01
Lại một buổi sáng tôi đánh bại chiếc đồng hồ báo thức vô tri vô giác. Nó ngồi lặng lẽ trên kệ, dõi theo tôi bằng vòng tròn tẻ nhạt của những con số, và khi kim giây chạm đỉnh, nó bùng lên với tiếng kêu đầy mệnh lệnh. Căn phòng gọn gàng đã ngập trong ánh sáng. Chỉ vài giờ trước, nơi này còn là một chiếc hộp đen ngòm giam giữ tôi suốt cả đêm dài.
"Chào cậu Minhyung, mời cậu dùng bữa sáng."
Lời chào của chị giúp việc chỉ là một lời nhắc nhở rằng tôi còn sống, còn có nhiệm vụ phải hoàn thành. Hồi còn nhỏ, tôi đã từng ngây ngô kể cho chị nghe về những cơn ác mộng hay giấc mơ trở thành anh hùng mỗi khi thức giấc. Giờ nghĩ lại, tôi chỉ thấy bản thân mình hồi ấy mới ngớ ngẩn làm sao. Những giấc mơ đã rời bỏ tôi từ lâu, thay vào đó là những đêm vật vã tìm kiếm giấc ngủ hoài chẳng thấy. Tôi chẳng có gì để đáp lại chị, ngoài một cái gật đầu máy móc cho có lệ.
Chị chuẩn bị cho tôi một bữa sáng như mọi ngày: bánh mì nướng và hai quả trứng ốp la. Chiếc đĩa sứ được đặt ngay ngắn trước mặt tôi, không xê dịch, không lệch lạc. Thú vui nhỏ nhoi của tôi mỗi sáng chính là quan sát cái đĩa ấy, xem lát bánh mì và hai quả trứng có lệch đi một chút nào so với ngày hôm qua hay không.
Bố bước vào phòng ăn, lạnh nhạt hỏi tôi về việc học, và rồi lại bóng gió về việc khi nào tôi mới thôi làm cái công việc ngoài giờ "quái gở" kia. Đối với người thành đạt như ông, việc một thằng sinh viên năm cuối đi làm thêm ở quán cà phê chẳng khác nào một sự sỉ nhục, và ông đã càm ràm liên tục suốt hai năm nay. Ông đang không vui, nên tôi cũng chẳng muốn làm ông thêm khó chịu.
Cả sản nghiệp đồ sộ của ông đều trông cậy vào tôi tiếp quản. Đương nhiên rồi, vì trong cái nhà này, chỉ còn mình tôi là đủ khả năng, và đủ nghe lời. Anh chị tôi đều đang bay nhảy ở mấy phương trời xa lắc xa lơ, tự do hưởng thụ cuộc sống riêng của họ. Chỉ còn tôi, đứa con trai ngoan ngoãn luôn ngồi đây bên ông dùng bữa sáng như một nghi thức bất di bất dịch, bất chấp tâm trạng của tôi và ông có dở tệ tới nhường nào.
Tôi đã hứa với bố rằng sau khi tốt nghiệp, tôi sẽ từ bỏ công việc làm thêm ở tiệm cà phê, dù lòng tôi chẳng muốn. Cái tiệm tồi tàn—như lời ông nhận xét—lại là nơi duy nhất mang lại cho tôi chút bình yên trong tâm hồn. Ở đó, ít nhất tôi thoát khỏi cái lồng bằng vàng mà bố tôi, và trước đó là ông tôi, đã dày công xây dựng qua hai đời người chỉ để nhốt tôi vào trong.
Trong cái ngục tù an ổn này có gì? Có tất cả chăng? Tôi không biết nữa. Có lẽ là vậy, bởi vì tôi chưa từng thiếu thốn cái gì. Khi còn nhỏ, lúc vẫn còn thích thú với việc sưu tập đồ chơi, tôi có đủ cả một kho tàng. Sách truyện—dù tôi có thích hay không—bố đều mua về chất đầy mấy tủ. Khi tôi muốn học đàn, ông thuê thầy về dạy. Tôi từng bảo mình muốn ăn cơm nhà, lập tức đã có một người giúp việc tận tâm chăm sóc tôi suốt chục năm nay.
Cái gì ông ấy cũng cho tôi, chỉ không muốn tôi đi làm ở tiệm cà phê ấy.
Có lẽ, tôi có tất cả, trừ quyền lựa chọn.
Nhưng bố lại thường bảo, "nếu đã có tất cả, thì sao phải lựa chọn làm gì?"
Đây chính là câu cửa miệng của ông, ông đã dạy tôi điều này từ tấm bé. Phải mãi cho đến lúc này, năm 22 tuổi, tôi mới ngộ ra rằng đây không phải là một đặc quyền.
Tôi vừa biết ơn bố, lại vừa giận ông. Vì ở trong cái lồng bằng vàng này, tôi không có điều duy nhất mà mình hằng mong muốn. Con người lại tình cờ chính là loài động vật kì quái nhất. Họ chỉ ham mê những thứ họ không thể có được mà thôi.
Những buổi học ở trường thường trôi qua nhạt nhẽo đến vô vị. Giáo sư vẫn lặp đi lặp lại những bài giảng mà năm nào họ cũng ra rả nhồi vào đầu lũ sinh viên như bọn tôi. Bọn tôi chẳng khác gì nhau, đều ngồi đây, ra trường, chỉ để đi làm những công việc mà người ta bảo rằng chúng tôi nên làm.
Mấy lời sáo rỗng như "mỗi người trong số các bạn đều là độc nhất," tôi đã nghe đến nhàm cả tai. Tôi cho rằng con người chỉ thực sự khác biệt cho tới năm họ lên sáu. Ngay từ cái ngày đầu tiên bước vào trường tiểu học, chúng tôi đã bị nhét vào một cái khuôn chật hẹp. Mười hai năm miệt mài sau đó, tất cả đều bị nhào nặn thành những phiên bản giống nhau đến tầm thường. Chắc chắn rằng không có nhiều người trong số chúng tôi lựa chọn lộ trình ấy một cách tự nguyện.
Nếu sớm biết rằng việc đỗ đại học chẳng qua cũng chỉ là cái cớ để tiếp tục chui đầu vào một cái khuôn mới, có lẽ tôi đã không cực nhọc ôn thi tới mỗi hai mắt tôi suýt mù. Thôi thì, ít nhất tôi cũng là một sinh viên của trường đại học hàng đầu Hàn Quốc. Ít nhất, điều đó cũng đủ để làm bố tôi vui.
Chỉ khi lui về cái chốn bình yên nhất cõi đời này, quán cà phê của anh Sanghyeok, tôi mới tạm quên đi mình là ai trong vòng vài giờ đồng hồ. Thời gian tôi giành ra ở đấy cũng chẳng nhiều, một tuần chỉ có 20 tiếng, nhưng cái tiệm mà bố tôi gọi là "tồi tàn" ấy lại kì diệu lắm.
Anh Sanghyeok—chủ quán—hiền như cục đất, đã 28 tuổi nhưng vẫn chưa có người yêu chứ đừng nói tới vợ con. Dáng người anh cao dong dỏng, thường đứng sau quầy pha chế. Khi rảnh rỗi, anh sẽ dựa lưng vào tường nghiền ngẫm sách truyện văn chương. Đọc xong, anh sẽ đặt chúng vào tủ sách ở tiệm để những người khách tiếp theo đọc miễn phí. Dù chỉ là chủ một tiệm cà phê nhỏ giữa lòng Seoul đất chật người đông nhưng cái gì anh cũng biết. Nếu anh ấy và bố tôi cùng ngồi lí luận, có lẽ ông cũng chẳng bì được với người trên thông thiên văn dưới tường địa lý như anh.
"Lee Minhyung, đi làm muộn, trừ lương." Thấy tôi mở cánh cửa gỗ bước vào, anh nghiêm mặt bông đùa bằng câu mà ngày nào anh cũng nói.
"Giáo sư nói nhiều quá. Ngốn thêm của em chục phút chứ chẳng ít."
Tôi chỉ lỡ ngáp một cái, anh đã cau mày.
"Trông em tiều tuỵ quá. Sao không xin nghỉ một hôm đi?"
Tiều tuỵ à? Dạo này nhiều người gặp tôi đều bảo vậy, nhưng tôi thấy bình thường, cơm vẫn ăn, chỉ là đêm về khó ngủ. Nếu ngay cả anh Sanghyeok cũng không muốn tôi có mặt ở tiệm, tôi sẽ chẳng còn nơi nào để tạm lánh đi, để giết chết một ngày đã trôi quá lưng chừng.
Tôi lờ đi thắc mắc của anh, anh cũng lơ đi không hỏi nữa. Bọn tôi đã giữ mối quan hệ ông chủ-nhân viên được hai năm nay, nhưng thực chất lại thấu hiểu nhau như người thân trong nhà. Tôi mến anh như anh trai ruột, nhưng lại chẳng dám mong anh cũng thương mình như một đứa em trai. Cứ lẳng lặng mà thấu hiểu cho nhau, đối với tôi, đã là quá đủ.
Tôi thuần thục lấy ra cái tạp dề ở cái tủ gỗ bên quầy. Mùi cà phê ám vào trong đó thơm nức mũi. Cầm tạp dề hít hít ngửi ngửi thì lại không hợp vệ sinh, nên tôi toàn lén đứng bên máy rang cà phê những khi vãn khách, như lúc này.
Yên bình của tôi chính là mùi hương ngạt ngào xông vào mũi, là nhạc jazz anh thích ru vào tai, là những gương mặt bình thản đang ngồi mỗi người một góc, cách mặt đường xô bồ chỉ một tấm kính. Đứng sau quầy pha chế thơm mùi gỗ, thơm cả những nốt mùi đậm nhạt của nước hoa, của nguyên liệu, tôi mới cảm thấy cuộc đời mình đỡ đáng ghét đi một chút.
Danh sách nhạc jazz mà Sanghyeok đang phát tôi đã nghe đến thuộc, ngay sau Julian Lage sẽ tới Kurt Rosenwinkel. Tôi và anh Sanghyeok trùng họ, nên ngay cả tên tiệm, Lee's, cũng khiến tôi cảm thấy được vỗ về an ủi.
Tôi yêu nơi này. Mọi thứ đều ngăn nắp, gọn gàng, và trong tầm kiểm soát. Tôi đã quen với Lee's tới nỗi còn gắn bó với nó hơn chính ngôi nhà mà mình đã sống hơn hai chục năm nay.
Bỗng hai quả chuông đồng trên cửa chính kêu lên leng keng, cắt ngang mạch tâm trạng của tôi. Lại là vị khách này, tuần nào cậu ta cũng tới.
Và tôi chẳng ưa cậu ta chút nào.
Cậu ta lướt vào như một bóng ma, không để lại chút tiếng động nào trên mặt sàn lẽ ra phải kêu cót két. Áo khoác đen phủ kín thân hình nhỏ bé, đơn giản nhưng kiêu kỳ và bụi bặm, như thể cậu vừa bước ra từ một thế giới khác, một thế giới mà tôi không biết, cũng chẳng muốn biết. Khuôn mặt cậu thanh tú đến mức dễ khiến người khác lầm tưởng là con gái, nhưng trong mắt tôi, vẻ ngoài đó không thể che đậy được sự thật kinh khủng bên trong.
Cậu ta chẳng phải là loại người tốt lành gì.
Cậu không nói gì, chỉ gật đầu chào anh Sanghyeok rồi tự chọn cho mình một góc xa. Khác với những vị khách khác, cậu không bao giờ cởi áo khoác, không bao giờ gọi món tại quầy. Cậu chỉ ngồi đó, lặng lẽ và tách biệt, đôi mắt lơ đãng hướng ra ngoài cửa sổ như thể đang tìm kiếm thứ gì đó mà tôi không thể thấy được. Có lẽ, cậu ta cũng giống tôi, cũng chọn chỗ này làm nơi ẩn náu. Tôi đoán thế thôi, chứ tôi chẳng quan tâm.
Sự hiện diện của người này khiến tôi bất an, như thể cậu ta đang tiến vào phòng ngủ của tôi mà không thèm cởi giày. Cậu ta tới đây, mang vào trong không gian thân thuộc của tôi một làn gió lạ, cuốn theo cả bụi bặm, cùng một cơn lạnh lẽo khiến tôi nổi da gà.
Tôi quay lại quầy pha chế, cố gắng dồn hết sự chú ý vào âm thanh tách tách của những hạt cà phê rơi vào khay. Nhưng, từng hạt rơi xuống cũng không thể át nổi sự hiện diện đầy bí ẩn ấy, dù cậu chỉ ngồi yên một góc. Cậu ta không làm gì quá đặc biệt khiến tôi khó chịu—có lẽ tôi không ưa chính cái cách cậu ta tồn tại và chẳng ưa lối sống của cậu ta.
Cậu ta thường xuất hiện ở quán với một người đàn ông bên cạnh—có vẻ là người tình. Nhưng mỗi lần cậu lại mang đến đây một gương mặt mới, không bao giờ trùng lặp. Đó mới là điều khiến tôi bận tâm.
Thỉnh thoảng, tôi còn tự hỏi rằng liệu có phải mình quá cổ hủ và nhỏ nhen hay không. Dẫu vậy, lý trí của tôi luôn phản bác, thì thầm rằng trên đời này, chẳng có mấy ai là chấp nhận được kiểu người chỉ yêu đương tạm bợ như vậy.
Đến người xấu tính cục cằn như bố đẻ của tôi, cả đời cũng chỉ yêu duy nhất một người phụ nữ. Kể từ khi bà mất, ông vẫn đau buồn đến nỗi không thể tái hôn.
Những quy tắc và chuẩn mực mà tôi đã sống theo từ nhỏ sẽ chẳng bao giờ cho phép tôi cảm thông cho cậu. Vậy là tôi cứ âm thầm căm ghét cậu ta như thế đấy.
Anh Sanghyeok bảo tôi hãy mang cà phê ra cho cậu, dù tôi đã thở dài một cái thật to để tỏ rõ nỗi bất bình. Lần này cậu ta sẽ phản ứng thế nào, hay sẽ chỉ im lặng như những lần trước đó? Tôi chỉ biết rằng mình không thể cãi lời ông chủ. Khách hàng dù có trông ngứa mắt tới đâu thì vẫn là thượng đế.
Dẫu thấm nhuần đạo đức nghề nghiệp là vậy, nhưng khi đặt cái tách sứ lên mặt bàn gỗ nơi cậu ngồi, tôi vẫn thấy bức bối như thể đang mặc một cái áo len bông xù giữa trời hè.
Cậu ta đã phá hỏng ca làm thêm ngắn ngủi chỉ kéo dài 5 tiếng của tôi. Góc ẩn náu yên bình này đột nhiên lại bị những điều không thể lường trước làm cho hỗn tạp.
Y như cái cách mà cậu ta đột nhiên lại xuất hiện một mình, không mang theo bất kì người đàn ông nào; đột nhiên lại bắt chuyện với tôi sau bao lần chỉ lẳng lặng lướt qua nhau.
"Trong này có gì? Lại là cà phê đen?" Cậu ta hỏi.
"Đúng vậy," tôi đáp, khô khốc như lớp sơn nứt trên tường. Nếu như cậu đã không tự gọi món, thì tốt nhất đừng nên thắc mắc về thứ mà ông chủ từ bi của tôi đã lựa chọn cho cậu.
Cậu ta nhìn chằm chằm vào tách sứ, đôi mắt nâu trống rỗng đang suy tư gì đó mà tôi chẳng tài nào đọc được. Có lẽ, trong cái thế giới xa lạ và bụi bặm mà cậu ta thuộc về, những thứ như cà phê chẳng phải thứ để người ta thực sự thưởng thức, mà chỉ đơn giản là chất kích thích cho một cuộc sống luôn cần thúc đẩy. Cậu ta có vẻ không kén chọn, nhưng lại cứ ngẩn ngơ ra đấy vì suy tư.
"Thế cậu có biết," cậu ta nói tiếp, "cà phê thực ra là thứ có thể phản ánh con người không?"
Tôi khẽ nhíu mày. "Phản ánh cái gì?"
"Phản ánh cách người ta đối diện với cuộc sống," cậu ta nhấp một ngụm cà phê, không biểu lộ chút phản ứng nào trước vị đắng khét của nó. "Một số người thích thêm đường, thêm sữa, vì họ sợ hãi đối diện với sự thật đắng ngắt. Một số lại thích cà phê đen, vì lí do ngược lại."
Tôi đứng đó, bất động, không biết phải đáp lại thế nào. Cái cách mà cậu ta nói về cuộc sống, về cà phê một cách đầy thách thức làm tôi bất giác thấy mình ngây thơ đến đáng thương. Đạo đức nghề nghiệp? Khách hàng là thượng đế? Bỗng chốc, tất cả đều trở nên thật nực cười.
"Cậu thích cà phê đen?" Tôi buột miệng hỏi mà không kịp suy nghĩ. "Cậu nghĩ cậu can đảm đến vậy sao?"
Cậu ta nhướng mày, lắc đầu nhẹ, như thể tôi vừa hỏi một câu ngớ ngẩn lắm. "Tôi không uống cà phê vì sợ hay vì tôi thích, tôi uống vì không còn thứ gì khác để làm tôi tỉnh táo." Cậu ta nhấp thêm một ngụm, lần này tôi để ý thấy đôi môi khẽ mím lại. "Nhưng tôi không thích cách mà cà phê đen có thể phản chiếu gương mặt tôi như một tấm gương. Có lẽ cậu nói đúng, tôi không can đảm lắm đâu."
Lời cậu ta nói cứ văng vẳng trong đầu tôi, như tiếng vo ve khó chịu của một con muỗi quấy rối đêm hè oi bức. Một kẻ như cậu, tại sao lại cần phải "tỉnh táo"? Và cậu ta đang cố tỉnh táo khỏi điều gì vào lúc chiều muộn như thế này?
Bất chợt, cậu ta đẩy chiếc tách trống về phía tôi, khiến tôi giật mình. "Thêm một ly nữa. Tôi muốn thử lại." Cậu đã uống hết tách cà phê nóng chỉ trong vòng có vỏn vẹn mấy giây.
Tôi quay người đi, cố tình bỏ lại cảm giác bối rối đang cuộn lên trong lòng nhưng không thể. Cậu ta đã khơi dậy trong tôi một sự tò mò đầy khó chịu cùng một cơn bực bội khó gọi tên.
Những lời cậu nói vừa xô nhẹ lên tôi. Cuộc sống ngăn nắp của tôi lại bị chúng làm cho lộn xộn.
Thật sự rất đáng ghét.
Tôi chỉ vừa chạm tay lên máy pha cà phê thì giọng cậu ta lại vang lên, kéo tôi trở về từ những rối ren trong đầu.
"Còn cậu? Bên trong cậu có gì?"
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top