hanjieun 1
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng
Trước sự phát triển ngày càng nhanh chóng và đa dạng của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta phải có những điều chỉnh về mọi lĩnh vực để có thể thích ứng với môi trường kinh tế mở và hội nhập quốc tế, trong đó điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật là một yêu cầu quan trọng hàng đầu, các quy phạm về BVQLNTD cũng cần phải có sự điều chỉnh bổ sung.
Trước mắt, trong điều kiện hiện nay, để giải quyết nhu cầu hoàn thiện pháp luật về cơ chế bảo vệ quyền lợi NTD, chống lại các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của NTD, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ NTD là ưu tiên số 1 thì việc xác định rõ trách nhiệm và nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức đoàn thể quần chúng, các doanh nghiệp và bản thân NTD là hết sức cần thiết.
3.1. Hoàn thiện pháp luật BVNTD
Thực hiện Nghị quyết số 27/2008/NQ-QH12 ngày 15/11/2008 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009; Quyết định số 25/QĐ-TTg ngày 7/1/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ năm 2009, Bộ Công Thương đang chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan soạn thảo Luật Bảo vệ Quyền lợi người tiêu dùng thay thế cho Pháp lệnh BVQLNTD năm 1999. Đây là hoạt động đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong công tác xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực BVQLNTD, đáp ứng kịp thời yêu cầu BVQLNTD trong nền kinh tế thị trường.
Việc ban hành Luật BVNTD nhằm mục đích là để bảo vệ NTD quyền và lợi ích hợp pháp của NTD, nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi NTD. Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các nước trên thế giới, kế thừa những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm từ Pháp lệnh BVQLNTD năm 1999, Bộ Công thương đã tiến hành xây dựng dự thảo Luật BVNTD. Bằng tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, và tổ chức nhiều cuộc hội thảo, các buổi toạ đàm lấy ý kiến đóng góp....các dự thảo Luật BVNTD, đã nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của tất cả mọi tầng lớp trong xã hội từ các chính trị gia, giới luật gia, các thương nhân, doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng. Với việc chọn lọc và cân nhắc các ý kiến đóng góp của các tầng lớp xã hội, đến nay, Bộ Công thương đã soạn thảo dự thảo Luật BVNTD lần 5, và dự kiến sẽ trình Quốc Hội khóa XII thông qua trong tháng 10 năm 2010. Dự thảo gồm có 8 chương, 66 điều:
- Chương I: Những quy định chung (9 điều);
- Chương II: Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước khi giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh (4 điều);
- Chương III: Bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh (7 điều);
- Chương IV: Bảo vệ người tiêu dùng trong quá trình sử dụng hàng hóa, dịch vụ (5 điều);
- Chương V : Tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (5 điều)
- Chương VI: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh (30 điều);
- Chương VII: Quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng và xử lý vi phạm (4 điều);
- Chương VIII: Điều khoản thi hành (2 điều)
So với những Dự thảo Luật trước đó, đặc biệt so với Pháp lệnh BVQLNTD vẫn đang có hiệu lực, dự thảo lần 5 đã tương đối hoàn chỉnh. Dự thảo đã quy định những vấn đề cơ bản của việc BVNTD: các quy định về quyền và nghĩa vụ của NTD; trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; quy định về quản lý nhà nước về BVQLNTD; các quy định liên quan đến tổ chức BVQLNTD và các biện pháp giải quyết tranh chấp giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh cũng như các chế tài xử lý vi phạm quyền lợi NTD. Một số vấn đề nổi bật của Dự thảo lần 5:
* Về mặt hình thức:
- Tên gọi của Luật: Với tên gọi Luật bảo vệ quyền lợi NTD thì đã thể hiện đầy đủ nội dung của luật, tuy nhiên với những đóng góp trước đó, nhiều kiến cho rằng tên gọi "Luật bảo vệ người tiêu dùng" là phù hợp hơn bởi nó vừa ngắn gọn vừa đủ nghĩa và nhiều nước trên thế giới cũng có cách gọi tên như vậy.
* Về mặt nội dung:
Dự luật 5 đã tiếp thu những đóng góp cho dự luật 4 và hoàn thiện hơn về mặt nội dung, thể hiện:
- Về các khái niệm: Khái niệm "người tiêu dùng" được giải thích một cách phù hợp cả về mặt đối tượng tiêu dùng cũng như mục đích tiêu dùng. Tiếp thu những ý kiến đóng góp cho dự thảo 4, dự thảo 5 đã dùng khái niệm "tổ chức, cá nhân kinh doanh" thay cho khái niệm "thương nhân" mà trước đó có nhiều ý kiến phản đối.
- Về hệ thống các quyền và nghĩa vụ của NTD: Điều 5 dự thảo đã quy định đầy đủ các quyền cơ bản của NTD Việt Nam, các quyền này tương ứng với 8 quyền cơ bản mà bản Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc đã đưa ra, bao gồm: Quyền được an toàn; quyền được cung cấp thông tin; quyền được lựa chọn hàng hoá, dịch vụ; quyền đóng góp ý kiến; quyền được bồi thường; quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện; quyền được giáo dục kiến thức về tiêu dùng; quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản; và quyền được sống trong một môi trường lành mạnh.
Nếu như dự luật lần 4 đã lược bỏ đi những nghĩa vụ của NTD mà Pháp lệnh BVQLNTD năm 1999 đã có thì dự luật lần 5 này đã bổ sung thêm quy định về nghĩa vụ của NTD. Như vậy, nó đã khắc phục được thiếu sót của dự luật 4 bởi trong mọi quy định pháp luật, quyền lợi luôn phải đi liền với nghĩa vụ, trách nhiệm.
- Về các nguyên tắc BVNTD: So với những nguyên tắc BVNTD của bản Hướng dẫn BVNTD của Liên Hợp Quốc thì các nguyên tắc tại Điều 4 dự thảo luật lần 4 là không phù hợp bởi nó tương tự với các quyền của NTD chứ không phải là các nguyên tắc BVNTD. Liền với nó là các chính sách BVNTD trong điều 5 đã thể hiện được những nguyên tắc chung mà bản Hướng dẫn đã đưa ra.
Khắc phục những hạn chế trên: Điều 7 - Chính sách BVQLNTD và điều 8 - Nguyên tắc BVQLNTD của dự luật lần 5 được soạn thảo đã rõ ràng hơn, nó quy định những nội dung phù hợp với bản Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc và không còn bị trùng lặp nội dung quyền của NTD như trước đó.
- Về trách nhiệm của cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ: Việc quy định BVNTD trước khi giao dịch, trong khi giao dịch và sau khi giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh (chương II, III, IV) của Dự thảo là hợp lý vì đây chính là các nội dung cơ bản của BVNTD mà Pháp lệnh 1999 chưa quy định. Với những quy định này, NTD sẽ có cơ sở pháp lý để thực hiện các quyền lợi của mình và được bảo vệ một cách tốt nhất.
Hơn thế nữa, dự thảo Luật BVQLNTD 5 đã tiếp thu những ý kiến đóng góp cho dự thảo lần 4 bằng việc quy định rõ và chi tiết hơn về: các hành vi thương mại gian dối, gây nhầm lẫn cho NTD; vấn đề về hợp đồng vô hiệu, điều kiện giao dịch chung và hợp đồng theo mẫu; vấn đề về trách nhiệm sản phẩm; vấn đề về tổ chức BVQLNTD; vấn đề giải quyết tranh chấp. Cụ thể là:
- Khoản 4 điều 21 đã bổ sung thêm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quá trình sử dụng hàng hoá, dịch vụ.
- Các điều khoản vô hiệu đã được quy định chi tiết hơn trong điều 16 của dự luật nếu tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm một, một số hoặc toàn bộ các điều khoản không công bằng hoặc có hành vi gian dối gây nhầm lẫn cho NTD.
- Dự luật đã bổ sung thêm một điều về điều kiện giao dịch chung (điều 18).
- Vấn đề trách nhiệm sản phẩm đã được quy định rõ ràng hơn, theo đó, tổ chưc, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải có trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật và bồi thường thiệt hại (điều 23, 24)
- Vấn đề kinh phí hoạt động của tổ chức BVQLNTD đã được bổ sung vào điều 30 - Kinh phí hoạt động của tổ chức.
