hai muoi nam sau 122

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Chương 1

Bóng ma của Richelieu

Trong căn phòng của Cung giáo chủ mà chúng ta đã từng biết, bên chiếc bàn có góc thếp vàng trên chất đầy giấy tờ sổ sách, một người đang ngồi tì đầu lên hai bàn tay. Phía sau ông ta là một lò sưởi lớn đỏ rực lửa, những thanh củi bốc cháy đổ sụt trên những thanh sắt rộng vàng chóe. Ánh lò sưởi soi rọi phía sau bộ y phục lộng lẫy của con người trầm ngâm được ánh cây đèn thắp đầy nến chiếu sáng từ phía trước.

Cứ nhìn tấm áo dài đỏ tía và những thêu ren sang trọng ấy, nhìn vầng trán xanh xao vọng dưới những suy tư, nhìn cảnh quạnh hiu của căn phòng, sự yên tĩnh ở các tiền sảnh, bước đi đều đặn của lính vệ trên thềm, người ta có thể tưởng như vong hồn của cố giáo chủ tể tướng Richelieu (1) vẫn còn ngự trong phòng của ông ta.

Hỡi ơi! Quả thực đó chỉ là vong hồn của con người vĩ đại ấy. Nước Pháp suy yếu, quyền lực của nhà vua không dược biết đến, các quan đại thần lại mạnh lên và hiếu loạn. Kẻ thù lấn vào tận bên trong biên thuỳ, mọi thứ chứng tỏ rằng Richelieu không còn ở đây nữa.

Nhưng điều rõ hơn tất cả rằng tấm áo dài đỏ không phải là tấm áo của vị cố giáo chủ, ấy là sự cô đơn của một bóng ma hơn là một kẻ đang sống, ấy là những dãy hành lang vắng bóng các cận thần, những sân đầy những vệ sĩ, ấy là cái tinh thần nhạo báng bốc lên từ phố phường nó xuyên qua những cửa kính của căn phòng này đang bị lay động trước hơi thở của cả một kinh thành liên minh chống lại tể tướng, sau hết ấy là tiếng súng xa xa không ngớt dội về, may thay chỉ bắn vu vơ và không kết quả cốt làm sao cho bọn vệ sĩ, bọn lính gác Thuỵ Sĩ, đám ngự lâm quân và các binh lính bao quanh Hoàng cung - chính là Cung giáo chủ đã đổi tên - hiểu rằng nhân dân cũng có vũ khí.

Cái bóng ma ấy của Richelieu chính là Mazarin(2).

Vì chưng Mazarin đơn độc và tự cảm thấy mình hèn yếu.

Ông ta lẩm bẩm:

- Người ngoại quốc? Người Ý! Đấy những lời đao to búa lớn mà chúng buông ra! Với lởi ấy, chúng ta đã ám sát treo cổ, xé xác Concini (3) và nếu ta để mặc chứng, ắt chúng cũng sẽ ám sát ta, treo cổ ta, xé xác ta như vậy; mặc dù ta chẳng hề gây cho chúng một điều tai hại gì ngoài việc bóp nặn chúng một tí chút. Đồ ngu ngốc? Vậy là chúng không thấy rằng kẻ thù của chúng không phải lão người Ý này nói tiếng Pháp không sõi mà chính là cái bọn kia, họ có tài nói năng với chúng những lời hoa mỹ bằng cái giọng Paris thật là thuần tuý và tuyệt diệu.

- Phải rồi, phải rồi, - vị tể tướng nói tiếp và xảo quyệt cười, lần này cái cười có vẻ lạ lẫm trên đôi môi nhợt nhạt, - phải rồi, những tiếng đồn của các ngươi đã nói với ta điều đó, số phận của các sủng thần là bấp bênh, nhưng nếu các người biết điều đó thì các người cũng phải biết rằng ta đây, ta chẳng phải là một sủng thần tầm thường. Bá tước D Essex có một cái nhẫn tuyệt đẹp nạm đầy kim cương mà nữ hoàng tình nhân đã tặng: còn ta chỉ có một chiếc nhẫn bình thường với một con số ngày tháng(4), nhưng nó đã được ban phước tại tiểu thánh đường trong Hoàng cung, cho nên họ sẽ không phế bỏ ta theo nguyện vọng của họ. Họ chẳng nhận thẩy rằng với tiếng hô muôn thuở của họ: "Đả đảo lão Mazarin!" ta đã hô với họ, khi thì de Beaufort(5) muôn năm, khi thì ngài Hoàng thân muôn năm?

- Này! Ông de Beaufort đang ở Vinxen; Hoàng thân nay mai sẽ đến theo ông ta, còn nghị viện...

Đến đây, nụ cười của giáo chủ biểu hiện một vẻ thù hằn dường như không thể có được trên gương mặt vốn dịu dàng của ông.

- Nào! Nghị viện... Chúng ta xem xét sẽ làm gì cải nghị viện này. Có Orléans(5). Ồ! Ta sẽ để thì giờ xem xét. Song những ai đã hô đả đảo Mazarin cuối cùng sẽ phải hô đả đảo tẩt cả những kẻ đó, người nào phiên nấy. Richelieu khi còn sống bị bọn họ căm ghét và khi chết còn bị họ nhắc đến luôn trước kia còn thấp kém hơn ta, bới vì ông ta đã bị nhiều lần xua đuổi và luôn luôn nơm nớp còn bị xua đuổi nhiều hơn nữa. Hoàng hậu, chẳng bao giờ xua duổi ta đâu, còn nếu ta bị ép buộc phải nhượng bộ dân chúng thì nàng sẽ nhượng bộ cùng với ta; nếu ta chạy trốn, nàng cũng sẽ bỏ trôn và chúng ta sẽ thấy bọn phiến loạn xoay xở thế nào khi không có hoàng hậu, không có đức vua của họ. Ôi! Giá như ta không phải là người ngoại quốc, giá như ta là người Pháp, giá như ta là người quý tộc!

Và ông ta lại rơi vào trạng thái trầm ngâm.

Quá thật, tình thế đang khó khăn, và cái ngày vừa trôi qua càng thêm phức tạp. Luôn luôn bị tính biền lận bẩn thỉu thôi thúc, Mazarin chà siết dân chúng bằng thuế khoá, và dân chúng ấy chỉ còn lại có linh hồn như tổng trạng sư Talon nói, và hơn nữa, vì người ta không thể đem linh hồn ra bán tầm tầm, cho nên đám dân chúng mà người ta cố làm cho họ kiên nhẫn bằng tiếng đồn về những trận chiến thắng đã giành được, họ thấy những vòng nguyệt quế chẳng phải là thịt để có thể nuôi sống mình, đám dân chúng ấy từ lâu đã bắt đầu xì xào kêu ca.

Nhưng đó chưa phải là tất cả, vì khi dân chúng xì xào, triều đình không nghe thấy do nó vốn bị ngăn cách bởi giới thị dân và các nhà quý tộc Nhưng Mazarin đã dại dột đánh vào các pháp quan! Ông ta đã bán mười hai tờ chứng chỉ uỷ viên thỉnh nguyện, và do các án quan trả giá cho những chức vị của họ quá đắt và sự gia nhập của mười hai bạn đồng nghiệp kia tất làm giảm giá những chức vị đó, những án quan cũ đã hợp nhau lại, thề trước kinh Phúc âm là sẽ không chịu sự tăng thêm ấy và kháng cự lại mọi sự ngược đãi của triều đình; họ hứa hẹn với nhau là trong trường hơp một ngươi trong bọn họ do sự phản kháng ấy mà mất chức vị của mình thì họ sẽ cùng nhau đóng góp để hoàn lại tiền cho người ấy.

Đây là chuyện xảy ra từ hai phía đó:

Ngày bảy tháng Giêng, bảy đến tám trăm nhà buôn tập hợp và bị kích loạn về một khoản thuế mới mà người ta muốn đánh vào các trạch chủ, và họ đã cử mười đại biểu đến trình bày với quận công Orléans, người vốn có thói quen lấy lòng dân. Quận công tiếp họ và họ tuyên bố sẽ quyết định không đóng khoản thuế mới cho dù có phải dùng vũ lực chống lại quan quân của nhà vua đến thu thuế. Quân công Orléans lắng nghe với vẻ rất ân cần, làm họ hy vọng một sự giảm nhẹ nào dấy, hứa sẽ trình lại với hoàng hậu và đã tông biệt họ bằng lời nói thông thường của các ông hoàng: "Người ta sẽ xem xét".

Về phía mình, ngày mồng chín, các uỷ viên thỉnh nguyện của Tham chính viện đến gặp giáo chủ tể tướng, và một người thay mặt họ phát ngôn đã nói năng rất cương quyết và táo bạo đến nỗi giáo chủ sửng sốt; ông ta tống khứ họ ra và nói giống như quận công Orléans rằng người ta sẽ xem xét.

Thế là, để xem xét, người ta đã họp hội đồng và cho đi tìm quan Tổng giám tài chính d Emery.

Cái ông d Emery này bị dân chúng ghét cay ghét đắng, trước hết bởi vì ông ta là tổng giám tài chính, mà bất cứ tổng giám tài chính nào cũng đều bị ghét cả; sau nữa phải nôi rằng vì ông ta ít nhiều cũng xứng đáng bị ghét.

Ông ta là con trai một chủ ngân hàng thành Lyon tên gọi Particelli, sau khi bị vỡ nợ bèn đổi tên là d Emery. Nhân thấy ông ta có khả năng rất lớn về tài chính, giáo chủ de Richelieu đã tiến cử ông với vua Louis XIII dưới cái tên d Emery và do muốn phong ông làm giám quan tài chính nên đã nói rất tốt về ông ta.

- Hay tuyệt? - Nhà vua trả lởi. - Ta hài lòng là khanh trình với ta ông d Emery để tiến cử vào chỗ đòi hỏi một con người lương thlện. Ta nghe nói khanh tán trợ cái tên Particelli vô lại ấy, và ta lo khanh sẽ ép ta dùng hắn.

- Tâu hoàng thượng, - ngài giáo chủ đáp, - xin Hoàng thượng yên lòng, tên Particelli mà Hoàng thượng vừa nóỉ đến đã bị treo cổ rồi ạ

- A! Hay lắm! - Nhà vua reo lên. - Như vậy chẳng phải không dưng thiên hạ gọi là Louis Công minh.

Và ngài ký giấy bổ nhiệm ông d Emery. cũng vẫn cái ông d Emery ấy trở thành tổng giám tài chính. Người ta đi tìm ông theo lệnh tể tướng và ông chạy đến mặt tái mét và hốt hoảng, nói rằng con trai ông suýt bị ám sát ngay ban ngày giữa quảng trường Hoàng cung: đám đông gặp anh ta và chê trách sự xa hoa của vợ anh ta, mụ này có một căn nhà chăng nhung đỏ với những lụa ren bằng vàng. Đó là con gải của Lơ Camuy, tổng trưởng năm 1617. Ông này khi đến Paris chỉ có hai mươi livrơ, nay tự dành cho mình bốn mươi nghìn livrơ niên thu và vừa mới chia chín triệu cho các con.

Con trai d Emery suýt chết nghẹt vì một trong những người nổi loạn bắt phải ép hắn cho đến khi hắn phải nhả chỗ vàng đã ngốn.

Ngày hôm ấy Hội đồng chẳng quyết nghị được gì, vì viên tổng giám quá bấn bíu về sự cố đó nên chẳng còn bụng dạ nào mà bàn định.

Ngày hôm sau ông đệ nhất chủ tịch Nghị viên Mathieur Molé mà lòng quả cảm trong mọi công việc như giáo chủ de Retz nói, ngang với ngài quận công de Beaufort và ngài hoàng thân de Condé(7), nghĩa là hai người được coi như dũng cảm nhất nước Phảp, ngày hôm sau, đến lượt mình ông đệ nhất chủ tịch bị tiến công. Dân chúng đe doạ là ông ta phải gánh chịu trách nhiệm tất cá những tai hoạ mà người ta gây ra cho họ; nhưng với vẻ bình tĩnh thông thường, ông đệ nhất chủ tịch không xúc động và không kinh ngạc, ông đệ nhất chủ tịch đã trả lời rằng nếu những kẻ phiến loạn không tuân theo ý nhà vua, ông ta sẽ cho dựng những giá treo cổ ở các quảng trường để treo cổ ngay tức khắc những kẻ ngỗ ngược nhất trong bọn họ. Bọn này bên đáp lại rằng họ không yêu cầu gì hơn là dược trông thấy dựng lên những giá treo cổ, và chúng sẽ dùng để treo cổ những viên pháp quan tồi đã đi mua ân sủng của triều đình bằng giá sự khốn cùng của nhân dân.

Chưa hết, ngày mười hai, hoàng hậu đi dự lễ ở nhà thờ Đức Bà, việc bà thường làm đều đặn vào các ngày thứ bảy, thì hơn hai trăm phụ nữ bám theo vừa kêu la vừa xin được thừa nhận quyền lợi. Kể ra họ không có một ý đồ xấu nào, chỉ muốn quỳ trước hoàng hậu đề cầu bà rủ lòng thương; song vệ sĩ đã ngăn cản họ và hoàng hậu cứ ngạo mạn và kiêu hãnh đi qua mà chẳng để tai đến những tiếng kêu gào của họ.

Buổi chiều hội đồng họp và quyết nghị giữ vững quyền lực của nhà vua, do đó nghị viện được triệu tập vào ngày hôm sau tức ngày mười hai.

Ngày hôm ấy, cải ngày mà vào buổi chiều tối, chúng tôi mở đầu câu chuyện mới mẻ này, nhà vua khi ấy mới mười tuổi và vừa mắc bệnh thỷy đậu xong, mượn cớ đi nhà thờ Đức Bà để lễ tạ ơn bình phục, đã bố trí vệ sĩ, lính Thuỵ Sĩ và lính ngự lâm, rải quân xung quanh Hoàng cung, trên các kè và trên Cầu Mới, và sau khi nghe kinh misa, nhà vua bèn sang nghị viện. Ở đó trên một chiếc ngai ngự dựng bất ngờ, nhà vua không những giữ nguyên những chỉ dụ cũ mà còn đặt năm, sáu cái mới, tất cả những điều giáo chủ de Retz nói đều tai hại chẳng kém gì nhau. Đến nỗi ông đệ nhất chủ tịch như ta đã thấy, những hôm trước vẫn đồng tình với triều đình, mà nay cũng hết sức bất bình về cái cách đưa nhà vua đến Cung để tập kích và vi phạm sự tự do đầu phiếu.

Nhưng những người phản đối mạnh mẽ nhất những thuế khoá mới là ông chủ tịch Blancmensnil và ông tham nghị Broussel.

Các chỉ dụ đó ban xong, vua trở về Hoàng cung. Một trăm dân chúng đông nghịt đang đi trên dường, họ biết nhà vua từ nghị viện về, nhưng vì không biết nhà vua họp ở đó để thừa nhận quyền lợi của nhân dân hay để tiếp tục áp bức họ, nên không một tiếng kêu mừng rỡ nào vang lên khi vua đi qua để chúc mừng nhà vua đã bình phục. Trái lại, tất cả các gương mặt đều rầu rĩ và lo lắng; có vài người còn tỏ vẻ sừng sộ.

Mặc dầu nhà vua đã ra về, các toán lính vẫn ở nguyên tại chỗ: người ta lo ngại một cuộc bạo loạn bùng nổ khi biết kết quả phiên họp nghị viện; và quả nhiên, tiếng đồn vừa mới lan ra các phố rằng đáng lẽ phải giảm nhẹ thuế nhà vua lại tăng thêm thì các nhóm tập họp lại và những tiếng la hét vang ầm lên: "Đả đảo Mazarin? Broussel muôn năm! Blancmensnil muôn năm!" vì dân chúng biết rằng Broussel và Blancmensnil đã lên tiếng ủng hộ họ; và tuy tài hùng biện của các ông bị thất bại, họ vẫn tỏ lòng biểt ơn.

Người ta muốn giải tán các đám dân chúng, muốn dập tắt các tiếng kêu, nhưng càng thế các đám người càng đông lên và những tiếng kêu la càng tăng gấp bội. Lệnh vừa mới ban ra cho lĩnh ngự vệ và lính Thuỵ Sĩ, không những phải giữ vững, mà còn phải đi tuần tra trong các phố Saint-Denis và Saint-Martin, nơi các đám người có vẻ đông đảo hơn và nhộn nhạo hơn, thì ở Hoàng cung người ta thông báo có ông thị trưởng thành phố đến.

Ông ta được dẫn vào ngay: ông nói rằng nếu không chấm dứt ngay lập tức những cuộc thị uy thù nghịch, thì trong hai giờ nữa toàn thành phố Paris sẽ vũ khí sẵn sàng.

Người ta đang bàn luận xem phải làm gì thì viên trung uý thị vệ đoàn Comminger trở về quần áo tả tơi và mặt mày đầm đìa máu.

Thấy ông ta xuất hiện, hoàng hậu kinh hãi kêu lên và hỏi xem có chuyện gì.

Như ông thị trưởng đã dự kiến; nhìn thấy các toán lính gác, dân tình nổi xung lên. Người ta chiếm các tháp chuông và rung chuông báo động. Comminger đã chống cự tốt, bắt giữ một người đàn ông có vẻ là một trong những tay phiến động chủ yếu, và để làm gương đã ra lệnh treo cổ anh ta ở bãi Thập tự T rahoa. Binh lính lôi anh đi để thi hành lệnh, nhưng đi đến dãy chợ thì bị tiến công bằng gạch đá và giáo mác, kẻ phiến loạn thừa cơ chạy thoát ra phố Lômba và chạy bổ vào trong một ngôi nhà. Nhà bị phá cửa ngay lập tức. Nhưng bạo lực ấy cũng vô ích, không thể tìm thấy tội phạm.

Comminger để lại một trạm gác trong phố và cùng số lính còn lại của đơn vị trở về Hoàng cung để tâu với hoàng hậu về sự việc đã xảy ra. Suốt dọc đường, ông ta bị những tiếng la ó và đe doạ đuổi theo, nhiều lính của ông bị giáo mác đâm bị thương và bản thân ông bị một hòn đá đáp rách chỗ lông mày.

Câu chuyện của Comminger làm vững thêm ý kiến của ông thị trưởng - người ta chưa đủ sức đương đầu với một cuộc nổi loạn thực sự; ông giáo chủ cho loan tin trong dân chúng rằng các toán quân rải trên các kè và Cầu Mới chỉ là nhân dịp làm lễ và sắp rút đi.

Quả thật vào lúc bốn giờ chiều, các toán quân tập trung cả về phía Hoàng cung, người ta đặt một trạm gác ở chỗ chắn đường Sergents, một trạm khác ở chỗ Tám Mươi, cuối cùng một trạm nữa ở Saint-Roch. Người ta đưa lính Thuỵ Sĩ và lĩnh ngự lâm vào đầy các sân, các tầng trệt và chờ đợi.

Đấy là bổi cảnh diễn biến các sự kiện, khi chúng tôi đưa bạn đọc vào văn phòng của giáo chủ Mazarin xưa kia vốn là văn phòng của giáo chủ de Richelieu. Chúng ta đã thấy ông ta ở trong tình trạng tinh thần như thế nào khi nghe tiếng rì rầm của dân chúng lọt đến tai ông và tiếng âm vang của những phát súng nổ vọng đến căn phòng ông.

Bỗng nhiên, ông ngẩng dầu lên, lông mày hơi cau lại như một người đã có quyết định, trừng mắt nhìn lên một chiếc đồng hồ lớn sắp đánh chuông mười giờ, và vớ một cái còi bằng đồng mạ vàng nằm trong tầm tay ở trên bàn. Ông huýt lên hai tiếng.

Cánh cửa khuất sau tấm thảm treo tường mở ra không có một tiếng động và một người vận đồ đen lặng lẽ bước vào phòng, rồi đứng ở phía sau ghế bành.

- Bernouin, - giáo chủ nói mà chẳng buồn quay đầu lại vì sau khi thổi lên hai tiếng còi, ông biết người hầu của mình phải là ai, - lính ngự lâm đang gác ở Cung là lính nào?

- Thưa Đức ông, đó là ngự lâm đen.

- Đại đội nào?

- Đại đội Treville.

- Có sĩ quan nào ở đại đội ấy trong tiền sảnh không?

- Có trung uý d Artagnan.

- Chắc đó là một người tốt, phải không?

- Vâng, thưa Đức ông.

- Lấy cho ta một bộ y phục ngự lâm quân và giúp ta mặc vào.

Người hầu phòng đi ra cũng lặng lẽ như lúc vào và một lát sau trở lại mang theo bộ quần áo đòi hỏi.

Thế là vị giáo chủ vẻ im lặng và suy nghĩ, bắt đầu cởi bỏ bộ lễ phục mà ông đã mặc để dự phiên họp nghị viện, và mặc chiếc áo lính với một vẻ thoải mái nhờ nhũng chiến dịch ở Ý của ông xưa kia, rồi khi đã vận xong hoàn toàn, ông bảo:

- Đi tìm ông d Actagnan cho ta.

Người hầu phòng lần này đi ra cửa giữa, nhưng vẫn lặng lẽ và câm như hến. Có thể nói như một cái bóng.

Còn lại một mình, giáo chủ soi mình trong gương, vẻ hài lòng.

Ông ta vẫn còn trẻ, vì mới gần bốn mươi sáu tuổi, thân hình thanh nhã, hơi dưới chiều cao trung bình; da dẻ sáng và đẹp, cái nhìn rực lửa, mũi to, tuy nhiên khá cân đối, trán rộng và đường bệ, tóc hung hung và hơi xoăn, râu đen hơn tóc và lúc nào cũng uốn cao lên, khiến ông có dáng phong nhã. Ông quàng tấm dải đeo gươm, nhìn với vẻ thoả mãn hai bàn tay nuột nà của mình mà ông chăm chút nhất; rồi quẳng đôi găng bằng da hoẵng mà ông đã cầm lấy và hợp với bộ quân phục, ông xỏ đôi găng lụa giản dị.

Lúc ấy cánh cửa mở ra.

Một sĩ quan bước vào.

Đó là một người chạc băm chín bốn mươi tuổi, vóc người nhỏ nhưng chắc, gầy, mắt tinh và hóm hỉnh, râu đen và tóc hoa râm như thường xảy đến khi người ta thấy cuộc đời quá tốt hoặc quá xấu, và nhất là khi da người ta rất nâu.

D Artagnan đi bốn bước trong văn phòng là nhận ra mình đã

đến đây một lần trong thời giáo chủ de Richelieu, và chẳng thấy có ai trong phòng ngoài một lính ngự lâm của đại đội mình, anh dừng mắt trên người lính ngự lâm ấy và qua bộ y phục của người đó, vừa mới thoạt nhìn anh đã nhận ra ông giáo chủ.

Anh đứng thẳng trong tư thế cung kính nhưng đường hoàng và rất thích hợp với một người có địa vị trong đời mình luôn có dịp tiếp xúc với các quan đại thần.

Giáo chủ chằm chằm nhìn anh bằng con mắt tinh ranh hơn là sâu xa, ngắm nghía chăm chú, rồi sau vài giây im lặng, ông cất tiếng.

- Chính ông là ông d Artagnan phải không?

- Chính tôi, thưa Đức ông - viên sĩ quan nói.

Giáo chủ nhìn một lát nữa cái đầu đến là thông minh ấy và khuôn mặt mà sự linh hoạt thái quá đã bị kiềm chế bởi tuổi tác và kinh nghiệm; nhưng d Artagnan chịu dựng sự thẩm tra với tư cách một người xưa kia đã từng bị nhìn bằng những con mắt sắc sảo khác hẳn những con mắt mà anh chịu đựng sự dò xét vào lúc này.

- Này ông, - giáo chủ nói, - Ông sẽ đến với tôi, hay đúng hơn là tôi sẽ đi với ông.

- Xin tuân lệnh, - D Artagnan đáp.

- Tôi muốn tự mình đến thăm những trạm gác bao quanh Hoàng cung; ông nghĩ có điều gì nguy hiểm không?

- Nguy hiểm ư? Đức ông? Mà nguy hiểm gì? - D Artagnan ngạc nhiên hỏi.

- Người ta nói dân chúng hết sức náo loạn.

- Quân phục ngự lâm quân của nhà vua rất được kính nể, thưa Đức ông, và với bốn người, tôi dám cam đoan đánh tan một trăm tên loại dân đen ấy.

- Nhưng ông đã thấy, chuyện xảy ra với Comminger chưa?

- Ông de Comminger là thuộc đội cận vệ, chứ không phải ngự lâm quân là lính cừ hơn cận vệ.

- Thế có nghĩa là, - giáo chủ mỉm cười nói, - ngự lâm quân là lính cừ hơn cận vệ.

- Thưa Đức ông, mỗi người có lòng tự tôn về binh phục của mình.

- Trừ tôi ra! - Mazarin vừa cười vừa nói, - vì ông thấy tôi đã rời bỏ y phục của mình để mặc binh phục của ông.

- Ấy chết, thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - đó là sự nhũn nhặn. Còn như tôi, tôi xin bày tỏ rằng nếu tôi có bộ y phục của Các hạ, tôi sẽ rất thoả mãn và nếu cần thì xin thề là sẽ chăng bao giờ mặc bộ y phục nào khác.

- Phải, nhưng để đi ra tối nay, có lẽ nó không an toàn lắm. Bemuanh đưa mũ dây.

Người hầu phòng mang ra một cái mũ binh phục rộng vành.

Ông chủ đội mũ với vẻ khá phóng túng và quay lại phía d Artagnan:

- Ông có những con ngựa đóng yên cương sẵn ở trong các chuồng phải không?

- Vâng, thưa Đức ông.

- Nào, ta đi đi.

- Đức ông cần bao nhiêu người?

- Ông đã nói là với bốn người các ông có thể đánh tan một trăm tên dân đen; cho là có thể gặp hai trăm tên, hãy lấy tám người.

- Khi nào Đức ông cần?

- Tôi theo ông, hay thôi, - giáo chủ nói tiếp, - ta đi lối này.

Bernouin, rọi đèn cho chúng tôi.

Người hầu cầm ngọn nến, giáo chủ cầm một chiếc chìa khoá mạ vàng để trên bàn giấy, và sau khi mở cửa một cầu thang bí mật, chỉ một lát sau ông đã ở trong sân Hoàng cung.

Chú thích:

(1) Jean Armand Duplessis - giáo chủ de Richelieu (1585-1642) từ năm 1622 tham gia Hội đồng Hoàng gia và trở thành tể tướng nước Pháp, nổi tiếng là một người độc tài, tàn nhẫn và lấn át quyền của vua Louis XIII. Ông ta chủ trương khuất phục các giới quý tộc, tập trung quyền hành vào chính quyền quân chủ trung ương, đấu tranh chống đế tộc Áo và mở rộng chiến tranh chống Tây Ban Nha. Richelieu là một nhân vật chính trong tập chính của tập truyện "Ba người lính ngự lâm".

(2) Juylơ Mazarin (1602 - 1661) - người Ý lấy quốc tịch Pháp, năm 1643, khi vua Louis XIII chết, con là Louis XIV mới năm tuổi nối ngôi, hoàng hậu Anne d Autriche lảm nhiếp chính và đưa giáo chủ Mazarin làm tể tướng. Là một kẻ bất tài, hèn nhát, lại rất tham nhũng, Mazarin đã gây công phẫn lớn trong nhân dân và giới quý tộc. Các quan đại thần và các hoàng thân đã dấy lên phong trào La Fronde chống lại Mazarin vả triều đình. Khi chết Mazarin đã chiếm hữu một gia tài khổng lổ và rất nhiều bộ sưu tập nghệ thuật quý giá đề trong các toà lâu đải cùa mình.

Trong nguyên bản thường dùng chữ "giáo chủ" để chỉ Mazarin nhưng trong bản dịch tuỳ chỗ chúng tôi dùng chữ "giáo chủ" hoặc "tề tướng" cho rõ nghĩa.

(3) Concini - người gốc Ý, làm thống chế Pháp, bất tài và tham lam, đã khiến các đại thần nổi loạn Năm 1967, vua Louis XIII phải ra lệnh bắt giam. Concini chống cự và đã bị giết chết.

(4) Ngày cưới. Người ta biết rằng Mazarin không bị một điều lệnh nào cấm kết hôn nên đã lấy Anne d Autriche (xem các hồi ức của de Lanporter và của quận chúa Palatin).

(5) Quận công de Beaufort - cháu nội của vua Hăngri IV một thủ lĩnh trong phong trào La Fronde của các hoàng thân.

(6) Gaston Orléans (1608 - 1660) - quận công con vua Henri IV tham gia những cuộc âm mưu chống lại Richelieu, rồi Mazarin.

(7) Condé (1621-1686) - một trong những tướng tài thời vua Louis XIV, đã từng tham gia phong trào La Fronde. Thường gọi là ngài Hoàng thân.

hết: Chương 1, xem tiếp: Chương 2

Đánh máy: Mõ Hà Nội

Nguồn: Mõ Hà Nội

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 3 tháng 11 năm 2006

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Chương 2

Một cuộc đi tuần đêm

Mười phút sau, toán lính nhỏ di ra qua phố Trẻ Ngoan, phía sau phòng biểu diễn mà giáo chủ de Richelieu đã cho xây để diễn vở "Niramơ" và giáo chủ Mazarin - say mê âm nhạc hơn văn chương - vừa mới cho diễn những ca kịch đầu tiên trình diễn ở Phảp.

Quang cảnh thành phố thể hiện tất cả nhưng tính chất của một cuộc náo động lớn; những đoàn người đông đảo chạy khắp phố phường, và mặc dầu d Artagnan có nói gì đi nữa, thì họ cũng dừng lại xem toán linh đi qua, vẻ giễu cợt dậm doạ chỉ rõ rằng những thị dân (1) đã tạm thời gác bỏ cái tính khoan hậu thông thường để mang những ý đồ gây gổ hơn. Chốc chốc; những tiếng ồn ào từ khu chợ Hallơ vọng đến. Những phát súng nổ lẹt đẹt từ phía phố Saint-Denis, và thỉnh thoảng đột nhiên không hiểu sao một tiếng chuông lại dội lên do tính bốc đồng của dân chúng.

D Artagnan bước trên con đường của mình với vẻ vô tư của một người mà với những chuyện lăng nhăng như vậy chẳng thể có một tác động nào. Khi một người đứng nghênh ngang giữa lòng đường anh thúc ngựa mà chẳng hề báo tránh, và những người trong đám đông, phiến loạn hay không, như biết rõ họ đang đụng phải tay nào đây, bèn dãn ra và để toán tuần tra đi qua. Ông giáo chủ khao khát cái thái độ bình tĩnh được ông gán cho là do thói quen gặp nguy hiểm, nhưng đối với viên sĩ quan tạm thời ông bị đặt dưới quyển: ông vẫn tỏ một thứ vị nể mà chính tính thận trọng làm hoà hợp với lòng can đảm vô tư.

Khi đến gặp trạm gác ở cửa ô Sergents, người lính canh hô:

"Ai! Đứng lại!", d Artagnan đáp và sau khi đã hỏi một mật khẩu ở giáo chủ, anh tiến đến. Mật khẩu "Louis" và "Rôcroa".

Những tín hiệu nhận biết được trao đổi. D Artagnan hỏi xem có phải ông de Comminger chỉ huy trạm này không?

Người lính canh chỉ cho anh một viên sĩ quan đang đứng dưới đất nói chuyện, bàn tay vịn vào cổ con ngựa của người đối thoại. Đó chính là người mà d Artagnan đang cần hỏi. Anh trở lại và nói với giáo chủ:

- Đấy là ông De Comminger.

Giáo chủ thúc ngựa về phía họ trong khi d Artagnan kín đáo lùi lại:

- Hoan hô Gitaud, - giáo chủ nói với kỵ sĩ, - mặc dù ông đã sáu mươi tư tuổi tôi thấy ông vẫn như xưa, lanh lẹn và tận tuỵ. Ông nói gì với chàng trai này thế?

- Thưa đức ông, - Gitaud đáp - tôi bảo anh ấy là chúng ta đang sống trong một giai đoạn kỳ dị, và ngày hôm nay giống hệt một trong những ngày của khối Liên Minh mà tôi từng nghe nói đến rất nhiều trong thời trai trẻ. Anh có biết trong phố Saint-Denis và Saint-Martin, người ta không có việc gì khác ngoài việc dựng các vật chướng ngại không?

- Ông bạn Gitaud thân mến, thế Comminger trả lời ông thế nào?

- Thưa Đức ông, - Comminger nói, - tôi trả lời rằng muốn một Liên Minh, họ chỉ thiếu một điều mà tôi thấy là khá quan trọng đó là một quận công De Guise (2) vả chăng người ta không làm hai lần cùng một việc.

- Không, nhưng họ sẽ làm một La Fronde như họ bảo, - Gitaud đáp.

- La Fronde, đó là cái gì? - Mazarin hỏi.

- Thưa Đức ông, đó là cái tên họ đặt cho bè đảng của họ.

- Tên ấy từ đâu ra?

Hình như cách đây mấy ngày. Ông tham nghị Basơmông có nói ở trong Cung rằng tất cả những người làm loạn giống như bọn học sinh dùng ná bắn đá trong các hầm hố ở Paris, khi thấy viên cảnh sát đến thì chạy đi, rồi lại tập hợp lại. Thế là họ chớp lấy cái đó, giống như bọn ăn xin ở Bruxelles đã làm, vả họ tự xưng là Fronde. Hôm nay và hôm qua, mọi thứ đều là của La Fronde, bánh trái, mũ mãng, găng, bao tay, quạt; nhưng này nghe kìa.

Quả nhiên lúc ấy một cửa sổ mở ra, một người đàn ông đứng đó và bắt đầu hát:

Một cơn gió Fronde

Nổi từ sớm tinh mơ

Chắc là nó gầm thét

Chống lại Mazarin

Một cơn gió Fronde

Nổi từ sớm tinh mơ

- Đồ lếu láo! - Gitaud lẩm bẩm.

Do bực bội vì vết thương, do chỉ muốn trả thù ăn miếng trả miếng, Comminger nói:

- Thưa Đức ông, ngài có muốn tôi nã một viên đạn cho cái tên vô lại kia, để dạy cho hắn đừng có hát bậy bạ đến thế một lần nữa không?

Và anh ta đưa tay với súng ở bên yên ngựa của ông giáo chủ.

- Chớ! Chớ! - Mazarin kêu lên. - Điavôlê(4) Anh bạn thân mến anh làm hỏng bét bây giờ, trái lại mọi việc đang tiến hành rất tuyệt. Tôi hiểu người Pháp của các anh y như tôi đã tạo ra họ, từ người đầu tiên đến người cuối cùng: họ ca hát, họ sẽ trả giá. Trong thời Liên Minh mà Gitaud nói đển lúc nãy, người ta chỉ hát kinh lễ, cho nên mọi việc rất dở. Lại đây Gitaud, lại đây và ta xem ở Tám mươi người ta có canh gác tốt như ở cửa ô Sergents không?

Giơ tay chào Comminger, ông ta đi theo d Artagnan đang lại dẫn dầu toán lính nhỏ của mình. Gitaud và giáo chủ bám sát ngay sau d Artagnan, rồi cuối cùng đến những kẻ còn lại trong đám tuỳ tùng.

- Đúng thật, - Comminger nhìn đoàn người xa dần và lẩm bẩm, - ta quên khuấy rằng, miễn là người ta nộp tiền, đó là tất cả những gì ông ta cần, cho riêng ông ta.

Dân chúng lại tiến vào phố Xanh Ônorê bằng cách luôn luôn chuyển dịch các đoàn, trong các đoàn ấy, người ta chỉ nói về các chi dụ trong ngày, người ta phàn nàn ông vua thơ trẻ huỷ hoại nhân dân mình như thế mà không biết, người ta đổ tất cả mọi tội lên đầu Mazarin, người ta bàn kêu với quận công d Orléans và ngài Hoàng thân, người ta ca tụng Blancmensnil và Broussel.

D Artagnan đi qua giữa những đoàn người ấy vô tư như thể anh và con ngựa của anh đều bằng sắt; Mazarin vâ Gitaud nói chuyện thì thầm, các lính ngự lâm cuối cùng nhận ra ông giáo chủ, lẳng lặng đi theo.

Đến phố Saint-Tauma du Louvre nơi có trạm Tám Mươi, Gitaud gọi một sĩ quan cấp dưới ra báo cáo.

- Thế nào? - Gitaud hỏi.

- A? Thưa đại uý, phía này mọi sự tốt cả, có chăng tôi thiết tưởng, có chuyện gì đó đang diễn ra trong cái dinh thự kia.

Và anh ta đưa tay trỏ một toà nhà lộng lẫy ở đúng ngay tại vị trí mà từ ấy có toà Vodovin.

- Trong cái dinh thự kia... - Gitaud nói. - Nhưng đó là dinh thự Rambouillet (5).

Tôi không biết đó có phải là dinh thự Rambouillet không, - viên sĩ quan nói tiếp, - nhưng tôi thấy vô số người vẻ tiều tuỵ lắm đi vào đó.

- Chà! - Gitaud bật cười nói - những thi sĩ ấy.

- Này, Gitaud, - Mazarin bảo, - thôi đi, đừng có bình phẩm với một vẻ bất kính như vậy về các vị ấy? Anh không biết tôi đã là thi sĩ hồi còn thanh niên và tôi đã làm những vần thơ như loại thơ của Benxơrađơ ấy!

- Ngài ư? Thưa Đức ông.

- Phải, chính tôi, anh có muốn tôi đọc nghe không?

- Tôi không biết lắm, thưa Đức ông. Tôi không hiểu tiếng Ý.

- Ừ nhưng anh hiểu tiếng Pháp, phải không, anh bạn Gitaud tốt bụng và trung thực của tôi, - Mazarin vừa nói vừa đặt tay thân mật lên vai. Ông và người ta ra mệnh lệnh nào đó bằng thứ tiếng ấy cho anh thì anh sẽ thi hành chứ!

- Hẳn nhiên rồi, thưa Đức ông, như tôi đã từng làm, miễn là mệnh lệnh đó từ hoàng hậu ban ra.

- A phải! - Macdaranh cắn môi nói. Tôi biết là anh hoàn toàn trung thành với bà ấy.

- Tôi là chỉ huy đội ngự vệ của hoàng hậu hơn hai mươi năm nay.

- Lên đường, ông d Artagnan, - giáo chủ nói, - phía này mọi sự tốt cả!

D Artagnan lại dẫn đầu đoàn người, không nói một lời và với sự phục tùng thụ động tạo nên tính cách của người lính kỳ cựu.

Anh rong ruổi đến phía cồn đất Saint-Roch nơi có cái trạm thứ ba sau khi đi qua phố Richelieu và phố Vilơđô. Đó là cái trạm lẻ loi nhất vì nó gần giáp với thành luỹ và ở phía này, thành phố thưa người ở.

- Ai chỉ huy trạm này? - Giáo chủ hỏi.

- Vilơkiê - Gitaud đáp.

- Quỷ ạ! - Mazarin kêu. - Ông nói chuyện riêng với hắn thôi, ông hẳn biết chúng tôi bất hoà với nhau từ khi ông nhận trách nhiệm bắt giữ quận công de Beaufort, hắn ta tưởng vinh dự ấy thuộc về hắn với tư cách là chỉ huy ngự vệ của Đức vua.

- Tôi biết rõ, và tôi đã bảo hắn đến trăm lần rằng hắn lầm rồi, Đức vua không thể ra lệnh ấy cho hắn, vì hồỉ ấy, vua mới chưa đầy bốn tuổi.

- Đúng, nhưng tô1, tôi có thề ban lệnh đó cho hắn, Gitaud ạ. song tôi lại thích rằng đó là ông.

Gitaud không đáp, thúc ngựa tiến lên, tự giới thiệu với người lính gác và cho gọi ông de Vilơkiê.

Ông de Vilơkiê đi ra với giọng bực bội khó chịu đã thành thói quen, ông nói:

- A? Ông đấy à, Gitaud! Ông đến đây làm quái gì thế?

- Tôi đến hỏi xem có chuyện gì mới ở phía này không?

- Thế ông muốn có chuyện gì nào? Người ta hô: "Đức vua muôn năm" và "Đả đảo Mazarin!" đó không phải là chuyện mới à? Thời gian gần đây, chúng tôi quen với những tiếng hô ấy.

- Và các ông phụ hoạ chứ gì? - Gitaud đáp.

- Thực tình đôi khi tôi rất thèm? Tôi thấy họ rất đúng, Gitaud ạ.

Tôi sẵn sàng cho đi năm năm tiền lương của tôi, không nhận lương để Đức vua tăng thêm năm tuổi.

- Thật chứ, và nếu nhà vua thêm năm tuổi thì sẽ có chuyện gì xảy ra.

- Nếu Đức vua thành niên, Đức vua sẽ tự mình ban mệnh lệnh và tuân theo cháu trai của Henri IV ắt là thú vị hơn con trai của Pietro Mazarin. Vì Đức vua, mẹ kiếp, tôi vui lòng xả thân, còn nếu vì Mazarin mà tôi bị giết giống như cháu trai ông suýt bị hôm nay ấy, thì chẳng có thiên đường nào, dù tôi có được đặt đàng hoàng vào đấy lại có thể an ủi được tôi bao giờ.

- Được rồi. được rồi, ông Vilơkiê - Mazarin - Cứ yên tâm, tôi sẽ báo cáo về lòng trung thành của ông lên Đức vua.

Rồi quay lại đám tuỳ tùng, ông bảo:

- Đi thôi các anh, mọi việc tốt cả, ta trở về.

- Này. - Vilơkiê hỏi, - Mazarin ở kia ư? Càng hay, đã từ lâu tôi có ý muốn nói thẳng trước mặt ông điều mà tôi nghĩ về ông ta, Gitaud, ông đã tạo cho tôi cơ hội ấy, và mặc dù ý định của ông có thể không phải là những ý định tốt nhẩt đối với tôi, tôi cũng xin cảm ơn ông.

Và ông quay gót trở lại đơn vị canh gác, miệng hát một điệu hát Fronde. Trong khi đó Mazarin quay về đăm chiêu tư lự, điều mà ông đã liên tiếp nghe qua Comminger, Gitaud, và Vilơkie càng khiến ông tin chắc vào điều suy nghĩ là trong trường hợp những biến cố quan trọng ông sẽ chẳng còn ai vì mình ngoài hoàng hậu, mà hoàng hậu thì thường bỏ rơi bạn bè, nên sự nâng đỡ của hoàng hậu đối với ông tể tướng đôi khi dường như chẳng chắc chắn gì và rất bấp bênh, mặc dầu ông đã có những cách đề phòng.

Suốt thời gian trong chuyến đi ban đêm ấy, tức là quãng gần tiếng đồng hồ. Ông giáo chủ vừa lần lượt nghiên cứu Comminger, Gitaud và Vilơkiê, vừa xem xét mọi người. Con người ấy tỏ ra thản nhiên trước sự hăm doạ của dân chúng và trước những lời bông đùa mà Mazarin buông ra, người ấy không hề cau mày cũng như trước những lời đùa bỡn mà anh ta là đối tượng, ông thấy đó dường như một người ngoại lệ và được tôi luyện để ứng phó với những biến cố thuộc loại những biến cố trong đó người ta đang có mặt, nhất là những biến cố mà trong đó người ta sắp có mặt.

Vả chăng cái tên d Artagnan ấy đối với ông hoàn toàn xa lạ, và mặc dầu Mazarin mới đến nước Pháp vào khoảng năm 1634 và 1635; tức là bảy hoặc tám năm sau những biến cố mà chúng tôi đã kể trong một thiên truyện trước, ông giáo chủ thấy hình như một trường hợp nào đó mà nay ông không nhớ rõ, ông đã nghe thốt ra cái tên giống như tên một con người nổi bật lên như một tấm gương về dũng cảm, khôn khéo và tận tuỵ.

Ý nghĩ ấy xâm chiếm đầu óc ông mạnh đến nỗi ông quyết định làm sáng tỏ ngay không chậm trễ; nhưng những điều cần tìm hiểu về d Artagnan không thể hỏi thẳng ngay anh ta được. Qua, vài tiếng thốt ra từ miệng viên trung uý ngự lâm quân, ông giáo chủ nhận ra ngay nguồn gốc Gascogne, mà người Ý và người Gascogne thì hiểu biết nhau quá rõ và giống nhau quá đỗi nên không thể tin cậy lẫn nhau về những điều mà họ tự nói về bản thân mình. Cho nên, khi đến dãy tường rào của Hoàng cung, giáo chủ gõ vào một cái cửa nhỏ gần đó nay là quán cà-phê De Foa, và sau khi cảm ơn d Artagnan và đặn anh đợi ở trong sân Hoàng cung, ông ra hiệu cho Gitaud đi theo ông. Cả hai người xuống ngựa, trao dây cương, cho tên hầu đã mở cửa và biến vào trong vườn.

Ông Giáo chủ vịn vào cánh tay viên đại uý ngự vệ già và nói:

- Ông Gitaud thân mến ơi, lúc nãy ông có nói với tôi là ông đã phục vụ hoàng hậu ngót hai mươi năm nay rồi phải không?

- Vâng, đó là sự thật, - Gitaud đáp.

- Này, Gitaud thân mến ơi, - giáo chủ tiếp, - tôi nhận xét thấy ngoài tinh thần quả cảm của ông không còn phải tranh cãi và lòng trung thành của ông đã qua mọi thử thách, ông còn có một trí nhớ tuyệt diệu.

- Đức ông nhận xét như vậy ư? - Viên đại uý, ngự vệ nói, - Quỷ ạ! Thật là rủi cho tôi.

- Thế là thế nào?

- Chắc hẳn một trong những phẩm chất hàng đầu của người cận thần là biết quên đi.

- Như ông Gitaud, ông không phải cận thần. Ông là một người lính trung thực, một trong những đại uý nọ, như hãy còn sót lại vài người của thời vua Henri IV nhưng buồn thay rồi chẳng mấy chốc sẽ chẳng còn lại người nào cả.

- Kỳ thật! Phải chăng Đức ông bảo tôi đến để xem số tử vi cho tôi?

- Không đâu, - Mazarin cười nói, - tôi bảo ông đến để xem ông có chú ý đến ông trung uý ngự lâm quân không?

- Ông d Artagnan ấy à?

- Phải.

- Tôi chẳng cần phải chú ý, thưa Đức ông - tôi biết ông ta từ lâu.

- Vậy là người thế nào?

- Ờ? - Gitaud ngạc nhiên vể câu hỏi. - Đó là một người Gascogne chứ sao!

- Phải, tôi biết điều đó, nhưng tôi muốn hỏi xem đó có phải là một người mà có thể tin cậy dược không?

Ông de Treville rất quý trọng ông ta, mà ông de Treville, ngài biết đấy, thuộc những người bạn lớn của hoàng hậu.

- Tôi muốn biết xem đó có phải là một người đã từng chứng tỏ giá trị và tài năng của mình chưa?

- Nếu theo ngài hiểu như một quân nhân dũng cảm, tôi thiết tưởng có thể trả lời đúng như vậy. Tại cuộc bao vây thành La Rochelle ở đèo Xuydơ, ở Pecpinhăng, tôi nghe nói ông ta đã hoàn thành quá cả nhiệm vụ của mình kia đấy.

- Nhưng Gitaud, ông biết đấy, những tể tướng khốn khổ như chúng tôi, thường thường còn cần cả những người khác những người dũng cảm kia. Chúng tôi cần những người khôn khéo. Ông d Artagnan dưới thời giáo chủ Richelieu chẳng đã dính líu vào một chuyện mưu mô nào đó chăng mà dư luận chung mong muốn rằng ông ta hãy rút ra một cách thật khéo léo.

- Thưa Đức ông! - Gitaud thấy rõ là giáo chủ muốn làm cho ông phải phun ra, bèn đáp - Tôi buộc phải thưa với Các hạ rằng tôi chi biết điều mà dư luận chung có thể mách đến Các hạ. Riêng tôi không bao giờ dây vào những chuyện mưu mô, mà nếu như thỉnh thoảng tôi có nghe đôi điều tâm sự về những âm mưu của những người khác thì do điều bí mật không phải là của tôi, Đức ông sẽ cho là phải khi tôi giữ gìn điều bí mật ấy cho những ai đã gửi gắm vào tôi.

Mazarin lắc đầu và nói:

- A! Tôi cam đoan là có những vị tể tướng thật là hạnh phúc, họ biết tất cả những gì họ muốn biết.

- Thưa Đức ông. - Gitaud nói tiếp, - Ấy vì những vị đó không đem cân tất cả mọi người vào cùng một bị và họ biết gõ vào những người chinh chiến về chuyện chiến tranh và gõ vào những người mưu mô về chuyện âm mưu. Ngài hãy tìm hỏi mọi người mưu toan nào đó ở cái thời kỳ ngài nói đến vả ngài sẽ moi được ở họ cái mà ngài muốn, tất nhiên là phải trả tiển.

- Ồ! Mẹ kiếp!- Mazarin thốt lên và chợt nhăn nhó, cái nhăn nhó thương bật ra khi người ta đụng với ông đến vấn đề tiền bạc theo cái nghĩa mà Gitaud vừa nói. - Người ta sẽ trả tiền... nếu như, không có cách nào khác.

- Có thật đúng là Đức ông yêu cầu tôi chỉ cho một người đã từng dây vào những chuyện mưu mô trong thời kỳ ấy không?

- Per Bacco! - Mazarin bắt đầu suốt ruột kêu lên. - Dễ đến một tiếng đồng hồ rồi, tôi có hỏi ông điều gì khác đâu, rõ cứng đầu, cứng cổ.

- Có một người mà tôi có thể đảm bảo với ngài về phương diện đó tất nhiên nếu ông ta muốn nói.

- Đó là việc của tôi.

- A, thưa Đức ông, không phải bao giờ cũng dễ dàng bắt những người không muốn nói phải nói.

- Chà! Cứ kiên nhẫn là sẽ đạt. Này, thế cái người ấy là...

- Bá tước de Rochefort...

- Bá tước de Rochefort?

- Rủi thay ông ta đã biến mất từ bốn năm năm rồi và tôi không biết ông ta bây giờ ra sao.

- Tôi thì tôi biết đấy, Gitaud ạ, - Mazarin nói.

- Thế ban nãy sao Các hạ còn than vãn và kêu không biết gì hết?

- Và, - Mazarin nói tiếp, - Ông tưởng rằng ông Rochefort...

- Đó là kẻ một lòng một dạ theo ngài giáo chủ đấy, nhưng tôi xin báo trước Đức ông là ngài sẽ phải trả giá đắt về điều đó, ngài giáo chủ xưa rất hào phỏng với các bộ hạ của mình.

- Phải rồi, phải rồi, Gitaud ạ, - Mazazin nói. - đấy là một con người vĩ đại, nhưng ông ta có cái thiếu sót đó. Cảm ơn Gitaud, tôi sẽ lợi dụng lời khuyên bảo của ông, ngay tối nay.

Do lúc ấy hai người đối thoại đi tới sân Hoàng cung, giáo chủ giơ tay ra hiệu chào Gitau và chợt thấy một viên sĩ quan đang đi đi lại lại ông tiến đến gần người ấy.

Đó là d Artagnan đợi giáo chủ trở lại như giáo chủ đã ra lệnh.

- Lại đây, ông d Artagnan, - Mazarin nói, với giọng dịu dàng uyển chuyển nhất của mình, - tôi có một mệnh lệnh trao cho ông.

D Artagnan nghiêng mình, đi theo giáo chủ theo lối cầu thang bí mật và một lát sau đã trở lại chỗ văn phòng, nơi anh đã ra đi. Giáo chủ ngồi trước bàn giẩy và lấy một tờ giấy viết lên đó mấy dòng.

D Artagnan đứng yên, thản nhiên chờ đợi, không suốt ruột cũng không tò mò; anh đã trở thành một người lính bằng máy hành động hay nói đúng hơn là tuân theo bằng lò xo.

Giáo chủ gấp thư và niêm phong, rồi bảo:

- Ông d Artagnan, ông mang bức công văn này đến ngục Bastille và dẫn về vài người ghi tên trong đó; ông lấy xe ngựa, một toán áp tải và canh giữ người tù cho cẩn mật.

D Artagnan cầm phong thư, đưa tay lên mũ chào, xoay mình trên gót chân như viên đội huấn luyện khéo léo nhất có thể làm được, đi ra và một lát sau, người ta nghe thấy anh ra lệnh, giọng ngắn gọn, đều đều:

- Bốn ngươl hộ tống, một cỗ xe, con ngựa của tôi.

Năm phút. sau, tiếng bánh xe và móng ngựa vang lên trên nền sân.

Chú thích:

(1) Geois thời ấy có nghĩ là các thị dân và cũng để chỉ tầng lớp tư sản thành thị

(2) Quận công De Guise (1550 - 1588) - thủ lĩnh của Liên Minh trong chiến tranh tôn giáo, đánh thắng phe tân giáo. Sau bị ám sát

(3) La Fronde - cái ná bắn đá, cái súng cao su

(4) Quỷ quái

(5) chỉ Richelieu

Hai mươi năm sau

Chương 3

Hai kẻ thù cũ

D Artagnan đến ngục Bastille thì chuông đồng hồ vang lên tám rưỡi. Anh cho báo với viên quản ngục, khi ông này biết anh do quan tể tướng phái đến cùng với một tờ lệnh bèn ra đón anh tại bậc thềm.

Viên quản ngục Bastille ở lúc bấy giờ là Du Tremblay, em của thầy tu nổi tiếng Josep, người sủng thần khủng khiếp của de Richelieu mà thiên hạ gọi là Các hạ xám(1).

Khi thống chế de Batxompie bị giam ở ngục Bastille và đã ở đó mười hai năm ròng, các bạn tù của ông trong những giấc mơ được tự do đã nói với nhau: Tôi, tôi sẽ ra tù thời kỳ này, và tôi, tôi sẽ thời kỳ nọ, thì Batxompie đáp: Còn tôi thưa quý vị, tôi sẽ ra khi nào ông Duy Tremblay ra. Điều đó có nghĩa là khi tể tướng de Richelieu chết, ông Du Tremblay không thể không bị mất ghế ở ngục Bastille và tất nhiên Batxompie sẽ chiếm lại ghế của mình ở triều đình.

Điều tiên đoán ấy quả nhiên suýt nữa thì trở thành hiện thực, nhưng khác với điều Batxompie suy nghĩ, vì khi tể tướng Richelieu chết trái với mọi sự chờ đợi mọi việc vẫn tiếp tục tiến hành như trước kia: Du Tremblay chẳng ra, và Batxompie suýt nữa thì cũng không ra khỏi nhà tù.

Như vậy là du Tremblay vẫn là quản ngục Bastille khi d Artagnan đến đấy thi hành lệnh của tể tướng, ông ta tiếp anh một cách rất lịch sự, và nhân sắp ngồi vào bàn ăn, ông ta mời d Artagnan cùng dủng bữa tối với ông.

- Tôi sẽ rất vui lòng, - D Artagnan nói, - nhưng nếu tôi không lầm, ngoài phong bì của bức thư có ghi chữ: "Thượng khẩn".

- Đúng thật! - Du Tremblay, nói. - Ơ này thiếu tá, đưa tên tù số 256 xuống đây.

Khi bước vào ngục Bastille, người ta chấm dứt là một con người và trở thành một con số.

D Artagnan rùng mình khi nghe khoá loảng xoảng, nên anh ngồi yên trên mình ngựa mà chẳng xuống, nhìn những song sắt, những cửa sổ gia cố, những bức tường đồ sộ mà anh chi mới trông thấy ở bên kia đường hào, và chúng đã khiến anh sợ hết vía cách đây chừng hai mươi năm.

Một tiếng chuông vang lên.

- Tôi phải chia tay với ông thôi, - de Tremblay nói, - người ta gọi tôi đến ký lệnh thả tù nhân ra. Hẹn gặp lại nhé, ông d Artagnan!

- Quỷ diệt ta đi nếu ta đáp lại lời chào của anh! - D Artagnan lẩm bẩm và kèm theo lời rủa của mình bằng nụ cười duyên dáng nhất - Chi cần đứng thêm năm phút ở cái sân này là ta phát ốm. Này, này, ta thấy thà chết mục trên đống rạ, mà chuyện đó có thể xảy ra với ta lắm, còn thích hơn là làm quản ngục Bastille và vơ vét mười nghìn livres tiền niên thu.

Anh vừa kết thúc bản độc thoại ấy thì người tù xuắt hiện. Vừa trông thấy kẻ ấy, d Artagnan tỏ ra kinh ngạc, nhưng vội kiềm chế ngay. Người tù bước lên xe chẳng tỏ ra đã nhận biết d Artagnan.

- Này các ông, - D Artagnan nói với bốn người lính ngự lâm, - người ta đã dặn tôi là phải canh giữ tù nhân một cách nghiêm cẩn nhất, do không có khoá ở các cửa xe, tôi sẽ lên ngồi cạnh hắn ta. Ông Lilơbon làm ơn dắt con ngựa của tôi theo.

- Xin sẵn sàng, thưa trung uý, - người lính đáp.

D Artagnan xuống ngựa, đưa dây cương cho người lính ngự lâm, trèo lên xe và với giọng không hề để lộ một chút xúc động nào, anh bảo:

- Đến Hoàng cung nhanh lên.

Xe vừa chạy, d Artagnan lợi dụng bóng tối dưới vòm cây mà xe đi qua, bá lấy người tù và bảo:

- Rochefort! Anh đấy à! Đúng là anh chứ! Tôi không lầm.

- D Artagnan! - Đến lượt Rochefort ngạc nhiên reo lên.

- Ôi! Anh bạn khốn khổ của tôi! - D Artagnan nói tiếp. - Không gặp lại anh từ bốn năm năm nay, tôi cứ tưởng anh chết rồi cơ đấy.

- Thực tình, - Rochefort nói, - tôi cũng nghĩ chẳng có gì khác nhau lắm, giữa một người chết và một người bị chôn vùi, hoặc cũng gần như thế.

- Thế vì tội gì mà anh vào ngục Bastille?

- Anh có muốn tôi nói sự thật không?

- Có

- Này nhé! Tôi chẳng biết vì sao cả.

- Không tin tôi ư, Rochefort?

- Không phải thế, xin lấy danh dự quý tộc mà thề! Bởi lẽ không thể nào ngồi tù vì cái lý do mà họ gán cho tôi.

- Lý do gì?

- Kẻ trộm đêm.

- Anh, kẻ trộm đêm! Rochefort, auh đùa đấy à?

- Tôi hiểu. Chuyện này cần được giải thích phải không?

- Đúng vậy.

- Này nhé! Chuyện xảy ra như thế này. Một buổi tối, sau một bữa chè chén ở nhà Rêna tại cung Tuileries, cùng với quận công d Harcourt, Fontrailles - de Rieux và những người khác nữa, quận công d Harcourt đề xuất đi chơi trò kẻo áo choàng ở trên Cầu Môi. Anh biểt đấy, đó là một trò chơi rất thịnh hành do quận công d Orléans đặt ra.

- Anh điên hay sao, Rochefort! Ở cái tuổi anh!

- Không, lúc ấy tôi say, tuy nhiên thấy cái trò ấy dở, tôi bàn với hiệp sĩ de Rieux chỉ nên là khán giả chứ không là diễn viên và để xem được cảnh từ những lô hạng nhất, ta trèo lên con ngựa bằng đồng đen. Nói là làm luôn. Nhờ những đinh thúc ngựa dùng làm bậc leo, một lát sau chúng tôi ngồi vắt vẻo trên mông ngựa; chúng tôi khoan khoải lắm và xem say sưa. Đã có bốn năm áo choàng bị lột đi bằng sự khéo lẻo vô song và chẳng một người nào bị lột áo dám nói một lời thì không biết một tên ngu xuẩn nào đó không kiên tâm chịu đựng bằng những người khác, bỗng kêu lên: "Ối, cảnh giới" và thu hút ngay một đội cảnh sát tuần tra. Quận công d Harcourt, Fontrailles và mấy người khác bỏ chạy, de Rieux cũng muốn làm theo. Tôi giữ ông ta lại và bảo rằng người ta chẳng tìm mình ở đây đâu. Ông ta không nghe, đặt chân lên định thúc ngựa, để xuống, cái đinh gãy, ông ta ngã gãy một chân và đáng lẽ im đi thì ông lại kêu toáng lên như một tên sắp bị treo cổ. Tôi định nhảy xuống theo, nhưng muộn quá rồi: tôi nhảy vào tay bọn cảnh sát, họ dẫn tôi đến đồn Châtelet). Tôi yên trí ngủ một mạch, chắc chắn ngày mai sẽ ra khỏi đó. Ngày hôm sau, qua đi hôm sau nữa qua, rồi tám ngày qua đi, tôi viết thư gửi giáo chủ. Ngay ngày hôm ấy, người ta đến tìm tôi và dẫn về ngục Bastille. Tôi ở đây năm năm rồi. Anh có tin rằng đó là vì tôi đã phạm tội mạn thượng leo lên ngồi mông ngựa sau vua Henri IV không?

- Không, anh nói đúng. Rochefort thân mến ạ, không thể nào vì thế, nhưng có lẽ anh sắp hiểu vì sao.

- À phải, bởi vì chính tôi đã quên không hỏi anh điều này: anh dẫn tôi đi đâu?

- Đến quan tể tướng.

- Ông ta muốn gì tôi?

- Tôi không biết nữa, vì tôi cũng chẳng hiểu rõ là tôi phải đi tìm anh.

- Vô lý, Anh là một sủng thần mà?

- Một sủng thần, tôi ấy à? - D Artagnan kêu lên.

- Ôi! Ông bá tước tội nghiệp của tôi! Tôi còn quá là thiếu sinh Gascogne khi tôi gặp anh ở Meung, anh thấy đấy, thấm thoắt đã hai mươi năm rồi, than ôi!

Và một tiếng thở dài rất to chấm dứt lời anh.

- Nhưng nếu đến với một mệnh lệnh! - Vì tình cờ tôi đang ở tiền sảnh, và ông tể tướng tìm gọi tôi như có thể tìm gọi một người nào khác, nhưng tôi vẫn chỉ là trung uý ngự lâm quân, và nếu tôi tính đúng thì đã ngót nghét hai mươi mốt năm rồi tôi là trung uý.

- Rốt cuộc không có tai hoạ xảy đến với anh, thế đã là nhiều rồi.

- Thế anh muốn tai hoạ gì xảy đến với tôi kia chứ? Như một câu thơ La-tinh nào đó mà tôi quên, hay nói đúng hơn chưa bao giờ tôi thuộc cả: "Sét không đánh vào những thung lũng!", tôi là một thung lũng, hơn nữa một thung lũng thấp nhất, anh Rochefort thân mến ạ.

- Vậy lão Mazarin vẫn là Mazarin à?

- Cỏn hơn bao giờ hết, bạn thân mến ạ; người ta nói ông ta lấy hoàng hậu rồi.

- Lấy rồi?

- Nếu ông ta không phải là chồng, thì chắc chắn là nhân tình bà ấy...

- Cưỡng lại một Buckingham(2) và chịu khuất phục một Mazarin?

Đàn bà thế đấy! - D Artagnan nói triết lý.

- Đàn bà, không phải, nhưng các bà hoàng hậu.

- Trời ơi, về phương diện ấy, các hoàng hậu hai lần là đàn bà.

- Thế còn ông de Beaufort, ông ta vẫn ở trong tù à?

- Vẫn, thế thì sao?

- À vì ông ta muốn điều tốt lành cho tôi, ông ta có thể gỡ ra cho tôi.

- Có lẽ anh còn gần được tự do hơn ông ấy; như vậy chính anh sẽ gỡ cho ông ta.

- Thế thì, chiến tranh...

- Sẽ có

- Với Tây Ban Nha?

- Không, với Paris.

- Anh định nói gì?

- Anh có nghe những tiếng súng kia không?

- Có. Thì sao?

- Các thị dân đang đánh cầu dạo.

- Anh có tin rằng có thể làm nên trò trống gì với cái đám thị dân ấy không?

- Có chứ, họ có nhiều hứa hẹn đấy, và nếu như họ có một thủ lĩnh có thể tập hợp tất cả các nhóm lại làm một.

- Không được tự do cực thật.

- Ồ, lạy Chúa! Anh đừng thất vọng. Nếu Mazarin cho tìm anh, ắt là cần đến anh; và nếu ông ta cần anh thì này, tôi xin chúc mừng anh. Hàng bao nhiêu năm nay, chẳng ai còn cần đến tôi nữa; cho nên anh thấy tôi đã đến đâu rồi đó.

- Anh hãy khiếu nại đi, tôi khuyên anh đấy!

- Nghe này, Rochefort. Một thoả ước.

- Thoả ước gì?

- Anh biết rằng chúng ta là bạn tốt.

- Mẹ kiếp! Tôi vẫn còn mang những dấu tích của tình bạn chúng ta: ba nhát kiếm!...

- Này! Nếu anh lại trở thành người được ưu ái thì xin đừng quên tôi nhé!

Lời thề của Rochefort, nhưng cũng phải được đáp lại.

- Thoả thuận rồi nhé! Tai tôi đây.

- Như vậy ngay từ cơ hội đầu tiên mà anh thấy nói về tôi.

- Tôi sẽ nói về anh, còn anh?

- Tôi cũng vậy. Nhân tiện, về các bạn của anh, cũng phải nói về họ chứ?

- Bạn nào nhỉ?

- Arthos, Porthos và Aramis, anh đã quên họ rồi sao?

- Gần như thế.

- Bây giờ họ ra sao?

- Tôi không hay biết gì cả.

- Thật à?

- Ôi lạy Chúa, đúng thế. Chúng tôi từ giã nhau như anh biết đấy: họ vẫn sống; đó là tất cả điều tôi có thể nói, thỉnh thoảng tôi có nghe những tin tức, gián tiếp về họ. Nhưng họ ở chỗ nào trên thế giới này, quỷ bắt tôi đi nếu tôi biết được điều gì. Không, nói danh dự đấy! Tôi chỉ còn có anh là bạn mà thôi, Rochefort ạ.

- Còn cái vị trứ danh... anh gọi hắn là gì nhỉ, cái cậu người hầu mà tôi đã đưa làm ông đội ở trung đoàn Piêmông ấy mà.

- Planchet à?

- Phải, đúng rồi. Cái ngài Planchet trứ danh bây giờ ra sao?

- Ấy cậu ta đã lấy một ả có cửa hàng mứt kẹo ở phố Lombard cậu ta bao giờ cũng thích của ngọt mà; thành thử cậu ta trở thành thị dân Paris, rất có thể lúc này cậu ấy đang làm loạn. Rồi anh xem cái thằng vô lại ấy sẽ làm pháp quan trước khi tôi lên đại uý.

- Thôi d Artagnan thân mến ơi, can đảm lên một chút nào! Anh đang ở chỗ thấp nhất của bánh xe và khi bánh xe quay thì nâng anh lên cao. Ngay tối nay, số phận của anh có thể sẽ thay đổi.

- Amen! - D Artagnan vừa nói vừa dừng xe lại.

- Anh làm gì thế? - Rochefort hỏi.

- Phải làm sao để khi đến nơi người ta không trông thấy tôi ra khỏi xe anh; coi như chúng ta không quen biết nhau.

- Anh làm thế là phải. Xin từ biệt.

- Hẹn gặp lại, anh nhớ lời hứa nhé!

D Artagnan nhảy lên ngựa và lại dẫn đầu đoàn hộ tống.

Năm phút, sau về đến sân Hoàng cung.

D Artagnan dẫn người tù lên lối cầu thang lớn đi qua tiền sảnh và hành lang. Đến cửa phòng Mazarin; anh sắp sửa vào báo thì Rochefort đặt tay lên vai anh:

- D Artagnan này, - Rochefort mỉm cười nói, - anh có muốn nghe tôi thú nhận điều tôi đã suy nghĩ suốt dọc đường, khi thấy những đám thị dân lúc chúng ta đi qua và họ nhìn các anh - anh và bốn người cùa anh - với những con mắt rực lửa không?

- Nói đi, - D Artagnan đáp.

- Ấy là tôi chỉ cần kêu cứu là đủ khiến người ta xé xác các anh ra từng mảnh, anh và toán áp giải của anh, và thế là tôi được tự do.

- Thế sao anh không làm? - D Artagnan hỏi.

- Vớ vẩn! - Rochefort nói. - Tình bạn đã thề thốt! A, ví phỏng, một người khác, chứ không phải anh dẫn tôi đi, tôi không nói...

D Artagnan cúi đầu.

"Liệu Rochefort có sẽ được may mắn hơn mình không!" Anh tự nhủ.

Và anh cho người vào trình báo với tể tướng.

- Cho ông de Rochefort vào! - tiếng nói sốt ruột của Mazarin vang lên ngay sau khi nghe nói đến tên hai người - À mời ông d Artagnan hãy đợi: tôi chưa xong việc với ông ấy.

Những lời đó khiến d Artagnan mừng rơn. Như anh đã nói, từ lâu rồi chẳng ai cần đến anh và sự khẩn khoản ấy của Mazarin đôi với anh có vẻ là một điềm tốt.

Còn với Rochefort, điều đó chẳng có tác động gì khác đối với ông, ngoài việc khiến ông càng hết sức đề phòng. Ông bước vào căn phòng và thấy Mazarin đang ngồi ở bàn, mặc bộ y phục thông thường, nghĩa là theo kiểu môngxinho; nó gần như quần áo các tu viện trưởng thời bấy giờ, chi khác là ông ta đi bít-tất dài và khoác áo choàng tím.

Cánh cửa khép lại, Rochefort liếc nhìn Mazarin và bắt gặp cái nhìn của tể tướng.

Quan tể tướng vẫn như xưa, chải chuốt, banh bao, râu tóc uốn cẩn thận, bôi nước hoa thơm nức, và nhờ đỏm dáng nên trông ông trẻ hơn tuổi nhiều. Còn về Rochefort, lại là chuyện khác, năm năm tù đày đã làm già sọm đi người bạn cao đạo của ngài Richelieu: mái tóc đen của ông đã bạc trắng, nước da rám màu đồng nhường chỗ cho một màu tái xanh xao như do bị kiệt sức. Vừa nhìn thấy ông, Mazarin lắc đầu rất nhẹ khó mà nhận thấy vẻ như muốn nói: "Kìa, một con người dường như chằng còn làm nên trò trống gì hết..."

Sau một lát im lặng khá lâu trong thực tại, nhưng dài đến một thế kỷ đối với Rochefort, Mazarin rút từ một tập giấy tờ ra một phong thư mở, chỉ cho nhà quý tộc và nói:

- Tôi tìm thấy ở đây một bức thư ông yêu cầu được tự do, ông Rochefort ạ. Thế ra ông bị ngồi tù à?

Rochefort rùng mình trước câu hỏi đô. Ông nói:

- Nhưng hình như Các hạ biết rõ việc đó hơn bất kỳ ai.

- Tôi ấy à? Không đúng đâu! Ở ngục Bastille còn cả mớ tù nhân bị giam từ thời ngài Richelieu mà tôi cũng chẳng biết đến tên nữa.

- Ồ! Nhưng tôi thì lại là chuyện khác, thưa Đức ông? Và ngài biết tên tôi, vì theo chính lệnh của Các hạ mà tôi bị chuyển từ đồn chatelet đến ngục Bastille.

- Ông tưởng thế ư?

- Tôi biết chắc.

- Ồ, hình như tôi nhớ ra rồi, đúng vậy, có phải hồi ấy ông đã từ chối đi một chuyến công du sang Bruxelles cho hoàng hậu phái không?

- A, a! - Rochefort nói. - Vậy ra đó là cái nguyên nhân chính đây? Tôi tìm kiếm nó từ năm năm nay. Tôi đến là ngốc nên đã không tìm ra nó.

- Nhưng tôi không nói với ông đó là nguyên nhân vụ bắt giữ ông; ta thoả thuận với nhau, tôi hỏi ông câu này, chỉ có thế thôi: chẳng phải là ông từ chối đi Bruxelles vì hoàng hậu, trong khi ông đã bằng lòng đi đến đó vì ông cố giáo chủ.

- Thì đúng là do tôi đến đó vì cố giáo chủ mà tôi không thể trở lạí đó vì hoàng hậu được. Tôi đã đến Bruxelles trong một một hoàn cảnh khủng khiếp. Đó là nhân vụ mưu phản của Sale. Tôi ở đó để rình chộp thư từ liên lạc của Sale với ông thân vương và ngay hồi ấy khi tôi bị nhận ra, suýt nữa tôi bị xé xác ra từng mảnh. Như vậy làm sao mà ngài lại muốn tôi trở lại đó? Đáng lẽ phụng sự hoàng hậu tôi sẽ làm nguy hại cho bà.

- Đấy nhé! Ông Rochefort thân mến ơi, ông hiểu rõ những ý đồ tốt nhất bị diễn giải sai đi như thế nào? Haàng hậu chỉ nhìn thấy ở sự tù chối cúa ông một sự từ chối thuần tuý và đơn giản, bà đã phải than vãn trách oán ông rất nhiều, dưới thời cố giáo chủ, ôi, Hoàng thương, Lệnh bà!

Rochefort mỉm cười khinh bỉ:

- Chính vì tôi đã hết lòng phụng sự ngài giáo chủ Richelieu chống lại hoàng hậu, sau khi ngài mất, xin đức ông hiểu rằng tôi sẽ hết lòng phụng sự đức ông chống lại tất cả mọi người.

- Tôi ấy à, ông de Rochefort ơi, - Mazarin nói. - Tôi không như ngài Richelieu, ông ta muốn giành quyền tối thượng, tôi là một vị tể tướng bình thường không cần tới công bộc, khi mình đã là công bộc của hoàng hậu: Do Lệnh bà rất hay hờn giận, bà đã biết việc từ chối của ông, coi đó là một sự tuyên chiến; lại được biết ông là người ưu tú biết chừng nào, do đó càng nguy hiểm. Ông Rochefort thân mến ạ, nên bà đã ra lệnh cho tôi phải giữ ông. Đấy là nguyên nhân vì sao ông lại ở trong ngục Bastille.

- Vậy thì, thưa Đức ông - Rochefort nói, - dường như nếu vì lầm lẫn mà tôi phải vào ngục Bastille...

- Phải, phải, - Mazarin tiếp lời, - chắc mọi chuyện có thể dàn xếp ông là người hiểu biết một số việc nào đó và khi những việc đó không thông tỏ thì xúc tiến cho tốt.

- Đó là ý giáo chủ Richelieu và lòng kính phục của tôi đối với bậc sĩ nhân ấy càng tăng thêm vì điều ngài có ý muốn nói rằng đó cũng là ý của ngài.

- Đúng vậy, - Mazarin nói, - ngài giáo chủ là một người rất chính trị, đó là điều ngài hơn hẳn tôi; tôi chỉ là mội người giản dị, thật thà, đó là điều hại cho tôi, tôi có cái tính ngay thẳng thật là Pháp.

Rochefort mím chặt môi để khỏi bật cười.

- Vậy là tôi tới đích. Tôi cần những người bạn tốt, những người thủ hạ trung thành; khi tôi nói tôi cần, nghĩa là tôi muốn nói: hoàng hậu cần. Tôi làm gì cũng chỉ do mệnh lệnh của hoàng hậu- chính tôi ấy, ông nghe chứa? Không phải như ông giáo chủ de Richelieu làm mọi thứ theo ý mình. Cho nên tôi sẽ chẳng bao giờ là một người vĩ đại như ông ấy, nhưng bù lại, tôi là một người tốt, ông Rochefort ạ, và tôi hy vọng ông sẽ thể nghiệm điều đó.

Rochefort biết cái giọng nói mượt mà ấy trong đó chốc chốc lại lướt một tiếng rít giống như tiếng rít của con rắn hổ mang.

- Thưa Đức ông, tôi sẵn sàng để tin tưởng, dầu về phần tôi, tôi có ít chứng từ về cái tính chất phác thật thà mà Đức ông nói tới.

Nhìn thấy cử chỉ của quan tể tướng định ngắt lời mình, Rochefort nói tiếp luôn:

- Xin Đức ông đừng quên rằng từ năm năm nay tôi ở ngục Bastille và không có gì làm sai ý nghĩ như khi nhìn mọi vật qua những song sắt một nhà tù.

- A! Ông Rochefort, tôi đã nói với ông rằng đối với cái nhà tù của ông, tôi chẳng là cái thá gì. Hoàng hậu... cơn thịnh nộ của đàn bà và của các bà hoàng, biết làm thế nào. Nhưng cái đó sẽ qua đi như nó đến, vả sau đó không nghĩ đến nó nữa...

- Thưa Đức ông, tôi hiểu rằng hoàng hậu không nghĩ tới chuyện ấy nữa, bà đã trải qua năm năm ở Hoàng cung, giữa những hội hè và các cận thần; nhưng tôi, người đã trải qua năm năm ở ngục Bastille...

- Ôi! Lạy chúa! Ông Rochefort thân mến ơi, ông tưởng rằng Hoàng cung là một chốn vui thú lắm sao? Không đâu. Ở đấy, chúng tôi, ngay chúng tôi cũng có những nỗi lo toan, phiền lụy lớn của chúng tôi, tôi cam đoan với ông đấy. Nhưng này, thôi đừng nói đến tất cả những chuyện đó. Tôi bao giờ cũng vậy, tôi cứ hay nói trắng ra. Thế nào, ông có phải là người của chúng tôi không, ông Rochefort?

- Thưa Đức ông, ngài cần hiểu rằng, tôi không đòi hỏi gì hơn, nhưng tôi không còn hiểu biết tình hình gì hết. Ở ngục Bastille, người ta chỉ nói chuyện chính trị với các binh lính và cai ngục và chắc ngài cũng không biết rằng những loại người ấy thật mù mờ về những chuyện xảy ra. Tôi bao giờ cũng theo ông de Batxompie. Ông ta vẫn là một trong số mười bảy vị đại thần chứ?

- Ông ta chết rồi, ông ạ, và đó là một tổn thất lớn.

Đó là một con người thật tận tuỵ với hoàng hậu, mả những người tận tuỵ thật là hiếm.

- Mẹ kiếp, tôi tin lắm. - Rochefort nói - Khi ngài có những người như thế, ngài đưa họ vào ngục Bastille.

- Nhưng hơn nữa - Mazarin nói, - cái gì chứng tỏ lòng tận tụy?

- Hành động - Rochefort nói.

- À phảỉ. Hành động! - Quan tể tướng nói, vẻ suy nghĩ - Nhưng tìm đâu những người hành động?

Rochefort gật đầu:

- Những người ấy chẳng bao giờ thiếu đâu, thưa Đức ông, có điều ngài kiếm dở đấy thôi.

- Tôi tìm kiếm dở? Ông định nói gì thế. Ông Rochefort thân mến, hãy chỉ dẫn cho tôi. Ông hẳn phải học được rất nhiều trong mối thân tình với Đức cố giáo chủ. A! Đó là một người thật vĩ đại.

- Đức ông liệu có tức giận không, nếu tôi nói với ngài những điều đạo lý?

- Tôi ấy à, không bao giờ. Ông biết đấy, người ta có thể nói mọi điều với tôi. Tôi tìm cách làm cho người ta yêu mên tôi, chứ không phải sợ hãi tôi.

- Này nhé! Thưa Đức ông, trong ngục tối giam tôi có một câu ngạn ngữ viết lên tường bằng đầu đinh.

- Câu gì? - Mazarin hỏi.

- Thưa Đức ông, thế này này: chủ nào...

- Tôi biết rồi: tớ ấy...

- Không, môn hạ ấy. Đó là thay đổi nhỏ mà những người tận tuỵ ngài vừa nói tới ban nãy đã đưa vào để thoả mãn ý riêng của họ.

- Thế câu ngạn ngữ ấy là gì?

- Nghĩa là ông de Richelieu đã khéo biết tìm ra những người môn hạ tận tụy và có tới hàng tá!

- Ông ta, mục tiêu của tất cả những lưỡi dao găm! Ông ta, người đã suốt đời tránh đỡ tất cả những đòn người ta đánh.

- Nhưng ông ta, cuối cùng, đã đỡ được hết, và mặc dầu những đòn đó đánh rất dữ tợn. Chính vì nếu như ông ta có những kẻ thù thật sự thì ông cũng có những người bạn thật sự.

- Ấy, đó là tất cả những gì tôi yêu cầu! - Tôi biết có những người, - Rochefort nghĩ đã đến lúc thực hiện lời hứa với d Artagnan, bèn nói tiếp, - tôi có biêt những người, do sự khôn khéo của họ đã hàng trăm lần làm cho sức thông tuệ của ngài giáo chủ Richelieu cũng bị sai lạc; do lòng dũng cảm của họ đã đánh bại những vệ sĩ và bọn do thám của ngài, những người không tiền của, không nơi nương tựa, không uy tín, đã giữ gìn vương vị cho một đế vương và đến xin ngài giâo chủ dung thứ.

Mazarin cười thầm về việc Rochefort đang đi đến chỗ mà ông muốn dẫn dắt đến, và nói:

- Nhưng những người mà ông đang nói đến ấy, họ không tận tuỵ với ngài giáo chủ vì họ chống lại ngài.

- Không, vì lẽ ra họ phải được hậu đãi hơn, song họ có điều bất hạnh là đã tận tuỵ với chính bà hoàng hậu mà lúc nãy ngài tìm kiếm những thủ hạ cho bà ấy đấy.

- Ấy! Nhưng sao ông lại có thể thông tỏ mọi chuyện.

Tôi biết rõ những chuyện ấy, vì những người đó là kẻ thù của tôi ở thời kỳ đó; vì họ chống lại tôi; vì tôi đã gây ra cho họ mọi tai hoạ mà tôi có thể làm được và ngược lại, họ cũng ra sức trả miếng tôi như thế; vì một người trong bọn họ mà tôi đặc biệt va chạm nhiều nhất, đã cho tôi một nhát kiếm cách đây cũng gần bảy năm rồi đấy, đó là nhát kiếm thứ ba do cùng một bàn tay đã đâm tôi... sự kết thúc của một khoản thanh toán cũ.

- A! - Mazarin thốt lên với vẻ chất phác tuyệt vời - Giá tôi biết được những con người như vậy?

- Thưa Đức ông, ngài có một người như thế ở ngay cửa ngài từ hơn sáu năm nay và từ sáu năm nay ngài coi là chẳng sử dụng được vào việc gì.

- Ai vậy?

- Ông d Artagnan.

- Cái tên Gascon ấy à? - Mazarin kêu lên với một vẻ ngạc nhiên vờ vĩnh rất giỏi.

- Cái tên Gascon ấy đã cứu một hoàng hậu, và nhắn lại với ngài de Richelieu rằng về mặt khôn ngoan, khéo léo và chính trị, hắn chỉ là một đứa học trò.

- Thật vậy ư?

- Xin lấy danh dự mà nói với các hạ.

- Hãy kể cho tôi nghe chuyện ấy một chút, ông Rochefort thân mến.

- Kể cũng rất khó đẩy, thưa Đức ông, - nhà quý tộc mỉm cười nói.

- Vậy thì tự hắn ta sẽ kể cho tôi chăng?

- Tôi không chắc vậy, thưa Đức ông.

- Tại sao vậy?

- Vì điều bí mật không phải là ông ta, nhưng tôi đã thưa với ngài, đó là bí mật của một bà hoàng hậu vĩ đại.

- Và anh ta chỉ có một mình để thực hiện một mưu sự dường ấy sao?

- Không, thưa Đức ông, anh ta có ba người bạn thân, ba con người dũng cảm giúp sức, những người dũng cảm như ngài tìm kiếm lúc nãy.

- Và bốn người ấy hợp nhất lại, đúng không?

- Cứ như thể bốn người ấy chỉ là một, cứ như thể bốn trái tim đập trong cùng một lồng ngực, cho nên với cả bốn người, họ làm gì chẳng được...

- Ông Rochefort thân mến ơi, quả thực ông đã chọc tính hiếu kỳ của tôi tới mức khôn tả. Ông không thể kể lại tôi nghe câu chuyện đó sao?

- Không, nhưng tôi có thể nói với ngài một chuyện cổ tích, một chuyện thần tiên thật sự, tôi xin cam đoan như vậy, thưa Đức ông.

- Ồ! Nói đi, ông Rochefort, tôi rất thích những chuyện cổ tích.

- Đức ông muốn vậy chứ? - Rochefort nói và cố thử khám phá xem trên bộ mặt tinh ma quỷ quyệt ấy có để lộ một ý đồ gì không.

- Phải.

- Vậy xin ngài nghe đây! Ngày xưa có một hoàng hậu..., mà một hoàng hậu rất quyền thế, hoàng hậu của một trong những vương quốc lớn nhất thế giới. Một quan đại tể tướng muốn làm nhiều điều ác với hoàng hậu vì trước kia đã muốn làm nhiều điều thiện cho bà.

Đức ông đừng vội đoán, ngài sẽ chẳng đoán được lả ai đâu. Mọi chuyện đã xảy ra trước đây rất lâu, trước khi ngài đến vương quốc nơi bà hoàng hậu ngự trị. Rồi có một vị đại sứ đến triều đình, một vị đại sứ dũng cảm thật giàu có và thật phong nhã đến nỗi tất cả phụ nữ đều chết mê chết mệt, và ngay cả hoàng hậu, có lẽ để kỷ niệm cách ông ta giải quyết các công việc Nhà nước thế nào đấy, bà đã khinh suất trao tặng ông một vật trang sức nảo đó rất đặc biệt, đến nỗi nó không thể nào thay thế được. Do vật trang sức ấy của vua ban, quan tể tướng đó xui ngài buộc bà hoàng phải dùng vật trang sức đó trong bộ trang phục của bà tại buổi dạ hội sắp tới. Chẳng cần phải nói với Đức ông rằng quan tể tướng biết chính xác đồ trang sức ấy đã đi theo vị đại sứ về một nơi xa tít bên kia biển cả. Bà hoàng hậu vĩ đại thấy nguy rồi? Giống như người nữ tỳ cuối cùng của bà, vì bà rơi xuống từ trên cao chót đỉnh của tất cá nỗi quang vinh quyền thế của bà.

- Thế à! - Mazarin nói.

- Thế rồi, thưa Đức ông, bốn người đàn ông quyết chí cứu bà. Bốn người ấy chẳng phải công hầu, chẳng phải những người quyền thế, cũng chẳng phải những người giàu có, đó chỉ là bốn người lính có lòng nhiệt thành, cánh tay vững chắc, lưỡi kiếm sắc bén. Họ ra đi. Quan tể tướng biết rõ họ lên đường và đã cắt đặt người ở dọc đường để ngăn cản họ tới đích. Ba người trong bọn họ bị rất nhiều kẻ công kích loại khỏi vòng chiến đấu, chỉ mỗi một người tới bến cảng, giết hoặc làm bị thương những kẻ muốn chặn bắt anh ta, vượt biển và mang trở về đồ trang sức cho bà hoàng hậu vĩ đại bà đã có thể đính vào vai áo đúng ngày đã ấn định, điều ấy suýt làm cho ông tể tướng phát điên. Thưa Đức ông, ngài nghĩ thế nào về mẩu chuyện ấy?

- Thật là tuyệt! - Mazarin mơ màng nói.

- Thưa ngài, tôi biết mười chuyện như vậy.

Mazarin không nói gì nữa - ông nghĩ ngợi.

Năm, sáu phút trôi qua.

- Thưa Đức ông, ngài không có gì hỏi tôi nữa chứ? - Rochefort nói.

- Có và d Artagnan là một trong bốn người đó phải không?

- Chính anh ta đã chỉ huy toàn bộ vụ ấy.

- Thế mấy người kia là những ai?

- Xin Đức ông cho phép tôi dành cho ông d Artagnan được lộ trình với ngài tên những người ấy. Đấy là bạn bè của ông ta chứ không phải của tôi; chỉ riêng ông ta có thể có một ảnh hưởng nào đó đối với họ, và tôi cũng không biết nhưng tên thật của họ.

Ông không tin ở tôi, ông Rochefort. Này, tôi muốn thẳng thắn đến cùng; tôi cần đến ông, đến anh ta và đến tất cả.

- Xin Đức ông bắt đầu từ tôi, vì ngài đã cho tìm tôi và bây giờ tôi có dây, rồi ngài chuyển sang họ. Xin ngài đừng lạ về tính tò mò của tôi, khi một người đã ngồi tù năm năm, anh ta chẳng hề bực bội vì biết người ta sẽ đưa mình đi đâu.

- Ông Rochefort thân mến, ông sẽ có vị trí tin cậy, ông sẽ đến Vincennes nơi giam giữ ông de Beaufort; ông sẽ kèm giữ chặt ông ấy cho tôi. Ơ kìa? Ông làm sao thế?

- Tôi thấy ngài bắt tôi phải làm điều không thể làm được, - Rochefort lắc đầu nói, vẻ thất vọng.

- Thế nào, một điều không thể làm được! Mà tại sao điều đó lại không thể làm được?

- Vì ông de Beaufort là bạn của tôi, hay đúng hơn, tôi là một trong những người của ông ấy. Đức ông đã quên rằng chính ông ấy đã bảo đảm cho tôi trước hoàng hậu hay sao?

- Từ hồi ấy ông de Beaufort là kẻ thù của quốc gia.

- Vâng, thưa Đức ông, điều đó có thể, song vì tôi không phải vua, không phải hoàng hậu, cũng chăng phải tể tướng, ông ta không phải là kẻ thù của tôi và tôi không thể nào nhận việc mà ngài ban cho tôi.

- Đấy là cái mà ông gọi là tận tuỵ trung thành. Tôi khen ngợi ông đấy. Lòng trung thành của ông không ràng buộc ông quá, ông Rochefort ạ.

- Với lại thưa Đức ông, - Rochefort nói tiếp, - ngài nên hiểu cho rằng ra khỏi Bastille để lại vào Vincennes, thế chỉ là thay đổi nhà tù.

- Hãy nói ngay rằng ông thuộc phái ông Beaufort có phải là thẳng thắn không.

- Thưa Đức ông, tôi bị giam cầm lâu đến nỗi tôi chỉ thuộc có một phái: đó là phái ngoài trời thoáng đãng. Xin hãy dùng tôi vào mọi việc khác, phái tôi đi đâu đấy làm cho tôi bận rộn luôn, nhưng nếu có thể, trên những con đường cái.

- Ông Rochefort thân mến, - Mazarin nói, vẻ giễu cợt, - lòng hăng hái của ông đã lôi cuốn ông; ông tưởng vẫn còn trai trẻ, vì con tim thì vẫn còn trẻ đấy, nhưng lực đã kiệt rồi, ông ạ. Vậy hãy tin ở tôi; điều cần cho ông bây giờ, đó là nghỉ ngơi. Ơ này, có người nào đấy không...

- Thế Đức ông không quyết định gì về tôi sao?

- Trái lại, tôi đã quyết.

Bernouin vào.

- Gọi một môn lại đến, - Ông bảo, và nói thêm rất khẽ, - hãy ở bên tôi.

Một môn lại vào. Mazarin viết mấy chữ đưa cho người đó, rồi gật đầu chào.

- Từ biệt ông de Rochefort, - Ông nói.

Rochefort cung kính cúi mình và nói:

- Thưa Đức ông, tôi biết người ta sẽ đưa tôi trở lại Bastille.

- Ông thông minh đấy.

- Tôi trở lại đó, thưa Đức ông; nhưng tôi xin nhắc lại rằng, ngài đã sai lầm không biết dùng tôi.

- Dùng ông, bạn của những kẻ thù của tôi?

- Biết làm thế nào! Phải biến tôi thành kẻ thù của những kẻ thù của ngài chứ?

- Ông tưởng chỉ có một mình ông thôi ư, ông de Rochefort? Hãy tin tôi, tôi sẽ tìm được những người rất đáng với ông.

- Xin chúc ngài được như vậy.

- Được lắm. Thôi, thôi! Này, đừng có viết nhiều cho tôi nữa, vô ích, ông Rochefort ạ, các thư từ cùa ông sẽ là những bức thư thất lạc.

"Mình thật là cốc mò cho cò xơi", - Rochefort vừa lui ra vừa lẩm bẩm, và nếu d Artagnan không hài lòng với ta khi lát nữa ta kể cho hắn nghe những điều ta tán dương hắn, thì hắn khó tính đấy. Nhưng người ta dẫn mình đi chỗ quái quỷ nào thế này?

Quả thật, người ta dẫn Rochefort theo lối cầu thang nhỏ, chứ không đưa đi qua tiền sảnh nơi d Artagnan đang chờ. Ra đến sân, ông thấy cỗ xe với bốn ngựa hộ tống còn người bạn thì tìm uổng công.

- A, a! - Rochefort tự nhủ thầm! - Kìa, mọi sự thay đổi ghê gớm!

Và nếu như trong các đường phố lúc nào cũng có đông đảo dám bình dân như vậy thì, nào! Chúng ta hay cố gắng chứng minh cho Mazarin rằng chúng ta vẫn còn thích hợp cho một công việc khác, ơn Chúa, hơn là canh giữ một người tù!

Và ông nhảy lên cỗ xe cũng nhẹ nhàng như thể ông mới có hai mươi lăm tuổi.

Chú thích:

(1) Josep (1577 - 1638) - thầy tu, cố vấn tin cậy cùa tể tướng de Richelieu nổi tiếng gian ác nhân dân gọi bẳng cái tên khiếp sợ "Các hạ xám"

(2) Buckingham (1592-1628) - quận công, tể tướng nước Anh giúp phái Tân giáo ở Pháp. Bị một sĩ quan Thanh giáo ám sát. Trong "Ba người lĩnh ngự lâm", ông ta yêu hoàng hậu Pháp Anne d Autriche và chuyện tình ấy là nguyên do của bao câu chuyện phiêu lưu.

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 4

Anne d'Autriche ở tuổi bốn mươi sáu

Còn lại một mình Bernouin, Mazarin ngồi tư lự một lát; ông ta biết rất nhiều song lại biết chưa đủ.

Madarann là kẻ cờ gian bạc lận; đó là một chi tiết mà Briênnơ đã giữ lại cho chúng ta: ông gọi là giành lợi thế cho mình.

Mazarin quyết định chỉ bắt đầu canh bạc với d Artagnan khi ông ta đã biết rõ mọi con bài của đối phương.

- Đức ông không ban lệnh gì à? - Bernouin hỏi.

- Có chứ, - Mazarin đáp, - soi đèn cho tôi, tôi đến chỗ hoàng hậu.

Bernouin lấy một cây nến và đi trước.

Có một lối thông bí mật từ chỗ ở và chỗ làm việc của Mazarin đến các căn buồng của hoàng hậu; chính qua cái hành lang ấy mà ngài giáo chủ đến với Anne d Autriche bất cứ giờ nào.

Khi đến phòng ngủ, mà lối đi ấy dẫn tới, Bernouin gặp bà Beauvais.

Bà Beauvais và Bernouin là những kẻ tâm phúc mật thiết cùa những mối tình quá lứa ấy. Bà Beauvais đi báo tin giáo chủ đến với Anne d Autriche đang ở trong phòng cầu nguyện với vua trẻ Louis XIV. Anne d Autriche ngồi trong một chiếc ghế bành, khuỷu tay tì lên mặt bàn và đầu tỳ lên bàn tay, bà nhìn đứa con ấu chúa đang nằm trên tấm thảm giở xem một quyển sách lớn về trận mạc. Anne d Autriche là một hoàng hậu hơn ai hết biết buồn chán với vẻ tôn nghiêm, đôi khi bà ngồi ru rú hàng giờ như vậy trong phòng bà hoặc trong phòng cầu nguyện, không đọc sách cũng chẳng cầu nguyện.

Còn quyền sách mà vua đang chơi, đó là tập Quinte-curse đầy tranh vẽ thể hiện những sự nghiệp vĩ đại của Thánh Alexandre.

Bà Bôve xuất hiện ở cửa phòng cầu nguyện và báo tin giáo chủ Mazarin đến.

Cậu bé quỳ trên một đầu gối, cau mày nhin mẹ và nói:

- Sao thế, ông ta vào như vậy mà không xin bái yết ư?

Anne hơi đỏ mặt. Bà đáp:

- Trong cái thời buổi mà chúng ta đang sống này rất cần thiết lâ một quan tể tướng có thể đến bất kỳ lúc nào để trình báo với hoàng hậu những gì đã xảy ra, mà không kích thích sự tò mò hoặc những lời bình phẩm của tất cả triều đình.

Nhưng con thấy hình như ông de Richelieu không vào như thế đâu, - đứa bé ngang ngạnh đáp.

- Làm sao mà con nhớ ông de Richelieu làm nhưng gì? Dạo ấy con có nhỏ quả, con không biết được đâu.

- Con không nhớ, con đã hỏi và người ta đã nói cho con biết.

- Thế ai đã nói với con điều đó? - Anne hỏi với một cử chỉ khó chịu không giấu nổi.

- Con biết là không bao giờ được nói tên những người đã trả lời các câu con hỏi, - cậu bé đáp, - hoặc nếu không thì con sẽ không biết gì nữa cả.

Vừa lúc đó Mazarin vào. Ông vua nhỏ tuổi liền đứng hẳn dậy, cầm lấy quyển sách, gấp lại và đem đặt lên bàn, rồi đứng nguyên cạnh đó để buộc Mazarin cũng phải đứng.

Mazarin quan sát cảnh tượng đó bằng con mắt tinh ranh của mình và dường như muốn đòi giải thích cái chuyện xảy ra trước đó.

Ông cung kính cúi mình trước bà hoàng hậu và trịnh trọng khom lưng thi lễ với vua, vua đáp lại bằng một cái gật đầu khá ngang tàng: như một cái nhìn của bà mẹ có ý trách móc sự buông thả những tình cảm hằn thù mà tù hồi còn nhỏ vua Louis XlV đã dành cho ông giáo chủ, và cậu mỉm cười tiếp nhận những lời chúc tụng của ông tể tướng.

Anne d Autriche cố đoán trên nét mặt Mazarin nguyên nhân của cuộc viếng thăm bất ngờ này, vì thông thường, giáo chủ đi đến với bà khi mọi người đã rút lui hết.

Ông tể tướng khẽ gật đầu, hoàng hậu liền quay lại bảo bà Beauvais:

- Đến giờ đưa vua đi nằm rồi đấy, gọi Laporte đi

Trước đó bà hoàng đã hai, ba lần bảo cậu Louis rút lui mà cậu vẫn nũng nịu đòi ở lại, nhưng lần này cậu không nói một lời, chỉ bậm môi và tái mặt đi.

Lát sau Laporte vào.

Cậu bé đi thẳng ra với ông, mà không ôm hôn mẹ.

- Ô này, Louis! - Anne nói. - Sao con không hôn mẹ?

- Thưa bà, tôi nghĩ rằng bà giận tôi, bà đuổi tôi.

- Mẹ có đuổi con đâu, chẳng qua vì con mới bị thuỷ đậu, con hãy còn ốm, mẹ sợ thức khuya sẽ làm con mệt.

- Bà đã chẳng còn nỗi lo sợ ấy khi hôm nay bà bắt tôi đến Cung để ban những bản chiếu chỉ độc ác khiể1n nhân dân kêu ca biết bao nhiêu.

- Tâu Hoàng thượng. - Laporter muốn lái câu chuyện, bèn nói - ngài muốn tôi đưa cho ai cây đèn nến.

- Muốn đưa cho ai thi2 đưa, - cậu bé đáp, rồi to tiếng nói thêm - Miễn là không phải đưa cho Mancini

Mancini là cháu của Mazarin mà ông ta cắt đặt bên vua làm ngự đồng và vua Louis XIV trút lên đầu hắn ta một phần nỗi hằn thù với tể tướng.

Và vua đi ra, không hôn mẹ mà cũng chẳng hề chào giáo chủ.

- Hay lắm! - Mazarin nói. - Tôi thích được thấy người ta giáo dục Hoàng thượng trong nỗi ghê sợ sự giấu giếm...

- Tại sao thế? - Hoàng hậu hỏi một cách gần như rụt rè.

- Tôi thấy hình như việc vua đi ra vừa rồi không cẩn đến những lời bình luận, vả lại Hoàng thượng cũng chẳng buồn che giấu, ngài chẳng ưa gì tôi; dù sao điều đó cũng không ngăn cản tôi hểt lòng trung thành phụng sự ngài, cũng như phụng sự Lệnh bà.

- Ông giáo chú, tôi xin ông thứ lỗi cho cháu - Hoàng hậu nói - Cháu còn nhỏ chưa hiểu là phải mang ơn ông nhiều lắm.

Giáo chủ cười.

- Nhưng, - Hoàng hậu tiếp, - chắc hẳn ông đến vì một việc gì quan trọng, có chuyện gì vậy?

Mazarin ngồi xuống, hay đúng hơn là nằm vật ra cái ghế to, và vẻ buồn rầu, ông nói:

- Có chuyện là, rất có thể chúng ta sẽ buộc phải từ giã nhau ngay, trừ phi là bà tận tâm với tôi đến mức theo tôi đi sang Ý.

- Tại sao thế? - Hoàng hậu hỏi.

- Bởi vì, - Mazarin nói tiếp, - như vở ca kịch Thisbé nói: Tất cả thiên hạ hùa nhau vào chia rẽ tình duyên của đôi ta.

- Ông đùa đấy ư, thưa ông! - Hoàng hậu nói - cố thử lấy lại một chút phong thế cũ của mình.

- Chao ôi, không đâu, thưa Lệnh bà. - Mazarin đáp - tôi không hề bông đùa một chút nào, đáng lẽ tôi phải khóc mới đúng, tôi xin bà hãy tin điều đó; bởi vì, xin bà nhớ kỹ, có sao thì tôi mới nói: Tất cả thiên hạ hùa nhau vào chia rẽ tình duyên của đôi ta. Do bà tham dự vào cái toàn thiên hạ, tôi muốn nói rằng cả bà cũng bỏ tôi.

- Ông giáo chủ!

- Lạy chúa, hôm nọ tôi đã chẳng trong thấy bà cười rất dễ thương với quận công d Orléans đấy ư, hay đúng hơn là với điều mà ông ta nói với bà.

- Ông ta nói gì với tôi?

- Thưa bà, ông ta bảo: "Chính lão Mazarin của bà là vật chướng ngại, hắn cút đi là mọi việc đều tốt đẹp"

- Thế ông bảo tôi lúc ấy phải làm gì?

- Ồ! Thưa Lệnh bà, bà là hoàng hậu thì phải.

- Cái vương vị mỹ miều mà tên thư lại dỏm đầu tiên của Hoàng cung hoặc kẻ quý tộc quê kệch đầu tiên của Vương quốc cũng có thể làm tình làm tội bắt sao chịu vậy!

Tuy nhiên bà vẫn đủ mạnh để đẩy đi những kẻ không vừa lòng bà.

- Nghĩa là không vừa lòng ông. Ông ấy! - Hoàng hậu đảp.

- Tôi ư?

- Còn gì nữa! Ai đã đuổi bà de Chevreuse, người đã từng bị đày đoạ dưới triều trước?

- Một kẻ âm mưu muốn tiếp tục chống lại tôi bằng những mưu đồ mở đầu chống lại ông de Richelieu.

- Ai đã tống cổ bà de Hautefort, người bạn đến là tuyệt diệu ấy đã từ chối các ân sủng của vua để vẫn ở lại trong đám thị nữ của tôi?

- Một mụ ra vẻ đoan trang, mỗi buổi tối khi cởi bộ xiêm y cho bà thường bảo bà là mất linh hồn đi yêu một lão thầy tu; cứ làm như hễ là giáo chủ thì ắt phải là thầy tu ấy.

- Ai đã cho bắt ông de Beaufort?

- Một tên phá bĩnh chỉ tâm niệm có mỗi một điều là phải ám sát tôi!

- Ông gìáo chủ, ông thấy chưa, - Hoàng hậu nói, - rõ ràng những kẻ thù của ông là kẻ thù của tôi.

- Chưa hết, thưa Lệnh bà, nhưng bạn hữu của bà còn phải lả bạn hữu của tôi nữa chứ?

- Bạn hữu của tôi ư, ông? - Bà hoàng lắc đầu. - Than ôi! Tôi chẳng còn bạn hữu nữa.

- Sao bà lại không có bạn hữu trong cảnh vui sướng, khi có đầy bạn bè trong cơn hoạn nạn.

- Bởi vì. Ông ạ, trong cảnh sung sướng, tôi đã quên mất những bạn bè xưa, bởi vì tôi đã làm như nữ hoàng Marie de Médicis (2) khi từ cuộc lưu đầy lần thứ nhất trở về đã khỉnh rẻ tất cả những ai đã chịu khổ vì bà, và đến khi bị lưu đầy lần thứ hai đã chết ở Cologne, bị tất cả mọi người bỏ rơi kể cả con trai bà, vì đến lượt tất cả mọi người khinh rẻ bà.

- Thế thì, bà này! - Mazarin nói. - Chẳng phải đến lúc sửa chữa cái sai ư? Hãy tìm kiếm những ngưởi xưa nhất trong số những bạn bè của bà.

- Ông muốn nói gì hở ông?

- Không có gì khác ngoài điều tôi nói: hãy tìm kiếm.

- Than ôi! Tôi đã hoài công nhìn xung quanh mình, tôi chẳng có ảnh hưởng đối với ai cả. Ông thì bao giờ cũng được sủng thần đưa dẫn, hôm qua là Choisy, hôm nay là La Rivière, ngày mai sẽ là một người khác. Ông Hoàng thân thì có ông giáo chủ đưa đón, mà chủ gỉáo thì có bà de Guéménée đưa đón.

- Cho nên, thưa bà, tôi không bảo bà trông vào những bạn hữu hôm nay, mà trông vào những bạn hữu ngày xưa.

- Những bạn hữu ngày xưa ư? - Hoàng hậu hỏi.

- Phải, trong số những bạn hữu ngày xưa, trong số những người

"Ông ta muốn đi tới đâu" - Hoàng hậu lẩm bẩm và lo ngại nhìn giáo chủ.

- Phải, - Ông ta nói tiếp, - trong những hoàn cảnh nào đó cái tinh thần mạnh mẽ và tinh tế nó là đặc điểm của Lệnh bà, bà có thể nhờ sự giúp sức của bạn bè, đẩy lùi những cuộc công kích của kẻ địch thủ ấy.

- Tôi ấy ư! - Hoàng hậu nói, - tôi đã chịu khổ, tất cả chỉ có thế!

- Phải, - Mazarin nói, - giống như những người đàn bà vừa đau khổ vừa trả thù. Thôi này, ta hãy đi vào việc! Bà có biết ông Rochefort không?

Ông de Rochefort không phải là bạn của tôi, - Hoàng hậu nói, - mà trái lại, thuộc hàng những kẻ thù dai dẳng nhất của tôi, một trong những người trung thành nhất của giáo chủ de Richelieu. Tôi chắc là ông biết điều đó. Tôi biết rõ hắn đến mức là chúng tôi đã cho nhốt hắn vào ngục Bastille.

- Hắn ta đã ra chưa? - Hoàng hậu hỏi.

- Không, bà yên tâm, hắn vẫn ở đấy, tôi nói về hắn là để đi đến một người khác. Bà có biết ông d Artagnan không? - Mazarin vừa nói tiếp vừa nhìn thẳng vào mặt hoàng hậu.

Anne d Autriche bị một nhát vào giữa tim.

"Tên Gascone đã để lộ gì chăng?" - Bà lẩm bẩm.

Rồi bà nói to:

- D Artagnan? Xem đã, ờ, phải cái tên đó chắc quen. d Artagnan, một người lính ngự lâm trước có yêu một nữ tì của tôi, tội nghiệp con bé bị đầu độc chết cũng vì tôi.

- Tất cả thế thôi à? - Mazarin nói.

Hoàng hậu ngạc nhiên nhìn giáo chủ và nói:

- Nhưng mà, ông này, hình như ông đem tôi ra để làm một cuộc hỏi cung hay sao?

Với nụ cười muôn thuở và giọng nói dịu dàng của mình, Mazarin nói:

- Bất cứ trường hợp nào, bà cũng chỉ đáp lại theo ý thích riêng của bà.

- Ông trình bày rõ ràng nhũng ý muốn của ông đi và tôi sẽ trả lời tất - hoàng hậu bắt đầu mất kiên nhẫn nói.

- Thế thì, thưa Lệnh bà, - Mazarin nghiêng mình thi lễ và nói, - tôi muốn bà chia sẻ với tôi những bạn hữu của bà, cũng như tôi đã chia sẻ với bà chút ít kỹ xảo và tài năng mà Trời đã phú cho tôi. Các tình huống đang nghiêm trọng, và sắp phải hành động kiên quyết.

- Lại thế nữa - Hoàng hậu nói. - Tôi ngỡ rằng chúng ta sẽ hết nợ với ông de Beaufort.

- Vâng! Bà chỉ nhìn thấy dòng thác nó muốn lật nhào tất cả, mà bà không chú ý đến chỗ nước lũ. Trong khi đó ở Pháp có câu tục ngữ về nước lặng.

- Ông nói nốt đi, - Hoàng hậu bảo.

- Này nhé, - Mazarin nói tiếp - hàng ngày tôi chịu đựng những sự xúc phạm do các ông hoàng của bà, các kẻ hầu có tước vị của bà gây ra với tôi, tất cả những con rối không thấy rằng cầm các đầu dây của họ, và dưới cái vẻ nghiêm trang kiên nhẫn của tôi, họ không đoán được cái cười của người bị chọc tức thề với mình rằng một ngày nào đó sẽ là người mạnh nhất. Chúng tôi đã cho bắt ông de Beaufort, đúng; nhưng đó là kẻ ít nguy hiểm hơn tất cả, còn có ông Hoàng thân...

- Người chiến thắng de Rocroy!(3) Ông nghĩ đến điều đó à?

- Vâng, thưa bà, và luôn luôn; nhưng Patienza(4) như những người Ý chúng tôi nói. Rồi sau ông De Condé có ông quận công d Orléans.

- Ông nói gì thế? Vị đệ nhất hoàng thân, chú ruột của vua?

- Không phải đệ nhất hoàng thân, không phải chú ruột vua, mà là kẻ mưu phản hèn nhát, dưới triều đình cũ, bị tính bốc đồng và ngông nghênh thúc đẩy, những buồn bực hèn hạ gặm nhấm, lòng tham lam tầm thường xâu xé, ganh ghét tất cả những gì vượt hắn ta về mặt trung thực và dũng cảm, bực tức vì chẳng là cái thá gì, nhờ cái rỗng tuếch của mình làm tiếng vang cho tất cả những tin đồn bậy, làm linh hồn cho tất cả những âm mưu, ra hiệu tiến lên cho tất cả những con người trung hậu kia, họ dại dột tin vào lời nói của một thân vương mà hắn ta thì chối bỏ họ khi họ bước lên đoạn đầu đài. Không phải đệ nhất hoàng thân, không phải chú ruột của vua, tôi xin nhắc lại, mà là kẻ sát hại de Chalais , de Montmorency và de Cinq-Mars, ngày nay hắn thử diễn lại vẫn trò ấy và tưởng tượng mình sẽ thắng cuộc bởi vì hắn sẽ thay đổi đối thủ và bởi vì đáng lẽ có trước mặt mình một con người hăm doạ thì hắn có một con người mỉm cười. Nhưng hắn lầm, làm hại ông de Richelieu, hắn ắt thất bại, và tôi không có lợi gì để bên cạnh hoàng hậu một chất men bất hoà, với chất men đó ông cố giáo chủ đã khiến cho nhà vua điên tiết trong hai chục năm trời.

Anne đỏ mặt và giấu mặt trong hai bàn tay.

- Tôi không muốn làm Lệnh bà xấu hổ, - Mazarin trở lại một giọng bình tĩnh hơn nhưng đồng thời với thái độ cương quyết lạ lùng, nói tiếp. - Tôi muốn người ta kính trọng hoàng hậu và kính trọng tể tướng của bà, bởi vì trước mặt mọi người tôi chỉ là như vậy. Chính Lệnh bà biết rằng, không phải như nhiều người nói tôi không phải là một thằng hề Ý tới; Lệnh bà phải làm cho mọi người hiểu.

Uốn người dưới cái giọng áp chế ấy, hoàng hậu nói:

- Vậy thì tôi phải làm gì?

- Bà phải tìm trong ký ức tên của những con người trung thành và tận tụy, mặc dầu ông de Richelieu ra sức cản trở, đã để lại những vệt máu của họ suốt dọc đường đi, đề đem về dâng Lệnh bà cái đồ trang sức nào đó mà bà đã tặng ông de Buckingham.

Như bị một cái lò-xo thép làm bật lên, Anne đứng lên đường bệ và phẫn nộ và nhìn giáo chủ với cái uy phong và cao ngạo đã làm cho bà đầy quyền thế trong những ngày son trẻ, bà nói:

- Ông lăng mạ tôi đó hả ông?

- Cuối cùng tôi muốn rằng, - Mazarin nói nốt cái y nghĩ bị cử chỉ của hoàng hậu cắt ngang, - tôi muốn rằng ngày nay bà hãy làm cho chồng bà cái mà ngày xưa bà đã làm cho người yêu của bà.

- Lại cái điều vu cáo ấy nữa? - Hoàng hậu kêu lên - Thế mà tôi cứ tưởng nó đã chết và bị bóp nghẹt, bởi vì ông đã xá miễn cho tôi đến tận bây giờ, nhưng lúc này ông lại lên tiếng. Càng hay! Bởi vì lần này sẽ là chuyện giữa chúng tôi, và tất cả sẽ kết thúc, ông nghe rõ chưa?

Kinh ngạc trước sự phục hồi quyền lực này, Mazarin nói:

- Nhưng thưa Lệnh bà, tôi có đòi hỏi Lệnh bà thổ lộ với tôi tất cả đâu.

- Còn tôi, tôi muốn nói hết với ông! - Anne d Autriche đáp lại. Hãy nghe đây! Tôi muốn nói với ông rằng quả thật ở thời kỳ đó, có bốn trái tim tận tụy, bốn linh hồn trung thực, bốn thanh kiếm trung thành đã cứu hơn cả cuộc đời tôi, thưa ông, đã cứu danh dự cho tôi!

- A! Bà thú nhận, - Mazarin nói.

- Thưa ông, phải chăng chỉ có những kẻ có tội thì danh dự của họ mới bị tổn hại, còn người ta không thể làm mất danh dự của một người nào đó, nhất là một người phụ nữ, bằng những lời thị phi dè bỉu sao? Đúng, những lời thị phi dè bỉu nhắm vào tôi và tôi sắp bị ô danh, nhưng dẫu sao tôi xin thề, tôi không phải là kẻ có tội. Tôi xin thề...

Hoàng hậu tìm kiếm một vật linh thiêng để thề, bà mở cửa tủ nằm khuất sau một tấm thảm, lấy ra một tráp nhỏ bằng gỗ cây hồng khảm bạc, và đặt lên bàn thờ, rồi nói:

- Trên những thành tích thiêng liêng này, tôi xin thề rằng tôi có yêu ông de Buckingham, nhưng ông Buckingham không phải là tình nhân của tôi!

- Nhưng đó là những thành tích gì mà bà dùng để thề bồi, thưa bà? - Mazarin mỉm cười nói, - vì tôi xin nói trước với bà, với tư cách người La Mã, tôi thuộc loại người không tín ngưỡng, toàn thành tích là thành tích.

Hoàng hậu tháo một chìa khoá bằng vàng ở cổ và đưa cho giáo chủ. Bà bảo:

- Ông hãy mở ra và tự ông nhìn xem.

Mazarin ngạc nhiên cầm lấy chìa khoá và mở tráp, trong đó ông chỉ nhìn thấy một con dao bị gỉ ăn mòn và hai bức thư mà một bức có vết máu.

- Thế này là thế nào? - Mazarin hỏi.

- Thế này là thế nào ư, ông? - Anne d Autriche nói với cử chỉ nữ hoàng của bà và giơ một cánh tay hãy còn tuyệt mỹ, tuy bao năm tháng đã trôi qua, đặt lên cái tráp để mở, - tôi sẽ nói ông rõ. Hai bức thư ấy là hai bức thư duy nhất mà tôi đã viết cho Buckingham. Con dao ấy là con dao mà Filtơn đã đâm ông ấy. Ông hãy đọc mấy bức thư đó và sẽ thấy tôi có nói dối hay không?

Mặc dầu được phép như vậy, vì một tình cảm tự nhiên, đáng lẽ đọc thư, Mazarin đã cầm lên con dao mà Buckingham lúc gần chết đã rút ra khỏi vết thương của mình và qua Lanporter gửi đến hoàng hậu, lưỡi dao đã mòn hết vì máu biến thành gỉ; rồi sau một lát xem xét, trong khi đó khuôn mặt hoàng hậu biến sắc trắng bệch ra như tấm vải phủ bàn thờ mà bà tựa mình lên, ông đặt lại con dao vào trong tráp và bất giác rùng mình. Ông nói:

- Được rồi bà ạ, tôi tin lời thề của bà.

- Không, không - Hoàng hậu cau mày nói - đọc đi, tôi muốn thế, tôi ra lệnh thế, như tôi đã nhất quyết tất cả sẽ kết thúc lần này, và chúng ta sẽ không trở lại vấn để này nữa. - Rồi với một nụ cười khủng khiếp bà nói tiếp, - Ông cho rằng rồi đây, trưởc mỗi lời buộc tội của ông, tôi lại phải sẵn sàng mở tráp này ra hay sao?

Bị khuất phục bởi khí phách ấy, Mazarin tuân theo như một cái máy và đọc hai bức thư. Một bức là hoàng hậu xin lại ông Buckingham chuỗi hạt kim cương, bức này do d Artagnan mang đi và đưa đến kịp thời. Bức kia do Laporter mang đến cho quận công trong đó hoàng hậu báo trước là ông sắp bị ám hại, nhưng thư đến quá muộn.

- Được rồi, thưa bà, - Mazarin nói, - chẳng có gì phải trả lời điều đó.

- Có chứ, thưa ông, - Hoàng hậu nói và đậy tráp lại rồi đặt bàn tay lên nắp tráp. - Có chứ, có một điều gì đấy phải trả lời: ấy là tôi vẫn luôn luôn bội bạc với những người đã cứu tôi, tôi ấy, và đã làm tất cả những gì họ có thể làm để cứu ông ta: ấy là tôi chưa tặng gì cho cái ông d Artagnan trung hậu ấy mà ông nói đến ban nãy, ngoài bàn tay tôi đưa ra để ông ta hôn, và chiếc nhẫn kim cương này.

Hoàng hậu chìa bàn tay xinh đẹp về phía giáo chủ và chỉ cho ông ta xem một viên đá tuyệt diệu lóng lánh nơi ngón tay bà. Bà nói tiếp:

- Hình như ông ta đã bán nó đi trong một lúc túng thiếu; ông ta đã bán đi để cứu tôi lần thứ hai, vì để cử một mật sứ đến ông quận công và để bảo với ông rằng ông sắp bị ám sát.

- D Artagnan có biết chứ?

- Ông ta biết tất cả. Làm thế nào mà biết được? Tôi không rõ, nhưng cuối cùng ông ta đã bán chiếc nhẫn kim cương đó cho ông des Essarts, tôi thấy ông Essarts, đeo ở ngón tay và tôi đã chuộc lại, nhưng chiếc nhẫn kim cương này là của d Artagnan ông ạ. Tôi nhờ ông đưa lại cho ông ta, và vì ông có diễm phúc có bên cạnh mình một con người như vậy, ông cứ sử dụng ông ta.

- Cảm ơn bà- Mazarin nói - Tôi sẽ tận dụng lời khuyên.

Như rã rời bởi nỗi xúc động Hoàng hậu nói:

- Bây giờ ông có chuyện gì khác cần hỏi tôi không?

- Thưa bà, không, - Giáo chủ trả lời với giọng mơn trớn nhất của mình. - chỉ cần bà tha thứ cho những điều nghi kỵ bất công của tôi nhưng vì tôi yêu bà đến nhường nào, nên cũng chẳng lấy làm lạ nếu tôi ghen, dù ghen cả với quá khứ.

Một nụ cười khó hiểu lướt trên môi Hoàng hậu. Bà nói:

- Vậy thưa ông, nếu không có điều gì cần hỏi, xin ông để tôi yên, chắc ông hiểu rằng sau một cuộc xung đột như vậy, tôi cần ở một mình.

Mazarin nghiêng mình nói:

- Tôi xin cáo lui, thưa bà, bà có cho phép tôi lại đến không?

- Có nhưng ngày mai. Tất cả quãng thời gian ấy để tôi hồi phục, không phải là quá nhiều.

Giáo chủ cầm tay hoàng hậu, hôn một cách phong nhã, rồi rút lui.

Ông ta vừa ra khỏi, hoàng hậu đi sang phòng con trai và hỏi Laporter xem vua đi nằm chưa. Laporter lấy tay trỏ cậu bé đang ngủ.

Anne d Autriche trèo lên các bậc giường, ghé môi sát vầng trán cau lại của con trai và dịu dàng đặt lên đó một cái hôn; rồi bà đi lặng lẽ như đã đến, tự bằng lòng với việc bảo người hầu phòng:

- Laporter thân mến của tôi, hãy cố gắng làm cho vua vui vẻ hơn với ông giáo chủ, tôi và vua chịu ơn ông ấy nhiều lắm.

Chú thích:

(1) Anne d Autriche (1601 - 1666) - Công chúa Tây Ban Nha kết hôn với vua Pháp Louis XIII, bị tể tướng Richelieu chèn ép. Từ 1634, làm nhiếp chính cho con mình là vua Louis XIV, và chọn Mazarin làm tể tướng.

(2) Mariede Medicis (1573-1642 Hoàng hậu của Henri IV. Sau khi Henri IV qua đời bà làm nhiếp chính cho con trai là vua Louis XIII đã giúp bà chống lại ông quận công de Richelieu, và còn thắng ông ta nữa.

(3) chỉ Condé.

(4) Kiên nhẫn (tiếng Ý)

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 5

Người Gascon và người Ý

Trong thời gian ấy giáo chủ trở về phòng mình, thấy Bernouin đứng cạnh cửa. Ông hỏi xem có gi mới xảy ra không và có tin tức gì về tình hình bên ngoài không.

Nghe trả lời không, ông ra hiệu cho hắn ta lui.

Còn lại một mình, ông ra mở cửa hành lang, rồi cửa tiền sảnh; d Artagnan mệt mỏi nằm ngủ trên một cái ghế dài nhỏ.

- Ông d Artagnan! - Ông gọi, giọng dịu dàng.

D Artagnan không động đậy.

- Ông d Artagnan! - Ông gọi to hơn.

D Artagnan vẫn ngủ.

Giáo chủ tiến về phía anh lấy đầu ngón tay chạm nhẹ vào vai anh.

Lần này d Artagnan giật mình thức giấc và tỉnh dậy, đứng ngay đơ như một người lính trong hàng quân. Anh nói:

- Có tôi, ai gọi đấy?

- Tôi đây! - Mazarin nói, vẻ mặt rất tươi cười.

- Xin Các hạ thứ lỗi, - D Artagnan nói, - tôi mệt quá!

- Ông không phải xin lỗi tôi, - Mazarin nói, - vì ông mệt mỏi do phục vụ cho tôi.

D Artagnan ngắm cái vẻ duyên dáng của tể tướng.

- Ái chà! - Anh nhủ thầm, - không rõ có câu tục ngữ "điều hay đến ngay khi ngủ" có đúng không nhỉ?

- Ông theo tôi - Mazarin bảo.

- Này này - D Artagnan lẩm bẩm. - Rochefort đã giữ lời hứa với ta, nhưng không biết hắn mất biến đi đằng nào ấy nhỉ?

Và anh nhìn vào mọi ngóc ngách trong căn phòng mà chằng thấy bóng Rochefort đâu cả.

Mazarin vừa ngồi xuống ghế bành vừa sắp xếp lại và nói:

- Ông d Artagnan, bao giờ tôi cũng thấy ông là một con người trung hậu và phong nhã.

- Cũng có thể, - D Artagnan nghĩ, - nhưng ông ta đã mất bao nhiêu thời gian đề nói với mình điều đó. Ý nghĩ ấy không ngăn cản anh cúi sát đất đầu đáp lại lời khen ngợi của ông ta.

- Thế này nhé. - Mazarin nói tiếp - đã đến lúc cần tận dụng tài năng và giá trị của ông đấy!

Một ánh vui mừng vụt lóe lên, rồi tắt ngấm ngay trong cặp mắt người sĩ quan, vì anh không biết giáo chủ muốn đi đến đâu. Anh nói:

- Xin Đức ông cứ ra lệnh, tôi sẵn sàng phục tùng.

- Ông d Artagnan, - giáo chủ tiếp, - dưới triều cũ ông đã lập một số chiến công...

- Các hạ quá rộng lòng nhớ lại... Đúng thế, tôi có tham gia chiến tranh với khá nhiều thành tích.

- Tôi không nói về thành tích chiến tranh của ông, - Mazarin nói, - vì dù cho nó có gây được tiếng vang nào đó, nó cũng bị những chiến công khác vượt xa.

D Artagnan làm bộ ngơ ngác.

- Thế nào! - Mazarin nói, - Ông không trả lời à?

- Tôi được Đức ông bảo cho biết ngài muốn nói về những chiến công nào.

- Tôi nói về câu chuyện phỉêu lưu... Hề! Ông thừa biết tôi muốn nói gì.

- Chao ôi! Thưa Đức ông, không ạ, - D Artagnan sửng sốt đáp.

- Ông kín đáo, càng tốt. Tôi muốn nói chuyện phiêu lưu về Hoàng hậu, về chuỗi hạt kim cương, về chuyến viễn du mà ông đã thực hiện cùng với ba người bạn ông.

- Hề, hề - Chàng Gascon nghĩ - phải chăng đây là một cái bẫy? Ta phải vững mới được.

Và anh tạo trên nét mặt một vẻ kinh ngạc mà Mondori hoặc Bellerose, những tay hề xuất sắc nhất của thời ấy cũng phải ganh tị.

Rất tốt! - Mazarin cười nói. - Hoan hô! Người ta đã nói rất đúng với tôi rằng ông là người mà tôi cần. Thế nào? Ông sẽ làm điều gì tốt lành cho tôi nào?

- Tất cả những điều gì Các hạ ra lệnh cho tôi làm, - D Artagnan đáp.

- Ông sẽ làm cho tôi cái điều mà xưa kia ông đã làm cho một bà hoàng hậu chứ?

D Artagnan tự nhủ thầm: "Nhất định là người ta muốn bắt mình phải tuôn ra, cứ đợi đấy. Ông ta chẳng tinh khôn hơn Richelieu đâu, mẹ kiếp...". Anh nói:

- Cho một bà hoàng hậu ư, thưa Đức ông. Tôi không rõ Đức ông định nói gì.

- Ông không hiểu rằng tôi cần đến ông và ba người bạn của ông ư?

- Ba người bạn nào ạ?

- Ba người bạn ngày xưa của ông.

- Ngày xưa, thưa Đức ông, - D Artagnan đáp, - tôi không có ba người bạn, tôi có năm mươi bạn. Ở tuổi hai mươi, người ta gọi tất cả thiên hạ là bạn của mình.

- Được được ông sĩ quan này! - Mazarin nói - Tính kín đáo là một điều hay, nhưng ngày nay ông có thể sẽ hối tiếc vì đã quá kín đáo.

- Thưa Đức ông, Pythagore đã bắt môn đồ của mình giữ im lặng trong năm năm để dạy cho họ biết ngậm miệng.

- Còn ông đã giữ im lặng trong hai mươi năm. Thế là hơn một nhà triết học phái Pythagore mười năm lăm, tôi thấy thế là phải rồi: Vậy hôm nay hãy nói đi, vì rằng chính hoàng hậu đã giải lời thề cho ông rồi.

- Hoàng hậu ư? D artagnan nói với một vẻ kinh ngạc lần này không giả tạo nữa.

- Phải, hoàng hậu? Và để chứng thực rằng tôi nhân danh bà mà nói với ông, bà đã bảo tôi đưa cho ông xem chiếc nhẫn kim cương này mà bà cho rằng ông cũng biết, và bà đã chuộc lại ở ông des Essarts.

Và Mazarin giơ bàn tay về phía viên sĩ quan, anh thở dài khi nhận ra chiếc nhẫn mà hoàng hậu đã tặng anh buổi tối cuộc vũ hội ở toà thị sảnh.

- Đúng thật - D Artagnan nói, - tôi nhận ra chiếc nhẫn kim cưong này trước kia của hoàng hậu.

- Ông thấy rõ rằng tôi nhân danh bà hoàng hậu mà nói với ông. Vậy đừng đóng kịch nữa, mà hãy trả lời tôi. Tôi đã nói với ông, và tôi xin nhắc lại, vận hạnh của ông cũng trông vào đấy mà nên.

- Thưa Đức ông, thực tình tôi rất cần làm nên những chuyện lớn lao đó. Các hạ đã quên tôi quá lâu.

- Chỉ cần tám ngày để sửa chữa điều ấy. Này, ông thì đây rồi, nhưng còn các bạn của ông đâu?

- Thưa Đức ông, tôi không rõ.

- Sao, ông không biết gì về họ ư?

- Không, chúng tôi đã xa nhau lâu lắm rồi. Vì cả ba người đã rời quân ngũ.

- Thế ông sẽ tìm họ ở đâu?

- Ở bất cứ nơi nào họ sẽ đến. Việc ấy tôi lo.

- Tốt! Các điều kiện của ông?

- Tiền, thưa Đức ông, chừng nào mà những mưu sự của ta đòi hỏi. Tôi rất nhớ biết bao lần chúng tôi bị trở ngại vì thiếu tiền và không có nhẫn kim cương kia mà tôi buộc lòng phải bán thì hẳn chúng tôi đã phải ở lại giữa đường.

- Quỷ quái thật! Tiền, nhiều tiền lắm sao? - Mazarin nói. - Này ông sĩ quan, ông có biết rằng không có tiền ở trong các két bạc của nhà vua không?

- Xin Đức ông hãy làm như tôi, bán những hạt kim cương ở mũ miện; hãy tin tôi, không nên mặc cả, với những phương tiện nhỏ mọn người ta làm hỏng những việc lớn.

- Thôi này! - Mazarin nói, - chúng tôi sẽ tìm cách làm vừa lòng ông.

"Richelieu, - D Artagnan nghĩ, - hẳn là đã cho ta năm trăm pistoles tiền đặt cọc".

- Các ông sẽ theo tôi chứ?

- Vâng, nếu các bạn của tôi muốn vậy.

- Nhưng nếu họ từ chối, tôi có thể trông cậy ở ông không?

- Một mình thì tôi chẳng làm nên trò trống gì, - D Artagnan lắc đầu nói.

- Vậy đi tìm kiếm họ đi.

Tôi sẽ nói với họ như thế nào để khiến họ phụng sự Các hạ?

- Ông biết rõ họ hơn tôi. Tuỳ tính cách họ mà ông hứa hẹn.

- Tôi sẽ hứa hẹn gì?

- Rằng họ cứ giúp tôi như đã giúp hoàng hậu và sự trả ơn của tôi sẽ hậu hĩnh.

- Chúng tôi sẽ làm gì?

- Tất cả vì dường như ông biết làm tất cả.

- Thưa Đức ông, khi người ta tin cậy những người khác và muốn rằng họ cũng tin cậy vào mình thì người ta cho biết tình hình rõ hơn là Các hạ đã làm.

- Khi nào thời gian hành động đến sẽ hay, - Mazarin nói, - cứ yên tâm, ông sẽ biết tất cả ý nghĩ của tôi.

- Thế cho đến lúc ấy?

- Chờ đợi và đi tìm các bạn của ông.

- Thưa Đức ông, có lẽ họ không ở Paris, chẳc chắn là như vậy, phải đi xa mới được. Tôi chỉ là một viên trung uý ngự lâm nghèo xác xơ mà những chuyến đi thì tốn kém.

- Ý định của tôi, - Mazarin nói, - không phải là ông sẽ xuất hiện như một ông hoàng với tiền hô hậu ủng, kế hoạch của tôi cần bí mật và sẽ hỏng bét với những ngựa xe nghễu nghện.

- Thưa Đức ông, tôi chẳng thể đi với tiền lương của tôi: vì lương chậm đến ba tháng chưa trả, tôi cũng không thể đi được bằng tiền dành dụm lý do là từ hai mươi năm nay phục vụ trong quân đội, tôi chỉ dành dụm được những khoản nợ nần mà thôi.

Mazarin đứng đăm chiêu một lát như phải suy nghĩ một cách hết sức căng thẳng, rồi bước đến bên chiếc tủ ba lần khoá, ông lôi ra một cái túi, nhấc nhấc trên tay hai ba bận để ước lượng nặng nhẹ ra sao trước khi đưa cho d Artagnan.

- Anh cầm lấy chỗ này, - Mazarin thở dài và nói, - đây là cho chuyến viễn du.

D Artagnan nghĩ thầm: "Nếu là những đồng tiền vàng Tây Ban Nha hoặc những đồng êquy vàng thì chúng ta sẽ có thể cộng tác được với nhau đấy!" Anh chào giáo chủ và nhét bọc tiền vào túi áo rộng.

- Này thế là xong nhé? - Giáo chủ đáp lại. - Ông sẽ lên đường...

- Vâng, thưa Đức ông.

- Rất tốt. Nhân tiện, tên các bạn ông là gì nhỉ?

- Tên các bạn tôi ư? - D Artagnan nhắc lại, vẻ hơi băn khoăn.

- Phải, trong khi ông đi tìm họ, về phần tôi cũng sẽ cho dò hỏi, may ra biết thêm được chút gì.

- Ông bá tước De la Fére, tức Arthos, ông Du Vallon tức Porthos. Ông hiệp sĩ De Herblay, bây giờ là tu viện trưởng Herblay, tức Aramis.

Giáo chủ mỉm cười.

- Những vị quý tộc đăng vào ngự lâm quân dưới những tên giả để khỏi phương hại đến tên họ tộc. Kiếm dài nhưng hầu bao nhẹ, người ta biết điều đó.

- Nếu Chúa muốn rằng những tay trường kiếm kia chuyển sang phụng sự Các hạ. - D Artagnan nói, - thì tôi xin mạo muội bày tỏ một mong ước là, đến lượt cái hầu bao của đức ông nhẹ đi và hầu bao của họ tăng lên; bởi vì với ba con người kia và tôi, Các hạ sẽ khuấy động toàn nước Pháp và toàn châu Âu nữa, nên điều đó hợp ý ngài.

- Những tên Gascon này - Mazarin cười nói - cũng gần ngang với người Ý về tài huênh hoang.

- Dù sao, - D Artagnan nói với một nụ cười tương tự như bộ mặt giáo chủ - dù sao, họ cũng hơn về tài đấu kiếm. Và anh ra đi sau khi đã xin một giấy nghỉ phép được Mazarin cấp ngay và tự mình ký.

Vừa mới ra ngoài, anh bèn đến gần một ngọn đèn ngoài sân và nhòm vội vào cái túi.

- Những đồng êquy bạc! - Anh buông một câu khinh bỉ, - ta ngờ ngay mà. A, Mazarin, Mazarin, mi không tin cậy ta! Cóc cần! Điều này sẽ mang đến những tai hoạ cho mi!

Trong lúc ấy, ông giáo chủ xoa xoa tay. Ông lẩm bẩm:

- Một trăm pistol! Mất một trăm pistol ta có được một bí mật mà Richelieu có lẽ phải trả hai mươi nghìn êquy ấy là chưa kể cái nhẫn kim cương này, - Ông ta vừa nói tiếp vừa tình tứ liếc nhìn cái nhẫn mà đáng lẽ phải đưa cho d Artagnan, ông đã giữ lại, - chưa kể cái nhẫn kim cương này trị giá ít ra là mười nghìn livres).

Ông giáo chủ đi vào phòng mình mừng rơn về cái buổi tối này mà ông đã kiếm được món lãi đến là bở, đặt chiếc nhẫn vào trong một hộp tư trang đầy kim cương các loại; vì ông giáo chủ ham thích các loại ngọc thạch, và ông gọi Bernouin vào để cởi bỏ quần áo cho mình, chẳng bận tâm thêm nữa về những tiếng ồn ào vẫn tiếp tục dội từng cơn vào cửa kính và những tiếng súng vẫn, còn vang vọng trơng thành phố Paris, mặc dù lúc ấy đã hơn mười một giờ đêm.

Trong khi đó d Artagnan lần về phía con đường Tiquetonne nơi quán "Con dê cái nhỏ". Ta hãy nói vài lời về d Artagnan làm thế nào mà lại chọn nơi trú ngụ ấy.

Chú thích:

(1) Tiền cũ của Pháp, một pistol bằng ba êquy và bằng mườl livres

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 6

D'Artagnan ở tuổi bốn mươi

Than ôi! Từ hồi mà trong cuốn tiểu thuyết "Ba người lính ngự lâm, chúng tôi từ biệt d Artagnan ở 12 phố Phu Đào Huyệt đến nay đã diễn ra biết bao sự việc và nhất là đã trôi qua biết bao năm trời.

D Artagnan đã không bỏ lở các cơ hội, nhưng các cơ hội đã bỏ lỡ d Artagnan còn ở trong tuổi thanh xuân và thơ mộng của mình; đó là một trong những bản chất tinh tế và linh lợi nó dễ dàng hấp thụ các phẩm chất của người khác. Arthos cho anh tính cao thượng, Porthos lòng hăng hái, Aramis - vẻ hào hoa phong nhã. Ví phỏng d Artagnan tiếp tục cuộc sống với ba người ấy, anh sẽ trở thành một người cao siêu. Arthos từ giã anh đầu tiên, để lui về cái khoảnh đất nhỏ mà anh thừa kế ở mạn Blois, Porthos là người thứ hai chia tay anh để kết hôn với bà biện lý của mình, cuối cùng Aramis là người thứ ba từ biệt anh để đi hẳn với giới tu hành và trở thành tu viện trưởng.

D Artagnan như đã đã hòa tương lai của mình vào tương lai của ba người bạn, bắt đầu từ khi ấy trở thành lẻ loi và yếu đuối, không có can đảm để theo đuổi một nghề nghiệp trong đó vớỉ điều kiện mỗi người bạn của anh sẽ nhường cho anh, nếu có thể nói như vậy, một phần chất điện khí mà họ đã thu nhận của của trời.

Như vậy, dù trở thành trung uý ngự lâm quân, d Artagnan chỉ càng thấy mình trơ trọi hơn, anh chẳng phải con nhà gia thế như Arthos để các nhà danh giá rộng mở đón tiếp anh. Anh cũng chưa đủ huênh hoang như Porthos để khiến người ta tưởng anh cũng quen biết giới thượng lưu. Anh cũng không phải khá là lịch thiệp như Aramis để vừa đứng vững trong cái phong nhã bẩm sinh vừa rút ra vẻ phong nhã từ chính mình. Có thời kỷ niệm tuyệt diệu về bà Bonacieux(1) đã in vào tâm trí người trung uý trẻ trung một chút thơ mộng nào đó, nhưng gìống như kỷ niệm trên đời này, cái kỷ niệm có thể tiêu tan ấy cũng dần dần bị xoá nhòa; cuộc sống doanh trại thật phũ phàng, ngay cả đối với những tư chất quý phái. Trong hai bản chất trái ngược nhau tạo thành cá tính của d Artagnan, cái bản chất vật chất dần dần lấn át, và cứ nhẹ nhàng ít một ít một không thể nhận thấy. D Artagnan vốn luôn luôn sống cuộc đời doanh trại, cuộc đời đồn trú, luôn luôn trên mình ngựa, đã trở thành (tôi không biết thời ấy gọi thế nào) như thời nay người ta gọi là một lính già thực thụ.

Không phải vì thế d Artagnan mất đi cái tinh khôn sơ khai, không đâu. Trái lại, có lẽ cái tinh khôn ấy càng tăng thêm, hoặc ít ra là đáng chú ý gấp đôi dưới một cái vỏ hơi thô lỗ; nhưng cái tinh khôn ấy anh đã áp dụng cho những chuyện nhỏ nhặt, chứ không phải cho những việc lớn của cuộc đời; cho hạnh phúc vật chất, cho thứ an lạc như lính tráng thường hiểu, nghĩa là có chỗ ở tốt, có bữa ăn ngon và có cô chủ nhà tử tế.

Và d Artagnan đã tìm được cả mấy thứ đó từ sáu năm nay ở phố Tiquetonne tại quán mang tên de La Chevrette"Con dê cái nhỏ".

Trong thời gian đầu ở quán này, bà chủ người Flamande trạc hai lăm hai sáu tuổi đẹp và tươi trẻ, say mê anh một cách lạ lùng. Sau mấy chuyện tình tự, bị người chồng khó chịu ngăn trở, d Artagnan đến chục lần làm ra bộ sắp đâm kiếm xuyên suốt người ông ta đến nơi; một buổi sáng nọ người chồng đã biến mất, chuồn đi hẳn sau khi đã bán lén dăm chai rượu vang và mang theo tiền bạc cùng tư trang. Người ta tưởng ông ta chết; nhất Ià người vợ tự phỉnh mình bằng cái ý nghĩ ngọt ngào là mình goá bụa, càng dũng cảm bảo vệ ý kiến cho rằng ông ta đã qua đời. Cuối cùng sau ba năm cố ra sức giữ gìn cho mối quan hệ khỏi bị tan vỡ, d Artagnan thấy rằng mỗi năm chỗ trú ngụ của anh và bà chủ của anh càng thú vị hơn bao giờ hết, vì cái nọ làm tăng thêm ảnh hưởng cho cái kia, bà chủ đưa ra một yêu cầu quá đáng là trở thành vợ, và tỏ ý muốn d Artagnan lấy bà ta.

- Á à? Xì! - D Artagnan trả lời. - Lấy hai chồng ư, bà thân mến? Thế nào, bà không nghĩ đến điều đó sao?

- Nhưng mà ông ấy chết rồi, tôi chắc chắn như vậy.

- Đó là một tay rất ngang ngạnh và hắn sẽ trở về để treo cổ chúng ta.

- Thế thì, nếu hắn về, ông sẽ giết luôn hắn đi, ông dũng cảm và khéo léo thế kia mà!

- Ghê chưa, bà bạn thân mến? Đấy cũng là một cách khác để được treo cổ.

- Như vậy, ông từ chối yêu cầu của tôi ư?

- Ô hay! Làm gì mà quyết liệt thế!

Bà chủ quán xinh đẹp đau khổ lắm. Bà rất muốn d Artagnan không những làm chồng bà, mà làm Chúa của bà nữa, đó là một trang nam nhi tuấn tú, một binh sĩ hiên ngang.

Vào năm thứ tư của mối quan hệ ấy xảy ra cuộc viễn chinh đến Franche-Comté. D Artagnan được cử vào đoàn quân ấy và sửa soạn lên đường. Thế là diễn ra những đau khổ xé lòng, những dòng lệ rơi. bất tận, những nguyện thề thủy chung long trọng, tất nhiên tất cả là từ phía bà chủ. D Artagnan thì vốn quá là ông hoàng, nên không thể không hứa hẹn gì, cho nên anh hứa sẽ làm những gì có thể làm được để thêm phần vẻ vang cho tên tuổi của anh.

Về mặt này, ai còn lạ gì tinh thần quả cảm của d Artagnan. Anh liều thân một cách tuyệt vời, và dẫn đầu đại đội mình để công kích, anh bị một viên đạn xuyên qua người và ngã sóng soài trên trận địa.

Người ta trông thấy anh rơi từ trên mình ngựa xuống mà không thấy anh trở dậy, nên chắc là anh đã chết, và tất cả những người hy vọng kế tục chức vụ của anh đều nói phứt rằng anh chết rồi, người ta dễ tin điều mà người ta mong ước; như ở trong quân đội, từ các ông tướng sư đoàn mong ước cái chết của vị tướng tổng tư lệnh cho đến những người lính trơn mong ước cái chết của thày cai, mọi người đã mong ước cái chết của một người nào đó.

Song d Artagnan không phải loại người dễ chịu bị giết như vậy.

Sau khi bị ngất và nằm trong cái nóng nực ban ngày, anh hồi tỉnh nhờ cái mát mẻ ban đêm, anh lần vào một làng, đến gõ cửa ngôi nhà đẹp nhất và được đón tiếp như mọi người Pháp bị thương ở mọi nơi, mọi lúc. Anh được nâng niu, chăm sóc, chữa chạy, và khỏe khoắn hơn bao giờ hết, một buổi sáng nọ, anh lên đường về Pháp, về nước rồi anh lên đường đi Paris, rồi thì anh về giữa phố Tiquetonne.

Nhưng d Artagnan thấy căn phòng mình bị chiếm bởi một cải mắc áo treo trọn bộ y phục đàn ông chỉ thiếu thanh kiếm đặt sát tường.

Anh được biết nhà đã nuôi thằng ở mới, con hẩu mới, bà chủ nhà đang, đi dạo chơi.

- Bà ta đi một mình à? - D Artagnan hỏi.

- Với ông ấy ạ.

- Vậy là ông ấy đã trở về ư?

- Chắc thế - cô hầu thật thà trả lời.

D Artagnan tự nhủ thầm: "Nếu có tiền, ta sẽ ra đi ngay, nhưng vì không có tiền, ta phải ở lại đây và làm theo lời khuyên của bà chủ nhà của ta bằng cách ngăn cản những toan tính linh hoạt vợ chồng của kẻ trở về hãm tài kia".

Anh vừa kết thúc bản độc thoại ấy, điều đó chứng tỏ trong những hoàn cảnh trọng đại không có gì tự nhiên bằng độc thoại, thì cô hầu đang rình cửa bỗng kêu lên:

- A này? Đúng là bà chủ đang trở về với ông ấy.

D Artagnan đưa mắt ra xa nhìn ngoài đường, quả nhiên thấy ở ngay con đường Montmartre, bả chủ đi về và bám vào cánh tay của một người lính Thụy Sĩ rất đồ sộ, hắn ta đi cứ núng na núng nính với những điệu bộ gợi nhớ một cách thú vị hình ảnh Porthos trong đầu người bạn thân thiết cũ.

- Đức ông chồng đấy ư? - D Artagnan tự nhủ - Ô, ồ! Dường như hắn đã lớn vồng lên!

Và anh ngồi lại phòng ở một chỗ rất dễ nhìn thấy.

Bà chủ nhà bước vào chợt nhận ra d Artagnan và khẽ kêu lên một tiếng.

Nghe tiếng kêu nho nhỏ ấy, d Artagnan biết rằng bà đã nhận ra anh, bèn đứng dậy, chạy đến ôm hôn bà ta rất trìu mến.

Tên Thụy Sĩ ngơ ngác nhìn bà chủ quán đang tái nhợt cả người.

Trong lúc bối rối cực kỳ, bà nói:

- À! Ông đấy à! Ông cần gì ở tôi thế?

Không mảy may bị chưng hửng trong vai trò mình đang đóng, d Artagnan nói:

- À! Ông đây là anh em họ bà à? Ông đây là anh bà à?

Và chẳng đợi bà trả lời, anh nhảy ra ôm tên Thụy Sĩ, hắn cứ để mặc anh làm, vẻ mặt lạnh như băng.

- Ông này là thế nào? - Hắn hỏi.

Bà chủ đáp lại bằng những tiếng nghẹn ngào.

- Người Thụy Sĩ này là thế nào? - D Artagnan hỏi.

- Ông ấy sắp cưới tôi, - bà chủ trả lời giữa hai cơn giật.

- Vậy là chồng bà cuối cùng đã chết rồi à?

- Chuyện đó can hệ gì đến ông? - Người Thụy Sĩ nói.

- Can hệ lắm chứ? - D Artagnan đáp - Vì ông không thể cưới bà ta mà không được sự đồng ý của tôi và vì...

- Vì sao? - Người Thụy Sĩ hỏi.

- Vì tôi không cho. - Người lính ngự lâm đáp.

Tên Thụy Sĩ mặt đỏ lên như hoa mẫu đơn, hắn bận quân phục rất bảnh mạ vàng, d Artagnan choàng một chiếc áo choàng xẫm, tên Thụy Sĩ cao sáu bộ(2), d Artagnan không hơn năm bộ, người Thụy Sĩ coi như ở nhà mình, d Artagnan như một kẻ đột nhập.

- Ông có đi ra khỏi đây không? - Người lính Thụy Sĩ hỏi và giậm mạnh chân như một người bắt đầu tức giận thực sự.

- Tôi ấy à? Không đâu? - D Artagnan nói.

- Ồ chỉ có việc đi tìm kẻ trợ lực - một thằng ở nói, hắn chỉ có thể hiểu là cái người nhỏ bé này muốn tranh chỗ với người hộ pháp kia.

Cơn giận bắt đầu lên đến cổ, d Artagnan liền túm lấy tai thẳng ở mà quát:

- Mày, mày phải đứng yên tại chỗ và không được động đậy, nếu không tao sẽ dứt đứt cái mà tao đang cầm đây. Còn về phía ông, vị con cháu lẫy lừng của hoàng đế Guillaume Tell, ông hãy gói ghém quần áo của ông đang để trong phòng tôi và gây phiền cho tôi, và đi ngay lập tức mà tìm kiếm một quán trọ khác.

Tên Thụy Sĩ phá ra cười ầm ĩ.

- Tôi ấy à? - Hắn nói - Mà vì sao?

- A, được lắm! - D Artagnan nói. - Tôi thấy là ông hiểu tiếng Pháp. Thế thì ông hãy đi chơi một vòng với tôi, và tôi sẽ giải thích cho ông sau.

Bà chủ quán biết rõ d Artagnan là một tay kiếm giỏi, nên bắt đầu khóc lóc và bứt tóc bứt tai.

D Artagnan quay lại phía người đẹp đang khóc than và bảo:

- Thế thì bà hãy đuổi hắn đi.

Tên Thụy Sĩ phải mất một lúc mới hiểu ra đề nghị mà d Artagnan đề ra với hắn, hắn nói:

- Chà. Trước hết ông là ai mà dám đề nghị tôi đi chơi với ông một vòng.

- Tôi là trung uý ngự lâm của Hoàng thượng - D Artagnan đáp. - do đó tôi là thượng cấp của ông. Tuy nhiên không phải là vấn đề cấp bậc ở đây mà là phiếu phân phối chỗ ở. Ông biết thủ tục rồi. Ông hãy đi lấy phiếu của ông. Ai trở lại đây trước sẽ lấy lại phòng của mình.

D Artagnan dẫn tên Thụy Sĩ đi, mặc những lời than vãn của bà chủ quán; trong thâm tâm bà cảm thấy lòng mình nghiêng về phía mối tình xưa; nhưng cũng không bực mình vì dạy một bài học cho anh chàng ngự lâm quân kiêu căng kia đã xúc phạm đến bà khi từ chối lấy bà.

Hai địch thủ đi thẳng đến đường hào Montmartre.

Khi đến nơi thì trời đã tối, d Artagnan lịch sự đề nghị tên Thụy Sĩ nhường phòng cho mình và đừng đến đấy nữa; hắn lắc đầu từ chối và rút kiếm ra.

- Thế thì ông hãy nằm lại ở đây, - D Artagnan nói - chỗ trú ngụ này tồi lắm, nhưng không phải lỗỉ của tôi, mà chính ông đã muốn vậy.

Nói xong, đến lượt anh tuốt kiếm và chạm kiếm với địch thủ.

Anh gặp phải một tay cứng cựa, nhưng sự mềm dẻo của anh vượt mọi sức mạnh. Thanh trường kiếm của tên người Thụy Sĩ không lúc nào chạm được vào kiếm của người ngự lâm. Tên Thụy Sĩ xơi hai nhát kiếm trước khi nhận biết được vì quá rét, tuy nhiên bỗng chốc do mất máu và đuối sức đi trông thấy hắn buộc phải ngồi xuống.

- Đấy nhé! - D Artagnan nói - Tôi đã bảo trước mà. Ông đã đi quá trớn và đến là bướng bỉnh! Cũng may, ông chỉ phải nằm độ mười lăm ngày thôi. Hãy ở đây, tôi sẽ cho thằng hầu mang quần áo đến cho ông. Tạm biệt, Nhân tiện xin mách ông hãy đến quán Con Mèo Mơn Trớn ở đường Montorgueil, ở đấy sẽ được nuôi dưỡng đầy đủ, nếu vẫn là bà chủ quán cũ. Vĩnh biệt nhé!

Rồi anh hí hửng trở về, sai đưa quần áo đến cho tên Thụy Sĩ. Tên hầu thấy hắn vẫn ngồi đúng chỗ mà d Artagnan để hắn lại và táng đởm kinh hồn vì lòng gan dạ vững vàng của người địch thủ.

Tên hầu, bà chủ quán và cả nhả kính trọng d Artagnan như người ta kính trọng thần Hercule, nếu ông trở lại trần gian để bắt đầu lại mười hai kỳ tích của ông ta.

Nhưng khi còn một mình với bà chủ nhà, anh nói:

- Bây giờ bà hiểu rõ khoảng cách từ một tên lính Thụy Sĩ đến một nhà quý tộc, còn về phàn bà, bà đã cư xử như một con mụ chủ quán. Mặc kệ bà, nhưng vì cách cư xử ấy bà làm tôi mất uy tín với khách khứa giao thiệp của tôi, tôi sẽ không trọ ở đây nữa, tôi chẳng ở cái nơi, mà mình khinh rẻ. Ơ này, thằng hầu! Cho mang va-li của ta đến khách sạn Bồn ái ân ở đường Bourdonnais. Vĩnh biệt bà!

Khi tuôn ra những lời lẽ ấy, d Artagnan tỏ ra vừa oai nghiêm vừa ái ngại. Bà chủ quản phục xuống dưới chân anh, vừa xin lỗi vừa giữ anh lại bằng một sự hung tợn ngọt ngào. Còn biết nói thế nào nữa! Cái chĩa nướng thịt lại quay, cái chảo rán lại xèo xèo, mỹ nhân Madeleine khóc lóc, d Artagnan cảm thấy cái đói, cái rét và tình yêu cùng đến với anh, anh tha thứ, và đã tha thứ thì anh ở lại.

Sự tình d Artagnan đến ở quán "Con dê cái nhỏ" Tiquetonne là như thế đấy.

Chú thích:

(1) Constance de Bonacieux - vợ một người buôn hàng xén trong tập "Ba người lính ngự lâm", là thị tỳ trung thành của hoàng hậu Anne d Autriche và là tìth nhân của d Artagnan, sau bị Milady đầu độc chết.

(2) Đơn vị đo chiều dài cũ bằng khoản ba hai centimètre

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 7

D'Artagnan gặp khó khăn, nhưng một người quen biết của chúng ta đến giúp anh

D Artagnan trở về vừa đi vừa đăm chiêu suy nghĩ. Anh thấy hào hứng khi mang túi tiền của giáo chủ Mazarin và khi nghĩ đến chiếc nhẫn kim cương đẹp trước kia đã từng là của anh và có một lát anh đã trông thấy nó lấp lánh ở ngón tay ông tể tướng. Anh tự bảo:

"Giá cái nhẫn kim cương ấy lại rơi vào tay mình, mình sẽ bán ngay lấy tiền, mình sẽ mua hết bất động sản ở chung quanh lâu đài của cha mình, ngôi nhà đẹp thật đấy, nhưng về công trình phụ chỉ có một mảnh vườn lớn gần bằng cái nghĩa trang. Những Kẻ Vô Tội. Ta sẽ ngồi nhà và đàng hoàng ngồi đợi một nàng thừa kế giàu có say mê cái tốt mã của ta và đến lấy ta; rồi ta sẽ có ba cậu con trai, ta sẽ nuôi dạy đứa lớn thành một đại thần như Arthos, đứa thứ hai - một chàng lính bảnh bao như Porthos, đứa thứ ba - một tu viện trưởng lịch sự duyên dáng như Aramis. Thực tình mà nói, như thế còn tốt hơn cuộc sống hiện nay của ta, nhưng khốn thay lão Mazarin là một tên đê tiện, chẳng có hảo ý nhường lại cái nhẫn kim cương ấy cho ta".

Không biết d Artagnan sẽ nói thế nào khi anh biết rõ rằng hoàng hậu đã nhờ Mazarin đưa lại cái nhẫn ấy cho anh?

Về đến phố Tiquetonne, anh thấy có tiếng ồn ào và một đám tụ tập lớn ở quanh nhà anh.

- A, a! - Anh nói. - Hay là cháy ở quán "Con dê cái nhỏ"? Hay là chồng của nàng Madeleine xinh đẹp dứt khoát trở về.

Chẳng phải chuyện này cũng chẳng phải chuyện nọ. Đến gần, d Artagnan mơi rõ là người ta tụ tập không phải ở trước nhà anh mà trước nhà bên cạnh. Người ta kêu la om xòm, người ta vác đuốc chạy và dưới ánh đuốc, d Artagnan nhận ra những bộ quân phục.

Anh hỏi xem có chuyện gì xảy ra.

Người ta cho biết là có một thị dân cùng với hai chục người bạn đã tấn công một cỗ xe có các vệ sĩ của tể tướng đi hộ tống, nhưng có viện binh ập đến, đám thị dân bỏ chạy. Tên cầm đầu đám ấy trốn vào một nhà ở giáp quán và lính đang sục sạo trong nhà ấy.

Hồi còn trẻ, có lẽ d Artagnan đã chạy tới chỗ anh nhìn thấy những bộ quân phục và giúp sức cho bọn lính chống lại đám thị dân; nhưng bây giờ anh đã ngán tất cả những cơn nóng đầu ấy rồi. Vả lại, trong túi đang có một trăm pistol của ngài giáo chủ, anh chẳng muốn mình phiêu lưu vào trong một đám đông.

Anh chẳng hỏi gì thêm và bước vào quán.

Xưa kia, bao giờ d Artagnan cũng muốn biết rõ tất cả, giờ đây bao giờ anh cũng biết rõ khá nhiểu.

Anh thấy nàng Madeleine xinh đẹp không chờ đợi anh, vì tưởng anh ở đêm tại cung Louvre như anh đã dặn. Thấy anh trở về bất ngờ, bà mừng rỡ và nồng nhiệt đón tiếp anh, càng mừng hơn vì bà vừa mới trải qua một cơn sợ hãi hết hồn về việc đang xảy ra ở ngoài phố, mà bà thì không có một người lính Thụy Sĩ nào để bảo vệ cho bà.

Cho nên bà muốn bắt chuyện với anh và kể lể việc đã xảy ra; nhưng d Artagnan bảo bà cho mang bữa ăn tối lên phòng anh và kèm theo một chai rượu vang Bourgogne lâu năm.

Bà Madeleine xinh đẹp được dạy cho quen với cách tuân lệnh kiểu nhà binh, nghĩa là theo một cử chỉ ra hiệu. Lần này d Artagnan lại còn hạ cố nói nên lời, thành ra anh được bà tuân lệnh nhanh gấp hai lần.

D Artagnan cầm chìa khóa và cây nến đi lên phòng mình. Để khỏi ảnh hưởng tới việc cho thuê phòng, anh tự bằng lòng với một phòng ở tận tầng tư. Vì tôn trọng chân lý, chúng tôi buộc phải nói thẳng ra rằng căn phòng ở ngay sát dưới ống máng và ở dưới mái nhà.

Đó là chiếc lều Asin(1) của anh. D Artagnan ở lì trong buồng mỗi khi anh muốn trừng phạt Madeleine bằng sự vắng mặt của mình.

Sự quan tâm đầu tiên của anh là nhét túi tiền vào ngăn một cái bàn cổ mà khoá còn mới, anh cũng chẳng cần kiểm tra xem số tiền là bao nhiểu, rồi một lát sau, bữa cơm tối được dọn ra, chai rượu vang đem đến, anh cho tên hầu đi ra, đóng cửa và ngồi vào bàn.

Không phải suy nghĩ như người ta tưởng; nhưng d Artagnan nghĩ rằng chỉ có thể làm tốt mọi việc bằng cách làm lần lượt từng việc một. Anh đang đói, anh ăn, rồi sau bữa ăn anh đi nằm. D Artagnan cũng chẳng phải loại người cho rằng ban đêm thường đem đến cho người ta nhiều điều khuyên bổ ích: ban đêm d Artagnan ngủ khì.

Nhưng trái lại buổi sáng, trong người tỉnh táo, tinh khôn hẳn, anh tìm thấy những cảm hứng hay nhất. Từ lâu anh chẳng có cơ hội để suy nghĩ vào buổi sáng, nhưng ban đêm anh vẫn ngủ.

Sớm tinh mơ, anh thức giấc, nhảy khỏi giường với một quyết tâm thật là lính và vừa đi lững thững quanh buồng, vừa ngẫm nghĩ.

- Năm 43 - anh nói - khoảng gần tháng sáu, khi cố giáo chủ qua đời mình nhận được lá thư của Arthos. Ở đâu nhỉ! Xem nào... à! Đó là tại cuộc bao vây Besançon, mình nhớ ra rồi... mình đang ở trong hào? Cậu ta nói gì nhỉ? Cậu ấy ở một mảnh đất nhỏ, phải, đúng thế, một mảnh đất nhỏ; nhưng ở đâu? Mình đọc đến đấy thì có cơn gió cuốn bay đi. Giá như ngày xưa là hắn mình sẽ đi tìm, mặc dù gió cuốn lá thư ra một chỗ trống trơn.

Nhưng tuổi trẻ là một thiếu sót lớn... khi người ta không còn trẻ nứa. Mình đã để cho lá thư bay đi đến chỗ quân Tây Ban Nha, mang theo địạ chỉ của Arthos mà chúng chẳng cần đến và lẽ ra phải trả lại mình chứ. Vậy là không nghĩ đến Arthos nữa. Xem nào... Porthos. Mình đã nhận được bức thư của cậu ta, cậu ấy mời mình đến dự một hội săn lớn trong vùng đất đai của cậu ấy, vào tháng Chín năm 1646. Rủi thay. Hồi ấy mình đang về quê ở Bearn vì ông bố mình mất, lá thư đuổi theo mình, khi mình đi thì nó lại đến. Rồi nó lại theo mình và đến Montmédy mấy ngày sau khi mình rời thành phố này. Cuối cùng nó tới tay mình vào tháng Tư, nhưng lại là tháng Tư năm 1667 mà giấy mời đến dự vào tháng chín cuối năm 1646, cho nên chẳng còn tác dụng gì. Nào ta hãy tìm bức thư ấy và chắc nó phải có tước hiệu trang ấp?

D Artagnan mở một cái hòm nhỏ cũ kỹ nằm ở góc buồng đầy những gỉấy tờ liên quan đến đất đai của d Artagnan, từ hai trăm năm nay giấy tờ ấy hoàn toàn ra khỏi gia đình anh, và anh thốt ra một tiếng kêu mừng rỡ: anh vừa nhận ra một nét chữ to đùng của Porthos và ở dưới có mấy dòng chữ nhỏ li ti do bàn tay khô héo của bà phu nhân xứng đáng của cậu ta viết.

D Artagnan không buồn đọc chơi lại lá thư, anh biết nó viết gì, anh xem vội địa chỉ.

Địa chỉ là: ở lâu đài du Vallon.

Porthos đã quên béng một chỉ dẫn khác. Trong niềm kiêu hãnh của mình, anh ta tưởng tất cả thiên hạ đều phái biết cái lâu đài mà anh ta đã lấy tên mình đặt cho nó.

"Quỷ bắt cái thằng huênh hoang này? - D Artagnan nói, - bao giờ nó cũng vẫn thế! Tuy nhiên mình cần bắt đầu từ cậu ta, chắc nó chẳng cần đến tiền nong, nó đã thừa kế tám trăm nghìn livres của ông Coquenard (2). Này, đó là người cần nhất mà mình đang thiếu. Arthos uống rượu lắm vào chắc đến đần độn người ra rồi. Còn Aramis hẳn đang chìm ngập trong việc cầu nguyện!

D Artagnan lại đưa mắt nhìn bức thư của Porthos.

Dưới thư có một dòng tái bút như sau:

"Cùng với chuyến thư này, tôi viết cho Aramis, anh bạn xứng đáng của chúng ta ở tu viện của anh ta".

"Ở tu viện của anh ta! Ừ, nhưng mà tu viện nào? Có đến hai trăm tu viện ở Paris và ba nghìn tu viện ở nước Pháp. Lại nữa khi vào tu viện cậu ta có thể đồi tên đến ba lần. A! Ví phỏng mình thông thái về thần học và chỉ cần nhớ cái chủ đề các luận án cậu ta tranh cãi rất hay với với ông linh mục Montdidie ở Crèvecoeur và ông tăng viện trưởng dòng Jesus, mình sẽ biết cậu ta thuộc phái nào. Và từ đó suy ra cậu ta thờ phụng thánh nào. Kể ra nếu mình đến ông giáo chủ, xin ông ta cấp cho một giấy thông hành có thể vào bất cứ tu viện nào, kể cả tu viện các nữ tu sĩ nhỉ! Đó cũng là một ý hay và có khi mình sẽ tìm thấy cậu ta. Ở đấy giống như Asin... Ô, nhưng mà như thế khác gì thú nhận ngay từ đầu sự bất lực của mình, và ngay từ việc đẩu tiên mình đã đi đứt trong tâm trí của giáo chủ.

Những quan to chỉ biết ơn khi nào người ta làm cho họ cái việc không có thể. Họ sẽ bảo chúng ta rằng: "Nếu là việc có thể thì tôi tự làm lấy mình cũng được". Và những quan to nói phải. Nhưng hãy đợi tí và xem nào. Mình cũng đã nhận một bức thư của cậu ta, người bạn thân thiết, đúng thế nên cậu ta mới nhờ mình một việc nhỏ và mình đã giúp. À, đúng rồi, nhưng mình đã nhét cái thư ấy vào đâu chứ?

D Artagnan ngẫm nghĩ một lát, rồi tiến về phía cái mắc áo treo những áo cũ của anh. Anh tìm chiếc áo khoác ngắn của mình dùng năm 1646, và do là một chàng trai có trật tự ngăn nắp, anh thấy nó được móc ở một cái đinh. Anh móc túi áo ra một mảnh giấy, đúng là thư của Aramis. Thư viết:

"Anh d Artagnan, xin anh biết cho rằng tôi đang có chuyện xích mích với một người quý tộc, hắn đã hẹn tôi chiều nay đến quảng trường Hoàng cung. Vì tôi là một người tu hành và việc ấy có thể hại cho tôi nếu tôi cho người khác biết, ngoài một người bạn thật tin cậy như anh, nên tôi viết cho anh để nhờ anh làm người trợ thủ cho tôi.

Anh sẽ đến đường Neuve-Sainte-Catherine; tới ngọn đèn thứ hai bên phải, anh sẽ thấy địch thủ của anh. Tôi sẽ cùng địch thủ của tôi ở dưới ngọn đèn thứ ba.

Tận tình với anh, Aramis!"

Lần ấy chẳng có đến lời từ biệt. D Artagnan cố nhớ lại kỷ niệm ấy. Anh đi đến chỗ hẹn, gặp địch thủ như đã dặn và anh chẳng biết tên, tặng hắn một nhát kiếm nên thân vào cánh tay, rồi anh đến chỗ Aramis thì Aramis cũng đã kết thúc cuộc đấu của mình rồi và đang đi đến với anh. Aramis nói:

- Xong rồi, tôi chắc là đã giết chết tên hỗn láo. Nhưng bạn thân mến ơi, nếu anh cần đến tôi thì anh biết rằng tôi hết lòng tận tụy với anh.

Nói xong Aramis bắt tay anh và biến đi dưới những ô cửa tò vò.

Thế là về chỗ ở của Aramis, d Artagnan cũng chẳng biết rõ hơn chỗ ở của Porthos và Arthos. Vấn đề bắt đầu trở nên rối rắm, thì anh nghe như có tiếng một tấm kính ở phòng anh bị đập vỡ. Lập tức anh nghĩ ngay đến túi tiền ở trong bàn và lao ngay vào phòng.

Anh không lầm: lúc anh vào bằng cửa chính thì có một người vào qua cửa sổ.

- A! Tên khốn nạn! - D Artagnan kêu lên, anh tưởng đó là một kẻ trộm và vớ lấy thanh kiếm.

- Ấy thưa ông? - Người kia kêu lên. - Lạy trời, xin ông hãy tra kiếm vào bao và chớ giết tôi mà không nghe tôi nói! Tôi không phải là một tên ăn trộm, trái lại, tôi là một thị dân hẳn hoi, có nhà cửa đàng hoàng. Tôi tên là... Ơ này, nếu tôi không lầm thì ông là ông d Artagnan.

- Còn cậu, Planchet hả! - Viên trung uý kêu lên.

- Để hầu hạ ông, nếu tôi còn làm được, - Planchet mừng quýnh lên nói.

- Có thể lắm, - D Artagnan đáp, - nhưng mà làm thế quái nào mà cậu lại chạy trên mái nhà vào lúc bảy giờ sáng giữa tiết tháng Giêng này?

- Thưa ông, ông cần biết rằng - Planchet nói, - nhưng xét ra có lẽ ông không nên biết.

- Ô hay, sao thế! Nhưng trước hết hãy đặt một cái khăn trước ô kính và kéo rèm lại.

Planchet vâng lời và khi làm xong, d Artagnan hỏi:

- Thế nào?

Tên Planchet khôn ngoan đáp:

- Thưa ông, trước hết, ông đối với ông Rochefort thế nào.

- Rất tốt! Sao vậy? Rochefort ư, cậu có biết rằng ông ta bây giờ là một trong những người tốt nhất của tôi không?

- A, càng hay.

- Nhưng giữa Rochefort với cái cách đột nhập vào phòng tôi thì có liên quan gì với nhau hả?

- Ấy đấy thưa ông? Cần phải thưa với ông rằng ông de Rochefort...

- Mẹ kiếp! - D Artagnan kêu - Tôi thừa biết ông ấy ở ngục Bastille.

- Nghĩa là ông ta đã ở đó, - Planchet đáp.

- Thế nào? Ông ta đã ở đó! - D Artagnan kêu lên. - Phải chăng ông ta có diễm phúc thoát rồi?

- A, thưa ông, - đến lượt Planchet kêu lên, - nếu ông gọi đó là diễm phúc, thì mọi sự đều ổn, vậy phải nói với ông rằng, hình như hôm qua người ta cho người đến Bastille đem ông Rochefort đi.

- Mẹ kiếp, ta biết thừa, bởi vì chính ta tới kiếm ông ấy.

- Nhưng không phải ông đã đưa ông ta trở lại đó, thật may cho ông; bởi vì nếu tôi nhận ra ông trong đoàn hộ tống thì ông hãy tin rằng bao giờ tôi cũng kính trọng ông quá.

- Nói nốt đi, con khỉ! Nào, thế rồi sao?

- Ấy! Thế rồi khi đến giữa phố Hàng Sắt, nhân xe chở ông Rochefort đi qua một đám dân chúng và bọn lính áp giải hành hạ những người thị dân, thế là người ta ồn ào lên; người tù nghĩ cơ hội thật là thuận tiện, bèn tự xưng tên và kêu cứu. Lúc ấy tôi đang ở đó, tôi nhận ra tên ông bá tước de Rochefort và nhớ rằng chính ông ấy đã cử tôi làm viên đội trong trung đoàn Piémont, tôi bèn nói to lên rằng người tù này là bạn của quận công de Beaufort. Mọi người liền nổi dậy, chặn ngựa lại, đánh tan đoàn áp giải. Trong khi tôi mở cửa xe, ông Rochefort nhảy xuống đất lẫn vào đám đông. Khốn thay khi ấy một đội tuần tra đi qua, chúng hợp với toán vệ sĩ và tấn công chúng tôi. Tôi vừa đánh vừa rút về phía phố Tiquetonne, tôi bị đuổi riết phải trốn vào một nhà ở cạnh nhà này; bọn chúng đã bao vây, sục sạo nhưng uổng công. Tôi đã gặp ở tầng năm một người tốt bụng giấu tôi giữa hai tấm nệm. Tôi đã nằm lại trong chỗ ẩn nấp của tôi, hoặc gần như thế, cho đến sáng, và nghĩ rằng đến chiều họ lại bắt đầu những cuộc lục soát, tôi đánh liều bò lên ống máng, tìm kiếm một lối vào sau đó một lối ra trong một ngôi nhà nào đó không bị canh gác. Câu chuyện của tôi là thế đấy và thưa ông, xin lấy danh dự mà thề rằng tôi sẽ rất thất vọng nếu nó làm ông chán tai.

- Không đâu, - D Artagnan nói, - thực sự tôi rất mừng là Rochefort đã được tự do, nhưng cậu có biết rõ điều này không: nếu cậu rơi vào tay những người của nhà vua, cậu sẽ bị treo cổ không dung tha.

- Mẹ kiếp, tôi biết lắm chứ! - Planchet nói- Đó chính là điều làm cho tôi sợ hết hồn, và đấy, về sau tôi rất mừng khi gặp lại ông; bởi vì nếu ông mà muốn giấu tôi thì chẳng có ai làm việc đó tốt hơn ông.

- Phải, - D Artagnan nói, - tôi không đòi hỏi gì hơn, dù rằng tôi chỉ phải hy sinh không hơn không kém cái chức vị của tôi, nếu như người ta biết rằng tôi đã cho một tên phiến loạn ẩn náu.

- Ôi, thưa ông, xin ông biết cho rằng tôi có thể liều mạng vì ông.

- Cậu có thể thêm hẳn vào là cậu liều mạng rồi, Planchet ạ. Tôi chỉ quên những điều tôi cần phải quên, nhưng còn điều này, tôi muốn nhớ lại: Cậu ngồi xuống đây, bình tĩnh mà ăn đi, bởi vì tôi nhận thấy cậu nhìn những món ăn thừa của bữa ăn của tôi với một cái nhìn biểu hiện cảm xúc nhất.

- Vâng, thưa ông, bơi cái tủ buffet của nhà bên cạnh rất hiếm của chất bột, và vì trưa hôm qua tôi mới ăn có một lát bánh với mứt. Mặc dầu tôi chẳng chê các của ngọt khi nó đến đúng nơi đúng chốn, tôi thấy bữa ăn tối hơi nhẹ.

- Khổ thân cậu! - D Artagnan nói. - Bình tâm lại đi.

- Ôi, ông ơi, ông đã cứu mạng tôi hai lần, - Planchet nói.

Rồi anh ta ngồi xuống bàn và ăn nghiến ngấu như những ngày nào ở phố Phu đào huyệt.

D Artagnan tiếp tục đi đi lại lại, anh cố moi trong óc xem có cách nào tận dụng được Planchet trong những tình huống hiện nay của anh. Trong lúc đó Planchet ra sức hoạt động để bù lại những giờ đã mất.

Cuối cùng anh ta trút một hơi thở phào khoan khoái của một người đói lả báo hiệu rằng sau khi được chén một đợt đầu tiên và chắc dạ, anh ta tạm ngừng một chút.

D Artagnan nghĩ đến lúc bắt đầu cuộc lục vấn, bèn nói:

- Nào, ta hãy tuần tự: cậu có biết Arthos ở đâu không.

- Không, ông ạ, - Planchet đáp.

Đồ quỷ! Cậu có biết Porthos ở đâu không.

- Cũng không.

- Đò quỷ! đồ quỷ! Còn Aramis?

- Cũng không nốt.

- Đồ quỷ! đồ quỷ! đồ quỷ!

- Nhưng, - Planchet nói với vẻ láu cá, - tôi biết Bazin ở đâu.

- Sao, cậu biết Bazin ở đâu à?

- Thưa vâng.

- Thế hắn ở đâu nào?

- Ở Nhà thờ Đức Bà.

- Làm gì ở Nhà thờ Đức Bà?

- Làm phụ thủ.

- Bazin phụ thủ ở nhà thờ Đức Bà? Cậu chắc chắn như vậy ư?

- Hoàn toàn chắc chắn, tôi đã trông thấy anh ta, tôi đã nói chuyện với anh ta.

- Hẳn là hắn ta phải biểt hắn ta ở đâu chứ?

- Chắc thế.

D Artagnan ngẫm nghĩ, rôi lấy áo choàng và thanh kiếm, anh sửa soạn đi ra.

- Ông ơi, - Planchet với vẻ mặt thiểu não nói, - Ông bỏ rơi tôi thế này ư? Xin ông nhớ rằng, tôi chỉ còn hy vọng ở ông thôi.

Nhưng người ta sẽ chẳng đến đây tìm cậu đâu, - D Artagnan bảo.

Anh chàng Planchet thận trọng nói:

- Cuối cùng người ta đến, ông nhớ cho rằng đối với những người trong nhà không trông thấy tôi vào, tôi ắt là một kẻ trộm.

- Đúng đấy, - D Artagnan nói. - Này thế cậu có nói được một thổ ngữ nào không?

- Tôi còn biết hơn ấy chứ, thưa ông, - Planchet đáp. - Tôi nói một ngôn ngữ, ngôn ngữ Flamant.

- Cậu học nó ở nơi quái quỷ nào thế?

- Ở Artois, nơi tôi đã dự cuộc chiến tranh hai năm. Ông nghe xem: Goeden morgen, mynheer! ltk ben begeeray te weeten the ge sond hects omstand.

- Nghĩa là gì?

- Chào ông! Tôi nóng lòng muốn biết tình trạng sức khỏe của ông thế nào?

- Nó gọi đấy là ngôn ngữ? Nhưng không sao! - D Artagnan nói, - thế mà tuyệt đấy?

D Artagnan đi ra cửa gọi một thằng hầu và bảo nó mời bà Madeleine xinh đẹp lên.

- Ông ơi, ông làm gì đấy, - Planchet nói, - Ông định trao cái điều bí mật của chúng ta cho một người đàn bà sao?

- Cứ yên tâm, bà ta sẽ chẳng hé nửa lời.

Lúc ấy bà chủ quán vào. Bà tươi cười chạy đến, tưởng rằng sẽ thấy d Artagnan một mình, nhưng vừa nhác thấy Planchet, bà kinh ngạc lùi lại.

- Bà chủ thân mến của tôi, - D Artagnan nói, - tôi xin giới thiệu ông anh của bà từ xứ Flandre đến, tôi nhờ ông ấy đến giúp việc tôi mấy ngày.

- Anh tôi! - Bà chủ nói, giọng mỗi lúc một sửng sốt.

- Hãy chào cô em đi, master Peter.

- Vilkom zueter! - Planchet nói.

- Goeden day, broer! - Bà chủ ngạc nhiên đáp lại.

- Câu chuyện là thế này! - D Artagnan nói. - Ông đây là anh bà, có thể bà không biết. Ông ấy từ Amsterdam đến. Trong khi tôi đi vắng, bà sẽ sắm sửa quần áo cho ông ấy; khi tôi về, nghĩa là độ một giờ nữa, bà sẽ giới thiệu ông ta với tôi và theo sự gửi gắm của bà. Mặc đầu ông ta sẽ chẳng nói một tiếng Pháp nào, do tôi chẳng có gì từ chối bà, tôi sẽ nhận ông ta vào giúp việc cho tôi, bà hiểu chứ!

- Nghĩa là tôi đoán ra điều ông mong muốn và chỉ cần có vậy, - Madeleine nói.

- Bà là một người phụ nữ quý hoá, bà chủ xinh đẹp của tôi ạ, và tôi tin cậy ở bà.

Nói xong, d Artagnan làm hiệu riêng với Planchet, rồi ra để đi đến Nhà thờ Đức Bà.

Chú thích:

(1) Asin - một danh tướng á thần trong thần thoại Hy Lạp, trong cuộc chiến tranh thành Troa dựng lều trú quân gần thành

(2) chồng cũ đã chết của vợ Porthos

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 8

Một nửa đồng Pistol có thể có những ảnh hưởng khác nhau đến một số phụ thủ và Lễ phục sinh

D Artagnan đi lên Cầu Mới, tự chúc mừng đã gặp lại được Planchet; bởi vì vừa có vẻ giúp được một việc cho chàng trai xứng đáng ấy, trong thực tế d Artagnan cũng được cậu ta giúp cho một việc. Quả thật lúc này không có gì khoái hơn cho anh bằng một người hầu dũng cảm và thông minh.

Đúng là Planchet rất có thể sẽ chẳng ở giúp việc anh lâu; nhưng khi giành lại vị trí xã hội cũ ở phố Lombards; Planchet vẫn là người chịu ơn d Artagnan; do cho hắn ẩn náu ở nhà mình, anh đã cứu mạng cho hắn hoặc gần như thế, và d Artagnan sẽ chẳng phiền lòng có những quan hệ trong giới thị dân vào lúc họ chuẩn bị cuộc chiến tranh với triều đình. Đó sẽ là một nội ứng trong hàng ngũ địch, và đối với một người tinh tế như d Artagnan, những chuyện vặt vãnh nhất có thể dẫn đến những đại sự.

Thế là trong cái thư thái tinh thần ấy, khá hài lòng về sự tình cờ và về bản thân mình, d Artagnan tới Nhà thờ Đức Bà. Anh bước lên bậc thềm, vào trong nhà thờ và đến trước một người giữ đồ thánh đang quét tước một giáo đường nhỏ, anh hỏi xem có biết ông Bazin không.

- Ông Bazin phụ thủ ấy à? - Người đó hỏi lại.

- Chính ông ấy.

Ông ta đang hầu lễ messe ở kia kìa, gần tiểu thánh đường Đức Mẹ đồng trinh.

D Artagnan sướng run người, vì dù cho Planchet đã nói, anh tưởng như chẳng bao giờ gặp lại Bazin; nhưng bây giờ anh đã nắm một đầu dây, anh bảo đảm sẽ đi tới đầu dây kia.

Anh đến quỳ ở trước tiểu giáo đường để khỏi mất hút người của mình. May thay đó là một lễ messe nhỏ và sẽ xong nhanh thôi. Đã quên hết những cầu nguyện và chẳng buồn cầm một quyển kinh, d Artagnan xem xét Bazin.

Bazin mặc bộ y phục của mình, có thể nói với tất cả vẻ trịnh trọng và toàn phúc. Có thể hiểu rằng bác đã đạt tới, hoặc gần như vậy, thượng đỉnh của những tham vọng, và cái thanh nạm bạc bác cầm trong tay cũng danh giá như cây gậy chỉ huy mà tướng Condé chĩa hoặc không chĩa vào những phòng tuyến quân thù ở trận Fribourg.

Thể xác bác đã thay đổi, nếu có thể nói, hoàn toàn tương tự bộ y phục. Toàn thân bác tròn xoay như là đã Sanoan hoá(1). Còn mặt bác ta, nhưng chỗ gồ lên đã biến mất. Bác vẫn có cái mũi, nhưng đôi má béo phị lên đã kéo sang hai bên một phần của mũi; cái cằm chảy tuột xuống cổ; đó không phải là mỡ mà như phù nề nó che kín cả mắt, tóc thì cắt vuông và theo kiểu thánh thần che khắp vầng trán xuống sát lông mày. Cần phải nói ngay rẳng cái trán của Bazin ngay thời còn để trần trụi cũng chỉ có cao một đốt rưỡi.

Ông phó mục sư làm xong lễ messe cùng lúc d Artagnan hoàn tất việc quan sảt của mình. Ông nói những lời chú giải thánh lễ, và trước sự sửng sốt của d Artagnan, ông vừa rút lui vừa ban phước và mọi người quỳ mà nhận lễ. Nhưng sự kinh ngạc của d Artagnan chấm dứt khi anh nhận ra ở vị tư tế chính ông giáo chủ, nghĩa là Jean-François de Gondy, nổi tiếng, hồi ấy dự cảm thấy vai mà ông đã sắm, bằng cách vung ra những của bố thí, ông bắt đầu làm cho mình rất được lòng dân. Nhằm mục đích tăng thêm cái dân tâm ấy, thỉnh thoảng ông lại đi làm những lễ messe buổi sớm mà chi có đám dân chúng đến dự.

D Artagnan quỳ gối như những người khác nhận giáng phước và làm dấu; nhưng vào lúc Bazin đi qua, mắt ngước lên trời và khúm núm bước sau cùng, thì d Artagnan níu lấy gấu áo bác.

Bazin cúi xuống nhìn và nhảy phắt ra đằng sau y như trông thấy một con rắn.

- Ông d Artagnan - Bác kêu lên, vade retro, Satanas (2).

- Này, bác Bazin thân mến ơi, - viên sĩ quan cười nói, - bác đón tiếp người bạn cố tri như thế này hay sao!

- Thưa ông, - Bazin nói, - những người bạn hữu thật sự của người tín đồ Thiên chúa giáo là những người giúp cho họ được cứu rỗi, chứ không phải những kẻ đi làm chệch hướng của họ.

- Tôi chẳng hiểu bác nói gì, bác Bazin ạ, nhưng tôi không thấy vì sao tôi lại có thể làm một vật chướng ngại cho sự cứu rỗi của bác được.

- Ông quên rồi sao, - Bazin đáp, - suýt nữa ông đã mãi mãi phá hoại sự cứu rỗi của ông chủ tội nghiệp của tôi và cũng tại ông, nên ông ta mới tự làm tội mình ở lại ngự lâm quân, trong khi thiên hướng lôi cuốn ông ta thật mãnh liệt đến Nhà thờ.

- Bác Bazin thân mến ơi, - D Artagnan nói tiếp, - bác cần thấy rõ ràng ở các nơi mà bác gặp tôi đấy, tôi đã thay đổi nhiều nhiều về mọi mặt: tuổi tác đem đến cho người ta lý trí, và do tôi không hề nghĩ rằng chủ của bác đang làm việc cứu rỗi của mình, tôi mới đến đây muốn bác cho biết ông ấy ở đâu để nhờ, ông ấy giúp đỡ bảo ban cho tôi làm cái việc cứu rỗi của tôi.

- Đúng hơn hãy nói thẳng ra rằng để dẫn ông ấy trở về nơi trần tục. May thay, - Bazin nói tiếp, - tôi chẳng biết ông ấy ở đâu cả, mà chúng ta đang ở trong một thánh thất, tôi không dám nói dối.

Thất vọng đến cùng cực, d Artagnan kêu lên.

- Trước hết, - Bazin nói, - Aramis là cái tên mất ơn Chúa, trong Aramis người ta thấy Simara là một cái tên ma quỷ, và phúc thay cho ông đã từ bỏ mãi mãi tên đó rồi.

Quyết ý kiên nhẫn đến cùng, d Artagnan nói:

- Cho nên tôi đi tìm không phải là Aramis mà là tu viện trưởng d Herblay. Thế nào, bác Bazin thân mến, hãy bảo cho tôi biết ông ấy ở đâu?

- Ông d Artagnan, ông không nghe thấy rằng tôi đã trả lời ông là tôi không biết hay sao?

- Vâng, chắc thế, nhưng về điều này, thì tôi dám cam đoan rằng không thể như thế được.

- Ấy thế mà là sự thật đấy ông ạ, sự thật thuần tuý, sự thật của Chúa.

D Artagnan thấy rõ là không thể moi gì được ở Bazin; hiển nhiên là Bazin nói dối, nhưng bác ta nói dối đến kiên quyết, nên có thể dễ dàng đoán ra rằng bác ta sẽ không thay đổi điều đã nói dối.

- Thôi được, Bazin! - D Artagnan nói, - vì bác chẳng biết chủ bác ở đâu thì thôi ta không nói đến nữa, chúng ta hãy chia tay nhau như những người bạn tốt, và bác hãy cầm lấy đồng nửa pistol này để uống mừng cho sức khỏe của tôi.

- Thưa ông, tôi không uống, - Bazin vừa nói vừa oai vệ đẩy tay viên sĩ quan ra, - cái ấy chỉ hợp với người thực tế.

- Không thể cám dỗ nổi? - D Artagnan lẩm bẩm - Mình thật là xúi quẩy! - D Artagnan mải suy nghĩ, buông áo Bazin ra, thế là Bazin lợi dụng ngay để vội đánh tháo về phía kho đồ thánh. Sau khi đóng cửa lại, bác mới cảm thấy an toàn.

D Artagnan đứng yên lặng, suy tư mắt đang đăm đăm nhìn vào cánh cửa đã đặt một rào chắn giữa anh và Bazin, thì cảm thấy có ai đụng nhẹ vào vai mình.

Anh quay lại và sắp thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc, cái kẻ đã đụng ngón tay vào anh vội đưa ngón tay ấy lên môi ra hiệu im lặng.

- Anh ở đây, Rochefort thân mến! - Anh khẽ nói.

- Suỵt! Rochefort bảo. - Anh có biết tôi tự do rồi không.

- Tôi biết ngay từ đầu.

- Ai nói?

- Planchet.

- Sao Planchet à!

- Tất nhiên? Chính cậu ta cứu anh.

- Planchet! Quả vậy, tôi ngỡ đã nhận ra hắn ta, bạn thân mến ạ; điều đó chứng tỏ rằng, làm ơn không bao giờ mất đâu.

- Thế anh đến đây làm gì?

- Tôi đến cảm ơn Chúa về sự giải thoát may mắn của tôi, - Rochefort đáp.

- Rồi còn gì nữa chứ? Vì tôi đoán chừng chưa phải đã hết.

- Rồi nhận mệnh lệnh của ông chủ giáo xem bọn tôi có thể làm một chút gì chọc cho lão Mazarin điên người lên.

- Đồ bướng bỉnh! Rồi anh lại đến bị tống vào Bastille nữa cho mà xem.

- Ồ! Về cái đó thì tôi cảnh giới. Tôi xin cam đoan với anh thế!

- Ngoài trời tốt biết bao! - Rochefort thở hít đầy nồng ngực và nói tiếp.- Cho nên tôi sẽ đi dạo ở đồng quê, làm một chuyến về tỉnh lẻ.

- Này, - D Artagnan nói, - tôi cũng vậy!

- Và không tọc mạch, co thể hỏi anh đi đâu chăng?

- Đi tìm các bạn tôi.

- Bạn nào?

- Những bạn mà hôm qua anh hỏi thăm ấy.

- Arthos, Porthos và Aramis à! Anh đi tìm kiếm họ?

- Phải.

- Nói danh dự đấy chứ?

- Thế chuyện ấy có gì lạ?

- Không. Hơi kỳ. Thế ai nhờ anh đi tìm họ?

- Anh cũng thừa biết.

- Phải đấy.

- Khốn thay tôi chẳng biết họ ở đâu cả.

- Mà anh không có một cách gì để biết tin tức họ ư? Đợi tám ngày nữa, tôi sẽ cho anh biết về họ.

- Tám ngày lâu quá, cần phải tìm ra họ trước ba ngày.

- Ba ngày thì ngắn quá, - Rochefort nói, - mà nước Pháp lại rộng mênh mông.

- Có sao! Anh biết chữ "cần phải" với chữ đó có thể làm được khối việc.

- Thế bao giờ anh bắt tay vào việc tìm kiếm.

- Tôi đang làm đây.

- Chúc anh may mắn!

- Còn anh, chúc anh lên đường bình an! Có thể chúng ta sẽ gặp nhau trên các nẻo đường.

- Chưa chắc.

- Biết đâu đấy? Rủỉ may, may rủi, biết thế nào.

- Từ biệt nhé!

- Hẹn gặp lại! Tiện đây, nếu lão Mazarin nói với anh về tôi, anh hãy nói với hắn rằng tôi nhờ anh bảo cho hắn, hãy biết chờ xem, không lâu đâu, liệu tôi có như hắn nói, là quá già nua để hành động hay không?

Và Rochefort chia tay với một trong những nụ cười ma quái ngày xưa đã từng khiến d Artagnan rợn người; nhưng lần này d Artagnan nhìn theo chẳng chút lo âu và đến lượt anh mỉm cười với một nỗi buồn man mác mà chỉ có kỷ niệm ấy mới có thể in lên gương mặt anh. Anh nói:

- Đi đi, con quỷ, mày muốn làm gì thì làm, chẳng can hệ đến ta: không có một chàng Constance thứ hai ở trên đời đâu!

Khi quay trở lại, anh thấy Bazin sau khi cởi bỏ bộ quần áo tu hành đang nói chuyện với người coi giữ đồ thánh mà d Artagnan đã hỏi han khi mới bước vào nhà thờ. Bazin tỏ ra rất xao động và đang giơ những cánh tay to nần nẫn và ngắn cũn cỡn làm đủ các động tác. D Artagnan hiểu rằng chắc chắn bác ta đang dặn dò người kia phải hết sức kín đáo với anh.

Lợi dụng lúc hai người đó đang bận rộn, d Artagnan lùi ra khỏi nhà thờ và đi đến nấp ở góc phố Canettes . Đứng ở đó mà nhìn thì nếu Bazin đi ra ngoài không thể lọt qua mắt anh được. Năm phút sau, d Artagnan đã đến vị trí. Bazin xuất hiện ở sân trước giáo đường. Bác ta nhìn khắp xung quanh để yên trí không bị quan sát, nhưng bác không thể nhìn thấy viên sĩ quan chỉ thò mỗi cái đầu ra ở góc một ngôi nhà cách đó năm chục bước. Yên tâm với những biểu hiện đó, bác đánh liều ra phố Đức Bà. D Artagnan vọt ra khỏi chỗ nấp và vừa kịp trông thấy bác đi qua phố Juiverie, sang phố Calandre và đi vào một ngôi nhà trông bề ngoài giản dị. Cho nên viên sĩ quan không hề nghĩ rằng vị phụ thủ xứng đáng kia lại không ở trong căn nhà đó.

D Artagnan chẳng buồn đến hỏi nhà ấy. Người gác cổng, nếu có, hẳn phải được báo trước rồi; còn nếu không có thì hỏi ai được. Anh đi vào một quán rượu ở góc phố Saint-Eloi và phố Calandre gọi một lượng d hypocras (3). Loại rượu này pha chế phải mất đứt nửa tiếng đồng hồ. D Artagnan có đủ thì giờ rình Bazin mà chẳng khiến ai nghi ngờ.

Anh trông thấy ở trong quán một thằng lỏi trạc mười hai đến mười ba tuổi vẻ linh lợi mà anh ngờ đã nhìn thấy trước đó hai mươi phút trong bộ quần áo lễ. Anh hỏi chuyện nó và do thằng nhỏ học việc phụ trợ tế chẳng có gì mà phải giấu giếm, anh biết nó làm từ sáu giờ đến chín giờ sáng nghề lễ sinh và từ chín giờ sáng đến nửa đêm nghề hầu bàn.

Trong khi anh nói chuyện với thằng nhỏ, người ta dắt đến cửa nhà Bazin một con ngựa. Con ngựa đóng yên cương sẵn sàng. Một lát sau Bazin xuống.

- Này ông ta đi đâu vậy? - D Artagnan hỏi.

- Ơ? Tôi biết đâu đấy?

- Nửa pistol nếu mày biết được! - D Artagnan bảo.

- Cho tôi ấy à? - Thằng bé nói, mắt ánh lên vui mừng, - nếu tôi biết Bazin đi đâu. Chẳng khó gì đâu! Ông không giỡn tôi đấy chứ?

- Không, danh dự sĩ quan. Đây, đồng nửa pistol.

Và anh chìa ra đồng tiền cám dỗ, nhưng chưa đưa cho nó.

- Tôi sẽ đi hỏi bác ta.

- Đó là một cách để chẳng biết được gì cả, - D Artagnan nói. - Đợi bác ta đi, rồi sau đó. Mẹ kiếp! Hỏi han, lục vấn, dò xét. Đó là việc của mày, đồng nửa pistol vẫn đó. Và anh lại bỏ tiền vào túi.

- Tôi hứa - thằng bé nói với nụ cười ranh mãnh chỉ có ở bọn nhóc Paris, - Thế thì, ta đợi xem.

Chẳng phải đợi lâu, năm phút sau, Bazin đi nước kiệu nhỏ, dùng cán ô thúc ngựa.

Bazin bao giờ cũng có thói quen mang ô thay cho roi ngựa.

Bác vừa mới ngoặt góc phố Juiverie thì thằng nhóc đã lao theo như con chó săn đuổi theo mồi.

D Artagnan lại ngổi vào bàn chỗ anh đã ngồi khi mới vào, hoàn toàn chắc chắn rằng trước mười phút anh sẽ biết điều mình muốn biết.

Quả nhiên trước cả thời gian dự kiến, thằng nhỏ trở về.

- Thế nào! - D Artagnan hỏi.

- Thế là đã biết rồi, - thằng bé đáp.

- Thế bác ta đi đâu?

- Đồng nửa pistol vẫn dành cho tôi chứ?

- Tất nhiên rồi. Trả lời đi.

- Cho tôi xem nào. Đưa tôi xem có phải tiền giả không?

- Đây!

- Ông chủ ơi. - thằng bé nói, - Ông khách đây cần đổi tiền lẻ.

Người chủ đang ở quầy, đưa tiền lẻ và cầm lấy đồng nửa pistol.

Thằng nhóc bỏ tiền lẻ vào túi nó.

D Artagnan trông cái trò xảo trá của thằng nhóc, bật cười và nói:

- Nào bây giờ nói đi, bác ta đi đâu?

- Bác ấy đi Noisy.

- Tại sao mày biết?

- À mẹ nó! Cũng chẳng cần phải ma lanh lắm đâu. Tôi đã biết rằng con ngựa là của bác hàng thịt thỉnh thoảng vẫn cho bác Bazin thuê. Tôi cũng đã nghĩ rằng bác hàng thịt chẳng khi nào cho thuê ngựa mà lại không hỏi người ta dẫn nó đi đâu, dù rằng tôi chẳng tin là bác Bazin có thể làm con ngựa bị quá sức.

- Và bác ta đã trả lời mày và Bazin...

- Đi Noisy. Với tuồng như việc ấy đã thành lệ, cứ mỗi tuần vài ba lần đi tới đó.

- Thế mày có biết Noisy không?

- Biết chứ! Tôi có bà mẹ nuôi!

- Ở Noisy có tu viện nào không?

- Một cái oách là khác, tu viện dòng Jésuites .

- Tốt! - D Artagnan thốt lên, - không còn ngờ gì nữa?

- Vậy ông hài lòng chứ?

- Ừ! Mày tên là gì?

- Friquet.

D Artagnan giở sổ ra ghi tên thằng nhỏ và địa chỉ quán rượu.

- Ông ơi, - thằng bé hỏi, - liệu có còn kiếm được những đồng nửa pistol khác nữa không?

- Có thể, - D Artagnan đáp.

Và do đã nắm được điều muốn biết, anh trả tiền lượng hypocras mà anh chẳng dụng môi, và vội vàng trở về đường phố Tiquetonne.

Chú thích:

(1) Một chức thầy tu hầu chủ giáo thường sống an nhàn, cho nên có những câu tục ngữ: "hớn hở như mặt Sanoan", "béo quay như Sanoan"

(2) Cút đi, quỷ Satan.

(3) Thứ rượu vang pha trộn với đường, quế, đinh hương và đun nóng lên.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 9

D'Artagnan đi tìm Aramis ở tận đẩu đâu, cuối cùng lại gặp anh ta ngồi ngay trên lưng ngựa sau Planchet

Khi trở về, d Artagnan trông thấy một người ngồi ở góc lò sưởi. Đó là Planchet, nhưng Planchet thay hình đổi dạng hẳn, nhờ những quần áo cũ, mà người chồng để lại khi bỏ trốn, đến nỗi chính d Artagnan cũng khó mà nhận ra.

Madeleine giới thiệu cậu ta với anh trước mặt bọn đầy tớ. Planchet nói với anh một câu tiếng Flamant rất chúa, viên sĩ quan đáp lại vài lời chẳng thuộc ngôn ngữ nào cả, và cuộc mặc cả ngã giá. Người anh của Madeleine vào giúp việc d Artagnan.

Kế hoạch của d Artagnan được sắp đặt rất chu đáo: anh không muốn đi ban ngày đến Noisy sợ bị lộ. Anh hãy còn thời giờ, Noisy cách Paris có ba, bốn dặm, trên đường đi Meaux.

Anh bắt đầu ăn bữa sáng rất ngon, điều đó có thể là không tốt khi người ta muốn hoạt động bằng cái đầu nhưng lại là sự dự phòng rất tuyệt khi muốn hoạt động bằng thân thể. Xong, anh thay đổi y phục, sợ rằng cái áo trung uý ngự lâm quân sẽ gây nên nghi ngờ; rồi anh lấy ra thanh kiếm khỏe nhất và chắc nhất trong số ba thanh kiếm mà anh chỉ đem theo những ngày đại sự. Khoảng hai giờ, anh cho thắng ba con ngựa, và với Planchet theo sau, anh đi ra lối qua Villette.

- Ở nhà bên cạnh quán "Con dê cái nhỏ", người ta vẫn lục soát rất gắt gao để truy tìm Planchet.

Đi cách Paris một dặm rưỡi, d Artagnan cảm thấy mình do sốt ruột nên ra đi quá sớm, bèn dừng lại cho ngựa thở; quán bên đường đầy những người vẻ mặt bất hảo như sắp mưu toan một chuyến đi đêm. Một người khoác áo choàng xuất hiện ở cửa, nhưng nhìn thấy một người lạ, hắn giơ tay làm hiệu và hai tên uống rượu đi ra ngoài để bàn bạc với hắn.

Còn d Artagnan tiến lại phía bà chủ quán với vẻ vô tư, tán dương rượu vang của bà nó vốn làm từ một đồng nho kinh khủng của Montreuil, hỏi vài câu về Noisy và được biết rằng ở trong làng có hai ngôi nhà thờ bề thế: một nhà của Đức ông tổng giám mục Paris, ở đó hiện giờ có cháu gái ông là bà công tước De Longueville, nhà kia là một tu viện dòng Giêduyt và theo tục lệ là sở hữu của những vị cha cố danh giá ấy, không sợ nhầm lẫn đâu.

Bốn giờ, d Artagnan lại lên dường, rong bước một vì anh chỉ muốn tới nơi khi trời tối hẳn. Lúc người ta rong ngựa thong thả vào một ngày mùa đông, trời âm u giữa một phong cảnh bằng lặng, thì chẳng có gì dáng làm hơn là - như La Fontaine nói làm như con thỏ ở trong hang của nó: nghĩ ngợi. Vậy là d Artagnan nghĩ ngợi, và Planchet cũng thế. Tuy nhiên, như ta sẽ thấy, những mơ tưởng của họ khác.

Một tiếng nói của bà chủ quán đã truyền một phương hướng đặc biệt vào dòng suy nghĩ của d Artagnan. Tiếng ấy là tên bà De Longueville.

Quả thật, bà Longueville có đủ mọi cái cần thiết để làm người ta phải nghĩ đến đó là một trong những mệnh phụ lớn nhất của vương quốc, đó là một trong những phụ nữ xinh đẹp nhất của triều đình.

Kết hôn với lão quận công De Longueville mà bà không yêu, lúc dầu bà bị coi như tình nhân của Coligny, ông này vì bà mà bị giết trong cuộc đấu kiếm với quận công de Guise ở quảng trường Hoàng cung.

Rồi sau người ta đồn về sự thân mật hơi quá đáng của bà với anh ruột của bà là hơàng thân Condé, chuyện đó gây phẫn nộ trong những người sùng đạo sợ tội với Thượng đế ở trong triều. Cuối cùng, người ta còn nói một mối thù thực sự và sâu sắc kế tiếp mối thân tình ấy; và hồi ấy, người ta vẫn cứ đồn bà công tước De Longueville có liên hệ về chính trị với hoàng thân De Marcillac con của lão quận công De la Rochefoucauld, do đó bà trở thành kẻ thù của quận công De Condé, anh bà.

D Artagnan suy nghĩ đến tất cả những điều đó. Anh nghĩ rằng khi xưa ở cung Louvre anh thường thấy bà Longueville đi qua trước mặt anh, rạng rỡ và chói lọi. Anh nghĩ đến Aramis, chẳng hơn gì anh, xưa kia là tình nhân của bà de Chevreuse; đối với triều đình trước bà de Chevreuse như thế nào thì đối với triều đình này bà De Longueville cũng như vậy. Và anh tự hỏi tại sao ở trên đời này có nhiều người đạt tới tất cả những gì họ mong ước, người này về mặt tham vọng, kẻ kia về mặt ái tình, trong khi có những người khác hoặc vì tình cờ hoặc vì vận rủi, hoặc do trở ngại tự nhiên, do thiên nhiên đã đặt vào họ, khiến họ ở lại nửa đường trong mọi ước vọng của mình.

Anh buộc phải tự thú nhận rằng mặc dầu tất cả trí tuệ của mình, tất cả sự khéo léo của mình, chắc chắn là anh thuộc và sẽ vẫn thuộc loại những kẻ sau rốt kia. Anh nghĩ đến đỏ thì Planchet đến gần và nói:

- Ông này, tôi đánh cuộc là ông nghĩ đến cùng một điều như tôi.

- Tôi hoài nghi đấy, Planchet? - D Artagnan nói. - Nhưng cậu nghĩ đến gì cơ chứ?

- Thưa ông, tôi nghĩ đến những bộ mặt bất hảo đang nhậu nhẹt ở trong quán rượu mà chúng ta vừa dừng lại đó..

- Cậu lúc nào cũng thận trọng!

- Đấy là bản năng, ông ạ.

- Thế thì thử xem trong hoàn cảnh như thế này, bản năng cậu nói với cậu thế nào?

- Ông ạ, bản năng nói với tôi rằng những kẻ kia tụ tập ở trong cái quán ấy nhằm một mục đích xấu, và tôi ngẫm nghĩ đến cái điều mà bản năng của tôi nói với tôi trong cái xó tối tăm nhất của chuồng ngựa. Khi một gã khoác áo choàng bước vào chuồng ngựa có hai tên khác theo sau.

Thấy câu chuyện của Planchet phù hợp vớí những quan sát của mình, d Artagnan nói:

- A, a? Thế nào?

- Một người trong bọn họ nói:

"Chắc chắn hắn ta ở Noisy hoặc sẽ đến đó tối nay, bởi vì tôi nhận ra tên hầu của hắn".

"Anh có chắc không? - Người khoác áo choàng hỏi.

"Thưa hoàng thân chắc ạ.

- Thưa hoàng thân à? - D Artagnan ngắt lời.

- Vâng, thưa hoàng thân. Nhưng ông hãy nghe đã.

" Nếu nó đến đấy, dứt khoát ta phải hành động thế nào chứ? - Một tên uống rượu nói.

"Phải hành động thế nào ấy à? - Ông hoàng hỏi.

"Hắn không phải kẻ dễ để người ta tóm như thế đâu. Hắn sẽ đẩu kiếm.

- Thế thì phải làm như hắn ta, tuy nhiên cố bắt sống nó. Anh có thừng để trói nó không, và một túm giẻ để bịt miệng nó lại.

"Chúng tôi có đầy đủ.

" Phải chú ý, rất có thể hắn sẽ cải trang làm một kỵ sĩ.

" Ồ vâng! Xin Đức ông cứ yên tâm.

"Với lại tôi cũng sẽ ở đó và tôi sẽ hướng dẫn các anh.

"Ngài bảo đảm là công lý...

- Tôi xin bảo đảm tất, - Ông hoàng nói.

- Thế thì tốt, chúng tôi sẽ cố làm hết sức mình.

Nói xong, bọn họ ra khỏi chuồng ngựa.

- Này! - D Artagnan nói, - chuyện đó thì có can hệ gì đến chúng ta? Đó là một trong những kế hoạch mà người ta vẫn làm hằng ngày.

- Ông có chắc rằng việc đó không phải nhằm chổng lại chúng ta không?

- Chống lại chúng ta? Tại sao?

- Ấy, xin hãy nhớ lại câu nói của họ. "Tôi nhận ra thằng hầu của hắn", hẳn là nói về tôi.

- Gì nữa?

- "Hắn phải ở Noisy hoặc sẽ đến đó tối nay", một tên khách nói, hẳn là nói về ông.

- Rồi sao nữa?

- Rồi ông hoàng thân nói: "Phải chú ý là rất có thể hắn cải trang là kỵ sĩ", điều này không nghi ngờ gì nữa, bởi vì ông mặc kỵ sĩ chứ không phải là ngự lâm quân; xin hỏi, ông nói sao?

- Chao ôi, Planchet thân mến của tôi? - D Artagnan thở dài. - Tôi xin nói rằng tôi không còn phải khốn khổ ở cái thời mà các ông hoàng muốn cho ám sát tôi. Ôi! Các ông hoàng ấy, đó là thời xa xưa rồi. Cậu hãy yên tâm, những người ấy chẳng thù oán gì ta đâu?

- Ông chắc thế chứ?

- Tôi cam đoan vậy.

- Thế thì tốt rồi; ta không bàn chuyện ấy nữa.

Và Planchet lại lùi lại đi sau d Artagnan với niềm tin cậy tuyệt vời mà bao giờ anh cũng có đối với chủ anh, và mười lăm năm xa cách vẫn không hề phai nhạt.

Cứ thế đi được gần một dặm. Planchet tiến gần lại d Artagnan và nói:

- Ông này!

- Gì đấy? - D Artagnan hỏi.

- Này, ông thứ nhìn về phía kia xem hình như có bóng người đang đi trong đêm tối thì phải. Ông nghe xem, hình như có tiếng vó ngựa ấy.

- Vô lý! D Artagnan nói. - Đất ướt nhão vì mưa, tuy nhiên, như cậu nói, tôi thấy hình như có cái gì đó.

Và họ dừng lại để nhìn và nghe ngóng.

- Nếu không nghe tiếng chân ngựa, ít ra cũng nghe tiếng ngựa hí; này này!

Quả nhiên có tiếng một con ngựa hí vọng qua không gian và bóng tối, đập vào tai d Artagnan.

- Đó là những người của ta đi dã ngoại, - anh nói, nhưng chẳng can hệ gì đến ta, ta cứ tiếp tục đi thôi.

Và họ lại lên đường.

Nửa giờ sau họ tới những căn nhà đầu tiên của Noisy, lúc ấy khoảng tám giờ rưỡi đến chín giờ tối.

Theo thói quen ở nông thôn, mọi người đã đi nằm, và trong làng không còn có một ánh lửa.

Mái nhà nhấp nhô ở hai bên đường nổi bật trên nền trời xám, chốc chốc một con chó canh sủa lên sau một cánh cửa, hoặc một con mèo hoảng hốt vội vã rời lòng đường chạy đến núp trong một đống củi, và cặp mắt sợ hãi vẫn sáng lẩp lánh như những hòn ngọc xanh lè.

Dường như đó là những sinh vật duy nhất sống ở làng này.

Đến giữa xóm, cứ cho là như vậy, có một khối nhà tối sẫm nổi lên giữa hai ngõ, án ngữ khu chính, hai cây bồ đề lớn ở trước nhà dang rộng những cánh tay khẳng khiu. D Artagnan chú ý xem xét ngôi nhà. Anh bảo Planchet.

- Đây chắc hẳn là lâu đài của tổng giám mục, nơi ở của phu nhân De Longueville kiều diễm. Nhưng còn tu viện ở đâu nhỉ?

- Tu viện ở đầu làng, - Planchet nói, - tôi biết mà.

- Này Planchet,- D Artagnan bảo - phóng thẳng đến đó đi, còn tôi sẽ siết lại đai ngựa, và khi quay về cậu sẽ cho tôi biết rõ còn cửa sổ nào có ánh đèn ở chỗ cái ông thầy tu Giêduyt không?

Planchet tuân lời và lao vào bóng tối. D Artagnan nhẩy xuống đất siết lại đai ngựa.

Năm phút sau, Planchet trở lại. Anh nói:

- Ông ạ, chỉ mỗi cửa sổ ở phía tường trông ra ngoài đồng là có ánh đèn thôi.

- Hừm! - D Artagnan nói. - Nếu ta là Fronde ta sẽ gõ cửa đây và chắc chắn sẽ có nơi trú tốt, nếu ta là thầy tu ta sẽ gõ cửa đằng kia, và chắc chắn sẽ có một bữa ăn tối ngon. Còn trái lại, ở giữa lâu đài và tu viện, rất có thể chúng ta sẽ nằm trên mặt đất, chết khát và chết đói.

- Đúng đấy Planchet đáp, - giống như con lừa của Buridăng nổi tiếng. Trong khi chờ đợi, ông có muốn tôi gõ cửa không?

- Suỵt! D Artagnan nói. - Cửa sổ duy nhất có ánh đèn thì lại vừa mới tắt.

- Ông có nghe thấy không? Planchet nói.

- Có tiếng động gì ấy nhỉ?

Đó là tiếng ồn ào của một cơn dông đang đến gần, cùng lúc ấy hai toán kỵ sĩ, mỗi toán độ mười người, túa ra từ hai ngõ men theo ngôi nhà, và bịt chặt mọi lối thoát, bao vây d Artagnan và Planchet.

- Ái chà? - D Artagnan vừa nói vừa tuốt kiếm và nấp sau con ngựa của mình, còn Planchet cũng làm động tác như vậy - Có lẽ cậu nghĩ đúng đây, và họ định công kích chúng ta thật chăng?

- Nó kia rồi, bắt lấy nó!

Các kỵ sĩ vừa nói vừa xông vào d Artagnan, kiếm tuốt trần.

- Chớ để nó thoát, - một giọng nói to.

- Không, xin Đức ông yên tâm.

D Artagnan cho là đến lúc anh phải xen vào câu chuyện. Anh nói bằng giọng Gascogne:

- Ơ này, các ông! Các ông muốn gì, các ông cần gì?

- Rồi mày sẽ biết! - Các kỵ sĩ đồng thanh quát lên.

- Dừng lại! dừng lại! - Người được gọi là Đức ông kêu lên, - Dừng lại! Không phải là tiếng nó.

- À, ra thế! Này các ông, - D Artagnan nói, - phải chăng ngẫu nhiên mà người ta phát rồ lên ở Noisy. Tuy nhiên hãy coi chừng, vì tôi xin báo trước rằng kẻ đầu tiên sấn lại vừa tầm dài thanh kiếm của tôi, mà thanh kiếm của tôi thì dài đấy, tôi sẽ rạch thủng bụng ra.

Người thủ lĩnh tiến lại:

- Anh làm gì đấy? - Ông ta nói bằng một giọng kiêu kỳ và như quen chỉ huy.

- Thế còn chính ông? - D Artagnan nói.

- Nên tỏ ra lễ độ, nếu không ta sẽ nện cho ra trò; vì dù không muốn tự xưng tên, ta cũng muốn được kính trọng theo thứ vị.

- Ông không muốn xưng danh, bởi vì ông chỉ huy một cuộc mai phục, - D Artagnan nói, - nhưng tôi đây, tôi đi du ngoạn yên lành với tên hầu của tôi, tôi không có lý do như ông để giấu tên.

- Thôi, thôi, ông tên là gì?

- Tôi nói tên ra để ông còn biết mà tìm lại, thưa ông, thưa Đức ông hay thưa Hoàng thân, tuỳ ý ông thích gọi thế nào cũng được, - chàng xứ Gascogne của chúng ta không muốn có vẻ lùi bước trước một lời doạ nạt, bèn nói, - Ông có biết ông d Artagnan không?

- Trung uý ngự lâm quân của nhà vua?

- Đúng thế.

- Phải.

- Vậy thì, chàng xứ Gascon tiếp tục, - Ông phải nghe nói đó là một tay kiếm vững vàng và điêu luyện chứ?

- Ông là ông d Artagnan à?

- Tôi đây.

Thế ra ông đến đây để bảo vệ cho hắn ư?

- Hắn? Hắn nào?...

- Kẻ mà chúng tôi tìm kiếm.

- Dường như, - D Artagnan nói, - không có nghi ngờ gì nữa đến Noisy tôi tưởng như đã tiếp cận vương quốc của những lời bí ẩn.

- Này, trả lời đi, - vẫn cái giọng kiêu ngạo ấy cất lên. Ông chờ hắn ở dưới những của sổ này phải không? Ông đến Noisy để bảo vệ hắn phải không?

- Tôi chẳng đợi ai hết, - D Artagnan nói, anh đã bắt đầu nổi nóng, - tôi chẳng tính bảo vệ ai ngoài tôi ra, mà cái tôi ấy tôi sẽ báo vệ mãnh liệt đấy, xin báo để ông rõ.

- Được rồi, ông đi khỏi đây đi, rời khỏi chỗ này đi.

Cái mệnh lệnh đó ngược lại với kế hoạch của d Artagnan, nên anh đáp:

- Đi khỏi đây ư? Không dễ đâu, vì tôi mỏi rã người ra rồi và con ngựa của tôi cũng vậy, trừ phi ông sẵn sàng đãi tôi một bữa ăn tối và cho tôi ngủ ở đâu đó quanh đây.

- Đồ lếu láo!

- Này! - D Artagnan nói. - Xin ông giữ mồm giữ miệng, vì nếu ông còn nói một câu tương tự, thì dù ông là hầu tước, công tước, hoàng thân, hay vua chăng nữa, tôi cũng sẽ tống câu ấy trở vào bụng ông, ông nghe rõ chưa?

- Thôi, thôi, viên chỉ huy nói, - không thể lầm lẫn được, đúng là một Gascogne, và do đó không phải là kẻ ta đang tìm. Việc của ta tối nay thế là hỏng rồi, ta rút thôi. Chúng ta sẽ lại gặp nhau, tiên sinh d Artagnan ạ, - viên chỉ huy cao giọng nói tiếp.

- Vâng, nhưng không bao giờ với lợi thế như thế này,- chàng Gascogne nói mỉa, - vì khi gặp lại tôi, có lẽ ông sẽ đi một mình và giữa ban ngày ban mặt.

- Được lắm, được lắm! - Giọng nói cất lên. - Nào, các ông lên đường.

Và đám người vừa lầu bầu vừa la gắt gỏng, biến trong bóng tối, trở về phía Paris.

D Artagnan và Planchet còn đứng một lát giữ thế thủ, nhưng, tiếng động tiếp tục xa dần, họ tra kiếm vào bao.

D Artagnan bình thản bảo Planchet:

- Cậu thấy chưa, đồ ngu, không phải họ công kích chúng ta mà.

- Thực tình tôi chẳng hiểu gì! Nhưng không sao. Điều can hệ đối vôi tôi là vào tu viện jésuites. Vậy thì, ta lên ngựa và đến đó gõ cửa. Thế nào thì thế chứ? Mẹ kiếp, họ có ăn thịt ta đâu mà lo?

D Artagnan trèo lên yên.

Planchet vừa mới lên yên, thì một khối nặng bất ngờ rơi bịch xuống đằng sau con ngựa khiến nó khuỵu xuống.

- Ối ông ơi, - Planchet kêu lên, - có một người ngồi sau mông ngựa tôi.

D Artagnan quay lại và quả nhiên trông thấy hai bóng người trên con ngựa của Planchet.

- Vậy đúng là ma quỷ theo đuổi chúng ta, - anh kêu lên và rút kiếm chuẩn bị tấn công kẻ mới đến.

- Không, d Artagnan thân mến của tôi ơi, không phải ma quỷ đâu! Aramis đây!

Planchet phi nước đại lên, đến đầu làng thì rẽ bên trái.

Và Planchet mang Aramis trên mông ngựa, phóng nước đại, d Artagnan theo sau, anh bắt đầu ngờ như mình đang mơ một giấc mơ kỳ ảo và chẳng ăn nhập gì với nhau cả.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 10

Tu viện trưởng d'Erblay

Đến đầu làng Planchet rẽ sang bên trái như Aramis đã dặn và dừng lại dưới một cửa sổ có ánh đèn, Aramis nhảy xuống đất và vỗ tay ba lần. Tức thì cửa sổ mở ra, và một cái thang dây buông xuống.

- Bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - nếu bạn muốn lên tôi sẽ rất vui mừng được tiếp đón.

- Ối chà! - D Artagnan nói. - Thì ra người ta về nhà anh bằng cách ấy à?

- Quá chín giờ tối rồi thì mẹ kiếp, dứt khoát phải như vậy chứ! - Aramis nói. - Lệnh của tu viện là loại nghiêm ngặt nhất đấy, mẹ kiếp!

- Xin lỗi anh bạn thân mến, - D Artagnan nói, - hình như vừa rồi anh có nói mẹ kiếp!

- Cậu tin là có thể lắm chứ. Bạn thân mến ơi, cậu không thể tưởng tượng được rằng trong những cái tu viện phải gió này người ta nhiễm biết bao nhiểu thói xấu xa, những dàn nhà thờ này đều có những cung cách độc ác và tôi buộc phải chung sống với họ! Thế cậu không lên à?

- Cậu đi trước, tôi theo sau.

Giống như vị cố giáo chủ nói với vua đã khuất: "Để chỉ đường cho Hoàng thượng", Aramis nhanh nhẹn leo thang và loáng một cái đã tới cửa sổ

D Artagnan lên sau, nhưng thong thả hơn, rõ ràng cái kiểu đường đó anh không quen bằng bạn.

Aramis nhận thấy sự vụng về ấy, bèn bảo:

- Xin lỗi, nếu tôi biết trước có vinh dự được cậu đến thăm, tôi sẽ mang cho cái thang của bác làm vườn đến, còn đối với riêng tôi, cái thang này là đủ rồi.

Khi thấy d Artagnan leo gần đến nơi, Planchet nói.

- Thưa ông, cái trò này rất hợp với ông Aramis cũng hợp với ông, và quá lắm nó cũng còn hợp với tôi, nhưng hai con ngựa chúng không thể nào leo thang được ạ

- Cậu dẫn chúng xuống nhà kho, anh bạn ạ, - Aramis vừa nói vừa trỏ cho Planchet một thứ xưởng mọc lên ở dưới đồng, - Ở đó có rơm và lúa mạch cho ngựa.

- Thế còn cho tôi? - Planchet hỏi.

- Cậu sẽ trở lại dưới cửa sổ, vỗ tay ba lần và chúng tôi sẽ chuyển thức ăn xuống. Yên tâm đi,! Ở đây chẳng lo chết đói đâu. Thôi, đi đi.

Rồi Aramis rút thang dây lên, đóng cửa sổ.

D Artagnan ngắm căn phòng.

Chưa bao giờ anh thấy một căn phòng vừa chinh chiến hơn vừa lịch sự hơn. Ở mỗi góc phòng bày những binh khí chiến lợi phẩm, có thể xem và cầm những gươm, kiếm đủ loại, và bốn bức tranh lớn về giáo chủ Lorraine, giáo chủ de Richelieu, giáo chủ La Valette và tổng giám mục De Bordeaux trong các bộ quần áo trận mạc. Ngoài ra thực sự chẳng có một cái gì chứng tỏ đây là chỗ ở của một tu viện trưởng; các bức rèm căng bằng gấm Damas, các tấm thảm từ Alençon, và nhất là cái giường với tràng kỷ thêu ren và tấm mến đắp chân, có vẻ giường của một tiểu thư hơn là giường của một người đàn ông đã nguyện đi tới thiên cung bằng con đường tiết dục và hành xác.

- Cậu xem tệ xá của tôi, - Aramis nói. - Ôi, bạn thân mến thứ lỗi cho tôi nhé. Biết làm thế nào? Mình ở như một kẻ tu hành. Nhưng cậu để mắt tìm kiếm gì thế?

- Tôi tìm xem ai đã ném thang xuống cho cậu, tôi chẳng nhìn thấy ai cả, mà thang thì chẳng tự rơi xuống được?

- À, Bazin đấy mà.

- A, A! - D Artagnan kêu lên.

- Nhưng, - Aramis nói tiếp, - Bazin là một tay được huấn luyện tốt, hắn thấy tôi về không phải một mình nên đã kín đáo rút lui. Bạn thân mến ngồi xuống đi và ta cùng nhau trò chuyện.

Aramis đẩy cho d Artagnan một cái ghế bành lớn và anh bạn chống khuỷu tay duỗi người ra.

- Trước hết cậu ăn tối với tôi chứ? - Aramis hỏi.

- Vâng, nếu cậu sẵn lòng, - D Artagnan nói, - và tôi rất vui lòng, vì thú thật, đường sá khiến tôi đói cồn cào cả lên.

- Ôi, khổ thân anh bạn? - Aramis nói. - Cậu sẽ phải ăn kham khổ đấy vì không biết có khách mà.

- Liệu tôi có bị đe doạ phải xơi trứng tráng như dạo ở Crèvecoeur và những lá cù lác không? Phải chăng như thế mà ngày xưa cậu gọi là rau mồng tơi ư?

- Ôi! Phải hy vọng chứ, - Aramis nói, - với sự giúp dỡ của Chúa và Bazin, chúng ta sẽ kiếm được cái gì đó hay hơn trong chậu thức ăn của các cha Jésuites tôn kính. Bazin, anh bạn tôi ơi, Bazin, ra đây nào.

Cánh cửa mở và Bazin xuất hiện, nhưng vừa thoạt trông thấy d Artagnan, bác thốt lên một tiếng than giống như một tiếng kêu thất vọng.

- Bác Bazin thân mến ơi, - D Artagnan nói, - tôi rất thú vị được xem bác nói dối với một vẻ chững chạc biết chừng nào, ngay ở trong một giáo đường.

- Thưa ông, - Bazin đáp, - tôi học được ở các cha Jésuites tôn kính rằng có thể được phép nói dối khi nói dối với một ý đồ tốt.

- Tốt lắm, tốt lắm, Bazin. - Aramis bảo - D Artagnan đang chết đói đây và tôi cũng vậy, bác hết sức cố gắng cho chúng tôi ăn tối, và nhất là đem rượu ngon cho chúng tôi.

Bazin cúi đầu vâng, lệnh, thở dài đánh thượt một cái rồi đi ra.

- Bây giờ còn lại riêng chúng ta, Aramis thân mến ơi, - D Artagnan vừa nói vừa đảo cặp mắt nhìn căn phòng, rồi dừng nơi chủ của nó và kết thúc ở bộ y phục, - Cậu cho tôi biết cậu từ chỗ quỷ quái nào đến khi cậu rơi phịch xuống mông ngựa đằng sau Planchet.

- Mẹ kiếp. - Aramis nói. - Cậu trông thấy rành rành rồi, từ trên trời.

- Từ trên trời! - D Artagnan gật đầu nhắc lại.

- Tôi thấy cậu có vẻ đi lên đó hơn là từ đó trở về.

Với cái vẻ hợm mình d Artagnan chưa bao giờ thấy khi còn ở ngự lâm quân, Aramis nói:

- Bạn thân mến ơi, nếu tôi không từ trên trời xuống, thì it ra tôi cũng từ thiên đường tới; điều đó giống nhau lắm.

- A ha! Thế là các nhà bác học đã rõ rồi nhé, - D Artagnan bảo, - cho đến nay người ta không thể đồng ý với nhau về vị trí xác thực của thiên đường, người thì đặt nó trên Ararat (1), người thì đặt nó giữa sông Tigre và sông Ophra (2), dường như người ta cứ đi tìm nó ở tận đâu đâu trong khi nó lại ở rất gần. Thiên đường ở ngay Noisy-le-Sec, trên địa điểm lâu dài vị tổng giám mục Paris. Người ta ở đó đi ra không bằng cửa chính mà bằng cửa sổ, người ta xuống không bằng các bậc đá hoa cương của cầu thang cuốn, mà từ trên cành cây bồ đề, và vị thần cầm thanh kiếm rực lửa bảo vệ thiên đường hình như đã đổi cái tên thiên đình Gabiren ra cái tên hạ giới hoàng thân Marcillac.

Aramis bật cười nói:

- Cậu luôn là người vui tính, và cái chất hài hước trí tuệ mang tính chất Gascogne của cậu vẫn không rời cậu. Phải, cậu nói kể cũng phần nào đúng đấy, song ít ra cậu phải loại trừ ý nghĩ cho rằng tôi yêu bà De Longueville.

- Gớm chưa! Tôi nghi lắm đấy? - D Artagnan nói. - Sau một thời gian dài yêu bà de Chevreuse, dễ thường cậu không đem lòng si mê kẻ tử thù ghê gớm nhất của bà ta đâu nhỉ?

- Phải, đúng đấy, - Aramis nói với vẻ ngán ngẩm, phải, cái bà công tước tội nghiệp ấy, xưa tôi đã yêu tha thiết, và phải thừa nhận rằng bà đã rất có ích cho chúng ta; nhưng làm thế nào được? Bà ấy đã phải rời nước Pháp. Cái lão giáo chủ gian ác đó thực là một đối thủ ghê gớm? - Aramis ngước nhìn lên bức chân dung của tể tướng cũ và nói tiếp - Lão đã ra lệnh bắt giữ bà và dẫn đến lâu dài Loches, lão toan cho chém đầu bà ấy, tôi nói thực đấy nhưng đã đối xử tốt với Chalais, Montmorency và Cinq-Mars; bà ta đã cải trang làm đàn ông và trốn đi cùng cô hầu phòng, cái cô Ketty tội nghiệp ấy. Tôi còn nghe nói đã có một chuyện tình cờ kỳ lạ xảy đến với bà ấy ở một làng nào đó tôi không rõ, với một ông linh mục nào ấy tôi cũng không biết, mà bà xin nghỉ trọ. Ông ta chỉ có một phòng và tưởng bà ta là một kỵ sĩ nam nên đã cho nghỉ chung phòng. Ấy vì bà ta mặc y phục nam giới hợp một cách không tưởng tượng được, cái bà Mari thân thương ấy. Tôi chỉ biết có một phụ nữ mặc y phục nam hợp đến thế cho nên người ta đã làm một khúc ca về bà ta: Laboatxie hãy nói đi! Cậu có biết không nhỉ?

- Không đâu, cậu thử hát nghe xem nào, bạn thân mến.

Và Aramis hát với giọng phóng túng nhất:

Laboissière hãy nói đi!

Tôi có giống nam nhi?

Quả tình tôi xin nói,

Bà cưỡi ngựa thật giỏi

Hơn cả bọn chúng tôi.

Bà sống giữa gươm dao

Trong trung đoàn vệ sĩ

Như một chàng dự bị.

- Hoan hô! - D Artagnan nói. - Cậu hát bao giờ cũng rất tuyệt. Aramis thân mến ạ, và tôi thấy kinh kệ đã không làm hỏng giọng của cậu.

- Bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - cậu nên nhớ là... cái thời tôi còn là ngự lâm quân, tôi đi gác càng ít càng hay; bây giờ tôi làm tu viện trưởng tôi đọc kinh lễ càng ít càng tốt. Nhưng thôi, ta nên trở lại với bà công tước tội nghiệp ấy.

- Bà nào? Bà công tước de Chevreuse hay bà công tước De Longueville?

- Bạn thân mến ơi, tôi đã nói với cậu rằng không có cái gì giữa tôi và công tước De Longueville đâu, những chuyện tán tỉnh có lẽ, và chỉ thế thôi. Không, tôi nói về bà công tước de Chevreuse. Sau khi vua mất, bà ấy ở Bruxelles trở về, cậu có gặp bà ta không nhỉ?

- Có hẳn chứ, mà bà vẫn còn rất xinh đẹp.

- Phải, - Aramis nói. - Hồi ấy tôi cũng có gặp lại bà ấy một đôi lần; tôi đã đưa nhiều lời khuyên rất tốt mà bà không biết lợi dụng. Tôi sẵn sàng chết để nói với bà ấy rằng Mazarin là tình nhân của hoàng hậu; bà ấy không muốn tin tôi và bà ấy biết rõ Anne d Autriche và Anne thì kiêu hãnh để có thể nói đi yêu một tên đê hèn như vậy.

Rồi trong khi chờ đợi, bà lao vào vụ âm mưu của quận công de Beaufort và tên đê hèn kia đã bắt giam ông quận công de Beaufort và lưu đầy bà de Chevreuse.

- Cậu biết rằng bà ta đã được phép trở về à? - D Artagnan hỏi.

- Ừ, và biết cả bà ta đã trở về rồi... Bà ấy còn làm một điều dại dột nào đó.

- Ờ, nhưng lần này bà ta sẽ nghe theo lời khuyên của cậu?

- Ồ, Aramis bảo, - lần này tôi chẳng gặp lại bà ấy; bà ấy đã thay đổi quá nhiều.

- Đâu có được như cậu, Aramis thân mến ạ, bởi vì cậu vẫn như xưa, cậu vẫn có bộ tóc đen, vẫn có thân hình duyên dáng, vẫn có đôi bàn tay như tay phụ nữ nay trở thành những bàn tay giáo chủ tuyệt đẹp.

- Ừ, đúng đấy, - Aramis nói, - tôi tự chăm chút mình nhiều.

- Cậu biết không, trông mình cũng già hơn tuổi, mình sắp ba mươi bảy tuổi rồi.

- Cậu nghe đây, bạn thân mến! - D Artagnan mỉm cười nói. - Do gặp lại nhau, ta nên thoả thuận với nhau một điều chính là tuổi tác mà chúng ta sẽ có từ rày về sau.

- Thế là thế nào? - Aramis hỏi.

- Thế đấy, - D Artagnan nói tiếp, ngày trước tôi là em út của các cậu kém cậu hai hay ba tuổi, và nếu tôi không tính lầm thì nay đã tròn bốn mươi tuổi rồi đấy

- Thật vậy ư? - Aramis nói. - Thế thì tôi nhầm, bởi vì bạn thân mến ơi, bao giờ cậu cũng là một nhà toán học tuyệt vời. Như vậy là theo tính toán của cậu, tôi đã bốn mươi ba tuổi! Chết thật, chết thật! Bạn thân mến ơi, chớ có đi nói ra ở dinh Rambouillet mà hại to cho tôi đó.

- Yên tâm, - D Artagnan nói, - tôi chẳng đến đấy đâu.

- À mà cái con vật Bazin làm gì thế? Có mau mau lên không, ông mãnh ơi, chúng tôi đang điên lên vì đói khát đây.

Bazin lúc này vừa giơ cao hai tay lên trời, mỗi tay cầm một chai rượu.

- Cuối cùng,- Aramis nói, - chúng ta đã sẵn sàng phải không?

- Vâng, thưa ông, ngay bây giờ, nhưng cũng phải có thời gian để tôi đem lên tất cả...

Bởi vì bác vẫn tin tưởng cái áo dài phụ nữ ở trên vai, - Aramis ngắt lời, - và suốt ngày mê mải ở sách kinh. Nhưng tôi bảo trước cho mà biết rằng nếu bác cứ miệt mài đánh bóng mọi thứ thánh đường mà quên mất cách lau chùi thanh kiếm của tôi thì tôi sẽ đem tất cả những tranh thánh của bác ra đốt một ngọn lửa thật to để đem quay bác lên cho mà xem.

Bazin phẫn nộ làm dấu thánh bằng chai rượu mà tay bác đang cầm.

Còn d Artagnan kinh ngạc hơn bao giờ hết về giọng nói và cung cách của tu viện trưởng d Erblay. Chúng tương phản dữ dội với cung cách của anh lính ngự lâm Aramis, anh cứ trợn tròn mắt lên trước mặt bạn mình.

Bazin vội vã phủ bàn bằng một tấm khăn Damas và bày lên đó bao nhiêu thứ mạ vàng, thơm phức, ngon lành mà d Artagnan cứ ngẩn người ra nhìn ngắm.

- Nhưng cậu còn đợi một người nào đó phải không? - Viên sĩ quan hỏi.

- Đâu! Aramis nói. - Bao giờ tôi cũng để một suất dự phòng, với lại tôi biết là cậu đi tìm tôi.

- Ai bảo cậu?

- Thày Bazin chứ còn ai. Bác ta tưởng cậu là ma quỷ bạn thân mến ạ, và đã chạy tới đây để báo trước cho tôi biết mối nguy hiểm đang đe doạ linh hồn tôi, nếu tôi lại đàn đúm bậy bạ với một sĩ quan ngự lâm quân.

- Ồ thưa ông, - Bazin kêu lên và chắp hai tay lại, vẻ van lơn.

- Thôi, đừng đạo đức giả nữa? Biết rằng tôi không ưa thế. Tốt hơn hết bác mở cửa sổ ra, thả một cái bánh, một con gà và một chai rượu cho Planchet, bạn của bác, hắn đang mệt phờ ra vì vỗ tay đến nửa giờ đồng hồ rồi.

Quả thật, sau khi đem rơm và lúa mạch cho ngựa ăn, Planchet đã trở lại dưới cửa sổ và làm hiệu đến hai ba lần.

Bazin vâng lệnh, buộc vào đầu dây ba thứ đã nói và ròng xuống cho Planchet, hắn chẳng đòi hỏi gì hơn, lập tức rút ngay về nhà kho.

- Bây giờ ta vào chén nào, - Aramis bảo.

Hai người bạn ngồi vào bàn, và Aramis bắt đầu cắt xé gà giò, chim trĩ, chân giò muối và với sự khéo léo thật sự của phép ăn ngon.

- Ghê thật? - d Artagnan nói, - Cậu bồi bổ mới khiếp làm sao?

- Ờ cũng khá tốt. Nhờ ông giáo chủ, tôi được toà thánh La Mã cho miễn trừ những ngày ăn chay vì lý do sức khỏe của tôi. Về người nấu nướng, tôi dùng người đầu bếp cũ của De Lafollone, cậu biết chứ? Bạn cũ của ông giáo chủ, cái lão phàm ăn ấy cứ sau mỗi bữa là cầu độc mỗi câu kinh: "Lạy Chúa, xin ban cho tôi cái ân là tiêu hoá thật tốt cái mà tôi đã chén thật ngon".

- Ấy thế mà cũng không tranh khỏi chết vì bội thực đấy,- D Artagnan nói với một vẻ cam chịu, - người ta chẳng trốn được số mệnh.

- Này, xin cậu bỏ qua cho câu tôi sắp hỏi nhé, - D Artagnan nói tiếp.

- Thế nào, cậu nói đi, cậu biết giữa chúng mình với nhau chẳng có gì là tọc mạch.

- Vậy cậu trở lên giàu có, phải không?

- Ồ, lạy Chúa, không đâu. Tôi kiếm được mười hai nghìn livrres một năm, không kể một khoản lãi nhỏ nhặt chừng một nghìn êquy mà ông hoàng thân dành cho tôi.

- Thế mười hai nghìn livres ấy cậu kiếm bằng cách gì, - D Artagnan hỏi, - bằng thơ ca của cậu à?

- Không, tôi đã từ bỏ thơ ca rồi, trừ phi thỉnh thoảng làm đôi bàì hát chúc rượu, vài bài xonnê(3) tán tỉnh hoặc thơ trào phúng vô thưởng vô phạt. Tôi làm nhưng bài thuyết pháp, anh ạ.

- Sao, những bài thuyết pháp?

- Ồ! Mà những bài thuyết pháp phi thường, cậu biết không. Ít ra là tôi thấy như vậy.

- Mà cậu thuyết giáo ư?

- Không, mà tôi đem bán.

- Bán cho ai?

- Cho những đồng nghiệp nào của tôi muốn trở thành những nhà đại hùng biện.

- Thật thế ư? Thế sao cậu không mưu đồ vinh quang cho bản thân cậu?

- Có chứ! Nhưng bản chất đã thắng tôi. Khi tôi lên bục giảng mà tình cờ có một người phụ nữ xinh đẹp nhìn tôi là tôi nhìn lại, nếu người ấy cười, tôi cũng cười theo. Và thế là tôi nói loạn xạ: đáng lẽ nói về những hình phạt dưới địa ngục thì tôi lại nói về những lạc thú trên thiên đường. Hề! Cậu này, thế rồi một hôm tại nhà thờ Saint-Louis ở Marais... một việc đã xảy đến với tôi. Một tay kỵ sĩ cười nhạo thẳng vào mặt tôi, tôi bèn ngừng giảng để nói với hắn rằng nó là một tên ngu ngốc. Dân chúng ùa ra để nhặt đá, nhưng lúc ấy tôi rất khéo léo lái tư tưởng của đám người dự rằng chính hắn là kẻ mà người ta ném đá. Hiển nhiên là ngày hôm sau hắn đến ngay nhà tôi, tưởng rằng có chuyện gì với một tu viện trương giống như một tu viện khác.

D Artagnan ôm bụng cười và hỏi:

- Thế cuộc viếng thăm của hắn rồi sau ra sao?

- Rồi chúng tôi đã hẹn nhau cuộc gặp gỡ vào buổi chiều hôm sau ở quảng trường Hoàng cung! Ê! Mẹ kiếp, cậu đã biết chút nào rồi.

- Có lẽ, tình cờ mà tôi đã giúp làm trợ thủ cho cậu chống lại cái tên hỗn xược ấy không? - D Artagnan hỏi lại.

- Đúng thế. Cậu đã thấy tôi đã cho nó như thế nào?

- Nó có chết không?

Tôi chẳng biết nữa. Nhưng dù sao tôi cũng đã xá tội cho nó " in articulo mortis"(4). Giết chết thể xác mà không giết chết linh hồn thế là tốt rồi.

Bazin làm dấu thất vọng tỏ ý muốn nói rằng bác ta có lẽ tán thành cái đạo lý ấy, nhưng phản đối mạnh mẽ cái giọng nói ra điều ấy.

- Này, ông bạn Bazin, - Aramis nói, - bác không biết tôi đã nhìn thấy bác ở trong tấm gương kia và lần này là lần chót, tôi cấm bác không được có động tác tỏ vẻ tán thành hoặc phản đối. Thôi, bác hãy làm ơn dọn rượu vang Tây Ban Nha cho chúng tôi, rồi bác trở về. Với lại ông bạn d Artagnan có điều bí mật gì đó muốn nói với tôi. Có phải không d Artagnan?

D Artagnan gật đầu và Bazin, sau khi đặt rượu vang lên bàn, bèn rút lui.

Còn lại hai người bạn ngồi đối diện với nhau, im lặng trong giây lát. Aramis dường như chờ đợi một sự tiêu hoá êm ái.

D Artagnan chuẩn bị lời khai đề. Mỗi người khi trông thấy người kia nhìn mình vội liếc nhìn xuống phía dưới bụng-

Aramis là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng.

Chú thích:

(1) Vùng núi lửa ở Thổ Nhĩ Kỳ

(2) Hai con sông ở vùng Tây Á

(3) Thể thơ mười bốn câu mười hai vần chia làm bốn đoạn: bốn, bốn, ba, ba câu.

(4) Lúc sắp chết. (Tiếng La-tinh)

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 11

Mạt cưa - mướp đắng

Aramis nói:

- D Artagnan, cậu nghĩ gì thế, và điều gì đã khiến cậu mỉm cười vậy?

- Bạn thân mến ơi, tôi nghĩ rằng khi cậu còn là lính ngự lâm cậu luôn luôn hướng về tu viện trưởng, con bây giờ đã là tu viện trưởng, hình như cậu lại hướng mạnh về ngự lâm quân.

- Đúng thế, - Aramis cười nói, - D Artagnan ạ cậu biết đấy người là một sinh vật toàn những mâu thuẫn. Từ khi tôi là tu viện trưởng, tôi chỉ mơ toàn những trận mạc.

- Điều ấy thấy rõ qua đồ đạc bày biện của cậu: cậu có kia những thanh trường kiếm đủ các dạng và cho những thị hiếu khó tính nhất. Cậu chơi kiếm vẫn tốt chứ?

- Tôi ấy à, tôi chơi tốt như cậu ngày xưa, và còn tốt hơn là khác. Suốt ngày tôi chỉ tập kiếm, thôi mà.

- Với ai?

- Với một thầy dạy kiếm tuyệt diệu mà bọn tôi có ngay ở đây.

- Sao, ở đây à?

- Phải, ở đây, ngay trong tu viện này, bạn thân mến ạ. Có đủ mọi thứ ở trong tu viện Jésuites.

- Thế có lẽ cậu giết đức ông de Marcillac, nếu ông ta đến một mình tấn công cậu, chứ không phải là cậu đấu với hai chục người.

- Hoàn toàn đúng, kể cả trường hợp hắn cầm đầu cả hai chục người, nếu như tôi kịp rút gươm ra mà không bị phát hiện.

- Xin Chúa xá tội, - D Artagnan nói rất khẽ, - mình thấy cậu trở thành Gascogne(1) hơn cả mình. - Rồi cao giọng - Này Aramis thân mến, cậu hỏi vì sao tôi đến tìm cậu ư?

- Không, tôi không hỏi cậu, - Aramis nói với vẻ ranh mãnh, - tôi đợi cậu đến nói điều đó.

- Vậy thì, tôi đến tìm cậu chỉ độc có mỗi chuyện là để hiến cậu một cách giết chết ông de Marcillac, khi nào cậu thích, dù ông ta có là ông hoàng chăng nữa?

- Này, này, này, - Aramis nói, - đó cũng là một ý kiến hay đấy...

- Mà tôi mới cậu lợi dụng nó, anh bạn thân mến ạ. Nhưng này, với cái chức tu viện trưởng được một nghìn êquy và mười hai nghìn livres mà cậu kiếm được do bán các bài thuyết pháp, cậu có giàu có không? Cậu hãy trả lời thành thật đi.

- Tôi ấy à? Tôi nghèo xác xơ như thánh Job, và moi cả túi lẫn hòm ra, tôi chắc cậu cũng không thấy nổi một trăm pistol ở đây.

D Artagnan tự nhẩm thầm: Ghê chưa! Một trăm pistol hắn gọi như thế là nghèo xác như một thánh Job! Nếu như lúc nào mình cũng có được một số tiền như thế, mình sẽ thấy mình giàu sụ như Crésus. Rồi anh nói to:

- Cậu có tham vọng không?

- Như Enceladet(3)?

- Vậy thì, bạn ơi, tôi mang đến cho cậu cái thứ để cậu trở nên giàu có, hùng mạnh, và tự do làm bất cứ điều gì cậu muốn.

Một bóng mây thoáng qua trên trán Aramis nhanh như bóng mây trôi qua cánh đồng lúa tháng Tám, nhưng nhanh đến mấy, d Artagnan vẫn nhận thấy.

- Cậu nói đi. - Aramis bảo.

- Thêm một câu hỏi trước đã. Cậu có làm chính trị không?

Một tia chóp lóe lên trong đôi mắt Aramis cũng nhanh như bóng mây đã lướt qua trán anh, nhưng nhanh đến mấy cũng không lọt khỏi mắt d Artagnan.

- Không. - Aramis đáp.

- Thế mọi điều tôi đề ra đều hợp với cậu, bởi vì lúc này cậu không có chủ nào ngoài Thượng đế, - chàng Gascon cười nói.

- Có thể lắm.

- Aramis thân mến ơi, có khi nào cậu nhớ tới những chuỗi ngày đẹp đẽ thời thanh xuân mà chúng ta đã trải qua trong vui chơi, chè chén và choảng nhau không?

- Có chứ, chắc chắn như vậy, và nhiều lần tôi đã luyến tiếc nó. Đó là một thời sung sướng, delectabile tempus (2).

- Này, bạn ơi, những ngày tươi đẹp ấy có thể sống lại, cái thời sung sướng ấy có thể lại đến? Tôi lĩnh sứ mệnh đi tìm các bạn đồng đội của tôi, và tôi muốn bắt đầu từ cậu, cậu là linh hồn của cả đội.

Aramis cúi mình xuống, với vẻ lịch sự hơn là thân ái. Rồi anh nói bằng một giọng như sắp chết và vật mình ra ghế bành.

- Tôi lại tham gia vào chính trị ư? D Artagnan thân mến ơi, cậu xem tôi đang sống bình thường và thoải mải. Chúng ta đã từng nếm sự vong ân của các vị đại thần, cậu biết đấy!

- Đúng thế, - D Artagnan nói, - nhưng có thể các đại thần hối hận là đã vong ân.

- Trường hợp ấy lại là chuyện khác. Chà? Nhất tội nhất xá, vạn tội vạn xá. Vả chăng cậu có lý ở một điểm ấy là nếu lòng ham muốn xui chúng ta dây vào công việc quốc gia thì tôi nghĩ cũng đã đến lúc rồi đó.

- Làm thế nào mà cậu biết điều đó, vì cậu có quan tâm đến vấn đề chính trị đâu?

- Ô, lạy Chúa! - Aramis đáp. - Cá nhân tôi không làm chính trị, nhưng tôi sổng trong một thế giới mà người ta làm chính trị. Vừa trau dồi thi ca, vừa đeo đẳng tình ái, tôi kết thân với ông Sarazin là người của ông chủ giáo, vấ với ôngDe Bois - Robert, ông này nếu không là của ông giáo chủ de Richelieu thì không là của ai hoặc là của tất cả thiên hạ, tuỳ ý cậu, thành thử ra phong trào chính trị tôi không quên bẵng hẳn.

- Tôi hoài nghi đấy, - D Artagnan nói.

- Hơn nữa, anh bạn thân mến ơi, - Aramis nói tiểp, - cậu chớ coi những điều tôi sắp nói với cậu là lời của một gã thầy tu ở ẩn, một kẻ nói như một tiếng vang, nhắc lại thuần tuý và đơn giản cái gì mà hắn nghe thấy. Tôi nghe nói trong lúc này giáo chủ Mazarin đang lo sốt vó về cung cách biểu diễn các vấn đề. Dường như ông ta không có được trong sự chỉ huy của mình tất cả niềm kính trọng mà ngày xưa người ta đã tỏ ra đối với ông ngáo ộp cũ - vị cố giáo chủ - mà cậu nhìn thấy chân dung đây này; bởi vì anh bạn ạ, muốn nói gì thì nói, phải thừa nhận rằng đó là một con người vĩ đại.

- Ý tôi không trái ý cậu về điều đó đâu, Aramis thân mến ạ, chính ông ta đã phong tôi làm trung uý.

- Ý kiến ban đầu của tôi là hoàn toàn ủng hộ ông giáo chủ hiện nay. Tôi tự nhủ rằng một vị tể tướng chẳng bao giờ được người ta yêu mến, nhưng với thiên tài mà người ta thừa nhận cho ông này, ông ta cuối cùng sẽ chiến thắng các kẻ thù của ông và làm cho người ta phải sợ hãi mình, điều đó theo tôi có lẽ còn tốt bằng mấy là làm cho người ta yêu mến mình.

D Artagnan gật đầu, vẻ như muốn nói rằng anh hoàn toàn tán thành cái phương châm đáng ngờ ấy.

- Ỷ kiến ban đầu của tôi là như vậy đấy, - Aramis nói, - nhưng vì tôi dốt đặc cán mai về tất cả những khoa ấy và vì cái tính nhún nhường mà tôi luôn tự nhận đặt ra cho tôi luật lệ là chớ có tin cậy vào sự suy xét của chính mình, cho nên tôi đã được thông tỏ. Vậy thì! Bạn thân mến ạ...

- Vậy thì, - Aramis nói tiếp - tôi cần phải sỉ nhục tính kiêu ngạo của tôi, tôi cần phải thú nhận rằng tôi đã lầm.

- Thật thế ư?

- Phải, tôi đã được thông tỏ, như đã nói với cậu, và đây là câu trả lời của nhiều người khác hẳn nhau về thị hiếu và tham vọng: ông de Mazarin không phải là một người thiên tài như tôi tưởng.

- Chà! - D Artagnan thốt lên.

- Không. Đó là một con người vô giá trị, trước là người hầu của giáo chủ Bentivoglio, tiến phát bằng âm mưu, một kẻ bạo đạt, một kẻ vô danh, hắn sẽ chỉ làm ở Pháp một con đường đảng phái. Hắn sẽ tích luỹ hàng đống tiền vàng, xoay thả cửa hoa lợi của nhà vua, sẽ chi cho riêng mình tất cả những trợ cấp mà cố giáo chủ de Richelieu chi cho thiên hạ, nhưng hắn sẽ chẳng bao giờ cai trị bằng pháp luật của kẻ mạnh nhất, của người vĩ đại nhất. Ngoài ra hình như vị tể tướng ấy chẳng phải nhà quý tộc cả phong cách lẫn tâm địa. Đó chỉ là một thứ thằng hề, một thứ Pulcinello, một thứ Pantalon (5). Cậu có biết rõ hắn không? Tôi, tôi không biết hắn.

- Hừ! - d Artagnan nói. - Điều cậu vừa nói cũng đúng một phần nào đấy.

- Chao ôi! Cậu làm cho tôi hãnh diện quá, bạn thân mến ạ, nhờ chút thông tuệ tầm thường mà tôi vốn có, tôi có thể tương ngộ với một người như cậu đang sống ở triều đình.

- Nhưng cậu chỉ mới nói với tôi về cá nhân ông giáo chủ chứ chưa nói về phe phái và những nguồn lực lượng của ông ta.

- Đúng đấy. Ông ta có hoàng hậu theo ông ta.

- Tôi thấy đó là một cái gì đáng kể đấy.

- Nhưng ông ta không có được nhà vua.

- Một đứa bé ấy mà!

- Một đứa bé sẽ trưởng thành trong bốn năm.

- Nói hiện tại ấy chứ!

- Ừ, thì chưa phải tương lai, ngay hiện tại, ông ta không có cả nghị viện lẫn dân chúng, nghĩa là tiền bạc; ông ta không có cả giới quý tộc lẫn các vị hoàng thân, nghĩa là thanh gươm.

D Artagnan gãi tai, anh buộc phải thú nhận rằng điều Aramis suy nghĩ không những nhìn xa trông rộng mà còn đúng đắn nữa.

- Này, anh bạn tội nghiệp của tôi ơi, nếu như tôi vẫn được trời phú cho chút mẫn tiệp thông thường, tôi sẽ nói với cậu rằng có lẽ tôi đã lầm khi nói chuyện với cậu một cách cởi mở như vậy, bởi vì cậu, cậu có vẻ nghiêng về phía Mazarin.

- Tôi ấy à! - D Artagnan kêu lên. - Tôi ấy à Aramis? Không hề, không một chút nào cả.

- Cậu đã chẳng nói về sứ mệnh là gì?

- Tôi đã nói về sứ mệnh ư? Thế thì tôi nhầm đấy. Tôi tự nhủ với mình giống như cậu nói: kìa xem các công chuyện đang rối rắm cả lên. Vậy thì ta hãy ném chiếc lông chim theo gió, gió cuốn theo chiều nào thì ta đi về đó và chúng ta sống lại cuộc đời phiêu lưu. Chúng ta đã là bốn hiệp sĩ dũng cảm, bốn trái tim thân thương gắn bó; nay ta lại gắn bó không những bốn trái tim chưa hề bao giờ xa cách, mà cả vận hạnh và lòng quả cảm của chúng ta nữa. Thời cơ rất tốt để đoạt lấy một cái gì quý giá hơn cả một báu vật kim cương.

- D Artagnan ơi, cậu nói chí lý, bao giờ cũng chí lý, mà bằng chứng là tôi có cùng một ýghĩ như cậu, song le đối với tôi là người không có cái tr tưởng tượng sôi nổi và phong phú như cậu, ý nghĩ ấy đã khơi gợi cho tôi rằng: ngày nay tất cả mọi người đều rất cần nhưng phụ tá; người ta đã đưa ra với tôi nhưng đề ghị trong đó toát ra một cái gì đó như những chuyện chọc trời khuấy nước của chúng ta ngày xưa, và tôi xin thẳng thắn thú nhận với cậu là ông chủ giáo đã cho mọi người nói với tôi như vậy.

- Ông de Gondy, kẻ thù của giáo chủ ấy à? - D Artagnan kêu lên.

- Không, bạn của nhà vua, - Aramis nói, - bạn của nhà vua, cậu hiểu chưa! Này nhé, vấn đề là phụng sự Đức vua, đó là bốn phận của người quý tộc.

Nhưng bạn thân mến ơi, vua lại đi cùng với ông Mazarin.

- Trên thực tế chứ không phải tự nguyện, bề ngoài chứ không phải thật tâm, và đó chính là cái bẫy mà những kẻ thù của vua giăng ra với cậu bé.

- Ra thế! Nhưng đó là một sự thật, là một cuộc nội chiến mà cậu đề xuất với tôi đấy, Aramis thân mến ạ.

- Cuộc chiến tranh vì nhà vua.

- Nhưng nhà vua sẽ đứng đầu quân đội trong đó có Mazarin.

- Nhưng nhà vua sẽ một lòng với quân đội do ông de Beaufort chỉ huy.

- Ông de Beaufort ư? Ông ấy đang bị giam giữ ở Vincennes.

- Tôi đã nói Beaufort à? - Aramis nói, - Ông de Beaufort hoặc một người khác, ông de Beaufort hoặc ngài Hoàng thân(6).

- Nhưng Hoàng thân sắp đi đến quân đội, ông ấy hoàn toàn cùng cánh với ông giáo chủ.

- Hề, hề! - Aramis cười nói. - Họ có cùng nhau bàn luận một số công việc đúng vào lúc này. Nhưng với lại nếu không phải Hoàng thân thì sẽ là ông De Gondy...

- Nhưng ông De Gondy sắp thành giáo chủ rồi, người ta đang xin mũ cho ông ấy.

- Dễ thường không có những ông giáo chủ cực kỳ hiếu chiến đó sao? - Aramis nói. - Cậu thử nhìn quanh xem, bốn ông giáo chủ cầm đầu quân đội cũng ngang tài ông De Guébriant và ông De Gassion.

- Ồ, một ông tướng gù lưng.

- Mặc áo giáp vào thì chẳng ai nhìn thấy cái bướu. Hơn nữa, cậu hãy nhớ rằng Alexandre thọt chân và Annibal thì chột mắt.

- Cậu thấy có những lợi thế gì lớn trong phe phái ấy? - D Artagnan hỏi.

- Tôi thấy có sự che chở của những ông hoàng mạnh thế.

- Với sự cấm chỉ của chính phủ.

- Bị bác bỏ bởi các viện và những cuộc bạo loạn.

- Tất cả những cái đó có thể làm được, như cậu nói, nếu người ta thực hiện việc tách rời nhà vua khỏi mẹ.

- Có thể sẽ đạt được.

- Không bao giờ, - D Artagnan kêu lên, lần này anh trở lại niềm tin của mình. - Aramis bạn ạ, tôi xin hỏi cậu, cậu là người hiểu biết Anne d Autriche cũng rõ như tôi. Có bao giờ cậu tin hoàng hậu lại có thể quên rằng con trai bà là sự an toàn, là bảo chứng, là vị thủ thần của bà, của tài sản và cuộc đời bà không? Phải làm sao cho bà cùng với con bỏ Mazarin mà đi sang phía hoàng thân, nhưng cậu biết rõ hơn ai hết là có đâu những lý do mạnh mẽ để bà chẳng bao giờ bỏ ông ta đâu.

- Có thể cậu nói đúng, - Aramis trầm ngâm nói, - vì thế tôi sẽ không giao ước.

- Với họ, - D Artagnan nói, - nhưng còn với tôi.

Không với ai hết. Tôi là linh mục, làm chính trị để làm gì! Tôi không đọc một quyển sách kinh nào hết; tôi có một đám bạn bè nho nhỏ, mấy thằng cha tu viện trưởng hóm hỉnh và mấy phụ nữ kiều diễm; các công chuyện càng rối ren thì các vụ lẻn chơi càng ít bị tai tiếng; tôi chẳng cần dây vào những vụ kia mà mọi sự vẫn tuyệt diệu; này bạn thân mến ơi, dứt khoát ta sẽ không dây vào nữa đâu.

- Này, bạn thân mến ơi. - D Artagnan nói. - Thì cái triết lý của cậu làm tôi xiêu lòng, xin thề đấy, và chẳng biết cái con mòng tham vọng quỷ quái nào đã châm đốt tôi thế nhỉ? Tôi có một khoản trợ cấp đủ sống, ông de Treville tội nghiệp ấy già yếu rồi, khi nào ông chết tôi có thể trở thành đại uý; đó là một chiếc gậy thống chế cực oai đối với một thiếu sinh Gascogne và tôi cảm thấy mình gắn bó với cương vị của chiếc bánh đạm bạc nhưng là bữa hàng ngày. Đáng lẽ chạy theo những cuộc phiêu lưu, ôi dào? Tôi sẽ nhận lời mời của Porthos, sẽ đi săn trong vùng đất đai của cậu ấy, cậu biết rằng Porthos có đất đai chứ?

- Sao lại không? Tôi biết chứ. Mười dặm rừng, đầm lầy với thung lũng; cậu ấy là lãnh chúa của núi non và vùng đồng bằng, và cậu ta đang kiện cáo linh mục Noyon về những quyền thái ấp.

"Tốt - D Artagnan tự nhủ, - đó là điều ta cần biết; Porthos ở vùng Picardi".

Rồi anh nói to:

- Và cậu ta đã lấy lại cái tên cũ Du Vallon rồi chứ?

- Còn thêm vào đó tên Bracieux, một khoảnh đất đã được phong nam tước, nói thật đấy!

- Thành thử chúng ta sẽ thấy Porthos là nam tước.

- Tôi không hoài nghi. Bà nam tước Porthos thật tuyệt vời!

Hai người bạn cùng bật cười.

- Như vậy là, - D Artagnan nói tiếp, - cậu không muốn sang với Mazarin?

- Cậu cũng không muốn sang với các hoàng thân?

- Không. Chúng ta chẳng sang với ai cả, và chúng ta vẫn là bạn, chúng ta sẽ chẳng phải là phe giáo chủ, cũng chẳng là người Fronde.

- Phải đấy, - Aramis nói. - Chúng ta là ngự lâm quân.

- Với cả chiếc áo thầy dòng. - D Artagnan nói.

- Nhất là với chiếc áo thầy dòng! - Aramis kêu lên. - Có thế mới duyên dáng.

- Vậy thì xin từ biệt nhé, - D Artagnan nói.

- Tôi không dám giữ cậu, bạn thân mến ạ, vi tôi không biết sẽ để cậu nằm ở đâu, mà tôi không thể thất thố mời cậu chia sẻ một nửa cái nhà kho với Planchet được - Với lại đây cách Paris không đầy ba dặm; ngựa nghẽo nghỉ ngơi rồi, và chỉ độ non một tiếng đồng hồ là tôi sẽ về đến nhà.

- Và d Artagnan rót cho mình một cốc rượu vang cuối cùng.

Chúc mừng thời xưa của chúng ta. " Anh nói.

- Đồng ý, - Aramis nói, tiếc thay đó là một thời đã qua "fugit irreparabile tempus..."(7)

- Ô hay, - D Artagnan nói. - Có thể trở lại. Dù sao, nếu cậu cần đến tôi, xin cứ đến phố Ticơton, khách sạn "Con dê cái nhỏ".

- Còn tôi, ở tu viện thày dòng Jésuites: từ sáu giờ sáng đến tám giờ tối qua lối cửa chính, từ tám giờ tối đến sảu giờ sáng, qua lổi cửa sổ.

- Từ biệt bạn thân mến.

- Ồ! Tôi không từ giã cậu như vậy, để tôi đưa cậu đi.

Và Aramis lấy gươm và áo choàng.

D Artagnan tự nhủ thầm: "Cậu ấy muốn chắc chắn là ta đi thật".

Aramis huýt sáo gọi Bazin, nhưng Bazin ngủ ở tiền sảnh trên đống thức ăn thừa của buổi tối, và Aramis buộc phải lắc tai bác để đánh thức dậy.

Bazin dang tay ra, dụi mắt và định ngủ tiếp.

- Này, này, ông trạng ngủ, lấy thang ra mau lên.

Bazin vừa ngáp đến trật quai hàm vừa nói:

- Cái thang vẫn để ở cửa sổ.

- Cái khác vậy, cái thang của bác làm vườn ấy, bác không thấy là d Artagnan lên thang đã khó, xuống thang còn khó hơn ấy à?

D Artagnan sắp bảo Aramis rằng anh xuống rất thạo thì một ý nghĩ chợt đến làm anh im bặt.

Bazin thở dài đánh thượt một cái và ra đi tìm thang. Lát sau, một cái thang gỗ tốt và chắc chắn đã được đặt dựa vào cửa sổ.

- Thế chứ, - D Artagnan nói - cái gọi là một phương tiện giao thông? Một phụ nữ có lẽ trèo được một cái thang như thế này đấy nhỉ.

Một cái nhìn sắc như dao của Aramis như muốn tìm kiếm ý nghĩ của bạn mình thấu tận đến đáy lòng, nhưng d Artagnan chịu đựng cái nhìn ấy với vẻ thật thà tuyệt diệu.

Vả lại vừa lúc ấy anh đặt chân lên bậc thang đầu tiên và bước xuống.

Lát sau anh tới đất. Còn Bazin đứng ở cửa sổ.

Aramis bảo bác:

- Cứ ở đấy, tôi về ngay.

Hai người lần đến nhà kho, gần tới nơi thấy Planchet đi ra dắt theo hai con ngựa.

- Vừa hay - Aramis nói, thật là một tên hầu năng nổ và chu đáo, chẳng như cái gã lười Bazin, không còn được tích sự gì khi là người nhà thờ. Planchet, đi theo chúng tôi, chúng ta vừa đi vừa trò chuyện đến tận đầu làng.

Quả vậy, hai người đi qua suốt làng, nói những chuyện bâng quơ rồi khi đến mấy ngôi nhà cuối cùng, Aramis nói:

- Thôi, đi nhé, bạn thân mến, cứ theo cái nghề của cậu, vận may đang cười với cậu đấy, đừng có để vuột mất; nên nhớ rằng vận may là một cô gái giang hồ và nên đối xử cho thích hợp; còn về phần tôi, tôi an phận trong cảnh hèn mọn vả trong tính lười nhác của tôi, xin vĩnh biệt!

- Thế là dứt khoát hẳn đấy à!- D Artagnan nói. - Điều tôi đề nghị với cậu không hợp ý cậu ư?

- Trái lại, rât hợp ý tôi. - Aramis nói, - nếu như tôi là một người giống như người khác. Nhưng, tôi xin nhắc lại, thật ra tôi là một hỗn hợp những mâu thuẫn: điều hôm nay tôi ghét, ngày mai tôi sẽ tôn thờ và vice versa(8). Cậu thấy rõ tôi không thể hứa hẹn như cậu chẳng hạn, với những ý nghĩ định đoạt hẳn hoi.

"Tào lao, đồ thâm hiểm, - D Artagnan tự nhủ thầm, - trái lại mi là người duy nhất biết chọn lấy một mục đích và đi tới đó một cách thầm lặng"

- Thôi, vĩnh biệt nhé, bạn thân mến, - Aramis nói, - và cảm ơn về nhưng ý đồ tuyệt diệu của cậu, và nhất là về những kỷ niệm tốt đẹp mà sự hiện diện của cậu đã làm thức tỉnh trong tôi.

Họ ôm hôn nhau. Planchet đã lên ngựa. D Artagnan trèo lên yên, rồi họ còn siết tay nhau lần nữa. Hai kỵ sĩ thúc ngựa và rời xa về phía Paris.

Aramis vẫn đứng yên lặng giữa lòng đường cho đến lúc hai người mất hút.

Nhưng đi được độ hai trăm bước, d Artagnan dừng phắt lại, nhẩy xuống đất, ném cương ngựa vào tay Planchet, rồi lấy mấy khẩu súng ngắn ở bao yên ngựa giắt vào thắt lưng mình.

- Ông ơi, ông làm gì thế? - Planchet hốt hoảng nói.

- Dù cho hắn có xảo quyệt đến mấy đi nữa, - d Artagnan nói, - tôi cũng làm cho người ta không thể bảo rằng tôi đã mắc lừa hắn. Cậu ở đây và chớ có động đậy; nhưng cậu hãy nép xuống vệ đường và đợi tôi nhé

Nói xong d Artagnan băng mình sang bên kia đường hào chạy men theo đường cái, đâm thẳng qua cánh đồng để vòng quanh làng.

Trước đó anh đã trông thấy một khoảng trống chỉ có một hàng rào che nằm giữa ngôi nhà bà de Longueville và tư viện Jésuites.

Một giờ trước đó có lẽ khó mà tìm lại hàng rào, nhưng trăng vừa mới mọc, và dù rằng chốc chốc lại bị mây che phủ, ngay trong lúc tối tăm, người ta vẫn có thể trông rõ và tìm lại đường đi.

D Artagnan bèn đi tới hàng rào và nấp mình sau đó. Khi đi qua trước ngôi nhà nơi đã xảy ra cuộc xung đột mà chúng tôi đã kể trên, anh nhận ra vẫn cái cửa sổ lúc này lại sáng lên, anh tin rằng Aramis chưa trở về nhà mình, và khi nào trở về, anh sẽ không về một mình.

Quả nhiên, một lát sau anh nghe thấy tiếng những bước chân đi tới gần và hình như có cả tiếng nói chuyện rầm rì.

Tới đầu hàng rào, những bước chân dừng lại.

D Artagnan quỳ một đầu gối xuống đất, tìm chỗ nào dày nhất để nấp.

Vừa lúc đó hai người đàn ông xuất hiện trước sự kinh ngạc hết sức của d Artagnan. Nhưng nỗi ngạc nhiên của anh đã tan biến khi nghe thấy một giọng nói dịu dàng, du dương, một trong hai người đàn ông ấy là đàn bà cải trang làm kỵ sĩ.

- Cứ yên tâm, ông René thân yêu của tôi, - giọng dịu dàng nói - Việc như thế sẽ không diễn lại nữa đâu; tôi đã phát hiện ra một đường hầm đi qua dưới mặt đường phố và chúng ta chỉ có việc nhấc một trong những viên đá lật ở ngay trước cửa nhà để mở một lối ra cho ông.

- Ồ thưa bà quận chúa, - một giọng khác cất lên và d Artagnan nhận ra là của Aramis - tôi xin thề với bà rằng nếu như danh tiếng của chúng ta không phụ thuộc vào tất cả những thứ không đề phòng ấy và tôi chỉ mạo hiểm có tính mạng của tôi thôi...

- Phải, phải, tôi biết, ông dũng cảm và phiêu lưu như một người thuộc xã hội thượng lưu phải thế; nhưng ông không phải chỉ thuộc về một mình tôi đâu, mà ông còn thuộc về tất cả đảng của chúng ta. Vậy ông nên thận trọng, nên khôn ngoan.

- Thưa bà, - Aramis nói, - bao giờ tôi cũng tuân theo khi người ta biết ra lệnh cho tôi bẳng một lệnh ngọt ngào đến thế.

Anh cầm lấy tay bà ta mà hôn âu yếm.

- Ấy? Người kỵ sĩ có giọng dịu dàng kêu lên.

- Sao vậy? - Aramis hỏi.

- Thế ông không trông thấy gió thổi tung mũ của tôi ư?

Và Aramis băng mình theo chiếc mũ bay đi. D Artagnan lợi dụng hoàn cảnh ấy tìm một chỗ rào thưa thớt để có thể nhận rõ người kỵ sĩ khả nghi. Đúng lúc ấy trăng có lẽ tò mò như viên sĩ quan chui ra khỏi mây và nhờ ánh sáng tọc mạch ấy, d Artagnan nhận ra cặp mắt to xanh biếc, mớ tóc vàng óng và mái đầu thanh cao của bà công tước De Longueville.

Aramis tươi cười trở lại một cái mũ trên đầu và một cái mũ cầm tay, và cả hai tiếp tục đi về phía tu viện thầy dòng Jésuites.

D Artagnan vừa đứng lên vừa phủi quần vừa nói: "Hay lắm, bây giờ ta nắm được cu cậu rồi, cu cậu là frondeur và là tình nhân của bà De Longueville".

Chú thích:

(1) Người Gascogne có tính huênh hoang, liều lĩnh.

(2) Crésus - vua xứ Liđi (Tiểu Á) thế kỳ thứ sáu trước Công nguyên, nổi tiếng giàu có, người ta đồn là do khlai thác cát có vàng ở sông Păcton.

(3) Ăngxơiat theo thần thoại Hy Lạp, một trong những người khổng lồ đã công kích núi Ôlempơ nơi trú ngụ của các vị thần.

(4) Thần khoái lạc. (Tiếng La-tinh).

(5) Tên những vai hề và múa rối của sân khấu.

(6) chỉ Hoàng thân de Condé.

(7) Thời gian qua không trở lại (Tiếng La-tinh)

(8) Ngược lại (Tiếng La-tinh).

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 12

Ông Porthos Du Vallon de Bracieux de Pierrefonds

Theo những thông tin lấy ở nơi Aramis, d Artagnan vốn đã biết rằng Porthos theo tên dòng họ gọi là Vallon, nay - từ tên đất đai nên phải được gọi là De Bracieux và do cái đất đai De Bracieux ấy đang kiện tụng với linh mục Noyon.

Như vậy là d Artagnan phải đi tìm kiếm đất đai ấy ở quanh vùng Noyon, tức là trên biên giới xứ Ils de France và xứ Picardie.

Hành trình của anh được quyết định nhanh chóng anh sẽ đi đến tận Dammartin nơi tách ra hai con đường, một đi Soissons, một đi Compiègne. Ở do anh sẽ thăm hỏi về vùng đất đai Bracieux và tuỳ theo câu trả lời mà anh sẽ đi thẳng hoặc rẽ về bên trái.

Planchet còn chưa thật yên tâm về sự trốn tránh của mình, tuyên bố rằng anh sẽ đi theo d Artagnan đến cùng trời cuối đất, dù có đi thẳng hay rẽ sang trái.

Tuy nhiên anh van lơn ông chủ cũ là nên đi vào buổi chiều tối vì đêm tối có nhiều bảo đảm hơn. D Artagnan bèn bảo anh nên bảo cho vợ anh biết để ít ra cũng giúp chị yên tâm về số phận của chồng mình. Nhưng Planchet tỏ ra rất sáng suốt trả lời rằng anh chắc chắn là vợ anh sẽ không chết vì lo ngại không biết anh đi đâu còn anh vì biết cái miệng của chị mắc bệnh bép xép, nên anh sẽ chết vì lo ngại nếu như chị biết điều đó.

D Artagnan thấy những lý lẽ ấy là chí lý đến nỗi anh không nài ép thêm, và vào khoảng tám giờ tối, khi sương mù bắt đầu dày đặc trong đường phố, anh khới hành từ quán "Con dê cái nhỏ", theo sau là Planchet ra ngoài kinh đô qua cửa ô Saint-Denis.

Nửa đêm, hai lữ khách đến Dammartin.

Không thể hỏi thăm vì muộn quá rồi. Chủ quán Thiên Nga Chữ Thập đã đi nằm.

Sáng hôm sau anh gọi chủ quán đến. Đó là một trong số những người Normands quỷ quyệt chẳng nói có cũng chẳng nói không và lúc nào cũng tưởng mình bị hớ khi trả lời thẳng vào câu người ta hỏi.

Tuy nhiên, cho rằng mình đã hiểu là phải đi theo con đường thẳng, d Artagnan lại lên đường theo lời chi dẫn mập mờ ấy. Chín giờ sáng anh đến Nanteuil và dừng ở đó để ăn sáng.

Lần này chủ quán là một người Picard thật thà tốt bụng, lại nhận ra Planchet là người đồng hương, nên anh cần hỏi gì là bác ta chỉ dẫn rất dễ dàng. Lãnh địa Bracieux ở cách Villers-Cotterêts, anh đã hai ba lần đi theo triều đình đến đó, vì hồi ấy đây là một nơi nhà vua ngự. Anh liền đi tới thị trấn ấy và vào cái quán anh thường nghỉ tức là quán Cá Heo Vàng.

Những tin tức thu lượm được ở đây là đáng hài lòng nhất. Anh được biết ấp Bracieux ở cách thị trấn bốn dặm, nhưng không phải tìm Porthos ở đấy. Đúng là Porthos có những chuyện kiện cáo với ông linh mục ở Noyan về khoảnh đất Pierrefonds giáp giới đất của anh, và bực bội rầy rà về cái mớ tố tụng tư pháp mà anh chẳng am hiểu tí gì, để chấm dứt, anh đã mua phăng đất Pierrefonds, thành thử anh đã điền thêm cái tên mới ấy vào những tên cũ của mình. Bây giờ tên anh gọi là Du Vallon de Bracieux de Pierrefonds và anh ở tại điền sản mới của mình. Không có danh tiếng nào khác, rõ ràng anh đang nhằm danh tiếng của hầu tước de Carabas.

Còn phải đợi đến hôm sau, vì ngựa đã mệt sau một cuốc mười dặm trong ngày. Kể ra cũng có thể lấy ngựa khác, nhưng phải xuyên qua cả một cánh rừng lớn, mà Planchet, ta còn nhớ, chẳng thích thú gì những cánh rừng đêm tối.

Còn một điều nữa Planchet không thích là lên đường khi bụng đói: cho nên khi tỉnh dậy d Artagnan đã thấy bữa ăn sáng dọn sẵn sàng. Không có cách gì để phàn nàn về một sự chu đáo như vậy, cho nên d Artagnan ngồi vào bàn chén. Chẳng cần phải nói cũng biết Planchet khi đã nhận lại chức trách cũ thì cũng nhận lại tính khiêm nhường cũ và ăn thừa các thức ăn của d Artagnan cũng chẳng xấu hổ gì hơn bà De Motteville và bà De Fargis khi dùng các thức ăn thừa của Anne d Autriche.

Như vậy là không thể khởi hành vào Khoảng tám giờ. Không còn sợ nhầm lẫn, phải theo đường từ V Villers-Cotterêts đi Compiègne và khi ra khỏi rừng thì rẽ bên phải. Buổi sáng mùa xuân đẹp trời, chim hót trên những cây đại cổ thụ, những chùm nắng xuyên qua các khoảnh rừng giống như những tấm màn kim tuyến lóng lánh.

Ở những quãng khác, ánh sáng khó khăn lắm mới lọt qua vòm lá rậm rạp, và mấy chú sóc khi trông thấy người liền thoăn thoắt chuyền dưới những gốc cây sến già vẫn chìm trong bóng tối. Thiên nhiên vào buổi sớm ấy đã toát ra hương thơm ngạt ngào của có cây hoa lá làm khoan khoái lòng người. Chán ngán cái mùi vị uế tạp của Paris, d Artagnan tự nhủ rằng, khi mang ba cái tên đất đai xuyên tiếp vào nhau như que chả, chắc hắn người ta phải sướng điên trong một thiên đường như thế, rồi anh lắc đầu nói: "Ví phỏng ta là Porthos và d Artagnan đến nói với ta lời đề nghị mà ta sắp nêu ra với Porthos thì ta chưa biết ta trả lời d Artagnan như thế nào".

Còn Planchet chẳng hề suy nghĩ gì hết, anh đang để cái dạ dày tiêu hoá.

Ra đến ven rừng, d Artagnan trông thấy con đường mà người ta đã chỉ dẫn cho và những ngọn tháp của một toà lâu đài lãnh địa đồ sộ nằm tại cuổi đường.

- A, a! - Anh lẩm bẩm. - Hình như toà lâu đài này thuộc về dòng họ Orléans xưa; liệu Porthos có điều đình với quận công De Longueville không?

- Ông ơi, - Planchet nói, - thực tình đây là những đất đai rất tốt; và nếu nó thuộc về ông Porthos thì tôi sẽ chúc mừng ông ấy mới được.

- Gớm nhỉ? - D Artagnan bảo, - cậu chớ có gọi Porthos, gọi Du Vallon cũng không được, phải gọi ông ấy là de Bracieux hoặc de Pierrefonds. Nếu không cậu sẽ làm hỏng chuyện đi sứ của tôi đấy.

Toà lâu đài thoạt tiên thu hút cặp mắt anh, nhưng đến gần, anh mới hiểu ra là bạn anh không thể ở đấy được, cái tháp mặc dầu vững chắc và trông như mới xây, hở toang hoác như bị mổ bụng. Trông như một người khổng lồ nào đó đã băm chém chúng bằng những nhát rìu. Tới cuối con đường, d Artagnan thấy mình bao quát một thung lũng kỳ diệu và trông thấy ở dưới đáy thung lũng một mảng hồ xinh đẹp ngủ dưới chân mấy ngôi nhà tản mác đó đây, bình dị, lợp ngói hoặc rơm, chúng như công nhận một lãnh chủ cao nhất một toà lâu đài tráng lệ xây dựng vào khoảng dầu triều vua Henri IV trên nóc có những chong chóng nhà bạo chúa.

Lần này, d Artagnan không nghi ngờ gì đấy là nơi ở của Porthos. Con đường dẫn thẳng đến toà lâu đài tráng lệ ấy, nó so với ông tổ nó là toà lâu đài trên núi kia cũng tựa như một chàng công tử bột thuộc đảng phái quận công d Enghien so với một trang hiệp sĩ mình bọc đầy giáp sắt thời vua Charles VIl. D Artagnan cho ngựa đi nước kiệu và men theo con đường, Planchet điều chỉnh bước đi của ngựa mình theo ngựa ông chủ.

Mười phút sau, đã đến đầu lối đi trồng đều đặn những cây phong đẹp dẫn đến một cổng sắt có những đầu nhọn và thanh ngang đều mạ vàng. Ở giữa con đường có một người kiểu như lãnh chúa vận y phục xanh và vàng như cổng rào, cưỡi trên lưng một con ngựa trận to lrớng. Bên phải và bên trái ông ta là hai tên hầu quần áo thêu những vạch ngang dọc khắp mọi chiều; vô số những nông dân cục mịch xúm xít lại chào ông ta hết sức cung kính.

- A! - D Artagnan tự bảo. - Phải chăng đấy là ông Du Vallon de Bracieux de Pierrefonds? Ôi, lạy Chúa! Ông ta đã khép mình nhỏ lại từ khi không còn gọi là Porthos nữa.

- Không thể là ông ấy được, - Planchet đáp lại câu mà d Artagnan tự nói với mình. - Ông Porthos cao gần sáu bộ, còn ông này chưa đến năm bộ.

Nói xong, d Artagnan thúc ngựa đến chỗ con ngựa chiến con người danh giá và các tên hầu. Lần lần đi tới gần, anh như nhận ra những nét quen quen của nhân vật ấy.

- Jésus lạy Chúa tôi? - Về phía mình Planchet cũng ngỡ nhận ra người ấy, liền kêu lên - Chẳng lẽ lại có thể là hắn ta?

Nghe tiếng kêu ấy, người cưỡi ngựa chậm rãi quay lại và với một vẻ cao sang, hai lữ khách liền trông thấy đôi mắt ốc nhồi lóe sáng lên hết cỡ, bộ mặt đỏ lửng và nụ cười đến là hùng hồn của Mousqueton.

Quả thật đó là Mousqueton, Mousqueton béo núc ních những mỡ, sụn xuống vì sức khỏe dồi dào, húp híp vì an lạc. Trái với bác Bazin đạo đức giả, khi nhận ra d Artagnan, Mousqueton tuột từ lưng ngựa xuống đất và ngả thấp mũ tiến đến gần viên sĩ quan, thành thử những sự cung kính của cử tọa quay hẳn một phần tư vòng sang ông mặt trời mới đang che lấp mặt trời cũ.

- Ông d Artagnan, ông d Artagnan! - Mousqueton tràn trề hoan hỉ gọi mãi lên trong đôi má phì nộn của mình. - Ông d Artagnan. Ôi! Vui mừng biết bao cho Đức ông và ông chủ Du Vallon de Bracieux de Pierrefondss của tôi?

- Cái cậu Mousqueton tốt bụng này? Chủ cậu có ở đây chứ.

- Ông đang ở trên lãnh địa của ông ấy.

- Nhưng kìa, cậu thật là bảnh bao, cậu thật là béo tốt, cậu thật là tươi tắn! - D Artagnan tiếp tục tỉa tót không biết mỏi những đổi thay mà hạnh vận đã mang lại cho cái thằng cha chết đói năm xưa.

- À vâng, ơn Chúa! - Mousqueton nói. - Thưa ông, sức khỏe của tôi cũng kha khá.

- Thế cậu không nói gì với bạn Planchet của cậu đấy ư?

- Với bạn Planchet của tôi! Hoạ chăng là cậu ấy à? - Mousqueton kêu lên, hai tay dang ra và lệ tràn đôi mắt.

- Chính tôi đây, - Planchet vẫn thận trọng nói, - nhưng tôi muốn xem cậu có giở trò kiêu hãnh hay không?

Giở trò kiêu hãnh với một người bạn cố tri! - Không bao giờ! Planchet ạ. Cậu không nghĩ như vậy hoặc là cậu không hiểu Mousqueton.

- Tốt lắm! - Planchet vừa nói vừa xuống ngựa và đến lượt mình giơ tay về phía Mousqueton.

- Cậu chẳng giống như cái thằng chó chết Bazin ấy, hắn đã bỏ mặc tôi hai tiếng đồng hồ trong cái nhà kho chẳng thèm làm bộ nhận ra tôi nữa.

Rồi Planchet và Mousqueton ôm chầm lấy nhau chứa chan tình cảm khiến mọi người đứng đấy đều hết sức xúc động và tưởng rằng Planchet là một lãnh chúa nào đó cải trang và họ càng đánh giá đến mức cao nhất địa vị của Mousqueton.

Khi gỡ mình ra khỏi cái ôm riết của Planchet, anh chàng Mousqueton đã cố gắng vô ích để tiếp giáp hai bàn tay của mình sau lưng bạn, Mousqueton nói:

- Và thưa ông d Artagnan, bây giờ xin ông cho phép tôi vào, vì tôi không muốn ông chủ tôi hay tin ông đến do người khác báo chứ không phải là tôi, ông chủ sẽ không tha thứ cho tôi về tội lỗi đã để cho người khác vượt lên trước.

- Ông bạn thân mến ấy, - D Artagnan nói, anh muốn tránh gọi Porthos bằng cả tên cũ lẫn tên mới, - thì ông bạn thân mến ấy vẫn không quên tôi.

- Quên! Ông tôi mà quên? - Mousqueton kêu lên. - Nghĩa là, thưa ông, không có ngày nào chúng tôi không ngong ngóng chờ tin ông được phong làm thống chế, hoặc thay ông De Gatxiông, hoặc thay ông De Batxompie.

D Artagnan để lớn vởn trên môi mình một trong những nụ cười sầu thảm đã từng sống sỏt ở nơi sâu thăm nhất trong lòng mình qua nỗi thất vọng của những năm tuổi xanh.

- Còn các ông, những tiện dân kia, - Mousqueton nói, hãy ở bên bá tước d Artagnan và ráng sức cung kính ngài, chờ tôi vào trình với Đức ông về việc ngài đến.

Trong khi Planchet còn lanh lẹn hơn, nhảy lên ngựa một mình thì Mousqueton phải chờ hai người từ tâm giúp để leo lên mình một con ngựa chiến lực lưỡng, và cho ngựa chạy chậm chậm rãi, điều đó chứng tỏ anh chiếu cố cái lưng hơn là những cái căng của con vật bốn chân này.

- Ái chà? Thế là điềm tốt đây! - D Artagnan nói.

- Ở đây chẳng có gì bí mật, chẳng có gì giấu giếm che đậy, chẳng có chính trị, người ta cười sằng sặc, người ta khóc vì vui mừng tôi chỉ trông thấy những gương mặt rộng một aune (1) thật thế, tôi thấy dường như ngay cả thiên nhiên cũng mở hội, cây cối đáng lẽ phủ lá và hoa thì lại ngợp đầy những dải băng nhỏ xanh xanh hồng hồng.

- Còn tôi, - Planchet nói, - dường như đã ngửi thấy mùi thơm ngon nhất của thịt quay, trông thấy những nồi niêu xếp thành những hàng rào danh dự để đón chúng ta đi qua. Ôi! Thưa ông, không biết ông De Pierrefonds phải thuê đầu bếp nào khi mà xưa kia mới chỉ có tên là Porthos ông ấy đã thích ăn và ăn thật ngon.

- Đừng nói nữa? - D Artagnan bảo. - Cậu làm tôi sợ đấy. Nếu sự thật giống bề ngoài, thì ta toi công rồi. Một con người sung sướng đến thế sẽ chẳng bao giờ ra khỏi hạnh phúc của mình và ta sẽ thất bại với hắn như đã thất bại với Aramis.

Chú thích:

(1) aune :Thước ngày xưa bằng 1,183 mét.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 13

Khi gặp lại Porthos, d'Artagnan đã nhận ra rằng của cải là không làm nên hạnh phúc.

D Artagnan vượt qua rào sắt và đến trước toà lâu đài, anh vừa nhảy xuống đất thì một thứ người khổng lồ xuất hiện trên bậc tam cấp. Công bằng mà nói, ta nên gạt sang một bên tình cảm ích kỷ, d Artagnan mừng rỡ khi thấy cái vóc dáng cao lớn và gương mặt thượng võ gợi cho anh nhớ tới một con người dũng cảm và tốt bụng.

Anh chạy đến bên Porthos và nhào vào vòng tay anh ta; tất cả bọn tôi tớ vây tròn lại ở một khoảng cách cung kính và nghếch mắt nhìn vẻ tò mò khúm núm. Mousqueton đứng ở hàng đầu, quệt nước mắt, tội nghiệp cậu ta từ sau khi nhận ra d Artagnan và Planchet, cậu ta cứ khóc mãi vì vui mừng.

Porthos nắm cánh tay bạn và kêu lên bằng một giọng từ bậc nam trung chuyển sang nam trầm:

- A? Gặp lại cậu thật là mừng, thế ra cậu, cậu vẫn không quên tôi ư?

- Quên cậu ư? Ôi, Du Vallon thân mến, quên sao được những chuỗi ngày tươi đẹp nhất của tuổi thanh xuân, bè bạn chí tình và những nỗi gian nan nguy hiểm đã cùng nhau vượt qua! Ấy, trông thấy cậu, là bao nhiêu kỷ niệm tình bạn xưa của chúng ta lại hiện lên trong tâm trí mình.

- Ờ, ờ! - Porthos vừa nói vừa vân về ria mép, cố trả lại cho nó cái vẻ đỏm dáng đã bị mất trong cánh cô đơn.

- Ờ ờ, hồi ấy chúng ta đã làm bao nhiêu việc long trời lở đất và chúng ta cũng đã gây cho ngài giáo chủ tội nghiệp ấy biết bao chuyện đau đầu.

Và anh thở dải, d Artagnan lặng nhìn anh.

- Dù sao, - Porthos nói tiếp, giọng rầu rĩ, - tôi cũng xin chào mừng bạn thân mến, cậu sẽ giúp tôi tìm lại niềm vui; ngày mai chúng ta sẽ đi săn hoãng ở trong những cánh rừng cũng rất tuyệt; tôi có bốn con chó săn lévriers vào loại nhanh nhẹn nhất tỉnh và một bầy chó săn có một không hai ở trong vòng hai mươi dặm.

Và Porthos lại thở dài lần nữa.

"Ồ, ồ! - D Artagnan nhủ thầm, phải chăng con người tráng kiện, khoẻ mạnh này không thật sung sướng như cái vẻ bề ngoài của hắn sao?" Rồi anh nói:

- Nhưng trước hết, cậu giới thiệu với tôi bà Du Vallon đã, vì tôi còn nhớ một bức thư mời mọc mà cậu đã hạ cố viết cho tôi và ở dưới thư bà ấy có nhã ý viết thêm mấy dòng.

Một tiếng thở dài thứ ba của Porthos. Anh nói:

- Bà Du Vallon mất đã hai năm rồi, và cậu thấy tôi vẫn còn buồn rười rượi. Chính vì vậy nên tôi đã rời lâu đài Du Vallon ở gần Corbeil để đến mảnh đất Bracieux, sự thay đổi ấy dẫn đến việc tôi mua vùng đất đai này. Tội nghiệp bà Du Vallon, - Porthos nói tiếp và cau mặt vẻ thương tiếc, - đó không phải là một người đàn bà tính khí rất dửng dưng, song cuối cùng bà ấy cũng vẫn quen dần với những cung cách của tôi và chiều những yêu cầu, vòi vĩnh nho nhỏ của tôi.

- Như thế là cậu giàu có và tự do nhỉ? - D Artagnan hỏi.

- Chao ôi! - Porthos nói, - tôi goá vợ và có bốn chục nghìn livres niên thu... À, cậu có muốn ta ăn lót dạ bây giờ không?

- Muốn quá đi chứ, - D Artagnan nói, - buổi sớm mát trời đã khiến tôi đói bụng rồi đó.

- Đúng, - Porthos nói, - khí trời chỗ tôi thì tuyệt diệu.

Họ bước vào lâu đài, từ trên xuống dưới toàn là mạ vàng, các đường viền mạ vàng, các đường gỗ mạ vàng, gỗ ghế bành mạ vàng.

Một bàn ăn dọn sẵn đang đợi.

- Cậu xem, - D Artagnan nói, - tôi xin chúc mừng cậu, vua cũng không được một bữa như thế này.

- Ừ, - Porthos bảo, - nghe đâu Mazarin nuôi nấng vua rất tồi. Nếm thử món sườn này đi, d Artagnan thân mến, cừu nhà tôi nuôi đây.

- Cậu có những con cừu non quá, mình xin có lời khen ngợi.

- Ấy, cừu nuôi trong những cảnh đồng cỏ của tôi đấy mà, những đồng cỏ tuyệt diệu.

- Cậu tiếp thêm cho tôi nào.

- Không, hãy nếm thử con thỏ này mà tôi đã bắn hôm qua ở một trong những bãi cỏ thả thỏ của tôi.

- Gớm chưa! Khẩu vị thật đặc biệt! - D Artagnan nói. - Chà, chà! Dễ thường cậu nuôi thỏ toàn bằng rau thơm, rau mùi?

- Thế còn rượu của tôi, cậu thấy thế nào. - Porthos hỏi. - Ngon chứ?

- Tuyệt!

- Rượu quê ấy mà.

- Thật ư?

- Phải, một sườn đồi nhỏ hướng Nam ở đằng kia, trên núi của tôi nó cho hai mươi muy(1).

Lần thứ năm Porthos lại thở dài. D Artagnan vẫn đếm những tiếng thở dài của bạn. Tò mò muốn đi sâu vào vấn đề, anh nói:

- Ôi chao! Bạn thân mến ơi, dường như có điều gì khiến cậu buồn phiền. Chẳng may cậu có đau ốm gì chăng?... Sức khỏe của cậu...

- Rất tốt cậu ạ, tốt hơn bao giờ hết, tôi có thể đâm chết một còn bò.

- Hay là buồn chuyện gia đình...

- Gia đình ư? May thay tôi chỉ có một mình ở trên đời.

- Thế điều gì khiến cậu thở dài thườn thượt?

- Bạn thân mến ơi, tôi sẽ thành thật với cậu, tôi không sung sướng.

- Cậu mà không sung sướng ư, Porthos? Cậu có một toà lâu đài, những cánh đồng cỏ, rừng núi bao la; lại bốn chục nghìn livres niên thu, vậy mà rốt cuộc cậu không hạnh phúc?

- Bạn thân mến ơi, đúng là tôi có tất cả những thứ đó, song tôi sống một mình giữa tất cả những thứ đó.

- A! Tôi hiểu rồi: xung quanh toàn những bọn dân ngu, nhìn họ cậu thấy danh giá mình bị mất mát.

Porthos hơi tái mặt, và nốc cạn thật nhanh một cốc rượu . Anh nói:

- Không phải thế đâu, mà trái lại, cậu tưởng tượng xem đó là những bọn quý tộc nông thôn, ai cũng có một tước vị nào đó và còn muốn đi ngược gia phả lên tận Pharamond, Charlemagne, hay ít ra đến Hugues Capet. Vào lúc khởi đầu, tôi đã là người đến sau chót, do đó tôi phải chạy vạy, tôi đã làm việc đó, nhưng bạn thân mến ơi, như cậu biết đấy, bà Du Vallon...

Nói ra những lời ấy, Porthos như nghẹn ngào.

- Bà Du Vallon. - anh nói tiếp, - có thể là một gốc quý tộc; trong cuộc hôn nhân đầu tiên, d Artagnan ạ, tôi thiết tưởng điều này chẳng có gì mới đối với cậu, bà ta lấy một ông biện lý. Người ta cho chuyện đó là đáng lộn mửa. Họ đã nói là lộn mửa. Cậu hiểu chứ, đó là một tiếng giết chết ba chục nghìn người. Tôi khác, nhưng họ không coi tôi là bạn họ. Thành thử tôi không có bạn bè, tôi sống lẻ loi, tôi chán nản, tôi buồn phiền.

D Artagnan mỉm cười, anh nhìn thấy kẽ hở của áo giáp và anh chuẩn bị nhát đâm.

- Nhưng mà, rốt cuộc, - anh nói, - cậu sinh ra thế nào là do cậu chứ vợ cậu làm sao mà thay đổi được?

- Phải, nhưng cậu hiểu cho rằng, vì không phải là dòng dõi quý tộc lâu đời như họ hàng Coucy họ tự bằng lòng là những Sires(2) hoặc dòng họ Rohan họ không muốn là công tước, tất cả những bọn kia đều là tử tước, nhưng khi vào nhà thờ hay đến các lễ hội họ đều được coi trọng hơn tôi, tôi nói vào đâu được... Ôi! Giá như tôi chỉ là...

- Nam tước, phải không? - D Artagnan nói nốt câu của bạn.

- A! - Porthos kêu lên, mặt hớn hở - A! Giá như tôi là nam tước?

"Tốt rồi! - D Artagnan nghĩ. - Ta thành công rồi".

Rồi anh cao giọng bảo:

- Thế thì bạn thân mến ơi, chính cái tước hiệu mà cậu ao ước ấy, hôm nay tôi mang đến cho câu đây.

Porthos nhảy bật lên một cái làm rung chuyển cả gian phòng hai ba chai rượu bị mất thăng bằng lăn ngay xuống đất vỡ tan tành.

Mousqueton nghe tiếng chạy đến và người ta trông thấy bóng Planchet tay cầm khăn ăn, miệng căng phồng.

- Đức ông gọi tôi à ? Mousqueton buột miệng hỏi

Porthos ra dấu bảo Mousqueton hãy dọn dẹp những chai vỡ .

- Tôi rất vui thấy cậu vẫn dùng thằng hầu ấy, - D Artagnan nói.

- Nó là quản gia của tôi đấy, - Porthos đáp.

Rồi anh cao giọng:

- Nó đã làm việc đánh chén, thằng ranh ấy, người ta trông rõ rồi, nhưng, - anh hạ giọng nói tiếp, - nó quyến luyến tôi lắm và có cho vàng nó cũng sẽ chẳng chịu rời tôi đâu.

- "Và nó gọi chủ nó là đức ông", - D Artagnan nghĩ thầm.

- Ra ngoài kia đi. Mouston. -Porthos bảo.

- Cậu gọi Mouston à? À phải, gọi tắt, gọi Mousqueton thì dài quá.

- Phải, - Porthos nói, - với lại gọi như thế thì từ ngoài một dặm người ta ngửi thấy cái chức đội trưởng ky binh của nó. Thôi, đợi thằng ranh ấy vào, chúng ta sẽ còn bàn công việc.

- Ừ d Artagnan bảo, - nhưng ta gác câu chuyện lại sau, vì người làm của cậu có thể nghi ngờ; biết đâu chẳng có dọ thám ở trong vùng, Porthos ạ, cậu đoán xem, đó là những việc nghiêm ngặt.

- Ghê nhỉ! - Porthos nói, - thế để dễ tiêu hoá chúng ta đi quanh vườn nhé

- Được thôi.

Và nhân hai người đã ăn lót dạ đầy đủ, họ bắt đầu dạo quanh khu vườn tuỵệt đẹp Nhưng lối đi trồng cây dẻ và cây bồ đề bao quanh một khoảng rộng ít nhất là 30 acpăng(3). Đến mỗi ô kiểu ngũ điểm dầy những cây lớn và cây con lại thấy những chú thỏ chạy biến trong các bụi hạt dẻ và nô đùa trong các đám cỏ cao.

Thực tình, - D Artagnan nói, - khu vườn phù hợp với tất cả phần còn lại; và nếu những bãi thả có bao nhiêu thỏ, ao hồ có bấy nhiêu cá thì cậu sẽ là một con người hạnh phúc. Porthos thân mến ạ, chỉ cần cậu vẫn giữ cái sở thích săn bắn và có thêm cái hứng thủ đi câu.

- Bạn ơi, - Porthos nói, - Tôi dành việc đi câu cho Mousqueton đó là một thú vui quê mùa; nhưng thỉnh thoảng tôi đi săn; nghĩa là khi nào tôi buồn chán, tôi ngồi trên một chiếc ghế đá hoa cương này, tôi sai đem súng và mang con Gredinet, con chó cưng của tôi đến và bắn thỏ.

- Thế thì thú vị quá còn gì, - D Artagnan nói.

- Phải, thú vị quá! - Porthos đáp lại với một tiếng thở dài.

D Artagnan không đếm những tiếng thở dài nữa.

Rồi thì, Porthos nói thêm:

- Gredinet chạy đi nhặt thỏ và tự nó mang đến cho đầu bếp, nó được dạy quen rồi...

- Ô con chó hay tuyệt! - D Artagnan nói.

- Thôi, hãy gác chuyện con Gredinet lại, - Porthos bảo, - nếu cậu thích, tôi sẽ biếu cậu vì tôi cũng bắt đầu chán rồi. Ta trở lại với công việc của chúng ta.

- Rất sẵn sàng, - D Artagnan đáp, - tuy nhiên, bạn thân mến ơi tôi xin báo trước để cậu khỏi bảo tôi mưu phản cậu, cần phải thay đổi cuộc sống hiện nay.

- Thế là thế nào?

- Là cầm lại dây cương, giắt kiếm xông vào các cuộc phiêu lưu, và như hồi xưa, để lại vài mảnh da thịt ở dọc đường; rốt cuộc là cậu biết đấy, cái phong cách ngày xưa.

- Chà! Gớm nhỉ! - Porthos kêu lên.

- Phải. Tôi hiểu rồi, cậu đã làm mình hư hơn bạn thân mến ạ, bụng cậu đã phát phì, cổ tay không còn độ dẻo dai mà bọn vệ sĩ của ngài giáo chủ đã bao phen được nếm mùi.

- A, cổ tay còn tốt lắm, tôi xin cam đoan với cậu, - Porthos vừa nói vừa giơ một bàn tay ra trông nần nẫn như miếng vai cừu.

- Càng hay.

- Như vậy là chúng ta gây chiến à?

- Ồ! Lạy Chúa đúng thế.

- Mà chống lại ai?

- Bạn ơi, cậu có theo đuổi chính trị không thế?

- Tôi ấy à! Không mảy may nào.

- Thế cậu theo Mazarin hay theo các hoàng thân?

- Tôi chẳng theo ai cả.

- Nghĩa là cậu theo chúng ta. Càng hay, Porthos ạ, đó là vị trí tốt nhất để tiến hành các công việc. Này bạn thân mến ạ, tôi xin nói với cậu rằng tôi đến đây là do ý ông giáo chủ đấy.

Tiếng ấy tác động rõ ràng đến Porthos, cứ như vẫn đang là năm 1640 khi nói đến ông giáo chủ thật sự.

- Ô, ô? - Anh nói. - Các hạ muốn gì ở tôi?

- Các hạ muốn lấy cậu vào giúp việc.

- Thế ai nói về tôi với ông ta?

- Rochefort. Cậu có nhớ không?

- Nhớ, mẹ kiếp! Cái thằng cha hồi ấy đã gây cho chúng ta bao nhiêu chuyện rắc rồi và khiến chúng ta phải long đong trên các nẻo đường, cái thằng cha mà cậu đã tặng cho ba nhát kiếm, mà cũng xứng đáng đây chứ.

- Nhưng cậu có biết hắn đã trở thành bạn của chúng ta không? - D Artagnan nói.

- Không, tôi không biết. Ô! Hắn không có thù hằn gì đâu.

- Cậu lầm rồi, Porthos ạ, - D Artagnan nói. - Chính là tôi không thù hằn.

Porthos không hiểu lắm, nhưng ta còn nhớ, hiểu biết không phải là chỗ mạnh của anh. Anh nói tiếp:

- Thế cậu bảo chính bá tước De Rochefort đã nói về tôi với giáo chủ à?

- Phải, và hoàng hậu nữa.

- Sao, hoàng hậu à?

Để cho chúng ta tin, tự bà ấy đã đưa cho giáo chủ cái nhẫn kim cương trứ danh mà cậu biết đấy, tôi đã bán cho ông des Essarts, và chẳng hiểu thế nào lại trở về với hoàng hậu.

- Nhưng tôi thấy, - Porthos nói, - là một người có lương tri lẽ ra bà ấy nên trao cái nhẫn lại cho chúng ta thì hay hơn.

- Mình cũng nghĩ vậy, - D Artagnan nói, - nhưng biết làm thế nào? Vua chúa và hoàng hậu, đôi khi có những tính đồng bóng lạ lùng. Rốt cuộc thì do họ là những người giữ của cải và danh vọng, phân phát tiền bạc và chức tước, cho nên người ta tận tụy với họ.

- Phải, người ta tận tụy với họ, - Porthos nói, - như vậy là hiện nay cậu đang tận tụy...

- Với vua, với hoàng hậu và với tể tướng, và thêm nữa tôi bảo đảm về sự tận tuỵ của cậu.

- Và cậu nói rằng cậu có đặt vài điều kiện cho tôi.

- Điều kiện tuyệt diệu, bạn thân mến ạ, tuyệt diệu. Trước hết cậu có tiền, phải không? Bốn mươi nghìn livres, cậu đã bảo tôi vậy.

Porthos đâm nghi ngờ.

- Ồ! Bạn ơi - anh nói, - mình chẳng bao giờ có quá nhiều tiền. Bà Du Vallon đã để lại một khoản thừa kế rắc rối, tôi chẳng giỏi giang gì, thành thử tôi sống hơi lần hồi...

"Hắn sợ mình đến vay tiển". D Artagnan nghĩ bụng. Rồi anh nói:

- A! Bạn ơi, nếu cậu túng bẩn thì càng hay!

- Sao lại càng hay? - Porthos hỏi.

- Vì muốn gì, các hạ sẽ cho: đất đai, tiền bạc, tước vị.

- A, a! - Nghe tiếng cuối cùng này, Porthos trợn tròn mắt kêu lên:

- Dưới thời tể tướng,

- D Artagnan nói tiếp - chúng ta không biết lợi dụng vận hạnh, tuy đó cũng là dịp tốt. Tôi không nói về của cải cho cậu vì cậu có bốn mươi nghìn livres niên thu; và dường như cậu là người hạnh phúc nhất trên đời.

Porthos thở dài.

- Dù sao! - D Artagnan nói tiếp, - mặc dù số bốn mươi nghìn livres niên thu của cậu và cũng có thể do số bốn mười nghìn livres niên thu của cậu, tôi thấy hình như một tước miện nho nhỏ vẽ trên thành xe của cậu sẽ làm nên khối chuyện đấy. Hề hề!

- Phải lắm! - Porthos đáp.

- Vậy thì, bạn thân mến, hãy giành lấy nó, ở đầu lưỡi gươm của cậu. Chúng ta sẽ không làm tổn hại gì nhau. Mục tiêu của cậu là một tước vị; mục tiêu của tôi là tiền bạc. Mong rằng tôi sẽ kiếm được kha khá để xây dựng lại cơ ngơi d Artagnan mà tổ tiên tôi nghèo túng đi vì những cuộc thập tự chinh đã để điều tàn từ thời ấy và để mua ba chục d arpents đất xung quanh, tất cả chỉ cần có vậy, rồi tôi rút lui về đấy, và chết yên lặng ở đấy.

- Còn tôi, - Porthos nói, - tôi muốn là nam tước.

- Cậu sẽ được như vậy!

- Thế cậu không nghĩ đến các bạn khác của chúng ta nữa hay sao! - Porthos hỏi.

- Có chứ, tôi đã gặp Aramis.

- Thế Aramis mong muốn gì? Làm giám mục chăng?

Không muốn làm Porthos thất vọng, d Artagnan nói:

- Aramis, cậu hãy tưởng tượng hắn đã trở thành thầy tu và jésuite, hắn sống như một con gấu, hắn từ bỏ tất cả, và chỉ nghĩ đến sự cứu rỗi. Những điều chào mới của tôi đề không thể lay chuyển cậu ấy

- Thôi kệ, - Porthos nói, - cậu có trí tuệ. Còn Arthos thế nào?

- Tôi chưa gặp anh ta, nhưng sau khì rời đây, tôi sẽ đi tìm ngay.

- Cậu có biết anh ta ở đâu không?

- Ở gần Blois, trong một danh địa nhỏ mà anh ta thừa kế, cũng chẳng biết của bà con nào.

- Tên gọi là gì?

- Bragelonne. Cậu hiểu không, Arthos quyền quý như hoàng đế và thừa kế một danh địa mang tước bá! Anh ta sẽ làm gì với những tước bá ấy? Tước bá de la Fére, tước bá de Bragelonne?

- Với những tước vị ấy mà không có con cái, - D Artagnan nói.

- Ơ? - Porthos kêu. - Tôi nghe nói anh ta nhận một đứa bé trai làm con nuôi, mặt rất giống anh ta.

- Arthos, Arthos của chúng ta, một người đức hạnh như Scipion.

- Cậu có gặp lại anh ấy không?

- Không.

- Thế ngày mai tôi sẽ đến cho anh ta biết về tình hình của cậu.

- Nói riêng với nhau, tôi sợ rằng đam mê rượu chè có thể đã làm cho anh ta bị huỷ hoại và già sọm.

- Phải, đúng đấy, - Porthos, - anh ấy uống tợn lắm.

- Với lại đó là anh cả của bọn ta - D Artagnan nói.

- Mới mấy năm nay thôi, - Porthos nói tiếp - cái dáng bộ uy nghiêm khiến anh ta già đi nhiều.

- Phải, đúng thế. Vậy nếu chúng ta có Arthos càng hay, bằng không thì thôi. Hai đứa chúng ta cũng bằng mười hai người.

- Phải rồi, - Porthos cười nhớ đến những chiến công xưa của mình, - Nhưng nếu có bốn chúng ta thì sẽ bằng ba mươi sáu người ấy chứ; mà nếu công việc gay go gian khổ như cậu nói, thì lại cần đủ như vậy. Gay go đối với bọn lính mới thật, nhưng đối với chúng ta thì không.

- Có lâu dài không?

- Ấy, có thể là ba bốn năm đấy.

- Sẽ choảng nhau nhiều chứ.

- Mình hy vọng như vậy.

- Càng hay, rốt cuộc thì càng hay? - Porthos kêu. - Cậu không thể tưởng tượng rằng từ khi tôi ở đây đến giờ xương cốt lắm lúc muốn bung ra. Đôi khi ngày chủ nhật đi lễ nhà thờ ra, tôi phóng ngựa băng qua các đồng ruộng, đất đai của những người ở giáp ranh để tìm một chuyện gây sự nho nhỏ nào đó, vì tôi cảm thấy cần thiết, nhưng bạn thân mến ơi, chẳng có cóc gì cả. Hoặc là người ta kính nể tôi, hoặc là người ta sợ hãi tôi chắc hẳn như thế, người ta để mặc cho tôi cùng đàn chó giày xéo đồng linh lăng, vượt trên tất cả thiên hạ, và tôi trở về càng phiền muộn hơn, chỉ, có thế thôi? Cậu hãy cho tôi biết ít ra ở Paris đánh nhau có dễ hơn chút nào không?

- Bạn thân mến ơi, về chuyện đó thật là tuyệt: chẳng còn chiếu chỉ, của còn vệ sĩ của tể tướng(4), chẳng còn de Jussac với lũ cảnh sát(5). Lạy Chúa. Cậu có biết không, dưới một ngọn đèn đường, trong một quán rượu, ở khắp mọi chỗ, anh là một người Fronde, người ta tháo gươm ra, thế là xong. Ông De Guise đã giết chết ông De Coligny.

- Ở ngay giữa quảng trường Hoàng cung, thế mà chẳng sao cả.

- A? Tình hình bây giờ hay đấy! - Porthos nói.

- Và rồi chẳng bao lâu nữa, - D Artagnan nói tiếp, - sẽ có những cuộc chiến đấu hẳn hoi, có súng đại bác, có những đám cháy thật muôn màu muôn vẻ.

- Vậy thì, tôi quyết định.

- Cậu hứa với tôi chứ?

- Dứt khoát rồi. Tôi sẽ tìm Mazarin mà đâm chém. Nhưng mà...

- Nhưng mà sao?

- Nhưng mà ông ta phải phong cho tôi là nam tước.

- Trời ạ. - D Artagnan nói. - Cái đó được quyết định trước tôi đã nói với cậu như vậy và tôi xin nhắc lại tôi bảo đảm cho cái nam tước của cậu.

Sau câu hứa hẹn ấy, Porthos vốn không bao giờ hoài nghi lời của bạn mình, bèn cùng bạn trở về toà lâu dài.

Chú thích:

(1) 1 muy bằng 274 lít

(2) Một tước hiệu phong kiến ban cho một số lãnh chúa.

(3) 1 d'arpent bằng từ 0,2 đến 0,5 ha.

(4) Thời tể tướng Richelieu, người ta ban hành những chiếu chỉ cấm đấu kiếm và cho các vệ sĩ, đi lùng bắt ai vi phạm sẽ bị chém đầu.

(5) Trong chuyện "Ba chàng lính ngự lâm", Jussac là đội trưởng vệ sĩ của tể tướng Richelieu toan bắt d Artagnan đang đấu kiếm với mấy chàng ngự lâm quân, thì hắn củng đồng đội bị d Artagnan cùng các chàng ngự lâm quân đánh bại hoàn toàn.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 14

Nếu Porthos không hài lòng vì hoàn cảnh của mình thì Mousqueton lại rất thoải mái với địa vị của hắn. Điều ấy được chứng minh như thế nào?

Trên đường trở về lâu đài, trong khi Porthos đang bơi trong những giấc mơ Nam tước, d Artagnan ngẫm nghĩ đến sự khốn khổ của cái bản chất con người tội nghiệp kia luôn luôn không hài lòng về cái nó có và luôn luôn ham muốn về cái nó không có. Ở vào địa vị của Porthos, hẳn d Artagnan sẽ thấy mình sung sướng nhất trần đởi, và Porthos còn thiếu cái gì để hạnh phúc nhỉ? Mấy chữ cái đặt trước những tên họ của cậu ta và một cái tước miện nho nhỏ sơn lên trên thành xe của cậu ấy.

D Artagnan tự nhủ thầm: "Như vậy là suốt đời ta có trông bên phải, ngó bên trái cũng chẳng bao giờ nhìn thấy gương mặt của một người hoàn toàn sung sướng".

Anh đang suy nghĩ cái điều triết lý ấy, thì Thượng đế dường như muốn đưa ra cho anh một điều cải chính.

Vào lúc đó Porthos rời anh để sai bảo bác đầu bếp, anh thấy Mousqueton tiến lại. Trừ một thoáng gợn như một áng mây mùa hạ điểm trên vẻ mặt đúng hơn là che ám nó, thì gương mặt của chàng trai thật thà ấy tỏ ra là của một con người hoàn toàn sung sướng.

- Kia, cái mà mình đang tìm kiểm, - D Artagnan tự nhủ, - nhưng than ôi! Cái thằng nhỏ tội nghiệp ấy chưa biết vì sao ta lại đến đây.

Mousqueton đứng cách xa. D Artagnan ngồi xuống ghế và ra hiệu cho hắn lại gần. Được phép, Mousqueton tiến đến và nói:

- Thưa ông, tôi xin ông gia ân cho một điều.

- Nói đi, anh bạn.

- Thưa, tôi không dám, tôi e ông sẽ nghĩ rằng phú quý đã làm tôi hư hỏng.

- Vậy là cậu sung sướng phải không? - D Artagnan nói.

- Sung sướng đến thế là cùng, tuy nhiên ông có thể làm tôi sung sướng hơn nữa.

- Cứ nói đi, nếu điều đó tuỳ thuộc tôi, thì xong ngay thôi mà...

- Ôi, thưa ông, điều ấy chỉ tuỳ thuộc ông thôi.

- Tôi nghe đây.

- Thưa ông, cái điều ân huệ mà tôi xin ông là đừng gọi tôi là Mousqueton nữa(1), mà gọi là Mouston. Từ ngày làm quản lý cho đức ông, tôi đã dùng cái tên sau, nó chững chạc hơn và để cho bọn dưới quyền tôi kính trọng tôi hơn. Thưa ông, ông biết đấy, sự lệ thuộc là tối cần thiết đối với bọn tôi tớ.

D Artagnan mỉm cười nghĩ "Porthos thì muốn kéo dài tên mình ra còn Mousqueton thì muốn rút ngắn tên mình lại".

- Thưa ông, thế nào ạ? - Mousqueton run bần bật hỏi.

- Thế thì được thôi, Mousqueton thân mến ạ, - D Artagnan bảo.

- Cậu cứ yên tâm, tôi sẽ không quên điều thỉnh cầu của cậu đâu; và nếu cậu thích, tôi cũng sẽ không gọi cậu bằng cậu hay mày nữa.

Mousqueton đó bừng mặt lên vì vui sướng nói:

- Ôi, nếu ông ban cho tôi điều vinh dự đến thế, thì thưa ông tôi sẽ độí ơn ông suốt đời, nhưng như thế liệu có phải là đòi hỏi quá đáng không ạ?

D Artagnan bụng dạ bảo: "Chao ôi! Như thế thì có thấm tháp gì so với những nỗi ưu phiền bất ngờ mà ta mang đến cho cái thẳng quỷ tội nghiệp này, nó đã đón tiếp ta chu đáo".

Khuôn mặt Mousqueton trở lại thanh thản như trước và nở ra như một bông hoa thược được, hắn hỏi:

- Thế ông còn ở chơi, lâu với chúng tôi chứ ạ?

- Ngày mai tôi đi, anh bạn ạ, - D Artagnan đáp.

- Ôi thưa ông, - Mousqueton nói, - thì ra ông đến chỉ đem lại cho chúng tôi những nỗi luyến tiếc sao?

- Tôi e là như vậy đó, - D Artagnan nói rất khẽ đến nỗi Mousqueton không nghe thấy khi chào và rút lui.

Một niềm ân hận xuyên qua tâm trí d Artagnan, mặc dầu con tim anh đã chai cứng.

Anh không hối tiểc dẫn dắt Porthos vào một con đường mà cuộc sống và tài sản của anh sẽ bị tổn hại, vì Porthos sẵn lòng mạo hiểm tất cả những thứ ấy cho cái tước hiệu nam tước mà anh ao ước giành được từ mười lăm năm nay. Nhưng còn Mousqueton không ao ước gì, ngoài việc được gọi tên là Mouston, thì há chẳng phải là tàn nhẫn khi dứt anh ta ra khỏi cuộc sống thú vị trên cái vực sung túc của anh ta sao? Ý nghĩ ấy đang làm anh bận tâm thì Porthos xuất hiện.

- Ta vào bàn ăn đi. - Porthos bảo.

- Sao, ăn à? - D Artagnan hỏi. - Mấy giờ rồi?

- Ồ bạn thân mến ơi, một giờ rồi đấy.

- Trang ấp của cậu là một thiên đường. Porthos ạ, người ta quên cả thời gian. Tôi đi theo cậu, nhưng tôi không đói đâu.

- Đến đây, nếu như người ta không thể lúc nào cũng ăn thì người ta có thể lúc nào cũng uống được, đó là một câu châm ngôn của Arthos đáng thương mà tôi đã nhận ra tính vững chắc của nó kể từ khi tôi buồn chán.

Bản năng Gascogne làm cho d Artagnan luôn luôn có tiết độ, anh có vẻ không thật tin tưởng như anh bạn mình vào cái định lý không cần chứng giải của Arthos, song anh vẫn làm cái gì mình có thể làm để giữ mình ngang hàng với chủ nhà.

Tuy nhiên, trong khi nhìn Porthos ăn và anh cũng ra sức uống, ý nghĩ về Mousqueton trở lại tâm trí d Artagnan và nó càng mãnh liệt khi mà Mousqueton không tự mình hầu bàn, việc ấy có lẽ thấp hơn địa vị mới của hắn, nhưng chốc chốc lại xuất hiện ở cửa và bày tỏ lòng biết ơn của hắn đối với d Artagnan bằng độ tuổi và gốc gác những loại rượu mà hắn sai mang ra hầu.

Do đó, khi ăn tráng miệng, d Artagnan ra hiệu cho Porthos bảo bọn đầy tớ ra ngoài, còn lại hai người bạn với nhau, d Artagnan nói:

- Porthos này, ai sẽ theo cậu đi các chiến trận?

- Ấy Mousqueton chứ còn ai. - Porthos trả lời một cách tự nhiên.

Một đòn đối với d Artagnan: anh đã trông thấy nụ cười đôn hậu của viên quản lý chuyển thành một cái nhăn nhó đau khổ.

- Nhưng, - D Artagnan đáp, - Mousqueton chẳng phải còn non trẻ gì nữa, bạn thân mến ạ, hơn nữa hắn đã phát phì như ông phễnh và có khi hắn đã mất đi thói quen của công việc hoạt động.

- Mình biết, - Porthos nói, - nhưng tôi dùng hắn đã quen, vả lại hắn chẳng muốn rời tôi đâu, hắn yêu mến tôi quá chừng.

"Ôi! Lòng tự tôn mù quáng?" d Artagnan nghĩ.

- Vả chăng, chính cậu, - Porthos nói, - cậu đã chẳng luôn luôn vẫn dùng một cái thằng hầu đấy sao? Cái thằng tốt bụng, can đảm và thông minh... tên nó là thằng gì nhỉ?

- Planchet. Tôi đã gặp lại nó, nhưng nó không phải là thằng hầu nữa.

- Thế nó là gì?

- Này nhé! Cậu biết đấy, với một nghìn sáu trăm livres mà nó kiếm được trong cuộc bao vây thành La Rochelle(2) do mang bức thư đến cho Lord de Winter(3) hắn đã dựng một cửa hàng nhỏ ở phố Lomba, và trở thành chủ hiệu mứt kẹo.

- A! Nó là chủ hiệu mứt kẹo phố Lombards à? Thế vì sao nó lại đi hầu cậu?

- À nó đang phải trốn tránh, - D Artagnan đáp, - và nó sợ bị nguy hại.

Và chàng ngự lâm quân kể lại cho bạn nghe chuyện anh đã gặp lại Planchet như thế nào.

- Bạn thân mến ơi, - Porthos nói, - có phải vì người ta nói với cậu rằng một hôm Planchet tổ chức cứu thoát Rochefort nên cậu đã che giấu hắn phải không?

- Không hẳn như vậy. Nhưng biết làm thế nào, các biến cố làm thay đổi con người.

- Không còn gì đúng hơn, - Porthos nói, - nhưng có cái không thay đổi, hoặc thay đổi thành tốt hơn, đó là rượu vang. Cậu thử nếm thứ này xem, đó là chính cống nho gốc Tây Ban Nha mà anh bạn Arthos của chúng ta rất thích, vang Xérès đấy.

Vừa lúc ấy viên quản lý đến hỏi ý kiến ông chủ về thực đơn ngày hôm sau và về chuyến đi săn dự định.

- Mouston này, - Porthos nói, - binh khí của ta vẫn còn tốt đấy chứ?

D Artagnan bắt đầu gõ nhịp trên bàn để che giấu sự lúng túng của mình.

- Binh khí của đức ông ấy à? - Mousqueton hỏi, - binh khí nào cơ ạ?

- Thằng quỷ! Cái bộ yên cương ấy.

- Yên cương nào ạ?

- Yên cương trận mạc chứ còn gì.

- À, thưa đức ông, vâng. Tôi chắc là như vậy.

- Ngày mai cậu phải bảo đảm đấy, và nếu cần thì lau chùi cẩn thận. Ngựa đua tốt nhất của ta là con nào?

- Con Vulcain ạ?

- Thế con trường sức nhất?

- Con Bayard ạ?

- Còn cậu, cậu thích con nào?

- Thưa dức ông, tôi thích con Rustaud; đó là một con ngựa hay, tôi dùng thật là hợp tuyệt diệu.

- Lực lưỡng phải không?

- Đó là giống Normand lai với Mecklembourg, cứ là đi cả ngày lẫn đêm.

- Việc của ta đó. Cậu cho ba con vật ấy ăn uống, nghỉ ngơi cho khỏe, cậu lau chùi binh khí cho ta; thêm nữa các súng ngắn cho cậu và một con dao săn.

- Thưa đức ông, chúng ta làm một cuộc viễn du à? - Mousqueton hỏi vẻ lo lắng.

Cho đến lúc ấy, d Artagnan mới chỉ bâng quơ gõ nhịp, bây giờ anh đập một nhịp hành khúc.

- Còn hơn thế nữa kia, - Porthos nói.

- Chúng ta làm một cuộc viễn chinh ư, thưa ông? Viên quản lý nói, mặt từ màu hồng chuyển sang trắng bệch.

- Chúng ta trở lại phụng sự, Mouston ạ? - Porthos vừa đáp vừa cố vấn bộ ria mép để lấy lại cho nó cái vẻ vũ dũng đã mất.

Những lời ấy vừa mới buông ra thì Mousqueton đã bị một cơn run rẩy làm rung rinh và đôi má xệ to tướng trắng nhợt như đá; hắn ta nhìn d Artagnan, vẻ trách móc nhẹ nhàng khó tả mà viên sĩ quan không thể chịu đựng mà không cảm thấy rầu rĩ trong lòng; rồi hắn ta loạng choạng với giọng nghẹn ngào, hắn nói:

- Phụng sự! Phụng sự trong quân đội nhà vua.

- Phải và không phải. Chúng ta lại đi vào trận mạc, tìm kiếm mọi chuyện phiêu lưu, rốt cuộc là sống lại cuộc đời xưa kia.

Cái tiếng cuối cùng đập vào Mousqueton như một tiếng sét. Chính cái xưa kia đến là khủng khiếp ấy nó làm nên cái bây giờ đến là êm đềm!

- Ôi lạy Chúa! Tôi đang nghe cái gì thế nhỉ? - với một cái nhìn còn van vỉ hơn cái nhìn trước, Mouston nói với d Artagnan.

- Biết làm thế nào được, Mouston tội nghiệp của tôi ơi, - D Artagnan nói, - cái số mệnh...

Mặc dầu d Artagnan đã cẩn thận không gọi xếch mé và cho tên hắn cái kích thước mà hắn khao khát, Mousqueton vẫn bị một đòn không kém, và cái đòn khủng khiếp đến nỗi hắn bước ra mà lòng dạ rối bời, quên cả khép cửa lại.

- Cái thằng Mousqueton hiền lành ấy, nó bực tức vì vui mừng đấy mà, - Porthos nói với giọng mà Don-Quichotte phải dùng để động viên Sancho buộc lại yên cương con lừa khi đi làm một chiến trận cuối cùng.

Còn lại hai người, họ xoay ra bàn chuyện tương lai và xây đắp hàng nghìn lâu đài trên bãi cát. Rượu vang ngon của Mousqueton đã khiến họ trông thấy ở d Artagnan một viễn cảnh ngời sáng những đồng tiền vàng và đồng pistol, ở Porthos là dải băng xanh lơ và tấm áo choàng công tước. Thực tế là họ ngủ gục ngay trên bàn ăn khi người ta vào mới họ sang giường ngủ.

Tuy nhiên từ hôm sau d Artagnan đã làm cho Mousqueton vững dạ hơn, anh nói rằng chắc chắn chiến tranh sẽ chỉ diễn ra ở trung tâm Paris vả đến tầm lâu đài Vallon ở gần Corbeil, đến Bracieux ở gần Melun, và đến Pierrefonds ở giữa Compiègne và Villers-Cotterêts.

Nhưng, tôi thấy hình như xưa kia... - Mousqueton rụt rè nói.

- Ồ, bây giờ người ta không làm chiến tranh theo kiểu ngày xưa. Bây giờ là chuyện ngoại giao. Cứ hỏi Planchet mà xem.

Mousqueton đi hỏi Planchet bạn cũ của mình thì Planchet xác minh mọi điểm mà d Artagnan nói; song le anh ta nói thêm rằng trong cuộc chiến tranh này, các tù binh có nguy cơ bị treo cổ.

- Gớm nhỉ! - Mousqueton nói, - có lẽ tôi thích cuộc vây thành La Rochelle hơn.

Còn Porthos, sau khi đã cho giết một con hoẵng để đãi khách, sau khi dẫn khách đi thăm từ cánh rừng lên núi, rồi từ núi đến ao hồ của mình, sau khi đã cho xem tất cả các chó săn, chó đàn và con Gredinet của mình, rốt cuộc là tất cả những gì mình có, và cho làm lại ba bữa ăn thịnh soạn nhất, anh hỏi d Artagnan những lời chỉ dẫn cuối cùng và ông khách buộc lòng phải từ giã bạn để tiếp tục lên đường.

- Này, bạn thân mến ơi! - Vị sử giả nói: - Tôi phải mất bốn ngày để đi từ đây đến Blois, một ngày ở lại đây, ba hoặc bốn ngày trở về Paris. Vậy một tuần nữa cậu ra đi với bộ hạ nhé; cứ đến phố Tiquetonne, khách sạn "Con dê cái nhỏ" và đợi tôi trở về.

- Đồng ý. - Porthos nói.

- Còn tôi, - D Artagnan nói, - tôi sẽ đi một chuyến chẳng hy vọng gì đến chỗ Arthos; nhưng mặc dầu tôi tin rằng anh ta đã trở thành bất lực, ta vẫn cứ phải đối đãi tử tế với bạn bè.

- Nếu tôi đi với cậu, - Porthos nói, - có lẽ cũng hay cho mình đấy.

- Rất có thể, và tôi cũng vậy, - D Artagnan nói, - nhưng cậu sẽ chẳng còn thì giờ để sửa soạn đâu.

- Đúng thế. - Porthos nói. - Vậy cậu đi nhé và can đảm lên; còn tôi, tôi đang hăng hái có thừa.

- Thế thì tuyệt lắm? - D Artagnan nói.

Và họ chia tay nhau trên con đường ranh giới của lãnh địa Pierrefonds mà Porthos muốn tiễn bạn đến chỗ tận cùng của nó.

D Artagnan đi theo con đường Villers-Cotterêts và tự nhủ: "Ít ra ta cũng không bị lẻ loi. Cái thằng quỷ sứ Porthos ấy vẫn còn sung sức ghê. Nếu Arthos cũng đến thì hay lắm, chúng ta sẽ có ba người để cười vào mũi Aramis, cái thằng thày tu lắm số đào hoa ấy".

Đến Villers-Cotterêts, anh viết thư cho tể tướng: "Thưa Đức ông tôi đã có một người để dâng lên Các hạ và anh ta giá trị bằng hai mươi người. Tôi sẽ đi Blois, bá tước de La Fére ở lâu đài Bragelonne gần quanh thị trấn ấy".

Rồi anh lên đường đi Blois, vừa đi vừa trò chuyện với Planchet, hắn là một niềm vui lớn đối với anh trong chuyến viễn du này.

Chú thích:

(1) Mousqueton nghĩa là khẩu súng trường. Đó là tên mà Porthos đặt cho người hầu từ xưa, khi mới vào làm.

(2) La Rochelle-một thành phố cảng ở tây bắc nước Pháp trước do những người theo đạo Tin lành chiếm giữ chống lại chính quyền trung ương, họ được nước Anh chi viện.

(3) Lord de Winter là một nhà quý tộc Anh, anh chồng của Milady trong tập truyện trước. Sau một cuộc đấu kiếm thua, được d Artagnan tha chết, ông trờ thành bạn thân của anh.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 15

Hai cái đầu thiên thần

Đó là một chặng đường dài, nhưng d Artagnan không hề lo ngại. Anh biết rằng những con ngựa đã hồi sức ở những máng ăn đầy ắp của lâu đài lãnh chúa de Bracieux. Anh vững tâm lao đi bốn năm ngày đàng, với Planchet trung thành đi theo.

Như chúng tôi đã nói, để chống những nỗi buồn chán dọc đường, hai người ấy lúc nào cũng đi bên cạnh nhau và chuyện trò suốt. Dần dà d Artagnan cởi bỏ cái mã ông chủ và Planchet cởi bỏ cái lốt thằng hầu. Là một kẻ tinh ranh sâu sắc, từ khi sống cuộc đời trưởng giả ngẫu nhiên hắn thường luyến tiếc những bữa ăn ngon lành mà rẻ tiền trên đường thiên lý cũng như những cuộc chuyện trò và đám bạn bầu danh giá của các nhà quý tộc và tự cảm thấy mình có một giá trị nào đó, hắn đau lòng thấy mình bị giảm giá khi tiếp xúc thường xuyên với những kẻ có tư tưởng tầm thường.

Thế là chẳng mấy chốc hắn tự nâng mình lên hàng bạn tri kỷ của con người mà hắn vẫn gọi là ông chủ. Đã từ bao nhiêu năm d Artagnan không cởi mở tấm lòng. Vậy khi gặp nhau, hai con người ấy hợp với nhau một cách tuyệt vời.

Vả chăng, Planchet không phải là một kẻ bạn đường phiêu lưu hoàn toàn tầm thường; hắn thường có những ý hay, không tìm kiếm hiểm nguy nhưng hắn không lùi bước trước những trận đánh, như d Artagnan đã có nhiều dịp chứng kiến. Cuối cùng, hắn đã từng là lính và binh nghiệp nâng cao người ta lên; rồi thì, còn hơn tất cả những điều đó, nếu Planchet cần đến anh thì hắn cũng không phải là kẻ vô dụng đối với anh. Thế là với tư cách hai người bạn tốt mà d Artagnan và Planchet đi đến vùng Blois.

Dọc dường, trở lại cái ý nghĩ vẫn ám ảnh anh hoài, d Artagnan lắc đầu nói:

- Tôi biết rằng việc tôi vận động Arthos là vô ích và vô nghĩa nhưng tôi vẫn cứ phải cư xử như vậy đối với người bạn cố tri, anh ấy có bản chất cao thượng và hào hiệp hơn tất cả mọi con người.

- Ôi! Ông Arthos là một người quý tộc đường hoàng! - Planchet nói.

- Có phải không nào? - D Artagnan nháy lại.

- Ông ấy rắc tiền bạc như mưa, - Planchet nói tiếp, - tuốt kiếm ra với vẻ vương giả. Chắc chắn ông còn nhớ trận đấu kiếm với bọn người Anh ở trong sân tu viện Carmes chứ? Chao ôi, hôm ấy trông thấy ông Arthos sao mà đẹp đẽ uy nghi đến thế khi ông bảo với địch thủ: "Thưa ông, ông đã bắt tôi phải xưng tên với ông, thôi thì mặc kệ ông, vì rằng tôi buộc lòng phải giết ông!". Lúc ấy tôi đứng gần nên nghe thấy ông ấy nói thế. Đúng từng tiếng lời của ông ấy. Và cái ánh mắt ấy, ông ơi lúc ông Arthos đâm trúng địch thủ như ông ấy đã nói" và địch thủ ngã xuống không kêu được rnột tiếng. Ôi! Thưa ông, tôi xin nhắc lại, đó là một nhà quý tộc đường hoàng.

- Phải rồi, - D Artagnan nói, - tất cả những điều ấy đúng như kinh Phúc âm, nhưng ông ta đã mất đi tất cả những phẩm chất ấy vì một khuyết tật.

- Tôi có nhớ, - Planchet nói, - Ông ấy thích uống rượu hay nói đúng hơn là ông ấy uống quá nhiều rượu. Nhưng không uống như những người khác Đôi mắt ông ta chẳng nói gì hết khi ông ấy đưa cốc lên môi. Thực ra, không bao giờ sự im lặng lại nói rõ đến thế. Còn tôi, hình như đã nghe ông ấy lẩm bẩm: "Rượu ơi, hãy vào đi và xua tan những nỗi u buồn trong ta". Và cái cách ông ta đập vỡ một chân cốc hoặc một cổ chai! Chỉ có ông ta mới có cái phong điệu ấy.

- Thế thì hôm nay - D Artagnan nói, - một cảnh tượng đáng buồn đang chờ đợi chúng ta. Con người quý tộc thanh cao với cặp mắt kiêu hãnh ấy, chàng kỵ sĩ đẹp trai thật xuất sắc trong quân ngũ ấy mà người ta thường lấy làm lạ làm sao không cầm một cây gậy chỉ huy mà chỉ cầm một thanh kiếm tầm thường, than ôi! Con người ấy sẽ trở thành một lão già lưng gù, mũi đỏ, mắt như khóc. Chúng ta sẽ gặp ông ta nằm vật trên một bãi cỏ nào đó và nhìn chúng ta bằng con mắt mờ đục và có khi chẳng nhận ra chúng ta nữa. Planchet này, - D Artagnan nói tiếp, - xin Chúa chứng giám, tôi sẽ trốn tránh cảnh tượng buồn thảm ấy còn hơn là cố chứng tỏ lòng kính trọng của mình đối với cái bóng lẫy lừng của vị bá tước de La Fére quang vinh mà chúng ta đã yêu mến xiết bao.

Planchet gật đầu mà không nói một lời, người ta dễ dàng nhận rõ anh đang chia sẻ những nỗi lo âu của ông chủ.

- Thế rồi, - D Artagnan lại nói, - sự suy sụp vì Athos bây giở già rồi, cảnh túng quẫn, có lẽ thế vì ông ta lơ là với chút ít của cải vốn có.

- Và cái tên của nợ Grimaud câm lặng hơn bao giờ hết và say bí tỷ hơn cả chủ mình... này, Planchet ơi, tất cả những điều ấy xé nát lòng tôi.

- Tôi thấy dường như mình đã đến nơi, - Planchet nói với giọng thương cảm, - và tôi trông thấy ông ấy kia kìa miệng thì lắp bắp, đi thì chân nam đá chân chiêu.

- Tôi phải thú nhận rằng, - D Artagnan nói, - tôi chỉ sợ Arthos nhận lời tôi trong một lúc say cuồng chiến. Nếu vậy đối với Porthos và tôi sẽ là một tai hoạ lớn và nhất là một điều rắc rối thật sự; nhưng ngay trong cơn bí tỷ đầu tiên của ông ấy, chúng ta sẽ từ giã, thế là xong. Lúc nào tỉnh, ông ấy sẽ hiểu ra.

- Thưa ông dù sao, - Planchet nói, - chúng ta cũng sẽ hiểu rõ tình hình ngay bây giờ đây. Những bức tường cao vút kia rực đó ánh mặt trời tà chắc hẳn là tường của thị trấn Blois.

- Chắc thế, - D Artagnan đáp, - và những ngọn tháp nhọn hoắt chạm trổ thắp thoáng ở trong rừng phía bên trái kia giống như những cái tôi nghe tả về lâu đài Chambord

- Chúng ta sẽ vào trong thị trấn chứ? - Planchet hỏi.

- Dĩ nhiên, để hỏi thăm.

- Ông này, nếu chúng ta vào đó, tôi khuyên là ta nên nếm thử vài cốc kem mà tôi đã nghe nói đến rất nhiều nhưng khốn thay người ta lại không thể mang lên Paris được, mà phải ăn ngay tại chỗ.

- Cứ yên tâm, ta sẽ làm một chầu, - D Artagnan đáp.

Vừa lúc ấy một cỗ xe loại nặng thắng mấy con bò chở gỗ đốn tại những cánh rừng tươi tốt của vùng này đưa đến cửa sông Lois từ một con đường nhỏ đầy vết bánh xe đi ra đường cái mà hai kỵ sĩ đang đi.

Một người đàn ông đi theo cầm một cây sào cắm đinh ở đầu dùng để thúc lũ bò chậm chạp.

- Này anh bạn ơi! - Planchet gọi người chăn bò.

- Các ông cần gì đó?

Người nông dân nói từ ngôn ngũ đặc biệt thuần khiết của dân vùng này, nó ắt phải làm cho các nhà sính tu từ thành thị trường Sorbonne và phố Đại học Tổng hợp phải hổ thẹn.

- Chúng tôi tìm nhà ông bá tước De La Fére, - D Artagnan nói, vậy ông có biết tên ông ấy trong số những vị lãnh chúa ở quanh đây không?

Nghe nói cái tên đó, người nông dân ngả mũ ra mà đáp:

- Thưa các ông, gỗ này là của ông ấy đấy, tôi đốn gỗ trong dám rừng già và chở đến lâu đài.

D Artagnan không muốn hỏi han thêm bác nông dân, anh rất sợ phải nghe từ miệng một người khác điều mà chính anh đã nói với Planchet.

- Lâu đài? - D Artagnan bụng bảo dạ, - Lâu đài! - A! Ta hiểu rồi! Arthos không kiên lòng, giống như Porthos anh ta bắt nông dân gọi anh ta là Đức ông và gọi túp lều của mình là lâu đài; cái anh chàng Arthos thân mến ấy có bàn tay khắc nghiệt nhất là khi đã nốc rượu.

Những con bò đi chậm chạp, d Artagnan và Planchet đi sau cỗ xe và sốt ruột vì cái nhịp điệu ấy.

D Artagnan hỏi người chăn bò.

- Đúng là đường này phải không? Chúng tôi cứ đi mà không sợ lạc chứ?

- Ồ, lạy Chúa! Đúng đấy ạ, - Bác chăn bò nói, - Ông cứ việc đi trước, chẳng có gì phải đi theo những con bò chậm ri chậm rì này cho khổ. Đi bộ nửa dặm là thấy toà lâu đài ở phía bên phải; đứng ở đây chưa trông thấy đâu, vì vướng một rặng cây bạch dương che khuất. Lâu đài ấy không phải là Bragelonne mà là La Vallière . Ông hãy bỏ qua và đi thêm độ ba tầm súng trường sẽ thấy một toà nhà lớn mái lợp lá đen đứng trên một gò đất rợp bóng những cây phong đồ sộ thì đấy là lâu đài ngài bá tước de La Fére.

- Nhưng nửa dặm ấy có dài không? - D Artagnan hỏì, vì trên đất Pháp tươi đẹp của chúng ta chỗ nào cũng toàn dặm là dặm cả, mà chẳng dặm nào giống nhau.

- Mười phút đi đường ông ạ, với những cái chân nhanh nhẹn của con ngựa ông cưỡì.

D Artagnan cảm ơn người chăn bò, rồi phóng đi ngay lập tức.

Nhưng rồi bụng chẳng muốn mà lòng cứ bối rối với ý nghĩ gặp lại con người đặc biệt kia đã từng quý mến anh xiết bao, đã từng qua những điều khuyên bảo và qua tấm gương của mình góp phần giáo dục anh trở nên một người quý tộc, anh cho ngựa đi chậm dần lại, đầu cúi xuống như một người mơ mộng.

Planchet cũng đã tìm thấy trong cuộc gặp gỡ và thái độ của bác nông dân một chất liệu cho những suy nghĩ nghiêm trang. Ở Normandie hay Franche- Comté , Artois hay Picacdie là những nơi anh từng ở lâu, chưa bao giờ anh gặp những người dân quê lại có đáng điệu thanh thoát như thế, lời ăn tiếng nói thuần khiết như thế.

Anh tưởng như mình đã gặp một nhà quý tộc nào đó thuộc phải như anh, nhưng vì duyên do chính trị đã buộc phải cải trang như anh.

Chợt đến một chỗ đường quanh, lâu đài La Vallière hiện ra trước mắt các lữ khách như bác chăn bò đã nói, rồi đi bộ một phần tư dặm nữa, một toà nhà trắng xoá có những cây phong bao quanh, nổi bật lên trên nền một lùm cây um tùm mà mùa xuân đã rắc lên những bông hoa tuyết.

Bình thường d Artagnan ít xúc động, nhưng trông thấy cảnh tượng này, anh cảm thấy một nỗi xao xuyến lạ lùng thấm sâu vào đáy lòng mình; trong suốt cuộc đời mình những kỷ niệm tuổi thanh xuân mạnh mẽ biết bao. Không có cùng những cảm tưởng ấy, trông thấy chủ mình xao động đến thế, Planchet ngẩn người ra, hết nhìn d Artagnan lại nhìn ngôi nhà.

Người lính ngự lâm tiến thêm mấy bước và đến trước một cổng rào sắt gia công với một thị hiếu khác hẳn lối đúc thời bấy giờ.

Qua cổng rào, nhìn thấy những vườn rau được chăm sóc cẩn thận một cái sân rộng lớn có nhiều ngựa đang giậm chân do những tên hầu mặc quần áo dấu khác nhau dắt, và một cỗ xe thắng hai con ngựa của vùng này.

- Chúng ta nhầm rồi, hoặc là người ấy đã lừa chúng ta. D Artagnan nói, - không thể nào Arthos lại ở đây được. Lạy Chúa!

Hay là anh ấy chết rồi và trang ấp này thuộc về người khác cùng họ với anh. Này Planchet, cậu xuống ngựa và đi vào hỏi xem sao, thú thật tôi chẳng có can đảm vào hỏi đâu.

Planchet xuống ngựa. D Artagnan bảo:

- Cậu nói thêm rằng có một vị quý tộc đi qua muốn được vào chào ngài bá tước de La Fére và nếu cậu thấy hài lòng, với những tin tức lượm được thì hãy nói rõ tên tôi nhé.

Planchet nắm cương dắt ngựa đến cổng, kéo chuông và tức khắc có một người làm, tóc bạc phơ, tuổi đã cao mà lưng vẫn thẳng đi ra và tiếp Planchet.

- Xin hỏi có phải ngài bá tước de La Fére ở tại đây không? - Planchet nói.

- Phải đấy, ông ạ, đúng ở đây, - người hầu không mặc áo dấu trả lời Planchet.

- Một vị lãnh chúa về hưu phải không?

- Đúng thế.

- Và có một người hầu tên là Grimaud? - Planchet lại hỏi, với thói quen thận trọng anh không sợ thừa tin tức.

- Ông Grimaud lúc này không có ở nhà, - người hầu đáp, bác ta không quen với những cách hỏi như vậy và bắt đầu nhìn Planchet từ đầu đến chân.

Planchet mặt mày rạng rỡ kêu lên:

- Thế thì đúng bá tước de La Fére mà chúng tôi tìm kiếm. Vậy xin bác mở cửa cho tôi vì tôi muốn báo tin với ngài bá tước rằng ông chủ tôi là một vị quý tộc, bạn của ngài, đang ở kia và muốn đến chào ngài.

- Thế sao ông không bảo tôi sớm? - Người đầy tớ nói. - Còn vị chủ của ông đâu?

- Ông ấy đi sau tôi.

Người đầy tớ mở cổng và đi trước. Planchet theo sau và ra hiệu cho chủ mình. D Artagnan tim đập hồi hộp hơn bao giờ hết, cưỡi ngựa đi vào sân.

Lúc Planchet bước lên bậc thềm, anh nghe thấy từ trong một căn phòng thấp, một tiếng vọng ra:

"Ơ này! Vị quý tộc ấy đâu, sao lại không dẫn vào đây".

Giọng nói ấy vang lên đến tận tai d Artagnan và đánh thức trong lòng anh muôn vàn tình cảm, muôn vàn kỷ niệm đã lãng quên.

Anh vội vã xuống ngựa, trong khi Planchet nụ cười trên môi tiến vào chỗ chủ nhân ngôi nhà.

- Tôi biết anh chàng này mà! - Arthos xuất hiện trên ngưỡng cửa và nói.

- Ồ, vâng, thưa bá tước, ông biết tôi và tôi cũng biết rõ ông. Tôi là Planchet, thưa bá tước, Planchet, ông biết rõ...

Nhưng anh đầy tớ thật thà đó không nói gì được hơn, dung mạo bất ngờ của nhà quý tộc đã khiến anh xúc động biết chừng nào.

- Sao? Planchet ư? - Arthos kêu lên. - Thế ông d Artagnan ở đây à?

- Tôi đây, bạn ơi! Tôi đây, Arthos thân mến ơi! - D Artagnan nói lắp bắp và hầu như lảo đảo cả người.

Nghe câu nói đó, một nỗi xúc động rõ ràng lần lượt xuất hiện lên gương mặt đẹp đẽ và những đường nét bình thản của Arthos. Anh tiến nhanh mấy bước về phía d Artagnan, mắt vẫn không rời bạn và trìu mến ôm chặt bạn trong vòng tay. D Artagnan qua cơn bối rối, cũng ôm chặt lấy Arthos với một niềm thân ái long lanh thành những giọt lệ trong đôi mắt.

Arthos cầm lấy tay bạn, siết chặt trong tay mình và dẫn bạn vào phòng khách có nhiều người đang quây quần. Mọi người đều dứng dậy. Arthos nói:

- Tôi xin giới thiệu ông hiệp sĩ d Artagnan, trung uý ngự lâm quân của Hoàng thượng, một người bạn tận tụy của tôi, một trong những nhà quỷ tộc dũng cảm nhất và đáng mến nhất mà tôi được quen biết từ xưa.

Theo tục lệ, d Artagnan tiếp nhận những lời chúc mừng của cử tọa, nhiệt liệt chúc mừng lại và cùng ngồi dự, và trong khi cuộc trò chuyện tạm ngừng một lát lại tiếp tục rôm rả, thì anh ngồi ngắm Arthos.

Lạ lùng thật? Arthos chỉ hơi già đi. Cặp mắt đẹp toát ra khỏi cái quầng nâu xám do những đêm thức và những cuộc chè chén say sưa tạo thành trông to hơn và lóng lánh như mặt hồ tinh khiết hơn bao giờ hết; khuôn mặt hơi dài và được tăng thêm vẻ uy nghi bù cho cái mất đi về nét sôi động nhiệt tình; bàn tay mềm mại, lộng lẫy dưới ống tay áo thêu ren, giống như những bàn tay nào đó trong các bức họạ của Titien et de Van Dick (1) thân hình anh mảnh dẻ hơn xưa, hai bắp vai thanh và rộng nói lên một sức mạnh hiếm có, mái tóc đen dài điểm mấy sợi xam xám, rủ xuống đôi vai một cách phong nhã và lượn sóng như một nếp uốn tự nhiên; giọng nói anh vẫn tươi mát như mới ở tuổi hai mươi lăm, hàm răng đẹp còn nguyên vẹn và trắng muổt đem cho nụ cười một vẻ duyên dáng khôn tả.

Tuy nhiên, các vị khách của bá tước qua vẻ lạnh nhạt khó nhận biết của cuộc đàm luận hiểu rằng hai người bạn thân đang nóng lòng mong mỏi được ngồi riêng với nhau. Cho nên với tất cả cái nghệ thuật và phép lịch sự ngày xưa, họ sửa soạn ra về, cái việc trịnh trọng của những người ở xã hội thượng lưu, khi có mặt của những người thượng lưu. Nhưng vừa lúc ấy có tiếng chó sủa ầm ĩ ngoài sân và nhiều người cùng nhao nhao lên:

- A! Raoul trở về.

Nghe đến tên Raoul, Arthos nhìn sang d Artagnan và như vừa rình xem cái tên ấy có gây nên vẻ tò mò nào trên nét mặt bạn mình không. Nhưng d Artagnan chưa hiểu ra sao, anh còn chưa ra khỏi nỗi chói ngợp. Cho nên gần như cái máy anh quay lại, thì thấy một cậu thiếu niên tuấn tú trạc 15 tuổi, ăn vận giản dị nhưng với một thị hiếu hoàn mỹ, bước vào phòng khách và với vẻ duyên dáng ngả chiếc mũ dạ đính những chiếc lông chim dài đỏ thắm.

Vậy mà nhân vật mới lạ này hoàn toàn bất ngờ, đập vào mắt anh. Cả một loạt ý nghĩ mới mẻ ập đến tâm trí anh và bằng mọi nguồn thông minh sắc sảo của anh, đã cắt nghĩa sự thay đổi của Arthos cho đến lúc này vẫn tỏ ra không lý giải được. Một sự giống nhau kỳ lạ giữa vị quý tộc và đứa nhỏ cắt nghĩa cho anh sự bí mật của thời tái sinh này. Anh đợi chờ xem xét và nghe ngóng.

- Anh đã trở về đấy ư, Raoul? - Bá tước nói.

- Thưa ông, vâng, - cậu thiếu niên cung kính đáp, và tôi làm tròn nhiệm vụ mà ông giao cho.

- Nhưng có chuyện gì đấy, Raoul? - Arthos băn khoăn hỏi - Trông anh tái nhợt và có vẻ xao xuyến.

- Thưa ông, - cậu thiếu niên đáp, - chả là vì có một tai họa xảy đến với cô bé láng giềng của chúng ta.

- Với cô De La Vallière ấy à? - Arthos vội hỏi.

- Chuyện gì thế, - vài tiếng người hỏi.

- Cô ấy đi dạo chơi với bà vú Marceline ở khu vườn các bác tiều phu đang đẽo những cây gỗ, thì tôi cưỡi ngựa đi qua trông thấy bà và dừng lại. Lúc ấy cô ta đang đứng trên một đống gỗ, thấy tôi, cô ấy toan nhẩy xuống nhưng bị trượt chân không tài nào dậy nổi. Tôi cho rằng cô ấy bị trẹo mắt cá chân.

- Ôi, lạy Chúa? - Arthos nói.- Thế bà de Saint-Remy, mẹ cô đã biết chưa?

- Không ạ, bà de Saint-Remy đang ở Blois, chỗ bà quận công d Orléans. Tôi e rằng việc chỉ sơ cứu cho cô ta không được tốt, nên chạy về xin ông chỉ bảo.

- Raoul, cho đưa ngay cô ấy ra Blois? Hay tốt hơn hết là tự anh lấy ngựa và chạy ra ngoài ấy.

Raoul cúi mình.

- Nhưng Louise đang ở đâu? - Bá tước hỏi.

- Thưa ông, tôi đã mang đến đây và để nằm ở chỗ vợ bác Charlot; trong khi chờ đợi, bà ấy cho cô bé ngâm chân vào nước lạnh giá.

Câu chuyện ấy đã tạo cái cớ cho các vị khách của Arthos đứng lên và xin cáo từ, riêng lão công tước de Barbé tỏ ra là chỗ thân tình từ hai chục năm nay với nhà La Vallière đi ra thăm cô bé Louis, cô ta đang khóc, nhưng khi trông thấy Raoul thì lập tức chùi ngay đôi mắt diễm lệ và nhoẻn miệng cười.

Cụ công tước bảo đưa cô bé Louise đến Blois bằng cỗ xe ngựa của mình. Arthos nói:

- Cụ dạy phải đấy, cô bé sẽ đến với mẹ sớm hơn. Còn anh, Raoul, tôi chắc anh đã hành động dại dột và việc này có phần lỗi của anh đấy.

- Ồ, thưa ông, không ạ, tôi xin thề như vậy! - Cô gái kêu lên, còn cậu thiếu niên thì tái mặt đi, vì nghĩ rằng mình có thể là nguyên nhân của tai nạn.

- Ôi thưa ông tôi xin cam đoan rằng... - Raoul lẩm bẩm.

- Nhưng anh vẫn cứ phải đi đến Blois, - bá tước ân cần nói tiếp, và anh xin với bà de Saint-Remy thứ lỗi cho anh và cả tôi nữa, rồi trở về đây.

Gò má cậu thiếu niên tươi trở lại; sau khi đưa mắt hỏi ý bá tước, anh ôm cô gái trong đôi cánh tay đã vạm vỡ, cái đầu xinh đẹp của cô vừa nhăn nhó lại vừa tươi cười ngả vào vai anh, anh nhẹ nhàng đặt cô vào trong xe. Rồi nhảy lên ngựa với vẻ phong nhã và khéo léo của một kỹ sĩ thành thạo, anh chào Arthos và d Artagnan, rồí phóng nhanh, đi kèm cạnh cỗ xe ngựa, đôi mắt anh vẫn đăm dăm nhìn vào trong xe.

Chú thích:

(1) Những danh hoạ thời Phục hưng ở Ý và xứ Flamant.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 16

Lâu đài Bragelonne

Trong suốt cả màn kịch ấy, d Artagnan van ngồi yên: mắt lơ láo, miệng há hốc; những điều anh dự đoán một đằng lại diễn ra một nẻo đến nỗi anh cứ ngẩn ra vì kinh ngạc.

Arthos nắm tay anh và dẫn ra vườn.

- Trong lúc người ta sửa soạn bữa ăn, - Arthos cười nói, - bạn ơi chắc cậu không phật lòng làm sáng tỏ một chút điều bí ẩn đã khiến cậu mơ màng đến thế.

- Đúng đấy, ông bá tước ạ, - D Artagnan nói, dần dần anh cảm thấy Arthos đã lấy lại cho mình cái uy thế quý phái to lớn mà anh vốn có từ xưa Arthos nhìn anh và cười dịu dàng, nói:

- D Artagnan thân mến của tôi ơi. Trước hết ở đây chẳng có ông bá tước nào hết. Nếu như ban nãy tôi gọi cậu là hiệp sĩ chẳng qua là để giới thiệu với các vị khách của tôi để họ biết cậu là ai, còn đối với cậu d Artagnan ạ, tôi hy vọng rằng bao giờ tôi cũng vẫn là Arthos: người bạn đường, người bạn thân của cậu. Cậu thích nghi thức trịnh trọng phải chăng vì cậu không yêu mến tôi bằng ngày xưa.

- Ôi! Lạy Chúa chứng giám! - Chàng Gascogne nói với vẻ hăm hở chân thành của thời niên thiếu hiếm thấy bộc lộ ở người đứng tuổi.

- Vậy chúng ta nên trở lại thói quen cũ, và để bắt đầu chúng ta nên thành thực. Mọi thứ ở đây đều làm cậu ngạc nhiên phải không?

- Ngạc nhiên vô cùng.

- Nhưng điều làm cậu ngạc nhiên nhất,- Arthos cười nói, - chính là tôi phải không, thú nhận đi.

- Thú thật như vậy!

- Tôi vẫn còn trẻ, có phải không. Mặc dầu tôi đã bốn chín tuổi rồi, tôi vẫn dễ nhận ra được phải không?

- Trái hẳn lại cơ đấy? - D Artagnan sẵn sàng vi phạm điều mà Arthos căn dặn là phải thành thực, - anh chả còn trẻ trung gì đâu.

- A! Mình hiểu, - Arthos hơi đó mặt nói, - mọi cái đều có kết thúc, d Artagnan ạ. Sự cuồng điên cũng như mọi thứ khác.

- Lại còn sự thay đổi về tài sản nữa chứ, hình như vậy. Anh ở thật là tuyệt; tôi đoán toàn nhà là của anh.

- Phải, bạn ạ, đó là gia sản nhỏ mà tôi đã nói với cậu là tôi được thừa kế khi rời quân ngũ.

- Anh có vườn tược ngựa xe, bầy chó.

Arthos cười và nói:

- Vườn rộng hai mươi acpăng trên đó trồng rau và làm nhà phụ.

Ngựa tôi có hai con, dĩ nhiên không kể con ngựa cộc của thằng hầu, đàn chó thì chỉ có bốn con chó canh rừng, hai con chó săn đuổi, và một con săn đón. Mà cái bầy chó xa xỉ ấy, - Arthos mỉm cười nói thêm, - chẳng phải của tôi.

- Phải, tôi hiểu, - D Artagnan, - Đó là dành cho cậu thiếu niên, cho Raoul.

Và d Artagnan nhìn Arthos với một nụ cười gượng.

- Bạn ơi, cậu đã đoán ra! - Arthos nói.

- Và cậu thiếu niên đó là khách, là con nuôi hoặc bà con họ hàng gì chăng? A! Anh đã thay đổi nhiều đấy, Arthos, thân mến?

- D Artagnan thân mến ơi, - Arthos bình thản đáp, - cậu thiếu niên ấy là một đứa trẻ mồ côi mà mẹ nó đã bỏ rơi tại nhà một vị linh mục xã khốn khổ; tôi đã nuôi nấng dạy dỗ nó.

- Chắc nó mến anh lắm nhỉ?

- Tôi nghĩ rằng nó yêu quý tôi như cha đẻ.

- Nhất là rất hàm ơn phải không?

- Ồ, về chuyện ân huệ, - Arthos nói, - thì đều như nhau thôi, tôi hàm ơn nó cũng bằng nó hàm ơn tôi; tôi không nói điều ấy với nó, nhưng tôi nói với cậu, d Artagnan ạ, tôi vẫn là người mang ơn nó.

- Thế là thế nào? - Chàng ngự lâm ngạc nhiên.

- Ôi lạy Chúa! Đúng như vậy. Chính nó đã tạo cho tôi sự đổi thay mà cậu đã thấy đấy. Tôi khô héo như một cái cây lẻ loi chẳng bám tí nào vào đất, chỉ có một tình thân thương sâu sắc mới có thể khiến tôi bám rễ vào cuộc đời. Một cô nhân tình ư? Tôi quá già rồi. Cho nên thằng bé ấy đã giúp tôi tìm thấy lại tất cả những gì đã mất.

- Tôi đã không còn can đảm để sống cho tôi, tôi đã sống vì nó. Những bài học cho một đứa trẻ thì có quá nhiều rồi, tấm gương thì tốt hơn.

- Tôi đã cho nó một tấm gương, d Artagnan ạ. Nhưng ở cái tuổi suy tàn này mình vẫn phải làm hết sức để cho Raoul trở thành một người quý tộc hoàn hảo nhất.

D Artagnan nhìn Arthos lòng càng thêm kính phục. Họ đi dạo trong một vòm cây râm mát lấp lánh những tia nắng lọt xiên của mặt trời tà. Một tia nắng vàng chiếu sáng gương mặt Arthos và cặp mắt anh như phản chiếu lại ngọn lửa ấm áp và yên ả của trời chiều mà chúng đã thu nhận.

Ý nghĩ về Milady(1) chợt đến với d Artagnan. Anh hỏi:

- Và anh hạnh phúc chứ?

Con mắt cảnh giác của Arthos xuyên sâu đến tận đáy lòng d Artagnan và như đọc được cả ý nghĩ của bạn. Anh nói:

- Cũng hạnh phúc như một tạo vật của Chúa được phép hạnh phúc ở trên cõi trần này. Nhưng này, d Artagnan, cậu hãy nói trọn ý nghĩ của cậu đi, vì cậu chưa nói hết.

- Anh thật là kinh khủng, Arthos ạ, và chẳng ai giấu được điều gì.

- Thế thì tôi xin hỏi xem có khi nào anh cảm thấy những cơn nguy hiểm bất ngờ giống như...

- Như những niềm hối hận à? - Arthos tiếp lời - Tôi nói nốt câu của cậu. Đúng và không đúng, tôi chẳng hối hận, vì người đàn bà ấy tôi nghĩ là xứng đáng với hình phạt đã chịu, tôi chẳng hối hận vì nếu như chúng ta để cho nó sống chắc hẳn nó vẫn tiếp tục công cuộc phá hoại, nhưng bạn ơi, điều đó không có nghĩa là tôi có niềm tin rằng chúng ta có quyền làm cái việc chúng ta đã làm. Có lẽ máu nào đổ ra cũng đòi hỏi sự đền tội, cô ta đã đền tội của mình rồi, có thế rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ phải đền tội.

- Arthos ạ, đôi khi tôi cũng nghĩ như anh đấy, - D Artagnan nói.

- Người đàn bà có một thằng con trai phải không?

- Phải.

- Cậu có nghe nói đến nó bao giờ không?

- Không.

- Nó cũng phải hai mươi ba tuổi rồi. - Arthos lẩm bẩm, tôi thường nghĩ đến người thanh niên ấy, d Artagnan ạ.

- Lạ nhỉ, tôi thì quên hẳn!

Arthos mỉm cười buồn bã.

- Thế Lord de Winter(2) cậu có được tin tức gì về ông ấy không?

- Tôi biết ông ta được vua Charles đệ nhất(3) rất là sủng ái.

- Ông vua ấy đã đi theo số phận của mình lúc này cũng chẳng ra gì. D Artagnan này, - Arthos nói tiếp.

- Chuyện ấy trở lại điều mà tôi đã nói với cậu ban nãy.

- Ông ta đã làm đổ máu Straffort, máu kêu trả máu. Thế còn hoàng hậu?

- Hoàng hậu nào?

- Bà Henriette Anh quốc, con gái vua Henri IV ấy.

- Bà ta đang ở cung Louvre, anh biết đấy.

- Phải, ở đấy bà ta thiếu đủ thứ, phải không? Trong những ngày giá rét nhất của mùa đông này, người ta nói là con gái bà ta ốm cứ phải nằm suốt, vì không có củi sưởi? Cậu có hiểu điều đó không? - Arthos nhún vai nói. - Con gái của vua Henri IV rét run lên vì thiếu củi! Tại sao bà không đến xin trú ngụ ở nhà bất kỳ ai trong chúng ta, mà lại đi cầu xin cái lão Mazarin? Bà ta phải được đầy đủ chứ?

- Anh có biết bà ấy à, Arthos?

- Không, nhưng mẹ tôi có thấy bà ta hồi nhỏ. Tôi đã chẳng nói với cậu rằng mẹ tôi là cung nữ của hoàng hậu Marie de Médicis là gì?

- Đâu nào, Arthos, anh có nói những chuyện ấy bao giờ đâu.

- A! Lạy Chúa, có chứ, cậu thấy đấy, - Arthos nói, nhưng cũng phải có dịp chứ.

- Porthos có lẽ chẳng kiên nhẫn chờ đợi như thế đâu, - D Artagnan cười, nói.

- Mỗi người một tánh ý, d Artagnan thân mến ạ. Mặc dầu một chút huênh hoang, Porthos có những đức tính rất tốt. Cậu có gặp lại anh ta không?

- Tôi mới chia tay cách đây năm ngày.

Rồi với cái hào hứng mang tính Gascogne, d Artagnan kể lại tất cả những sự xa hoa tráng lệ của Porthos ở lâu đài Pierrefonds; và vừa công kích bạn mình, anh vừa bắn vài ba mũi tên vào cái ông Mouston trứ danh ấy.

Mỉm cười với cái nét mặt vui vẻ gợi nhớ những ngày xa xưa, Arthos nói:

- Tôi rất thú vị là hồi xưa tình cờ chúng ta đã lập nên một hội những người bạn bè đến nay vẫn còn gắn bó chặt chẽ với nhau, mặc dầu đã hai mươi năm xa cách. D Artagnan này, tình bạn bắt rễ thật sâu trong những trái tim chân thật; cậu tin lời tôi chỉ có những kẻ độc ác mới phủ nhận tình bạn, vì họ chẳng hiểu gì về nó cả. Thế còn Aramis?

- Tôi cũng đã gặp, - D Artagnan đáp, - nhưng cậu ta tỏ vẻ lạnh nhạt với tôi.

- A, cậu đã gặp Aramis, - Arthos vừa nói vừa nhìn d Artagnan, vẻ dò xét - Bạn thân mến ơi, thì ra là một cuộc hành hương thật sự mà cậu tổ chức đến ngôi đền của Tình bạn như các nhà thơ có thể nói.

- Phải đấy, - D Artagnan lúng túng đáp.

- Cậu biết đấy - Arthos nói tiếp, - Aramis vốn tính lạnh lùng, với lại cậu ta luôn luôn bận rộn về những chuyện đàn bà.

- Tôi tin rằng hiện giờ cậu ta đang mắc vào một chuyện đàn bà hết sức phức tạp.

Arthos không đáp.

"Anh ta không tò mò", d Artagnan nghĩ.

Không những Arthos không đáp, mà anh còn lái sang chuyện khác. Anh tỏ rõ cho d Artagnan thấy là đã về gần đến lâu đài và nói:

- Cậu thấy đấy trong một giờ đồng hồ đi dạo, chúng ta đi gần một vòng quanh lãnh ấp của tôi.

- Mọi thứ ở đây đều mỹ lệ và nhất là mọi thứ đều sực nức hơi hướng nhà quý tộc của nó, - D Artagnan đáp.

Vừa lúc ấy có tiếng vó ngựa.

- Raoul trở về, - Arthos nói, - chúng ta về xem tình hình cô bé tội nghiệp thế nào?

Quả nhiên cậu thiếu niên xuất hiện ở cổng rào và đi vào trong sân, người phủ đầy bụi, rồi nhảy xuống đất, trao ngựa cho người chăn. Cậu đến chào bá tước và vị khách.

Arthos đặt tay lên vai d Artagnan và nói:

- Ông đây là hiệp sĩ d Artagnan mà anh vẫn thường nghe tôi nói đến đấy, Raoul ạ.

Raoul lại cúi chào cung kính hơn và nói:

- Ông bá tước đã nói đến tên ông trước mặt tôi như một tấm gương mỗi lần ông muốn dẫn chứng về một người quý tộc gan dạ và hào hiệp.

Lối khen tụng nho nhỏ ấy chẳng khỏi làm d Artagnan cảm động, anh thấy lòng mình nhẹ nhàng xao xuyến. Anh giơ bàn tay cho Raoul mà bảo:

- Anh bạn trẻ của tôi ơi, tất cả những lời người ta khen ngợi tôi phải trở về với ông bá tước đây, bởi vì ông đã giáo dục tôi mọi điều, và chẳng phải lỗi tại ông nếu như người học trò không biết lợi dụng đầy đủ. Nhưng ông sẽ bù đắp ở anh, tôi chắc chắn như vậy. Raoul, tôi thích phong thái của anh, thái độ lịch sự của anh đã làm tôi cảm kích.

Arthos mừng rỡ hơn người ta tưởng. Anh nhìn d Artagnan vẻ biết ơn, rồi mỉm cười với Raoul - một nụ cười kỳ lạ mà trẻ con lấy làm hãnh diện khi nhận được.

Cái trò kịch câm ấy không thoát khỏi cặp mắt d Artagnan và anh tự bảo: "Bây giờ thì ta biết chắc như cua gạch rồi..."

- Thế nào! - Arthos nói, - ta hy vọng rằng tai nạn ấy không có hậu quả gì nghiêm trọng.

- Thưa ông, cũng chưa biết thế nào, thầy thuốc chưa thể nói gì do chỗ đau sưng to; tuy nhiên ông ấy cũng lo bị chấn thương ở một chỗ gân nào đó.

- Thế anh không nấn ná lại lâu hơn ở nhà bà Saint-Remy à?

- Tôi sợ về trễ giờ ăn, - Raoul đáp - như vậy sẽ để ông phải chờ đợi.

Vừa lúc ấy một thằng nhỏ nửa nông dân, nửa người hầu đến thưa là bữa ăn đã dọn ra.

Arthos dẫn khách vào một phòng ăn giản dị, nhưng cửa sổ một phía mở ra vườn và một phía mở ra một nhà kính trồng hoa rực rỡ.

D Artagnan đưa mắt nhìn bộ đồ ăn: bát đĩa đẹp thật, trông rõ là đồ bạc cổ của gia đình. Trên tủ dựng bát đĩa là một bình dựng nước bằng bạc lộng lẫy, d Artagnan ngắm mãi.

- Ô! Làm thánh thật! - Anh nói.

- Phải, - Arthos đáp, - đó là một tác phẩm lớn của một nghệ sĩ florintin tên là Benvenuto Cellini

- Thế còn trận chạm trán đó là trận gì?

- Trận Marignan . Đó là lúc một vị tổ tiên của tôi đưa kiếm cho vua Françoise đệ nhất vì kiếm của ngài vừa bị gẫy. Nhờ dịp ấy mà Enguerrand de La Fère, ông tổ của tôi được tặng huân chương Saint-Michel. Ngoài ra mười lăm năm sau nhà vua không quên đã chiến đấu ba tiếng đồng hồ nữa bằng thanh kiếm của ông bạn Enguerrand mà kiếm không gãy, cho nên đã tặng cho ông cái bình kia và một thanh kiếm mà có lẽ hồi xưa cậu đã trông thấy ở nhà tôi, và nó cũng là một đồ kim hoàn rất đẹp đấy. Đó là thời của những người khổng lồ, Arthos nói. - Chúng ta đây, chúng ta là những thằng lùn bên cạnh những con người đó. D Artagnan ta ngồi xuống và ăn đi. Tiện đây, - Arthos bảo thằng nhỏ vừa đưa món xúp ra, - gọi bác Charlot đến.

Thằng nhỏ đi ra và một lát sau bác đầy tớ mà hai người khách đã hỏi lúc mới đến đây bước vào.

- Bác Charlot thân mến ơi, tôi dặn riêng bác về Planchet, người hầu của ông d Artagnan, trong suốt thời gian anh ta ở đây: Anh ta thích rượu vang ngon, mà bác thì có chìa khoá hầm rượu đấy. Lâu nay anh ta ngủ trên ván cứng hẳn không chê một cái giường êm ái. Tôi mong bác hãy chăm lo đến việc ấy nhé.

Charlot cúi mình và đi ra.

- Charlot cũng là một người trung hậu; - bá tước nói, bác ấy giúp việc tôi mười tám năm rồi.

- Anh nghĩ đến mọi việc, - D Artagnan nói, - và tôi xin cảm ơn anh về Planchet, Arthos thân mến.

Cậu thiếu niên trợn tròn mắt khi nghe tên ấy và nhìn xem có đúng là d Artagnan nói với bá tước không.

- Cái tên ấy có vẻ kỳ lạ đối với anh phải không, Raoul? - Arthos cười nói - đó là biệt danh của tôi trong quân, ngũ khi ông d Artagnan cùng với hai người bạn dũng cảm và tôi, chúng tôi lập những chiến tích ở thành La Rochelle dưới thời ông cố giáo chủ và ông De Bassompierre, ông này sau cũng chết rồi. Ông d Artagnan chiếu cố giữ cho tôi cái tên bè bạn ấy và mỗi lần nghe nói đến lòng tôi rất hân hoan.

- Cái tên lừng lẫy lắm đấy, - D Artagnan nói, - và một hôm nó đã mang vinh dự khái hoàn.

- Thưa ông, thế là thế nào ạ. - Raoul hỏi, vẻ tò mò một cách ngây thơ.

- Thật tình tôi chẳng biết gì cả, - Arthos nói.

- Anh đã quên cái đồn Saint-Gervais và tấm khăn ăn mà ba vết dạn đã làm nên lá cờ. Trí nhớ tôi tốt hơn của anh, tôi vẫn còn nhớ và tôi sẽ kể cho chàng trai này nghe.

Và anh kể lại tất cả câu chuyện về cái đồn cũng như Arthos đã kể cho anh nghe câu chuyện về ông cụ tổ.

Nghe chuyện, chàng thiếu niên thấy như đang diễn ra một trong những chuyện binh đao do Tasse ou l Arioste kể và nó thuộc về nhưng thời hiệp sĩ thần kỳ.

- Nhưng Raoul này, - Arthos nói, - có điều d Artagnan không nói cho anh nghe ông ấy là một trong những tay kiếm cự phách nhất của thời ấy; bắp chân sắt, cổ tay thép, ánh mắt tinh xác và cái nhìn nảy lửa đấy lả cái mà ông phô ra với địch thủ. Ông ấy mười tám tuổi, hơn anh có ba tuổi Raoul ạ, khi tôi thấy ông ấy đã xuất trận lần dầu tiên và đấu với những người đã được thử thách.

- Và ông d Artagnan là người chiến thắng chứ? - Chàng thiếu niên nói, mắt long lanh trong suốt câu chuyện ấy và như muốn hỏi thêm những tình tiết.

- Tôi cho là đã giết chết một tên? - D Artagnan vừa nói vừa đưa mắt hỏi Arthos. - Còn tên nữa, tôi đã tước vũ khí hoặc đánh bị thương, tôi không nhớ nữa.

- Phải, cậu đánh nó bị thương. Ô, cậu là một võ sĩ ghê gớm.

- Này, thế mà tôi cũng chưa mất mát lắm đâu, - D Artagnan nói tiếp với một nụ cười Gascogne đầy tự mãn, - ngay gần đây thôi.

Thấy Arthos đưa mắt nhìn anh im bặt.

- Raoul này, - Arthos nói, - anh thường tự cho mình là một tay kiếm giỏi và tự phụ có thể một ngày nào đó chịu một nỗi thất vọng tàn nhẫn. Tôi muốn anh hiểu rằng người nào kết hợp được tính bình tĩnh với tài lanh lẹn khôn khéo thì thật là nguy hiểm, vì không bao giờ tôi có thể giới thiệu với anh một thí dụ hiển nhiên hơn: nếu ông d Artagnan không mệt, anh hãy xin với ông, ngày mai cho anh một bài học.

- Ơ kìa, Arthos thân mến, chính anh là một ông thầy giỏi, nhất là về mặt những phẩm chất mà anh khoe về tôi. Này, mới sớm nay thôi, Planchet nói với tôi về trận đấu kiếm trứ danh ở trong sân tu viện Carmes với Lord de Winter và đồng bọn. A! Chàng trẻ này, - D Artagnan nói tiếp, - có một tay kiếm đâu đây mà tôi vẫn thường gọi là đệ nhất của vương quốc đấy.

- Ồ tôi đã làm hư bàn tay mình với thằng nhỏ này đấy - Arthos nói.

- Có những bàn tay không bao giờ hư đâu, Arthos thân mến ạ, - D Artagnan nói, - nhưng làm hư rất nhiều những bàn tay khác.

Cậu thiếu niên muốn cuộc chuyện trò kéo dài suốt cả đêm, nhưng Arthos đã nhắc rằng vị khách ắt là mệt và cần nghỉ ngơi.

D Artagnan chối từ vì lịch sự, nhưng Arthos ép anh về phòng dành cho anh. Raoul dẫn khách đến đó. Và do Arthos đoán rằng Raoul có thể sẽ nấn ná thật muộn bên d Artagnan để bắt anh kể tất cá những chuyện dũng lược thời trai trẻ của họ, một lát sau anh tự đến tìm và kết thúc buổi tối tốt lành ấy bằng một cái bắt tay rất thân mật và lời chúc chàng ngự lâm quân ngủ ngon.

Chú thích:

(1) Milady, trong tập truyện trước đã từng là vợ của Arthos, sau trở thành gián điệp nguy hiểm của Richelieu, cuối cùng bị các chàng ngự lâm quân giết.

(2) Anh chồng của Milady.

(3) Charles I (1610-1649), vua các nước Anh, Scot và Ireland. Đi theo con đường độc tài chuyên chế nên vấp phải sự chống đối mạnh mẽ đưa đến nội chiến. Bị bại trận rồi bị nộp cho quân của Cromwell, sao đó bị xử chém.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 17

Phép xã giao của Arthos

Artagnan đi nằm để được được một mình suy nghĩ đến tất, cả những điều mắt thấy tai nghe trong buổi chiều tôi nay hơn là để ngủ.

Do bản chất tốt và ngay thoạt đầu đối với Arthos đã có một cảm tình bản năng nó dẫn đến một tính bằng hữu chân thành d Artagnan vui mừng được gặp lại một con người nổi bật về trí dũng, chứ không phải là một gã say rượu đần độn mà anh chờ đợi nom thấy say mềm nằm vật vạ trên một đống phân; anh chẩp nhận mà không quá phản kháng cái ưu thế bất biến của Arthos đối với mình, và thay cho lòng ganh ghét và thất vọng có thể làm phiền muộn một bản chất kém khoan dung, rốt cuộc anh chỉ cảm thấy một niềm vui chân thành và trung thực khiến anh mang những kỳ vọng thuận lợi nhất cho cuộc thương lượng của mình.

Tuy nhíên anh không thấy Arthos thành thực và minh bạch về mọi điểm. Cái cậu thíếu niên mà anh ta nói là con nuôi và giống anh như đúc ấy là thế nào nhỉ? Việc trở lại cuộc sống của xã hội thượng lưu và vẻ thanh đạm cường điệu mà anh nhận thấy ở bàn ăn là thế nào?

Một điều bề ngoài có vẻ vô nghĩa là sự vắng mặt của Grimaud mà xưa kia Arthos không bao giờ xa rời, và tên hắn ta cũng không hề được nhắc đến mặc dầu có những chuyện đã hé đề cập tới, tất cả những điều đó khiến d Artagnan băn khoăn. Như vậy là anh không còn được bạn mình tin cậy, hoặc giả Arthos đã bị vướng mắc vào một sợi dây vô hình nào đó, hoặc là đã được báo trước về chuyến viếng thăm của anh.

Anh không thể không nghĩ đến Rochefort, đến điều mà ông ta nói với anh ở nhà thờ Đức bà. Phải chăng Rochefort đã đến nhà Arthos trước anh? D Artagnan không có thì giờ để mắt vào những việc nghiên cứu lâu la. Nên anh quyết là ngày hôm sau đi đến một sự lý giải. Cái tài sản ít ỏi được Arthos ngụy trang khéo léo báo hiệu lòng ham muốn xuất hiện và tiết lộ chút tham vọng còn sót lại dễ dàng bị đánh thức dậy. Sức mạnh về tinh thần và sự rành rọt về tư tưởng của Arthos khiến anh một con người dễ xúc cảm hơn kẻ khác. Tính hoạt động vốn có của anh được nhân đôi vì nhu cầu riêng, anh sẽ càng hăng hái gấp bội bước vào những kế hoạch của quan tể tướng.

Những ý nghĩ ấy khiến d Artagnan thao thức mặc dầu rất mệt mỏi; anh vạch ra những kế hoạch công kích và dù biết Arthos là một đối thủ đáng gờm, anh ấn định hành động vào ngày hôm sau, sau bữa ăn lót dạ.

Tuy nhiên anh cũng tự chủ về một mặt khác, trên một trường đấu khá mới mẻ phải tiến lên một cách thận trọng, nghiên cứu trong nhiều ngày những hiểu biết của Arthos, theo dõi và tìm hiểu những thói quen mới của anh ta; qua việc tập đấu kiếm hoặc đi săn với cậu thiếu niên, thử moi ở cậu những tin tức gián tiếp mà anh còn thiếu, để nối liền chàng Arthos ngày xưa với chàng Arthos ngày nay; điều ấy chắc dễ dàng vì rằng người thầy giáo nào chẳng lây lan một phần con người mình sang tâm trí học trò. Nhưng bản thân d Artagnan vốn là một chàng trai rất tinh ma, ngay lập tức anh hiểu rằng những rủi ro gì sẽ chờ đợi anh trong trường hợp một sự không kín đáo hoặc vụng về có thể làm lộ tẩy những cuộc vận động của anh trước con mắt lão luyện của Arthos.

Rồi có cần nói đến điều này nữa không? D Artagnan sẵn sàng dùng mưu mẹo chống lại tính giảo quyệt của Aramis hoặc thói huênh hoang của Porthos, nhưng anh hổ thẹn nếu phải lắt léo với Arthos, con người thẳng thắn và trung hậu. Anh thấy dường như trong khi công nhận anh là bậc thầy của họ về khoa học xã giao. Aramis và Porthos sẽ càng coi trọng anh hơn nữa, còn Arthos thì trái lại sẽ coi thường anh.

- A! Tại sao cái tên Grimaud câm lặng lại không có đây nhỉ? - D Artagnan nghĩ - Trong cái im lặng của hắn có khối điều mà ta có thể hiểu. Grimaud có một sự im lặng thật là hùng hồn. Trong khi đó những tiếng ồn ào lần lượt tắt dần trong ngôi nhà, d Artagnan đã nghe đóng các cửa giả; những tiếng chó sủa chốc chốc vang lên đáp lại nhau trong thôn xóm cũng im ắng, cuối cùng một con hoạ mi lạc lõng trong một lùm cây có lúc hót lên những cung điệu du dương giữa đêm thâu cũng ngủ nốt; trong lâu đài chỉ còn tiếng bước chân bình thản và đều đều ở phía dưới phòng anh; anh đồ chừng đó là phòng của Arthos. Anh ngẫm nghĩ:

- Anh ta đi đi lại lại và suy nghĩ, nhưng suy nghĩ đến cái gì cơ chứ? Đó là điều không thể biết được.

Người ta có thể đoán ra cái khác, chứ không thể đoán ra điều ấy.

Cuối cùng chắc hẳn Arthos đi nằm, vì cái tiếng động cuối cùng ấy cũng tắt ngấm.

Im lặng và mệt mỏi hùa với nhau đã thắng d Artagnan, đến lượt anh nhắm mắt lại và hầu như ngay lập tức anh thiếp đi.

D Artagnan không phải là người ngủ nhiều. Bình minh vừa mới nhuốm vàng các tấm rèm, anh đã nhảy ra khỏi giường và mở cửa sổ.

Qua tấm mành anh thấy như có người lảng vảng ở ngoài sân và tránh gây tiếng động. Theo thói quen không khi nào để lọt qua một vật nào trong tầm nhìn của mình mà không biết chắc đó là cái gì, d Artagnan chăm chú nhìn không gây tiếng động và nhận ra chiếc áo chẽn màu đỏ và bộ tóc màu nâu của Raoul.

Chàng thiếu niên, vì đúng là cậu ta, mở chuồng ngựa dắt ra con ngựa màu hồng nhạt mà hôm qua cậu đã cưỡi, tự mình thắng yên cương với vẻ nhanh nhẹn và khéo léo như người kỵ sĩ thành thạo nhất rồi cho con ngựa đi ra theo lối bên phải của con đường nhỏ, kéo ngựa ra ngoài, đóng cửa lại sau mình, rồi qua mép bờ tường, d Artagnan trông thấy cậu ta phóng đi như mũi tên, cúi mình dưới những cành nở hoa rủ lòng thòng của những cây phong và cây keo.

Từ hôm qua d Artagnan đã thấy đó là con đường dẫn đi Blois.

- Hề! Hề! - Chàng Gascon nói, - lại một thằng nhóc bắt đầu biết đi tán gái, nó chẳng giống Arthos luôn thù hằn phái đẹp. Không phải nó đi săn vì chẳng mang súng ống và chó; cũng không phải được đi sai làm việc vì nó có vẻ len lén. Len lén giấu ai cơ? Ta hay bố nó?... Mà ta chắc chắn rằng bá tước là bố nó... Mẹ kiếp về chuyện này ta sẽ rõ, vì ta sẽ nói thẳng với Arthos.

Trời sáng dần, tất cả những tiếng động mà ban đêm d Artagnan nghe lần lượt tắt ngấm bây giờ lại nối tiếp nhau bừng dậy: con chim trên cành cây, con chó trong chuồng bò, đàn cừu ngoài cánh đồng. Những con thuyền neo trên bờ sông Loire cũng sống động lên, rời bến và trôi theo dòng nước. D Artagnan cứ đứng thế ở cửa sổ để khỏi làm ai thức giấc, rồi khi đã nghe tiếng các cửa của toà lâu đài mở ra, anh vuốt lại mái tóc, vân vê lại chòm ria, theo thói quen phủi vành mũ bằng ống tay áo chẽn và đi xuống. Vừa mới bước qua bậc thang cuối cùng anh đã nom thấy Arthos đang cúi xuống đất với cái vẻ của một người đang tìm một đồng tiền trên cát.

- A! Xin chào chủ nhân thân mến, - D Artagnan nói.

- Chào bạn thân mến. Đêm qua ngủ ngon chứ?

- Tuyệt, Arthos ạ, như cái giường của anh, như bữa ăn tối của anh, nó đã dẫn tôi đến giấc ngủ, như sự tiếp đãi của anh khi gặp lại tôi. Nhưng kìa, sao anh nhìn cái gì chăm chú thế? Hay là tình cờ anh trở thành nhà tài tử chơi hoa tuy líp đấy?

- Bạn thân mến ơi, không nên vì thế mà cậu giễu cợt tôi nhé. Ở nông thôn các thị hiếu thay đổi nhiều lắm và người ta yêu thích mà không hay biết tất cả những cái đẹp được. Chúa làm nảy ra từ lòng đất và rất bị coi thường ở thành thị. Tôi đang nhìn những cây hoa iris ( Huệ tím ) tôi đặt bên cạnh cái bể này đã bị giẫm nát sớm nay. Bọn làm vườn là những tay vụng về nhất đời. Cho ngựa đi kéo nước xong trở về họ để chúng giẫm lên cả các vạt đất trồng cây.

D Artagnan mỉm cười. Anh nói:

- Anh tưởng thế à?

Và anh dẫn bạn theo dọc lối đi in đầy những vết chân giống hệt những vết chân đã giẫm lên những cây iris.

- Arthos xem này, cả những vết ở đây nữa, - D Artagnan thản nhiên nói.

Ù nhỉ mà những vết chân còn mới nguyên.

- Mới nguyên, - D Artagnan nhắc lại.

- Sáng sớm nay, ai mới đi ra ngoài nhỉ? - Arthos băn khoăn tự hỏi, - hay là một con ngựa đã xổng chuồng?

- Không thể như vậy được, - D Artagnan nói, - vì những bước chân rất đều và thư thả.

- Raoul đâu rồi? - Arthos kêu lên. - Sao tôi không trông thấy nó nhỉ.

- Sụyt! - D Artagnan đưa một ngón tay lên miệng và cười .

- Có chuyện gì vậy. - Arthos hỏi.

D Artagnan kể lại điều anh đã trông thấy và theo dõi sắc mặt của chủ nhân.

- A! Bây giờ tôi đoán ra rồi, - Arthos khẽ nhún vai nói, - thằng bé tội nghiệp lại đi đến Blois.

- Để làm gì?

- Ồ, lạy Chúa! Để hỏi tin tức về con bé La Vallière. Cậu biết đấy, con bé bị ngã trật chân hôm qua.

- Anh nghĩ thế à? - D Artagnan nói, vẻ không tin.

- Không những tôi nghĩ mà tôi chắc chắn như vậy. - Arthos đáp, - Anh không nhận thấy rằng Raoul nó phải lòng à?

- Chà! Phải lòng ai? Con bé bảy tuổi ấy à?

- Bạn thân mến ơi, ở cái tuổi của Raoul, trái tim nó đầy chan chứa đến nỗi nó phải cho tràn ra một vật nào đó dù là mộng hay thực. Cho nên, tình yêu của nó cũng nửa là mộng nửa là thực.

- Anh đùa đấy ư? Sao? Con bé nhỏ tí ấy à?

- Anh đã không nhìn ư? Đó là một tạo vật xinh đẹp nhất đời: mái tóc hoe ánh bạc, cặp măt xanh thế mà đã vừa linh lợi vừa thẫn thờ.

- Nhưng anh nói gì về mối tình đó?

- Tôi chẳng nói gì hết, tôi cười và mặc kệ Raoul; nhưng những nhu cầu đầu tiên ấy của con tim rất khẩn thiết, những nỗi tương tư chan chứa ở những người trẻ tuổi ấy nó êm ái mà đồng thởi cũng đắng cay đến mức nó như thường mang tất cả những đặc điểm của một mối tình si. Tôi còn nhớ hồi ở tuổi Raoul, tôi say mê một pho tượng Hy Lạp mà đức vua Henri IV cho cha tôi và tôi nghĩ đến phát điên lên vì đau khổ khi người ta bảo tôi rằng câu chuyện về Pygmalion chỉ là một chuyện hoang đường(1).

- Đó là vô công rồi nghề. Anh không giao đủ việc cho Raoul và tự nó kiếm chuyện đấy.

- Chẳng có việc gì khác. Cho nên tôi đã nghĩ cho nó đi khỏi nơi đây.

- Anh làm thế là tốt.

- Chắc thế, nhưng việc đó sẽ làm nó tan nát cõi lòng và nó sẽ đau khổ như với một mối tình thực sự. Từ ba bốn năm rồi khi ấy chính nó cũng là một đứa trẻ, nó đã quen trang điểm và ca ngợi cái thần tượng bé bỏng ấy mà một ngày nào đó nó sẽ đi tới tôn thờ nếu như nó ở lại đây. Hai đứa trẻ ấy suốt ngày cùng mơ mộng với nhau và chuyện trò hàng nghìn điều nghiêm túc cứ như là những tình nhân thực sự hai mươi tuổi. Từ lâu bố mẹ của con bé La Vallière đã buồn cười về chuyện này, nhưng gần đây ông bà ấy đã bắt đầu cau mày rồi đó.

- Chuyện trẻ con vớ vẩn! Nhưng Raoul cũng cần được giải khuây; nên nhanh chóng cho nó đi khỏi đây nếu không thì, mẹ kiếp, chẳng bao giờ anh làm cho nó nên người được.

- Tôi định gửi nó đến Paris.

- A! - D Artagnan kêu lên.

Và anh nghĩ rằng thời kỳ chiến tranh đã đến.

- Nếu anh muốn, - anh nói, - chúng ta có thể tạo một vận mệnh cho cậu thiếu niên ấy.

- A! - Đến lượt Arthos kêu lên.

- Tôi cũng muốn hỏi ý kiến anh về một điều này ra trong khối óc tôi.

- Nói đi.

- Anh có nghĩ là đã đến lúc lại ra làm việc không?

- Thì cậu đã chẳng đang làm việc đấy ư, d Artagnan?

- Tôi muốn nói công việc hành động. Cuộc đời xưa kia chẳng còn gì cám dỗ anh nữa sao? Và nếu như những lợi ích thật sự đang chờ đợi anh, anh chẳng vui lòng lại bắt đầu những chiến công của thời trai trẻ chúng ta ở đại đội của tôi hoặc đại đội của anh bạn Porthos ư?

- Thế là cậu đưa ra với tôi một đề nghị? - Arthos nói.

- Rõ ràng và thẳng thắn.

- Để lại vào trận?

- Phải.

- Của ai và chống lại ai? - Arthos hỏi đốp lại ngay và nhìn chàng Gascon bằng con mắt thật sáng suốt và thật nhân hậu.

- A! Quỷ thật? Anh vội vã thế?

- Và nhất là minh bạch: Cậu nghe đây, d Artagnan, chỉ có một nhân vật hay nói đúng hơn một lợi ích vì đó mà một người như tôi xem ra còn có thể có ích: đó là lợi ích của nhà vua.

- Chính xác như vậy đấy, - chàng ngự lâm nói.

- Phải, chúng ta hãy thông với nhau, - Arthos nghiêm trang nói tiếp - nếu như cậu hiểu lợi ích của Mazarin là lợi ích của nhà vua, thì chúng ta nên thôi không tìm cách hiểu lẫn nhau nữa.

- Tôi không nói chính xác, - chàng Gascon lúng túng đáp.

- Này, d Artagnan, - Arthos nói, - ta đừng chơi cái trò lập lờ ấy: sự ngập ngừng và những kiểu loanh quanh của cậu cho tôi thấy rõ cậu từ phía nào đến. Cái lợi ích ấy quả thật người ta không dám lớn tiếng thú nhận, nhưng khi người ta chiêu mộ cho nó thì tai cụp xuống và giọng nói lúng túng.

- A! Arthos thân mến của tôi, - D Artagnan kêu.

- Ê! - Arthos nói tiếp - Cậu biết rõ là tôi không nói cậu, cậu là hòn ngọc của những người dũng cảm và táo bạo, tôi nói với cậu về cái lão người Ý bần tiện và mưu mô, về cái đứa thô bỉ đang cố đặt lên đầu nó một cái vương miện mà nó ăn cắp ở dưới một tám gối, về cái thằng bần tiện nó gọi đảng phái của nó là đảng phái của nhà vua và tính đến bắt giam các thân vương mà không dám giết họ như ông giáo chủ của chúng ta, vị giáo chủ vĩ đại đã làm; một tên biển lận cân các đồng êquy vàng và giữ những đồng tiền bị cắt xén vì dù rằng chuyên cờ bạc bịp hắn vẫn sợ nhỡ ngày hôm sau thua bạc; cuối cùng, một tên vô lại nó hành hạ hoàng hậu, theo người ta nói chắc như vậy với lại cũng mặc kệ bà ta! Và trong ba tháng nữa hắn sẽ gây ra một cuộc nội chiến chống lại chúng ta để giữ gìn những khoản lương bổng của nó. Đây là vị minh chủ mà cậu đề nghị với tôi ư, d Artagnan? Xin đa tạ nhé!

- Anh nóng nảy hơn xưa đấy, xin Chúa tha tội! - D Artagnan nói. - Năm tháng đã không làm nguội lạnh đi mà hun nóng dòng máu anh. Ai bảo anh đó là minh chủ của tôi và tôi muốn áp đặt cho anh?

"Chết thật! - Chàng Gascon tự nhủ. - Ta chẳng dại gì mà trao những bí mật cho một người không sẵn lòng đến thế".

- Bạn thân mến ơi, - Arthos nói tiếp, thế bây giờ những đề nghị ấy là gì?

- Ôi lạy Chúa! Chẳng có gì đơn giản hơn: Anh sống trong điền địa của anh và hình như anh lấy làm sung sướng trong cảnh sống xuềnh xoàng mạ vàng của mình. Porthos có năm sáu chục nghìn livres niên thu thì phải; Aramis lúc nào cũng có mười lăm bà công tước giành nhau vị tu giáo cũng như ngày xưa tranh giành nhau chàng ngư lâm quân; đó cũng còn là một đứa con cưng của số mệnh; nhưng còn tôi tôi làm cái thá gì ở cõi đời này? Tôi mang tấm áo giáp và miếng da trâu từ hai mươi năm nay, bảm chặt lấy cái chức vị quèn này, không tiến không lùi mà cũng chẳng sống nổi. Tóm lại là tôi chết!

Vậy mà khi đối với tôi là chuyện hồi sinh lại đôi chút, thì tất cả các anh đều nhao nhao bảo tôi là: Đó là một tên bần tiện? Đó là một thằng vô lại! Một đứa thô bỉ! Một lão xáu xa? Ồ, mẹ kiếp tôi đồng ý với các anh lắm, nhưng các anh hãy tìm cho tôi một kẻ khá hơn, hoặc là làm sao cho tôi có nguồn thu nhập đồng niên đi?

Arthos ngẫm nghĩ mấy giây đồng hồ, và trong mấy giây ấy, anh hiểu ra mưu mẹo của d Artagnan, cậu ta lúc đầu đi quá trớn nay ngắt đi để che giấu trò chơi của mình. Anh thấy rõ ràng những đề nghị bạn đưa ra với anh là có thật và được bày tỏ một cách đầy đủ nhất, dù anh chỉ mới hơi lắng tai nghe:

"Được? Anh tự bảo, d Artagnan là của Mazarin".

Từ lúc ấy, anh giữ gìn cực kỳ thận trọng.

Về phía mình, d Artagnan chơi chặt chẽ hơn lúc nào hết.

- Nhưng rốt cuộc cậu có ý kiến gì?- Arthos hỏi.

- Tất nhiên. Tôi muốn nghe lời khuyên của tất cả các anh và tính xem nên làm cái gì đó, vì nếu có người này mà thiếu người kia, chúng ta bao giờ cũng khập khiễng.

- Đúng thế. Cậu nói với tôi về Porthos; vậy cậu đã định đoạt cho cậu ấy đi tìm kiếm hạnh vận chưa?

- Hạnh vận ấy, cậu ta có rồi mà.

- Chắc hẳn cậu ta có; nhưng con người ta sinh ra như vậy đấy, bao giờ cũng ao ước một điều gì. Thế Porthos ao ước gì nào?

- Được là Nam tước.

- À phải rồi? Tôi quên mất, - Arthos cười nói.

"Phải rồi, - D Artagnan ngẫm nghĩ. Nhưng ta nghe ở đâu ấy nhỉ? Hay là anh ta liên lạc với Aramis? - A! Nếu ta biết điều đó thì ta sẽ biết tất cả?"

Cuộc trò chuyện chấm dứt ở đây, vì lúc ấy Raoul về.

Arthos muốn mắng nhẹ một câu, nhưng thấy cậu thiếu niên buồn rũ rượi, anh không có can đảm và chỉ hỏi xem có chuyện gì.

- Tình trạng cô bé láng giềng của chúng ta có nặng lên không?- D Artagnan hỏi.

- Ôi thưa ông,- Raoul hầu như nghẹn ngào vì đau đớn nói. - Cô bé ngã thế là nặng đấy, tuy bên ngoài không thấy biến dạng, nhưng thầy thuốc lo ngại rằng cô ta sẽ bị tàn tật suốt đời.

- A! Thế thì ghê gớm lắm!- Arthos nói.

D Artagnan toan đùa một câu, nhưng nhìn thấy Arthos chia sẻ tai họa đó, anh ghìm lại.

- Ôi, thưa ông, điều làm tôi ân hận nhất, - Raoul nói tiếp,- là tai hoạ ấy lại do chính tôi gây nên.

- Sao lại anh, Raoul?- Arthos hỏi.

- Không nghi ngờ gì nữa. Chẳng phải vì muốn chạy đến với tôi mà cô bé ấy đã nhảy từ trên đống gỗ cao xuống, đấy thôi?

- Raoul thân mến của tôi ơi, - D Artagnan nói, - chỉ còn có một cách là anh hãy cưới cô ta để đền tội.

- Ôi chao, thưa ông.- Raoul nói, - Ông đùa trên một nỗi đau khổ thực sự, thế là không tốt đâu.

Raoul đang cần ở một mình để khóc cho đã, bèn đi vào phòng mình và đến lúc ăn sáng mới ra.

Hoà khí giữa hai người bạn rất tốt, nên không vì cuộc xô xát buổi sớm mà bị phai lạt; cho nên họ ăn lót dạ một cách thật ngon lành, chốc chốc, nhìn cậu bé Raoul tội nghiệp, mắt ướt mọng ra và lòng nặng trĩu, ăn cho qua bữa.

Vào cuối bữa ăn, có hai bức thư đến, Arthos đọc hết sức chăm chú và không tránh khỏi rùng mình nhiều lần. D Artagnan nhìn bạn đọc thư, từ phía bên này bàn sang phía bên kia, với con mắt xuyên thấu anh thề rằng không còn hồ nghi gì nữa, anh đã nhận ra nét chữ nhỏ li ti của Aramis. Còn bức thư kia là chữ đàn bà, viết dài và rắc rối.

Thấy Arthos có vẻ muốn ngồi một mình để phúc đáp thư hoặc suy nghĩ, d Artagnan bảo Raoul:

- Ta đi quanh ra phòng binh khí một lát, nó sẽ làm anh khuây khỏa đấy.

- Cậu thiếu niên nhìn Arthos vẻ dò hỏi và được đáp lại bằng một dấu hiệu ưng thuận.

Cả hai ngươi đi sang một gian phòng thấp có treo những thanh kiếm tập, mặt nạ, găng tay, áo giáp và các thứ dụng cụ đấu kiếm.

Chừng mười lăm phút sau, Arthos đến và hỏi:

- Thế nào?

- Arthos thân mến ạ, đã ra vẻ tay kiếm của anh rồi đó, - D Artagnan nói, - và nếu có thêm tính bình tĩnh của anh nữa thì tôi chỉ còn có chúc mừng anh ta mà thôi.

Cậu thiếu niên hơi xấu hổ. Có một vài bận cậu chạm được vào tay hoặc chân d Artagnan thì ngược lại cậu bị đâm tới hai chục lần vào giữa thân mình.

Vừa lúc ấy, bác Chatlot vào đưa cho d Artagnan một bức thư khẩn do một phái viên mang đến.

Bây giờ đến lượt Arthos liếc nhìn.

D Artagnan đọc thư không để lộ một cảm xúc nào, và khi đọc xong anh khe khẽ gật đầu.

- Này bạn thân mến ơi, - anh nói, - công việc phụng sự là như thế này đây. Thật tình anh không muốn tham gia lại là đúng: ông De Treville(1) ốm và đại đội không thể thiếu tôi được, thành thử việc nghỉ phép của tôi mất toi.

- Cậu trở về Paris à? - Arthos vội vã hỏi.

- Ôi, lạy Chúa. Phải! - D Artagnan đáp - Thế còn anh, anh không đến đấy ư?

Arthos hơi đỏ mặt và đáp:

- Nếu tôi đến đó, tôi sẽ rất sung sướng được gặp cậu.

D Artagnan đứng ra cửa và gọi to:

- Ơ này, Planchet! Mười phút nữa ta sẽ ra đi, cho ngựa ăn lúa mạch đi nhé.

Rồi quay lại phía Arthos, anh nói:

- Tôi thấy dường như còn thiếu cái gì ở đây và tôi rất lấy làm tiếc phải từ giã anh mà không được gặp lại bác Grimaud hiền lành ấy.

- Grimaud à! - Arthos nói, - À, phải đấy, tôi cũng lấy làm lạ sao không thấy cậu hỏi về hắn ta. Tôi đã cho một người bạn mượn rồi.

- Ai mà có thể hiểu nổi những dấu hiệu(2) của hắn? - D Artagnan nói.

- Tôi cũng hy vọng, - Arthos đáp.

Hai người bạn ôm hôn nhau thân mật.

D Artagnan bắt tay Raoul và bắt Arthos hứa nếu đến Paris sẽ ghé thăm, mà nếu không đến thì cũng viết thư cho anh, rồi anh lên ngựa.

Planchet bao giờ cũng chính xác. D Artagnan cười nói với Raoul:

- Anh không đi cùng với tôi ư, tôi đi qua Blois đấy.

Raoul quay lại phía Arthos, anh ngăn cậu ta bằng một dấu hiệu khó nhận thấy.

- Thưa ông, không ạ, - cậu thiếu niên đáp, - tôi ở lại với ông bá tước.

- Thế thì xin từ biệt cả hai, hai người bạn tốt của tôi, - D Artagnan vừa nói vừa siết tay họ một lần cuối, - và cầu Chúa phù hộ cho các bạn giống như chúng ta thường nói với nhau mỗi lần từ biệt nhau dưới thời vị cố giáo chủ.

Arthos giơ tay chào, Raoul cúi mình thi lễ và d Artagnan cùng Planchet lên đường.

Bá tước nhìn theo họ, tay vịn lên vai cậu thiếu niên đã cao gần bằng anh; phút chốc họ đã khuất sau bức tường.

- Raoul, - bá tước bảo, - tối nay chúng ta đi Paris.

- Sao!- Cậu thiếu niên nói, mặt tái nhợt.

- Anh hãy đến nhà bà Saint-Remy nói những lời từ biệt của tôi và của anh. Tôi sẽ đợi ở đây lúc bảy giờ.

- Cậu thiếu niên cúi chào với vẻ đau khổ xen lẫn biết ơn, rồi đi ra thắng ngựa.

Còn d Artagnan vừa đi khuất đã móc bức thư ở trong túi ra đọc lại:

"Trở về Paris ngay lập tức J. M.".

- Bức thư thật khô khan, - D Artagnan lẩm bẩm và nếu như không có một dòng tái bút, có lẽ ta cũng chẳng hiểu gì, nhưng may thay lại có dòng tái bút. Và anh đọc cả dòng tái bút trứ danh ấy, nó làm cho anh phớt qua cả cái khô khan của bức thư.

"Tái bút. Hãy đến ông trưởng kho bạc của nhà vua ở Blois, xưng tên ông ra và đưa bức thư này cho ông ta xem: ông sẽ được lĩnh hai trăm pistoles".

D Artagnan nói:

- Dứt khoát là ta thích cái lối văn xuôi này và ông giáo chủ viết hay hơn ta tưởng nhiều. Nào Planchet, chúng ta hãy đến thăm ông trưởng kho bạc của nhà vua, rồi thì ta phóng.

- Về Paris ư, thưa ông?

- Về Paris.

Rồi cả hai người cho ngựa phi nước đại.

Chú thích:

(1) Theo truyền thuyết của đảo Syprơ, Pygmaliông là một nhà điêu khắc, ông tạo nên bức tượng nàng Galatê rồi si mê ngay bức tượng ấy. Sau nữ thần Aphrôdít ban phép cho bức tượng thành người sống và Pygmaliông lấy nàng Galatê

(2) Đại uý chi huy ngự lâm quân của nhà vua từ trong tập truyện "Ba người lính ngự lâm".

(3) Grimaud là người hầu của Arthos có thói quen sai bảo hắn việc gì toàn bằng dấu hiệu và cử chỉ. Grimaud làm theo hoặc đáp lại cũng bằng cử chỉ và dấu hiệu và thường câm lặng suốt ngày.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 18

Ông de Beaufort

Chuyện gì xảy ra và nguyên nhân nào đã buộc d Artagnan phải trở về Paris?

Một buổi tối theo lệ thường, Mazarin đến chỗ hoàng hậu vào giờ mà mọi người đã rút lui hết. Khi đi qua gần gian phòng lính gác có một cửa trông ra tiền sảnh. Ông ta nghe tiếng nói oang oang ở trong phòng. Muốn biết xem bọn lính nói về vấn đề gì, ông rón rén đến gần và theo thói quen đẩy cửa hé ra và thò đầu vào.

Có một cuộc bàn luận giữa các vệ sĩ. Một người nói:

- Còn tôi, tôi xin cam đoan rằng như Croysel đã tiên đoán điều ấy thì nó chắc chắn cứ như là đã xảy ra rồi. Tôi không biết ông ta, nhưng tôi đã nghe nói ông ta không chỉ là một nhà chiêm tinh học mà còn là một nhà pháp sư nữa.

- Ghê thật, bạn thân mến ơi, nếu ông ta là bạn bè của cậu thì coi chừng. Cậu giúp ông ta một việc tai hại đấy.

- Sao lại thế?

- Bởi vì người ta có thể kết án ông ta được chứ.

- Ô hay? Ngày nay người ta không thiêu sống phù thủy.

- Không! Vậy mà cách đây không lâu lắm ông cố giáo chủ đã cho thiêu Urbain Grandier. Tôi cũng biết đôi điều. Hồi ấy tôi đứng canh ở dàn hỏa và tôi đã trông thấy ông ấy bị thiêu.

- Bạn thân mến ơi, Urbain Grandier không phải là phù thủy mà là một nhà bác học, đó lại là chuyện khác. Urbain Grandier không tiên đoán tương lai. Ông ta biết quá khứ, đôi khi điều ấy còn tệ hơn nữa.

Mazarin gật đầu vẻ đồng tình, nhưng muốn biết rõ điều tiên đoán mà người ta đang bàn luận, ông ta đứng nguyên một chỗ.

Người lính vệ nói tiếp:

- Tôi không bảo cậu rằng Croysel là một phù thủy nhưng tôi nói với cậu rằng nếu như ông ta công bố trước điều tiên đoán của mình thì đấy là một cách để nó không thực hiện được.

- Tại sao?

- Rõ ràng như vậy đấy. Nếu tôi với cậu đánh nhau mà tôi bảo cậu: "Tôi sẽ đâm cho cậu hoặc một nhát thẳng hoặc một nhát xiên" thì cậu đỡ ngay được chứ còn gì nữa. Vậy nếu Croysel nói khá to để ngài giáo chủ nghe thấy là: "Trước ngày ấy, ngày ấy, người tù ấy sẽ vượt ngục" thì hiển nhiên là ông giáo chủ sẽ có cách đề phòng để tù nhân không xổng ra được.

Một lính vệ khác nằm ngay trên chiếc ghế dài có vẻ đang ngủ và mặc dầu bề ngoài có vẻ ngủ thật những vẫn không bỏ sót một lời của câu chuyện bật ra nói:

- Ôi lạy Chúa! Các cậu tưởng người ta có thể thoát được số mệnh mình ư? Nếu trời đã định rằng ông quận công De Beaufort phải trốn thoát thì ông De Beaufort sẽ trốn thoát, và mọi sự đề phòng của ông giáo chủ đều chẳng có tác dụng gì cả hết.

Mazarin rùng mình. Ông ta là người Ý, có nghĩa là mê tín; ông ta vội vã đi qua giữa những người lính vệ, họ trông thấy ông liền ngừng ngay câu chuyện.

- Các ông nói chuyện gì thế? - Mazarin hỏi với vẻ mơn trớn, - hình như về chuyện ông de Beaufort vượt ngục phải không?

- Ô, không ạ, thưa Đức ông? - người lính không cả tin nói, - lúc này ông ấy không thể vượt được ngục được đâu. Người ta chỉ nói là ông ta sẽ vượt ngục.

- Thế ai nói như vậy?

Người lính quay về phía người kể chuyện mà bảo:

- Này Saint - Laurent, cậu nhắc lại câu chuyện của cậu đi.

- Thưa Đức ông, - người lính vệ nói, - tôi kể với ông này rất thuần tuý và giản đơn cái mà tôi nghe nói về điều tiên đoán của một người tên là Croysel cho rằng ông de Beaufort dù có bị canh gác cẩn mật đến đâu, ông ta sẽ trốn thoát trước ngày lễ Pentecote.

- Thế cái tên Croysel ấy là một kẻ mộng tưởng hay thằng điên? - Giáo chủ vẫn tươi cười hỏi.

- Không đâu, - người lính vệ vẫn bám chắc vào niềm tin của mình nói, - Ông ta đã đoán trước nhiều điều và những điều đó đã xảy ra, thí dụ như việc hoàng hậu sinh con trai, ông Coligny sẽ bị giết trong trận đấu kiếm với quận công de Guise cuối cùng là việc ông giáo chủ sẽ được phong giáo chủ... Ấy đấy hoàng hậu đã không chỉ sinh một con trai đầu lòng mà hai năm sau lại sinh một cậu nữa, và ông de Coligny đã bị giết.

- Phải rồi, - Mazarin nói, - nhưng mà ông chủ giáo vẫn chưa thành giáo chủ.

- Vâng, thưa Đức ông, - anh lính vệ nói, - nhưng ông ta sẽ trở thành giáo chủ.

Mazarin cau mặt như muốn nói: ông ta chưa mang chiếc mũ đó. Rồi ông nói thêm:

- Bạn ơi, như vậy theo ý ông thì ông de Beaufort nhất thiết phải thoát à?

- Thưa Đức ông. - Người lính đáp, - ý kiến của tôi đúng là như vậy, đến nỗi bây giờ Các hạ có ban cho tôi cái chức của ông De Chavigny, nghĩa là cai quản lâu đài Vincennes, tôi cũng sẽ không dám nhận. Chà! Còn như sau ngày lễ Pentecôte, đó lại là chuyện khác.

Không có gì đáng tin cậy hơn là một niềm tin mãnh liệt, nó tác động đến nhĩmg người không tin, mà Mazarin như chúng tôi đã nói mới là kẻ không tin, ông ta là người mê tín. Nên ông ta bước ra vẻ đăm chiêu tư lự.

- Đồ keo kiệt! - Người vệ sĩ đứng tựa ở tường nói. - Lão ta làm ra vẻ không tin ở vị pháp sư của cậu, Saint-Laurent ạ, để khỏi phải cho cậu cái gì đấy thôi, nhưng về đến nhà là lão ta sẽ lợi dụng ngay cái điều tiên đoán của cậu cho mà xem.

Quả thật, đáng lẽ tiếp tục đi đến phòng của hoàng hậu, Mazarin trở về văn phòng mình, gọi Bernouin đến và ra lệnh ngày hôm sau từ mờ sáng phải cho đi gọi ngay viên cảnh sát mà ông ta cắt đặt ở bên cạnh ông de Beaufort về, và khi hắn về đến nơi phải lập tức đánh thức ông ta dậy.

Không còn hoài nghi gì nữa, người lính vệ đã chạm ngón tay vào vết thương nhức nhối nhất của ông giáo chủ, ông de Beaufort ngồi tù từ năm năm nay, và không ngày nào Mazarin không nghĩ rằng ông ấy có thể sẽ ra khỏi nơi đó lúc này hoặc lúc khác. Người ta không thể giữ làm tù nhân suốt đời một cháu nội của Henri IV mới suýt soát ba mươi tuổi. Nhưng dù ông ta ra tù bằng cách nào chăng nữa thì trong thời gian bị giam giữ, ông đã tích lũy hận thù sâu sắc đến chừng nào đối với kẻ đã bắt giam ông trong khi ông đang giàu có can trường, vinh quang, được phụ nữ yêu mến, được cánh đàn ông sợ sệt; bắt giam ông để tước khỏi cuộc đời ông những năm tháng tươi đẹp nhất, bởi vì sống ở trong tù thì cũng như không tồn tại!

Trong khi chờ đợi, Mazarin cho tăng cường giám sát ông de Beaufort.

Song giống như kẻ hà tiện trong truyện ngụ ngôn, Mazarin không thể ngủ yên bên cạnh kho vàng của mình. Biết bao lần đang đêm lão choàng dậy vì mơ thấy người ta cướp mất ông de Beaufort của lão. Thế là lão hỏi ngay tin túc về ông ta, và mỗi tin lượm được lão đều đau đớn khi nghe nói tù nhân vẫn chơi bời, ca hát, ông thường dừng lại luôn để nguyền rủa rằng lão Mazarin sẽ trả giá đắt về những trò giải trí mà lão bắt buộc ông ta phải chơi ở lâu đài Vincennes.

Ỷ nghĩ ấy choán hết tâm trí tể tướng trong giấc ngủ, cho nên bảy giờ sáng khi Bernouin vào phòng để đánh thức ông ta dậy thì câu đầu tiên của ông ta là:

- Này, có chuyện gì thế? Ông de Beaufort có trốn khỏi Vincennes không?

- Thưa Đức ông, tôi không tin như vậy, - Bernouin, vẻ bình tĩnh đạo mạo của hắn không tự mâu thuẫn bao giờ, - nhưng dù sao ngài cũng sẽ được tin về ông ta ngay bây giờ, vì viên cảnh sát La Ramée mà ngài cho gọi sáng nay ở Vincennes đã đến ngoài kia và đang đợi lệnh của Các hạ.

- Mở cửa và cho hắn vào đây, - Mazarin vừa nói vừa sắp xếp lại nệm gối để ngồi ngay tại phòng mà tiếp khách.

Viên sĩ quan vào. Đó là một người cao to, má sệ, mặt tươi tỉnh, hắn có một vẻ bình thản khiến Mazarin lo lắng. Lão lẩm bẩm:

- Cái thằng cha này trông đúng là một thằng ngu.

Viên cảnh sát đứng im lặng ở cửa.

- Mời ông vào! - Mazarin bảo.

Viên cảnh sát tuân lệnh.

- Ông có biết ở đây người ta đồn gì không? - Mazarin nói.

- Thưa Các hạ, không.

- Thế này này! Người ta đồn rằng ông de Beaufort đã trốn khỏi Vincennes, nếu không thì cũng sắp trốn khỏi. Mặt mày viên sĩ quan ngớ ra vì kinh ngạc. Hắn đồng thời mở cả hai mắt ti hí và cái miệng rộng hoác để hít lấy hít để câu nói đùa mà Các hạ đã vinh dự ban cho hắn; rồi không giữ lâu được vẻ nghiêm trang đối với một giả thiết như vậy hắn phá ra cười, cười sằng sặc đến rung cả các chân tay hộ pháp y như là đang lên một cơn sốt dữ dội.

Mazarin trong bụng khấp khởi mừng vì sự thổ lộ thiếu cung kính ấy, nhưng vẫn giữ vẻ trang nghiêm.

Khi La Ramée đã cười thoả thuê và chùi nước mắt rồi, hắn cho rằng đến lúc phải nói và xin lỗi về sự vui vẻ thất lễ đó, hắn nói:

- Trốn thoát ư, thưa Đức ông! Thế Các hạ không biết là ông de Beaufort đang ở đâu ư?

- Có chứ, tôi biết rằng ông ta đang ở trong cái tháp tòa lâu đài Vincennes.

- Đúng vậy, thưa Đức ông ở trong một căn phòng có tường dày đến bảy bộ với các cửa sổ có chấn song sắt đan chéo, mỗi thanh to bằng cánh tay ấy.

- Ông này, Mazarin nói, - cứ kiên nhẫn người ta đục xuyên mọi bức tường, và với một mảnh dây cốt đồng hồ người ta cưa được song sắt.

- Nhưng Đức ông không biết rằng bên ông ta có tám lính gác, bốn ở tiền sảnh, và bốn ở trong phòng, họ không lúc nào rời ông ta cả.

- Nhưng có lúc ông ta ra khỏi phòng, chơi bóng vụt, bóng ném chứ!

- Thưa Đức ông, đó là những trò giải trí cho phép tù nhân chơi. Tuy nhiên nếu Các hạ muốn, thì sẽ cấm ông ta.

- Không đâu, không đâu, - Mazarin nói, lão sợ rằng cấm cả các trò giải trí đó thì nếu như có bao giờ ra khỏi tù, tù nhân càng căm giận lão hơn nữa. Nhưng ta muốn hỏi xem ông ta chơi với ai.

- Thưa Đức ông, ông ta chơi với viên sĩ quan trực gác, hoặc với tôi hoặc với các tù nhân khác.

- Khi chơi, ông ta không đến gần tường lũy ư?

- Thưa Đức ông, Các hạ không biết lường luỹ thế nào ư? Tường lũy cao sáu mươi bộ, và tôi hoài nghi rằng ông de Beaufort khá là chán đời để mạo hiểm nhảy từ trên cao xuống cho gẫy cổ.

- Hừm! - Giáo chủ bắt đầu yên tâm nói - Ông La Ramée thân mến, vậy ông nói là...

- Trừ phi ông de Beaufort có phép biến thành con chim nhỏ, tôi xin bảo đảm về ông ta.

- Hừ coi chừng! Ông vội vã quá đấy, - Mazarin nói - Khi các vệ sĩ dẫn de Beaufort đến Vincennes, ông ta có nói to với họ rằng ông ta thường nghĩ đến trường hợp ông ta bị tù, và trong trường hợp ấy, ông ta đã kiếm được bốn mươi cách để vượt ngục.

- Thưa Đức ông, - La Ramée đáp, - nếu trong bốn mươi cách ấy có một cách tốt, thì ông ta đã ở ngoài từ lâu rồi.

- Thôi, thôi, không đến nỗi tồi như mình tưởng, - Mazarin lẩm bẩm.

La Ramée nói tiếp:

- Với lại Đức ông quên rằng ông De Chavigny là người cai quản lâu đài Vincennes, mà ông ta lại không phải là chỗ bạn bè của ông de Beaufort.

- Ừ nhưng khi ông De Chavigny vắng mặt?

- Khi ông ta vắng mặt thì có tôi.

- Nhưng khi chính ông cũng vắng mặt.

- Khi tôi cũng vắng mặt, thì tôi đã có người thay thế là một gã rất hầm hố trở thảnh một viên phó cảnh sát của Hoàng thượng, và tôi xin bảo đảm với ngài là anh ta canh gác rất nghiêm mật. Từ khi tôi nhận anh ta vào giúp việc tôi đã ba tuần nay, tôi chỉ quở trách anh ta có một điều là quá khắt khe với tù nhân.

- Thế con chó ngao đó là ai? - Giáo chủ hỏi.

- Một ông Grimaud nào đó, thưa Đức ông.

- Trước khi đến Vincennes giúp việc anh, hắn ta làm gì?

Theo lời người giới thiệu hắn ta với tôi thì hắn ở tỉnh lẻ, do tính bướng bỉnh hắn đã làm một việc bậy bạ gì đó, và tôi nghĩ rằng hắn sẽ chẳng bất bình khi được thoát tội dưới bộ quân phục của nhà vua.

- Thế ai đã giới thiệu hắn ta với ông?

- Viên quản lý của ông quận công de Grammont.

- Theo ý ông thì có thể tin cậy vào đó chứ?

- Như tin vào chính tôi, thưa Đức ông.

- Hắn ta có phải là người ba hoa không?

- Giêsu, lạy Chúa tôi! Thưa Đức ông, một thời gian dài tôi cứ tưởng hắn câm cơ đấy? Hắn chỉ nói và đáp bằng các dấu hiệu, hình như người chủ cũ của hắn đã dạy hắn như vậy.

- Vậy thì, ông Ramée thân mến ơi, - giáo chủ nói, - Ông hãy bảo hắn ta rằng nếu hắn canh phòng cẩn thận và nghiêm ngặt, người ta sẽ nhắm mắt làm ngơ cho những việc hắn lẩn trốn ở tỉnh, người ta sẽ khoác lên người hắn một bộ quân phục khiến hắn sẽ được kính nể, và trong bộ quân phục ấy sẽ có dăm đồng pistoles để uống rượu chúc mừng sức khỏe nhà vua đấy.

Mazarin rất rộng rãi về những lời hứa hẹn, thật trái hẳn với bác Grimaud thật thà mà Ramée tán dương, bác ta nói it mà làm nhiều.

Tể tướng còn đặt ra với La Ramée một lô câu hỏi nữa về người tù, về cách cho từ nhân ăn uống, ở và ngủ.

Những câu trả lời của viên sĩ quan đáng hài lòng đến mức tể tướng hầu như yên tâm và cho hắn lui.

Lúc ấy cũng đã chín giờ sáng rồi, cho nên ông ta dậy hẳn, xức hương thơm, vận quần áo và đi sang chỗ hoàng hậu để nói rõ những duyên cớ gì đã giữ ông ở lại phòng mình tối hôm qua. Hoàng hậu sợ ông de Beaufort chẳng kém gì tể tướng sợ ông ta, và hầu như cũng mê tín như tể tướng, bà bắt ông nhắc lại từng câu từng chữ tất cả những lời hứa hẹn cam đoan của Ramée và tất cả những lời viên cảnh sát tán dương người giúp việc của mình. Rồi khi tể tướng đã nói xong, bà thầm thì với ông:

- Than ôi! Tiếc rằng chúng ta chẳng có một Grimaud ở bên cạnh mỗi hoàng thân!

- Hãy kiên nhẫn, - Mazarin nói với nụ cười theo đúng kiểu người Ý của mình, - việc ấy sẽ đến trong một ngày nào đó, nhưng trong khi chờ đợi...

- Thì sao? Trong khi chờ đợi.

- Tôi vẫn có những biện pháp đề phòng.

Sau đó ông đã viết thư gọi d Artagnan trở về gấp

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 19

Ở tháp lâu đài Vincennes ông quận công de Beaufort giải trí như thế nào?

Người tù khiến ngài tể tướng khiếp đảm đến thế và những cách vượt ngục của ông khiến cả triều đình mất ăn mất - ngủ chẳng hồ nghi gì mấy về tất cả nỗi hãi hùng ấy do chính ông gây nên trong Hoàng cung.

Thấy mình được canh gác một cách tuyệt vời như vậy, ông hiểu rằng những mưu toan của ông là vô ích. Tất cả sự trả thù của ông chỉ là văng ra vô vàn những lời chửi rủa nhiếc móc lão Mazarin. Ông đã thử làm mấy ca khúc, nhưng rồi lại thôi ngay. Thực ra, ông de Beaufort không những không được trời phú cho cái tài làm thơ mà ngay biểu hiện bằng văn xuôi thôi ông cũng chật vật nhất trần đời. Cho nên Blot, người đặt các bài hát đương thời, đã nói về ông ta:

"Nơi trận mạc, người người kiêng sợ

Ông tung hoành, hò hét sấm vang

Nhưng buồn thay khi cần biện luận

Ông đúng ngây như chiếc cán tàn.

Gaxtông kia chẳng hề lúng túng

Mỗi khi ra diễn thuyết đăng đàn

Hỡi Beaufort sao không có lưỡi

Còn Gascogne chẳng thấy tay dang?"

Như vậy, ai cũng hiểu rằng người tù chỉ còn xoáy vào với những lời chửi rủa nhiếc móc.

Quận công de Beaufort là cháu ruột của vua Henri IV và bà Gabrielle d Estrées, cũng tốt bụng, cũng dũng cảm, cũng kiêu hãnh và nhất là cũng mang tính Gascon như ông nội, nhưng lại ít chữ nghĩa hơn rất nhiều. Sau khi vua Louis XIII chết, có một thời gian ông được coi là sủng thần, là người tin cẩn, đệ nhất triều thần cơ đấy, nhưng rồi đến một hôm ông phải nhường chỗ cho Mazarin và xuống hàng thứ hai; hôm sau nữa, do ông nóng đầu lên phẫn nộ về sự thay bậc đổi ngôi ấy và dại dột nói ra mồm, hoàng hậu đã cho bắt và đưa ông đến lâu đài Vincennes, vẫn do bàn tay Gitaut mà chúng ta đã thấy xuất hiện ở phần đầu câu chuyện và sẽ còn có dịp gặp lại. Dĩ nhiên, nói hoàng hậu là nói Mazarin. Không những người ta gạt bỏ được con người ông và những kỳ vọng của ông, mà người ta không bàn bạc đến ông nữa, và từ năm năm nay ông ở một gian phòng hiểm yếu chẳng vương giả cho lắm trong cái tháp lâu đài Vincennes.

Khoảng thời gian ấy ắt đã làm chín mùi những ý nghĩ của bắt kỳ ai khác, nhưng đã trôi qua trong đầu óc của ông de Beaufort mà không tạo nên một sự đổi thay nào cả. Thật vậy, một người khác có lẽ suy nghĩ rằng nếu ông ta đã không chấp nhận chống lại tể tướng, khinh thường các hoàng thân, và đi một mình, như giáo chủ De Retz nói, không có tùy tùng nào khác ngoài mấy kẻ đa sầu luôn có vẻ người mộng tưởng, thì từ năm năm nay, ông ta có lẽ đã được tự do hoặc có những người bảo vệ. Nhưng suy xét ấy chắc hẳn cũng không hiện ra trong tâm trí ông quận công mà việc giam giữ lâu dài trái lại chỉ càng củng cố thêm trong ông tinh thần loạn nghịch và hàng ngày ông tể tướng nhận những tin tức về ông không còn gì khó chịu hơn.

Sau khi thất bại về thi ca, ông de Beaufort thử về hoạ. Ông dùng than vẽ những nét đặc điểm của giáo chủ; nhưng vì tài năng khá tồi về môn nghệ thuật này không cho phép đạt tới sự giống hệt để người ta khỏi phải hoài nghi về nguyên bản của bức chân dung, ông đề xuống dưới: "Ritratto dell illustrissimo facchino Mazarini". Ông De Chavigny được báo trước đã đến thăm quận công và yêu cầu ông tìm trò giải trí khác, hoặc ít ra thì vẽ những chân dung không đề chú thích. Ngày hôm sau trong phòng đầy những chú thích và chân dung.

Kể ra ông de Beaufort cũng như mọi tù nhân rất giống trẻ con ở chỗ cái gì người ta càng ngăn cấm thì càng như xúi giục.

Ông De Chavigny được báo về sự gia tăng các bức vẽ trông nghiêng. Ông de Beaufort không tự tin lắm để vẽ cái đầu nhìn thẳng trước mặt, đã biến căn phòng mình thành một gian triển lãm thật sự.

Lần này viên giám ngục chẳng nói chẳng rằng; nhưng một hôm thừa lúc ông de Beaufort đi chơi ném cầu, hắn cho xoá sạch các bức vẽ và sơn lại căn phòng bằng thuốc màu trơn.

Ông de Beaufort cảm ơn De Chavigny đã có lòng tốt sơn lại các bức vách cho ông; và lần này ông chia gian phòng thành nhiều ngăn và mỗi ngăn dành cho một nét trong cuộc đời của Mazarin.

Ngăn thứ nhất để vẽ nhà đê tiện đại danh Mazarin đang nhận một trận roi đòn của giáo chủ Bentivoglio mà Mazarin là đày tớ.

Ngăn thứ hai, nhà đê tiện đại danh Mazarin đang sắm vai d Ignace de Loyola trong vở bi kịch cùng tên.

Ngăn thứ ba, nhà đê tiện đại danh Mazarin đang ăn cắp chức tể tướng của ông De Chavigny mà ông này tưởng đã nắm chắc trong tay.

Cuối cùng ở ngăn thứ tư, nhà đê tiện đại danh Mazarin từ chối cấp khăn trải giường cho Laporte hầu phòng của vua Louis XIV và nói rằng đối với một ông vua nước Pháp ba tháng thay khăn trải giường một lần là đủ lắm rồi.

Đó là những dàn dựng lớn chắc chắn vượt quả tài năng của người tù cho nên ông ta đành chỉ vẽ các khung và viết các dòng chữ.

Nhưng các khung và các dòng chữ đủ khiến ông De Chavigny nổi cáu, ông báo trước cho ông de Beaufort là nếu không từ bỏ những bức tranh dự định, thì ông sẽ tước hết mọi phương tiện thực hiện. Ông de Beaufort đáp lại rằng vì người ta tước của ông cái cơ hội nổi danh trong binh nghiệp, ông phải tìm kiểm nó trong hội hoạ và đã không thể là một Bayard hoặc một Trivulce(1), ông muốn trở thanh một Michel - Ange hoặc một Rahaoul(2).

Một hôm ông de Beaufort ra sân dạo chơi thì ở phòng người ta lấy hết lửa của ông, cùng đi với lửa là than cùng với than là tro, thành thử khi trở về ông không tìm được một mẩu vụn nào để làm bút vẽ cả.

Ông de Beaufort chửi rủa, la hét om sòm và nói rằng người ta muốn làm ông chết vì rét, vì nước và ẩm thấp, như Puylaurens, thống chế Ornano và ông trụ trì tăng viện Vendôme đã chết. De Chavigny bảo rằng ông chỉ cần hứa từ bỏ vẽ hoặc hứa là không vẽ những bức tranh lịch sử là người ta sẽ cấp củi và các thứ để nhóm lửa cho ông. Ông de Beaufort không muốn hứa và đành phải chịu không có lửa sưởi suốt cả mùa đông.

Đã thế, trong một buổi người tù đi ra ngoài, người ta cạo hết các dòng chữ, và căn phòng trắng trần trụi không còn một vết tích gì của bức hoạ vẽ trên tường.

Ông de Beaufort bèn mua lại của một tên gác ngục một con chó tên là Pistache, chẳng có gì để phản đối những tù nhân có chó, ông De Chavigny cho phép con vật bốn chân thay đổi chủ. Có khi hàng mấy giờ đồng hồ liền, ông de Beaufort ở lì trong phòng với con chó.

Người ta ngờ rằng trong những lúc ấy người tù bận vào việc huấn luyện con chó, nhưng không rõ ông ta dạy nó làm gì. Một hôm xem chừng con chó đã được huấn luyện đầy đủ, ông de Beaufort mời De Chavigny và các sĩ quan ở Vincennes đến dự một buổi đại công diễn ở phòng mình. Các tân khách đến, gian phòng được chiếu sáng với tất cả số nến mà ông kiếm được. Các tiết mục bắt đầu.

Người tù bóc một mảnh thạch cao ở tường và vạch ở giữa phòng một đường thẳng dài màu trắng coi như một sợi căng. Nghe mệnh lệnh đầu tiên của chủ, Pistache đi đến vạch phấn, đứng thẳng trên hai chân sau và hai chân trước cầm một cái que phủi quần áo, nó bắt đầu đi theo vạch phấn với tất cả những điệu uốn éo mà một người đi trên dây vẫn làm, rồi sau hai ba lần đi thắng đi lui dọc theo vạch phấn, nó trả cái que cho ông de Beaufort và lại bắt đầu biểu diễn đi trên dây mà không có gậy thăng bằng.

Con vật thông minh được hoan hô nhiệt liệt.

Cuộc biểu diễn được chia làm ba phần: phần thứ nhất xong, chuyển sang phần thứ hai.

Trước hết là nói xem mấy giờ.

Ông Chavigny, hãy giơ đồng hồ ra cho Pistache coi. Bây giờ là sáu giờ rưỡi.

Pistache giơ một chân lên và hạ xuống sáu lần và đến lần thứ bảy thì nó giơ chân lên mà không hạ xuống. Không có thể rõ ràng hơn nữa, một cái đồng hồ bóng mặt trời cũng không thể trả lời tốt hơn; ai nấy đều biết rằng đồng hồ bóng mặt trời có nhược điểm là chỉ bảo giờ được khi mặt trời chiếu sáng.

Tiếp đến là nhận xét trước tất cả mọi người xem ai là kẻ gác ngục cừ nhất trong tất cả các nhà tù ở nước Pháp.

Con chó đi vòng quanh cử toạ ba lượt rồi đến nằm phủ phục một cách cung kính nhất trần đời dưới chân ông De Chavigny.

De Chavigny làm ra vẻ thấy cái trò này hay hay và cười gượng; nhưng cười xong thì ông cắn môi và bắt đầu cau mày.

Cuối cùng ông de Beaufort đặt ra cho Pistache một câu hỏi thật khó mà giải đáp, tức là: Tên kẻ cắp khét tiếng nhất thiên hạ là ai?

Lần này Pistache đi quanh phòng nhưng không dừng lại trước người nào cả và tiến ra phía cửa nó cào cào vào cánh cửa và rên ăng ẳng.

- Các ngài hãy xem, - hoàng thân nói, - con vật thông minh này không tìm thấy ở đây cái mà tôi hỏi, nó muốn đi tìm kiếm ở bên ngoài. Nhưng xin các ngài yên tâm, không vì thế mà không có câu trả, lời cho các ngài đâu. Pistache, - hoàng thân tiếp tục, - anh bạn thân mến của tôi, lại đây? - Con chó vâng lời, hoàng thân lại tiếp - Tên kẻ cắp khét tiếng nhất thiên hạ, có phải là viên bí thư của nhà vua Le Camus không, cái người khi đến Paris chỉ có hai mươi livres mà bây giờ có mười triệu đấy?

Con chó lắc đầu ra hiệu không phải.

Hoàng thân lại nói tiếp.

- Có phải ông Tổng giám thu d Emery không, cái người đã cưới vợ cho con trai là Thoré và cho hắn ta ba trăm nghìn livres niên thu và một dinh cơ mà so với nó thì lâu đài Tuileries chỉ là căn nhà nát và cung Louvre là một túp lều tơi tã ấy?

Con chó vẫn lắc đầu.

- Cũng vẫn không phải hắn à? - Hoàng thân nói, - Nào hãy tìm cho kỹ: phải chăng nhỡ may ra là nhà đê tiện đại danh Madarini di Pitxini?

Con chó gật đầu lia lịa đến chín mười lần ra hiệu là phải.

Cử toạ này cũng không dám cười gượng.

Ông de Beaufort nói:

- Thưa các ngài, các ngài thấy đấy, nhà đê tiện đại danh Madarini di Pitxini là kẻ đại bợm khét tiếng nhất thiên hạ; chính con Pistache nói, ít ra là như vậy.

Sang một trò khác. Lợi dụng lúc đang im phăng phắc, quận công de Beaufort giới thiệu chương trình phần thứ ba của buổi biểu diễn:

- Thưa các ngài, tất cả các ngài đều nhớ rõ là ông quận công De Guise đã dạy cho tất cả các con chó ở Paris biết nhảy mừng cô de Pông mà ông đã công bố là mỹ nhân của các mỹ nhân? Ô! Thưa các ngài, thế thì có nghĩa lý gì, vì những con vật ấy tuân theo một cách máy móc, không còn biết phân liệt (ông de Beaufort muốn nói phân biệt) giữa những người mà chúng phải nhảy mừng với những người mà chúng không được làm như vậy. Pistache sẽ chứng minh cho các ngài cũng như cho các ngài giám ngục rằng nó vượt hơn các đồng chủng của nó. Xin ông De Chavigny làm ơn cho mượn cây gậy của ông.

De Chavigny đưa cây gậy cho ông de Beaufort.

De Beaufort để cây gậy nằm ngang cách mặt đất một bộ, rồi báo:

- Pistache, anh bạn của tôi, để tôi được vui lòng, hãy nhảy mừng bà de Montbazon đi.

Mọi người cười ồ: ai cũng biết khi de Beaufort bị bắt, ông ta đang là tình nhân công khai của bà de Montbazon.

Pistache mừng rỡ nhảy qua gậy chẳng khó khăn gì.

- Nhưng này - Ông De Chavigny nói - hình như Pistache cũng làm đúng như những con đồng chủng của nó khi nhảy mừng cô de Pons.

- Chờ tí, - hoàng thân nói, - Pistache, anh bạn của tôi, nhảy mừng hoàng hậu đi.

Và ông nhấc gậy cao thêm sáu tấc.

Con chó cung kính nhảy qua cây gậy.

Ông quận công lại nâng cao cây gậy thêm sáu tấc nữa và bảo:

- Pistache, anh bạn của tôi, hãy nhảy mừng đức vua đi.

Mặc dầu cây gậy khá cao, con chó lấy đà và nhảy qua một cách nhẹ nhàng.

Lần này ông quận công hạ cây gậy xuống gần sát đất và bảo:

- Bây giờ chú ý, Pistache, anh bạn của tôi, nhảy mừng nhà đê tiện đại danh Mazarini di Piscina. xem nào.

Con chó quay đít lại phía cây gậy.

- Ô hay? Thế là thế nào? - Ông de Beaufort vừa nói vừa vẽ một vòng cung từ đuôi đến đầu con vật, và lại giơ cây gậy ra, bảo - nhảy đi nào, ông Pistache.

Nhưng cũng như lần trước, Pistache quay nửa vòng và chổng đít lại phía cây gậy.

Ông de Beaufort làm động tác và nhắc lại câu nói ấy, nhưng lần này Pistache không chịu nổi nữa; nó giận dữ nhảy xổ vào cây gậy, giằng ra khỏi tay hoàng thân và lấy răng cắn gẫy.

Ông de Beaufort cầm lấy hai đoạn gẫy từ mõm con chó, và với vẻ thật trang nghiêm ông vừa trả lại De Chavigny vừa hết lời xin lỗi và tuyên bố rằng ba tháng nữa sẽ công diễn một buổi khác, Pistache chắc hẳn sẽ học được nhiều trò mới.

Ba ngày sau, con Pistache bị đầu độc chết.

Người ta tìm kiếm thủ phạm, nhưng chả ai biết rằng thủ phạm sẽ chẳng tìm ra. Ông de Beaufort cho đắp một cái mộ với tấm bia đề: "Nơi yên nghỉ Pistache, một trong những con chó thông minh nhất chưa từng có bao giờ!"

Chằng nói gì được về lời bàn tán ấy và ông De Chavigny không thể ngăn cản.

Nhưng ông quận công bèn nói bô bô rằng người ta đã thử một liều thuốc độc cho con chó của ông trước khi dùng cho ông. Rồi một hôm sau bữa ăn trưa, ông lăn ra giường kêu đau bụng và bảo chính là Mazarin đã cho đầu độc ông.

Trò tinh nghịch mới mẻ này đến tai ông tể tướng làm ông sợ hết hồn. Cái tháp lâu đài Vincennes có tiếng là độc địa. Trong căn phòng mà ông Puylaurens, thống chế Ornano và vị phó trụ trì tăng viện Vendôme bị chết, bà De Rambouillet đã từng nói căn phòng này đáng giá một liều thạch tín mạnh và câu nói ấy đã rất thiêng. Thế là ông giáo chủ ra lệnh rằng người tù không được ăn gì hết nếu người ta không thử trước rượu và thịt.

Thế là viên cảnh sát La Ramée được cắt đặt làm người nếm thức ăn bên cạnh người tù.

Trong khi đó De Chavigny vẫn không tha thứ cho ông quận công về những trò xấc xược mà vì đó con chó Pistache vô tội của ông đã được đền tội, Chavigny là một thủ hạ của ông giáo chủ đã qua đời, thậm chí người ta còn đồn đại là con đẻ của ông ta nữa, như vậy ắt hắn hắn phải bộc lộ ra phần nào tính bạo hành: hắn bắt đầu gây sự lại với ông de Beaufort, hắn lấy đi tất cả những dao sắt và đĩa bạc mà người ta để cho ông ta dùng và thay bằng các dao bạc và đĩa gỗ. Ông de Beaufort khiếu nại, Chavigny sai người trả lời ông rằng hắn vừa mới nghe tin ông tể tướng nói với bà De Vendôme rằng con trai bà sẽ ở trong tháp của lâu đài Vincennes suốt đời, ông sợ rằng nghe cái tin thảm khốc đó người tù của ông có thể đi đến mưu toan tự tử. Mười lăm hôm sau, ông de Beaufort trông thấy hai hàng cây nho bằng ngón tay út trồng ở hai bên con đường dẫn đến sân chơi cầu ông hỏi trồng để làm gì thì được trả lời là để sau này cho ông hưởng bóng mát.

Cuối cùng một buổi sáng người làm vườn đến tìm ông, và chẳng có vẻ đùa tí nào, báo cho ông biết là người ta định trồng cho ông măng tây. Ai cũng biết những cây măng tây bây giờ trồng phải mất bốn năm nhưng thời ấy, kỹ thuật làm vườn còn kém, trồng phải mất năm năm. Phép lịch sự ấy khiến ông de Beaufort tức điên lên.

De Beaufort nghĩ đã đến một trong bốn mươi kế sách của ông, và thoạt đầu ông thử cái đơn giản nhất là hối lộ La Ramée; nhưng La Ramée đã phải mua cái chức phó quan cảnh sát mất một nghìn năm trăm êquy hắn bám chặc lấy chức vụ ấy. Cho nên đáng lẽ nghe theo người tù, hắn tức tốc bảo ngay cho De Chavigny, lập tức De Chavigny cắt tám người ngay trong phòng ông hoàng thân tăng gấp đôi số lính canh và tăng gấp ba số vọng gác. Tù hôm ấy ông hoàng chỉ còn được đi lại như những ông vua trên sân khấu với bốn lính đằng trước, bốn lính đằng sau, không kể những tên đi áp giải.

Ông de Beaufort lúc đầu giễu cợt cái việc nghiêm cẩn ấy nó trở thành một trò giải trí của ông. Luôn mồm ông nhắc đi nhắc lại: "cái này mua vui cho tôi, cái này giải vây cho tôi"! (ý ông muốn nói: cái này giải khuây cho tôi, nhưng ai cũng biết rằng ông thường không nói ra được những điều ông muốn nói). Rồi ông tiếp: "Với lại, khi nào tôi muốn thoát khỏi những điều vinh dự mà các ông dành cho tôi, tôi vẫn còn ba mươi chín kế khác nữa".

Nhưng cái trò giải trí ấy cuối cùng trở thành một mối bực bội.

Do huênh hoang ông de Beaufort chịu đựng tốt được sáu tháng: nhưng qua sáu tháng ròng quay đi quay lại lúc nào cũng thấy tám người, khi mình ngồi xuống, họ cũng ngồi xuống, mình đứng lên họ cũng đứng lên theo, mình dừng lại họ cùng dừng lại, thì ông bắt đầu cau mày và đếm ngày tháng.

Hình phạt mới này dẫn đến sự thâm thù gay gắt đối với lão Mazarin. Ông hoàng thân không ngớt mồm chửi rủa từ sáng đến tối và chỉ nói đến món tai Mazarin ninh nhừ, nghe mà rùng mình.

Quan tể tướng biết tường tận mọi chuyện diễn ra ở Vincennes, nhưng đành tảng lờ, lấy mũ nỉ che tai.

Một hôm, ông de Beaufort tập hợp bọn lính canh lại, và mặc dầu cái tật diễn đạt khó khăn của mình đã trở thành truyền thuyết, ông đọc một bài diễn văn đã được chuẩn bị trước, thực vậy, ông nói:

- Hỡi các ông, lẽ nào các ông cam lòng nhìn một người cháu nội của đức minh quân Henri IV bị người ta trút lên đầu những lăng mạ và kỷ nhục (ý ông đình nói sỉ nhục)? Mẹ kiếp chứ! Như ông nội tôi thường nói, hầu như tôi đã trị vì ở Paris, các ông biết chứ. Trong suốt một ngày tôi trông coi vua và Hoàng đệ. Hoàng hậu lúc ấy mơn trớn tôi và gọi tôi là con người trung thực nhất vương quốc: tôi sẽ đi đến cung Louvre, tôi sẽ vặn cổ lão Mazarin, các vị sẽ là người hộ vệ của tôi, tôi sẽ phong tất cả các vị là sĩ quan và cấp bổng lộc khá. Mẹ kiếp chứ! Đi đằng trước, bước.

Nhưng dù có thống thiết đến mấy, bài diễn thuyết của cháu nội vua Henri IV chẳng hề làm xúc động những quả tim bằng đá; không một tên nào nhúc nhích. Thấy thế, ông de Beaufort bảo chúng là đồ đê tiện và coi chúng là những kẻ thù tàn ác.

Hằng tuần De Chavigny đến thăm quận công vài ba lần; đôi khi ông quận công lợi dụng lúc ấy để dọa dẫm.

- Này ông, - quận công nói, - nếu như một ngày kia, ông trông thấy một đội quân người Paris mình đầy giáp sắt và tua tủa súng ống đến để giải thoát cho tôi thì ông sẽ làm gì?

- Thưa Đức ông, - Chavigny vừa đáp vừa củi rạp mình chào ông hoàng, - tôi có hai chục khẩu đại bác đặt trên các thành lũy và ba mươi ngàn quả đạn đặt trong các hầm hào; tôi sẽ bắn phá họ ra trò.

- Phải, nhưng mà khi ông bẳn được ba chục ngàn phát, thì họ đã chiếm được cái tháp lâu đài, và tháp bị chiếm, tôi buộc lòng phải để mặc họ treo cổ ông, và hẳn là tôi rất lấy làm phiền lòng.

Và đến lượt mình, hoàng thân chào De Chavigny một cách lịch sự nhất.

- Nhưng thưa Đức ông, - Chavigny lại nói, - về phía tôi tôi thấy tên phản loạn đầu tiên nào bước qua ngưỡng cửa đường hào hoặc đặt chân lên tường thành, tôi rất tiếc là buộc lòng phải tự tay giết ngài, vì tôi được giao trách nhiệm đặc biệt trông coi ngài và phải nộp ngài hoặc sống hoặc chết.

Và hắn lại cung kính:

- Chào Điện hạ.

- Phải - quận công nói tiếp, - nhưng vì chắc chắn rằng những con người trung hậu ấy chỉ đến đây sau khi đã treo cổ Giulio Mazarin thì hẳn là ông sẽ chẳng đụng đến tôi và để cho tôi sống vì sợ rằng dân thành Paris sẽ cho bốn con ngựa xé xác ông ra, như thế còn khó chịu gấp trăm lần ông bị treo cổ ấy chứ, có phải không?

Những câu chuyện bông đùa xỏ ngọt ấy thường kéo dài mươi mười lăm phút, hai mươi phút là cùng, nhưng bao giờ cũng kết thúc thế này.

De Chavigny quay ra phía cửa và gọi:

- Ơ này! La Ramée đâu?

La Ramée vào và Chavigny bảo:

- La Ramée, tôi đặc biệt dặn ông về ông de Beaufort: hãy đối xử đối với ông ấy bằng mọi cung cách xứng đáng với tên tuổi và địa vị của ông ấy, nhưng không vì thế mà được rời mắt khỏi ông ta một chút nào.

Rồi hắn nói vừa rút lui vừa chào ông de Beaufort bằng một vẻ lễ phép giễu cợt khiến ông bầm gan tím ruột.

Vậy là La Ramée trở thành người cùng mâm bắt buộc, người hộ vệ vĩnh cửu của hoàng thân cái bóng của thân thể ông. Nhưng phải nói rằng La Ramée là một người sống vui nhộn, một thực khách thật thà, một cây rượu nổi tiếng, một tay cầu thủ giỏi, thâm tâm cũng tốt thôi, và đối với ông de Beaufort chỉ có mỗi một khuyết điểm là không thể mua chuộc được, thì bầu bạn với hắn trở thành một nỗi tiêu khiển hơn là một sự mệt mỏi đối với hoàng thân.

Khốn nỗi đối với thày đội La Ramée lại không như vậy. Mặc dù được nhốt cùng với tù nhân tối quan trọng đến thế, thày cũng coi là một niềm vinh dự nào đó, nhưng nỗi vui thú được sống trong cảnh thân thuộc với cháu nội Henri IV đại đế chẳng bù lại nổi thú vui giá như thỉnh thoảng thày được về thăm gia đình mình.

Người ta có thể vừa là phó cảnh sát xuất sắc của nhà vua, vừa là cha hiền chồng thảo. Song thày La Ramée yêu quí vợ và con cái mà thày chỉ được nhác trông từ trên tường lũy cao ngất, mỗi khi vợ con thày đến và đi dạo ở bên kia các bờ hào để tạo cho thày niềm an ủi phu thê và phụ tử tình thân. Rõ ràng là quá ít ỏi đối với thày và La Ramée cảm thấy rằng cái nết vui tính của mình mà trước kia thày coi như nguyên nhân của sức khỏe tốt mà không tính đến trái lại nó có thể chỉ là kết quả nó sẽ không bền vững dưới một chế độ như thế này đâu. Niềm tin ấy chỉ càng lớn lên trong tâm trí La Ramée khi mà dần dần, môi quan hệ giữa ông de Beaufort và De Chavigny ngày càng trở nên gay gắt và họ chấm dứt hẳn việc gặp gỡ nhau. La Ramée liền cảm thấy trách nhiệm đè nặng lên đầu lên cổ mình và đích thực vì những nguyên do mà chúng tôi vừa mới giải thích, La Ramée tìm cách làm nhẹ gánh và hắn sốt sắng chấp nhận điều đề nghị của bạn thân làm quản lý cho thống chế de là kiếm cho hắn ta một thủ hạ.

Hắn lập tức trình với De Chavigny, viên giám mục trả lời là chẳng hề phản dối, miễn là cái tên thủ hạ ấy vừa ý ông ta.

Chúng tôi coi là hoàn toàn vô ích việc mô tả bức chân dung thể xác và tinh thần của Grimaud cho các bạn độc giả. Chúng tôi hy vọng nếu như các bạn không quên tập đầu của bộ truyện này, ở anh ta chẳng có sự thay đồi nào ngoài việc tăng thêm hai mươi tuổi, việc ấy chỉ khiến anh ta càng thêm lầm lì và im lặng mà thôi, dù rằng Arthos từ khi bản thân mình có sự thay đổi đã cho phép Grimaud hoàn toàn tự do nói năng.

Nhưng hồi ấy đã có đến mười hai hay mười lăm năm Grimaud câm lặng, và một thói quen lâu đến mười hai hay mười lăm năm thì trở thành một bản năng thứ hai.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 20

Grimaud vào cuộc

Với vẻ ngoài thuận lợi của mình, Grimaud đến trình diện ở cây tháp lâu đài Vincennes. De Chavigny tự phụ có con mắt không bao giờ lầm lẫn; điều ấy có thể khiến người ta tin rằng ông ta đích thực là con đẻ của giáo chủ de Richelieu mà lòng tự phụ cũng là muôn thuở. Ông ta chăm chú ngắm kẻ đến xin việc và suy đoán rằng lông mày sít vào nhau, môi mông dính, mũi khoằm và lưỡng quyền cao gồ của Grimaud là những đặc trưng hoàn hảo. Ông ta chỉ hỏi mười hai câu. Grimaud đáp lại có bốn. Ông liền bảo:

- Đây là một tay xuất sắc, tôi đã nhận xét trước như thế mà. Anh hãy đến nói với ông La Ramée chấp nhận và bảo ông ấy rằng anh vừa ý tôi về mọi điểm.

Grimaud quay gót và sang dự cuộc kiểm tra khe khắt hơn của La Ramée. Điều khiến La Ramée khó khăn hơn, chính là vì De Chavigny biết là có thể dựa vào hắn ta và hắn ta thì muốn có thể dựa vào Grimaud.

Grimaud có đúng những phẩm chất có thể làm xiêu lòng một viên sĩ quan cảnh sát đang mong muốn có một người phụ cảnh sát; cho nên sau một nghìn câu hỏi mà mỗi câu chỉ được đáp lại bằng có một phần tư câu. La Ramée mê mẩn về cái tính hà tiện lời ấy, bèn xoa xoa hai bàn tay và tuyển dụng Grimaud luôn.

- Mệnh lệnh? - Grimaud hỏi.

- Đây. Không bao giờ để tù nhân một mình, tước của hắn mọi đồ dùng nhọn sắc, không cho hắn làm hiệu với những người ở ngoài hoặc chuyện trò quá lâu với bọn lính canh.

- Hết à? - Grimaud hỏi.

- Hết với lúc này thôi. - La Ramée đáp. - Nếu có những hoàn cảnh mới thì sẽ có những mệnh lệnh mới.

- Được - Grimaud đáp.

Và hắn đi vào phòng quận công de Beaufort.

Ông quận công đang chải râu, ông để cả râu tóc mọc dài cốt để chơi khăm Mazarin bằng cách phơi bày sự khổ cực và phô ra vẻ mặt ốm o của mình.

Nhưng vừa mới mấy hôm trước đây, đứng trên tháp cao ông ngỡ như nhận ra ở trong một cỗ xe bóng bà De Montbazon kiều diễm mà kỷ niệm bao giờ cũng thân thương với ông, thì ông lại không muốn mình xuất hiện với bà cũng giống như Mazarin; cho nên trong niềm hy vọng gặp lại bà, ông đã hỏi mượn một cái lược bằng chì và được đồng ý.

Ông de Beaufort hỏi mượn lược bằng chì, vì giống như mọi người có tóc hoe vàng, ông có bộ râu hung đó; chải lược bằng chì râu sẽ đen lại.

Grimaud bước vào vừa nhìn thấy cái lược ông hoàng vừa đặt trên bàn, hắn cầm lấy chiếc lược và vái chào.

Quận công kinh ngạc nhìn nhân vật kỳ dị ấy.

Nhân vật đó bỏ lược vào túi.

- Ơ này? Thế là thế nào? - Quận công kêu lên - Cái thằng bố láo này là ai vậy?

Grimaud, chẳng nói chẳng rằng, nhưng lại cúi chào lần thứ hai.

- Mày câm à? - Quận công hỏi.

Grimaud ra hiệu là không.

- Thế mày là gì nào. Trả lời đi, tao ra lệnh cho mày đấy.

- Lính canh, - Grimaud đáp.

- Lính canh? - Quận công nói. - Được, bộ sưu tập của ta chỉ thiếu có bộ mặt đáng treo cổ này. Ơ! La Ramée, có một kẻ nào đây này!

La Ramée nghe gọi chạy đến. Không may cho hoàng thân - La Ramée tin cậy ở Grimaud, sắp đi Paris, ông ta đã ra đến sân, lại quay trở lên bực dọc và hỏi:

- Gì thế, hoàng thân?

- Tên kẻ cắp này là thế nào, nó lấy cái lược của tôi và bỏ vào trong túi - Ông de Beaufort hỏi.

- Đó là một tên lính gác của Đức ông. Một anh chàng đầy uy tín mà tôi chắc rằng ngài cũng sẽ coi trọng như ông De Chavigny và tôi.

- Tại sao nó lại lấy cái lược của tôi?

- Quả vậy, - La Ramée nói, - tại sao anh lại lấy cái lược của Đức ông?

Grimaud rút lược ở túi ra, đưa mấy ngón tay lên và vừa nhìn vừa trỏ cái răng lược to, hắn chỉ thốt ra có mỗi một tiếng:

- Nhọn.

- Đúng thế, - La Ramée nói.

- Cái tên súc sinh ấy bảo gì? - Quận công hỏi.

- Nó bảo rằng mọi đồ dùng nhọn đều cấm Đức ông dùng.

- Thế đấy? La Ramée này. Ông điên đấy à? Chính ông đưa cho tôi cái lược ấy cơ mà.

- Thưa Đức ông, tôi đã sai lầm, đưa cái lược cho ngài, tôi đã vi phạm chính mệnh lệnh của tôi.

Hoàng thân giận dữ nhìn Grimaud, hắn đã đưa chiếc lược cho La Ramée.

- Ta thấy trước rằng cái thằng vô lại này sẽ làm bực mình ghê gớm, - hoàng thân lẩm bẩm nói.

Thực vậy, trong ngục tù không có tình cảm trung gian. Vì vậy tất cả mọi thứ, người và vật, đều hoặc là bạn anh, hoặc là kẻ thù của anh, người ta yêu và ghét đôi khi do lý trí, nhưng thường thường do bản năng.

Do cái duyên do hết sức đơn giản là vừa thoạt nhìn, Grimaud đã vừa lòng De Chavigny và La Ramée, những đức tính của hắn trước mắt viên giám ngục và viên quan cảnh sát là ưu điểm thì trước mắt người tù là khuyết điểm, cho nên trước tiên hắn ắt không vừa lòng ông de Beaufort.

Tuy nhiên Grimaud không muốn thẳng thừng công kích người tù; hắn cần không phải một sự hiềm ghét tạm thời mà một sự hằn thù thật dai dẳng.

Cho nên hắn rút lui để nhường chỗ cho bốn tên vệ sĩ vừa mới ăn sáng xong tiếp tục công việc ở bên hoàng thân.

Về phía hoàng thân còn phải làm một trò bông đùa mới mà ông ta rất trông cậy vào nó: ông đã bảo mang đến những con tôm cho bữa ăn sáng hôm sau và mong dùng thì giờ ban ngày làm một cái giá treo cổ nhỏ xíu để treo cái con đẹp nhất ngay giữa phòng. Cái màu đỏ của tôm chín sẽ khiến người ta không còn phải nghi ngờ gì sự ám chỉ, và như vậy ông sẽ thích chí được treo cổ hồng y giáo chủ bằng tượng trưng trong khi chờ đợi lão ta bị treo cổ thật sự, mà chẳng ai có thể trách ông đã không treo vật khác ngoài con tôm.

Ngày hôm ấy dùng để chuẩn bị cho việc hành hình. Trong từ người ta trở thành trẻ con và ông de Beaufort có tính cách dễ thành trẻ con hơn bất kỳ ai. Ông đi dạo như thường lệ, ông bẻ vài ba cành cây để dùng vào trò chơi và sau khi tìm kiếm ông nhặt được một mảnh thủy tinh vỡ, việc đó có vẻ làm ông thích thú nhất. Về nhà ông tháo sợi vải ở khăn tay.

Không một chỉ tiết nào thoàt khỏi con mắt dò xét của Grimaud.

Buổi sáng hôm sau, cái giá treo cổ đã xong và để trông rõ nó, ở giữa gian phòng, ông de Beaufort dùng mảnh thủy tinh vỡ để vót nhọn một đầu cọc.

La Ramée xem ông làm với vẻ tò mò của một người cha đang nghĩ rằng có lẽ mình sắp phát hiện ra một đồ chơi mới cho lũ con, còn bốn tên vệ sĩ thì nhìn với cái vẻ vô công rồi nghề thời ấy cũng như bây giờ làm nên đặc điểm chủ yếu của bộ mặt người lính.

Lúc Grimaud vào, hoàng thân vừa mới đặt mảnh thủy tinh xuống mặc dù ông chưa vót xong cái chân cột; nhưng ông dừng lại để buộc sợi chỉ vào đầu cột.

Ông liếc nhìn Grimaud, mắt vẫn còn vương một chút bực bội từ chiều hôm trước, nhưng rất hi hả về kết quả tất yếu của sáng kiến mới của mình ông không còn chú ý đến chuyện khác.

Song, khi ông buộc xong một nút ở đầu dây này và một thòng lọng ở đầu dây kia, ông nhìn sang một đĩa tôm và đưa mắt chọn một con tôm bệ vệ nhất, và ông quay lại để tìm mảnh thủy tinh, thi mảnh thủy tinh đã biến mất.

- Ai lấy mảnh thủy tinh của tôi? - Ông hoàng cau mày hỏi.

Grimaud ra hiệu là hắn lấy.

- Sao? Lại là mày à? Sao mày lấy của tao?

- Ờ - La Ramée hỏi. - Sao ông lại lấy mảnh thủy tinh của Điện hạ?

- Sắc bén- Đúng thế, thưa Đức ông!

La Ramée nói:

- Chà! thật ghê chưa. Chúng ta kiếm được một thằng cha quý hoá.

- Này ông Grimaud, - hoàng thân nói, - vì lợi ích của ông, tôi van ông đó, hãy cẩn thận chớ có bao giờ đứng ở trong tầm tay của tôi.

Grimaud cúi chào và đứng xa ra đầu phòng.

- Thôi, thôi, Đức ông, - La Ramée nói, - đưa tôi cái giá nhỏ của ông, tôi sẽ vót nhọn bằng con dao của tôi.

- Ông ấy à? - Quận công cười nói.

- Vâng, tôi; thế chẳng phải ngài cần việc ấy sao?

- Đúng vậy.

- Này, làm đi, - quận công nói tiếp, - thế thì càng ngộ. Cầm lấy, ông La Ramée thân mến.

La Ramée không hiểu tý gì về lời cảm thán của hoàng thân, ra sức vót lấy vót để cái chân cọc.

- Được rồi, - quận công nói, - bây giờ ông đào một lỗ nhỏ ở dưới đất kìa trong khi tôi đi kiếm kẻ chịu nạn.

La Ramée quỳ một chân xuống đào đất.

Trong lúc ấy, hoàng thân treo một con tôm vào sợi len. Rồi ông cắm cái giá ở giữa gian phòng và phá lên cười.

La Ramée cũng cười như nắc nẻ, chẳng hiểu mình cười vì cái gì.

Và bọn vệ sĩ cũng đồng thanh cười theo.

Riêng Grimaud không cười.

Hắn đến gần La Ramée và chỉ cho xem con tôm đang quay đi quay lại ở đầu dây, rồi nói:

- Giáo chủ!

- Bị treo cổ bởi Điện hạ quận công de Beaufort và bởi thày Jacques Chrysostome La Ramée, phó quan cảnh sát của nhà vua. - Hoàng thân vừa nói vừa cười dữ dội hơn lúc nào hết.

La Ramée kêu lên một tiếng kinh hoàng và nhảy bổ vào cái giá treo cổ mà hắn ta nhổ lên, bẻ vụn ra từng mảnh và vứt qua cửa sổ, hắn toan làm thế với cả con tôm do hắn đang nổi khùng, thì Grimaud liền đỡ lấy luôn.

- Ăn ngon đấy - hắn nói và bỏ con tôm vào túi.

Lần này ông quận công thích thú vô cùng với trò chơi đó, nên ông cũng hầu như tha thứ cho Grimaud về cái vai hắn đóng. Nhưng trong ngày hôm ấy ông suy nghĩ về cái ý đồ của tên lính canh và kỳ thực ý đồ ấy có vẻ xấu xa, cho nên ông cảm thấy mối hằn thù của ông đối với hắn tăng lên rõ rệt.

Nhưng trước sự thất vọng lơn lao của La Ramée, câu chuyện con tôm vẫn có tiếng vang rộng rãí trong tháp đài và cả ra bên ngoài. De Chavigny trong thâm tâm ghét cay ghét đắng tể tướng, rắp lòng kể lại giai thoại ấy cho vài ba người bạn có thiện ý, họ đem loan truyền ngay tức khắc.

Ông de Beaufort được hai ba ngày khoan khoái.

Tuy nhiên, ông quận công chú ý thấy trong đoàn vệ sĩ có một người có vẻ mặt tử tế, và Grimaud càng làm ông bực bội bao nhiêu thì ông càng mơn trớn người kia bấy nhiêu. Nhân một buổi sáng ông đã gặp riêng được người ấy và đi tới chỗ nói chuyện nêng với hắn một lát, thì Grimaud bước vào, nhìn xem tình hình đã diễn ra, rồi cung kính đến gần tên vệ sĩ và hoàng thân, hắn nắm lấy cánh tay tên vệ sĩ.

- Ông muốn gì ở tôi? - Quận công hỏi một cách tàn nhẫn.

Grimaud dẫn tên vệ sĩ đi ra mấy bước và trở ra cửa mà bảo:

- Đi ra.

Tên vệ sĩ tuân theo.

- Ôi! - Hoàng thân la lên - Ông thật là không chịu nồi, tôi sẽ trừng trị ông.

Grimaud chào cung kính.

- Này ông gián điệp; tôi sẽ dần gãy xương ông! - Hoàng thân giận dữ hét lên, Grimaud vừa chào vừa bước lùi.

- Ông gián điệp, - quận công nói tiếp - tôi sẽ tự tay bóp chết ông...

Grimaud vẫn vừa chào vừa lùi.

Ông quận công nghĩ thôi thì chấm dứt mọi chuyện ngay cho xong, nói tiếp:

- Và như vậy không chậm quá một phút đâu.

Rồi ông giơ hai bàn tay co quắp về phía Grimaud, hắn ta đành đẩy tên vệ sĩ ra ngoài và đóng cửa lại sau mình.

Cùng lúc hắn cảm thấy hai bàn tay của hoàng thân hạ xuống hai vai hắn giống như hai gọng kìm bằng sắt; đáng lẽ kêu cứu hoặc tự vệ hắn chỉ từ từ đưa hai ngón tay chỉ trỏ lên ngang môi và vừa tô điểm gương mặt mình bằng một nụ cười duyên dáng nhất của mình, hắn vừa khe khẽ nói một tiếng:

- Sụyt!

Ở Grimaud thì đó là một điều hiếm hoi hơn cả một cử chỉ, một nụ cười và một lời nói khiến Điện hạ dừng phắt ngay lại, kinh ngạc đến tột bực.

Lợi dụng lúc đó, Grimaud rút từ lớp áo lót một bức thư xinh xinh có giấy niêm phong quyền quý, mặc dầu để lâu trong áo Grimaud vẫn còn thoang thoảng mùi hương, và đưa cho ông quận công mà không nói một lời.

Quận công mỗi lúc một ngạc nhiên hơn, buông Grimaud ra, cầm lấy bức thư và nhận ra nét chữ, ông kêu kêu:

- Của bà de Montbazon à?

Grimaud gật đâu.

Quận công vội xé phong bì, đưa tay lên mắt, ông bị chói ngợp biết chừng nào, và đọc những dòng sau đây:

"Ông quận công thân mến, ông có thể hoàn toàn tin cậy ở cái anh chàng trung thực sẽ đưa lại ông bức thư này, bởi vì đó là một người hầu của một vị quý tộc thuộc phe chúng ta. Ông ấy đã bảo đảm về hắn do đã được thử thách hai mươi năm trung thành. Hắn đã bằng lòng vào giúp việc viên quan cảnh sát của ông và cùng nhốt mình với ông ở Vincennes để sửa soạn và giúp vào việc vượt ngục của ông mà chúng tôi đang lo liệu.

Thời kỳ giải thoát sắp tới gần; ông hãy kiên tâm và can đảm lên khi nghĩ rằng, mặc dù thời gian và sự vắng mặt, tất cả các bạn bè của ông vẫn giữ gìn những tình cảm mà họ đã trao cho ông.

Người vô cùng và mãi mãi thân thương của ông, Marie De Montbazon"

Tái bút - Tôi ký cả tên, bởi vì e rằng mình sẽ quá tự phụ khi nghĩ rằng sau năm năm vắng mặt, ông vẫn nhận ra những chữ đầu của tên họ tôi".

Ông quận công đứng ngẩn ngơ một lát. Cái mà ông tìm kiếm từ năm năm nay mà không thể chứng minh, tức là một người đầy tớ, một người giúp việc, một người bạn, bỗng nhiên từ trên trời rơi xuống vào lúc mình ít chờ đợi nhất. Ông nhìn Grimaud, vẻ ngạc nhiên và trở lại với bức thư, ông đọc lại từ đầu đến cuối.

Ôi, nàng Marie thân yêu, - ông lẩm bẩm nói khi đã đọc xong, thì ra chính nàng mà ta đã nhác thấy ở trong cỗ xe. Sao, nàng vẫn còn nghĩ đến ta sau năm năm xa cách ư? Mẹ kiếp! Đây là một sự thủy chung mà người ta chỉ thấy ở trong truyện Astrée(3). Rồi ông quay về phía Grimaud, bảo:

- Còn bác, con người trung hậu của tôi ơi, bác bằng lòng giúp chúng tôi đấy à?

Grimaud gật đầu.

- Và vì vậy mà bác đến đây ư?

Grimaud lại gật đầu.

- Và chính tôi muốn bóp cổ bác ư? - Quận công kêu than.

Grimaud hơi mỉm cười.

- Này đợi tí, - quận công bảo.

Và ông lục tìm trong túi.

- Đợi tí! Ông nói tiếp và làm lại cái thí nghiệm vô hiệu quả ban đầu - không thể nào một sự tận tụy như vậy đối với một vị cháu nội của Henri IV mà lại không được ân thưởng.

Cứ chỉ của quận công de Beaufort cáo giác cái ý định tử tế nhất trên đời. Nhưng một trong những điều phòng ngừa ở Vincennes là không để tiền cho tù nhân.

Nhìn thấy sự thất vọng của quận công, Grimaud rút từ trong túi ra một bao đầy tiền vàng đưa cho ông và bảo:

- Đây là cái mà ngài tìm.

Quận công mở bao tiền và muốn dốc hết ra tay Grimaud, nhưng bác lắc đầu.

- Xin cảm ơn Đức ông, tôi đã được trả công. - Bác vừa nói vừa lùi ra.

Quận công đi từ kinh ngạc nọ đến kinh ngạc kia.

Ông giơ hai bàn tay ra. Grimaud bước tới và cung kính hôn tay ông. Những phong cách quý phái của Arthos đã lây sang cả Grimaud.

- Thế bây giờ chúng ta sẽ làm gì? - Quận công hỏi.

- Bây giờ lả mười một giờ sáng, - Grimaud nói - Đến hai giờ xin Đức ông rủ La Ramée ra chơi cầu và ném vài ba quả vọt qua tường thành.

- Rồi sao nữa?

- Rồi... Đức ông đi đến gần tường và gọi một người đàn ông đang làm ở dưới hào nhờ họ ném cầu lại cho.

- Tôi hiểu, - quận công nói.

Gương mặt Grimaud rạng rỡ vẻ thoả mãn: thói quen ít dùng đến lời nói đã khiến cho việc chuyện trò của bác thành khó khăn.

Bác làm một động tác để rút lui.

- Ái chà! - Quận công nói - Thế bác không chịu nhận cái gì ư?

- Tôi muốn Đức ông hứa với tôi một điều.

- Điều gì? Nói đi...

- Đó là khi chúng ta chạy trốn, bất cứ lúc nào và ở chỗ nào, tôi cũng đi đầu tiên; vì nếu người ta bắt được Đức ông, điều rủi ro lớn nhất đối với ngài là bị giam lại vào tù; còn nếu như người ta bắt được tôi điều rủi ro xoàng nhất đối với tôi là bị treo cổ.

- Đúng quá đi rồi, - quận công nói - xin lấy danh dự nhà quý tộc ra mà thề, điều ấy sẽ được thực hiện như bác đòi hỏi.

- Bây giờ, - Grimaud nói, - tôi chỉ xin Đức ông có một điều là ngài hãy tiếp tục ban cho tôi niềm vinh dự là căm ghét tôi như trước.

- Tôi sẽ cố gắng. - quận công đáp.

Có tiếng gõ cửa.

Quận công nhét bức thư và bọc tiền vào túi và nằm lăn ra giường. Ai cũng biết đó là cung cách của ông trong những lúc phiền muộn nhất. Grimaud ra cửa: đó là La Ramée vừa mới ở chỗ tể tướng về, nơi đã diễn cảnh gặp gỡ mà chúng tôi đã kể.

La Ramée đưa mắt dò xét nhìn quanh mình, mà vẫn nom thấy những biểu hiện hục hặc giữa người tù và người canh tù, hắn ta cười đầy vẻ thởa mãn trong lòng.

Rồi quay về phía Grimaud, hắn nói:

- Tốt, anh bạn ạ, tốt! Anh vừa được nói đến rất đúng chỗ, và tôi hy vọng chẳng mấy chốc anh sẽ có những tin tức chẳng đến nỗi khó chịu đối với anh đâu.

Grimaud chào với cái vẻ mà bác cố làm cho lịch sự và rút lui, đó là thói quen của bác khi cấp trên vào.

- Thế nào, Đức ông! - La Ramée vừa nói vừa cười hô hố, - ngài cứ giận dỗi mãi cái thằng cha tội nghiệp ấy ư?

- À! La Ramée đấy à? - Quận công nói, - thực tình ông đến đúng lúc. Tôi đã nằm lăn ra giường và quay mặt vào tường để cưỡng lại cái ý định giữ lời hứa của tôi là bóp cổ tên phản trắc Grimaud.

La Ramée muốn dùng một câu bóng gió hóm hỉnh về cái tật câm lỳ của kẻ phụ tá cho mình, nói:

- Tuy nhiên tôi ngờ rằng hắn lại có thể nói điều gì rất khó chịu với Điện hạ.

- Chắc mười mươi như vậy! Một thằng câm phương Đông. La Ramée ạ, tôi xin thề là ông đến đúng lúc, và tôi rất nóng gặp lại ông.

- Đức ông tốt bụng quá! - La Ramée phồng mũi về lời khen, nói.

- Phải, - Quận công nói tiếp, - thực ra hôm nay tôi cảm thấy một sự vụng về mà ông nom thấy cũng hay.

- Vậy chúng ta sẽ làm một ván cầu chứ? - La Ramée bất giác nói.

- Nếu ông muốn.

- Xin tuân lệnh Đức ông.

- La Ramée thân mến ơi, - Quận công nói - nghĩa là ông là một người rất hay và có lẽ tôi muốn ở lại Vincennes mãi mãi để hưởng cái thú là sống suốt đời với ông.

- Thưa Đức ông, - La Ramée nói, - Tôi cho rằng những nguyện ước của ngài thực hiện được hay không chẳng phải do nơi ông giáo chủ đâu.

- Sao lại thế? Gần đây ông có gặp ông ta không?

- Ông ấy mới cho tìm tôi sớm hôm nay.

- Thật à? Để nói với ông về tôi ư?

- Thế ông bảo còn nói với ai nữa? Đức ông ạ, thực ra ngài là cơn ác mộng của giáo chủ.

Quận công mỉm cười chua chát.

- A! - Ông nói - La Ramée, nếu ông chấp nhận những đề nghị của tôi!

- Kìa, đức ông! Chúng ta lại bàn về chuyện đó sao! Nhưng ngài phải thấy rõ là ngài chẳng biết điều.

- La Ramée, tôi đã nói với ông và tôi xin nhắc lại rằng tôi sẽ làm cho ông giàu có.

- Bằng cái gì cơ? Chỉ mới ra khỏi tù là của cải của ngài sẽ bị tịch thu.

- Chỉ mới ra khỏi tù là tôi sẽ làm chủ Paris.

- Sụyt! Sụyt! Thế nào... Chẳng lẽ tôi lại có thể nghe nói những điều như thế ư? Thật là một câu chuyện hay ho mà người ta dám bàn với một sĩ quan của nhà vua. Thưa Đức ông, tôi thấy rõ là phải kiếm thêm một Grimaud thứ hai.

- Thôi! Không nói chuyện ấy nữa. Như vậy là có vấn đề giữa tôi với anh và giáo chủ? La Ramée ạ, một ngày nào đó lão ta cho gọi anh thì anh phải để cho tôi mặc quần áo của anh. Tôi sẽ đi thay anh, tôi sẽ bóp cổ lão, và xin lấy danh dự nhà quý tộc mà thề nếu đó là một điều kiện, tôi sẽ tự mình trở lại nhà tù.

- Này Đức ông, tôi thấy cần phải gọi Grimaud đến.

- Tôi sai rồi. Thế lão ta đã nói gì với anh cái đồ nghiệp chướng(2) ấy?

- Xin truyền lại Đức ông cái từ ấy vì nó vần với tể tướng(3). - La Ramée nói với vẻ hóm hỉnh, - Ông ấy nói gì với tôi ư? Ông ấy bảo tôi phải giám sát ngài.

- Tại sao phải giám sát tôi? - Quận công lo lắng hỏi.

- Bởi vì một nhà chiêm tinh học tiên đoán là ngài sẽ trốn thoát.

- A! Một nhà chiêm tinh học đoán vậy à? - ông quận công bất giác rùng mình.

- Ôi! Lạy Chúa! Có thể! Cái bọn pháp sư ba láp ấy chúng cứ việc tưởng tượng ra để làm khổ những người thật thà. Tôi xin lấy danh dự mà nói như vậy.

- Thế anh đã trả lời Các hạ đại danh như thế nào?

- Là nếu cái lão chiêm tinh ấy soạn ra các quyển lịch thì tôi khuyên Các hạ chớ có mua.

- Tại sao?

- Bởi vì nếu ngài có muốn trốn thoát thì ngài phải biến thành con chim sơn ca hoặc con chim sẻ đó.

- Buồn thay, anh nói rát có lý. Thôi La Ramée, ta đi chơi một ván cầu nào.

- Thưa Đức ông, xin ngài thứ lỗi cho, nhưng ngài phải cho tôi nửa giờ nữa.

- Sao vậy?

- Bởi vì Đức ông Mazarin dòng dõi dù chẳng ghê gớm gì, nhưng vẫn kiêu hãnh hơn ngài và ông ấy đã quên không mời tôi ăn sáng.

- Vậy thì, anh có muốn để tôi bảo dọn bữa ăn sáng lên đây cho anh không?

- Không! Xin trình với Đức ông rằng cái người bán bánh ngọt ở trước mặt lâu đài, mà người ta gọi là cha marteau...

- Thế thì sao?

- Này nhé, cách đây tám hôm ông ta đã bán cửa hàng của mình cho một người làm bánh ngọt ở Paris, nghe đâu ông này được các thày thuốc khuyên là nên nghỉ ở nơi đồng quê thoáng đãng.

- Ơ hay! Thế thì có liên can gì đến tôi nào?

- Khoan đã, Đức ông; thành thử ra cái lão hàng bánh quái ác ấy cứ lúc nào cũng bày ra ở quầy hàng cơ man nào là những thứ làm người ta thèm rõ dãi.

- Đồ tham ăn?

- Ôi lạy Chúa! - La Ramée nói - Đức ông ơi, thích ăn ngon không phải là tham an. Bản tính con người ta là tìm kiếm sự hoàn hảo trong những cái bánh ngọt cũng như trong các thứ khác. Cũng xin thưa với Đức ông rằng khi trông thấy tôi dừng chân trước quầy hàng của hắn, cái lão chủ hiệu bánh ngọt quỷ quyệt ấy, mồm đầy bột mon men đến và bảo tôi rằng: "Ông La Ramée ơi, tôi cần phải có khách hàng trong đám tù nhân của lâu đài. Tôi đã mua cửa hiệu này của người chủ trước, chẳng qua vì hắn ta bảo đảm với tôi rằng hắn cung cấp bánh cho lâu đài; vậy mà, ông La Ramée ơi, tôi xin lấy danh dự mà thề rằng, từ khi tôi mở cửa hiệu đến nay đã tám hôm rồi, mà ông De Chavigny chẳng hề sai mua cho tôi lấy một cái bánh nhỏ".

Tôi bảo lão rằng:

- Chắc hẳn ông De Chavigny sợ rằng bánh trái cây của bác không ngon...

- Bánh của tôi mà không ngon. Thế thì ông La Ramée ơi, tôi mong rằng ông sẽ phán xét cho, và ngay bây giờ đây này...

- Không được đâu, tôi trả lời, nhất thiết tôi phải trở về lâu đài.

- Nếu ông vội thì xin ông cứ về, nhưng mời ông nửa giờ nữa trở lại đây.

- Nửa giờ nữa à?

- Vâng. Ông đã ăn sáng chưa?

- Thực tình là chưa.

- Thế thì đây, một cái bánh nướng sẽ đợi ông cùng với một chai rượu vang Bourgogne lâu năm...

- Và thưa Đức ông vì tôi cũng chưa ăn gì? Chắc ngài hiểu cho rằng được Điện hạ cho phép.

Và La Ramée nghiêng mình.

- Thôi đi đi, của nợ ạ, - quận công nói, - nhưng hãy chú ý là tôi chỉ cho có nửa giờ thôi đấy.

- Liệu tôi có thể hứa hẹn với người kế tục cho cha Marteau về sự chiếu cố của Đức ông không ạ?

- Được miễn là ông ta đừng có cho nấm vào trong bánh, anh biết đấy, - hoàng thân nói thêm, - những cây nấm ở vùng Vincennes chết người đối với gia đình tôi đấy.

Không nhận thấy ý bóng gió, La Ramée đi ra và năm phút sau, viên sĩ quan trực gác vào mượn cớ bầu bạn với hoàng thân để làm rạng rỡ thêm cho ông, nhưng kỳ thực là để thi hành mệnh lệnh của tể tướng là không được rời mắt khỏi người tù.

Nhưng trong năm phút ngồi một mình, quận công có đủ thời giờ để đọc lại bức thư của bà de Montbazon, nó chứng tỏ cho người tù thấy rằng bạn bè ông không quên ông và lo liệu việc giải thoát cho ông. Bằng cách nào, ông chưa rõ, nhưng ông tự hứa là sẽ làm cho Grimaud nói ra, dù bác ta có câm lì. Càng biết rõ tính nết Grimaud, ông càng tin cậy bác nhiều hơn, và ông hiểu rằng bác ta bày đặt ra tất cả những trò hành hạ vặt vãnh đối với ông chẳng qua là để cho bọn lính canh khỏi nghi ngờ rằng bác có thể thông đồng với quận công.

Mưu chước ấy khiến quận công đánh giá rất cao trí tuệ của Grimaud, và ông nhất quyết tin cậy hoàn toàn ở bác.

Chú thích:

(1) Tiểu thuyết thôn đã của Ônorê d Uyêcphê (1607-1628) về chuyện ái tình giữa Xeladông và nàng Axtre.

(2) (3) Trong nguyên bản: chữ cuistre (đê tiện) vần với chữ ministre (tể tướng)

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 21

Chiếc bánh nướng của người kế tục cha Marteau chứa đựng cái gì?

Chiếc bánh nướng của người kế tục cha Marteau chứa đựng cái gì?

Nửa giờ sau La Ramée trở về vui vẻ và hoạt bát như một người đã ăn ngon và nhất là uống tốt. Hắn thấy rõ là - bánh rất ngon và rượu vang thật là tuyệt diệu.

Trời đẹp và cho phép tiến hành cuộc chơi dự định. Trò chơi cầu dài, tức là chơi ở ngoài trời rộng rãi. Như vậy đối với ông quận công chẳng có gì dễ dàng hơn là làm theo điều Grimaud dặn dò, nghĩa là ném bóng ra ngoài hào rãnh.

Tuy vậy khi mà hai giờ chưa điểm thì quận công chưa đến nỗi vụng về quá, vì hai giờ là giờ quy định. Nhưng cho đến lúc ấy ông vẫn cứ bị thua mấy ván, điều đó cho phép ông phát cáu và liên tiếp đánh hỏng như người ta thường bị trong trường hợp tương tự.

Cho nên, khi hai giờ đúng vang lên, các quả bóng bắt đầu văng ra phía ngoài hào trước nỗi vui mừng lớn của La Ramée, hắn ghi mười lăm điểm mỗi lần bóng của hoàng thân trật ra ngoài.

Ném trật ra ngoài tới tấp đến nỗi chả mấy chốc thiếu bóng. La Ramée toan bảo người nào đó ra ngoài hào nhặt bóng. Nhưng quận công nhận xét rất chí lý rằng làm như vậy mất thì giờ, và tiến gần đến tường thành, chỗ ấy như viên quan cảnh sát nói cao ít nhất là năm mươi bộ, thì ông chợt nom thấy một người đàn ông đang làm lụng ở một trong số nghìn mảnh vườn nhỏ mà các người nông dân khai khẩn ở bên kia bờ hào.

- Ê! Anh bạn này! - Quận công kêu lên.

Người đàn ông ngầng lên, và quận công suýt bật ra một tiếng kêu kinh ngạc. Người đàn ông ấy, người nông dân ấy, người làm vườn ấy, chính là Rochefort mà quận công tưởng vẫn còn ở trong nhà tù Bastille.

- Có chuyện gì ở trên ấy đấy? - người đàn ông hỏi.

Bác làm ơn ném các quả bóng lên cho chúng tôi, - quận công bảo.

Người làm vườn gật đầu và ném bóng lên; La Ramée và các vệ sĩ đi nhặt. Một quả bóng rơi đúng chân quận công, và vì quả bóng ấy rõ ràng gửi ông, nên ông bỏ vào túi.

Rồi ra hiệu cám ơn với người làm vườn xong, ông quay trở lại cuộc chơi.

Nhưng rõ ràng là quận công vớ phải một ngày đen đủi, các trái bóng tiếp tục bay lung tung; đáng lẽ phải rơi vào trong giới hạn của sân chơi thì hai quả lại văng ra ngoài hào; nhưng vì người làm vườn không còn ở đấy nữa để ném trả bóng, nên mất bóng, rồi quận công tuyên bố rằng ông xấu hổ vì vụng về đến thể và ông không muốn chơi nữa.

La Ramée khoái chí vì đã đánh bại hoàn toàn một vị thân vương.

Ông hoàng trở về nhà và đi nằm; hầu như ông nằm suốt ngày từ khi người ta tước hết sách vở của ông.

La Ramée lấy quần áo của hoàng thân đi, lấy cớ là nó đầy bụi phải mang đi chải, nhưng thực ra là để yên trí rằng ông ta không đi đâu được. Một con người đến là cẩn thận như La Ramée!

May thay hoàng thân đã kịp giấu quả bóng dưới cái gối ngang.

Cửa vừa đóng là quận công dùng răng xé ngay cái vỏ quả bóng vì người ta không để cho ông một dụng cụ sắc cạnh nào, ông vẫn phải ăn bằng những con dao bạc có lưỡi gập lại được nhưng không cắt được.

Dưới lượt vỏ là một bức thư viết mấy dòng sau đây:

"Thưa Đức ông, các bạn bè của ngài vẫn quan tâm, và giờ giải thoát ngài sắp tới. Ngày kia ngài hãy đòi ăn một cái bánh do người làm bánh mới đã mua cửa hiệu của người chủ cũ, và chính là Noirmont đầu bếp của ngài, chỉ mở cái bánh khi nào có một mình ngài, tôi hy vọng ngài sẽ hài lòng cái đựng bên trong.

Kẻ môn hạ luôn luôn tận tụy với Điện hạ, dù ở ngục Bastille hay bất cứ đâu.

Bá tước de Rochefort!

Tái bút. - Điện hạ có thể tin cậy ở Grimaud về mọi mặt, đó là một người rất thông minh và hết lòng tận tụy với chúng ta".

Từ khi quận công de Beaufort từ bỏ vẽ tranh người ta đã trả lại lửa cho ông. Ông tiếc ngẩn tiếc ngơ mà đốt thư của bà De Montbazon, và sắp sửa đốt cả quả bóng, thì chợt nghĩ rằng nó có thể có ích để gửi thư trả lời Rochefort.

Ông bị canh riết lắm, vì vừa mới nghe tiếng cử động của ông, La Ramée vào. Hắn hỏi:

- Đức ông cần gì thế?

- Tôi rét, - quận công đáp, - nên tôi khơi lửa lên cho ấm. Bạn thân mến ạ, ông biết đấy, các căn phòng của Tháp đài Vincennes nổi tiếng là lạnh lẽo. Người ta có thể giữ băng ở đấy và lượm được diêm tiêu Puylaurens, thống chế Ornano và vị phó trụ trì cậu của tôi đã chết ở trong những căn phòng, mà như là bà De Rambouillet nói, về phương diện ấy, đáng giá với lượng thạch tín của nó.

Và ông quận công lại nằm kềnh ra giường và giúi quả bóng xuống dưới gối. La Ramée hơi mỉm cười.

Thực ra hắn cũng là một người tốt và rất mến người tù lừng lẫy này và có thể sẽ rất khổ tâm nếu tai họa xảy ra đến với ông. Mà những tai họa liên tiếp này xảy ra với ba nhân vật mà quận công vừa mới nêu tên là không thể chối cãi được.

- Đức ông ạ, - hắn nói, - không nên buông mình vào nhưng ý nghĩa như vậy. Chính là những ý nghĩ đó giết chết người ta, chứ không phảì diêm tiêu đâu.

- Này, bạn thân mến ơi, - quận công nói, - Ông thật là tử tế, giá mà tôi được như ông đi ăn bánh nướng và uống rượu vang Bourgogne ở hàng cái người kế tục cha Marteau ấy, thì tôi sẽ khuây khoả.

- Đức ông ơi, thực tế là bánh nướng của lão ấy là loại bánh trứ danh và rượu vang thì là thứ rượu đáng tự hào.

- Dù sao thì hầm rượu và bếp núc của lão cũng hơn đứt của ông De Chavigny.

- Vậy thì thưa Đức ông, - La Ramée sa vào bẫy nói, - Ai cấm ngài nếm thử. Vả chăng tôi cũng đã hứa rằng ngài sẽ là khách hàng.

- Anh nói phải đấy, - quận công đáp - nếu tôi phải tù chung thân ở đây như lão Mazarin đã có lòng tốt sai nói cho tôi biết, thì tôi cũng cần phải tạo cho mình một sự giải trí trong những ngày già nua, tôi cũng phải trở nên tham ăn chứ.

- Thưa Đức ông, - La Ramée nói, - hai tin đó là một lời khuyên hay, chẳng phải là vì thế mà ngài sẽ già nua đi đâu.

"Hay, - quận công de Beaufort nói riêng với mình, - bất cứ người nào, để mất trái tim và linh hồn của mình, nếu không mắc hai thì cũng đã mắc một trong bảy đại tội(1) từ sự hoa lệ của trời; dường như tội của thày đội La Ramée là tham ăn. Được chúng ta sẽ lợi dụng nó".

Rồi ông nói to:

- Này, La Ramée thân mến ơi, ngày kia là ngày lễ phải không?

- Đúng đấy, lễ Pentecôte.

- Ngày kia, anh có thể cho tôi một bài học không?

- Về cái gì cơ?

- Về phàm ăn.

- Xin vui lòng, thưa Đức ông.

- Nhưng là một bài học giữa hai người thôi, chúng ta sẽ cho bọn vệ sĩ đi ăn ở căng tin của De Chavigny, còn chúng ta sẽ làm một bữa tối ở đây mà tôi để ông điều khiển.

- Hừm? - La Ramée thốt lên.

Lời mời thật cám dỗ. Dù rằng tể tướng có nghĩ đến điều bất lợi khi gặp La Ramée, thì hắn ta cũng là một tay lão luyện biết hết những cạm bẫy mà một tù nhân giăng ra. Ông de Beaufort đã sửa soạn bốn mươi kế để vượt ngục; bữa ăn này liệu có che giấu một mưu mô nào không?

Hắn suy nghĩ một lát, nhưng kết quả của những suy nghĩ là tự hắn đặt thức ăn và rượu và như vậy chẳng ai có thể trộn bột gì vào thức ăn hoặc nước gì vào rượu.

Còn chuốc rượu cho hắn say ư, ông quận công chẳng thể có ý đồ ấy, và hắn bật cười với ý nghĩ ấy, rồi một ý nghĩ đến với hắn và hoá giải tất cả.

Quận công theo dõi bản độc thoại thầm của La Ramée bằng con mắt khá lo âu theo chừng những biểu hiện trên nét mặt hắn, nhưng cuổi cùng gương mặt viên cảnh sát rạng rỡ hẳn lên.

- Thế nào, - quận công hỏi - được chứ?

- Thưa Đức ông, được, nhưng với một điều kiện.

- Điều kiện gì.

- Grimaud sẽ hầu bàn cho chúng ta.

Không có gì tuyệt hơn đối với hoàng thân.

Tuy nhiên ông có khả năng biểu lộ một sự khó chịu ra mặt và kêu lên.

- Cút mẹ cái thằng Grimaud của ông đi. Nó sẽ làm hỏng cả buổi liên hoan.

- Tôi sẽ ra lệnh cho nó đứng đằng sau Điện hạ và không cho nó chẳng sủa lấy một lời, Điện hạ sẽ không trông thấy nó, không nghe thấy nó, và với một chút thiện ý thôi, Điện hạ sẽ tưởng tượng như nó ở cách xa ngài đến trăm dặm...

- Bạn thân mến ơi - quận công nói. - Ông có biết tôi đã nhìn thấy rất rõ ràng cái gì trong chuyện này không? Đó là ông nghi ngờ tôi.

- Thưa Đức ông, ngày kia là lễ Pentecôte rồi.

- Thì sao? Lễ Pentecôte có liên quan gì đến tôi. Dễ thường ông sợ rằng Thánh linh sẽ giáng thế dưới hình dạng một lưỡi lửa để mở các cửa nhà tù của tôi ra chăng?

- Không ạ, nhưng tôi đã kể với ngài cái điều mà lão pháp sư quái ác kia tiên đoán.

- Hắn tiên đoán gì?

- Rằng chẳng quá ngày lẽ Pentecôte, ngài sẽ ra khỏi lâu đài Vincennes.

- Thế anh tin ở bọn pháp sư à? Đồ ngốc!

- Tôi mà quan tâm đến những chuyện ấy ư? - La Ramée vừa nói vừa búng ngón tay - Nhưng chính Đức ông Giulio ông ta lo ngại, với tư cách người Ý, ông ta mê tín dị đoan.

- Quận công nhún vai. Rồi với một vẻ thực thà đóng kịch rất giỏi ông nói:

- Thôi được! Tôi đồng ý Grimaud, vì không thể cũng không xong. Nhưng tôi không muốn ai nữa ngoài Grimaud; anh sẽ đảm đương tất. Anh đặt bữa ăn thế nào tùy anh, tôi chỉ yêu cầu một món duy nhất là một cái bánh nướng như anh đã nói với tôi. Anh nhớ nói là đặt cho tôi để vị kế tục cha Marteau làm cho khéo hơn, và anh hứa hẹn với bác ta về sự chiếu cố của tôi không những suốt trong thời gian tôi ở tù, mà cả sau này khi tôi ra tù nữa.

- Ngài vẫn tin là ngài sẽ ra tù à? - La Ramée hỏi.

- Ấy chết? - Hoàng thân đáp, - có chăng là đến khi nào Mazarin chầu trời. Tôi kém lão ta mười lăm tuổi, ông vừa cười vừa nói thêm - Đúng là ở Vincennes người ta sống mau hơn.

- Đức ông! - La Ramée kêu lên, - kìa Đức ông!

- Hay là người ta chết sớm hơn, cũng vậy thôi! - Quận công nói tiếp.

- Thưa Đức ông, tôi đi bảo dọn bữa tối đây.

- Anh có cho rằng anh có thể sử dụng người học trò của anh vào việc gì không?

- Tôi hy vọng chứ, thưa Đức ông.

- Nếu anh còn có thì giờ, - quận công lẩm bẩm.

- Đức ông nói gì vậy? - La Ramée hỏi.

- Đức ông bảo là anh chớ dè sẻn túi tiền của ông giáo chủ, ông ta rất muốn đảm nhiệm tiền trợ cấp của chúng ta.

La Ramée dừng lại ở cửa và hỏi.

- Đức ông muốn tôi cắt ai đến với ngài.

- Ai cũng được, trừ Grimaud.

- Viên sĩ quan vệ sĩ nhé?

- Với bàn cờ của hắn nữa.

- Vâng.

Và La Ramée đi ra.

Năm phút sau, viên sĩ quan vệ sĩ vào và quận công de Beaufort có vẻ đang chìm đắm sâu xa trong những tính toán tuyệt vời của nước cờ.

Tư tưởng con người ta thật là kỳ lạ, và một dấu hiệu, một lời nói, một hy vọng gây nên trong đó những biến đổi như thế nào. Quận công ở tù năm năm rồi. Một cái nhìn về phía sau khiến thấy năm năm ấy tuy trôi chậm thật nhưng dường như còn không dài đằng đẵng bằng hai ngày, bằng bốn mươi tám giờ nó đang ngăn cách ông với thời điểm ấn định cho cuộc vượt ngục.

Rồi lại có một điều đặc biệt làm ông bận tâm ghê gớm đó là cuộc vượt ngục tiến hành như thế nào. Người ta đã làm cho ông hy vọng kết quả, nhưng lại giấu ông những chi tiết cụ thể chứa đựng trong cái bánh nướng bí hiểm. Những bạn bè nào chờ đợi ông? Thế ra sau năm năm tù đầy ông vẫn còn bè bạn ư? Trong trường hợp ấy ông là một hoàng thân được biệt đãi.

Điều kỳ lạ hớn nữa là ông quên rằng ngoài bạn bè ra, có được một người đàn bà vẫn nhớ đến ông; đúng là bà ta có lẽ không phải nhất nhất trung thành với ỏng rồi nhưng bà ta không quên ông, thế cũng là nhiều rồi.

Như vậy là có quá nhiều hơn mức cần thiết những điều khiến ông quận công phải bận tâm. Trong cuộc chơi cờ và trong cuộc chơi ném cầu, cũng vậy, và buổi chiều đến lượt viên sĩ quan lại đánh bại ông như La Ramée đã đánh bại ông ban sáng.

Song những cuộc thất bại liên tiếp của ông cũng có lợi, đó là nó dẫn ông hoàng tới tận tám giờ tối; thế là lợi được ba tiếng đồng hồ.

Rồi thì đêm sẽ đến và cùng với ban đêm là giấc ngủ.

Ít ra quận công nghĩ như vậy, nhưng giấc ngủ là một vị thần tính khí bất thường và đúng vào lúc người ta vời đến thì nó lại bắt người ta chờ đợi đến tận nửa đêm, trằn trọc mãi trên tấm nệm giống như thánh Laurent trên giá sắt lò lửa. Cuối cùng ông thiếp đi.

Nhưng rạng sáng là ông tỉnh giấc. Ông đã mơ những giấc mơ kỳ quặc: ông thấy mình mọc cánh, tất nhiên là ông muốn bay. Thoạt tiên, cánh đỡ ông bay vù vù nhưng đến một độ cao nào đó, chỗ tựa kỳ lạ ấy đột nhiên bị hẫng, đôi cánh ông bị gẫy và ông thấy hình như mình lăn xuống những vực thẳm không đáy, ông chợt tỉnh dậy, trán đẫm mồ hôi và mình mẩy rã rời như đã rơi từ trên trời xuống thật.

Ông ngủ tiếp, để rồi lại lang thang trong một mê cung toàn là những giấc mơ rất hung dữ; cứ vừa chợp mắt là linh hồn ông vươn theo một mục đích duy nhất: vượt ngục, lại bắt đầu tìm cách vượt ngục. Người ta tìm thấy một đường hầm dẫn ra ngoài Vincennes; ông dẫn mình vào con đường ấy, và Grimaud tay cầm đèn bước đi trước ông; nhưng dần dần đường hầm hẹp lại, tuy nhiên ông quận công vẫn tiếp tục đi; cuối cùng đường hầm chặt bó lại đến nỗi kẻ đào tẩu cổ gắng đi xa hơn cũng uổng công: hai bên thành tường co hẹp lại và ép chặt lấy ông; ông muốn gọi bác ta đến giúp ông ra khỏi cái lỗ hẻm này nó đang siết ông đến ngạt thở, nhưng không làm sao mà thốt lên được một lời. Thế là ở phía đầu đường nơi ông đi vào có tiếng bước chân của những người đuổi theo ông, nó không ngừng tiến gần lại, ông bị phát hiện rồi, của còn hy vọng trốn thoát.

Những thành tường như đồng tình với kẻ thù của ông, ông càng muốn chạy, chúng càng ép chặt lấy ông. Cuối cùng ông nghe tiếng La Ramée rồi ông trông thấy hắn. Hắn giơ bàn tay ra và đặt lên vai ông mà cười phá lên. Ông bị tóm lại và dẫn đến căn phòng thấp có vòm cong nơi thống chế Ornano, Puylaurens và cậu của ông đã bỏ mạng; ba nấm mồ lù lù ở đấy, gồ lên trên mặt đất, và một cái hố thứ tư mở toang hoác ra chỉ còn đợi một xác người.

Cho nên lúc trước quận công cố sức để ngủ bao nhiêu, thì đến khi tỉnh dậy cố sức để thức bấy nhiêu; và khi La Ramée vào hắn thấy ông nhợt tái và phờ phạc đến nỗi hắn phải hỏi xem ông có bị ốm không.

Một vệ sĩ nằm trong phòng, nhưng không ngủ được vì đau răng do ẩm thấp, nói:

- Quả thật, Đức ông qua một đêm hoảng loạn lắm và hai ba lần ngủ mê cứ kêu cứu hoài.

- Đức ông làm sao thế? - La Ramée hỏi.

- Chỉ tại cậu thôi, đồ ngốc ạ! - quận công nói. - Những chuyện vớ vẩn hão huyền về vượt ngục của cậu hôm qua ám ảnh tôi và khiến tôi nằm mơ thấy mình chạy trốn và khi chạy trốn thì bị ngã gẫy cổ.

La Ramée bật cười và nói:

- Đức ông thấy đấy, đó là một sự cảnh cáo của Trời; cho nên tôi mong rằng ngoài giấc mơ, Đức ông chớ bao giờ phạm những điều dại dột như vậy.

Quận công lau mồ hôi vẫn còn ròng ròng trên trán, mặc dù ông đã tỉnh hẳn và nói:

- La Ramée thân mến ơi, anh nói đúng đấy, tôi chỉ còn muốn nghĩ đến uống rượu và ăn thôi.

- Sụyt! - La Ramée nói.

Rồi hắn kiếm cớ cho bọn vệ sĩ lần lượt đi ra.

- Thế nào? - Quận công hỏi khi còn lại hai người với nhau.

- Này nhé bữa tiệc tối đã được đặt rồi, - La Ramée nói.

- A! Thế gồm những gì nào? Nào, ông đầu bếp của tôi? - Quận công nói.

- Đức ông đã hứa là tin cậy ở tôi cơ mà.

- Thế có một cái bánh nướng chứ?

- Dĩ nhiên rồi! Như một cái tháp ấy.

- Do người kẻ tục cha Marteau làm?

- Đặt bác ta làm mà.

- Thế anh có bảo là đặt cho tôi không?

- Có

- Bác ta trả lời sao?

- Là sẽ làm hết sức để vừa lòng Điện hạ.

- Hay lắm! - Quận công vừa nói vừa xoa xoa tay.

- Ghê thật. Đức ông ngoạm vào thói tham ăn như thế đấy! Từ năm năm nay, tôi chưa bao giờ thấy ngài mặt mày hoan hỉ như lúc này.

Quận công thấy rõ mình chưa thật làm chủ được mình. Nhưng vừa lúc ấy ông hiểu rằng nghe như có tiếng ở ngoài cửa và ông hiều rằng làm những ý La Ramée bây giờ là việc cấp bách, thì Grimaud vào và ra hiệu với La Ramée là bác có điều gì muổn nói với hắn.

La Ramée đến gần Grimaud nghe bác nói thầm thì.

Trong khi đó, quận công tĩnh tâm lại.

Ông nói:

- Tôi đã cấm người ấy hiện diện ở đây nếu không được tôi cho phép cơ mà.

- Thưa Đức ông. - La Ramée nói, - cần tha thứ cho hắn, vì chính tôi gọi hắn đến.

- Thế tại sao anh lại gọi hắn đến, bởi vì anh biết rằng hắn làm tôi phật lòng.

- Xin Đức ông nhớ lại điều đã thỏa thuận, - La Ramée nói - và hắn còn phải hầu chúng ta trong bữa tiệc trứ danh ấy chứ. Đức ông quên mất bữa tiệc ấy rồi à?

- Không đâu, nhưng tôi quên mất Grimaud.

- Đức ông biết rằng không có hắn thì không có bữa tiệc.

- Thôi được, tuỳ ông làm thế nào thì làm.

- Lại đây anh chàng, - La Ramée bảo, - và nghe tôi nói đây.

Grimaud bước lại gần với vẻ mặt nhăn nhó nhất. La Ramée nói tiếp:

- Đức ông ban cho tôi vinh dự là là mời tôi ăn bữa tối mai chỉ có tôi với ngài thôi.

Grimaud ra hiệu như muốn nói rằng bác ta chẳng thấy gì có liên quan đến bác trong việc này cả.

- Có chứ, có chứ, - La Ramée nói - trái lại việc này liên quan đến việc anh đấy; bởi vì anh sẽ có vinh dự là hầu tiếp chúng tôi, chưa kể là dù chúng tôi có chén ngon miệng và nốc đã khát đến mây thì chắc chắn vẫn còn cái gì đó ở dưới đáy đĩa và đáy chai và cái gì đó ấy là phần anh.

Grimaud cúi mình ra hiệu cảm ơn.

- Và bây giờ, thưa Đức ông - La Ramée nói, - xin Đức ông thứ lỗi, hình như ông De Chavigny sẽ vắng mặt mấy ngày, và trước khi đi, ông ta đã báo trước là sẽ có những mệnh lệnh ban cho tôi.

Quận công thử trao đổi một cái nhìn với Grimaud, nhưng mắt Grimaud cứ trơ như đá.

- Đi đi! - quận công bảo La Ramée, - và cố gắng về cho thật sớm.

- Đức ông muốn phục thù ván cầu hôm qua chăng?

Grimaud khẽ gật đầu một cái khó mà nhận thấy.

- Phải, - quận công nói, - nhưng hãy coi chừng La Ramée thân mến ạ, ngày ngày nối tiếp nhau nhưng chẳng giống nhau đâu, thành ra hôm nay tội quyết định sẽ giã cho anh một trận ra trò.

La Ramée ra. Grimaud mắt theo dõi theo, còn toàn thân không xê dịch đến một ly; rồi khi nhìn thấy cửa đóng lại, bác vội vã rút ở túi ra một cái bút chì và một mảnh giấy.

- Xin Đức ông viết đi, - bác nói.

- Nhưng viết gì cơ?

Grimaud giơ một ngón tay ra hiệu và đọc:

"Mọi thứ sẵn sàng vào tối mai. Các anh hãy cảnh giới từ bảy giờ đến chín giờ và có sẵn hai ngựa cưỡi. Chúng tôi sẽ xuống bằng lối cửa sổ thứ nhất của hành lang..."

- Rồi sao nữa? - quận công hỏi.

- Rồi thế nào ư, Đức ông? - Grimaud ngạc nhiên hỏi.

- Thế là hết à?

- Đức ông còn muốn nói gì thêm nữa. - Grimaud đáp, bác bao giờ cũng muốn sự gọn gàng nghiêm ngặt nhất.

Quận công ký.

- Bây giờ, - Grimaud nói - Đức ông có còn quả bóng không hay mất rồi?

- Bóng nào?

- Quả bóng đựng bức thư ấy.

- À còn. Tôi nghĩ là có thể nó còn có ích cho chúng ta. Bóng đây.

Quận công moi quả bóng ở dưới gối ra và đưa cho Grimaud mỉm cười một cách khoan khoái nhất.

- Để làm gì? - quận công hói.

- Thưa Đức ông, - Grimaud nói, tôi sẽ khâu mảnh giấy vào trong quả bóng, và lúc nào chơi cầu, ngài sẽ ném quả bóng xuống hổ.

- Nhỡ bị mất thì sao?

- Đức ông cứ yên tâm. Sẽ có người nhặt.

- Một người làm vườn phải không? - Quận công hỏi.

Grimaud gật đầu.

- Vẫn người hôm qua à?

Grimaud lại gật đầu.

- Bá tước de Rochefort phải không?

Grimaud gật đầu luôn ba cái.

- Nhưng, này, - quận công nói, - ít ra hãy cho tôi biết vài chi tiết về cách chúng ta trốn ra như thế nào chứ?

- Tôi bị cấm tiết lộ, - Grimaud đáp, - ngay cả trước lúc thực hiện.

- Nhưng ai sẽ đợi tôi ở bên kia bờ hào?

- Thưa Đức ông, tôi không biết gì cả.

- Nhưng ít ra thì cũng cho tôi rõ cái gì đựng ở trong cái bánh nướng trứ danh ấy chứ, nếu như bác không muốn tôi phát điên lên.

- Thưa Đức ông, trong đó có hai con dao găm một sợi dây có nút và một quả lê cay đắng(2).

- Tốt lắm, tôi hiểu rồi.

Đức ông thấy là sẽ có cái dùng cho mọi người.

- Chúng ta dùng hai con dao găm và sợi dây - quận công nói.

- Và chúng ta cho La Ramée xơi trái lê cay đắng, - Grimaud tiếp lời.

- Grimaud thân mến của tôi ơi, - quận công bảo - bác không hay nói, nhưng khi bác nói thì phải công nhận rằng bác nói ra vàng ra bạc.

Chú thích:

(1) Theo đạo Gia-tô, bảy đại tội là: ngạo mạn, ghen ghét, biển lận, dâm đãng, tham ăn, giận dữ, lười nhác.

(2) Một dụng cụ hình trái lê có lò-xo đem tọng vào trong mồm thì nó gang cả hai hàm ra khiến không thể kêu la được.

Alexandre Dumas

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Chương 22

Một cuộc phiêu lưu của Marie Michon

Cùng với thời gian mà quận công de Beaufort và Grimaud toan tính vượt ngục, thì có hai người cưỡi ngựa và một thằng hầu theo sau đi vào Paris bằng phố cửa ô Saint-Marcel.

Hai người đó là bá tước De La Fère và tử tước De Bragelonne.

Đây là lần đầu tiên chàng thanh niên đến Paris và Arthos chẳng tô son vẽ phấn gì cho kinh đô, người bạn cố tri của mình, khi đưa chàng trai trẻ vào xem bằng phía ấy. Thật vậy cái làng Touraine cuối cùng trên chặng đường còn ưa nhìn hơn Paris trông ở phía mặt đối diện với Blois. Cho nên phải nói rằng thật xấu hổ cho cái thành phố từng được ca tụng này, nó gây một tác dụng tồi tệ cho chàng trai trẻ.

Arthos vẫn giữ cái vẻ vô tư lự và thanh thản của mình.

Là người dẫn đường cho người bạn đổng hành của mình trong cái mê cung mênh mông này, khi tới Xanh Mêda, Arthos đi theo phố Bưu Trạm rồi phố Cực Hình, phố Hào,Vaugirard, Saint - Médard, rồi phố , khi tới phố Férou thì đi vào. Đến giữa phố, Arthos ngước mắt lên mỉm cười và chỉ cho chàng trai trẻ xem một ngôi nhà có vẻ ngoài sang trọng và nói:

- Này Raoul, đây là một ngôi nhà mà tôi ở bảy năm êm đềm nhất và phũ phàng nhất của đời mình.

Chàng thanh niên mỉm cười theo và cúi chào ngôi nhà, lòng hiếu thảo của cậu đối với người đỡ đầu cho mình biểu lộ trong mọi hành động của cuộc sống.

Còn đối vôi Arthos, như chúng ta đã nói, Raoul không những là trung tâm mà, không kể những kỷ niệm cũ ở trung đoàn, còn là đối tượng duy nhất của tình yêu thương và người ta hiểu lần này trái tim Arthos có thể yêu tha thiết và sâu sắc đến nhường nào.

Hai lữ khách dừng chân ở phố Chuồng Bồ Câu cũ, chỗ có biển quán Con Cáo Xanh. Arthos biết quán rượu này từ lâu, hàng trăm lần anh đã đến đây cùng các bạn, nhưng từ hai mươi năm nay đã có bao nhiêu đổi thay ở trong quán, bắt đầu từ những người chủ.

Các lữ khách trao ngựa cho mấy tên hầu, và do ngựa thuộc giống quý, họ dặn dò phải trông nom thật chu đáo, chỉ cho ăn rơm và lúa mạch và rửa ngực và chân ngựa bằng rượu vang ấm. Họ đã đi hai mươi dặm trong ngày. Trước tiên phải săn sóc ngựa của mình như những kỵ sĩ thực thụ thường làm, sau đó họ gọi hai phòng cho họ:

- Anh đi tắm rửa và sửa soạn quần áo đi, - Arthos nói, - tôi sẽ giới thiệu anh với một người quen.

- Hôm nay ư thưa ông? - Chàng thanh niên hỏi.

- Nửa giờ nữa.

Chàng trai trẻ cúi chào.

Có lẽ kém chịu đựng mệt nhọc hơn Arthos, một con người như bằng thép, Raoul thực sự muốn xuống tắm trong dòng sông Sein mà anh từng nghe nói đến rất nhiều, song vẫn cho rằng kém đứt sông Loire, sau rồi đi nằm một lát; nhưng vì bá tước de La Fére đã nói vậy nên cậu chỉ biết vâng lời.

- À này, Raoul, - Arthos nói, - anh ăn vận chăm chút vào nhé, tôi muốn người ta thấy anh đẹp trai.

- Thưa ông, - chàng trai trẻ mỉm cười đáp, - tôi hy vọng rằng không phải là chuyện hôn nhân. Ông biết tôi đã hứa hẹn với Louise.

Arthos cũng mỉm cười và nói:

- Không đâu, cứ yên trí, mặc dù tôi sẽ giới thiệu anh với một phụ nữ.

- Một phụ nữ ư? - Raoul hỏi

- Phải, và tôi mong rằng anh sẽ yêu mến người ấy.

Chàng thanh niên nhìn bá tước thoáng băn khoăn; nhưng thấy Arthos, mỉm cười, anh cũng vững dạ.

- Người phụ nữ ấy bao nhiêu tuổi ạ? - Tử tước De Bragelonne hỏi.

- Raoul thân mến của tôi ơi, - Arthos nói, hãy nhớ rằng câu hỏi như vậy từ nay về sau chớ bao giờ lặp lại. Khi anh có thể đoán tuổi trên nét mặt một người đàn bà, thì tuổi người ta là vô ích, còn khi đã không thể đoán mà hỏi thì là tọc mạch.

- Người ấy có xinh đẹp không?

Cách đây mười sáu năm, bà ta không những được coi là xinh đẹp nhất, mà còn là người phụ nữ duyên dảng nhất nước Pháp.

Câu trả lời ấy làm cho cậu tử tước yên tâm hoàn toàn. Arthos không thể có một dự định nào về cậu ta và về một người đàn bà đã được coi là xinh đẹp nhất và duyên dáng nhất nước Pháp một năm trước khi cậu ra đời.

Raoul bèn về phòng mình và với cái tính làm dáng rất hợp với tuổi trẻ, anh làm theo những lời dặn dò của Arthos, nghĩa là ra sức trang điểm cho nó có vẻ đẹp đẽ bảnh bao nhất. Mà cũng là chuyện dễ dàng thôi đối với một con người mà thiên nhiên đã tạo ra sẵn như vậy. Khi cậu lại ra mắt, Arthos đón nhận với nụ cười cha con mà vừa qua anh đã đón tiếp d Artagnan, nhưng nó đượm một niềm vẻ trìu mến sâu xa hơn.

Arthos liếc nhìn chân, tay và tóc Raoul, ba cái dấu hiệu của chủng tộc, giòng giống, mái tóc đen nhành rẽ ngôi giữa theo kiểu thời bấy giờ và buông rũ thành búp khuôn lấy gương mặt có nước da hơi sạm; những đôi găng bằng da hoẵng màu xam xám hoà hợp với cái mũ dạ và làm nổi bật hai bàn tay thanh tú, tao nhã, còn đôi ủng đồng màu với găng và mũ, bó khít đôi bàn chân nhỏ nhắn như chân đứa trẻ mười tuổi.

- Nào, - Arthos lẩm bẩm - nếu nàng không hãnh diện về nó thì đúng là nàng khó tinh.

Lúc ấy là ba giờ chiều, nghĩa là giờ thích hợp cho những cuộc viếng thăm. Hai người đi dọc phố Grenelle sang phố Cây Hồng, vào phố Saint Dominique, và dừng lại trước một dinh thự nguy nga ở trước mặt dinh Jaccobins, và trên có gia huy dòng họ De Luynes.

- Đây rồi, - Arthos nói.

Anh bước vào toà nhà với bước đi đĩnh đạc đường hoàng chứng tỏ cho tên gác cổng Thụy Sĩ rằng người khách vào có quyền như vậy.

Anh bước lên bậc thềm gặp một thằng hầu ăn mặc quần áo dấu ngày lễ. Anh hỏi xem bà công tước de Chevreuse có nhà không và có thể tiếp ông bá tước de La Fère không.

Một lát sau tên hầu ra và nói rằng mặc dầu bà công tước de Chevreuse không được hân hạnh quen biết bá tước de La Fère, nhưng bà vẫn xin mời ông vào.

Arthos theo tên hầu đi qua một dãy dài các gian phòng và cuối cùng dừng lại trước một cửa đóng. Đây là phòng khách. Arthos ra hiệu cho tử tước Bragelonne đứng nguyên tại chỗ.

Tên hầu mở cửa và trình báo là bá tước de La Fère đến.

Bà de Chevreuse mà chúng tôi đã nói đến luôn trong truyện Ba người lính ngự lâm nhưng chưa có dịp đưa lên sân khấu lúc này vẫn được coi như một phụ nũ tuyệt đẹp. Quá vậy, hồi ấy bà đã bốn tư bốn lăm tuổi rồi, mà nom cứ như mới băm tám băm chín; tóc vẫn hoe vàng, cắp mắt to thông minh và linh hoạt mà những âm mưu luôn luôn mở rộng ra và ái tình luôn luôn khép lại, và cái vóc người yểu điệu khiến nhìn đằng sau vẫn như cô thiếu nữ hồi nào cùng với Anne d Autriche nhảy qua cái hào ở Tuileries, cái hào năm 1683 đã cướp đi ngôi báu nước Pháp của một kẻ kế vị.

Vả chăng đó bao giờ cũng vẫn là tạo vật cuồng điên ấy, nó đã ném lên những cuộc tình duyên của mình một dẩu ấn độc đáo đến nỗi những cuộc tình duyên ấy hầu như trở thành một vinh hiển cho gia đình mình.

Bà đang ở trong một khuê phòng mà cửa sổ trông ra vườn. Theo mốt mà bà de Rambouillet đưa ra khi xây dựng dinh thự của mình, khuê phòng ấy chăng một tấm Damas màu lơ thêu hoa hồng và cành lá kim tuyến. Với tuổi của bà de Chevreuse thì ở trong một khuê phòng như vậy là đỏm dáng quá nhất là trong tư thế của bà lúc này, nghĩa là nằm trên một chiếc ghế dài và tụa đầu vào tấm thảm.

Bà cầm một quyển sách hé mở và một cái nệm dỡ cánh tay cầm sách.

Nghe tên hầu báo, bà hơi nhấc mình dậy và tò mò nhô cái đầu ra.

Arthos xuất hiện.

Anh vận đồ nhung tím với những thêu ren cùng màu; các dây tua bịt bạc đánh nâu, áo choàng không có chút thêu kim tuyến nào và một chiếc lông chim giản dị màu tím cắm trên chiếc mũ dạ đen.

Chân anh dận đôi ủng bằng da đen, ở thắt lưng đeo thanh kiếm có cái chuôi lộng lẫy mà Porthos hồi xưa đến phố Fréjus đã từng ngắm nghĩa thèm thuồng nhưng Arthos không bao giờ muốn cho mượn cả.

Những tấm thêu ren làm thành cái cổ áo gập xuống của chiếc sơ mi; những dải đăng-ten cũng rũ xuống đôi ủng.

Trong tất cả con người của vị khách vừa mới được trình báo dưới một cái tên hoàn toàn xa lạ với bà de Chevreuse, toát lên một vẻ quý tộc thượng lưu khiến bà hơi nhổm dậy và ra hiệu một cách duyên dáng mời khách ngồi xuống một chiếc ghế bên cạnh bà.

Arthos thi lễ và ngồi xuống. Tên hầu sắp sửa rút lui thì Arthos ra hiệu giữ hắn lại. Anh nói bà công tước:

- Thưa bà, tôi không được bà quen biết mà dám mạo muội đến trình diện tại quý dinh thự, nhưng đã đạt kết quả vì bà đã chiếu cố tiếp tôi. Bây giờ tôi xin bà ban cho nửa giờ hội kiến.

- Thưa ông, tôi đồng ý, - bà de Chevreuse trả lời với nụ cười duyên dáng nhất.

- Nhưng chưa hết đâu, thưa bà. Ôi! Tôi thật là tham lam quá, tôi biết mà! Cuộc hội kiến mà tôi yêu cầu là một cuộc hội kiến riêng giữa hai người và trong khi ấy có một điều mong mỏi thiết tha là không bị ngắt quãng.

- Lúc này tôi không tiếp cả, - bà công tước de Chevreuse bảo với tên hầu. - Thôi, ra đi.

Tên hầu đi ra.

Một lát im lặng, trong đó hai nhân vật ngay từ lúc thoạt nhìn đã nhận ra nhau ngay là thuộc dòng dõi cao sang, nên ngắm nghía nhau mà chẳng một ai hề thấy lúng túng, bối rối.

Bà công tước de Chevreuse đầu tiên phá tan sự im lặng.

- Thế nào, thưa ông, - bà mỉm cười nói, - Ông không thấy rằng tôi nóng lòng mong đợi ư?

- Còn tôi, thưa bà, - Arthos nói, - tôi nhìn với vẻ thản phục và hâm mộ.

- Thưa ông, - bà công tước nói, - xin ông thứ lỗi tôi muốn được biết ngay tôi nói chuyện với ai. Ông là người trong triều đình đó là điều không thể chối cãi, thế mà tôi chưa hề gặp ông trong cung bao giờ. Phải chăng ông mới ở nhà ngục Bastille ra?

- Thưa bà, không phải, - Arthos cười đáp, - nhưng có lẽ tôi đang ở trên đường dẫn tới đó.

- A! Trong trường hợp ấy, ông hãy mau mau nói rõ ông là ai và đi đi, - bà công tước nói với giọng vui vẻ rất duyên dáng ở bà, - bởi vì tôi đã bị liên lụy khá nhiều như thế rồi, và chẳng còn muốn để mình bị nguy hại thêm nữa.

- Tôi là ai ư, thưa bà? Người ta đã báo tên tôi là bá tước de La Fère. Bà chẳng biết cái tên ấy bao giờ. Ngày xưa tôi mang một tên khác mà có lẽ bà đã biết đấy, nhưng chắc bà đã quên rồi.

- Ông cứ nói đi.

- Ngày xưa, - bá tước de La Fère nói, - tôi tên gọi là Arthos.

Bà de Chevreuse giương to mắt kinh ngạc. Như bá tước nói hiển nhiên là cái tên ấy chưa bị xoá hẳn trong ký ức bà dù rằng nó lẫn lộn trong bao nhiêu kỷ niệm cũ.

- Arthos à? Khoan đã... - Bà nói.

Và bà đặt hai ngón tay lên trán như muốn bắt hàng nghìn ý nghĩ thoáng qua trong đó phải dừng lại giây lát để có thể nhìn rõ ràng trong cái đám lóng lánh và tạp sắc ấy.

- Bà có muốn tôi giúp dỡ một chút không? - Arthos mỉm cười nói.

- Vâng, - bà công tước mệt mỏi vì tìm kiếm đáp, - xin ông vui lòng...

- Cái tên Arthos ấy gắn liền với ba người linh ngự lâm trẻ tuổi tên là d Artagnan, Porthos và...

Arthos ngừng lại:

- Và Aramis, - bà công tước vội vã nói.

- Và Aramis, đúng thế, - Arthos nói tiếp, - vậy là bà không hoàn toàn quên cái tên ấy?

- Không, - bà nói - không đâu, Aramis tội nghiệp! Đó là một nhà quý tộc tuyệt diệu, tao nhã, kín đáo và làm thơ hay, tôi ngờ rằng ông ấy đã gặp bước không may.

- Tồi tệ nhất ấy; ông ta là tu viện trưởng.

- À à! Khổ chưa? - Bà de Chevreuse vừa nói vừa lơ đễnh nghịch nghịch chiếc quạt. - Thật vậy, thưa ông, tôi xin cảm ơn ông.

- Cảm ơn về cái gì, thưa bà?

- Về việc đã nhắc lại với tôi kỷ niệm ấy, nó là một trong những kỷ niệm êm ái nhất thời thanh xuân của tôi.

- Thế bà có cho phép tôi nhắc lại một kỷ niệm thứ hai không, - Arthos hỏi.

- Nó cũng gắn với người kia à?

- Có và không?

- Thật tình, xin ông cứ nói nữa đi, - bà de Chevreuse nói - với một người như ông, tôi mạo hiểm tất cả.

Arthos cúi mình. Rồi nói tiếp:

- Aramis liên hệ với một cô bán quần áo trẻ tuổi ở thành Tour.

- Một cô bán quần áo trẻ tuổi ở thành Tour? - Bà Chevreuse lặp lại.

- Vâng, một cô em họ của ông ta, tên gọi Marie Michon.

- À! Tôi biết cô ta, bà de Chevreuse kêu lên, - chính ông Aramis từ trận vây thành La Rochelle đã viết thư cho cô ấy để báo trước về một cuộc âm mưu tiến hành chống ông Buckingham tội nghiệp ấy.

- Đúng thế, - Arthos nói - bà có vui lòng cho phép tôi nói về cô ta không?

Bà de Chevreuse nhìn Arthos, rồi nói:

- Vâng, miễn là ông đừng nói nhiều điều không hay về cô ấy.

- Tôi sẽ là một kẻ bội bạc, - Arthos nói - và tôi coi sự bội bạc không phải như một khuyết điểm hoặc một tội ác mà là một điều xấu xa, như thế còn tồi tệ hơn.

- Thưa ông, ông mà bội bạc với Marie Michon ư?- Bà de Chevreuse vừa nói vừa thử đọc trong cặp mắt của Arthos. - Nhưng tôi làm sao lại có thể thế được? Chưa bao giờ ông quen riêng cô ta.

- Ồ, thưa bà, biết đâu đấy? - Arthos nói tiếp - Có một câu tục ngữ dân gian nói rằng chỉ có núi non mới không gặp nhau? Và những câu tục ngữ dân gian đôi khi đúng không thể tưởng tượng được.

- Ôi, nói tiếp đi, ông ơi, nói tiếp đi! - Bà de Chevreuse cuồng quít nói, - bởi vì ông không thể tưởng tượng rằng cuộc trò chuyện này làm tôi thích thú biết chừng nào.

- Bà cổ vũ tôi, - Arthos nói - vậy tôi xin nói tiếp. Cô em họ Aramis, cô Marie Michon ấy, rốt cuộc là cô bán quần áo trẻ tuổi ấy, mặc dầu địa vị tầm thường, cô quen biết những người cao sang nhất; cô gọi những mệnh phụ lớn nhất trong triều là bạn bè mình, và hoàng hậu dù kiêu hãnh đến mấy với tư cách vừa là người Áo vừa là người Tây Ban Nha, cũng gọi cô là em gái mình.

- Than ôi! - Bà de Chevreuse khẽ buông một tiếng thở dài và hơi nhíu đôi lông mày, động tác chỉ riêng bà có và nói. - Từ ấy đến nay đã bao sự đổi thay.

- Và Hoàng hậu rất đúng, - Arthos nói tiếp, bởi vì cô ta hết lòng tận tụy với bà đến mức làm trung gian cho bà với anh của bà ấy là vua Tây Ban Nha.

- Do việc ấy cô ta bị quy vào một trọng tội, - bà de Chevreuse nói.

- Đến nỗi, - Arthos nói, - ngài giáo chủ ngài giáo chủ thực sự kia cơ một buổi sớm nọ đã quyết định cho bắt cô Marie Michon tội nghiệp và đưa hẳn đến lâu đài Loches. May thay chuyện ấy không thể làm bí mật, đến mức nó không thoát ra ngoài được. Trường hợp ấy đã được dự phòng: nếu Marie Michon bị một mối nguy hiểm nào đó đe doạ, hoàng hậu sẽ phải gửi tới cho cô một cuốn sách kinh nhật tụng đóng và bọc bằng nhung xanh.

- Đúng thế thưa ông? Ông biết thật là tường tận.

- Một buổi sáng, cuốn sách xanh được hoàng thân Marcillac mang tới. Không còn thì giờ nữa. May thay, Marie Michon và một nữ tỳ của cô tên là Ketty mặc quần áo đàn ông hợp một cách tuyệt vời. Hoàng thân cấp cho Marie Michon một bộ quần áo kỵ sĩ và cho Ketty một bộ quần áo thằng hầu, giao cho họ hai con ngựa thật tốt, và hai kẻ chạy trốn nhanh chóng rời khỏi thành phố Tour về phía Tây Ban Nha. Họ run sợ trước mỗi tiếng động nhỏ, men theo những con đường quanh co vì không dám đi theo đường cái và khi nào không gặp hàng quán thì tìm nhà xin nghỉ trọ.

- Thực hoàn toàn đúng vậv, - bà de Chevreuse vỗ tay kêu lên - Nhưng thật là lạ lùng.

Bà ngừng bặt.

- Rằng tôi đã theo dõi hai người chạy trốn từ đầu đến cuối cuộc hành trình, phải không? - Arthos nói. - Không đâu, thưa bà, tôi sẽ chẳng lạm dụng thời giờ của bà như vậy, mà tôi chỉ đi theo họ tới một làng nhỏ vùng Limousin, ở giữa Tulle và Angoulême, một làng nhỏ tên là Roche - l Abeille.

Bà de Chevreuse thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc và nhìn Arthos với vẻ sửng sốt khiến anh lính ngự lâm cũng mỉm cười.

- Khoan đã, thưa bà, Arthos nói tiếp, - bởi vì điều còn lại để nói với bà sẽ khác hẳn điều mà tôi đã nói.

- Thưa ông, - bà de Chevreuse nói, - tôi ngỡ ông là một thày phù thủy, tôi sẵn sàng nghe tất cả, nhưng thực ra..., thôi, không sao, xin ông cứ tiếp tục.

- Lần ấy, ngày sao mà dài lê thê và mệt mỏi thế, trời thì rét, đó là ngày mười một tháng Mười. Trong làng không có hàng quán hay lâu đài nào, nhà ở của nông dân thì tiều tụy bẩn thỉu. Marie Michon là một người rất quý phái giống như hoàng hậu chị cô, cô đã quen với hương hoa và áo quần là lượt; cô bèn quyết định xin nghỉ trọ ở nhà một mục sư.

Arthos ngừng một lát.

- Ồ! Nói tiếp đi, - nữ công tước nói, - tôi đã bảo trước ông là tôi sẵn sàng chờ đợi mọi chuyện mà.

- Hai lữ khách gõ cửa, lúc ấy đã muộn, vì mục sư đã đi nằm, bảo họ cứ vào họ vào vì cửa không đóng. Trong các làng người ta sống rất tin cậy. Một ngọn đèn thắp trong buồng mục sư. Marie Michon, đóng vai một chàng kỵ sĩ tuyệt diệu nhất trần đời, đẩy cửa, thò đầu vào và xin nghỉ trọ.

- Rất sẵn sàng, chàng kỵ sĩ trẻ ạ, - mục sư nói, - nếu như anh vui lòng với bữa tối còn lại của tôi và với nửa căn phòng này của tôi.

Hai lữ khách trao đối với nhau một lát, vị mục sư nghe họ cười phá lên, rồi ông chủ hay nói đúng hơn bà chủ đáp:

- Cám ơn mục sư tôi nhận lời.

- Vậy thì các bạn ăn đi và cô giữ thật yên lặng, - mục sư nói, - bởi vì tôi cũng đã chạy cả ngày và chẳng phiền lòng nếu được ngủ đêm nay.

Rõ ràng bà de Chevreuse đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt và từ sửng sốt đến rụng rời; nhìn Arthos gương mặt bà có một vẻ biểu hiện không thể nào tả nổi; người ta thấy như là muốn nói, song lại ím lặng, sợ bỏ sót một lời nào của người đối thoại.

- Rồi sao nữa? - Bà hỏi.

- Rồi sao ư? - Arthos nói - đúng là chỗ khó nói nhất.

- Nói đi, nói đi, cứ nói đi! Có thể nói với tôi tất cả. Vả chăng chuyện ấy không can hệ gì đến tôi, đó là chuyện của cô Marie Michon.

- À đúng thế! - Arthos nói - Vậy xin kể tiếp. Marie Michon ăn cùng với con hầu, và ăn xong, theo điều đã được cho phép, cô trở vào căn phòng nơi vị chủ nhà nghỉ, còn Ketty ngả lưng trên chiếc ghế bành ở ngăn đầu tiên, tức là nơi họ vừa ăn.

- Thưa ông, - bà de Chevreuse nói, trừ phi ông là ma quỷ hiện hình, thực tình tôi không hiểu, làm thế nào mà ông biết rõ từng chân tơ kẽ tóc như vậy.

- Cái cô Marie Michon ấy thật là một người đàn bà kiều diễm, - Arthos nói tiếp, - đó là một trong những tạo vật điên cuồng, trong đầu óc luôn luôn có những ý nghĩ lạ lùng nhất, đó là một trong những sinh vật sinh ra để làm tình làm tội tất cả chúng ta chừng nào chúng ta còn tồn tại. Nhân nghĩ rằng chủ nhà là một vị mục sư, cô gái đỏng đảnh nảy ra ý nghĩ rằng giữa muôn vàn những kỷ niệm vui tươi mà mình đã sẵn có, thì đây có khi sẽ là một kỷ niệm thú vị cho tuổi già của cô là đã làm tội một kẻ tu hành.

- Bá tước ơi, xin thề là ông làm cho tôi kinh hãi lắm!

- Than ôi! - Arthos lại tiếp, - vị mục sư tội nghiệp chẳng phải là một ông thánh Ambroise, mà cô Marie Michon, tôi xin nhắc lại, là một tạo vật đáng yêu quý.

Bà công tước nắm lấy tay Arthos mà kêu lên:

- Ông ơi, hãy nói ngay lập tức cho tôi biết làm sao mà ông biết hết ngọn ngành chuyện ấy, nếu không tôi sẽ gọi một thày tăng ở tu viện Vieux - Augustins đến để trừ tà cho ông.

Arthos bật cười nói:

- Thưa bà chằng có gì dễ hiểu hơn. Một kỵ sĩ, được trao một sứ mệnh quan trọng đến xin ngủ trọ ở nhà mục sư một tiếng đồng hồ trước khi cô ấy đến, và đúng lúc ấy, mục sư được mời đi tới chỗ một kẻ sắp chết, ông ta vội rời không những khỏi nhà mình mà rời khỏi làng đi suốt đêm. Thế là người của Chúa đầy lòng tin cậy ở vị khách trọ của mình, mà vị khách này cũng là một nhà quý tộc, nên ông đã bỏ lại cho khách cả nhà cửa, bữa ăn tối và phòng nghỉ. Như vậy là Marie Michon đã ngỏ lời xin nghỉ trọ không phải với vị mục sư mà với khách của mục sư.

- Thế người kỵ sĩ ấy, vị khách ấy, vị quý tộc ấy đã đến trước cô ta là ai?

- Chính tôi, bá tước de La Fère, - Arthos vừa nói vừa đứng dậy và cung kính chào nữ công tước de Chevreuse.

Nữ công tước qua một lát kinh hoàng, rồi bỗng bật cười nói:

- Ôi! Thực tình mà nói, thật là kỳ khôi và cái cô Marie Michon điên dại ấy đã tìm thấy hơn cả điều mình mong ước. Bá tước thân mến, hãy ngồi xuống và kể tiếp đi nào.

- Bây giờ còn lại điều tôi tự buộc tội mình. Tôi đã nói với bà rẳng, chính tôi tôi cũng đi vì một sứ mệnh cấp bách; từ mờ sáng tôi đã lặng lẽ ra khỏi phòng, để mặc cho người bạn đồng phòng của tôi ngủ tiếp. Trong gian ngoài, cô hầu cũng vẫn ngủ, đầu ngả trên ghế bành, trông thật xứng đáng với bà chủ. Khuôn mặt xinh đẹp của cô ta làm tôi chú ý, tôi tiến gần lại và nhận ra cô bé Kettty mà anh bạn Aramis của chúng tôi đã thu xếp cho theo hầu bà ta. Do đó mà tôi biết được rằng người lữ khách kiều diễm là...

- Marie Michon? - Bà de Chevreuse vội vã cướp lời.

- Marie Michon, - Arthos nhắc lại - Thế là tôi ra khỏi nhà, đến chuồng ngựa, thấy ngựa đã thắng yên cương và tên hầu của tôi đã sẵn sàng, chúng tôi ra đi.

- Thế không bao giờ ông quay trở lại cái làng đó à? Bà de Chevreuse hấp tấp hỏi.

- Thưa bà, một năm sau.

- Thế sao?

- Tôi muốn thăm lại mục sư tử tế ấy. Tôi thấy ông đang bận về một chuyện mà ông chẳng hiểu gì cả.

Trước đó tám ngày, ông nhận được một chiếc nôi nhỏ trong có đứa con trai ba tháng với một túi đầy tiền vàng và một mảnh giấy ghi mấy dòng chữ đơn giản "11 tháng Mười, năm 1633".

- Đó là ngày xảy ra cuộc phiêu lưu kỳ lạ ấy, - bà de Chevreuse nói.

- Phải, nhưng ông mục sư không hiểu gì ngoài việc đêm hôm ấy ông đã ở bên cạnh một kẻ sắp chết, bởi vì Marie Michon cũng đã rời khỏi nhà mục sư trước lúc ông trở về.

- Ông biết không, năm 1643 khi Marie Michon trở về Pháp đã cho hỏi ngay tin tức về đứa trẻ, bởi vì đang lẩn trốn cô không thể trông nom nó được; nhưng sau về Paris cô ấy muốn được nuôi nấng dạy dỗ nó ở bên mình.

- Thế vị mục sư nói gì với cô ta? - Đến lượt Arthos hỏi.

- Ông ấy cho biết là một vị lãnh chúa mà ông không quen biết đã có ý muốn nhận nuôi nó, bảo đảm tương lai cho nó và đã mang nó đi theo.

- Sự thật là như vậy.

- A! Tôi hiểu rồi? Vị lãnh chúa ấy chính là ông đây, chính là cha thằng bé?

- Sụyt! Đừng nói to thế bà ơi, nó ở ngoài kia.

- Nó ở ngoài kia à? - Bà de Chevreuse kêu lên và vội vàng đứng dậy - Nó ở kia, con trai của tôi, con trai của Marie Michon ở kia! Tôi muốn gặp nó ngay bây giờ!

- Xin bà hãy chú ý đừng để nó biết rõ cha nó và mẹ nó, - Arthos ngắt lời.

- Ông đã giữ kín điều bí mật, và ông đã dẫn nó tới đây vì nghĩ ràng nó sẽ làm cho tôi sung sướng. Ôi, xin cảm ơn, xin cảm ơn ông!

Bà de Chevreuse vừa kêu lên vừa nắm chặt lấy tay Arthos và cố đưa lên môi hôn.

- Xin cảm ơn! Ông là một tấm gương cao quý.

Arthos vừa rút bàn tay vừa nói:

- Tôi dẫn nó đến đây với bà, để đến lượt bà cũng làm cho nó một cái gì. Cho tới nay tôi đã trông nom việc giáo dục nó và tin rằng đã khiến nó trở thành một người quý tộc hoàn tất, nhưng đã đến lúc tôi thấy mình buộc phải sống trở lại cuộc đời lang thang và nguy hiểm của người đảng phái. Ngay ngày mai tôi sẽ lao vào một công việc phiêu lưu và có thể bị giết chết; thế là sẽ chỉ còn có bà để đẩy nó vào thế giới thượng lưu mà nó được gọi đến để giành một vị trí.

- Ồ! Ông yên tâm? - Bà công tước nói. - Tiếc thay lúc này tiền nong tôi không còn mấy, nhưng cái gì còn lại của tôi là của nó; còn về vận hạnh và tước vị của nó thì...

- Về điều này bà khỏi phải lo: tôi đã cho nó thừa hưởng lãnh địa Bragelonne mà tôi thừa kế, lãnh địa ấy sẽ cho nó nhận tước vị tử tước và mười nghìn livres niên thu.

- Thưa ông, - nữ công tước nôi, - tôi xin lấy linh hồn mình ra mà thề rằng ông là một nhà quý tộc chân chính! Nhưng tôi đang nóng lòng gặp chàng tử tước trẻ tuổi của chúng ta. Cậu ta đâu?

- Ở ngoài phòng khách kia, tôi sẽ bảo nó vào.

Arthos toan bước ra cửa, thì bà de Chevreuse ngăn lại.

- Nó có đẹp không? - Bà hỏi.

Arthos mỉm cười đáp:

- Nó giống mẹ nó.

Cùng lúc anh mở cửa và ra hiệu cho chàng trai trẻ vào, cậu xuất hiện ở ngưỡng cửa.

Bà de Chevreuse không thể ngăn mình thốt lên một tiếng kêu lên mừng rỡ, khi trông thấy một chàng kỵ sĩ tuấn tú đến thế, thật vượt mọi kỳ vọng mà niềm kiêu hãnh của bà có thể ấp ủ.

- Tử tước, lại gần đây, bà công tước de Chevreuse cho phép anh hôn tay bà.

- Cậu thiếu niên bước lại với một nụ cười duyên dáng, rồi ngả mũ, quỳ đầu gối xuống đất và hôn tay bà de Chevreuse.

- Thưa bá tước, - cậu quay về phía Arthos mà nói, - phải chăng vì muốn nương nhẹ tính nhút nhát của tôi mà ông nói rằng đây là nữ công tước de Chevreuse, và đúng ra là hoàng hậu phải không ạ?

- Bà de Chevreuse cầm lấy tay cậu, kéo ngồi xuống bên cạnh mình và nhìn cậu bằng cặp mắt long lanh mừng vui và nói.

- Không phải đâu, tử tước ơi. Tiếc thay tôi không phải là hoàng hậu, vì rằng nếu là hoàng hậu thì ngay lúc này đây, tôi sẽ làm cho anh tất cả những gì mà anh xứng đáng, nhưng nào, - bà khó lòng tự ghìm mình áp đôi môi lên vầng trán đến là thanh khiết của cậu và nói tiếp - Nào anh thích làm nghề gì?

Arthos đứng ngây ra nhìn hai người với vẻ sung sướng khôn tả.

Bằng một giọng vừa êm ái vừa vang vang, Raoul nói:

- Thưa bà, đối với một quý tộc, hình như chỉ có một nghề, đó là binh nghiệp. Ông bá tước đã dạy dỗ tôi với một ý định là làm tôi thành một người lính, tôi chắc thế, và ông đã để cho tôi hy vọng là sẽ giới thiệu tôi với một vị nào đó ở Paris có thê tiển cử tôi với ngài Hoàng thân.

- Phải tôi hiểu, một binh sĩ trẻ như anh mà phục vụ dưới quyền một vị tướng như ông ta thì thật là hợp quá.

- Nhưng này, khoan đã... quan hệ cá nhân giữa tôi với ông ta không được tốt lắm, do những chuyện xích mích giữa bà de Montbazon, mẹ ghẻ tôi, với bà de Longueville; nhưng qua hoàng thân de Marcillac là bạn cũ của tôi, ông sẽ giới thiệu anh bạn trẻ của chúng ta với bà de Longueville, bà sẽ viết một bức thư cho anh bà, ông hoàng thân, ông ấy yêu mến bà ta quá tha thiết nên không thể không làm ngay tức khắc cho bà tất cả những gì bà đòi hỏi.

- Thế là mọi chuyện được thu xếp rất tuyệt, - bá tước nói - Song bây giờ liệu tôi có dám dặn dò bà một điều khẩn gấp bậc nhất không? Tôi có lý do để mong muốn rằng chiều ngày mai tử tước không ở Paris nữa.

- Thưa bá tước, ông có ý muốn rằng người ta biết là ông quan tâm đến anh ta không?

- Tốt hơn hết đối với tương lai của anh ta có lẽ là đừng để ai biết rằng anh ta đã từng quen biết tôi.

- Ôi, thưa ông! - Chàng trẻ kêu lên.

- Bragelonne này, - bá tước nói, anh biết rằng tôi không bao giờ làm điều gì mà không có lý do.

- Vâng, thưa ông, - chàng trai trẻ nói, - tôi biết rằng ở ông là sự khôn ngoan cực điểm, và tôi sẽ tuân lời ông như tôi đã từng quen làm như vậy.

- Thôi, bá tước cứ để anh ấy cho tôi, - nữ công tước nói. - Tôi sẽ cho đi tìm hoàng thân de Marcillac, may ra lúc này ông ấy đang ở Paris, và tôi sẽ không rời anh ta chừng nào công việc chưa xong.

- Tốt lắm, thưa bà công tước, xin đa tạ bà. Hôm nay tôi cũng có nhiều nhiều việc phải làm và lúc trở về, tức là khoảng sáu giờ chiều, tôi sẽ đợi tử tước ở khách sạn.

- Tối nay ông làm gì?

- Chúng tôi sẽ đến tu viện trưởng Scarron vì có thư cho ông ấy và cũng sẽ gặp một người bạn ở đấy.

- Được rồi, - bà công tước nói, - tôi sẽ qua đấy một lát, vậy ông chớ từ giã phòng khách này trước khi gặp tôi.

Arthos chào bà de Chevreuse và sửa soạn ra đi.

- Ơ này, ông bá tước, - bà công tước cười nói - người ta từ giã bạn bè một cách nghiêm khắc đến thế ư?

- A!- Arthos lẩm bẩm và hôn tay bà.

- Nếu như trước đây tôi đã biết sớm rằng Marie Michon là một con người tuyệt vời đến thế!

Anh vừa rút lui vừa thở dài.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top