TƯ LIỆU

1. 

Tháng 10, cuộc tình buồn sẽ lại tiếp tục buồn. Người Sài Gòn thì vẫn cứ yêu, dẫu là trong giông bão.

Tình yêu ấy hẳn phải to lớn lắm, để đủ sức vực dậy một con người đang quấn mình trong chăn nằm trên chiếc gác gỗ trong một ngày giữa muôn trùng gió. Để việc đầu tiên khi thức giấc là vơ vội chiếc điện thoại, tìm dãy số vốn đã quá quen thuộc trong tiềm thức. Và rồi, một cách ngại ngần nhưng cương quyết, nhấn nút “SEND”, gửi cho em, cho tôi, cho chúng ta nay đã an nhiên trong thì quá khứ.

Ngủ đi em. Cơn bão dẫu còn dài rồi cũng sẽ qua đi thật êm, như mây như gió.

Ngủ đi em. Ừ thì, người ta sẽ lại yêu, như chưa bao giờ là yêu.

Ngủ đi em. Để sớm mai thức giấc, ta lại thêm một ngày yêu, thêm một lần dành tặng những yêu đương huyền thoại kia cho một câu chuyện tình, vẫn luôn tốt lành dù mang nhiều bất trắc

-----------

gày mưa, cùng điệu buồn của nhớ.

Một chiếc harmonica, một Sài Gòn được mưa lãng mạn hóa sẽ vẫn là chưa đủ. Giữa chúng ta, vẫn là một tấm gương vô hình ngăn cách hai bản thể. Tóc xanh tan thành mưa. Em xoay vòng trong quá khứ. Ta cũng thế…

Ta mong em hãy gói lại những ưu tư, sắp xếp kí ức đẹp như một cuốn truyện hay, cũng như giữ lấy những chuyện tình như một cơn say nắng miên man, đại loại thế. Để một ngày đẹp trời, bản thân nhân loại sẽ tìm về chính mình trong buổi hanh hao của tuổi đá ngây ngô. Để biết rằng giữa những nét mực hữu hình kia, tình yêu dẫu là chìm khuất, là hư vô nhưng vẫn luôn tồn tại.

Ừ, dẫu cho chỉ là lặng lẽ, ta xin được mãi yêu như những ngày đầu nhìn nhau. Dẫu biết là bướng, là hanh hao, thì điều tuyệt vời nhất luôn luôn là khi biết mình đang yêu, và sẽ yêu một ai đó.

Yêu như tự nhiên, như ngày và đêm, như cây, lá và gió…

Và tôi, cũng yêu em.

------------

Dù vô tình hay cố ý, thời gian sẽ chẳng thể nào đứng yên. Nhân loại như chiếc phong linh, còn thời gian như cơn gió. Ta lung lay, ta ca hát. Ta yêu nhau qua những dòng thời gian bé nhỏ mà bấp bênh. Ngây thơ hay trầm tĩnh. Cuống quýt hay suy tư. Mỗi người trong chúng ta, chọn những cách khác nhau để chấp nhận một sự thật là quy luật của tự nhiên ấy. 

Tháng Mười một, những con người thành phố vẫn đang nghe tiếng vẽ của thời gian. Có hai đứa trẻ vui cười chuyền tay nhau thanh kẹo lạc trên con đường từ trường về nhà độ này thơm ngát mùi hoa sứ. Có hai cụ già, nhân vật chính của một câu chuyện tình xa xưa lắm, ngồi nghe radio phát lại là hoài niệm, là kí ức những ngày tóc em hãy còn xanh. Có một cậu bé sắp sang tuổi hai mươi, dè dặt mà say sưa, vừa nghĩ về người yêu vừa dạo những phím dương cầm đầu tiên của một bản nhạc tình đã được hát đến nay hơn một nửa thế kỉ. Nhạc của Nat King Cole buồn lắm, nhưng sẽ không bao giờ là lỗi mốt, nhất là vào những ngày dài chìm trong góc phố xa xăm:

“Thế giới hôm nay vẫn không bao giờ ngừng nghỉ

Nên tình yêu kết thúc cả trước khi được bắt đầu”

Có rất nhiều cách để khởi đầu, nhưng kết thúc, thường bao giờ cũng là nỗi đau. Nhiều khi người ta sợ kết thúc, cũng chỉ là vì sợ những nỗi đau. Và cũng thường thế lắm, khi những nỗi đau kéo về quá nhiều, người ta đành ngậm ngùi mà dừng lại. Có thể rồi một ngày tất cả sẽ qua đi, những thương yêu sẽ rơi vào quên lãng, những nỗ lực chẳng thêm một lần được gợi nhắc, những gì đã qua sẽ như chưa có bao giờ. Nhưng những cơn đau thì luôn ở lại. Chắc bởi thế mà nước mắt luôn được nhớ hơn tiếng cười.

Tôi luôn tự hỏi, sắp đặt để trái đất này hình tròn, phải chăng là sự trêu đùa mà tạo hóa gieo lên cuộc đời của những trái tim đa cảm? Bởi đau, người ta sẽ nhớ, và nhớ rồi người ta sẽ lại yêu. Yêu và thương da diết lắm, để rồi nỗi đau lại tràn về trên khóe mắt. Tôi vẫn chẳng thể nào hiểu được, có điều gì lớn đến vậy, để ta quên mình giữa những nỗi đau?

Có khi nào ta cứ mãi cố chấp nhìn về một hướng, cố chấp nắm chặt dây dù biết, chẳng phải cứ giữ được dây, nghĩa là ta níu được con diều ở lại? Có khi nào ta nén chặt lại những thương tổn trong lòng, để lại mỉm cười mỗi khi mơ về một ai đó? Và em, có khi nào không em, những tháng ngày hoang hoải, chơi vơi trong nỗi dày vò, em chẳng cần để tâm đến nữa, mặc cho những vết xước trong tim làm em buốt nhói, em vẫn bao dung như mắt môi chưa từng vương nỗi buồn? Và còn khi nào nữa không, những khi dưới chân là bùn đất, em vẫn chờ một ngày được bước trên những đại lộ thênh thang? Em có đủ kiên nhẫn không, để đợi chờ ánh cầu vồng sau những cơn mưa?

Ít nhất cũng sẽ có một lần như thế, em vấp ngã, rồi khóc, và em học cách quên. Có đôi khi tưởng chừng đã quên thật, nhưng khi những kí ức một thuở ùa về, em lại co ro trong niềm đau cũ, quay quắt và đáng thương như đã từng. Cũng có những khi em lãng quên thật sự, quên hết người cũ, việc cũ, quên cả những hi vọng không thành. Nhưng rồi những hi vọng ấy sẽ lại được thắp lên, ở một nơi khác, vào một thời điểm khác và bên những người không phải của ngày xưa. Và cũng có cả những khi em vờ như mình đã quên hết mọi điều. Em cười khi những niềm đau vẫn còn thắt chặt. Em mỏi mòn chờ một người nhận ra giọt nước mắt lăn dài sau gương mặt rạng rỡ những nét cười của em.

Em biết không, hẳn em phải dũng cảm lắm, mới có thể cố chấp mà đợi chờ. Hoặc thương yêu và hi vọng trong lòng phải nhiều lắm, mới có thể đi cùng nỗi đau như thế. Nhưng em đã từng một lần khóc thầm trong vô vọng? Đã một lần gắng sức mình mà quên hết không em? Dù em gắng quên, hay lòng em vẫn luôn thổn thức nhớ, thì nghĩa là những cơn đau không giết nổi đợi chờ trong em. Đợi chờ được em nuôi lớn đến vậy, là vì hi vọng trong em đã là quá nhiều, hay là vì chưa đủ những cơn đau?

Cứ đau đi em, để biết hết vị cuộc đời. Cứ đợi đi em, đừng để niềm đau thổi tắt những ước nguyện trong lòng. Đợi đi em, rồi hi vọng sẽ đến, và môi em lại viên mãn với nụ cười. Nhưng đợi gì, em có biết không? Đợi những niềm đau qua đi và ngày hôm qua trở lại? Đợi những dại khờ sẽ được người đời lãng quên để em lại sống như chưa điều gì tồn tại? Đợi những vấp ngã sẽ tan đi và em sẽ làm lại từ đầu?

Không! Không phải vậy đâu em! Đâu ai có thể tô vẽ thêm cho bức tranh quá khứ bớt đi những mảng màu u ám. Cuộc sống nào cho em cơ hội để sống lại từ đầu. Nhưng em có một nơi để bắt đầu, và người ta gọi đó là hiện tại. Đừng để những cơn đau giết chết đợi chờ, hãy dùng cơn đau để nuôi những niềm hi vọng mới. Không phải hi vọng ngày hôm qua sẽ trở về, mà là hi vọng bất kể khoảnh khắc nào với em, từ bây giờ đến những ngày sau nữa, đều an nhiên và trọn tiếng cười.

Điều em đợi phải là những ngày bầu trời rất trong xanh. Đợi một người biết cần và thương em hơn nữa. Đợi những khi em thấy mình lớn dậy. Đợi một ngày niềm hạnh phúc sẽ mỉm cười nắm lấy tay em…

Qua những nỗi đau, người ta sẽ hiểu điều mình cần không phải là mơ tưởng về quá khứ, mà là đợi chờ những ngày mai. Vậy em còn ngần ngại gì, đừng để những cơn đau biến em thành một kẻ bi lụy và yếu mềm. Vấp ngã rồi sẽ phải đứng lên, nỗi đau rồi sẽ có ngày dịu lại. Bởi thế hãy cứ đợi đi em. Đợi và tin rằng em xứng đáng được yêu, và được tin như là em mong muốn. Dù là đến bao giờ, thì cũng hãy kiên nhẫn, đừng để những cơn đau giết chết đợi chờ.

Thượng đế sẽ chẳng bao giờ trao quà cho những đứa trẻ hư, và em cũng sẽ chẳng thể nào có được điều em mong muốn, nếu như em cứ để mặc cho nỗi đau giết chết chính mình. Mỉm cười đi em, vì đau là một phần của cuộc sống, và phải có nỗi đau em mới hiểu hết được chữ yêu và đi hết chiều dài hi vọng. Can đảm lên em, để học cách đau, và học cách đợi chờ. Cứ đợi đi, rồi sẽ thấy! Sẽ luôn có một thiên đường trong hiện tại cho những người biết đợi, và biết tin!

----

Từ xa vọng lại tiếng ồn ào của Pari. Còn gần đều là tiếng lá cây xào xạc, tiếng chim hót và tiếng nước róc rách đơn điệu. 

Thỉnh thoảng, ngay bên cạnh lại vang lên tiếng ô tô gầm rú hoặc tiếng bước chân trong hành lang - Senga lập tức mở mắt ra nhìn chằm chằm đầy lo lắng về phía cửa. Anh không thể nhúc nhích nổi. Cả hai tay anh bị bó chặt thạch cao, ngực và đầu quấn dây băng. Để tự vệ, anh chỉ còn đôi mắt. Và những âm thanh êm dịu từ ngoài vườn vọng vào lại ru anh trong giấc ngủ. 

Mãi đến quá nửa đêm trăng tròn mới mọc lên. Những gì mà trước đây hình như là một sự chồng đống lờ mờ những tảng đá và núi đá, thì nay hiện ra lồ lộ dưới ánh trăng: bóng mượt mà của những mái vòm còn lành lặn trải dài xuống phía dưới vào tận hẻm núi, những phần còn lại của bức tường pháo đài mọc đầy những cây nhỏ cong queo và đám đũm hương chằng chịt, ngọn tháp hình vuông như bừng sống dậy: đây là phần cổ nhất của lâu đài do những người Noócmăng xây dựng nên, hoặc " Tháp tra khảo " , như tên gọi ghi trên các bưu ảnh. 

Ở mạn Đông, tiếp giáp với ngọn tháp này là những mái vòm bằng gạch, chắc hẳn khi xưa đó là đường hành lang nối liền ngọn tháp cổ với tòa lâu đài dùng để ở. Dưới chân ngọn tháp ấy chính là nơi có " Bộ xương cùm xích " . 

Mãi phía bên dưới là dải thung lũng chìm ngập trong ánh trăng mờ mờ. Dòng sông lấp lánh vẩy bạc tại những nơi nước chảy qua các bụi cây. Thị trấn như một thứ đồ chơi huyền ảo. Không một ô cửa sổ nào sáng ánh đèn. Bên kia thị trấn, mạn bên trái, là hàng trăm ánh đèn rực sáng của Công ty hóa chất anilin. Những cột khói trắng bốc cao, lửa hồng phát ra từ các ống khói. Văng vẳng vọng đến tiếng còi tàu và tiếng ầm ầm gì đó. 

Gió bấc thổi suốt ngày, những đám mây dầy đặc bay là là trên khu rừng. Đám thông cao vút xào xạo một cách buồn bã, những ngọn bá hương đen sẫm cong xuống. Những giọt mưa lạnh giá rơi lộp bộp. Rừng taiga vắng vẻ. Hình như giữa cảnh vắng lặng này không thể nghe thấy gì hết ngoài tiếng xào xạc trang trọng của cây cối và tiếng gió rít. Chim chóc đã bay đi, thú vật cũng bỏ đi hoặc ẩn nấp một chỗ. Nếu con người đến chốn này thì chắc hẳn chỉ để cầu cái chết. 

Nhưng con người đã xuất hiện. Ông ta mặc bộ quần áo tã nát, râu ria xồm xoàm che kín mặt, mớ tóc bạc buông xõa xuống hai vai, chống tay vào khẩu súng mà lê bước quanh ngọn đồi, thỉnh thoảng lại khuất bóng sau đám rễ cây to tướng. 

Bảy năm trước đây, ông ta tìm cách sử dụng những ý đồ thiên tài của mình. Lúc đó, ông ta còn khỏe mạnh, lực lưỡng. Vào một ngày tai hại, ông ta đã gặp Garin. Y vẽ lên cho ông ta thấy những kế hoạch đồ sộ đến nỗi ông ta vứt bỏ hết để đến đây, đến chân núi lửa này. 

Những người cùng ông ta đến đây hoặc đã chết, hoặc đã bỏ trốn. Nhà cửa đã hư hỏng, con đê của trạm thủy điện đã bị lũ xuân cuốn trôi. Toàn bộ lao động trong bảy năm trời, tất cả những lập luận lạ lùng cùng những cuộc nghiên cứu các lớp đất sâu - vòng đai ôilvin - nhất định sẽ mai một đi cùng với ông ta. 

---------

Vào những ngày hè đẹp, khi ánh mặt trời nặng nề chói chang trên các đường phố thì một luồng sáng trắng nhợt rơi xuống các cặp kính bẩn và lê lết thảm hại trong ngõ. Còn những ngày mùa đông khắc nghiệt, những buổi sáng sương mù, các cửa kính chỉ hắt bóng tối dày đặc xuống mặt đường nhầy nhụa, thứ bóng tối bẩn thỉu và ghê tởm. Bên trái, những cửa hiệu u ám, thấp lè tè, nằm khuất lấp để tránh những làn hơi lạnh từ hầm rượu. Ở đó có các quầy hàng sách cũ, đồ chơi trẻ con, các quầy hàng giấy bồi mà hàng hoá xám xỉn vì bụi bặm phô bày lờ mờ trong bóng tối, những tủ kính tạo bằng những ô vuông nhỏ lấp lánh ánh phản chiếu nhợt nhạt kỳ lạ của hàng hoá, đàng kia, sau các quầy hàng, các cửa hiệu tràn ngập bóng tối là bấy nhiêu lỗ hổng âm u lắc lay những bóng hình kỳ dị. 

Bên phải, một bức tường chạy dài suốt ngõ mà các chủ hiệu đối diện để sát vào nó những tủ bày hàng nhỏ hẹp, đồ vật linh tinh, hàng hoá bị bỏ quên ở đó từ hai chục năm nay nằm chỏng chơ dọc theo những tấm ván mỏng xỉn màu nâu tớm lợm. Một bà hàng nữ trang giả trụ ở một những chiếc tủ quầy hàng đó, bán những chiếc nhẫn giá mười lăm xu được xếp đặt khéo léo trên một miếng đệm nhung màu xanh, trong đáy chiếc hộp bằng gỗ đào hoa tâm.

Phía trên mái kính, bức tường sừng sững vươn lên, đen đúa trát vữa vụng về, như mắc chứng phong sùi loang lổ đầy những vết sẹo. Ngõ Cầu Mới không phải là chỗ để dạo chơi. Người ta dùng nó để tránh đường vòng, tiết kiệm một vài phút. Đó là những người bận rộn mà nỗi lo âu duy nhất là đi nhanh và đi thẳng về phía trước . Người ta thấy ở đó có những người học việc mang tạp dề, những cô thợ mang túi đồ khâu, những người đàn ông và đàn bà tay xách nách mang, những người già lê bước trong bóng hoàng hôn ảm đạm phủ trên các mặt cửa kính, những nhóm trẻ con tan trường qua đó gây thành đợt xôn xao khi tiếng guốc gõ nhịp trên các tấm đan lót đường. Trong ngày, chỉ có tiếng chân khô khan và hối hả khua vang trên đá một cách bất thường gây bực dọc, còn thì không ai nói năng, không ai dừng chân lại, mỗi người theo đuổi sự bận tâm của riêng mình, đầu cúi thấp, chân bước dồn, không một cái liếc mắt vào các cửa hiệu đó. Những người bán hàng với vẻ bồn chồn nhìn những khách bộ hành mà do điều thần kỳ nào đó, dừng lại bất chợt trước quầy hàng của họ. 

Vào buổi trưa mùa hè, khi mặt trời chói chang trên các quảng trường và đường phố thì người ta thấy đàng sau những chiếc mũ của một tủ kính khác một khuôn mặt thiếu phụ xanh xao và trầm lặng. Khuôn mặt hiện ra mơ hồ trong bóng tối tràn ngập của tiệm. Dưới vầng trán thấp gầy nối tiếp một chiếc mũi dài, hẹp và thon, môi như hai vệt mảnh của một đoá hồng phai lạt, và chiếc cằm ngắn nổi gân, với đường nét mềm mại và đầy đặn tựa trên cổ. thân hình nàng khuất trong bóng tối, chỉ xuất hiện khuôn mặt một màu trắng nhợt nhạt, mắt trũng sâu đen lánh mở rộng và như thể bị át đi bởi mớ tóc dày màu tối. Khuôn mặt ấy trong nhiều ở đó, bất động và bình thản, giữa hai chiếc mũ bonnet in vết rỉ của thanh treo ẩm mốc.

-------------

evin úp mặt vào tóc nàng. Mái tóc mềm mại êm ái ngát thơm mùi hoa chanh, như mùi thơm trên da thịt nàng. Anh hít vào thật sâu mùi thơm trên người nàng; mùi thơm đã làm tan biến mùi thối tha của thành phố cứ phảng phất bên mũi anh. 

Nell đã trở thành một phần quan trọng trong đời anh, anh nghĩ nếu không có nàng anh không biết đời mình sẽ ra sao. Nhưng nghĩ đến chuyện bỗng nhiên hai người yêu nhau rất nhanh cách đây một năm, sau khi đã quen biết nhau suốt 14 năm trời, anh lại thấy thật kỳ lạ. 

Mặc dù anh đã cố hết sức để xua đuổi thái độ bất thiện cảm của mình đối với cô ấy, nhưng anh vẫn không thể nào làm được. Có cái gì đó nơi cô ta làm cho bối rối, làm cho anh tức tối, và bất cứ khi nào cô ta mở miệng nói là anh lại muốn mở miệng chống lại. Không những thế, anh còn phải cố sức tỏ lịch sự với cô ta nữa. 

Nói đúng ra, Rosalind Madigan đã thấy được cái tệ hại nhất trong con người Johnny. Cái tệ chủ yếu này do anh là một người hoàn toàn không biết mình, nhưng anh lại không hiểu đây là nguyên nhân làm cho anh có ác cảm với cô. Anh không cố gắng phân tích phản ứng của anh đối với Rosie. Anh quá bận tâm suy nghĩ điều tệ nhất về nàng - nàng tầm thường làm sao, nàng kênh kiệu làm sao, hợm hĩnh làm sao. 

Dĩ nhiên là Rosie không phải thế. Nhưng anh chàng Johnny nông nổi khi nhìn nàng lại nghĩ rằng nàng khác biệt với những cô gái anh thường gặp, và rất đơn giản, anh không biết đối xử ra sao với một phụ nữ thuộc giai cấp thượng lưu như thế. Cho nên trong trí anh, anh không ưa Rosie, anh cho những hành động của cô ta đều sai trái lỗi lầm, anh nhìn cô theo con mắt của anh chứ không muốn thấy sự thực trong cô. Rosie không phải tầm thường, nhưng cô chỉ bảo thủ trong cách ăn mặc; cô không kênh kiệu, chỉ hành động có tư cách; và có lẽ cô không hợm hĩnh mà chỉ rụt rè với anh thôi. 

Bây giờ nhìn Rosie qua khóe mắt, Johnny cho rằng cô trông buồn chán làm sao. Anh không chịu được những phụ nữ buồn tẻ; họ làm anh nản chí. Anh thường chạy theo những người có bề ngoài nhí nhảnh, có bộ mã rực rỡ, có nhiều nét năng động và lộng lẫy, vì thế mà anh đâm ra say mê Nell Jeffrey. Mặc dù mối liên hệ của hai người nặng về công việc làm ăn, nhưng anh vẫn rất sung sướng trước vẻ đẹp của mái tóc vàng rất hấp dẫn của nàng. Theo anh Nell trông rất lộng lẫy, và anh nghĩ rằng nàng là một thiếu nữ huy hoàng. Anh tự hào khi có nàng trong số những người cùng làm việc với anh. 

Khi mới thấy nàng, anh ghét cay ghét đắng, thế mà bỗng nhiên anh hoàn toàn thay đổi. Anh không hiểu nổi mình, trên người mặc đồ ngủ, anh nằm ra giường, cố phân tích tâm trạng của mình. 

---------

Một góc mái chuồng bò vẫn trống hoác... An ra đi lặng lẽ trong ngày đông rét mướt như cuộc đời thầm lặng an phận của mình. Trái tim còn nguyên sơ trong lồng ngực người mẹ trẻ, chưa từng nếm trải hương vị của đời, đã ngừng đập. An nằm tơ hơ, hai đùi giang ra, mông ngập trong vùng máu, nước mắt còn chưa khô trên đôi mắt mở to, ngơ ngác như đang tìm đứa con thơ. 

Nhưng, trước khi đội mũ lên, bà không quên chải lại mái tóc màu nâu xám và bới thành búi đằng sau gáy. Bà làm việc này nhanh chóng và khéo léo mà không cần liếc vào gương một lần. Mae Tuck chẳng cần gương, dù bà có dựng một chiếc trên giá rửa mặt. Bà biết rõ mình sẽ thấy gì trong đó; đã từ lâu lắm rồi bóng mình trong gương không còn khiến bà quan tâm. Đối với Mae Tuck, với chồng bà và cả hai con trai Jesse và Miles, vẻ ngoài của họ đã không hề thay đổi trong vòng tám mươi bảy năm qua.

---------

“Với dòng nước ấy? Mặt trời hút một phần của nó từ dưới biển lên và mang đi trong những đám mây, rồi mưa xuống, nước mưa rơi vào lòng suối và suối lại tiếp tục chảy đi đổ ra biển cả, cứ thế mà lặp lại. Đó chính là một vòng xoay, Winnie à. Mọi thứ đều là một vòng xoay, xoay mãi xoay mãi, không bao giờ ngừng. Những con ếch này là một phần của nó, cả bọ, cá và sáo rừng cũng vậy. Cả con người nữa. Luôn đổi mới, luôn phát triển và thay đổi, và luôn chuyển động đi tới. Đó là cách mọi thứ nên diễn ra. Đó mới gọi là sống.”

Biển ngăn cách họ và anh, và những năm tháng ngăn cách anh với dự án của anh. Họ đã làm việc trong lúc anh mơ mộng. Họ đã đi tìm, đã kiếm được sự ủng hộ của Chính quyền, trong lúc anh không ngừng cải tiến các đồ án cho đến khi không nhìn thấy rõ nó, đến mất niềm tin vào ước mơ của mình ở trên hòn đảo tách xa anh với mọi người và làm anh biến mất trong thời gian. 

Tại sao mẹ anh lại phải khóc? Tại sao bà lại phải chết ở đầu kia trái đất, xa hẳn tổ quốc và người thân? Tại sao chính bản thân anh không bao giờ biết lấy một ngôi nhà, một bầu trời, một khuôn mặt, lối đi nào là của anh? Tại sao từ lúc nằm nôi, tất cả những chân trời của anh đã tiêu tan và vì sao cuối cùng thì anh lại thất bại ở đây? 

Phải chăng vì để cho bố anh có thể thoả mãn ước muốn nghệ sĩ của ông là được đi thăm tất cả các miền đất nổi tiếng thế giới, ngắm nghía những màu sắc thay đổi của tất cả các vùng, của mọi bầu trời sao, của các buổi hoàng hôn, để chạy qua khoảng không bao la cùng hệ thống mặt trời? phải chăng để chế tạo ra hàng tá các hình ảnh đó với màu sắc tô vội vàng mà ông đã gieo rắc khắp nơi, cả trong các bộ sưu tập của các nhà tỉ phú Mỹ cũng như trong phòng trưng bày tranh của các vương công Ấn Độ? Xứ sở quê hương ông thì không giữ lại được một bức nào gọi là của ông, đó là một tài năng đáng quý đã toả ra trên khắp nơi các gió và mọi luồng gió đã tản mác không còn để lại dấu vết? 

