Giaỉ quyết tranh chấp thương mại
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
I. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
1, Khái niệm, đặc điểm và phân loại tranh chấp thương mại:
a. Khái niệm tranh chấp thương mại
(Lưu ý: nên sử dụng thuật ngữ TCKD hay TCTM hay TCKD – TM? Trong BLTTDS 2004 gọi là TCKD - TM)
Tranh chấp KD hay tranh chấp thương mại (LTM 10/5/1997)là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống KT – XH ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới được sử dụng rộng rãi ở nước ta trong mấy năm gần đây cùng với sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế (trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 16/3/1994)- 1 khái niệm quen thuộc của cơ chế kế hoạch hoá đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người VN.
Thuật ngữ tranh chấp kinh tế có nội hàm rất rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có nội dung kinh tế chứ không chỉ bao gồm các tranh chấp kinh tế nêu trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 16/3/1994 (các tranh chấp này là các tranh chấp điển hình có nội dung kinh tế như: tranh chấp về HĐKT giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có ĐKKD; các tranh chấp giữa CT với thành viên CT, giữa các thành viên CT với nhau liên quan đến tổ chức hoạt động của CT; tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu…). Vì vậy hiện nay việc sử dụng khái niệm tranh chấp KT để gắn cho các tranh chấp phát sinh từ hoạt đông KD hay thương mại đã tạo ra sự bất tương thích. Do đó hiện nay người ta chủ yếu sử dụng khái niệm tranh chấp KD hay tranh chấp thương mại để chỉ những mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên tham gia về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh trong hoạt động thương mại. Và trong bài này we cũng chỉ nghiên cứu tranh chấp thương mại với ý nghĩa như vậy.
“Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể KD về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhất định phát sinh trong hoạt động thương mại”.
b. Đặc điểm của tranh chấp thương mại.
- Phát sinh chủ yếu giữa các chủ thể KD.
Các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp giữa các chủ thể KD với nhau. Tuy nhiên trong những trường hợp nhất định thì các tổ chức, cá nhân khác không phải là chủ thể KD cũng có thể là chủ thể của TCKD như: TC giữa CT và thành viên CT; giữa các thành viên CT với nhau liên quan đến tổ chức, hoạt động của CT…
- Gắn liền với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong thương mại.
- Tranh chấp thương mại phản ánh trước hết và chủ yếu những xung đột về lợi ích kinh tế. (vì đối tượng của QH tranh chấp thường liên quan đến lợi ích tài sản của các bên).
- Mức độ tranh chấp thường gay gắt, ảnh hưởng đến nền kinh tế (vì đối tượng của TCKT thường liên quan đến tài sản và giá trị TC thường rất lớn nên ảnh hưởng lớn đến hoạt động SX – KD của chính các chủ thể và ảnh hưởng đến trật tự KT – XH nói chung).
c. Phân loại tranh chấp thương mại:
* Theo nội dung tranh chấp:
Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 tranh chấp thương mại, thương mại bao gồm:
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có ĐKKD với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
- Mua bán hàng hoá;
- Cung cấp dịch vụ;
- Phân phối;
- đại diện, đại lý;
- Ký gửi;
- Thuê, cho thuê, thuê mua;
- Xây dựng;
- Tư vấn, kỹ thuật;
- Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
- Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
- Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
- Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
- Bảo hiểm;
- Thăm dò, khai thác.
Thứ hai, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Thứ ba, tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Thứ tư, các tranh chấp khác về thương mại, thương mại mà pháp luật có quy định.
* Theo tính chất quốc tế:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, là tranh chấp có một trong các dấu hiệu pháp lý sau:
- Một trong các bên tranh chấp có quốc tịch khác nhau, hoặc có nơi cư trú, hoặc có trụ sở đặt ở các nước khác nhau;
- Tài sản là đối tượng của quan hệ tranh chấp tồn tại ở nước ngoài;
- Sự kiện pháp lý phát sinh quan hệ tranh chấp xảy ra ở nước ngoài.
Thứ hai, tranh chấp thương mại không có yếu tố nước ngoài, là loại tranh chấp không có các dấu hiệu pháp lý kể trên.
2. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
Trên thế giới cũng như ở VN, tồn tại 4 phương thức giải quyết TCKD, bao gồm: Thương lượng; Hoà giải; Toà án; Trọng tài thương mại. Trong đó 3 phương thức là thương lượng, hoà giải và trọng tài thương mại không mang quyền lực của NN mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt của các bên tranh chấp theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo. Trong khi đó Toà án là phương thức giải quyết TCKD mang ý chí quyền lực NN được Toà án tiến hành theo thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ.
PL cho phép các chủ thể tự do lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp KD? (Vì sao? Vì nó là 1 trong những nội dung biểu hiện của quyền tự do KD của các chủ thể). (các quyền tự do kinh doanh từ Đ5 à đ12 LDN05)
? Tìm ưu và nhược điểm của mỗi phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. (ngay dưới)
a, Thương lượng:
*Khái niệm, đặc điểm: là phương thức giải quyết TC thông qua việc các bên TC cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ TC mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ 3 nào.
Thương lượng là phương thức giải quyết TC xuất hiện sớm nhất và phổ biến, thông dụng nhất và được áp dụng rộng rãi để giải quyết mọi TC phát sinh trong đời sống XH, nhất là trong hoạt động KD. Phương thức này có các đặc trưng sau:
- Chỉ có các bên tranh chấp tham gia (không có bên thứ 3).
Vì phương thức này được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên TC gặp nhau bàn bạc, thoả thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ 3 để trợ giúp.
- Kết quả thương lượng phụ thuộc vào thiện chí của các bên.
Việc thương lượng cũng như thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên TC mà không có bất kì cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc thực thi đối với thoả thuận của các bên trong quá trình thương lượng.
- Trong quá trình thương lượng, các bên không phải chiu sự ràng buộc của bất kì nguyên tắc pháp lý hay những quy định mang tính khuôn mẫu nào nào về thủ tục giải quyết TC.
PLVN mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận thương lượng là 1 phương thức giải quyết TC mà không có bất kì quy định nào chi phối đến cơ chế giải quyết TC = thương lượng.
(Lưu ý: theo nghe giảng thì có những tranh chấp mà PL bắt buộc phải giải quyết bằng thương lượng thì khi đó thương lượng là phương thức bắt buộc – xem lại chỗ này).
*Ưu điểm:
Vì đây là phương thức được thực hiện = cách tự giải quyết, không có sự hiện diện của bên thứ 3 và các bên hoàn toàn có quyền tự đề xuất các giải pháp và thoả hiệp với nhau theo thủ tục tự chọn (không bắt buộc phải tuân theo 1 thủ tục pháp lý nào) nên nó có những ưu điểm được các chủ thể ưu chuộng như:
- Tôn trọng quyền định đoạt của các bên.
- Thể hiện sự tự nguyện và tính thiện chí cao.
- Đơn giản, ít phiền hà, ít tốn kém.
- Giải quyết nhanh chóng, đảm bảo bí mật và giữ được uy tín cho các bên.
*Nhược điểm:
- Nếu các bên thiếu thiện chí thì tranh chấp không thể g/q được.
- Không có cơ chế quyền lực để buộc các bên thực thi cam kết sau thương lượng: Tính khả thi của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên sau thương lượng kém. Bởi vì kết quả thương lượng không được đảm bảo = cơ chế pháp lý mang tính bắt buộc. Do vậy dù các bên có đạt được thoả thuận để giải quyết vụ tranh chấp thì việc thực thi kết quả thương lượng cũng vẫn phụ thuộc vào sự tự nguyện của bên phải thi hành. Nếu 1 bên không tự nguyện thi hành thì kết quả thương lượng cũng chỉ tồn tại trên giấy mà không có 1 cơ chế pháp lý trực tiếp nào bắt buộc thi hành đối với kết quả thương lượng của các bên.
Những hạn chế này của thương lượng dễ bị lạm dụng trong thực tiễn giải quyết TCKD. Nhiều trường hợp vì thiếu sự thiện chí, hợp tác trong quá trình giải quyết vụ TC mà 1 bên đã tìm mọi cách trì hoãn quá trình thương lượng nhằm kéo dài vụ TC, nhất là khi thời hiệu khởi kiện không còn nhiều. Bởi vậy các bên TC thường phải lưu ý cân nhắc đến yếu tố này trước hoặc trong khi tiến hành thương lượng để có giải pháp lựa chọn hợp lý trong quá trình giải quyết TCKD.
b, Hoà giải (ngoài tố tụng)
*Khái niệm, đặc điểm:
Hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại với sự tham gia của bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung gian hỗ trợ cho các bên tìm kiếm những giải pháp phù hợp để giải quyết tranh chấp.
Bản chất của hoà giải được thể hiện qua những đặc điểm sau đây:
- Có sự tham gia của bên thứ 3 (do các bên TC lựa chọn) làm trung gian trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ TC.
Đây là điểm khác biệt giữa thương lượng và hoà giải. Tuy nhiên cần lưu ý bên thứ 3 này không có quyền quyết định hay áp đặt bất cứ vấn đề gì nhằm ràng buộc các bên TC. Quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các bên TC khi họ thống nhất được ý chí với nhau về giải quyết vụ TC trên cơ sở hướng dẫn, trợ giúp của người thứ 3 làm trung gian hoà giải.
- Quá trình hoà giải các bên TC không phải chịu sự chi phối bởi các quy định của PL về thủ tục hoà giải.
Cũng như thương lượng, PL hiện hành của nước ta không có quy định nào ràng buộc, chi phối đến cơ chế hoà giải ngoài các quy định có tính chất ghi nhận thương lượng và hoà giải như là các biện pháp giải quyết TC trong KD.
- Kết quả hoà giải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: thiện chí các bên (vì không có cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hoà giải); hay kỹ năng của người hoà giải (phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; am hiểu luật pháp; có kinh nghiệm; có sự độc lập với các bên TC)
*Các hình thức hoà giải:
- Hoà giải tự do: các bên tự thoả thuận với nhau về hoà giải, cùng nhau chỉ định người trung gian và hoà giải không bắt buộc phải tuân theo một quy tắc hoà giải nào.
- Hoà giải theo nguyên tắc tố tụng của 1 tổ chức trọng tài đã định trước: các bên thoả thuận hoà giải theo quy tắc hoà giải của một tổ chức nghề nghiệp hoặc một tổ chức trọng tài nào đó. Ví dụ: Quy tắc hoà giải của trung tâm hoà giải Bắc kinh; Quy tắc hoà giải không bắt buộc của phòng thương mại quốc tế (Rules of optional Conciliation of the International Chamber of Commerce); Quy tắc hoà giải của UNCITRAL;...
*Ưu điểm của hoà giải:
Giải quyết TC = hoà giải cũng có nhiều ưu điểm như phương thức thương lượng như: đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, linh hoạt và ít tốn kém.
Bên cạnh đó hoà giải còn có ưu điểm vượt trội so với thương lượng. Người thứ 3 được lựa chọn làm trung gian hoà giải thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiêm, am hiểu lĩnh vực và vấn đề đang TC. Vì vậy họ sẽ biết cách để làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để loại trừ TC. Còn đối với thương lượng, nếu kinh nghiệm và hiểu biết của các bên về vấn đề TC còn nhiều hạn chế thì việc giải quyết sẽ khó có kết quả, nhưng khi có sự can thiệp của người thứ 3 làm trung gian hoà giải thì cơ hội thành công lại cao hơn.
Ngoài ra kết quả hoà giải được ghi nhận và chứng kiến bởi người thứ 3 nên mức độ tôn trọng và tự nguyện tuân thủ các cam kết đạt được trong hoà giải sẽ cao hơn so với thương lượng.
*Nhược điểm:
- Kết quả hoà giải phụ thuộc vào sự thiện chí, hợp tác trong quá trình đàm phán của các bên.
Mặc dù hoà giải có sự tham gia của bên thứ 3 nhưng quyết định cuối cùng vẫn phụ thuộc vào ý chí của các bên. Cho nên nếu thiếu sự thiện chí, hợp tác thì hoà giải cũng khó có thể đạt được kết quả mong đợi.
- Uy tín, bí mật KD của các bên dễ bị ảnh hưởng. (vì các bên phải trao đổi, cung cấp thông tin với người thứ 3 về hoạt động KD của mỗi bên liên quan đến vụ TC)
- Chi phí cho quá trình giải quyết TC = hoà giải thường tốn kém hơn so với thương lượng (vì 1 hoặc các bên TC phải trả 1 khoản phí cho người thứ 3 làm trung gian hào giải)
- Vẫn thiếu cơ chế quyền lực để buộc các bên thực thi cam kết sau hoà giải.
?Phân biệt hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp độc lập với hoà giải trong tố tụng.
?So sánh hoà giải với thương lượng. (đã nói ở trên rồi)
c, Toà án
Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
*Khái niệm, đặc điểm:
Toà án là phương thức án quyết giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực NN, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án, quyết định của Toà án sẽ được đảm bảo thi hành = sức mạnh cưỡng chế của NN.
Giải quyết tranh chấp thương mại, thương mại bằng Toà án có các đặc điểm sau:
- Toà án chỉ giải quyết tranh chấp thương mại khi có yêu cầu của các bên đương sự và vụ tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án;
-Toà án đưa ra bản án, quyết định nhân danh ý chí của NN.
Toà án là cơ quan trong bộ máy nhà nước, nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết giải quyết tranh chấp, buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng cưỡng chế nhà nước. Phán quyết của Toà án luôn được đảm bảo thi hành bởi sức mạnh của quyền lực NN.
- Toà án giải quyết tranh chấp thương mại theo một trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ do pháp luật quy định (BLTTDS).
- Phán quyết của TA có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xem xét lại tính hợp pháp.
Giống Trọng tài: Đều là bên thứ 3 ra phán quyết.
Khác Trọng tài: - Toà án nhân danh quyền lực NN để ra phán quyết.
- Trọng tài nhân danh bên thứ 3 để ra phán quyết.
Ưu điểm:
- phán quyết của Toà án có tính cưỡng chế cao nên đảm bảo được tính khả thi của phán quyết.
- Do là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.
- Thủ tục giải quyết chặt chẽ
Nhược điểm:
- thủ tục giải quyết thường kéo dài (vì phải theo quy định chặt chẽ của PL) nên có khi làm mất cơ hội KD của các nhà đầu tư.
- Không đảm bảo được quyền tự định đoạt của các nhà KD (vì toà án giải quyết vụ việc hoàn toàn phải dựa theo những chứng cứ khách quan và quy định của PL).
- Nguyên tắc xét xử công khai của tòa án tuy là nguyên tắc được xem là tiến bộ, mang tính răn đe nhưng đôi khi lại là cản trở đối với doanh nhân khi những bí mật kinh doanh bị tiết lộ.và có thể không giữ được uy tín cho các nhà KD (vì Toà án xét xử công khai)..
- Bên cạnh đó, Chính vì những nhược điểm này mà hình thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án ít khi được các thương nhân lựa chọn và các thương nhân thường xem đây là phương thức lựa chọn cuối cùng của mình khi các phương thức thương lượng, hòa giải, trọng tài không mang lại hiệu quả.
d, Trọng tài thương mại.
Pháp lệnh trong tài thương mại 25/2/2003
Trước kia ở nước ta việc giải quyết tranh chấp kinh tế do Trọng tài kinh tế nhà nước thực hiện. Tuy nhiên TT kinh tế NN trước kia là 1 cơ quan NN có chức năng quản lý về kinh tế. Vì vậy nếu TT kinh tế NN vừa quản lý về kinh tế lại đồng thời giải quyết các tranh chấp KT thì sẽ không khách quan và không hiệu quả. Ngoài ra, trước kia ở nước ta còn có Trung tâm trọng tài quốc tế ViệtNamtrực thuộc Phòng thương mại và công nghiệp VN chuyên giải quyết các tranh chấp trong KD có yếu tố nước ngoài.
Ngày 25/2/2003 UBTVQH ban hành Pháp lệnh TTTM. Theo pháp lệnh này TTTM không phải là cơ quan NN mà là 1 tổ chức xã hội - nghề nghiệp, là tổ chức phi chính phủ được thành lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thoả thuận.
*K/n, đặc điểm:
Giải quyết tranh chấp trong thương mại bằng trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
Đặc điểm:
- Chủ thể tiến hành: do trọng tài - 1 tổ chức XH - nghề nghiệp tiến hành theo pháp luật và quy chế trọng tài. (không phải là cơ quan NN)
- Điều kiện g/quyết bằng TT: Chỉ giải quyết khi có thoả thuận TT của các bên.
Trọng tài giải quyết tranh chấp trong thương mại trên cơ sở thoả thuận của các bên. Muốn đưa vụ tranh chấp đó ra trọng tài để giải quyết thì trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên tranh chấp phải có thoả thuận trọng tài, đó là sự nhất trí của các bên đưa ra trọng tài giải quyết tất cả hoặc một số nội dung tranh chấp phát sinh. Thoả thuận trọng tài hợp lệ có giá trị ràng buộc đối với các bên.
- Là phương thức đảm bảo cao nhất quyền tự định đoạt của các bên đương sự. Vì giải quyết tranh chấp qua trọng tài, các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn địa điểm, thủ tục tiến hành phiên họp trọng tài,...và thậm chí phán quyết của TT cũng phải dựa vào ý chí của các bên.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài bảo đảm sự kết hợp giữa hai yếu tố: thoả thuận và tài phán. Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và các quyết định, phán quyết của trọng tài có thể được Toà án công nhận và cho thi hành thông qua một thủ tục tư pháp.
Ưu điểm:
- Có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động cho các bên; tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. . (vì chỉ giải quyết 1 lần là có hiệu lực ngay, thủ tục giải quyết đơn giản). Đảm bảo bí mật và uy tín cho các nhà KD.
- Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc án, quyết định trọng tài không được công bố công khai, rộng rãi. Theo nguyên tắc này họ có thể giữ được bí quyết kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình.
- Giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình.
- Phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa án nào.
- thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt trong KD của các nhà KD
- Chất lượng giải quyết thường là cao.
Nhược điểm:
- phán quyết của TT không có tính cưỡng chế nên khó thực thi.
- Giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao.
- Việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án, quyết định của tòa án.
II. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ ÁN VÀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VN
1. Giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án
Ở VN hiện nay, việc giải quyết các TCKD tại toà án chủ yếu thuộc thẩm quyền của Toà kinh tế - 1 trong những toà chuyên trách trong hệ thống TAND của nước ta. Ở nước ta có Toà KT (TANDTC) -> Toà KT (TAND tỉnh) -> Thẩm phán KT (TAND huyện).
Phương thức giải quyết TCKD tại toà án có 1 số nội dung lưu ý sau đây:
a, Các nguyên tắc cơ bản (BL TTDS).
Khi giải quyết các TCKD = toà án phải tuân thủ những nguyên tắc về tố tụng được quy định trong Hiến pháp 1992 và trong Luật Tổ chức Toà án nhân dân, đó là nguyên tắc: Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật; Toà án xét xử công khai (trừ trường hợp do luật định); Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Toà án đảm bảo cho người tham gia tố tụng được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước toà... Bên cạnh đó, xuất phát từ đặc điểm của tranh chấp thương mại mà trong quá trình xét xử vụ án, Toà án còn phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc đảm bảo quyềntự định đoạt của đương sự.
Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ tranh chấp khi có đơn khởi kiện của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện đó.
- Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng.
Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do pháp luật quy định.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ.
- Nguyên tắc hoà giải trong tố tụng.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật.
b, Thẩm quyền giải quyết TCTM của TA.
* Thẩm quyền chung của TA.
Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự (năm 2004), Toà án có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp sau:
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có ĐKKD với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
a. Mua bán hàng hoá;
b. Cung cấp dịch vụ;
c. Phân phối;
d. đại diện, đại lý;
đ. Ký gửi;
e. Thuê, cho thuê, thuê mua;
g. Xây dựng;
h. Tư vấn, kỹ thuật;
i. Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
k. Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l. Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
m. Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
n. Bảo hiểm;
o. Thăm dò, khai thác.
Thứ hai, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Thứ ba, tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa cá thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Thứ tư, các tranh chấp khác về thương mại, thương mại mà pháp luật có quy định.
* Thẩm quyền của TA các cấp.
- Thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp về thương mại, thương mại quy đinh tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i khoản 1 Điều 29 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về thương mại thương mại quy định tại Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện.
* Thẩm quyền của TA theo lãnh thổ.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại, thương mại của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
- Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
- Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn (nếu nguyên đơn là cá nhân) hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn (nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức).
* Thẩm quyền của TA theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp thương mại, thương mại trong các trường hợp sau đây:
- Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết;
- Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết;
- Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở ViệtNamthì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;
- Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;
- Nếu các bị đơn cư trú, làm việc có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;
- Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
c, Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp KD tại Toà án.
Quá trình giải quyết các tranh chấp thương mại trước Toà án gọi là trình tự tố tụng dân sự. Trình tự này bao gồm:
- Khởi kiện và thụ lý vụ án:
Đơn khởi kiện (trong thời hiệu khởi kiện).
Điều kiện khởi kiện: Vụ việc chưa có thoả thuận trọng tài.
Nộp án phí.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì Toà án phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Toà án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.
- Hoà giải và chuẩn bị xét xử:
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được theo quy định của pháp luật. Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Toà án lập biên bản hoà giải thành. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Trong trường hợp các đương sự hoà giải không thành và vụ án không bị tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết trong thời hạn chuẩn bị xét xử thì Toà án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
- Xét xử sơ thẩm vụ án:
Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trường hợp đặc biệt thì có thể có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.
Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của các đương sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch; kiểm sát viên (Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại).
Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm bao gồm:
+ Thủ tục bắt đầu phiên toà
+ Thủ tục hỏi tại phiên toà
+ Tranh luận tại phiên toà
+ Nghị án
+ Tuyên án
Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày kết thúc phiên toà, các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện được Toà án cấp trích lục bản án.
Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày tuyên án, Toà án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cung cấp.
Bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực PL, đương sự có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị. Nếu có kháng cáo hoặc kháng nghị thì toà án sẽ xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
- Xét xử phúc thẩm vụ án:
Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Hội đồng phúc thẩm có quyền:
+ Giữ nguyên quyết định của Toà án cấp sơ thẩm
+ Sửa quyết định của Toà án cấp sơ thẩm
+ Huỷ quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án.
Quyết định phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định.
- Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật:
Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định có hai thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đó là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết định.
? Ưu nhược điểm của trình tự, thủ tục Toà án (mặc dù rất chặt chẽ)
Xem kĩ phần câu hỏi phụ
Chú ý: Thẩm quyền của TA cấp huyện: Xét xử sơ thẩm tranh chấp KD.
Thẩm quyền của TA cấp huyện: - Xét xử sơ thẩm.
- Xét xử phúc thẩm những BA, QĐ của Toà huyện chưa có hiệu lực PL.
- GĐT, Tái thẩm những BA, QĐ đã có hiệu lực của Toà huyện bị k/nghị.
Thẩm quyền của TATC: - XX phúc thẩm các BA, QĐ của Toà tỉnh chưa có hiệu lực PL.
- GĐT, Tái thẩm…… Toà tỉnh đã có hiệu lực PL.
2. GIẢI QUYẾT TCTM BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
a. Tổ chức trọng tài thương mại.
Phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, phong tục tập quán của mỗi quốc gia mà quy mô, mô hình tổ chức trọng tài ở các quốc gia trên thế giới khá đa dạng. Song trọng tài giải quyết các tranh chấp thương mại, thương mại tồn tại chủ yếu dưới hai hình thức là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực.
* Trọng tài vụ việc (TT ad-hoc)
TTVV là phương thức TT do các bên tranh chấp thoả thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và TT sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
TTVV có các đặc trưng sau:
+ TTVV chỉ được thành lập khi phát sinh TC và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong TC. (mang tính chất vụ việc hay lâm thời)
+ TTVV không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng.
+ TTVV không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
Quy tắc tố tụng để giải quyết TC do các bên TC thoả thuận xây dựng.
Lưu ý: Ưu điểm của TTVV so với TT thường trực: Có thể giải quyết nhanh chóng vụ TC và ít tốn kém (vì xét cho cùng TTVV vẫn chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các bên TC); Quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đương sự không bị giới hạn bởi danh sách TTV sẵn có như hình thức TT thường trực (bởi có thể lựa chọn bất kì TTV nào trong và ngoài danh sách TTV của bất kì TTTT nào); Các bên TC có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải quyết TC giữa các bên.
* Trọng tài thường trực.
Trọng tài thường trực là những trọng tài có hình thức tổ chức, có trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng, có quy chế tố tụng riêng và được quy định rất chặt chẽ.
Ở các nước trên thế giới, TTTT thường được tổ chức dưới những hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài (trung tâm trọng tài quốc tế Singapore, trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông); các hiệp hội trọng tài (hiệp hội trọng tài Hoa kì, hiệp hội trọng tài Nhật bản)… nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài. Ở VN, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau:
+ Là tổ chức phi Chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan NN.
Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của trọng tài viên sau khi được cơ quan NN có thẩm quyền cho phép chứ không được thành lập bởi NN. Các TTTT không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý NN (như trọng tài kinh tế NN trước đây) cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử. Hoạt động của trọng tài không được cấp kinh phí hoạt động từ NSNN. Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực NN mà nhân danh người thứ 3 độc lập ra phán quyết.
Mặc dù vậy, trung tâm trọng tài vẫn phải đặt dưới sự quản lý của NN. NN quản lý các TTTT thông qua việc ban hành các văn bản PL tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các TTTT. Ngoài ra việc quản lý NN đối với các TTTT còn thông qua hoạt động quản lý của hệ thống các cơ quan NN có thẩm quyền trong việc cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các TTTT…
Trong quá trình hoạt động, các TTTT cũng cần sự hỗ trợ của NN trên nhiều phương diện. Sự hỗ trợ của NN đối với hoạt động của TTTT được thể hiện rõ nét như: hỗ trợ chỉ định, thay đổi trọng tài viên; hỗ trợ trong việc xem xét lại quyết định của hội đồng trọng tài; hỗ trợ trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; hỗ trợ trong việc huỷ hoặc không huỷ quyết định trọng tài; hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài….
+ Các TTTT có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.
Giữa các TTTT không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới như hệ thống các cơ quan NN. Sự khác biệt này về tổ chức của TTTM (cơ quan tài phán tư) so với hệ thống tổ chức của Toà án (cơ quan tài phán công) dẫn đến tính đặc thù của tố tụng trọng tài trong việc áp dụng nguyên tắc xét xử 1 lần.
+ Tổ chức, quản lý của các TTTT đơn giản, gọn nhẹ.
Bao gồm ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm.
Ban điều hành bao gồm Chủ tịch, 1 hoặc các phó chủ tịch và có thể có tổng thư ký TTTT do Chủ tịch TTTT cử.
Ngoài ra còn có các trọng tài viên có tên trong danh sách trọng tài viên của TTTT. Các TTV tham gia vào việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
+ Mỗi TTTT tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng.
Bản quy tắc trọng tài UNCITRAL do Uỷ ban về luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc hay Bản quy tắc trọng tài của Phòng thương mại quốc tế (ICC) và bản quy tắc tố tụng của 1 số TTTT quốc tế có uy tín (như London, Brúcsell…) thường được coi là cơ sở, là khuôn mẫu cho việc xây dựng quy tắc tố tụng của các TTTT.
+ Hoạt động xét xử của TTTT được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm.
(đây là điểm khác so với TT vụ việc)
* Thành lập trung tâm trọng tài thương mại.
Điều kiện thành lập.
Phải thoả mãn 3 ĐK sau:
- Chỉ được thành lập trung tâm trọng tài tại 1 số địa phương theo quy định của Chính phủ.
NĐ 25/2004/NĐ-CP 15/1/2004 mới chỉ cho phép thành lập các TTTT tại 1 số thành phố lớn có điều kiện KT – XH phát triển như HN, Đà nẵng, TPHCM. Việc thành lập các TTTT tại các địa phương khác phải căn cứ vào tình hình KT – XH của địa phương.
Lưu ý: hiện nay cả nước có 5 TTTT gồm: 2 TTTT tại HN; 1 TTTT tại TPHCM; 1 TTTT tại Bắc Giang và 1 TTTT tại Cần Thơ.
- Phải có ít nhất 5 TTV là sáng lập viên.
TTV phải là công dân VN, có NLHVDS đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan, có bằng Đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên.
Những người sau đây không được làm TTV: người đang bị quản chế HC, đang bị truy chứu TNHS hoặc đã bị kết án mà chưa đươc xoá án tích. Thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, công chức đang công tác tại TAND, CQ điều tra, CQ thi hành án.
Lưu ý: TTV không nhất thiết phải có bằng ĐH Luật vì đội ngũ TTV không chỉ là giới luật gia mà còn bao gồm nhiều chuyên gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó các thương nhân cũng chiếm vị trí quan trọng. Tư cách TTV của người đủ ĐK làm TTV không phải thông qua thi tuyển TTV mà mặc nhiên được xác định ở thời điểm họ được các bên chọn hoặc TTTT (hoặc Toà án) có thẩm quyền chỉ định họ để giải quyết vụ TC.
- Được Hội luật gia VN giới thiệu.
Phải có văn bản giới thiệu của Hội luật gia VN thì TTTT mới có thể thành lập.
Thủ tục thành lập.
*Xin phép thành lập.
Các sáng lập viên phải gửi 2 bộ hồ sơ đề nghị thành lập TTTT đến Bộ tư pháp. Hồ sơ gồm:
- Đơn xin phép thành lập TTTT.
- Họ tên, địa chỉ, nghề nghiệp của các sáng lập viên.
- Điều lệ của TTTT.
- Văn bản giới thiệu của Hội luật gia VN.
Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ trưởng Bộ tư pháp cấp giấy phép thành lập và phê chuẩn điều lệ của TTTT. Nếu từ chối thì BTP phải trả lời = VB và nêu rõ lý do.
*Đăng ký hoạt động.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được giấy phép thành lập, TTTT đăng ký hoạt động với Sở tư pháp nơi TTTT đặt trụ sở. STP có trách nhiệm cấp giấy đăng ký hoạt động cho TTTT trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Kể từ thời điểm được cấp giấy đăng ký hoạt động, TTTT có tư cách pháp nhân và được phép hoạt động.
* Chấm dứt hoạt động của TTTTTM.
(tự nghiên cứu trang 463 tập 2)
b. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp KD bằng TT.
* Nguyên tắc thoả thuận trọng tài.
Theo nguyên tắc này thì tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận trọng tài.
Điều 5 Pháp lệnh Trọng tài thương mại quy định: “Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu”.
Như vậy, nếu không có thoả thuận giải quyết = phương thức trọng tài thì sẽ không có tố tụng trọng tài. Điều này khác hẳn so với giải quyết TC tại toà án vì khi TC phat ssinh, bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm có quyền đệ đơn yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết mà khồn cần có sự thoả thuận trước.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng mặc dù có thoả thuận trong tài nhưng thoả thuận trọng tài bị vô hiệu thì TC cũng không được giải quyết. (về thoả thuận TT vô hiệu xem K3Đ2 PLTTTM)
* Nguyên tắc Trọng tài viên độc lập, khách quan, vô tư, phải căn cứ vào pháp luật và tôn trọng thoả thuận của các bên.
Nguyên tắc này nhằm bảo đảm phán quyết của trọng tài được chính xác, công bằng, phù hợp với pháp luật và bản chất của vụ tranh chấp, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các bên. Nguyên tắc Trọng tài viên độc lập, khách quan, vô tư, phải căn cứ vào pháp luật và tôn trọng thoả thuận của các bên đòi hỏi Trọng tài viên phải từ chối giải quyết vụ việc hoặc có thể bị thay đổi khi Trọng tài viên là người có quan hệ thân thích, đại diện của một bên, có lợi ích liên quan đến vụ tranh chấp hoặc có căn cứ rõ ràng không vô tư, khách quan khi làm nhiệm vụ.
Trọng tài viên phải tôn trọng sự thoả thuận của các bên, bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên.
* Nguyên tắc giải quyết 1 lần.
Với tư cách là 1 tổ chức phi CP, TTTM không có cơ quan cấp trên nên phán quyết của TT có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của Toà án và cũng không có thủ tục GĐT, TT. Tố tụng trọng tài chỉ có 1 trình tự giải quyết, tức là tranh chấp KD chỉ được giải quyết 1 lần tại TT.
c. Thẩm quyền của TTTM. (Đọc tài liệu). (trang 479 t2)
Ở các quốc gia khác nhau, pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài có những điểm không đồng nhất với nhau. Song trong điều kiện kinh tế hội nhập hiện nay, các quy định về vấn đề này đã có nhiều điểm tuơng đồng. Về nguyên tắc, Trọng tài phi Chính phủ chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi có thoả thuận lựa chọn hợp pháp của các bên tranh chấp. Thẩm quyền của trọng tài không bị hạn chế về lãnh thổ.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại ngày 25/2/3003 quy định: Trọng tài thương mại giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thoả thuận của các bên.
Hoạt động thương mạilà việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức thương mại bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật[1].
d. Trình tự, thủ tục giải quyết.
* Thoả thuận trọng tài
Thoả thuận trọng tài là sự thống nhất ý chí giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh. Thoả thuận trọng tài có thể được xác lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, thể hiện rõ ý chí của các bên đồng ý giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài. Thoả thuận trọng tài có thể được lập thành một văn bản riêng hoặc là một điều khoản trong hợp đồng và thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng chính (có nghĩa là hiệu lực của thoả thuận trọng tài không phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính).
Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản. Thoả thuận trọng tài có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc là một thỏa thuận riêng[2].
Trọng tài chỉ giải quyết tranh chấp khi thoả thuận trọng tài có hiệu lực. Pháp luật thường quy định trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu. Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định: Thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong những trường hợp sau:
- Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh Trọng tài thương mại;
- Người ký thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật;
- Một bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Thoả thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung;
- Thoả thuận trọng tài không được lập theo quy định tại Điều 9 của Pháp lệnh Trọng tài thương mại;
- Bên ký kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu.
* Khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài
Khởi kiện là việc một bên tranh chấp (nguyên đơn) viết đơn kiện yêu cầu trọng tài giải quyết vụ tranh chấp.
Điều 20 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định:
- Đơn kiện gửi Trung tâm Trọng tài gồm có các nội dung chủ yếu sau: Ngày, tháng, năm viết đơn; Tên và địa chỉ của các bên; Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp; Các yêu cầu của nguyên đơn; Trị giá tài sản mà nguyên đơn yêu cầu; Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài mà nguyên đơn chọn.
- Để giải quyết vụ tranh chấp tại Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi cho bị đơn.
Kèm theo đơn kiện, nguyên đơn phải gửi bản chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu, chứng cứ. Bản sao phải có chứng thực hợp lệ.
Tố tụng trọng tài bắt đầu khi Trung tâm Trọng tài nhận được đơn kiện của nguyên đơn hoặc từ khi bị đơn nhận được đơn kiện của nguyên đơn, nếu vụ tranh chấp được giải quyết tại Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập.
Thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài[3]:
- Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật có quy định thời hiệu khởi kiện thì thực hiện theo quy định đó của pháp luật.
- Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài là hai năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp, trừ trường hợp bất khả kháng. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày xảy ra sự kiện cho đến khi không còn sự kiện bất khả kháng.
Khi nhận được thông báo của Trung tâm trọng tài hoặc đơn kiện của nguyên đơn, bị đơn phải gửi cho Trung tâm trọng tài hoặc nguyên đơn bản tự bảo vệ phản bác một phần hay toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Bị đơn có thể kiện lại nguyên đơn về các vấn đề liên quan đến vụ việc.
* Thành lập Hội đồng Trọng tài tại Trung tâm Trọng tài hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên tự thành lập
Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp được thành lập gồm ba Trọng tài viên, trong đó một Trọng tài viên là Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Theo sự thoả thuận của các bên, vụ tranh chấp có thể được giải quyết bởi một Trọng tài viên duy nhất, trọng tài viên duy nhất này làm nhiệm vụ như một Hội đồng trọng tài.
Điều 25 và Điều 26 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2005 quy định về việc chọn trọng tài viên và thành lập Hội đồng trọng tài. Theo đó, nếu vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài thì các trọng tài viên được lựa chọn phải là người có tên trong danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài đó và có thể được thành lập do sự trợ giúp của Chủ tịch Trung tâm trọng tài. Nếu vụ tranh chấp được giải quyết thông qua Hội đồng trọng tài do các bên thành lập, trọng tài viên có thể là người trong danh sách hoặc ngoài danh sách của các trung tâm trọng tài ở Việt Nam và Hội đồng trọng tài có thể được thành lập do sự trợ giúp của Tòa án nhân dân.
* Phiên họp giải quyết tranh chấp
Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2005, phiên họp giải quyết tranh chấp được tổ chức với sự tham gia của Hội đồng trọng tài và đại diện các bên tranh chấp, có ghi biên bản. Thời gian, địa điểm tổ chức phiên họp do Chủ tịch Hội đồng trọng tài quyết định nếu các bên không có thoả thuận khác. Phiên họp được tổ chức không công khai, các bên tranh chấp có thể mời nhân chứng, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Theo yêu cầu của các bên tranh chấp, Hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào hồ sơ để giải quyết vụ tranh chấp mà không cần sự có mặt của các bên. Trường hợp nguyên đơn vắng mặt không có lý do chính đáng thì được coi là rút đơn kiện. Bị đơn vắng mặt không có lý do chính đáng thì Hội đồng trọng tài giải quyết vắng mặt bị đơn.
* Quyết định trọng tài và thi hành quyết định trọng tài
Kết quả giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được thể hiện dưới hình thức pháp lý là một Quyết định trọng tài. Quyết định trọng tài là quyết định do Hội đồng trọng tài ban hành nhằm giải quyết chung thẩm các vấn đề được đưa ra Hội đồng trọng tài giải quyết. Hội đồng trọng tài có thể quyết định tất cả các vấn đề trong một Quyết định trọng tài hoặc ban hành một hay nhiều Quyết định từng phần hoặc tạm thời trước khi ban hành Quyết định cuối cùng.
Ở Việt Nam, Quyết định trọng tài, công bố Quyết định trọng tài, sửa chữa Quyết định trọng tài được quy định từ Điều 44 đến Điều 47 Pháp lệnh Trọng tài thương mại.
Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có thể tự hoà giải. Trong trường hợp hoà giải thành thì theo yêu cầu của các bên, Hội đồng Trọng tài sẽ đình chỉ tố tụng. Các bên có thể yêu cầu Hội đồng Trọng tài tiến hành hoà giải. Trong trường hợp hoà giải thành thì các bên có thể yêu cầu Hội đồng Trọng tài lập biên bản hoà giải thành và ra Quyết định công nhận hoà giải thành. Biên bản hoà giải thành phải được các bên và các Trọng tài viên ký. Quyết định công nhận hoà giải thành của Hội đồng Trọng tài là chung thẩm và các bên phải thi hành như Quyết định giải quyết vụ tranh chấp của Hội đồng trọng tài.
Quyết định trọng tài có hiệu lực phải được các bên tự giác thi hành. Nếu bên phải thi hành Quyết định mà không tự giác thi hành thì bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài. Trong trường hợp một trong các bên có yêu cầu Toà án huỷ quyết định trọng tài thì quyết định trọng tài được thi hành kể từ ngày quyết định của Toà án không huỷ quyết định trọng tài có hiệu lực. Trình tự, thủ tục và thời hạn thi hành quyết định trọng tài theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
(Chú ý: Phụ thuộc vào loại trọng tài mà các bên chọn. Nếu chọn trọng tài ad-hoc, bên bị vi phạm gửi đơn kiện thẳng sang phía bên kia (bên vi phạm). Bên vi phạm có quyền lựa chọn trọng tài viên và bên bị vi phạm cũng vậy. Sau đó cả hai bên cùng chọn thêm trọng tài thứ 3. 3 trọng tài viên giải quyết xong thì tự động giải tán. Nếu chọn trọng tài thường trực thì xác định rõ tên Trung tâm TT. Số lượng TT viên của một trung tâm tối thiểu là 5).
Ưu và nhược điểm của việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài so với tòa án (xem thêm phần câu hỏi phụ)
Thực tế cho thấy, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có những ưu điểm vượt trội so với giải quyết tranh chấp tại toà án. Những ưu điểm đó là:
- Đề cao ý chỉ tự do thoả thuận của các bên tranh chấp;
- Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại đơn giản, không có nhiều công đoạn tố tụng, nhanh, gọn, linh hoạt đáp ứng đòi hỏi hoạt động thương mại của các bên có liên quan;
- Nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó, có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh;
- Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa chọn trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố tụng;
- Trọng tài viên - người chủ trì phân xử tranh chấp, có chuyên môn sâu và kinh nghiệm giải quyết đối với lĩnh vực của vụ tranh chấp;
- Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quyết định trọng tài là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của toà án;
- Tố tụng trọng tài không bị ràng buộc về mặt lãnh thổ, nghĩa là các bên muốn chọn trung tâm trọng tài nào cũng được, bất kể địa chỉ của họ ở đâu;
- Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi hành, nên bên đương sự nào không chấp nhận phán quyết của trọng tài thì có thể kiện ra toà kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ án;
- Quyết định giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài phải được các bên thi hành nhanh chóng, trong thời hạn 30 ngày. Quá hạn đó, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh, nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành quyết định trọng tài;
- Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện;
- Tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ chức phi Chính phủ, nhưng được hỗ trợ, đảm bảo về pháp lý của toà án trên các mặt sau: Xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; công nhận và thi hành quyết định trọng tài.
- Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích của một bên bị xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm: Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ; kê biên tài sản tranh chấp để ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài khoản tại ngân hàng.
- Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại các cơ quan trọng tài rộng hơn, tự do hơn, mang tính xã hội hơn, tạo điều kiện cho các bên làm sáng tỏ những vấn đề nhạt cảm. Trong khi đó, toà án áp dụng các chứng cứ để tố tụng bị ràng buộc hơn về mặt pháp lý, làm cho các bên tham gia tố tụng không có cơ hội làm sáng tỏ hết được nhiều vấn đề khúc mắc, không thể hiện trên các chứng cứ “pháp lý”.
Tuy nhiên, tranh chấp kinh tế qua con đường trọng tài cũng có những nhược điểm so với tranh chấp tại toà án kinh tế. Đó là:
- Cơ quan trọng tài kinh tế không có quyền ra lệnh kê biên khẩn cấp tạm thời đối với tài sản là đối tượng tranh chấp. Việc kê biên chỉ được thực hiện thông qua toà án trên cơ sở yêu cầu của trọng tài. Quá trình kê biên theo trình tự này có thể kéo dài, không đảm bảo phong tỏa tài sản kịp thời để phòng ngừa việc tẩu tán tài sản;
- Phán quyết của trọng tài, tuy là chung thẩm, nhưng bên bị đơn có thể yêu cầu toà án xem xét lại. Như vậy, phán quyết của trọng tài nhiều lúc làm cho bên “thắng kiện” không yên tâm.
Thực trạng về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại và nguyên nhân
Nếu so sánh giữa ưu và nhược điểm thì việc giải quyết tranh chấp kinh tế qua trọng tài là con đường tốt hơn đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến nay, số lượng giải quyết tranh chấp qua trọng tài kinh tế hết sức nhỏ. Tại thành phố Hà Nội, tranh chấp kinh tế bằng hình thức trọng tài năm 2005, chỉ có 13 vụ, năm 2004, khoảng 10 vụ. ở TP Hồ Chí Minh - nơi có nền kinh tế sôi động, số lượng doanh nghiệp chiếm phần lớn so với cả nước, tuy nhiên, số vụ đưa ra giải quyết bằng trọng tài chiếm một tỷ lệ nhỏ so với số lượng tranh chấp xảy ra trong đời sống thương mại ở nước ta. Theo chúng tôi, có ba nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Ý thức về pháp luật của các doanh nghiệp và việc kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt làm cho các chủ thể trong quan hệ đều vi phạm hợp đồng. Trong một giao dịch, bên này vi phạm việc này, bên kia sai việc khác; hoặc hôm nay, bên này sai, thì ngày mai, bên kia sai; người ta tìm cách thương thuyết “tay đôi” để giải quyết ổn thoả, nhằm giữ quan hệ làm ăn lâu dài. Vì lẽ đó, việc đưa nhau ra xử lý bằng trọng tài hoặc toà án các bên đều không muốn. Theo số liệu của Phòng kinh tế thương mại Việt Nam, giải quyết tranh chấp kinh tế qua toà án và trọng tài chỉ chiếm khoảng 90% số lượng các vụ tranh chấp trong thực tế.
- Nhiều doanh nghiệp, cá nhân không am hiểu những vấn đề liên quan đến tố tụng thông qua con đường trọng tài thương mại. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, ở nước ta có trọng tài kinh tế nhà nước - cơ quan này quản lý hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế nhà nước. Nhưng việc đó đã bãi bỏ lâu. Từ đó, các doanh nghiệp và nhân dân chỉ quen tranh chấp bằng con đường tố tụng tại toà kinh tế. Nghiên cứu cho thấy, hầu hết các hợp đồng kinh tế chỉ có quy định hai biện pháp tranh chấp là tự thương lượng giải quyết, nếu không giải quyết được thì đưa ra giải quyết tại toà án có thẩm quyền. Trong một ngàn hợp đồng, chỉ có một vài hợp đồng chế định việc tranh chấp tại trọng tài kinh tế. Như vậy, phương pháp tự xử và xử lý tranh chấp tại toà đã ăn sâu vào tiềm thức của các doanh nghiệp.
- Trọng tài kinh tế là tổ chức phi Chính phủ. Chúng ta sống trong hệ thống chính trị mà người dân nghĩ rằng chỉ có các quyết định của Đảng và Nhà nước mới có hiệu lực và tính khả thi. Với chiều dài của lịch sử, với thực tiễn cuộc sống đã làm cho dân ta nhận thức một cách không đầy đủ về xã hội dân sự. Đây là nhận thức về bề nổi, nhưng lại ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động của tổ chức phi Chính phủ. Thực trạng này, phần lớn cũng do các yếu tố pháp lý gây nên. Pháp lệnh về trọng tài vẫn còn có những hạn chế, làm giảm hiệu lực hoạt động của các trung tâm trọng tài. Một phán quyết của trọng tài dù có chính xác đến đâu cũng cần phải có một quyết định công nhận và cho thi hành của Toà án hoặc quyết định của cơ quan thi hành án. Quy định này, làm tăng thêm tâm lý e ngại của các doanh nghiệp khi sử dụng trọng tài để phân xử tranh chấp.
- Tồn tại trong bản thân của các trung tâm trọng tài. Thực tiễn là như vậy, nhưng mạng lưới trọng tài của chúng ta lại quá thưa thớt. Đến thời điểm hiện nay, chúng ta chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Hoạt động của các trung tâm trọng tài chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của các nhà sáng lập, nguồn thu từ các vụ tranh chấp. Nhưng các vụ tranh chấp quá ít ỏi, nguồn thu quá hạn hẹp, hạn chế khả năng phát triển công nghệ, mạng lưới, tuyên truyền, đào tạo…
[1]Kho¶n 3 §iÒu 2 Ph¸p lÖnh Träng tµi th¬ng m¹i n¨m 2003.
[2]§iÒu 9 Ph¸p lÖnh Träng tµi th¬ng m¹i n¨m 2003.
[3]§iÒu 21 Ph¸p lÖnh Träng tµi th¬ng m¹i n¨m 2003
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top