giai đoạn phát triển thần kỳ của kinh tế mỹ

Nền kinh tế sau chiến tranh: 1945-1960

Nhiều người Mỹ lo sợ rằng việc kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai và sự cắt giảm chi tiêu quân sự tiếp sau đó có thể đưa đất nước quay lại thời kỳ khó khăn của cuộc Đại khủng hoảng kinh tế. Nhưng thay vào đó, nhu cầu tiêu dùng bị kìm nén đã tạo đà tăng trưởng kinh tế cực kỳ mạnh mẽ trong giai đoạn sau chiến tranh. Ngành công nghiệp ô tô quay lại sản xuất ô tô với thành công lớn, nhiều ngành công nghiệp mới như hàng không và điện tử phát triển nhảy vọt. Nhà ở tăng nhanh, được khuyến khích một phần bởi các khoản thế chấp khá dễ dàng dành cho những người trở về từ quân ngũ, cũng góp phần vào sự tăng trưởng. Tổng sản phẩm quốc dân tăng từ 200 tỷ USD năm 1940 lên đến 300 tỷ USD năm 1950 và hơn 500 tỷ USD năm 1960. Cùng lúc đó, sự tăng vọt tỷ lệ sinh sau chiến tranh, còn được gọi là "sự bùng nổ trẻ em", làm số người tiêu dùng tăng lên. Ngày càng có nhiều người Mỹ được xếp vào tầng lớp trung lưu.

Nhu cầu sản xuất các công cụ phục vụ chiến tranh đã tạo ra một tổ hợp công nghiệp - quân sự khổng lồ (một khái niệm do Dwight D. Eisenhower, Tổng thống Mỹ từ năm 1953 đến 1961, đặt ra). Nó không bị mất đi khi chiến tranh chấm dứt. Khi Bức màn sắt hạ xuống cắt ngang châu Âu và nước Mỹ thấy mình bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh lạnh với Liên Xô, chính phủ vẫn duy trì khả năng chiến đấu thực sự và đầu tư vào những vũ khí tinh vi, chẳng hạn như bom hydro. Viện trợ kinh tế cho các nước châu Âu bị chiến tranh tàn phá theo Kế hoạch Marshall cũng giúp duy trì thị trường cho nhiều hàng hóa Mỹ. Và bản thân chính phủ cũng nhận ra vai trò trung tâm của mình trong các hoạt động kinh tế. Đạo luật việc làm năm 1946 đã khẳng định chính sách của chính phủ là "thúc đẩy tối đa việc làm, sản xuất và sức mua".Trong khi đó, các doanh nghiệp bước vào thời kỳ được đánh dấu bởi sự sáp nhập. Các hãng hợp nhất lại tạo ra những tập đoàn kinh tế đa dạng khổng lồ. Ví dụ như Tập đoàn điện thoại và điện báo quốc tế (International Telephone and Telegraph) đã mua lại các hãng Sheraton Hotels, Continental Banking, Hartford Fire Insurance, Avis Rent-a-Car, và nhiều công ty khác.Lực lượng lao động Mỹ cũng thay đổi đáng kể. Trong những năm 1950, số lao động trong ngành cung cấp dịch vụ tăng lên bằng rồi vượt số người sản xuất hàng hoá. Cho tới năm 1956, số lao động Mỹ làm công việc hành chính văn phòng nhiều hơn số công nhân trực tiếp sản xuất. Cùng lúc đó, các nghiệp đoàn lao động đã giành được các hợp đồng lao động dài hạn và những phúc lợi khác cho thành viên của mình.

Thập kỷ 1990 và sau đó

Thập kỷ 1990 đưa đến một vị tổng thống mới, Bill Clinton (1993-2001). Là một người Dân chủ ôn hòa và thận trọng, Clinton đưa ra một số chủ trương giống như những người tiền nhiệm của ông. Sau khi không thành công trong việc thuyết phục quốc hội thông qua một đề xuất đầy tham vọng về mở rộng bảo hiểm y tế, Clinton tuyên bố rằng kỷ nguyên của "chính phủ lớn" ở Mỹ đã kết thúc. Ông đã nỗ lực để tăng cường sức mạnh cho các lực lượng thị trường trong một số lĩnh vực, phối hợp với quốc hội để đưa dịch vụ điện thoại địa phương vào cạnh tranh. Ông cũng đồng tình với những người Cộng hòa để cắt giảm phúc lợi. Tuy nhiên, dù Clinton đã cắt giảm quy mô bộ máy làm việc của liên bang, chính phủ vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ chốt trong nền kinh tế quốc gia. Hầu hết những sáng kiến quan trọng trong thời Chính sách mới và rất nhiều chương trình của giai đoạn Xã hội vĩ đại vẫn được duy trì. Và hệ thống Dự trữ liên bang tiếp tục điều tiết nhịp độ chung của hoạt động kinh tế, với sự cảnh giác cao độ trước bất kỳ dấu hiệu mới nào của lạm phát.

Đồng thời, trong suốt những năm 1990, nền kinh tế vận hành ngày càng lành mạnh. Với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thập kỷ 1980, các cơ hội buôn bán mở ra rất lớn. Những tiến bộ về công nghệ mang lại một loạt các sản phẩm điện tử mới hết sức tinh vi. Những đổi mới trong thông tin viễn thông và hệ thống mạng máy tính đã sản sinh ra một ngành công nghiệp lớn về phần cứng và phần mềm máy tính và cách mạng hóa phương thức hoạt động của nhiều ngành công nghiệp. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng và lợi nhuận của các tập đoàn cũng tăng mạnh. Cùng với lạm phát và thất nghiệp ở mức thấp, những khoản lợi nhuận lớn được đưa vào thị trường chứng khoán đang dấy lên sôi động; chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones chỉ ở mức 1.000 điểm vào cuối thập kỷ 1970 thì năm 1999 đã lên đến 11.000 điểm, góp phần đáng kể vào sự giàu có của nhiều người Mỹ - tuy không phải là tất cả.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: