KINH THÁNH (ngũ thư) - Tora

* khi chúng ta làm dấu :

--Tuyên xưng đức tin mầu nhiệm nhập thể.

~ Mầu nhiệm cứu chuộc.

~ Mầu nhiệm 1 thiên chúa 3 ngôi.

~ Giáo lý là gì?..... - - - Giáo lý là sự giảng diễn (giải thích) Tín điều.

~ Tín điều là gì?..... - - - - Tín điều là kinh tin kính.

~ Mạc khải là gì? - - Thiên chúa tỏ cho biết.

- - Thiên chúa là tác giả chính.

- - Con người được ơn linh hứng để viết về Thiên chúa.

-- Kinh thánh có 73 cuốn :--46 cựu ước (Giao ước cũ) & --27 (Tân ước mới).

~ Ước là ước hẹn( hứa hẹn) và 1 sự cam kết của 2 bên.

SÁCH SÁNG THẾ (chương 1-2)


I. TỔNG QUÁT VỀ SÁCH SÁNG THẾ


* kinh thánh đc viết cách chúng ta hơn 30 thế kỉ.

* Ngũ thư : sáng thế, xuất hành, lê vi, dân số, đệ nhị luật. Trong tiếng Hipri => TORAH. Hay còn được gọi là lề luật.

Cuốn sách đầu tiên trong Ngũ thư và trong toàn bộ Thánh Kinh. Trong tiếng Hipri, sách này mang tên là Khởi Nguyên.

* Sách có hai phần chính:

Chương 1-11 bàn về những vấn đề vượt trên thời gian và lịch sư : tạo dựng thế giới và con người, tội lỗi đột nhập trần gian, sự ác tràn ngập... Cần vượt lên trên những hình ảnh cụ thể để nắm bắt nội dung tác giả muốn chuyển tải. Vì không nắm vững điều này nên nhiều Kitô hữu đã cảm thấy hoang mang khi đọc Thánh Kinh và đối chiếu với những khám phá khoa học hiện đại.

Chương 12-50 trình bày lịch sử các tổ phụ dân Irsarel.

II. THIÊN CHÚA TẠO DỰNG VŨ TRỤ VÀ CON NGƯỜI

1. Hai trình thuật về tạo dựng

Các học giả Thánh Kinh bắt đầu quan tâm đến việc hình thành bộ Ngũ Thư khi nhận ra rằng trong sách Sáng Thế, có hai danh xưng khi nói về Thiên Chúa: Yahweh và Elohim.

Việc nghiên cứu kỹ lưỡng dẫn đến kết luận là có bốn nguồn văn trong sách:

- (J) dùng từ Yahweh để nói về Thiên Chúa

- (E) dùng Elohim để nói về Thiên Chúa cho đến Xh 3,14 là lúc Chúa mạc khải Danh Người cho Môsê

- (P) cũng dùng danh xưng Elohim, với giọng văn trang trọng. Dịch ra tiếng việt nam là tư tế.

- (D) dịch ra tiếng việt là đệ nhị luật.

Về việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người, trong sách Sáng Thế có hai trình thuật.

Trình thuật I (1,1 - 2,4a) là trình thuật của truyền thống P, do các tư tế biên soạn trong thời lưu đày ở Babylon.

Trình thuật II (2,4b - 5,32) ) là trình thuật của truyền thống J, cổ xưa hơn và cụ thể, sống động hơn khi trình bày Thiên Chúa gần gũi con người, trò chuyện với con người.

2. Những chủ đề lớn trong chương 1 & 2

a) Công trình tạo dựng vũ trụ

---Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ Hư Vô.

---Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ bằng Lời.

Câu đầu tiên (1,1) mô tả trước khi có hành động tạo dựng của Thiên Chúa, thế giới là một khối hỗn mang. Rồi "ngọn gió của Thiên Chúa" bắt đầu hoạt động trên khối hỗn mang đó. Thiên Chúa tạo dựng mọi sự bằng Lời quyền năng của Người (1, 3). Hành động tạo dựng của Thiên Chúa được trình bày trong khuôn khổ sáu ngày:

Ngày 1: Ánh sáng (là các Thiên Thần)

Ngày 2: Bầu trời, tách biệt nước ở trên vòm và nước dưới vòm

Ngày 3: Đất và thảo mộc

Ngày 4: Các chòm sáng trên bầu trời

Ngày 5: Chim muông và cá

Ngày 6: Các loài động vật và con người

Vũ trụ này chính là công trình của Thiên Chúa nên khi chiêm ngắm vũ trụ này, con người có thể nhận biết Thiên Chúa và chúc tụng Người (Rm 1, 20).

b) Con người

Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Đây là định nghĩa tuyệt vời và súc tích nhất về con người. Giải thích thần học thường nhấn mạnh rằng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên có linh hồn. Tuy nhiên, cách nhìn của Thánh Kinh không mang tính phân biệt xác-hồn. Đúng hơn, hình ảnh ở đây nói lên chức năng của con người là đại diện của Thiên Chúa trên trái đất. Cũng như Thiên Chúa là Đấng cai quản bầu trời, thì con người là đại diện của Người được trao trách nhiệm cai quản trái đất (1,26).

Vì con người là hình ảnh Thiên Chúa nên những gì nói về Thiên Chúa đều có liên hệ đến ta, vd. mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Đồng thời con người có thể nói về Thiên Chúa khởi đi từ kinh nghiệm nhân loại của mình, dĩ nhiên là rất giới hạn. Từ ngữ chuyên môn gọi là loại suy. Chúa Giêsu chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đến nỗi ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha; do đó Ngài chính là khuôn mẫu cho ta để sống trọn nhân tính của mình.

Con người có nam có nữ (1,28; 2,18-24), bình đẳng với nhau và bổ túc cho nhau. Đây là một tầm nhìn rất mới trong bối cảnh thời đại xa xưa. Vì con người được Thiên Chúa tạo dựng có nam, có nữ, nên những tình trạng như sự bất bình đẳng nam nữ hoặc chủ trương xoá tan sự độc đáo của mỗi giới đều không phù hợp ý muốn của Đấng Tạo hoá.

Chiều kích xã hội của con người cũng được thể hiện ngay từ đầu, với căn bản là gia đình (2,18). Nền tảng gia đình được thiết lập. Chính Thiên Chúa liên kết hai người nam nữ nên một để họ bổ túc cho nhau và sinh sản con cái.

Con người làm chủ trái đất (1,28; 2,19): con người được giao quyền làm chủ với tư cách là quản lý và là người cộng tác vào chương trình tạo dựng của Thiên Chúa.

Con người đặt tên cho mọi dã thú và sinh vật (2,20).

c) Ngày sabát (2,2-3), dấu ấn của truyền thống P

Ngày sabát được liên kết với việc Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bẩy. Trong tuần tạo dựng, Thiên Chúa đã có tám hành động tạo dựng, nhưng tám hành động này lại được xếp vào khuôn khổ sáu ngày (ngày thứ ba và thứ sáu, mỗi ngày có hai hành động). Mục đích là để làm nổi bật ý nghĩa của ngày sabát. Luật giữ ngày sabát được công bố trong sách Xuất Hành (20,8) nhưng ở đây đã được liên kết với thuở đầu tạo dựng, nghĩa là với trật tự tạo dựng của Thiên Chúa ngay từ đầu.

SÁNG THẾ (chương 3 - 5)

I. TỘI CỦA ADAM VÀ EVA (2,25 - 3,1-7)

(st3, 6) : Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon trông thì đẹp mắt, và đáng quý làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình, ông cũng ăn.

* Chúa ban cho chúng ta 5 giác quan : Thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác.

1. Con rắn

Trong bản văn, không có chỗ nào con rắn được đồng hoá với thần dữ. Việc đồng hoá chỉ diễn ra sau này vào thế kỷ I (Kng 2,24; Enoch 69,6). Ở Canaan, rắn có liên hệ mật thiết với việc thờ phượng sự sung túc phì nhiêu, cũng là cám dỗ thường xuyên cho dân Israel khi họ định cư ở đất Canaan. Vì thế đây là lời cảnh giác hãy tránh xa những việc thờ quấy này. Rắn ở đây cũng không liên hệ gì đến con rắn đồng trong sách Xuất hành. Sự kiện rắn đồng trong sách Xuất hành cho thấy Thiên Chúa có thể "dĩ độc trị độc!" Và Chúa Giêsu chấp nhận cái chết để ban tặng sự sống (Ga 3,14-15).

2. Ý nghĩa cám dỗ

Chiến thuật của mọi cám dỗ là chỉ nói một nửa sự thật: (1) các ngươi sẽ không chết(3,4), (2) mắt các ngươi sẽ mở ra(3,5), (3) các ngươi sẽ được giống như Thiên Chúa(3,5). Thực tế là sau khi ăn trái cấm, con người đã không chết nhưng lại không sống mãi, đã mở mắt ra để chỉ thấy mình trần truồng, và đã giống như Thiên Chúa biết thiện ác nhưng chỉ là cái biết giới hạn.

Đây cũng là chiến thuật Satan áp dụng khi cám dỗ Chúa Giêsu ( Mt 4, 1-11). Và cả ngày nay, với chúng ta.

Cây biết thiện ác (2,17): Ý nghĩa sâu xa của hình ảnh và trình thuật này là chỉ một mình Thiên Chúa - với sự toàn tri và khôn ngoan của Người - mới biết rõ ranh giới thiện ác và tốt xấu. Con người không thể tự mình xác định vì tầm nhìn giới hạn của phận người nên chỉ thấy được một phần nhỏ. Vì thế, phải biết trân trọng Lời Chúa về cây biết thiện ác (2,17) thì mới đến được cây trường sinh (3,22). Đây là bài học rất lớn cho con người hôm nay, nhất là trong lãnh vực luân lý, đạo đức.

==> Ma quỷ cám dỗ bằng cách gây nghi ngờ, từ đó chối từ và vứt bỏ Lời Chúa.

Vì thế cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Lời Chúa như Chúa Giêsu khi đối diện với những cám dỗ trong sa mạc.

3. Hậu quả của tội

Hậu quả lập tức của tội lỗi là con người nhận ra sự trần trụi của mình và họ tìm cách che đậy sự trần trụi đó (3,7). Khi Đức Chúa lên tiếng hỏi "Ngươi ở đâu?" con người đưa ra lý do lẩn tránh Thiên Chúa, "bởi vì tôi trần trụi." Thực ra con người không trần truồng vì đã lấy lá vả che thân, nhưng con người nhận ra mình trần trụi vì tương quan giữa họ với Thiên Chúa đã bị bẻ gẫy.

Bẻ gẫy tương quan với Chúa, tội lỗi cũng phá hỏng những mối tương quan căn bản trong cuộc sống con người: đánh mất sự thống nhất nơi chính bản thân; tương quan vợ chồng biến thành tương quan thống trị và thèm khát thay vì yêu thương phục vụ (3,16); tương quan với tha nhân (anh em trong nhà, người ngoài) được dệt bằng dối trá, sợ hãi, đối đầu; cả tương quan với thế giới cũng trở nên khó khăn vì chính thiên nhiên tàn phá con người (3,17).Tất cả những điều này sẽ được trình bày trong những chương kế tiếp.

4. Niềm hi vọng.

Câu chuyện về sa ngã không kết thúc quá bi thảm vì người phụ nũ được gọi tên là Evavaf bà sẽ là mẹ của chúng sinh(3,20). Cho dù rội lỗi và hậu quả của tội hoành hành, sự sống vẫn tiếp tục phát triển. Thiên Chúa ban cho con người những chiếc áo (3,21)và như thế, Ngài che phủ tội lỗi cũng như sự khốn cùng của họ. Dù con người phạm tội, Thiên Chúa vẫn một niềm chăm sóc con người. Và dù cho mối tương giao giữa con người và Thiên Chúa bị bẻ gãy, Thiên Chúa vẫn tìm cách khôi phục mối trương giao đó. Vì tội lỗi, con người bị trục xuất khỏi địa đàng và không được đến gần cây sự sống. Nhân loại không thể chiếm hữu tính bất tử của thần linh. Để bảo đảm điều này, các thần hộ giá (kerubim) canh giữ đường đến cây trường sinh.

Câu hỏi...... THIÊN CHÚA LÀ NAM HAY NỮ.? ---TC là đấng vô hình, cho nên để nói về ngài cho chúng ta dễ hiểu, Thánh Kinh sử dụng thứ Ngôn Ngữ Như Nhân, diễn tả về TC bằng những từ ngữ như thể nói về con người.

ĐI TU ( SỐNG ĐỘC THÂN) CÓ PHẢI DIỆT CHỦNG HOẶC LÀM TRÁI TỰ NHIÊN KHÔNG? ---- Chúa giê-su đưa ra 3 lý do (Mt19, 12)~có những người không thể kết hôn vì từ lòng mẹ họ đã sinh ra như vậy, và có những người không thể kết hôn vì bị hoạn, lại có những người không kết hôn, do chính họ đã từ chối vì nước trời. Ai có thể hiểu được thì hiểu.

*-- Bí tích hôn phối là luật chủa chúa. <=> Luật độc thân tu là luật của hội thánh.

II. CAIN VÀ ABEL (4,1-16)

Câu truyện về Cain và Abel được nối kết cách lỏng lẻo với câu truyện trước đó về con người sa ngã. Một số học giả cho rằng đây là câu truyện hoàn toàn độc lập nhưng được tác giả sách Sáng Thế liên kết với câu truyện trước nhằm mục đích riêng của ông. Câu truyện này giả thiết lúc đó đã có các dân khác (St 4,14 : "bất cứ ai gặp con sẽ giết con"; xã hội đã có tổ chức trong đó có những ngành nghề khác nhau, và một nền thờ phượng cũng đã bắt đầu phát triển.

Mối quan tâm của tác giả là nhấn mạnh đến tội lỗi và hậu quả của nó chứ không nhằm những chi tiết khác, do đó khiến ta có những thắc mắc, vd. tại sao Chúa không nhận lễ vật của Cain.

Có giả thuyết cho rằng câu truyện này muốn trình bày sự tranh chấp giữa các dân có nền văn hoá và ngành nghề khác nhau, cụ thể là giữa lối sống du mục và nông nghiệp. Cũng có giả thuyết khác cho rằng đây là cách nói về nguồn gốc của bộ tộc Kenites, mang tattoo trên trán và sống tách biệt các bộ tộc khác. Bộ tộc này cũng thờ phượng Thiên Chúa nhưng chưa bao giờ là thành viên của dân Israel.

Thiết nghĩ ý tưởng chính của câu truyện là lòng con người đã nghiêng về điều xấu. Từ tội lỗi của những con người đầu tiên, nhân loại tiếp tục xa rời Thiên Chúa, chìm sâu trong tội đến nỗi Thiên Chúa đã lấy làm tiếc vì tạo dựng loài người (6,6). Chính vì tội lỗi nhân loại tràn lan như thế nên cuối cùng Thiên Chúa đã tuyển chọn một dân để từ dân đó, toàn thể nhân loại giao hoà với Thiên Chúa. Đó là nội dung sẽ được trình bày từ chương 12 trở về sau.

SÁNG THẾ (chương 6-11)

I. LỤT HỒNG THUỶ (6,1 - 9,29)

Có sự giống nhau giữa trình thuật này và một truyện thần thoại của Babylon (Gilgamesh Epic), theo đó hội đồng các thần linh quyết định hủy diệt nhân loại. Ea là thần khôn ngoan hiện ra với Utnapishtim và báo cho biết tai hoạ sắp tới, đồng thời dạy phải làm tầu để cứu cả nhà. Utnapshtim làm tầu rồi đem gia đình và cả thú vật lên tầu. Các thần cho cơn bão hoành hành nhưng rồi chính các thần linh cũng không kiểm soát nổi cơn bão, và phải run sợ ẩn nấp trên trời. Khi bão tan, Utnapishtim thả những cánh chim ra để xem xét tình hình. Khi vừa lên bờ, họ dâng lễ tạ ơn thần linh và được các thần thuởng cho sự bất tử.

Tuy nhiên giữa truyện thần thoại này và trình thuật Thánh Kinh có những khác biệt căn bản. Trong trình thuật sách Sáng Thế, không hề có bóng dáng đa thần. Thiên Chúa và chỉ một mình Người mà thôi điều khiển tất cả và không có chuyện cơn bão lụt vượt ra ngoài sự kiểm soát của Thiên Chúa. Cơn lụt được trình bày rõ ràng là hình phạt của tội, và sau cơn lụt, Noê bước vào giao ước với Thiên Chúa chứ không để hưởng sự bất tử.

Bản văn cũng nói đến cuộc hôn nhân giữa con trai Thiên Chúa và con gái loài người (6, 1-4). Ở đây có âm vang của các chuyện thần thoại mang dáng dấp đa thần. Tác giả Thánh Kinh vận dụng câu truyện này để dẫn vào chuyện lụt hồng thủy như hình phạt tội lỗi, tội lỗi đã lan rộng đến độ vượt qua cả ranh giới giữa đất và trời!

Ý nghĩa này được nhấn mạnh hơn nữa trong 6,5-8; 8,21-22 với ghi nhận rằng "Lòng con người toan tính điều xấu." Trong văn hoá Hípri, trái tim (lòng) trước hết không phải là trung tâm tình cảm nhưng là nguồn tri thức và ý muốn. Do đó, điều nhấn mạnh ở đây là toàn bộ suy tư và đời sống con người đã ra xấu xa.

Trình thuật này đã được vận dụng vào trong đời sống của Hội Thánh cách phong phú.

Nước trong Lụt hồng thủy được coi như hình bóng của bí tích Thánh tẩy. Cũng như nước hồng thủy vừa hủy diệt nhân loại tội lỗi vừa tác sinh nhân loại mới, thì nước Thánh Tẩy cũng tha thứ tội lỗi và biến đổi chúng ta thành những con người mới.

==>Chúng ta có mấy phép rửa? Có 3 phép rửa - nước - lửa - máu.

Con tầu Noê cũng được xem là hình bóng về Hội Thánh. Con tầu Noê được làm mà không có bánh lái, như thế giống như một Đền thờ hơn là con tầu Hình ảnh này diễn tả về Hội Thánh hoàn toàn ở trong tay Thiên Chúa (7,17).

Câu nói nổi danh " Ngoài hội thánh không có ơn cứu độ" --. Vậy, phải chăn tất cả mọi người không ở trong hội thánh công giáo đều không được cứu độ?? CĐ Vatican 2 đã trả lời cho nỗi băn khoăn này khi khẳng định " những người không biết đến tin mừng của Chúa kitô và hội thánh Ngài mà không do lỗi của họ, nhưng thành tâm tìn kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ân sủng, cố gắng chu toàn thánh ý của Ngài bằng các công việc theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể đạt được ơn cứu độ muôn đời "(LG số 16).

Noê cũng là hình ảnh loan báo Chúa Kitô, Đấng là Đầu nhân loại mới được canh tân trong Chúa Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy (8,20). Noê đã dâng lên Thiên Chúa hiến lễ đẹp lòng Người, và Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước bao gồm cả nhân loại. Giao ước này loan báo giao ước tối hậu trong Chúa Kitô.

II. CÁC DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI (10,1 - 11,27)

1.Bản danh sách các dân tộc (10,1 - 11,27)

Ý nghĩa thần học của bản danh sách này là sự thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa trong St 1,28 "Hãy sinh sôi nảy nở đầy mặt đất." Israel là một trong số các dân, và việc Thiên Chúa tuyển chọn họ không phát xuất từ những ưu điểm của họ nhưng hoàn toàn do lòng từ ái của Thiên Chúa mà thôi.

2.Tháp Babel (11,1-9)

Tháp Babel biểu tượng cho giấc mơ rồ dại của con người muốn xây dựng một thế giới vắng bóng Thiên Chúa. Sau này, trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ quy tụ và hiệp nhất các dân nước khác nhau trong cùng một ngôn ngữ.

SÁNG THẾ chương 12-19

St 11,28 - 36,43 là những trình thuật về các tổ phụ, bắt đầu với tổ phụ Abraham. Chủ đề xuyên suốt các trình thuật này là lời hứa của Thiên Chúa và việc thưc hiện lời hứa đó trong lịch sử.

I. TIẾNG GỌI VÀ LỜI ĐÁP TRẢ CỦA ABRAM (11,28 - 12,9)

1. Tiếng gọi của Thiên Chúa

Abram và Abraham là những cách gọi khác của cùng một tên, cũng như Sarai và Sara. Sự thay đổi trong cách gọi bắt đầu diễn ra từ St 17,5.15 để làm nổi bật mối quan hệ mới của Abraham với Thiên Chúa sau khi ký kết giao ước.

Sau khi trình bày lịch sử nguyên thủy của toàn nhân loại, tác giả sách Sáng Thế bắt đầu tập trung vào một con người, từ con người này sẽ hình thành một gia đình, sau đó là một dân tộc.

Việc tuyển chọn Abram vẫn là một huyền nhiệm, hoàn toàn do sáng kiến của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa sẽ làm cho Abram thành một dân lớn (12,2). Để được như thế, Abram cần có hậu duệ và đất đai. Yếu tố cuối cùng trong lời hứa của Thiên Chúa là nhờ Abram, "mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc" (12,3). Điều này có nghĩa là Abram, và sau này Israel, được coi như trung gian của những phúc lành Thiên Chúa ban cho thế giới (Sirach 44,21).

2. Lời đáp trả của Abram

Bản văn không cung cấp chi tiết gì về phản ứng của Abram trước lời đề nghị của Thiên Chúa, cũng không cho biết lý do tại sao ông vâng phục. Bản văn chỉ ghi nhận vắn tắt, "Abram ra đi như Đức Chúa đã phán với ông" (12,4). Hàm nghĩa ở đây là niềm tin không tra vấn và sự vâng phục tuyệt đối của tổ phụ Abram. Chủ đề đức tin là chủ đề quan trọng sẽ được nhắc đến nhiều lần trong trình thuật về tổ phụ Abraham.

Thánh Phaolô đã mô tả đức tin của tổ phụ Abraham bằng những lời lẽ tuyệt vời, "Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu" (Dt 11,8).

Ra đi mà không biết mình đi đâu! Đức tin không chỉ là dùng lý trí để chấp nhận một số chân lý hoặc mệnh đề đức tin, nhưng là vâng nghe tiếng Chúa và phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa đến nỗi ra đi mà không cần biết mình đi đâu, chỉ cần biết là đi với Chúa và đi theo Chúa, thế là đủ. Tổ phụ Abrham mãi mãi là mẫu mực cho đời sống đức tin của mọi tín hữu.

* Khởi đầu của giao ước cũ là abraham.

* Khởi đầu của giao ước mới là Gioan tẩy giả.

II. GIAO ƯỚC VỚI ABRAHAM (15,1-21)

(St15, 7-11). Ngài phán với ông "Ta là Đức Chúa, đấng đã đưa ngươi.............mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng abram đuổi chúng đi. => gọi là nghi thức kí kết giao ước.

Về mặt chuyên môn, các học giả Thánh Kinh cho rằng trình thuật này là sự phối hợp giữa hai nguồn văn P và J, nhưng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề này. Điều nên quan tâm ở đây là nghi thức ký kết giao ước được mô tả trong các câu 9-11 và 17-20." khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông abram".

Chương 16 ông ismael chào đời (St16, 1-12)."ở câu 12 con người đó đúng là một con lừa hoang, nó giơ tay chống mọi người, mọi người giơ tay chống nó, nó sẽ luôn đối đầu với tất cả anh em nó ". ông ismael không phải con của giao ước ( không phải đứa con mà Thiên Chúa hứa).==> Đứa con của lời hứa là isaac.

Chương 17 => giao ước vĩnh cửu.

(St17, 14) kẻ không được cắt bì, người đàn ông con trai không được cắt bì nơi bao khuy đầu, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ:nó đã phá vỡ giao ước của ta.

Nghi thức ký kết giao ước cũng như ý nghĩa của nó được nhắc đến trong ( Giêrêmia 34,18 ) . Những khám phá trong thế kỷ vừa qua cho thấy đây là cách phổ biến trong vùng Cận Đông xưa. Xẻ đôi con vật và bước đi qua giữa con vật đã bị xẻ đôi là cách kết nối và ràng buộc hai bên ký kết giao ước với nhau. Nếu họ không tuân giữ những điều khoản của giao ước, họ sẽ bị nguyền rủa và phải chịu số phận như những con vật bị xẻ đôi.

Abram chìm vào trong giấc ngủ sâu tức là trạng thái ngưng hoạt động và bước vào tình trạng đón nhận mạc khải của Chúa. Nghi thức ký kết được kết thúc bằng hình ảnh một lò lửa nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua những con vật đã bị xẻ đôi. Lửa chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Chính Chúa đã có sáng kiến ký kết giao ước và Người tự "buộc" mình vào giao ước đó. Những câu cuối cùng (18-21) xác định rõ vùng Đất Hứa, và những xác định này phù hợp với lãnh thổ của vương quốc Đavít dưới thời Salomon.

Nghi thức ký kết giao ước này giúp cho mỗi tín hữu ý thức lại giao ước mà mình đã ký kết với Thiên Chúa và những đòi hỏi của nó. Điều quan trọng nhất là sự trung tín. Về phía Thiên Chúa, Người luôn luôn trung thành với giao ước Người đã ký kết, mặc cho những đổi thay từ phía con người. Nhưng bản thân ta có trung thành với giao ước không, đó là điều mỗi Kitô hữu phải thường xuyên tự vấn và sám hối.

III. PHÁ HỦY THÀNH SODOMA (19,1-29)

Trình thuật này khẳng định thái độ không hiếu khách (vốn là đòi hỏi quan trọng trong xã hội du mục) và sự bại hoại về luân lý tính dục là nguyên nhân chính dẫn đến việc Thiên Chúa trừng phạt Sodoma. Ngày nay khi nghe kể rằng để giàn xếp mọi chuyện cho êm thắm, ông Lot đã đề nghị đem hai trinh nữ ra cho người ta thoả mãn tuỳ thích... chúng ta không chịu được! Nhưng vào thời đó, vấn đề lại không bị nhìn cách trầm trọng như thế. Hơn nữa sự kiện này càng làm nổi bật sự vô luân và tội ác của dân Sodoma, và như thế, hình phạt của Thiên Chúa đã gần kề. Ông Lót được cảnh báo phải đưa cả gia đình đi tránh nạn. Bà vợ ông đã bị biến thành tượng muối vì đã không tuân theo lời căn dặn của hai vị sứ giả, "Đừng ngoái lại đằng sau" (9,17).

Lề luật của Thiên Chúa được đặt ra không nhằm trói buộc con người nhưng mở đường dẫn tới hạnh phúc đích thực. Khi con người nhân danh tự do để phủ nhận lề luật và trượt sâu vào sự sa đoạ về luân lý, thì con người tự hủy diệt chính mình, huỷ diệt nhân tính, huỷ diệt những tương quan xã hội, và hủy diệt vận mệnh vĩnh cửu của mình. Trình thuật về Sodoma làm chứng điều đó, và những gì đang diễn ra trong cuộc sống ngày nay cũng làm chứng điều đó. Vì thế trình thuật này là lời mời gọi mỗi người suy nghĩ về chính cuộc sống của mình cũng như của toàn xã hội.

SÁNG THẾ (chương 20-25)

I. HIẾN TẾ ISAAC (22,1-19)

Đây là một trong những áng văn đẹp nhất của Thánh Kinh Cựu Ước. Hãy hình dung cảnh tượng hai cha con bước đi trong thinh lặng của núi rừng mà lòng Abraham trĩu nặng. Hãy nghĩ đến những tâm tư thầm kín của tổ phụ Abraham trong từng bước đi. Hãy nhớ đến câu hỏi thật đơn sơ và ngây thơ của Isaac hỏi cha mình... Tất cả làm nên một trình thuật không những sâu sắc về tư tưởng mà còn thật cuốn hút về mặt văn chương.

Các học giả ghi nhận mối quan hệ giữa trình thuật này với tục lệ sát tế con cái để dâng cho thần linh. Đây là tục lệ của những dân tộc lân cận với Israel thời đó, và một số người trong dân Israel cũng đã bắt chước dù bị cấm (x. 1V 16,34; 2V 3,27; 23,10). Có thể trình thuật này nhắm mục đích phê phán và phủ quyết tục lệ này. Tuy nhiên điểm nhấn của trình thuật vẫn là việc thử thách đức tin của Abraham. Thiên Chúa đã thử thách Abraham đến độ đòi hỏi ông phải hiến tế chính đứa con duy nhất của mình, đứa con làm nên niềm vui và hi vọng duy nhất của đời ông. Và tổ phụ Abraham đã chứng tỏ niềm tin tín thác trọn vẹn và tuyệt đối của ông vào Thiên Chúa. Tên gọi "Đức Chúa sẽ liệu" (câu 14) mà Abraham đặt cho nơi ông hiến dâng con mình đã diễn tả tất cả, diễn tả sự phó thác trọn vẹn của ông vào Thiên Chúa, đồng thời diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa với lời hứa của Người. Chủ đề về Lời hứa một lần nữa được nhấn mạnh trong trình thuật này (câu 15-19).

Khi đọc trình thuật này, ta dường như dành trọn sự thương cảm cho Abraham, và cùng với sự thương cảm đó là một chút "ác cảm" với Thiên Chúa vì cho rằng đòi hỏi của Người quá "phi lý" và "bất nhân." Thế nhưng có khi nào ta đọc câu chuyện này và nhớ lại khung cảnh của đồi Canvê, khi Thiên Chúa dìu Người Con chí ái của Người lên đồi và chấp nhận để cho thế gian đóng đinh Con của Người vào thập giá? Có khi nào ta hình dung nỗi đau của Thiên Chúa khi chứng kiến Con của Người đang quằn quại theo từng nhát búa? Hãy hình dung như thế để khám phá lại tấm lòng yêu thương mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Hãy hình dung như thế để hiểu rằng tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người luôn luôn vĩ đại hơn niềm tin của con người dành cho Thiên Chúa, cho dù con người đó là Abraham. Hãy hình dung như thế để bước đi trong niềm tín thác vào Thiên Chúa Tình yêu bởi vì "đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?" (Rm 8,32).

II. TÌM VỢ CHO ISAAC (24,1-67)

Hàm ẩn trong câu truyện dễ thương này vẫn là chủ đề về lời hứa. Thiên Chúa tiếp tục hướng dẫn tổ phụ Abraham từng bước để thực hiện lời Người đã hứa. Tuy nhiên Người không can thiệp cách trực tiếp mà qua sự hướng dẫn trong tâm hồn và qua những dấu chỉ.

Theo tập quán thời đó, tổ phụ Abraham phải sắp xếp cuộc hôn nhân cho con mình. Vì tuổi cao sức yếu nên ông trao phó nhiệm vụ này cho người lão bộc trung thành với những lời căn dặn thật rõ ràng và chu đáo. Isaac sẽ không kết hôn với phụ nữ Canaan, nghĩa là loại trừ việc kết hôn khác đạo. Cũng không thể để Isaac trở về quê cũ của tổ phụ Abraham vì Đức Chúa "đã phán và thề với tôi rằng: Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này" (câu 7). Như thế trong mọi sự, Abraham luôn tín thác vào Chúa là Đấng đã hứa và trung thành với lời hứa của Người.

Người lão bộc đã thực hiện đúng như lời tổ phụ Abraham căn dặn. Dưới sự hướng dẫn của Chúa, ông đã tìm được Rebecca, được gia đình của Rebecca chấp thuận, và đã đưa Rebecca về cho Isaac.

Toàn bộ câu truyện ánh lên niềm xác tín rằng cuộc hôn nhân giữa Isaac và Rebacca không chỉ do những tính toán của con người nhưng chính Thiên Chúa dẫn đường chỉ lối cho họ đến với nhau. Như thế câu truyện này thể hiện niềm tin đã được nhấn mạnh trong sách Sáng Thế và Chúa Giêsu cũng lập lại: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly." (Mt 19,6).

SÁNG THẾ (chương 25-36)

I. ESAU, GIACOP VÀ MẦU NHIỆM TUYỂN CHỌN (25,19-26)

Với bản gia phả của Isaac (câu 19-20), sách Sáng Thế đưa ta vào một giai đoạn mới trong lịch sử các tổ phụ, là giai đoạn của Isaac và Giacóp. Bản gia phả được tiếp nối bằng câu chuyện về việc sinh hạ Esau và Giacóp.

Bà Rebecca là một phụ nữ hiếm muộn cũng giống như bà Sara. Nhưng chính sự hiếm muộn này lại làm nổi bật sự can thiệp của Chúa trong việc bà thụ thai (câu 21). Niềm vui thụ thai của bà lại trở thành nỗi lo lắng vì cảm nhận những đứa con "đánh nhau" ngay trong lòng dạ mình. Chính ở đây xuất hiện lời sấm được coi như tâm điểm của trình thuật, "Có hai dân tộc trong lòng ngươi, hai dân từ dạ ngươi sinh ra và sẽ chia rẽ nhau. Dân này sẽ mạnh hơn dân kia, đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé" (25,23).

Lời sấm này đã loan báo trước những gì sẽ được trình bày trong câu chuyện về Esau và Giacóp.

Tác giả sách Sáng Thế cũng mô tả một số đặc tính của hai đứa trẻ sơ sinh, báo trước tính cách của mỗi đứa trẻ và mối tương quan giữa Esau và Giacóp sau này. Esau "đỏ hoe" (admoni) và "đầy lông lá" (séar), sau này sẽ trở thành tổ phụ của dân Edmonites sống ở vùng Seir. Việc mô tả Giacóp ra sau nhưng "nắm gót chân" của Esau cũng mang tính biểu tượng, diễn tả tính cách của Giacóp.

Tên gọi Giacóp là thể rút ngắn của Jacobel, nghĩa là "xin Thiên Chúa bảo vệ."

Trình thuật được tiếp nối bằng những câu chuyện về việc Esau bán quyền trưởng nam của mình (25,27-34), kể cả việc bà Rebecca tìm cách đánh lừa Isaac để ông chúc lành cho Giacóp (27,1-46). Những câu chuyện trên có thể làm cho ta đặt nhiều câu hỏi, ví dụ tại sao Giacóp lại được chọn thay vì Esau, phải chăng hành động lừa dối của bà Rebecca là hành động tốt vì phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa đã được bày tỏ trong lời sấm (25,23)? Tác giả sách Sáng Thế không đưa ra câu trả lời. Ông chỉ kể chuyện.

Ở đây chúng ta đối diện với một mầu nhiệm sẽ còn tái diễn nhiều lần trong lịch sử cứu độ, là mầu nhiệm tuyển chọn của Thiên Chúa. Sự chọn lựa của Thiên Chúa mãi là một huyền nhiệm vượt trên những tính toán và suy nghĩ bình thường của con người. Thiên Chúa điều khiển và thực hiện dự định của Ngài, vượt trên những tính toán của chúng ta.

Thiên chúa là chủ của lịch sử và Ngài thực hiện kế hoạch cứ độ xuyên qua những hoạt động bình thường của con người, kể cả những tính toàn trần tục và những yếu đuối của con người :"Tư tưởng của ta không phải tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của ta. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối của Ta vượt trên đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng vượt trên đường của các ngươi thế ấy " (Is 55,8-9).

II. HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA GIACÓP VÀ CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

1. Hành trình của Giacóp

Chương 27 : ông isaac chúc phúc cho Giacóp.

Trong một thị kiến ở Bethel (28,10-12), Giacóp thấy một cái thang nối Trời với Đất, và ông nghe nhắc lại những lời hứa đã được ban cho tổ phụ Abraham. Nhưng Giacóp không biết: "Có Đức Chúa ngự nơi này mà tôi không biết" (28,16). Sau đó Giacóp lấy hòn đá ông đã gối đầu qua đêm dựng lên làm trụ, và khấn hứa rằng nếu Thiên Chúa gìn giữ ông được bình an, thì ông sẽ trở về dựng bàn thờ kính Chúa (28,18-22).

Chương 29 : Kể giacóp đến ha-ran tức đến nhà của laban.

Chương 30 : Giacóp trở nên giàu có và gia đình bên vợ nảy sinh lòng ghen tỵ.

Do sắp sếp của ông laban, Giacóp đã có hai bà vợ là hai chị em ruột : lêa và Rakhen. Nhưng Giacóp lại chỉ yêu Rakhen. Tuy nhiên, chúa lại chúc phúc cho lêa và cho bà sinh được nhiều con, trong khi Rakhen lại hiếm muộn. Lêa càng sinh nhiều con thì Rakhen càng tuyệt vọng đòi Giacóp phải làm cho mình có con : " cho tôi có con đi, không thì tôi chết mất." (30,1), Giacóp nổi nóng : " tôi đâu có quyền Thiên Chúa là Đấng đã không cho bà sinh đẻ (30,2).Rakhen không chỉ" đấu tranh " với giacóp mà với cả thiên chúa! Rồi cũng như bà Sara (ch16), Rakhen có con nhờ tỳ nữ của mình. Tuy nhiên, con người mà Thiên Chúa ban cho bà Rakhen từ chính lòng dạ bà là GIUSE (30,22)và tổ phụ GIUSE sẽ là nhân vật chính trong những chương sau. Bẹnamin, người con trai khác do Rakhen sinh hạ, chỉ được nhắc đến ở chương 35.

Chương 31 : Giacóp trốn đi và bố vợ là Laban đuổi theo, hai bên ký giao ước trong vui vẻ.

Chương 32 : Giacóp trở về quê hương, chuẩn bị gặp lại anh là Esau.

Chương 33 :Giacóp gặp lại anh Esau, cuộc đoàn tụ vô cùng tốt đẹp ngoài sức tưởng tượng của giacóp.

Chương 34 : Chuyện buồn : cô Đina, con gái của giacóp bị làm nhục -- cuộc hôn nhân của Đina.

Chương 35 : Chuyện cuối đời của Giacóp.

Chương 36 : Gia phả của Esau.

Giacóp lại có một thị kiến khác, đó là ông vật lộn với Thiên Chúa tại Peniel (32, 22-33). Sau biến cố này, Giacóp trở thành một con người khác, ông mang tên gọi mới là Israel và sống cuộc đời chính trực.Và 12 người con của giacóp đứng đầu mười hai chi tộc.

Sau cùng, khi trở về Bethel (35, 1-18), ông hoàn tất lời thề xây một bàn thờ tại Bethel để kính Thiên Chúa, "Đấng đã đáp lời tôi ngày tôi gặp bước gian truân, và đã ở với tôi trong chuyến đi tôi đã thực hiện" (35, 3).

2. Hành trình của Kitô hữu

Những sự kiện và biến cố trong đời tổ phụ Giacóp cho thấy đức tin là cả một hành trình dài chứ không chỉ là một lý thuyết hay sự vật mà ta chỉ cần nắm lấy một lần là xong. Tin là bước vào mối tương quan gắn kết với Thiên Chúa, mối tương quan mà ta cảm nghiệm, vun đắp và xây dựng xuyên qua những biến cố dọc dài cuộc sống.

Trong hành trình đó, không ít lần ta cảm nhận nỗi khó khăn khi sống đức tin, nhất là khi phải đối diện với những thử thách và cám dỗ. Quả thật sống đức tin là cả một cuộc vật lộn với Thiên Chúa, vật lộn với lời mời gọi của Ngài, vật lộn với lý tưởng Phúc Âm.

Thế nhưng chính khi ta chấp nhận cuộc vật lộn đau đớn đó, con người mới dần dà được hình thành nơi ta. Sứ điệp đầu tiên và căn bản nhất mà Chúa Giêsu gửi đến những ai muốn theo Ngài là "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" nghĩa là phải đổi mới thường xuyên. Là Kitô hữu là đón nhận một tên gọi mới, một danh hiệu mới, và phải sống cuộc sống mới.

SÁNG THẾ (chương 37-50)

I. TỔNG QUÁT

37, 1-36 Giuse bị bán làm nô lệ bên Ai Cập. Sự ưu ái mà tổ phụ Giacóp dành cho Giuse được coi là nguyên nhân gây bất bình trong anh em. Giuse bị anh em bắt và bán cho người lái buôn sang Ai Cập.

38, 1-30 Giuđa và Tamar. Một chuyện loạn luân nhưng tác giả không nhắm đến khía cạnh đạo đức ở đây. Điều được quan tâm là qua Tamar, dòng dõi Giacóp được tồn tại, và chính qua dòng dõi này mà vị vua vĩ đại của Israel là Đavít xuất hiện.

39, 1-23 Sự thăng trầm của Giuse. Giuse bị bán cho một gia đình Ai Cập và sớm được tín nhiệm. Rồi thử thách đến với ông, khiến ông phải nằm tù.

40, 1-23 Giuse đoán mộng cho các tù nhân, nhờ đó gây sự chú ý của một quan chức hầu cận nhà vua.

41, 1- 57 Giuse đoán mộng cho vua Pharao và được vua tín nhiệm đặt làm quan lớn trong triều. Ông được ban cho một tên gọi Ai Cập là Zaphenah-paneah, nghĩa là "Thiên Chúa nói và sống."

42, 1- 38 Giuse thử thách anh em. Vì đói kém, tổ phụ Giacóp phải sai các con sang Ai Cập, nhưng giữ lại nhà người con út là Benjamin. Giuse đòi phải thấy Benjamin để chứng tỏ nhóm người này không phải là quân do thám.

43, 1 - 34 Anh em của Giuse trở lại Ai Cập. Vừa thấy Benjamin, Giuse hết sức xúc động nhưng vẫn chưa tỏ mình ra.

44, 1 - 34 Giuse thử anh em lần cuối. Họ đã đi được một quãng đường rồi bị bắt lại. Qua những lời tâm huyết của Giuđa, Giuse hiểu rằng anh em đã thay đổi tâm tính và cách sống, quan tâm chăm sóc cho Benjamin.

45, 1 - 28 Giuse tỏ mình cho anh em. Anh em làm hòa với nhau.

46,1 - 47,28 Giacóp đi Ai Cập và định cư tại đó

47,29 -48,22 Chúc lành cho Ephraim và Manassê. Chi tộc Giuse được tách hai thành chi tộc Ephraim và Manassê.

49, 1 - 27 Chúc lành của Giacóp.

49,28-50,14 Tổ phụ Giacóp qua đời và được mai táng tại Machpelah là nơi chôn cất tổ phụ Abraham và Sara.

50, 15 - 21 Giuse trấn an anh em.

50, 22 - 26 Giuse qua đời.

II. THIÊN CHÚA RÚT RA ĐIỀU LÀNH TỪ SỰ DỮ

1. Cuộc đời tổ phụ Giuse

Tổ phụ Giuse phải chịu nhiều nỗi oan khiên: bị anh em bán làm nô lệ sang Ai cập (37,1-36), bị vu oan giá họa đến nỗi phải vào tù (39,1-23). Thế nhưng Thiên Chúa đã biến những đau khổ này thành cơ may cho cá nhân Giuse khi ông được Pharao phong làm tể tướng (41,1-57), và hơn nữa cho cả một dân vì nhờ ông mà cả một dân được cứu khỏi nạn đói. Ông nói với anh em mình : " Tôi là giuse, đứa em mà các anh đã bán sang Aicâp. Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vĩ đã bán tôi sang đây : chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em... Vậy không phải các anh đã gửi tôi đến đây, nhưng là Thiên Chúa " (45,4-8).

2. Hình bóng của Chúa Giêsu Kitô

Cuộc đời tổ phụ Giuse được nhìn như hình bóng báo trước cuộc đời Chúa Kitô. Ngài phải chịu mọi nỗi oan khiên nhưng chính nhờ những đau khổ Ngài chịu mà chúng ta được cứu. Quả thật, "hòn đá người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường" (Tv 118, 22-23). Hội Thánh hân hoan hát lên lời tuyên xưng này cách đặc biệt trong dịp lễ Phục Sinh.

3. Người Kitô hữu tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa

Cuộc đời tổ phụ Giuse và cuộc đời Chúa Kitô là bằng chứng thuyết phục về quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Chính Người là Đấng dẫn dắt lịch sử nhân loại cũng như cuộc đời mỗi người đến chỗ hoàn thành. Vì thế người Kitô hữu được mời gọi tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, đồng thời luôn kiếm tìm và thi hành Thánh Ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, bởi lẽ đó chính là nẻo đường cứu độ và bình an.: "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Ngài, tức là cho những kẻ được Ngài kêu gọi theo như ý Ngài định" (Rm 8,28).

III. THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG XÉT XỬ CÔNG MINH

1. Cuộc đời của tổ phụ Giuse

Ai sẽ là Đấng giải oan cho Giuse khỏi những cáo buộc và hành động bất công? Về mặt loài người, xem ra Giuse hoàn toàn cô thân cô thế trong những nghịch cảnh này. Chỉ có Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự và xét xử công minh, Người sẽ trả lại cho mỗi người phần thuởng xứng với việc họ làm.

2. Người Kitô hữu sống trước nhan Chúa

Sự đánh giá của người đời nhiều khi hời hợt và thiếu công bằng vì chỉ dựa vào những cái bên ngoài và bị tham vọng chi phối. Vì thế người tín hữu được mời gọi tập sống trước nhan Chúa, sống theo lương tâm ngay thẳng, sống theo Lời Chúa. Tổ phụ Giuse chính là gương mẫu cho ta về lối sống đó.

SÁCH XUẤT HÀNH
(chương 1-7)

Phần 1: việc giải phóng Israel khỏi ai cập (1-15).

Phần 2: Đi từ ai cập cho đến núi xi-nai (15,22-18,27).

Phần 3: Lập giao ước xi-nai (19,1-40,38).

I. TỔNG QUÁT

1,1-7: Sự lớn mạnh của dân Israel bên Ai Cập.

1,8-14: Dân Chúa bị áp bức.

1,15-22: Am mưu tiêu diệt Dân Chúa.

2,1-10: Vị anh hùng được sinh hạ.

2,11-22: Môsê chạy trốn đến Midian.

2,23-25: Thiên Chúa nhớ đến dân Israel.

3,1-6: Thiên Chúa gọi Môsê từ bụi gai bốc cháy.

3,7-15: Ơn gọi của Môsê. Mạc khải Danh Thiên Chúa. Chỉ thị về sứ mạng của Môsê.

4,1-17: Môsê làm những dấu lạ.

4,18-31: Môsê trở về Ai Cập. Cắt bì. Gặp Aaron.

5,1 -6,1: Cuộc hội kiến đầu tiên với Pharao.

6,2-13: Trình thuật khác về ơn gọi của Môsê.

6,14-30: Gia phả của Môsê và Aaron.

7,1-7: Thiên Chúa trấn an Môsê.

II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SÁCH XUẤT HÀNH

1. Ý nghĩa sách Xuất hành

Biến cố Xuất hành là tâm điểm kinh nghiệm đức tin của dân Israel. Biến cố này trở thành điểm quy chiếu cho dân trong mọi hoàn cảnh lịch sử (x. Is 40,3; Kn 11,5). Trong sách Xuất hành, Thiên Chúa tự mạc khải là vị Thiên Chúa dấn thân vào lịch sử nhân loại để giải thoát nhân loại, khác hẳn hình ảnh về Thiên Chúa trừu tượng và xa lạ người ta thường nghĩ. Cũng trong sách Xuất hành, Israel xuất hiện như là Dân Chúa qua giao ước Sinai. Đây là điều làm cho Israel khác hẳn các dân.

2. Sách Xuất hành với người Kitô hữu

Biến cố Xuất hành là tín hiệu báo trước Ơn Cứu độ được hoàn thành trong Chúa Kitô. Vì thế, sách Xuất hành cũng được gọi là Tin Mừng về Ơn Cứu Độ (Lc9, 28-31). Biến cố này còn gợi hứng cho những suy tư và hành động đức tin của người Kitô hữu ngày nay, vd. thần học giải phóng. Tuy nhiên, cần đặt biến cố Xuất hành trong tương quan với mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, vì chỉ như thế ta mới có thể hiểu đúng ý nghĩa của biến cố này trong nhãn quan Kitô giáo.

III. ƠN GỌI CỦA MÔSÊ (3,1-15)

1. Danh Thiên Chúa (YHWH)

Đối với Israel cũng như các dân vùng Cận Đông, tên của một người không chỉ là tên gọi bên ngoài nhưng còn là chính con người. Muốn biết tên một người là muốn bước vào quan hệ thân tình với họ. Vì thế không lạ gì khi Môsê xin được biết danh thánh Thiên Chúa.

Câu trả lời của Thiên Chúa cho Môsê là một câu rất huyền nhiệm : YHWH. Có những cách dịch khác nhau trong các bản dịch Thánh Kinh sang tiếng Việt, vd. Ta là Đấng tự hữu - Ta là Đấng hằng hữu - Ta là Đấng hiện hữu. Thiết nghĩ trong mỗi cách dịch đã hàm chứa một ý nghĩa thần học. Các học giả cố gắng tìm ra ý nghĩa của danh xưng này bằng cách nối kết với những lời Thiên Chúa nói với Môsê. Theo đó, danh xưng này muốn nhấn mạnh rằng Thiên Chúa là Đấng dấn thân và tham gia cách tích cực trong lịch sử của Dân.

Ta là đấng hằng hữu nghĩa là vô thủy vô chung

Ta là đấng hiện hữu nghĩa là chỉ có một mình chúa là đấng hiện hữu

Ta là đấng tự hữu nghĩa là Thiên Chúa tự mình mà có

2. Bụi gai bốc cháy

Có thể tác giả chọn từ ngữ bụi gai (trong tiếng Hípri là seneh) vì muốn liên hệ với sinai, núi của Thiên Chúa. Như thế, bụi gai bốc cháy ở đây nối kết với ngọn lửa trong cuộc thần hiện ở Sinai (Xh19,18). Môsê vừa bị thu hút bởi cảnh tượng kỳ lạ, vừa kinh sợ và che mặt đi khi Đức Chúa tỏ mình. Đây cũng là kinh nghiệm thiêng liêng của các tiên tri như Isaia và Jeremia.

Thiên Chúa tỏ mình cho Môsê cũng là Thiên Chúa của các tổ phụ (Xh3,16). Như thế, không chỉ vào thời Môsê nhưng Thiên Chúa đã luôn hoạt động qua bao thế kỷ vì yêu thương dân của Người. Môsê được gọi để trở thành phát ngôn viên của Chúa, nói thay cho Chúa. Truyền thống Do thái vẫn nhìn Môsê như một tiên tri (x. Đnl 18,15-20), và tiên tri chính là người nói nhân danh Chúa và vì hạnh phúc đích thực của Dân.

SÁCH XUẤT HÀNH (chương 7-15)

I. TỔNG QUÁT

7, 8-13: Dẫn vào các tai ương. Thiên Chúa bày tỏ quyền năng trước Pharaô.

7, 14-25: Tai ương thứ nhất: nước biến thành máu.

7,26 - 8,11: Tai ương thứ hai: Ech nhái.

8, 12-15: Tai ương thứ ba: Muỗi.

8, 16-28: Tai ương thứ tư: Ruồi nhặng.

9, 1-7: Tai ương thứ năm: Ôn dịch.

9, 8-12: Tai ương thứ sáu: Ung nhọt.

9, 13-35: Tai ương thứ bảy: Mưa đá.

10, 1-20 : Tai ương thứ tám: Châu chấu.

10, 21-29 : Tai ương thứ chín: Cảnh tối tăm.

11, 1-10 : Loan báo tai ương thứ mười: các con đầu lòng phải chết.

12, 1-28: Nghi thức Vượt Qua. Công bố lễ Vượt Qua.

12, 29-39: Các con đầu lòng người Ai Cập bị giết. Dân Israel ra đi.

13, 3-10: Lễ Bánh không men.

13, 1-16: Các con đầu lòng người Do thái được cứu.

13, 17-22: Dân Israel ra đi.

14, 1-10: Người Ai Cập đuổi theo.

14, 15-31: Phép lạ tại Biển Đỏ.

15, 1 - 21: Bài ca chiến thắng.

II. CUỘC VƯỢT QUA CỦA DÂN ISRAEL VÀ CUỘC VƯỢT QUA CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

1. Cuộc vượt qua của người Do thái

Dân Israel phải sống trong cảnh nô lệ lầm than (Xh 1, 8-22). Nhưng Thiên Chúa đã thấy cảnh lầm than của họ và sai Môsê đến để giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ, đưa họ vượt qua Biển Đỏ (Xh 14, 15-31). Nhờ Chiên được sát tế và máu chiên bôi lên thành cửa, dân Israel được cứu thoát và lên đường đi đến miền đất tự do (Xh 12, 29-34. 12-14). Chính Thiên Chúa thực hiện cuộc giải thoát này bằng những điềm thiêng dấu lạ, nhưng Chúa đã chọn Môsê làm người lãnh đạo Dân Chúa và thực hiện kế hoạch của Ngài.

2.Cuộc vượt qua của người Kitô hữu

Nhân loại vẫn sống trong cảnh nô lệ tội lỗi là thứ nô lệ tồi tệ nhất, làm cho con người bị tha hoá, đánh mất phẩm giá đích thực của mình là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Kitô là Môsê mới, là vị lãnh đạo của Dân mới. Chiên được sát tế trong lễ Vượt Qua là hình bóng Chúa Kitô hiến dâng chính mình, nhờ đó chúng ta được sống (x. Ga 19,31-37).

Việc vượt qua Biển Đỏ loan báo bí tích Thánh Tẩy: giải thoát ta khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, biến ta thành con cái Thiên Chúa, và cho ta thành phần tử của Dân mới là Hội Thánh.

III. LỄ VƯỢT QUA VÀ CỬ HÀNH THÁNH THỂ

1. Cử hành lễ Vượt Qua

Môsê đưa ra những chỉ thị về việc cử hành lễ Vượt Qua (Xh 12,14) và người Do thái vẫn trung thành tuân giữ cho đến ngày nay. Trong nghi thức cử hành lễ Vượt Qua, sau tuần rượu thứ hai, một người con trong gia đình sẽ lên tiếng hỏi: tại sao đêm nay lại khác mọi đêm? Và người cha trong gia đình sẽ giải thích dựa vào (Đnl 26,5-11) .

2. Chúa Giêsu cử hành bữa Tiệc Ly

Chúa Giêsu đã cử hành Bữa Tiệc Ly trong bối cảnh lễ Vượt Qua (Lc 22, 14-20). Tuy nhiên trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã làm hai cử chỉ độc đáo. Một là Ngài chuyển chén rượu của người đứng đầu gia đình cho mọi người trong nhà, hai là Ngài thêm vào những lời minh giải: "Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em," "Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu đổ ra vì anh em." Những lời này cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa Tiệc Ly và biến cố thập giá.

3. Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới

Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, "Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy." Trong Thánh Kinh, tưởng niệm không chỉ đơn thuần là nhớ lại một sự kiện trong quá khứ, nhưng bao hàm cả ba chiều kích thời gian là hiện tại, quá khứ và tương lai (Xh 12,14).

Chính vì thế, thần học Công giáo giải thích về tưởng niệm như là signum rememorativum (dấu chỉ tưởng nhớ hành động cứu độ đã xảy ra trong quá khứ), signum demonstrativum (dấu chỉ Ơn Cứu độ đang diễn ra trong hiện tại), signum prognosticum (dấu chỉ loan báo bữa tiệc cánh chung trong Nước Chúa).

Cử hành Thánh Thể là làm theo lời di chúc của Chúa Giêsu. Vì thế, trong suốt lịch sử, Hội Thánh không ngừng cử hành Thánh Thể (x. Cv 2,42.46; 1Cr 11,23), và người Kitô hữu phải hết sức trân trọng việc cử hành này.

SÁCH XUẤT HÀNH (chương 16-24)

I. TỔNG QUÁT

Hành trình trong sa mạc (15,22 - 18,27)

15, 22-27: Mara ( nước đắng trở thành nước ngọt) .

16,1-36: Manna và chim cút (chỉ dùng trong ngày) .

17,1-7: Nước phun từ tảng đá (là hình ảnh tiên báo Chúa Kitô) .

17,8-16: Giao chiến với người Amalek (chiến thắng nhờ Môsê cầu nguyện) .

18,1-27: Môsê gặp ông Gít-rô (bố vợ ông Môsê) .

Giao ước Sinai (19,1 - 24,11)

19,1 - 19,8: Bối cảnh (Thiên Chúa đi bước trước) . Thái độ với giao ước.

19,9-20: Hai truyền thống về thần hiện (Thiên Chúa tỏ mình) .

20,1-17: Mười điều răn (mười lời) .

20,8-21: Môsê được chỉ định làm người trung gian.

20,22-26: Dẫn vào luật giao ước.

21,1- 23,33: Nội dung luật giao ước.

24,1-18: Ký giao ước (Môsê lấy máu rảy lên bàn thờ và trên dân) .

II. KINH NGHIỆM SA MẠC

1. Kinh nghiệm của dân Israel trong sa mạc (15,22 - 18,27)

Được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập, Israel còn phải trải qua hành trình lâu năm trong sa mạc mới được đặt chân vào Đất Hứa. Hành trình sa mạc đã ban tặng cho họ nhiều kinh nghiệm. Trước hết, họ kinh nghiệm về sự thiếu thốn lương thực(Xh16,1-3:17,1-3) cũng như những hiểm nguy đe doạ, và những khó khăn này không chỉ dừng lại ở mức độ vật chất nhưng còn dẫn đến những thử thách cho chính đức tin: "Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?" (Xh17,7). Cùng với kinh nghiệm về những khó khăn và thử thách trong sa mạc, Dân Chúa lại cảm nghiệm được từng ngày và qua từng biến cố sự đồng hành và tình thương chăm sóc Thiên Chúa dành cho dân của Ngài.

Cám dỗ đầu tiên của chúa giêsu cũng là bánh (Lc4, 1-13).

2. Kinh nghiệm sa mạc trong đời sống Kitô hữu

Kinh nghiệm sa mạc của Dân Chúa trong Cựu Ước cũng giúp ta nhìn lại đời sống Kitô hữu của mình trong ánh sáng mới. Trở thành Kitô hữu là bước vào một hành trình dài trong đó ta phải đối diện với rất nhiều cám dỗ và thử thách, hi sinh và từ bỏ. Như Dân Chúa ngày xưa, nhiều lần ta cảm thấy mệt mỏi, muốn bỏ cuộc và quay về nếp sống cũ. Tuy nhiên chính những khó khăn và thử thách đó lại là những cơ hội Thiên Chúa dùng để giáo dục và thanh luyện ta nên giống Chúa Kitô hơn.

Thiên Chúa thanh luyện dân Israel bằng việc thử thách trong sa mạc.

Ngày nay Thiên Chúa cũng thanh luyện chúng ta ngay từ bây giờ.

Đọc thư của thánh Phao lô gửi cho giáo đoàn phi líp 2,5-11. Đó là mầu nhiệm Thiên Chúa hủy chính bản thân mình ra không .

Điều kiện làm môn đệ chúa (Lc9, 23). Chúa giêsu nói với tất cả :"ai muốn theo tôi thì hãy từ bỏ chính mình, vác lấy thập giá hằng ngày mà theo tôi"

III. MƯỜI ĐIỀU RĂN (20,1-21)

1. Trong bối cảnh Giao Ước

Giao ước là sự thiết lập một tương quan trong đó quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên được xác định và chấp nhận, vd. giao ước giữa Giacóp và Laban (St 31,43-32,3). Tuy nhiên, giao ước giữa Thiên Chúa và Israel không phải là giao ước giữa hai bên ngang hàng với nhau. Đúng hơn, Thiên Chúa ký kết giao ước với Israel chỉ vì tình thương cho không. Môsê đã nhấn mạnh điều này nhiều lần, và trình thuật về Mười Điều Răn cũng làm nổi bật tình thương của Thiên Chúa giao ước: Mười điều răn được mở đầu bằng khẳng định của Thiên Chúa là Đấng đã trực tiếp can thiệp vào đời sống của dân: "Ta là Đức Chúa đã đưa ngươi ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập" (20,2). Thiên Chúa dùng ngôi thứ hai để nói trực tiếp với dân. Như thế, thập điều không phải là hệ thống luật pháp vô hồn, nhưng được đặt nền trên một ngôi vị.

2. Đón nhận Mười điều răn cách tích cực

Những nhận xét trên giúp ta khám phá Mười điều răn như là những điều khoản của giao ước tình yêu. Kinh nghiệm về giao ước hôn nhân có thể giúp ta hiểu phần nào ý nghĩa cao quý này. Trong giao ước hôn nhân có những điều khoản mà hai người phối ngẫu cam kết với nhau, chẳng hạn một vợ một chồng, chung thủy với nhau đến trọn đời. Tuy nhiên, tất cả những điều khoản đó được đặt nền trên tình yêu, và là sự diễn tả ra bên ngoài những đòi hỏi nội tại của tình yêu đích thực. Tương tự như thế, Mười điều răn là cách thể hiện tương quan yêu thương trong giao ước giữa Thiên Chúa và dân của Người.

Tách biệt Mười điều răn ra khỏi tương quan giao ước sẽ biến Mười điều răn thành một bộ luật luân lý vô hồn và mất đi tính năng động của nó. Đồng thời khi nhìn Mười điều răn trong bối cảnh của giao ước, ta sẽ khám phá giá trị tích cực của Mười điều răn như con đường đưa đến sự sống phong phú chứ không chỉ là những rào cản ngăn lối hạnh phúc của con người như nhiều người ngày nay lầm tưởng.

SÁCH XUẤT HÀNH (chương 25-34)

I. TỔNG QUÁT

25,1-40: Đóng góp để dựng nơi thánh. Nhà Tạm và Hòm Bia. Bàn lễ tế và trụ đèn.

26,1-37: Những chỉ dẫn về việc làm nơi thánh trong sa mạc (Nhà Tạm, khung lều, bức trướng).

27,1-21: Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, khuôn viên nơi thánh, dầu thắp đèn.

28,1-43: Phần phục tư tế (Túi đeo, áo khoác, dầu thánh hiến).

29,1-46: Nghi thức thánh hiến (thanh tẩy, mặc phẩm phục, xức dầu) - Các lễ vật trong việc thánh hiến tư tế - Lễ toàn thiêu thường nhật.

30,1-38: Những chỉ thị khác (hương án, thuế thân, vạc đồng, dầu tấn phong).

31,1-38: Tuyển chọn các nghệ nhân - Ý nghĩa ngày sabát.

32,1 - 34,35: Tội lỗi của Israel và tái lập giao ước (Sự kiện con bê bằng vàng - Đức Chúa nổi giận - Môsê chuyển cầu - Tái lập giao ước).

II. NHÀ TẠM VÀ HÒM BIA GIAO ƯỚC

1. Ý nghĩa

Trong trình thuật về cuộc Thần hiện (Xh24, 15b-18), tác giả nối kết cuộc thần hiện trên núi Sinai với việc xây cất thánh điện (Xh40,17,33b). Cũng như mây bao phủ núi Sinai và vinh quang Đức Chúa ngự trị ở đó (Xh24,15-16) thì mây cũng bao phủ Lều Hội Ngộ và vinh quang Đức Chúa tràn ngập thánh điện (Xh40,34). Như thế, việc thờ phượng trên núi Sinai là mẫu mực cho việc thờ phượng của dân Israel.

Đồng thời Đức Chúa truyền lệnh cho Môsê làm một nơi thánh để Chúa ngự giữa dân. Nơi này được gọi bằng hai từ là Lều Hội Ngộ (Xh40,34) và Nhà Tạm (Xh25,8-9). Thiên Chúa là Đấng siêu việt nhưng Nhà Tạm sẽ là nơi Ngài gặp gỡ con cái Israel (Xh29,42-43). Hòm Bia là hòm làm bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi; trong hòm đặt bia đá mà Đức Chúa đã ban cho Môsê " ngươi sẽ đậy nắp xá tội trên Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà ta đã ban cho ngươi" (câu 16,21 // Xh31, 18). Tấm bia Chứng Ước là "do Thiên Chúa làm ra, chữ là chữ của Thiên Chúa khắc trên bia" (32,16).

2. Cho đời sống Kitô hữu

Trong các nhà thờ Công giáo, Nhà Tạm là nơi thánh, nơi Chúa ngự giữa dân Ngài, nơi dân được gặp Chúa. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân đến ở giữa loài người (Ga 1,14), và Ngài còn ở lại với chúng ta cho đến tận thế (Mt 28,20) trong bí tích Thánh Thể.

Nhà Tạm là nơi cất giữ Thánh Thể. Vậy tôi có thực sự coi đó là nơi thánh, nơi Chúa ở giữa cộng đoàn, nơi tôi gặp gỡ Chúa không?

Mỗi khi ta rước lễ, chính lòng ta trở thành "nhà tạm" của Chúa. Liệu chúng ta có ý thức về điều đó không, hay thói quen đã làm phai nhạt ý thức về sự thánh thiện đó? Và liệu người ta có thể thấy nơi chúng ta sự thánh thiện và tình thương của Chúa không?

Ở đây cũng là dịp cho ta chiêm ngắm Mẹ Maria. Truyền thống Công giáo gọi Đức Mẹ là Hòm Bia Thiên Chúa vì Mẹ mang trong lòng dạ Mẹ chính Thiên Chúa làm người. Đây cũng là nền tảng để các thánh suy niệm về mầu nhiệm Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (ngày....) và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (ngày 15/8). Chính vì Mẹ là Hòm bia Thiên Chúa nên Mẹ được giữ gìn khỏi tội Tổ tông truyền, và Mẹ được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đức Mẹ thực sự là dấu chỉ hi vọng và là mẫu gương tuyệt vời cho Dân Chúa trong hành trình về quê trời vĩnh cửu.

III. CON BÊ BẰNG VÀNG

Trình thuật về việc dân Isarel thờ lạy bò vàng (Xh32,1-6) làm nổi bật ý nghĩa này: Con người tự làm ra thần thánh theo ý muốn của mình chứ không nhìn nhận Đấng Thiên Chúa đã làm nên họ và cứu sống họ (Xh32,1). Ông Aharon đã nhượng bộ theo yêu cầu của dân quá dễ dàng.

Sách Xuất Hành cũng kể rằng Dân Israel muốn ruồng bỏ Môsê để có một vị lãnh đạo mới, và như thế họ ruồng bỏ chính Thiên Chúa (Xh32,2-4). Trong sách (Ds12,1-9) còn ghi nhận Aaron đã chống lại Môsê khiến Đức Chúa nổi giận.

Trình thuật này là bài học quý giá cho người Kitô hữu. Chỉ trong Chúa Giêsu, ta mới biết Chúa Cha: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9). Chỉ một mình Chúa Giêsu là "Đường đi, Sự Thật và Sự Sống" (Ga 14,6). Vì thế, chỉ nơi Chúa Giêsu, chúng ta mới nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải những thần thánh con người tự tạo ra theo sở thích và ý muốn của mình.

Thánh Phêrô và những đấng kế vị ngài là những người Chúa chọn để lãnh đạo Dân Chúa như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi" (Mt 16,18).

Sức mạnh chống lại quyền lực tử thần không phải là sức mạnh của cá nhân Phêrô nhưng là quyền năng của Thiên Chúa hoạt động trong con người Phêrô cũng như trong các vị kế vị Thánh Phêrô và các tông đồ.

Chính tầm nhìn đức tin này dẫn ta đến thái độ vâng phục đối với Đức Giáo hoàng là "nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các giám mục cũng như giữa các tín hữu" (Hiến chế Giáo Hội, số 23).

Sách Xuất Hành (chương 35-40)

I. Môsê người của Thiên Chúa

Những chặng mốc chính trong đời

1. Từ thơ ấu đến khi lập gia đình.

2. Ơn gọi và sứ mạng của Môsê.

3. Hành trình sa mạc.

II. Môsê nhà lãnh đạo mẫu mực

1. Môsê người của Thiên Chúa.

2. Môsê vị lãnh đạo lý tưởng của Dân Chúa.

3. Môsê con người của đức tin và tình yêu.

MÔSÊ VÀ MỐC CHẶNG ĐƯỜNG
1. Từ thơ ấu đến khi lập gia đình

Là con út trong gia đình Amram và jochebed (Xh6, 18-20), Môsê được sinh ra trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt, bà mẹ phải bỏ con vào thúng, thả trôi trên sông Nile. May mắn thay, cậu bé được công chúa Ai Cập vớt lên, đặt là Môsê, nuôi dưỡng và giáo dục trong hoàng cung, nhờ đó được chuẩn bị kĩ lưỡng cho nhiệm vụ cao cả sau này.

Lớn lên, Môsê đã giết một người Ai Cập khi thấy ông ta đánh đập người Do Thái, cũng vì thế Môsê đã phải chạy trốn để bảo toàn tính mạng (Xh2, 11-15). Ẩn náu tại Midian(Xh2, 15-21), ông kết hôn với bà Zipporah, Con ông giêtrô (Xh3, 1), sinh được hai người con là Gershom và Êliezer(Xh2, 22/4,20/18,3-4).

2. Ơn gọi và sứ mạng của Môsê

Thiên Chúa đã tỏ mình cho Môsê và sai ông trở lại Ai Cập để giải thoát dân(Xh3, 1-4,7) cùng với sự phụ giúp của aharon. Bằng lời nói cũng như những dấu lạ, Môsê đã thuyết phục được Pharao để cho dân Do Thái ra đj nhưng bị từ chối (Xh5,1-10,29). Chỉ đến khi các con đầu lòng bị giết, Pharao mới chấp thuận để cho dân Do Thái ra đi (Xh11, 1-12,36). Khi dân đã đi ra, Pharao lại thay đổi ý định và đuổi theo nhưng Thiên Chúa đã thực hiện phép lạ vĩ đại để giải thoát dân (Xh14, 5-15,21).

3. Hành trình sa mạc

Trong suốt hành trình tiến về đất hứa (Xh12, 22: Đnl34, 8), Môsê đã không ngừng bị dân kêu la than trách nhưng nhờ quyền năng chúa ban, ông đã vượt qua tất cả. Ông đã cung cấp nước uống (Xh15, 22-26: 17,1-7), manna và chim cút cho dân (Xh16, 1-36), chiến thắng dấu với dân Amalek (Xh17, 8-16). Theo lời khuyên của nhạc phụ, Môsê đã đặt các thẩm phán để lắng nghe và xét sử cho dân (Xh18,1-27). Tại Sinai, Môsê thúc dhxj dân tuân giữ mười điều răn chúa đã ban cho ông trên núi (Xh24, 18), sau đó được viết ra trên bia đá (Xh24, 4). Những bia đá này đã đập vỡ khi sảy ra sự kiện dân thờ bê vàng (Xh32, 1-35). Môsê khẩn nài chúa đừng tiêu diệt dân, rồi viết lại các điều răn (Xh34, 17-26) và công bố cho dân (Xh34, 29-35). Sau đó Môsê giám sát việc xây dựng nhà tạm (Xh35, 1-40,38), đón nhận thêm những chỉ thị và Lề Luật của Chúa (Lv1-7,11-27), thánh hiến Nhà Tạm và phong Aharon cùng các con ông làm tư tế (Lv8-10).

MÔSÊ, NHÀ LÃNH ĐẠO MẪU MỰC.
4. Môsê, người của Thiên Chúa

Môsê có vị trí đặc biệt trước mặt Chúa như ngài đã phán, "với Môsê tôi tớ ta thì khác : tất cả nhà ta, ta đã trao cho nó. Ta nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn, và hình dáng Đức Chúa, nó được ngắm nhìn". (Ds12, 7-8).

Ông thực sự là người của Thiên Chúa, đã ở với Đức Chúa bốn mươi ngày đêm, và khi ông bước ra, khuân mặt ông sáng chói (Xh34, 27-35).

5. Môsê, vị lãnh đạo lý tưởng của dân Chúa

Môsê là người lãnh đạo sẵn lòng chịu đau khổ vì dân : dân gây sự với Môsê vì không có nước uống (Xh17, 2-4), vì không có bánh ăn (Xh15, 24). Ông còn là người trung gian không mệt mỏi giữa Thiên Chúa và Dân Ngài. Một đàng, ông phải răn dạy dân (Xh32, 19-20): Môsê đã đập vỡ các tấm bia, ra lệnh đốt con bê bằng vàng) : đằng khác ông phải tìm cách xoa dịu cơ thịnh nộ của Đức Chúa (Xh32, 11-14. Ds11, 10-15). Ông sẵn sàng chịu đau khổ với dân và vì dân : "dân này đã phạm một tội lỗi lớn.... Nhưng giờ đây, xin chúa miễn chấp tội họ, bằng không, xin ngài xóa tên con khỏi cuấn sách Ngài đã viết (Xh32, 32). Ông chuyển cầu cho dân trước nhan Chúa : khi dân phạm tội (Xh34, 9), khi dân chiến dấu (Xh17, 8-14), khi dân thiếu thốn và đau khổ (Xh16, 1-3).

6. Môsê, con người của đức tin và tình yêu

Thánh Phao Lô đã mô tả Môsê như con người của đức tin bằng những lời lẽ tuyệt vời, "nhờ đức tin, Môsê bỏ Ai Cập mà không sợ cơn thịnh nộ của nhà vua : ông vững vàng không nao núng, như thể xem thấy Đấng Vô Hình (Dt11, 27)." Như thể thấy Đấng Vô Hình " còn lời nào xứng đáng hơn và thuyết phục hơn để nói về niềm tin mãnh liệt của Môsê vào Thiên Chúa? Đồng thời Môsê cùng xuất hiện như nhà lãnh đạo tràn ngập tình yêu như những lời ông tâm sự với Chúa, "có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Chúa lại bảo con : hãy bồng nó vào lòng như vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng?" (Ds11, 12).

Tấm lòng của người mục tử được thể hiện rõ nét hơn bao giờ trong lời than thở này. Đó cũng là bí quyết của cung cách lãnh đạo trong Hội Thánh như Chúa Kitô phục sinh đã hỏi Phêrô "Anh có yêu mến thầy hơn những người này không"?. Mãi mãi vẫn là lời hỏi cho những ai có trách nhiệm lãnh đạo Dân Chúa.

SÁCH LÊVI

I. TỔNG QUÁT

Sách Lêvi là cuốn sách về sự thánh thiện, về Thiên Chúa chí thánh và về một dân được gọi là thánh. Theo từ nguyên, "thánh" trong tiếng Hípri có nghĩa là "được cắt riêng ra, tách ra" có ý nói đến sự tách biệt giữa thánh thiện và phàm tục. Sách Lêvi đưa ra một định hướng và những chỉ dẫn cụ thể cho việc nên thánh, được tập trung vào lời mời gọi: "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh" (19, 2).

Những phần chính trong sách Lêvi:

Phần I (1-7) Nghi thức các lễ tế
Phần II (8-10) Nghi thức tấn phong tư tế
Phần III (11-16) Luật liên quan đến sự thanh sạch về lề luật
Phần IV (17-26) Luật về sự thánh thiện
Phần V (27) Tóm kết

SÁCH LÊVI (chương 17-27)

I. TÍNH THIÊNG THÁNH CỦA MÁU (17,1-15)

Khi Thiên Chúa ngỏ lời với nhân loại, Ngài đã chọn một ngôn ngữ cụ thể gắn với một nền văn hoá cụ thể. Vì thế để hiểu Thánh Kinh, không thể không hiểu cách suy nghĩ và diễn đạt của ngôn ngữ và văn hoá đó.

Trong văn hoá Hípri, mọi sự được diễn tả cách cụ thể chứ không trừu tượng. Chẳng hạn, chân lý, công bằng, hoà bình... không phải là những ý niệm trừu tượng nhưng là những sự vật sống động. Vì thế, Thánh Kinh diễn tả, "An tình và chân lý nay hội ngộ, hoà bình và công lý hôn nhau. Chân lý mọc lên từ đất thấp, công bằng nhìn xuống tự trời cao" (Tv 85,11-12). Tương tự như thế, sự sống không phải là một ý niệm tổng quát nhưng được đồng hoá với máu. Máu là sự sống, mất máu là chết, và cái chết hành động như một tên trộm lấy cắp sự sống: "Mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta đã ban máu cho các ngươi ...Các ngươi không được ăn huyết của bất cứ xác thịt nào vì sự sống của mọi xác thịt là máu nó; bất cứ ai ăn huyết sẽ bị khai trừ" (Levi 17,14).

Có như thế, ta mới hiểu được ý nghĩa của những quy định trong sách Lêvi về việc sát sinh. Mọi việc sát sinh, dù chỉ là tìm thức ăn, cũng phải trở thành lễ tiến và hy lễ. Hành động đó là hành động nhìn nhận Thiên Chúa là nguồn sự sống, và nhờ hành động đó, kẻ dâng lễ tế được tiếp tục sống.

Trong trường hợp săn được một con thú hoặc một con chim được phép ăn, thì phải lấy đất phủ lên máu của con vật. Tương tự như vậy, khi làm công việc sao chép văn bản Thánh Kinh, nếu một ký lục lỡ chép sai thì ông sẽ không xé trang đó đi và chép lại, nhưng phải cẩn thận rút phần bị sai đó ra khỏi cuộn sách, để vào trong hộp nhỏ rồi đốt đi. Tại sao lại như thế? Vì cũng như sự sống ở trong máu thì Thần Linh thánh thiện cũng ở trong Lời Chúa.

Dù đã có những thay đổi nhưng cho đến nay nhiều người Do thái vẫn không ăn máu. Với người Kitô hữu, khi hiểu được ý nghĩa của máu trong văn hoá Thánh Kinh như thế, ta cảm nghiệm sâu sắc hơn lời mời gọi của Chúa Giêsu, "Tất cả anh em hãy uống chén này vì đây là Máu Thầy, máu giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội" (Mt 26,28). Lời mời gọi đó có nghĩa là: Hãy nên một với Thầy, nên một với sự sống của Thầy.

II. NĂM TOÀN XÁ (25,1-55)

Trong năm thứ bảy, đất sẽ được nghỉ ngơi, một sabat kính Đức Chúa (25,4). Như thế Đức Chúa đã tách riêng năm thứ bảy cho Ngài, trong năm đó đất được coi là thánh. Trong tháng thứ bảy của năm thứ 49 và kéo dài sang năm 50, dân Chúa cử hành năm toàn xá. Trong ngày xá tội, tù và được thổi lên để quy tụ dân, "Các ngươi sẽ công bố năm thứ 50 là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với các ngươi, đó sẽ là thời kỳ toàn xá" (25,10). Dân chúng được trở về gia đình và đất đai của mình (câu 10). Sẽ không gieo gặt trong năm đó (câu 11). Nếu dân tuân theo, họ sẽ được sống yên hàn và đất đai sẽ trổ sinh hoa trái (câu 18-19).

Trong năm toàn xá, người ta có quyền chuộc lại đất (25,23-55), kể cả với những người không có khả năng chuộc lại, "Nếu nó không kiếm được phương tiện để trả tiền lại cho người kia, thì của nó bán sẽ ở lại trong tay người mua cho đến năm toàn xá; đến thời kỳ toàn xá, của bán sẽ ra khỏi tay người mua, và người bán sẽ trở về phần sở hữu của mình" (25,28).

Thật ngỡ ngàng khi đọc lại những quy định này trong sách Lêvi. Ngày nay người ta nói nhiều đến việc giải phóng người nghèo và bảo vệ môi sinh, và coi đó là những điều rất mới mẻ. Thế nhưng từ nhiều thế kỷ trước, sách Lêvi đã có những quy định rất cụ thể về điều này. Như thế ta khám phá Thánh Kinh là một tác phẩm chất đầy tính nhân văn và xã hội. Và nền tảng của những quy định này là: "Đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta" (25,23). Chỉ Thiên Chúa mới là chủ sở hữu, còn mọi người đều là khách trọ, là ngoại kiều. Khi con người loại bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài, chiếm đoạt quyền sở hữu của Thiên Chúa, thì con người cũng biến tha nhân thành nô lệ cho mình, biến thiên nhiên thành phương tiện sản xuất thuần túy. Đó là cội nguồn của tình trạng bất công và áp bức, tàn phá và hủy diệt môi sinh. Hiểu như thế, những quy định trong sách Lêvi về Năm toàn xá là cả một hiến chương mời gọi nhân loại không ngừng suy nghĩ lại về chính mình cũng như về xã hội.

Cách riêng với người tín hữu Chúa Kitô, những quy định về Năm toàn xá mời gọi ta suy nghĩ lại về cách ta cử hành Năm toàn xá. Phải chăng ta chỉ chú trọng đến những cử hành thiêng liêng mà không quan tâm gì đến những đòi hỏi và âm hưởng xã hội chính ra phải có trong năm này? Phải chăng ta chỉ lo tuân giữ những quy định về việc đi viếng nhà thờ hay tham dự các nghi lễ mà không quan tâm gì đến việc biến đổi bản thân và lối sống hằng ngày của mình? Ngay trong cách cử hành thiêng liêng để được hưởng ơn toàn xá, phải chăng ta cũng có những tính toán ích kỷ, dù là ích kỷ về mặt thiêng liêng, để tìm phần rỗi cho riêng mình mà không quan tâm đến sự giải thoát anh em?

Mới nhìn thoáng qua, ta chỉ thấy những quy định quá tỉ mỉ về Lề luật xem ra có vẻ nặng hình thức. Vì thế cần phải khám phá lại ý nghĩa hàm ẩn bên trong những quy định này.

Theo nguyên ngữ trong tiếng Hipri, "toàn thiêu" chỉ có nghĩa đơn giản là "đi lên". Như thế, ý nghĩa đầu tiên của lễ toàn thiêu là sự khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng ban cho ta quà tặng sự sống, bây giờ của lễ (bò, chiên hay chim) được dâng lên cho Chúa bằng cách đốt cháy của lễ. Khói bốc lên cùng với hương bay lên là hương thơm làm vui lòng Đức Chúa "Tư tế sẽ đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, trên củi đặt trên lửa. Đó là lễ toàn thiêu, lễ hỏa tế, là hương thơm làm vui lòng Đức Chúa" (1,17). Ngoài ra, những quy định Lề luật trên đây còn nhằm dạy cho Dân Chúa bài học về sự vâng phục. Trong tương quan giao ước với Thiên Chúa, dân Israel cần phải học vâng phục. Không có sự vâng phục, không thể có sự thánh thiện.

Nguy cơ là người ta chỉ còn tuân giữ những hình thức tỉ mỉ bên ngoài mà quên mất ý nghĩa đích thực của lễ tế. Các tiên tri đã lên tiếng cảnh giác điều này nhiều lần, và Chúa Kitô đã đến để khôi phục ý nghĩa đích thực của lễ tế. Tác giả thư Do Thái đã diễn tả rõ ràng: "Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con" (Dt 10,5-8).

III. THANH SẠCH THEO LỀ LUẬT

Các chương 11-16 trong sách Lêvi bàn đến sự thanh sạch. Lời mời gọi căn bản vẫn là: "Các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh. Các ngươi đừng làm cho chính mình ra ô uế vì các loài vật nhỏ bò trên đất. Thật vậy, Ta là Đức chúa, Đấng đã đưa ngươi từ đất Ai Cập lên, để Ta làm Thiên Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh" (11, 44-45). Muốn nên thánh, phải thanh sạch, cho nên sách Lêvi đưa ra những quy định Lề luật về sự thanh sạch. Các chương 11-12 nói đến sự thanh sạch của những thứ được con người đưa vào trong cơ thể của mình: thực phẩm nào là sạch hay dơ, tình trạng ô uế của phụ nữ khi sinh con. Các chương 13-14 nói đến những ô uế bên ngoài như da thịt, quần áo. Chương 15 bàn đến chuyện sạch bẩn của những gì từ cơ thể con người phát ra, cách riêng về sinh dục. Chương 16 bàn đến Ngày xá tội, tức là cầu nối giữa cái thanh sạch và sự thánh thiện.

Ngày nay, người đọc có thể cảm thấy khó chịu với những quy định quá tỉ mỉ và nặng hình thức này. Tuy nhiên không nên quên ý nghĩa căn bản của những quy định này là liên kết sự thanh sạch với sự thánh thiện, và tuân giữ những quy định Lề luật về sạch-bẩn là con đường dẫn đến sự thánh thiện.

IV. CON DÊ CHUỘC TỘI (16,20-28)

Có hai con dê và một bò tơ được dùng để làm lễ tạ tội. Một con dê được sát tế làm lễ tạ tội. Một con dê khác nhận lấy tội lỗi của cộng đoàn - qua việc đặt tay của Aaron - và sau đó được thả vào sa mạc. Như thế, một con dê biểu thị cho việc thanh tẩy thánh điện, và một con biểu thị việc xá tội cho dân: "Aaron sẽ đặt hai tay lên đầu con dê còn sống, sẽ xưng thú trên con vật mọi lỗi lầm của con cái Israel, mọi việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng. Nó sẽ trút cả lên đầu con dê, rồi sẽ dùng tay một người đang chờ sẵn mà thả vào sa mạc. Con dê sẽ mang trên mình mọi lỗi lầm của chúng vào hoang địa" (16, 21-22).

Ngày nay người Do Thái vẫn tiếp tục cử hành Ngày xá tội (Yom Kippur). Đó là ngày quan trọng để người ta hòa giải với mọi thành viên trong cộng đoàn và để được Thiên Chúa tha tội. Khi thánh Matthêu viết: "Hãy để của lể lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5,24) là ngài nhắc đến điều này. Đồng thời khi cử hành Ngày xá tội, người Do Thái đọc Is 57,14 - 58,14, tức là nhấn mạnh đến việc canh tân nội tâm qua việc ăn chay:

"Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?"

Chay tịnh đích thực là ra khỏi bản thân, quan tâm đến nhu cầu của tha nhân, đặc biệt những người nghèo khổ và bất hạnh, và thay đổi đời sống mình.

Là môn đệ Chúa Kitô, trình thuật về Ngày xá tội không thể không nhắc ta nhớ đến Thứ Sáu Tuần Thánh, khi ta cử hành cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Đấng đã gánh mọi tội lỗi nhân loại trên vai Người, nhờ đó ta được tha thứ. Trong ngày này, ta cũng được mời gọi ăn chay, không chỉ là một vài kiêng khem theo luật định, nhưng là sự từ bỏ bản thân để chia sẻ với cuộc thương khó của Chúa Cứu thế, để biết quan tâm đến người khác nhiều hơn, và như thế được dẫn vào quỹ đạo tình yêu của Đấng đã chết và sống lại vì ta.

Sách Dân số

I. DẪN NHẬP

Trong bài hai bài học trước chúng ta đã lược qua sách Lê-vi với việc tìm hiểu ý nghĩa của chức tư tế, các hy tế và ngày lễ của người Do-thái. Hôm nay, chúng ta chuyển sang cuốn sách thứ tư trong bộ Ngũ thư, đó là sách Dân số.

Thuật ngữ "dân số" bắt nguồn từ tiếng Hy-lạp arithmoi, nghĩa là "những con số". Thuật ngữ này được sử dụng nhằm mô tả hai cuộc kiểm tra dân số trong những chương đầu và chương 26 của tác phẩm. Tuy nhiên, theo truyền thống Do-thái, cuốn sách thứ tư này không mang tựa đề Dân số. Người Do-thái có thói quen lấy những từ đầu tiên của tác phẩm để đặt tên cho chính tác phẩm. Thế nên, sách Dân số được người Do-thái gọi là bemidbar, nghĩa là "trong sa mạc". Tựa đề này nhắm đến việc diễn tả cuộc hành trình của Ít-ra-en trong sa mạc. Trong sa mạc, Ít-ra-en được diễn tả như một cộng đoàn di chuyển. Ít-ra-en bước vào một cuộc hành trình của sự vâng phục tuyệt đối, đan xen vào đó là sự bất tuân. Nó là một cuộc hành trình trong sự hiện diện đầy nhân từ và nghiêm khắc của Chúa. Đó cùng là một cuộc hành trình mở ra một tương lai mới.

II. BỐ CỤC

Trước hết, chúng ta đến với phần bố cục của sách Dân số. Dựa vào những cuộc di chuyển của Ít-ra-en trong sa mạc, chúng ta có thể chia sách Dân số thành các phần chính sau:

- Phần I: Từ chương 1-10 nói về sự chuẩn bị một cuộc hành trình trong sự vâng phục tuyệt đối tại Xi-nai

- Phần II: Từ chương 11-12 nói về một cuộc hành trình của sự bất tuân từ Xi-nai tới Ca-đê

- Phần III: Từ chương 13-19 nói về một cuộc hành trình đong đầy tình thương và sự nghiêm khắc Chúa tại Ca-đê

- Phần IV: Từ chương 20-36 nói về cuộc hành trình từ Ca-đê tới đồng bằng Mô-áp, một cuộc hành trình mới mở ra một tương lai mới cho một thế hệ mới.

III. NỘI DUNG

1. Một cuộc hành trình trong sự vâng phục tuyệt đối (chương 1-10)

Phần mở đầu nói về tầm quan trọng của sự vâng phục tuyệt đối của Ít-ra-en trong việc "thi hành tất cả mọi điều y như Đức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê" (Ds 1,54). Sự vâng phục được trình bày qua cuộc kiểm tra dân số, qua việc đóng trại (2,34), qua việc dâng tiến hy tế (Ds 7), và qua việc nhổ trại (Ds 9,23). Tất cả những điều Chúa muốn Ít-ra-en thực thi là hướng Ít-ra-en đến với Người như một dân thánh, tách biệt khỏi sự ô uế của thế gian. Chính vì thế, tất cả những gì là không thanh sạch thì không thể tiến lại gần Người. Sự vâng phục tuyệt đối của Ít-ra-en là phương thế cho Ít-ra-en bước đi trong sự thánh thiện mà tiến về miền Đất hứa.

2. Một cuộc hành trình của sự bất tuân (chương 11-12)

Sự vâng phục của Ít-ra-en kéo dài chẳng được bao lâu thì họ lại sớm rơi vào tình trạng phải chết của sự bất tuân. Sự bất tuân của Ít-ra-en được diễn tả qua thái độ phàn nàn, kêu trách: "Thế rồi dân bắt đầu kêu ca thấu tai Đức Chúa vì những khổ cực của họ, và Đức Chúa đã nghe được. Cơn thịnh nộ của Người bừng lên và lửa của Đức Chúa bốc cháy nơi họ ở và thiêu hủy đầu trại" (Ds 11,1). Sự phản loạn của dân còn được trình bày một cách rõ ràng trong chương 13 và 14. Dân cho rằng Mô-sê và A-ha-ron không còn đáng tin cậy để dẫn dắt họ nữa. Thế nên, họ bảo nhau: "Chúng ta hãy đặt lên một người cầu đầu và trở về Ai-cập" (Ds 14,4). Họ sợ tiếp tục cuộc hành trình vì chính Chúa đã thề: "Không một ai trong những người đã thấy vinh quang của Ta và những dấu lạ Ta đã làm bên Ai-cập và trong sa mạc, nhưng đã thách thức Ta cả mười lần và đã không chịu nghe tiếng Ta, không một ai trong những người ấy sẽ được thấy những miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng, tất cả những ai khinh thị Ta sẽ không được thấy đất ấy". Quả thực, tất cả những người ra khỏi Ai-cập từ tuổi 20 trở lên đều bị chết trong sa mạc, ngoại trừ Giô-suê và Ca-lếp. Chính sự phản loạn và tội lỗi của con cái Ít-ra-en khiến họ phải hành trình 40 năm trong sa mạc trong khi đoạn đường họ phải đi trên thực tế chỉ mất 11 ngày. Tuy nhiên, trong 40 năm này, Chúa kiên nhẫn sửa dạy Ít-ra-en với lòng nhân từ và sự nghiêm khắc. Người vẫn yêu thương họ với một giao ước chung thuỷ.

3. Cuộc hành trình đong đầy lòng nhân từ và sự nghiêm khắc của Chúa (chương 13-19)

Cuộc hành trình bất tuân của Ít-ra-en không bao giờ thiếu vắng sự hiện diện đầy lòng nhân từ và sự công chính của Chúa. Sự hiện diện của Chúa vừa mang tính phán xét vừa mang tính cứu độ. Ở giữa một một dân phản loạn, Thiên Chúa vẫn tiếp tục khẳng định: Ít-ra-en là dân của Người. Thiên Chúa nhân từ tiếp tục cung cấp cho Ít-ra-en thức ăn và nước uống. Thiên Chúa chỉ định những người lãnh đạo, đặc biệt là nhà Lê-vi và gia đình A-ha-ron trở nên những người lãnh đạo và những người làm trung gian giữa Thiên Chúa và Ít-ra-en. Chính nhờ lời chuyển cầu của các nhà lãnh đạo giúp cho Ít-ra-en tránh khỏi những cơn thịnh nộ của Chúa. Thiên Chua một cách kiên nhân đã dẫn một dân lầm đường lạc lối trở về chính lộ.

4. Một hướng đi mới cho một thế hệ mới (chương 20-36)

Sau khi dừng chân tại Ca-đê, Ít-ra-en nhổ trại tiến tới Mô-áp (xem Ds 20-21). Tại đồng bằng Mô-áp, theo lệnh của Đức Chúa, Mô-sê thực hiện cuộc kiểm tra dân số lần hai với con số 601.730 (xem Ds 26). Con số nay cho thấy một thế hệ mới tương đương với thế hệ đã rời khỏi Ai Cập trong cuộc kiểm tra dân số đầu tiên với con số 603.550. Để lãnh đạo thế hệ mới này, Chúa đã chọn Giô-suê tiếp nối sứ mệnh của Mô-sê để đưa họ tiến vào miền đất Ca-na-an (27,12-23). Đồng thời, Chúa đã ban cho họ những quy định mới để họ có thể sống như là dân thánh của Người trong miên đất Người ban.

IV. KẾT

Chúng ta vừa lược qua những phần chính của sách Dân số. Qua đó, chúng ta, trước hết, chiêm ngắm một Thiên Chúa vừa nhân từ vừa nghiêm khắc. Thiên Chúa là Đấng rất nhân từ không chỉ ban phát cho Ít-ra-en của nuôi thân mà còn bảo vệ và gìn giữ họ khi họ phạm tội. Mặt khác, Thiên Chúa cũng là Đấng rất nghiêm khắc. Người đánh phạt khi con cái Ít-ra-en phạm tội. Người cất đi quyền thừa hưởng nếu như họ bất tuân.

Thứ đến, sách Dân số là một bài học quý giá cho con cháu nhà Ít-ra-en cũng như cho tất cả chúng ta để chúng ta học cách kính sợ Chúa và thực thi thánh ý Người, ngõ hầu chúng ta không bị rơi vào cảnh diệt vong trong "sa mạc" của thế trần hôm nay.

Cuối cùng, sách Dân số không có phần kết. Điều này cho thấy Chúa mở ra cho Ít-ra-en một niềm hy vọng mới, một tương lai mới. Tương lai này có thành hiện thực hay không tuỳ thuộc việc Ít-ra-en có vâng phục Chúa hay không. Đây là thử thách mà mỗi thế hệ Ít-ra-en phải đối diện. Nó cũng là thách đó cho mỗi chúng ta hôm nay. Chúng ta có sẵn sàng bỏ con đường của mình để bước vào con đường của Thiên Chúa được mặc khải nơi Đức Giêsu Kitô không?

Nguyện xin Chúa chúc lành và gìn giữ chúng ta.
Nguyện xin Chúa tươi nét mặt nhìn đến chúng ta và dủ lòng thương chúng ta.
Nguyện xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho chúng ta (x. Ds 6,24-26).

Sách Dân Số

chương 1 - 12

***

I. TỔNG QUÁT

Cuốn sách thứ tư trong bộ Ngũ Thư được gọi là sách Dân Số vì trong đó kể lại hai lần kiểm tra dân số của các chi tộc Israel (1,20-46 và 26,5-51) và chi tộc Lêvi (3,14-51 và 26,57-62). Trong sách còn có những danh sách khác được tính bằng số, chẳng hạn danh sách các nhân viên kiểm tra (1,5-15), danh sách các lễ vật cung hiến bàn thờ (7,10-83), danh sách những người đi dò thám đất Canaan (13,4-15), danh sách các lễ vật được dùng trong những ngày lễ (28,1 - 29,38). Dù vậy, đây không phải là nội dung chính của sách Dân Số.

Câu chuyện trong sách Dân Số bắt đầu từ sa mạc Sinai ngay sau khi ký kết giao ước, và kéo dài 40 năm cho đến lúc dân chuẩn bị vào Đất Hứa. Đó là câu chuyện của Dân Chúa trong hành trình sa mạc dưới sự lãnh đạo của Môsê và Aaron. Chủ đề trung tâm của sách là sự hiện diện của Đức Chúa với dân Người trong hành trình sa mạc. Chính Chúa cùng đi với dân và hướng dẫn họ. Về phần dân, họ thường xuyên kêu la trách móc khiến Chúa nổi giận, rồi lại xin Chúa tha thứ.

Cần phải nhìn sách Dân Số như một giai đoạn trong cả câu chuyện dài như thế, bắt đầu từ sách Sáng Thế với công trình tạo dựng, rồi tiếp nối với công trình giải thoát và tuyển chọn Dân Chúa trong sách Xuất Hành, và sau đó là hành trình sa mạc tiến về Đất Hứa.

II. LỜI KHẤN NADIA (6,1-21)

Trước hết cần đặt bản văn này trong bối cảnh Dân Chúa chuẩn bị vào Đất Hứa. Trong bối cảnh đó, sách Dân Số nhấn mạnh đến sự thánh thiện và thanh khiết của cộng đoàn đức tin. Do đó, tác giả lồng vào đây bản văn về lời khấn nadia, tức là nói đến sự thánh hiến, sự tận hiến hoàn toàn của những cá nhân cho Chúa. Người khấn nadia dâng mình cho Đức Chúa (câu 21) trong một thời gian (câu 4,5,6,8,12,13). Truyền thống giữ lời khấn này còn được duy trì rất lâu trong dân Chúa, ví dụ trường hợp Samson (Tp 13,5) và Samuel (1Sam 1,11). Truyền thống này vẫn được tiếp tục đến thời thánh Gioan Tẩy giả (Lc 1,15) và thánh Phaolô (Cv 18,18; 21,23-26).

Bản văn về lời khấn nadia (6,1-21) gồm ba đoạn độc lập: các câu 3-8 mô tả những điều kiện và lề luật người khấn nadia phải giữ, các câu 9-12 nói đến việc thanh tẩy trong trường hợp bị ô uế, và các câu 13-21 đưa vào nghi thức cử hành khi thời gian khấn chấm dứt. Ở đây ta chỉ tập trung vào đoạn 1 (6,3-8), theo đó người khấn nadia phải tuân giữ ba điều liên quan đến ăn uống, cắt tóc và tránh xác chết.

Người khấn nadia phải kiêng rượu và men nồng, "không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi cũng như nho khô" (câu 3-4). Rượu nho tượng trưng cho văn hoá thành thị, đời sống ổn định tiện nghi với mức sống cao, tức là những khoái lạc ngược với lối sống thanh đạm (Amos 4,1; 6,6). Kế đó, "dao cạo không được đụng đến đầu... phải để cho tóc mọc tự nhiên" (câu 5) vì tóc được coi là dấu chỉ của sự thánh hiến, dấu chỉ phân biệt người dâng mình cho Chúa. Ở đây nên nhớ đến câu truyện về Samson bị cạo đầu và mất sức mạnh. Người khấn nadia còn "không được tới gần xác chết... kể cả cha mẹ hay anh chị em qua đời" (câu 6-7). Thời xưa người ta tin rằng có mối liên hệ mật thiết giữa chết chóc và sự ác. Sự ác phát xuất từ xác chết và làm cho bất cứ ai chạm đến xác chết bị ô uế, do đó không xứng đáng với Thiên Chúa.

Sự hiện diện của những người khấn nadia là lời nhắc nhớ thường xuyên cho tất cả cộng đồng rằng họ phải hiến dâng chính mình cho Chúa như thế nào. Cũng vì thế, có nhiều người khó chịu về sự hiện diện đó và tìm cách gài bẫy họ như Amos nhắc tới, "Các ngươi đã bắt các nadia uống rượu, và ra lệnh cho các tiên tri: các ông không được nói tiên tri" (Amos 2,12).

Những ghi nhận về lời khấn nadia khiến ta liên tưởng đến những người sống đời thánh hiến ngày nay, những anh chị em sống theo ba lời khấn: khó nghèo, khiết tịnh, và vâng phục. Sự hiện diện của người sống đời thánh hiến là lời nhắc nhớ cho tất cả cộng đoàn Hội Thánh rằng chính Thiên Chúa và Nước Trời mới là kho tàng quý giá nhất mà ta phải kiếm tìm, là nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu, và phụng sự Chúa chính là đường dẫn đến tự do đích thực. Đồng thời sự hiện diện của những người sống đời thánh hiến cũng là dấu chỉ phản kháng lối sống duy vật và hưởng thụ, và mời gọi con người tìm lại những giá trị tinh thần cao quý, gắn liền với phẩm giá con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa.

III. CỘT MÂY (9,15-23)

Trong Thánh Kinh, mây là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Mây đã dẫn dân ra khỏi Ai Cập (Xh 13,21-22) và che giấu họ khi quân Ai Cập tới gần (Xh 14,19.24). Mây cũng dẫn đường cho dân trong suốt hành trình sa mạc. Mây che phủ Nhà Tạm ban ngày, và ban đêm trông như lửa (9,15-16).

Với hình tượng cột mây như dấu chỉ hiện diện của Chúa, sách Dân Số nhấn mạnh sự hiện diện của Chúa trong hành trình sa mạc, đồng thời nhấn mạnh hai điều. Một là chính cột mây quyết định dân sẽ dừng lại hay đi tiếp (câu 19-22); như thế, việc lên đường hay dừng lại không do dân quyết định mà là do Chúa. Kế đến, Đức Chúa nói với dân qua đám mây. Qua đám mây, họ nhận ra lệnh của Đức Chúa (câu 18,19,23) và làm theo.

Sau khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, người Kitô hữu bước vào hành trình dài tiến về Nước Trời. Trong hành trình đó, ta không đi một mình nhưng chính Chúa đồng hành với ta như Người đã đồng hành với dân Israel trong sa mạc. Sự hiện diện và đồng hành của Chúa được thể hiện qua nhiều dấu chỉ. Liệu ta có đủ tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ đó không, và ta đáp trả những dấu chỉ đó như thế nào?

SÁCH DÂN SỐ
(chương 13-24)

***

I. ISRAEL NỔI LOẠN VÀ THIÊN CHÚA NỔI GIẬN (14,1-19)

Khi nghe những người do thám trở về tường thuật về miền đất chảy sữa và mật nhưng khó lòng chiếm được vì dân cư quá hùng mạnh, cả cộng đồng cằn nhằn trách móc Môsê và Aaron, và họ cho rằng thà trở về Ai Cập hay chết trong sa mạc còn hơn (câu 3-4). Như thế là họ phủ nhận chính Chúa, Đấng giải thoát họ. Môsê và Aaron không biết phải giải quyết thế nào. Caleb và Giosua ra sức thuyết phục dân nhưng vô hiệu. Họ đòi ném đá các ông nếu Chúa không can thiệp (câu 10).

Thiên Chúa than phiền với Môsê về thái độ cứng lòng của dân, dù Người đã làm biết bao dấu lạ (câu 11). Và Người đe doạ sẽ dùng ôn dịch mà đánh phạt dân (câu 12). Chính ở đây, ta gặp được chân dung của Môsê, nhà lãnh đạo tuyệt vời của Dân Chúa. Ơng can ngăn Chúa đừng xử phạt dân bằng những lời lẽ thống thiết nhất, và ông khẳng định rằng quyền năng Chúa không được tỏ hiện qua việc trừng phạt nhưng qua "kiên nhẫn và giàu ân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm và tội ác nhưng không dung tha điều gì" (câu 17-18).

Dù đã chứng kiến bao kỳ công Chúa thực hiện, dù đã cảm nghiệm tình thương che chở của Thiên Chúa, khi gặp phải thử thách, dân Israel lập tức than phiền trách móc và đòi trở về miền đất nô lệ, nghĩa là họ vẫn không tin vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Kinh nghiệm này được lập lại trong đời sống đức tin của mỗi người. Dù vẫn nghĩ là mình tin Chúa và cảm nghiệm được tình thương của Người, ta vẫn không thực sự tin tưởng và phó thác đời mình trong tay Chúa, đặc biệt là khi phải đối diện với những gian nan thử thách. Và vì thiếu niềm tin, ta dễ dàng đi tìm những phương thế và sức mạnh trần gian để cậy dựa cuộc đời mình. Vì thế trình thuật về sự nổi loạn của dân Israel trong sa mạc phải là tấm gương phản chiếu cho ta suy nghĩ lại thái độ sống đức tin của mình.

II. RẮN ĐỒNG (21,4-9)

Đây là câu truyện cổ xưa nhằm giải thích tại sao lại có con rắn đồng trong Đền thờ Giêrusalem. Sách Các Vua kể rằng vua Hezekia đã ra lệnh "đập tan con rắn đồng Môsê đã làm vì cho đến thời đó, con cái Israel vẫn đốt hương kính nó" (2V 18,4).

Trình thuật về rắn đồng cũng diễn ra giống như những trình thuật về sự nổi loạn của dân Israel: nổi loạn - hình phạt - can thiệp - tha thứ (x. 11,1-3; 12,2-16; 17,6-15; 21,4-9). Dân chúng lại than phiền vì không có bánh ăn và nước uống, và chỉ mong trở lại Ai Cập (câu 5). Đức Chúa bèn ra hình phạt bằng cách để cho rắn độc xuất hiện, và nhiều người phải chết. Dân lại chạy đến với Môsê xin ông can thiệp. Đức Chúa nhận lời cầu khẩn của Môsê và sai ông làm một con rắn, treo lên một cây cột. Những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, sẽ được sống. Ở đây không phải là chuyện con rắn mà là chuyện của đức tin và vâng phục. Nhìn lên con rắn đồng mà chính Chúa đã truyền cho Môsê làm là thái độ diễn tả sự vâng phục đối với mệnh lệnh của Chúa và tin vào Người. Điều đặc biệt đáng quan tâm là Thiên Chúa đã không dùng một phương thế nào khác để chữa lành cho dân, nhưng đã lấy chính hình tượng con rắn là con vật gây bệnh tật và chết chóc, để chữa lành cho họ.

Chúa Giêsu đã nhắc lại hình ảnh rắn đồng để nói về ơn cứu độ, "Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3,14). Và khi kể lại việc một người lính lấy ngọn giáo đâm vào cạnh sườn Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, thánh Gioan đã nhắc lại lời Kinh Thánh, "Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu" (Ga 19,37). Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu độ bằng đường lối thật lạ lùng. Thập giá vốn bị coi là hình phạt nặng nề dành cho những phạm nhân ghê gớm lại trở thành phương thế cứu độ nhân loại nếu ta biết nhìn lên Đấng chịu đóng đinh với tất cả tin yêu và hi vọng. Quả thật, "trong khi người Do thái đòi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hi lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng Đấng Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ" (1Cor 1,22-23).

SÁCH DÂN SỐ
(chương 25-36)

***

I. GIÔSUA KẾ NHIỆM MÔSÊ (27,12-23)

Giai đoạn lãnh đạo của Môsê sắp chấm dứt. Đức Chúa ra lệnh cho Môsê đi đến dãy núi Abarim, đến Nebo là nơi Aaron đã qua đời (20,22-26) để từ đó nhìn thấy Đất Hứa (x. Đnl 32,48-52; 33,47; 34,1-6). Đức Chúa cũng cho biết Môsê sẽ không được vào Đất Hứa vì sự bất trung của dân tại Meriba (x. 20,2-13).

Mối quan tâm cuối cùng của Môsê là làm sao dân Chúa có người lãnh đạo "để cộng đồng của Đức Chúa đừng giống như đàn chiên không có mục tử chăn dắt" (27,17). Môsê quả là vị lãnh đạo mẫu mực. Oâng không nghĩ đến bản thân mình. Dù không được đặt chân vào Đất Hứa sau bao nhiêu khó nhọc phải chịu vì dân, ông cũng không buồn phiền khó chịu, mà chỉ nghĩ đến ích lợi của dân, ước mong dân có được người lãnh đạo tốt nhất. Theo nguyên văn, vị lãnh đạo này là người sẽ "ra vào trước họ và dẫn họ ra vào" (27,17). Đây là những từ chuyên môn để mô tả vai trò lãnh đạo về chính trị và quân sự (x. 1Sam 18,13.16; 29,6; Giosua 14,10-11). Như thế, người kế vị Môsê sẽ dẫn dắt dân trong những cuộc chiến chinh phục đất đai và định cư trên vùng đất mới.

Người được chọn là Giôsua, con của Nun. Oâng là người có thần khí nơi mình và đã chứng tỏ có khả năng lãnh đạo (x. 11,28; 14,6.30.38). Nghi thức trao quyền cho thấy sự phân biệt giữa vai trò của tư tế và vai trò của nhà lãnh đạo chính trị. Giôsua đứng trước mặt tư tế Eleazar và toàn thể cộng đồng, và Môsê đặt tay trên ông (27,18), một cử chỉ nói lên việc trao quyền bính cho người kế vị. Tuy nhiên, nếu Môsê là người đã lãnh nhận những chỉ thị trực tiếp từ Đức Chúa (x. 12,6-8), thì Giôsua sẽ nhận sự hướng dẫn qua vị tư tế. Tư tế sẽ "đến trước nhan Đức Chúa mà xin thẻ xăm Urim" cho Giôsua; nhờ đó Giôsua biết được quyết định của Chúa.

Với nghi thức này, Giôsua lãnh nhận quyền bính từ Môsê, để "toàn thể cộng đồng con cái Israel nghe lời ông " (27,20). Thế nhưng Giôsua và bất cứ vị lãnh đạo nào sau này cũng không thể sánh với Môsê được. Những chi tiết trong trình thuật muốn diễn tả vai trò đặc biệt của Môsê trong toàn bộ lịch sử Israel. Trình thuật này cũng cho thấy từ thời Giôsua, có sự phân biệt giữa quyền bính của các tư tế và quyền lực chính trị. Đây là vấn đề được quan tâm nhiều trong thời hậu lưu đày (x. Ez 45,17; 46,2).

Trình thuật này giúp ta ý thức về vai trò của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội. Sự tuyển chọn không đến từ con người nhưng đến từ chính Thiên Chúa. Môsê đã không tự chọn, ông chỉ nói lên tâm nguyện của mình, và chính Chúa sai Môsê chọn Giôsua. Việc chọn lựa này phát xuất từ tấm lòng yêu thương của Chúa dành cho dân để họ không phải bơ vơ như đoàn chiên không có người chăn dắt. Do đó người lãnh đạo được chọn không để thoả mãn bất cứ tham vọng cá nhân nào của họ nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ dân, và đó cũng là thước đo giá trị của việc lãnh đạo.

II. PHÂN CHIA ĐẤT CANAAN (33,50-56)

Nhiệm vụ đầu tiên khi qua sông Giođan và vào đất Canaan là đuổi mọi dân cư ở đó ra khỏi đất, và phá hủy mọi "hình ảnh, tượng đúc, nơi cao" của họ (33,51). Ngày nay, trong một thời đại đề cao sự khoan dung tôn giáo, ta cảm thấy mệnh lệnh này thật khó hiểu và khó chấp nhận. Thiết nghĩ phải đặt mệnh lệnh này vào trong đúng bối cảnh của nó. Tác giả nhấn mạnh đây là miền đất Đức Chúa ban cho Israel làm gia nghiệp, và đó cũng là dấu chỉ giao ước giữa Đức Chúa và dân Israel (33,54). Tương quan giao ước đòi hỏi tình yêu và sự trung thành tuyệt đối. Vì thế trên miền đất của giao ước, không thể tồn tại bất cứ cái gì không thuộc về Thiên Chúa của Israel.

Cũng vì thế, nếu mệnh lệnh này không được tuân giữ thì dân sẽ phải chịu lời nguyền rủa: "Nếu các ngươi không đuổi các dân cư trong xứ cho khuất mắt, thì những kẻ các ngươi để sót lại sẽ nên như gai chọc mắt, như mũi nhọn đâm sườn; chúng sẽ quấy rối các ngươi trên đất các ngươi ở. Và bấy giờ, Ta sẽ đối xử với các ngươi như Ta đã định đối xử với chúng" (33,55-56). Sau này, trong cảnh lưu đày, dân Israel sẽ thấm thía những lời này hơn bao giờ.

Đức Chúa cũng ra những chỉ thị cụ thể về việc phân chia đất: "Các ngươi sẽ bắt thăm để chia nhau đất ấy làm gia nghiệp..." (33,54). Việc bắt thăm làm nổi bật ý nghĩa đây là miền đất Thiên Chúa ban cho Israel chứ không phải do họ tự chiếm được. Riêng chi tộc Lêvi, vì không có phần đất riêng làm gia nghiệp, nên mỗi chi tộc phải nhường một số thành của mình làm nơi ở và sinh sống cho những người thuộc chi tộc Lêvi (35,2-5).

Như thế, nội dung căn bản ở đây là đòi hỏi trung thành triệt để và không khoan nhượng. Đã ký kết giao ước với Thiên Chúa, dân phải sống tương quan giao ước đó cách triệt để và trọn vẹn. Aâu cũng là đòi hỏi tất yếu của bất cứ tương quan tình yêu nào. Tình yêu vợ chồng tự nó lại chẳng hàm chứa đòi hỏi triệt để và trọn vẹn như thế sao? Nếu ta đọc bản văn này từ tầm nhìn của giao ước tình yêu như thế, đây sẽ là bản văn rất đáng để suy gẫm cho đời sống đức tin, cho tương quan giao ước mà ta đã ký kết với Thiên Chúa, để xem mình đã sống tương quan đó ra sao, và cần phải sửa đổi những gì.
 


SÁCH ĐỆ NHỊ LUẬT
(chương 1 – 11)

***

I. TỔNG QUÁT

Đệ nhị luật là một trong những cuốn sách quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn trong Thánh Kinh Cựu Ước. Nội dung chính của sách là ba diễn từ của Môsê nói với dân Israel trước khi họ qua sông Giođan tiến vào Đất Hứa. Mục đích là củng cố niềm tin của dân vào Thiên Chúa và kêu gọi họ trung thành với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.

Chương 1-11 gồm có :
– 1,1 – 4,43 : Diễn từ thứ nhất của Môsê. Môsê khuyến cáo dân phải học bài học của quá khứ nếu muốn vững chắc trong tương lai. Trung tín sẽ được ân thuởng, ngược lại, bất trung sẽ mang lại án phạt.
– 4,44 – 11,32 : Phần đầu trong diễn từ thứ hai của Môsê trước khi trình bày bộ Đệ nhị luật. Phần này có nhiều điểm quan trọng: Mười điều răn (5,1-6,3), Tình yêu của Chúa (6,4-25), Israel là dân thánh (7,6-26), Điều răn lớn (10,12 – 11,32).

II. ISRAEL, DÂN ĐƯỢC THÁNH HIẾN (Đnl 7,1-12)

Môsê nói với dân, “Anh em là một dân được thánh hiến cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa đã chọn anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người” (Đnl 7,6).

Trong phần trước (7,1-5), Môsê đưa ra những chỉ thị cấm dân Israel quan hệ với các dân khác. Việc cấm đoán này không phát xuất từ sự tự mãn nhưng từ ý thức rằng Israel đã được Thiên Chúa tuyển chọn, và nếu không cố gắng, họ sẽ không thể chu toàn trách nhiệm trước mặt Chúa.

Thánh hiến là được tách riêng ra để thuộc quyền sở hữu của Chúa. Israel đã được tách riêng ra khỏi các dân. Lề luật được ban cho họ nhằm giúp họ duy trì mối quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Nền tảng của mối quan hệ này không phải là những phẩm chất cao quý của họ nhưng chính là tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, Đấng đã chọn một dân nhỏ bé trong các dân. Vì thế được tuyển chọn chính là một hồng ân (x. Đnl 4,32-38).

Kitô hữu là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1Pet 2,9-10). Việc tuyển chọn này cũng không phát xuất từ những ưu điểm về mặt nhân loại của ta, nhưng hoàn toàn phát xuất từ tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa. Ý thức này thúc đẩy ta sống đời Kitô hữu trong tâm tình tạ ơn và khiêm tốn. Hơn ai hết, Mẹ Maria chính là mẫu mực cho ta sống những tâm tình này như Mẹ diễn tả trong lời kinh tạ ơn (Magnificat).

III. KINH NGUYỆN HỒI TƯỞNG (Đnl 8,1-20)

Môsê nhấn mạnh đến việc “nhớ lại” những hành động yêu thương của Chúa, “Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc” (8,2). Nhớ lại hành động giải thoát của Chúa khi đưa dân khỏi Ai cập cũng như sự quan phòng của Người trong suốt hành trình sa mạc là điều tối quan trọng, vì nhờ đó, dân mới cảm nhận tình thương của Chúa và gắn bó với Người, vâng phục Người. Ngược lại, nếu quên đi những hồng ân đó, dân sẽ dần dần bất tuân và bất tín với Thiên Chúa.

Kinh nghiệm sa mạc giúp cho Israel thấy rõ cuộc sống của họ hoàn toàn lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa. Kinh nghiệm về sự thiếu thốn và đói khát đến độ chỉ có thể sống nhờ manna, kinh nghiệm đó giúp dân thấy rõ họ sống được là nhờ Chúa: “Thiên Chúa đã bắt anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn manna là của ăn anh em chưa từng biết…. ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Đnl 8,3) Bây giờ khi bước vào vùng đất mới với lương thực đầy đủ, người ta dễ cho rằng sự phong phú đó là do nỗ lực của con người chứ không do Thiên Chúa. Cho nên Môsê nhấn mạnh, “Anh em hãy ý tứ đừng quên Đức Chúa… Khi anh em được ăn, được no nê, xây nhà đẹp đẽ… thì anh em đừng kiêu ngạo mà quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai cập, khỏi cảnh nô lệ” (8,11-13).

Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, ta cần nhìn lại và nhớ lại cuộc đời mình trong ánh sáng của Chúa, nhờ đó ta cảm nhận sự hiện diện và tình thương của Chúa trong cuộc đời mình cách cụ thể và rõ ràng. Có thể gọi là kinh nguyện hồi tưởng.

Cách cụ thể, hãy đặt mình trước mặt Chúa và nhớ lại. Hãy nhớ lại những khoảnh khắc đặc biệt khiến ta cảm nhận rõ ràng sự can thiệp của Chúa. Hãy nhớ lại những người đã làm ơn cho ta và ghi đậm dấu ấn trong đời ta vì chính Chúa ban ơn cho ta qua họ. Hãy nhớ lại những biến cố lớn trong đời. Hãy nhớ lại những thương tích còn lại trong tâm hồn, và xin Chúa chữa lành. Hãy nhớ lại những người mà ta gây thương tích cho họ, dù vô tình hay hữu ý, và xin Chúa chữa lành họ.

Nhớ lại tất cả những điều trên trong ánh sáng của Chúa giúp ta cảm nhận tình thương của Chúa trong đời mình, giúp ta được chữa lành khỏi những thương tích trong tâm hồn, và giúp ta vững bước đi về phía trước trong tin yêu và phó thác.

Sách Đệ Nhị Luật

chương 12-26

I. ĐỜI SỐNG HƠN NHÂN GIA ĐÌNH (Đnl 24,1-4)

Trong Tin Mừng Matthêu, khi được hỏi, “Người ta có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?” Chúa Giêsu đã trả lời, “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19,3-5). Nhưng người Pharisêu đặt vấn đề với Chúa Giêsu, “Tại sao ông Môsê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?” (Mt 19,7).

Đặt câu hỏi như thế là dựa vào Đnl 24,1-4: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì đáng ruồng bỏ, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà.” Theo đó, người phụ nữ hoàn toàn ở thế thụ động, bị coi như một vật sở hữu của người đàn ông. Hơn nữa, người ta có thể giải thích lề luật theo ý muốn và sở thích ích kỷ của mình, chẳng hạn đã có những cách giải thích khác nhau về cụm từ “điều gì đáng ruồng bỏ” và “điều không đẹp lòng.”

Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt trên luật Môsê và đưa người ta trở về với ý định ban đầu của Thiên Chúa, “Vì các ông lòng chai dạ đá nên Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có thế đâu” (Mt 19,8). Về lời khẳng định của Chúa Giêsu, “Tôi nói cho các ông biết: ngoại trừ nố dâm bôn, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình” (Mt 19,9), nố dâm bôn ở đây (porneia) là hôn nhân bất hợp pháp (xem TOB). Theo Lev 18,6-18, (đối chiếu với Cv 15, 20,29) đó là hôn nhân giữa những người cùng chung huyết thống (họ máu, họ kết bạn).

II. NHữNG NGÀY LỄ LỚN (Đnl 16,16)

“Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của anh em phải đến trình diện Đức Chúa, ở nơi Người chọn: vào dịp lễ Bánh Không Men, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều” (Đnl 16,16).

Ở nguồn gốc, đây là những lễ hội nông nghiệp, rồi được tôn giáo hoá để tưởng nhớ những biến cố lớn trong lịch sử Dân Chúa. Lễ Bánh Không Men được cử hành vào mùa Xuân để tưởng nhớ cuộc xuất hành khỏi Ai Cập. Lễ Ngũ Tuần là lễ của các tuần lễ (Xh 34,22; Đnl 16,10), ở khoảng giữa lễ Vượt Qua và lễ Lều. Sau này được cử hành để tưởng nhớ việc Thiên Chúa ban Lề Luật trên núi Sinai.

Trong Kitô giáo, có những ngày lễ tương tự những ngày lễ của dân Israel như lễ Phục Sinh, lễ Hiện Xuống. Cách nào đó, những ngày lễ này tiếp nối những ngày lễ của dân Israel nhưng lại mang ý nghĩa mới mẻ và sâu xa hơn.

Việc cử hành các ngày lễ trên đóng vai trò quan trọng trong đời sống đức tin của Dân Chúa, vừa tưởng niệm những kỳ công Chúa thực hiện trong lịch sử, vừa thúc đẩy tín hữu sống đức tin. Ngày nay, một số ngày lễ lớn của Kitô giáo đang có nguy cơ bị tục hoá, vd. lễ Giáng Sinh nhiều khi chỉ còn là cơ hội ăn chơi và mua sắm. Vì thế, Kitô hữu càng cần phải cử hành những ngày lễ tôn giáo cách ý thức hơn.

Sách Đệ Nhị Luật

chương 27-34

***

III. TỔNG KẾT: CHỌN LỰA SỰ SỐNG (Đnl 30,15-20)

Trong diễn từ thứ ba của Môsê, sau khi đã ôn lại lịch sử của Dân Chúa, Môsê nói với dân, “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ…” (Đnl 30,15-20)

Lời này cho thấy viễn tượng bao trùm toàn bộ lề luật Thiên Chúa ban cho con người chính là sự sống. Lề luật Thiên Chúa ban là để cho con người được sống và hạnh phúc chứ không nhằm hủy diệt và giết chết như nhiều người ngày nay nghĩ tưởng. Chỉ có điều quy luật của sự sống là “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Đó là quy luật tự nhiên của sự sống nhưng con người lại cho đó là nghịch lý. Họ chỉ muốn sự sống tức thời và cụ thể trước mắt chứ không chấp nhận quy luật của hi sinh và từ bỏ. Vì thế họ lao vào việc tìm thoả mãn những sở thích và đam mê của mình bằng mọi cách để rồi chỉ thấy sự sống đích thực nơi mình mỗi ngày mỗi nghèo nàn và trống vắng. Dân Israel đã phải học bài học này trong suốt hành trình sa mạc, và mỗi chúng ta cũng phải học bài học đó.

Chọn lựa căn bản của người Kitô hữu là chọn Chúa, cũng là chọn sự sống. Nhưng ta cần thể hiện chọn lựa căn bản đó xuyên qua những chọn lựa nhỏ bé và cụ thể hằng ngày. Và không thể quên quy luật của sự sống mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh bằng chính cuộc sống và cái chết của Ngài.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #bunbo