kết thúc ở nơi nó bắt đầu

i.

Mùa hạ cháy bỏng cứa vào da thịt, hoang hoải mùi hoa đồng nội nhuốm mùi thuốc súng, gợi nàng về những bước chân đi mải miết về miền cực lạc xa vời vợi trong tiếng kêu gào thảm thiết của những đứa trẻ mắt xanh. Kiki vươn tay tắt phụt cái radio cũ vẫn đang vang đều đều bài hát Lili Marlen với chất giọng ngọt ngào của Lale Adersen.

Nàng từng thích bài hát đó lắm.

Khi nàng còn ở căn nhà cũ trong cái ngõ nhỏ ở Paris, với dàn hoa giấy và gạch ốp nung đỏ, những chậu hoa đặt trên ban công và tấm canvas trắng, hắn từng chỉ nàng hát bài này. Theodore sẽ cầm tay nàng và dắt nàng đi dưới đại lộ, dừng lại bên ánh đèn đường và hắn sẽ nhìn nàng ngân nga Lili Marlen, thì thầm gọi nàng là Lale Andersen, hắn gọi nàng là Das Mädchen unter der Laterne (Thiếu nữ dưới ánh đèn đường*) khi nàng dạo quanh dưới ánh đèn đường, vươn tay ôm lấy thân đèn rồi đưa mắt nhìn hắn. Nàng đã có rất nhiều kỷ niệm đẹp cùng với Theodore của nàng ở nơi Paris phồn hoa ấy, có nhiều tấm canvas nàng đã dùng xuân sắc của mình mà lấp đầy, có những chậu cây cùng nàng khiêu vũ giữa nơi xập xệ ấy trong tiếng cười giòn tan trên đầu môi, có tất cả mọi thứ nàng hằng tìm kiếm suốt bao nhiêu năm đời người.

Ôi Paris, quá sức tráng lệ cho một người con gái chỉ đang kiếm tìm lãng mạn của mình.

Nhưng nàng lại chẳng thể giữ Paris không khỏi bốc cháy, cũng như không thể giữ Theodore lại trong những giấc mộng mùa hạ đằng đẵng của mình.

Theodore của nàng đã biến mất như thể hắn chưa từng ở đây. Trong khói bụi mịt mù của Đức Quốc xã, trong cái đau khổ oai oán của đứa trẻ lạc mẹ, trong tiếng gào thất thanh của người con gái chứng kiến cha mình bị bắn chết, trong tất cả cái hỗn loạn ấy, Theodore của nàng biến mất. Hắn biến mất nhưng hắn để lại những bức tranh vẽ dở, hắn biến mất nhưng để lại dàn hoa giấy ngập trong biển lửa nuốt trọn lấy Paris thân thương.

Theodore biến mất, nhưng hắn để lại trong nàng những vệt màu loang lổ.

.

Theodore với mái tóc vàng như nắng hạ và đôi mắt xanh lơ lạ lẫm khảm vào ký ức của nàng như một điều hiển nhiên. Hắn có dư vị của tháng Ba và một chất giọng Đức đặc sệt mỗi khi hắn mở miệng, hắn dạy nàng nói "ich liebe dich", nàng dạy hắn những nụ hôn trên trang canvas với vài vệt sơn màu. Kiki không nhớ rõ Theodore với đôi mắt xanh lơ mơ màng đã thiếp đi lúc nào trên đầu cọ vẽ, nhưng đôi mắt ấy cũng sớm trở nên vô hồn những ngày gần kề chia xa.

Ấy là với hắn.

Nàng còn chẳng nghĩ đến lúc hắn với nàng chia xa, nàng thậm chí còn chẳng thể tưởng tượng nổi việc hắn với nàng sẽ chia xa.

Nhưng hắn ở đó, trong chiếc xe đen xé toạc biển lửa.

Còn nàng ở trong biển lửa.

Nhưng Theodore không biết, hoặc hắn cũng chẳng buồn để tâm đến một cô gái miền Địa Trung Hải với đôi mắt nâu và tóc đen dày, đôi mắt xanh như sapphire của hắn có lẽ sẽ không thể nhìn thấy nàng một lần nữa, hoặc hắn không muốn nhìn thấy nàng - một kẻ du mục. Nhưng Kiki cũng chỉ nghĩ đến vậy, Đại uý Reichmerls của quân đội Đức hùng mạnh, mái tóc vàng và đôi mắt xanh, kẻ thừa hưởng sự cao quý của chủng tộc Aryan về căn bản sẽ không quan tâm đến nàng, một nàng chẳng có gì ngoài xuất xứ thấp kém từ miền biển Hy Lạp và trôi dạt đến Paris kiếm sống.

Con mẹ nó.

Nàng nghĩ.

Theodore Reichmerls sẽ có ngày rơi nước mắt vì nàng, đau khổ vì nàng, quằn quại vì nàng. Bởi nàng biết ánh mắt hắn nhìn nàng mỗi đêm không biết nói dối, nàng biết đôi tay đan vào nhau mỗi giấc ngủ chàng họa sĩ giả ấy chưa hề buông nàng. Bởi nàng biết, hơn ai cả, nàng vẫn tồn tại trong cái viển vông lãng mạn nhất của hắn.

Nhưng hắn có tìm nàng không?

Nàng không biết.

Nàng sợ rồi hắn sẽ bỏ đi ngay khi Paris này tàn lụi dưới chân hắn, để tiến hành cuộc chiến, rồi hắn sẽ tạo ra những thế hệ tiếp theo, những phiên bản nhỏ hơn của hắn, những đứa trẻ tóc vàng mắt xanh y hệt như thế. Nàng sợ hắn sẽ tuyệt tình đến mức không muốn tìm kiếm nàng ở chốn Paris phù du ấy, hoặc hắn sẽ tàn khốc đến mức thiêu rụi nơi hắn đã từng than thở mỗi khi mưa về. Nàng sợ hắn sẽ xóa nàng đi khỏi cuộc đời hắn, dễ dàng như một cái gạt tay. Nếu như vậy sẽ thật buồn cho cuộc đời nàng du mục, chết cũng sẽ chẳng có ai nhớ đến nàng, có lẽ sẽ trừ vài đứa trẻ nàng cứu khi chúng bị săn lùng, hay một bà mẹ người Do Thái nàng cho ở cùng mấy bữa nay. Nàng biết, Kiki kéo cửa, nàng bước ra ngoài, nhìn Florence rầu rĩ khiến nàng nghĩ đến Paris đêm ấy.

"Ý em là, chị biết đấy," nàng ngắc ngứ, đổ cốc cà phê xuống chậu cây trên bậu cửa sổ, "Paris quả thực khiến em buồn nôn."

Andrea có đôi mắt như sapphire và mái tóc đen dày, một đứa con trai kháu khỉnh với một người chồng. Chị sống cùng nàng một khoảng thời gian gần đây sau khi cùng chồng chạy trốn khỏi trại tập trung, đó là một khoảng thời gian chết tiệt, một mùa hạ chết tiệt, một cuộc chiến chết tiệt. Nhưng chị, cũng giống như mọi bà mẹ đã từng có một thời hoang dại vì tình yêu, đều nhìn thấy ở Kiki có vẻ gì đó hơn là chán ghét, giống như cố gồng mình lên để ghét bỏ, để khỏi phải thương nhớ để rồi đau. Nàng Kiki Veszmit đã phải lòng Paris đến nhường nào mới lộ ra vẻ yếu đuối mong manh khi nhớ về nơi ấy, chị không biết, nhưng chưa từng có điều gì khiến nàng như thế khi ở đây.

Đốt một điếu thuốc, Kiki vẫn giữ nguyên vị trí bên cạnh cửa sổ của mình, đưa mắt ra ngoài, nàng cười: "Một thành phố quá đẹp để hờn, nhưng lại quá hoang tàn và đau lòng để nhớ nhung. Em nghĩ về Paris, về nhiều thứ ở đó, nhưng em gần như không biết điều gì cứ lôi em trở lại cái chốn ấy, thảm thật, ý là... thế nào nhỉ? Em rời Paris rồi, em cũng chẳng còn gì hay còn ai ở lại chỗ ấy nữa, nhưng em vẫn cứ nhớ nơi đó, nhớ chậu hoa trên bậu cửa, nhớ nắng, nhớ gạch nung đỏ, nhớ hoa giấy, tất cả những điều đó, chị hiểu chứ? Paris tước đi của em nhiều thứ, nhưng em không thể ngừng nhớ và ngừng yêu cái thành phố ấy được. Cảm giác yêu đấy khiến em đau, và em chọn cách lảng tránh và chán ghét nó. Nhưng không thể được đâu, Andrea yêu dấu của em ạ." Nàng thở dài, đóng quyển sách của mình lại, "Bởi có lẽ, có lẽ thôi, Paris vẫn còn đang giam giữ Theodore của em sau những bức tường màu kem giờ đã xỉn vì bom đạn."

Andrea ngồi xuống cạnh nàng bên cửa sổ, chị hỏi nhẹ: "Cậu ấy chết vì chiến tranh sao?"

Nhưng Kiki không dám nói nàng phải lòng kẻ thù, nàng chỉ lắc đầu, rồi lảng tránh: "Em cũng ước vậy." Bởi thà Theodore vùi dưới đống gạch nung đỏ ấy, còn hơn chàng quay trở về làm kẻ đứng đầu trong hàng ngũ phe địch, thà Theodore với đôi mắt sapphire và mái tóc như nắng mùa hạ ấy chết trên con đường chạy trốn, còn hơn để nàng nhìn thấy hắn ngồi trong chiếc xe của kẻ thù, xé toạc dòng người chạy loạn, dẫm nát tất cả mọi lời bao biện nàng dành cho hắn.

Thà Theodore chết, còn hơn hắn trở thành người tước đi tất cả của nàng.

ii.

Reichmerls đốt một điếu thuốc rồi dập nó xuống lớp tuyết dày sau hơi đầu tiên, mùi thuốc lá cốt cũng chỉ để dập đi mùi máu tanh trong trại. Hắn luôn ưu tiên những thứ tốt cho sức khỏe và việc lấp đầy hai buồng phổi của mình bằng khói thuốc xem chừng không phải là một ý kiến hay. Ngài Đại úy dựa lưng vào tường, yên lặng nhìn cấp dưới nã súng vào cả một đoàn người, hắn bắt đầu suy nghĩ về việc hắn sẽ làm sau khi quân Đức chiếm được Paris.

Hắn có lẽ sẽ chẳng tìm được nàng đâu.

Nhưng hắn sẽ thiêu rụi căn hộ chật hẹp đó của nàng. Căn hộ đã nhốt hắn trong những giấc mộng dai dẳng không hồi kết, căn hộ nằm trên con ngõ nhỏ nằm sát vách nhà thờ Đức Bà, với những chậu hoa hồng, hoa cúc, những bức tranh chưa khô sơn dầu và những bản nhạc ngớ ngẩn nào đó nàng viết lúc tờ mờ sáng. Một căn hộ nhỏ nào đó nằm trên tầng 3 với bà chủ nhà thân thiện cùng con mèo Louise đỏng đảnh nằm phơi nắng. Một căn hộ vô danh nằm trên một con ngách nhỏ nhưng lại trở thành nỗi ám ảnh dai dẳng trong tâm trí của một chàng thiếu niên người Đức.

Nàng là một giấc mộng tuyệt đẹp của những ngày nắng hạ, rồi vô tình trở thành bão tố trong lòng hắn, vỡ tan và xoay vần trong ký ức hắn như những bóng ma không thể buông bỏ.

Theodore thở dài một hơi, đợt tuyết đầu mùa ở Paris vẫn luôn lạnh như thế này hay sao? Hắn chưa bao giờ trải nghiệm mùa đông của Paris, bởi lẽ nàng đã đi trước khi mùa thu kịp tới và tan biến trước khi cơn bão đầu tiên kịp đến gần. Nàng biến mất, mang theo cả những non trẻ ngây dại và cả yên bình trong hắn trong một ngày mưa tầm tã tại ga tàu. Nàng bỏ đi thật, với một lời căn dặn hãy quên nàng đi và sống thật tốt.

Theodore Reichmerls cầu mong nàng còn sống.

Bởi nếu nàng phải chết, hãy để hắn là người đưa nàng đến cõi vĩnh hằng.

Và hỡi Kiki Veszmit trong những giấc mộng non trẻ của hắn, Theodore hít thở, Champs-Élysées sẽ chẳng thể nào rực rỡ như khi nàng với hắn từng dạo quanh.

.

Theodore vẫn còn ám ảnh bóng hình nàng thiếu nữ trong muôn thuở những giấc mơ, khi hắn tỉnh dậy với lưng áo ướt đầm, đôi mắt mong manh như cả thiên hà này sụp đổ xuống của nàng vẫn còn quanh quẩn trong tâm trí hắn.

Theodore từng nghĩ hắn sẽ sống tốt nếu nàng có đi đâu mất, nếu nàng có chết và tan biến đi trong khói bụi chiến tranh, hoặc nếu nàng có chạy đi và chạy về Athens của nàng, hoặc nàng có chạy đến một nơi khỉ ho cò gáy xa xôi nào đó, yêu và cưới, có một đứa con tóc đen mắt nâu với một kẻ khác, hắn không biết, nhưng hắn tin hắn sẽ sống tốt mà không có nàng. Hắn nghĩ một giấc mộng mùa hè rồi sẽ chẳng còn ở đây nữa nếu hắn có thêm những giấc mộng khác, nhưng rồi hắn từ chối rời khỏi Paris để đến Ba Lan, hắn khước từ mọi mong muốn hắn từng một thời ấp ủ, hắn đẩy chúng đi xa chỉ để vươn tay giữ lại điều hắn vĩnh viễn không thể giữ lại.

Một đóa hoa mùa hạ.

Paris với mùi của hoang tàn khiến hắn ngộp thở. Theodore rút một điếu thuốc, ngậm giữa môi mình và lại buông thõng bật lửa xuống khi hắn nhìn thấy khóm hoa hồng ở bên hông nhà thờ Đức Bà.

Hắn nhớ nàng rất ghét mùi hoa hồng bị chen ngang bởi mùi của nicotine cháy. Đó là lý do nàng chọn con hẻm nhỏ vô danh nằm kế bên nhà thơ Đức Bà rộng lớn này, náu mình trong những ngày tháng Paris còn chưa có bước chân của chiến tranh. Một căn hộ nhỏ nằm ở lầu hai, với ban công rất nhiều những khóm hoa hồng, nhìn ra bên ngoài là giàn hoa giấy với những viên gạch đỏ nung của nhà thờ, những tờ giấy vẽ và lọ màu đặt lộn xộn khắp nơi, nàng biết hắn thích vẽ, nhưng nàng chẳng hay hắn thích nàng.

Hắn nghĩ hắn không còn nhớ nàng nữa. Nhưng hắn biết hắn nhớ ban công đầy nắng cùng giàn hoa giấy đã chứng kiến cả một thời cuồng si và nhiệt huyết, một thời tóc xanh rong ruổi khắp các con ngách nhỏ của thành phố với nụ cười tươi trẻ. Paris đã giấu đi thời gian của kẻ đã vội vã đẩy nàng thơ của mình vào biển lửa để giơ cao ngọn cờ của chiến tranh.

"Xin lỗi em."

Hắn thì thầm khi lấp đầy buồng phổi của mình bằng mùi ngai ngái khó ngửi của cơn mưa cuối mùa. Hắn không biết mình đang nghĩ gì, nhưng hắn muốn xin lỗi nàng, và hắn chẳng quan tâm nếu nàng có muốn tha thứ cho hắn không. Tha thứ không phải là trách nhiệm của nàng, nàng có thể chữa lành, bước tiếp mà không tha thứ cho hắn, và hắn sẽ cảm thấy ổn, vì hắn có lỗi, lỗi của hắn, nàng không cần phải tha thứ. Nhưng có lẽ nàng không muốn gặp hắn, nên nàng đã rời đi, để lại phồn hoa điêu tàn trong khói bụi, để lại hắn điên cuồng nhưng kiên nhẫn chờ đợi, hắn sẽ lục tung cả châu Âu này lên để tìm nàng nếu hắn thấy điều đó nhất thiết, hắn sẽ làm tất cả những gì hắn cần chỉ để được nhìn thấy nàng một lần nữa, nếu có thể thì hắn xin được xin lỗi nàng.

Và cũng như hắn từng nói, hắn muốn là người cuối cùng nàng nhìn thấy.

iii.

Kiki không muốn gặp lại Theodore thêm một lần nào nữa.

Ý nàng là, sau những gì hắn gây ra thì nàng luôn né tránh hắn bằng mọi giá. Nàng đã nghĩ với mái tóc vàng và đôi mắt sapphire, một vẻ ngoài quá hoàn hảo cho Lebensborn*, hắn sẽ rời Paris và tới Ba Lan, trở thành một kẻ ưu tú hơn nữa, tuyệt vời hơn nữa, có vợ, đẻ con, có Chúa mới biết hắn sẽ làm gì ở Ba Lan. Nhưng khi Kiki lặn lội về Paris một chuyến, nàng thấy hắn ở đó.

Ở cái căn hộ xập xệ với những khóm hoa tàn rũ, chính nơi nàng định trở về để tìm quyển sổ nàng bỏ quên mất khi đi chạy loạn, hắn vẫn ở đó.

"Em không bỏ chạy sao?"

Hắn hỏi, lưng dựa thành cửa, mắt hắn nheo nheo nhìn nàng, điếu xì gà đắt đỏ kẹp giữa môi, hắn mặc quân phục và đeo một đôi găng tay da. Dưới trời xanh ngắt mùa hạ, với khói đen bao bọc cả tòa thành, Theodore trông giống Hades. Nhưng nàng vẫn bước vào trong, không một chút kiêng dè, nàng cúi người xuống, cẩn thận lật đống đổ nát lên, dưới đống giấy vẽ bị cháy gần hết, nàng tìm thấy cuốn sổ tay của mình.

Giống như cách nàng chật vật sống lại sau khi chàng họa sĩ Theodore của nàng chết trong khói lửa Paris.

"Này."

Hắn đi ra đằng sau lưng nàng, kéo nàng đứng dậy. Nhưng nàng không phản ứng gì nhiều, nàng nhìn hắn từ đôi giày da bóng lộn đến điếu xì gà trên tay, siết chặt cuốn sổ trong tay mình, nàng mỉm cười:

"Em sẽ bỏ chạy nếu em là dân Do Thái, hoặc nếu em có mắt xanh và tóc vàng," nàng nhìn hắn, "như ngài vậy. Nhưng ngài thấy đấy, em chỉ là một kẻ du mục vô hại thôi."

Theodore nhìn cuốn sổ quen thuộc trên tay nàng, cuốn sổ hắn đã dành một thời trẻ măng vẽ tất cả những gì thuộc về Kiki ở trong đó, hắn vẽ khóm hoa, hắn vẽ nàng khi đi ngủ, vẽ mái tóc, hoa cài, nơ bướm, tất cả những gì thuộc về nàng. Hắn bất chợt nghĩ về những ngày khi thế giới của hắn chỉ có nàng, chỉ có những ngày hắn nắm tay nàng đi khắp đại lộ, khi hắn mỉm cười và nàng sẽ nói hắn có đôi mắt giống như đại dương xanh thẳm. Nghĩ về những điều đó, rồi những điều xa xôi hơn, hắn từng nghĩ hắn có thể từ bỏ hết mọi thứ để ôm lấy nàng xứ Địa Trung Hải của hắn mà tiếp tục sống, nhưng đôi mắt nàng đã chẳng còn giống như hắn từng nhớ, giọng nói nàng cũng không giống những gì hắn đêm ngày đều mong cầu có thể gặp lại. Cái vẻ khác lạ thân thuộc của nàng khiến hắn rối bời. Dẫu nàng lặn lội về đây chỉ để tìm lại những gì còn lại của Theodore vài năm trước, nhưng đồng thời, nàng cũng khước từ Theodore của hiện tại. Hắn tự hỏi nàng có bao giờ mong hắn chết không, có lẽ có, có lẽ không.

"Em đang đi đâu?" Hắn buông thõng tay xuống, cúi người xuống ngang tầm mắt nàng, hắn hỏi.

Nàng đáp. "Thì nơi một kẻ du mục trên bờ vực cái chết sẽ đi." Nàng nheo mắt lại, cười nhẹ: "Về nhà."

"Nhà" của nàng hẳn không phải nơi tồi tàn đáng chết này. Hắn nghĩ nàng muốn về Athens.

"Nhưng Kiki," hắn nắm tay nàng "đường về nơi ấy còn nguy hiểm hơn ở đây."

Cách hắn cầm lấy tay nàng, hơi ấm, giọng nói, da thịt, tất cả những điều đó đều rất quen thuộc, như thể chúng được khảm vào trong thân thể nàng, nhưng sâu thẳm nàng biết người nàng yêu không phải hắn, thứ hơi ấm này cũng không phải hắn. Nàng yêu một chàng họa sĩ, nàng yêu một người đã để lại trong nàng những mảng ký ức loang lổ đủ màu. Nàng đâu yêu hắn, nàng đâu yêu một người đã đột ngột biến mất và bỏ mặc nàng trong biển lửa. Nàng nào đâu yêu hắn, nàng đâu có yêu Hades của thành Paris chết tiệt này, vĩnh viễn không thể yêu hắn.

"Nhưng mục xác ở đây thì thật thảm hại."

iv.

Chuyến tàu rời Paris đang chuẩn bị rời đi, Kiki xách theo vali, cầm theo cuốn sổ của mình, kéo cao khăn quàng cổ, nàng cúi đầu nhìn đôi giày mòn của mình. Nàng đã nhận được thư của Andrea, chị có một công việc khá ổn định từ một quý ngài người Đức, làm ở nhà máy của ông ta, và chị cảm ơn nàng, chị mong một ngày nào đấy không xa chị sẽ gặp lại nàng, có lẽ sau này, vài năm nữa, nếu chị có bao giờ được tận mắt nhìn thấy hòa bình nơi khói bụi chiến tranh này. Kiki cảm giác mình chẳng còn phải luyến tiếc điều chi nữa, có lẽ nàng sẽ về Athens, với cha mẹ, với chị gái, và có lẽ nàng sẽ nhận nuôi một con mèo. Ở đâu chả là chiến tranh, nhưng nàng vẫn muốn chết bên cạnh gia đình mình, chết trên quê hương, trên nơi đã hun đúc lên một nàng quật cường và mạnh mẽ thế này. Nếu không bị giày vò bởi quân Đức thì cũng là quân Ý, nhưng rồi sao chứ?

Ít ra không bị giày vò bởi chính người mình yêu.

À không, nàng mỉm cười. Kiki ngẩng đầu nhìn về phía đoàn tàu, nàng đâu có yêu ai.

Nàng muốn về với cha mẹ thật sớm, về với vùng nắng gió thơm ngát, với cái mằn mặn tươi mát của biển, với tất cả những gì hun đúc lên nàng - một nàng tuyệt đẹp của xứ biển. Nàng chẳng màng sẽ chết trên đường, chỉ cần nàng luôn hướng về Athens, có lẽ mọi thứ sẽ ổn.

Hoặc nàng chỉ cần rời khỏi đây.

Rời khỏi những giấc mộng hoang hoải không tên luôn đeo bám đêm đen đằng đẵng, hay rời khỏi hiện thực nhuốm máu mà nàng đang phải bước qua? Kiki không biết, nhưng nàng thà bỏ mạng trong giữa hoang tàn còn hơn vùi mình trong vô vàn lớp khói bụi của chiến tranh. Nàng thà nằm dưới rừng thông khói lửa khi trở về Hy Lạp, còn hơn ở đây quằn quại trong biển lửa mà lối ra duy nhất chỉ là cái chết vô nghĩa đang được vạch ra trước mắt nàng. Giữa cái chết trên con đường về quê hương, và cái chết vì bất lực trước thời cuộc chiến tranh, nàng là kẻ hèn mọn sẽ chọn cái đầu tiên.

Nàng tự thuyết phục mình như thế khi bước chân của nàng hoà vào với dòng người đang hối hả rời thành Paris từ lâu đã không còn kiên cố. Bởi lẽ nếu không thì nàng sẽ chẳng có lý do gì để rời đi, nhưng nàng có thể nêu cả triệu lý do để ở lại, và đáng buồn khi chúng chỉ xoay quanh đúng một cái tên đáng nguyền rủa. Nàng tự hỏi hắn có muốn quay lại thời điểm khi hắn chỉ là một tên hoạ sĩ chưa gặp thời, ở chung với nàng trong căn phòng nhỏ lầu ba với khóm hoa hồng và tiệm bánh mỳ dưới lầu không. Để rồi khi thấy hắn bảnh bao trong bộ quân phục và điếu xì gà đắt đỏ giữa môi, nàng nhận ra vốn dĩ thời gian ấy không tồn tại, hắn vẫn luôn như thế, vẫn luôn bảnh bao và xa cách, vẫn luôn tàn bạo và vô tâm, và chỉ có nàng, và Chúa cứu rỗi những nạn nhân của hắn, mới ngu ngốc tin vào cái vẻ hiền lành vô hại mà hắn tạo ra. Và chỉ có nàng, duy nhất nàng, vẫn còn yêu và tin vào cái vẻ ngoài đó, vẫn còn chờ hắn về, mong hắn tìm về với nàng, nhưng điều đó không đánh đổi được sự thật rằng nàng đã yêu một giấc mộng, yêu một trò đùa tai hại của quý ngài Reichmerls, chứ không phải một con người.

Kiki quay đầu lại, nhìn về phía dòng người đang đổ xô lên tàu rồi lại hối hả tìm chỗ của mình, nàng không chờ đợi ai cả, nàng chỉ đột nhiên mong rằng ai đó sẽ bảo nàng đừng đi, sẽ nói với nàng rằng hắn đã tìm kiếm nàng rất lâu kể từ khi chiến tranh nổ ra và hắn sẽ không để vuột mất nàng một lần nữa. Nhưng không, chẳng có một ai ở đó để níu tay nàng, cũng chẳng ai ở đó để tiễn nàng về Athens.

Không một ai cả.
Nàng thở dài.

Và con tàu rít lên một hơi dài, xé toạc cái không khí bí bách của buổi chiều tà, mệt mỏi lê bước trên con đường ray cũ mèm, đưa nàng, đưa những kẻ may mắn thoát ra khỏi vùng khói lửa này để đi tìm miền đất hứa, đi về quê hương, đi về đâu đó, miễn không phải chốn ngục tù này. Kiki nhìn ra phía ngoài, tự hỏi rồi quý ngài Reichmerls có đang xuống tay với một người Do Thái tội nghiệp nào hay không, hay hắn đã hút đến điếu thuốc thứ bao nhiêu rồi, hay tất cả những điều đó.  Đổi lại chút hy vọng của nàng, Reichmerls vẫn cứ ở chốn Chúa biết là ở đâu, còn nàng thì đang rời khỏi Paris, bỏ lại tất cả ở phía sau, trừ cuốn sổ tay với những bức vẽ nguệch ngoạc của hắn.

Nàng vẫn muốn giữ lại một góc nào đó của Theodore cho riêng mình.

Một kẻ giả dối không tồn tại, nhưng chí ít với nàng hắn đã từng rất thật.

THE END.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top