hai muoi nam sau 4974

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 49

Cuộc nổi dậy

Gần mười một giờ đêm: Gondy đi trên các đường phố Paris chưa được một trăm bước đã nhìn thấy diễn ra một đổi thay kỳ lạ.

Toàn thành phố dường như do những sinh vật quái dị cư trú. Người ta trông thấy những cái bóng lặng lẽ nậy đá lát đường, hoặc kéo đi và lật đổ những cỗ xe, hoặc đào những, cai hố lớn để nuốt, chửng cả hàng đại đội kỵ binh. Tất cả những nhân vật hoạt động sôi nổi ấy đi đi lại lại, chạy vùn vụt, giống như những ma quỷ đang thực hiện một công việc lạ lùng nào. Đó là, những người ăn mày của triều đình những "Chuyện Thần Kỳ": đó là những bộ hạ của gã dâng nước thánh ở sân trước nhà thờ Saint Eustache đang chuẩn bị những luỹ chướng ngại cho ngày mai.

Gondy nhìn những con người của bóng tối ấy, những kẻ lao động đêm hôm ấy với một niềm kinh hãi. Ông tự hỏi sau khi lùa tất cả những tạo vật bẩn thỉu ấy ra khỏi hang ổ của chúng, liệu ông có quyền lực đề đẩy chúng trở lại được không. Khi một kẻ nào đó trong đám người ấy tiến đến gần ông, ông sẵn sàng làm dấu thánh.

- Ông đi vào phố Saint-Honoré và bước đến phố Ferronnerie.: ở đây, quang cảnh thay đổi: đó là những người buôn bán đang chạy từ nhà hàng này đến nhà hàng nọ; các cửa ra vào đóng kín như những cánh cửa chắn gió; nhưng chỉ là khép lại thôi, chốc chốc mở ra, rồi đóng lại ngay để cho người vào, họ có vẻ sợ bị trông thấy họ mang cái gì?

Đó là những chủ hiệu có thừa khí giới đem cho những người không có mượn.

Một người lưng gập xuống dưới sức nặng của gươm kiếm, súng hoả mai, súng trường, khí giới đủ loại, đi từ cửa nhà này đến cửa nhà khác và rải rác đặt vũ khí xuống. Nhờ ánh sáng một ngọn đèn, ông chủ giáo nhận ra Planchet. Chủ giáo qua phố Tiền Tế đi ra kè. Trên kè những tốp nhà tư sản mặc áo choàng màu đen hoặc xám tuỳ theo họ thuộc tầng lớp tư sản cao hay thấp, đứng im lặng, trong khi những người riêng lẻ chuyển từ tốp này sang tốp khác. Tất cả những tấ áo choàng xám hay đen đều bị vén lên ở phía sau bởi mũi một thanh kiếm và ở phía trước bởi nòng một khẩu súng hoả mai hoặc súng trường. Đi đến Pont-Neuf, chủ giáo thấy cầu bị canh gác.

Một người tiến lại hỏi:

- Ống là ai? Tôi không công nhận ông là người của chúng tôi.

- Đó là vì ông không nhận ra bạn bè của mình, ông Louvières thân mến ạ? - Chủ giáo nói và bỏ mũ ra.

Louvières nhận ra ông và cúi chào.

Gondy lại rong ruổi trên đường và xuống tận cây tháp Nesle.

- Ở đây ông trông thấy một đoàn dài những người đang lướt men theo các bờ tường. Có thể nói đó là một đám rước của những bóng ma vì rằng tất cả đều khoác áo choàng trắng. Đi tới một chỗ nọ, tất cả lũ người đó theo nhau lần lượt tiêu tan cứ như là mặt đất hẫng dưới chân họ. Gondy đứng tì khuỵu tay vào một góc tường và xem họ biến đi từ người thứ nhất đến người sát cuối.

Người cuối cùng ngước mắt nhìn chắc hẳn để yên tâm rằng mình và đồng đội không bị rình mò, và mặc dầu bóng tối, vẫn nhận ra Gondy. Hắn bước thẳng đến chỗ ông và gí khầu súng ngắn vào ngực ông.

- Ơ này? Ông de Rochefort, - Gondy cười nói, - đừng có đùa với súng đạn.

Rochefort nhận ra tiếng nói và kêu lên:

- A! Đức ông đấy à?

- Chính tôi đây. Ông dẫn những người nào vào tận trong lòng đất như vậy?

- Năm mươi lính mới mộ của hiệp sĩ d Humières, họ được nhằm đưa vào khinh kỵ binh, và được trang bị toàn áo choàng trắng.

- Thế ông đi đâu vậy?

- Đến một nhà điêu khắc là bạn tôi, nhưng chúng tôi đi xuống bằng cái cửa sập nơi người cất những tượng đá.

- Tốt lắm, - Gondy nói.

Và ông bắt tay Rochefort; ông này đến lượt mình bước xuống và đóng cửa sập lại.

Chủ giáo trở về nhà. Lúc ấy đã một giờ sáng. Ông mở cửa sổ và cúi xuống để nghe ngóng.

Khắp thành phố vang lên một tiếng ồn ào kỳ lạ, chưa từng nghe, chưa từng biết. Người ta cảm thấy như ở trong tất cả các phố xá tối tăm tựa những hang sâu kia đang diễn ra một điều gì lạ lùng và ghê gớm. Chốc chốc nổi lên một tiếng gầm gào tựa như tiếng giông bão đang ào đến hoặc tiếng sóng biển đang trào lên nhưng không có gì rõ ràng, không có gì khác biệt, không có gì cắt nghĩa nổi hiện ra trong trí óc dường như những tiếng bí ẩn và ngầm sâu nó thường đi trước những trận động đất.

Công cuộc chuẩn bị khởi loạn kéo dài suốt đêm như vậy. Ngày hôm sau Paris tỉnh giấc như cũng giật mình về diện mạo của chính mình. Có thể ví như một thành phố bị bao vây. Những người vũ trang đứng trên các lũy chướng ngại, mặt hầm hè, vai đeo súng; những mật khẩu, nhưng toán tuần tra, nhưng cuộc bắt bớ, cả những cuộc hành quyết nữa, đó là cảnh tượng mà khách bộ hành trông thấy trên mỗi bước đi. Người ta giữ những người đội mũ có lông chim và những thanh kiếm mạ vàng để bắt họ hô Broussel muôn năm! Đã đảo lão Mazarin! Và nếu kẻ nào từ chối cái nghi thúc đó liền bị hò la, làm nhục và đánh đập nữa. Người ta chưa giết chết, nhưng không phải là không muốn.

Những lũy chướng ngại mọc lên đến tận Hoàng cung. Bons-Enfants đến phố Ferronnerie, từ phố Saint Thomas du Louvre đến Pont-Neuf, từ phố Richelieu đến cửa ô Saint-Honoré, có đến hơn mười nghìn người vũ trang và những người hăng hái nhất: kêu những lời thách thức với những lính gác trơ trơ của trung đoàn thị vệ được bố trí canh gác xung quanh Hoàng cung mà các cổng rào sắt được đóng chặt sau lưng họ, sự đề phòng ấy khiến tình thế trở nên bấp bênh. Diễu hành giữa quang cảnh đó là những toán hàng trăm rưởi, hai trăm con người hốc hác, bủng beo, rách rưới mang theo những thứ cờ hiệu viết những chữ: "Nhìn xem sự khốn cùng của dân chúng"

Khắp nơi những con người ấy đi qua, những tiếng hô cuồng nhiệt vang lên, và có biết bao nhiêu những toán người như thế nên người ta hô gào ở khắp mọi nơi.

Sự kinh ngạc của Anne d Autriche và Mazarin lúc thức dậy càng lớn khi người ta đến báo tin rằng khu Cité mà chiều tối hôm qua họ để cho yên ổn thì sớm nay tỉnh dậy xôn xao, náo động hết sức. Cho nên cả hai người đều không muốn tin ở những báo cáo của người ta và nói rằng họ sẽ chi tin điều đó bằng mắt thấy tai nghe mà thôi.

Người ta bèn mở cửa sổ ra: họ trông thấy, họ nghe thấy và họ tin vậy.

Mazarin nhún vai và làm ra bộ rất khinh thường cái đám tiện dân kia, nhưng ông ta tái mặt đi rõ rệt, và run bắn lên ông ta chạy về văn phòng mình, cất ngay vàng và tư trang của mình vào những hộp bí mật và lấy những cái nhẫn kim cương đẹp nhất ra đeo vào các ngón tay. Còn hoàng hậu giận dữ và mặc theo ý chí của riêng mình, bà cho gọi thống chế de La Meilleraie đến, ra lệnh cho ông cần bao nhiêu người thì cứ lấy và đi xem xét xem trò đùa ấy là cái gì vậy.

Ông thống chế vốn tính rất liều lĩnh và quả quyết. Đối với đám tiện dân ông có một nỗi khinh bỉ sâu sắc mà cánh binh gia thường biểu thị với họ. Ông lấy năm mươi người và toan đi ra bằng lối cầu Louvre; nhưng tại đó ông gặp Rochefort với năm mươi khinh kỵ binh của mình kèm theo một nghìn năm trăm người. Chẳng có cách nào phá vỡ một hàng rào như vậy. Thống chế cũng chẳng muốn thử và đi ngược đường sau.

Nhưng đến Pont-Neuf, ông gặp Louvières cùng đám tư sản. Lần này thống chế thử công kích nhưng ông được đón tiếp bằng những phát súng trường trong khi gạch đá từ các cửa sổ ném xuống như mưa. Ông phải bỏ lại ba người.

Ông đành tháo lui về khu chợ, nhưng vấp phải Planchet cùng đám kích thủ. Những cây kích, cây thương nằm ngang trong tay lăm lăm chĩa về phía ông.

Ông muốn đè bẹp, tất cả đám áo choàng xám ấy, nhưng những áo choàng xám chống cự rất hăng và thống chế phải lùi về phía phố Saint-Honoré, để lại trên chiến trường bốn lính vệ bị giết rất êm ái bằng giáo mác.

Ông bèn đi vào phố Saint-Honoré; nhưng tại đây ông gặp những lũy chướng ngại của gã ăn mày ở nhà thờ Saint- Eustache. Những bức lũy ấy được canh giữ không chỉ bởi đàn ông đuợc vũ trang, mà còn bởi đàn bà và trẻ con nữa. Trùm Friquet., sở hữu một khẩu súng ngắn và một thanh gươm do Louvières cho, đã tổ chức một toán bấu sấu như hắn, và la hét om sòm đến vỡ ập cả phố.

Ông thống chế tưởng nơi ấy canh giữ kém những nơi khác và muốn bẻ gãy. Ông cho hai chục lính xuống ngựa để tấn công và mở cửa bức luỹ, còn ông và số quân cưỡi ngựa còn lại bảo vệ toán công kích. Hai mươi lính tiến thẳng đến chiến luỹ, nhưng sau những cây rầm; giữa những bánh xe, từ trên các phiến đá, một loạt súng khủng khiếp bắn ra, và nghe tiếng súng, những kích thủ và Planchet xuất hiện ở góc nghĩa trang. Những kẻ vô tội, và những người tư sản của Louvières cũng ló ra ở góc phố Tiền Tệ. Thống chế La Meilleraie bị mắc kẹt giữa hai làn đạn.

Thống chế La Meilleraie là người dũng cảm, cho nên ông quyết chết tại trận. Ông bắn trả từng phát một, và những tiếng rú đau đớn bắt đầu vang lên trong đám dân chúng. Lính thị vệ thành thạo hơn, bắn trúng hơn, nhưng dân tư sản đông đảo hơn, nghiền nát họ trong một trận bão sắt thép thật sự. Nhiều lính ngã gục xung quanh ông thống chế tưởng như trong trận Rocroy hoặc trận Lérida. Fontrailles, viên phụ tá của ông gãy tay, ngựa thì bị đạn vào cổ và đau đến phát điên, nên khó khăn lắm mới kiềm chế được nó. Cuối cùng đến cái giờ phút tưởng như sắp lìa đời mà kẻ dũng cảm nhất cũng thấy ớn lạnh trong mạch máu và mô hôi vã trên trán, thì bỗng nhiên đám dân chúng mở ra ở phía phố l Arbre-Sec và hô vang: Chủ giáo muôn năm!

Và Gondy vận lễ phục thày tu xuất hiện, điềm tĩnh đi qua giữa loạt súng nổ, ban phước cho những ngươi ở hai bên, bình thản như khi ông dẫn một đám rước Thánh thể.

Mọi người quỳ gối.

Thống chế nhận ra chủ giáo, chạy tới và nói:

- Nhân danh Chúa trời, hãy kéo tôi ra khỏi nơi đây, nếu không thì tôi và tất cả những người của tôi đến để xác lại đây mất.

Tiếng ồn ào nổi lên giữa đám dân đông to đến nỗi nếu có tlểng sấm sét cũng chẳng ai nghe thấy. Gondy giơ tay lên và kêu gọi yên tĩnh.

Mọi người lặng im.

- Này các con, - chủ giáo nói, - Đây là Thống chế de La Meilleraie mà các con đã hiểu lầm ý định của ngài. Ngài cam kết rằng khi trở về cung Louvre sẽ nhân danh các con mà yêu cầu hoàng hậu trả lại tự do cho Broussel của chúng ta. Ngài thống chế cam kết như vậy chứ?

Gondy quay về phía La Meilleraie và nói thêm.

- Mẹ kiếp, - Thống chế kêu lên, - Chắc chắn rằng tôi cam kết như vậy? Mình đã không hy vọng được thoát nợ một cách rẻ đến thế.

- Ông ấy đã nói lời hứa của nhà quý tộc, - Gondy nói.

Thống chế giơ bàn tay lên ra hiệu đồng ý.

"Chủ gỉáo muôn năm!" - Đám đông hô to. Có vài tiếng còn thêm: "Thống chế muôn năm", nhưng rồi tất cả đồng thanh hô: "Đả đảo lão Mazarin!"

Đám đông dãn ra; đường qua phố Saint-Honoré là gần nhất.

Người ta mở các lũy chướng ngại và ông thống chế cùng đám tàn quân rút lui, có Friquet. cùng bọn trộm cắp dẫn đầu, những đứa này giả bộ đánh trổng, những đứa khác bắt chước tiếng kêu.

Trông cứ như là cuộc hành quân khải hoàn; song le đằng sau những lính vệ, các chiến luỹ đóng lại; ngài thống chế thì tấm tức trong lòng.

Trong thời gian ấy, như chúng tôi đã nói, Mazarin vẫn ở tại văn phòng riêng, thu xếp những việc nhỏ của mình. Ông cho gọi d Artagnan, nhưng giữa sự ồn ào ấy, ông chẳng hy vọng gặp anh d Artagnan không phải phiên trực. Mười phút sau viên trung uý xuất hiện ở ngưỡng cửa, cùng đi có Porthos, người bạn nối khố.

- A! Lại đây, lại đây, ông d Artagnan, - Giáo chủ reo lên, - Xin hoan nghênh ông cùng bạn ông. Nhưng này, có chuyện gì xảy ra trong cái thành phố Paris độc địa này thế?

- Chuyện gì xẩy ra ư? Thưa Đức ông! Chẳng có gì hay ho cả? - D Artagnan gật gù nói - Thành phố khởi loạn rầm rộ. Lúc nãy tôi đi qua phố Montorgueil cùng ông Du Vallon đây, ông thực sự là môn hạ của ngài; mặc đầu bộ quân phục của tôi và có lẽ chính tại bộ quân phục ấy, mà người ta bắt chúng tôi phải hô: "Broussel muôn năm!" và thưa Đức ông, có nên nói thêm họ bắt chúng tôi hô gì nữa không ạ?

- Cứ nói, cứ nói.

- Và "Đả đảo Mazarin!" Thực tình đó là câu đại ngôn tung ra.

Mazarin mỉm cười, nhưng mặt tái mét.

- Thế ông có hô không? - Ông ta hỏi.

- Thực tình là không, - D Artagnan đáp, - Tôi không tốt giọng, ông Porthos bị cảm nên cũng không hô. Thế là, thưa Đức ông...

- Thế là sao? - Mazarin hỏi.

- Xin hãy xem mũ áo của tôi.

Và d Artagnan đưa ra bốn lỗ đạn ở tấm áo choàng và hai lỗ đạn ở mũ của mình. Còn quần áo của Porthos thì một nhát kích xé toạc một bên sườn và một phát súng ngắn cắt đứt lông mũ.

- Ghê gớm thật - Giáo chủ trầm ngâm nói và nhìn hai người bạn với một vẻ khâm phục chất phác, - Nếu là tôi thì có khi tôi la to lên rồi đấy.

Lúc ấy, tiếng ồn ào vang đến gần hơn.

Mazarin lau mồ hôi trán và nhớn nhác nhìn quanh mình. Ông ta muôn ra cửa sổ xem lắm, nhưng không dám. Ông bảo:

- Ông d Artagnan, nhìn xem có chuyện gì thế?

D Artagnan đi ra cửa sổ với vẻ vô tư lự thông thường của mình.

- Ô! Ô! Cái gì thế kia? Thống chế La Meilleraie trở về không mũ. Fontrailles tay buộc treo, lính thị vệ bị thương, ngựa máu me đầy mình... Ơ! Nhưng mà bọn lính canh làm gì thế này? Họ giương súng ngắm và sắp sửa bắn.

- Đã ra lệnh cho họ bắn vào dân chúng, - Mazarin nói, - nếu dân chúng tiến sát Hoàng cung.

- Nếu họ nổ súng thì mọi việc hỏng hết! - D Artagnan kêu lên.

- Chúng ta có cổng sắt.

- Cổng sắt à! Chỉ được năm phút! Cổng sắt sẽ bị nhổ lên vặn quẹo và bẻ gẫy! Đừng bắn, mẹ kiếp! - D Artagnan mở hẳn cửa sổ và kêu lên.

Giữa tiếng ồn ào lời dặn dò ấy chẳng thể nghe được và ba bốn tiếng súng trường vang lên, rồi một loạt đạn ghê gớm tiếp theo.

Người ta nghe thấy tiếng những viên đạn đập chan chát vào mặt ngoài của Hoàng cung; một viên lọt qua dưới cánh tay d Artagnan và đập vỡ một tấm gương mà Porthos đang soi với vẻ thoả mãn.

- Ôhimé! Một tấm gương Venise, - Giáo chủ kêu lên.

- Ồ! Thưa Đức ông, - D Artagnan vừa nói vừa bình tĩnh đóng cửa sổ lại, - Xin ngài đừng tiếc vội, chẳng bõ công, vì rất có thể chỉ một tiếng đồng hồ nữa thôi, tất cả gương của ngài sẽ không còn một mảnh, dù là gương Venise hay gương Paris.

- Nhưng ý kiến ông thế nào? - Giáo chủ run như cầy sấy hỏi.

- Chà mẹ kiếp! Trả Broussel cho họ vì họ đòi! Một viên tham nghị ở nghị viện, ngài dùng làm cái gì kia chứ? Chẳng được tích sự gì?

- Thế còn ông Duy Vallon ý kiến ông ra sao? Ông sẽ làm gì?

- Tôi sẽ trả Broussel, - Porthos đáp.

- Lại đây, lại đây các ông, - Mazarin gọi, - tôi đến nói với hoàng hậu về chuyện này.

Đến cuối hành lang, ông dừng lại và nói:

- Các ông ơi, tôi có thể trông cậy vào các ông chứ?

- Chúng tôi không hiến mình hai lần - D Artagnan nói, - chúng tôi hiến mình cho ngài, ngài cứ ra lệnh, chúng tôi tuân theo.

- Vậy thì các ông hãy vào căn phòng này và chờ đợi, - Mazarin nói.

Và rẽ sang một lối, ông đi vào phòng khách bằng một cửa khác.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 50

Nổi dậy biến thành bạo loạn

Căn phòng d Artagnan và Porthos vào chỉ ngăn cách với phòng khách nơi có hoàng hậu bằng những ô cửa căng thảm. Tấm ngăn mỏng cho phép nghe rõ tiếng nói ở bên kia, và kẽ hở giữa những tấm rèm dù hẹp mấy vẫn có thể nhìn sang được.

Hoàng hậu đang đứng trong phòng khách, mặt tái đi vì giận dữ, song cố tự kiềm chế đến nỗi tưởng như bà chẳng cảm thấy một xúc động nào. Đằng sau bà là Comminger, Villequier và Gitaud, sau nữa là các thị nữ.

Trước mặt bà là viên chưởng ấn Séguier, vẫn con người cách đây hai mươi năm đã làm tình làm tội bà(1). Hắn kể rằng xe của hắn vừa bị phá hỏng, hắn bị rượt theo, hắn lao vào dinh l Hôtel d O... rằng dinh lập tức bị xâm chiếm, cướp bóc, tàn phá, may thay hắn kịp trốn vào một căn buồng, nấp sau một tấm thảm, được một bà già che giấu cùng với anh hắn là giám mục Meaux. Rành rành nguy to rồi, bọn cuồng bạo sấn đến gần căn buồng và hầm hè de doạ đến nỗi viên chưởng ấn tưởng giờ tận số của mình đã điểm, vội vàng xưng tội với người anh để dọn mình sẵn sàng chết nếu bị phát hiện. May sao dân chúng tưởng chúng tẩu thoát bằng lối cửa sau nào đó, nên rút đi để hắn tụ do chuồn. Hắn bèn cải trang bằng bộ y phục của hầu tước l Hôtel d O và ra khỏi dinh bước qua xác viên phó quan cảnh sát và hai vệ sĩ của hắn đã bị giết chết khi bảo vệ cổng phố.

Trong khi hắn kể chuyện, Mazarin vào, lặng lẽ đến bên hoàng hậu và nghe.

- Thưa Lệnh bà, tôi nghĩ rằng nghiêm trọng lắm, - Viên chưởng ấn nói.

- Nhưng ông có ý kiến gì trình với tôi?

- Tôi rất muốn trình bày một ý kiến với Hoàng thượng, nhưng không dám.

- Cứ nói đi, cứ nói đi ông ạ, - Hoàng hậu nói với một nụ cười chua chát, - Ông đã từng dám cả chuyện khác nữa cơ mà.

Viên chưởng ấn đỏ mặt và lắp bắp vài tiếng.

- Không bàn chuyện quá khứ, mà hiện tại, - Hoàng hậu nói, - Ông bảo rằng có một điều khuyên tôi, vậy là điều gì?

- Thưa Lệnh bà, - Chưởng ấn ngập ngìng đáp, - Đó là hãy thả Broussel ra.

Mặc dầu mặt bà đã tái, Hoàng hậu càng tái đi rõ rệt và cau mặt lại. Bà nói:

- Thả Broussel ư? Không bao giờ!

Vừa lúc ấy có tiếng chân bước ở phòng trước, và chẳng báo trước thống chế de La Meilleraie xuất hiện ở ngưỡng cửa.

- A! Ông thống chế đây rồi! - Hoàng hậu mừng rỡ reo lên, - Tôi hy vọng ông đã trị được tất cả bọn súc sinh ấy rồi chứ?

- Thưa Lệnh bà, - Thống chế nói, - Tôi đã để lại ba người ở Pont-Neuf, bốn ở Halles, sáu ở góc phố l Arbre-Sec và hai ở cồng Hoàng cung, vị chi là mười lăm người. Tôi đem về mười hai người bị thương. Mũ của tôi bị một viên đạn bắn văng đi không biết ở đâu, và rất có thể là tôi đã nằm lại cùng với chiếc mũ, nếu không có ông chủ giáo đến giải thoát cho tôi.

- A! - Hoàng hậu nói :

- Xét cho kỹ, tôi sẽ ngạc nhiên nếu trong tất cả vụ này mà không thấy cái con chó lùn chân quẹo ấy dây vào.

- Thưa Lệnh bà, - La Meilleraie cười nói,

- Xin đừng nói nhiều điều xấu quá về ông ấy trước mặt tôi, vì rằng cái việc mà ông ấy giúp tôi vẫn còn nóng hổi.

- Hay đấy! - Hoàng hậu nói, - Ông hãy biết ơn ông ta bao nhiêu tuỳ thích, nhưng việc đó không ràng buộc tôi. Ông về đây bình yên vô sự đó là tất cả điều tôi mong muốn; ông không những là người đến vừa hay mà còn là kẻ quay trở về thật kịp thời(2).

- Vâng thưa Lệnh bà, nhưng tôi là người trở về kịp thời với một điều kiện, đó là tôi sẽ chuyển đạt tới Lệnh bà ý nguyện của dân chúng.

- Ý nguyện à? - Anne d Autriche cau mày nói. - Ô hô? Ông thống chế ơi, ắt là ông phải lâm vào một mối nguy hiểm ghê gớm lắm, nên ông mới đảm nhiệm một sứ mạng lạ lùng đến thế.

Những lời ấy được thốt ra với một giọng châm biếm không lọt khỏi tai thống chế.

- Xin Lệnh bà thứ lỗi, - Thống chế nói, - Tôi không phải luật sư, mà là người chinh chiến, do đó có thể hiểu sai giá trị của từ ngữ, có lẽ tôi phải nói điều mong ước của dân chúng, chứ không phải ý nguyện của dân chúng. Còn cái điều mà Lệnh bà hạ cố trả lời tôi, tôi cho rằng Lệnh bà muốn nói rằng tôi đã sợ hãi.

Hoàng hậu mỉm cười.

La Meilleraie nói tiếp:

- Vâng, thưa Lệnh Bà, tôi đã sợ hãi; trong đời tôi đây là lần thứ ba điều ấy đến với tôi, trong khi tôi đã dự mười hai chiến trận hẳn hoi, chưa kể bao nhiêu cuộc chiến đấu và những cuộc đụng độ lẻ tẻ mà tôi không nhớ rõ. Vâng, tôi đã sợ hãi, và tôi thích thà đứng trước Hoàng thượng dù nụ cười của Người có đe doạ đến mấy, còn hơn đối mặt với lũ quỷ sử địa ngục kia đã đi theo tôi về đến tận đây.Và chúng từ đâu chui ra tôi cũng không biết nữa.

- Hoan hô! - D Artagnan khẽ nói với Porthos, - Trả lời hay đấy.

Trong khi các cận thần nhìn nhau kinh ngạc thì hoàng hậu cắn nhẹ vành môi và nói:

- Vậy thì cái điều mong ước ấy của dân chúng là gì?

- Là trả Broussel, cho họ, thưa Lệnh bà, thống chế đáp.

- Không bao giờ? - Hoàng hậu nói, - Không bao giờ!

- Hoàng thượng là chúa tể, - La Meilleraie nói, rồi cúi chào và lùi một bước về phía sau.

- Ông đi đâu, thống chế? - Hoàng hậu hỏi.

- Tôi ra truyền lại câu hỏi trả lời của Hoàng thượng cho những kẻ đang chờ đợi.

- Hãy ở lại, thống chế, tôi không muốn có vẻ phải đàm phán với bọn phiến loạn.

- Thưa Lệnh bà, tôi đã hứa với họ, - Thống chế nói.

- Có nghĩa là?...

- Là nếu Lệnh bà không cho ngăn giữ tôi, thì tôi buộc phải đi xuống.

Cặp mắt Anne d Autriche phóng ra hai tia chớp.

- Ồ! Ông ơi, điều ấy không trở ngại gì, - Hoàng hậu nói, - Ta đã cho bắt giữ những kẻ còn cao hơn ông. Gitaud!

Mazarin xông ra. Ông nói:

- Thưa Lệnh bà, đến lượt tôi, nếu tôi dám trình Lệnh bà một ý kiến...

- Phải chăng vẫn là trả Broussel, thưa ông? Nếu đúng như vậy thì ông có thể miễn nói.

- Không - Mazarin đáp, - Mặc dầu có thể ý kiến ấy cũng giá trị bằng một ý kiến khác.

- Vậy là ý kiến gì?

- Đó là cho gọi ông chủ giáo đến.

- Chủ giáo! - Hoàng hậu kêu lên, - Cái kẻ gây rối ghê tởm ấy ư? Chính hắn đã gây ra tất cả cuộc nổi loạn này.

- Thêm một lý do, - Mazarin nói - nếu hắn đã gây ra, hắn có thể dẹp lại.

- Ơ này, thưa Lệnh bà, - Comminger nói, hắn đang đứng gần cửa sổ và nhìn ra - Cơ hội thật là tốt, ông ta kia kìa, đang ban phước trên quảng trường Hoàng cung.

Hoàng hậu lao ra cửa sổ.

- Đúng rồi, - bà nói, - Lão chúa đạo đức giả! Nhìn xem!

Mazarin nói:

- Tôi thấy tất cả mọi người quỳ trước mặt ông ta, mặc dầu ông ta chỉ là chủ giáo, còn tôi nếu ở chỗ ông ta bây giờ người ra sẽ xé xác tôi ra từng mảnh, mặc dầu tôi là giáo chủ. Cho nên, thưa Lệnh bà, tôi kiên trì điều mong ước của tôi (Mazarin nhấn mạnh hai tiếng đó) là xin Hoàng thượng tiếp ông chủ giáo.

- Thế tại sao cả ông nữa, ông không nói ý nguyện của ông? - Hoàng hậu khẽ nói.

Mazarin cúi mình.

Hoàng hậu đứng trầm ngâm một lát. Rồi ngẩng đầu lên bà nói:

- Ông thống chế, hãy đi tìm ông chủ giáo và dẫn đến đây.

- Tôi sẽ nói gì với dân chúng? - Thống chế hỏi.

- Bảo họ hãy kiên nhẫn, - Anne d Autriche nói, - Tôi, tôi rất kiên nhẫn!

Trong tiếng nói của người đàn bà Tây Ban Nha kiêu hãnh có một giọng thật là mệnh lệnh thống chế không cãi lại nửa lời, ông cúi mình và đi ra.

D Artagnan quay lại phía Porthos và nói:

- Chuyện này rồi kết thúc ra sao?

- Chúng ta sẽ thấy rõ, - Porthos đáp với vẻ bình tĩnh.

Trong khi đó, Anne d Autriche đến chỗ Comminger và nói khẽ với hắn điều gì.

Mazarin lo ngại nhìn về phía có d Artagnan và Porthos.

Những người tham dự khác trao đổi với nhau những lời nói thì thầm.

Cửa mở ra thống chế xuất hiện, theo sau có chủ giáo.

- Thưa Lệnh bà, - Ông nói, - có ông Gondy đây, ông ấy vội vã đến theo lệnh của Hoàng thượng.

Hoàng hậu đi vài bước ra đón và dừng lại, lạnh lùng, nghiêm khắc, im lặng và môi dưới bĩu ra, vẻ khinh bỉ.

Gondy kính cẩn cúi mình thi lễ.

- Thế nào, ông, - Hoàng hậu nói, Ông nói gì về cuộc nổi dậy này?

- Ấy, thưa Lệnh bà, - Chủ giáo đáp, - Không còn là cuộc nổi loạn nữa, mà là một cuộc bạo loạn.

- Bạo loạn là ở những kẻ nghĩ rằng dân chúng của ta có thể nổi loạn? - Anne kêu lên, - Bà không gìấu nổi ý nghĩ của mình trước mặt chủ giáo, mà bà coi, có lẽ là chính đáng, như kẻ chủ mưu của sự náo động ấy. Bà nói tiếp - Bạo loạn? Những kẻ mong mỏi điều đó gọi như thế đây cái phong trào do chính họ gây ra; nhưng đợi đấy, quyền lực của nhà vua sẽ lập lại trật tự!

Gondy lạnh lùng đáp:

- Thưa Lệnh bà, phải chăng Hoàng thượng ban cho tôi cái vinh dự được kiến diện là chỉ để nói với tôi điều đó?

- Không đâu, ông chủ giáo thân mến ơi, - Mazarin nói, - Chính là để hỏi ý kiến ông trong cái bối cảnh mà chúng ta đang sống.

Gondy giả vờ ngạc nhiên hỏi:

- Có đúng là Hoàng thượng cho gọi tôi là để hỏi ý kiến không?

- Phải, - Hoàng hậu nói, - Người ta muốn vậy.

Chủ giáo nghiêng mình:

- Hoàng thượng muốn rằng...

- Ông nói cho biết nếu ở địa vị Hoàng thượng thì ông sẽ làm gì. - Mazarin vội vã đáp.

Giáo chủ nhìn hoàng hậu, bà gật đầu.

- Ở địa vị Hoàng thượng, - Gondy lạnh lùng đáp, - Tôi sẽ không do dự, tôi sẽ thả ngay Broussel.

- Thế nếu tôi không thả , - Hoàng hậu kêu lên, - Thì ông cho rằng điều gì sẽ xảy ra?

- Tôi cho rằng ngày mai Paris sẽ bị phá tan tành, - Ông thống chế nói xen vào.

- Ta không hỏi ông - Hoàng hậu nói xẵng và chẳng buồn quay đầu lại, - Ta hỏi ông de Gondy.

- Nếu hoàng thượng hỏi tôi, - Chủ giáo đáp vẫn với vẻ điềm nhiên, - Tôi sẽ nói rằng, tôi hoàn toàn nhất trí với ông thống chế.

Mặt hoàng hậu đỏ rực lên, cặp mắt xanh huyền diệu dường như sắp bật ra khỏi tròng, đôi môi son tươi thắm mà các thi sĩ đương thời ví như đoá hoa lựu đang nở bỗng tái hẳn đi và run lên vì điên giận; bà khiến cả Mazarin cũng kinh hãi, mặc dù ông ta đã quen với những cơn giận dữ trong cái gia đình sóng gió ấy. Cuối cùng với một nụ cười dễ sợ bà kêu lên:

- Trả lại Broussel! Quả là một điều khuyên hay ho đấy! Người ta thấy rõ đó là của một vị thầy tu.

Gondy không sờn lòng. Những lời sỉ nhục hôm nay trôi tưột đi như những lời châm chọc ngày hôm qua; nhưng nỗi căm ghét và lòng phục thù cứ lặng lẽ tích tụ lại từng giọt từng giọt trong tâm can ông. Ông lạnh lùng nhìn hoàng hậu, bà có ý giục Mazarin cũng phải nói điều gì.

Theo thói quen, Mazarin nghĩ ngợi nhiều và nói năng ít.

- Hề hề! - Ông nói - Lời khuyên hay đấy, lời khuyên của bè bạn.

- Tôi cũng vậy, tôi sẽ trả ông ta, cái ông Broussel tử tế ấy, sống hoặc chết, thế là mọi việc xong xuôi.

- Nếu ông trả lại ông ta chết rồi thì mọi việc sẽ xong xuôi như ông nói, thưa Đức ông, nhưng sẽ xong xuôi khác với ông hiểu đấy.

- Tôi đã nói sống hoặc chết à? - Mazarin đáp - Đó là cách nói thôi, ông biết rằng tôi hiểu tiếng Pháp tồi mà ông thì nói và viết giỏi lắm, ông chủ giáo ạ.

- Chao ôi, Hội nghị quốc gia kia đấy! - D Artagnan nói với Porthos, - thế mà chúng tôi đã họp những cuộc hội nghị hay bằng mấy ở La Rochelle cùng với Arthos và Aramis.

- Ở pháo đài Saint-Gervais, - Porthos nói thêm.

- Ở đấy và nhiều nơi khác nữa.

Đợi cơn mưa rào qua đi, chủ giáo lại tiếp tục vẫn với vẻ lãnh đạm ấy:

- Thưa Lệnh bà, nếu Hoàng thượng không tán thành cái ý kiến tôi đưa ra, thì chắc chẳn bởi vì Người đã có nhiều ý kiến hay hơn để nghe theo. Tôi quá hiểu sự khôn ngoan của hoàng hậu và của những vị cố vấn của Lệnh bà nên không thể giả định rằng người ta sẽ để thành phố kinh đô chìm đắm lâu trong một sự rối loạn nó có thể trở thành một cuộc cách mạng.

Người phụ nữ Tây Ban Nha cắn đôi vành môi để dấu đi cơn giận dữ, rồi cười khẩy nói:

- Như vậy là theo ý ông cuộc nổi dậy ngày hôm qua, hôm nay đã trở thành một cuộc cách mạng phải không?

- Vâng, thưa Lệnh bà, - Chủ giáo trịnh trọng đáp.

- Này ông, nhưng nghe ông thì, các dân tộc có lẽ quên các máy hãm?

Gondy lắc đầu nói:

- Năm nay là năm xui đối với các vua chúa. Xin Lệnh bà hãy nhìn nước Anh.

- Phải, - Hoàng hậu đáp - Nhưng may thay ở nước Pháp không có Olivier Cromwell.

- Biết đâu đấy! - Gondy nói,

- Những con người kia tựa như sét, người ta chỉ biết đến họ khi nào họ giáng xuống.

Ai nấy rùng mình và có một lát im lặng.

Trong khi ấy hoàng hậu ấn hai bàn tay lên ngực. Rõ là bà đang nén những tiếng đập gấp gáp của trái tim mình.

- Porthos, - D Artagnan lẩm bẩm, - hãy nhìn kỹ vị linh mục kìa.

- Có, mình đã nhìn, - Porthos đáp. - Thế thì sao?

- Này, thật là một con người!

Porthos nhìn d Artagnan với vẻ ngạc nhiên; rõ ràng là anh hoàn toàn không hiểu bạn mình định nói gì

- Hoàng thượng sẽ dùng những biện pháp thích hợp, - Chủ giáo tiếp tục nói một cách tàn nhẫn, - Nhưng tôi dự đoán là những biện pháp ấy rất khủng khiếp và chỉ càng chọc tức thêm những kẻ ngang ngạnh.

- Thế thì ông chủ giáo ơi, - Hoàng hậu nói với vẻ châm biếm - Ông là bạn của chúng tôi và ông lại có rất nhiều thế lực đối với họ, ông sẽ trẩn an họ bằng cách ban phước lành cho họ.

- Như thế có lẽ sẽ quá muộn, - Gondy nói, vẫn lạnh như băng:

- Và có lẽ bản thân tôi sẽ mất hết mọi ảnh hưởng, còn Hoàng thượng bằng cách trả lại Broussel cho họ sẽ chặt đứt mọi cội rễ của cuộc phản loạn và dùng quyền trừng trị một cách tàn nhẫn mọi sự gia tăng bạo loạn.

- Thế tôi không có cái quyền đó sao? - Hoàng hậu kêu lên.

- Nếu Lệnh bà có thì xin cứ dùng, - Gondy đáp.

- Ghê thật! - D Artagnan bảo Porthos, - Đó là một tính cách mà tôi ưa thích. Sao ông ta chẳng là tể tướng và tôi chẳng là d Artagnan của ông ta nhỉ, mà lại là của cái lão Mazarin đê tiện ấy! A, mẹ kiếp! Chúng ta sẽ cùng chơi những đòn ra trò!

- Phải đấy, - Porthos đáp.

Hoàng hậu ra hiệu cho bãi triều trừ Mazarin.

Gondy cúi chào và toan rút lui như những người khác.

- Ông hãy ở lại, - hoàng hậu nói.

"Được, Gondy tự nhủ, - bà ta sẽ nhượng bộ".

- Bà ta sẽ cho giết ông ấy mất, - D Artagnan nói với Porthos, - nhưng dù sao cũng không bởi tay ta. Trái lại tôi xin thề trước Chúa rằng hẻ nào xông đến ông ta, tôi sẽ nhảy bổ vào họ.

- Tôi cũng vậy, - Porthos nói.

- Được! - Mazarin ngồi xuống ghế và lẩm bẩm, - ta sẽ thấy cái mới.

Hoàng hậu đưa mắt dõi theo những người đi ra. Khi người cuối cùng ra đã đóng cửa, bà quay đầu lại. Người ta thấy bà đã có những cố gắng không ngờ để chế ngự cơn tức giận của minh. Bà quạt, bà hít ở lư hương, bà đi đi lại lại. Gondy bắt đầu lo ngại đưa mắt thăm dò những tấm thảm phủ tường, sờ nắn tấm áo giáp ông mặc dưới lần áo dài và chốc chốc lại rờ tìm cái chuôi con dao găm Tây Ban Nha rất tốt mà ông giấu trong chiếc áo thày tu xem nó có tiện ở trong tầm tay mình không.

Cuối cùng hoàng hậu dừng chân và nói:

- Nào, bây giờ còn có riêng chúng ta, xin ông chủ giáo nhắc lại lời khuyên của ông.

- Đây, thưa Lệnh bà, - Gondy làm bộ suy nghĩ một chút - Công khai thừa nhận một điều sai lầm, đó là sức mạnh của những chính quyền mạnh, đưa Broussel ra khỏi nhà tù và trả lại cho dân chúng.

- Ôi! - Anne d Autriche kêu lên, - ta phải tự hạ mình như thế ư? Ta có phải là nữ hoàng hay không? Tất cả bọn đê tiện đang hò hét có phải là đám thần dân của ta hay không? Ta có những bạn bè và lính thị vệ hay không? A! Xin Thánh mẫu như nữ hoàng Catherine nói - Bà lên giọng và nói tiếp - Thà tự tay ta bóp cổ tên Broussel ti tiện ấy còn hơn trao hắn cho bọn chúng.

Và hai bàn tay quặp lại, bà xông đến Gondy mà lúc này bà căm ghét ít ra thì cũng bằng Broussel.

Gondy đứng im, không một thớ thịt nào trên khuôn mặt động dậy; song cái nhìn giá băng của ông như một lưỡi gươm chạm với cái nhìn điên giận của hoàng hậu.

- Một người chết này, - D Artagnan nói, - nếu như có một Vitry nào đó (3) trong triều và vào đây trong lúc này. Nhưng trước khi hắn tới được ông chủ giáo tử tế kia thì chính tôi, tôi sẽ giết tên Vitry chết tươi? Giáo chủ Mazarin hẳn sẽ vô cùng biết ơn tôi.

- Suỵt! Nghe nào! - Porthos nói.

- Này bà! - Mazarin kêu lên và nắm lấy tay Anne d Autriche kéo lại sau, - Bà làm cái gì thế?

Rồi ông nói thêm bằng tiếng Tây Ban Nha:

- Anne, bà điên đấy à? Bà là hoàng hậu mà gây ra ngay ở đây những cuộc cãi nhau như của bọn tư sản ấy! Và bà không trông thấy sao trước mặt bà, trong con người của vị tu sĩ này là cả dân chúng Paris lăng nhục ông ta trong lúc này là nguy hiểm; nếu ông ta muốn thì trong một giờ nữa bà sẽ không còn ngôi báu! Được rồi, ít lâu nữa trong một dịp khác bà sẽ đối chọi vững vàng và mạnh mẽ, nhưng hôm nay chưa phải lúc. Hôm nay bà hãy giả vờ, ve vuốt đi, nếu không thì bà chỉ là một người đàn bà tầm thường.

Nghe mấy tiếng mở đầu bài diễn văn, d Artagnan đã nắm lấy cánh tay Porthos và siết chặt dần dần, rồi khi Mazarin im lặng, anh nói rất khẽ với bạn:

- Porthos này, chớ có bao giờ nói trước mặt Mazarin rằng tôi biết tiếng Tây Ban nha, nếu không thì tôi sẽ đi đứt, cả cậu cũng vậy.

- Được rồi, - Porthos đáp.

Lời giáo huấn gay gắt ấy đượm vẻ hùng hồn đặc trưng cho Mazarin khi ông ta nói tiếng Ý hoặc Tây Ban Nha và biến mất hẳn khi ông nói tiếng Pháp được nói ra với một vẻ mặt thân nhiên khó thăm dò khiến Gondy vốn tài xem tướng thế mà cũng chỉ nghĩ rằng đó chỉ là một lời khuyên can đơn giản cần phải ôn hoà hơn mà thôi.

Về phía mình, hoàng hậu bị trách móc nặng lời bỗng nhiên dịu hẳn đi. Có thể nói rằng bà đã để rơi lửa khỏi mắt bà, máu khỏi má bà và cơn giận dữ dai dẳng khỏi cặp môi của bà. Bà ngồi phịch xuống, để rơi hai cánh tay rã rời xuống hai bên mình, bằng một giọng đầy nước mắt, bà nói:

- Ông chủ giáo, xin ông hãy tha thứ cho tôi, và gán sự dữ dằn kia cho điều mà tôi phải chịu đựng. Là đàn bà, và do đó dễ nệ theo những yếu đuối của giới mình, tôi kinh hãi nội chiến; là hoàng hậu và quen được phục tùng, tôi dễ nổi khùng trước những sự kháng cự đầu tiên.

- Thưa Lệnh bà, - Gondy nghiêng mình nói - Hoàng thượng lầm khi coi những ý kiến chân thành của tôi là kháng cự. Hoàng thượng chỉ có những bầy tôi phục tùng và cung kính. Không phải hoàng hậu là người mà dân chúng căm giận. Họ đòi Broussel, có thế thôi, và họ sung sướng được sống dưới những luật pháp của Hoàng thượng, nếu như Hoàng thượng trả Broussel cho họ, - Gondy mỉm cười nói thêm.

Vừa mới nghe câu: "Không phải hoàng hậu là người mà nhân dân căm giận, Mazarin đã vểnh cả hai tai lên, tưởng rằng chủ giao sẽ nói tiếp về những lời hô: "Đả đảo lão Mazarin! . Nhưng thấy đoạn ấy được bỏ đi, ông thầm cảm ơn chủ giáo. Rồi bằng giọng mượt mà nhất và vẻ mặt nhã nhặn nhất ông nói:

- Xin Lệnh bà hãy tin ở ông chủ giáo ông là một trong những chính khách tài giỏi nhất mà chúng ta có được. Chiếc mũ giáo chủ đang khuyết dường như dành cho cái đầu cao quý của ông.

"A! Mi cần đến ta thế ư, thằng ba que quỷ quyệt" - Gondy nhủ thầm.

Và lão ta sẽ hứa hẹn gì với chúng ta, - D Artagnan nói, - cái ngày mà người ta sẽ muốn giết lão? Ghê nhỉ? Lão ta ban phát những chiếc mũ giáo chủ như thế, thì Porthos ạ, chúng ta hãy chuẩn bị ngay ngày mai yêu cầu cho mỗi đứa chúng ta phụ trách một trung đoàn. Mẹ kiếp Chỉ cần cuộc nội chiến kéo dài một năm thôi, tôi sẽ cho mạ vàng lại cho tôi thanh gươm của nguyên suý!

- Thế còn tôi? - Porthos hỏi.

- Cậu ấy à? Tôi sẽ cho cậu cây gậy thống chế của ông de La Meilleraie, lúc này ông ta có vẻ không được sủng ái lắm.

- Như vậy, - Hoàng hậu nói, - Thực sự là ông sợ cuộc phản loạn dân chúng à?

- Thực sự chứ, thưa Lệnh bà, - Gondy nói, ngạc nhiên rằng mình đã không làm già hơn - Tôi sợ rằng khi cơn lũ đã phá vỡ đê, nó sẽ gây nên những cuộc tàn phá lớn.

- Còn tôi, - hoàng hậu nói, - Tôi cho rằng trong trường hợp ấy phải chống lại bằng những con đê mới.

- Nào, tôi sẽ suy nghĩ.

Gondy nhìn Mazarin với vẻ kinh ngạc. Mazarin đến gần hoàng hậu để nói. Vừa lúc ấy người ta nghe thấy tiếng ồn ào dữ dội trên quảng trường Hoàng cung.

Gondy mỉm cười, cái nhìn của hoàng hậu rực lửa, Mazarin tái xanh tái xám.

- Lại chuyện gì nữa? - Mazarin nói.

Lúc đó Comminger chạy xổ vào phòng khách và thưa:

- Xin Lệnh bà thứ lỗi, nhưng dân chúng đã nghiền nát lính canh vào rào sắt và lúc này đang phá các cổng. Lệnh bà ra lệnh thế nào ạ?

- Lệnh bà nghe xem, - Gondy nói. - Tiếng sóng gào, tiếng sét nổ, tiếng núi lửa gầm cũng không thể so sánh với trận bão tố của những tiếng la hét lúc này đang bốc lên tận trời.

- Ta ra lệnh thế nào ư? - Hoàng hậu nói.

- Vâng, gấp lắm rồi.

- Ông có khoảng bao nhiêu người ở Hoàng cung?

- Sáu trăm người.

- Cắt một trăm người ở bên vua, và với số còn lại hãy quét sạch bọn tiện dân ấy cho ta.

- Bà làm gì thế? - Mazarin nói.

- Đi đi! - Hoàng hậu bảo.

Comminger đi ra với sự phục tùng thụ động của người lính.

Vừa lúc ấy, một tiếng gãy kinh khủng vang lên, một chiếc cổng bắt đầu bật tung.

- Này bà! - Mazarin nói, - Bà làm nguy hại tất cả chúng ta rồi, nhà vua, bà và tôi nữa.

Nghe tiếng kêu của linh hồn đó của ông giáo chủ thất đảm hoàng hậu cũng hoảng sợ và gọi Comminger lại.

- Muộn quá rồi! - Mazarin vò đầu bứt tai nói, - Muộn quá rồi.

Cổng bật ra và người ta nghe đám tiện dân reo hò mừng rỡ.

D Artagnan cầm kiếm ra tay và ra hiệu cho Porthos làm theo.

- Hãy cứu lấy hoàng hậu? - Mazarin nói với ông chủ giáo.

Gondy lao ra phía cửa sổ và mở ra. Ông nhận thấy Louvières đi đầu một đám đông phải đến ba bốn nghìn người.

- Không được tiến thêm một bước nào nữa! - Ông kêu lên. - Hoàng hậu ký rồi.

- Ông nói gì thế? - Hoàng hậu kêu.

- Sự thật, thưa bà, - Mazarin vừa nói vừa đưa giấy bút ra - Cần phải như vậy. - Rồi ông nói thêm - Anne, hãy ký đi, tôi van bà tôi muốn thế!

Hoàng hậu ngồi phịch xuống ghế, cầm bút và ký.

Do Louvières ngăn dân chúng không tiến thêm một bước nào nữa, nhưng tiếng ồn ào khủng khiếp chỉ rõ sự phẫn nộ của quần chúng đông đảo vẫn tiếp tục.

Hoàng hậu viết:

"Người coi nhà tù Saint-Germain sẽ trả lai tự do cho cố vấn Broussel"

Rồi bà ký.

Mắt nhìn ngốn ngấu từng cử động nhỏ của bà, ông chủ giáo chộp lấy tờ giấy ngay khi nó vừa được ký xong, trở ra cửa sổ và cầm tờ giấy mà vẫy vẫy:

- Tờ lệnh đây, - Ông nói.

Dường như toàn thể Paris cùng reo hò ầm ĩ vì vui mừng; rồi vang lên những tiếng hô:

"Broussel muôn năm! Chủ giáo muôn năm!".

-" Hoàng hậu muôn năm!" - Ông chủ giáo hô.

Mấy tiếng hô đáp lại, nhưng lẻ tẻ rời rạc.

Phải chăng chủ giáo hô lên câu đó chỉ là để cho Anne d Autriche nhận thấy thế yếu của mình.

- Ông Gondy, - Bà nói, - bây giờ ông đã đạt được điều ông mong muốn thì mời ông đi đi.

- Khi nào hoàng hậu cần đến tôi, - chủ giáo cúi chào và nói, - Xin Hoàng thượng biết cho rằng tôi sẵn sàng chờ lệnh.

Hoàng hậu gật đầu và Gondy rút lui.

Cửa vừa mới đóng lại, Anne d Autriche đã giơ tay ra về phía ấy mà nói:

- A! Tên thầy tu đáng nguyền rủa kia! Sẽ có ngày ta cho mi uống nốt chén mật đắng mà mi đã chuốc cho ta hôm nay.

Mazarin chầm chậm tiến đến gần bà.

- Hãy để mặc tôi, - Bà nói - Ông không phải là một người đàn ông?

Và bà đi ra.

- Chính bà mới không phải một người đàn bà, - Mazarin lẩm bẩm.

Rồi sau một lát trầm ngâm, ông chợt nhớ ra rằng d Artagnan và Porthos chắc vẫn ở kia, do đó đã nghe thấy hết cả. Ông cau mày và đi thẳng đến chỗ che thảm và vén lên: căn phòng vắng tanh.

Khi nghe lời nói cuối cùng của hoàng hậu, d Artagnan đã nắm tay Porthos và kéo bạn đi ra phía hành lang.

Mazarin cũng ra hành lang và thấy đôi bạn đang đi dạo.

- Ông d Artagnan, tại sao ông rời căn phòng?

- Bởi vì, - D Artagnan đáp, - hoàng hậu đã ra lệnh cho tất cả mọi người đi ra, tôi nghĩ rằng lệnh ấy là cho chúng tôi cũng như cho những người khác.

- Như vậy là ông đã ra đây từ...

- Từ khoảng mười lăm phút d Artagnan vừa nói vừa nhìn Porthos và ra hiệu cho bạn đừng cải chính.

Mazarin bất chợt cái ra hiệu đó và tin chắc rằng d Artagnan đã trông thấy hết và nghe thấy hết, nhưng ông biết ơn anh về sự nói dối.

- Ông d Artagnan này, Quiả nhiên ông là người mà tôi tìm kiếm, và ông có thể trông cậy ở tôi cả bạn của ông nữa.

Rồi chào đôi bạn bằng nụ cười ưu nhã nhất, ông yên tâm hon trở vào văn phòng mình, vì sau khi Gondy ra, tiếng ồn ào đã ngừng bặt y như bởi phép mầu.

Chú thích:

(1) Trong bộ truyện trước, Séguier theo lệnh vua Louis XIII toan lục soát ngay trong mình hoàng hậu để tìm kiếm một bức thư khả nghi

(2) chơi chữ: "bienvenu" - đến vừa hay, được hoan nghênh, và "bien revenu" - quay trở về thật; hoàng hậu có ý châm biếm ông thống chế bại trận phải trở về.

(3) Vitry (1581-1644) đại uý thị vệ (sau làm thống chế) năm 1617 theo lệnh vua Louis XIII bắt giữ thống chế Concini, ông này kháng cự và bị Vitry giết chết

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 51

Khi hoạ thì dễ nhớ ra

Anne d Autriche điên giận trở về phòng cầu nguyện của mình. Bà vặn vẹo đôi cánh tay mỹ miều mà kêu lên:

- Sao! Dân chúng đã từng thấy ông de Condé đệ nhất thân vương, bị mẹ chồng của ta, Marie de Médicis bắt giữ: họ đã thấy mẹ chồng ta, nhiếp chính cũ của họ bị tể tướng Richelieu đuổi đi; họ cũng đã từng thấy ông de Vendôme tức là con trai vua Henri IV bị cầm tù ở Vincennes. Họ chẳng nói năng gì cả, trong khi người ta lăng nhục, người ta tống giam, người ta đe doạ những nhân vật lớn ấy! Thế mà chỉ vì một tên Broussel! Giê su ơi, cái vương quyền ra thế nào rồi đấy?

Anne vô tình dụng chạm đến vấn đề nóng bỏng. Dân chúng không nói năng gì cho các hoàng thân, dân chúng nổi dậy vì Broussel, chính vì đây là một người thuộc tầng lớp bình dân, và bảo vệ Broussel, dân chúng cảm thấy một cách tự nhiên rằng họ bảo vệ chính mình.

Trong lúc ấy, Mazarin đi dạo khắp trong văn phòng mình, chốc chốc lại nhìn sang chiếc gương Venise của ông bị rạn nứt hết.

- Chà! - Ông nói, - Ta biết lắm, buộc phải nhượng bộ như vậy thì thật dáng buồn. Nhưng, ơ hay, chúng ta sẽ phục thù, Broussel thì can hệ gì! Đó chỉ là một cái tên, không phải là một vật.

Là chính khách khôn ngoan đến mấy đi nữa, lần này Mazarin lầm rồi: Broussel là một vật, chứ không phải một cái tên.

Cho nên, buổi sáng hôn đó, khi Broussel vào Paris trong một cỗ xe lớn có con trai là Louvières ngồi bên và Friquet. đi theo xe, tất cả dân chúng mang vũ khí đổ xô ra trên đường ông đi qua. Những tiếng hô: "Broussel muôn năm! Cha của chúng ta muôn năm!" vang lên khắp nơi và mang cái chết đến cho lỗ tai Mazarin.

Từ mọi phía những tên do thám của tể tướng và hoàng hậu mang về những tin tức xấu, chúng thấy giáo chủ rất hoảng loạn và hoàng hậu rất bình tĩnh. Hoàng hậu có vẻ như đang suy nghĩ thật chín muồi một quyết định lớn lao, điều ấy càng tăng lên những nỗi lo ngại của Mazarin. Ông biết rõ bà hoàng kiêu ngạo và rất sợ những quyết định của bà.

Ông chủ giáo trở lại nghị viện còn vua hơn cả vua, hoàng hậu và giáo chủ ba người cộng lại. Theo ý kiến của ông, nghị viện ra một pháp lệnh yêu cầu những người tư sản hạ vũ khí và phá bỏ các luỹ chướng ngại; bây giờ thì họ biết rằng chỉ cần một giờ để cầm lại vũ khí và một đêm để dựng lại các luỹ chướng ngại.

Planchet trở về cửa hiệu của mình. Chiến thắng ân xá, Planchet không còn sợ bị treo cổ; anh tin chắc rằng nếu người ta chỉ lộ vẻ bắt giữ anh, thì dân chúng sẽ nổi dậy ủng hộ anh cũng như họ vừa mới làm để ủng hộ Broussel.

Rochefort đã trả lại đội khinh kỵ binh cho hiệp sĩ d Humières.

Thiếu mất hai người khi điểm danh, nhưng ông hiệp sĩ là Fronde trong tâm hồn chẳng muốn nghe nói đến bồi thường.

Gã ăn mày ở lại chỗ mình ở sân nhà thờ Saint Eustache , vẫn một tay dâng nước thánh một tay xin bố thí, và chẳng ai hồ nghi rằng hai bàn tay ấy vừa mới giúp kéo ra khỏi toà kiến trúc xã hội hòn đá nền tảng của vương quyền.

Louvières hãnh diện và hài lòng. Anh đã trả thù Mazarin mà anh khinh ghét và đã góp sức để đưa cha mình ra khỏi nhà tù; tên tuổi anh đã được nhắc đến với nỗi kinh hoàng ở Hoàng cung. Anh nói với ông cố vấn được trở về với gia đình:

- Cha ơi cha có tin rằng, nếu giờ đây con xin hoàng hậu một đại đội thì bà ấy sẽ cho con không?

Trong thời gian bạo động, Raoul nhất thiết đòi tuốt kiếm ra để tham gia vào phe này hoặc phe kia, d Artagnan phải vất vả lắm mới giữ chân Raoul ở nhà được. Lúc đầu Raoul không chịu, nhưng d Artagnan đã phải nhân danh bá tước de La Fère để bảo ban anh.

Nhân dịp tình hình đã yên tĩnh, d Artagnan cho Raoul đi. Raoul đến thăm bà de Chevreuse rồi lên đường trở lại quân đội.

Riêng Rochefort thấy công việc kết thúc quá kém. Ông đã viết thư mời quận công de Beaufort về, quận công sắp tới nơi và sẽ thấy Paris yên tĩnh.

Ông đến tìm chủ giáo để hỏi xem có nên bảo hoàng thân dừng lại trên đường không, nhưng Gondy ngẫm nghĩ một lát và nói:

- Cứ để ông ấy tiếp tục hành trình.

- Như vậy là công việc chưa xong ư? - Rochefort hỏi.

- Không đâu! Bá tước thân mến ơi, chúng ta chỉ mới ở chỗ bắt đầu.

- Ai làm cho ngài tin như vậy?

- Tôi biết rõ bụng dạ hoàng hậu: bà ta chẳng chịu thua đâu.

- Bà ta chuẩn bị một việc gì sao?

- Tôi chắc thế.

- Ngài biết chuyện gì, nào?

- Tôi biết rằng bà ra đã viết thư triệu ngài Hoàng thân từ quân đội trở về gấp.

- Á, à! - Rochefort nói, - Ngài nói đúng đấy, cần để ông de Beaufort đến.

Ngay buổi chiều tối hôm ấy, tiếng đồn lan ra là Hoàng thân de Condé đã về tới Paris.

Đó là một tin tức thật bình thường và tự nhiên song nó có một âm vang rộng rãi. Người ta nói rằng hở chuyện này ra là do bà de Longueville, bà được ngài Hoàng thân tâm sự, mà thiên hạ thì buộc tội Hoàng thân đã có một sự luyến ái đối với em gái vượt quá giới hạn của tình anh em.

Những chuyện tâm sự đó tiết lộ những dự định nham hiểm của hoàng nậu.

Ngay buổi chiều hôm Hoàng thân về, những người tư sản tiến bộ hơn những kẻ khác, những thẩm phán, những thủ lĩnh các khu phố đến những chỗ quen biết và nói:

- Tại sao chúng ta đã không đoạt lấy nhà vua và đưa đến Toà Thị sảnh? Thật là một sai lầm để cho kẻ thù của chúng ta dạy dỗ vua, bảo ban vua những điều xấu. Nếu như được ông chủ giáo chẳng hạn trông nom thì vua sẽ hấp thụ được những nguyên lý quốc dân và sẽe yêu mến nhân dân.

Ban đêm náo động một cách âm thẩm. Ngày hôm sau người ta lại trông thấy những tấm áo choàng xám và đen, những đội tuần tra thương nhân mang vũ khí và những toán ăn mày.

Hoàng hậu đã thức suốt đêm để bàn bạc với Hoàng thân. Nửa đêm Hoàng thân được dẫn đến phòng nguyện của hoàng hậu và tới năm giờ sáng ông mới ra về.

Năm giờ hoàng hậu đến văn phòng tể tướng. Nếu như bà chưa được đi nằm thì giáo chủ cũng đã dậy rồi.

Ông đang thảo bức thư trả lời Cromwell. Ông hẹn với Mordaunt mười ngày thì sáu ngày đã qua rồi.

Chà! Ta để hắn phải chờ một chút, nhưng ông Cromwell hiểu quá đi, cách mạng là thế nào, nên không thể không thứ lỗi cho ta.

Ông bèn đọc lại với vẻ thoả mãn đoạn đầu bức thư biện hộ của mình thì nghe có tiếng cào nhè nhẹ vào cánh cửa thông sang những căn phòng của hoàng hậu. Chỉ một mình hoàng hậu có thể đến bằng cửa ấy.

Giáo chủ đứng lên và ra mở.

Hoàng hậu mặc xuềnh xoàng, nhưng cái xuềnh xoàng ấy càng hợp với bà, vì rằng cũng như nữ thần Dian ở viện bảo tàng Poitiers hoặc ở phòng khách bà Ninon, Anne d Autriche giữ cái độc quyền là lúc nào cũng xinh đẹp. Song buổi sớm hôm ấy bà còn đẹp hơn thường lệ bởi vì cặp mắt bà có tất cả cái long lanh mà một nỗi vui mừng bên trong tạo nên.

- Có việc gì đấy bà, - Mazarin lo ngại nói, - Trông bà có vẻ đắc ý lắm?

- Đúng, Giulio ạ, - bà đáp - đắc ý và vui sướng, vì rằng tôi đã tìm ra kẻ bóp chết cuộc bạo loạn này.

- Bà hoàng của tôi ơi, - Mazarin nói, - bà là một chính khách lớn nào xem kế sách ra sao.

Và ông giấu điều mà ông viết bằng cách nhét lá thư mới bắt đầu xuống dưới tờ giấy trắng.

- Chúng muốn bắt nhà vua, ông biết chứ? - Hoàng hậu nói.

- Chao ôi! Biết! Và còn muốn treo cổ tôi nữa!

- Chúng sẽ không có vua.

- Và chúng sẽ không treo cổ tôi.

- Ông nghe đây: tôi muốn cướp đi họ của con trai tôi và bản thân tôi và ông cùng với tôi, tôi muốn rằng sự kiện này, từ hôm nay đến ngày kia sẽ thay đổi bộ mặt của mọi thứ cần được thực hiện mà không ai biết, ngoài ông, tôi và một người thử ba.

- Người thứ ba ấy là ai?

- Ông Hoàng thân.

- Ông ta đã về như người ta nói với tôi phải không?

- Về tối hôm qua.

- Bà đã gặp rồi chứ?

- Tôi vừa mới chia tay ông ấy.

- Ông ấy giúp sức vào kế hoạch này à?

- Chính ông ta đề ra ý kiến.

- Thế còn Paris?

- Ông ta sẽ để cho bị đói và buộc phải đầu hàng không điều kiện.

- Kế hoạch không thiếu vẻ vĩ đại, nhưng tôi chỉ thấy có một trở ngại.

- Trở ngại gì?

- Sự không thể được.

- Lời nói vô nghĩa. Không có gì là không thể được.

- Trên kế hoạch.

- Trong thực hiện. Chúng ta có tiền không?

- Ít thôi - Mazarin đáp, sợ Anne d Autriche đòi moi tiền trong túi ông ta.

- Chúng ta có tinh thần can đảm không?

- Rất nhiều.

- Vậy thì dễ lắm. Ô! Giulio, ông có hiểu không? Paris, cái thành phố Paris ghê tởm ấy một buổi sáng thức dậy không có hoàng hậu không có vua, bị bao vây, bị quấy nhiễu bị bỏ đói, tất cả phương sách chỉ còn trông vào cái nghị viện ngu đần và ông chủ giáo còm nhom với đôi chân vặn vẹo của họ!

- Hay, hay! - Mazarin nói. - Tôi hiểu rõ hiệu quả, nhưng tôi không trông thấy phương tiện để đạt tới.

- Tôi thì tôi sẽ tìm thấy đấy.

- Bà nên biết rằng đây là chiến tranh, là cuộc nội chiến bừng bừng, kịch liệt, không nguôi.

- Ồ! Phải đấy, phải đấy, chiến tranh, - Anne d Autriche nói - Phải đấy, tôi muốn biến cái thành phố phiến loạn này thành tro bụi; tôi muốn dập tắt ngọn lửa trong máu; tôi muốn rằng một tấm gương kinh khủng sẽ nếu mãi mãi tội ác và trừng phạt. Hỡi Paris! Ta căm thù mi, ta ghê tơm mi!

- Khoan, khoan, Anne, bà khát máu đấy! Hãy coi chừng, chúng ta không còn ở thời đại những Malatesta và những Castruccio Castracani(1); bà sẽ tự làm cho bà bị chặt đầu, bà hoàng xinh đẹp của tôi ạ, và như thế thì uổng lắm.

- Ông cười tôi đây à?

- Tôi rất ít cười. Chiến tranh với cả một dân tộc thì thật là nguy hiểm. Bà hãy trông Charles đệ nhất em rể của bà đấy, tình hình ông ấy xấu lắm, rất xấu.

- Chúng ta đang ở nước Pháp, và tôi là người Tây Ban Nha.

- Không cần, per Baccho, không cần, có lẽ tôi thích bà là người Pháp thì hơn, cả tôi cũng vậy; người ta sẽ thù ghét cả hai ta ít hơn.

- Song ông tán thành tôi chứ?

- Vâng, nếu tôi thấy điều ấy có thể làm được.

- Nó sẽ làm được, chính tôi nói với ông thế. Ông hãy sửa soạn.

- Tôi ấy à? Lúc nào tôi cũng sẵn sàng ra đi, song, như bà biết đấy, tôi chẳng ra đi bao giờ... và lần này chắc là cũng không hơn những lần khác.

- Cuối cùng, nếu tôi đi thì ông có đi không?

- Tôi sẽ thử xem.

- Ông làm tôi đến chết về những sự sợ hãi của ông đấy Giulio ạ, mà ông sợ cái gì kia chứ?

- Sợ nhiều điều lắm.

- Những điều gì nào?

Bộ mặt Mazarin từ giễu cợt trở thành u ám.

- Anne, - Ông nói, - Bà chỉ là một người đàn bà, và là đàn bà bà có thể tùy tiện lăng nhục đàn ông vì chắc chắn là mình được miễn tội. Bà cáo buộc tôi là sợ hãi; tôi không sợ hãi nhiều như bà đâu, bởi vì tôi tôi không bỏ trốn. Người ta hò la chống ai? Chống bà hay chống tôi? Người ta muốn treo cổ ai? Bà hay tôi? Vậy mà tôi đương đầu với bão tố, trong khi bà cáo buộc tôi là sợ hãi; chẳng phải anh hùng rơm đâu, đó không phải là thói của tôi, nhưng tôi vững vàng. Hãy bắt chước tôi, om sòm ít thôi, hiệu quả nhiều hơn. Bà la hốt hoảng lên, bà chẳng đạt tới đâu. Bà bàn đến chuyện trốn...

Mazarin nhún vai, cầm tay hoàng hậu và dắt bà ra cửa sổ:

- Hãy nhìn xem!

- Gì nào? - Hoàng hậu nói, mù quáng vì sự bướng bỉnh của mình.

- Kia kìa! Qua cửa sổ bà nhìn thấy gì nào? Nếu tôi không lầm thì đó là dân tư sản mặc áo giáp đội mũ sắt trang bị súng trường tốt như thời Liên minh thần thánh; họ đang nhìn chằm chằm lên cửa sổ bà đang đứng và bà có thể bị nom thấy nếu bà vén rèm lên quá cao.

Bây giờ ta ra cửa sổ kia; bà trông thấy gì nữa? Những đám dân chúng mang giáo mác canh gác các cổng ngõ của bà. Ở bất cứ cửa nào của Hoàng cung mà tôi dẫn bà ra, bà đều thấy như thế cả. Các cổng lớn bị canh gác, các cửa thông gió và các căn hầm cũng bị canh gác, và đến lượt tôi sẽ nói với bà cái điều mà La Ramée nói với tôi về ông De Beaufort: trừ phi là chim hay là chuột, ông sẽ không ra khỏi nơi đây.

- Vậy mà ông ta vẫn ra đấy.

- Bà có tính nước ra cũng bằng cách ấy không.

- Thế tôi là tù nhân đấy à?

- Trời ơi! - Mazarin nói, - Có đến một tiếng đồng hồ tôi chứng minh với bà điều đó rồi.

Và Mazarin điềm nhiên lấy ra viết tiếp bức thư đang viết dở.

Anne tức run người lên, đỏ bừng mặt vì hổ nhục, đi ra khỏi văn phòng và dập cửa đánh rầm một cái.

Mazarin chẳng buồn quay đầu lại.

Trở về phòng mình, hoàng hậu buông mình xuống chiếc ghế bành và khóc nức nở.

Rồi bỗng nhiên một ý nghĩ đến bất thình lình khiến bà bật dậy và reo lên:

- Ta thoát rồi! Ô, phải, rồi, phải rồi, ta biết một người có thể đưa ta ra khỏi Paris người ấy, một người mà ta đã quên lãng quá lâu.

Và mặc dầu với nỗi vui mừng, bà mơ màng nói:

"Ta mới bội bạc làm sao, có đến hai mươi năm trời ta bỏ quên người ấy, người mà lẽ ra ta phải phong làm một thống chế Pháp quốc. Bà mẹ chồng ta đã vung vãi vàng bạc, chức phẩm và những vuốt ve cho Concini, ông ta đã làm hại bà; ông vua chồng ta vì một cuộc ám sát đã phong Vitry làm thống chế Pháp quốc. Còn ta, ta đã bỏ mặc trong quên lãng, trong cảnh khốn cùng cái anh chàng d Artagnan cao quý đã từng cứu ta.

Và bà chạy ra chiếc bàn để giấy, bút, mực và ngồi viết.

Chú thích:

(1) Những Castruccio Castracani nổi tiếng ở Ý xưa kia, tức là những thủ lĩnh quân du kích hoặc lính đánh thuê, xưng hùng xưng bá một vừng. Trong số đó có những vua chúa thất thế.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 52

Cuộc hội kiến

Sáng hôm ấy, d Artagnan nằm trong phòng Porthos. Đó là một thói quen của đôi bạn từ khi có những cuộc rối loạn. Dưới chân giường họ để gươm kiếm và trên bàn trong tầm tay để súng ngắn.

D Artagnan vẫn còn ngủ và mơ thấy trời phủ một đám mây, từ đám mây ấy rơi xuống một trận mưa vàng và anh giơ mũ ra hứng dưới một ống máng, Porthos thì mơ thấy cái tấm bảng ở cỗ xe của mình không đủ rộng để chứa hết những gia huy mà anh cho tô vẽ vào đấy.

Các anh thức giấc vào lúc bảy giờ do một thằng hầu không vận áo dấu mang một bức thư đến cho d Artagnan.

- Thư của ai đấy? - Chàng Gascon hỏi.

- Của hoàng hậu, - Tên hầu đáp.

- Sao! - Porthos ngồi dậy ở trên giường nói - Nó bảo gì vậy?

D Artagnan bảo thằng hầu sang buồng bên cạnh và khi nó khép cửa lại, anh nhẩy ra khỏi giường và lướt đọc rất nhanh, trong khi Porthos cứ giương mắt ếch ra mà nhìn, mà không dám hỏi câu nào.

- Này bạn Porthos - D Artagnan đưa thư ra và nói, - Lần này thì đây là danh hiệu Nam tước của cậu và tờ phong đại uý của tôi. Cầm lấy đọc đi và xét đoán.

Porthos giơ tay đón bức thư và run run đọc dòng chữ:

"Hoàng hậu muốn nói chuyện với ông d Artagnan. Ông hãy đi theo người đưa thư!"

- Ơ này! - Porthos nói, - Mình thấy đây chỉ là chuyện bình thường.

- Mình thì lại thấy nhiều chuyện đặc biệt, - D Artagnan nói.

Nếu người ta gọi đến tôi, tức là công việc rối rắm lắm. Cậu thử nghĩ xem trong đầu óc hoàng hậu phải xáo động thế nào thì kỷ ức về tôi sau hai chục năm trời nó mới nổi lên trên mặt nước chứ?

- Đúng đấy, - Porthos nói.

- Nam tước, hãy mài sắc gươm, nạp đạn vào súng, đem lúa mạch cho ngựa ăn, tôi xin cam đoan rằng trước ngày mai sẽ có chuyện mới lạ và motus!(1)

- Ái chà? Thế không phải là một cái bẫy người ta giăng ra để gạt bỏ chúng ta hay sao? - Porthos nói, anh vẫn băn khoăn rằng vinh quang sau này của anh ắt gây ra sự khó chịu cho kẻ khác.

- Nếu là một cái bẫy thì tôi sẽ ngửi thấy ngay, hãy yên trí, - D Artagnan nói. - Nếu Mazarin là người Ý thì tôi cũng là Gascon cơ mà.

Và d Artagnan loáng một cái đã mặc xong quần áo.

Porthos vẫn nằm và đang cài áo choàng cho bạn thì có tiếng gõ cửa lần nữa.

- Cứ vào! - D Artagnan bảo.

Một tên hầu thứ hai vào.

- Giáo chủ Mazarin sai tôi mang thư đến, hắn nói.

D Artagnan nhìn Porthos.

- Phiền phức rồi đấy, - Porthos nói, - Bắt đầu từ đâu bây giờ?

- Tuyệt diệu thật, - D Artagnan nói, - Đức ông hẹn gặp tôi sau nửa giờ.

- Anh bạn này, - D Artagnan quay sang nói với tên hầu, - Hãy trình Đức ông rằng nửa giờ nữa tôi sẽ có mặt.

Tên hầu chào và đi ra.

- Cũng may là nó không trông thấy tên hầu kia, - D Artagnan nói.

- Cậu cho rằng cả hai người cho đi tìm cậu vì cùng một việc ư? - Porthos hỏi.

- Tôi chắc chắn là không phải như vậy.

- Thôi, thôi, nhanh nhẹn lên, d Artagnan. Nhớ rằng hoàng hậu đang đợi cậu; sau hoàng hậu là giáo chủ, và sau giáo chủ là tôi.

Tên hầu dẫn anh đi qua phố Petits-Champs, và rẽ sang trái đưa anh vào một cái cổng nhỏ trông ra phố Richelieu. Rồi họ đi lên một cái cầu thang kín và d Artagnan được đưa vào trong phòng nguyện.

Một niềm xúc động bất giác khiến trống ngực viên trung uý đập rộn rã. Anh không còn lòng tin cậy của tuổi trẻ nữa, và kinh nghiệm đã dạy cho anh tất cả tầm nghiêm trọng của những biến cố đã qua.

Anh đã biết thế nào là sự quý phái của các ông hoàng và vẻ uy nghiêm của các vua chúa. Anh đã quen xếp sự tầm thường của mình sau những kẻ giàu sang và danh gia thế phiệt. Xưa kia anh tiếp cận Anne d Autriche với tư cách một chàng trai trẻ chào đón một người đàn bà. Giờ đây thì khác hẳn: anh đến với bà ta như một người lính tầm thường đến với một vị thủ lĩnh lẫy lừng.

Một tiếng nhè nhẹ khuấy động sự yên tĩnh của phòng nguyện.

D Artagnan rùng mình và trông thấy một bàn tay trắng muốt vén tấm thảm lên. Nhìn hình dạng thanh tú, màu trắng nuột nà và vẻ đẹp mỹ miều, anh nhận ra bàn tay vương giả kia mà có lần người ta đưa anh hôn.

Hoàng hậu đi vào.

- Ông đấy à, ông d Artagnan, - Bà nói và nhìn viên sĩ quan bằng cặp mắt chứa chan nỗi u hoài thương mến. - Đúng là ông, và tôi nhận ra ngay. Ông hãy nhìn lại tôi đi, tôi là hoàng hậu, ông có nhận ra tôi không?

- Không ạ, Thưa Lệnh bà, - D Artagnan đáp.

Bằng cái giọng ngọt ngào mà bà biết lồng vào tiếng nói của mình khi bà muốn, Anne d Autriche nói tiếp:

- Thế ra ông không còn biết rằng hồi xưa hoàng hậu đã cần đến một dũng sĩ trẻ dũng cảm và tận tụy và bà đã tìm được người kỵ sĩ ấy và mặc dầu ông ta có thể tưởng rằng bà đã quên ông ta, bà vẫn dành một chỗ cho ông ta trong đáy lòng mình.

- Không, Thưa Lệnh bà, tôi không biết chuyện ấy, - Người lính ngự lâm đáp.

- Không sao cả ông ạ, - Anne d Autriche nói, - Không sao, ít ra là đối với hoàng hậu, vì rằng bà hoàng hậu ấy hôm nay cần đến vẫn lòng dũng cảm ấy, vẫn lòng tận tụy ấy.

- Sao thế nhỉ? - D Artagnan nói, - Xung quanh hoàng hậu đầy những bộ hạ thật tận tụy, những cố vấn thật khôn ngoan, những con người thật vĩ đại do công tích hoặc địa vị của họ, vậy mà hoàng hậu lại hạ cố để mắt đến một người lính vô danh ư?

Anne hiểu rõ lòng trách móc được che đậy ấy, bà cảm động hơn là tức giận. Biết bao đức hy sinh và vô tư của người quý tộc Gascon đã bao phen khiến bà hổ thẹn, bà sẵn sàng chịu thua vì tinh thần cao thượng.

- Ông d Artagnan này, - Hoàng hậu nói:

- Tất cả những điều ông nói về những người bao quanh tôi có lẽ đúng đấy; nhưng tôi chỉ tin cậy có một mình ông thôi. Tôi biết ông là của giáo chủ, nhưng hãy là của tôi nữa, tôi sẽ đảm nhận vận hạnh của ông. Nào, giờ đây liệu ông có làm cho tôi cái mà hồi xưa người quý tộc kia mà ông không biết ấy đã làm cho hoàng hậu không?

- Tôi sẽ làm mọi điều mà Hoàng thượng ra lệnh, - D Artagnan nói.

Hoàng hậu ngẫm nghĩ một lát, và nhìn thấy thái độ dè đặt của người lính ngự lâm, bà nói:

- Có lẽ ông thích sự nghỉ ngơi phải không?

- Tôi không biết nữa, thưa Lệnh bà, vì tôi có được nghỉ ngơi bao giờ đâu.

- Ông có bạn bè không?

- Tôi có ba người bạn: hai người đã rời Paris không biết đi đâu. Còn mỗi một người còn lại, nhưng tôi chắc rằng đó là một trong số những kẻ biết người kỵ sĩ mà Hoàng thượng đã nói với tôi.

- Tốt lắm. - Hoàng hậu nói:

- Ông và bạn của ông giá trị bằng một đội quân.

- Thưa Lênh bà, tôi phải làm gì?

- Năm giờ ông trở lại đây và tôi sẽ nói ông biết; nhưng này chớ có nói với bất kỳ ai về cuộc gặp gỡ mà tôi hẹn với ông!

- Không đâu, thưa Lệnh bà!

- Thề trước Chúa Jesus đi.

- Thưa Lệnh bà, tôi không bao giờ sai lời hứa. Tôi đã nói không là không.

Mặc dầu ngạc nhiên về thứ ngôn ngữ ấy mà bà không quen nghe từ miệng các cận thần của mình, hoàng hậu coi đó một điểm tốt cho nhiệt tình mà d Artagnan đem ra phục vụ bà trong việc hoàn thành kế hoạch của bà. Đó là một trong những thủ đoạn của chàng Gascogne đôi khi nhằm che đậy sự tinh tế sâu xa của mình dưới cái bề ngoài có vẻ là một sự cục cằn trung thực.

- Lúc này hoàng hậu không có điều gì khác phán bảo tôi chứ? - anh nói.

- Không, ông ạ - Anne d Autriche đáp, - Ông có thể lui cho đến lúc mà tôi đã hẹn.

D Artagnan chào và đi ra. Vừa ra khỏi cửa, anh nói:

- Quái nhỉ! Hình như ở đây người ta rất cần đến mình.

Rồi vì nửa giờ đã trôi qua anh đi theo dãy hành lang và đến gõ cửa văn phòng tể tướng.

Bernouin đưa anh vào.

- Thưa Đức ông, tôi đến theo lệnh ngài, - Anh nói.

Và theo thói quen anh đưa mắt lướt nhanh chung quanh mình và nhận thấy trước mặt Mazarin có một bức thư niêm phong. Song nó lại được đặt mặt có chữ xuống bàn thành thử không thể nào xem được gửi cho ai.

Mazarin chằm chằm nhìn d Artagnan và nói:

- Ông vừa ở chỗ hoàng hậu ra, phải, không?

- Tôi ấy à, thưa Đức ông! - Ai bảo ngài như vậy?

- Chẳng ai bảo, nhưng tôi biết.

- Tôi rất lấy làm thất vọng thưa với Đức ông rằng ngài lầm, - Chàng Gascon trả lời một cách nghênh ngang, ỷ vào điều mình vừa mới hứa với Anne d Autriche.

Tự tôi mở cửa tiền sảnh và trông thấy ông ở đầu hành lang ấy là vì tôi được đưa vào lối cầu thang kín.

- Sao thế?

- Tôi không biết; có lẽ có sự hiểu lầm.

Mazarin biết rằng không phải dễ dàng bắt d Artagnan nói ra điều anh muốn giấu; cho nên lúc này ông thôi không muốn khám phá điều chàng Gascon giữ bí mật với ông.

- Thôi, ta hãy bàn việc của tôi vậy, bởi vì ông không muốn nói với tôi về việc của ông.

D Artagnan nghiêng mình.

- Ông có thích những chuyện viễn du không? - giáo chủ hỏi.

- Cuộc đời của tôi đã trải qua trên những nẻo dường lớn.

- Có điều gì giữ ông ở lại Paris không?

- Chẳng có điều gì giữ tôi lại Paris ngoài một mệnh lệnh của bề trên.

- Tốt. Đây là một bức thư cần phải đưa tới địa chỉ của nó.

- Tới địa chỉ của nó, thưa Đức ông? Nhưng làm gì có địa chỉ.

- Quã thật mặt trước của phong bì chẳng đề chữ gì cả.

- Nghĩa là, - Mazarin nói, - Có hai lớp phong bì.

- Tôi hiểu rồi, tức là đến một nơi đã định nào đó, tôi mới được xé phong bì ngoài.

- Đúng thế? Hãy cầm lấy và mang đi. Ông có người bạn, ông Du Vallon mà tôi rất mến, ông hãy để ông ta đi cùng.

"Thôi rồi! - D Artagnan tự nhủ, - lão ta biết rằng bọn mình đã nghe được câu chuyện hôm qua, nên muốn đẩy bọn mình đi khỏi Paris".

- Ông lưỡng lự à? - Mazarin hỏi.

- Không, thưa Đức ông, tôi đi ngay lập tức. Song le tôi mong muốn một điều.

- Điều gì? Nói đi.

- Xin Đức ông qua chỗ hoàng hậu.

- Khi nào?

- Ngay bây giờ.

- Để làm gì cơ?

- Để nói với Lệnh bà một câu này thôi: "Tôi phái ông d Artagnan đi có việc, và tôi bảo ông ta đi ngay lập tức".

- Đấy nhé, - Mazarin nói, - rành rành là ông đã gặp hoàng hậu.

- Tôi đã thưa với Đức ông rằng có thể có một sự hiểu lầm.

- Thế là thế nào, - Mazarin hỏi.

- Tôi có dám nhắc lại với Đức ông lời thỉnh cầu của tôi không ạ?

- Được rồi, tôi đến đó bây giờ. Hãy đợi tôi ở đây.

Mazarin cẩn thận nhìn xem có cái chìa khoá nào bỏ quên ở các tủ không, và đi ra.

Mười phút trôi đi, trong khi ấy d Artagnan cố sức đọc qua lớp phong bì ngoài xem viết gì ở phong bì trong, nhưng không thể được.

Mazarin trở lại, mặt tái đi và có vẻ bận tâm lắm. Ông ngồi vào bàn giấy. D Artagnan chăm chú xem xét ông ta như vừa mới xem xét phong thư; nhưng lớp bì mặt của ông ta cũng không thể xuyên thấu được như lớp bì của bức thư.

"Ê, ê, - Chàng Gascon nhủ thầm, lão ấy có vẻ tức giận. Với ta chăng? Lão ngẫm nghĩ, tống ta vào ngục Bastille chăng? Khoan khoan, Đức ông! Câu đầu tiên mà ngài nói ra điều ấy thì tôi bóp cổ ngài ngay và tôi đi làm Fronde. Người ta sẽ hoan nghênh ca tụng tôi như ông Broussel và Arthos sẽ phong tôi là Brutus của nước Pháp(2). Thế thì cũng kỳ đấy nhỉ?"

Chàng Gascogne với trí tưởng tượng luôn luôn phi nước đại, đã nhìn thấy tất cả sự quyết định có thể rút ra từ tình huống ấy.

Nhưng Mazarin chẳng hề ban một mệnh lệnh nào thuộc loại đó và trái lại còn mơn trớn d Artagnan. Ông nói:

- Ông d Artagnan thân mến của tôi ơi, ông nói phải đấy, và ông chưa thể đi ngay được.

- A! - D Artagnan kêu lên.

- Tôi xin ông hãy trả lại tôi bức thư kia.

D Artagnan tuân theo. Mazarin yên tâm rằng dấu niêm phong vẫn nguyên vẹn. Ông nói:

- Chiều nay tôi sẽ cần đến ông, hai giờ nữa ông sẽ trở lại đây.

- Thưa Đức ông, - D Artagnan đáp, - Hai giờ nữa tôi có một cuộc hẹn không thể vắng mặt được.

- Ông đừng ngại điều đó, - Mazarin nói, - Vẫn cùng một việc ấy mà.

- Được, d Artagnan nghĩ, - Ta nghi ngờ.

- Vậy ông hãy đến đây vào năm giờ và đưa cả ông Du Vallon thân mến ấy đến nhé, tuy nhiên, cứ để ông ta ở tiền sảnh; tôi muốn nói chuyện riêng với ông.

D Artagnan nghiêng mình. Vừa nghiêng mình anh ta vừa tự nhủ:

"Cả hai người cùng một mệnh lệnh, cả hai người cùng một giờ hẹn, cả hai người cùng ở Hoàng cung; ta đoán xem. A! Đây là một bí mật mà ông de Gondy có thể trả giá một trăm nghìn livres".

- Ông suy nghĩ à? - Mazarin lo ngại nói.

- Vâng, tôi tự hỏi xem có cần phải mang vũ khí hay không?

- Phải vũ trang đến tận răng, - Mazarin nói.

- Được rồi, thưa Đức ông, chúng tôi sẽ làm thế.

D Artagnan chào, đi ra và chạy về nhà kể lại với bạn mình những lời hứa hẹn phỉnh phờ của Mazarin, nó mang đến cho Porthos một niềm hân hoan không thể tưởng tượng được.

Chú thích:

(1) Tiếng la tinh: im lặng, giữ kín

(2) Brutus (thế kỷ I trước Công nguyên): Chính khách La Mã cùng với Catxiuyx âm mưu chống lại Xêda và đã giết chết Xêda ngay trong cuộc họp Nghị viện. Về sau thua trận, Brutus tự sát.

xem duoi dang EBOOK

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 53

Chạy trốn

Mặc dầu những dấu hiệu náo động của thành phố, khoảng năm giờ chiều khi d Artagnan đến, Hoàng cung vẫn phô bày một quang cảnh vào loại thú vị nhất.

Chẳng có gì đáng ngạc nhiên: hoàng hậu thực sự chẳng phải sợ hãi điều gì, vì dân chúng chẳng còn gì để yêu cầu cả. Vẻ xôn xao của họ chỉ là sự rơi rớt của cuộc náo loạn cần có thời gian để yên đi, giống như sau một trận bão phải nhiều ngày sau mới lặng sóng.

Có một bữa tiệc lớn mà duyên cớ là sự trở về của người thắng trận ở Lens. Các ông hoàng, bà chúa được mới dự, xe cộ ngổn ngang các sân từ buổi trưa. Sau bữa ăn có chơi bài ở chỗ hoàng hậu.

Anne d Autriche hôm ấy thật tuyệt vời, đầy vẻ duyên dáng và trí tuệ. Chưa bao giờ người ta thấy bà ta hớn hở đến thế. Lòng phục thù ra hoa long lanh trong cặp mắt và làm hé nở đôi môi bà.

Lúc mọi người ăn xong, Mazarin lánh đi, d Artagnan đã đến vị trí của mình và đợi ông ở tiền sảnh. Giáo chủ xuất hiện, vẻ tươi cười, cầm tay anh dẫn vào văn phòng mình. Ông ngồi xuống và nói:

- Ông d Artagnan thân mến ơi, tôi sẽ trao cho ông cái dấu hiệu lớn nhất của lòng tin cậy mà một tể tướng có thể trao cho một sĩ quan.

D Artagnan nghiêng mình và nói:

- Tôi hy vọng rằng Đức ông trao cho tôi điều đó mà không có ẩn ý và với sự tin tưởng rằng tôi xứng đáng với nó.

- Người xứng đáng nhất trong tất cả mọi người ông bạn thân mến của tôi ạ, bởi vì chính là với ông mà tôi ngỏ lời.

- Vậy thì, thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - tôi xin thú nhận rằng tôi chờ đợi một cơ hội như thế từ lâu rồi. Vậy xin ngài nói nhanh lên điều mà ngài cần nói với tôi.

- Ông d Artagnan thân mến ạ, - Mazarin nói tiếp, - chiều nay ông sẽ mang ở trong tay mình sự nghiệp cứu quốc. - Ông dừng lại.

- Xin Đức ông cắt nghĩa xem, tôi chờ đợi.

- Hoàng hậu đã quyết định một chuyến đi nho nhỏ cùng với vua đến Saint-Germain.

- Á à! - D Artagnan nói, - Nghĩa là hoàng hậu muốn rời Paris.

- Ông hiểu đấy, tính ngẫu hứng của đàn bà mà.

- Vâng, tôi hiểu rất rõ, - D Artagnan đáp.

- Chính vì thế mà sáng nay, hoàng hậu đã cho gọi ông đến và báo ông trở lại vào năm giờ.

D Artagnan lẩm bẩm: "Thế mà cũng mất công bắt mình thề rằng không được lộ ra với bất kỳ ai về cuộc gặp gỡ đó. Ôi! Đàn bà! Dù có là hoàng hậu chăng nữa, họ vẫn cứ là đàn bà!"

- Ông không tán thành cuộc đi chơi nho nhỏ ấy à, ông d Artagnan thân mến? - Mazarin hỏi với vẻ lo lắng:

- Tôi ấy à, thưa Đức ông? Sao lại thế?

- Ấy là vì thấy ông nhún vai.

- Thưa Đức ông, đó là cách tôi tự nói với mình.

- Như vậy là ông tán thành chuyến đi ấy?

- Thưa Đức ông, tán thành hay không tán thành, đối với tôi. không hơn không kém. Tôi chờ đợi mệnh lệnh của ngài.

- Tốt! Vậy chính ông là người mà tôi yên tâm để đưa đức vua và hoàng hậu đến Saint-Germain.

"Xảo trá gấp đôi! - D Artagnan tự nhủ".

Nhìn thấy vẻ lãnh đạm của d Artagnan, Mazarin lại nói:

- Ông thấy rõ ràng như tôi nói với ông, việc cứu quốc dựa vào bàn tay ông.

- Vâng, thưa Đức ông, tôi cảm nhận thấy tất cả trách nhiệm của một nhiệm vụ như vậy.

- Tuy nhiên ông chấp nhận chứ?

- Tôi vẫn chấp nhận.

- Ông cho rằng việc đó có thể làm được chứ?

- Mọi việc đều có thể làm được.

- Liệu ông có bị tấn công ở dọc đường không?

- Có khả năng lắm.

- Trong trường hợp ấy, ông sẽ làm thế nào?

- Tôi sẽ đi xuyên qua những kẻ tấn công tôi.

- Nếu như ông không đi xuyên qua họ thì sao?

- Thì mặc kệ họ, tôi sẽ vượt qua đầu họ.

- Và ông đưa vua và hoàng hậu đến Saint-Germain an toàn chứ?

- Vâng.

- Trên tính mạng của ông?

- Trên tính mạng của tôi.

- Ông d Artagnan thân mến ơi, ông là một anh hùng! - Mazarin nói và nhìn người lính ngự lâm với vẻ khâm phục.

D Artagnan mỉm cười.

- Thế còn tôi? - Mazarin nói sau một lát im lặng và nhìn chằm chằm vào anh.

- Thưa Đức ông, sao lại còn ngài nữa?

- Còn tôi, nếu tôi cũng muốn ra đi.

- Thế thì khó khăn hơn đấy.

- Sao vậy?

- Đức ông có thể bị nhận ra.

- Cả với sự cải trang này ư? - Mazarin nói.

Và ông vén tấm áo choàng phủ lên trên chiêc ghế bành trên đó để một bộ com-lê kỵ sĩ màu ngọc trai và thạch lựu viền đầy tua ren bạc.

- Nếu Đức ông cải trang thế thì sẽ dễ dàng hơn.

- A! - Mazarin thở phào.

- Nhưng sẽ phải làm cái điều mà hôm nọ Đức ông nói rằng nếu ở địa vị chúng tôi chắc ngài đã làm rồi.

- Làm cái gì cơ?

- Hô: "Đả đảo Mazarin?

- Tôi sẽ hô.

- Hô bằng tiếng Pháp. Tiếng Pháp đúng cơ, Đức ông ạ; hãy coi chừng về giọng nói. Người ta đã giết của chúng ta hai nghìn người Angevins ở Sicile, chỉ vì họ phát âm sai tiếng Ý. Hãy coi chừng dân Pháp có thể trả thù ngài về vụ Kinh vãn khoá Sicile(1).

- Tôi sẽ hết sức cố gắng.

- Có rất nhiều người vũ trang ở các phố xá, - D Artagnan nói tiếp, - ngài có dám chắc rằng không một ai biết kế hoạch của hoàng hậu không?

Mazarin ngẫm nghĩ.

- Thưa Đức ông, việc mà ngài đề ra với tôi ấy sẽ là một việc thật hay ho đối với một kẻ phản bội. Những lý do về những sự tình cờ của một cuộc công kích có thể biện minh tất cả.

Mazarin rùng mình; song ông nghĩ rằng một kẻ có ý định phản bội sẽ chẳng báo trước.

- Cho nên, - ông vội vã nói, - tôi không tin cậy tất cả mọi người, và bằng chứng là tôi đã chọn ông để hộ vệ tôi.

- Ngài không đi cùng với hoàng hậu à?

- Không.

- Thế ngài đi sau hoàng hậu ư?

- Không, - Mazarin vẫn nói như vậy.

- A! - D Artagnan bắt đầu hiểu ra và kêu.

- Phải! Tôi có kế hoạch của tôi, - giáo chủ nói tiếp. - Đi với Hoàng hậu, tôi làm tăng gấp đôi những vụ rủi ro của bà. Đi sau hoàng hậu thì việc ra đi của bà làm tăng gấp đôi những rủi ro của tôi; rồi một khi triều đình đi thoát người ta có thể quên tôi lắm chứ: Những đại nhân thường hay bội bạc mà.

- Đúng đấy, - D Artagnan nói và bất giác đưa mắt nhìn chiếc nhẫn kim cương của hoàng hậu mà Mazarin đeo ở ngón tay.

Mazarin theo dõi hướng nhìn ấy và nhẹ nhàng lộn mặt nhẫn vào phía trong. Và với nụ cười quỉ quyệt Mazarin nói:

- Cho nên tôi muốn ngăn họ khỏi bội bạc với tôi.

- Không xui khiến người khác vào đường tà tâm, đó là lòng nhân ái Thiên chúa giáo, - D Artagnan nói.

- Đúng là vì như vậy, - Mazarin đáp, - mà tôi muốn ra đi trước họ.

D Artagnan mỉm cười; anh là người hiểu rất rõ cái tính xảo quyệt kiểu Ý ấy. Mazarin trông thấy anh mỉm cười và thừa lúc đó nói luôn:

- Như vậy là ông sẽ bắt đầu bằng việc đưa tôi ra khỏi Paris trước tiên, có phải không, ông d Artagnan thân mến?

- Việc ủy thác gay go đấy, thưa Đức ông, - D Artagnan lấy lại vẻ trang nghiêm nói.

Mazarin chăm chú nhìn anh để không một biểu hiện nào trên gương mặt anh lọt khỏi mắt ông và nói:

- Nhưng mà sao ông không nói tất cả những nhận xét ấy đối với vua và hoàng hậu.

- Thưa Đức ông, vua và hoàng hậu là hoàng hậu của tôi và vua của tôi, - Người lính ngự lâm đáp, - Sinh mệnh của tôi thuộc về các Người và tôi chịu ơn các Người, về nó. Các Người yêu cầu sinh mệnh của tôi, tôi chẳng có ý kiến gì hết.

"Thật là chí lý, Mazarin khẽ lẩm bẩm, nhưng vì sinh mệnh của mi không thuộc về ta thì ta phải mua nó chứ gì?"

Và buông một tiếng thở dài não nuột, ông bắt đầu quay mặt nhẫn ra phía ngoài.

D Artagnan mỉm cười.

Hai con người đó gặp nhau ở một điểm: tính giảo hoạt. Nếu như họ cũng lại gặp nhau ở lòng dũng cảm nữa, ắt hẳn sẽ giúp cho nhau được những việc thật lớn lao.

- Nhưng ông cũng nên hiểu rằng, - Mazarin nói, - nếu tôi yêu cầu ông giúp cho việc đó cũng là với ý định tỏ lòng biết ơn.

- Đức ông chỉ mới có ý định thôi ư? - D Artagnan hỏi.

- Này, - Mazarin vừa nói vừa tháo chiếc nhẫn khỏi ngón tay.

- Ông d Artagnan thân mến ơi, đây là một chiếc nhẫn kim cương xưa kia đã thuộc về ông, bây giờ nó trở về với ông là chính đáng, hãy cầm lấy nó, tôi van ông.

D Artagnan không để Mazarin phải mất công nài nỉ, anh cầm lấy nhẫn, nhìn xem hạt kim cương có đúng vẫn là hạt ấy không và sau khi yên tâm về sự tinh khiết của nước láng anh đeo nhẫn vào ngón tay với niềm vui khôn tả.

- Tôi thích nó lắm đấy, - Mazarin nhìn theo nó lần cuối cùng mà nói, - Nhưng không sao, tôi rất vui lòng tặng ông.

- Thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - còn tôi, tôi nhận nó như nó đã được cho tôi. Nào, ta hãy bàn về những công việc nho nhỏ của ngài. Ngài muốn ra đi trước tất cả mọi người à?

- Phải, tôi cần như vậy.

- Lúc mấy giờ?

- Mười giờ.

- Còn hoàng hậu đi lúc mấy giờ?

- Nửa đêm.

- Như vậy, có thể được. Tôi đưa ngài ra trước, rồi để ngài ở ngoài cửa ô và quay về đón hoàng hậu.

- Tuyệt diệu, nhưng làm thế nào để đưa tôi ra khỏi ngoài Paris?

- Ồ! Về chuyện đó xin cứ để mặc tôi làm.

- Tôi giao ông toàn quyền, hãy lấy một toán hộ vệ đông thế nào tuỳ ông.

D Artagnan lắc đầu.

- Tuy nhiên, tôi thấy rằng đó là cách chắc chắn nhất. - Mazarin nói.

- Vâng, thưa Đức ông, chắc chắn đối với ngài nhưng không chắc chắn đối với hoàng hậu.

Mazarin cắn môi. Ông nói:

- Thế thì chúng ta sẽ tiến hành thế nào?

- Thưa Đức ông !Cứ để mặc tôi tự lo liệu .

- Hừm! Mazarin kêu.

- Và cần phải giao cho tôi quyền chỉ huy hoàn toàn công việc này.

- Tuy nhiên...

- Hay là ngài kiếm người khác vậy, - D Artagnan nói và quay lưng lại.

- Ơ! - Mazarin khẽ lẩm bẩm - Ta chắc là nó bỏ đi với chiếc nhẫn. - Và ông gọi anh lại.

- Ông d Artagnan, Ông d Artagnan thân mến của tôi ơi, - Mazarin nói bằng một giọng mơn trớn.

- Đức ông gọi tôi?

- Ông có bảo đảm với tôi về mọi sự không?

- Tôi không bảo đảm gì cả. Tôi sẽ làm hết sức mình.

- Hết sức mình?

- Phải.

- Vậy thì, nào tôi tin cậy ở ông.

"Thật là may!", d Artagnan tự nhủ thầm.

- Vậy ông có mặt ở đây vào chín giờ rưỡi.

- Tôi sẽ thấy Đức ông sẵn sàng chứ?

- Tất nhiên; rất sẵn sàng.

- Như vậy là đã thỏa thuận. Bây giờ Đức ông cho tôi gặp hoàng hậu được chứ?

- Gặp dể làm gì?

- Tôi muốn nhận mệnh lệnh của Hoàng thượng từ miệng của Người.

- Lệnh bà đã giao cho tôi nói với ông.

- Lệnh bà có thể quên điều gì đó?

- Ông cần gặp lắm à?

- Rất cần, thưa Đức ông.

Mazarin lưỡng lự một lát.

- Tôi sẽ đưa ông vào, nhưng không được hé một tí nào về cuộc nói chuyện của chúng ta.

- Thưa Đức ông, điều gì nói giũa chúng ta chỉ can hệ đến chúng ta mà thôi.

- Ông thề sẽ im lặng chứ?

- Thưa Đức ông, tôi không thể thốt bao giờ. Tôi nói có hoặc không. Và do tôi là nhà quý tộc tôi giữ lời.

- Thôi được, tôi thấy rằng cần phải tin cậy ông hoàn toàn, không ngoại trừ gì hết.

- Đó là điều hay nhất đấy xin Đức ông hãy tin lời tôi.

- Đi nào, - Mazarin nói.

Ông đưa d Artagnan đến phòng nguyện và bảo anh đợi.

Anh đợi không bao lâu. Năm phút sau anh đã ở trong phòng hoàng hậu đến trong bộ y phục đại lễ hội. Trang điểm như thế trông bà chỉ ngót ba mươi lăm tuổi và vẫn xinh đẹp.

- Ông đấy à, ông d Artagnan, - Bà cười duyên dáng và nói, - Xin cảm ơn ông đã khẩn khoản xin gặp tôi.

- Xin hoàng thượng thứ lỗi, - D Artagnan nói, - Vì tôi muốn được nhận mệnh lệnh từ miệng Lệnh bà.

- Ông biết về chuyện gì rồi chứ?

- Vâng, thưa Lệnh bà.

- Ông chấp nhận việc mà tôi ủy thác cho ông?

- Với lòng biết ơn.

- Hay lắm: hãy có mặt ở đây vào lúc nửa đêm.

- Tôi sẽ có mặt.

- Ông d Artagnan ạ, - Hoàng hậu nói, - tôi biết quá rõ tính vô tư của ông, nên không nói về lòng biết ơn của tôi với ông trong lúc này, nhưng tôi thề với ông rằng tôi sẽ không quên việc giúp đỡ thứ hai này như tôi đã quên việc giúp đỡ đầu tiên đâu.

- Hoàng thượng được tự do nhớ hay là quên, và tôi không biết Người định nói gì.

Và d Artagnan nghiêng mình thi lễ.

Hoàng hậu nói với nụ cười duyên dáng nhất của mình:

- Thôi, ông đi đi và trở lại đây lúc nửa đêm.

Bà ta giơ tay làm hiệu tạm biệt, d Artagnan rút lui; nhưng khi ra anh đưa mắt nhìn chỗ cửa nhỏ nơi hoàng hậu đã vào và dưới tấm rèm anh thấy thò ra một chiếc mũi giày nhung.

- A, - anh nói, - lão Mazarin nghe ngóng xem ta có phản lại lão không. Thực ra cái con rối nước Ý ấy chẳng đáng được phục vụ bởi một người quân tử.

Cùng không vì thế mà d Artagnan không đến đúng hẹn. Chín giờ rưỡi, anh tới tiền sảnh.

Bernouin đang đợi và dẫn anh vào.

Anh thấy giáo chủ bận y phục kỵ sĩ. Ông ta rất tươi tỉnh trong bộ quần áo ấy, song ông rất tái và run sợ đôi chút.

- Có một mình ông thôi à? - Mazarin hỏi.

- Vâng, thưa Đức ông.

- Thế ông Du Vallon tử tế ấy không đi cùng với chúng ta cho vui à?

- Có chứ, ông ấy đợi ở ngoài xe ông ấy.

- Tại chỗ nào?

- Ở cổng khu vườn Hoàng cung.

- Thế ta đi bằng xe của ông ta à?

- Vâng.

- Không có hộ vệ nào khác ngoài hai ông à?

- Như thế chưa đủ sao; chỉ một trong hai chúng tôi là đủ rồi.

- Ông d Artagnan thân mến ơi, thực tình ông làm tôi kinh hãi với sự bình tĩnh của ông đây.

- Trái lại tôi tưởng rằng nó phải gây nên lòng tin cậy cho ngài chứ.

- Còn Bernouin, tôi có mang theo đi không,

- Không có chỗ cho ông ấy, ông ấy sẽ đến với Đức ông sau.

- Đành vậy, - Mazarin nói - bởi vì mọi việc đều phải làm theo ý ông.

- Thưa Đức ông, hãy còn đủ thời giờ để rút lui, và ngài hoàn toàn tự do.

- Không đâu, không đâu! - Mazarin nói, - Ta đi nào.

Và cả hai người đi xuống lổi cầu thang kín.

Mazarin vịn tay mình vào cánh tay d Artagnan và anh thấy tay ông run bần bật.

Họ đi qua các sân Hoàng cung vẫn còn mấy chiếc xe của các thực khách về muộn, vào khu vườn và đến chỗ cổng nhỏ.

Mazarin lấy một chiếc chìa khoá ở trong tủi ra thử mở cửa, nhưng tay run đến nỗi chẳng rõ thấy lỗ khóa.

- Đưa tôi! - D Artagnan bảo.

Mazarin đưa chìa khoá, d Artagnan mở cửa, rồi cho chìa vào túi mình; anh tính còn phải trở lại bằng cổng ấy.

- Bậc xe được hạ xuống, cửa mở sẵn, Mousqueton đứng ở ngoài cửa. Porthos ngồi tít trong xe.

- Mời Đức ông lên đi, - D Artagnan nói.

Chẳng đợi bảo đến hai lần Mazarin lao mình vào trong xe.

D Artagnan lên theo. Mousqueton đóng cửa xe lại và leo lên đằng sau xe với những tiếng rên rỉ thảm hại. Mượn cớ là vết thương hãy còn đau lắm, hắn đã lần chần chẳng muốn đỉ, nhưng d Artagnan đã bảo hắn:

- Nếu ông muốn thì cứ ở lại, ông Mousqueton thân mến ạ, nhưng tôi báo trước để ông biết rằng đêm nay Paris sẽ bị thiêu trụi.

Nghe vậy, Mousqueton không đòi hỏi gì hơn và tuyên bố rằng hắn sẵn sàng đi theo chủ hắn và ông d Artagnan đến cùng trời cuối đất.

Cỗ xe đi nước kiệu vừa phải để không tố giác một chút nào rằng có chưa những người vội vã. Giáo chủ lấy khăn tay ra lau mồ hôi trán và đưa mắt nhìn xung quanh mình.

Bên trái là Porthos, bên phải là d Artagnan, mỗi người ngồi cạnh một cửa, mỗi người dùng làm một bức thành cho ông.

Trước mặt trên một chiếc ghế nhỏ đặt hai đôi súng ngắn, một đôi trước Porthos, một đôi trước d Artagnan. Ngoài ra, mỗi anh còn đeo một thanh kiếm bên sườn.

Cách Hoàng cung một trăm thước, một đội tuần tra ngăn xe lại.

- Ai đó? - Người chỉ huy quát.

- Mazarin! - D Artagnan đáp và cười phá lên.

Giáo chủ cảm thấy tóc dựng ngược trên đầu.

Câu bông đùa tỏ ra thú vị đối với mấy người tư sản, họ thấy cỗ xe không có vũ khí và chẳng có hộ tống, nên không thể ngờ là sự thật với một sự khinh suất như vậy.

- Chúc đi bình yên? - Họ reo lên.

Và họ để cho xe đi.

- Hừm! - D Artagnan nói. - Đức ông nghĩ thế nào về câu trả lời ấy?

- Một người tài trí.

- Chuyện phải làm, - Porthos nói, - Tôi hiểu...

Đến giữa phố Les Petits-Champs, một toán kiểm tra thứ hai ngăn xe lại.

- Ai đó? - Viên đội trưởng hô.

- Đức ông ngồi lui vào, - D Artagnan nói.

Và Mazarin ngồi tụt vào giữa hai người bạn thế nào mà bị họ che lấp chằng còn nhìn thấy ông đâu cả.

- Ai đó? - Vẫn tiếng nói ấy sốt ruột kêu lên.

Và d Artagnan cảm thấy như người ta xông ra chặn đầu lũ ngựa.

- Ê! Planchet, - Anh nói.

Viên đội trưởng lại gần, Quả nhiên là Planchet, d Artagnan nhận ra tiếng nói của người hầu cũ.

- Ơ kìa! Ông! - Planchet nói, - Ông đấy à?

- Ồ lạy Chúa! Phải rồi bạn thân mến ạ. Ông Porthos thân thiết này vừa mới bị một nhát kiếm và tôi đưa ông trở về nhà nghỉ nơi miền quê của ông ở Saint-Clou.

- Ô? Thật à? - Planchet nói.

- Porthos này, - D Artagnan bảo, - Nếu cậu còn nói được, thì hãy nói một lời với cậu Planchet tốt bụng này.

Bạn Planchet thân mến ơi, - Porthos nói bằng một giọng rầu rĩ, - Tôi đau lắm, và cậu có gặp một thầy thuốc, cậu hãy giúp đưa đến tôi nhé!

- Ôi lạy Chúa? Tai hoạ thật! - Planchet kêu lên. - Chuyện xảy ra như thế nào?

- Tôi sẽ kể cho cậu nghe sau, - Mousqueton nói.

Porthos thốt ra một tiếng rên rỉ dài.

- Này Planchet, - D Artagnan nói thầm, - Hãy tránh ra để bọn tôi đi, kẻo ông ấy không kịp đến nơi mất: ông ta bị thương vào phổi.

Planchet lắc đầu ra vẻ muốn nói: Trường hợp ấy thì nguy rồi!

Rồi quay về phía người của mình anh bảo:

- Để cho đi, bạn tôi đấy mà.

Xe tiếp tục đi, Mazarin nín hơi mãi, đánh liều thở mạnh.

- Bricconi! - Ông lẩm bẩm.

Đến cách cửa ở Saint-Honoré, xe lại gặp một toán thứ ba. Toán này gồm những kẻ mặt mày ốm o giống như bọn trộm cướp; đó là quân của gã ăn mày ở Saint Eustache .

- Chú ý, Porthos! - D Artagnan bảo.

- Porthos vươn tay ra chỗ súng ngắn.

- Có chuyện gì vậy? - Mazarin hỏi.

- Thưa Đức ông tôi cho rằng chúng ta gặp bọn xấu rồi.

Một người tiến lên cửa xe, tay cầm một thứ lưỡi liềm.

- Ai đó? - Người ấy hỏi.

- Ê! Lạ chưa - D Artagnan nói, - Các người không nhận ra xe của Ngài hoàng thân, hay sao?

- Hoàng thân hay không cũng phải mở ra! Chúng tôi canh giữ cửa ô, không ai đi qua mà tôi không biết đó là người nào.

- Phải làm gì bây giờ? - Porthos hỏi.

- Mặc kệ! Cứ đi qua, d Artagnan nói.

- Nhưng đi thế nào? - Mazarin hỏi.

- Đi qua hoặc vượt qua. Người đánh xe ngựa vội phóng nước đại. Đang giơ roi lên

- Không được đi một bước nào nữa, - Người có vẻ là chỉ huy nói; nếu không ta sẽ chặt chân ngựa.

- Gớm nhỉ, - Porthos nói, - thế thì tiếc lắm, lũ ngựa giá một trăm pistolg một con đó.

- Tôi sẽ trả ông hai trăm? Mazarin nói.

- Vâng, nhưng một khi họ đã chặt chân ngựa thì họ sẽ cắt cổ chúng ta.

- Có một tên đến bên cạnh tôi, - Porthos nói - Có cần hạ sát nó không?

- Có! Bằng một quả đấm, nếu cậu có thể làm được.

- Chúng ta chỉ nổ súng khi cùng bất đắc dĩ.

- Tôi có thể làm được, - Porthos nói.

- Thế thì đến đây mà mở, - D Artagnan nói với kẻ cầm liềm; anh cầm một khẩu súng bằng nòng và chuẩn bị đánh bằng báng súng.

Trong khi kẻ ấy tiến lại, d Artagnan nhô nửa người ra ngoài để dễ dàng cử động hơn. Mắt anh nhìn vào mắt gã ăn mày và ánh sáng của ngọn đèn soi tỏ.

Chắc hẳn hắn nhận ra người lính ngự lâm, vì mặt hắn tái nhợt đi; chắc hẳn d Artagnan nhận ra hắn, vì tóc anh dựng ngược lên.

- Ông d Artagnan? - Hắn kêu lên và lùi lại một bước, - Ông d Artagnan đấy? Hãy để cho đi qua!

Có lẽ d Artagnan sắp trả lời, thì một đòn giổng như một quả chùy giáng xuống đầu một con bò vang lên: Porthos vừa mới đập chết địch thủ của mình.

D Artagnan quay lại và trông thấy kẻ bất hạnh nằm sóng soài ra cách đấy bốn bước. Anh bảo người đánh xe:

- Bây giờ phi đại lên! Phóng, phóng!Nhanh lên !

Người đánh xe ra roi quất ngựa, những con ngựa quí phải chồm lên. Người ta nghe thấy những tiếng kêu như của những người bị xô ngã. Rồi cảm thấy xe giật lên hai cái liền: khi bánh xe vừa mới chẹt lên một vật mềm và tròn.

Một lát im lặng, xe vượt qua cửa ô.

- Đi đến Cours-la-Reine! - D Artagnan bảo người đánh xe.

Rồi quay lại phía Mazarin, anh nói:

- Thưa Đức ông, bây giờ ngài có thể đọc năm điều kinh Chúa Cha và năm điều kinh Thánh Mẫu để cảm ơn Thượng Đế về sự giải thoát ngài rồi đấy; ngài đã thoát nạn, ngài được tự do.

Mazarin chỉ đáp lại bằng một tiếng rên rỉ. Ông không thể tin nổi một sự thần kỳ đến như vậy.

Năm phút sau, xe đứng lại, đã đến khu vườn dạo chơi Cours-la-Reine.

- Đức ông hài lòng về đoàn hộ vệ của ngài chứ? - Ngươi lính ngự lâm hỏi.

- Rất vui mừng, ông ạ. - Mazarin nói và liều thò đầu ra cửa xe bây giờ ông hãy làm như thế cho hoàng hậu.

- Sẽ dễ dàng hơn, - D Artagnan đáp và nhảy xuống đất, anh nói tiếp - ông Du Vallon, tôi gửi gắm Đức ông cho ông đấy.

- Cứ yên tâm, - Porthos nói và chìa tay ra.

D Artagnan nắm tay Porthos và lắc lắc.

- Ái! Porthos kêu lên.

D Artagnan nhìn bạn kinh ngạc.

- Cậu làm sao thế? - Anh hỏi.

- Tôi e rằng bị trật xương cổ tay, - Porthos đáp.

- Chết thật! Với lại cậu nện như một thằng điếc ấy.

- Cần phải thế, vì địch thủ của tôi sắp nổ một phát súng ngắn vào tôi. Nhưng còn cậu, cậu khử thằng địch của cậu như thế nào?

- Ồ! Địch thủ của tôi ấy à, - D Artagnan nói, - đó không phải là một người.

- Thế là cái gì.

- Đó là một loài yêu quái. Và tôi đã xua đuổi nó.

Không giải thích gì thêm, d Artagnan cầm lấy súng ngắn ở ghế đằng trước gài vào thắt lưng, khoác tấm áo choàng và không muốn trở lại bằng lối cửa ô đã đi ra, anh đi về phía cửa ô Richelieu.

Chú thích:

(1) Revanche des Vêpres =Vụ thảm sát hàng loạt dân Pháp ở đảo Sicile năm 1282, do dân Sicile nổi loạn chống lại vua Pháp Charles I d Andrew và xảy ra vào lúc các nhà thờ rung chuông gọi tín đồ.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 54

Cỗ xe của ông chủ giáo

Đáng lẽ trở về bằng cửa ô Saint-Honoré, vì còn thì giờ, d Artagnan đi quay về lôi cửa ô Richelieu. Người ta đến kiểm tra và khi trông thấy chiếc mũ có lông chim và áo choàng gắn lon sĩ quan ngự lâm quân, họ vây lại với ý định bắt anh hô: "Đả đảo lão Mazarin!". Cuộc thị uy đầu tiên ấy, thoạt đầu không làm anh lo ngại; nhưng khi biết rõ sự thể ra sao, anh hô bằng một giọng rất hay khiến những kẻ khó tính nhất cũng phải hài lòng.

Anh đi theo đường Richelieu, ngẫm nghĩ cách đưa hoàng hậu đi như thế nào vì đưa đi bằng cỗ xe có quốc huy Pháp thì chẳng nên nghĩ đến. Chợt ở cổng dinh bà de Guéménée , anh nhác trông thấy một cỗ xe.

Một ý nghĩ đột ngột loé lên trong óc anh.

- À! Chúa ơi! - Anh nói, - Cuộc chiến chính đáng đây.

Và anh tiến gần đến cỗ xe, nhìn huy hiệu trên thành xe và áo dấu của người đánh xe ở trên ghế.

Cuộc khám xét ấy càng dễ dàng vì người đánh xe đang ngủ say.

- Đúng là xe của ông chủ giáo, - Anh nói, - Mình bắt đầu tin rằng Thượng Đế ủng hộ ta thật đấy.

Anh nhẹ nhàng trèo lên xe, và kéo sợi dây lụa móc ở ngón tay út người đánh xe, anh nói:

- Đi đến Hoàng cung.

Người đánh xe mình choàng dậy cho xe chạy đến nơi đã bảo, chẳng hồ nghi lệnh ban ra từ kẻ khác chứ không phải chủ của mình.

Người lính canh Thụy Sĩ sắp sửa đóng cổng nhưng trông thấy cỗ xe lộng lẫy, ngỡ đó là cuộc đến thăm quan trọng và để cho xe đi qua, xe đứng lại ở hàng cột.

Đến lúc ấy, người đánh xe ngựa mới nhận ra là không có người hầu ở đằng sau xe.

Hắn tưởng là ông chủ giáo đã dùng bọn chúng vào việc gì đó, và chẳng buông cương, hắn nhảy xuống để mở cửa.

D Artagnan nhảy xuống theo. Tên đánh xe ngựa nhận thấy không phải chủ mình, hoảng sợ lùi lại một bước, anh liền một tay túm lấy cổ áo, một tay dí súng vào họng hắn. Anh bảo:

- Cứ thử kêu lên một tiếng thôi, mày sẽ chết.

Nhìn vẻ mặt của người đang nói, gã đánh xe thấy rõ mình đã rơi vào một cái bẫy, hắn cứ há hốc miệng ra và mắt mở thao láo.

Hai người lính ngự lâm đang đi dạo ngoài sân, d Artagnan gọi họ bằng tên:

- Này ông de Bellière , hãy vui lòng cầm lấy dây cương từ tay con người đôn hậu này, trèo lên xe đánh đến chiếc cửa cầu thang kín và đợi tôi ở đó. Đây là việc quan trọng để phục vụ nhà vua.

Biết rõ viên trung uý của mình không thể làm một trò đùa đối với công vụ, người lính ngự lâm tuân theo chẳng nói một lời, mặc dầu anh thấy mệnh lệnh có vẻ kỳ cục.

Rồi quay về phía người lính ngự lâm thứ hai, d Artagnan nói:

- Ông du Verger, hãy giúp tôi đưa người này đến nơi an toàn.

Người lính ngự lâm tưởng ông trung uý của mình vừa mới bắt giữ một ông hoàng nào đó cải trang, bèn cúi chào, rồi tuốt gươm ra, anh ra hiệu là mình đã sẵn sàng.

Bernouin sốt ruột đợi tin tức của chủ mình.

- Thế nào ông - Hắn hỏi.

- Mọi việc đều tuyệt diệu, ông Bernouin thân mến ạ; nhưng đây là một người mà xin ông vui lòng đưa vào một nơi chắc chắn...

- Đưa vào đâu, hả ông?

- Tùy ông, miễn là nơi ông chọn phải có vừa cửa ra vào vừa cửa sổ khoá cẩn thận.

Và người ta dẫn ngươi đánh xe ngựa tội nghiệp ấy vào một căn buồng cửa sổ có chấn song sắt, trông chẳng khác một xà lim nhà tù.

- Bây giờ, ông bạn thân mến ơi, - D Artagnan nói với người đánh xe, - Tôi mời ông bỏ ra cho tôi mũ và áo choàng của ông.

Ta biết chắc là người đánh xe chẳng kháng cự chút nào; hơn nữa hắn vô cùng kinh ngạc về chuyện xảy ra với mình đến nỗi hắn lảo đảo và lắp bắp như người say rượu. D Artagnan ném tất cả bộ y phục vào tay gã hầu phòng.

- Ông Verger, - D Artagnan nói, - Bây giờ ông hãy tự giam mình cùng với người này cho đến lúc nào ông Bernouin mở cửa.

Phiên gác sẽ khá dài và chẳng thú vị lắm đâu, tôi biết, nhưng ông hiểu cho, - Anh trịnh trọng nói thêm, - Vì công vụ của đức vua.

- À này! - D Artagnan nói, - Nếu người này định trốn hoặc kêu, ông cứ việc cho gươm xuyên qua ngực hắn.

Người lính ngự lâm gật đầu ra hiệu là anh sẽ nghiêm chính tuân theo mệnh lệnh.

D Artagnan đi ra, dẫn theo Bernouin.

Đồng hồ điểm mười hai giờ đêm.

- Hãy đưa tôi đến phòng nguyện của hoàng hậu, - D Artagnan nói,

- Báo với bà là tôi đã đến, rồi đem cái bọc quần áo này cùng với một khẩu súng trường nạp đạn đầy đủ để lên ghế của cỗ xe đang đợi ở chân cầu thang kín ấy.

Bernouin dẫn d Artagnan vào phòng nguyện, anh ngồi đó dáng trầm ngâm.

Mọi việc ở Hoàng cung vẫn như thường lệ. Lúc mười giờ, như chúng tôi đã nói, mọi thực khách đều về hết; nhưng người phải đi trốn cùng với triều đình đã nhận mật khẩu và được mời có mặt tại Cours-la-Reine từ nửa đêm đến một giờ.

Mười giờ, Anne d Autriche sang chỗ vua. Người ta vừa mới cho hoàng đế đi nằm; cậu Louis trẻ còn lại sau cùng, bày trò đánh nhau bằng những chú lính chì, trò chơi ấy làm cậu thích thú lắm. Hai đứa thị đồng cùng chơi với cậu.

- Laporter, - Hoàng hậu nói, - Đến giờ Hoàng thượng đi nằm rồi.

- Cậu vua đòi thức đêm vì chẳng buồn ngủ tí nào.

Nhưng hoàng hậu khẩn khoản.

- Thế sáu giờ sáng mai con chẳng phải đi tắm ở Conflans à, Louis? Hình như chính con yêu cầu mà?

- Mẹ nói đúng đấy, - Vua nói, - Và con sẵn sàng lui về buồng khi nào mẹ vui lòng ôm hôn con.

- Laporter hãy đưa cây đèn cho ông hiệp sĩ de Coislin.

Hoàng hậu đặt môi lên vầng trán trắng mịn màng mà cậu bé tôn kính giơ ra với vẻ đường bệ đã sặc mùi nghi thức.

- Con ngủ mau lên nhé Louis, - Hoàng hậu nói, - Con sẽ bị đánh thức sớm lắm đấy.

- Con sẽ cố gắng để tuân lệnh mẹ, - Cậu Louis nhỏ nói, - Nhưng con chẳng buồn ngủ tí nào cả.

- Laporter, - Anne d Autriche khẽ nói, - hãy kiếm quyển sách nào thật chán cho Hoàng thượng đọc, nhưng chớ cởi bỏ quần áo.

Vua đi ra, có hiệp sĩ Coislin cầm đèn đi theo. Đứa thị đồng kia được đưa về nhà nó.

Hoàng hậu bèn trở về phòng mình. Các thị nữ của bà, tức bà de de Brégy, tiểu thơ de Beaumont, bà de Motteville et Socratineem - Người ta, gọi như vậy do sự khôn ngoan của cô, họ vừa mang đến chỗ tủ quần áo những thức ăn còn lại của bữa trước để bà ăn, theo thói quen.

Hoàng hậu sai bảo các việc, nói về bữa ăn mà hầu tước de Villequier mời bà vào ngày kia, chỉ định những người mà bà cho đi dự, bà còn báo trước vào ngày hôm sau nữa một cuộc đi thăm tu viện Val-de-Grâce nơi bà có ý đình qui y, và dặn Béringhen, người hầu phòng thứ nhất của bà, sẽ đi theo bà.

Bữa ăn tối của các thị nữ xong, hoàng hậu giả bộ rất mệt và sang phòng mình để nằm. Bà de Motteville trực việc hầu riêng tối hôm ấy đi theo hoàng hậu và giúp bà cởi bỏ xiêm y. Hoàng hậu lên giường nằm và nói chuyện thân ái với bà mấy phút, rồi cho bà ra.

Đấy là lúc d Artagnan đi vào sân Hoàng cung bằng cỗ xe của chủ giáo.

Một lát sau, xe của các bà thị nữ đi ra và cổng sắt đóng lại.

Mười hai giờ điểm.

Năm phút sau, Bernouin gõ cửa phòng ngủ của hoàng hậu, hắn đến bằng lối đi bí mật của giáo chủ.

Anne d Autriche tự mình ra mở cửa.

Bà đã mặc quần áo, nghĩa là đã đi tất dài và khoác cái áo choàng dài.

- Ông đấy à, Bernouin, - Bà nói, - Ông d Artagnan có đấy không?

- Thưa Lệnh bà có, ở trong phòng nguyện. Ông ấy đợi Hoàng thượng sửa soạn xong.

- Tôi xong bây giờ. Hãy đến bảo Laporter đánh thức vua dậy và mặc quần áo cho vua, rồi từ đây đi sang chỗ thống chế de Villeroy và báo cho ông ta biết.

Bernouin cúi chào và đi ra.

Hoàng hậu vào phòng nguyện được chiếu sáng bằng một ngọn đèn giản dị loại hàng thuỷ tinh Venise. Bà thấy d Artagnan đang đứng đợi.

- Ông đấy à? - bà nói.

- Vâng, thưa Lệnh bà.

- Ông sẵn sàng chứ?

- Vâng, tôi đã sẵn sàng.

- Thế còn ông giáo chủ?

- Ông ấy đã đi ra không gặp rủi ro gì, và đang chờ Lệnh bà ở Cours-la-Reine.

- Nhưng chúng ta đi bằng xe nào?

- Tôi đã lo trước cả rồi. Một cỗ xe đang đợi Lệnh bà ở dưới sân.

- Ta sang chỗ vua đi.

D Artagnan nghiêng mình và đi theo.

Cậu bé Louis đang được mặc quần áo trừ đôi giày và áo chẽn ngoài. Cậu để người ta làm với vẻ ngạc nhiên, căn dặn Laporter mãi, nhưng chỉ được trả lời bằng mỗi câu:

- Thưa Ngài, đó là theo lệnh của hoàng hậu.

Giường để hở và người ta trông thấy nhưng tấm vải trải giường của vua cũ kỹ quá đến nỗi đã thủng lỗ chỗ.

Đó lại là một trong những hậu quả tính biển lận của Mazarin.

Hoàng hậu vào, d Artagnan đứng ở ngưỡng cửa.

Cậu bé thấy hoàng hậu vào liền tuột ra khỏi tay Laporter và chạy đến với bà.

Hoàng hậu ra hiệu cho d Artagnan tới gần.

D Artagnan tuân theo.

Hoàng hậu chỉ cho con người lính ngự lâm đang đứng, bình thản, đầu trần và nói:

- Con trai của ta ơi, đây là ông d Artagnan, con người dũng cảm như những anh hùng, hiệp sĩ ngày xưa mà con rất yêu thích mỗi lần các bà thị nữ kể cho con nghe. Hãy nhớ kỹ tên ông và nhìn kỹ ông để không quên mặt ông, bởi vì tối nay ông sẽ giúp chúng ta một việc lớn.

Cậu vua nhỏ nhìn viên sĩ quan bằng con mắt to và kiêu hãnh của mình và nhắc lại:

- Ông d Artagnan.

- Đúng đấy, con ạ.

- Cậu vua nhỏ thong thả giơ bàn tay nhỏ nhắn lên và chìa ra cho người lính ngự lâm quân; anh quỳ một chân xuống và hôn lên tay vua.

- Ông d Artagnan? Louis nhắc lại. - Đúng chứ, thưa mẹ.

Vừa lúc ấy người ta nghe thấy như một tiếng ồn ào đến gần.

- Cái gì đó? - Hoàng hậu nói.

D Artagnan giương cả đôi tai thính và cặp mắt thông minh lên và đáp:

- Ô, ô! Đó là tiếng dân chúng đang nổi loạn.

- Ta phải trốn đi thôi, - Hoàng hậu nói.

- Hoàng thượng đã giao cho tôi chỉ huy việc này, ta cần phải ở lại và xem họ muốn gì?

- Ông d Artagnan.

- Tôi xin bảo đảm mọi chuyện.

- Không gì thông cảm nhanh chóng hơn lòng tin cậy. Vốn đầy sức mạnh và lòng can đảm, hoàng hậu nhận thấy được đến mức cao nhất hai đức tính ấy ở những người khác.

- Hãy làm đi, - Bà nói, - Tôi trông cậy ở ông.

Trong tất cả việc này, Hoàng thượng có cho phép tôi ra các mệnh lệnh nhân danh Người không?

- Cứ ra lệnh ông ạ.

- Đám dân chúng này còn muốn gì nữa. - Vua nói. - Và cậu nhanh chóng ra khỏi phòng.

Tiếng ồn ào càng lớn dần, như bao trùm toàn bộ Hoàng cung.

Ở bên trong người ta nghe thấy những tiếng hô nhưng không rõ nghĩa. Hiển nhiên là có la ó và phản loạn. Nhà vua mặc dở dang, Hoàng hậu và Laporter ai nấy thế nào vẫn nguyên thế ấy và hầu như đứng nguyên tại chỗ, nghe ngóng và chờ đợi.

Comminger đêm ấy trực gác ở Hoàng cung chạy đến. Anh ta có gần hai trăm quân ở trong các sân và chuồng ngựa và đem ra để hoàng hậu sử dụng.

Trông thấy d Artagnan trở lại, Anne d Autriche hỏi:

- Thế nào, có chuyện gì đó?

- Thưa Lệnh bà, có tin đồn rằng hoàng hậu đã rời Hoàng cung, cướp đi cả đức vua, và dân chúng yêu cầu có bằng chứng là không phải như vậy, nếu không thì họ sẽ phá huỷ Hoàng cung.

- Ôi, lần này thì thật quá lắm, - Hoàng hậu nói, - Và tôi sẽ chứng minh cho họ rằng tôi không ra đi.

Nhìn vẻ mặt của hoàng hậu, d Artagnan đoán rằng bà sẽ ra lệnh làm một việc hung bạo nào đó. Anh đến gần bà và nói thì thầm:

- Hoàng thượng bao giờ cũng tin cậy tôi chứ?

Giọng nói ấy khiến bà rùng mình.

- Phải ông ạ, hoàn toàn tin cậy... hãy nói đi.

- Hoàng hậu có hạ cố làm theo ý kiến của tôi không?

- Cứ nói.

- Xin Hoàng thượng hãy cho ông Comminger lui và ra lệnh cho ông ấy cùng với người của mình ở yên trong đơn vị và các chuồng ngựa.

Comminger nhìn d Artagnan bằng cái nhìn ghen tị, với cái nhìn ấy mọi cận thần đều thấy rạng lên một vận hội mới.

- Ông nghe thấy rồi chứ, Comminger? - Hoàng hậu nói.

D Artagnan đến bên anh ta, với sự minh mẫn thông thường anh đã nhận ra cái nhìn lo ngại ấy.

- Ông Comminger, - Anh nói - Hãy thứ lỗi cho tôi, hai chúng ta đều là bầy tôi của hoàng hậu có phải không? Lúc này là đến lượt tôi có ích cho Lệnh bà, vậy xin ông chớ ao ước cái diễm phúc đó của tôi.

Comminger nghiêng mình và đi ra.

"Bây giờ, - D Artagnan tự nhủ, - Ta lại có thêm một kẻ thù!".

- Bây giờ cần phải làm gì? - Hoàng hậu nói với d Artagnan. - Vì ông nghe đấy, tiếng ồn ào chẳng dịu đi mà còn tăng lên gấp bội.

- Thưa Lệnh bà, - D Artagnan đáp, - Dân chúng muốn trông thấy vua, cần phải để họ thấy vua.

- Sao để cho họ thấy vua à? Ở đâu? Ngoài bao lớn ư?

- Không, thưa Lệnh bà, mà ở ngay đây, trên giường vua đang ngủ.

- Ô! Thưa Hoàng thượng - Laporter reo lên - Ông d Artagnan hoàn toàn đúng.

Hoàng hậu suy nghĩ, rồi mỉm cười ra vẻ một người đàn bà chẳng lạ lùng gì đối với cách cư xử hai mặt.

- Cốt yếu là... - hoàng hậu lẩm bẩm.

- Ông Laporter, - D Artagnan nói, - hãy đi ra ngoài cổng Hoàng cung báo với dân chúng rằng họ sẽ được mãn nguyện, và năm phút nữa, họ không những sẽ trông thấy vua mà còn thấy vua ở giường; cần nói thên rằng vua đang ngủ và hoàng hậu yêu cầu mọi người im lặng để khỏi làm vua thức giắc.

- Nhưng không phải là tất cả mọi người, mà một đoàn đại biểu độ dăm ba người thôi chứ?

- Thưa Lệnh bà, tất cả mọi người.

- Nhưng họ sẽ giữ ta đến sáng hãy nghĩ đến điều đó.

- Chỉ mười lăm phút thôi. Tôi xin bảo đảm mọi điều, xin Lệnh bà hãy tin tôi. Tôi hiểu biết dân chúng, đó là những đứa trẻ lớn chỉ cần vuốt ve là xong. Trước mặt nhà vua đang ngủ, họ sẽ câm miệng, hiền hoà và nhút nhát như một con cừu.

- Thôi đi đi, Laporter, - Hoàng hậu bảo.

Cậu vua nhỏ sán đến gần mẹ và hỏi:

- Tại sa phải làm những điều họ đòi hỏi.

- Cần phải thế, con trai ạ, - Anne d Autriche đáp.

- Nhưng nếu người ta bảo con phải thế này phải thế nọ, thì con không còn là vua nữa rồi.

Hoàng hậu im lặng.

- Thưa Hoàng thượng, - D Artagnan nói, ngài có cho phép tôi hỏi ngài một câu không?

Louis XIV quay lại, ngạc nhiên vì có người dám nói với mình như vậy. Hoàng hậu siết bàn tay con.

- Được, ông ạ, - cậu nói.

- Hoàng thượng có nhớ khi chơi ở khu vườn Fontainebleau hoặc trong cung điện Versailles, bỗng nhiên trông thấy mây kéo đầy trời và nghe tiếng sấm vang rền không?

- Chắc chắn là có chứ.

- Thế thì Hoàng thượng có còn muốn chơi mấy đi chăng nữa, tiếng sấm ấy nói với ngài rằng: "Ngài hãy về đi, cần phải như vậy".

- Hẳn là thế, ông ạ; nhưng người ta cũng đã nói với tôi rằng, tiếng sấm, đó là tiếng của Chúa Trời.

- Ấy đấy, - D Artagnan nói, - Ngài hãy nghe tiếng của dân chúng xem, và ngài sẽ thấy nó giống tiếng sấm.

Quả nhiên lúc ấy một tiếng ầm ầm kinh khủng theo cơn gió đêm bay qua. Rồi đột nhiên nó ngừng bặt.

- Thưa ngài, - D Artagnan nói, - người ta vừa mới nói với dân chúng rằng ngài đang ngủ: ngài thấy rõ rằng ngài vẫn là vua đấy chứ?

Hoàng hậu kinh ngạc nhìn con người kỳ lạ kia mà tinh thần dũng cảm vang lừng khiến anh ngang hàng với những kẻ dũng cảm nhất và trí tuệ tinh tế và ranh ma khiến anh ngang hàng với tất cả mọi người.

Laporter vào.

- Nào, Laporter? - Hoàng hậu hỏi.

- Thưa Lệnh bà, - Ông đáp - Điều tiên đoán của ông d Artagnan đã thực hiện: họ dịu yên đi như bởi phép mầu. Người ta sắp mở cổng cho họ và năm phút nữa họ sẽ tới đây.

- Laporter, - Hoàng hậu nói, - Nếu ông đặt một con trai của ông vào chỗ vua thì ta có thể đi trong lúc này.

- Nếu hoàng thượng ra lệnh, - Laporter đáp, - Thì các con trai tôi cũng như tôi đều sẵn sàng phục vụ hoàng hậu.

- Không được, - D Artagnan nói, - Bởi vì nếu một người trong bọn họ biết mặt Hoàng thượng và nhận ra mưu gian, thì mọi sự sẽ thất bại thôi.

- Ông nói có lý đấy, ông ạ, và bao giờ cũng có lý, - Anne d Autriche nói. - Laporter cho vua đi nằm.

Laporter đặt vua ăn vận, nguyên như thế vào trong giường, rồi phủ một tấm mền lên tận vai.

Hoàng hậu cúi xuống và hôn lên trán con.

- Giả vờ ngủ đi, Louis, - Bà bảo.

- Vâng, - Vua đáp, - Nhưng con không muốn bất cứ người nào trong số họ đụng chạm vào con.

- Thưa hoàng thượng, - D Artagnan nói, - Tôi đứng đây và tôi cam đoan rằng nếu một kẻ nào đó dám cả gan như vậy, hắn sẽ trả giá bằng tính mạng hắn.

Laporter đi ra, hoàng hậu đứng gần tấm thảm, d Artagnan lách vào sau tấm rèm.

Rồi có tiếng bước nặng nề và dè đặt của cơ man nào là người.

Hoàng hậu tự mình vén thảm lên và đặt một ngón tay lên miệng.

Trông thấy hoàng hậu, đám người đứng lại với thái độ cung kính.

- Vào đi các ông, vào đi! - Hoàng hậu nói.

- Thế là trong đám dân chúng ấy có một cử chỉ do dự giống như là nỗi hổ thẹn. Họ sẵn sàng chờ đợi sự kháng cự, họ chờ đợi sự phản đối, họ sẵn sàng phá cổng và quật ngã lính thị vệ; nhưng cổng mở sẵn, và nhà vua thì rõ ràng không có người canh gác nào khác ngoài bà mẹ đứng ở bên giường.

Những người đi đầu lắp bắp gì đó toan rút lui.

- Các ông cứ vào, - Laporter nói, - Vì hoàng hậu đã cho phép.

Một người bạo dạn hơn mấy người kia, bèn đánh liều vượt qua ngưỡng cửa và rón rén đi vào. Những người khác làm theo và căn phòng đông ùn lên một cách lặng lẽ, cứ như là tất cả những kẻ đó đã là những cận thần cung kính nhất và tận tâm nhất. Phía bên ngoài cửa, những người không vào được kiễng chân, nhô đầu lên xem.

Qua một kẽ hở của tấm rèm, d Artagnan trông thấy hết và nhận ra người vào trước tiên là Planchet.

Hoàng hậu đoán rằng đó là người chỉ huy của cái đám này bèn nói:

- Ông muốn nhìn mặt vua thì tự tôi sẽ chỉ cho ông xem. Lại gần đây, nhìn kỹ xem và hãy nói xem chúng tôi có vẻ là những ngươi định đi trốn hay không?

- Chắc là không phải thế, - Planchet đáp, hơi ngạc nhiên về vinh dự bất ngờ mà anh được nhận.

- Vậy ông hãy nói với những người Paris trung thành của tôi, - Anne d Autriche nói tiếp với một nụ cười mà d Artagnan không lầm về cái vẻ biểu hiện của nó, - Rằng ông đã nhìn thấy vua đang nằm ngủ, cũng như hoàng hậu sắp sửa đi nằm.

- Thưa Lệnh bà, tôi sẽ nói như vậy và những người đi cùng tôi cũng sẽ nói như tôi, nhưng...

- Nhưng sao? - Anne d Autriche hỏi.

- Xin Hoàng thượng thứ lỗi, - Planchet nói, nhưng có đúng là đức vua đang nằm trong giường không?

Anne d Autriche rùng mình. Bà nói:

- Nếu trong các ông, có ai biết mặt vua thì cứ đến gần và nói xem có đúng là Hoàng thượng nằm đây không?

Một người khoác áo choàng che cả mặt bước đến, cúi xuống giường và nhìn.

D Artagnan đã tưởng là người đó có ý đồ xấu, anh đặt tay vào thanh kiếm; nhưng khi người đó cúi xuống đề lộ một phần mặt, d Artagnan nhận ra ông chủ giáo.

- Đúng là vua rồi, - Người đó nói và đứng lên. - Cầu Chúa ban phước lành cho Hoàng thượng.

- Phải, - Người chỉ huy khẽ nói, - Phải cầu Chúa ban phước lành cho Hoàng thượng.

Và tất cả những con người ấy, lúc vào đằng đằng tức khí, bây giờ chuyển từ phẫn nộ sang mủi lòng, cũng cầu ban phước lành cho ấu chúa.

- Bây giờ các bạn ơi, - Planchet nói, - Chúng ta hãy cảm ơn hoàng hậu và rút lui thôi.

Tất cả mọi người cúi chào và đi ra dần dần không gây tiếng động như lúc họ vào. Planchet vào đầu tiên ra cuối cùng.

Hoàng hậu ngăn anh lại và nói:

- Ông bạn ơi, tên ông là gì?

Planchet quay lại rất đỗi ngạc nhiên về câu hỏi.

- Phải, - Hoàng hậu nói, - Được tiếp ông tối hôm nay, tôi cũng rất vinh dự như tiếp một ông hoàng, và tôi mong muốn biết tên ông.

"Phải - Planchet nghĩ, - Để rồi đối xử với tôi như một ông hoàng chứ gì, xin cảm ơn!".

D Artagnan rùng mình sợ rằng Planchet bị cám dỗ như một con quạ trong ngụ ngôn sẽ nói tên ra và hoàng hậu biết tên cậu ta có thể sẽ biết Planchet đã từng là người của anh.

- Thưa Lệnh bà. - Planchet cung kính trả lời, - tôi tên là Dulaurier sẵn sàng hầu hạ Lệnh bà.

- Cảm ơn ông Dulaurier, - Hoàng hậu nói, - Ông làm nghề gì thế?

- Thưa Lệnh bà, tôi làm nghề buôn bán đồ dạ ở phố Bourdonnais.

- Tôi chỉ cần biết có thế, - hoàng hậu nói. - Cảm ơn ông Dulaurier thân mến, tôi sẽ nói chuyện với ông sau.

D Artagnan từ sau tấm rèm đi ra, lẩm bẩm:

- Thôi thôi dứt khoát Planchet không phải là một thằng ngốc, và người ta thấy rõ hắn đã có thầy có bạn giỏi giang.

Các diễn viên khác nhau của màn kịch lạ lùng này còn đứng nhìn nhau một lát mà chẳng nói một lời, hoàng hậu đứng gần cửa, d Artagnan nửa người thò ra khỏi nơi ẩn nấp nhà vua chống khuỷu tay nhổm dậy và sẵn sàng lại nằm kềnh xuống, nếu có một tiếng động nào chứng tỏ đám dân chúng quay trở lại. Nhưng tiếng động không gần lại mà mỗi lúc một xa dần và cuối cùng tắt hẳn.

Hoàng hậu thở phào; d Artagnan lau mồ hôi trán, nhà vua tụt xuống sàn và nói:

- Ta đi thôi.

Lúc đó Laporter xuất hiện.

- Thế nào? - Hoàng hậu hỏi.

- Thưa Lệnh bà, - người hầu phòng đáp, - tôi đã đi theo họ ra cổng; họ báo tin cho tất cả bạn bè của họ rằng họ đã trông thấy vua và hoàng hậu đã nói chuyện với họ, thành thử họ ra về với vẻ rất hãnh diện và đắc ý

- Ôi! Bọn khốn nạn! - Hoàng hậu lẩm bầm, - Chúng sẽ phải trả giá về tội mạo muội của chúng, chính ta hẹn với chúng đấy?

Rồi quay về phía d Artagnan, bà nói:

- Này ông, tối nay ông đã cho tôi những lời khuyên hay nhất mà tôi nhận được trong đời mình. Hãy tiếp tục đi: chúng ta phải làm gì?

- Ông Laporter, - D Artagnan nói, - Mặc nốt quần áo cho Hoàng thượng.

- Chúng ta có thể đi rồi à? - Hoàng hậu hỏi.

- Khi nào Hoàng thượng muốn. Lệnh bà chỉ phải xuống cầu thang kín, và sẽ thấy tôi ở cửa.

- Ông đi đi, - Hoàng hậu nói, - Tôi sẽ theo ông.

D Artagnan cầm lấy cái bọc mà anh đã dặn Bernouin để ở trong xe. Ta còn nhớ đó là chiếc mũ và tấm áo choàng của gã đánh xe cho ông de Gondy.

Anh khoác áo lên vai và đội mũ lên đầu.

Người lính ngự lâm xuống xe.

- Này ông, - D Artagnan nói, - Ông đi trả lại tự do cho bạn đồng ngũ của ông đang canh giữ tên xà ích. Các ông đi ngựa của mình đến phố Tiquetonne khách sạn "La Chevrette" và lấy con ngựa của tôi và ngựa của ông Du Vallon, đem thắng yên cương theo kiểu chiến trận, rồi các ông dắt ra khỏi Paris và đến khu Cours-la-Reine. Nếu không thấy ai ở đấy thì các ông đi tiếp đến tận Saint-Germain. Công vụ của nhà vua!

Người lính ngự lâm giơ tay lên mũ chào và ra đi để hoàn thành những mệnh lệnh mà anh vừa nhận.

D Artagnan lên ghế xe.

Anh có một đôi súng ngắn ở thắt lưng, một khẩu súng trường ở dưới chân, thanh kiếm trần ở đằng sau.

Hoàng hậu xuất hiện, đằng sau bà có vua và quận công d Anjou, em trai vua.

- Cỗ xe của ông chủ giáo? - Hoàng hậu kêu lên và lùi lại một bước.

- Phải đó thưa Lệnh bà, nhưng xin cứ mạnh dạn trèo lên; chính tôi sẽ đánh xe.

Hoàng hậu thốt lên một tiếng kinh ngạc và leo lên xe. Vua lên sau và ngồi bên cạnh bà.

- Lại đây, Laporter, - Hoàng hậu bảo.

- Sao? Thưa Lệnh bà! - Người hầu phòng nói - Ngồi cùng một xe với các Hoàng thượng ư!

- Tối nay không có chuyện nghi thức, mà là việc của nhà vua. Lên đi, Laporter.

Laporter tuân lệnh.

- Đóng các rèm cửa lại, - D Artagnan bảo.

- Nhưng thế liệu có gây nên sự nghi ngờ không hả ông? - Hoàng hậu hỏi.

- Xin Lệnh bà cứ yên tâm, - D Artagnan đáp, - Tôi đã có sẵn câu trả lời.

Người ta đóng rèm cửa xe và phi nước đại qua phố Richelieu. Đến cửa ô, viên chỉ huy đồn tiến ra, tay cầm ngọn đèn và dẫn đầu mười hai người.

D Artagnan ra hiệu cho viên đội trưởng đến gần và nói:

- Ông có nhận ra xe của ai không?

- Không, - Viên đội trả lời.

- Hãy nhìn gia huy xem.

Viên đội mang dèn lại gần tấm biển xe.

- Gia huy của Ngài chủ giáo? - Anh ta nói.

- Sụyt! Ngài đang hú hí với bà de Guéménée .

Viên đội bật cười, nói:

- Mở cửa ra. Tôi biết là cái gì rồi đó.

Rồi đến gần tấm rèm buông, anh ta nói:

- Đức ông ơi, khoái tỉ nhé!

- Tò mò , - D Artagnan kêu, - Cậu làm tớ bị đuổi mất.

Chiếc rào chắn cót két trên bản lề và trông thấy đường mở, d Artagnan ra roi quất mạnh lũ ngựa khiến chúng chạy lồng lên.

Năm phút sau đã tới chỗ xe của giáo chủ.

- Mousqueton, - D Artagnan gọi, - Hãy vén các tấm màn xe của hoàng thượng lên.

- Chính ông ta đấy, - Porthos nói.

- Làm người đánh xe? - Mazarin kêu lên.

- Và với cỗ xe của ông chủ giáo?

- Hoàng hậu tiếp lời - Corpo di dio! - Mazarin nói,

- Ông d Artagnan, ông đang giá nghìn vàng.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 55

Làm thế nào mà d'Artagnan và Porthos kiếm được một người hai trăm mười chín, một người hai trăm mười lăm louis nhờ bán rơm

Mazarin muốn đi ngay lập tức đến Saint-Germain, nhưng hoàng hậu nói rằng bà còn phải đợi những người bà đã hẹn. Tuy nhiên bà dành cho ông chỗ của Laporter. Giáo chủ nhận và chuyển từ xe này sang xe nọ.

- Không phải vô cớ mà tiếng đồn rằng vua sẽ rời Paris vào ban đêm. Mươi mười hai người được biết cuộc đi trốn đó từ sáu giờ chiều, và dù kín đáo đến mấy, họ không thể truyền lệnh ra đi mà câu chuyện không lọt ra ngoài chút ít. Vả chăng mỗi người trong bọn họ đều có một vài người quan hệ thân thiết, và do người ta chẳng còn nghi ngờ gì là hoàng hậu rời Paris với những kế hoạch trả thù khủng khiếp, nên mỗi người đều báo trước cho bạn hữu hoặc họ hàng thành thử tiếng đồn về cuộc ra đi ấy lan nhanh ra các phố phường trong thành phố như một vệt thuốc súng.

Cỗ xe đầu tiên đến sau xe hoàng hậu là xe của Ngài Hoàng thân, trong có ông de Condé, bà Condé và bà hoàng thân quả phụ. Cả hai đều bị khua dậy từ nửa đêm và chẳng hiểu vì sao cả.

Cỗ xe thứ hai có quận công d Orléans và bà quận công. Bà Cô lớn và tu viện trưởng de La Rivière, người sủng ái không thể tách rời và là cố vấn thân tín của quận công.

Xe thứ ba có ông de Longueville và hoàng thân de Conti là em và em rể ngài Hoàng thân. Họ xuống xe đến gần cỗ xe của vua và hoàng hậu để bái chào Hoàng thượng.

Hoàng hậu phóng một cái nhìn vào tận đáy xe cửa vẫn mở và thấy xe không còn ai. Bà hỏi:

- Thế còn bà Longueville đâu?

- Ô! Mà em gái tôi đâu nhỉ? - Hoàng thân de Condé hỏi.

- Thưa Lệnh bà, - Quận công de Longueville đáp, - Bà nhà tôi đau và có nhờ tôi xin với Hoàng thượng xá lỗi cho.

Anne d Autriche đưa mắt rất nhanh sang Mazarin, ông đáp lại bằng một cái lắc đầu khó nhận biết.

- Về chuyện này, ông thấy thế nào? - Hoàng hậu hỏi.

- Tôi cho rằng đó là một con tin đối với dân chúng Paris, - Giáo chủ đáp.

- Tại sao cô ta không đến? - Hoàng thân de Condé khẽ hỏi de Conti.

- Im nào! - Ông này đáp, - Chắc hẳn bà ta có lý do riêng của mình.

- Bà ấy làm hại chúng ta, - Hoàng thân lẩm bẩm.

- Bà ấy cứu chúng ta, - Hoàng thân de Conti nói.

Xe cộ ùn ùn đến. Có thống chế de La Meilleraie, thống chế de Villeroy, Gitaud, Villequier, Comminger; hai người lính ngự lâm cũng tới dắt theo ngựa của d Artagnan và Porthos. D Artagnan và Porthos nhảy lên ngựa. Tên đánh xe của Porthos thay d Artagnan trên cỗ xe chở Hoàng hậu, còn Mousqueton thay thế tên đánh ngựa và cứ đứng sừng sững mà đánh xe với lý do mà chỉ riêng hắn biết, chẳng khác gì chàng l Automédon ngày xưa.

Hoàng hậu mặc dầu bận hàng trăm việc linh tinh vẫn đưa mắt tìm d Artagnan, nhưng chàng Gascon đã chen lẫn vào đám đông với sự thận trọng quen lệ của mình. Anh bảo Porthos:

- Chúng ta hãy đi tiền trạm và sửa soạn chỗ ở cho tử tể ở Saint-Germain, vì chẳng ai sẽ nghĩ đến chúng ta đâu. Tôi cảm thấy mệt mỏi lắm rồi.

- Tôi buồn ngủ dúi dụi ra rồi - Porthos nói. - Thề mà nói rằng chúng ta chẳng có một trận chiến đấu cỏn con nào! Rõ rằng dân Paris thật là ngu ngốc.

- Chẳng phải là chúng ta khôn ngoan hơn không? - D Artagnan nói.

- Có lẽ

- Thế cổ tay cậu có đỡ đau không?

- Khá rồi. Nhưng cậu có tin rằng lần này chúng ta nắm chắc không?

- Cái gì cơ?

- Cái lon của cậu và cái tước hiệu của tôi ấy mà.

- Thực tình có? Gần như tôi dám cuộc như vậy. Với lại nếu họ không nhớ ra thì tôi sẽ làm cho họ nhớ.

- Có tiếng hoàng hậu kìa, - Porthos nói. - Hình như bà đòi cưỡi ngựa.

- Ồ! Bà ấy thì rất muốn đấy, nhưng...

- Nhưng sao?

- Nhưng mà giáo chủ không muốn.

Rồi d Artagnan bảo hai người lính ngự lâm:

- Các ông đi theo xe hoàng hậu và không được rời xa cửa xe. Chúng tôi đi sửa soạn chỗ nghỉ.

Và d Artagnan cùng Porthos phóng về phía Saint-Germain.

- Các ông? Chúng ta đi nào! - Hoàng hậu nói.

Cỗ xe vua lên đường theo sau là tất cả các xe khác và hơn năm mươi kỵ binh.

Đoàn đi tới Saint-Germain không gặp chuyện gì trắc trở. Bước xuống bậc xe, Hoàng hậu thấy Hoàng thân đang bỏ mũ đứng đợi để đỡ bà xuống.

Mặt mày rạng rỡ, bà nói:

- Hay thật! Khi dân chúng Paris tỉnh giấc.

- Chiến tranh đấy, - Hoàng thân nói.

- Chiến tranh ư? Được lắm! Chúng ta chẳng có về phía chúng ta con người chiến thắng Rocroy ạ, Nordlingen và Lens đó sao?

Hoàng thân nghiêng mình ra hiệu cảm ơn.

Ba giờ sáng. Hoàng hậu đi đầu vào lâu đài. Mọi người vào theo; gần hai trăm người đã đi theo bà trong cuộc đi trốn.

- Thưa các ông, - Hoàng hậu cười nói, - Các ông nghỉ tại đây, lâu đài rộng rãi chẳng thiếu chi đâu: nhưng ta không tính đến đây, nên người ta cho tôi biết là tất cả chỉ có ba cái giường, một cho vua, một cho tôi.

- Và một cho Mazarin, - Ông Hoàng thân khẽ nói.

- Còn tôi, tôi sẽ nằm ở dưới sàn à? Gaston d Orléans nói với một nụ cười lo ngại.

- Không, thưa Đức ông, - Mazarin nói, - Giường thứ ba dành cho Điện hạ.

- Thế còn ông, - Hoàng thân hỏi.

- Tôi không ngủ, - Mazarin đáp, - Tôi còn phải làm việc.

Gaston bảo người ta trỏ cho mình buồng và giường, chẳng buồn lo xem vợ và con gái mình nghỉ ngơi bằng cách nào.

- Còn ta, ta sẽ đi nằm, - D Artagnan nói. - Porthos lại đây với tôi!

Porthos đi theo d Artagnan với niềm tin cậy sâu sắc vào trí tuệ của bạn mình.

Họ đi bên nhau trên quảng trường của toà lâu đài. Porthos ngơ ngác nhìn d Artagnan đang bấm ngón tay tính tính toán toán.

- Mỗi cái một pistol, bốn trăm cái bốn trăm pistol.

- Đúng rồi. Bốn trăm pistol, - Porthos nói, - Nhưng cái gì làm nên bốn trăm pistol cơ chứ?

- Một pistol chưa được, tiếp tục tính toán, phải đáng một louis.

- Cái gì đáng giá một louis?

- Một louis một cái, bốn trăm cái vị chỉ là bốn trăm louis.

- Bốn trăm à? - Porthos hỏi.

- Phải, họ hai trăm người; một người cần ít ra là hai cái; vậy tổng cộng là bốn trăm cái.

- Nhưng bốn trăm cái gì cơ chứ?

- Nghe đây, - D Artagnan nói. - Do ở đây có đủ loại người đang ngơ ngác xem triều đình tới..., - anh nói thầm vào tai Porthos.

- Tôi, hiểu rồi, - Porthos nói - thực tình tôi hiểu rất rõ! Mỗi đứa hai trăm louis hay lắm, nhưng người ta sẽ nói gì?

- Họ muốn nói gì thì nói, vả lại họ có biết là chúng ta đâu?

- Thế ai sẽ đi phân phối?

- Mousqueton chẳng có đây sao? - Thế còn áo đâu! - Porthos nói: người ta sẽ nhận ra áo đâu của nhà tôi.

- Thì nó lộn áo ra!

- Cậu bao giờ cũng phải, bạn thân mến ạ, - Porthos kêu lên, - Nhưng tất cả những ý kiến ấy, cậu moi móc ở nơi quỷ quái nào ra thế.

D Artagnan mỉm cười.

Đôi bạn đi vào phố đầu tiên mình gặp. Porthos gõ cửa nhà bên trái.

- Có rơm không? - Họ hỏi.

- Thưa ông, nhà chúng tôi không có, người chủ đáp, - Nhưng các ông hãy đến hỏi người bán rơm ạ.

- Người bán rơm ở đâu?

- Ở cái cổng lớn cuối phố này.

- Bên trái hay bên phải.

- Bên trái.

- Ở Saint-Germain liệu còn các nhà khác có rơm rạ không?

- Cô chủ quán Mouton-Couronné và bác chủ trại Gros Louis.

- Họ ở đâu?

- Phố Ursulines.

- Cả hai đều ở phố ấy ư?

- Phải.

- Tốt lắm.

Đôi bạn đến nhà thứ hai và thứ ba hỏi thăm, họ chỉ đúng như nhà đầu tiên. Rồi d Artagnan đến nhà người buôn rơm, mua một trăm năm mươi bó rơm hết ba trăm pistol. Anh tiếp tục đến nhà chủ quán và thấy Porthos đang mua hai trăm bó với giá tương tự. Cuối cùng bác chủ trại Louis biếu không tám mươi bó. Thế là tổng cộng được bốn trăm ba mươi bó rơm.

Saint-Germain không còn rơm.

Những việc vơ vét ấy không mất quá nửa giờ. Mousqueton được dặn dò cẩn thận, đứng đầu cuộc mua bán bất ngờ ấy. Hắn được dặn không bán một chút rơm nào dưới giá một louis một bó, và phải thu được bốn trăm ba mươi louis.

Mousqueton lắc đầu và chăng hiểu gì về sự đầu cơ của hai ông bạn.

D Artagnan vác ba bó rơm trở về lâu đài. Ai này đều rét run cầm cập và buồn ngủ dúi dụi, nhìn một cách thèm thuồng ganh tỵ , nhà vua, hoàng hậu và Đức ông nằm trên giường.

D Artagnan vào, gây ra một trận cười rộn rã cả phòng.

Nhưng anh làm ra vẻ không nhận thấy rằng mình là đối tượng chú ý của mọi người và anh bắt tay vào xếp dọn cái ổ rơm của mình khéo léo biết bao vui vẻ biết bao khiến cho những kẻ tội nghiệp buồn ngủ mà không ngủ được kia phải thèm rỏ dãi.

- Phải có rơm? - Họ kêu lên, - Phải có rơm! Kiếm rơm ở đâu bây giờ?

- Tôi sẽ dẫn các ông đi, - Porthos nói.

Và anh dẫn các vị ham thích đến chỗ Mousqueton, hắn phân phát một cách hào hiệp các bó rơm, cứ mỗi bó một louis. Người ta thấy rõ là hơi đắt, nhưng khi đã buồn ngủ rũ người ai mà chẳng sẵn sàng bỏ ra vài ba louis để mua lấy vài tiếng đồng hồ ngủ ngon giấc?

D Artagnan liên tiếp nhượng lại ổ rơm của mình đến mười lần, và anh coi như đã trả tiền rơm của mình như mọi người khác, mỗi bó một louis cho nên anh bỏ túi được ba chục louis trong non nửa giờ. Đến năm giờ sáng giá rơm lên đến tám mươi livres một bó, nhưng cũng chẳng có mà mua.

D Artagnan đã cẩn thận để dành bốn bó rơm cho mình. Anh cầm chìa khoá phòng giấu rơm và cùng Porthos, anh ra tính toán với Mousqueton. Chất phác và giống như một viên quản lý đứng đắn mà hắn đã làm, hắn nộp lại cho hai ông chủ bốn trăm ba mươi louis và còn giữ một louis cho mình.

Mousqueton không biết gì về những chuyện đã diễn ra ở lâu đài, không hiểu vì sao ý nghĩ về việc bán rơm lại không đến với hắn sớm hơn.

D Artagnan bỏ tiền vào mũ và trở về thanh toán với Porthos.

Mỗi người được hai trăm mười năm louis.

Lúc bấy giờ Porthos mới nhận ra rằng anh không có rơm để dành cho mình, anh quay lại chỗ Mousqueton thì hắn đã bán sạch không giữ lại một cọng rơm nào cho hắn cả.

Anh tìm đến d Artagnan. Nhờ để lại bốn bó rơm, d Artagnan đang bện lại và nếm náp trước một cách thú vị cái ổ thật êm ái độn cao trên đầu và kín dưới chân, đến vua trông thấy cũng phải thèm: nếu như vua ngủ chẳng được ngon giấc trong giường mình.

Bằng bất cứ giá nào d Artagnan cũng không muốn xáo trộn giường mình vì Porthos, nhưng với bốn louis bạn nộp cho anh, anh bằng lòng cho Porthos nằm chung với anh.

Anh xếp thanh gươm ở chân, để súng ngắn bên cạnh mình, trải áo choàng xuống chân, để mũ dạ lên áo choàng và khoan khoái duỗi mình lên ổ rơm kêu lạo xạo. Anh đã bắt đầu mơn man những mơ ước mà số tiền hai trăm mười chin louis kiếm được trong mười lăm phút gây nên, thì một tiếng gọi ở cửa phòng làm anh bật dậy.

- Ông d Artagnan, ông d Artagnan!

- Ở đây, - Porthos nói - Ở đây!

Porthos hiểu rằng nếu d Artagnan đi thì cái giường sẽ thuộc một mình anh.

Một sĩ quan tiến đến.

D Artagnan chống khuỷ tay nhổm dậy.

- Ông là d Artagnan phải không, - Viên sĩ quan hỏi.

- Phải, tôi đây. Ông cần gì?

- Tôi đi tìm ông.

- Ai bảo ông đi?

- Ngài giáo chủ.

- Hãy nói với Đức ông là tôi sắp ngủ và với tư cách bạn bè tôi khuyên ông ấy cũng làm như vậy.

- Các hạ không ngủ và sẽ không đi ngủ, và ngài cần ông ngay bây giờ.

- Ôn dịch bắt cái lão Mazarin ấy đi, lão ta không biết ngủ đúng lúc! D Artagnan lẩm bẩm. - Lão ấy muốn gì ở ta? Có phải để phong ta làm đại uý không? Trường hợp ấy thì ta thứ lỗi cho lão.

Và chàng ngự lâm quân vừa trở dậy vừa cằn nhằn, mang gươm, mũ, súng, áo choàng, rồi đi theo viên sĩ quan, còn Porthos ở lại làm chủ nhân độc nhất của cái giường rơm, thử bắt chước những mưu toan đẹp nhất của bạn.

Trông thấy người mà mình vừa mới cho đi tìm thật không đúng lúc, giáo chủ nói:

- Ông d Artagnan, tôi quên ông đã giúp đỡ tôi tận tình như thế nào và tôi sẽ đưa ra một bằng chứng.

- Hay, - D Artagnan nghĩ, - có vẻ là điểm tốt đây.

Mazarin nhìn người lính ngự lâm và thấy anh nở nang cả mặt mày.

- A! Đức ông.

- Ông d Artagnan, - giáo chủ nói, - Ông rất muốn làm đại uý phải không?

- Vâng, thưa Đức ông!

- À bạn ông, cũng vẫn ước ao làm nam tước chứ?

- Thưa Đức ông, lúc này ông ấy đang mơ làm nam tước.

- Vậy thì, - Mazarin, vừa nói rút ra một bức thư mà ông ta đã đưa d Artagnan xem - Ông cầm bức thư này và mang nó sang nước Anh.

D Artagnan nhìn phong bì không có địa chỉ.

- Tôi có được biết phải đưa lại cho ai không ạ?

- Đi tới London ông sẽ biết. Đến London ông mới được xé các phong bì ngoài.

- Ngài có điều gì chỉ giáo cho tôi?

- Tuân theo về mọi điểm người nhận thư này.

D Artagnan định hỏi thêm, thì Mazarin nói:

- Ông đi Boulogne-sur-Mer; đến quán Huy hiệu Anh quốc ông sẽ gặp một người quý tộc trẻ tên là Mordaunt.

- Vâng, và tôi phải làm gì với người ấy?

- Đi theo anh ta tới nơi mà anh ta dẫn đến.

D Artagnan kinh ngạc nhìn giáo chủ.

- Dặn dò ông thế là đủ rồi, - Mazarin nói, - thôi đi đi.

- Nói đi đi thì dễ lắm, - D Artagnan nói, - Nhưng muốn đi phải có tiền mà tôi thì chẳng có.

- A! - Mazarin gãi tai nói, ông nói là không có tiền à?

- Không có, thưa Đức ông.

- Thế cái nhẫn kim cương tôi cho ông hôm qua đâu?

- Tôi muốn giữ nó làm kỷ niệm của Đức ông.

Mazarin thở dài.

- Thưa Đức ông, ở nước Anh sinh hoạt đắt đỏ lắm, nhất là với tư cách phái viên đặc biệt.

- Hừm! - Mazarin nói. - Đó là một nước rất thanh đạm và sống giản dị từ khi có cách mạng nhưng không sao.

- Ông mở ngăn kéo và lấy ra một túi nhỏ.

- Ông nói thế nào về một nghìn êquy này?

D Artagnan bĩu môi dưới dài thè lè ra và nói:

- Thưa Đức ông, tôi nói rằng thế là ít, vì chắc chắn là tôi sẽ không đi một mình.

- Tôi đã tính rồi, - Mazarin đáp, - Ông Du Vallon sẽ cùng đi với ông, cái vị quý tộc xứng đáng ấy; vì rằng, ông d Artagnan thân mến ạ, sau ông thì chắc chắn là tôi yêu quý con người Pháp quốc ấy hơn cả.

D Artagnan bèn trỏ vào cái túi tiền mà Mazarin vẫn giữ khư khư và nói:

- Thưa Đức ông, nếu ngài yêu quý ông ta đến thế thì, ngài hiểu cho rằng...

- Được rồi. Vì coi trọng ông ta, tôi đưa thêm hai trăm êquy.

- Đồ bần tiện, - D Artagnan lẩm bẩm, rồi nói. - Nhưng ít ra thì khi trở về chúng tôi có thể trông cậy chứ? Ông Porthos vào tước hiệu nam tước của ông ấy và tôi vào cấp bậc của tôi.

- Lời thề của Mazarin.

- Tôi thích một lời thề khác hơn kia, - D Artagnan nói nhỏ với mình, rồi cao giọng. - Tôi có thể đến bái chào Hoàng thượng không ạ.

- Hoàng thượng ngủ, - Mazarin vội vã đáp, - Và ông cần phải đi ngay. Thôi, đi đi ông.

- Thêm một lời nữa, thưa Đức ông: nếu ở nơi tôi đến, người ta đang đánh nhau thì tôi có đánh nhau không?

- Ông sẽ làm theo lệnh người mà tôi biên thư.

- Được rồi, thưa Đức ông, - D Artagnan vừa nói và vươn dài tay ra nhận lấy túi tiền, - Và tôi xin bày tỏ với ngài lòng kính trọng của tôi.

D Artagnan thong thả bỏ bọc tiền vào cái túi áo rộng của mình, rồi quay lại nói với viên sĩ quan.

- Nhờ ông vui lòng đến đánh thức ông Du Vallon dậy, nói là lệnh của Các hạ và bảo ông ấy là tôi đợi ở chuồng ngựa.

Viên sĩ quan hối hả đi ngay, d Artagnan xem ra hắn có điều gì cần thiết nữa hay không?.

Porthos vừa mới ngả lưng xuống nệm rơm và bắt đầu ngáy du dương theo thói quen, thì có ai đó đập vào vai mình. Anh tưởng d Artagnan, nên không động đậy.

- Lệnh của giáo chủ, - Viên sĩ quan đáp.

- Hừm! - Porthos lầu bầu và mở to mắt, - Ông bảo gì?

- Tôi nói rằng Các hạ phải ông sang nước Anh và ông d Artagnan đợi ông ở chuồng ngựa.

Porthos buông một tiếng thở dài, đứng lên lấy mũ, súng, kiếm và áo choàng, rồi vừa đi ra vừa luyến tiếc ngoái nhìn cái nệm ấm mà anh đã tự hẹn với mình ngủ một giấc thật ngon lành.

Anh vừa mới quay lưng, thì viên sĩ quan đã nằm kềnh xuống chiếc nệm, mà anh chưa bước qua ngưỡng cửa thì kẻ kế tục anh đã ngáy đến vỡ nhà. Cũng tự nhiên thôi: anh ta là kẻ duy nhất trong tất cả cái đám người này cùng với vua và hoàng hậu và Đức ông Gaxton d Orléans ngủ mà không mất tiền.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 56

Có tin tức về Aramis

D Artagnan đi thẳng đến chuồng ngựa. Trời vừa tảng sáng. Anh nhận ra ngựa của anh và của Porthos buộc ở máng ăn nhưng máng rỗng không. Nghĩ thương hại mấy con vật tội nghiệp anh lần đến một góc chuồng ngựa và thấy lấp lánh một ít rơm có lẽ thoát khỏi cuộc vơ vét đêm qua. Anh lấy chân vun rơm thì thấy mũi giày đụng phải một vật tròn tròn và có lẽ đụng phải chỗ phạm, nên nó hét lên một tiếng, chống đầu gối nhổm dậy và dụi mắt. Đó là Mousqueton, đêm qua không còn rơm cho mình, nên lấy rơm ăn của ngựa để nằm.

- Mousqueton, - D Artagnan bảo, - Nào, ta lên đường!

Nhận ra tiếng nói của bạn chủ mình, Mousqueton vội vàng đứng dậy và đánh rơi mấy đồng louis kiếm được khi đêm một cách bất hợp pháp.

D Artagnan nhặt một đồng louis ngửi và nói:

- Ô! Cái thứ vàng này có mùi kỳ cục thật, mùi rơm.

Mousqueton đó đừ mặt một cách đến là thật thà và có vẻ thật bối rối khiến chàng Gascon bật cười và bảo:

Porthos có lẽ sẽ nổi giận đấy, Mousqueton thân mến ạ, nhưng tôi thì tôi tha thứ cho cậu, song hãy nhớ rằng vàng này cần dùng để chữa cho các vết thương của chúng ta, và hãy vui lên nào.

Tức thì Mousqueton miệng cười toe toét, nhanh nhẩu thắng ngựa cho chủ và leo lên ngựa mình mà chẳng nhăn nhó bao nhiêu.

Vừa lúc ấy Porthos đi đến với bộ mặt cáu kỉnh và hết sức ngạc nhiên trông thấy d Artagnan với vẻ cam chịu và Mousqueton khá hớn hớ.

- Ái chà! - Anh nói, - Chắc là đã có cấp bậc cho cậu và Nam tước cho tôi phải không?

- Chúng tôi sắp đi kiếm mảnh bằng chứng nhận, - D Artagnan nói, - Và khi ta trở về tiên sinh Mazarin sẽ ký.

- Thế ta đi đâu? - Porthos hỏi.

- Trước hết đi Paris, - D Artagnan đáp, - Tôi muốn thu xếp vài công việc.

- Nào ta về Paris, - Porthos nói.

Và cả haỉ đi về Paris.

Tới mấy cửa ô họ kinh ngạc thấy thái độ doạ nạt của thành phố.

Chung quanh một cỗ xe bị phá tan tành dân chúng không ngớt phần chửi rủa, trong khỉ mấy người định đi trốn thì bị bắt giữ, chúng là một ông già và hai người đàn bà.

Trái lại khi d Artagnan và Porthos xin vào thì họ mơn trớn hết lời. Họ cho rằng đó là những người rời bỏ phe nhà vua và họ muốn thu hút về với họ.

- Vua đang làm gì? - họ hỏi.

- Vua ngủ.

- Còn mụ Tây Ban Nha?

- Bà ta mơ màng.

- Còn cái tên người Ý đáng nguyền rủa ấy?

- Lão ta thức, - D Artagnan đáp. - Như vậy các bạn phải giữ vững, bởi vì rằng nếu họ ra đi, chắc hẳn là để làm chuyện gì đó. Nhưng vì rốt cuộc các bạn là những kẻ mạnh hơn, không nên gay gắt với phụ nữ và ông già, và nên nhắm đúng những mục đích thực sự.

Dân chúng nghe những lời đó với vẻ thú vị và để cho mấy bà bị giữ đi, họ cảm ơn d Artagnan bằng một cái nhìn hùng hồn.

- Thôi bây giờ, tiến lên nào! - D Artagnan nói.

Và họ tiếp tục đi, xuyên qua các lũy chướng ngại, bước qua những dây xích, bị xô đẩy, bị căn vặn và cũng hỏi han lại những người khác.

Đến Hoàng cung, d Artagnan trông thấy một viên đội đang huấn luyện quân sự cho sáu trăm thị dân. Đó là Planchet, anh đang đem những điều nhớ được ở trung đoàn Piémont ra giúp cho đội tự vệ thành thị.

Đi qua trước mặt d Artagnan, anh nhận ra chủ cũ của mình.

- Kính chào ông d Artagnan, - Planchet nói với vẻ hãnh diện.

- Kính chào ông Dulaurier, - D Artagnan đáp.

Planchet đứng sựng lại trố đôi mắt thao láo và ngơ ngác ra nhìn d Artagnan. Hàng người đầu tiên thấy chỉ huy của mình dừng chân cũng đứng lại, cứ như thế cho đến hàng cuối cùng.

- Những bọn thị dân ấy thực là kỳ lạ một cách ghê gớm, - D Artagnan nói với Porthos.

Và anh lại tiếp tục đi.

Năm phút sau anh xuống ngựa trước khách sạn "La Chevrette.

Mỹ nhân Madeleine chạy ra đón d Artagnan.

- Bà Turquaine thân mến của tôi ơi, - D Artagnan nói, - Nếu bà có tiền bạc nhiều thì hãy chôn vùi cho nhanh lên; nếu bà có đồ tư trang hãy giấu ngay đi; nếu bà có con nợ, hãy đòi bằng được, nếu bà có chủ nợ thì chớ có trả họ.

- Tại sao thế? - Madeleine hỏi.

- Bởi vì Paris sắp biến thành tro bụi, như Babylone không hơn không kém, mà chắc hẳn bà đã nghe nói đến!(1)

- Thế ông chia tay tôi trong tình hình như thế này ư?

- Phải đi ngay bây giờ, - D Artagnan nói.

- Ông đi đâu?

- A! Nếu bà có thể bảo cho tôi biết điều đó, thì quả là bà giúp tôi một việc thực sự đấy.

- Ôi! Lạy Chúa! Lạy Chúa!

D Artagnan giơ tay ra hiệu cho bà chủ quán hãy bớt những lời kêu ca than vãn đi vì có kêu cũng bằng thừa. Và anh hỏi:

- Có thư từ gì cho tôi không?

- Có một bức thư cũng vừa mới đến.

Và bà đưa thư cho anh.

- Thư của Arthos! - D Artagnan reo lên khi nhận ra nét chữ cứng cáp và dài của bạn.

- A, - Porthos nói, - xem anh ta nói những chuyện gì nào, d Artagnan mở thư và đọc:

"D Artagnan thân thiết,

Du Vallon thân mến,

Các bạn thân thiết của tôi ơi, có lẽ đây là lần cuối cùng các bạn nhận được tin tức của tôi. Aramis và tôi, chúng tôi cực khổ lắm, nhưng lạy Chúa, lòng dũng cảm của chúng tôi và kỷ niệm về tình bạn của chúng ta nâng đỡ chúng tôi. Hãy luôn nhớ đến Raoul. Tôi gửi gắm các bạn những giấy tờ để ở Blois, và trong hai tháng rưỡi nữa, nếu các bạn không nhận được tin tức về chúng tôi thì hãy xem những giấy tờ đó. Hãy ôm hôn thật mạnh tử tước hộ người bạn tận tụy này.

Arrthos"

- Chắc chắn là tôi sẽ ôm hôn nó, - D Artagnan nói, - Và như thế nó ở trên đường đi của chúng ta. Và nếu như nó bất hạnh bị mất đi, Arthos tội nghiệp của chúng ta, thì từ ngày hôm nay nó trở thành con trai của tôi.

- Và tôi - Porthos nói, - Tôi sẽ cho nó làm người thừa kế toàn hưởng của tôi.

- Xem Arthos còn nói gì nữa nào?

"Nếu trên các ngả đường đi, các cậu gặp một tên Mordaunt thì hãy coi chừng. Tôi không thể nói nhiều về điều đó ở trong thư".

- Mordaunt! - D Artagnan kinh ngạc kêu lên, - Mordaunt, được lắm, - Porthos nói, - Ta sẽ nhớ.

- Này, nhưng còn có lời tái bút của Aramis.

Thật thế, - D Artagnan nói.

Và anh đọc:

"Các bạn thân mến, Chúng tôi giấu giếm các bạn nơi trú ngụ của chúng tôi vì hiểu rõ lòng tận tụy anh em của các cậu và biết rõ rằng các cậu sẵn sàng đến để chết cùng với chúng tôi".

- Mẹ kiếp! - Porthos đùng đùng nổi giận hét lên làm Mousqueton bắn đi tới cuối phòng, - Như vậy là cậu đang gặp nguy hiểm chết người à?

D Artagnan đọc tiếp:

"Arthos truyền lại cho cậu Raoul, còn tôi truyền lại cho cậu một cuộc trả thù. Nếu may mắn các cậu tóm được một tên Mordaunt nào đó, thì hãy bảo Porthos dẫn nó đến một xó và vặn cổ nó đi. Tôi không dám nói gì hơn trong một lá thư.

Aramis"

- Nếu chỉ có thế thì dễ dàng lắm, - Porthos nói.

- Trái hẳn lại cậu ạ, - D Artagnan rầu rầu đáp - Vì không thể được.

- Sao vậy?

- Vì đúng là cái tên Mordaunt mà chúng ta phải gặp ở Boulogne-sur-Mer và đi cùng hắn sang Anh.

- Thế thì, đáng lẽ đuổi theo tên Mordaunt ấy, Chúng ta đuổi theo các bạn của ta. - Porthos nói với những cử chỉ có thể làm kinh hãi cả một đội quân.

- Tôi có nghĩ đến điều đó, - D Artagnan nói, - Nhưng bức thư không có ngày cũng chẳng có con niêm.

- Đúng thế, - Porthos nói.

Và anh đi đi lại lại trong phòng như một kẻ lạc lối, làm mọi điệu bộ và chốc chốc lại rút gươm gần ra khỏi vỏ.

Còn d Artagnan đứng ngây ra như một người thất đảm và trên gương mặt anh hiện lên nỗi đau buồn sâu sắc nhất.

- A! Thãt là một chuyện không hay! - Anh nói - Arthos coi thường chúng ta, anh ấy muốn chết một mình, không tốt!

Nhìn thấy hai nỗi thất vọng tầy đình ấy, Mousqueton khóc rưng rức ở trong góc phòng.

- Thôi, - D Artagnan nói, - Làm như thế chẳng được tích sự gì. Chúng ta hãy đi gặp và ôm hôn Raoul như ta đã nói, và có khi nó nhận được tin của Arthos.

- Ô đó là một ý kiến hay, - Porthos nói, - D Artagnan thân mến ạ, thực ra tôi không biết cậu định làm gì, nhưng cậu có rất nhiều ý kiến. Ta hãy đến gặp Raoul đi.

- Kẻ nào đụng đến ông chủ ta lúc này hãy coi chừng, - Mousqueton nói, - Ta sẽ lột xác nó ra.

Họ lên ngựa và ra đi. Đến phố Saint-Denis, họ thấy một đám tụ hội dân chúng. Đó là ông de Beaufort vừa mới từ Vendôme tới và được ông chủ giáo giới thiệu với đám dân Paris kinh ngạc và mừng rỡ.

Với ông de Beaufort, họ coi như từ nay mình là kẻ bất khả chiến bại.

Đôi bạn rẽ sang một phố nhỏ để khỏi gặp hoàng thân và đi đến cửa ô Saint-Denis. Mấy lính canh hỏi hai kỵ sĩ:

- Có đúng là ông de Beaufort đã tới Paris không?

- Đúng quá rồi còn gì, - D Artagnan đáp, - và bằng chứng là ông ấy phái chúng tôi đi đón cha ông ấy là cụ de Vendôme cũng sắp tới nơi.

- Ông de Beaufort muôn năm! - Lính canh hô to.

Và họ kính cẩn lui ra để những phái viên của ông hoàng vĩ đại đi qua.

Ra khỏi cửa ô, con đường như bị ngốn ngấu bởi những con người không hề biết mệt mỏi hay chán nản; ngựa của họ bay đi và họ không ngớt bàn tán về Arthos vả Aramis.

Mousqueton chịu đựng mọi nỗi đau đớn không thể tưởng tượng nổi, nhưng người nô bộc tuyệt vời ấy tự an ủi, nghĩ rằng hai ông chủ của mình còn nếm trải biết bao nỗi đau khổ khác. Bây giờ hắn đi tới coi d Artagnan như ông chủ thứ hai và hắn tuân lệnh anh còn nhanh nhảu hơn và nghiêm chính hơn đối với Porthos.

Doanh trại đóng ở giữa Saint-Omer et Lambres; đôi bạn đi vòng đến tận trại và kể lại cho quân đội biết chi tiết về cuộc đi trốn của vua và hoàng hậu mà ở đây chỉ mới được nghe tin không rõ ràng. Họ thấy Raoul ở cạnh lều của mình nằm trên một bó rơm mà con ngựa đang rút vụng mấy cọng. Chàng thanh niên mắt đỏ ngầu và có vẻ thất vọng. Thống chế de Grammont và bá tước de Guise trở về Paris và cậu bé tội nghiệp thấy mình lẻ loi.

Lát sau, Raoul ngước mắt lên trông thấy hai kỵ sĩ đang nhìn mình anh nhận ra và chạy tới, hai tay dang ra.

- Ô! Các ông bạn thân mến đấy ư? - Anh reo lên,

- Các ông đến tìm tôi à? Các ông có đưa tôi đi với các ông không? Các ông có mang đến tin tức gì của vị đỡ đầu của tôi không?

- Thế anh không nhận được tin à? - D Artagnan hỏi.

- Chao ôi? Không, ông ạ, và tôi chẳng biết thực sự bây giờ ông ấy ra sao. Thành thử ra... Ôi! Thành thử ra tôi lo lắng đến phát khóc.

Quả thật hai giọt nước mắt lớn lăn trên đôi má sạm nâu của chàng thanh niên.

Porthos quay đi để người ta khỏi nhìn thấy trên khuôn mặt phương phi mà hiền lành của anh những gì đang diễn ra trong trái tim anh.

D Artagnan từ lâu lắm rồi mới thấy mình xao xuyến mạnh đến thế. Anh nói:

- Anh bạn ơi, việc gì phải thất vọng. Anh không nhận được thư của bá tước, thì chúng tôi nhận được... một...

- Ô! Thật ư? - Raoul reo lên.

- Và thư đáng yên tâm nữa kia, - D Artagnan nói khi nhìn thấy nỗi vui mừng mà tin tức ấy đem lại cho cậu thanh niên.

- Ông có thư đấy không? - Raoul hỏi.

- Có, nghĩa là tôi đã có, - D Artagnan vừa nói vừa làm bộ lục tìm, - Đợi tí, chắc nó ở trong túi áo, bá tước nói về việc trở về, phải không Porthos.

Vốn là Gascon, d Artagnan không muốn một mình gánh chịu sự nói dối.

- Phải đấy, - Porthos húng hắng nói.

- Ôi! Đưa thư cho tôi, - Raoul nói.

- Ô Tôi mới còn đọc mà. Chẳng lẽ lại mất. A! khổ chưa, túi tôi bị thủng.

- Ồ! Đúng thế, ông Raoul, - Mousqueton nói. - Lá thư rất đáng mừng; các ông đây đã đọc cho tôi nghe và tôi đã khóc vì vui sướng.

- Ông d Artagnan ơi, - Raoul bình tĩnh lại được một nửa và hỏi, - Ít ra ông cũng biết bá tước ở đâu?

- A! Thế đấy! - D Artagnan nói, - Chắc chắn là tôi biết, nhưng, Chúa ơi! Đó là một điều bí mật.

- Tôi hy vọng là không phải đối với tôi.

- Không phải đối với anh, cho nên tôi sẽ nói ông ấy ở đâu?

Porthos trố mắt ngạc nhiên nhìn d Artagnan, d Artagnan lẩm bẩm: "Ta sẽ nói ở đâu để nó không thể tìm nhỉ?".

- Ông ấy đang ở Constantinople.

- Chỗ bọn Thổ Nhĩ Kỳ! - Raoul hốt hoảng kêu lên. - Lạy Chúa?

- Ông nói gì vậy?

- Ơ kìa, điều ấy làm anh sợ hãi ư? - D Artagnan nói. - Bọn Thổ thì là cái thá gì đối với những người như bá tước de La Fère và tu viện trưởng D Herblay?

- A! Bạn của ông đi cùng với ông bá tước à? - Raoul nói, - Điều ấy làm tôi yên tâm đôi chút.

"Cái thằng quỉ sứ d Artagnan ấy thật là nhanh trí!" Porthos lẩm bẩm, anh phục lăn cái mưu mẹo của bạn.

Vội chuyển hướng câu chuyện, d Artagnan nói:

- Đây là năm mươi pistol mà bá tước gửi cùng một chuyến thư cho anh. Tôi đoán là anh không còn tiền và món tiền này đến kịp thời.

- Thưa ông, tôi hãy còn hai mươi pistol.

- Ồ, cứ cầm lấy, thể là bảy mươi đồng.

- Và nếu anh muốn thêm nữa..., - Porthos nói và thọc tay vào túi.

- Xin cảm ơn, - Raoul đỏ mặt nói, - Nghìn lần cảm ơn ông.

Vừa lúc ấy Olivain hiện ra.

- Nhân tiện hỏi anh, - D Artagnan nói, cố để tên hầu nghe thấy.

- Anh có hài lòng về Olivain không?

- Vâng, cũng được ạ.

Olivain giả tảng không nghe thấy gì và đi vào lều.

- Anh trách gì cái thằng bố láo ấy?

- Nó tham ăn lắm, - Raoul nói.

- Ô! Thưa ông - Olivain nghe lời cáo buộc lại xuất hiện và nói.

- Nó hơi có tính ăn cắp.

- Ô, thưa ông!

- Và nhất là nhát như cáy.

- Ô! ô! ô! Ông ơi, ông bôi xấu tôi, - Olivain nói.

- Gớm nhỉ! - D Artagnan nói, - Olivain này, hãy nhớ rằng những người như bọn ta không thể để bọn nhút nhát hầu hạ, ăn cắp của chủ, ăn mứt kẹo vả uống rượu vang của chủ còn tha thứ được, chứ nhút nhát thì ta xẻo tai đi. Hãy trông ông Mousqueton kia, bảo ông ấy cho xem những vết thương danh dự, và nhìn xem tính dũng cảm thường lệ của ông ấy đã tô điểm vẻ uy phong lên gương mặt ông ấy như thế nào.

Mousqueton lên đến chín tầng mây, và nếu hắn dám thì hắn đã ôm hôn d Artagnan, trong khi chờ đợi hắn tự hứa với mình sẵn sàng chết vì anh nếu như cơ hội đến.

- Raoul hãy tống cổ thằng vô lại này đi, - d Artagna nói. - Vì nó nhát gan, có ngày nó làm mất thể diện.

- Ông hỏi rằng tôi nhát gan, - Olivain la lên, - Bởi vì hôm nọ ông toan đánh nhau với người cầm cờ của trung đoàn Grammont; và tôi từ chối không đi theo ông.

- Này, Olivain, - D Artagnan nghiêm khắc nói. - Một tên hầu không bao giờ được trái lệnh.

Rồi kéo nó ra chỗ khác anh bảo:

- Nếu chủ mày sai thì mày đã làm đúng, và đây là một êquy thưởng cho mày. Nhưng nếu có bao giờ chủ mày bị lăng nhục mà mày không xả thân vì chủ, thì tao sẽ cắt lưỡi mày và đem quét lên mặt mày đấy. Hãy nhớ lấy!

Olivain cúi mình và nhét đồng êquy vào túi.

- Raoul này, - D Artagnan nói, - Bây giờ ông Du Vallon và tôi phải đi làm nhiệm vụ sứ giả. Tôi không thể nói với anh là nhằm mục đích gì? Vì chính tôi cũng không biết, nhưng nếu anh cần điều gì thì cứ viêt thư cho bà Madeleine Turquaine ở khách sạn "La Chevrette phố Tiquetonne, và cứ rút tièn ở quỹ đó như ở quỹ nhà băng: tất nhiên cần tiết kiệm vì tôi không dồi dào như quỹ của ông Tổng giám thu d Emery đâu.

Và sau khi ôm hôn đứa con nuôi tạm thời anh chuyển nó sang cánh tay lực lưỡng của Porthos. Porthos nhấc bồng nó và để nó bám một lúc vào trái tim cao quý của chàng khổng lồ ghê gớm.

- Nào, ta lên đường, - D Artagnan nói.

Và họ đi Boulogne-sur-Mer, tới nơi trời gần tối, ngựa của họ đẫm mồ hôi và sùi cả bọt mép.

Họ đứng lại trước khi vào thành phố và cách đấy mười bước, có một người trẻ tuổi vận đồ đen trông như đang chờ đợi ai, và khi trông thấy họ, anh ta cứ nhìn chằm chằm mãi.

D Artagnan đến gần hắn ta và thấy hắn vẫn không rời mắt nhìn mình, anh nói:

- Ê, này ông bạn, tôi không thích người ta cứ nhìn mình từ đâu đến chân như vậy.

Người thanh niên không đáp lại câu đó của d Artagnan mà hỏi.

- Thưa ông, xin ông cho biết ông có phải từ Paris đến không?

D Artagnan cho rằng đó là một kẻ tò mò nào muốn biết tin tức về kinh đô, nên đáp bằng một giọng mềm mỏng hơn.

- Phải đấy, ông ạ.

- Ông có phải vào nghỉ ở quán Huy hiệu Anh quốc không? Các ông có được Các hạ giáo chủ Mazarin giao cho một sứ mệnh không?

- Có, ông ạ.

Nếu vậy thì chính tôi là người ông cần liên hệ, tôi là Mordaunt.

- A! - D Artagnan tự nhủ thầm, - Kẻ mà Arthos dặn ta phải coi chừng.

- A - Porthos lẩm bẩm. - Kẻ mà Aramis muốn ta vặn cổ.

Cả hai người chăm chú nhin gã thanh niên.

Gã hiểu lầm cái vẻ nhìn ấy và nói:

- Các ông nghi ngờ lời tôi nói chăng? Nếu vậy tôi sẵn sàng đưa ra mọi bằng chứng.

- Không, ông ạ, - D Artagnan nói, - Chúng tôi sẵn sàng theo ý ông.

- Vậy thì, các ông ơi, - Mordaunt nói, - Chúng ta đi ngay không chậm trễ, bởi vì hôm nay là ngày hạn cuối cùng mà ông giáo chủ đã hẹn với tôi. Tàu của tôi đã sẵn sàng, nếu các ông không đi thì tôi đi một mình, và tướng Olivier Cromwell chắc đang rất sốt ruột đợi tôi trở về.

- A! a, - D Artagnan nói, - Như vậy là chúng ta được phải đến tướng Olivier Cromwell.

- Ông không mang một bức thư gửi cho Ngài ư? - Người thanh niên hỏi.

- Tôi có một bức thư mà tôi chỉ được mở phong bì ngoài khi tới London, nhưng là vì ông đã nói là phải gửi tới ai rồi, cho nên chẳng cần phải đợi khi tôi đến đó.

D Artagnan xé luôn phong bì. - Quả thật bức thư để:

"Gửi ngài Olivier Cromwell, tướng lãnh quân đội quốc gia Anh".

- A! - D Artagnan nói, - Sứ mệnh lạ lùng.

- Ông Olivier Cromo là người như thế nào? - Porthos hỏi khẽ.

- Một người trước làm rượu bia, - D Artagnan đáp.

- Phải chăng lão Mazarin muốn làm một vụ đầu cơ rượu bia giống như chúng ta đã đầu cơ rơm? - Porthos nói.

- Nào, nào, ta đi thôi, các ông ơi, - Mordaunt sốt ruột nói.

- Ồ, ồ! Không ăn tối à? - Porthos kêu, - Ông Cromwell không chờ được một chút hay sao?

- Vâng, nhưng còn tôi? - Mordaunt nói.

- Ông thì sao? - Porthos hỏi.

- Tôi, tôi rất vội.

- Ồ! Nếu là việc ông thì chẳng can hệ gì đến tôi, - Porthos nói, - Và tôi sẽ ăn tối dù có được phép hay không được phép của ông.

Cái nhìn mơ hồ của gã thanh niên chợt rực lên và như sắp tóe ra một tia chớp, nhưng gã tự kiềm chế.

- Ông ạ, - D Artagnan nói, - Cần miễn thứ cho những lữ khách đói bụng. Vả lại bữa ăn của chúng tôi chẳng làm ông bị muộn lắm đâu. Chúng tôi sẽ phóng ngay đến quán. Ông cứ đi bộ ra bến, chúng tôi ăn một miếng, rồi sẽ theo kịp ông thôi mà.

- Xin tuỳ ý các ông - Mordaunt nói, - Miễn là chúng ta sẽ ra đi.

- May quá, - Porthos lẩm bẩm.

- Tên tàu là gì? - D Artagnan hỏi.

- Tàu Standard.

- Được rồi. Nửa giờ nữa chúng ta sẽ lên tàu.

Và đôi bạn thúc ngựa phóng đến quán Huy hiệu Anh quốc.

Vừa phi d Artagnan vừa hỏi:

- Cậu thấy gã thanh niên thế nào?

- Tôi chẳng ưa cái thằng ấy chút nào, - Porthos nói, và tôi chỉ thấy ngứa ngáy chân tay dữ dội, muốn làm theo lời dặn của Aramis.

- Chớ có làm như vậy, - Porthos thân mến ạ; đó là một phái viên của tướng Cromwell. Tôi chắc rằng chúng mình sẽ được tiếp đãi tồi tệ nếu báo cho ông ấy biết là chúng ta đã vặn cổ người bộ hạ tin cẩn của ông ấy.

- Mặc kệ - Porthos nói, - Tôi thấy Aramis là người có ý kiến hay.

- Hãy nghe tôi, - D Artagnan nói, - Khi sứ mệnh của chúng mình làm xong.

- Thì sao?

- Nếu nó đưa chúng ta trở lại Pháp...

- Sao nữa?

- Thì rồi ta sẽ tính.

Đôi bạn tới quán Huy hiệu Anh quốc ăn uống ngon lành, rồi đi ngay ra cảng. Một con tàu sẵn sàng giương buồm, và trên boong tàu, họ nhận thấy Mordaunt đang đi đi lại lại ra vẻ sốt ruột lắm.

Trong lúc, con thuyền chờ họ ra cặp mạn tàu Standard, d Artagnan nói:

- Cái gã thanh niên kia giống một cách lạ lùng một người nào đó mà mình đã quen, nhưng không nhớ được là ai.

Họ đến chỗ bắc cầu và lát sau đã lên tàu.

Nhưng đưa ngựa lên lâu hơn và đến tám giờ tối mới nhổ neo được.

Gã thanh niên sốt ruột giậm chân và bắt người ta phải kéo buồm lên...

Porthos mệt lử vì ba đêm qua không ngủ và vì một cuộc đường chạy ngựa bảy mươi dặm, vào phòng là ngủ ngay liền.

D Artagnan kiềm chế nỗi ghê tởm đối với Mordaunt, đi dạo với hắn ở trên boong và kể lể đủ mọi thứ chuyện để buộc hắn phải nói.

Mousqueton thì say sóng.

Chú thích:

(1) Babylone: thành phố cổ xưa, ở trên đất Irắc ngày nay, bị quân Hitxít phá trụi vào khoảng hơn một nghìn năm trước Công nguyên.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 57

Người Scotch phản bội lời thề, vì một đồng xu, bán rẻ Đức vua

Giờ đây, xin bạn đọc hãy để mặc con tàu Standard lặng lờ trôi không phải về phía London nơi mà d Artagnan và Porthos đã ngĩ là sẽ đến, nhưng con tàu lại chạy vế phía Durham, nơi mà Mordaunt trong thời gian lưu trú ở Boulogne-sur-Mer đã nhận được thư từ ra lệnh cho anh ta phải trở về đó. Xin các bạn hãy theo chúng tôi đến danh trại quân đội nhà vua đóng ở bên này sông Tyne, cạnh thành phố Newcastle.

Tại đó, giữa hai con sông, những tấm lều vải của một đội quân nhỏ trải ra trên biên giới giáp xứ Scotch nhưng vẫn ở trên đất Anh. Đã nửa đêm. Qua những bắp chân trần, những vạt áo ngắn, nhưng áo tới sặc sỡ và cái lông chim trang trí trước mũ nỉ của họ, ta vẫn có thể nhận ra những người dân vùng cao nguyên Scoth đang canh phòng uể oải. Mặt trăng lướt giữa hai đám mây lớn. Từng quãng chiếu sáng những khẩu súng hỏa mai của các lính canh và làm nổi bật mạnh mẽ những bức tường, những mái nhà và những tháp chuông của thành phố mà vua Charles I vừa mới nộp cho các toán quân của nghị viện, cũng như thành phố Oxford và Newark, họ còn cầm cự vì ông ta trong niềm hy vọng một sự hoà giải. Trong một mái lều rộng lớn ở một đầu doanh trại, đông đảo sỹ quan Scotch đang họp một cuộc hội nghị do lão bá tước de Loewen vị chỉ huy của họ chủ trì.

Cạnh lều, một người mặc kỵ sỹ đang nằm ngủ trên thảm cỏ, tay phải duỗi ra trên thanh kiếm.

Cách đấy năm chục bước, một người khác cũng vận y phục kỵ sỹ đứng nói chuyện với một lính canh Scotch dường như thông thạo tiếng Anh nên mặc dầu là người nước ngoài anh ta cũng hiểu được những câu trả lời của gã lính canh nói bằng thổ ngữ xứ Perth.

Chuông đồng hồ thành phố Newcastle điểm một giờ sáng, người kỵ sỹ ngủ choàng dậy và sau khi làm mọi cử chỉ của một người tỉnh dậy sau một giấc ngủ sâu, anh ta chăm chú nhìn ngó xung quanh.

Thấy chỉ có một mình mình. Anh đứng lên, rẽ quặt ngang và đi qua chỗ người kỵ sỹ đang nói chuyện với gã lính canh.

Chắc là đã hỏi chuyện xong vì một lát sau anh này từ giã người lính và đàng hoàng đi theo người kỵ sĩ nọ.

Đến chỗ bóng một chiếc lều dựng trên lối đi, người kỵ sĩ đi ra đứng lại đợi bạn và hỏi bằng thứ tiếng Pháp thuần tuý nhất từng được nói từ vùng Rouen đến Tour:

- Thế nào, bạn thân mến của tôi?

- Chà? Bạn ơi, chẳng còn thì giờ để mất đâu, cần phải báo trước cho nhà vua.

- Có chuyện gì xảy ra thế?

- Dài lắm, không thể nói được. Vả lại lát nữa cậu cũng sẽ được nghe cơ mà. Hơn nữa, chỉ một lời nói hở ra ở đây là hỏng hết mọi việc. Ta đi tìm Milord de Winter.

Và hai người đi đến phía cuối doanh trại. Do doanh trại chẳng rộng hơn năm trăm bước vuông, chẳng mấy chốc họ đã tới lều của người cần tìm kiếm.

- Tony, chủ của anh ngủ à? - Một kỵ sỹ nói bằng tiếng Anh với tên hầu nằm ở ngăn thứ nhất dùng làm phòng đợi.

- Thưa bá tước, không ạ, - Tên hầu đáp, chắc là không phải, hoặc nếu có ngủ thì cũng chỉ mới chợp mắt thôi, vì rằng sau khi cáo biệt đức vua về, ông chủ tôi cứ đi đi lại lại đến hơn hai tiếng đồng hồ và tiếng bước chân của ông mới ngừng độ một phút. Với lại, ông có thể xem đây, - Tên hầu vua nói thêm vừa vén tấm rèm cửa lên.

Quả thật Winter đang ngồi trước một ở cửa sổ để không khí ban đêm lọt vào, ông buồn rầu nhìn lên mặt trăng đang khuất sau những đám mây đen lớn.

Đôi bạn đi đến gần de Winter. Ông không nghe thấy gì, vẫn cứ ngồi nguyên, đầu tỳ lên bàn tay, mắt ngước nhìn trời. Mãi đến lúc thấy có người đặt tay lên vai mình, ông mới quay lại nhận ra Arthos và Aramis và giơ tay ra bắt tay họ. Ông nói:

- Các ông có nhận thấy đêm nay mặt trăng đỏ quá như nhuộm một màu máu không?

- Không - Arthos đáp, - Tôi thấy vẫn như mọi khi.

- Ông hiệp sỹ hãy nhìn xem - de Winter bảo.

- Xin thú thật rằng, tôi cũng đồng ý với bá tước de La Fère, - Aramis đáp, - và tôi thấy chẳng có gì khác thường cả.

- Thưa bá tước, - Arthos nói, - trong một tình cảnh thật là bấp bênh như tình cảnh chúng ta hiện nay, thì chính là cần phải xem xét ngay trên mặt đất, chứ không phải trên trời. Ông đã xem xét những người Scotch của chúng ta chưa và ông có tin chắc họ không?

- Những người Scotch à? - de Winter hỏi, - Những người Scotch nào?

- Ôi, Chúa tôi, - Arthos nói, - những người Scotch của chúng ta chứ còn ai nữa, những người mà nhà vua trông cậy những quân sĩ Scotch của bá tước Loewen.

- Không, - de Winter đáp, rồi ông nói thêm - Như vậy, các ông hãy nói xem có phải các ông không thấy như tôi cái màu đỏ đó kia đang che phủ bầu trời?

- Không thấy một chút nào cả! - Arthos và Aramis cùng đáp.

Vẫn băn khoăn về ý kiến ấy, de Winter lại nói:

- Các ông hãy cho tôi biết có đúng là có một truyền thuyết ở Pháp kể rằng trước hôm bị ám sát, vua Henri IV ngồi chơi cờ với ông de Bassompierre và trông thấy có những vết máu ở trên bàn cờ phải không?

- Phải - Arthos đáp, - Và ngài thống chế kể lại cho tôi nghe nhiều lần.

- Thế đấy, - de Winter lẩm bẩm - Và ngày hôm sau Henri IV bị giết chết.

- Nhưng bá tước ơi, cái ảo ảnh của Henri IV có liên quan gì đến ông kia chứ? - Aramis hỏi.

- Chẳng có gì cả, các ông ạ; kể ra tôi cũng điên rồ đi bàn với các ông những chuyện như vậy, khi mà vào giờ này các ông đến lều tôi chắc hẳn có tin tức gì quan trọng.

- Vâng, thưa Milord, - Arthos nói, - Tôi muốn nói chuyện với đức vua.

- Với đức vua ư? Nhưng vua đang ngủ.

- Tôi cần tiết lộ với vua những điều rất hệ trọng.

- Những chuyện đó để đến mai không được ư?

- Cần để vua biết ngay bây giờ, và có lẽ cũng đã quá muộn.

- Thế thì vào ngay đi, - de Winter nói.

Lều của de Winter dựng cạnh lề vua, hai lều thông nhau bằng một thứ hành lang. Việc canh phòng hành lang ấy không giao cho lính gác mà giao cho một tên hầu phòng tin cẩn của vua Charles I để trong trường hợp khẩn cấp nhà vua có thể liên hệ ngay với người bầy tôi trung thành của mình.

- Các ông này đi cùng với tôi, - de Winter nói.

Tên hầu cúi chào và để cho đi qua.

Quả thật vua Charles I không cưỡng nổi cơn buồn ngủ đang ngủ thiếp đi trên một chiếc giường dã chiến, mặc áo chẽn đen, chân đi ủng dài, thắt lưng nới lỏng, mũ để bên mình. Mấy người tiến lại.

Arthos đi đầu lặng yên ngắm nghía một lát bộ mặt thanh tao mà tái nhợt khuôn trong mớ tóc đen dài dính vào thái dương bởi mồ hôi của một giấc ngủ thảng thốt, những đường gân xanh to nổi lên như căng đầy nước mắt dưới cặp mắt mệt mỏi.

Arthos buông một tiếng thở dài; tiếng thở dài ấy khiến vua tỉnh dậy đủ biết nhà vua ngủ chập chờn như thế nào.

Vua mở mắt, rồi chống khuỷ tay nhổm người lên và nói:

- A! Bá tước de La Fère đấy à?

- Vâng, thưa Hoàng thượng, - Arthos đáp.

- Ông thức canh chừng trong khi tôi ngủ, và ông mang tin tức gì đến cho tôi phải không?

- Chao ôi! - Arthos đáp. - Hoàng thượng đoán đúng.

- Tin tức xấu, phải không? - Vua rầu rầu mỉm cười và nói.

- Vâng thưa Hoàng thượng.

- Không sao, người mang tin là người được hoan nghênh, vả chẳng bao giờ ông đến tôi mà không làm cho tôi vui lòng. Ông do Henriette cử đến tôi, lòng tận tụy của ông không cần biết đến Tổ quốc đến tai hoạ.

Tin tức mà ông mang đến, dù thế nào đi nữa, ông cứ nói hẳn hoi.

- Thưa Hoàng thượng, ông Cromwell đã đến Newcastle tối nay.

- A! Để đánh tôi chăng? - Vua nói.

- Không đâu, thưa Hoàng thượng, để mua ngài.

- Ông nói gì thế?

- Thưa Hoàng thượng, tôi nói rằng ngài còn nợ quân đội Scotch bốn trăm nghìn livres

- Về tiền lương muộn trả? Phải, tôi biết. Từ gần một năm nay những người Scotch dũng cảm và trung thành của tôi chiến đấu vì danh dự.

Arthos mỉm cười, nói:

- Ấy thưa ngài, dù danh dự là một điều tốt đẹp, họ cũng chán chiến đấu vì nó rồi, và đêm nay họ đã bán ngài lấy hai trăm nghìn livres, tức là một nửa số tiền nợ họ.

- Không thể có chuyện ấy được, - Nhà vua kêu lên - Người Scotch bán vua của họ lấy hai trăm nghìn livres.

- Những người Do Thái rõ ràng đã bán Chúa của họ lấy ba mươi xu.

- Thế tên Judas nào đã làm cái việc mua bán đê mạt ấy?

- Bá tước de Loewen.

- Ông có chắc chắn không?

- Tôi đã nghe điều đó bằng chính tai mình.

Nhà vua buông một tiếng thở dài, dường như trái tim ông tan vỡ và gục đầu vào hai bàn tay mình.

- Ôi Những người Scotch - Ông nói,

- Những người Scotch mà ta gọi là những kẻ trung thành của ta những người Scotch mà ta gửi gắm thân mình khi ta trốn thoát ở Oxford, những người Scotch! Đồng bào của ta, những người Scotch! Anh em của ta! Nhưng ông ơi, ông có thật chắc chắn như thế không?

- Nằm sau tấm lều của bá tước de Loewen và vén rèm lên, tôi đã trông thấy hết cả và nghe thấy hết cả.

- Thế khi nào thì việc mua bán ghê tởm ấy phải hoàn tất?

- Trong buổi sáng ngày hôm nay. Hoàng thượng thấy đấy, không thể chậm trễ được nữa.

- Để làm gì cơ chứ, bởi vì ông nói rằng tôi đã bị bán rồi cơ mà.

- Để vượt qua sông Tyne, để sang đất Scotch, để đến với Lord Montrose, ông ta không bán ngài.

- Tôi sẽ làm gì ở Scotch? Làm một cuộc chiến tranh du kích ư? Một kiểu chiến tranh như vậy chẳng xứng dáng với một ông vua.

- Tấm gương của Robert Bruce(1) còn đó để xá miễn cho ngài.

- Không, không, tôi chiến đấu quá lâu rồi. Nếu chúng muốn bán tôi chúng cứ việc nộp tôi đi, và nỗi hổ nhục muôn đời về sự phản phúc của họ sẽ rơi xuống đầu họ.

- Thưa Hoàng thượng, - Arthos nói,

- Có thể một ông vua phải hành động như vậy, nhưng một người chồng hay một người cha không nên hành động như vậy. Tôi đến đây nhân danh vợ và con gái của ngài, và nhân danh vợ và con gái và hai con nữa của ngài đang còn ở London, tôi xin nói với ngài rằng: Thưa Ngài, Ngài phải sống, Thượng đế muốn như vậy?

Nhà vua đứng dậy, siết chặt dây lưng, gài thanh kiếm, lấy khăn lau mồ hôi trán và nói:

- Vậy thì, phải làm gì bây giờ?

- Thưa ngài, trong tất cả quân đội của ngài có một trung đoàn nào ngài có thể trông cậy không?

- De Winter, - Vua nói, - Ông có tin vào sự trung thành của trung đoàn ông không?

- Thưa Hoàng thượng, đó là những con người, mà những con người dễ trở thành rất yếu đuối hoặc rất độc ác. Tôi tin ở sự trung thành của họ, nhưng tôi không dám bảo đảm, tôi có thể gửi gắm tính mạng tôi cho họ nhưng tôi do dự khi phải gửi gắm họ tính mạng của Hoàng thượng.

- Thế này vậy, - Arthos nói, - không có trung đoàn, chúng ta có ba người tận tụy, thể là đủ. Xin Hoàng thượng hãy lên ngựa, đi ở giữa chúng tôi, chúng ta sẽ vượt qua sông Tyne, sang đất Scotch và chúng ta sẽ thoát.

- Ông có đồng ý như thế không, de Winter? - vua hỏi.

- Có, thưa Hoàng thượng.

- Còn ông hiệp sĩ D Herblay?

- Thưa ngài, tôi đồng ý.

- Vậy thì phải làm theo như các ông đã muốn, de Winter, hãy ra lệnh đi!

De Winter đi ra, trong khi ấy vua sửa sang y phục.

Những tia sáng đầu tiên của ban ngày bắt đầu lọt qua những ô cửa lều, thì de Winter vào.

- Thưa ngài, tất cả đã sẵn sàng, - Ông nói.

- Còn chúng ta? - Arthos hỏi.

- Grimaud và Blaisois đã thắng ngựa xong rồi.

- Thế thì, - Arthos nói, - ta không để mất một phút nào nữa và đi ngay.

- Ta ra đi nào, - Vua nói.

- Thưa ngài, - Aramis nói, - Ngài không bảo cho bè bạn biết à?

- Bạn bè của tôi ư, - Charles I buồn bã lắc đầu nói, - Tôi chẳng còn bạn bè nào khác ngoài ba ông ra. Một người bạn hai mươi năm chẳng bao giờ quên tôi; hai người bạn mà tám ngày tôi sẽ không bao giờ quên. Ta đi thôi, các ông, ta đi thôi.

Vua ra khỏi lều và thấy ngựa của mình đã sẵn sàng. Đó là một con ngựa màu vàng nhạt mà ông cưỡi được ba năm rồi và rất quý mến nó.

Con ngựa trông thấy ông, mừng rỡ hí lên.

- A! - Vua nói, - Ta hơi bất công, còn đây nữa, nếu không phải một người bạn thì ít ra cũng là một sinh vật yêu mến ta. Mày, mày sẽ trung thành với ta phải không, Arthus?

Như hiểu những lời nói đó, con ngựa giơ cái mũi bốc khói đến gần mặt vua và mừng rỡ nhếch mép lên để lộ hàm răng trắng nhơn.

- Phải rồi, phải rồi - Nhà vua lấy hai tay vuốt ve nó và nói, - Tốt lắm, Arthus, ta hài lòng về mày.

Và với cái dáng bộ nhẹ nhàng đã khiến nhà vua nổi tiếng là một trong những kỵ sĩ giỏi nhất châu Âu, Charles nhảy phắt lên mình ngựa, rồi quay lại phía Arthos, Aramis, và de Winter, ông nói:

- Nào, tôi chờ các ông đây.

Nhưng Arthos vẫn đứng yên, mắt đăm đăm và tay giơ về phía một vạch đen men theo bờ sông Tyne và trải ra trên một chiều dài gấp đôi bề dài của doanh trại. Giữa lúc còn đang tranh tối tranh sáng, anh chưa phân biệt được rõ ràng và nói:

- Đường vạch kia là cái gì ấy nhỉ? Hôm qua tôi không trông thấy.

- Chắc là sương mù từ sông bốc lên, - Vua nói.

- Thưa ngài, đó là một cái gì đặc và chắc hơn là hơi nước.

- Đúng vậy - de Winter nói, - Tôi thấy như một hàng rào chắn màu đo đỏ.

- Đấy là quân địch, - Arthos kêu lên, - Chúng từ Newcastle ra và bao vây chúng ta.

- Quân địch, - Vua nói. - Đúng là quân địch. Muộn quá rồi, kia kìa! Bên cạnh thành phố, chỗ có mặt trời, các ông có thấy những sườn sắt lấp lánh không?

Người ta gọi như vậy những lính mặc giáp sắt mà Cromwell trang bị cho các đội cận vệ.

- A! - vua nói, - chúng ta sắp được biết có đúng là những người Scotch của ta phản bội không?

- Ngài làm gì bây giờ? - Arthos hỏi.

- Ra lệnh cho họ công kích và cùng với họ đè bẹp những quân phiến loạn kia.

Và nhà vua thúc ngựa phóng đến lều của bá tước de Loewen.

- Chúng ta hãy đi theo ngài, - Arthos bảo.

- Nào ta đi, - Aramis nói.

- Nhà vua bị thương chăng - de Winter nói, - tôi trông thấy những vết máu trên mặt đất.

Và ông phóng theo hai người bạn. Arthos ngăn ông lại, bảo:

- Ông đi tập hợp trung đoàn ông lại; tôi thấy thế nào chúng ta sẽ cần đến nó.

De Winter quay ngựa lại, còn đôi bạn tiếp tục đi.

Vài giây sau, vua tới lều của viên tướng tổng chỉ huy quân đội Scotch, vua nhảy xuống đất và bước vào.

Viên tướng đang ở giữa các chỉ huy chủ yếu.

- Đức vua? - Họ vừa kêu vừa đứng lên và nhìn nhau với vẻ kinh ngạc.

Charles đứng trước mặt họ, mũ trên đầu, lông mày nhíu lại, ông cầm roi ngựa vụt vào chiếc ủng của mình mà nói:

- Phải rồi các ông ạ, đích thân nhà vua đây; nhà vua đến hỏi các ông về tình hình xảy ra.

- Thưa ngài, có chuyện gì ạ? - Bá tước dờ Loewen hỏi.

Nổi giận đùng đùng, vua nói:

- Có chuyện gì à? Tướng Cromwell đã đến Newcastle đêm qua, các ông biết mà tôi không được thông báo; có chuyện là quân địch ra khỏi thành phố và chặn đường qua sông Tyne, các lính canh ắt phải trông thấy cuộc vận động đó, vậy mà tôi không được thông báo; có chuyện là bằng một hiệp ước hèn hạ, các ông đã bán đứng nhà vua cho nghị viện lấy hai trăm nghìn livres, ít ra là tôi được thông bảo về việc đó. Đấy, những chuyện ấy đấy, các ông ạ. Tôi buộc tội các ông, các ông hãy trả lời hoặc thanh minh đi.

- Thưa Hoàng thượng, - Bá tước de Loewen lắp bắp - Ngài đã lầm vì một báo cáo sai nào đó.

- Chính mắt tôi trông thấy quân đội địch trải ra giũa tôi và xứ Scotch, - Charles I nói, - và hầu như tôi có thể nói rằng chính tai tôi đã nghe bàn luận những điều khoản của cuộc mua bán ấy.

Những viên chỉ huy Scotch đến lượt mình nhíu lông mày lại nhìn nhau.

Hổ thẹn chín người, bá tước de Loewen lẩm bầm:

- Thưa hoàng thượng, chúng tôi sẵn sàng trình với ngài mọi bằng chứng.

- Ta chỉ cần mỗi một bằng chứng thôi, - Vua nói. - Hãy đưa quân đội ra chiến đấu và tiến thẳng đến quân thù.

- Thưa ngài, không thể được?

- Có ai ngăn cản vậy - Charles I quát lên.

- Hoàng thượng biết rằng có đình chiến giữa chúng ta và quân đội Anh, - Bá tước đáp.

- Nếu có đình chiến thì quân Anh cũng phá bỏ nó rồi khi chúng ra khỏi thành phố trái với những điều ước buộc chúng phải ở yên trong thành. Ta đã nói với các ông rằng các ông phải cùng tôi xuyên qua quân địch và trở về Scotch. Nếu các ông không làm như vậy thì được? Hãy chọn lựa giữa hai cái tên nó phân biệt những kẻ đáng khinh bỉ và phỉ nhổ với những con người khác. Hay là các ông là những kẻ hèn nhát, hoặc các ông là những kẻ phản bội?

Mắt của những người Scotch rừng rực lên như ta thường thấy trong những tình huống tương tự. Họ đi từ chỗ cực kỳ hổ thẹn đến chỗ cực kỳ trâng tráo, và hai viên tộc trưởng xông đến bên cạnh nhà vua.

- Thế thì phải đấy, - Họ nói, - Chúng tôi đã hứa giải thoát xứ Scotch và nước Anh khỏi tay những kẻ uống máu và vàng bạc của xứ Anh và Scoch . Chúng tôi đã hứa và chúng tôi giữ lời.Vua Charles Stuart , ông là tù nhân của chúng tôi!

Và cả hai người cùng giơ tay ra để bắt giữ nhà vua.

Nhưng trước khi ngón tay của họ chạm đến người vua thì cả hai đã ngã xuống, một người ngất đi và một người chết.

Arthos đã đập đầu một người bằng báng súng và Aramis đã dùng kiếm đâm xuyên qua thân hình người kia.

Bá tước de Loewen và những chỉ huy khác lùi lại trước sự cứu viện bất ngờ như từ trên trời rơi xuống người mà họ tưởng đã là tù nhân của họ. Nhân đó Arthos và Aramis kéo nhà vua ra khỏi mái lều phản bội mà ông đã mạo hiểm dấn thân mình vào một cách đến là thiếu thận trọng rồi cả ba người phóng ngựa trở về. Họ gặp de Winter dẫn đầu trung đoàn mình đang tiến lại. Vua ra hiệu cho ông đi theo mình.

Chú thích:

(1) Vua, người Norman, lánh sang xứ Scotch và liên minh với hoàng gia xứ này.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

CHương 58

Lễ phục thù

Bốn người đi vào trong lều. Thực tế chưa có một kế hoạch hành động nào phải quyết định ngay một kế mới. Nhà vua buông mình xuống chiếc ghế bành và nói.

- Tôi thất bại rồi.

- Không đâu, thưa Ngài, - Arthos nói, - Ngài chỉ bị bội phản thôi.

Vua buông một tiếng thở dàỉ.

- Bị phản bội, bị phản bội bởi những người Scotch mà tôi đã sinh ra giữa lòng họ, mà tôi bao giờ cũng ưu ái hơn người Anh. Ôi! Bọn khốn khiếp!

- Thưa ngài, bây giờ không phải là lúc trách móc mà là lúc tỏ ra ngài là vua và nhà quý tộc. Đứng lên, ngài hãy đứng lên? Vì rằng ở đây ít ra ngài cũng có ba người sẽ không phản bội ngài, ngài có thể yên tâm! A! Nếu như chúng ta có tới năm người. - Arthos lẩm bẩm, nghĩ đến d Artagnan và Porthos.

- Ông nói gì vậy? - Charles đứng lên và hỏi.

- Thưa ngài, tôi nói rằng chỉ còn có một cách. Milord de Winter chịu trách nhiệm về trung đoàn của ông hoặc na ná như vậy, ta không tranh cãi về chữ nghĩa; ông dẫn đầu quân của ông; chúng tôi đi bên cạnh Hoàng thượng; chúng ta chọc thủng những chỗ trong quân đội của Cromwell và chúng ta sẽ đi sang Scotch.

- Còn một cách nữa, - Aramis nói - đó là một người trong chúng ta mặc quần áo và cưỡi ngựa của vua, trong khi quân địch bám theo người ấy, nhà vua có lẽ đi thoát.

- Ý kiến hay lắm - Arthos nói, - và nếu Hoàng thượng muốn ban vinh dự đó cho một người trong số chúng tôi, chúng tôi sẽ rất biết ơn.

- Ông thấy lời khuyên ấy thế nào, de Winter? - Vua nói và nhìn với vẻ khâm phục hai người kia mà sự bận tâm duy nhất là chọn cho mình những nỗi nguy hiểm đe doạ nhà vua.

- Thưa Hoàng thượng, nếu như có một cách đề cứu vua thì đó chính là kiến nghị mà ông D Herblay vừa mới đề ra. Cho nên chúng tôi tha thiết xin Hoàng thượng lựa chọn ngay vì chúng ta không còn thì giờ nữa.

- Nhưng nếu tôi chấp nhận, thì đó là cái chết, ít ra cũng là một người tù tội đối với người đóng vai tôi.

- Đó là niềm vinh dự đã cứu được vua của mình! - de Winter nói.

Nhà vua nước mắt lưng tròng nhìn người bạn già của mình, tháo dải huy chương Thánh linh mà ông đã đeo để nghênh tiếp hai người Pháp đi theo mình và quàng vào cổ de Winter đang quỳ xuống để nhận cái dấu hiệu kinh khủng của tình thân hữu và lòng tin cậy của vua mình.

- Thật là chính đáng, - Arthos nói, - Ông ấy phụng sự lâu hơn chúng ta nhiều.

Nghe vậy, nhà vua quay lại nhìn rưng rưng nước mắt và nói:

- Các ông hãy đợi một lát, tôi vẫn còn hai dải huân chương để ban cho các ông.

Rồi ông đến chỗ cái tủ huân chương của chính mình lấy ra hai dải huân chương Jarretière.

Arthos vội nói:

- Những huân chương này không thể dành cho chúng tôi.

- Tại sao vậy ông? - Charles hỏi.

- Những huân chương này hầu như chỉ dành cho những bậc vương hầu mà chúng tôi chỉ là những nhà quý tộc bình thường.

- Ông thử điểm qua tất cả những ngai vàng có mặt trên mặt đắt này, - Nhà vua nói, - Và tìm xem có những trái tim nào lớn hơn trái tim của các ông không. Không, không, các ông không thừa nhận giá trị của mình nhưng tôi đây, tôi công nhận nó. Hãy quỳ xuống, bá tước.

Arthos quỳ xuống vua quàng cho anh giải huân chương từ trải qua phải như thường lệ và nâng thanh kiếm lên, rồi đáng lẽ dùng câu nói thường lệ: "Trẫm tặng thưởng huân chương này cho khanh, khanh hãy dũng cảm, trung thành và chính trực", thì vua nói:

- Ông bá tước, ông dũng cảm, trung thành và chính trực, tôi tặng thưởng huân chương này cho ông.

Rồi ông quay sang phía Aramis, vua bảo:

- Ông hiệp sỹ, đến lượt ông.

Và nghi thức cũng lại bắt đầu với những lời như vậy, trong khi de Winter nhờ các giám mã cởi chiếc áo giáp đồng đang mặc ra để trông giống vua hơn.

Trao huân chương cho Aramis xong, vua ôm hôn cả Aramis và Arthos.

Đứng trước một tấm gương tận tụy lớn lao như vậy, de Winter lấy lại mọi sức lực và can đảm của mình và nói:

- Thưa Hoàng thượng chúng tôi đã sẵn sàng.

Nhà vua nhìn ba người quý tộc và hỏi:

- Như vậy ta phải chạy trốn à?

- Thưa Hoàng thượng, - Arthos nói, - Đi trốn xuyên qua một đội quân, ở khắp các nước trên thế giới coi là công kích.

- Như vậy, - Charles nói - ta sẽ cầm kiếm ở trong tay mà chết.

- Ông bá tước, ông hiệp sỹ ơi, nếu như có bao giờ tôi còn là vua...

- Thưa Hoàng thượng, ngài đã ban vinh dự cho tôi nhiều hơn là thuộc về nhưng người quý tộc bình thường, như vậy chúng tôi mới là người mang ơn.

- Nhưng thôi ta đừng để mất thì giờ, vì ta đã để mất khá nhiều rồi đó.

Nhà vua bắt tay lần cuối cùng cả ba người, đổi mũ với de Winter, rồi đi ra.

Trung đoàn của de Winter đứng trên một nền đất cao vượt doanh trại, vua cùng với ba người bạn đi ra đó.

Doanh trại lính Scotch như đã tỉnh giấc hắn; mọi người ra khỏi lều và đến xếp hàng như để đi chiến đấu.

- Nhìn xem, - vua nói - Phải chăng họ hối hận và sẵn sàng ra trận.

- Thưa Hoàng thượng, - Arthos nói, - Nếu họ hối hận thì họ sẽ đi theo chúng ta.

- Được - vua nói, - Ta làm gì bây giờ?

- Ta hãy xem xét quân đội địch, - Arthos nói.

Cả nhóm người đều dán mắt vào cái vạch thẳng mà lúc tảng sáng họ tưởng là sương mù và bây giờ những tia nắng đầu tiên tố giác là một đạo quân bố trí chiên đấu. Không khí trong lành như thường thấy vào lúc sớm tinh mơ này. Người ta phân biệt rõ ràng những trung đoàn, những lá cờ và đến cả màu sắc các binh phục và ngựa.

Lúc ấy Arthos trông thấy trên một ngọn nhỏ hơi nhô ra phía trước phòng tuyến địch, xuất hiện một người dáng thấp, đậm và nặng nề. Người ấy đứng giữa mấy sỹ quan và đang chĩa ống nhòm sang nhóm người có vua đứng.

- Người ấy, - Aramis nói, - Có quen biết Hoàng thượng không?

Charles mỉm cười, nói:

- Người ấy là Cromwell.

- Vậy thì ngài hãy sụp mũ xuống để ông ta khỏi nhận ra sự thay thế.

- Ôi, - Arthos nói, - Chúng ta đã mất nhiều thì giờ rồi.

- Vậy thì, - Vua nói, - Ban mệnh lệnh và ta đi thôi.

- Ngài ra lệnh chứ? - Arthos hỏi.

- Không, tôi phong ông làm trung tướng, - Vua nói.

- Vậy thì, - Arthos nói, hãy nghe đây, Milord de Winter, thưa Hoàng thượng, xin ngài hãy đứng xa ra; điều chúng tôi sắp nói ra đây không liên can đến Hoàng thượng.

Vua mỉm cười và lùi lại ba bước.

- Tôi đề nghị như thế này, - Arthos nói. - Ta chia trung đoàn của ta ra làm hai đội kỵ binh ông dẫn đầu đội thứ nhất, Hoàng thượng và chúng tôi dẫn đầu đội thứ hai. Nếu không có gì đến cản trở lối đi của chúng ta, thì tất cả chúng ta cùng công kích để chọc thủng phòng tuyến địch và ta sẽ nhảy xuống sông Tyne, rồi lội hoặc bơi qua. Trái lại nếu quân địch ngăn cản chúng ta trên đường, thì ông và quân của ông hãy liều chết cho đến người cuối cùng; còn chúng tôi và vua tiếp tục tiến theo đường của mình. Một khi chúng tôi tới bờ sông, nếu đội kỵ binh của ông làm tròn nhiệm vụ của mình thì dù địch có đông dày đến ba hàng chúng tôi cũng đánh bằng được.

- Lên ngựa! - Winter nói.

- Lên ngựa! - Arthos nói, - mọi việc đã được tính trước và quyết định rồi.

- Vậy thì, - vua nói, - Các ông tiến lên! Và ta sẽ tập hợp nhau lại bằng mật khẩu xưa kia của Pháp: Montjoie và Saint-Denis! Tiếng kêu của nước Anh bây giờ đang được nhắc lại bởi quá nhiều kẻ phản bội.

Mấy người lên ngựa, vua lên ngựa của de Winter, de Winter lên ngựa của vua, rồi de Winter đứng lên hàng đầu của đội kị binh thứ nhất vua với Arthos bên phải và Aramis bên trái, đứng lên hàng đầu đội kỵ binh thứ hai.

Tất cả quân đội Scotch nhìn những sự chuẩn bị đó, với sự bất động và im lặng của nỗi hổ thẹn.

Có mấy viên chỉ huy đi ra khỏi hàng ngũ và bẻ gãy gươm kiếm của mình.

- Hay! - Vua nói, - Điều đó an ủi ta không phải tất cả họ là phản bội.

Lúc ấy tiếng de Winter vang lên, ông hô:

- Tiến lên!

Đội kỵ binh thứ nhất chuyển động, đội thứ hai nối theo và đi xuống khỏi nền đất cao.

Một trung đoàn giáp sĩ địch quân số gần bằng bên này đang triển khai từ phía sau ngọn đồi và rạp ngựa phóng sang nghinh chiến.

Vua chỉ sang Arthos và Aramis xem diễn biến đó.

- Thưa ngài, - Arthos nói, - Trường hợp này đã được tính trước, nếu như quân sĩ của de Winter làm nhiệm vụ của mình, thì sự kiện này sẽ cứu chúng ta, chứ không phải làm hại chúng ta.

Giữa lúc ấy vượt lên tất cả tiếng ngựa phi ngựa hí, tiếng de Winter vang lên:

- Tuốt kiếm ra tay!

Nghe mệnh lệnh ấy tất cả các thanh kiếm tuốt ra khỏi vỏ như những ánh chớp.

Say sưa vì tiếng ồn ào và quang cảnh đó, vua cũng hô lên:

- Nào, các ông tuốt kiếm ra tay.

Nhưng nghe mệnh lệnh ấy mà vua làm gương, chỉ có Arthos và Aramis tuân theo.

- Chúng ta bị phản bội rồi, - Vua nói nhỏ.

- Khoan đã, Arthos nói. - Có lẽ họ không nhận ra tiếng hoàng thượng và đợi mệnh lệnh của viên chỉ huy đội của họ.

Họ lại không nghe thấy mệnh lệnh của đại tá họ hay sao! Nhưng xem kìa!- Vua kêu lên và ghìm ngựa đứng phắt lại khiến nó khuỵu chân xuống và vua phải túm lấy dây cương ngựa của Arthos.

- A! a, đồ khốn mạt! Đồ phản trắc! - de Winter la lên trong khi quân của ông rời hàng ngũ chạy tản mác ra ngoài cánh đồng.

Chỉ có khoảng mười lăm người ở lại quanh ông và đợi chờ cuộc công kích của đội giáp sĩ của Cromwell.

- Ta hãy ra cùng chết với họ - Vua nói.

- Ta cùng chết! - Arthos và Aramis cùng nói.

- Tất cả những trái tim trung thành hãy đến với tôi! - de Winter hô to.

- Tiếng hô đó vang đến tai đôi bạn, họ phóng vút ngựa lên.

- Không dung tha! - Một lời hô bằng tiếng Pháp bỗng vang lên đáp lại lời hô của de Winter một giọng nói khíển họ rùng mình.

Còn de Winter nghe giọng nói đó tái người đi và như hoá đá.

Gíọng nói ấy là của một kị sĩ cưỡi trên một con tuấn mã màu đen, dẫn đầu một trung đoàn Anh mà trong khi công kích thật hăng hái anh ta đã vượt trước đến mười bước.

- Chính hắn? - de Winter lẩm bẩm, mắt nhìn trân trân và buông thõng thanh kiếm bên mình. Trông thấy dải huân chương màu lơ và con ngựa màu vàng nhạt của de Winter, nhiều người đã lầm lẫn và kêu:

- Vua! Vua.

- Không phải, không phải vua đâu!- Người kỵ sĩ nọ kêu lên - Đừng có lầm lẫn. Có phải không, Milord de Winter, rằng ông không phải là vua? Có phải ông là bác của tôi không?

Và cùng lúc ấy, Mordaunt, vì chính là hắn chĩa nòng súng ngắn vào de Winter, súng nổ, viên đạn xuyên qua ngực của vị quí tộc già khiến ông nảy bật người trên yên và ngã vào trong tay Arthos.

Ông lẩm bầm:

- Kẻ phục thù!

- Mi hãy nhớ đến mẹ ta - Mordaunt vừa hét lên vừa nhảy băng qua do ngựa phóng quá đà.

- Đồ khốn kiếp! - Aramis vừa kêu vừa nã một phát súng gần như sát đầu nòng vào Mordaunt do hắn đi sát gần anh; nhưng chỉ có kíp nổ còn đạn xịt.

Lúc ấy cả trung đoàn địch xông vào đoàn người đã chống cự.

Hai người Pháp bị vây quanh dồn ép, bao trùm. Sau khi biết chắc là de Winter chết, Arthos buông xác ông ta tuốt kiếm và bảo bạn.

- Nào, Aramis, vì danh dự của nước Pháp.

Và hai lính Anh ở sát gần hai nhà quí tộc ngã gục ngay xuống bị đánh tử thương.

Ngay lúc ấy một tiếng hò la khủng khiếp vang lên và ba chục lưỡi kiếm lấp lánh trên đầu họ.

Bỗng nhiên một người lao ra từ giữa hàng ngũ quân Anh mà anh ta xô đẩy và nhảy bổ vào Arthos, ôm chặt lấy anh bằng đôi tay gân guốc của mình, giằng lấy thanh kiếm của anh và nói vào tai anh:

- lm lặng! Đầu hàng đi! Đầu hàng tôi tức là không đầu hàng.

Một người khổng lồ cũng nắm lấy hai cổ tay Aramis và ôm chặt lấy anh khiến anh cố vùng vẫy mà không thoát ra được.

- Đầu hàng đi! - Người ấy nói và nhìn anh chằm chặp.

Aramis ngẩng đầu lên và Arthos quay lại:

D art..., - Arthos vừa kêu lên thì bị chàng Gascon bịt chặt lấy miệng:

- Tôi xin hàng? - Aramis vừa nói vừa đưa thanh gươm cho Porthos.

- Bắn! Bắn! - Mordaunt trở lại chỗ đôi bạn và hô.

- Tại sao lại bắn? - Viên đại tá nói, - Tất cả mọi người đều đầu hàng rồi.

- Con trai của Milady, - Arthos bảo d Artagnan.

- Tôi đã nhận ra nó.

- Tên mục sư đấy, - Porthos bảo Aramis.

- Tôi biết rồi.

Cùng lúc ấy, các hàng ngũ bắt đầu dãn mở ra.

D Artagnan cầm lấy cương ngựa Arthos, và Porthos cầm cương ngựa Aramis. Mỗi người cố đưa tù binh của mình ra xa bãi chiến trường.

Cuộc chuyển dịch ấy để lộ nơi de Winter đã ngã xuống. Với bản năng thù hằn, Mordaunt đã tìm lại ông, từ trên lưng ngựa cúi xuống nhìn ông với một nụ cười khả ố.

Arthos vốn điểm tĩnh là thế, thò tay vào bao súng hãy còn súng.

- Anh làm gì thế? - D Artagnan hỏi.

- Hãy để tôi giết nó.

- Không được có một cử chỉ nào khiến người ta có thể cho rằng anh biết nó, nếu không thì cả bốn chúng ta cùng đi đời.

Rồi quay về phía gã thanh niên, anh nói:

- Bắt được món bở! Ông bạn Mordaunt này, bắt được món bở!

- Ông du Vallon và tôi mỗi người đều có một tù binh: những người được tặng huân chương Jarretière.

Mordaunt nhìn Arthos và Aramis bằng cặp mắt đỏ ngàu và nói:

- Nhưng mà tôi thấy hình như đây là những người Pháp.

- Thực tình tôi chẳng biết gì cả, - D Artagnan nói và hỏi Arthos - Ông là người Pháp phải không?

- Đúng, tôi là người Pháp, - Arthos trịnh trọng đáp.

- Thế thì ông bạn thân mến ơi. Ông đang là tù binh của người đồng quốc đấy.

- Nhưng vua đâu? - Arthos băn khoăn hỏi - Vua đâu?

- Ê! Chúng tôi bắt giữ vua rồi.

- Phải, - Aramis nói, - Bằng một sự phản bội đê hèn.

Porthos bấm tay bạn và mỉm cười nói:

- Ồ, thưa ông, chiến tranh tiến hành bằng cả vũ lực lẫn sự khôn ngoan. Trông kìa!

Quả nhiên lúc ấy người ta trông thấy đội kỵ binh phải bảo vệ cuộc rút chạy của Charles đang tiến ra đón trung đoàn Anh; họ quây quanh vua đang đi bộ một mình trong khoảng trống. Ông hoàn trông bình thản, nhưng người ta thấy rõ ông đã phải chịu đựng đau khổ như thế nào để tỏ ra bình thản; vì vậy mồ hôi chảy ròng ròng trên trán ông và ông lau thái dương và môi ông bằng một chiếc khăn tay cứ mỗi lần khăn rời khỏi miệng lại thấy nhuộm máu.

- Đây là Nabuchodonosor(1)! - Một giáp sĩ cựu thanh giáo của Cromwell trông thấy kẻ mà người ta gọi là bạo chúa kêu lên.

- Ông nói gì vậy, Nabuchodonosor à? - Mordaunt nói với một nụ cười ghê rợn. - Không đâu, đây là vua Charles I, ông vua Charles tử tế đã tước đoạt của các thần dân để thừa hưởng.

Charles ngước mắt nhìn xem kẻ láo xược nào nói như vậy, nhưng không nhận ra hắn. Tuy nhiên vẻ uy nghiêm bình thản và sùng tín của gương mặt ông khiến mắt của Mordaunt phải cụp xuống.

Nhìn thấy hai người bạn quí tộc, một ở trong tay d Artagnan, một ở trong tay Porthos, vua nói:

- Xin chào các ông! Ngày hôm nay tệ hại quá, nhưng ơn Chúa, không phải lỗi tại các ông. Ông bạn già de Winter của tôi đâu?

Hai người quí tộc quay đầu lại và im lặng.

- Hãy tìm xem Straffordd đâu(2) ở đâu, - Mordaunt nói bằng cái giọng the thé.

Charles rùng mình: tên quỷ sứ đã đánh trúng. Strafford là nỗi ân hận đời đời, là bóng đen ban ngày, là ma quái ban đêm của ông: Vua nhìn xung quanh và thấy một xác chết dưới chân mình, đó là de Winter.

Charles không kêu một tiếng, không rỏ một giọt nước mắt, song mặt ông tái nhợt hẳn. Ông quỳ một chân xuống đất, nâng đầu de Winter dậy và hôn lên trán. Rồi tháo dải huân chương Thánh linh mà ông đã quàng vào cổ bạn, ông thành kính đặt lên ngực mình.

- De Winter bị giết rồi à? - D Artagnan dán mắt vào xác chết và hỏi.

- Ừ, bởi tay thằng cháu ông ấy, - Arthos nói.

- Ồ, thế thì người đầu tiên trong chúng ta ra đi, - D Artagnan lẩm bẩm, - Đó là một con người dũng cảm, cầu cho ông được yên nghỉ.

Vua vừa mới lấy lại những huy hiệu của vương vị xong, thì viên đại tá chỉ huy trung đoàn tiến lại và bảo:

- Charles Stuart, tù binh của chúng tôi, có đầu hàng không?

- Đại tá Thomlison, - Charles nói, - Nhà vua không đầu hàng đâu; con người nhượng bộ trước vũ lực, có thế thôi.

- Đưa gươm đây.

Vua rút thanh gươm ra và tì vào đầu gối mà bẻ gẫy.

Lúc ấy một con ngựa không người cưỡi, mép sùi bọt, mũi hếch ra, chạy tới. Nhận ra chủ, nó đứng lại bên ông và mừng rỡ hí vang; đó là con Arthus.

- Nào các ông hãy dẫn tôi đi, tuỳ các ông đi đâu thì đi.

Rồi vội vàng quay đầu lại, ông nói:

- Khoan đã, hình như Winter cựa quậy, nếu ông ta còn sống, thì vì những điều thiêng liêng nhất mà các ông còn có trong lòng, chớ nên bỏ vị quý tộc cao thượng ấy.

- Ồ, hãy yên trí, vua Charles ạ, - Mordaunt nói, - Viên đạn đã xuyên qua tim.

D Artagnan vội bảo Arthos và Aramis:

- Đừng nói một lời nào, đừng có một cử chỉ nào, đừng nhìn sang Porthos, vì rằng Milady không chết, và linh hồn mụ ta đang sống trong thể xác thằng quỷ sứ kia!

Phân đội kỵ binh tiến về thành phố, mang theo chiến lợi phầm đế vương; nhưng đi được nửa đường thì một phụ tá của tướng Cromwell mang lệnh đến bảo đại tá Thomlison dẫn vua đến Holdenby-Castle.

Đồng thời những người liên lạc phóng đi tất cả các ngả đường để báo tin cho nước Anh và tất cả châu Âu rằng Charles Stuart đã là tù binh của tướng Olivier Cromwell.

Chú thích:

(1) vua xứ Babylone từ 605 đến 562 trước C.N., đã mở nhiều cuộc hành quân chống Ai Cập, Liđi, xâm lấn Ả Rập, phá huỷ vương quốc của Juyđa cùng kinh đó là Jêrudalem

(2) Tể tướng Anh, sủng thần của vua, bị nghị viện xử tử mà vua Charles I không dám can thiệp.

hết

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 59

Olivier Cromwell

- Các ông có đến chỗ tướng quân không? - Mordaunt hỏi d Artagnan và Porthos. - Các ông biết đấy, ngài triệu các ông tới sau công việc này.

- Trước hết, - D Artagnan nói - chúng tôi đưa tù binh của chúng tôi đến nơi an toàn. Ông có biết rằng những nhà quí tộc ấy đáng giá mỗi người một nghìn năm trăm pistol không?

Mordaunt cố kiềm chế mà vẻ hung dữ vẫn bật ra trong ánh mắt khi hắn nhìn hai người kia mà nói:

- Ồ cứ yên trí, các kỵ sĩ của tôi sẽ canh giữ họ và canh giữ cẩn thận là khác; tôi xin bảo đảm với các ông về họ.

- Tự tôi canh giữ còn cẩn thận hơn, - D Artagnan nói, - Vả chăng, cần cái gì nào; một căn phòng với những người canh gác, hay là lời nói đơn giản hơn rằng họ không tìm cách chạy trốn đâu.

- Tôi sẽ thu xếp việc này, rồi chúng tôi sẽ có vinh dự đến trình diện tướng quân và hỏi ngài xem có điều gì chuyển đến Các hạ của chúng tôi không.

- Thế các ông định ra đi ngay à? - Mordaunt hỏi.

- Sứ mệnh của chúng tôi đã hoàn thành, chẳng có gì giữ chúng tôi ở lại nước Anh nữa, ngoài hảo ý của con người vĩ đại mà chúng tôi được phải đến.

Gã thanh niên cắn môi và ghé vào tai viên đội mà nói:

- Ông hãy theo dõi những người này thật sát, khi nào biết rõ họ ở đâu ông hãy đến đợi tôi ở cổng thành.

Viên đội ra hiệu tuân lệnh.

- Thế rồi, đáng lẽ đi theo đám tù binh bị dẫn vào thành phố, Mordaunt đi về phía ngọn đồi nơi Cromwell đã xem trận đánh và vừa mới sai dựng lều cho mình.

Cromwell đã cấm không để cho ai vào chỗ mình; nhưng người lính canh biết rõ Mordaunt là một trong số những người thân tín nhất của vị tướng, nên nghĩ rằng lệnh đó không nhằm anh tả.

Thế là Mordaunt vạch tấm rèm cửa lều và trông thấy Cromwell ngồi trước một cái bàn tì mặt vào hai bàn tay và quay lưng lại.

Chẳng biết ông có nghe tiếng Mordaunt đi vào không, những Cromwell không ngoảnh lại. Mordaunt đứng lại gần cửa.

Cuối cùng, sau một lát, Cromwell ngẩng vầng trán nặng nề lên và linh cảm như thấy ai đó, ông thong thả quay đầu lại. Trông thấy gã thanh niên, ông báo:

- Tôi đã bảo là tôi muốn ngồi một mình cơ mà?

- Thưa ngài, tôi tưởng điều ngăn cấm đó không nhằm vào tôi, - Mordaunt nói, - Tuy nhiên, nếu ngài ra lệnh, tôi sẵn sàng đi ra ngay.

- A, ông đấy à, Mordaunt! - Cromwell nói, như bằng sức mạnh của ý chí mình, vén tấm màn đang che cặp mắt ông - Vì ông đã đến đây, tốt thôi, hãy ở lại.

- Tôi xin dâng ngài những lời chúc mừng của tôi - Mordaunt nói.

- Những lời chúc mừng của ông? Về việc gì?

- Về việc bắt được Charles Stuart. Bây giờ ngài là chúa tể của nước Anh.

- Tôi còn hơn thế nữa kia, cách đây hai tiếng đồng hồ, - Cromwell nói.

- Thế là thế nào, thưa tướng quân?

- Nước Anh đã cần đến tôi để bắt tên bạo chúa, bây giờ tên bạo chúa đã bị bắt. Ông có trông thấy hắn không?

- Thưa ngài, có ạ.

- Thái độ hắn thế nào.

Mordaunt ngập ngừng, rồi chân lý như tự bật ra khỏi miệng hắn:

- Bình thản và đường hoàng.

- Hắn nói gì?

- Vài câu từ biệt bạn bè.

"Bạn bè à? - Cromwell lẩm bẩm, - Thì ra hắn, hắn cũng có bạn bè"?

Rồi cao giọng:

- Có chống cự không?

- Thưa ngài không, hắn ta bị mọi người bỏ rơi, trừ ba bốn người; cho nên hắn không có cách gì chống cự.

- Hắn nộp gươm cho ai?

- Hắn không nộp mà bẻ gẫy.

- Hắn ta làm thế là hay; nhưng đáng lẽ đừng bẻ mà để dùng thì hay hơn và có lợi hơn.

Một lát im lặng.

Rồi Cromwell nhìn chằm chằm Mordaunt và hỏi:

- Hình như viên đại tá chỉ huy trung đoàn đứng bảo vệ cho nhà vua, cho Charles, bị giết rồi phải không?

- Phải đó, thưa ngài.

- Bị ai giết? - Cromwell hỏi.

- Tôi ạ.

- Tên ông ta là gì?

- Lord de Winter.

- Bác của ông ư? - Cromwell kêu lên.

- Bác của tôi - Mordaunt nói, - Những kẻ phản bội nước Anh không phải họ hàng nhà tôi.

Cromwell trầm ngâm một lắt, nhìn gã thanh niên kia, rồi với một nỗi u buồn sâu sắc mà Shakespeare miêu tả thật tài tình; ông nói:

- Mordaunt, ông là một bộ hạ ghê gớm.

- Khi Chúa đã ra lệnh, - Mordaunt nói, - Không có gì phải mặc cả với mệnh lệnh của Người. Abraham đã giơ dao lên đầu Isaac, mà Isaac là con trai của ông ta.

- Phải, - Cromwell nói, - Nhưng Chúa đã không để hoàn thành sự hy sinh ấy.

- Tôi đã nhìn xung quanh tôi, - Mordaunt nói, - Và tôi chẳng nhìn thấy dê lớn dê con đứng lại trong các bụi cây ngoài cánh đồng.

Cromwell nghiêng mình nói:

- Mordaunt, ông là kẻ dũng mãnh trong số những kẻ dũng mãnh.

- Thế còn mấy người Pháp họ xử sự thế nào.

- Như những người nghĩa hiệp.

- Phải rồi, phải rồi, - Cromwell lẩm bẩm. - Những người Pháp chiến đấu tốt và quả thật nếu ống nhìn thấy của tôi tốt, hình như tôi đã trông thấy họ ở hàng đầu.

- Đúng là họ ở hàng đầu.

- Tuy nhiên còn sau ông, - Cromwell nói.

- Đó là lỗi tại những con ngựa của họ, chứ không phải tại họ.

Lại im lặng một lát.

- Thế còn bọn Scotch?

- Họ đã giữ lời cam kết, - Mordaunt đáp, - Và án binh bất động.

- Bọn khốn nạn! - Cromwell lẩm bẩm.

- Sĩ quan của họ xin gặp ngài, - Mordaunt nói.

- Tôi không có thì giờ. Đã trả tiền họ chưa?

- Đêm nay ạ.

- Họ nói hãy đi đi, hãy trở về núi non của họ mà che giấu nỗi sỉ nhục của họ, nếu như núi non đủ cao đề che giấu; tôi chẳng có việc gì với họ nữa và họ cũng chẳng có việc gì với tôi nữa. Và bây giờ hãy đi đi, Mordaunt.

- Trước khi ra đi, - Mordaunt nói, - Thưa chủ soái tôi có mấy điều muốn hỏi và một điều muốn cầu xin ngài.

- Với tôi ư?

Mordaunt cúi mình và nói:

- Tôi đến với ngài, vị anh hùng của tôi, người che chở tôi, người cha của tôi, và tôi xin nói: Thưa chủ soái, ngài có hài lòng về tôi không?

Cromwell ngạc nhiên nhìn anh ta.

Gã thanh niên vẫn thản nhiên.

- Có, - Cromwell nói, - Từ khi biết ông, tôi thấy ông không những đã làm nhiệm vụ của mình, mà còn làm hơn thế nữa; ông là người bạn trung thành, người thương lượng khôn khéo, người lính dũng cảm.

- Ngài có nhớ rằng, tôi là người đầu tiên đưa ra ý kiến thương lượng với bọn Scotch về việc bỏ rơi vua của họ

- Phải, ý kiến ấy là của ông, đúng thế. Tôi đã chưa đẩy lòng khinh bỉ những con người đi tới chỗ ấy.

- Tôi có phải sứ giả tốt khi sang Pháp không?

- Phải, và tôi đã đạt được những gì tôi yêu cầu ở Mazarin.

- Có phải tôi đã luôn luôn chiến đấu hăng hái vì quang vinh và lợi ích của ngài không?

- Có lẽ quá hăng hái là khác, và đó là điều tôi đã khiển trách ông lúc nãy. Nhưng mà ông muốn đi tới đâu với tất cả những câu hỏi?

- Thưa chúa công, để thưa với ngài rằng đã đến lúc chỉ cần một lời nói của ngài có thể thưởng công cho tất cả mọi việc phụng sự của tôi.

- A! - Olivier nói với một cử chỉ hơi khinh thị, - Đúng đấy tôi quên rằng mọi việc phục vụ đều cần được thù lao, ông đã phục vụ tôi và chưa được đền bù.

- Thưa ngài, tôi có thể được đền bù ngay bây giờ và vượt cả những điều tôi mong ước.

- Thế là thế nào?

- Tôi đã có phần thưởng trong tầm tay và hầu như tôi đã nắm được.

- Phần thưởng gì vậy? - Cromwell hỏi. - Người ta đã hiến vàng cho ông ư? Ông yêu cầu một cấp bậc chăng? Hay là ông muốn cai trị một vùng?

- Thưa ngài, ngài có chấp nhận điều thỉnh cầu của tôi không ạ?

- Phải xem đó là cái gì đã chứ!

- Thưa ngài, khi ngài bảo tôi: Hãy thực hiện một mệnh lệnh, có bao giờ tôi trả lời: Hãy xem mệnh lệnh gì nào?

- Nếu như điều mong ước của ông không thể nào thực hiện được thì sao?

- Khi ngài có một điều mong muốn và giao cho tôi phải hoàn thành, có bao giờ tôi đáp lại rằng: Không thể nào thực hiện được.

Nhưng một yêu cầu gì mà phải rào trước đón sau đến thế.

- A, xin ngài cứ yên tâm, - Mordaunt nói với vẻ đơn giản - nó chẳng làm ngài phá sản đâu.

- Thôi này, - Cromwell nói, - Tôi hứa sẽ chấp nhận yêu cầu của ông chừng nào nó ở trong quyền hạn của tôi. Nói đi.

- Thưa ngài, - Mordaunt đáp, - Sáng nay người ta bắt được hai tủ binh, ngài cho tôi xin hai người đó.

- Chắc là họ dạm tiền chuộc lớn lắm phải không? - Cromwell nói.

- Trái lại, thưa ngài, tôi chắc rằng họ nghèo.

- Thế họ là bạn bè của ông à?

- Vâng, thưa ngài, - Mordaunt reo lên. - Đó là bạn của tôi, bạn thân thiết mà tôi có thể hy sinh tính mạng của tôi cho họ.

- Được, Mordaunt ạ, - Cromwell nói, với một cử chỉ vui vẻ ông lấy lại được quan niệm tốt hơn về người thanh niên. - Được, tôi cho anh, tôi cũng chẳng muốn biết họ là những ai; đấy anh muốn làm gì họ thì làm.

- Xin cảm ơn ngài, - Mordaunt reo lên. - Xin cảm ơn ngài! Sinh mạng tôi nay thuộc về ngài, và nếu có mất nó đi, tôi vẫn còn chịu ơn ngài, xin cảm ơn, ngài vừa mới trả công cho tôi thật hậu hĩ.

Và hắn quỳ xuống chân Cromwell. Vị tướng thanh giáo không muốn hoặc làm ra bộ không muốn để người ta bày tỏ kính lễ với mình như đối với nhà vua, ông không chịu nhưng gã thanh niên cứ nắm lấy tay ông mà hôn.

Khi hắn đứng lên, Cromwell ngăn lại và hỏi:

- Sao? Thế không xin những phần thưởng khác à? Không xin vàng bạc ư? Không xin cấp bậc ư?

- Thưa chúa công, ngài đã cho tôi tất cả những gì ngài có thể cho được, và kể từ ngày hôm nay, tôi coi như ngài hết nợ với tôi rồi.

Và Mordaunt lao ra khỏi lều của vị tướng với một nỗi vui mừng tràn ngập cả trái tim và đôi mắt của mình.

Cromwell nhìn theo. Ông lẩm bẩm:

- Hắn đã giết chết bác hắn! Chao ôi! Những bộ hạ của ta là những của gì thế này? Tên này không đòi hỏi gì hoặc làm như không đòi hỏi gì, có lẽ trước Thượng đế hắn đã yêu cầu nhiều hơn cả những kẻ sẽ đến đòi hỏi vàng bạc, các tỉnh thành và bánh ăn của những người cùng khổ; chẳng có kẻ nào phụng sự ta không công. Charles I là tù binh của ta có lẽ còn có bạn bè, còn ta, ta chẳng có bạn bè nào cá.

Và thở dài, ông lại tiếp tục nỗi trầm ngâm bị Mordaunt ngắt quãng.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 60

Những người quý tộc

Trong khi Mordaunt đi về phía lều của Cromwell, thì d Artagnan và Porthos dẫn tù binh của anh đến ngôi nhà mà người ta thu xếp cho các anh ở tại Newcastle.

Việc Mordaunt dặn dò viên đội không thoát khỏi mắt chàng Gascon: cho nên anh cũng đưa mắt dặn dò Arthos và Aramis hết sức thận trọng. Vì vậy Arthos cứ lặng lẽ đi bên cạnh những người chiến thắng; điều đó cũng chẳng khó vì mỗi người đã có bao nhiêu điều phải suy nghĩ và giải đáp.

Nếu như có người phải kinh ngạc thì đó là Mousqueton, khi đứng ở ngưỡng cửa, hắn trông thấy bốn người bạn đang đi. Có viên đội và khoảng một chục người đi kèm. Hắn giụi mắt không thể tin đó là Arthos và Aramis, nhưng rồi hắn buộc phải thừa nhận sự thật hiển nhiên. Cho nên hắn sắp cuống quít lên với những lời cảm thán, thì Porthos bắt hắn im lặng ngay bằng một cái trừng mắt ghê gớm không còn cho phép bàn cãi gì nữa.

Mousqueton đứng sững ra ở cửa đợi chờ sự giải thích một việc kỳ lạ đến thể; điều làm đảo lộn đầu óc hắn hơn cả là cả bốn người bạn có vẻ như không nhìn nhận nhau nữa.

Ngôi nhà mà d Artagnan và Porthos dẫn Arthos và Aramis tới là do tướng Cromwell thu xếp cho các anh đến ở từ hôm trước, nó ở vào góc phố, có một khoảng vườn và chuồng ngựa ngoặt sang phố bên.

Các ở cửa ở tầng sát đất có chắn song sắt như thường thấy ở các thị xã nhỏ, nên trông giống hệt cửa sổ nhà tù.

Hai người bạn đưa tù binh vào nhà trước và đứng ở ngưỡng cửa.

Sau khi sai Mousqueton dắt ngựa vào chuồng, Porthos nói:

- Tại sao chúng ta không vào cùng họ.

- Vì rằng, - D Artagnan đáp, - Trước hết phải xem viên đội kia và tám hay mười người cùng đi muốn gì ở chúng ta đã.

Viên đội cùng người của hắn vào đóng ở trong vườn.

D Artagnan hỏi họ muốn gì và tại sao lại đóng ở đó. Viên đội đáp.

- Chúng tôi được lệnh giúp các ông canh giữ tù binh.

Chẳng có gì phải nói về điều ấy, trái lại đó là một sự quan tâm nhã nhặn mà mình phải tỏ ra biết ơn mới đúng, d Artagnan bèn cảm ơn viên đội và cho hắn một đồng cuaron để uống rượu mừng sức khỏe tướng Cromwell.

Viên đội nói rằng những người thanh giáo không uống rượu và bỏ đồng tiền vào túi mình.

- Ôi, d Artagnan thân mến ơi, - Porthos nói, - thật là một ngày ghê sợ!

- Cậu nói gì thế, Porthos? Ngày chúng ta tìm lại được bạn bè mà cậu bảo là ngày ghê sợ?

- Ừ? Nhưng mà trong một hoàn cảnh như thế này ư?

- Đúng là hoàn cảnh rắc rối thật, - D Artagnan nói, - Nhưng không sao, ta hãy vào nhà và cố nhìn cho sáng tỏ hơn một chút tình huống của chúng ta.

- Tình huống rắc rối lắm, - Porthos nói, - Và bây giờ tôi mới hiểu vì sao Aramis dặn đi dặn lại tôi là phải bóp cổ cái tên Mordaunt ghê tởm ấy.

- Im nào, - D Artagnan bảo, - Chớ có nói cái tên ấy ra.

- Nhưng mình nói tiếng Pháp, mà họ lại là người Anh cơ mà.

D Artagnan nhìn Porthos với vẻ khâm phục, mà một con người biết điều không thể từ chối trước những điều dị thường đủ loại.

Rồi do Porthos nhìn lại anh mà chẳng hiểu tý gì về sự kinh ngạc của anh, anh đẩy Porthos và bảo:

- Ta vào thôi.

Porthos vào trước, d Artagnan vào sau, anh đóng cửa lại cẩn thận rồi lần lượt ôm hôn hai người bạn.

Arthos buồn rũ rượi, Aramis hết nhìn Porthos lại nhìn d Artagnan mà chẳng nói một lời, nhưng cái nhìn của anh truyền cảm đến nỗi d Artagnan hiểu rõ. Anh nói:

- Các anh muốn biết làm thế nào mà chúng tôi lại ở đây phải không? Trời ơi! Thật là dễ đoán. Mazarin đã phải chúng tôi mang một bức thư cho tướng Cromwell.

- Nhưng thế nào mà cậu lại ở bên cạnh Mordaunt. - Arthos nói, - Mordaunt mà tôi đã dặn cậu phải đề phòng, hả d Artagnan?

- Và tôi đã dặn cậu là phải bóp cổ, hả Porthos! - Aramis nói theo.

- Vẫn là do Mazarin. Cromwell cử Mordaunt sang gặp Mazarin; Mazarin sai chúng tôi đến Cromwell. Có định mệnh trong tất cả các chuyện này.

- Phải, d Artagnan, cậu nói đúng. Một định mệnh chia rẽ chúng ta và làm hại chúng ta. Vậy thì Aramis, ta không bàn đến nữa, và chúng ta hãy sửa soạn chịu đựng số phận của chúng ta.

- Mẹ kiếp! - D Artagnan nói, - Trái lại, ta cứ bàn chứ; bởi vì đã thoả thuận một lần cho mãi mãi rằng chúng ta bao giờ cũng bên nhau dù trong những mục đích trái ngược nhau.

- Ồ phải, rất trái ngược nhau! - Arthos mỉm cười nói, bởi vì tôi xin hỏi cậu, cậu phục vụ mục đích gì ở đây? A! d Artagnan, hãy xem tên Mazarin khốn khiếp dùng cậu vào việc gì. Cậu có biết rằng hôm nay cậu phạm tội gì không? Tội bắt vua, sỉ nhục vua, giết vua.

- Ồ, ồ! - Porthos nói, - Anh tưởng như vậy ư?

- Arthos, anh nói quá lên đây, - D Artagnan, - Chúng tôi không đến nỗi như thế đâu.

- Ồ, lạy Chúa, trái lại chúng tôi nói đúng đấy. Tại sao lại bắt giũ một ông vua. Khi người ta muốn kính trọng ông như một vị chủ, người ta không mua ông như mua một kẻ nô lệ. Cậu tưởng rằng Cromwell trả giá ông hai trăm nghìn livres là để đặt lại ông lên ngôi đấy chứ? Các bạn ạ, họ sẽ giết vua, hãy tin chắc như vậy và nó vẫn là cái tội nhỏ nhất họ có thể phạm. Thà chém đầu còn hơn là sỉ nhục một ông vua.

- Tôi chẳng bảo là không, - D Artagnan nói, - Dù sao đó là điều có thể xảy ra, nhưng tất cả những chuyện ấy có làm gì chúng tôi đâu? Tôi đến đây vì tôi là người lính, vì tôi phục vụ những người chủ của tôi, nghĩa là những người trả lương cho tôi. Tôi đã thề phục tùng và tôi phục tùng; nhưng các anh, các anh chẳng thể thốt gì tại sao các anh lại đến đây; và các anh phục vụ lợi ích gì nào?

- Lợi ích thiêng liêng nhất trên đời này, - Arthos nói. - Lợi ích của hoạn nạn, của vương quyền và của tôn giáo. Một người bạn một người vợ, một người con gái đã thiết tha kêu gọi chúng tôi đến giúp đỡ họ. Chúng tôi đã giúp đỡ họ theo khả năng nhỏ mọn của chúng tôi và Chúa sẽ chứng giám cho chúng tôi là có tâm mà thiếu lực. D Artagnan ạ, cậu có thể nghĩ theo cách khác và xem xét vấn đề theo một kiểu khác, bạn ạ. Tôi không ngăn cản cậu đâu, nhưng tôi trách cứ cậu.

- Ô, ô! - D Artagnan đáp, - Ông Cromwell là người Anh, chống lại vua của ông ấy là người Scotch, thì rốt cuộc có làm gì tôi đâu?

- Tôi là người Pháp, tất cả những chuyện ấy chẳng liên quan gì đến tôi Tại sao anh lại bắt tôi chịu trách nhiệm?

- Thôi, ta hãy đi vào thực chất, - Porthos bảo.

Arthos lại nói:

- Bởi vì tất cả những người quý tộc đều là anh em, bởi vì cậu là nhà quý tộc, bởi vì vua ở tất cả các nước đều là những người cao nhất trong những nhà quý tộc; bởi vì đám dân chúng mù quáng, bội bạc và tồi tệ luôn luôn thích hạ thấp những gì cao hơn mình; và chính cậu, d Artagnan con người của giới lãnh chúa cổ, con người có tên đẹp đẽ, có tay kiếm sắc bén, cậu đã góp phần nộp một ông vua cho bọn buôn bán rượu bia, bọn thợ may, bọn đánh xe! A! D Artagnan là một người lính, có thể cậu đã làm tròn nhiệm vụ, nhưng là nhà quý tộc cậu là người phạm tội, tôi xin nói với cậu như vậy.

D Artagnan nhai một chiếc cọng hoa, không trả lời và thấy khó chịu, bởi vì khi tránh cái nhìn của Arthos anh gặp cái nhìn của Aramis.

- Còn cậu Porthos, - Bá tước tiếp lời, như ái ngại cho sự bối rồi của d Artagnan, - Cậu là tấm lòng tốt nhất, ngươi bạn tốt nhất người lính tốt nhất mà tôi được biết; cậu mà tâm hồn khiến cậu xứng đáng sinh ra trên những phẩm cấp của một triều đình và sớm muộn sẽ được một ông vua thông minh thưởng công; Porthos thân mến của tôi ơi, là nhà quý tộc bằng những phong cách, những thị hiếu và lòng Pomme-de- Pincảm, cậu cũng có tội như d Artagnan đấy.

Porthos đỏ mặt lên, nhưng vì thích thú hơn là ngượng ngùng, tuy nhiên vẫn cúi đầu xuống ra chiều hổ thẹn và nói:

- Phải rồi, phải rồi, bá tước thân mến ạ, tôi chắc rằng anh nói đúng.

Arthos đứng dậy. Anh đi tới d Artagnan chìa tay ra và nói:

- Thôi nào, đừng hờn dỗi nữa, con trai thân yêu của tôi, vì rằng tất cả những điều tôi nói với cậu, tôi đã nói nếu không phải bằng tiếng nói, thì ít ra cũng bằng tấm lòng của một người cha. Cậu hãy tin rằng, nếu cảm ơn cậu đã cứu mạng tôi và không đã động một lời nào về tình cảm của tôi cho cậu biết thì chắc hẳn là dễ dàng cho tôi hơn nhiều.

- Dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên rồi, Arthos ạ, - D Artagnan vừa đáp vừa siết chặt tay bạn, - Nhưng cũng vì anh có những tình cảm quái gở mà mọi người không có. Ai có thể tưởng tượng một con người biết phải chăng mà rời bỏ nhà cửa mình, rời bỏ nước Pháp, rời bỏ đứa con nuôi, một chàng trai tuyệt diệu - Vì rằng chúng tôi mới gặp nó ở doanh trại - để chạy đi đâu? Đi cứu viện cho một vương triều thối rữa và mọt ruỗng nó sắp sụp đổ một sớm một chiểu như một túp lều cũ nát. Cái tình cảm mà anh nói đẹp thật đấy, đẹp quá đến nỗi nó thành siêu nhân.

Không để mình mắc bẫy vào cái ngón láu cá Gascon mà người bạn giăng ra khi đụng chạm đến tình yêu thương cha con của anh với Raoul, Arthos đáp:

- D Artagnan này, dù sao chăng nữa cậu cũng biết rõ ràng trong thâm tâm cái tình cảm ấy là đúng; nhưng tôi đã sai lầm đi tranh cãi với ông chủ của mình, d Artagnan, tôi là tù binh của cậu, cậu cứ đối xử với tôi đúng như thế.

- A, Chúa ơi! - D Artagnan nói, - Ông cũng thừa biết ông chẳng bị như thế lâu nữa đâu, ông tù binh của tôi ạ

- Không, - Aramis nói, - chắc hẳn họ sẽ đối xử với chúng ta như những tù binh ở Philip-Haugh.

- Thế người ta đã đối xử với tù binh ở Philip-Haugh như thế nào? - D Artagnan hỏi.

- À - Aramis trả lời - người ta đã treo cổ một nửa và đem bán nửa còn lại.

- Thế thì tôi xin bảo đảm với các anh rằng, - D Artagnan nói, -Cchừng nào còn một giọt máu trong huyết quản tôi thì các anh sẽ không bị bắn hoặc treo cổ! Chúng cứ đến đây! Với lại anh có trông thấy cái cổng kia không, Arthos?

- Thì sao?

- Khi nào muốn, các anh cứ việc đi bằng cái cổng ấy vì rằng từ lúc này trở đi anh và Aramis, các anh tự do như khí trời.

- Tôi công nhận điều đó, d Artagnan thân mến ạ - Arthos đáp, - Nhưng cậu không còn là chủ của chúng tôi nữa: cậu thấy rõ là cổng đã bị canh gác rồi.

- Thì phá mà ra chứ, - Porthos nói. - Ở đấy có gì nào? Mười người là cùng.

- Chẳng là quái gì đối với bốn chúng ta nhưng đối với hai chúng tôi là quá nhiều đấy. Thôi này, chia rẽ như chúng ta hiện nay thì chúng tôi phải chết thôi.

- Nhìn xem cái số nó là như vậy; hồi trước trên đường Vendôme, d Artagnan quả cảm là thế, vậy mà các cậu đã bị bại trận, giờ đây đến lượt Aramis và tôi. Vì những điều như vậy không bao giờ xảy ra khi cả bốn chúng ta đoàn kết lại với nhau, vậy thì chúng tôi sẽ chết như de Winter; còn tôi, tôi xin tuyên bố rằng tôi chỉ đồng ý cả bốn chúng ta cùng trốn.

- Không thể được - D Artagnan nói - Chúng tôi ở dưới quyền Mazarin.

- Tôi biết chứ và không ép buộc gì cậu hơn. Những điều biện luận của tôi chẳng kết quả gì đâu, chắc hẳn là nó rất tệ vì chẳng có chút tác động nào đến những tâm trí rất là đúng đắn như của các cậu.

- Vả chăng, - Aramis nói, - Dù những biện luận ấy có tác dụng đi chăng nữa, thì tốt hơn cả là không nên làm nguy hại đến hai người bạn tuyệt diệu của chúng ta như d Artagnan và Porthos. Các cậu hãy yên trí, chúng tôi chết và làm vẻ vang cho các cậu; còn riêng tôi, Arthos ạ, tôi cảm thấy hãnh diện đi tới trước những mũi súng và cả sợi dây thừng nữa cùng với anh, vì rằng chưa bao giờ tôi thấy anh cao cả như hôm nay.

D Artagnan chẳng nói chẳng rằng, nhưng sau khi gặm nát cái cọng hoa, anh gặm đến các móng tay. Cuối cùng anh nói:

- Các anh tưởng tượng rằng người ta sẽ giết các anh à? Để làm gì kia chứ? Ai quan tâm đến cái chết của các anh? Vả lại các anh là tù binh của chúng tôi cơ mà.

- Ngốc! Đại ngốc! - Aramis nói, - thế ra cậu chưa biết rõ Mordaunt à! Này, chỉ nhìn nhau có một cái thôi mà tôi đã trông thấy trong cái nhìn của hắn rằng chúng tôi đã bị kết án rồi.

- Này - Aramis ơi, - Porthos nói, - Sự thực là tôi rất bực đã không bóp cổ nó chết như cậu đã dặn đấy.

- Ê, Tôi sợ cóc gì cái thằng Mordaunt ấy? - D Artagnan kêu, - Mẹ kiếp! Nó cứ ám tôi xem, tôi sẽ nghiền nát nó ra, đồ sâu bọ ấy! Các anh không phải trốn, tôi xin thề rằng ở đây các anh cũng an toàn như cách đây haỉ mươi năm Arthos ở phố Férou và Aramis ở phố Vaugirard.

Chợt Arthos chỉ tay ra phía một trong hai cửa sổ có chắn song sắt đang soi sáng căn phòng và nói:

- Này, các cậu sắp biết sự tình ra sao đấy vì chính nó đang chạy đến kia kìa.

- Ai kia?

- Mordaunt.

Quả thật, nhìn theo hướng Arthos trỏ, d Artagnan trông thấy một kỵ sĩ đang phi nước đại tới.

Đó là Mordaunt.

D Artagnan băng mình ra khỏi căn phòng.

Porthos định ra theo, nhưng d Artagnan bảo:

- Cậu hãy ở lại và chỉ ra khi nào tôi gõ gõ vào cánh cửa.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 61

Jesus, lạy Chúa tôi!

Khi Mordaunt tới trước ngôi nhà thì trông thấy d Artagnan đứng ở ngưỡng cửa và lính tráng cùng vũ khí nằm rải rác trên thảm cỏ khu vườn.

- Ơ hay! - Hắn kêu lên, nghẹn cả họng vì vừa mới chạy bở hơi tai, - Các tù binh vẫn còn ở cả đây chứ.

- Vâng, thưa ông, - Viên đội vừa đáp vừa cùng đồng đội vội vã đứng lên và giơ tay lên mũ chào.

- Tốt! Lấy bốn người; để dẫn họ ra và đưa ngay lập tức đến chỗ tôi ở.

Bốn người sửa soạn.

- Thưa ngài nói gì ạ? - D Artagnan nói bằng cái giọng giễu cợt mà các bạn đọc của chúng tôi đã từng thấy bao lần từ khi quen biết anh - Có chuyện gì xin ngài vui lòng cho biết?

- Thưa ông, có chuyện là tôi ra lệnh cho bốn người đem tù binh mà chúng ta bắt được sáng nay ra và đưa đến chỗ ở của tôi.

- Tại sao vậy? - D Artagnan nói. - Xin lỗi về sự tò mò, nhưng mong ông hiểu rằng tôi muốn được rõ về chuyện đó.

Mordaunt kiêu ngạo đáp:

- Tại những tù binh ấy bây giờ thuộc về tôi, và tôi được tuỳ hứng sử dụng họ.

- Xin phép ông, ông bạn trẻ ơi, - D Artagnan nói, - Xin phép ông, hình như ông lầm rồi đấy. Xưa nay tù binh thuộc về người nào đã bắt họ, chứ không thuộc kẻ nào đã xem bắt họ. Ông có thể bắt Lord de Winter là bác của ông, như người ta nói, nhưng ông thích giết ông ta hơn, được thôi; chúng tôi, ông Du Vallon và tôi có thể giết hai nhà quý tộc này, nhưng chúng tôi thích bắt họ hơn, mỗi người một ý thích mà.

Cặp môi Mordaunt trắng bệch ra.

Hiểu rằng công chuyện sắp hỏng đến nơi, d Artagnan bèn gõ nhịp hành khúc thị vệ đội vào cánh cửa.

Vừa mới được một nhịp, Porthos đã ra và đứng về phía bên kia cánh cửa, chân anh chạm vào ngưỡng cửa và đầu chạm vào rầm cửa.

Mưu kế ấy không lọt qua mắt của Mordaunt, với vẻ tức giận bắt đầu lộ rõ, hắn nói:

- Thưa ông, ông kháng cự vô ích, những tù binh này vừa mới được giao cho tôi xong do vị tổng chỉ huy, vị chủ soái lẫy lừng của tôi, Ngài Olivier Cromwell.

Những lời ấy như sét đánh ngang tai d Artagnan. Máu bốc lên thái dương, một đám mây mù bay qua mắt anh, anh hiểu rõ nỗi kỳ vọng hung cuồng của gã thanh niên và tự nhiên bàn tay anh hạ xuống đốc kiếm.

Porthos nhìn sang d Artagnan xem mình phải làm gì và rập theo những động tác của anh.

Cái nhìn ấy khiến d Artagnan lo ngại hơn là vững tâm, và anh bắt đầu tự trách mình đã cầu cứu đến sức mạnh tàn bạo của Porthos vào một việc đáng lẽ cần phải dùng mưu mẹo nhiều hơn.

Anh tự nhủ thầm: "Bạo lực sẽ làm cho tất cả chúng ta đi đời. Anh bạn d Artagnan của tôi ơi, hãy chứng tỏ cho con rắn con này hiểu rằng anh không những mạnh hơn nó, mà còn tinh khôn hơn nó".

Anh bèn lễ phép cúi chào và nói:

- A! Ông Mordaunt ơi, thế mà ông chẳng nói rõ điều ấy ngay tử đầu. Sao, ông được ngài Olivier Cromwell vị chỉ huy lẫy lừng nhất thời đại này phái đến đây ư?

- Tôi vừa mới ở chỗ ngài ra, - Mordaunt vừa nói vừa nhảy xuống đất và đưa con ngựa của mình cho một tên lính giữ, - Tôi vừa mới rời khỏi ngài đây, ông ạ.

- Ông bạn thân mến ơi, - D Artagnan nói tiếp, - Ông chẳng bảo tôi ngay từ đầu. Tất cả nước thuộc về ngài Cromwell và bởi vì ông nhân danh ngài đến lấy tù binh, tôi xin phục tùng, họ là của ông, xin ông cứ mang đi.

Mordaunt tiến lên, mặt mày rạng rỡ, còn Porthos thì rụng rời nhìn d Artagnan và há miệng toan nói.

D Artagnan giẫm lên ủng Porthos, anh mới hiểu rằng đó là một mánh khóe của bạn.

Mordaunt đặt chân lên bậc thềm thứ nhất, mũ cầm tay, sắp sửa đi qua giữa đôi bạn, và ra hiệu cho bốn tên lính đi theo mình, thì d Artagnan với nụ cười nhã nhặn nhất đặt bàn tay lên vai gã thanh niên và nói:

- Xin lỗi ông, nếu vị tướng lẫy lừng Olivier Cromwell dùng tù binh của chúng tôi để ân thưởng cho ông, thì chắc hẳn ngài đã viết cho ông tờ giấy ban tặng đó chứ?

Mordaunt đứng sững lại. D Artagnan nói tiếp:

- Ngài có gửi cho ông một lá thư nào cho tôi, hoặc một mảnh giấy nhỏ nào đó, chứng tỏ ông nhân danh ngài mà đến không? Xin ông hãy trao cho tôi mảnh giấy ấy để ít ra tôi còn có cớ biện minh với mấy người đồng quốc của tôi về sự bỏ rơi nọ. Nếu không thì dù tôi có tin chắc rằng tướng Olivier Cromwell không thể muốn điều ác cho họ, ông hãy híểu rằng sẽ có những hành động xấu đấy.

Mordaunt lùi lại và cảm thấy rõ ngón đòn, hắn phóng sang d Artagnan một cái nhìn khủng khiếp, nhưng anh vẫn đáp lại bằng vẻ mặt dễ thương và thân thiện nhất đời.

- Này ông, - Mordaunt nói, - Khi tôi nói với ông một điều. Ông có lăng nhục tôi bằng cách nghi ngờ đó không?

- Tôi ấy à, - D Artagnan kêu lên, - Tôi mà nghi ngờ điều ông nói ư: Xin chúa chứng giám, ông Mordaunt thân mến ơi, trái lại tôi coi ông như một nhà quý tộc xứng đáng và hoàn hảo, theo những thể hiện bên ngoài. Với lại, ông có muốn tôi nói thẳng thắn với ông không? - D Artagnan nói tiếp với vẻ cởi mở.

- Xin ông cứ nói. - Mordaunt đáp.

- Ông Du Vallon đây giàu có, ông ấy có bốn mươi nghìn livres tiền niên thu, do đó ông ấy chẳng thiết tiền bạc, cho nên tôi không nói cho ông ấy, mà nói cho tôi thôi.

- Sao nữa ông?

- Tôi thì không giàu, ở xứ Gasgogne, đó không phải là điều nhục, ông ạ. Chẳng ai giàu có cả và Henri IV hiển hách vua của dân Gascons cũng như hoàng thượng Philip IV vua tất cả các xứ Tây Ban Nha chẳng bao giờ có đồng xu dính túi.

- Nói nốt đi, ông, - Mordaunt bảo, - Tôi thấy ông muốn đi tới đâu rồi, và nếu cái điều mà tôi suy nghĩ nó ngăn giữ ông, thì ta có thể cắt bỏ sự khó khăn đó.

- A! - D Artagnan nói, - Tôi biết rõ ông là một chàng trai thông minh. Vậy thì đây là sự thật, đó là cái thóp của tôi, như dân xứ tôi thường nói. Tôi là một sỹ quan từ chân trắng mà lên, tôi chỉ có những cái mà thanh kiếm mang lại, nghĩa là những nhát đâm chém nhiều hơn những tờ giấy bạc. Nhân vì sớm hôm nay bắt được hai người Pháp có vẻ là danh gia thế phiệt, hai người được tặng thưởng huân chương Jarretière, tôi tự nhủ: Tài sản của ta gây dựng rồi đây. Tôi nói lại, bởi vì ông Du Vallon giàu có, trong trường hợp như thế này bao giờ cũng nhường tù binh lại cho tôi.

Hoàn toàn bị huyễn hoặc bởi cái vẻ chất phác dài dòng của d Artagnan. Mordaunt mỉm cười ra vẻ người hiểu biết rành rọt những điều mà người ta phân trần với mình và mềm mỏng đáp:

- Này ông ạ, lát nữa tôi sẽ đưa ông tờ lệnh ký hẳn hoi và kèm theo tờ lệnh là hai nghìn pistol. Nhưng trong khi chờ đợi, ông hãy để tôi dẫn những người ấy đi.

- Không đâu, - D Artagnan nói, - Chậm trễ nửa giờ thì quan trọng gì đối với ông? Tôi là người có nề nếp ông ạ, ta hãy làm mọi việc theo đúng nguyên tắc.

- Song tôi có thể ra lệnh cho ông - Mordaunt nói, - Tôi chỉ huy ở đây.

- A, này ông ơi - D Artagnan mỉm cười nhã nhặn và nói, - Mặc dầu ông Du Vallon và tôi có vinh dự cùng đi với ông, người ta thấy rõ là ông chưa biết về chúng tôi đâu. Chúng tôi là những nhà quý tộc, chỉ với hai chúng tôi thôi, chúng tôi có thể giết chết các ông, ông cùng tám người của ông đấy. Vì chúa! Ông Mordaunt ạ, đừng cố chấp, vì rằng khi người ta cố chấp, tôi cũng cố chấp, và có thể là tôi trở thành ngang ngạnh một cách hung tợn. Và ông bạn đây nữa, - D Artagnan nói tiếp, - Trong trường hợp ấy, ông ấy còn ngang ngạnh và hung tợn hơn tôi nhiều. Đó là chưa kể chúng tôi do tể tướng Mazarin phải tới đây, ngài thay mặt cho vua nước Pháp. Do đó, trong lúc này dây, chúng tôi thay mặt cho vua và tể tướng, với tư cách là những sứ giả chúng tôi là bất khả xâm phạm, ngài Olivier Cromwell, vị tướng vĩ đại và chắc chắn cũng là nhà chính trị vĩ đại hoàn toàn sẽ là người hiểu biết điều đó. Hãy về xin ngài tờ lệnh ký đi. Điều ấy có mất gì với ông đâu, ông Mordaunt thân mến.

Porthos lắc đầu vỡ lẽ, hiểu ý bạn và nói:

- Phải rồi tờ lệnh ký; người ta chỉ yêu cầu ông có thế thôi.

Dù ham dùng bạo lực đến mấy chăng nữa, Mordaunt cũng nhận ra những lý lẽ d Artagnan vừa nói là chí phải. Vả lại danh tiếng của anh khiến hắn phải kính phục và điều hắn trông thấy anh làm sáng nay càng làm nổi tiếng thêm danh tiếng ấy. Hắn suy nghĩ. Rồi hoàn toàn mù tịt về những quan hệ bạn bè sâu xa giữa bốn người Pháp mọi điều lo ngại của hắn biến đi hết trước cái lý do rất là xuôi tai về tiền chuộc.

Thế là hắn quyết định đi lấy không chỉ tờ lệnh mà cả hai nghìn pistol nữa, số tiền mà hắn tự đánh giá hai tù binh.

Mordaunt bèn lên ngựa và sau khi dặn dò viên đội canh gác cẩn thận, hắn ngoắt dây cương bỏ đi mất.

- Tốt lắm! - D Artagnan nói, - Mười lăm phút đi đến chỗ lều và mười lăm phút trở lại, thừa đủ cho chúng ta.

Rồi anh trở lại với Porthos, bộ mặt không biểu lộ một sự thay đổi nhỏ nhặt nào khiến những kẻ đang rình anh tưởng như anh vẫn tiếp tục câu chuyện lúc nãy. Anh nhìn thẳng vào mặt Porthos và nói:

- Này cậu, hãy nghe cho rõ điều này nhé. Trước hết không được nói tí gì cho các bạn chúng ta về những điều cậu vừa nghe thấy, không cần để các cậu ấy biết về việc chúng ta giúp đỡ họ.

- Được rồi, tôi hiểu, - Porthos đáp.

Bây giờ cậu hãy ra chuồng ngựa, cậu sẽ thấy Mousqueton ở đó, các cậu thắng yên cương cho ngựa để súng ống vào các bao rồi cho ngựa ra và dẫn đến cái phố dưới kia, để chỉ còn có việc nhảy lên cưỡi còn các việc khác tôi lo.

Porthos không có ý kiến nhận xét gì hết và tuân theo với niềm tin cậy tuyệt vời ở bạn mình.

- Tôi đi đây - Anh nói, - Song tôi có vào được phòng các bạn ấy không?

- Không, khỏi cần.

- Vậy thì cậu hãy cầm hộ tôi túi tiền để ở trên lò sưởi.

- Yên trí.

Porthos bình thản và lẳng lặng đi ra chuồng ngựa. Anh đi giữa đám binh lính và mặc đù anh là người Pháp hẳn hoi họ không thể không chiêm ngưỡng vóc người cao lớn và chân tay vạm vỡ của anh.

Đến chỗ góc phố anh gặp Mousqueton và kéo hắn đi củng.

Lúc ấy d Artagnan trở vào, vừa đi vừa huýt sáo một điệu hát mà anh đã bắt đầu từ lúc Porthos đi ra.

- Arthos thân mến ơi, - D Artagnan nói - Tôi vừa mới suy nghĩ về những lý lẽ của anh và bị nó thuyết phục. Dứt khoát là tôi không tiếc rằng mình đã rơi vào trong cái vụ lôi thôi này. Cho nên tôi quyết định cùng trốn với các anh. Không nghĩ ngợi gì nữa nhé và hãy sẵn sàng. Hai thanh kiếm của các anh ở trong góc kia, đừng quên, đó là một công cụ rất có ích trong những hoàn cảnh như thế này. À, điều đó làm tôi sực nhớ đến túi tiền của Porthos.

Và anh cất bọc tiền vào túi. Hai người nhìn anh với vẻ kinh ngạc.

- Ơ hay! - D Artagnan nói, - Tôi xin hỏi các anh, như thế có gì là lạ nào? Tôi mù quáng, Arthos đã mở mắt cho tôi, có thế thôi. Lại đây.

Hai người bạn lại gần. Anh bảo:

- Các anh có trông thấy cái phố kia không? Ngựa của các anh để ở đấy; các anh đi ra cổng rẽ về bên trái, nhảy lên yên thế là xong xuôi. Các anh đừng lo ngại gì hết mà cần chú ý nghe hiệu lệnh hành động. Hiệu lệnh đó là khi tôi kêu: "Giêsus, lạy Chúa tôi!".

- Nhưng cậu hãy thề đi là cậu sẽ đến, - Arthos nói.

- Có Chúa, tôi xin thề!

- Đồng ý, - Aramis reo lên. - Khi nghe tiếng kêu "Giêsus, lạy Chúa tôi! chúng tôi sẽ ra, chúng tôi sẽ quật đổ tất cả những gì cản lối đi của mình, chúng tôi sẽ chạy đến chỗ để ngựa, sẽ nhảy lên ỵên và thúc ngựa phóng, có phải như thế không?

- Tuyệt diệu!

- Aramis thấy chưa, - Arthos nói, - Tôi vẫn bảo cậu rằng d Artagnan là người hay nhất trong chúng ta mà.

- Lại những lời tán tụng, - D Artagnan nói, - Được tôi sẽ trốn.

- Tạm biệt!

- Và cậu sẽ đi trốn với chúng tôi chứ?

- Chắc chắn rồi! Đừng quên hiệu lệnh "Giêsus, lạy Chúa tôi".

Và anh bình thản đi ra như lúc đi vào lại huýt sáo tiếp bài ban nãy bỏ dở.

Bọn lính đang chơi hoặc ngủ, hai tên ngồi trong góc hát sai bài thánh thi: Superflumina Babylonis.

D Artagnan gọi tên đội và nói:

- Ông bạn thân mến ơi, tướng Cromwell đã sai ông Mordaunt mời tôi đến, tôi nhờ các ông canh gác tù binh cẩn thận hộ.

Viên đội ra hiệu là không biết tiếng Pháp.

D Artagnan bèn cố làm những cử chỉ để cho hẳn hiểu, hắn hiểu ra và gật đầu.

Anh lìền đi xuống chuồng ngựa và thấy năm con ngựa đã thắng yên cương, cả con của anh cũng vậy.

Anh bảo Porthos và Mousqueton:

- Mỗi người hãy dắt một con và rẽ về bên trái để Arthos và Aramis từ cửa sổ trông thấy rõ.

- Họ đến ngay chứ? - Porthos hỏi.

- Một lát nữa.

- Cậu không quên túi tiền của tôi chứ?

- Không, yên trí.

- Tốt.

Rồi Porthos và Mousqueton mỗi người dắt một con ngựa ra vị trí.

Còn lại một mình, d Artagnan bèn đánh lửa châm vào một mẩu bùi nhùi to bằng hai cánh bèo, nhảy lên ngựa và đi đến trước cửa, đứng giữa bọn lính.

Vừa vuốt ve con ngựa, anh vừa nhét mầu bùi nhùi cháy vào tai nó.

- Phải là một kỵ sĩ cừ khôi như d Artagnan mới dám liều chơi như vậy vì rằng vừa mới cảm thấy nóng bỏng trong tai, con ngựa hý lên một tiếng đau đớn nó nhảy lồng lên và nhảy chồm chồm như điên dại.

Bọn lính sợ nó đè bẹp vội tản ra xa.

- Cứu tôi với! Cứu tôi với! Giữ nó lại, giữ nó lại! Con ngựa của tôi bị chóng mặt.

Quả nhiên một lát sau máu như ứa ra từ mắt nó và miệng nó sùi bọt trắng xoá.

D Artagnan vẫn kêu cứu mà bọn lính chẳng dám bén mảng tới gần.

- Cứu tôi với! Cứu tôi với! Các ông để mặc tôi chết à? Giêsus, lạy Chúa tôi!

D Artagnan vừa mới thốt ra tiếng kêu ấy thì cửa bật mở Arthos và Aramis kiếm cầm tay, băng ra. Nhờ mưu mẹo của d Artagnan, đường đi mở rộng.

- Tù binh trốn kìa! Tù binh trốn kìa! - Viên đội kêu lên.

- Giữ lại Giữ lại! - D Artagnan vừa kêu vừa thả dây cương cho con ngựa hung dữ, nó lao đi và xô ngã mấy người.

- Stop! Stop!(1) - Bọn lính vừa kêu vừa chạy đến chỗ để vũ khí.

Nhưng các tù binh đã nhảy lên yên, và một khi đã lên yên ngựa rồi, họ chẳng để mắt thì giờ lao ra phía cổng gần nhất. Chạy đến giữ phố họ gặp Grimaud và Blaisois đang đến tìm chủ.

Bằng một dấu hiệu, Arthos làm cho Grimaud hiểu rõ tất cả, bác đi theo luôn cái tốp nhỏ ấy nó phóng như một cơn lốc, d Artagnan đến sau cùng càng thúc giục thêm. Họ lướt qua những ô cửa như những cái bóng những người canh không kịp nghĩ đến ngăn giữ lại, và họ ra đến cánh đồng bằng phẳng.

Trong khi ấy bọn lính vẫn kêu gào: Stop! Stop. Còn viên đội - bắt đầu nhận thấy mình bị mắc lừa cứ vò đầu bứt tóc mãi.

Giữa lúc ấy, người ta trông thấy một kỵ sĩ phi nước đại tới, tay cầm một mảnh giấy.

Đó là Mordaunt quay trở lại với tờ lệnh.

- Tù binh đâu? - Hắn vừa kêu, vừa nhảy xuống ngựa.

Viên đội không còn sức mà trả lời, giơ tay trỏ vào cái cổng mở toang và căn phòng trống rỗng. Mordaunt xông lên các bậc thềm hiểu rõ mọi sự, hắn hét lên một tiếng như vừa bị ai xé đứt ruột và ngất xỉu trên thềm đá.

Chú thích:

(1) Dừng lại, dừng lại! (tiếng Anh)

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chhương 62

Ở đâu chứng minh rằng những tình huống gay go nhất, những trái tim lớn vẫn không mất dũng cảm và những dạ dày lớn vẫn không quên đói

Cái toán nhỏ ấy không trao đổi một lời, không ngoái lại đằng sau, cứ phi nước đại, vượt qua một con đường mà chẳng ai biết tên và để lại sau phía trái mình một thị trấn mà Arthos đoán chừng là Durham.

Cuối cùng trông thấy một khu rừng nhỏ họ thúc ngựa một lần cuối và đi về hướng đó.

Vừa mới khuất sau một rặng cây xanh khá dày để che mắt những kẻ có thể đuổi theo, họ dừng lại để họp bàn. Họ giao ngựa cho đầy tớ để cho ngựa nghỉ mà không tháo yên cương và cắt Grimaud canh gác.

Arthos bảo d Artagnan:

- Trước hết, lại đây đã để tôi ôm hôn cậu, cậu là cứu tinh của chúng tôi, cậu là người anh hùng thật sự trong chúng ta.

- Arthos nói đúng đấy, và tôi khâm phục cậu, - Aramis vừa nói vừa ôm chặt lấy bạn. - Với cái đầu thông minh, con mắt tinh tường, cánh tay sắt thép, tinh thần chiến thắng, có cái gì mà cậu không kỳ vọng được.

- Bây giờ thì ổn cả rồi, - Chàng Gascon nói - Tôi xin nhận tất cả những cái hôn và lời cảm ơn cho tôi và Porthos, nhưng thôi đừng mất thì giờ nữa.

Nghe nói vậy, hai người bạn sực nhớ đến Porthos, vội đến bắt tay anh.

- Bây giờ - Arthos nói, - Không thể cứ chạy bừa phứa và như những kẻ rồ dại mà phải bàn định một kế hoạch. Chúng ta sẽ làm gì nào?

- Cái mà chúng ta sắp làm ấy à? - D Artagnan nói - Dể thôi! Chẳng có gì là khó nói cả.

- Vậy cậu thử nói xem nào?

- Chúng ta đến một hải cảng gần nhất, tập trung tất cả những món tiền nhỏ mọn của chúng ta lại, thuê một chiếc tàu và đi về Pháp. Riêng tôi tôi góp đến đồng xu cuối cùng. Kho báu thứ nhất là tính mạng, mà tính mạng của các anh phải nói rằng treo trên sợi tóc.

- Cậu thấy thế nào, du Vallon! - Arthos hỏi.

- Tôi ấy à, - Porthos nói, - Tôi hoàn toàn nhất trí với d Artagnan; thiết gì cái nước Anh của nợ này.

- Cậu dứt khoát rời bỏ nước Anh à? - Arthos hỏi d Artagnan.

- Đúng thế, tôi chẳng thấy có gì giữ tôi lại cả.

Arthos trao đổi một cái nhìn với Aramis, rồi thở dài nói:

- Thôi các bạn, hãy đi đi.

- Sao lại "các bạn hãy đi đi". - D Artagnan hỏi. - Chúng ta đi nào chứ!

- Không, bạn ơi, - Arthos nói, - Cần phải từ giã chúng tôi.

- Từ giã chúng tôi? - D Artagnan lặp lại, bàng hoàng về cái tin bất ngờ ấy.

- Ô hay! - Porthos nói, - tại sao lại từ giã chúng tôi, vì chúng ta cùng có nhau cơ mà?

- Bởi vì nhiệm vụ của các cậu đã hoàn thành, các cậu có thể, thậm chí phải trở về Pháp, nhưng nhiệm vụ của chúng tôi chưa hoàn thành.

- Nhiệm vụ của các anh chưa hoàn thảnh ư? - D Artagnan kinh ngạc nhin Arthos và nói.

- Chưa bạn ạ, - Arthos đáp bằng một giọng vừa nhẹ nhàng vừa kiên quyết. - Chúng tôi đến đây để bảo vệ vua Charles, chúng tôi đã bảo vệ tồi, bây giờ chúng tôi phải cứu ông ta.

- Cứu vua? - D Artagnan nhắc lại và nhìn Aramis như đã nhìn Arthos.

Aramis đành khẽ gật đầu.

Gương mặt d Artagnan biểu lộ một vẻ thương cảm sâu sắc; anh bắt đầu cho rằng mình đang có chuyện với hai kẻ điên rồ.

- Arthos này, - D Artagnan nói - Anh không thể nói nghiêm túc như thế được đâu. Nhà vua đang ở giữa một đạo quân đang dẫn đến London. Chỉ huy đạo quân ấy là một người hàng thịt hoặc con một người hàng thịt gì đó, không quan trọng, đại tá Harison. Việc xử án vua sẽ làm ngay khi tới London tôi xin cam đoan như vậy. Chính Olivier Cromwell đã nói với tôi không ít về vấn đề đó, nên tôi cũng hiểu sự thể sẽ ra sao.

Arthos và Aramis lại trao đổi với nhau một cái nhìn thứ hai.

- Bản án xong, người ta sẽ chẳng thi hành chậm trễ đâu, - D Artagnan nói tiếp. - Ô, các vị thanh giáo ấy là những người khẩn trương trong công việc đấy.

- Thế cậu cho rằng nhà vua sẽ bị hình phạt gì? - Arthos hỏi.

- Tôi e rằng là án xử tử; họ đã làm quá nhiều chuyện chống lại nhà vua, nên không thể tha thứ cho ông và chỉ còn một cách là giết đi. Thế các anh không biết câu nói của Olivier Cromwell khi ông đến Paris và người ta chỉ ông xem tháp lâu đài Vincennes nơi giam giữ ông Vendôme à?

- Câu gì vậy? - Porthos hỏi.

- Chỉ nên đụng đến các ông hoàng vào nơi đầu.

- Tôi có biết, - Arthos nói.

- Thế anh tưởng ông ta không đem câu châm ngôn của mình ra thực hiện khi bây giờ ông ta đã tóm giữ được nhà vua hay sao?

- Có chứ, tôi còn chắc chắn là khác, nhưng như thế là thêm một lý do để không bỏ rơi cái đầu uy nghi đang bị đe doạ.

- Arthos, anh điên mất rồi.

- Không đâu, bạn ạ, - Vị quý tộc nhẹ nhàng đáp, - nhưng de Winter đã đến Pháp tìm chúng tôi và dẫn chúng tôi đến bà Henriette. Bà hoàng đã ban vinh dự cho chúng tôi, D Herblay và tôi, bà yêu cầu chúng tôi giúp đỡ cho chồng bà. Chúng tôi đã hứa hẹn, lời hứa của chúng tôi bao gồm tất cả, đó là sức lực của chúng tôi, trí tuệ của chúng tôi, sau rốt là tính mạng của mình mà chúng tôi cam kết chúng tôi chỉ còn việc giữ lời. Ý kiến của cậu cũng thế phải không, D Herblay

- Phải, - Aramis nói, - Chúng tôi đã có một lời hứa.

- Rồi chúng tôi lại có một ý kiến khác nữa, - Arthos nói tiếp, - Đây này, hãy nghe kỹ nhé. Ở Pháp lúc này mọi thứ đều tồi tàn và nghèo đói. Chúng ta có một ông vua mười tuổi chưa biết mình muốn cái gì. Chúng ta có một hoàng hậu mà nỗi đam mê muộn màn làm cho mù quáng. Chúng ta có một tể tướng cai trị nước Pháp như là cai quản một trang trại lớn nghĩa là chỉ bận tâm xem ở đó vàng có mọc lên được không, khi cày bừa nó bằng một âm mưu và thói xảo quyệt .Ý chúng ta có những ông hoàng gây sự chống đối có tính cách cá nhân và ích kỷ chẳng đạt tới đâu ngoài việc moi từ tay Mazarin mấy thỏi vàng và vài mảnh quyền thế. Tôi đã phục vụ họ không phải vì nhiệt tâm. Thượng đế chứng giám rằng tôi đánh giá họ theo giá trị thực của họ, có chăng là do một sự an bài từ trước. Giờ đây lại là chuyện khác, giờ đây trên đường đi của tôi, tôi gặp một bất hạnh vương hầu, một bất hạnh Âu châu và tôi gắn bó với nó. Nếu chúng tôi cứu được nhà vua thì thực là đẹp đẽ; nếu chúng tôi chết vì vua, thì thực là lớn lao!

- Như vậy, - D Artagnan nói, - Anh biết trước là các anh sẽ tiêu vong chứ gì?

- Chúng tôi e là như vậy và nỗi đau đớn duy nhất của chúng tôi là chết xa các cậu.

- Các anh sẽ làm gì giữa một nước xa lạ và thù địch?

- Cậu nhỏ ơi, tôi đã từng đi khắp nước Anh, tôi nói tiếng Anh như ngươi Anh, và Aramis cũng có biết ít nhiều thứ tiếng ấy. A! Nếu, như chúng tôi có các cậu! Với cậu, d Artagnan, với cậu, Porthos, tất cả bốn chúng ta hợp nhau lại lần đầu tiên từ sau hai mươi năm nay, chúng ta sẽ đương đầu không chỉ với nước Anh mà với ba vương quốc!

D Artagnan bực tức nói:

- Thế các anh có hứa với bà hoàng ấy rằng các anh sẽ công phá tháp London giết một trăm nghìn lính không, chiến đấu thắng lợi chống lại nguyện vọng của một dân tộc và tham vọng của một con người khi người đó tên là Cromwell không? Các anh, cả Arthos và Aramis, chưa trông thấy con người ấy. Này, đấy là một người thiên tài khiến tôi rất nhớ đến giáo chủ của chúng ta, giáo chủ kia cơ, giáo chủ vĩ đại. Các anh biết đấy. Cho nên các anh chớ có cường điệu nhiệm vụ của mình. Nhân danh Chúa Trời, Arthos thân mến ạ, chớ có làm những việc tận tâm vô ích! Thực tình, khi nhìn anh, tôi thấy anh là một người biết những lẻ phải; nhưng khi anh trả lời tôi, tôi thấy như mình đang nói chuyện với một thằng điên. Nào, Porthos, hãy đứng về phía tôi.

- Cậu nghĩ thế nào về việc này? Cứ nói thẳng thắn.

- Chẳng có gì là hay ho cả? - Porthos đáp.

Thấy Arthos như chẳng nghe anh nói mà lại đang lắng nghe mình nói với mình, d Artagnan sốt ruột bảo:

- Nào Arthos, chưa bao giờ anh khó chịu về những lời khuyên của tôi. Vậy thì hãy tin tôi, nhiệm vụ của anh đã kết thúc, kết thúc một cách cao quý, hãy trở về Pháp với chúng tôi.

- Bạn ơi, quyết định của chúng tôi là không thể lay chuyển.

- Nhưng anh còn một lý do gì mà chúng tôi không biết chăng?

Arthos mỉm cười.

D Artagnan tức giận vỗ đùi đen đét và lải nhải những lý lẽ thuyết phục nhất mà anh có thể làm ra; nhưng Arthos chỉ đành lòng đáp lại bằng một nụ cười bình thản và hiền hoà, còn Aramis bằng những cái gật gù.

Cuối cùng d Artagnan tức điên người và la lên:

- Bởi vì các anh đã muốn vậy, thôi thì chúng ta hãy để lại nắm xương tàn của mình ở cái xứ sở khốn nạn quanh năm rét mướt này, mà ngày đẹp trời là sương mù, sương mù là mưa và mưa là lũ lụt, nơi mà mặt trời giống như mặt trăng, mặt trăng như một bánh pho-mát kem. Thực ra vì đã chết thì chết ở đây hay chết ở đâu đâu, đối với chúng ta chẳng có gì quan trọng.

- Tuy nhiên - Arthos nói, - Bạn thân mến ơi, Hãy nghĩ xem, đây là chết sớm hơn.

- Ô hay. Sớm hơn một chút hay muộn hơn một chút, điều ấy chẳng bõ công tranh cãi.

- Nếu như có điều khiến tôi thấy làm lạ, - Porthos trịnh trọng nói, thì dường như chưa phải điều đó đã đến đâu.

- Ồ, điều đó sẽ đến cứ yên trí Porthos ạ. - D Artagnan nói, - Như vậy là thoả thuận rồi nhé, và nếu như Porthos không phản đổi...

- Tôi ấy à, - Porthos nói, - tôi sẽ làm điều mà các cậu muốn. Vả lại, tôi thấy điều mà bá tước La Fère nói ban nãy là rất đẹp.

- Nhưng còn tương lai của cậu thì sao, - D Artagnan nói liến thoắng và sôi nổi, - nếu chúng ta cứu được vua thì chúng ta có cần quan tâm đến điều đó không? Vua được cứu rồi, chúng ta tập hợp bạn bè của vua lại, chúng ta đánh bại bọn thanh giáo, chúng ta chiếm lại nước Anh, chúng ta đưa vua trở về London, chúng ta đặt ngài thật lên ngai vàng một cách nghiêm chính...

- Và rồi vua phong chúng ta làm quận công, làm triều thần, - Porthos nói, mắt anh lóng lánh mừng vui và như trông thấy cái tương lai ấy qua một huyền thoại.

- Hoặc là vua quên mất chúng ta, - D Artagnan nói.

- Ồ - Porthos kêu.

- Kìa! Điều ấy đã thấy rồi còn gì? Porthos. Hình như xưa kia chúng ta đã giúp Anne d Autriche một việc chẳng kém việc mà hôm nay chúng ta định giúp vua Charles I là bao nhiêu, thế mà nó có ngăn cản hoàng hậu quên béng chúng ta trong gần hai mươi năm đâu.

- Này d Artagnan, - Arthos nói, - Mặc dầu vậy, cậu có bực mình khi đã giúp bà ta không?

- Thực tình không, - D Artagnan đáp, - Vả tôi còn thú nhận rằng trong những lúc bực bội nhất, tôi vẫn tìm thấy một niềm an ủi trong kỷ niệm ấy.

- D Artagnan cậu thấy đấy, Các ông hoàng thường bội bạc, Nhưng Chúa thì không bao giờ.

- Thế thì, Arthos ơi, - D Artagnan nói, - tôi tin rằng nếu anh gặp quỷ sứ ở trên mặt đất này ắt hẳn anh sẽ dẫn nó cùng với anh lên trời.

Arthos chìa tay ra với d Artagnan và nói:

- Như vậy là...

- Như vậy là thoả thuận, - D Artagnan đáp, - Tôi thấy nước Anh là một xứ tuyệt vời, tôi ở lại, nhưng với một điều kiện.

- Điều kiện gì?

- Người ta không bắt tôi học tiếng Anh.

- Được thôi, - Arthos nói với vẻ đắc thắng. - Bạn ơi bây giờ tôi xin viện Đức Chúa là người am hiểu chúng ta, viện tên họ của tôi mà tôi cho là không có tỳ vết, để thề với cậu là tôi tin rằng có một uy quyền canh chừng cho chúng ta, và tôi có hy vọng là cả bốn chúng ta sẽ gặp lại nước Pháp.

- Được - D Artagnan nói - nhưng xin thú thực là tôi có niềm tin trái ngược hẳn.

- Cái cậu d Artagnan thân mến này! - Aramis nói, - Ở giữa chúng ta, hắn tiêu biểu cho sự chống đối của các nghị viện, họ luôn luôn nói không và luôn luôn làm có.

- Phải rồi, nhưng trong khi chờ đợi, thì cứu nguy cho cuộc cờ.

- Thôi, này, các bạn ơi, - Porthos xoa xoa tay nói, - Bây giờ mọi việc đã quyết định xong xuôi, nếu như chúng ta nghĩ đến ăn uống nhỉ? Hình như trong những tình huống gay go nhất trong đời mình, chúng ta vẫn ăn uống thì phải.

- A phải đấy, - D Artagnan nói. - Hãy bàn về ăn uống trong một đất nước mà yến tiệc linh đình, người ta ăn toàn thịt cừu luộc, cỗ bàn thịnh soạn, người ta uống toàn rượu bia? Chẳng biết ma xui quỷ giục thế nào mà anh lại đâm đầu vào một đất nước tội nợ như thế này, hử Arthos? À xin lỗi nhé, - Anh mỉm cười nói thêm, - Tôi quên rằng anh không còn là Arthos nữa.

- Nhưng chẳng sao, chúng ta hãy xem cái kế hoạch ăn uống của cậu ra sao nào, Porthos.

- Kế hoạch của tôi à?

- Ừ, cậu có một kế hoạch không?

- Không, tôi đói, có thế thôi.

- Chết chưa, nếu chỉ có thế thì tôi cũng vậy, tôi đang đói.

- Nhưng không phải cứ đói là đủ, phải tim cái ăn chứ, trừ phi gặm cỏ như lũ ngựa của chúng ta.

- A! - Aramis kêu, anh không đến nỗi hoàn toàn tách rời mọi thứ ở trên trần như Arthos, - Khi chúng ta ở khách sạn Parpaillot, các cậu có nhớ các con sò huyết đỏ au mà chúng ta chén không?

- Và những cái đùi cừu ở trên cánh đồng muối nữa! - Porthos nói và thè lưỡi ra liếm mép.

- Nhưng này Porthos - D Artagnan nói - Chúng ta đã chẳng có anh bạn Mousqueton nuôi nấng cậu ăn uống thật đang hoàng ở Chantilly đó sao?

- Thật thế - Porthos nói, - chúng ta đã có Mousqueton, nhưng từ khi hắn lên làm quản lý hắn nặng nề ra quá; không sao, cứ gọi hắn lên.

Vả để chắc chắn được hắn đáp lại một cách dễ chịu, anh kêu:

- Ơ này, Mousqueton.

Mouston xuất hiện; mặt hắn trông thật thảm hại.

- Mouston thân mến, anh làm sao thế? - D Artagnan hỏi, - Anh có ốm đau gì không?

- Thưa ông, - Mouston đáp, - Tôi đói lắm ạ.

- Ấy chính vì thế mà chúng tôi triệu ông lên đấy. Ông Mouston thân mến ạ. Ông không thể đánh bẫy được con thỏ hiền lành và mấy con trĩ đẹp đẽ để làm món hầm và chả nướng như ở khách sạn... thực tình là tôi quên mất tên rồi.

- Khách sạn... gì nhỉ? - Porthos nói, - Tôi cũng quên nốt.

- Không sao, và quăng thòng lọng lấy mấy chai rượu vang Bourgogne lâu năm nó đã chữa khỏi rất nhạy cái trật xương của chủ anh ấy mà.

- Chao ôi, thưa ông, - Mouston đáp, - Tôi e rằng tất cả những thứ ông vừa yêu cầu rất hiếm ở cái xứ sở tồi tệ này, và tôi cho rằng tốt hơn cả là nhờ đến ông chủ của ngôi nhà nhỏ mà từ ven rừng ta cũng trông thấy.

- Saol? Có một ngôi nhà ở quanh đây à? - D Artagnan hỏi.

- Thưa ông, vâng.

- Vậy thì như cậu nói, chúng ta đến ăn ở đó đi.

- Thưa các vị, các vị thấy thế nào, ý kiến của ông Mouston chẳng chí lý hay sao?

- Ê này - Aramis nói - Nếu chủ nhà là người thanh giáo thì sao.

- Càng hay! Mẹ kiếp, - D Artagnan đáp, - Nếu hắn là người thanh giáo thì chúng ta sẽ cho hắn biết tin vua bị bắt, rồi để mừng cái tin ấy, hắn sẽ cho chúng ta mấy con gà mái trắng.

- Nhưng nếu hắn là lãnh chúa - Porthos nói.

- Trong trường hợp ấy, chúng ta sẽ làm bộ mặt đưa đám và vặt lông những con gà mái đen.

Arthos bất giác mỉm cười về cái máu vui nhộn của chàng Gascon bất trị, và nói:

- Cậu sung sướng thật, vì cậu nhìn cái gì cũng tươi cười.

- Biết làm thế nào! - D Artagnan đáp, - tôi sinh ra ở một xứ không có bóng mây trên trời.

- Chẳng như ở cái xứ này, - Porthos vừa nói vừa giơ tay ra để xem có đúng là mưa không vì anh vừa mới thấy như có một giọt nước rơi làm anh lạnh quá.

- Nào, nào, - D Artagnan nói, - thêm một lý do để chúng ta lên đường... Ơ này Grimaud!

Grimaud xuất hiện.

- Này ông bạn Grimaud bác có thấy gì không, - D Artagnan hỏi.

- Chẳng có gì hết, - Grimaud đáp.

- Đồ ngu, - Porthos nói, - Ba người kia chúng chẳng buồn đuổi theo chúng ta. Ồ! Nếu chúng ta ở vào địa vị chúng thì sao nhỉ?

- Ồ, chúng nó sai lầm, - D Artagnan nói, nếu gặp Mordaunt, tôi sẵn sàng nói với nó một câu ở trong Thébaïde(1): Đây là chỗ rất hay để quật ngã một con người.

- Này cậu ơi, - Aramis nói, - Dứt khoát là thằng con trai không có sức mạnh như mẹ.

- Bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - hãy khoan đã. Chúng ta mới rời nó khoảng hai tiếng đồng hồ nó chưa biết chúng ta đi lối nào, chúng ta ở đâu. Khi nào đặt chân lên đất Pháp, chúng ta hãy nói nó không mạnh bằng mẹ nó, nếu từ giờ đến lúc ấy chúng ta không bị giết hoặc đầu độc.

- Trong khi chờ đợi, ta cứ chén, - Porthos nói.

- Phải đấy, - Arthos nói, - Thực tình tôi đói lắm rồi.

- Liệu hồn những con gà mái đen! - Aramis bảo.

Và do Mouston dẫn đường, bốn bạn đi về phía ngôi nhà, họ gần trở lại nỗi vô tư lự xưa kia, vì rằng giờ đây họ là bốn người hợp nhất và hoà thuận như Arthos nói.

Chú thích:

(1) Thébaïde hoặc "Những anh em thù địch" - bi kịch của Raxin

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 63

Chào Hoàng thượng sa cơ

Lần trước tới ngôi nhà, những kẻ lần trốn của chúng ta trông thấy đất bị xới lên như có một toán kỵ sĩ đông đảo đã đi trước họ. Trước cổng nhà các dấu vết càng nom rõ hơn cái toán ấy dù có là gì chăng nữa cũng đã nghỉ chân tại đây.

- Mẹ kiếp. - D Artagnan nói, - Chuyện rành rành ra rồi, vua và đoàn hộ tống đã đi qua đây.

- Thôi chết! - Porthos nói - Như thế thì họ đã ngốn ngấu hết rồi còn gì.

- Biết đâu họ chẳng để lại một con gà.

D Artagnan nói rồi nhảy xuống ngựa, đến gõ cửa, nhưng chẳng có ai trả lời.

Anh đẩy cửa, cửa không chốt và thấy căn phòng đầu tiên vắng tanh.

- Thế nào? - Porthos hỏi.

- Chẳng thấy ai cả, - D Artagnan đáp - A, a!

- Cái gì thế?

- Có máu.

Nghe thấy thế, ba người bạn nhẩy xuống ngựa và đi vào. Nhưng d Artagnan đã đẩy cửa căn phòng thứ hai, và qua nét mặt anh, rõ ràng là anh đã thấy một vật gì đặc biệt.

Ba người bạn đến gần và nom thấy một người đàn ông hãy còn trẻ nằm sóng sượt dưới đất trong một vũng máu.

Chắc là anh ta đã muốn vào giường, nhưng không đủ sức và ngã xuống.

Arthos là người đầu tiên đến gần kẻ bị nạn, anh tưởng như trông thấy người ấy cựa quậy.

- Thế nào? - D Artagnan hỏi.

- Nếu như anh ta chết, - Arthos đáp, - Thì cũng chưa lâu, vì người vẫn còn nóng. Mà không, tim vẫn còn đập. Này, anh bạn ơi!

Kẻ bị thương thở dài một cái. D Artagnan vốc nước vào lòng bàn tay và vẩy vào mặt.

Anh ta mở mắt, toan ngóc đầu dậy và lại ngã xuống.

Arthos định vực anh ta lên đầu gối mình, nhưng trông thấy vết thương ở phía trên tiểu não một chút và làm nứt toác sọ; máu ở đó tuôn ra lênh láng.

Aramis lấy khăn thấm nước và đắp vào vết thương, nước lạnh khiến kẻ bị thương hồi tỉnh và mở mắt lần thứ hai.

Anh ta ngạc nhiên nhìn những người kia có vẻ thương hại anh và đang cố sức cứu chữa cho anh.

- Ông đang ở giữa các bạn bè - Arthos nói bằng tiếng Anh, - Cứ yên tâm, và nếu ông còn có sức thì hãy kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đã xảy ra.

- Đúc vua, - Kẻ bị thương lẩm bầm, - đức vua là tù binh.

- Ông trông thấy à! - Aramis hỏi cũng bằng tiếng Anh.

Người ấy không trả lời.

- Hãy yên trí, - Arthos lại nói, - Chúng tôi là những bầy tôi trung thành của Hoàng thượng.

- Ông nói thật chứ? - Kẻ bị thương hỏi.

- Chúng tôi lấy danh dự quý tộc mà thề.

- Vậy tôi có thể nói với ông được không?

- Nói đi.

- Tôi là em của Parry, người hầu phòng của Hoàng thượng ấy.

Arthos và Aramis nhớ lại đó là cái tên mà de Winter đã gọi người hầu mà các anh đã gặp trong hành lang lều vua.

- Chúng tôi có biết, anh ta không rời vua bao giờ.

- Phải, đúng thế, - Kẻ bị thương nói. - Thấy Đức vua bị bắt, bác ấy nghĩ tới tôi. Khi đoàn người đi qua nhà tôi, bác nhân danh vua xin cho đoàn dừng lại và được chấp thuận. Nghe nói vua đòi, họ cho vua vào trong căn phòng tôi đang ở đây, để người dùng bữa và cắt lính canh ở cửa ra vào và cửa sổ. Parry biết căn phòng này có một cửa sập dẫn xuống căn hầm và từ đó có thể đi ra ngoải vườn, bác ra hiệu cho tôi, tôi hiểu ngay, nhưng chắc hẳn ám hiệu bị bọn lính canh bắt chợt và nghi ngờ. Không biết rằng họ nghi ngờ, tôi chỉ có một điều mong muốn là cứu Hoàng thượng. Tôi bèn giả vờ ra vườn kiếm củi và nghĩ rằng không thể chậm trễ. Tôi đi vào đường ngầm dẫn đến căn hầm có cánh cứu sập Tôi lấy đầu đội nắp hầm lên, và trong khi Parry nhẹ nhàng cài chốt cửa ra vào lại, tôi ra hiệu cho vua đi theo tôi? Than ôi, vua không muốn, dường như ngài ghê tởm việc chạy trốn như thế. Nhưng Parry chắp tay van lạy ngài, tôi cũng vật nài ngài đừng bỏ lỡ một cơ hội như vậy. Cuối cùng ngài quyết định đi theo tôi. May thay, tôi đi trước, vua đi sau tôi vài bước bỗng nhiên tôi thấy trong đường hầm sừng sững một bóng đen cao lớn. Tôi toan kêu lên để báo hiệu cho vua, nhưng không kịp. Tôi cảm thấy một đòn như cả ngôi nhà đổ sập xuống đầu tôi và tôi lăn ra bất tỉnh.

Một người Anh tử tế và chính trực! Một bầy tôi trung thành! - Arthos nói.

- Khi tỉnh lại tôi thấy mình vẫn nằm ở chỗ ấy. Tôi lết ra tận ngoài sân, vua và đoàn hộ tống đã đi rồi. Tôi lê từ ngoài vườn vào đây phải mất đến một tiếng đồng hồ, nhưng rồi kiệt sức, tôi ngất đi lần thứ hai.

- Thế bây giờ ông thấy thế nào?

- Đau lắm, ông ạ.

- Chúng tôi có thể giúp gì cho ông? - Arthos hỏi.

- Hãy đỡ tôi lên giường, như thế có lẽ dễ chịu hơn.

- Có người nào để cứu chữa cho ông không?

- Vợ tôi đang ở Durham và sớm muộn sẽ trở về. Nhưng còn các ông không cần gì ư, không muốn cái gì ư?

- Lúc này chúng tôi định đến xin ăn.

- Chao ôi? Họ vơ vét sạch, chẳng còn lấy một mẩu bánh ở trong nhà. D Artagnan, cậu nghe thấy chưa? - Arthos nói, - chúng ta phải đi kiếm bữa ăn ở chỗ khác thôi.

- Chẳng sao! - D Artagnan nói, - Bây giờ tôi không thấy đói nữa.

- Thực tình, tôi cũng vậy, - Porthos nói.

Họ đưa người bị nạn lên giường và gọi Grimaud đến băng bó vết thương. Giúp việc bốn người bạn, Grimaud đã có nhiều dịp làm băng bó và đôi chút ra dáng nhả phẫu thuật.

Trong khi ấy mấy người lẩn trốn đi ra căn phòng ngoài và họp bàn.

- Bây giờ đây, - Aramis nói, - Chúng ta đã biết sự thể ra sao rồi.

- Đúng là vua và đoàn hộ tống đã đi qua đây ta phải đi theo hướng ngược lại. Cậu thấy thế nào, Arthos?

Arthos không đáp, anh đang suy nghĩ

- Phải đấy, - Porthos nói - Ta đi hướng ngược lại. Nếu ta đi theo đoàn hộ tống, ta sẽ thấy mọi thứ đều bị ngốn ngấu hết và cuối cùng chúng ta sẽ chết đói. Cái nước Anh đáng nguyền rủa này. Đây là lần đầu tiên tôi không được ăn trưa. Bữa trưa là bữa ăn ngon nhất của tôi đấy!

- D Artagnan, cậu nghĩ thế nào - Arthos hỏi. - Cậu có đồng ý với Aramis không?

- Không, - D Artagnan đáp. - Tôi trái với ý kiến đi theo chiều ngược lại.

- Sao, - Porthos hoảng hốt nói. - Cậu định đi theo đoàn hộ tống ư?

- Không, nhưng đi cùng hướng với họ.

- Đi cùng hướng với đoàn hộ tống ư? - Aramis kêu lên.

- Cứ để d Artagnan nói, - Arthos bảo, - Cậu biết rằng hắn là người luôn có ý kiến hay mà.

- Tất nhiên. - D Artagnan đáp, - phải đi nơi nào người ta không tìm kiếm chúng ta. Do họ chẳng bao giờ lại đi lùng chúng ta trong đám người thanh giáo, chúng ta hãy đến chỗ bọn thanh giáo.

- Hay lắm, bạn ơi! Ý kiến thật là tuyệt, - Arthos nói, - Tôi sắp sửa nói thì cậu đã nói trước mắt rồi.

- Thế anh cũng đồng ý như vậy à? - Aramis hỏi.

- Phải. Người ta tưởng chúng ta muốn rời nước Anh và họ tìm kiếm chúng ta ở các bến cảng; trong khi đó chúng ta sẽ đến London cùng với vua. Một khi tới London rồi, sẽ chẳng ai tìm thấy chúng ta đâu; Ở giữa một triệu con người, ẩn náu chăng khó khăn gì, chưa kể, - Arthos nói thêm và đưa mắt sang Aramis, - Những điều may ta sẽ gặp trong chuyên đi này.

- Phải, - Aramis nói. - Tôi hiểu.

- Tôi chẳng hiểu gì, - Porthos nói, - Nhưng không sao vì ý kiến này vừa là của d Artagnan, vừa là của Arthos, ắt hẳn là ý kiến hay nhất.

- Nhưng - Aramis nói, - Liệu đại tá Harrison có nghi ngờ chúng ta không?

- Ô mẹ kiếp! - D Artagnan nói -Ttôi lại trông cậy vào chính ông ta cơ chứ. Đại tá Harrison là chỗ bạn bè của chúng ta, tôi đã gặp ông ta hai lần ở chỗ tướng Cromwell; ông ta biết rằng chúng tôi được ông Mazarin phải từ Pháp sang, và coi chúng tôi như anh em. Vả chăng, đó chẳng phải là con trai một người đồ tể đó sao? Đúng như thế, phải không? Vậy thì Porthos sẽ chỉ cho ông ta biết người ta đập chết một con bò bằng một quả đấm như thế nào, còn tôi sẽ cho ông ấy hay người ta nắm sừng một con bò to lớn và quật ngã nó ra sao, điều ấy sẽ chinh phục lòng tin cậy của ông ta.

Arthos mỉm cười. Rồi vừa giơ tay ra vừa nói vớỉ chàng Gascon:

- D Artagnan, cậu là người bạn đường hay nhất mà tôi được biết. Tôi rất sung sướng được gặp lại cậu, con trai thân yêu của tôi.

Ta đã biết, Arthos thường gọi d Artagnan như vậy những khi trải tim anh dạt dào tình cảm.

Vừa lúc ấy Grimaud đi ra. Kẻ bị thương đã được băng bó và khá hơn.

Bốn người bạn cáo biệt anh ta và hỏi có nhắn gì cho anh trai mình không.

Con người trung hậu đáp:

- Nhờ các ông bảo bác ấy nói để Đức vua biết rằng họ không giết chết hẳn tôi; dù hèn hạ như tôi, tôi cũng tin chắc rằng hoàng thượng thương tiếc tôi và ân hận về cái chết của tôi.

- Cứ yên trí, - D Artagnan nói, - Trước buổi tối này, ngài sẽ biết.

Toán người lại ra đi. Không thể lầm đường, vì con đường họ muốn đi theo được vạch rõ ràng qua cánh đồng.

Sau hai tiếng đồng hồ đi lặng lẽ, d Artagnan dẫn đầu bỗng dừng ở lại một chỗ dường ngoặt.

- A, a, - Anh nói, - Người chúng ta đây rồi.

Quả thật một toán đông kỵ sĩ hiện ra ở cánh đồng nửa dặm.

- Các bạn ơi! - D Artagnan nói, - Hãy đưa gươm kiếm cho ông Mouston, ông ta sẽ trả lại các anh khi cần thiết, và đừng quên rằng các anh là tù binh của chúng tôi đấy.

Rồi mọi người cho ngựa đi nước kiệu, chúng cũng bắt đầu mệt mỏi, và chẳng mấy chốc họ đuổi kịp đoàn hộ tống.

Nhà vua có một bộ phận của trung đoàn Harrison bao quanh, đi đầu vẫn thản nhiên, đàng hoàng và với vẻ như là thiện ý.

Trông thấy Arthos và Aramis mà người ta đã chẳng để cho ông có thì giờ từ biệt, vua đọc trong những cái nhìn của hai nhà quý tộc thấy rằng họ còn có những bạn bè ở cạnh họ mấy bước và mặc dầu vẫn tưởng họ là tù binh, một sắc đỏ vui mừng bốc lên hai gò má xanh xao của nhà vua.

Để hai bạn mình cho Porthos canh giữ, d Artagnan đi lên hàng đầu của đoàn quân đến thẳng chỗ Harrison. Ông ta nhận ngay ra là đã gặp anh ở dinh Cromwell, và đón tiếp anh một cách lịch sự như một người ở địa vị ấy và với tính cách ấy có thể làm đối với mọi người khách. Đúng như điều dự đoán của d Artagnan, viên đại tá không nghi ngờ gì hết.

Người ta dừng lại; vua ăn ở chỗ nghỉ này. Tuy nhiên lần này người ta đề phòng để vua khỏi mưu toan chạy trốn. Trong gian phòng lớn của khách sạn, một chiếc bàn nhỏ được xếp cho vua và một bàn lớn cho các sĩ quan.

- Ông có ăn với tôi không? - Harrison hỏi d Artagnan.

- Chao ôi, tôi rất vui lòng - D Artagnan đáp, - Song tôi còn người bạn đồng hành, ông Du Vallon với hai tù binh mà tôi không thể rời xa và họ làm chật bàn của ông ra. Nhưng thế này có lẽ tiện hơn; ông cho kẻ một cái bàn vào một góc và cho dọn thức ăn sang đấy cho chúng tôi nếu không thì chúng tôi chết đói mất. Như thế vẫn là cùng ăn với nhau, bởi vì chúng ta sẽ ăn trong cùng một gian phòng.

- Được! Harrison nói.

Mọi việc được thu xếp như d Artagnan mong muốn và khi anh trở lại thì đã thấy nhà vua ngồi ở cái bàn nhỏ, do Pary hầu, Harrison và các sĩ quan ngồi chung một bàn và ở trong góc một bàn dành cho anh và các bạn đồng hành.

Bàn của các sĩ quan thanh giáo hình tròn và chẳng biết do tình cờ hay tỉnh toán vụng, Harrison ngồi quay lưng lại phía vua.

Trông thấy bốn người quý tộc vào, vua không tỏ ra chú ý gì đến họ.

Họ đến chỗ bàn dành cho mình và ngồi sao để không quay lưng lại ai.

Để chào mừng các vị khách của mình, Harrison sai mang nhưng thức ăn ngon nhất của bàn mình sang cho họ. Tiếc thay không có rượu vang. Đối với Arthos điều ấy không can gì, nhưng d Artagnan, Porthos và Aramis mỗi lần phải nhấp rượu bia lại nhăn nhó vì cái thứ đồ uống thanh giáo này.

- Thưa đại tá, - D Artagnan nói, - Thậttình là chúng tôi rất biết ơn ông về sự mời mọc quý hoá này, vì nếu không có ông, chắc chắn chúng tôi sẽ phải nhịn bữa trưa cũng như đã nhịn bữa ăn lót dạ và đây là ông du Vallon là bạn tôi cũng chia sẻ lòng biết ơn của tôi bởi vì ông ấy đói lắm.

- Tôi vẫn đói, - Porthos vừa nói vừa chào viên đại tá.

- Thế cái sự kiện nghiêm trọng là phải nhịn bữa lót dạ ấy đã xảy ra với các ông như thế nào? - Viên đại tá vừa cười vừa hỏi.

- Do một nguyên nhân rất đơn giản, - D Artagnan nói, - Tôi vội vã đuổi theo đại tá, vì vậy đi cùng đường với ông. Lẽ ra một sĩ quan kỳ cựu như tôi không làm như vậy, vì phải biết rằng nơi nào mà một trung đoàn hùng hậu như trung đoàn ông đã đi qua thì chẳng còn để lượm một nữa. Cho nên ông hiểu rõ nỗi thất vọng của chúng tôi khi tới một ngôi nhà xinh xinh ven rừng mái ngói đó, cửa sổ xanh, đẹp như mơ, từ xa trông rất thích. Chúng tôi chắc mẩm là sẽ có gà mái tơ để quay, đùi cừu để nướng chả, nhưng đến nơi chỉ trông thấy một kẻ tội nghiệp tắm mình trong... - A, mẹ kiếp Thưa đại tá, xin hãy chuyển lời khen của tôi đến viên sĩ quan nào đã giáng cái đòn ấy thật đích đáng, thật đích đáng khiến ông du Vallon bạn tôi phải khâm phục, ông ấy cũng giáng được những đòn như thế.

- Vâng, - Harrison cười nói và đưa mắt sang một viên sĩ quan ngồi cùng bàn, - khi Groslow đã đảm nhiệm công việc ấy thì chẳng cần ai đến sau ông ta.

- A! Thì ra ông đấy à? - D Artagnan nói và chào viên sĩ quan, tôi tiếc là ông không nói tiếng Pháp để tôi có lời chúc mừng ông.

- Thưa ông, tôi sẵn sàng nhận và chúc mừng lại ông, - Viên sĩ quan nói bằng tiếng Pháp khá thạo, - Bởi vì tôi đã ở Paris ba năm.

- Vậy thì - D Artagnan nói tiếp, - Tôi vội xin thưa với ông rằng, cái đòn ấy nện hay đến nỗi hầu như đã giết chết địch thủ.

- Tôi tưởng đã giết chết hẳn rồi chứ, - Groslow nói.

- Không. Cũng chẳng còn gì quan trọng lắm đâu, đúng thế, nhưng hắn không chết.

Khi nói câu ấy, d Artagnan đưa mắt nhìn Parry, bác đang đứng trước nhà vua, mặt tái nhợt, - để ngụ ý rằng cái tin tức này là gửi cho bác.

Vua lắng nghe câu chuyện này mà tim thắt lại với một nỗi lo âu khôn tả, vì không biết tên sĩ quan người Pháp kia muốn đi tới đâu, và những chi tiết tàn nhẫn kia núp dưới một bề ngoài vô tư lự khiến ông bực tức.

Chỉ sau những lời nói cuối cùng của d Artagnan ông mới dễ thở.

- A! Bực nhỉ, - Groslow nói, - tôi cứ tưởng đạt hơn cơ đấy. Nếu từ đây đến nhà tên khốn kiếp này không xa, tôi sẽ trở lại, cho hắn chết hẳn.

- Ông làm thế là phải, nếu như ông sợ nó hồi phục, d Artagnan nói, - bởi vì ông biết đấy, khi vết thương vào đầu mà không giết chết ngay thì sau tám ngày nó sẽ khỏi.

Và d Artagnan lại liếc nhìn Parry lần thứ hai, mặt bác ta lộ vẻ mừng rỡ khiến Charles giơ tay ra cho bác và mỉm cười.

Parry cúi xuống bàn tay chủ và hôn lên với vẻ cung kính.

- D Artagnan này, - Arthos nói, - Quả thật cậu vừa là người giữ lời vừa là người tài trí. Nhưng cậu thấy vua thế nào?

- Tôi hoàn toàn ưa thích gương mặt của vua. Ông ta vừa có vẻ tử tế vừa có vẻ cao quý.

- Phải, - Porthos nói, - Nhưng ông ta để bị bắt, đó là một sai lầm.

- Tôi rất muốn uống chúc mừng sức khỏe nhà vua, - Arthos nói.

- Vậy thì để tôi làm cho, - D Artagnan bảo.

- Làm đi, - Aramis nói.

Porthos nhìn d Artagnan, choáng váng cả người về những nguồn thủ đoạn dồi dào mà trí xảo Gascon không ngừng cung cấp cho bạn.

D Artagnan cầm chiếc cốc bằng thiếc rót đầy rượu và đứng lên. Anh nói với các bạn:

- Thưa các ông, chúng ta hãy uống mừng sức khỏe người chủ bữa ăn này. Chúc mừng ông đại tá và mong ông biết cho rằng chúng ta sẵn sàng phục vụ ông đến tận London và xa hơn nữa.

Vừa nói d Artagnan vừa nhìn Harrison, ông ta tưởng người ta nâng cốc chúc mình bèn đứng dậy và chào bốn người bạn, mấy người này dán mắt vào vua cùng uống, trong khi Harrison cũng cạn cốc của mình không một chút nghi ngờ.

Đến lượt mình, Charles chìa cốc ra để Parry rót cho vài giọt bia vì rằng vua cũng chỉ được chia phần như mọi người, và vừa đưa cốc lên môi vừa nhìn lại bốn người quý tộc, ông uống với nụ cười đầy vẻ quý phái và biết ơn.

Harrison đặt cốc xuống và chẳng tỏ một vẻ kính trọng nào đối với người tù hiển hách mà mình dẫn đi, ông hô:

- Nào, xin các ông lên đường!

- Ta ngủ ở đâu, đại tá?

- Ở Tirsk. - Harrison đáp.

Vua đứng lên, quay lại phía người hầu và nói:

- Parry, đem ngựa ra. Ta muốn đi đến Tirsk.

- Arthos này, - D Artagnan nói, - Thực tình vua của anh đã quyến rũ tôi thật sự và tôi sẵn lòng phục vụ ông ta.

- Nếu điều cậu nói là chân thành, - Arthos nói, - Thì vua không đi tới London.

- Sao vậy?

Vì rằng trước lúc đó, chúng ta đã cướp vua đi.

- A! - D Artagnan nói, - Xin lấy danh dự mà thề rằng lần này anh điên thật đấy, Arthos ạ.

- Thế cậu có một kế hoạch nào không? - Aramis hỏi.

- Này, - Porthos nói - việc đó không phải là không thể làm được nếu như có một kế hoạch hẳn hoi.

- Tôi không có, - Arthos đáp, - nhưng d Artagnan sẽ tìm ra một diệu kế.

D Artagnan nhún vai, và mọi người lên đường.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Chương 64

D'Artagnan được một diệu kế

Có lẽ Arthos hiểu d Artagnan còn hơn d Artagnan tự hiểu mình. Anh biết rằng trong một tâm trí mạo hiềm như tâm trí d Artagnan chỉ cần gieo một ý tưởng giống như trên một mảnh đất màu mỡ chỉ cần gieo một hạt giống. Cho nên anh đã lặng lẽ để mặc bạn mình nhún vai, và anh vừa đi vừa nói chuyện với bạn về Raoul, câu chuyện mà trong một hoàn cảnh khác, anh đã hoàn toàn bỏ rơi.

Trời tối hằn thì đến Tirsk. Bốn người bạn tỏ ra hoàn toàn xa lạ và thờ ơ với những biện pháp phòng ngừa mà người ta thi hành để yên tâm về nhà vua. Họ rút vào một ngôi nhà riêng và do luôn luôn phải lo ngại cho chính mình, họ cũng ở trong một phòng và sắp xếp một lối thoát trong trường hợp bị tấn công. Các người hầu được cắt đặt vào những vị trí khác nhau; Grimaud nằm trong một ổ rơm chắn ngang cửa.

D Artagnan có vẻ đăm chiêu và tạm thời mất đi tính vui miệng thông thường. Anh chẳng nói một lời và không ngừng huýt sáo, đi từ giường ra cửa sổ. Porthos xưa nay chỉ nhìn thấy những sự vật bên ngoài, vẫn nói chuyện như thường lệ, d Artagnan đáp lại bằng những tiếng nhát gừng. Arthos và Aramis nhìn nhau tủm tỉm cười.

Cả ngày mệt mỏi song trừ Porthos mà giấc ngủ cũng bất khuất như sự thèm ăn, các bạn khác đều khó ngủ.

Sớm hôm sau d Artagnan dậy trước tiên. Anh xuống chuồng ngựa, xem xét các con ngựa, ban các mệnh lệnh cần thiết trong ngày cho người hầu, trong khi Arthos và Aramis chưa dậy và Porthos vẫn đang ngáy.

Tám giờ sáng đoàn quân lên đường theo trật tự hôm trước.

Riêng d Artagnan để mặc các bạn đi với nhau và đến nối lại với Groslow sự quen biết bắt đầu từ hôm qua.

Được những lời khen của anh ve vuốt, Groslow đón tiếp anh bằng một nụ cười nhã nhặn.

- Thưa ông, - D Artagnan nói, - Thực tình tôi rất sung sướng tìm được một người nào đó để nói cái ngôn ngữ tầm thường của mình. Ông Du Vallon bạn tôi vốn tính đa sầu thành ra cả ngày chẳng thể moi ở miệng ông ấy lấy bốn câu, còn hai tù binh của chúng tôi ông cũng thừa hiểu rằng họ chẳng hào hứng gì chuyện trò với chúng tôi.

- Đó là những tên bảo hoàng cuồng dại, - Groslow nói.

- Thêm một lý do để họ bất bình với chúng tôi vì đã bắt mất lão Stuart mà chúng tôi mong rằng các ông sẽ đem ra xử án đến nơi đến chốn.

- Thì chúng tôi dẫn hắn đến London để làm cái việc ấy mà, - Groslow nói.

- Và tôi đoán rằng không lúc nào ông rời mắt khỏi lão ta phải không.

- Hẳn đi chứ! Ông thấy đấy, - Viên sĩ quan cười nói, - Hắn ta có một đoàn hộ giá thật là đế vương.

- Phải ban ngày chẳng có nguy cơ lão ta trốn thoát; nhưng ban đêm?

- Ban đêm phải phòng ngừa gấp đôi.

- Bằng cách nào?

Tám người thường xuyên ở trong phòng hắn.

- Ghê nhỉ! - D Artagnan nói. - Nhưng ngoài tám người đó ra, còn phải canh gác ở bên ngoài nữa chứ. Vì một tù nhân như vậy thì đề phòng bao nhiêu cũng chẳng phải là thừa.

- Ồ không, ông thử nghĩ xem: hai người không vũ khí thì làm gì được tám người có vũ trang.

- Sao lại hai người?

- Vua và tên hầu phòng.

- Người ta cũng cho phép tên hầu phòng ở bên ông ta à?

- Phải, Stuart yêu cầu được ban cho cái đặc ân ấy và đại tá Harrison đã bằng lòng. Lấy cớ mình là vua hình như lão ta không thể tự mình mặc lấy quần áo hoặc cởi ra...

Quyết định tiếp tục cái phương án tán tụng đã tỏ ra rất có hiệu quả với tên sĩ quan Anh, d Artagnan nói:

- Đại uý này, thực tình là càng nghe ông nói tôi càng ngạc nhiên về cách ông nói tiếng Pháp sao mà dễ dàng và tao nhã thế. Ông đã ở Paris ba năm, đúng như tôi dù có ở London suốt đời chăng nữa, tôi tin rằng cũng chăng thể đạt tới trình độ hiện nay của ông đâu. Thế dạo ở Paris ông làm gì?

- Cha tôi vốn là thương gia đã cho tôi đến ở với người bạn bán hàng bằng thư tín ở Paris, và ngược lại ông ta đã cho con trai đến ở với cha tôi. Việc trao đổi như vậy là thường giữa các nhà buôn với nhau.

- Thế Paris có làm vừa lòng ông không?

- Có chứ, nhưng các ông cần một cuộc cách mạng như kiểu của chúng tôi; không phải để chống lại vua của các ông đâu, đó chỉ là một đứa bé, mà để chống lại cái lão người Ý bần tiện ấy, hắn là tình nhân của hoàng hậu.

- A! Tôi rất đồng ý với ông đấy, và điều ấy sẽ làm sớm, chỉ cần chúng tôi có được mười hai sĩ quan như ông, không thiên kiển, cánh giác và không thể thương lượng! A! Chúng tôi sẽ nhanh chóng thanh toán được lão Mazarin và sẽ cho lão một bản án nho nhỏ như các ông sắp làm với vua của mình.

- Nhưng tôi tưỏng ông phục vụ lão ta cơ mà, - Viên sĩ quan nói, - Và chính lão ta đã phái ông sang gặp Cromwell?

- Nghĩa là tôi phục vụ nhà vua, và biết rằng lão ta cần phải một người nào đó sang nước Anh, tôi bèn xin lãnh nhiệm vụ đó, ông xem tôi mong muốn biết chừng nào con người thiên tài lúc này đây đang chỉ huy ở ba vương quốc(1). Cho nên khi ngài đề nghị với ông Du Vallon và tôi tuốt kiếm ra để chào mừng nước Anh cổ kính, ông đã thấy chúng tôi bập vào đề nghị đó như thế nào rồi.

- Phải tôi biết rằng các ông đã công kích bên cạnh ông Mordaunt.

- Ở bên trái và bên phải ông ấy. Ghê thật, lại một chàng thanh niên dũng cảm xuất sắc như ông ta. Ông thẳng tay hạ sát bác của mình. Ông có trông thấy không?

- Ông quen biết ông ấy à? - Viên sĩ quan hỏi.

- Quen lắm chứ, có thể nói rằng chúng tôi rất mật thiết với nhau. Ông Du Vallon và tôi đã cùng đi với ông ấy từ Pháp sang đây.

- Hình như các ông để cái ông ấy phải chờ đợi rất lâu ở Boulogne-sur-Mer phải không?

- Làm thế nào được, - D Artagnan đáp, - Cũng như ông, tôi phải canh giữ một ông vua.

- A, a! Vua nào - Groslow hỏi.

- Vua của chúng tôi, mẹ kiếp, ông king(2) tí hon Louis thứ mười bốn.

Và d Artagnan ngả mũ ra. Viên sĩ quan Anh vì lịch sự cũng làm theo.

- Thế ông phải canh giữ bao lâu?

- Ba đêm và thực tình, tôi sẽ mãi mãi nhớ lại ba đêm ấy một cách thú vị.

- Ông vua nhỏ dễ thương chứ?

- Ông ta ngủ ngon lành.

- Ý ông định nói gì?

- Tôi muốn nói rằng các sĩ quan bạn tôi ở thị vệ đội và ngự lâm quân đến chơi với tôi, và cả đêm chúng tôi chè chén và cờ bạc.

- À phải, - Người Anh thở dài, - Đúng thật người Pháp các ông là những người bạn vui tính.

- Khi canh gác các ông không chơi bạc à?

- Không bao giờ.

- Như vậy, chắc các ông buồn chán lắm nhỉ và tôi lấy làm ái ngại cho các ông đấy - D Artagnan nói.

- Sự thật là, - Viên sĩ quan nói, - Tôi đợi phiên gác với một nỗi kinh hoàng. Sao mà dài thế, cả một đêm trọn thức canh.

- Đúng thế, khi người ta canh gác một mình hoặc với những người lính ấm ớ. Nhưng khi người ta canh với một người bạn chơi vui tính. Khi người ta lăn tiền vàng và những quân súc sắc trên bàn, thì đêm qua đi như một giấc mơ. Ông không thích cờ bạc à?

- Trái lại.

- Chơi Le lansquenet (3) chẳng hạn.

- Tôi mê lắm. Hồi ở Pháp hầu như tối nào tôi cũng chơi.

- Thế từ khi về nước Anh?

- Tôi chẳng cầm đến một con súc sắc hay một quân bài.

- Tôi thương ông quá, - D Artagnan nói với một vẻ thương cảm sâu xa.

- Này ông, - Người Anh nói, - Ta hãy làm một chầu?

- Chầu gì?

Ngày mai tôi trực gác.

- Trông chừng Stuart à?

- Phải. Ông hãy sang chơi đêm với tôi.

- Không được đâu, - D Artagnan đáp.

- Không được ư?

- Hoàn toàn không thể được.

- Sao vậy?

- Đêm nào tôi cũng chơi bạc với ông Du Vallon. Đôi khi chúng tôi không ngủ... Sáng nay chẳng hạn, sáng rồi mà vẫn còn chơi.

- Thế thì sao?

- Ông ấy sẽ buồn phiền, nếu không có tôi cùng chơi.

- Ông ấy chơi khá không?

- Tôi đã thấy ông ấy thua hai nghìn pistol và cười ra nước mắt.

- Thế thì kéo ông ta đến đây.

- Ông tính thế nào? Còn tù binh của chúng tôi?

- Ờ nhỉ. Khỉ thật! - Viên sĩ quan nói. - Nhưng bảo bọn đầy tớ canh gác cho.

- Vâng, để họ tẩu thoát à? Tôi chẳng làm thế đâu - D Artagnan nói.

- Chắc hẳn đó là những người có địa vị cao sang nên ông mới giữ riệt thế?

- Ấy một người là lãnh chúa giàu sụ ở Touraine; một người là hiệp sĩ ở Malte nhà quyền thề lắm. Chúng tôi sẽ thương lượng tiền chuộc; khi về Pháp mỗi người phải nộp hai nghìn livres sterling (4).

Chúng tôi không muốn rời mắt một lát nào những người mà bọn đầy tớ của chúng tôi biết rõ là triệu phú. Khi bắt được họ, chúng tôi đã moi của họ được ít nhiều, và xin thú thật với ông rằng đêm đêm, tôi và ông Du Vallon chúng tôi giằng co nhau túi tiền của họ đấy. Nhưng có lẽ họ còn giấu giếm một vài viên ngọc quí, một vài hạt kim cương, thành thử chúng tôi cứ như những kẻ biển lận chẳng lúc nào dám rời xa kho vàng của mình. Chúng tôi trở thành kẻ canh gác thường xuyên tù binh của mình; khi người này ngủ thì người kia thức.

- À ra thế! - Groslow nói.

- Bây gỉờ thì ông hiểu cái gì buộc tôi phải từ chối nhã ý của ông. Vả lại tôi càng nhạy cảm với lời mời của ông hơn khi thấy rằng không có gì chán hơn là cứ chơi mãi với vẫn một người vận số đen liên tục bù trừ nhau, và sau một tháng chẳng ai được cũng chẳng ai thua.

- Ôi! Groslow thở dài mà nói, - Còn có điều chán hơn nữa kia, đó là chẳng có gì hết.

- Tôi hiểu lắm, - D Artagnan đáp.

- Nhưng này, - Người Anh lại nói, - Những tù binh của ông có nguy hiểm không?

- Về mặt nào cơ?

- Họ có khả năng tẩu thoát không?

D Artagnan bật cười và nói:

- Ôi lạy Chúa, một tên sốt rét run cầm cập vì không quen với khí hậu ở đất nước tươi đẹp của ông, tên kia là hiệp sĩ Malte nhút nhát như đứa con gái. Và để chắc hơn, chúng tôi tước bỏ của họ đến cả con dao gập và cái kéo bỏ túi.

- Vậy thì hãy dẫn họ theo, - Groslow nói.

- Sao, ông định thế ư? D Artagnan hỏi.

- Vâng, tôi có tám người.

- Thì sao?

- Bốn người canh họ, bốn người canh vua.

Kể ra thì công việc có thể thu xếp như vậy đấy, - D Artagnan nói, - Nhưng tôi gây cho ông nhiều điều phiền phức quá.

- Ô hay, cứ đến chứ ông sẽ thấy tôi dàn xếp công việc như thế nào?

- Ồ, tôi không ngại ngần đâu, đối với một người như ông, tôi có thể nhắm mắt mà phó thác mình.

Câu phỉnh nịnh sau cùng này khiến cho viên sĩ quan cười một cái cười thoả mãn nó làm cho người ta trở thành bạn bè của kẻ đã gây ra tiếng cười ở họ bởi vì nó là một sự bốc hơi của lòng tự phụ được mơn trớn.

- Thế có gì ngăn trở chúng ta bắt đầu ngay tối nay không, - D Artagnan hỏi.

- Bắt đầu cái gì cơ?

- Canh bạc của chúng ta ấy.

- Chẳng có gì ngăn trở cả, - Groslow đáp.

- Thể thì tối nay ông sang với chúng tôi, và tối mai chúng tôi sẽ sang ông. Ông biết đấy tù binh của chúng tôi là những kẻ bảo hoàng cuồng dại; nếu như họ có điều gì làm ông lo ngại thì thôi, và dù sao đêm nay vẫn là một đêm thú vị.

- Tuyệt lắm! Tối nay ở bên các ông, tối mai ở chỗ Stuart, tối ngày kia ở chỗ tôi.

- Và các ngày sau ở London. Ê, mẹ kiếp! - D Artagnan nói, ông thấy không, người ta có thể sống vui vẻ ở khắp nơi.

- Đúng, - Groslow nói, - Khi người ta gặp những người Pháp và những người Pháp như ông.

- Và như ông Du Vallon; ông sẽ thấy một chàng trai khoái hoạt như thế nào! Một người Fronde cuồng điên, một người đã suýt giết gọn Mazarin, người ta dùng ông ấy, chẳng qua vì sợ ông ấy.

- Phải, ông ấy trông ra dáng lắm, và chưa quen biết ông ấy, tôi cũng rất ưng ý.

- Thế thì khi ông quen biết ông ta lại còn khác nữa. Ơ này, ông ta đang gọi tôi. Chúng tôi gắn bó với nhau đến nỗi ông ta không thể thiếu tôi được. Xin lỗi ông nhé.

- Ta định thế nào?

- Đến tối nay.

- Ở chỗ ông á?

- Vâng ở chỗ tôi.

Hai người chào nhau và d Artagnan trở lại với các bạn đồng hành.

- Cậu nói chuyện quỉ quái gì với con chó ngao ấy thế? - Porthos hỏi.

- Bạn thân mến chớ nói năng như vậy về ông Groslow; đó là một trong những bạn thân của tôi đấy.

- Bạn thân ư, - Porthos nói, - Cái kẻ tàn sát nông dân ấy à?

- Sụyt! Porthos thân mến ơi, đúng là ông Groslow có hơi nóng nảy, nhưng kỳ thực ông ta có hai đức tính tốt mà tôi khám phá được: Ông ta khờ dại và kiêu ngạo.

Porthos trợn tròn mắt kinh ngạc, Arthos và Aramis nhìn nhau tủm tỉm, họ hiểu d Artagnan và biết rằng anh chẳng làm gì không có mục đích.

- Nhưng thôi, tự cậu sẽ đánh giá ông ấy, - D Artagnan nói thêm.

- Thế là thế nào?

- Tối nay tôi sẽ giới thiệu ông ấy với cậu. Ông ấy đến chơi bạc với chúng ta đấy.

Nghe vậy mắt Porthos sáng lên, anh nói:

- Ồ, ồ! Hắn ta có giàu không?

- Đó là con trai của một trong những thương gia mạnh nhất ở London.

- Hắn biết chơi Le lansquenet chứ?

- Hắn tôn thờ.

- Thế bài bassette ?

- Hắn mê như điên.

- Con bài biribi?

- Sở trường của hắn.

- Tốt lắm! - Porthos, - Chúng ta sẽ có một đêm thích thú.Càng thích thú vì nó hứa hẹn một đêm tuyệt diệu hơn.

- Tại sao thế?

- Vì chúng ta mời hắn chơi tối nay hắn mời chúng ta chơi tối mai.

- Ở đâu?

- Tôi sẽ bảo cậu sau. Bây giờ chúng ta hãy lo một điều: tiếp đãi sao cho xứng đáng cái vinh hạnh mà ông Groslow dành cho ta. Tối nay nghỉ ở Decby. Mousqueton cần đi trước và có chai rượu vang nào trong tỉnh phải mua luôn. Cũng chẳng tai hại gì nếu hắn sửa soạn một bữa ăn tối nho nhỏ, bữa ấy hai cậu sẽ không dự vì Arthos bị sốt rét và Aramis là hiệp sĩ ở Malte thì những câu chuyện của bọn lính tráng thô bỉ như chúng tớ sẽ chẳng làm đẹp lòng cậu và khiến cậu đỏ mặt. Các cậu nghe rõ chứ?

- Rõ, - Porthos nói, - Nhưng quỷ bắt tôi hay sao, mà sao tôi chả hiểu được gì.

- Bạn Porthos ơi, - D Artagnan nói, - Cậu nên nhớ rằng, tôi dòng dõi các nhà tiên tri nhờ bố tôi, và các mụ thầy bói nhờ mẹ tôi, và tôi chỉ nói bằng các lời ẩn dụ và những câu đố: ai có tài thì nghe ai có mắt thì nhìn, lúc này tôi không thể nói hơn được.

- Này bạn, cứ làm đi, - Arthos nói, - Tôi chắc chắn rằng điều cậu làm là tốt đây.

- Còn cậu Aramis, cậu có nhất trí như thế không?

- Hoàn toàn, d Artagnan thân mến ạ.

- Hay lắm, - D Artagnan nói, - Đây là hai tín đồ thật sự, mình vui lòng làm thử những điều thần diệu cho họ; chẳng như cái tên Porthos hoài nghi này, nó bao giờ cũng muốn trông thấy và sờ thấy thì mới tin.

Porthos làm ra vẻ tinh khôn nói:

- Sự thật là tôi rất hay nghi ngờ.

D Artagnan vỗ vào vai anh một cái và nhân đến chỗ đứng lại để ăn sáng, câu chuyện ngừng lại ở đó.

Khoảng năm giờ chiều, theo như đã thoả thuận, họ cho Mousqueton đi trước, Mousqueton không biết tiếng Anh, nhưng từ khi sang nước Anh đã nhận xét thấy rằng Grimaud do thói quen dùng cử chỉ thay thế lời nói một cách tuyệt diệu. Hắn bèn nghiên cứu cử chỉ của Grimaud và chỉ qua mấy bài học, nhờ tính ưu việt của ông thày hắn đã đạt tới trình độ kha khá. Blaisois đi theo hắn.

Đi qua phố chính của Derby, bốn người bạn nom thấy Blaisois đứng ở ngưỡng cửa một ngôi nhà đẹp; họ sẽ trú ngụ ở đây.

Suốt cả ngày họ không lại gần vua, sợ gây ra nghi ngờ, và đáng lẽ ăn cùng bàn với đại tá Harrison như hôm qua, hôm nay họ ăn riêng với nhau.

Tới giờ đã thỏa thuận. Groslow đến. D Artagnan đón hắn ta như đón một người bạn hai mươi năm.

Porthos ngắm nghía hắn từ đầu đến chân và mỉm cười nhận thấy rằng hắn không cân sức với anh, mặc dầu cái đòn ghê gớm hắn đã giáng cho người em của Parry.

Arthos và Aramis cổ gắng hết sức để che giấu nỗi ghê tởm mà cái bản chất tàn bạo và thô lỗ kia đã gây nên cho các anh.

Tựu trung là Groslow tỏ ra hài lòng về cuộc đón tiếp.

Arthos và Aramis giữ đúng vai trò của mình. Đến nửa đêm hai anh lui về phòng mình và người ta đã để ngỏ cửa với lý do nhân đức.

Hơn nữa d Artagnan dẫn các anh về, để cho Porthos đánh với Groslow.

Porthos được năm mươi pistol và khi rút lui thấy rằng mình có một chỗ bầu bạn dễ chịu hơn thoạt đầu anh tưởng.

Còn Groslow tự hẹn với mình hôm sau trút cái thua bạc với Porthos lên dầu d Artagnan, và khi chia tay với chàng Gascon hắn không quên nhắc lại cuộc hẹn buổi tối.

- Chúng tôi nói buổi tối vì mấy con bạc chia tay nhau vào lúc bốn giờ sáng.

Ngày hôm ấy trôi qua như thường lệ; d Artagnan đi từ chỗ đại uý Groslow, đến chỗ đại tá Harrison và từ chỗ Harrison đến chỗ các bạn anh. Đối với ai không hiểu biết d Artagnan thì dường như anh vẫn trong trạng thải thông thường; nhưng đối với các bạn anh, nghĩa là Arthos và Aramis thì thấy anh vui thích như điên.

- Chẳng rõ hắn mưu mô gì đây? - Aramis nói.

- Đợi xem, - Arthos đáp.

Porthos không nói gì, song với vẻ thỏa mãn lộ hắn ra mặt anh thọc tay vào túi đếm lại từng đồng số tiền năm mươi pistol anh được bạc ở Groslow.

Buổi tối đến Ryston, d Artagnan tập hợp các bạn lại. Gương mặt anh để mất đi cái vui vẻ vô tư mà anh đeo như một cái mặt nạ suốt cả ngày. Arthos siết chặt tay Aramis.

- Sắp đến lúc rồi à? - Arthos hỏi.

- Phải, - D Artagnan nghe tiếng và đáp, - Phải, sắp đến lúc rồi: các cậu ạ, đêm nay chúng ta cứu vua.

Arthos rùng mình, mắt sáng rực lên. Lúc trước anh hy vọng bây giờ thì hoài nghi, Anh nói:

- Này d Artagnan,đây không phải là một trò đùa chứ? Nếu là một trò đùa thì nó làm tôi đau lòng lắm đấy.

- Arthos, anh nghi ngờ tôi như vậy thì kỳ lạ thật, - D Artagnan đáp - Ở đâu và lúc nào anh thấy tôi đùa với tấm lòng một người bạn và tính mạng của một ông vua? Tôi đã nói và tôi nhắc lại rằng đêm nay chúng ta cứu Charles đệ nhất. Anh đã tin tưởng nơi tôi sẽ tìm ra một kế, kế ấy đã tìm được.

Porthos nhìn d Artagnan với một niềm khâm phục sâu xa.

Aramis mỉm cười ra chiều hy vọng.

Arthos thì tái đi như xác chết và run bắn cả tay chân.

- Nói đi nào, - Arthos bảo.

Porthos giương to đôi mắt thao láo của mình, Aramis có thể nói là đánh đu lên đôi môi của d Artagnan.

- Chúng ta được mời sang chơi đêm ở chỗ ông Groslow, các cậu biết chứ?

- Ừ - Porthos nói, - Hắn đã bảo chúng ta hẹn cho hắn chơi canh bạc phục thù.

- Đúng. Nhưng các cậu có biết chơi phục thù ở đâu không?

- Không.

- Ở chỗ nhà vua.

- Ở chỗ vua? - Arthos kêu lên.

- Phải đấy, các cậu ạ: Groslow tối nay hắn là người lo về chuyện canh gác Hoàng thượng, và để giải trí trong phiên gác, hắn mời chúng ta đến chơi.

- Cả bốn người? - Arthos hỏi.

- Dĩ nhiên, tất nhiên là cả bốn, chẳng lẽ chúng tôi rời tù binh của mình à?

- A, a! - Aramis reo lên.

- Nào, nào! nói tiếp đi - Arthos hồi hộp nói.

- Thế là chúng ta sẽ đến với Groslow, chúng tôi mang kiếm, các cậu mang dao găm. Bốn chúng ta sẽ làm thịt tám tên lính ấm ớ và tên chỉ huy ngu dại của chúng. Porthos cậu thấy thế nào?

- Tôi cho là dễ như chơi, - Porthos đáp.

- Chúng ta sẽ cho vua mặc giả Groslow. Mousqueton, Grimaud và Blaisois giữ ngựa đã thắng yên cương sẵn sàng ở góc phố đầu tiên chúng ta nhảy phốc lên và trước khi trời sáng chúng ta đã phóng được hai mươi dặm. Hèm! Trù liệu như thế được không, Arthos?

Arthos đặt hai bàn tay lên vai d Artagnan và nhìn anh với nụ cười hiền hậu và bình thản.

- Bạn ơi, - Anh nói, - Tôi xin tuyên bố rằng dưới trời này không ai sánh được với cậu về lòng cao quý và dũng cảm. Trong khi chúng tôi tưởng rằng cậu thờ ơ với những nỗi đau khổ của chúng tôi, mà cậu dù không chia sẻ cũng chẳng có tội vạ gì, thì một mình cậu tìm ra được cái mà chúng tôi tìm tòi uổng công. d Artagnan, vậy tôi xin nhắc lại rằng, cậu là người tốt nhất trong bọn chúng ta, tôi ban phước cho cậu và tôi yêu quý cậu, con trai thân yêu của ta ạ.

Porthos lấy tay đập đập vào trán và nói:

- Thế mà tôi không nghĩ ra, thật là đơn giản.

- Nhưng này, - Aramis nói, - Nếu tôi hiểu đúng thì có phải là chúng ta giết tất cả không?

Arthos rùng mình và gương mặt trở nên trắng bệt.

- Chán quá! - D Artagnan nói. - Dứt khoát là phải thế rồi. Tôi đã tìm ra những việc này từ lâu, để xem có cách nào tránh được chuyện đó không, nhưng thú thật là chịu đấy.

- Thôi, - Aramis nói, - Không phải chuyện mặc cả với tình thế ở đây. Chúng ta sẽ tiến hành như thế nào?

- Tôi có đến hai phương án , - D Artagnan đáp.

- Ta xem cái thứ nhất thế nào, - Aramis nói.

- Nếu tất cả bốn chúng ta cùng quây quần, thì khi tôi ra ám hiệu, ám hiệu là tiếng "Rốt cuộc", các cậu đâm một nhát dao vào tên lính đứng gần nhất, chúng tôi cũng làm như vậy. Thế là trước hết, bốn tên địch chết, thế là trận đánh coi như cân nhau, vì chúng ta có bốn người chọi năm. Năm tên đó đầu hàng, chúng ta sẽ nhét giẻ vào miệng chúng, nếu chúng chống cự, ta sẽ giết. Nếu tình cờ mà vị chủ tiệc của chúng ta thay đổi ý kiến và chỉ nhận tiếp Porthos và tôi thôi, thì dành là phải dùng những phương kế lớn và đánh gấp đôi, nhưng thế sẽ lâu hơn và ầm ĩ hơn một chút, nhưng các cậu sẽ đứng ở bên ngoài với gươm kiếm và khi nghe thấy tiếng động thì chạy đến.

- Nhưng nếu chính các cậu bị đả thì sao? - Arthos nói.

- Không thể vậy đâu! - D Artagnan nói, - những tên nghiện rượu bia ấy nặng nề lắm vả vụng về lắm, vả lại cậu sẽ đâm vào họng, Porthos ạ, như thế giết chết nhanh hơn và lại tránh được tiếng kêu.

- Hay lắm! - Porthos nói, - Đó sẽ là một cuộc chọc huyết rất xoàng thôi.

- Ghê tởm, ghê tởm! - Arthos nói.

- Ơ kìa? Con người đa cảm, - D Artagnan nói,

- Anh đã làm những chuyện ấy như thế trong trận mạc rồi. Với lại bạn ơi, - Anh nói tiếp, - Nếu anh thấy sinh mạng của vua không đáng với cái nó phải trả giá, thì coi như xong thôi, và tôi sẽ báo với Groslow rằng tôi bị mệt.

- Không, bạn ơi, - Arthos nói, - Tôi đã sai lầm và chính cậu mới đúng. Hãy tha lỗi cho tôi nhé.

Vừa lúc ấy cửa mở, một tên lính xuất hiện. Hắn nói bằng tiếng Pháp tồi.

- Ông đại uý Groslow báo với ông d Artagnan và ông Du Vallon rằng ông ấy đang đợi các ông.

- Ở đâu? - D Artagnan hỏi.

- Ở trong phòng Nabuchodonosor người Anh, - tên lính thanh giáo cực đoan nói.

Nghe hắn lăng mạ đức vua như vậy, Arthos giận đỏ mặt, và đáp lại bằng tiếng Anh thật nặng và rõ ràng :

- Được rồi, hãy nói với đại uý Groslow rằng chúng tôi sẽ đến.

Sau khi tên lính thanh giáo đi ra, mấy tên hầu được lệnh thắng yên cương cho tám con ngựa và đến đợi ở góc phố cách nhà vua ở hai chục bước, và phải ở liền bên nhau, ngồi sẵn trên mình ngựa.

Chú thích:

(1) chỉ nước Anh, Scotland và Irlandais

(2) tiếng Anh: vua.

(3) Một lối chơi bài nhập từ Đức.

(4) Đơn vị tiền tệ Anh.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Chương 65

Canh bài lansquenet

Chín giờ tối. Các trạm gác thay phiên lúc tám giờ, và phiên gác của đại uý Groslow đã bắt đầu được một tiếng.

D Artagnan và Porthos mang theo gươm. Arthos và Aramis mỗi người mang theo một con dao găm trong ngực áo, tiến về phía ngôi nhà tối hôm ấy đang giam giữ Charles Stuart. Đi theo những người chiến thẳng mình, hai anh bạn bề ngoài không vũ trang và khúm núm như những kẻ bị bắt.

Trông thấy họ, Groslow nói:

- Thật tình, tôi hầu như không trông đợi ở các ông nữa.

D Artagnan đến gần hắn và nói nhỏ:

- Quả thật, ông Du Vallon và tôi đã do dự một lát.

- Vì sao? - Groslow hỏi.

D Artagnan đưa mắt nhìn sang Arthos và Aramis:

- À, a! - Groslow nói, - Do chính kiến ư? Không can gì. Trái lại, -Hhắn cười và nói thêm - nếu họ muốn xem Stuart của họ thì cứ việc xem.

- Chúng ta chơi đêm ở trong phòng vua à? - D Artagnan hỏi.

- Không, ở phòng bên cạnh, và do cửa để ngỏ, cho nên đúng như chúng ta ở cùng phòng vua. Ông có mang tiền không? Tôi xin tuyên bố là buổi tối nay tôi tính chơi một cảnh sát phạt kịch liệt.

- Ông có nghe thấy không? - D Artagnan vừa nói vừa vỗ túi cho tiền vàng kêu xủng xoảng.

- Very good(1)? - Groslow nói và mở cửa phòng, - Để mở đường cho các ông.

Và hắn vào trước.

D Artagnan quay lại phía các bạn. Porthos vô tư như đi vào một canh bạc thật thông thường. Arthos tái mặt nhưng cương quyết. Aramis lấy khăn lau mồ hôi lầm tấm trên trán.

Tám tên lính gác đứng ở vị trí của mình, bốn tên trong phòng vua, hai tên ở chỗ cửa thông, hai tên ở cửa ngoài. Nhìn thấy những thanh kiếm tuốt trần, Arthos mỉm cười: không phải là một nơi mổ thịt nữa, mà là một cuộc chiến đấu hẳn hoi.

Từ lúc đó khí sắc vui vẻ trở lại với anh.

Qua cửa thông mở sẵn, người ta trông thấy Charles nằm trên giường, mặc nguyên quần áo, ông chỉ đắp một tấm chăn len.

Parry ngồi ở chân giường, khẽ đọc một chương trong kinh Phúc âm, nhưng cũng đủ để Charles nghe, mắt lim dim.

Một cây nến mỡ bò đặt trên một cái bàn đèn soi sáng bộ mặt nhẫn nhục của vua và bộ mặt vô cùng kém bình tĩnh của gã đầy tớ trung thành.

Thỉnh thoảng Parry ngừng đọc, tưởng rằng vua ngủ rồi, nhưng vua lại mở mắt, mỉm cười, bảo:

- Đọc tiếp đi Parry tốt bụng của tôi, tôi vẫn nghe.

Groslow bước đến ngưỡng cửa phòng vua, chiếc mũ đang cầm tay, hắn làm điệu bộ đội lên đầu để đón tiếp các vị khách, và nhìn một lát với vẻ khinh bỉ bức tranh giản dị và cảm động một lão bộc đọc Kinh thánh cho vua của mình đang bị tù đầy. Rồi yên tâm về lính gác của hắn đều đứng đúng ở nơi qui định, hắn quay lại phía d Artagnan, nhìn người Pháp với vẻ đắc chí, như muốn cầu xin ở anh một lời khen cho chiến thuật của hắn.

- Thật là tuyệt điệu, - Chàng Gascon nói, - Chúa ơi! Ông sẽ làm một vị tướng khá xuất sắc đấy.

- Thế ông có tin rằng chừng nào tôi còn canh gác Stuart, hắn có trốn được không? - Groslow hỏi.

- Tất nhiên là không rồi, - D Artagnan đáp. - Trừ phi là trời mưa rơi xuống các bạn bè của ông ta.

Groslow nở nang cả mặt mày.

Trong suốt cảnh đó, Charles Stuart vẫn nhắm mắt, không ai biết được ông có nghe thấy hay không những lời xấc xược của viên đại uý thanh giáo. Nhưng đến khi nghe thấy giọng nhấn mạnh của d Artagnan, ông bất giác mở mắt.

Về phía mình, Parry cũng rùng mình và ngừng đọc.

Vua nói:

- Đọc tiếp đi Parry, tất nhiên nếu anh mệt thì thôi.

- Thưa Ngài, không, - Gã hầu phòng đáp.

Và hắn lại tiếp tục đọc.

- Ở phòng ngoài, một cái bàn được sửa soạn, bàn phủ một tấm thảm, trên đặt hai cây nến những quân bài và hai hộp xúc xắc.

- Nào các ông, - Groslow nói, xin mời các ông ngồi, tôi ngồi đối diện với Stuart, tôi mê nhìn hắn ta lắm, nhất là xem hắn ở đâu, ông d Artagnan ngồi trước mặt tôi.

Arthos tức đỏ mặt lên, d Artagnan cau mày nhìn anh.

- Được rồi, - D Artagnan nói, - Ông, bá tước de La Fère ngồi bên phải ông Groslow,Ông hiệp sĩ D Herblay ngồi bên trái. Còn ông Du Vallon ngồi cạnh tôi. Ông cuộc cho tôi, còn hai ông kia cuộc cho ông Groslow.

Như vậy là Porthos ngồi bên trái d Artagnan, anh dùng đầu gối để nói với bạn. Arthos và Aramis ngồi đối diện với anh anh có thể đưa mắt.

Nghe tên bá tước de La Fère và hiệp sĩ D Herblay, Charles mở mắt ra và bất giác ngẩn cái đầu cao lên nhìn bao quát tất cả các diễn viên của màn kịch đó. Vừa lúc ấy Parry giở mấy trang Kinh thánh và cất cao giọng đọc câu xướng này của Jérémie:

"Chúa phán rằng: Hỡi các tôi tớ của ta hãy lắng nghe lời các nhà tiên tri mà ta đã quan tâm phải đến cho các người, và ta đã dẫn dắt đến với các người!".

Bốn người bạn đưa mắt nhìn nhau. Những lời mà Parry vừa đọc chỉ cho họ rằng vua đã hiểu lý do thật sự của sự hiện diện của họ.

Mắt d Artagnan ngời lên một sự mừng rỡ.

- Lúc nãy ông hỏi tôi là có tiền không phải không? - D Artagnan nói và đặt hai mươi pistol lên bàn.

- Phải, - Groslow đáp.

- Thế thì đến lượt tôi, tôi xin nói: Hãy giữ gìn cẩn thận kho vàng của ông, vì rằng tôi xin cam đoan là chúng tôi chỉ ra khỏi đây khi đoạt được nó.

- Nhưng tôi sẽ bảo vệ nó đấy, - Groslow đáp.

- Càng hay, - D Artagnan nói - Vào trận, nào đại uý, vào trận. Ông biết hoặc hay không biết rằng đó là điều chúng tôi đòi hỏi.

- A biết lắm chứ, - Groslow vừa nói vừa cười hô hố, - Người Pháp các ông chỉ hay kiếm chuyện đánh nhau.

Charles đã nghe thấy hết và hiểu tất cả. Mặt ông hơi đỏ lên.

Những tên lính gác thấy ông dần dần duỗi chân tay mỏi mệt ra, và lấy cớ là nóng bức quá do cái lò sưởi đốt đến sáng trắng, ông dần dần gạt cái chăn Scotch sang một bên để lộ thân hình ông nằm ngủ mà vẫn mặc nguyên quần áo.

Arthos và Aramis mừng rở khi thấy vua quần áo vẫn sẵn sàng.

Canh bạc bắt đầu. Tối hôm ấy vận đó xoay sang Groslow. Hẳn cầm cái may và được luôn luôn thắng. Một trăm pistol cứ thế chuyển từ cạnh bàn bên này sang cạnh bàn bên kia. Groslow sướng điên người.

Porthos mất cả năm mươi pistol vừa được bạc hôm qua cộng thêm độ ba chục pistol của riêng mình nữa, anh càu nhàu bực bội lắm và lấy đầu gối thúc vào đùi d Artagnan như muốn hỏi đã đến lúc chuyển sang trò chơi khác chưa; Arthos và Aramis cũng nhìn anh bằng con mắt dò hỏi, nhưng d Artagnan vẫn thản nhiên như không. Đồng hồ điểm mười giờ. Có tiếng đội tuần tra đi qua.

D Artagnan rút thêm những đồng pistol ở túi ra và hỏi:

- Các ông cho đi tuần tra bao nhiêu bận?

- Năm bận, cứ hai giờ một bận? - Groslow đáp.

- Tốt lắm, - D Artagnan nói, - Thế là thận trọng.

- Tiếng đội tuần tra đi xa dần.

Lần đầu tiên d Artagnan đáp lại Porthos bằng một cái thúc vào đùi.

Trong khi ấy, bọn lính được lệnh phải canh ở trong phòng vua, bị hấp dẫn bởi canh bạc và trông thấy vàng - Thế lực thật là mạnh mẽ

- Ở tất cả mọi con người - Chúng dần dần đi lại gần cửa và kiễng chân nhìn qua vai d Artagnan và Porthos. Những tên lính ở ngoài cửa cũng xích đến gần, vô tình hộ trợ cho lòng mong muốn của bốn người bạn, họ muốn có chúng ở trong tầm tay hơn là buộc phải chạy tới chúng ở bốn góc phòng. Hai tên lính ở cửa vẫn cầm kiếm tuốt trần, nhưng chúng cũng kiễng chân để xem đánh bạc.

Thời điểm càng đến gần, Arthos càng tỏ ra bình tĩnh hơn. Hai bàn tay trắng muốt và quí phái của anh nghịch những đồng louis vàng mà anh vặn vẹo và uốn thẳng lại dễ như thế chúng làm bằng thiếc. Kém tự chủ mình hơn, Aramis luôn luôn thọc tay vào ngực áo; còn Porthos sợ thua bạc mãi, cứ lầy đầu gối thúc liên hồi vào đùi bạn.

D Artagnan hững hờ quay đầu lại và trông thấy ở giữa hai tên lính, Parry đang đứng và Charles chống khủy tay và chắp hai bàn tay lại như gửi tới Chúa một lời cầu nguyện nhiệt thành. D Artagnan hiểu là đã đến lúc rồi, mỗi người đã ở vị trí của mình và chỉ chờ một tiếng "Rốt cuộc" là tiếng ám hiệu của anh.

Anh ném một cái nhìn chuẩn bị về phía Arthos và Aramis, cả hai khẽ nhích ghế lại đằng sau để dễ dàng cử động.

Anh thúc một cái thứ hai vào đùi Porthos. Porthos đứng lên như để dãn gân cốt, những vừa đứng lên anh vừa xem lại thanh kiếm có rút ra khỏi vỏ dễ dàng không.

- Thánh thần ơi! - D Artagnan nói, - Lại mất toi hai chục pistol nữa rồi! Đại uý Groslow ơi, quả thật là ông có vận đỏ quá, nhưng chẳng được lâu đâu.

Anh móc túi lấy ra hai chục pistol nữa.

- Ván cuối cùng, đại uý ạ. Hai mươi pistol đặt một ván, một ván thôi ván cuối cùng.

- Thì hai mươi pistol, - Groslow nói.

Và hắn lật hai con bài như thường lệ, một con vua cho d Artagnan và một con ách cho hắn.

- Một vua, - D Artagnan nói, - Điểm tốt đấy. Này tiên sinh Groslow ơi, - Anh nói thêm, - Hãy coi chừng vua đấy.

Mặc dầu tự kiềm chế mình, giọng nói của anh run lên một cách kỳ lạ, khiến đối phương của anh phải rùng mình.

Groslow bắt đầu lần lượt lật các quân bài. Nếu lật được một quân ách trước thì hắn thắng nếu lật một vua trước hắn thua.

Hắn lật lên một quân vua.

- Rốt cuộc! - d Artagnan kêu.

Nghe tiếng đó, Arthos và Aramis đứng bật dậy Porthos lùi lại một bước.

Kiếm và dao sắp sửa loé lên, thì bất thình linh cửa mở và Harrison xuất hiện ở ngưỡng cửa, đi cùng có một người mặc áo choàng đen.

Phía sau người ấy lấp lánh những súng ống của năm sáu tên lính.

Groslow vội vàng đứng dậy, xấu hổ vì bị bắt bất chợt giữa những quân bài, xúc xắc và rượu vang nhưng Harrison không chú ý đến hắn và cùng đi với người mặc áo choàng vào phòng vua. Ông nói:

- Charles Stuart! Có lệnh dẫn ông về London, ngày hay đêm cũng không nghỉ. Vậy ông hãy sửa soạn đi ngay lập tức.

- Lệnh ấy từ đâu ra, - Vua hỏi. - Từ tướng Olivier Cromwell phải không?

- Phải, - Harrison đáp. - Chính ông Mordaunt vừa mới mang đến và đôn đốc thi hành.

- Mordaunt! - Bốn người bạn lẩm bẩm và đưa mặt nhìn nhau.

D Artagnan vơ vét tất cả tiền nong mà anh và Porthos bị thua ở trên bàn và nhét vào trong cái túi áo rộng của mình. Arthos và Aramis đứng vào phía sau anh. Mordaunt quay lại nhìn thấy nhận ra các anh và reo lên một tiếng vui mừng man rợ.

- Có lẽ chúng mình bị bắt, - D Artagnan nói nhỏ với các bạn.

- Chưa đâu! - Porthos nói.

- Đại tá, đại tá!- Mordaunt nói, - Cho bao vây căn phòng này, ông bị chúng lừa rồi. Bốn tên Pháp này trốn khỏi Newcastle và chắc hẳn muốn cướp vua đi. Phải bắt giữ chúng ngay.

- Ồ! Chàng trẻ ơi, - D Artagnan vừa nói vừa tuốt gươm ra - Đây là một mệnh lệnh dễ nói hơn là dễ thi hành.

Rồi vung lên một đường gươm tròn khủng khiếp anh hô:

- Rút lui! Các bạn! Rút lui!

Đồng thời anh băng mình ra ngoài cửa, quật ngã hai tên lính gác trước khi chúng có thời giờ lên lên súng.

Arthos và Aramis chạy ra theo. Porthos đi tập hậu, và trước khi lính tráng, sĩ quan, đại tá kịp tỉnh ra, thì bốn người bạn đã đến ngoài phố.

- Bắn! - Mordaunt kêu - Bắn theo họ!

Có vài ba phát súng nổ thật, nhưng chỉ để soi bốn kẻ chạy trốn ngoặt vào góc phố, bình yên vô sự.

Ngựa đã để sẵn nơi quy định; mấy tên hầu chỉ việc quăng dây cương cho chủ, họ nhảy phắt lên yên nhẹ nhàng như những kỵ sĩ thiện nghệ.

- Tiến lên! - D Artagnan hô, - Thúc ngựa và vững vàng!

Họ cứ thế mà phóng, theo sau d Artagnan và trở lại con đường mà họ đã đi trong ngày, tức là nhằm hướng Scotch. Thị trấn không có cổng và tường lũy nên họ đi ra chẳng khó khăn gì.

Đi khỏi ngôi nhà cuối cùng độ năm chục bước d Artagnan dừng ngựa.

- Dừng lại! - anh hô.

- Sao lại dừng? - Porthos kêu. - Cậu muốn nói phi rạp đất chứ gì?

- Không đâu, - D Artagnan đáp. - Lần này họ sẽ đuổi theo chúng ta; cứ để cho họ đi ra khỏi thị trấn và chạy theo chúng ta trên đường đi Scotch. Khi nào trông thấy họ phóng đi qua đây, chúng ta sẽ đi ngược trở lại.

Cách đấy mấy bước có một con suối cắt ngang đường và một cái cầu bắc qua suối, d Artagnan dắt ngựa đi xuống dưới vòm cầu các bạn anh làm theo anh.

Chưa được mười phút, họ nghe tiếng phi nước đại của một toán kỵ binh. Năm phút sau toán ấy đi qua ngay trên đầu họ, chúng chẳng hề ngờ rằng những người mà chúng đang tìm kiếm chỉ ngăn cách chung bởi chiều dày của cái vòm cầu.

Chú thích:

(1) Tiếng Anh: Rất tốt!

xem duoi dang EBOOK

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Chương 66

London

Khi tiếng vó ngựa đã chìm trong khoảng xa xăm, d Artagnan lội lên bờ và vừa bước dài trên cánh đồng vừa cố sức hướng về phía London. Ba người bạn lặng lẽ đi theo anh cho đến lúc nhờ một khoảng trống rộng hình bán nguyệt ở phía sau họ trông thấy họ đã rời xa thành phố.

Cuối cùng sau khi biết chắc rằng mình đã ở khá xa nơi xuất phát để có thể chuyển từ phi nước đại sang nước kiệu, d Artagnan nói:

- Lần này tôi tin rằng mọi việc hỏng hết rồi và tốt nhất là chúng ta trở về Pháp, Arthos, anh thấy ý kiến ấy thế nào? Liệu có phải lẽ không?

- Phải bạn thân mến ơi, - Arthos đáp - Nhưng hôm nọ cậu thốt ra một lời phải lẽ hơn, một lời cao quý và hào hiệp. Cậu nói: "Chúng ta chết ở đây!". Tôi xin nhắc lại để cậu nhớ lời của cậu.

- Ồ! Porthos nói, - Cái chết thì có nghĩa lý gì đâu đối với ta, và không phải cái chết nó làm ta lo ngại, bởi vì chúng ta có biết đó là cái gì đâu; nhưng ý nghĩ về một sự thất bại nó giày vò tôi. Cứ theo cái chiều mọi sự xoay vần, tôi thấy là chúng ta sẽ phải đi đánh nhau ở London, ở các tỉnh, ở tất cả các nước Anh và thật ra đến bước cuối cùng chúng ta không thể tránh khỏi bị đánh bại.

- Chúng ta cần chứng kiến cái bi kịch lớn này đến cùng, - Arthos nói, - Muốn sao thì chúng ta chỉ rời khỏi nước Anh sau khi nó kết thúc, Aramis cậu có nghĩ như tôi không?

- Hoàn toàn như vậy, Bá tước thân mến ạ vì thú thật với anh rằng tôi chẳng thấy bực mình nữa nếu gặp lại Mordaunt. Tôi chỉ thấy hình như chúng ta có một món nợ phải thanh toán với hắn mà thôi, và chúng ta không có thói quen rời bỏ các xứ sở mà không trả những loại nợ nần như vậy.

- À? Đây lại là chuyện khác, - D Artagnan nói, - và đó là một lý do tôi thấy có thể thừa nhận được. Về phần tôi, xin thú nhận là nếu cần tôi sẽ ở lại London một năm để gặp cái tên Mordaunt đó.Song le chúng ta phải ở nhà một người chắc chắn và làm sao để không gây một sự nghi ngờ nào, vì rằng vào giờ này hẳn ông Cromwell đã cho lùng chúng ta và theo tôi phán đoán, ông Cromwell không đùa đâu. Arthos này, anh có biết ở trong thành phố có một cái quán nào có khăn trải bàn trắng tinh, có thịt bò quay vừa chín tới, có rượu vang không làm bằng houblon hoặc đỗ tùng không.

- Tôi chắc làm được việc ấy đây, - Arthos đáp. - De Winter đã dẫn chúng tôi đến nhà một người mà ông nói là dân Tây Ban Nha vào quốc tịch Anh nhờ những đồng tiền guinées ( đồng Ghi né = 21 shillings ) của những người đồng quốc mới của ông ta. Aramis, cậu thấy thế nào?

- Chủ trương nghỉ lại ở nhà ông trưởng lão Péréz tôi thấy là phải lẽ nhất đây, và tôi tán thành. Chúng ta sẽ gợi lại những chuyện về De Winter mà ông ta có vẻ rất kính trọng; chúng ta nói là chúng ta sẽ đến đây như những nhà tài tử muốn đi xem xét tình hình, chúng ta sẽ chì tiêu ở đấy mỗi người một guinées một ngày, và tôi thiết nghĩ rằng với tất cả những sự phòng bị ấy, chúng ta có thể sống khá yên ổn.

- Cậu quên một điều đấy. Aramis ạ, một điều phòng bị khá quan trọng.

- Điều gì?

- Thay đổi y phục.

- Ô hay! - Porthos nói, - Hà cớ gì phải thay đổi y phục? Những y phục chúng ta đang mặc thật là vừa ý.

- Để không bị nhận ra, - D Artagnan nói, - Quần áo chúng ta có những kiểu cắt may và màu sắc hầu như giống nhau, thoạt nhìn nó đã tố giác ngay là nhưng French man(1). Tôi chẳng tội gì bám lấy kiểu cắt may chẽn hoặc màu sắc giày dép của tôi để đến nỗi vì yêu thích nó mà có nguy cơ bị treo cổ ở Tyburm hoặc đi đầy ở bên Ấn Độ. Tôi sẽ mua một bộ y phục màu hạt dẻ. Tôi chú ý tất cả những tên thanh giáo ngu ngốc kia đều mê mệt cái màu ấy.

- Nhưng liệu anh có tìm thấy người ấy không? - Aramis hỏi.

- Ồ tất nhiên, - Arthos đáp, - Ông ta ở phố Green-Hall street, quán Bedford s Tavern. Vả lại tôi có thể nhắm mắt mà đi trong thành phố ấy chứ.

- Tôi muốn đã ở ngay tại đó rồi đấy, - D Artagnan nói, - Ý kiến tôi là ta phải tới London trước khi trời sáng, dù ngựa có ngã quỵ mà chết cũng đành.

- Nào đi, - Arthos nói, - Bởi nếu vì tôi không tính toán sai, thì chúng ta chỉ còn cách đó chừng tám đến mười dặm.

Mấy người bạn thúc ngựa đi và quả nhiên khoảng năm giờ sáng họ đã đến London. Qua cửa ô họ bị một trạm gác ngăn lại, nhưng Arthos trả lời bằng tiếng Anh rất cừ rằng họ do đại tá Harrison phải về báo trước cho người bạn đồng liêu là ông Pridge rằng vua sắp tớí.

Câu trả lời ấy dẫn đến những câu hỏi han về chuyện bắt vua, và Arthos kể ra những chi tiết rõ ràng và xác thực đến nỗi những lính canh nếu có vài điều nghi ngờ thì nó cũng tan biến hết. Thế là cửa ô được mở rộng cho bốn người bạn với mọi kiểu chúc mừng thanh giáo.

Arthos đã nói đúng, anh đi thẳng đến Tửu quán Bedford s Tavern, chủ quán nhận ra anh và rất vui mừng thấy anh trở lại với với đám bạn đông đảo và sang trọng ông ta lập tức cho sửa soạn những căn phòng đẹp nhất.

Bốn lữ khách tới London lúc trời chưa sáng mà đã thấy cả thành phố rộn rịp. Từ chiều trước đã có tin loan truyền rằng đại tá Harrison sắp giải vua trở về kinh đô, cho nên nhiều người không ngủ

Sợ rằng lão Stuart - Như họ gọi - Tới nơi vào ban đêm và họ sẽ bị lỡ không được xem.

Chủ trương thay đổi y phục được mọi người nhất trí tán thành, trừ sự phản đối yếu ớt của Porthos lúc đầu. Họ bèn đem ra thực hiện.

Chủ quán cho mang đến những quần áo đủ loại cứ như là ông định sắm sửa thêm cho tủ quần áo của mình. Arthos lấy một bộ màu đen tạo cho anh vẻ một như nhà tư sản tử tế. Aramis không muốn rời thanh gươm, chọn một bộ màu sẫm kiểu quân nhân. Porthos mê tít một cái áo chẽn màu đỏ và đôi giày màu xanh. D Artagnan đã quyết định màu từ trước, nên chỉ còn chọn sắc độ và mặc một bộ màu hạt dẻ trông rất giống một người buôn bán đã về nghỉ hưu.

Còn Grimaud và Mousqueton do không mặc áo dấu, nên trông như đã cải trang hẳn. Ngoài ra Grimaud có dáng điềm đạm, khô khan và cứng nhắc như kiểu một người Anh thận trọng. Mousqueton thì như một người Anh to bụng, phì nộn và nhàn du.

- Bây giờ hãy sang vấn đề chủ yếu, - D Artagnan nói. - Ta hãy cắt tóc để khỏi bị đám tiện dân chửi bới. Không còn là nhà quý tộc bằng thanh kiếm, ta hãy là người thanh giáo bằng mái tóc. Các cậu biết đấy, đó là điểm quan trọng phân biệt kẻ đính kết cùng tôn giáo với chàng công tử.

Về cái điểm quan trọng ấy, Aramis tỏ ra thật là bất phục tùng anh muốn ra sức giữ lại bộ tóc vốn rất đẹp của mình mà anh chăm chút rất cẩn thận. Arthos đành phải làm gương trước vì anh vốn dửng dưng với tất cả những vấn đề ấy. Porthos không khó khăn lắm, dâng cái đầu mình cho Mousqueton, hắn thẳng tay đưa kéo vào mớ tóc dày và cứng. D Artagnan tự cắt cho mình một kiểu đầu ngẫu hứng, nó khá giống với cái mề đay thời Françoise đệ nhất hoặc thời Charles IX.

- Trông chúng ta thật là ghê tởm, - Arthos nói.

- Và hình như chúng bốc mùi thanh giáo thối tha đến rùng mình, - Aramis nói theo.

- Ô, tôi lạnh ở đầu, - Porthos kêu.

- Còn tôi, - D Artagnan nói - Tôi thấy thèm đi thuyết giáo quá.

- Giờ đây, - Arthos nói, - Chúng ta chẳng còn nhận ra nhau nữa; do đó chẳng sợ người khác nhận ra chúng mình, ta hãy đi ra xem vua đến. Nếu ông ta đi suốt đêm thì chẳng còn cách xa London đâu.

Quả thật bốn người bạn chen lẫn vào đám dông, chưa được hai giờ đồng hồ mà đã có tiếng reo hò và náo động lớn báo hiệu Charles tới nơi. Người ta cho một cỗ xe đi đón, và từ xa chàng khổng lồ Porthos đứng cao hơn mọi cái đầu, báo tin rằng anh đã trông thấy cỗ xe vua.

D Artagnan đứng kiễng chân, trong khi Arthos và Aramis lắng nghe để tự mình biết xem dư luận bàn bạc thế nào. Cỗ xe đi qua, d Artagnan nhận ra Harrison và Mordaunt ngồi ở hai bên cửa xe. Còn dân chúng, Arthos và Aramis nghe thấy họ chửi rủa Charles thậm tệ.

Arthos trở về chán nản, d Artagnan bảo anh:

- Bạn thân mến ơi, anh cố chấp một cách thật vô ích. Tôi cam đoan với anh là tình thế rất xấu. Riêng tôi, tôi gắn mình với nó là vì anh và vì một sự thích thú tài tử về chính trị theo kiểu ngự lâm quân; tôi thấy rất thú vị giật miếng mồi khỏi tay tất cả những kẻ hò hét kia và cười vào mũi họ. Tôi sẽ nghĩ đến chuyện đó.

Ngày hôm sau khi đứng ở cửa sổ trông ra những khu phố đông người nhất của khu Cité, Arthos nghe thấy người ta rao bán nghị án của Nghị viện đưa ra toà cựu vương Charles I bị coi là phạm tội phản bội và lạm dụng quyền hành.

D Artagnan đứng cạnh anh. Aramis tra một bản đồ, Porthos mê man trong những khoái cảm cuối cùng của một bữa ăn sáng ngon lành.

- Nghị viện ư? - Arthos kêu lên, - Không thể nào Nghị viện ra một nghị án như vậy.

- Nghe này, - D Artagnan nói, - Tôi ít hiểu tiếng Anh, nhưng chẳng qua tiếng Anh là tiếng Pháp phát âm sai, nếu điều tôi nghe Nghị viện nghị án thì có nghĩa là nghị án của Nghị viện chứ gì, nếu không thì Chúa đầy doạ tôi đi, như ở đây họ thường nói.

Vừa lúc ấy chủ quán vào, Arthos ra hiệu cho ông ta đến. Anh hỏi bằng tiếng Anh:

- Nghị viện ban ra nghị án đấy à?

- Vâng, thưa Milord, Nghị viện thuần khiết.

- Sao, Nghị viện thuần khiết à? Như vậy là có hai Nghị viện ư?

- Ông bạn ơi! - D Artagnan ngắt lời, - Tôi không nghe được tiếng Anh, nhưng tất cả chúng tôi đây đều hiểu tiếng Tây Ban Nha, xin ông vui lòng nói chuyện với chúng tôi bằng thứ tiếng ấy, nó lại là tiếng của nước ông, do đó chắc hẳn ông thích dùng nó mỗi khi có dịp.

- A, đúng đấy, - Aramis nói.

Còn Porthos như chúng tôi đã nói, anh đang tập trung tất cả sự chú ý vào miếng sườn mà anh đang mải gỡ chỗ nạc ra.

- Ông hỏi gì nhỉ? - Chủ quán nói bằng tiếng Tây Ban Nha.

Arthos lại nói bằng tiếng ấy:

- Tôi hỏi có phải là có hai nghị viện không, một thuần khiết và một không thuần khiết.

- Ồ! Thật là kỳ lạ! - Porthos nói, anh ngẩng đầu lên và nhìn các bạn với vẻ ngạc nhiên, - Thế là bây giờ tôi hiểu tiếng Anh à? Tôi hiểu ông vừa nói cái gì.

Với vẻ bình tĩnh thông thường Arthos nói:

- Ấy là vì chúng tôi nói tiếng Tây Ban Nha bạn ạ.

- À, khổ thật! - Porthos nói, - Đáng lẽ tôi đã biết thêm một thứ tiếng nữa, bực nhỉ.

- Thưa ngài, - Chủ quán đáp, - Khi nói Nghị viện thuần khiết, tôi muốn nói cái Nghị viện mà ông đại tá Pridge đã thanh lọc rồi.

- À ra thế, - D Artagnan nói, - dân ở đây sáng tạo thật. Khi trở về Pháp tôi phải mách cái kế ấy cho ông Mazarin và ông chủ giáo. Một người thanh lọc nhân danh triều đình, một người thanh lọc nhân danh dân chúng, kết cục sẽ chẳng còn Nghị viện nữa.

Đại tá Pridge trước làm nghề đánh xe, - Chủ quán đáp - Ông ta là một người tài trí khi đánh xe đã nhận xét thấy một điều; ấy là khi một hòn đá nằm ở trên đường đi, thì nhặt hòn đá vứt đi còn nhanh hơn là cố đẩy cho bánh xe trườn qua hòn đá. Bây giờ trong số hai trăm năm mươi thành viên của Nghị viện thì một trăm chín mươi mốt người cản trở ông ta và có có thể làm đổ cỗ xe chính trị của ông. Giống như xưa kia ông bèn nhặt những hòn đá và quẳng ra khỏi nghị viện.

Vốn là người trí xảo, d Artagnan rất trân trọng trí xảo ở bất cứ nơi nào gặp nó. Anh reo lên:

- Hay thật!

- Những người bị trục xuất ấy có phải thuộc phái Stuart không? - Arthos hỏi.

- Có thể như vậy , thưa Senior ( 1) , chẳng hoài nghi gì nữa, và chắc ngài biết rằng họ đã toan cứu vua.

- Chúa ơi! - Porthos trịnh trọng nói, - Họ đều là số đông .

- Thế ông cho rằng vua bằng lòng ra trước một toà án như vậy sao? - Aramis hỏi.

- Phải bằng lòng chứ, - Người Tây Ban Nha đáp, - Nếu ông ta từ chối, dân chúng sẽ cưỡng bách.

- Xin cảm ơn tiên sinh Perez, - Arthos nói, - bây giờ tôi đã biết tình hình đầy đủ.

- Arthos ơi, - D Artagnan nói:

- Cuối cùng anh đã bắt đầu tin chưa, đó là một mục đích thất bại, và chúng ta sẽ không bao giờ vươn tới ngang tầm của những Harrison, những Joyce, những Pridge và những Cromwell.

- Vua sẽ được giải thoát ở toà án, - Arthos nói, chính sự im lặng của những người theo ông chỉ rõ một âm mưu.

D Artagnan nhún vai.

- Nhưng mà, - Aramis nói, - nếu họ dám kết án vua của họ, thì họ sẽ kết án lưu đầy hoặc tù là cùng.

D Artagnan huýt sáo với vẻ ngờ vực.

- Rồi sẽ biết, - Arthos nói, - vì chúng ta sẽ đến xem phiên toà, tôi đoán chừng như vậy.

- Ông chẳng phải đợi lâu đâu, - Chủ quán nói, - Vì ngày mai bắt đầu xứ án rồi!

- Ái chà! - Arthos nói, - Thế là thủ tục tố tụng được làm xong trước khi vua bị bắt hay sao?

- Chắc hẳn là thế, - D Artagnan đáp, - Người ta đã bắt đầu làm hôm vua bị mua bán.

- Các cậu biết đấy, - Aramis nói, - Chính ông bạn Mordaunt của chúng ta đã làm cuộc mua bán, nếu không thì ít ra cũng làm những việc mở đầu cho vụ đó.

- Các cậu nhớ rằng, - D Artagnan nói, - Tôi sẽ giết ông Mordaunt ở bất cứ nơi nào ông ta rơi vào trong tầm tay tôi.

- Hừ! Một tên khốn nạn như vậy? - Arthos kêu.

- Nhưng chính vì hắn là một tên khốn nạn mà tôi giết nó, - D Artagnan đáp.

- Anh bạn thân mến ơi, tôi đã chiều ý anh khá nhiều rồi, nên anh cũng phải rộng lượng với tôi chứ. Vả chăng lần này, dù có vừa lòng anh hay không, tôi cũng tuyên bố với anh rằng cái tên Mordaunt ấy sẽ bị giết vì tay tôi mà thôi.

- Và tôi nữa, - Porthos nói.

- Và tôi nữa, - Aramis nói.

- Sự nhất tríthật xúc động! - D Artagnan reo lên, - Và nó rất thích hợp với những người tư sản hẳn hoi như chúng ta. Ta hãy đi dạo quanh thành phố nào. Ngay Mordaunt cách bốn bước cũng không thể nhận ra chúng ta trong sương mù như thế này. Ta hãy đi uống một chút sương mù xem sao.

- Phải đấy, - Porthos nói, - thay rượu bia mà.

Và bốn người bạn đi ra, để như người ta thường nói, thở hít không khí của xứ sở.

Chú thích:

(1) Tiếng Anh: người Pháp.

(1) Senior : tiếng Tây Ban nha là Ông

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 67

Xử

Ngày hôm sau một toán lính gác đông đảo dẫn Charles I đến trước toà thượng thẩm để xử án. Dân chúng tràn vào các phố và các ngôi nhà giáp toà án.

Cho nên vừa mới bước đi, bốn người bạn đã bị ngăn lại bởi bức tường sống hầu như không thể vượt qua ấy. Vài người trong đám dân chúng xô đẩy Aramis rất dữ dội, đến nỗi Porthos phải giơ nắm đấm ghê gớm của anh lên và giáng xuống khuôn mặt trắng bột của một gã làm bánh, nó lập tức thay đổi màu và nhuốm đầy máu, như giập nát một chùm nho chín. Việc đó gây ra náo động; ba người định xông vào Porthos, nhưng hai người bị Aramis và d Artagnan gạt ra, còn người thứ ba bị Porthos ném qua đầu. Mấy người Anh ham mê võ thuật rất phục cách đánh nhanh chóng và dễ dàng ấy và vỗ tay. Thế là Porthos và các bạn mình lúc đầu sợ bị đám đông đánh chết, suýt nữa thì được hoan hỉ chúc mừng. Nhưng bốn lữ khách của chúng ta sợ bất cứ cái gì có thể làm lộ họ, nên cố thoát ra khỏi sự hoan hô. Tuy nhiên nhờ cuộc biểu diễn sức mạnh Hecquyn ấy(1) họ giành được một điều, đó là đám đông dãn ra trước họ và họ đạt tới kết quả đó một bức tường như không thể thực hiện được, tức là tới được toà xử án.

Tất cả London chen chúc nhau ở cửa các khán đài. Cho nên khi bốn người bạn lách được vào một khán đài thì đã thấy ba hàng ghế đầu hết chỗ. Đối với những người không muốn mình bị nhận ra thì đó chỉ là một nửa điều không may thôi. Họ bèn đến ngổi ở phía dưới, rất hài lòng là đã tới được đây, trừ Porthos vì muốn khoe cái áo chẽn đó và đôi giày xanh, nên cứ tiếc là không được ngồi ở hàng ghế đầu.

Các ghế bố trí theo kiểu vòng cung từ thấp lên cao, nên từ chỗ ngồi của mình, bốn người bạn bao quát tất cả cử toạ. Do tình cờ mà các anh vào đúng khán đài ở giữa và ngồi đúng trước mặt cái ghế bành dành cho Charles I.

Khoảng mười một giờ sáng, vua xuất hiện ở cửa phòng. Ông đi vào giữa đám lính gác, nhưng vẫn đội mũ, vẻ mặt điểm tĩnh và đưa mắt nhìn một cách cương quyết khắp mọi phía y như ông đến chủ trì một cuộc họp các quần thần chịu khuất phục, chứ không phải để trả lời những điều buộc tội của một triều đình phản loạn.

Các quan toà hãnh diện vì có một ông vua để làm nhục, rành rành đang sử dụng cái quyền mà chính họ đã tước đoạt. Cho nên một quan toà đến bảo Charles I rằng theo tục lệ bị cáo phải bỏ mũ ra trước mặt hắn.

Chẳng nói chẳng rằng, Charles ấn sâu mũ xuống đầu và quay đi chỗ khác, rồi khi các quan toà rời đi, ông ngồi xuống cái ghế bành đã để sẵn trước mặt chánh án, và ông vụt vào đôi giày của mình bằng một cái que cầm ở tay.

Parry vẫn đi theo ông, đứng ở phía sau.

Đáng lẽ xem những nghi thức ấy thì d Artagnan nhìn Arthos; gương mặt Arthos phản chiếu tất cả những sự xúc động của nhà vua mà chính vua do cố sức tự kiềm chế đã xua đuổi khỏi gương mặt mình. Nỗi xao xuyến ấy của Arthos, con người lạnh lùng và điềm tĩnh, khiến anh hãi hùng, Anh ghé tai bạn và nói:

- Tôi hy vọng rằng anh noi gương Hoàng thượng và chớ để mình bị giết một cách dại dột ở trong cái cũi này.

- Yên trí, - Arthos đáp.

- A, a? - D Artagnan nói, - Hình như người ta lo sợ một cái gì vì xem này, các điểm gác tăng gấp đôi, trước chỉ có gươm giáo, nay có cả súng ống nữa. Bây giờ có vũ khí cho tất cả mọi người: gươm giáo đối với những thính giả ở dưới sàn, súng ống dành cho chúng ta.

- Ba mươi, bốn mươi, năm mươi, bây mươi..., - Porthos lẩm bẩm đếm những lính mới đến.

- Ê, Porthos, cậu quên viên sĩ quan à, - Aramis nói, hình như hắn cũng đáng được đếm đấy chứ!

- Ôi cha, - D Artagnan thốt lên. Và anh tức giận tái người đi, vì nhận ra Mordaunt, gươm tuốt trần, dẫn toán lính ngự lâm đứng sau nhà vua, nghĩa là trước mặt khán đài.

- Liệu hắn có nhận ra chúng ta không? - D Artagnan nói.

Trường hợp hắn nhận ra, thì tôi sẽ đánh để rút lui ngay. Tôi chẳng thích để người ta áp đặt cho tôi một kiểu chết đâu. Tôi rất muốn chết theo cách mình chọn. Mà tôi thì không chọn cách được bắn chết trong một nhà ngục.

- Không, hắn không nhìn thấy chúng ta đâu, - Aramis nói. - Hắn chỉ nhìn vua thôi. Hắn đang nhìn vua bằng con mắt thật ghê gớm , đúng là một thằng láo xược. Liệu nó có thù ghét hoàng thượng bằng thù ghét chúng ta không?

- Mẹ kiếp, - Arthos nói, - Chúng ta chỉ tước mất mẹ nó, còn vua đã tước cả tên họ và tài sản của nó rồi còn gì.

- Đúng đấy, - Aramis nói - Nhưng hãy yên lặng nào? Ông chánh án đang nói với vua.

Thật vậy ông chánh án Bradshaw gọi kẻ bị cáo uy nghi và nói:

- Stuart, ông hãy nghe điểm danh các vị thẩm phán và nếu có ý kiến gì thì trình bày với toà.

Như thể những lời ấy chẳng phải nói với mình, nhà vua quay đầu ra chỗ khác.

Viên chánh án chờ đợi và do chẳng có câu trả lời nào đáp lại, nên đợi một khoảnh khắc trong im lặng.

Trong số một trăm sáu mươi ba uỷ viên được chỉ định, chỉ có bảy mươi ba người có thể đáp lại cuộc điểm danh, những người khác sợ hãi bị đồng loã với một hành động như vậy nên tránh mặt.

Không tỏ ra chú ý đến sự vắng mặt của ba phần năm số uỷ viên, ông chánh án nói:

- Tôi tiến hành điểm danh.

Và ông lần lượt đọc tên những uỷ viên có mặt và vắng mặt những người có mặt đáp lại bằng một giọng mạnh mẽ hoặc yếu ớt, tuỳ theo họ có can đảm hay không về quan niệm của mình. Lại có một khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi tiếp sau tên những người vắng mặt được nhắc lại hai lần.

Tên của đại tá Fairfaxc cũng được tiếp theo bằng một khoảnh khắc im lặng nhưng rất trang trọng, nó tố giác sự vắng mặt của những người không muốn cá nhân mình tham gia vào cuộc xét xử này.

- Đại tá Fairfaxc có không? - Bradshaw nhắc lại.

- Fairfaxc à? - Một tiếng nói giễu cợt đáp lại, qua giọng kim ấy, người ta nhận ra là giọng một phụ nữ, - Ông ta quá là khôn ngoan để có mặt ở đây.

Một trận cười vang lên tiếp đón những câu nói ấy thốt ra với sự táo bạo mà nhưng người phụ nữ rút ra từ chính sự yếu đuối của họ, sự yếu đuối ấy tránh cho họ mọi sự trả thù.

- A, tiếng nói của một phụ nữ, - Aramis kêu lên. - Thực tình tôi sẵn sàng cho đi rất nhiều để nàng ta sẽ trẻ trung và xinh đẹp.

Và anh trèo lên bậc để cố nhìn xem tiếng nói ấy từ đâu phát ra.

- Xin thề là nàng ta kiều diễm thật! Xem này d Artagnan, mọi người đều nhìn bà ta, và mặc dầu cái nhìn của Bradshaw, bà ta chẳng tái mặt đi.

- Thì chính là Fairfaxc phu nhân đấy, - D Artagnan nói, - Porthos, cậu có nhớ không? Chúng ta đã gặp bà ta cùng chồng ở nhà tướng Cromwell.

Sự yên tĩnh do sụ việc khác lạ đó làm rộn lên một lát lại trở lại và việc điểm danh tiếp tục.

- Bọn kỳ quặc này sắp bế mạc phiên họp đấy, khi nhận thấy không đủ số người cần thiết, - Bá tước de La Fère nói.

- Arthos anh không hiểu rõ họ đâu, - D Artagnan nói. - Hãy chú ý cái cười của Mordaunt, hãy xem nó nhìn vua kia. Đó là một cái nhìn của một kẻ sợ nạn nhân của hắn trốn thoát chăng? Không, không, đó là cái cười của nỗi hằn thù được thoả mãn, của lòng phục thù chắc chắn được toại nguyện. A, con mãng xà độc địa này(2), ngày nào mà ta được chọi nhau với mi chỉ bằng mắt thôi cũng đã là một ngày sung sướng đối với ta.

- Vua trông đẹp thật! - Porthos nói, - và xem kìa, là tù binh mà ông ta vẫn ăn vận chính tề. Cái lông cài mũ của ông ta cũng đáng giá ít ra là năm mươi pistol, Aramis nhìn xem!

Cuộc điểm danh xong, ông chánh án ra lệnh chuyển sang bản buộc tội.

Arthos tái mặt, anh lại sai lầm một lần nữa trong sự chờ đợi. Mặc dầu các thẩm phán không đủ số người, việc xử án vẫn tiến hành, như vậy là nhà vua bị kết án từ trước.

D Artagnan nhún vai bảo Arthos:

- Tôi đã nói với anh rồi mà. Nhưng anh vẫn hoài nghi. Bây giờ anh hãy giơ cả hai tay ra mà giữ chắc lấy lòng can đảm của mình và lắng nghe, đừng có thất vọng những việc ghê gớm nho nhỏ mà cái ông mặc áo đen kia sắp nói về vua của mình với đặc quyền đặc lợi ấy. Thật vậy, chưa bao giờ người ta làm nhục vẻ tôn nghiêm vương giả bằng sự buộc tội độc ác hơn, bằng những lời chửi rủa hèn hạ hơn, bằng điều công kích đẫm máu hơn. Cho đến đây, người ta sẵn lòng ám hại các ông vua, nhưng người ta có lăng nhục thì cũng chỉ là lăng nhục những thi hài của họ mà thôi.

Charles I lắng nghe bài diễn văn của kẻ buộc tội với một sự chú ý đặc biệt, cho qua những lời chửi rủa, giữ lại những điều bất bình, và khi nỗi hằn thù quá tràn trề, khi kẻ buộc tội tự nhận trước làm đao phủ, vua chỉ đáp lại bằng một nụ cười khinh bỉ. Kết thúc thì đó là một bản cáo buộc chủ yếu và ghê gớm, trong đó vua tìm thấy tất cả những điều khinh suất của mình biến thành một âm mưu, những lỗi lầm của mình biến thành một âm mưu, những lỗi lầm của mình biến thành trọng tội.

D Artagnan để mặc dòng thác chửi rủa ấy trôi đi với niềm khinh thị xứng đáng với nó, anh chỉ dùng hết cái trí xét đoán đúng đắn của mình ở vài ba điều cáo buộc của kẻ buộc tội.

- Sự thật là, - Anh nói, - Nếu người ta trừng phạt vua về tội thiếu thận trọng và nhẹ dạ thì cũng là xứng đáng; nhưng hình như cái hình phạt mà ông phải chịu đựng lúc này đây mới thật là tàn nhẫn.

- Trong mọi trường hợp, - Aramis nói, - Hình phạt không nhằm vào vua mà vào các tể tướng, bởi vì điều luật đầu tiên của hiến pháp là: Vua không thể sai lầm.

Porthos chỉ nhìn Mordaunt và chỉ quan tâm đến hắn. Anh thầm nghĩ:

"Đối với ta, nếu chỉ để làm rối loạn vẻ trang nghiêm của tình hình, ta sẽ nhảy từ khán đài xuống dưới kia, bằng ba bước nhảy ta sẽ chồm vào Mordaunt và bóp cổ hắn, ta sẽ cầm hai cẳng hắn mà quật chết tất cả lũ ngự lâm quân xấu xa kia chúng học đòi ngự lâm quân Pháp. Trong khi ấy d Artagnan vốn giàu trí xảo và ứng phó kịp thời có lẽ sẽ tìm ra một kế cứu vua. Ta cần nói điều này với cậu ta".

Còn Arthos, mặt nóng bừng, hai nắm tay quặp lại, môi ứa máu vì răng cẳn phải, người đẫm mồ hôi, anh tức giận về điều lăng nhục của nghị viện và sự nhẫn nại bền bỉ của vua chúa; và cánh tay vững vàng ấy, trái tim không hề nao núng ấy đang biến thành một bàn tay run rẩy và một cơ thể gai rợn.

Vừa lúc ấy kẻ buộc tội kết thúc ban cáo trạng của mình bằng câu:

"Bản cảo trạng này do chúng tôi làm nhân danh nhân dân nước Anh".

Nghe câu đó có tiếng rì rầm ở các khán đài và giọng nói không phải của đàn bà mà là một giọng đàn ông, hùng mạnh và giận dữ, vang lên phía sau d Artagnan:

- Mày nói láo? Chín phần mười nhân dân Anh ghê tởm những điều mày nói.

Đó là tiếng nói của Arthos, anh không kiềm chế được mình, đứng lên giơ tay ra chất vấn kẻ buộc tội công khai.

Nghe tiếng nói ấy, vua, quan toà, khán giả tất cả mọi người quay lại nhìn phía khán đài có bốn người bạn ngồi, Mordaunt nhận ra nhà quí tộc và ba người Pháp cũng đứng dậy vẻ mặt tái đi và hăm doạ.

Mắt hắn rực sáng lên vì mừng rỡ, hắn vừa mới tìm được những người mà hắn đã mang cả cuộc đời mình ra để tìm kiếm và giết chết. Hắn tức giận vẫy hai chục lính ngự lâm đến gần và trỏ tay lên khán đài nơi có kẻ thù của mình, hắn quát:

- Bắn lên khán đài kìa!

Nhưng, nhanh như cắt, d Artagnan nắm lấy ngang mình Arthos, Porthos ôm lấy Aramis, lao vào các hành lang, nhảy bổ xuống các cầu thang và mất hút trong đám đông. Trong khi ấy, ở trong hội trường, những nòng súng hỏa mai giơ ra de doạ ba nghìn khán giả, họ hoảng sợ và kêu la ầm ĩ nên ngăn chặn được một cuộc tàn sát đã chuẩn bị.

Charles cũng nhận ra bốn người Pháp; một tay ông đặt lên ngực để nén những nhịp đập dồn dập của con tim, một tay che mắt để khỏi nhìn những người bạn trung thành của mình bị thảm sát.

Mặt Mordaunt tái đi và run lên vì tức giận, nhảy bổ ra khỏi gian phòng tay lăm lăm gươm trần cùng với mười kích thủ, sục sạo trong đám dân chúng, hỏi han, căn vặn thở hổn hển, rồi quay về mà chẳng tìm được ai cả.

Rối loạn khôn tả xiết. Hơn nửa giờ trôi qua mà nói chẳng ai nghe. Các quan toà tưởng như mỗi khán đài đều sẵn sàng vang lên như sấm. Các khán đài trông những mũi súng hướng về phía mình, vừa sợ hãi vừa tò mò cứ ồn ào và náo động lên .

Cuối cùng sự yên lặng được lặp lại.

Bradshaw hỏi vua:

- Ông có nói gì để tự bào chữa không?

Thế là bằng giọng một quan toà chứ không phải của một bị cáo, Charles đứng lên không phải với vẻ hổ nhục mà với vẻ chế ngự, ông nói:

- Trước khi hỏi tôi, hãy trả lời tôi đã. Ở Newcastle tôi vẫn tự do, tôi đã ký một hiệp nghị với hai viện. Tôi đã thực hiện phần của tôi. Còn các ông đã mua tôi ở tay bọn Scotch, không đắt đâu, tôi biết, và điểu đó làm vinh dự cho nền kinh tế của chính phủ các ông. Nhưng mua tôi với cái giá của một tên nô lệ, các ông mong rằng tôi không còn là vua nữa chăng? Không đâu. Trả lời các ông là quên mất điều đó. Cho nên tôi chỉ trả lời các ông khi nào các ông đã xác minh được quyền chất vấn tôi. Trả lời các ông tức là thừa nhận các ông là quan toà, mà tôi chỉ thừa nhận các ông là đao phủ của tôi thôi.

Và giữa một sự im lặng chết chóc, Charles vẫn đội mũ bình tĩnh và kiêu kì, ngồi xuống ghế. Rồi với niềm kiêu hãnh, ông quay lại nhìn chỗ khán đài lúc nãy có mấy người Pháp xuất hiện và lầm bẩm:

- Tiếc rằng mấy người Pháp của mình không ở đây nữa? Họ sẽ thấy rằng người bạn của họ sống thì xứng đáng được bảo vệ, chết thì xứng đáng được than khóc.

Song ông đã uổng công dò tìm trong đám đông dày đặc và như cầu xin ở Thượng đế những sự mầu nhiệmr ngọt ngào và an ủi ấy. Ông chỉ nhìn thấy toàn những bộ mặt ngây dại và sợ sệt; ông cảm thấy mình đang đánh nhau với thù hằn và hung bạo.

Thấy Charles quyết định giữ thái độ im lặng đến cùng, ông chánh án nói:

- Thôi được! Mặc dù ông im lặng, chúng tôi vẫn xét xử ông. Ông bị buộc tội phản nghịch, lạm dụng quyền hành và ám sát. Những nhân chứng sẽ làm chứng. Một phiên toà sáp tới sẽ hoàn tất những gì mà ông không chịu làm trong phiên họp này.

Charles đứng dậy và quay lại trông thấy Parry mặt tái mét, thái dương đẫm mồ hôi.

- Ơ kìa? Parry thân mến, ngươi làm sao thế và vì cớ gì mà xúc động dữ vậy?

Nước mắt rưng rưng, giọng năn nỉ, Parry nói:

- Ôi thưa Hoàng thượng, khi ra khỏi phòng, xin ngài chớ nhìn sang bên trái.

- Tại sao thế. Parry?

- Ôi đức vua của tôi ơi, tôi van xin ngài đừng có nhìn.

Charles vừa cố nhìn qua hàng rào lính gác đứng sau mình vừa hỏi:

- Nhưng mà có cái gì cơ chứ? Nói đi.

- Có đấy ạ Nhưng mà ngài sẽ không nhìn chứ! Người ta đã đem đặt trên bàn cái lưỡi rìu mà người ta vẫn dùng để xử tội nhân. Trông cái đó thật là đáng sợ; ngài chớ có nhìn, tôi van ngài.

- Bọn ngu ngốc? - Charles nói, - Chúng nó tưởng ta cũng hèn nhát như chúng sao? Nhà ngươi đã báo trước cho ta như thế là tốt đấy, cảm ơn Parry.

Đã đến lúc phải rút lui, vua đi ra theo bọn lính.

Quả thật ở phía trái cổng lấp lánh ánh sáng ghê rợn của một tấm thảm đó trên đó đặt một lưỡi rìu sáng loáng có cán dài nhẵn bóng bởi bàn tay đao phủ.

Đến trước lưỡi rìu, Charles dừng lại và mỉm cười nói:

. - À !Thật là một lũ ngốc ! Dụng công và rất xứng đáng đối với những kẻ không biết thế nào là một nhà quý tộc .

Rồi lấy cái que mảnh dẻ cầm trong tay, ông vụt lên chiếc rìu và nói tiếp

- Hỡi lưỡi rìu của đao phủ, mi chẳng khiến ta sợ hãi đâu; ta quất mi trong khi chờ đợi một cách kiên nhẫn và sùng tín rằng mi sẽ quật trả lại ta.

Rồi nhún vai với dáng ngạo mạn vương giả, ông tiếp tục đi, để lại những bộ mặt kinh ngạc của những kẻ xúm đông lại quanh chiếc bàn, để xem thái độ của vua ra sao, khi trông thấy cái lưỡi rìu nó sẽ chặt lìa cái đầu của mình ra khỏi cổ.

- Parry này, - Vua nói,

- Xin Chúa tha tội! Thực ra tất cả lũ người ấy coi ta như một tên lái buôn bông Ấn Độ, chứ không phải một nhà quý tộc đã quen trông những gươm kiếm lấp lánh. Chắc rằng chúng nghĩ rằng ta không bằng một gã hàng thịt.

Vua ra đến cổng. Một đoàn người dài dằng đặc chạy đến; không kiếm được chỗ trên khán đài họ muốn ít ra cũng được thưởng thức đoạn cuối của quang cảnh đó mà phần thú vị nhất đã bị hụt. Đám người đông nghìn nghịt trong đó rải rác những bộ mặt hằm hè khiến vua buông một tiếng thở dài:

- Biết bao nhiêu là người, - Vua nghĩ, - Mà chẳng có lấy một người bạn tận tâm.

Ông vừa tự nhủ thầm với mình những lời hoài nghi và chán nản ấy thì bỗng nghe một giọng nói lẩm bẩm bên cạnh ông:

- Kính chào Hoàng thượng sa cơ!

Vua quay ngoắt lại, lệ tràn trong khóe mắt và trong tim.

Đó là một người lính già trong đội ngự vệ của ông không muốn trông thấy ông vua bị bắt của mình đi qua mà không dâng ông một kính lễ cuối cùng.

Nhưng cũng lúc ấy con người khốn khổ đó bị nện một chuỗi gươm xuống đầu ngã gục.

Trong số những kẻ giết người, nhà vua nhận ra đại uý Groslow.

- Chao ôi, - Charles nói, - Một hình phạt thật nặng nề đối với một lỗi thật nhỏ nhặt.

Rồi, lòng quặn đau, ông lại tiếp tục đi, nhưng chưa được trăm bước thì một kẻ hung hãn ghé đầu vào giữa hai tên lính áp giải và nhổ toẹt vào mặt vua, như xưa kia một tên Do Thái hèn mạt và xấu xa đã nhổ vào mặt Chúa Giêsu.

Những chuỗi cười hô hố và những tiếng rì rầm áo não đồng thời vang lên.

Đám đông lúc dãn ra, lúc cụm lại rập rờn như mặt biển trong cơn dông, và giữa làn sóng sống động ấy vua hình như trông thấy cặp mắt nảy lửa của Arthos. Charles chùi mặt và nói với một nụ cười buồn bã:

- Tên khốn kiếp! Cho nó một xu nào cũng sẽ làm như vậy đối với bố nó.

Vua không nhầm. Quả thậtông đã trông thấy Arthos và các bạn mình lại chen lấn vào đám dông và bằng cái nhìn cuối cùng hộ tống ông vua tuẫn nạn.

Khi người lính già chào Charles, Arthos vui mừng lắm; và khi người lính tội nghiệp ấy tỉnh lại, bác ta sẽ lấy mười đồng guinées của nhà quý tộc Pháp nhét vào túi bác. Nhưng lúc tên lăng mạ hèn nhát nhổ vào mặt vua, Arthos sờ tay vào cán dao găm. D Artagnan vội ngăn lại và nói bằng giọng khàn khàn:

- Khoan đã cậu!

Chưa bao giờ d Artagnan gọi Arthos hoặc bá tước de La Fère bằng cậu.

Arthos đứng lại.

D Artagnan tì vào tai Arthos và ra hiệu cho Porthos và Aramis cùng dừng lại. Rồi anh đến đứng đằng sau cái người tay để trần vẫn còn cười về các trò đùa đê tiện của hắn được mấy kẻ hung dữ khác khen ngợi

Người ấy đi về phía khu Cité, d Artagnan vẫn vịn vai Arthos đi theo hắn và ra hiệu cho Porthos và Aramis cùng đi.

Người để cánh tay trần trông giống như một kẻ mổ thịt, cùng với hai tên đồng bọn đi theo một phố dốc và hẻo lánh dẫn xuống bờ sông.

D Artagnan rời Arthos vả đi sau kẻ lăng mạ.

Tới bờ sông ba kẻ kia nhận thấy có người bám sát mình bèn dừng lại và vừa nhìn những người Pháp một cách xấc xược vừa trao đổi với nhau mấy lời giễu cợt.

- Arthos này, - D Artagnan nói, - Tôi không biết tiếng Anh, nhưng anh biết, vậy anh hãy làm thông ngôn cho.

Nói xong anh bước gấp lên và vượt qua ba người kia. Rồi quay ngoắt lại, d Artagnan bước thẳng đến trước mặt gã mổ thịt, hắn cũng dừng lại. Anh chỉ tay vào ngực hắn và nói với Arthos:

- Anh hãy nhắc lại với hắn câu này: "Mày là đồ hèn mạt. Mày đã lăng nhục một người không có tự vệ mày đã bôi bẩn mặt vua của mày, mày phải chết!..."

Arthos mặt tái nhợt và tay bị d Artagnan nắm chặt dịch lại những lời nói lạ lùng ấy cho gã kia nghe. Nhìn thấy những sự sửa soạn ghê gớm ấy và con mắt khủng khiếp của d Artagnan, hắn toan tự vệ Aramis bèn đặt tay lên thanh kiếm, nhưng d Artagnan bảo:

- Không dùng gươm kiếm, không dùng gươm kiếm! Gươm kiếm là để cho những nhà quý tộc.

Rồi túm lấy cổ gã mổ thịt, anh nói:

- Porthos, cậu hãy đập chết tên khốn nạn này hộ tôi bằng một cú đấm thôi.

Porthos vung cánh tay khủng khiếp của mình lên làm nó kêu rít trong không khí như một cánh ná và cả một khối nặng nề giáng xuống đầu tên hèn mạt đánh ịch một cái và đập vỡ sọ hắn.

Hắn đổ vật xuống như một con bò dưới một nhát búa tạ. Những tên đồng bọn muốn kêu, muốn chạy trốn, nhưng há miệng mà chẳng ra lời, đôi chân run rẩy như biến đâu mất.

- Arthos hãy nói với chúng điều này nữa, - D Artagnan bảo -

"Sẽ chết như thế này tất cả những kẻ quên rằng một người bị xiềng xích là một người bất khả xâm phạm, một ông vua bị tù đầy thì hai lần thay mặt cho Chúa".

Arthos dịch lại lời d Artagnan.

Hai gã kia miệng câm như hến, tóc dựng ngược lên, nhìn cái xác của bạn chúng ngập trong những vũng máu đỏ ngầu. Rồi như lấy lại được tiếng nói và sức lực, chúng vừa chạy vừa kêu rú lên vừa chắp hai bàn tay lại.

- Công lý đã thực hiện! - Porthos lau trán và nói.

- Và bây giờ đây, - D Artagnan bảo Arthos,

- Anh đừng có nghi ngờ gì tôi và hãy yên trí, tôi sẽ đảm nhiệm mọi việc liên quan đến vua.

Chú thích:

(1) vị thần cực kỳ khỏe trong thần thoại Hy Lạp, đã hoàn thành mười hai kỳ tích

(2) Trong nguyên bản nói basilic là con rắn hoang đường chỉ bằng cái nhìn cũng đủ giết chết người ta.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 68

Đại sảnh trắng

Nghị viện kết án tử hình Charles Stuart, như người ta có thể dễ dàng thấy trước. Những cuộc xét xử chính trị bao giờ cũng chỉ là những nghi thức vô ích, bởi vì vẫn nhưng thiên kiến ấy vừa buộc tội lại vừa kết án. Cái lý luận kinh khủng của những cuộc cách mạng là như thế đấy.

Việc kết án ấy mặc dầu đã được mấy người bạn của chúng ta liệu trước, nó vẫn làm cho họ đau đớn. D Artagnan có những tài trí hơn là những lúc gay go càng nảy ra nhiều mưu mẹo nhất, lại thề rằng sẽ tìm mọi cách ở trên đời để ngăn cản sự kết thúc của tấn bi kịch đẫm máu này. Nhưng bằng cách nào đây? Đó là điều anh thấy còn mơ hồ quá.

Tất cả phụ thuộc vào tính chất của hoàn cảnh. Trong khi chờ đợi một kế sách hoàn chính, để tranh thủ thời gian, bằng mọi giá phải cản trở việc hành hình mà các quan toà đã quyết định vào ngày hôm sau.

Cách duy nhất là làm sao làm biến mất tên đao phủ London.

Đao phủ biến mất thì bản án không thể thi hành. Chắc chắn là người ta sẽ đi kiếm đao phủ ở thành phố gần London nhất, và như thế ít ra cũng được thêm một ngày, mà một ngày trong trường hợp như thế này có thể là cứu nạn! D Artagnan đảm nhiệm cái công việc quá ư là khó khăn này.

Một điều không kém phần quan trọng là báo cho Charles Stuart biết rằng người ta đã định cứu ông để ông hết sức hỗ trợ những người bảo vệ ông hoặc ít ra không làm điều gì trở ngại cho công việc của họ... Aramis nhận làm cái việc mạo hiểm đó.

Charles Stuart đã yêu cầu người ta cho phép giám mục Juxon đến thăm ông ở nhà tù Đại sảnh trắng. Ngay chiều hôm ấy Mordaunt đã đến nhà giám mục để cho ông biết điều mong muốn sùng tín của nhà vua và sự cho phép của Cromwell. Aramis nhất quyết bằng cách doạ nạt hoặc thuyết phục làm sao cho giám mục đồng ý để cho anh thay thế ông, mang những huy hiệu giáo chức của ông và lọt vào cung Đại sảnh trắng.

Cuối cùng Arthos đảm nhiệm việc chuẩn bị các kế hoạch rời khỏi nước Anh trong trường hợp thành công cũng như thất bại.

Đêm đến, họ hẹn gặp nhau ở khách sạn vào lúc mười một giờ, và mỗi người lên đường để thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm của mình.

Cung Đại sảnh trắng được canh gác bởi ba trung đoàn kỵ binh và nhất là bởi những nỗi băn khoăn vô tận của Cromwell, ông đi đi lại lại và phải đi các tướng lãnh hoặc nhân viên.

Một mình trong căn phòng thường lệ của mình có hai ngọn nến soi sáng, nhà vua bị kết án tử hình buồn bã nhìn cái xa hoa của thời vàng son đã qua, giống như vào lúc lâm chung người ta nhìn hình ảnh cuộc đời thấy nó sáng lạn và ngọt ngào hơn bao giờ hết.

Parry không rời chủ lúc nảo và từ khi chủ bị kết án, hắn khóc mãi không thôi.

Ngồi tì tay trên một cái bàn, Charles Stuart ngước nhìn một bức đại bài trên đó treo những bức chân dung của vợ và các con của ông.

Ồng chờ đợi Juxon trước hết, rồi sau Juxon là sự tuẫn tử.

Đôi khi dòng suy nghĩ của ông dừng lại ở những người quí tộc Pháp trung hậu lúc này như đã cách xa ông hàng trăm dặm, có vẻ huyền thoại, hư ảo và tựa như những hình ảnh mà người ta thấy trong giấc mơ và biến mất khi tỉnh dậy.

Mà quả thật, đôi khi Charles tự hỏi mình rằng tất cả những gì vừa mới xảy ra với ông phải chăng là một giấc mơ hoặc ít ra cũng là một điều mê sảng trong cơn sốt.

Nghĩ vậy ông đứng lên, đi vài bước như để ra khỏi cơn mê, đi ra đến cửa sổ nhưng lập tức trông thấy ở phía dưới cửa lấp lánh những nòng súng của lính gác. Khi ấy ông buộc phải thú nhận rằng ông đang thức tỉnh hẳn hoi và giấc mơ đẫm máu của ông là có thật.

Charles lặng lẽ trở lại ghế bành, ngồi tì tay lên bàn, gục đầu vào bàn tay và nghĩ ngợi.

- Than ôi! - Ông tự nhủ thầm, - Nếu như ít ra ta có một đức cha để xưng tội trong số những tâm hồn sáng láng của Nhà thờ đã thăm dò mọi bí mật của cuộc đời, mọi điều nhỏ nhen của sự cao cả, thì, tiếng nói của người ấy có lẽ sẽ dập tắt tiếng nói đang than thở trong tâm hồn ta? Nhưng ta sẽ có một linh mục tâm hồn tầm thường mà do tai hoạ của ta, ta đã phá vỡ cuộc đời và cơ nghiệp của ông ấy. Ông ấy sẽ nói với ta về Thượng đế và cái chết như vẫn thường nói với những kẻ sắp chết khác, không hiểu rằng kẻ sắp lìa đời vương giả này để lại một ngai vàng cho kẻ tiếm đoạt trong khi con gái của mình chẳng còn bánh ăn.

Rồi đưa các bức chân dung lên môi, ông lần lượt lẩm nhẩm đọc tên của từng đứa con ông.

Đêm hôm ấy là một đêm mù sương và ảm đạm. Chuông nhà thờ gần đó thong thả điểm giờ. Ánh sáng vàng vọt của hai cây nến gieo rắc trong căn phòng rộng rãi và cao ráo ấy những bóng ma chập chờn kỳ lạ. Đó là những tổ tiên của vua Charles tách ra khỏi những khung ảnh thiếp vàng; và những bóng chập chờn kia là những vầng sáng cuối cùng xanh xanh và lấp lánh của một ngọn lửa than đang tắt.

Một nỗi buồn mênh mang xâm chiếm cả tâm hồn . Ông vùi đầu vào trong lòng bàn tay và mơ màng đến cái thế giới thật là tươi đẹp, khi người ta rời bỏ nó hoặc đúng hơn là nó rời bỏ ta, đến những cái vuốt ve thật êm ái và ngọt ngào của những đứa con nhất là khi người ta xa rời chúng để không bao giờ gặp lại nữa.

Rồi ông nghĩ đến người vợ cao quý và can đảm đã nâng đỡ ông đến phút cuối cùng. Ông rút từ ngực ra cây thánh giá kim cương và tấm huân chương Jarretière mà bà đã nhờ những người Pháp hào hiệp kia đưa tới, và hôn lên. Rồi nghĩ rằng bà chỉ thấy lại những kỷ vật ấy khi tấm thân lạnh giá và bị chặt của ông ta đã bị vùi trong một nấm mồ, ông cảm thấy một cơn rùng mình ớn lạnh chạy khắp người như những cơn ớn lạnh mà tử thần ném lên mình ta như ném chiếc áo choàng đầu tiên của nó.

Thế là trong căn phòng nhắc nhở với ông biết bao kỷ niệm đế vương và đã từng chứng kiến biết bao cận thần vào ra và biết bao điều phỉnh phờ nịnh hót, giờ đây một mình ông cùng với một tên đầy tớ buồn phiền mà linh hồn yếu đuối không thể nâng đỡ linh hồn ông nhà vua buông rơi lòng can đảm của mình xuống ngang tầm của sự yếu đuổi ấy, của những bóng đêm ấy, của cái giá lạnh mùa đông ấy.

Và liệu người ta có sẽ nói ra không? Cái ông vua ấy chết thật cao cả, thật tuyệt vời, với nụ cười nhẫn nhục trên môi, đã lau trong bóng tối một giọt nước mắt rơi xuống bàn và rung rinh trên tấm thảm thêu vàng lỏng lánh.

Bỗng nhiên có tiếng chân bước ngoài hành lang, rồi cửa bật mở và gian phòng bừng lên trong ánh sáng khói um của những ngọn đuốc Một giáo sĩ vận y phục chủ giáo bước vào có hai tên lính gác theo sau. Charles khoát tay một cách khần thiết cho hai tên lính và chúng đi ra. Căn phòng trở lại tối tăm.

- Juxon! - Charles reo lên, - Juxon? Cảm ơn người bạn cuối cùng của tôi, ông đến rất kịp thời.

Vị giám mục đưa mắt lo ngại nhìn nghiêng sang phía người dân ông đang thổn thức ở góc lò sưới.

- Nào, Parry, đừng khóc nữa, - Vua nói, - đây là Chúa đến với chúng ta.

- Nếu là Parry thì tôi chẳng có gì phải lo ngại, - Giám mục nói. - Vậy thì tôi xin phép kính chào Hoàng thượng và thưa với ngài tôi là ai và đến đây vì việc gì.

Nhìn lại người và nghe giọng nói ấy, suýt nữa Charles kêu lên, nhưng Aramis đặt ngón tay lên môi và kính cẩn cúi chào ông vua Anh quốc.

- Ông hiệp sĩ, - Charles lẩm bẩm.

- Vâng, thưa Hoàng thượng, - Aramis ngắt lời và lên cao giọng, vâng tôi là giám mục Juxon, người hiệp sĩ trung thành của Chúa Giêsu, đến đây theo nguyện vọng của Hoàng thượng.

Đã nhận ra D Herblay, Charles chắp hai tay, kinh ngạc và ngẩn người ra trước những người ngoại quốc này, họ chẳng có động cơ nào khác ngoài nghĩa vụ mà tự lương tâm họ đặt ra, chiến đấu chống lại ý nguyện của một dân tộc và chống lại số mệnh của một ông vua.

- Ông đấy à! - Vua nói, - Ông làm thế nào mà tới được đây? Lạy Chúa, nếu họ nhận ra ông thì ông nguy to.

Parry đứng gần đấy, tất cả con người hắn biểu hiện một niềm khâm phục hồn nhiên và sâu sắc.

Vừa tiếp tục ra hiệu cho vua im lặng, Aramis vừa nói:

- Xin ngài đừng lo gì cho tôi, và chỉ nên lo cho ngài thôi. Các bạn bè của ngài chăm lo cho ngài, ngài thấy đấy; chúng tôi sẽ làm gì, tôi cũng chưa biết; nhưng bốn con người đầy lònh cương quyết đó có thể làm được rất nhiều việc. Trong khi chờ đợi, ngài chớ nhắm mắt ban đêm, chớ ngạc nhiên về chuyện gì cả và sẵn sàng với mọi việc có thể đến.

Charles lắc đầu nói:

- Bạn ơi, các ông có biết rằng chẳng còn mấy thời giờ nữa đâu, và nếu các ông muốn hành động thì phải gấp lắm ư? Các ông có biết rằng đến mười giờ sáng mai là tôi phải chết không?

- Thưa ngài, từ giờ đến lúc ấy, một điều gì đó sẽ xảy ra khiến việc hành quyết không thể thực hiện được.

Vua nhìn Aramis với vẻ ngạc nhiên.

- Đúng lúc ấy ở phía dưới cửa sổ phòng vua vang lên một tiếng động lạ như tiếng bốc dỡ một xe chở gỗ.

- Ông có nghe thấy không? - Vua hỏi.

- Tiếng động kia kèm theo một tiếng kêu đau đớn.

- Tôi có nghe, - Aramis đáp, - Nhưng tôi không hiểu rõ tiếng động ấy là gì và nhất là tiếng kêu kia.

- Tôi không biết ai đã thốt ra tiếng kêu ấy, Vua nói: nhưng về tiếng động tôi sẽ nói để ông rõ. Ông có biết rằng tôi sẽ bị hành quyết ở ngay ngoài cửa sổ kia không? - Vua nói và giơ tay về phía bãi tối chỉ có toàn lính gác.

- Vâng, thưa ngài, tôi có biết, - Aramis đáp.

- Đấy! Những gỗ mang đến là những cột kèo người ta dùng để dựng đoạn đầu đài cho cho tôi đấy. Có người thợ nào đó bị thương khi bốc dỡ.

Aramis bất giác rùng mình.

- Các ông thấy đấy, - Charles nói, - Các ông có khăng khăng làm nữa cũng vô ích mà thôi. Tôi đã bị kết án, hãy đề tôi cam chịu số phận của mình.

Lấy lại sự bình tĩnh bị quấy động trong giây lát, Aramis nói:

- Thưa ngài họ có thể dựng một đoạn dầu đài nhưng họ sẽ không tìm được một đao phủ.

- Thế nghĩa là thế nào? - Vua hỏi.

- Nghĩa là vào lúc này, thưa ngài, tên đao phủ đã bị bắt cóc hoặc dụ dỗ đi. Ngày mai đoạn đầu đài sẽ sẵn sàng, nhưng không còn đao phủ, người ta sẽ phải hoãn việc hành quyết đến ngày kia.

- Thế thì sao? - Vua hỏi.

- Thì đêm mai chúng tôi sẽ bốc ngài đi, - Aramis đáp.

Một tia chớp vui mừng bất giác lóe lên gương mặt vua. Ông reo lên:

- Thế là thế nào?

Parry chắp hai bàn tay lẩm bẩm:

- Ôi, ông ơi! Cầu Chúa ban phước lành cho ông và các bạn ông.

- Thế là thế nào? - Vua nhắc lại, - Tôi cần phải biết để nếu cần tôi còn hỗ trợ các ông chứ.

- Thưa ngài, tôi thật không biết gì cả, - Aramis nói, - Nhưng cái người khôn khéo nhất, dũng cảm nhất, tận tâm nhất trong bốn chúng tôi đã bảo khi chia tay rằng: "Hiệp sĩ, hãy nói với vua rằng ngày mai vào lúc mười giờ tối, chúng tôi cướp vua đi". Bởi vì ông ấy đã nói, ông ấy sẽ làm.

- Hãy cho tôi biết tên của ông bạn hào hiệp ấy, - Vua nói, - Để tôi giữ một niềm biết ơn ông ấy mãi mãi, dù ông ấy có thành công hay không.

- D Artagnan, thưa ngài. Chính ông ấy đã suýt cứu được ngài thì đại tá Harrison vào thật là không đúng lúc.

- Quả thật các ông là những con người kỳ diệu! - Vua nói. - Người ta đã kể cho tôi nghe những chuyện tương tự về các ông mà tôi không tin.

- Giờ đây xin ngài hãy nghe tôi - Aramis nói. - Không một lúc nào ngài quên rằng chúng tôi chăm lo việc cứu ngài; một cử chỉ nhỏ nhặt, một tiếng hát khe khẽ, một dấu hiệu thoảng qua của những người sẽ đến gần ngài, phải rình hết, nghe hết, thật bình tỉnh.

- Ôi, hiệp sĩ! - Nhà vua kêu lên, - Tôi biết nói gì với ông đây? Không một lời nào, dù từ đáy lòng tôi thốt ra, có thể biểu hiện hết niềm biết ơn của tôi. Nếu các ông thành công - Tôi sẽ không nói rằng các công cứu một ông vua, không, nhìn từ doạn đầu đài như tôi đang nhìn đây thì, tôi xin thề rằng, vương vị chẳng có nghĩa lý gì cả; nhưng các ông giữ gìn được một người chồng cho vợ, một người cha cho các con của ông ta. Hiệp sĩ ơi, hãy cầm lấy tay tôi, đó là tay một người bạn sẽ yêu quý ông cho đến hơi thở cuối cùng.

Aramis muốn hôn tay vua, nhưng vua nắm lấy tay anh và áp vào tim mình.

Lúc ấy một người đi vào không buồn gõ cửa. Aramis toan rụt tay về, nhưng vua giữ lại.

Đó là một trong những tín đồ thanh giáo nửa thày tu nửa lính đầy rẫy quanh Cromwell.

- Ông cần gì? - Vua nói.

- Tôi muốn xem việc xưng tội của Charles Stuart đã xong chưa, - Người mới vào đáp.

- Điều ấy can hệ gì đến ông? - Vua nói, - Chúng ta không cùng một tôn giáo.

- Tất cả mọi người đều là anh em, - Người thanh giáo nói. - Một người anh em của tôi sắp chết, tôi đến khích lệ anh ta đi đến cái chết.

- Thôi đủ rồi, - Parry nói - Đức vua không cần đến những điều khích lệ của ông.

- Thưa ngài, - Aramis nói nhỏ, - Hãy nhẹ nhàng với hắn, chắc hẳn đó là một tên do thám.

- Thưa ông, - Vua nói, - sau vị tiến sĩ giám mục tôn kính, tôi sẽ vui lòng nghe ông.

Người có cái nhìn lấm lét rút lui và không quên quan sát Juxon với một vẻ chú ý không thoát khỏi con mắt nhà vua. Khi cửa đóng rồi, vua nói:

- Hiệp sĩ ạ, tôi chắc rằng ông nói đúng và cái người kia đến đây với y đồ xấu. Khi ra khỏi đây ông hãy coi chừng kẻo vướng vào tai hoạ.

- Xin cảm ơn Hoàng thượng, - Aramis nói, - Nhưng ngài hãy yên tâm. Dưới làn áo dài này tôi mặc một áo giáp sắt và giấu một con dao.

- Thôi, ông đi đi, và cầu Chúa che chở cho ông, như tôi vẫn thường nói khi còn làm vua.

Aramis đi ra. Charles tiễn anh ra ngưỡng cửa, Aramis vừa đi vừa ban phước khiến những tên lính gác cúi rạp mình, anh đưởng bệ đi qua các tiền sảnh đầy lính tráng, bước lên cỗ xe có hai tên hầu đi theo và trở lại toà giám mục, hai tên hầu cáo biệt anh, Juxon đợi chờ lo lắng.

- Thế nào? - Ông vội hỏi thì thấy Aramis vào.

- Thưa ngài, mọi việc đều hoàn thành như tôi cầu mong. Dọ thám, lính gác, sai nha đều tưởng tôi là ngài, nhà vua thì ban phước cho ngài trong khi chờ đợi ngài ban phước cho vua.

- Cầu Chúa che chở cho con, vì rằng tấm gương của con đem lại cho ta hi vọng và can đảm.

Aramis mặc lại y phục và áo choàng của mình ra đi và báo trước cho Juxon rằng anh sẽ còn nhờ vả ông một lần nữa.

Đi ra phố mới độ mươi bước anh đã nhận thấy rằng mình bị một người khoác chiếc áo choàng lớn bám theo sau; anh rờ tay vào con dao găm và đứng lại. Người kia đi thẳng tới anh. Đó là Porthos.

- À, ra cái anh bạn thân mến này, - Aramis nói và chìa tay ra cho bạn.

- Bạn thân mến, cậu thấy đấy, - Porthos nói, - Mỗi người chúng ta có nhiệm vụ của mình; nhiệm vụ của tôi là canh gác cho cậu và tôi đã làm. Cậu có gặp vua không?

- Có mọi việc tốt cả. Bây giờ các bạn chúng ta đâu?

- Chúng ta hẹn gặp nhau ở khách sạn vào lúc mười một giờ.

- Thế thì của còn bao lâu nữa đâu.

Quả thật, chuông nhà thờ Saint Paul điểm mười giờ.

Tuy nhiên do hai người bạn làm chu tất mọi việc nên đến nơi hẹn trước.

Sau đó, Arthos vào.

- Mọi việc tốt cả, anh nói trước khi các bạn kịp hỏi.

- Cậu đã làm gì? - Aramis hỏi.

- Tôi đã thuê một chiếc tàu buồm hẹp như cái thuyền thoi, nhẹ như cánh én, nó đợi chúng ta ở Greenwich, trước mặt đảo Những con Chó. Tàu có một chủ và bốn người làm, họ nhận năm mươi livres sterling và để tuỳ ý chúng ta sử dụng trong ba đêm liền. Sau khi đưa vua lên thuyền, lợi dụng nước triều chúng ta xuôi sông Tamise và hai giờ sau là ra đến biển khơi. Lúc ấy, như những tên cướp thực thụ chúng ta đi men bờ biển, trú ở các vách núi, hoặc nếu mặt biển tự do chúng ta sẽ dong buồm thẳng đến Boulogne-sur-Mer. Nếu tôi có chết thì hãy nhớ ông chủ tàu là thuyền trưởng Roger và tàu gọi là Tia chớp. Cứ thế là sẽ tìm ra. Một cái khăn tay buộc ở bốn góc là ám hiệu nhận ra nhau.

Một lát sau d Artagnan về.

- Các cậu hãy dốc túi ra cho đủ một trăm livres sterling, vì rằng túi tôi...

Và anh lộn các túi rỗng không của mình ra.

Số tiền được góp xong ngay, d Artagnan đi ra một lát rồi quay về. Anh nói:

- Vậy, mọi việc đã xong xuôi. Nhưng cũng chẳng phải là dễ dàng.

- Gã đao phủ đã rời London chưa? - Arthos hỏi.

- Ấy! Như thế chưa phải là chắc chắn đâu. Hắn có thể ra cửa này và lại vào cửa khác.

- Thế bây giờ hắn ở đâu?

- Ở trong hầm

- Trong hầm nào?

- Trong hầm của ông chủ quán chúng ta! Mousqueton ngồi canh ở ngưỡng cửa, chìa khoá đây.

- Hoan hô! - Aramis nói. - Nhưng cậu làm thể nào mà định đoạt người ấy biến đi được?

- Giống như người ta định đoạt mọi thứ ở đời này. Bằng tiền bạc. Việc này tôi phải trả giá đắt lắm, nhưng hắn đã đồng ý.

- Thế cậu phải trả bao nhiêu? - Arthos hỏi, - Bởi vì cậu hiểu đấy, bây giờ chúng ta hoàn toàn không còn là những anh chàng ngự lâm quân nghèo xác không nhà không cửa, cho nên những việc chi tiêu của chúng ta là phải chung nhau.

- Tôi phải chi mười hai nghìn livres, - D Artagnan đáp.

- Thế cậu đã kiếm đâu ra được? - Arthos hỏi. - Cậu có đủ số tiền đó ư?

- À cái nhẫn kim cương trứ danh của hoàng hậu ấy mà! - D Artagnan thở dài đáp.

- A đúng thế? - Aramis nói, - Tôi đã nhận ra nó ở ngón tay cậu.

- Thế cậu đã chuộc lại nó ở ông des Essarts đấy à? - Porthos hỏi.

- Ồ, phải, lạy Chúa! - D Artagnan nói. - Nhưng thiên mệnh đã ghi rằng tôi không thể giữ gìn nó. Biết làm thế nào? Người ta tin rằng kim cương nó cũng có thiện cảm và có ác cảm như con người; dường như cái nhẫn nó ghét tôi.

- Nhưng nó lại rất hợp với lão đao phủ, - Arthos nói.

- Khốn thay, đao phủ nào cũng có người phụ việc, người hầu, biết đâu đấy.

- Thì đao phủ này cũng có đầy tớ đấy, nhưng chúng ta ăn may thôi.

- Thế là thế nào?

- Vào cái lúc tôi tưởng mình sắp có một việc thứ hai phải thương lượng, thì người ta mang cái thằng đầy tớ ấy về với một bên đùi gẫy.

Do quá hăng hái hắn đã đi theo cỗ xe chở kèo cột đến tận cửa sổ nhà vua; một cái cột rơi và đè gẫy chân hắn.

- A! - Aramis nói, -Thế ra chính hắn đã thốt ra tiếng kêu mà tôi nghe thấy lúc đang ở phòng vua.

- Có thể lắm! - D Artagnan nói, - Nhưng vì là một người có thiện tâm, khi ra về hắn đã hứa là sẽ cử đến nơi đến chốn bốn thợ giỏi và lành nghề để giúp sức những thợ đang làm. Và khi về đến nhà chủ, mặc dù đang bị thương như thế, hắn lập tức viết cho bác Tôm Lâu là một thợ mộc bạn hắn, dặn bác đến ngay cung Đại sảnh trắng để hoàn tất lời hứa của hắn. Bức thư ấy đây, hắn thuê một người mang đi ngay, mất mười xu và tôi đã phải mua lại mất một đồng louis.

- Thế cậu lấy bức thư ấy làm gì? - Arthos hỏi.

- Thế anh không đoán ra à. - D Artagnan hỏi lại, cặp mắt lấp lánh thông minh.

- Xin thề là là tôi chịu đấy.

- Thế này nhé, Arthos thân mến! Anh nói tiếng Anh như đích thị Jôn Bun(1), anh là bác Tôm Lâu, còn ba chúng tôi là ba thợ bạn. Bây giờ anh hiểu ra chưa?

Arthos reo lên đầy vẻ mừng vui và thán phục. Rồi anh chạy vào buồng lấy ra mấy bộ quần áo thợ thuyền; cả bốn người mặc vào và ra khỏi khách sạn, Arthos mang một cái cửa, Porthos một cái kìm, Aramis một cái rìu, d Artagnan một cái búa và đinh.

Lá thư của gã đầy tớ tên đao phủ chứng thực với bác thợ cả rằng họ đúng là những người mà bác đang đợi.

Chú thích:

(1) Biểu tượng của người Anh

hết: Chương 68, xem tiếp: Chương 69

Đánh máy: Nguyễn Học

Hiệu đính: Ct.Ly

Nguồn: Nguyễn Học

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 9 tháng 11 năm 2006

Trang chính | Contact | Adobe Acrobat | Microsoft Reader | Flash Play | Font Unicode

Nhóm quản trị: Ct.Ly, Cumusic, Easyman, Huyền Băng, KeDangGhet, Mercury, Mars, Mọt Sách

Nhóm điều hành: Băng Nguyệt, Canary, Ct.Ly, Cumusic, Diên Vỹ, Donation, Easyman, Hoàng Dung, HongYen, Huyền Băng, James Jee, KeDangGhet, Khánh Quỳnh, Kim_Bang_2, Lang Thang, Mars, Mickey, n.trang, NCD, nguyen.bamboo, Nguyên Đỗ, NKT, Phongvans, QV, Saomai1268, Sunflower, Thanh Vân, Tommyboy, Viet Duong Nhan

Bài viết và sách tại vnthuquan.net, thuộc quyền sở hữu của người viết và của vnthuquan.net. Copyright by Thu vien Online © 2002 - 2009 - designed by Phạm Huy Hùng

Trang Sách Truyện hiện có 6044 người đang online

F12: Tắt/Bật mViệt

Dấu Sắc

1s Dấu Huyền

2f Dấu Hỏi

3r Dấu Ngã

4x Dấu Nặng

j5 Dấu Nón

6aeo Dấu Móc

u07w Dấu Trăng

8w

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 69

Những người thợ

Khoảng nửa đêm. Charles nghe tiếng rầm rầm rất to ở dưới cửa sổ: đó là tiếng búa rìu chan chát, tiếng kìm cặp ken két và tiếng cửa xẻ xoèn xoẹt.

Charles để nguyên quần áo nằm lăn ra giường và vừa mới chợp mắt thì tiếng ồn ào khiến ông choàng dậy.

Ngoài tiếng vang nghe thấy, tiếng ồn kia còn dội tiếng vang tinh thần khủng khiếp trong tâm hồn ông và những ý nghĩ ghê sợ tối hôm qua lại đến công kích ông.

Một mình trước bóng đêm và sự cô đơn, ông không đủ sức chịu đựng nổi sự tra tấn ấy, nó không có trong chương trình những hình phạt đối với ông. Ông bèn bảo Parry ra bảo lính canh nói với những người thợ làm nhẹ tay hơn và hãy thương đến giấc ngủ cuối cùng của kẻ đã từng là vua của họ.

Lính canh không muốn rời vị trí của họ, nhưng để cho Parry đi.

Sau khi đi vòng quanh lâu đài đến gần cửa sổ, Parry trông thấy ở ngang bằng với bao lớn đã dỡ rào sắt đi, một đoạn đầu đài đang làm dở nhưng người ta đã bắt đầu đóng đinh chắng bằng một tấm rèm bằng nỉ đen.

Đoạn đầu đài dựng cao ngang tầm cửa sổ tức là gần hai mươi bộ có hai tầng ở dưới. Nhìn cảnh tượng thật là dể sợ, nhưng Parry vẫn cố tìm trong đám đông bảy tám người thợ đang dựng cái máy thê thảm ấy xem chỗ nào gây tiếng ồn nhức óc nhất cho vua.

Trên sàn thứ hai, bác trông thấy hai người đang dùng kìm gõ nốt những thanh sắt cuối cùng của bao lớn. Một người cao lớn như ông hộ pháp thay cái chiên cụ phá cổng thành ngày xưa làm việc xô đổ những bức tường. Mỗi lần anh ta ra tay, gạch đá bay tứ tung. Người kia quỳ đang cạy từng tảng đá lung lay.

Rành rành là những người này gây ra tiếng động khiến vua kêu la.

Parry trèo thang đến chỗ họ. Bác nói:

- Các bạn ơi, xin các bạn làm nhẹ nhàng hơn một chút có được không? Vua đang ngủ và cần được ngủ.

Người thợ dùng kẹp ngừng tay và quay nghiêng lại, nhưng do bác ta đứng nên mặt bị khuất trong bóng tối dày đặc gần sàn và Parry trông không rõ.

Người đang quỳ cũng quay lại và do thấp hơn người kia, nên mặt được ánh đèn chiểu sáng và Parry trông rõ. Người ấy chằm chằm nhìn Parry và để một ngón tay lên miệng.

Pary kinh ngạc lùi lại.

- Được thôi, được thôi, - Người thợ nói tiếng Anh rất cừ, - Bác hãy trở về nói với vua rằng, nếu đêm nay khó ngủ thì đêm mai sẽ ngủ ngon hơn.

Những lời nói ấy cứ theo nghĩa đen có một ý nghĩa thật ghê gớm, được những người thợ làm ở phía bên cạnh và tầng dưới tiếp nhận bằng một trận cười ầm ĩ.

Parry rút lui, ngờ rằng mình đang chiêm bao.

Charles sốt ruột đợi hắn.

Lúc bác trở về, tên lính canh cửa tò mò ngó đầu vào xem vua đang làm gì.

Vua đang chống khuỷu tay lên giường.

Parry đóng cửa và đi đến bên vua, mặt vui mừng rạng rỡ.

- Thưa Hoàng thượng, Hắn khẽ nói, - Ngài có biết những người thợ đang làm ồn ồn đó là ai không?

Charles lắc đầu buồn bã, nói:

- Không, làm sao tôi biết được điều đó? Tôi có quen những người ấy không?

Parry cúi sát xuống giường chủ và nói nhỏ hơn nữa:

- Thưa Hoàng thượng, đó là bá tước De La Fère và đồng đội của ông.

- Họ dựng đoạn đầu đài cho tôi à? - Vua ngạc nhiên hỏi.

- Vâng họ vừa dựng đài vừa đục một lỗ thủng vào tường.

- Suỵt - Vua vừa nói vừa hoàng hốt nhìn quanh. - Ngươi trông thấy họ à?

- Tôi đã nói với họ.

Vua chắp hai tay lại và ngước mắt lên trời. Sau một lời cầu nguyện thành kính và ngắn ngủi ông nhảy ra khỏi giường và đi đến cửa sổ, vén rèm lên những lính canh vẫn ở đấy, phía xa ngoài bao lớn một bãi phẳng trải rộng và bọn lính đi qua như những cái bóng.

Charles không phân biệt được gì cả, nhưng cảm thấy ở dưới chân những nhát búa chấn động của các bạn mình. Mỗi nhát đó lúc này đáp lại tận đáy lòng ông.

Parry không lầm, bác đã nhận rõ Arthos. Chính anh được Porthos giúp sức đang đục một lỗ hổng để đặt các xà ngang.

Cái lỗ ấy ăn thông vào một cái hầm nhỏ đào ngay dưới sàn của phòng vua. Hầm đó giống như một tầng trệt, khi vào trong đó rồi, chỉ cần một cái kìm và đôi vai thật khỏe là có thể nậy một tấm ván sàn lên, việc này có Porthos lo. Vua sẽ lách qua lỗ hổng ấy cùng những người cứu mình chui vào một ngăn ở dưới đoạn đầu đài, mặc một bộ quần áo thợ đã chuẩn bị sẵn, chẳng e sợ gì, đàng hoàng đi ra với bốn người bạn.

Những lính canh chẳng nghi ngờ gì, thấy những người thợ vừa mới làm ở đoạn đầu đài sẽ để họ đi qua.

Còn cái tàu buồm như chúng tôi đã nói vẫn sẵn sàng ngoài bến.

Cái kế hoạch to lớn, đơn giản và dễ dàng, giống như mọi điều này sinh từ một quyết định táo bạo.

Đôi bàn tay trắng muốt và nuột nà của Arthos toạc ra để bốc những tảng đá mà Porthos đã nậy bật ra. Anh đã có thể thò đầu xuống dưới những vải trang trí bàn ở bao lớn. Hai giờ nữa anh sẽ lách được cả người qua. Trước khi trời sáng cái lỗ hổng sẽ được đục xong và khuất sau tấm rèm bên trong mà d Artagnan sẽ căng lên.

D Artagnan làm như một người thợ Pháp và đóng những cái đinh rất đều đặn như một người căng thảm khéo léo nhất. Aramis cắt những chỗ vải thừa của tấm nỉ xoà xuống đất và che bộ khung của giàn giáo.

Một ngọn lửa than bùn đã giúp những người thợ qua được cái giá rét thấu xương đêm hôm 29 rạng ngày 30 tháng Giêng(1). Những người thợ mải miết nhất chốc chốc cũng ngừng tay để sưởi. Riêng Arthos và Porthos không rời công việc của mình. Cho nên trời vừa rạng sáng và soi tỏ các nóc nhà thì cái lỗ chui đã hoàn thành. Arthos vào đó mang theo quần áo dành cho vua bọc trong một mảnh nỉ đen. Porthos đưa anh một cái kìm, d Artagnan căng một tấm nỉ rộng ở bên trong, kể cũng khá xa xỉ đấy, nhưng rất có ích vì nó che lấp hẳn cái lỗ hổng ở tường.

Arthos chỉ còn phải làm hai tiếng đồng hồ nữa để thông được đến chỗ vua. Theo dự kiển của bốn người bạn, họ còn cả một ngày rộng rãi, bởi vì thiếu đao phủ người ta buộc phải đi kiếm đao phủ ở Bristol.

D Artagnan lại mặc bộ đồ hạt dẻ, Porthos mặc áo chẽn đó, Còn Aramis đến nhà ông Juxon để nếu có thể thì cùng ông đi vào tận chỗ vua.

Cả ba người hẹn gặp nhau vào giữa trưa ở quảng trường toà Đại sảnh trắng để xem tình hình ra sao.

Trước khi rời đoạn dầu đài, Aramis đã đến gần chỗ Arthos nấp để báo rằng anh sẽ cố gặp lại nhà vua.

- Vậy thì xin tạm biệt và can đảm lên nhé, - Arthos nói. - Hãy cho vua biết tình hình đến đâu rồi. Dặn vua là khi nào không có ai ở trên thì gõ xuống sàn để tôi yên trí tiếp tục công việc. Nếu Parry giup tôi gỡ sẵn cái tấm lót dưới lò sưởi, chắc là một tấm đá lát, ra được thì hay lắm. Còn cậu Aramis, cố gắng không rời vua.

Hãy nói to, nói thật to, vì ở ngoải cửa sẽ có người nghe. Nếu trong phòng có một lính canh thì cậu giết ngay không chờ đợi gì cả.

Nếu có hai tên thì cậu giết một, Pary giết một. Nếu có ba tên thì các cậu hãy liều chết, nhưng hãy cứu lấy nhà vua.

- Cứ yên trí, - Aramis nói, - Tôi sẽ mang đi hai con dao găm và đưa cho Parry một con. Hết rồi chứ?

- Ừ đi đi. Nhưng dặn kỹ là đừng có hào hiệp hão. Trong khi các cậu đánh nhau, thì vua phải trốn ngay. Khi phiến đá đã đậy lại trên đầu vua thì cậu ở lại chiến đấu dù sống hay chết, người ta cũng phải mất ít ra mười phút để tìm ra cái lỗ tẩu thoát. Trong mười phút ấy chúng tôi đi được khối đường đất và vua sẽ được cứu thoát.

- Mọi việc sẽ như cậu dặn, Arthos ạ. Đưa tay đây, vì có lẽ chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa.

Arthos đưa hai tay ra quàng lấy cổ Aramis và hôn bạn.

- Tôi hôn cậu đây, - Anh nói, - Bây giờ nếu tôi chết hãy nói với d Artagnan rằng tôi yêu nó như con tôi và ôm hôn nó hộ tôi. Ôm hôn cả cái cậu Porthos dũng cảm và tốt bụng của chúng ta nữa. Vĩnh biệt! - Vĩnh biệt, - Aramis nói. - Bây giờ thì chắc nhà vua sẽ trốn thoát, cũng chắc chắn như đang siết chặt bàn tay trung hậu nhất trên đời.

Aramis rời Arthos, xuống khỏi đoạn đẩu đài và trở về khách sạn vừa đi vừa huýt sáo một điệu hát ca tụng Cromwell. Anh thấy hai bạn mình đang ngồi gần lò sưởi cháy rựng rực, uống một chai rượu vang ports và ăn ngấu nghiến một con gà ướp lạnh. Porthos vừa ăn vừa tuôn ra ông ổng những lời chửi rủa bọn nghệ sĩ đê tiện, d Artagnan cứ im lặng ăn, nhưng trong óc vẫn nghĩ đến những kế hoạch táo bạo nhất.

Aramis kể lại tất cả những điều đã thoả thuận với Arthos, d Artagnan tán thành bằng cái đầu, còn Porthos bằng tiếng nói:

- Hoan hô! - Anh kêu lên, - Vả lại chúng ta sẽ ở đấy khi vua trốn. Nấp dưới đoạn đầu đài thì kín quá rồi và chúng ta có thể trông vào đó. Với d Artagnan, tôi, Grimaud và Mousqueton, chúng tôi đủ sức diệt tám tên. Tôi không kể Blaisois, hắn chỉ giữ nổi ngựa. Hạ một tên mất hai phút, hai lần mất bốn phút. Cho Mousqueton thêm một phút là năm, trong năm phút ấy, các cậu có thể phóng được một phần tư dặm.

Aramis ăn vội một miếng, uống một cốc rượu vang và thay quần áo.

- Bây giờ tôi đi đến ngài tổng giám mục. Porthos chuẩn bị vũ khí, d Artagnan canh gác cẩn thận gã đao phủ nhé.

- Yên trí, Grimaud đã thay phiên Mousqueton và chặn chân lên cẩn thận rồi.

- Kệ cứ phải canh gác thật cẩn mật và không được một phút ngồi rồi.

- Ngồi rồi ư? Bạn thân mến ơi, cậu hãy hỏi Porthos xem. Tôi có ở yên đâu. Lúc nào tôi cũng ở trên đôi cẳng và có vẻ một người ham nhảy múa. Mẹ kiếp! Lúc này đây tôi yêu quí nước Pháp biết chừng nào. Có một tổ quốc cho riêng mình thật là sung sướng, khi mình đang khốn khổ trên tổ quốc những người khác. Aramis rời các bạn như đã rời Arthos, nghĩa là ôm hôn họ. Rồi anh đến giám mục Juxon và trình bày yêu cầu của mình. Do đã được báo trước là cần một linh mục để làm lễ ban thánh thể và nhất là trong trường hợp vua muốn được dự lễ messe, nên Juxon càng dễ dàng bằng lòng mang theo Aramis.

Mặc y phục giống như Aramis hôm trước, giám mục lên xe.

Aramis đổi dạng vì vẻ mặt xanh xao và rầu rĩ hơn là vì bộ y phục trợ tế, leo lên ngồi cạnh Juxon. Cỗ xe dừng lại trước cổng toà Đại sảnh trắng lúc gần chín giờ sáng. Chẳng có vẻ thay đổi gì cả: Các tiền sảnh, các hành lang vẫn dẫy lính canh như hôm trước. Hai lính gác ở cửa phòng vua, hai tên khác đi đi lại lại trước bao lớn trên sàn của đoạn đầu đài đã kê sẵn chiếc thớt.

Nhà vua lòng đầy hi vọng, gặp lại Aramis, niềm hi vọng ấy biến thành mừng rỡ. Ông ôm hôn Juxon và bắt tay Aramis. Juxon giả vờ nói to và trước mặt mọi người về cuộc gặp gỡ với nhà vua hôm trước.

Vua đáp lại rằng nhưng lời mà giám mục nói với ông trong cuộc hội kiến ấy đã khai hoa kết Pomme-de- Pinvà ông mong muốn một cuộc hội đàm nữa tương tự. Juxon quay về phía những người có mặt ở đấy và yêu cầu được ở lại một mình với vua. Mọi người rút lui.

Cửa vừa mới khép lại, thì Aramis vội nói:

- Thưa Hoàng thượng? Ngài được cứu thoát rồi! Tên đao phủ London đã biến mất; người phụ việc của hắn hôm qua bị gẫy đùi dưới cửa sổ phòng ngài. Tiếng kêu mà chúng ta đã nghe thấy là của hắn. Chắc hẳn người ta đã biết tin đao phủ mất tích, chỉ có đao phủ ở Bristol và phải có thời gian để tìm kiếm hắn.

- Chúng ta còn thì giờ tới tận ngày mai.

- Thế bá tước de La Fère đâu? - Vua hỏi.

- Ở cách ngài hai bộ. Ngài hãy lấy cây gắp than gõ vào lò ba tiếng sẽ thấy ông ấy đáp lại.

Vua đưa bàn tay run rẩy cầm lấy cây gắp than gõ ba tiếng cách đều nhau. Lập tức từ dưới sàn những tiếng gõ đáp lại vang lên đùng đục và dè đặt.

- Như vậy, - Vua nói, - Người đáp lại cho tôi là...

Là bá tước de La Fère, - Aramis nói. - Ông ta sửa soạn đường để Hoàng thượng trốn. Parry sẽ nhắc tấm đá lát kia và một lối đi sẽ mở ra.

- Nhưng tôi chẳng có một dụng cụ nào. - Parry nói.

- Hãy cầm lấy con dao găm này, - Aramis bảo, - Nhưng đừng làm cùn nó quá vì rằng bác sẽ cần dùng nó để đào cái khác hơn là đá.

Charles quay về phía giám mục và nắm lấy hai tay ông mà nói:

- Ôi, Juxon, hãy nhớ lời cầu nguyện của kẻ đã từng là vua của ông.

- Người ấy vẫn là vua và sẽ mãi mãi là vua, - Juxon hôn tay ông hoàng và nói.

- Ông hãy cầu nguyện suốt đời cho người quý tộc mà ông trông thấy đấy, cho người kia mà ông nghe thấy ở dưới chân và cho hai người khác nữa, dù đang ở đâu họ cũng chăm lo đến việc cứu thoát tôi.

- Thưa Hoàng thượng, - Juxon đáp, - Ngài sẽ được tuân theo.

- Chừng nào tôi còn sống thì mỗi ngày sẽ có một lời cầu nguyện của Chúa cho những người bạn trung thành này của ngài.

Người thợ đào hầm tiếp tục công việc một lát nữa và người ta cảm thấy nó không ngừng nhích gần lại. Chợt một tiếng động bất ngờ vang lên trong hành lang. Aramis vờ lấy cây gắp than và ra hiệu ngừng việc.

- Tiếng động ấy đến gần và nghe rõ tiếng những bước chân đều dặn. Bốn người đứng im lặng và chằm chằm nhìn ra cửa. Cánh cửa mở ra từ từ và trang trọng.

Lính thị vệ dàn thành hàng rào trong gian phòng ở phía trước phòng vua. Một ủy viên của Nghị viện vận y phục đen và đầy vẻ trịnh trọng báo điểm gả bước vào chào vua và mở một tờ chiếu ra đọc cho ông nghe bản phán quyết như người ta thường làm đối với tội phạm sắp bước lên đoạn đầu dài.

- Thế này là thế nào? - Aramis hỏi Juxon.

Juxon ra hiệu như nói rằng ông cũng hoàn toàn mù tịt như anh.

Với vẻ xúc động chỉ riêng Juxon và Aramis cảm nhận thấy vua hỏi:

- Việc ấy thi hành hôm nay à?

- Ngài không được báo trước là làm sáng nay ư? - Người mặc áo đen hỏi lại.

Vua nói:

- Thế ta phải chết như một tội phạm bình thường do tay đao phủ London sao?

- Thưa ngài, - Vị uỷ viên Nghị viện đáp,

-Đao phủ London biến mất, nhưng một người khác xin thay thế. Như vậy là việc hành quyết chỉ chậm lại trong khoảng thời gian ngài yêu cầu để sắp xếp những công việc vật chất và tinh thần mà thôi.

Một chút mồ hôi lâm tấm ở chân tóc là dấu hiệu xúc động duy nhất của nhà vua khi nghe tin ấy.

Còn Aramis thì tái nhợt hẳn. Tim anh ngừng đập. Anh nhắm mắt lại và vịn tay lên bàn. Nhìn thấy nỗi đau đớn sâu sắc ấy, Charles như quên bẵng nỗi đau của mình. Ông đến cạnh Aramis, nắm lấy tay anh. Với một nụ cười dịu dàng và buồn bã, ông nói:

- Bạn ơi! Hãy can đảm lên nào rồi quay về phía uỷ viên, ông nói:

- Tôi đã sẵn sàng, ông ạ. Ông thấy đấy, tôi chỉ mong muốn hai điều và nó cũng chẳng làm các ông chậm trễ bao nhiêu đâu: một là nhận lễ ban thánh thể; hai là ôm hôn các con tôi và nói với chúng lời vĩnh biệt cuối cùng. Chẳng hay có được phép không?

- Thưa ngài, được ạ, - Vị ủy viên Nghị viện đáp.

Và ông đi ra...

Aramis hồi tỉnh lại, bấm móng tay vào thịt mình, một tiếng rên rền rĩ thoát ra từ lồng ngục anh. Anh nắm lấy tay Juxon và kêu lên:

- Ôi! Thưa Đức ông, Chúa ở đâu? Chúa ở đâu?

- Con ơi, - Giám mục đĩnh đạc nói, - Con không trông thấy Chúa đâu, bởi vì những dục vọng của cõi trần che khuất Chúa.

- Con ơi, - Vua bảo Aramis, - Con đừng buồn phiền làm chi. Con hỏi Chúa làm gì ư? Chúa chứng giám lòng tận tụy của con và việc tuẫn tử của ta, hãy tin rằng cả hai điều ấy đều sẽ được ân thưởng. Vậy thì hãy cáo buộc những con người, chứ không phải Chúa, về những việc xảy ra. Chính là những con người làm con phải khóc.

- Vâng, thưa Hoàng thượng, ngài nói đúng, - Aramis đáp.

- Chính là những con người mà tôi phải công kích, chính là những con người mà tôi sẽ công kích.

Vua quỳ xuống và bảo Juxon:

- Juxon, hãy ngồi xuống. Bây giờ chỉ còn có việc ông nghe tội và tôi xưng tội với ông.

Thấy Aramis toan rút lui, ông nói:

- Ông cứ ở lại. Parry cứ ở lại. Trong việc bí mật của việc sám hối, ta cũng chẳng có gì mà không thể nói trước mặt mọi người, các bạn cứ ở lại; và ta chỉ tiếc có một điều là tất cả thiên hạ không được nghe ta nói như các bạn và cùng với các bạn.

Juxon ngồi xuống, và vua quỳ trước mặt ông ta như kẻ kinh cẩn nhất trong các tín đồ, bắt đầu việc xưng tội.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 70

Hãy nhớ lấy

Xưng tội xong, vua Charles nhận lễ ban thánh thể rồi xin được gặp con cái. Chuông điểm mười giờ; theo vua nói, như vậy chẳng phải là chậm trễ gì lắm.

Trong khi ấy, dân chúng đã sẵn sàng. Họ biết rằng việc hành quyết ấn định vào lúc mười giờ nên ùn ùn kéo đến những phố giáp hoàng cung và nhà vua bắt đầu phân biệt được cái tiếng ồn xa xăm kia của sóng biển và đám đông, một đằng do bão tố, một đằng ham mê khuấy động.

Con cái của vua tới: trước tiên là công chúa Charlotte, rồi công tước de de Glocester, nghĩa là một thiếu nữ tóc hoe vàng mắt đẫm lệ rồi một cậu bé độ tám chín tuổi mắt ráo hoảnh, môi dưới bĩu ra một cách khinh khi nó biểu hiện niềm kiêu hãnh chớm nở. Cậu bé đã khóc suốt đêm qua, nhưng trước mặt đám người này cậu không khóc.

Charles cảm thấy trái tim mình tan ra khi trông, thấy hai đứa con mà ông không gặp từ hai năm rồi mà chỉ được gặp lại vào lúc chết.

Một giọt lệ rưng rưng trên khóe mắt, ông vội quay đi để chùi, vì ông muốn tỏ ra mạnh mẽ trước những kẻ mà ông để lại một di sản thật nặng nề tai hoạ và đau thương.

Thoạt tiên ông nói với con gái. Kéo con vào lòng ông nhắc nhở con lòng sùng đạo, sự nhẫn nhục và tình yêu thương cha mẹ. Rồi ông bế cậu công tước nhỏ de Glocester đặt lên đùi mình để có thể ôm ghì vào lòng và hôn lên mặt nó. Ông nói:

- Con trai của ta ơi, khi đi tới đây con gặp rất nhiều người ở ngoài phố và trong các hành lang; những người ấy sắp chặt đầu cha, con chớ bao giờ quên điều đó. Có thể một ngày kia, thấy con ở gần và có con ở trong tay, họ muốn đưa con lên làm vua mà khước từ hoàng tử de Galles hoặc quận công d York là những anh lớn của con, một người đang ở Pháp, một người không rõ ở đâu. Nhưng con không là vua đâu, con trai ạ, và con chỉ có thể làm vua bằng cái chết của các anh con. Con hãy thề với ta rằng con chớ để người ta đặt vương miện lên đầu con mà không có quyền hợp pháp thừa kế. Vì rằng, con hãy nghe cho kỹ nhé, nếu con làm như vậy, thì một ngày kia người ta sẽ chặt bỏ cả đầu lẫn vương miện, và lúc ấy con sẽ chẳng thể chết một cách bình thản và không ân hận như ta chết hôm nay. Con trai ta, hãy thề đi.

Cậu bé giơ bàn tay nhỏ xíu trong lòng bàn tay cha và nói:

- Thưa Hoàng thượng, con thề với ngài rằng...

Charles ngắt lời:

- Henri, hãy gọi ta là cha con.

- Thưa cha, - Cậu bé nói lại, - Con xin thề với cha rằng người ta sẽ giết chết con trước khi đưa con lên làm vua.

- Tốt lắm con ạ, - Charles nói? - Bây giờ con hãy ôm hôn cha, cả Charlotte nữa, và đừng quên cha nhé.

- Ồ! Không, không bao giờ! - Hai đứa trẻ kêu lên và quàng những cánh tay thân yêu quanh cổ cha.

- Vĩnh biệt, - Charles nói, - vĩnh biệt các con. Juxon, hãy dẫn chúng nó đi, nước mắt của chúng nó sẽ tước mất của ta lòng can đảm đi đến cái chết.

Juxon gỡ tay hai đứa trẻ khỏi tay cha chúng và giao chúng cho những người đã đưa chúng đến.

Cửa mở ra sau lưng họ và mọi người có thể vào.

Thấy mình lẻ loi giữa đám lính gác đông đảo và những kẻ tò mò bắt đầu ùa vào trong phòng, vua chợt nhớ rằng bá tước de La Fère ở rất gần đây, ngay dưới sàn nhà, không trông thấy ông và có lẽ lúc nào cũng mong gặp ông.

- Ông sợ rằng một tiếng động nhỏ nhất cũng sẽ coi như một ám hiệu cho Arthos, và nếu lại tiếp tục làm việc anh sẽ tự làm lộ mình.

Cho nên ông giả tảng yên lặng và do đó giữ được mọi người trong trạng thái nghỉ ngơi.

Tình trạng bất động khủng khiếp ấy kéo dài hai tiếng đồng hồ.

Một sự im lặng chết chóc ngự trị trong căn phòng vua.

Arthos bèn quyết định đi tìm nguyên nhân của sự yên tĩnh câm lặng và ảm đạm ấy, nó chỉ bị khuấy động bởi tiếng ồn ào không dứt của đám đông. Anh vạch tấm rèm che khuất lỗ thủng ở tường và đi xuống tầng một của đoạn đầu dài. Trên đầu anh cách không đầy gang tay là tấm sàn gỗ dựng đoạn đầu đài.

Tiếng động cho đến lúc đó chỉ ầm ì bây giờ huyên náo hẳn lên và có vẻ hăm doạ khiến anh giật nẩy người lên vì kinh hãi. Anh đi đến sát mép đoạn đầu đài, hé mở tâm nỉ đen ở ngang tầm mắt và trông thấy những kỵ binh dồn đến chỗ bộ máy khủng khiếp. Bên ngoài đám kỵ binh là một hàng kích thủ, ngoài hàng kích thủ là ngự lâm quân và ngoài ngự lâm quân là những hàng đầu tiên của đám dân chúng, họ giống như một đại dương ảm đạm đang sôi sục và gầm gào.

Còn run rẩy hơn cả tấm vải anh đang vò trong tay, Arthos tự nhủ thầm:

- Chuyện gì xảy ra thế? Dân chúng chen chúc xô đẩy nhau, lính tráng lăm lăm vũ khí, và giữa đám khán giả đang dán mắt về phía cửa sổ, ta nom thấy d Artagnan. Hắn đợi gì. Hắn nhìn gì? Lạy Chúa! Có lẽ họ để xổng tên đao phủ rồi ư?

Bỗng nhiên trên quảng trường vang lên tiếng trống lục bục và buồn thảm. Những tiếng bước chân nặng nề và kéo dài vang lên trên đầu anh. Có một cái gì tựa như một đám rước lớn đang giẫm đạp lên các sàn của toà Đại sảnh trắng, rồi chợt anh nghe thấy chính những tấm ván của đoạn đầu đài kêu cót két. Anh đưa mắt lần cuối nhìn quảng trường và vẻ mặt của các người xem nói cho anh biết rõ cái điều mà một mềm hi vọng cuối cùng còn rót lại trong lòng anh đã ngăn không đoán ra.

Tiếng ồn ào ở quảng trường đã tắt hẳn. Tất cả mọi con mắt đều dán chặt về phía cửa sổ toà Đại sảnh trắng; những cái miệng hé mở và hơi thở ngưng lại chỉ rõ sự chờ đợi một cảnh tượng hãi hùng.

Tiếng bước chân mà khi ngồi ở dưới gian phòng vua Arthos đã nghe thấy bây giờ lại vang lên trên đầu anh và sàn đoạn đầu đài võng xuống dưới sức nặng đến nỗi những tấm ván gần chạm đầu người quý tộc khốn khổ. Đúng là có hai hàng lính đến chiếm chỗ.

Cùng lúc ấy một giọng nói rất quen thuộc với Arthos, một giọng nói cao quý thốt ra ở trên đầu anh:

- Thưa ông đại tá, tôi muốn nói với dân chúng.

Arthos rợn cả người, đúng là vua đang nói trên đoạn đầu dài.

Quả thật sau khi uống vài ngụm rượu vang và nhấp một mẩu bánh, Charles cảm thấy mệt mỏi đến với mình vì đợi chờ cái chết, đột nhiên quyết định đi tới đón rước và ra hiện tiến tới. Người ta bèn mở toang hai cánh cửa sổ trông ra quảng trường và dân chúng có thể nhìn thấy từ cuối phòng thoạt tiên một người trùm kín mặt lặng lẽ tiến ra, tay cầm một cây rìu khiến người ta nhận ra ngay đó là đao phủ. Người ấy đến gần cái thớt và đặt rìu lên đó.

Đó là tiếng động đầu tiên mà Arthos nghe thấy.

Rồi tiếp sau người ấy, Charles Stuart chắc là tái nhợt nhưng bình thản và chũng chạc bước đi giữa hai hàng linh mục theo sau có mấy vị sĩ quan cao cấp đến chủ toạ cuộc hành hình và hai hàng kích thủ đi hộ tống xếp hàng ở hai bên đoạn đầu đài.

Sự xuất hiện của người bịt mặt gây nên tiếng xì xào bàn tán kéo dài. Ai nấy đều tò mò muốn biết gã đao phủ lạ kia là ai mà có mặt đến là kịp thời để cho cái cảnh tượng khủng khiếp kia đã hứa hẹn với dân chúng được diễn ra trong khi mọi người đã tưởng rằng nó sẽ bị hoãn đến ngày mai. Cho nên ai nấy đều hau háu nhìn hắn, nhưng chỉ có thể thấy đó là một người tầm thước vận toàn đồ đen và có vẻ đã đứng tuổi vì chòm râu hoa râm thò ra một chút dưới tấm vải che mặt.

Nhưng khi nhìn thấy vua thật là bình tĩnh, thật là cao quý, thật là đường hoàng, dân chúng lập tức im lặng, nên ai nấy đều nghe rõ nguyện vọng mà vua mới nêu ra là được nói với dân chúng.

Chắc là điều yêu cầu ấy đã được đáp lại bằng một dấu hiệu đồng ý cho nên bằng một giọng đĩnh đạc và âm vang nó rung động đến tận đáy lòng Arthos, vua bắt đầu nói.

Ông giải thích cách cư xử của mình với dân chúng và đưa ra cho họ những lời khuyên răn vì lợi ích của nước Anh.

- Chao ôi, - Arthos tự nhủ thầm, - Có thể nào mà ta lại nghe và trông thấy những điều ta đang nghe và trông thấy kia ư? Có thể nào mà Chúa lại bỏ rơi kẻ đại diện của mình ở trên mặt đất này đến mức để nó chết một cách thê thảm, ê chề như vậy ư? Còn ta thì không được trông thấy vua! Và không được nói với vua lời vĩnh biệt!

Một tiếng động tựa như tiếng cái công cụ chết người động đậy trên tấm thớt vang lên.

Vua ngừng lời, rồi bảo:

- Đừng đụng đến cái rìu.

Rồi ông tiếp tục bài diễn văn.

Bài diễn văn kết thúc, một sự im lặng băng giá trùm lên đầu Arthos. Anh đặt tay lên trán và thấy mồ hôi chảy ròng ròng mặc dầu trời lạnh.

Sự im lặng đó chỉ rõ những việc sửa soạn cuối cùng.

Kết thúc bài diễn văn, vua lướt trên đảm dân chúng một cái nhìn đầy lòng khoan dung. Và tháo tấm huân chương đang đeo, vẫn là tấm kim cương mà hoàng hậu gửi đến, Charles trao cho vị linh mục đi theo Juxon. Rồi rút trong ngực cây thánh giả cũng bằng kim cương và cũng do Henriette gửi đến, ông nói với linh mục:

- Này ông, tôi sẽ giữ cây thánh giá này trong tay cho đến phút cuối củng; ông sẽ cầm lấy nó sau khi tôi chết.

- Vâng, thưa Hoàng thượng.

- Tiếng nói ấy Arthos nhận ra là của Aramis.

Cho đến lúc ấy Charles vẫn đội mũ. Ông bỏ mũ ra và ném sang bên cạnh. Rồi ông lần lượt cởi từng chiếc cúc áo chẽn, cởi áo và ném xuống cạnh chiếc mũ. Cảm thấy rét ông bảo người ta đưa mình chiếc áo ngủ.

Tất cả những sự sửa soạn ấy được tiến hành với một vẻ bình thản đến kinh người.

Người ta tưởng như nhà vua sắp sưa đi nằm ở trên giường ngủ, chứ không phải ở trong chiếc quan tài.

Sau hết lấy tay, vén tóc lên, ông bảo đao phủ:

- Liệu tóc này có vướng ông không? Nếu vướng thì có thể lấy dây buộc nó lên.

Kèm theo lời nói là một cái nhìn như muốn xuyên qua tâm vải che mặt của kẻ lạ mặt. Cái nhìn đến là cao thượng, đến là bình tĩnh, đến là quả quyết buộc người kia phải quay mặt đi. Nhưng tránh cái nhìn sâu xa của vua, hẳn lại gặp cái nhìn nảy lửa của Aramis.

Thấy hắn không trả lời, vua nhắc lại câu hỏi. Hắn đáp:

- Chỉ cần ông vén tóc lên khỏi cổ.

Dùng hai bản tay rẽ mái tóc và nhìn chiếc thớt, vua nói:

- Cái thớt này thấp quá, không có cái nào cao hơn à?

- Đó là cái thớt thường dùng, - Gã che mặt đáp.

- Ông có chắc chắn chặt đầu tôi bằng một nhát không? - Vua hỏi.

- Tôi hy vọng như vậy, - Đao phủ đáp.

Trong mấy tiếng "Tôi hy vọng" như vậy bật lên một giọng nói thật lạ lùng khiến mọi người đều rùng mình, trừ nhà vua.

- Được lắm, - Vua nói. - Bây giờ đao phủ hãy nghe đây.

Kẻ bịt mặt tiến một bước về phía vua và tì tay lên chiếc rìu.

- Ta không muốn mi chém bất ngờ, - Charles nói, - Ta sẽ quỳ để cầu nguyện, khi ấy mi đừng chém vội.

- Thế tôi chém vào lúc nào? - Đao phủ hỏi.

Khi nào ta kề cổ lên thớt và giơ tay lên mà nói: Remember(2) thì mi hãy chém mạnh tay vào.

Kẻ bịt mặt khẽ cúi mình.

Vua bắt đầu nói với những người xung quanh:

- Đây là lúc ta từ giã cõi dời. Hỡi các người, ta bỏ các người giữa cơn bão táp và đi trước các người trong một xứ sở không biết bão táp là gì. Vĩnh biệt!

Ông nhìn Aramis và hất đầu bằng một dấu hiệu đặc biệt. Rồi ông nói tiếp:

- Bây giờ xin ông hãy đứng ra xa để tôi thầm cầu nguyện. Cả mi nữa cũng đứng xa ra, - Vua nói với đao phủ, - Chỉ cần một lát thôi, ta biết rằng ta thuộc về mi rồi nhưng hãy nhớ là chỉ vung rìu khi ta ra hiệu.

Charles quỳ xuống, làm dấu thánh, ghé miệng xuống mấy tấm ván như muốn hôn lên mặt sàn. Rồi một tay tì xuống sàn, một tay vịn vào cái thớt, ông nói bằng tiếng Pháp:

- Bá tước de La Fère ơi, ông có đấy không và tôi nói với ông được chăng?

Giọng nói ấy đập thẳng vào tim Arthos và xuyên qua như một lưỡi gươm lạnh giá. Anh run rẩy nói:

- Được ạ thưa Hoàng thượng.

- Hỡi bạn trung thành, trái tim hào hiệp, - Vua nói, tôi đã không thể được cứu thoát, tôi không nên được cứu thoát. Giờ đây, dù có phạm điều bất kính, tôi cũng sẽ nói với ông rằng: Phải, tôi đã nói với những con người, tôi đã nói với Chúa, bây giờ tôi nói với anh là người cuối cùng. Để bảo vệ một mục đích tôi cho là thiêng liêng, tôi đã mất ngôi báu của ông cha tôi và làm tan nát hương hỏa của các con tôi. Còn lại một triệu đồng tiền vàng tôi chôn giấu trong các hầm của lâu đài ở Newcastle khi rời bỏ thành phố này. Số tiền ấy chỉ một mình anh biết; khi nào thời cơ đến anh hãy dùng nó cho lợi ích của đứa con trai cả của tôi. Và giờ đây, bá tước de La Fère, hãy nói với tôi lời vĩnh biệt.

Lạnh toát cả người vì kinh hãi, Arthos lắp bắp:

- Xin vĩnh biệt Hoàng thượng thần thánh và tuẫn tử.

Một lát im lặng, trong khi đó Arthos thấy hình như vua nhổm dậy và thay đổi tư thế.

Rồi bằng một giọng cả tiếng và âm vang để không những ở đoạn đầu đài mà cả trên quảng trường cũng nghe thấy vua kêu lên:

- Remember!

- Tiếng ấy vừa mới thốt ra thì một nhát kinh khủng phập xuống làm rung cả sàn đoạn đầu đài. Bụi từ tấm vải văng ra làm mù cả mắt nhà quý tộc khốn khổ. Rồi bất giác Arthos ngước mắt và ngẩng đầu lên, một giọt nong nóng rơi xuống trán anh. Anh kinh hãi rợn người và lùi lại. Tức thì những giọt rơi chuyển thành một dòng suối đen đổ xuống dưới sàn.

Arthos ngã khuỵu xuống, như người điên dại và xỉu đi một lúc lâu. Nghe tiếng ồn ào giảm dần anh chắc là đám đông đã rời xa; anh ngồi yên một lát nữa, im lặng và bàng hoàng. Rồi anh quay lại, lấy khăn tay nhúng vào vũng máu của ông vua tuẫn tử. Cuối cùng anh bước xuống, vạch tấm rèm, lách ra giữa hai con ngựa, chen lẫn vào đám dân chúng và trở về khách sạn trước tiên.

Lên phòng mình, anh soi gương thấy một vết đỏ lớn trên trán, anh lấy tay chùi, tay dính bê bết máu vua và anh ngất lịm.

Chú thích:

(1) Ngày 30-1-1649, ngày Charles I bị hành hình.

(2) Tiếng Anh: hãy nhớ lấy

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 71

Người chết

Tới bốn giờ chiều mà trời đã tối mịt. Tuyết rơi dày đặc và lạnh buốt. Aramis trở về và thấy Arthos nếu không phải là bất tỉnh thì cũng rã rời.

Nghe tiếng bạn mình, bá tước ra khỏi cơn mê.

Aramis nói:

- Thế là chúng ta thất bại trước định mệnh.

- Thất bại - Arthos nói. - Đức vua cao quý và khốn khổ thay!

- Anh bị thương đấy à? - Aramis hỏi.

- Không. Đó là máu của vua.

- Thế lúc ấy anh ở đâu?

- Vẫn ở đây, dưới gầm đoạn đầu đài.

- Anh trông thấy hết cả chứ?

- Không, nhưng nghe tiếng hết cả. Cầu Chúa hãy tránh cho tôi một khoảnh khắc như tôi vừa mới trải qua! Tóc tôi không bị bạc đi chứ?

- Như vậy anh biết rằng tôi đã không rời nhà vua.

- Tôi nghe tiếng của anh cho đến phút chót.

- Đây là tấm huân chương vua đưa cho tôi, đây là cây thánh giá tôi gỡ từ tay ngài; ngài mong muốn những vật ấy được trao lại cho hoàng hậu.

- Và đây là một chiếc khăn để bọc lại, - Arthos nói.

- Và anh rút từ túi áo ra chiếc khăn tay đã nhúng vào máu vua.

- Giờ đây, - anh hỏi, - người ta làm gì với cái thi thể tội nghiệp ấy.

- Theo lệnh của Cromwell, - Aramis đáp,

- Các nghi lễ đối với vua chúa được phép tiến hành. Chúng tôi đã đặt thi thể vào trong một cỗ quan tài bằng chì: các thầy thuốc lo việc ướp hương những di hài và sau đó vua được đặt trong một phòng tang luôn thắp sáng.

- Trò hề! - Arthos rầu rĩ lẩm bẩm, - Nghi lễ nhà vua cho người bị chúng ám hại.

Aramis nói:

- Điều đó chứng minh rằng vua chết, nhưng vương quyền không chết.

- Than ôi? - Arthos nói, - Có lẽ đó là ông vua hiệp sĩ cuối cùng ở trên đời này.

- Thôi đừng buồn phiền nữa, bá tước ơi, - Một giọng nói ồm ồm cất lên ở cầu thang cùng với những bước chân sải rộng của Porthos - Tất cả chúng ta đều phải chết, các bạn khốn khổ của tôi ạ.

- Cậu về muộn thế, Porthos thân mến, - Bá tước de La Fère nói.

- Phải, - Porthos nói, - Dọc đường có nhiều người khiến tôi bị trễ.

Họ nhảy nhót, bọn khốn khiếp! Tôi đã tóm lấy cổ một thằng và chắc đã bóp nghẹt một chút. Đúng lúc ấy một đội tuần tra đi tới. May thay cái thằng cha mà tôi gây sự đứng mấy phút mà chẳng nói được. Tôi thừa cơ lao vào một phố nhỏ. Phố ấy dẫn đến một phố nhỏ hơn. Thế là tôi bị lạc. Tôi chưa thuộc London, mà lại không biết tiếng Anh, đã tưởng không tìm ra đường đi nữa; cuối cùng cũng về được đây.

- Nhưng còn d Artagnan, - Aramis hỏi - Cậu có trông thấy hắn không và liệu có chuyện gì xảy ra với hắn ta không?

- Chúng tôi lạc nhau vì đám đông, - Porthos đáp, - và mặc dầu cố sức tôi vẫn không đuổi kịp cậu ấy.

- Ồ, tôi đã trông thấy cậu ấy, - Arthos chua chát nói. - Cậu ấy đứng ở hàng đầu đám dân chúng, chiếm chỗ thật tuyệt để không bỏ sót một chút gì, và xem chừng cảnh tượng thật ly kỳ, nên cậu ấy muốn xem đến cùng.

- Ô, bá tước de La Fère ơi! - Một giọng nói cất lên bình tĩnh mặc dù hơi nghẹt lại vì cuộc đi vội vã - Phải chăng anh vu oan cho người vắng mặt?

Lời trách móc ấy chạm vào tim Arthos. Tuy nhiên vì sự có mặt của d Artagnan ở hàng đầu của đám dân chúng ngu dại và hung dữ ấy đã gây ấn tượng sâu sắc với anh. Arthos đành chỉ đáp lại:

- Bạn ơi, tôi không vu khống cho cậu đâu. Anh em đang lo ngại cho cậu, nên tôi nói là đã trông thấy cậu ở đâu thôi. Cậu không quen Charles, đấy chỉ là một người xa lạ đối với cậu, và không ai buộc cậu phải yêu mến ông ấy.

Arthos vừa nói vừa chìa tay ra với bạn. Nhưng d Artagnan giả vờ không trông thấy cử chỉ ấy và vẫn để tay trong áo choàng.

Arthos từ từ buông thõng tay xuống.

- Úi chà? Tôi mệt lắm, - D Artagnan nói và ngồi xuống.

Aramis lấy một chai rượu ở trên bàn rót đầy một cốc và bảo:

- Uống một cốc Porthos đi cho tỉnh người.

Biết chàng Gascon đang bực mình, Arthos muốn chạm cốc với bạn và nói:

- Phải đấy, ta uống nào và rời bỏ cái đất nước ghê tởm này. Các cậu biết đấy, thuyền đang đợi chúng ta.

- Ta khởi hành tối nay vì chẳng còn việc gì phải làm ở đây nữa.

- Ông bá tước vội lắm nhỉ? - D Artagnan nói.

- Mảnh đất đẫm máu này thiêu đốt chân tôi, - Arthos nói.

Chàng Gascon thản nhiên nói:

- Băng tuyết không gây tác dụng như thế với tôi.

- Nhưng bây giờ nhà vua chết rồi, - Arthos nói, - Cậu muốn chúng ta phải làm gì cơ chứ?

- Ông bá tước ơi, - D Artagnan nói với giọng thờ ơ - Như vậy là ông không thấy rằng ông còn phải làm một việc gì đó ở nước Anh sao?

- Chẳng có gì hết, - Arthos nói, - Chẳng có gì hết ngoài việc hoài nghi lòng nhân đức của Thượng đế và khinh rẻ những khả năng của bản thân tôi.

- Thế thì, - D Artagnan nói, - Tôi, một thằng yếu hèn, một thằng ngông nghênh khát máu, đứng sát gần đoạn đầu đài ba chục bước để xem cho rõ cảnh chém rơi đầu một ông vua mà tôi không quen biết và dường như tôi dửng dưng, tôi nghĩ khác với ông bá tước..., tôi ở lại.

Arthos tái nhợt cả người, mỗi lời trách móc của bạn như trích từng nhát dao vào tim gan anh.

- Ồ, cậu ở lại London à? - Porthos hỏi.

- Phải, - D Artagnan đáp. - Thế còn cậu?

- Tôi ấy à! - Porthos nói, anh cảm thấy lúng túng với Arthos và Aramis, - Ô, ờ... vì rằng tôi đến đây cùng với cậu, nên cậu đi tôi mới đi, tôi không thể để cậu ở lại một mình trong cái xứ sở ghê tởm này đâu.

- Cảm ơn người bạn tuyệt vời của tôi. Vậy thì tôi có một công việc muốn đề nghị với cậu và chúng ta sẽ bắt tay vào thực hiện sau khi ông bá tước ra đi. Việc ấy tôi mới nghĩ tới khi xem cái cảnh tượng mà cậu đã biết đấy.

- Việc gì cơ? - Porthos hỏi.

- Việc tìm hiểu xem người che mặt đã sốt sắng nhận chém đầu vua là ai vậy?

- Người che mặt? - Arthos kêu lên, - Thế ra cậu không để xổng tên đao phủ à?

- Tên đao phủ ư?- D Artagnan nói - hắn vẫn ở trong hầm rượu và tôi đoán thế nào hắn chẳng nhỏ to vài lời với những chai rượu của chủ quán. À, mà anh làm tôi nghĩ đến...

Anh ra cửa và gọi:

- Mousqueton.

- Ông gọi tôi? - Một giọng nói như từ âm phủ vọng lên.

- Hãy thả tù nhân của cậu ra, - D Artagnan nói, - mọi việc xong cả rồi!

- Thế kẻ khốn khiếp nào đã hạ sát vua? - Arthos hỏi.

- Một tên đao phủ nghiệp dư, - Aramis nói, - Vậy mà hắn múa rìu cũng khá thành thạo, vì rằng đúng như hắn hi vọng như vậy, hắn chỉ chém có một nhát.

- Cậu có nom thấy mặt nó không? - Arthos hỏi.

- Nó mang vải che mặt, - D Artagnan nói.

- Nhưng Aramis, cậu đứng gần hắn cơ mà? Tôi chỉ nom thấy một chỏm râu hoa râm thò ra dưới tấm mặt nạ.

- Vậy là một người đứng tuổi ư? - Arthos hỏi.

- Ồ, - D Artagnan đáp, - Điều ấy có nghĩa lý gì. - Khi người ta đeo một chiếc mặt nạ, người ta có thể đeo một chòm râu lắm chứ.

- Bực thật, tôi đã không theo dõi, - Porthos nói.

- Này, Porthos thân mến, - D Artagnan nói, - Đúng là cái ý nghĩ đã đến với tôi.

Arthos đã hiểu ra. Anh đứng dậy và nói:

- D Artagnan, hãy tha lỗi cho tôi. Tôi đã nghi ngờ Chúa, tôi rất có thể nghi ngờ cả cậu. Bạn ơi, tha lỗi cho tôi nhé!

D Artagnan nhếch mép gượng cười và nói:

- Lát nữa ta sẽ bàn.

- Thế nào? - Aramis hỏi.

- Chẳng là, - D Artagnan nói tiếp, - Trong lúc hành hình, tôi không xem vua như bá tước nghĩ, bởi vì tôi biết một người sắp chết như thế nào rồi, và dù đã quen với những chuyện như thế, nó vẫn làm tôi khó chịu. Cho nên tôi đã nhìn kỹ tên đao phủ che mặt, như đã nói với các bạn, tôi nảy ra ý nghĩ xem hắn là ai. Do chúng ta có thói quen bổ sung lẫn nhau và gọi nhau giúp đỡ, như người ta vẫn thường dùng tay nọ hỗ trợ tay kia, tôi bất giác nhìn xem Porthos có đấy không; bởi vì tôi biết là Aramis lúc ấy ở bên vua, còn bá tước đang ở dưới gầm sàn đoạn đầu đài. Vì thế mà tôi thứ lỗi cho anh, - D Artagnan chìa tay ra cho Arthos và nói - chắc là anh đau khổ lắm.

- Tôi nhìn quanh và trông thấy ở bên cạnh tôi một cái đầu vỡ toác vá qua quít bằng vải đen. "Ô hay? - Tôi tự nhủ. - hình như một miếng vá theo kiểu vá của mình, và chính ta đã khâu cái sọ ấy ở đâu thì phải". Quả thật đó là gã Scotch tội nghiệp, em của Parry mà các bạn biết đấy; người đã bị Groslow đùa thử sức mình, và chỉ còn có nửa đầu khi chúng ta gặp.

- Hoàn toàn đúng, - Porthos nói, - Người có gà mái đen.

- Đúng thế Porthos ạ, người có gà mái đen.

- Đúng thế, chính hắn. Hắn ra hiệu với một người khác đứng ở phía bên trái tôi, tôi quay lại và nhận ra bác Grimaud thật thà, cũng như tôi, đang hau háu nhìn tên đao phủ che mặt.

- Ô! Tôi bảo bác ta. Đó là tiếng nói tắt bá tước thường dùng để nói với bác. Grimaud hiểu ngay là người ta gọi mình và quay phắt lại như một chiếc lò so; bác nhận ra tôi và giơ tay trỏ người che mặt, bác nói: "Hèm!" Thế có nghĩa là: "Ông có trông thấy không". " Mẹ kiếp" - Tôi đáp. Chúng tôi hoàn toàn hiểu nhau. Tôi quay về phía người Scotch; anh ta cũng có những cái nhìn biết nói. Tóm lại các anh biết đấy, mọi sự kết thúc thật là bi thảm. Dân chúng ra về; chiều xuống dần; tôi rút lui vào một góc quảng trường cùng với Grimaud và người Scotch và ra hiệu cho anh ta ở lại với chúng tôi. Từ chỗ ấy tôi trông thấy tên đao phủ vào phòng vua thay quần áo vì chắc hẳn quần áo hắn nhuốm đầy máu. Sau đó, hắn đội mũ khoác tấm áo choàng và biến mất. Tôi đoán là hắn sắp đi ra, bèn chạy đến phía trước cổng.

Quả đúng thật, năm phút sau chúng tôi trông thấy hắn xuống thang.

- Cậu đi theo hắn chứ? - Arthos hỏi.

- Tất nhiên!- D Artagnan đáp, - Nhưng chẳng phải dễ dàng đâu.

Chốc chốc hắn quay lại, chúng tôi buộc phải ẩn nấp hoặc giả bộ như người bình thường. Tôi rất có thể xông tới và giết chết i hắn ngay; nhưng tôi không ích kỷ và coi đó là một cuộc liên hoan dành cho anh, Arthos ạ, để an ủi anh đôi chút. Cuối cùng sau nửa giờ đi qua các phố xá ngoằn ngoèo nhất của khu Cité, hắn tới một ngôi nhà nhỏ hẻo lánh không có một tiếng động, một tia sáng nào báo hiệu là có người ở.

Grimaud rút từ đôi ủng to tướng của mình ra một khẩu súng ngắn.

- Hử!- Bác vừa nói vừa chỉ tay vào súng.

- Đừng!- tôi bảo và giữ tay bác lại.

Như tôi đã nói, tôi có ý định riêng.

Kẻ che mặt đứng lại trước một cái cổng thấp và rút chìa khoá ra; nhưng trước khi tra khoá vào ổ, hắn quay lại xem có bị theo dõi không. Tôi núp sau một cây to, Grimaud sau một cái cột mốc; gã Scotch chẳng có chỗ nấp đành nằm bẹp xuống mặt đường.

Chắc hẳn kẻ bị theo dõi chỉ có một mình hắn, vì tôi nghe tiếng khoá vặn lách cách, cửa mở ra và hắn biến mất.

- Tên khốn kiếp! - Aramis nói, - Trong khi cậu trở về thì hắn trốn mất và chúng ta sẽ chẳng tìm ra đâu.

- Thế nào, Aramis, - D Artagnan nói, - Cậu coi thường tôi như một kẻ khác sao?

- Tuy nhiên, - Arthos nói, - Lúc cậu vắng mặt.

- Ô hay, lúc tôi vắng mặt tôi đã chẳng cắt Grimaud và tên Scotch thay tôi là gì? Trước khi hắn có thì giờ đi mười bước ở trong nhà, tôi đã đi quanh nhà và xem xét, ở cái cửa mà hắn đi vào tôi để gã Scotch canh và ra hiệu bảo gã nếu tên che mặt đi ra, thì phải theo hắn ngay, còn Grimaud cũng theo dõi hẳn và trở về báo cho chúng ta biết. Cuối củng tôi cắt Grimaud coi cửa thứ hai và cũng căn dặn như vậy, rồi tôi trở về đây. Con thú bị bao vây rồi, bây giờ ai muốn xem nó bị dồn đến đường cùng nào?

D Artagnan lau mồ hôi trán, còn Arthos nhảy xổ vào vòng tay anh mà nói:

- Bạn ơi, kể ra cậu quá tốt, nên mới tha thứ cho tôi; tôi đã sai lầm, trăm lần sai lầm. Lẽ ra tôi phải hiểu cậu lắm chứ, nhưng ở trong lòng chúng ta có cái gì đó độc ác nó cứ bắt tôi nghi ngờ mãi.

- Hừm! - Porthos nói, - Biết đâu tên đao phủ lại chẳng phải là Cromwell, ông ta muốn công việc thật chắc chắn nên tự mình làm lấy.

- Không đâu! Ông Cromwell người mập và thấp, còn kẻ kia thanh mảnh và dong dỏng cao cao.

- Có khi là một tên lính bị tội mà người ta bắt làm việc đó để được hưởng ân xá như người ta làm với ông Sale tội nghiệp. - Arthos nói.

- Không, không, - D Artagnan nói tiếp, - Đây cũng không phải bước đi đều dặn của một bộ binh; cũng không phải là bước đi dài rộng của một kỵ sĩ. Người này có bắp chân mảnh mai và dáng đi thanh nhã. Nếu tôi không nhầm thì chúng ta đang nói chuyện,chuyện với một người quý tộc.

- Một người quý tộc! - Arthos kêu lên, - Không thể thế được! Đó là một điều sỉ nhục đối với tất cả giới công hầu.

- Một cuộc đi săn lý thú! - Porthos cười rung cả cửa kính mà nói - Một cuộc đi săn lý thú, mẹ kiếp!

- Thế nào, Arthos, anh vẫn ra đi chứ? - D Artagnan hỏi.

- Không, tôi ở lại, - Arthos đáp với một cử chỉ hăm doạ nó chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành cả.

- Nào, mang gươm ra! Aramis mang gươm ra! Và không để trễ một phút nào.

Bốn người bạn vội vàng mặc lại y phục quý tộc, đeo gươm vào, gọi Mousqueton và Blaisois lên, sai họ thanh toán tiền nong với chủ quán và sẵn sàng để lên đường vì rất có khả năng là họ rời London ngay đêm nay.

Đêm càng khuya, tuyết vẫn rơi và giống như một tấm vải liệm mênh mông phủ lên cái thành phố giết vua: mới gần bảy giờ tối mà chỉ thấy vài ba người đi ngoài phố, mọi người ở trong nhà và thì thầm bàn tán về những biến cố khủng khiếp trong ngày.

Bốn người bạn khoác áo choàng đi qua khắp các quảng trường và phố xá của khu Cité, ban ngày đông đúc thế mà ban đêm vắng tanh. D Artagnan dẫn các bạn đi, chốc chốc lại thử tìm những dấu chữ thập mà anh đã dùng dao găm vạch vào tường, nhưng trời tối như bưng khiến các dấu vết chỉ đường rất khó nhận ra. Tuy nhiên d Artagnan đã khắc sâu vào trong góc mỗi cột mốc, mỗi vòi nước, mỗi biển hàng, nên chỉ nửa giờ sau, anh cùng các bạn đã trông thấy ngôi nhà hẻo lánh.

Lúc đầu d Artagnan ngỡ là người em của Parry biến đi rồi nhưng anh lầm. Gã Scotch lực lưỡng đã quen với băng tuyết của núi non quê mình đang nằm dài bên cột mốc giống như một pho tượng đổ ra khỏi đế trơ trơ trước thời tiết trái chướng, để mặc tuyết phủ đầy mình, khi thấy bốn người đến gần mới nhỏm dậy.

- Này, - Arthos nói, - Đây lại thêm một tôi tớ hết lòng.

Lạy Chúa, kể ra những người trung hậu không đến nỗi hiếm hoi như người ta tưởng, điều ấy cổ vũ ta.

- Đừng vội khen gã Scotch của chúng ta - D Artagnan nói.

- Tôi cho rằng hắn đến đây là vì lợi ích của bản thân mình. Tôi nghe nói rằng những người sinh ra ở bên kia sông Tweed chúa là thù hằn.

- Ngài Groslow hãy coi chừng! Rất có thể ngài sẽ trải qua một khắc thảm sầu nếu ngài gặp lại hắn.

Nói xong, anh tách ra khỏi các bạn, đến gần gã Scotch để hắn nhận ra anh, rồi gọi các bạn đến.

- Thế nào? - Arthos hỏi bằng tiếng Anh.

- Chẳng có ai đi ra cả, - Người em của Parry đáp.

- Được rồi. Porthos và cả Aramis nữa, hãy ở lại đây với người này. Còn d Artagnan dẫn tôi đến Grimaud.

Grimaud không nhanh nhẹn bằng gã Scotch, bác dán mình vào một cây liễu rỗng mà bác làm thành một chòi canh. Lúc đầu d Artagnan cũng tưởng là kẻ che mặt đã đi và Grimaud đã bám theo hắn.

Chợt một cái đầu ló ra và khẽ huýt sáo.

- Ô! - Arthos nói.

- Vâng, - Grimaud đáp.

Mấy người đến gần cây liễu.

- Thế nào, - D Artagnan hỏi, - Có ai đi ra không?

- Không, nhưng có một người nào đó đi vào, - Grimaud đáp.

- Đàn ông hay đàn bà.

- Đàn ông.

- A a? Thế là họ có hai người.

- Tôi muốn rằng họ có bốn ngươi, - Arthos nói, - Ít ra cuộc chiến cũng cân bằng.

- Có khi họ có bốn người đấy, - D Artagnan nói.

- Sao vậy?

- Những người khác chẳng thể có sẵn từ trước ở trong nhà và chờ đợi họ hay sao?

Grimaud trỏ một cửa có ánh sáng lọt qua khe cửa chớp và nói:

- Ta thử xem.

- Đúng đấy, - D Artagnan đáp và gọi mấy người kia.

Họ đi vòng quanh ngôi nhà và ra hiệu cho Porthos và Aramis đến. Hai anh chạy tới và hỏi:

- Các anh có nhìn thấy gì không?

- Không, nhưng ta sẽ biết, - D Artagnan nói và chỉ vào Grimaud đang bám vào những chỗ gồ ghế ở tường và leo lên được năm sáu bộ.

Cả bốn tiến lại gần. Grimaud vẫn leo tiếp nhẹ nhàng như một con mèo và cuối cùng tay với được một cái móc cửa, chân tì, vào một bờ tường khá chắc chắn và ra hiệu rằng mình đã tới đích. Ồi bác ghé mắt vào một kẽ cửa.

- Thế nào? - D Artagnan hỏi.

Grimaud giơ hai ngón tay ra.

- Nói xem nào, vì tối quá chẳng trông thấy gì cả, - Arthos bảo.

- Có bao nhiêu người?

Grimaud gắng sức cất lời:

- Hai người: một trước mặt tôi một quay lưng lại.

- Được. Người quay mặt lại là ai?

- Người tôi thấy đi vào lúc nãy.

- Bác có biết hắn không?

- Tôi ngỡ nhận ra và tôi không lầm: người ấy mập và thấp.

- Ai thế? - bốn người bạn thì thào hỏi.

- Tướng Olivier Cromwell.

Bốn người bạn nhìn nhau.

- Còn người kia! - Arthos hỏi.

- Gầy và dong dỏng cao.

- Chính tên đao phủ, d Artagnan và Aramis cùng nói.

- Tôi chỉ nhìn sau lưng hắn, - Grimaud nói, - Nhưng khoan đã, hắn cử động, hắn quay lại, hắn đã bỏ cái trùm mặt tôi có thể trông thấy... A!

Như bị bắn trúng tim, Grimaud buông cái móc sắt ra và vừa thốt lên một tiếng rên rĩ, vừa ngã vật ra sau.

Porthos đỡ bác trong tay.

- Bác có trông thấy hắn không? - Bốn người bạn hỏi.

Tóc dựng đứng và mồ hôi vã ra trán, Grimaud đáp:

- Có

- Thế đó là ai? - Porthos hỏi.

- Nó! Nó! - Grimaud lắp bắp, mặt tái nhợt như một xác chết, và giơ hai bàn tay run rẩy nắm chặt lấy tay chủ.

- Nó là ai? - Arthos hỏi.

- Mordaunt!... - Grimaud đáp.

D Artagnan, Porthos và Aramis thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ.

Arthos lùi lại một bước rờ tay lên trán và lẩm bẩm:

- Định mệnh.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 72

Ngôi nhà của Cromwell

Quả đó là Mordaunt mà d Artagnan đã theo dõi nhưng không nhận ra. Khi vào nhà hắn đã bỏ mặt nạ, và gỡ chòm râu hoa râm mà hắn dùng để cải trang, trèo lên gác, mở cửa căn phòng có đèn chiếu sáng và căng rèm màu sẫm, đến trước một người đàn ông đang ngồi viết trước một bàn giấy.

Người ấy là Cromwell.

Người ta biết rằng ở London, Cromwell có vài ba chỗ ẩn náu như vậy mà các bạn bè đều không hay và ông chỉ cho mấy người thân cận nhất biết mà thôi.

Mordaunt được kể trong số những người ấy.

Khi hắn vào, Cromwell ngẩng đầu.

- Anh đấy à, Mordaunt, - Ông nói, - Anh đến muộn thế?

- Thưa tướng quân, - Mordaunt đáp, - Tôi muốn xem nghi lễ ấy cho đến cùng cho nên bị trễ.

- A! - Cromwell nói, - Thông thường tôi không ngờ anh tò mò đến thế đâu.

- Bao giờ tôi cũng tò mò xem sự sụp đổ của một trong những kẻ thù của Đức ông, mà kẻ thù này không tính trong những kẻ nhỏ mọn nhất. Nhưng tướng quân không đến Đại sảnh trắng ư?

- Không, - Cromwell đáp.

Một sự im lặng .

- Ngài đã biết những chi tiết gì chưa? - Mordaunt hỏi.

- Chưa. Tôi ở đây từ buổi sáng. Tôi chỉ biết có một âm mưu cứu thoát vua.

- A! Ngài biết điều đó à? - Mordaunt hỏi.

- Có gì đâu! Bốn người cải trang làm thợ toan kéo vua ra khỏi nhà tù và đưa đến Greenwich nơi có một chiếc tàu đợi sẵn.

- Biết rõ như vậy mà Đức ông vẫn ngồi đây, xa khu Cité bình thản và bất động?

- Bình tĩnh thì đúng, - Cromwell đáp, - Nhưng ai bảo anh là bất động?

- Tuy nhiên, nếu như âm mưu kia thành công thì sao?

- Tôi những mong như vậy.

- Tôi nghĩ rằng Đức ông coi cái chết của Charles I như một tai họa cần thiết cho lợi ích của nước Anh.

- Thì sao! - Cromwell nói, - Ý kiến tôi vẫn như vậy đấy. Miễn là hắn chết; có lẽ chết không phải ở trên đoạn đầu đài thì hơn.

- Tại sao vậy?

Cromwell mỉm cười.

- Xin ngài tha lỗi, - Mordaunt nói, :

- Xin ngài hiểu cho rằng ngài là vị tướng, còn tôi là một kẻ học việc trong nghề chính trị, tôi mong muốn trong mọi hoàn cảnh được lợi dụng những bài học mà vị chủ của tôi ban cho tôi.

- Bởi vì người ta sẽ nói rằng tôi cho xử án vua là vì công lý, và để cho vua chạy trốn là vì khoan dung.

- Nhưng nếu vua trốn thoát được thì sao?

- Không thể được.

- Không thể được ư?

- Phải, tôi đã cho phòng bị cẩn thận.

- Đức ông có biết bốn người mưu mô cứu vua là ai không?

- Đó là bốn người Pháp mà hai do bà Henriette cử sang cho chồng, còn hai người do Mazarin cử sang cho tôi.

- Ngài cho rằng Mazarin phái họ sang để làm cái việc họ đã làm không?

- Có thể như vậy, nhưng ông ta sẽ chối.

- Ngài tin như vậy à?

- Tôi chắc chắn như thế.

- Tại sao vậy?

- Vì họ đã thất bại.

- Trước đây Đức ông đã cho tôi hai tên trong số những người Pháp ấy trong khi chúng chỉ phạm tội mang vũ khí ủng hộ Charles I. Bây giờ chúng phạm tội âm mưu chống lại nước Anh, ngài có vui lòng cho tôi cả bốn tên ấy không?

- Cứ lấy - Cromwell nói.

Mordaunt cúi mình thi lễ với một nụ cười đầy vẻ hung bạo đắc thắng.

Thấy hắn sắp sửa cảm ơn mình, Cromwell nói:

- Nhưng này, ta hãy trở lại với lão Charles tội nghiệp ấy. Trong đám dân chúng người ta có hô gì không?

- Rất ít, ngoài những tiếng hô "Cromwell muôn năm!"

- Lúc ấy anh ở đâu?

Mordaunt nhìn vị tướng một lát để thử đọc trong mắt ông xem có phải ông đưa ra một câu hỏi vô ích không và ông đã biết hết tất cả rồi. Hắn đáp:

- Tôi đứng ở chỗ có thể trông thấy hết và nghe thấy hết.

Đến lượt Mordaunt tỏ ra kín đáo không ai dò xét được. Sau mấy giây quan sát, hắn đưa mắt ra chỗ khác với vẻ thản nhiên.

Cromwell nói:

- Hình như gã đao phủ ngẫu nhiên ấy hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Thấy người ta nói rằng chỉ ít nhát chém cũng được thực hiện bằng một bàn tay bậc thầy.

Nhớ lại rằng lúc nãy Cromwell nói là không được biết một chút chi tiết nào cả, Mordaunt bèn tin rằng vị tướng đã nấp ở sau một tấm rèm cửa nào đó để chứng kiến cuộc hành hình. Hắn đáp bằng một giọng bình thản:

- Đúng vậy, chỉ một nhát là đủ.

- Phải chăng đó là một đao phủ chuyên nghiệp, - Cromwell nói.

- Ngài tin vậy ư?

- Sao lại không?

- Người ấy không có vẻ một đao phủ.

- Nếu không phải là đao phủ, - Cromwell nói, - Kẻ nào lại muốn làm cái nghề ghê tởm ấy?

Mordaunt đáp:

- Có thể đó là một kẻ thù riêng của vua Charles đã thề trả hận và đã thực hiện lời thề đó. Cũng có thể đó là một vị quý tộc nào đó có những duyên cớ nghiêm trọng thù ghét ông vua mất ngôi và biết rằng vua sắp trốn thoát, nên đã đứng chặn đường, mặt che kín, lưỡi rìu cầm tay, không phải như kẻ thay thế đao phủ, mà như người đại diện của định mệnh.

- Cũng có thể như vậy, - Cromwell nói.

- Nếu như thế thật, - Mordaunt nói, - thì Đức ông có kết tội hành động của người kia không?

- Không phải tôi làm nhiệm vụ xét xử. Đó là việc giữa người ấy với Thượng đế.

- Nhưng nếu Đức ông biết người quý tộc ấy?

- Tôi không biết, - Cromwell đáp, - Và tôi cũng không muốn biết. Người ấy hay người khác đối với tôi thì can hệ gì? Khi mà Charles đã bị kết án thì không phải một người chém đầu ông ta mà là lưỡi rìu.

- Nhưng mà, - Mordaunt nói, - Không có người ấy thì vua đã được cứu thoát.

Cromwell mỉm cười.

- Như ngài nói, chắc hẳn người ta đã cướp vua.

- Người ta cướp vua và đưa đến Greenwich, - Cromwell nói,

- Tại đó vua xuống một tàu buồm cùng với bốn kẻ của mình, nhưng trên tàu có bốn người của tôi và năm tấn thuốc nổ của nhà nước. Ra ngoài biển, bốn người của tôi xuống một chiếc xuồng, và anh đã khá khôn khéo về chính trị, nên tôi khỏi phải giải thích nốt phần sau.

- Vâng, ra ngoài biển tất cả bọn họ sẽ bị nổ tung.

- Đúng thế. Vụ nổ sẽ làm cái việc mà lưỡi rìu không muốn làm. Vua Charles sẽ tiêu ma trong biển cả.

Người ta sẽ nói rằng vua thoát khỏi công lý của con người nhưng không thoát khỏi sự trả thù của trời đất; chúng ta sẽ chỉ là những quan toà và Thượng đế là đao phủ của vua. Đấy, nhà quý tộc che mặt của anh đã làm hỏng việc ấy của tôi. Anh thấy rõ là tôi có lý khi không muốn biết người đó; bởi vì thực ra, dù người ấy có những ý đồ thật tốt, tôi cũng không thể tỏ ra biết ơn về cái việc người ấy đã làm.

- Thưa ngài, - Mordaunt nói, - Cũng như mọi khi, tôi cúi mình bái phục trước tướng quân, người là một nhà tư tưởng uyên thâm, và cao kiến làm chiếc tàu buồm bị nổ mìn thật là tuyệt vời.

- Vô lý - Cromwell nói, - Vì nó đã trở thành vô ích. Về chính trị chỉ có ý kiến tuyệt vời khi nó mang lại kết quả; mọi ý kiến khi làm bị thất bại đều là điên rồ và Cromwell đứng lên và nói tiếp:

- Vậy thì, Mordaunt, tối nay anh đến Greenwich; hỏi người chủ chiếc tàu buồm Tia chớp. Anh giơ cho ông ta một chiếc khăn tay trắng buộc nút ở bốn góc, đó là ám hiệu đã định. Anh bảo những người ở thuyền lên bộ và anh cho chở chỗ thuốc nổ đến kho binh khí, trừ phi...

- Trừ phi..., - Mordaunt lặp lại, mắt ánh lên một niềm vui man rợ trong khi Cromwell nói.

- Trừ phi chiếc tàu buồm để nguyên như vậy có thể sử dụng cho những dự định riêng của anh.

- A! Chúa công! Chúa công! - Mordaunt reo lên. - Khi kén chọn ngài làm thánh nhân, Thượng đế đã ban cho ngài cái nhìn của Người mà không gì có thể thoát khỏi.

Cromwell cười, nói:

- Hình như anh vừa mới gọi tôi là Chúa công thì phải? Tốt thôi, vì chỉ có chúng ta với nhau, nhưng cần phải chú ý rằng anh không được buột miệng nói một lời như vậy trước mặt bọn thanh giáo ngu độn của chúng ta.

- Thì cũng chẳng mấy chốc mà người ta sẽ gọi Đức ông như vậy hay sao?

- Tôi cũng mong như vậy, - Cromwell nói, - Nhưng bây giờ chưa đến lúc.

Cromwell đứng dậy và cầm áo choàng.

- Ngài ra về ạ? - Mordaunt hỏi.

- Phải, - Cromwell đáp, - Tôi đã ngủ ở đây tối hôm qua và tối hôm kia; và anh biết đấy, tôi không có lệ ngủ ba lần ở cùng một giường.

- Như vậy là Đức ông cho tôi tự do suốt đêm nay.

- Nếu cần thì cả mai nữa, - Cromwell nói. - Từ chiều hôm qua đến giờ, - Ông mỉm cười nói thêm, - Anh đã làm khá nhiều việc giúp tôi nếu anh có những việc riêng cần giải quyết, tôi cũng cần đành thì giờ cho anh.

- Cám ơn ngài. Tôi mong rằng thời giờ ấy sẽ được sử dụng tốt.

Cromwell gật đầu, rồi hỏi:

- Anh có trang bị vũ khí không?

- Tôi có mang kiếm.

- Có ai đợi ở ngoài cửa không?

- Không ạ.

- Vậy thì anh nên đi với tôi.

- Xin cám ơn ngài, những lối quanh co mà ngài phải đi theo lối đường ngầm vào đây ắt là sẽ chiếm nhiều thì giờ của tôi, mà theo những điều mà ngài vừa nói với tôi thì có lẽ tôi đã để mất quá nhiều thời giờ rồi. Tôi sẽ đi ra bằng cổng trước.

- Vậy thì hãy đi đi, - Cromwell nói.

Và đặt tay lên một nút bấm ông làm mở ra một cánh cửa khuất kín trong tấm thảm phủ tường mà con mắt thành thạo nhất cũng không thể nhận ra.

Cánh cửa lò-xo thép tự khép lại.

Đó là một trong những lối thoát bí mật thường có ở tất cả những ngôi nhà bí hiểm của Cromwell, như lịch sử đã kể.

Lối thoát ấy đi bên dưới một đường phố vắng vẻ và thông ra một cái hành lang nhỏ trong vườn một ngôi nhà khác ở cách xa một trăm bước.

Qua khe hở của một tấm rèm không kín, Grimaud đã lần lượt nhận ra Cromwell và Mordaunt và chứng kiến phần cuối của cuộc hội kiến ấy.

Ta đã thấy tin này tác động như thế nào đến bốn người bạn.

D Artagnan là người đầu tiên lấy lại sự bình tĩnh và sáng suốt của mình. Anh nói:

- A, Mordaunt! Đúng là đích thân Chúa gửi hắn đến cho chúng ta.

- Phái đấy, - Porthos nói, - Vậy chúng ta hãy phá cửa và vồ lấy nó.

- Không, - D Artagnan nói, - Trái lại ta không phá gì hết. Không được gây tiếng động, tiếng động sẽ gọi mọi người đến. Nếu nó ở cùng vị chủ soái đáng tôn kính của nó như Grimaud cho biết, thì chắc hẳn có một đội lính giáp sắt nào đó nấp ở cách đây năm chục bước.

- Ơ này, Grimaud, lại đây và cố đứng vững trên hai chân nhé.

Grimaud đến gần. Tức giận và xúc động, nhưng bác vẫn vững vàng.

- Tốt, - D Artagnan nói tiếp. - Bây giờ bác lại trèo lên cái bao lơn kia và cho chúng tôi biết cái thằng Mordaunt có còn đứng với ai không, nó sắp sửa đi ra hay là đi ngủ; nếu nó còn có người khác đợi thì ta đợi đến lúc nào đó chỉ còn có một mình; nếu nó đi ra, ta sẽ bắt nó khi đi ra; nếu nó ở lại ta sẽ phá cửa sổ lớn mà vào. Như thế đỡ gây tiếng động và đỡ khó khăn hơn là phá cổng.

Grimaud bắt đầu lặng lẽ leo lên cửa sổ, d Artagnan bảo:

- Arthos và Aramis hãy gác cửa sau, chúng tôi ở đây với Porthos.

Hai người bạn tuân lệnh.

- Thế nào, Grimaud? - D Artagnan hỏi.

- Nó có một mình, - Grimaud đáp.

- Có chắc không?

- Chắc.

- Chúng ta không thấy người bạn của nó đi ra.

- Nó đang làm gì?

- Nó khoác áo choàng và xỏ găng tay.

- Nào, chúng ta bắt đầu! - D Artagnan lẩm bẩm.

Porthos đặt tay vào con dao găm và bất giác rút ra khỏi vỏ.

- Hãy tra vào, Porthos ạ, - D Artagnan nói, - Không phải đánh ngay đâu. Ta giữ được nó rồi, cần tiến hành có trật tự. Chúng ta có mấy điều giải thích cần trao đổi với nhau, và việc này là một vế đối xứng của màn kịch ở Armentières(1) xưa kia. Tuy nhiên, ta hy vọng rằng thằng này không có con cái nối dõi, và nếu ta diệt nó thì tất cả sẽ bị diệt cùng với nó.

- Suỵt! - Grimaud nói. - Nó sắp sửa đi ra đấy. Nó đến gần cây đèn. Nó tắt đèn. Tôi chẳng còn trông thấy gì nữa cả.

- Xuống đất, nào xuống đi.

Grimaud nhảy lùi ra và rơi xuống. Tuyết làm giảm tiếng động, không nghe thấy gì hết.

- Bác hãy ra cửa bảo Arthos và Aramis đứng chực ở hai bên cửa sau, còn tôi và Porthos đứng ở cửa này. Nếu tóm được nó, họ sẽ vỗ tay làm hiệu; chúng tôi cũng vậy!

Grimaud biến đi.

- Porthos, - D Artagnan nói, - hãy né bớt đôi vai to bè của cậu đi để nó không trông thấy.

- Miễn là nó đi lối này, - Porthos nói.

- Suỵt!

Porthos dán người vào tường như anh muốn lẩn vào trong đó d Artagnan cũng làm như vậy.

Có tiếng bước chân của Mordaunt trong cầu thang âm vang.

Một ô cửa nhỏ không nhìn thấy trượt ken két trong đường rãnh.

Mordaunt ngó nhìn, nhưng do sự phòng bị của hai người bạn, hắn không thấy gì cả. Hắn bèn tra chìa khoá vào ổ. Cánh cửa mở ra, hắn xuất hiện trên ngưỡng cửa.

Cùng lúc ấy, hắn đứng đối diện với d Artagnan.

Hắn muốn đẩy cửa lại, nhưng Porthos đã lao đến quả nắm và mở toang cửa ra.

Porthos vỗ tay ba tiếng. Arthos và Aramis chạy đến.

Mordaunt tái nhợt đi, nhưng hắn không kêu một lời, không gọi người ứng cứu.

D Artagnan bước thẳng đến , nhìn thẳng vào lòng ngực của Mordaunt ,có thể cái nhìn thấu cả lòng ngực của hắn, và khiến hắn bước giật lùi lên suốt cầu thang có một ngọn đèn soi sáng giúp chàng Gascogne không rời mắt khỏi hai bàn tay Mordaunt.

Nhưng Mordaunt hiểu rằng nếu có y giết được d Artagnan, thì hắn còn phải đương đầu với ba kẻ thù khác nữa, cho nên hắn không làm một động tác chống cự nào, không làm một cử chỉ đe doạ nào.

Lùi tới cửa, Mordaunt cảm thấy cùng đường và tưởng rằng thôi thế là mọi sự chấm dứt với hắn ở đây rồi; nhưng hắn lầm, d Artagnan giơ tay mở cửa, hắn và anh đi vào phòng nơi mười phút trước đó hắn đã chuyện trò với Cromwell.

Porthos vào theo; anh nhấc chiếc đèn treo ở bên trần lấy lửa châm vào một chiếc đèn khác.

Arthos và Aramis vào sau cùng và khoá cửa lại.

D Artagnan cầm một cái ghế và bảo Mordaunt:

- Hãy ngồi xuống đi.

Mordaunt đón cái ghế từ tay d Artagnan, hắn ngồi xuống, mặt xanh nhợt nhưng bình tĩnh. Aramis kéo ba chiếc ghế đến cách đó ba bước cho mình với d Artagnan và Porthos ngồi.

Arthos ra ngồi ở một góc xa nhất, có vẻ nhất quyết làm một khán giả im lặng trước những điều sắp diễn ra.

Porthos ngồi bên trái và Aramis ngồi bên phải d Artagnan.

Arthos tỏ ra buồn rầu. Porthos xoa xoa bàn tay có vẻ sốt ruột lắm.

Aramis vừa mỉm cười vừa cắn môi đến chảy máu.

Riêng d Artagnan tự kiềm chế, ít ra là bề ngoài.

Anh nói:

- Ông Mordaunt này, sau bao nhiêu ngày trời mất công chạy đuổi theo nhau, cuối cùng sự tình cờ đã tập hợp chúng ta lại, cho nên ta hãy chuyện trò với nhau một chút, ông vui lòng chứ?

Chú thích:

(1) Trong "Ba người lĩnh ngự lâm" đó là nơi các anh bắt và xử tội Milady, mẹ của Mordaunt.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 73

Đối thoại

Mordaunt bị chộp bất thình lình, hắn trèo lên thang gác với cảm tưởng càng mơ hồ hơn nữa, đến nỗi sự suy nghĩ của hắn không thể nào trọn vẹn. Chỉ có điều thực tế là tình cảm đầu tiên của hắn hoàn toàn dành cho nỗi xúc động, sự bất ngờ và nỗi kinh hoàng khủng khiếp nó xâm chiếm bất cứ người nào bị một kẻ tử thù hơn hẳn về sức mạnh tóm chặt lấy cánh tay đúng lúc anh ta tưởng kẻ thù ấy đang ở một nơi khác và bận bịu về những việc khác.

Nhưng một khi đã ngồi xuống, lúc đã biết rằng mình được hưởng một sự đình hoãn trị tội, thì dù với ý đồ gì hắn cũng tập trung tư tưởng và gom hết sức lực. Cái nhìn nảy lửa của d Artagnan không làm nhụt chí mà có thể nói truyền điện thêm cho Mordaunt, vì cái nhìn bừng bừng hăm doạ thật đấy nhưng chân thành trong nỗi thù hằn và giận dữ. Mordaunt sẵn sàng nắm lấy mọi cơ hội thuận lợi để ra thoát khỏi cơn nguy, hoặc bằng vũ lực hoặc bằng mưu mẹo, hắn bèn thu mình lại như con gấu bị dồn vào hang ổ bằng con mắt có vẻ bất động nó theo dõi mọi cử chỉ của người thợ săn đã dồn đuổi nó.

Tuy nhiên, nhanh như tia chớp con mắt ấy nhìn xuống thanh kiếm dài và chắc chắn đập bên hông hắn, hắn thản nhiên đặt bàn tay trái lên chuôi kiếm đưa nó sang tầm tay phải và ngồi xuống theo yêu cầu của d Artagnan.

D Artagnan chắc hẳn chờ đợi một lời nói công kích nào đó để bắt đầu vào một cuộc chuyện trò châm biếm hoặc gay gắt mà anh thường ứng đối rất tài.

Aramis tự nhủ thầm:

"Chúng ta sắp sửa nghe những chuyện nhạt nhẽo",

Porthos ngoạm ria mép và lẩm bẩm:

"Mẹ kiếp, lại sắp sửa những chuyện khách sáo, để đập nát con rắn này!",

Arthos né mình trong góc phòng, bất động và nhợt nhạt như một bức tượng chạm nổi và mặc dầu ngồi yên anh vẫn cảm thấy trán mình râm rấp mồ hôi.

Mordaunt không nói gì, song le khi yên trí rằng thanh kiếm của mình vẫn sẵn sàng, hắn ngang nhiên bắt tréo chân và chờ đợi.

Sự im lặng không thể kéo dài hơn nữa để trở thành vô nghĩa , d Artagnan hiểu điều đó và do anh đã mời Mordaunt ngồi xuống để nói chuyện, anh biết rằng chính anh phải mở đầu câu chuyện. Vớí vẻ lịch sự chết người, anh nói:

- Thưa ông, dường như ông thay đổi y phục cũng gần nhanh bằng bọn tuồng câm nước Ý mà ngài giáo của Mazarin đã đưa từ Bergame tới. Tôi đã từng được xem và chắc hẳn ông cũng được ngài giáo chủ dẫn đi xem trong chuyến du ngoạn của ông tại Pháp.

Mordaunt không trả lời.

- Ban nãy, - D Artagnan nói tiếp, - Ông cải trang, tôi muốn nói rằng ông vận y phục kẻ giết người, và bây giờ...

- Và bây giờ trái lại, tôi hoàn toàn có vẻ trong bộ y phục của kẻ sắp bị người ta giết có phải không? - Mordaunt đáp lại bằng một giọng bình thản và cộc lốc.

- Ồ, ông ơi, - D Artagnan đáp, - Sao ông lại có thể nói năng như thế nhỉ, khi mà ông đang ngồi cùng với các nhà quý tộc và ông có một thanh gươm thật tốt kề bên mình.

- Thưa ông, - Mordaunt đáp, - Chẳng có thanh gươm tốt nào địch nổi bốn thanh gươm và bốn con dao găm của bọn tuỳ tùng đang đợi các ông ở ngoài cửa.

- Xin lỗi ông lầm rồi, - D Artagnan nói. - Nhưng kẻ đang đợi chúng tôi ở ngoài cửa chẳng phải tuỳ tùng mà là đầy tớ của chúng tôi. Tôi muốn đặt mọi vật vào đúng sự thật chí ly nhất.

Mordaunt chỉ đáp lại bằng một nụ cười làm nhíu đôi môi lại một cách giễu cợt.

Nhưng vấn đề không phải ở đó, - D Artagnan nói tiếp, - Tôi xin trở lại vấn đề của tôi. Tôi lấy làm vinh dự hỏi ông rằng tại sao ông lại đội lốt. Tấm vải che mặt khá tiện lợi cho ông thì phải. Chòm râu xám hợp tuyệt vời với ông. Cái lưỡi rìu mà ông bổ một nhát thật trứ danh lúc ấy chẳng phải lạc lõng với ông. Thế thì hà cớ gì ông phải gỡ bỏ nó đi...

- Vì rằng nhớ lại tấn thảm kịch ở Armentières, tôi nghĩ rằng có thể tôi sẽ thấy bốn lưỡi rìu chọi một, bởi vì tôi sẽ ở giữa bốn đao phủ.

Mặc dầu một cái chau mày nhẹ báo hiệu rằng anh bắt đầu nổi cáu d Artagnan vẫn đáp lại với vẻ bình tĩnh nhất.

- Này ông, dù rằng hết sức xấu xa và tồi bại, ông vẫn quá non trẻ, cho nên tôi chẳng quan tâm đến những câu chuyện vớ vẩn của ông. Vớ vẩn thật, vì ông vừa mới nói đến vụ Armentières nó chẳng mảy may liên quan gì đến tình hình hiện nay. Thật vậy, chúng tôi chẳng thể đưa một thanh gươm cho bà mẹ nhà ông và yêu cầu đấu gươm với chúng tôi.

Nhưng đối với ông, một kỵ sĩ trẻ chơi dao găm với súng ngắn như chúng tôi đã thấy và mang một thanh gươm lớn nhường kia, thì chẳng ai không có quyền xin chiếu cố một cuộc gặp gỡ.

- A, a! - Mordaunt nói, - Vậy là ông muốn một cuộc đấu gươm ư?

Và hắn đứng lên, mắt lấp lánh như sẵn sàng đáp lại lời khiêu khích ngay lập tức.

Porthos cũng đứng dậy, sẵn sàng như mọi khi với những chuyện bất ngờ như thế.

Vẫn bình tĩnh, d Artagnan nói:

- Xin lỗi, xin lỗi! Chúng ta đừng vội vã, bởi vì chúng ta ai cũng mong muốn mọi việc tiến hành đúng quy tắc. Cho nên, Porthos thân mến, hãy ngồi xuống, và xin ông Mordaunt lãy bình tĩnh. Chúng ta sẽ thu xếp việc này cho ổn thoả, và tôi sẽ thẳng thắn với ông. Ông Mordaunt này, hãy thú nhận rằng ông rất khao khát giết chết những người này hoặc những người nọ trong số chúng tôi đây có phải không?

- Những người này và những người nọ, - Mordaunt đáp.

D Artagnan quay về phía Aramis và nói:

- Aramis thân mến, hãy thừa nhận rằng thật là một điều rất may mắn, ông Mordaunt am hiểu tường tận những điều tinh tế trong tiếng Pháp. Ít ra là sẽ không có sự hiểu lầm giữa chúng ta; và chúng ta sẽ thu xếp mọi việc cho thật kỳ diệu.

Rồi quay lại phía Mordaunt, anh nói tiếp:

- Ông Mordaunt thân mến ơi, tôi xin nói với ông rằng các ông bạn của tôi đây sẽ đáp lại tấm thịnh tình của ông đối với họ và cũng sẽ rất vui mừng được giết chết ông. Tôi xin nói thêm rằng, rất có khả năng họ sẽ giết ông, tuy nhiên với tư cách những nhà quý tộc chính trực và bằng chứng tốt nhất mà người ta có thể đưa ra là đây.

Nói xong, d Artagnan ném mũ xuống tấm thảm, kéo sát ghế vào tường, ra hiệu cho các bạn cũng làm như vậy, rồi chào Mordaunt với vẻ ưu nhã rất lịch sự của một người Pháp và nói:

- Xin hầu tiếp ông: vì rằng nếu ông không có ý gì bác bỏ điều vinh dự mà tôi yêu cầu, thì tôi sẽ là người bắt đầu. Thanh gươm của tôi có ngắn hơn thanh gươm của ông, nhưng... chậc... tôi hy vọng rằng cánh tay tôi sẽ bổ sung cho lưỡi gươm.

- Dừng lại? - Porthos tiến lên và nói, - Tôi là người bắt đầu, không bàn cãi gì hết.

- Ấy, xin phép, Porthos? - Aramis nói.

Arthos không động đậy, dường như đó là một bức tượng, hơi thở của anh cũng như dừng lại.

- Này, này, các bạn ơi, - D Artagnan nói,

- Xin cứ yên trí, sẽ đến lượt các anh. Hãy nhìn xem đôi mắt của ông ta và đọc trong nó mối hận thù sung mãn mà chúng ta gây nên, hãy xem ông ta tuốt kiếm khéo léo như thế nào. Kìa, ông ta đang nhìn quanh rất thận trọng xem có chướng ngại nào ngăn mình bước lùi không. Này, tất cả những điều đó chứng chẳng tỏ rằng ông Mordaunt là một tay kiếm tài ba sao, và các bạn sẽ nối tiếp tôi ngay thôi mà, miễn là các bạn hãy ở nguyên tại chỗ như Arthos ấy, tính bình tĩnh của anh ấy như thế nào, các bạn đã biết rõ, tôi chẳng phải nhắc lại nhiều lần, và hãy cho tôi được thực hiện cái sáng kiến của tôi. Và chăng,-

D Artagnan tuốt gươm ra bằng một động tác kinh khủng và nói tiếp, - Tôi có chuyện đặc biệt quan thiết với ông này và tôi sẽ bắt đầu. Tôi mong như vậy, tôi muốn như vậy.

Lần đầu tiên d Artagnan nói với các bạn lời lẽ như thế. Từ trước đến giờ anh chỉ nghĩ trong đầu mà thôi.

Porthos lùi lại, Aramis kẹp gươm vào nách. Arthos ngồi im lặng trong góc tối không phải bình tĩnh như d Artagnan nói, mà đang ngột ngạt, đang hổn hển.

- Này, hiệp sĩ, hãy tra kiếm vào vỏ - D Artagnan bảo Aramis, - Kẻo ông đây lại hiểu sai rằng anh có những ý định không hay.

Rồi quay sang Mordaunt anh nói:

- Thưa ông, tôi chờ ông.

- Tôi rất khâm phục các ông đấy, - Mordaunt nói. - Các ông tranh cãi xem ai là người đầu tiên đấu với tôi, nhưng các ông chẳng hề hỏi ý kiến tôi mà hình như vấn đề này có can hệ đến tôi một chút ít thì phải. Tôi thù tất cả bốn ông, đúng thế, nhưng ở mức độ khác nhau. Tôi hy vọng giết chết cả bốn ông, nhưng tôi có nhiều cơ hội giết chết người thứ nhất hơn người thứ hai, người thứ hai hơn người thứ ba, người thử ba hơn người cuối cùng. Do đó tôi đòi hỏi quyền được chọn địch thủ của tôi. Nếu các ông từ chối quyền đó thì cứ việc giết tôi đi tôi sẽ chăng đấu gươm đâu.

Bốn người bạn nhìn nhau.

- Đúng đấy - Porthos và Aramis đều nói, ai nấy đều hy vọng rằng sự lựa chọn rơi vào mình.

Arthos và d Artagnan không nói gì cả; nhưng sự im lặng của họ biểu hiện sự tán thành.

Giữa cảnh im lặng sâu xa và trang nghiêm ngự trị trong ngôi nhà bí ẩn ấy, Mordaunt nói:

- Thế thì tôi xin chọn làm địch thủ đầu tiên của tôi cái người đã cho rằng mình xứng đáng mang danh hiệu bá tước de La Fère và đã lấy tên là Arthos.

Arthos đứng bật dậy như có lò-xo, nhưng trước nỗi kinh ngạc của các bạn, sau một giây lâu bất động và lặng im, anh lắc đầu nói:

- Ông Mordaunt này, mọi cuộc đấu gươm giữa hai người chúng ta là không thể được; ông hãy trao cho người khác cái vinh dự mà ông dành cho tôi.

Và anh ngồi xuống.

- A, - Mordaunt nói, - Ra đây là một kẻ đã sợ hãi.

- Đồ khốn khiếp! D Artagnan thét lên và nảáy vọt đến gã thanh niên. - Kẻ nào dám nói ở đây là Arthos sợ hãi.

- D Artagnan, cứ để cho hắn nói - Arthos nói với một nụ cười đầy buồn phiền và khinh bỉ.

Chàng Gascon hỏi:

- Arthos, đây là quyết định của anh đấy

- Không thay đổi.

- Thôi được, không bàn đến chuyện ấy nữa.

Rồi quay lại Mordaunt, anh nói:

- Ông đã nghe đấy, bá tước de La Fère không muốn ban cho ông vinh dự là người được đấu gươm cùng ông ấy. Vậy ông hãy chọn trong số người nào thay thế ông ấy.

- Khi đã không đấu với ông ta, - Mordaunt nói - Thì đấu với ai cũng chẳng quan trọng gì đối với tôi. Hãy viết tên các ông bỏ vào chiếc mũ và tôi sẽ rút thăm.

- Ý kiến hay đấy, - D Artagnan nói.

- Thật vậy, - Aramis nói, - Cách ấy hoà giải tất cả.

- Thế mà tôi không nghĩ ra, - Porthos nói, mà thật là đơn giản.

- Nào, Aramis - D Artagnan nói, - Hãy viết thăm đi, bằng kiểu chữ xinh xinh mà anh đã viết cho Marie Michon để báo cho cô ấy biết rằng bà mẹ của ông Mordaunt đây muốn ám sát quận công Buckingham ấy mà.

Mordaunt chịu đựng đòn công kích mới ấy mà không chau mày.

Hắn đứng khoanh tay và tỏ ra thản nhiên như không. Nếu không phải can đảm, thì ít ra cũng là lòng kiêu hãnh, thật rất giống như vậy.

Aramis đến bàn giấy của Cromwell xé lấy mảnh giấy to bằng nhau, viết tên mình trước tiên rồi đến tên các bạn và để mở nguyên, đưa cho Mordaunt xem. Hắn không đọc và gật đầu tỏ ý hoàn toàn tin cậy ở anh. Anh gập giấy lại cho vào một cái mũ và đưa lại cho hắn.

Mordaunt thò tay vào mũ lấy một tờ giấy và để rơi lên bàn một cách khinh thị mà không buồn đọc.

- A! Con rắn con! - D Artagnan lẩm bẩm, - Ta muốn đánh đổi tất cả vận may thăng cấp lên đại uý ngự lâm quân lấy tờ phiếu mang tên ta.

Aramis mở tờ giấy ra. Anh cố làm ra vẻ bình thản và lạnh lùng, nhưng ai cũng thấy giọng nói của anh run lên vì căm hờn và thèm khát.

- D Artagnan - anh đọc to lên.

D Artagnan thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ:

- A!- anh nói - Trời công minh thật!

Rồi quay lại Mordaunt, anh nói:

- Tôi hy vọng rằng ông không có điều gì phản đối chứ?

- Hoàn toàn không, - Mordaunt đáp, và rút gươm ra để mũi gươm lên giày của mình.

Khi đã chắc chắn điều mong ước của mình được thực hiện và địch thủ của mình không thoát khỏi tay mình, d Artagnan lấy lại tất cả sự yên trí, bình tĩnh và thong thả nữa mà anh thường quen đưa vào chuẩn bị cái công việc hệ trọng mà người ta gọi là một cuộc quyết đấu.

Anh vén tay áo, chùi đế giày bên phải lên sàn nhà, điều ấy không ngăn cản anh chú ý thấy lần thứ hai Mordaunt đưa mắt nhìn quanh mình bằng một cái nhìn rất kỳ lạ mà anh đã một lần nhác thấy. Cuối cùng anh nói:

- Ông đã sẵn sàng chưa?

- Chính tôi đang chờ ông đấy. - Mordaunt ngẩng đầu lên đáp và ném sang d Artagnan một cái nhìn không thể tả được.

- Vậy ông hãy coi chừng, - Chàng Gascon nói, - vì rằng tôi đánh gươm khá lắm.

- Tôi cũng vậy, - Mordaunt đáp.

- Càng hay, điều đó khiến cho lương tâm tôi thanh thản. Hãy đề phòng!

- Khoan đã, - Gã thanh niên nói, - Xin các ông hãy hứa với tôi rằng các ông chỉ công kích tôi một cách tuần tự, người nọ sau người kia thôi.

- Này, con rắn con! - Porthos nói, - Có phải anh yêu cầu như vậy để lăng mạ chúng tôi đấy không?

- Không đâu, để lương tâm được thanh thản như ông này vừa nói đấy thôi.

- Chắc nhằm chuyện khác đây, - D Artagnan lẩm bẩm và vừa lắc đầu vừa băn khoăn nhìn xung quanh.

- Lời thề của nhà quý tộc! - Aramis và Porthos đồng thanh nói.

- Trong trường hợp ấy, - Mordaunt nói, - Xin các ông hãy đứng gọn vào một góc như bá tước de La Fère, nếu ông không đấu thì ít nhất cũng tỏ ra hiểu biết những qui tắc của một trận đấu. Các ông hãy để rộng cho chúng tôi, chúng tôi rất cần.

- Được, - Aramis nói.

- Lắm thứ lủng củng, - Porthos nói.

- Các anh hãy đứng gọn lại, - D Artagnan nói. - Đùng để cho ông đây có thể vịn vào một cớ nhỏ mọn nào để xử sự không đúng mà, xin thất lễ ông chứ, hình như ông rất thèm những cớ ấy.

Porthos và Aramis đứng vào cạnh tường song song với chỗ Arthos đứng, thành thử hai đấu thủ chiếm chỗ chính giữa căn phòng, nghĩa là họ ở nơi sáng nhất, hai ngọn đèn chiếu sáng đặt trên bàn của Cromwell.

Chẳng cần phải nói rằng khi người ta rời xa ngọn đèn thì ánh sáng yếu dần đi.

- Nào, - D Artagnan nói, - Cuối cùng thì ông đã sẵn sàng chưa?

- Rồi, - Mordaunt đáp.

Cả hai người đồng thời tiến lên một bước, và nhờ cái động tác giống nhau ấy, hai thanh kiếm chạm nhau.

D Artagnan là một tay kiếm siêu quần nên chẳng cần sờ nắn địch thủ, như người ta thường nói theo luật ngữ đấu kiếm. Anh giở một đòn nghi binh tuyệt diệu và nhanh như chớp, Mordaunt đỡ được.

- A, a! - Anh kêu lên với nụ cười khoan khoái.

Và chẳng để mất thì giờ, tưởng nhìn thấy chỗ sơ hở, anh vươn tay đâm một nhát thẳng cực nhanh và lóe sáng như tia chớp.

Mordaunt đỡ bằng một đường gươm rất chặt chẽ như không ra khỏi chôn kim.

D Artagnan nói:

- Tôi bắt đầu ngờ rằng chúng tôi đang chơi đùa.

- Ừ, - Aramis nói, - Nhưng vừa chơi đùa vừa chơi thật chặt chẽ vào.

- Mẹ kiếp! Này bạn cẩn thận đấy, - Porthos nói.

Mordaunt mỉm cười.

- Chà! - D Artagnan nói,

- Sao ông có một cái cười đê tiện đến thế? Ma quỷ đã dạy ông cười như thế phải không?

Mordaunt chỉ đáp lại bằng cách cố khoá chặt thanh gươm của d Artagnan với một sức mạnh mà chàng Gascon không ngờ có thể tìm thấy ở một cơ thể trông ốm o, nhưng nhờ một miếng đỡ khéo léo không kém nhát đánh của đối thủ, anh kịp thời gặp lưỡi gươm của Mordaunt, nó trượt theo gươm của anh mà không chạm vào ngực anh.

Mordaunt lùi nhanh lại một bước.

- A! Ông lùi đấy à? Ông quay đấy à? - D Artagnan nói.

- Tuỳ ý ông thôi, nhưng tôi cũng đã nhìn thấy được một điều: tôi không trông thấy nụ cười độc ác của ông đâu nữa. Tôi đang đứng hẳn trong bóng tối; càng hay. Ông không ngờ rằng ông có cái nhìn giả dối, nhất là khi ông sợ hãi. Hãy nhìn vào mắt tôi đây và ông sẽ thấy một điều mà một mảnh gương chẳng bao giờ cho ông thấy cả, đó là một cái nhìn thật thà và thẳng thắn.

Những lời lẽ dài dòng ấy có lẽ chẳng lấy gì làm nhã nhặn lắm, nhưng d Artagnan có thói quen tuôn ra cốt để làm bận tâm rối trí địch thủ. Song Mordaunt chẳng đáp lại một lời, hắn cứ lùi và chạy mãi, cuối cùng đổi được sang chỗ d Artagnan.

Hắn càng mỉm cười luôn và bắt đầu khiến chàng Gascon lo ngại.

- Thôi, thôi, phải kết thúc đi, - D Artagnan nói, - thằng ba hoa này có những bắp chân bằng thép. Nào xông lên đánh những đòn mạnh mẽ!

Anh dồn ép ráo riết Mordaunt. Hắn tiếp tục lùi bước, nhưng rõ ràng là do chiến thuật, không phạm một sơ suất nào khiến d Artagnan có thể lợi dụng, lưỡi gươm của hắn không một nhát nào trệch đường.

Tuy nhiên trận đấu diễn ra trong một căn phòng chật hẹp thiếu chỗ tung hoành đến nỗi một lúc chân Mordaunt chạm vào trường và tay trái hắn vịn vào đó.

- A! - Ông bạn quý ơi, lần này thì ông không còn lùi vào đâu được nữa. - d Artagnan mím môi, chau mày và nói tiếp:

- Các bạn ơi, đã bao giờ các bạn trông thấy một con bọ cạp bị đóng đinh vào tường chưa? Chưa thấy phải không? Vậy thì các bạn sắp thấy đấy.

Và trong một giây đồng hồ, d Artagnan phóng ba nhát khủng khiếp vào Mordaunt. Ba nhát đều chạm vào người, nhưng chỉ sướt qua thôi. D Artagnan không sao hiểu nổi sức mạnh kỳ lạ đó. Ba người bạn đứng xem mà thở hổn hển, trán đẫm mồ hôi.

Cuối cùng vì lấn quá gần, đến lượt d Artagnan lùi lại một bước để chuẩn bị một nhát thứ tư hay nói đúng hơn là để thực hiện nhát đó. Bởi vì đối với anh, đấu kiếm cũng như đánh cờ là một sự phối hợp rộng lớn, trong lúc mọi chi tiết móc nối ăn khớp với nhau.

Nhưng đến lúc anh làm một động tác nghi binh vừa mau lẹ vừa rảo riết, rồi bất thần đâm một nhát nhanh như chớp, thì bức tường nút đôi ra. Mordaunt biến mất vào khe hở toang hoác đó, còn lưỡi gươm của d Artagnan bị kẹp chặt giữa hai mảng tường khép lại và gẫy vụn ra như thuỷ tinh.

Trong khi đang đấu kiếm, Mordaunt đã vừa tự vệ vừa tìm cách đến dựa vào cánh cửa bí mật mà lúc trước ta đã trông thấy Cromwell đi ra. Từ đó, hắn đưa tay trái dò tìm và ấn nút; rồi hắn biến mất giống như những hung thần nọ trên sân khấu có tài đi xuyên qua các bức tường.

Chàng Gascon văng ra một tiếng chửi rủa điên giận, nó được đáp lại bằng một tiếng cười từ bên kia tấm cửa sắt, một tiếng cười man rợ, thê lương khiến chàng Aramis hoài nghi ớn lạnh đến tận xương sống.

Đến đây với tôi, - D Artagnan kêu lên, - Ta hãy phá cái cửa này ra.

Aramis chạy tới và nói:

- Đó là quỷ sử hiện hình!

- Nó trốn thoát rồi! Mẹ kiếp! Nó trốn thoát rồi! - Porthos gào lên và tì cả bắp vai đồ sộ của mình vào vách ngăn mà ấy, nhưng nó không hề suy suyển.

- Càng hay! - Arthos thầm lẩm bẩm.

Mệt nhoài vì những cố sức vô ích, d Artagnan nói:

- Tôi đã ngờ ngợ. Khi thằng khốn khiếp chạy quanh gian phòng, tôi đã nghi nó mưu mô một điều gì đê tiện; nhưng ai có thể ngờ được việc đó.

Aramis nói:

- Quỷ sứ đã đưa đến cho chúng ta một tai hoạ ghê gớm.

- Thượng đế đưa đến cho chúng ta một hồng phúc hiển nhiên! - Arthos nói với một vẻ mừng rỡ rành rành.

D Artagnan rời bỏ cánh của sắt trơ trơ, nhún vai nói:

- Arthos! Thực sự là anh tự hạ mình đấy. Sao anh lại có thể buông ra những lời lẽ như vậy với những người như chúng tôi, mẹ kiếp! - Anh không hiểu tình hình bây giờ ra sao ư?

- Sao? Tình hình thế nào cơ? - Porthos hỏi.

- Trong các trò chơi này, - D Artagnan nói, - Kẻ nào không giết thì sẽ bị giết. Bạn thân mến ơi, trong những lời than vãn chuộc tội của mình, anh có nghĩ rằng Mordaunt hy sinh chúng ta cho lòng hiếu tử của hắn ta không? Nếu đó là ý kiến của anh, thì hãy nói thật cho chúng tôi biết.

- Ôi! d Artagnan, bạn thân mến của tôi! - Kể ra thật tệ hại phải nhìn các sự việc theo phương diện đó. Thằng khốn nạn sắp phải một trăm giáp sĩ đến nghiền nát chúng ta như nghiền bột trong cái cối của ông Cromwell. Nào, lên đường thôi! Chúng ta mà nán lại đây năm phút thôi thì ta sẽ đi đời hết.

- Phải, cậu nói đúng đấy, ta lên đường thôi! - Arthos và Aramis nói.

- Nhưng đi đâu bây giờ? - Porthos hỏi.

Về khách sạn, lấy quần áo và ngựa. Rồi từ đó, nhờ Trời phù hộ, ta sẽ trở về Pháp, nơi ít ra tôi cũng còn biết về kiến trúc nhà cửa.

Thuyền đang đợi chúng ta, thực tình là hãy còn may đó.

Nói rồi, gắn liền lời giáo huân với những hành động nêu gương, d Artagnan tra đoạn gươm gãy vào vỏ, nhặt mũ, mở cửa cầu thang và bước vội xuống, ba người bạn theo sau.

Ra ngoài cổng, gặp lại mấy người hầu, họ hỏi tin tức về Mordaunt, nhưng bọn này chẳng thấy ai đi ra cả.

xem duoi dang EBOOK

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 74

Con tàu Tia chớp

Artagnan đã đoán đúng: Mordaunt không có thời giờ để mất và đã không để mất thời giờ! Biết rõ quyết định và hành động nhanh chóng của kẻ thù, nên hắn cũng quyết ra tay ngay. Lần này các chàng ngự lâm quân đã tìm được địch thủ ngang tài.

Sau khi đóng cửa cẩn thận sau lưng mình, Mordaunt tra thanh gươm vào võ, trườn xuống một đường hầm và lần sang ngôi nhà bên cạnh, Hắn dừng lại để lấy hơi và sờ nắn trong người.

- Tốt lắm! - Hắn nói, - Chẳng sao cả, chẳng có gì đáng kể: mấy vết xây xát, có thế thôi, hai vết ở cánh tay, một vết ở ngực. Nhưng vết thương do ta gây nên hay hơn nhiều! Cứ hỏi tên đao phủ xứ Béthune, cứ hỏi ông bác ta và vua Charles xem? Bây giờ không thể để mất một giây đồng hồ, vì chỉ chậm một giây thôi là chứng nó có thể trốn thoát; mà cần làm sao cho cả bốn tên kia chết cùng với nhau, chết cùng một đòn, tan xương, nát thịt, bay biến đi. Ta sẽ chạy cho đến lúc hai chân không còn mang nổi mình, trái tim rộng nở đầy lồng ngực, nhưng ta sẽ đến trước chúng nó. Mordaunt bắt đầu rảo bước nhanh hơn, nhưng đều dặn hơn đến trại kỵ binh đầu tiên cách đó gần một phần tư dặm và đi chừng mất bốn năm phút.

Đến trại, hắn xưng danh, rồi lấy con ngựa tốt nhất và phóng đi ngay. Mười lăm phút sau hắn đến Greenwich.

- Bến cảng kia rồi, - Hắn lẩm bẩm. - Chấm đen sẫm ngoài kia kia đảo Những con Chó. Hay thật! Ta vượt chừng nửa giờ... có lẽ một giờ. Ta ngốc thật! Suýt nữa thì mình chết ngạt vì sự vội vã điên cuồng ấy.

Hắn đứng lên bàn đạp để nhìn ra xa tìm giữa những đám dây dợ và cột buồm nói:

- Tia chớp, con tàu Tia chớp ở đâu?

Như để đáp lại mấy lời nói lầm bầm của hắn, một người nằm trên một cuộn dây thừng đứng dậy và tiến mấy bước về phía Mordaunt.

Mordaunt rút chiếc khăn tay ra và giơ phất phới trong gió một lát. Người kia tỏ vẻ chăm chú, nhưng vẫn đứng nguyên một chỗ, chẳng tiến mà cũng chẳng lùi một bước nào.

Mordaunt thắt nút lại ở bốn góc khăn tay, người kia đến sát gần. Đó là ám hiệu thỏa thuận. Người thủy thủ khoác một chiếc áo choàng len rộng che cả mặt, cất tiếng:

- Thưa ông, phải chăng tình cờ mà ông từ London đến đây để làm một chuyến du ngoạn trên biển.

- Rõ ràng như vậy, - Mordaunt đáp, - Tôi muốn đi ra phía đảo Những con Chó.

- Thế đấy. Chắc hẳn ông ưa thích một loại thuyền nào đó hơn phải không? Ông muốn thuyền chậm hay thuyền nhanh...

- Như tia chớp, - Mordaunt đáp.

- Hay lắm, thế thì đúng chiếc thuyền của tôi mà ông đang tìm.

- Tôi là người chủ thuyền đó.

- Tôi bắt đầu tin điều đó, - Mordaunt nói, - Nhất là nếu ông không quên ám hiệu nào đó.

- Thưa ông đây! - Người chủ thuyền rút trong túi áo choàng ra một chiếc khăn tay buộc nút ở bốn góc.

- Tốt lắm, tốt lắm? - Mordaunt reo lên và xuống ngựa. - Bây giờ gấp lắm rồi, ông hãy cho dẫn con ngựa này đến quán hàng gần đây và đưa tôi ra thuyền của ông.

- Nhưng những người đồng hành của ông đâu? - Chủ thuyền hỏi. - Tôi ngỡ rằng ông có bốn người cơ mà, không kể đầy tớ.

Mordaunt đến gần người thuỷ thuỷ và nói:

- Này ông, hãy nghe đây, tôi không phải là người mà ông chờ đợi cũng như ông không phải là người mà họ muốn tìm. Ông đã thay thế đại uý Roger phải không? Ông đến đây theo lệnh của tướng Cromwell; tôi cũng do ngài phải tới.

- QuẢả thật vậy, - Người chủ thuyền nói, tôi nhận ra ông, - Ông là đại uý Mordaunt.

Mordaunt giật mình.

- Ồ đừng sợ, - Người chủ thuyền kéo áo choàng xuống, ngả mũ ra và nói, - Tôi là một người bạn mà.

- A, đại uý Groslow! - Mordaunt reo lên.

- Chính tôi. Tướng quân nhớ rằng trước kia tôi là sĩ quan hải quân nên đã giao nhiệm vụ này. Có gì thay đổi không?

- Không có gì thay đổi cả. Trái lại mọi việc vẫn như đã định. Có lúc tôi nghĩ rằng cái chết của nhà vua...

- Cái chết của nhà vua càng thúc giục họ chạy trốn.

- Có lẽ trong mười lăm phút nữa họ sẽ tới đây.

- Thế ông đến đây làm gì?

- Để xuống thuyền với ông.

- A, a! Tướng quân hoài nghi nhiệt tình của tôi chẳng?

- Không phải thế đâu! Tôi muốn tự mình chứng kiến cuộc trả thù của tôi. Này, ông không có ai giúp mang con ngựa của tôi đi ư?

Groslow huýt sáo, một thủy thủ xuất hiện.

- Này Patric, - Groslow bảo, hãy dắt con ngựa này đến chuồng ngựa của quán hàng gần nhất. Nếu có người hỏi ngựa của ai thì nói rằng của một vị lãnh chúa Irlandais.

Người thủy thủ lẳng lặng rời bước.

- Ông không sợ họ nhận ra ông ư? - Mordaunt hỏi.

- Chẳng lo đâu! Tôi mặc như thế này, trùm cái áo choàng này trời tối như thế này. Vả lại, ông mà còn chẳng nhận ra tôi, thì họ làm sao mà nhận ra được.

- Đúng thế, - Mordaunt nói, - Với lại họ chẳng ngờ đến ông đâu.

- Mọi thứ sẵn sàng cả rồi chứ?

- Rồi.

- Thuyền chất hàng chưa?

- Rồi.

- Năm thùng đầy phải không?

- Và năm mươi thùng rỗng.

- Thế đấy.

- Chúng tôi chở rượu Portos đến Anvers.

- Tuyệt lắm. Bây giờ cho tôi xuống thuyền và ông hãy trở lại vị trí, vị họ đến ngay bây giờ đấy.

- Sẵn sàng.

- Điều quan trọng là không để cho ai trong số người của ông trông thấy tôi vào.

- Chỉ có một người ở trên thuyền và tôi tin ở hắn ta như chính mình. Vả chăng người ấy không biết ông, và cũng như đồng đội của hắn, hắn sẵn sàng phục tùng mệnh lệnh mà không hay biết gì hết.

- Tốt lắm, ta đi thôi.

Họ đi xuống phía sông Tamies. Một chiếc xuống nhỏ neo ở bến cảng bằng một xích sắt buộc vào một cái cọc. Groslow kéo cái xuồng nhỏ lại giữ cho Mordaunt xuống, rồi hắn nhảy xuống theo. Và ngay lập tức hắn cầm lấy mái chèo và chèo miết để chứng tỏ với Mordaunt điều hắn nói là thật, nghĩa là hắn không quên nghề thủy thủ của mình.

Năm phút sau, chiếc xuống thoát ra khỏi cái thế giới thuyền bè vào thời ấy luôn luôn bề bộn ở các vùng lân cận London và Mordaunt có thể trông thấy chiếc tàu buồm buông neo như một chấtm đen đang đung đưa ở cách đảo Chó chừng bốn năm tầm(1).

Đến gần tàu Tia chớp, Groslow huýt sáo ra hiệu và trông thấy một cái đầu ló ra trên thành tàu.

- Đại uý đấy à? - Người kia hỏi.

- Phải, ném thang xuống đây.

Nhanh nhẹn và nhẹ nhàng như một con én, Groslow leo lên và đứng bên gã thủy thủ. Không trả lời, Mordaunt nắm lấy sợi thừng và leo theo thành tàu một cách lanh lẹn và chắc chắn hiếm có đối với những người ở trên cạn; lòng háo hức trả thù của hắn đã thay thế cho thói quen và khiến hắn có khả năng làm được mọi việc.

Như Groslow đã dự kiến, người thuỷ thủ gác trên tàu Tia chớp không có vẻ gì nhận biết là chủ mình trở về cùng với người khác.

Mordaunt và Groslow đi đến phòng của thuyền trưởng. Đó là một ngăn đựng tạm bằng ván gỗ ở trên boong.

- Căn phòng danh dự đã được đại uý Roger nhượng cho hành khách.

- Bọn họ đâu? - Mordaunt hỏi.

- Ở cuối tàu Groslow đáp.

- Họ không có việc gì làm ở phía này ư?

- Chẳng có việc gì hết.

- Tuyệt lắm! Tôi sẽ nấp ở chỗ ông. Ông hãy trở lại Greenwich và dẫn họ đến đây. Ông có một chiếc xuồng nhỏ nào không?

- Chỉ có mỗi chiếc xuồng nhỏ đã đưa ông đấy thôi.

- Nó có vẻ nhẹ và chắc.

- Một thuyền thoi thực sự đấy.

- Hãy lấy dây chão buộc nó vào sau đuôi tàu, để mái chèo vào xuồng để nó có thể đi theo luồng tàu và khi cần thì chỉ việc cắt dây. Để sẵn rượu rhum và bánh qui trong xuồng. Nếu chẳng may biển động, người của ông sẽ chẳng bực mình thấy có sẵn các thứ để mà bồi bổ sức lực.

- Ông sẽ thấy được vừa ý. Ông có muốn thăm sợi dây mìn không?

- Không, - Mordaunt đáp. - Đợi lúc ông trở lại. Tôi muốn tự mình đặt dây mìn để chắc chắn là không cháy chậm. Chú ý che mặt để họ không nhận ra ông.

- Chuông đồng hồ Greenwich đang điểm mười giờ.

- Cứ yên trí.

Thật vậy, mười tiếng chuông ngân vang rầu rĩ quyện qua bầu trời chứa đầy những đám mây khổng lồ đang trôi đi giống như những làn sóng im lặng.

Groslow khép cửa lại và Mordaunt cài chốt bên trong. Sau khi ra lệnh cho người thuỷ thủ gác canh phòng thật cẩn mật, Groslow xuống thuyền. Chiếc thuyền nhanh chóng rời xa, đôi mái chèo khuấy nước bọt ngầu.

Khi Groslow cập bến Greenwich, gió thổi lạnh và con đường đập vắng tanh; nhiều thuyền bè vừa lên bờ thì nghe như có tiếng ngựa phi trên con đường lát đá.

- Ồ, ồ! - hắn nói, - Mordaunt giục ta gấp lên là đúng. Không thể chậm trễ được nữa, họ tới kia rồi.

Quả nhiên, đó là những người bạn của chúng ta hay nói đúng hơn là nhóm tiền trạm gồm d Artagnan và Arthos. Đến trước nơi Groslow đứng, họ đứng lại như đã đoán ra rằng đó là người họ cần tìm. Arthos xuống ngựa và lặng lẽ giơ một chiếc khăn tay buộc nút ở bốn góc và phất lên trước gió, trong khi d Artagnan bao giờ cũng thận trọng, hơi cúi mình trên yên ngựa, một tay thọc vào bao súng.

Ngồi xổm sau một chiếc nòng đại bác chôn xuống đất dùng để cột các dây thuyền, Groslow ngỡ rằng các kỵ sĩ kia là những người hẳn đang đợi, lại trông thấy ám hiệu đã định hẳn đứng dậy và bước thẳng đến chỗ họ. Hắn trùm áo choàng kín mít, nên trông không rõ mặt. Vả chăng tròi tối như mực nên việc phòng bị cũng bằng thừa.

Tuy nhiên, mặc dầu bóng tối, con mắt sắc sảo của Arthos vẫn đoán ra rằng không phải kẻ đứng trước mặt anh là Roger.

Arthos lùi lại một bước và hỏi:

- Ông cần gì?

Groslow bắt chước giọng Irlandais và nói:

- Thưa Milord, tôi muốn thưa với ngài rằng ngài định tìm ông chủ tàu Roger, nhưng uổng công thôi.

- Sao vậy? - Arthos hỏi.

- Bởi vì sáng nay ông ta ngã từ trên cột buồm quan trắc và bị gẫy đùi. Tôi là em họ của ông Roger, nên ông ta kể với tôi tất cả mọi việc và nhờ tôi thay ông ra đón ngài và các vị quý tộc có mang chiếc khăn tay buộc nút ở bốn góc giống như cái khăn tôi có ở trong túi đây. Tôi sế đưa các ngài đi bất cứ nơi nào các ngài muốn.

Nói rồi Groslow móc túi ra chiếc khăn mà hắn đã giơ cho Mordaunt xem.

- Có thế thôi à? - Arthos hỏi.

- Ấy thưa ngài, còn bảy mươi lăm livres đã hứa nếu tôi đưa các ngài yên ổn đến Boulogne-sur-Mer hoặc một nơi nào đó ở nước Pháp mà các ngài cho biết.

Arthos quay sang hỏi d Artagnan bằng tiếng Pháp:

- Cậu thấy việc đó thế nào?

- Hắn nói gì đã chứ? - D Artagnan đáp.

- Ở nhỉ, - Arthos nói, - Mình quên rằng cậu không biết tiếng Anh.

Và anh kể lại cho bạn những lời trao đổi vừa rồi với người chủ tàu.

- Điều ấy có vẻ thật đấy. - D Artagnan đáp.

- Tôi cũng nghĩ thế, - Arthos nói.

- Với lại d Artagnan nói, - Nếu như người này lừa dối ta, ta vẫn có thể bắn vỡ sợ nó.

- Thế ai sẽ dẫn đạo chúng ta?

- Anh đấy, Arthos ạ. Anh biết đủ thứ ở trên đời và tôi chẳng hồ nghi là anh không biết lái một con tàu.

Arthos mỉm cười bông đùa và nói:

- Bạn ơi, thực tình là cậu nói khoác thật đúng lúc. Cha tôi ngày trước hướng cho tôi làm nghề hàng hải, cho nên tôi cũng biết đôi chút về việc lái tàu.

- Anh thấy chưa. - D Artagnan reo lên.

- Vậy cậu hãy đi tìm các bạn chúng ta và trở lại đây. Mười một giờ đêm rồi, chẳng còn nhiều thì giờ nữa đâu.

D Artagnan tiến về phía hai kỵ sĩ cầm súng ngắn đang đứng gác ở những ngôi nhà đầu tiên của thị trấn.

Ba kỵ sĩ khác cũng đứng canh có vẻ chờ đợi, họ nép vào một nhà kho sát bờ đường.

Hai kỵ sĩ đứng giữa là Porthos và Aramis. Ba kỵ sĩ ở cạnh nhà kho là Mousqueton, Blaisois và Grimaud.

Nhưng nhìn gần thì thấy sau lưng ngựa của Grimaud còn có người em của Parry. Anh ta phải dẫn trở lại London những con ngựa của mấy ông chủ và người hầu đã bán cho chủ khách sạn để trả tiền trú ngụ. Cũng nhờ vậy mà bốn người bạn còn dư ra được một số tiền, nếu không phải là to tát thì ít ra cũng đủ chi dùng trong những khi bị chậm trễ hoặc xảy ra những chuyện bất thường.

D Artagnan rỉ tai bảo Porthos và Aramis đi theo mình và mấy người này lại ra hiệu cho bọn đầy tớ xuống ngựa và tháo các bọc quần áo ra.

Người em của Parry lưu luyến chia tay bạn bè. Họ mời anh ta sang Pháp, nhưng anh khăng khăng từ chối.

- Cũng đơn giản thôi - Mousqueton giải thích, - Anh ta còn có ý định trả thù Groslow.

- Ta còn nhớ rằng chính Groslow đã đập vỡ sọ anh ta.

Toán người theo kịp Arthos. Nhưng d Artagnan đã lấy lại tính đa nghi tự nhiên của mình. Anh thấy trên hè vắng vẻ quá, đêm tối đen quá, chủ tàu dễ dãi quá.

Anh kể lại những việc xảy ra cho Aramis nghe, anh chàng này không kém đa nghi càng góp phần làm tăng thêm những nỗi nghi ngại của bạn.

Một tiếng chậc nhỏ báo cho Arthos biết những nỗi băn khoăn của chàng Gascon.

- Chúng ta chẳng có thì giờ để hoài nghi đâu, - Arthos nói, - Chiếc thuyền đang đợi chúng ta, ta vào đi.

- Với lại ai cấm chúng ta cứ vào mà vẫn cứ hoài nghi, - Aramis nói. - Ta sẽ theo dõi chủ thuyền.

- Nếu hắn không đường đường chính chính, tôi sẽ đập vỡ sọ nó ra, có thế thôi...

- Porthos nói hay lắm, - D Artagnan bảo. - Nào, ta vào đi. Đi, Mousqueton.

D Artagnan ngăn các bạn lại, cho bọn gia nhân qua trước để thử tấm ván bắc từ con đập ra thuyền.

Ba tên hầu sang thuyền yên ổn.

Arthos theo sau họ, rồi đến Porthos và Aramis; d Artagnan sang sau cùng, vừa đi vừa lắc đầu.

- Cậu làm cái quái gì thế? - Porthos nói. - xin thề là cậu làm cho Césars cũng phải sợ.

D Artagnan đáp:

- Trên cái bến này, tôi thấy chẳng có người kiểm tra, chẳng có một tên lính gác chẳng có nhân viên thuế quan.

- Vậy mà cậu than vãn ư? Porthos nói. - Mọi việc trôi chảy như trên một đường dốc nở hoa.

- Mọi việc trôi chảy quá, Porthos ạ. Mặc kệ, rốt cuộc, nhờ ơn Chúa.

Tấm ván vừa rút lên, chủ thuyền ngồi vào đằng lái và ra hiệu cho một thuỷ thủ dùng một cây sào đẩy cho thuyền ra khỏi chốn mê lộ những tàu với bè.

Một thủy thủ khác đứng sẵn ở mạn trái thuyền tay cầm mái chèo.

Khi ra được chỗ thoáng, bạn hắn đến cùng chèoo và thuyền bắt đầu lướt nhanh.

- Cuối cùng chúng ta ra đi! - Porthos nói.

- Than ôi! - Bá tước de Là Fère đáp, - Chúng ta ra đi không có thêm ai!

- Phải rồi, nhưng cả bốn người chúng ta cùng đi, không một vết xước, đó là một điều an ủi.

- Chúng ta chưa đến nơi đâu, - D Artagnan nói. - Hãy coi chừng những cuộc chạm trán.

- Ơ này, bạn thân mến ơi, - Porthos nói. - Cậu giống như những con quạ ấy, cậu toàn kêu điều gở. Ai có thể gặp gỡ chúng ta trong cái đêm tối mù mịt như thế này, cách xa hai chục bước chẳng còn nhìn thấy gì hết.

- Phải, nhưng sáng mai thì sao? - D Artagnan nói.

- Sáng mai chúng ta sẽ ở Boulogne-sur-Mer.

- Tôi thành tâm cầu mong điều đó, - Chàng Gascon nói, -

Và tôi thú nhận nỗi yếu đuổi của tôi. Arthos này, anh sắp cười đấy, nhưng chừng nào chúng ta còn ở trong tầm súng của con đập hoặc những tàu bè ven đó, tôi vẫn thấp thỏm đợi chờ một loạt đạn khủng khiếp nào đó sẽ nghiền nát tất cả chúng ta.

- Nhưng mà, - Porthos nói về biết suy nghĩ, - Đó là điều không thể có được, bởi vì người ta sẽ giết chết luôn cả chủ thuyền lẫn thuỷ thủ.

- Ô hay, đó là một việc quan trọng đối với ông Mordaunt đó hả?

- Cậu tưởng ằng ông ấy quá câu nệ như thế ư?

- Rốt cuộc, - Porthos nói, - Tôi rất khoái thấy d Artagnan thú nhận là cậu ta sợ.

- Không những tôi thú nhận, mà tôi còn tự phụ là khác. Tôi chẳng phải là con tê giác cứ húc bừa như cậu. Ơ này, cái gì thế kia?

- Tia chớp đó, - Chủ thuyền nói.

- Chúng ta đến rồi ư? - Arthos hỏi bằng tiếng Anh.

- Đến rồi! - Thuyền trưởng nói.

Quả thật, sau ba nhát chèo, con thuyền đã cập mạn chiếc tàu nhỏ.

Người thuỷ thủ đang đợi, cái thang đã buông sẵn, hắn đã nhận ra con thuyền.

Arthos leo lên trước tiến nhanh nhẹn như thuỷ thủ thực thụ.

Aramis từ lâu đã quen với thang dây và những phương tiện khác ít nhiều sáng tạo dùng đề vượt qua những nơi cấm đoán. D Artagnan thì như một thợ săn hươu nai và hoẵng. Còn Porthos thì cứ lấy sức mà giẫy.

Leo thang dây đối với mấy tên đầy tớ khó khăn hơn. Không phải với Grimaud, bác như giống mèo ống máng, gầy và thon, bao giờ cũng tìm được cách leo lên mọi chỗ. Nhưng đối với Mousqueton và Blaisois, mấy người thủy thủ buộc phải đẩy họ lên đến ngang tầm tay của Porthos, rồi chàng hộ pháp cứ tóm lấy cổ áo của họ mà lôi lên boong tàu.

Thuyền trưởng dẫn hành khách vào phòng đã sửa soạn cho họ, nó gồm có mỗi một gian, cho nên họ phải ở chung. Rồi hắn đi ra, viện cớ phải sai phải làm các việc.

- Khoan đã, - D Artagnan bảo, - Ông chủ ơi, ông có bao nhiêu người ở trên tàu?

- Tôi không hiểu, - Hắn trả lời bằng tiếng Anh.

- Arthos dịch hộ tôi với.

Arthos hỏi lại bằng tiếng Anh.

- Ba người, - Groslow đáp, - Tất nhiên không kể tôi.

D Artagnan hiểu, vì chủ tàu vừa nói vừa giơ ba ngón tay.

- Ồ ba à? - D Artagnan nói. - Tôi bắt đầu yên tâm hơn. Mặc lòng, trong khi các cậu sửa soạn chỗ nằm, tôi đi một vòng quanh tàu xem sao.

- Còn tôi, - Porthos nói, - Tôi đi lo bữa tối.

- Cái dự tính ấy thật đẹp đẽ và hào hiệp, Porthos ạ, hãy thực hiện ngay đi. Còn Arthos, anh hãy cho tôi mượn gã Grimaud, khi đánh bạn với Parry hắn đã học sủa được chút ít tiếng Anh; hắn sẽ làm thông ngôn cho tôi.

- Đi đi, Grimaud, - Arthos bảo.

Một tay cầm khẩu súng ngắn, một tay nhấc sẵn chiếc dèn có sẵn ở trên bong, d Artagnan bảo chủ tàu:

- Come!

Cùng với chữ Goddam(2), đó là tất cả những gì anh nhớ được trong tiếng Anh.

D Artagnan đi đến cửa quầy tàu và xuống sàn giữa.

Sàn giữa chia làm ba khoang; khoang d Artagnan đang xuống nó có thể kéo dài từ cột buồm nhỏ thứ ba đến tận đuôi tàu, phía trên nó là ván sàn phòng Arthos, Porthos và Aramis đang sửa soạn nghỉ ngơi. Khoang thứ hai ở giữa tàu dùng làm nơi nghỉ cho bọn đầy tớ. Khoang thứ ba kéo dài dưới mũi tàu, nghĩa là dưới cái buồng mà thuyền trưởng dựng tạm và Mordaunt nấp trong đó.

D Artagnan vừa bước xuống thang vừa dang tay giơ chiếc đèn ra phía trước và nói:

- Ồ, ồ, sao mà lắm thùng gỗ thế này. Hẳn là căn hầm của Ali Baba(3).

- Ông nói cái gì thế? - Gã thuyền trưởng nói bằng tiếng Anh.

D Artagnan hiểu qua giọng nói. Anh đặt chiếc đèn lên một thùng rượu và nói:

- Tôi muốn biết có cái gì trong những thùng này.

Chủ tàu toan trèo lên thang, nhưng lại thôi.

- Porthos! - hắn đáp.

- A, rượu vang portos hả? - D Artagnan nói. - Dù sao cũng yên tâm, chúng ta sẽ không chết khát.

Rồi quay lại phía Groslow đang lau mồ hôi hột đổ trên trán, anh hỏi:

- Các thùng có đầy không?

Grimaud dịch lại.

- Có thùng đầy, Có thùng rỗng, - Groslow trả lời bằng một giọng dù cố gắng tự nhiên vẫn lộ ra vẻ lo lắng.

D Artagnan lấy tay gõ gõ vào các thùng thấy rằng có năm thùng đầy, còn các thùng khác đều rỗng. Rồi trước sự kinh hoàng của gã người Anh, anh soi đèn vào khe thùng và thấy rằng các khe thùng đều trống.

- Thôi, ta đi nào, - Anh nói và tiến về phía cửa thông sang khoang thứ hai.

Viên thuyền trưởng đứng ở phía sau luôn luôn hốt hoảng, nói:

- Khoan đã, tôi có chìa khoá của cửa ấy.

Và vội vàng đi trước d Artagnan và Grimaud, hắn run run tay tra chìa khoá vào ổ. Mousqueton và Blaisois sắp sửa ăn bữa tối.

Trong khoang này rành rành chẳng có gì để tìm kiếm hoặc lấy ra cả: ánh đèn soi rõ những người bạn đồng hành xứng đáng ấy và tất cả mọi ngóc ngách.

Người ta chuyển sang thăm khoang thứ ba.

Đó là phòng các thuỷ thủ.

Ba bốn chiếc võng mắc ở trần; một cái bàn treo bằng hai sợi dây luồn qua mỗi đầu bàn, hai cái ghế một và gãy chân, đó là tất cả đồ đạc trong phòng.

D Artagnan tới vén mấy tấm rèm treo ở vách và chẳng thấy gì khả nghi, anh trở lên trên boong.

- Thế còn căn buồng này? - Anh hỏi.

Grimaud dịch ra tiếng Anh và chủ tàu đáp:

- Đó là buồng của tôi. Ông có muốn vào không?

- Mở cửa ra, - D Artagnan bảo.

Chủ tàu tuân theo, d Artagnan giơ đèn và ló đầu qua cánh cửa hé mở và thấy rằng căn buồng đó là một túp lều thật sự. Anh nói:

- Tốt! Nếu có một đội quân ở trên tàu, thì chẳng phải nó được giấu ở đây. Thôi ta về xem Porthos đã kiếm được cái gì ăn chưa?

Rồi gật đầu cảm ơn chủ tàu, anh trở về căn phòng danh dự có các bạn anh ở đó.

Hình như Porthos chẳng kiếm được gì ăn cả, hoặc giả - Nếu có kiếm được cái gì đó thì do cái mệt thắng cái đói, anh nằm trong tấm áo choàng, và lúc d Artagnan về thì anh đã ngủ say.

Được những cơn sóng biển đầu tiên ru êm, Arthos và Aramis cũng lim dim con mắt và mở choàng khi nghe tiếng bạn bước vào.

- Thế nào? - Aramis hỏi.

- Ổn cả, - D Artagnan đáp, - Chúng ta có thể ngủ yên.

Được đảm bảo như vậy, Aramis lại ngả đầu xuống sàn, Arthos gật đầu thân ái, và d Artagnan, cũng như Porthos, còn cần ngủ hơn là ăn, anh nằm ngủ trong chiếc áo choàng, gươm tuốt trần, mình chắn ngang lối đi để không ai có thể đi vào mà không đụng phải anh.

Chú thích:

(1) Tầm bằng 1 phần 10 hải lý, tức 185 mét.

(2) Come: lại đây!

Goddam: tiếng rủa

(3) Truyện "Nghìn lẻ một đêm" hồi ấy vừa mới được dịch ra lần đầu tiên và rất thịnh hành. Trong truyện "Nghìn lẻ một đêm" Ali Baba dùng các thùng rỗng để nhốt những tên cướp.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top