Giàn thiêu
Giàn Thiêu
GIÀN THIÊU
An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà pha......!
x x x
Đinh mùi (1). Tháng chạp. Ngày Ât Dậu. Giờ dần.
Thần Tông (2) hoàng đế gà gật trên kiệu vàng. Đôi chân ngắn cũn ủ trong cặp hài mũi cong như mũi thuyền rồng, hai bên lườn hài gắn những hạt minh châu ánh biếc. Tua vàng buông rủ đung đưa theo nhịp rập rình của những bờ vai lực lưỡng mười sáu phu kiệu.
Hoàng đế ngái ngủ. Mười hai tuổi, đang là Thái tử Dương Hoán, tiên đế Nhân Tông băng hà, ngài được lập lên ngôi giữa lập loè đèn nến trước linh cữu. Dù đã được đem vào cung nuôi dạy từ lúc còn là một đứa bé lên hai, nhưng Dương Hoán còn bỡ ngỡ với hết thảy các phép tắc của một vị hoàng đế, lại càng chưa quen với những chuyến đi xa phải dậy sớm với những nghi thức nặng nề thế này. Ngài uể oải ngáp.
Âm ì như sóng biển bao phủ quanh thân mình ngài ngự, trong tấm chăn hồng nhạt phớt vàng của vầng dương đang bắt đầu ló rạng, tiếng tụng kinh gõ mõ của năm mươi sáu nhà sư đi thành hàng đôi quanh kiệu vàng càng như ru vị hoàng đế nhỏ vào giấc ngủ êm đềm.
Giai điệu âm u mịt mùng của lời kinh cầu hồn vẫn đều đều quyện lấy kiệu vàng và đoàn tuỳ tùng dài như vô tận. Kính cẩn nâng quyển kinh bằng lá bối, vị thượng toạ áo vàng mình gầy guộc tiên phong đạo cốt dẫn đầu đoàn. Tiếp gót , bốn đại sư phơ phất phướn trên tay. Các tăng quan và một chuỗi nhà sư khác theo sau. Tay không ngơi lần tràng hạt, miệng họ ê a cất lên những câu kinh như gió thoảng không bao giờ dứt.
...An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà pha... (3)
Sương sớm tan. Con đường nhuộm màu áo vàng cong lên lượn xuống uốn theo những sườn đồi, dần dà hiện rõ mồn một. Dân chúng trong vùng nô nức đổ ra xem, bất giác đồng thanh " Mô Phật ! ", lòng dậy lên niềm sùng kính với đức từ bi.
Tại các cổng chùa ven đường cái quan, sư trụ trì hối hả giục chú tiểu mang hương án phẩm vật ra dâng đấng tân vương và các thượng tọa đạo cao đức trọng. Chốc chốc, đoàn xa giá khựng lại vì có sư trụ trì một chùa nào đó ra dâng vật phẩm. Nhân Tông hoàng đế lúc sinh thời thường ban thưởng hậu cho những kẻ đem dâng những phẩm vật lạ báo điềm lành của đất nước. Thiên hạ biết vậy, nên sinh thói đua tranh tìm kiếm vật hiếm quí để ra mắt tân vương.
Dương Hoán Thần Tông hoàng đế tỉnh ngủ hẳn, mắt sáng rỡ khi thấy sư trụ trì chùa Phụng Từ quì trước kiệu vàng, cúi đầu hai tay nâng mâm son dâng lên một con rùa nhỏ màu hoàng yến, có đôi mắt to màu vàng sậm, trên ức rùa vân sừng nổi lên hình hai chữ " Thiện đế " rõ như tay người viết bằng mực nho đen nhánh.
Dương Hoán ngước nhìn Trung thừa Mâu Du Đô đang đứng chầu hầu liền bên, dò hỏi . Mâu Du Đô nhìn rõ dấu tay người viết rất khéo trên mai con rùa nhưng lặng im giây lát, chỉ nói : " Muôn tâu ! Thiện đế nghĩa là một bậc đế vương nhân hậu khoan dung ! ". Nhà sư đảo nhanh mắt, nhìn quan Trung thừa vẻ hàm ơn rồi khúm núm : " Muôn tâu hoàng đế, trong mỗi mắt của con rùa quý này có tới sáu con ngươi. Đó là điềm triệu cực lành, báo trước sự thịnh vượng của đại triều dưới sự chăn dân đức tân hoàng đế..." .
Thần Tông chưa hiểu hết những lời của sư chùa Phụng Từ, nhưng lòng mừng khôn xiết, ghé sát vào mắt chú rùa, cố tìm cho ra sáu con ngươi nhưng nhìn mãi cũng chỉ thấy có hai con, trong khi các cận thần đều bảo là trông thấy quả thực có sáu con ngươi, liền bảo thị vệ đặt rùa vào hộp vàng, trọng thưởng cho nhà sư. Đoàn xa giá lại tiếp tục nhuộm sặc sỡ con đường lên Na Ngạn (4).
Trên cao, những vì sao cuối cùng tắt hẳn. Tiếng chuông chùa Phổ Thiên đổ dài từng hồi, lanh lảnh ngân nga, đệm nền cho giọng kinh cầu hồn. Aỏ não những cánh quạ bay là là trên mấy đụn rơm nhả khói bếp nhà nông phu. Thoảng mùi cháy khét pha vị ngọt sắt của khoai vùi quá lửa trong tro nóng.
x x x
.... Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con mau lên thuyền Bát nhã
Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con sớm vượt qua bể khổ
Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con sớm lên cõi Niết Bàn
Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con mau đến nhà vô vi...
Những câu kinh " Đại bi sám pháp " da diết phả vào tiếng chuông. Buổi sáng không sương mù. Những vì sao vừa tắt thì muôn tia nắng vàng ngọt sắt như lưỡi đòng thép xuyên xuống dòng người lầm bụi.
Đằng sau chuỗi người được che phủ trong cờ xí quạt tàn võng lọng rực vàng đường lên Na Ngạn là mười hai cộ gỗ. Mười hai thớt trâu đực sừng dài cong như nửa vành trăng, lớp lông dọc sống lưng dựng cao và cứng xoắn như đám rễ tre gộc qua lửa ì ạch kéo dẫy cộ ngật ngưỡng những phiến gỗ thông lớn phả mùi thơm ngát. Ngất ngưởng trước đống gỗ thông trên chiếc cộ dẫn đầu được kéo bởi cặp trâu trắng bốn chân lừng lững như chân voi là một vị quan trong bộ trang phục áo tơi nón lá mục đồng tay cầm roi bằng nhánh hoa lau có tết tua ngũ sắc luôn tay quật vun vút lên lưng trâu. Dãi trâu rỏ thành dòng ướt mặt đường đồi đất đỏ. Những vệt cỏ chó đẻ hai bên đường bết bụi cong rũ.
Để có được mười hai cộ gỗ thông này, quan Thái bảo khu mật sứ Lý Trác đã đích thân giao cho tri phủ Lạng Giang sai hai trăm tiều phu cơm đùm cơm nắm lên núi kén chọn từng gốc thông gìa ngoài trăm tuổi. Những gốc thông mà lưỡi rựa thép chém vào ứa ra dòng nhựa vàng quánh trong như hổ phách. Khi mang được gỗ về thì những phiến gỗ thông đã nhuộm máu của ba mươi tư kẻ tiều phu xấu số. Để ngăn cản oan hồn của những người tiều phu oán hận về đòi mạng, gây bất an cho bản triều, quan Thái bảo đã theo cung cách dân gian, buộc một dải khăn sô dài lê thê ngang sừng cặp trâu kéo chiếc cộ thứ ba.
Đám rước khổng lồ nặng nhọc chuyển đi. Khi tiếng chuông chùa vừa dứt, giàn nhạc cung đình réo rắt tấu khúc bi ai. Não nuột tiếng kèn, tiếng thanh la não bạt chen giọng thương khóc Đức Nhân Tông hoàng đế mới băng hà.
x x x
Dân chúng đổ ra hai bên đường ngóng xem đám rước mỗi lúc mỗi đông. Những người đàn ông gầy guộc đóng khố cởi trần tóc búi tay cầm roi tre đang cố sức giữ cho đám trẻ khỏi túa ra đường len lén hé mắt trộm ngắm mặt rồng dưới mu bàn tay cáu bẩn che mặt. Đám dân đen tội nghiệp chỉ kịp thấy trôi qua mắt họ một gương mặt trắng xanh nhỏ nhắn với đôi mắt xếch sáng rực, ngưỡng thiên và cặp chân đung đưa tung tẩy như chân trẻ con đang vầy nước. Chiếc mũ miện nặng nề nạm ngọc bích nổi bật trên những tua vàng tua bạc
buông rủ làm cặp lông mày trĩu xuống. Sức nặng của vương miện dường như quá sức chịu đựng của sợi cổ mảnh khảnh.
Đi sau kiệu rồng chừng nửa dặm, một chiếc xe khổng lồ sơn son thiếp vàng khảm những đoá mẫu đơn màu đen tang tóc. Chiếc xe chầm chậm như nhẹ trôi trong không trung, được kéo bởi những bước chân đều đặn của một trăm hai mươi nữ nô lệ người Chân Lạp . Hai bầu vú trần đen sạm trĩu nặng. Từ đầu vú run rẩy rỏ xuống những giọt mồ hôi đặc quánh dưới ánh mặt trời. Những nữ nô lệ này tuổi chỉ vừa đôi tám, tóc vấn cao hình tháp quấn những chuỗi hoa đại trắng, ngang lưng vấn xoắn váy màu vàng lơ lửng đến bụng chân. Cổ chân rám nắng quấn những chuỗi vòng vỏ ốc nhiều màu. Tiếng vỏ ốc va nhau lách cách như nhạc đệm theo mỗi bước đi. Mồ hôi loáng ướt lưng trần. Ngực tì ngực lên những chiếc ách bằng gỗ lim đen nhẫy. Giàn nữ nô lệ đi như một dẫy người câm không vui không buồn.
Trên xe, lồng lộng giữa trời là bốn mươi chín cô gái cài vàng dát ngọc áo tía xiêm hồng đầu chít khăn ngang. Những cung nữ của Hoàng đế Lý Nhân Tông vừa băng hà. Họ đang trên đường tới đảo Âm Hồn, lên giàn thiêu. Khi ngọn lửa giàn thiêu bốc lên, họ là những kẻ tôi đòi cưỡi khói để kíp kíp tới Niết bàn hầu hạ đức tiên đế. Những người kế nghiệp có dạ trung quân không thể để đức vua phải chịu cảnh phòng không gối chiếc quá lâu nơi Niết Bàn.
Thần Tông hoàng đế đã tỉnh ngủ hẳn. Ngài lệnh cho kiệu rồng dừng lại, đợi cho chiếc xe chở các cung nữ sắp bị thiêu diễu qua trước mặt. Vẻ đẹp rực rỡ của các nô lệ kéo xe cùng các cung nữ khiến Thần Tông ngẩn người. Đức vua sực tỉnh, khi nghe tiếng của Thái bảo Khu mật sứ Lý Trác lệnh cho quan thủ lễ:
- Lũ đao phủ đã tề tựu đủ chưa?
Quan thủ lễ khúm núm:
- Dạ bẩm ! Đã đủ .
- Liệu đây có phải là một lũ thỏ đế tái mặt run tay khi thấy lũ cung nữ bước vào lửa giàn thiêu?
Quan thủ lễ khúm núm :
- Bẩm, không đời nào, thưa quan Thái bảo ! Bốn mươi chín tay đao thành thục nhất mỗi tay từng hành quyết không dưới năm mươi tử tù. Lại từng được đích mục sở thị giàn chôn sống thị nữ trong đám táng ỷ Lan Linh nhân Hoàng thái hậu.
- Cẩn thận. Có bề gì, hãy trông chừng cái đầu của ngươi đó!
Quan thủ lễ ngập ngừng, đưa mắt cầu cứu Thần Tông:
- Dạ! Kẻ bất tài này không dám sơ suất...Nhưng bẩm...còn có điều không thể không nói ra!
Thái bảo Lý Trác trừng mắt:
- Công việc đang cấp cấp. Giờ đưa các cung nữ dâng lên đức tiên hoàng đã điểm. Sao không đi ngay lo việc, còn đứng đó huyên thuyên lắm lời?
Mặt viên thủ lễ biến sắc, nhưng vẫn cố nán lại, quỳ rạp xuống:
- Muôn tâu bệ hạ ! Bẩm quan Thái bảo. Xin cho kẻ hèn này tâu xin một lời trước khi đi làm phận sự, không dám trễ nải!
Lý Trác lại trừng mắt. Nhưng Thần Tông đã dịu nét mặt:
- Quan Thái bảo! Đừng doạ nạt người ta quá. Nhà ngươi cứ nói!
Lý Trác hậm hực im lặng. Thủ lễ tâu:
- Muôn tâu! Từ Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái hậu (5), noi theo các phép tắc đời Tần Thuỷ Hoàng phương bắc, mà trăng trối trước khi chết rằng, nhất thiết phải chôn sống ba người hầu gái để đi theo hầu hạ Thái hậu. Vì thế, mùa thu tháng bẩy ngày hai mươi nhăm, Hội Tường Đại Khánh năm thứ tám (6), ba cung nữ đã bị chôn sống theo lễ hoả táng của Thái hậu trên đảo Âm Hồn này. Từ đó đến nay, ngày nào cũng vậy, vào chính ngọ, dân trong vùng cứ ngửi thấy mùi thịt người cháy và tiếng kêu khóc nghẹn ngào của đàn bà vọng lên từ dưới đất...
Thần Tông rùng mình so vai. Lý Trác mắt đã nảy lửa, chằm chằm nhìn vào cái cổ đang phập phồng lên xuống của quan thủ lễ.
Làm như không biết đến cử chỉ của quan Thái bảo, viên thủ lễ cố nói gấp gáp :
- Muôn tâu ! Vì thế, thiên hạ có lời đồn, vì có việc chôn sống ba cung nữ mà đức tiên hoàng cũng phần nào bị tổn thọ...
Lý Trác đập tay, thét:
- Loạn ngôn ! Đức Tiên đế ta thọ sáu mươi ba tuổi, ở ngôi năm mươi sáu năm. Xưa nay chưa từng có vị hoàng đế nào được phúc lộc thọ dồi dào như vậy!
- Dạ bẩm ! Quan Thái bảo dạy thế thật thông thái như thần. Nhưng năm Long Chương Thiên Tự thứ nhất (7), ngày hai mươi lăm tháng giêng, tiên hoàng hạ sinh, tuổi Ngọ, ngay ngày hôm sau đã được lập làm Hoàng thái tử. Lúc đó, Nguyên phi ỷ Lan đã cho vời quan chiêm tinh, thái bốc vào triều, lập lá số, gieo quẻ bói cỏ thi và mai rùa. Tất cả các quan chiêm tinh, thái bốc đều quì tâu lên rằng đức tiên hoàng thọ ít nhất là bảy mươi ba tuổi !
Thần Tông lại rùng mình lần nữa, càng chăm chăm nghe quan thủ lễ tâu bày.
Viên thủ lễ tiếp lời:
- Bởi thế, hạ thần này, dẫu ngu tối, nhưng cũng mạo muội xin được tâu với hoàng thượng và quan Thái bảo... Phải tính đến cái phúc cái hoạ sau này. Phải lấy thọ mệnh của đức quân vương làm điều trọng.....
Quan thủ lễ chưa dứt lời, Thần Tông giẫy nẩy như một đứa trẻ:
- Trẫm không muốn chết! Trẫm cũng không cho bất kỳ ai chết!
Thái bảo Lý Trác mím môi suy tính, rồi bất đắc dĩ cất giọng dỗ dành ngài ngự :
- Tâu bệ hạ! Bệ hạ nối nghiệp tiên vương, cai trị giang sơn xã tắc. Thiên hạ là trong tay bệ hạ. Đức quân vương có ân, có uy. Ân có thể khiếm khuyết, nhưng uy thì phải ngùn ngụt như hoả diệm sơn mới mong thiên hạ khiếp phục mà phải chầu hầu, đặng trấn áp giặc dữ can qua. Bẩm ! Việc thiêu cung nữ là theo lời trăng trối của đức tiên hoàng. Nếu ta không noi theo, thiên hạ chê trách. Tiên hoàng ở chốn Niết Bàn chăn đơn gối chiếc, lẽ nào bệ hạ đành lòng? Bệ hạ đừng nghe lời sàm tấu của kẻ vì hèn nhát mà sinh cuồng ngôn kia !
Thần Tông chưa kịp nói gì, Lý Trác đã xỉa tay trỏ thẳng mặt quan thủ lễ:
- Chỗ của nhà ngươi là ở giàn thiêu, không phải ở đây làm rối lòng hoàng thượng. Sơ suất, đầu nhà ngươi sẽ bêu mãi trên cọc ở đảo Âm Hồn.
Quan thủ lễ mặt xanh lét như tàu lá, bước giật lùi rồi vừa đi vừa chạy về phía đảo Âm hồn.
x
x x
... Nếu con đến núi dao
Núi dao liền sụp đổ
Nếu con đến nước, lửa,
Nước lửa liền khô tắt
Nếu con đến địa ngục
Địa ngục liền trống không...
Những lời kinh đã dồn dập chuyển sang giọng đưa linh. Những linh hồn dường như đã chơi vơi ra ngoài thân xác, nửa nổi nửa chìm trong ngoài địa ngục.
Trong nhịp khục khặc của bánh xe gỗ nghiến trên đường đất đỏ, vẻ đẹp u ám của những cung nữ và những khuôn mặt đợi giờ chết của họ rực lên trong tang tóc như những ngọn nến cháy lần cuối giữa buổi bình minh ma quái mà mặt trời vừa ló rạng với những tia nắng đầu tiên như phun máu.
Đường từ kinh đô lên Na Ngạn chưa đầy năm mươi dặm nhưng cũng quá xa với bước chân người và vành xe trâu. Dường như đã quá nhiều mồ hôi và nước mắt rỏ ướt con đường đến đảo Âm Hồn. Nhờ sự đôn đốc không mệt mỏi bằng roi và gậy của quan Thái bảo Lý Trác cùng chư vệ tướng quân, lúc gần trưa thì đám rước cũng đã tới.
Chờ sẵn đám rước và đoàn xa giá là rừng người và cờ xí quây quanh một chiếc nhà táng. Kiệu vàng vừa dừng lại, rừng người rền vang tiếng khóc. Tiếng khóc ruột rà của thân nhân chínmươi chín cung nữ. Họ được hưởng ân sủng của đức vua. Họ được phép tới tận đây, hưởng vinh hạnh thấy tận mắt con em của mình trong những giây phút cuối cùng trước khi bước lên giàn thiêu tới cõi cực lạc hầu hạ đức Tiên đế.
Thái bảo khu mật sứ Lý Trác hoảng hốt thét : "Hoàng đế giá lâm !...Phủ phục!". Tiếng người khóc càng lớn. Như có một cơn bão sàn sạt đổ tới, những chiếc đầu rạp sát đất, giấu mặt giữa hai khuỷu tay. Thần Tông vướng víu ngượng nghịu trong bộ ngự bào quá nặng nề, không để cho các quan hộ giá dìu đỡ đã vén áo nhẩy tót từ trên kiệu xuống. Bàn chân nhỏ nhắn vướng vào vạt áo bào khiến ngài vấp ngã.
Chỉ kịp thấy ánh mắt Lý Trác quắc lên, ngự lâm quân đã lôi xềnh xệch một kẻ bạo gan vừa bưng mặt cười khúc khích. Nghe vọng lại trên đám người
một tiếng rú tắc nghẹn. Đầu kẻ khi quân lìa cổ. Và giây lát đã trừng trừng đôi mắt trắng dại trên đầu cọc cắm bên lối đi.
x
x x
Sau hiệu lệnh của quan Thái bảo, một chiếc kiệu đặt trên vai tám phu kiệu lực lưỡng lập tức hạ tới trước mặt vua. Các phu kiệu mặc áo đen nẹp xanh, đầu đội mũ mấn, ngang lưng thắt khăn sô rạp mình. Thần Tông được sáu cung nữ lưng mỏng như liễu má đỏ môi hồng xúm nhau dìu lên kiệu. Tám phu kiệu oằn mình đứng dậy dưới sức nặng nghiến vai của cỗ kiệu sơn son thiếp vàng theo nhịp hiệu tu và từ tay quan thủ lễ. Thanh la não bạt và chiêng trống dồn dập hoà theo. Cỗ kiệu nâng vua lên theo những bậc thang xoắn ốc xếp bằng đá trắng dẫn lên đài cao. Chót vót trên đỉnh đài là chiếc lọng vàng che nắng, riềm lụa phấp phới trong gió xuân. Vua ngồi xuống. Sáu cung nữ cùng đám lễ quan xúm xít hầu quanh.
Từ trên đài cao, Thần Tông đưa mắt. Dưới chân ngài ngoằn ngoèo cũng hình xoáy ốc, một con sạn đạo được kết bằng những khúc gỗ tươi quết trầu đỏ như máu. Sạn đạo vắt qua mặt hồ rộng tới một đảo nhỏ như hình mu rùa nổi lên giữa hồ.
Đảo Âm Hồn.
Màu đỏ chết chóc của sạn đạo đâm thẳng vào ngôi lầu tám mái trắng mái lợp bằng chín tầng vải sô, trang điểm bằng những búi xơ tre nhuộm đen mang hình âm dương nửa đen nửa trắng. Những cặp công, trĩ, cùng những cặp uyên ương bị buộc chân vào nhau đang cất tiếng kêu thảm thiết vang vọng mấy tầng lầu. Chóp lầu là một khúc gỗ gạo tạc đơn sơ hình một nữ nhân tóc xoã rướn người với tay lên trời cao.
Nhà vua nhíu mày. Dưới chân ngài, một trăm cung nữ gần như được xốc dậy từng người một, nhấc ra khỏi cỗ xe mẫu đơn đen. Những thân hình đào liễu lả như hoa héo.
Giờ chết.
x
x x
- ...Nam mô A di đà, đá tha già đá giạ, địa giạ gia tha, a dị dô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá, tỳ ca lan đế, a ly lỵ đá tý ca lan đá già di nhị, già già na, chi đá ca lệ sa bà ha...
Các vị sư áo vàng chuyển cao giọng đọc " Vãng sinh tịnh độ thần chú". Món quà hào phóng gửi cho những cung nữ sắp bước lên giàn thiêu.
Quan Thái bảo đứng trên lầu, dõng dạc:
- Các cung nữ ! Hôm nay, các người là những kẻ may mắn, được hoàng triều đặc biệt chọn ra để đi theo hầu hạ đức Tiên hoàng ở cõi cực lạc cho trọn. Đức Phật Thích ca lúc sinh thời từng truyền dạy:" Từ cõi trần này sang phương Tây, qua bao nhiêu cõi khác, đến một cõi thế giới gọi là Cực Lạc Thế Giới. ở đấy có Đức Phật A di đà hiện đang thuyết pháp để giáo hoá chúng sinh, mà chúng sinh trong cõi ấy không có mọi sự khổ, chỉ hưởng mọi sự sướng cho nên gọi là Cực Lạc...". Giờ đến cõi Cực Lạc của các ngươi đã điểm. Thủ lễ !
Quan thủ lễ run tẩy, sắc mặt tái xanh, đón lấy con dao nhọn ánh màu xanh biếc như da rắn lục, lẹ làng cắt cổ đôi uyên ương do một đao phủ mang tới, hứng máu vào bồn ngọc, quì lạy bốn phương rồi nhúng móng tay trỏ dài như vuốt chim ưng vào hào rượu máu vẩy ra bốn phương tám hướng, miệng lầm rầm khấn.
Rồi thủ lễ nhúng cả tay vào chỗ rượu máu uyên ương còn lại, vạch lên trán mỗi cung nữ đang run rẩy một hình tam giác đỏ đọc. Cái hình tam giác nổi bật trên những vầng trán đàn bà nhợt nhạt mà trước giờ dần còn được ủ trong nhung lụa. Một mùi tanh lợm của máu uyên ương hoà lẫn mùi rượu được ngọn gió hung hãn thổi xộc lên tận chỗ đức vua ngồi khiến ngài lợm giọng.
x
x x
Cánh cửa sơn đen dưới chân lễ đài bật mở.
Bốn mươi chín đao phủ lầm lì trong những áo choàng cũng màu đen phủ kín từ đầu đến chân chui ra như lũ ngạ quỷ bước lên từ địa ngục.
Đám đao phủ rạp đầu vái lạy bốn phương tám hướng.
Những tiếng thét thất thanh bật lên trong đám dân chúng đứng xa xa bên kia đảo Âm Hồn. Riêng bốn mươi chín cung nữ vẫn cam chịu, câm lặng như đã chết.
Lũ đao phủ đồng loạt quay về hướng bắc, lừ lừ bước tới bên các cung nữ.
Tay mỗi đao phủ giơ ngang một áo choàng phụ nữ đỏ tía, tới sát bên mỗi cung nữ, rồi nhất loạt rũ tung áo xoè lên cao qua đầu và như những con diều hâu khổng lồ, chiếc áo choàng đã trùm kín đầu những kẻ tội nghiệp đang bị buộc phải đi tắt lên Niết bàn. Trong khi tay trái giữ đầu, tay phải đao phủ thoăn thoắt kéo gấu áo. Một trăm cung nữ đã biến thành một trăm cuộn vải đỏ rực máu.
Giải khăn sô chít ngang quanh đầu những kẻ sắp bị thiêu sống thõng xuống lắt lay tận gót.
Quan Thái bảo Lý Trác hài lòng nhìn khắp lượt những cuộn vải đỏ. Ngài tự hài lòng với chính mình. Trước khi các cung nữ lên giàn thiêu, ngài đã đón một đại sư về kinh thành thuyết giáo cho họ về nghĩa vua tôi, sự khổ ải cần phải được kết thúc sớm nơi trần thế và chuẩn bị cho các cung nữ học cách dọn mình bước qua cái đau đớn thể xác do ngọn lửa mang lại mà nhanh chóng nhập vào cõi Cực Lạc. Sau lời thuyết giảng của Đại sư, nhiều kẻ trong đám cung nữ đã dập đầu cầu mong cho chóng đến cái ngày được bước lên giàn thiêu.
Mắt Lý Trác chợt dừng lại ở cuộn vải đỏ cuối cùng đang bùng nhùng, cựa quậy dữ dội. Mặt quan Thái bảo cau lại.
Gã đao phủ đang lúng túng bởi chiếc áo trùm quá dài so vói thân hình bé nhỏ của người cung nữ đứng ở cuối hàng. Từ trong mớ vải lùng nhùng, một tiếng thét con trẻ đột ngột lanh lảnh bật lên.
Trên đài cao, Thần Tông nghe tiếng thét mà lạnh gáy. Ngài ngự cố khom người cúi xuống nhìn cho rõ cái đầu bướng bỉnh đã trồi ra khỏi chiếc áo trùm. Thì thấy dưới vầng khăn sô là một gương mặt thon mềm non như vầng trăng đầu tháng. Đôi mắt trong như mắt mèo hoang mở muốn đứt khoé vì sợ hãi. Thần Tông giật mình nhận ra đó là Ngạn La, cô cung nữ mười hai tuổi, được tuyển vào cung hai ngày trước khi Tiên đế băng hà.
x
x x
Nhất thập...Nhị thập...tam thập ...tam thập nhất... tam thập nhị...tam thập tam... Tiếng hô của quan thủ lễ dóng lên, đếm nhịp cho từng toán đao phủ kéo các cung nữ bước lên sạn đạo đi vào giàn thiêu trên đảo Âm Hồn.
Trống lớn dội lên như sấm động.
Chuông cầu hồn lại gióng dả ngân vang. Cao vút trên tiếng kèn đơn tấu của giàn nhạc cung đình.
Tiếng nức nở cố kìm nén rưng rức bật lên giữa rừng người. Những bà mẹ đau ruột khi thấy đứa con bao năm xa cách nay đang bước lên giàn thiêu đợi chết.
Tiếng khóc át cả tiếng kinh cầu siêu độ chúng sinh đang cố cất cao từ đám các nhà sư áo vàng.
Dưới ánh mặt trời gay gắt, chen giữa màu đỏ những chiếc áo chết của các cung nữ, màu đỏ của hình tam giác vẽ bằng máu uyên ương trên các vầng trán của họ, màu đỏ của các súc gỗ làm sạn đạo, cái màu đen sẫm như cánh qụa của những chiếc áo choàng đao phủ gợi những bữa tiệc máu âm phủ. Soi bởi nước hồ trong vắt và bầu trời lồng lộng trên cao, cái cảnh tượng quái gở đó được phóng to ra vô tận.
Chung quanh chân lầu trắng, các phiến gỗ thông đã được xếp lên tự bao giờ. Những túi da trâu căng phồng đựng đầy dầu tưới lên đám củi.
Các đao phủ lần lượt vác từng cuộn vải đỏ đặt trên đống gỗ thông. Bàn chân nhỏ nhắn của các cung nữ đặt trên các phiến gỗ thông đẫm dầu. Họ được buộc chặt vào những chiếc cọc lớn cũng bằng gỗ thông tưới dầu đã được chôn sẵn. Chỉ chờ người cung nữ cuối cùng lọt vào giàn thiêu là lửa sẽ bùng lên.
Tất thảy cung nữ không một tiếng kêu la, không một lời than khóc. Họ chỉ còn thân xác mà mất đâu hồn vía. Chỉ mơ hồ nghe xạc xào bên tai tiếng gào khóc của những người thân đang đứt từng khúc ruột bên kia hồ.
Bây giờ thì quan Thái bảo không ngăn những tiếng khóc. Ngài muốn mọi người hiểu rằng những tiếng khóc đó không phải dành cho các cung nữ xấu số mà là lòng dân trăm họ thương tiếc vị hoàng đế mới băng hà.
Bỗng lại một tiếng gào xé ruột nữa làm rách toang bầu không khí câm lặng. Tiếng gào đó vỡ ra từ dưới chân chiếc lầu trắng tang tóc, khi gã đao phủ khổng lồ gần như dốc ngược cung nữ Ngạn La trên vai, mang tới giàn thiêu. Nàng là người cung nữ thứ bốn mươi chín cho lễ hiến tế. Ngạn La vừa gào thét vừa rúm thân gồng người cắn mạnh vào bàn tay hộ pháp đang thít chặt bờ vai mảnh dẻ của cô. " Buông ra! Đồ chết giẫm! Buông ngay! Đồ ăn thịt người!".
Tiếng kêu thảng thốt chợt thức tỉnh bốn mươi tám cung nữ còn lại.
Họ cho rằng mình đã chết từ khi Tiên đế đế băng hà, như vô cảm khi đặt chân lên chiếc xe tang có gắn hoa mẫu đơn màu đen, khi đặt chân lên sạn đạo và bị lôi đi xềnh xệch trong những bàn tay đao phủ. Tiếng gào xé ruột của Ngạn La đã đánh thức họ, báo cho họ biết rằng nàng và họ đang là những linh thể sống.
Bốn mươi tám cái cổ họng đồng loạt rú lên bốn mươi tám tiếng rú tắc nghẹn. Tiếng rú được nối dài bởi hàng ngàn tiếng rú phẫn uất của rừng người. Thần Tông ôm ngực lảo đảo. Quan Trung thừa Mâu Du Đô ngồi phịch xuống thở hổn hển, mồ hôi rịn ra trên trán.
Thái bảo Lý Trác cũng rợn tóc gáy. Nhưng quan Thái bảo cố trấn tĩnh, mím miệng giơ lá cờ ngũ sắc trong tay lên phát lệnh.
Lửa lập tức bùng lên. Những lưỡi đỏ khổng lồ thèm khát rần rật liếm giàn thiêu. Sạn đạo cũng bùng cháy như một con giao long khổng lồ quằn quại há cái miệng ngùn ngụt lửa đỏ mà nuốt trọn đảo Âm Hồn.
Trong bóng lửa và khói đang cuồn cuộn bốc cao, thấp thoáng bóng các đao phủ và hoả công vun vút nhẩy lên những chiếc thuyền đợi sẵn, phóng như tên về bờ bên kia.
Trên mặt hồ chỉ còn các phiến gỗ sơn đỏ nổi lềnh bềnh như những thây người bị xử trảm trong tiếng rú man dại của các cung nữ con cơn quằn quại trước khi linh hồn về với cựu hoàng.
Nối dài những tiếng gào thét, các đôi công, trĩ, uyên ương bị trói chân trên nóc giàn thiêu cũng đồng loạt bật lên những tiếng xé ruột.
Đảo nhỏ biến thành đảo lưả.
Trên cái nền đỏ ấy, nổi bật những bóng đàn bà nhẩy dựng lên trên những phiến gỗ thông ngùn ngụt cháy, chới với hai cánh tay lên trời rồi lảo
đảo gục xuống, bùng lên như những bó đuốc. Mùi tanh lợm của thịt người, của lông chim cháy cuồn cuộn bốc lên phủ khắp vùng.
x
x x
... Nếu con đến địa ngục
Địa ngục liền trống không
Nếu con đến Ngạ quỷ
Ngạ quỷ liền no đủ...
Tiếng niệm Phật, tiếng tụng kinh rối rít dồn dập phiêu dạt trong những cuộn khói dật dờ đen đặc được bốc lên từ thịt người.
Đám dân chúng như bị gió lốc xoáy, như lúa đổ rạp từng đám sau trận cuồng phong. Những người đàn bà bị ngất vì đau đớn đổ đống lên nhau, át cả những hồi chuông dóng dả và tiếng tụng kinh không mệt mỏi cầu siêu cho người chết.
Khói giàn thiêu bốc đọng thành một đám mây hình lưỡi tầm sét õng máu treo lơ lửng ngang trời Na Ngạn.
Thần Tông ôm bụng. Ngài khóc. Hai chân ngắn ngủn giẫm đất bình bịch. Ngài ngự nôn thốc tháo.
Đám cung nữ hấp tấp nâng vạt áo lụa hoa đào của họ lên để kính cẩn hứng lấy những gì vừa thổ ra từ trong dạ ông vua trẻ. Khi vua mở được mắt, định thần nhìn lại thì thấy Thái bảo Khu mật sứ Lý Trác đang quì rạp trước mặt mình : " Tâu bệ hạ...." Thần Tông nhìn thấy trong cánh tay sắt của gã đao phủ lực lưỡng cái vầng trăng non nhỏ nhắn ướt sũng và chiếc áo chết đỏ bầm. Cung nữ Ngạn La.
Ngạn La quì rạp đập đầu xuống đất : " Bệ hạ...! Xin hãy bảo cái ông ác này thả tôi ra! Tôi đã làm gì nào? Tại sao các người lại muốn đốt chết tôi ?". Trong cơn kinh hoảng, đôi con ngươi biếc tím nở rộng hắt lên mặt vua một ánh mèo hoang man dại.
Thần Tông như bị đánh trúng tim.
Ngài nhớ đến trò chơi hồi nhỏ.
Ngài từng giữ một con mèo tam thể trong tay và một cung nhân dí con chuột bạch bé nhỏ run rẩy sát miệng mèo. Trong mắt chuột bạch cũng hắt lên sự kinh hãi và vẻ man dại như vậy.
Đức vua mười hai tuổi động lòng thương xót.
Thần Tông biết, nàng là người cung nữ nhỏ tuổi nhất trong cung, vô tình lại đồng niên cùng ngài. Nàng vừa mới rời cánh tay mẹ. Một ý nghĩ chạy thoáng qua đầu kiến tim Thần Tông nhoi nhói.
x x x
Buổi chiều ngày Đinh mão, tại điện Vĩnh Quang, thần chết đã cận kề làm trắng dã đôi mắt, tái xám làn da và đôi gò má nhô lên nhọn hoắt của phụ hoàng. Người ta đưa cung nữ Ngạn La tới. Nàng như một lạ lẫm, thơ trẻ, dẻ và linh động, uyển chuyển như một nhành liễu, khác hẳn vẻ đài các và thuận thục của các gái đẹp đã chứa đầy trong hậu cung. Nàng chỉ là một viên ngọc lạc loài đang lẫn trong đá sỏi mà phụ hoàng đã chợt nhặt được khi ngài trên đường đi hành lễ tại chùa Báo Thiên. Dương Hoán nghe nội thị kể lại, khi xa giá đi qua, dân chúng phủ phục hai bên đường không dám ngẩng nhìn trộm mặt rồng. Bỗng từ đám lúa dưới ruộng bùn, một cô gái lưng đeo chiếc giỏ bắt cua nhỏ xíu lem nhem đầy bùn đất chạy ào lên đón trước kiệu vua, hăm hở nhìn đoàn xa giá không chút sợ hãi. Như trẻ con lần đầu nhìn thấy vật lạ. Rồi cười khanh khách.
Quan hộ giá sợ hết hồn, vội thét : " Thích khách ! Bắt lấy thích khách !"
Đám đông náo động.
Lập tức cô bé Ngạn La bị bắt dẫn tới trước kiệu rồng, trước trùng điệp đám lính gươm giáo tuốt trần sáng lạnh như nước.
Đức Nhân Tông cau mày, nhìn chiếc giỏ cua bé xíu ngang hông cô bé, nhớ lại chuyện đức phụ hoàng Thánh Tông trong một lần đi kinh lý về miền quê Kinh bắc đã gặp một cô gái hái dâu, đem về cung trở thành Nguyên phi Y Lan, rồi sinh hạ ngài.
Lưỡi đao sáng loáng kề cổ, cô bé vẫn lặng im. Tên thị vệ dùng sống đao hất ngược cằm. Gương mặt nhỏ nhắn ấy vừa ngẩng lên đã làm Nhân Tông sững sờ. Vẻ đẹp hoang lạ của cô bé bắt cua khiến vị hoàng đế già vốn đã no chán với những vưu vật của hậu cung bỗng thấy sửng sốt và hào hứng.
Trái tim già nua của ngài như được an ủi.
Ngài náo nức lệnh ngay cho giám quan vời nàng vào cung.
Nghe nói khi được quan Nội thị dìu lên kiệu hoa, cô bé bắt cua đã gào thét gọi mẹ, cào cấu chảy máu bàn tay ông ta. Nữ quan trông coi các cung nhân đã mất nhiều công dỗ dành nàng. Bất hạnh cho đức tiên hoàng, khi con thú nhỏ được thuần phục dâng đến trước mặt ngài thì ngài chỉ còn là một bộ xương được quấn trong lớp da bệch như sáp.
Thần Tông nhớ rất rõ, Ngạn La đã hãi hùng thét lớn : " Ma !". Và bỏ chạy. Thật may mắn là lúc đó hoàng hậu, các hoàng thân, nội giám và các quan mải lo lắng chờ đợi những lời trăng trối của phụ hoàng không còn ai nhớ tới việc trừng phạt Ngạn La tội khi quân.
Lúc đó, quên cả không khí đau buồn, Dương Hoán đã bật cười rồi chợt sợ hãi lấy tay bưng miệng... Dương Hoán đã nghĩ, nếu có cô bé này bày trò chơi cùng thì chắc sẽ rất thú vị. Cô ta hẳn sẽ không nhàm chán như bao nhiêu cung nhân chỉ một mực sợ hãi chiều chuộng, mong được yên thân hoặc đón chờ ân sủng...
x x x
Gương mặt và tiếng nói của cung nữ Ngạn La cũng làm quan Thái bảo Lý Trác chợt rùng mình. Không phải tuổi trẻ và vẻ đẹp mèo hoang của cô cung nữ có thể làm xúc đông một con người sắt đá như quan Thái bảo. Xưa nay theo luật lệ triều đình, các quan văn võ không bao giờ được đặt chân vào chốn hậu cung. Trừ khi có lệnh triệu vời đặc biệt của hoàng thượng. Những lúc đó có bất chợt gặp cung nữ nào thì cung nữ nghiêng mình cúi đầu nâng khăn che mặt, đại quan rảo chân bước mau mắt nhìn thẳng....Nhưng lúc này không thể cưỡng lại, mắt Lý Trác cứ trân trân nhìn cô cung nữ bé nhỏ đang quì gục trước mặt đức vua kia. Như có một bàn tay của ai đó vừa thò vào, giật mạnh trái tim ra khỏi lồng ngực quan Thái bảo. Một cảm giác sợ hãi đến ớn lạnh bóp nghẹt Lý Trác. Quan Thái bảo lập cập vòng tay trước nhà vua, giọng bất chợt như người hụt hơi :
- Muôn tâu bệ hạ..... xin lệnh cho trừng phạt để giữ nghiêm phép nước.
Lưỡi đao sáng lạnh của đao phủ đã thọc hờ vào đúng chỗ mạch máu đang phập phồng trên cuống cổ mảnh dẻ.
Mùi tanh lợm và khét lẹt của máu, thịt người cháy vẫn phả đến từ đảo Âm hồn.
x x x
Và đám mây lưỡi tầm sét õng máu vẫn lơ lửng phía trên hoàng thành.
Thần Tông bậm cặp môi đỏ chót, suy nghĩ lao lung.
Tội Ngạn La trăm lần đáng chết. Luật triều đã định, khi vua băng hà, tất cả các cung nữ phải lên giàn thiêu chết theo vua. Nhưng Ngạn la đã vùng ra khỏi tay đao phủ nhẩy xuống hồ nhanh như một con rái cá hòng trốn thoát. Mờy gã đao phủ lực lưỡng đã tóm lấy Ngạn La kéo lên bờ.
Trước mặt đức vua, Ngạn La vẫn run bắn người, cố ngoẹo cổ cố tránh lưỡi thép lạnh buốt như rắn. Nàng rũ xuống, lả đi. Rồi tỉnh dậy ngay sau vài khắc, giẫy giụa điên cuồng trong tay đao phủ. Những tiếng gào khóc nghẹn giọng trong cổ họng mỏng manh khiến gỗ đá cũng phải mủi lòng "...Các người thật độc ác...Xuống âm phủ ta sẽ xin Diêm vương cho ta trở lại làm quỉ dữ để thiêu chết các người ...Mẹ ơi ! Người ta giết con. Mau cứu con ! Mẹ ơi !...".
Thần Tông như ngồi trên đống lửa. Đôi mắt sắc lạnh và lưỡi gươm của đao phủ đang chờ cái gật đầu của ngài để kết liễu đời cung nữ Ngạn La. Trước
mắt ngài mờ mờ ảo ảo hình chiếc đầu nhỏ có đôi mắt con ngươi tím kia lìa khỏi cổ dưới lưỡi dao đao phủ.
Mười hai tuổi nhưng ngài đã kịp nhìn thấy nhiều chiếc thây cụt đầu. Nhưng đó là những thây người lớn. Còn đây lại là con mèo con uyển chuyển và hoang lạ....Và mẹ nàng. Mẹ nàng là ai ? ....Ngài bỗng thấy thương xót người đàn bà đó.
Một giấc mơ như làn khói xám nhen tới, lan toả trong tâm trí Thần Tông. Dường như ngài đã trải qua một cuộc hành trình mà ngài vừa là người đang đi trong cuộc hành trình đó, lại vừa phân thân bay trên cao để nhìn ngắm lại chính mình.
Hình như lúc đó ngài là một người khác. Hình như là một người đàn ông bốn mươi sáu tuổi, bỗng thoát xác hoá thân đầu thai vào bụng một người đàn bà đã khô héo , để được sinh ra thành đứa hài nhi mang tên Dương Hoán, nén lòng chờ đợi mười hai năm để kế vị ngai vàng. Vì thế, đôi lúc, ngài không khỏi ngạc nhiên khi chợt nhận ra mình bỗng già dặn như một người đàn ông từng trải, lúc lại chỉ là một đứa trẻ non nớt thích những trò nghịch ngợm. Lúc đợi phút chào đời, ngài đã thấy rõ mồn một những bắp thịt và cái tử cung êm ái bao quanh mình bỗng quặn thắt, vò xé mãnh liệt, những cơn gào thét đau đớn của người đàn bà mà ngài mượn dạ để đầu thai...Bao nhiêu máu của người đàn bà ấy đã chảy để sinh ra ngài. Ngài biết lúc đó trái tim bé nhỏ của ngài đã đập dồn hồi vì thương xót bà ta. Ngài ân hận tại sao nỡ làm một người đàn bà đau đớn đến nhường ấy. Trong một phút chốc, ngài đã ngập ngừng chẳng muốn ra đời...
Thái bảo Lý Trác vẫn quì trước mặt, giọng đã hơi gằn :
- Muôn tâu....Xin bệ hạ đại xá cho thần tội khi quân. Thần buộc phải dùng lời nói thẳng..Nghiêm minh là điều tối trọng của phép trị nước. Xin...Xin bệ hạ xuống lệnh lập tức chém bêu đầu con nghịch nữ này để làm gương răn kẻ khác....
Từ trên đài cao, Thần Tông đưa mắt nhìn quanh. Cả một rừng người, rừng cờ xí chăm chắm nhìn về phía ngài. Ngàn con mắt dõi theo ngài. Trong đám mấy trăm vị quan phẩm phục chỉnh tề kia có bao nhiêu kẻ khẩu phục nhưng tâm bất phục, bao kẻ mắt sáng rỡ ngước nhìn mà trong tâm đang thầm giễu cợt ngài, vị vua thơ trẻ ? Và có kẻ nào thương xót cho cô bé này không ? Lẽ nào bốn mươi chín cái chết thiêu đau đớn nhỡn tiền không mảy may làm rung động một thớ nhỏ nào trong tim họ ?
Thần Tông toát mồ hôi.
Ngài muốn lập tức tha Ngạn La. Nhưng ngài lại sợ quan quân trong triều và dân chúng vì vậy mà sinh khinh nhờn ngài, mầm mống của sự dấy loạn sau này.
Thái sư và cha ngài - Sùng Hiền Hầu hoàng thân đã dạy từ khi ngài còn mới biết đọc những chữ đầu tiên. Khổng Tử nói" nhân chi sơ tính bản thiện". Nhưng Thái sư nói " nhân chi sơ tính bản ác. Nếu không lấy uy trị nước, cái ác ở trong dân chúng sẽ trỗi lên thành ác loạn"...
Thần Tông vẫn nhìn xuống đám đông, thôi thúc ngài tìm kiếm, mong có một bàn tay đưa ra từ phía hàng quan nhất phẩm. Mong một lời lên tiếng tâu xin tha chết cho Ngạn La.
Nhưng chỉ có những gương mặt câm lặng.
Lẽ nào những điều " nhân nghĩa... " ghi chép đầy rẫy trong muôn vàn pho sách chất chồng trong các tủ gỗ qúi ở Quốc tử giám nơi Thần Tông cùng các hoàng tử trong triều vẫn thường ngày đêm dùi mài học tập lại chỉ là những lời rao giảng sáo rỗng ?
Biết bao chùa chiền nguy nga đã dựng lên từ đời Đức Thái Tổ sáng nghiệp, chùa nào cũng thờ hai chữ Từ bi. Vậy mà sao những con người trước mặt ta kia lại cứ câm lặng trước một sinh linh nhỏ bé vô tội sắp lìa đời ? Phải chăng luật lệ quá khắt khe khiến cho các quan trong triều của một vị vua được tiếng là nhân đức như Tiên hoàng Lý Nhân Tông cha ta mà lúc này cũng chỉ là một dẫy hình hài câm lặng ? Vậy thì thân phận đám dân đen gầy guộc mắt trũng, suốt ngày quần quật trên đồng ruộng để kiếm bát cơm, một con chữ bẻ đôi không biết kia sẽ còn cùng cực đến mức nào ?....Thần Tông chán nản thở hắt ra. Hơi thở dài của một người lớn tuổi, đã nếm trải nhiều nỗi đắng cay trong cõi đời.
Nhưng kìa, một vài cánh tay giơ ra từ cái đám người đang phủ phục. Mắt Thần Tông sáng lên.
Đã có dăm bẩy, rồi mấy chục người đã bạo gan ngẩng đầu lên giữa hai khuỷu tay. Tiếng nài xin của họ bay theo luồng khói tanh tưởi vọng vào tai Thần Tông :
- Chúng con xin ngàn lạy vạn lạy bệ hạ tha chết cho cung nữ Ngạn La. Ngàn lạy bệ hạ...!
Liền đó ngự lâm quân xốc nách dìu tới một người đàn bà gương mặt thì còn trẻ nhưng lưng đã hơi còng và mái tóc bạc trắng như một bà lão... Cái tát của viên ngự lâm quân hộ pháp khiến mặt người đàn bà bê bết máu. Nhưng đôi mắt người đàn bà thì vẫn rất mực sáng láng, anh minh dưới đôi mày thưa dựng ngược.
- Xin bệ hạ cho tiện dân được thưa một lời...Kẻ tiện dân này biết tội mình đáng chết. Nhưng tiện dân xin có vài lời, rồi dẫu chết cũng cam lòng.
Thần Tông hăm hở:
- Bà...cứ nói !
Người đàn bà lấy tay vuốt dòng máu đang ri rỉ từ vết thương trên đầu xuống loang đỏ khuôn mặt :
- Bệ hạ ! Người phải gánh cả một giang sơn. Nay trong thiên hạ thiếu người trung nghĩa. Thiếu kẻ dám nói những lời thành thật vào tai bệ hạ. Ai mà chẳng hiểu việc thiêu người vô tội chết theo vua là một phép tắc độc ác, man rợ ! Nhưng không ai dám nói một lời để ngăn cản. Nếu cứ để nước Nam ta giữ những phép tắc man rợ thì sẽ tổn hại khôn xiết đến triều đình và muôn dân .
Đôi mắt Thái bảo khu mật sứ Lý Trác đã rời khỏi cung nữ Ngạn La, giờ chằm chằm nhìn vào người đàn bà như muốn nuốt chửng. Đôi con ngươi quan Thái bảo vằn máu rồi thu nhỏ lại, săc lạnh như mắt cọp bắt mồi.
Lý Trác bậm môi cố săn tìm trong mớ ký ức đã khô cứng. Sao trong giọng nói và dáng điệu của mụ già này có cái gì đó quen quen. Cái ánh mắt sắc tựa dao cau và giọng nói sang trọng kia thật chẳng giống một người đàn bà quê mùa nghèo khổ.
x x x
... Tháng tám...cuối thu ... Các học trò đeo tay nải lục tục lên kinh ứng thí ... Cái gã học trò người nhỏ nhắn, vác tay nải màu vàng mang tên Lê Đoá đi trước Lý Trác, ứng đối văn chương trôi chảy rành rọt, văn bài qua mỗi kỳ khảo thí đều đứng đầu bảng. Mỗi khi nói năng, đôi mắt sáng với đuôi mắt dài sắc tựa dao cau...
Phải rồi! Lý Trác vụt nhớ lại, Hội Tường đại khánh năm thứ nhất. Cái gã học trò nhỏ nhắn đó đỗ cùng khoa thi. Cả Lý Trác và Lê Đoá cùng được bổ làm quan văn trong triều. Nhưng linh cảm bén nhạy của Lý Trác cứ cảm thấy điều gì không bình thường ở Lê Đoá...Lý Trác nhớ, bữa yến tiệc cuối năm ấy đã như ong vỡ tổ khi Lý Trác dùng mưu mẹo lột khăn áo của Lê Đoá, để lộ cái yếm bằng gấm màu hoa đào che bộ ngực nở nang đang bị nén chặt của một cô gái giả trai.
Lê Đoá ngất xỉu trong cái nhìn hả hê của Lý Trác. Tiên hoàng Nhân tông nổi trận lôi đình, toan chém tiểu thư Lê Thị Đoan về tội dám đổi tên, giả trai đi thi, phạm luật lệ triều đình. Cuối cùng, vì thương bậc tiểu thư tài sắc, nể lời quốc sư Lý Đạo Thành nên tha chém, phạt tội đi đày biệt xứ. ..
Đã mười mấy năm rồi, từ một anh học trò cắp ống quyển đi thi, Lý Trác đã trở thành vị quan nhất phẩm triều đình. Vẫn tưởng cái người phải oán hận ông ta đến trọn đời ấy đã chết trong chuyến đi đày. Ai ngờ hôm nay !...
Lý Trác nhìn lại, như để chắc chắn thêm một lần nữa về trí nhớ hiếm có của mình, rồi dõng dạc:
- Đao phủ! Mau đem mụ già xấc xược ngông cuồng này ra chém để làm gương cho thiên hạ!
Nhưng Thần Tông đã đưa bàn tay xanh lướt của ngài ra ngăn lại :
- Khoan. Cứ để người này nói. Ta muốn nghe !
Người đàn bà được thể vội tiếp lời. Giọng bà bỗng rền vang trên đầu mấy trăm vị quan trong triều khom mình thin thít :
- Bệ hạ...Xưa kia nước Nam ta không có thói coi đàn bà như cỏ rác. Chỉ từ khi du nhập phong tục của Bắc phương mới sinh hư thói này. Muốn đánh thì đánh, muốn giết thì giết...Từ thời Đức Lạc Long Quân tổ tiên ta xưa, chưa từng có lệ bắt vợ chết theo chồng. Vậy mà nay triều Lý ta sửa sang điển lệ, lại lấy việc thiêu sống cung nữ làm phép nước, khiến bao mạng nữ nhân đẹp đẽ tài giỏi vô tội phải chết oan.
Lý Trác gầm lên ngắt lời:
- Lê Thị Đoan ! Ngươi là kẻ giả trai đi thi, lẽ ra phải bị chết chém, nhưng đức Nhân Tông thương tình, chỉ bắt đi đày biệt xứ . Ân đức ấy, không chỉ ngươi mà cả họ nhà ngươi còn phải cảm kích đến hết đời, sao nay còn dám mở miệng sàm tấu, chê trách trời cao biển rộng? Tội ngươi đáng chém ngang lưng. Tâu Bệ hạ ! Lời của mụ già này không đáng để vào tai. Xin Bệ hạ xuống lệnh cho chém ngang lưng ngay lập tức !
Thần Tông khoát tay:
- Cứ để mụ ta nói!
Người đàn bà quay phắt về phía Trác, mắt nảy lửa:
- Lý Trác! Thiết tưởng, giả trai đi thi, dẫu trái lệnh triều đình, nhưng ta có làm như vậy, chẳng qua cũng chỉ muốn đem chút gan óc của phận gái mà giúp rập quốc gia. Như vậy, phỏng có tội gì? Sao nặng tội bằng những kẻ lạm dụng quyền thế để làm muôn việc ác, coi mạng người như cỏ rác, chỉ chăm lo vơ bạc vàng cho đầy túi tham.... Tất cả những ai không hợp ý ngươi, dám có lời khác với ý ngươi, hoặc không chịu cung đốn quỵ lụy, ngươi vu cho kẻ đó tội bất trung mà hãm hại. Lý Trác ! Quốc gia suy yếu chính vì những kẻ như ngươi !
Lý Trác sấn tới, xô người đàn bà ngã đập đầu xuống đất, chân giẫm lên tấm thân già đang lẩy bẩy.
Quan Trung thừa Mâu Du Đô từ nãy vẫn im lặng, vẻ mặt căng thẳng giờ bước lên can :
- Quan Thái bảo! Xin hãy kiên nhẫn. Hoàng đế đang muốn nghe người này nói!
Thần Tông ngồi lặng. Trí não non nớt của ngài chưa theo kịp những lời của người dàn bà. Chân nới lỏng, mắt Lý Trác hằm hằm nhìn Mâu Du Đô đe doạ. Mâu Du Đô vờ không biết.
Người đàn bà đã lảo đảo đứng lên được, hướng về Thần Tông nói tiếp :
- Điều này khiến trong dân gian đua nhau bắt chước, kẻ hung hãn thì tiện bề đánh giết vợ con mỗi khi có điều trái ý. Bệ hạ há chẳng nghe trong dân gian xưa nay mỗi khi giám quan đưa lính đi tuyển cung nữ là lại gây bao cảnh tang tóc ư ? Đã không ít những cô gái đẹp con nhà khuê các khi được lệnh tuyển vào cung đã cắn lưỡi tự vẫn ngay trước mặt giám quan. Họ thà nhận sự đau đớn của cái chết cắn lưỡi còn hơn là cái mùi thịt khét da thiêu trên giàn...Chùa chiền mà làm gì. Đạo học mà làm gì... nếu người ta không thực hành thiện, mà chỉ mượn cái vỏ từ bi để che giấu cho những việc tàn bạo...!
Từ đám dân chúng rần rần bật lên tiếng khóc.
Lúc này Thần Tông càng nghe rõ tiếng chuông tiếng mõ. Tiếng chuông giờ này vẫn thong thả rải từng tiếng từ ngôi chùa Phổ Thiên cách đây chưa đầy ba dặm nhả lên bầu trời đọng khói. Tiếng mõ trầm đục u uất dội lên trong tay các nhà sư từ nãy vẫn đứng lặng chung quanh.
Đám dân chúng càng xáo động khi vị Thượng toạ áo vàng dẫn đầu đám các tăng ni bỗng bước tới trước mặt đức vua. Thượng toạ tay lần tràng hạt, mắt không dám ngước trông mặt rồng :
- Mô phật ! Kẻ tu hành này thật lấy làm nhục nhã thấy người đau mà không giúp. Thấy đến bốn mươi chín chúng sinh bị thiêu sống trước mặt mà không cứu. Tự xét thấy chẳng còn mặt mũi nào đến trước bàn thờ Phật. Ngẫm ra, trong chiếc áo cà sa này cũng chỉ là thân xác của kẻ phàm tục giá áo túi cơm mà thôi. Thật chẳng bằng một lão bà nghèo hèn chốn quê mùa kia! Lão bà nói đúng. Đức Nhân Tông và các vị tổ nghiệp đã làm nên nhiều chiến công hiển hách, tôn vinh giống nòi Lạc Hồng. Công lao thật sánh tầy núi Thái Sơn kia. Nhưng phép tắc của triều đình quá hà khắc đã thắt ngang họng những kẻ nói thật. Bệ hạ, xin người hãy gia ân cho cung nữ Ngạn La và nhân đây bỏ lệ thiêu sống cung nữ để được tiếng đem cái nhân mà trị thiên hạ. Được vậy, non sông nhà Lý ta sẽ thêm trường tồn, bội phần rạng rỡ.
Thượng toạ vừa dứt lời, lớp lớp nhà sư áo vàng áo nâu chung quanh liền quì sụp xuống. Âm âm bao phủ quanh đức vua lớp lớp sóng của những lời tụng niệm : Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan thế âm bồ tát...Nam mô cứu khổ cứu nạn...
Thoáng thấy vẻ lưỡng lự trong ánh nhìn của vua, Thái bảo Lý Trác vội lên tiếng :
- Muôn tâu...Xin bệ hạ chớ nghe lời sàm tấu của những kẻ biến tâm, ngu xuẩn. Những kẻ đó không phải giữ giang sơn nhà Lý trong tay....Xin bệ hạ tha cho thần tội bất kính. Tự cổ chí kim chưa có một vị hoàng đế nào trị nước giỏi mà không gĩư nghiêm phép nước. Xin cho chém nghịch nữ Ngạn La và mụ già loạn ngôn này....
Tiếng cười khanh khách của người đàn bà cất lên. Ngón tay trỏ cong queo như một mẩu rễ cây rừng chỉ thẳng vào mặt Lý Trác :
- Con chó già giữ cửa cái thâm cung bấn loạn kia ! Há ngươi chẳng nhớ chính em gái ngươi vừa mới bị chôn sống theo Linh Nhân Hoàng Thái hậu? Ngươi đưa em gái vào hầu hạ Thái hậu, chẳng qua chỉ để lấy mạng sống của người em ruột rà để mua chuộc lòng tin yêu của Thái hậu, để cho ngươi được cất nhắc vượt bậc mà thôi. Vậy mà ngươi chẳng biết thương lấy vong hồn đứa em ruột rà. Ngươi chẳng đã bức chết một nàng hầu của ngươi vì nàng đã trót liếc mắt đưa tình với một ngự lâm quân đó sao ? Ta khá khen cho ngươi dám mở miệng nhận là tôi trung của nhà Lý. Nhưng ngươi có biết rằng cái trung quân của nhà ngươi đã khiến cho thiên hạ đầu rơi máu chảy, bao oan hồn đàn bà xoã tóc đang đứng vây quanh nhà ngươi đó. Ngươi có thấy chăng ? Nay ta lấy cái chết của ta để cảnh tỉnh cõi đời u ám...Chỉ thương cho nhưng kẻ thời thế đã thay đổi mà cứ khư khư gĩư mãi những điển lệ man rợ...
Dứt lời, người đàn bà tức thì thè lưỡi ra giữa hai hàm răng, hất tay đấm ngựơc lên cằm. Mẩu đầu lưỡi đỏ hỏn văng vào mặt Lý Trác. Máu phun vọt lên từ miệng thành tia cầu vồng. Bà đổ vật xuống, hai mắt vẫn trừng trừng.
Lý Trác thất sắc nhẩy lùi lại mấy bước.
Thần Tông đứng dậy hất tung chén ngọc đựng nước sâm mà một cung nữ vừa dâng lên ngài. Chén ngọc rơi xuống bậc đá vỡ choang.
- Thôi...!
Ngón tay mảnh dẻ của đức vua chỉ thẳng vào cung nữ Ngạn La, quát :
- Cởi trói !
Ngập ngừng giây lát, Thần Tông nói tiếp :
- ....Nhốt lãnh cung !
Thái bảo khu mật sứ Lý Trác giật bắn người. Quay nhìn phía Ngạn La, khuôn mặt tái ngắt, Lý Trác sững sờ giây lát rồi như chợt nhớ đến sự việc trước mặt, lại qùi dập thân, đập đầu bồm bộp xuống mặt đất sỏi khô cằn mà kêu lên thống thiết :
- Muôn tâu...bệ hạ. Xin ... chớ để mầm hoạ... !
Thần Tông không nghe thấy những lời của Lý Trác. Ngài ngự bước xuống đài cao, ngoảnh mặt về phương Nam, quỳ xuống:
- Ta thề trước trời đất quỷ thần...
ĐÊM NGUYÊN TIÊU
Ngưỡng u nhược nhi lưu phán
Phủ quế chi dĩ ngưng vọng
........
Mậu Thìn. Quảng Hựu năm thứ tư.
Từ Lộ ngẩn ngơ bên cây đèn lồng thứ mười bẩy. Cây đèn lồng Mỹ nhân.
Chao đèn khảm hình một người con gái. Nàng giấu một nửa mặt sau tấm lụa, nghiêng nghiêng hiếng mắt, nụ cười hàm tiếu.
Từ châm lửa. Cây đèn toả rực, nhuộm căn nhà trong làn ánh sáng nâu nẫu hồng đào. Những sợi khói trắng đầu tiên vừa uốn lượn, gương mặt mỹ nhân lung linh chuyển động. Nụ cười với làn môi mọng, khoé môi lũm xuống như hai lúm đồng tiền được chiếu sáng từ bên trong, quyến rũ mê hồn. Bàn tay trái nàng cầm bút lông. Ngọn bút run rẩy trên một đoá mai chưa liền cánh, mỏng manh như khẽ động thì sẽ tan biến ngay vào thinh không. Lá mai mới lìa cành màu vàng sẫm tơi bời liệng trong gió xuân. Mỹ nhân mặc áo thiên thanh, quần tha thướt xếp nếp màu hồng đào rủ trên mặt đất. Eo lưng thon bó trong dây lưng lụa ngũ sắc kết nút bên hông buông chùng tới tận gót chân. Búi tóc nặng trĩu cuốn cao trên đầu cũng cài một cành chín bông mai trắng.
Từ Lộ say đắm ngắm gương mặt mỹ nhân. Đường viền đi qua cằm và hai mang tai không mềm dịu. Các mỹ nhân được coi là tuyệt sắc đương thời bao giờ cũng phải mang có chiếc cằm tròn và gương mặt nở nang như khuôn trăng. Nhưng chiếc cằm có đường viền cứng cỏi của nàng lại hoà hợp kỳ lạ với đôi mắt dài như hai nét bút bay bướm được phác qua bởi cơn thần hứng của một nhà thư hoạ, biến thành đôi dòng sông thăm thẳm khôn dò. Nửa buồn nửa vui, khoé mắt như nước đọng. Ngự trị kiêu sa, làm sáng rực đôi mắt là đường mày màu khói nhạt dường như hơi cau, đa đoan đến não lòng. Từ Lộ đã phải nhọc công vẽ đi hoạ lại cả tháng trời mới phang phác được cái nét cau cau quyến rũ đến thiêu đốt lòng người của nàng.
- Nhuệ Anh !
Từ bất giác gọi lên thành tiếng, rồi thổn thức áp mặt vào chao đèn lồng mang gương mặt người con gái. Toàn thân run rẩy. Dào dạt những đợt sóng yêu đương khao khát xô bờ.
Mỹ nhân là ái nữ của quan Ngũ phẩm Tôn Trinh, bạn đồng khoa của Từ Vinh cha chàng. Cách đây ba năm, Tăng Đô án Từ Vinh và quan Ngũ phẩm Tôn Trinh thực hiện lời hứa từ thủa cùng nhau lều chõng, cho đôi trẻ làm lễ
đính ước. Nhuệ Anh tiểu thư càng lớn càng đẹp. Bao nhiêu công tử con nhà danh giá dạm hỏi nhưng Tôn Trinh vẫn một lòng không bội ước vì đôi trẻ càng lớn lên càng quấn quýt, xứng đôi trai tài gái sắc. Hôn lễ sẽ được cử hành vào dịp cuối năm , khi Từ Lộ đủ mười tám và Nhuệ Anh vào tuổi trăng tròn.
Từ Lộ mong mỏi đêm Nguyên tiêu này từ hàng tháng trước.
Gia pháp hà khắc, quan Ngũ phẩm Tôn Trinh cấm cung con gái từ lúc nàng đủ mười ba tuổi. Ngày ngày có thầy đến tận tư gia dạy kinh sách, lễ nghĩa, học vá may thêu thùa, dệt vải. Thi thoảng, những dịp hội chùa, lễ tết, ông cho con gái ra khỏi nhà. Mỗi khi đi nhất thiết phải có mẹ, thêm hai người hầu tháp tùng. Từ Lộ, dẫu là vị hôn phu, cũng chỉ được phép sang thăm mỗi năm vài ba bận, đi cùng Từ Vinh cha chàng. Mỗi lần gặp mặt, lúc đôi bạn già mải cuộc cờ, chén rượu, hàn huyên thế cuộc, đôi trẻ mới được mắt trong mắt ngắm nhau. Rồi Từ Lộ nâng cây sáo Tiêu Tương lên môi, thổi khúc Phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như, mà tiếc rằng thời khắc sao vùn vụt trôi chẳng thương tình. Từ Vinh và Tôn Trinh lặng người lắng nghe tiếng sáo. Quan ngũ phẩm Tôn Trinh không tiếc lời khen ngợi :" Quả thực nghe như không phải người mà là thần tiên lựa hơi !". Tăng đô án Từ Vinh không giấu nổi vẻ hài lòng nhưng vẫn cau mày: " Hơi ngại. Tiếng sáo nghiêng về thanh chuỷ".
Năm qua mưa thuận gió hoà, thiên hạ thái bình, lại dịp nhà Tống sắc phong vua Nhân Tông ta làm Nam Bình vương, đêm Nguyên tiêu năm nay[ Năm Quảng hựu thứ tư (1088).]triều đình mở hội đèn Quảng chiếu ở sân Long Trì. Tăng ni nối nhau đi quanh đèn tụng kinh niệm phật. Quan viên thắp hương làm lễ " chầu đèn ". Quan Ngũ phẩm cho phép con gái yêu cầm đèn lồng đi chơi khoảng một canh, có người hầu gái tháp tùng. Nhuệ Anh tiểu thư rạng rỡ mặt mày, cả ngày nói cười ríu ran như chim hót. Nàng đã hẹn gặp Từ Lộ. Mỗi người sẽ mang theo một chiếc đèn lồng để làm hiệu nhận ra nhau trong đêm.
Càng gần tới đêm Nguyên tiêu, Từ Lộ chẳng thiết ăn uống, trong lòng lúc nào cũng hồi hộp, nao nức. Chàng đã mất bao công phu để hoạ bức hình Nhuệ Anh. Sau đó lại chạy đôn chạy đáo cậy thợ khéo nhất kinh thành khảm lên chiếc chao đèn. Nhuệ Anh trông thấy cây đèn này sẽ hiểu tình chàng dành cho nàng sâu nặng biết dường nào.
Ngoài kia, trời dần tối. Nao nức tiếng cười.
Từ Vinh phu nhân sai người đốt mười sáu ngọn đèn lồng.
Nước Nam ta vốn không có tục mở hội hoa đăng. Nhưng từ khi thắng trận, đức vua vui mừng, cho ngưòi đi học cách chế tác đèn lồng của thợ giỏi phương bắc, về dạy lại cho thợ kinh thành, rồi truyền mở hội. Được lệnh, những thế gia vọng tộc và những nhà có của ăn của để đều nao nức sắm đèn. Đây cũng là dịp để nhà nhà khoe giầu sang phú quí. Từ Vinh phu nhân cũng háo hức. Nguyên tiêu này đúng dịp cậu quý tử của bà tròn mười bảy tuổi. Bà đặt thợ khéo trong nội kinh làm cho mười bảy chiếc đèn lồng. Bà tin rằng, nếu những ngọn đèn lồng cháy đều, rực sáng trong hội hoa đăng, con trai bà sẽ luôn gặp may mắn và dòng họ Từ sẽ càng thêm thịnh vượng.
Cây đèn lớn nhất có hình sáu rồng chầu châu ngọc treo giữa nhà toả ánh sáng lộng lẫy rắc vàng lên những đồ gia bảo. Căn nhà lớn, cửa thấp, lối
vào hun hút sâu, hai bên rườm rà những bụi trúc quân tử không cắt tỉa, những gốc hoè cổ thụ hoa vàng. Từ Vinh phu nhân lướt qua các đồ vật được bày biện trong nhà, không giấu được vẻ hài lòng. Dinh cơ của Tăng quan đô án Từ Vinh càng khiến cho người ta kính nể vì vẻ huyền ảo và sang trọng. Mười một ngọn đèn lồng khác mang đủ hình mười một con giáp, hắt đủ mười một màu quây quần dưới mái hiên quanh nhà. Trên lầu cao, bốn chiếc đèn toả ánh tím rực như màu cầu vồng. Cùng với chiếc đèn lồng Mỹ nhân trên tay Từ Lộ, căn nhà rực rỡ như có mười bẩy mặt trăng mặt trời cùng chiếu rọi.
Từ Vinh phu nhân thong thả dạo gót ra trước bàn thờ, tra thêm trầm vào chiếc lò hương chạm bạc. Tự tay bà đánh bóng nhưng đồ tế tửu bằng vàng để đợi Tăng quan đô án xong việc ở trong cung thì về đốt trầm lễ Trời Phật thánh thần ông bà tổ tiên. Phu nhân nóng lòng ngóng ra cửa sổ. Sáng nay chồng bà vội vã cùng hai tên gia nhân rời nhà vào giờ tỵ, hẹn đến giờ mùi sẽ về, cùng vợ con sửa soạn cho ngày tết Nguyên tiêu. Nhưng bây giờ đã là đầu giờ dậu. Ngoài đường ngựa xe nhộn nhịp. Nam thanh nữ tú áo xiêm đẹp đẽ trâm cài ngọc giắt đổ về hướng thành nội. Phu nhân càng mong ngóng tiếng vó ngựa của chồng. Có lẽ đường đông quá, ngựa không trẩy nhanh được. Bà đưa mắt nhìn về phía Từ Lộ. Vẻ tuấn tú của cậu con trai khiến người mẹ nở nang trong lòng. Mới mười bẩy tuổi nhưng con trai bà đã nổi tiếng trong vùng vì sự học cũng như các môn cưỡi ngựa chơi cờ bắn cung, đợt khảo thí vừa rồi đã đỗ chức Tăng quan., Đã thế tiếng sáo của con bà còn được coi là ngón tuyệt chiêu không ai sánh kịp. Có người quá yêu đã ví tiếng sáo của Từ như tiếng đàn của Tư mã Tương Như, mỗi khi cất lên có cả đàn chim phượng bay về nhảy múa quanh người . Lòng tự hào về tài cầm kỳ thi hoạ của con trai nhiều lúc làm dịu đi nỗi lo lắng dội lên trong bà mỗi khi bà nhận thấy tính cương trực của Từ đôi khi hơi quá, đến mức thành ương ngạnh.
Tiếng chuông báo giờ tuất. Ngân nga như khẽ lay những bóng sáng rực rỡ muôn màu trong bóng đêm lạnh buốt. Từ Lộ với tay lấy chiếc sáo trên trên vách thư phòng giắt vào thắt lưng. Chùm tua đỏ lấp lánh chỉ vàng buộc đuôi cây sáo rủ xuống điểm nhịp bên hông, Từ Lộ xách đèn lồng Mỹ nhân, khoác thêm áo trừu, cúi đầu xin phép mẹ cuối giờ tý sẽ trở lại nhà. Dù cha chưa về, Từ Lộ không chút lo lắng. Một đêm đô hội như đêm nay, ngay cả kẻ cướp cũng mải vui chơi, cha chàng sẽ không gặp điều gì nguy hiểm. Có lẽ ông về muộn là bởi các bạn đồng liêu chèo kéo nán lại chút nữa trong nội kinh để thường ngoạn đêm hội hoa đăng hiếm hoi này. Không có gì đáng lo lắng. Cả ngôi nhà sáng rỡ, đầy ắp gia nhân. Mẹ cũng sẽ không có thời gian mà buồn vì đã có mấy bà bạn mới tới, tay ôm lồng ấp đang ngồi quây trên chiếc sập gụ giữa nhà. Họ sẽ chơi bài và ép nhau nhấp rượu phạt hay hoạ thơ liên vần trong lúc đợi cha chàng về vào tiệc Nguyên tiêu.
Ra khỏi cổng, Từ thoáng rùng mình vì lạnh. Kinh thành sáng như sao sa bởi muôn ngàn chiếc đèn lồng đủ hình đủ kiểu đang lung linh chiếu rọi. Trên cao xa kia, chiếc đèn lồng màu đỏ rực, lớn ngang chiếc cót thóc nhà nông phu, đang đung đưa khiêu khích trong gió, là chiếc đèn lồng nhà Diên Thành hầu, giàu có quyền thế lệch thiên hạ. Tiền để làm ra nó có thể mua cả một trang ấp. Cây đèn toả ánh sáng xanh lành lạnh, chao đèn mang hình đôi chữ Dũng, chữ nhân đứng trang trọng trước cổng một dinh thự bề thế, có hào
nước bao quanh, là của Thái uý Lý Thường Kiệt. Thái sư Lý Đạo Thành treo hai bên mái hiên rêu phong đôi đèn đơn sơ, chao đèn mang đôi chữ Nhẫn viết theo lối thư hoạ tuyệt đẹp. Rực lên như một bông hồng khổng lồ giữa nội kinh là khóm đèn lồng màu tía trên Càn Nguyên điện nơi hoàng đế thiết triều. Tử Cấm thành lộng lẫy uy nghi toả rạng vàng son, rõ rành là chỗ thượng đẳng dành cho thiên tử . Bao quanh Tử Cấm Thành, Thuý Hoa cung, Ngênh xuân cung, Long Đức cung, Long An điện và Long Thụy điện đêm nay cùng đua nhau khoe vẻ hào hoa, không hổ là nơi hoàng hậu, các phi tần và các hoàng tử cư ngụ. Tại Chính Dương lầu, Giảng Võ điện, Tập Hiền điện và trên bốn cổng thành Đại Hưng, Tường Phù, Quảng Phúc, Diên Đức, đều kết hàng chuỗi đèn lồng nhỏ toả ánh bạc như sóng sông Ngân lững lờ toả ra các hướng trên bầu trời. Trên những con đường trong nội kinh, theo lệnh của Đức hoàng đế Nhân Tông, cuộc thi đèn đã được khởi xướng. Các cung nữ, quan quân trong triều phải ăn mặc lộng lẫy, tay mỗi người xách mỗi cây đèn lồng nhỏ ngồi trên xe ngựa diễu quanh kinh thành để cho dân chúng được chiêm ngưỡng một bữa no mắt, hưởng ân sủng của hoàng đế nhân thời đất nước vào cơ thái bình thịnh trị.
Từ Lộ rảo bước qua cầu Tây Dương bắc qua sông Tô. A'nh đèn rực sáng của kinh thành phản chiếu xuống dòng sông. Con sông vốn bình lặng thường ngày đêm nay bỗng biến thành một dòng sông chở đầy sao. Những lá thuyền chài đêm nay không thiu thiu ngủ như hàng đêm, mà cũng nao nức cùng với ánh đèn dầu lạc của dân chài.
Từ Lộ vừa qua cầu. Phía bên kia đã thấy bóng một ngọn đèn lồng nhỏ đang di động về hướng chàng. Dù ngọn đèn này lẫn trong muôn vạn đèn khác trong hội hoa đăng nhưng từ trong tim, Từ Lộ đã cảm thấy ngọn đèn đó là của chàng, đến với chàng. Không ghìm được, Từ Lộ chạy nhanh về phía chiếc đèn nhỏ. Càng gần, bóng đèn càng hiện rõ hai chữ Tiêu tương tuyệt đẹp được viết bằng nét bút tài hoa.
Chỉ riêng chàng biết căn nguyên hai chữ tiêu tương đó. Vì yêu tiếng sáo của chàng, Nhuệ Anh đã thuê người lên núi Yên Tử tìm khóm trúc tiêu tương, chọn một đoạn đẹp nhất mang về làm chiếc sáo tặng cho chàng. Cây sáo này chàng luôn đeo bên người, nâng niu còn hơn báu vật.
Treo chiếc đèn Mỹ nhân vào thành cầu, Từ dừng lại và rút sáo ra thổi. Lại như mọi lần gặp nhau, tiếng sáo réo rắt điệu phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như. Làn gió xuân mơn man trong khí xuân buốt lạnh, tiếng sáo như gọi những sợi mưa bụi từ trên trời xuống khẽ hôn vào đôi má trinh nữ nóng bừng của Nhuệ Anh. Nhuệ Anh rảo gót hài thêu về hướng đèn lồng Mỹ nhân, bỏ xa người đầy tớ gái đang vừa đi vừa chạy. Nàng nhận ra dung nhan của mình đang được chiếu rọi dưới ánh đèn và trong lòng tràn ngập hân hoan. Dù cuộc hôn nhân sắp tới là do cha mẹ đôi bên sắp đặt nhưng Nhuệ Anh thật mãn nguyện.
Đèn lồng giơ cao soi tỏ hai gương mặt. Tiếng sáo ngừng bặt. Khúc phượng cầu hoàng buông lơi. Cây đèn Mỹ nhân ghé gần búi tóc của Nhuệ Anh. Gương mặt mỹ nhân trên đèn lồng và gương mặt của Nhuệ Anh ngoài đời toả sáng vào nhau. Đôi mắt Nhuệ Anh đăm đắm nhìn. Cách nàng một bước chân, phía đối diện, cây đèn Tiêu tương soi tỏ gương mặt người nàng yêu. Mày rậm mắt sáng miệng như vành trăng treo. Vầng trán thanh cao, chỉ hiềm
bên thái dương có chút khuyết hãm. Cha nàng đã có lần nói về cái tướng phúc phận không trọn vẹn của vành thái dương này. Nhưng ông cũng lại nói Từ Lộ đẹp ở tướng "ngưỡng nguyệt khẩu". Vả lại tướng tuỳ tâm sinh tướng tuỳ tâm diệt. Nhuệ Anh không hiểu gì tướng số. Nàng chỉ biết ngày đêm mơ tưởng đến khuôn mặt người yêu cùng tiếng sáo mê hoặc của chàng. Và nàng biết tiếng sáo ấy ánh mắt ấy chỉ dành cho nàng mà thôi. Nghĩ đến ngày cưới của mình đã được đôi bên cha mẹ ấn định vào tháng mười cuối năm nay lòng Nhuệ Anh rạo rực. Nàng vừa sợ vừa mong. Nàng sợ cái ngày phải rời nhà cha mẹ, nơi nàng được nâng niu quấn trong nhung lụa, về một gia đình nàng chưa bao giờ đặt chân vào mặc dù cũng chỉ ở đất Yên Lãng này và cách nhà nàng chưa đến một dặm.
Từ Lộ bước tới. Trong lòng chàng trai đê mê dịu ngọt. Đặt cây đèn lồng xuống đất, chàng rụt rè tìm bàn tay nhỏ nhắn của Nhuệ Anh được giấu kín trong tay áo bông chần bằng lụa hồng. Đắm đuối nhìn vào mắt nhau. Đêm hoa đăng rạng rỡ của kinh thành giờ đây dường như thu cả vào trong mắt của cặp trai tài gái sắc. Thiên hạ biến mất. Chỉ còn đong đưa trên cầu Tây Dương đôi đèn lồng Mỹ nhân - Tiêu tương và cặp tài tử giai nhân.
Bỗng vang tiếng ngựa hí chói óc kề sát trên đầu. Đôi trai gái giật mình ngẩng trông lên. Ngay trên đầu là hai cặp móng sắt sáng loáng của bốn chân ngựa vừa bị ghìm lại bất chợt, đang hung hãn chỉ chực xuống vó giẫm nát chàng trai. Đôi hàm ngựa ô lực lưỡng tức giận sùi bọt không ngừng cất tiếng hí rợn người. Từ Lộ vội vã kéo người yêu nép vào thành cầu. Cây đèn Mỹ nhân bị cặp móng ngựa dập xuống vỡ tan tành trong nháy mắt. Phía sau hai đầu ngựa vang lên một tràng cười .
Từ Lộ gịân điên người quắc mắt nhìn lên. Ngất ngưởng trên xe, sau lưng gã đánh xe lực lưỡng vận áo đỏ là một công tử mặt trắng tai vểnh, hàng ria non đứt đoạn trên mép, mặc áo cừu đỏ tía, đi hài mũi cong thêu đôi chim phượng. Trước thành xe có chiếc biển được chiếu rọi bởi ngọn đèn toả sáng từ bên trong mang ba chữ lớn "Diên Thành Hầu ".
Từ Lộ không lạ gì người ngồi trên xe. Đó chính là công tử Lý Câu- cậu quý tử độc nhất của Diên Thành hầu hoàng thân. Lý Câu vốn ỷ thế cha, không việc gì là không dám làm, vung tiền của như hắt nước qua cửa sổ, ăn chơi bợm bãi khét tiếng khắp kinh thành.
Trong đầu Từ Lộ loé lên một tia chớp. Cách đây một năm, Từ Vinh cha chàng làm một việc mà sau đó người kinh thành gọi ông là kẻ vuốt râu hùm.
Nhà Diên Thành hầu đã nức tiếng giầu có ở kinh thành. Nhưng lòng người tham không đáy. Mùa xuân năm ngoái, ông đã cho quan hầu đày tớ chăng dây cướp trắng hơn hai trăm mẫu ruộng của dân phía bắc hồ Dâm Đàm. Trong số đó có ruộng đất của nhiều nhà chùa mới khai phá. Dân mất ruộng kéo nhau lên huyện, phủ...đưa đơn kiện. Nhưng Diên Thành hầu quyền thế nghiêng trời. Đám dân đen không những ra về tay trắng mà trên lưng còn lằn vết đòn roi vì tội mưu toan lấn chiếm, ruộng đất của triều đình đã ân ban cho hoàng thân quốc thích. Là quan Tăng đô án của triều đình, cha Từ Lộ đã đến từng chùa chiền, làng xóm trong vùng để thu thập chứng cứ. Những lá đơn của ông vẫn nối nhau gửi đến Đô hộ phủ ngục tụng để mong có ngày rõ được trắng đen. Diên Thành hầu đâu có dễ bỏ qua cho kẻ dám vuốt râu hùm. Mối
hiềm thù càng như dầu đổ vào lửa, khi nhan sắc Nhuệ Anh đã tình cờ lọt vào mắt công tử Lý Câu trong một lần đi lễ chùa. Từ đó Lý Câu như bị thiêu đốt. Trái với thói quen bợm bãi của những cuộc trăng gió rải rác khắp kẻ chợ cùng quê, lần này Lý Câu vật vã hối thúc cha mẹ đến hỏi Nhuệ Anh về làm vợ. Lời cầu hôn của cậu quí tử con nhà quyền thế bậc nhất kinh thành đã bị khước từ....
Tràng cười khả ố của Lý Câu vụt tắt khi nhìn thấy ánh mắt bừng bừng nộ khí của Từ Lộ đang quắc lên nhìn thẳng vào hắn. Bàn tay Từ Lộ nắm chặt lấy cây sáo trúc vung lên. Ánh mắt giận dữ và chùm tua đỏ buộc trên đuôi sáo trúc khiến cặp ngựa ô đột nhiên hoảng hốt. Lại đúng lúc gã đánh xe ngẩn ngơ ngắm vẻ đẹp khác đời của Nhuệ Anh mà lơi lỏng tay cương. Đôi ngựa dựng ngược bờm, tung vó hí lên một hồi dài và hất công tử Lý Câu ngã sóng soài trên cầu Tây Dương. Chiếc áo cừu màu đỏ bảnh bao bết đất.
Nhuệ Anh quên cả giữ ý bật cười khanh khách. Lý Câu vừa đau vừa bẽ mặt, không biết trút nỗi nhục vào đâu, liền vung roi da quật túi bụi lên lưng, lên mặt người đánh xe. Lưng áo người đánh xe rách toạc, máu chảy ròng ròng từ trên mặt xuống cổ ướt đẫm mà vẫn phải nén đau không dám ta thán một lời, quì xuống khom lưng cho Lý Câu giẫm lên vai mà bước vào xe. Trước khi ra roi cho ngựa phi, Lý Câu còn quay lại, gầm lên với Từ Lộ :
- Thằng tiểu đô án hèn mọn kia! Hãy nhớ lấy đêm Nguyên tiêu này. Nếu mày muốn giữ lấy cái mạng sống hèn mọn thì hãy lập tức rời xa tiểu thư. Nàng là của ta. Quên điều đó thì chớ trách cha con ta xử ác !
Và hắn ngoái sang, đánh mắt, cố nở một nụ cười tươi tỉnh với Nhuệ Anh :
- Xin nàng đừng quên. Tết Thanh minh sắp tới, nàng sẽ nằm trên giường cưới của ta !
Cỗ xe ngựa phóng vụt đi dưới sức nặng của chiếc roi da.
Từ Lộ nhìn chiếc đèn lồng Mỹ nhân với bao nhiêu công phu và tấm tình nâng niu gửi gắm của chàng bây giờ tả tơi dưới vó ngựa. Chàng giận bầm gan tím ruột, nộ khí xung thiên đuổi theo bóng ngựa.
Vừa chạy được mấy bước thì nghe tiếng chân người thình thịch phía sau và tiếng gọi giật hốt hoảng :
- Thưa công tử! Công tử! ...Mời cậu mau mau về nhà. Có sự biến....
Từ Lộ khựng lại. Nhìn nét mặt hớt hải của tên gia nhân, chàng chợt nhớ hôm nay cha về muộn.
Từ Lộ cúi đầu bái biệt Nhuệ Anh. Nàng cũng đang tái mặt vì lo lắng, hỏi dồn tên gia nhân:
- Có việc gì vậy? Sao không mau mau nói ra?
Nhìn nét mặt tái nhợt của tên gia nhân, Từ Lộ linh cảm thấy một điều gì khủng khiếp đã xẩy ra. Ngực chàng thắt lại. Chàng ngắt lời tên gia nhân đang mắt tròn mắt dẹt định kể lể, quay sang an ủi Nhuệ Anh:
- Xin nàng đừng bận tâm. Ta về nhà xem có sự gì rồi sẽ nhanh chóng tin lại cho nàng ngay...Hãy tha thứ cho ta đêm nay, tài hèn sức mọm không kịp cấm cản kẻ vô hạnh . Xin nàng hãy để ngoài tai những lời sằng bậy của kẻ đó. Dù thế nào đi nữa, Từ Lộ này chỉ mong nàng hiểu cho rằng, nàng là nhụy hoa, mà ta là chiếc đài hoa, suốt kiếp này ta sống chỉ để nâng niu cho cánh hoa được vươn nở dưới ánh mặt trời...
Từ Lộ cùng tên gia nhân tiễn Nhuệ Anh và người tớ gái qua bên kia cầu, đến cổng nhà nàng rồi quay người rảo bước. Nước mắt lưng tròng, Nhuệ Anh cùng người tớ gái lặng đứng trông theo với chiếc đèn lồng Tiêu tương đang lẻ loi hắt sáng.
Đêm hội đèn Quảng Chiếu vẫn toả ánh sáng huy hoàng. Văng vẳng lúc gần lúc xa tiếng ai hát như giễu cợt :
...... Ngưỡng u nhược nhi lưu phán
Phủ quế chi dĩ ngưng vọng
Tương tri linh hề thử ngộ
Thuyên hà vi hề độc vãn (*).......
x
x x
Vừa đặt chân đến trước cổng, Từ Lộ đã nghe tiếng than khóc vẳng ra từ trong nhà. Đám tớ trai tớ gái nhốn nháo đi lại. Mười sáu chiếc đèn lồng đã bị thổi tắt từ khi nào, chỉ còn một chiếc lớn nhất ở giữa nhà soi gương mặt đau khổ như ngây dại, chứa chan nước mắt của mẹ chàng. Bà tựa lưng vào người hầu gái. Chị người hầu lớn tuổi đang vuốt ngực cho bà, cố sức khuyên giải bằng cái giọng khàn khàn cũng ướt đẫm nước mắt.
Trước mặt bà, một trong bốn tên lính hầu đã đi theo cha chàng sáng nay đang quì sụp. Aó quần tả tơi, một vệt máu chảy từ trán xuống cẳm đã khô bết lại thành một vệt đen sẫm như nhát chém chia khuôn mặt anh ta ra thành hai nửa . Tên lính không ngớt đập đầu xuống đất :
- Xin phu nhân cứ trừng phạt con cho đỡ đau lòng...
Từ Lộ vội chạy vào nhà, nắm lấy vai tên lính mà lắc, hỏi dồn ;
- Có việc gì vậy....Cha ta đâu ?
Mẹ chàng từ nãy giờ đã kiệt sức, bây giờ bỗng oà lên nức nở :
- Từ Lộ...con. Mau đi tìm cha.. Mẹ chết mất...!
Từ Lộ nhìn khắp nhà. Cái không khí rạng rỡ ban tối của đêm hội hoa đăng biến đâu mất. Trong nhà chỉ còn trĩu nặng mùi trầm đang toả ra từ chiếc lư bạc. Gió lạnh rú từng hồi ngoài kia, lay lay những ngọn khoái trầm như bàn tay ai đang khắc khoải vẫy gọi...
Như trong cơn mê, chàng nghe những lời kể dài dòng tiếng nọ lấp tiếng kia của tên lính hầu. Nhưng chàng cũng đủ hiểu là Từ Vinh cha chàng và bốn tên lính hầu cận vào kinh, khi về đến gần Trúc Sơn bỗng bị một toán người bịt mặt cầm gươm đao xông ra chặn đường. Bốn người lính chưa kịp trở tay thì ba người đã bị chém gục. Cha chàng ra sức chống trả. Thường nhật, vũ dũng của quan Tăng đô án đã vào hàng cao thủ. Trong kinh thành không mấy kẻ địch nổi. Nhưng lần này, chỉ sau mấy hiệp đấu, Từ Vinh đã thét lên một tiếng tay ôm trán lăn lộn trên mặt đất. Hai con ngươi lòi khỏi tròng rồi tắt thở. Người lính hầu còn lại cố sức lao vào cứu chủ thì bị thêm một nhát chém vào mặt. Khi tỉnh dậy không thấy thi thể quan Đô án và ba tên lính hầu đâu nữa.
Từ Lộ dặn người nhà cố chăm sóc an ủi mẹ chàng cho chu đáo, rồi lập tức sai thắng ngựa. Chàng cùng tên bảy tên gia nhân tốc lực phóng đến Trúc Sơn. Đám người xem hội hoa đăng vẫn trùng trùng trẩy về phía kinh thành. Bây giờ, những ánh đèn rực rỡ, quần áo lộng lẫy và tiếng cười nói như những mũi dao thọc vào trái tim đau đớn của chàng.
Đến chân núi Trúc, Từ sai gia nhân đốt đuốc. Bảy bó đuốc thắp lên rực sáng, soi tỏ cả từng bụi cây rậm. Chàng và đám gia nhân quần nát cả một vùng, vạch từng gốc cây từng ngọn cỏ để tìm cha. Tìm đến lúc trời gần sáng vẫn không thấy thi thể của Từ Vinh và ba tên lính hầu.
Loang lổ trên mặt đất những vũng máu đã khô cứng. Tiếng những con chim lợn ăn đêm đến hồi về tổ cất lên từng hồi não nuột. Tiếng chuông chùa Phổ Am vẫn thong thả ngân vang báo đã qua giờ sửu sang giờ dần. Trời rạng sáng. Từ Lộ cùng đám gia nhân mệt nhoài bơ phờ trở về. Nước mắt đã khô hoen trên má chàng trai.
Đứng trước bàn thờ, Từ Lộ đốt ba nén hương. Chàng quì xuống dập đầu khấn cha, những tiếng khô khốc bật ra từ cổ họng :
- Lạy cha...Hồn cha có thiêng xin ứng nghiệm. Xin cha hiển linh chỉ cho con trai cha biết mặt biết tên kẻ lòng lang dạ sói. Con xin nguyện bỏ hết đèn sách công danh sự nghiệp, nếm mật nằm gai để trả thù này....
Một cơn gió lạ lạnh buốt thổi thốc vào nhà. Từ Lộ sởn da gà. Ba nén hương vừa thắp bỗng bùng cháy như ba cây đuốc nhỏ. Chiếc lư trầm cổ kính thoắt đen xám lại như một lời nguyền.
Mọi người trong nhà rởn tóc gáy.
Trời sáng hẳn. Những tia nắng đầu tiên của một ngày xuyên qua ánh vàng vọt của những cây đèn lồng cuối cùng còn lại trong kinh thành. Từ Lộ đứng lên. Mẹ chàng nhợt nhạt nằm thở thoi thóp trên giường. Người thầy thuốc giỏi nhất kinh thành đã được mời đến. Ông ta đang vén tay áo, bắt mạch cho mẹ chàng bằng những ngón tay dài xương xẩu. Giọng người thày thuốc luận bệnh nghe đều đều buồn nản bên tai Từ Lộ :
- Bệnh của phu nhân do uất khí mà thành. Uất khí ở tâm nghịch lên não khiến tâm thần hôn mê. Bệnh này không nặng mà cũng không nhẹ. Cần uống mươi thang phát tán uất khí để thăm dò. Rồi sau đó tuỳ tình thế mà tìm thuốc trị tiếp. May ra mới khỏi được....Tôi không dám đoan chắc có cứu được hay không. Cũng còn là tuỳ vận số của phu nhân....
Từ Lộ nán lại bên giường mẹ, ngắm nhìn mãi gương mặt trắng bệch như sáp của bà. Chàng đau xót nhớ lại, chỉ mới đêm qua mẹ còn tươi đẹp, đường bệ đi lại trong nhà, tự tay sửa soạn bàn thờ, đốt những ngọn đèn lồng cho gia nhân treo lên, đợi cha chàng về mở lễ Nguyên tiêu. Vậy mà giờ đây....
Tai hoạ đã đổ ập xuống làm tan tác cả một nhà đang ngập tràn hạnh phúc. Tăng quan đô án Từ Vinh là quan triều đình cai quản hàng nghìn tăng ni, nổi tiếng là người chính trực. Cả đời chỉ vì điều thiện. Kẻ nào đã sát hại cha chàng ?
Nhớ lại lời kể của tên lính hầu sống sót và nhìn những vũng máu đọng trên đất, ruột gan Từ Lộ như bị một thuốn sắt nung đỏ xuyên qua. Chàng bật dậy, nhẩy lên mình ngựa điên dại phóng khắp kinh thành trong nỗi vô vọng tìm cha.
Đã qua hai ngày.
Người ngựa, gia nhân nhà Từ Lộ đều mệt lả. Triều đình cũng đã cử quan quân đi tra xét tìm kiếm khắp nơi. Tăm tích vụ sát hại Tăng đô án Từ Vinh vẫn mù mịt. Khắp kinh thành xôn xao bàn tán về vụ kỳ án. Người ta nói chỉ có bàn tay của quỉ sứ thì mới có thể giết người một cách tàn bạo mà lại thần bí như vậy. Từ Lộ và các quan quân đã thuê dân chài buông lưới khắp các sông hồ để tìm xác Từ Vinh. Vẫn không thấy. Từ Lộ lại bắt đầu nhen nhóm hy vọng cha chàng còn sống. Người có việc gì, ở đâu đó và nay mai lại sẽ trở về với mẹ con chàng....
Tảng sáng ngày thứ ba, Từ thiếp đi sau hai ngày đêm mệt lả vì tìm kiếm. Bỗng mơ màng thấy cha. Khuôn mặt đẫm máu, đôi tròng mắt lồi ra khỏi hốc. Vẻ đau đớn khôn cùng. Từ vùng dậy gọi "Cha !"
Gương mặt chợp chờn như gần như xa rồi biến đi sau lối cửa chính.
Từ bàng hoàng tỉnh dậy, chạy theo. Chợt nghe tiếng chân thậm thịch ngoài đường cái. Tiếng người xôn xao gọi nhau đổ về phía bờ sông Tô. Không hiểu sao, đôi chân đưa Từ như lướt qua dòng người đang chạy.
Tới nơi, Từ đã thấy người kín đặc hai bên bờ. Giữa dòng sông Tô, xác một ai đó nổi lên từ lúc nào, nằm sấp, đang từ từ trôi ngược dòng về phía cầu Quyết.
Năm chiếc thuyền chài, mỗi chiếc có ba tên tên lính đang gắng sức chèo thuyền lại gần, quăng câu liêm, vàng lưới để vớt xác lên. Nhưng mỗi khi có thuyền đến gần thì xác người lại dướn bứt hẳn, lao vùn vụt lên phía trước. Cả những chiếc thuyền và đoàn người chạy dọc hai bên bờ sông Tô chỉ còn cách hớt hải chạy theo đường trôi của xác người. Mặt ai nấy đều lộ vẻ kinh hoàng, nhưng vẫn chạy theo như có một sức hút vô hình đang cuốn đi. Từ cũng vậy. Chàng chạy chân đất băng băng theo cái thây trôi ngược. Chân dẫm gai vướng mảnh sành tướp máu cũng không hay.
Vượt qua một khúc quanh, thây người và những kẻ vớt xác đã đến chân cầu Quyết. Từ dưới sông đã nhìn thấy ngôi lầu nguy nga của nhà quan Diên Thành hầu in bóng xuống mặt sông. Như có một sức mạnh phi thường đẩy từ bên dưới, thây người vụt rướn ngược lên, gấp gáp. Khi vừa chạm vào bóng toà lầu của Diên Thành Hầu đang soi xuống nước, xác người bỗng dựng đứng dậy.
Búi tóc dài xoã tung bết nước quấn quanh hình hài một người đàn ông đẫy đà trong bộ quan phục sũng nước. "Tăng đô án Từ Vinh...!". Dòng người ken kín hai bên bờ sông Tô cùng sửng sốt kêu thất thanh.
Từ Lộ bủn rủn chân tay. Chàng đổ sụp xuống. Rồi cố bíu vào vai mấy người đứng quanh để nhoài ra nhìn cho rõ. Thây người vừa dựng đứng dậy trên sông chính là Tăng Đô án Từ Vinh! Cha chàng.
Đôi tròng gần như bật ra khỏi hốc mắt. Từ trong hai hốc mắt sâu hoắm những giọt máu tươi ứa ra chảy loang trên mặt chan đỏ nước sông Tô. Và cái xác của Tăng đô án Từ Vinh không trôi nữa, sừng sững đứng thẳng trên mặt nước, cánh tay cứng đờ giơ cao trực chỉ đúng cổng nhà Diên Thành hầu.
Đám đông hai bên bờ sông Tô đồng loạt rú lên kinh hoảng khiến đàn cò trắng vốn thường ngày đậu trĩu nặng trên rặng tre bên sông hốt hoảng vụt bay, để rớt xuống mặt sông những tiếng kêu xáo xác như tiếng hú khóc. Đang giữa trưa mà gà trong sân các nhà bên sông táo tác gáy. Chó trong vùng thảng thốt tru lên từng hồi dài không dứt.
Trong nhà Diên Thành hầu đang như ong vỡ tổ. Tên gia nhân vừa mở cổng, nhìn thấy thây người dựng đứng ngay trước mặt, tay chỉ thẳng vào nhà thì ngã quị xuống. Gắng gượng mãi nó mới lết vào được bên trong để cấp báo.
Diên Thành hầu đang ngồi uống rượu với pháp sư Đại Điên trên lầu cao. Chung quanh mâm là mấy cô nàng hầu nỉ non đàn hát.
Nghe tin cấp báo, Diên Thành hầu quát :
- Loạn ngôn !
Rồi gạt cô hầu non kề bên, Hầu xốc áo bước ra cửa lầu nhìn xuống.
Lập tức Diên Thành hầu nhìn thấy thây người dựng đứng trên mặt sông dưới cửa lầu. Thây người đó đang ngước khuôn mặt đầm máu và hai hốc mắt sâu hoắm trừng trừng, chỉ thẳng tay vào mặt ông ta. Buông chén rượu trong tay, thét lên một tiếng khiếp hoảng, Diên Thành hầu lùi lại ngã ngồi xuống bậc thềm. Pháp sư Đại Điên vẫn thản nhiên gà gật bên mâm. Một cô người hầu chuốc rượu. Cô khác dùng đũa ngọc gắp từng miếng yến sào cua biển đưa tận miệng pháp sư.
Pháp sư khoảng trên năm mươi tuổi, vóc người mập mạp, dưới hai vành lông mày rậm rạp, đôi mắt nửa khép nửa mở. Khi khép như mắt mèo ngái ngủ. Khi mở thì trừng trừng dữ dội như mắt cọp đói. Tròng con ngươi thoáng ánh đỏ. Cái nhìn của pháp sư bao giờ cũng ngước lên cao. Lủng lẳng trước ngực áo choàng rộng màu già là một vỏ qủa bầu khô đựng rượu vẽ hình bát quái. Cây thiền trượng tạc hình con mãng xà hai đầu há miệng đỏ lòm trên đoạn tay cầm.
Diên Thành hầu gạt cô hầu non, bò lết vào. Đại Điên mở mắt. Chỉ thấy Diên thành hầu líu lưỡi, tay cuống cuồng chỉ ra phía giữa sông :
- Pháp sư...Nó ...Nó....
- Hả ?
- Nó ...Nó...!
Đại Điên đủng đỉnh đứng dậy bước ra.
Trên sông Tô, đám gia nhân nhà Diên thành hầu đã lấy lại phần nào hồn vía, đang dùng gậy dùng sào hoặc câu liêm đứng ở bên bờ cố sức đẩy cho thây người đổ xuống. Nhưng thây Từ Vinh vẫn đứng trơ trơ. Chung quanh thây người và cả một đoạn sông Tô, oán khí ngùn ngụt bốc lên thành một đám mây đen đặc vần vụ che mờ cả mặt trời. Và gương mặt đẫm máu của thây người càng nổi bật, càng lúc càng tưởng như sáp gần lại với mỗi mặt người đứng trên bờ.
Từ trên lầu, Đại Điên nhìn thấy tất cả. Không một thớ thịt chuyển động trên mặt pháp sư.
Càng lúc, Diên Thành hầu càng cảm thấy gương mặt đẫm máu của Từ Vinh với đôi môi mím chặt và tròng mắt lồi ra càng như sắp chạm vào mặt ông ta. Sóng sông Tô dồi lên hung bạo. Và cái thây của Từ Vinh càng lúc càng chuyển động như muốn áp lên tận mặt Diên Thành hầu. Ruột gan Diên Thành hầu tưởng như tuột xuống chân. Ông chới với về phía Đại Điên lắp bắp :
Pháp sư...! Chẳng lẽ...pháp thuật của ngài...
Đại Điên nhìn xuống Diên Thành hầu bằng cặp mắt mèo ngủ, khinh miệt :
- Ta xong việc đã ba ngày.. Còn bây giờ là chuyện của hầu.. Nghiệt dĩ..! Nghiệt dĩ...!
Diên Thành hầu ôm đầu rên rỉ :
- Vàng ròng sư phụ đã nhận. Không phải chỉ để lấy hồn. Phải lấy cả xác hắn...!
Giọng pháp sư Đại Điên vẫn rè rè như giọng cô hồn :
- Pháp thuật chỉ diệt được nhân thân chứ không diệt được nghiệp dĩ !
Diên Thành hầu quì sụp, mấy ngón tay quặp vào gấu áo màu già cáu bẩn của Đại Điên :
- Sư phụ...Xin gia ân...Kẻ này làm sao sống được trước cái thây dựng ngược kia...!
Lúc đó Đại Điên mới đủng đỉnh quài tay với cây thiền trượng dựng phía sau, tay kia nâng qủa bầu âm dương dốc ngược lên. Trong khi cây thiền trượng trong tay Đại Điên phóng vụt vào ngực cái thây đứng trên sông, miệng pháp sư lầm rầm niệm chú. Cặp mắt cọp đói ngước lên nhìn trời.
Bỗng từ miệng quả bầu âm dương, một luồng khí hôi thối luồn ra xanh lẹt như một chùm rắn lục bao phủ lấy vầng oán khí màu đen đang vần vũ trên sông. Một tiếng sét vụt nổ giữa trời khiến Diên Thành hầu giật mình, hai tay bịt chặt tai.
Khi Diên Thành hầu mở mắt ra thì đám hắc khí đã tan biến. Thây của Từ Vinh lảo đảo, và cây thiền trượng đã trở lại trong tay Đại Điên, để lại trên ngực Từ Vinh một lỗ sâu bầm máu. Nhưng cái thây chỉ lảo đảo chứ không chịu đổ hẳn, không chịu trôi đi. Cặp mắt lồi của thây Từ Vinh càng hoăm hoắm xoáy vào Diên Thành hầu và Đại Điên.
Đám người đứng hai bên bờ sông Tô rú lên.
Từ lúc nhìn rõ mặt cha, Từ Lộ như không còn tri giác. Chàng đứng trân trân nhìn xác cha sừng sững giữa dòng mà chỉ tay vào nhà Diên Thành hầu. Chàng nhìn thấy Diên Thành hầu, pháp sư Đại Điên, lập tức hiểu ra nguyên do cái chết tức tưởi của cha.
Khi cây thiền trượng trong tay Đại Điên phóng thẳng vào ngực cha, Từ Lộ sực tỉnh. Chàng thét lên một tiếng khủng khiếp và lao xuống sông. Nhưng sự căng thẳng trong ba ngày qua khiến Từ Lộ bất tỉnh ngay khi vừa chạm mặt sông Tô. Khi đó, cái thây của Từ Vinh chợt hơi xoay nghiêng, hướng về phía con trai ông. Nhưng tức khắc, mấy ngón tay dữ dội ấy lại xoay ngang trực chỉ vào nhà Diên Thành hầu.
Đám quân lính trên thuyền chài mau mắn kéo được Từ Lộ lên bờ. Mọi người xáo xác tìm kiếm chung quanh. Cuối cùng mới lôi đến một thằng bé tám, chín tuổi. Một người nhanh tay kéo tụt cái khố trật khỏi mông thằng bé. Thằng bé giây giụa, khóc thét. Mặc. Ba bốn bàn tay thay nhau phát mạnh vào cái mông bé nhỏ. Thằng bé ưỡn người. Dòng nước đái trẻ con vọt ra xói thẳng vào miệng Từ Lộ đang nằm bằn bặt dưới đất vừa được những bàn tay khác hè nhau cạy mở..... Từ Lộ dần dần mở mắt.
Và cái điều mà Từ Lộ nhìn thấy đầu tiên là hai hốc mắt sâu thẳm của cha mình. Hai hốc mắt đó đang hướng về phía chàng. Và khi nhận được nhỡn quang của Từ lộ, hai hốc mắt đó chợt có ánh sáng loé như ánh chớp.
Từ Lộ lẩy bẩy trỗi dậy trên đám bùn lướt mướt những đám cỏ gai cỏ chỉ và nước tiểu trẻ con. Chàng chắp hai tay vái về phía thây cha, vái trời, vái đất. Những âm thanh phát ra từ cổ họng Từ, rít chặt lại :
- Lạy cha..! Kiếp này không phải của con. Con chỉ sống để trả oán này...! Xin trời cao đất dầy chứng giám...!
Từ khấn ba lần. Đến lần khấn thứ ba, trên mặt sông, thây Từ Vinh khẽ rung động. Và bất chợt cái thây dựng lên một lần cuối cùng, mặt chạm mặt Diên Thành hầu trên lầu, rồi từ từ đổ, nằm xuống mặt sông. Đôi con ngươi trở lại nằm trong hốc mắt. Mắt khép.
Và Từ Vinh trôi ngược trở lại, xuôi dòng nước.
CÔNG ĐƯỜNG
Khi gương mặt trắng bệch của Từ Vinh dựng ngược lên từ mặt sông, ập vào mặt Diên Thành hầu khiến ông ta cất tiếng rú hoảng loạn, Từ Vinh phu nhân đang mê man bất tỉnh trên giường bỗng bật dậy. Bà vươn cánh tay trái ra khoảng không, cặp mắt hoang dại dõi phía cửa chính, gọi thảm thiết : " Từ công !...Từ công...!". Vẫn vươn tay, bà đi thẳng ra cửa, mắt vẫn hướng xa xăm.
Đám ngưòi hầu sợ mất vía mà không dám gọi. Từ Vinh phu nhân lùi lũi đi. Cho đến khi trán vập vào cánh cổng gỗ lim, máu chảy loang mặt, bà quay nhìn ngơ ngác như sực tỉnh cơn mơ. Bất chợt, bà trở vào nhà, đĩnh đạc vấn tóc, đòi gia nhân đưa cơm nước tới. Bà lặng lẽ ăn một mạch hết ba bát canh sâm. Rửa tay bằng nước thơm, bà đứng dậy mở tủ chọn bộ xiêm áo đẹp nhất đã mặc trong ngày cưới, vận vào người. Đánh phấn thoa son xong, cẩn thận cất chiếc tráp khảm trai vào tủ, ngắm mình giây lâu trong mặt gương đồng, khẽ bật lên một tiếng cười sắc lạnh, bà thoăn thoắt đi lại trong mấy gian nhà rộng, như chưa hề hôn mê bất tỉnh ba ngày trên giường.
Từ Lộ không biết mình đã về đến nhà bằng cách nào. Toàn thân tê dại, bê bết bùn đất, mắt nhợt ra vì nhọc mệt, chất chứa uất hận. Chàng đi vào nhà nửa mê nửa tỉnh. Mãi đến lúc chạm mặt cô hầu gái của Từ phu nhân đang rối rít chạy ra, Từ mới sực nhớ rằng mẹ chàng còn đang hôn mê trên giường. Trong lòng chàng nhói lên nỗi xót xa ân hận rằng mình vô tình, bất hiếu, đã không chầu chực bên gối mẹ trong cơn nguy kịch. Từ hoảng hốt chạy tới vén bức trướng che giường mẹ. Giừơng trống không. Mẹ đã có mệnh hệ gì rồi ư? Hay bà đã bị bắt đi bởi quỷ kế của Diên Thành hầu ?
Từ cuống cuồng cất tiếng gọi mẹ. Tiếng gọi tuyệt vọng của chàng vang lên, đập vào những bức tường hoang lạnh, dội lại. Chàng hối hả chạy trong ngôi nhà hun hút sâu, tìm khắp cả ngoài sảnh và mấy gian từ đường, cả dưới những khóm trúc, vẫn không thấy.
Kiệt sức, tuyệt vọng, Từ ngã ngồi xuống nền nhà, hai tay ôm mặt, bỗng nghe tiếng gọi lanh lảnh "Từ con...". Giật mình ngẩng mặt lên, thì thấy một ngươì đàn bà gầy guộc, gương mặt quý phái hốc hác, vận bộ xiêm áo ngày cưới may bằng vóc màu hồng có đính kim tuyến, dáng đi như lướt trong cảnh tranh tối tranh sáng đang tiến về phía chàng. Theo sau bà, đám gia nhân rối rít lo lắng. Từ thất kinh khi nhìn thấy gương mặt của mẹ dưới vành khăn cưới. Đau khổ quá, mẹ đã phát điên rồi chăng? Chàng rợn cả tóc gáy, không rõ mơ hay thực. Mẹ chàng cũng đã đi theo cha và oan hồn của bà đang hiện về kia ?
Từ Lộ đang ngơ ngác thì mẹ chàng nhoẻn cười nói tiếp:
-...Từ ...con !...Cha con đang đứng bên cửa điện thứ ba của Diêm vương .Ông đợi ngày mẹ con ta trả được oán này. Hồn oan ức đói rét ở ngoài cửa điện. Đêm ngày chầu chực...
Từ nức nở:
- Vâng, thưa mẹ, cha con chết oan bởi Đại Điên và Diên Thành hầu...
Mẹ chàng giơ một ngón tay lên trời:
- Ta biết. Hồn cha con về dẫn ta đi. Ta vừa trôi trên sông cùng với cha con. Nước sông Tô lạnh lắm. Đêm nay cha con không ngủ .
Từ chắp hai tay:
- Con xin mẹ! Mời mẹ vào nằm nghỉ . Đã có con lo chu toàn mọi việc.
Phu nhân vẫn tiếp tục :
- Cha con đêm nay mắt không nhắm, chồn chân mỏi gối chầu bên cửa điện Diêm vương. Mỗi canh giờ lại nghe một trăm hai mươi ba lần tiếng kêu rú của những người bị tra tấn dưới A tỳ ngục. Ngắm bảy lần rừng đao, bảy lần rừng kiếm ánh lạnh như rắn mà đau cả ruột gan. Nhìn thấy mười tám cái vạc đồng nấu người mà như chịu dầu sôi rót vào ngực...
Từ quỳ xuống, đưa hai tay đỡ mẹ:
- Mẹ !...Xin mẹ hãy tỉnh lại. Con đau ruột lắm rồi!
Mắt phu nhân vẫn hướng vào khoảng không. Những ngọn lửa cuồng dại nhảy nhót trong mắt bà:
- Kìa là cha con đang đếm, mắt sắp vuột ra khỏi mí. Này địa ngục Hàn băng. Này địa ngục Hắc ám. Địa ngục Kiếm luân. Địa ngục Tiêu nhiệt. Địa ngục Hoả xa. Địa ngục Phí sì. Địa ngục Lạm thang. ..Kìa địa ngục Hôi hà. Địa ngục Kiếm lâm. Địa ngục Thiết sàng. Kìa Đồng Trụ, này Thiết luân, Thiết quật, Thiết hoàn, Tiêm Thạch, ẩm đồng... Cha con đợi ngày những kẻ giết cha con bị đày vào đó tám trăm năm...
Bà bất chợt quay phắt lại, đổ vào người Từ Lộ, những ngón tay bấu chặt vai con, hổn hển:
- Đến khi oan khuất được minh bạch thì mới lên cõi Phật. Nếu không, phải xuống địa ngục làm mồi cho ngạ quỷ...
Hai bàn tay gầy mảnh của Từ Vinh phu nhân nghiến vào vai đau nhói. Sức mạnh mù quáng nào đó đã nhập vào tay bà. Từ đau đến chảy cả nước mắt, cố sức gỡ tay mẹ:
- Mẹ! Con lo việc trả thù cho cha. Xin hãy bình tâm lại!
Phu nhân bỗng ghé sát mặt cậu con trai, đăm đăm nhìn xói vào mắt, rồi phá lên cười, vồ lấy vạt áo cưới, lau lên mặt Từ :
- Con trai ta! Con trai của ta và Từ công.
Từ van vỉ:
- Mẹ! Cha đã mất rồi. Con chỉ còn có mẹ. Xin mẹ bình tâm, giữ gìn ngọc thể, con mới được phận nhờ...
Phu nhân oà khóc. Nước mắt bà rơi từng giọt nóng bỏng xuống vai Từ Lộ:
- Từ Lộ con! Người ta đi đầy đường kia! Người ta không đi xem đèn. Mà xem thi thể cha con trôi ngược trên sông. Ông lìa bỏ mẹ, đi rồi! Mẹ giữ lại không được. Hồn ông còn bận chầu chực bên cửa địa ngục. Người ta đi xem cha con chết. Nhưng mẹ không đi xem. Mẹ mặc áo cưới. Mẹ đứng ra đây cho
cha con tỏ, để ông biết dù âm dương cách trở, ta và cha con vẫn sắt son. Ta sẽ làm lại đám cưới cùng ông trước cửa điện Diêm vương.
Từ vén tay áo lau nước mắt cho mẹ:
- Được rồi, được rồi, mẹ! Cha con dù mất đi, vong hồn của người vẫn không xa lìa chúng ta...
Mặt Từ Vinh phu nhân tươi lên. Đã thấy có chút sinh khí:
- Vong hồn cha con phải được an ủi... Từ Lộ ! Thân mệnh của ta và con không phải của riêng chúng ta, mà của cha con.. Nay thân xác ở lại mà nửa hồn ta đã đi cùng cha con...!
Từ Lộ lại quỳ sụp xuống :
- Xin mẹ bình tâm. Giữ gìn ngọc thể. Thân này từ nay có sống trên đời cũng chỉ là để trả thù cha và đền bồi ơn sinh thành của mẹ mà thôi. Ngay ngày mai con sẽ tìm diệt Diên Thành hầu và Đại Điên....
Từ Vinh phu nhân đau đớn nhìn lướt từ đầu xuống chân con trai.
Bà giơ một bàn tay trắng muốt nổi đầy gân xanh tím, mười móng tay dài cong vút mấy ngày không được chải chuốt đã trở nên khô xác, nghiêm sắc mặt :
- Cạn nghĩ rồi. Nước còn có minh quân, còn có triều chính. Đức hoàng đế chí tôn đã đặt ra chín bậc phẩm quan tước. U tối ở chỗ này nhưng sáng láng ở chỗ khác. Lại còn đèn trời soi tỏ ở trên.
- Thưa mẹ, đèn trời không phải lúc nào cũng sáng. Nếu sáng, những kẻ như Diên Thành hầu đã không còn có ở trên đời này.
Giọng Từ phu nhân bỗng dưng sang sảng:
- Bình thường con quen đọc sách, chơi cờ, thổi sáo, sức vóc học trò sao địch nổi thủ đoạn của lũ ác tặc. Để tỏ nỗi oan cho cha, trừng trị lũ mặt người dạ thú, không gì bằng mẹ con ta kiện lên Đô hộ phủ ngục tụng, nhờ quan Đô hộ tra xét rõ sự việc, buộc kẻ gieo ác phải bị trừng trị dưới lưỡi gươm công lý của đức hoàng đế. Như vậy mới giải được tận gốc nỗi oán thù này...
Từ Lộ ngập ngừng :
- Thưa mẹ, Diên Thành hầu thế lực chất ngất trùm thiên hạ....
- Con thật hồ đồ..! Đức hoàng đế là bậc minh quân. Người từng phá Tống bình Chiêm, định ra thi thư lễ nhạc, mở Quốc tử giám...Cớ chi một chuyện này người lại có thể không tra xét tỏ tường ?...! " Thựơng bất chính hạ tắc loạn ". Hẳn Đức hoàng đế chí tôn hiêủ hơn ai hết !
Nghe mẹ nói, Từ Lộ chợt cất được gánh nặng.
Phải rồi, nước Nam ta từ thời Âu Lạc, qua ngàn năm Bắc thuộc, trải nhiều đời vua phải chịu hẩm hiu trong tước Giao Chỉ Quận vương mà các Hoàng đế Trung Hoa gia ân. Nay đương kim hoàng thượng lập nhiều võ công hiển hách. Nam, bắt vua Chiêm Chế Củ, thu phục Chiêm Thành, mở mang bờ cõi. Bắc, đem mười vạn quân phá Tống khiến triều đình bắc phương phải khiếp hãi, cắn răng ngậm nhục mà tấn phong Người tước Nam Bình Vương. Việc nông tang trong nước lựa bề sửa sang, dạy dân đắp đê Cơ Xá giữ cho đất kinh thành khỏi nạn ngập lụt. Bề trí đạo dùng lối khuyến dụ, mở khoa thi năm Â't Mão chọn kẻ hiền tài đặt lên ngôi vị chăn dân. Năm Bính thìn xuống chiếu cầu lời nói thẳng, chọn người vào Quốc tử Giám. Năm Bính dần chọn người vào Hàn lâm viện, khởi sự Nho học để giáo hoá chúng dân. Năm Kỷ tỵ định quan chế, chia phẩm bậc ngăn nắp, dẫu rằng mô phỏng theo lối triều đình nhà
Tống, nhưng có công lớn trong việc khai hoá văn hiến nước nhà. Lại biết dùng những bậc siêu quần như Thái sư Lý Đạo Thành, Thái uý Lý Thường Kiệt...làm rỡ ràng nghiệp nước. Một nhà vô đạo như Diên Thành hầu nay còn được dung dưỡng chẳng qua là bởi đức hoàng thượng chưa tường tận, chưa rảnh tay cứu xét, trừng trị kẻ ác mà thôi...
Từ Lộ vội vào thư phòng của cha, lấy nghiên mực ngọc thạch có khắc sâu hai chữ " Quần sư " để lại từ thời ông nội chàng, một vị túc nho uyên bác, từng có hàng trăm học trò đến quỳ gối trước ngưỡng cửa thỉnh giáo. Chàng vén tay áo cầm cây bút lông " Cảo di ". Và cái chết oan khuất đau đớn của cha chàng trào ra theo ngọn bút, phủ kín tấm lụa bạch.
Khi treo lên miếng lụa lên trước gió đợi ráo mực, Từ Lộ giật mình. Trước ánh sáng nhập nhoạng buổi chiều , trông nghiêng nét mực hăng hăng đỏ như màu máu khô.
*
* *
Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh ra công đường.
Ngài vừa nhậm chức thay người tiền nhiệm tên là Phụ Quốc, người Aí châu, vừa bị biếm. Phụ Quốc vốn xuất thân con nhà nghèo, thuở thiếu thời làm nghề chài lưới trên sông Mã, từng dũng mãnh bắt được kẻ cướp cá ở chợ giao nộp nhà chức trách. Lớn lên sung quân, nổi tiếng gan dạ. Đóng khố cởi trần bôi nhựa cây vào người, cầm đục lặn xuống sông đục thủng thuyền giặc. Lập võ công hiển hách trong cuộc chiến phá Tống trên sông Như Nguyệt, Phụ Quốc được vua yêu vì. Đến khi ông ta bị thương hỏng một mắt, không thể tham gia chiến trận, vua bèn cất nhắc vào chức Đô hộ phủ ngục tụng, mong ông ta lấy cái dũng khí trong chiến trận ngày trước, đem vào việc minh định rõ những vụ oan án, ngõ hầu yên dân.
Ngày đầu tiên nhậm chức, trông thấy công đường với chiếc án thư sơn son thiếp vàng sáng chói, hàng đống giấy tờ sách vở chất ngất, quân lính cầm giáo đứng canh hàng lối nghiêm ngặt, Phụ Quốc hoảng sợ, quỳ xuống lạy như tế sao :
- Tâu bệ hạ, con vốn người ít chữ, chỉ quen nghề chài lưới trên sông. Hỏi khúc sông nào có cá thì con biết, chứ hỏi ở đâu có oan án thì con làm sao biết? Nay bệ hạ muốn thưởng công con, xin người cứ cho cấm hẳn một khúc sông cho con, kẻ khác không được chài lưới ở đoạn sông đó, thế là may phúc cho con lắm!
Vua nghe, cả cười, mà rằng:
- Cái thằng Phụ Quốc này mới thật thà làm sao! Ta yêu chính cái ngây ngô của nhà ngươi đó. Cứ vững dạ làm Đô hộ phủ ngục tụng . Chuyên tra xét các án đã có bọn tay chân giúp rập. Lũ mọt sách đó học hành bao nhiêu năm là để cho ngươi sai phái đó. Ta cần một kẻ thật thà dũng mãnh như ngươi, để bọn cường hào ác bá, bọn quý tộc trong triều không thể cậy quyền cậy thế lo lót làm loạn phép nước. Phép nước đã loạn, ta làm sao giữ được sự nghiệp của tiên đế?
Phụ Quốc càng hoảng sợ:
- Tâu hoàng thượng, con chỉ mê thích những khúc sông lắm cá. Thường nhật, nhìn qua màu nước sông hồ cũng có thể nói ngay nơi nào nông nơi nào sâu, lắm cá ngão hay cá chép. Nay hoàng thượng buộc con phải kề cận bọn mọt sách, hai bên vốn chẳng ưa nhau, chẳng qua chỉ làm cho con thêm khó xử trước chúng mà thôi.
Vua càng cả cười, càng lúc càng tỏ ra vui thích:
- Ngươi nên nhớ, khi ngươi là kẻ bề trên, lệnh của ngươi là tối thượng. Kẻ nào bất tuân thượng mệnh, nhẹ thì roi gậy, nặng có thể chém đầu, cứ theo hình luật mà giữ phép nước. Đã thế, làm gì có kẻ mọt sách nào dám lấy vài bồ chữ mà giỡn cợt ngươi. Ta cất nhắc ngươi không phải chỉ do yêu vì ngươi. Đã có hai tên quan tiền nhiệm trước ngươi bị biếm truất làm thứ dân do nhận vàng của một gã phú hào để chuyển từ án giết người sang tha bổng rồi đổ tội cho kẻ khác. Than ôi! Trị nước khó thay. Ta có vô số những chiến binh dũng mãnh, sẵn sàng xông pha nơi mũi tên hòn đạn, đứng trước hiểm họa da ngựa bọc thây chẳng từ nan. Vậy mà tìm được một kẻ làm chức Đô hộ phủ ngục tụng sao khó đến vậy!
Thế là Phụ Quốc nhậm chức Đô hộ phủ ngục tụng. Những ngày đầu, ông ta buồn chán, thường trốn ra bờ sông Cái, ngắm những ngư dân buông chèo thả lưới trên sông cho đỡ nhớ nghề, lắm khi nước mắt chảy ròng ròng trên má. Bọn thư lại thường phải đi tìm, lựa lời khuyên giải.
Được ba tháng, Phụ Quốc không ra sông nữa, dần quen công việc, quen với chiếc án thư sơn son thiếp vàng và biết sai bảo lính tráng, kẻ hầu người hạ. Tại chức được hai năm, Phụ Quốc có thêm ba trăm mẫu ruộng tốt. Được bốn năm, ông ta thay ngôi nhà đang ở bằng một biệt lâu lộng lẫy, có hào nước cắm chông bao quanh, có quân lính cung nỏ tua tủa đứng gác . Lối dẫn vào biệt lâu là một chiếc cầu ghép bằng đá hoa cương màu đỏ. Trong nhà, tầng trên nuôi con hát, tầng hầm nhốt những kẻ tội đồ.
Trong đám lính canh có đứa nhẹ miệng kể rằng, ban ngày, trước cửa công đường của quan Đô hộ phủ nườm nượp người nghèo hèn áo vá đến kêu oan. Kêu thì có kêu nhưng oan thì không thấy giải được. Quan Đô hộ chưa nghe tâu bày đã quát tháo. Có kẻ yếu bóng vía sợ vỡ mật mà chết. Kẻ nào khôn ngoan hơn muốn mau được xét đơn, phải ngầm đút lót cho lũ thư lại. Những kẻ có máu mặt thì không đến ban ngày. Đêm đêm, ngựa xe nườm nượp đến viếng thăm biệt lâu. Chủ nhà ngồi xổm, mười ngón chân như móng chân con gà đang đậu trên cành, quặp lấy mép chiếc đệm da cáo trên chiếc kỷ cẩn vàng trong nhà, nghe tiếng chân bước trên cầu đá mà định lễ đón khách .
Khách, trước khi đến, đã tìm biết tường tận sở thích của chủ. Trong nhiều món lễ vật, nhất thiết phải có con gà chọi thiện chiến. Một đôi gà chọi thiện chiến có thể ân giảm được một năm tù cho người thân của khách. Trong ba năm Phụ Quốc làm Đô hộ phủ ngục tụng, giá gà chọi trong kinh thành tăng vọt. Ông ta kén tới mười kẻ thạo việc chuyên chăm sóc và luyện gà chọi sao cho mỗi trận chọi nhau là một cuộc huyết chiến. Khách đến nhờ cậy thường lấy cớ muốn đến xem chọi gà, ở lại với gia chủ, lặng lẽ đặt vào chiếc đĩa vàng của ông ta một hạt trân châu hoặc một vài thoi vàng. Hôm nào gà chọi hay, chủ cao hứng bày tiệc thết khách, cho con hát múa may uốn lượn làm trò vui. Khách cao hứng, có thể chọn con hát mà ngủ lại, miễn là biết điều lặng lẽ để thêm lễ vật vào chiếc đĩa vàng. Nhưng hôm nào gà chọi dở, Phụ Quốc tức giận
gầm thét, hồng hộc lao xuống tầng hầm nhốt những kẻ bị tội, trở ngược cán giáo đánh đến nát lưng cho hả giận. Đôi khi, xác những kẻ xấu số được ngầm đưa ra quẳng xuống sông Cái vào lúc nửa đêm để phi tang.
Việc Phụ Quốc có nhà nuôi con hát, chuồng lớn nuôi gà chọi, tự tiện giết người , cả thiên hạ đồn thổi, nhiều quan lại trong triều biết, trong lòng tức giận nhưng biết vua yêu vì Phụ Quốn nên không dám tố giác. Phụ Quốc thả sức ăn chơi, giàu có ức vạn, mỗi khi tra xét một vụ oan án thì lại gieo tiếp những oan án khác. Nếu không vì một kẻ thuộc hạ, vốn được Phụ Quốc giao trông coi hầm nhốt người, do bị chủ phạt đánh đòn mà chạy ra tố cáo với Thái sư Lý Đạo Thành, Phụ Quốc sẽ vẫn còn được yên lành. Lý Đạo Thành nghe, thất kinh mà nói" Ta đã đoan chắc rằng gã đánh cá này không đảm đương nổi. Nhưng lại đổ đốn đến mức này ư?". Lý Đạo Thành cải trang đi dò biết thực hư, rồi cấp cấp vào triều tâu vua:
- Bệ hạ ! Đánh trận có thể chỉ cần dũng mãnh. Nhưng việc tra xét án đồ, định danh tội trạng thì phải là những kẻ có học, có liêm có chính. Viên tướng lập công trong trận mạc năm xưa, bây giờ tối tăm mặt mũi với uy quyền, đã trở thành yêu quái. Nếu bệ hạ không mau mau ra tay trừng phạt, e rằng nghiệp lớn của nhà Lý ta sẽ bị lung lay vì những kẻ càn rỡ như Phụ Quốc...
Vua cau mày, tỏ vẻ không thích, nhưng biết nghe lời phải của Thái sư. Sáng hôm sau liền dẫn một đoàn tuỳ tùng đến biệt lâu tra xét, thấy cái lầu nuôi con hát và dãy chuồng chạm trổ bằng gỗ lim nhốt tới vài trăm con gà chọi thì đùng đùng nổi giận, cho đập phá biệt lâu, thả hết gà chọi, thích chữ trên mặt các con hát rồi trả về các lầu xanh. Phụ Quốc bị biếm truất đi làm lính canh áp giải những kẻ tội đồ bị đày lên châu Quảng Uyên .
Cái hoạ bất ngờ của người tiền nhiệm lại khiến Trần Dĩnh được thăng trật trước niên hạn, được chuyển về nội kinh. Vốn dòng dõi thi thư nho nhã, Trần Dĩnh đã đọc nhiều sách, tốn nhiều bút mực viết những áng hùng văn nhiệt huyết bàn luận về cái đức và hành xử cuả một bậc chính nhân quân tử. Khi đương chức tại hạt Hải Dương, ông từng thẳng tay trừng trị nhiều kẻ cường hào ác bá cậy quyền cậy thế ức hiếp dân lành. Nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, Trần Dĩnh được bệ rồng biết đến và được vời về kinh nhậm chức Đô hộ phủ ngục tụng vừa khuyết. Trần Dĩnh nghĩ rằng đó là một cách đấng chí tôn tưởng thưởng cho sự trung chính của ông. Khi được vua vời vào triều để ban chức, Trần Dĩnh vô cùng phấn chấn, ngửa mặt lên trời xanh :
- Thân này xin được trọn đời làm khuyển mã, mong lấy gan óc lầy đất để trả lại sự công bằng cho đám lê dân.
Nghỉ ngơi vài ngày, thu xếp chỗ cư ngụ cho tư gia, Trần Dĩnh ra công đường.
Trên chiếc án thư, một chồng đơn chất ngất phủ bụi, cao ngang mày đang náu mình chờ ngài tự bao giờ. Ngài cau trán. Chẳng lẽ ở chốn gần mặt trời mà cũng có nhiều nỗi uẩn khúc oan khiên thế này ? Ngài lướt đôi mắt sắc sảo ra ngoài cửa quan. Một dẫy người đứng ngồi lổm ngổm, đa phần là quần nâu áo cộc tím tái trong tiết trời ẩm lạnh và cơn mưa phùn lay phay của độ lập xuân. Chỉ còn thấy cặp mắt quầng thâm tụt vào trong hốc mắt trên những gương mặt xanh xao má hóp đang khắc khoải nhìn vào chốn công đường.
Quan Đô hộ phủ ngục tụng vươn người nhìn cho rõ hơn. Đứng đầu đám thứ dân kia lại là một thư sinh. Gương mặt tuấn tú của chàng trai khuất một
phần dưới chiếc khăn ngang. Sợi dây chuối thắt ngang lưng áo sô gai. Tay chàng đỡ một người đàn bà. Nhưng kỳ lạ là người đàn bà này đầu đội khăn tang mà mình lại mặc áo cưới. Là kẻ điên hay người tỉnh ?
Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh lật từng tờ đơn theo thứ tự từ trên xuống dưới, soi tên từng nguyên đơn. Ngài thở dài. Lại vẫn giống như ở hạt Hải Dương, chín phần mười số đơn là kiện cáo chuyện cường hào ác bá quan lại cậy quyền ỷ thế chiếm ruộng cướp trâu cưỡng đoạt con gái nhà lành.
Trong vô số những lá đơn, ngài để ý đến một xấp mười hai lá đơn của cựu Tăng đô án Từ Vinh khiếu tố lên đấng cửu trùng về việc Diên Thành hầu cưỡng chiếm hơn hai trăm mẫu đất của nhà chùa và dân vỡ hoang phía bắc hồ Dâm Đàm, cận kề ngay cửa ngõ kinh thành. Ngài chú ý thấy ở góc mười hai lá đơn đó đều có dấu khuyên của cựu Đô hộ phủ ngục tụng Phụ Quốc với chữ đề " Hồi ! ". Quan tân Đô hộ phủ ngục tụng sửng sốt quay hỏi người thư lại đứng hầu bên bàn :
- Nhà ngươi có tường tận vụ này không ?
Viên thư lại ý tứ :
- Dạ bẩm...Xin thượng quan tha tội..Chẳng lẽ ngài không hay biết gì về chuyện cái thây dựng đứng ba ngày đêm trước cửa lầu Diên Thành hầu ?
- A...ta có nghe . Tăng đô án Từ Vinh là thầy ta. Thầy ta chết tức tưởi ...Nhưng có liên quan gì đến việc này ?
Trần Dĩnh đặt bàn tay lên chồng đơn tố giác mang tên cựu Tăng đô án Từ vinh. Ngài như cảm thấy những nét chữ cứng cỏi của người đã khuất xôn xao nhồn nhột dưới bàn tay.
- Thưa...Người đã chết thì dẫu có minh oan cũng chỉ để cho giun dế dưới mồ nghe tiếng. Xin ngài cẩn trọng. Vợ con cựu Tăng đô án Từ Vinh đang đội đơn đứng chờ ngoài kia đã ba ngày nay.
Trần Dĩnh giật nảy người :
- Đâu ? Tại sao nhà ngươi không nói trước. Mau cho mời vào !
Viên thư lại thong thả bước đến trước mặt Từ Lộ và Từ Vinh phu nhân, khoát tay ra dấu mời vào.
Từ Lộ dìu mẹ vào công đường, chắp tay thi lễ trước mặt tân quan Đô hộ phủ ngục tụng.
Trần Dĩnh lật đật đứng dậy, bước tới đỡ Từ Vinh phu nhân:
- Hạ quan từ hạt khác được thánh thượng gia ân cho chuyển về kinh thành nên không hay biết phu nhân và công tử hạ cố tới công đường. Xin thứ cho hạ quan tội thất lễ ! Hạ quan xưa là học trò của cố quan Tăng đô án vừa sớm xa chơi nơi cực lạc. Nghĩa thầy trò thiêng liêng bền chặt, hạ quan không bao giờ quên...
Trần Dĩnh đưa tay áo thụng gạt nước mắt.
Từ Lộ nhìn quanh. Chàng không ngờ có ngày mình lại phải bước tới chốn này. Chồng đơn cao chất ngất trên chiếc án thư lầm lì giữa công đường và những lính hầu câm lặng mặt sắt lại cùng những đồ nghi vệ sáng choang đủ sức làm khiếp vía bất kỳ kẻ nào không may mắn đã đặt chân đến đây.
Từ Lộ nhớ, tại phủ Tăng đô án của cha chàng trước đây, có lần vãn việc, hai cha con từng ngồi trò chuyện. Lúc cao hứng, cha còn bảo chàng tấu lên vài điệu sáo. Nghe tiếng sáo của chàng, có lần ông nói : " Được. Nhưng tiếc
rằng thanh âm chưa tròn đầy. Còn chút uỷ mị. Phần âm quá dầy mà phần dương lại mỏng. Con ta còn cần gắng sức. Xưa nay phàm con người ta yêu thích điều gì thì lượng mạnh yếu, mỏng dầy của điều đó cũng thường vận vào số phận của kẻ đa đoan...".
Chàng nhớ, lúc đó, khi lời cha vừa dứt, một cơn gió nửa nóng nửa lạnh bỗng từ đâu thổi tới, mang mùi hăng tanh của dòng nước tù đọng khiến chàng rùng mình. Chàng hỏi:
- Thưa cha! Gần đây, cha có điều gì không vui chăng?
Cha chàng cố nở một nụ cười, mép ông hằn những vết nhăn chua chát:
- Con ta quả là tinh mắt. Trong những ngày này , ta thấy buồn nản rã rời!
Từ ngạc nhiên:
- Vì sao, thưa cha? Cha làm Tăng đô án, cai quản ngàn vạn tăng ni. Đức vua sùng Phật. Cả nước cũng sùng đạo. Cha được trọng vọng, phúc lộc vua ban đủ chi dùng dồi dào...
Cha chàng ngắt lời:
- Con nói phải. Ta làm Tăng đô án. Kể ra thì đắc thời. Mấy chục năm nay, các đế vương triều Lý ai cũng dốc lòng thờ Phật. đức Thái tổ xưa, mới lên ngôi hai năm đã cho dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, trùng tu chùa quán ở các lộ , riêng ở kinh sư đã độ cho làm tăng tới cả ngàn người. Tới thời vua Thái tông, Thánh tông và đương kim hoàng thượng ta, chùa quán càng được xây đắp bồi bổ nhiều khôn xiết.
Mắt sáng rực, Từ hớn hở tiếp lời:
- Vâng, thưa cha, sử sách ghi lại, từ thời đức Thái tổ mới lập nghiệp, đã có tới gần nửa dân đi làm sư sãi...
Từ Vinh xua tay, lắc đầu chán ngán:
- Phải. Đám dân chúng khoẻ mạnh còn lại không làm sư thì đi lính. Bao nhiêu tiền của sức dân đều được vét sạch để xây chùa quán, nuôi sư sãi, nuôi quân và chế tác khí giới đánh giặc . Ngay trong đám tăng đạo cũng có nhiều kẻ đục nước béo cò, lời dụng thời thế, tín ngưỡng của dân mà tranh thủ trục lợi," miệng Nam mô bụng bồ dao găm", lại chia bè phái, dùng tà đạo để ám hại lẫn nhau. Ta thấy nhục nhã vì không trừ diệt được tính tham ác ngay trong đám tăng lữ mà ta cai quản. Đã thế, mỗi lần bê bát cơm lên ăn, ta như nghe thấy tiếng nói vẳng lên từ đáy bát: " Chúng tôi đói! Chúng tôi đói!". Sao có thể không đắng miệng!
Từ đăm đăm nhìn cha. Từ lúc mới sinh ra, được cha mẹ nâng niu chiều chuộng, mọi thứ đều có sẵn, chàng không bao giờ biết đến nỗi khổ sở của đám lê dân ngoaì kia và bầu tâm sự của cha.
Cha chàng lại nói:
- Càng ngày, ta càng thấy mình như kẻ sống thừa. Biết tất cả mà chẳng làm được gì cho thiên hạ. Chỉ một việc phải trái rõ như ban ngày mà viết đến mười hai lá đơn, gửi lên Đô hộ phủ ngục tụng và đức vua, những mong giúp vua phân định kẻ có tội, ngõ hầu yên dân, vỗ về xã tắc. Nào ngờ, những lá đơn rút từ máu huyết của ta lại gửi vào tay một kẻ chuyên lấy việc vét máu mỡ của dân làm trò tiêu khiển...
Cha bước ra khép cửa, buông mành. Gáy ông trĩu xuống dưới búi tóc đốm bạc ...
Ngồi trước công đường, mà giờ đây trước mắt Từ Lộ như đang đung đưa búi tóc bạc xơ xác vì buồn nản của cha. Nhìn mẹ, người đàn bà quý phái chỉ mới ba ngày sau khi cha mất đã rộc rạc hẳn đi, chỉ còn da bọc xương, cũng phải đội đơn quỳ trước công đường, trước mặt một đứa học trò cũ của chồng, Từ Lộ càng bội phần xót xa. Cái phận tôi đòi đội đơn thưa kiện này trước đây không dành cho mẹ con chàng.
Trần Dĩnh quát lính hầu pha trà nước mới, ân cần hỏi han sức khoẻ và gia cảnh mẹ con Từ Vinh phu nhân. Nhưng Từ Vinh phu nhân hầu như không nghe thấy gì. Đôi mắt bà nhìn về phía quan Đô hộ phủ ngụ tụng vừa sắc nhọn như ánh kim ánh thép, vừa xa vời, mờ ảo như có sương có khói. Giọng nói cũng như vẳng lên từ một cõi sâu thẳm xa xôi nào :
- Thưa thượng quan ...Thượng quan mới chuyển về ngồi tại phủ này, nhưng chắc người cũng đã nghe biết nỗi oan khuất của gia đình chúng tôi. Mẹ con tôi đợi trước cửa ngài đã ba ngày nay...
*
* *
Trần Dĩnh chong đèn ngồi trước án thư tới tận canh ba. Ngài đọc đi đọc lại mười hai lá đơn của Từ Vinh để lại trước đây và lá đơn mới viết ướt đẫm nước mắt mà mẹ con Từ Vinh phu nhân vừa đệ lên cách đây nửa tuần trăng. Cả hơn chục ngày nay, ngài đã cho sai nhân đi tra xét ngọn ngành mọi việc liên quan đến những điều được ghi rõ trong mười ba lá đơn.
Lúc này, cái chết oan nghiệt của Từ Vinh đã hiện lên rành rõ trước mặt ngài giữa những dòng chữ. Và tất cả đều gắn với một cái tên Diên Thành hầu. Quan Đô hộ phủ ngục tụng tự hỏi mình có nên tâu lên đấng cửu trùng về những tội ác của cha con Diên Thành hầu? Mười hai lá đơn của Từ Vinh đã bị người tiền nhiệm ách lại dưới bốn chân lầm bụi của án thư này. Không rõ trước đây Phụ Quốc đã đệ lên đức hoàng thượng chưa? Diên Thành hầu lại là hoàng thân, nếu ta tâu trình vạch tội, không biết hoàng thượng có muốn nghe? Nếu có nghe, không chắc ta đã thoát những ngón đòn hiểm của Diên Thành hầu. Cái chết của Từ Vinh là một tấm gương tày liếp. Diên Thành hầu giết Từ Vinh mà vẫn vô can, bởi ông ta mượn tay pháp sư Đại Điên.
Ba đêm liền, Trần Dĩnh băn khoăn tự hỏi. Nhìn thấy vợ và năm đứa con, ngài xót xa nghĩ, nếu ta có mệnh hệ gì, vợ con ta sống ra sao ? Làm vợ , làm con của một ông quan thanh liêm đã là khổ, nếu làm vợ goá con côi của một ông quan dám vuốt râu hùm, dám đụng đến thanh danh của hoàng tộc, lại càng nguy nan. Trứng chọi đá. Liệu ta có nên đẩy vợ con vào cái khổ nạn đó?
Nhưng đức hoàng thượng đưa ta từ hạt Hải Dương về đây, bổ ta giữ chức này, là bởi người biết ta xưa nay luôn giữ được lòng trung thành ngay thẳng. Ta không thể phụ lòng người. Diên Thành hầu là hoàng thân quyền thế, Nhưng Đức hoàng thượng là bậc minh quân ân đức đã trùm thiên hạ.
Bây giờ, biết đâu với cái chết oan khốc của chính Tăng đô án Từ Vinh, lại là dịp những tấu thư này như một ánh chớp xé rách cái màn đen đặc sệt bao trùm, vượt qua tầng tầng phủ đệ mà lay động tới đấng cửu trùng ?
Trong lòng Trần Dĩnh bỗng ngùn ngụt cháy ngọn lửa chính trực. Hàng vạn dân đen con đỏ đang ngày đêm mòn con mắt trông đợi ngọn bút của ngài. Nếu phá được vụ án Diên Thành hầu, kỷ cương trong nước sẽ được lập lại. Những kẻ quan lại chuyên ức hiếp dân lành, toan dùng một bàn tay che khuất mặt trời sẽ lấy đó làm sự răn đe mà chùn tay. Rường mối quốc gia nhờ sự công bằng minh định thì mới được vững chãi. Trần Dĩnh như thấy trước mắt vong linh của người thầy đang ngậm oan đứng đỏ mắt chầu chực bên cổng địa ngục. Rưng rưng muốn khóc, lòng đầy cảm khái vì đất nước, Trần Dĩnh cả quyết với tay lên giá bút.
Trống điểm canh ba vừa dứt thì tờ tấu của quan Đô hộ phủ ngục tụng cũng vừa ráo mực. Ngài tự tay cuộn tờ tấu lại, cẩn trọng cho vào ống quyển chờ sáng sớm mai sẽ giao cho thư lại chuyển lên Tam pháp ty để đệ trình đức vua Nhân tông. Trong lòng ngài nhẹ nhõm, khoan khoái, tưởng như cất được gánh nặng đè trĩu trên vai từ bấy lâu. Ngài tự hài lòng với mình, phóng bút viết một đại tự lớn , sai gia nhân lồng khung bạc, treo lên giữa công đường. Nét chữ đẹp như rồng bay phượng múa. Đó là chữ " tâm".
*
* *
Giờ mão .
Quan đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh chưa tỉnh giấc thì đã có gia nhân vào bẩm có người của phủ Diên Thành hầu đang chờ trước cửa. Trần Dĩnh ngạc nhiên, hơi khó chịu, nghĩ " Bắt đầu rồi đây !". Diên Thành Hầu cho người đến sớm thế này làm gì nhỉ ? Hẳn rằng ông ta sẽ dùng uy lực doạ dẫm ? Lời nói của Diên Thành hầu là lời sấm lời sét giữa triều đình. Ông ta không những quyền cao tước lớn, mà còn là nội thân với đức đương kim hoàng thượng. Trần Dĩnh hơi lo, nhưng nghĩ lại, trước những cuộc duyệt quân ra trận, tại các hội thề, trước công đường, bao giờ đức vua cũng nêu cao năm đại tự : " Quân pháp bất vị thân". Hẳn rằng sau khi đọc biểu tấu của Đô hộ phủ ngục tụng, hoàng thượng sẽ có phán xét. Nghĩ thế, Đô hộ phủ Trần Dĩnh thong dong búi tóc sửa khăn rồi lệnh cho gia nhân mở cưả mời khách vào.
Khách là một người trạc tuổi trung niên, quần là áo lượt khăn nhiễu tím, thoạt nhìn cũng biết ngay là thuộc loại người chạy việc trong các phủ đệ lớn ở kinh thành. Khách mang theo hai lực sĩ mặc nhung phục,mặt mũi xấc xược, trên đầu mỗi người trĩu nặng một mâm đồng phủ nhiễu đỏ. Khách thong dong bước một, cười nửa miệng tiến đến trước mặt Trần Dĩnh. Ghé tai nói nhỏ :
- Quan Đô hộ phủ mới đến chưa tường mọi tục lệ của đất kinh thành. Diên Thành hầu chủ nhân sai tôi đến truyền lại với ngài đôi điều...
Trần Dĩnh không giấu nổi tức giận :
- Ta dù lạ nước lạ cái nhưng luật lệ triều chính thì ở nơi nào cũng vậy... Điều này, chí ít thì ta cũng đã được vỡ lòng trước khi dám chìa tay nhận ấn tín vua ban..
Không biến đổi sắc mặt, khách cười nhạt :
- Kẻ này dám dám đoan chắc với quan Đô hộ phủ rằng chỉ một tuần trăng nữa ngài sẽ lại nói khác...
- Khác cái gì ?- Trần Dĩnh dằn giọng.
- Sẽ khác !
Không mềm giọng, khách quay lại bảo hai lực sĩ:
- Bay đâu...Đặt lễ !
Hai lực sĩ nhất loạt đặt mâm lên án thư giữa nhà. Khách đủng đỉnh chỉ dùng hai ngón tay dài màu ngà voi xương xẩu gẩy nhẹ mảnh lụa điều phủ trên mâm. Trần Dĩnh giật mình, mắt nổ đom đóm. Vô số thoi vàng chói lọi bất ngờ hiện ra như phù phép. Cả đời ông chưa bao giờ trông thấy nhiều vàng đến như vậy. Những thoi vàng mượt óng, ngon lành, nằm hiền hoà như vô can trên mâm đồng. Năm gian nhà ngói, ba gian nhà ngang. Vài mươi mẫu ruộng. Tất cả tài sản của ông không chắc bằng một phần mười số vàng đang để trên mâm kia.
Khách dạng rộng hai chân, cứ đứng sừng sững ngắm quan tân Đô hộ phủ. Rồi nhìn tận mặt, nhếch mép cười nói :
- Có khi nào quan Đô hộ phủ tự hỏi, nhờ đâu mà đấng Cửu trùng biết tới ngài. Nhờ đâu mà ngài từ hạt Hải Dương xa xôi hẻo lánh lại bỗng được về ngồi tại phủ Đô hộ cao rộng nhường này giữa đất kinh kỳ ? Diên Thành hầu chủ nhân tôi còn mong được che chở cho quan ngài về sau. Hoạn lộ còn dài...! Chỉ lưu ý ngài một điều : Ngài được tiếng là thanh liêm, thường ra tay cứu giúp lê dân. Nhưng, xin hãy ngẫm cho kỹ. Dân đen chỉ là cây cỏ. Khi gặp mưa to gió lớn, cây cỏ thấp lùn không bao giờ làm được chỗ tựa cho một bậc quân tử. Ngài là cây lớn. Cây đừng tưởng lớn mà không có ngày đứt rễ. Cây muốn sống, phải dựa vào tường chắn gió. Vậy, Diên Thành hầu chủ nhân tôi chính là bức tường ấy đấy...
Không chào, khách khoát cửa tay áo lụa bước nhanh ra ngoài.
Quan Đô hộ phủ giận dữ gọi với theo. Nhưng khách cứ rảo bước không ngoái lại. Trần Dĩnh nổi trận lôi đình chỉ tay vào mặt hai gã lực sĩ vẫn còn đang đứng đó :
- Mang ngay vàng này đi cho khuất mắt ta !
Hai gã lực sĩ không thèm ngước nhìn Trần Dĩnh, mặt càng lầm lì. Gã bên tả bước lên một bước, tay nhặt chiếc khăn lụa đỏ vừa đậy trên mâm vàng. Chỉ thấy giải khăn bay loang loáng hoa cả mắt. Trong tay gã, chiếc khăn đã biến thành một giải thòng lọng. Gã lại khinh khỉnh đặt sợi thòng lọng lụa đỏ lên mâm vàng. Trước khi bước qua bậc cửa, gã còn quay lại cười khẩy, lướt ánh mắt sắc như lưỡi đao qua khuôn mặt đỏ phừng và đôi bàn tay run rẩy của quan Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh.
*
* *
Mười ngày sau.
Trát của phủ Đô hộ ngục tụng về nhà Từ Lộ vào chạng vạng tối.
Mẹ con Từ Lộ đang ngồi trước mâm cơm. Trên bàn thờ Từ Vinh những chân hương đang cháy đỏ. Bát cơm quả trứng đặt chênh vênh trên đôi đũa tre cắm chéo. Món quà muôn thuở cho người đã khuất hắt lên ánh sáng mờ đục lạnh lẽo khiến cho ngôi nhà càng thêm âm u tang tóc.
Từ Vinh phu nhân hồi hộp nhận tờ trát từ tay người lính phủ. Vừa đọc được những dòng đầu tiên, phu nhân lẩy bẩy quay nhìn lên bàn thờ chồng. Một khắc lặng lẽ trôi qua. Đột nhiên phu nhân nấc nhẹ lên một tiếng từ trong đáy cùng của cổ họng rồi toàn thân bà đổ vật xuống trước bàn thờ chồng.
Từ Lộ hoảng hốt một tay đỡ lưng mẹ một tay nhặt tờ trát. Những dòng chữ lạnh lùng tàn nhẫn cũng làm chàng sa sẩm mặt mày không kém. Quan Đô hộ phủ ngục tụng xuống trát rằng đã tra xét đơn của mẹ con chàng. Mẹ con chàng bị khép vào tội vu cáo cho nhà Diên thành hầu. Tội nặng đáng phải nghiêm trị. Nhưng vì xét công lao của Tăng đô án Từ Vinh đã khuất bóng nên vợ con được miễn hình ngục. Chỉ bị cách xuống làm thứ dân và bị tịch biên gia sản .
Từ Lộ ngước nhìn . Những tia nắng vàng vọt cuối cùng của hoàng hôn dọi vào bàn thờ thanh một đám đỏ như máu, khẽ run rẩy rồi lụi tắt. Chuông thu không thong thả nhểu từng giọt buốt lạnh vào thinh không. Ngoài ngõ quan quân và chức dịch lăm lăm roi vọt giáo mác đi lại rậm rịch như đàn voi ngựa. Đằng sau những chiếc xe quây cót lớn chờ tịch biên gia sản nhà chàng, ngất nghểu bóng áo tía diêm dúa và nụ cười đắc ý của Lý Câu trên chiếc song mã mỹ miều đã đạp nát chiếc đèn lồng " Mỹ nhân" trên cầu Tây Dương trong đêm Nguyên tiêu.
Trên tay Từ Lộ, mẹ chàng trút hơi thở cuối cùng.
ĐẠI ĐĂNG KHOA
Không mưa. Không mây. Giao trì yến.
Từng cánh bích đào rụng lạng hoàng kim điện
Rèm châu nửa cuốn hương trời
Khúc nhạc nổi tiếng thường được tấu lên trong cung của Hoàng đế nhà Tống rộn ràng ngân trên những còn đường đất lỗ chỗ vết chân trâu bên bờ sông Nhuệ. Tiếng kèn, tiếng tỳ bà, tiếng ngũ huyền cầm, tiếng đàn tranh réo rắt pha lẫn tiếng sênh rộn ràng làm náo động cả một vùng. Trên con đường dẫn vào làng Nha Thượng bên bờ sống Nhuệ nước sông in bóng một đoàn người xiêm áo sặc sỡ rồng rắn kéo nhau đi làm đỏ cả một khúc sông. Dẫn đầu đoàn người là ông mai bà mối áo vóc hồng miệng bỏm bẻm nhai trầu mắt lúng liếng như người trong cơn say. Tay ông mai bà mối nâng một giải lụa hồng bay phất phơ trong gió xuân. Mười hai cô gái thanh tân môi hồng đào răng đen nhức áo tứ thân cổ viền trắng uyển chuyển đội trên đầu mười hai cỗ quả sơn son thiếp vàng. Những mái tóc buộc túm cao trên đỉnh đầu cài trâm sừng trạm bạc hình chim phượng khiến đuôi tóc xoè ra như những đuôi công. Họ bước đi như múa trong tiếng nhạc thảy ra từ ngón tay của mười hai nhạc công trong giáo phường đang mải miết búng trên đàn sáo. Gío rung rặng ổi ven sông Nhuệ rắc những cành hoa trắng muốt của mùa xuân trên vai trên tóc đoàn người.
Công tử Lý Câu xuống ngựa. Hai tiểu đồng để tóc trái đào cúi khom lưng nhấc vạt áo thụng xanh chùng quết đất để lộ dáng hài mũi cong có đính những hạt minh châu màu hồng. Một tiểu đồng áo đỏ đang đứng đằng sau vội bước lên phía trước, hấp tấp quỳ dâng trước mặt công tử một bộ điếu bát khảm vàng với chiếc điếu là đoạn trúc ngà cong vút. Một tay tựa vai tiểu đồng một tay Lý Câu xoè ra vít ống điếu. Tiểu đồng tra thuốc lào vào nõ điếu rồi quay mặt che người chắn gió thận trọng kéo bùi nhùi châm lửa. Lửa từ chiếc đóm vừa bén vào dúm thuốc lào vàng rộm, Lý Câu ghé miệng ngậm lấy ống điếu rồi chúm môi như trẻ con mút vú mẹ. Tiếng rít qua nõ điếu tanh tách vang giòn. Lý Câu khoan khoái vươn cổ ngửa mặt lên trời. Từng cụm khói màu trắng nối nhau phun ra khỏi miệng công tử. Một chén ngọc nước chè mạn đã được tiểu đồng rót sẵn trên tay tiểu đồng để công tử chiêu cho ngọt giọng.
Xong đâu đấy, công tử oai nghiêm phất tay áo rộng. Đàn sáo lại vang lừng. Đoàn người sặc sỡ nối nhau nhịp nhàng chuyển bước. Trao dây cương cho tên lính hộ vệ, Lý Câu xênh xang nhập vào đoàn người, đi cùng ông bà mai mối. Theo sau Lý Câu có bốn tiểu đồng khác lặc lè khiêng một thúng tiền đồng. Kèm bên thúng tiền là một bà già tóc bạc da hồng, mặt mũi phúc hậu, môi ăn trầu cắn chỉ, cứ hai mươi mốt bước lại sục tay vào vốc một nắm tiền tung hú hoạ lên đầu đám người hiếu kỳ kéo ra xem đông nghịt ven sông. Người lớn reo hò la hét tranh nhau nhặt tiền. Cứ mỗi lần như vậy, trên mặt Lý Câu lại giãn nở một nụ cười tự đắc.
... Mây xuân cùng trúc lẻ
Mềm mại hẹn cùng Tiêu Hán
Má hồng ngất ngây thanh thản...
Từ trong nhà, quan Ngũ phẩm Tôn Trinh đã vẳng nghe tiếng đàn sáo rộn ràng từ xa vọng tới. Ông chậm rãi leo lên lầu ngóng đợi đoàn người đang đến làm lễ Đại đăng khoa cho Lý Câu và Nhuệ Anh con gái yêu của ông.
Ký ức những ngày qua dồn đập đổ về khiến lòng ông chua xót.
*
**
Bạn đồng liêu là Tăng đô án Từ Vinh bị người hại chết trong đêm Nguyên tiêu. Tôn Trinh buồn đau, bối rối. Nỗi oan trái của nhà Tăng đô án giáng lên đầu mẹ con Từ Lộ khiến cho tương lai tưởng đã rạng ngời của Nhuệ Anh bỗng sập tối như bị một đám mây đen phũ phàng che kín. Gia thế họ Từ không hẳn vào hàng đại phú nhưng nề nếp gia thư danh giá nổi tiếng khắp đất kinh kỳ, mà chỉ trong chưa đầy một tuần trăng đã tan nát. Bao nhiêu tài sản quý giá từ thời ông cha để lại nay như có chân chạy về nhà Diên Thành hầu và lũ tay chân nha lại. Từ Vinh phu nhân lìa đời. Từ Lộ bị khép tội vu oan giá hoạ cho hoàng thân nhất đẳng công thần Diên Thành hầu. Tội đáng xử trảm. May được ân vua mở lòng khoan thứ nên mới thoát chết. Không biết Từ công tử phiêu bạt nơi đâu. Nghĩ đến tình bạn và lời hẹn ước cũ, Tôn Trinh đã cho người bí mật đi dò tìm tông tích mong có thể giúp đỡ được phần nào chàng trai lúc hoạn nạn. Những người biết Từ Lộ đều quả quyết là chàng không đi đâu ra khỏi kinh thành. Tai hoạ giáng xuống, lòng quá đau đớn phẫn uất nên Từ chủ tâm lánh mặt mọi người mà thôi. Nhuệ Anh, sau khi Từ Lộ bỏ đi không thiết ăn uống, suốt ngày than khóc, ban đêm giam mình trong thư phòng với những vần thơ sầu oán bạc mệnh... Giữa lúc đó Diên Thành hầu sai người đến đánh tiếng mai mối Nhuệ Anh cho công tử Lý Câu.
Tôn Trinh chẳng ưa gì Lý Câu. Diên Thành hầu là bậc quyền thế thiên hạ, lời sấm giọng sét chỉ sau đấng chí tôn nhưng người kinh thành ai chẳng có lần truyền tai nhau về những điều mờ ám mà cha con ông ta đã làm. Chuyện cái thây Từ Vinh bỗng dưng trôi ngược trên sông, dựng đứng ba ngày ba đêm, tay cứ chỉ thẳng vào nhà Diên Thành hầu đã ám ánh Tôn Trinh. Đêm ông không ngủ, tâm trí không thoát ra được câu chuyện oan khốc nhà Từ Vinh. Ông ngờ vực mối liên quan giữa Diên Thành hầu và cái chết tức tưởi của người bạn đồng liêu. Ông biết Từ Vinh từng dâng lên đấng cửu trùng những tờ tấu tố cáo tội lỗi của cha con Diên Thành hầu, vì được che chở nên nên cha con nhà này vẫn vô sự. Công tử Lý Câu cũng không thèm giấu giếm sự tức tối và nhiều lần cho người giở giọng doạ cha con ông sau khi Nhuệ Anh khước từ lời cầu hôn của hắn, chỉ một mực trao duyên gửi phận cho Từ Lộ. Tai tiếng của công tử Lý Câu đã danh khắp đất này. Chưa qua hai mươi tuổi mà trong nhà công tử Câu đã nuôi một lũ nàng hầu con hát lả lướt khêu gợi đủ vẻ. Ấy thế mà ra đường gặp con gái nhà lành mặt mũi tươi tắn là lập tức cho gia nhân túm tóc lôi tay đưa về dinh thự ép chuyện mây mưa rồi mới thả. Nếu không phải là quý tử của Diên Thành hầu, hẳn giờ này Lý Câu đã nằm rũ trong lao kinh nội.
Trước đây, khi mai mối đến ngỏ lời dạm hỏi, Tôn Trinh đã uốn lưỡi khéo chối. Nại cớ tuổi Nhuệ Anh còn ít, nhà lại chỉ có một gái, nên chưa muốn xa con. Những tưởng khi mai mối ra khỏi cửa là chuyện đã xong. Nhưng tới tuần trăng sau, vào dịp tết hoa nở ngày rằm tháng Hai, bỗng có người khiếng đến đặt trước sân nhà ông một chiếc quả lớn đựng đầy trầu cau bánh trái thượng hạng. Hỏi ra là gia nhân trong phủ Diên Thành hầu theo lệnh công tử Lý Câu mang quà Tết đến. Vợ chồng Tôn Trinh chưa kịp nói câu nào, lũ gia nhân nhà Diên Thành hầu đã lặng lẽ rút đòn khiêng, kéo nhau mất biến suo dậu tre ngà đầu ngõ. Thế là ván đã đóng thuyền, mặc dù Nhuệ Anh lăn lộn khóc lóc một mực xăm xăm đòi trả trầu cau. Nhuệ Anh và cô hầu gái xoã tóc, mặt mày không điểm trang, cố tình ăn mặc rách rưới lê lết khiêng chiếc quả ra đến đầu ngõ toan mang đi trả. Đón nàng đầu ngõ là ngũ phẩm phu nhân tay cầm con dao cau sắc như nước:
- Nhuệ Anh! Cứ mang mâm trầu đi. Nhưng hày dùng dao này đâm cổ mẹ trước đã.
Nhuệ Anh dừng sững lại. Mẹ nàng vật mình khóc:
- Dù con có hứa hôn với công tử Từ Lộ nhưng bỗng dưng nhà có trọng tội với triều đình. Nhà cửa tan nát. Vị hôn phu của con thì biệt tăm tích không lời nhắn gửi, không biết sống chết ra sao. Nếu nó có lòng với con, ít ra cũng phải có lời từ biệt... Nay công tử Lý Câu cũng là người khôi ngô, con nhà danh giá. Con gái có thì... Chuyện ăn chơi đối với đám công tử con nhà quyền thế như vậy âu cũng là lẽ thường tình. Đàn bà là phận tôi mọi, nếu để bụng chuyện ấy thì không sống nổi đâu con ạ. Con không thấy đó sao, ở kinh thành này đã bao nhà tan nát vì trái ý Diên Thành hầu... Cha mẹ sinh con ra chưa mong con báo đáp điều gì... Nay chỉ xin con... đừng đang tâm hãm hại cha con vào vòng lao khổ...
Dứt lời, bà mẹ lùi mấy bước, quì thụp xuống, hai tay chắp lại vái sống về phía con gái.
Nhuệ Anh rụng rời. Chân nàng dính chặt xuống mặt đất. Rồi không nói một lời, Nhuệ Anh buông mâm lễ vật. Chiếc mâm đồng rơi xoảng và những tấm bánh, buồng cau lăn lóc tung toé trước ngõ. Nhuệ Anh cắn vào môi bật máu. Từng bước câm lặng, nàng giẫm lên la liệt trầu cau, bánh trái, rồi như một cái xác không hồn lặng lẽ trở vào buồng.
Nửa đêm hôm đó, Nhuệ Anh mặc áo cánh ngắn, tóc vận gọn cài trâm gỗ, bó rơm vào đế giày để chân đi không phát ra tiếng động. Nàng rón rén bước qua mình cô hầu thân tín đang ngủ mê kêu ú ớ, nhẹ bước như một con mèo lẹ làng ra khỏi nhà. Băng mình qua đêm tối, quên cả sợ hãi, Nhuệ Anh đi tìm Từ Lộ. Nhiều người đồn rằng Từ đã bị pháp sư ĐẠI ĐIÊN dùng bùa phép giết chết. Riêng Nhuệ Anh biết chỗ chàng ẩn náu. Cái am nhỏ thờ thần đất ấy nằm bên cạnh bờ sông gần cầu Quyết nhưng đã nhiều năm không hương khói mà thành hoang phế, chung quanh là cánh rừng rậm rịt những tầng mây gai tối sẫm, lại thêm tiếng kẽo kẹt ghê người phát ra từ những thân tre khô xác cọ vào nhau mỗi khi gió thổi khiến người bạo gan cũng sởn gai ốc. Chốn ấy hầu như không có ai đặt chân tới. Tiết Thanh minh năm ngoái, nàng và Từ trốn cha mẹ, lựa lúc cô hầu gái và lão bộc đang mải xem thiên hạ lễ bái tảo mộ, mới rủ nhau lẻn đi chơi. Hai người mải mê trò chuyện, không nhận ra mình đã lạc bước tới tận cầu Quyết, lạc tới cửa miếu hoang. Nhuệ Anh nhìn bụi cây dày đặc, thấy trời sắp tối, lại lo về muộn, cha quở mắng, oà lên khóc. Nàng càng khóc, Từ Lộ càng hoảng hốt, vừa dỗ dành vừa loanh quanh mãi không tìm thấy đường về. Mãi sau, lão bộc sốt ruột chạy bổ đi tìm, may mới đón được họ.
Tai hoạ xẩy ra, Từ mất tích. Bằng linh cảm, nàng luôn cảm thấy chàng đang sống, đang ở đâu đây, rất gần. Sau nhiều lần cho gia nhân lùng sục dò tìm, nàng bí mật ăn mặc như một người hái củi tha thẩn khắp nới. Tay vờ nhặt củi khô mà mắt thì sục sạo dõi tìm. Cuối cùng Nhuệ Anh tới ngôi miếu thổ thần hoang phế bên sông.
Trong miếu, giữa tấm thân rỗng của bức tượng thổ thần mà mối đã ăn mất một bên chân, Từ đang ẩn náu, tím ruột bầm gan tìm kế trả thù. Chàng đã thành một người khác. Không còn dấu vết gì của chàng trai hào hoa phong nhã nồng nàn. Gương mặt tuấn tủ yêu dấu ngày nào nay xanh tái. Đôi mắt dịu dàng tình tứ trước đây nay như bốc lửa dưới đôi mày rậm. Nhiều lúc đang nói chuyện cùng nàng mà cái nhìn của Từ như đặt vào khoảng không. Trong con ngươi của đôi mắt rừng rực ấy loé lên một ngọn lửa man dại.
Nhuệ Anh biết, trong lòng chàng giờ đây chỉ có hận thù. Chàng nghĩ đến cái chết oan khiên của song thân. Nỗi đau của Từ như một thứ phong thấp nhập tâm phế. Nó khiến chàng câm lặng, ngày đêm nung nấu trong trí não một điều gì ghê gớm. Cháy ruột vì thương xót, Nhuệ Anh vẫn không khỏi chạnh lòng khi hiểu rằng với Từ, nàng không phải là tất cả của chàng, ngự trị trọn vẹn trái tim chàng như trước đây nàng đã lầm tưởng. Bây giờ nàng mới hiểu rằng trong con người Từ có một mảng tối mà nàng không hiểu và không thể với tới. Vẻ lặng lẽ u uẩn của Từ như muốn xua đuổi Nhuệ Anh. Nước mắt ròng ròng, tim đau như xé, chiều đã muộn, Từ vẫn ngồi cắn môi bật máu, cố không nhìn nàng. Nàng đành nín lặng ra về. Ngắm những vệt gai cào trên má in rõ mồn một trong tấm gương đồng treo đầu giường, Nhuệ Anh đổ vật xuống giường, ôm mặt khóc nức nở. Khi chiếc gối ướt đẫm nước mắt phả vào mặt nàng một mùi mặn lành lạnh, nàng như người sực tỉnh, đứng vụt dậy, giật đứt tấm lụa màu thiên thanh đang dệt dở trên khung cửi trùm kín chiếc gương đồng. Những vuông lụa dệt dở rủ xuống xơ xác như khăn tang,
Đêm rằm tháng Hai, Nhuệ Anh lần đến được ngôi miếu thì trống trên chòi điểm canh ba. Bụi cây đen ngòm quanh miếu khiến nàng chợn rợn như có bóng người rình rập. Trong bụi tre gai kẽo kẹt tiếng quỷ đưa võng. Giữa trời le lói vài ngôi sao nhợt nhạt. Tiếng chim lợn bay ngang qua đầu kêu "éc..éc..!" như đánh rơi những điềm gở. Vầng ngực của Nhuệ Anh thốt đau nhói vì sợ hãi. Nàng quay ngoắt ra phía sau. Không có gì đáng nghi ngại. Nhuệ Anhn vững dạ hơn chút ít. Nàng thận trọng gõ lên cánh cửa ọp ẹp của ngôi miếu ba tiếng khoan ba tiếng nhặt. Đó là ám hiệu mà nàng đã dặn Từ Lộ. Bên trong vẫn im ắng. Nhuệ Anh lặp lại ám hiệu thêm hai lần nữa, trong lòng rối bời. Chàng ốm... Chàng đã dại dột làm điều gì đó để bị bắt. Chân tay nàng bủn rủn.
Cố định thần nhìn kỹ cánh cửa, thấy hơi hé mở. Dường như có một làn hơi ấm mong manh phả ra Từ bên trong, lẫn giữa mùi lá mục và oai oai rêu phong. Làn hơi ấm đó chính là Từ. Cái mùi quen thuộc ấy không thể lẫn vào đâu được. Nàng dấn bước. Bóng tối trong căn miếu lập tức bưng chặt lấy mắt. Ánh đèn đom đóm soi rõ pho tượng thổ thần đắp bằng đất sét giờ đã bị mủn mất nửa đầu. Con mắt còn lại đang lừ lừ nhìn nàng Từ trên cao. Nhuệ Anh chột dạ cố trấn tĩnh để khỏi sợ hãi. "Lạy thổ thần phù hộ. Con đến đây không phải vì tà tâm...!". Nàng nín thở, cố nhướn mắt trông cho rõ người con trai đã khiến trái tim nàng ngày đêm bị bóp nghẹt.
- Nhuệ Anh. Xin nàng đừng tìm ta nữa.
Tiếng nói vang lên Từ phía sau khiến Nhuệ Anh giật bắn người.
Tựa lưng vào bức tượng, Từ Lộ ngồi xếp bằng trước một trang giấy đang viết dở. Những dòng chữ sẫm tối dường như hắt lên ánh đỏ. Nhuệ Anh nhìn kỹ. Trong cái bát sành trước mặt Từ không phải là thứ mực Tàu thông thường. Đây là một thứ nước sền sệt phả lên mùi mặn. Nàng nhìn đầu ngón tay trỏ của Từ Lộ. Đầu ngón tay đã bị cắn nát dù được dịt lại bằng mạng nhện nhưng vẫn đang rỉ máu. Nhuệ Anh hiểu rằng những dòng chữ đó được viết bằng máu của chàng.
- ... Ta chỉ sống nốt kiếp này để báo thù!...
Nhuệ Anh lao tới ôm lấy bàn tay Từ Lộ, ấp lên ngực. Nàng khóc tức tưởi. Nước mắt của nàng làm ướt tay chàng. Hơi ấm của dòng nước mắt phút chốc làm tan băng giá giá trong lòng Từ Lộ. Từ khi song thân mất, Từ chỉ còn là một con thú bị săn đuổi. Ở đâu chàng cũng cảm thấy có hình bóng của bè lũ Diên Thành hầu và pháp sư Đại Điên truy tìm lùng sục. "Nhỏ cỏ phải nhổ cả rễ...". Chàng đã nghe người ta nói lại những lời đắc ý của Đại Điên khi hắn giết được cha chàng và thây cha chàng đứng sững trước cửa nhà Diên Thành hầu. Chàng đã chọn ngôi miếu hoang này làm nơi ẩn náu để tránh mọi điều bất trắc, nuôi chí, đợi cơ hội trả thù. Nhưng đêm nay dưới ánh mắt nồng nàn của người yêu, lòng Từ dịu lại, mềm ra thoáng chốc. Chàng đăm đắm ngắm gương mặt Nhuệ Anh. Chiếc cằm thanh tú hơi nặng ra vì khóc nhiều, những sợi tóc mai bơ phờ rối tung trước trán, rủ thành lọn bên thái dương, bết lại vì nước mắt mà trông càng quyến rũ. Từ Lộ xót xa bội phần ngắm vị hôn thê. Nếu cha chàng không chết vì tay Đại Điên và Diên Thành hầu thì gương mặt đẹp não lòng và thân hình trời cho này sẽ mãi mãi kề cận bên chàng, mãi mãi là của chàng. Đó là điều mà nhiều vương tôn công tử ở đất kinh thành này đều mơ ước. Nhưng giờ đây, mọi cánh cửa đều sập lại trước mặt chàng. Thù nhà khiến chàng không nghĩ được đến bất cứ một điều gì khác ngoài tiếng gọi báo oán. Trái tim Từ rắn trở lại. Tay chàng nắm chặt. Một dòng máu tươi rỉ xuống Từ đầu ngón tay trỏ mà chàng đã cắn nát để viết bức huyết thư trước mặt.
Nhuệ Anh rùng mình khi cảm thấy hơi lạnh Từ trong tim Từ chuyền qua những đầu ngón tay của bàn tay mà nàng đang ôm trước ngực. Bất giác Nhuệ Anh buông tay nhích về phía sau. Nhưng không thể kìm nén được, nàng lại nhòai thân đổ gục hai vai vào lòng Từ Lộ:
- Chàng ơi... Nguy rồi!... Sáng nay, Tết hoa nở, gia nhân của Lý Câu lại đội lễ vật tới...!
Vừa nghe thấy mấy tiếng "Lý Câu..." khắp người Từ Lộ rúng động. Chàng nắm hai vai Nhuệ Anh, đẩy nàng ra. Mấy ngón tay Từ bóp chặt đôi vai mảnh dẻ của Nhuệ Anh. Đôi mắt Từ như lồi ra, trừng trừng nhìn vào mắt nàng. Ánh mắt đó khiến đầu lưỡi Nhuệ Anh líu lại:
- ...Từ Lộ! Hãy đưa em đi...! Hãy đưa em đi bất kỳ nơi nào. Đôi ta như cây liền cành...
Đôi mắt Từ vẫn mở trừng trừng trong bóng tối miếu hoang. Tưởng như chàng không còn nhìn thấy vị hôn thê phủ phục trước mặt, không nghe giọng nói van nài khẩn thiết của nàng. Một làn gió từ bên ngoài lọt vào cửa miếu, đốm đèn đom đóm trên bệ thờ thần vụt tắt. Im lặng. Mãi sau trong bóng tối âm u, tiếng của Từ mới lại vang lên rành rõ, ớn lạnh, vô cảm vô hồn:
- Nhuệ Anh... Xin nàng hãy quên ta đi. Xin nàng hãy coi như ta không còn trên cõi đời... Đời ta, dẫu sau này có thác xuống làm ma nơi âm phủ hay đầu thai vào kiếp khác... Ta vẫn vĩnh viễn mang ơn nàng...!
Nhuệ Anh còn chưa hết bàng hoàng vì những lời của Từ thì nàng đã thấy đôi bờ vai của mình trùng xuống chạm nền gạch lạnh toát của miếu hoang. Từ đã xoay người. Giờ đây chàng quay lưng lại phía nàng, úp mặt về phía tường rêu, hai con mắt vẫn mở trừng trừng lạnh lẽo...
Khi Nhuệ Anh tức tưởi chạy đến cổng nhà thì đã quá canh ba. Đôi bàn chân trần bé nhỏ tướp máu. Nỗi uất ức tuyệt vọng bóp nghẹt tim nàng. Nhuệ Anh lặng lẽ đẩy cánh cửa để vào nhà mà không nhận ra cha nàng đã bí mật theo sau nàng, đau đớn ngắm nhìn nỗi tuyệt vọng của con. Ông đã về trước, rút sẵn chốt cửa chờ con. Trong lòng quan Ngũ phẩm Tôn Trinh vừa đau xót lại vừa gần như nhẹ nhõm. Ông nghĩ, vậy là việc nhân duyên của con gái mình với Lý Câu đã là số mệnh, hoạ phúc thiên định. Cha con ông không phải là kẻ thất phu sai lời hẹn năm xưa với Tăng đô án Từ Vinh. Ông lại tự hứa với mình, dẫu buông xuôi cho con gái lấy Lý Câu nhưng ông sẽ ngầm lo liệu giúp Từ Lộ khi có dịp. Âu cũng là trả cái nghĩa với người bạn đồng liêu năm xưa.
... Xe vàng chuyển
Cờ nghê bóng quyện
Tiêu xa luyến...
Tiếng đàn sáo đã vang lừng trước cổng kéo Tôn Trinh trở lại thực tại. Tôn Trinh tái người khi nhận ra đây là nhã nhạc chỉ dành cho bệ rồng. Công tử Lý Câu lại ngông cuồng đến mức này ư? Ông nheo mắt che tay nhìn kỹ, cố tìm trong đám người theo sau ông mai mối xem có thấy gương mặt song thân chú rể. Theo phong tục cha ông để lại Từ bao đời nay, Đại đăng khoa bao giờ cũng là lễ trọng nhất và không thế vắng mặt song thân chú rể. Nhà Diên Thành hầu đã ngạo nghễ bỏ qua lễ vấn danh, lễ sơ vấn mà vào ngay lễ Đại đăng khoa này. Một sự ngạo ngược đã đành. Vậy mà nay trong dòng người đã đến trước cổng nhà ông kia vẫn không thấy mặt vợ chồng Diên Thành hầu. Họ cậy thế coi rẻ người quá lắm. Trong lòng Tôn Trinh trào lên niềm uất tủi. Nhưng nhìn lại, ông thấy bà vợ mình đã loe xoe xiêm áo bên cạnh... Không thể dừng lại được nữa rồi. Quan Ngũ phẩm đành sửa mũ xốc áo quát lũ gia nhân ra mở rộng hai cánh cổng.
Cổng vừa mở, Lý Câu đã hấp tấp gạt đám tiểu đồng vây quanh, vượt lên chen qua ông mai bà mối để vào sân trước. Trong thâm tâm, vị công tử ăn chơi này cũng ngạc nhiên vì những hành xử khác thường của chính mình. Từ lúc còn là một đứa trẻ mười ba tuổi, Lý Câu vỗ ngực không biết bao nhiêu gái đẹp đã qua tay mình. Từ các tố nữ yểu điệu trông chốn phòng khuê cho tới những bông tầm xuân hé nụ nơi thôn dã. Từ bọn ca kỹ nhẵn mặt khách làng chơi đến các tiểu thư con quan nhất nhị phẩm, mỗi khi Lý Câu muốn thì lập tức trong phủ đệ của hắn lại phấp phới những bóng hồng. Lý Câu như con ong hoang cả thèm chóng chán, không đậu cánh hoa nào được vài tuần trăng. Điều này không phải không gây cho Lý Câu và vợ chồng Diên Thành hầu nhiều tai tiếng phiền nhiễu. Nhưng công tử là con một. Theo phép vua ban, Lý Câu sắp đến tuổi tập ấm tước cha. Diên Thành hầu phu nhân đã có ý chấm nhiều đám môn đăng hộ đối. Nhưng cậu con trai ngỗ ngược không nghe.
Lý Câu nhìn thấy tiểu thư Nhuệ Anh trong lễ Vu Lan ở chùa Diên Khánh năm ngoái. Vẻ đẹp khác lạ của người con gái đứng mơ màng bên bụi hoa ngâu trước sân chùa khiến công tử họ Lý ngẩn người. Đến lúc người con gái quay mình toan dời bước vào lễ Phật thì công tử Câu vội len theo. Trên tay công tử là chùm hoa ngâu vừa hái mong tặng cho người đẹp. Nhưng cô tiểu thư dửng dưng. Nàng cúi chào sư trụ trì rồi cùng mấy cô bạn ríu rít soạn lễ. Công tử Câu vỗ tay gọi kẻ hầu. Nhưng vẻ xăng xái, nể trọng của mấy tăng ni nhận lễ và dáng vẻ đoan trang lạ thường của người con gái khiến công tử phải chùn tay. Lập tức cho người dò hỏi, biết nàng là tiểu thư con quan Ngũ phẩm Tôn Trinh, thì trong dạ mừng thầm, tưởng chừng như vưu vật đã nằm gọn trong tay rồi.
Nào ngờ Nhuệ Anh đã hứa hôn với Từ Lộ, con quan Tăng đô án Từ Vinh. Hoa đã có chủ. Nhưng với Lý Câu thì điều đó chẳng hề gì. Những cản ngại đối với gã bao giờ cũng làm tăng thêm sự hấp dẫn. Mỗi lần gặp, nhan sắc khác thường của Nhuệ Anh lại thêm một lần nữa làm Lý Câu bồn chồn nghiêng ngả.
Những đêm dài sau cuộc truy hoan, lần đầu tiên công tử Lý Câu thấy trong lòng trống trải. Và bóng dáng Nhuệ Anh với nét mày đa đoan nằm ngang trên đôi mắt long lanh, mới nhìn như vui, ngắm kỹ như u uẩn sầu đong đã ngày đêm ám ảnh. Lý Câu thấy mình đang nằm úp trên gương mặt quyến rũ kỳ lạ ấy, hai khuỷu tay ngập trong mớ tóc mây xoã tung của nàng và cuộc mây mưa đạt đến khoái lạc khôn tả trong tiếng gào thét của Nhuệ Anh. Tỉnh dậy, vạt đệm da cáo trắng ướt đầm dưới chỗ gã nằm.
Từ đó, những cuộc ân ái với mọi giai nhân khác đều trở nên nhạt như nước ốc. Cơn thèm khát càng dâng cao tột độ. Lý Câu hiểu rằng, hắn sẽ héo mòn tâm can nếu không độc chiếm vợ chưa cưới của Từ Lộ về làm của riêng. Nhưng dù đã hãm hại được gia đình Tăng đô án Từ Vinh, nhưng trong mắt Nhuệ Anh vẫn chỉ có hình bóng Từ Lộ độc chiếm. Nhuệ Anh càng xua đuổi, càng cao ngạo, ngọn lửa dàm mê càng rừng rực thiêu đốt Lý Câu.
Một buổi tối, khi song thân của Lý Câu vừa thưởng thức món hùng chưởng hầm sâm, đang ngồi xỉa răng bằng tăm ngà, thì giật nẩy mình khi cậu quý tử chạy vụt tới. Đồng thời, từ tay cậu, một lưỡi đao sáng loáng cắm phập xuống chiếc sàn gỗ lim, rung lên bần bật. Phu nhân lẩy bẩy. Diên Thành hầu vốn biết tính nết cậu quý tử, đứng vụt dậy nhìn con trừng trừng. Cậu quý tử một mực đòi cha mẹ phải đến hỏi Nhuệ Anh về làm vợ. Nếu cứ ngăn cản, cậu sẽ dùng lưỡi đao này đâm chết cha mẹ rồi tự đâm vào cổ mình. Việc Lý Câu bỗng dưng gắn bó với một người con gái, mà đó lại là vị hôn thê của con trai Tăng đô án Từ Vinh, khiến cả vợ chồng Diên Thành hầu vừa ngạc nhiên, vừa phẫn uất...
*
**
Ông bà mai mối nhả miếng trầu đang nhai dở, hai tay nâng cái dải lụa hồng, còn đang định lựa lời mở miệng thì Lý Câu phất tay sải ba bước tới mặt vợ chồng Tôn Trinh đang đứng trên thềm nhà. Cúi mặt vái hai vái mà mắt vẫn ngước lên dáo dác tìm kiếm:
- Hôm nay, nhân ngày lành tháng tốt, song thân tôi cho mang lễ vật tới làm lễ Đại đăng khoa. Hẹn sau mười ngày nữa, lễ Tiểu đăng khoa cử hành, đón Nhuệ Anh tiểu thư về cùng tôi gá nghĩa trăm năm.
Nghe câu nói sỗ sàng thất lễ, ông mai bà mối đưa mắt nhìn toan lên tiếng đỡ lời. Nhưng Lý Câu dã quay lại. Mười hai thanh nữ nhất loạt tiến lên, đồng loạt nhún chân hạ dẫy qủa sơn son. Các tiểu đồng răm rắp thành hàng ngang, lẹ tay mở những chiếc quả đựng lễ vật. Sáng loà giữa đám lễ vật là một buồng cau lớn, những quả cau bằng bạc khối mà chỉ khẽ đụng vào thì tiếng bạc cũng ngân rung. Một trăm cặp bánh phu thê làm bởi những tay thợ khéo nhất kinh thành được gói bằng lá dong xanh mướt cột lạt nhuộm đỏ tươi rói. Hai mâm xôi gấc hạt mọng thẫm, hai mâm xôi trắng ngật ngưỡng, trên đỉnh mỗi mâm là một thủ lợn kếch sù có gài bông hoa đỏ chói bằng lụa nơi mõm. Khi nhìn đến chiếc quả sơn son cuối cùng, mọi người đều ồ lên một tiếng kinh ngạc trước bộ nữ trang quý giá mà Diên Thành hầu tặng con dâu. Một đôi hoa tai xoè sáu cánh vàng uốn cong, nhuỵ hoa là một viên ngọc ánh hồng như hút lấy ánh sáng toả ra từ ngọn nến mà lũ tiểu đồng nhà Lý Câu vừa thắp lên. Trong chiếc hộp ngà trạm trổ tinh xảo là hai con rồng vàng chầu mặt nguyệt uốn cong thành một chiếc kiềng đỡ hai chữ "Phúc Lộc". Nằm sum vầy giữa hộp là đôi vòng cũng bằng một thứ ngọc nổi vân đen trên nền xanh biếc. Mộ chiếc trâm bằng đồi mồi có sáu dây tua mà lủng lẳng mỗi đầu dây là một viên trân châu.
Lý Câu nhìn khắp mọi người, vẻ tự mãn làm tròn đầy, nở nang khuôn mặt. Công tử quay sang nhìn vào mặt Tôn Trinh hỏi:
- Thưa nhạc phụ... sao không để Nhuệ Anh tiểu thư ra nghênh tiếp? Tôi muốn nhìn thấy bà mối đeo kiềng vàng cho tiểu thư!
Tôn Trinh nghiêm sắc mặt:
- Nhà công tử nhiều châu báu lắm, chúng tôi biết. Nhưng con gái nhà chúng tôi có đi lấy chồng đi chăng nữa cũng không phải vì chuộng kiềng vàng đâu. Song thân nhà công tử đâu, sao không diện kiến. Xưa nay con nhà nề nếp chưa từng có ai tự đi hỏi vợ bao giờ. Vả lại, công tử còn không biết phép nước, dám dùng nhã nhạc của cung đình đem rong ruổi trên đường như một bầy hát rong. Phiền công tử hãy mang lễ vật trở về nhà.
Đứng cạnh chồng, Tôn Trinh phu nhân nghe những lời của chồng thì rụng rời chân tay. Bà vội vàng đỡ lời, nói như người hụt hơi:
- Kìa phu quân, sao hôm nay ông quá lời làm vậy? Gia đình hoàng thân là chốn cao sang thì có bao giờ lại không biết phép tắc? Chẳng qua... có lẽ hôm nay ngài bận vào triều luận bàn quốc sự...
Tôn Trinh quắc mắt nhìn vợ:
- Bà chớ nguỵ ngôn với ta để bênh vực cho những điều trái nề nếp gia phong...
Thấy tình thế nguy ngập, bà mối vội bước lên, uốn lưỡi dẻo quẹo:
- Thôi mà. Trăm sự xin ông bà lượng thứ. Công tử chúng tôi tuy còn trẻ người non dạ nhưng một lòng yêu thương Nhuệ Anh tiểu thư. Ông bà ta xưa đã dạy: "Thật thà bằng ba khôn khéo". Sinh ra làm phận gái ai cũng phải lấy chồng. Nay ông bà được kết thân với nhà Hoàng thân quyền thế lệch thiên hạ, còn hưởng nhiều phúc lộc về sau. Tiểu thư được sánh đôi với Lý công tử, mỗi bước chân đi ngập trong châu báu, gấm vóc. Cái vinh hạnh chất ngất ấy thử hỏi trên đời ai là người không mơ ước? Xin nghĩ đến tương lai của tiểu thư mà cẩn trọng. Đừng làm cho Hoàng thân bất ý một lần nữa.
Tôn Trinh không nói thêm được lời nào. Ý muốn của công tử Lý Câu cứ như một dòng thác lũ bất cần lẽ phải. Đám lễ vật sáng loá trước mắt cũng xoa dịu sự bực bội của ông đôi phần. Ông tự an ủi rằng dẫu thế nào đi nữa, ái nữ của ông cũng được một chỗ ấm thân. Dẫu Lý Câu vốn là một kẻ ngông cuồng càn rỡ nhưng con gái ông vốn bướng bỉnh, biết đâu với sắc đẹp và tài trí của nó, nó sẽ thuần phục được con ngựa hoang toàng kia... Nghĩ đến đây, tâm trạng căng thẳng đối phó của quan Ngũ phẩm Tôn Trinh chùng xuống.
Ông sai gia nhân:
- Vào mời tiểu thư ra đây.
Chưa dứt lời đã thấy tiếng Nhuệ Anh vang lên ngay sau lưng ông:
- Thưa cha mẹ, xin cha mẹ thứ có con tội thất lễ. Con xin có mấy lời với công tử.
Tôn Trinh giật mình quay lại. Con gái ông xoã tung tóc, mắt ráo hoảnh, mặt không son phấn. Nàng nhợt nhạt nói với Lý Câu đang ngẩn người:
- Nhuệ Anh tôi xin cảm ơn sự chiếu cố của công tử. Tôi xét mình phận mỏng, kém quyền thế, không xứng kết đôi cùng công tử, công tử mang lễ vật về ngay cho.
Nói xong nang phăm phăm chạy đến bên mâm cau bạc, nhặt lấy chiếc hộp trang sức đang hắt ánh sáng chói lọi rồi đặt vào tay Lý Câu. Lý Câu đang ngơ ngác chưa kịp hiểu ra chuyện gì, bất giác hai tay đỡ lấy mâm đứng như trời trồng giữa sân. Cả đám đông lặng im, há miệng nhìn.
Tôn Trinh phu nhân tái mặt, lật đật chạy ra quát:
- Hỗn nào! Nhuệ Anh! Phận gái cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Phải biết giữ bổn phận.
Nhuệ Anh nhìn mẹ:
- Thưa mẹ, mẹ có chóng quên quá không? Cha mẹ đã sắp đặt cho con một lần và con đã nghe theo. Con quyết không lấy ai ngoài Từ công tử. Xin cha mẹ đừng ép duyên con.
Lý Câu cười nhạt:
- Từ công tử?... Lẽ nào nàng chẳng biết cái thằng dở điên dở khùng ấy đã mắc vào tội vu oán giá hoạ cho người khác, may nhờ hồng ân của cha ta nên mới khỏi bị xử trảm. Mà có khi hắn đã chết rũ xương nơi nào rồi...
Không biết được sự tình nỗi oan trái của Từ Lộ là do cha con Diên Thành hầu gây nên, nhưng Nhuệ Anh cảm thấy rất rõ giọng nói của gã công tử đang đứng trước mặt nàng một vẻ khoái trá dã thú khiến nàng ghê sợ. Nhuệ Anh khinh miệt nhìn gã, ngắt lời:
- Công tử chớ quá lời. Chớ khoái trá khi nói về nỗi bất hạnh của kẻ khác. Trời có mắt. Ta không bao giờ tin người trung nghĩa như cha con Từ công tử lại có thể làm điều gì không xứng đáng. Trong lòng ta chỉ có Từ Lộ mà thôi. Ta tin sẽ có ngày chàng giải được nỗi oan khuất này.
Lý Câu vằn mắt:
- Nàng chớ hão huyền. Muốn gì thì mươi ngày nữa nàng cũng đã nằm trên giường cưới của ta. Ta đã hẹn với nàng trên cầu, vào đêm Nguyên tiêu. Cho đến nay, lẽ nào nàng chưa hiểu tính ta. Ta đã nói, đã muốn cái gì thì dẫu sét đánh ngang tai cũng mặc. Hôm nay, vì sắc đẹp của nàng, ta bỏ qua cho nàng tội bất kính. Lúc này ta chỉ muốn chạy nhanh tới đêm tân hôn. Và hãy nhớ, cái gì công tử Lý Câu này đã muốn ắt phải được.
Rồi đĩnh đạc, khoan thai, Lý Câu mở một nụ cười với vợ chồng Tôn Trinh:
- Bây giờ ta phải về, Cha ta đang mở tiệc khoản đại bạn bè khách khứa. Chắc ông bà tuổi cao, từng trải cũng biết rõ lẽ thiệt hơn mà làm cho tiểu thơ bớt bướng bỉnh.
Gã quay sang cười với Nhuệ Anh đang đỏ bừng mặt vì tức giận:
- Khi tiểu thư tức giận trông càng bội phần xinh đẹp. Ta thích ngay cả sự bướng bỉnh của tiểu thư. Mười ngày nữa, nàng sẽ còn dịp mà phô vẻ tức giận trước mặt ta.
Giáo phường lại nổi nhạc. Mười hai cô gái đội lên đầu những chiếc quả rỗng không, cùng ông mối bà mai và lũ tiểu đồng nhún nhẩy trở về. Lý Câu đi sau cùng. Xe ngựa ghé sát thềm. Trước khi bước lên xe, còn quay lại ghé vào tai vợ chồng quan Ngũ phẩm Tôn Trinh:
- Ông bà hãy cấm cung tiểu thư Nhuệ Anh ngay từ bây giờ. Đừng để tai vạ đến cả dòng họ. Xin hãy bảo trọng.
CỬU TRÙNG
Tháng ba.
Kinh thành đỏ rực hoa. Hàng cây gạo bên sông Cái, sông Nhuệ, sông Tô nghiêng những con rồng lửa quấn quýt nực nội xuống dòng sông. Những cánh hoa rơi lăn lóc trên mặt cỏ như bùi nhùi rơm nhỏ xíu lập loè cháy. Mênh mông mang đầy trời tiếng ong bay.
Vua Lý Nhân Tông ngự lãm điểm binh ở cánh đồng Gỉang Võ.
Bao quanh đài cao là đội Ngự lâm quân do quan Tả đô cấm vệ chỉ huy sứ chỉ huy. Vòng ngoài là mười vệ Điện tiền cấm quân gươm giáo sáng loà, trùng trùng lớp lớp trải rộng, cờ xí rợp trời, kéo dài tới tận sát nơi chuồng ngựa chuồng voi Kim Mã, Cống Vị. Các đạo Tả Quảng Thánh, Hữu Quảng Thánh, Tả Ngự Long, Hữu Ngự Long, Tả Bổng Nhật, Hữu Bổng Nhật, Tả Thần Điện, Hữu Thần Điện... Trên trán mỗi cấm quân đều thích ba chữ son đỏ: "Thiên tử quân". Khi triều đình truyển mộ trai tráng vào các đạo cấm vệ quân, Thái uý Lý Thường Kiệt đã tâu lên vua: "Bẩm bệ hạ. Ta nên chọn dân châu Hoan. Dân đó xưa nay dù mang tiếng gàn dở nhưng một dạ trung thành. Bệ hạ sai chúng gác cổng Cấm thành, chẳng phải chỉ kẻ lạ mặt mà dẫu cha chúng nó xin vào thành nhổ một ngọn cỏ rồi trở ra tức khắc, chúng cũng quyết không cho!...".
- Hoàng thượng giá lâm!
Tiếng hô của quan Tả đô cấm vệ chỉ huy sứ. Cả biển người chuyển động, hô theo như sấm rền:
- Thánh thượng vạn tuế! Thái hậu vạn tuế vạn vạn tuế!
Xa giá tới.
Thớt voi trắng dẫn đầu cỗ xe THÁI BÌNH. Bành voi Bồng la nga cẩn vàng. Cổ voi đeo một chuỗi ba mươi sáu chiếc chuông bạc, mỗi bước đi, tiếng chuông ngân lên trong vắt. Hai quan Chánh phó Điện tiền chủ huy sứ cưỡi ngựa trắng hộ tống hai bên. Đức Nhân Tông ngồi trên bành voi, mặc áo bào tía, đầu đội mũ hành phục quan màu vàng có đính hạt châu. Ngài ngự đang ở tuổi hai mươi hai. Da đỏ hồng hào. Trán dô. Cái nhìn như đóng đinh người ta. Hàm vuông miệng rộng. Tay dài quá gối. Bên cạnh Ngài, Thái hậu Ỷ Lan mặt tròn như trăng rằm, mày tằm, mũi như trái mật treo, quyền cốt nổi rõ dù đám thị nữ đã khéo che phủ bằng một lớp phấn màu hoa đào. Thái hậu đội mũ thêu cửu long chầu nguyệt, tóc búi cài đôi trâm vàng có chữ thọ kết bằng ngọc quý. Mặc áo bào dệt bằng tơ đậu tám sợi thêu rồng. Xiêm cũng dệt bằng tơ đậu tám sợi màu trắng thêu chim phượng.
Đi sau Nhà vua và Thái hậu là Thái uý Lý Thường Kiệt và nhà sư Khô Đầu, vị quốc sư mới được nhà vua tấn phong hồi tháng Giêng, tay cầm tiết việt. Lý Thường Kiệt đã vào tuổi lục tuần nhưng tráng kiện trong bộ võ phục màu đen nẹp trắng, đai tơ sẫm màu, trước ngực thêu hình đầu hổ chỉ bạc. Dưới vành mũ Thái uý là gương mặt đẹp uy nghi. Dải mũ bản to quá khổ nhằm che khuất chiếc cằm trắng không râu. Đi sau nữa là các hoàng thân quốc thích, quan lại từ Tứ phẩm trở lên đội mũ phốc đầu, chân đi hia đế cao. Diên Thành hầu dẫn đầu. Áo bào đỏ viền đai cẩn ngọc quý, hầu là vị quan nhất phẩm được vua Nhân Tông nể vì. Là vị vua có hiếu với mẹ, Đức vua rất hài lòng khi thấy vợ chồng Diên Thành hầu thường xuyên đến thăm Thái hậu, dâng hương liệu lạ, châu ngọc quí và có những câu pha trò khiến Thái hậu vui.
Đến trước đài cao, theo hiệu lệnh của quản tượng, voi trắng rống lên một tiếng trầm đục rồi quì hai chân phủ phục. Thái giám, thị vệ, thị nữ xúm xít đỡ Vua và Thái hậu. Ba hồi chín tiếng trống dóng lên. Theo nhịp trống, Vua và Thái hậu dẫn đầu cùng các quan văn võ bước lên đài.
Đức Nhân Tông kiêu hãnh phóng tầm mắt.
Dưới chân đài, một rừng quân tướng hàng ngũ chỉnh tề, khí giới sắc quắc đứng nín thở chờ đến lúc Ngài phát lệnh điểm binh.
Xa hơn, đội kỵ binh và đội tượng binh uy nghi bên tả, bên hữu...
Và xa hơn nữa, đám dân chúng chen chúc nhau mong được trộm ngắm mặt rồng.
Đức Nhân Tông vui mừng trong dạ. Đất nước qua bao cơn bĩ cực đã tới tuần thái lai.
Mười sáu năm về trước, Nhâm Tý, Thái Ninh năm thứ nhất, mới mười bảy tuổi, Thái tử Càn Đức nối nghiệp cha lên ngôi hoàng đế. Mưa tầm tã hàng tháng trời. Vừa kịp rước Phật Pháp Vân về kinh để cầu tạnh thì xảy đến chuyện nhật thực u ám đất trời. Khắp kinh thành, trong các làng xóm thôn xã, người người chạy ra đường gào thất thanh: "Gấu ăn mặt trời! Gấu ăn mặt trời! Đuổi gấu! Đuổi gấu...". Nhà có mõ dùng mõ, nhà có thanh la dùng thanh la. Người đem nồi đồng mâm thau, liềm quốc ra sân, thất thần ngửa mặt lên trời gõ inh ỏi. Các bà mẹ lén lút dúi đầu con trẻ dưới vạt áo nâu, sợ gấu trông thấy sẽ thèm rỏ dãi, dãi rơi xuống nhân gian mà thành bệnh đậu mùa. Ông già bà cả dùng mỡ bò hoà với nhọ nồi, bắt cả làng bôi nhọ vào mặt trông cho dữ tợn, dùng đòn xóc hai đầu nhọn đẩy trai tráng nhẩy lên nóc nhà, leo lên ngọn cau hú đuổi gấu. Dân chúng hoang mang sợ hãi, nghĩ rằng con gấu đen đang ăn mặt trời trên kia trông thấy, sẽ sợ hãi nhả mặt trời ra mà bỏ đi.
Hết mưa dầm lại đến nắng hạn. Suốt bốn tháng hè không có một hạt mưa. Sông ngòi cạn kiệt. Đồng ruộng nứt nẻ khô rang. Trâu bò lăn ra chết từng đàn. Người người kéo cày thay trâu. Qua thu, cánh đồng lúa chín xơ xác, chó chạy hở đuôi lại bị chuột bọ sinh sôi cùng lũ châu chấu tràn về như những đám mây đen tàn phá. Đã lắm người chết đói. Sáng sáng, cứ mỗi làng bản lại có một đoàn bốn người chức việc mặc áo sô gai, mũ mấn trùm kín mặt, vác hai chiếc cáng tre đi khắp các nẻo phố, khắp hang cùng ngõ hẻm nhặt xác chết đem chôn. Nhiều nhất là xác trẻ con và người già. Không đủ áo tơi nón lá dể đắp xác người. Kín đầu thì hở cả đôi chân khô đét đen sạm. Kín chân thì để lộ cái đầu tái nhợt ghê rợn với đôi tròng mắt tụt như biến sâu vào trong hốc mắt. Thân nhân người chết cũng đói hõm bụng, vật vờ đi sau những chiếc cáng, không đủ sức há miệng cất lên tiếng khóc.
Khắp thiên hạ không thiếu lời xì xầm thị phi. Có kẻ bạo miệng dám nhắc lại chuyện trong cung Thượng Dương. Nói là đêm đêm Linh Nhân thái hậu không ngủ yên. Ruột gan như có ai bào. Canh ba là Thái hậu bật dậy, cuống cuồng đi lại, có lúc chạy điên loạn như bị người ta bắt, rồi quấn hàng chục lớp chăn gấm ôm chân ngồi co trên giường mà khóc kể, gào thét. Hàng trăm chùa chiền mà Thái hậu cho dựng lên khắp trong nước là để sám hối, rửa oan cho việc Thượng Dương thái hậu và bảy mươi sáu cung nữ vô tội bị sát hại năm nào...
Trong nước là vậy. Tình hình bên ngoài cũng đâu được yên ắng. Phía nam giặc Chân Lạp, Chiêm Thành quấy đảo bờ cõi. Bắt người, cướp thuyền bè, thóc lúa. Phía bắc nhà Tống tập trung binh hùng tướng mạnh diễu võ dương oai chỉ chờ dịp nuốt chửng vùng biên ải, dọn quang đường tiến thẳng xuống nội kinh.
Linh Nhân thái hậu che rèm cùng vua ngồi bàn chính sự. Thái sư Lý Đạo Thành và Thái uý Lý Thường Kiệt là quan văn, võ đầu triều được vời vào.
Thái sư Lý Đạo Thành nói:
- Bẩm tâu Thái hậu! Bẩm tâu Hoàng thượng! Ông trời ra hoạ, hết lũ lụt lại hạn hán. Nhưng đâu chỉ có vậy. Thiên hoạ không bằng nhân hoạ. Mấy năm nay nhân khi triều đình bận đối phó với giặc ngoài biên ải, lũ tham quan ô lại, bọn cường hào ác bá mọi nơi đua nhau lộng hành. Dân chúng đã khốn cùng lại càng khốn cùng hơn...
- Có vậy sao?
- Bẩm Thái hậu, kẻ hạ thần đâu dám ngoa ngôn, sàm tấu. Ngày đầu tháng vừa rồi, dân phủ Bình Giang kéo đến trước cửa Đô hộ phủ ngục tụng để kêu về việc tri phủ Lê Trường Tích hà lạm công quỹ, ức hiếp dân lành. Dân tình đói kém người chết đầy đường mà vụ mùa vừa rồi tri phủ tự ý nâng mức thuế vượt quá quy định của triều đình, rồi khai man để đổ thóc xuống thuyền bán cho con buôn với giá gấp năm gấp bảy.
- Sao chưa thấy Tam pháp ty tâu trình việc này?
- Dạ bẩm... Có lời nói Tri phủ Bình Giang dám làm việc sai trái đến vậy là do ỷ thế có chỗ dựa nơi quyền cao chức trọng trong triều đình... Do có...
"Chát!"... Thái sư Lý Đạo Thành giật nẩy người vì tiếng bàn tay Thái hậu đập mạnh lên mặt kỷ. Tiếng Thái hậu cất lên sang sảng sau rèm:
- Quân pháp bất vị thân... Ngay ngày mai ta sẽ đích thân xem xét việc này.
- Dạ... bẩm tâu Thái hậu. Thật phúc cho con dân! Thần trộm nghĩ... Bình Giang là một phủ chẳng xa kinh thành là mấy. Đất rộng, người đông. Không thiếu người hiển đạt, được hưởng tước vị bổng lộc của triều đình... mà còn vậy thì ở những nơi xa xôi hẻo lánh, dân tình ngu muội, triều đình xa quan nha gần thử hỏi thân phận đám dân đen sẽ còn ra sao...!
- Kế sách? - Tiếng Thái hậu với vẻ sốt ruột, nôn nóng.
- Dạ bẩm... Thần trộm nghĩ... Mọi kế sách lúc này của triều đình là sao cho no cái bụng của người dân. Dân có no thì nước mới mạnh. Triều đình cần ra chính sách khuyến nông khuyến điền. Xét giảm thuế má cho những nơi mất mùa dân tình thực sự đói kém. Khai thông mương máng dẫn thuỷ nhập điền, bồi đắp đê điều phòng khi lũ lụt. Khuyến cáo người khai phá đất hoang trồng ngô trồng lúa... Song hành cùng việc đó, triều đình cử quan khâm sai đi các châu phủ để xem xét dân tình, tra xét hành vi của bọn tham quan ô lại để giữ nghiêm phép nước, cất nhắc những người hiền lương có tài văn võ cho quản quân dân... Không lúc nào bằng lúc này triều đình cần lời nói thẳng.
- Những việc đó cần làm ngay!
- Dạ, bẩm Thái hậu. Thật là hồng phúc cho muôn dân!
Thấy Lý Đạo Thành đã dập đầu lạy, nhưng vẫn cứ quỳ nguyên trước rèm, Thái hậu lên tiếng hỏi:
- Quan Thái sư còn có điều gì nữa?
- Dạ bẩm Thái hậu. Bẩm Hoàng thượng...
- Quan Thái sư chẳng vừa nói, triều đình ta đang cần người nói thắng mà!
- Bẩm Thái hậu. Thần vốn nông nổi, chỉ e lời nói khó lọt tai, mà khéo người nói lại chuốc hoạ...!
Sau rèm, Thái hậu cả cười. Là người đàn bà tuệ mẫn sáng láng, lại quyền biến trong những những năm chấp trị đất nước thay đức Thánh Tông đi đánh giặc bình định đất phương nam, bà am hiểu tỏ tường, biết sở trường sở đoản của từng quần thần văn võ đang phủ phục trước mặt kia. Đôi môi Thái hậu đầy đặn đỏ thắm:
- Thái sư cả nghĩ! Ta dẫu phận đàn bà nhưng nhờ ơn tiên đế cũng phân biệt được trăng sao. Có điều gì quan Thái sư cứ nói!
Thái sư Lý Đạo Thành ngập ngừng giây lát rồi mới cất tiếng:
- Từ thời đức Thái Tổ dựng nước, triều đình ta đã lấy đạo Phật làm gốc. Nhờ Phật pháp giáo hoá chúng sinh mà dân an nước thịnh. Nhưng những năm gần đây, dân tình đói khổ mà ngược lại chùa chiền lại dựng lên quá nhiều. Bao nhiêu của cải, công sức đổ vào nơi cửa Phật. Qúa nửa dân trong nước đi làm sư sãi, mải cầu kinh mà trễ nải nông tang. Số ruộng đất lành để làm Qui điền cho các chùa chiền rất nhiều mà thường lại bỏ hoang hoá vì đa phần sư sãi không lo chuyện ấy mà chỉ trông vào của cúng lễ của chúng sinh... Thần xin liều chết mạnh dạn tâu trình lên Thái hậu cùng Hoàng thượng... Triều đình cần ra định mức quy điền cho mỗi chùa tuỳ theo quy mô và số sư sãi trụ trì nơi đó. Số ruộng dôi dư sẽ chia cho các nông phu chăm chỉ làm ăn mà hiện không một tấc đất trong tay. Đồng thời cho củ soát nghiêm ngặt các nơi tu hành để loại bớt những kẻ lười biếng, không thực bụng tu hành, chỉ muốn nằm lười làm ăn nhờ trong cửa Phật... Như thế, Thái hậu sẽ có đến quá nửa người nhà chùa nhập thế lo việc nông tang. Mặc khác Phật đạo cũng vì thé mà lại thịnh vượng hơn nhiều. Triều đình cũng tránh được tiếng thị phi...
Sau rèm lặng ắng hồi lâu.
Rồi tiếng Thái hậu lạnh lùng ban ra: "Bãi triều!".
Ba ngày sau hoả đầu được lệnh nấu những nồi cháo lớn đặt ở sân chùa, ngã ba ngã tư đường phát chẩn cho thiên hạ. Những bát cháo loãng còn rất ít ỏi, người chết đói vẫn đâỳ đường đầy chợ nhưng những nồi cháo thí cũng khiến cho dân chúng cảm động, từ chỗ oán thán chuyển sang ngợi ca công đức của Thái hậu và đấng minh quân. Thái hậu lại vời riêng một đám nho sĩ, ca công ra ân mưa móc cho được ân hưởng lộc điền trạch, ban phát lụa vàng. Đám nho sĩ, ca công được nuôi nấng chăm chút trong triều tưởng đời chẳng còn mong gì hơn, chỉ còn một việc ngaỳ đem uốn bút dẻo lưỡi bày đặt những diễm khúc tụng ca cuộc sống no ấm của chúng dân dưới công ơn mưa móc của Thái hậu và Hoàng thượng cùng những anh hùng dám lìa bỏ mẹ già vợ yếu con thơ đi chiến trận.
Nhưng cũng chẳng bao lâu sau buổi lên triều hiến dâng kế sách, Thái sư Lý Đạo Thành được gọi lên giao chức Tả Gián nghị đai phu vào trông coi châu Nghệ An xa xôi. Thái sư biết đây là hậu quả của việc mình quá lời tâu bày. Tới nơi trị nhậm mới, Đạo Thành lập Viện Địa Tạng trong miếu Vương Thánh. Uy nghi giữa điện đặt tượng Phật và vị hiệu của đức Thánh Tông, sớm hôm thờ phụng.
Năm Kỷ Mùi, Anh Chiêu Vũ Thắng thứ tư, châu Lạng dâng voi trắng. Có mưa đá. Nhưng cả nước lại được mùa to. Nhà nhà thóc chứa đầy cót, khoai củ chật gầm giường. Khắp nơi vang vang tiếng ca ngợi công đức của Linh Nhân Thái hậu và đức Nhân Tông trị nước.
Chúng dân lại nức lòng theo việc triều đình. Cả nước hăng hái dồ tận lực vào việc quân. Nhà nhà gươm giáo vũ khí sáng choang, cung nỏ dầy đặc trên vách. Trai định cuộn vế xoa tay mắm môi mắm lợi chỉ chờ lệnh trên gọi là lập tức đội nón vác đao đi làm việc quân. Việc đồng áng ruộng nương ở nhà tất thẩy đều do người già, đàn bà trẻ con gánh vác. Mỗi nhà đều giắt sẵn trên vách một tù và sừng trâu. Hễ có động là tiếng tù và rúc lên vang dội, gọi lũ lượt trẻ con, người già và đàn bà tay cung tay nỏ đổ túa ra đường... Không đủ vải trắng làm khăn tang cho người chết. Nhưng tất cả không ngăn được giòng thác người sẵn sàng chờ lệnh xung quân theo những tiếng tù và xông trận đầy ma lực.
Chẳng thế mà Vương An Thạch, tể tướng dạ dầy mưu lược của triều đình nhà Tống , ngoài từng đánh đông dẹp bắc, trong đã từng dâng nhiều kế sách trị quốc an dân, được hoàng đế Tống rất trọng nể, vẫn bị mắc lỡm khi phái thám quân sang dò la đất Giao Chỉ.
Quân về báo với ngài tể tướng rằng hiện vua Giao Chỉ còn trứng nước, mới chưa đầy mười tuổi, mới được Thiên tử triều Tống phong làm Giao Chỉ quận vương để an ủi mà ngoan ngoãn giữ thuần phục, nhưng nay giao chỉ quá lao lực về việc binh. Dân gầy còm vì đói kém lâu ngày, lại phải gánh vác lao dịch xây nhiều chuà chiền, nay tuy tướng với quân đều còn hăng hái nhưng phía nam phải lo đối phó với quân Chiêm Thành sang đánh phá liên miên, vì thế phía bắc có thể lơi là việc trấn giữ biên ải. Trải qua nhiều cuộc đao binh quân số hao mòn tổn hại, cả nước có lẽ không còn đến vạn binh...!
Nhân tin đó, Vương An Thạch tính kế tâu với vua Tống:
- Thần trộm nghe, việc mở mang bờ cõi làm rạng danh tổ nghiệp vốn là việc trọng đai của bản triều ta... Nước Nam đang suy yếu, vua nhỏ tuổi, dân tình ly tán đói khổ. Ta nên nhân dịp này mà xua quân đánh chiếm lấy để chia thành quận huyện thuộc thiên triều. Như vạy cũng là nhổ bỏ cái gai trong đế giầy vương giả, tránh cái hoạ tiềm ẩn phương Nam nhiều đời tiên triều ta vẫn phải lao tâm định liệu...
Vua Tống nghe lời tâu, cả mừng, bèn sai hai tướng tài Thẩm Khởi và Lương Di làm tri Quế Châu, chuẩn bị binh mã, cấm các châu huyện không được giao du mua bán với dân Giao Chỉ. Trên bộ thì ngầm dấy binh người Man động quấy rối vùng biên giới, dưới nước đóng thuyền bè ra sức dàn quân thao luyện thủy chiến.
Đứng từ đỉnh núi bên này trông sang, Thái uý Lý Thường Kiệt nhìn thấy dọc vùng biên, quân Tống ngựa xe dàn binh đen kịt, cờ xí rợp trời. Các chiến thuyền với hàng tay chèo lực lưỡng đậu sẵn trên bến sẵn sàng xuất trận. Lý Thường Kiệt cười nhạt nói với các phó tướng đang đứng quanh: "Xưa nay ta vẫn nghe tài dụng bình của THẨM KHỞI và LƯƠNG DI, trong lòng cũng có phần nể trọng. Gìơ mới được tận mắt nhìn thấy... lẽ nào lời truyền trong thiên hạ lại là ngoa ngôn?".
Lý Thýờng Kiệt khẩn cấp về triều tâu lên vua kế sách chống giặc:
- Muôn tâu hoàng thượng! Thế giặc dẫu mạnh nhưng xin người đừng quá lo lắng làm hao tổn mặt rồng. Hạ thần đã có kế phá...
Đức vua khi dó mới mười tuổi, nghe thế giặc mạnh đã ngợp người kinh sợ, phán:
- Nay quân ta còn đang phải đối phó với rợ Chiêm Thành. Chiến trận liên miên thôn xóm nào cũng văng vẳng không dứt tiếng khóc người chết trận. Quân số còn lại ít ỏi sao có thể đối phó lại với giặc phương Bắc hung dữ như hùm như sói kia...
Thái hậu ngồi sau rèm toan cất lời thì Thái uý tâu tiếp:
- Hoàng thượng! Xin chớ nhọc lòng. Dân Đại Việt ta xưa nay nhiều chỗ kém người nhưng cũng có những điều mà thiên hạ không thể sánh kịp. Khắp thôn xóm bao đời nay chưa lúc nào nguôi tiếng khóc người chết trận...
Nhân Tông cau màu, vẻ bực bội hiện rõ trên mặt. Nhưng Thái uý đã tâu tiếp:
- Mà tiếng trống ra quân và tiếng tù và vào trận cũng chẳng khi nào ngập ngừng lưỡng lự. Mà mỗi dân đen là một tên lính dũng mãnh... Cái hơn của người Nam ta so với người thiên hạ là vậy. Mặt khác, dân chúng tuy lao dịch khổ ải nhưng Bệ hạ cũng biết rằng chính sự khổ ải trong cuộc sống trần thế này khiến cho con nhà nông phu nhẹ buông mạng sống hơn trong chiến trận. Trong thôn xóm vẫn có nhiều kẻ mong nhập quân để được bữa no cơm.
Thái uý rút từ trong tay áo ra một cuốn sách chữ viết bay bướm như hoa nở lá chào trên giấy hoa tiên màu vàng nhạt, nói tiếp:
- Và khắp trong dân gian, miệng lưỡi lũ ca nhi cùng ngòi bút lông cùn của kẻ sĩ xưa nay vẫn chẳng không ngừng đón ý Bệ hạ để làm bản ca ngợi cái chết nơi chiến trận, biến những chiến trận đẫm máu thành những lễ hội tưng bừng của kẻ thắng cuộc đó sao! Lẽ nào Bệ hạ không biết rằng dùng miệng lưỡi của bọn ca công và ngòi bút kẻ sĩ lùa người ra trận còn dễ còn nhẹ hơn nhiều lần lệnh chiêu binh mãi mã của triều đình?
Trong rèm chợt vang lên giọng cười sang sảng của Thái hậu:
- Ta không ngờ quan Thái uý lại tinh tường lòng người đến vậy. Thật cũng hả lòng với thiên hạ ngoa truyền rằng ta là phận nữ nhi mà cũng khéo biết dùng người. Vậy Thái uý hãy kíp đem binh đi lo liệu việc này.
Lý Thýờng Kiệt kính cẩn chắp hay tay trước ngực:
- Thần đội ơn Thái hậu đã có lời động viên kẻ ra trận. Nhưng thần cũng mạnh gan xin đề bạt lên Thái hậu và Hoàng đế bệ hạ xem xét...
- Quan Thái uý cứ nói...
- Triều đình nhà Tống lúc này tạm yên lòng với phương Bắc. Hiện muốn dồn sức thể thôn tính nước Nam ta. Thuỷ bộ hai mặt đều dùng tới. Lại thêm quân Man động là đân sơn cước hung hãn quen lối đánh hiểm thọc sâu... Kế sách dụng binh của ta xưa nay vẫn là lấy tinh thắng thô, lấy mưu trị lực. Nhưng cũng không thể dùng đê mỏng mà ngăn sóng dữ xô bờ...
Thái hậu xô rèm bước hẳn ra ngoài:
- Thái uý nói chí phải!
- Thần trộm nghĩ, mười vạn tinh binh là việc lúc này cần bằng mọi giá triệu tập...
Thái hậu thảng thốt, nhướng cao đôi mày ngài đen mượt:
- Sao? Lẽ nào Thái uý không biết rằng quân ta sau nhiều lần chinh chiến đã hao hụt tổn hại rất nhiều, nay có gắng gỏi vớt vét trong cả nước cũng chỉ được hơn mười vạn?
Lý Thường Kiệt thong thả chắp tay:
- Qủa có thế, tâu Thái hậu. Nhưng thần trộm nghĩ, xưa nay chiến trận giữa ta và phương Bắc có lúc thắng có lúc thua. Ngay lúc thắng thì đất nước dân tình cũng chỉ yên ổn được dăm năm. Còn mầm hoạ thì vẫn không loại được...
- Vậy quan Thái uý muốn gì?
- Dạ bẩm, xin Thái hậu và Hoàng thượng cho phép. Muốn dụng người phải dụng tận tâm. Muốn diệt hoạ phải diệt tận gốc. Lúc này dẫu binh sĩ ta không nhiều nhưng khí thế lại hăng say. Từ kinh thành đến nơi thôn dã nghe phong thanh quân Tống rập rình ngoài cõi, mọi người đã nhấp nhổm chờ lệnh trên truyền gọi:
Thái hậu cười, gương mặt đày đặn sáng ngời như khuôn trăng:
- Ta nghĩ, thứ dân trong thiên hạ, không đâu dễ sai bảo như thứ dân của nước Nam này.
Lý Thường Kiệt phác một cử chỉ không ra đồng tình, không ra phản đối, bàn tay rơi xuống lưng chừng:
- Vì thế, cứ theo ngu ý của thần, trận này không chỉ khoanh tay ngồi chờ giặc thù tràn vào bờ cõi mới đánh... mà phải ỷ vào sức quân lòng dân mà dấn trước... Ta phải tràn qua đất phương Bắc để đập tan mầm hoa, khiến lũ cầy cáo phương Bắc phải táng đởm kinh hồn, cha mẹ con cái truyền nhau đời đời không còn dám nhòm ngó đụng chạm đến nước Nam ta...
Ngai vàng lặng ắng. Thái uý thản nhiên chờ đợi.
Hồi lâu, tiếng Thái hậu vang lên sang sảng giữa triều đường:
- Bay đâu... Truyền lấy ấn tín. Giao toàn quyền cho Thái uý định liệu, thống lĩnh mười vạn tinh binh để trị tội lũ giặc phương Bắc...
Được ngự ấn, Lý Thường Kiệt chọn Tông Đản làm phó tướng, nhất nhất chỉnh đốn lại quân mã trong các châu huyện. Một mặt, cấp tốc luyện tập thuỷ bộ mười vạn tinh binh. Một mặt khẩn trương cho người đi khắp các thôn xóm động dân vi binh chuyển ngay về phía Nam phòng quân Chiêm Thành thừa lúc trong nước đang dồn quân lên phương Bắc mà tranh thủ sang quấy phá. Đàn ông trai tráng đã vét cạn kiệt. Trong đoàn dân binh chuyển về phía Nam đề phòng quân Chiêm Thành không thiếu những mái tóc đã bạc hay những chỏm tóc trái đào.
Đại binh thuỷ bộ rầm rập kéo lên phương Bắc. Mùa đông. Thái uý chỉ huy cánh quân vây hãm châu Khâm châu Liêm. Phó tướng Tông Đản vây đánh châu Ung trên đất nhà Tống. Vua Tống sai Đô Giám Quảng Tây là Trương Thủ Tiết mang quân đến cứu. Lý Thường Kiệt điều quân lên đón đánh ở cửa ái Côn Lôn, phá tan quân tiếp viện, chém Trương Thủ Tiết tại trận.
Thành Ung châu bị vi ròng rã bốn mươi ngày. Lương thảo cạn kiệt, quân Tống giết ngựa chiến để ăn thịt, vặt rơm cỏ cầm hơi, ngày đêm đỏ mắt trông đợi viện binh. Tri Ung châu là Tô Gíam là một kẻ trung thành, nghĩa khí, buộc mình và vợ con chịu đựng khổ sở cùng quân lính, bữa bữa cũng chỉ húp cháo thịt ngựa cầm hơi. Dân thành UNG châu thấy thế, không oán thán nữa, cắn răng cố thủ. Đến khi ngựa thị hết, quá nhiều người chết đói, quan lính bị dịch bệnh quá nửa, lại nghe tin cánh quân cứu viện của Trương Thủ Tiết dã bị tướng Giao Chỉ là Tông Đản đánh cho tan tác, quân dân trong thành kiệt hết nhuệ khí, không còn sức mà chống cự. Nghe tiếng loa mo cau của quân Giao Chỉ ngày đêm chõ vào thành gọi hàng, nhiều kẻ xáo động, bàn Tô Giám nên mở cổng thành để bảo toàn tính mạng.
Tô Giám ra đứng chắn trước cổng thành, cho người đi gọi vợ con quyến thuộc tất cả ba mươi sáu người đến. Lúc ấy quân Giao Chỉ đã cởi áo dồn đất buộc làm thành bao, chất lên cao ngất mà trèo vào mở cổng thành, tràn vào như nước vỡ bờ. Tô Giám biết thể đã cùng, quỳ xuống trước mặt vợ con xá ba xá:
- Xin nàng cùng các con tha tội. Thân nam nhi đứng trong trời đất, hưởng lộc vua ban mà lúc nguy nan không đền đáp được, chẳng còn mặt mũi nào nhìn thấy vầng ô kia nữa...!
Nói rồi, tự cầm kiếm bức gia thuộc ba mươi sáu người chết trước, chôn chung một hố rồi tự tay châm lưa đốt mình chết theo. Dân trong thành nhìn thấy cử chỉ ấy, hu hu khóc như khóc cha chết, liều mạng cố thủ. Cho đến lúc thành bị triệt hạ, quân và lính bị giết tới hơn năm vạn tám ngàn người. Cộng với số người nhà Tống bị giết ở cả ba châu đã tới hơn mười vạn người. Quân Giao Chỉ đã rút về nước rồi mà khắp mơi một giải đất giáp biên giới, dân Tống bỏ trắng đất đai nhà cửa mà tan tác chạy. Hàng chục dặm đường không nhìn thấy ánh lửa, không nghe thấy tiếng chó sủa mèo kêu.
Bị thua đau, Bính Thìn năm sau, vua Tống lại sai Tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Qùi làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân chín tướng hợp với Chiêm Thành, Chân Lạp sang nước ta để trả thù. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, bên sông Như Nguyệt chém hơn một nghìn đầu giặc. Quách Qùi phải lui quân.
Tháng Ba, Đinh Tỵ, lại đem binh sang đánh châu Khâm và châu Liêm nước Tống. Rồi mùa đông, tháng Chạp, tướng Tống là Triệu Tiết đưa quân sang xâm chiếm bờ cõi nước ta. Đánh đi đánh lại giằng co, không khuất được thì tha làm phúc, năm Kỷ Mùi, nhà Tống đành đem trả cho ta châu Quảng Yên dẫu rằng trước đó họ đã đổi tên thành Thuận Châu nhằm vĩnh viễn nhập vào đất Bắc. Để đáp lại, vua ta cũng sai người mang voi trắng, ngựa trắng sang dâng vua Tống, trả lại cho nhà Tống dân, lính bị bắt ở ba châu Ung, Khâm, Liêm. Vua Tống hài lòng, tháng Ba năm ngoái, sắc phong vua ta làm Nam Bình Vương.
... Lớp lớp quân sĩ diễu hành qua trước chân đài cao. "Thái hậu vạn vạn tuế! Hoàng thượng vạn vạn tuế!". Đức Nhân Tông tươi cười, hả lòng đáp lại lời tung hô của các tướng sĩ. Ngài ngự nhìn sang bên, thấy Thái hậu cũng ngời ngợi niềm vui trên nét mặt.
Đoàn kỵ binh, tượng binh cuối cùng rầm rập diễu qua. Chiêng trống hoà trợ theo, tạo thêm cảnh tượng hùng tráng của buổi điểm quân.
Bỗng có tiếng ngựa hý, voi rống bất chợt vang lên phía cuối đoàn quân. Những con ngựa đang nhịp bước đều đặn đột ngột bị ghìm lại, tức tối tung hai vó lên trời, hí lên từng hồi.
Vua Nhân Tông cố nhướng mắt, vươn người để nhìn cho rõ.
Tả hữu văn võ đứng cả dậy, sửng sốt, giận dữ, cùng nhìn chằm chằm vào một hình thù trăng trắng đang cố sức vùng ra khỏi tay viên thống lĩnh ngự lâm lực lưỡng.
Con ngựa bị ghìm cương trước hai người càng lồng lên tức tối. Vó ngựa muốn giẫm nát kẻ trước mặt. Viên thống lĩnh sợ hãi buông lỏng tay, nhẩy dạt sang bên. Cái bóng trắng thừa cơ tháo thân, chạy vụt lên đài cao, đến trước mặt vua, quỳ mọp, hai tay giơ cao một mảnh lụa trắng thấm máu, rên xiết:
- Hoàng thượng! Oan ức quá!... Hoàng thượng!...
Bây giờ mới nhìn rõ, kẻ cả gan gây náo loạn đó là một thư sinh. Bộ áo sô gai không làm mờ được đôi mắt đang cháy rực trên gương mặt tuấn tú.
Cái thân hình nhàu nát đó là Từ Lộ.
Từ canh ba, Từ Lộ đã rời miếu cổ ven sông Tô, tay ấp chặt lá huyết thư vào ngực, lần đến cánh đồng Gỉang Võ nơi đức vua sẽ điểm binh. Chàng biết rằng việc mình định làm là vô cùng liều lĩnh, chiếu theo quân pháp có thể bị ghép vào tội chết tức thì. Nhưng nếu không nhân dịp này vượt qua mặt lũ tham quan ô lại được triều đình giao cho quyền cầm cân nẩy mực phán xử dân lành mà được tâu lên Thái hậu và Hoàng thượng nỗi oan khiên cùng cực của gia đình chàng, mong chờ lượng cửu trùng soi rõ cái chết oan ức của cha mẹ chàng thì dẫu có bị bêu đầu trên cọc nhọn, tứ mã phanh thây chàng cũng cam lòng.
Từ Lộ biết rằng từ thời Thái Tông hoàng đế anh minh, nhà vua đã xuống chiếu cho đúc một quả chuông tô treo ở sân Long Trì để thần dân thiên hạ ai có việc oan ức không bày tỏ được thì dến đánh chuông kêu oan. Có lần chính đức vua đã thân ngự ra xét xử. Nhờ thế, nhiều vụ oan khuất tày trời đã được minh định. Lũ tham quan ô lại bị trừng trị. Dân chúng phấn chấn, nức lòng ca ngợi ân đức cao xa, thương dân thương nước của Hoàng đế.
Nhưng đức vua thì có một mà nỗi oan khiên trong thiên hạ thì như rừng. Dần dần việc lớn việc nhỏ lại trở về Tam pháp ty và Đô hộ phủ ngục tụng tra xét, phán quyết. Quan Đô hộ phủ cho bốn tên lính cao to như bốn hộ pháp canh chùa đứng quanh quả chuông. Dùi chuông vẫn để đấy, chuông khiếu oan ngày đêm vẫn ngóng đợi tay người gõ nhưng đám dân đen oan khuất có bước được tới sân Long Trì thì vừa trông thấy lũ lính canh dữ dằn đã táng đởm kinh hồn, gan nào mà còn dám đụng đến dùi chuông. Qủa chuông kêu oan mưa nắng dãi dầu, dần dần hoen rỉ. Tiếng chuông thưa dần, ngài ngự trong cung thấy vắng tiếng chuông trong lòng lấy làm vui, nghĩ rằng phép công đã thấm đẫm xuống mọi dân đen con đỏ, thiên hạ yên bình, người người hoan lạc âu ca.
Từ ngày cha bị hại, mẹ chết oan ức khi có lệnh phán quyết của Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh, Từ Lộ không còn tin gì vào phép nước dưới bàn tay của lũ tham quan ô lại. Cũng đã nhiều làn chàng tự hỏi tại sao trước kia mình không thấy điều đó, và hiểu ra rằng những ngày mình sung sướng trong chăn êm nệm ấm, bữa bữa ngập mâm sơn hào hải vị, khi vui chơi thì xách cây đèn lồng nâng cây sáo Tiêu tương... thì làm sao có thể hiểu được nỗi khốn cùng của bàn dân thiên hạ.
Chàng biết rằng chỉ còn một cách, đợi ngày Dần tháng Tư sắp tới, Thái hậu cùng đức vua theo lệ hàng năm điểm quân ở cánh đồng Gỉang Võ tây bắc kinh thành, chàng sẽ liều mạng tới đó mong được bày tỏ nỗi oan khiên thấu trời trước mặt Thái hậu và Hoàng thượng anh minh.
- Tâu Thái hậu! Oan ức quá! Tâu Hoàng thượng!
Từ Lộ cố vặn mình dẫy dụa mong ra khỏi những cánh tay cứng như thép của mấy tên Ngự lâm quân để ngoài về phía đài cao.
Đã tạm yên tâm về tên nghịch tặc bị kìm chặt trong tay mấy tên lính ngự lâm quân lực lưỡng, quan Tả đô cấm vệ chỉ huy sứ lật đật chạy tới trước đài, quỳ mọp dưới chân vua, lạy như tế sao:
- Kẻ bề tôi ngu muội này vì sơ suất mà đắc tội làm kinh động đến Thái hậu và Hoàng thượng. Thật đáng tội chết!
Thái uý Lý Thường Kiệt nắm đốc gươm đeo bên người, cau mặt quát:
- Ta đã giao lệnh cho nhà ngươi, chốn võ trường phải phòng vệ nghiêm cẩn. Sao kẻ nghịch kia lại có thể len vào tới tận đây để khuấy động trước bệ rồng?
Quan Tả đô cấm vệ khúm núm dập đầu xuống đất:
- Dạ bẩm... Tên nghịch tặc này trà trộn trong đám người xem đứng điểm binh... Thấy hắn mặc đồ tang ai cũng nhường nhịn... Không ngờ hắn lại dám bạo gan liều mình cản đường voi ngựa làm kinh động ba quân. Xin quan Thái uý hãy lệnh cho quân sỹ chém ngay đầu hắn để làm gương trước dân chúng!...
- Hãy khoan...!
Tiếng quát uy nghiêm của đức vua cắt ngang lời quan Tả đô cấm vệ. Chung quanh im phắc chờ đợi.
Đức Nhân Tông nhìn xuống Từ Lộ đang bị mấy tên Ngự lâm quân giữ chặt tay chân dưới đài:
- Tên ngỗ ngược kia! Sao nhà ngươi dám to gan lớn mật gây náo loạn trong buổi điểm quân. Ngươi có biết như vậy là tội chém ngang lưng?
Từ Lộ nhân lúc các tên lính lỏng tay đón nghe lệnh của Nhà vua, chàng quỳ thụp xuống, hai tay dâng lá đơn viết bằng máu hướng lên phía Hoàng thượng:
- Bẩm, muôn tâu! Hạ dân biết tội này đáng chém. Nhưng trước khi chém đầu, xin Hoàng thượng gia ân, cứu xét việc phụ thần hạ dân này vì lòng trung trực mà bị kẻ cậy quyền cậy thế ám hại. Thân mẫu hạ dân ngậm miếng thác oan. Hạ dân nghĩ đó cũng là ý nguyện muôn đời của đấng Cửu trùng để giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Lúc đó, hạ dân có chết cũng cam lòng.
Thái hậu nãy giờ vẫn lẳng lặng nhìn con người khăn sô áo trắng quỳ mọp dưới chân đài, bây giờ mới oai nghiêm lên tiêng:
- Hỗn xược! Tên dân đen càn rỡ không hiểu gì phép nước. Việc cứu xét án trạng, minh tỏ mọi nỗi oan khuất trong thiên hạ... dưới đã có các phủ các châu. Nơi kinh đô có Độ hộ phủ ngục tụng. Cao hơn nữa còn có Tam pháp ty... Nếu có quả có điều oan khuất tại sao ngươi không đến những nơi đó kêu trình mà lại dám đến đây cản đường điểm binh của quân sỹ. Cha ngươi, mẹ ngươi là những kẻ nào?
- Muôn tâu Thái hậu anh minh. Cha của hạ dân là Tăng đô án Từ Vinh, bị kẻ ác sát hại đêm Nguyên tiêu cách đây tròn ba tháng. Mẹ con hạ dân đã Đến đô hộ phủ ngục tụng kêu oan. Nhưng phán xét nơi cửa quan không được minh tường. Mẹ hạ dân phải chết trong oan khốc...!
Từ Lộ chưa dứt lời thì phía sai Thái hậu một người đã bước ngang ra. Người đó cúi gập áo bào trước mặt Thái hậu và Đức vua, rồi quay xuống chỉ vào mặt Từ Lộ quì dưới chân đầi:
- Muôn tâu Thái hậu. Muôn tâu Hoàng thượng! Kẻ ngỗ ngược kia là Từ Lộ con trai quan Tăng đô án Từ Vinh. Ba tháng trước, đêm Nguyên tiêu, quan Tăng đô án Từ Vinh đã vui chơi rượu say quá chén, trên đường về nhà hụt chân ngã xuống sông Tô mà chết. Mẹ con Từ Lộ không tin điều thật mà lại cho rằng chồng, cha mình bị người khác thù hằn ám hại. Mẹ con họ đã kiện cáo khắp nơi. Nhưng trời đất rõ tỏ. Công lý sáng bầy. Quan Đô hộ phủ ngục tục Trần Dĩnh đã đích thân mất nhiều công sức tra xét án này. Kết luận đã rõ ràng, khắp kinh thành người người đều công nhận. Thế mà tên Từ Lộ trẻ người non dạ kia vẫn không lấy thế làm yên, hôm nay lại còn dám đến tận nơi điểm quân này cản đường tướng sĩ, làm kinh động đến đức Thái hậu và Thánh thượng!
Thái hậu cau mặt. Rồi bất ngờ, bà quay lại phía sau, cất tiếng:
- Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh có đây? Truyền lệnh ta hỏi...
- Dạ bẩm... Có kẻ hạ thần!
Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh từ phía sau lóp ngóp ngoi lên, quì mọp, vai so lại trước bệ rồng.
- Trần Dĩnh, có việc đó không?
Trần Dĩnh run rẩy:
- Muôn tâu Thái hậu. Muôn tâu Hoàng thượng. Dạ, có việc đó ạ!
- Đô hộ phủ, ngươi đã định việc thế nào?
Trần Dĩnh càng thất thần. Lưng gập lại mà vẫn cố lét nhìn lên nẹp áo bào đỏ của Diên Thành hầu. Bắt gặp nét mặt đe nẹt và cặp mắt lạnh lẽo của hầu, Trần Dĩnh thu mình, cố thu hết can đảm hồn vía trong người, lập cập tâu trình:
- Dạ, bẩm Thái hậu anh minh. Mẹ con nhà Tăng đô án bị khép tội vu cáo người ngay, làm náo động nhân tâm nơi kinh thành. Tội nặng đáng phải nghiêm trị. Nhưng xét công lao của Tăng đô án Từ Vinh trước đây, vả lại kẻ chết dẫu sao cũng đáng xót, nỗi đau của người sống dẫu sao cũng đáng thương nên chỉ cách xuống làm thứ dân, tịch biên toàn bộ gia sản.
Thái hậu gật đầu. Rồi bà quay trừng mắt quát Từ Lộ;
- Sự tra xét của quan Đô hộ phủ ngục tụng nghe vậy là có lý lại có tình. Kẻ học trò ngu muội kia! Ngươi còn gì để nói?
Diên Thành hầu lại vội quỳ xuống, tâu xen vào:
- Bẩm Thái hậu! Án của Đô hộ phủ ngục tụng ban ra, mọi người trong kinh thành đều hả dạ. Đều thấy rõ dưới thần oai sáng suốt của Thái hậu và Hoàng thượng, phép nước công minh, có uy có nhân. Muôn họ đều hết lòng ngợi ca... Thế mà bây giờ có kẻ nghịch tử ngông cuồng kia lại vẫn còn bạo gan làm rối bước ba quân, kinh động trước bệ rồng... Tội đáng chém ngang lưng. Xin Thái hậu ban lệnh để giữ nghiêm phép nước.
Thái hậu gật đầu:
- Các ngươi cứ theo phép nước mà thi hành. Nặng nhẹ đừng quá. Hãy nhớ, từng việc một, có con dân ở dưới theo dõi. Thôi, dọn kẻ này đi!
Nghe lời Thái hậu phán truyền, mấy tên ngự lâm quân xốc Từ Lộ dậy lôi đi xềnh xệch. Từ Lộ ngẩng mặt lên trời, kêu thống thiết:
- Từ Vinh cha ơi! Oan hồn người ở trên trời hay nơi địa ngục? Ngươi có nhìn thấu nỗi oan này không? Mẹ ơi! Hồn mẹ có thiêng, xin về chứng giám!
Tiếng kêu than của Từ Lộ vang thấu cõi trời. Dường như trời đang quang đãng bỗng tối sầm. Từ đôi mắt của Từ Lộ, đôi dòng máu chảy ra nhuộm đỏ cả khuôn mặt.
Trần Dĩnh bỗng rùng mình, đổ vật ra đất.
Ngồi bên Thái hậu, đức Nhân Tông thấy cảnh tang khốc, lại vốn tin vào các điềm lành dữ, nỗi từ bi hỷ xả của nhà Phật, ngài ngự giơ bàn tay ra phía trước, chậm rãi lên tiếng:
- Hãy khoan... Ta hỏi?
Lính ngự lâm vội ghìm Từ Lộ.
Nhân Tông:
- Tên học trò kia. Ngươi nói là cha ngươi bị kẻ ác dụng tâm hãm hại. Vậy ngươi có tang chứng gì không? Sao không đưa trình trước Đô hộ phủ?
- Dạ, bẩm tâu Hoàng thượng...!
Nghe đức vua hỏi, Từ Lộ rùng mình, lại khóc rống lên. Cổ họng chàng nghẹn tắc, không sao thốt được lên lời. Tang chứng ư? Chẳng lẽ lại dẫn ra được cái thây cha chàng dựng đứng trên sông Tô, ngón tay chỉ thẳng vào cửa nhà Diên Thành hầu. Chẳng lẽ lại có thể tâu lên đức Hoàng thượng cái khuôn mặt bầm máu và đôi mắt mở trừng trừng oan ức của cha trong những đêm hiện về báo mộng, kêu gọi mẹ con chàng phải trả thù?
- Oan ức lắm... Hoàng thượng!
Cuối cùng Từ Lộ một lần nữa chỉ biết kêu lên trước đấng Cửu trùng.
Đức Nhân Tông cau mày. Một niềm thương cảm thoáng hiện lên trông ánh mắt, khuôn mặt đức chăn dân.
- Thôi, tha cho kẻ học trò hồ đồ này. Trẻ người non dạ. Vả lại, nhà Tăng đô án Từ Vinh tang khốc như vậy là quá lắm rồi. Hãy lấy điều nhân nghĩa làm trọng.
Diên Thành hầu bầm mặt.
Linh Nhân Thái hậu đã đang suy nghĩ sang việc khác. Miệng bà mím chặt.
Nhân Tông phán truyền:
- Tha cho hắn! Trong ngày điểm binh, tối kỵ sát nhân gây rủi ro, làm nhụt lòng quân sĩ!
Trống lại điểm. Thanh la não bạt lại rộn ràng.
"Thánh thượng hồi cung!" Tiếng hô của quan Tả đô cấm vệ hùng dũng cất lên.
Thớt voi trắng được quản tượng điều tới, phủ phục trước đài cao.
Mảnh lụa viết bằng máu của Từ Lộ lảo đảo rơi xuống từ chín bậc Cửu trùng.
Từ Lộ bị lôi xềnh xệch ra khỏi đài cao, đẩy đổ gục xuống chân đám người nhốn nháo chen lấn. Trước khi ngất, Từ còn kịp thấy lớp lớp chân voi ngựa giẫm nát lá huyết đơn.
TIẾNG GỌI
... Ai cướp được con kén chày kình
Ấy thực nam sinh công hầu bá tước
Ai cướp được con kén mo dài
Ấy thực nữ tài cung phi hoàng hậu
Con con cháu cháu
Tử thịnh tôn đa...
Ngàn ngạt tiếng hát tiếng hú reo hò rộn rã khắp một vùng.
Dân Quí Vũ mở hội Chen và lễ Mở Cửa Rừng.
Tục truyền rằng thần núi Linh Sõn Đại Vương qua giấc ngủ dài mùa đông vươn vai thức dậy thì đã xuân. Đại Vương gạt tay mở cửa rừng chấm dứt cảnh xơ xác tiêu điều của hạ giới. Thế là mầm măng tua tủa mọc, chim chóc ra khỏi tổ, thú rời hang, dân làng nô nức vào rừng ngây ngất với sự hào phóng của thần núi.
Năm ngoái đói kém. Lúa nương nghẹn hạt. Người khắp nơi đổ về rừng bòn vét hết củ mài, đào cả củ nâu để sống cầm hơi. Có kẻ sa vực sâu, sập chân xuống hố đào đành nằm đó đợi làm mồi cho thú dữ, sâu bọ. Cuối thu vừa rồi dân làng còn nhặt được xác một ông già hai cánh tay khô đét ôm chặt nhánh rễ củ nâu, hàm răng vẫn cắn ngập qua lần vỏ củ. Mọi người kháo nhau là xác không tiêu được vì ông già ăn nhiều củ nâu quá, máu nghẽn lại trong người, thân hình dẹt đét như được bọc một lớp nhựa chát xít, khô cong.
Cũng từ hôm ông già chết, đêm đêm phía bìa rừng cứ văng vẳng tiếng đàn ông khóc gọi hồn. Tiếng khóc hú như gọi thêm người chết đói đổ xuống. Dân làng trách nhau rằng đầu năm đã mở lễ hội sơ sài, lễ dâng lên Linh Sơn Đại Vương quá mọn. Tổ tiên người Quí Vũ đã dặn lại con cháu, mức hào phóng của Linh Sơn Đại Vương tuỳ thuộc vào sự đông đúc của hội Chen trong những ngày mở cửa rừng. Năm nào già trẻ trai gái cật lực chen vai thích cánh thì cửa rừng sẽ mở rộng hơn. Mùa màng tươi tốt. Muông thú đầy rừng. Măng củ kín mặt đất. Đàn bà sinh con đẻ cái đầy nhà. Trận chiến liên miên nối nhau đời này qua đời khác cướp đi quá nửa trai tráng trong làng. Nhà nào đẻ lắm con trai thì triều đình sẽ ân thưởng. Hội Chen năm nay đông vui hơn mọi năm...
Gà gáy canh năm, già trẻ trai gái đã đến kéo kín bãi cỏ trước rừng. Những lá cờ đã được dựng lên từ lúc nào đang vẫy vùng trước gió. Vang tiếng rống nghẹn ngào ngào của lũ trâu rừng đang vồ đập trán dao chọc cổ. Mùi thịt thơm lừng trên đống lửa than đỏ rực. Những tảng thịt trâu nướng máu vẫn còn ứa huyết hồng đặt trên lá chuối rừng trước bệ thờ Linh Sơn Đại Vương. Lát nữa, Đại Vương thụ lễ, rồi thịt sẽ được xẻ thành tảng xâu dây mây phân phát đều cho bách tính dự hội. Từng cặp nam nữ cầm miếng làm phép. Đợi lúc trời sập tối, các đôi nam nữ dắt tay nhau tản vào rừng. Những đứa trẻ sinh ra từ những cuộc ân ái trong đêm Chen sẽ được dân làng tôn sùng, góp công nuôi nấng và gọi là con của Linh Sơn Đại Vương.
Điệu múa Gà Phủ mở đầu lễ hội. Một người đàn ông cởi trần đóng khố đầu gối bôi phẩm đỏ, cánh tay nổi cuộn giơ cao chiêng tấu lên âm thanh rộn ràng. Một người đàn bà tóc búi xoè ra như đuôi công ngực che miếng vải nâu nhỏ nửa thân dưới là chiếc váy kết bằng lông chim đủ màu sặc sỡ tay cầm mõ tre hoà cùng tiếng chiêng. Cùng nhảy múa với họ là cặp ông bà già được dân làng chọn trong đám những người già đông con nhiều cháu, con cháu khoẻ mạnh cường tráng nhất vùng. Ông già cũng đóng khố cởi trần. Bà già cũng mảnh vải cũn cỡn che ngực, váy lông chim. Chỉ có khác, mảnh vải che ngực của bà lão dệt bằng sợi gai nhuộm màu hường, phía dưới lủng lẳng những quả chuông đồng nhỏ. Ông già tay cầm một chiếc chày lớn đẽo bằng gỗ nghiến già chuốt màu nâu bóng tạc theo hình dương vật người nam. Bà già cầm một mo cau quét vôi trắng uốn công cong theo hình âm vật người nữ.
Chung quanh ông bà già và cặp người đánh chiêng gõ mõ là những vòng trai gái chen nhau. Trai khố vải ngực trần tay cầm gậy ngắn. Nữ yếm ngắn che ngực váy kết lá sồi. Tiếng chiêng rộn ràng. Tiếng mõ trầm ấm như lửa than. Trống cái thì thùng điểm nhịp. Hai người đàn ông đàn bà đánh chiêng gõ mõ vừa khom người vừa đi giật lùi, mỗi bước đi như mỗi lời mời mọc thúc gọi. Ông già bà già nhún nhẩy đuổi theo nhịp chiêng nhịp mõ. Mỗi khi tiếng trống "Tùng...!", ông già lại cất tiếng hú lên những tiếng hú dài. Theo với tiếng hú, ông già bà già tiến lại gần nhau. Bà già giơ mo cau dứ dứ. Ông già miệng hú mình gồng tay đưa chày gỗ day day vào giữa mo cau. Hai người già nhún nhẩy tiến lên lùi xuống nhịp nhàng trong tiếng hú mênh mang thăm thẳm như vọng từ rừng sâu và tiếng chiêng mõ rộn ràng mà chày, mo vẫn không dời nhau. Mỗi lần chày gỗ chạm mo cau, vòng người chung quanh lại chao đảo, vai nam hích vai nữ, ngực nữ chạm ngực nam, miệng cất thành tiếng "Vào nõ bạc. Ra nõ vàng... Hú hời... Hú hợ...!". Rồi từng đôi trai gái tách riêng, vẫn theo nhịp chiêng mõ trống điểm thì thùng mà múa như những cặp gà trống mái vờn nhau. Thỉnh thoảng bên nam lại nhẩy dựng lên miệng hú khẽ. Nữ khom mình chúm miệng hoà theo. Âm vang lách cách đầu gậy. Ràn rạt váy lá sồi... Quanh họ là lũ trẻ tóc trái đào chen lấn cùng các cô bé vừa làm lễ rửa ngực đeo yếm. Những chàng trai chưa vợ tìm cách len đến gần các cô gái thanh tân mà chàng ta để mắt từ lâu. Còn lớp người lớn tuổi thì vừa xem hội vừa mắt trước mắt sau đợi lúc vào tục Cướp Kén. Đó là là lúc tiếng chiêng tiếng mõ dứt và trống cái giật lên một hồi dài. Khắp bãi hội xô về phía ông già bà già. Người nào nhanh tay nhanh mắt cướp được chày gỗ nghiến, mo cau cong thì họ hàng làng xóm cũng được may lây suốt năm. Trâu bò lợn gà một sinh mười. Thóc gạo đầy nhà. Đàn bà tốt nái sinh nở bầy con Sơn Thần khoẻ mạnh. Cả họ giết trâu bò lợn gà mở tiệc ăn mừng.
Bãi rộng phía tây sát cửa rừng cũng một đám đông xúm đen xúm đỏ. Trò bắt chạch trong chum dành cho những đôi trai gái đã sẵn có tình ý. Những con chạch to tầy cổ tay được thả vào quẫy lộn trong chum đầy nước. Đôi trai gái đứng đối diện qua miệng chum, tay phải nắm chéo nhau giơ lên trời, thân khom, cùng thò tay trái vào chum quờ bắt lũ chạch trơn nhẫy. Phải hai tay hai người nắm vào một con chạch mới là thắng cuộc. Tiếng reo hò tán thưởng vang ầm. Đôi trai gái đó được quyền tay trong tay dắt nhau vào rừng hợp hoan thành vợ chồng ăn đời ở kiếp.
Tiếng người xôn xao trong đám bắt chạch chợt lắng. Xuất hiện trước mặt họ một đôi trai gái. Cô gái chừng đôi tám thân dong dỏng, cặp vai xuôi mượt, hai gò má cao ánh một lớp măng tơ như làn sương phủ. Môi trầu đỏ thắm. Hai mắt mở to trong veo như mắt bê con... Cô là con gái yêu của vị tộc trưởng danh giá nhất vùng mà người dân Quí Vũ ai cũng nể trọng. Chàng trai nắm tay cô gái có thân hình chắc như cây lim. Mày thô mắt sáng. Cái nhìn âu yếm. Mọi người nhận ra ngay chàng thợ săn tài ba dũng cảm nhất trong vùng. Tay trong tay đôi trai gái sóng bước tới bên chum chạch. Ánhs mắt nhìn nhau âu yếm rạng ngời. Tiếng mõ điểm đến nhịp năm, đôi cánh tay đã giơ lên cao. Một chú chạch lớn rối rít quẫy chiếc đuôi vàng khươm ròng ròng nước. Đám đông vây quanh reo hò ầm ĩ.
Chú chạch lại được thả xuống chum. Cô gái xoay thân kiễng chân xoè bàn tay ra trước mắt như để ngắm nghía những ngón tay thon thả lấp lánh nước mà những tia mặt trời cuối cùng trong ngày đang làm loé lên những vầng ngũ sắc trong giây lát rồi mới âu yếm nắm lấy bàn tay người yêu đang chìa trước mặt.
Nhưng cô gái giật bắn người. Thay cho bàn tay rắn chắc khoẻ mạnh quen thuộc của người yêu thì lại là một bàn tay thô rám, ngón tay sần sùi với những chiếc lông thô cứng như lông lợn lòi chợt nắm chặt tay cô. Cô gái ngước mắt nhìn lên. Kề sát mặt cô là một chiếc trán dô với đôi chùm lông mày bạc trắng rủ xuống phủ gần kín cặp mắt đỏ cười cợt. Một cái miệng với cặp môi dầy thưỡn ra trong một nụ cười đắc ý ướt đẫm nhục dục. Cô gái thét lên. Đó là gương mặt của pháp sư Đại Điên, người mà dân chúng khắp vùng Kinh Bắc này vưa vâng phục vừa kinh sợ. Dưới chân pháp sư, chàng thợ săn nằm bất tỉnh.
Đám đông há mồm kinh sợ. Tiếng kêu bị giam chặt trong những đôi hàm đã khoá cứng. Pháp sư Đại Điên ngửa mặt lên trời cười sằng sặc. Chiếc túi da vằn vện vẽ hình âm dương đeo trước ngực nẩy lên nẩy xuống theo nhịp rung của khuôn bụng béo mỡ. Chỉ một động tay, pháp sư nắm chặt ngang lưng cô gái. Cô vùng vẫy, nghiến răng cắn chặt vào bàn tay lông lá và rít lên những tiếng khiếp hãi của một con thú nhỏ. Pháp sư điềm tĩnh mở túi da thò hai ngón tay kẹp lấy một chiếc trâm bạc có gắn viên minh châu óng ánh to như hạt sen xanh. Vẫn cười nhếch miệng, pháp sư vuốt nhẹ gò má mịn màng của cô gái trẻ rồi thong thả gài trâm lên ngực yếm tơ hoa đào, nơi phập phồng đôi gò nhũ hoa như đôi chim kinh sợ đang vùng vẫy tìm cách thoát khỏi giam hãm.
Dưới chân pháp sư, chàng thợ săn hồi tỉnh. Chàng chống hai tay toan gắng gượng ngồi dậy. Khônng hề nhìn xuống, Đại Điên hướng lòng bàn tay xuống đất. Chàng trai lại gục xuống như chết.
Đại Điên lôi xềnh xệch con gái tù trưởng vọt qua đám người đang ngơ ngác. Một tay đỡ eo lưng cô, một tay thiền trượng, pháp sư hướng về phía cửa rừng đi như lướt.
Mặt trời dần chìm vế phía tây. Bóng âm u đổ xuống thảm cỏ mịn đang nhuộm màu sẫm tối. Tiếng xao xác cuả đàn chim rừng bay về tổ xáo động không trung. Xa hơn, thẳm sâu trong rừng, hồi gầm của những chúa sơn lâm tỉnh giấc ngày, bắt đầu vào cuộc kiếm mồi trong đêm tối.
Đại Điên đến sát cửa rừng. Cô gái như cái xác không hồn dựa oặt vào bên vai pháp sư. Còn vài bước, chừng như không thể kìm nén được nữa, Đại Điên rên khẽ một tiếng, bế xốc cô gái lên tay. Những dẻ lá gồi, lông chim từ tấm váy ngắn của cô gái lả tả rụng xuống theo đôi chân gấp gáp của pháp sư.
Chiều sẫm hẳn.
Đại Điên quay sang, cúi xuống nhìn vào khuôn mặt đờ đẫn như người trong cơn mê ngủ cuả cô gái, thẳng tay ném cây thiền trượng cắm ngập xuống thảm cỏ. Mấy ngón tay gấu lẩy bẩy cởi nút ngực áo...
Bỗng nhiên người cô gái khẽ giật lên. Rồi cái thân thể mềm mại đó chuồi khỏi cánh tay pháp sư, đổ xuống đám cỏ vừa bị xéo nát như đang rỉ nhựa. Đại Điên ngạc nhiên trừng mắt nhìn lại. Trên khoé miệng cô gái, một dòng máu đỏ ứa ra chảy dài xuống cổ. Cô gái đã cắn lưỡi tự vẫn...
- Hừ... Con ma ranh này!
Đại Điên chửi gằn. Một chân đạp lên bộ ngực trinh bạch của cô gái. Nhưng ngay lập tức pháp sư đứng thẳng dậy. Một điều gì đó ở phía trước khiến ông ta chợn rợn cau mày. Trong bóng đêm mịt mùng đang trùm lên cánh rừng, một ngọn đuốc nhựa trám vừa thắp lên soi quầng sáng quanh gốc đinh cổ thụ. Dưới quầng sáng, bên gốc cây, một bóng người đứng đó, cặp mắt trừng trừng nhìn thẳng về phía Đại Điên.
Đại Điên "hử" khẽ một tiếng trong miệng. Pháp sư đã nhận ra kẻ táo tợn. Đó là Từ Lộ, con trai của Tăng đô án Từ Vinhđã bị ông ta sát hại trong đêm Nguyên tiêu.
*
**
Cách đây hai tháng, trong miếu hoang thổ thần bên bờ sông Nhuệ, Từ Lộ ngồi lặng trước dải lụa rách nát vì bao vết chân voi chân ngựa chân người giẫm đạp. Những hàng chữ viết bằng máu đỏ trên dãi lụa chứa nỗi oan khuất ngút trời của gia đình chàng giờ đã khô đen bê bết bùn đất. Chàng nghe tiếng những bước chân của Nhuệ Anh mỗi lúc mỗi xa dần. Cả tiếng nức nở nghẹn uất của cô gái. Có bàn tay phũ phàng giật mạnh quả tim trong lồng ngực Từ Lộ. Cảm giác đau đớn nhục thê, trống rỗng xâm chiếm trong Từ. Sợi dây cuối cùng nối chàng với cõi đời đã đứt.
Chao ôi, trước đây chàng đã tin tưởng biết bao vào công lý, vào trật tự kỷ luật của triều đình, vào lẽ phải và từ tâm của con người. Tiếng tiêu của chàng đã bao lần hòa giọng ca tụng công đức của đấng minh quân vời vợi trời cao. Vậy mà giờ đây vẻ thờ ơ của Đức hoàng thượng và của Đức Ỷ Lan Thái hậu đã như nhát gươm xóc thẳng vào ngực chàng. Những bàn tay đang được thần dân ngưỡng vọng như thần thành nay đã phũ phàng ném mảnh lụa thấm đầy máu và nước mắt của mẹ con chàng xuống chân voi vó ngựa. Từ nhớ lại lúc thân mình bị kẹp chặt giữa những cánh tay sắt cuả bầy đao phủ, đao kề cổ, ngực chàng vẫn như vỡ ra mỗi khi bước chân của bầy ngựa voi giẫm lên ngực bức huyết đơn. Những vó sắt ngàn cân đó đang giẫm lên ngực Từ, vùi chôn mãi mãi những tiếng kêu oan khuất của mẹ con Từ cũng như những bàn dân thấp cổ bé họng bị dồn vào đường cùng như mẹ con chàng. Trong lòng Từ Lộ, trong chàng thư sinh hào hoa đang bơi lội trong hạnh phúc yêu đương và tiếng tiêu làm mê đắm cả kinh thành trước đây, giờ chỉ còn tiếng gào thét trả thù. Chàng đã tin vào lòng từ ái. Nhưng lòng từ ái đã bị cái ác giầy xéo. Chàng đã tin vào công lý. Nhưng công lý đã bị che khuất bởi manh tâm, bàn tay nhơ bẩn của Diên Thành hầu và biết bao tham quan ô lại...
Quanh miếu thổ thần, dật dờ những oan hồn. Từ trò chuyện với những hồn ma. Hồn mặc áo trắng và xoã tóc là hồn của những goá phụ bên nách cắp con. Những hài nhi chết yểu vì tên bay đạn lạc, thiếu sữa, đói khát. Những hồn áo nâu với hộp xương sọ phô màu xám xỉn là hồn của những chiến binh ra đi từ đồng ruộng, và nhanh chóng phơi thây nơi chiến địa.
Vô số là hồn không rõ hình hài, chỉ thấy mảnh lá chuối bó quanh che thân rít lên phần phật trong gió lạnh sởn xương sống... Trên mỗi đoạn xương cẳng tay gày guộc đội một tờ đơn. Những hồn oan khuất không chết vì tên bay đạn lạc và vì nghèo đói rách nát, không phơi thây nơi chiến địa, chỉ chết vì không chờ đợi nổi công lý. Từ như thấy thấp thoáng trong đám cô hồn đó có bộ xương trắng với những bước đi uyển chuyển của mẹ chàng. Bà đang đứng. Bà bước tới một dòng sông nước đầy ắp đỏ ngầu như máu đọng. Bà đưa tay ra. Có ai đó như Từ Vinh cha chàng đang đứng bên kia bờ sông máu. Tiếng khóc của cha, tiếng hờ oan của mẹ văng vẳng đâu đây quanh miếu thổ thần... Từ đứng dậy đẩy cửa miếu, lao vào bóng đêm bên ngoài.
Đó cũng là đêm kinh thành Thăng Long rực rỡ đèn hoa cờ xí. Ngày này cách đây vừa một giáp, trên sông Như Nguyệt, Thái uý Lý Thường Kiệt đánh tan đạo quân Tống do Chiêu thảo sứ Qúach Quì thống lĩnh, lấy lại được châu Quảng Yên. Mười hai năm đã qua, cùng với niềm mừng vui chiến thắng, nỗi đau đã dần khép miệng. Những người mẹ mất con, vợ mất chồng cũng khô nước mắt. Nước mắt lặn vào bên trong, chỉ đêm đêm thầm chắt rỉ ra trên giường chiếu lạnh, trong căn nhà trống vắng. Những đứa trẻ mồ côi đã có đủ thời giờ trở thành trai tráng. Và như những người bố bỏ mạng nơi trận địa, những đứa trẻ lại mong ước được đến ngày trở thành chiến binh...
Đèn lồng, đuốc sáng uốn lượn toả lập lờ dọc bờ sông Nhuệ, sông Tô. Người người lớp lớp trẩy đi. Tiếng cười nói râm ran. Thì thùng trống điểm đám thi vật, đám múa lân múa rồng. Trẻ nhỏ từng đàn hò reo chạy đuổi dọc bờ sông, chơi trò rồng rắn trước sân đình chùa, vỗ tay lanh lảnh cất tiếng hát lên khúc đồng dao mới:
"Nam quốc sơn hà...
Nam đế cư.
... định phận tại
thiên thư..."
Từ Lộ tránh vùng sáng, cứ nhằm nơi tối đen không có tiếng người mà bước tới.
Trang trại của quan Tăng đô án Từ Vinh cha chàng trước đây đã thuộc về tay Diên Thành hầu đang thiêm thiếp trong bóng đêm dày đặc, không biết gì đến nỗi bể dâu của mà chủ cũ của nó vừa trải qua. Chiếc đèn lồng tám mặt từ đời tổ tiên của chàng để lại cứ đến giờ dậu mỗi ngày được gia nhân đốt lên hắt ra tám hướng ánh sáng vàng sang cả thì nay vẫn được treo ở đó. Nhưng tám mặt đèn nay dường như chỉ để rọi sáng cho một tấm biển sơn son thiếp vàng rực rỡ với hai chữ "Hý viện" được viết bằng chữ thảo bay bướm.
Diên Thành hầu đã biến trang trại yên tĩnh nho nhã vào bậc nhất kinh thành này thành kỹ viện. Và kia, đôi đèn treo trên hai cột cổng hàng đêm đón khách đến mua vui lại chính là đôi đèn Mỹ nhân và Tiêu tương mà chàng và Nhuệ Anh đã tìm nhau theo anh sáng lung linh và say đắm bày tỏ tình yêu trong đêm Nguyên tiêu.
Đã qua giờ tý tám khắc. Đêm hội đã lắng dần trên kinh thành. Bên trong kỹ viện, đám kỹ nữ và khách làng chơi hẳn đã buông rèm ngủ yên. Từ Lộ nín thở rón rén bước lại gần hàng rào. Chàng chợt nghe tiếng ngựa hý ở dẫy nhà hướng nam trước đây cha mẹ chàng đã đặt bàn thờ tổ tiên. Chàng đã hiểu dã tâm của Diên Thành hầu. Kẻ thù đã y theo kế của pháp sư Đại Điên biến nơi thiêng liêng nhất trong khu dinh cơ này thành tầu ngựa để triệt mạch phúc của dòng họ Từ.
Từ Lộ chợt giật thót mình khi nhận ra một bóng người không hiểu đã lặng lẽ đến bên chàng từ lúc nào. Chàng chưa kịp phản ứng thì bóng người đã giơ bàn tay lên làm hiệu im lặng. "Tiểu công tử!". Chàng nghe tiếng thì thào và nhận ra ngay đó là lão Ngô, người lão bộc trung thành đã hầu hạ trong nhà từ khi chàng chưa ra đời. Từ chưa kịp nói gì thì lão Ngô đã nắm lấy hai bàn tay lạnh giá của chàng:
- Tiểu chủ... chớ đến đây! Nguy lắm... Diên Thành hầu vẫn cho người di rình tìm tiểu chủ khắp kinh thành...!
Từ Lộ nấc lên, vịn vào vai lão bộc:
- Nhà ta... lại thành nơi như thế này ư, lão Ngô...?
Người lão bộc nghẹn ngào nức nở, bật ra những tiếng kêu khẽ đứt quãng:
- Đau đớn... lắm... tiểu chủ ơi...!
- ... Sao lại ở đây... lúc này...?
Từ Lộ nhẹ giọng cố làm cho lão bộc trấn tĩnh lại.
- Tiểu chủ... Từ ngày đó đến nay không đêm nào kẻ vô dụng này có thể đặt mình ngủ trọn. Đêm nào cũng ra đây... Mà phải chờ đến canh này... người trong nhà đã yên ngủ cả... Kẻ này biết thế nào cũng có lúc tiểu chủ tìm trở về.
Từ Lộ nghiến răng bóp chặt hai vai lão bộc:
- Thế còn... bọn chúng... Diên Thành hầu, Đại Điên ra sao?
- Diên Thanh hầu tháp tùng xa giá lên khao quân của Thái uý Lý Thường Kiệt mừng chiến thắng trên sông Như Nguyệt. Còn Đại Điên là kẻ giang hồ. Cữ này lão vác thiền trượng khoác áo cà sa đi rong chơi. Rượu ngon, gái đẹp, trống cờ mở hội đâu vui là có lão...
Lặng im. Đến mức nghe rõ cả tiếng gió chạy lạt sạt trên hai hàng cau trổ lá xum xuê bên đường trước cổng khu dinh thự. Từ Lộ hỏi như trong cơn mê:
- Thế còn...
- Dạ... Thưa tiểu chủ... Bài vị thờ quan ông quan bà kẻ này vẫn cất giấu vào nơi tin cẩn. Đầu kẻ nô bộc này dẫu có rơi, máu kẻ nô bộc này dẫu có chảy thì khí vật thiêng liêng đó cũng không thể mất vào tay kẻ ác...
- Ta ơn lão suốt đời. Nhưng này... Bây giờ lão hãy trao lại vật thiêng đó cho ta...
- Trời... Tiểu chủ giữ bài vị của quan ông quan bà làm gì trong lúc này... Tiểu chủ còn đang phải lẩn tránh
- Lão Ngô... hãy nghe lời ta... - Từ Lộ toan nói tiếp. Nhưng chàng chợt đưa tay ngăn lão bộc lại - Lão chờ ta một chút... Ta vào trong này...
- Ơ kìa... Tiểu chủ... - Lão bộc sợ hãi kêu lên - Coi chừng hại đến tính mạng.
Từ Lộ như không nghe thấy tiếng lão Ngô. Chàng nhẩy qua hàng rào vào vườn. Tránh chỗ có ánh đèn sáng, Từ bò về phía gian từ đường trước đây và bây giờ là tầu nhốt ngựa. Đầu hồi khóm hoàng trúc do chính tay Từ Vinh cha chàng xin được mầm non trổ vào mùa xuân từ vườn ngự uyển của đức vua mang về trồng vào đúng ngày mẹ trở dạ sinh ra chàng. Mười tám năm qua, mầm trúc mảnh mai giờ đã thành khóm trúc rậm rạp, thân vàng óng vươn cao. Từ bước nhẹ đến bên khóm trúc. Chàng cúi xuống, lần tìm một thân trúc vừa tầm khẩu tay. Thân trúc lung lay. Lá trúc rung chuyển sương đêm ào ạt trút xuống ướt đẫm hai vai áo. "Lạy cha... Lạy mẹ... Lạy vong linh tổ tiên họ Từ... xin cha xin mẹ hãy về phù hộ cho con trả mối thù này...!" Từ Lộ cúi xuống về phía từ đường dòng họ, miệng lẩm bẩm khấn. Kỳ lạ...! Cùng với lời khấn nguyện của Từ, một ngọn gió lạnh buốt dấy lên. Những vòm lá trúc trên đầu chàng lại im phắc. Và thân trúc trong tay chàng buột ra khỏi bộ rễ bền chặt nhằng nhịt dưới đất, như tự chuồi lên nằm gọn trong tay Từ.
Từ đã trở lại bên lão bộc:
- Lão cứ trao bài vị cho ta...
- Nhưng...
- Đừng nói gì nữa, lão Ngô...
Từ Lộ vội ngưng lời. Trước mặt chàng, những ngọn đuốc đỏ dọc vừa bất chợt đốt lên trong trang trại. Tiếng người huyên náo. Trên chòi gác, tù và gấp gáp rúc lên.
- Bọn chúng biết... Lộ rồi... Tiểu chủ chạy đi...!
Lão bộc hốt hoảng đẩy vai Từ Lộ.
- Lão mau đi cùng ta!
- Không được... Tiểu chủ trốn chạy đi... Hướng này...!
- Lão Ngô...!
Nhưng lão bộc đã dang tay đẩy mạnh chàng về phía bờ sông Tô. Còn lão lại vùng lên nhằm ngay hướng chuồng ngựa của hý viện và khuệch khoạng chạy.
"Bắt...! Có kẻ gian đột nhập trại...!". Tiếng người la hét. Thêm nhiều đuốc sáng. Chân người rinh rịch chạy. Gươm đao loảng xoảng. Hai cánh cổng trang trại rền rĩ mở ra.
Từ Lộ cứ nhằm bóng tối trước mặt mà chạy lao đi.
"... Có kẻ trộm ngựa...! Trộm ngựa!...". Phía sau Từ Lộ, nơi trang trại nhà chàng khi trước lại vang lên những tiếng thét hốt hoảng. Đột ngột, không gian lại như bị vỡ ra thành muôn mảnh bởi tiếng vó ngựa từng đàn hốt hoảng chạy lồng lên trong bóng đêm.
Từ Lộ thu mình đứng nép bên gốc duối bên đường. Những con ngựa cao lớn lực lưỡng cất tiếng hý vang nối nhau phóng rầm rập vụt qua trước mặt chàng. Tiếng đập trong lồng ngực Từ Lộ cũng chợt như dừng đứng lại. Chàng hiểu. Ngưòi lão bộc trung thành đã liều thân tháo then chuồng thả đàn ngựa ra để đánh lạc hướng lũ gia nhân nhà Diên Thành hầu cho chàng chạy thoát. Chờ cho tiếng vó ngựa lắng, ánh đuốc và tiếng người hò hét đuổi theo bầy ngựa xa dần, Từ Lộ ôm gốc cây ngồi thụp xuống giọng thầm thì nghẹn tắc trong cổ họng:
- Cha ơi... mẹ ơi...! Đêm này là đêm cuối cùng hèn nhát của đứa con đớn hèn mang tên Từ Lộ do cha mẹ sinh ra. Con xin tạ tội trước vong linh... Ta tạ lỗi với lão Ngô vì sự hèn yếu, mù quáng của ta trước đây.
Chàng đứng bật dậy, ngửa mặt lên trời, nghiến răng:
- Ta... ta sẽ trả thù...! Trả thù!
Qua bao ngày tìm kiếm, hôm nay Từ Lộ đến đất Quí Vũ. Trong tay chàng là cây gậy nhổ lên từ khóm trúc bên đầu hồi từ đường dòng họ. Cây gậy trúc mà giờ đây Từ Lộ mỗi lúc mỗi cảm thấy nặng chĩu anh linh, vong hồn của cha mẹ chàng. Lần tìm tung tích Đại Điên ở tất cả những nơi mà chàng nghe thấy đang mở hội. Và ở hội Chen này, chàng gặp pháp sư Đại Điên.
Đại Điên nhìn chàng trai trẻ. Nét mặt không hề thay đổi. Cái nhìn như ánh mắt một con mèo già uể oải thừa mứa vờn quanh một chú chuột nhỏ bé non nớt. Pháp sư cất cái giọng rè rề lười biếng giễu cợt:
- Chú mày cũng thích cái hội mở rừng với trò cướp kén bắt trạch này ư?
Từ Lộ hết nhìn Đại Điên đứng ngạo nghễ trước mặt chàng, lại nhìn xuống xác cô gái nằm dưới đất. Dòng máu vẫn rỉ chảy trên khoé mép. Chiếc yếm che ngực lúc nãy bị gió rừng thổi lật tung, cành trâm bạch cẩn minh châu ngời ánh ma trơi trên cỏ.
Không nói một lời, Từ sấn tới.
Đại Điên vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Thậm chí lão pháp sư không thèm đụng đến cây thiền trượng đang run rẩy trên thảm cỏ ngay bên chân lão. Chỉ đến khi Từ Lộ còn cách lão chừng hai bước chân, Đại Điên làm bộ uể oải giơ một bàn tay lên, xoè ra trước mặt quát: "Dừng!"
Cùng với tiếng quát của pháp sư, như có một sợi dây thừng dằng Từ Lộ sững lại. Cẳng chân nặng như đeo chì. Từ nhoai người cố bứt ra khỏi các sức vô hình mà khủng khiếp như ngàn cân mỗi lúc một đè nặng lên hai vai. Nhưng người chàng cứ muốn rũ lả xuống. Đại Điên cười khà khà, đưa tay rút cây thiền trượng lên khỏi mặt đất. Thong thả buộc mấy cái nút áo vừa cởi, Đại Điên quay người đủng đỉnh bước đi như không hề để ý đến chàng thanh niên đang đứng sững bất lực mặt mày xám xanh vì uất ức.
Cùng với bước chân quay di của Đại Điên, cái sức nặng vô hình mà khủng khiếp cũng như đột ngột cất khỏi hai vai, khỏi thân thể Từ Lộ. Từ rùng mình. Chàng mím miệng hít một hơi dài, nắm chặt lại cây gây trúc. Tay vung gậy lên cao, nhẩy ba bước dài, Từ đến sát sau lưng Đại Điên. Gậy trúc nhằm thẳng đỉnh đầu bóng loáng của Đại Điên bổ xuống.
Đại Điên vẫn đủng đỉnh bước một đi về phía những tảng thịt trâu nướng thơm phức trong miếu Sơn thần.
Gậy trúc trong tay Từ Lộ sắp bổ xuống thóp đầu trọc của pháp sư thì bỗng như có bàn tay người từ trên cao thò xuống giữ đầu gậy lại. Cũng từ trên thinh không, một giọng nói như ghé sát vào tai Từ thầm thì mà chàng nhận ngay ra đó là giọng nói của cha chàng: "Chớ...! Chớ...! Giết hổ phải cần hùng. Đại Điên có phép lục thông. Con ta chưa đủ sức". Cây gậy trúc như tự quay đầu lại, và thoắt cái lại trở về nằm gọn trong tay Từ Lộ.
Khi đó Đại Điên mới đủng đỉnh quay nhìn lại. Đôi mắt của hắn rờn rờn ánh mắt thôi miên như mắt cọp trong đêm. Bắt gặp vẻ ngơ ngác thảng thốt của Từ Lộ, Đại Điên cười lớn:
- Ta có lời nguyền. Khi nào buộc phải giết người thì mỗi ngày chỉ giết một mạng. Ngày hôm nay đã đủ một đứa rồi - Pháp sư giơ đầu cây thiền trượng chỉ vào xác cô gái nằm trong vũng máu - Vậy ta tha cho mi... Con chách trấu bé nhỏ tội nghiệp!
Nói rồi, Đại Điên đặt thiền trượng lên vai, xốc lại áo chùng, ngửa cổ nhìn vọng lên trời đêm, cất một tràng cười buốt óc...
Trước cửa rừng Quí Vũ đêm hội Chen đến phần vui vẻ huyên náo nhất. Trò Cướp Kén. Trống vẫn thì thùng điểm nhịp. Chiêng vẫn dóng dả vang vang. Mõ vẫn trầm trầm chen tiếng. Những đôi trai gái đã ăn ý cùng nhau bây giờ tản ra, tay nắm tay tiến vào trong bóng tối âm u của rừng. Cánh rừng già thở hổn hển dưới trời sao và những dải sương trắng chăng ngang.
Năm ấy, nhiều đứa trẻ ra đời sau chín tháng mười ngày trên đất Quí Vũ sau đêm hội Chen không có vẻ gì là con cái của Sơn Thần. Những đứa trẻ từ lúc lọt lòng mẹ đã có vầng trán dô, đôi mày dài và cặp mắt đỏ nhìn lâu không chớp.
TIỂU ĐĂNG KHOA
Diên Thành hầu phu nhân bệ vệ trên sập gụ khảm ốc lóng lánh. Bộ xiêm áo bằng đại vóc màu hoàng thổ của bà ganh đua cùng vòng vàng xuyến ngọc nổi bật trên tấm gối dựa bọc da cáo đen. Từ người phu nhân toả ra mùi hương sực nức.
Mùi hương này được chưng cất bởi mồ hôi, có khi cả máu của những gia nhân xấu số chẳng may bỏ mạng trên con đường thiên lý đi tìm lọai trầm đắt giá nhất tại bắc phương để ủ cho nhà Diên Thành hầu.
Cứ mỗi năm một lần, những phó quan gia cha truyền con nối của nhà hầu lại phải dẫn một tốp mười ba gia nhân cưỡi ngựa mang bạc thoi vàng nén đi qua xứ Lạng, vượt đường dài sang nước Đại Tống, tới tận Tô Châu lùng mua các loại trầm quí nhất cho phu nhân. Những lò hương được đặt trong mấy gian phòng lớn treo đầy quần áo và cái mùi trầm sang trọng đó cứ toả quanh năm để ướp hương cho quần áo xiêm y của toàn gia Diên Thành hầu.
Cất giọng sang sảng quyền quí, phu nhân nói với viên thư lại đang ngồi trên chiếc đôn thấp với cuốn sổ và chiếc bút lông đẫm mực khư khư trên tay:
- Này Trần Mục... Nhà ngươi vừa nói đến bảng kê biên quà mừng cưới của tri châu Lạng Giang phải không?
Trần Mục khúm núm:
- Dạ bẩm phu nhân... Bảng của tri châu Lạng Giang con đã đọc xong. Hai đôi tay gấu này loại lớn nhất đấy ạ... Lại còn chiếc sừng tê cỡ đại... Con đồ rằng trong ngự y cũng chưa chắc có được...
Phu nhân mỉm cười mãn nguyện. Bà khẽ hất hàm. Trần Mục cúi đầu hắng giọng đọc tiếp:
- Hạ quan, tri phủ Bình Giang là Lê Trường Tích lòng thành cúi đầu dâng lời cầu chúc lễ Tiểu đăng khoa của đại công tử. Tài hèn sức mọn, hạ quan xin có chút lễ sơ sài dâng lên bề trên, những mong được ân trên lượng thứ. Gồm: Trâu năm xoáy. Lợn năm móng. Trầu vàng cau tía ba mâm. Ngự tửu hạ thổ...
Phu nhân thoáng cau mày:
- Chọn ngang lễ nạp thái của Hoàng tử! Tri phủ Bình Giang rõ khéo... Ta biết, từ đời cha hắn đã giỏi việc đoán ý chiều lòng bề trên. Nhưng năm nay phủ Bình Giang mất mùa đói kém lắm hay sao mà quan phụ mẫu chỉ soạn một lễ bạc thế này...?
Trần Mục lét mắt nhìn phu nhân, thưa:
- Dạ bẩm... bảng kê còn dài ạ... Dê béo hai mươi con. Cá chép hai trăm con. Tôm hùm hai trăm đôi. Gạo tám hương hai mươi gánh. Gạo cẩm hai mươi hộc. Gà cẩm kê sống hai đôi. Ngoài ra, bẩm phu nhân. Gấm tía mười hai cây. Lụa điều hai mươi tấm. Vàng thoi năm nén. Ngọc bích ba đôi...
Trên gương mặt của Diên Thành hầu phu nhân giãn nở một nụ cười. Phu nhân khẽ gật đầu. Biết ý, Trần Mục vội nhoai người khom lưng đặt cuốn sổ vào tay phu nhân. Phu nhân liếc vài dòng, rồi chợt cau mày:
- Ta chưa thấy danh tính của tri phủ châu Hoan, châu Ái... Lũ này chết cả rồi sao?
Trần Mục cúi đầu:
- Dạ bẩm... Châu Hoan, châu Ái đường về kinh xa xôi hiểm trở. Dân tình ngang ngạnh... Tri phủ hai châu cũng có lễ vật dâng về. Nhưng tin cấp báo ra chiều qua, nửa đường bị kẻ đói chặn cướp mất một xe vàng lụa, giết ba lính áp tải. Chắc lúc này lũ tri phủ hai châu đang thu thập thêm cho đủ lễ vật dâng về kinh...
Phu nhân thở dồn dập:
- Liệu có tin được lời lẽ của bọn quan bất trí dân bất nghĩa này chăng? Ta tưởng từ khi phu quân ta tâu lên Hoàng thượng cho biếm chức tri phủ của Đinh Xương, cất nhắc Bùi Vĩnh lên thay ở châu Hoan thì đám hào lại ở đây thấm lễ nghĩa hơn...
Bà trừng mắt nhìn Trần Mục:
- Chỉ tại ngươi chậm chạp như một con rùa già. Ta đã nhắc cách đây một tháng, rằng phải xuống trát đàn hặc lũ tri phủ tri châu về tội lười biếng, không để ý gì đến dân trong hạt. Nếu không mau sửa đổi, sẽ bị biếm chức. Lũ đó dù ngu muội, song ngầm ý của những cái trát đó thì mau hiểu lắm!
Trần Mục khúm núm:
- Dạ, bẩm, con đã gửi cách đây cỡ vài chục ngày. Nhưng xin phu nhân bớt giận, đường sá xa xôi, dân tình đói kém, không phải vị tri phủ tri châu nào cũng thu xếp ngay được...
Có tiếng cô hầu gái nhẹ nhàng bước vào:
- Dạ bẩm phu nhân... Có Thái sư phu nhân Lê Văn Thịnh cùng gia nhân đặt kiệu trước phủ để vào mừng lễ Tiểu đăng khoa của đại công tử ạ.
Diên thành hầu phu nhân đưa tay sửa lại món tóc đã điểm bạc rủ xuống trước trán. Phu nhân chưa cần truyền lệnh thì Trần Mục đã biết ý, vội ôm sổ nhanh nhẹn lui bước vào nhà trong.
Diên Thành hầu phu nhân vừa kịp vuốt lại nếp áo quần thì đã thấy một vị mệnh phụ vóc người cao lớn, bước đi nhanh nhẹn mà đài các đang tiến vào nhà. Theo sau là năm gia nô mặc đồng phục, lễ mễ tráp đỏ trên tay.
Gương mặt mệnh phụ tròn vạnh như trăng đêm rằm. Một đường ngôi thẳng tắp chia món tóc trước trán làm hai nửa vẫn giữ màu đen mướt khiến càng tăng vẻ đoan trang, nghiêm nghị. Là vợ một vị Thái sư nhất phẩm, quyền cao chức trọng, lại nhiều tham vọng mà Thái sư phu nhân trang phục thật giản dị. Bộ xiêm áo bằng lụa vân hoa màu xanh nhạt với đường cắt may tinh tế, phần trên ôm vừa khít đủ tôn chiếc cổ cao và bộ ngực thanh nhã, chảy xuôi như một dòng suối chưa tới eo lưng đã dừng lại toả rộng, tha thướt đủ cho thấy sự bộn bề hào hoa của chủ nhân. Tay không vòng xuyến. Đồ trang sức duy nhất trên người bà là một viên ngọc trai màu hồng to bằng quả trứng chim đung đưa trên giải dây lưng lụa bạch, dìu dịu toả sáng ngờm ngợp như có linh hồn. Nghe nói đó là viên ngọc trai quốc bảo của vua Chế Củ nước Chiêm Thành ven biển đông. Những đêm trăng sáng, vua Chế Củ thường mang viên ngọc trai này ra cho uống ánh trăng. Chừng một trống canh, khi trăng viên mãn, viên ngọc bỗng chói sáng, sắc cầu vồng lung linh rực rỡ. Áp viên ngọc trai đã uống ánh trăng đó lên tai thì nghe cả tiếng gió biển âm u, sóng biển rì rào, các thuỷ thần thì thầm trò chuyện với nhau từ đáy đại dương sâu thẳm vọng tới. Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1069) Thánh Tông hoàng đế thân chinh đi đánh Chiêm Thành , có Lý Thường Kiệt làm tiên phong, bắt được Chế Củ giải về kinh, thu phục ba châu Đại Lý (Nay là đất Lệ Thủy, Quảng Bình), Ma Linh (Nay là đất huyện Bến Hải, Quảng Trị), Bố Chính (Nay là đất các huyện Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa của Quảng Bình). Không hiểu sao viên ngọc trai truyền kỳ đó lại đong đưa bên giải dây lưng của phu nhân quan Thái sư Lê Văn Thịnh.
Thái sư phu nhân cúi đầu thi lễ:
- Khắp kinh thành đang dậy lời đồn đại, tán dương sự hào hoa của đại công tử con quan Diên Thành hầu. Kẻ nghèo hèn này hôm nay may mắn được đích mục sở thị, mới thấy rằng lời ấy chẳng phải ngoa truyền!
Diên Thành hầu phu nhân thoáng nhìn vẻ đoan trang của Thái sư phu nhân, liếc xuống bộ xiêm y rực rỡ mình đang mặc, trong lòng dấy lên chút ghen tị vì biết mình dù có phô ra muôn sự phú quý thì vẫn không địch nổi cái vẻ đĩnh đạc sang cả trong người đàn bà vợ vị trạng nguyên nhất bảng của khoa thi đầu tiên của triều đình mở năm Ất Mão. Nghe nói, Thái sư phu nhân thường dậy vào đầu giờ dần để giúp chồng xem xét, soạn thảo giấy tờ biểu tấu trước khi dâng lên vua.
- Không dám không dám... Thiên hạ quá lời...
Diên Thành hầu phu nhân đáp lại, không giấu nổi nét cười nhẹ mãn nguyện:
- Một người thông tuệ như phu nhân thì còn gì lạ lời đồn thổi từ nhà quyền quý đến đám tiện dân ở chốn kẻ chợ này...
- Có sao... Có sao... Đại công tử nhà ta nức tiếng là con người hào hoa. Tiểu thư nhà nào may mắn lọt vào mắt xanh của đại công tử, đặt chân trước từ đường nhà này thật là đại phúc...
Diên Thành hầu phu nhân miệng vẫn còn giữ nụ cười mà trong lòng xót như chà muối. Phu nhân đã mất biết bao nhiêu công sức để ngăn trở cái lễ Tiểu đăng khoa oan nghiệt này. Nhưng đứa con trai ngang ngược đã bất chấp tất cả. Giờ đây, chính tai phu nhân đang lại phải nghe những lời lẽ mà bên trong chiếc vỏ bọc ngọt ngào đó đang rình rập vô số mũi dao.
Chừng như thấy lời lẽ ý tứ của mình như vậy cũng đã đủ, với nụ cười nửa miệng cao ngạo, duyên dáng, Thái sư phu nhân khẽ đưa mắt sang bên phải, nơi đám gia nhân của bà, trái hẳn với phong cách ăn mặc trang nhã của chủ nhân, ăn mặc phục sức rực rỡ cầu kỳ, để chứng tỏ gia chủ là một người hào phóng. Đám này đang nhất loạt cúi đầu chờ lệnh. Sau cái đưa mắt của bà, ba gia nhân đỡ một chiếc tráp sơn son thiếp vàng phủ lụa điều răm rắp bước lên phía trước.
- Phu quân tôi có chút lễ mọn mừng ngày vui của đại công tử...
Thái sư phu nhân khẽ nghiêng người, tự tay nhấc vuông lụa điều.
- Xin mạo muội mừng lễ Tiểu đăng khoa của đại công tử. Những mong phù hợp với sở thích của phu nhân.
Vuông lụa rơi xuống nằm sõng sượt trên mặt đất, một ánh sáng chói loà đập vào mắt. Diên Thành hầu phu nhân không kìm được tiếng reo kinh ngạc. Một con trâu đúc bằng vàng khối hiện ra. Dáng đồ sộ của khối vàng và những nét chạm trỗ cực kỳ tinh xảo khiến người đã quen mắt với những kỳ trân dị bảo chốn cung đình như Diên Thành hầu phu nhân cũng phải loá mắt.
- Còn đây là quà mừng cô dâu. Mừng cô dâu bay bổng thanh cao...!
Lời nói chưa dứt, sau một tiếng "tách" nhỏ, đáy tráp bỗng bật mở, phô thêm một bảo vật nữa, những người chứng kiến càng kinh ngạc bội phần.
Trước mặt Diên Thành hầu phu nhân là một con rồng kết thành bởi những hạt ngọc màu hồ thuỷ hắt sáng. Viên hồng ngọc được gắn làm mắt rồng hơi lẹm ở phía dưới khiến trông như con rồng đang nhỏ lệ. Đôi lễ vật trâu vàng rồng ngọc đặt cạnh nhau, mới nhìn chỉ thấy thật cân xứng. Trông kỹ hơn một chút, mới nhận ra rằng rồng thì thanh cao uốn khúc hướng lên chín tầng trời, mà trâu thì chỉ vục mặt xuống đám cỏ ở dưới đất, người tinh ý sẽ cười thầm vì sự cọc cạch khôn tả. Diên Thành hầu phu nhân không biết được rành rẽ điều ấy, bà thầm nhầm tính giá trị trâu vàng rồng ngọc, nở từng khúc ruột, quên cả việc người ngồi trước mặt bà đây đã thóc mách đến tận ngọn nguồn về nội tình nhà mình.
Thái sư phu nhân dim mắt liếc nhìn khuôn mặt ửng đỏ của người ngồi trước mắt trước cặp lễ vật mình mang tới. Một sự thoả mãn dâng tràn trong bà. Vốn là con gái một ông đồ nho nổi tiếng vùng hiếu học đất Kinh Bắc, gá nghĩa với chàng học trò Lê Văn Thịnh từ thuở còn hàn vi đêm nấu cháo ngày đồ xôi để chồng dùi mài kinh sử, từ con đường khoa bảng mà làm nên công danh, Thái sư phu nhân vốn coi thường đám thê thiếp trong triều. Bọn họ chỉ biết ỷ vào thế của chồng hoặc ỷ vào dòng họ hoàng tộc mà lên mặt kênh kiệu hơn người, tham lam thu vén cho đầy đụn đầy kho. Cứ như nhà Diên Thành hầu đây vốn nức tiếng giàu sang phú quí, nhưng xem ra đầu óc hạn hẹp, tầm nhìn cũng không hơn là bao so với đám trọc phú chốn quê mùa. Chắc hẳn Hầu phu nhân lần này thừa dịp đám cưới cậu quý tử mà ra sức bóp nặn lũ quan nha dưới quyền.
May sao tiếng đàn sáo nhã nhạc từ bên ngoài vọng vào mỗi lúc một lớn, cắt đứt câu chuyện đã đến lúc khó nói của hai vị phu nhân vốn bằng mặt chẳng bằng lòng mà ở kinh thành này ai cũng biết. Diên Thành hầu phu nhân làm ra vẻ vội vã nhỏm dậy:
- Ấy chết... Đám rước dâu đã về nhà... Xem chừng sớm nửa khắc đấy... Mời Thái sư phu nhân tiện có mặt dự mừng, ban phúc cho đôi trẻ.
- Xin đa tạ... Phu nhân cho tôi được kiếu. Đến gặp được phu nhân như thế này là rạng mặt cho chúng tôi lắm rồi... Còn việc lễ trọng của đại công tử, chúng tôi đâu dám...
Đám gia nhân nhất loạt rạp mình chào Diên Thành hầu phu nhân rồi quì xuống, đỡ Thái sư phu nhân lên kiệu.
Dẫu vậy, trên quãng hoa viên mênh mông dẫn lối ra khỏi dinh thự nguy nga của Diên Thành hầu, Thái sư phu nhân cũng kịp liếc mắt điểm mặt đám kiệu rước dâu dài dằng dặc vừa về đến cổng đang dừng lại để bà già dẫn đường vung những nắm tiền đồng ban phát cho lũ người hiếu kỳ bạo dạn đang đứng chờ xem mặt cô dâu trước dinh thự.
Kiệu vừa dừng trước nghi môn, công tử Lý Câu hớn hở vén rèm. Những người đứng chung quanh sững sờ kinh ngạc vì vẻ đẹp thuần khiết của cô dâu. Gương mặt trắng xanh của Nhuệ Anh tiểu thư như một đoá hoa hàm tiếu dưới chiếc mũ phượng, vươn cao trên cổ áo bát ty màu đỏ thêu hình mặt trời và những con chim phượng đang nhẩy múa. Thân áo bát ty rủ dài êm ả xuống chiếc xiêm cũng bằng đoạn bát ty màu bạch tuyết, phía dưới gấu có đường viền xanh như cỏ chuốt. Dưới những lượn sóng rờn của lụa là gấm vóc, đầu mũi đôi hài nhỏ chập chờn hé lộ. Bên kiệu có sau thị nữ mặc áo mã tiên. Hai người cầm đèn lồng chạm rồng. Hai người cầm cành thiên tuế. Hai người bưng tráp trầu và hộp hương bằng ngọc...
Khoảng cách giữa kiệu của Thái sư phu nhân và kiệu hoa của cô dâu tuy không gần nhưng cũng đủ để cho đôi mắt tinh tường của phu nhân kịp nhận rõ vẻ nhìn xuống vẻ ngoan ngoãn và cam chịu của cô dâu. Vốn đã hỏi han rất kỹ về mối tình của Nhuệ Anh với Từ Lộ, con trai quan Tăng đô án vừa bị sát hại, vụ nghi án vẫn còn đang gây bao lời đồn đại khắp chốn kinh thành, trong lòng Thái sư phu nhân không khỏi chợt dấy lên một chút khinh bỉ về sự bạc bẽo của người con gái đang ngồi trên kiệu hoa kia. Và một người mới nhập cuộc nhưng đã rất thông thạo những nghi thức lễ nghĩa chốn cung đình, Thái sư phu nhân hiểu ngay rằng cậu quí tử nhà này đã ngông nghênh dám dùng y phục nghi trượng trong đám cưới công chúa để làm sang đám cưới y. Thái sư phu nhân nhếch nụ cười nửa miệng. Nhất định bà không bỏ qua sự ngạo mạn này. Phu nhân tự dặn mình rồi cho xe ngựa chạy thẳng về dinh ở hướng Nam kinh thành.
Lúc đó, dưới tấm nghi môn "Diên Thành hầu phủ", từ noãn các vào tới chính đường, các cánh cửa đều mở toang, phô ra những đôi câu đối sơn son thếp vàng chói lọi. Trước chính đường treo cao bức đại hoành phi bốn chữ khảm vàng: "Diên Thành hầu tôn từ". Dưới hoành phi là bài vị của Thái tổ hoàng đế. Hai bên tả hữu bàn thờ đặt hai chiếc đôn cẩm thạch, trên có trải nệm lông hắc thử dể hút hơi ấm xua tan cái rét tháng ba. Khoảng giữa hai đôn là một bồn lớn đựng những viên than cháy đỏ toả hơi ấm sực. Diên Thành hầu và phu nhân uy nghi trên đôn. Lại mười tám chiếc kỷ trạm rồng phượng đặt thành hai hàng đối diện nhau. Bên mỗi kỷ là một lò sưởi nhỏ bằng đồng. Ngồi chĩnh chiện trên mười tám kỷ là các bậc huynh trưởng trong hoàng tộc. Cảnh tượng uy nghi là vậy. Nhưng từ Diên Thành hầu đến các bậc huynh trưởng trong họ đều không giấu được cái vẻ gượng gạo trên mặt.
Hai thị nhữ nhẹ đỡ Nhuệ Anh tiểu thư xuống kiệu. Công tử Lý Câu sóng đôi cùng Nhuệ Anh bước đến vái chào song thân, hoàng tộc và bàn thờ gia tiên. Nhuệ Anh nhìn những gương mặt lạnh lùng dàn ra trước mặt nàng. Những ánh mắt như xuyên thấu người nàng, thầm định giá nàng như một đồ vật giữa những đồ tế tụng nghi trượng chói sáng. Nàng đã phải quỳ xuống vái lạy không kể xiết bao nhiêu lần. Thân thể mảnh mai của nàng mỗi lần cúi xuống lại lẩy bẩy muốn ngã nếu không có hai thị nữ luôn dìu dỡ hai bên.
Riêng Lý Câu thì chẳng còn bụng dạ nào để vào những thứ nghi lễ phiền toán và dai dẳng hành hạ hắn lúc này. Chú rể nhổm lên cúi xuống vái lạy như một cái máy. Và mỗi lần ngẩng lên cúi xuống, cặp mắt lại không thể rời được khoảng gáy trần của Nhuệ Anh kề ngay bên vai hắn. Trắng ngần và thon nhỏ như một đài hoa huệ và được khoá lại bởi chiếc kiềng vàng nặng chĩu do chính tay Lý Câu tròng vào, bấm khoá trong lễ tơ hồng ở sân nhà gái. Mỗi lần như thế trong lòng Lý Câu lại cháy rực một nỗi thèm khát điên cuồng được ôm vào trong vòng tay cái thân thể này, ngấu nghiến hôn lên cái gáy mảnh mai trắng ngần này... cho thoả tất cả những nỗi thèm khát nung nấu trong hắn, mỗi ngày mỗi thiêu đốt, ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy Nhuệ Anh trong buổi dâng hương ở sân chùa Từ Đàm. Đôi lúc cái ý nghĩ tàn bạo điên cuồng được ghé miệng cắn nát cái gáy kiêu hãnh đó, vò nát giày xéo lên cái thân thể đồng trinh đó... để trả thù lại bao nỗi uất ức, tủi nhục mà sự cao ngạo của nàng đã gây ra cho một người như hắn, đường đường là một vị đại công tử, tập ấm chức hầu danh giá nhất triều đình.
Từ Lộ đã bỏ đi biệt tăm tích. Nhưng Lý Câu cảm thấy cái bóng của tình địch vẫn thấp thoáng đâu đây, lẩn khuất sau những gương mặt, những đèn nến nghi trượng, những mâm cao cỗ đầy trong tiệc cưới này. Và chỉ cần thoáng thấy bóng Từ Lộ, cái thân thể đồng trinh bên hắn đây, cái gáy trắng ngần thon thả như một đài huệ này sẽ tan nhoà, sẽ biến mất như một ảo ảnh... Ý nghĩ đó nhói lên làm Lý Câu như nghẹt thở. Lý Câu nghiến răng, cố nhìn kỹ mặt Nhuệ Anh. Nét mặt buồn, nhưng cam chịu, ngoan ngoãn thành kính vái lạy cha mẹ và các bậc huynh trưởng. Lý Câu thấy yên lòng. Nhưng đôi môi hắn mím chặt. Con chim nhỏ ngang ngạnh bướng bỉnh đã trở nên biết điều an phận trong lồng son rồi. Nhưng hãy chờ đấy, cái lồng son này cũng sẽ có lúc trở thành chốn địa ngục...
Cuối cùng thì những quy định phiền phức những lễ nghi dai dẳng trong đám cưới công tử của một đại gia đại phú cũng đã xong. Tiếng đàn sáo lại réo rắt vang lên. Từng dẫy đèn lồng thắp lên trong nhà, ngoài vườn. Cô dầu đã được dẫn vào phòng tân hôn chuẩn bị làm lễ hợp cẩn.
Nhưng công tử Lý Câu lúc này lại vẫn ra vẻ không hay biết. Công tử vẫn lượn lờ ngửa cổ nốc từng chung rượu lớn, cười đùa bỡn cợt với đám bằng hữu đang ngồi ngả nghiêng trên chiếu rượu đã gần tàn hoặc chen vai thích cánh trong những chiếu bạc vừa mới mở ra la liệt ngoài sảnh.
Ban sáng, lúc chuẩn bị rước dâu, bà mai đã dặn đi dặn lại Lý Câu về lễ hợp cẩn. Chú rể sẽ phải lấy miếng trầu trăm trong tế tơ hồng để dành trao cho cô dâu một nửa. Rồi rót một chén rượu, hai người cùng uống cạn. Rồi vợ trải chiếu lạy chồng hai lạy. Chồng đáp lại vợ một vái... Lý Câu nhăn mặt cố nhịn, nghe hết những lời ê a thốt ra từ cái miệng móm mém lúng búng đỏ nước cốt trầu của bà mai đã ngoài bảy mươi tuổi.
A ha! Lễ hợp cẩn... Có thế mới nên vợ nên chồng... Công tử Câu muốn phá lên cười. Bây giờ miếng trầu trăm vẫn nằm gọn trong túi áo gấm đây. Đáng lẽ miếng trầu này phải đặt lên chiếc đĩa có hình song phượng trên bàn trong phòng đôi tân hôn. Nhưng Lý Câu muốn làm ngược lại. Lúc lễ tơ hồng trên sân nhà gái, đáng lẽ miếng trầu trăm phải được nâng niu nhấc lên, khe khẽ bọc lại bằng một vuông lụa đào. Nhưng Lý Câu lại đưa tay nhón lấy bỏ vào túi, làm nát cả đôi cánh xanh xinh xinh của miếng trầu. Lý Câu muốn Nhuệ Anh và mọi người biết rằng, trên đời này đại công tử Lý Câu muốn làm gì thì làm, chẳng phải nghe ai, chẳng cần tuân theo luật lệ.
"Ta sẽ móc túi lấy miếng trầu trăm ra, và hỏi nàng có nhớ lễ Vu Lan ở Từ Đàm năm ngoái. Nàng đã từ chối mời ta một miếng trầu. Lại kiêu căng ra sao trước mặt Hầu công tử này. Bây giờ miếng trầu đó đây. Ta không mời ta mà ta cũng chẳng mời nàng. Miếng trầu này cũng như thân phận kiêu sa của nàng đó, từ nay sẽ thuộc về ta, hoàn toàn thuộc về ta. Miếng trầu trăm ta không ăn mà sẽ xéo nát dưới chân như nàng đã làm đối với ta trong lễ Vu Lan ngày đó...". Những ý nghĩ cứ loé lên, lúc nguội tắt trong đầu Lý Câu.
Chuếnh choáng hơi men, Lý Câu không còn nghĩ gì đến thể diện, sán đến phường con hát đàn địch mua vui cho đám quan lại quý tộc cự phú, lả lơi cười nói, bẹo má, bế cả lên đùi ngồi bỡn cợt. Đám con hát cười như nắc nẻ, rồi chợt bụm miệng sợ hãi vì sực nhớ đang ở giữa lễ Tiểu đăng khoa của công tử. Mãi đến lúc mấy tên gia nhân đầu chít khăn điều hớt hải tìm, nói phu nhân truyền cho đại công tử vào ngay để làm lễ hợp cẩn kẻo lỡ giờ tý tốt lành, Lý Câu mới làm vẻ như buộc phải tuân lời. Và lúc đó, dù chuếnh choáng hơi men, đại công tử họ Lý cũng chợt hiểu ra rằng, không phải Nhuệ Anh mà chính hắn, chính hắn, sau bao nhiêu công sức, cơ mưu để đi tới được ngày hôm nay, thì đến lúc này tất cả sự thèm khát cùng dục tình hàng ngày vẫn ngùn ngụt bốc lên hành hạ tâm can hắn giờ đây lại như cơn thuỷ triều vào độ trăng khuyết. Nước rút đi để lại bờ bãi hoang vắng xác xơ. Hắn chần chừ vì ngại ngùng, sợ hãi phải giáp mặt với nàng.
Lý Câu chệnh choạng theo hai thị nữ cầm đôi nến hồng dẫn đến trước cửa phòng tân hôn. Trong hơi rượu mù mờ đầu óc, hắn bậm môi đoán thầm xem lúc này Nhuệ Anh đang làm gì. Hoặc sẽ là một gương mặt, một cặp mắt phẫn uất căm thù. Hoặc sẽ là một thái độ lạnh lùng nhẫn nhục cam chịu. Cả hai hắn đều không muốn. Như mọi người đàn ông bình thường khác lúc này, cùng với những bước chân gần đến hai cánh cửa ngăn cách kia, trong ngực hắn bỗng nhói lên nỗi niềm khao khát mong đợi được mềm yếu được vuốt ve chiều chuộng yêu thương.
Hai thị nữ dừng lại trước cửa phòng. Cả hai ngước mắt nhìn lên đại công tử, và mỉm cười. Nụ cười cầu tài lấy lòng khiến Lý Câu như chợt tỉnh. Hắn móc túi lấy chút bạc vụn thưởng rồi giật phắt lấy cây nến, gạt hai đứa sang một bên, kiên quyết đẩy mạnh cánh cửa bước vào phòng tân hôn.
Căn phòng trống hoang, lặng ngắt như tờ.
Lý Câu giơ cao cây nến trong tay, đứng ngẩn, hơi men thoắt tan biến.
Mọi thứ vẫn còn nguyên đó. Chiếc giường cao chạm trổ cầu kỳ rèm che chăn rồng gối phượng. Chiếc kỷ nhỏ chân quỳ có đặt bình rượu cẩm và chiếc chén "quân độc ẩm" úp bên. Chiếc chiếu cạp điều cuộn tròn để đợi bàn tay cô dâu trải ra đón lễ hợp cẩn. Phía góc nhà, chân đèn dầu lạc bập bùng ngọn lửa. Lý Câu đã nhìn thấy trên tấm nệm hồng trải giường, chiếc áo lụa bát ty khoác ngoài thêu mặt trời và chim phượng mà Nhuệ Anh vừa mặc.
Những giọt nến hồng nhỏ xuống bàn tay rát bỏng. Nhưng Lý Câu không hay biết. Hắn cứ đứng thế trân trân. Rồi hắn cúi nhặt lên những ngọn trâm cài đầu, những chiếc vòng vàng nhẫn ngọc, đôi hoa tai... Tất cả đồ sính lễ mà hắn đã mang tới cho Nhuệ Anh. Tất cả đều được bỏ lại cùng chiếc kiềng vàng chạm hình rồng đeo cổ. Móc khoá của chiếc kiềng vàng đã bị bàn tay, không phải bàn tay, mà là những vết răng cắn còn vương máu, bẻ gẫy. Gió lạnh lùa vào tung phần phật đôi rèm cửa sổ lụa hồng khiến Lý Câu ngẩng nhìn, bước nhanh tới. Trước mặt hắn là khoảng tối đen của khuôn viên sau lầu cao. Xa hơn nữa là hàng rặng cây mai cây ổi đen sẫm dăng mành hai bên bờ sông Tô. Lý Câu đã nhìn thấy một dải lụa trắng xé từ những lá màn cửa, rèm giường nối nhau xoắn lại thành sợi dai chắc buộc vào song cửa sổ, dòng từ thành cửa gỗ xuống khoảng đen sâu thẳm khuôn viên.
... Nàng đi rồi...! Thế là xong... Thế là hết...! Hết tất cả...!
Những tiếng chói óc vang lên từ trong sâu thẳm tâm trí Lý Câu. Hắn thẫn thờ bước lại bên chiếc kỷ chân quì. Hắn run run đặt cây nến hồng lên mặt kỷ. Ngồi xuống. Bây giờ hắn mới nhận ra những giọt nến nóng chảy đọng lại còn đang bốc khói trên mu bàn tay. Hắn cứ để nguyên thế, gật gù ngắm những giọt nến bỏng như ngắm nghía thưởng thức một vật gì lạ lẫm, tình cờ có được, tình cờ sa vào mu bàn tay hắn.
Bên ngoài, một hồi trống thì thùng dội lên báo hiệu giờ tý đã điểm. Giờ khắc bắt đầu lễ hợp cẩn thiêng liêng của đôi vợ trồng trẻ. Đám con hát cũng tạm dừng để các đào kép, nhạc công cùng hợp sức tấu lên bài ca cầu phúc cho cặp tình nhân được bách niên giai lão, giàu sang phú quý, con cháu đầy đàn. Lại thêm những ngọn đèn lồng, những cây bạch lạp được nối nhau đốt lên khiến trong lầu, ngoài hoa viên càng thêm tưng bừng rực rỡ.
Trong phòng, Lý Câu vẫn lầm lì ngồi bên kỷ. Chiếc chiếu cạp điều đã được trải rộng ở bên. Chén rượu độc ẩm rót ra cạn lại đầy. Lý Câu ngửa cổ dốc vào miệng hết chén này đến chén khác. Thứ rượu cẩm ủ bằng hai mươi hai vị thuốc quý hạ thổ lâu năm thơm ngon có tiếng mới được kén dùng cho lễ hợp cẩn của con trai đệ nhất phẩm Diên Thành hầu mà sao lúc này mỗi chén đắng chát bóp chét lấy miệng, bóp chét lấy cổ họng.
Lý Câu cứ uống. Uống mãi. Tiếng trống điểm canh, tiếng đàn sáo chúc phúc từ ngoài kia vẳng vào mỗi lúc mỗi xa xôi mơ hồ như tiếng ma tiếng quỷ, như tiếng vang vọng vẳng lên từ một đời kiếp nào khác. Bình rượu hợp cẩn đã trắng đáy. Lý Câu nhấc bình lên giơ ra trước mặt hấp háy mắt.
Hết rồi... Thế là hết rồi...! Chó má cái lễ hợp cẩn...!
Một lần nữa những tiếng nói mơ hồ lại vẳng lên trong Lý Câu. Lý Câu gục gặc đầu, mắt rời bỏ bình rỗng, hướng lên và bỗng dừng lâu ở trên tường, nơi có treo kiếm báu gia truyền của hoàng cung. Thanh kiếm đã được chính tay Đức Thái Tổ hoàng đế trao cho cha Diên Thành hầu tức ông nội Lý Câu nhân ngày triều đình dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long để tưởng thưởng cho những quần thần đã có công lao trong việc dời đô, định đô. Dòng họ Lý kiêu hãnh với thanh kiếm báu. Hôm trần thiết phòng tân lang, Lý Câu nằng nặc xin cha cho treo thanh kiếm trong phòng. Mọi người gàn quải, như thế sợ làm điều bất kính. Lại nữa, đêm động phòng hoa chúc của vợ chồng trẻ chẳng nên có đao kiếm. Nhưng Lý Câu vốn dĩ ngang ngược, đã muốn là đòi bằng được. Diên Thành hầu buộc phải chiều lòng cậu con trai độc. Hầu tắc lưỡi nói với phu nhân: "Nhà mình, mình biết. Bà có nhớ năm Diên Vũ tròn tuổi tôi, làm lễ định trí, bao nhiêu vật dụng bầy quanh, thằng bé đâu có ngó ngàng tới. Nó đạp chân nhoai người, tay với lên. Một tay nhặt hộp son phấn. Một tay quờ cây kiếm báu...!".
Lý Câu xô đổ kỳ chân quì vùng đứng dậy. Lại như ngày tròn tuổi tôi năm xưa, giờ đây Lý Câu lại chồm tới thanh kiếm báu.
Roạt... Lưỡi kiếm rút khỏi vỏ, ánh lên thứ ánh sáng xanh rợn của loại thép quí trước ánh đèn và ngọn lửa nhảy nhót trên đỉnh nến hồng. Lý Câu nheo mắt, mím miệng đăm đăm nhìn lưỡi thép.
Lý Câu đang đăm chiêu ngắm lưỡi kiếm thì giật mình vì trống điểm sang canh vọng tới. Giờ sửu bắt đầu. Cái hình ảnh trâu vàng rồng ngọc kề bên nhau, quà mừng của quan Thái sư đầu triều mà Diên Thành hầu phu nhân đã nhanh tay sáng ý cho bầy lên trước bàn thờ gia tiên khi rước dâu vào dinh để khoe thanh thế giàu sang phú quí giờ đây lại ập tới trong đầu Lý Câu. Tay nắm chặt đốc kiếm, Lý Câu ngước đôi mắt vô hồn hướng ra ngoài cửa sổ. Vòm trời tháng ba xa rộng lấp lánh những vì sao chuyển mùa. Trong vùng sâu thẳm của trời đêm, Lý Câu nhắm mắt, lại thấy Nhuệ Anh. Gáy trắng như bông huệ. Xa vời. Kiêu hãnh trêu ngươi.
Lý Câu thẫn thờ đưa đầu mùi kiếm hất chiếc áo choàng lụa bát ty thêu chim phượng. Chiếc áo lụa trơn ngập ngừng trên đầu mũi kiếm một giây, rồi lại lặng lẽ xoãi ra rơi xuống chiếu.
Bất chợt cơn giận dữ ập đến. Một sức mạnh điên cuồng thoắt nhập vào khiến toàn thân Lý Câu tê cứng.
Hừ... mày... à...!
Lý Câu gầm trong họng. Lưỡi kiến dữ dội vung lên. Roạt...! Tấm áo choàng bát ty bị chém đứt phăng thành hai mảnh, một mảnh phật phờ rơi trở lại chiếu, một mảnh văng ra cuốn vào chân ngọn đèn dầu lạc ở góc phòng. Lý Câu rít lên vọt đuổi theo mảnh lụa. Xoảng... Cây đèn bị chém ngang thân, dầu văng tung toé. Những giọt dầu bắn ra loang dần, kéo theo những vệt lửa ngoằn ngoèo như những vệt lân tinh bò lan trên tường, trên nền thảm trải phòng, trên giường hoa nệm gấm cho dâu chú rể còn nguyên nếp và thơm quyện mùi trầm quý.
Lý Câu như người điên. Hắn chống kiếm nhẩy dựng lên, giẫm đạp lên những vòng vàng, xuyến bạc, hoa tai, kiềng, nhẫn. Roạt... roạt...! Lại tấm màn cửa lụa hồng bị chém đứt. Roạt...roạt...! Tấm khăn trải giường bị hất cao, tung lên những lưỡi lửa bay quẩn quanh khắp phòng theo những đường kiếm lượn. Đến lúc Lý Câu mệt nhoài vì chém giết, chống kiếm đứng thở hồng hộc như con thú dữ bị dồn đến cùng đường và những lưỡi lửa hung dữ ăn loang lem lém liếm rộng khắp căn phòng tân hôn ngổn ngang tàn phá thì bên ngoài vẫn không một ai hay biết. Hai thị nữ vẫn chồn chân mỏi gối ngoan ngoãn đứng hầu hai bên cửa phòng. Ngoài hoa viên Hầu gia, đám hát vừa giã. Phu kiệu í ới gọi nhau sắp đòn khiêng đưa những vị khách muộn mằn rời dinh.
Đám cháy dữ dội dã thiêu huỷ toàn bộ dinh cơ lầu gác bên bờ sông Tô Lịch và đám cưới không thành của đại công tử con quan Diên Thành hầu đêm đó đã là câu chuyện bàn tán cửa miệng của người kinh thành Thăng Long suốt bao năm sau.
NGƯỢC THÁC OÁN
Gió bất chợt cuồng nộ trên sông Gâm. Vòm trời cao xanh thoắt tối sầm. Mưa quật xuống ràn rạt xé rách da người.
Cái bóng bé nhỏ vận đồ đen kín mít bỗng chạy vụt lên mấy bước rồi khựng lại. Và lồng lộn xõa xuống một mái tóc đen dài cũng đang giận dữ như cơn giông. Người đó đứng chôn chân. Nửa thân ngả đổ về phía trước ghìm trong gió vừa như lấy đà để bất chợt lao oà xuống dòng sông. Từ Lộ muốn dụi mắt mà tay cứng đờ. Chàng lẩy bẩy bíu vào cụm nứa định nhổm người lên những không được. "Trời... Nhuệ Anh...?". Từ vừa lắp bắp vừa thốt lên thì người trên lèn đá đã nhào xuống làm con bè giật mình chòng chành. Bóng áo đen dổ sập toàn thân ướt đẫm xuống chân Từ Lộ. Trong ánh chớp của cơn giông rừng vừa loé lên như một nhát chém sáng loà xẻ ngang vòm trời cùng với tiếng sét dữ dội nổ tung khiến người vật cỏ cây muôn loài chết lặng, bên tai Từ lại vẳng tiếng kêu nghẹn ngào, tiếng gọi tha thiết trỗi lên từ trong vùng ký ức sâu thẳm tưởng chừng đã muôn đời muôn kiếp lãng quên...
*
* *
Từ Lộ gò lưng tì vai chống sào đẩy bè ngược sông Gâm.
Con sông về mùa cạn nước trong vắt có thể nhìn thấu đáy những viên đá cuội nhiều màu ẩn hiện và những đàn cá thân mỏng đuôi dài, hàng vẩy lưng óng ánh màu sắc lượn quanh đi lượn lại qua những cành nhánh rêu xanh đen dưới đáy sông. Nhưng bây giờ là mùa hè. Nước từ thợng lưu ào ạt đổ về các nhánh Nho Quế, Ma Nhi, Pác Nam... Sông quặn mình chảy xiết. Bọt nước sủi sùng sục táp vào hai bên thành bè, tung lên quật ràn rạt vào mái nứa của chiếc cum uốn cong, nơi Minh Không và Giác Hải, hai người bạn của chàng, mặc tiếng thác gầm nước réo vẫn ngủ mê mệt sau một đêm tiếp tay nhau chống bè vượt dòng sông dữ.
Những ngày đầu tì vai lên sào, khom ngực nín thở chân dận ngược đẩy bè vượt lên sóng nước, cái đau nhói chạy lên suốt vai xuyên sống lưng làm tê dại nửa thân Từ. Mảng mo cau già nhúng đẫm nước mà sáng sáng Giác Hải đưa cho chàng áp lên vai chỉ một buổi là bợt ra xơ xác. Máu tụ tím bầm thành những hình tròn như đáy bát ở vai, ở ngực, nơi cọ xát với đầu sào. Mỗi bước đi trên bè chệnh choạng, chênh vênh như bước trên giàn lửa. Từ vẫn nghiến chặt hai hàm răng tì ngực tì vào đẩy sào không một tiếng rên. Cái đau cơ thể lúc này dẫu có ghê gớm cũng không thể so sánh được dù chỉ là phần trăm nghìn so với nỗi đau quặn thắt trong ruột gan tâm trí chàng kể từ buổi hoàng hôn nơi cửa rừng Quí Vũ.
Từ Lộ nhớ lại con đường gian truân đã dẫn chàng tới chốn ma thiêng nước độc này để dấn thân trên nẻo thăm thẳm đầy bất trắc mà đích thì càng ngày càng như xa vời. Sau khi Đại Điên đủng đỉnh bỏ đi, suốt ba ngày ròng Từ đã như bất động trong một hang đá nhỏ giữa rừng cấm. Từ nằm ngửa, mắt nhắm, chỉ thỉnh thoảng há miệng đón những giọt sương lạnh buốt từ nhũ đá trên nóc hang rỏ xuống. Hình ảnh pháp sư Đại Điên, cây thiền trượng buông lỏng trên vai, đủng đỉnh bước một trở vào hội Chen cứ hiển hiện trước mắt. Tiếng cười ngạo nghễ đắc ý của Đại Điên cứ nhức nhối mãi bên tai. Kẻ giết thuê độc ác đó đã ngang nhiên giết cha mẹ chàng, những người xưa nay chỉ biết dùng đạo từ bi mà đối nhân xử thế. Kẻ đó phá nát gia đình chàng, giày xéo lên cuộc đời chàng. Và nỗi thất vọng, bất lực về mình khiến những giọt nước mắt của Từ Lộ lặng lẽ ứa ra, lặng lẽ chảy dài trong bóng tối.
Một ý nghĩ mới hình thành, bám chặt tâm trí của Từ sau ba ngày bất động trong hang nhỏ rừng Quí Vũ. Kẻ thù của chàng là pháp sư, đã từng sang tận ThiênTrúc tìm thầy học được huyền thuật hơn người. Trong cõi nước Nam này không kẻ nào địch lại được Đại Điên. Nếu chàng chỉ đem sức thư sinh mà đọ với hắn thì khác nào trứng chọi đá. Từ nhớ lại tiếng kêu thảng thốt của cha trên rừng Quí Vũ. Suốt ba đêm Từ mơ thấy ông, cái thây dựng đứng ướt đẫm rầu rĩ. Văng vẳng tiếng nghẹn ngào: "Từ Lộ con! Cha đã lầm. Ta chỉ tu thiện, không biết phòng ác mới ra nông nỗi này. Không những chết không nhắm mắt mà còn làm liên luỵ đến vợ con, đắc tội với tổ tiên. Muốn trả thù cho cha mẹ, con hãy kíp nén lòng. Bao giờ thông thạo Lục thông, huyền thuật vượt Đại Điên, khi đó hãy trở lại...". Nói rồi, cha chàng buông xuôi hai tay, tắt thở. Cái thây rầu rĩ đổ xuống sóng soài trên mặt nước trôi ngược sông Tô.
Sang ngày thứ tư, Từ lầm lũi trở dậy, hứng sương rửa sạch những vệt nước mắt đông cứng trên khuôn mặt hốc hác nhem nhuốc. Từ soi thấy mặt mình trong vũng nước mưa phẳng lặng bé bằng bàn tay. Từ bỗng thấy căm ghét những nét dịu dàng trên khuôn mặt thư sinh dưới đáy nước kia. Từ muốn mình rắn rỏi, sắt đá. Một trái tim quánh đặc máu đen chỉ dành cho việc trả thù.
Lại một gương mặt bất chợt hiện lên dưới đáy nước, sóng sánh bên Từ. Mày là làn khói vương ngang trên khoé thu ba không khóc mà long lanh như rớm lệ. Đôi mắt nhìn chàng chan chứa tình ái lẫn hờn trách và tiếc hận. Toàn thân Từ thốt nóng bỏng nhớ lại những ngón tay lụa là ve vuốt của Nhuệ Anh. Từ nhớ ngôi miếu hoang, nơi chàng cắn răng cố tàn nhẫn xua đuổi Nhuệ Anh, người con gái mà chàng sẵn lòng đổi cả tính mạng để giữ gìn nếu như không có cuộc ân oán này. Dội lên trong ngực một cơn khát. Chàng muốn lập tức chạy về kinh thành để biết được số phận của nàng, được nhìn thấy nàng một lần cuối...Từ vùng dậy vơ nắm cành khô hấp tấp nhóm một đống lửa. Chờ cho những viên than đỏ rực bắt đầu hiện ra, Từ nghiến răng dúi sâu ngón út của bàn tay trái vào giữa đống than. Cái ngón tay thổn thức nhất, cách đây chừng vài khắc vừa ấm lên, run rẩy tưởng chừng những ngón tay mềm mại của Nhuệ Anh vừa chạm vào. Những viên than hồng dính chặt vào da thịt. Cái đau xói lên óc. Từ cất một tiếng thét đau đớn trong họng, ghìm sâu tay trong đống than đỏ. Bốc lên khét lẹt mùi thịt cháy. Khi Từ rút tay ra, ngón tay đã cháy rã thịt, phần xương bên trong bầm dập như một nhánh cây bị tước hết vỏ. Nõi đau đớn do cuộc hành xác mang tới khiến chàng thấy cơn khát trong lòng dịu vơi, dường như trong tim đã chứa đầy máu đen.
Rồi Từ lấy nhựa cây bôi đen mặt mũi, rách rưới như một kẻ hành khất, tay nải lên vai, dò đường tìm đến Thiền viện của Thập Quang Đại sư. Thời cha còn sống, Từ vẫn nghe cha nhắc đến phép thuật cao cường và thiền viện bí ẩn của đại sư nằm cheo leo trong sương trên núi Yên Tử.
Đường lên đỉnh núi lởm chởm đá tai mèo. Hai bên đường là rừng rậm chốc lại rung chuyển bởi tiếng hùm beo gầm gào. Trăn đánh võng trên các cành cây. Rắn phun nọc phè phè lạnh gáy. Đường càng đi càng mất hút dấu chân người. Chỉ còn thấy những vách đá dựng ngược chắn ngang lối. Từ đu mình vào rễ cây mà leo lên. Nhiều lúc thân treo lơ lửng trên vách núi, mười con tay bấu chặt vào đá đến tróc móng, hai cùi tay cố hợp sức ghì chặt lấy một mỏm đá giữ thân mình khỏi rơi xuống vực sâu thẳm đang ngoác miệng chờ trong tiếng kêu hú rợn người của đàn vượn lúc xa lúc gần ma quái... Mây quẩn quanh chân khi mờ khi tỏ như đùa giỡn che khuất đường đi, chỉ lỡ nửa bước là tan xương dưới vực.
Từ không nhớ rõ là đã đi bao ngày, rách nát bao nhiêu đôi giày cỏ. Bàn chân mịn hồng mới đây được ấp ủ trong giày gấm, nay hết tứa máu lại sưng phồng và chằng chịt sẹo. Vậy mà thiền viện của Thập Quang đại sư cứ lúv ẩn lúc hiẹn, có khi tưởng đã trước mặt, hớn hở chạy đến lại chỉ thấy một khóm cây. Có lúc hoàn toàn biến khỏi tầm mắt. Từ càng đi càng hoang mang, luôn thảng thốt rằng mình đã nhầm đường. Mỗi lúc chàng tuyệt vọng, nước mắt lã chã rỏ xuống đôi bàn chân rách nát, những muốn chết đi cho nhẹ nợ, thì thiền viện lại hiện ra như vẫy gọi. Mãi đến khi chàng lần đến được dưới một vách đá chót vót chọc trời, mười ngón chân sưng phồng như quả mận chín, đầu gối trái bị trẹo vì bám hụt vào mớ rễ cây bị đứt, vừa hồi tỉnh sau cơn choáng ngất, ngửa mặt lên thì thấy một ngôi nhà cỏ cheo leo trên vách núi.
Mặt trời đã ngang tầm. Vách đá trước mặt còn cao vời vợi. Từ Lộ neo được một khuỷu rễ thông già dừng lại để thở. Chợt nhìn xuống phía sau thấy một chú đạo sinh trạc mười một mười hai tuổi, áo nâu xốc xếch, tóc trái đào đang gò lưng gùi hai ống bương dài hơn người. Ống bương nước có vẻ rất nặng mà tiểu đạo sinh cứ thế thoăn thoắt nhảy nhót qua tai mỏm đá dựng ngược mà lên, trông như một chú sơn dương đương tung tẩy trên mặt đường bằng phẳng. Nước đầy sóng sánh trên miệng ống mà không một giọt tràn. Đạo sinh líu lô như chim hót:
Tỳ kheo tỳ kheo - nón đeo
Hành cước, hành cước - vượt đèo
Nghiệp từ kiếp trước - thương khéo
Trả lại kiếp này - bóng theo...
Qua mặt Từ Lộ, tiểu đạo sinh không nhìn lại không hỏi han. Đôi chân trần bé nhỏ vẫn thoăn thoắt thoăn thoắt. Chẳng mấy chốc lưng áo nâu với hai ống nước dài đã khuất sau những mỏm đá cao.
Từ Lộ cứ theo hướng tiểu đạo sinh mà leo, bỗng thấy chân mình lẹ làng nhẹ nhõm. Lối đi như rộng ra. Mặt trời quá đỉnh đầu. Càng lên cao sương núi càng âm u khí núi càng lạnh buốt. Leo mãi. Vượt qua một dốc đá trơn chuội có hàng thông trăm tuổi đứng như hàng lính canh đến một bãi đá xanh vân trắng trải dài... Thập Quang thiền viện là đây. Dẫy lều lợp cỏ lau nối nhau phơ phất như tóc bạc. Khoảng hơn hai chục đạo sinh ngồi kiết già hai tay chắp ngực mặt hướng về phía một gốc thông thân trăn mốc thếch, ngọn vươn cao như trọc tới trời xanh. Không biết các đạo sinh này ngồi bất động đã bao lâu. Trên những mái đầu cắt trọc tóc mọc lởm chởm, trên những tấm vai trần bợt bạt vì sương gió bủa vào người bê bết lông chim, phân chim rừng.
Từ Lộ lúng túng chưa biết tính sao thì chú đạọ sinh gùi nước đã quay trở ra bãi đá. Lần này tiểu đạo sinh đến trước mặt, nhìn thẳng vào mắt Từ Lộ, rồi vẫn không nói một lời lại quày quả bước đi. Từ như người chợt tỉnh, vội bước theo tiểu đạo sinh.
Thập Quang đại sư ngồi thiền trên một tảng đá lớn sau gốc thông già. Dái tai rủ chấm vai, mắt lộ môi dầy, cằm vuông trán đứng... Vóc người cao lớn. Thần thái uy nghi... khiến Từ Lộ vừa nhìn thấy đã bủn rủn chân tay, thân thể như không còn xương cốt, quì sụp xuống.
Từ Lộ quì không biết bao lâu. Chàng cố hết sức để không gục xuống. Chân tay tê dại và cái đói khiến cho chàng như mê sảng. Khi chàng ngẩng đầu lên thì trăng đã đứng ngang trời. Khắp bãi đá và cả một vùng rừng núi trời đất mênh mông ngập tràn ánh vàng ngời ngợi trong vắt. Đại sư vẫn ngồi đó. Đôi mắt to tròn xoe như mắt cú rọi thẳng về phía chàng. Cái nhìn như xuyên qua tim.
Từ Lộ lắp bắp. Đại sư đưa năm ngón tay ra hiệu. Giọng Đại sư sang sảng thấu tận vào óc:
- Từ Lộ... Ngươi đã nhọc công đến dây tìm ta. Nhưng thiền viện của ta lập ra không phải để dung dưỡng niềm hận thù Huyền thuật của ta rèn luyện không phải để lấy máu hại người. Vả lại, phép thuật của ta không bằng Đại Điên...
- Thưa đại sư... Con...
- Ta biết nỗi đau đớn oan khiên khôn cùng mà ngươi đã phải gánh chịu. Âu cũng là nghiệp chướng buộc chân con người nơi trần thế. Thế gian này đâu cũng ngun ngún những đống lửa hận thù, hể có gió lẻ là bốc thành núi lửa. Ta cũng nhìn thấy ngùn ngụt lửa hận thù cháy trong mắt ngươi. Mà con đường đến với đức Phật ngắn nhất không phải đi trên những đống xương thù hận.
- Thưa đại sư. Con từng nghe. Nhưng con đã thề trước vong linh cha mẹ và tổ tiên. Thân xác Từ Lộ này kể từ đêm Nguyên tiêu năm nay không còn thuộc về Từ Lộ nữa... Cả đời, song thân con chưa từng làm một điều ác. Tại sao gia đình con lại phải gánh chịu oan nhiệt đến như vậy? Từ Lộ này chỉ sống để rửa hận mà thôi!
- Còn trẻ người non dạ, ngươi chưa hiểu. Có quả ắt có nhân. Âu cũng là nhân quả từ kiếp trước...
- Xin Đại sư xác tội. Vậy nếu con tìm đến đại sư, một mực xin học đạo pháp cao cường để báo oán, ắt cũng không phải do con muốn, mà phải có duyên nghiệp từ kiếp trước. Có bao nhiêu con đường đến với Phật tổ, con chưa có duyên thấu hiểu. Nhưng con thiển nghĩ, nếu khoanh tay trước kẻ ác thì tất vô tình hại người thiện...
Thập Quang đại sư im lặng hồi lâu, rồi buột thở dài:
- ... Trong lý lẽ ngông cuồng của kẻ trẻ dại này cũng có đôi chút ánh sáng. Ta không thể dạy huyền thuật cho con. Đại Điên khi xưa đã không quản gian nan cực nhọc sang tìm thầy học đạo tận bên đất Thiên Trúc. Hắn có tài và bền chí. Chỉ tiếc rằng hắn lại dùng tài đó để thoã mãn tham, sân, si... Nay ta chỉ đường cho con sang ThiênTrúc. Con phải bền gan hơn Đại Điên. Nhưng nhập đạo, luyện trí, rèn thân... biết đâu trên con đường hành cước, trong thân phận của một tỳ kheo, con cũng lại ngộ được đôi điều, ngõ hầu làm vơi gánh nghiệp chướng... Trí Thành đâu?
- Dạ!
Chú tiểu đạo sinh vẫn đứng chắp tay hầu bên đài sư nghe gọi tên vội lên tiếng.
- Nhà ngươi đã gặp Từ Lộ, dẫn hắn đến đây. Âu cũng là nợ trần ai. Mà các ngươi cũng còn duyên sau này nữa. Ta cho con xuống núi cùng Từ Lộ đi Thiên Trúc...
- Thưa sư phụ...
- Mọi điều cho chuyến đi, thường nhật ta đã nói. Tuy tuổi con còn nhỏ nhưng bấy lâu luyện rèn cũng đánh được chân hành giả. Từ nay ta dặt pháp hiệu cho con là Minh Không. Ngay sáng mai hãy cùng Từ Lộ xuống núi.
Nói rồi đại sư chắp hai tay trước ngực nhắm mắt. Thân còn tĩnh tại đó nhưng hồn như đã phiêu diêu bồng bềnh tít chốn cao hoang.
Đêm ấy Từ Lộ không ngủ. Chàng cùng Minh Không lo liệu cho chuyến đi. Tại thiền viện đã có sẵn những chiếc bát gỗ cũ kỹ có dây đeo dành cho các tỳ kheo đi khất thực và những cây tích trượng bằng thiếc. Từ Lộ nhạc nhiên thấy Minh Không đem thêm một bộ bát và tích trượng, ngoài bộ đã dành cho hai người. Minh Không đáp lại cái nhìn dò hỏi của Từ Lộ: Dưới chân núi kia, có một kẻ đợi chúng ta vào lúc mặt trời mọc.
Gà gáy canh tư, Minh Không đã hối thúc Từ Lộ. Cái cậu bé để tóc trái đào, trò yêu của Đại sư, nhờ ngót chục năm rèn luyện tại thiền viện, đã thành thạo mọi công việc của một tỳ kheo trên đường hành cước. Cậu bé giục Từ Lộ khoác tay nải lên vai, rồi đi trước dẫn đường, cứ bám rễ cây mà đu, đến khi mặt trời mọc đã thấy một con sông nước đỏ ngầu. Một người trẻ tuổi, vóc dáng tầm thước vạm vỡ, da ngăm đen mắt lòi, đang bồn chồn chờ họ. Đó là Giác Hải, một tay chài lưới trên sông Lô mà Minh Không vẫn thường cùng trò chuyện mỗi khi xuống lấy nước. Giác Hải đã có ba năm lên núi theo học tại thiền viện...
*
**
... Từ Lộ nghiến răng chống sào đẩy bè ngược dòng. Càng lên thượng nguồn nước sông càng chảy xiết. Những mỏm đá ngầm ẩn hiện khắp dòng sông như vô số hàm răng nhọn của lũ thuỷ quái đang rình rập chờ xé tan chiếc bè ra trăm nghìn mảnh. Những thân cây cành cây đổ từ thượng nguồn trôi về lập lờ trên mặt nước như những thây người chết đuối vừa bị hồn quỷ nhập chỉ phăm phăm nhằm thẳng vào bè của chàng mà sầm sập lao tới. Dưới chiếc nón là gồi rộng vành che khuất đôi mắt sáng như đang trong cơn sốt, những giọt mồ hôi đuổi nhau nhảy hối hả chạy vòng qua đuôi mày rậm khiến mắt Từ Lộ cay xè như đang khóc. Những chiếc nón rộng vành đội đầu là đặc điểm để nhận ra các tỳ kheo đang thực hiện các cuộc hành cước trên con đường xa thẳm của họ. Để tìm đường sang ThiênTrúc, Đại sư đã tặng cho mỗi người một cây tích trượng bằng thiếc, có gắn những vòng đồng mà mỗi bước đi lại cất tiếng rung xủng xoảng. Tiếng rung đặc biệt này là để xua đuổi côn trùng biết trước mà tránh xa, không để các tỳ kheo chẳng may giẫm chết thì lại phạm vào sát giới. Tiếng tích trượng cũng còn là để xua đuổi ma quỷ, tà khí dọc đường đi và kêu gọi các thí chủ rộng lòng giúp rập. Theo giới luật Thiền tông, Từ Lộ, Giác Hải, Minh Không đã phải tìm lá gồi kết những chiếc nón dành riêng cho các hành giả. Minh Không nói rằng các hành giả nhất thiết phải đội nón rộng vành. Vành nón rộng không cho người ta phóng mắt lên trời hoặc hoang đãng nhìn ngắm sang hai bên, mắt không tán theo cảnh sắc ben ngoài mà chỉ nhìn sâu vào đáy lòng mình.
Trên sông Gâm, chiếc bè dưới tay sào của Từ Lộ vẫn luồn lách qua những mỏm đá ngầm cây đổ sóng dữ. Từ đã thấm mệt. Mỗi khi rút sào chạy lên đầu bè, chàng phải rướn người tì cả nửa thân lên trên đầu sào để lấy thêm sức đẩy bè đi. Đang đưa ống tay áo lên gạt mồ hôi thì chợt nghe phía sau có tiếng người rổn rảng:
- Bữa nay đường sào của huynh đã thuần nhiều rồi...!
Từ Lộ ngoái nhìn. Giác Hải đã qua giấc lồm cồm chui ra khỏi cum nứa. Mưa nắng như chỉ quét thêm một lớp dầu bóng lên nước da nâu sậm của Giác Hải. Từ thèm thuồng nhìn mỗi bước chân của Giác Hải đặt chắc chắn như đóng cọc xuống mặt bè chòng chành.
Giác Hải vươn vai chui vào còng dây buộc chiếc áo tơi lá, bước đến đỡ con sào trong tay Từ Lộ:
- Thôi, để tôi. Sắp qua thác Cả... Đoạn này dữ lắm. Huynh cứ nhìn những miếu bên bờ sông kia. Mỗi miếu thờ là có mươi mạng người đổ xuống nạp cho thuỷ thần đó..!
Từ chuyển sào cho Giác Hải. Chàng quỳ xuống cởi nón lá hai tay vỗ nước lên mặt. Nước sông ngàu đục nhưng mát rượi nồng vị phù sa và mùi oai oải hăng hắc của thân cây trôi từ thượng nguồn. Đường ngược phương bắc đến ThiênTrúc sơn lam chướng khí vạn dặm hiểm nguy, rắn rết hùm beo, yêu ma quỷ quái. Mới qua ít ngày đường, Từ Lộ đã hiểu ý đại sư ghép ba người cùng vào chuyến đi thật thâm hậu. Minh Không tuổi ít nhưng theo học sư phụ lâu năm, trí khai minh, cân bằng thuận nghịch. Giác Hải đôn hậu tháo vát, sức lực đầy tràn. Hai người đó cộng với chàng, bộ ba mạnh yếu hoà đồng, san sẻ cho nhau mới mong đến được đất ThiênTrúc xa xôi học phép lục thông huyền bí.
Giác Hải thoăn thoắt bước nhanh, nhịp nhàng chống sào đẩy bè băng băng vượt đoạn sông dữ. Dưới tay sào của Giác Hải, chiếc bè như có thêm tai thêm mắt, luồn lách qua những vùng đá đầu sư nhấp nhô, những quầng nước xoáy chóng mặt. Cái dáng lực lưỡng của Giác Hải mỗi nhịp vươn lên, cúi xuống chống sào đẩy thật đẹp. Nắng rực rỡ trên tấm lưng trần như cánh phản in nhẫy bóng mồ hôi. Giác Hải quay nhìn Từ Lộ:
- Gọi Minh Không dậy thôi! Sắp đến bến Đá rồi. Ta ghé vào bờ kiếm thêm chút khoai sắn dự trữ cho đường trường sông nước!
Nhưng không cần gọi, cái bóng bé nhỏ gọn gàng với gương mặt tươi tắn sáng láng của Minh Không đã chui ra khỏi cum nứa. Minh Không đâu có ngủ. Mười hai tuổi, lần đầu tiên được xuống núi đi xa, cái gì đối với chú tiểu đạo sinh cũng lạ. Chú nằm lắng nghe tiếng nước ào ạt vỗ dưới thành bè, nhìn ngắm không chán những bờ đất, cành cây vun vút qua khe nứa bên ngoài. Thỉnh thoảng Minh Không phải nhỏm người vểnh tai dụi mắt. Đó là lúc giữa màu xanh ngút ngàn của núi rừng cây cỏ, chú thoáng nghe có tiếng gà gáy, chó sủa hay nhìn thấy một mái lều lá, một bóng người mờ ảo, lunh linh trên vạt nương sắn nương ngô đất phơi đỏ au bên bờ sông... Minh Không xỏ chân vào đôi giầy cỏ vừa bện chiều hôm trước, nhanh nhảu với lấy cây tích trượng và chiếc nón, bước ra đến đầu bè:
- Bẩy năm trên núi được nghe sư phụ giảng giải mọi nhẽ. Gìơ đi theo nhị huynh mới chỉ quẩn quanh trên mảnh bè này đã thấy thông tai tinh mắt thêm nhiều, nhiều lắm!
Nói rồi cất tiếng cười khanh khách.
Vượt lên khỏi ghềnh đá, dòng sông Gâm trước mặt đột ngột mở ra một vùng bát ngát. Trời cao xanh trong. Những dẫy nương ngô nương sắn mướt xanh rờn rờn sóng nối nhau chạy dọc đôi bờ.
- Huầy à... Huầy!
Giác Hải miệng la to, tay chống sào đảy bè lệch mũi. Con bè như một cánh chim chựng lại rồi từ từ ghếch mũi vào dọc một bên lèn đá trắng ăn lan từ trong nương sắn xanh rờn xuống tận mép nước.
- Bến Đá rồi!
Không đợi Từ Lộ và Minh Không tán đồng, Giác Hải nhảy xuống lội nước oàm oạp cắm sào neo bè.
Minh Không cũng nghếch đầu nghển cổ. Chú tiểu đạo sinh tròn xoe mắt nhìn lên bờ, nơi vừa thấp thoáng bóng người từ những mái nhà lợp cỏ tranh lá gồi, từ các nương rẫy chạy ra hướng về nơi tấm bè vừa neo lại.
Từ ngồi lại trên bè nứa, dửng dưng với cảnh vật trên bờ trước mặt. Chàng chỉ mong cho Giác Hải và Minh Không nhanh chóng đổi được vài thứ cần thiết cho ba anh em rồi bè lại tách bến ngược dòng. Ruột gan Từ cồn cào từng khắc. Ngoài Giác Hải và Minh Không, chàng không muốn nhìn thấy bất kỳ ai. Từ phải sống lẩn lút trên đất kinh thành, nhất là từ ngày rời hội Chen ở Quí Vũ, trong lòng Từ luôn thấp thỏm. Nỗi kinh sợ mỗi ngày một lớn. Chàng kinh sợ con người.
Trên bến Đá dăm bẩy người đang vây quanh Giác Hải, Minh Không. Mùa sóng nước thuyền bè qua lại ít. Nhất là lại có một con bè ngược dòng. Từ Lộ nhìn thấy Giác Hải đang khoát tay chỉ về phía hạ lưu, dáng chừng anh chàng đang kể một câu chuyện gì đó đáp lại những câu hỏi và sự tò mò của mấy người dân sơn dã sống trên đất này, suốt đời ít có ai bước chân ra khỏi mấy mảnh nương rẫy nhỏ hẹp. Từ ngửa mặt lên trời. Tiếng sấm dồn ầm ù trên cao khiến chàng chột dạ. Trận giông rừng có thể kéo đến bất chợt lúc nào cản đường chàng. Từ đứng dậy, đưa cả hai tay lên miệng làm loa thúc gọi giục Giác Hải, Minh Không.
Nhưng một bóng người vừa hối hả tách khỏi đám đông trên bến khiến chàng chú mục, tiếng gọi ngưng giữa chừng. Bóng người nhỏ bé mặc đồ đen, cả chiếc khăn vải trùm đầu cũng màu đen. Bóng người liêu xiêu đi xuống lèn đá trắng hướng thẳng về phía bè nứa của chàng.
*
**
Tiểu thư Nhuệ Anh cũng không còn biết đã bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng trôi qua. Bám vào sợi dây lụa xé ra từ áo cưới, nàng thả mình từ khung cửa lầu cao xuống hoa viên nhà Diên Thành hầu mà tưởng chừng buông tay gieo mình xuống vực sâu thăm thẳm. Chỉ đến khi hai bàn chân trần chạm đất lạnh, Nhuệ Anh mới như chợt tỉnh. Nàng khẽ rên lên một tiếng vì sợ hãi và mừng rỡ. Nhuệ Anh cúi xuống nghiến răng giật đứt vto áo lụa hồng vướng vào cành trúc sau vườn. Bốn phía chói loà chỗ tối chỗ sáng. Nhuệ Anh không biết đường nào mà chạy, cứ nhằm phía bóng tối không có ánh sáng đèn mà lao tới. Càng xa ánh đèn càng thấy nhẹ nhõm như con chim sổ lồng. Đến khi biến hẳn vào vùng đêm, bên tai không còn nghe tiếng người, tiếng đàn sáo huyên náo thì Nhuệ Anh mới chậm bước. Hơi thở cuộn thắt ngang ngực. Nàng định thần, nhận ra mình đã chạy ra xa bờ sông Tô. "Cha ơi... mẹ ơi..." Nhuệ Anh ngồi thụp xuống bưng mặt khóc nức nở.
Nhuệ Anh thiếp đi không biết bao lâu cho đến khi ánh nắng ban trưa lốm đốm lọt qua mái lá thủng của gian miếu thổ thần đánh thức nàng dậy. "Sao ta lại ở đây? Sao lại thế này...?". Ý nghĩ đó vừa thoáng lên trong đầu Nhuệ Anh thì một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên ngay gần kề khiến nàng giật bắn người: "Tiểu thư cứ nằm nghỉ... Đây là chốn kín đáo có thể yên tâm được". Nhuệ Anh chống tay ngồi nhích vai lui lại sát tường miếu rêu ẩm mục há miệng định kêu, thì vẫn giọng nói đó: "Tiểu thư đừng sợ... Lão đây!". "Trời...!" Nhuệ Anh đưa bàn tay lên bịt miệng mình. Nàng đã nhận ra trước mặt nàng là người lão bộc trung thành của nhà Từ Lộ mà nàng đã ít nhiều quen biết. Ngay tức thì, nỗi uất ức tủi thân lại ập đến. Nhuệ Anh cứ vậy úp mặt vào hai bàn tay sần sùi chai sạn của lão bộc mà khóc.
Đêm qua từ bờ sông Tô, Nhuệ Anh đã như một người mộng du quen chân quen bước đến miếu thổ thần. Nàng gục xuống sau cửa miếu vì quá mệt nhọc. Tảng sáng, lão bộc tìm tới. Đêm qua lão đã nhìn thấy dinh cơ của nhà Diên Thành hầu bốc cháy. Lại nghe tin tiểu thư Nhuệ Anh bỏ đi đâu trước lễ hợp cẩn. Tiểu thư có thể đi đâu được trong chốn kinh thành nhan nhản gia nhân, đầy tớ, tai mắt của nhà Diên Thành hầu quyền thế? Hẳn là tiểu thư không thể về nhà cha mẹ đẻ. Lão bộc nghĩ ngay đến gian miếu hoang nơi mà mấy tuần trăng trước đây Từ Lộ vẫn ẩn náu.
Lão bộc hạ giọng thì thào lo sợ:
- Suốt cả buổi nay người nhà Diên Thành hầu lùng sục khắp nơi để tìm tiểu thư. Chúng lần tìm đến tận nhà tiểu thư. Nhưng thân mẫu của tiểu thư thét mắng. Nghe nói phu nhân kiện nhà Diên Thành hầu đã dựng ra đám cháy để ám hại tiểu thư...
Nghe lão bộc nói, Nhuệ Anh thở nhẹ. Mẹ nàng nước sau vẫn là người đàn bà quyền biến, biết thoát ra khỏi ngõ cụt bằng những lối đi bất ngờ. Nỗi lo cho song thân đã vợi. Điều nang sợ nhất khi trốn khỏi nhà Lý Câu là cha mẹ nàng bị liên luỵ. Nhưng sự việc đã đúng như nàng thầm định.
Tiếng thì thào lo lắng của lão bộc vẫn vẳng vào tai Nhuệ Anh:
- Tiểu thư cũng không thể ở nơi này lâu. Trước sau thì lũ cầy cáo nhà Diên Thành hầu cũng tìm tới...
- Thế còn Từ công tử... chàng ở đâu?
Lão bộc nén nỗi cảm phục. Hoạn nạn là thế mà câu hỏi đầu tiên của tiểu thư vẫn là về tiểu chủ của lão... Điều đó khiến lão càng thêm quý trọng.
- Thưa... Lần cuối cùng lão được gặp tiểu công tử cách đây hai tuần trăng...
Rồi lão bộc kể cho Nhuệ Anh nghe về buổi tối đến trước dinh cơ Tăng đô án nay đã thành kỹ viện của tay chân nhà Diên Thành hầu. Từ Lộ đã buộc lão phải đưa bài vị của song thân đến để chàng mang theo trên đường đi tìm Đại Điên. Lão bộc cũng kể rằng lão đã may mắn thoát chết nhờ đàn ngựa sổng chuồng...
Nhuệ Anh cắn môi suy nghĩ hồi lâu, rồi lê tiếng:
- Lão bộc... Ta và Từ công tử may phúc mới có được người tâm phúc như lão. Gìơ ta có một việc phải cậy nhờ. Đêm nay lão mang đến đây cho ta một bộ quần áo của người nam, sao cho ta vận vừa...
- Thưa... tiểu thư định làm gì với thứ đó?
- Ta đi tìm Từ công tử!
Lão bộc kêu lên:
- Dám thưa tiểu thư... nguy hiểm lắm. Từ công tử không còn ở kinh thành. Bây giờ tiểu thư biết công tử phiêu dạt nơi nào mà tìm. Thân gái dặm trường... Xin tiểu thư suy xét lại...
- Lão nghe đây. Ta đã gắn kết với Từ công tử thì ta nguyện sống là vợ chàng, mà nếu chẳng may chết xuống âm phủ thì ta vẫn là vợ chàng.
Im lặng hồi lâu. Rồi lão bộc chắp tay cúi đầu trước tiểu thư Nhuệ Anh:
- Lão xin làm theo lời tiểu thư. Xin nhận một vái này của kẻ tôi tớ trung thành trước bậc tiết phụ của Từ công tử!
Ngay đêm hôm đó lão bộc mang tới miếu thổ thần hai bộ quần áo con trai, một nâu một đen. Một khăn đầu rìu. Đôi quang thùng và chiếc gáo dừa của người bán dầu. Ngườ lão bộc trung thành còn mang tới một thứ mà một tiểu thư nhà quan như Nhuệ Anh không hề nghĩ đến trước khi dấn thân khuê các vào chốn phàm trần. Lão đặt vào tay Nhuệ Anh chiếc túi nhỏ vải nâu đựng hai nén bạc nguyên và ít bạc vụn.
Với quần áo và đồ nghề của lão bộc mang cho, Nhuệ Anh trở thành anh chàng bán dầu dễ dàng ra khỏi kinh thành. Suốt mấy thàng nàng rong ruổi, cứ nghe nơi nào có hội là đến. Nhuệ Anh đã tới hội Chen ở Quí Vũ vào đúng ngày rã hội. Dân làng đã làm lễ an táng cô con gái tộc trưởng. Cả đám hội náo nức giờ bạt ngàn khăn tang như một rừng lau trắng run rẩy trong gió. Giữa bãi cỏ, dấu vết cây thiền trượng của pháp sư Đại Điên cắm xuống vẫn hoăm hoẳm một lỗ sâu hút như xuống tận âm ti. Dân nàng chuyền tay nâng xác cô gái lên cao nối nhau đi một vòng quanh lỗ gậy. Không một tiếng khóc. Không một lời nguyền rủa kẻ gây ác. Im lặng sởn người. Khi đặt cô gái xuống huyệt mới đào, dân làng đồng thời ném xuống lỗ gậy pháp sư xác một con dơi mặt quỉ. Con dơi mà người yêu cô gái hạ bằng một mũi tên căm hờn. Rồi cụ tộc trưởng cha cô gái cắn răng cắm lên dấu vết oan cừu đó một cành phan. Dấu hiệu báo việc ngày hội mở rừng sang năm của đất Quí Vũ sẽ chuyển đi nơi khác.
Nhuệ Anh biết đến đây là mất dấu vết của Từ Lộ. Nhưng nàng vẫn không nản. Vẫn gánh dầu bán rong, nàng ngược lên miền thượng. Một linh cảm mơ hồ khiến nàng hiểu rằng Từ Lộ sẽ đi qua những con đường này. Và mỗi bước, nàng như đang cảm thấy như mình đang đặt chân lên dấu chân của chàng vừa đi qua. Khi đến bến Đá sông Gâm, cảm giác đó càng cồn cào. Nhuệ Anh rửa gáo úp hai thùng gỗ đựng dầu lên cọc rào. Nàng neo lại, chờ một điều gì đó còn đang mơ hồ nhưng bằng vào trái tim tội nghiệp đang thổn thức trong ngực, nàng biết chắc rằng nó đang tới...
*
**
Con bè tuột dây neo từ từ tách bến Đá trôi xuôi. Chỉ còn lại Từ Lộ, Nhuệ Anh. Đứng trên lèn đá nhìn thấy bè rời bến, Minh Không thốt lên một tiếng "ơ" rồi te tái chạy xuống nhẩy theo bè. Nhưng Giác Hải đã nắm áo giữ lại. Giác Hải đưa bàn tay thô nhám xoa xoa cái đầu trọc của mình rồi lại xoa xoa đầu trọc của Minh Không: "Đệ hãy nhìn xem. Trong ba ta chỉ có Từ Lộ tóc hãy còn xanh nguyên. Từ ca nào đã thế phát. Cứ để Từ ca trang trải nợ trần gian. Biết đâu chẳng vì vậy mà Từ ca lại chóng ngộ đạo thoát tục hơn hai ta đó!".
Nhuệ Anh như một con gà ướt nhẹp nằm gọn trong tay Từ Lộ. Cơn giông núi đã dịu. Nhưng mưa vẫn đổ. Nhuệ Anh không hề thấy cái rét buốt của những giọt mưa đã làm da thịt nàng tê cóng thâm tái khi đứng đợi trên bến ban nãy. Mà ngược lại, những giọt mưa dội xuống thân thể nàng lúc này lại dịu dàng êm ái, mỗi giọt mưa chạm xuống như mang theo một hơi thở nồng nàn sưởi ấm cơ thể nàng. Những ngón tay Nhuệ Anh níu chặt bên vai Từ. Nàng run rẩy áp cặp môi trinh nữ lên vùng ngực trần nóng hổi trong mưa của chàng. Cái mùi đàn ông lạ lẫm, đắng ngắt, ngầy ngậy, bạo liệt như đá rừng toá hơi nóng dưới ánh mặt trời pha lẫn hơi mưa tươi tắn và tinh khiết khiến nàng ngây ngất chợt như lả đi chợt lại như lạc vào cõi phiêu bồng. "Từ Lộ...Em là vợ chàng...!". Thân thể của Nhuệ Anh quằn quại trong những tiếng lắp bắp đứt đoạn tắc nghẹn, theo những giọt máu ứa ra từ trong tim. Những ngón tay tiểu thư thuôn dài mỗi lúc càng như những mũi kìm thép nhọn bấm sâu vào da thịt người nàng yêu. Cùng với tiếng sấm cuối cùng của cơn giông núi vỡ ra trên vòm trời, nỗi đau da thịt thẳm sâu cũng xé lên trong Nhuệ Anh khiến nàng phải bật ra một tiếng thét. Thân thể nàng lỏng ra. Một cảm giác nghẹn ngào lan toả cùng với nỗi lòng chan chứa biết ơn người mang lại cho nàng niềm khoái lạc miên man và nỗi đớn đau trần thế kỳ diệu.
Chiếc bè dào dạt trôi xuôi. Vòm trời đã trở lại trong xanh cao vút. Sông nước mơn man hai bên thành bè làm bắn lên những bụi mưa li ti mát rượi phủ lên đôi thân thể một màng tơ trong suốt. Gặp quãng bờ bãi phù sa màu mỡ, những hàng cây dâu da, cây vả lúc lỉu quả chín đỏ la đà sát mặt sông rụng xuống lưng Từ Lộ và ngực Nhuệ Anh những chùm quả đỏ ứa mật. Bầy khỉ tíu tít đuổi nhau trên cành. Hươu nai tác tộ gọi đàn. Những chú chim rừng mải mê ríu rít với chùm quả chín rỉa ra những hạt mẩy thơm tho rơi xuống đầu tóc da thịt hai người...
Tới một khúc sông đột ngột rộng ra, chiếc bè dừng lại, đu đưa như ru trong một vũng nước nặng. Từ Lộ xoay mình nằm ngửa mặt nhìn trời. Nhuệ Anh ngủ mê mệt, gối đầu trĩu nặng một bên vai chàng. Miền da thịt mềm mại của nàng gắn vào da thịt chàng. Hơi thở dịu dàng man mác hương hoa của nàng phả nhẹ từng đợt ngọt ngào đằm thắm bên cổ luồn sâu bên gáy chàng. Nắng gió dã làm khô mái tóc dài. Những sợi tóc rợn sóng hứng lấy dòng ánh sáng thả xuống từ trời như sương núi, như tơ trời vuốt ve buồn buồn trên cổ trên vai và vồng ngực chàng. Từ Lộ thấy trong người thênh thang nhẹ nhõm lạ thường. Hình như cùng với niềm sướng vui thuỷ triều dồn dập trút vào thân thể hoà vào da thịt nàng, bao nhiêu căm uất hận thù chứa chất trong lồng ngực, bóp nghẹt trái tim chàng từng ấy ngày đêm cũng theo đó mà tan ra mà mất dạng. Giờ đây nằm sát bên nàng Từ Lộ thấy đất trời vừa như nhỏ lại, vừa như rộng thêm ra. Cái vũ trụ đen đặc căm uất hận thù vẫn ngày đem vò xé trong tim chàng đó bỗng trở nên xa xôi mờ ảo, tưởng chừng như chỉ là chuyện trong một giấc mơ kinh hoàng của cuộc đời bể dâu nào khác.
Một bông hoa gạo đỏ bầm từ trên cao rơi bịch xuống sát bên vai trần khiến Từ Lộ giật mình. Chàng mở mắt nhìn lên. Chàng nhận ra trên đầu mình là rặng cây gạo lực lưỡng nối dài những bông hoa đỏ bầm như những bụm máu. Quãng sông hoa gạo mà chàng và Giác Hải, Minh Không đã vất vả trần lưng oằn vai thay nhau chống sào đẩy bè ngược dòng qua vào buổi chiều hôm trước. Từ Lộ vùng dậy nhìn quanh. Cánh tay trần của Nhuệ Anh vẫn quàng qua ngực chàng. Từ Lộ lay lay.
Nàng chỉ u ơ khẽ trong miệng rồi lại xoay nghiêng người nhắm mắt, miệng hé một nụ cười thơ dại. Nhưng trong lòng Từ Lộ đã cháy rần rật một ngọn lửa khác. Cái ngọn lửa đã giằng chàng khỏi kinh thành và hun đốt chàng chạy tới sông Gâm. Từ cuống lên, chồm hẳn dậy, bế bổng Nhuệ Anh, nhẩy khỏi bè. Từ đặt nàng trên bờ, đắp lên người nàng mớ quần áo còn ướt sũng rồi quay lưng, vồ lấy cây sào vẫn gài bên thành bè nứa gần suốt ngày qua. Và bầm máu đen tưởng đã mất dạng lại tràn về đầy nghẹt lồng ngực, đầy nghẹt trái tim Từ Lộ.
Nhuệ Anh chống tay ngồi dậy. Nàng chớp mắt, ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra. Chợt nhìn lại thân mình, nàng hốt hoảng với lấy mớ quần áo choàng lên người. Thấy Từ Lộ đang cuống cuồng lao sào đẩy bè quay ngược dòng. Nhuệ Anh vội chạy tới:
- Từ Lộ... Chàng... đi đâu?
- Ta phải trở lại... Phải ngược dòng thôi. Nhuệ Anh...!
- Chàng đưa em đi cùng...!
- Không được!
- Em xin chàng...
- Không!
Nhuệ Anh giữ chặt lấy con sào trên tay Từ Lộ:
- ... Bao nhiêu ngày em đi tìm chàng...
- Ta hiểu...Ta hiểu... Nhuệ Anh... Nhưng ta phải đi. Ta không thể mang nàng đi cùng... Xin đắc tội với nàng.
- Không. Không... Em phải đi cùng chàng. Em phải đi...!
Nhuệ Anh quì sụp xuống ôm chặt hai chân Từ Lộ.
Con bè không tay chống bập bềnh quay ngang trên dòng sông.
Từ Lộ nghiến răng gỡ tay Nhuệ Anh. Chàng đạp mạnh chân, lùi người để rộng tay sào.
- Em van chàng... Hãy để em đi cùng... Chàng định bỏ mặc em mà đi ư?
- Đường của một tỳ kheo không có mặt nữ nhi. Con đường báo thù của ta không thể vướng nàng.
Từ Lộ thô bạo giằng mạnh sào.
Nhuệ Anh níu chân Từ Lộ. Tóc xoã tung. Gương mặt ngước lên đầm đìa nước mắt.
Con bè chùng chằng giữa những làn đá chen nhau dăng dăng ngang mặt sông. Từ Lộ bậm môi. Dưới kia là thác Mơ hiểm ác. Con thác đã khiến ngày qua chàng và hai bạn đã phải tháo bè nối nhau khiêng từng bó nứa sũng nước lên đoạn sông phía trên này để ghép thành con bè mới.
- Nhuệ Anh... Ta đã nói cùng nàng... Xin coi không còn ta ở trên đời này. Nàng hãy trở về!
Giọng nói cứng đanh của Từ Lộ, và nhất là mấy tiếng "nàng hãy trở về..." khiến Nhuệ Anh sững người, tay buông rời khỏi Từ Lộ. Đôi mày nàng dựng lên:
- Chàng nói sao? Chàng nói em hãy trở về?
- Ta đã nói. Không còn Từ Lộ trên đời này nữa...!
- Trời!...
Tiếng rền rĩ của Nhuệ Anh tắt lịm. Đột nhiên đôi mắt mềm yếu dịu dàng như mắt nai của người con gái vụt sáng rực. Nhuệ Anh vươn cao người. Chiếc áo vải đen nàng vừa kịp khoác lên đã rơi ruột ra để lộ đôi vai trắng ngần và đôi vú ngời ngợi như hai vầng trăng.
- Từ Lộ... vĩnh... biệt...!
Chưa dứt lời, Nhuệ Anh đạp chân nhoài người lao ra phía dòng sông chảy xiết.
- Nhuệ Anh...!
Từ Lộ buông rơi sào. Chàng vừa kịp kêu lên thế thì mắt mũi tối sầm. Con bè không người chèo chống đã xô vào vách đá ngầm của thác Mơ tan thành từng mảnh, quăng Từ Lộ lên một gờ đá nổi, rồi nước lại ào lên cuốn dìm chàng xuống tận đáy sông.
Khắc sau, trên bờ sông Gâm cạnh thác Mơ hung dữ chỉ còn Từ Lộ. Mảnh vải nâu ướt sũng đóng làm khố che thân, Từ quì rạp người vái theo dòng sông:
- Nhuệ Anh ơi... Ta có tội với nàng. Nhưng nợ báo oán đè nặng hai vai này. Ngày nào trả nợ xong, thề với nàng, ta sẽ quay lại nơi đây theo nàng. Xin hãy đợi ta... Nhuệ Anh...!
Từ Lộ rạp mình vái ba vái nữa rồi mình trần khố vải vác sào dài chạy ngược dòng sông Gâm lên bến Đá phía thượng nguồn. Nơi đó Giác Hải, Minh Không đang nóng lòng sốt ruột chờ đợi chàng.
RU CÁ BƠN
Trơn
Lạnh
Những chiếc vẩy biết khóc
À ơi...
Lời ru cá bơn
mồ côi
Lời ru cá bơn
À ơi...
Ai chôn chữ trinh ba vạn
À ơi...
Ai chém chữ trinh chín ngàn
Ru nào
Mỹ nhân đoạ xoáy nước
Ngơ ngẩn đường tu
Ru nào
Cá bơn
Phơi thân rạp cỏ
LÃNH CUNG
Ngạn La nằm co ro trên nền đá lạnh. Ngón út của bàn chân phải đang rỉ máu nham nhở vết chuột cắn.
Thoát khỏi biển lửa thiêu cung nữ cháy rần rật trên đảo Âm Hồn. Thoát khỏi lưỡi búa của đao phủ nhờ ân sủng bất ngờ của đức vua, nàng lập tức bị tống giam vào lãnh cung. Một dãy hun hút những biệt phòng xây bằng đá nền đen gân trắng, cửa ra vào bằng lim khối, ngay giữa mùa hè cũng phả ra hơi ẩm ướt lạnh lẽo rợn người. Cái âm u lạnh ngắt nơi giam cầm những cung nữ chẳng may xấu số làm phật ý vua và hoàng hậu này khiến những kẻ xấu số tuyệt vọng ngay từ lúc mới đặt chân vào. Cửu trùng ngay gần đó mà thăm thẳm xa. Đêm qua đang ân ái nồng thắm bên đức kim thượng, sáng mai, vì bất cứ điều gì khiến ngài phật ý, cũng có thể bị nhốt vào lãnh cung. Chưa kể bao nhiêu mưu mô, cạm bẫy rình sẵn. Những kẻ ngây thơ đang được bao bọc trong gấm lụa hôm nay mà trong lòng không khỏi nơm nớp lo một ngày nào đó sẽ bị tống vào một trong những biệt phòng. Những biệt phòng xây bằng đá cao tám thước dày hai thước, chỉ có một cửa sổ duy nhất nhỏ bằng bàn tay để mỗi khi đêm hết mặt trời lên thì ánh bình minh lại lạnh lùng chui vào trong vài khắc đủ để người xấu số bên trong thêm một lần bị nỗi đau cào xé. Rồi cái ánh mặt trời đó vội vã ra đi biền biệt cho đến tận sáng ngày hôm sau. Và trong những ngày u ám không ánh mặt trời, kẻ bị giam cầm trong lãnh cung thấy mình bị chôn sống vĩnh viễn trong bóng tối đen đặc.
Ngạn La tưởng đã nằm dưới mộ. Và từ dưới nấm mồ này, hồn phách nàng nhớ lại cái ngày định mệnh, khi tiên hoàng Nhân Tông bắt gặp nàng trên đường.
*
**
Đang là một con mèo nhỏ uyển chuyển thả sức nhẩy nhót thăm thú những hoa cỏ ngọt ngào nở dưới ánh mặt trời hào phóng rọi chiếu trên đồng nội, cái ngày định mệnh oan nghiệt của nàng ập đến khi tiên hoàng bất chợt tuần du ngang qua. Đang là một cô bé suốt ngày đeo chiếc giỏ cua bên hông, bỗng người ta nhấc bổng nàng lên kiệu vào đưa thẳng về cung.
Kiệu vừa đặt xuống, mặc nàng khóc giẫy, cào cấu đòi về với mẹ, bốn thị nữ đã xúm lại lột hết bộ đồ nâu còn vương mùi bùn đất, dìm nàng trong một bồn nước thơm, kỳ cọ khắp thân thể đến mức da thịt nàng đỏ ửng. Sau đó, họ đưa nàng sang bồn tắm đẹp hơn, sóng sánh thứ nước ấm ấm này, da thịt Ngạn La dịu lại. Những vết đỏ ửng do kỳ cọ dần biến mất. Khi các thị nữ đặt Ngạn La lên chiếc giường trải vải gai trắng, Ngạn La đã lim dim ngủ. Một thị nữ đem ra ba chiếc bình lớn, trong mỗi mình đựng một thứ cao đặc sánh, toả mùi thơm hắc. Thị nữ lấy một chiếc chổi nhỏ làm bằng lông mịn nhúng lần lượt vào các bình. Thứ cao màu hồng phủ lên mặt nàng. Thứ cao màu vàng đựng trong cái bình lớn nhất, thị nữ phủ một lớp thật đều lên toàn thân nàng. Đến khi chấm thứ cao màu đỏ lên đầu vú Ngạn La, thị nữ dừng tay. Trên bầu vú nhỏ nhô cao, rắn chắc như ngà voi của Ngạn La, phía vú bên trái mờ mờ một chiếc bớt trông như một con thạch sùngn nhỏ xíu màu tím bốn chân như đặt hờ lấy bầu vú mịn màng, riêng cái đầu hơi chìm xuống, hướng về phía chiếc nốt ruồi đỏ ở giữa ngực cô gái... Ngập ngừng một giây, thị nữ định lướt đầu chổi để phủ cao lên hình bớt. Nhưng Ngạn La hét lên một tiếng thật dữ tợn. Cô bé đưa tay lên giữ chặt hình cái bớt trên đầu vú. Đôi mắt như chợt bạc đi vì tức giận, vì sợ hãi. Thị nữ ngạc nhiên, nhưng không dám hỏi.
Nhẹ nhàng xoa vuốt lên người nàng một lượt rồi thị nữ để cho Ngạn La nằm ngủ trên giường độ một canh giờ, trong khi đặt lên đôi mi khép chặt của nàng hai chiếc khăn lụa nhỏ gập làm tám, giữa một lớp khăn lại có một lớp cao mát lạnh. Ngạn La tỉnh dậy, đôi mắt sưng đỏ vì khóc của nàng đã trở thành trong veo. Thị nữ lại dìu nàng xuống chiếc bồn tắm nhỏ màu ngọc đỏ đang bốc hơi nghi ngút từ một thứ nước tắm sánh như dầu. Vừa ngâm mình vào nước tắm, lớp cao trên thân thể nàng tan ra, để lộ làn da mượt óng. Đến đây, hai thị nữ đưa tay cho nàng vịn để bước sang chiếc hồ tắm cuối cùng được làm bằng đá xanh gợn vân huyền.
Tắm cho Ngạn La, các thị nữa đưa mắt nhìn nhau vừa tò mò vừa ái ngại. Ngạn La dần nín khóc. Những đồ đạc lộng lẫy được trần thiết trong phòng tắm rộng lớn dành cho các phi tần khiến nàng thấy hết sức lạ lẫm. Chúng hút chặt mắt nàng. Rồi nàng đặt tay lên bờ chiếc hồ tắm bằng đá xanh gợn vân huyền, bước theo những bậc đá thoai thoải từ đáy hồ dẫn lên bờ. Hơi nước nóng phả ra từ mặt hồ khiến cho gian phòng mờ ảo như trong sương.
Hai thị nữ dắt tay Ngạn La tới trước gương tròn lớn bằng đồng sáng choang đặt ở cuối gian phòng. Nàng sững sờ nhìn thấy toàn thân mình trần truồng trong gương. Đôi mắt mèo màu xám nâu mở to ra hoảng hốt dưới đôi mày mềm mại lượn cong vút lên như hai cánh én. Đôi môi mọng màu hoàng thổ sẫm kinh ngạc mở rộng hé lộ hàm răng đen láy. Mớ tóc dài nuôi nấng qua mười hai năm tràn xuống nửa lưng ôm lấy bờ vai mảnh mai chảy xuôi màu nâu mịn như lụa. Đôi vú mới nhú như nửa vầng trăng với hai đầu vú nhỏ ương ngạnh và kiêu hãnh. Xa xôi dưới kia cũng mượt mà và chảy tràn như lụa là cặp đùi và đôi chân thon dài với năm ngón chân nhỏ như xoè ra, móng chân màu vàng vì những ngày bám đất trơn trên những con đường lầy lội quanh nhà.
Nhìn thấy những ngón chân của mình, Ngạn La bỗng xót thương cho chúng và oà khóc vì nhớ mẹ. Người mẹ nghèo vẫn dùng cây chổi để đuổi vụt vào lưng nàng mỗi khi nàng bầy trò nghịch ngợm và biếng nhác. Vậy mà bà vẫn thưỡng bấm bụng nhịn ăn để mỗi bữa Ngạn La có được một bát cơm đầy, còn bà thì lặng lẽ vét ít cơm cháy ở đáy niêu ăn với cà muối và những củ khoai luộc. Để giữ đẹp cho làn da của con, mỗi ngày bà tha thẩn khắp các bờ ruộng nhặt rau má về giã trong cối đá, hoà chút mật mía cho con uống. Những đêm nàng bị cảm sốt, bà thức chong chong đầu chõng, không dám ngủ, đốt đèn đi tìm lá nhọ nồi về vắt cho con uống, nước mắt giàn giụa làm mờ đôi mắt mê hoặc mà sự khổ cực đã làm phai nhoà... Vậy mà giờ đây, nàng đã phải bỏ lại người mẹ già đơn độc trong cái xóm hiu hắt, ngỡ ngàng trước gương trong chốn lầu vàng điện ngọc, vừa thích thú ngắm nghía những đồ vật choàng lộn, vừa sợ hãi không biết rồi mình sẽ ra sao.
Bốn thị nữ quấn một chiếc khăn lụa xốp màu đỏ quanh người để thấm khô những hạt nước li ti đang chảy dài trên thân thể Ngạn La. Rồi họ xức khắp người nàng một thứ dầu thơm mùi hoàng lan, chuốt thêm một lần nữa cái làn da vốn đã óng mượt. Rồi kẻ thì mặc cho nàng một chiếc áo màu hoàng yến, kẻ đeo cho nàng một chuỗi hạt châu quí giá, một đôi xuyến và ba cặp nhẫn vàng cũng đều cẩn hạt châu. Một thị nữ lớn tuổi bê vào một tráp chạm rồng, trong đựng phấn son và tóc giả. Bà xuýt xoa quấn cao mớ tóc của nàng lên đỉnh đầu và giữ chặt chúng bằng một chiếc trâm vàng rồi cài thêm những lọn tóc giả.
Nhìn trong gương, Ngạn La mỗi lúc càng không nhận ra mình. Nàng nghĩ trước mặt mình là một con tò he hình công chúa bằng bột nặn, mà thỉnh thoảng nàng vẫn nhìn thấy trong những dịp làng mở hội, có những cụ già khéo tay ngồi sau một mẹt phấn xanh đỏ làm mê mệt lũ trẻ con như nàng.
Thị nữ dùng thứ vải gai mịn thấm phấn màu hồng đào trong chiếc hộp ngọc thoa nhẹ lên má Ngạn La. Dùng thỏi son thơm như kẹo miết lên đôi môi vùng vằng của nàng. Xong đâu đấy, bà dùng chì than tô lông mày và viền mắt. Đứng lùi ra năm bước, thị nữ lặng ngắm, không kìm được lời thốt ra từ đôi môi đã bắt đầu khô héo: "Tuyệt thế!".
Thị nữ ngắm mãi, lưu luyến không nỡ rời.
Rồi một chiếc võng lụa bốn người khiêng ghé tới. Dẫn đường là một người đàn ông mặc áo thụng chàm, mặt tái, tay trái cầm đèn lồng đỏ, tay phải cầm dùi gõ vào một chiếc trống nhỏ đeo lủng lẳng bên hông. Hai thị nữ đỡ nàng lên võng, buông bức rèm che xuống trước khi phu võng cất bước.
Tum... Tum... Tu... um...! Người dẫn kiệu giơ cao đèn lồng, cứ mươi bước lại gõ lên ba tiếng trống dạo.
Ghé mắt qua rèm võng, Ngạn La nhìn thấy san sát những dinh thự lầu son gác tía, những căn phòng có cửa sơn đỏ toả ra những làn hương ngào ngạt xa hoa. Những người qua lại đều ăn mặc đẹp đẽ, khi nghe tiếng trống đều vội vã nhường đường, cúi mặt vái lạy. Ngạn La ngạc nhiên và thích thú. Nàng quên cả sợ, reo lên như trẻ con. "... Tân cung nhân này trông thật khác thường. Như phù thuỷ... Đưa mắt nhìn ai thì lấy hết hồn vía của người ta. Chẳng trách được hoàng thượng phải nhặt cô ta giữa đám bùn đất...". Ngạn La lại sực nhớ, cau mày thắc mắc cố hiểu những điều mà mấy thị nữ nói nhỏ với nhau về nàng trong lúc trang điểm.
Võng đi được vài trăm bước, bỗng có một vị mặt trắng áo thụng xanh lướt thướt chạy tới ghé vào tai người dẫn võng thì thầm điều gì đó có vẻ rất nghiêm trọng. Võng quay phắt lại.
Đèn lồng tắt. Tiếng trống cũng lặng ngắt. Ngạn La được đưa về một trong những căn phòng có cửa sơn son.
Không biết đã bao lần, Ngạn La thầm ước gái như mình chết ngay lúc mẹ mới sinh ra. Như thế, không phải trải qua cảm giác đau đớn, kinh hoàng nơi giàn thiêu cung nữ và khi lưỡi gươm đao phủ kề cổ. Nàng tự hỏi, trong đám hàng ngàn người dân lam lũ đứng dưới kia chứng kiến giàn thiêu cung nữ liệu có người mẹ tội nghiệp của nàng không? Nếu có, mẹ nàng có sống nổi? Núm ruột của bà đang bị kẻ khác đưa lưỡi dao cứa nát.
Từ bé, Ngạn La không biết mặt cha. Người ta đồn rằng một hôm trời giông bão, dân làng thấy một người đàn bà đẹp trạc mười tám tuổi mặt tái mét, váy áo lụa, bế một đứa bé gái mới hai tháng tuổi quấn trong tã gấm, lưu lạc đến đầu làng ngồi lả đi dưới mái đình. Đứa trẻ khóc không dứt mà người mẹ vẫn bất tỉnh. Dân làng thương tình, đem về cứu chữa. Bé gái được mang đi bú chực khắp làng. Cảm cái ơn của người làng, hai mẹ con ở lại. Người mẹ cắn răng tập đi nhổ mạ thuê, tập cầm cuốc cầm cào, tập mò cua bắt ốc sống qua ngày. Đôi bàn tay thon mềm của bà ban đầu tứa máu, sau cùng đóng thành chai nứt nẻ. Bà không bao giờ kêu ca, không khi nào nói nửa lời về hoàn cảnh của mình. Đôi mắt lúc nào cũng nhìn xuống, buồn thăm thẳm. Chỉ nghe người ta đồn rằng bà vốn con nhà quyền quý, hoặc do sa cơ hoặc trót dại lỡ lầm mà phải lưu lạc đến nơi này. Trong vòng tay bà, cô bé Ngạn La cứ thế lớn lên, như cây cỏ uống đủ ánh trời. Đẹp hoang dại, lạ lẫm như không có thật. Không bao giờ tủi thân khi nghe lời đồn đại về gốc gác của mình.
Đêm ấy, Thái giám đang dẫn võng trên đường đưa nàng đến hầu hạ hoàng đế Nhân Tông. Vị hoàng đế sáu mươi ba tuổi đang nóng lòng chờ đến phút giây tận hưởng phong vị lạ của viên ngọc ông vừa nhặt được trong đám bùn đất dọc đường thì bỗng lâm trọng bệnh. Cuộc hoan lạc được chuẩn bị kỹ càng vậy là tiêu tan. Võng lại đưa nàng về căn phòng nhỏ trong một dãy không biết bao nhiêu phòng như thế được làm sẵn từ đời tiên vương. Đó là chỗ cư ngụ của các cung nhân...
Từ đó đến nay, Ngạn La chỉ được nhìn hoàng đế một lần, khi ngài sắp băng hà. Nàng hoảng sợ thét lên: "Ma!". Cũng may nhờ lúc đó triều nội bận với trăm công việc nghìn mưu toan mà nàng tránh khỏi bị xử trảm vì tội bất kính. Nhưng tiếp sau đó là con đường dẫn đến giàn thiêu. Và bây giờ là lãnh cung.
Trí óc non nớt của Ngạn La vẫn không thể hiểu là mình đã làm gì nên tội mà bị trừng phạt như vậy. Nàng khóc lóc vật vã kêu cứu. Nhưng bốn bức tường lãnh cung đã hoàn toàn tách biệt nàng với thế giới bên ngoài. Ngày một lần, có một nữ cai ngục mặt lầm lì như một cánh cửa đá lẳng lặng mang đồ ăn đến đặt vào ô cửa bằng hai bàn tay. Còn lại một mình nàng suốt ngày đêm phải chống chọi với bóng tối và lũ chuột. Từ thuở nhỏ Ngạn La đã yêu thích và thường đùa nghịch với chuột. Nàng thường phá lên cười khi những con vật bé nhỏ xinh xắn có bộ lông màu tro bếp âm ấm chui rúc vào nhau như tìm một chỗ trú ấn trên bàn tay nàng... Nhưng đó là những chú chuột đồng mới sinh trong mỗi mùa lúa chín. Còn chuột lãnh cung con nào con nấy béo nẫn, to bằng bắp chân, bằng cột nhà. Những con chuột đen trũi, lông gáy dựng lên như bờm và dài cứng như lông lợn đực. Những con chuột ngày đêm vây quanh nàng với những cặp mắt tròn xoe thô lố, rực như than. Những cái mõm há hoắc để lộ mẩu lưỡi đỏ lòm ngo ngoe giữa những chiếc răng thưa trắng nhởn nhọn hoắt. Những tiếng rít dai dẳng kéo dài xiết vào óc nàng...
Ngày đầu tiên nhìn thấy lũ chuột, Ngạn La kinh hoàng hét lên, tay nắm chặt viên đá vừa nhặt được. Lăm lăm viên đá, Ngạn La cố trấn tĩnh, tiến về phía trước, nhìn trừng trừng vào mắt chúng. Nàng tiến một bước thì lũ chuột lùi một bước, móng chân khua ràn rạt trên đá. Nàng lùi một bước thì lũ chuột ràn rạt tiến lên một bước. Cuối cùng, Ngạn La bất lực, thở hổn hển lùi tựa sát vào tường đá, không dám rời mắt khỏi lũ chuột. Chúng dừng lại, trừng trừng những cục than đỏ hướng về phía nàng rình rập. Mệt mỏi, căng thẳng, sợ hãi, Ngạn La hầu như không dám chợp mắt. Nghe nói lũ chuột khủng khiếp này đã nhiều lần cắn cụt tai cụt mũi các cung nữ bị giam trong lãnh cung. Năm thứ mười ba đời tiên hoàng, có một thứ phi phạm tội làm rớt nước yến vào vạt áo của tiên hoàng trong khi hầu ngài dùng bữa phụ vào giờ thân, Hoàng hậu nổi giận, lập tức tống giam ở lãnh cung này. Thứ phi đau đớn khóc đến chảy cả máu mắt mà không mảy may động lòng một ai trong hoàng cung. Sau ba ngày, quản giám bẩm rằng cơm nước đưa tới ô cửa mà không ai đụng tới. Việc được báo lên Tổng quản thái giám, trình lên Hoàng hậu. Hoàng hậu cho lệnh mở lãnh cung. Chỉ thấy chiếc sọ của thứ phi trợt trạt những vết răng chuột cùng những lóng xương bị gặm hết thịt da vương vãi trên sàn đá lạnh. Một đàn chuột đói đang dụi mõm chùn chụt những vết máu trên mặt đá...
Lúc này không rõ ngày hay đêm. Những con chuột khổng lồ dường như buồn ngủ nên đã trở về hang hốc bí mật của chúng ở khắp đâu đó trong lành cung. Ngạn La buông lỏng tay, lả đầu, thiu thiu nhắm mắt.
Chợt nàng thấy toàn thân tràn ngập một cảm giác khoan khoái. Chung quanh bỗng sánh loà. Ánh đèn hay mặt trời? Nàng không phân biệt nổi. Cái ánh sáng lành lạnh này khiến cho nàng như bừng tỉnh, vươn rộng hai cánh tay, mở mắt. Nghe tiếng thì thào đâu đó. Cái tiếng thì thào như một mạch ngầm, như một con rắn trơn chuội run rẩy trườn dưới mạch đá ngay dưới chân, mỗi lúc một rõ dần.
Rồi nền nhà bỗng toác ra thành miệng một hầm mộ.
Ở dưới đáy hầm mộ là đàn chuột đã hăm he cắn nát tay mặt mũi nàng vừa nãy. Những con chuột giờ đây đang nằm ngủ im thít cạnh ngỗn ngang những bộ xương vừa bị gặm hết thịt da. Khi những tiếng thì thào vừa dứt, những bộ xương cẳng tay cẳng chân, đầu lâu từ từ dựng dậy nối nhau chuyển động xếp lại theo trật tự răm rắp, thành hình người. Từ miệng của những con chuột đang ngủ, một dòng da thịt chảy ra, đắp vào những bộ xương đó. Có bẩy mươi bẩy bộ xương.
Và những bộ xương khô vừa được đắp da thịt đã trở thành những người đàn bà con gái đẹp lộng lẫy. Họ ríu rít kéo nhau lướt tới mớ quần áo xếp thành đống ở góc hầm mộ, đang sực lên mùi ẩm mốc. Họ trao đổi, giành giật từng thứ rồi nhanh chóng bận xiêm y và cũng trâm cài ngọc giắt, lần bước ra khỏi hầm mộ đi về phía Ngạn La. Cửa hầm mộ khép lại.
Ngạn La cứng đờ người. Nàng rú lên muốn bỏ chạy mà không sao nhấc nổi đôi chân như hoá đá dính chặt với sàn lãnh cung. Ngạn La tuyệt vọng, bấm chặt tay vào thành tường đá. Máu chảy ròng ròng trên những đầu ngón tay nàng trầy xước. Đang sắp ngất đi vì sợ hãi, một giọng nói dịu dàng bỗng cất lên ngay bên tai nàng:
- Đừng sợ...! Tân cung nữ... Đừng sợ. Ta là Hoàng thái hậu họ Dương. Ta đâu muốn hại nàng...
Ngạn La ngước lên.
Rất gần, một gương mặt trắng bệch chỉ có đôi môi đỏ chót và một sợi dây lụa trắng vấy máu lòng thòng từ cổ xuống trước ngực. Nhưng gương mặt đó xiết bao phúc hậu qua đôi mắt nhân từ ai oán từ bên trên đang rọi xuống mặt nàng.
Ngạn La nhìn sang bên. Bẩy mươi sáu thị nữ kia đã đứng xếp thành hai hàng từ lúc nào, mặt cũng đều trắng bệch như sáp. Cũng vẫn cái nhìn ai oán hướng về phía nàng. Không có vẻ gì là dữ dằn, đe doạ.
Bóng ma tự xưng là Hoàng thái hậu họ Dương cất giọng trầm trầm:
- Cô bé tội nghiệp, con có biết đây là đâu không?
Ngạn La nhìn sững, ngơ ngác lắc đầu.
- Đây là cung Thượng Dương ngày trước. Con đang ở cái nơi mà cách đây năm mươi tư năm, ta và bảy mươi sáu thị nữ tội nghiệp này bị Nguyên phi Ỷ Lan và đức hoàng đế Nhân Tông lúc ấy vừa lên ngôi bức tử, buộc phải làm mồi cho đàn chuột đói.
Ngạn La rùng mình. Những con mắt đỏ như than của lũ chuột hiện ra trước mắt nàng. Những móng chân khua ràn rạt trên sàn đá lại xiết óc...
- Ta đã coi Càn Đức như con đẻ. Ta cũng nhận ra cái tài quán xuyến thiên hạ của Ỷ Lan - đứa bần nữ hái dâu. Vậy mà...
- ...!
- Năm mươ tư năm rồi ta không thể nằm yên dưới mộ. Đêm nào ta cũng trở dậy. Nhiều chuột quá. Thâm cung thăm thẳm. Nỗi oan khuất của ta và bẩy mươi sáu thị nữ vô tội kia chẳng lọt được ra ngoài...
Từ dưới sàn lại rền rĩ tiếng chuyển động như sấm. Cửa hầm mộ đen ngòm lúc nãy đã khép lại mở ra cách chân Ngạn La chưa đầy một bước khiến nàng tưởng như đứng trên vực thẳm. Cái đàn chuột lúc nãy ngủ say giờ đã thức giấc, lấp lánh những con mắt hau háu và những bờm lông dựng ngược cứng như lông lợn rừng.
Rồi vọng lên tiếng rên xiết. Một người đàn bà mặc áo bào tía được chế theo y phục của Hoàng thái hậu, gương mặt đầy đặn như trăng rằm, lưỡng quyền nở rộng, đôi mắt sáng với cái nhìn kiêu hãnh, khuôn miệng cong cong mím chặt, hai góc mép hằn lên những vạch quyền uy.
Ngạn La thét lên một tiếng. Nàng nhận ra người đàn bà này. Hoàng thái hậu Ỷ Lan - người đã có công hạ sinh đức hoàng đế Nhân Tông và được triều đình cũng như khắp bàn dân thiên hạ ca tụng là có đại công đại đức. Từ một cô gái hái dâu xinh đẹp, bà được đưa về cung, được vua Thánh Tông yêu vì. Bà đã một tay rèn dạy đức hoàng đế lúc ngài mới lên ngôi khi vừa tám tuổi, một tay chấp chính cùng các đại thần như Lý Đạo Thành, Lý Thường Kiệt... dựng len một sự nghiệp rạng rỡ hiển hách chưa từng có kể từ khi Đức Thái Tổ lập nghiệp khai sinh ra triều LÝ. Ngạn La thích thú vì được gặp bà. Nàng thấy có cái gì gần gũi với người đàn bà này. Phải chăng vì Ỷ Lan vốn xuất thân là một cô gái hái dâu còn nàng là một cô bé bắt cua chăng?
Nhưng trước mắt Ngạn La, gương mặt Thái hậu Ỷ Lan thoắt già nua, đầy nếp nhăn, co rúm lại vì đau đớn. Những tiếng rên xiết bật ra từ đôi môi quyền uy của Thái hậu. Bà cúi xuống, cố sức rứt ra một vật gì đó đang đeo bám dưới chân bà. Ngạn La nhìn theo thì thấy ba con chuột to bằng thân cây chuối đang ngoạm những chiếc mõm nhọn hoắt vào bắp chân Thái hậu. Máu tuôn đỏ lòm thành vũng dưới chân bà. Nhưng người đàn bà đó chỉ rên xiết chứ không hề kêu cứu van xin. Ngạn La chạy băng băng xuống những bậc thang ẩm nhớp nháp của hầm mộ, chìa tay ra định kéo Thái hậu. Nhưng khi tay nàng vừa đụng đến người Thái hậu thì Thái hậu và đàn chuột đang cắn xé bà bỗng cùng tan biến. Tay nàng bị hẫng, rơi tõm xuống khoảng không. Mấy đầu ngón tay nàng lạnh toát. Ngạn La rùng mình. Nàng chợt ngẩng đầu lên vì nghe vọng những tiếng âm âm từ trên cao:
- Cô bé... Chớ đụng vào âm hồn. Bà ta phải đến đây để trả nợ cũ. Chẳng ai cứu được bà ta đâu...
Ở trên cao kia Hoàng thái hậu họ Dương cùng bẩy mươi sáu thị nữ sừng sững vươn mình lơ lửng trên nền tường lãnh cung. Những đôi mắt đau đớn và lạnh lẽo của họ rọi thẳng xuống Thái hậu lúc này đã hiện hình trở lại và tiếp tục bị những con chuột chụm đầu cắn xé.
Lại cái giọng nói dường như ngọt ngào của Dương Thái hậu:
- Ỷ Lan... Ngươi có biết đau không?
Linh Nhân Ỷ Lan cắn môi bật máu. Bà hất đầu kiêu hãnh làm cho chiếc mũ miện long lanh trong ánh sáng lạnh của hầm mộ:
- Tất nhiên là ta biết đau... Hoàng hậu họ Dương...!
Dương Thái hậu không đổi giọng:
- Da thịt con người mà... Ỷ Lan. Nhưng ngươi chỉ mới bị chuột cắn mười năm nay. Còn ta với bảy mươi sáu thị nữ thì đã trải qua năm mươi tư năm dưới hầm mộ. Năm mươi tư năm bị chuột cắn là bao nhiêu đời người... hả Ỷ Lan?
Linh Nhân cúi đầu im lặng. Những tia sáng rực rỡ của những viên ngọc dạ quang trên mũ miện cũng thoắt mờ đi. Dương Thái hậu cười nhạt:
- Ta đã làm nên tội gì hả cô gái hái dâu đất Kinh Bắc kia? Phải chăng tội của ta chỉ là đã tin ngươi và yêu thương Càn Đức con trai ngươi như con đẻ của ta? Ngươi đã nói những gì và làm những gì trong cái ngày đẫm máu đó? Nghiệt phụ!
Giọng Linh Nhân run rẩy, như chìm dưới nước:
- ... Phải... Ngày ấy... ta đã nói cùng Càn Đức khi ta nhìn tháy cái mũ miện Thái hậu lấp lánh trên đầu ngươi... Con trai ơi, mẹ già khó nhọc mới có ngày nay mà bây giờ phú quí người khác được hưởng thế thì con để mẹ già vào đâu!
Dương Thái hậu ngắt lời:
- Từ một con bé hái dâu, ngươi đã một bước lên ngôi Nguyên phi cận kề bên đức Thánh tông. Rồi khi Hoàng đế băng thì ngươi đã được tôn lên làm Hoàng Thái phi. Phú quí của ngươi cao chót vót, ân sủng của vua đã từ ngươi mà tưới đẫm cả dòng họ xứ quê mùa... Vậy mà lòng khao khát phú quí của ngươi còn chưa thoả ư...?
- Không. Với ta như thế chưa đủ. Ta muốn duy ngã độc tôn trong thiên hạ. Ta đã khiến đức Thánh Tông phải mê đắm nể trọng, nhất nhất theo lời. Ta muốn sai khiến được người duy nhất nắm giữ thiên hạ trong tay. Ta phải sai khiến được con trai ta. Không gì thích thú bằng khi thấy chỉ với một ngón tay út của bàn tay ta, cả giang san rùng rùng chuyển động. Ta phải buông rèm để nghe chính sự. Ta đã làm được rất nhiều cho đất nước này. Ta là người đàn bà duy nhất mà sử sách phải mãi mãi lưu truyền...
Dương Thái hậu thét lớn:
- Câm ngay! Nghiệt phụ! Ta biết tham vọng khôn cùng của ngươi. Ngươi quả là người đàn bà có trí tuệ và quyền biến có một không hai. Ta chưa bao giờ ngăn trở ngươi. Khi biết tính mệnh của mình bị lâm nguy, ta đã hạ mình van xin ngươi rằng ta xin khước từ ngôi Hoàng Thái hậu. Để mẹ con ngươi được an hưởng ngôi báu, ta xin vào chùa đi tu ăn chay niệm Phật, không bao giờ tưởng đến triều chính vàng lụa. Vậy mà ngươi vẫn không buông tha...
- Phải... Đức Thánh Tông hoàng đế băng ở điện Hội Tiên ngày Canh Dần tháng Giêng năm Thần Vũ thứ 4... Hoàng Thái tử Càn Đức con ta lên ngôi trước linh cữu khi mới bẩy tuổi. Bà không có công sinh ra hoàng đế mà được tôn là Hoàng Thái hậu, lại còn được buông rèm nghe chính sự. Còn ta, chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau lại chỉ chịu phận Hoàng Thái phi thôi sao? Không. Ta muốn ta phải là ngôi thứ nhất! Vả lại, nếu không phải ta mà là bà buông rèm nghe chính sự, sự thịnh vượng của quốc gia này có được như ngày nay chăng? Kẻ ngáng đường ta, dù chỉ là vô tình, kẻ đó phải chết!
Hoàng Thái hậu họ Dương cất lên một hồi cười khanh khách lạnh người:
- Chao ôi! Trời đất quỷ thần hãy nghe! Chỉ để cho một người đàn bà máu mê quyền lực, bước lên ngôi Hoàng Thái hậu mà đến nỗi phải nhúng ngập tay vào máu đến vậy ư?
Nét mặt của Ỷ Lan Thái hậu co rúm một lần nữa. Và lần này trong giọng bà có thoáng chút ăn năn, như thì thầm với chính mình:
- Phải... Năm Thái Ninh thứ hai, trời mưa dầm dề không dứt. Cả tháng trời mưa... Ta đã sai rước Phật Pháp Vân về Kinh để cầu tạnh. Ta đã làm đại lễ cầu Thần núi Tản Viên mong cứu nhân gian khỏi một trận hồng thuỷ... Và ta cũng sai người giam đương kim Hoàng Thái hậu cùng bẩy mươi sáu thị nữ vào Thượng Dương cung này rồi bức cho tất cả phải chết... Ta đã làm Hoàng Thái hậu sau cái chết của bẩy mươi bẩy người...!
Bây giờ đàn chuột đã sấn vào, leo cả lên lồng ngực và cánh tay của Ỷ Lan mà gặm thịt da bà. Ỷ Lan quằn quại. Đôi mắt can đảm vẫn nhìn không chớp vào Dương Thái hậu. Dương Thái hậu nghiến răng:
- Ngươi rước tượng Phật về thờ phụng. Ngươi lập đại lễ cầu đảo Thần núi Tản Viên... Một tay ngươi gõ mõ tụng kinh, một tay ngươi thọc sâu vào bầu máu trong gan ruột của những người vô tội!
- Đừng quá lời, Dương Thái hậu!
- Một người như Thái sư Lý Đạo Thành lừng lẫy công trạng, tận tuỵ phò vua giúp nước. Vậy mà ngươi, khiến cho ông ta buồn rầu đến mức phải lập Viện Địa Tạng trong miếu Vương Thánh... Ngươi còn giả nhân giả nghĩa phao lên rằng ta và bẩy mươi sáu thị nữ vì quá thương tiếc Đức Hoàng đế mà tự vẫn chết theo hầu hạ người dưới suối vàng!...
- Ta làm sao có thể làm khác được. Thời nào cũng vậy thôi, mạng người quá rẻ trong tay các bậc đế vương, nhưng vẫn phải phủ lên những cái chết đó hoặc là một sự đê nhục, hoặc là phản trắc hoặc là một nghĩa cử huy hoàng. Điều này các bậc đế vương thường xuyên làm mà, hoàng hậu họ Dương!
- Ngay cả việc giết người ngươi cũng là một kẻ siêu quần. Nhưng sao ngươi nỡ vu cho ta cái điều mà chính bản thân ngươi cũng không thể làm được... Để lấp liếm việc bức hại chúng ta, ngươi còn noi theo tiền lệ cực kỳ hung ác của tên hung bạo Tần Thủy Hoàng buộc cung nữ phải chết theo vua. Sao ngươi không tự thiêu mà chết theo Đức Thánh Tông để làm gương cho thiên hạ?
- Phải. Ta đã dùng nhiều thủ đoạn, Dương Thái hậu. Ngươi chết oan là phải. Ở trong cung từng ấy năm mà ngươi vẫn không biết rằng cái bức đại vóc đẹp đẽ của triều đình bao giờ cũng dệt nên bởi những mưu mô và thủ đoạn được kéo ra từ những con kén ngậm máu và nước mắt sao...? Dù ta ám hại ngươi và bẩy mươi sáu thị nữ kia, ngươi cũng nên công bằng một chút. Sau đó ta đã dốc lòng niệm Phật, tu tạo nên hơn một trăm ngôi chùa, quảng bá Phật dạo cho thiên hạ thấm nhuần lẽ từ bi... Ngươi không thấy dưới triều con ta, nước Nam này đã lập nên những chiến công hiển hách chưa từng có, đã tôn tạo Quốc tử giám, noi gương Đức Thái Tổ mở những khoa thi để thoát khỏi mọi sự mọi rợ hay sao? Dương Thái hậu, sao ngươi không quên thù oán riêng cho đất nước này? Ngươi chẳng qua cũng chỉ là một con mụ đàn bà đầu óc nhỏ hẹp, chỉ dựa vào sắc đẹp và phong thư yểu điệu làm tài sản ở chốn thâm cung để suốt đời núp bóng các đế vương mà thôi...!
Dương Thái hậu lại cười nhạt:
- Hãy nhìn ta và bẩy mươi sáu oan hồn này, Ỷ Lan! Những kẻ đầy tham vọng như các ngươi vẫn quen coi mạng sống và niềm yên vui của kẻ khác là những thứ mà bất cứ lúc nào các ngươi cũng có thể tuỳ tiện dí nát dưới gót hài trên đường đeo đuổi mộng đế vương. Tai các ngươi đã điếc trước tiếng khóc than rên xiết của những người yếu ớt đã bị giẫm đạp dưới bước chân voi ngựa...
Mặt cắt không còn hạt máu, Linh Nhân cố rứt một con chuột đói đang lăm le ngoạm những chiếc răng nhọn hoắt vào mồm bà:
- Không... Ta không điếc... Nhưng ngươi cần phải biết, cái người điều binh khiển tướng khi mở đường máu cho một đại quân thì không được quá quan tâm đến tiếng kêu của kiến và cỏ...
Dương Thái hậu tiếp tục, căm hờn:
- Sau mỗi lần nhúng tay vào tội ác thì các ngươi giỏi giang lắm trong cách tìm ra những thủ đoạn để lấp liếm, phủ lên tội ác một bức màn trướng đẹp đẽ hòng che mắt thiên hạ. Ỷ Lan, ngươi che mắt được thiên hạ nhưng có che được con mắt của lương tâm ngươi không?
Bẩy mươi sáu oan hồn thị nữ rầm rì tiến lại với những bước chân đe doạ. Một trăm năm mươi bàn tay trong suốt đưa ra túm lấy áo Ỷ Lan. Ỷ Lan trợn tròn đôi mắt đã mất sinh khí. Bà lùi dần, sát vào chân tường:
- Không! Tiếc thay suốt đời ta đã không đánh lừa được lương tâm mình. Nhưng sau đó ta đã cố công khuyến nghiệp từ bi...
Khắp hầm mộ rộn rực tiếng các oan hồn không rõ hình hài. Bẩy mươi sáu thị nữ đã túm được áo Ỷ Lan Thái hậu. Dương Thái hậu căm phẫn:
- Ta biết, sau khi bức hại ta, ngươi đã hối hả tô tượng xây chuà ăn chay niệm phật. Há ngươi không biết rằng một dúm dân đen còm cõi của nước Nam, một mặt thì phải đưa ngực ra chống đỡ mũi tên hòn đạn của ngoại xâm, một tay thì phải dồn công góp của, thắt ruột phu phen tạp dịch... Còn đó những oan hồn dưới bức tường đá nặng trịch của những ngôi chùa. Ngươi làm cho dân hay chỉ để an ủi cái lương tâm ngươi, để ngươi được trọn vẹn hưởng lạc, Ỷ Lan? Tại sao khi có một vị gián quan can ngăn việc xây quá nhiều chùa tháp làm dân lao lực thì ngươi lại nổi giận và đày ông ta lên chốn rừng thiêng nước độc? Đó chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Phật dạy lời từ bi, dạy "Phật tại tâm...". Ngươi có thật sự tin rằng Phật đang ngự tại những ngôi chuà lộng lẫy mà ngươi đã xây nên không? Ta tin rằng đức Phật không ngự ở những nơi mà Phật có đốt đuốc đi tìm cũng chẳng thấy hai chữ từ bi...!
Những mảnh đại vóc của Ỷ Lan bắt đầu nục ra dưới bàn tay của các thị nữ. Thái hậu kinh hoàng chạy trốn. Nhưng từ bốn phía của hầm mộ cũng chìa ra tua tủa những bàn tay trong veo. Và đàn chuột đói hầm hè trở nên đông đúc vô kể. Ngạn La thấy thương xót trước vẻ tuyệt vọng của Ỷ Lan. Nàng xót xa quỳ xuống trước mặt Dương Thái hậu:
- Xin bà tha cho cái bà bị chuột cắn kia. Đau lắm! Bà ấy không chịu nổi đâu...
Lúc đó Dương Thái hậu mới nhớ đến Ngạn La. Bà đỡ nàng dậy, ánh mắt dịu đi:
- Không. Đây không phải là ta, cô bé ạ. Đây là âm phủ. Con là người có duyên có kiếp nên mới được tiết lộ về những câu chuyện cõi âm. Con còn bé quá, chưa biết rằng ở trên trần thế, người ta có thể chạy trốn nhiều thứ. Nhưng khi chết xuống âm phủ thì người người đều phải đối diện với chính mình trước mặt Diêm Vương.
Ỷ Lan Thái hậu oằn mình vì đau, hỏi Ngạn La:
- Ngươi là ai? Sao dám nghe những chuyện chết người này? Ta cấm chỉ ngươi không được tiết lộ với bất kỳ ai. Dù ta chết đã lâu nhưng trong dân gian đâu đâu cũng đang tôn thờ ca tụng công đức của ta và con trai ta. Ngươi muốn giữ mạng thì hãy liệu giữ mồm.
Dương Thái hậu phá lên cười:
- Ôi, Ỷ Lan. Âm phủ đã mười năm mà sao ngươi vẫn còn chưa từ bỏ những tham vọng hão huyền! Một người đàn bà sắc sảo như ngươi mà lại không biết rằng thiên hạ thờ người chết, thật ra chẳng qua thiên hạ mượn thây chết mà dùng cho những mục đích của họ đấy thôi. Hãy trông đây Ỷ Lan... Vưu vật tuyệt thế này đã bị cái lệ độc ác mà ngươi đặt ra đưa lên giàn thiêu. Ngươi và cả ta nữa, cũng chưa biết được nỗi sợ hãi khi kề cận cái giàn thiêu mà cô bé con vô tội này phải trải qua. May mắn thoát khỏi ngọn lửa thiêu, cô bé lập tức bị tống vào lãnh cung. Con chim nhỏ này đã làm nên tội tình gì?
Ngạn La quay sang nhìn Ỷ Lan với đôi mắt căm hờn. Nhưng khi trông thấy máu rỉ ra từ những vết thương bị chuột cắn của bà, nàng lại động lòng thương xót.
Bỗng nghe có tiếng ồn ào và tiếng khoá sắt ngoài cửa lim khua loảng xoảng. Lắng nghe kỹ nữa, dường như có tiếng trống "tum...tum...". Trong nháy mắt, Dương Thái hậu, bẩy mươi sáu thị nữ, Ỷ Lan Thái hậu và lũ chuột biến vào cái miệng mở toang của hầm mộ. Hầm mộ khép lại không còn dấu vết.
Cánh cửa lãnh cung đột ngột mở toang. Luồng ánh sáng chói gắt oà vào xô ngã Ngạn La. Nàng lẩy bẩy che mắt nhìn, thấy bốn người khiêng chiếc võng điều. Kèm bên là bốn thị nữ đã đưa nàng vào buồng tắm của tiên hoàng lúc mới vào cung. Những người khiêng võng nhanh nhẹn đặt Ngạn La hầu như bất tỉnh vào trong võng rồi khiêng đi.
Khi nàng tỉnh lại trong hồ nước tắm thơm, lại thấy bốn thị nữ đang lặp lại những cử chỉ săn sóc thân thể nàng như lúc mới vào cung. Một lần nữa tấm thân mảnh mai mượt như lụa của Ngạn La lại được tẩm hương. Ngạn La tỉnh hẳn dưới sự vuốt ve của làn nước nóng trong hồ tắm ngọc. Nàng lờ mờ hiểu rằng mình đang được chuẩn bị cho một lễ dâng hiến.
NIỆM XỨ
Thuận Thiên năm thứ hai (1129). Mùa Xuân. Tháng Giêng. Ngày Thìn.
Vua cho mở hội khánh thành tám vạn bốn nghìn bảo tháp ở gác Thiên Phù.
Cách đây ba tháng, ngựa trạm đã phi suốt ngày đêm mang lệnh vua cấp báo các ngôi chùa trong nước truyền cho tất cả các sư sãi phải về kinh dự đại lễ. Chuẩn bị hàng trang, dặn dò chú tiểu đóng cửa cho chặt, tay nải khóac chéo vai, một tay cầm gậy trúc, các sư sãi lên đường về kinh. Các nẻo đường trong nước nhan nhản những vị sư khất thực gầy guộc trong chiếc áo vàng lấm bụi qua vai đi miên man. Đôi khi, người ta bắt gặp xác của một vị sư vô danh khô quắt dưới bóng cây, trên gương mặt vẫn ngưng đọng nụ cười mãn nguyện của người tin rằng mình đang lên đường tới cõi Phật.
Để có tám vạn bốn nghìn bảo tháp, triều đình đã huy động vô kể thợ gốm, thợ ngoã ròng rã cả năm trời trước đó để nặn ra những ngôi tháp cao chừng năm tấc, đem nung bằng lửa rơm và than củi trong những chiếc vò khum khum mà mọi kích thước đều do nhóm thợ cả đo đạc, tính toán cẩn thận... Khi ánh lửa tàn, các ngôi tháp xuất lò có màu đỏ như son. Những ngôi bảo tháp được đặt trên gác Thiên Phù khiến cả ngôi gác lộng lẫy, hắt bóng duyên dáng xuống dòng sông uốn lượn. Những nhà sư đến từ khắp mọi miền ngồi la liệt tụng kinh gõ mõ cầu cho sự thịnh vượng của nhà Phật, mừng thiên hạ thái bình, quân của triều đình bách chiến bách thắng, cầu chúc cho đức hoàng đế Thần Tông sống lâu muôn tuổi.
Kiệu vàng của Thần Tông đã đến gần chân gác Thiên Phù. Trong tiếng tiền hô hậu ủng của hàng ngàn quân hộ tống và đoàn tuỳ tùng, nhất loạt sư sãi cùng háo hức ngẩng đầu nhìn về phía đức vua. Thần Tông đã sang tuổi mười bốn. Gương mặt xanh xao với đường sống mũi thẳng như một lưỡi dao. Một vành ria mờ mờ hiện bao quanh môi mỏng luôn mím chặt. Đôi mắt ngài ngự nay hiền như mắt đàn bà. Và thỉnh thoảng đôi mắt đó lại thoắt rờn rờn lên như sóng nước.
Kiệu dừng. hai thị vệ đỡ hai tay ngài ngự xuống kiệu. Quan quân, dân chúng và tăng ni cúi rạp mình trong tiếng hô vang dội: "Đức hoàng đế vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế...!". Tim Thần Tông đập rộn. Tột đỉnh vinh hoa quyền lực là đây.
Cố nén niềm kiêu hãnh trong lòng, Thần Tông giơ tay, khẽ nói:
- Bình thân! Tại cuộc đại lễ này, ta ở dưới chân đức Phật và chỉ ngang hàng với chú tiểu nhỏ kia!
Nói rồi đức vua thong thả dạo bước giữa những hàng dài như vô tận các tăng ni phật tử đang ngồi xếp vòng tròn tay lần tràng hạt, tay gõ mõ, miệng tụng kinh. Chưa bao giờ lòng thành kính với đức Phật lại được bầy ra rờ rỡ như trong đại lễ này.
Thần Tông bước đi giữa miên man những màu áo cà sa. Miên mang tiếng gõ mõ đọc kinh rầm rì như biển sóng lúc nửa đêm khiến những trái tim cứng rắn nhất cũng trở nên mềm dịu. Thần Tông như được ai đó bỏ vào trong nôi và đu đưa vào giấc miên viễn.
Con đường nào tít tắp xa trước mặt chợt hiện? Mọc đầy đá tai mèo màu tím. Cái ánh sáng nhàn nhạt này không rõ của ngày hay của đêm. Mà văng vẳng tiếng lục lạc rung từ đầu tích trượng của tỳ kheo. Người đàn ông gầy guộc vai đeo tay nải, tay cầm bát gỗ khất thực trên đường thiên lý. Con đường không soi tỏ đi đâu về đâu. Thần Tông không thể cắt nghĩa nổi, tại sao con đường đó cứ bám chặt lấy tâm trí ngài.
Trong giấc mơ, bất kể ngày hay đêm, Thần Tông đều thấy hiện lên gương mặt của một thiếu nữ. Gương mặt nhạt nhoà. Chỉ thấy một đôi mày dài và có đuôi như lá. Không khóc mà dường như ấn nấp đâu đó trong khoé mắt là những giọt nước nặng trĩu. Đẹp và buồn miên man khiến trái tim yếu ớt của ngài thổn thức. Mỗi lần mơ thấy gương mặt ấy, Thần Tông đuổi theo. Gương mặt cứ chập chờn xa dần. Nếu có thi thoảng ngài đuổi kịp, thì gương mặt thiếu nữ ấy biến mất, lồng vào đó là một gương mặt có cái mõm nhọn, phủ một lớp lông tơ mượt mà.
Thần Tông thức dậy, thấy tràn ngập xung mình mùi ngọt nhàn nhạt, man mát như hương hoa lúa. Ngài chép miệng, cố nhớ lại xem đó là mùi gì. Không rõ. Chỉ biết đó là mùi khiến ngài khát. Khát lắm. Thái y đến để phân định xem mùi gì khiến đức vua đang nhớ, đang khát đến hành hạ thể xác. Tất cả các thứ mang mùi ngọt nhàn nhạt được mang đến. Không phải. Mãi về sau, khi nhũ mẫu mang đến một ít sữa đàn bà mới vắt, đựng trong bình ngọc, Đức vua nhìn thấy mới tỏ vẻ háo hức, nói: "Hình như ta nhớ thứ này". Rồi vồ lấy bình ngọc uống cạn. Sau đó đẩy bình ra: "Được. Nhưng chưa hẳn là thứ ta tìm kiếm. Nhưng từ nay, cứ đúng ngọ, hãy đem cho ta!".
Từ đó, cứ đúng ngọ, một bình sữa đàn bà mới vắt được đặt lên mâm ngự thiện. Bình sữa này được Thái y tuyển từ mười hai bình sữa của mười hai người đàn bà sinh con so khoẻ mạnh, mới được bứt ra khỏi trẻ sơ sinh, mang thẳng vào cung, ngày ngày được tẩm bổ sâm nhung quế phụ, chỉ để bữa vắt sữa vào bình ngọc đem dâng Vua.
Một lần, Đức vua đòi xem mặt những nô tỳ đã vắt sữa cho vua uống. Nhìn khắp lượt mười hai gương mặt, rồi Vua dừng lại ở một người đàn bà có đôi bầu vú nhỏ, nhọn hoắt, ở giữa hai bầu vú có ba sợi lông dài vàng óng, mắt tròn, mặt nhọn có nhiều lông tơ như mặt dã nhân. Vua đặt tay vào đôi vú, ve vuốt ba sợi lông vàng, nhìn lâu cái gương mặt đó, như nhìn ra cố nhân: "Từ nay, ta chỉ uống sữa của người này". Mười một người đàn bà khác được trả về nhà.
Mỗi ngày, người đàn bà mặt nhọn được chăm bẵm, tẩm bổ những món lợn sữa, trước giờ ngọ chừng ba khắc bắt đầu vén áo, ghé đầu vú vào miệng bình ngọc. Một dòng sữa trắng đục, hăng hơn sữa người thường phun thành từng tia xuống đáy bình. Vua uống sữa, đã cơn khát, khỏi ốm. Mỗi lần Thần Tông uống cái thứ sữa đựng trong bình ngọc, thì đỡ nôn nao. Nhưng vẫn mường tượng thiếu một cái gì đó. Mỗi lần ghé môi vào mình sữa, ngài dường như thấy những giọt sữa rỏ xuống từ một bầu vú ấm và lông lá.
Giấc mơ viên của Thần Tông tiếp nối, trong khi chân vẫn đưa ngài qua những dòng sư sãi đang cúi đầu tụng kinh gõ mõ.
Chợt một tiếng mõ lạc lõng, rơi ra ngoài giàn đại hợp của muôn ngàn tiếng mõ đnag râm ran trong buổi lễ, rót thẳng vào tai Thần Tông. Tiếng mõ đó đứng riêng một sắc, lúc trầm đục như thúc tức vỡ ngực, lúc trong trẻo như tiếng hạc bay, lúc như khóc như than, lúc rủ rỉ như ru êm. Có một sức trì níu ma quái nào đó kéo đôi chân ngài vô tình lựa giữa ngàn ngạt những tăng ni để hướng về phía tiếng mõ.
Thần Tông đưa mắt tìm kiếm.
Ngài chạy giữa hàng hàng lớp lớp những bóng áo cà sa để nửa vai trần, đầu trọc, đang ngồi xếp bằng theo thế liên hoa, đang nao nức tụng kinh. Ngài cuống quýt tìm nơi phát ra tiếng mõ.
Thần Tông chạy ra xa tít. Đám cận thần và lũ thị vệ áo bào vướng víu, võ phục nặng nề khó khăn lắm mới kịp theo bước chân ngài ngự. Khi họ dừng lại, thấy đức vua đứng sững trước một người bé nhỏ.
Đó là một sư bà ngồi ở cuối dẫy cuối cùng. Cái đầu trọc cúi xuống. Những sợi tóc mọc thóang điểm lấp lánh như bạc hắt ánh sáng lên gương mặt chăm chú đang hết sức căng thẳng của Thần Tông. Dáng cúi đầu thật yêu kiều. Cái bàn tay lần tràng hạt thon mềm. Chỉ nhìn cũng biết chúng mát như lụa. Bàn tay phải quấn quýt lấy chiếc dùi mõ và bàn tay đó như run rẩy gõ lên từng chuỗi âm thanh như hờn khóc. Đôi hàng mi nặng trĩu rủ xuống trông như ngủ. Dường như người gõ mõ đang cử động chiếc dùi trong một cơn mê, với trái tim đang run lên nối nhịp với chiếc mõ vô tri.
Thần Tông không bước nổi. Nặng như ngàn cân đeo đầu mũi chân. Ngài dính chặt xuống mảnh đất trước sư bà.
Thần Tông đứng rất lâu, mồ hôi nhỏ giọt ướt cả mặt đất mặc dù có hai tiểu thái giám cầm quạt phe phẩy hai bên.
Tiếng mõ khiến tim ngài đau nhói. Cơn đau tim này không bao giờ có trong lồng ngực của một đứa trẻ mười bốn. Thần Tông cảm thấy như mình đã sống qua nhiều kiếp, oải mình vì bể dâu.
Một người đàn ông từng trải đang hiện diện trong ngài, ngắm nhìn người đàn bà đầu trọc lạ lẫm lạc lõng với khung cảnh đô hội và trước tám vạn bốn nghìn bảo tháp đang đỏ rực toả sáng.
Dường như không Phật, không trời, không vua, không trần gian trong cái hàng mi nặng trĩu sập xuống như then khoá kia.
Và ngài háo hức muốn được nhìn tận mặt. Được nhìn vào đôi mắt ẩn sau hàng mi khép như ngủ kia. Nhưng những tiếng rộn rịch của đám tiền hô hậu ủng nãy giờ đã kịp đến tề tựu xung quanh vua trước mặt, sư bà vẫn không ngẩng đầu, vẫn như chìm vào một giấc ngủ say đắm từ thuở hồng hoang.
Hàng trăm đôi mắt đổ dồn vào chỗ đức vua và sư bà. Mọi người chưa bao giờ thấy sự lạ như vậy. Bởi dẫu là sư bà hay ai đi nữa thì khi đức vua có biệt nhãn, người đó buộc phải giữ lễ, phải ngưng tụng kinh, phải quì mọp xuống, chắp hai tay xưng tụng đức vua. Khi đức vua cho phép bình thân thì mới được quay lại việc tụng kinh gõ mõ.
Viên thị vệ theo hầu vua nổi giận thét:
- Sư bà chùa Trầm... Ngài ngự giáng lâm... sao sư bà không mau mau quì lạy?
Sư bà vẫn không ngẩng mặt.
Viên thị vệ rút soạt kiếm ra khỏi vỏ. Mũi kiếm lách dưới cằm sư bà:
- Mụ này hỗn xược! Thất lễ! Muốn ta đưa mụ đi đường tắt lên Niết bàn phải không?
Viên thị vệ tay giữ kiếm không rời khỏi cổ sư bà, mắt nhìn Thần Tông chờ đợi. Nếu nhà vua gật đầu, hoặc chỉ cần nhìn lảng sang chỗ khác, lưỡi kiếm sắc như nước lập tức sẽ đưa ngang, cái cổ mảnh mai sẽ đứt lìa và máu của sư bà sẽ phun lên làm đỏ thêm những ngọn tháp.
Nhưng Thần Tông lại không hề tức giận. Ngài hạ giọng như thì thầm:
- Sư bà! Người hãy cho ta nhìn mặt.
Lúc đó sư bà chùa Trầm mới như sực tỉnh khỏi giấc ngủ, vụt ngẩng đầu lên.
Đôi mắt lập tức chiếu rực vào mắt Thần Tông.
Đôi mắt dài như lá, không khóc mà sũng lệ khiến cho đôi hàng mi không phải là bờ bến mà chỉ như những cánh cửa khép mở đưa người ta đến một cõi phiêu bồng xa thẳm.
Đôi màu khói lam ủ dột như chau. Đôi mắt ấy hắt cái ánh sáng kỳ lạ khiến ngài ngự rùng mình và trái tim như tuột rơi đâu mất. Mùi da thịt thơm ngát như mùi sen chớm nở thoảng lên khiến Thần Tông sững sờ. Vẻ quyến rũ vô tình của sư bà khiến cho người ta quên mất hai nếp nhăn khắc khổ đã hằn vết bên khoé miệng tuyệt đẹp. Thần Tông bất giác tự hỏi: "Sư bà bao nhiêu tuổi nhỉ? Hai mươi. Năm mươi... Hay đã thiên thu...?".
Tên thị vệ cũng ngẩn người nhìn, thẫn thờ buông kiếm.
Lưỡi kiếm tuột từ cổ xuống, đậu hững hờ trên vai sư bà.
- Đức hoàng đế vạn tuế...!
Sư bà khẽ nói trong miệng, giọng buông thõng và đôi hàng mi lại đổ sóng soài như cố che giấu điều gì. Đôi bàn tay như lụa lần tràng hạt. Tiếng mõ lại đều đều vang lên. Nhưng không giấu được sự run rẩy.
Thần Tông bỗng cảm thấy như say sóng.
Dáng vẻ lạ lẫm và mùi hương thoảng lên từ da thịt của người đàn bà luống tuổi đã tự giam mình trong cửa Phật lâu ngày khiến ngài cứ thấy da diết nhớ. Đang đứng trước mặt bà mà lại nhớ. Dường như cái giấc mơ cố hữu đang trở lại.
Có phải các gương mặt thiếu nữ mà ngài rượt đuổi mỗi đêm? Nhưng đây lại là một sư bà luống tuổi! Không rõ nhớ gì. Nhưng thổn thức và trống vắng mà cồn cào lo sợ. Sợ giây phút cái hình ảnh đang hiển hiện trước mặt kia bỗng chốc sẽ tan biến vào thinh không như một ảo giác.
Thần Tông bỗng hạ giọng, như nài nỉ:
- Sư bà động Trầm, người có thể về trông nom việc tụng kinh niệm Phật trong nội cung ta được chăng?
Sư bà vẫn không ngẩng đầu.
Thần Tông lại khẩn khoản:
- Nội cung của ta đang cần một người như sư bà để giáo hoá Phật đạo cho các cung nữ.
Lời từ chối bật ra từ lồng ngực rung động:
- Kẻ tu hành xin cảm tạ đặc ân của Đức hoàng đế. Kẻ tu hành này đã quen uống nước suối ăn mầm cây trong động Trầm. Không quen với các nghi lễ quí phái chốn kinh thành...
Thần Tông ngạc nhiên, thoáng sợ:
- Ngươi từ chối ư? Đó là niềm mong ước của cả ngàn tăng ni...
Sư bà vụt nhìn lên, chói chang mắt Thần Tông:
- Đức hoàng đế bỏ qua cho kẻ tu hành này... Lễ sắp tàn. Xin hoàng đế gia ân cho kẻ tu hành này được trở về động Trầm.
Thần Tông lại thêm một lần nài nỉ khiến mọi người chung quanh lại thêm sửng sốt:
- Thôi được... sư bà sẽ về chùa Trầm. Nhưng trước khi sư bà trở về, ta muốn lưu sư bà lại một tuần trăng để cùng đàm đạo đôi điều về Phật pháp...
Thần Tông hấp tấp phất tay áo trở gót không kịp để sư bà từ chối. Khi vua vừa quay mình, từ đôi mắt sóng sánh của sư bà hai dòng lệ trào ra, nối nhau chảy xuống theo những nếp nhăn khắc khổ trên miệng và chảy vào đầu lưỡi, đầy vị mặn.
"Nghiệp chướng!"
Hai tiếng nấc khẽ trong khoé miệng của sư bà.
ĐOẠ XỨ
Má đỏ thầm phai...
Sư bà chùa Trầm quì trước bệ rồng.
Vua Thần Tông nhấp môi vào chén nước sâm từ tay viên Thái giám đứng hầu bên ngài dâng lên mà mắt vẫn đăm đăm vào sư bà. Người đàn bà lạ lẫm vừa rơi xuống từ một đỉnh núi phủ đầy tuyết sương, trên mắt, trên môi, trên đôi vai mỏng còn nồng mặn mùi rễ cây oải hương và gió thổi quấn quyện từ địa ngục.
Ngập ngừng, những lời nói của Thần Tông buông, treo lơ lửng đầu lưỡi:
- Sư bà hãy đem Phật đạo giáo hoá các cung nhân của trẫm!
Những ngón tay dài và mảnh, trong suốt, chắp lại trước ngực. Có thể thấy rõ những mạch máu màu tím đang nhẩn nha chảy, lan toả chút hơi ấm trên mu bàn tay. Mười búp tay tiểu thư hao gầy dưới những móng tay cũng màu tím. Đôi hàng mi sững lặng in bóng lên màu da bạc. Đôi môi đầy đặn như môi Phật, màu trắng. Một bóng tối mờ ảo phủ trên gương mặt. Mong manh. Xa xôi. Không thời gian. Chung quanh ngừng lặng. Vẻ xa hoa của hoàng cung trở nên trơ trẽn trước gương mặt này.
Một nỗi buồn vô cớ thấu vào tận đáy tim Thần Tông.
Sư bà chợt ngẩng đầu, đưa mắt nhìn qua vai Thần Tông. Vẻ hư vô trong mắt bà lóe lên đỉnh điểm một vẻ đẹp không tả xiết. Vẻ đẹp của người đã từng sống và từng chết đi, rồi tái sinh ở thế giới bên kia.
Xa xa, cửa Càn Nguyên điện nhuộm vàng. Hoàng hôn rớt lại trong một vệt ráng chiều thấm máu trên đường chân trời. Thần Tông giật mình nhận ra trong mắt sư bà một ánh lạnh lẽo. Một con thuyền quen lênh đênh trên đại dương trong đêm tối. Với những gỗ những ván ngâm mặn mòi trong nước biển. Không tay chèo không bánh lái, lấy lênh đênh làm bến đỗ. Không ao ước bình yên. Biển cũng trở thành nhạt nhẽo. Giông tố cũng trở thành cợt đùa. Mà những con sóng xô nhanh chỉ là tiếng ru đều đặn giục lênh đênh.
Khẽ nói:
- Kẻ bần ni sợ mình bất túc, tâu bệ hạ. Nơi này không phải là xứ của bần ni. Xứ của bần ni là động Trầm...
Từ trên ngai vàng, Thần Tông cúi nhìn xuống mái đầu cạo trọc mà những gốc tóc nhô lên sớm đã thưa thớt chớm bạc:
- Sư bà bình thân. Ta đã hỏi quan Tây thượng cáp môn sứ về bà. Tiếng tăm về năng lực giáo hoá của sư bà đã được đồn thổi khắp xứ Đoài, về đến tận kinh kỳ. Trẫm vốn sùng đạo, những mong dùng Phật đạo để lấy lẽ từ bi làm phép trị nước.
Sư bà nói mơ màng:
- Các tiên đế vốn là người sùng đạo...
- Phải, trẫm noi gương các tiên đế, lại thêm mong cho khắp thiên hạ không còn kiện tụng tù ngục, nhà nhà cất tiếng âu ca... Muốn vậy, màu cà sa của Phật phải bao trùm khắp cõi phàm. Các tiên đế đã giành lại giang sơn, mở mang bờ cõi. Công lao ấy núi Thái Hằng cũng không thể so bì. Nhưng để được như vậy, máu cũng chảy thành sông... Từng đi kinh lý vùng biên ải, trẫm đã nhìn thấy xương người phơi trắng trên bờ cõi. Trẫm đau lòng khi nhìn thấy cảnh đó. Với Phật pháp, non sông của trẫm sẽ không lặp lại cảnh núi xương sông máu...
Sư bà nhìn vào đôi mắt rực ánh hào quang của Thần Tông:
- Thưa, có phải vì vậy mà vừa mới lên ngôi, tháng Hai năm Mậu Thân ngày Ất Mão, Bệ hạ xuống chiếu tha cho các tù nhân ở phủ Đô hộ. Ngày Nhâm Tuất, người lại xuống chiếu tha cho một trăm ba mươi kẻ bị biếm truất?
Mắt Thần Tông sáng rỡ:
- Sư bà ở chốn hang động, xa lánh phàm trần mà cũng rành việc nước?
Sư bà tiếp giọng đều đều:
- Người còn đi khắp các chùa quán để cảm tạ đức Phật dã giúp cho người chiến thắng quân Chân Lạp ở bến Ba Đầu? Rồi hôm này người lại mở đại lễ khánh thành tám vạn bốn nghìn bảo tháp?
Thần Tông ngạc nhiên lẩm bẩm:
- Kỳ lạ! Bà này sao quá rành rẽ nhất cử nhất động của ta...!
Câu nói đó không qua tai sư bà.
- Tâu Bệ hạ, chẳng có gì lạ... Đầu ngón tay út của Bệ hạ nhấc lên cũng đủ gây mưa móc hay sóng gió trong thiên hạ. Bần ni tuy ngụ nơi thâm sơn cùng cốc nhưng không phải những âm ba chốn kinh thành quyền quí không dội tới. Kẻ xuất gia muốn hành đạo tất phải hiểu việc đời!
"Khẩu khí chẳng phải tầm thường. Mà sao người tu hành này lại cứ toát ra một sự huyền bí khiến ta không thể dằn lòng để rời xa bà ta vậy? Mà bà ta ở độ tuổi có thể sinh ra ta. Cái thân hình có lẽ ngày xưa rất quyến rũ kia đã bị cuộc đời tu hành khắc khổ mài mòn trở nên vóc hạc xương mai. Có một sức hút kỳ lạ ở người đàn bà này. Cái mũi côi cút trên gương mặt. Đôi môi ấy hẳn xưa đã từng sống động và khao khát. Lông mày màu khói nhạt mượt như lụa. Cái cổ cao không thể nào thanh mảnh hơn thế, khi chắp tay cúi xuống hiện rõ vẻ kiêu hãnh của một con ngựa yêu kiều. Trên đầu, làn da trắng xanh chỉ có những chân tóc bị cạo che phủ hắt sáng như toả hào quang...".
Một giấc mơ xa xôi, dịu dàng và cam chịu, khác với sự nôn nóng thường nhật của một ông vua muốn gì được nấy đang manh nha trong lòng Thần Tông. "Không thể hiểu nổi... tại sao giữa muôn nghìn tăng ni Phật tử, ta lại chỉ nhìn thấy bà và lập tức cưỡng bà về cung... Tại sao khi bà ta xuất hiện, mọi thứ xung quanh đều nhạt nhoà, không hiện hữu...". Thần Tông không ngớt ngẫm nghĩ và càng lúc càng thấy lạ trước mình. Ngài chằm chằm nhìn tận mặt của sư bà, dò hỏi, cố đuổi theo một ý nghĩ vô hình vừa loé lên rồi chập chờn trêu cợt bay xa để ngài phải miệt mài theo dõi. Thần Tông quên cả việc đáp lại câu nói của sư bà.
Giai âm trong giọng nói của sư bà vẫn cất lên như tiếng của một ngọn suối đang chảy âm u dưới vòm đá:
- Nhưng tâu Bệ hạ... Xin người thứ lỗi... Lòng nhân đức như trời biển của người thật là đáng trân trọng, làm cảm động đến cả thánh thần. Vậy nên năm rồi nhiều nơi hạn hán ruộng đồng nứt nẻ không có nước cấy cày, người đã trai giới cầu đảo, an chay niệm Phật cầu mưa. Lòng thành của đấng cửu trùng đã cảm động tới Trời Phật. Bệ hạ lại muốn dùng Phật đạo từ bi để giáo hoá chúng sinh khỏi cảnh đầu rơi máu chảy. Điều đó tốt vậy thay!
- Đa tạ sư bà...
- Trước khi Đức Thái Tổ mang cơ nghiệp nhà Lý thì nước Nam ta vẫn là xứ man rợ, Phật đạo có nhen nhóm nhưng chưa phổ độ đến chúng sinh. Cùng với Đức Thánh Tông cho tạo tác văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Thất thập nhị hiền, thì Linh Nhân Thái hậu và Đức Tiên đế Nhân Tông đã lập hơn một trăm chùa nguy nga lộng lẫy, Phật đạo ngày càng rạng rỡ...
- Đúng vậy. Nhờ ơn các bậc Tiện hoàng, chưa bao giờ Phật đạo lại được phổ độ rộng khắp như ngày nay!
Sư bà làm cử chỉ gần như phản đối:
- Phải, bây giờ khắp nơi đua nhau xây chùa tạo quán, lũ lượt người người nhập chùa làm tăng ni Phật tử. Đi đâu cũng bắt gặp bóng áo cà sa cầm bát đợi bố thí vàng rực khắp góc chợ sân đình.
- Càng nhiều bóng áo cà sa, vương quốc của ta càng bớt những kẻ ác phạm. Ta đang mong bóng áo cà sa của nhà Phật nhuộm mọi hang cùng ngõ hẻm. Khi mới lên kế nghiệp đế vương ta đã thề cùng trời đất quỷ thần...
- Nhưng chẳng lẽ Bệ hạ không thấy rằng trong vương quốc của Bệ hạ đâu phải đã hết những kẻ ác phạm? Năm ngoái Bệ hạ xuống chiếu tha cho bao kẻ gian ác đáng ra phải trừng phạt tại Đô hộ phủ thì năm nay những kẻ đó lại đang hoành hành làm khốn khổ chúng dân. Năm ngoái Bệ hạ rộng lượng xuống chiếu phục chức cho những kẻ bị biếm truất thì năm nay bọn thamm ô quan lại đó lại đang ngất ngưởng trên chức trọng quyền cao để bòn rút xương tuỷ của dân đen...
Nét mặt Thần Tông cau lại. Mắt ngài đã bắt đầu phóng ra những luồng giận dữ. Sư bà nhận thấy nhưng không nao núng. Đôi mắt vẫn chiếu rọi vào mắt Thần Tông khiến đức vua thấy chói chang. Tổng quản Thái giám đứng hầu bên cạnh đức vua lên tiếng quát khẽ:
- Sư bà... Không được lộng ngôn mạn thượng!
Ánh mắt nộ khí của Thần Tông bắt gặp phải cái nhìn chứa chất nỗi đau đớn mênh mang của sư bà. Trong thoáng chốc, Thần Tông buốt lạnh nhận ra trong đó một nỗi buồn hoài huỷ xót thương cho kiếp người. Và rực lên như ánh hoàng hôn loé rạng bên cơn giông ẩn hiện thăm thẳm ở cuối trời.
Ngài muốn biểu hiện một cử chỉ nào đó của quyền lực tối thượng với người đàn bà đang quì trước mặt. Nhưng rút cuộc ngài chỉ im lặng. Năm ngón tay choãi ra trên đầu rồng tay vịn ngai vàng. Ngài trở lại là một đứa trẻ đang bị lạc cả phần hồn lẫn phần xác, chơi vơi trên đồng cỏ mênh mang.
Ngài bỗng muốn được người đàn bà kỳ lạ đang quỳ trước mặt ấy choàng tay ôm vào lòng. Bà ta có biết ru không nhi? Sư bà có thể ru ta với lời ru của một người mẹ hay với sự nóng ấm của lồng ngực người đàn bà? Tại sao ở bà ta lại toát ra nỗi quyến rũ huyền hoặc. Yêu tinh hay thần nữ? Một kẻ tu hành hay là một kẻ bị giáng xuống nơi trần thế này để chịu kiếp nạn?
Thần Tông chú mục vào khoé miệng khoé mắt đã hằn nhiều nếp nhăn khắc khổ của sư bà để kìm giữ ngọn lửa cứ chợt muốn cháy bùng lên ở trong lòng.
Sư bà vẫn không rời mắt khỏi gương mặt Thần Tông. Cái gương mặt vừa quen vừa lạ như thấp thoáng vẳng lên từ một cõi xa xôi huyền bí nào đó trong cuộc đời oái oăm này. Nỗi đau cô quạnh nhói lên trong vùng ngực mảnh mai của sư bà.
*
**
Đoạ xứ!
Bến Đá sông Gâm. Bè nứa với chiếc nón lá của người tỳ kheo. Cơn giông sầm đổ. Rồi trời quang mây tạnh và hoa gạo như những bụm máu qua vai một người con trai. Thác Oán. Túp lều lau sậy le lói bếp lửa. Người đàn ông cá bơn... Ta tưởng dứt bỏ lòng trần, đường tu trọn kiếp. Nào ngờ...
*
**
Đoạ xứ!
Sư bà cố tìm lại nét thư sinh ngời ngợi mà ngang tàng thân thiết xưa kia. Đâu đây dường như vãn phảng phất gương mặt tưởng chừng xa xôi quên lãng mà thật ra vẫn ám ảnh lẩn khuất sâu thẳm trong đáy cùng tâm trí sư bà. Dường như chúng đang được cầm tù trong vài đường nét còn lộ chút thân thuộc. Cái thân hình nhỏ nhắn xanh xao của một đứa trẻ mà dục vọng đã rừng rực ám ảnh như định mệnh. Ngai vàng tôn nghiêm quá lạc lõng trước vị đế vương nhỏ bé này. Không rõ đức vua mong muốn điều gì? Một lần nữa sư bà lại rúng vai rùng mình sợ hãi nghĩ đến nỗi cám dỗ tục luỵ cõi trần!
- Tâu Bệ hạ... Người đã nhận ra người còn thiếu điều gì trong khi dùng phép từ bi vô tận của Phật đạo chăng?
Viên Tổng quản Thái giám đứng hầu bên cạnh ngai vàng lại một lần nữa giật mình cố trừng mắt về phía sư bà.
Thần Tông giơ mấy ngón tay:
- Sư bà là kẻ tu hành lẽ nào chẳng hiểu đạo từ bi có thể cải hoá khắp lượt chúng sinh. Tôn vinh Phật đạo và cai trị bằng cách giáo hoá Phật đạo khắp thiên hạ, phép trị quốc của ta vậy là đã đầy đủ.
- Vậy Bệ hạ nghĩ sao về những kẻ đã được ân sủng của ngài mà trở lại làm điều thất đức? Bởi vì hạt thiện mà gieo không đúng chỗ ắt sẽ mọc lên mầm ác. Cũng vậy, lời giáo hoá của chốn thanh bần sao có thể len lỏi vào nơi cung cấm ngào ngạt son phấn. Bần ni xin tạ ơn lòng đoái thương của Bệ hạ mà không dám nhận trọng trách Bệ hạ vừa giao phó. Xin Bệ hạ rộng lượng gia ân cho bần ni được trở về ngay động Trầm.
- Không được!... Sư bà đừng trái lời trẫm... Bay đâu!
Thần Tông giật giọng, mấy ngón tay trắng mảnh co lại, đấm mạnh lên ngai vàng.
- Xin tuận lệnh! Tâu bệ hạ!
Viên Tổng Thái giám đứng hầu vội rạp mình rồi lui bước, khuất vào phía sau bóng tối nội điện.
Hai tấm rèm nặng trĩu sau lưng Ngài ngự được từ từ kéo ra. Luồng ánh sáng chói loà từ đằng sau tấm rèm đập vào mắt. Hàng trăm cung nữ nối nhau quì mọp. Dào dạt mùi phấn sáp chế từ bột nếp, chu sa và hoa hồng. Mùi xạ hương, mùi trầm xông ướp trong xiêm áo của các cung nữ cùng ganh đua ngào ngạt. Xiêm áo ba bảy lớp trăm hồng ngàn tía.
Sư bà cúi mặt, khó thở với vị phàm trần nồng nặc, nhưng vẫn phải sững sờ vì vẻ đẹp rực rỡ của các cô gái hầu hết đang tuổi trăng tròn...
Sư bà biết rằng tất cả những cô gái đẹp của trăm miền được Thần Tông tuyển nạp về đây mới chỉ trong vòng hai năm trời từ khi người lên nối đức tiên đế lên ngôi hoàng đế trị vì thiên hạ. Sư bà chợt hiểu đâu là cái căn nguyên của ngọn lửa rừng rừng lúc như thiêu đốt lúc như lặn tắt trên gương mặt, trong đôi mắt của con người ngồi trên ngai vàng kia. Bất giác sư bà cúi xuống khẽ thở dài:
Thần Tông nhìn sư bà, dịu giọng:
- Hãy xem... các cung nhân của ta đã sẵn sàng. Sư bà hãy theo ta!
- Tâu bệ hạ... Bần ni không thể...
Nhưng Thần Tông đã đứng dậy. Viên Tổng quản Thái giám lén nhẹ trở lại chỗ cũ bên ngai vàng từ lúc cánh rèm kéo lên vội đưa tay đỡ ngài ngự. Sư bà định nói nữa nhưng nhìn Thần Tông đã đứng dậy quay gót, bất đắc dĩ, sư bà đành bước theo Thần Tông.
Hai hàng cung nữ quì bất động trên điện ngọc. Chỉ thấy những tấm lưng thon, những bờ vai mỏng, những mái tóc dày rung rung. Và phảng phất đâu đó những hơi thở rộn ràng cố ghìm nén lại trong lồng ngực. Vốn quen với khoảng không gian trong trẻo và lạnh lẽo của hang động Trầm, mỗi bước đi sư bà mỗi thấy bức bối ngột ngạt.
Tay đỡ đức vua, Tổng quản Thái giám không ngăn được gườm mắt khi đi qua sư bà. Từ hôm sư bà vào cấm cung đến nay, mâm Lục đầu bài bỏ ngỏ. Sự bất thường chưa từng có ở Tử Cấm Thành, từ ngày Hoàng đế lên ngôi.
Theo lệ của triều đình, ngoại trừ Hoàng hậu là người làm chủ trong cung cấm, còn thì mọi phi tần cung nữ đều được ghi trên mỗi tấm thẻ bài màu xanh. Thần Tông lên ngôi hai năm, số thẻ bài nằm chất đầy mấy chiếc tráp lớn để chật trên giá. Đã vậy, mùa thu năm ngoái, Hoàng thượng còn xuống chiếu cho con gái các quan và các nhà hào phú trong thiên hạ đến tuổi cũng chưa được lấy chồng, phải chờ đợt tuyển chọn người vào hậu cung, ai bị loại mới được tính tới chuyện hôn thú... Buổi tối, sau khi Hoàng thượng dùng ngự thiện, viên Tổng quản Thái giám quì xuống, hai tay dâng chiếc mâm bày các Lục đầu bài để ngửa. Vua liếc nhìn qua, trong đám phi hậu cung tần, vua thích ai thì cầm tấm thẻ có tên người đó lật úp xuống. Được lệnh truyền, các Thái giám nội thị cứ theo thẻ được chọn mà sửa sang, chuẩn bị đưa người vào nội thất hầu hạ đức vua.
Trừ ngày đầu tháng, Đức vua thường ngự ở cung Nghênh Xuân của Hoàng hậu, còn các ngày trong tháng, viên Tổng quản Thái giám thường là người biết tường tận mọi ham muốn sở thích của vua mà chọn lựa phi tần mỹ nữ cho vừa lòng ngài ngự.
Những ngày xuân, tiết trời ẩm ướt, cây hăng hăng lộc, cái rét vẫn ngấm ngầm làm tê tái thịt da, Tổng quản thận trọng đặt lên mâm lục đầu bài những chiếc thẻ mang tên các cung tần đến từ phương Nam với nước da nâu hồng ấm áp, mắt to mi rợp, môi mọng hơi trề như nũng nịu. Tổng quản biết, các cung tần này đầu gối tay ấp bên vua sẽ như mang ánh nắng phương nam chói gắt đến sưởi ấm cho ngài, làm tan hơi lạnh của tiết đông xuân. Mùa hạ, trên mâm Lục đầu bài chen chúc tên của các mỹ nữ tuyển từ Bắc phương. Mí mắt dài hẹp tản khoé thu ba trên làn da trắng muốt như bạch hoa trà. Tóc đen dài vấn vít quấn cao trên đầu, cài chặt bằng trâm vàng, trâm bạc hoặc cành thoa có gắn hoa sen còn hàm tiếu thơm ngào ngạt. Cẩn trọng hơn, tổng quản còn xem ai có làn da mát lạnh giữa mùa hè thì mới chọn khi lâm hạnh, vua hài lòng như được đắm trong dòng suối mát.
Bây giờ, Đức vua đã cho vời sư bà đã ngoài sáu chục tuổi này vào giữ trong cung làm gì đây? Viên Tổng quản Thái giám không dám nghĩ tiếp. Ông ta băn khoăn nhìn sư bà bước đi, mong manh lạc lõng giữa hậu cung muôn hồng nghìn tía.
- Sư bà! Các cung nhân của trẫm thành thạo về đường son phấn mà vụng dại về đường phụng thờ Phật. Ta lưu sư bà trong cung để sư bà uốn nắn điều này...
Mắt không rời sư bà, Vua nhắc lại:
- Hậu cung của Bệ hạ đã quá đủ đầy. Mà Phật đạo thì quá xa lạ với những chỗ huyên náo. Xin Bệ hạ đừng buộc kẻ kém cỏi này phải nói ra những lời lạc lõng.
Môi sư bà run rẩy như cố ghìm tiếng nấc:
- Xin Bệ hạ cứ trọn hưởng lạc thú, cho sớm trọn kiếp này...
Nhìn những giọt nước mắt long lanh bên khoé mắt sư bà, Thần Tông ngạc nhiên, gần như mừng rỡ:
- Sư bà sao lại khóc? Trẫm đã làm sư bà đau lòng ư?
Sư bà cố kìm những giọt nước mắt:
- Tâu Bệ hạ! Bần ni chỉ là phận con sâu cái kiến, có đáng kể gì đối với Đấng cửu trùng. Xin người đừng để tâm. Chỉ có điều, xin Bệ hạ hiểu cho rằng, với một kẻ đã rắp tâm xa lánh cõi phàm, chỉ quen ăn rau rừng, uống nước suối, nhìn ngắm đất nâu và cỏ xanh, thì việc bắt buộc phải ở lại nơi này, cũng không khác gì bị hãm vào đoạ xứ... Xin hãy cho bần ni được về chốn cũ.
Đức vua nổi giận:
- Sư bà! Nên nhớ rằng, bà dầu đã dâng mình cho Phật đạo, nhưng bà sống ngày nào thì vẫn ăn ở đi lại trên đất của Thiên tử. Nếu bà quá ngang ngược, ta sẽ không dung tha.
Sư bà ai oán ngẩng nhìn. Đôi mắt chỉ biểu lộ sự tuyệt vọng, ngao ngán, mà không oán giận:
- Vậy thì, Bệ hạ cứ một mực như thế, xin hãy nghe. Bần ni chỉ xin nói lại lời di chúc của đức Phật mà thôi. Quyển bốn, Phá tăng sự, đã nói: lúc Bồ Tát còn là hoàng tử ở trong cung, khi vui vẻ chơi đùa, hay nói lảm nhảm. Một mình của ngài có ba bà phu nhân và sáu vạn mỹ nữ. Ngài nói, nếu ta không làm chuyện tục lậu với họ, e rằng người ngoài nói ta không phải là kẻ trượng phu...
Mắt Thần Tông sáng rỡ:
- Sư bà thật hiểu rộng biết nhiều. Ta này đường đường là vua một nước, mấy trăm mỹ nữ cung tần, chưa có chi là nhiều...
- Nếu Bệ hạ quả thực sùng đạo Phật, vậy có thể làm theo đức Phật dạy được chăng? Phật dạy: "Tỳ kheo các người, nên tự cạo đầu, bỏ hết đồ trang sức, mác áo nâu màu xấu, cầm bát xin ăn cho sống qua ngày. Phải tự biết như thế mới là phải phép, hễ hơi có lòng kiêu ngạo là phải dẹp đi ngay!".
- Khổ ải như thế phỏng có ích gì đối với một bậc đế vương?
- Theo chỗ bần ni biết, Bệ hạ và những người trong cung cấm, dù vui chơi, tận hưởng xa hoa thỏa chí mà tâm vẫn phiền não. Đó là vì chưa xem phép "biết đủ" của đức Phật. Cái phép "biết đủ" tức là chỗ vui vẻ yên ổn. Con người biết đủ, dẫu nằm trên đất lạnh vẫn yên vui. Kẻ không biết đủ dẫu ở lầu cao cửa rộng giữa son phấn ngọc ngà cũng không xứng ý. Không biết là đủ, dù giàu cũng là nghèo, Biết đủ, dù nghèo cũng như giầu. Kẻ không biết đủ thường bị ngũ dục lôi đi. Người biết đủ lấy thế mà thương xót...!
Thần Tông cả cười:
- Dương như ta đã nghe những lời này nhiều lắm rồi. Từ kiếp trước! Nhưng ta thấy, thiên hạ chỉ có những kẻ không có thì mới tự an ủi rằng mình đang "tri túc". Còn những bậc đế vương xưa nay, dẫu có cả thiên hạ trong tay cũng không bao giờ tự cho là đủ. Nếu không, việc ra sức động binh mở mang bờ cõi, sơn hào hải vị đầy bàn, son phấn mỹ nhân bao bọc quanh mình... chẳng là hão huyền sao...!
Sư bà rạp đầu, chắp hai tay vái dài Thần Tông:
- Muôn tâu! Xin Bệ hạ gia ân, cho phép bần ni ra khỏi đoạ xứ này!
- Không được. Sư bà phải ở lại!
Thần Tông ghé vào tai sư bà, khẽ nói:
- Sư bà nên biết, hình như những năm qua, đêm đêm ta mơ thấy gương mặt của sư bà...
Câu nói thầm đó tựa như tiếng sét bên tai sư bà. Lồng ngực mảnh mai run rẩy của sư bà không ghìm nổi tiếng nấc. Sư bà buột miệng:
- Quá lắm! Từ Lộ! Hai kiếp của người rốt cục cũng chỉ đầy đoạ thân ta mà thôi!
Thần Tông giật nẩy mình khi nghe hai tiếng "Từ Lộ". Đứng sững. Cau mày như nhớ lại một điều gì. Giây lâu. Có một cái gì như bóng mây thoáng qua. Cố nhớ lại một hình bóng nào đó. Nhưng rốt cục, chỉ thấy gương mặt thiếu nữ nhạt nhoà. Đôi mắt sũng nước như lá. Và trong không gian ngòn ngọt nhàn nhạt mùi sữa dã nhân.
Thần Tông bất chợt đưa hai tay về phiá sư bà đang khóc nức nở. Như một đứa trẻ đòi mẹ che chở. Lại như một người tình khao khát được ôm ấp. Mắt vua cũng giàn giụa nước.
Nhưng sư bà động Trầm bỗng sững lại.
Từ phiá sau Thần Tông, một cung nhân tha thướt trong bộ xiêm áo màu hồng. Đôi mắt xám mênh mang với con ngươi ánh nâu như mắt mèo hoang. Môi mọng màu hoang thổ. Tóc mượt như lụa không thèm búi chảy tràn xuống bờ vai thon mảnh. Thấp thoáng sau tấm sa mỏng, chiếc rốn màu chu sa ẩn hiện theo bước đi kiêu hãnh của loài ngựa hoang.
Duờng như không gian tràn ngập nàng. Cung nhân hồ ly.
Dù không quay lại, Thần Tông vẫn biết dó là Ngạn La. Ngài ngự rụt đôi tay đang đưa về phía sư bà, cất tiếng vọng lại:
- Ngạn La! Sao bây giờ nàng mới đến?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top