---------

Hồi còn bé hay mới lớn, những lúc ốm đau thật đáng nguyền rủa! Chỉ có những âm thanh rời rạc của thế giới bên ngoài và của những cuộc chơi đùa lúc rảnh rỗi trong sân trong vườn hoặc ngoài đường lọt tới phòng bệnh. Còn trong này thì ngổn ngang một thế giới của các câu chuyện và nhân vật mà người ốm đọc. Cơn sốt làm cùn sự nhận thức và mài sắc trí tưởng tượng, biến phòng bệnh thành một không gian mới, vừa thân quen vừa lạ lẫm. Ma quỷ trợn trừng trong họa tiết của tấm rèm và giấy dán tường, bàn ghế giường tủ chất lên thành hình núi non, hình nhà và tàu thuỷ, vừa trong tầm tay lại vừa xa vời vợi. 

Chuyến đi trên tàu điện như một cơn ác mộng. Nếu không nhớ rõ những gì sau đó xảy ra thì có lẽ tôi cố cho đó là một cơn ác mộng thật sự. Đứng ở bến đợi, nghe chim hót và ngắm mặt trời lên giống như tỉnh giấc. Nhưng tỉnh dậy sau một cơn ác mộng không nhất thiết làm ta nhẹ người. Nó còn cho ta cảm nhận rõ hơn những gì khủng khiếp đã mơ thấy, thậm chí chỉ ra sự thật khủng khiếp nào ta đã chứng kiến trong mơ. Tôi lên đường về nhà, nước mắt tuôn trào, đến tận Eppelheim tôi mới thôi khóc. 

Không phải tôi đã kể ra việc gì bí mật hoặc làm tổn hại đến Hanna. Tôi chẳng để lộ điều gì mà lẽ ra phải giữ gìn. Tôi đã giữ kín những gì đáng lẽ phải công khai ra. Tôi không thú nhận có quan hệ với cô. Tôi biết, chối bỏ là một hình thức rõ rệt của phản bội. Bên ngoài không thể phân biệt được ai đó chối bỏ hay chỉ kín đáo, tôn trọng người khác, tránh rắc rối và phiền phức. Nhưng người nào không chịu thú nhận, người đó biết rõ. Sự chối bỏ làm hại đến mối quan hệ không khác gì phản bội trắng trợn. 

Tôi không nhớ lần đầu tiên tôi phủ nhận quan hệ với Hanna vào lúc nào. Từ những quan hệ đồng môn của các buổi chiều hè đã nảy nở tình bạn. Ngoài cậu bạn ngồi cạnh mà tôi đã quen từ lớp cũ, ở lớp mới tôi thích nhất Holger Schlueter, người say mê môn Sử và Văn giống tôi, chúng tôi nhanh chóng thân nhau. Tôi cũng nhanh làm thân với Sophie, nhà cô cách có mấy phố và chúng tôi đi cùng đường tới bể bơi. Thoạt tiên tôi tự nhủ rằng độ thân mật với bạn bè chưa đủ để tôi kể về Hanna, kế đó là tôi không tìm được cơ hội, không tìm được thời điểm và câu chữ thích hợp. Rốt cuộc thì mọi sự đã quá muộn để còn kể về Hanna và khoe về cô cùng các bí mật trẻ con khác. Tôi tự nhủ, muộn đến thế này mới kể về cô thì ắt sẽ gây ấn tượng sai lạc, rằng tôi ngậm miệng về Hanna bởi quan hệ với cô có gì không hay làm tôi phải áy náy. Nhưng muốn tự huyễn hoặc mình ra sao thì tùy - tôi biết là mình đã phản bội Hanna khi làm ra vẻ để cho các bạn biết hết những việc quan trọng trong cuộc đời mình, nhưng lại không nói gì về Hanna.

Hôm nay là ngày thảm hoạ nhất trong cuộc đời của cô, một loạt kẻ đối địch cứ lần lượt tra tấn cô, làm cô rối trí, lo âu và sầu muộn. Michael, Luce, Neil và cả chính cô đang quằn quại, nhằm tới mà bóp xé tiêu điểm như những hình ảnh trong tấm gương méo hình đã biến những hình thức thông thường thành quái đản. 

Có thể có một sự giải đáp lo gic cho phần lớn những gì cô nhìn thấy hoặc nghĩ rằng mình nhìn thấy, trong phòng sinh hoạt chung. Bản năng mách bảo cô về Michael một kiểu trong khi tư cách anh thể hiện trong phòng sinh hoạt chung và một số lời phát ngôn của anh với cô lại theo kiểu khác. 

Sốc vì phản ứng của chính mình với Michael quá dữ dội, quá bất ngờ, sự yếu đuối và cơn ngất xỉu bất thình lình trước khi kịp hiểu đầu đuôi. Cô chưa bao giờ cảm thấy thế trong đời, không hề cả khi quằn quại một tình yêu trọn vẹn. Nếu Michael hôn cô, chắc cô sẽ vít anh xuống sàn nhà và chiếm đoạt anh ngay tại chỗ, ngay lúc ấy, như một gái điếm cuồng tình…

Khi bóng khung cửa kính hiện lên trên những tấm rèm ở vào khoảng giữa bảy và tám giờ và thế là tôi trở lại với thời gian, nghe chiếc đồng hồ quả quýt. Nó là của ông nội và khi bố đưa nó cho tôi, ông nói, Quentin, bố cho con nấm mồ của mọi hy vọng và ước muốn, điều đáng suy tư hơn là con sẽ dùng nó để lĩnh hội cái mô hình phi lý của toàn bộ Kinh nghiệm nhân sinh có thể chẳng thích hợp với những nhu cầu cá nhân của con cũng như của ông nội hay cụ nội. Bố cho con không phải để con nhớ thời gian mà để con có thể đôi lúc quên nó đi và đừng có kiệt sức tàn hơi cố gắng chinh phục nó. Bởi vì không có trận đánh nào từng gọi là thắng cả, ông nói. Ngay cả trận đánh cũng không có. Bãi chiến trường chỉ khải thị cho con người sự điên rồ và tuyệt vọng của chính họ, và chiến thắng chỉ là một ảo tưởng của các triết gia và những thằng ngốc. 

Tôi sững lại rồi đi tới cửa sổ kéo rèm và nhìn chúng chạy tới ngôi giáo đường, những kẻ hệt nhau chen lấn những vai áo khoác nhấp nhô hệt nhau, những quyển sách và những chiếc cổ áo lật phật hệt nhau bập bềnh trôi qua như những mảnh ván trên dòng nước lũ,

Tôi nghe thấy đồng hồ, và nghe thấy Caddy đứng sau lưng tôi và tôi nghe thấy mái nhà. Trời vẫn mưa.Caddy nói. Tôi ghét mưa. Tôi ghét mọi thứ. Và rồi chị gục đầu vào lòng tôi và chị khóc, ôm lấy tôi, và tôi oà khóc. Rồi tôi lại nhìn ngọn lửa và những hình thể êm ái sáng ngời lại di động. Tôi nghe thấy đồng hồ và mái nhà và Caddy. Bố đi tới cửa lại nhìn chúng tôi. Rồi bóng tối trở lại, và ông đứng đen sì trong khung cửa, và rồi cửa trở lại tối đen. Caddy ôm lấy tôi và tôi nghe thấy tất cả chúng tôi, và bóng tối, và những gì tôi ngửi thấy. Và rồi tôi nhìn thấy các cửa sổ, nơi cây cối rì rầm. Rồi bóng tối bắt đầu biến thành những hình thể êm ả, sáng ngời, như nó luôn luôn thế, ngay cả khi Caddy nói rằng chị ngủ rồi.

Đã là điếm thì suốt đời vẫn là điếm, tôi đã bảo mà. Tôi nói mẹ mới phải lo về chuyện nó trốn học đi chơi là còn may đấy. Tôi nói bây giờ lẽ ra nó phải ở dưới bếp, thay vì cứ ở lì trên phòng, bôi son trát phấn lên mặt, chờ sáu thằng mọi đen không sao đứng dậy nổi khỏi ghế trước khi có được một chảo đầy bánh với thịt để lấy lại thăng bằng mà dọn bữa ăn sáng cho nó.

-----------

Gió thổi từ hướng đông nam. Nó tạt đều đều trên má hắn. Hắn cảm thấy làn gió như vươn dài ra và đâm xuyên qua sọ hắn, rồi một linh cảm vụt trở lại hắn đạp thắng dừng xe và ngồi chết sững. Rồi hắn đưa tay lên cổ và bật chửi thề, và hắn ngồi đó, lẩm bẩm rủa bằng giọng khản đặc. Mỗi khi phải lái xe đi đâu thật lâu hắn thường dự phòng một chiếc khăn tay tẩm long não và buộc quanh cổ khi ra khỏi thị trấn để hít mùi hương, nên hắn ra khỏi xe nhấc nệm xe lên xem có còn sót chiếc khăn nào ở đó không. Hắn nhìn bên dưới cả hai chiếc nệm và lại đứng một lúc, chửi thề, thấy mình bị cười nhạo bởi chính cái đắc thắng của mình. Hắn nhắm mắt, tựa người vào cửa xe. Hắn có thể quay lại lấy long não bỏ quên ở nhà, hoặc có thể đi tiếp, trường hợp nào thì đầu hắn cũng đau muốn vỡ, tuy nhiên ở nhà ngày chủ nhật chắc là có thể tìm được long não, còn đi tiếp thì chưa chắc. Nhưng nếu quay lại, hắn sẽ tới Mottson muộn mất một tiếng rưỡi đồng hồ. "Có lẽ mình sẽ đi thật chậm" hắn nói. "Mình có thể đi thật chậm, nghĩ một chuyện gì khác". 

Hắn lái xe đi, kéo một góc áo khoác lên che mắt trước ngọn gió thổi đều đều. 

Hắn như nhìn thấy những thế lực đối địch của số phận hắn cùng với ý chí của hắn song hành vùn vụt, tới một giao điểm không sao cưỡng được, hắn trở nên khôn ngoan. Mình không được sai lầm ngớ ngẩn, hắn tự nhủ.

Hắn lái xe xuống đồi và vào thị trấn, chầm chậm, bụng bảo dạ là phải cẩn thận, đầu tiên là tìm xem lều bạt dựng ở đâu. Bây giờ hắn nhìn cũng không rõ nữa, nhưng hắn biết là nếu cứ đâm bổ đi kiếm cái gì giải quyết cơn nhức đầu thì sẽ hỏng bét. Ở một trạm xăng, người ta bảo hắn là lều bạt chưa dựng, nhưng xe cộ của gánh hát đậu ngay cạnh bến xe. Hắn lái xe tới đó. 

Bầu trời màu lơ nhạt, mặt trời sũng nước lúc xuyên qua các mái nhà, gần như bạc trắng trong ánh sáng phương Bắc lạnh giá và không một chút ấm áp. Nhưng dù thời tiết thế nào đi nữa, Paris bao giờ cũng đẹp; Ngay cả trong mưa, Paris vẫn có nét đặc trưng riêng. 

màu trời trộn lẫn giữa màu mận chín và tím, dịu đi nhờ chút ít màu xám nhạt như khói, biến thành màu hồng phai. Những màu cổ xưa, gợi nhớ đến Byzantium, Florence va Hy Lạp cổ đai. Những tháp nhọn và những tòa nhà chọc của thủ phủ hiện đại to lớn này mập mờ thành những hình ảnh vô tận nổi bật trên nền trời gần như màu tía. 

Alexandra mỉm cười một mình. Từ lúc bắt đầu biết nhớ, Alexandra đã tin rằng thời khắc này trong ngày có ma lực. Trong ngành điện ảnh, đôi khi đã thực sự gọi hoàng hôn là "giờ phút thần kỳ". Nhìn đăm đăm ra đường chân trời, những mãnh đời thơ ấu ào ạt trở về với cô. Trong giây lát cô chìm đắm vào những hồi ức...Kỷ niệm của những năm được nuôi dạy tại Upper East Side của thành phố này....của một thời thơ ấu tràn đầy tình yêu, sự che chở và nhiều lúc diệu kỳ. Dù mẹ cô đã làm việc, vẫn làm việc, song mẹ cô và cha cô chưa lúc nào sao lãng cô và Tim. Song chính mẹ mới đóng vai trò tốt đẹp nhất cho cô, và về mặt cảm xúc, cô là sản phẩm của mẹ cô. 

Đắm mình trong những hồi tưởng về quá khứ, cuối cùng cô đứng dậy và trở về bàn vẽ, nhìn vào tấm phông cô vừa vẽ xong. Đây là bức cuối cùng của một loạt sáu tấm phông về phong cảnh mùa đông của thôn quê. 

Cô biết cô đã thể hiện rất hiệu quả một buổi chiều giá lạnh, có tuyết rơi trong rừng, và cúi xuống, cô cầm bức vẽ mang đến xưởng, sắp thẳng hàng cùng những bức khác. Chăm chú ngắm cả bộ mới hoàn thành, cô hình dung chúng như một tấm phông khổng lồ trên sân khấu, và ngay sau đó chúng sẽ là như thế. Về phần cô, nhưngtấm phông đã mô tả chính xác điều đạo diễn yêu cầu. 

Tôi muốn tìm thấy sự giá lạnh, Alexa - Tony Verity đã bảo cô. -Tôi muốn cảm thấy một đêm băng giá, buốt đến tận xương. Những tấm phông của cô phải làm tôi muốn chạy ào vào trong nhà, đứng trước ngọn lửa đang reo vui. 

Lùi lại để ngắm tác phẩm từ xa, cô nghỉ đến cách cô tạo ra những tấm phông trong tưởng tượng lúc đầu. Cô đã mường tượng St. Petersburg trong mùa đông, rồi tập trung vào một khu rừng tưởng tượng ở ngoại vi thành phố đó. Trong tâm trí cô, tấm phông trở nên sống động, gần như tiếng quay phim xè xè trong đầu cô...cây cối lấp lánh những giọt băng, tuyết vừa rơi cuốn đi, ùn lại giữa các cây thành các đụn trắng. Những đêm trắng. Bầu trời màu trắng. Mặt trăng màu trắng. Sự im lặng màu trắng. 

Đây chính là tâm trạng cô đang tìm kiếm, và cố gắng truyền tải cho người xem. Cô tin rằng cô đã làm được điều đó trong những tấm phông, cuối tuần nãy sẽ chụp ảnh, phóng to rồi sau đó lắp ráp trên sân khấu. 

Cô không dùng một thứ màu nào, ngoại trừ một chút xám và đen cho vài cành cây xương xẩu. Chi tiết cuối cùng của cô, và có lẻ sáng tạo nhất của cô là một dãy những dấu chân bơ vơ trên tuyết. Những dấu chân đi giữa đám cây, dường như hướng tới một điểm đặt biệt, thậm chí là bí ẩn. 

Tiếng chuông cửa reo lên phá vỡ sự tập trung của cô. Cô đến bên máy điện thoại nội bộ treo trên tường: 

− Alô. 

− Jack đây. Anh biết là anh đến sớm. Anh có thể lên được không? 

− Vâng, được. 

Cô ấn nút để mở cửa, và chạy xuống cầu thang, dẫn anh vào. 

Vài giây sau, Jack Wilson quấn kín mít trong tấm áo choàng bằng hàng len thô, xách một túi mua hàng nâu to tiến thẳng đến chổ cô, nụ cười nở rộng trên gương mặt thông minh, sắc sảo. 

− Anh xin lổi nếu phá rối ngày làm việc của em, nhưng anh vừa ở rất gần đây. Ở Gallary Cromer với Billy Tomkins. Có vẻ như dở hơi nếu về nhà rồi sau đấy lại trở lại đây. Anh sẽ ngồi im một góc cho đến lúc em làm xong. 

− Em xong rồi - Cô nói và cười vang - Em vừa vẽ xong tấm phông cuối cùng, thực mà. 

− Thế thì tuyệt! Xin chúc mừng! - Lúc bước vào tiền sảnh nhỏ trong căn hộ của cô, anh dặt túi xuống, kéo cô vào vòng tay và đưa chân đá sập cửa lại. Ghì chặt lấy cô, môi anh lướt lên má cô làm cô rùng mình và cảm thấy run lên. Như một dòng điện đã thiếu vắng giữa họ từ lâu lắm. Cô giật nảy mình. 

Hình như anh cũng cảm thấy thế. Jack bứt ra, liếc nhìn cô thật nhanh rồi ngay lập tức áp miệng lên miệng cô, hôn cô thật lâu, thật say đắm. Giây lát sau, anh ghé miệng gần tai cô và thì thầm: 

− Chúng mình tìm một cái gường đi. 

Cô ngả người về phía sau, ngước nhìn vào cặp mắt xám trong sáng của anh, lúc này đang tràn đầy cảm xúc hơn bao giờ. 

− Đừng ngốc thế - Lúc nói, một nụ cười mỉm trêu chọc thoáng trên môi cô và cặp mắt long lanh của cô bổng trở nên mời moc. 

− Ngốc ư? Chẳng có gì ngốc chuyện lên gường hết. Anh cho đây là một việc khá nghiêm túc. 

Ném chiếc áo khoác len lên sàn cạnh cái túi và vòng tay ôm lấy cô, anh đưa cô vào phòng ngủ. 

Dừng lại giữa phòng và ôm lấy vai cô, anh xoay cô đối mặt với anh: 

− Em hơi gầy đi đấy - anh nói bằng thứ tiếng Anh hoàn chỉnh hơn bao giờ hết. 

Cô đăm đăm nhìn anh không nói gì. 

Anh nâng cằm cô, rồi cúi xuống hôn nhẹ lên miệng cô. 

− Nhưng anh cảm giác rỏ ràng là em bổng nhiên hoảng sợ. 

− Em cũng nghỉ thế. 

− Anh đang vui mà, Lexi. 

− Em cũng thế - Cô trả lời. 

Anh mỉm cười với cô, ranh mãnh và đưa cô đến bên gường, không nói thêm lời nào. Họ ngồi cạnh nhau và anh bắt đầu cởi khuy áo cô, cô giật mạnh áo khoác của anh, và trong giây lát cả hai không mặc gì trên người, nằm duỗi dài trên gường. 

Cúi xuống cô anh hỏi: 

− Công việc của em đến đâu rồi? 

− Em không biết nữa. Em bận ngập đầu ngập cổ. 

Anh gật đầu đầy hiểu biết, vì anh cũng là họa sĩ và nhiều lùc đang vẽ, anh cũng cảm thấy y như thế. Nhưng anh thật sự mong nhớ cô, sự xa cách của cô làm anh lo lắng. Lúc này, anh lướt miệng xuống phía dưới cô, hôn cô thật âu yếm. 

Alexandra rùng mình lần nữa, cô run nhè nhẹ dưới những cái vuốt ve của anh và và mỗi lúc càng thấy bị kích thích. Anh tiếp tục hôn cô mơn trớn đùi cô, và anh thấy cô dang rộng như một đóa hoa căng nhựa nở bừng dưới ánh mặt trời ấm áp. Anh yêu người phụ nữ này, muốn kết hợp cô với anh, muốn làm tình với cô, hoà nhập với cô lúc này. 

Đưa tay xuống dưới mông cô, anh nhấc cô lên, kéo cô vào sát anh hơn nữa, gọi tên cô: 

− Đi với anh, đến nơi anh sắp đến đi, Lexi! - Anh kêu lên, giọng anh khàn khàn khản đặc. 

Cô làm như anh đòi hỏi, và họ cùng đạt đến đỉnh cao khoái cảm, lúc lúc anh lại bảo cô anh yêu cô biết bao, thích làm tình với cô biết bao 

Cuối cùng, lúc họ đã nằm yên, thư giãn và kiệt sức, anh kéo tâm chăn lông vịt đắp cho họ rồi ôm lấy cô . Anh áp vào tóc cô & nói: 

− Như thế này không tốt sao ? 

Thấy cô vẫn im lặng, anh nói thêm: 

− Em có biết là sẽ tốt biết chừng nào nếu chúng ta cùng nhau .... 

− Có 

− Em sẽ không tách rời anh nữa chứ em ? 

− Không ... đấy là do sức ép công viêc. 

− Anh nhẹ cả người vì không phải tại ạnh Em đừng nghĩ khác về anh nhẹ 

Cô cười thầm: 

− Anh là người tốt nhất, Jack ạ, rất tột Một người đặc biệt thật sự có một không hai .... 

Anh nhìn cô chăm chú trong ánh sáng lờ mờ của ngày đang tàn, băn khoăn liệu cô có trêu anh không. Rồi thấy sự manhnliệt trong mắt cô, anh dịu dàng nói: 

− Chúng ta sẽ làm cho nó thành vĩnh viễn nhé . 

Cặp mắt trong sáng mà anh vốn yêu mở to: 

− Jack... Em không biết nói gì ... 

− Nói "Vâng" đi . 

− Vâng 

− Anh đang nói đến chuyện hôn nhân - Anh thì thầm, giọng anh bỗng cao lện Anh tập trung mọi chú ý vào cô, cái nhìn của anh đầy thăm dò . 

− Em biết! 

− Em sẽ lấy anh chứ ? 

− Vâng, em sẽ lấy . 

Một nụ cười từ tốn, ấm áp nở rộng trên gương mặt gầy gầy của anh, rồi anh cúi xuống, hôn lên trán, lên mũi, lên môi cô . 

− Anh rất mừng, mừng thật sự, Lexi, vì em sắp là của anh, của anh tất cả . Chà tuyệt quá! Chúng mình sẽ có một hoặc hai đứa con nhé ? 

Cô cười, sung sướng thấy anh vui đến cuồng nhiệt: 

− Tất nhiên rồi . 

Họ cùng cười vang, đầy vui sướng và hài lòng vì nhau, một hạnh phúc toàn vẹn vì đang sống và trẻ trung . Lát sau, gương mặt Jack trở nên nghiêm trang, anh ôm lấy Alexandra: 

− Em sẽ không đổi ý chứ, Lexi ? 

− Tất nhiên là không rồi, ngốc ạ - Cô vuốt nhẹ má anh, mỉm cười say đắm - chúng mình sẽ có điều đó, nghĩa là ... sẽ có con . 

− Thử xem nào - Anh vừa nói nhưng ngừng ngay lại khi điện thoại reo . 

Alexandra trườn khỏi giường, lấy chiếc áo choàng và chui vào áo lúc chạy ra hành lang . Nhấc điện thoại trong nhà, cô nói: 

− Alô ? 

− Có thư của FedEx gửi cô Gordon 

− Cám ơn . Tôi sẽ để anh vào . Tôi đang ở trên lầu mười bốn . 

Bản sao nhãn trên chiếc phong bì FedEx rất mờ, nên cô khó lòng mà đọc nổi tên và địa chỉ của người gởi . Thật vậy, phần duy nhất cô có thể đọc được là "Paris, Pháp". 

Cô đứng cầm chiếc phong bì, một nếp nhăn nhỏ trên sống mũi . Rồi sau đó tim cô như lỡ nhịp 

Từ ngưỡng cửa phòng ngủ, Jack nói: 

− Thư của ai thế ? Trông em hoang mang quá . 

− Em không đọc được tên . Tốt hơn hết là em mở ra thôi - Cô đáp và gượng cười 

− Có lẽ là ý hay đấy - Giọng Jack có vẻ chua chát . 

Cô liếc anh thật nhanh, ngay lập tức nhận ra vẻ sốt ruột dường như cô có lỗi vì cuộc tình của họ bị người đưa thư của FedEx làm gián đoạn . Muốn xoa dịu anh, cô kêu: 

− Ô, để sau cũng được - Đặt phong bì lên chiếc bàn nhỏ ở phòng khách, cô nói thêm - 

Chúng ta trở lại phòng ngủ đã . 

− Không, anh mất hứng rồi . Anh đi tắm đây - Anh cười, hôn lên chót mũi cô - Anh bảo này . Chúng mình cùng tắm nhé . 

Chộp lấy tay cô, anh đưa cô vào buồng tắm và bước vào bồn vặn vòi, điều chỉnh nhiệt độ rồi ôm sát cô vào người lúc nước xối lên thân hình họ . 

Alexandra dựa sát vào anh, cô nhắm mắt lại, nghĩ đến chiếc phong bì để lại trên bàn . Cô có thể hình dung rõ ràng là của ai . Chỉ có thể là một người duy nhất ... và ý nghĩ ấy làm cô hãi hùng . 

Anh đang ở đấy. Anh vẫn sống và khoẻ mạnh ở Paris. 

Nếu cô đến Paris, đến dự bữa tiệc của Anya Sedgwick, cô sẽ không thể cưỡng lại lòng mình. Cô sẽ gọi điện cho anh, rồi anh sẽ nói "Chúng ta đi uống thứ gì đi" vì anh thích thế, và cô nói "vang, tuyệt lắm", và rồi cô sẽ đi với anh. Rồi sau đó, cô lại sẽ mê mẩn. Sẽ đắm đuối lần nữa. Đúng thế một linh hồn lạc lối. 

Với cô, Tom Conners là người gây ấn tượng mạnh mẽ, một người đàn ông đầy uy lực, hấp dẫn không thể cưỡng lại, anh sống trong ý nghĩ của cô, trong trái tim cô và trong tâm tưởng cô. Dù không gặp nhau đã ba năm nay, anh là người cắt đút, nhưng cô biết nếu cô gọi anh, anh sẽ muốn gặp cô. 

Những hồi ức tràn ngập lòng cô. Hồi ức về người đàn ông đã yêu thương và ấp ủ cô. Người đã từng là một người chồng thắn thiết, song đã thay đổi. 

Anh đã phủ nhận lời buộc tội của cô là thay đổi trong cách đối xử với cô, khăng khăng rằng cô đang tưởng tượng ra đủ thứ. Nhưng cô biết không phải thế . Anh có vẻ lạnh nhạt, và hình như không còn yêu cô như trước kia nữa . Anh vốn chu đáo và ân cần, song giờ đây anh có vẻ đãng trí, thậm chí lơ đễnh, quên cả nói với cô anh định làm việc muộn hoặc dự những bữa ăn tối vì công việc . Cứ đến phút cuối cùng, anh mới gọi điện cho cô, chẳng nghĩ gì đến cô, để mặc cô một mình suốt buổi tố

Nhà thờ đã dạy tất cả các con chiên rằng, thiên đường có cánh cổng được nạm toàn ngọc quý sáng lấp lánh, những con đường dát vàng, cả những thiên thần có cánh bay đi bay lại. Nhưng phải đặt chân đến cổng thiên đường bạn mới biết thực ra thiên đường như thế nào. 

Thiên đường chính là bất kì và tất cả những gì mỗi con người khao khát có được. Nếu bạn thích cổng ngọc và đường vàng, bạn có cổng ngọc và đường vàng. Nếu bạn lại muốn thiên đường của mình là một trang trại có khung cảnh chẳng khác gì Texas, bạn có nông trại Texas. Tóm lại, mỗi người sẽ được có một thiên đường riêng theo sở thích của chính mình. Quả là sung sướng vô bờ bến. 

Và thế là thiên đường của riêng tôi mang hình ảnh của ngọn đồi xanh tươi trong bộ phim "The Sound Of Music". Bộ phim yêu thích nhất của tôi kể từ khi biết đi. 

Tới tám giờ, gã đánh bạc lận đã có vẻ muốn giao thiệp với những người kia. Hắn lấy một bao thuốc lá ra mời. Tất cả đều vui trong khói thuốc. Bóng tối và những đốm lửa đỏ trên đầu thuốc tạo thành một không khí gia đình. Gã móc túi cho biết là đã bị bắt vì nhà chức trách muốn điều tra xem trong vòng sáu tháng qua, anh ta có làm ăn một cú nào không. Vẫn theo anh ta thì họ không tìm ra được một bằng chứng nào. kể chuyện mình xong, anh chàng móc túi kiêm đánh bạc lận đề nghị chơi bài. Vừa nói anh ta vừa nhanh như cắt cho xuất hiện một bộ bài trong tay giống như các nhà ảo thuật. 

Phòng tối om. Nhưng với tài nghề ảo thuật, gã móc túi lại cho xuất hiện một cây đèn cầy và một bao diêm. Hắn gắn đèn cầy vào bờ tường. Aùnh đèn nhòe nhoẹt và chập chờn. 

Anh chàng Ba Lan, gã Con Gà và Steiner xáp tới. Con Gà dè dặt hỏi: 

- Mình chơi không tiền, hả? 

Gã đánh bạc lận cười: 

- Dĩ nhiên. 

Steiner hỏi Kern: 

- Không chơi à? 

- Tôi không biết đánh bài. 

- Nên học chớ, cậu bé. Suốt buổi tối không chơi bài thì làm gì? 

- Mai đã. 

Steiner quay người lại. Ánh đèn mờ làm thành những vết lồi lõm trên mặt hắn. 

- Có chuyện gì buồn sao? 

- Chẳng có gì cả. Chỉ hơi mệt. Cần nằm một chút. 

Gã đánh bạc lận bắt đầu xào bài với tất cả nghệ thuật của một tay điếm. Hắn chìa bộ bài ra. Anh chàng Ba Lan rút một con chín, gã Con Gà kéo con đầm, Steiner và gã đánh bạc lận mỗi người một con ách. 

Gã đánh bạc lận ngước mắt: 

- Kinh đi. 

Hắn rút một lá. Lại một con ách. Hắn cười rồi đưa bài sang Steiner. Steiner kéo dưới bộ bài… một lá ách chuồn. Con Gà cười: 

- Hên quá vậy! 

Gã đánh bạc lận không cười. Hắn nhìn sững Steiner: 

- Bạn cũng biết mấy trò nầy nữa à? Có phải người trong nghề không? 

- Không. Chỉ chơi tài tử thôi. Biết được một tay thiện nghệ, cũng là điều hân hạnh. 

Gã đánh bạc lận vẫn không rời mắt Steinter: 

- Không phải vậy. Tôi muốn biết là vì chính tôi phát minh ra trò nầy. 

Steiner dụi tàn thuốc: 

- À, thật sao! Tôi học ở Budapest lúc bị giam. 

Trước khi bị trục xuất. Do một người Katsher. 

Gã đánh bạc lận thở ra khoan khoái: 

- Katsher! Thế là đúng rồi. Katsher là học trò tôi. Bạn cũng khá lắm. 

- Càng đi nhiều càng già dặn, thế thôi. 

Gã đánh bạc lận trao một bộ bài cho Steiner rồi lên giọng: 

- Thưa quí vị, ánh sáng rất tồi nhưng chúng ta chỉ chơi để giải khuây thôi. Thành thật mà nói… 

Kern nằm dài, nhắm mắt. Một cơn buồn mờ mịt, dày như sương mù bao phủ Kern. Cuộc thẩm vấn ban sáng khiến anh không ngớt nhớ tới cha mẹ. Đây là lần đầu tiên sau một thời gian khá lâu, anh nhớ tới. Kern nhìn thấy lại hình ảnh người cha khi ông từ trụ sở Cảnh sát về. Một người thương gia cạnh tranh nghề nghiệp đã tố cáo cha Kern với Gestapo, cho là ông có tư tưởng chống chánh quyền, nhằm mục đích phá hại cơ sở sản xuất nước hoa và xà bông thuốc của ông để rồi sẽ mua lại cơ sở nầy với giá rẻ. Aâm mưu đó đã thành công như hàng ngàn âm mưu khác. Sau sáu tuần bị giam, cha Kern trở về như một cái xác không hồn. Ông không nói gì cả, lẳng lặng bán lại cơ sở của mình cho gã gian thương đó với giá rẻ mạt. Tiếp theo đó là lịnh trục xuất và một cuộc đào tẩu triền miên. Từ Dresde tới Prague, từ Prague tới Brunn, từ đó họ vượt biên giới Aùo ban đêm, sáng hôm sau họ bị đuổi sang Tiệp Khắc, rồi từ nơi nầy, vài hôm sau, họ lại vượt biên giới sang thành Vienne trong khi mẹ Kern bị gãy tay và phải cột lấy với một sợi dây lượm ở dọc đường. Từ Vienne họ sang Hunggari, ở lại ông bà ngoại, rồi Cảnh sát tới. Kế đến là cuộc chia ly với mẹ vì bà là người gốc Hung nên được cho ở lại. Lại tới Vienne lần nữa, bán dạo xà bông, nước hoa, dây giày… hết nhà nầy sang nhà kia để đỡ đói – và cái sợ dai dẵng của kẻ sống lậu, sợ bị tố cáo, sợ bị bắt… cho đến một đêm người cha không trở về chỗ trọ, Kern sống một mình cả tháng, chạy trốn từ nơi nầy sang nơi khác… 

Kern lăn qua một bên, đụng phải một người. Nằm sát bên Kern là một khối đen nhòa, một người khoảng năm mươi tuổi từ sáng tới giờ gần như không buồn cử động. 

- Xin lỗi, tôi không thấy. 

Không có tiếng trả lời. Kern nhìn kỹ. Mắt ông ta vẫn mở. Kern biết rõ trạng thái tinh thần ấy. Đã nhiều lần, anh chứng kiến cảnh tượng đó trong một cuộc chạy trốn. Tốt hơn hết là nên để ông ta yên. 

Thình lình Con Gà kêu lên: 

- Mẹ, mình ngu quá! Ngu hết cỡ! 

Steiner thản nhiên: 

- Tại sao? Con đầm cơ là đúng rồi. 

- Không phải vậy. Đáng lẽ phải nhờ thằng cha người Nga tới lấy con gà gởi vào. Ngu quá, ngu như con bò. 

Hắn nhìn quanh với bộ điệu như trời sập đến nơi. 

Kern bỗng thấy mình cười. Anh không muốn cười nhưng không dằn được. Anh cười rung cả người, cười như điên. Cái gì đó đã khiến anh cười, quét sạch tất cả, cơn buồn thảm, quá khứ và ưu tư. 

Steiner rời mắt khỏi những lá bài, nhìn Kern: 

- Cái gì vậy, cậu bé? 

- Không biết. Tôi cảm thấy buồn cười không chịu nổi. 

- Cười được là tốt. 

Steiner vừa nói vừa kéo con già bích, thắng anh chàng Ba Lan ván đó. 

Kern tìm một điếu thuốc. Tất cả đối với Kern bỗng thật đơn giản. Anh quyết định sẽ học chơi bài ngày mai và có cảm tưởng là quyết định đó sẽ thay đổi toàn diện cuộc sống của mình. 

N ăm hôm sau, gã đánh bạc lận được trả tự do. Người ta không có bằng cớ để kết tội hắn. Hắn và Steiner chia tay nhau thân thiết. Trong thời gian nầy, hắn đã dạy cho Steiner tất cả bí quyết cờ bạc lận. Lúc đi, hắn tặng bộ bài cho Steiner, dạy cho Kern cách đánh cách-tê, đánh bài jass, chơi Tarot và phé. Cách-tê là trò chơi của di dân, bài jass là của người Thụy Sĩ, bài Tarot là để đánh với người Áo và phé để chơi trong các trường hợp khác. 

Kern ngồi thêm một lúc khá lâu. Nền trời đã bắt đầu trong sáng, cảnh vật yên tĩnh lạ lùng, không một sự hiện diện của loài người chung quanh. 

Kern ngồi lặng yên dưới bóng cây dẻ gai. Tàng lá xanh trong trên đầu anh phồng to như một cánh buồm căng gió, như trái đất bị gió đùa đi đang bềnh bồng trong những khoảng không gian xanh vô tận, từ từ lướt qua ngọn hải đăng của vầng trăng và các đèn báo hiệu của ngôi sao. 

Kern quyết định tới Presbourg trong đêm rồi tiếp tục đi Prague. Thành phố bao giờ cũng có một vài chỗ an toàn. Anh mở vali lấy một chiếc sơmi sạch và một đôi vớ tốt để thay. Kern nghĩ đó cũng là điều cần thiết khi chường mặt với đời. Ngoài ra, anh còn muốn lột bỏ cái ám ảnh của lao tù. 

Lúc đứng lên, Kern chợt nhận có cảm giác kỳ lạ, trần truồng dưới ánh trăng. Anh tự ví với một đứa trẻ bị bỏ rơi. Anh vội vàng mặc chiếc áo vừa lấy ra, chiếc áo màu xanh. Dưới ánh trăng màu áo trở thành màu đục. Anh mím môi, quả quyết với chính mình là không bao giờ nhu nhược nữa.

Mặt trời từ từ lặn và tôi chạy xe trong bóng hoàng hôn đã một lúc khá lâu, sau cùng con bé chỉ cho tôi bên đồi một căn nhà tranh tưởng như bỏ hoang nếu không có làn khói mảnh bốc lên, màu xanh trong bóng râm chuyển thành màu vàng óng của nắng chiều.

Tôi muốn khóc, nhưng tim tôi khô cằn còn hơn sa mạc.

Cái khoảng khắc trời quang mây tạnh này chỉ có kéo dài một thời gian ngắn ngủi. Hầu như ngay sau đó bầu trời cuộc đời tôi đã bị kéo đầy mây ngay trở lại. Thoạt tiên đó chỉ là một cụm mây nhỏ, nhưng đã nhuôm một màu ảm đạm. Cảnh quang trên trời cũng hỗn độn như thế, những đám mây trắng trôi dật dừ đủ mọi hướng, những khoảng trời xanh chói chang ánh nắng, những cánh chim biển quay tròn, vút lên, nhào xuống như đuổi theo từng cơn gió.

Màn đêm đã buông xuống, khoảnh thềm cao trước nhà đã nhờ nhờ sáng dưới làn phản quang mờ ảo trải ngang qua bầu trời của một vầng trăng chưa mọc. Một chuỗi các bậc cấp từ thêm cao dẫn xuống lối đi chạy quanh đảo.ên trên tôi, trên nền trời đen xì và cắt sắc nét trên nền trời sáng đầy sao, sừng sững những mỏm đá của đảo. Những khối đá khác mờ mờ hiện ra ở vực sâu bên dưới. Đêm im ắng lạ lùng, có thể nghe được tiếng rì rào của từng đợt sóng chốc chốc lại vỗ vào bờ sỏi trong một vũng nước nhỏ bên dưới, rồi lại rút ra. Hoặc có lẽ tôi nghe nhầm chăng, không có tiếng rì rào nào cả mà đó chỉ là hơi thở của biển lặng lẽ dâng lên và toả rộng ra theo những đợt thuỷ triều.

Màn đêm tĩnh mịch nhanh chóng mang lại sự yên tĩnh trong tôi, vậy mà tôi vẫn thấy một cách rõ ràng rằng mọi cảnh đẹp trên thế gian này cũng không mang lại cho tôi một khoảnh khắc khuây khoả ngắn ngủi trong chuỗi phiền muộn triền miên của đời tôi. Thật vậy, sau khi đứng yên một lúc lâu, đầu óc rỗng không, mắt đăm đăm nhìn vào bóng tối, tâm trí tôi, dù tôi chẳng muốn, lại quay lại với những ý tưởng day dứt không nguôi, y 'tưởng về Emilia. 

Còn lại một mình, tôi ngồi im một lát, phóng tầm mắt qua cửa sổ, phía xa ra đường chân trời sáng ngời, nơi màu xanh của biển hoà lẫn với màu xanh thẫm của da trời, một chiếc tàu bé tí màu đen di chuyển trên đường chân trời, trông như một con ruồi bò trên một sợi dây căng thẳng.

Quả thật, khi tôi rảo bước trên con đường nhỏ hẹp, chạy dài như một dải ruy băng bằng xi măng dưới ánh nắng thiêu đốt, tôi không nghĩ đến một điều gì cả. Sự bế tắc trong một tình trạng không chịu đựng nổi đã kéo dài quá lâu, và bây giờ , tôi biết tôi đã phá vỡ nó. Tôi biết chỉ trong giây lát ngắn ngủi nữa thôi, tôi sẽ biết được tại sao Emilia không còn yêu tôi nữa, nhưng sau đó mọi chuyện sẽ ra sao thì tôi chịu. Sự suy tưởng chỉ có trước hoặc sau hành động. Trong lúc hành động, chúng ta được hướng dẫn bởi những suy tưởng đã qua và đã quên đi, nay đã trở thành những xúc cảm. Tôi đang hành động, vì vậy, tôi không suy nghĩ, tôi biết tôi sẽ suy nghĩ sau khi đã hành động xong. 

-------------

Tôi thức giấc khá trưa, tôi biết thế, căn cứ theo những tia nắng lọt vào phòng qua các khe cửa chớp và trong một lúc lâu, tôi nằm lắng nghe cái tĩnh mịch, sâu lắng của miền hải đảo, khác với sự im lặng nơi thành thị, ngay vào lúc trọn vẹn nhất, vẫn còn ngân vang những dư âm của niềm đâu quá vãng. Tôi nằm ngửa, im nghe sự tĩnh mịch nguyên sơ ấy, và tôi chợt nhận ra một cái gì đó thiếu vắng – không phải là những âm thanh thầm lặng như tưởng máy xình xịch bơm nước lên hồ vào buổi sáng, hay tiếng soèn soẹt của những nhát chổi quét nhà của cô người làm, những âm thanh này vốn dĩ như càng làm sự im lặng đầy sức sống mà là một sự im lặng trong đó sinh khí như đã tắt hẳn. Đó là sự im lặng, như tôi đã cố diễn đạt cho thật chính xác, của sự ruồng bỏ. Từ ngữ đó vừa loé lên trong trí, tôi đã bật dậy, bước đến cửa thông sang phòng Emilia. Tôi mở cửa, và điều đầu tiên đập vào mắt tôi là một bức thư nằm trên chiếc gối, trên đầu chiếc giường rộng, chăn mền xô lệch, vắng ngắt. 

Bức thư rất ngắn "Ricardo thân mến, xét vì anh không muốn rời bỏ nơi này, tôi phải ra đi vậy. Có lẽ, tôi không đủ can đảm đi một mình, tôi đi cùng Battista, nhân chuyến ông ấy trở về Rome. Và vì tôi rất sợ sự cô đơn, sự đồng hành của ông ấy có vẻ dễ chịu đối với tôi hơn là cảnh thui thủi một mình. Nhưng về đến Rome, tôi sẽ xa ông ta và sống một mình. Tuy nhiên, nếu sau này, nghe tin tôi trở thành tình nhân của Battista, anh đừng ngạc nhiên, tôi không phải là đá tảng, và điều đó có nghĩa là tôi đã không xoay sở và chịu đựng được. 

Tạm biệt, Emilia". 

Đọc xong mấy giòng đó, tôi ngồi phịch xuống giường, tay cầm bức thư, mắt nhìn thẳng trước mặt. Tôi trông thấy cánh cửa sổ mở rộng, và ngoài kia, ở xa xa, đôi cây thông và bức tường đá. Rồi tôi rời mắt khỏi cửa sổ và nhìn quanh phòng. Tất cả chỉ là một sự hỗn độn, một sự lộn xộn trống trải, hoang vắng. Không áo quần, không dày dép, không những vật dụng vệ sinh cá nhân…chỉ toàn là những ngăn kéo trống trơn, há hốc mồm, hoặc kéo ra một nửa, những tủ áo toang hoác với những móc áo lủng lẳng, những chiếc ghế trống trơn. Tôi vẫn thường nghĩ đến chuyện Emilia có thể lìa bỏ tôi với tâm trạng của người nghĩ đến một tai hoạ sắp giáng xuống đầu mình. Tôi cảm thấy một nỗi đau tê cứng xuất phát từ chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn tôi, một cái cây bật gốc, nếu có cảm thấy đau đớn, hẳn cũng có cùng cảm giác như thế, nó sẽ cảm thấy nỗi đau đớn ngấm lên từ những chiếc rễ giữ cho thân cây đứng vững trong đất. Tôi bỗng nhiên bị bật gốc, và những chiếc rễ của tôi, giống những chiếc rễ cây, đã đưa thẳng lên không, và đất ngọt ngào, Emilia, vốn từ trước đến nay, nuôi dưỡng chúng bằng tình thương của nàng, bây giờ đã xa cách chúng, những chiếc rễ sẽ không bao giờ được cắm vào trong tình yêu ấy nữa để được nuôi dưỡng, chúng sẽ héo dần đi và tôi cảm thấy chúng đã bắt đầu se lại, và chúng làm tôi đau đớn không cùng. 

Cuối cùng tôi đứng dậy và trở về phòng, tôi cảm thấy choáng váng và quẩn trí, giống một kẻ từ trên cao rơi hẫng xuống, cảm thấy đau ê ẩm và biết rằng cơn đau âm ỉ ấy sẽ bộc phát thành một cơn co giật đau đớn, vào một giây lát kinh khủng nào đó. Chiêm nghiệm nỗi đau thầm kín ấy một cách thận trọng giống như một kẻ khiếp sợ nhìn một con mãnh thú đang lăm le nhảy xổ vào xé xác mình vào bất cứ lúc nào, tôi như cái máy, vớ lấy bộ đồ tắm, đi ra khỏi nhà, bước dọc theo lối đi chạy vòng quanh đảo và đến quảng trường của làng. Tôi mua một tờ báo, vào ngồi trong một quán cà phe6, và tôi ngạc nhiên thấy mình, thay vì dẹp bỏ hết mọi chuyện, đã đọc một mạch hết cả tờ báo, từ giống đầu cho đến giòng cuối. Tôi cảm thấy mình giống một con ruồi mà một đứa bé tai ác đã vặt đứt đầu nhưng vẫn không cảm thấy điều đó, và vẫn bước đi loạng choạng, xoa xoa hai chân trước như để chùi rửa, rồi đột nhiên ngã lăn ra chết. Sau cùng, đồng hồ của gác chuông gõ vang rền báo giờ trưa đứng bóng. Một chiếc xe bus chuẩn bị rời đi Piccola Marina, tôi lật đật bước lên. 

Sau đó một lát, tôi đến một khoảng đất rộng ngập nắng, bốc mùi khai nồng nặc, với những cỗ xe ngựa nhỏ bé đứng chờ, trong lúc những người đánh xe xúm vào một góc chuyện trò. Tôi theo những bậc cấp bước xuống bãi biển, một bãi sỏi trắng trải dài bên mép nước màu xanh dưới bầu trời êm ả. Mặt bỉên êm, phẳng và láng như sa tanh trải dài đến tận chân trời. Những vệt nước luân chuyển lượn ngoằn ngoèo trên mặt biển dưới ánh nắng chói chang. Tôi nghĩ chèo thuyền ra khơi chơi một chuyến vào chiều nay có lẽ cũng là điều hay, làm tôi khuây lãng, và tôi sẽ được hoàn toàn cô đơn, xa lánh bãi biển giờ đây bắt đầu nhộn nhịp. Tôi đi đến một cái quán, gọi người phục vụ và nhờ anh ta chuẩn bị cho một chiếc thuyền. Đoạn tôi đi vào thay đồ. 

Khi trở ra, tôi đi chân không, dạo trên thềm trước các quán, mắt nhìn xuống, cố tránh những tấm ván xù xì, long vênh, xóc vào chân. Mặt trời tháng sáu chiếu chói chang trên đầu tôi, toả làn ánh sáng gay gắt, nóng bỏng lên lưng tôi. Tôi cảm nhận một cảm giác dễ chịu, tương phản với tâm trạng bấn loạn của tôi. Mắt vẫn nhìn xuống, tôi theo những bậc cấp dốc đứng, bước xuống bên mép nước, dẫm lên những khối đá nóng bỏng. Chỉ sau khi đã bơi ra xa bờ, tôi mới ngẩng nhìn lên, và lúc đó, tôi nhìn thấy Emilia. 

Người phục vụ, một ông lão gầy gò nhưng cường tráng, nâu như một tấm da thuộc với chiếc mũ rơm kéo sụp xuống tận mắt, đứng bên cạnh chiếc thuyền đã được đẩy một nửa xuống nước. Emilia ngồi ở đàng lái thuyền, mặc bộ đồ tắm hai mảnh mà tôi biết rất rõ, màu xanh nhạt. Nàng ngồi bắt chéo hai chân lại, hai tay soãi chống ra sau, khoảng hông trần thon thả hi vặn lại phía trên bờ mông, trong một tư thế chông chiênh nhưng đầy duyên dáng. Biết tôi ngạc nhiên, nàng mỉm cười và nhìn thẳng vào mắt tôi, như muốn nói "Em đây…Nhưng anh đừng nói gì cả…Hãy làm như anh biết rằng em đã ngồi ở đây từ lâu rồi". 

Tôi tuân theo lời khuyên thầm lặng ấy và lặng lẽ, thẫn thờ, bối rối , tim đập thình thịch, như cái máy, nắm lấy bàn tay người phục vụ đưa ra để đỡ tôi nhảy lên thuyền. Người phục vụ lội nước ra đến ngang đầu gối, đặt hai bơi chèo vào ngàm và đẩy chiếc thuyền ra. Tôi ngồi xuống, cầm lấy bơi chèo, cúi đầu xuống, chèo đi trong ánh nắng nóng như thiêu đốt về phía rặng đá cao vây bọc cái vịnh nhỏ. Tôi chèo mạnh tay, và trong vòng mười phút, đến được rặng đá, vẫn im lặng và không nhìn Emilia. Tôi cảm thấy khó chịu khi nghĩ rằng phải nói chuyện với nàng trong lúc vẫn còn trông thấy bãi biển ở xa trong khia với những lều quán và những người đi tắm. Tôi muốn được hoàn toàn cô quạnh với nàng, như khi ở biệt thự, và như mọi khi tôi có điều gì đó cần nói với nàng. 

Nhưng trong lúc chèo thuyền tôi chợt nhận ra rằng trong một cơn xúc cảm rào rạt cay đắng, pha lẫn một niềm vui mới mẻ kỳ lạ, nước mắt bỗng tuôn trào trong mắt tôi. Tôi tiếp tục chèo, cảm thấy mắt nóng bỏng nước mắt, và mặt tôi nóng bừng lên mỗi khi những giọt lệ ấy tràn ra và chảy dài xuống ma. Khi đến trước rặng đá, tôi chèo mạnh hơn để vượt qua giòng nước xiết làm mặt nước nổi sóng và réo sôi lên. Bên phải tôi là một khối đá nhỏ nhô lên khỏi mặt nước, bên trái là vách đá cao sừng sững. Tôi đưa mũi thuyền đâm vào một hành lang hẹp đó, chèo mạnh vượt qua giòng nước cuồn cuộn, và đến được bờ bên kia. Rặng đá, ở chỗ mấp mé chìm xuống nước, đóng muối trắng xoá, và mỗi lần nước rút xuống, ta có thể trông thấy lòng thòng những đám rong biển sáng lóng lánh dưới ánh nắng, điểm lác đác những quả đỏ như cà chua. Phía bên rặng đá là một sườn đồi ngổn ngang đá tảng, tựa lưng vào vách núi dựng đứng, và rải rác cách quãng là những bãi sỏi trắng vắng vẻ. Biển nơi đây vắng lặng, không một bóng thuyền hay một người nào đi tắm, nước biển xanh sẫm, phẳng lì và nhờn như dầu, chứng tỏ là rất sâu. Xa hơn nữa, những mỏm đá khác nổi bật lên trên nền biển xanh rì, chan hoà ánh nắng, giống như những cánh gà của một sân khấu thiên nhiên kỳ quái.

Tôi chèo chậm lại và ngẩng nhìn Emilia. Và dường như cũng có ý đợi cho đến khi chúng tôi đi vòng quanh hết mỏm đá mới chịu lên tiếng, nàng mỉm cười và nhẹ nhàng hỏi tôi "Tại sao anh khóc?" 

