happywaydkh2

Từ điển y học Việt Nam

ÁC TÍNH (y), trạng thái bệnh lý đặc biệt nguy hiểm có thể gây tử vong trong thời gian ngắn cho bệnh nhân. Vd. U ác tính (ung thư), sốt rét ác tính, thương hàn nhập lý (thuật ngữ y học cổ truyền dân tộc).

ADN. (sinh; Ph. Acide désoxyribonucléique; A. DNA), axit nucleic, chủ yếu tìm thấy trong nhiễm sắc thể, chứa thông tin di truyền của sinh vật. Phân tử ADN được cấu thành từ hai chuỗi xoắn của polinucleotit, chuỗi nọ xoắn quanh chuỗi kia, tạo nên xoắn kép. Các phân tử photphat được sắp xen kẽ với các phân tử đường deoxiribozơ dọc theo cả hai chuỗi và mỗi phân tử đường đều kết hợp với một bazơ nitơ là ađenin, guanin, xitosin hoặc thimin (x. Hình vẽ). Hai chuỗi liên kết với nhau bằng các mối liên kết giữa các bazơ. Trật tự các bazơ dọc theo chuỗi tạo nên mã di truyền. Mã này xác định trật tự chính xác của các axit amin trong protein. Qúa trình tổng hợp protein thông qua hoạt động của ARN thông tin. Nhờ phiên mã, ARN truyền thông tin từ mã di truyền đến những vị trí tổng hợp protein (ribosom). Ở đó nó đựơc dịch mã thành trật tự của các axit amin của protein (x. Hình vẽ). ADN là vật chất di truyền của tất cả sinh vật, trừ virut là ARN. Cùng với ARN và histon, ADN cấu thành các nhiễm sắc thể của các tế bào nhân nguyên (x. ARN).

AĐRENALIN (sinh hoá; A adrenalin), C9H1303N. Tên thương mại của epinephrin (Ph. Épinéphrine). A là hocmon, tiết ra từ tuyến thượng thận của động vật và người, giống với các dẫn truyền noradrenalin do đầu cuối của các dây thần kinh giao cảm tiết ra. Tinh thể màu trắng, tnc = 211 - 2120C; độ quay cực riêng với tia D ở 200C - 53,50C. Tan nhiều trong nước nóng; ít tan trong nước lạnh; không tan trong ete, clorofom, benzen và ethanol tuyệt đối; tan trong dung dịch axit với kiềm, nhưng không tan trong amoniac. A tạo thành màu xanh lá cây với sắc clorua (FeCl3) và có nhiều phản ứng đặc trưng của phenol. A gây kích thích sự trao đổi chất, vv. Khi cảm xúc tăng lên. Tổng hợp A bằng cách ngưng tụ pirocatechin với axit monocloaxetic hoặc lấy từ tuyến thượng thận của động vật bậc cao. A kết hợp với axit clohidric tạo thành muối được dùng làm thuốc trợ tim, tăng huyết áp.

AFLATOXIN (nông), chất độc do nấm mốc Aspergillus flavus tiết ra. Nấm A. flavus phát triển trên hạt lạc, khô dầu lạc bị ẩm ướt và trên nhiều sản phẩm thực vật khác. A tác động trước hết đối với gan và gây tử vong nặng cho vịt con, gà tây và ga; lợn con và bê cũng bị nhiễm độc. A làm cho cải xoong không nảy mầm được, dù chỉ với nồng độ 1 microgam trong 1 lít nước.

ÁM ẢNH (y) 1. Sự đeo đuổi, lởn vởn khôn dứt ở trong đầu về một ý nghĩ hay hình ảnh nào đó khiến người ta băn khoăn, lo lắng.

2. Biểu hiện vô thức về hoạt động bệnh lý trong một vài khu vực tâm thần của bệnh nhân dưới dạng những tình cảm, ý nghĩ nặng nề, nghi ngờ, lo lắng. Trạng thái bệnh lý của AA có thể kèm theo buồn rầu đột ngột, nặng vùng tim, tim đập nhanh, cảm giác nóng dữ hay rét run, da ẩm, xanh tím, dáng đi chệch choạng. Trong tất cả các trường hợp, người bệnh vẫn biết rõ sự vô lý, nhưng không có khả năng loại trừ. Nhờ duy trì được óc phân tích mà có khi người bệnh không thực hiện những hành động gây nguy hiểm cho bản thân hoặc cho người xung quanh. Nguyên nhân thường là do chấn thương tâm lý (nhiều trường hợp không tìm được nguyên nhân). Điều trị bằng cách tạo cho bệnh nhân môi trường sống yên tĩnh, tránh chấn động thần kinh, dùng tâm lý, liệu pháp thư giãn, thuốc an thần theo chỉ định.

ÁM ẢNH SỢ. (y; phobia), trạng thái biểu hiện lo âum hoảng sợ trong những hoàn cảnh nhất định hoặc trước một đối tượng nhất định, không thay đổi với từng bệnh nhân. Nội dung của AAS rất đa dạng: sợ AAS (phobophobia) - trạng thái sợ của suy nhược tâm thần; AAS nước (hydrophobia) - trạng thái bệnh lý sợ nước và các chất lỏng nói chung hoặc trong bệnh dại; AAS ánh sáng (photphobia) - không chịu đựng được ánh sáng do tổn thương của mắt hoặc trong bệnh dại; AAS tối (nyctophobia) - trạng thái bệnh lý sợ đêm tối; AAS ngủ (hypnophobia) - trạng thái bệnh lý sợ giấc ngủ.

ÁM THỊ (y), dùng ánh mắt, cử chỉ, vv, đặc biệt là lời nói, để tạo nên sự thư dãn tinh thần cho người khác buộc họ làm theo ý mình, ý kiến của mình. AT là cơ sở của thuật thôi miên, tạo nên một trạng thái đặc biệt ngủ nửa vời, trong đó người bị AT không thể làm chủ được mình và thực hiện tất cả các mệnh lệnh của người AT; Trẻ em, người kém phát triển trí tuệ, người đang có tâm trạng băn khoăn, ở trạng thái kích động, vv.. dễ bị AT. AT có khả năng chữa khỏi một số hội chứng cơ năng.

AMIDAN (y; Ph. Amygdale; tk, hạch hạnh nhân), tổ chức lympho nằm ở hai bên họng có hình dạng giống hạt hạnh nhân, tên gọi đầy đủ là amidan khẩu cái (gọi tắt là A). Ở vùng họng còn có A vòm họng. A vòi nhĩ, A đáy lưỡi. Cùng với các tổ chức lympho rải rác ở vùng họng, các A có chức năng tăng cường miễn dịch cho cơ thể như các tổ chức lympho nói chung. A và các tổ chức dịch cho cơ thể như các tổ chức lympho nói chung. A và các tổ chức lympho phát triển về khối lượng cho đến tuổi dậy thì và giảm dần ở lứa tuổi thanh niên (xt. Cắt amiđan; Viêm amiđan.

AMIĐAN TIỂU NÃO (y: tk. hạnh nhân tiểu não), tổ chức nằm ở mặt dưới của tiểu não. Khi tăng áp lực trong sọ, ATN có thể bị tụt, kẹt vào lỗ chẩm, chèn ép hành tuỷ, gây nên biến chứng đặc biệt nguy kịch.

AMILAZA (hoá sinh: A. amylase), enzim phân huỷ thuỷ phân polisacarit (tinh bột, glucogen,...) trong các cơ thể sống. Tuỳ thuộc vào sản phẩm thuỷ phân, phân biệt ba dạng a, b, g, amilaza. Tồn tại rất phổ biến trong thiên nhiên (trong tế bào động vật và cả trong vi khuẩn). Trong một số tế bào động vật, A tồnt ại ở trạng thái liên kết. Tham gia vào quá trình tiêu hoá của người và động vật. A dùng trong công nghiệp sản xuất etanol, bánh mì và trong sản xuất glucozơ.

AMIP (sinh, Amoeba), chi Trùng chân giả, thuộc ngành Động vật nguyên sinh. Cơ thể hiển vi, phân bố rộng trong nước ngọt. Có hình dạng thay đổi liên tục do hình thành chân giả để vận chuyển, bắt mồi. Điều hoà áp suất thẩm thấu và bài tiết nhờ các không bào. Sinh sản bằng phân đôi. Có khả năng hình thào bào xác (nang - kén) khi gặp điều kiện không thuận lợi. A kí sinh trong ruột người và động vật, gây bệnh đường ruột. Ở người, A (Entamoeba histolytica) gây bệnh lỵ amip, tạo ra các vết loét dạng núi lửa trên mặt thành ruột, ăn hồng cầu và có thể theo máu vào bạch huyết gây apxe gan. Bệnh lị amip phổ biến ở vùng nhiệt đới. Ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm bệnh trước 1945 khoảng 10 - 20%, gần đây giảm còn 5%. Bệnh có thể phát triển thành dịch, đặc biệt trong mùa mưa lũ (x. Động vật nguyên sinh. Trùng chân rễ).

AN TOÀN DỊCH BỆNH (nông), hệ thống các biện pháp bảo đảm cho vật nuôi không hoặc ít bị dịch bệnh, sinh trưởng và phát triển đều. Bao gồm việc nuôi dưỡng tốt, đủ thức ăn về chất và về lượng; vệ sinh chuồng trại: tiêm chủng phòng dịch; chữa bệnh kịp thời, dập tắt nhanh các ổ dịch và không cho để tái phát.

ANBUMIN NIỆU (y; tk protein niệu), hiện tượng nước tiểu có protein. Anbumin huyết thanh người có trọng lượng phân tử 68500 và đông vón ở 670C và đông vón. Bình thường AN có rất ít trong 24 giờ và không phát hiện được bằng những phương pháp thông thường. AN gặp trong các bệnh thận cấp (viêm thận, lao thận, giang mai thận, thoái hoá thận dạng tinh bột, thận hư v.v...) và các bệnh ngoài thận (bệnh tim nặng, nhiễm khuẩn nặng, nhiễm độc chì, thuỷ ngân, nhiễm độc thai nghén, v.v...). Trong y tế, mỗ lần khám thai, bắt buộc phải tìm AN để đề phòng hội chứng nhiễm độc thai nghén, sản giật, thai chết lưu (những tai biến nặng ở người có thai).

ANĐOSTERON (sinh; A. aldosterone), hocmon steroit hình thành từ vỏ tuyến thượng thận, kiểm tra nồng độ ion natri và kali ở động vật có vú. A cho phép tái hấp thụ ion natri và tiết ion kali ở ống thận, tăng cường hấp thụ ion natri của ruột. Làm nồng độ ion natri trong máu tăng, ion kali giảm.

ANĐROGEN (sinh; A. androgen). Hocmon steroit sinh dục đục, kiểm tra sự phát triển và duy trì những đặc điểm sinh dục đực sơ cấp và thứ cấp (như râu và giọng nói trầm ở đàn ông), cơ quan sinh dục phụ và sinh tinh trùng. A do tinh hoàn sinh ra (một số ít được tạo ra ở buồng trứng và vỏ tuyến thượng thận). A quan trọng nhất là testosteron. Cắt bỏ tinh hoàn sẽ làm teo cơ quan sinh dục phụ. Có thể dùng A để thay thế tinh hoàn bị cắt bỏ. A còn được dùng trong điều trị một số bệnh như suy tuyến yên, suy tuyến sinh dục và trong điều trị ung thư vú. A cũng có hoạt tính đồng hoá, kích thích sinh trường và hình thành mô mới.

ANĐROSTERON (sinh; A. androsterone), loại hocmon steroit, hình thành ở gan trong quá trình trao đổi chất testosteron (x. Androgen)

ẢO GIÁC (y), cảm giác, tri giác xuất hiện trong khi thực tế không có mặt sự vật hoặc hiện tượng tương ứng, là một trạng thái bệnh lý này sinh do sự phóng ngoại (x. phóng ngoại) không chủ định các hình ảnh tâm lý. Các bệnh của hệ thần kinh trung ương hay ngoại vi, các nhiễm độc hoá chất và thuốc đều có thể gây AG.

ASPIRIN (hoá, A aspirin) x. Axit axetylsalixilic

ATP (sinh; A adenosine triphosphate) chất mang năng lượng vạn năng có trong tất cả các tế bào, được tạo thành từ ademocin và ba gốc axit photphoric. Năng lượng từ quá trình hô hấp hoặc từ ánh sáng mặt trời (trong quá trình quang hợp) được sử dụng để tổng hợp ATP từ ADP. Tác dụng của enzim tách gốc photphat tận cùng khỏi ATP chuyển nó thành ADP, giải phóng năng lượng dùng cho các quá trình khác nhau (như co cơ, sinh tổng hợp và các hoạt động khác). ADP có thể bị thuỷ phân tiếp, tạo thành AMP giải phóng năng lượng. Chế phẩm ATP dùng trong y học.

AXETYLCOLIN (sinh; A acetylcholine, Ach), chẫn dẫn truyền thần kinh thấy ở đa số các synap, chỗ tiếp xúc giữa hai tế bào thần kinh. Các sợi sản ra A gọi là sợi thần kinh tiết A, đặc trưng cho hệ thần kinh phó giao cảm (x. Chất dẫn truyền thần kinh)

AXIT AMIN (hoá, sinh; A aminoacid), hợp chất hữu cơ có chứa nhóm cacboxyl (-COOH) và nhóm amin (-NH2), vừa có tính axit vừa có tính bazơ (lưỡng tính). Tuỳ theo vị trí của nhóm amin đối với nhóm cacboxyt, người ta phân biệt a-, b- và g- aminoaxit. Các AA có nguồn gốc tự nhiên đều là a-aminoaxit (nhóm amin nối với cacbon a). Cấu tạo của AA gồm các tinh thể màu trắng, tham gia trong quá trình tổng hợp nhiều chất chứa nitơ quan trọng trong cơ thể sống. Hiện nay, đã biết trong thiên nhiên có 150 loại AA, trong đó có 20 loại tham gia cấu tạo protein. Phần lớn thực vật là vi sinh vật có khả năng tổng hợp tất cả các AA cần thiết cho chúng. Động vật và người không có khả năng tổng hợp một số AA mà phải lấy qua thức ăn. Đó là các AA cần thiết hoặc không thay thế được như acginin, histidin, isolơxin, lơxin, lisin, methionin, phenilalanin, treonin, triptophan, tirosin, valin. Có các AA tích điện âm ở pH trung tính, trong phân tử của chúng có hai nhóm cacboxyl và một nhóm amin gọi là AA axit, vd. Axit asparaginic, axit glutamic. Có các AA tích điện dương ở pH trung tính gọi là A kiềm, vd. Lisin, acginin histidin. Bột cá, bột sữa, thức ăn lên men, khô dầu... là những thức ăn giầu AA. Ngày nay, một số AA đựơc điều chế bằng cách thủy phân protein hoặc tổng hợp hữu cơ để bổ sung vào thức ăn cho người, gia súc, côn trùng. AA cũng là hợp chất ban đầu để tổng hợp các loại poliamit, phẩm nhuộm và dược phẩm.

AXIT ASCOBIC (hoá; A. ascorbic acid; cg. Axit L - ascobi, vitamin C), C6H806. Là tinh thể trắng thường ở dạng hình tấm, đôi khi ở dạng hình kim, tnc = 1920C. Có trong rau và quả (cà chua, khoai tây,vv). Tổng hợp từ D-glucozơ. Tan trong nước, etanol, không tan trong ete, clorofom, benzen, ete dầu hoả, bền trong không khí khô. Dùng làm chất chống oxi hoá, làm tác nhân khử trong hoá phân tích; các muối sắt, canxi, natri của AA được dùng trong nghiên cứu sinh hoá. AA là thuốc chữa bệnh thiếu vitamin C và các chứng chảy máu do thiếu chất này.

AXIT GLUTAMIC (hoá; A. glucamic acid; cg. Axit a - aminoglutaric, axit 2 - aminopentandioe), HOOCCH2CH2CH(NH2)COOH. Thuộc loại axit amin có chứa một nhóm amin và hai nhóm cacboxyl. Điều chế bằng cách tổng hợp hoặc lên men gluxit.

Axit L (+) - glutamic (thường gọi axit glutamic) là những tinh thể không màu, tnc=247 - 2490C (phân huỷ), thăng hoa ở 2000C, độ quay cực riêng với tia D ở 220C: 310C. Ít tan trong nước, etanol; không tan trong ete, axeton. Đóng vai trò quan trọng trong việc trao đổi đạm. Dùng trong y học, trong nghiên cứu sinh hoá, bổ sung vào khẩu phần thức ăn.

Axit L (+) - glutamic có vị ngọt của thịt, còn axit D (-) -glutamic không có vị đó. Mononatriglutamat (NaOOCCH2CH2CH(NH2)COOH) dễ tan trong nước, thường gọi là mì chính (bột ngọt) được dùng làm gia vị (xt. Mì chính)

AXIT LACTIC (hoá, sinh; A lactic acid; cg. Axit 2-hidroxipropionic), CH3CHOHCOOH, kết quả của quá trình lên men lactic của vi khuẩn Lactobacillus, sản phẩm cuối cùng của quá trình đường phân kị khí glucozơ. Chất lỏng không màu, không mùi; khối lượng riêng 1,24g/cm3; tnc=180C; t=1190C/12mm Hg. Tan trong nước, etanol, ete. Tồn tại ở hai dạng đồng phân quang học. Điều chế bằng cách lên men các chất đường. AL là sản phẩm trung gian quan trọng của quá trình trao đổi chất ở cơ thể động vật, thực vật và vi sinh vật. Có nhiều trong mô sinh vật, trong sữa chua, rau, muối vv. Khi mô cơ làm việc nhiều, hàm lượng AL tăng lên rõ rệt trong cơ và máu, AL chuyển hoá thành glucozơ. Là một trong những chỉ số xác định sức chịu đựng khi lao động nặng và kéo dài của người và một số vật nuôi. AL được dùng trong tổng hợp hữu cơ, dùng để phát hiện glucozơ và pirogalol; dùng làm dược phẩm, vv.

AXIT XITRIC (hoá; A. citric acid; cg. Axit 2 - hidroxi -1, 2, 3- propantricacboxylic), HOC(CH2COOH)2COOH. AX khan có tnc = 1530C. Tinh thể monohiđrat (C6H8O7H2O) mất một phân tử nước khi sấy ở 40 - 500C, dễ tan trong nước (100ml nước hoà tan 133g AX). Dạng tinh thể ngậm một phân tử nước thường có trong dịch quả cây họ cam quýt (Rutaceae), đặc biệt là chanh (chanh chứa 6-8% AX) và nhiều loại quả khác, cũng có trong lá bông, lá cây thuốc lào. Điều chế bằng cách lên men cácbon hiđrat. AX đóng vai trò quan trọng trong sinh học do tham gia chu trình Krepxơ. Dùng trong công nghiệp dược phẩm và thực phẩm. Muối xitrat được dùng để đóng hộp máu, làm tan sỏi thận.

ĂN NHẠT (y), một chế độ ăn bệnh lý (x. Chế độ ăn bệnh lý), không dùng các món ăn có nhiều natri, hạn chế đưa natri vào cơ thể. Chỉ định trong các trường hợp cần giải quyết chứng phù, giảm khối lượng máu, giảm dịch trong các khoảng kẽ gian bào. Bình thường natri được đào thảo chủ yếu theo nước tiểu, một phần qua mồ hôi. Do một nguyên nhân bệnh lý nào đó (bệnh tim - mạch, suy thận, dùng dài ngày hocmon thượng thận, chất cocticoit, vv.), natri bị giữ lại trong cơ thể, nước bị giữ lại gây phù. Chữa phù bằng cách giảm lượng natri trong thức ăn từ 4 - 6 g/ngày xuống 0,5 - 1g/ngày, thay muối ăn bằng các muối vô cơ khác. ĂN không có nghĩa là loại hoàn toàn muối khỏi các món ăn. Để thực hiện chế độ ĂN, có thể dùng: gạo, xôi gấc, khoai tây, thịt tươi, cá, sữa, trứng, bơ, rau, quả tươi, nước quả, đường (mỗi ngày 100 - 300g), bia, vitamin (vitamin A, phức hợp B3, C2 vv), gia vị (hồ tiêu, dấm, hành, tỏi,vv) để đỡ nhạt miệng. ĂN quá kéo dài có thể gây ra tình trạng thiếu natri, rối loạn tính hưng phấn thần kinh cơ, pH và áp suất thẩm thấu của máu, vv.

ĂN NHIỀU (y; Ph. Polyphagie), tình trạng tiêu thụ thức ăn nhiều hơn mức bình thường (danh từ dân gian: háu đói, ăn không biết no, bội thực, vv). Nguyên nhân: tăng nhu cầu dinh dưỡng (thời kỳ hồi phục sau ốm; vận động thể lực nặng; mắc bệnh nhiễm khuẩn, vv); tăng tiêu hao vật chất của cơ thể (bệnh đái tháo đường, ngộ độc thyroxin, vv); tổn thương trung tâm "no" của vùng dưới đồi hoặc liên quan đến hệ viền của vỏ não, xảy ra do vùng dưới đồi hoặc liên quan đến hệ viền của vỏ não, xảy ra do tai biến mạch máu não hoặc những chấn thương tinh thần quá mạnh (triệu chứng bệnh lý: ăn vô độ).

ĂN SAM (y), trường hợp trẻ vừa bú sữa mẹ vừa ăn sữa bò. Có hai cách cho ĂS: cho ăn thêm sữa bò, sau mỗi lần bú mẹ (vd. trường hợp mẹ thiếu sữa, ăn bổ sung sau 6 tháng tuổi); ngoài những lần bú mẹ, cho ăn sữa bò một hoặc hai lần (trường hợp mẹ vắng nhà). ĂS thường làm cho trẻ dễ bỏ bú sữa mẹ.

ĂN VÔ ĐỘ (y) x. Ăn nhiều

ẤU TRÙNG (sinh; larva) pha phát triển của các loại động vật có đốt (côn trùng, tôm, cua...) Trứng nở ra có các đặc điểm hình thái, tập tính khác với sâu trưởng thành (sâu non của bướm, sâu đục thân lúa, sâu xanh hại đay, sâu róm thông, tằm dâu...). Qua nhiều lần lột xác, mỗi lần lột xác là 1 tuổi. ÂT lớn lên và hoá nhộng, nhộng hoá sâu trưởng thành hoặc ÂT trực tiếp thành sâu trưởng thành.

ừ điển y học Việt Nam - Mục từ B

BÀ ĐỠ (dân tộc) x. Bà mụ

BẠCH BIẾN (y), bệnh da có dát trắng, thường xuất hiện đột ngột ở mọi lứa tuổi, ở cả nam và nữ. Dấu hiệu đặc biệt dễ phân biệt với các bệnh bạch bì khác: không ngứa, không tê, không vảy, quanh vết trắng có quầng thâm sẫm màu hơn da lành. BB không ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân, chỉ gây tác động tâm lý về thẩm mũ khi dát trắng xuất hiện ở mặt. Chưa rõ, căn nguyên của bệnh. Có thể dùng nhiều loại thuốc để điều trị, nhưng chưa đạt kết quả ổn định.

BẠCH CẦU (y, sinh), một loại tế bào trong máu, có nhân, nhân không có màu sắc, làm nhiệm vụ bảo vệ cơ thể. Về mặt hình thái có kích thước 7 - 14mm, sau khi nhuộm thường được phân biệt thành loại nhân một múi (đơn nhân) và loại nhân nhiều múi (đa nhân); thành loại không có hạt trong bào tương (tế bào lympho và tế bào đơn nhân) và loại có hạt (trung tính, ưa axit hay ưa bazơ). Nơi sản sinh là tuỷ xương; khi trưởng thành mới vào máu. Trong 1mm3 máu, bình thường có từ 4000 đến 9000 BC nói chung. Số lượng dưới 4000 là giảm, sự giảm thường thấy trong nhiễm độc; cao hơn 9000 là tăng, thường gặp khi nhiễm khuẩn.

BẠCH CẦU ĐƠN NHÂN (sinh), loại bạch cầu có kích thước lớn nhất, trong chất tế bào không có hạt. Nhân lớn, hình quả thận. Chiếm 4-5% số lượng bạch cầu, là các thực bào tích cực ăn các phần tử lạ xâm nhập cơ thể.

BẠCH CẦU HẠT (sinh), loại bạch cầu có nhiều hạt trong chất tế bào. Đôi khi còn gọi là bạch cầu nhân đa hình, vi nhân có nhiều dạng. Có ba dạng: BCH trung tính (chiếm 70% số bạch cầu), BCH ưa axít (chiếm 1,5%) và BCH ưa kiềm (chiếm 0,5%)

BẠCH CẦU KHÔNG HẠT (sinh), loại bạch cầu không chứa các hạt trong chất tế bào. Có hai loại: lymphô bào chiếm 25% và bạch cầu đơn nhân chiếm 4%. Cả hai loại đều có nhân lớn và một lượng nhỏ chất tế bào màu sáng.

BẠCH CẦU TRUNG TÍNH (sinh, y), loại bạch cầu chứa các hạt, không bị bắt màu bởi cả hai loại thuốc nhuộm axit và kiềm. Có nhân phân thuỳ, vì thế còn gọi là bạch cầu nhân đa hình. Chiếm khoảng 70% tổng số bạch cầu, có chứa năng bắt và tiêu các thể lạ như vi khuẩn nhờ các enzym do nó tiết ra. Là tuyến bảo vệ đầu tiên của cơ thể đối với các bệnh. Có thể đi qua các mao mạch bằng chuyển động amip vào các mô vây quanh chỗ bị nhiễm khuẩn, ở đây chúng có thể chết và hình thành mủ.

BẠCH CẦU ƯA AXIT (sinh, y), loại bạch cầu có nhân phân thuỷ và chất tế bào dạng hạt, bắt màu với các thuốc nhuộm axit. Chiếm khoảng 1,5% tổng số bạch cầu, số lượng tăng khi cơ thể bị dị ứng như hen, sốt đồng cỏ, vì nó có tính kháng histamin. Số lượng BCƯA do hocmon vỏ thượng thận điều chỉnh.

BẠCH CẦU ƯA KIỀM (sinh, y), loại bạch cầu chứa hạt bắt mầu với các thuốc nhuộm kiềm. Có một nhân hình thuỳ, chiếm khoảng 0,5% tổng số bạch cầu, chuyển vận bằng chân giả, có thể tiêu diệt vi khuẩn. Sản sinh ra heparin và histamin, được xem là các tế bào lang thang, đã tìm thấy cả trong thành mạch máu.

BẠCH TRUẬT (y Atractylodes macrocephala), cây thảo, họ Cúc (Asteraceae). Thân cao khoảng 0,5m. Lá mọc so le, lá ở phía ngọn không chia thuỳ, phía dưới có chia thuỳ. Cụm hoa hình đầu, hoa hình ống, phía dưới màu trắng, phía trên tím đỏ. Đã được đi thực vào Việt Nam, trồng ở vùng núi mát và đồng bằng. Cây chứa tinh dầu, vitamin A, atratylol, glucozit, insulin, muối kali atractylat. Thân rễ (củ) phơi, sấy khô có vị ngọt hơi đắng, mùi thơm nhẹ, đông y dùng chữa đầy, trướng bụng, chậm tiêu, thấp nhiệt, dương hư.

BÀI TẬP THỂ LỰC (thể thao, y), tổng hợp các động tác vận động được hệ thống hoá thành bài tập, sắp xếp theo một quy trình nhất định và phù hợp với tâm lí, sinh lí người tập, để luyện thân thể, tăng sức khỏe, kĩ năng vận động, chuẩn bị những điều kiện tốt nhất cho người tập hướng theo một mục đích định trước (học tập, lao động, thi đấu thể thao,vv). Về nguyên tắc, BTTL khác với các hoạt động vận động thường lệ trong sinh hoạt, lao động chân tay (gánh nước, đốn củi, cày ruộng, giã gạo, vv). Có một số hoạt động lao động thể lực có thể dùng trong các BTTL nếu thực hiện theo những quy định, yêu cầu của giáo dục thể chất.

BAN (tổ chức), tên gọi cơ quan làm chức năng quản lý hay chức năng tham mưu trong hệ thống bộ máy của Nhà nước và các tổ chức của Đảng và đoàn thể ở Việt Nam.

1. Cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực được chính phủ phân công trong phạm vi cả nước (vd: Ban tổ chức và cán bộ của Chính phủ)

2. Cơ quan thuộc Chính phủ do thủ tướng trực tiếp chỉ đạo, có chức năng giúp thủ tướng Chính phủ quản lý một số lĩnh vực công tác (vd. Ban biên giới của Chính phủ)

3. Cơ quan tham mưu của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về các lĩnh vực công tác được phân công (vd. Ban khoa giáo trung ương, Ban tư tưởng văn hoá trung ương)

4. Ngoài ra ở một số ngành của chính quyền trung ương (bộ, tổng cục...) ở các tổ chức Đảng, đoàn thể và chính quyền địa phương cũng có các ban nghiên cứu hay giúp việc chỉ đạo một số lĩnh vực nhất định (vd. Ban tuyên giáo).

BAN ĐỎ (y), một dấu hiệu chung cho nhiều bệnh ngoài da với biểu hiện: da đỏ, đỏ nhạt hoặc thẫm, khi ấn bằng một lam kính thì màu đỏ sẽ mất, khi thôi ấn màu đỏ xuất hiện trở lại. BĐ là một hiện tượng dãn mạch, sung huyết tạm thời và mất đi nhanh chóng.

BAN XUẤT HUYẾT (y) thương tổn cơ bản của da và niêm mạc do hồng cầu thoát ra ngoài mao mạch và niêm mạc. Biểu hiện: các chấm xuất huyết nhỏ, đỏ ở giữa hay chấm xuất huyết lớn có màu tím, bờ không đều và giới hạn không rõ, không mất đi khi ấn bằng lam kính. BXH là thương tổn chung cho nhiều bệnh chảy máu (BXH dị ứng, BXH tối cấp, BXH nhiễm khuẩn, BXH thấp khớp, vv.)

BÀN TAY KHOÈO (y) biến dạng của bàn tay do dị tật bẩm sinh hoặc di chứng chấn thương. Nguyên nhân: các rối loạn phát triển xương hoặc co cơ. Thường bàn tay bị gấp và vẹo ra ngoài về phía xương quay; vẹo vào trong về phía xương trụ. Có trường hợp bị duỗi quá mức so với cẳng tay. Phải mổ sửa biến dạng.

BẢN ĐỒ NHIỄM SẮC THỂ (y) biểu đồ cho thấy trật tự của các gen dọc theo chiều dài nhiễm sắc thể. Đựơc xây dựng từ những thông tin thu được nhờ những nghiên cứu liên kết gen (cho ta bản đồ liên kết gen) và những quan sát thực hiện nhiễm sắc thể đa sợi (nhiễm sắc thể khổng lồ) của tuyến nước bọt ở một số côn trùng như ruồi giấm (Drosophila sp)

BẢN NĂNG SINH DỤC (sinh, y), hành vi bẩm sinh về giới tính của sinh vật nhằm bảo tồn giống loài. Ở động vật, nhu cầu giao phổi chỉ xảy ra khi động dục (X. Động dục). Ở người, do tác động của nhiều yếu tố (văn hoá, xã hội, vv) và đặc biệt của yếu tố tinh thần, BNSD đã phần nào được chế ngự

BAO CAO SU (y; cg, bao dương vật, ca pôt, túi cao su, conđom), bao làm bằng cao su hoặc chất dẻo mỏng để bọc dương vật khi giao hợp nhằm mục đích tránh thai và đề phòng lây bệnh qua đường tình dục (bệnh hoa liễu, AIDS). Kĩ nghệ hiện đại cho phép sản xuất những bao mỏng, dai, chắc, có tráng sẵn chất nhờn, có thêm một túi nhỏ ở đầu để chứa tinh dịch khi xuất tinh, được tiệt khuẩn và đóng gói riêng từng chiếc cho tiện dùng. BCS bảo đảm an toàn cho người sử dụng, không ảnh hưởng gì đến khoái cảm.

BAO QUY ĐẦU (y) nếp da bao bọc quy đầu dương vật của nam giới, ở nữ giởi cũng có một bộ phận tương tự bao bọc âm vật (bao âm vật). BQĐ có một tật bẩm sinh là hẹp hay chít BQĐ (với biểu hiện bao dài, lỗ trước của bao bị thu hẹp, không trật lên được). Tật thường phát hiện từ lúc trẻ mới đẻ vì khi trẻ đi tiểu nếu để ý sẽ thấy bao da phồng to. Tật chít hẹp BQĐ làm cho bựa đóng lại trong bao, có thể gây ngứa ngáy khó chịu, gây viêm. Trẻ em thường hay kéo BQĐ trật lên trên, nhưng sau đấy không kéo trở xuống lại, gây nên biến chứng nghẹt BQĐ, phải mổ ngay. Đối với BQĐ dài, dạng hẹp, cần xén bớt để tránh viêm, nghẽn, ung thư, vv. Dân tộc, Do Thái có tập quán cắt BQĐ cho tất cả trẻ em nam từ lúc 6 - 7 tuổi, nhân dịp này gia đình tổ chức một ngày lễ gia đình gọi là ngày lễ cắt BQĐ.

BAO TRÁNH THAI (y; tk. Bao dương vật, ca pốt, bao cao su, túi cao su, conđom) x. Bao cao su

BÀO CHẾ (y), môn được học nghiên cứu việc điều chế từ các dược liệu thànhc ác dạng thuốc uống, tiêm và dùng ngoài, với công hiệu phòng chữa bệnh cao nhất, dễ dùng, bảo quản được lâu và có hình thức mỹ thuật. BC tân dược (theo y học hiện đại) và đông dược có nhiều điểm kỹ thuật khác nhau, có thể bổ sung cho nhau trong thực tiễn sản xuất thuốc men cần dùng.

BÀO TƯƠNG (sinh), thành phần của tế bào, nằm quanh nhân và phía trong màng tế bào, tạo nên hình dáng của tế bào như hình tròn, vuông, trụ, đa giác hoặc hình sợi, hình nhiều đuôi. Trong một số bệnh (vd. Trong nhiễm độc chì) có xuất hiện một số vật lạ trong BT.

BẢO HIỂM THÂN THỂ (kinh tế), loại bảo hiểm lấy sinh mạng con người làm đối tượng, bao gồm: bảo hiểm tuổi già, ốm đau, tai nạn, mất sức lao động... yêu cầu bảo hiểm cụ thể phụ thuộc vào tính đặc thù trong từng nghành nghề khác nhau. Người được bảo hiểm phải kí kết hợp đồng với tổ chức bảo hiểm và nộp phí bảo hiểm một lần hoặc nhiều lần, tuỳ theo hình thức bảo hiểm. Tổ chức bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm một số tiền theo những thời hạn đã ấn định, một lần, nhiều lần hay định kì thường xuyên như hưu trí (bảo hiểm hưu trí)

BẢO HIỂM Y TẾ (kinh tế), loại bảo hiểm do nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa bệnh cho nhân dân. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị định số 299 ngày 15.8.1992 về BHYT. BHYT áp dụng bắt buộc đối với cán bộ, công nhân viên tại chức, hưu trí, nghỉ mất sức lao động trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức đảng, đoàn thể, xã hội, hội quần chúng có hưởng lương từ ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp quốc doanh, kể cả doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và tổ chức quốc tế tại Việt Nam có thuê lao động là người Việt Nam. Các đối tượng khác tham gia BHYT tự nguyện. Mức đóng BHYT do cơ quan doanh nghiệp chịu trách nhiệm phần lớn (khoảng 2/3), cá nhân chỉ đóng phần nhỏ. Người đóng BHYT được khám, chữa bệnh ở tất cả các cơ sở y tế. Không được hưởng quyền lợi, về BHYT trong trường hợp tự tử, say rượu, dùng chất ma tuý, vi phạm pháp luật, bệnh lây qua đường sinh dục v.v.

BẢO HỘ LAO ĐỘNG (kinh tế, y), hệ thống các giải pháp về pháp luật, khoa học, kĩ thuật, kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm an toàn và sức khỏe của con người trong quá trình lao động sản xuất. Nội dung bao gồm: 1/ Xây dựng, ban hành và giám sát việc thực hiện hệ thống luật vầ bảo đảm an toàn - vệ sinh lao động, hệ thống các tiêu chuẩn giới hạn cho phép của các yếu tố điều kiện lao động, hệ thống các quy phạm an toàn trong lao động - sản xuất và các chínhs ách, chế độ bồi dưỡng sức khỏe, chăm sóc y tế cho những người lao động phải làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, kém hấp dẫn. 2/ Bảo đảm tính đồng bộ và tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu an toàn - vệ sinh lao động trong toàn bộ quá trình thiết kế, sản xuất, vận chuyển, lắp đặt, vận hành và bảo quản nhà xưởng, quy trình công nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nhiên liệu, năng lượng sử dụng trong quá trình lao động. 3/ Không ngừng nâng cao hiểu biết và ý thức của người sử dụng lao động về an toàn - vệ sinh lao động bằng cách tuyển chọn, tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn, đào tạo thường xuyên luyện tập các phương án phòng, chống các sự cố trong sản xuất.

Các hình thức sơ khai của BHLĐ đã xuất hiện cùng với quá trình phát triển sản xuất. Kĩ thuật và công nghệ sản xuất càng phát triển, nguy cơ ảnh hưởng của các yếu tố không thuận lợi phát sinh trong quá trình phát cũng ngày càng tăng lên, đòi hỏi công tác BHLĐ phải phát triển tương ứng. Nhà nước rất quan tâm đến công tác BHLĐ. Ngay sau khi thành lập nước Việt nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã ban hành các Sắc lệnh 29/SL (13.3.1947) và 77/SL (22.5.1950) về an toàn - vệ sinh lao động, thời giờ lao động - nghỉ ngơi. Tiếp theo đó là Điều lệ tạm thời về bảo hộ lao động (Nghị định 181/CP ngày 18.12.1964, Pháp lệnh bảo hộ lao động (10.9.1991) và gần đây trong bộ luật lao động mới ban hành (1994) có một chương quy định về công tác BHLĐ.

Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng đã có nhiều công ước và khuyến nghị về BHLĐ. Đáng chú ý là Công ước 155 (1981) về an toàn và sức khỏe của người lao động đã được Việt Nam phê chuẩn; Công ước 148 về bảo hộ người lao động chống những rủi ro nghề nghiệp do ô nhiễm không khí, tiếng ồn và những chấn động ở nơi làm việc; Công ước 174 (1993) về ngăn ngừa các tai nạn công nghiệp.

BẢO VỆ BÀ MẸ TRẺ EM (y), hệ thống các biện pháp nhà nước và xã hội, nhằm bảo vệ sức khỏe phụ nữ và trẻ em, bao gồm: chăm sóc sức khoẻ ban đầu, vệ sinh và dinh dưỡng, chăm sóc thai nghén để bảo đảm sinh đẻ an toàn, tiêm chủng chống các bệnh hiểm nghèo, vv; kế hoạch hoá gia đình; theo dõi tình trạng sức khỏe và sự phát triển của trẻ em; tổ chức cứu trợ xã hội cho phụ nữ và trẻ em; tích cực điều trị khi phát hiện bệnh; nâng cao vị trí người phụ nữ trong xã hội; thực hiện Pháp lệnh bảo vệ trẻ em; vv.

BẢO VỆ SỨC KHỎE (y), tổng hợp các biện pháp của nhà nước và xã hội để giữ gìn, nâng cao sức khỏe, phòng ngừa, điều trị bệnh tật và thương tật, kéo dài tuổi thọ của con người. BVSK gắn chặt với sự phát triển toàn diện của xã hội, chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của một nước. Công tác BVSK đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành: kinh tế, nông nghiệp, công nghiệp, thể dục thể thao, giáo dục, y tế... và nhất là đòi hỏi sự tham gia tích cực của nhân dân vào các phong trào, các chương trình sức khỏe, thực hiện luật bảo vệ sức khỏe và bảo hiểm sức khỏe.

BÁT VỊ HOÀN (y; thận khí hoàn), bài thuốc ôn bổ thận dương, gồm 8 vị (thục địa, sơn thù, hoài sơn, trạch tả, đan bì, phục linh, nhục quế, phụ tử), được làm thành viên mềm.

BĂNG PHIẾN (hoá) x. Naphtalen

BĂNG HUYẾT (y), hiện tượng ra máu (huyết) nhiều và ồ ạt từ đường sinh dục nữ gây nên tụt huyết áp, sốc, rất nguy hiểm và dễ dẫn tới tử vong. Nguyên nhân: sẩy thai, do sót nhau, chủ yếu là sau khi sổ thai, trước và nhất là sau khi sổ nhau, BH xảy ra ở phụ nữ đẻ nhiều, cơ tử cung giãn, không co hồi sau sổ nhau, làm cho lòng các mạch máu thành tử cung vẫn há rộng và máu chảy ồ ạt ra ngoài. Để phát hiện kịp thời BH, phải kiểm tra kĩ bán nhau, đảm bảo nguyên vẹn, không sót nhau; theo dõi sản phụ ít nhất một giờ sau sổ nhau, bảo đảm tử cung co hồi tốt, làm thành một khối cầu cứng chắc. BH là một ca cấp cứu sản khoa tối cấp, cần phải giải quyết kịp thời mới cứu được sản phụ.

BĂNG KINH (y) hiện tượng hành kinh ra nhiều máu tới mức ảnh hưởng đến toàn thể trạng, bất kể thời gian dài hay ngắn. Nguyên nhân BK: tử cung co bóp kém ở những người đã đẻ nhiều lần, u cơ dưới niêm mạc tử cung, tăng sản niêm mạc tử cung...Cần tích cực giải quyết các hậu quả mất máu cấp, sự suy yếu cơ thể đồng thời cầm máu nhanh. Điều trị dự phòng cho những kỳ hành kinh sau, đồng thời tìm nguyên nhân của BK.

BẨM CHẤT DỄ MẮC BỆNH (y), tình trạng đặc biệt của cơ thể một cá thể (thể địa) làm cho cơ thể đó dễ mắc một bệnh mà nhiều người khác không mắc. Nguyên nhân là trong cơ thể có sẵn từ trước một sự thay đổi hay rối loạn sinh hoá, nhưng chưa bộc lộ ra ngoài, khi gặp một điều kiện thuận lợi nhất định, các dấu hiệu bệnh lý mới phát sinh và mới có thể phát hiện được. Vd. bệnh thiếu máu tan máu do thiếu một trong số các enzym trong hồng cầu cần thiết cho sự chuyển hoá của nó, chẳng hạn enzym G6PD (glucozơ - 6 - phophat đehiđrogenaza). Bệnh nhân có các dấu hiệu của bệnh thiếu máu tan máu bẩm sinh mạn tính. Thiếu enzym G6PD tạo điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện bệnh vàng da tan máu cấp tính nếu xảy ra nhiễm khuẩn hay nhiễm độc (do uống các thuốc chống sốt rét như primachin, các sulfamide, các thuốc hạ nhiệt, vv).

BẨM SINH (sinh, giáo dục), tố chất được hình thành trong thời kỳ bào thai, có được do di truyền, hoặc do những điều kiện phát triển thai nhi. Vd. Do sự phát triển không bình thường của một cơ quan hay mô nào đó trong thời kỳ bào thai dẫn đến sứt môi, hở hàm ếch, bạch tạng, thừa ngón tay... có quan điểm cho rằng, cái BS quy định mọi sự phát triển tâm lý, còn môi trường, xã hội, giáo dục chỉ làm bộc lộ dần các đặc điểm BS. Quan điểm duy vật biện chứng xem BS chỉ là tiền đề vật chất của sự phát triển. Những biến đổi về chất trong sự phát triển tâm lý trẻ chủ yếu được quyết định do hoạt động giao lưu của chủ thể trong môi trường sống và giáo dục.

BẤM HUYỆT (y) x. Day ấn huyệt

BẤT LỰC (y), không sử dụng được chức năng bình thường của một bộ phận cơ thể do nhiều nguyên nhân khác nhau (thương tật, vv). Vd. Chi bị bại liệt, tai điếc, vv.

BẤT LỰC TÌNH DỤC (y), không có khả năng tiến hành giao hợp một cách bình thường và trọn vẹn. Vd. liệt dương đối với nam, lãnh đạm tình dục đối với nữ. Nguyên nhân: do khuyết tật của bộ phận sinh dục, do sức khỏe kém, quá lao tâm lao lực, do các yếu tố tâm lý, thần kinh, nội tiết, vv. Chữa khó khăn, phức tạp, tập trung tác động chủ yếu vào các yếu tố thần kinh tâm lý. Theo y học cổ truyền, BLTD là do thận âm hư. Có thể chữa bằng châm cứu và thuốc đông y.

BÉO PHÌ (y), tình trạng một cơ thể tích lũy mỡ quá mức ở trong các phủ tạng cũng như tổ chức liên kết và tổ chức dưới da, làm cho khối lượng cơ thể vượt quá 25% khối lượng lý tưởng. Nguyên nhân: ăn nhiều hoặc rối loạn chuyển hoá hay nội tiết. BP là trạng thái bệnh lý kèm theo các bện khác như đái tháo đường, tăng huyết áp. Để chống BP, cần có chế độ ăn hợp lý (lượng thức ăn có năng lượng không quá cao so với nhu cầu của cơ thể) và tập luyện thường xuyên.

