy ra, hôm nay đã tới Y Khắc Chiêu Minh.
Hồi 52
Chỉ nguyện hữu tình nên đôi lứa
Thôi rồi không chốn kiếm tình lang
Thổ vương của Y Khắc Chiêu Minh sắp xếp cho họ ở khách sạn, đến tối mới tiếp kiến họ.
Kim Trục Lưu dâng lên thư và lễ vật của Trúc Thượng Phụ, Thổ vương thấy hai món lễ vật giá trị liên thành thì mừng rơn. Nhưng khi xem xong thư của Trúc Thượng Phụ lại trầm ngâm không nói.
Kim Trục Lưu nói:
"Người Hán chúng tôi có một câu thành ngữ là 'Môi hở răng lạnh'. Cánh nghĩa quân chúng tôi ở núi Đại Lương là tấm bình phong cho các người, nếu chúng tôi thất bại, triều đình sẽ xua quân tiến vào nơi này. Đến lúc đó hoàng đế nhà Thanh không cho ông tự lập làm vua nữa. Cũng có thể dùng vương pháp của họ để quản hạt các ông. Cho nên tôi nghĩ vương gia phải liên minh với nghĩa quân, đó là thượng sách. Trung sách là hai bên làm ăn buôn bán với nhau. Hạ sách là theo triều đình làm khó cho nghĩa quân, vương gia là người thông minh chắc đã biết chọn con đường nào".
Thổ vương chậm rãi nói:
"Chuyện này có liên quan đến cả năm bộ tộc, một mình tôi không thể quyết định được. Để tôi suy nghĩ kỹ, triệu tập người của các bộ tộc bàn bạc rồi tính tiếp".
Kim Trục Lưu không dám thúc ép, Thổ vương đã không chịu tỏ thái độ, vả lại lấy cớ này cớ nọ, Kim Trục Lưu và Uất Trì Đồng cũng chỉ đành thối lui quay về khách sạn nghỉ ngơi.
Hôm sau Kim Trục Lưu đến gặp đại Lạt Ma Tông Đạt Hoàn Chân, Tông Đạt Hoàn Chân biết chàng là con trai của Kim Thế Di nên rất nhiệt tình.
Tông Đạt Hoàn Chân bảo:
"Năm xưa trong giáo chúng tôi xảy ra nội loạn, lệnh tôn đã giúp đỡ không ít. Lệnh tôn là người tôi phục nhất, tôi luôn nhớ đến người, hiếm có dịp công tử đến đây, gặp công tử cũng giống như gặp lệnh tôn. Có chuyện gì cần tôi giúp đỡ, tôi sẽ ráng hết sức".
Kim Trục Lưu kể:
"Tiểu điệt đang gặp chuyện khó". Thế rồi kể lại ý định mình đến đây?".
Tông Đạt Hoàn Chân trầm ngâm rồi nói:
"Tôi sẽ tìm cơ hội nói chuyện với vương gia. Nhưng trong chuyện này có nội tình, công tử có biết vương gia tại sao không chịu hứa ngay hay không?".
Kim Trục Lưu nói:
"Mong đại sư chỉ giáo".
Tông Đạt Hoàn Chân nói:
"Đó là bởi vì sứ giả của triều đình đến sớm hơn các người ba ngày, giờ đây đang ở trong hoàng cung trở thành quý khách của vương gia.
Nhưng vương gia không cho các người biết đấy thôi".
Kim Trục Lưu được sắp xếp ở khách sạn, còn sứ giả của triều đình được ở trong vương phủ, rõ ràng thái độ của Thổ vương đã là gần gũi triều đình.
Tông Đạt Hoàn Chân nói:
"Vương gia không phải là người có tầm nhìn xa rộng, nghe nói sứ giả của triều đình đã chính thức sách lập ông ta làm vương, lại còn hứa cho ông ta nhiều lợi lộc, tôi đương nhiên sẽ giúp công tử khuyên vương gia, còn ông ta chịu nghe hay không thì rất khó nói".
Kim Trục Lưu rất thất vọng, chỉ đành bảo:
"Mong đại sư nói giúp, được hay không, tiểu điệt cũng cảm kích".
Tông Đạt Hoàn Chân dặn:
"Có một chuyện tôi phải nhắc nhở các người".
Kim Trục Lưu nói:
"Đa tạ đại sư".
Tông Đạt Hoàn Chân nói:
"Các người phải đề phòng sứ giả triều đình ám hại".
Kim Trục Lưu đáp tạ Tông Đạt Hoàn Chân, về đến khách sạn quả nhiên có hai nội thị bưng một bình rượu mà một mâm thức ăn đến, bảo là phụng lệnh vương gia mang rượu thịt đến cho họ.