- Về vấn đề giải quyết tranh chấp giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh: với 30 điều trong chương VI, dự thảo luật đã đưa ra quy định và giải thích rõ hơn về các phương thức giải quyết tranh chấp giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh bao gồm các phương thức: thương lượng, hoà giải, trọng tài (chi tiết hơn so với dự thảo lần 4), giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hành chính và giải quyết tranh chấp tại toà án.
- Mục 1 chương VII dự luật đã quy định chi tiết về trách nhiệm và nội dung quản lý nhà nước về BVQLNTD.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một số ý kiến đóng góp cho dự thảo lần 4 mà chưa được đưa vào cùng với một số thay đổi của dự thảo 5. Đó là:
+ Cần bổ sung một khoản vào điều 7 của dự thảo luật với nội dung: "Cấm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ làm thay đổi trạng thái kết cấu, trạng thái ban đầu, làm sai lệch độ chính xác của phương tiện, dụng cụ đo nhằm gian lận khi cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho NTD ".
+ Dự thảo luật cũng nên quy định: "Trường hợp NTD tố cáo buộc tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi gian dối thì nghĩa vụ chứng minh tổ chức, cá nhân này không có hành vi gian dối thuộc về tổ chức, cá nhân kinh doanh bị cáo buộc"
+ Nghiên cứu quy định bổ sung hành vi giao dịch bán hàng trực tiếp, bán hàng từ xa và biện pháp xử lý đối với hành vi này.
+ Bổ sung thêm nội dung Hành vi cung ứng hàng hoá, dịch vụ không yêu cầu với nội dung: "Cấm tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng hàng hoá, dịch vụ mà NTD không yêu cầu, ngoại trừ trường hợp cung ứng mang tính miễn phí. NTD được cung ứng hàng hoá, dịch vụ mà mình không yêu cầu thì được toàn quyền sử dụng, định đoạt hàng hoá, dịch vụ đó mà không phải trả bất kỳ khoản tiền nào và không phải chịu bất cứ trách nhiệm pháp lý nào trước tổ chức, cá nhân cung ứng hàng hoá, dịch vụ đó ".
+ Về trách nhiệm bảo hành: cần quy định thêm về chế độ bảo hành như bằng văn bản với những nội dung về thông tin bảo hành như: tên và địa chỉ bảo hành của cơ sở có trách nhiệm bảo hành, trách nhiệm bảo hành có được chuyển giao hay không, nội dung trách nhiệm bảo hành của cơ sở cung cấp dịch vụ bảo hành, quy dịnh rõ cách thức NTD thực hiện quyền được bảo hành, quy định rõ các trường hợp không được bảo hành và thời hạn bảo hành.
+ Về cơ quan chuyên trách về bảo vệ NTD: hiện nay, cơ quan bảo vệ NTD là Ban bảo vệ NTD thuộc Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương. Các ý kiến đóng góp về việc nâng cao vai trò của cơ quan BVNTD cho rằng cần thành lập Cục bảo vệ NTD trực thuộc Bộ Công thương với những quyền hạn và trách nhiệm cụ thể (có quyền thanh, kiểm tra, xử phạt hành chính, đình chỉ hoạt động của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh; kiến nghị thu hồi giấy phép kinh doanh...) . Tuy nhiên, dự thảo 5 lại lược bỏ đi phần cơ quan bảo vệ NTD.
Như vậy, về cơ bản thì dự thảo Luật BVNTD lần 5 đã tương đối hoàn chỉnh hơn bởi nó kế thừa những ưu điểm và khắc phục những hạn chế, thiếu sót của dự thảo lần 4. Việc ban hành Luật còn có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lập pháp cũng như việc thực thi luật trong cuộc sống thực tiễn, đặc biệt khi chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới bởi pháp luật đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội bởi trước hết, việc Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật quy định việc BVQLNTD không những làm cho quyền lợi NTD được đảm bảo mà còn làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Trên cơ sở những ý kiến đóng góp trên, chúng ta hy vọng dự thảo Luật BVNTD sẽ được Quốc hội chỉnh sửa và thông qua vào thời gian sớm nhất để Việt Nam có công cụ pháp lý trực tiếp và hữu hiệu nhất trong việc bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng của NTD phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam hiện nay cũng như nhiều nước trên thế giới.
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc đảm bảo quyền lợi NTD
"Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng là trách nhiệm chung của toàn xã hội" . Bên cạnh việc ban hành Luật BVNTD thì công tác BVNTD cần có sự tham gia và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ trong hành động của mọi chủ thể trong xã hội. Đó là ba trụ cột: Nhà nước (chủ yếu thông qua hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước), Người tiêu dùng (NTD và các tổ chức xã hội, hội nghề nghiệp do NTD tổ chức ra để đại diện, bảo vệ cho lợi ích của mình); và xã hội (các tổ chức xã hội, doanh nghiệp hoặc tổ chức cá nhân nước ngoài hỗ trợ, giúp đỡ trong công tác BVQLNTD).
Dưới đây là các biện pháp cụ thể cần làm của mỗi chủ thể trong trụ cột đó nhằm bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của NTD.
3.2.1. Với cơ quan Nhà nước
Lực lượng cơ bản và quan trọng nhất để BVNTD là Nhà nước và các cơ quan quyền lực của Nhà nước và hoạt động BVNTD cần có sự tham gia của tất cả các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Là cơ quan quyền lực, Quốc hội có nhiệm vụ ban hành luật về BVQLNTD. Chính phủ, cơ quan hành pháp, thống nhất quản lý nhà nước về BVQLNTD trong phạm vi cả nước. Các cơ quan Nhà nước khác tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ cũng như trách nhiệm và quyền hạn của mình mà tham gia vào việc BVNTD theo yêu cầu của pháp luật và theo sự phân công của Chính phủ. Các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ là đầu mối chung để kết dính hoạt động của các cơ quan nhà nước với nhau và với Hội người tiêu dùng cùng các tổ chức xã hội khác có liên quan. Trong đó, mỗi cơ quan Nhà nước có vai trò khác nhau trong công tác BVNTD:
- Quốc hội cần đẩy nhanh quá trình nghiên cứu, rà soát để ban hành Luật bảo vệ NTD; thông qua các chương trình quốc gia về bảo vệ NTD cho từng thời kỳ nhất định, gắn với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhằm đáp ứng tích cực và hợp lý những nhu cầu cơ bản, chính đáng của NTD; thành lập cơ quan quản lý Nhà nước về BVNTD; xây dựng mạng lưới giám sát việc thực thi pháp luật BVNTD.
- Chính phủ cần công bố và chỉ đạo thực hiện chính sách và pháp luật bảo vệ NTD trong cả nước, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ NTD ở các ngành, các địa phương và các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ NTD để có được sự phối hợp chặt chẽ và đạt được hiệu quả tối ưu; thanh tra, giám sát, xử lý những vấn đề lớn vượt ngoài phạm vi của ngành, địa phương liên quan bảo vệ NTD.
- Các ngành quản lý chức năng, các cơ quan quản lý công thương, giám sát kỹ thuật, đo lường tiêu chuẩn, vệ sinh phòng dịch, bảo vệ môi trường... thực hiện hết chức năng của mình, trong phạm vi chức năng quyền hạn vận dụng phương tiện hành chính, tăng cường giám sát xã hội sản xuất và lưu thông hàng tiêu dùng, ngăn chặn hành vi làm thiệt hại quyền lợi NTD.
- Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án nhân dân cần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ pháp luật BVNTD cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích của NTD bằng việc giải quyết những tố cáo, khiếu nại của NTD.
- Viện Kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương về BVNTD cũng như hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng để pháp luật BVNTD được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
3.2.2. Với các tổ chức xã hội - đoàn thể quần chúng
Các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng là lực lượng rộng rãi để bảo vệ quyền lợi của NTD. Lực lượng này bao gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt nam và các Hội quần chúng trong đó có Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, Hội Luật gia, Hội Nhà báo, Hội Y học và nhiều hội khác.
Những việc mà các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng cần có thể tham gia vào các hoạt động BVNTD là:
- Thông tin và bồi dưỡng kiến thức cho các hội viên của mình về các quyền của NTD, các nội dung và biện pháp BVNTD, để qua đó từng hội viên với tư cách là NTD, có thể nắm được quyền và trách nhiệm của mình, có những kiến thức cần thiết về tiêu dùng, tham gia đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, vi phạm lợi ích NTD, tham gia xây dựng lối sống tiêu dùng hợp lý, lành mạnh.