BỆNH (y, nông sinh), quá trình hoạt động không bình thường của cơ thể sinh vật (người, động vật, thực vật), từ nguyên nhân khởi thủy đến hậu quả cuối cùng. Nguyên nhân gây B rất nhiều, có thể tổng hợp làm ba loại chính: hoặc do bản thân cơ thể sinh vật có khuyết tật như di truyền bẩm sinh hay rối loạn sinh lý hoặc do hoàn cảnh sống của sinh vật khắc nghiệt như quá nóng, quá lạnh , bị ngộ độc, không đủ chất dinh dưỡng; hoặc do bị các sinh vật khác (nhất là các vi sinh vật) kí sinh. Do đó, bệnh có rất nhiều loại, nhiều dạng hình. Một cơ thể, sinh vật không chỉ có một loại bệnh, và nhiều lúc một loại bệnh không chỉ có trên một cá thể sinh vật. Triệu chứng, điều kiện phát sinh phát triển của từng loại bệnh thường khác nhau. Điều quan trọng trước hết là phải xác định đúng nguyên nhân gây B, sau đó xét đến mối quan hệ giữa nguyên nhân gây bệnh và cơ thể bị B cùng mối quan hệ giữa chúng với điều kiện hoàn cảnh xung quanh thì mới phòng chữa B có hiệu quả.

BỆNH AĐIXƠN (y), bệnh suy tuyến thượng thận mạn tính do Ađixơn (Addison) mô tả lần đầu tiên năm 1855. Nguyên nhân: vỏ tuyến thượng thận bị phá huỷ do lao (chủ yếu), ung thư, giang mai, xơ cứng động mạch, vv. Dấu hiệu: sút cân, chóng mệt mỏi, suy yếu về thể chất và tinh thần, chán ăn, buồn nôn, nôn, giảm huyết áp, da bị sạm nâu, nhất là ở những nơi bị hở như mặt, cổ tay hoặc những nơi da thường bị cọ xát, chỗ có sẹo cũ. Bệnh nhân có thể chết vì truỵ tim mạch, ngừng tim đột ngột do kali trong máu tăng cao. Điều trị: bổ sung các hocmon bị thiếu (cortisone), chữa nguyên nhân (lao, ung thư,vv).

BỆNH ÁN (y) hồ sơ bệnh án của từng bệnh nhân trong mọi cơ sở điều trị nội, ngoại trú. BA được lập theo một mẫu tương đối thống nhất, nhằm ghi chép đầy đủ các thông tin liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới bệnh được điều trị, gồm các phần: sơ yếu lí lịch (họ, tên, tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và gia đình, hoàn cảnh kinh tế); bệnh sử (diễn biến của các triệu chứng bệnh từ khi bắt đầu, các biện pháp khám chữa bệnh đã được sử dụng); tiền sử bệnh tật gia đình và bản thân; các thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng, chẩn đoán phân biệt và xác định, chỉ định điều trị. Phần thực hiện và theo dõi được ghi hàng ngày lên phiếu điều trị kèm theo. Kết thúc quá trình điều trị, thầy thuốc ghi nhận xét về tình hình lúc ra viện (hoặc chết). BA là tài liệu cần thiết cho bệnh nhân trong hàng chục năm và có giá trị nghiên cứu cho các cơ sở khám và điều trị bệnh.

BỆNH BẠCH CẦU (y), bệnh ác tính của máu và các tổ chức tạo máu (tuỷ xương, lách, hạch). Bệnh biểu hiện bằng hiện tượng sinh sản quá mức không ngăn cản, kiểm soát được của bạch cầu bình thường và bất thường là 4000 - 9000/mm3, khi bị bệnh có thể lên tới 100 - 200 nghìn/mm3. Sự xâm lấn này kết hợp với hiện tượng rối loạn tế bào hồng cầu và tiểu cầu. Căn cứ vào dòng bạch cầu bị bệnh có thể có BBC thể tủy, BBC lympho, BBC đơn nhân. Nguyên nhân bệnh: nhiễm phóng xạ (như nạn nhân ở Hirosima), có những nguyên nhân chưa rõ như bệnh ở súc vật (x. Bệnh lơcôxis). Cách điều trị hiện nay: dùng hoá chất chống ung thư đặc hiệu, corticoides, kháng sinh, truyền máu. Có thể bệnh giảm từng đợt, bệnh nhân sống bình thường và bệnh kéo dài.

BỆNH BẠCH HẦU (nông y), bệnh nhiễm độc, nhiễm khuẩn do vi khuẩn Corynebacterium diphteriae gây ra, chủ yếu ở trẻ em. Biểu hiện: viêm họng có giả mạc hoặc viêm thanh quản ngạt thở do giả mạc phủ đầy trên thanh quản và dấu hiệu nhiễm độc nặng (viêm cơ tim và liệt các các dây thần kinh). Bệnh truyền nhiễm, lây bằng các giọt nước bọt bắn ra xung quanh do hắt hơi hoặc ho, trong đó có chứa vi khuẩn BBH và theo đường hô hấp xâm nhập vào người lành. Phòng bệnh có hiệu quả cao bằng tiêm giải độc tố BBH. Ở gà, có một bệnh gọi là BBH nhưng là một thể của bệnh đậu gà, do virut (x. Bệnh đậu) và ở bê có một bệnh cũng gọi là BBH nhưng do vi khuẩn Spherophonus necrophonus gây viêm niêm mạc miệng và hoại thư nặng.

BỆNH BẠI LIỆT (y, tk. bệnh Heine - Medin, lấy tên 2 tác giả mô bệnh đầu tiên), bệnh nhiễm khuẩn lây lan có thể gây thành dịch, do virut bại liệt làm thương tổn chất xám của tuỷ sống, chủ yếu là sừng trước của tuỷ sống. Bệnh thường xảy ra ở trẻ em với dấu hiệu sốt nhẹ, rồi liệt ở các chi hay liệt cơ hô hấp, chứa virut bại liệt, làm ô nhiễm nước và thực phẩm. Phòng bệnh có hiệu quả bằng vắc xin bại liệt. Tổ chức Y tế Thế giới đặt kế hoạch thanh toán BBL vào năm 2000.

BỆNH BAZƠĐÔ (y), bệnh cường tuyến giáp, xảy ra phần nhiều ở nữ, nam ít bị hơn. BB do thầy thuốc người Đức Bazơđô (D. Kart Basedow) mô tả năm 1840 với 3 triệu chứng chính (tam chứng Bazơđô): bướu cổ, lồi mắt hai bên, tim đập nhanh. Sau này thêm một số dấu hiệu khác: run tay, gầy sút cân và thay đổi tính tình, dễ bị kích động, lo âu, hay ra mồ hôi, vv (x. Cường tuyến giáp). Điều trị nội khoa bằng cách dùng các thuốc kháng giáp MTU (methyl thiouracile), PTU (propylthiouracile), néo mercazole, vv, trợ tim và an thần, dùng iot phóng xạ, điều trị ngoại khoa bằng chỉ định cắt bỏ tuyến giáp nếu điều trị nội khoa không đem lại kết quả.

BỆNH BẨM SINH (y), bệnh có nguy cơ ngay từ khi mới đẻ; có thể dễ nhận thấy (thừa ngón tay, ngón chân, cụt một phần của chi trên, chi dưới, sứt môi, tràn dịch não,...); cũng có khi phải khám kĩ mới phát hiện được (tật không thủng hậu môn, tinh hoàn lạc chỗ vv); có thể không phát hiện được trừ khi ngẫu nhiên khám nghiệm tử thi (thừa lách,vv). Nguyên nhân: bệnh di truyền do gen, bệnh bào thai mắc phải cùng với mẹ khi có thai (nhiễm virut rubeon, nhiễm hoá chất độc như chất phát quang, chất diệt cỏ

BỆNH BỐT KIN (y) x. Bôtkin X.P

BỆNH BỤI PHỔI SILIC (y), tình trạng bệnh lý ở phổi do hít phải bụi có hàm lượng silic tự do cao. Là bệnh nghề nghiệp phổ biến nhất ở Việt Nam. Đến nay, số trường hợp bệnh được xác định khoảng 5 nghìn chiếm tỷ lệ xấp xỉ 90% tổng số bệnh nhân làm những nghề được hưởng chế độ đền bù độc hại. Đặc điểm của bệnh: về mặt giải phẫu là xơ hoá và phát triển các hạt ở hai lá phổi; về lâm sàng là khó thở; về mặt Xquang là phổi có hình ảnh tổn thương đặc biệt. Bệnh phát triển và không hồi phục ở công nhân hàng ngày hít thở bụi chứa silic như thạch anh, cát, granit, vv. Triệu chứng cơ bản là khó thở. Còn có thể gặp các triệu chứng khác như đau ngực, hay đau ở vùng đáy phổi, ho và khạc đờm (đờm đen, gặp ở công nhân mỏ than). Dấu hiệu bệnh xuất hiện sớm nhất là hình ảnh tổn thương trên phim Xquang. BBPS có nhiều biến chứng, là nguyên nhân gây tử vong của lao phổi (x. Silicô lao), suy hô hấp và nhiễm khuẩn phế quản - phổi cấp tính.

Ở Việt Nam, bệnh gặp nhiều nhất ở công nhân khai thác than (trong hầm lò), đúc cơ khí, luyện kim, sản xuất vật liệu chịu lửa. Cho đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu làm ngừng sự tiến triển của bệnh hoặc làm khỏi bệnh. Tuy nhiên, có thể áp dụng một số phương pháp như điều trị triệu chứng (khó thở), điều trị biến chứng hạn chế tử vong sớm (nhất là đối với viêm phế quản - phổi cấp tính), điều trị phục hồi khả năng lao động (tập thở, khí công, dưỡng sinh, vv) làm tăng dung tích sống của phổi, làm giảm hội chứng tắc nghẽn và hội chứng hạn chế.

Biện pháp dự phòng quan trọng nhất là giảm nồng độ bụi ở môi trường lao động. Công nhân phải đeo khẩu trang - loại có hiệu quả ngăn được bụi. BBPS là bệnh nghề nghiệp đựơc bảo hiểm. Khi mắc bệnh, người bệnh được giám định bệnh và được hưởng chế độ đền bù.

BỆNH CẢNH LÂM SÀNG (y, bệnh tình, tình trạng bệnh), tập hợp những biểu hiện của bệnh từ nhiều nguồn: bện nhân tự nhận thấy và diễn tả các rối loạn chức năng như nhức đầu, chóng mặt, táo bón, vv (triệu chứng chủ quan); lời kể của thân nhân người bệnh; thầy thuốc phát hiện qua khám lâm sàng trực tiếp (tứ chẩn trong y học cổ truyền dân tộc: vọng, văn, vấn, thiết) hoặc bằng các dụng cụ đơn giản (ống nghe, búa gõ phản xạ, vv); xét nghiệm dịch và bệnh phẩm (máu, nước tiểu, phân, đờm, chất chọc dò, vv) trong các phòng xét nghiệm, kết quả thăm dò chức năng các cơ quan, nội soi, vv. BCLS là cơ sở cho phép hình dung được tình hình của bệnh, đi đến xác định chẩn đoán, điều trị và tiên lượng bệnh.

BỆNH CHÂN VOI (y) 1. Ở người (tk. Phù voi), biểu hiện ở thể tích của hạ nang hay một chi dưới to ra như chân voi. Bệnh thấy ở xứ nóng do giun chỉ làm tắc các mạch bạch huyết. Cũng có thể tắc do nguyên nhân khác. Hoặc do mạch bạch huyết nhiễm liên cầu khuẩn nhiều lần. Ở Việt Nam, đã thấy BVC ở Nam Hà, Hải Hưng, vùng đất cát Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, vv. 2. Ở súc vật, bệnh của da và mô liên kết dưới da ở chân, đặc biệt là chân sau, thường thấy ở ngựa. Đặc điểm : viêm da mạn tính do những biến loạn tuần hoàn, da bị nứt, sinh apxe, chân ngựa thành một hình trụ to cứng, lạnh; thỉnh thoảng có những cơn viêm cấp tính, làm cho da nóng và đau.

BỆNH CHẤT TẠO KEO (y; tk. bệnh colagen), một nhóm bệnh khác nhau nhưng có đặc điểm chung là tổn thương thoái hoá tỏa lan do phản ứng kháng nguyên - kháng thể của mô liên kết (thoái hoá dạng tơ huyết). Những bệnh thường được xếp trong nhóm bệnh này là luput đỏ, viêm nút quanh động mạch, cứng bì.

BỆNH CHUNG CHO NGƯỜI VÀ ĐỘNG VẬT (nông; zoonosis), bệnh truyền một cách tự nhiên từ động vật có xương sống, gia súc hay thú hoang sang người và ngược lại. Có hai loại bệnh: bệnh truyền từ người sang động vật và bệnh truyền từ động vật sang người. Có những zoonosis gọi là giới hạn, tức là bệnh truyền sang người rồi ngừng lại, không có khả năng truyền từ người nọ sang người kia, vd. bệnh sảy thai truyền nhiễm, bệnh dại và một số bệnh kí sinh trùng. Có những zoonosis mở rộng, tức là sau khi truyền từ động vật sang người, bệnh có thể truyền từ người này sang người khác.

Những bệnh chính: viêm não do virut, sốt vàng ở rừng, bệnh dai, viêm miệng có mụn nước, đậu bò, sốt vẹt, sốt Q, sẩy thai truyền nhiễm, bệnh than, các bệnh trùng xoắn, bệnh tị thư, bệnh lao, bệnh dịch hạch, bệnh phó thương hàn, bệnh đóng dấu, các bệnh nấm ngoài da.

BỆNH CHỨNG VẬN ĐỘNG (y), trạng thái không bình thường (say tầu, say xe, say sóng, vv), bao gồm: trạng thái khó ở, cảm giác khó chịu, ngáp dài, nôn nao, ói mửa, vã mồ hôi, xây xẩm, thỉu, vv. Xảy ra ở những người đi tàu, xe, vv, do ảnh hưởng của sự chuyển động của phương tiện giao thông đối với mê nhĩ.

BỆNH CO CỨNG ĐẦU CHI (y) x. Bệnh têtani

BỆNH CÚM (y, nông) 1. Ở người, là bệnh truyền nhiễm cấp tính đường hô hấp do virut Myxovirus influenzae gây nên, lây lan theo đường hô hấp. Xuất hiện đột ngột, đau toàn thân, chảy nước mắt, nước mũi, ho, đau họng, vv. Thường tự khỏi sau 2-7 ngày nếu không có biến chứng. Biến chứng hay gặp là bội nhiễm vi khuẩn gây viêm phế quản, viêm phổi với mức độ nặnt nhẹ khác nhau tuỳ từng vụ dịch và từng cơ địa. Người già và những người có bệnh mạn tính như tim, viêm phế quản mạn dễ có biến chứng và dễ tử vong. BC có thể phát thành dịch rất lớn. Vụ dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 làm chết hàng triệu người, vụ dịch cúm châu Á 1957, vụ dịch Hồng Kông 1968, vụ dịch ở Pháp 1972, là những ví dụ điển hình. Không có thuốc điều trị đặc hiệu; cần điều trị sốt, đau bằng aspirine (cẩn thận khi biết chắc chắn không phải là sốt xuất huyết), paracétamol, vitamin C. Chỉ dùng kháng sinh khi có biến chứng bội nhiễm do khuẩn (viêm phế quản, viêm tai, viêm xương). Việc phòng bệnh bằng tiêm vacxin còn khó khăn vì loại vacxin phòng cúm có hiệu lực phải chứa kháng nguyên phù hợp với chủng virut đang gây dịch. Y học cổ truyền chữa bằng cách phát hãn (cho ra mồ hôi), giải nhiệt thanh nhiệt, giải độc với các vị thuốc thanh cao, ngăn sài hồ, cát cánh, hoàng cầm. 2. Ở vật nuôi: thường thấy ở lợn, ngựa. Ở lợn, là bệnh truyền nhiễm, lây lan, do Hemophilis influenzaesuis và một loại virut đặc hiệu (gần giống virut tip A gây BC ở người) gây ra hoặc do lợn nuốt phải giun đất có chứa ấu trùng giun phổi (Metastrongylus) mang virut. Triệu chứng: sốt cao, rối loạn hô hấp, gặp nhiều nhất ở lợn dưới 4 tuần tuổi. Tỷ lệ chết thấp. Ở ngựa, bệnh đường hô hấp do myxovirut 1A.E1 và 1A/E 2 nhiễm vào phổi ngựa. Triệu chứng: viêm chảy ở phế quản, sốt trong thời gian ngắn, sau đó ho khan và đau kéo dài khoảng 3 tuần. Bệnh thường tự nhiên khỏi nếu tránh được nhiễm khuẩn thứ phát; có thể phòng bệnh bằng vắcxin.

BỆNH DA LIỄU (y), nhóm bệnh bao gồm các bệnh của bản thân da hoặc được biểu hiện trên da và các bệnh hoa liễu.

BỆNH DA NHIỄM ĐỘC (y), bệnh da do tác động gây nhiễm độc dị ứng của hoá chất (axit, bazơ, clo, brom, iot, vv.), thuốc (kháng sinh, vv.), thức ăn, các loại dị nguyên khác trong sinh hoạt và sản xuất (thuốc trừ sâu, phân bón, vv.). Bệnh thường nặng ở người có sẵn bệnh nội tạng, nội tiết, bệnh đái tháo đường, nghiện rượu và cơ thể suy nhược. Dấu hiệu lâm sàng: da đỏ, mụn nước, bọng nước và sẩn, kèm theo ngứa; trong trường hợp nặng, các thương tổn lan rộng: xuất huyết, loét và hoại tử da; sốt cao, cơ thể suy sụp, kèm theo các biến chứng về gan, thận. Dự phòng: thận trọng khi dùng thuốc, thức ăn, hoá chất. Điều trị bằng các loại thuốc giảm mẫn cảm, chống dị ứng và chống nhiễm khuẩn.

BỆNH DẠI (y, nông), bệnh do virut dại (myxovirut) chung cho người và một số động vật (chó, mèo, nhiều động vật nuôi và hoang dại khác). Bệnh xảy ra ở hầu hết các nước trên thế giới, biểu hiện qua các triệu chứng của viêm não - màng não. Người mắc bệnh thường do chó dại cắn vì nước bọt của chó dại chứa virut dại. Từ khi bị chó dại cắn đến khi có triệu chứng khoảng 2-8 tuần. Ở chó dại có hai thể BD: dại điên cuồng, con vật bị kích thích cao độ và tấn công dữ dội; dại câm, con vật nhanh chóng bị bại liệt. Triệu chứng điển hình ở người là sợ gió, sợ nước, miệng trào nước bọt, dễ bị kích động la hét, lúc tỉnh lúc mê. Chết sau 3 ngày kể từ khi có dấu hiệu sợ gió, sợ nước. Khi bị chó dại cắn hay nghi bị chó dại cắn, phải cách li chó để theo dõi 15 ngày và tiêm phòng dại theo chỉ định của thầy thuốc. Phòng bệnh bằng cách tiêm vắcxin phòng dại cho chó và súc vật và chăn giữ vật nuôi cẩn thận. Các nước Châu Âu đang nghiên cứu thí nghiệm dùng văcxin phòng bệnh cho vật hoang.

BỆNH DI TRUYỀN (sinh), bệnh do cha mẹ truyền cho con qua tế bào sinh dục (tinh trùng hay trứng), do đó mầm bệnh có từ trong hợp tử (phôi), từ điểm khởi thuỷ của sự sống trong tử cung. Trên nhiễm sắc thể của tinh trùng hay trứng, có các gen bị bệnh (các BDT thực, có thể truyền được cho các thế hệ sau), hay do các sai lệch bất thường của nhiễm sắc thể (ít khi di truyền). Bệnh có thể biểu hiện ở mức độ quần thể (một số bệnh rối loạn hemoglobin), cá thể (bệnh mù màu sắc), tế bào và phân tử (bệnh đái tháo đường di truyền, bệnh ưa chảy máu, vv.). Theo chức năng các sản phẩm của gen bị bệnh, có thể chia ra: bệnh của phân tử không phải enzim (bệnh tan máu của trẻ sơ sinh do hemoglobin bệnh lí); bệnh lí của phân tử enzim gây các bệnh về rối loạn chuyển hoá axit amin, lipit, gluxit, purin, pirimiđin. Đến nay đã biết khoảng 600 BDT rối loạn chuyển hoá (bạch tạng, niệu alkapton, xistin niệu, bệnh tăng colesteron huyết gia đình, vv.). Cần phân biệt với bệnh bẩm sinh (xt. Bệnh bẩm sinh). Cần chú ý: bệnh gia đình có thể là một BDT hoặc có thể chỉ là một bệnh lây thông thường do các thành viên sống trong gia đình có các điều kiện và môi trường sống như nhau nên mắc cùng một bệnh. BDT cũng đã thấy ở một số loài vật nuôi.

BỆNH DỊCH (y) 1. Theo nghĩa cũ và hẹp: bệnh nhiễm khuẩn, lây lan rộng, nhanh chóng, từ người này sang người khác trong một vùng dân cư rộng (dịch hạch, dịch tả, đậu mùa, vv.). 2. Theo nghĩa rộng hiện nay: bệnh nhiễm khuẩn hay không nhiễm khuẩn, hoặc một hiện tượng bệnh lí xảy ra đồng thời trên nhiều người ở trong một khu vực dân cư, với những điều kiện sống không bình thường và có ảnh hưởng như nhau (dịch tả, dịch sốt rét, dịch khô giác mạc, dịch ma tuý, dịch tự tử, vv.). Dịch tễ học là một môn khoa học trong y tế công cộng nghiên cứu và giải quyết các BD và các hiện tượng bệnh tật ảnh hưởng đến sức khoẻ nhân dân.

BỆNH DỊCH HẠCH (y), bệnh nhiễm khuẩn lưu hành ở loài gặm nhấm do vi khuẩn Yersinia pestis. Bệnh truyền sang người do bọ chét ở chuột mắc bệnh đốt người. Bệnh thường có 3 thể: thể nổi hạch, thể phổi có thể lây sang người lành qua đờm và thể nhiễm khuẩn huyết. Bệnh phải khai báo quốc tế. Phòng bệnh bằng cách diệt chuột, diệt bọ chét và tiêm phòng văcxin ở những nơi dịch lưu hành nặng. Chữa bệnh: dùng kháng sinh tétracycline đạt kết quả tốt.

BỆNH DINH DƯỠNG (y), những bệnh gây ra do khẩu phần ăn không thích hợp với nhu cầu về chất dinh dưỡng của cơ thể. Khi khẩu phần thừa chất dinh dưỡng, người mắc bệnh béo phì hay xơ vữa động mạch. Bệnh thiếu dinh dưỡng phát sinh khi cơ thể không được cung cấp đủ nhu cầu hoặc do bệnh của dạ dày, ruột làm cho thức ăn không hấp thu được đầy đủ. Các BDD ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và sự phát triển toàn diện của con người.

BỆNH DO TÁC NHÂN VẬT LÍ (y), bệnh do tác nhân vật lí (nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, tiếng ồn, độ rung, các loại sóng điện, từ trường, phóng xạ, vv.) ở quá mức an toàn trong thời gian dài hoặc với cường độ cao ảnh hưởng xấu tới sức khỏe. Mỗi tác nhân gây ra một số loại bệnh riêng: nhiệt độ cao gây say nóng; môi trường trong các giếng chìm có độ ẩm cao bị giảm đột ngột làm cho chất khí nitơ hoà tan trong máu bốc hơi gây bệnh khí nén (bệnh của thợ nặn); tiếng ồn gây suy nhược thần kinh và các bệnh về thính giác; tia tử ngoại gây loét giác mạc và cứng thể thuỷ tinh, gây ung thư da; sống ở nơi có độ nhiễm xạ cao bị các bệnh nhiễm xạ; độ rung dù nhỏ, nhưng lâu ngày sẽ gây thoái hoá các khớp nhỏ. Muốn phòng các bệnh trên, phải thực hiện nghiêm ngặt các chế độ bảo hộ lao động. Phát hiện bệnh qua các cơ sở quản lí sức khoẻ (khám bệnh định kì và hàng loạt).

BỆNH DO THẦY THUỐC (y), bệnh do thầy thuốc gây ra một cách không tự giác trong các trường hợp chuẩn đoán không đúng làm cho việc chữa bệnh không có hiệu quả, bệnh tiếp tục diễn biến; thực hiện các thao tác kĩ thuật không đúng quy trình (bỏ sót gạc trong vùng mổ, tiêm canxi chệch ra ngoài tĩnh mạch, băng bó không vô khuẩn, vv.); lạm dụng thuốc (chỉ định dùng thuốc không đúng, quá liều hoặc kéo dài quá thời gian); cho dùng nhầm thuốc; không đảm bảo yêu cầu vệ sinh trong bệnh viện (gây nhiễm khuẩn chéo, vv.); không theo dõi bệnh nhân cho đáo, vd. không kiểm tra máu, công thức bạch cầu khi điều trị bằng phóng xạ, hoá chất chống ung thư, vv. Phòng tránh: nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và lương tâm của thầy thuốc, quản lí tốt công tác y tế trong chuẩn đoán và điều trị bệnh.

BỆNH ĐĂNGGƠ (y; Ph. Đengue), bệnh do virut Đănggơ gây ra, lây truyền do muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus đốt người bệnh rồi truyền sang người lành. Dấu hiệu lâm sàn: sốt cao, đau đầu, đau cơ, đau khớp. Bệnh gây dich lưu hành ở dọc bờ biển, bờ sông vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Châu Phi, Châu Á, Châu Úc và Nam Mỹ. Phòng bệnh: diệt bọ gậy của muỗi, diệt muỗi trưởng thành. BĐ xuất huyết là một thể bệnh của BĐ cổ điển; ngoài các triệu chứng của BĐ cổ điển như sốt cao, đau đầu, đau khớp, còn có dấu hiệu xuất huyết, chủ yếu ở dưới da và niêm mạc, nhưng cũng thường gặp xuất huyết đường tiêu hoá, tiết niệu, não. Dấu hiệu đặc trưng về sinh học là hạ tiểu cầu và cô đặc máu. Chết vì thể BĐ xuất huyết có sốc chiếm tỉ lệ 70-80%, số còn lại chết là do chảy máu ồ ạt.

Ở Việt Nam, hiện nay BĐ xuất huyết là bệnh dịch có số người mắc bệnh nhiều đứng vào hàng thứ ba sau sốt rét và ỉa chảy. Đối tượng cảm thụ chủ yếu là trẻ em. Điều trị: bồi phụ nước và điện giải sớm bằng cách cho uống oresol hoặc dung dịch thay thế. Phòng bệnh rất khó vì chưa có văcxin; chỉ tập trung diệt bọ gậy trước khi có dịch, diệt muỗi trưởng thành khi có dịch.

BỆNH ĐẬU (y), bệnh truyền nhiễm do virut gây ra cho người và vật nuôi, đặc điểm chung là có phản ứng sốt và xuất hiện những mụn nước chuyển thành mụn mủ. Virut gây BĐ được phân thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm virut đậu mùa ở người, BĐ bò, BĐ ngựa, BĐ lạc đà và BĐ lợn. Nhóm thứ hai gồm virut BĐ cừu, BĐ dê, BĐ lợn, BĐgà, BĐ bồ câu và BĐ bạch yến. Tất cả những BĐ trong nhóm thứ nhất đều do cùng một virut gây ra gọi là vaccine, lây lan nhẫn nhau và dùng văcxin phòng bệnh lẫn cho nhau được. Nhóm thứ hai gồm những virut khác nhau, mỗi virut gây bệnh ở một loài vật. BĐ mùa đặ biệt nguy hiểm (trước khi phát minh phương pháp chủng đậu) vì có những thể bệnh cấp tính và những biến chứng có thể gây tử vong. BĐ bò do virut vaccine, gây mụn có nước sau thành mủ ở núm vú bò. Jênơ (A. Edward Jenner), năm1796, nhận thấy những người vắt sữa đã lây BĐ bò thì không mắc BĐ mùa của người nữa, nên có những phát minh dùng virut vaccine chủng cho người để phòng BĐ mùa.

BỆNH ĐẬU MÙA (y) x. Bệnh đậu.

BỆNH ĐIÊN (y) x. Điên

BỆNH GUT (y; tk. thống phong), bệnh rối loạn chuyển hoá các chất có nhân purin, làm cho axit uric trong máu tăng, axit uric trong nước tiểu giảm, hậu quả là lắng đọng tinh thể urat ở khớp, dưới da và thận. Thường xảy ra (tới 95%) ở nam trưởng thành (30-40 tuổi) và có tính gia đình. BG có thể cấp hoặc mạn. BG cấp thường xảy ra sau bữa ăn nhiều thịt và rượu hoặc mệt mỏi; biêu hiện: cơn đau đột ngột vào ban đêm, sốt; khớp bàn chân, ngón chân cái sưng, nóng, đỏ, đau chói, chạm nhẹ cũng rất đau; axit uric máu tăng quá 70 mg/l; hết đau nhanh, sau khi dùng thuốc colchicine. BG mạn thường xảy ra khá lâu sau đợt cấp tính với biểu hiện: cơn đau vừa phải ở khớp ngón chân cái, vận động khớp hạn chế; lắng đọng tinh thể urat ở màng hoạt dịch, dưới da (hạt urat) ở vành tai, quanh khớp nhỏ, đầu xương dài, vv. Có sỏi urat ở thận gây suy thận; khớp bị huỷ, dính khớp. BG mạn tiến triển chậm (10-30 năm); người bệnh thường chết vì suy thận. Điều trị: tránh thức ăn có purin, rượu (nhất là rượu nho); chế độ ăn nên có nhiều rau, quả, cá; uống nhiều nước, dung dịch kiềm, lợi tiểu. Dùng các loại thuốc đặc hiệu: trong thống phong cấp, dùng indométacine, colchicine (viên, công hiệu nhưng độc); trong thống phong mạn tính, dùng những thuốc tăng axit uric niệu như allopurinol (viên) hay probénécide (viên).

BỆNH HẮC LÀO (y), bệnh da do nấm, có dát màu hồng, có bờ xung quanh, ở giữa thương tổn nhạt màu hơn, trên có vẩy da nhỏ dễ bong, quanh bờ có mụn nước nhỏ, rất ngứa; thương tổn hắc lào thường xuất hiện ở mông, bụng, bẹn, có khi ở các chi. Bệnh dễ lây do dùng chung quần áo hoặc tiếp xúc trực tiếp. Điều trị bằng cồn iot 2%, mỡ acide chrysophanique 3%, dung dịch ASA (cồn, natrisalixylatm, aspirine), hằng ngày bôi 2-3 lần. Phòng bệnh: vệ sinh thân thể, giữ khô các kẽ da, nhất là vào mùa nóng ẩm, bằng cách xoa phấn rôm, không dùng chung quần áo lót, đi lẫn giày dép. Theo y học cổ truyền, có thể dùng các thuốc sau bôi vào chỗ bị tổn thương: rễ cây kiến cò 100g, riềng khô 30g tán nhỏ, rây mịn, bỏ lọ nút kín mỗi lần dùng cho vào ít dầu hoả vừa đủ để bôi; bột rễ cây kiến cò 100g ngâm rượu 40-70° trong hai tuần; bột rễ cây chút chít 100g ngâm rượu 40-70° trong hai tuần.

BỆNH HĂM KẼ (y), bệnh xuất hiện ở các kẽ như cổ, nách, bẹn, khuỷu tay, khoeo chân, kẽ ngón, thường gặp ở những người béo (hoặc trẻ em bụ bẫm) với biểu hiện: các kẽ cọ xát, lớp sừng trượt ra, dễ bị nhiễm khuẩn và nhiễm nấm. Dự phòng: giữ vệ sinh các kẽ, tránh cọ xát, xoa bột tan. Điều trị bằng các thuốc làm dịu da, các thuốc diệt khuẩn và diệt nấm theo chỉ định của thầy thuốc.

BỆNH HỌC (y), bộ môn của y học, chuyên nghiên cứu các bệnh và thương tật xảy ra trên cơ thể người về các mặt: xác định; phân loại; mô tả về lâm sàng; nguyên nhân; cơ chế sinh bệnh; tiên lượng; dự phòng, chữa bệnh, vv. Từ mô tả dựa vào kinh nghiệm cá nhân của các thầy thuốc và về sau, nhờ các trang thiết bị ngày càng hiện đại, y học đi sâu dần vào các biến đổi rất tinh vi của cơ thể, tới mức phân tử (BH phân tử) mà giác quan thông thường không phát hiện được và từng bước tìm được nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh (gen di truyền, enzim, miễn dịch, vv.) để ngày càng đạt được nhiều kết quả trong điều trị và dự phòng một số bệnh mà trước kia coi như định mệnh, nan y. Nhờ công nghệ viễn thông, các thầy thuốc đã có thể theo dõi, nghiên cứu các biến đổi trên cơ thể các nhà phi hành vũ trụ khi hoạt động nhiều ngày trong vũ trụ (y học vũ trụ), vv. BH đã được chia làm nhiều chuyên khoa và phân khoa: BH đại cương, so sánh, nội khoa, ngoại khoa, phụ khoa, thần kinh, tim mạch, lâm sàng, cận lâm sàng, vv. dựa trên cơ sở các đối tượng, phương thức chữa bệnh chủ yếu, tác nhân gây bệnh, cơ chế gây bệnh, vv.

BỆNH HỌC TẾ BÀO (y) 1. Môn học về những bệnh của tế bào do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. 2. Một chuyên khoa của y học nghiên cứu và chuẩn đoán tình hình sức khoẻ và bệnh tật bằng cách khám nghiệm và đánh giá qua soi hiển vi các phiến đồ.

BỆNH HỌC THỂ THAO (y) x. Thể thao chữa bệnh.

BỆNH HỘT XOÀI (y; tk. bệnh Nicôla - Favre; bệnh hoa liễu thứ tư), bệnh lây qua đường tình dục, do Chlamydia trachomatis gây ra. Đã được hai tác giả Nicôla (Ph. J. Nicolas) và Favrơ (Ph. M. J. Favre) tả đầu tiên năm 1913. Khởi đầu là vết trượt rất nhỏ, khu trú ở bộ phận sinh dục, sau đó xuất hiện rất nhanh các hạnh viêm ở bẹn. Nhiều hạch liên kết với nhau thành cụm giống hột xoài. Bệnh tiến triển dai dẳng, mủ chảy từ nhiều lỗ rò như gương sen ở vùng bẹn, sau thành sẹo và xơ hoá. Có thể biến chứng phù voi ở bộ phận sinh dục hoặc trực tràng. Cần điều trị sớm và tích cực bằng kháng sinh theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa.

BỆNH HỦI (y) x. Bệnh phong.

BỆNH HUYẾT CẦU TỐ (y), bệnh do các biến hỏng về mặt số lượng của phân tử huyết cầu tố của hồng cầu, các chuỗi polipeptit cấu tạo globin được phân bố một cách bất thường, nhưng vẫn giữ một cấu trúc bình thường. Biến đổi này do thiếu gen điều hoà của huyết cầu tố, như thường gặp trong bệnh thalassémie (bệnh thiếu máu vùng biển). Do biến đổi chất lượng của huyết cầu tố, ở trong một chuỗi polipeptit của globin có một axit amin thay thế bằng một axit khác, tạo nên một cấu trúc bất thường của một trong các chuỗi polipeptit và do đó tạo nên một huyết cầu tố bất thường. Bệnh có tính di truyền: nếu tật dị thường chỉ có ở một người (cha hoặc mẹ), bệnh có thể ở trạng thái ẩn, không lộ ra ngoài; nếu có cả bố và mẹ, bệnh sẽ xuất hiện ra ngoài dưới dạng thiếu máu tan máu. Có nhiều loại BHCT: BHCT S (hay drépanocytose) là bệnh thiếu máu với hồng cầu hình liềm; BHCT C trong đó axit amin thứ sáu (axit glutamic) của chuỗi beta được thay bằng lisin; BHCT E trong đó axit amin thứ 26 (axit glutamic) của chuỗi beta được thay bằng lisin. Trong điều kiện hiện nay, chưa có biện pháp nào để phòng và chữa BHCT.

BỆNH KALA - AZAR (y), bệnh lưu hành do trùng roi Leishmania donovani hay L. infatum truyền từ súc vật mắc bệnh (chó, mèo, loài gặm nhấm), đôi khi từ người bệnh, qua muỗi cát (Phlebonomus argentypes) sang người lành. Có 4 loài Leishmania gây ra BK - A ở ngoài da, ở lách. Ở trẻ em, BK - A gây lách to và hạ bạch cầu. Bệnh có ở khắp các châu, từ Ôxtrâylia.

BỆNH KHÔ MẮT - GIÁC MẠC (y), tình trạng khô và loạn dưỡng của mắt do thiếu vitamin A, với các triệu chứng: kết mạc trở nên dày và nhăn nheo; giác mạc mất độ bóng và trong suốt. Nếu không điều trị kịp thời, giác mạc sẽ bị hoại tử và loét thủng (cam ám mục). BKM - GM thường gặp ở trẻ em bị thiếu sữa, suy dinh dưỡng trong thời kì bị biến chứng rối loạn tiêu hoá và sởi. Đề phòng BKM - GM: cho trẻ em ăn đủ chất, nhất là thực phẩm giàu vitamin A (trứng, gấc, đu đủ, cà rốt, bí đỏ, rau ngót, rau rền, vv.); phòng các bệnh đường ruột, đường hô hấp, sởi; không bắt trẻ em ăn kiêng quá mức khi bị ỉa chảy.

BỆNH KÍ SINH TRÙNG (nông, y), bệnh do kí sinh trùng gây nên trong cơ thể người và vật nuôi. Là loại bệnh quan trọng ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, vì nóng và ẩm là hai điều kiện thuận lợi cho kí sinh trùng phát triển. Có nhiều loại BKST: ở bên ngoài, ở bên trong, đường tiêu hoá, đường máu. Thuốc trị kí sinh trùng có các loại: thuốc diệt kí sinh trùng bên ngoài, diệt kí sinh trùng bên trong, thuốc tẩy đưa kí sinh trùng ra ngoài cơ thể hoặc làm cho kí sinh trùng phải lánh xa mà không diệt chúng.

BỆNH LAMBLIA (y), bệnhdo kí sinh trùng đường ruột Giardia intestinalis gây nên ở người, với các biểu hiện lâm sàng của ỉa chảy mạn tính: ỉa chảy với phân nhão; mệt mỏi, suy nhược, gầy (cần khám phân để xác định bệnh); thỉnh thoảng gây viêm túi mật. Dự phòng: tránh các nguyên nhân nhiễm bệnh như ăn thức ăn sống, rửa không sạch (rau, hoa quả, vv.), thức ăn nấu không chín, thịt không qua kiểm dịch; bàn tay bẩn, không rửa trước khi ăn, vv. Chữa bệnh: các thuốc có kết quả tốt là quinacrine, nivaquine (nivaquine có lợi là không làm vàng da).

BỆNH LAO (y; tuberculosis), bệnh nhiễm khuẩn chung ở người và nhiều loài động vật, do vi khuẩn Mycobaterium tuberculosis gây ra. Vi khuẩn còn gọi là trực khuẩn Kôc [do nhà bác học Đức R. Kôc (R. Koch) tìm ra 1882, viết tắt là BK] gồm các chủng: M. t. hominis (BL người), M. t. bovis (BL bò), M. t. avium (BL gia cầm), M. t. muris (BL chuột), M. t. chelonis (BL rùa). Trong y học, người ta đã biết BL từ rất xa xưa. Ở Việt Nam, trước kia lao được coi là một trong tứ chứng nan y (phong, lao, cổ, lại). Y học hiện đại nêu lên những đặc điểm của BL người: 1) BL là một nhiễm khuẩn (nhiễm trực khuẩn lao). 2) BL không di truyền, mà là lây từ các bệnh nhân bị lao phổi có nhiều trực khuẩn lao trong đờm (nguồn lây chính). Các khu trú khác của BL (lao xương, lao xương khớp, lao hạch, vv.) ít khả năng lây lan hơn (x. Lao cấp; Lao ruột). 3) BL diễn biến qua hai giai đoạn: sau khi bị lây lần đầu tiên (bị lao sơ nhiễm), cơ thể có thay đổi về mặt sinh học nhưng đa số (khoảng 90%) không có triệu chứng lâm sàng; chỉ khoảng 10% trường hợp khi sức đề kháng của cơ thể giảm sút, lao sơ nhiễm chuyển sang BL, có triệu chứng và cần được điều trị. Nhiều hội nghị quốc tế đã đặt vấn đề thanh toán BL: phòng BL bằng tiêm văcxin BCG cho trẻ sơ sinh và trẻ dưới 1 tuổi (x. BCG) sẽ bảo vệ cho trẻ không mắc lao trong tương lai; điều trị BL bằng thuốc đặc hiệu, đúng công thức, đủ liều lượng, đều đặn và đủ thời gian. Để điều trị BL, hiện nay không nhất thiết phải nằm bệnh viện mà có thể ngoại trú với kết quả tốt; do đó xây dựng mạng lưới y tế đến tận cơ sở là rất quan trọng. Năm 1977, các nước Á, Phi, Mỹ latinh chiếm 76% dân số, nhưng hằng năm chiếm 95% số bệnh nhân lao của cả thế giới. Đánh giá tình hình BL, người ta thường chia ra ba cấp: nặng, trung bình, nhẹ. Việt Nam vào loại cấp trung bình. Theo Viện lao và bệnh phổi (1986), trong cả nước có khoảng 50 nghìn đến 60 nghìn trường hợp lao mới phát hàng năm nhưng phát hiện và điều trị chỉ được một nửa.

Trong thú y, BL tác hại nhiều nhất ở trâu, bò sữa nuôi nhốt. Con vật bị BL phản ứng dương tính với tuberculin (chất đặc hiệu chiết xuất từ trực khuẩn BK). Ở bò, dê, cừu và các động vật ăn thịt, bệnh chủ yếu ở đường hô hấp. Ở lợn và gia cầm, bệnh chủ yếu ở đường tiêu hoá. Bệnh có thể có thương tổn ở màng bụng, xương, khớp xương, vú, da, hạch. BL bò gây thiệt hại kinh tế lớn và có thể chuyển sang người (qua sữa, không khí). Cần kiểm tra bò và loại trừ những con có phản ứng dương tính với tuberculin.

BỆNH LẬU (y), bệnh lây truyền qua đường sinh dục do lậu cầu khuẩn. Trung bình từ 3 đến 5 ngày sau khi giao hợp với người bệnh, nam giới thấy đái buốt, đái mủ, có khi lẫn máu; ở nữ, triệu chứng không rõ rệt như nam giới (ra khí hư, tức bụng dưới, khi giao hợp thấy máu ở bộ phận sinh dục). Nếu không được chữa đúng cách, bệnh sẽ chuyển thành mạn tính: sáng ngủ dậy ở đầu dương vật rỉ ra vài giọt mủ trắng, niệu đạo ngứa, đi đái hơi rát; mỗi khi uống rượu, giao hợp hoặc thức đêm, bệnh tái phát với triệu chứng viêm niệu đạo cấp (đái buốt, đái mủ). Lâu ngày có thể biến chứng: viêm tuyến tiền liệt, viêm tinh hoàn, ống dẫn tinh; nữ có thể bị đái dắt, ra khí hư, nặng thì viêm hậu môn, viêm trực tràng, viêm vòi trứng, chửa ngoài dạ con, vô sinh. Điều trị bằng pénicilline, ampicilline, kanamycine, spectinomycine, tuỳ theo kháng sinh đồ. Không được tự chữa, phải theo chỉ dẫn của thầy thuốc chuyên khoa; vì có những trường hợp đái buốt, đái mủ không phải lậu mà lại là do các nguyên nhân khác như trùng roi, nấm mốc, liên cầu khuẩn, vv. Dự phòng: tiến hành giáo dục sức khoẻ, đặc biệt cho thanh niên, ngăn chặn tệ nạn mại dâm.

BỆNH LÂY TRUYỀN (y), chỉ chung các bệnh lây, mắc phải do sự tiếp xúc giữa người với người hoặc các sinh vật khác qua nhiều phương thức: qua vật trung gian truyền mầm bệnh từ người ốm sang sang người lành như muỗi đốt truyền bệnh sốt rét, sốt xuất huyết Đangơ, bệnh giun chỉ, vv.; mò, ve truyền bệnh dịch hạch sang người, rận truyền bệnh sốt phát ban, vv.; hoặc truyền trực tiếp qua sự tiếp xúc giữa người với người qua đường sinh dục (bệnh giang mai, bệnh lậu, hạ cam, bệnh AIDS), qua đường hô hấp, lúc nói, lúc ho vào mặt người khác, mầm bệnh bắn theo hơi thở (cúm, lao phổi, dịch hạch thể phổi), thở hít bụi có mầm bệnh; qua các dịch vụ sức khoẻ, thủ thuật làm không đúng quy trình (châm cứu bằng kim không được khử khuẩn, truyền máu có chứa virut HIV, viêm gan do virut B, vv.); bị súc vật cắn (chó dại cắn, mèo cào); qua đường tiêu hoá như ăn thức ăn bị ruồi đậu (chân ruồi có nhiễm mầm bệnh tả, lị, thương hàn), uống nước bị nhiễm mầm bệnh tả, thương hàn... bị nhiễm các loại Salmonella khi ăn sò huyết không nướng chín, ăn nem chua làm bằng thịt lợn gạo, vv. Phòng bệnh: tuân theo các quy định vệ sinh trong sinh hoạt (ăn chín, uống sôi, vv.), đặc biệt chú ý trong mùa nắng, ở các vùng có dịch bệnh, lúc mới đến hoạt động ở vùng xa lạ.

