Thư Do Thái
Thư Do Thái
(Chương 01-07)
***
TK 100t (1)TỔNG QUÁT
Các học giả ngày nay cho rằng tác phẩm mà ta gọi là Thư Do Thái thật ra không phải là một lá thư, cũng không phải do thánh Phaolô viết, và cũng chẳng gửi cho tín hữu Do thái. Thế nhưng những khẳng định đó vẫn không làm mất đi tầm quan trọng của tác phẩm này. Thật vậy, có thể xem tác phẩm này là một bài giảng được biên soạn công phu, và là một trong những bài giảng cổ xưa còn giữ lại được.
Tác phẩm này quan trọng vì hai lý do. Trước hết, tác phẩm chứa đựng nền thần học phong phú về ơn cứu độ trong Chúa Kitô, tập trung vào sự chết của Chúa Kitô như hành động cứu độ. Kế đến, hơn bất cứ tác phẩm nào khác, thư Do thái cho thấy việc giải thích Thánh Kinh Cựu Ước quan trọng như thế nào trong đời sống Giáo hội thời sơ khai.
Cách cụ thể hơn, có thể tóm lược nội dung giáo lý của Thư Do thái trong ba điểm chính:
(1) Chúa Kitô được trình bày như Lời tối hậu của Thiên Chúa, Lời đó được thể hiện trong cuộc sống và cái chết của một con người có tên là Giêsu và cũng chính là Con Thiên Chúa; (2) Chúa Kitô được trình bày như vị thượng tế duy nhất và vĩnh cửu, và cái chết tự hiến của Người đã chuộc mọi tội lỗi, khai mở giao ước mới và mở đường cho ta đến với Thiên Chúa; (3) Chúa Kitô là mẫu mực mà các Kitô hữu phải noi theo trong đức tin và hi vọng.
Có thể chia Thư Do Thái thành 4 phần chính:
– Thiên Chúa ngỏ lời nơi Con của Ngài (1,1 – 4,13)
– Cậy trông vào hiến tế của Chúa Giêsu (4,14 – 10,31)
– Quyền năng của đức tin (10,32 – 12,29)
– Những chỉ thị cuối cùng và kết luận (13,1-25)
LỜI TỰA (1,1-4)
Giống như Tin Mừng Gioan và Thư thứ nhất của Gioan, Thư Do thái mở đầu bằng Lời tựa, nhấn mạnh đến ý tưởng về Lời (x. Ga 1,1-18; 1Ga 1,1-4). Tuy nhiên, điểm nhấn của mỗi tác phẩm có thể khác nhau. Thư Do thái nhấn mạnh việc làm sao để nghe và đáp lại mạc khải của Thiên Chúa. Thưở xưa, Thiên Chúa đã ngỏ lời bằng những cách khác nhau trong Thánh Kinh, nhưng đến thời sau hết này, Ngài trao ban một sứ điệp mới nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu. Đây là khẳng định vô cùng quan trọng đối với các Kitô hữu vì ta xác tín rằng chỉ nơi Chúa Giêsu, nhân loại mới gặp được Lời sự thật và sự sống. Xác tín này giúp ta vững tâm tiến bước theo những giá trị của Tin Mừng cho dù chung quanh ta luôn có những lời mời mọc đầy hấp dẫn của đủ thứ chủ thuyết và lối sống được gọi là hiện đại, tân thời.
Đấng Thiên Chúa đã ngỏ lời trong Cựu Ước và cuối cùng ngỏ lời nơi Chúa Con chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Cũng vì thế, có thể vận dụng Thánh Kinh Cựu Ước để giải thích về con người và công trình của Chúa Giêsu, và ta sẽ thấy điều này rất rõ trong Thư Do thái. Người Kitô hữu tôn kính Sách Thánh gồm cả Cựu Ước và Tân Ước. Phương pháp Học Thánh Kinh trong 100 tuần mời gọi chúng ta đọc toàn bộ Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Học hỏi Cựu Ước không những không làm ta xa cách Chúa Giêsu nhưng trái lại, giúp ta hiểu Tân Ước hơn và đến gần Chúa Giêsu hơn.
Câu 2 và 3 làm ta liên tưởng đến những thánh thi thời Giáo hội sơ khai (Phil 2,6-11; Col 1,15-20), nhấn mạnh mối liên hệ thiết thân của Chúa Giêsu và Chúa Cha, kể cả sự tiền hữu của Chúa Con và vai trò của Người trong công trình tạo dựng: “Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa… Người dùng lời quyền năng mà duy trì vạn vật.”
Phần cuối của câu 3 nói đến hoạt động cứu độ của Chúa Con, hy tế chuộc tội, sự tôn vinh… tất cả sẽ là chủ đề của phần II trong Thư Do thái. Câu 4 giới thiệu chủ đề sẽ được khai triển tiếp theo là sự cao trọng của Con Thiên Chúa.
NHÂN TÍNH CỦA CHÚA GIÊSU (2,5-18)
Tác giả Thư Do thái nhấn mạnh rằng Chúa Kitô cao trọng hơn các thiên thần, và ông nhấn mạnh điều này từ hai góc độ. Trong chương 1, Chúa Kitô cao trọng hơn các thiên thần vì Người là Con Thiên Chúa. Trong chương 2, tác giả tiếp tục nhấn mạnh sự cao trọng này nhưng từ góc độ con người. Tác giả trích dẫn Thánh vịnh 8 để nói đến sự cao cả của con người, nhưng ông có cách giải thích độc đáo. Trước hết, tác giả hiểu Thánh vịnh này không phải nói về nhân loại cách chung nhưng nói về con người Giêsu: “Con người đó chính là Đức Giêsu” (2,9). Kế đến, tác giả giải thích cách khác ý nghĩa nguyên thuỷ của Thánh vịnh. Thánh vịnh viết: “Chúa đã làm cho con người thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn.” Tác giả giải thích về Chúa Giêsu rằng con người Giêsu cao trọng hơn các thiên thần nhưng đã phải thua kém các thiên thần trong thời gian ngắn, tức là khi Người chịu khổ hình (2,9) nhưng rồi được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên (2,10).
Điều đáng quan tâm nhất là tác giả nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu phải chia sẻ nhân tính của loài người cách trọn vẹn: “Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó” (2,14) và Người nên giống anh em mình về mọi phương diện (2,17). Thế nhưng chính nhờ đó mà sự chết của Người mới đem lại ơn cứu độ cho mọi người, giải thoát họ khỏi vòng nô lệ tội lỗi.
ĐỨC KITÔ THƯỢNG TẾ (4,14-16; 5,1-10)
Chủ đề của phần thứ hai trong Thư Do thái (4,14-10,31) là vai trò và hoạt động của Đức Kitô xét như vị thượng tế. Người đã hiến dâng chính mình làm hy lễ, một lần thay cho tất cả, mang lại ơn tha thứ tội lỗi, và như thế, Người đã hoàn tất điều mà các nghi lễ trong Cựu Ước không thể làm được. Riêng trong đoạn văn ta tìm hiểu (4,14-16; 5,1-10), tác giả nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thượng tế Giêsu. Lòng thương xót này được thể hiện cách trọn vẹn trong việc Người chia sẻ bản tính nhân loại với ta: “chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.”
Để trình bày về Đức Kitô thượng tế, trước hết tác giả định nghĩa vị thượng tế bằng cách đưa ra ba đặc điểm:
(1) được chọn giữa loài người và đại diện cho họ để dâng lễ đền tội;
(2) vị thượng tế có thể chu toàn nhiệm vụ làm đại diện vì ông chia sẻ những yếu đuối của phận người;
(3) vị thượng tế được Thiên Chúa tuyển chọn chứ không do ông tự chọn.
Sau đó, tác giả áp dụng cho Chúa Giêsu:
(1) Người không tự tôn mình làm thượng tế nhưng Người đón nhận từ Thiên Chúa;
(2) Người chia sẻ kiếp phàm nhân với nhân loại, phải trải qua nhiều đau khổ;
(3) Người trở nên đại diện của dân và dâng lễ đền tội cho họ.
Sự can thiệp của Người mạnh mẽ và hiệu quả đến độ Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
Niềm tin vào Đức Kitô thượng tế thúc đẩy ta “giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (4,14) và “mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (4,16).
Thư Do Thái
Chương 7-13)
***
JohnPaulMỘT THƯỢNG TẾ GIỐNG NHƯ MELKISÊĐÊ (7,1-28)
Chương 7 bàn đến ba chức tư tế. Trước hết là chức tư tế của Melkisêđê, một khuôn mặt xa xưa từ thời tổ phụ Abraham và đầy vẻ huyền nhiệm. Kế đến là chức tư tế thuộc chi tộc Lêvi trong dân Israel. Cuối cùng là chức tư tế của Đức Kitô, mang đặc tính vĩnh cửu như Melkisêđê, đồng thời thi hành những chức năng của tư tế Lêvi.
Tác giả so sánh Đức Kitô với Melkisêđê bằng cách ba lần vận dụng Thánh vịnh 110,4 : “Con là tư tế đời đời theo phẩm hàm Melkisêđê.” Chúng ta không biết đến các tư tế theo phẩm hàm Melkisêđê, cho nên chỉ cần hiểu câu này là “tư tế đời đời giống như Melkisêđê.” Tại sao tác giả lại so sánh Đức Kitô với Melkisêđê? Vì ông muốn trình bày Đức Kitô là tư tế vĩnh hằng chứ không giống như những tư tế Lêvi cũng là những con người phải chết. Thêm vào đó, Melkisêđê vẫn được xem như một nhân vật thuộc thượng giới, cho nên cũng là hình ảnh để nói về Đức Kitô được tôn vinh, thuộc thượng giới.
Ngoài Thánh vịnh 110, tác giả còn vận dụng sách Sáng thế 14,17-20. Từ bản văn này, tác giả trình bày một số nét về Đức Kitô thượng tế:
(1) tên gọi Melkisêđê làm nổi bật vương quốc Đức Kitô là vương quốc của công chính và hoà bình;
(2) vì sách Sáng thế không nói gì đến chi tiết cá nhân cuộc đời của Melkisêđê, kể cả ngày sinh và cái chết của ông, nên ông được coi là tư tế vĩnh hằng, và Đức Kitô cũng thế;
(3) Melkisêđê có vị trí trổi vượt Abraham nên Abraham phải dâng 1/10 chiến lợi phẩm, các tư tế từ dòng dõi Abraham đương nhiên cũng ở dưới Melkisêđê, và tác giả vận dụng chi tiết này để làm nổi bật sự cao trọng của chức tư tế nơi Đức Kitô.
Từ những lý lẽ trên, Thư Do thái đi đến kết luận : vì chức tư tế trong Cựu Ước chưa hoàn thiện nên Thiên Chúa mới đặt một vị tư tế khác giống như Melkisêđê (7,11). Đức Kitô lại không phải là tư tế thuộc chi tộc Lêvi vì Người thuộc chi tộc Giuđa (7,13-14); do đó Đức Kitô là tư tế vĩnh hằng như Melkisêđê, không phải theo dòng dõi tự nhiên (Ds. 18) nhưng theo Lời Chúa phán : “Con là thượng tế muôn đời theo phẩm hàm Melkisêđê.”
Vì Đức Kitô là thượng tế vĩnh hằng nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho chúng ta, Người hằng sống để chuyển cầu cho ta. Không giống như các thượng tế khác, Đức Kitô đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ (7,27). Hy lễ cứu độ của Đức Kitô là hy lễ duy nhất, hoàn tất một lần thay cho tất cả; tuy nhiên hy lễ duy nhất này được hiện tại hoá qua hy lễ của Giáo Hội. Cũng vậy, chức tư tế của Đức Kitô là chức tư tế duy nhất, nhưng chức tư tế duy nhất này được hiện tại hoá qua chức tư tế thừa tác trong Giáo Hội. Do đó, chỉ một mình Đức Kitô là tư tế đích thực, những người khác chỉ là thừa tác viên của Ngài (x. Giáo lý HTCG số 1545).
Như thế, chương 7 đã làm nổi bật sự tương phản giữa chức tư tế trong Cựu Ước và chức tư tế của Đức Kitô. Ba chương kế tiếp trong Thư Do Thái sẽ khai triển sự tương phản này ở từng khía cạnh:
– Thừa tác vụ cũ và mới (8,1-6) : các tư tế Cựu Ước lo việc phụng tự trong thánh điện, nhưng thánh điện này chỉ là hình ảnh lu mờ của thánh điện trên trời. Đức Kitô mới là Thượng tế cao cả, lo việc tế tự trong thánh điện trên trời.
– Giao ước cũ và mới (8,7-13) : Giao ước cũ đã lỗi thời và cũ kỹ. Thiên Chúa hứa thiết lập giao ước mới, và Đức Kitô chính là Đấng trung gian của giao ước mới.
– Cung thánh cũ và mới (9,1-10) : Trong Cựu Ước, mỗi năm một lần, vị thượng tế vào Nơi cực thánh đem theo máu chiên bò để dâng lễ đền tội. Hy lễ đó chỉ có hiệu lực bên ngoài, không làm cho lương tâm người cử hành trở nên hoàn thiện. Còn Đức Giêsu Kitô đã vào cung thánh không phải với máu chiên bò mà là với chính Máu của Người. Máu ấy thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.
– Hy tế cũ và mới (10,1-18) : Đức Kitô bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.
QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC TIN (11,1 – 12,2)
Ghi nhận đầu tiên là cách dịch câu 11,1, cũng là vấn đề được tranh cãi trong nhiều thế kỷ. Cách dịch dễ hiểu và quen thuộc là : “Đức tin là kiên vững trong điều ta hi vọng, là vững tin vào điều ta không thấy.” Kiên vững và vững tin diễn tả thái độ chủ quan của kẻ tin. Thế nhưng nguyên bản trong tiếng Hi Lạp không nhấn mạnh khía cạnh chủ quan cho bằng khía cạnh khách quan, và thánh Giêrônimô đã dịch sang tiếng La tinh bằng từ bản thể và bằng chứng. Nói cho dễ hiểu hơn, đức tin là thực tại của những điều ta hi vọng, là bằng chứng của những điều ta không thấy. Như thế, đức tin là nền tảng cho niềm hi vọng; nếu không, niềm hi vọng của ta chỉ là hão huyền. Đồng thời, đức tin là động lực nâng đỡ hi vọng khi những điều ta hi vọng xem ra vẫn xa vời. Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI rất quan tâm đến cách dịch này, vì thế ngài đã phân tích cách sâu sắc về điều này trong thông điệp Spe Salvi (xem số 8-10).
Tiếp theo câu mở đầu, tác giả Thư Do Thái đã liệt kê rất nhiều nhân vật trong suốt lịch sử Dân Chúa. Mỗi nhân vật được nhắc tới đều là chứng nhân đức tin, và tìm hiểu về các ngài trong hoàn cảnh cụ thể của thời đại cũng như những thử thách các ngài phải chịu sẽ là cơ hội tốt cho mỗi Kitô hữu hâm nóng đức tin của mình : “Phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (12,1-2). Đức Kitô không chỉ là đích tới của đức tin mà còn là gương mẫu tuyệt hảo của đức tin vì “chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình mà cam chịu khổ hình thập tự, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (12,2).
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top