"Anh khóc vì vui mừng được gặp em", tôi đáp. 

"Anh vui mừng được gặp em?" 

"Phải, rất mừng…Anh những tưởng em đã đi luôn…nhưng sau cùng, em đã không đi". 

Nàng đưa mắt nhìn xuống và nói "Em đã quyết định ra đi…và sáng nay, đã xuống bến cảng cùng Battista…Nhưng đến phút cuối, em đã nghĩ kỹ lại và em ở lại". 

"Vậy em đã làm gì từ lúc đó đến giờ?" 

"Em đi lang thang trên bến cảng…ngồi trong quán cà phê..Em đi xe cáp treo về làng và điện thoại về biệt thự, người ta chỉ bảo là anh đã đi khỏi…em nghĩ có lẽ anh đã đi Piccola Marina, vì vậy, em đến đây…em thay đồ tắm và chờ anh…em thấy anh hỏi người phục vụ để thuê thuyền. Em nằm phơi nắng và anh đã đi qua sát bên em mà không thấy em. Rồi, trong lúc anh thay đồ, em đã leo lên thuyền". 

Trong một lúc lâu, tôi không nói gì. Bây giờ, chúng tôi đang ở lưng chừng giữa rặng đá chúng tôi vừa mới vượt qua và một rặng đá khác bọc quanh cái vịnh nhỏ. Nằm về phía bên kia rặng đá, tôi biết đó là Hang Xanh, nơi mà ban nãy tôi có ý định đến tắm. Cuối cùng tôi hạ thấp giọng, hỏi nàng "Tại sao em không đi với Battista như đã dự định? Tại sao em ở lại?" 

"Bởi vì, sáng nay, khi đã nghĩ kỹ lại, em thấy rằng em đã nghĩ sai về anh…và tất cả mọi chuyện chỉ là một sự hiểu nhầm". 

"Cái gì đã giúp em nhận ra điều ấy?" 

"Em cũng không biết nữa…nhiều thứ…nhất là, có lẽ giọng nói của anh tối hôm qua". 

"Vậy em thật tình tin chắc rằng anh chưa bao giờ phạm vào những điều khiếp đảm mà em đã cáo buộc anh ấy?" 

"Vâng, em tin chắc" 

Tuy nhiên, vẫn còn một điều mà tôi cần biết rõ, và có lẽ, đó là điều quan trọng nhất "Nhưng em" tôi nói "Em không nghĩ anh là kẻ đáng khinh chứ? Ngay cả không làm những việc ấy, anh vẫn không đáng khinh chứ, đáng khinh vì bản chất đáng khinh chứ? Em hãy nói đi, em không tin điều đó chứ, Emilia?" 

"Em không bao giờ tin như thế …em nghĩ anh đã xử sự theo cách nào ấy, và đó là điều làm em mất đi lòng quý mến đối với anh…Nhưng bây giờ, em biết tất cả chỉ là sự hiểu nhầm, thôi, chúng ta đừng nhắc đến chuyện đó nữa, anh ạ!" 

Lần này tôi không nói gì, và nàng cũng im lặng. Tôi bắt đầu chèo mạnh tay hơn, với một sức mạnh được nhân lên gấp đôi bởi một cảm giác vui sướng càng lúc càng mãnh liệt hơn trong tôi, như mặt trời dần dần le6n, sưởi ấm tâm trí tôi, cho đến lúc đó vẫn còn nhức nhối và cóng buốt. Chúng tôi đã đến trước Hang Xanh, tôi lái thuyền về phía cửa hàng, lúc này đã hiện rõ, đen ngòm bên trên một vạt nước trong xanh, lạnh buốt. "Và em vẫn yêu anh?" tôi hỏi. 

Nàng do dự một lát rồi trả lời "Em vẫn luôn yêu anh…Em sẽ luôn luôn yêu anh…" nhưng giọng nói của nàng nghe buồn rầu đến mức làm tôi ngạc nhiên. Tôi lo ngại, hỏi gặng lại "Nhưng tại sao giọng em nghe buồn thảm đến thế?" 

"Em không biết, có lẽ bởi vì, lẽ ra mọi chuyện qua rồi, chúng ta không nên nghĩ đến những chuyện đó nữa…chúng ta sẽ yêu nhau mãi đến trọn đời". nàng có vẻ như gật đầu, nhưng vẫn không nhìn lên, và vẫn buồn. Tôi ngưng chèo một lát, cúi người về phía trước, nói thêm "Bây giờ, chúng ta sẽ đến Hang Đỏ, hang ấy nhỏ hơn, sâu hơn, ở phía bên kia Hang Xanh…Trong hang, có một bãi cát nhỏ, trong bóng tối, chúng ta sẽ yêu nhau ở đó, nhé, Emilia?" 

Tôi thấy nàng ngẩng đầu lên và im lặng, khẽ gật đầu đồng ý, mắt đăm đăm nhìn tôi với vẻ dè dặt, kín đáo, đúng hơn, e lệ và đồng loã. Tôi lại bắt đầu chèo mạnh hơn, và con thuyền chui vào hang, bên dưới cái vòm đá cao, lởm chởm, trên đó, nước và ánh sáng phản chiếu đã khảm lên một mạng lưới lung linh những hạt bích ngọc lóng lánh. Xa hơn nữa, giữa những khe đá, sóng biển ì oạp tràn vào từng đợt, nước có màu tối sẫm, với một vài tảng đá nhẵn bóng, đen sì, nhô lên như tấm lưng các loài thuỷ quái. Chúng tôi đã đến cửa Hang Đỏ, nằm cuối một lạch nước hẹp giữa hai vách đá. Emilia vẫn ngồi yên, lẳng lặng nhìn tôi, theo dõi từng động tác của tôi với dáng điệu chờ đợi đầy vẻ lẳng lơ, nhưng vẫn kiên nhẫn, ngoan ngoãn, như một người đàn bà sẵn sàng hiến dâng thân mình và đang chờ đợi…Bằng cách lấy hai bơi chèo lần lượt chống vào hai bên vách đá, dưới cái vòm lung linh thạch nhũ, tôi đẩy được chiếc thuyền vượt qua lạch nước, tiến vào cái mồm há hốc đen ngòm của cửa hang. "Em hãy coi chừng cái đầu!" tôi nói với Emilia và dùng bơi chèo đẩy mạnh, đưa chiếc thuyền rướn qua làn nước phẳng lặng trườn vào trong hang. 

Hang Đỏ được chia ra làm hai phần. Phần thứ nhất như một gian tiền sảnh được ngăn với phần thứ hai ở chỗ cái vòm hạ thấp sát xuống. Bên trong chỗ này, hang chạy lệch về phía một bãi cát ở đáy xa. Phần thứ hai của hang hầu như hoàn toàn chìm trong bóng tối, mắt thường phải quen dần với bóng tối lờ mờ mới nhận ra được cảnh vật. Một làn ánh sáng kỳ lạ màu đỏ nhạt nhuộm đỏ toàn thể bãi cát ấy, từ đó người ta dặt cho hang này cái tên Hang Đỏ. "Bên trong hang này tối lắm" tôi nói tiếp "nhưng lát nữa, mắt quen dần ,chúng ta sẽ thấy được". Trong lúc đó chiếc thuyền vẫn còn trớn, lướt đi trong bóng tối, bên dưới cái vòm đỏ sà thấp, và tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Sau cùng, tôi nghe tiếng mũi thuyền chạm đánh soạt vào bãi cát, trườn lên trên các hòn sỏi với những âm vang ẩm ướt. Tôi buông chèo và lom khom đứng dậy, trong bóng tối, đưa tay về phía dưới thuyền và nói "Đưa tay đây, anh đỡ em lên bờ". Tôi không nghe thấy tiếng trả lời nào. Ngạc nhiên, tôi vẫn soải tay tới và nhắc lại "Emilia, đưa tay anh dắt nào!" Lại không một tiếng trả lời. Tôi cố nhoài người về phía trước, và thận trọng, để khỏi chạm vào mặt nàng, tôi sờ soạng tìm nàng trong bóng tối. Nhưng tay tôi không sờ phải một cái gì cả, tất cả chỉ là trống không, và khi hạ thấp tay xuống, ở nơi đáng lẽ Emilia đang ngồi, tôi sờ phải mặt ván nhẵn bóng , trống trơn. Nỗi kinh ngạc của tôi hoà lẫn với cơn sợ hãi khủng khiếp, tôi kêu lên "Emilia! Emilia!" Đáp lại tiếng kêu của tôi, chỉ có những tiếng vang yếu ớt, buốt giá. Đồng thời mắt tôi quen dần với bóng tối, và tôi đã có thể trông thấy lờ mờ chiếc thuyền ghếch mũi lên bãi cát, tôi trông thấy bãi cát với những viên sỏi màu đen, và trên đầu tôi, cái vòm đá lung linh với những giọt nước long tong nhỏ xuống. Và rồi tôi trông thấy chiếc thuyền hoàn toàn trống trơn, ở đuôi thuyền, không một ai, bãi cát cũng trống trơn, và chung quanh tôi, chẳng một ai, chỉ một mình tôi đứng trơ trọi một mình. 

Nhìn về phía đuôi thuyền, tôi sững sờ gọi lại "Emilia!" nhưng lần này giọng tôi yếu hẳn đi. Tôi lập lại một lần nữa "Emilia, em ở đâu?" và tôi chợt hiểu ra. Tôi nhảy ra khỏi thuyền, vật mình xuống cát, vùi mặt vào cát sỏi đẫm nước. Tôi nghĩ có lẽ tôi đã ngất đi, bởi vì tôi nằm hoàn toàn bất động, không cảm giác, trong một khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận. 

Sau đó, tôi đứng dậy, như cái máy, leo lên thuyền, chèo ra khỏi hang. Ở cửa hang, ánh nắng chói chang, phản chiếu lên từ mặt biển làm tôi lảo đảo. Tôi nhìn xuống đồng hồ đeo tay và thấy kim chỉ hai giờ chiều. Như vậy, tôi đã ở trong hang hơn một tiếng đồng hồ. Và tôi nhớ ra rằng buổi trưa là giờ ma hiện. Tôi hiểu ra rằng tôi đã trò chuyện và đã khóc cùng một bóng ma.

Vẫn lưu luyến với những chi tiết của ảo ảnh, tôi chợt nảy ra ý tưởng đối chiếu lại một lần nữa thời gian khi tôi rời Piccola Marina bằng thuyền với thời điểm tôi ra khỏi Hang Đỏ, và tôi sửng sốt nhận ra tôi đã ở lại lâu đến thế trên bãi ngầm trong hang ấy. Trừ đi chừng bốn mươi lăm phút là thời gian tôi đi từ Piccola Marina đến Hang Đỏ, thời gian tôi ở trong hang phải lâu hơn một giờ đồng hồ. Như đã nói ở trên, tôi đã cho thời gian ấy là thời gian tôi ngất đi, hoặc ít ra, thiếp đi. Bây giờ đây, xét lại ảo giác của tôi, xét vì nó kéo dài một cách đầy đủ và đáp ứng một cách thoả đáng những ước nguyện sâu xa nhất của tôi, tôi tự hỏi phải chăng tôi đã nằm mơ hết toàn bộ sự việc. Phải chăng tôi đã lên thuyền một mình từ ở bãi tắm với chẳng một con ma nào trên thuyền, và đã chui vào hang một mình, nằm dài ra bãi và ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ - nếu đúng như thế - tôi đã nằm mơ thấy tôi bắt đầu lên thuyền cùng với Emilia ngồi gần ở cuối thuyền, tôi đã nói chuyện với nàng, nàng đã trả lời tôi, tôi đã ngỏ ý muốn làm tình với nàng và cả hai chúng tôi đã vào hang. Rồi thì tôi cũng đã mơ thấy tôi đã đưa tay để đỡ nàng nhảy ra khỏi thuyền, tôi đã tìm nàng mà không thấy, tôi đã hoảng sợ, tôi đã nghĩ rằng tôi đã đi chung thuyền với một bóng ma, tôi đã nằm phục xuống bãi cát và ngất đi. 

Giả thuyết này đối với tôi có thể chấp nhận được nhưng dù sao đó cũng chỉ là giả thuyết. Nhưng bây giờ, trí tưởng tượng của tôi đã làm cho nó trở nên lạc hướng và rối rắm, tôi không thể tìm ra được lằn ranh phân biệt giữa mộng và thực, đường phân ranh ấy hẳn phải ở vào lúc tôi nằm phục trên bãi cát. Điều gì đã thật sự xảy ra đúng vào lúc tôi nằm ở đó? Phải chăng tôi đã ngủ thiếp đi và nằm mơ thấy bóng ma của Emilia hiện lên với tôi? Hoặc nữa, phải chăng tôi đã ngủ thiếp đi và mơ thấy tôi ngủ và mơ thấy giấc mơ này, hoặc giấc mơ kia? Giống như những chiếc hộp của người Trung Hoa, mỗi cái lại chứa một cái khác nhỏ hơn, cát thực hình như chứa đựng cái mộng, cái mộng lại chứa một cái thực khác, cái thực này lại biến thành cái mộng, và cứ thế mãi. Như vậy, cứ từng chốc, tôi lại ngưng chèo và suy nghĩ, tôi tự hỏi phải chăng tôi đã mơ hay đó chỉ là một ảo giác, hay – kỳ quái hơn nữa – phải chăng tôi đã gặp một bóng ma? Cuối cùng tôi đi đến kết luận là tôi chịu không thể nào hiểu nổi, và chắc chắn là tôi sẽ không bao giờ hiểu nổi. 

Tôi tiếp tục chèo và về đến cái quán bên bãi. Tôi vội vã mặc áo quần, leo vội lên đường, vừa kịp đón một chuyến xe bus sắp chạy về quảng trường. Tôi vội vã về nhà, vì một lý do mà tôi không hiểu ra được, tôi tin rằng khi về đến biệt thự, có lẽ tôi sẽ tìm ra được chìa khoá của những điều bí ẩn này. Tôi cũng vội trở về vì tôi cũng cần ăn trưa, sửa soạn hành lý để đáp chuyến tàu sáu giờ chiều nay, tôi đã mất quá nhiều thì giờ rồi. Xuống xe, tôi rời quảng trường ngay và bước đi hầu như chạy trên con đường quen thuộc. Tôi về đến biệt thự sau chừng hai mươi phút. 

Khi bước vào phòng khách, tôi không có thì giờ để buồn về cái cảnh vắng vẻ, quạnh quẽ. Trên bàn ăn đã dọn sẵn, bên cạnh chiếc đĩa lớn, tôi trông thấy một bức điện tín. Không ngờ vực, nhưng hơi băn khoăn, tôi cầm lấy chiếc phong bì màu vàng và mở ra. Cái tên Battista làm tôi ngạc nhiên, nhưng cũng mang lại cho tôi chút hy vọng về một tin thuận lợi. Nhưng rồi tôi đọc nội dung bức điện; nó báo cho tôi biết một cách vắn tắt rằng do một tai nạn nghiêm trọng, Emilia "đang ở trong tình trạng nguy kịch". 

Không còn gì để nói nữa. Cũng như tôi thấy không cần thiết phải kể ra những gì tôi cảm thấy vào chiều hôm đó, khi tôi đến Napoli và được biết là Emilia đã chết trong một tai nạn xe khi gần đến Terracina. Cái chết của nàng cũng là một cái chết lạ lùng. Do vì mệt và khí trời quá nóng nực, nàng đã ngủ thiếp đi, đầu gục xuống, cằm tì vào ngực. Battista, như thường lệ, lái xe rất nhanh. Một chiếc xe bò đột nhiên đâm ra từ một con đường ngang. Battista dận mạnh thắng, sỉ vả người đánh xe bò mấy câu rồi tiếp tục lái đi. Nhưng đầu của Emilia lắc mạnh từ bên này qua bên kia và nàng không nói gì. Battista nói với nàng, nhưng nàng chẳng ư hử, và khi xe qua một khúc quanh, nàng ngã đè lên người hắn. Battista dừng xe lại, và phát hiện là nàng đã chết. Cú dậm thắng đột ngột để tránh chiếc xe bò đã xô mạnh thân nàng vào lúc các cơ bắp đang thả lỏng trong giấc ngủ, và cú nẩy đột ngột của chiếc xe khi thắng gấp đã làm cổ nàng lắc mạnh, gãy lìa cột sống. Nàng đã chết mà không hay biết. 

Trời rất oi ả, làm nỗi đau buồn càng nặng nề hơn. Tang lễ cử hành vào một ngày oi bức, ngột ngạt, dưới một bầu trời đầy mây u ám. Không khí ẩm ướt, không một hơi gió. Sau đó, lúc chiều tối, tôi trở về căn hộ của chúng tôi – bây giờ đã mãi mãi trở nên vô dụng và trống vắng – tôi mở cửa, bước vào và khép lại. Bây giờ, tôi hiểu rằng Emilia thật sự đã chết, và không bao giờ tôi có thể trông thấy nàng nữa. Tôi mở toang mọi cửa sổ, hy vọng đón một cơn gió nhẹ nhất, nhưng tôi vẫn cảm thấy ngộp thở khi đi lang thang từ phòng này sang phòng nọ, trên sàn nhà đánh xi bóng loáng, trong làn ánh sáng lờ mờ. Trong lúc đó, những cửa sổ sáng choang của những ngôi nhà lân cận với những bóng người hiện rõ trong phòng làm tôi muốn phát điên le6n, ánh sáng yên lành của họ nhắc tôi nhớ đến cái thế giới trong đó, người ta yêu nhau mà không hiểu nhầm nhau, và được yêu, được sống những cuộc sống bình yên, cái thế giới ấy nay đã khép chặt lại đối với tôi. Sự tái hội nhập vào cái thế giới ấy đòi hỏi tôi phải có được sự giải thích của Emilia về thái độ của nàng đối với tôi, lòng tin tưởng của nàng vào sự vô tội của tôi, và sự tái tạo nên phép mầu của tình yêu, mà theo tôi, phải được nhóm lên không phải chỉ trong tim ta mà còn trong tim người khác. Nhưng những chuyện đó đối với tôi nay đã trở thành bất khả , và tôi cảm thấy hóa rồ khi nghĩ rằng tôi nên nhận ra trong cái chết của Emilia một hành vi thù nghịch cuối cùng và quyết liệt nhất nàng dành cho tôi. 

Nhưng tôi vẫn phải tiếp tục sống. Ngày hôm sau tôi vớ lấy chiếc va li mà tôi chưa mở ra, khóa cửa căn hộ với cái cảm giác đóng lại một ngôi mộ, giao chìa khoá cho người gác dan, nói cho ông ta biết là tôi muốn bán tống, bán tháo căn hộ ngay sau khi tôi đi nghỉ về. Đoạn tôi đi Capri một lần nữa. Điều lạ lùng là tôi cảm thấy mong ước trở về đó, với hy vọng bằng cách này hay cách khác, ở cùng một nơi nàng đã từng hiện ra với tôi hay ở một nơi nào khác, Emilia sè hiện ra lại cùng tôi, và khi đó, tôi sẽ giải thích cho nàng biết mọi chuyện đã xảy ra như thế nào, tôi sẽ thố lộ tình yêu của tôi đối với nàng và tôi sẽ được nàng đoan chắc với tôi ràng nàng hiểu tôi và yêu tôi . Hy vọng này tự nó là một điều điên rồ, tôi biết thế. Chưa bao giờ tôi ở vào một trạng thái gần như điên loạn như thế, bập bềnh giữa lòng ghê sợ thực tế và ao ước cái hư ảo. 

May mắn thay, Emilia không hiện ra với tôi một lần nữa, khi ngủ cũng như khi thức. Và khi tôi so sánh thời gian khi nàng hiện ra với khi nàng chết, tôi phát hiện ra chúng khóp với nhau. Emilia hãy còn sống lúc tôi nghĩ là tôi trông thấy nàng ngồi ở cuối đuôi thuyền, nhưng có lẽ nàng đã chết trong thời gian tôi nằm ngất trên bãi cát ở đáy Hang Đỏ. Như vậy giữa cái chết và cái sống, không có sự phù hợp. Và tôi chẳng bao giờ biết được nàng đã là một bóng ma hay là một ảo giác, một giấc mơ hay một ảo tưởng khác. Tính hàm hổ huỷ hoại mối quan hệ giữa chúng tôi khi sống vẫn còn tiếp tục sau cái chết của nàng. 

Mơ tưởng đến nàng và tới những chỗ tôi nghĩ tôi đã trông thấy nàng lần chót, một hôm, tôi quay lại bãi biển bên dưới ngôi biệt thự, nơi tôi đã bất chợp bắt gặp nàng nằm trần truồng phơi nắng và có cái ảo tưởng đã hôn nàng. Bãi cát vắng hoe, và khi tôi từ sau những tảng đá bước ra, mắt hướng về khoản biển xanh tươi cười, ý nghĩa về Odyssey hiện ra trong trí tôi, với Ulysses và Penelope, Emilia đang ở trong khoảng biển bao la kia và nàng dã thuộc vào cõi vĩnh hằng, theo dáng dấp của nàng khi sống. Để tìm lại được nàng và tiếp tục câu chuyện trần thế giữa chúng tôi với một sự thanh thản mới mẻ, tôi phải dựa vào chính tôi chứ không phải vào mơ mộng hay ảo giác. Chỉ bằng cách đó, nàng mới được giải thoát khỏi tâm trí tôi, nàng mới thoát được những tình cảm của tôi, và sẽ cúi xuống đời tôi như một hình ảnh an ủi, một hình ảnh của cái đẹp. Và tôi quyết định viết những dòng hồi tưởng này ra với hy vọng thực hiện được lòng mong muốn đó. 

----------

Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. 

Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ.

Nhưng cũng giống như bông hồng vàng của người thợ quét rác kia được tạo ra vì hạnh phúc của Suzanne, sáng tác của chúng ta được tạo ra là để cho cái đẹp của đất đai, cho lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc, cho niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn người, cho sức mạnh của trí tuệ sẽ chiến thắng bóng tối, để chúng vĩnh viễn rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt".

Những đám mây xám nặng như chì xóa sạch sắc trời xanh, trĩu thấp lè tè trên mặt biển giá băng vừa thẫm tối, và dường như trên thế gian này chẳng còn gì khác ngoài những đám mây kia, ngoài cơn gió sắc như dao lồng lên từ giữa biển khơi và xuyên suốt thịt da người. Gió điên cuồng vần vũ hắt lại từ phía biển cơ man nào những hạt bụi nước đã biến thành những viên đạn băng, xoáy lên từ mặt đất từng bựng cát lạnh và sắc tựa kim châm. Mây đen ùn ùn lớn dậy, phình to, cuồn cuộn đùn lên như mực nho kín nghịt chân trời. Sóng gào, gió rú át nhau, báo hiệu rằng bão tuyết chẳng còn xa nữa. 

Trên nền thế giới sầu thảm đó, nơi chỉ tồn tại mỗi ba màu đen trắng xám cừu địch lẫn nhau nhưng cùng sinh ra từ giá lạnh, chầm chậm bước một hình dáng lẻ loi nhỏ bé, cũng tuyền hai màu trắng đen như mọi vật chung quanh. Chân không tất, dép bện rơm, những dấu chân phơn phớt in trên cát dọc ven bờ biển; những làn sóng đói khát bèn hối hả thè cái lưỡi dài nghêu liếm sạch, nhe hàm răng bọt trắng rồi lập tức lùi phắt lại. Biển cùng gió đuổi theo gót kẻ bộ hành, chỉ chực nuốt chửng nguời đó, xé ra trăm mảnh, nghiền thành tro bụi, nhưng người đó vẫn can trường đi, đi mãi dọc khúc quanh bờ cát, thân vẫn thẳng, chỉ vạt áo kimônô đen cùng mép khăn trắng bịt đầu khẽ lay động theo chiều gió. 

Mặt đẫm mồ hôi, ngươi kiếm sống; 

Đời người khốn khổ, chẳng ra chi. 

Lao động, mỏi mòn, như thế mãi, 

Đến ngày thần chết gọi ngươi đi.

( Đoạn thơ tiếng Pháp cổ )

Mùa hè năm ấy có một cuộc sống mới hình thành và lớn dậy trong cơ thể mẹ cậu bé. Hawk nghĩ về nhiều điều, bắt đầu nhìn nhận xung quanh bằng con mắt mới. 

Mùa thu khi trở lại trường học, nó không còn tức giận mỗi lúc những đứa trẻ khác trêu chọc nó vì đôi mắt xanh. Hawk biết nó khác người nên cố gắng học để tốt hơn. 

Trước khi xuân sang, nó có một đứa em gái. Hawk để ý thấy cả em nó cũng khác nhưng không như nó. Cô bé có đôi mắt màu nâu to như mắt mẹ, nhưng tóc nâu như gốc cây thông. Nó được đặt tên là Cây Thông Nâu 

Vì mẹ phải dành thời gian chăm sóc đứa em gái bé nhỏ nên Hawk đảm nhận nhiều nghĩa vụ hơn trong gia đình. Hàng tuần, cha nó lui tới hai, ba lần, đem theo lương thực và quà cáp. Ông thường lưu lại vài giờ, thỉnh thoảng có lần tới nửa đêm, có lần tới gần sáng. Nhưng ông luôn đi khỏi trước rạng đông, vì thế nhiều trách nhiệm của người đàn ông trong nhà trút lên vai Hawk. 

Cả khi chú nó ốm cũng vậy. Người ta quyết định “đi lên núi lớn” để ông khỏe lại. Họ hàng gần xa phải đóng góp. Trong khi người khác góp cừu, dê để đãi khách, Hawk quyết định kiếm củi góp cho đốt lửa. 

Tan học, nó nghĩ ngay đến việc có thể kiếm được bao nhiêu củi cho đến khi trời tối. Tuyết có rơi chút ít cũng không ngăn cản được nó. Nhưng tuyết rời nhiều quá, những đám mây xám dày nặng trĩu. Tuyết đã dày hai zoll trên mặt đất, và thầy giáo da trắng tiên đoán sẽ có bão.

Ông thường ngồi phòng khách nghe chuông trên đài, trong lúc vợ và con gái bận rộn nấu nướng, dọn dẹp nhà cửa, sửa soạn xống áo, hay cắm hoa. Ôn lại năm cũ trong tiếng chuông ngân, ông thường nhớ lại một vài sự việc làm ông xúc động. Có năm, chuyện cũ có thể đau đớn hay tàn bạo, và nuối tiếc hay muộn phiền cắn xé tâm hồn, nhưng bao giờ tiếng chuông cũng tìm được đồng vọng trong tim ông, ngay cả những lúc ông đã chán từ nội dung đến giọng nói của xướng ngôn viên phụ trách chương trình. 

Ông trở lại bờ sông, chợt thấy bà già đang quét lá phong khô trên những bực thềm thoai thoải dẫn lên quán ăn bên cạnh. Bà cho biết quán vẫn còn mở. 

Ông nói: 

«Ở đây yên tĩnh quá.» 

Bà bảo: 

«Đúng vậy, yên tĩnh đến nỗi tiếng người nói bên kia sông nghe cũng rõ.» 

Tiệm ăn náu mình dưới một lùm cây, mái rạ cũ dầy và sũng nước. Cổng vào tối và khuất, khó có ai nghĩ đây là một tiệm ăn. Sau mái rạ, ba bốn cây thông tía thân thẳng mọc dựng lên sừng sững. 

Ông được dẫn vào căn phòng trang hoàng theo lối Nhật. Tiệm vắng khách. Nhìn qua ô cửa, ông thấy những trái dâu đỏ hoe ngoài vườn. Không phải mùa, nhưng ông vẫn nhận ra một bụi đỗ quyên. Mấy cây dâu, mấy gốc tre và mấy cây thông tía ngăn tầm mắt, nhưng qua kẽ lá, ông thấy hồ nước tĩnh lặng màu ngọc thạch. Ông nảy ý niệm so sánh, thấy ngọn núi cũng tĩnh lặng như hồ nước. 

Than hồng âm ỉ trong lò sưởi hầm dưới chân. Tựa tay lên bàn, ông ngồi nghe vẳng lại tiếng chim hót và tiếng gỗ súc đang được bốc lên. 

Có tiếng còi tầu chạy ra từ hầm núi phía tây, âm thanh sầu não như tiếng trẻ sơ sinh khóc... Ông chạnh lòng nhớ hồi ấy Otoko mới mười bảy tuổi, mang thai mới tám tháng thì đẻ non. Người ta không cứu được em bé và Otoko không thấy mặt con gái. 

Phía tây, trời mỗi lúc một rực đỏ. Màu tía nhiều cung bực đến nỗi ông nghĩ phải có lớp mây mỏng hay sương khuếch xạ mới ra như vậy. Ráng trời hừng hực làm lòng ông thao thức. Rồi màu nhạt tối dần chuyển sang màu đậm, nhòe nhoẹt như ai cầm cây cọ lướt trên mặt giấy ướt. Ông nghe mùa xuân sắp tới. 

Có chút hồng tại một khoảng chân trời, có lẽ chính nơi mặt trời vừa lặn. Oki nhớ đến chuyến tầu đầu năm đi thăm Kyoto, mặt trời lặn làm đường rày đỏ như son suốt một khoảng dài. Tầu chạy ven biển, khi rẽ vào bóng râm của núi, màu đỏ của đường rày tắt đi. Khi tầu vào đến trong khe thì chiều đổ xuống.

Không hiểu vì sao khi nhìn qua cửa sổ, tôi cảm thấy ngôi nhà đối diện cũng trở nên rệu rã và âm u, lớp vữa trên dãy cột lở ra, rơi xuống, các mái gờ đen đúa, nứt nẻ và những bức tường từ màu vàng tươi trở nên xám xịt, loang lổ. 

Hay là tia nắng mặt trời vừa mới ló ra đã lại ẩn trốn vào sau lớp mây ẩm ướt, và tất cả trở nên u ám hơn trong mắt tôi; hay là, có thể, trước mắt tôi vụt thoáng qua một cách thê lương, buồn thảm toàn bộ viễn cảnh tương lai của tôi, và tôi đã nhìn thấy mình đúng như tôi bây giờ, chẵn mười lăm năm sau, đã già đi, vẫn trong căn phòng này, vẫn cô đơn như xưa, vẫn với mụ Mat'rena không hề sáng dạ thêm chút nào sau ngần ấy năm. 

Nhưng anh đâu có mang lòng oán hận, Naxtenca! Anh chẳng bao giờ xua mây đen làm vẩn đục hạnh phúc trong sáng êm đềm của em, anh chẳng bao giờ trách móc cay đắng để gieo nỗi buồn vào trái tim em, làm nó đau bằng nỗi day dứt giấu kín và bắt nó đập buồn bã trong những phút giây hoan lạc, anh chẳng bao giờ làm nát dù chỉ là một trong số những bông hoa dịu dàng mà em cài lên mái tóc đen quăn khi em cùng với anh ta đi đến trước ban thờ... Ồ, chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Anh cầu mong cho bầu trời của em mãi mãi sáng trong, nụ cười hiền dịu của em mãi mãi rạng rỡ, vô tư, cầu Chúa ban phước lành cho em vì một phút hoan lạc và hạnh phúc em đã trao cho trái tim khác, một trái tim cô đơn và mãi mãi biết ơn! 

Lạy Chúa tôi! Một phút hoan lạc! Chẳng lẽ chừng ấy còn là ít dù cho cả một đời người ?...

Trời mưa tầm tã. Chiếc xe xà lim hết bò lên dốc rồi lại bò xuống dốc chậm chạp trên con đường trơn ngoằn ngoèo uốn lượn theo sườn đồi.

Một tiếng rú lên đâu đó, xuyên qua các bức tường đệm, vang lên giữa cơn bão tố tung hoành làm rung chuyển các cửa mở của khu nhà. Tiếng thét, không giống người, không phải tiếng kêu đau khổ, sợ hãi, mà là tiếng một kẻ đần độn, khùng điên. Nó bùng ra càng lúc càng cao trong tắc nghẹn rồi chuyển sang điệu rền rĩ bi thương của một người điên than vãn về số phận của mình. 

Carol nằm dài, tay trần, tóc xõa như một vành ánh lửa trên gối; ánh trăng chiếu lên khuôn mặt xinh đẹp và khi hắn bước vào, cô mở mắt. Hình như cô không sợ sệt gì. Đôi mắt to lặng yên.

Lisette de Valmy rà bàn chân trên mặt đường rồi chống hẳn xuống và từ từ thắng xe đạp lại. Những chậu hoa thủy tiên và hoa nghệ cây đang nở rộ , màu sắc sống đng cuả chúng nổi bật trên nền đá Na Uy xám xịt cuả những ngôi nhà mới lợp mái. Những sắc hoa rạng rỡ chỉ làm cho cơn thịnh n cuả nàng bừng lên mãnh liệt hơn. Vẻ bình dị , nét đặt trưng cuả loài hoa giờ đây chỉ còn trong quá khứ. 

Nàng khoảgn mười tám tuổi , có lẽ mười chín tuổi cũng nên , đúng là mt trái ngon chín mọng chờ người đưa tay hái. Mái tóc sẫm màu óng ả phủ xuống vai , chếch dần lên ở hai bên ôm lấy những đường nét tuyệt mỹ cuả đôi má. Miệng nàng đỏ thắm , khóe môi hơi trễ xuống khiến nàng có vẻ yéu đuối nhưng lại mời mọc quyến rũ , đường nét thanh tú cuả chiếc cằm lại toát ra sự bướng bỉnh khiêu khích.

Qua ngày hôm sau, tôi vội vàng tìm đến nhà người khách lạ. Đó không phải là một việc dễ dàng, vì sương mù dày đặc đã xâm chiếm cả thành phố, làm cho đèn đuốc ngoài đường đều gần như tắt hẳn. Một nhà nghệ sĩ có thể nhận thấy vẻ đẹp lãng mạn của thủ đô Anh Quốc vào cuối mùa thu trong cảnh sương mù bao phủ; nhưng riêng tôi thì tâm trí tôi mõ màng vớ vẫn ở đâu đâu, nên tôi không nhìn thấy gì cả và cũng không cảm thấy khó chịu.

Một cánh cửa lớn và nặng từ trong bóng tối thình lình hiện ra trước mắt tôi, làm cho tôi tỉnh giấc mơ và quay về thực tế. Hai ngọn đèn lồng ở hai bên cổng vào do hai cây trụ sắt uốn cong nâng đỡ, giống như hai cánh tay mở rộng để đón tiếp tôi. Qua khỏi cổng, vừa bước vào nhà, tôi lấy làm ngạc nhiên vì người Ấn Độ mới quen không có nói trước cho tôi biết về cảnh nhà sang trọng quý phái của y. Tôi có cảm giác như bước vào một nõi cung thất của phương Ðông, với cách trang trí rất lịch sự. Trên vách có treo những tấm thảm thêu rồng, và những tấm nệm màu mè sặc sỡ thì trải trên sàn gạch, bàn chân bước lên trên nệm đi êm như nhung. Một tấm da cọp rất lớn đặt trên nệm ở phòng khách gần bên lò sưởi. 

Trong một góc phòng có một cái bàn nhỏ, trên đó có đặt một cái trang thờ bằng ngà và thếp vàng. Trong trang, tôi thấy một pho tượng nhỏ, chắc hẳn là tượng Phật ngồi kiết dà, gương mặt yên lặng, mí mắt hé mở. 

Chủ nhà bước vào phòng và tiếp đón tôi một cách vui vẻ. Y mặc một bộ dạ phục rất đẹp. Tôi nghĩ rằng một người như vậy có thể hòa mình với mọi giới thượng lưu trong xã hội. Vài phút sau, chúng tôi đã ngồi vào bàn ăn. Những món ăn toàn là cao lương mỹ vị: đó là lần đầu tiên mà tôi thưởng thức món cari Ấn Độ, và từ đó về sau tôi vẫn không quên mùi vị đặc biệt của nó. 

Khoảng nửa đường từ West Egg tới New York thì đường xe hơi sẽ nhập lại đi song song với đường xe lửa, khoảng một phần tư dặm, để tránh đi ngang qua một vùng đất phế bỏ điêu tàn. Vùng thung lũng này chỉ chứa đầy tro tàn, đúng là một thung lũng tro tàn rộng lớn không tưởng nổi, nơi tro tàn nằm bao la như những ruộng lúa mì, vun lên thành gò, thành đống, thành đồi, thành những khu vườn mang những hình dáng kỳ quái. Tro tàn ở đây được chất thành đống cao như những căn nhà có những lò sưởi đang thả khói. Xa xa thấp thoáng bóng dáng mập mờ của những người đàn ông đang ra sức cố gắng di động một cách xiêu ngã trong làn không khí bụi bặm. Thỉnh thoảng một đoàn tàu xám ảm đạm bò chậm chạp dọc theo những đường rầy mập mờ nhìn không thấy rõ, phát ra những tiếng rít kót két rùng rợn, sau đó thì ngừng hẳn. Ngay lập tức những người đàn ông xám bụi kia kéo bầy bu lại mang theo những cuốc xuổng nặng nề đến khơi xúc, tạo nên một lớp mây bụi mù mịt không xuyên thủng, che khuất đi những hoạt động làm việc của họ. Thế nhưng phía trên vùng đất xám và đám bụi mịt mờ di động không ngừng kia, nếu nhìn kỹ một lát ta sẽ thấy cặp mắt của bác sĩ T. J. Eckleburg trên tấm biển quảng cáo cao. Cặp mắt mang màu xanh dương to khổng lồ, đôi con ngươi cao khoảng một thước. Cặp mắt không nhìn ra từ trên một khuôn mặt nào cả, mà là nhìn ra từ một đôi kính trắng màu vàng khổng lồ nằm trên một chiếc mũi mập mờ không rõ. Hiển nhiên, một bác sĩ nhãn khoa tinh nghịch nào đó đã dựng tấm bảng quảng cáo này lên để dụ khách cho văn phòng của mình ở khu Queens, nhưng rồi sau đó đã bị mù vĩnh viễn hay đã dọn đi nơi khác, bỏ quên đôi mắt lại nơi này. Thế nhưng, cho dù đôi mắt đã bị phai nhạt màu vì trải qua những ngày tháng mưa nắng không được sơn sửa, chúng vẫn luôn đứng ở đó nghiền ngẫm ngắm nhìn bãi đất h0ang nơi tồn chứa tro than đốt từ rác rưởi phế thải dư thừa. 

Bọc theo bên hông của thung lũng tro tàn là một con sông nước đục ngầu dơ bẩn. Khi chiếc cầu sắt trên sông được kéo lên để cho những xà lan đi ngang thì hành khách đang đợi trên những toa xe lửa lúc đó có thể chứng kiến khoảng cả nửa tiếng đồng hồ cái cảnh trí ảm đạm ở đây. Làm cách gì đi nữa thế nào xe cộ cũng bị nghẽn lại ở đó ít nhất là một phút, vì vậy tôi đã có dịp gặp mặt cô tình nhân của Ton Buchanan lần đầu tiên. 

Hai người họ đã quên hẳn tôi. Tuy Daisy có liếc lên nhìn và đưa tay mình ta chào tôi, Gatsy thì dường như chẳng còn biết tôi là ai. Tôi nhìn hai người họ một lần nữa, và họ cũng nhìn lại tôi, xa vắng, hoàn toàn bị chiếm ngự bởi sức sống mãnh liệt trong người. Sau đó tôi đi ra khỏi phòng và bước xuống những bậc thềm đá hoa cương vào trong cơn mưa, để hai người họ lại phía sau.

Xin hãy cho chúng tôi tiếng nói 

Khi mảnh chai nổi lên, cả một dân tộc chìm xuống 

Tận đáy vực sâu 

Từ những nấm mồ tập thể trên một mảnh đất vốn rất hiền dịu 

Máu của họ thấm sâu xuống lòng đất mẹ 

Hồn ma đau đớn của họ thì thầm với nàng 

“Tại sao điều này đã xảy ra?” 

Tiếng họ vọng lại từ cõi âm 

Gào lên qua linh hồn của những người sống sót 

Cương quyết đòi cảm thông, họ van nài với thế giới: 

Xin hãy nhớ đến chúng tôi! 

Xin hãy nói thay cho chúng tôi! 

Xin hãy mang lại cho chúng tôi công lý!

Tôi thức giấc, hoảng loạn. Trời vẫn tối đen. Quá khứ lại săn đuổi tôi một lần nữa. Ký ức đã mang tôi trở lại trong các giấc mơ hãi hùng của mình, một người lữ hành bất hạnh, ngay cả khi tôi không còn ở Cambodia nữa. Trong các cơn ác mộng này tôi vẫn cố gắng giữ một lời hứa thưở thơ ấu mà tôi đã nói với hương hồn mẹ tôi, người đến với tôi trong giấc ngủ từ hai mươi năm trước. Một lời hứa nói ra trong giấc mơ mà cho đến hôm nay tôi vẫn phải trân trọng. 

Khi chiếc xe buýt chuyển bánh, tôi nhìn lại ngôi nhà như để chụp lại một tấm ảnh cuối cùng. Bằng cặp mắt, tôi vuốt ve tất cả những gì tôi thấy, hàng cây tùng, cái xích đu bên cạnh hàng cây xoài im mát gần hàng rào, ban công treo những cây trường sinh lắc lư. Tôi nhớ cả nhà thường ra ngồi ngoài này cùng nhau hưởng ngọn gió ấm buổi tối. Tôi hay bắt những con đom đóm bay vù vù gần những chậu cây trường sinh này. 

Vẻ duyên dáng uyển chuyển của Elise Grandeaux bổ túc cho nét lịch lãm, dạn dĩ của chàng; làn da trong sáng tuyệt vời của cô làm tăng vẻ đẹp cho nước da ngăm đen của chàng.

Một con đường cái đẹp đẽ từ Ixopo vào miền đồi núi. Đồi miền này nhấp nhô, cỏ xanh mướt, đẹp không sao tả xiết. Con đường tiến vào đó, leo mười hai cây số tới Carisbrooke; và ở đây, khi nào không có sương mù, nhìn xuống dưới chân người ta có thể thấy một trong những thung lũng đẹp nhất của Châu Phi. Bốn bề là cỏ và phượng vĩ (1), văng vẳng tiếng kêu khắc khoải của con titihoya (2), một con chim ở miền đồng cỏ. Ở dưới chân là dòng sông Umzimkulu bắt nguồn từ Drakensberg và chảy ra biển; phía bên kia sông, trùng trùng điệp điệp, hết đồi này tới đồi khác, và sau những đồi đó là dãy núi Ingeli và Đông Griqualand (3). 

Cỏ tốt và rậm, phủ kín mặt đất. Nó giữ nước mưa và sương, nhờ vậy mà nước mưa và sương thấm xuống đất, thành những dòng suối chảy ra các khe. Cỏ được giữ gìn kỹ lưỡng: ít bò lại ăn mà cũng ít có đám cháy tàn phá nó làm cho nó chết dụi. Bạn nên cởi giầy mà đi vì đất đó thiêng liêng, từ hồi khai thiên lập địa nó ra sao thì nay nó vẫn vậy. Bạn nên duy trì nó, bảo vệ nó, nuôi dưỡng nó vì nó duy trì con người, bảo vệ con người, nuôi dưỡng con người. Diệt nó thì con người sẽ bị diệt. 

Chung quanh chỗ bạn đứng đây cỏ tốt và rậm phủ kín mặt đất. Những dãy đồi xanh tốt phì nhiêu này đứt quãng. Nó tiến xuống phía thung lũng và càng xuống nó càng thay đổi. Nó hóa ra đỏ hoe và trụi; nó không còn giữ nước mưa và sương được nữa, mà các dòng suối cạn khô ở dưới khe. Nhiều bò lại ăn cỏ quá và nhiều đám cháy tàn phá nó. Ở đó, bạn nên đi giầy vào, vì đất nhám và cứng, đá nhọn, sẽ cắt gan bàn chân bạn đấy. Cỏ ở đây không được duy trì, bảo vệ, nuôi dưỡng, nó cũng không duy trì con người, bảo vệ con người, nuôi dưỡng con người nữa. Đã từ lâu lắm, không còn nghe thấy tiếng kêu khắc khoải của con titihoya. 

Những ngọn đồi lớn đỏ hoe vươn lên tiêu điều, và đất rớt ra từng mảng như da thịt ở cơ thể rã ra vậy. Chớp loé lên sáng rực, mưa trên trời trút xuống, các dòng sông đã cạn khô lại hồi sinh, đầy nước đỏ như máu của đất. Dưới thung lũng, bọn đàn bà rán vun cào chút đất còn lại để trồng bắp, và bắp may lắm cao được tới đầu người. Chỗ đó là thung lũng của các ông già bà cả, của đàn bà và trẻ con. Bọn đàn ông đi hết rồi, bọn thanh niên, trai gái đi hết rồi. Đất không thể nuôi họ được nữa. 

Mọi người không hẹn mà cùng quay về phía cánh cửa. 

Kẻ vượt thời gian ở trong một tình trạng thê thảm. Chiếc áo khoác bám bụi dơ bẩn, tay áo dính bê bết màu xanh. Tóc hắn rối bù, tôi có cảm tưởng đã bạc hẳn đi - không hiểu vì bụi bám hay vì thực sự thay màu. Mặt hắn xanh như tàu lá. Cằm hắn có một vết đứt chưa lành hẳn. Nét mặt hắn khốn khổ và mệt mỏi, như đã trải qua những đau đớn ghê gớm. Hắn đứng phân vân ở ngưỡng cửa một chút, như bị chói mắt bởi ánh đèn. Rồi hắn bước vào, khập khiễng như một kẻ bụi đời bị bệnh đau chân. Chúng tôi im lặng nhìn, chờ đợi hắn lên tiếng. 

Đến trưa họ băng qua dải phân cách và ngoảnh lại nhìn nông trại lần chót. Mấy anh em đăm đăm ngắm nhìn cảnh vật chẳng hề bớt đẹp chút nào trong gió rét căm căm mang không khí trong sạch, dù đã ở xa hai mươi dặm nông trại trông vẫn đẹp và gần gũi.

Nhìn vào những đồ vật mà anh ta đã để ra một chỗ, tôi có ấn tượng là đang nhìn một thứ mộ phần danh dự. Những bông hoa xum xuê của tháng Năm càng làm tăng cảm giác này. Cái mũ phản ánh sắc đen huyền của vành lưỡi trai, và thanh kiếm cùng cái thắt lưng da treo ngay bên cạnh, tất cả đều đã tách rời khỏi thân mình anh ta ra một vẻ đặc biệt trữ tình. Chính tự chúng cũng hoàn toàn như là ký ức của tôi về chàng sinh viên ấy - thật vậy, đối với tôi chúng trông giống như những di vật của một trang thanh niên anh hùng sau khi đã lên đường ra trận. 

Thân mình Uiko dường như là một sự kết tụ những ý nghĩ của tôi, chìm đắm trong một bóng tối mịt mù, vừa trắng trẻo mà vừa mềm mại, cuối cùng kết tụ lại thành hình thịt da ngọt ngào hương thơm. Tôi thường hay nghĩ tới sự nồng ấm mà những ngón tay tôi sẽ cảm thấy khi sờ vào làn da thịt này. Tôi cũng nghĩ tới cảm giác mềm mại dẻo dai dưới đầu ngón tay và làn hương thơm có lẽ giống như hương thơm của phấn hoa vậy.

Tôi chạy thẳng theo con đường còn tối mịt mù. Những cục đá không làm cho tôi chệch choạng bước chân và màn tối mở rộng trên con đường trước mặt. 

Tôi tới một nơi mà con đường mở rộng sau khi chờ đợi. Tôi đã chạy hết hơi tới đây, nhưng bây giờ đã nghỉ ngơi dưới bóng cây cử; chính tôi cũng không biết mình định làm gì nữa. Tuy nhiên, tôi đã biết sống cách biệt thế giới bên ngoài quá nhiều và do đó đã ôm ấp ảo tưởng rằng một khi nhẩy vọt ra thế giới bên ngoài, việc gì cũng trở nên dễ dàng, việc gì cũng có thể làm được. 

Và rồi tôi cảm thấy mình hóa đá. Ý chí của tôi, dục vọng của tôi - tất cả đều biến thành đá hết. Thế giới bên ngoài đã mất hết tương quan với thế giới bên trong của tôi, và một lần nữa, lại bao vây lấy tôi và khoác lấy tấm áo hiện hữu tích cực. Cái “Tôi” đã lén lút lẻn khỏi nhà ông chú, đã xỏ chân vào đôi giầy tập thể dục màu trắng và đã chạy theo con đường còn tối mịt mờ cho đến lúc tới cây cử này - cái “Tôi” này chỉ thúc đẩy con người bên trong của mình xả hết tốc lực mà chạy đến đây. Trong những mái nhà trường nét mịt mờ của thôn làng mới nhô khỏi bóng tối của bình minh, trong những lùm cây tối đen, trong những mỏm núi đen xì của rặng Thanh Diệp Sơn, phải, và ngay cả trong Uiko lúc này đang đứng trước mặt tôi, hoàn toàn không có một ý vị nào hết. Có một cái gì đó đã ban cho tất cả những cái này một thực tại to lớn, vô nghĩa, đen ngòm đã được đem cho tôi, đè nén lên tôi với một sức nặng từ xưa đến giờ tôi chưa từng thấy. 

Như thông lệ, tôi nghĩ chỉ có lời nói là có thể cứu thoát tôi khỏi tình trạng này. Đó là một ngộ nhận đặc biệt của tôi. Khi cần phải hành động, tôi luôn luôn chuyên chú đến ngôn từ, và vì ngôn từ chui ra khỏi miệng tôi một cách khó khăn như thế nên tôi chỉ chuyên tâm nghĩ đến chúng và quên hết mọi hành động. Tôi thấy đường như hành động vốn là những việc chói lòa, rực rỡ, luôn luôn phải có những ngôn từ cũng chói lòa, cũng rực rỡ như thế đi kèm. 

Bức tường ngôi chánh điện dựng ngay sát bên cạnh dòng sông. Cỏ hoang mọc đầy trên những tảng đất long lở, bông cỏ trắng phau lấp lánh trong đêm. Gần cổng vào chính điện cây sơn trà đang tưng bừng nở hoa. Toán chúng tôi lặng lẽ cất bước dọc theo bờ sông. 

Giữa những vì sao, giữa những áng mây êm, giữa những núi đồi viền lấy bầu trời với nhiều hình bóng tráng lệ của các chòm cây tùng bách nhọt hoắt, giữa những đốm trăng lọt qua lá cành, giữa những tòa kiến trúc sừng sững long lanh trắng toát - giữa tất cả những cái đó, vẻ đẹp tươi sáng trong sự phản trắc do Uiko làm tôi say mê. 

Ở Kyoto tôi chưa bao giờ chứng kiến một cuộc không tập, nhưng có một lần khi được phái tới công trường chính ở Osaka để mua một số bộ phận máy bay tình cờ có một cuộc không tập và tôi đã thấy người ta khiêng trên cáng một công nhân bị thương ruột gan lòi cả ra ngoài. 

Ruột gan lòi ra ngoài thì có gì là thê thảm? Tại sao, khi nhìn thấy nội tạng một con người chúng ta lại khiếp sợ và che mắt đi? Tại sao người ta lại xúc động khi nhìn thấy máu chẩy? Tại sao nội tạng con người lại khó coi? Thế nó không đồng chất với da thịt mát mịn đẹp tươi hay sao? Nếu tự tôi bảo cho nó hay rằng chính do nó mà tôi đã đọc được cái lối suy nghĩ này - cách suy nghĩ đã biến sự xấu xí của riêng tôi thành hư vô chẳng hay Tsurukawa sẽ thộn mặt ra làm sao? Tại sao dường như có cái gì phi nhân trong việc coi con người giống như những bông hồng và không chịu phân biệt phần tinh thần bên trong với phần nhục thể bên ngoài? Ước chi con người có thể lộn ngược tinh thần và nhục thể từ trong ra ngoài giống như những bông hồng và duyên dáng phơi bày phần bên trong của mình dưới gió nhẹ mùa Xuân, dưới ánh sáng của mặt trời tháng năm.

Tôi nhảy ra khỏi giường rồi len theo cửa hậu của tiểu thư viện mà đi ra ngoài. Sau Lộc Uyển tự và phía đông Tịch Giai đình ngọn núi là Bất Động Sơn đứng sừng sững. Những cây xích tùng bao phủ ngọn núi và giữa những đám cỏ gianh mọc đầy quanh các gốc cây, chen lộn những cây trịch trục, cây quán mộc và nhiều thứ cây tương tự. Đã quá quen thuộc với những ngọn núi này nên giữa đêm tôi có thể mò đường leo lên mà không hề vấp váp gì hết. Leo lên đỉnh núi người ta có thể thấy miền Thượng Kyoto và Trung Kyoto cùng ngọn Duệ Sơn và Đại Văn Tự Sơn ở phía xa hơn. 

Tôi leo lên dốc núi giữa những tiếng chim nháo nhác vỗ cánh vì sợ hãi; tôi không nhìn sang bên và cố tránh những những gốc cây đã bị đốn. Tôi cảm thấy nhờ bấu víu, leo trèo như thế đầu óc không nghĩ gì mà bỗng nhiên tôi khỏi được bệnh. Khi leo lên đến đỉnh núi, một làn gió lạnh ban đêm thổi tới lùa vào thân mình: tôi đang ướt đẫm mồ hôi. 

Quang cảnh trước mắt làm tôi ngạc nhiên nghi ngờ chính cả mắt mình. Từ lâu rồi người ta đã bãi bỏ hạn chế đèn lửa trong thị xã Kyoto và bây giờ ánh đèn trải dài đến tít phía xa như một biển ánh sáng. Quang canh này đối với tôi hầu như một phép lạ, vì kể từ khi chiến tranh chấm dứt tôi chưa một lần nào tới chỗ này về ban đêm cả. 

Những ngọn đèn điện tạo thành một lập thể. Những ngọn đèn ấy rải rác khắp một bình diện rộng rãi làm người ta mất hết cảm giác ở gần hoặc ở xa; trước mặt tôi dường như có một tòa đại kiến trúc trong suốt mắc đầy đèn điện đang nhô lên trong đêm tối, như đang trải rộng những dực lâu thành những ăng ten phức tạp. Có như thế mới đáng gọi là nơi đô thị. Chỉ có khu rừng quanh hoàng cung là không có ánh đèn và trông giống như một động lớn đen ngòm. Thỉnh thoảng từ hướng núi Duệ Sơn lại có một tia chớp lóe lên trên bầu trời đêm đen tối. 

Tôi nghĩ: “Đây là cuộc đời trần tục. Bây giờ chiến tranh đã chấm dứt người người đang bị những tư tưởng tà ác thôi thúc lăng quăng chen chúc dưới những ngọn đèn này. Biết bao đôi trai gái đang đắm đuối nhìn mặt nhau dưới những ngọn đèn này, và mùi của cái hành vi giống như cái chết vốn đã trực tiếp thúc bách họ đang bốc lên dưới mũi họ. Khi nghĩ rằng những ngọn đèn điện nhiều vô số này đều là những ngọn đèn của tà ác, lòng tôi thấy được an ủi. Xin để cho điều tà ác đang nằm trong lòng tôi nảy nở thực nhiều, nẩy nở mãi mãi để nó có thể tương ứng hoàn toàn với làn ánh sáng của những ngọn đèn trước mắt tôi kìa! Xin để cho sự đen tối đang bao phủ tim tôi được ngang hàng với sự đen tối của đêm hôm đang bao phủ những ngọn đèn nhiều vô số kể kia!” 

Trời hãy còn tối. Bầu trời còn sao. Dưới ánh sao sáng bờ đường lát đá trải dài mơ hồ đến cửa Sơn Môn, những bóng cây lịch to lớn, những cây mai và những cây tùng vươn rộng ngoằn ngoèo trên mặt đất, bóng này tan biến vào bóng kia ở bên cạnh che kín cả mặt đất.Căn nhà này trong khá mong manh, có hai ông khói, nhiều cửa sổ chấn song đan chéo nghiêng nghiêng và có mái kính che ôn thất để ươm cây; tuy nhiên toàn cảnh đã bị cái hàng rào sắt làm hư hỏng hết cả; hàng rào này, vươn lên cao ngất phía bên kia đường gần khu sân chơi đại học, hiển nhiên là đã được dựng lên vì những lời kháng nghị của chủ căn nhà đó. 

Bầu trời vần vũ, nhưng thỉnh thoảng mặt trời cũng ló ra ánh sáng chói lọi. Có những đám mây sáng rực trắng xóa, y như bộ ngực trắng nõn của một người đàn bà mà mình có thể loáng thoáng nhìn ra qua bao nhiêu lớp vải, nhưng ở phía xa hơn, màu trắng ấy trở nên mơ hồ, và tuy mình vẫn có thể ngó mặt trời ở chỗ nào, song thực ra mặt trời đã chìm tan với màu sắc đều đặn buồn bã của bầu trời. 

Đang bận bịu với những ý nghĩ vẫn vơ, trống rỗng này thì tôi nhìn thấy một bóng người đang đi trên con đường lớn ở trước cổng chùa. Vào giờ này không có một dấu vết gì của những đám người đến vãn cảnh vào ban ngày, chỉ có hàng thông tắm ánh trăng và đèn trước mũi xe hơi tràn ngập bóng đêm khi xe đang chạy ngược chạy xuôi trên xa lộ cách chỗ tôi đang đứng

Tôi cảm thấy dường như những âm thanh ấm ức, tắt nghẹn chưa chịu thoát ra ấy tồn tại xác thực ở một nơi nào đó trong cái thế giới tĩnh mịch, chan hòa ánh trăng này. Nếu như tôi đạt tới và đánh thức những âm thanh ấy sau nhiều phen cố gắng khác nhau thì tôi cũng đã thỏa mãn lắm rồi.

Kinh nghiệm tổng quát của tôi về cuộc đời dường như chỉ là một thứ số không. Giống y như trong một dẫy dài những tấm gương soi dưới hàng hiên một hình ảnh cứ phản chiếu mãi mãi cho đến vô hạn. Những sự vật mà tôi mới nhìn thấy đã phản chiếu rõ rệt trên hình ảnh những sự vật mà tôi đã nhìn thấy trong quá khứ và tôi cảm thấy mình đang bị những sự vật tương tự dẫn dắt đi sâu tới tận cùng hành lang, vào một căn phòng mênh mang tối tăm nào đó. Chúng ta không bao giờ đụng đầu với vận mệnh của mình một cách bất ngờ. Một người sau này bị hành án tử hình - cứ mỗi khi nhìn thấy một cột điện trên đường đi làm, cứ mỗi khi băng qua một khúc đường xe lửa - là anh ta lại luôn luôn mường tượng trong óc mình hình ảnh nơi hành án và rồi dần dần trở nên quen thuộc với hình ảnh đó.

ằm im như thế, em muốn nhìn anh, em đã nhìn anh nhiều lần rồi nhưng anh đâu có thuộc về em, và bây giờ anh là của em, anh đừng lại gần, anh yêu, xin đừng, cứ nằm tại chỗ như thế, ta có một đêm riêng tư, và em muốn nhìn anh, chưa bao giờ em thấy anh như bây giờ, thân xác anh là của em, da thịt anh, nhắm mắt lại, anh tự vuốt ve đi, em khẩn khoản cầu anh. 

Bạch nương nói, Hervé Joncour lắng nghe. 

Đừng mở mắt ra, nếu anh đủ sức nhắm mắt hoài, và anh tự vuốt ve đi, bàn tay anh đẹp biết mấy, em đã nằm mơ bao nhiêu lần khiến bây giờ em muốn nhìn nó, em muốn nhìn bàn tay anh như thế, trên da thịt anh, tiếp tục, em khẩn khoản cầu anh, đừng mở mắt ra, em đây, không ai có thể trông thấy chúng ta, và em đang ở bên anh đây, anh vuốt ve anh đi, ông chúa yêu quí của em, em khẩn khoản cầu anh, chậm rãi, dịu dàng. 

Nàng ngừng. Tiếp tục, tôi xin bà, anh nói. 

Nó đẹp lắm, bàn tay anh, đừng ngừng lại, em thích nhìn nó và nhìn anh, ông chúa yêu quí của em, đừng mở mắt ra, chưa đâu, anh đừng lo sợ gì cả, em đang ở bên anh đây, anh nghe được em không ? Em đây, vuốt nhẹ anh dịu dàng, lụa đấy, anh cảm thấy không ? lụa áo dài của em, đừng mở mắt và anh sẽ có da thịt em. 

Nàng nói, đọc nhỏ nhẹ, với giọng của một đàn bà - trẻ con. 

Anh sẽ có đôi môi em, khi nào em chạm vào anh lần đầu tiên, em sẽ chạm bằng môi, anh không biết chỗ nào, nhưng vào một lúc nào đó anh sẽ cảm thấy hơi ấm từ đôi môi em, trên người anh, anh không thể biết chỗ nào nếu anh không mở mắt, đừng mở mắt, anh, anh sẽ cảm thấy miệng em, anh không biết chỗ nào, bất ngờ, 

anh lắng nghe, bất động, từ cái túi nhỏ trên ngực áo vét xám của anh trồi ra ngoài một chiếc khăn tay trắng ngần, có lẽ trên đôi mắt anh, em sẽ ấn miệng em xuống trên mi mắt và lông mày, lông mi, anh sẽ cảm thấy hơi ấm đi sâu vào đâu, và đôi môi em trên mắt anh, trong mắt anh, em sẽ ấn môi em, chỗ đó, và em sẽ mở đôi môi ra từ từ khi đi xuống. 

Nàng nói, và đầu nàng cúi xuống trên những trang giấy, và nàng vuốt nhẹ cổ mình, chậm rãi, bằng đầu những ngón tay, anh lắng nghe, để ánh mắt mình dán vào cái khung ảnh bằng bạc, trống rỗng, treo trên tường. 

Rồi vào lúc cuối cùng em sẽ hôn lên chỗ trái tim anh, vì em muốn anh, em sẽ cắn ngập chỗ da thịt đập theo nhịp tim anh, vì em muốn anh, và khi em có được quả tim anh dưới môi em, anh sẽ thuộc về em, thật sự, với môi miệng em trong quả tim anh, anh sẽ thuộc về em, mãi mãi, nếu anh không tin em thì hãy mở mắt ra ông chúa yêu quí của em và nhìn em, em đây này, có ai bao giờ đủ sức xóa nhòa được cái khoảnh khắc này, thân xác em không còn lụa bao phủ, bàn tay anh vuốt ve, đôi mắt anh ngắm nhìn. 

Nàng nói, và nàng nghiêng mình về phía ngọn đèn, ánh sáng rọi lên những tờ giấy và xuyên qua chiếc áo dài mỏng suốt của nàng. 

Những ngón tay anh trên người em, lưỡi anh trên môi em, thân anh trượt duỗi thân em, anh kéo chặt hông em đẩy người em lên, rồi để thân em trượt trên anh, dịu dàng, có ai bao giờ đủ sức xóa nhoà được kỷ niệm này, anh ở trong em xê dịch chậm chạp, bàn tay anh trên mặt em, những ngón tay trong miệng em, niềm sung sướng hiện rõ trong mắt anh, tiếng nói anh, anh xê dịch chậm chạp, tất cả làm em gần như đau, niềm vui sướng của em, tiếng nói của em. 

Anh lắng nghe, vào một lúc nào đó anh quay người để nhìn nàng, anh thấy nàng, anh muốn hạ ánh mắt mình xuống nhưng thấy mình không thể làm được, thân em ở trên người anh, lưng anh nâng em lên, vòng tay anh không để em rời anh, những cú thúc, cú đẩy của anh trong người em, sự mãnh liệt và dịu dàng, em thấy mắt anh tìm kiếm ánh mắt em, đôi mắt muốn biết tới lúc nào anh làm em đau, cứ làm tới mức mà anh muốn, anh vui, ông chúa yêu quí của em, không có chấm dứt, không thể chấm dứt, niềm vui này, anh không thấy sao ? không ai đủ sức xóa nhòa khoảnh khắc này bao giờ, mãi mãi anh sẽ ngửa đầu ra sau, kêu lên, mãi mãi em sẽ nhắm mắt lại để những giọt nước mắt rơi khỏi mi, tiếng nói em ở trong tiếng nói anh, sự mãnh liệt khi anh ôm chặt em, chẳng còn thời gian để trốn tránh, chẳng còn sức lực để kháng cự, khoảnh khắc này phải có, khoảnh khắc này đã có, hãy tin em, ông chúa yêu quí của em, và khoảnh khắc này sẽ có, bây giờ và mãi mãi, nó sẽ có, cho đến lúc tận cùng. 

Nàng nói giọng nhỏ thôi, rồi im bặt. 

Không còn chữ nào nữa trên tờ giấy nàng cầm trong tay: tờ cuối cùng. Nhưng khi nàng lật nó để đặt lên bàn thì thấy ở trang sau còn có vài chữ được viết thẳng hàng cẩn thận, mực đen ở giữa giấy trắng. Nàng đưa mắt lên nhìn Hervé Joncour. Nàng bắt gặp ánh mắt của anh nhìn nàng từ bao giờ, và nàng chợt nhận ra đôi mắt đó đẹp tuyệt vời. Nàng lại hạ một lần nữa ánh mắt mình xuống trang giấy. 

- Chúng ta chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa, ông chúa của em . 

Nàng nói.

Theo bản năng, anh bỏ qua mọi thận trọng, cứ kể lại không bịa cũng không giấu tất cả những gì có thật, giản dị thế thôi . Anh kể ra những chi tiết nhỏ nhặt và những biến cố mâu chốt cùng một giọng đều đều, đơn điệu và rất ít điệu bộ, như thể tập tành theo cái nhịp không vui, lãnh đạm, thảng thốt của một người đọc danh sách những đồ vật sống sót sau cơn hoả hoạn 

Độ chừng hơn nửa giờ đi đường sau khi rời làng, anh bỗng dưng nghe một âm thanh lạ thường và trông như tiếng bạc phát ra từ một cánh rừng . Giấu mình giữa những tàng lá là hàng ngàn đốm sậm của một đàn chim dừng bay ở đây để nghỉ ngơi . Chẳng nói chẳng rằng với hai người tháp tùng, Hervé Joncour dừng ngựa , rút khẩu súng lục ra khỏi bao và bắn sáu phát lên cao . Đàn chim hoảng hốt đập cánh bay vút lên trời, trông như cột khói bốc lên từ một đám cháy . Đàn chim bay cao, rất cao, đến nổi ta còn thấy chúng cách đây mấy ngày đường . Chim bay làm bầu trời tối sầm, đâu có mục đích nào khác hơn là lạc một lối về . 

ervé Joncour vẫn tiếp tục cuộc sống khép kín trong nhiều ngày, ít khi chường mặt ra ngoài, và dành hết thời gian cho dự án cái công viên mà anh sẽ xây lên, một ngày kia. Anh bôi đen bao nhiêu tờ giấy với những hình vẻ kỳ quặc, trông như những cổ máy. Một buổi tối, Hélène hỏi anh. 

- Cái gì thế ? 

- Chuồng chim. 

- Chuồng chim à ? 

- Phải. 

- Để làm gì ? 

Hervé Joncour vẫn chăm chú nhìn các hình vẽ. 

- Em đem chim về bỏ đầy chuồng, nhiều chim chừng nào tùy sức em, và một ngày nào đó có chuyện xảy ra làm em sung sướng, hạnh phúc, em mở rộng cửa chuồng và em nhìn chúng bay ra, bay lên trời cao. 

Hervé Joncour còn sống thêm hai mươi ba năm nữa, khỏe mạnh và thanh thản phần lớn thời gian đó . Anh không bao giờ đi khỏi thị trấn Lavilledieu và cũng chẳng ra khỏi nhà . Anh quản lý khôn khéo tài sản mình, điều này giúp anh khỏi phải làm những công việc ngoài việc chăm sóc cái công viên . Với thời gian anh bắt đầu cho phép mình cái thú vui mà trước đây anh khăng khăng từ chối: kể những chuyến đi của mình cho những người đến thăm viếng anh . Nghe kể chuyện, dân ở thị trấn Lavilledieu biết đến thế giới, và trẻ em khám phá ra những điều kinh ngạc đáng phục . Anh kể chậm rãi, từ từ, nhìn trong khoảng không những thứ mà người khác không thấy . 

Ngày chủ nhật, anh xuống phố dự lễ cả ở nhà thờ . Mỗi năm một lần, anh đi một vòng những nhà máy sợi, để rờ vuốt lụa nõn vừa mới ra đời . Khi nỗi cô đơn bao phủ làm anh ngột ngạt, anh đi lên nghĩa trang, nói chuyện cùng Hélène . Thời gian còn lại dành cho những thói quen sinh hoạt đã thành nghi thức, giúp anh tránh được những nổi buồn rầu . Đôi khi, vào những ngày trời gió, Hervé Joncour đi xuống tận hồ và ngồi hàng giờ ngắm nhìn nó, vì hình như anh thấy phác hoạ trên mặt nước cái cảnh tượng nhẹ như lụa và không thể nào giải thích được, đời anh . 

Hết .

Anh ta ăn mặc rất hài hòa: chiếc quần may bằng vải phai len nhẹ màu lông lạc đà, hai ống quần may bó đùi rất kéo léo và dài vừa đủ để lộ một phần đôi giày màu lông bóng loáng; chiếc áo jacket được may bằng vải len có scọ màu nâu nhạt pha màu lông lạc đà buông nhẹ quanh vai anh ta như lớp đường caramen mịn phủ trên kem; một chiếc áo len mỏng dệt bằng len lông cừu màu nâu nhạt hơn mặc bên trong áo jacket; chiếc cổ áo sơ mi trắng không cài cúc để lộ sợi dây chuyền vàng lấp lánh ôm quanh cổ. Dù cách ăn vận như thế trông có vẻ tự nhiên, song rõ ràng trang phục của anh ta đã tạo nên một sự hài hào về màu sắc, rất hợp với nước da rám nắng và mái tóc màu vàng đỏ óng mượt của anh ta. Cô liếc nhìn gương mặt mang vẻ đẹp cổ điển của anh ta được phản chiếu qua gương, cái mũi thẳng, đôi gò má rộng và đôi hàng lông mày đẹp như vẽ. Cái miệng của anh ta – Ôi, nó quá hoàn hảo, quá sinh động, quá tươi tắn đến khó mà quên được. 

Bà ấy đang bối rối, nhưng vẫn rất mực đàng hoàng trong kiểu ngồi vắt chéo chân của mình. Bà ấy vận quần áo thật thanh lịch và hợp thời, mái tóc được uốn rất khéo khiến bà có một vẻ đẹp trẻ trung, duyên dáng. Trên cổ tay của người phụ nữ ấy có một chiếc vòng ngọc thạch lấp lánh cái thứ mà Herb Andeson đã nhạo bang. 

Vào giờ nghỉ trưa Ada rời khỏi máy bay của mình , mằt bà ánh lên niềm vui mà nhiều năm rồi không thấy xuất hiện . Quanh mắt bà đã xuất hiện nhiều nếp nhăn nhưng bản thân đôi mắt lại ngời lên sự mong đợi háo hức .Những tiếng bước chân lê lệt mệt mỏi của bà giờ đã thay thế bằng những bước đi nhanh nhẹn . Thậm chí Ada còn dùng cả son môi nữa . 

Ngày hôm sau trôi đi thật chậm chạp. Catherine cảm thấy đầu óc lâng lâng, thỉnh thoảng choáng váng. Cô soi gương, nhìn mình rất lâu, rồi áp hai bàn tay lên má, nhắm mắt lại, lắng nghe những nhịp đập hồi hộp của con tim. Cô mở mắt ra và tự nhắc nhở mình rằng đó có thể là một dự báo không đúng. Có lẽ Clay chỉ muốn gặp Melissa, muốn dành cho bố mẹ anh cơ hội nhìn thấy cháu nội trong một dịp lễ quan trọng mà thôi. Nhưng sau đó Catherine nhớ lại giọng nói của anh trên điện thoại, và cô biết rằng đó chính là điều cô đang mong ước. Cô nghĩ đến buổi tối sắp đến. Nhanh lên, hãy đến nhanh lên, ôi buổi tối! 

Cuối cùng, để giết thời gian, cô ôm Melissa đặt vào xe và đi phố mua thứ gì đó mới để mặc trong buổi tối. Cô len lỏi qua những đám đông đi mua sắm cho Giáng Sinh. Cô mỉm cười với những người cô không quen biết. Cô lầm rầm hát theo những bài Thánh Ca. Cô kiên nhẫn đứng đợi trước một hàng dài những người chờ thanh toán. Thậm chí cô còn nói chuyện với một ông già có bộ mặt đỏ bừng đang sốt ruột chờ đến lượt mình trả tiền. Một cảm giác hăng hái mới như nâng bổng cô lên khi cô thấy sự vui vẻ của mình làm dịu đi tâm trạng sốt ruột của ông già. Và cô nghĩ, đã thấy tình yêu có thể làm được gì chưa? 

Trở về nhà, cô đặt Melissa xuống cho con bé ngủ một lát để cô đi tắm. Tắm xong, cô đứng trước chiếc gương trang điểm lớn nhìn mình. Cô cảm thấy vui đến chóng mặt thấy mình vừa như trẻ con vừa như một người đàn bà. Cô đứng trong một dáng đứng hấp dẫn với chiếc khăn tắm che một phần cơ thể của cô, rồi cô thử một kiểu đứng khác, một vẻ mặt khác. Cô ghé đến gần gương hơn, cầm một lọn tóc nhỏ đã tuột ra khỏi búi tóc trên đỉnh đầu và nhìn nó bằng ánh mắt điệu bộ. Cô liếm môi, cho phép đôi môi cô hé mở, cụp mi xuống, thì thầm, "Chào anh, Clay". Rồi cô cố đứng quay lưng vào gương ngoái đầu qua vai nhìn lại gương, nói một cách ranh mãnh "Chào anh, Clay". Rồi cô quay người lại, vắt chiếc khăn tắm quanh cổ, đặt tay cô lên cặp đùi trần và nói một cách khêu gợi "Anh nói gì đi, Clay?". 

Nhưng đột nhiên cô thôi không diễn tập nữa; cô không có những tính cách cô vừa đóng. Cô không còn là một con bé con nữa, cô là một người đàn bà. Những gì đang xảy ra trong cuộc đời cô là thật, và đối với Clay, cô chỉ có thể là chính cô, Catherine chân thực. Catherine buông rơi chiếc khăn tắm. Cô đứng trước gương, nhìn cơ thể cô, mái tóc cô, khuôn mặt cô. Cô nhấc lọ nước hoa cô vừa mua lúc sáng lên, xức một chút nước hoa vào lòng bàn tay và thoa lên cánh tay, vai, cổ, và lưng. Cô lấy thêm nước hoa, vừa thoa vừa hít sâu vào lồng ngực cái mùi thơm êm dịu của nó, mùi thơm mà cô biết Clay ưa thích. Cô thoa nước hoa lên bụng, lên ngực, nhắm mắt lại trước cảm giác dễ chịu lan tỏa trong người. Đứng đó, cô nghĩ tới Clay, nghĩ đến cái đêm ở phía trước. Em muốn anh, Clay, cô nghĩ, em muốn anh từ rất lâu rồi. Cô hình dung ra bàn tay Clay vuốt ve da thịt cô. Cô mở mắt ra và lấy thêm nước hoa, và nhấc một chân lên bàn trang điểm và bắt đầu thoa nước hoa từ ngón chân thoa lên. Mình thật buông thả, cô nghĩ. Rồi cô lại nghĩ, không, mình là một người đàn bà với những ham muốn của đàn bà. Mùi thơm mà Clay yêu thích giờ đã phủ lên khắp cơ thể cô. 

Cô với lược và bắt đầu chải tóc, nhớ lại cái tối đầu tiên họ gặp nhau, nhớ lại các cô ở Horizons chơi trò phù dâu. Tối đó là lần thứ hai cô hẹn hò với Clay. Cô phục sức cho mình cẩn thận như các cô gái Horizons đã làm tối hôm đó. Cô mặc chiếc áo lót nhỏ và chiếc quần lót mà Clay không nhìn thấy trong đêm tân hôn của họ. Cô trang điểm kỹ đến nỗi việc trang điểm của cô trở thành một công trình nghệ thuật. Tuy nhiên, cô để tóc xõa, đơn giản, giống như trong lần đầu cô gặp Clay. 

Chiếc váy mới được may bằng vải sa mỏng màu nâu, suông và nhẹ. Nó không có cổ dựng, mà cổ của nó được khoét hình chữ V để lộ cái cổ dài kiêu hãnh của chủ nhân. Khi Catherine thắt chiếc dây lưng nhỏ xíu quanh váy, những đường nét trên cơ thể cô trông càng quyến rũ hơn. Cô cài khuy tay vào và đứng ngắm mình. Cô đặt bàn tay lên bụng, rồi đưa tay vén sợi tóc xòa trên má. Cô cảm thấy mùi nước hoa Charlie qua lớp vải sa mỏng. Cô đeo một đôi bông tai nhỏ bằng vàng và một sợi dây chuyền giản dị và đi đôi giày đen có dây cài. Cô chọn đôi giày đó bởi vì đó là đôi giày cao nhất mà cô có, vì cô biết Clay luôn thích phụ nữ đi giày cao gót. 

Cô nhận thấy rõ cô đang cố quyến rũ Clay, và trong một thoáng, cô cảm thấy tội lỗi. Nhưng đúng lúc đó, Melissa thức dậy cần cô đón, và thế là cô vội tới với con bé. 

oOo 

Nico Constantine đứng dậy, rời khỏi bàn chơi blackjack, mỉm cười với khắp xung quanh, quẳng năm mươi đô thưởng cô hồ lỳ xinh đẹp và đút vào túi mười hai đồng tiền vàng năm trăm đô sáng loáng. Sáu ngàn đô chẵn. Quả là không dở với nửa tiếng làm việc. Nhưng cũng chưa thật hay với một kẻ đã thua tới hai trăm ngàn. 

Nico quan sát hết lượt sòng bạc Las Vegas đang hồi sôi sục. Đôi mắt đen sẫm của chàng nhìn ngược nhìn xuôi giữa đám đông mà ai nấy đều đang bộc lộ hết cái bản ngã của mình. Mấy bà già nhỏ bé mặc váy hoa phô ra sức mạnh đáng ngạc nhiên khi những cánh tay gầy guộc của họ đưa lên, dứt khoát bỏ tiền vào khe máy chơi bạc. Những cặp vợ chồng hào nhoáng- trông ốm yếu và quá vàng vọt- đang nhặt những thẻ tiền tám chín mươi đô gì đó trên bàn rulet. Những ả điếm lang thang, cặp mắt trống rỗng linh hoạt hẳn lên khi nhìn theo những tay bạc bự. Những tay bạc bự mặc com lê rộng thùng thình bằng sợi tổng hợp thì đang mải miết hò hét trên bàn đánh xúc sắc bằng chất giọng Trung Mỹ của họ. 

Nico mỉm cười. Las Vegas luôn làm cho chàng thích thú. Tranh giành và hối hả. Được và thua. Toàn hão huyền hết. 

Một thành phố náo nhiệt dựng lên giữa sa mạc khô cằn. Hàng loạt biển đèn néon nhấp nháy chứa chấp tất cả các trò ăn chơi mà con người có thể biết đến, và một số kiểu chưa từng biết. Ở Las Vegas - nếu bạn trả tiền thì bạn có. Chỉ cần gọi tên điều bạn muốn. 

Chàng châm một điếu xì gà Havana bằng chiếc bật lửa Dunhill mạ vàng mỏng tang và mỉm cười , gật đầu chào những người tình cờ gặp ánh mắt chàng. Đây thì gã hồ lỳ, kia thì cô gái bán thuốc lá, rồi một gã cảnh sát đang đi lại vẩn vơ. 

Nico Constantine là một người đàn ông nổi tiếng ở Vegas. Điều quan trọng hơn- chàng là một trang quân tử, mà trên thế giới này, những trang quân tử như chàng hỏi còn được mấy người 

Chàng thật đẹp. Một vẻ đẹp đàn ông hiếm có ở cái tuổi bốn chín. Mái tóc quăn, đen, dầy, điểm vài sợi bạc càng làm cho thêm đen nhánh. Đôi mắt đen với hai hàng mi cũng đen và dày. Mũi to, thẳng. Nước da nâu sẫm nắng. Vai rộng, hông thon có thể khiến khối gã đàn ông trẻ hơn hàng chục tuổi phải ghen tị. 

Tuy vậy, điều hấp dẫn nhất ở Nico lại là cái phong cách, cái thần, cái uy thế của chàng . Những bộ comlê ba mảnh may rất khéo, bằng vải đẹp nhất. Những chiếc sơ mi lụa chất lượng tuyệt hảo. Những đôi giầy Italia da mềm. Đối với Nico Constantine, tất cả phải là những đồ hạng nhất. Đó là phương châm của chàng, từ năm chàng hai mươi tuổi. 

- Ngài dùng gì không, thưa ngài Constantine?- Cô gái của quầy bar đến bên hỏi chàng, đôi chân dài trong đôi tất lưới đen, miệng cười rộng đầy hứa hẹn kiểu Las Vegas. 

Nico toét miệng cười. Chàng vốn có hàm răng đẹp, và cả con người chàng cũng thế, với chiếc mũ của dân Digan lang thang trên đầu. 

- Sao lại không? Cho tôi ly vodka với đá, mà phải 900 đấy. 

Đôi mắt đen của chàng nhìn tới đầy bỡn cợt, và cô gái yêu mỗi giây phút như thế này. Cô nào cũng thế. Tất thảy đàn bà đều say mê chàng- và chàng, ngược lại, cũng không phản đối. Từ cô gái đứng đường đến một công chúa, chàng đều đối xử như nhau. Hoa (bao giờ cũng là hoa hồng); rượu sâm banh (luôn luôn là loại Krug); quà cáp (những đồ trang sức nhỏ bằng vàng của hãng Tiffany) New York hoặc nếu quan hệ kéo dài hơn vài tuần, thì đồ nữ trang nhỏ bằng kim cương nhãn hiệu Cartier. 

Cô gái bán bar đi lấy rượu cho chàng. Nico nhìn chiếc đồng hồ đeo tay Patek Phillipe bằng vàng. Mới tám giờ. 

Chàng còn cả buổi tối trước mặt. Chàng sẽ nhấm nháp chút rượu, xem mọi người chơi, rồi chàng sẽ vào cuộc một lần nữa, và ván bài cuối sẽ quyết định tương lai của chàng. 

Rượu vodka của ngài đây, ngài Constantine, - cô gái bán bar nháy mắt với chàng, 90 độ không phải loại thường dùng ở chỗ chúng tôi đâu nhé!- Cô ta ném sang chàng một cái liếc táo tợn, rồi miễn cưỡng đi khỏi vì bị một tay chơi bài pôlơ cáu kỉnh gọi đến. 

Las Vegas, một nơi thật không đâu sánh được. Hai tiếng đồng hồ đánh bạc không nghỉ. Những khách sạn lộng lẫy và những trò tiêu khiển. Những cô diễn viên xinh đẹp, ánh mặt trời lấp lánh. 

Nico mỉm cười nhớ lại cảm giác đầu tiên của chàng vè thành phố này, lần chàng lái xe từ Los Angeles đến, giữa đêm khuya, sau mấy tiếng đi trong bóng tối bỗng hiện ra trước mắt chàng những ánh đèn néon kỳ diệu giữa sa mạc. Đó là một kỷ niệm luôn luôn sống động. 

Phải chăng chỉ là kỷ niêm của mười năm về trước ? Nó dường như là mãi mãi

---------------

Từ hầm này sang hầm khác, từ góc kẹt này qua góc kẹt khác, tầng hầm của Jame Gumb khúc khuỷu như một mê cung, ngăn cản người ta tiến lên phía trước. Khi hắn còn nhút nhát, hồi trước hắn thích những nơi hẻo lánh nhất, thật xa các cầu thang. Ở sâu trong cùng, có rất nhiều phòng mà Gumb chưa bao giờ mở cửa ra. Vài phòng có người ở, nếu người ta có thể nói như thế, vì sự im lặng đã chiếm chỗ của những tiếng hét rồi. Mặt nền thay đổi từ phòng này qua phòng khác. Có nhiều ngưỡng cửa phải cúi đầu, các xà ngang phải tránh. Thật quá khó khăn để chuyển một gánh nặng và rất khó để kéo lê nó. Với sự khôn ngoan và tự tin, Gumb không cần giải quyết các nhu cầu của mình tại các nơi kín đáo nhất. Bây giờ hắn sử dụng dãy hầm quanh cầu thang, trong các phòng rộng lớn có đầy đủ điện và nước. Ngay lúc này, toàn bộ khu hầm đều chìm trong bóng tối. Tại cái tầng nền cát trong hầm giam, Catherine đang nằm im. Gumb cũng đang ở dưới tầng hầm nhưng không phải ở mức này. Mắt con người không thể thấy bất cứ thứ gì trong bóng đen như thế này, nhưng căn hầm đầy những tiếng động nhỏ. Nước nhỏ giọt và tiếng máy bơm kêu ro ro. Những tiếng vang nhỏ làm cho căn phòng có vẻ rộng hơn. Không khí trong này lạnh và ẩm thấp. Một tiếng đập cánh phớt qua má hắn, nhiều tiếng lách cách vang lên. Một tiếng gầm gừ khoái trá, tiếng động của con người. Không một luồng ánh sáng nào mà mắt người có thể sử dụng, nhưng Gumb hiện diện ở đây và hắn thấy rất rõ, nhưng chỉ bằng các mức độ của màu lục, đậm lợt tùy lúc. Hắn đang mang cặp mắt kính hồng ngoại (quân cụ thặng dư của Do Thái, giá gần bốn trăm đôla) và chĩa cây đèn pin cũng là hồng ngoại. Hắn ngồi trên một cái ghế lưng thẳng, đang ngây ngất trước cảnh một con côn trùng đang bò lên một thân cây. Con vật mới trưởng thành, vừa chui ra khỏi cái kén của nó, trên nền đất ẩm ướt của cái chuồng. Con vật này cẩn thận trèo lên cành cây cà độc dược, tìm kiếm một chỗ thích hợp để giương đôi cánh còn ướt ra, đang được xếp ở sau lưng. Nó chọn một cành cây ngang. Gumb phải nghiêng đầu qua một bên để nhìn thấy nó. Lần hồi, cánh nó được bơm đầy máu và không khí, nhưng chúng vẫn còn bị xếp dính ở sau lưng con vật. Hai giờ đã trôi qua và Gumb vẫn giữ nguyên tư thế đó. Hắn tắt mở cây đèn pin hồng ngoại, để có thể nhìn thấy sự tiến triển của con vật. Để giết thời giờ, hắn chơi trò bằng ngọn đèn với phần còn lại của căn phòng, trên những bể nước lớn chứa đầy một loại chất thuộc da thảo mộc. Trên các khuôn mẫu và các khung trong các bồn chứa, những vật mới sở hữu giống như các mảnh hình tượng cổ xưa bị xanh đi vì nước biển. Ánh đèn chiếu đến cái bàn làm việc rộng lớn bằng sắt tráng kẽm với cái gối bằng kim loại và các rãnh, rồi chiếu đến cái tời lủng lẳng ngay trên đó. Sát vách tường là các bồn rửa công nghiệp dài. Toàn bộ cảnh vật đều mang màu xanh. Những tiếng đập cánh, những vệt dài phản quang bay ngang qua tầm nhìn của hắn, như những đuôi sao chổi nhỏ được tạo ra bởi những con bướm đêm đang bay trong căn phòng. Hắn trở lại cái chuồng đúng lúc. Đôi cánh lớn của con vật đã giương thẳng ra trên thân hình nó, và biến đổi các đốm trên đó. Nó xếp cánh lại và cái hình ảnh đặc biệt xuất hiện. Một sọ người, được thể hiện tuyệt đẹp bằng vảy thật mềm mại như lông thú, đang nhìn hắn. Dưới cái trán vồ của cái sọ, hai lỗ đen của mắt và các gò má nhô ra. Điểm tối ngay trên cái hàm, tạo một vạch ngang mặt như một giẻ bịt miệng. Cái sọ nằm trên một vết loe rộng như đỉnh một khung chậu. Một sọ người đặt trên một khung chậu, tất cả được vẽ trên lưng một con bướm đêm, vì sự trớ trêu của tạo hóa. Gumb cảm thấy sảng khoái, tâm hồn thanh thản. Hắn cúi mình tới trước và thổi nhẹ vào con vật. Nó đưa cái vòi lên vì tức giận và phát ra một tiếng kêu nhỏ. Hắn bước từ từ, cây đèn trên tay, hướng đến hầm giam. Hắn mở to miệng ra thở để không gây tiếng động. Hắn không muốn những tiếng từ cái lỗ làm hỏng cuộc vui của hắn. Trên những cái ống nhô ra, các mặt kính giống như hai con mắt có cuống đỡ của một con cua. Gumb biết rằng như thế không có gì là hấp dẫn, nhưng nhờ vào chúng mà hắn có được niềm vui bằng những trò chơi lúc đêm tối trong căn hầm tối tăm này. Hắn cúi người xuống và chiếu ngọn đèn vào trong giếng. Cái vật đó đang nằm một bên, co người lại như một con tôm. Có vẻ như nó đang ngủ, cái xô vệ sinh để cạnh bên. Trong giấc ngủ, nó cầm một góc thảm trong tay và mút ngón cái. Khi chiếu ánh hồng ngoại dọc theo thân hình của Catherine, hắn nghĩ đến các vấn đề đang chờ hắn. Thật không dễ dàng thuộc da người đối với một người khó tính như hắn. Có nhiều sự lựa chọn cơ bản, về cấu trúc để làm, và điều cốt lõi là đặt sợi dây kéo ở chỗ nào đây. Hắn cho ánh đèn chạy dọc theo lưng của Catherine. Thường thì phải để sợi dây kéo ở đó, nhưng làm sao mặc nó vào một mình được chứ? Không thể nào nhờ sự trợ giúp của một người khác cho loại việc này, dù cho kế hoạch này có hấp dẫn đến đâu đi nữa. Hắn biết nhiều nơi, nhiều môi trường, mà các cố gắng của hắn sẽ gây ấn tượng mạnh, nhưng muốn thế phải chờ thêm một thời gian nữa. Hắn phải có những thứ mà hắn chỉ sử dụng một mình. Dây kéo đặt ở phía trước là điều xúc phạm, và hắn loại bỏ khả năng này. Gumb không thể đánh giá nước da của Catherine, nhưng dường như cô ta đã gầy đi. Có thể cô ta đang ăn kiêng khi bị hắn bắt cóc. Kinh nghiệm đã dạy cho hắn phải chờ từ bốn đến bảy ngày trước khi lột da. Một sự giảm cân đột ngột sẽ khiến nó nhão ra, và việc lột da sẽ dễ dàng hơn. Hơn nữa việc cho nhịn đói sẽ làm cho các nạn nhân yếu đi và sẽ dễ sai bảo họ hơn. Có vài người tỏ ra nản lòng cam chịu. Tuy nhiên vẫn phải cho họ ăn chút ít để đề phòng sự tuyệt vọng và các cơn phẫn nộ, có thể làm hư hỏng lớp da. Nhất định là vật này đã sụt ký. Người này quả đặc biệt, rất quan trọng cho công việc hắn muốn thực hiện, cho đến mức hắn không thể chờ đợi lâu được. Vào lúc trưa mai, hắn sẽ ra tay, hoặc tối mai. Trễ lắm là ngày hôm kia. Sắp rồi đây. ----------------- Crawford không thể nào bước qua phòng kế bên được, ông có thể xoay mặt qua bất cứ lúc nào để nhìn bà qua khe cửa, với ánh hào quang sáng chói phát ra từ chiếc đèn ở đầu giường. Ông chờ đợi cho đến khi thân thể của Bella trở thành một vật nghi thức, tách xa ông, khác lạ với con người mà ông đã từng ôm trong lòng; khác xa người bạn đời mà hiện giờ ông đang giữ hình ảnh trong tâm trí. Phải gọi điện cho người ta đến đem bà đi. Ông đứng trước cửa sổ, hai tay bỏ xuôi xuống, hai bàn tay mở ra, đang nhìn về hướng mặt trời lên, nhưng chưa thấy dạng. Ông không chờ lúc rạng đông chỉ đơn giản căn phòng này ngó về hướng đông. -------------- ày xong chưa Quý Báu? Jame Gumb tựa lưng thật thoải mái vào thành giường, con chó xù nhỏ cuốn tròn trên bụng hắn ta. Hắn vừa gội đầu xong nên quấn một khăn tắm quanh đầu. Hắn lục lạo dưới chiếc nệm, tìm thấy cái điều khiển từ xa của đầu mày video và bật cho máy chạy. Hắn đã tạo một băng hình từ hai đoạn phim chép ra từ nhiều nguồn khác nhau. Mỗi ngày hắn đều mở máy lên xem trước khi thực hiện các công việc quan trọng, và luôn trước mỗi lần lột da. Đầu đoạn phim đã trầy xước, lấy từ một đoạn thời sự trắng đen của Movietone năm 1948. Đó là vòng bán kết của cuộc thi Hoa hậu Scramento, một đoạn đường dài dẫn đến việc tuyển chọn Hoa Hậu Hoa Kỳ tại Atlantic City. Đây là lúc trình diễn áo tắm, và các cô gái từng người một bước lên sân khấu, tay cầm bó hoa. Khi nghe đến nhạc, con chó nhìn sang chủ nó, biết rằng hắn sẽ siết nó cho đến nghẹt thở. Nó đã trải qua thời đoạn này không biết là bao nhiêu lần rồi. Các thí sinh đều thuộc vào thời điểm của Thế Chiến Thứ Hai. Có vài khuôn mặt thật đẹp, vài người khác thì đôi chân tuyệt hảo, nhưng da thịt đều thiếu sự săn cứng còn đầu gối thì hơi run. Gumb ôm con chó trong đôi tay. - Quý Báu ơi, bà đó, bà đang đứng đó. Quả nhiên bà đang đứng tại chân cầu thang, trong bộ áo tắm trắng tinh, nở nụ cười thật tươi với người đàn ông trẻ đang giúp bà bước lên các bậc thang, bước đi trên đôi giày cao gót, ống kính đang quay cặp giò của bà. Mẹ đấy. Đó chính là mẹ. Gumb không cần điều chỉnh máy, hắn đã làm đủ mọi thứ cần thiết khi sang băng. Bà mẹ đi ngang sân khấu và ngược lại, bước xuống cầu thang, cười lại với người đàn ông trẻ, đi lên cầu thang lại và mọi thứ bắt đầu lại, đi đến phía trước rồi lui trở lại. Khi cô ta cười với người đàn ông trẻ, Gumb cũng cười theo. Sau đó người ta thấy cô trong một nhóm người, nhưng hình ảnh vẫn mờ và đứng im tại chỗ. Tốt hơn hết nên cho nó qua nhanh để chỉ nhìn thấy thoáng qua thôi. Mẹ và những cô gái khác đang chúc mừng người trúng tuyển. Đoạn sau là vụ sao chép lậu của đài truyền hình cáp trong một khách sạn dọc đường tại Chicago. Hắn phải hối hả đi mua một đầu máy và ở lại thêm một đêm nữa. Đây là đoạn phim kết thúc của một đài phát bằng cáp tồi, phát hình rất khuya, làm ảnh nền cho các quảng cáo khiêu dâm. Đậy là thứ hàng rẻ tiền, những loại phim “mát mắt” không có hại thuộc các thập niên bốn mươi cho đến năm mươi, cộng thêm một trận bóng chuyền trong một trại khỏa thân, và các cảnh ít nhiều rõ nét của các phim khiêu dâm của những năm ba mươi, lúc mà các người đóng phim còn mang mũi giả và vớ. Cuốn băng này gồm đủ thứ linh tinh. Gumb không thể làm gì với các quảng cáo và các hàng chữ chạy trên màn hình. Hắn đành phải chấp nhận thôi. Và đây là một hồ bơi ngoài trời, tại California, nếu căn cứ theo thảm thực vật. Nhiều đồ đạc trong một vườn tuyệt đẹp, thuộc kiểu các năm năm mươi. Nhiều cô gái trần truồng đang bơi lội, vài cô rất duyên dáng. Vài cô đúng ra phải thuộc sêri B mới phải. Tròn trĩnh và linh lợi, họ bước ra khỏi hồ bơi và chạy mau hơn nhạc rất nhiều, leo lên cầu thang của một rãnh trượt. Họ lướt đi trong tiếng cười, hai vú đưa thẳng ra, hai chân khép lại! Là mẹ đấy. Bà nhô ra khỏi mặt nước phía sau một cô gái tóc quăn. Mặt bà phần nào bị che khuất bởi phần quảng cáo của Sinderella, một tiệm bán đồ khiêu dâm, nhưng từ xa người ta vẫn có thể nhìn thấy bà leo lên cầu thang, mình bóng lưỡng vì nước, thật mềm mại, da thịt rắn chắc, với một vết thẹo nhỏ vì phải mổ khi sinh, bà ta lướt trên rãnh trượt. Rất đẹp và dù cho hắn không thấy rõ mặt, từ trong đáy lòng mình, Gumb biết đây là mẹ của hắn được quay phim sau khi hắn gặp bà lần cuối cùng. Dĩ nhiên là trong trí tưởng tượng của hắn thôi. Con chó xù liếc nhìn hắn một khắc trước khi bị siết lại thật mạnh trong đôi tay của hắn. - Này Quý Báu ơi, hãy vào trong vòng tay của mẹ đi. Mẹ sẽ rất đẹp cho mày coi. Có rất nhiều việc phải làm, quá nhiều việc phải làm nếu hắn muốn kịp cho ngày mai. Hắn không bao giờ nghe tiếng động từ nhà bếp dù cái vật đó có hét đến cỡ nào đi nữa. Xin cám ơn Trời, nhưng tại cầu thang của tầng hầm thì có thể nghe được đấy. Hắn chỉ còn biết hy vọng là vật đó đã ngủ rồi. Con chó xù mà hắn đang ôm trên người liền gầm gừ khi nghe những âm thanh phát ra từ cái giếng. - Mày được dạy dỗ tử tế hơn nó nhiều - hắn nói và úp mặt vào lông của nó. Bên trái, ở dưới vài bậc thang, có một cánh cửa ngăn cái giếng. Hắn không buồn nhìn về hướng đó và không thèm nghe những tiếng được phát ra từ miệng giếng. Đối với hắn, đó không phải là tiếng Anh.  

-----------------

Những năm 1990, nước nhà đổi mới, chuyển qua nền kinh tế thị trường, song điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống ăn chơi về đêm của giới lắm tiền nhiều của. Các tay chơi rửng mỡ vẫn lui tới các tụ điểm vui chơi giải trí hợp pháp và bất hợp pháp, trong đó, hấp dẫn nhất vẫn là các sòng bạc. Và đế chế của “ Chị Hai” Hằng Điệp và Trọng Sồ vẫn nhờ đó mà ngày càng lớn mạnh và phát triển.

Lúc này vợ chồng Trọng Sồ đã mở rộng phạm vi của mình ra Hải Dương, Nam Định và nhất là Sài Gòn qua cánh tay đắc lực Phạm Minh Tuyết, đồng thời qui tụ về dưới trướng được hầu hết những tay giang hồ có dính líu đến cờ bạc như: Đinh Thị Minh Hà tức Hà “ Thược Dược”, Tiến chột, Long Nha, Hải mặt thẹo... hay các trường gà ăn thua lớn ở khắp các địa bàn có tên tuổi như: Ba Sọc, Thu Hoa, Tư đối, Sơn béo, Trần Đại Nghĩa. .v. .v.

Danh sách thọ lãnh tài vật do Năm Cam trực tiếp đưa ra tăng lên đến cả trăm mạng mà một số không ít là công an! Ngoài Dương Minh Ngọc, Nguyễn Mạnh Trung ở phòng PC16 đã có cơ hội thao túng các vụ án như một phù thuỷ để đổi lại biết bao tiền của từ bọn tội phạm. Rồi Hớn, Năm, Phổ…lính ruột của Sáu Ngọc cũng nhận tiền của bọn Năm Cam với một nụ cười biết ơn. Theo gương các ông anh, cả các trinh sát dạn dày nghiệp vụ cũng ngã quị trước viên đạn bọc đường được nã ra liên tục từ bàn tay của ông trùm.

Thực ra đế chế của Trọng Sồ được như thế là có công rất lớn ở Hằng Điệp. Ngoài việc quan biết rộng và có máu mặt trên giới giang hồ ra, với cá tính nóng nảy của mình, Trọng Sồ không phải là loại người có thể làm được việc lớn. Hằng Điệp làm được việc thôn tính các lãnh địa do những tay đầy dẫy kinh nghiệm tổ chức cờ bạc là nhờ hai yếu tố: đứng sau lưng thị là lưỡi gươm trừng phạt của luật pháp được nắm giữ bởi những kẻ đã ngập mặt ngập mày trong tiền và gái của mụ ta. Còn về vế đụng chạm giang hồ, Hằng Điệp đã như cọp thêm cánh từ lúc Huỳnh Đức Bình tức Bình Xà, theo sự tiến cử của Hùng Poker về đầu quân dưới trướng. 

- Không qui phục Trọng Sồ cũng chẳng sao, có điều khi chú Năm ngứa mắt thì xách túi đi tù, chú Năm vui vẻ thì đang ngồi cóm róm ở phòng CSHS cũng 30 giây sau, có mặt ở nhà! Chú Năm muốn là anh Sáu làm... Đó, nên chơi hay không chơi với chú Năm?

Giang hồ lý giải về Năm Cam như vậy và sự thực là, khoảng thời gian này, Năm Cam đã hoàn toàn làm bá chủ giang hồ Sài Gòn và cả một phần nào ở các thành phố lớn khác!

Tháng 5 năm 2000, tất cả các sòng bạc được chỉ thị của Trọng Sồ phải ngừng ngay lập tức mọi hoạt động. Khi ấy Phạm Hữu Phúc, giám đốc CA Tiền Giang về làm Tổng Cục Phó Cục Cảnh Sát phụ trách phía Nam, người mà Trọng hiểu đến từng chân tơ kẽ tóc.

Một ông trưởng công an, anh hùng lực lượng võ trang, chỉ dùng cơm ở nhà ăn tập thể, ngủ giường sắt cơ quan, không hề lui tới bất kỳ tụ điểm vui chơi giải trí nào, cuối tuần chỉ biết về nhà với vợ con... tìm cách mua chuộc, còn khó hơn hái sao trên trời. Nghe đâu, đam mê duy nhứt của ông ta là thích phá những vụ án hóc búa không có lời giải có liên quan đến bài bạc, mà như thế thì làm sao khoét sâu biến đam mê thành nhược điểm? 

Đã vậy, sau hàng loạt trọng án CATP không phá được do ông trưởng phòng CSHS quá tệ về tư cách, đạo đức, đích thân đại tá Phạm Hữu Phúc đã tuyên bố trên các phương tiện truyền thông “sẽ quét sạch các hoạt động xã hội đen” và xem các vụ án lớn chưa phá được là những “món nợ với nhân dân”. Trọng Sồ đã lập tức cảnh giác và co cụm phòng thủ, tạm ngừng một số hoạt động có phần lộ liễu.

Song chỉ được một thời gian, các cận thần trợ thủ của Trọng Sồ cứ bám lẳng nhẳng theo y để thuyết phục chủ nhân cho phép sòng bạc tái hoạt động.

Cuối cùng, sau ba tháng nằm yên nghe ngóng, bỏ mặc lời can ngăn của Hằng Điệp và Hùng Poker, Trọng Sồ đã cho phép các sòng bạc tái hoạt động. Lòng tham đã chiến thắng nổi lo sợ ám ảnh suốt bấy lâu.

Thế là, lần lượt các tụ điểm đỏ đen cờ bạc, cá độ... được phép Hoàng đế Trọng Sồ tái hoạt động và tiền bạc bắt đầu đổ kìn kìn về két sắc của Hằng Điệp.Tiền lại được các vệ tinh cờ bạc đem về cho đại gia đình Trọng Sồ. Những ngày này, Trọng Sồ hớn hở ra mặt vì hóa ra, Phúc chỉ nói mà không làm, chẳng có gì phải ngại.

Trong cuộc đời, thứ Hằng Điệp không ưa nhất là ma túy. Đó cũng chính là lý do tại sao Hằng tuyệt không nghĩ đến việc kinh doanh thứ đồ chết người này như bao tay anh chị khác mặc dù có thừa khả năng. Thắng lẻm, em ruột của của Hằng Điệp, một trong những người thân máu mủ ruột già hiếm hoi của Hằng Điệp đã chết trong tù bởi một cơn vật vã do thiếu thuốc phiện. Đó cũng là một trong những lý do Hằng Điệp ghét ma tuý một cách khủng khiếp. Thị từng nói:

-Thằng Tài, thằng Nam chị quen từ lâu nên biết rõ, bản lĩnh của chúng nó có thua kém gì ai, vậy mà chỉ vì nghiện cái thứ đó mà tán gia bại sản, liên lụy cả vợ con. Hồi đó mỗi lúc qua nhà chơi, chị nhìn thấy nó mà còn tội nghiệp! Tội nghiệp chị Bảy, gặp một ông chồng nghiện oặt người như ổng, đúng là phận mỏng... Rồi thì ông Thắng vẹo, chích đến độ nát hết cả ven, mỗi lần lên cơn phải nhờ vợ là chị Ly chích giùm ở cổ, và mỗi lần chích là mỗi lần khóc! Thấy trước mắt chị sợ lắm! Chỉ tiếc là hồi đó còn khó khăn, chưa có tiền…

o O o

Đinh Thị Minh Hà, người sinh ra và lớn lên ở Hải Phòng, một kẻ theo sự đánh giá của Trọng Sồ là không có đầu óc nhưng rất mực trung thành, được Hằng Điệp trọng dụng vô cùng. Trọng Sồ trao trách nhiệm “hàng -xáo” cho thị. Hàng Xáo, thoạt nghe cứ ngỡ là đơn giản, thực ra phải là người tinh ma quỉ quái. Một con bạc “khát nước”, tức là thua sặc máu đến nỗi chẳng còn một cắc trong người, luôn luôn nhìn quanh quất tìm quí nhơn. Hàng xáo phải nhìn đúng ra thời điểm và biết rõ khả năng tiềm tàng của nạn nhân để “ra tay tế độ”. Giấy tờ nhà, xe, .. .thậm chí, chỉ cần đó là một “tay chơi có ba má giàu có” hoặc có “vợ là con gái rượu của các đại gia”, sẽ được hàng xáo quy ra lợi nhuận để gật đầu bảo lãnh những canh bạc ăn thua lớn. Kiểu cho vay nóng, cầm cố đủ loại này, dĩ nhiên có mức lãi xuất kinh khủng: từ 20 đến 30, có khi lên đến 40, 50% mỗi tháng. Bởi sự quan trọng của hàng xáo như vậy, kẻ đứng đầu nó nếu không phải là người được đích thân Hằng Điệp hoặc Trọng Sồ tin tưởng thì đừng hòng được giao phó!

Thế nhưng, đây lại là quyết định sai lầm nhất của Trọng Sồ, khiến gã phải nhanh chóng bỏ mọi lạc thú nhân sinh mà vào tù bóc lịch cho qua ngày đoạn tháng. 

Số phận của Trọng Sồ được rẽ sang một hướng mới. Đó là việc Trịnh Ngọc Nguyễn, một con bạc cũng có số má thuộc dạng “ thân quen” với tập đoàn Trọng Sồ và cũng đã từng cúng cho y không ít tiền của, sau một trận thua đến nỗi tán gia bại sản đã quyết định gửi đơn thư tố cáo y để xù nợ. Biết thế lực chống lưng của đôi vợ chồng này không hề đơn giản, thị đã nhờ người quen chuyển đơn tố cáo lên Bộ Nội Vụ.

Và thế là, những lá đơn tố cáo tại hại đối với đế chế Trọng Sồ xuất hiện trên bàn những vị lãnh đạo cấp cao ở tận Hà Nộ

Thông tin tối mật tầm cỡ an ninh quốc gia còn có khi bị rò rỉ bởi người hám tiền hám gái, huống hồ...

Việc Trịnh Ngọc Nguyễn làm đơn tố cáo gởi ra Hà Nội đến tai của Trọng Sồ vào một buổi trưa trong buổi tiệc nhậu có vài ba quan chức...

Về nhà, y lập tức báo cho Hằng Điệp. Hằng Điệp hết hồn, vội vã liên lạc với đại tá Tuyên, người tình bí mật. Nghe xong, đại tá Tuyên chỉ cười xoà:

- Tưởng gì, chuyện ấy không có gì là khó, chỉ sợ thiếu tiền thôi!

Hằng Điệp nghe vậy thì cả mừng, lập tức tiến hành việc hoá giải lá đơn. Ngay chiều hôm đó, đại tá Tuyên cùng một vài đồng nghiệp đi xe hơi ra Bắc. Mối quan hệ của ông với các quan chức của Bộ Nội Vụ đủ để đại tá Tuyên tin tưởng và hứa chắc sẽ thành công.

Nào ngờ, sau cuộc gặp thân tình với Phạm Hữu Phúc, người bạn cũ và cũng là chiến hữu từng vào sinh ra tử với mình, đại tá Tuyên mới hiểu mọi chuyện thực ra đã được sắp đặt từ trước, đây chỉ là cái cớ để công an Tiền Giang bắt thóp Trọng Sồ mà thôi. Quãng thời gian im lặng trước đó chỉ là để ru ngủ Trọng Sồ mà thôi. Đại tá Tuyên lập tức hiểu ra, số phận của Trọng Sồ bây giờ đã như chỉ mành treo chuông, chắc chắn sẽ bị bắt không chóng thì chầy!

Hay tin dữ, Trọng Sồ chết điếng. Y lập tức đáp máy bay ra Hà Nội cùng Hùng Poker để tìm cách “chạy”. Đầu tiên, y nghĩ ngay đến Trịnh Ngọc Nguyễn lúc này đang yên vị trong Sài Gòn, song vị quân sư lắm mưu nhiều kế này cũng chỉ đành lắc đầu. 

Quay về Hải Phòng, Trọng Sồ quyết định tạm ngừng mọi hoạt động phi pháp.

--------------

- Ba ơi, có người đến tìm! Hùng Poker thông báo.

- Ai vậy? Trọng Sồ hỏi, có phần hơi ngạc nhiên vì trái với qui luật, lẽ ra ai đó muốn “diện kiến” gã phải nhờ Bình Xà gọi điện thỉnh thị trước, y đồng ý tiếp mới được vời tới gặp.

- Dạ, mấy anh bên Văn Phòng 2 của Bộ muốn gặp...

Trọng Sồ nghe vậy thì mừng rơn, từ vài ngày trước-những cảnh sát đội đặc nhiệm của Bộ từ Bắc vào đã được Trọng Sồ cho người tiếp cận. Họ cũng chịu ăn uống đãi đằng và có vẻ dễ tính nên Trọng Sồ đã thử đặt vấn đề:

- Mấy chú cố giúp anh chuyện này, anh hứa sẽ khong quên ơn! Miễn là được việc giá nào cũng xong!

Giờ đây họ đến tìm ắt là có chuyễn biến tốt...Trọng Sồ lật đật thay quần áo để lên xe để đi cùng “các ông bạn mới”.

- Anh Trọng nghe chúng tôi đọc lệnh bắt khẩn cấp rồi ký nhận nghen? Một sĩ quan cảnh sát trong nhóm cười nói. Trọng Sồ nghe mà rùng mình.

Y cảm thấy đất như sụp dưới chân, y lẳng lặng nghe hết nội dung lệnh bắt rồi lúi húi ký tên vào. Hóa ra y đã mắc mưu “điệu hổ ly sơn” của Phạm Hữu Phúc ngay từ lúc nhóm cảnh sát đặc nhiệm của Bộ có mặt ở Sài Gòn!

Hôm sau, Trọng Sồ được người giải đi như những chuyến đi chơi trước đó, có điều-lần này y không phải mang theo hành lý, trên tay được đính vào 2 chiếc còng, một ở cổ tay một ở ngón tay cái! Trước mặt, không phải là bọn đệ tử cúc cung tận tuỵ mà là đại tá Phạm Hữu Phúc với khẩu súng ngắn giắt ngay lưng quần.

Liên tục nhiều ngày, Trọng Sồ phải đối phó với hàng loạt các câu hỏi về hoạt động xã hội đen của mình. Gần hai tháng trời, gã nhất định không thừa nhận bất cứ dù không liên quan hay không hề có chút đỉnh dính dáng. Năm Cam nhất định chối biến bất chấp những biện pháp nghiệp vụ. Rồi thì, y lại phải đối chất với Nhật cùi.

Ngay sau khi nhãn được mật lệnh, Hằng Điệp và Hùng Poker cũng bắt đầu vận động cho Năm Cam. Ở đâu cũng vậy, người tốt cũng không ít và kẻ xấu cũng rất nhiều, bằng tiền bằng quen biết và cả bằng “những chiếc mền da”, Hiệp cũng đã lôi kéo được một số quan chức thừa hành luật pháp vào cuộc. Do vội vã và có phần chủ quan, các cơ quan của Bộ Nội Vụ đã làm thiếu sót những thủ tục cần có để giam giữ Trọng Sồ. Viện kiểm soát nhân dân TPHCM và kể cả VKSND tối cao đã có những văn bản phản đối.

Chưa hết, việc này đã làm bối rối những viên chức mẫn cán nhưng thiếu cẩn thận. Cuối cùng sau 11 tháng giam giữ tại trại T16, với tội danh tổ chức đánh bạc trái phép, Trọng Sồ nhận được một quyết định tập trung cải tạo 5 năm do chủ tịch UBNDTPHCM lúc bấy giờ ký. 

Thế nhưng, đây mới chỉ là lúc ác mộng bắt đầu.

o O o

Hải Phòng bị công an dòm ngó, song Hằng Điệp vẫn còn đó mảnh đất Sài Gòn nhộn nhịp với tất cả mặt tối sáng. Trịnh Ngọc Nguyễn được ủy nhiệm quyền tiếp quản nơi này. Uy tín giang hồ của Hằng Điệp đủ để cầm cương mọi hoạt động phi pháp vốn đem lợi nhuận rất lớn cho gia đình mình từ trước đến nay. 

Lo ngại về sự trung thành của Trịnh Ngọc Nguyễn, Huỳnh Đức Bình, đệ tử ruột của Trọng Sồ đã được Hằng Điệp hạ lệnh đổ bộ vào Sài Thành. Huỳnh Đức Bình vào Sài Gòn với sự yểm trợ của Hằng Điệp một cách kín đáo, nhanh chóng mở rộng mối quan hệ giao du với hàng loạt anh chị cộm cán, Bắc cũng như Nam và tiếp quản hơn nửa xới bạc trong tay Trịnh Ngọc Nguyễn.

Sau khi cướp tù thất bại, Hằng Điệp đi lại như con thoi để khẳng định lại vai trò ông trùm của mình và nối lại những mối quan hệ thân thiết đã gián đoạn do sự cố. 

Lúc này, Hằng Điệp đã xây dựng được một mạng lưới thông tin khổng lồ từ nam ra bắc. Nếu không được sự đồng ý của Hằng và nhận một phần lợi nhuận từ tiền xâu, sòng bạc mới mở trên “ lãnh địa” của thị không thể tồn tại dù chỉ một ngày!. Có hai cách được Năm Cam tiến hành một lúc để loại “kẻ không hiểu chuyện” ra khỏi cuộc chơi. Cặp song sát Hùng Poker, đứa con nuôi trung thành và Bình Xà sẽ kiếm chuyện quậy phá cho chính quyền địa phương không thể nhắm mắt làm ngơ. Cùng lúc, thông tin chi tiết về sòng bạc - từ kẻ tổ chức đến các tay con, được Hằng Điệp trao cho đại tá Tuyên- kẻ bán linh hồn cho quỉ, xử lý một cách “kiên quyết, triệt để”. 

Phạm Thùy Anh, với mối giao du từ lúc ông trùm còn hàn vi và luôn luôn tỏ ra trung thành mẫn cán vẫn là cánh tay phải của Hằng Điệp. Sauk hi tình hình tạm lăn gs xuống, Đinh Thị Minh Hà tức Hà Thược Dược cũng bắt đầu hoạt động cầm cố cho vay lãi nặng một cách tưng bừng tở mở... Tất nhiên, cô ta vẫn luôn luôn dành phần chia chác lớn nhất cho ông trùm mà không đòi hỏi bất kỳ một ân điển biệt lệ nào của y.

Tình hình các sòng bạc coi như thâu tóm về một mối. Hằng Điệp bắt đầu lộ tính cách gia trưởng, độc quyền và tham lam vô hạn độ. Dù vậy, cũng chẳng ai dám phản ứng. Với Hằng Điệp, chỉ có hai loại người tồn tại trong con mắt của thị: một là những kẻ quyền thế mà y sẵn sàng mọp mình trải thảm để mưu cầu sự giúp đỡ chiếu cố. Loại người thứ hai là những kẻ phục tùng y vô điều kiện, xem y như một Hoàng đế cổ đại. Tất tần tật những ai không lọt vào hai loại người kể trên, Năm Cam đều coi là kẻ địch, cần vô hiệu hoá hoặc thậm chí triệt tiêu!

Trịnh Ngọc Nguyễn, kẻ góp công lớn nhất đưa Trọng Sồ vào tù sau vụ việc đó đã biến mất tăm không chút dấu vết. Tình hình lắng xuống, nhưng đã có tiền lệ của Trọng Sồ, Hằng Điệp vẫn không lúc nào quên cảnh giác. Linh cảm cho thị biết, ngoài đại tá Phúc, vẫn có những người vẫn đang lăm le muốn mình ngã xuống….thế nhưng, cuối cùng thì thị vẫn không thể chạy thoát. 

Dung Hà bị bắn đêm chủ nhật, sáng thứ hai – sau đó không lâu, đài phát thanh vỉa hè và thông tấn xã giang hồ đã lập tức đưa tin: chính Cường Râu và Hoàng Phủi đã giết Dung Hà!

o O o

Những mối quan hệ cũ - đôi khi đã không còn cần thiết hoặc thậm chí là một gánh nặng, được Năm Cam tìm cách rũ bỏ một cách khéo léo. Gã Nhật cùi, đàn em mạt hạng của Năm Cam, vốn chẳng dùng vào được việc gì nhưng lại nắm được tẩy phản phúc của Năm Cam do những ngày cùng lưu lạc tù tội trên đất Bắc, tìm đến gặp y để…xin tiền. Năm Cam cân nhắc một thoáng rồi xuỳ cho gã đàn em cà chớn ấy 30.000. 000 đồng. Y biết, nếu không cho - Nhật cùi chỉ cần bêu riếu y với giới giang hồ, uy tín của y sẽ đổ sụp xuống đất đen. Nếu như cần thiết, vẫn có thể hạ thủ tên lẻo mép này, nhưng - bao chuyện rắc rối tốn tiền của sẽ phải xảy ra…Thôi thì, …

o O o

Sòng bạc ở Trần Nguyên Hãn Quận 8 đang hoạt động rôm rả, đột nhiên bị bắt! Huỳnh Đức Bình hoảng hồn gọi điện hỏi thăm ông trưởng phòng CSHS:

- Ủa sao kỳ vậy chú Sáu? Tụi Sáu Nhà, Quốc lủi bị bắt rồi...

Dương Minh Ngọc ngạc nhiên gọi điện sang cho bộ phận chuyên trách:

- Thằng nào bắt sòng ở Quận 8? Sao không bàn bạc với anh?

Nghe câu trả lời lắp bắp trong máy của thuộc cấp: “Tụi em đâu biết chuyện này? Có thể trên Bộ bắt không chừng... ” Sáu Ngọc vội đặt điện thoại xuống, mặt biến sắc!

Toàn bộ sòng bạc bị bắt bởi lực lượng an ninh Sở CA Tp.HCM, chỉ một kẻ chạy thoát... Đó là Hà trề kịp thời leo lên chiếc xe hơi đời mới màu đỏ vọt đi như một kẻ bàng quan. Phú nẩu, kẻ đưa đơn tố cáo Năm Cam năm 1995 cũng có mặt tại hiện trường. Gã lập tức báo lại cho lực lượng đang làm nhiệm vụ về việc tẩu thoát của Thu Hà!

Và, như một định mệnh tất yếu, gieo gió phải gặp bão, Năm Cam đã gây biết bao tội ác bởi thủ đoạn tàn ác, bởi nhân cách kém cỏi, bởi sự ngông cuồng của một tên vô lại, ắt phải có một kết thúc như thế!

Thiện phải thắng Ác và Cái Ác phải bị trừng phạt, đó là sự công bình tất yếu...

Khép lại quyển truyện viết về Năm Cam, một ông trùm cờ bạc xuất thân, trở thành hoàng đế không ngai của thế giới ngầm Sài Gòn, cũng không có ít điều trăn trở, đọng lại từ suy nghĩ của một con người. Năm Cam, một tính cách được hình thành từ những cuộc tranh giành thanh toán giữa giang hồ với giang hồ, xuất phát từ quyền lợi vô hạn của các hoạt động phi pháp.

Y, với khát vọng đổi đời, muốn có một cuộc sống giàu có, đầy đủ các thú vui nhục dục, đã bất chấp tất cả những gì được coi là chuẩn mực đạo đức của xã hội, của con người, để đạt được mục đích. Năm Cam nhận ra, trong giới giang hồ lưu manh, cái gọi là nghĩa khí chỉ là một vỏ bọc, một cách tự đề cao. Làm gì có sự công bằng, chính trực chỉ quen sống bằng bạo lực, bằng giành giật và cả bằng thủ đoạn mưu lược hại người?

Năm Cam, cũng như bất kỳ một người bình thường nào trong xã hội, đều muốn gia đình sung túc, con cháu thành đạt và bản tân hưởng dật lạc buổi xế chiều. Nhưng với cá tính được hình thành từ môi trường vẩn đục, nhớp nhúa, y không xem trọng người khác trừ những người thân của mình. Với y, chỉ có y và người thân mới xứng đáng được hưởng hạnh phúc, được xem là người. Còn lại, tất cả đều là phương tiện, là chỗ để y lợi dụng, chà đạp hoặc triệt tiêu tuỳ hoàn cảnh, tuỳ cơ hội.

Nhưng, Năm Cam xét cho cùng-ngoài việc là một tên tội phạm nguy hiểm cho xã hội, còn là một nạn nhân!

Nếu không có Năm Cam này thì phải có một Sáu Chanh, Bảy Chua nào đó... phục vụ cho bọn tội phạm thực sự khoác áo người thừa hành luật pháp.

Những Sáu Ngọc, Mạnh Tung... và cao hơn nữa, bằng mọi giá trục lợi trên cương vị Đảng và Nhà Nước giao phó. Bọn này phải tạo ra, dung dưỡng thậm chí tiếp tay cho loại tội phạm giang hồ. Quyền lợi được loại tội phạm tay sai như Năm Cam đi vơ vét của xã hội bằng nhiều con đường phi pháp, lần lượt chui vào tủ sắt, két bạc của những tên tội phạm có chức quyền!

Tội phạm hình sự, xã hội nào chẳng có-ít hay nhiều, tùy theo mức độ tham nhũng của chế độ và gần như chỉ có thể đẩy lùi hơn là có thể triệt tiêu.

Tuy nhiên, chữa bệnh từ gốc đánh rắn phải đập đầu... Để có thể loại trừ dần những tên tội phạm như Năm Cam ra khỏi đời sống xã hội, không bóc gỡ bọn tội phạm ẩn náu trong lực lượng công an, trong bộ máy chính quyền, trong giới báo chí, thì khó có đi đến một kết quả khả dĩ chấp nhận được!

Bao giờ cho đến tháng 10? Câu hỏi đầy bức xúc của nhân dân phải được trả lời rốt ráo vì, đây là một đòi hỏi hết sức chính đáng, mà một ai đó quan tâm đến vận mệnh đất nước không thể không chú ý!

Sơn Bạch Tạng tên thật là Trần Quốc Sơn, sinh năm 1962 gốc Hà Nội, đã xiêu dạt vào Nam bởi một sự tình cờ. Lúc bấy giờ, thủ đô - khi nhắc đến giang hồ, người ta chỉ biết đến hai đại gia là Khánh Trắng và Phúc bồ, ấy vậy mà Sơn đụng độ với Khánh Trắng và thắng lợi gần như tuyệt đối.

Quen thói côn đồ, Khánh Trắng xem dưới mắt không người và đánh giá thấp Sơn. Đúng là Sơn luôn gọi Khánh Trắng bằng anh, nhưng gã vốn chẳng xem Khánh ra gì. Khi va chạm, Sơn vác kiếm chém nhau với Khánh trằng và đuổi Khánh chạy dài. Khánh lãnh luôn vài nhát ngã lăn trên đường, Sơn giờ cao lưỡi kiếm bén ngót toan kết liễu luôn ông anh đầu gấu về Tây Thiên. Thấy ánh mắt sợ sệt van nài của Khánh, Sơn đổi ý chém luôn vào cặp chân của kẻ thất thế... Từ đó, dù giao hảo với băng của Sơn nhưng thâm tâm của Khánh sợ Sơn hơn sợ cọp!

Một lần bị công an truy đuổi, Sơn đang bỏ chạy đột nhiên đổi ý... gã ngừng lại và quay mặt nhìn về anh cảnh sát khu vực năng nổ đang hăm hở đuổi tới. Nhanh như cắt, Sơn thò tay vào bụng rút súng, tay kia đánh văng mũ của “kẻ anh hùng trên đường phố”... Phát súng Sơn bắn sượt da đầu của anh cảnh sát khiến anh điếng hồn ngừng lại, Sơn phá lên cười một cách điên dại rồi quay đầu bỏ đi... Sau đó, để tránh khỏi sự săn lùng của công an Hà Nội, Sơn xuôi tàu vào Nam, miền đất thánh của những kẻ luôn mang trên vai một vài bản án nặng nề.

Sống ít lâu dưới sự cưu mang của đàn em, Sơn tỏ ra khó chịu trước sự tù túng và lệ thuộc. Gã ngõ ý định chinh chiến để dành lấy một số quyền lợi sống cho mình và các đàn em như cách đã từng thực hiện ở Hà Nội...

- Ấy chết, không được đâu anh Sơn... Ở đây bọn Sài Gòn đã quen thuộc địa bàn, lại có những mối giao du lớn... anh đang bị truy nã gắt, sinh chuyện là vướng ngay với bọn công an... gã đàn em vội ngăn lại “mộng bá đồ vương” của đàn anh.

- Chứ sống như thế này chán chết! Sơn buột miệng than thở.

Suy nghĩ một lúc, gã đàn em chợt nhớ ra vội vàng reo lên:

- Thôi, em nhớ ra rồi anh Sơn a... tầm cỡ của anh, em nghĩ chỉ có giới thiệu với ông Năm Cam mới được! Bản lĩnh của anh phải xài đúng chuyện mới không phí, vả lại - sự quan hệ với các giới chức của ông Năm dư sức để đảm bảo an toàn cho anh, ông ấy là đàn anh số 1 ở Sài Gòn mà!

Nghe lời đàn em, Sơn đồng ý để gã tìm người có uy tín để tiến cử mình cho Năm Cam. Gã cũng nghe tiếng Năm Cam cũng hào phóng, giao kết rộng... thử một chuến xem sao, nghĩ vậy-Sơn bèn chờ...

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: