Ham doi khu truc ham Nhat trong WW2

Đặt hàng:1917

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru

Đặt lườn:20 tháng 4 năm 1918

Hạ thủy:8 tháng 2 năm 1919

Hoạt động: 29 tháng 5 năm 1920

Bị mất:Bị tàu ngầm Mỹ USS Pogy đánh chìm phía Đông Nam Đài Loan, ngày 10 tháng 2 năm 1944, tọa độ 23°12′N 121°30′E

Xóa đăng bạ:31 tháng 3 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung,Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in).Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,20 × mìn sâu

Minekaze (tiếng Nhật: 峯風) là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương. Minekaze hầu như chỉ đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, cho đến khi bị tàu ngầm Mỹ USS Pogy phát hiện và đánh chìm ở phía Đông Nam Đài Loan vào ngày 10 tháng 2 năm 1944.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo.Minekaze, chiếc dẫn đầu của lớp tàu này, được đóng tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 20 tháng 4 năm 1918; được hạ thủy vào ngày 8 tháng 2 năm 1919; và được đưa ra hoạt động vào ngày 29 tháng 5 năm 1920.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Minekaze được tập hợp cùng với các con tàu chị em Sawakaze, Okikaze và Yakaze tại Quân khu Hải quân Sasebo để hình thành nên Hải đội Khu trục 2 trực thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Trong những năm 1930-1932, Hải đội Khu trục 2 được chuyển sang Không Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong thành phần hộ tống cho tàu sân bay Akagi, để trợ giúp vào việc tìm kiếm và giải cứu những máy bay lâm nạn.Vào lúc xảy ra Sự kiện Thượng Hải năm 1932, Minekaze tham gia tuần tra dọc theo sông Dương Tử tại Trung Quốc. Trong những năm 1937-1938, Minekaze được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Đông Trung Quốc hỗ trợ các nỗ lực của Nhật Bản trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật.Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng,Minekaze đặt căn cứ tại Chinkai thuộc Triều Tiên, đảm nhiệm vai trò tuần tra tại eo biển Tsushima và dọc theo bờ biển của quần đảo Kurile.Từ tháng 4 năm 1942, Minekaze được điều về Quân khu Hải quân Sasebo đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống đoàn tàu vận tải. Vào cuối tháng 9, nó hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến Saipan, Truk và Rabaul, và từ cuối tháng 11 năm 1942 đến tháng 2 năm 1944 nó được phân công tuần tra hộ tống tại biển Đông Trung Quốc. Ngày 1 tháng 2 năm 1944, Minekaze được điều sang Hải đội Hộ tống ppu nổi 1 thuộc Bộ Chỉ huy Hộ tống. Bốn ngày sau, nó rời Moji hộ tống một đoàn tàu vận tải hướng đến Cao Hùng, Đài Loan. Đoàn tàu vận tải bị tàu ngầm Mỹ USS Pogy phát hiện ngoài khơi Đài Loan, và Minekaze bị trúng ngư lôi và chìm vào ngày 10 tháng 2 năm 1944 cách Wu-shih Pi khoảng 11 km (7 dặm) về phía Đông Nam, thuộc Đài Loan, ở tọa độ 23°12′N 121°30′E.Minekaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 31 tháng 3 năm 1944.

Đặt hàng:1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Mitsubishi - Nagasaki

Đặt lườn:7 tháng 6 năm 1920

Hạ thủy:14 tháng 12 năm 1920

Hoạt động:16 tháng 9 năm 1921

Bị mất:Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm tại Luzon, ngày 3 tháng 11 năm 1944

Xóa đăng bạ:10 tháng 1 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2× trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:154

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,16 × mìn sâu

Akikaze (tiếng Nhật: 秋風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương[Nó đảm trách vai trò tuần tra, vận tải và hộ tống trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm tại vị trí cách 257 km về phía Tây mũi Bolinao, Luzon, vào ngày 3 tháng 11 năm 1944.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.[2] Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo.[3]Akikaze, chiếc thứ chín của lớp tàu này, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 7 tháng 6 năm 1920; được hạ thủy vào ngày 14 tháng 12 năm 1920; và được đưa ra hoạt động vào ngày 16 tháng 9 năm 1921.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Akikaze được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản.ại đây, nó cùng với các tàu khu trục chị em Tachikaze, Hakaze và Hokaze được tập trung để hình thành nên Đội Khu Trục 4 thuộc Hải đội Ngư lôi 1 (第1水雷戦隊). Trong những năm 1938-1939, hải đội này được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển miền Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật.Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Akikaze đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống vận tải. Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Akikaze đang được phân về Hải đội Khu trục 34 thuộc Không hạm đội 11 Hải quân Đế quốc Nhật Bản đặt căn cứ tại Takao, hỗ trợ việc tìm kiếm cứu nạn trên biển cho cuộc tấn công chiếm đóng Philippines, và hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến Davao và Legazpi.Từ tháng 1 đến cuối tháng 4 năm 1942, Akikaze đặt căn cứ tại Davao, hộ tống cho tàu bè đi lại giữa Davao và Ambon. Sau một đợt ngắn quay trở về Maizuru để sửa chữa trong tháng 5 năm 1942, Akikaze đặt căn cứ ngoài khơi Rabaul, hộ tống các tàu vận tải suốt khu vực Tây Nam Thái Bình Dương. Vào ngày 14 tháng 3 năm 1943, Akikaze cùng hai tàu khu trục khác đã tấn công một tàu ngầm Mỹ, có thể là chiếc Triton, gần đảo Kairiru ở tọa độ 3°20′10″S 143°33′0″E.Sau một đợt sửa chữa khác tại Maizuru vào tháng 4 năm 1943, Akikaze quay trở lại Rabaul tiếp tục nhiệm vụ tuần tra và hộ tống. Nó bị hư hại nặng trong một cuộc không kích vào ngày 2 tháng 8, gây thương vong 23 người và bị buộc phải quay trở về Maizuru để sửa chữa một lần nữa vào tháng 9. Quay trở lại Rabaul vào giữa tháng 11, Akikaze thực hiện nhiều chuyến đi vận chuyển binh lính đến New Guinea từ tháng 10 năm 1943 đến tháng 2 năm 1944. Sang tháng 3, nó được điều về Truk, nơi nó hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Truk, Saipan và Palau[Vào ngày 1 tháng 5, Akikaze được phân về Hải đội Khu trục 30 thuộc Hạm đội Trung tâm Thái Bình Dương. Sau một chuyến đi hộ tống đoàn tàu vận tải từ Nhật Bản đến Davao và Manila, nó được cho đặt căn cứ tại Manila. Hải đội Khu trục 30 được điều về Hạm đội Liên Hợp vào ngày 20 tháng 8. Trong các ngày 24 và 25 tháng 10, Akikaze dẫn đầu đoàn hộ tống cho Lực lượng Tiếp liệu 2 thuộc Lực lượng Phía Bắc của Đô đốc Ozawa tham gia Trận chiến vịnh Leyte, cứu vớt những người còn sống sót trên chiếc tàu chở dầu hạm đội Jinei Maru bị chìm do trúng ngư lôi đối phương, và đưa họ quay trở về Mako.Vào ngày 1 tháng 11, Hải đội Khu trục 30, bao gồm các tàu khu trục Yuzuki (soái hạm), Uzuki và Akikaze, rời Mako hộ tống tàu sân bay Junyō và tàu tuần dương Kiso đi về phía Brunei.Vào ngày 3 tháng 11, tàu ngầm Mỹ Pintado bắn một loạt ngư lôi nhắm vào Junyō, nhưng Akikaze đã chặn chúng, hy sinh chính mình để bảo vệ chiếc tàu sân bayAkikaze chìm với tất cả những người trên tàu ở địa điểm cách 257 km (160 dặm) về phía Tây mũi Bolinao, Luzon ở tọa độ 16°48′N 117°17′ETọa độ: 16°48′N 117°17′E.Akikaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 10 tháng 1 năm 1945

Đặt hàng:1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Mitsubishi-Nagasaki

Đặt lườn:11 tháng 11 năm 1918

Hạ thủy:21 tháng 6 năm 1920

Hoạt động: 16 tháng 9 năm 1920

Bị mất:Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm phía Nam Kavieng, New Ireland ngày 23 tháng 1 năm 1943

Xóa đăng bạ:1 tháng 3 năm 1943

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài:97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm

Hakaze (tiếng Nhật: 羽風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương. Hakaze được sử dụng chủ yếu trong vai trò tuần tra, vận chuyển và hộ tống trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị tàu ngầm Mỹ USS Guardfish đánh chìm phía Nam Kavieng, New Ireland vào ngày 23 tháng 1 năm 1943.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo.Hakaze, chiếc thứ bảy của lớp tàu này, được chế tạo tại xưởng đóng tàu Mitsubishi tại Nagasaki. Nó được đặt lườn vào ngày 11 tháng 11 năm 1918; được hạ thủy vào ngày 21 tháng 6 năm 1920; và được đưa ra hoạt động vào ngày 16 tháng 9 năm 1920.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Hakaze được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản.Tại đây, nó cùng với các tàu khu trục chị em Tachikaze, Akikaze và Hokaze được tập trung để hình thành nên Đội Khu Trục 4 thuộc Hải đội Ngư lôi 1 (第1水雷戦隊). Trong những năm 1938-1939, hải đội này được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển miền Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật.Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Hakaze đang được phân về Hải đội Khu Trục 34 trực thuộc Không Hạm đội 11 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, đặt căn cứ tại mũi St. Jacques phía Nam Sài Gòn thuộc Đông Dương để hỗ trợ cho Không đoàn 22. Nhiệm vụ chủ yếu của nó trong những giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương là vận chuyển vật liệu đến Miri và Kuching thuộc Sarawak và đến Kota Bharu ở Malaya để xây dựng các căn cứ không quân tiền phương tại đây.Vào tháng 2 năm 1942, sau khi hỗ trợ cho cuộc tấn công chiếm đóng Palembang, Hakaze đặt căn cứ ngoài khơi Bangka, tiến hành các cuộc tuần tra chống tàu ngầm. Nó được chuyển đến Bangkok trong tháng 3 rồi đến Singapore trong tháng 4. Sang tháng 5, Hakaze đặt căn cứ tại Rabaul, nơi nó tham gia hỗ trợ cho dự định tấn công cảng Moresby. Sau khi quay về xưởng hải quân Maizuru một thời gian ngắn để sửa chữa vào cuối tháng 5, Hakaze hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến Saipan, rồi từ Saipan đến Hahajima thuộc quần đảo Ogasawara và quay lại.Trong tháng 8, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải từ Saipan đến Rabaul rồi bắt đầu tuần tra từ căn cứ cho đến tháng 10, khi nó bắt đầu hộ tống nhiều đoàn tàu vận tải nhằm chuẩn bị cho cuộc tấn công Guadalcanal. Sau khi được sử dụng trong tháng 11 như một tàu vận tải cao tốc "Tốc hành Tokyo" chuyển quân từ Buin đến Munda, nó còn thực hiện thêm bốn chuyến vận tải tương tự trong tháng đó.Từ cuối tháng 11 năm 1942 đến ngày 20 tháng 1 năm 1943, Hakaze được phân công các nhiệm vụ tuần tra và hộ tống tại khu vực Shortlands-Buka-Rabaul-Kavieng. Trong khi đang hộ tống tàu chở thủy phi cơ Akitsushima (không nên nhầm lẫn với tàu tuần dương Akitsushima), nó đã tấn công tàu ngầm USS Guardfish nhưng lại trúng phải ngư lôi phản công và bị chìm vào ngày 23 tháng 1 năm 1943 ở khoảng 24 km (15 dặm) về phía Nam Kavieng thuộc New Ireland ở tọa độ 02°47′S 150°38′ETọa độ: 02°47′S 150°38′E.Hakaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 3 năm 1943

Đặt hàng:1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru

Đặt lườn:30 tháng 11 năm 1920

Hạ thủy:12 tháng 7 năm 1921

Hoạt động: 22 tháng 12 năm 1921

Bị mất:Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm trong biển Celebes ngày 6 tháng 7 năm 1944

Xóa đăng bạ:10 tháng 9 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài:97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:154

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,16 × mìn sâu

Hokaze (tiếng Nhật: 帆風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương, Hokaze chỉ đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống cho đến khi bị đánh chìm tại Truk vào ngày 18 tháng 2 năm 1944.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo.Hokaze, chiếc thứ mười hai của lớp tàu này, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru, cũng là chiếc cuối cùng được chế tạo trước khi thiết kế được thay đổi thành lớp phụ Nokaze. Nó được đặt lườn vào ngày 30 tháng 11 năm 1920; được hạ thủy vào ngày 12 tháng 7 năm 1921; và được đưa ra hoạt động vào ngày 22 tháng 12 năm 1921.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Hokaze được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản[Tại đây, nó cùng với các tàu khu trục chị em Hakaze, Akikaze và Tachikaze được tập trung để hình thành nên Đội Khu Trục 4 thuộc Hải đội Ngư lôi 1 (第1水雷戦隊). Trong những năm 1938-1939, hải đội này được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Trung Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật.Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Hokaze thuần túy đảm trách những nhiệm vụ vai trò tuần tra và hộ tống. Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Hải đội Khu Trục 3 được phân về Đội Tàu sân bay 4. Từ cuối tháng 11 đến giữa tháng 12 năm 1941, Hokaze hộ tống tàu sân bay Taiyō từ Sasebo đến Takao, Palau và quay trở lại nơi thả neo ở Tokuyama thuộc Quân khu Hải quân Kure.Vào đầu năm 1942, mặc dù Hải đội Khu Trục 3 bị giải thể, Hokaze tiếp tục hoạt động cùng với Đội Tàu sân bay 4 nhằm hộ tống chiếc tàu sân bay Shōhō đến Truk, nơi nó tiếp tục nằm trong thành phần hộ tống cho chiếc tàu sân bay. Đến tháng 4, Hokaze được điều về Hạm đội 5 Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong thành phần hộ tống cho chiếc tàu tuần dương Nachi.Từ cuối tháng 5 năm 1942, Hokaze thực hiện các hoạt động ở phía Bắc thuộc Quân khu bảo vệ Ōminato, hộ tống các tàu vận tải trong cuộc Chiếm đóng Kiska.Đến tháng 8, Hokaze hộ tống tàu vận tải Kimikawa maru đến Kiska, quay trở về Yokosuka trong tháng 10 để được tiếp liệu. Từ tháng 10, Hokaze được phân về Hạm đội Khu vực Tây Nam Hải quân Đế quốc Nhật Bản, hộ tống các đoàn tàu vận tải giữa Moji và Đài Loan.Vào tháng 3 năm 1943, Hokaze được nâng cấp vầ được trang bị một hệ thống sonar. Nó quay trở lại nhiệm vụ hộ tống vận tải từ tháng 4, đặt căn cứ ngpài khơi Balikpapan, Borneo tại Đông Ấn thuộc Hà Lan. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1943, Hokaze, tàu hộ tống duy nhất cho một đoàn tàu vận tải gồm ba chiếc, bị trúng phải ngư lôi từ tàu ngầm Mỹ USS Thresher (SS-200) trong eo biển Makassar, chịu đựng thiệt hại trung bình.Hai chiếc khác trong đoàn tàu, một tàu chở dầu và một tàu hàng, cũng bị đánh trúng. Hokaze vẫn còn khả năng hoạt động, và sau khi được sửa chữa khẩn cấp, đã hộ tống một đoàn tàu vận tải từ Surabaya quay trở về Xưởng hải quân Yokosuka, nơi nó được đưa vào ụ tàu để sửa chữa bổ sung.Công việc sửa chữa oàn tất vào giữa tháng 11 năm 1943, và Hokaze được phân về Hải đội Hộ tống Tàu nổi 1 thuộc Bộ Tư lệnh Hộ tống. Vào tháng 3 năm 1944, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải từ Yokosuka đến Thanh Đảo thuộc Trung Quốc, nơi nó được phân về Hạm đội 9 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đến tháng 4 năm 1944, Hokaze được cho tách ra từ Yokosuka đi đến khu vực Tây New Guinea tham gia Hạm đội Viễn chinh Phương Nam 4 dưới quyền chỉ huy chung của Hạm đội Khu vực Tây Nam. Ngày 2 tháng 7 năm 1944, Hokaze rời Ambon thực hiện một chuyến đi "Tốc hành Tokyo" vận tải vũ trang cao tốc chuyển đồ tiếp liệu khẩn cấp đang rất cần đến tại New Guinea.Ngày 6 tháng 7 năm 1944, Hokaze trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ USS Paddle (SS-263) trong biển Celebes và bị chìm ở tọa độ 03°24′N 125°28′ETọa độ: 03°24′N 125°28′E, ngoài khơi đảo Sangir, 169 km (105 dặm) về phía Bắc Đông Bắc Menado. Một số thành viên thủy thủ đoàn sống sót, nhưng trong số những người tử trận có Thiếu tá Hải quân Eiichi Someya Thuyền trưởng chiếc Hokaze.Hokaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 10 tháng 9 năm 1944

Đặt hàng:1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru

Đặt lườn:9 tháng 1 năm 1920

Hạ thủy:26 tháng 6 năm 1920

Hoạt động: 30 tháng 9 năm 1920

Xếp lại lớp: Chuyển thành Tàu tuần tra số 2, tháng 4 năm 1940

Bị mất:Bị tàu ngầm Anh đánh chìm tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, ngày 25 tháng 7 năm 1945

Xóa đăng bạ:30 tháng 9 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài:97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tàu tuần tra: 2 × nồi hơi; công suất 19.250 mã lực (14,3 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot) br/>Tàu tuần tra: 37 km/h (20 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,20 × mìn sâu

Tàu tuần tra: 2 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber,12 × pháo phòng không 25 mm Kiểu 96,18 × mìn sâu

Nadakaze (tiếng Nhật: 灘風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương, Nadakaze được xếp lại lớp như một tàu tuần tra vào năm 1940, và chỉ đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống cho đến khi bị tàu ngầm Anh HMS Stubborn đánh chìm tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, ngày 25 tháng 7 năm 1945.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.[1] Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo.Nadakaze, chiếc thứ năm của lớp tàu này, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 9 tháng 1 năm 1920; được hạ thủy vào ngày 26 tháng 6 năm 1920; và được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 9 năm 1920.[3]

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Nadakaze được phân về Quân khu Hải quân Yokosuka để hình thành nên Hải đội Khu trục 3 trực thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Trong những năm 1938-1939, Nadakaze được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Đến tháng 12 năm 1938, Hải đội Khu trục 3 được giải thể và Nadakaze được đưa về lực lượng dự bị.

Như là Tàu tuần tra số 2

Vào tháng 4 năm 1940, sau khi được cải biến rộng rãi, Nadakaze quay trở lại hoạt động thường trực như một tàu tuần tra, và được đặt lại tên là Tàu tuần tra số 2 (tiếng Nhật: 第二哨戒艇, Dai-ni Shokaitei). Các sự cải biến bao gồm giảm bớt số nồi hơi xuống còn hai khiến tốc độ tối đa của nó chỉ còn 37 km/h (20 knot); số lượng hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3 giảm từ bốn còn hai khẩu, và mọi ống phóng ngư lôi được tháo dỡ. Thay vào đó, nó được bổ sung bốn khẩu đội phòng không 25 mm Kiểu 96 ba nòng cùng 18 mìn sâu. Phía đuôi tàu có thể chở theo hai xuồng đổ bộ Toku Daihatsu, có khả năng cho đổ bộ 250 thủy quân lục chiến.Sau khi Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, Tàu tuần tra số 2 được phân công nhiệm vụ tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải tại khu vực Philippines, Đông Ấn thuộc Hà Lan và quần đảo Solomon. Đến tháng 1 năm 1943, nó được điều về chính quốc Nhật Bản hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Moji, Takao, Sài Gòn, Manila và Singapore. Vào tháng 12 năm 1943, nó trở thành tàu hỗ trợ cho Lực lượng Đổ bộ Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại Balikpapan, Borneo.Ngày 25 tháng 7 năm 1945, Tàu tuần tra số 2 trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Anh HMS Stubborn và bị chìm gần eo biển Lombok thuộc quần đảo Sunda Nhỏ tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, ở tọa độ 07°06′S 115°42′ETọa độ: 07°06′S 115°42′E. Những người còn sống sót dưới nước bị giết hại bằng súng máy.Tàu tuần tra số 2 được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 30 tháng 9 năm 1945.[

Đặt hàng: 1917

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru

Đặt lườn:22 tháng 2 năm 1919

Hạ thủy:3 tháng 10 năm 1919

Hoạt động:17 tháng 8 năm 1920

Bị mất:Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm phía Đông Nam Yokosuka, ngày 10 tháng 1 năm 1943

Xóa đăng bạ:1 tháng 3 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài:97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)

Tầm nước: 2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,20 × mìn sâu

Okikaze (tiếng Nhật: 沖風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương. Okikaze hầu như chỉ đảm trách vai trò tuần tra chống tàu ngầm và hộ tống đoàn tàu vận tải trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị tàu ngầm Mỹ USS Trigger đánh chìm ở về phía Đông Nam Yokosuka vào ngày 10 tháng 1 năm 1943.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.[1] Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo.Okikaze, chiếc thứ ba của lớp tàu này, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 22 tháng 2 năm 1919; được hạ thủy vào ngày 3 tháng 10 năm 1919; và được đưa ra hoạt động vào ngày 17 tháng 8 năm 1920.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Okikaze được tập hợp cùng với các con tàu chị em Minekaze, Sawakaze và Yakaze tại Quân khu Hải quân Sasebo để hình thành nên Hải đội Khu trục 2 trực thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Trong những năm 1930-1932, Hải đội Khu trục 2 được chuyển sang Không Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong thành phần hộ tống cho tàu sân bay Akagi, để trợ giúp vào việc tìm kiếm và giải cứu những máy bay lâm nạn.Vào lúc xảy ra Sự kiện Thượng Hải năm 1932, Okikaze tham gia tuần tra dọc theo sông Dương Tử tại Trung Quốc.Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Okikaze đang đặt căn cứ tại Quân khu Phòng thủ Ominato tại miền Bắc nước Nhật, được phân công nhiệm vụ tuần tra eo biển Tsugaru và dọc theo bờ biển phía Nam đảo Hokkaido.Đến tháng 4 năm 1942, Okikaze được điều về Quân khu Hải quân Yokusuka, nơi nó được giao nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm ở lối ra vào vịnh Tokyo cho đến hết quãng đời phục vụ trong chiến tranh, chỉ thỉnh thoảng hộ tống các đoàn tàu vận tải dọc theo bờ biển Nhật Bản đến Kushimoto, Wakayama, hay tuần tra đến phía Bắc Honshu cho đến cuối năm 1942.Vào ngày 10 tháng 1 năm 1943, Okikaze trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ USS Trigger chỉ cách 56 km (35 dặm) về phía Đông Nam Yokosuka, trong tầm nhìn thấy hải đăng Katsura, ở tọa độ 35°02′N 140°12′ETọa độ: 35°02′N 140°12′E. Một quả ngư lôi trúng ngay sàn tàu chính làm tháp cấu trúc thượng tầng chỉ huy bị nghiêng 45°, một quả khác trúng vào đuôi của Okikaze. Con tàu khu trục chìm nhanh chóng với tổn thất gần hết thủy thủ đoàn, kể cả thuyền trưởng của nó.Tuy nhiên, Okikaze đã không được chính thức gạch tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân cho đến tận ngày 1 tháng 3 năm 1944.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top