Phần 1


CHƯƠNG 1. HỆ XƯƠNG

I. Chức năng của hệ xương

+ Tạo thành bộ khung của cơ thể người và động vật

+ Là chỗ bám của các cơ, tạo nên hình dáng cơ thể.

+ Chống đỡ cơ thể, tạo thành các xoang bảo vệ các cơ quan nội tạng.

+ đóng vai trò quan trọng trong chuyển hoá, đặc biệt là muối canxi..

+ Tủy đỏ của xương còn là nơi sản sinh ra các tế bào máu: hồng cầu và bạch cầu.

1. Đặc điểm chung của xương

1.1. Hình thái của xương

Bộ xương gia súc gồm khoảng trên 200 xương. Các xương này thường có đôi ở vị trí đối xứng qua mặt phẳng đứng giữa cơ thể ( xương chẵn). Một số xương lẻ (không có đôi) ở cột sống, nền hộp sọ.

Tuỳ theo hình thái, xương được phân làm 4 loại:

(1) Xương dài (long bones):

- Hình trụ dài, có một thân và hai đầu (đầu trên và đầu dưới). Xương dài xắp xếp ở các chi.

- Thân xương (diaphysis): ngoài có lớp xương chắc; trong lòng tạo thành xoang chứa tuỷ xương. Đầu xương (epiphysis) chủ yếu có cấu tạo xương xốp. Giữa đầu xương và thân xương có đĩa sinh trưởng có cấu tạo sụn trong

- Xương dài có tác dụng làm tay đòn khi vận động và chống đỡ khối lượng của thân thể, vì thế xương rất chắc và khoẻ.

- Xương dài cong là xương sườn (hình cung, không có tuỷ, tạo thành lồng ngực)

(2) Xương dẹp (flat bones)

- Dẹp, bề mặt rộng làm chỗ bám cho cơ.

- Thường do 2 phiến xương chắc kết hợp lại,

- Đôi khi ở giữa hai phiến này có 1 lớp xương xốp mỏng.

- Xương dẹp sắp xếp ở hộp sọ, hoặc bả vai.

* Ở sọ, xương dẹp tạo thành xoang để bảo vệ não

(3).Xương ngắn (short bones)

- Hình khối, nhiều cạnh, bên ngoài là xương chắc, bên trong là xương xốp.

- Sắp xếp ở vùng cổ tay cổ chân, có tác dụng chống đỡ, giảm áp lực của khối lượng cơ thể, phân tán lực tác động lên các khớp.

(4) Xương có hình dáng phức tạp:

Gồm xương cột sống, xương hàm trên, xương nền hộp sọ (xương sàng, xương bướm) tác dụng của nó rất đa dạng có nhiều mấu, nhiều mặt tuỳ theo vị trí của nó.

1.2. Cấu tạo xương

Xương được cấu tạo bởi 4 phần sau: (1) màng xương, (2) tổ chức xương (gồm xương chắc và xương xốp) (3) tuỷ xương, (4) mạch quản thần kinh.

(1) Màng xương:

Là lớp màng mỏng màu hồng nhạt, dai, chắc bao phủ mặt ngoài xương dài, trừ các mặt khớp. Màng xương gồm hai lớp:

+Lớp ngoài: Dày hơn, chứa nhiều sợi hồ collagen, ít sợi chun cùng với mô liên kết thưa, các mao mạch và thần kinh.

+Lớp trong: Mỏng, gồm một lớp tế bào, ít sợi hồ, nhiều sợi chun và có các tế bào tạo xương, có các sợi tạo keo chạy từ ngoài vào lớp xương chắc.

Mạch quản thần kinh từ màng xương chạy vào trong tổ chức xương qua các ống nhánh Wolkmann và ống Ha-ver song song với trục của xương.

*Màng xương đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và tái tạo xương nên khi phẫu thuật phải tránh làm tổn hại lớp màng này bằng cách để lại màng dính liền với mô xương.

(2) Tổ chức học của xương

* Xương chắc: Chủ yếu là các tấm xương tạo thành nhiều hệ thống Haver xếp liền nhau thành những vòng tròn đồng tâm. Mỗi hệ thống này là những ống xương xếp xung quanh một trục là ống Haver. Các ống dọc này được liên kết với nhau bởi các ống Wol-kơ-man chạy ngang trong ống chứa mạch quản và thần kinh, nhờ đó nó phân nhánh vào đến tuỷ xương

* Xương xốp: nằm ở đầu các xương dài và giữa 2 phiến của xương dẹt gồm các tế bào xếp theo hình tia tạo thành các nan xương. Các nan xương xếp lộn xộn tạo thành các hốc chứa tuỷ xương và mạch máu. Xương đặc hay xương xốp chỉ là những hình thức kiến tạo khác nhau của chất xương nhưng giống nhau về phương diện tổ chức học.

+ Sụn mặt khớp: là lớp sụn mỏng bao bọc một phần của đầu xương dài nơi nó tiếp xúc hoặc liên kết với xương khác. Cấu tạo là các tế bào sụn trong, không có mạch quản và thần kinh phân đến.

(3).Tuỷ xương: Chứa trong ống tuỷ xương dài và các hốc trong các xương xốp. Có 2 loại tuỷ là tuỷ đỏ và tuỷ vàng.

+ Tuỷ đỏ (red marrow): có trong xương bào thai và xương súc vật non

- Chứa nhiều mạch máu, tổ chức lưới của những mao mạch, xoang chứa các loại tế bào hồng cầu, bạch cầu, tế bào lympho

- Là cơ quan tạo huyết quan trọng của cơ thể.

- Ở súc vật trưởng thành, tuỷ đỏ chỉ còn lại trong hốc các xương xốp, xương ức, xương sườn.

+ Sau đó tuỷ đỏ biến dần thành tuỷ vàng: xốp, nhẹ, chứa trong ống tuỷ của xương dài, cấu tạo chủ yếu là tế bào mỡ.

* Ở gia cầm, hầu hết các xương không có tuỷ.

(4) Mạch quản thần kinh: Là hệ thống các đôi dây thần kinh.

1.3. Thành phần hoá học của xương

Xương có đặc tính rắn chắc và đàn hồi là do sự có mặt của các chất vô cơ và chất hữu cơ:

- Xương tươi (ở đại gia súc): chứa 50% n−ớc, 15,75% mỡ, 12,45% chất hữu cơ (inorganic materials) và 21,8% chất vô cơ (organic materials).

-Xương khô (mất nước và mỡ) tỉ lệ chất hữu cơ trên chất vô cơ là 1/2. Thành phần cơ bản của chất hữu cơ là những mucopolysacarit chứa nhiều axit. Chondroitin sunfuric và protein. Hỗn hợp nà có tính chất ưa canxi và được coi là sản phẩm quan trọng cần thiết cho sự vôi hoá của xương.

- Chất vô cơ chủ yếu là các loại muối:

Photphat canxi (Ca3PO4): 51,64%

Cacbonat canxi (CaCO3): 41,30%

Florua canxi (CaF2): 2,00%

Photphat magiê (Mg3(PO4)2: 1,16%

Clorua canxi (CaCl2): 1,20%

Thành phần hoá học của xương thay đổi theo lứa tuổi. ở gia súc non, xương ít chất vô cơ, nhiều chất hữu cơ nên xương mềm dẻo, kém độ rắn, chắc. Ngược lại, ở gia súc già, chất hữu cơ giảm, chất vô cơ tăng, nên xương giòn dễ gãy. Chế độ dinh dưỡng, khẩu phần ăn, trạng thái sinh lý cơ thể , dinh dưỡng v.v ảnh hưởng đến cấu tạo và thành phần hoá học của xương.

2. Sự hình thành và phát triển của xương

Xương hình thành qua 3 giai đoạn: giai đoạn màng, giai đoạn sụn, giai đoạn xương.

- Giai đoạn màng: Bắt đầu từ tuần thứ 6 - 7 của quá trình phát triển bào thai. Một số tế bào trung mô biệt hoá tạo thành các nguyên cốt bào tập trung dưới dạng các màng tổ chức liên kết.

- Giai đoạn sụn: Sang tháng thứ 2 các màng được thay thế dần bằng mô sụn, thỏi sụn

- Giai đoạn xương: Từ thỏi sụn, cốt hoá thành xương.

*Một số xương được hình thành trực tiếp từ màng bỏ qua giai đoạn sụn (vòm hộp sọ và các xương mặt).

2.1. Quá trình hình thành xương bỏ qua giai đoạn sụn

(1)Trên các tấm màng xuất hiện các điểm hoá xương (ở đó tập trung các tế bào sinh xương và chất gian bào).

(2) Sau đó các tế bào sinh xương phân chia nhanh, thu hút muối Canxi và chất hữu cơ do mạch máu mang đến và biến thanh tế bào xương.

(3) Các tế bào xương lan rộng ra xếp thành nan xương rồi thành tấm xương,

(4) Cuối cùng liên kết màng biến thành xương chỉ còn để lại lớp màng mỏng bên ngoài là màng bọc xương. Từ vài 3 điểm hoá xương như vậy sự cốt hoá lan rộng ra (trong suốt giai đoạn bào thai) và biến các tấm màng thành các xương vòm hộp sọ và xương mặt.

2.2. Cốt hoá sụn

Quá trình này phức tạp hơn. Từ tháng thứ hai của bào thai, lớp màng hình thành thỏi sụn có hình dáng giống như xương trưởng thành. Bên ngoài được bao bọc bởi màng sụn (trừ ở phần mặt khớp). Quá trình cốt hoá sụn được xảy ra cùng một lúc ở thân và đầu thỏi sụn.

(1) thân thỏi sụn: Màng sụn gồm 2 lớp ngoài và trong: lớp ngoài giàu mạch quản; lớp trong có các tế bào có khả năng sinh sản mạnh.

- Trên thân thỏi sụn xuất hiện điểm cốt hoá là nơi tập trung các hạt muối Canxi và chất hữu cơ làm cho các tế bào sụn bị thoái hoá, tiêu huỷ.

- Các tế bào lớp trong sinh sản mạnh biến thành tế bào sinh xương làm lớp màng sụn biến đổi thành màng xương.

- Các tế bào sinh xương thu hút muối canxi và chất hữu cơ biến thành tế bào xương, phân chia mạnh mẽ làm cho mô xương dày ra về chiều ngang và về phía 2 đầu của thỏi sụn.

- Ngay trong lòng thỏi sụn cũng xuất hiện các huỷ cốt bào có khả năng dung giải mô sụn tạo thành các hang, hốc chứa đựng chất keo bên trong thỏi sụn, phân giải các nan xương ngăn cách các khoảng trống trên và tạo nên trong lòng thỏi sụn một ống rỗng (ống tuỷ xương).

- Ở màng xương có nhiều mạch quản. Các tế bào xương tạo nên các tấm xương bao quanh các mạch quản tạo thành các hệ thống Haver. Sự tăng dần các hệ thống này tạo thành lớp xương chắc ở thân xương.

* Cốt hoá sụn ở thân thỏi sụn gồm 2 quá trình xảy ra đồng thời:

- Là tiêu huỷ mô sụn tạo thành tuỷ xương (do các huỷ cốt bào)

- Quá trình hình thành mô xương của lớp xương chắc (do tế bào sinh xương).

(2). 2 đầu thỏi sụn: Quá trình cốt hoá giống như ở thân xương nhưng xảy ra muộn hơn và theo chiều ngược lại (bắt đầu từ đầu xương và lan vào thân xương). Sự cốt hoá dừng lại khi đầu thỏi sụn còn lại đã biến thành xương. Lớp sụn mặt khớp không bị cốt hoá để đảm nhiệm chức năng liên kết với xương khác. Sự cốt hoá ở 2 đầu thỏi sụn làm cho xương dài ra.

* Các xương thứ cấp: Xương chi, xương vùng thân, một số xương sọ.

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển của xương

3.1. Yếu tố dinh dưỡng

Quá trình hình thành và phát triển của xương về bản chất là sự nhân lên và biệt hoá của tế bào xương và chất xương. Vì vậy dinh dưỡng phái đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho quá trình này đó là các thành phần hoá học (vô cơ và hữu cơ cấu tạo nên xương). Một số yếu tố cần chú ý là:

- Vitamin D: Cần thiết cho quá trình hấp thu Ca. Vitamin D có thể do cơ thể tự tổng hợp hoặc hấp thu từ thức ăn. Quá trình tổng hợp Vitamin D tăng lên khi lớp da của cơ thể tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.

- Vitamin C: Cần thiết cho sự tổng hợp sợi collagen thay thế các sợi cũ.

Con non không được cung cấp đầy đủ Vitamin C sẽ chậm lớn. Trẻ con và người lớn thiếu Vitamin C sẽ dễ mắc chứng loét và xuất huyết do thiếu hụt sợi collagen trong các tổ chức liên kết.

3.2. Hóc môn

Các hormon sinh trưởng; hormon tuyến ức; hormon sinh dục ảnh hưởng đến qúa trình hình thành và phát triển của xương.

4. Khớp xương

Khớp được tạo thành do hai hay nhiều xương hoặc sụn với các tổ chức khác. Xương là bộ phận căn bản của hầu hết các khớp. Trong một số trường hợp, khớp đựoc tạo thành giữa 1 xương và 1 sụn hoặc giữa hai sụn. Tổ chức kết nối là mô sợi, là sụn hoặc cả hai. Khớp đựoc hỗ trợ bởi các cơ. Tuỳ theo vị trí, chức phận của xương mà có các liên kết khác nhau.

Căn cứ vào cấu tạo cũng như về tác động mà phân ra:

4.1. Khớp bất động

Các khớp này không hoạt động trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển của cơ thể. Các xương nối với nhau qua tổ chức liên kết, không có khoang khớp.

Ví dụ: các khớp ở vùng sọ, vùng mặt

Đặc điểm cấu tạo: cấu tạo đơn giản và được phân loại như sau:

Căn cứ vào hình dạng khớp , phân ra:

- Khớp răng: Các đường khớp như hình răng cưa (VD: khớp giữa xương đỉnh và x. trán)

- Khớp vẩy: Xương nọ chồng lên xương kia như vẩy cá hay ngói lợp mái nhà (VD khớp x. đỉnh và x. thái dương)

- Khớp mào: Mào của xưong nọ lấp vào khe xương kia (VD x. liên hàm với x. hàm trên).

Căn cứ theo tính chất của tổ chức nối giữa hai xương phân ra:

- Khớp nhau nhờ tổ chức sụn: khớp giữa thân các đốt sống; khớp xương sườn thứ nhất với xương ức.

- Khớp nhau nhờ tổ chức xơ: Khớp giữa x. quay và x. trụ. Khớp vùng sọ

- Khớp nhau nhờ tổ chức xương: Các khớp vùng đầu

4.2. Khớp bán động

- Là loại khớp trung gian, không có bao khớp và khoang khớp.

- Đặc điểm hoạt động: Chỉ hoạt động trong những thời kỳ nhất đinh của quá trình phát triển và hoạt động sống của cơ thể. Khớp bán động háng và bán động ngồi chỉ hoạt động khi gia súc đẻ.

- Cấu tạo: Giữa hai đầu khớp là tổ chức sụn

*Ở gia súc già: tổ chức sụn cốt hoá làm cho hai đầu xương gắn lại với nhau dẫn đến là giảm khả năng hoạt động.

4.3. Khớp toàn động.

Sự hình thành: từ khớp bất động:

- Tổ chức sụn của khớp xuất hiện một điểm khuyết, điểm khuyết này lớn dần.

- Cốt mạc lan từ xương này sang xưong kia tạo thành xoang quan tiết.

- Hai mặt đầu khớp còn phủ một lớp sụn.

Các loại khớp toàn động

- Khớp toàn động đơn trục: trục vận động thẳng góc với thân xưong (gấp duỗi), hoạt động của khớp thường theo kiểu ròng rọc.

Ví dụ ở các khớp chi: khớp khuỷu, cổ chân, đầu gối, khớp ngón.

- Khớp song trục: hai trục hướng thẳng góc lên nhau, trên dưới & phải trái.

Thường có kiếu khớp bầu: diện khớp hình bầu dục, một bên lồi & một bên lõm,

Ví dụ: khớp giữa đốt chẩm và đốt Atlas)

- Khớp đa trục: Đảm bảo sự vận động tự do nhất. Điển hình là kiểu khớp cầu (cử động xoay vòng) như khớp xương bả vai với xương cánh tay, khớp giữa xương chậu với xưong đùi.

* Khả năng hoạt động tuỳ thuộc vào cấu tạo mặt khớp:

Căn cứ phân loại theo hình thể diện khớp (kiểu phân loại không phổ biến) :

- Khớp phẳng: như khớp cườm

- Khớp lồi cầu: như khớp vai- cánh tay

- Khớp chỏm: như khớp chậu đùi

- Khớp ròng rọc: như khớp khuỷu

- Khớp bầu: Khớp lồi cầu chẩm.

Khoang khớp chứa hoạt dịch, kín, có tác dụng ép hai đầu xương dưói tác dụng của áp lực không khí bên ngoài làm giảm một phần sức co của cơ.

4. 4. Dây chằng

- Dây chằng ngoại biên: bao gồm những bó sợi sinh keo đàn hồi nằm ngay trong bao sợi hay tập trung thành từng bó riêng biệt ở bên ngoài.

- Dây chằng gian khớp: ám nối giữa hai mặt khớp và nằm trong bao khớp

- Dây chằng ở xa đến trợ lực: gồm các gân, cơ, cơ bám ở đầu xương

* Dây chằng loại trắng: Trắng xà cừ, không co giãn được như dây chằng ngoại biên và dây chằng gian khớp

* Dây chắng loại vàng: màu vàng, đàn hồi như dây chắng cổ

4.5. Cấu tạo khớp toàn động

Các thành phần cấu tạo của khớp toàn động gồm: mặt khớp, sụn khớp, bao khớp, dây chằng, xoang khớp, dịch khớp.

(1) Mặt khớp: gồm hai hoặc nhiều đầu xương tiếp giáp với nhau. Đầu mỗi xương được bao bọc bởi một lớp sụn mặt khớp mỏng. sCác đầu xương thường có hình thể đối chiếu nhau: Hình chỏm đối chiếu với một xoang khớp (như khớp bả vai-cánh tay, khớp chậu-đùi); lồi cầu đối chiếu với ròng rọc (như khớp khuỷu)...

( 2) Sụn khớp để hai xương khớp khít vào nhau, đôi khi giữa chúng còn có các sụn bổ trợ như:

- Sụn chêm: Chêm chặt giữa hai đầu xương, dày mỏng tuỳ theo khớp và di chuyển theo động tác của khớp như ở khớp thái dương hàm, khớp đầu gối.

- Sụn viền: ở hố của một đầu khớp có tác dụng "khơi sâu" mặt khớp để đầu lồi của mặt kia cố định chắc chắn vào ổ khớp. Sụn có hình đồng xu, hình đáy cốc (như ở khớp chậu đùi, khớp vai cánh tay)

(3) Bao khớp: có hình túi bao bọc xung quanh khớp gồm cả 2 đầu xương và các sụn bổ khuyết. Tuỳ theo chiều cử động mà độ dày mỏng ở các vị trí khác nhau. Bao khớp gồm hai lớp:

- Lớp ngoài là màng sợi dày: khoẻ chứa các sợi Collagen từ màng bọc xương kéo đến, các thần kinh cảm giác, xúc giác. Lớp này có nhiệm vị bảo vệ.

- Lớp trong là bao hoạt dịch (synovial membrane): là mô liên kết sợi xốp, giàu mạch máu và sợi đàn hồi, có các tế bào tiết dịch (hoạt dich, trong, vàng nhạt có tác

dụng bôi trơn)

(4) Xoang khớp: là khoảng trống bao quanh hai đầu xương và các sụn khớp được giới hạn bởi bao hoạt dịch và chứa đầy hoạt dịch hay dịch khớp. Dịch khớp (synovial fluid): trong suốt, màu vàng nhạt, nhờn nhưng không dính, từ mạch máu chuyển ra.

Tác dụng: bôi trơn, giảm ma sát mặt khớp và dinh dưỡng dinh dưỡng cho sụn khớp.

(5) Dây chằng: Là những bó sợi sinh keo đàn hồi nối hai đầu xương với nhau. Dây chằng cùng với bao khớp giữ chiều hoạt động của khớp.

- Dây chằng ngoại biên: là dây chằng nằm trong hoặc ngoài vách bao sợi.

- Dây chằng gian khớp: nằm trong xoang khớp, bám nối giữa hai mặt khớp, nằm bên trong màng hoạt dịch.

Ngoài ra còn có gân, cân của các đầu xương trợ lực cho bao khớp, giữ cho khớp khỏi chệch, mặc dù nó không phải là thành phần của bao khớp. Hai loại dây chằng trên thường có mầu trắng xà cừ, ít đàn hồi. Trong cơ thể còn loại dây chằng màu vàng có tính đàn hồi cao như dây chằng cổ.


CHƯƠNG 2. HỆ CƠ

1. Đại cương về hệ cơ

(1) Hệ cơ cùng với xương, khớp tạo nên hệ vận động của cơ thể. Khi cơ co sinh ra công và lực phát động làm di chuyển một bộ phận hoặc toàn bộ cơ thể.

(2) Cơ tham gia cấu tạo nên thành, vách các nội quan: hệ tiêu hoá, hô hấp, tuần hoàn, niệu sinh dục. Cơ co rút tạo nên sự vận động của các cơ quan đó.

(3) Cơ vân (cơ xương) bám vào các xương và chịu sự điều phối của thần kinh trung ương và góp phần tạo nên hình dáng cơ thể. ở động vật có khoảng 250 cơ chiếm 36- 45% khối lượng cơ thể. Phần lớn là cơ chẵn, một ít cơ lẻ.

(4) Cơ có các đặc tính: tính co rút, tính đàn hồi, tính kich thích, và tính truyền dẫn . Mọi sự vận động của cơ đều là kết quả của sự co rút. Tốc độ co rút cơ ở các loaì rất khác nhau

(5) Sự cường cơ là trạng thái co rút của cơ khi cơ thể ở trạng thái nghỉ. Vì sự co của một nhóm cơ này luôn được cân bằng bởi tính cường cơ của một nhóm cơ duỗi khác. Tính cường cơ đảm bảo tư thế đứng của con vật. Các nguyên nhân nào làm suy giảm tính cường cơ đều làm con vật mất cân bằng và ngã xuống.

2. Phân loại cơ

3. Cấu tạo và hình dạng của cơ vân

Hình 1. Cấu trúc của cơ vân

3.1. Hình dạng: Phần lớn cơ vân có hai đầu: đầu thân thịt và đầu kia là gân.

- Đầu bám gốc (điểm khởi đầu), thường cố định khi vận động

- Đầu bám tận (điểm đi tới của cơ), thường là điểm vận động

Tuy nhiên việc xác định trên chỉ là tương đối: đầu bám gốc trong cử động này lại là điểm vận động đối với một cử động khác.

+ Phần thân thịt:

Gồm những sợi cơ xếp song song với nhau tạo thành bó cơ được bọc ngoài bởi màng liên kết sợi xốp mỏng. Nhiều bó nhỏ họp lại thành một bó lớn hơn và ngoài cùng được bao phủ bằng một màng liên kết sợi xốp. Trong các bó cơ và xen kẽ giữa các bó cơ có nhiều mạch quản và thần kinh phân bố nên cơ có màu đỏ.

+ Phần gân của cơ thì nối với xương.

Hình dạng cơ: Cơ được chia ra:

- Cơ dài: Thường gặp ở các chi, có hình thoi, gồm một bụng là phần phình của cơ, có chỏm ứng với điểm bám gốc và đuôi ứng với điểm bám tận

- Cơ ngắn: Chủ yếu ở lớp cơ sâu giữa các đốt sống ở mặt lưng và cơ gian sườn.

Ngoài ra cơ còn có những dạng phức tạp như:

- Cơ nhiều đầu: xuất phát từ nhiều điểm bám gốc rồi tập hợp lại thành một cơ chung: cơ tam đầu cánh tay, cơ nhị đầu đùi.

- Cơ nhiều đuôi : từ một cơ phát ra nhiều đầu gân bám tận: cơ gấp và duỗi các ngón và bàn.

- Cơ có nhiều thân : gồm hai cơ nối với nhau bằng đầu gân chung. Đa số các trường hợp các sợi cơ xếp song song với trục của cơ. Trong một số cơ, sợi cơ có hướng xiên.

3.2. Những cấu tạo bổ trợ cho cơ

3.2.1. Cân

Là lớp tổ chức sợi xốp chứa sợi sinh keo, sợi đàn hồi, tế bào liên kết và các dịch mô làm thành một khối nằm xen giữa lớp mỡ dưới da và các cân ở sâu.

Hệ thống cân mạc liên kết chặt chẽ với nhau và liên kết với xương tạo ra những vách hoặc những bao chắc xung quanh cơ.

Cân phát triển không đều ở các bộ phận khác nhau: Phát triển mạnh và chắc ở các chi, kém phát triển ở vùng mặt. Cân hỗ trợ cho sự hoạt động của cơ xương.

3.2.2. Bao gân: gồm hai loại là bao sợi và bao hoạt dịch.

- Bao sợi: Thường ở các chi và do cân biến đổi tạo thành những ống hẹp bao bọc lấy đầu gân. Cấu tạo là tổ chức màng sợi liên kết sợi.

- Bao hoạt dịch: Có dạng ống khép hoàn toàn hay không hoàn toàn bao bọc toàn bộ hay một phần các gân dài ở các chi do các mô liên kết biệt hoá tạo thành và thường ở bên trong bao sợi giúp gân hoạt động dễ dàng.

Giữa 2 lá là xoang hoạt dịch chứa đầy chất hoạt dịch.

Bao hoạt dịch thường có ở các gân chạy qua các khớp cổ tay, cổ chân và bàn ngón (những khớp có các động tác gấp, duỗi) và thường có ống thông với xoang hoạt dịch trong ổ khớp liền kề.

* khi phẫu thuật tránh làm rách nát hoặc lấy gân ra khỏi bao hoạt dịch vì dễ gây đứt mạch máu và thần kinh làm gân bị chết.

3.2.3. Túi hoạt dịch: là những túi nhỏ, kín hình bầu dục hoặc hình hạt đậu.

Cấu tạo bởi 2 màng sợi mỏng bên trong chứa hoạt dịch.

Vị trí: nằm ở lớp cân dưới da, cân mạc cẳng tay, cân mạc đùi v.v..). Tác dụng như 1 cái đệm góp phần làm giảm ma sát khi vận động.

4. Thành phần hoá học của cơ

Nước chiếm 75 - 80%. Vật chất khô: 20 - 25% bao gồm : protit, khoáng, chất hữu cơ khác, các men, nguyên tố vi lượng.

Protit là thành phần chất khô chủ yếu gồm các nhóm : miogen, miozin, các enzin, các chất có chưa N khác như axít amin, creatin, acginin, axít glutamic adenin, guanin, urê. Các chất khác : Các chất chứa photphat,glicozen, cholesteron, lypit, .v.v.

5. Phân tích hoạt động của cơ

Cơ co rút sẽ sinh ra công, khoảng 1/4 - 1/3 năng lượng hoá học biến thành cơ năng và sinh nhiệt. Nguồn phát sinh ra thân nhiệt chủ yếu là do sự co của cơ. Phần lớn các cơ trong cơ thể đều bám vào xương. Cơ co rút thì xương vận động xung quanh các khớp. Sự vận động cơ xương thường theo những nguyên tắc đòn bẩy cơ học trong đó

- Cơ là bộ phận sinh ra lực phát động.

- Xương là cánh tay đòn chuyển động

- Khớp xương là điểm tựa.


Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top