Kim Trục Lưu nghi ngờ, lẳng lặng lấy một viên bích linh đơn nhét vào trong tay Uất Trì Đồng, nói:
"Đa tạ vương gia ban rượu, chỉ e tửu lượng của tôi không cao" Uất Trì Đồng nghe nói như thế vội ngậm ngay viên bích linh đơn.
Nội thị ấy nói:
"Đây là rượu nho vương gia chúng tôi thường uống, vị rượu thơm nồng nhưng không dễ say. Vì đêm qua vương gia có việc, không thể đích thân tiếp đãi các ngài, cho nên bảo tôi mang rượu thịt đến đây để tỏ lòng tôn kính. Mong các ngài uống cho vài chén".
Kim Trục Lưu nói:
"Được, Uất Trì đại ca, đa tạ ý tốt của vương gia, chúng ta cùng uống".
Mỗi người uống ba chén, nội thị ấy thầm mừng, đang định kêu lên:
"Ngã này, ngã này!" chợt thấy Uất Trì Đồng cười ha hả:
"Rượu ngon rượu ngon!" Rồi trở tay đánh binh một tiếng, cái bàn bằng gỗ đàn gãy một một góc, tên nội thị hoảng hồn nhảy dựng lên.
Kim Trục Lưu hỏi:
"Uất Trì đại ca, huynh say rồi đấy ư?".
Uất Trì Đồng khua chân múa tay, nói:
"Không say, không say. Chỉ vì rượu quá ngon mà thôi, uống xong thì sức lực tăng lên, cho nên muốn thử xem đã tăng được bao nhiêu đấy thôi". Rồi cười ha hả:
"Rượu ngon như thế này không nên uống một mình, mời người uống cùng tôi ba chén!".
Số là bích linh đơn có thể giải bách độc. Kim Trục Lưu và Uất Trì Đồng lại có nội công thâm hậu, thực ra không uống bích linh đơn cũng chẳng sao. Uống bích linh đơn càng không thể trúng độc được.
Đây là loại rượu có chất độc đoạn trường, tên nội thị ấy làm sao dám uống? Y vội vàng xua tay, Uất Trì Đồng nạt lớn:
"Ngươi bảo rượu này không say, sao lại không uống?".
Uất Trì Đồng giả vờ đã say, ép nội thị uống rượu, tên nội thị hoảng vía nạt lớn:
"Ngươi ... ngươi thật vô lễ!" Y tuy muốn làm dữ nhưng không dám nói ra lời.
Uất Trì Đồng trợn mắt, nạt nộ:
"Trước mặt chân nhân nhân không nói dối, đây có phải rượu độc không?".
Nội thị ấy ấp úng:
"Không, không phải rượu độc". Kim Trục Lưu hờ hững:
"Nếu không phải rượu độc, ngươi uống cũng chẳng sao. Nhưng ngươi không muốn uống ta cũng không ép ..." Nội thị ấy vội vàng nói:
"Đúng, đúng! Uống rượu không nên ép nhau". Kim Trục Lưu nói tiếp:
"Nhưng để biết rõ sự thực, ta sẽ đem bình rượu này đến gặp vương gia. Ngươi không uống, bọn ta sẽ mời y uống, ngươi chẳng phải nói đây là rượu vương gia thường uống hay sao?".
Uất Trì Đồng nói:
"Không được, y không nói thực phải buộc y uống trước!" Rồi tóm lấy tên nội thị ấy, làm ra vẻ như đang đổ rượu vào mồm y.
Kim Trục Lưu và Uất Trì Đồng khiến cho tên nội thị sợ chết khiếp. Không phải Thổ vương bảo y đem rượu độc đến, nếu làm theo kiểu của Kim Trục Lưu, y tuy có thể tạm thời không uống rượu, nhưng bí mật bị phanh phui thì cuối cùng y cũng khó thoát.
Hơn nữa y thấy Kim Trục Lưu và Uất Trì Đồng uống rượu mà chẳng hề xảy ra xảy ra chuyện gì, lòng cũng hơi ngạc nhiên. Y vốn tin vào thần thánh nên thầm nhủ:
"Quý nhân có trăm thần phù hộ, rượu độc không hại họ được, chân chủ chắc chắn đứng về phía họ".
Nội thị ấy hoảng sợ, cuối cùng nói thực:
"Đúng thế, đây là rượu độc. Nhưng không liên quan đến tiểu nhân, sứ giả của nước Đại Thanh bảo tiểu nhân làm thế".
Uất Trì Đồng nói:
"Được, ngươi đã nói thật thì ta tha cho ngươi. Sứ giả của triều Thanh đang ở đâu, nói mau!".
Tên nội thị không dám chậm trễ, đáp:
"Họ ở vườn hoa trong hoàng cung". Rồi vẽ đường cho Uất Trì Đồng.
Kim Trục Lưu hỏi:
"Uất Trì đại ca, ý huynh thế nào?".
