Ham doi tuan duong ham Nhat trong ww2 p3
Đặt hàng: 1927
Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Takao
Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Kawasaki tại Yokosuka
Đặt lườn: 4 tháng 12 năm 1928
Hạ thủy: 8 tháng 11 năm 1930
Hoạt động: 30 tháng 6 năm 1932
Bị mất: Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngày 23 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến eo biển Palawan
Xóa đăng bạ: 20 tháng 12 năm 1944
Các đặc tính chung Lượng rẽ nước: 9.850 tấn (tiêu chuẩn); 13.350 tấn (đầy tải) Chiều dài: 203,8 m (668 ft 6 in) Mạn thuyền: 19,0 - 20,7 m (62,3 - 68 ft) Tầm nước: 6,1 - 6,4 m (20 ft - 21 ft) Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước 12 × nồi hơi Kampon 4 × trục công suất 133.100 mã lực (99,3 MW) Tốc độ: 65,7 km/h (35,5 knot) Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h (8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot) Quân số: 921 - 996 Vũ khí: Ban đầu: 10 × pháo 203 mm (8 inch) 4 × pháo 120 mm (4,7 inch) 8 × ống phóng ngư lôi Sau khi tái trang bị: 8 × pháo 203 mm (8 inch) 12 × pháo 120 mm (4,7 inch) cho đến 117 × súng phòng không 25 mm 8 × ống phóng ngư lôi
Vỏ giáp: đai giáp 37 đến 127 mm (1,5 - 5 inch) sàn tàu 40 mm (1,5 inch) vách ngăn 75 - 100 mm (3 - 4 inch) tháp súng 25 mm (1 inch) Máy bay: 3 thủy phi cơ (1 × Aichi E13A1 "Jake", 2 × F1M2 "Pete") 2 × máy phóng Maya (Nhật: 摩耶? Ma Gia) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp Takao bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp Myōkō trước đó. Maya đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngày 23 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến eo biển Palawan trong khuôn khổ Trận chiến vịnh Leyte. Thiết kế và chế tạo Những tàu chiến thuộc lớp Myōkō được xem là không ổn định và nhiều kinh nghiệm rút ra đã được áp dụng cải tiến cho lớp Takao. Chúng là những tàu chiến nhanh và mạnh mẻ, trang bị mười khẩu pháo 203 mm (8 inch) và bốn khẩu pháo 120 mm (4,7 inch), tám ống phóng ngư lôi và nhiều vũ khí phòng không hổn hợp, một hỏa lực đủ mạnh để đối đầu với bất kỳ tàu tuần dương của mọi lực lượng hải quân trên thế giới. Những chiếc trong lớp Takao được chấp thuận trong năm tài chính 1927 như một phần trong chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản về một trận chiến quyết định. Chúng tạo nên xương sống cho lực lượng tấn công chiến đấu tầm xa. Maya được chế tạo tại xưởng đóng tàu của Kawasaki tại Yokosuka, và giống như những con tàu chị em với nó, tên nó được đặt theo tên một ngọn núi: Núi Maya tọa lạc tại ngoại ô Kobe. Maya được đặt lườn vào ngày 4 tháng 12 năm 1928, được hạ thủy vào ngày 8 tháng 11 năm 1930 và được đưa vào hoạt động ngày 30 tháng 6 năm 1932. Lịch sử hoạt động Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương Lúc khởi đầu Chiến tranh Thái Bình Dương, Maya là soái hạm của Hải đội Tuần dương 4 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc (sau này là Đô đốc) Kondo Nobutake cùng với các con tàu chị em với nó Atago, Chōkai và Takao, và được trao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Malaya và Philippines. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1942, Maya tham gia các chiến dịch nhằm chiếm đóng khu vực Đông Ấn thuộc Hà Lan vốn giàu nguồn dự trữ dầu mỏ tối cần thiết cho Nhật Bản. Vào ngày 3 tháng 3 năm 1942 Maya có mặt trong vụ đánh chìm chiếc pháo hạm Mỹ USS Asheville (PG-21) ở phía Nam đảo Java. Quay trở về Nhật Bản vào tháng 4 năm 1942, Maya tham gia cuộc truy đuổi không thành công Lực lượng Đặc nhiệm 16.2 vốn đã tung ra cuộc Không kích Doolittle xuống Tokyo làm hư hại chiếc tàu sân bay Ryuho đang trong quá trình cải tạo. Trong tháng 5 và tháng 6 năm 1942, nó tham gia vào chiến dịch chiếm đóng quần đảo Aleut. Chiến dịch Guadalcanal và Chiến dịch quần đảo Aleut Vào tháng 8 năm 1942, Maya được bố trí về phía Nam nhằm tăng cường lực lượng phòng thủ tại quần đảo Solomon, và đã tham gia Trận chiến Đông Solomons. Nó đặt căn cứ tại Truk cho đến hết năm 1942. Tuy nhiên, trong đợt tiến hành bắn phá sân bay Henderson vào ngày 14 tháng 11 năm 1942, lực lượng đặc nhiệm của Maya bị tàu ngầm Mỹ USS Flying Fish (SS-229) tấn công, nhưng sáu quả ngư lôi nhằm vào Maya đều bị trượt. Sau đó, Maya còn bị các máy bay ném bom bổ nhào Douglas "SBD Dauntless" thuộc Phi đội VB-10 tấn công, một chiếc đã ném một quả bom 227 kg (500-lb) trượt về phía sau con tàu, nhưng cánh phải của máy bay đã va chạm với cột buồm của Maya và đâm vào mạn trái con tàu, kích nổ những quả đạn pháo 120 mm (4,7 inch). Vụ nổ tiếp theo sau đã khiến 37 thủy thủ thiệt mạng. Maya quay về Yokosuka để sửa chữa và tái trang bị vào tháng 1 năm 1943, rồi sau đó được bố trí vào Hạm đội Bắc, hỗ trợ các chiến dịch tiếp tế đến quần đảo Kurile và quần đảo Aleut. Vào ngày 26 tháng 3 năm 1943, Maya tham gia Trận chiến quần đảo Komandorski ngoài khơi bán đảo Kamchatka. Lực lượng Đội Đặc nhiệm 16.6 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc (sau là Phó Đô đốc) Charles H. McMorris, bao gồm các tàu tuần dương USS Richmond (CL-9), USS Salt Lake City (CA-25) và bốn tàu khu trục, đã tấn công Hạm đội 5 của Phó Đô đốc Hosogaya, gồm các tàu tuần dương Maya, Nachi, Tama, Abukuma và hai tàu khu trục, đang hộ tống một đoàn tàu vận tải chở binh lính và tiếp liệu tăng cường cho lực lượng bị cô lập trên Attu. Maya đã tung máy bay chỉ điểm pháo binh của nó ra, và phóng các quả ngư lôi Kiểu 93 "Long Lance" vào hạm đội Mỹ nhưng không trúng đích. Trong cuộc đấu pháo kéo dài bốn giờ, tàu tuần dương Salt Lake City và tàu khu trục USS Bailey (DD-492) bị hư hại; trong khi về phía Nhật, Maya và Nachi cũng bị hư hại và người Nhật phải từ bỏ chiến dịch tiếp tế bằng tàu nổi của họ. Sau khi được sửa chữa tại Yokosuka, Maya quay trở lại Kuriles vào cuối tháng 4 và trở thành soái hạm của Hạm đội 5, hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng Nhật tại Kiska sau khi đảo Attu bị thất thủ vào tay lực lượng Mỹ vào tháng 8 năm 1943. Sau đợt tái trang bị tại Yokosuka với những khẩu đội phòng không Kiểu 96 nòng đôi (đưa tổng cộng lên đến 16 nòng), Maya cùng tàu tuần dương Chōkai quay trở lại Truk, đến nơi vào cuối tháng 9, và bắt đầu nhiệm vụ chuyển binh lính và tiếp liệu từ Truk đến Rabaul. Vào tháng 11, Maya bị các máy bay ném bom bổ nhào "SBD Dauntless" của tàu sân bay USS Saratoga (CV-3) tấn công. Một quả bom đã đánh trúng sàn để máy bay bên mạn trái bên trên phòng động cơ số 3, làm bùng phát một đám cháy lớn, và khiến 70 người thiệt mạng. Những sửa chữa khẩn cấp được thực hiện tại Rabaul trước khi Maya quay về Yokosuka vào cuối năm 1943. Tại Kure, Maya nhận lên tàu hai máy bay trinh sát tầm xa Aichi E13A1 Jake, binh lính và tiếp liệu. Một con khỉ, quà tặng của Sở thú Kure cho thủy thủ đoàn chiếc Maya, cũng được cho lên tàu. Trong hành trình trên biển kéo dài, con khỉ được huấn luyện để đứng nghiêm chào các sĩ quan cao cấp một cách rất thông minh, bất kể sự phiền nhiễu mà nó gây ra. Trận chiến biển Phillipine và Trận chiến vịnh Leyte Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1944, Maya hỗ trợ các đơn vị khác trong việc phòng thủ Philippines, mà cao điểm là Trận chiến biển Philippine trong các ngày 19 và 20 tháng 6 năm 1944, trong đó Maya bị hư hại nhẹ do các quả bom ném suýt trúng đích. Vào ngày 20 tháng 6 năm 1944, Maya cùng phần còn lại của Hạm đội rút lui ngang qua Okinawa về Yokosuka, nơi phải đưa lên bờ đội bay và con vật thân yêu của họ. Ngày 22 tháng 10 năm 1944, chuẩn bị cho Trận chiến vịnh Leyte, Maya được bố trí vào Hải đội Tuần dương 5 cùng với các con tàu chị em với nó Atago, Takao và Chōkai. Vào ngày 23 tháng 10 năm 1944, trong trận chiến eo biển Palawan, Atago và Takao trúng phải ngư lôi của tàu ngầm Mỹ USS Darter (SS-227) lúc 05 giờ 33 phút, và Atago bị chìm trong vòng 18 phút. Hai mươi phút sau, tàu ngầm Mỹ USS Dace (SS-247) phóng sáu ngư lôi về phía Maya, nhầm lẫn nó là một thiết giáp hạm thuộc lớp Kongō. Maya trúng phải bốn quả ngư lôi bên mạn trái: một quả trong buồng chứa dây neo phía trước, một quả khác đối diện tháp pháo số 1, quả thứ ba trúng phòng nồi hơi số 7 và quả cuối cùng trúng phòng động cơ phía sau. Các vụ nổ thứ phát xảy ra ngay lập tức, và đến 6 giờ 00 Maya chết đứng giữa biển và nghiêng nặng về mạn trái. Nó chìm năm phút sau đó, mang theo 336 sĩ quan và thủy thủ, kể cả vị thuyền trưởng chỉ huy. Tàu khu trục Akishimo đã cứu được 769 người, và sau đó chuyển họ lên chiếc thiết giáp hạm Musashi. Điều không may là bản thân chiếc thiết giáp hạm cũng bị máy bay Mỹ đánh chìm ngay ngày hôm sau 24 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến biển Sibuyan, khiến 143 thành viên thủy thủ đoàn của Maya bị mất cùng Musashi. Do đó, trong tổng số 1105 thuyền viên, 479 người đã tử trận. Đặt hàng: 1920
Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Mogami
Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Kawasaki, Kobe
Đặt lườn: tháng 4 năm 1934
Hạ thủy: 15 tháng 10 năm 1936
Hoạt động: tháng 10 năm 1937
Bị mất: Bị đánh chìm ngày 25 tháng 11 năm 1944
Xóa đăng bạ: Các đặc tính chung Lượng rẽ nước: 13.440 tấn Chiều dài: 201,6 m (661 ft 5 in) Mạn thuyền: 22 m (72 ft 2 in) Tầm nước: 5,5 m (18 ft) Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước 10 × nồi hơi Kampon; 4 × trục công suất 152.000 mã lực (113 MW) Tốc độ: 65 km/h (35 knot) Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h (8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot) Quân số: 850 Vũ khí: ban đầu: 15 × pháo 155 mm (6,1 inch)/60 cal (5x3) 8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2) 4 × súng phòng không 40 mm 12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) sau cùng: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 cal (5x2) 8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2) 30 × súng phòng không 25 mm 12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) Vỏ giáp: đai giáp 100-125 mm (4-5 inch) sàn tàu 35-60 mm (1,5-2,5 inch) tháp súng 25 mm (1 inch) hầm đạn: 127 mm (5 inch) Máy bay: 3 × thủy phi cơ tuần tiểu Kiểu 1
Kumano (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp Mogami. Kumano từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị máy bay Mỹ đánh chìm tại Santa Cruz vào ngày 25 tháng 11 năm 1944. Thiết kế và chế tạo Được chế tạo trong Chương trình Tăng cường Hạm đội 1931, những chiếc trong lớp Mogami được thiết kế bởi Yuzuru Hiraga, và được chế tạo như những tàu tuần dương "hạng nhẹ" theo quy định của Hiệp ước Hải quân Washington; nhưng áp dụng những kỹ thuật mới nhất, trang bị năm tháp pháo đa dụng ba nòng 155 mm (6,1 inch) có góc nâng lên đến 55°. Để giảm trọng lượng, người ta áp dụng kỹ thuật hàn điện, sử dụng nhôm trong chế tạo cấu trúc thượng tầng, và chỉ có một ống khói duy nhất. Kiểu động cơ turbine hộp số mới, cùng với dàn hỏa lực phòng không rất hùng hậu, cho phép chúng có tốc độ rất nhanh và bảo vệ tốt. Chúng tỏ ra khá lớn so với những chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ, và các tháp súng được thiết kế sao cho có thể nhanh chóng chuyển đổi sang kiểu pháo 203 mm (8 inch) nòng đôi. Dù sao, lớp Mogami cũng mắc phải một số vấn đề kỹ thuật do thiết bị chưa được thử nghiệm và trọng lượng bên trên quá nặng tạo ra sự mất ổn định khi đi ngoài biển khơi trong thời tiết xấu. Mogami được hoàn tất tại xưởng đóng tàu của hãng Kawasaki tại Kobe vào ngày 31 tháng 10 năm 1937. Trong năm 1937 cả bốn chiếc trong lớp đều được "cải biến" thành những tàu tuần dương hạng nặng với mười khẩu pháo chính cỡ nòng 203 mm (8 inch); công việc tái cấu trúc và tái trang bị chỉ hoàn tất vào ngày 30 tháng 9 năm 1939. Lịch sử hoạt động Giai đoạn mở màn Thế Chiến II Được phân về Hải đội Tuần dương 7 cùng các tàu chị em với nó Mogami, Mikuma và Suzuya, vào đầu năm 1941, từ căn cứ tiền phương của nó ở Hải Nam, Kumano tham gia vào việc chiếm đóng Nam Kỳ tại Đông Dương sau khi Đế quốc Nhật Bản và chính phủ Vichy đạt được thỏa thuận về việc sử dụng các căn cứ không quân và hải quân tại đây từ tháng 7 năm 1941. Vào lúc diễn ra trận tấn công Trân Châu Cảng, Kumano được giao nhiệm vụ hỗ trợ cuộc chiếm đóng Malaya trong thành phần Hải đội Tuần dương 7 thuộc Hạm đội Viễn chinh Phương Nam 1 của Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, trực tiếp bảo vệ cho các cuộc đổ bộ quân Nhật lên Singora, Patani và Kota Bharu. Vào ngày 9 tháng 12 năm 1941, tàu ngầm Nhật I-65 báo cáo trông thấy Lực lượng Z của Hải quân Hoàng gia Anh bao gồm chiếc thiết giáp hạm HMS Prince of Wales, tàu chiến-tuần dương HMS Repulse và các tàu khu trục hộ tống. Bản báo cáo này được tàu tuần dương hạng nhẹ Sendai thu được, và chuyển tiếp đến Đô đốc Ozawa lúc đó đang ở trên soái hạm của mình là tàu tuần dương Chokai. Tuy nhiên, việc thu tín hiệu rất kém và bản thân bức thông điệp phải mất thêm 90 phút để giải mã. Hơn nữa, bản báo cáo của I-65 không chính xác về hướng tiến của Lực lượng Z. Hai chiếc thủy phi cơ Aichi E13A1 "Jake" phóng lên từ Suzuya và Kumano dự tính để theo dõi Lực lượng Z, nhưng cả hai đều bị buộc phải đáp xuống biển do hết nhiên liệu, và chỉ có đội bay của Suzuya được cứu vớt. Ngày hôm sau, Lực lượng Z bị áp đảo bởi những máy bay ném bom-ngư lôi của Không đoàn 22 xuất phát từ Đông Dương, và bị tiêu diệt. Vào tháng 12 năm 1941, Kumano được giao nhiệm vụ chiếm đóng Sarawak, cùng với tàu tuần dương Suzuya hỗ trợ cuộc đổ bộ quân Nhật xuống Miri. Từ căn cứ của nó tại vịnh Cam Ranh, nó khởi hành cùng với Suzuya để hỗ trợ các cuộc đổ bộ tại Anambas, Endau, Palembang và đảo Banka, Sabang tại Sumatra và Java từ cuối tháng 12 năm 1941 đến giữa tháng 3 năm 1942. Kumano còn tham gia việc chiếm đóng quần đảo Andaman vào ngày 20 tháng 3 năm 1942. Không kích Ấn Độ Dương Từ ngày 1 tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 7 đặt căn cứ tại Mergui, Burma hợp cùng Hải đội Tuần dương 4 để tham gia cuộc Không kích Ấn Độ Dương. Mikuma, Mogami và tàu khu trục Amagiri được tách ra để thành lập "Đội phía Nam" với vai trò truy lùng các tàu buôn đối phương trong khu vực vịnh Bengal; trong khi Kumano, Suzuya và tàu khu trục Shiokaze đảm trách các khu vực phía Bắc. Tàu tuần dương Chokai, tàu tuần dương hạng nhẹ Yura thuộc Hải đội Khu trục 4, tàu sân bay Ryujo cùng các tàu khu trục Ayanami, Yugiri và Asagiri hình thành nên đội trung tâm để tăng cường các lực lượng phía Nam hay phía Bắc khi cần thiết. Trong vài tuần sau đó, đội phía Bắc đã đánh chìm tàu buôn Mỹ tải trọng 4.986 tấn Exmoor và các tàu buôn Anh Autoclycus tải trọng 7.621 tấn, Malta 9.066 tấn và Shinkuang 2.440 tấn. Tổng cộng Hải quân Nhật đã đánh chìm hơn 20 tàu trong thời gian ở lại ngắn ngủi tại vịnh Bengal. Sau đó, Kumano được cho rút lui về Kure để sửa chữa, rồi được gửi đến Guam để gia nhập Đội vận chuyển Đổ bộ của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka đang chuẩn bị cho trận Midway. Trận Midway Ngày 5 tháng 6 năm 1942, Đô đốc Yamamoto Isoroku, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã ra lệnh cho Hải đội Tuần dương 7 tiến hành bắn pháo xuống đảo san hô Midway nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên đảo này. Lúc đó, Hải đội Tuần dương 7 và Hải đội Khu trục 8 còn cách mục tiêu 660 km (410 dặm), nên họ lao đi với tốc độ lên đến 65 km/h (35 knot); và vì biển động nên những chiếc tàu khu trục bị tụt lại. Đến 21 giờ 20 phút, mệnh lệnh bị hủy bỏ. Tuy nhiên, sự di chuyển đã đặt Hải đội Tuần dương 7 vào trong tầm bắn ngư lôi của chiếc tàu ngầm Mỹ USS Tambor, vốn bị Kumano phát hiện. Với tư cách soái hạm, Kumano ra lệnh chuyển hướng đồng loạt 45° sang mạn trái để tránh nguy cơ trúng ngư lôi. Mệnh lệnh chuyển hướng khẩn cấp được chiếc soái hạm và tàu tuần dương Suzuya thực hiện đúng, nhưng chiếc thứ ba trong đội hình Mikuma đã sai lầm thực hiện chuyển hướng 90°. Phía sau nó, Mogami chuyển hướng 45° như được chỉ thị, và điều này đã dẫn đến việc va chạm, khi Mogami đâm mạnh vào hông chiếc Mikuma bên mạn trái ngay bên dưới cầu tàu, khiến cả hai đều bị hư hại nặng. Kumano quay trở về Kure vào ngày 23 tháng 6 và Hải đội Tuần dương 7 được điều từ Hạm đội 2 sang Hạm đội 3. Sau khi quay lại Singapore, Hải đội Tuần dương 7 (Suzuya và Kumano) được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc tấn công Miến Điện từ ngày 28 tháng 7 năm 1942. Tuy nhiên, với việc lực lượng Mỹ tiến hành đổ bộ lên Guadalcanal vào ngày 7 tháng 8, Kumano nhanh chóng được gọi đến mặt trận Nam Thái Bình Dương. Trận chiến biển Philippine Vào ngày 13 tháng 6 năm 1944, Đô đốc Soemu Toyoda, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã ra lệnh tiến hành Chiến dịch "A-Go" để phòng thủ quần đảo Mariana Islands. Kumano được phân về "Lực lượng C" của Đô đốc Kurita Takeo cùng với các thiết giáp hạm Yamato và Musashi, các tàu sân bay Zuiho, Chiyoda và Chitose cùng các tàu tuần dương Atago, Takao, Maya, Chokai, Suzuya, Chikuma, Tone và Noshiro. Ngày 19 tháng 6, Hạm đội Cơ động Nhật Bản đã tấn công Lực lượng Đặc nhiệm 58 Mỹ ngoài khơi Saipan, nhưng đã phải chịu đựng thiệt hại nặng nề về không lực hải quân trong trận không chiến mà phía Mỹ đặt cái tên lóng là "Cuộc săn vịt trời Mariana vĩ đại". Khi hạm đội Mỹ phản công vào chiều tối ngày hôm sau, chiếc tàu tuần dương bị máy bay từ các tàu sân bay Mỹ Bunker Hill, Monterey và Cabot tấn công. Lúc 20 giờ 30 phút ngày 20 tháng 6, hai giờ sau khi bị đánh trúng ngư lôi phóng ra bởi máy bay Grumman TBM Avenger từ tàu sân bay USS Belleau Wood, tàu sân bay Hiyo bị nổ tung và chìm; đồng thời chiếc thiết giáp hạm Haruna bị hư hỏng nặng, nhưng Kumano thoát được mà không chịu thiệt hại. Đêm đó, Kumano rút lui cùng với phần còn lại của Hạm đội Nhật Bản về Okinawa. Trận chiến vịnh Leyte Cuối tháng 10 năm 1944, hạm đội Nhật Bản được tập trung tại Brunei nhằm đối phó với mối đe dọa về một cuộc đổ bộ của lực lượng Mỹ lên Philippine. Vào ngày 25 tháng 10 năm 1944, Kumano nằm trong thành phần "Lực lượng Trung Tâm" dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Kurita Takeo tham gia Trận chiến vịnh Leyte. Trong trận chiến ngoài khơi Samar, Kumano tấn công vào ba chiếc tàu sân bay hộ tống của Đội Đặc nhiệm 77.4 thuộc Đệ Thất hạm đội, và bị chống cự bởi chiếc tàu khu trục Johnston, khi nó phóng một loạt ngư lôi nhắm vào Kumano. Một quả ngư lôi Mark 15 đã đánh trúng và làm hư hại mũi tàu. Khi Kumano rút lui về hướng eo biển San Bernardino, nó còn chịu đựng một số đợt không khích nhưng chỉ bị hư hại nhẹ. Ngày hôm sau, Kumano bị các máy bay xuất phát từ tàu sân bay Hancock tấn công trong khu vực biển Sibuyan, và bị đánh trúng ba quả bom 225 kg (500 lb). Chiếc tàu tuần dương vẫn sống sót và rút lui được về vịnh Manila để sửa chữa mũi tàu và cả bốn nồi hơi. Kumano quay trở lại hoạt động vào ngày 6 tháng 11 năm 1944, thực hiện việc hộ tống cho đoàn tàu vận tải Ma-Ta 31. Đoàn tàu này bị một hải đội tàu ngầm Mỹ bao gồm những chiếc Batfish, Guitarro, Bream, Raton và Ray tấn công. Trong số những chiếc tàu ngầm Mỹ được nêu bên trên, chiếc Ray gây ra hư hại nhiều nhất cho chiếc Kumano. Tổng cộng các tàu ngầm Mỹ đã bắn ra 23 quả ngư lôi, và hai quả trong số đó đã đánh trúng Kumano. Quả thứ nhất phá hủy mũi tàu vừa mới được sửa chữa thay thế; trong khi quả thứ hai làm hư hại phòng động cơ bên mạn phải làm ngập nước tất cả bốn phòng động cơ. Chiếc tàu tuần dương bị nghiêng 11 độ và bị mất lái. Đến 19 giờ 30 phút, nó được chiếc tàu chở hàng Doryo Maru kéo vào vịnh Dasol, và từ đây được đưa về Santa Cruz trên đảo Luzon thuộc quần đảo Philippine. Trong khi đang được sửa chữa tại Santa Cruz, vào ngày 25 tháng 11 năm 1944, Kumano bị các máy bay xuất phát từ tàu sân bay Ticonderoga tấn công. Năm quả ngư lôi và bốn quả bom 225 kg (500 lb) đã đánh trúng chiếc tàu tuần dương, và đến 15 giờ 15 phút nó lật úp và chìm ở độ sâu khoảng 31 m (100 ft) nước. Đặt hàng: 1923
Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Aoba
Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Kawasaki
Đặt lườn: 24 tháng 10 năm 1924
Hạ thủy: 24 tháng 10 năm 1926
Hoạt động: 30 tháng 9 năm 1927[1]
Bị mất: Bị đánh chìm ngày 13 tháng 11 năm 1942 trong trận Hải chiến Guadalcanal; 08°45′S 157°00′E
Xóa đăng bạ: 15 tháng 12 năm 1942
Các đặc tính chung Lượng rẽ nước: 8.300 tấn (tiêu chuẩn); 9.000 tấn (sau cùng) Chiều dài: 185,17 m (607 ft 6 in) Mạn thuyền: 15,83 m (51 ft 11 in) (ban đầu) 17,56 m (57 ft 7 in) (sau cùng) Tầm nước: 5,71 m (18 ft 9 in) (ban đầu) 5,66 m (18 ft 7 in) (sau cùng) Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước Brown Curtis 12 × nồi hơi Kampon 4 trục công suất 102.000 mã lực (76 MW) Tốc độ: 66,7 km/h (36 knot) Tầm xa: 13.000 km ở tốc độ 26 km/h (7.000 hải lý ở tốc độ 14 knot) Quân số: 657 Vũ khí: Ban đầu:6 × pháo 200 mm (7,9 inch)/50 (3x2), 4 × pháo 120 mm (4,7 inch)/45 (4x1), 12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) (6x2) Sau cùng: 6 × pháo 203 mm (8 inch)/50 (3x2), 4 × pháo 120 mm (4,7 inch)/45 (4x1), 8 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) (2x4) 50 x súng phòng không 25 mm Vỏ giáp: đai giáp: 76 mm (3 inch) sàn tàu: 36 mm (1,5 inch) Máy bay: 1 x thủy phi cơ (ban đầu) 2 x thủy phi cơ, 1 máy phóng (sau cùng) Kinugasa (Nhật: 衣笠? Y Lạp) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp Aoba bao gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo đỉnh núi Kinugasa tọa lạc tại Yokosuka, Kanagawa. Nó tham gia hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị máy bay Mỹ đánh chìm trong trận Hải chiến Guadalcanal ngày 13 tháng 11 năm 1942. Thiết kế và chế tạo Kinugasa cùng chiếc tàu chị em với nó Aoba ban đầu được vạch kế hoạch như những chiếc thứ ba và thứ tư trong lớp Furutaka. Tuy nhiên, những vấn đề về thiết kế đối với lớp Furutaka đã đưa đến một số cải biến bao gồm các tháp pháo đôi và một máy phóng máy bay. Những cải biến này lại làm tăng thêm trọng lượng của cấu trúc bên trên của một thiết kế đã khá nặng nề, gây ra những vấn đề về sự ổn định. Dù sao, Kinugasa cũng tham gia nhiều chiến dịch quan trọng trong giai đoạn mở đầu của Thế Chiến II. Lịch sử hoạt động Giữa hai cuộc thế chiến Kinugasa được hoàn tất vào ngày 30 tháng 9 năm 1927 tại xưởng tàu Kawasaki ở Kobe. Thoạt tiên nó được chọn làm soái hạm của Hải đội Tuần dương 5, và nó đã trãi qua hầu như toàn bộ cuộc đời hoạt động cùng đơn vị này và các hải đội 6 và 7. Vào năm 1928, nó là chiếc tàu chiến Nhật Bản đầu tiên được trang bị một máy phóng máy bay. Kinugasa hoạt động ngoài khơi bờ biển Trung Quốc từ năm 1928 đến năm 1929 và trong nhiều dịp khác trong những năm 1930. Được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 9 năm 1937, nó được hiện đại hóa một cách rộng rãi tại Xưởng hải quân Sasebo và chỉ được đưa vào hoạt động trở lại vào cuối tháng 10 năm 1940. Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương Vào cuối năm 1941, Kinugasa được phân về Hải đội Tuần dương 6 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Aritomo Goto, bao gồm cả Aoba, Furutaka và Kako; hải đội này nằm trong thành phần của Hạm Đội 1 dưới quyền chỉ huy chung của Phó Đô đốc Takasu Shiro. Vào thời gian diễn ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng, nó đang yểm trợ cho cuộc chiếm đóng đảo Guam. Sau khi đợt tấn công thứ nhất nhắm vào Wake thất bại, Hải đội Tuần dương 6 được bố trí vào một lực lượng tấn công thứ hai mạnh mẻ hơn, và sau khi Wake thất thủ, nó quay về căn cứ tiền phương đặt tại Truk thuộc quần đảo Caroline. Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1942, Kinugasa đặt căn cứ tại Truk nơi nó hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của quân Nhật lên quần đảo Solomon và New Guinea tại Rabaul, Kavieng, Buka, Shortland, Kieta, đảo Manus, quần đảo Admiralty và Tulagi. Trận chiến biển Coral Trong Trận chiến biển Coral, Hải đội Tuần dương 6 khởi hành rời Shortland đi đến một điểm hẹn gặp chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Shoho. Lúc 11 giờ 00 ngày 7 tháng 5 năm 1942, đang khi ở về phía Bắc đảo Tulagi, Shoho bị tấn công và bị đánh chìm bởi 93 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless và máy bay ném bom-ngư lôi TBD Devastator từ các tàu sân bay USS Yorktown và USS Lexington. Ngày hôm sau, 8 tháng 5 năm 1942; 46 chiếc SBD, 21 chiếc TBD và 15 chiếc Grumman F4F Wildcat xuất phát từ Yorktown và Lexington đã tấn công và gây hư hại nặng cho chiếc Shokaku, buộc nó phải rút lui. Furutaka và Kinugasa vốn không bị hư hại trong trận đánh này, đã hộ tống Shokaku quay trở về Truk. Kinugasa quay trở về Nhật Bản vào tháng 6 năm 1942 để sửa chữa, rồi quay trở lại Truk vào ngày 4 tháng 7. Trong cuộc cải tổ sâu rộng Hải quân Nhật sau thất bại của trận Midway, vào ngày 14 tháng 7 năm 1942, Kinugasa được phân về Hạm đội 8 vừa mới được thành lập dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Mikawa Gunichi đặt căn cứ tại Rabaul. Trận chiến đảo Savo Trong Trận chiến đảo Savo vào ngày 9 tháng 8 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 (bao gồm Aoba, Furutaka, Kako và Kinugasa), Chokai, các tàu tuần dương hạng nhẹ Tenryu và Yūbari và tàu khu trục Yūnagi đã đối đầu cùng lực lượng hạm đội Đồng Minh trong một trận đánh đêm bằng hải pháo và ngư lôi. Vào khoảng 23 giờ 00, Chokai, Furutaka và Kako đã tung các thủy phi cơ trinh sát của mình ra. Những chiếc máy bay này lượn vòng bên trên hạm đội Đồng Minh và thả các quả pháo sáng chiếu rõ các mục tiêu, và tất cả các tàu chiến Nhật đã khai hỏa. Các tàu tuần dương USS Astoria, USS Quincy, USS Vincennes và HMAS Canberra đã bị đánh chìm, trong khi USS Chicago cùng các tàu khu trục USS Ralph Talbot và USS Patterson bị hư hại. Bên phía Nhật Bản, Kinugasa bị bắn trúng hai phát: một quả đạn pháo 127 mm (5 inch) từ chiếc Patterson bắn trúng phòng máy số 1, và một quả đạn khác của Vincennes bắn trúng bánh lái bên mạn trái. Chokai bị bắn trúng ba phát, Aoba một phát trong khi Furutaka hoàn toàn vô hại. Những con tàu vận tải chất đầy và nặng trĩu của Mỹ ngoài khơi Guadalcanal trở nên hoàn toàn không được bảo vệ. Tuy nhiên, Đô đốc Mikawa không biết được là những chiếc tàu sân bay bảo vệ của Đô đốc Fletcher đã rút lui. Do lo ngại một cuộc không kích lúc bình minh, ông đã ra lệnh lui quân. Thuyền trưởng Sawa của Kinugasa, thất vọng về quyết định này, đã phóng một loạt ngư lôi bên mạn phải về phía các tàu vận tải Đồng Minh ở khoảng cách 21 km (13 dặm) nhưng đều bị trượt. Ngày hôm sau, trong khi Hải đội Tuần dương 6 di chuyển về hướng Kavieng, Kako bị tàu ngầm Mỹ S 44 phóng ngư lôi đánh chìm. Trận chiến mũi Esperance Trong Trận chiến mũi Esperance diễn ra vào ngày 11 tháng 10 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 (bao gồm Aoba, Furutaka và Kinugasa) cùng các tàu khu trục Fubuki và Hatsuyuki rời Shortland để yểm trợ cho một đoàn tàu vận tải chở quân tăng cường cho Guadalcanal bằng cách bắn phá sân bay Henderson trên đảo này. Hai máy bay trinh sát Mỹ OS2U Kingfisher đã phát hiện ra hạm đội đang di chuyển dọc theo eo biển với vận tốc 56 km/h (30 knot). Được báo động kịp thời, các tàu tuần dương Mỹ được trang bị radar USS San Francisco, Boise, Salt Lake City và Helena cùng năm tàu khu trục đã di chuyển vòng qua mũi cực Nam đảo Guadalcanal để phong tỏa lối vào eo biển Savo. Lúc 22 giờ 35 phút, radar của chiếc Helena phát hiện ra hạm đội Nhật, và lực lượng Mỹ đã thành công trong việc Cắt ngang chữ T hạm đội Nhật. Cả hai bên đều nổ súng, nhưng do Đô đốc Goto nghĩ rằng mình đang bị bắn nhầm từ các tàu bạn, đã ra lệnh cho toàn hải đội quay mũi 180 độ khiến toàn bộ lực lượng của ông bị phơi sườn ra trước hỏa lực các tàu chiến Mỹ. Aoba bị hư hỏng nặng, và Đô đốc Goto bị tử thương. Furutaka bị bắn trúng một quả ngư lôi vào phòng máy phía trước và bị hải pháo của Salt Lake City và tàu khu trục Duncan đánh chìm. Hải pháo 203 mm (8 inch) của Kinugasa bắn trúng Boise và Salt Lake City, phá hỏng tháp pháo số 1 và số 2 của chiếc Boise; nhưng bản thân nó cũng bị bắn trúng bốn phát. Sáng hôm sau, Kinugasa bị năm máy bay Mỹ tấn công nhưng không bị thiệt hại, và quay trở về Shortland an toàn. Hải chiến Guadalcanal Vào ngày 14 tháng 10 năm 1942, Kinugasa trở thành soái hạm của Hải đội Tuần dương 6. Ngày hôm sau, Kinugasa và Chōkai tiến hành bắn phá sân bay Henderson trên đảo Guadalcanal với tổng cộng 752 quả đạn pháo 203 mm (8 inch). Trong các ngày 24 đến 26 tháng 10 và 1 đến 5 tháng 11, Kinugasa và Chōkai hỗ trợ cho các đoàn tàu vận tải chở binh lính và trang bị bổ sung thay thế nhằm tăng cường cho việc phòng thủ của quân Nhật tại Guadalcanal. Vào ngày 14 tháng 11 năm 1942, trong trận Hải chiến Guadalcanal, Kinugasa bị các máy bay ném bom-ngư lôi TBM Avenger từ tàu sân bay USS Enterprise và của lực lượng Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal tấn công. Lúc 09 giờ 36 phút một quả bom 250 kg (500 lb) đánh trúng khẩu đội súng máy 13,2 mm ngay phía trước cầu tàu chiếc Kinugasa, gây một đám cháy tại kho chứa xăng phía trước; Thuyền trưởng Sawa và Sĩ quan Cao cấp bị thiệt mạng bởi quả bom, và Kinugasa dần dần bị nghiêng sang mạn trái. Các quả bom ném gần trúng đã gây thêm các đám cháy và ngập nước. Một đợt tấn công thứ hai bởi 17 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless đã phá hỏng động cơ và bánh lái, cũng như thêm nhiều ngăn bị ngập nước. Đến 11 giờ 22 phút, Kinugasa lật úp và chìm ở về phía Tây Nam đảo Rendova ở tọa độ 08°45′S 157°00′E, mang theo nó 511 thành viên thủy thủ đoàn. Kinugasa được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 12 năm 1942. Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Furutaka
Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Mitsubishi, Nagasaki
Đặt lườn: 5 tháng 12 năm 1922
Hạ thủy: 10 tháng 4 năm 1925
Hoạt động: 30 tháng 7 năm 1926[1]
Bị mất: Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngày 10 tháng 8 năm 1942 ngoài khơi đảo Savo 02°28′S 152°11′E
Xóa đăng bạ: 15 tháng 9 năm 1942
Các đặc tính chung Lượng rẽ nước: 7.950 tấn (tiêu chuẩn) 9.150 tấn (sau khi cải tiến) Chiều dài: 176,8 m (580 ft) Mạn thuyền: 15,8 m (51 ft 10 in) Tầm nước: 5,6 m (18 ft 5 in) Lực đẩy: 4 turbine hơi nước Brown Curtis 12 × nồi hơi Kampon 4 trục công suất 102.000 mã lực (76 MW) Tốc độ: 64 km/h (34,5 knot) Tầm xa: 13.000 km ở tốc độ 26 km/h (7.000 hải lý ở tốc độ 14 knot) Quân số: 616 Vũ khí: (ban đầu): 6 × 200 mm (7,9 inch)/50-cal (6x1), 4 × pháo 76 mm (3,1 inch)/40-cal (4x1), 12 × ống phóng ngư lôi 610mm (24 inch) (6x2) (từ năm 1937): 6 × pháo 203 mm (8 inch)/50-cal (3x2), 4 × pháo 120 mm (4,7 inch)/45-cal (4x1), 8 × ống phóng ngư lôi 610mm (24 inch) (2x4) Vỏ giáp: đai giáp: 76 mm (3 inch) sàn tàu: 36 mm (1,4 inch) Máy bay: 1 x thủy phi cơ 1 máy phóng Kako (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là chiếc thứ hai trong tổng số hai chiếc thuộc lớp Furutaka. Tên của nó được đặt theo con sông Kako thuộc tỉnh Hyogo. Nó bị tàu ngầm Mỹ USS S-44 đánh chìm tại vùng biển ngoài khơi đảo Savo ngày 10 tháng 8 năm 1942. Thiết kế và chế tạo Kako và chiếc tàu chị em với nó Furutaka thuộc thế hệ đầu tiên của những tàu tuần dương hạng nặng tốc độ cao của Hải quân Nhật; được dự tính để đối đầu cùng những chiếc tàu tuần dương trinh sát thuộc lớp Omaha của Hải quân Mỹ và lớp Hawkins của Hải quân Anh. Chúng được phát triển dựa trên thiết kế thử nghiệm được bắt đầu bởi chiếc tàu tuần dương Yūbari. Mặc dù được thiết kế để tối thiểu hóa trọng lượng và lớp vỏ giáp chỉ đủ để bảo vệ chống lại đạn pháo 150 mm (6 inch), lượng rẽ nước của con tàu lại tỏ ra quá tải trầm trọng.[2] Kako được hoàn tất tại hãng đóng tàu Kawasaki ở Kobe vào ngày 20 tháng 7 năm 1926. Hai chiếc tàu chiến này được xem là những "tàu tuần dương trinh sát", được thiết kế để mang theo máy bay. Tuy nhiên, việc thiếu sót một máy phóng đã buộc phải phóng thủy phi cơ từ mặt nước cho đến khi chúng được cải tiến trong những năm 1932-1933. Lịch sử hoạt động Trước chiến tranh Thoạt tiên Kako được phân về Hải đội Tuần dương 5 và phục vụ tại đây cho đến năm 1933. Trong giai đoạn này nó hoạt động tại vùng biển Nhật Bản và Trung Quốc, tham gia nhiều cuộc thực tập cơ động hạm đội và hoạt động tác chiến ngoài khơi bờ biển Trung Quốc. Kako trải qua một loạt các cải tiến đáng kể trong những năm 1929-1930, nâng cấp hệ thống động cơ và thay đổi chút ít dáng vẻ bên ngoài. Hoạt động một thời gian ngắn cùng Hải đội Tuần dương 6 vào năm 1933, Kako tham gia cuộc duyệt binh hải quân ngoài khơi Yokohama vào cuối tháng 8 năm đó. Nó được đưa về tình trạng tàu hộ vệ vào tháng 11 và đưa về lực lượng dự bị vào năm 1934. Vào tháng 7 năm 1936, Kako bắt đầu một đợt tái cấu trúc rộng rãi tại xưởng hải quân Sasebo, và được hoàn tất vào ngày 27 tháng 12 năm 1937. Sáu tháp pháo đơn 200 mm (7,9 inch) được thay thế bằng ba tháp pháo đôi 203,2 mm (8 inch). Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương Vào cuối năm 1941, Kako được phân về Hải đội Tuần dương 6 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Aritomo Goto trong thành phần của Hạm đội 1 cùng với các tàu tuần dương Aoba, Furutaka và Kinugasa. Vào thời gian diễn ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng, nó đang yểm trợ cho cuộc chiếm đóng đảo Guam. Sau khi đợt tấn công thứ nhất nhắm vào Wake thất bại, Hải đội Tuần dương 6 được bố trí vào một lực lượng tấn công thứ hai mạnh mẻ hơn, và sau khi Wake thất thủ, nó quay về căn cứ tiền phương đặt tại Truk thuộc quần đảo Caroline. Từ ngày 18 tháng 1 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 được phân công hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của quân Nhật lên Rabaul thuộc New Britain và Kavieng thuộc New Ireland và tuần tra quanh khu vực quân đảo Marshall để truy đuổi bất thành hạm đội Hoa Kỳ. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 hỗ trợ cho Hải đội Tuần dương 18 bảo vệ cuộc đổ bộ của quân Nhật lên quần đảo Solomon và New Guinea tại Buka, Shortland, Kieta, đảo Manus, quần đảo Admiralty và Tulagi từ căn cứ tiền phương ở Rabaul. Trong khi đang ở Shortland vào ngày 6 tháng 5 năm 1942, Kako bị bốn máy bay ném bom Boeing B-17 Flying Fortress thuộc Không lực Mỹ tấn công nhưng không bị hư hại. Trận chiến biển Coral Trong Trận chiến biển Coral, Hải đội Tuần dương 6 khởi hành rời Shortland đi đến một điểm hẹn gặp chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Shoho. Lúc 11 giờ 00 ngày 7 tháng 5 năm 1942, đang khi ở về phía Bắc đảo Tulagi, Shoho bị tấn công và bị đánh chìm bởi 93 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless và máy bay ném bom-ngư lôi TBD Devastator từ các tàu sân bay USS Yorktown và USS Lexington. Ngày hôm sau, 8 tháng 5 năm 1942; 46 chiếc SBD, 21 chiếc TBD và 15 chiếc Grumman F4F Wildcat xuất phát từ Yorktown và Lexington đã tấn công và gây hư hại nặng cho chiếc Shokaku, buộc nó phải rút lui. Do Furutaka và Kinugasa vốn không bị hư hại trong trận đánh này đã hộ tống Shokaku quay trở về Truk; Kako và Aoba tiếp tục yểm trợ việc rút lui của đoàn tàu vận tải dự định tấn công cảng Moresby. Sau khi tiếp nhiên liệu tại Shortland vào ngày 9 tháng 5, Kako bị mắc cạn vào một dãi san hô ngầm ở lối vào cảng Queen Carola, nhưng nó nhanh chóng nổi trở lại được. Kako quay về xưởng hải quân Kure vào ngày 22 tháng 5 năm 1942 để sửa chữa, rồi quay trở lại Truk vào ngày 23 tháng 6, rồi từ Truk di chuyển đến vịnh Rekata, đảo Santa Isabel, nơi nó được bố trí nhiệm vụ tuần tra cho đến tháng 7. Trong cuộc cải tổ sâu rộng Hải quân Nhật sau thất bại của trận Midway, vào ngày 14 tháng 7 năm 1942, Kako được phân về Hạm đội 8 vừa mới được thành lập dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Mikawa Gunichi và được bố trí tuần tra chung quanh khu vực quần đảo Solomon, New Britain và New Ireland. Trận chiến đảo Savo Vào ngày 8 tháng 8 năm 1942, về phía Bắc Guadalcanal, một chiếc thủy phi cơ trinh sát Aichi E13A1 "Jake" ba chỗ ngồi phóng lên bởi Kako đã bị một máy bay SBD Dauntless thuộc phi đội VS-72 từ tàu sân bay USS Wasp bắn rơi. Đây là sự kiện mở màn cho Trận chiến đảo Savo ngày hôm sau. Vào ngày 9 tháng 8 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 (bao gồm Kako, Aoba, Furutaka và Kinusaga), Chokai, các tàu tuần dương hạng nhẹ Tenryu và Yūbari và tàu khu trục Yūnagi đã đối đầu cùng lực lượng hạm đội Đồng Minh trong một trận đánh đêm bằng hải pháo và ngư lôi. Vào khoảng 23 giờ 00, Chokai, Furutaka và Kako đã tung các thủy phi cơ trinh sát của mình ra. Những chiếc máy bay này lượn vòng bên trên hạm đội Đồng Minh và thả các quả pháo sáng chiếu rõ các mục tiêu, và tất cả các tàu chiến Nhật đã khai hỏa. Các tàu tuần dương USS Astoria, USS Quincy, USS Vincennes và HMAS Canberra đã bị đánh chìm, trong khi USS Chicago cùng các tàu khu trục USS Ralph Talbot và USS Patterson bị hư hại. Hỏa lực pháo của Kako đã bắn trúng hầm chứa máy bay của Vincennes và đã phá hủy tất cả những thủy phi cơ Curtiss SOC Seagull của nó. Bên phía Nhật Bản, Chokai bị bắn trúng ba phát, Kinugasa trúng hai phát, Aoba một phát trong khi Furutaka và Kako hoàn toàn vô hại. Tuy nhiên, sang ngày 10 tháng 8, bốn chiếc tàu tuần dương hạng nặng thuộc Hải đội Tuần dương 6 được lệnh tách ra để hướng đến Kavieng, trong khi phần còn lại của lực lượng tấn công quay trở về Rabaul. Lúc 06 giờ 50 phút, chiếc tàu ngầm Mỹ USS S-44 trông thấy Hải đội Tuần dương 6 ở khoảng cách không đầy 800 m (900 yard) và đã bắn bốn quả ngư lôi Mark 10 từ khoảng cách 630 m (700 yard) vào chiếc tàu tuần dương đi cuối đội hình, lại chính là Kako. Lúc 07 giờ 08 phút, ba quả ngư lôi đánh trúng Kako. Quả thứ nhất đánh trúng mạn phải phía trước tháp pháo số 1. Các quả còn lại đánh trúng phiá sau cạnh hầm đạn phía trước và các phòng nồi hơi số 1 và 2. Kako lật nghiêng qua mạn phải và phát nổ khi nước biển ngập đến các nồi hơi của nó. Đến 07 giờ 15 phút, Kako chìm xuống nước với phần mũi tàu chìm trước tại vùng biển ngoài khơi đảo Simbari ở tọa độ 02°28′S 152°11′E và độ sâu khoảng 40 m (130 ft). Aoba, Furutaka và Kinugasa cứu được Thuyền trưởng Takahashi và hầu hết thủy thủ đoàn của Kako, ngoại trừ ba mươi bốn người thiệt mạng. Kako được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 9 năm 1942.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top