- Theo dõi, quan sát hoạt động của các cơ quan tổ chức, các doanh nghiệp trong việc thực hiện chính sác, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực BVNTD và tham gia góp ý kiến với các cơ quan, tổ chức có liên quan về những vấn đề BVNTD.
- Tham gia vào việc hoà giải, giải quyết các khiếu nại và tố cáo của NTD.
- Tham gia vào việc thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí trong lĩnh vực tiêu dùng và BVNTD.
- Một số tổ chức đoàn thể có thể phát động những phong trào liên quan đến mối quan hệ giữa kinh doanh lành mạnh và tiêu dùng lành mạnh, qua đó góp phần vào việc xây dựng con người mới - nền văn hoá mới - nền kinh tế mới, phù hợp với đường lối đổi mới mà Đảng ta đang cùng toàn dân tiến hành.
Trong các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng thì Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam có vai trò trực tiếp và hết sức quan trọng trong việc BVNTD. Do đó, bên cạnh việc thực hiện những biện pháp chung của các đoàn thể quần chúng, tổ chức này cần có những biện pháp riêng để phát huy được vai trò của mình trong công tác BVNTD:
- Phát huy đầy đủ tác dụng của Hiệp hội NTD các cấp. Hiệp hội NTD Việt Nam cần phải mở rộng phát triển thành lập các Hội NTD ở các địa phương hiện chưa có Hội NTD đầy đủ.
- Tăng cường huy động kinh phí từ các nguồn khác nhau, chủ yếu là từ phía Chính phủ để đẩy mạnh các hoạt động, tăng cường cơ sở vật chất và cán bộ thuộc tổ chức bộ máy của Hội để cho hoạt động của Hội ngày càng có hiệu quả hơn.
- Thành lập các trung tâm kiểm nghiệm so sánh sản phẩm để có thể cung cấp thông tin chính xác về sản phẩm cho NTD.
- Có những biện pháp nâng cao khả năng tự vệ của NTD như triển khai giáo dục NTD, tiến hành việc chỉ đạo tiêu dùng, triển khai phục vụ tư vấn tiêu dùng, nâng cao kiến thức tự bảo vệ của NTD, phối hợp với các doanh nghiệp, nhà sản xuất làm tốt công tác cung cấp thông tin cho NTD.
Ngoài ra các tổ chức nghiên cứu, đào tạo, thông tin đại chúng cũng rất cần thiết để giúp cho phong trào BVNTD có được cơ sở lý luận rút ra từ tổng kết kinh nghiệm hoạt động của mình và tham khảo kinh nghiệm thế giới, có được tiền đề để đẩy mạnh hoạt động thông, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, mở mang dân trí. Để làm được điều này, các tổ chức nghiên cứu, đơn vị đào tạo cần tham gia vào việc nghiên cứu soạn thảo các giáo trình, các bài giảng về vấn đề tiêu dùng và bồi dưỡng kiến thức cho NTD nói chung và NTD tương lai. Các cơ quan thông tin đại chúng cần đẩy mạnh các hoạt động thông tin, phổ biến kiến thức, nâng cao dận trí bằng các chương trình phát thanh, phát sóng... để có thể làm tốt công tác BVNTD.
3.2.3. Với doanh nghiệp
Doanh nghiệp là lực lượng gắn rất chặt với quyền lợi trực tiếp của NTD, có khả năng thoả mãn các nhu cầu cơ bản của NTD trong cuộc sống, đồng thời cũng có khả năng gây cho NTD nhiều thiệt hại nhất nếu như không có pháp luật và đạo lý ràng buộc họ. Do doanh nghiệp là lực lượng quan trọng thứ hai trong việc bảo vệ quyền lợi của NTD. Doanh nghiệp cần phải tuân thủ nghiêm túc các quy định của nhà nước về tổ chức, hoạt động sản xuất nhằm bảo vệ NTD bằng những biện pháp sau đây:
- Doanh nghiệp phải đăng ký chất lượng (theo danh mục do Nhà nước quy định) công bố rõ ràng tiêu chuẩn chất lượng của hàng hoá mà mình kinh donah và có trách nhiệm đảm bảo chất lượng hàng hoá theo tiêu chuẩn đã đăng ký hoặc đã công bố.
- Doanh nghiệp sản xuất phải tổ chức thử nghiệm, kiểm tra để bảo đảm sản phẩm xuất xưởng đạt chất lượng đã đăng ký hoặc đã công bố, thông tin trung thực về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, có nhãn sản phẩm trên đó ghi rõ đặc tính công dụng của sản phẩm và chịu trách nhiệm về chất lượng của sản phẩm mà mình sản xuất ra.
- Doanh nghiệp lưu thông phải biết rõ nguồn gốc và tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá mà mình bán ra, niêm yết giá, thông tin trung thực về tiêu chuẩn chất lượng, hướng dẫn khách hàng lựa chọn, sử dụng, bảo quản hàng hoá và chịu trách nhiệm trực tiếp trước khách hàng về chất lượng hàng hoá mà mình lưu thông, đảm bảo cân đo chính xác.
- Doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo thoả thuận hoặc theo hợp đồng đã thống nhất với khách hàng, trong đó cần nêu rõ những yêu cầu về số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện mua và giao nhận, trách nhiệm bảo hành...
- Doanh nghiệp phải đảm bảo thực hiện nghiêm túc các qui định của Nhà nước về thông tin, quảng cáo, nhãn hiệu, không đưa ra những thông tin, quảng cáo sai sự thật.
- Doanh nghiệp phải đảm bảo hàng hoá, dịch vụ của mình đáp ứng được các yêu cầu an toàn vệ sinh cho khách hàng. Đối với những sản phẩm có khả năng gây nguy hiểm cho NTD, doanh nghiệp phải thực hiện đúng những yêu cầu TCVN và các quy định về an toàn vệ sinh của các cấp có thẩm quyền ban hành, thông báo rõ và giải thích cho khách hàng cách sử dụng, vận chuyển, vận hành, bảo quản để tránh những tác hại do các sơ suất gây ra.
- Nếu đã cam kết bảo hành, lắp đặt, vận chuyển, đổi lại hàng hoá cho khách hàng hoặc chịu các trách nhiệm khác, doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh thực hiện mọi nghĩa vụ của mình và các cam kết của mình, không trì hoãn hoặc từ chối thực hiện các cam kết đó.
- Doanh nghiệp phải giải quyết các khiếu nại của NTD và thực hiện việc đền bù nếu có sai lỗi từ phía mình một cách khẩn trương, tích cực.
- Doanh nghiệp cần tổ chức thực hiện việc thu thập, nghiên cứu các ý kiến nhận xét của NTD để cải tiến, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, cải tiến quản lý nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của NTD, đảm bảo được các quyền của NTD.
- Doanh nghiệp cần đẩy mạnh hợp tác đào tạo nguồn nhân lực, ứng dụng những công nghệ sạch, an toàn vào trong quá trình sản xuất, hợp tác chuyển giao công nghệ với các nước khác để có thể sản xuất ra các loại hàng hoá, dịch vụ đảm bảo chất lượng.
3.2.4. Với người tiêu dùng
NTD cần được bảo vệ, đó là cần thiết. Nhưng điều quan trọng ở đây là NTD phải biết tự bảo vệ mình, không thụ động chờ ai đó đứng ra che chở cho mình, cũng không thể chỉ đòi hỏi người khác bảo vệ cho mình. Do đó, NTD cần phải:
- Nắm rõ và hiểu các quyền và trách nhiệm của mình, thực hiện tốt những quyền và trách nhiệm đó. Các biện pháp đơn giản mà NTD phải làm và nên làm như: đọc kỹ thông tin, bao bì, nhãn mác, quan sát hình thức bên ngoài của hàng hóa trước khi mua; giữ lại bằng chứng là hóa đơn, chứng từ đã mua hàng ở đó; khi mua phải hàng kém chất lượng, không đảm bảo vệ sinh nên phản ảnh ngay với người bán hàng để họ giải quyết, bồi hoàn, hoặc để họ thu lại và kiểm tra lô hàng đó; cần phải mạnh dạn khiếu kiện lên các cơ quan chức năng, các văn phòng khiếu nại NTD hoặc nếu không khiếu kiện cũng nên thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền bằng điện thoại, email để các cơ quan này tập hợp và đưa ra những đề xuất, kiến nghị. Như vậy, dù những trường hợp cụ thể không được bồi thường nhưng các cơ quan này sẽ đưa ra khuyến cáo cho tất cả NTD nên tránh mua những hàng hóa đó; hoặc làm việc với doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh yêu cầu kiểm tra hàng hóa. Đó cũng là cách gián tiếp để các nhà sản xuất phải coi trọng hơn vấn đề chất lượng sản phẩm và quyền lợi cho NTD.
- Tự xây dựng cho mình một lối tiêu dùng lành mạnh, khoa học, hợp lý. NTD cần tiêu dùng một cách tiết kiệm, phù hợp với khả năng thanh toán của mình, tiêu dùng không gây tổn hại đến môi trường sinh thái...
- NTD cần phối hợp với các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện tốt các quy định pháp luật về BVNTD, tham gia đóng góp ý kiến cho các cơ quan chức năng BVNTD.
- Hợp tác với các doanh nghiệp BVNTD bằng cách ủng hộ các doanh nghiệp làm ăn chân chính, tiêu dùng các sản phẩm của các doanh nghiệp này chẳng hạn như tham gia các phong trào "người Việt dùng hàng Việt", phản đối, tẩy chay các cá nhân, nhà sản xuất, kinh doanh làm ăn giả dối, lừa gạt NTD.
Bằng những việc làm thiết thực của mình, NTD sẽ tự bảo vệ được những quyền và lợi ích chính đáng của mình đồng thời phối hợp được với các chủ thể khác hoạt động hiệu quả trong việc BVNTD.
3.2.5. Hợp tác quốc tế trong bảo vệ quyền lợi NTD
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, hoạt động sản xuất, kinh doanh đã không còn dừng lại trong biên giới quốc gia mà đã trở thành mạng lưới toàn cầu do đó, việc tăng cường hợp tác quốc tế trong vấn đề bảo vệ quyền lợi của NTD là hết sức cần thiết. Việc hợp tác đó không chỉ dừng ở mức giữa các cơ quan chức năng của chính phủ mà cần phải được mở rộng đến tận các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội. Nội dung hợp tác không chỉ dừng ở mức trao đổi, cung cấp thông tin mà cần phối hợp chặt chẽ trong hành động trên các lĩnh vực về pháp luật, hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại. Việc tăng cường mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về BVQLNTD sẽ giúp Việt Nam chia sẻ thông tin, học hỏi kinh nghiệm về hoạt động BVNTD của các quốc gia có nền kinh tế phát triển, có kinh nghiệm trong BVQLNTD. Những biện pháp về hợp tác quốc tế trong BVNTD mà nước ta cần làm đó là:
- Trong quá trình xây dựng pháp luật về BVNTD, các nhà làm luật cần tham khảo cũng như học hỏi những kinh nghiệm quốc tế và các quy định pháp luật của các gia khác sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn trong nước để việc ban hành cũng như thực thi luật được hiệu quả nhất.
- Đẩy mạnh hợp tác về pháp luật trong lĩnh vực thương mại. Ví dụ như một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã bị cấm ở một nước này thì cũng không được phép buôn bán, trao đổi cho một nước khác, điều đó sẽ giúp ngăn chặn những hiểm hoạ cho việc lưu thông và tiêu dùng các hàng hoá không đảm bảo chất lượng, không an toàn cho người sử dụng.
- Tăng cường hợp tác về hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật giữa các quốc gia. Các quốc gia cần thành lập và công bố hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật về chất lượng hàng hoá, dịch vụ của riêng nước mình và chỉ khi một sản phẩm đáp ứng được những tiêu chí về tiêu chuẩn kỹ thuật đó thì mới được phép buôn bán, trao đổi trên thị trường. Bên cạnh đó, các nước có thể phối hợp với nhau để đưa ra những hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn chung bằng việc đàm phán, ký kết các hiệp định hỗ trợ kỹ thuật song phương hoặc đa phương. Như vậy, không những các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tiếp cận hệ thống tiêu chuẩn quốc tế để có thể sản xuất các loại hàng hoá, dịch vụ đáp ứng chuẩn kỹ thuật mà NTD mỗi nước còn có thể tiêu dùng các loại hàng hoá đảm bảo chất lượng và an toàn.
Ngoài ra, các nước cần khuyến khích nghiên cứu, áp dụng chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ về BVNTD, thúc đẩy hợp tác đào tạo nguồn nhân lực để có thể nắm bắt nhanh và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong sản xuất.
Như vậy, hoàn thiện pháp luật BVNTD đòi hỏi cả những yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó các nhân tố chủ quan đóng vai trò cốt yếu. Trong ba tru cột BVQLNTD thì Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, xây dựng chính sách, pháp luật, điều phối hoạt động, kiểm tra, giám sát, giải quyết tranh chấp và xử lý hành vi vi phạm. Nhà nước cần khuyến khích vai trò giám sát vã hội, hỗ trợ và trợ giúp của cộng đồng xã hội, đề cao tinh thần trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và vai trò tự bảo vệ của NTD. Nếu Nhà nước phát động và duy trì được phong trào BVQLNTD thì sẽ thu hút được sự tham gia của cả cộng đồng xã hội vào hoạt động BVQLNTD, qua đó góp phần tăng cường ý thức BVQLNTD của xã hội. Nếu tạo ra sự giám sát chặt chẽ của xã hội đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thì sẽ có sự quan hệ chặt chẽ giữa người tiêu dùng và các cơ quan quản lý nhà nước trong BVNTD. Nhờ có sự phát hiện, tố cáo của người dân, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thì có thể ngăn chặn kịp thời việc đưa ra thị trường những sản phẩm hàng hoá không đạt tiêu chuẩn chất lượng cho phép của các doanh nghiệp. Cùng với đó là sự tăng cường trao đổi hợp tác quốc tế về mọi mặt từ phía Nhà nước, xã hội, doanh nghiệp và người tiêu dùng để công tác BVNTD đạt hiệu quả nhất. Do đó, khó có thể nói chủ thể nào có trách nhiệm chính và quan trọng nhất trong công tác BVQLNTD, bởi vai trò của các chủ thể đều hết sức quan trọng và có quan hệ mật thiết với nhau, nếu thiếu đi bất kỳ trụ cột nào thì công tác BVQLNTD sẽ gặp nhiều khó khăn, quyền và lợi ích hợp pháp của NTD sẽ không được đảm bảo
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu và phân tích về vấn đề pháp luật bảo vệ NTD, ta có thể rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, vấn đề NTD và bảo vệ quyền lợi NTD là một vấn đề ngày càng nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, các quốc gia và bản thân các nhà sản xuất, kinh doanh thông qua nhiều chính sách, pháp luật và các chương trình hành động cũng như các bảo hộ đặc biệt cho NTD.
Thứ hại, trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại, sự phát triển mạnh mẽ của thị trường hàng hoá và dịch vụ, hệ thống sản xuất và phân phối đã mang lại cho nhiều cơ hội lựa chọn hơn cho NTD. Tuy nhiên, chính sự phong phú, đa dạng của các loại hàng hoá và dịch vụ cũng khiến cho việc đảm bảo quyền lợi của NTD đứng trước những thách thức đáng kể. Bởi tất cả chúng ta đều là người tiêu dùng, bảo vệ quyền NTD là một việc làm có ý nghĩa thiết thực liên quan trực tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội, sự phát triển kinh tế và sự phồn vinh của mỗi quốc gia. Đảm bảo quyền lợi của NTD cũng là công cụ cơ bản trong công cuộc chống đói nghèo và bất bình đẳng.
Thứ ba, trong những năm gần đây, vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD thực sự trở nên bức thiết, không chỉ nhà nước, các cơ quan đoàn thể mà hầu hết người dân đều quan tâm đến lĩnh vực này bởi tình trạng xâm phạm quyền lợi của NTD ngày càng diễn biến nghiêm trọng và phức tạp.
Thứ tư, hệ thống pháp luật Việt Nam đã ghi nhận đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của NTD, tuy nhiên việc thực thi nó vào trong cuộc sống vẫn chưa hiệu quả do còn nhiều bất cấp và hạn chế, trong khi đó, Luật BVNTD mới cùng với một số dự luật khác liên quan như dự thảo Luật An toàn vệ sinh thực phẩm, dự thảo Luật Đo lường đang trong quá trình soạn thảo. Vì vậy vấn đề hiện nay là làm sao phải nhanh chóng thông qua Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có như vậy thì tình trạng xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng mới có xu hướng giảm. Việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD không chỉ mang ý nghĩa kinh tế - xã hội, văn hoá sâu sắc, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia mà còn đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top