Uất Trì Đồng điểm hôn huyệt cho tên nội thị, đáp "Chúng ta lôi tên sử giả triều đình nhà Thanh ra rồi tuyên bố chuyện này, sau đó giết chết bọn chúng". Kim Trục Lưu can:
"Không được đâu".
Uất Trì Đồng nói:
"Thổ vương chắc chắn bảo vệ cho bọn chúng, chúng ta phải ra tay thật nhanh". Kim Trục Lưu nói:
"Nếu Thổ vương có ý quy thuận triều đình, giết tên sư giả ấy cũng chẳng có ích gì".
Uất Trì Đồng nói:
"Giết sứ giả thì đứt đường quy thuậ n triều đình của Thổ vương!".
Cả hai người đều đòi làm theo ý của mình, Kim Trục Lưu ngẫm nghĩ một hồi rồi bảo:
"Được, chúng ta sẽ làm theo cách khác. Huynh hãy đem tên nội thị này đến cho Tông Đạt Hoàn Chân, kể lại chuyện đêm nay, nhờ ông ta giúp đỡ, còn tôi sẽ lẻn vào trong hoàng cung Thổ vương, theo dõi hành động của sứ giả triều đình, khi cần thiết tôi sẽ lôi bọn chúng ra".
Uất Trì Đồng nói:
"Cũng được". Rồi liền giải huyệt đạo của tên nội thị ấy, nói:
"Ngươi cùng ta đến miếu Lạt Ma một chuyến. Nhưng khi ra ngoài, ngươi chỉ cần bảo dắt ta đến gặp vương gia. Nếu không ngươi hãy nghĩ kỹ lại xem, đầu của ngươi có cứng hơn cái bàn này hay không".
Lúc nãy khi tên nội thị vào đây đã dặn người trong khách sạn không được bước vào theo, nên không ai biết chuyện gì đã xảy ra.
Kim Trục Lưu chờ đến gần canh ba, đoán rằng Uất Trì Đồng đã gặp Tông Đạt Hoàn Chân mới thay đồ dạ hành vào hoàng cung. Chàng dễ dàng tìm được nơi sứ giả triều đình đang ở, chỉ thấy căn phòng ấy vẫn còn sáng đèn, trên cửa sổ có xuất hiện hai bóng người.
Một người mặc đồ quan của người Mãn, còn người kia là một hán tử râu ba chòm. Kim Trục Lưu nhẹ nhàng lướt qua một hòn non bộ, định đến gần nghe lén.
Chợt hán tử râu dài ấy quát:
"Ai ở bên ngoài?" Rồi đứng dậy đẩy cửa sổ.
Khinh công của hán tử đã đến cảnh giải đạp tuyết không để lại dấu, khi lướt qua hòn non bộ thì hạ xuống nhẹ nhàng như chiếc lá rơi, không hề phát ra tiếng. Kim Trục Lưu thất kinh, thầm nhủ:
"Tên này thật lợi hại!".
Kim Trục Lưu cũng rất lanh lẹ, chàng đã thấy trên cái cây bên cạnh hòn non bộ có một tổ chim, khi người ấy lên tiếng chàng đã nhặt hòn sỏi bắn về phía tổ chim ấy.
Còn chàng liền phóng người lách qua góc phòng, vòng ra cửa sổ phía sau.
Hán tử râu dài đẩy cửa sổ trước ra, một con chim thật lớn từ trên cây bay lên, kêu lên vài tiếng, hình như biết không có gì nguy hiểm thì quay trở lại tổ.
Hán tử râu dài hừ một tiếng, nói:
"Té ra là con chim này, làm mình giật mình".
Viên quan kia bảo:
"Ông đừng đa nghi, làm sao có người được, nếu có người cũng chỉ là thị vệ của vương gia".
Hán tử râu dài trả lời:
"Hình như tôi nghe được tiếng người. Đừng trách tôi đa nghi, bởi vì đối phương thực sự rất ghê gớm. Nếu chúng ta không hại được bọn chúng chỉ e bọn chúng sẽ đến ám toán chúng ta!".
Viên quan hỏi:
"Có phải ông nói hai sứ giả của núi Đại Lương không?" Hán tử râu dài đáp:
"Đúng thế. Ngoại trừ bọn chúng, còn ai dám đối đầu với chúng ta?".
Viên quan nói:
"Tôi định hỏi ông, hai người ấy là ai? Tông gia, võ công của ông hiếm có trên đời, tại sao ông không âm thầm điểm tử huyệt của bọn chúng, giết chết bọn chúng cũng chẳng để lại đấu vết".
Kim Trục Lưu nghe viên quan gọi hán tử râu dài là "Tông gia" thì mới vỡ lẽ ra rằng, y chính là Tông Thần Long, kẻ đứng đầu trong Phù Tang thất tử Kim Trục Lưu nín thở lắng nghe, chỉ nghe Tông Thần Long nói:
"Bởi vì có lẽ tôi cũng chẳng phải là đối thủ của bọn chúng!" Viên quan hỏi:
"Vậy bọn chúng là ai?".
Tông Thần Long chậm rãi:
"Tôi đã dò hỏi kỹ càng, một kẻ là Kim Trục Lưu, còn người kia là tội phạm mà các người đã truy bắt nhiều năm, Quan Đông đại đạo Uất Trì Đồng!".
Viên quan Mãn Châu kêu "ối chà" lên một tiếng:
"Té ra là bọn chúng, chả trách nào Tông gia phải cẩn thận như thế!" Rồi nói tiếp:
"Nhưng kế hoạch của chúng ta rất chu toàn, bọn chúng có thông minh cũng không ngờ rằng tên nội thị đã đem rượu độc thay chúng ta. Thuốc độc trong rượu là hạc đỉnh hồng giấu trong đại nội?".
Kim Trục Lưu thầm kêu may mắn rồi nghĩ bụng:
"Té ra bọn chúng đã biết mình từ trước, còn mình thì cứ mờ mịt. May mà Tông Đạt Hoàn Chân nhắc nở, nếu không đã trúng kế của bọn chúng".
Nghĩ chưa dứt, chợt nghe Tông Thần Long lại quát thêm một tiếng nữa:
"Ai dám nghe lén?" Kim Trục Lưu thất kinh, tưởng rằng đã bị y phát hiện, chợt thấy có tiếng gió lướt lên, trên mái nhà xuất hiện mấy bóng người.
Viên quan Mãn Châu cũng nghe thấy, y kêu ồ một tiếng rồi nói:
"Hình như lần này là thật!" Chưa đứt lời thì đã nghe có người quát:
"Tông Thần Long ra đây!".
Rồi những người trên mái nhà nhảy xuống, kẻ nhảy đầu tiên là Mâu Tông Đào.
Ngoài Mâu Tông Đào còn có ba người, Kim Trục Lưu vừa nhìn thì đã nhận ra hai người trong số ấy, đó chính là đôi vợ chồng Thạch Vệ và Tang Thanh. Người kia là một thiếu nữ hai mươi tuổi. Kim Trục Lưu thầm nhủ:
"Thiếu nữ này chắc là Luyện Thái Hồng".
Tông Thần Long nhìn thấy ba sư điệt của mình đi cùng một người lạ mặt, mà người lạ mặt này rất vô lễ với y, y không khỏi vừa thất kinh vừa ngạc nhiên, quát:
"Tiểu tử này là ai?".
Mâu Tông Đào điềm nhiên nói:
"Ta là đệ tử chưởng môn của phái Phù Tang Mâu Tông Đào, vai vế của ông tuy cao nhưng cũng phải nghe lệnh ta!".
Tông Thần Long liếc mắt nhìn bọn Thạch Vệ, Tang Thanh, cả ba người đều gật đầu, tỏ ý bảo Mâu Tông Đào nói đúng.
Tông Thần Long nạt rằng:
"phái Phù Tang đã chia làm ba nhánh từ lâu, ngươi tự phong cho mình làm đệ tử chưởng môn, muốn quản ta đâu có dễ!".
Thạch Vệ nói:
"Tông sư thúc, lời xưa có nói rằng, hợp lâu sẽ phân, phân lâu sẽ hợp, chính vì phái Phù Tang chia năm xẻ bảy cho nên không còn lớn mạnh như xưa.
Nay đã đến lúc hợp lại".
Tông Thần Long hừ một tiếng:
"Có nghĩa là các người đều thừa nhận y là chưởng môn?".
Tang Thanh đáp:
"Y là con cháu của Mâu tông sư, làm chưởng môn cũng là danh chính ngôn thuận". Tông Thần Long cười lạnh:
"Được, tân chưởng môn, ngươi có gì căn dặn".
Mâu Tông Đào nói:
"Thứ nhất, ngươi tham lam công danh lợi lộc, đó là điều không nên, ta không cho ngươi giả dạng sứ giả của triều đình, gây chuyện phiền hà ở nơi này".
Tông Thần Long cả giận:
"Nói vớ vẩn, ai dám nói ta giả mạo sứ giả! Ta được triều đình trọng dụng cũng là vì muốn dựng lại môn hộ. Tên tiểu tử nhà ngươi hiểu cái quái gì mà dám dạy bảo ta?".
Mâu Tông Đào không thèm để ý đến y, vẫn tiếp tục nói:
"Thứ hai, quyền kinh kiếm phổ của bổn phái không ai được cất riêng. Phần của ông cũng phải trao cho tôi".
Tông Thần Long cười hì hì ba tiếng:
"Thế là đã thò đuôi cáo, té ra ngươi muốn độc chiếm bí kíp của bổn môn!".
Luyện Thái Hồng nói:
"Sư công, người không thể nói như thế, đó là chuyện tốt của bổn môn!" Tông Thần Long trừng mắt nhìn nàng, tựa như muốn mắng nhưng lại thôi.
Mâu Tông Đào nói:
"Tông Thần Long, ông đừng lấy bụng tiểu nhân do lòng quân tử, tôi mặc kệ ông nói gì, chỉ hỏi ông có chịu nghe theo hay không?" Tông Thần Long hỏi ngược:
"Không nghe thì thế nào?".
Mâu Tông Đào nói:
"Tôi sẽ thay sư tổ thanh lý môn hộ!".
Kim Trục Lưu cả mừng, nghĩ:
"Mâu Tông Đào thanh lý môn hộ phái Phù Tang, mình không cần xen vào". Thế là vẫn nấp ở phía sau hòn non bộ chứ không lộ mặt.
Tông Thần Long tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, quát rằng:
"Tên tiểu tử nhà ngươi bức hiếp ta quá thể, hay lắm, ngươi muốn thanh lý môn hộ thì cứ đến đây!
Thạch Vệ, Tang Thanh, vợ chồng bọn ngươi thì thế nào?" Hai người Thạch, Tang đồng thanh đáp:
"Chúng tôi giúp lý chứ không giúp tình. Mâu sư huynh nói đúng lý lắm".
Té ra đối với chuyện quy thuận triều đình, Phù Tang thất tử vốn có ba ý kiến khác nhau. Một phe cho rằng qua lại với Tát Phúc Đỉnh cũng không sao nhưng không nên để y lợi dụng quá đáng mà mất thân phận "cao nhân". Một phe ban đầu đi theo Tông Thần Long, sau đó dần dần hiểu ra nên bất mãn đối với y, còn một phe trung thành với Tông Thần Long. Luyện Thái Hồng là phe thử hai, vợ chồng Thạch Vệ, Tang Thanh là phe thứ nhất. Nhưng sau khi bại trận ở Hoa Sơn trở về đâm ra hối hận, cảm thấy không nên như thế nữa".
Mâu Tông Đào vào kinh, gặp được Luyện Thái Hồng, còn ba người kia không nghe lời chàng. Mâu Tông Đào dắt Luyện Thái Hồng rời kinh, trên đường gặp hai người Thạch Vệ, Tang Thanh. Hai người Thạch, Tang nghe Tông Thần Long đã chính thức trở thành sứ giả của Tát Phúc Đỉnh thì càng bất mãn hơn, vì thế quyết định tôn Mâu Tông Đào làm chưởng môn cùng y đi đến Thanh Hải.
Tông Thần Long thấy hai người Tang, Thạch đã theo Mâu Tông Đào, càng lúc càng nổi giận, cười lạnh nói:
"Được, hai người các ngươi và y cứ xông lên! Y muốn thanh lý môn hộ, ta cũng muốn thanh lý môn hộ". Tông Thần Long là sư thúc của họ cho nên y mới nói ra như thế.
Mâu Tông Đào nói:
"Thạch sư huynh, Tang sư tỷ, hai người hãy canh giữ dùm tôi, không để người khác quấy nhiễu". Rồi cười lạnh nói:
"Tông Thần Long, ta lấy thân phận đệ tử chưởng môn đến đây thanh lý môn hộ, nhất định phải làm cho ngươi thua tâm phục khẩu phục!".
Tông Thần Long kêu "hay" một tiếng rồi nhìn về phía Luyện Thái Hồng, lạnh lùng nói:
"Thái Hồng, ngươi thế nào, có phải cũng giúp lý chứ không giúp tình không?" Luyện Thái Hồng là đệ tử của vợ y, vợ y đã chết, Luyện Thái Hồng coi như là đồ đệ của y.
Luyện Thái Hồng nói:
"Con vừa giúp lý, vừa giúp tình".
Tông Thần Long hỏi:
"Có nghĩa là sao?".
Luyện Thái Hồng nói:
"Ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng. Người tuy là sư công của con nhưng vẫn không hơn được cha ruột của con. Chồng cũng thân hơn cha, huống chi là người?".
Tông Thần Long thất kính kêu lên:
"Cái gì, các người, các người ...:".
Mâu Tông Đào nói:
"Chúng tôi đã đính hôn từ lâu Luyện cô nương là vị hôn thê của tôi".
Luyện Thái hồng nói:
"Sư công, chỉ cần người giao ra kiếm phổ của tổ sư, con chắc chắn sẽ xin Mâu lang tha cho người".
Kim Trục Lưu nghe đến đây thì bất đồ cả kinh, thầm nhủ:
"Đây đúng là chuyện không ngờ, Mâu Tông Đào đã đính hôn với Luyện cô nương, vậy Lâm cô nương thì thế nào?" Kim Trục Lưu nhớ đến dáng vẻ của Lâm Vô Song khi nhắc đến Mâu Tông Đào, trong lòng thầm buồn cho nàng.
Một tiếng quát vang lên, chợt thấy Tông Thần Long rút kiếm đâm về phía Mâu Tông Đào. Mâu Tông vào phất cây quạt xếp, chỉ nghe soạt một tiếng vang lên, cây kiếm của Tông Thần Long bị bật ra, còn y thối lui một bước. Cây quạt xếp của Mâu Tông Đào cũng bị đâm một lỗ nhỏ.
Lần này ai cũng lạnh mình, biết đã gặp phải kình địch, Tông Thần Long hất cây kiếm, vung ra ba đóa kiếm hoa đánh về ba huyệt đạo của đối phương. Mâu Tông Đào bật cây quạt ra, dẫn thanh kiếm sang hai bên. Té ra Mâu Tông Đào đã sử dụng một chiêu Tam chuyển pháp luân, đây chính là khắc tinh của Tông Thần Long. Nhìn bề ngoài, Mâu Tông Đào như nhẹ nhàng nữa giải chiêu số của đối phương, nhưng nếu nhìn kỹ thì có thể thấy trên trán của y đã bắt đầu toát mồ hôi.
Kim Trục Lưu cũng không khỏi lo lắng, thầm nhủ:
"Một người công lực thâm hậu, một người kiếm pháp tinh kỳ, hươu chết về tay ai cũng chưa biết". Lúc này bọn vệ sĩ đã ùn ùn kéo tới.
Thạch Vệ kêu:
"Phái Phù Tang bọn ta đang thanh lý môn hộ ở đây, người khác không liên quan!".
Sứ giả Mãn Châu vội vàng kêu:
"Các người đừng nghe y nói bậy, mau xông lên bắt thích khách!".
Mâu Tông Đào nói:
"Người này không phải là sứ giả triều đình, y chẳng qua là tay chân của Tát Phúc Đỉnh mà thôi. Các người phải đứng yên mà nhìn, đợi lá nữa ta sẽ nói với vương gia".
Bọn vệ sĩ không hiểu quy củ giang hồ, đương nhiên không dám tin lời Mâu Tông Đào vì thế khua đao múa thương bao vây xung quanh, xem ra một trận hỗn chiến sắp nổ ra, Kim Trục Lưu chợt phóng vọt ra quá lớn:
"Ta mặc y có phải là sứ giả triều đình hay không, y đã phạm tội mưu sát, ta sẽ bắt y đến gặp vương gia! Các người đừng xen vào!" Khi đang quát thì đã múa cây huyền thiết kiếm chém xuống hòn non bộ, chỉ trong chớp mắt hòn non bộ đã bị phạt ngang.
Bọn bệ sĩ trong hoàng cung thấy thế ai nấy hồn bay phách tán, lập tức lùi xuống phía sau.
Sử giả Mãn Châu biết võ công, thấy mình chẳng phải là đối thủ của Kim Trục Lưu cũng khiếp vía. Thế là chạy lẩn vào trong đám vệ sĩ.
Chợt có người quát:
"Chạy đi đâu cho thoát?" Vừa quát xong người ấy liền vặn tay của sứ giả Mãn Châu, giữ chặt y lại. Người ấy chính là Uất Trì Đồng. Theo sau Uất Trì Đồng là Tông Đạt Hoàn Chân và tên nội thị lúc nãy.
Kim Trục Lưu mừng rõ gọi:
"Uất Trì đại ca, huynh đến thật đúng lúc". Uất Trì Đồng trợn mắt nhìn Mâu Tông Đào và Tông Thần Long hỏi:
"Chuyện gì thế?".
Kim Trục Lưu nói:
"Người này là Mâu Tông Đào! Y đang thanh lý môn hộ phái Phù Tang. Chúng ta tạm thời đừng xen vào, đợi một lát gặp vương gia rồi tính tiếp".
Uất Trì Đồng vừa nhìn vừa gật đầu:
"Đúng thế, chúng ta không cần xen vào".
Kim Trục Lưu ngạc nhiên, nghĩ:
"Chả lẽ Uất Trì đại ca đã biết chắc Mâu Tông Đào sẽ thắng?" Khi nhìn kỹ lại, chỉ thấy kiếm hoa lả tả, bóng quạt tung bay, đột nhiên Mâu Tông Đào quát lớn một tiếng. Đánh liền ra mấy chiêu, quả nhiên chiếm được thượng phong, Kim Trục Lưu thầm bội phục:
"Nhãn lực của Uất Trì đại ca quả nhiên cao minh hơn mình nhiều!".
Kim Trục Lưu nhìn kỹ lại một hồi, bất giác rất ngạc nhiên, té ra Mâu Tông Đào đã dùng quạt thay kiếm, sử dụng toàn những kiếm chiêu, trong đó có mấy chiêu giống như Đại tu đi kiếm thức. Kim Trục Lưu nghĩ một hồi, chợt vỡ lẽ ra rằng:
"Té ra mình tham ngộ Phù Tang kiếm ý của y, sáng tạo hai chiêu mới, y cũng tham ngộ kiếm pháp Thiên Sơn của mình, cũng có thể nghĩ ra Đại tu di kiếm thức. Ồ, người này thông minh chẳng kém gì mình!".
Đại tu di kiếm thức và Phù Tang kiếm pháp là hai loại kiếm pháp thượng thừa nhất, Phù Tang kiếm pháp của Tông Thần Long vốn kém hơn Mâu Tông Đào một bậc, vả lại y không biết Đại tu di kiếm thức, cho nên cũng khó chống đỡ. Nhưng chỉ mấy chiêu sau đó, chỉ nghe Mâu Tông Đào quát lớn một tiếng:
"Trúng!" Rồi cái cán quạt gõ một phát trúng vào xương tỳ bà của Tông Thần Long.
Mâu Tông Đào lấy kiếm phổ của y, lạnh lùng nói:
"Nể tình ngươi là sư công của Thái Hồng, ta tha tội chết cho ngươi!" Tông Thần Long đã bị phế võ công, không dám lên tiếng chỉ đành bỏ đi.
Tông Đạt Hoàn Chân nói với bọn vệ sĩ:
"Ta sẽ nói với vương gia chuyện này, các người quay về cả đi". Y là đại Lạt Ma, bọn vệ sĩ theo Lạt Ma giáo cho nên tin lời y. Vì thế Tông Đạt Hoàn Chân cùng bọn Uất Trì Đồng giải tên nội thị và sử giả Mãn Châu đến gặp Thổ vương.
Thổ vương thấy Tông Đạt Hoàn Chân và Kim Trục Lưu dắt sứ giả Mãn Châu vào thì ngạc nhiên, thất kinh. Số là y đã nhìn thấy Kim Trục Lưu vung kiếm chém hòn non bộ, lúc này không có thị vệ bên cạnh, Kim Trục Lưu và Uất Trì Đồng lại lôi tên sứ giả Mãn Châu vào, y biết không xong, nhưng điều ngạc nhiên vì y không biết Lạt Ma có liên quan gì đến chuyện này.
Tông Đạt Hoàn Chân nói:
"Chân chủ đã căn dặn đối với khách phải coi như huynh đệ của mình, nếu khách bị người ta hại thì kẻ làm chủ nhân phải để mắt đến.
Vương gia nghĩ sao?" Tông Đạt Hoàn Chân đưa giáo quy ra chất vấn, Thổ vương đành gật đầu bảo phải.
Tông Đạt Hoàn Chân nói:
"Hai người này cũng là sứ giả. Nhưng nay hai sử giả của triều đình nhà Thanh lại hãm hại sứ giả của núi Đại Lương, tôi không biết làm thế nào, mong vương gia xử lý". Thổ vương ngạc nhiên:
"Có chuyện này sao?" Tông Đạt Hoàn Chân đẩy tên nội thị đến trước mặt Thổ vương, giục:
"Ngươi hãy kể lại cho vương gia nghe thử". Tên nội thị khai ra hết mọi chuyện. Sứ giả Mãn Châu run bần bật, ráng nói cứng rằng:
"Ta là sử giả của triều đình, sao có thể sánh với sử giả của thổ phỉ?".
Tông Đạt Hoàn Chân nói:
"Bọn ta chưa được triều đình nhà Thanh sách phong, chỉ có thể coi các ngươi là khách. Theo giáo quy của bọn ta, bất luận là ai cũng không thể hại người ở đây".
Thổ vương cũng run bần bật, y muốn bảo vệ cho sứ giả Mãn Châu, nhưng Kim Trục Lưu và Uất Trì Đồng đứng một bên như hung thần ác sát, còn đại Lạt Ma thì rõ ràng có ý giúp họ, Thổ vương hoảng hồn chẳng dám nói gì cả.
Mâu Tông Đào chợt bước ra nói:
"Người này không phải là sử giả triều Thanh, y chỉ là người của Tát Phúc Đỉnh".
Sử giả Mãn Châu cười lạnh:
"Tát đại nhân là đại nội tổng quản, chả lẽ không thể đại diện cho triều đình sao?".
Mâu Tông Đào cũng cười lạnh:
"Tát Phúc Đỉnh cũng bị triều đình trị tội, nếu ngươi quay về cũng khó thoát tội!".
Thổ vương hỏi:
"Ngươi là ai? Sao ngươi biết tin này?".
Té ra Tát Phúc Đỉnh vì cấu kết với một thân vương mua quan bán tước, tham ô hối lộ, bị kẻ địch trong triều đàn hạch, nên Tát Phúc Đỉnh đã bị tống giam.
Sự đã đến nước này, Thổ vương đành đuổi sứ giải Mãn Châu ra.
Kim Trục Lưu tuy không được Thổ vương hứa kết minh, nhưng Thổ vương cũng bảo sẽ không giúp cho bên nào, coi như cũng hoàn thành sứ mệnh.
Thế rồi cả bọn ra khỏi hoàng cung, Luyện Thái Hồng đang chờ Mâu Tông Đào bên ngoài.
Mâu Tông Đào nói:
"Thái Hồng, đây chính là Kim thiếu hiệp".
Kim Trục Lưu nhớ đến Lâm Vô Song, không khỏi hơi buồn cho nàng, hỏi:
"Luyện cô nương, có phải cô có một người tỷ muội tên gọi Lâm Vô Song hay không?" Luyện Thái Hồng đáp:
"Đúng thế, nàng là biểu muội của Tông Đào". Kim Trục Lưu nói:
"Một tháng trước, tôi đã gặp nàng ở Hoa Sơn". Luyện Thái Hồng nói:
"Đúng. Tôi nghe Thạch sư huynh và Tang sư muội nói thế, nhưng không biết hiện nay nàng ở đâu". Kim Trục Lưu nói:
"Hai cha con nàng đang ở một làng chài nhỏ tại miền Mân Nam, nhưng giờ đây Lâm cô nương đã vào kinh, nghe nói là đi tìm các người!".
Mâu Tông Đào nói:
"Đúng tôi cũng rất nhớ đến nàng, chúng tôi sẽ tìm đến nàng". Mâu Tông Đào nghe được tin của Lâm Vô Song rất mừng, nhưng không hề có vẻ xúc động, té ra y không biết Lâm Vô Song yêu thầm mình.
Kim Trục Lưu thở dài, nghĩ bụng chuyện nhân duyên không phải lúc nào cũng được như ý, thế rồi đành cáo từ Kim Trục Lưu và Uất Trì Đồng về đến núi Đại Lương, vào trong trướng, chỉ thấy Kim Thế Di, Lệ Nam Tinh, Công Tôn Yến ngồi ở đấy. Kim Trục Lưu mừng rỡ, báo cáo lại mọi việc cho Trúc Thượng Phụ.
Trúc Thượng Phụ vui mừng:
"Chuyện này giải quyết rất tốt. Tôi cũng có một tin tốt báo cho mọi người, nhưng thôi cứ để lệnh tôn nói".
Kim Thế Di vuốt râu cười:
"Trục Lưu, nhân lúc hiện thời chưa có chiến sự, ta muốn tổ chức hôn lễ cho con với Hồng Anh, Lệ hiền điệt với Công Tôn cô nương".
Núi Đại Lương tuy ở miền biên thùy, nhưng Kim Thế Di quen biết khắp thiên hạ, con trai của ông ta thành hôn, không ít khách khứa đến chúc mừng. Công Tôn Hoằng, Giang Hải Thiên và Cốc Trung Liên cùng với các nhân vật ở Hồng Anh hội, phái Mang Sơn, Cái Bang đều đến đông đủ.
Đang lúc náo nhiệt, chợt có người vào báo:
"Có một cô nương họ Lâm cũng đến chúc mừng, nghe nói là bằng hữu của Kim thiếu hiệp, chúng tôi không quen biết nàng". Kim Trục Lưu mừng rỡ nhưng lại áy náy, liền bảo một tiếng "mời".
Lâm Vô Song bước vào, nói:
"Tôi đã lên kinh nhưng không gặp được biểu ca.
Nay đến đây uống rượu mừng, nhân tiện hỏi huynh mấy câu".
Kim Trục Lưu nói:
"Tôi đã gặp y, y bảo sẽ tìm cô nương". Chàng không nỡ làm cho Lâm Vô Song đau lòng nên chỉ có thể nói như thế.
Tuy Kim Trục Lưu áy náy nhưng không khí của ngày hôm nay rất náo nhiệt, ai nấy đều rất vui mừng.
Bang chủ Cái Bang Trọng Trường Thống cười ha hả:
"Đây đúng là đời sau hơn đời trước, hiếm có dịp nhiều người mới đến đây, ai nấy cũng đều một lòng phản Thanh. Lo gì chuyện lớn không thành!" Trong lòng Kim Trục Lưu vẫn có áng mây mù, nhưng trong không khí vui vẻ như thế này, áng mây mù ấy cũng tiêu tan.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top