BỆNH LEPTOSPIRA (nông, y; leptospirosis; tk. bệnh trùng xoắn), bệnh truyền nhiễm chung cho người và nhiều loài vật, do một trong những vi khuẩn thuộc chi Leptospira gây ra. Có nhiều serotip: Leptospira interohaemorrhagiae, L. canicola, L. grippotyphosa, L. pomona, L. mitis, vv. Đặc điểm chung của bệnh: có bệnh tích ở gan hay thận và có biến chứng ở mắt. Bệnh phổ biến khắp thế giới, nhưng có nhiều hơn ở những vùng khí hậu nóng ẩm, đất kiềm và có nhiều mặt nước. Các BL: 1)Bệnh ở bò thường do L. pomona và L. grippotyphosa. Đã thấy nhiều con vật có kháng thể đặc hiệu và không phát bệnh lâm sàng. 2) Bệnh ở chó do L. interohaemorrhagiae. Chuột là môi giới truyền bệnh; hoặc lây từ chó sang chó. 3) Bệnh ở lợn do L. pomina, và cũng do L. mitis và L. canicola và L. interohaemorrhagiae. Bệnh ở lợn thường tiềm ẩn, hoặc phát dưới thể giảm nhẹ. 4) Bệnh ở ngựa do L. grippotyphosa, L. pomona, L. canicola. Bệnh ở người, do nhiều tip: Leptospira interohaemorrhagiae, L. canicola, L. grippotyphosa, L. pomona gây ra. Về lâm sàng, thấy những biến loạn nặng ở màng não, ở gan, thận, và sốt cao. Một thể bệnh đặc biệt gọi là bệnh của người chăn lợn (thương hàn - viêm não giả của những người chăn lợn), bệnh do L. pomina là tip Leptospira phổ biến ở lợn gây ra.

Các BL đều có thể điều trị bằng kháng sinh. Cách phòng bệnh: loại thải những con vật mang mầm bệnh, thực hiện vệ sinh để ngăn chặn lây lan, dùng văcxin tiêm phòng cho những con dị cảm.

BỆNH LÍ GEN (sinh), bệnh xuất phát từ các biến đổi bất thường ở các giao tử: tinh trùng hay noãn (trứng chưa thụ tinh), do các sai lạc nhiễm sắc thể (bệnh Đao) gây ra, rất ít lây truyền; do các gen bệnh lí trên các nhiễm sắc thể, bệnh có thể bẩm sinh hay không bẩm sinh (xuất hiện chậm ở tuổi thanh niên hay tuổi già); bệnh di truyền có thể do gen trội hay gen lặn, do liên kết giới tính. Nguyên nhân: các yếu tố độc hại trong môi trường sống (tia xạ, hoá chất, virut, vv.) gây tổn thương trên hệ thống gen (gen cấu trúc, gen vận hành, gen khởi động, gen điều chỉnh) và tham gia tổng hợp một phân tử protein hay một enzim. Xt. Bệnh di truyền.

BỆNH LÍ MIỄN DỊCH (y), trạng thái bệnh lí liên quan đến các rối loạn số lượng hay chất lượng của các phương tiện bảo vệ tự nhiên của cơ thể (hệ thống miễn dịch). Có 3 loại. BLMD thứ nhất: do hệ thống miễn dịch bị suy giảm, không sản xuất được kháng thể; có thể suy giảm bẩm sinh, thường là bệnh nhi không sống được quá một vài tuổi, do nhiễm khuẩn, nhiễm virut tái phát, không thể điều trị bằng thuốc; có thể suy giảm mắc phải (thứ phát theo nghĩa rộng) do suy dinh dưỡng; nhiễm khuẩn (lao), kí sinh trùng (sốt rét, nấm), nhiễm virut, viêm gan B virut Epstein - Barr, virut HIV (SIDA = AIDS); do ung thư; do nhiễm độc (hoá chất, độc tố, các thuốc dùng điều trị ung thư và điều trị bệnh tụe miễn). Loại BLMD thứ hai: do các phản ứng quá mẫn cảm (hoặc dị ứng), hậu quả cảu phản ứng kết hợp giữa một số loại kháng nguyên và kháng thể tương ứng, có thể thấy trong hẹp phế quản, dị ứng thuốc, trong phản ứng gây tan máu (tai biến truyền máu), khi có sự tham gia của bổ thể (C) trong viêm các cơ quan và mô do lắng đọng các phức hợp kháng nguyên và kháng thể (có thể có C) như viêm khớp, viêm cầu thận, phổi, hạch bạch huyết, vv. Loại BLMD thứ ba do rối loạn sản xuất các kháng thể gặp trong bệnh tự miễn dịch (x. Bệnh tự miễn dịch).

BỆNH LỊ AMIP (y), gặp ở người (x. Amip) do Entamoeba histolytica gây nên. 1. BLA ruột biểu hiện bằng hội chứng lị. Gồm các triệu chứng: đại tiện nhiều lần trong ngày, phân có máu, mũi, quặn đau trước khi đi đại tiện, mót rặn và cơn co thắt hậu môn. Bệnh lây theo đường ăn uống, nếu điều trị không đúng, bệnh dễ tái phát và gây apxe gan. 2. BLA gan biểu hiện dưới dạng viêm gan, tiến tới gan hoá mủ. Dấu hiệu: gan to, đau, sốt cao dao động lớn. Gan hoá mủ có thể gây ra nước trong màng phổi và apxe phổi do amip.

BỆNH LYMPHO HẠT LÀNH TÍNH (y; tk. bệnh sacoit, bệnh Besnier - Boeck - Schumanm), bệnh có tính chất mạn tính, nguồn gốc chưa rõ, đặc trưng bởi sự xuất hiện các u hạt trong nhiều cơ quan: da, phổi, các hạch bạch huyết, xương, khớp, mắt, các tuyết nước bọt. Triệu chứng thay đổi tuỳ theo nơi cư trú của các tổn thương. Theo quy ước, người ta chia bệnh ra 4 giai đoạn tuỳ theo hình ảnh X quang của thương tổn phổi: giai đoạn 0 - hai phổi bình thường; giai đoạn 1 - có hạch rốn phổi hai bên, điều trị bằng corticoide; giai đoạn 2 - nổi hạch rốn phổi hai bên phối hợp với một thâm nhiễm phổi; giai đoạn 3 - giai đoạn cuối cùng của thâm nhiễm phổi.

BỆNH MÀNG TRONG (y), bệnh của phổi, sinh ra một màng trong (vô hình hoặc như kính) lót mặt trong các phế nang. Bản chất của màng trong là một chất dạng tơ huyết có nguồn gốc từ máu, được thoát ra ngoài vi mạch (vì thiếu oxi gây tăng tính thấm của mạch) nên cô đặc lại và thoái hoá trong. Thường là nguyên nhân gây suy hô hấp cấp tính ở trẻ sơ sinh đẻ non, gây tỉ lệ tử vong cao. Hằng năm, thế giới có nửa triệu trẻ sơ sinh chết vì BMT. Ở Việt Nam, bệnh cũng thường gặp. Bệnh cần được phát hiện và điều trị sớm ở các cơ sở chữa bệnh chuyên khoa trẻ em.

BỆNH MẮC PHẢI (y), bệnh xuất hiện ở một cơ thể trong quá trình phát triển của một đời người. Khác với bệnh bẩm sinh (có sẵn ngay khi đẻ), bệnh xảy ra không do di truyền (hay do gen) mà do nhiều yếu tố ngoại sinh (nhiễm khuẩn, chấn thương, vv.) hay nội sinh ( rối loạn chuyển hoá, rối loạn vận mạch, vv.).

BỆNH MẤT CẢM GIÁC NGÔN NGỮ (giáo dục), hiện tượng mất năng lực phân biệt các thành phần âm thanh của từ, không hiểu (hoặc hiểu rất kém) chính tả. Xuất hiện khi một phần ba phía sau thuỳ thái dương ở bán cầu não trái (đối với người thuận tay phải) bị phá huỷ.

BỆNH MẤT KHẢ NĂNG ĐỌC (ngôn ngữ), bệnh không có khả năng tự kiểm tra được các hoạt động tâm - sinh lí thông thường trong quá trình nhận diện, phân biệt và tổng hợp các chữ cái, không còn khả năng liên hệ giữa chữ viết và âm thanh, do đó người bệnh không đọc được chữ viết.

BỆNH MẤT KHẢ NĂNG VIẾT (ngôn ngữ), bệnh không có khả năng tự kiểm tra các hoạt động tâm - sinh lí trong quá trình nhận diện mối liên hệ chữ viết và âm thanh của một ngôn ngữ, do đó người bệnh không hiện thực hoá được các tư tưởng của mình ra thành hình thức chữ viết.

BỆNH MẤT NĂNG LỰC TÍNH TOÁN (giáo dục), hiện tượng mất khả năng các thao tác tính toán do bị tổn thương những vùng khác nhau trong não, đặc biệt là vùng đỉnh của vỏ đại não. BMNLTT tiên phát là sự phá huỷ khả năng hiểu được cấu tạo thứ tự của chữ số (vd. số 12 và 21 được cảm nhận như nhau), không hiểu được ý nghĩa các dấu hiệu số học, không thực hiện được các thao tác tính toán; nảy sinh khi các thuỳ (vùng) đỉnh - chẩm - thái dương của vỏ bán cầu não trái bị tổn thương. BMNLTT thứ phát nảy sinh khi có sự rối loạn các chức năng tâm lí cao cấp, biểu hiện ở hiện tượng mất khả năng tri giác, thính giác và thị giác đối với các chữ số, khó phân biệt các con số giống nhau về hình dạng, mất sự kiểm soát việc thực hiện các thao tác tính toán.

BỆNH MẤT NGÔN NGỮ VẬN ĐỘNG (giáo dục), bệnh có hai loại: hướng tâm và li tâm. BMNNVĐ hướng tâm là sự phá huỷ khả năng phát âm các từ do rối loạn về tri giác âm thanh ngôn ngữ, nảy sinh khi các thành phần dưới sau trung tâm ở bán cầu não trái (đói với người thuận tay phải) bị tổn thương. Người đầu tiên mô tả bệnh này là Lipman (1913). BMNNVĐ li tâm là sự phá huỷ tổ chức vận động của các hành động ngôn ngữ, nảy sinh khi các thành phần dưới trước trung tâm ở bán cầu trái (đối với người thuận tay phải) bị tổn thương. Người đầu tiên mô tả bệnh này là Broca (Paul Broca; 1861).

BỆNH MẤT TIẾNG NÓI (ngôn ngữ; A. aphasia; cg. bệnh mất tri giác ngôn ngữ), bệnh rối loạn ngôn ngữ do mất khả năng kiểm tra mối liên hệ giữa mặt biểu đạt và mặt được biểu đạt ở các đơn vị ngôn ngữ.

BỆNH MẤT TRI GIÁC (giáo dục), bệnh rối loạn các tri giác khác nhau do sự tổn thương của vỏ não và các cấu trúc gần nhất dưới vỏ não. Có 3 loại BMTG: 1. BMTG nhìn, thể hiện ở chỗ vẫn duy trì được độ tinh của thị giác nhưng không thể hiện ra được các đồ vật và các hình ảnh của chúng. 2. BMTG sờ, thể hiện ở sự rối loạn trong việc nhận biết các đồ vật, hay các phần cơ thể của bản thân mình khi sờ mó chúng. 3. BMTG nghe, thể hiện ở sự rối loạn tai âm vị, dẫn đến rối loạn ngôn ngữ, hay khả năng nhận biết âm điệu, âm thanh, tiếng động quen biết, trong khi vẫn duy trì các dạng thính giác sơ đẳng.

BỆNH MÈO CÀO (y), nguyên nhân do bị mèo cào. Có thể sau khi bị mèo cào khoảng hai tuần, xuất hiện một hay nhiều hạch lympho sưng to trong khu vực của vết cào (nách, bẹn, vv.), sốt nhẹ hoặc không sốt. Đó là một biểu hiện xấu có thể dẫn đến bệnh dại, phải giải quyết kịp thời. Trường hợp mèo cào bình thường, khoẻ mạnh, vết cào xước nhẹ, vẫn phải xử lý vết thường đầy đủ; rửa sạch vết cào bằng nước xà phòng, bôi thuốc sát khuẩn, băng sạch, theo dõi kĩ con mèo. Nếu vết cào sâu, phải đến cơ sở y tế để tiêm huyết thanh chống uốn ván, dùng kháng sinh, theo dõi diễn biến của vết thương và theo dõi con mèo. Nếu thấy mèo có biểu hiện bệnh dại, phải tiêm phòng dại.

BỆNH MONTGORY (nông) x. Dịch tả lợn.

BỆNH NẤM (y, nông, sinh), nhiều loại bệnh khác nhau ở da, niêm mạc, ở tổ chức nông hoặc sâu, do nhiều loại nấm khác nhau gây nên.

1. Ở người, có thể phân thành hai loại: a. BN nông, chỉ ăn nông trên bề mặt da, thường gặp: 1) Hắc lào (gọi chung là nấm da) có thể khu trú ở bẹn (nấm bẹn), thắt lưng, kẽ các ngón (nấm kẽ chân). Chủng nấm gây bệnh thường gặp nhất ở Việt Nam Trichophyton rubrum (khoảng 61 - 62% số trường hợp), sống rất dai dẳng. 2) Lang ben do nấm Microsporum furfur tạo thành đốm trắng, nâu trên da, có vẩy rất mịn, ngứa nhiều trong mùa nóng bức. 3) Nấm Candida thường gây bệnh ở niêm mạc miệng trẻ em (gọi là "tưa") hoặc quanh móng tay, kẽ ngón tay, ngón chân hoặc quanh ngón chân, biểu hiện bằng các chấm hoặc màng trắng nhợt. Nấm có thể vào máu rồi khu trú ở ống tiêu hoá, ở phổi, tim. Trẻ em suy dinh dưỡng thường hay nhiễm nấm Candida albicans. 4) Nấm tóc,làm đứt tóc ở sát da đầu hoặc cách da đầu vài mm; tuỳ theo chủng loại nấm gây bệnh, có thể tạo thành những nút dọc theo sợ tóc được gọi là "tóc hột", do Piedra bortai gây nên. b. BN sâu: các tổn thương khu trú ở sâu trong da thịt, trong hạch hoặc phủ tạng do các nấm Actinomyces, Blastomyces, Sporotricus (đã thấy ở Việt Nam) gây ra; loại này thường khó chuẩn đoán và cần được theo dõi điều trị tại các cơ sở chuyên khoa. Nói chung, nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho BN phát triển. Ở trên da, những chỗ nóng và ẩm thường bị nhiễm, nhất là bẹn, kẽ chân, kẽ tay, kẽ mông, dưới vú, vùng thắt lưng, vv. Phòng bệnh và phối hợp với thuốc điều trị bằng cách tránh hoặc khắc phục điều kiện nóng ẩm. Thuốc trị có mỡ chrysophanic 3%, cồn iot salixilic 1 - 2%, mỡ salixilic 5%; hoặc khi bị nhiễm nấm lan toả hay nấm nóng, dùng kháng sinh chống nấm griseofulvine (gricin).

2. Ở động vật, những bệnh quan trọng nhất: a) Nấm gây u ở bò do Actinomyces bovis gây ra, triệu chứng thường thấy là những khối u rất to ở hàm, rụng răng, lưỡi sưng to và cứng (lưỡi gỗ) làm bò không ăn được và chết đói. Nguyên nhân: bò ăn phải thức ăn cứng, nhọn, làm tổn thương niêm mạc miệng, nấm gây bệnh ở rơm, cỏ khô (phơi không kĩ) xâm nhập qua vết thương vào hàm và lưỡi. Phòng bệnh bằng loại bỏ thức ăn cứng, nhọn, ẩm mốc. Bệnh khó chữa. b) Nấm phổi do Aspergillus fumigatus gây ra ở các loài chim, ngựa, bò,... vì con bệnh hít phải bào tử nấm trong rơm, cở mốc. Bệnh còn thấy ở gà, vịt con mới nở do dụng cụ ấp có nấm. Triệu chứng: ho, chảy nước mũi, khó thở, gầy dần; xuất hiện các hang trong phổi do các sợi nấm kí sinh. Bệnh khó chữa. c) Nấm rụng lông do Ascomycetes làm rụng lông ngựa, chó, mèo, gà, vì những chất nhiễm nấm bám vào vết thương đã có trên da, các sợi nấm tiến sâu vào bao lông và rễ lông. Da có những vết lông rụng, tròn, phủ vẩy bột trắng nhưng không gây ngứa. Bệnh dễ chữa nhưng lây lan nhanh. (x. Nấm gây bệnh vật nuôi)

3. Ở thực vật, có những BN nguy hiểm như đạo ôn hại lúa, mốc sương cà chua, khoai tây, sưng rễ bắp cải, thán thư đay. Bệnh cũng thấy ở cây rừng. Một số BN hại gỗ làm gỗ bị mục, ải (x. Nấm gây bệnh cây; Nấm hại gỗ)

BỆNH NẤM MÓNG (y; Onychomycoses), bệnh do nấm gây thương tổn ở móng tay và móng chân; có thể một, hai hoặc toàn bộ các móng đều bị thương tổn. Do đi lai dễ bị chấn thương nên móng chân bị nhiều hơn móng tay. Bắt đầu từ bờ tự do hoặc bờ bên của móng xuất hiện các đốm trắng mờ đục; sau các móng trở nên dễ gẫy, mủn, lòng móng bị tổn thương và toàn bộ móng bị biến dạng, đổi màu vàng hoặc nâu sẫm. Cạo móng làm xét nghiệm có thể tìm được loài nấm gây bệnh. Bệnh tiến triển dai dẳng. Điều trị lâu dài bằng các loại thuốc diệt nấm, kết hợp với bóc móng nếu cần thiết.

BỆNH NGHỀ NGHIỆP (y), hiện trạng bệnh lí mang tính chất đặc trung nghề nghiệp hoặc liên quan đến nghề nghiệp, do tác hại thường xuyên và kéo dài của điều kiện lao động xấu.

Từ khi có lao động, con người đã chịu ảnh hưởng tác hại của nghề nghiệp và bị BNN. Trước Công nguyên, Hippocrat đã phát hiện bệnh nhiễm độc chì. Thế kỉ 1, Pline đã phát hiện những ảnh hưởng xấu của bụi đến cơ thể người. Thế kỉ 2, Galien (Ph. Claude Gallien) đã tả những bệnh mà công nhân mỏ mắc phải. Những thế kỉ sau đó đã phát hiện bệnh nhiễm độc thuỷ ngân và BNN khác.

Công nhân có thể bị BNN phải được hưởng chế độ bảo hiểm nên mỗi quốc gia đã quy định những BNN có ở nước mình và ban hành chế độ bảo hiểm BNN. Vào thế kỉ 19, thế kỉ 20, các nước Đức, Anh, Pháp, Italia,vv. Đã lần lượt quy định những BNN của nước mình.

Tổ chức lao động quốc tế (ILO) hiện nay xếp BNN thành 29 nhóm gồm hàng trăm BNN khác nhau.

Ở Việt Nam, từ 1976 Nhà nước đã quy định 8 BNN được bảo hiểm và năm 1991 đã công nhận thêm 8 BNN. Đến nay đã có 16 BNN được công nhận bảo hiểm:

1. Bệnh bụi phổi do silic.

2. Bệnh bụi phổi do amiăng.

3. Bệnh bụi phổi bông.

4. Bệnh nhiễm độc chì và các hợp chất chì.

5. Bệnh nhiễm độc benzen và các đồng đẳng.

6. Bệnh nhiễm độc thuỷ ngân và các hợp chất thuỷ ngân.

7. Bệnh nhiễm độc mangan và các hợp chất mangan.

8. Bệnh nhiễm độc TNT (trinitrotoluen).

9. Bệnh nhiễm các tia phóng xạ và tia X.

10. Bệnh điếc nghề nghiệp do tiếng ồn.

11. Bệnh rung chuyển nghề nghiệp.

12. Bệnh sạm da nghề nghiệp.

13. Bệnh loét da, viêm da, chàm tiếp xúc.

14. Bệnh lao nghề nghiệp.

15. Bệnh viêm gan virut nghề nghiệp.

16. Bệnh do Leptospira nghề nghiệp.

BỆNH NGOẠI CẢM (y học dân tộc), bệnh do nguyên nhân bên ngoài xâm nhập vào cơ thể người qua đường da và niêm mạc, khi sức chống đỡ của cơ thể (chính khí) nhất thời bị suy yếu. Biểu hiện thông thường là sốt, đau nhức mình mẩy, nhức đầu, mỏi gáy, hắt hơi, sổ mũi, sợ gió lạnh. Dự phòng: chống lạnh khi thời tiết thay đổi (giữ ấm chân, đầu cổ, vv.). Tuỳ theo trường hợp bệnh, có thể cạo gió, bầu giác, chích lể, vv. cho kết quả tốt.

BỆNH NGỦ (y), bệnh lây truyền, thường gặp ở các nước vùng Châu Phi xích đạo. Bệnh do ruồi Glossina (tk. ruồi tsé - tsé) đốt và truyền kí sinh vật Trypanosoma cho người. Bệnh diễn biến thành hai giai đoạn: thời kì đầu - Trypanosoma vào máu và bạch huyết, gây sốt, gan, lách, hạch sưng to, phát ban ngoài da; thời kì hai - Trypanosoma vào hệ thần kinh trung ương, gây viêm màng não, rối loạn tâm thần, sau đó gây ngủ nhiều, giấc ngủ ngày càng sâu, cuối cùng hôn mê và tử vong. Phòng bệnh: giám sát ruồi tsé - tsé, dùng các thuốc diệt côn trùng bảo vệ cho người lành, tránh ruồi đốt như mặc quần áo bịt kín cổ chân, cổ tay, đi tất, nhà có màn che cửa để ban ngày ruồi không vào được. Hiện nay, dùng các thuốc phòng cho người như pentamidine, có tác dụng bảo vệ cơ thể trong 6- 8 tháng; moranyl có tác dụng bảo vệ trong 3 tháng.

BỆNH NHI (y), người bệnh ở lứa tuổi trẻ em (dưới 15 tuổi). Cũng có những đặc điểm riêng về mặt giải phẫu, sinh lí, tâm lí, tâm thần, vv. tuỳ theo lứa tuổi. Để chuẩn đoán và điều trị BN; y học có một ngành riêng là nhi khoa.

BỆNH NHIỄM ĐỘC HOÁ CHẤT (y), trạng thái bệnh lí do tiếp xúc với các hoá chất ở các xí nghiệp sản xuất hoá chất, trong sản xuất, sinh hoạt hằng ngày (hoá chất trong công nghiệp; hoá chất trong y tế); thường nói đến nhiễm độc do các chất phát quang (làm rụng lá), các chất diệt cỏ, các thuốc diệt chuột, côn trùng (ruồi,muỗi, sâu rầy hại lúa, vv.). Các loại hoá chất được xếp theo nhiều loại: 1) Các chất lân hữu cơ: parathion (thiophot), parathion metyl (vofatox), malathion, điazinon, DDVP. 2) Các chất clo hữu cơ: DDT, 666, đienđrin, anđrin, heptaclo, 2,4 - D, 2,4,5 - T, các chất cacbamat. Trên thế giới từng xảy ra những tai nạn lớn do các hoá chất thoát ra từ các máy của các xí nghiệp sản xuất [ở Xăng Xevedô (Italia) năm 1976; ở Nigara Fanxơ (Hoa Kì) năm 1980], do chiến tranh hóa học [các khí độc làm chảy nước mắt, hắt hơi, các khí ngạt dùng trong Chiến tranh thế giới I (1914 - 1918); chiến dịch Ranch Hand trong chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1961 - 1971), thực chất là một cuộc chiến tranh hoá học ở Việt Nam, Cămpuchia, Lào, trong đó quân đội Hoa Kì rải các chất phát quang (2,4 - D; 2,4,5 - T) dưới hình thức một hỗn hợp gọi là chất da cam, chất xanh, chất trắng, vv.]

Tình trạng nhiễm độc khác nhau tuỳ theo loại hoá chất và liều lượng dùng. Các chất lân hữu cơ thường gây nhiễm độc cấp tính qua đường hô hấp, qua đường tiêu hoá, qua da; ngoài ra còn các dấu hiệu khác: nhịp tim đập, huyết áp giảm, vv. Chất lân hữu cơ bị phân giải nhanh trong cơ thể, nên ít gây nhiễm độc mạn tính, trừ người lao động có tiếp xúc lâu dài. Các chất clo hữu cơ có thể gây nhiễm độc cấp tính nhẹ hay nặng: rối loạn tiêu hoá, nhức đầu, suy nhược thần kinh, mất trí nhớ, co giật liên tục, khó thở, ngất và dẫn đến tử vong. Chất clo hữu cơ tồn lưu trong cơ thể rất lâu, gây nhiễm độc mạn tính: rối loạn thần kinh, mất ngủ, kém trí nhớ, mờ mắt, giảm thính lực, suy nhược cơ thể; sức khoẻ suy yếu dần; phụ nữ bị các tai biến sinh sản (sẩy thai, đẻ non, chửa chứng và ung thư nguyên bào nuôi), các dị tật bẩm sinh ở trẻ em (sứt môi, hở hàm ếch, cụt chi, vv.); các quái thai, thai đôi dính, vô não do tác động đến bộ gen ở mẹ và bố, di truyền cho các thế hệ con cháu; gây ung thư.

Các công trình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam đã bắt đầu chứng minh các tác hại nêu trên là do một loạn tạp chất xuất hiện trong quá trình sản xuất chất 2,4 - D và 2,4,5 - T, gọi là đioxin (2,3,7,8 - tetraclođibenzo - p - đioxin), một chất rất độc và rất bền vững gây nên. Trước các tác hại của các chất hoá học, hiện nay đang nghiên cứu cách giảm việc sử dụng và dùng các chất thay thế.

BỆNH NHIỄM ĐỘC THUỶ NGÂN (y), nhiễm độc cấp tính thường xảy ra lẻ tẻ do nhiễm hay uống phải một liều lượng cao thuỷ ngân (từ 100 đến 200 mg một lần). Các triệu chứng nhiễm độc thuỷ ngân khá phổ biến (sau nhiễm độc chì, benzen hoặc hoá chất diệt côn trùng, diệt cỏ, phát quang). Tỉ lệ tử vong 60% từ ngày thứ 6 đến ngày thứ 12. Nhiễm độc bán cấp xảy ra khi điều trị bằng thuốc có thuỷ ngân. Nhiễm độc mạn tính thường là nhiễm độc nghề nghiệp trong sản xuất. Triệu chứng: các rối loạn tiêu hoá xuất hiện sớm, sau đó xuất hiện các dấu hiệu thần kinh, các dấu hiêu viêm thận mạn tính. Nhiễm độc thuỷ ngân được liệt vào bệnh nghề nghiệp, được hưởng bảo hiểm. Y học đã từng chứng kiến những vụ nhiễm độc hàng loạt như ở thành phố Minamata (Nhật Bản): nhân dân bị nhiễm độc do ăn cá, các hải sản đánh bắt ở vùng biển lân cận bị nhiễm chất thải có chứa nhiều thuỷ ngân của các xí nghiệp sản xuất công nghiệp ở thành phố này. Đặc điểm bệnh lí là các dấu hiệu thần kinh xuất hiện bán cấp: liệt, đau dữ dội, giảm thị lực (có thể bị mù), rối loạn tâm thần; các dị tật bẩm sinh ở trẻ sơ sinh. Bệnh nhân chết sau một thời gian (có thể kéo dài vài năm). Các bệnh nhân đầu tiên được phát hiện năm 1953, tìm ra nguyên nhân năm 1959; bệnh được chính thức công nhận năm 1965, và từ đó gọi là bệnh Minamata.

BỆNH NHIỆT ĐỚI (y), cụm từ chung chỉ các bệnh thường gặp ở xứ nóng. Danh mục BNĐ có nhiều, nhưng hiện nay Tổ chức y tế thế giới tập trung sự chú ý vào bệnh sốt rét, sán máng, bệnh phong, dịch tả. Các BNĐ phần nhiều là những bệnh nhiễm khuẩn hay nhiễm kí sinh trùng. Năm 1989, ở Việt Nam đã thành lập Viện y học nhiệt đới lâm sàng.

BỆNH NHIỆT THÁN (nông) x. Bệnh than.

BỆNH PHẨM (y), vật liệu lấy từ người bệnh hoặc vật thử nghiệm để thự hiện các xét nghiệm phục vụ chuẩn đoán, tiên lượng bệnh, tìm hiểu cơ chế bệnh lí. BP có thể được bảo quản để làm mô hình giảng dạy và nghiên cứu. BP có thể là chất lỏng (máu, mủ, nước tiểu, nước tràn dịch, vv.), có thể là những mảnh mô hoặc những tế bào.

BỆNH PHẤN HOA (y), tên gọi chung các thể bệnh lí đường thở, xuất hiện khi các hạt phấn hoa tiếp xúc với niêm mạc có mẫn cảm một cách đặc biệt (mũi, kết mạc, phế quản, vv.), vd. hen, sổ mũi mùa gặt, phù phổi quá mẫn vào mùa xuân.

BỆNH PHÓ THƯƠNG HÀN (y, nông) 1. Ở người, bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường tiêu hoá do trực khuẩn chi Salmonella gây ra (trực khuẩn phó thương hàn A hoặc B), lây do sử dụng thứ ăn, nước uống bị nhiễm trực khuẩn này. Biểu hiện giống bệnh thương hàn, sốt liên tục, nhức đầu, li bì, rối loạn tiêu hoá. Nhưng các triệu chứng thường nhẹ hơn, bệnh khỏi nhah hơn và tỉ lệ chết ít hơn bệnh thương hàn. Chloramphénicol là kháng sinh đặc hiệu chữa BPTH. 2. Ở vật nuôi, bệnh nhiễm khuẩn gây viêm ruột, viêm khớp, nhiễm khuẩn huyết. Ở bê, có thể gây nhiễm khuẩn huyết, lây lan mạnh. Ở bò, thường thấy phát sinh lẻ tẻ, sẩy thai do S. dublin. Ở gà, do S. typhimurium, S. pullorum, S. gallinarum gây bệnh bạch lị. Ở lợn, do S. chloreaesuis, S. typhisuis, S. enteridis gây viêm ruột nhiễm khuẩn cấp hay mạn tính. Ở Việt Nam, đáng chú ý nhất là BPTH lợn, thường ghép với bệnh dịch tả lợn.

BỆNH PHONG (y, tk. bệnh Hanxen, bệnh hủi, bệnh cùi, bệnh phung), bệnh truyền nhiễm, mạn tính nặng, do trực khuẩn phong (Mycobacterium leparae) gây ra. Sau thời kì ủ bệnh kéo dài (trung bình 1 - 3 năm) là giai đoạn của thể phong bất định (cg. giai đoạn bất định) với biểu hiện: vài vết thâm hay trắng ở mặt, chi trên, vv.; khi sờ có cảm giác tê dại hoặc bì bì (rối loạn cảm giác). Tuỳ theo sức đề kháng của cơ thể (miễn dịch trung gian tế bào), bệnh có thể tiến triển sang nhiều thể khác: thể củ (khi sức đề kháng tốt hơn) với các củ đứng riêng rẽ hay sắp xếp thành từng đám, bờ hơi cao, ranh giới rõ, ở giữa lành sẹo; thể u (trong trường hợp sức đề kháng kém hẳn đi) với các u nổi cao, bóng hoặc các mảng cộp, chai, có bờ không rõ rệt, mất cảm giác (tê) hoặc có khi tăng cảm giác; thể trung gian (trong trường hợp sức đề kháng trung bình). Ở các thể của BP bao giờ cũng có triệu chứng tê hay bì bì. Dây thần kinh (thần kinh trụ, thần kinh giữa, thần kinh hông khoeo ngoài, vv.) thường viêm to, đau và dẫn đến tàn phế (co, rụt, vv.). Bệnh không di truyền, lây lan ít và chậm. Trước kia, BP được xếp vào một trong tứ chứng nan y: phong, lao, cổ, lại. Người bệnh được tập trung trong các trại phong. Ngày nay, BP đã có thuốc chữa đặc hiệu, nếu sớm phát hiện có thể chữa ở nhà. Điều trị: phối hợp 2,3 hoặc 4 loại thuốc (rifamycine, clofazimin, dapsone, ethionamide) có công hiệu và tránh được hiện tượng kháng thuốc. Phòng bệnh: vệ sinh thân thể (tắm giặt thường xuyên bằng xà phòng, không dùng chung đồ dùng, quần áo); bôi thuốc sát khuẩn và băng kín khi bị xây xước, lở loét.

BỆNH PHÓNG XẠ (y, quân sự; tk. bệnh nhiễm phóng xạ), bệnh do tác động của các bức xạ ion hoá lên cơ thể quá liều lượng cho phép. Có thể gặp ở các bệnh nhân được khám chữa bằng các tia X hay các chất phóng xạ, các nạn nhân của các vụ nổ nguyên tử, tai nạn ở nhà máy điện nguyên tử hay ở các phòng xét nghiệm nghiên cứu hạt nhân nghiên tử. Tuỳ mức độ và thời gian nhiễm phóng xạ, bệnh biểu hiện ở trạng thái cấp tính hay mạn tính. Trạng thái cấp tính (ngoài trung tâm nổ) với các tai biên thần kinh làm chết ngay hay sau vài giờ; các tai biến tiêu hoá (nôn mửa, ỉa chảy, sốt, vv.) trong 15 ngày đầu và làm chết nhanh; các tai biến máu do teo tuỷ xương xuất hiện sau 2 - 3 tuần, gây chết do giảm khả năng tạo huyết ở tuỷ xương, rất ít khi khỏi bệnh. Các bệnh nhân bị nhiễm phóng xạ có thể có biểu hiện tức thời, nhẹ, thoáng qua như xay sóng (hay ngáp, buồn nôn, nôn, da nhợt nhạt, ra mồ hôi, muốn xỉu); có thể có biểu hiện chậm như mệt mỏi, phân lỏng, nôn, sốt, khó thở, hạ huyết áp, do tia phóng xạ phá huỷ máu, do nhiễm độc từ mô (ung thư). Dự phòng: thầy thuốc cần hạn chế chỉ định các xét nghiệm X quang, phóng xạ tới mức cần thiết (đặc biệt đối với phụ nữ có thai, trẻ em...); trong điều trị bằng tia phóng xạ, cần theo dõi, chăm sóc bệnh nhân thật chu đáo; bảo hộ lao động, thực hiện các chế độ, chính sách đầy đủ cho người sử dụng máy hoặc tiếp xúc với các chất phóng xạ, vv.

BỆNH POTT (y, tk. lao cột sống), lao xương khớp ở khớp đốt sống, theo thứ tự đốt sống lưng tới đốt sống thắt lưng, hiếm gặp ở các đốt sống cổ. Triệu chứng: đau nhẹ cột sống ở vị trí đốt sống bị viêm lao, kèm theo đau rễ thần kinh, khó hay mất vận động ở cột sống, cột sống hơi lồi phía sau, ấn gõ đau nhói; chụp X quang có hình lún đĩa cột sống, huỷ thân đốt sống ở phía trước (một hoặc nhiều đốt). Lứa tuổi thanh niên, thiếu niên bị BP nhiều hơn so với các lứa tuổi khác. Trong trước hợp điều trị không kịp thời và không triệt để, cột sống sẽ đổ ra phí trước, tạo thành gù cột sống vĩnh viễn. BP mang tên nhà phẫu thuật Anh Pexivan Pôt (Percival Pott) (người đầu tiên mô tả BP). Điều trị: ngoài thuốc chống lao, nghỉ ngơi ăn uống tốt (x. Lao xương - khớp), cần chỉnh hình (cho nằm giường bột 6 - 12 tháng), phẫu thuật nạo xương chết, tháo apxe lạnh (nếu có). Nếu nhiều đốt sống bị huỷ, đe dọa ép tuỷ, phải gia cố các đốt sống tổn thương bằng các mảnh ghép hợp kim.

BỆNH QUAI BỊ (y), bệnh nhiễm khuẩn lây lan có thể gây dịch nhỏ, do virut quai bị có ái lực cao đối với hệ thần kinh, tuyến nước bọt, tinh hoàn. Lây qua các hạt nước bọt nhỏ của người bệnh có virut quai bị do hắt hơi bắn ra xung quanh và qua đường hô hấp trên xâm nhập vào người lành. Các biểu hiện lâm sàng: sốt nhẹ, đau trước tai, nhai nuốt khó và sưng tuyến mang tai cả hai bên. Biến chứng thường gặp là viêmtinh hoàn gây teo tinh hoàn; đôi khi gây viêm tuyến tuỵ, viêm màng não. Phòng bệnh: cách li người bệnh trong suốt thời gian sưng tuyến mang tai, đeo khẩu trang, nằm nghỉ, giữ vệ sinh răng - miệng, súc miệng bằng nước oxy già (1 thìa canh vào một cốc nước) hoặc nước muối. Y học cổ truyền gọi là trái tai, do phong ôn vào mũi miệng kết hợp với nhiệt tích ở thượng vị và hoả uất ở can đởm, tụ lại ở mang tai (kinh thiếu dương). Nếu bệnh nặng có thể truyền vào kinh can (viêm tinh hoàn) vì kinh can và kinh đởm có quan hệ lí biểu. Có thể chữa ngay bằng châm cứu các huyệt Giáp xa, Ế phong, Khúc trì, Giáp tôn; nếu có viêm tinh hoàn, châm cứu thêm các huyết Thái xung, Tam âm giao, Huyết thai; dùng thuốc bôi tại chỗ như bột chàm (thanh đại) hoà với dấm thanh, bôi nhiều lần, dùng hạt gấc mài với dấm thanh cho sền sệt, bôi nhiều lầnl dùng thuốc uống (bồ công anh, hạ khô thảo), (sắc uống).

BỆNH QUÁNH NIÊM DỊCH (y) x. Bệnh nhầy nhớt.

BỆNH RICKETSIA (nông, y), chỉ các bệnh do Rickettsia gây ra, có những nét chung như: sốt có chu kì, trạng thái li bì; phát ban (không phát ban ở mặt, gan bàn tay, bàn chân); các phản ứng huyết thanh (ngưng kết với Proteus X19); có thể gây dịch và lưu hành truyền qua người khác các côn trùng đốt. Thuộc nhóm này ở Việt Nam có bệnh sốt triền sông Nhật Bản do Rickettsia isutsugamushi và do mò đốt; bệnh sốt Rickettsia mooseri do bọ chét của chuột Xenopsylla cheopis truyền sang người (x. Bệnh sốt phát ban).

Ở động vật, BR do R. ruminantium gây ra ở cừu, dê, với đặc điểm rõ nhất là có nước trong màng ngoài tim; ở chó do R. canis với đặc điểm là sốt cao, có xuất huyết trong da (nội bì); ở động vật nhai lại, gặp sốt Queensland (sốt Q) so R. burneti với triệu chứng như bệnh cúm có sốt và bệnh so R. conjunstivea gây viêm giác mạc và kết mạc mắt.

BỆNH RUBÊÔN (y), bệnh lây, có miễn dịch, diễn biến nhẹ. Bệnh do virut gây nên. Triệu chứng: sốt cao; nổi hạch nhiều nơi (cổ, nách, bẹn); có phát ban ngoài da, nốt ban màu đỏ, to bằng đầu ghim, ban mọc toàn thân, sau 4 - 5 ngày ban bay hết. Ở phụ nữ có thai, trong 3 tháng đầu, BR có thể gây dị dạng cho thai nhi (ở hệ tim - mạch, mắt, tai, vv.). Để đề phòng các tai biến sinh sản, cần tiêm chủng cho các em gái vào lúc 12 - 14 tuổi hoặc trước khi lấy chồng.

BỆNH SẠM DA NHIỄM ĐỘC (y), bệnh nghề nghiệp xuất hiện ở người tiếp xúc với nhựa, than, dầu hoả, dầu nhờn (công nhân lái tàu hoả, sản xuất than, công nhân cơ khí, công nhân làm đường, vv.). Các chất gây bệnh có thể tác động trực tiếp trên da hoặc qua đường hô hấp, tiêu hoá như một dị nguyên, làm cho cơ thể tăng cảm ứng đối với ánh sáng. Biểu hiện: ở phần hở (mặt, cổ, đầu, chi) đỏ, ngứa và sạm lan rộng sang các phần da khác; mệt mỏi, nhức đầu kéo dài. Dự phòng: chống nắng, bảo vệ da bằng cách bôi kem chống nắng (kem quinine 5% hoặc kem tanin 5%) trước giờ làm việc, rửa sạch và bôi thuốc dịu da như hồ Broc (kẽm oxit 30g, lanoline 30g, vaselin 40g). Cần có chế độ ngh ngơi, an dưỡng thích hợp cho người làm việc lâu năm trong các nghề độc hại (công nhân lái tàu, làm đường, vv.). Điều trị bằng các loại thuốc giải mẫn cảm, vitamin C liều cao và thuốc nâng cao thể trạng. Phải xử lí môi trường ô nhiễm, bảo đảm chất độc hại ở dưới mức an toàn quy định.

BỆNH SẨY THAI TRUYỀN NHIỄM (nông; Brucellosis), bệnh truyền nhiễm mạn tính do một trong ba biến chủng của vi khuẩn Brucella: Brucella melitensis (ở cừu, dê), B. suis (lợn), B. abortus (bò). Khuynh hướng hiến nay cho là chỉ có một Brucella, những biến chủng nói trên không thành những loại riêng. 1) Bệnh ở bò (tk. bệnh Bang): bệnh truyền nhiễm mạn tính do Brucella abortus, làm bò cái sẩy thai, sát nhau và không sinh đẻ; bò đực bị viêm dịch hoàn hay viêm ống dẫn tnh. Chuẩn đoán bệnh bằng phản ứng huyết thanh ngưng kết chậm hay nhanh và phản ứng thử nghiệm vòng với tiêu bản sữa. Văcxin phòng bệnh: dùng giống gốc Buck 19 và giống gốc 45/20. Phòng bệnh: cách li, vệ sinh, loại thải những con nhiễm bệnh. 2) Bệnh ở cừu và dê: BSTTT được phát hiện đầu tiên với tên gọi là sốt Malte (mélitococcie). Bệnh gây sảy thai, mất sữa và nhiều biến chứng. Nguy hiểm hơn cả là Brucelle melitensis có thể truyền sang người. 3) Bệnh ở lợn do Brucella suis, nhưng cũng có khi do B. abortus hay B. melitensis; đặc điểm: viêm khớp xương, viêm dịch hoàn ở lợn đực giống, sẩy thai hoặc đẻ non ở lợn cái. Chưa có văcxin có hiệu lực ở lợn. 4) Bệnh ở ngựa do B. abortus, có khi B.suis, thường có triêu chứng viêm túi tương mạc (gáy, vai). 5) Bệnh ở người (tk. bệnh sốt Malte, bệnh mélitococcie, bệnh sốt làn sóng, bệnh sốt điên), chủ yếu do B. melitensis, nhưng cũng có thể do B. abortus và B. suis. Bệnh thường thấy ở những người làm nghề chăn nuôi, thú y, mua bán súc vật, nhưng cũng lây qua sữa và sản phẩm của sữa. Triệu chứng: bắt đầu sốt nhẹ, rồi sốt cao hơn, nhiệt độ lên xuống thất thường (làn sóng), ra mồ hôi ban đêm, viêm khớp xương, viêm cơ bắp. Nhưng nếu không chữa kịp thời, bệnh thành mạn tính với viêm khớp, viêm dịch hoàn, viêm màng não. Điều trị bằng kháng sinh.

BỆNH SCOBUT (y), bệnh thiếu vitamin C, biểu hiện: sốt nhẹ; chảy máu chân răng, chảy máu ở da, cơ, xương, thiếu máu, rối loạn tiêu hoá, vv. cơ thể suy kiện dần, có thể gây tử vong. Một số quần thể người có chế độ ăn kém hay không cân đối cũng có thể mắc BS (vd. thuỷ thủ đi biển dài ngày, tù nhân).

BỆNH SILICO - LAO (y), bệnh nhiễm bị silic phổi hay thêm lao phổi. Phổi bị nhiễm silic tạo điều kiện thuận lợi cho trực khuẩn lao phát triển, thường có trên 50% người bệnh silico bị nhiễm bệnh lao. Thương tổn xơ hoá: Chuẩn đoán khó, xét nghiệm ít khi tìm thấy trực khuẩn lao. Tiên lượng xấu. Nếu bị bệnh rồi điều trị kéo dài, nhưng ít kết quả. Tỉ lệ tái phát cao. Dự phòng bệnh: đẩy mạnh việc bảo hộ, an toàn lao động ở các xí nghiệp có nhiều bụi, có thể tiêm phòng lao bằng BCG.

BỆNH SINH (y), bao gồm các cơ chế và quy luật chi phối quá trình phát sinh, phát triển, diễn biến và kết thúc của bệnh. Vd. BS của cơn sốt gồm giai đoạn chất gây sốt tác động lên trung tâm điều hoà nhiệt và sự thay đổi chuyển hoá của cơ thể, tiếp đó là các giai đoạn thân nhiệt tăng lên, rồi giữ ổn định ở mức cao và sau đó trở về bình thường với mọi cơ chế, quy luật của mỗi giai đoạn đó. BS của một bệnh nhiễm khuẩn có thể gồm: cơ chế, quy luật của giai đoạn ủ bệnh, khởi phát, toàn phát, kết thúc, vv. BS học là khoa học nghiên cứu về các cơ chế, quy luật phát triển và kết thúc của một bệnh, các bệnh chung hoặc một quá trình bệnh lí nói chung (vd. quá trình viêm).

BỆNH SINH CHẢY MÁU (y; tk. hội chứng chảy máu), bệnh với những triệu chứng nổi bật: chảy máu, xuất huyết dưới da, dưới niêm mạc (mũi, lợi, vv.) kèm theo các biến đổi bất thường của tiểu cầu (giảm số lượng, chất lượng) và có thể của mao mạch. Nguyên nhân: bệnh tự miễn, nhiễm khuẩn huyết (thông thường là do màng não cầu khuẩn, vv.).

BỆNH SINH HỌC (y) x. Bệnh sinh.

BỆNH SỐT PHÁT BAN (y; nông; tk. bệnh sốt chấy rận), bệnh Rickettsia cổ điển lây lan, thành dịch, do rận, bọ chét truyền sang người. Thời gian ủ bệnh 15 ngày. Bắt đầu đột ngột sốt cao, nổi ban (dát và đốm xuất huyết), xuất hiện các rối loạn thần kinh giống như trong bệnh thương hàn; sau khoảng 2 tuần, nếu tiến triển thuận lợi, bệnh dịu dần. Tác nhân gây bệnh là Rickettsia, có trong phân của rận, bọ chét, vào cơ thể người do các vết xước da. Trước kỉ nguyên kháng sinh, tỉ lệ tử vong rất cao; dùng kháng sinh bệnh khỏi nhanh, tỉ lệ tử vong thấp. Dự phòng: vệ sinh sạch sẽ, diệt rận, chấy và ve, tiêm chủng cho cư dân quanh vùng có bệnh. Hiện nay trên thực tế, bệnh coi như đã được thanh toán trên phạm vi toàn thế giới, chỉ còn tồn tại lẻ tẻ ở một số vùng nghèo khổ, điều kiện ăn ở quá thiếu vệ sinh. Ở Việt Nam, có một vụ dịch lớn xảy ra năm 1944, từ 1945 đến nay không thấy xuất hiện bệnh (x. Bệnh Ricketsia)

BỆNH SỐT VẸT (nông), bệnh nhiễm khuẩn lúc đầu lây lan ở chim vẹt, sau phát hiện thấy ở một số chim khác và gia cầm: gà, bồ câu, vịt, ngỗng, chim sẻ. Triệu chứng: ủ rũ, không ăn, đi tả, viêm màng não, khó thở; tỉ lệ chết cao. Người có thể bị lây. Vi dinh gây bệnh là một loài Rickettsia, nhìn thấy được dưới kính hiển vi.

BỆNH SỞI (y), bệnh dịch rất dễ lây, do virut gây lên. Bệnh bắt đầu bằng sốt cao, chảy nước mắt, nước mũi, ho, mắt hơi đỏ, mi mắt sưng nhẹ. Có thể chuẩn đoán sớm bệnh, nếu khám bệnh thấy một đám các nốt chấm trắng ở mặt trong má, đối diện với các răng hàm (dấu hiệu Koplic). Sốt 3 - 4 ngày thì sởi mọc. Đầu tiên mọc sau tai, rồi đến trán, mặt. Tiếp đó lần lượt mọc đến thân mình và tay chân. Nốt sởi màu đỏ hồng. Đến ngày thứ bảy, sởi bay, để lại trên da những nốt màu hơi thâm. BS gây biến chứng nặng: viêm phế quản, phổi, viêm não, viêm tai giữa. Nếu vệ sinh răng miệng kém, có thể bị cam tẩu mã. Phòng bệnh: cách li trẻ bị lên sởi với trẻ lành. Bệnh lây 5 ngày trước và sau khi sởi mọc. Tiêm văcxin phòng bệnh sởi cho trẻ từ 9 tháng đến 11 tháng tuổi. Ở Việt Nam, BS khá phổ biến theo mùa.

BỆNH SỬ (y) x. Tiền sử bệnh.

BỆNH TẢ (y), bệnh truyền nhiễm cấp tính đường tiêu hoá do phẩy khuẩn tả (Vibrio cholerae) được Koch (Robert Koch) phát hiện năm 1883 và từ 1957 được phát hiện do loại En To (El tor) gây nên. Bệnh còn lưu hành ở Châu Á và vẫn có nguy cơ lan rộng thành dịch. Lây do sử dụng thức ăn, nước uống bị ô nhiễm phẩy khuẩn tả. Bệnh xuất hiện đột ngột: ỉa chảy nhiều lần liên tục, toàn nước, nôn nhiều, nhanh chóng dẫn đến tình trạng kiệt nước và truỵ tim mạch. Chữa sớm và đúng cách bằng phục hồi nước và các chất điện giải, người bệnh khỏi nhanh. Trong trường hợp bệnh nặng, nếu không được phục hồi nước điện giải, người bệnh chết trong vòng 12 - 36 giờ. Kháng sinh tétracycline chỉ có tác dụng hỗ trợ cho việc phục hồi nước và điện giải, làm giảm thời gian và khối lượng ỉa chảy, đồng thời rút ngắn thời gian đào thải phẩy khuẩn tả. Có thể dùng hỗ trợ một số vị thuốc nam (trần bì, nhục quế, sinh khương, phụ tử, vv.) với một ly nhỏ rượu rum. Bệnh nhẹ chỉ có biểu hiện ỉa chảy vài lần trong ngày và có thể tự khỏi (hoặc dùng các viên berberine, opium, vv.). Phòng bệnh: chủ yếu là dùng nước sạch, quản lí phân người (không sử dụng phân tươi bón cây); thực hiện ăn chín, uống nước sôi. Hiện nay, việc tiêm phòng văcxin tả ít có giá trị thực tế, chỉ gây miễn dịch ngắn và không vững bền.

BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT (y), bệnh tâm thần nặng, phổ biến (có thể chiếm khoảng 0,7 ‰ dân số), nguyên nhân chưa rõ, thường bắt đầu từ tuổi trẻ và có khuynh hướng tiến triển mạn tính. Bệnh thường có các dạng: hoang tưởng, ảo giác (vd. người bị ám ảnh là mình bị tia laze chi phối hoặc nghe thấy các lời nói bình phẩm hành vi của mình), trong lời nói, hành vi có sự thiếu hoà hợp dị kì khó hiểu; hiệu suất lao động, tâm thần giảm sút, ý nghĩ nghèo nàn, cảm xúc ngày càng khô lạnh, người bệnh mất dần quan hệ với xung quanh. Tiên lượng tuỳ thuộc vào thể bệnh, thời gian phát hiện và điều trị sớm hay muộn.

BỆNH TÊTANI (y; tetania), tình trạng canxi trong máu giảm, với biểu hiện: co giật đầu chi, ngón tay chụm lại, bàn chân duỗi thẳng, đôi khi thanh quản bị co thắt có thể gây ngạt thở. Hay gặp trong một số trường hợp: còi xương, giảm năng tuyến cận giáp, nôn nhiều do các bệnh khác nhau.

BỆNH THAN (nông, y; tk. nhiệt thán), bệnh nhiễm khuẩn cấp diễn ở gia súc (bò, cừu, dê, vv.) do Bacillus anthracis, có thể truyền sang người. 1) Ở người có bệnh, có những nốt loét màu đen ở da và phù nề, các thể nặng là thể nhiễm khuẩn máu và phổi. Bệnh lây do tiếp xúc trực tiếp với động vật bị bệnh (mổ xác, phanh thịt) hoặc gián tiếp qua các vật phẩm bị ô nhiễm (len, dạ, đất) hoặc (rất hiếm) do hít phải bào tử (thể phổi ở thợ chải len) hay ăn phải thịt bị nhiễm khuẩn nấu chưa chín kĩ (thể ruột). Phòng bệnh: tiêm văcxin cho gia súc, thiêu xác động vật bị chết, không ăn thịt trâu, bò... bị bệnh, tiêm văcxin cho những người tiếp xúc (người làm công tác thú ý, công nhân công nghiệp xử lí các sản phẩm động vật). 2) Ở súc vật, bệnh phổ biến ở các nước khí hậu nhiệt đới, do bào tử của Bacillus anthracis được bảo tồn trong đất thời gian lâu. Ở Việt Nam tỉ lệ chết bệnh cao nhất ở trâu, bò, rồi đến ngựa, lợn. Bệnh thường phát dưới dạng cấp tính: nhiễm khuẩn huyết, gây chết nhanh, có máu đen như than chảy ra từ các lỗ tự nhiên ở xác chết. Bệnh tích đặc trưng: máu không đông, lá lách sưng to. Bệnh có thể truyền từ đất (bào tử trong đất) và thức ăn nhiễm khuẩn (thịt bệnh, bột thịt ô nhiễm). Những vụ dịch quan trọng nhất đã xảy ra ở Nam Bộ (1941 - 1942), Bắc Bộ (1956 - 1957). Bệnh có nhiều hơn ở phía bắc và thường phát và mùa nóng sau những cơn mưa to (ở đồng bằng) và mùa đông khô hanh (ở miền núi). Văcxin chế ở Việt Nam dùng tiêm phòng theo kế hoạch đã góp phần hạn chế bệnh, chỉ còn những trường hợp lẻ tẻ. Thuyệt đối không mổ xác súc vật chết bệnh vì máu rơi vãi ra sẽ làm bào tử vi khuẩn tồn trữ trong đất, duy trì nguồn bệnh ở địa phương.

BỆNH THUỶ ĐẬU (y), bệnh nhiễm khuẩn do một virut thuộc nhóm ecpet (herpès), rất dễ lây, thường là lành tính, gặp chủ yếu ở trẻ em. Người bệnh sốt nhẹ, các nốt phỏng rất ngứa, giống các hạt sương, không bị lõm ở giữa, xuất hiện làm nhiều đợt (3- 4 đợt) cách nhau khoảng 3 ngày, ở dưới da đầu và toàn thân; các nốt phỏng vỡ ra hoặc khô đi, đóng thành vẩy, không để lại sẹo. Có biến chứng như viêm não nhưng rất hiếm gặp. Điều trị chủ yếu là chữa triệu chứng ngứa: cắt ngắn móng tay, giữ gìn tay sạch để khỏi làm nhiễm khuẩn các nốt phỏng lúc gãi. Phòng bệnh: cách li người bệnh 8 - 10 ngày cho đến lúc tất cả các nốt phỏng đóng vẩy.

BỆNH THƯƠNG HÀN (y), bệnh nhiễm khuẩn cấp diễn do trực khuẩn thương hàn Salmonella typhi gây ra. Triêu chứng: sốt tăng dần và kéo dài, mạch thường chậm, mọc nốt hồng ban ở bụng và ngực vào tuần lễ thứ hai; phân lỏng hoặc táo; thường kèm theo lách to và dấu hiệu thần kinh như li bì, mê sảng. Từ tuần thứ ba, bệnh lui dần. Đôi khi có biến chứng nguy kịch: xuất huyết hiêu hoá và thủng ruột. Bệnh lây từ phân người theo đường ăn uống (thức ăn hoặc nước uống bị ô nhiễm). Phòng bệnh: dùng văcxin TAB, vệ sinh môi trường (phân, nước, vv.), vệ sinh dinh dưỡng. Điều trị: dùng chloramphénicol hoặc ampicilline.

BỆNH TIM (y), tình trạng bất thường, bệnh lí xảy ra ở tim. Có hai loại: BT bẩm sinh (tiên thiên) phát sinh từ khi còn là bào thai. BT mắc phải phát sinh sau khi đã lọt lòng mẹ, đặc biệt ở tuổi thiếu niên (thấp tim, vv.) hoặc do nhiều bệnh khác (thiếu máu, bệnh Bazơđô, vv.). Dấu hiệu của BT nhiều và đa dạng, có thể phát hiện được bằng thăm khám lâm sàng hoặc xét nghiệm (siêu âm, thông tin, vv.). Cần có cách điều trị thích hợp theo chỉ dẫn của thầy thuốc.

BỆNH TINH HỒNG NHIỆT (y), bệnh truyền nhiễm ở trẻ em do liên cầu khuẩn tan huyết nhóm A khu trú ở họng, sản sinh độc tố gây ra. Bệnh bắt đầu với cơn sốt cao đột ngột, đau họng, đau khớp; niêm mạc họng đỏ; lưỡi đỏ dần từ trước ra sau và đỏ rực; phát ban toàn thân (dấu hiệu đặc thù). Nốt ban to bằng đầu đinh ghim, màu đỏ. Bệnh có khả năng lây lan 3 ngày trước và 5 ngày sau khi phát ban; khoảng ngày thứ 7 thì ban bay, da bong vẩy. Bệnh có thể gây biến chứng viêm khớp cấp hoặc viêm cầu thận cấp. Phòng bệnh: cách li bệnh nhân. Chữa bệnh: dùng pénicilline cho uống. Những người tiếp xúc với bệnh nhân cần được ngáy họng cấy tìm liên cầu khuẩn, nếu kết quả dương tính phải cho dùng pénicilline như người ốm.

BỆNH TO CỰC (y), bệnh to các đầu xương, chủ yếu là xương ngón tay và ngón chân, nhưng cũng gặp ở các cơ quan khác (xương mặt, xương hàm, kể cả tổ chức liên kết và các phủ tạng). Nguyên nhân thường do u lành tuyến yên loại tế bào ưa axit. Phân biệt với bệnh khổng lồ cùng do một nguyên nhân nhưng xuất hiện sớm ở người trẻ khi sụn nối các đầu xương còn hoạt động. Hocmon phát dục trong BTC và bệnh khổng lồ được sản sinh ra nhiều do tế bào u.

BỆNH TRĨ (y), bệnh các búi giãn của các đám rối tĩnh mạch trong thành ống hậu môn. Tuỳ theo vị trí của các búi trĩ, BT được chia làm 2 loại: BT nội và BT ngoại. BT nội khi các búi nằm ở 2/3 trên ống hậu môn với triệu chứng chính: lúc bị táo bón, đi ngoài ra máu tươi sau khi đi hết phân hoặc vào cuối bãi phân. BT ngoại khi các búi tĩnh mạch nằm ở 1/3 dưới ống hậu môn. Trong giai đoạn đầu, mỗi khi đi ngoài, búi trĩ lòi ra ngoài, đi ngoài xong búi trĩ lại tụt vào trong hậu môn; sau một thời gian búi trĩ to, không vào được trong hậu môn nữa. Khi các búi trĩ căng, viêm, ống hậu môn bị hẹp lại, đi ngoài khó, đau và rất rát. Khi viêm tắc, chúng tạo thành những hột mủ to cỡ hạt ngô, rất đau. Cũng có khi bị vỡ, chảy máu kèm theo một ít chất nhày dễ nhầm với bệnh ung thư đại tràng và trực tràng. Nam bị BT nhiều gấp hai lần nữ. Lứa tuổi già mắc nhiều hơn lứa tuổi trẻ. Những người làm việc trong tư thế ngồi liên tục (lái xe, nhân viên văn phòng) cũng dễ bị. Ở mức độ nhẹ, phòng bệnh bằng cách chống táo bón: vận động, kiêng rượu và gia vị nóng; uống thuốc nhuận tràng hoặc đạt thuốc tại hậu môn (viên hình đầu đạn). Nặng hơn, phải đến bệnh viện để khám và chữa theo chỉ định của thầy thuốc để tránh các biến chứng có thể xảy ra sau khi mổ.

BỆNH TRĨ MŨI (y), bệnh viêm mũi teo, thoát ra mùi rất thối; hốc mũi rộng, cuốn mũi teo; có nhiều vẩy thối; khứu giác giảm sút hoặc mất hẳn; sống mũi có thể lõm hình yên ngựa. Nguyên nhân chưa thật rõ, điều trị còn khó khăn.

BỆNH TRÙNG XOẮN (nông) x. Bệnh Leptospira.

BỆNH TRUYỀN NHIỄM (y), một số bệnh mắc phải do sự phát triển của tác nhân sinh vật gây bệnh (vi khuẩn, virut) trong cơ thể, có thể truyền đi dễ dàng bằng lây lan, gây thành những vụ dịch. Gọi là dịch hay dịch tễ khi BTN lan rộng ra cả một vùng, có khi ra cả một nước hay một lục địa. Bệnh nhiễm khuẩn cũng do sự phát triển của một tác nhân sinh vật gây bệnh (vi khuẩn, virut), một số bệnh có thể thành dịch hay đại dịch lưu hành, một số bệnh chỉ phát lẻ tẻ. Trong các BTN hay nhiễm khuẩn, còn có khái niệm bệnh lưu hành địa phương để chỉ những bệnh lưu hành ở một vùng nhất định (trại, làng, vùng, vv.) mà không có khuynh hướng lan rộng. (x. Bệnh địa phương).

BỆNH TỰ MIỄN DỊCH (y; tk. bệnh tự miễn), bệnh thường do sự kết hợp của tự kháng nguyên và tự kháng thể, làm tổn thương mô và rối loạn chức năng của cơ quan mang tự kháng nguyên. Vd. bệnh luput đỏ hệ thống, thiếu máu tan máu tự miễn, xuất huyết giảm tiểu cầu chưa rõ nguyên nhân, giảm bạch cầu tự miễn, viêm cầu thận tự miễn, viêm tuyến giáp tự miễn Hashimoto, vv. Gần đây, một số tác giả cho rằng các tự kháng thể và các phản ứng kết hợp giữa tự kháng nguyên và tự kháng thể không phải là nguyên nhân gây ra BTMD mà sự xuất hiện các kháng thể chỉ là hậu quả của BTMD. X. Tự miễn dịch.

BỆNH TƯỞNG (y), trạng thái bệnh trong đó người bệnh nhận thức không đúng những cảm giác hay những biến đổi trong cơ thể mình, cho rằng điều đó là không bình thường rồi sinh ra lo lắng, sợ hãi và nghĩ là mình có một bệnh thực sự. Ngành tâm thần học Việt Nam hiện nay dùng thuật ngữ "nghi bệnh" thay cho thuật ngữ "bệnh tưởng" và xem đó là một triệu chứng có thể gặp trong nhiều bệnh tâm thần.

BỆNH UỐN VÁN (y, nông), bệnh nhiễm độc, nhiễm khuẩn do vi khuẩn Clostridium tetani. Bệnh không lây, không để lại miẩn dịch cao. Do độc tố của vi khuẩn tại các vết thương kích thích tế bào thần kinh vận động nên có các biêu hiện lâm sàng đặc hiệu: co cứng và đau các cơ, bắt đầu từ cơ nhai lan dần tới cơ gáy, cơ lưng và các chi, tạo nên tư thế uốn cong (uốn ván). Từ các kích thích nhẹ (tiếng động, ánh sáng), xuất hiện các cơn co giật cơ, lúc đầu là cục bộ sau lan ra toàn thân. Phòng và chữa bệnh: dùng anatoxine (giải độc tố) và huyết thanh kháng uốn ván, giữ gìn sạch sẽ, vo khuẩn các vết thương, các vết đụng dập, không rịt thuốc lào, không dùng bông băng chưa được tiệt khuẩn. Ở động vật, bệnh phát lẻ tẻ nhưng có khi thành những ổ bệnh nhỏ ở lợn con và cừu con, thường có nguyên nhân từ đất (nha bào vi khuẩn tồn tại lâu trong đất). Triệu chứng: co cứng ở hệ cơ vân, con vật bị kích thích cao độ. Ở một số loài vật, bệnh giới hạn trong vài nhóm cơ bắp. Phòng bệnh: dùng huyết thanh phòng bệnh khi con vật bị thương hoặc tiêm phòng bằng anatoxine. Có khả năng điều trị bằng kháng sinh. Ở Việt Nam, BUV thường thấy ở trâu và lợn đực sau khi thiến không đảm bảo vệ sinh.

BỆNH VẨY NẾN (y), bệnh toàn thân liên quan đến rối loạn chuyển hoá (các chất lipit, cacbon hiđrat, vv.), các bệnh về nội tạng, nội tiết, thần kinh. Có thuyết hướng về căn nguyên nhiễm khuẩn, nhiễm virut và tự miễn. Khoảng 15 - 30% trường hợp bị BYN có liên quan đến yếu tố gia đình. Có nhiều hình thể lâm sàng. Dấu hiệu chính: sẩn đỏ, có thể liên kết với nhau thành mảng, phủ vẩy trắng như nến, dễ bong khi cạo; khu trú chủ yếu ở những phần tì, đè như cùi tay, đầu gối, vùng xương cùng, có thể ở da đầu hoặc lan ra toàn cơ thể. Bệnh nhân phải được theo dõi, điều trị thuốc thích hợp theo từng giai đoạn của bệnh; nghỉ ngơi, an dưỡng, tránh làm việc nặng, tránh các chấn thương về thần kinh, tâm thần, để bệnh ít tái phát và không chuyển biến nặng.

BỆNH VIỆN (y; tk. nhà thương), cơ sở chuyên khám và chữa bệnh cho bệnh nhân. BV đầu tiên là cơ sở y tế được các nhà thờ Thiên Chúa giáo lập ra từ thế kỉ 16 ở Châu Âu để chữa bệnh cho những bệnh nhân không chữa được ở gia đình (bệnh nhân nặng, bệnh nhân lây, người nghèo, vv.). Ngày nay, một BV hiện đại có các nhiệm vụ: 1) Chữa bệnh bằng các kĩ thuật tiến bộ, hiện đại phù hợp với sự phát triển của mỗi nước. Bệnh nhân thường lưu trú một số ngày; đảm bảo các điều kiện sinh hoạt cho bệnh nhân đầy đủ, sạch sẽ, vô khuẩn, tránh sự lây chéo giữa các bệnh nhân. 2) Nghiên cứu khoa học chú ý các lĩnh vực y - sinh học và y - xã hội học, những vấn đề cần thiết đối với sức khoẻ nhân dân. 3) Đào tạo cán bộ y học và thầy thuốc. 4) Cải tiến tổ chức và phương thức hoạt động , giảm bớt ngày bệnh nhân nằm viện, chuyển bệnh nhân ra điều trị ngaọi trú (điều trị tại nhà); phát triển mạng lưới các trạm y tế cơ sở, để có thể khám và điều trị, chăm sóc sức khoẻ tại gia đình sau khi bệnh nhân ra viện. 5) Phổ biến kiến thức y học, xây dựng nếp sống văn minh (sạch sẽ, ngăn nắp, trật tự, vv.).

Có nhiều loại BV chuyên khoa, chuyên ngành như BV nhi, BV phụ sản, BV mắt, BV tâm thần, vv. BV dã chiến là cơ sở y tế quân đội có nhiệm vụ cứu chữa cho thương binh, bệnh binh trong các điều kiện hoạt động ngoài doanh trại thời chiến cũng như trong diễn tập thời bình.

BỆNH XÃ HỘI (y), tên chung chỉ những bệnh có ảnh hưởng lớn đến toàn xã hội, do tỉ lệ mắc bệnh cao ở một vùng hoặc trong phạm vi cả nước, có tính chất lây lan, có tỉ lệ tử vong cao, ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ nhân dân, đến sự phát triển kinh tế - xã hội do bệnh nhân mất khả năng lao động tạm thời hay vĩnh viễn (vd. bệnh phong, sốt rét, bệnh hoa liễu, bướu cổ, lao, mắt hột, tâm thần, chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, vv.). Với sự phát triển kinh tế xã hội ngày càng cao, nâng cao dân trí, tổ chức y tế chăm sóc sức khoẻ tốt... có thể khống chế và thanh toán một số BXH.

BỆNH XÁ (y) x. Bệnh viện.

BỆNH ZONA (y), bệnh do virut có ái lực với dây thần kinh gây ra. Biểu hiện: khởi đầu da đỏ, có cảm giác đau nhức, nóng rát dọc theo một vùng dây thần kinh; về sau phát mụn nước chứa dịch trong, to, căng, hình bán cầu, thường mọc thành cụm; mụn nước hoá mủ, vỡ và đóng vẩy. Các thương tổn khu trú ở mặt, cổ, vùng cạnh sườn, ngực, cánh tay, sắp xếp không đối xứng và không lan sang bên đối diện của cơ thể. Ở người già, người bị bệnh đái tháo đường, hoặc khi BZ khu trú ở mặt, thì bệnh thường nặng, với các thương tổn xuất huyết, hoại tử, loét và cảm giác đau nhức tăng hơn. Điều trị: dùng thuốc giảm đau, thuốc dịu thần kinh và kháng sinh cần thiết theo chỉ định của thầy thuốc.

BÍ TIỂU TIỆN (y; tk. bí đái), không đái được mặc dù muốn đái dữ dội. Dấu hiệu: bụng dưới đau, thận vẫn sản xuất nước tiểu, nước tiểu vẫn xuống bàng quang bình thường nhưng tích lại đầy căng bàng quang, làm thành một quả cầu. Nguyên nhân: tắc do chướng ngại vật trên đường niệu bàng quang - niệu đạo (sỏi ở cổ bàng quang; u xơ, ung thư tuyến tiền liệt; chấn thương vùng đáy chậu làm đứt, rách hay dập nát niệu đạo; cơ thắt cơ tròn ở cổ bàng quang do phản xạ, vv.). Cấp cứu ngoại khoa: đem ngay đến cơ sở y tế để rút nước tiểu ra (chọc hút bàng quang, thông đái qua niệu đạo); đồng thời phải tìm nguyên nhân gây bí đái và chữa theo chỉ định của thầy thuốc.

BIẾN DỊ (sinh), quá trình xuất hiện những khác biệt giữa các cá thể hoặc những cơ quan riêng biệt (kích thước, hình dáng, màu sắc, thành phần hoá học...) và những chức năng của sinh vật. Dựa trên nguyên nhân, người ta phân ra: BD di truyền và BD không di truyền. BD di truyền được chia ra: BD tổ hợp và BD đột biến. BD đột biến dựa trên cấu trúc của gen và các nhiễm sắc thể, dẫn đến xuất hiện những tính trạng và tính di truyền mới của sinh vật; có bốn loại: đột biến gen, đột biến nhiễm sắc thể, đột biến hệ gen, đột biến tế bào. BD di truyền là cơ sở thực tiễn cho chọn giống cây trồng, vật nuôi và vi sinh vật. BD đột biến có vai trò quan trọng trong nghiên cứu lí thuyết của di truyền học và các lĩnh vực khác trong sinh học. Các BD trong đó cá thể của quần thể mang tính trạng trung bình và các thành viên khác trong quần thể có tính trạng thay đổi quanh giá trị trung bình đó (thường là loại tính trạng đa gen , mỗi gen có một hiệu quả nhỏ) gọi là BD số lượng (cg. BD liên tục); ngược lại, các dạng BD có hai hay nhiều tính trạng riêng biệt khi có hai hoặc nhiều alen của một gen phức trong quần thể như nhóm máu ở người, các tính trạng ở các cây đậu trong thí nghiệm của Menđen gọi là BD chất lượng. Ở thực vật, BD có thể phát sinh ở những tính chất khác nhau về giải phẫu, hình thái, sinh lí, sinh hoá và ở các cơ quan khác nhau như hạt, phấn, hình dạng tán cây. Nghiên cứu cá BD cá thể (sự phân hoá giữa các cá thể trong quần thể) do nguyên nhân di truyền và BD địa lí (do tác động đồng thời các nhân tố sinh thái và các quá trình di truyền phức tạp khi hình thành khu phân bố loài) có ý nghĩa trong chọn giống cây trồng.

Phương pháp nghiên cứu BD tốt nhất là trồng thực nghiệm theo khảo nghiệm xuất xứ (khả năng di truyền của các BD địa lí) hoặc khảo nghiệm hậu thế của cây trội được chọn lọc (xác định khả năng di truyền của BD cá thể) trong những điều kiện khác nhau.

BIẾNG ĂN (y), tình trạng không muốn ăn, ăn uể oải, tiêu dùng lượng thức ăn thấp hơn mức bình thường. Nguyên nhân: giảm cảm giác thèm ăn (trong bệnh suy sinh dưỡng, thiếu protein - năng lượng nặng, cơ thể thiếu kẽm, vv.); tổn thương trung tâm "đói" ở vùng dưới đồi thị; thời gian sau đẻ; thay đổi tâm lí; bệnh tâm thần; tập quán sinh hoạt (ở một số thiếu nữ 15 - 20 tuổi, có kèm theo mất kinh, gầy...); tác dụng của một vài loại thuốc. BĂ kéo dài dẫn tới thiếu hay suy dinh dưỡng. Chữa nguyên nhân gây biếng ăn: dùng các vị thuốc kích thích tiêu hoá, thuốc kiện tì, tiêu thực như đảng sâm, bạch truật, trần bì, mạch nha, sơn tra, thần khúc.

BIỂU ĐỒ NHIỄM SẮC THỂ (sinh) x. Nhân đồ.

BIỂU MÔ (sinh), mô gồm một hay nhiều lớp tế bào ở mặt ngoài hay lót bên trong xoang (rỗng) hoặc sinh ra các tuyến đặc (gan, thận, tuỵ). Các tế bào BM nằm sát nhau, mặt tiếp xúc rất mỏng và tựa trên màng nền. Có thể có hình khối, hình trụ, dạng lông hay vẩy, phụ thuộc vào hình dạng của các tế bào và trong một số trường hợp gồm một tế bào nhu BM da. Những mô lót bên trong xoang cơ thể gọ là BM giữa. Các mô đơn độc hình trụ hoặc khối sắp xếp chặt chẽ với lông nhô ra trên bề mặt tự do gọi là BM tiêm mao. Các lông này hoạt động nhịp nhàng theo làn sóng, tạo nên chuyển động của chất lỏng hoặc các phân tử bao quanh.

BƠM HƠI MÀNG BỤNG (y), phương pháp cổ điển điều trị lao hang ở phần đáy của phổi, được áp dụng trước kia, khi chưa có thuốc đặc trị lao. Ngày nay, chỉ còn dùng BHMB trong một số trường hợp chuẩn đoán khối u trong bụng.

BƠM HƠI TRUNG THẤT (y), phương pháp chuẩn đoán X quang bằng cách bơm khoảng 1200 - 1500 ml không khí hoặc một loại khí trơ vào khoang giữa hai lá phổi trong lồng ngực (khoang trung thất) để các phủ tạng bị tách ra và nhìn được rõ hơn khi chụp hoặc chiếu X quang. BHTT được dùng để chuẩn đoán các tổn thương vùng trung thất trước; đánh giá khả năng phẫu thuật một ung thư phế quản; phân biệt khối u thuộc nhu mô phổi với khối u trung thất; xác định khối lượng và tính chất của một hạch vùng trung thất trước bị sưng to, vv.

BÚ SỮA MẸ (y) nuôi con bằng cách cho bú trực tiếp từ vú mẹ. Chất và lượng sữa mẹ tuỳ thuộc vào sức khoẻ, chế độ ăn uống, lao động và nghỉ ngơi của người mẹ và cách cho bú. Sữa mẹ là chất dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ nhỏ, là nguồn năng lượng, nguồn sống chính của trẻ trong 6 tháng đầu của đời người. Sữa non ban đầu (của người mẹ sau khi đẻ) giàu chất dinh dưỡng và các yếu tố miễn dịch, rất có ích cho sự phát triển của trẻ sơ sinh. Từ 6 đến 12 tháng, sữa mẹ chỉ đáp ứng được ¾ nhu cầu của trẻ, khi đó cần cho trẻ em ăn sam (bột, thịt, rau, vv.) thêm. Khi trẻ đi tướt, sữa mẹ vẫn là thức ăn đảm bảo nhất bù đắp nước và chất dinh dưỡng kịp thời cho trẻ nhỏ. Các bà mẹ mắc một số bệnh sau không nên cho bú: lao đang tiến triển, suy tim hay đang điều trị bệnh bằng các thuốc chống ung thư, đang mắc những bệnh lây lan (viêm gan virut, AIDS, vv.).

BUỒN NGỦ (y), trạng thái muốn ngủ. BN là hiện tượng sinh lí tự nhiên, xảy ra sau một thời gian lao động làm cho cơ thể mệt mỏi, hoặc trong một quá trình lao động đơn điệu (lái xe ban đêm, lái xe trên các đường cao tốc, lái xe sau một bữa ăn, sau khi uống rượu, vv.). Khi có kích thích con người trở lại bình thường. Trạng thái BN bệnh lí kiểu loạn thần kinh tâm căn làm con người rơi vào trạng thái luôn muốn ngủ khó cưỡng lại, hay ngủ gật hoặc rơi vào ngủ lịm, ngủ rũ.

BUỒN NÔN (y) x. Nôn.

BUỒNG BỆNH (y), nơi bệnh nhân nằm điều trị (trên 24 giờ) tại bệnh viện. BB phải đạt các yêu cầu: ngăn nắp, trật tự, đẹp, yên tĩnh, sạch sẽ, môi trường không có mầm bệnh gây nhiễm khuẩn (gọi là nhiễm khuẩn chéo); tạo được một không khí gia đình, làm cho bệnh nhân cảm thấy dễ chịu, tin tưởng. Trong một bệnh viện, có nhiều loại BB: loại 1 người, loại 2 người, loại 4 người nằm với các tiện nghi sinh hoạt trong buồng; các dịch vụ kĩ thuật đều có thể làm ở trong buồng. Trong một BB, cần xếp các bệnh nhân cùng một giới tính, một lứa tuổi, một bệnh cảnh lâm sàng, một loại bệnh chuyên khoa, vv.

BUỒNG CÁCH LI (y), buồng bệnh dành riêng cho bệnh nhân mắc từng loại bệnh truyền nhiễm với các điều kiện săn sóc riêng biệt, để mầm bệnh không lây lan sang người khác và môi trường xung quanh (thương hàn, sởi, ho gà, vv.)

BỰA RĂNG (sinh), lớp phủ trên răng do nước bọt kết hợp với đường và các mảnh thức ăn khác, tạo điều kiện cho vi khuẩn sinh sản, nếu để lâu, các vi khuẩn tạo ra axit ăn mòn men răng. Khi men răng bị mòn, vi khuẩn tiếp tục xâm nhập vào ngà làm hỏng răng.

BƯỚU CỔ (y; tk. u giáp), ở người, thuật ngữ dân gian chỉ sự to ra của tuyến giáp trong nhiều tình trạng bệnh lí khác nhau (tăng năng, giảm năng, quá sản đơn thuần, các loại viêm, các loại u lành, các loại ung thư, vv.). Ở Việt Nam, bướu vùng cổ có thể là u giáp, song cũng có thể là di căn của ung thư vòm họng, các u ác tính của hạnh thuộc khu vực này. Trong các bệnh nhân có BC, BC đơn thuần là loại hay gặp nhất, ở khoảng 200 triệu người trên thế giới và khoảng trên 1 triệu người ở miền Bắc Việt Nam. Ở Việt Nam, bệnh bướu cổ phổ biến ở miền núi. BC đơn thuần là tuyến giáp to không do viêm hay do ung thư, cũng không có tình trạng tăng năng hay giảm năng tuyến giáp; nguyên nhân chủ yếu do thiếu iôt, do dinh dưỡng do các thuốc kháng giáp tổng hợp, do bẩm sinh, di truyền. BC có tính chất địa phương thường xảy ra ở một khu vực nhất định (ở Việt Nam, chủ yếu là vùng núi, tỉ lệ người mắc ít nhất 10% dân số).

Về chức năng, chia ba loại BC: BC bình năng không có biểu hiện rối loạn nội tiết, thường có tính địa phương, do thiếu iôt; BC tăng năng thường biểu hiện kín đáo ở giai đoạn đầu khi phát, điển hình có triệu chứng của bệnh Bazơđô với những đặc điểm như người gầy, mệt mỏi, mạch nhanh, mắt sáng, lồi, run tay; BC giảm năng, điển hình là chứng đần độn với trẻ em và chứng phù niêm đối với trẻ lớn, người trưởng thành. Chuẩn đoán tế bào học qua chọc hút BC bằng kim nhỏ đang được áp dụng rỗng rãi ở Việt Nam, cho kết quả xác định bệnh tin cậy.

Phòng bệnh có kết quả nhất là với các BC đơn thuần địa phương bằng trộn muối iođua kali và muối ăn 50 - 60 mg/kg; hoặc uống viên iođat theo chỉ dẫn của thầy thuốc, hạn chế thức ăn chứa nhiều chất gây u.

BƯỚU GIÁP (y) x. U giáp.

BƯỚU MỠ (y) x. U mỡ.

CÁCH LI KIỂM DỊCH (y), thời gian cách li người bệnh hay hàng hoá ở vùng có dịch bệnh theo luật quốc tế quy định. Trước đây là 40 ngày; ngày nay do tiến bộ về khoa học công nghệ y tế, thời gian cách li đã được rút ngắn, vd. 5 ngày đối với bệnh tả, 6 ngày đối với bệnh dịch hạch, vv.

CAM TẨU MÃ (y), viêm miệng hoại thư, bắt đầu ở lợi hoặc ở má, lan rất nhanh ra má, môi, hoại tử phần mềm làm thủng má, môi, mũi, sau đó làm hoại tử xương, răng lung lay rụng dần, có mùi hôi thối. Vi khuẩn gây bệnh chủ yếu là Fusobacteria và xoắn khuẩn. Gặp ở trẻ em có thể trạng rất suy kiệt, thường gặp sau khi bị sởi, thương hàn hoặc một bệnh nhiễm khuẩn nặng khác. Thể trạng chung rất kém, nhiệt độ cơ thể tăng. Bệnh rất nặng nhưng trẻ không cảm thấy đau. Cần điều trị kịp thời: kháng sinh liều cao, huyết thanh chống hoại thư, nâng cao thể trạng, chăm sóc tại chỗ, cắt lọc và tạo hình, vv. Phòng bệnh: trước hết cần quan tâm đến trẻ ốm yếu, suy dinh dưỡng, mắc bệnh nhiễm khuẩn, đặc biệt là bệnh sởi. Phát hiện sớm các vết loét màu đen, thối ở lợi má. Trong y học cổ truyền, CTM có tên đầy đủ là nha CTM (cam răng); còn gọi là tị cam (cam mũi), thuần cam (cam môi), thiệt cam (cam lưỡi), hầu cam (cam họng). Nguyên nhân thường do nhiệt đọc ở hai kinh can vị.

CẢM GIÁC (triết, giáo dục), phản ánh ban đầu do tác động của thế giới khách quan vào những cảm giác của con người đem lại. CG là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. CG phản ánh, sao chụp lại các thuộc tính của những sự vật tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức. Như vậy CG là cái có sau so với hiện thực vật chất. Có nhiều loại CG: thị giác, vị giác, khướu giác, thính giác, xúc giác, vv. CG là cái cầu nối trực tiếp con người với thế giới khách quan. Trên cơ sở CG, các hình thức phản ánh cao hơn như tri giác, biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lí... hình thành. Năng lực CG xuất hiện trong quá trình phát triển lâu dài của vật chất. Ở con người, cơ sở của CG là sự hoạt động, sự tác động qua lại trực tiếp của chủ thể với các khách thể và các đối tượng của thế giới khách quan. Với sự phát triển của các phương tiện kĩ thuật, con người có khả năng mở rộng giới hạn nhận thức cảm tính của mình.

CẢM GIÁC BUỐT MÓT (y), cảm giác đau, nóng rát vùng hậu môn hoặc vùng cổ bàng quang và liên tục muốn đi đại tiện hoặc đại tiện, tuy có thể trong ruột cuối không có phân hoặc bàng quang không có nước tiểu (thường gặp trong bệnh lị, viêm bàng quang, vv.)

CẢM GIÁC KIẾN BÒ (y; tk. dị cảm), xảy ra ở các đầu chi (chủ yếu là bàn tay, hiếm xảy ra ở bàn chân). Dấu hiệu có vẻ tầm thường, nhưng cần cảnh giác vì có thể là dấu hiệu của nhiều bệnh thần kinh (đau thần kinh cổ - cánh tay, đau đa thần kinh, xơ cứng rải rác, vv.); của tạng co giật (xảy ra ở phụ nữ trên 50 tuổi, có thể do một trạng thái thường xuyên tăng kích thích thần kinh - cơ canxi huyết và pH máu có thể bình thường biểu hiện bằng các triệu chứng như lo âu, đau đầu, rối loạn giấc ngủ, đánh trống ngực, chóng mặt, đau ngực, nuốt khó, chuột rút, rối loạn tiêu hoá, mệt mỏ... mà nguyên nhân phần lớn do trạng thái ưu tư, loạn thần kinh dạng hysteria hay đồng bóng, vv.); của bệnh hư khớp cột sống cổ (đau cổ phía sau, có thể toả xuống chi trên, động tác cổ bị giới hạn, vv.); của hội chứng ống cổ tay (tê bại 3 ngón tay đầu tiên của bàn tay, giảm cảm giác, giảm trương lực cơ). Nguyên nhân: vi chấn thương, gãy xương, viêm bao hoạt dịch gân, có thai, đái tháo đường, bệnh nội tiết; có thể không tìm thấy nguyên nhân rõ rệt.

CẢM GIÁC NHIỆT (sinh), phản ứng sinh học tổng hợp của con người đối với các thông số về khí hậu đặc trưng cho môi trường xung quang (độ nhiệt, độ ẩm, vận tốc gió và bức xạ nhiệt). Nó phản ánh điều kiện nóng, lạnh của môi trường, cường độ lao động, nhiệt trở của quần áo và mức độ thích nghi của con người với môi trường. CGN phụ thuộc vào hằng số sinh học của con người, vào đặc điểm địa lí và khí hậu của vùng lãnh thổ. Vì vậy trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều chỉ tiêu xác định hàm CGN: chỉ tiêu nhiệt độ hiệu quả tương đương, chỉ số điều kiện ZK của Zuilen - Korenkov, chỉ số Yaglow (ƯBGT), chỉ tiêu cường độ nhiệt của Belđinh - Hatch, vv. Vd. chỉ tiêu nhiệt độ của C. Gwebb dùng cho người Ấn Độ và Đông Nam Á: với độ ẩm 82%, vận tốc gió v = 0,3 - 0,5 m/s, thì cảm giác rất lạnh là 10,8oC, rất nóng là 30oC và cảm giác dễ chịu là 21 - 23 oC. Ở Việt Nam, có một số tác giả đã đưa ra các chỉ tiêu cảm giác nhiệt khác nhau.

CẢM GIÁC VẬN ĐỘNG (giáo dục), sự tác động qua lại giữa vận động và các thành tố cảm giác trong hoạt động tâm lí, làm cho chủ thể nhận thấy sự vận động của một nhóm cơ hay một cơ quan trong cơ thể con người. Những thông tin vận động xuất phát từ các cơ quan đang vận động chuyển sang cơ quan phân tích (giác quan) thành các CGVĐ giúp cho chủ thể điều khiển, kiểm tra và điều chỉnh vận động. Đồng thời quá trình vận động cũng làm thay đổi, chính xác hoá và nảy sinh những thông tin mới về cảm giác. Vòng phản xạ là phác đồ cấu trúc chung của việc tổ chức các quá trình CGVĐ. CGVĐ bắt đầu hình thành ở trẻ sơ sinh.

CẢN X QUANG (y; Ph. Radio opaque), cản quang không cho tia X đi xuyên qua. Tia X cũng giống như tia ánh sáng là một tia điện từ và bị các chất có độ dày và tỉ trọng cao cản lại (canxi, sắt, iot và các hợp chất iot, bari sunfat, vv.). Do đặc điểm cấu tạo, các mô trong cơ thể cản tia X không đều nhau, từ thấp (ít) đến cao (nhiều); nhu mô phổi có chứa không khí; mạch máu ở rốn phổi (chứa sắt, canxi, vv.); xương (chứa nhiều canxi). Dùng các chất cản quang để làm hiện rõ các cơ quan và các thương tổn bình thường không thấy được (các mạch máu, dạ dày, ruột, đường niệu, vv.).

CAO RĂNG (y), màng cứng (sỏi) bám trên men răng và xi măng răng ở vùng cổ răng, do canxi photphat, canxi cacbonat - trong nước bọt (nước miếng) - lắng đọng (bao bọc vi khuẩn và các mảnh vụn khác) tạo thành. Thường là nguyên nhan nhiều bệnh răng miệng (viêm quanh răng, viêm lợi...) dẫn tới hỏng răng. Bình thường sáu tháng nên kiểm tra răng một lần; tốt nhất cứ ba tháng nên lấy CR một lần.

CẠO GIÓ (y; tk. đánh gió), phương pháp dùng chất nóng (dầu cao, gừng và tóc rối hoà với rượu) miết vào da dùng cổ, gáy, dọc sống lưng, hai thăn lưng, ngực, bụng, chân tay, để giải cảm. Có thể dùng kết hợp với các bài thuốc giải cảm khác của y học dân tộc.

CẬN THỊ (y), tật khúc xạ của mắt, trong đó hình của một vật được đặt ở xa vô cực đối với mắt không hiện đúng ở võng mạc, mà ở một vùng trước võng mạc. Nguyên nhân thông thường: không giữ vệ sinh mắt, trẻ em ngồi học ở bàn quá cao (cúi đầu sát gần sách khi viết, đọc), nằm đọc sách dưới ánh đèn quá tối, vv. Cần đi khám và theo đúng chỉ dẫn của thầy thuốc. Biện pháp thông thường là đeo kính điều chỉnh, mổ chữa CT (chưa phổ cập).

CẬN UNG THƯ (y), hội chứng hoặc những biểu hiện sinh học và giải phẫu lâm sàng diễn ra trong quá trình phát triển của một ung thư, không do biến chứng hay lan tràn ung thư hay di căn ung thư gây ra. Những biểu hiện này có tính chất thần kinh, cơ, xương, khớp, da, nội tiết, máu hoặc chuyển hoá, có thể mất đi khi ung thư được điều trị và lại xuất hiện nếu ung thư tái phát. Vd. ung thư phổi không có các triệu chứng lâm sàng của bệnh phổi nhưng lại gây đau khớp, nhược cơ, chứng vú to đàn ông, vv. Sinh bệnh học chưa rõ.

CẤP ĐỘ DINH DƯỠNG (sinh), các cấp dinh dưỡng khác nhau trong chuỗi thức ăn của sinh vật. Cây xanh là CĐDD đầu tiên - cấp I, động vật ăn cỏ - cấp II, động vật ăn động vật ăn cỏ - cấp III. Các sinh vật tiêu thụ cũng có thể gọi là sinh vật tiêu thụ cấp I, II, III. Trong hệ sinh thái thường có bốn CĐDD, trong đó có ba là ăn thịt.

CHẢY MÁU (y), hiện tượng thoát ra ngoài mạch một khối lượng máu (nhiều hay ít) do thương tổn làm rách thành mạch (động mạch, tĩnh mạch, mao mạch). Nguyên nhân: vết thương do tác nhân có cạnh sắc, mảnh kim khí (đạn, mảnh bom, lựu đạn, vv.) làm rách da, các phần mềm, làm đứt, rách mạch máu, hay một nội tạng, để máu chảy ra ngoài cơ thể (CM ngoài); rách thành mạch ở một nội tạng (phổi, dạ dày, thực quản, gan, lách, vv.), máu có thể tích lại trong một khoảng rỗng (ổ màng phổi, ổ màng bụng, vv.), không chảy ra ngoài (CM trong); sau CM trong, máu có thể được loại ra ngoài (khái huyết hay ho ra máu; thổ huyết hay nôn ra máu, trong loét dạ dày, đứt tĩnh mạch thực quản, vv.); máu có thể từ loét tá tràng đi qua ruột, lẫn vào phân làm cho phân đen.

Dấu hiệu lâm sàng thay đổi tuỳ thuộc vào khối lượng máu bị mất, vị trí của vết thương (đứt động mạch, đứt tĩnh mạch), vv. Khối lượng máu do khái huyết nếu nhiều, cũng gây nên tình trạng toàn thân suy sụp nhanh. Máu chảy tuy ít nhưng liên tục trong nhiều ngày (chảy máu loét tá tràng) gây tình trạng thiếu máu.

Cách chữa: khẩn trương, bình tĩnh cầm máu và điều trị nguyên nhân gây CM. Vết thương mạch máu, các chi gây CM ồ ạt là một loại cấp cứu hàng đầu (đặt ngay một garô phía trên vết thương để cầm máu tạm thời, băng vết thương, chuyển ngay nạn nhân đi cấp cứu). Đối với các trường hợp CM ồ ạt khác (khái huyết, thổ huyết, vv.): để bệnh nhân nghỉ ngơi yên tĩnh , dùng các thuốc cầm máu tạm thời rồi chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế.

CHẢY MÁU CAM (y; expistaxis), chảy máu mũi. CMM tự phát ở thanh, thiếu niên, chưa rõ nguyên nhân và thường xảy ra ở tuổi dậy thì, hành kinh, say nắng, vv. CMM do nguyên nhân tại chỗ (u lành hoặc ác tính tại mũi, xoang vòm họng, chấn thương, vv.) hoặc toàn thân (tăng huyết áp, bệnh van tim, suy gan, cúm, sởi, xuất huyết, bệnh máu và mạch máu, vv.) hoặc thiếu vitamin C. Xử lí: người bệnh cần bình tĩnh, đầu hơi ngửa lên, há mồm, dùng một ngón tay ấn chặn cánh mũi phía chảy máu cho tới khi máu ngừng chảy (khoảng 5 - 10 phút) hoặc dùng vải, gạc, bông sạch vê tròn nhét vào lỗ mũi, không nhét thuốc lào, lông culi vào mũi để cầm máu. Trong trường hợp máu không cầm, cần đi khám.

Y học dân tộc chia CMM làm 3 thể: thể phế nhiệt, thể vị nhiệt, thể hoả. Thể phế nhiệt có thể chữa bằng: lá dâu 20 g, bạc hà 12 g, rai má 30 g, chi tử sao đen 16 g, cỏ nhọ nhồi 30 g, lá sen 20 g, rễ tranh 12 g. Thể vị nhiệt có thể chữa bằng: thạch cao 30 g, thạch môn 30 g, ngưu tất 12 g, chi tử 16 g, sinh địa 12 g. Thể hoả có thể chữa bằng: long đởm thảo 8 g, hoàng cầm 12 g, chi tử 12 g, sài hồ 8 g, đương quy 4 g, sinh địa 12 g, mộc thông 12 g, xa tiền tử 12 g, cam thảo 8 g. Bài thuốc cầm máu chung cho cả 3 thể: hoa hoè sao đen 12 g, mai mực 12 g, tán mịn, rây kĩ, mỗi lần thổi một tí vào lỗ mũi.

CHẢY MÁU CHÂN RĂNG (y) x. Chảy máu lợi.

CHẢY MÁU DẠ DÀY VÀ TÁ TRÀNG (y), hai trạng thái bệnh lí: nôn ra máu tươi hoặc đen lẫn máu cục và thức ăn, có mùi chua; đại tiện ra phân đen như mồ hóng hay nhựa đường, nhão, khắm. Không lầm lẫn với: chảy máu cam (chảy máu mũi với máu đỏ tươi); ho ra máu (ho hoặc khạc đờm lẫn máu hoặc máu tươi); đi phân đen màu chì, do uống thuốc chất sắt. Dấu hiệu của mất máu (tuỳ theo khối lượng của máu mất): mệt mỏi, vật vã; da, niêm mạc nhợt nhạt; chóng mặt, vã mồ hôi; mạch nhanh, huyết áp thấp. Ngoài khám lâm sàng, nếu cần thì làm nội soi thực quản, dạ dày, tá tràng để tìm điểm chảy máu, nguyên nhân chảy máu và cầm máu tại chỗ. Nguyên nhân: ở dạ dày như loét dạ dày (có thể do một cơn xúc cảm mạnh, uống một số thuốc như aspirine, corticoide, vv.); thay đổi thời tiết; u (lành, ác tính, vv.); viêm dạ dày chảy mául loét tá tràng do uống aspirine, vv. Điều trị: nghỉ ngơi, hồi sức, cầm máu; theo dõi; chữa tuỳ theo nguyên nhân bệnh.

CHẢY MÁU LỢI (y), máu từ mạch máu lợi chảy ra không ngừng ở chân răng, do nhiều nguyên nhân: nguyên nhân tại chỗ (viêm lợi); nguyên nhân toàn thân (các bệnh về máu và rối loạn đông máu, xơ gan, viêm gan, thiếu vitamin C, K, các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc, tăng ure huyết, vv.). Phòng bệnh: không nên xỉa răng, chải răng đúng quy cách (dùng bàn chải mềm, vv.). Trong trường hợp CML kéo dài, cần khám để tìm nguyên nhân. Điều trị tuỳ theo nguyên nhân.

Y học dân tộc chia chảy máu chân răng làm hai thể: chảy máu chân răng do dương minh vị nhiệt; chảy máu chân răng do thận âm hư, thấp nhiệt vượng. Chảy máu chân răng do dương minh vị nhiệt với máu đỏ tươi, mồm hôi; có thể dùng: thục địa 20 g, sài đất 20 g, thạch cao 20 g, ngưu tất 12 g, mạch môn 16 g. Chảy máu chân răng do thận âm hư, thấp nhiệt vượng với máu đỏ nhạt, răng lung lay, hơi đau ; có thể dùng: thục địa 20 g, hoài sơn 16 g, thổ phục linh 12 g, hoàng bá 12 g, ngưu tất 12 g.

CHẢY MÁU NÃO (y), tình trạng bệnh lí do máu thoát ra ngoài một hay nhiều mạch máu trong não do vỡ mạch máu, máu thấm qua thành mạch máu. Chảy máu ở một bên bán cầu não sẽ gây liệt nửa người đối bên kèm theo hôn mê, đầu và mắt lệch về phía chảy máu, thở rống, huyết áp cao; sau đó phục hồi dần nếu chữa kịp thời và làm phục hồi chức năng tốt. Chảy máu ở cả hai bên bán cầu não (tràn ngập não - não thất) sẽ gây liệt toàn thân , hôn mê (thường sâu), thở rống, huyết áp cao, chảy máu võng mạc; tỉ lệ tử vong thường cao. Nguyên nhân: biến chứng của bệnh tăng huyết áp làm vỡ động mạch; chấn thương sọ não, dãn động mạch não bẩm sinh bị vỡ; các bệnh máu ác tính hay lành tính gây chảy máu. CMN là một tai biến nặng; sau khi khỏi cơn nguy hiểm sẽ để lại nhiều hậu quả thần kinh (liệt nửa người, nói ngọng, vv.). Dự phòng: theo dõi sức khoẻ định kì những người bị tăng huyết áp; áp dụng chế độ lao động, sinh hoạt, ăn uống, luyện tập (dưỡng sinh) thích hợp. Chữa bệnh: sau khi ra khỏi cơn nguy hiểm, thực hiện từng bước và tích cực việc phục hồi chức năng.

CHẢY MÁU SÉT ĐÁNH (y), chảy máu ồ ạt (một khối lượng máu lớn) trong một thời gian ngắn (vài phút), dẫn đến tử vong nếu không cầm máu kịp và hồi sức có hiệu quả. Nguyên nhân: thương tổn rách một mạch máu lớn hoặc có huyết áp cao (các nhánh ở gần động mạch chủ, vết thương động mạch đùi ở gần bẹn; vỡ phình động mạch chủ; vỡ tĩnh mạch thực quản trong tăng áp lực tĩnh mạch cửa); khái huyết trong lao hang phổi; nôn ra máu (thổ huyết) trong loét dạ dày - tá tràng, vv.

CHẢY NƯỚC MẮT (y) hiện tượng nước mắt không lưu thông hết theo hệ thống lệ đạo và tràn qua bờ mi. Có thể do tuyến lệ tiết quá nhiều nước mắt (lệ đạo vẫn thông suốt), do bị kích thích vì viêm chói, vv. hoặc lệ đạo bị tắc hẳn ở một vị trí nào đó. Cần khám và điều trị nguyên nhân bệnh.

CHÂN VÒNG KIỀNG (y), tình trạng biến dạng các xương chi dưới, làm cho hai đầu gối cách xa nhau, hai cẳng chân bị cong vào trong (cg. chân chữ "O"). Thường gặp trong bệnh còi xương.

CHUẨN ĐOÁN (y), xác định bệnh qua triệu chứng. Có hai loại CĐ:

1. CĐ lâm sàng: xác định bệnh qua các triệu chứng, phát hiện bằng cáchhỏi và khám bệnh nhân trên giường (lâm sàng). Triệu chứng do bệnh nhân tự nhận thấy là triệu chứng chủ quan. Triệu chứng do thầy thuốc phát hiện khi thăm khám là triệu chứng khách quan.

2. CĐ cận lâm sàng: xác định bệnh qua các dấu hiệu cận lâm sàng, phát hiện bằng các xét nghiệm (huyết học, sinh hoá, tế bào học, X quang, vv.) Vd. xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu, chọc kim nhỏ, chụp X quang. Những năm gần đây, hàng loạt phương pháp CĐ cận lâm sàng mới đã trở thành phổ cập như siêu âm, ghi hình phóng xạ, chụp nhiệt, chụp cắt lớp điện toán hay bằng máy Scanne (Scanner), chụp nhiệt, chụp cộng hưởng từ trường hạt nhân, miễn dịch huỳnh quang, miên dịch mô học, enzim học, kháng thể đơn clôn, siêu li tâm... cho phép phát hiện hàng loạt bệnh trước đây khó xác định (ung thư mới, ổ di căn ung thư nội tặng, ổ nhồi máu, vv.).

CĐ có thể đúng hay sai với các mức độ khác nhau: CĐ âm tính; CĐ âm tính giả; CĐ dương tính; CĐ dương tính giả; CĐ xác định; CĐ nguyên nhân; CĐ phân biệt; CĐ sớm, vv. CĐ sớm là xác định bệnh từ khi các triệu chứng mới xuất hiện. Vd. CĐ ung thư khối u có đường kính chưa quá 1 cm; CĐ bệnh giang mai qua phản ứng huyết thanh dương tính khi bệnh nhân chưa thấy rõ săng. CĐ sớm đặc biệt có ý nghĩa với các bệnh hiểm nghèo vì đó là thời điểm tốt nhất để điều trị khỏi bệnh cũng như đề phòng các biến chứng, di chứng, song trên thực tế không dễ dàng thực hiện.

CHUẨN ĐOÁN ĐỊNH KHU (y), xác định khu trú chính xác của một quá trình bệnh lí, vị trí của tổn thương. Trong bệnh học thần kinh, dựa vào các triệu chứng tìm được để xác định vùng tổn thương trung ương và ngoại vi.

CHUẨN ĐOÁN HUYẾT THANH HỌC (y), phương pháp chuẩn đoán bệnh bằng huyết thanh của bệnh nhân, dựa trên cơ sở: huyết thanh người bệnh có chứa kháng thể phản ứng đặc hiệu với yếu tố gây bệnh (kháng nguyên), thường là vi khuẩn (phản ứng ngưng kết kháng nguyên) - kháng thể), vd. chuẩn đoán huyết thanh ở bệnh thương hàn.

CHUẨN ĐOÁN X QUANG (y), chuẩn đoán bệnh bằng tia X: chiếu tia X lên vùng có cơ quan nghi là bị bệnh, cho hình ảnh hiện lên một màn huỳnh quang để quan sát và tìm các thương tổn (soi X quang); hoặc đưa hình ảnh lên một phim X quang (chụp X quang với nhiều kĩ thuật khác nhau như chụp X quang thường, chụp cắt lớp, vv.), sau đó đọc kết quả trên phim X quang qua đèn đọc phim để tìm các tổn thương.

Khuynh hướng hiện nay: ít dùng phương pháp soi X quang (bệnh nhân và thầy thuốc tiếp xúc với tia X quá lâu có hại, kết quả không được chính xác lắm, vv.). Chụp X quang nhiều cũng có hại (nhất là đối với trẻ em, phụ nữ có thai, vv.). Cần thận trọng, cân nhắc kĩ khi chỉ định chụp X quang.

CHẤN ĐỘNG NÃO (y), chấn thương não do sức ép hoặc va chạm mạnh nhưng không gây ra các tổn thương giải phẩu quan trọng cho xương và phần mềm. Bệnh nhân rơi vào tình trạng li bì hoặc hôn mê, có thể phục hồi hoàn toàn sau vài giờ hoặc vài ngày. Trong một số trường hợp, sau chấn thương não, bệnh nhân có khoảng (thời gian) tỉnh trước khi hôn mê, do đó cần được theo dõi chặt chẽ. Đôi khi CĐN để lại các di chứng: rối loạn thị giác, co giật, quên. Đánh giá đầy đủ các thương tổn do CĐN gây ra chỉ có thể làm được sau vài tháng.

CHẤN THƯƠNG (y), trạng thái của cơ thể bị một tác nhân bên ngoài gây những tổn thương dưới nhiều hình thái và mức độ khác nhau trong các tai nạn hàng ngày (sinh hoạt, lao động, giao thông, vv.). Tác nhân gây CT có thể là các yếu tố cơ học (vật sắc, nhọn, vật khối tù, mảnh bom đạn, súng nổ, lực đè ép, nghiến, sự thay đổi đột biến và trên mức giới hạn của áp lực, vv.), các yếu tố nóng, lạnh, hoá học, lí học, vv.Tuỳ mức độ và hình thái tổn thương, có thể gặp CT kín (da, niêm mạc không bị rách đứt nhưng có thể có các tổn thương các phần cơ thể dưới da, dưới niêm mạc hoặc nội tạng); CT mở (khi da, niêm mạc các phần mềm hoặc cứng bị rách đứt, gẫy, hình thành một vết thương để lộ phần tổn thương ở dưới). Tuỳ theo vị trí tổn thương mà phân loại các CT: tứ chi, sọ não, cột sống, ngực, bụng, tiết niệu, sinh dục, mặt hàm, răng miệng, tai mũi họng, mắt, vv. Cần phải sơ cứu ngay tại hiện trường, sau khi xảy ra tai nạn, cho qua khỏi cơn sốc đầu tiên. Sau đó, gửi ngay đi cấp cứu ở bệnh viện. Thuật ngữ CT còn được dùng trong tâm lí học và tâm thần bệnh học..., vd. CT tâm lí.

CHẤN THƯƠNG ÂM THANH (y), tổn thương thính giác do các loại âm thanh gây ra: suy giảm thính giác vĩnh viễn do tiếp xúc với tiếng ồn lớn trong một thời gian ngắn (tiếng súng, bom, mìn, tiếng sét trong lúc đang nghe điện thoại, vv.). Điếc nghề nghiệp do tiếp xúc lâu dài với tiếng ồn cao trong sản xuất công nghiệp.

CHẤN THƯƠNG KÍN (y) x. Chấn thương.

CHẤN THƯƠNG MẮT (y), tổn thương đụng giập hoặc xuyên thủng nhãn cầu do nhiều nguyên nhân: tác nhân cơ học (mảnh kim loại, hạt thóc, vv.), tác nhân hoá học (axit, bazơ, vv.), tác nhân vật lí (tia hàn điện,vv.) vv. Cần đeo kính bảo vệ mắt khi làm các công việc có nguy cơ gây CTM (đập, tuốt lúa, hàn, vv.). Khi bị CTM, bệnh nhân cần phải được cấp cứu và điều trị kịp thời tại các cơ sở y tế chuyên khoa. Không nên dịu mắt và tự đắp thuốc vào mắt.

CHẤN THƯƠNG MỞ (y) x. Chân thương.

CHẤN THƯƠNG SẢN KHOA (y), thương tổn xảy ra ở các phần của bộ phận sinh dục nữ khi đẻ, đặc biệt là các lần đẻ khó, có can thiệp bằng thủ thuật. CTSK có thể nhẹ, nặng hay rất nặng, gây tử vong cho sản phụ và cả con. Các CTSK nhẹ thường là rách tầng sinh môn (đáy chậu), rách âm đạo, rác cổ tử cung. CTSK nặng là vỡ tử cung. CTSK rất nặng là vỡ tử cung rộng kèm theo nhiễm khuẩn và vỡ bàng quang. Triệu chứng chung: chảy máu sau đẻ (máu tươi, chảy ít nhưng kéo dài), nếu không xử lí kịp thời sẽ dẫn đến chết do thiếu máu. Nguyên tắc xử lí: tìm chỗ rách và khâu cầm máu. Nếu vỡ tử cung phải mổ khâu vết vỡ hoặc cắt tử cung. Đồng thời với khâu cầm máu, phải cho thuốc nâng cao thể trạng và bù lại số máu đã mất.

CHẤN THƯƠNG TÂM LÍ (giáo dục), hiện tượng rối loạn tạm thời hay kéo dài của tâm lí , do ảnh hưởng của những tác động tâm lí quá mạnh khiến con người không chịu nổi.

CHẤT BÉO (hoá, sinh, cg. lipit), mỡ, dầu động thực vật. Là este của axit béo với glixerin nên còn được gọi là các glixerit, có công thức chung:

trong đó R, R', R'' là gốc hữu cơ. CB là thành phần cơ bản của tế bào mỡ và nhiều tế bào khác trong cơ thể; mô mỡ tạo ra một lớp cách li mềm bảo vệ cơ thể. Về cấu trúc, trong CB có axit béo no (axit stearic và axit panmitic...) và axit béo không no (axit oleic, axit linoleic, axit linolenic, vv.). CB không tan trong nước, tan trong các dung môi hữu cơ (ete, benzen, dầu hoả, vv.). Thuỷ phân CB bằng kiềm sẽ thu được xà phòng. Là dung môi tốt cho nhiều vitamin. Theo nguồn gốc tự nhiên, CB được phân biệt thành CB động vật (bơ, mỡ của bò, lợn, cừu, vv.) và CB thực vật (các loại dầu: dừa, đậu tương, vừng, lạc, hướng dương, vv.). Thành phần CB động vật và thực vật khác nhau do tỉ lệ axit béo no và không no khác nhau: tỉ lệ axit béo không no trong dầu cao hơn trong mỡ. Dầu, mỡ... là nguồn thực phẩm có giá trị, cung cấp nhiều năng lượng cho cơ thể (một gam CB vào cơ thể được oxi hoá sinh ra 9,3 kcal) và là nguyên liệu để chế tạo xà phòng, glixerin, sơn, vv. Về dinh dưỡng, CB là nguồn axit béo cần thiết trong quá trình sinh trưởng, phát triển cơ thể. Thiếu CB trong khẩu phần sẽ làm giảm tỉ lệ hấp thụ protein, gây hiện tượng viêm loét dạ dày, đường ruột và giảm tỉ lệ mỡ trong sữa.

CHẤT GÂY UNG THƯ (y), các yếu tố lí, hoá học có khả năng sinh ra ung thư ở sinh vật. Có nhiều CGUT cho động vật (thực nghiệm) cũng như cho người có tác dụng phối hợp (đa yếu tố). Ngày nay, y học đã xác nhận có trên 500 CGUT, đáng chú ý là các chất phóng xạ (bon nguyên tử ném xuống Hirôsima và Nagaxaki đã gây ung thư máu, ung thư xương, ung thư phổi, vv.) và hoá chất (chất 3 - 4 benzopiren trong khói thuốc lá gây ung thư phổi, ung thư thận, ung thư bàng quang, vv.; chất aflatoxin trong nấm mốc ở gạo, mì và lạc gây ung thư gan; chất nitrosamin trong rau, quả ôi dễ gây ung thư đường tiêu hoá; chất đioxin có khả năng gây ung thư phần mềm, ung thư gan, ung thư hạch, vv.).

CHẤT KHÁNG SINH (sinh; tk. trụ sinh), các chất hữu cơ do vi sinh vật tạo ra và ở nồng độ rất loãng (1 - 2 mg/l nước) có tác dụng ức chế sự phát triển hoặc tiêu huỷ vi khuẩn, đôi khi cả virut, các vi sinh vật khác và một số tế bào của sinh vật đa bào. Loại kháng sinh đầu tiên (pénicilline) do Fleminh (Ph. Alexander Fleming; 1881 - 1955) tìm ra 1982. Các CKS thường dùng: pénicilline, ampicilline, érythromycine, cephalosporine, gentamicine, tétracycline, biomycine, vv. Khi dùng CKS, cần có chỉ định và theo dõi của thầy thuốc để tránh quen thuốc và tai biến. Có thể sản xuất CKS theo phương pháp công nghiệp bằng tổng hợp hoá học và tổng hợp vi sinh vật. Trong chăn nuôi, dùng CKS thêm vào thức ăn với liều lượng thấp (vài gam cho 1 tấn thức ăn) không nhằm chữa bệnh mà để kích thích sinh trưởng súc vật non, tăng tỉ lệ hấp thụ thức ăn.

CHẾ ĐỘ ĂN (y; cg. chế độ dinh dưỡng), hệ thống những quy định cần phải được tuân theo về ăn uống (số lượng, chất lượng, cách chế biến lương thực, thực phẩm và số bữa ăn trong ngày) cho một đối tượng, nhằm sử dụng hợp lí và có cơ sở khoa học về lương thực, thực phẩm cần thiết cho cuộc sống, cho sức khoẻ của đối tượng đó. Một CĐĂ đúng phẩi đảm bảo duy trì, phát triển tốt sức khỏe, khả năng hoạt động, lao động, khả năng đề kháng bệnh, khả năng sinh sản. Tuỳ theo khí hậu, tuổi, giới tính, tính chất lao động, sinh hoạt, sức khoẻ, bệnh tật mà có CĐĂ riêng cho mỗi cộng đồng, mỗi cá nhân. Có nhiều CĐĂ: CĐĂ cho trẻ sơ sinh, trẻ đang phát triển, người khoẻ mạnh, người có thai, mẹ nuôi con; CĐĂ bệnh lí (CĐĂ nhạt, giảm calo, tăng calo, hạn chế protein, tăng protein, giảm lipit, CĐĂ lỏng); CĐĂ chay, vv.

CHẾ ĐỘ ĂN BỆNH LÍ (y), chế độ ăn dành cho người ốm (x. Ăn kiêng). Mục đích: hạn chế một hay nhiều loại thức ăn, chất dinh dưỡng cho phù hợp với những rối loạn chuyển hoá do bệnh gây ra để không làm cho bệnh nặng thêm, không chuyển từ cấp tính sang mạn tính và làm tăng tác dụng của thuốc. CĐĂBL còn được dùng để cung cấp những yếu tố chữa bệnh tích cực, được gọi là chế độ ăn điều trị . Những CĐĂBL thông dụng: ăn nhạt, ăn kiêng mỡ, ăn giảm tinh bột, ăn hạn chế năng lượng, ăn chay, nhịn ăn, vv.

Y học cổ truyền Việt Nam chia bệnh thành loại "hàn", "nhiệt", cũng chia thức ăn thành loại "hàn", "nhiệt" mà đề xuất những thức ăn cần phải kiêng cho từng loại bệnh và đã nêu ra gần 100 thức ăn chữa bệnh. Nhiều nhà khoa học Việt Nam đã xây dựng những chế độ ăn điều trị suy dinh dưỡng - năng lượng, ỉa chảy, tăng huyết áp.

CHẾ ĐỘ RÈN LUYỆN THÂN THỂ THEO TIÊU CHUẨN (thể thao; tên đầy đủ: chế độ rèn luyện thân thể để lao động và bảo vệ Tổ quốc), được ban hành theo Nghị định 110 - CP ngày 26.9.1962 của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Mục đích: giáo dục, cổ vũ mọi người có ý thức tự nguyện tập luyện các môn thể dục thể thao để có sức khoẻ. Đối tượng thực hiện CĐRLTTTTC: nam từ 13 đến 45 tuổi, nữ từ 13 đến 39 tuổi , chia ra 3 cấp: cấp thiếu niên, cấp 1, cấp 2 (cho nam và nữ riêng). Nội dung gồm: các yêu cầu cơ bản về kiến thức và thói quen tập luyện và các tiêu chuẩn đánh giá trình độ về sức mạnh, sức nhanh, sức doẻ dai, sự khéo léo thông qua các bài tập chạy, nhảy, ném, bơi, bắn, vv. Người thi đạt tiêu chuẩn được cấp chứng chỉ.

CHÍT HẸP BAO QUY ĐẦU (y) x. Bao quy đầu.

CHỊU THUỐC (y; cg. nhạy cảm thuốc), hiện tượng vi khuẩn chịu tác động của thuốc kháng sinh (hay hoá chất): bị thuốc tiêu diệt hoặc bị hạn chế sinh sản khi tiếp xúc với thuốc. Phân biệt: 1) CT tuyệt đối: dù với một liều lượng rất nhỏ, thuốc cũng ức chế hoàn toàn sự phát triển của vi khuẩn; 2) CT lâm sàng: vi khuẩn chỉ bị ức chế ở nồng độ thuốc nhất định thường xuyên có trong máu trong thời gian điều trị, vd. đối với vi khuẩn lao, đó là nồng độ 4 mg/ml streptomycine...(xt. Kháng thuốc).

CHOÁNG (y) x. Chấn động não; Sốc.

CHỌC KHÔ (y; tk. chọc trắng), chọc không lấy được bệnh phẩm (dù là chọc thăm dò, chọc hút hay chọc tháo). Khi phải chọc thăm dò (để xét nghiệm) hay chọc tháo (để lấy bớt hay lấy hết dịch và để điều trị) thì CK là không có kết quả, thường phải chọc lại, nếu lâm sàng và xét nghiệm X quang đã khẳng định có âm tính, vd. chọc vào vùng nghi apxe gan mà không hút ra mủ.

CHỌC SINH THIẾT (y), thủ thuật lấy bệnh phẩm trên cơ thể sống bằng cách chọc kim vào vùng tổn thương, hút một mảnh mô (kim chọc to) hay các tế bào bệnh (kim chọc nhỏ). Qua soi phiến đồ, tiêu bản trên kính hiển vi, có thể chuẩn đoán bệnh chính xác trước khi điều trị. Là kĩ thuật tốt, tương đối đơn giản, tiết kiệm, thích hợp với các cơ sở y tế thực hành.

CHỌC SỐNG THẮT LƯNG (y), thủ thuật đưa kim vào khoang dưới màng nhện lấy dịch não tuỷ để nghiên cứu nhằm mục đích chuẩn đoán, đo áp lực dịch não tuỷ. Nếu có chỉ định của lâm sàng, cùng với CSTL có thể kết hợp làm những nghiệm pháp thăm dò sự lưu thông dịch não tuỷ hoặc bơm không khí, chất cản quang để chụp tuỷ hoặc đưa thuốc vào. Trường hợp khó CSTL, người ta còn chọc ở đường dưới chẩm tay hay chọc não thất.

CHỌC THÁO (y), thủ thuật chọc bằng kim (thường là kim to) nhằm lấy bớt hoặc lấy hết dịch bệnh lí (có thể là một loại dịch trong, dịch màu vàng chanh, máu hay mủ, vd. dịch màng phổi, màng tim...) trong một bộ phận cơ thể để xét nghiệm hoặc chữa bệnh.

CHỐNG KHÁNG SINH (y, sinh), đặc tính của một số chủng vi khuẩn thuộc một loại bình thường dị cảm với một kháng sinh nào đó, nhưng nay không bị kháng sinh đó ức chế hoặc tiêu diệt. Vd. chủng Streptococcus khác vẫn dị cảm với pénicilline và bản thân chủng chống pénicilline vẫn dị cảm với streptomycine. Tính CKS thường được tạo ra do điều trị bằng kháng sinh không đủ liều, gây ra sự chọn lọc những cá thể vi khuẩn có tính chống đỡ tự nhiên. Gần đây, đã phát hiện được là tính CKS có thể truyền cho một số vi khuẩn khác (kể cả những vi khuẩn không gây bệnh) cho đến lúc đó vẫn dị cảm với kháng sinh, do việc chuyển những plasmit chứa thông tin cần thiết đủ làm mất hoạt lực của kháng sinh.

CHỐNG THỤ THAI (y) x. Thuốc tránh thai.

CHỐNG THUỐC (y) x. Kháng thuốc.

CHỤP ĐỘNG MẠCH (y), kĩ thuật dùng trong chuẩn đoán các bệnh của động mạch: bơm thuốc cản quang vào động mạch để thuốc theo dòng máu đến nơi định chụp; chụp cố định trên phim X quang hình ảnh và những biến đổi hình thái động mạch và các nhánh. Giúp chuẩn đoán phình động mạch, tắc nghẽn động mạch, chấn thương sọ não, các ổ máu tụ trong sọ (động mạch não bị u máu đẩy sang một bên), vv.

CHỤP HUỲNH QUANG (y), kĩ thuật dùng phim X quang cỡ nhỏ chụp lại hình của màn chiếu huỳnh quang, thông qua một hệ thống quang học (thấu kính, gương lõm). Mục đích: chụp hàng loạt cho một số đông người để phát hiện bệnh sơ bộ hoặc phát hiện sớm hàng loạt đối với các bệnh phổi (lao, bụi phổi, ung thư, vv.). Là kĩ thuật rất tiết kiệm, không phải chụp ngay từ đầu phim X quang cỡ lớn (30 x 40 cm) vẫn có thể đảm bảo chuẩn đoán bệnh chính xác. Các cỡ phim thông dụng hiện nay: 7 x 7 cm, 10 x 10 cm. Áp dụng thuận tiện ở các cơ sở y tế tuyến trước hoặc đội công tác lưu động.

CHỤP LẤP LÁNH (y) x. Ghi hình phóng xạ.

CHỤP X QUANG (y), phương pháp ghi hình ảnh các cơ quan, bộ phận của cơ thể lên phim X quang. Là cơ sở cho chuẩn đoán X quang. Tuỳ theo kĩ thuật chụp và lĩnh vực ứng dụng, phân biệt nhiều loại CXQ: 1) CXQ thường: không cần chuẩn bị đặc biệt cho bệnh nhân trước khi chụp hoặc đưa vào cơ thể các chất làm nổi rõ hình thể của các cơ quan cần chụp (chất khí, chất cản quang, vv.); được sử dụng để chụp tim, phổi, xương khớp... 2) CXQ có chuẩn bị: cần chuẩn bị cho bệnh nhân trước khi chụp (nội dung chuẩn bị tuỳ thuộc vào yêu cầu kĩ thuật và cơ quan định chụp) để làm nổi rõ các chi tiết cần phát hiện ; vd. tiêm thuốc cản quang khi chụp động mạch cảnh, động mạch não, vv. 3) CXQ có bơm khí: kĩ thuật CXQ sau khi bơm một chất khí (không khí thường, oxi, điôxit cacbon, vv.) vào vùng có cơ quan định chụp, tách nó khỏi các cơ quan lân cận để dễ quan sát các chi tiết, biến đổi cần thiết cho chuẩn đoán và chữa bệnh; vd. bơm khí vào màng phổi để làm rõ u màng phổi. 4) CXQ cắt lớp: kĩ thuật CXQ với hình ảnh của từng lớp khác nhau, nhằm phát hiện những thương tổn lớn (khối u, hang) khu trú ở nhiều lớp, các thương tổn nhỏ khu trú ở một lớp hay rải rác ở nhiều lớp mà CXQ thường dễ bỏ sót; được sử dụng khi CXQ các cơ quan dày hoặc đặc. 5) CXQ hàng loạt: kĩ thuật CXQ một cơ quan bằng một loạt phim liên tiếp với tốc độ nhanh (3 giây, 1 giây, 4/100 giây mỗi phim) nhằm ghi được hình ảnh về cấu trúc, chức năng và thương tổn của cơ quan đang hoạt động; thường được dùng để chuẩn đoán các bệnh tim bẩm sinh, các dị dạng của động mạch chủ, động mạch thận.

CHỬA (sinh, nông, y; tk. mang thai), giai đoạn từ khi trứng thụ tinh đến lúc đẻ ở động vật đẻ con. Ở người, C bình thường có thai trong tử cung , được đánh giá theo một số tiêu chuẩn: một thai phát triển bình thường, khi đẻ ra nặng ít nhất 2500g, thời gian C 38 - 40 tuần, không quá 42 tuần (C già tháng), không dưới 37 tuần (đẻ non) ; trong quá trình thai nghén không xảy ra bất cứ biến cố nào (thai phụ không ốm, không bị ra máu, không có cơn co tử cung đột xuất, vv.), ngôi thai thuận. Trong quá trình C, thai phụ phải tăng trọng lượng ít nhất 10 - 14 kg. Có những quá trình C bệnh lí như C trứng (x. Chửa trứng), C ngoài tử cung (x. Chửa ngoài tử cung). Ở các loài động vật khác nhau, thời gian mang thai khác nhau: ở lợn 110 - 118 ngày, trunh bình 114 ngày; trâu Việt Nam 315 - 320 ngày; trâu sữa Mura (Ấn Độ) 301 - 315 ngày; dê và cừu 146 - 161 ngày, trung bình 150 ngày; ngựa 320 - 360, ngựa 320 - 360 ngày, trung bình 336 - 340 ngày.

CHỬA GIÀ THÁNG (y) x. Chửa.

CHỬA NGOÀI TỬ CUNG (y), trứng thụ tinh không làm tổ trong buồng tử cung mà ở nơi khác ngoài tử cung. Bình thường sự thụ tinh xảy ra ở 1/3 ngoài của vòi trứng, rồi trứng di chuyển vào buồng tử cung và làm tổ ở đấy. Vì lí do nào đó, như vòi trứng di dạng, vòi trứng bị viêm nhiễm hoặc nhu động bất thường làm cho trứng không di chuyển được vào buồng tử cung như thông thường, mà làm tổ bất thường ở nơi khác ngoài tử cung như ở vòi trứng (chửa ở vòi trứng, vv.), ở trong ổ bụng và làm tổ ở những tạng mà nó bám vào, gây nên chửa trong ổ bụng, chửa ở buồng trứng, vv. Dấu hiệu CNTC: dấu hiệu chửa (chậm kinh, nôn hoặc buồn nôn, chán ăn, vv.), thỉnh thoảng có chảy ít máu nâu đen qua âm hộ, cảm giác nặng ở bụng dưới, đau râm ran, vv. Cần đi khám ngay. Nguy cơ của CNTC: thông thường là bào thai sẽ vỡ, gây chảy máu nặng bên trong ổ bụng dẫn đến tử vong. Điều trị: sau chuẩn đoán phải mổ ngay, không để bào thai vỡ vào trong ổ bụng.

CHỬA TRỨNG (y), loại bệnh của thai, phát sinh do các gai màng đệm của nhau bị thoái hoá thành các nang (túi) nước tập trung sát với nhau như chùm nho. Nguyên nhân sinh bệnh chưa rõ, nhưng bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi mang thai, thường thấy ở Châu Á và Châu Phi. Triệu chứng của người có thai, nhưng có nhiều biểu hiện khác thường: nghén nhiều, ra máu qua âm đạo kéo dài, tử cung to nhanh hơn so với thời gian mang thai. Hướng xử trí: cho sẩy thai, nong rộng cổ tử cung, nạo hút hết trứng và nhau. Vì có 15% trường hợp CT trở thành ung thư nên sau khi nạo thai, người bị CT phải được theo dõi nhiều lần ở bệnh viện theo quy định để phát hiện sớm các dấu hiệu của ung thư nhau.

CHỮA BỆNH (y), môn y học nghiên cứu các phương pháp chữa trị khỏi bệnh hoặc làm giảm bớt đau đớn, khó chịu cho người bệnh. Có nhiều phương pháp CB: chữa bằng thuốc, bằng ăn uống, bằng tâm lý, vật lý, châm cứu, nước khoáng, bùn khoáng, lao động, thể dục, vv. Y học cổ truyền dân gian giữ một vị trí quan trọng cùng với y học hiện đại trong CB, đặc biệt các bệnh mạn tính, cho các đối tượng người cao tuổi, trẻ em, vv.

CHỮA RĂNG (y), chuyên khoa của nha khoa, có nhiệm vụ phục hồi các mô cứng của răng (men, ngà răng) bị tổn thương (do sâu răng, chấn thương, rối loạn chức năng nhai) và phục hồi thẩm mĩ của hàm răng.

CHỨNG UỐNG NHIỀU (y), uống nước nhiều hơn bình thường, có khi tới 5 - 10 lít nước hoặc hơn trong một ngày đêm, thường đi đôi với chứng đái nhiều. Gặp trong bệnh đái tháo đường, đái tháo nhạt; CUN do thói quen hoặc do nguyên nhân tâm thần. Xác định CUN bằng cách đo lượng nước uống vào trong 24 giờ, trong điều kiện sinh hoạt bình thường.

CHỨNG ƯA CHẢY MÁU (y), chứng chảy máu có tính di truyền do thiếu yếu tố đông máu kháng ưa chảy máu, hoặc làm cho máu chậm đông. Biểu hiện: chảy máu một cách tự nhiên sau chấn thương, thường chảy máu dưới da, trong cơ, trong khớp; đái máu; thời gian đông máu kéo dài. Điều trị bằng cách đưa yếu tố đông máu vào cơ thể (truyền huyết tương tươi, huyết tương ngưng kết lạnh, huyết tương chống ưa chảy máu) hoặc truyền máu tươi trong trường hợp có thiếu máu kèm theo.

CHỨNG XANH TÍM (y), hiện tượng da và niêm mạc đổi sang màu sang tím (xanh lam) khi nồng độ hemoglobin khử trong máu mao mạch lớn hơn hoặc bằng 5g/100 ml máu. Xanh tím có nguồn gốc ngoại vi do máu tĩnh mạch bị khử oxi quá nhiều, máu lưu chuyển chậm (trong trường hợp suy tim) làm cho các mô hút được oxi của máu nhiều hơn bình thường. Xanh tím có nguồn gốc trung tâm do máu động mạch khi khử oxi quá nhiều (trong bệnh phế quản - phổi gây khó khăn trao đổi oxi ở phổi). Xanh tím do tuần hoàn máu bất thường làm cho máu tĩnh mạch trộn với máu động mạch trong các bệnh tim bẩm sinh, vd. tứ chứng Falô (Fallot). Xanh tím do nhiễm độc (vd. cacbon oxit) tạo nên trong máu một loại hemoglobin bất thường (methemoglobin).

CHỨNG XANH TÍM ĐẦU CHI (y), hiện tượng xanh tím xuất hiện thường xuyên ở bàn tay, bàn chân (hiếm gặp ở tai, mũi, gò má), với biểu hiện: da bị ngấm phù, nhiệt độ tại chỗ thường thấp hơn bình thường, tăng tiết mồ hôi. Nguyên nhân: rối loạn nội tiết, giao cảm làm co thắt các mao mạch; viêm tắc mạch; bệnh nghề nghiệp (nhiễm độc chì, asen, vv.); bệnh máu; bệnh tim. CXTĐC tăng khi thời tiết lạnh và ẩm; hay gặp ở thiếu nữ; không nguy hiểm và có tiên lượng không đáng ngại. Điều trị theo nguyên nhân, kết hợp với các biện pháp hỗ trợ (tăng cường vận động, tập thể dục, xoa bóp đầu chi và vùng bị xanh tím, áp dụng chế độ nghỉ ngơi tích cực, vv.)

CHƯỜM NÓNG (y), phương pháp chữa bệnh dùng nhiệt chữa bệnh trực tiếp lên vùng đau hay vùng chiếu ngoài da của nội tạng bị đau. Các biện động vật lí, tuần hoàn, thần kinh, vv. do nhiệt gây ra làm đỡ hoặc khỏi đau. CN được dùng trong các trường hợp: cơn đau dạ dày, đau bụng vùng dưới rốn chưa rõ nguyên nhân, vùng da sưng tấy nghi mưng mủ do khi tiêm bị nhiễm khuẩn, vv. Là phương pháp đơn giản, nhiều khi có hiệu quả. Về nguồn nhiệt, có thể dùng túi chườm cao su, bình chườm bằng thuỷ tinh hay sứ, gốm, có nút thật kín đựng nước nóng; muối rang bọc vải; ngải cứu sao nóng; hòn gạch nung; hoặc các thiết bị điện. Cần chú ý lót vải hay chăn bông giữa vật chườm và da bệnh nhân để tránh bỏng.

CO CƠ (y; tk. co giật cơ), những cơn co giật đột ngột thành từng đợt, không phụ thuộc vào ý muốn, không hệ thống. Có thể thấy ở từng cơ hoặc từng nhóm cơ. Tật CC có thể gặp ở một số người (như máy môi, nháy mắt, giật vai, vv.), thường do bẩm sinh. CC có thể là triệu chứng của động kinh, ngộ độc thần kinh và một số bệnh thần kinh khác; cũng có thể hoàn toàn không có ý nghĩa bệnh lí, như co giật cơ lúc ngủ.

CO CỨNG (y), hội chứng mà đặc điểm là CC không chủ động được của một số cơ hay toàn bộ hệ cơ, lặp đi lặp lại thành từng cơn. Điển hình của CC thấy trong bệnh uốn ván. CC thường do biến loạn chức năng tuyến cận giáp, cũng có thể do mất cân bằng dinh dưỡng (thiếu canxi, thiếu magie trong máu), ngộ độc strychnine, do các bệnh thần kinh, chấn thương, viêm các tạng (viêm ruột thừa, thủng dạ dày).

CO GIẬT (y), co đột ngột không cố ý tạo nên những động tác khu trú ở một hoặc nhiều nhóm cơ hay lan tràn ra toàn thân. Tuỳ theo thời gian, chia ra hai loại: CG cứng - co kéo dài tạo nên một trạng thái cứng liên tục, thỉnh thoảng có các cơn co giật ngắt quãng; CG rung - nhiều động tác co cứng nhanh và nối tiếp nhau một cách liên tục với biên độ rộng. Nguyên nhân: thương tổn não - màng não (chảy máu, u, apxe não, vv.), thương tổn tuỷ sống, giảm oxi - máu trong cơn ngất, ngộ độc (strychnine, mã tiền), cảm nặng, sốt cao (nhất là vào mùa hè), tâm lí cảm xúc, istêri, di chứng chấn thương, vv. Ở trẻ em, CG thường lan ra toàn thân và là một phản ứng đối với bất cứ một sự kích thích nào, có thể do một thể địa CG sẵn có ở nhiều giai đoạn phát triển của trẻ em (dưới 2 tuổi, tuổi dậy thì...). Điều trị theo nguyên nhân: tạm thời lúc xảy ra CG, để người bệnh nằm, đầu hơi cao, nghiêng về một bên để đờm dãi dễ chảy ra, cởi, nới lỏng quần áo; nếu sốt chờm nước đá, dùng thuốc hạ nhiệt; thuốc an thần nhẹ.

CO MẠCH (sinh), hiện tượng co hẹp các mạch máu nhỏ do cơ trơn co trong thành mạch. Xảy ra khi huyết áp giảm, nhiệt độ bên ngoài thấp hoặc bị đau do kích thích các sợi dây thần kinh CM hoặc tiết ađrenalin (x. Dây thần kinh vận mạch)

CO THẮT ĐỘNG MẠCH VÀNH (y), tình trạng bệnh lí xảy ra ở người có các thương tổn xơ - cứng hay xơ vữa động mạch vành và suy động mạch vành, do một cơn co thắt mạch làm thu hẹp một phần lòng của một hay nhiều nhánh động mạch vành, làm suy giảm sự lưu thông máu và cung cấp oxi cho vùng cơ tim ở phía dưới. Biểu hiện lâm sàng: cơn đau thắt ngực (x. Cơn đau thắt ngực). Nếu nhẹ: nghỉ và dùng thuốc kịp thời, cơn đau dịu dần và biến mất do nhu cầu oxi giảm và trở lại mức bình thường. Nếu nặng, kéo dài liên tục quá 15 phút, có khả năng gây nhồi máu cơ tim (x. Nhồi máu cơ tim). Nguyên nhân: nghiện hút thuốc lá, tăng huyết áp, tăng colesteron máu, tăng triglixerit máu, đái tháo đường, các cảm xúc mạnh gây chấn động tâm lí, tinh thần, sự cố sức làm tăng nhu cầu oxi của cơ tim (đi bộ nhanh ngoài trời lạnh), đợt lao động nặng, chơi thể thao quá sức, vv. Điều trị: nghỉ ngơi yên tĩnh; dùng ngay một viên thuốc loại nitroglixerin có tác dụng nhanh; tiếp tục điều trị theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Theo y học cổ truyền, CTĐNV thuộc phạm vi chứng hung thống và tâm thống. Thường chia ra các thể sau: 1) Thể khí trệ huyết ứ: ngực tâm đau như bị đâm, thở hụt hơi, tâm phiền, mạch huyền. 2) Thể khí dương ở trong ngực bị bế tắc: tâm thống, thở hụt hơi, ngực như bị nghẽn, nặng thì đau từ tim xuyên sang lưng hoặc từ lưng xuyên vào tim. 3) Thể khí âm lưỡng hư: tâm thống, thở hụt hơi, tim đập, vã mồ hôi, mạch kết đại hoặc vô lực. 4) Thể dương khí hư tổn: tâm thống, thở hụt hơi, tim đập, vã mồ hôi, người lạnh, ỉa lỏng, mạch trầm vô lực hoặc kết đại. 5) Thể dương hư muốn thoát: tâm thống, thở hụt hơi, vã mồ hôi, chân tay lạnh, mặt bệch, có thể hôn mê, mạch trầm tế vô lực hoặc kết đại.

Khi có tâm thống, có thể dùng châm cứu: châm loa tai (vùng tim, vùng giao cảm), châm ở thân thể [huyệt Nội quan, Thông lí, Tâm du, Quyết âm du, A thị (tại vùng mỏm tim ở ngực)].

CO THẮT MẠCH (y), tình trạng bệnh lí do co thắt các cơ trơn thành mạch, làm thuhẹp đột ngột lòng của mạch máu (thường là động mạch thuộc hệ đại tuần hoàn), tạo nên sự thiếu máu cục bộ tại vùng cơ thể ở dưới chỗ máu bị tắc. Nguyên nhân: do lạnh, phản ứng thần kinh đối với một sự kích thích (như trong thủ thuật thông các mạch máu, thông tim, vv. lúc bệnh nhân không được chuẩn bị kĩ); do thuốc, vv. Các dấu hiệu lâm sàng, diễn biến của bệnh phụ thuộc vào chỗ mạch máu bị co thắt, vào tình hình sức khoẻ của bệnh nhân (tăng huyết áp, vữa xơ động mạch, tăng colesteron máu...) vào cơ quan được động mạch cung cấp máu, vv.

CO THẮT TÂM VỊ (y), co thắt lỗ trên của dạ dày, tiếp nối với thực quản do các lớp cơ trơn hình vòng tròn của thành tâm vị co thắt liên tục gây ra, làm cho thức ăn bị ứ đọng một phẩn trong thực quản, lâu dần dẫn đến phình thực quản hay dãn thực quản. Các triệu chứng chính: nuốt nghẹn, đau vùng sau xương ức, nôn (ói) ra thức ăn cũ (từ chiều hôm trước), sau nôn thì các triệu chứng giảm đi. Bệnh diễn biến chậm và kéo dài hằng năm. Điều trị nội khoa ít có kết quả. Điều trị phẫu thuật: rạch các lớp cơ quanh tâm vị theo chiều dọc tới niêm mạc, sau đó vá vào đó một mảnh cơ hoành có chân nuôi. Kết quả thường tốt.

CƠ QUAN CẢM GIÁC (sinh), một hay một số tế bào cảm giác (thụ quan) và cấu trúc tương ứng trong cơ thể động vật, có khả năng trả lời các kích thích từ trong hay ngoài cơ thể. Các kích thích được chuyển thành xung động điện và được truyền về não để phân tích và trả lời. Một giác quan chỉ có thể trả lời cho một loại kích thích nhất định. Có nhiều loại CQCG khác nhau: sờ, nghe, nhìn, ngửi, áp suất, vv.; có thể ở khắp cơ thể, cũng có thể được tập trung vào các khu nhất định, vd. chồi vị giác ở lưỡi (x. Tai; Mắt).

CƠ QUAN THỤ CẢM (sinh), tế bào hoặc cơ quan chuyên hoá tiếp nhận hoặc phản ứng với những kích thích từ bên trong hoặc bên ngoài cơ thể. Vd. mắt là CQTC ánh sáng; tai là CQTC âm thanh; mũi là CQTC mùi và lưỡi là CQTC vị.

CƠ THỂ HỌC (sinh; tk. giải phẫu học) 1) Khoa học nghiên cứu cấu trúc cơ thể sinh vật bằng phương pháp giải phẫu. 2) Tổ chức các phần của cơ thể và mối quan hệ về mặt cấu trúc giữ chúng.

CƠ THỂ HỌC MĨ THUẬT (mĩ thuật; cg. giải phẫu mĩ thuật; Ph. Anatomique artisque), môn học nghiên cứu cấu trúc cơ thể con người hoặc loài vật với mục đích áp dụng vào nghệ thuật tạo hình để vẽ hoặ nặn tượng cho chính xác. Môn CTHMT chỉ chú trọng về tỉ lệ cấu trúc cơ học ngoại hình, cơ chế hoạt động của xương, cơ bắp, chứ không đi sâu vào chi tiết và toàn diện như giải phẫu y học. Môn CTHMT là cơ sở cho sự sáng tạo nên hình tượng nghệ thuật.

CƠ VẬN NHÃN (y, sinh), sáu cơ ở trong hốc mắt với một đầu dính vào hốc mắt, đầu kia dính vào nhãn cầu và có chức năng đưa mắt theo những hướng khác nhau. Có nhiều loại CVN: cơ thẳng trên, cơ thẳng dưới, cơ chéo bẻ, vv. Các thương tổn của các nhóm CVN sẽ gây rối loạn vận động của nhãn cầu hay các tật của mắt (vd. lác).

CƠN (y), một hiện tượng bệnh lí xuất hiện một cách đột ngột, mạnh mẽ, trong một thời gian ngắn và có thể tái diễn theo chu kì. Vd. C sốt, C hen, C động kinh, C đau tim, vv.

CƠN ĐAU QUẶN (y) x. Đau quặn.

CƠN ĐAU QUẶN GAN (y), cơn đau xuất hiện ở vùng dưới sườn phải, do túi mật co bóp từng cơn để đẩy sỏi di chuyển vào trong ống mật hoặc do sỏi mật, dị vật di chuyển trong ống mật, hay gây tắc ống mật. Thường kèm các triệu chứng như vàng da, sốt.

CƠN ĐAU QUẶN THẬN (y), cơn đau dữ dội ở vùng thắt lưng, lan toả về phía bàng quang và đùi, do viên sỏi hoặc ngoại vật di chuyển từ bệ thận qua niệu quản đến bàng quang. Có kèm rối loạn tiêu hoá (nôn) và cảm giác buốt mót bàng quang.

CƠN ĐAU THẮT NGỰC (y), cơn đau thắt đột ngột, dữ dội sâu trong lồng ngực ở vùng tim và sau xương ức, có thể lan toả ra cánh tay trái, kèm theo một trạng thái kinh hoàng với cảm giác như sắp chết. Xảy ra sau khi gắng sức, ăn no, trong khi ngủ hoặc nhiễm lạnh. Hay tái phát. Nguyên nhân: thiếu máu cơ tim do động mạch vành tim bị co thắt đột ngột, trong các trường hợp căng thẳng quá mức về tâm thần, tình cảm; quá mệt mỏi, lao động quá căng thẳng, ăn no, vv. tạo nên một sự rối loạn chức năng của hệ thần kinh điều khiển việc tiếp tế máu nuôi cơ tim. CĐTN hay xảy ra ở người bị vữa xơ động mạch, viêm mạch vành tim, vv. CĐTN biến đi nhanh khi sự nuôi dưỡng cơ tim được hồi phục lại kịp thời bằng thuốc giãn mạch vành (nitroglycérine, papavérine, validol, amylnitrine, vv.) và các thuốc an thần.

CƠN KỊCH PHÁT (y),thời điểm phát triển của một bệnh (cấp tính, mạn tính) hay một trạng thái bệnh lí, trong đó các dấu hiêu vượng (tăng) lên đến cường độ cao nhất (đau, sốt, nhức đầu, vv.); biểu hiện một biến chuyển cấp tính của bệnh: viêm phế quản cấp ở một bệnh nhân đã bị viêm phế quản mạn tính từ trước, cơn suy tim kịch phát.

CƠN SỐT (y), cơn tăng thân nhiệt trên 37,50C kèm theo các triệu chứng: nhức đầu, gai rét, mạch nhanh, thở nhanh, đái ít, khô miệng, buồn nôn, vv. Kéo dài hàng chục phút đến vài giờ. CS thường báo hiệu một bệnh cấp tính; có thể tái diễn theo một chu kì nhất định trong một số bệnh, vd. trong bệnh sốt rét, CS gồm các đặc thù: rét run, sốt cao, nhức đầu, đau người, vã mồ hôi, có thể ngày nào cũng sốt (sốt hằng ngày) hoặc cách một ngày (sốt cách nhật), cách hai ngày, tuỳ theo loại kí sinh trùng sốt rét gây bệnh. Sốt là một triệu chứng cho rất nhiều bệnh, do những nguyên nhân khác nhau và có các cách điều trị khác nhau. Trước một CS, điều quan trọng là tìm cho ra nguyên nhân bệnh bằng khám lâm sàng tỉ mỉ, toàn diện; làm các xét nghiệm cần thiết, vd. ở những vùng có sốt rét lưu hành, phải làm ngay một phiến kính máu để tìm kí sinh vật sốt rét, lấy máu thử trong ba ngày liền, vv. Nếu CS quá cao, bệnh nhân vật vã thì mới cho tạm các thuốc hạ sốt, thuốc an thần, vv. theo dõi sát bệnh nhân các ngày sau để cố tìm ra nguyên nhân của bệnh.

CƠN TIM NHANH KỊCH PHÁT (y), nhịp tim nhanh quá 140 lần/phút (tới 180 - 200 lần hoặc hơn) nhưng vẫn đều. CTNKP bắt đầu và chấm dứt đột ngột, kéo dài trong vài phút, hoặc có thể trong vài giờ. Có: CTNKP không rõ nguyên nhân, xảy ra trên tim có vẻ bình thường và không nguy hiểm; CTNKP do bệnh tim (nhồi máu cơ tim, bệnh tim mạn tính ở giai đoạn cuối) và có tiên lượng xấu. Cần theo dõi kĩ và theo đúng chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa.

CƠN VẮNG (y), mất ý thức trong khoảng thời gian ngắn, có thể vài giây, vài phần giây, do quá mệt hoặc nhiễm độc. Người bệnh đang làm việc gì, bỗng nhiên lặng người đi hoặc đang làm một hành động gì thì đờ ra trong tư thế cử động, đánh rơi các đồ vật cầm trong tay, nét mặt trở nên thẫn thờ. Hết cơn, người bệnh lại có thể tiếp tục công việc đang bỏ dở. Bệnh nhân thông thường không nhớ gì về CV. CV là một thể của động kinh nhỏ.

CƠSINH H.U. (y; A. Harvey Williams Cushing; 1869 - 1939), phẫu thuật viên chuyên ngành thần kinh, người Hoa Kì. Mô tả hội chứng lâm sàng gồm các dấu hiệu: tăng huyết áp, béo phị khu trú ở mặt, cổ và thân mình, rậm râu, teo cơ, suy nhược cơ thể, loãng xương; thiểu năng tình dục; xảy ra ở phụ nữ còn trẻ tuổi; tử vong sau 2 - 10 năm. Mô tả bệnh C: là một bệnh thần kinh - tuyến yên; u tuyến ưa bazơ của tuyến yên thường kèm theo tăng sản tuyến yên hai bên.

CUỒNG DÂM (y), chứng loạn dục: tăng ham muốn tình dục thường xuyên và quá mức (có tính chất bệnh lí tâm thần), người bệnh thường tự kích thích các bộ phận sinh dục của mình. Trong tâm thần học còn gọi chứng tăng dục.

CƯỜNG TUYẾN GIÁP (y; tk. tăng năng tuyến giáp), tình trạng chức năng tuyến giáp tăng quá mức bình thường, gặp trong bệnh Bazơđô, bướu giáp độc nhiều nhân, bệnh u tuyến giáp độc, u tuyến yên (tiết hocmon hướng giáp). Nguyên nhân: các tế bào của tuyến giáp tăng sinh, hoạt động mạnh, chế tiết vào máu nhiều hocmon giáp (thyroxine, triiodo - thyroxine). Triệu chứng thường có: tuyến giáp to ra toàn bộ (bướu lan toả) hoặc một phần (bướu nhân); mạch nhanh, tim đập nhanh, hồi hộp, gầy, tay run, cảm giác nóng trong cơ thể, cơn bốc hoả lên đầu, bồn chồn, dễ cáu gắt, mất ngủ, rụng tóc, nhiều mồ hôi (mồ hôi tay, chân, vv.), rối loạn kinh nguyệt ở bệnh nhân nữ. Trong bệnh Bazơđô, thường có thêm triệu chứng mắt lồi và sáng, chuyển hoá cơ bản tăng (trên 20%). Điều trị theo nguyên nhân: điều trị bằng các thuốc kháng giáp và thuốc an thần; điều trị ngoại khoa (mổ) khi có chỉ định; iot đồng vị phóng xạ (131I) được sử dụng rộng rãi để chuẩn đoán và điều trị.

CỨT SU (y), phân của trẻ sơ sinh, bài tiết trong 2 - 3 ngày sau khi đẻ . CS có màu xanh hoặc nâu sẫm, đặc quánh, không mùi. Thành phần: chủ yếu là mật (có màu xanh), các chất tiết của ruột già, các tế bào biểu bì và lông tơ bong ra mà thai nhi nuốt vào khi còn trong bụng mẹ. Giai đoạn đầu, CS không có vi khuẩn. Bài tiết CS là hiện tượng bình thường ở trẻ sơ sinh trong 2 - 3 ngày đầu. Trong trường hợp trẻ không bài tiết CS, cần theo dõi và khám để phát hiện tắc ruột do CS.

DA ĐỒI MỒI NGƯỜI GIÀ (y; tk. da mồi), những vết màu hạt dẻ tương đối sẫm, có kích thước to nhỏ không nhất định, tập trung chủ yếu ở mu bàn tay, cẳng tay, mặt và ở da đầu người hói. Là biểu hiện thường gặp của lão hoá biểu bì, chủ yếu là thoái hoá chất mỡ ở da. Không có ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ.

DA HOÁ SỪNG (y), x. Dày sừng.

DA KHÔ (y), x. Da cá.

DA SẠM (y), x. Bệnh sạm da nhiễm độc.

DẠ CON (sinh, y), phần phình ra ở cuối ống dẫn trứng, giống hình quả lê của cơ quan sinh sản cái ở người và động vật, là nơi cư trú của trứng ở các loài động vật đẻ trứng (bò sát, chim) hoặc phôi của động vật có vú (voi, khỉ, hươu, gia súc, vv.). Trong động vật có vú, DC chỉ có ở loài đẻ con. DC là một khối cơ trơn dày, khoẻ, có lớp phúc mạc bọc ngoài và lớp niêm mạc bên trong, phần trên thông với hai vòi DC dẫn đến ống dẫn trứng, phần dưới thông với ống hẹp cổ DC và âm hộ. Lớp niêm mạc thành DC có lớp biểu mô hình trụ, có nhiều lông rung, nhờ đó mà trứng và các chất bài tiết khác được dễ dàng đầy. Bào thai phát triển trong DC, nhận các chất dinh dưỡng và oxi từ cơ thể mẹ qua nhau thai. Ở người, màng bao phủ mặt trong thân tử cung (buồng tử cung) luôn luôn thay đổi hình thái do tác động của các hocmon buồng trứng trong một chu kì kinh nguyệt.

DẠ DÀY (sinh, y, nông), phần ống tiêu hoá nằm giữa thực quản và tá tràng ở động vật có xương sống. Là túi lớn, thành cơ dày, hai đầu thắt lại bằng hai cơ vòng, nơi nhận và chứa thức ăn trong những khoảng thời gian nhất định, tránh cho động vật không ăn liên tục. DD co bắp xáo trộn thức ăn, thấm axit clohiđric do DD tiết ra, thức ăn protein được tiêu hoá một phần dưới tác động của dịch vị. Thức ăn đã biến thành dưỡng trấp bán lỏng, sẽ được chuuyển dần xuống ruột non qua môn vị. Mặt trong DD được lót bằng màng nhày hình ống tiết ra axit clohiđric, các tế bào đặc biệt tiết enzim pepsin, renin và tế bào tiết nhày. Có các loại: 1) DD đơn, DD một túi ở lợn, thỏ, ngựa, vv. 2) DD kép: DD có bốn túi (dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách, dạ múi khế) ở động vật nhai lại. 3) DD tuyến: phần nằm giữa diều (diều gà) và DD, có chức năng giống như DD ở động vật có vú. Thành DD tuyến tương đối mỏng, có các tuyến tiết enzim pepsin và axit clohiđric. 4) DD cơ (mề) nối tiếp DD tuyến, có thành rất dày, cơ trơn rất khoẻ, màu đỏ lẫn ánh xanh. Mặt trong có nhiều lớp nhăn và có màng lót sừng dày màu vàng, trong các lớp nhăn có cát, sỏi. Nhờ dịch vị thấm vào thức ăn rắn và co bóp của cơ, thức ăn được nghiền nhuyễn trước khi chuyển xuống ruột. DD cơ nằm giữa và phía sau thuỳ gan. DD tuyến và DD cơ gặp ở chim.

Ở người, DD là đoạn của ống tiêu hoá, tiếp theo thực quản, bắt đầu từ dưới cơ hoành, hình chữ J, di động; đầu trên là tâm vị nối với hành tá tràng; từ trái sang phải là hai bờ cong lớn và nhỏ; từ trên xuống dưới là thân vị và hang vị; dung tích 0,5 - 1 lít. Từ ngoài vào trong, thành DD gồm 4 lớp: lớp phúc mạc, lớp cơ, lớp dưới niêm mạc và lớp niêm mạc. Quá trình hoạt động cơ học, tiết dịch, quá trình tiêu hoá của DD chịu sự chỉ huy của thần kinh trung ương, tác động của dây thần kinh X (thứ mười) hệ giao cảm. Các bệnh thường hay gặp: viêm, loét, ung thư, vv. (xt. Ống tiêu hoá).

DẦU CÁ (nông, y), chất béo được chiết từ cơ thể một số loài cá (nhám, mú, bơn), thú biển (cá voi, cá heo, cá nhà táng, chó biển), nội tạng mực ống và các dư liệu trong sản xuất cá hộp. DC là một hỗn hợp chứa khoảng 85% axit béo chưa no, các axit béo no, glixerin và vitamin A, D. Được chia theo chất lượng: DC dược phẩm (vd. dầu gan cá), DC công nghịêp, DC chăn nuôi. DC dược phẩm dùng để chữa các chứng viêm, khô nứt, quáng gà, , còi xương, suy nhược cơ thể (x. Dầu gan cá). DC thực phẩm là dầu cá đã được tinh chế, khử mùi, có thể dùng chế bơ. DC công nghiệp là DC tinh chế được hiđro hoá làm nguyên liệu cho công nghiệp mĩ phẩm, sản xuất glixerin, xà phòng, nến, vv. DC có đặc điểm ở 15 - 200C vẫn lỏng, dễ bị oxi hoá làm biến mùi, tạo thành toxisterol độc. Cần bảo quản trong kho tối và mát, đựng trong lọ kín, sẫm màu.

DẦU GAN CÁ (nông, y), dầu chiết xuất từ gan và nội tạng một số loài cá (tuyết, nhám, thu), loài thú biển (cá voi, cá heo) chứa nhiều vitamin A và D hoà tan. Mỗi mililit DGC trung bình có 200 - 500 đơn vị quốc tế (UI) vitamin A và 80 - 100 UI vitamin D; được dùng để chữa các chứng bệnh còi xương, khô giác mạc, thiếu vitamin A - D và bổ sung vitamin A, D cho thực phẩm, thức ăn chăn nuôi. Việt Nam đã sản xuất DGC dạng lỏng và viên bọc gelatin từ nguyên liệu chủ yếu là gan cá nhám.

DẦU GIUN (nông, sinh, y) x. Cây dầu giun.

DÂY RỐN (y), dây nối thai nhi với bánh nhau trong đó có hai động mạch và một tĩnh mạch rốn, đảm bảo sự trao đổi giữa máu của mẹ và con. Sau khi đẻ và DR được cắt, con tách khỏi mẹ. Cuống còn lại dính vào rốn con, sẽ rụng vài ngày sau (từ ngày thứ 3), để lại sẹo là lỗ rốn. Cắt DR phải dùng kéo hay dao sạch, được tiết khuẩn kĩ; buộc dây nhau với chỉ đã được khử khuẩn. Dùng kéo, dao bẩn, que nứa, mảnh sành, vv. để cắt DR sẽ gây nhiễm khuẩn rốn và bệnh uốn ván sơ sinh với tỉ lệ tử vong rất cao. Uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh là khuyết điểm nặng của người đỡ đẻ. Trong một số trường hợp bất thường (ngôi mông, ngôi ngang, đa ối, đẻ nhiều lần, DR quá dài, vv.), DR có thể lọt ra ngoài âm hộ trước thai nhi. Sa DR là một biến chứng nặng, làm chết thai nhi rất nhanh (khoảng 10 phút), cần can thiệp kịp thời để cứu con và có thể cứu cả mẹ.

DÂY THANH (ngôn ngữ), hai giải cơ ở thanh quản có thể khép, mở và rung động khi luồng hơi đi qua để tạo ra các loại âm khác nhau.

DÂY THANH ÂM (sinh), đôi nếp gấp của màng nhày căng qua thanh môn của thanh quản. Không khí đi từ phổi ra làm DTÂ rung động, phát ra tiếng nói. Nhờ co rút của thanh quản làm cho DTÂ căng hay chùng mà độ cao của âm thanh thay đổi (x. Thanh quản; Minh quản).

DÂY THẦN KINH (sinh), dây nối liền một trung tâm thần kinh tới một phủ tạng của cơ thể, gồm có các sợi thần kinh góp lại thành bó, ở giữa các mô xơ - mô liên kết. Các DTK bao gồm: các DTK sọ não, các DTK tuỷ sống, các DTK sinh dưỡng (phó giao cảm và giao cảm). Tuỳ theo tác dụng sinh lí, DTK có thể là dây cảm giác hay giác quan, dây vận động, dây bài tiết. DTK ngoại vi thường là DTK hỗn hợp.

DÂY THẦN KINH LƯỠI HẦU (sinh; tk. dây thần kinh sọ IX), đôi dây thần kinh xuất phát từ vùng giữa mặt bụng của hành tuỷ ở động vật có xương sống, đi tới phần sau xoang miệng kể cả lưỡi, chủ yếu mang các sợi thần kinh cảm giác (x. Dây thần kinh sọ).

DÂY THẦN KINH PHẾ VỊ (sinh; tk. dây thần kinh sọ X), đôi dây xuất phát từ mặt dưới hành tuỷ ở não động vật có xương sống rồi toả vào cơ thể tới các nội quan quan trọng. Là dây chính của hệ thần kinh phó giao cảm mang các sợi thần kinh vận động tới tim, phổi, dạ dày, ruột, gan, thận, vv. và chứa các sợi thần kinh cảm giác chạy từ nội tạng tới não (x. Dây thần kinh sọ)

DÂY THẦN KINH PHỤ (sinh; dây thần kinh sọ XI), dây thần kinh xuất phát từ vùng sau mặt bụng của hành tuỷ ở não động vật có xương sống, mang các dây thần kinh vận động và hoà với thần kinh phế vị nằm sát nó. Ở cá và lưỡng thê, DTKP được xem như một phần chung của dây thần kinh phế vị (x. Dây thần kinh sọ)

DÂY THẦN KINH SỌ (sinh), các đôi dây thần kinh xuất phát trực tiếp từ não của động vật có xương sống, đi tới các cơ quan cảm giác và cơ ở phần đầu, nhưng cũng có một số dây như phế vị đi tới một số phần khác của cơ thể. Ở người và động vật có vú, gồm 12 đôi DTKS: khứu giác (I), thị giác (II), vận nhãn chung (III), ròng rọc (IV), tam khoa (V), vận nhãn cầu ngoài (VI), mặt (VII), thính giác (VIII), lưỡi hầu (IX), phế vị (X), thần kinh phụ (XI), dưới hầu (XII).

DÂY THẦN KINH TUỶ SỐNG (sinh), các đôi dây thần kinh xuất phát dọc theo chiều dài tuỷ sống, cách nhau những khoảng nhất định theo từng đốt sống. Mỗi giây nối với tuỷ sống bằng hai rể thần kinh. Rễ sau gồm các sợi dây thần kinh cảm giác, mang một hạch do thân các tế bào cảm giác tạo nên. Rễ trước gồm các dây thần kinh vận động. Ra khỏi tuỷ sống một đoạn ngắn, hai rễ nhập lại thành thân thần kinh., sau đó chia thành các thân nhỏ hơn tới da, cơ và các nội quan ở các vùng của cơ thể. Các thân thần kinh ở vùng chi liên kết lại tạo thành các đám rối thần kinh.

DÂY THẦN KINH VẬN MẠCH (sinh; tk. dây thần kinh sinh dưỡng), các sợi thần kinh của hệ thần kinh sinh dưỡng, điều khiển độ co giãn các mạch máu. truyền các xung thần kinh từ trung khu vận mạch trong hành tuỷ tới các cơ trơn trong thành mạch máu làm nó co lại (sợi thần kinh co mạch) hoặc giãn ra (sợi thần kinh giãn mạch).

DẬY THÌ (giáo dục, y), toàn bộ những thay đổi xảy ra ở người con gái khi bắt đầu có kinh (x. Kinh nguyệt), ở con trai khi các tinh hoàn sản xuất ra tinh trùng; do các hoạt động nội tiết liên quan đến sự hoàn chỉnh quá trình sinh dục phát triển. Có 2 giai đoạn: 1) Trước DT, kéo dài 1 - 2 năm, với dấu hiệu tăng trưởng nhanh về chiều cao. 2) DT chính thức, ở con gái khoảng 13 - 14 tuổi, với dấu hiệu xuất kinh nguyệt lần đầu tiên; con trai chậm hơn 1 - 2 năm, với sự xuất tinh lần đầu vào ban đêm (mộng tinh). Giai đoạn này kéo dài 2 -3 năm. Ngoài các dấu hiệu trên còn xuất hiện các dấu hiệu sinh dục phụ như: con trai mọc ria, vỡ tiếng; con gái tuyến vú phát triển, tiếng nói thanh và dịu dàng hơn. Tính tình thay đổi, dễ xúc động, cả thẹn, hay mơ mộng, vv. mất cân bằng tâm lí tạm thời. DT sớm là DT xảy ra trước 10 tuổi. Tất cả các trường hợp DT sớm đều cần được khám tìm nguyên nhân (có thể có khối u liên quan đến nội tiết). DT muộn là DT xảy ra sau 18 tuổi. Các gia đình cần đặc biệt chú ý đến việc giáo dục con cái lúc bước vào tuổi DT, đây là một bước ngoặt trên con đường phát triển của con người.

DỄ ÁM THỊ (giáo dục), dễ chịu ảnh hưởng của người khác, dễ làm theo những chỉ dẫn, khuyên bảo của họ dù trái với chủ kiến, ý thích, thậm chí trái với lợi ích của mình. Người DAT thường dễ bắt chước, dễ bị lây những tâm trạng, thói quen của người khác. Tính DAT thường có ở trẻ nhỏ, hoặc ở người lớn lúc mệt nhọc, hoang mang, dao động hay bị tổn thương thần kinh, tâm thần.

DI TRUYỀN HỌC (sinh), khoa học về các quy luật di truyền và biến dị của sinh vật và các phương pháp điều khiển chúng. Người đặt nền móng cho DTH hiện đại là Menđen với sự phát hiện tính di truyền không liên tục khi nghiên cứu lai tạo các giống đậu khác nhau (1863) và Mogân với thuyết nhiễm sắc thể của tính di truyền (1910). Trong những năm 50 - 70 thế kỉ 20, với sự phát triển DTH phân tử, người ta đã thu nhận được các dẫn liệu về bản chất hoá học và vị trí cấu trúc của gen, cho phép xây dựng những phương pháp tổng hợp và phân tích chúng (x. Gen). Trong những năm 70 thế kỉ 20, đã xuất hiện một phân ngành mới của DTH là công nghệ di truyền gắn liền với việc chế tạo các tổ hợp gen mới. Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu mà người ta chia DTH thành di truyền thực vật, di truyền động vật, di truyền người, vv. Dựa vào phương pháp sử dụng, lại chia thành các hướng mới là di truyền phân tử, di truyền đột biến, di truyền quần thể, vv.

DI TRUYỀN MIỄN DỊCH (sinh), thuật ngữ do Urbai và Cole đưa ra năm 1936 để chỉ một phần của miễn dịch học, nghiên cứu các điều kiện cơ bản đảm bảo sự di truyền của các yếu tố miễn dịch, di truyền các kháng nguyên như kháng nguyên máu, được phát hiện đầu tiên năm 1910.

DI TRUYỀN TẾ BÀO (sinh), lĩnh vực của di truyền học nghiên cứu quy luật di truyền và biến dị ở mức độ tế bào và chất trong tế bào (củ yếu là nhiễm sắc thể). Cơ sở lí thuyết của DTTB là những luận đề chính của lí thuyết nhiễm sắc thể về di truyền được xây dựng và hình thànhvào đầu thế kỉ 20. Trong thời gian ấy, đã tích luỹ được một số lượng đáng kể các kết quả về hình thái nhiễm sắc thể và các trạng thái của chúng trong hai quá trình phân chia tế bào gián phân và giảm phân. Với các phương pháp hiện đại về DTTB, người ta đã khám phá được những bệnh di truyền của người, động vật và thực vật bằng kĩ thuật nhiễm sắc thể.

DỊ TẬT BẨM SINH (y), biểu hiện hình thức khác thường trong cơ thể của trẻ mới đẻ; thể hiện rõ ra ngoài như không có hậu môn, bàn tay 6 ngón; hoặc không hiện rõ ra ngoài và phải có thầy thuốc khám mới biết được như: tồn tại ống động mạch, thông liên nhĩ, vv. Nguyên nhân: tác động của môi trường sống như bụi , hoá chất, phóng xạ, vv.; các rối loạn chuyển hoá, các bệnh nhiễm khuẩn (rubêôn, vv.), các thuốc nội tiết, các thuốc chống ung thư, các thuốc tránh thai thalidomide, vv. Các dị tật lớn không phù hợp với sự sống thường phát sinh trong 8 tuần đầu của thời kì thai nghén; cần giữ gìn sức khoẻ, tạo một không khí sống thoải mái, yên tĩnh, tránh những bệnh nhiễm khuẩn nhất là nhiễm virut, trong 2 - 3 tháng đầu của thời kì thai nghén.

Dị tật bẩm sinh là tổn thương làm thay đổi hình thái bình thường của tim trong quá trình hình thành thai và xuất hiện ngay từ lúc mới đẻ. Chưa rõ nguyên nhân, nhưng cần lưu ý đến một số yếu tố có khả năng tạo điều kiện cho sự phát sinh các dị tật bẩm sinh: bệnh nhiễm khuẩn ở mẹ trong thời kì mang thai (bệnh rubêôn) nhiễm độc.

DỊ ỨNG (y), phản ứng khác thường của một cơ thể đối với một dị nguyên nào đấy khi tiếp xúc với dị nguyên đó lần thứ hai hoặc sau đó, với biểu hiện rất khác nhau tuỳ người, tuỳ số lần tiếp xúc với dị nguyên và không phụ thuộc vào liều lượng hoặc đường vào cơ thể của dị nguyên. Biểu hiện của DƯ có thể nhẹ (nổi mày đay, hắt hơi, sổ mũi, khó thở kiểu hen), hoặc rất nặng (sốc, trụy tim mạch, có thể chết sau 2 - 3 phút). Khi một người đã bị DƯ (dù rất nhẹ) với một loại thuốc (dị nguyên) nào đó (vd. pénicilline) thì trên nguyên tắc không dùng loại thuốc đó những lần sau. Nếu vì lí do chuyên môn, không thể thay thế được thì phải dùng những phương pháp đặc biệt để phòng tránh DƯ.

DỊ VẬT (y), vật vô tri ở trong cơ thể và trong mọi trường hợp không là thành phần cấu tạo bình thường của cơ thể. DV có thể từ ngoài vào (đạn, mảnh bom, vật nuốt, vv.); hoặc hình thành tại chỗ (DV nội sinh) như sỏi, mảnh xương vụn, vv. Vd. DV tai (hạt thóc, hạt chanh, kiến, ruồi, vv.); DV mũi (viên bi, nút giấy, sỏi mũi); DV họng (xương cá, hạt quả vải, vv.).

DỊ VẬT ĐƯỜNG THỞ (y), dị vật mắc kẹt ở thanh quản, khí quản, phế quản, gặp nhiều nhất ở lứa tuổi 1 - 4 tuổi. DVĐT thường thấy nhất: các loại hạt (lạc, ngô, na, dưa, hồng bì, hồng xiêm, vv.); vỏ tôm, cua, xương cá, mang cá, sữa, cháo, thuốc viên; đinh ghim, cặp ba lá, kim băng, mảnh nhựa, vv.; con tắc te (con đỉa ở suối). Khi rơi vào đường thở, DVĐT gây ho sặc sụa, nghẹt thở, tím tái (cg. hội chứng xâm nhập), có thể chết ngạt ngay. Để lâu gây ra biến chứng rất nguy hiểm. Soi gắp DVĐT sớm, có kết quả tốt. Dự phòng: cho trẻ em từ từ, chậm chạp; cẩn thận trong khi cho trẻ ăn loại thức ăn có hạt, xương, vv.

DỊCH NÃO TUỶ (sinh, y), loại dịch giống như bạch huyết, không chứa huyết cầu và các phân tử lớn, có trong các khoang bên trong và giữa các màngbao bọc của hệ thần kinh trung ương. Nguyên nhân do các đám rối mạch của não thất lọc từ máu và cuối cùng trở lại qua các mạch bạch huyết hoặc vào máu tĩnh mạch. DNT laà chất đệm, bảo vệ các mô thần kinh. Các tính chất vật lí, sinh hoá của DNT khá ổn định, chỉ thay đổi khi có bệnh liên quan. Việc nghiên cứu các thay đổi bệnh lí (áp suất, thành phần hoá học, sinh học) của DNT giúp ích rất lớn cho chuẩn đoán. Vd. trong viêm màng não mủ, DNT sẽ đục vì chứa mủ, đồng thời có thể dùng để nuôi cấy tìm vi khuẩn gây bệnh.

DỊCH THUỶ TINH (sinh), dịch keo bám dính chứa trong khoang phía sau thể thuỷ tinh trong cầu mắt động vật có xương sống. Gồm một mạng mảnh các sợi giống chất tạo keo và giúp cho cầu mắt giữ được hình dạng.

DỊCH TRUYỀN (y), dịch bổ sung cho cơ thể nước, protein, glucozơ, chất điện giải, một số thành phần của máu nhằm phục hồi khối lượng máu lưu thông, chữa rối loạn cân bằng nước - điện giải, cân bằng axit - bazơ, cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể. DT phải đáp ứng các yêu cầu sau: thành phần phải hằng định và đồng nhất; không gây độc cho cơ thể; không mang tiính kháng nguyên; vô khuẩn; không chứa chí nhiệt tố; bảo quản trong thời gian và điều kiện nhất định mà chất lượng không bị giảm, không bị hỏng khi vận chuyển. Đại đa số DT được truyền qua đường tĩnh mạch; một số dung dịch như ngọt đẳng trương, mặn đẳng trương có thể truyền dưới da.

DỊCH VỊ (sinh), loại dịch tiêu hoá do các tuyến vị nằm trong thành dạ dày tiết ra. Chứa hai enzim chính: (pepsin - chất thuỷ phân các protein thành các chuỗi polipeptit ngắn) và rennin (làm đông các cazeinogen thành cazein) và chất nhày (làm thức ăn vận chuyển dễ dàng). Có tính axit. Sự kích thích hoá học, cơ học của thức ăn lên thành dạ dày làm tiết DV và hocmon (gastrin). Hocmon này lưu thông trong máu, kích thích tuyến vị tiết axit clohiđric tạo nên nồng độ axit của dạ dày.

DIỆT VI KHUẨN (y), tiêu diệt hoàn toàn sức sống của vi khuẩn, vd. dùng các kháng sinh pénicilline, céphalosporine, streptomycine, gentamycine, kanamycine. Phân biệt với kìm khuẩn: làm đình chỉ sự phân bào, ngăn cản sự phát triển, làm lão hoá vi khuẩn; chỉ làm chết nếu đủ liều cần thiết; vd. các kháng sinh tétracycline, chloramphénicol, érythromycine, rifamycine.

DINH DƯỠNG (y), khái niệm biểu thị tác động của thức ăn đến cơ thể và phản ứng của cơ thể với chế độ ăn uống, thông thường đồng nghĩa với ăn uống; dùng trong y học với một nội dung rộng hơn, các nguyên tắc nêu thành một hệ thống các quy có tính khoa học về: tổng số năng lượng cho một người trong một ngày; chất lượng và số lượng lương thực, thực phẩm; số lượng lương thực, thực phẩm cho một bữa ăn (kể cả uống), số bữa ăn trong một ngày, khoảng cách giữa các bữa ăn, vv. Xây dựng chế độ DD phải căn cứ vào khả năng và nhịp độ phát triển của nền kinh tế quốc dân, mục tiêu kinh tế - xã hội (mỗi nước có một chế độ ăn chuẩn cho mỗi giai đoạn lịch sử); cơ sở khoa học (vệ sinh lương thực, thực phẩm, sự chuyển hoá thức ăn trong cơ thể, khả năng hấp thu của cơ thể, đào thải khỏi cơ thể, vv.); nhu cầu ăn uống của mỗi người để đảm bảo sự phát triển tốt sức khoẻ, khả năng hoạt động, lao động bình thường, đánh giá cân nặng theo dõi định kì; tập quán sinh sống, tâm lí, khẩu vị của cộng đồng dân cư và mỗi cá nhân, vv. liên quan đến kĩ thuật chế biến lương thực, thực phẩm, kĩ thuật trình bày, môi trường ăn uống. Nếu khẩu phần ăn không thích hợp với nhu cầu về chất DD của cơ thể thì gây ra các bệnh DD: khi quá thừa DD người ta mắc bệnh béo phì hay vữa xơ động mạch; khi quá thiếu (cung cấp không đủ nhu cầu, bệnh của dạ dày, ruột làm cho thức ăn không hấp thụ được đầy đủ) sẽ gây ra bệnh thiếu DD. Các bệnh DD ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và sự phát triển toàn diện của con người (xt. Ăn uống; Chế độ ăn).

DỤC VỌNG (giáo dục) 1. Ham muốn không phù hợp với các chuẩn mực xã hội; còn gọi là "libiđô" (thuật ngữ trong thuyết của Frớt) dùng để chỉ những năng lượng của bản năng sinh dục nhằm vào các đối tượng bên ngoài hoặc bên trong cái "tôi". Con người bình thường có các nhu cầu cơ thể như nhu cầu sống và tồn tại (của bản thân và giống loài). Các nhu cầu đó xuất hiện, biến đổi theo các lứa tuổi, và cần đượ thực hiện theo quy ước chung của xã hội.

2. Ham muốn thoả mãn những nhu cầu vật chất thấp hèn của con người.

DUNG DỊCH MUỐI SINH LÍ (sinh), dung dịch gồm muối ăn và một số loại muối khác dùng để giữ các mô động vật khi đã tách ra khỏi cơ thể ở trạng thái sống trong quá trình thực nghiệm. DDMSL có áp suất thẩm máu và pH tương đương với dịch cơ thể. DDMSL được dùng phổ biến nhất là dung dịch Ringer, ngoài natri clorua còn có chứa các muối clorua của canxi, magie, kali. Các dung dịch khác có thể có thêm chất dinh dưỡng như glucozơ.

DUNG DỊCH RINGER (sinh), hỗn hợp gồm 9 g NaClo. 0,42 g Kclo, 0,25 g CaCl2 trong 1000 ml nước cất. Được dùng để lưu giữ trong khoảng thời gian ngắn các mẫu vật nghiên cứu bằng hiển vi của toàn bộ cơ thể, một cơ quan hay một mô hoặc ở mức tế bào trong trạng thái sống hay còn sống. DDR không làm biến tính các chất của mẫu vật nên có thể quan sát được các quá trình sinh lí liên quan, thống nhất với giải phẫu - hình thái. Trong nghiên cứu các nhóm động vật khác nhau, ngoài DDR người ta còn dùng dung dịch muối khác.

DUNG TÍCH CẶN CHỨC NĂNG (y), thể tích không khí còn lại trong phổi sau một chu kì thở ra bình thường và bằng thể tích dự trữ thở ra cộng với thể tích cặn. Ở người Việt Nam, DTCCN trung bình vào khoảng 1800 ml ở phụ nữ, 2200 ml ở nam giới. Ở những người lao động trí óc hoặc ít vận động , DTCCN thường khá lớn, khí lưu thông mất nhiều thời gian để pha trộn, gây trở ngại cho việc đưa oxi vào tế bào nên dễ cảm thấy mệt mỏi; từng lúc nên hít sâu, thở dài để giúp việc lưu thông khí dễ dàng hơn; tập thể dục giữa giờ là một biện pháp tốt để khắc phục trạng thái này. Ở người có DTCCN càng cao, thời gian cần thiết để gây mê (trong phẫu thuật) càng kéo dài.

DUNG TÍCH PHỔi HÍT VÀO (y), thể tích lớn nhất có thể hít vào sau một lần thở ra bình thường và bằng thể tích lưu thông cộng với thể tích dự trữ hít vào. Ở người Việt Nam, DTPHV trung bình vào khoảng 1500 ml ở phụ nữ và 2000 ml ở nam giới . Về phương diện sinh lí hô hấp, những người làm việc trí óc, ít vận động thường thở ít, lượng khí lưu thông thấp và hay có những thời điểm ngừng thể tự nhiên. Sau một thời gian như vậy, khi trong phế nang lượng oxi giảm và khí cacbonic tăng, trung tâm hô hấp sẽ bị kích thích và sẽ có một phản xạ hít sâu, làm tăng dung tích hít vào, giúp việc thông khí phế nang tốt hơn. Những người thường xuyên luyện tập, có thói quen thở chậm và sâu, dung tích hít vào lớn sẽ ít có cảm giác mệt mỏi sau khi làm việc trí óc lâu dài.

DUNG TÍCH SỐNG (y), thể tích không khí có thể thở ra được khi thở ra hết sức, sau một hơi hít vào hết sức, gồm: thể tích lưu thông , thể tích dự trữ hít vào và thể tích dự trữ thở ra. Ở Việt Nam, lứa tuổi trung bình 25 - 30, DTS trung bình ở nam (có chiều cao 150 - 160 cm) là 2900 - 3200 ml; ở nữ (có chiều cao 145 - 155 cm) là 2100 - 2350 ml. DTS biểu hiện khả năng đưa không khí vào cơ thể của phổi. DTS giảm nhiều khi cơ quan hô hấp có bệnh như các bệnh gây xơ cứng, huỷ hoại nhu mô hoặc màng phổi. Ở người bình thường, tập thể dục và tập thở có khả năng làm tăng DTS rất nhiều. Ở người có bệnh, luyện khí công, tập thở bằng cơ hoành cũng là một biện pháp rất tốt để phục hồi DTS, tăng khả năng hoạt động của cơ quan hô hấp.

DỤNG CỤ TỬ CUNG (y), dụng c dùng để tránh thai có thời hạn được đặt vào trong buồng tử cung lâu dài (ít nhất là hai năm), sau khi tháo, lại vẫn có thể có thai. Cơ chế tránh thai chủ yếu là cản trở trứng làm tổ trong buồng tử cung. DCTC thế hệ một làm bằng chất dẻo có hoặc không cuốn thêm kim loại không gỉ, khép kín; có diện tích tiếp xúc lớn với tử cung. DCTC thế hệ hai cũng làm bằng chất dẻo nhưng không cần diện tích tiếp xúc lớn mà cơ chế tránh thai chủ yếu dựa vàochất kim loại (như đồng) hoặc dựa vào hocmon; thời hạn tác dụng tuỳ thuộc vào hàm lượng đồng hoặc hocmon. Dụng cụ thế hệ hai thường không kép kín (DCTC hở), loại này có dây (đuôi) thò qua lỗ tử cung vào âm đạo để dễ tháo và dễ kiểm tra. Vd. DCTC hình chữ T có đồng (Tcu) (x. Vòng tránh thai).

DƯỢC HỌC (y), khoa học nghiên cứu điều chế thuốc phòng và chữa bệnh. Các môn chính của DH là bào chế, hoá dược, dược liệu và vi sinh - kháng sinh.

DƯỢC LÍ HỌC (y), khoa y sinh học nghiên cứu về thuốc và các chất có tác dụng sinh lí. Hiện nay, trường phái Anh - Mĩ coi DLH đồng nghĩa với dược lực học là khoa học tìm hiểu tác dụng của thuốc trên cơ sở bình thường. Ngoài ra, DLH còn gồm: môn dược điều trị nghiên cứu tác dụng của thuốc trên cơ thể bệnh; môn dược di truyền học tìm hiểu các điều kiện di truyền trong quá trình tác dụng của thuốc trong cơ thể; ngoài ra còn có môn dược lâm sàng; môn dược phân tử; môn dược cảnh giác.

DƯỢC LIỆU HỌC (y), môn học của y học nghiên cứu về dược liệu, bao gồm: mô tả đặc điểm của dược liệu, vi phẫu, phân bố trong nước, bộ phận dùng, chế biến, bảo quản, thành phần hoá học, định lượng hoạt chất chính, tính vị, tác dụng, công dụng, cách dùng, liều lượng, trồng trọt, thu hái.

DƯƠNG VẬT (sinh; penis), cơ quan giao cấu đực của nhiều loài động vật thụ tinh trong như động vật có vú (kể cả người), một số bò sát và động vật không xương sống để đưa tinh trùng vào cơ quan sinh sản của động vật cái. Ở động vật có vú, cả nước tiểu và tinh dịch đều qua niệu đạo trong DV. DV gồm một lớp da và mô liên kết bao quanh ba thể ống cấu tạo từ mô xốp, hai thể hang ở trên chứa máu và một thể xốp ở dưới; niệu đạo nằm ở giữa. DV cương lên khi giao phối.

DƯỠNG BỆNH (y), thời kì bệnh nhân bồi dưỡng và nghỉ ngơi tích cực sau khi khỏi bệnh để chóng bình phục sức khoẻ, theo chỉ định của thầy thuốc. Thời kì DB dài hay ngắn tuỳ bệnh đã mắc, tuỳ tổn thương mà bệnh đã gây ra, tuỳ sức đề kháng và tâm lí của bệnh nhân. Vd. DB sau mổ lao phổi phải lâu hơn so với bệnh viêm phổi thuỳ thông thường. Có một số bệnh phải đặc biệt lưu ý vì bệnh làm giảm sức đề kháng của bệnh nhân, do đó, ngay trong thời kì DB cũng có thể mắc thêm bệnh khác, vd. lao sơ nhiễm ở trẻ em sau bệnh ho gà.

DƯỠNG KHÍ (hoá) x. Oxi.

DƯỠNG SINH (y, y học dân tộc), lối sống theo y học cổ truyền nhằm bảo đảm sự cân bằng trong cơ thể, giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và xã hội, để sống lâu, mạnh khoẻ và có ích. Cơ sở lí luận "bế tinh, dưỡng khí, tồn thần, thanh tâm, quản dục, thủ chân, luyện hình". Có nghĩa là phải giữ gìn, bổ sung và không được làm hao tổn tinh, nuôi dưỡng chức năng, bảo vệ hoạt động tâm thần; muốn vậy phải giữ gìn cho lòng thanh thản, giảm bớt dục vọng cá nhân, giữ gìn tốt các hoạt động sinh lí của cơ thể và luyện tập thân thể. Nội dung đó được thể hiện bằng các phương pháp ăn uống điều độ, luyện thở, luyện thư giãn; tự xoa bóp day bấm huyệt; vận động các khớp ở mức tối đa; biết cách lao động và nghỉ ngơi; có thái độ tâm thần đúng trong cuộc sống; vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường.

DƯỠNG TRẤP (sinh), dịch màu trắng sữa được dạ dày tiết ra có nhiều colesteron và triglixerin hấp thụ từ ruột non do tiêu hoá mỡ. DT cũng chứa protein như dịch bạch mạch. DT được chứa trong ống DT rồi đổ vào ống bạch mạch ngực để vào máu nuôi dưỡng cơ thể.

DỊCH TRẤP NIỆU (y), nước tiểu đái ra có dưỡng trấp, trắng như sữa hoặc nước vo gạo. Nước tiểu có nhiều dưỡng trấp để lâu trong ống nghiệm sẽ đông lại như thạch. Cũng có khi nước tiểu có lẫn máu và dưỡng trấp gọi là máu dưỡng trấp. Đái dưỡng trấp là do ống bạch mạch bị thông với bể thận. Chủ yếu do mắc bệnh giun chỉ. Phải điều trị tận gốc nguyên nhân DTN giun chỉ, điều trị chứng đái ra dưỡng trấp bằng phẫu thuật.

ĐÁI BUỐT (y), đái đau với cảm giác nóng rát, rất khó chịu và tăng lên vào cuối mỗi lần đái; là biểu hiện của viêm thận kẽ, niệu đạo và bàng quang ở trẻ em (sỏi bàng quang, vv.), ở người lớn (lậu, vv.). Thường kèm theo đái rắt (xt. Đái rắt).

ĐÁI DẦM (y), đái lúc đạng ngủ, thường về ban đêm, tự mình không biết là mình đái hoặc có khi vừa ĐD lại nằm mơ thấy mình đang đi đái; thường gặp ở trẻ em 3 - 10 tuổi. Nguyên nhân do yếu tố thần kinh. Sẽ hết lúc trẻ lớn khoảng 10 tuổi. Có thể đề phòng bằng cách giữa giấc ngủ đánh thức trẻ dậy đi đái. Có thể là biểu hiện của bệnh ở bàng quang. Trong một số trường hợp, châm cứu cho kết quả tốt.

ĐÁI ĐÊM (y), đái vào ban đêm, biểu hiện của tình trạng giảm chức năng thận do viêm cầu thận mạn tính hay bệnh thận người già, do tuyến tiền liệt to, dễ kích thích đái vặt (vào ban đêm), hoặc do bệnh huyết áp tăng. Người bị mất ngủ, ngủ không say, thần kinh căng thẳng, bệnh tăng huyết áp cũng có tật ĐĐ.

ĐÁI ÍT (y; cg. giảm niệu), đái một ngày dưới 500 ml nước tiểu (ở một người lớn ăn uống bình thường, lượng nước tiểu bài tiết cả ngày đêm vào khoảng 1 - 1,5 l). Nguyên nhân: uống không đủ nước, toát mồ hôi quá nhiều; làm việc ở môi trường nóng, nhiệt độ cao; ỉa chảy mất nước, suy thận cấp hoặc mạn tính, vv. Cần tránh tình trạng sợ đi đái (phụ nữ sinh hoạt ở nơi đông người, thiếu nhà vệ sinh), hoặc giảm lượng nước uống để đái ít.

ĐÁI NHIỀU (y; cg. đa niệu), đái một ngày quá 2000 ml nước tiểu. ĐN khác với đái nhiều lần, nhưng số lượng mỗi lần ít (cả ngày không quá 1500 ml). Nguyên nhân: uống quá nhiều (bia, nước ngọt, vv.); đái tháo nhạt; đái tháo đường; sỏi ở thận được truyền nhiều dịch, dùng các thuốc lợi tiểu, một số trường hợp viêm cầu thận giai đoạn đầu hoặc cuối, vv.

ĐÁI RA MÁU (y), đái ra nước tiểu có lẫn máu với lượng máu nhiều hay ít tuỳ theo nguyên nhân bệnh. ĐRM có thể rõ rệt, thấy được bằng mắt thường (máu đỏ, có cục máu đông, fibrin), hoặc phải soi kính hiển vi mới khẳng định được; ĐRM có thể ở phần đầu, ở cuối của dòng nước đái, ở toàn bộ dòng nước đái. Cần tránh nhầm lẫn với nước tiểu đỏ do uống một số thuốc làm đỏ nước tiểu; do máu ở đường sinh dục lẫn vào nước đái (ở phụ nữ). ĐRM có thể là một dấu hiệu đơn độc hoặc có thể kèm theo nhiều triệu chứng khác: cơn đau quặn, đái đau, đái rắt, sốt, vv. ĐRM là một dấu hiệu dễ làm cho bệnh nhân lo lắng, băn khoăn, thường không đòi hỏi phải cấp cứu ngay. Nghỉ ngơi yên tĩnh, dùng một ít thuốc theo chỉ dẫn của thầy thuốc thì ĐRM sẽ ngừng lại, nhưng điều căn bản là tìm được nguyên nhân (viêm đường tiết niệu, chấn thương, sỏi, lao, ung thư, vv.), đôi khi phải cấp cứu như trong chấn thương thận (ĐRM ồ ạt, liên tục). Y học cổ truyền phân ĐRM làm 2 thể:

1.ĐRM do hạ tiêu có nhiệt: bứt rứt khó ngủ, mặt đỏ, khát nước, mạch sác. Có thể dùng bài thuốc: sinh địa 20 g, mộc thông 16 g, cam thảo 8 g, trúc diệp 20 g, cỏ nhọ nồi 20 g.

2.ĐRM do tì thận bị thương tổn: ăn uống kém, mệt mỏi, mạch vô lực. Có thể dùng: hoài sơn 40 g, thỏ ti tử 40 g, liên nhục 40 g, ngưu tất 20 g, trắc bách diệp sao cháy 20 g, cỏ nhọ nồi sao đen 20 g, tiểu hồi 16 g, hoa mã đề sao 20 g, cao quý lộc 40 g, mật ong 1lít. Cách làm: cao quý lộc cho vào mật ong, đem cô cho tan cao; các vị thuốc khác sấy khô, tán mịn cho vào một ong luyện làm hoàn, mỗi hoàn 2 g; ngày uống 3 lần, mỗi lần 6 hoàn.

ĐÁI TA MỦ (y), đái ra nước tiểu có lẫn mủ. Nước tiểu vẩn đục, đục lờ hoặc như nước vo gạo; để lâu cặn đục có thể lắng ở dưới; có thể khẳng định ĐRM khi soi kính hiển vi thấy nhiều bạch cầu đa nhân và bạch cầu thoái hoá. Cần phân biệt ĐRM với đái ra dưỡng trấp (trong bệnh giun chỉ), chảy mủ niệu đạo (bệnh lậu, vv.). Thường gặp ĐRM trong viêm bàng quang (do tạp trùng, lao, vv.), viêm mủ bể thận (có thể ĐRM gián cách), vv.

ĐÁI RẮT (y) tăng quá mức số lần đái, nhưng không nhất thiết đi đôi với tăng khối lượng nước tiểu trong 24 giờ và gây cảm giác như còn sót nước tiểu sau mỗi lần đái, và lại muốn đái tiếp. Là dấu hiện của bệnh viêm thận kẽ hoặc bệnh của tuyến tiền liệt bàng quang.

ĐÁI THÁO ĐƯỜNG (y), bệnh rối loạn chuyển hoá đường: cơ thể mất khả năng tích luỹ glucôzơ (đường) dưới thể glucôgen, đường sẽ tăng trong máu và bài tiết ra nước tiểu. Nguyên nhân chưa thật rõ, có khi là so di truyền, có khi là do mắc phải. Cơ chế gây bệnh: thiếu hocmon (insuline) thường xảy ra ở người còn trẻ tuổi, tuỵ nội bị phá huỷ, có thể do các kháng thể tự miễn sinh ra sau nhiễm virut trên một cơ địa di truyền thận lợi; xảy ra ở người có tuổi, insuline được tiết ra bình thường, nhưng không được các tế bào tiếp nhận và sử dụng. Các triệu chứng: ba dấu hiệu lâm sàng (ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều); hai dấu hiệu hoá sinh (tăng glucôzơ huyết, glucôzơ niệu). Các biến chứng: nhiễm khuẩn (lao phổi, nhiễm tụ cầu như nhọt, đinh râu, hậu bối, vv.); các biến chứng thoái hoá (xơ vữa động mạch, viêm thận, biến chứng mắt có thể gây mù như viêm võng mạc, đục thể thuỷ tinh); nhiễm axit, nhiễm độc thần kinh, hôn mê, vv. Chữa bệnh theo hướng dẫn của thầy thuốc (insuline, sulfamide hạ đường, chế độ ăn uống, vv.).

Y học cổ truyền gọi ĐTĐ là tiêu khát. Thường chia làm ba thể: thể phế nhiệt ở thượng tiêu chủ yếu là uống nhiều và đái nhiều; thể vị nhiệt ở trung tiêu chủ yếu là ăn nhiều, gầy, ỉa táo; thể thận hư ở hạ tiêu, chủ yếu là đái nhiều lần, nước tiểu nhiều. Cả ba thể có chung đặc điểm là âm hư táo nhiệt. Vì vậy trong điều trị thường dùng thuốc tá âm: sinh địa, mạch môn, thiên môn, thục địa; thuốc thanh nhiệt: hoàng tiên, hoàng cầm, chi tử, thạch cao, tri mẫu.

ĐÁI THÁO NHẠT (y), bệnh rối loạn chuyển hoá nước do thiếu hocmon chống đái ADH (vasopressin, pituitrine), làm cho nước không được hút trở lại ở phần cuối của ống thận nên để cho thận thải rất nhiều nước. Nước tiểu loãng, tỉ trọng giảm nhưng các thành phần cấu tạo không thay đổi. Nguyên nhân: một thương tổn ở vùng não trung gian - tuyến yên (khối u, nhiễm khuẩn, chấn thương, vv.); có 2/3 số trường hợp không rõ nguyên nhân. Dấu hiệu: uống nhiều do khát nước dữ dội, mỗi ngày uống từ 10 đến 20 lít, kể cả ban đêm; đái nhiều, bệnh nhân bài tiết gần như hết cả nước uống vào, trung bình 15 - 20 l/ngày, có khi hơn; gầy do khó ăn, kém ngủ, vv. Chữa bệnh theo hướng dẫn của thầy thuốc (pituitrine, điều trị nguyên nhân).

ĐAU CƠ (y), cảm giác đau ở một hoặc nhiều cơ, nhưng không có hiện tượng viêm. Nguyên nhân: sinh lí (lao động nặng, luyện tập và thi đấu quá sức); chấn thương cơ; bệnh lí (nhiễm khuẩn, bệnh toàn thân, bệnh tại cơ). Điều trị tuỳ theo các nguyên nhân. Có thể xoa bóp tay không hoặc với các loại cao xoa.

ĐAU DÂY THẦN KINH (y), đau dọc theo đường đi của một dây thần kinh hoặc do nó chi phối. Đau có thể liên tục hoặc thành cơn, đau khi ấn lên dây ở những điểm ở nông. ĐDTK có thể do viêm nhiễm, chấn thương hoặc chèn ép. Thường gặp nhất là ĐDTK liên sườn, cánh tay và dây thần kinh hông. Điều trị: thường dùng các thuốc giảm đau, vitamin nhóm B, châm cứu, chờm nóng, vv.

ĐAU ĐẦU (y) (nhức đầu), đau vùng sọ lan toả hoặc khu trú tại một vùng, một bên đầu, đau liên tục hoặc theo từng cơn, từng thời điểm. Đau có thể tăng lên do các kích thích từ bên ngoài (ánh sáng, tiếng động, sự rung chuyển, vv.), hoặc bên trong (do cảm xúc, lao động trí óc), do làm việc quá sức. ĐĐ là một triệu chứng có thể gặp trong rất nhiều bệnh, từ bệnh thông thường nhất như sốt cao đến các bệnh nội khoa (tăng huyết áp, nhiễm khuẩn, nhiễm độc, dị ứng, vv.), các bệnh tâm thần, thần kinh (não, màng não, tăng áp lực nội sọ, chấn thương, vv.), các bệnh tai mũi họng, mắt, răng hàm mặt; cũng có thể không có nguyên nhân. Trước một trường hợp ĐĐ, thầy thuốc thường phải điều tra tỉ mỉ về hoàn cảnh xuất hiện, tính chất, cường độ vùng đau, thời gian, các dấu hiệu kèm theo (nôn, mờ mắt, vv.), để xác định bệnh, nguyên nhân dẫn đến ĐĐ.

ĐAU ĐẺ (y), cảm giác đau từng cơn đi kèm với các cơn co tử cung trong khi chuyển dạ đẻ. Trong chuyển dạ đẻ thường, lúc bắt đầu cơn co thưa (2 cơn co trong 10 phút), sau mau dần lên đến 4 cơn co trong 10 phút vào lúc cổ tử cung mở hết và ngôi thai đã xuống. Giai đoạn cuối, khi thai gần sổ, cơ co lên đến 5 lần trong 10 phút và lúc này theo phản xạ,sản phụ phối hợp với cơn co tự nhiên bằng những cơn rặn (chủ động co cơ thành bụng) để thúc thai ra ngoài. Rặn đẻ bình thường không bao giờ quá 30 phút tức là 15 lần rặn xen kẽ với những thời gian nghỉ. Trong trường hợp bất thường, tử cung co thắt gây đau liên tục, có thể gây choáng và thai có thể bị ngạt vì thiếu oxi - máu. Ở một số trường hợp, sản phụ không có cảm giác đau mà chỉ thấy mỏi hoặc sút lưng. Trước khi đẻ khoảng 2 - 3 tuần, nếu được chuẩn bị kĩ, hướng dẫn chu đáo, hiểu về cơ chế cơn co tử cung và biết thư giãn đúng lúc, có thể giảm đau hoặc không đau (thực hiện đẻ không đau). Có thể dùng châm cứu để giảm ĐĐ. Dùng huyệt Tâm âm giao để điều hoà co bóp của thân tử cung; Thái xung hoặc Hành gian để làm mềm tử cung. Kích thích huyệt bằng vê kim hoặc xung điện. Sau 10 phút có thể giảm đau. tiếp tục lưu kim đến khi đẻ xong. Trong quá trình đẻ, nếu đau nhiều lại kích thích như trên.

ĐAU KHỚP (y), cảm giác đau ở khớp và phần mềm của bao khớp. Có ĐK sinh lí và ĐK bệnh lí. ĐK sinh lí thường gặp ở lứa tuổi đang lớn (còn gọi là đau phát triển) hoặc sau lao động nặng, luyện tập, thi đấu thể thao. ĐK bệnh lí có thể do bệnh tại khớp như chấn thương khớp, nhiễm khuẩn khớp (viêm đa khớp dạng thấp, gút, lao khớp, viêm khớp do lậu, tụ cầu tạo mủ, giang mai, vv.), hoặc do các bệnh không tại khớp như suy nhược thần kinh, rối loạn chuyển hoá, thiếu máu, bệnh bạch cầu, ưa chảy máu, nhiễm khuẩn, nhiễm virut, các bệnh hệ thống (luput ban đỏ, xơ cứng bì). ĐK bệnh lí sẽ dẫn tới mất chức năng khớp. Cần điều trị sớm theo nguyên nhân và phục hồi chức năng tích cực, tránh mất chức năng khớp. Y học cổ truyền gọi chứng đau nhức cơ khớp là chứng tí và thường chia làm 2 thể lớn: phong hàn thấp tí do phong hàn thấp thừa lúc cơ thể nhất thời suy yếu cùng vào kinh mạch làm tắc gây đau; nhiệt tí hoặc do phong hàn thấp hoá nhiệt hoặc do nhiệt xâm nhập vào kinh mạch gây sưng, nóng đỏ, đau ở nhiều khớp. Trong chữa bệnh thường dùng châm cứu huyệt nằm trên đường kinh đi qua nơi đau, huyệt A thị; nếu có sưng hoặc ứ nước ở khớp dùng cách châm chích nặn máu 4 huyệt xung quanh nơi sưng ứ nước (x. Thuốc chữa phong thấp).

ĐAU LƯNG (y), chứng đau vùng thắt lưng do nhiều nguyên nhân: hư khớp đốt sống, tổn thương đĩa đệm, co cứng cơ (nguyên nhân phổ biến); thường bắt đầu từ tuổi trung niên, là hậu quả của lao động nặng, tư thế không thuận do thói quen hoặc dị tật (gù, vẹo); ít hoạt động thể lực. Bệnh kéo dài âm ỉ, thỉnh thoảng trội lên một động tác gắng sức đột ngột hoặc mệt mỏi, nhiễm lạnh. Những đợt ĐL cấp làm bệnh nhân phải nằm bất động, có thể kéo dài tới 10 - 15 ngày. Ngoài việc điều trị nội hoặc ngoại khoa, còn kết hợp châm cứu và liệu pháp vận động . Vận động còn có mục đích dự phòng: tập các vùng cơ lưng, nhất là đối với những người lao động nặng, ít vận động đối với người có dị tật cột sống (vd. gù); cần hợp lí hoá các thao tác, tư thế lao động. Nhiều bệnh cột sống khác có thể gây ĐL, nhưng ít gặp hơn (viêm cột sống dính khớp, lao u, vv.). Trong các bệnh hệ niệu - sinh dục ở cả hai giới; đều có thể có triệu chứng ĐL, đôi khi là triệu chứng đầu tiên của bệnh (sỏi thận, niệu quản, viêm thận mạn, bệnh tử cung, vòi trứng, hành kinh, có thai, vv.).

ĐAU QUẶN (y), đau ở bụng do các cơn co bóp những tạng rỗng và xuất hiện thành từng cơn; có khi đau ở vị trí cố định, có khi đau di chuyển. Trong bệnh kiết lị, ĐQ hay đi kèm với mót rặn.

ĐAU THẮT NGỰC (y; cg. cơn đau thắt vùng trước tim hay cơn ĐTN), những cơn đau nhói sâu trong ngực do động mạch vành tim bị co thắt đột ngột gây thiếu máu cơ tim. Yếu tố chính gây ra co thắt động mạch vành tim là sự rối loạn chức năng của hệ thần kinh điều khiển việc tiếp tế máu nuôi cơ tim. Kinh nghiệm lâm sàng cho biết: sự căng thẳng, mệt mỏi quá mức về tâm thần, nhất là sự ức chế thần kinh, sự chịu đựng quá sức và nặng nề về nội tâm thường là những yếu tố dẫn tới sự co thắt đột ngột động mạch vành tim và từ đó phát sinh ra các cơn đau co thắt vùng trước tim. Trong phần lớn các trường hợp, sự xuất hiện các cơn đau co thắt vùng trước tim xảy ra do sự thiếu máu cơ tim tương đối so với tình trạng sinh lí của bệnh nhân lúc đó, vd. lúc nghỉ ngơi yên tĩnh hoàn hoàn về thể xác và tâm thần, mỗi phút cơ tim nhận được 300ml, nếu số máu đó chỉ đạt tới 250 ml thì sẽ xảy ra tình trạng thiếu máu cơ tim tương đối; còn khi làm việc gắng sức, cơ tim sẽ nhận được khoảng 2000 ml mỗi phút, trong trường hợp đó, thiếu máu cơ tim sẽ xảy ra khi lượng máu tiếp tế cho cơ tim chỉ đạt tới 1950 ml. Cơ chế phát sinh ra cơn đau vùng trước tim thường được giải thích như sau: các đầu dây thần kinh hướng tâm của cơ tim đang làm việc bị kích thích bởi các sản phẩm không bình thường (cả về chất lượng và số lượng) của quá trình chuyển hoá các chất không hoàn toàn do tình trạng thiếu máu nuôi dưỡng cơ tim gây ra. Cơn ĐTN biến đi rất nhanh khi sự nuôi dưỡng cơ tim được phục hồi lại đầy đủ nhờ sử dụng kịp thời các thuốc dãn động mạch vành tim như papaverine, validol, nitroglycérine, vv.

ĐAU TIM (y), danh từ dùng trong nhân dân để chỉ bệnh tim một cách chung chung, không nói rõ được là bệnh gì, dựa trên một số cảm giác cơ năng như đau nhói vùng tim, tức ngực bên trái, khó thở lúc làm một động tác mạnh, chóng mặt, vv.

ĐIỆN CHÂM (y) x. Châm cứu.

ĐIỆN NÃO ĐỒ (y; tk. ghi điện não), đồ thị nghiên cứu hệ thần kinh dựa vào kĩ thuật ghi những dòng điện sinh học xuất hiện trong não sống. Các điện cựu ghi thường đặt tiếp xúc với da đầu. Khi mổ não, có thể đặt điện cực trực tiếp lên vỏ não hoặc đưa vào sâu hơn nữa. Hiện nay, đã có các máy ghi điện não hiện đại, nhờ đó người ta có thể nghiên cứu tới hàng chục dòng điện não khác nhau. Dựa vào các đặc trưng và sự biến thiên của mỗi dòng điện và so sánh chúng với nhau, người ta có thể rút ra những thông tin cần thiết về sinh lí, bệnh lí thần kinh để đặt chuẩn đoán, tiên lượng hoặc nghiên cứu khoa học. ĐNĐ là một xét nghiệm hoàn toàn không đau và không nguy hiểm cho bệnh nhân.

ĐIỆN SINH HỌC (sinh), điện thế phát sinh trong các hệ thống sống do các quá trình lí, hoá, phân chia thành các điện tích dương và âm. Có các dạng chủ yếu: điện thế nghỉ của tế bào thần kinh, tế bào cơ; điện thế hoạt động; điện thế hưng phấn và ức chế sau synap. Ngoài ra còn có những hiện tượng còn ít được nghiên cứu như dao động chậm của điện thế màng các tế bào thần kinh, màng cơ tim và một số tế bào thực vật. Điện tim, điện não, điện cơ là những dạng ĐSH. ĐSH đang được dùng rộng rãi trong lâm sàng để chuẩn đoán và điều trị bệnh, cũng như trong nghiên cứu chức năng các cơ quan.

ĐIỆN TÂM ĐỒ (y), biểu đồ những dãy sóng dao động thay đổi về điện thế diễn ra trong chu kì hoạt động của cơ tim. Phát hiện được bằng cách cho điện cực áp vào da (thường ở tay hoặc chân), được ghi bằng dao động kế hoặc thiết bị tương tự (máy ghi điện tim) đặc trưng. Hiện tượng sai lệch với mẫu bình thường có thể cho biết những rối loạn về tốc độ và nhịp tim, nhồi máu cơ tim.

ĐOPING (thể thao; A. Doping), sử dụng những chất và những biện pháp nhằm tăng trạng thái thể lực hoặc tâm lí của vận động viên trước hoặc trong lúc thi đấu. Đ coi là vi phạm tinh thần thể thao chân chính, có hại cho vận động viên về thể chất, tâm lí. Các nhóm chất và dẫn xuất nghiêm cấm: chất kích thích (stimulans); chất dịu đau và gây ngủ (narcotics and analgesics); steroide đồng hoá (suabolic steroide); chất phong bế bêta (bêta - blockers); chất lợi tiểu (diuretics); các hocmon peptit và các chất tương tự (peptid hormones and analogues). Các chất cấm đặc biệt: gonađotrophine màng đệm (human chorioruc gonadotrophine): corticotrophine (ACTH), hocmon lớn (growth - hormone). Các phương pháp D máu (blood doping) làm biến đổi nước tiểu về vật lí, hoá học và dược lí học nhằm phá hoại sự toàn vẹn về giá trị các mẫu nước tiểu đem kiểm tra Đ. Chất hạn chế sử dụng: rượu, cần sa (marijuana); các chất gây tê tại chỗ; các corticosteroide. Những vận động viên bị phát hiện sử dụng Đ có thể bị kỉ luật, tước bỏ danh hiệu thể thao đã giành được, đình chỉ có thời hạn hoặc vĩnh viễn tham gia thi đấu thể thao.

Việc kiểm tra Đ lần đầu tiên được tiến hành sau cuộc đua xe đạp tại Pháp 1955. Năm 1967, Tiểu ban y học của IOC đã quyết định cấm sử dụng các chất kích thích, các chất gây ngủ. Danh mục các chất bị cấm được bổ sung và phổ biến rộng rãi. Chống Đ là biện pháp nhân đạo, là một hoạt động lớn của IOC, được tất cả các thành viên của IOC ủng hộ trên cơ sở phê phán chủ nghĩa thực dụng - chạy theo danh hiệu và tiền thưởng trong thi đấu thể thao. Marađôna (TBN. Diego Maradona), cầu thủ bóng đá lừng danh thế giới, bị phát hiện sử dụng Đ nên đã bị loại khỏi cúp vô địch bóng đá thế giới 1994 (World Cup USA 94).

ĐỘC TÍNH (nông, sinh, y), tính gây độc của một chất, chủ yếu đối với người và động vật máu nóng. ĐT được chia ra các dạng: 1) Độc cấp tính: chất độc xâm nhập vào cơ thể gây nhiễm độc tức thì, kí hiệu LD50 (letal dosis 50), biểu thị lượng chất độc (mg) đối với 1 kg trọng lượng cơ thể có thể gây chết 50% các thể vật thí nghiệm (thường là chuột hoặc thỏ). LD50 khác nhau tuỳ loại chất độc, con đường xâm nhập (qua miệng, qua da...) vào vật thí nghiệm. Nếu chất độc lẫn với không khí (hơi độc, hay ở trong nước), thì được kí hiệu LC50 (letal concentration 50) biểu thị lượng chất độc (mg) trong 1m3 không khí hoặc 1 lít nước có thể gây chết 50% cá thể thí nghiệm. LD50 và LC50 càng thấp chứng tỏ độ độc cấp tính càng cao. 2) Độc mạn tính (cg. độc thường diễn) chỉ khả năng tích luỹ chất độc trong cơ thể, khả năng gây đột biến, gây ung thư hoặc quái thai, dị dạng. Nếu thường xuyên làm việc nơi có chất độc (xưởng hoá chất, xử lí chất phế thải, sản xuất và phun thuốc trừ sâu, vv.), thì cần làm đầy đủ quy trình bảo hộ lao động, quy định kiểm tra độ độc nơi làm việc và khám sức khoẻ thường xuyên.

Ngoài việc nhiễm độc do trực tiếp hấp thụ chất độc, còn do bị môi trường sống gây nên như đất, không khí, nguồn nước sinh hoạt có chất độc hoặc dùng các nông sản, thực phẩm có chất độc tồn tại. Để bảo vệ an toàn cho người, gia súc và môi trường, các tổ chức thế giới và quốc gia đã có những quy định chi tiết và chặt chẽ về sản xuất, lưu thông, sử dụng các chất có khả năng gây độc, phân cấp các chất độc và quy định cách dùng, tiêu chuẩn không khí, đất và nước sinh học, xử lí chất thải công nghiệp, mức dư lượng tối đa cho phép về chất độc trong lương thực, thực phẩm, vv.

Trong luật bảo vệ sức khoẻ của Việt Nam (1991) có những quy định về sử dụng, lưu thông, chế biến các chất gây độc, xử lí các chất thải, vệ sinh lương thực, thực phẩm, vv.. mặc dù còn cần có nhiều hướng dẫn chi tiết hơn nữa mới đầy đủ (x. Chất độc).

ĐỘC TỐ (hoá), chất độc tiết ra từ sinh vật hay vi sinh vật. Phân biệt: 1) ĐT thực vật: chất độc chứa trong rễ, thân, lá, hoa... vd. stricnin trong cây, mã tiền. 2) ĐT thực phẩm: thường do các vi sinh vật trong thực phẩm tiết ra, vd. các loại aflatoxin trong lạc. 3) ĐT động vật: tiết ra từ rết, ong, bò cạp, các loại bò sát (vd. rắn độc). Tuỳ thuộc vào liều lượng mà trong một số trường hợp một chất có thể là ĐT hoặc là chất kích thích có tác dụng cũng bệnh., vd. nọc rắn là ĐT những với lượng nhỏ lại là thuốc chữa bệnh. ĐT vi khuẩn khác các chất độc thông thường. ĐT do vi khuẩn tiết ra vào môi trường xung quanh gọi là ngoại ĐT, khác với nội ĐT trên thân vi khuẩn.

ĐÔNG MÁU (sinh, y), hiện tượng máu từ thể lỏng trở thành thể đặc khi thoát ra ngoài cơ thể (vd. qua vết thương rách da và các phần mềm, vv.), là hiện tượng sinh lí phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố ĐM, mà sự rối loạn dẫn đến những bệnh chảy máu, hoặc di truyền hoặc mắc phải. Thường gian ĐM bình thường là từ 5 đến 7 phút. Lấy một khối lượng máu cho vào một ống nghiệm, máu từ thể lỏng trở thành thể đặc và sau đó co lại, chia ra làm 2 phần: phần đặc lắng ở đáy ống nghiệm gọi là cục ĐM, gồm có fibrin, các huyết cầu, vv.; phần dịch trong nổi lên trên cục ĐM gọi là huyết thanh.

Các bệnh máu làm thay đổi quá trình diễn biến ĐM: thời gian ĐM có thể kéo dài (trên nửa giờ); có khi cục đông không hình thành, không co, vv. Quan sát thời gian máu đông và hình thành cục đông cho thấy dấu hiệu của một số bệnh máu, vd. trong bệnh dễ chảy máu (hémophilie) máu đông chậm, thời gian ĐM kéo dài; trong bệnh sinh chảy máu (hémogénie) ngoài thời gian chảy máu kéo dài, cục đông không hình thành, vv.

ĐỒNG DÂM (y) x. Đồng tính luyến ái.

ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI (y), quan hệ luyến ái, tình dục giữa những người cùng giới tính, đều có bộ phận sinh dục phát triển bình thường. Trên thực tế thường gặp ĐTLA giữa nam với nam, ít gặp ở nữ hơn. ĐTLA tồn tại từ lâu ở các nước phương Tây, có nơi được chấp nhận như hợp pháp. Gần đây, được dư luận xã hội chú ý vì là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây lan tràn AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải).

ĐỐT SÁN (sinh; proglottis), một trong vô số các đốt cơ thể của sán dây. Các đốt chín sinh dục ở phần sau cơ thể có kích thước lớn và là cơ quan sinh sản phát triển đầy đủ. Các đốt đẫy sức ở sau cùng chứa rất nhiều trứng với phôi phát triển thường bị đứt tách ra khỏi cơ thể và theo phân ra ngoài cơ thể vật chủ. Khi trứng này được vật chủ trung gian ăn phải và nuốt vào ruột, chúng sẽ nở ra ấu trùng và tiếp tục chu kì phát triển (x. Sán dây).

ĐỐT SỐNG (sinh), các xương (hoặc sụn) tạo nên cột sống ở động vật có xương sống. Mỗi ĐS có cấu tạo điển hình gồm: thân ĐS ở phía bụng; cung ĐS ở phía lưng, có lỗ chứa tuỷ sống (ống não tuỷ). Từ cung ĐS có các mấu khác nhau để cho cơ bám. Cấu trúc này biến đổi tuỳ theo các khu vực khác nhau. Ở vùng cổ, các ĐS nhỏ tạo nên cột sống rất sinh động. Ở động vật có vú có 7 ĐS cổ: đốt thứ nhất (đốt đôi), đốt thứ hai (đốt trục) có cấu tạo đặc biệt. ĐS cổ thứ nhất hình nhẫn, tiếp xúc trực tiếp với họp sọ. Ở bò sát, chim, động vật có vú, đầu trên của ĐS cổ thứ nhất khớp với sọ cho phép đầu cúi xuống và ngẩng lên, đầu dưới khớp với ĐS thư hai để cho đầu quay vòng. ĐS cổ thứ hai là đốt sống dài nhẩt trong các ĐS của cột sống. Ở bò sát, chim và động vật có vú, đốt này có mấu răng với diện khớp nhỏ ứng với vành cung trước của ĐS cổ thứ nhất tạo thành trụ để quay đầu. Đặc điểm đặc trưng của ĐS cổ là có lỗ ĐS tương đối lớn. ĐS nằm ở vùng lưng trên là ĐS ngực. Mỗi bên đều có diện khớp ở hai bên thân đốt và ở u lồi bên ở khớp với các đầu trên của đôi xương sườn. Ở người, có 12 ĐS ngực, ĐS nằm ở phía dưới của cột sống giữa phần ngực và phần cùng là ĐS thắt lưng. Ở động vật có vú, có 5 ĐS thắt lưng, có các gai ngang lớn là chỗ bám cho cơ. ĐS rộng và chắc chắn giữa vùng thắt lưng và vùng xương cụt gọi là ĐS cùng. ĐS cùng khớp với khung chậu ở động vật bốn chi; ở lưỡng cư chỉ có một; ở bò sát, chim, động vật có vú có hai hoặc nhiều hơn. Các ĐS bảo vệ cho tuỷ sống ở vùng đuôi là ĐS đuôi. Vì phần chóp đuôi bị thoái hoá, nên các ĐS đuôi không có đặc điểm chung của ĐS của động vật có xương sống. Các đốt sống này chỉ có phần thân đốt hình trụ. Ở người và các động vật linh trưởng, các ĐS đuôi thoái hoá và hợp lại thành xương cụt.

ĐỘT BIẾN (sinhl mutatio), những biến đổi gián đoạn, nhảy vọt của tính di truyền, ảnh hưởng một cách nhất định lên các tính trạng. ĐB cung cấp nguyên liệu cho chọn lọc tự nguyên trong quá trình tiến hoá. Mọi biến đổi đó đều do khả năng tái tạo trên cơ sở sao chép của gen. Theo đặc điểm phát sinh, ĐB được phần thành: ĐB tự nhiên (ĐB ngẫu nhiên) và ĐB nhân tạo (ĐB thực nghiệm). Về biểu hiện di truyền , ĐB có thể trội (xuất hiện ở trạng thái dị hợp tử và bị phân li trong thế hệ tiếp theo) và ĐB lặn biểu hiện khi gen ĐB ở trạng thái đồng hợp tử. Dựa vào đặc điểm tính trạng hay tính chất chịu sự kiểm soát của gen ĐB, người ta phân biệt ĐB hình thái, ĐB sinh lí, ĐB hoá sinh. Dựa vào ảnh hưởng tương đối lên khả năng sống, mức sinh sản, chia ĐB thành: ĐB có ích, ĐB trung tính, ĐB có hại và gây chết (nếu ĐB kèm theo sự chết). ĐB có nhiều ứng dụng trong chọn giống động, thực vật và vi sinh vật: tạo ra các sinh vật có sức chống chịu sâu hại, thay đổi sức sinh sản, tính miễn kháng với các chất độc, phản ứng với điều kiện môi trường như nhiệt độ; thay đổi sinh hoá học hoặc hình thái học quần lạc, năng suất; sản sinh ra các chế phẩm sinh học của vi sinh vật. Ở người, các ĐB có thể làm thay đổi hình thái, hoá sinh, cử chỉ, trí thông minh, một số dạng về khiếu thẩm mĩ (nặng khiếu về âm nhạc, hội hoạ, trí nhớ, vv.)

ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NHIỄM SẮC THỂ (sinh), các đột biến biểu hiện giữa các nhiễm sắc thể và trong từng nhiễm sắc thể. Gồm có hiện tượng: mất đoạn (deletion), mất đi một phần của đoạn nhiễm sắc thể nhỏ bên trong hoặc phần đầu mút của nhiễm sắc thể; nhân đoạn (duplication), thêm từng gen hay một nhóm gen vào bộ nhiễm sắc thể cơ bản; đảo gen (inversion), chuyển đoạn đột biến giữa các nhiễm sắc thể tạo nên các nhiễm sắc thể mới.

ĐỘT BIẾN GEN (sinh), đột biến xảy ra bên trong các gen, do ngẫu nhiên hay do gây nhân tạo. Bản chất hoá sinh của ĐBG là do những biến đổi trong trình tự các cặp bazơ trong mạch polinucleotit như thay thế một cặp hay thêm cặp của các cặp trong gen, vì vậy không phải tất cả đều dẫn đến thay đổi kiểu hình của sinh vật, xt. Đột biến.

ĐỘT QUỴ (y; trúng phong), ngừng đột ngột ở mức độ nặng nhẹ khác nhau tất cả các hoạt động của não (mất tri giác, các vận động tự chủ) trong khi các chức năng sống vẫn còn (tim vẫn đập, phổi vẫn thở, vv.). Nguyên nhân: chảy máu não ở những người tăng huyết áp; tắc động mạch não gây thiếu máu cục bộ nhất thời, một vào trường hợp xảy ra trong khi giao hợp (gọi là phạm phòng). Dự phòng: theo dõi sức khoẻ định kì những người bị tăng huyết áp; chế độ sinh hoạt nhẹ nhàng, tránh các chấn động tâm thần, các cảm xúc quá mạnh; chú ý đặc biệt đến các thay đổi thời tiết (quá nóng, quá lạnh) giao thời giữa xuân - hè, thu - đông. Điều trị theo nguyên nhân. (x. Chảy máu não).

Theo y học cổ truyền, ĐQ là trạng thái đột nhiên ngã bất tỉnh nhân sự, hoặc đột nhiên méo mồm, liệt nửa người, nói khó (tương đương với tai biến mạch máu não theo y học hiện đại). Nguyên nhân là phong (ngoại phong, nội phong). Trúng phong phân ra 2 thể lớn: trúng kinh lạc và trúng tạng phủ. 1) Trúng kinh lạc chỉ có liệt nửa người, méo mồm. Cách chữa: bột hoa kinh giới 10 g, rượu trắng 20 ml, mỗi lần uống 5 g bột và 10 ml rượu hoà tan với nước sôi để nguội, uống trong một vài ngày; chữa méo mồm bằng châm cứu các huyệt Địa thương, Giáp xa, Tinh minh; châm cứu các huyệt Khúc trì, Kiên ngung, Thủ tam lí, Hợp cốc, Ngoại quan, Bát tà, Dương trì, Dương lan tuyền, Hoa khiêu, Phong thị, Túc tam lí, Giải khuê, Bát phong, kết hợp vận động các khớp bên liệt hàng ngày để chữa liệt nửa người. 2) Trúng tạng phủ chia ra làm 2 thể: hôn mê nông với huyết áp cao (chứng bế), hôn mê sâu với huyết áp tụt hoặc mất huyết áp (chứng thoát). Chữa chứng bế: châm Nhân trung, Dũng tuyền, Thập tuyền, Bách hội; dùng xương bồ 8 g, tỏi 2 g giã nhỏ, hoà với 20 ml nước sôi vắt nước bỏ bã, lọc lấy nước thêm 4 ml rượu trắng, quấy đều, uống; nếu đờm nhiều, dùng la bặc tử (hạt củ cải) sao chín 4 g, quả bồ kết 4 g, bỏ hột nướng vàng, tán mịn, mỗi lần uống 5 g hoà tan với nước đun sôi, để nôn đờm. Chữa chứng thoát: cứu huyệt Thần khuyết bằng điếu ngải đến khi chân tay ấm lại; dùng sâm cao li 10 g sắc đổ từng thìa; sau khi đã tỉnh lại, để lại di chứng liệt nửa người (x. Liệt nửa người).

ĐỘT TỬ (y), chết đột ngột ở một người mà tình hình bệnh tật hay sức khoẻ trước đó không lí giải được thoả đáng. Phải mổ tử thi và làm giám định pháp y để tìm nguyên nhân, tuy nhiên việc xác định có thể khó khăn. Nguyên nhân: các bệnh của não (chảy máu não, nhồi máu não, tắc mạch não); các bệnh tim (nhồi máu cơ tim, vỡ tim, vv.); khái huyết sét đánh, thổ huyết sét đánh, chảy máu trong nặng (ung thư gan vỡ vào ổ bụng, viêm tuỵ chảy máu, vỡ một phần động mạch chủ, vv.). Đề phòng đột tử: quản lí sức khoẻ các đối tượng có nhiều nguy cơ (trẻ sơ sinh, người có tuổi từ 50 trở lên, người lao động trong môi trường có nhiều độc hại, vv.).

ENZIM (A. enzyme; tk men), chất xúc tác sinh học, phần lớn là protein kết hợp với một phần nhỏ không phải là protein (gọi là coenzim). Bản chất của E chỉ được xác định từ sau khi kết tinh được E. E có hoạt tính và tính chọn lọc rất cao: Mỗi E chỉ tác dụng với một hoặc một số chất chuyển hoá theo một kiểu phản ứng xác định. E là chất xúc tác có hiệu quả nhất, làm tăng tốc độ phản ứng hàng triệu, hàng tỉ lần nhưng không bị biến đổi sau phản ứng. Rất nhạy cảm với nhiệt độ (E hoạt động mạnh nhất ở 40 - 50oC), pH và các yếu tố lí hoá khác. Phần lớn E có dạng hạt, khối lượng phân tử lớn 20 - 90 nghìn hoặc vài trăm nghìn dalton hay lớn hơn nữa. E có trong tất cả các tế bào sống, có nhiều trong gan, tuỵ tạng, một số hạt, củ, quả, trong môi trường nuôi vi sinh vật. E đầu tiên được nhận dạng ở tinh thể, là ureaza của đội tương (1926), tiếp đó là pepxiaza và tripxinaza (1930 - 31). Tên gọi đầy đủ, chính xác theo quy ước quốc tế của E là tên gọi cơ chất đặc hiệu của nó cùng phản ứng mà nó xúc tác cộng thêm đuôi aza. Hội Hoá sinh Quốc tế (IUB) đã thống nhất phân loại E thành 6 lớp chính, đánh số từ 1 - 6: 1) Oxiđoređuctaza: các E xúc tác cho phản ứng oxi hoá - khử; 2) Transpheraza : các E xúc tác cho phản ứng chuyển vị; 3) Hiđrolaza: các E xúc tác cho phản ứng thuỷ phân; 4) Liaza: các E xúc tác cho phản ứng phân cách không cần nước, loại bỏ nước, loại nước tạo nối đôi hoặc kết hợp phân tử nước với nối đôi; 5) Isomeraza: các E xúc tác cho phản ứng đồng phân hoá; 6) Lipaza: các E xúc tác cho phản ứng tổng hợp có sử dụng liên kết giàu năng lượng ATP. Ở mỗi lớp này lại được chia thành nhiều tổ và mỗi tổ lại được chia nhiều nhóm.

E được dùng rộng rãi trong công nghiệp, nông nghiệp, y học và trong đời sống. Vd. amilaza có trong hạt thóc nảy mầm thuỷ phân tinh bột thành đường mantozơ trong sản xuất đường mạch nha.

Trong y học, người ta định lượng E trong huyết thanh để chuẩn đoán một số bệnh: amilaza tăng trong viêm tuỵ cấp, quai bị; glutamic oxaloaxetic transaminaza (GOT) và glutamic piruvic transaminaza (GPT) tăng trong viêm gan cấp (truyền nhiễm, ngộ độc), trong nhồi máu cơ tim (đặc biệt GOT); lactat đehiđro - genaza tăng trong nhồi máu cơ tim, viêm gan, ung thư. E còn dùng trong nghiên cứu các bệnh di truyền bẩm sinh và ung thư.

ÉP PHỔI phương pháp điều trị lao phổi, đặc biệt là lao phổi có hang, bằng cách tạo điều kiện để phổi tự xẹp xuống nhờ tính đàn hồi của mô phổi. Có hai phương pháp EP: phẫu thuật (cắt xương sườn); bơm không khí vào giữa hai lá thành và lá tạng của màng phổi [phương pháp Fooclanini; theo tên của thầy thuốc người Italia Fooctanini (C. Forlanini)]. EP được áp dụng trước khi có thuốc đặc trị chống lao. Hiện nay, hầu như không dùng EP trong điều trị bệnh lao.

FIBRIN (A. fibrin), loại protein không hoà tan có tác dụng làm đông máu. Trong quá trình đông máu, tiểu cầu hay các mô giải phóng chất gọi là thromboplaxtin. Chất này với sự có mặt của ion canxi biến enzim prothrombin thành thrombin. Thrombin hoạt động biến fibrinogen trong huyết tương thành F và F sẽ kết tủa làm đông máu. F là một globulin, dưới dạng sợi trắng nhỏ như bông, chun giãn, làm thành một mạng lưới giam cầm những huyết cầu, huyết thanh và thành cục máu đông.

FIBRINOGEN (A. fibrinogen), chất globulin (protein) phân tử lớn, dài, có trong huyết tương, tạo ra fibrin tham gia quá trình làm đông máu. Bình thường huyết tương có 0,2 - 0,4 g F trong 100 ml. F tăng trong hầu hết các bệnh nhiễm khuẩn, đặc biệt trong khớp và viêm phổi, có thể dẫn tới 1 g/ 100 ml hoặc cao hơn nữa. F giảm khi tế bào bị tổn thương như xơ gan, suy gan.

FOCXEP (Ph. forceps), dụng cụ sản khoa bằng kim loại có hai cành đối xứng , kết hợp với nhau bắt chéo hoặc song song, có độ cong, kích thước, hình dáng phù hợp với đầu thai nhi đủ tháng và khung xương chậu người mẹ; để giữ và kéo đầu thai nhi sau khi cổ tử cung đã mở hết, ối vỡ và đầu thai nhi ra ngoài theo một cơ chế gần giống như đẻ tự nhiên. F được đặt trong những trường hợp: rặn lâu không có hiệu quả, cuộc đẻ không tiến triển; không cho sản phụ rặn do có vết mổ đẻ của lần trước, do suy tim, huyết áp cao, suy thai.

GAN cơ quan có màu nâu đỏ thẫm, gồm một số thuỳ nằm sát dạ dày ở động vật có xương sống. Chiếm tới 1/5 thể tích các nội quan trong xoang bụng và cứ 2 phút thì toàn bộ máu trong cơ thể lại di chuyển qua gan 1 lần. Chức năng chủ yếu: điều chỉnh thành phần hoá học của máu. Động mạch G nhận được máu tĩnh mạch từ ruột qua tĩnh mạch cửa vào G. Sau khi nhận chất dinh dưỡng, máu giàu glucôzơ và axit amin. G giữ lại lượng glucozơ dư thừa (vượt quá 0,1%) dưới dạng glicogen. G cũng chuyển axit amin thừa thành ure trong quá trình khử amin. G còn có nhiều chức năng khác: tiết mật tích trữ tạm thời trong túi mật và sau đó qua ống mật vào tá tràng; dự trữ sắt, sản xuất vitamin A từ caroten, dự trữ vitamin A, D; sản xuẩ một số protein cho huyết tương; sản xuất có yếu tố đông máu; khử độc , chuyển mỡ thành hợp chất thuận lợi để oxi hoá khi cần thiết và dự trữ ở G. Cấu trúc hiển vi của G chứng tỏ mỗi tế bào G có liên quan trực tiếp với máu nên sự khuếch tán của các phân tử ra, vào tế bào G rất nhanh chóng.

G người nặng khoảng 1.100 - 1.200 g, nằm ở tầng trên mạc treo đại tràng ngang và dưới cơ hoành. Mặt trên gồm hai thuỳ (thuỳ phải và trái); mặt dưới gồm 4 thuỳ (thuỳ phải, trái, thuỳ vuông, thuỳ đuôi). Mặt sau chia thành 3 khu: khu phải lắp vào rãnh sườn cột sống, khu trái ôm lấy thực quản, khu giữa là thuỳ vuông. Máu được chuyển về G qua động mạch G chung với 2 nhánh động mạch G riêng và động mạch vị - tá tràng và chảy về tim khi được khử độc qua tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch G trên. G hoạt động do các sợi thần kinh từ đám rối dương và dây thần kinh X điều khiển mật tiết qua các ống G và ống túi mật đổ vào ống mật chủ.

GAN HOÁ (tk. can hoá), quá trình tổn thương chuyển thành một khối đặc, chắc như gan, thường gặp ở phổi trong viêm phổi thuỳ do phế cầu khuẩn. Được thầy thuốc người Pháp Lanec (R. T. H. Laennec) mô tả từ 1819. Tuỳ theo giai đoạn tiến triển, GH có 3 hình thái: 1) GH đỏ: vùng phổi tổn thương màu đỏ như gan tươi, chìm khi cắt bỏ vào nước. Soi kính hiển vi, lòng các phế nang ứ đầy tơ huyết, hồng cầu, bạch cầu đa nhân trung tính. 2) GH xám: tổn thương mầu đỏ xám như gan ôi, dịch viêm trong lòng phế nang bắt đầu thoái hoá, đặc biệt các hồng cầu tan rã, enzim do bạch cầu đa nhân giải phóng làm lỏng dần lưới tơ huyết nhưng vách phế nang vẫn được bảo tồn. Nếu tiến triển tốt, dịch viêm se tiêu biến, một phần do đại thực bào, chủ yếu do ho thải viêm ra ngoài dưới dạng đờm. 3) GH vàng: biến chứng của phổi thuỳ khi sức đề kháng của cơ thể kém, toàn bộ vùng tổn thương chuyển thành viêm mủ, vách các phế nang bị phá huỷ, lòng chứa đầy tế bào mủ. Nếu một phần tổn thương hoá mủ, sẽ sinh ra áp xe phổi.

GARÔ (Ph. garrot), dụng cụ cầm máu tạm thời, dùng trong trường hợp đứt động mạch lớn ở chi, gây chảy máu cấp. G tự tạo dùng cấp cứu ban đầu tại chỗ, gồm: một dây bằng cao su hoặc vải để quấn vòng quanh chi; một miếng gỗ chèn trên đường đi của động mạch; một que đĩa để xoắn chặt dây thít quanh chi ngay sát trên vị trí tổn thương cho đến khi máu ngừng chảy tại vết thương. G được chuẩn bị trước thường gồm dây cao su to bản và có kẹp để giữ chặt vòng xoắn khi cầm máu. Hiện có G chế sẵn dùng dây vải và hộp quay có nấc và có ghi giờ bắt đầu làm G. G còn dùng để cầm máu các chi bị cắt cụt tự nhiên; cầm máu tạm thời khi phẫu thuật cần có một vùng mổ khô và giảm lượng máu mất trong khi mổ ở các chi, gây tê trong xương để giữ thuốc tê tại chỗ. Khi bị rắn cắn, buộc G sát ngay trên chỗ bị cắn (xiết vừa chặt) rồi gửi ngay tới cơ sở y tế.

GÂY MÊ 1. Một kĩ thuật của y học không những làm cho người bệnh không đau mà còn không bị nhiễm độc, không lo sợ, không giữ lại một ấn tượng kéo dài về phẫu thuật, không bị stress và bảo đảm an toàn cho bệnh nhân. Thuật ngữ này có từ khi Motơn (W. T. G. Morton) dùng ete để GM (1846) cho người bệnh trong như mổ. GM toàn thân là phương pháp làm cho người bệnh mất tạm thời (có phục hồi) tri giác, cảm giác đau, các chức năng liên hệ để có thể chịu đựng được phẫu thuật hoặc một thăm dò nội, ngoại khoa. Thuốc mê được đưa vào cơ thể người bệnh qua đường thở, tiêm tĩnh mạch, tiêm mạch máu hoặc đưa vào hậu môn (ít dùng).

GÂY MÊ TOÀN THÂN x. Gây mê.

GÂY MÊ MIỄN DỊCH x. Miễn dịch.

GÂY TÊ phương pháp làm mất tạm thời cảm giác đau một vùng của cơ thể người bệnh để phẫu thuật. Trong lúc mổ, người bệnh vẫn tỉnh táo, có thể hợp tác với thầy thuốc. Hiện nay có khuynh hướng kết hợp trong một cuộc mổ tiến hành song song GT vùng với gây mê. Các phương pháp GT: GT tại chỗ, GT vùng. GT vùng được chia thành: phong bế đám rối cánh tay, phong bế dây thần kinh toạ, phong bế các gốc thần kinh nói chung, tê trong xương, tê tĩnh mạch, tê ngoài màng cứng, tê tuỷ sống, GT đuôi ngựa. Tiến hành GT bằng cách dùng thuốc GT (thuốc làm mất cảm giác đau một vùng hoặc một khu vực của cơ thể) tiêm trực tiếp vào các mô tại chỗ được mổ hoặc các chỗ xung quanh những đám rối thần kinh, những rễ thần kinh hoặc gốc hay thân thần kinh chi phối vùng được mổ (cocain, novocain, liđocain, xylocain, bupivacan, etiđocain, vv.).

GÂY UNG THƯ khả năng sinh ra khối u của một virut hay đoạn AND bằng cách kích thích sự sao chép bất thường của phân tử AND tế bào vật chủ.

GẦY ĐÉT trạng thái thiếu dinh dưỡng nặng do các nguyên nhân bệnh lí hoặc thiếu ăn. Biểu hiện: gầy nhanh, sút cân nhiều; mặt hốc hác, các gồ xương nhô lên, cơ bị teo, các lớp mỡ dưới da biến đi, da, niêm mạc nhợt, loét các điểm tì ở nhiều chỗ; protein huyết tương hạ thấp và biến đổi các thành phần protein huyết tương; thiếu máu thể nhược sắc, suy giảm sinh sản hồng cầu. Các chức phận nội tiết cũng giảm hoạt động. Nếu nằm lâu bất động, các chi bị co kéo ở tư thế sai lạc, thưa xương xuất hiện. Còn thấy thay đổi tình hình và rối loạn tâm thần: cơn đãng trí, khiếp đảm, suy nhược thần kinh. Thường xảy ra ở trẻ em bị ốm lâu ngày (ỉa chảy, sởi), không được ăn uống đầy đủ., bị kiêng khem quá mức.

Phòng GĐ: cho trẻ em ốm (nhất là bị ỉa chảy) ăn uống đúng chế độ quy định, tránh kiêng khem không hợp lí; điều chỉnh chế độ ăn uống cho trẻ em bắt đầu có dấu hiệu thiếu dinh dưỡng. Chữa trị: truyền máu và đạm, nuôi dưỡng qua ống thông, chăm sóc toàn thân và chữa căn nguyên.

GẪY XƯƠNG xương bị gẫy do chấn thương (tai nạn, ngã, vv.), do bệnh lí (ít gặp hơn) như viêm xương tuỷ, u xương (các bệnh tiêu huỷ xương và làm giòn xương). Ở trẻ em, GX thường ít đi lệch theo kiểu gẫy cành tươi; xương gẫy chóng liền. Ở người có tuổi bị loãng xương, xương dễ gẫy sau các chấn thương nhẹ, ở vùng xương yếu như cổ xuống đùi, cổ xương cánh tay, đầu dưới xương quay; dễ có biến chứng như chậm liền xương, khớp giả, rối loạn dinh dưỡng, làm teo các cơ, cứng liền khớp, viêm phổi, vv. Các phương pháp chữa của y học cổ truyền cho kết quả tốt trong các trường hợp gẫy các xương nhỏ và không có nhiều di chuyển của các đầu xương gẫy.

GEN (A. gen), một đoạn của phân tử axit nucleic (AND hoặc một số virut là ARN) có chiều dài tối thiểu đủ lớn để xác định một chức năng sinh học. Chức năng đó là mã hoá cấu trúc sơ cấp của một polipeptit (hay protein) hoặc của một phân tử ARN, theo cơ chế trình tự: 4 nucleotit A, U, G và X trong ARN (x. Mã di truyền). Trong nhiều trường hợp, chức năng sinh học của G là một tính trạng, vd. G quy định màu sắc hình dạng của hạt đậu; màu da, màu mắt của động vật; khả năng mắc bệnh, chống chịu, khả năng tổng hợp một chất trao đổi nào đó, vv. Mỗi G chứa khoảng 500 - 6.000 nucleotit và được giới hạn hai đầu bởi hai "dấu chấm". Dấu khởi đầu là bộ ba nucleotit AUG và chấm hết là UAG, UUA và UGA. Nếu một trong các nucleotit được thêm vào hay mất đi hoặc bị thay thế thì ở trong G xảy ra đột biến. G thường tập trung trong nhân tế bào trên các nhiễm sắc thể. Tập hợp các G trên mỗi nhiễm sắc thể gọi là một nhóm liên kết. Các G cư trú trong ti thể, lạp thể, plasmit gọi là G bào chất. Sự tồn tại của các nhân tố di truyền tách biệt trong tế bào được Menđen (J. G. Mendel) phát hiện năm 1865, đến 1911, Lutvich (W. Ludwig; nhà thực vật học Đan Mạch) gọi chúng là G (chữ Hi Lạp là genos - giống nòi, nguồn gốc). Những hiểu biết về G là nền tảng khoa học vững chắc cho kĩ thuật di truyền, là hạt nhân của công nghệ sinh học hiện đại. Các phương pháp kĩ thuật di truyền cho phép chuyển G riêng biệt từ một sinh vật này sang sinh vật khác và buộc chúng hoạt động. Vd. chuyển G trừ sâu từ vi khuẩn sang cây trồng và ngược lại, chuyển G của động, thực vật sang vi khuẩn để sản xuất một số sản phẩm vốn không có ở vi khuẩn như insulin, tơ nhện, protein ngọt, vv. Ngoài ra, trên cơ sở các đột biến đặc hiệu nhận được ở các G riêng biệt, người ta đã hoàn thiện những hệ thống kiểm nghiệm độ nhạy cao để phát hiện hiệu quả di truyền các nhân tố môi trường như hợp chất gây ung thư.

GEN CHỈ HUY vùng trên nhiễm sắc thể có khả năng tương tác trực tiếp hoặc gián tiếp với chất ức chế đặc hiệu, do vậy kiểm soát hoạt động của operon kế cận.

GEN HOÁ sự tạo gen trong hệ phân tán hay trong dung dịch một số chất cao phân tử. Sự tạo gen là do những liên kết yếu giữa các hạt (hệ phân tán) hay giữa các phân tử chất cao phân tử tạo thành mạng lưới không gian.

GEN HỌC khoa học về sự truyền, nghiên cứu tính di truyền các đặc điểm từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Do tìm ra được cơ sở vật chất của sự di truyền là các gen (x. Gen) nên người ta gọi là GH. Sự kết hợp giữa GH với những môn khác đã tạo ra những môn học trung gian như GH tế bào, GH miễn dịch, GH phân tử, vv.

GEN MIỄN DỊCH HỌC khoa học kết hợp giữa gen học và miễn dịch học, trong đó phương pháp miễn dịch được dùng để soi sáng hiện tượng gen học và ngược lại phương pháp gen học được dùng để soi sáng hiện tượng miễn dịch. Vd. dùng kĩ thuật ngưng tụ miễn dịch để xác định tính di truyền của nhóm máu; dùng kĩ thuật gen học để giải thích tính đa dạng của kháng thể,vv.

GEN TĂNG ĐỘT BIẾN gen trong vi khuẩn Escherichia coli khi ở trạng thái đột biến gây ra những đột biến xuất hiện các gen khác trong cả hệ gen.

GENOTIP (A. genotype; tk. kiểu gen, kiểu di truyền), cấu trúc di truyền của sinh vật, tổ hợp gen nằm trên các nhiễm sắc thể của sinh vật mang thông tin di truyền và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. G mang chương trình di truyền, chi phối toàn bộ cấu tạo, hoạt động và sự phát triển của sinh vật cùng mọi tính chất của cơ thể sinh vật. Khi G chưa thay đổỉ, tính di truyền vẫn ổn định tuy cơ thể biểu hiện những phenotip (kiểu hình, biểu hình) khác nhau trong những điều kiện cụ thể khác nhau. Do có tính trội, các cá thể có G khác nhau vẫn có thể có phenotip giống nhau. Vì vậy phải dùng phương pháp lai phân tích, kiểm tra đời sau để xác định G của sinh vật, giữ lại những nhân tố tốt trong G.

GHẺ 1. Ở người, bệnh ngoài da do kí sinh trùng (Acarus scabiei; con G) gây nên. Con cái lớn hơn con đực. Con cái có đường kính 0,25 - 0, 35 mm; phía trước con G có hai đôi chân tận cùng bằng vòi hút, phía sau cũng có hai đôi chân có lông. Sau khi giao phối, con cái đào vào trong lớp nông của biểu bì, đẻ trứng dọc theo đường đi, trong 6 - 8 tuần đẻ khoảng 50 trứng. Sau 4 tuần, trứng nở thành cái G. Các triệu chứng G xuất hiện 7 - 12 ngày sau khi lây bệnh: ngứa dữ dội, nhất là tối và đêm; ở các nếp gấp tay, ngực, bụng, mông, đùi, cơ quan sinh dục nam, vú ở nữ, còn thấy những mụn nước và mụn mủ rải rác; ở nếp gấp cổ tay và các kẽ ngón tay có thể nhìn thấy các đường hầm của G rất điển hình (đường ngoằn ngoèo, màu xám, dài 2 - 3 mm). Vì ngứa nhiều, bệnh nhân gãi làm xây xát và dẫn đến những biến chứng: viêm da mủ, viêm hạch, viêm thận cấp. Phòng bệnh: bệnh lây do tiếp xúc với người bệnh ban đêm (ngủ chung giường), vì vậy cần điều trị triệt để cho bệnh nhân, khám tỉ mỉ những người trong gia đình và những người tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân; giặt quần áo, chăn màn bằng nước sôi, rồi là nóng, phơi chiếu, mền bông. Tại các tập thể (trường học, doanh trại, công trường, nông trường, vv.), tăng cường biện pháp vệ sinh, giữ vệ sinh cá nhân và môi trường, khám sức khoẻ trong các đợt khai trường, tuyển quân, tập trung công nhân để phát hiện người bệnh.

Điều trị: sau khi rửa sạch nốt G, bôi dung dịch hay mỡ lưu huỳnh, thuốc lỏng hay thuốc mỡ DEP (dietylphtalat), ngày bôi 2 - 3 lần; cũng có thể dùng hỗn hợp dầu vừng 75 g, bột lưu huỳnh 50 g, bột xà sàng tử 25 g, bột hùng hoàng 5 g (chưng cách thuỷ một giờ rồi mới dùng).

2. Ở súc vật, bệnh G nặng nhất là ở trâu (da), gà (chân), chó (bao lông). Đặc điểm: trên da có vẩy, rụng lông, ngứa dữ dội. Phòng bệnh G là chủ yếu, vì súc vật non (nghé) bị G nặng có thể chết; có loài vật như cừu bị G nếu chữa khỏi, lông (len) cũng không còn giá trị.

GHẺ CÓC bệnh da lây truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành, do xoắn khuẩn Treponema pertenue. Bệnh lưu hành ở các nước nhiệt đới, trong đó có Việt Nam (chủ yếu ở vùng Tây Nguyên). Sau 3 tuần ủ bệnh, xuất hiện loét sùi, thường ở chi dưới. Sau vài tuần, bệnh lan ra khắp người với những sẫn xù xì như quả dâu, màu vàng nhạt, trên có vẩy tiết ẩm hoặc có những mảng thâm trên có vẩy da. Ở một số bệnh nhân (20%), xương chày viêm tấy, đau. Trong trường hợp không được chữa, sau 5 - 10 năm, thương tổn ăn sâu vào trong, da nổi cục rồi loét, cuối cùng để lại sẹo nhăm nhúm. Ngoài các thương tổn da, còn có viêm dây thần kinh, viêm xương, cứng khớp. Điều trị bằng penicillin, streptomycin, chloromycetin, vv. Có thể tiêm dự phòng một liều benzathin penicillin (1,2 triệu đơn vị) cho tất cả mọi người đang cư trú tại vùng có bệnh GC lưu hành.

GHÉP DA lấy một mảnh da từ một vị trí khác trên cơ thể hoặc từ người khác, từ súc vật, ghép lên một vùng khuyết da của cơ thể, nhằm che phủ vĩnh viễn hoặc tạm thời. Tuỳ theo nguồn lấy mảnh da có: GD tự thân (lấy da của bản thân người được GD); GD đồng loài (lấy da của người khác); GD dị loài (lấy da của loài động vật khác). Tuỳ theo cách nuôi dưỡng mảnh ghép, có: ghép mảnh tự do; ghép mảnh có cuống nuôi tạm thời hoặc vĩnh viễn. Tuỳ theo độ dày của mảnh da, có: mảnh mỏng, dày vừa và dày toàn bộ lớp da. Tuỳ theo tính chất miễn dịch, có: GD thích hợp (da tự thân, da đồng loài cùng một dòng đồng nhất như ở hai người sinh đôi cùng một trứng), da ghép sẽ sống vĩnh viễn trên nền tiếp nhận; GD không thích hợp (da của người khác, của người sinh đôi không cùng một trứng, da dị loài), da ghép sẽ không thích hợp với cơ thể được ghép và chỉ sống được một thời gian nhất định trên nền tiếp nhận, sau đó sẽ bị đào thải.

GHÉP GAN ghép gan lành cho người mà gan không còn chức năng. Người cho gan là các nạn nhân bị chấn thương não quá nặng không cứu chữa được nữa (hấp hối), nhưng chức năng gan còn tốt. Người nhận gan hoặc là có bệnh gan nặng (vd. xơ gan) hoặc là gan bị giập nát vì chấn thương. Có 2 kiểu GG: ghép đúng vào vị trí phẫu thuật của gan trên cơ thể, thay thế hoàn toàn gan bị bệnh (xơ gan, u gan, teo đường mật bẩm sinh, vv.); GG khác chỗ là ghép vào một nơi trong ổ bụng vừa đủ chỗ nằm cho gan ghép (được dùng trong các trường hợp viêm gan cấp có suy gan nặng). Xtazơn (T. Starzl) thực hiện GG lần đầu tiên (1963) ở Đenvơ (Denver, Hoa Kì). Đến nay có khoảng trên một nghìn trường hợp GG, 60 - 70% trường hợp trong số đó sống được từ 1 năm trở năm.

GHÉP GIÁC MẠC phẫu thuật thay thế giác mạc bị sẹo đục, bị viêm loét có nguy cơ bị thủng hoặc đã thủng, bằng giác mạc lành lấy từ mắt của tử thi (chết chưa quá 6 giờ). Tuỳ theo mục đích có: GGM tăng thị lực, GGM điều trị, GGM điều chỉnh khúc xạ, vv. Về kĩ thuật có: ghép nông, ghép lớn, ghép xuyên thủng bề dày giác mạc, ghép một phần, ghép phần lớn và ghép toàn bộ giác mạc. Xim (E. Zim, người Áo) GGM lần đầu tiên năm 1905. Filatop (V. P. Filatop; nhà phẫu thuật Liên Xô) cũng là người nổi tiếng về GGM. Ngày nay, giác mạc để ghép có thể bảo quản được trong thời gian dài. Nhiều nước đã thành lập ngân hàng mắt để cung cấp giác mạc cho các trung tâm nhãn khoa thực hiện phẫu thuật GGM.

GHÉP THẬN ghép thận lành cho người bệnh với điều kiện hai người cùng hoà hợp về miễn dịch tổ chức. GT được chỉ định trong trường hợp suy thận mạn nặng không phục hồi được do nhiều nguyên nhân (sau viêm, chấn thương, vv.). Trước khi ghép, thường phải dùng tạm thời máy thận nhân tạo. Người cho có thể là nhân thân trong gia đình, người tình nguyện, bệnh nhân hoặc nạn nhân nặng không thể hồi phục (vd. chấn thương sọ não nặng), người mới chết đột ngột, vv. Mỗi người có 2 thận; người ta có thể sống gần như bình thường chỉ với một quả thận lành; cho nên việc cho thận để ghép có phần dễ dàng hơn đối với các cơ quan khác. GT là loại ghép thành công nhiều nhất sau ghép giác mạc. Merlin (J. Merrill, Hoa Kì) thực hiện GT lần đầu tiên năm 1954, người được ghép sống thêm 8 năm. Đến nay đã có hàng vạn người được ghép thận. Ở Việt Nam đã có trường hợp GT đầu tiên 01.6.1992.

GHÉP TIM thủ thuật GT được chỉ định trong các trường hợp suy tim nặng, ở giai đoạn cuối của bệnh tim. Để thay cho tim của người bệnh bị cắt bỏ đi, có thể dùng tim của người mới chết (ghép sinh học) hoặc tim nhân tạo (ghép cơ học). Có thể vẫn để lại không cắt bỏ tim của người bệnh và lắp thêm vào một tim người hoặc tim nhân tạo và hai trái tim song song hoạt động (ghép song song), thủ thuật này còn ít được áp dụng. Bác sĩ Banơt (C. Barnard) thực hiện GT sinh học đầu tiên thành công 1967 ở Nam Phi tại bệnh viện Grut Sua (Groote Schuur), bệnh nhân sống được 18 ngày. Đến nay người được GT sống lâu nhất (18 năm) là một công dân Pháp Emanuen Vicơria (Emmanuel Victria). Đêvri (W.Devries) Hoa Kì thực hiện trường hợp GT cơ học đầu tiên vào 1982.

GHI ĐIỆN NÃO ghi những dòng điện sinh học xuất hiện trong não. Hiện nay đã có những máy GĐN phức tạp, nhờ đó người ta có thể nghiên cứu 10 - 20 dòng điện và nhiều hơn nữa ở não. Nguồn gốc những nguồn điện sinh học hiện nay chưa được giải thích rõ và tính chất đặc hiệu của sóng này hay sóng kia đối với từng loại bệnh lí nhất định cũng chưa được công nhận. Tuy vậy, một vài biến loạn về nhịp điệu, nhận thấy trong GĐN, có thể giúp cho xác nhận chuẩn đoán, đặc biệt là chuẩn đoán định khu.

GHI HÌNH PHÓNG XẠ (tk. xạ hình, ghi hình nhấp nháy), phương pháp ghi , chụp trên phim hình ảnh phân bố một chất phóng xạ đã được đưa vào cơ thể và được tập trung tại một mô hoặc cơ quan thích hợp với chất đó; qua hình ảnh ghi được có thể đánh giá hình thể và chức năng của mô và cơ quan, chuẩn đoán được bệnh. Tia gamma của chất phóng xạ phát ra được một ống đếm nhấp nháy thu nhận, nên phương pháp này được gọi là ghi nhấp ngáy. Các chất đồng vị phát tia gamma hiện nay thường được dùng trong y học: I trong chuẩn đoán các bệnh tuyến giáp; Tc trong chuẩn đoán các bệnh về xương khớp; Ga trong chuẩn đoán bệnh nhiễm khuẩn ở xương khớp. GHPX được sử dụng ở Việt Nam vào đầu những năm 70 của thế kỉ 20.

GHI RUNG GIẬT NHÃN CẦU phương pháp ghi các chuyển động của nhãn cầu khi có rung giật nhãn cầu. Có hai cách GRGNC: ghi điện rung giật nhãn cầu (electronystagmography) với ghi các biến đổi điện thế giác mạc - võng mạc khi có rung giật nhãn cầu; ghi ảnh rung giật nhãn cầu (photonystagmography) chụp ảnh rung giật nhãn cầu bằng tia hồng ngoại.

GIẢ BỆNH cố ý tạo ra một bệnh hay một số triệu chứng của bệnh ở một người thực sự không mắc bệnh đó. GB còn bao hàm sự cố ý cường điệu hoặc kéo dài các triệu chứng của một bệnh đã mắc. Người GB thường nhằm các lợi ích cá nhân như trốn tránh nghĩa vụ quân sự, hưởng thụ các khoản ưu đãi vật chất.

GIẢI ĐỘC TỐ độc tố của vi khuẩn đã được làm giảm độc bằng tác động kết hợp và có mức độ của một chất sát khuẩn (như fomol) và sức nóng. Sản phẩm thu được là một hợp chất mới không còn sức độc (gây bệnh) nhưng vẫn giữ khả năng kháng nguyên và gây miễn dịch. Dùng fomol ở nồng độ 2,5 - 7% và sức nóng 37 - 40 độ trong một tháng. Độc tố đã mất đi , không có thể phân li lại được nữa. Trong y học và thú y, thường dùng nhất là GĐT uốn ván, bạch cầu.

GIẢI PHẪU BỆNH chuyên khoa của y học, nghiên cứu các biến đổi về hình thái, cấu trúc của con người nói chung, của các mô và tế bào trong cơ thể nói riêng để chuẩn đoán bệnh. Qua xử lí các mảnh mô lấy trên cơ thể người sống (gọi là sinh thiết) khi khám bệnh, sau các phẫu thuật, ...; hay lấy từ cơ thể người chết (tử thiết), thấy những biến đổi mà mắt có thể nhìn thấy được (biến đổi đại thể), hay các biến đổi chỉ phát hiện được nhờ các thiết bị phóng đại như kính hiển vi quang học (biến đổi vi thể) hoặc kính hiển vi điện tử (biến đổi siêu vi). Qua các thay đổi hình thái, kết hợp với hồ sơ lâm sàng, các nhà giải phẫu bệnh có thể tham gia làm rõ các nguyên nhân, cơ chế sinh bệnh, giúp cho thầy thuốc lâm sàng chuẩn đoán chính xác hoặc bổ khuyết chuẩn đoán để điều trị bệnh một cách có hiệu quả hơn. GPB là một trong những môn khoa học cơ sở không thể thiếu trong y học hiện đại.

GIẢI PHẪU ĐỊNH KHU mô tả hình thái tổng quan mỗi vùng trong cơ thể người: cổ, nách, ngực, bẹn, bụng, ...; các thành phần có trong mỗi vùng sắp xếp theo lớp từ nông đến sâu và trong mối liên quan với nhau về mặt vị trí, làm cơ sở cho việc quy định các đường vào các cơ quan quan trọng trong vùng một cách tối ưu, gây những thương tổn tối thiểu đối với các mô. GPĐK cung cấp các kiến thức cơ bản cho khoa phẫu thuật.

GIẢI PHẪU HỌC khoa học có đối tượng nghiên cứu là cấu trúc và hình thể của các sinh vật có tổ chức cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan trong của các sinh vật ấy. Phân biệt: GPH thực vật, GPH động vật, GPH người và GPH động vật so sánh. GPH người là một ngành độc lập của GPH và được chia thành hai chuyên ngành: GPH sinh lí người - chuyên nghiên cứu cấu trúc và hình thể của người bình thường; giải phẫu bệnh học (x. Giải phẫu bệnh). Người đặt nền móng cho GPH động vật so sánh là Arixtôt (Aristote). Vêdaliut (A. Vesalius) được coi là người đặt nền móng cho ngành GPH người.

GIẢI PHẪU SO SÁNH một bộ phận của giải phẫu học , mô tả sự giống nhau giữa giải phẫu học của người và các động vật khác (phôi học, hình thái, cấu trúc, chức năng, sự phát triển, vv.).

GIẢI PHẪU TỬ THI mổ xác người chết để xem xét nghiên cứu dấu vết tổn thương, xác định tính chất của dấu vết tổn thương, giúp cho việc kết luận về nguyên nhân chết.

GIẢM ĐỘC TỐ x. Giải độc tố.

GIẢM KHẢ NĂNG LAO ĐỘNG tình trạng thua kém về thể lực hay trí tuệ tạm thời hay vĩnh viễn ở người do bệnh tật, tai nạn, bẩm sinh hay tuổi già. Vd. khả năng nghe kém đi ở công nhân làm việc lâu năm trong trong môi trường có tiếng ồn ào; người già bị nghễng ngãng; trẻ đẻ khó phải can thiệp bằng focxep bị tai biến não nên chậm phát triển về trí tuệ; người bị tai nạn giao thông cụt một chân; người ngã gãy cẳng tay phải kèm thương tổn dây thần kinh quay, khi vết gãy đã lành nhưng không viết được. Những người này bị thua kém trong lao động, trong đời sống xã hội. Gia đình và xã hội phải giúp đỡ để họ hoà nhập với đời sống cộng đồng. Mặt khác, xã hộ cần có những biện pháp đề phòng tích cực các tật bẩm sinh; thực hiện tiêm chủng mở rộng cho trẻ em; giáo dục về an toàn (giao thông, lao động, vv.) cho lứa tuổi thiếu niên, thanh niên.

GIẢM NĂNG TUYẾN GIÁP suy giảm hoạt động nội tiết của tuyến giáp, làm chậm phát triển thể lực và tâm thần ở trẻ đang lớn (chứng đần) và ở người trưởng thành (chứng phù niêm). Bình thường, hocmon tuyến giáp cùng với hocmon phát triển của tuyến yên có vai trò trong tổng hợp nhiều chất, nhiều hocmon liên quan đến chuyển hoá tế bào, mô, nhất là mô liên kểt. Khi thiếu, sẽ sinh ra những rối loạn bệnh lí, biểu hiện bằng những bệnh chứng đã nêu trên.

GIẢM OXI HUYẾT giảm lượng oxi trong máu động mạch, đánh giá theo các chỉ số: áp suất oxi trong máu động mạch thấp hơn bình thường (dưới 12 kPa hay 90 mmHg), bão hoà 80%. Nguyên nhân: viêm não, bại liệt, nhược cơ, xơ phổi, giãn phế nang, tràn khí, tràn dịch màng phổi, thiếu máu, suy tim, chứng bèo phì; nhiễm độc cacbon oxit hay axit xianhiđric; áp suất oxi trong không khí thấp (trên núi cao). Có thể có những cơ chế thích nghi trong trạng thái GOH mạn. Trong những trường hợp bệnh lí, phải tăng cường việc cung cấp oxi bằng thở trong không khí có áp suất oxi cao hoặc thở máy (hô hấp hỗ trợ).

GIẢM THỊ LỰC tình trạng mắt không nhìn rõ các chi tiết của vật hay hình, mặc dù đã được điều chỉnh bằng kích thích hợp nhất. Theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới, mắt được coi là GTL khi thị lực chỉ còn từ 3/10 đến mức chỉ đếm được ngón tay để cách mặt 3 m (mắt có đeo kính).

GIẢM ĐỊNH PHÁP Y hoạt động giám định trên cơ sở sử dụng tri thức, phương tiện y học để tiến hành khám nghiệm và rút ra những kết luận có tính khoa học về vấn đề có liên quan đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm của con người để phục vụ yêu cầu của các cơ quan pháp luật. Mục đích của GĐPY là thu thập tài liệu , chứng cứ, tìm ra nguyên nhân, xác định, đánh giá mức độ thương tích, hậu quả do chấn thương, do bệnh, xác định khả năng lao động hoặc giải đáp những vấn đề có liên quan đến sinh mạng, sức khoẻ con người phục vụ yêu cầu của cơ quan đến sinh mạng, sức khoẻ con người phục vụ yêu cầu của cơ quan điều tra.

GĐPY là một loại giám định tư pháp và phải được tiến hành theo đúng thủ tục pháp luật. Trong GĐPY, giám định viên có quyền dùng tất cả các phương tiện khám nghiệm nhằm đạt được yêu cầu của cuộc khám nghiệm, nếu cần gửi đi nơi khác để xét nghiệm phải niêm phong mẫu vật phủ tạng cần xét nghiệm. Sau khi khám nghiệm, giám định viên phải làm báo cáo viết. Nội dung và kết luận của báo cáo phải ngắn gọn, đầy đủ và giải đáp đúng các điểm nghi vấn mà cơ quan điều tra đã yêu cầu. Giám định viên phải giữ bí mật về kết quả của cuộc giám định và những điều mà cơ quan điều tra đã cho mình biết.

GIÁM ĐỊNH TÂM THẦN khám xét với mục đích làm sáng tỏ sự lệch lạc trong trạng thái sức khoẻ tâm thần của đối tượng cần phải xác định khả năng lao động, khả năng thực hiện nghĩa vụ quân sự, khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật và sử dụng các quyền công dân.

Giám định những người bị bệnh tâm thần nhưng không phạm pháp do hội đồng giám định y khoa thực hiện. Giám định những người bị bệnh tâm thần có hành vi phạm pháp phải do các thầy thuốc chuyên khoa tâm thần được Bộ Y tế và Toà án chỉ định tiến hành.

GIÁM ĐỊNH Y KHOA sử dụng các kiến thức y học để khám nghiệm, tìm hiểu, đánh giá tình trạng sức khoẻ của đối tượng, theo yêu cầu của chính quyền, về các mặt: khả năng lao động, bệnh tật, thương tật các loại, vv. Hội đồng GĐYK các cấp căn cứ vào hồ sơ đương sự, các chế độ chính sách ban hành, xếp loại thương tật cho thương binh, nạn nhân trong các tai nạn lao động, giao thông, sinh hoạt, quyết định cho nghỉ việc vì thiếu sức khoẻ, vv. Giám định viên trong hội đồng GĐYK chủ yếu là các thầy thuốc chuyên khoa, cán bộ pháp lí. Hội đồng làm việc theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước, các cơ sở sản xuất, khi có tranh chấp về mặt đánh giá sức khoẻ.

GIAO HỢP (tk: giao cấu, giao phối), hành động sinh lí được thực hiện giữa con đực và con cái ở trạng thái kích thích cao độ về tình dục, thể hiện qua các tuyến nội tiết sinh dục. GH thường dùng cho người và động vật có vú. Giao cấu dùng cho động vật không có vú và côn trùng. Còn giao phối là biện pháp ghép đôi phối giống vật nuôi, có thể dùng phương pháp giao cấu trực tiếp hay truyền tinh nhân tạo. Trong chăn nuôi theo đàn, cần có tỉ lệ đực - cái thích hợp để có tỉ lệ thụ thai và sinh sản cao. Ở người, GH bất thường và có tính chất bệnh hoạn như GH đồng giới, GH ngoài đường sinh dục (như kê dâm, thủ dâm, vv.) thường kèm theo nghiện ma tuý, nghiện rượu và các bệnh lây truyền qua đường tình dục như AIDS. GH ngẫu nhiên, bừa bãi, dễ mắc bệnh hoa liễu nguy hiểm như giang mai, lậu, hột xoài, các bệnh viêm khác, AIDS. Dùng các dụng cụ tránh thai: bao cao su (condom)... có thể giảm được nguy cơ này cũng như sinh đẻ có kế hoạch, tránh có thai ngoài ý muốn. Trước và sau khi GH, cần thực hiện vệ sinh, tránh GH khi phụ nữ đang hành kinh, GH quá sớm sau khi đẻ (trong vòng sau một tháng), khi đang mắc hay đang điều trị các bệnh về đường sinh dục.

GIÁO DỤC GIỚI TÍNH bộ phận hữu cơ của giáo dục đời sống gia đình, giúp thế hệ trẻ: 1) Có những hiểu biết cơ bản về các đặc điểm giới tính, về quá trình sinh sản ở người, về các bệnh lây lan qua quan hệ tình dục, vv. 2) Có ý thức và biết đánh giá đúng đắn hành vi của mình và của người khác trong mối quan hệ với người khác giới; xây dựng đúng đắn tình bạn, tình yêu chân chính. 3) Chuẩn bị về mặt tâm lí và thực tiễn cho cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, tư cách làm cha, làm mẹ trong tương lai.

GIẤY KHAI SINH giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho đứa trẻ mới sinh ra theo đề nghị của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Việc đăng kí khai sinh được thực hiện tại uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi người mẹ có hộ khẩu thường trú, hoặc nơi trẻ em sinh ra. Trong trường hợp người mẹ thường trú ở một nơi, nhưng lại đăng kí khai sinh cho con ở một nơi khác, thì uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đăng kí phải gửi thông báo kèm theo một bản sao GKS cho uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người mẹ có hộ khẩu thường trú để ghi vào trong sổ đăng kí khai sinh. Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đăng kí phải lập một quyển sổ đăng kí khai sinh riêng cho những trường hợp này, không đưa vào số liệu thống kê số trẻ em sinh của địa phương. Trong trường hợp người mẹ không có hộ khẩu thường trú, đã cắt chuyển hộ khẩu từ nơi thường trú cũ, nhưng chưa đủ thủ tục, điều kiện để được đăng kí hộ khẩu thường trú tại nơi thực tế đang cư trú, thì việc đăng kí cho trẻ em được thực hiện tại uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người mẹ đăng kí hộ khẩu tạm trú có thời hạn. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày sinh trẻ em, cha, mẹ, hoặc người thân thích, người có trách nhiệm phải khai sinh cho trẻ em; đối với các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, thì thời hạn trên không quá 60 ngày. Người đi khai sinh nộp giấy chứng sinh do cơ sở y tế nơi trẻ em sinh ra cấp và xuất trình các giấy tờ sau đây: a) giấy chứng nhận kết hôn của cha mẹ trẻ em (nếu có); b) Sổ hộ khẩu gia đình hoặc giấy đăng kí tạm trú của người mẹ; c) Chứng minh nhân dân của người đến đăng kí khai sinh. Trong trường hợp không có đầy đủ các giấy tờ nêu trên, thì phải có giấy tờ hợp lệ thay thế. Nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì giấy chứng sinh được thay thế bằng văn bản xác nhận của người làm chứng hoặc của người chỉ huy, người điều khiển phương tiện giao thông, nếu sinh con trên các phương tiện giao thông. Nếu có đủ các giấy tờ hợp lệ, thì chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã kí và cấp ngay một bản chính GKS cho trẻ em, cán bộ hộ tịch tư pháp ghi vào sổ đăng kí khai sinh.

Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, phần khai về cha, mẹ khi chưa xác định được thì trong GKS và trong sổ đăng kí khai sinh để trống. Nếu có người nhận làm cha, mẹ của trẻ em, thì căn cứ vào quyết định công nhận việc cha, mẹ nhận con của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà ghi tên của người được công nhận làm cha, mẹ vào phần khai về cha, mẹ trong GKS và trong sổ đăng kí khai sinh của người con.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: