10 - THE EMPTY COFFIN

Thomas, lão già quái đản. 

Tôi biết, Thomas là anh trai cùng cha khác mẹ của tôi. Nhưng nó không phủ nhận được sự thật rằng ông ta đã thay rơm thường xuyên để chờ tôi đến và nhảy xuống, thay vì xài một cái thang dây. Ông ta muốn bày việc ra cho tôi làm.

Coi như là tôi đã xong phần chửi rủa. Giờ đến phần quan trọng hơn cả: cái hang.

Nhắm chừng đây là một hang động nhân tạo, vì trông nó vuông vức và được đẽo gọt chuẩn chỉ lắm. Bên trong cái hang động rộng lớn này có một hồ nước đen tĩnh lặng bao phủ, và trước mặt tôi đây là một hòn đảo nhỏ. Phía trên hòn đảo là một ngôi… nhà? Đền? Một căn phòng lớn? Cho dù nó có là cái gì thì tôi cũng không tìm thấy lối vào, ít nhất là ở mặt tiền. Cái hang động này ít nhất cũng phải rơi vào khoảng một trăm mét vuông và hòn đảo nằm ở đúng chính giữa, ấy là nếu khả năng ước lượng của tôi còn tốt; thế nên muốn ngó nghiêng ở phía sau, tôi sẽ phải bơi vòng ra sau. Nhưng thật khó để có thể liều cái mạng quèn mà nhào xuống dòng nước đen lạnh lẽo phía dưới kia được. Tôi sẵn sàng trả công hậu hĩnh cho ai dám khẳng định cái hồ nước này an toàn cho việc bơi lội và dám nhảy xuống làm mẫu.

Tôi bước đến mỏm đá nhô xa nhất ở bờ hồ và căng mắt quan sát mặt trước căn nhà. Tạm gọi nó là căn nhà nhé. Nếu như những suy đoán của tôi là đúng, nếu như ngôi nhà đều cân đối từ sau ra trước, thì căn nhà này chiếm diện tích của toàn bộ hòn đảo tí xíu kia. Ở mặt trước không hề có một bậc thềm hoặc một mấu đá nào cho tôi một hy vọng để bước lên hoặc bấu víu nhằm mục đích tìm đường vào phía trong. Thêm vào đó, không có dấu hiệu gì về sự xuất hiện của một nút bấm bí mật hay một hệ thống quét vân tay. Điều làm tôi chú ý hơn cả là một bức phù điêu bằng đá cẩm thạch được chia làm bốn phần, dường như nó đang bị xáo trộn. Tôi cố tưởng tượng ra một hình thù gì đó trên bức phù điêu, nhưng vô ích.

Mải quan sát ngôi nhà ở phía xa, tôi suýt nữa thì quên mất một chiếc cần gạt to tướng đang nằm ngang dưới chân mình. Chiếc cần gạt gỗ trông rất nặng nề, nó gắn với một chiếc bánh xe bằng đá có đường kính lên tới một mét. Giống như chiếc cối đá mà chúng tôi vẫn sử dụng trong lò rèn ở nhà số Chín. Tôi bước tới, nắm vào giữa chiếc cần gạt và cố gắng kéo nó về phía sau. Cái cần không nặng, nhưng phía dưới bánh xe bám quá nhiều đất và cát đến nỗi cái cần nó như không kéo lên nổi. Tôi mất mười phút, cố gắng dùng cây hidden blade ngắn ngủn gắn trên cổ tay để gạt hết đất ra khỏi chiếc bánh xe. Cổ tay tôi đau nhức vì luôn phải bẻ vuông góc và giữ cho thanh kiếm không bị thụt lại vào trong bao.

Cuối cùng, tôi dùng hết sức bình sinh kéo cái cần gạt lên một góc chín mươi độ. Không phải là điều bất ngờ khi một hang động nhân tạo sở hữu bởi con trai Hephaestus lại có một hệ thống máy móc khổng lồ bên trong. Khi chiếc cần gạt được kéo lên, tôi cảm thấy cả hang động như đang dịch chuyển. 

Bấy giờ tôi mới có thời gian quan sát tổng thể những gì nằm trong tầm mắt. Xung quanh thành hang động có rất nhiều vách đá nhô ra, trông rất chắc chắn và có thể đứng lên trên đó được. Lại có những cây cột rất lớn chống quanh hòn đảo nhỏ, nhưng chúng lại không chạm đến trần. Đây không phải là cây cột chống trần. 

“Hóa ra lão bắt mình leo cầu thang.” Tôi gằn giọng tự nhủ. 

Cái hệ thống khổng lồ của hang động dường như được cất giấu ở bên trong mỗi chiếc cột - thứ mà được ghép từ nhiều khối đá cùng kích cỡ khiến cây cột trông như một cây tre lớn vậy; và máy móc hẳn cũng ẩn đằng sau mỗi bức tường đá nữa. Các đốt của các cây cột đá xoay tròn và mỗi cây cột xuất hiện một chạc ba thanh xà, xòe đều tạo thành ba góc một trăm hai mươi độ. Ở vách đá xuất hiện vài… tôi không biết, biển báo? Đèn báo hiệu? Trông như một cái đèn tuýp chia thành mười nấc đều nhau, nấc đầu tiên bên phải sáng lên có màu đỏ, còn lại màu trắng và không sáng đèn. 

Tiếng nước ào xuống như thác đổ. Hóa ra cái cần gạt cũng kích hoạt một hệ thống suối nước nóng trong hang động, nhiệt độ cao tới mức khói bốc lên trông như màn sương mỏng. Tôi thò tay xuống và theo phản xạ giật ngược lại sau: Nước đủ nóng để hòa tan một gói cà phê trong vòng mười lăm giây mà không cần khuấy, và đun thêm ba mươi giây thì sẽ đủ nhiệt để luộc chín một con gà. 

Tôi không được phép bước hụt.

Bắt đầu từ những phiến đá thấp đầu tiên, tôi lấy đà nhảy một mạch ba bước qua ba chiếc cột đá khác, nhào lên trước đu vào thanh xà nhô ra từ chiếc cột thứ tư, tiện đà quăng mình khỏi thành xà và hạ cánh trên một phiến đá lớn và phẳng. Trước mặt tôi là một mấu đá dựng đứng, nhô vuông góc với thành hang. Tôi quay sang phải và ngắm nghía kĩ đường đi tiếp theo và để ý thấy cái xà trước mặt có vẻ hơi xa và ngoài tầm nhảy. Có lẽ mấu đá kia nhô ra là có lý do của nó.

Tôi cố đứng vững trên mép của phiến đá, cách xa bức tường nhiều nhất có thể và chắc chắn rằng đường chạy cự li ngắn của mình không quá trơn trượt. Sau khi biết mình sẽ phải làm gì và nhắm vào đâu, tôi vọt lên phía trước, chạy lên dọc vách, đặt bàn chân trái của mình lên mấu đá và nhào qua bên phải. Trong một khoảnh khắc, chiếc cần gạt đầu tiên tưởng chừng đã nằm trong tay tôi. 

Thay vào đó, tôi rớt đánh tùm một cái xuống hồ, còn chẳng kịp la hét hay vùng vẫy gì trong làn nước sôi. Lạy Hephaestus toàn năng, khi tôi lấy được miếng giáp và ra khỏi đây, tôi sẽ đun một vạc dầu sôi và treo nó lên trên đầu Thomas rồi đổ xuống đầu ông anh quái gở của mình. Hơi hoảng loạn nhưng tôi biết mình cần nhanh chóng bơi vào bờ kè và làm lại từ đầu - chỉ là một quãng bơi ngắn nhưng nó chẳng khác nào một sự tra tấn. Giống như khi bị con tinh linh nước tấn công, tôi không thể chịu được sức nóng của nước. Tôi hầu như không ngoi lên thở mà chỉ nghiến răng vì đau rát.

Trèo vội lên bờ, tôi nằm sấp xuống cạnh cái cần gỗ và thở. Vừa lầm bầm chửi rủa, tôi vừa vén tay áo lên và đúng như dự đoán, làn da tôi đỏ dừ như sắp chín. Ngó sang cái cần gạt và bánh xe đá, tôi chợt nhận ra lý do vì sao mình lại rớt vào nồi. 

Tôi kéo cái cần gạt lên và lắng nghe. Cái bánh xe không chịu ở yên, nó xoay liên hồi và cái cần gạt thì chầm chậm di chuyển về vị trí cũ. Trong khi đó, tiếng thác gào đã át đi tiếng tích tắc của cái mà tôi gọi là đèn báo hiệu. Cái nấc đỏ từ từ di chuyển từ phải qua trái và khi nó đạt nấc cuối cùng bên tay trái thì tất cả các cần gạt sẽ rụt lại. Tôi đã tốn quá nhiều thời gian cho việc cẩn trọng trong từng bước nhảy và không để ý rằng mọi chuyện không hề dễ dàng đến vậy trong một cái hang lớn heo hút thế này. 

Bên trong hang động khá ấm nên tôi cởi áo ra và hong cho nó khô đi một chút bằng lửa trên bàn tay, cũng để giết thời gian cho làn da bớt tấy và đau để có thể tiếp tục chơi trò parkour. Lần này tôi phải nhanh hơn, chính xác hơn và quyết đoán hơn. Tôi có quan sát cái thời gian cái cần gạt xoay về vị trí cũ: 2 phút là thời gian tối đa tôi có để giật hết cả bốn cái cần sắt và xem chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. 

Một trăm hai mươi giây có thể là đủ cho những gì tôi cần, thậm chí là dư; với điều kiện không được phép chần chừ. Rút kinh nghiệm từ việc suýt bị nướng chín cách đó vài tiếng, tôi quan sát và đưa ra quyết định nhanh hơn. Sau khi đã giật được hai chiếc cần gạt đầu tiên, ước chừng tôi còn lại tới tám mươi giây; vậy nên tôi đánh liều đứng lại trên một mỏm đá cao để quan sát phần sau của hòn đảo. Đúng như tôi nghĩ, cái hang này rộng tối thiểu một trăm mét vuông; và bên cạnh những chiếc cột đá khổng lồ, trên hồ còn xuất hiện những bức tượng chung chiều cao với chúng. Một Nữ thần với ngọn đuốc trên tay, xung quanh có một con chó lớn và một con chồn. Hestia làm gì ở đây nhỉ? 

Dĩ nhiên, các bức tượng trên hồ đều được sắp xếp theo chiều cao tăng dần và có mấu đá để leo trèo. Sau khi giật xong chiếc cần thứ ba, tôi a lê hấp lên một bức tượng khác thấp hơn cái cần gạt và để ý thấy đây là bức tượng của một gã đang oằn lưng chịu trận. Mái tóc của gã dài, được bện; toàn thân hắn đen sì nhưng mắt hắn sáng quắc. Tôi không hiểu lắm về cách làm cho mắt của một bức tượng điêu khắc sáng lên, nhưng dù sao cái lưng của gã cũng cung cấp cho tôi một nơi hạ cánh đủ rộng. 

Chiếc cần gạt thứ tư đưa tôi về gần đúng điểm xuất phát. Ngay lập tức cái hang lại giống như đang di chuyển một lần nữa. Hóa ra, bốn chiếc cần gạt sắt là một cái công tắc để đưa bốn phần của bức phù điêu đá di chuyển về đúng vị trí ban đầu của nó. Hiện ra trước mắt tôi là một chữ H cách điệu, bên trái là một vị thần hơi gù với chân thấp chân cao - Cha tôi, chắc rồi; bên còn lại là một phụ nữ với chiếc áo Chiton truyền thống, mái tóc búi cao và ngọn đuốc trên tay, với con chó lớn và con chồn tháp tùng. Hóa ra bức tượng lớn lúc nãy tôi thấy không phải là Hestia. Và gã khổng lồ đằng kia - chắc hẳn là Clytius.

Hecate. Bà ta làm gì trong hang động của một đứa con Hephaestus cơ chứ?

Hephaestus và Hecate đại diện cho hai trường phái đối nghịch: Khoa học và ma thuật. Đó là lý do vì sao con cái của họ luôn luôn ganh đua nhau trong mọi vấn đề: con cái Hephaestus tin tưởng rằng mọi thứ đều có thể được giải thích bằng khoa học, trong khi con cái của Hecate thì khinh bỉ điều đó và cực kì tôn sùng phép thuật. 

Về phần tôi, tôi có đọc Harry Potter để giải trí.

Dù sao thì, sau khi bức phù điêu hiện ra, năm phiến đá lớn trồi lên từ đáy hồ và lần lượt xếp thành cầu thang dẫn từ bờ kè lên trên hòn đảo, trong khi bức phù điêu thì di chuyển sang bên trái, để lộ ra một đường hầm dẫn sâu vào lối đi được thắp đuốc sáng rực. 

Tôi bước tiếp vào còn đường độc đạo dẫn đến một căn phòng được trang trí trông có vẻ như là một cái phòng ngai, nhưng thay vào đó tôi thấy một chiếc quan tài. 

Một chiếc quan tài không có xác người, không hề có một mẩu xương vụn nào. 

Thay vào đó là chiếc mũ trụ của Achilles. 

“Molto bene.” Tôi thì thầm.

============================================================

*Molto bene: rất tốt.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top