Phần 5


CHƯƠNG 8. HỆ THẦN KINH

I. Đại cương về hệ thần kinh

Hệ thần kinh của ngựa: Màu vàng: trung ương. Màu tím: Ngoại biên.

- Đảm bảo mối quan hệ thống nhất giữa cơ thể với môi trường và giữa các cơ quan trong cơ thể, kinh thực hiện chức năng thông qua tính cảm ứng.

- Dựa vào cơ chế hoạt động, hệ thần kinh được phân thành: thần kinh động vật và thần kinh thực vật. Thần kinh động vật điều khiển hoạt động của cơ vân và hoạt động theo ý muốn. Thần kinh thực vật điều khiển hoạt động của các cơ trơn, cơ dưới da, hệ thống mạch quản, các tuyến.

- Về phương diện giải phẫu hệ thần kinh được phân thành: Thần kinh trung ương gồm não và tuỷ sống; Thần kinh ngoại vi gồm các dây thần kinh, các hạch thần kinh. Sự phân chia chỉ là tương đối. Hoạt động của hệ thần kinh chịu sự điều khiển của vỏ đại não.

1.Trung ương thần kinh

1.1. Màng não tuỷ:

Là những lớp màng có cấu tạo dạng tổ chức liên kết bao bọc não và tuỷ

sống. Màng não tuỷ gồm 3 lớp:

- Màng cứng

- Màng nhện

- Màng nuôi

1.1.1. Màng tuỷ sống :

(1) Màng cứng là lớp dày nhất, dai và chắc bao bọc theo chiều dọc của tuỷ sống. Giữa màng cứng và mặt trong ống sống còn một khoảng gọi là khoang trên cứng chứa các dây thần kinh tuỷ, mạch quản, tổ chức liên kết, và mỡ. Khi gây tê tuỷ sống, thuốc tê được tiêm vào khoang này..

(2) Màng nhện: Nằm phía trong màng cứng. Cấu tạo bằng tổ chức liên kết sợi xốp, trên màng có nhiều mạch quản, thần kinh. Mặt dưới có các chồi mạch. Giữa màng nhện và màng cứng lá xoang dưới cứng có chứa một lượng rất nhỏ thanh dịch

(3) Màng nuôi: Là lớp màng trong cùng và phủ lên bề mặt tuỷ sống. Giữa màng nhện và màng nuôi có xoang dưới nhện. Trong xoang chứa các chồi mạch của màng nhện, các mạch quản và đặc biệt được lấp đầy bởi dịch não tuỷ.

1.1.2. Màng não

(1) Màng cứng: Lót trong hộp sọ và phủ mặt ngoài não, màng này dai chắc và dính sát vào mặt trong của hộp sọ. Mạt ngoài có những tế bào dẹp và giáu mạch máu; mặt trong nhẵn. Trong màng cứng có các xoang là nơi tách màng cứng thành hai lá, đây là nơi thu hồi máu tĩnh mạch. Màng cứng biệt hoá thành các cấu trúc sau:

-Liềm não: hình lưỡi liềm, ngăn cách hai bán cầu đại não.

-Lều não: ngăn cách bán cầu đại não và tiểu não.

-Gấp nếp tuyến yên hay vòm hố yên: là phần gấp nếp nằm ở mặt dưới não, bao bọc lấy tuyến yên, củ vú à củ tro.

(2) Màng nhện: Nằm trong màng cứng, chứa các mao mạch vào nuôi não và là nơi sinh ra dịch não tuỷ. Giữa màng cứng và màng nhện có xoang dưới cứng

(3) Màng nuôi: Là lớp màng trong cùng len lỏi giữa các hồi não. Cấu tạo bằng mô liên kết sợi xốp cùng các yếu tố đàn hồi. Mạch máu trên màng nuôi toả thành hệ thống mạng lưới dày đặc đảm bảo dinh dưỡng cho não. Các tĩnh mạch thu hồi máu đổ về hệ thống xoang của màg cứng. Giữa màng nhện và màng nuôi có xoang dưới nhện chứa dịch não tuỷ. Xoang dưới nhện thông với xoang dưới nhện ở tuỷ sống và ống giữa tuỷ sống qua hai lỗ Magiendier và Luchka ở chỗ tiếp giáp giữa hành não và tiểu não.

1.2. Tuỷ sống

1.2.1. Vị trí

Nằm trong ống sống, kéo dài từ lỗ chẩm tiếp giáp với hành tuỷ đến xương khum và được màng não tuỷ bao bọc.

1.2.2. Hình thái

- Có dạng hình trụ. Hai bên tuỷ sống phát ra các đôi dây thần kinh.

- Ngang với cánh tay có phình cánh tay phát ra các dây thần kinh tạo thành đám rối cánh tay (gồm ba đôi day cổ cuối và hai đôi dây thần kinh lưng đầu)..

- Phần hông có phình hông phát ra các đôi dây thần kinh tạo thành đám rối hông khum (3 đôi hông cuối và hai dây khum đầu).

- Phần cuối có từ 8-12 đôi dây thần kinh tạo thành chùm gọi là thần kinh đuôi ngựa.

- Tuỷ sống có hai mặt: Mặt trên (mặt lưng) có rãnh nông là rãnh lưng: sulcus mediana superior. Mặt dưới (mặt bụng) có rãnh bụng, sâu hơn. Hai bên rãnh lưng có rãnh bên lưng là nơi đi vào của các dây thần kinh cảm giác. Hai bên rãnh bụng rãnh bên bụng là nơi thoát ra của các dây thần kinh vận động. Nhánh cảm giác và vận động hợp lại tạo thành dây thần kinh tuỷ chui ra khỏi ống sống qua lỗ ráp (do mẻ khớp sau của đốt sống phía trước và mẻ khớp trước của đốt sống tiếp theo tạo thành).

1.2.3. Cấu tạo

Phía ngoài là chất trắng (substantia alba)

Phía trong là chất xám ((substantia grisen)

(1) Chất xám (grisen): Có hình chữ H. Phần giữa chũ H là mép xám. Phần bên chữ H là sừng: cornua; có 4 sừng. Hai sừng lưng phía trên : commissure dorsale chứa thân các tế bào thần kinh cảm giác; Hai sừng bụng phía dưới chứa thân các tế bào thần kinh vận động. Sợi trục của các tế bào tạo thành rễ cảm giác và rễ vận động. Hai sừng bên: chứa các tế bào thần kinh thực vật. Giữa chữ H là lỗ giữa tuỷ sống.

(2) Chất trắng: Bao phía ngoài chất xám và chia làm 3 cột: cột lưng, cột bụng và cột bên chứa sợi trục của các tế bào thần kinh tạo thành các bó truyền lên não và các bó truyền từ não xuống.

1.3. Não:

1.3.1.Hành não:

Vị trí

Là phần sau cùng của não bộ, nối não với tuỷ sống, sau cầu não và trước tuỷ sống.

Hinh thái

Hành não giống như khối hình thang lộn ngược có hai mặt và hai đầu: - Mặt dưới: chính giữa có rãnh giữa trước từ tuỷ sống kéo lên. Hai bên là tháp trước. Vuông góc với tháp trước là thể thang. Ngoài hai tháp trước là hai rãnh bên trước. Ngoài hai rãnh bên trước là hai rãnh bên sau. Chỗ vuông góc giữa tháp trước và thể thang có đôi dây TK số VI đi ra. Trên thể thang có đôi dây thần kinh số VII. Đôi dây thần kinh số VIII đi vào ở đầu ngoài thể thang. Đôi dây số IX, X, XI ở rãnh bên sau. Đôi dây XII đi ra ở rãnh bên trước.

- Mặt trên: Có lõm hình tam giác gọi là lõm ngòi bút. Hai bên lõm ngòi bút có tháp sau. Ngoài là thể thừng. Đỉnh lõm có chốt verou bằng chất trắng có tác dụng đóng buồng não IV với lỗ giữa tuỷ sống). Lõm ngòi bút cùng với mặt trên cầu não tạo thành đáy cho buồng não IV. Hai đầu hành não phía trước kéo lên tạo thành đôi cuống tiểu não sau.

Cấu tạo: Hành não có cấu tạo chất trắng ở ngoài, chất xám ở trong

- Chât xám có các nhân thần kinh: nhân trám ở phần bụng, nhân chêm, nhân mảnh ở phần lưng, nhân của các đôi dây thần kinh IX, X, XI, XII.

Chức năng: Hành não là trung khu của tiêu hoá, hô hấp, tuần hoàn, bài tiết, bảo vệ cơ thể. Chất trắng: Nơi trung gian của các bó sợi thần kinh từ não bộ xuống tuỷ sống và ngược lại.

1.3.2. Hậu não: Gồm cầu não và tiểu não

1.3.2.1. Cầu não:

Vị trí: Nằm trước hành não, sau cuống não, dưới tiểu não. Cầu não ngăn cách với hành não bởi rãnh cầu hành.

Hình thái: Giống như một vòng nhẫn có hai mặt và hai đầu: Mặt dưới cong lồi, có rãnh dọc ở chính giữa làm lối đi cho động mạch nền não. Hai đầu ngaòi mặt dưới là nơi đi ra của dây thần kinh tam thoa (TK số V) Mặt trên lõm, cùng với lõm ngòi bút tạo thành đáy của buồng não IV. Hai đầu kéo lên trên làm thành cuống tiểu não giữa.

Cấu tạo và chức năng: Chất xám ở trên và chất trắng ở dưới. Chất xám có các nhân thần kinh V, VI, VII, VIII và IX. Cầu não còn có trung tâm ngủ và trung tâm hô hấp. Chất trắng: chứa các bó sợi từ tuỷ sống đi lên não hoặc từ não đi xuống tuỷ sống.

1.3.2.1. Tiểu não:

Vị trí: Nằm trên hành não, cầu não và cuống não, sau hai bán cầu đại não.

Hình thái: Hình bán cầu

- Mặt trên: Có hai rãnh dọc chạy từ trước ra sau chia tiểu não thành ba thuỳ (một thuỳ giữa và hai thuỳ bên hay hai bán cầu tiểu não). Phía ngoài hai bán cầu có hai thuỳ phế vị (nhỏ hơn). Bề mặt có những đường nhăn vắt ngang gọi là các hồi tiểu não (gyri).

- Mặt dưới: hai đầu của thuỳ giữa gập lại tạo thành đỉnh buồng não IV. Mỗi bên của mặt dưới tiếp nhận 3 cuống tiểu não.

- Hai bên đầu trước của thuỳ giữa có hai lá chất trắng là van Vieussens để dịch não tuỷ từ buồng não III qua cống Sylvius xuống buồng não IV.

Cấu tạo, chức năng:

- Chât trắng ở phía trong có một phiến uốn cong từ đó phát ra 5-7 nhánh hình cành cây. Chứa các sợi thần kinh liên hệ giữa các thuỳ của tiểu não, liên hệ tiểu não với tuỷ sống và tiểu não với các phần khác của não bộ.

- Chất xám: Bao bọc bên ngaòi các nhánh chất trắng và tạo thành các nhân xám nằm xen kẽ với các phiến chất trắng:

- Chức năng: Tiểu não là trung khu thăng bằng và thính giác.

1.3.3. Trung não

1.3.3.1 Cuống não

Vị trí: Nằm ở mặt bụng của não, trước cầu não, sau tuyến yên và bắt chéo thị giác, dưới củ não sinh tư. Là phần có khối lượng lớn nhất của não

Hình thái: Gồm hai mặt và hai đầu

- Mặt dưới: chính giữa có rãnh liên, hai bên là quảng lũng sau (là hõm châm lỗ do có nhiều mạch quản di qua). Phần dưới quảng lũng sau có đôi dây thần kinh số III đi ra.

- Mặt trên hơi lõm có hai cuống não áp lưng vào nhau ở giữa tạo thành cống Sylvius thông buồng não III với buồng não IV.

- Hai đầu: kéo lên trên về sau tạo thành cuống tiểu não trước. Cấu tạo, chức năng: Cuống não chứa nhân xám là nơi phát ra các dây thần kinh III, IV, nhân đỏ, nhân liên cuống, liềm đen giữ độ căng của cơ. Chất trắng chứa các bó thần kinh đi lên não và từ não xuống tuỷ sống.

1.3.3.2. Củ não sinh tư:

Vị trí: Gồm 4 củ ở mặt trên cuống não, bị bán cầu đại não che phủ.

Hình thái: Bốn củ lồi xếp thành hai hàng đối xứng. Hai củ trước to và trắng hơn là trung khu thị giác. Phía sau là nơi đi ra của dây thần kinh số IV. Hai củ não sau nhỏ hơn là trung khu thính giác. Mỗi củ nối với thể gối của đồi thị bởi một cánh tay liên kết. Cấu tạo: Mỗi củ có chất xám ở trong, chất trắng ở ngoài.

1.4. Gian não: Bao gồm đồi thị, cơ quan trên đồi và cơ quan dưới đồi

1.4.1. Đồi thị: thalamus

Vị trí: Nằm trên cuống não, sau thể vân, dưới tam giác não.

Hình thái: Là hai khối hình trứng khá lớn, phía trước thuộc hình củ, phía sau rộng ra gọi là thể gối. Đồi thị bao gồm một đôi nối với nhau bởi cầu gian thị. Hai mặt trong của hai khối áp vào nhau tạo thành buông não III có dạng khe hẹp hình chữ C.

Câú tạo: Trong đồi thị có một số nhân chất xám ngăn cách nhau bằng bằng các giải chất trắng

Chức năng: Đồi thị là trung khu của nhiều loại cảm giác đặc biệt là trung khu thị giác dưới vỏ não.

* Buồng não III: Có đỉnh dưới là trục tuyến yên, hai thành bên là đồi thị. Buồng não III thông với hai buống não I và II qua lỗ thông chung (lỗ monro) và thông với tuyến yên qua trục tuyến yên nên hormon tuyến yên được đổ vào buống não phía sau buống não III thông với buồng não IV qua cống sylvius. Vùng dưới đồi có các tế bào keo sản xuất ra các hormon điều khiển sự hoạt động của tuyến yên. Đồi thị còn là nơi tiếp nhận các bó thần kinh từ tuỷ sống đi lên và từ đồi thị đi xuống tuỷ sống.

1.4.1. 2.Các cơ quan trên và dưới đồi thị:

Trên đồi thị có Tuyến tùng (còn gọi là mấu não trên) nằm lọt giữa hai củ não sinh tư trước (xem phần các tuyến nội tiết). Dưới đồi có củ tro, củ vú và tuyến yên.

- Củ vú: gồm một đôi ở truớc cuống não. Mỗi thể vú đều có các nhân xám

- Củ tro hay củ xám: dưới củ vú, sau bắt chéo thị giác chứa các nhân xám thực vật có chức năng điều hoà nhiệt, điều hoà trao đổi chất.

- Tuyến yên (xem phần các tuyến nội tiết).

1.5. Cùng não: Gồm bán cầu đại não, cơ quan liên bán cầu, thể vân, lớp vỏ đại não

1.5.1. Hai bán cấu đại não

Vị trí: là hai nửa khối cầu nằm bao phủ lên phần trung não và gian não, ngăn cách nhau bởi rãnh chữ thập.

Hình thái: Bán cầu đại não gồm mặt trên, mặt giữa và mặt dưới.

- Mặt trên: có các rãnh Rollando , rãnh Sylvius, rãnh đỉnh chẩm chia thành các thuỳ: thuỳ trán, thuỳ đỉnh: thuỳ thái dương, thuỳ chẩm. Bề mặt có các gấp nếp gọi là hồi não.

- Mặt dưới: Phía trước có thuỳ khứu giác Cạnh ngoài hơi lõm gọi là thung lũng Sylvius. Sau là hai phần nổi lồi lên gọi là hồi hải mã

1.5.2. Cơ quan liên bán cầu: Nối hai bán cầu đại não với nhau bao gồm thể chai, tam giác não, vách trong suốt, mép trắng trước và mép xám.

Thể chai: là phiến chất trắng cong lối, hai đầu hơi gập lại nằm bên dưới lớp chất xám vỏ đại não nối hai bán cầu đại não với nhau.

- Mặt dưới thể trai là đỉnh của buồng não bên, chính giữa là chỗ bám của vách trong suốt.

- Đầu trước bẻ cụp xuống gọi là gối thể chai.

- Hai cạnh bên nối với chất trắng đại não.

Tam giác não: Hình tam giác cân nằm dưới thể trai, trên hai đồi thị, sau và phía trong hai thể vân. Phía trước cạnh ngoài là sán hải mã kéo liền với hồi hải mã. Phía sau ti hơn là sừng amon.

Mặt trên tam giác não tạo thành đáy của hai buống não bên

Thể vân:

- Vị trí, hình thái : nằm trứớc đồi thị, lồi vào hai buồng não bên như sừng tử cung bò.

- Cấu tạo: Mặt cắt thể vân có các lớp chất xám và chất trắng xen kẽ nhau.

- Chức năng: Trung khu của vận động, sự cường cơ, điều hoà nhiệt.

1.5.3. Vỏ đại não: Là bộ phận mới do trải qua quá trình phát triển lâu dài nên tạo thành phần cũ và phần mới.

- Phần cũ rất hẹp bao gồm hành khứu ở thuỳ trán, hồi hải mã ở thuỳ thái dương (bị vỏ não đẩy vào phía trong).

- Phần mới rộng hơn và phân hoá nhiều hơn. Vỏ não có chỗ dày chỗ mỏng. Chỗ dày chủ yếu ở thuỳ trán và thuỳ đỉnh. Phần lớn vỏ não có cấu tạo nhiều tầng tế bào.

Vỏ não là nơi cảm thụ tinh vi gồm nhiều bộ phận phân tích hợp lại, là cơ sở vật chất của các hoạt động cao cấp của hệ thần kinh, là cơ quan điều hoà tối cao của cơ năng sinh hoạt.

Vỏ não phân tích các kích thích từ bên ngoài hay nội cảnh, biến cảm giác thành ý thức. Nếu bộ phận chu vi của cơ quan phân tích bị hỏng mà bộ phận phân tích trong não vẫn còn thì vẫn có ý thức vì có sự liên hệ giữa ngaọi cảnh với vỏ não giúp cho cơ thể thích ứng được với ngoại cảnh.

1.5.4. Buồng não bên: Là hai khe hẹp nằm trog khối chất trắng của mỗi bán cầu đại não ngăn cách nhau bởi vách ngăn trong suốt dưới thể trai. Hai buống não bên thông với buồng não 3 qua lỗ gian thất.

* Dịch não tuỷ: Choán đầy các khaong rỗng của bộ phận thần kinh trung ương: ống giữa tuỷ sống, xoang dưới nhện, các buống não. Dịch não tuỷ chứa một tỷ lệ nhỏ protein, gluco, muối và axituric, một ít lympho bào.

Nguồn gốc: Do thể mạch và đám rối mạch của các buống não tiết ra chứa trong một xoang kín nhưng có sự trao đổi chất với máu nhờ các chồi hạt của màng nhện.

Tác dụng của dịch não tuỷ:

- Giữ ổn định áp lực trong hộp sọ

- Choán đầy trong não, tuỷ sống nên làm giảm thiểu các tác động của những chấn thương ngoài hộp sọ lên não.

- Là nội môi của tế bào thần kinh trung ương, duy trì thành phần các loại muối khoáng và áp suất thẩm thấu.

- Môi giới dẫn truyền các chất của quá trình trao đổi chất.

- Dẫn truyền một số hormon như hormon tuyến yên.

2. Thần kinh ngoại biên

2.1. Các đôi dây thần kinh sọ não : 12 đôi dây được chia làm 3 nhóm :

- Nhóm 1 : Các đôi dây TK cảm giác : đây là các dây hướng tâm (sợi trục từ các cơ quan cảm giác đi về não) : đôi dây số I, II, VIII.

- Nhóm 2 : Các đôi dây vận động : các dây ly tâm : Sợi trục xuất phát từ não đến các cơ quan đáp ứng : đôi dây số III, IV, VI, XI, XII.

- Nhóm 3 : Các đôi dây hỗn hợp : Có các nhánh cảm giác, vận động và tiết dịch : TK V, VII, IX, X.

Dây

TK

Tên gọi

Đường đi

Chức năng

Dây

số I

Dây

khứu

giác

Xuất phát từ các tế bào thần kinh khứu giác trên niêm mạc mũi. Sợi trục chui qua phiến xương sàng vào thuỳ khứu giác ở phía trước mặt dưới bán cầu đại não

Dẫn truyền

các cảm giác

về mùi

Dây

số

II

Dây

thị

giác

Sợi trục của các tế bào hình que, hình gậy trên màng võng của cầu mắt tập trung thành dây TK số II chui qua đáy nhãn cầu, qua lỗ nhãn của xương bướm gặp dây bên kia tạo thành bắt chéo thị giác rồi về củ não sinh tư trước qua thể gối ngoài và cánh tay trước lên vỏ bán cầu đại não

Dần truyền

cảm giác về

ánh sáng, màu

sắc, hình ảnh

Dây

số

III

Dây

vận

nhãn

chung

Xuất phát từ nhân vận động ở cuống não, sợi trục đi ra qua lỗ tròn nhỏ ở xương bướm ra ngoài

Vận động các cơ chéo bé, cơ thẳng trong, cơ thẳng trên, cơ thẳng dưới của cầu mắt

Dây

số

IV

Dây

cảm

xúc

Nhân nằm ở trung não, xuất phát từ hai bên van Vieusens qua lỗ tròn lớn (đôi duy nhất đi ra từ mặt trên của não)

Vận động cơ

chéo trên của

mắt

Dây

số V

Thần

kinh

tam

thoa

Xuất phát từ 4 nhân xám ở cầu não và cuống não làm thành rễ vận động và rễ cảm gic.

Rễ cảm giác: phình ra tạo thành hạch tam thoa rồi chia ra hai nhánh bên ngoài hộp sọ.

*Nhánh 1 (nhánh mắt) chui qua lỗ tròn nhỏ

phân cho cơ trán, tuyến lệ, niêm mạc mũi -

mi.

* Nhánh 2( nhánh hàm trên) chui qua lỗ tròn lớn phân cho răng của xương hàm trên, cho mũi và môi trên, khẩu cái.

* Nhánh 3 (nhánh hàm dưới ) chui qua lỗ bầu dục (thân xương bướm) phân cho môi dưới, dọc đường đi phát ra hai nhóm: Nhóm vận động phân cho các cơ nhai và Nhóm dây cảm giác phân cho niêm mạch miệng, trước lưỡi, răng hàm dưới, vùng tai, thái dương

Dây

số

VI

TK

vận

nhãn

ngoài

Đi ra từ nhân vận động ở cầu não và thoát ra ở chỗ vuông góc giữa tháp trước và thể

thang

Vận động cơ thẳng

sau và cơ thẳng

ngoài của mắt

Dây

số

VII

Dây

TK

mặt

Ba nhân (cảm giác,

vận động, tiết dịch)

nằm trong cầu não.

Sợi TK ra khỏi lỗ

trâm chũm phát ra

các nhánh:

*Nhánh tiết dịch phân đến tuyến lệ.

*Nhánh hỗn hợp đến thừng màng nhĩ, 2/3

trước lưỡi, vòm khẩu cái

*Nhánh vận động cho các xương tai, cơ mặt. Một nhánh hỗn hợp các sợi phó giao cảm phân cho tuyến dưới hàm, tuyến dưới lưỡi, tuyến lệ.

Dây

số

VIII

TK

thính

giác

thăng

bằng

Gồm hai phần : Phần tiền đình và phần ốc tai.

- Phần tiền đình : Từ các tế bào ở 3 vòng bán khuyên màng có các sợi trục đi qua hạch tiền đình tạo thành dây thần kinh thăng bằng.

- Phần thính giác : từ các tế bào thính giác nằm trên màng nền của con ốc tai, sợi trục làm thành dây thần kinh thính giác.

Hai nhánh hợp lại tạo thành dây TK VIII thoát ra ở mặt dưới của hành não, đi lên củ não sinh tư từ đó có các đường liên hệ với vỏ đại não

Cảm

nhận

thăng

bằng

và âm

thanh.

Dây

số

IX

TK

lưỡi

hầu

Xuất phát từ ba nhân xám

(nhân vận động, cảm giác

và phó giao cảm) ở hố

trám của hành não. Sợi

trục chu qua lỗ rách

- Nhánh vận động gốc lưỡi, cơ yết hầu. Nhánh cảm giác đến các gai ở gốc lưỡi. Nhánh phó giao cảm phân đến tuyến dưới tai.

Dây

số X

TK mê tẩu (dây phế vị)

từ ba nhân xám, sợi TK thoát ra ở mặt dưới hành não, chui ra ngoài qua lỗ rách.

Nhân cảm giâc : truyền các kích thích từ các hạch tạng về não bộ. Nhân thần kinh

Dây

số

XI

TK gai

tuỷ sống

Xuất phát từ nhân xám ở hành não ra ngoài ở rãnh bên sau mặt dưới hành não, chui qua lỗ rách

Vận động các cơ ngoại lai

của thanh quản và các cơ

vùng gáy

Dây

số

XII

TK hạ

thiệt

Từ nhân vận động ở hành não, đi ra ở rãnh bên trước mặt dưới hành não, chui qua lỗ lồi cầu chẩm

Vận động các cơ dưới

lưỡi: cơ trâm lưỡi, cơ nền

lưỡi


CHƯƠNG 9. GIẢI PHẨU GIA CẦM

1.Bộ xương

. Đặc điểm chung:

- Nhiều xương không có tuỷ, chỉ có hốc thông với các túi khí

1.1. Cột sống:

- Vùng cổ: Số lượng đốt sống nhiều hơn ở gia súc nên cổổ dài, dễ cử động.

Gà có 14 đốt cổ

Vịt : 15 đốt

Ngan: 13 đốt

Ngỗng: 18

Bồ cầu: 12 đốt

Mặt khớp đều lồi và lõm theo một chiều nên các đốt khớp theo kiểu

chống úp lên nhau. Xương Atlas chỉ là một vòng nhẫn không có cánh. Xương trục có một mỏm răng dài.

- Vùng lưng: Gà và bồ câu có 7 đốt

Ngỗng và vịt có 9 đốt

Các đốt lưng đính với nhau thành một tảng làm chỗ dựa cho cánh

- Vùng hông và khum: Giống nhau và khó phân biệt. Một số xương phía trước tách rời nhau. Các xương phía sau đính với nhau và đính với xương chậu.

- Xương đuôi: Có 7-8 đốt đuôi còn đầy dủ mỏm gai, mỏm ngang. Cc đốt đuôi cuối cùng tự do. Đốt tận cùng to hơn gọi là xương phao câu. Đuôi có tác dụng làm bánh lái khi bay.

1.2. Lồng ngực

- Xương ức: Có kích thước lớn, khoẻ làm chỗ bám cho cơ. Mặt trên lõm, mặt dưới lồi làm chỗ bám cho cơ vùng ngực.

Giữa đường trung tuyến mặt dưới có xương lưỡi hái làm tăng diện bám cho cơ ngực. Trước có gò trên ức, hai bên gò có rãnh để khớp với xương quạ. Cạnh bên có những diện khớp để khớp với xương sườn dưới.

* Gà: xương ức yếu hơn, hai bên xương hái có 4 mẻ chia xương ức ra 4 mỏm.

* Bồ câu: xương lưỡi hái to, các mẻ trong biến thành lỗ

* Vịt: xương ức to, khoẻ, hình hộp

* Xương ức củanhững loài chim bay khoẻ to.

- Xương sườn:

* gà, bồ câu: 7 đôi

* vịt: 8-9 đôi

Đầu trên khớp với các đốt lưng.

Đoạn giữa các xương sườn phía trước có một mỏm dẹt hướng về sau tựa vào mặt ngoài xương sườn sau nó làm cho lồng ngực vững chắc.

Đoạn sụn của chim hoá xương

Xương sườn cuối cùng thường nhập vào xương sườn trước nó.

1.3. Xương đầu

Hộp sọ:

- Xương chẩm; chỉ có một lồi để khớp với xương Atlas

- Xương đỉnh: là hai thân nhỏ

- Xương trán: to

- Xương góc mũi có bức ngăn mỏng ngăn giữa hai gốc mũi xương bướm và hai xương thái dương. có một diện khớp để khớp với xương vuông

* Gà: Mỏm gò má ở gà dẹt, hướng về trước, tụ do hoặc đính vào mỏm hố mắt. * Bồ câu: Xương gò má rất ngắn.

- Xương mặt: Có 1 xương liên hàm, 2 xương hàm trên, 2 xương mũi, 2 xương lệ, 2 xương khẩu cái, 2 xương cánh, 2 xương gò má, 1 xương lá mía, xương hàm dưới khớp với xương thái dương nhờ hai xương vuông.

1.4. Xương chi trên:

- Đai vai: Gồm xương bả vai, xương quạ, xương đòn

Xương đòn đính với xương bên kia hình thành xương nỉa. Đầu trên của xương nỉa cùng xương bả vai và xương quạ tạo thành lỗ tam cốt cho cơ nâng cánh chui qua. Xương nỉa có tác dụng như cái díp giữ cho hai cánh không hạ sát vào nhau khi cơ hạ cánh co. Những chim bay dài, xương nỉa có hình chữ U.

- Xương cánh tay khớp hính ovan. Vịt có xương cánh tay dài.

- Xương cẳng tay: Có xương quay và xương trụ (xương qay to hơn).

Hai xương khớp với nhau ở hai đầu và tách nhau ở đoạn giữa.

- Xương cườm: có hai xương.

- Xương bàn tay: Có ba xương. Hai xương bàn chính đính với nhau ở hai đầu. Một xương phụ làm chỗ tựa cho ngón cái.

- Xương ngón: Có ba ngón. Ngón cái có một đốt. Ngón hai to nhất có 2 đốt. Ngón 3 có 1 đốt dính vào đốt 1 của ngón thứ 2.

* Chi trước càng dài chim càng bay khoẻ.

1.5 Xương chi dưới: the bones of the posterior extremity

- Xương cánh chậu to khoẻ, có 1 xương hông và hai xương ngồi.

- Xương háng mỏng, dài, ở dưới xương ngồi, dính với vài đốt hông khum cuối. Không có khớp bán động háng.

- Xương ngồi ở hai bên thành chậu

- Xương đùi khớp với xương bánh chè, xương chày và xương mác.

- Xương cẳng chân: Xương mác không đi quá đầu dưới xương chày.

- Xương bàn dính với nhau, có 3 ròng rọc khớp với 3 ngón chính.

* Gà: 1/3 từ phía dưới xương bàn có một mỏm đi về sau làm cốt cho cái cựa.

- Xương ngón: 4 ngón, 3 ngón chính chỉ về trước (ngón ngoài có 5 đốt, ngón giữ và trong có 3 đốt) và 1 ngón cụt chỉ về sau. Ngón thứ 4 (ngón cái) có 3 đốt.

2. Hệ cơ

Gia cầm có đủ các cơ như loài có vú nhưng khác nhau về sự phân bố.

- Gân: Gân của các cơ chi dưới bị cốt hoá, kem mềm dẻo nhưng cứng khoẻ

2.1. Cơ ngực:

- Cơ ngực nông: có khối lượng tương đương khối lượng của tất cả các cơ của cơ thể cộng lại. Một đầu cơ bám vào xương nỉa, xương lưỡi hái và các xương sườn cuối cùng đầu kia đến bám vào đầu trên xương cánh tay.

Tác dụng: cơ co kéo cánh xuống.

- Cơ ngực sâu: Lấp dưới cơ ngực nông, nằm trong kẽ giữa xương ức và xương lưỡi hái. Gân của cơ này chui qua lỗ tam cốt đến bám vào đầu trên xương cánh tay.

- Cơ hoành gồm hai lớp sợi. Một lớp từ sườn phải đến sườn trái áp vào mặt dưới phổi (có tác dụng làm nở phổi). Một lớp chéo lồi về trước, lõm ở sau đi từ xương lưng đến xương ức chia thân thành hốc ngực ở trước và hốc bụng ở sau (có tác dụng cho việc hút không khí ở ngoài vào).

3. Hệ tiêu hoá

3.I. Miệng:

- Gia cầm có mỏ (beak) (mỏ gà ngắn, nhọn, dày khoẻ. Mỏ vị dài dẹp, hai bên có các hàng như răng lược có thể cắt hay lọc bùn)

Không có răng

Lưỡi treo dưới xương thiệt cốt, dễ cử động (lưỡi gà & bồ câu có hình mũi tên)

Tuyến nước bọt không phát triển

3.2. Yết hầu: liền với miệng và không có màng khẩu cái. Miệng cửa họng của hộc mũi và cạnh sau thanh quản có nhiều gai hoá sừng hướng về phía sau.

3.3. Thực quản: To và dài, thành mỏng, đổ vào dạ dày tuyến.

- Đoạn cổ thực quản vịt và chim bồ câu có một phồng hình thoi có thể nở rộng.

- Đoạn thực quản trước ngực của gà có.

- Diều của bồ câu chia thành hai túi bên, xung quanh lỗ dưới của diều có một vòng tuyến (từ ngày ấp thứ 8 đến khi nở) vòng tuyến này tiết ra chất sữa nuôi chim non (khi đó thành diều dày lên có nhiều mạch quản và nhiều gấp nếp).

Ngỗng, vịt không có diều.

3.4. Dạ dày: stomach

- Sếu và cốc chỉ có một bao xung quanh chỗ bám của thực quản làm thành một vành tuyến dịch

- Chim ăn hạt có dạ dày tuyến ở trước và dạ dày cơ ở sau.

- Dạ dày tuyến (the glandular stomach) nằm ở đường trung tuyến giữa

hai thuỳ của gan, là một bao hình trứng, thành dày, lòng hẹp. Niêm mạc có nhiều tuyến có lỗ, tiét dịch. Thức ăn không dừng lại ở dạ dày tuyến mà chỉ

được tẩm dịch ở đó rồi xuống dạ dày cơ.

- Dạ dày cơ (the muscular stomach) lớn hơn, hình lăng trụ lồi hai mặt, nằm sau gan và bị gan che khuất.

Phía bên phải có lỗ thông với dạ dày tuyến và lỗ thông với tá tràng.

Bên trong dạ dày cơ luôn có ít thức ăn trộn với ít cát sỏi.

Lớp mô lót mặt trong rất dày, cứng như sừng và có nhiều tuyến dịch

Lớp cơ có màu đỏ dày (một cơ ở trên và một cơ ở dưới) chạy từ bên này sang bên kia bám vào cân mạc màu xà cừ vào hai mặt bên của dạ dày.

Thức ăn đến dạ dày cơ bị nghiền nát do mô sừng và sỏi chứa trong nó.

* Chim ăn thịt có lớp cơ mỏng hơn.

3.5. Ruột (intestine; Intestinum): Ngắn ở chim ăn thịt, dài ở chim ăn hạt.

Đường kính ruột ít thay đổi từ đầu đến cuối nên khó phân biệt giữa ruột non và ruột già.

Đoạn đầu của ruột có một quai gấp (ứng với đoạn tá tràng ) gồm hai nhánh đi song song với nhau, kẹp giữa là tụy dài.

Sau quai tá tràng, ruột gấp lại thành hồi tràng và treo ở vùng dưới hông bởi một mạc treo dài. Hồi tràng hợp thành một khối nằm giữa hai túi khí bụng.

Gần chỗ tận cùng, ruột phát ra hai mang nang dài 15-20 cm hướng về trước (ở gà, vịt). Bồ câu chỉ có một củ nhỏ. Ngỗng khi có khi không.

Trực tràng là một đoạn ngắn từ lỗ đổ vào của hai manh nang đến ổ nhớp.

* ổ nhớp là hốc chung thải phân, nước tiểu. Trong ổ nhớp có dương vật và

túi fabri cius (bursa of fabricius)

3.6. Các tuyến:

Gan:

Chia làm hai thuỳ chính (trái và phải). Thuỳ phải to hơn, cả hai ôm lấy dạ dày cơ và dạ dày tuyến. Túi mật nằm phía thuỳ phải (trừ bồ câu). Tụy tạng dài hẹp có hai ống tiết. Lách có hình hạt nhỏ, màu đỏ nằm ở chỗ giáp giới dạ dày cơ và dạ dày tuyến.

4. Bộ máy hô hấp (respiratory system)

Hốc mũi (nasal cavity) là một khe dài, hẹp có nhiều gai sừng. Thanh quản (larynx) không có sụn tiểu thiệt (khi nuốt hai mép của thanh quản khép kín không cho thưc ăn vào khí quản).

** Những loài chim hót: đoạn cuối của thanh quản có minh quản (syrinx). ở gia cầm, minh quản là một màng khí rung chuyển phát ra tiếng.

Phổi (lungs; pulmones) dính sát vào lồng ngực, màu hồng. Mặt dưới có khoảng 5 lỗ thông với các túi khí. Phế quản ở mặt ngoài phân nhánh đi vào giữa phổi (phân nhánh hướng tâm, ngược với chiều phân nhánh phế quản ở gia súc).

Các tiểu phế quản không tận cùng trong những manh nang mà tiếp hợp với nhau. Niêm mạc mặt dưới phổi kéo thông với các túi khí. Các túi khí (air sacs) nằm chèn giữa thành bụng, thành ngực với các khí quan nội tạng: Gia cầm có 9 túi khí:

- Một túi ngực ở phía trước lồng ngực: thoracic air sac

- Hai túi cổ ở chỗ góc cổ: cervical air sacs

- Hai túi truớc hoành: anterior thoracic air sacs

- Hai túi sau hoành: posterior thoracic air sacs

- Hai túi bụng áp vào thành trên bụng: abdominal air sacs

Các túi khí đều độc lập với nhau nhưng thông với phổi qua các lỗ hay thông với xương qua một hay nhiều lỗ

* Đặc điểm của động tác hô hấp: Xương sườn không cử động nên phổi không nở to khi thở nhưng các túi khí phồng lên và kéo không khí vào. Khi qua phổi, không khí trao đổi oxi và cacbonic với máu lần thứ nhất; khi từ các bao khí đi ra, không khí qua phổi lần thứ hai và có thêm lần trao đổi khí thứ 2. Đặc trưng của hô hấp ở gia cầm là quá trình "hô hấp kép" nên chúng có khả năng tận dụng oxy trong không khí. Bên cạnh chức năng hô hấp, các túi khí còn chèn ép làm giảm sự cọ sát của các cơ quan nội tạng.

* Tuyến giáp trạng ở hai bên khí quản.

5. Bộ máy niệu - sinh dục

5.1.Hệ niệu:

- Gia cầm có hai thận áp dưới và dính sát vào cột sống vùng hông và đai chậu, ngay sau phổi; mỗi bên thận phân làm ba thùy: thùy trước, thùy giữa, thùy sau.

- ống dẫn niệu từ mỗi bên thận về sau đổ vào ổ nhớp (nuớc tiêu và phân lẫn với nhau); khi gặp không khí nước tiểu đặc lại.

- Không có bóng đái (trừ đà điểu).

* Tuyến thượng thận hình khối tròn, màu vàng to bằng hạt đậu nằm cạnh trong và trước thận.

5.2. Hệ sinh dục đực

- Hai dịch hoàn nằm ở vùng dưới hông, đầu trước thận, hình trứng, thể tích thay đổi theo mùa (tăng thể tích vào mùa sinh sản).

- Phụ dịch hoàn không rõ

- ống dẫn tinh đi từ đầu sau dịch hoàn, cong queo, gấp khúc đi theo cạnh trong ống dẫn niệu rồi đổ vào ổ nhớp.

* Vịt: có một bọng hình bầu dục luôn chứa đầy tinh dịch; khí quan giao cấu to có hình xoắn ốc và nằm tụt sâu trong ổ nhớp chỉ lộ ra khi giao cấu).

* Gà: khí quan giao cấu có dạng gai thịt nhỏ gần miệng ổ nhớp giữa hai lỗ đổ ra của ống dẫn tinh.

5.3. Sinh dục cái

- Chỉ có buồng trứng (noãn sào) bên trái nằm ở vùng dưới hông, hình chùm gồm nhiều tế báo trứng phát triển ở các giai đoạn khác nhau và có màu sắc khác nhau (noãn sào bên phải thoái hóa).

- Ống dẫn trứng dài, rộng, rất giãn nở, có mạc treo vào vùng dưới hông. Đầu phiá buồng trứng có loa rộng; đầu sau tận cùng ở ổ nhớp bằng một lỗ có thể mở rộng khi đẻ. ống dẫn trứng làm nhiệm vụ dẫn trứng ra ngoài vừa là nơi hình thành lòng trắng cùng lớp vỏ đá vôi bọc ngoài lòng đỏ.

6. Hệ tuần hoàn:

- Tim: hình nón; tâm thất phải hình bán nguyệt; van nhĩ thất không phải là van ba lá mà là van thịt lồi ra từ vách liên thất; tâm nhĩ phải có lỗ đổ vào của hai chủ tĩnh mạch (đều có van).

- Động mạch: Chủ động mạch bẻ quặt bên phải (ngược với ở loài có vú) đến xương khum phát ra hai nhánh cho chi sau và một nhánh khum giữa. Từ động mạch cánh tay đầu phát ra động mạch ngực cho các cơ ngực và các nhánh đi về bụng tạo thành hệ thống mắt lưới gọi là động mạch ấp trứng.

- Tĩnh mạch: Tĩnh mạch cổ không đi theo động mạch cổ và ở lớp nông hai bên khí quản (tĩnh mạch bên phải to hơn và thường có một màng tiếp hợp giữa hai tĩnh mạch.Các loài chim có mồng ở da đầu rất nhiều tĩnh mạch.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top