Giã từ vũ khí Q2 c13-c24

Quyển 2 - Chương 13

Chúng tôi đến Milan lúc sáng sớm, và người ta cho chúng tôi xuống ở ga hàng hoá. Một chiếc xe cứu thương đưa chúng tôi đến bệnh viện Mỹ. Đi xe nằm trên băng ca tôi không thể biết được là chúng tôi đi qua những nơi nào trong thành phố. Khi họ hạ cáng xuống, tôi thấy trước mặt mình là một cái chợ, một quán rượu mở cửa, có một cô gái đang quét dọn. Họ đang tưới nước lên mặt đường và hương dìu dịu của buổi sáng toả trong không khí. Họ đặt chiếc băng ca xuống và đi vào trong. Người thường trực đi ra với họ. Ông có bộ râu màu xám, đội mũ gác cổng và mặc sơ mi ngắn tay. Không thể mang băng ca lên thang máy được nên họ bàn với nhau xem có nên khiêng tôi ra khỏi băng ca. Cho lên thang máy hay chuyển cáng theo cầu thang. Tôi nằm lắng nghe họ bàn bạc với nhau. Sau cùng họ quyết định theo thang máy. Họ đỡ tôi ra.

- Nhẹ nhẹ tay – tôi nói – Chú ý nhé.

Thang máy chứa nhiều người nên chật chội và đôi chân phải co lại làm tôi đau điếng.

- Hãy kéo thẳng chân tôi ra – tôi bảo.

- Không thể được, thưa trung uý. Ở đây không phải là một gian phòng.

Người nói câu đó đang ôm quanh người tôi, còn tay tôi thì ôm cổ anh. Hơi thở anh phả vào mặt tôi, nồng nặc mùi tỏi và rượu.

- Chú ý kìa – người kia nói.

- Cậu coi tớ là một thằng tồi hay sao?

- Tớ chỉ bảo cậu chú ý.

- Đã bảo chịu khó tí mà – người giữ chân tôi nói lại.

Tôi thấy ông thường trực đóng cửa thang máy rồi cửa sắt. Ông bấm nút lầu tư. Trông ông ta có vẻ bận rộn. Chiếc thang máy đi lên từ từ.

- Nặng lắm hả? – tôi hỏi người đàn ông nồng nặc mùi tỏi và rượu.

- Không sao – anh đáp. Mặt anh đẫm mồ hôi và anh càu nhàu.

Chiếc thang máy lên thẳng rồi dừng lại. Người giữ chân tôi mở cửa thang máy bước ra. Chúng tôi đang ở trên bao lơn bệnh viện có nhiều cửa nắm khóa bằng đồng. Người giữ chân tôi ấn nút chuông. Chúng tôi nghe thấy tiếng chuông reo.Nhưng không có ai cả. Lúc đó ông thường trực mới xuất hiện ở đầu cầu thang.

- Họ đâu cả rồi? – Những người khiêng băng ca hỏi.

- Tôi không biết – ông thường trực trả lời – Họ ngủ cả ở dưới kia.

- Ông bảo hộ ai đi.

Ông thường trực lại ấn chuông reo và gõ cửa đi vào. Khi ông trở ra thì có một bà đứng tuổi mang kính theo sau. Tóc bà cặp rối sắp sửa xổ tung ra. Bà mặc sắc phục y tá.

- Tôi không hiểu – bà ta nói – Tôi không hiểu được tiếng Ý.

- Tôi nói được tiếng Anh – tôi đáp – Họ muốn biết là đặt tôi ở đâu.

- Không có phòng nào sẵn cả. Người ta không chờ đón bệnh nhân nào cả - Bà ta vấn tóc lại và quan sát tôi với đôi mắt cận.

- Bất cứ phòng nào cũng được. Hãy tìm cho tôi một phòng trỗng].

- Phòng nào cũng trống cả - ông thường trực nói – ông là thương binh đầu tiên – ông cầm chiếc mũ ở tay và nhìn bà y tá đứng tuổi.

- Nhân danh Chúa, xin hãy đem tôi vào một phòng nào đó.

Chân tôi co lại, đau đớn tăng lên. Ông thường trực mở cửa đi vào với bà có mái tóc ngả màu muối tiêu, rồi vội vã trở ra nói “Hãy theo tôi”. Họ khiêng tôi qua dãy hành lang dài đi vào một căn phòng có treo màn cẩn thận. Trong phòng có một chiếc giường, một cái tủ to có gương.Họ đặt tôi xuống giường.

- Tôi không thể trải nệm lên được – bà ta nói – Vải nệm để trong tủ khóa rồi.

Tôi không thèm nói chuyện với bà ta nữa.

- Tiền trong túi tôi đây này – tôi bảo ông thường trực - Ở túi áo khuy ấy – Ông thường trực lấy tiền ra. Hai người khiêng băng ca đến cạnh giường, mũ cầm tay. Tôi bảo ông thường trực – Đưa cho mỗi người năm đồng “lia”. Còn phần ông năm đồng. Giấy tờ của tôi ở túi bên kia, ông có thể lấy đưa cho bà y tá.

Mấy người khiêng băng ca giơ tay chào tôi và cám ơn.

- Chào các anh – tôi đáp – Cám ơn nhiều lắm.

Họ chào tôi một lần nữa rồi đi ra.

- Giấy tờ này – tôi bảo bà y tá – có tất cả những chỉ dẫn về vết thương của tôi và phương hướng đã điều trị.

Bà cầm lấy giấy và đọc qua đôi kính. Có tất cả ba tờ giấy gấp lại.

- Tôi không biết phải làm gì đây – bà ta nói - Tôi không thể đọc được tiếng Ý. Tôi không thể làm gì nếu không có lệnh của bác sĩ.

Bà ta liền khóc và cho tất cả giấy tờ vào túi áo choàng của bà.

- Phải ông là người Mỹ không? – Bà ta hỏi tôi với giọng nghẹn ngào.

- Phải. Bà làm ơn để giấy tờ trên bàn cạnh giường giùm tôi.

Gian phòng mát và tối mờ. Khi tôi đặt lưng xuống giường, tôi nhìn thấy chiếc gương to đặt cuối phòng nhưng không thấy được trong gương phản chiếu những gì. Ông thường trực đứng cạnh giường, mặt ông trông dễ thương và tử tế.

- Ông có thể đi được rồi – tôi bảo ông rồi quay sang bà y tá – Bà cũng có thể đi được rồi. À tên bà là gì ạ.

- Walker.

- Thưa bà Walker, bà có thể đi được rồi8 ,có lẽ tôi sắp ngủ đây.

Còn lại một mình tôi trong phòng vắng. căn phòng mát mẻ và không có mùi nhà thương. Nệm cứng và dễ chịu, tôi nằm không động đậy, thở khó nhọc, và cảm thấy sung sướng vì đã bớt đau. Một lúc sau, tôi muốn lấy một ly nước. Tôi tìm cái dây chuông ở cạnh giường, tôi giật chuông nhưng chẳng ai vào cả. Tôi đành ngủ.

Khi thức giấc, tôi đưa mắt nhìn quanh. Ánh mặt trời xuyên qua tấm cửa chớp. Tôi thấy cái tủ lớn, những bức tường trơ trọi và hai cái ghế. Trong lớp băng bẩn, đôi chân tôi duỗi thẳng ra trên giường. Tôi khát nước và cố với bấm chuông. Có tiếng mở cửa, nhìn ra đó là một cô y tá. Trông nàng còn trẻ và đẹp.

- Chào cô – tôi nói.

- Chào ông – nàng vừa nói vừa tiến đến gần giường. – chúng tôi không thể gọi bác sĩ được. Ông ấy đi vùng hồ Como. Chẳng ai biết có bệnh nhân tới cả. Ông bị sao thế?

- Tôi bị thương ở ống chân, bàn chân và đầu tôi bị sây sát.

- Tên ông là gì?

- Henry, Frederic Henry.

- Tôi sẽ lau rửa vết thương cho ông. Nhưng chúng tôi không thể động tới băng bó trước khi bác sĩ đến.

- Cô Barkley có ở đây không cô?

- Không, ở đây không có ai tên đó cả.

- Còn cái bà khóc khi tôi đến là ai?

Cô y tá bật cười.

- Đó là bà Walker. Bà trực đêm ấy, và lúc ông đến bà hãy còn ngái ngủ. Bà ấy không đợi ai cả.

Vừa nói chuyện nàng vừa thay quần áo cho tôi, nàng làm rất nhẹ nhàng, êm ái, khiến tôi cảm thấy dễ chịu. Chung quanh đầu tôi đều có băng, nhưng nàng rửa ở chung quanh rìa thôi.

- Ông bị thương ở đâu?

- Ở Tsonze, phía bắc Plava.

- Nơi đó ở đâu?

- Ở bờ sông Gorizia.

Tôi thấy nàng không biết tí gì về những nơi ấy cả.

- Ông có đau nhiều lắm không?

- Không, bây giờ thì đỡ đau nhiều.

Nàng cặp nhiệt độ vào miệng tôi.

- Người Ý cặp nhiệt độ dưới nách – tôi nói.

- Đừng nói – nàng bảo.

Nàng lấy cặp nhiệt độ ra đọc số rồi lắc.

- Bao nhiêu độ, cô?

- Tôi thiết tưởng ông không nên biết điều đó.

- Cứ nói cho tôi biết.

- Gần như là bình thường.

- Tôi không hề bị sốt. Chân tôi đầy những mảnh đạn.

- Ông muốn nói gì thế?

- Chân tôi đầy những mảnh đạn, đinh ốc cũ, lò xo và nhiều thứ nữa.

Nàng khẽ lắc đầu và mỉm cười.

- Nếu chân ông có vật lạ thì đã sưng và bị sốt.

- Được rồi – tôi bảo – Hãy chờ xem ra sao.

Nàng đi ra khỏi phòng và trở vào với bà y tá già. Cả hai người soạn giường mà không phải nhắc tôi lên. Đó là một điều hoàn toàn mới mẻ và tôi rất thán phục.

- Ai đứng đầu bệnh viện này, cô?

- Cô Van Campen.

- Ở đây có bao nhiêu y tá cả thảy?

- Chỉ có hai chúng tôi.

- Liệu có thêm nữa không?

- Có, chúng tôi đang đợi.

- Khi nào họ đến đây?

- Tôi không biết. Ông hỏi nhiều quá mà đáng lẽ một người ốm như ông không nên.

- Tôi không đau ốm gì cả. Tôi chỉ bị thương thôi – tôi bảo

Họ đã làm giường xong, và tôi nằm trên một tấm nệm sạch, êm và trên người tôi đắp một chiếc chăn khác nữa. Bà Walker đi ra ngoài rồi trở lại mang cho tôi cái áo ngủ. Bà mặc cho tôi, và tôi cảm thấy sạch sẽ tử tế.

- Bà tốt với tôi quá – tôi bảo. Cô y tá Gage cười khúc khích – Cô cho tôi xin một ít nước được không? – tôi hỏi.

- Được chứ và sau đó ông sẽ ăn điểm tâm.

- Tôi không muốn ăn điểm tâm. Cô vui lòng mở những cánh cửa ngoài ra giùm tôi được không?

Khi nãy gian phòng mờ tối nhưng lúc mở cửa ra thì tràn ngập ánh sáng. Tôi nhìn ra cửa sổ, thấy một chiếc bao lơn và a hơn là ống khói cùng những mái ngói. Phía trên mái ngói là những cụm mây trắng và bầu trời xanh thẫm.

- Cô không biết bao giờ những cô y tá khác đến đây à?

- Sao ông hỏi mãi thế? Chúng tôi săn sóc ông không tốt hay sao?

- Không, cô tốt lắm chứ.

- Ông có cần bô không?

- Có, tôi thử lựa xem.

Họ đỡ tôi dậy nhưng không được. Sau đó tôi nằm xuống và nhìn ra bao lơn.

- Bao giờ thì bác sĩ tới?

- Khi ông trở về. Chúng tôi đã gọi điện thoại đến hồ Como cho ông ấy.

- Còn bác sĩ nào khác nữa không?

- Ông ta là bác sĩ của bệnh viện này.

Cô Gage mang bình nước và ly vào. Tôi uống một hơi ba ly liền, xong họ rời khỏi phòng. Tôi nhìn ra cửa sổ một lúc rồi ngủ thiếp đi. Tôi ăn trưa và chiều hôm đó cô Van Campen, giám đốc bệnh viện đến thăm tôi. Cô người nhỏ, hay nghi ngờ, vượt quá cả cương vị của cô. Cô hỏi tôi rất nhiều và hình như thấy mất thể diện khi phục vụ trong quân đội Ý.

- Tôi có được uống rượu trong bữa ăn không? – tôi hỏi.

- Chỉ khi nào bác sĩ cho phép mới được.

- Thế không thể có trước khi bác sĩ đến à?

- Tuyệt đối không.

- Cô có ý định mời bác sĩ tới không?

- Chúng tôi đã gọi điện thoại cho bác sĩ ở hồ Como rồi.

Cô ta đi ra và cô Gage trở vào.

- Sao ông ăn nói cộc tằn với cô Van Campen thế? – Cô vừa hỏi tôi vừa săn sóc tôi rất tài tình.

- Tôi không muốn thế, chính cô ấy đã gắt gỏng.

- Cô ấy bảo ông kiêu căng và ăn nói cộc tằn.

- Đâu. Nhưng một bệnh viện mà không có bác sĩ thì cô nghĩ sao?

- Bác sĩ sắp đến. Họ đã gọi điện thoại cho ông ta rồi.

- Ông ta làm gì ở đấy? Bơi lội à?

- Không, ông điều hành một bệnh viện nữa.

- Thế tại sao họ không mời bác sĩ khác?

- Thôi, nào hãy chịu khó. Bác sĩ sẽ đến đây bây giờ.

Tôi nhờ gọi ông thường trực, khi ông ta đến tôi nhờ ông mua hộ chai Cinzano và mấy tờ báo xuất bản buổi chiều. Ông đi mua rồi đem về cho tôi các thứ gói trong tờ báo. Ông mở gói giấy ra và theo lời tôi mở nút rồi để chai rượu nho, rượu Vermouth dưới gầm giường. Họ đi ra hết, tôi nằm lại một mình trên giường. Tôi đọc báo một lát với những tin tức mặt trận và danh sách những sĩ quan tử thương và huân chương họ được thưởng. Rồi tôi với chai rượu Cinzano ở gầm giường, cầm chai thẳng đứng để trên bụng, còn cái ly mát lạnh tôi để sát bụng. Tôi uống từng ngụm nhỏ, làm rớt cả rượu lên trên bụng và trong khi uống tôi vẫn cầm cái chai như cũ. Tôi ngắm bóng đêm trùn lên những mái ngói thành phố. Mấy con chim én bay lượn vòng quanh, tôi nhìn những con diều hâu bay lượn trên mái, vừa nhấp nháp rượu Cinzano. Cô Gage mang lên cho tôi một ly rượu bia có trứng gà. Khi cô bước vào tôi vội giấu chai Vermouth sang phía bên kia giường.

- Cô Van Campen đã cho một chút rượu Sherry vào trong đó – nàng bảo – Ông không nên cộc cằn với cô ấy. Cô ấy không còn trẻ trung gì mà trách nhiệm bệnh viện này lại quá nặng đôi với cô. Bà Walker lại quá già, không giúp được việc gì cho cô ấy cả.

- Cô ấy là một người phụ nữ đặc biệt – tôi bảo – cô chuyển lời cám ơn của tôi đến cô ấy.

- Tôi sẽ mang bữa chiều lên ngay cho ông đó.

- Tốt lắm, nhưng tôi chưa thấy đói.

Cô bưng khay vào và để lên giường. Tôi cám ơn cô rồi ăn một ít. Bây giờ trời đã tối hẳn và tôi có thể thấy những tia đèn pha quét trên nền trời. Tôi ngắm một lát rồi đi ngủ. Tôi ngủ say, chỉ trừ có một lần tôi giật mình sợ hãi thức giấc, mồ hôi ướt như tắm, xong tôi cố ngủ lại và quên đi giấc mơ hãi hùng. Tôi thức dậy một lúc lâu trước khi trời sáng. Tôi nghe thấy tiếng gà gáy, từ đó tôi thức luôn cho đến sáng. Tôi mệt và đến lúc sáng hẳn thì tôi ngủ lại.

Chương 14

Khi tôi thức giấc, gian phòng đã tràn ngập ánh nắng. Tôi cứ ngỡ mình đã trở lại mặt trận và nằm trong giường duỗi thẳng tay chân ra. Chân tôi đau nhói. Tôi nhìn xuống đôi chân cuốn trong lần băng dơ bẩn rồi bất chợt nhận ra nơi mình đang ở. Tôi bấm nút chuông. Tiếng chuông vang lên trong hành lang. Tôi nghe thấy tiếng giày cao su. Đó là cô Gage. Trong ánh nắng chói loà, cô trông già hơn và không còn đẹp như hôm qua.

- Chào ông, đêm hôm qua ông ngủ có ngon giấc không?

- Dạ cám ơn cô, tôi ngủ ngon giấc lắm – tôi đáp – Tôi có thể cạo râu được không?

- Lúc nãy tôi có vào thăm ông và thấy ông ngủ với vật này bên cạnh ông đây – Nàng mở tủ cầm chai Vermouth đưa lên, rượu trong chai đã gần cạn – Tôi cũng cất luôn chai kia mà tôi đã lấy ra ở dưới gầm giường này đây – Nàng bảo – Sao ông không bảo tôi lấy cho ông một cái ly có phải hơn không?

- Tôi nghĩ có lẽ cô sẽ không cho tôi uống như thế đâu.

- Tôi sẽ để cho ông uống chút đỉnh.

- Thật cô tốt bụng quá.

- Uống lén một mình như thế không tốt. Ông không nên làm thế.

- Vâng, tôi xin nghe lời cô.

- Bạn ông, cô Barkley đã đến – cô nói.

- Thực à?

- Vâng, nhưng tôi không thích cô ấy.

- Rồi cô sẽ thích nàng. Nàng dễ thương lắm.

Cô Gage lắc đầu.

- Tôi chắc rằng nàng phải đẹp lắm. Xin ông nhích qua đây một tí. Thế, được rồi. Tôi sẽ rửa ráy cho ông trước khi dùng điểm tâm.

Cô lấy khăn, xà phòng và nước ấm rửa cho tôi.

- Nhấc vai lên – cô bảo – Tốt lắm.

- Tôi có thể cạo râu trước bữa điểm tâm được không?

- Để tôi cho bác thường trực đi gọi ông thợ cạo – Cô đi ra rồi trở vào nói – Bác ấy đã chạy ra ngoài gọi ông thợ cạo rồi. – Cô nhúng chiếc khăn đang cầm nơi tay vào chậu nước.

Bác thợ cạo bước vào trong phòng với ông thường trực. Ông ta khoảng tứ tuần, râu quai nón vểnh lên. Cô Gage đã xong bèn bước ra ngoài. Bác thợ cạo xoa xà phòng lên mặt tôi rồi bắt đầu cạo. Ông rất nghiêm trang và không hé một tiếng nào.

- Có gì lạ không? Bác có được tin tức gì không? – tôi hỏi.

- Tin tức gì?

- Tin tức gì cũng được. Bất cứ tin gì xảy ra trong thành phố.

- Chúng ta sống trong thời chiến – bác ta bảo – quân địch nghe ngóng ta khắp mọi nơi.

Tôi nhìn lên bác ta.

- Xin ông giữ yên cho – bác vừa nói tiếp vừa cạo râu – Tôi không thể nói gì cả.

- Bác có chuyện gì thế? – tôi hỏi.

- Tôi là dân Ý. Tôi không thể nào có quan hệ với quân địch được.

Tôi không gạn thêm nữa. Ông ta dở người và tối thiểu tôi đang ở dưới lưỡi dao của ông ta, thế là hơn. Có lúc tôi cố nhìn thẳng ông ta.

- Coi chừng đấy – ông ta bảo – Lưỡi dao này sắc lắm đấy.

Khi cạo xong tôi trả tiền và tặng thêm một nửa đồng “lia”. Ông ta đưa trả lại cho tôi.

- Tôi không thể làm thế. Tôi không ở mặt trận nhưng tôi là dân Ý.

- Cút đi.

- Xin phép ông – Nói xong ông ta cuốn vội dao cạo vào trong tờ báo. Ông ta bước nhanh ra khỏi phòng để lại năm xu trên bàn.

Tôi bấm chuông gọi. Cô Gage bước vào. Tôi bảo cô:

- Xin cô vui lòng gọi hộ giùm ông thường trực.

- Có ngay.

Ông thường trực bước vào cố nén cười.

- Có phải bác thợ cạo điên không?

- Thưa trung uý không ạ. Ông ta lầm đấy, ông ta không hiểu rõ và ngỡ rằng trung uý là một sĩ quan Áo.

- Ồ hèn nào – tôi nói.

- Ha! Ha! Ha! – ông thường trực cười to lên – Bác ta trông buồn cười quá. Bác ta bảo nếu lúc nãy trung uý có một hành động nào bác ta sẽ…(Ông để ngón tay trỏ ngang bụng) Ha! Ha! Ha! (Ông cố nín cười) Khi tôi bảo cho hắn rõ trung uý không phải là người Áo. Ha! Ha! Ha!

- Ha! Ha! Ha! – tôi chua chát bảo – Nếu hắn cắt cổ tôi thì buôn cười quá nhỉ? Ha! Ha! Ha!

- Không, thưa trung uý. Không, không. Hắn ta rất sợ người Áo. Ha! Ha! Ha!

- Ha! Ha! Ha! – tôi bảo – Thôi đi ra đi.

Ông ta đi ra rồi mà tiếng cười còn vang dội hành lang. Tôi nghe tiếng chân tiến lại gần. Tôi nhìn ra cửa. Đó là Catherine Barkley.

Nàng vào phòng, đến bên giường tôi.

- Chào anh yêu – Trông nàng tươi trẻ và đẹp vô cùng. Tôi có cảm tưởng là chưa hê thấy người nào đẹp như thế này cả.

- Chào em.

Thấy mặt nàng bỗng nhiên tôi cảm thấy yêu nàng vô hạn. Tôi hoàn toàn bối rối. Nàng nhìn ra phía cửa không thấy ai bèn ngồi xuống cạnh giường và nghiêng mình hôn tôi. Tôi kéo sát người nàng xuống, hôn nàng và nghe rõ cả nhịp tim nàng đập.

- Em yêu quý – tôi nói – Em đến đây thật tuyệt quá.

- Điều đó không khó. Nhưng ở lại lâu thì không được.

- Em phải ở lại đây. Ô, em thật là tuyệt.

Tôi say sưa ngây ngất vì nàng. Tôi không tin là nàng thật, tôi siết chặt nàng trong vòng tay.

- Không nên anh – nàng nói – Anh chưa mạnh hẳn.

- Không, anh mạnh mà. Được mà.

- Đừng, anh chưa mạnh hẳn đâu.

- Không, anh mạnh rồi, anh mạnh rồi mà. Cứ ở lại đây với anh.

- Anh yêu em lắm ư?

- Ừ, anh yêu em thật đấy. Anh yêu điên cuồng. Anh xin em hãy ở lại đây với anh.

- Hãy lắng nghe đôi tim ta đập.

- Anh không biết tim tiếc gì hết. Anh cần em. Anh điên lên vì em đây này.

- Anh yêu em thực ư?

- Đừng hỏi mãi như thế. Này, anh xin, anh xin em, Catherine.

- Được rồi, nhưng một phút thôi nhé.

- Cũng được – tôi nói – Đóng cửa lại.

- Đừng anh, anh không nên thế.

- Có…lại đây…Đừng nói nữa. Ôi, anh xin, lại đây!

Catherine ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường. Cửa phòng mở toang. Sự bồng bột dịu xuống, tôi cảm thấy dễ chịu hơn bao giờ hết.

- Bây giờ thì anh đã tin rằng em yêu anh rồi đấy chứ? – nàng hỏi tôi.

- Em rất duyên dáng – tôi nói – Em phải ở lại đây. Họ không thể đuổi em đi đâu. Anh điên lên vì yêu em.

- Chúng ta phải thận trọng. Như thế là điên rồ. Chúng ta không thể làm như thế.

- Được, ban đêm?

- Chúng ta phải thận trọng. Riêng anh, anh phải dè dặt, thận trọng trước mặt mọi người.

- Anh xin hứa với em.

- Nhớ nghe anh. Anh đáng yêu lắm. Anh yêu em lắm phải không hả anh?

- Đừng nhắc lại điều đó mãi nữa. Em không biết như thế sẽ làm anh bực mình sao?

- Em sẽ chú ý. Em không muốn làm anh bực. Em phải đi đây, anh yêu, thật đấy.

- Trở lại ngay em nhé.

- Khi nào tiện em sẽ trở lại.

- Chào em.

- Chào anh yêu quý!

Nàng đã đi xa rồi. Chúa biết là trước đây tôi không muốn yêu nàng. Trước đây tôi không muốn yêu ai cả. Nhưng Chúa biết tôi đã yêu và tôi đã nằm ở gian phòng bệnh viện Milan, mọi có vẻ diễn lại trong trí tôi, tôi cảm thấy khoan khoái và nhẹ nhàng. Một lúc sau cô Gage đi vào.

- Bác sĩ sắp đến – cô bảo – Bác sĩ vừa gọi điện thoại từ Como về.

- Khi nào thì ông ấy đến đây?

- Chiều nay.

Chương 15

Từ đó đến chiều khi bác sĩ đến không có gì xảy ra. Bác sĩ người ổm yếu, thanh mảnh, trầm tĩnh vẻ bàng hoàng vì chiến tranh. Ông gắp những mảnh đạn trong đùi tôi ra một cách khéo léo và thoáng ẩn một sự gớm ghiếc. Ông dùng một loại thuốc tê tại nơi đau gọi là “tuyết”, làm cho thớ thịt cứng lại, không đau, cho đến khi dao hay kẹp lách đến vùng thịt dưới lớp bị tê. Bệnh nhân nhận thấy rõ vùng bị tê ở đâu. Một lát sau sự tinh tế tế nhị của bác sĩ cũng cạn kiệt, và ông xét thấy phải chiếu điện.

- Những kết quả thăm dò như thế không được đầy đủ - ông nói.

Họ chiếu điện cho tôi ở tại Ospedale Maggiore. Bác sĩ chiếu điện là người hăng hái, đắc lực và vui tính. Người ta đặt bệnh nhân nằm thẳng lưng để có thể thấy những mảnh đạn lớn qua máy chiếu điện. Họ hứa sẽ gởi cho chúng tôi phim chiếu điện. Bác sĩ yêu cầu tôi viết vào sổ tay của ông tên tôi, đơn vị và vài cảm tưởng của tôi. Ông bảo những đơn vị ngoại quốc rất xấu xa, tàn bạo và khó chịu. Bọn Áo là bọn chó má. Ông hỏi tôi đã giết được bao nhiêu tên. Thức ra tôi có giết tên nào đâu, nhưng để cho ông vừa lòng tôi đành bảo là tôi đã giết rất nhiều. Cô Gage ở trong phòng với tôi. Bác sĩ choàng tay qua người nàng và bảo nàng đẹp hơn cả nữ hoàng Cleopâtre. Không biết nàng có điều gì không. Cléopâtre là nữ hoàng thưở trước của Ai Cập. Vâng đúng, cô Gage giống Cléopâtre. Chúng tôi trở về bệnh viện nhỏ trong chiếc xe Hồng thập tự và một lúc sau tôi được mang lên thang máy và đặt trở lại giường. Phim chiếu điện đến vào buổi chiều. Bác sĩ đã bảo may ra thì chiều hôm đó ông ta có thể gởi đến và ông ta đã giữ lời hứa. Catherine Barkley đưa cho tôi xem. Người ta bọc phim trong những bao đỏ. Nàng lấy ra và cầm đưa lên đèn và cả hai đứa chúng tôi đều xem.

- Cái này cho chân phải – nàng nói rồi cho vào bao – Còn cái này bên chân trái.

- Để đó đi em – tôi bảo – Lại đây với anh.

- Không được đâu anh – nàng nói – Em chỉ đến một lát để đưa cho anh xem thôi.

Nàng đi ra bỏ tôi nằm đó. Buổi chiều trời nóng bức quá. Tôi mệt vì nằm mãi trên giường. Tôi gởi ông thường trực mua báo, tất cả các số báo nếu được.

Trước khi ông ta trở lại, có ba vị bác sĩ vào phòng tôi. Tôi để ý nên biết được vị bác sĩ nào tay nghề kém thì có khuynh hướng hội chẩn và nhờ sự giúp đỡ trong việc chẩn bệnh. Bác sĩ nào mà không thể mổ được ruột thừa thì sẽ giao lại cho bác sĩ nào không đủ tài sức cắt amidan. Ba vị bác sĩ này thuộc loại đó.

- Đây chàng trai trẻ đây – vị bác sĩ trưởng có đôi bàn tay khéo léo bảo.

- Anh thấy trong người như thế nào? – ông bác sĩ cao gầy có râu hỏi tôi.

Vị thứ ba có mang phim chiếu điện đựng trong bao đỏ lặng lẽ không nói gì.

- Có lẽ tốt hơn nên tháo băng – ông bác sĩ có râu nói.

- Hẳn rồi, xin cô làm ơn tháo thay băng – ông bác sĩ trưởng bảo với cô Gage.

Cô Gage tháo băng ra. Tôi nhìn xuống đôi chân của mình. Lúc ở bệnh viện mặt trận, đôi chân tôi trông giống như khúc dồi cũ. Bây giờ nó đóng vẩy cứng và đầu gối sưng to lên, tái nhợt, còn bắp chân lún xuống nhưng không có mủ.

- Sạch lắm – vị bác sĩ bảo – Sạch lắm, tốt lắm.

- Ồ - vị bác sĩ để râu nói còn ông bác sĩ thứ ba thì đưa mắt nhìn ông bác sĩ trưởng.

- Cử động đầu gối xem nào? – ông bác sĩ có râu bảo.

- Tôi không thể cử động được.

- Cố thử những khớp xuống xem – ông bác sĩ có râu bảo. Trên tay áo ông, ngoài ba sao còn có một gạch nữa, như thế có nghĩa là ông ở vào cấp bậc đại uý.

- Hẳn là thế - bác sĩ trưởng nói rồi hai người từ từ gập nhẹ chân phải tôi lại.

- Ông làm đau chân tôi quá – tôi bảo.

- Được, được thêm chút nữa.

- Thôi đủ rồi, đừng kéo xa thêm nữa – tôi nói.

- Cử động được một phần – vị đại uý quân y nói. Ông ta đứng thẳng người lên – Bác sĩ làm ơn cho tôi xem những phim chụp. Ông bác sĩ kia đưa cho ông ta một trong những phim chụp – Không, chân trái cơ.

- Chân trái đây, thưa bác sĩ.

- Đúng, tôi đang nhìn một góc khác. – Ông trả lại bản chụp và quan sát bản kia một lúc.

- Đấy bác sĩ thấy không? – Ông ta chỉ một vật lạ có hình cầu hiện rõ trong ánh sáng. Họ cùng xem xét bức chụp đó một lúc khá lâu.

- Tôi chỉ có thể nêu lên điều này – vị đại uý quân y có râu lên tiếng – Đây chỉ là vấn đề thời gian, có thể trong ba tháng hoặc sáu tháng.

- Dĩ nhiên là phải để cho nước ở khớp xương có thì giờ tạo nên chất mới.

- Chính thế, đây chỉ là vấn đề thời gian. Dầu tận tâm đến đâu tôi cũng không thể giải phẫu một cái đầu gối như thế trước khi chỗ mảnh đạn không bị nhiễm trùng.

- Tôi đồng ý với bác sĩ.

- Sáu tháng để làm gì? – tôi hỏi.

- Cần sáu tháng để cho chỗ mảnh đạn không bị nhiễm trùng và để cho cuộc giải phẫu hoàn toàn an toàn.

- Tôi không tin thế - tôi nói.

- Thế anh có muốn giữ đầu gối anh lại không?

- Không – tôi đáp.

- Sao?

- Tôi muốn cắt bỏ nó đi – tôi trả lời – Rồi thay thế vào đó một cái móc.

- Anh muốn nói gì? Một cái móc hử?

- Hắn đùa đấy – ông bác sĩ trưởng bảo. Ông vỗ nhẹ vào vai tôi – Hắn ta muốn giữ đầu gối lại chứ. Đó là một chàng trai dũng cảm, anh ta đã được đề nghị gắn huy chương bạc.

- Xin thành thật khen ngợi anh – vị đại uý quân y nói. Ông ta bắt tay tôi – Tôi có thể nói nếu để mổ có kết quả tốt thì nên đợi sáu tháng trước khi mổ đầu gối. Bây giờ thì tuỳ anh, muốn có ý kiến khác cũng được.

- Cám ơn bác sĩ nhiều lắm. Tôi luôn luôn tán thành ý kiến của bác sĩ.

Vị đại uý quân y nhìn đồng hồ tay rồi bảo:

- Chúng tôi phải đi thôi. Chúc anh may mắn.

- Tạm biệt và rất cám ơn – tôi bắt tay vị bác sĩ thứ ba rồi cả ba ra khỏi phòng

- Cô Gage – tôi gọi cô y tá. Cô Gage đi vào phòng.

- Xin cô làm ơn cho mời bác sĩ trưởng trở lại đây một lát – tôi nói.

Bác sĩ vào phòng, mũ cầm tay đứng cạnh giường tôi và hỏi:

- Anh muốn nói với tôi à?

- Vâng, thưa bác sĩ, tôi không thể đợi trong sáu tháng để chờ giải phẫu. Trời ơi, thưa bác sĩ, bác sĩ đã có bao giờ nằm trên giường suốt sáu tháng chưa?

- Không phải lúc nào anh cũng nằm trên giường. Thoạt tiên người ta cho anh ra tắm nắng, rồi sau đó anh có thể đi đứng với đôi nạng.

- Như thế trong suốt sáu tháng rồi mới giải phẫu phải không?

- Đó là cách chắc chắn nhất. Phải để cho các vật lạ không bị nhiễm trùng và dịch ở đầu gối được tái tạo. Có như thế thì khi mổ mới an toàn được.

- Chính bác sĩ cũng tin chắc rằng tôi phải chờ một thời gian như thế à?

- Đó là cách chắc chắn nhất.

- Ở đây ai lo việc đó?

- Một chuyên viên giải phẫu tài ba nhất Milan.

- Ông ấy là đại uý quân y bậc nhì phải không?

- Phải, nhưng ông ấy là một nhà giải phẫu đại tài.

- Tôi không muốn để cho một bác sĩ quân y hạng nhì mổ xẻ tôi. Nếu ông ta tài giỏi, ông ta đã lên hạng nhất rồi. Thưa bác sĩ, tôi biết thế nào là một bác sĩ quân y hạng nhì mà!

- Ông ấy là một nhà giải phẫu đại tài. Tôi thích ý kiến của ông ấy hơn ý kiến của những nhà giải phẫu khác mà tôi biết.

- Tôi có thể gặp một bác sĩ giải phẫu nào khác được không?

- Dĩ nhiên là được, nếu anh muốn. Còn tôi thì tôi luôn luôn theo ý kiến của bác sĩ Varella.

- Ông có thể mời một bác sĩ giải phẫu khác đến xem chân cho tôi không?

- Để tôi gọi Valentini.

- Ai thế?

- Ông là bác sĩ giải phẫu của Ospedale Maggiore.

- Thế thì tốt lắm. Tôi sẽ không quên ơn ông đâu. Xin bác sĩ hiểu giùm cho, tôi không thể nằm trên giường này suốt sáu tháng.

- Nhưng anh đâu phải nằm trên giường mãi. Thoạt tiên người ta cho anh tắm nắng rồi sau đó anh tập vài cử động cho đến khi nào không nhiễm trùng thì người ta giải phẫu cho anh.

- Nhưng tôi không thể chờ đợi sáu tháng.

Vị bác sĩ duỗi thẳng những ngón tay thon trên chiếc mũ rồi mỉm cười.

- Anh nóng lòng trở lại chiến trường đến thế cơ à?

- Tại sao không cơ chứ?

- Thế thì tốt lắm, anh thật là người có tâm hồn cao đẹp – ông cúi xuống hôn nhẹ vào trán tôi – Tôi sẽ cho người mời Valentini. Đừng nóng nảy và tự giày vò mình nữa. Hãy bình tĩnh.

- Xin mời ông uống một tí rượu với tôi nhé.

- Không, cám ơn. Tôi không uống rượu bao giờ.

- Chỉ uống một ly thôi mà.

Tôi bấm chuông gọi ông thường trực mang đến hai ly.

- Không, không. Tôi đi đây, họ đang chờ tôi.

- Chào bác sĩ.

- Chào anh.

Hai tiếng đồng hồ sau, bác sĩ Valentini bước vào phòng. Trông ông có vẻ vội vã, ria vểnh lên. Ông mang cấp hiệu thiếu tá, gương mặt sạm nâu và ông luôn luôn tươi cười.

- Anh làm sao mà bị thương khổ sở như thế này? – Ông hỏi tôi – Đưa tôi xem phim chụp nào. Ừ ừ, phải rồi. Đúng thế. Trông anh khoẻ mạnh như một con trăn. Cô gái đẹp này là ai thê? Người yêu của anh phải không? Cuộc chiến tranh này đáng ghét quá phải không? Anh có cảm giác gì không? Anh thật là con người can đảm. Tôi sẽ làm cho anh khoẻ lại. Như thế này đau à? Anh bảo làm như thế này đau à? Coi bộ mấy ông bác sĩ kia thích làm anh đau lắm hử? Từ đó đến nay họ đã điều trị cho anh những gì nào. Cô gái đó nói được tiếng Ý không? Nàng phải học nói mới được. Thật là một cô gái đẹp. Tôi có thể dạy nàng học. Tôi cũng muốn thành một bệnh nhân nằm đây. Không, nhưng tôi sẽ đỡ không công cho. Liệu nàng có hiểu thế không? Nàng sẽ sanh cho anh một thằng bé con xinh xinh hoặc một con bé tóc hung hung như nàng. Được rồi, tốt lắm, được lắm. Thật là một cô gái đáng yêu! Anh hỏi xem liệu nàng có muốn dùng cơm tối với tôi không. Không, không, tôi không cướp nàng của anh đâu. Cám ơn, cám ơn cô nhiều lắm. Chỉ có thế thôi, tôi chỉ muốn biết có thế thôi – Ông ta vỗ vai tôi – Đừng có băng bó nữa.

- Ông dùng với tôi một ly rượu nhé?

- Một ly à? Được rồi. Mười ly cũng còn được. Thế rượu đâu?

- Trong tủ. Cô Barkley sẽ đi lấy rượu.

- Chúc anh mạnh khoẻ. Chúc cô mạnh khoẻ. Người đâu mà đẹp thế. Tôi sẽ mang cho anh một chai cô nhắc ngon hơn thứ này. – Ông lấy tay chùi ria mép.

- Ông nghĩ xem đến bao giờ thì giải phẫu chân tôi được?

- Sáng mai. Không thể sớm hơn được. Anh phải không ăn gì cả. Đừng ăn gì hết. Người ta phải tắm sạch sẽ cho anh. Tôi sẽ căn dặn vài điều cần thiết với bà y tá già ở dưới lầu. Thôi chào anh. Sáng mai tôi sẽ gặp lại anh. Tôi sẽ mang cho anh thứ rượu cô nhắc ngon hơn loại này. Ở đây thật đầy đủ tiện nghi. Chào anh. Sáng mai sẽ gặp lại.

Ra đến cửa ông còn vẫy tay chào, bộ ria vểnh hẳn lên. Nét tươi cười hiện lên trên khuôn mặt sạm nâu của ông. Trên tay áo của ông có gắn một ngôi sao nằm trong hình vuông vì ông là thiếu tá.

Chương 16

Đêm đó một con dơi bay vào phòng qua cửa sổ thấp, phía bao lơn mà ở đó chúng tôi có thể ngắm đêm về trên những mái nhà trong thành phố. Trong phòng tối đen, chỉ trừ một tia sáng yếu ớt của đêm trên thành phố. Con dơi không sợ gì cả, bay tìm mồi trong phòng giống như ngoài trời. Chúng tôi nằm nhìn theo nó, tôi chắc rằng nó không trông thấy chúng tôi vì chúng tôi yên lặng. Khi nó bay ra ngoài trời rồi, chúng tôi thấy một tia đèn pha chiếu lên trời rồi tắt mất và đâu đấy lại chìm vào trong bóng tối mênh mông. Gió đêm nhẹ thổi và chúng tôi nghe những người lính phòng không trò chuyện trên mái nhà lân cận. Trời mát nên họ phải khoác áo choàng. Tôi lo ban đêm có thể có người lên phòng, nhưng Catherine bảo ai nấy đã yên giấc. Có lúc chúng tôi ngủ thiếp đi. Khi thức dậy tôi không thấy nàng ở trong phòng. Tôi nghe tiếng chân nàng đi dọc hành lang rồi tiếng mở cửa. Nàng lại gần giường và nói mọi việc đều tốt đẹp. nàng đi xuống nhà và thấy ai nấy đều yên giấc. Nàng có đứng ở ngoài cửa phòng cô Van Campen và nghe hơi thở đều đều của cô qua giấc ngủ. Nàng mang bịch bánh bích quy lên, tôi vừa ăn bánh vừa uống Vermouth. Chúng tôi rất đói nhưng nàng bảo tôi phải giải quyết những thứ này trong vòng mấy tiếng thôi. Tôi lại ngủ thiếp đi cho tới sáng. Lúc tôi tỉnh giấc nàng đã đi ra từ bao giờ. Rồi nàng quay trở lại, xinh tươi, đáng yêu và ngồi xuống giường. Mặt trời đã mọc trong lúc tôi ngậm ống cặp nhiệt trong mồm. Hơi sương trên các mái nhà thoang thoảng cùng với mùi cà phê các anh pháo thủ uống trên mái nhà gần đó.

- Ước gì chúng ta được đi dạo – Catherine bảo. – Nếu có được chiếc xe đẩy, em sẽ đẩy anh đi.

- Làm sao người ta có thể đặt anh vào chiếc xe ấy được?

- Ồ, cũng có cách chứ.

- Chúng ta sẽ đi đến công viên và dùng điểm tâm ngoài trời. – Tôi đưa mắt nhìn ra cửa.

- Vâng – nàng bảo – Nhưng bây giờ em phải sửa soạn cho anh để bác sĩ Valentini khám cho anh chứ.

- Anh thấy ông ta có vẻ xuất sắc.

- Em không thích ông ta bằng anh thích. Nhưng em cho rằng ông ta cũng tài giỏi.

- Em đi ngủ lại đi, Catherine, đi đi em – tôi nói.

- Không được, chúng ta chẳng phải đã qua một đêm đẹp đẽ rồi đó sao?

- Liệu đêm nay em có thể còn phải trực không?

- Có lẽ có. Nhưng anh đâu có cần em.

- Có, anh cần em lắm.

- Ồ không, anh chưa mổ bao giờ, anh đâu có biết lúc ấy anh sẽ ra sao.

- Anh sẽ khoẻ như thường.

- Anh sẽ yếu, và em thì chẳng giúp được gì cho anh.

- Thế thì trở lại bây giờ.

- Không được – nàng bảo – Em còn phải làm bảng ghi nhiệt độ cho anh, rồi sửa soạn cho anh đi mổ.

- Em không yêu anh, nếu em thật tình yêu anh, em sẽ trở lại.

- Không ai kỳ cục bằng anh – nàng hôn tôi – Bảng ghi nhiệt độ của anh tuyệt lắm. Nhiệt độ của anh bình thường như những người khác.

- Còn em thì cái gì cũng tuyệt cả.

- Ồ không. Nhiệt độ của anh tuyệt thật mà. Em rất hài lòng.

- Biết đâu con cái chúng ta cũng có nhiệt độ tuyệt như vậy.

- Có thể con cái chúng ta lại có nhiệt độ rất tồi.

- Em sẽ làm gì cho anh để bác sĩ Valentini khám?

- Không nhiều lắm nhưng hơi khó chịu

- Anh không muốn em làm việc đó.

- Em không làm thì ai? Em không muốn ai khác mó vào người anh. Buồn cười quá phải không anh? Nhưng điều đó làm em tức giận khi một ai khác mó vào người anh.

- Cả cô Ferguson, cô Gage và bà y tá kia nữa. À tên bà ta là gỉ nhỉ?

- Bà Walker.

- Đúng rồi. Ở đây có nhiều nữ y tá quá. Cần phải có thêm thương binh nếu không họ sẽ mời chúng em đi nơi khác. Hiện giờ ở đây có bốn y tá.

- Có lẽ sẽ có thêm thương binh. Người ta cần dùng tất cả các y tá vì bệnh viện này khá lớn. Em mong sẽ có thương binh đến. Nếu họ gởi trả em về thì em biết làm gì? Chỉ trừ có thêm thương binh, không thì họ sẽ sa thải em.

- Anh sẽ đi với em.

- Đừng có nói dại. Anh chưa thể đi lại được. Nhưng ráng mau bình phục đi anh yêu, rồi chúng mình sẽ đi đến một nơi nào đó.

- Rồi sau đó ra sao?

- Sau đó chiến tranh có thể sẽ chấm dứt. Nó không thể kéo dài mãi được.

- Anh sẽ bình phục. Valentini sẽ chữa cho anh khỏi.

- Chắc chắn là như thế rồi. Với bộ râu như thế ông ta sẽ chữa khỏi cho anh. Này anh yêu, khi người ta cho anh ngửi thuốc mê thì anh hãy nghĩ tới việc gì khác, chứ đừng nghĩ đến chuyện chúng mình nhé, khi bị thuốc mê người ta hay mê sảng.

- Thế thì anh phải nghĩ gì bây giờ?

- Gì cũng được miễn đừng nghĩ đến chúng mình thì thôi. Hãy nghĩ về bố mẹ anh hay cô nào khác cũng được.

- Không được.

- Vậy thì lúc ấy anh hãy cầu nguyện, chúng sẽ gây cho anh một ấn tượng lớn.

- Nhưng có thể anh sẽ không nói gì cả.

- Đúng đấy. Thường thường người ta không nói gì hết.

- Anh sẽ không nói gì cả.

- Đừng khoe tài, anh yêu. Em xin anh đấy. Đừng có khoe tài. Anh đáng yêu lắm rồi, không cần phải khoe khoang gì hết.

- Anh sẽ không nói tiếng nào cả.

- Anh yêu, bây giờ anh khoe tài với em. Anh biết là anh không cần phải khoe gì hết. Khi người ta bảo anh thở mạnh, anh hãy đọc kinh cầu nguyện hoặc vài câu thơ hay gì đó. Như thế dễ thương hơn và em sẽ được hãnh diện vì anh. Nhiệt độ anh bình thường và anh ngủ như một đứa trẻ con, tay choàng qua một chiếc gối mà anh nghĩ đó là em, hay là một cô gái nào khác, một cô gái Ý xinh đẹp chẳng hạn.

- Không, chính là em mà.

- Dĩ nhiên là em. Ỗ, em yêu anh vô ngần. Rồi đây Valentini sẽ chữa lại cho chân anh lành hẳn. Em rất hài lòng là em không dự cuộc giải phẫu này.

- Đêm nay em có phiên gác à?

- Vâng, nhưng tới lúc đó anh đâu cần đến em?

- Hãy chờ xem.

- Xong rồi anh yêu. Bây giờ anh đã sạch sẽ từ trong ra ngoài. Này, anh hãy nói cho em nghe đi, anh đã yêu bao nhiêu người rồi?

- Chưa có ai cả.

- Cũng chưa yêu cả em luôn à?

- Không, em thì khác.

- Còn bao nhiêu người trước nưã?

- Không có ai cả.

- Với mấy người anh đã…nói thế nào nhỉ? Anh đã…đi lại rồi?

- Không có ai cả.

- Anh dối em.

- Phải.

- Được, không sao. Hãy dối em luôn đi, em muốn anh nói dối với em như thế. Các cô kia có đẹp không?

- Anh chưa hề đi lại với ai cả mà.

- Biết rồi. Nhưng các cô ấy có hấp dẫn không?

- Anh không biết tí gì về việc ấy cả.

- Anh chỉ thuộc một mình em thôi. Thật thế. Anh chưa hề thuộc về một người nào khác cả. Hơn nữa cũng chẳng sao nếu điều đó không thật. Em không sợ họ đâu. Nhưng đừng nhắc họ với em. Này anh, khi một người đàn ông đi lại với một phụ nữ thì đến khi nào họ cho biết giá cả?

- Anh không biết.

- Không biết thật à? Thế họ có bảo là họ yêu người đàn ông không? Kể cho em nghe đi, em muốn biết điều ấy lắm.

- Có chứ. Nếu người đàn ông muốn cô gái nói thế.

- Thế còn anh ta? Anh ta có bảo là anh ta yêu cô gái đó không? Trả lời đi anh, rất quan trọng đây.

- Anh ta cũng nói thế nếu anh ta thích.

- Nhưng còn anh, chẳng bao giờ anh nói thế chứ, phải không anh?

- Không.

- Thật chứ? Anh hãy nói thật với em đi.

- Không mà. (Tôi đã nói dối nàng).

- Em đã biết chắc rằng anh không bao giờ nói thế cả.

Bên ngoài mặt trời đã lên đến mái ngói và tôi có thể nhìn thấy nó lấp lánh trên đỉnh tháp nhà thờ. Tôi hoàn toàn sạch sẽ từ trong ra ngoài. Tôi chỉ còn đợi bác sĩ đến.

- Này, anh như thế đó hả? – Catherine tiếp tục hỏi – Cô gái chỉ nói những gì người đàn ông muốn, phải không anh?

- Không hẳn luôn luôn như thế.

- Còn em thì em sẽ làm thế. Em sẽ nói điều anh muốn và làm tất cả những gì anh muốn. Như thế anh sẽ không bao giờ cần đến những cô gái khác, phải không anh? – nàng sung sướng nhìn tôi – Em sẽ làm những điều anh muốn, em sẽ nói những gì anh muốn, và như thế em sẽ hoàn toàn thành công, phải không anh?

- Phải.

- Thế bây giờ anh muốn em làm gì nào?

- Lại đây nằm với anh.

- Được, em sẽ đến đây.

- Ỗ, em yêu, em yêu, em yêu quý của anh.

- Anh thấy chưa, em làm bất cứ việc gì anh muốn.

- Em đáng yêu quá.

- Em sợ rằng em không biết thật rõ…

- Em đáng yêu lắm.

- Em muốn những gì anh muốn. Em không tồn tại nữa, chỉ có những điều anh muốn…

- Em yêu của anh.

- Em dễ thương. Có đúng là em dễ thương không? Này, anh không muốn cô nào khác đấy chứ?

- Không.

- Em đã hoàn toàn chiều theo ý của anh đó, anh thấy chưa?

- Anh thấy chứ. Em dễ thương, em làm tất cả những điều mà anh muốn.

Chương 17

Sau cuộc giải phẫu, khi tỉnh dậy, tôi biết rằng mình chưa chết. Mình không chết được. Người ta chỉ là mình ngạt thở thôi. Điều đó không có gì giống cái chết cả. Đó chỉ là phương pháp hóa học làm cho ta mê đi để cuối cùng không còn cảm giác gì nữa. Sau đó ta có cảm tưởng giống như say rượu nhưng chỉ khác một điều là lúc nôn mửa thì chẳng có gì tháo ra ngoài trừ mật xanh, và vẫn không thấy dễ chịu gì hơn.

Một lát sau tôi nhận ra Gage và cô hỏi:

- Bây giờ anh cảm thấy như thế nào?

- Tốt hơn – tôi đáp.

- Bác sĩ đã làm một công việc kỳ diệu trên đầu gối của anh.

- Lâu không?

- Hai tiếng rưỡi đồng hồ.

- Tôi có nói sảng không?

- Anh không có nói gì cả. Đừng nói chuyện nữa. Nằm yên đi.

Tôi thấy khó chịu trong người và Catherine có lý, tôi chẳng chú ý gì đến cô y tá đêm hôm đó cả.

Giờ đây bệnh viện đã có thêm ba thương binh nữa. Một cậu ở Georgia thuộc Hồng thập tự, gầy yếu, bị sốt rét. Một cậu ở New York trông bảnh trai nhưng cũng gầy ốm bị mắc bệnh sốt rét vàng da. Còn cậu thứ ba là một cậu bé can đảm tìm cách tháo hạt nổ trên một quả đạn pháo để làm kỷ niệm. Đó là loại đạn mà bọn Áo sử dụng trong vùng núi non – sau khi đạn nổ, tên lửa bay đi và nổ tung khi chạm phải một vật gì.

Mấy cô y tá kia rất mến Catherine Barkley, nàng luôn luôn nhận trực đêm. Đôi với các bệnh nhân sốt rét, nàng không phải làm gì nhiều, còn cậu bé đã tháo đầu đạn tên lửa là bạn của chúng tôi, không khi nào cậu ta bấm chuông ban đêm, trừ khi có việc cần kíp lắm. Nhờ thế chúng tôi được gần gũi nhau trong những lúc nàng rỗi. Tôi yêu nàng tha thiết và nàng cũng say đắm yêu tôi. Ban ngày tôi ngủ và khi thức giấc chúng tôi viết thư cho nhau nhờ tay cô Ferfuson chuyển giao. Cô Ferguson thật tử tế. Tôi không biết gì về cô ngoài trừ cô có một người em ở sư đoàn 52 và một người nữa ở Mesopotamia. Cô đối xử rất tốt với Catherine. Có một lần tôi hỏi nàng:

- Sau này cô có đến dự đám cưới chúng tôi không, cô Ferguson?

- Biết bao giờ anh mới lấy vợ.

- Biết đâu đấy!

- Chẳng bao giờ anh cưới vợ cả.

- Tại sao không?

- Hai người sẽ giận dỗi nhau trước khi lấy nhau.

- Không, chúng tôi không làm thế đâu.

- Thời gian còn dài mà.

- Chúng tôi không giận dỗi với nhau đâu.

- Vậy thì anh sẽ chết. Người ta sẽ giận nhau hoặc là chết. Luôn luôn thế, không bao giờ cưới nhau được cả.

Tôi nắm tay cô Ferguson.

- Đừng chạm vào tôi – cô bảo – Tôi không khóc đâu. Biết đâu hai người sẽ được toại nguyện. Nhưng hãy coi chừng, anh đừng làm khổ nàng đấy nhé. Nếu anh làm khổ nàng, tôi sẽ giết anh đấy.

- Tôi sẽ không làm khổ nàng đâu.

- Được rồi, nhưng coi chừng đấy. Tôi mong mọi việc đều êm đẹp. Anh hạnh phúc đấy chứ?

- Vâng, chúng tôi hoàn toàn hạnh phúc.

- Đừng cãi nhau, và đừng làm khổ nàng nhé.

- Không đâu.

- Nhưng nhớ coi chừng giữ gìn cẩn thận đấy. Tôi không muốn thấy nàng có con trong thời loạn ly này đâu nhé.

- Cô Fergy, cô tốt bụng quá.

- Đâu có gì. Thôi đừng nịnh. Chân anh thế nào?

- Rất tốt.

- Còn đầu anh? – cô xoa nhẹ mấy đầu ngón tay trên đầu tôi. Tôi có cảm giác như kiến bò ở chân ấy.

- Không đau gì cả.

- Một vết như thế này có thể làm cho anh điên được. Thế anh không cảm thấy đau đớn gì cả à?

- Không.

- Anh may thật. Viết thư xong chưa? Tôi còn phải xuống đây.

- Đây rồi – tôi bảo.

- Anh nên bảo nàng nghỉ gác đêm một thời gian. Nàng đã quá mệt nhọc rồi đó.

- Được rồi, tôi sẽ bảo nàng.

- Tôi muốn gác đêm thay nàng, nhưng nàng không chịu. Mấy cô kia thì thích để cho nàng gác như vậy lắm. Anh nên để cho nàng nghỉ ngơi một thời gian đi.

- Được rồi.

- A, cô Van Campen có nói bóng gió về việc anh ngủ quá trưa.

- Mặc cô ta chứ!

- Tốt hơn anh nên để nàng nghỉ gác đêm một thời gian.

- Tôi cũng muốn thế.

- Không, anh không muốn thế đâu. Nhưng nếu anh làm được việc đó, tôi sẽ phục anh nhiều hơn.

- Được rồi, tôi sẽ bảo nàng nghỉ.

- Tôi không tin đâu.

Ferguson lấy bức thư rồi đi ra ngoài. Tôi bấm chuông. Một lát sau cô Gage bước vào hỏi:

- Có chuyện gì thế?

- Tôi muốn nói chuyện với cô chứ không có gì. Cô nghĩ xem cô Barkley có nên nghỉ gác đêm một thời gian không? Trông cô ấy có vẻ mệt kinh khủng. Sao cô ấy lại phải gác đêm mãi thế?

Cô Gage nhìn tôi bảo:

- Tôi là bạn anh mà. Anh khỏi phải nói với tôi như thế.

- Cô muốn nói gì, tôi không hiểu.

- Đừng làm bộ ngớ ngẩn. Bộ không phải anh muốn như thế hay sao?

- Cô dùng một ly Vermouth nhé?

- Được rồi, nhưng tôi phải đi ngay đấy.

Cô Gage lấy trong tủ ra một cái ly và chai rượu.

- Cô uống ly đi. Tôi uống bằng chai cũng được.

- Chúc sức khỏe anh – cô Gage nói.

- Thế cô Van Campen đã nói gì về việc tôi ngủ trưa?

- Cô ta chỉ càu nhàu thôi. Cô ta gọi anh là bệnh nhân ưu tiên.

- Quỷ tha cô ấy đi!

- Cô ấy không xấu bụng đâu. Cô ấy lớn tuổi và hay gắt gỏng thôi. Cô ấy không thích anh đâu.

- Tôi biết.

- Còn tôi thì trái lại đấy nhé. Tôi luôn luôn là bạn của anh. Đừng nên quên điều ấy.

- Cô rất dễ thương.

- Thôi đi, tôi biết anh thấy ai là dễ thương rồi. Nhưng dù sao tôi cũng vẫn là bạn anh. Anh thấy chân thế nào?

- Đỡ lắm.

- Để tôi lấy nước khóang rưới lên đó. Chắc là ngứa lắm vì bên ngoài nóng bức.

- Cô tử tế quá.

- Có ngứa lắm không?

- Không, dễ chịu lắm.

- Để tôi sửa những bao cát này lại – Cô vừa cúi xuống vừa bảo. - Lúc nào tôi cũng là bạn anh.

- Tôi biết.

- Không, anh không biết đâu. Nhưng rồi một ngày kia anh sẽ biết.

Catherine Barkley nghỉ gác ba đêm. Khi gặp lại nàng, chúng tôi mừng rỡ tựa hồ như đã cách xa lâu lắm.

Chương 18

Mùa hè thật kỳ diệu. Khi tôi đi được, chúng tôi cùng đi dạo bằng xe ngựa trong công viên. Tôi còn nhớ rõ cỗ xe ngựa đi chậm chạp, phía trước là lưng người đánh xe với chiếc mũ cao bóng loáng và bên cạnh tôi là Catherine. Nếu tay chúng tôi có chạm vào nhau thì chỉ cần mấy đầu ngón tay tôi chạm vào nàng cũng đủ làm cho chúng tôi ngây ngất. Sau đó, lúc tôi có thể dùng nạng để đi lại, chúng tôi dều dùng cơm ở Biffi hay ở Gran Italia và ngồi ở dãy bàn phía ngoài trên bao lơn. Những người hầu bàn tiến lại ra vào. Người qua lại tấp nập. Trên bàn, những ngọn bạch lạp cháy có chụp đèn. Về sau, chúng tôi ăn hẳn ở Gran Italia và George, chủ tiệm ăn dành cho chúng tôi một bàn riêng. Anh là một người dễ thương và chúng tôi để mặc anh lựa món ăn trong khi chúng tôi nhìn thiên hạ, nhìn dãy hành lang dài chìm trong bóng hoàng hôn và nhìn nhau. Chúng tôi uống rượu Capri ướp lạnh cùng nhiều thứ rượu khác. Ở đây họ không có bồi rượu vì lý do chiến tranh và George mỉm cười bối rối mỗi khi chúng tôi hỏi những thứ rượu thuộc loại Fresa.

- Ông thử nghĩ xem một xứ sản xuât rượu gì mà chỉ có mùi như mùi dâu! – Ông bảo chúng tôi.

- Không được sao? – Catherine hỏi – Như thế hẳn là tuyệt lắm chứ.

- Xin bà cứ nếm thử nếu bà thấy thích. Nhưng hãy để cho tôi mang một chai Margaux cho trung uý.

- Để tôi nếm thử xem đã, anh George.

- Thưa trung uý, tôi không bảo đảm thứ rượu đó. Vì nó không có mùi gì, ngay cả mùi dâu cũng không.

- Biết đâu đấy – Catherine bảo – nếu có mùi dâu thì tuyệt.

- Tôi sẽ đem lại – George bảo – Và khi bà nếm thử xong tôi sẽ cất đi ngay.

Thứ rượu đó không ngon như George bảo, nó cũng không gíống mùi dâu nữa. Chúng tôi đành uống lại Capri. Một buổi tối tôi hụt tiền, George cho tôi vay một trăm đồng “lia”. – Trung uý đừng bận tâm. Tôi rất thông cảm. Nếu trung uý hoặc bà cần tiền, tôi bao giờ cũng sẵn sàng.

Sau bữa cơm, chúng tôi đi bộ qua hành lang, qua những nhà hàng và những tiệm khác đã đóng cửa. Chúng tôi ngừng lại một tiệm nhỏ bán bánh mì thịt, lẫn cá thu và rau cải thái nhỏ và dài bằng ngón tay. Chúng tôi mua về để phòng khi đêm đói sẽ ăn. Chúng tôi gọi một cỗ xe ở ngoài hành lang, trước nhà thờ, rồi trở về bệnh viện. Đến cửa bệnh viện, ông thường trực đến đỡ tôi và cặp nạng xuống. Tôi trả tiền xe, và chúng tôi cùng lên thang máy. Catherine dừng lại ở tầng một nơi các y tá ở, còn tôi đi lên trên rồi chống nạng về phòng. Đôi khi tôi thay quần áo đi ngủ, đôi khi tôi ngồi ở bao lơn, chân gác lên ghế nhìn đàn chim én lượn trên mái nhà, để chờ Catherine đến. Khi nàng đến, tôi có cảm tưởng như nàng mới đi xa về. Tôi chống nạng theo nàng. Tôi mang hộ các dụng cụ và đứng ngoài cửa chờ nàng hoặc vào cùng phòng với nàng. Điều đó tuỳ bệnh nhân có là bạn quen hay không. Khi nàng xong việc, chúng tôi trở ra ngồi ở bao lơn trước phòng. Sau đó, tôi vào giường nằm. Khi ai nấy đều ngủ và tin rằng sẽ không còn ai gọi nàng nữa, thì nàng đến phòng tôi. Tôi thích xổ tung tóc nàng ra. Nàng ngồi trên giường không cử động chỉ trừ lúc bất thình lình cuối xuống hôn tôi, trong khi tôi xổ tóc nàng. Tôi tháo mấy cây kẹp tóc để trên giường, tóc nàng xoã ra và tôi ngắm nàng ngồi yên ở mép giường. Tôi liền tháo nốt hai chiếc kẹp cuối cùng và tóc nàng hoàn toàn xoã ra. Và khi nàng cúi đầu thì cả hai chúng tôi nằm kín dưới mái tóc nàng, làm tôi có cảm giác nằm dưới căn lều hoặc một thác nước.

Tóc nàng đẹp vô cùng. Có đôi khi tôi nằm ngắm nàng vấn tóc trong ánh sáng mờ ảo của cánh cửa sổ mở rộng. Dù là trong bóng đêm tóc nàng vẫn ngời sáng như nước lóng lánh trước bình minh. Khuôn mặt và thân hình nàng rất đáng yêu, và cả làn da mịn màng của nàng cũng vậy. Nằm cạnh nàng, tôi mơn man khắp má, trán, cằm và cổ nàng rồi bảo “Da em mịn như phím dương cầm”. Nàng xoa vào căm tôi rồi đùa “Nhẵn như giâ”y nhám và cứng như phím đàn”.

- Nhám lắm hả em?

- Không anh ạ, đùa đấy thôi.

Đêm thật tuyệt diệu. Chúng tôi chỉ cần nằm bên nhau như thế cũng đủ hạnh phúc rồi. Ngoài những lúc như thế, chúng tôi không ở bên nhau, chúng tôi cố đoán xem người kia đang nghĩ gì. Đôi khi chúng tôi đoán đúng vì có lẽ cả hai cùng lúc nghĩ đến một chuyện.

Chúng tôi thích tưởng tượng đã lấy nhau từ ngày nàng đến bệnh viện và chúng tôi tính từng ngày kể từ ngày cưới ấy. Thực ra, tôi muốn cưới nàng nhưng Catherine bảo nếu chúng tôi làm lễ cưới, họ sẽ đổi nàng đi nơi khác và chỉ một việc thi hành thủ tục cũng đủ làm cho họ để ý đến nàng ngay và điều đó sẽ làm đảo lộn cuộc sống. Chúng tôi phải làm lễ cưới theo luật pháp nước Ý và thủ tục sẽ rất phiền toái. Tôi muốn như đã cưới nhau rồi vì mỗi lần nghĩ đến việc này, tôi sợ có con, nhưng chúng tôi giả vờ như đã cưới nhau và không thèm quan tâm đến chuyện đó nữa. Thật ra, trong lòng tôi lại sung sướng vì chưa cưới nhau. Có một đêm chúng tôi bàn về chuyện đó thì Catherine bảo:

- Nhưng anh ơi, người ta sẽ đuổi em đi.

- Không chắc đâu.

- Ỗ, chắc vậy! Người ta sẽ đuổi em về nhà và lúc bấy giờ chúng ta sẽ xa nhau mãi mãi cho đến khi hết chiến tranh.

- Anh sẽ xin nghỉ phép.

- Anh không có đủ thì giờ đi Ireland rồi trở về trong thời gian nghỉ phép. Tuy nhiên em không xa anh đâu. Bây giờ chúng ta làm lễ cưới thì có lợi lộc gì đâu? Chúng ta đã cưới nhau thật rồi đấy. Thế này còn hơn là cưới nhau thật vậy.

- Anh muốn làm lễ cưới là chỉ vì em mà thôi.

- Bây giờ không còn có em nữa. Em là anh. Đừng có tách rời em ra như thế.

- Anh tưởng rằng các thiếu nữ luôn mơ ước được lấy chồng.

- Đúng rồi. Nhưng còn em, anh yêu ạ, em đã có chồng rồi. Em đã lấy anh rồi cơ mà. Em không phải là vợ ngoan sao?

- Em là người vợ rất đáng yêu.

- Anh biết không, anh yêu, đã có lần em chờ đợi ngày cưới.

- Anh không muốn em nhắc đến chuyện đó nữa.

- Anh biết chắc là em chỉ yêu có một mình anh thôi. Có nghĩa lý gì nếu có một người khác yêu em trước anh?

- Quan trọng lắm chứ.

- Không nên ghen với một kẻ đã chết, trong khi anh đã được tất cả.

- Đúng thế, nhưng anh không muốn nghe những chuyện đó nữa.

- Anh ngốc ơi! Còn em, em biết, chắc anh có hàng tá phụ nữ vậy mà em có kể gì đâu?

- Liệu chúng ta có thể làm lễ cưới riêng bằng cách này hay cách khác không? Như thế phòng khi có chuyện gì xảy ra cho anh hoặc phòng khi em có con…

- Không có cách nào khác ngoài cách làm lễ cưới theo tôn giáo hoặc theo luật pháp. Chúng ta đã làm lễ cưới riêng với nhau rồi. Anh biết không ,anh yêu, nếu em có đạo thì chuyện đó sẽ là một vấn đề quan trọng với em, nhưng em không theo đạo nào cả.

- Thế sao em đã cho anh tượng thánh Anthony?

- Vì tượng đó đem lại may mắn. Người ta đã cho em.

- Vậy là em chẳng lo buồn gì cả phải không?

- Chỉ trừ khả năng phải xa anh thôi. Anh là lý tưởng của em. Đời em chỉ có một mình anh thôi.

- Được rồi. Nhưng anh sẽ cưới em ngày nào em muốn.

- Đừng làm như là anh biến đổi em thành một phụ nữ đức hạnh, anh yêu ạ. Em vẫn là người đàn bà đoan chính. Không vì lẽ gì lại hổ thẹn khi người ta hạnh phúc và tự hào. Anh thấy có hạnh phúc không?

- Nhưng em đừng phụ anh nhé?

- Không đâu, anh yêu. Em sẽ không bao giờ phụ anh. Cứ cho là nhiều điều khủng khiếp sẽ đến với chúng ta, em đã nghĩ đến tất cả những gian nguy đang chờ chúng ta. Nhưng chuyện phụ anh, anh không phải lo.

- Anh chẳng lo gì cả. Anh yêu em tha thiết, nhưng anh chỉ là kẻ đến sau.

- Thế người đến trước ra sao?

- Người ấy chết rồi.

- Đúng. Nếu anh ấy không chết thì em đâu có gặp anh. Em không phản bội anh đâu, anh yêu. Em có nhiều khuyết điểm nhưng em rất thuỷ chung. Anh sẽ chóng chán vì sự thuỷ chung của em cho mà xem.

- Sớm muộn gì anh cũng sẽ trở lại mặt trận.

- Đừng nghĩ đến chuyện ấy trước. Anh thấy không, anh yêu, em rất hạnh phúc và chúng ta đã sống những giờ phút thần tiên. Lâu lắm rồi em không biết đến hạnh phúc và khi em thấy nó, em gần như điên lên. Có lẽ em đã điên thật. Nhưng bây giờ chúng ta hạnh phúc và chúng ta yêu nhau. Chúng ta hãy tận hưởng hạnh phúc đã. Anh có cảm thấy hạnh phúc không? Em phải làm gì để vừa ý anh bây giờ. Anh có thích em xoã tóc không? Anh có muốn chúng ta đùa không?

- Ừ, em đi ngủ đi.

- Được rồi, nhưng em còn phải đi thăm các bệnh nhân đã.

Chương 19

Mùa hè cứ vậy trôi đi. Tôi không nhớ rõ lắm nhưng chỉ biết đó là những ngày oi bức và báo chí chỉ nói toàn chiến thắng. Tôi rất khoẻ và hai chân hồi phục nhanh chóng cho nên ít lâu sau tôi có thể dùng gậy thay thế cho nạng, và đâu gối được uốn nắn ở Ospedale, bằng máy móc và tia tử ngoại trong một căn phòng đầy gương. Tôi đến bệnh viện mỗi tuần ba buổi chiều, và trên đường về tôi thường ghé lại quán giải khát để uống và đọc báo. Tôi không la cà trong thành phố mà chỉ ước ao trở về bệnh viện lúc ở quán ra. Tôi chỉ muốn một điều là gặp Catherine. Ngoài ra tôi tìm cách giết thì giờ. Tôi thường ngủ vào buổi sáng và b buổi trưa. Đôi khi tôi đi bộ và buổi chiều đến điều trị bằng máy. Đôi lúc tôi ghé câu lạc bộ Anh – Mỹ. Tôi ngồi vào chiếc ghế tựa lớn bọc da gần cửa sổ và đọc các tạp chí. Từ ngày tôi bỏ nạng, người ta không để Catherine đi chung với tôi nữa, vì nữ y tá đi cạnh thương binh mà bệnh trạng không cần phải có người trông nom thì khó coi. Bởi thế vào buổi chiều chúng tôi không được ở gần nhau lâu. Tuy nhiên, đôi khi chúng tôi cũng có thể cùng đi ăn nếu có cô Ferguson đi chung. Cuối cùng cô Van Campen nhận chúng tôi là bạn thân, vì Catherine giúp cô được vô số việc. Cô cho rằng Catherine xuất thân từ một gia đình tốt và điều này ảnh hưởng đến sự ưu ái của cô. Cô coi trọng vấn đề gia đình. Chính cô cũng xuất thân từ một gia đình rất nề nếp. Hơn nữa bệnh viện luôn luôn bận rộn làm cho cô không có thì giờ rảnh. Mùa hè oi bức quá. Ở Milan này tôi quen biết nhiều người nhưng tôi luôn luôn muốn trở về bệnh viện lúc chiều tàn. Ở mặt trận, chúng tôi đã tiến dọc theo Carso, chiêm được Kuk ở phía bên kia Plava và bắt đầu đánh chiếm các cao nguyên Bainsizza. Tình hình mặt trận phía Tây không được khả quan. Chiến tranh có vẻ kéo dài. Bấy giờ Mỹ vừa tham chiến nhưng tôi nghĩ phải mất cả năm mới huấn luyện đủ quân số thiện chiến. Năm tới cũng có thể tốt mà cũng có thể xấu. Ý dùng một số quân đáng kể. Tôi không thấy tình trạng này làm sao có thể tiêp tục được. Dù cho họ có chiếm được cao nguyên Bainsizza và đỉnh San-Grabrielle thì bọn Áo cũng còn bao nhiêu là dãy núi phía sau. Tôi đã có dịp thấy những dãy núi đó. Những đỉnh cao nhất đều ở phía sau. Chúng tôi đã chiếm xong Carso nhưng hãy còn nhiều đầm lầy ở cạnh bờ biển. Napoléon đã đuổi bọn Áo về phía đồng bằng và chắc chắn không tấn công chúng trên núi. Napoléon sẽ để cho chúng xuống đồng bằng rồi tấn công ở gần Vérona. Nhưng ở mặt trận phía Tây chưa có đánh nhau thật sự. Có lẽ bây giờ không thể thắng trận được nữa. Chiến tranh có thể kéo dài mãi mãi. Có thể đây là một cuộc chiến tranh trăm năm mới. Tôi để tờ báo lên quầy rồi rời khỏi câu lạc bộ. Tôi cẩn thận bước từng bước một xuống bậc thềm rồi đi dọc lên đường Manzoni. Trước khách sạn Gran Hotel, tôi gặp vợ chồng lão Meyers vừa ở trên xe ngựa bước xuống. Họ vừa đi xem đua ngựa về. Bà vợ to béo mặc toàn sa tanh đen. Riêng ông, đó là một ông già nhỏ bé râu bạc, chống gậy đi khệnh khạng.

- Xin chào, xin chào – bà bắt tay tôi.

- Chào bạn – ông Meyers nói.

- Đua ngựa thế nào?

- Tuyệt, thật tuyệt. Tôi trúng được ba con về nhất.

- Còn ông? – tôi hỏi ông Meyers.

- Cũng khá, tôi trúng được một.

- Tôi chả bao giờ biết nhà tôi đang làm gì. Ông ấy không bao giờ nói gì với tôi cả - Bà Meyers xen vào.

- Tốt, tốt lắm – ông Meyers nói. Ông trở nên thân mật – Anh phải đến đấy. – Khi ông ta nói chuyện với bạn, bạn có cảm tưởng như là ông ấy không nhìn thấy bạn hoặc giả lầm bạn với một người nào khác.

- Vâng – tôi đáp.

- Tôi sẽ đến bệnh viện thăm anh – bà Meyers nói – Tôi có một vài món quà dành cho các con. Các anh đều là con tôi cả đấy. Phải, đúng, các anh là những đứa con thân yêu của tôi.

- Họ sẽ vui mừng được bà đến thăm.

- Ỗ,các con yêu quý. Anh cũng thế, anh cũng là một trong những đứa con của tôi.

- Tôi xin kiếu từ ông bà.

- Bảo tôi có lời hỏi thăm các cậu con trai yêu quý của tôi nhé. Tôi sẽ mang đến cho họ nhiều quà. Tôi có kẹo ngon và bánh ngọt.

- Xin chào ông bà. Họ sẽ vui mừng vô hạn khi thấy bà.

- Chào anh – ông Meyers nói – Anh hãy đến tửu quán Galleria chơi. Anh biết bàn của chúng tôi chứ? Các buổi chiều chúng tôi đều có mặt tại đó.

Tôi trở ra đường cái. Tôi muốn mua một món gì ở Cova cho Catherine. Vào đến Cova, tôi mua một hộp kẹo sô cô la, trong khi cô bán hàng gói hộp kẹo, tôi vào quán rượu. Ở đó có hai người Anh và vài viên phi công. Tôi uống một ly Martini, trả tiền rồi đến quầy hàng lấy hộp kẹo xong tiếp tục đi về hướng bệnh viện. Trước quán rượu nhỏ bên đường đi Scala, có vài người tôi quen, viên phó lãnh sự, hai người học ca nhạc và Ettore Moretti, một người Ý ở San Francisco hiện đang phục vụ trong quân đội Ý. Tôi chạm ly với họ. Một trong hai ca sĩ là Ralph Simmons, mang biệt hiệu Enrico Delcrédo. Tôi không biết anh hát hay dở ra sao, nhưng anh luôn luôn có vẻ trịnh trọng, như sắp có một biến cố khủng khiếp xảy ra. Anh đã từng hát trong vở Tosca và thành công mỹ mãn.

- Có lẽ anh chưa bao giờ nghe tôi hát cả - anh bảo.

- Bao giờ anh sẽ hát ở đây?

- Mùa thu này tôi sẽ trình diễn tại Scala.

- Tôi đoán chắc họ sẽ ném ghế vào người anh – Ettore nói – Anh có nghe người ta kể chuyện hắn bị ném ghế ở Modena như thế nào chưa?

- Láo toét!

- Tôi nghe nói anh sắp được huy chương loại nào?

- Tôi không biết. Tôi cũng không biết là tôi sắp được huy chương.

- Anh sắp được rồi. Này các cô gái ở Cova phục anh sát đất đấy. Họ nghĩ anh đã giết hai trăm tên Áo và một mình anh chiếm được căn hầm. Tôi cam đoan với anh là tôi cũng phải hành động mới được ân thưởng.

- Thế anh được bao nhiêu huy chương rồi Ettore? – Viên phó lãnh sự hỏi.

- Hắn có đủ loại – Simmons nói – Chính vì hắn mà người ta gây chiến đấy.

- Tôi đã được huy chương đồng hai lần và ba huy chương bạc – Ettore nói – Nhưng tôi chỉ được giấy chứng nhận có một cái thôi.

- Thế còn những cái kia? – Simmons hỏi.

- Bởi cuộc hành quân thất bại, - Ettore nói – Khi hành quân thất bại thì họ giữ lại tất cả các huy chương.

- Thế anh đã bị thương bao nhiêu lần rồi, Ettore?

- Ba lần bị thương nặng. Tôi bị ba vết thương. Đây thấy không? – hắn kéo tay áo lên. Nhưng vết thương là những cấp hiệu bằng bạc nằm song song với nhau trên nền đen, may đính vào vải ở tay áo dưới vai độ hai tấc.

- Anh cũng có một rồi – Ettore bảo tôi – Trông oai lắm, tôi thích đeo cấp hiệu hơn huy chương. Anh cứ tin tôi đi, ông bạn già ạ, ba cái cũng đủ nói lên điều gì đấy. Người ta chỉ cho mình thêm một cái vì một vết thương khiến mình nằm bệnh viện mất ba tháng.

- Anh bị thương ở đâu hả Ettore? – Viên phó lãnh sự hỏi.

Ettore lật tay áo lên.

- Đây này (hắn chỉ một vết sẹo đỏ nâu và bóng). Ở chân tôi đây, tôi không thể chỉ có các anh được vì tôi đang mang bít tất và ở bàn chân nũa.

- Thế anh bị trúng gì? – Simmons hỏi.

- Loại lựu đạn cầm tay. Ông biết thứ lựu đạn ấy chứ? – hắn quay sang hỏi tôi.

- Biết.

- Tôi biết bọn chó Áo ném – Ettore nói – Nó quật tôi ngã ra và tôi tưởng rằng mình đã chết ngay lúc đó, nhưng không việc gì. Tôi bắn tên chó đó một phát chết ngay tức khắc. Tôi luôn luôn mang súng trường để họ không biết tôi là sĩ quan.

- Khi anh bắn, trông thằng ấy như thế nào? – Simmons hỏi.

- Tôi chẳng biết, - Ettore đáp – Tôi bắn vào bụng nó, vì sợ nếu bắn vào đầu thì trật mất.

- Anh ở cấp sĩ quan đã lâu chưa? – Tôi hỏi.

- Hai năm. Tôi sắp lên đại uý. Còn anh ở cấp trung uý đã bao lâu rồi?

- Độ ba năm.

- Anh không lên đại uý được vì anh không biết tiếng Ý rành rọt – Ettore nói – Anh nói được nhưng đọc và viết không rành. Anh cần phải học tiếng Ý để có thể lên đại uý. Thế sao anh không gia nhập quân đội Mỹ?

- Để xem.

- Cầu trời tôi được lên đại uý. Này, Marc, lương đại uý được bao nhiêu thế?

- Không biết chắc. Vào khoảng hai trăm rưởi đô la.

- Chúa ơi, với hai trăm rưởi đô la đó tôi giải quyết được biết bao là việc. Này Fred, anh cần phải gia nhập quân đội Mỹ mới được, rồi anh tìm cách đưa tôi vào nhé?

- Được rồi.

- Tôi có thể chỉ huy một đại đội bằng tiếng Ý. Tôi cũng có thể chỉ huy bằng tiếng Anh dễ dàng.

- Rồi anh sẽ được thăng đại tướng – Simmons nói.

- Không, tôi không đủ tài sức để làm đại tướng. Một đại tướng cần phải biết nhiều chuyện. Các anh là những kẻ hay chế nhạo người khác. Các anh tưởng rằng chuyện chiến tranh là chơi sao. Đầu óc các anh không được làm đến chức cai hạng bét nữa.

- Cám ơn Chúa, tôi không làm chức cai – Simmons nói.

- Có thể một ngày kia các anh cũng phải làm nếu họ phạt tất cả các dân làm biếng như anh. Này, tôi muốn hai anh gia nhập vào trung đội của tôi. Marc nữa nhé, tôi sẽ cho anh làm lính hậu cần của tôi.

Marc nói:

- Này Ettore, anh có lòng tốt lắm, nhưng tôi e rằng anh là một tay quân phiệt.

- Tôi muốn lên đến chức đại tá trước khi chiến tranh chấm dứt – Ettore bảo.

- Nghĩa là nếu anh không chết trước.

- Tôi không bị chết đâu – Hắn đưa tay sờ mấy ngôi sao đính ở cổ áo – Thấy tôi làm gì đây không? Chúng tôi thường sờ những ngôi sao này nếu có ai nói đến chết chóc.

- Ta đi thôi Sim – Saunders vừa nói vừa đứng lên.

- Ừ thì đi.

- Chào các anh – Tôi bảo – Tôi cũng phải đi đây. Sáu giờ kém mười lăm rồi. Chào Ettore.

- Chào Fred – Ettore nói – Anh nhận được huy chương bạc thì tuyệt lắm.

- Vẫn chưa tiến hành.

- Được mà Fred, tôi nghe bảo anh sẽ nhận được chẳng khó khăn gì.

- Thôi chào anh – tôi bảo – Hãy giữ mình cẩn thận Ettore nhé.

- Ô đừng lo cho tôi. Tôi không uống rượu và cũng không chạy quanh quẩn. Tôi không thích rượu cũng không thích gái. Tôi chọn cái gì tôi thích.

- Chào anh – tôi bảo – Tôi rất vui khi anh lên đại uý.

- Không phải tôi ngồi không để được lên chức. Tôi sẽ lập chiến công để xứng đáng được lên chức đại uý. Anh biết không, ba sao cùng với hai lưỡi gươm chéo nhau và hình vương miện chính là của tôi đó.

- Chúc anh may mắn

- Chúc anh cũng vậy. Bao giờ anh trở lại mặt trận?

- Sắp rồi.

- Thế thì mình sẽ gặp nhau ở đấy.

- Chào anh.

- Chào anh. Nên tránh những việc không may nhé.

Tôi theo phố nhỏ dẫn ra một lối tắt về bệnh viện. Ettore hai mươi ba tuổi. Thưở bé anh ta được một người cậu ở San Francisco nuôi dưỡng. Khi chiến tranh bùng nổ thì anh ta đang thăm cha mẹ mình ở Torino. Anh có một người em gái cũng được gởi sang Mỹ sống chung với cậu anh. Năm nay cô ấy sắp tốt nghiệp trường sư phạm.

Ettore thuộc loại người hùng và đánh gục bất cứ ai khi anh ta tiếp xúc. Catherine không chịu nổi hắn ta.

- Chúng ta cũng biết nhiều tay anh hùng – nàng bảo – Nhưng thường thường họ điềm đạm hơn, anh nhỉ.

- Anh không để ý đến hắn ta.

- Em cũng chẳng cần để ý đến hắn ta làm gì, nếu hắn ta không quá tự phụ và không hiếu thắng. Ô, hiếu thắng đến một mức nào thôi.

- Hắn ta cũng quấy rầy anh vậy.

- Anh nói thế nghe đáng yêu lắm. Nhưng chuyện đó xá kể gì. Anh có thể hình dung hắn lúc ở mặt trận, nơi mà hắn có ích, nhưng đối với em, hắn tiêu biểu cho một hạng người mà em ghét nhất.

- Anh hiểu.

- Anh hiểu thê? Thật đáng yêu. Em đã cố hết sức để có chút tình cảm với hắn, nhưng đúng là một anh chàng đáng ghét, đáng ghét thật sự.

- Hồi chiều này hắn bảo với bọn anh hắn sẽ lên chức đại uý.

- Thế à? – Catherine bảo – Được vậy chắc hắn ta khoái lắm.

- Thế em có thích anh được lên chức cao hơn không?

- Không, anh yêu à. Em chỉ muốn anh có được một chức vừa đủ để được vào ăn ở những chỗ sang trọng mà thôi.

- Thì đúng là cấp bậc của anh đó.

- Câp bậc của anh như thế là tuyệt rồi. Em không cần anh phải lên chức cao. Điều đó có thể làm cho anh bốc lên. Này anh yêu, em vô cùng hài lòng vì anh không tự phụ. Cho dù anh có tự phụ, em cũng lấy anh, nhưng có một người chồng không tự phụ bao giờ cũng dễ thở hơn.

Chúng tôi thì thầm cạnh nhau bên ngoài bao lơn. Trăng đáng lẽ đã lên rồi nhưng sương mù bao trùm thành phố nên không thấy được trăng. Chúng tôi đi vào trong nhà. Bên ngoài sương mù đã chuyển sang mưa. Mưa bắt đầu rơi nặng hạt trên mái nhà. Tôi trổi dậy xem cửa sổ thấp có bị mưa tạt vào không. Nhưng mưa không hắt vào nên tôi vẫn để cửa sổ mở.

- Thế ban chiều anh còn gặp những ai nữa?

- Ông bà Meyers.

- Toàn những người kỳ lạ.

- Đúng ra thì ông ta đang phải ngồi tù tại quê nhà ông ấy. Nhưng người ta lại thả ông ta ra để cho ông chết ở ngoài.

- Và từ đó ông ta sống sung sướng tại Milan.

- Sung sướng à? Anh không hiểu đến mức nào.

- Nhưng em nghĩ phải sung sướng hơn trong tù chứ.

- Bà Meyers sắp mang quà đến đây.

- Bà ta thường mang đến những món quà rất đẹp. Thế bà ta có gọi anh là con yêu của bà không?

- Một trong những người con yêu của bà.

- Các anh là những người con yêu của bà. Bà ta rất thích những cậu con yêu đó. Lắng nghe mưa rơi kìa.

- Mưa nặng hạt quá.

- Và anh sẽ yêu em mãi mãi phải không anh?

- Phải, đúng thế.

- Và mưa rơi nặng hạt cũng không đáng ngại gì phải không?

- Phải, đúng thế.

- Vậy thì tốt lắm, bởi vì em sợ mưa.

- Tại sao?

Tôi buồn ngủ. Bên ngoài trời mưa to.

- Em cũng không biết nữa, anh yêu ạ. Khi nào em cũng sợ trời mưa.

- Còn anh thì thích mưa.

- Em thích đi dạo dưới cơn mưa. Nhưng mưa có hại cho tình yêu.

- Nhưng anh mãi mãi yêu em mà.

- Còn em, em yêu anh, dù mưa, dù tuyết, dù bão, dù gì gì đi nữa.

- Vậy à? Anh buồn ngủ quá.

- Ngủ đi, anh yêu. Dù thế nào đi nữa, em vẫn yêu anh.

- Thế thật tình em không sợ mưa chứ?

- Không, nếu có anh bên em.

- Sao em lại sợ mưa?

- Em không biết nữa.

- Nói cho anh nghe đi nào.

- Đừng bắt em phải nói.

- Nói cho anh nghe đi mà.

- Không, đừng gặng hỏi em.

- Nói cho anh nghe đi.

- Thôi được, vì anh thích. Em sợ trời mưa vì đôi khi em thấy em chết trong mưa.

- Không có đâu.

- Và đôi khi em thấy chính anh cũng chết trong mưa.

- Như thế họa may đúng hơn.

- Không, không đúng, anh yêu. Anh không bao giờ chết cả, vì em biết em có thể che chở cho anh được yên ổn. Em biết là em có khả năng. Nhưng không có ai tự che chở cho mình được.

- Thôi xin em, như thế đủ rồi. Anh không muốn nghe em nói chuyện huyễn hoặc và như một người điên đêm nay đâu. Chúng ta sẽ chẳng còn gần nhau được bao nhiêu lâu nữa.

- Đúng thế, em huyễn hoặc và điên rồ thật. Mà thôi, em không nói chuyện dại dột nữa đâu.

- Ừ, đúng là chuyện dại dột.

- Chỉ toàn là chuyện vô lý nhảm nhí. Thôi, em không sợ mưa nữa đâu. Nhất định không sợ nữa. Trời ơi, ước ao sao đừng sợ mưa nữa.

Nàng khóc nức nở. Tôi dỗ mãi nàng mới nín, nhưng bên ngoài trời vẫn mưa rả rích.

Chương 20

Một buổi chiều chúng tôi đi xem đua ngựa, Ferguson và Crowell Rodgers cùng đi. Rodgers là anh chàng bị thương ở mắt bởi đầu đạn trái phá. Ferguson và Catherine trang điểm sau bữa ăn. Còn tôi và Crowell ngồi ở giường trong phòng đọc các tạp chí đăng tin về những cuộc đua ngựa tuần qua cùng những lời bình luận. Đầu Crowell bị băng nên anh ta không để ý lắm vào những cuộc đua này. Nhưng để giết thì giờ anh ta cứ cầm tờ tạp chí đua ngựa đọc và biết về bước đua của ngựa. Anh ta bảo ngựa chẳng có nghĩa lý gì cả.

Bốn đứa chúng tôi đến San Siro bằng xe ngựa để mui trần. Trời hôm nay thật đẹp. Xe chúng tôi chạy ngang công viên, theo đường xe điện va1 sau khi ra khỏi thành phố, vào một con đường đầy bụi bặm. Nơi đây có nhiều biệt thự rào song sắt, những khu vườn rậm rạp rộng lớn cùng những hào nước chảy và vườn rau phủ đầy bụi. Trên cánh đồng chúng tôi có thể nhìn thấy nhiều nhà cửa và trang trại trù phú xanh tươi với những mương nước tưới tiêu. Những ngọn núi trồi lên ở phía Bắc. Nhiều xe chạy vào trường đua và những người gác cổng để chúng tôi vào tự nhiên không xét hỏi giấy tờ vì chúng tôi mặc quân phục. Chúng tôi xuống xem mua chương trình rồi đi qua sân cỏ vào trong trường đua. Trên sân cỏ một toán lính đứng dài theo hàng rào. Người ta dang cho ngựa quần dưới những tán cây đàng sau khán đài. Chúng tôi thấy nhiều người quen và sau khi kiếm được ghế ngồi cho Catherine và Ferguson, chúng tôi xem xét đàn ngựa.

Những con ngựa đi vòng, con sau nối đuôi con trước, đầu cúi xuống. Một trong mấy con có lông sắc tím đen, Crowell quả quyết là họ sơn nó. Nó ra đúng lúc chuông rung báo giờ lên yên. Chúng tôi kiểm trên chương trình theo số mà người nài ngựa đeo ỏ trên tay. Người ta ghi trong đó là ngựa ô thiến tên Japalac. Độ đua này dành cho những con ngựa ô từng thắng cuộc với giá hơn một ngàn đồng “lia”. Catherine bảo chắc người ta đã đổi màu lông của nó. Ferguson chịu không biết được. Tôi thì nghĩ con ngựa đó có vẻ khả nghi. Chúng tôi đều đồng ý đánh cá nó và đặt một trăm đồng lia. Trên thể lệ ghi gía tiền, nó là con ngựa duy nhất với giá một ăn ba mươi lăm. Crowell đi mua giấy cá ngựa trong lúc chúng tôi theo dõi các kỵ mã vòng lại rồi cho ngựa chậm rãi đến chỗ xuất phát.

Chúng tôi lên ngồi trên khán đài để theo dõi cuộc đua. Ở San Siro người ta không còn dùng dây để ngăn nữa. Người ta đóng những con ngựa trông có vẻ nhỏ đứng xếp hàng. Đằng xa phía cuối sân đua, người ta khoa chiếc roi ra lệnh khởi hành. Những con ngựa chạy qua trước chúng tôi. Con ngựa ô dẫn đầu và đến chỗ ngoặt nó bỏ cách xa những con khác. Nó tiếp tục sải đều như thế cho đến khi cuộc đua chấm dứt.

- Tuyệt quá phải không? – Catherine bảo – Thế thì chúng ta được cả thảy là ba ngàn đồng lia. Thật là một con ngựa hay.

- Tôi mong nó đừng đổi màu trước khi người ta trả tiền cho mình – Crowell bảo.

- Ông có trúng không? – tôi hỏi lớn về phía Meyers. Lão ta gật đầu.

- Còn tôi không trúng gì cả - bà Meyers nói – Còn các con, các con đánh cá con nào?

- Japalac.

- Thế à. Đánh con đó một trúng được ba mươi lăm đấy.

- Chúng tôi thích màu lông của nó.

- Tôi không thích. Trông nó xơ xác quá. Người ta khuyên tôi đừng đánh nó.

- Con ngựa đó không trúng được nhiều – Meyers nói.

- Người ta ghi nó giá một ăn ba mươi lăm – tôi bảo.

- Đánh nó không trúng nhiều – Vào giờ chót Meyers khuyên – Họ đổ nhiều tiền vào nó đấy.

- Ai?

- Kempton và nhiều người khác. Để rồi các anh thấy. Họ không đổi hai lấy một đâu.

- Thế chúng tôi mất ba ngàn đồng lia à? – Catherine nói – Tôi không thích những cuộc đua ngựa gian lận như thế.

- Chúng tôi trúng được hai trăm đồng lia.

- Không đáng kể. Hai trăm bạc chẳng thay đổi được gì. Tôi tưởng là đã trúng được ba ngàn đồng lia.

- Gian lận chán quá – Ferguson bảo.

- Dĩ nhiên – Catherine nói – nếu họ không gian lận, mình không bao giờ đánh con ngựa đó cả. Tuy nhiên tôi thích được ba ngàn đồng lia kia.

- Thôi chúng ta xuống uống cái gì đã rồi xem họ trả mình ra sao – Crowell bảo.

Chúng tôi đi qua chỗ họ dán bảng kết quả số ngựa trúng. Chuông rung báo hiệu họ phát tiền ngựa trúng. Con ngựa Japalac được ghi trúng 18,50 đồng lia, thế có nghĩa là tiền trúng không bằng giá vé.

Chúng tôi đến quán giải khát dưới khán đài để uống một ly whisky-soda. Chúng tôi gặp đôi vợ chồng người Ý tôi quen và ông Mc Adams, viên phó lãnh sự. Khi chúng tôi trở lại kiếm Catherine và Ferguson thì họ cũng lên theo với chúng tôi. Hai người Ý trông rất nhã nhặn và Mc Adams ở lại tiếp chuyện với Catherine khi chúng tôi quay trở xuống tiếp tục đánh cá nữa. Ông Meyers đang đứng cạnh cửa phòng bán vé cặp.

- Hỏi xem ông ta đánh cá con nào – tôi bảo Crowell.

- Ông định đánh cá con nào thế, ông Meyers? – Crowell hỏi.

Meyers rút tờ chương trình ra và lấy bút chì chỉ vào số 5.

- Chúng tôi cùng đánh số đó có phiền gì ông không? – Crowell hỏi tiếp.

- Được chứ, đánh đi. Nhưng nhớ đừng có bảo vợ tôi là tôi chỉ cho anh đấy nhé.

- Ông uống gì không ? – tôi hỏi.

- Không, cám ơn. Tôi không hề uống rượu.

Chúng tôi đánh con số 5 một trăm đồng lia, rồi chúng tôi trở lại uống thêm một ly whisky-soda nữa. Tôi thấy khoan khoái trong người. Chúng tôi gặp hai người Ý khác. Họ uống rượu với chúng tôi xong chúng tôi trở lại chỗ Catherine và Ferguson. Hai người Ý mới này lại càng kiểu cách hơn nữa, họ rất hợp với hai người Ý trước. Ai cũng nôn nao không muốn ngồi một chỗ. Tôi đưa vé cho Catherine:

- Con ngựa nào đây?

- Anh không biết. Ông Meyers chọn đấy.

- Anh không biết cả tên của nó nữa à?

- Không, em tìm trên tờ chương trình xem. Số 5 thì phải.

- Anh dễ tin người quá – nàng bảo – Số 5 thắng nhưng không trúng nhiều. Ông Meyers tức lắm.

- Phải bỏ ra hai trăm đồng lia để được hai chục. – ông ta nói – Mười hai được mười. Nhưng không sao cả. Vợ tôi thua hai chục lia.

- Để em xuống theo anh – Catherine bảo tôi.

Mấy người Y’ cùng đứng lên, chúng tôi bước xuống khán đài đi ra sân đua.

- Anh thích nơi này không? – Catherine hỏi.

- Có lẽ thích.

- Cứ cho là vui đi – nàng nói – Nhưng em, anh yêu ạ, em không thể chịu nổi những chỗ đông người như thế này.

- Chúng ta không gặp mấy ai quen ở đây.

- Vâng, nhưng hai vợ chồng Meyers này, rồi người làm ở ngân hàng với vợ của ông ta này…

- Hắn thường trả phiếu chi của anh – tôi bảo.

- Vâng, nhưng người khác cũng làm việc đó được vậy chứ. Còn bọn người Ý anh dẫn lạt thật kinh khủng.

- Chúng ta có thể đứng sau hàng rào này để xem cuộc đua.

- Được rồi, nhưng anh phải nghe em đây. Chúng ta đánh con ngựa nào chưa hề được nghe nói đến và ông Meyers cũng không cá nó nữa.

- Cũng được.

Chúng tôi đánh con “Light for me”. Con này về nhất bốn kỳ trong năm độ đua. Chúng tôi dựa vào hàng rào nhìn những con ngựa đua chạy lóc cóc trước mặt. Xa xa là những rặng núi sừng sững, phía bên kia là những cánh đồng, thành phố Milan chạy dài sau những rặng cây.

- Em cảm thấy khoan khoái lạ - Catherine bảo.

Mấy con ngựa đang trở về. Chúng vượt rào, mồ hôi nhễ nhại, mấy kỵ mã vuốt ve chúng và đến rặng cây thì nhảy xuống.

- Anh có khát không? Chúng ta có thể uống tại đây và xem đua cũng được.

- Để anh đi gọi – tôi nói.

- Để bồi mang đến cho – Catherine khuyên.

Nàng đưa tay lên gọi người bồi ở quán Pagoda cạnh chuồng ngựa. Chúng tôi ngồi trên một chiếc ghế sắt.

- Anh có thấy hạnh phúc hơn khi chỉ có hai đứa mình?

- Nhất định rồi – tôi đáp.

- Em cảm thấy rất lạc lõng giữa những người này.

- Ở đây mình thoải mái hơn – tôi nói.

- Vâng, cuộc đua ngựa này thật thích thú.

- Ừ, tuyệt.

- Anh yêu, em không muốn làm mất cuộc vui của anh. Khi nào anh muốn, em sẽ trở lại.

- Không, chúng ta cứ ngồi yên ở đây uống rồi sẽ đi xuống bờ sông để xem hồi đua ngựa nhảy rào.

- Anh tốt với em quá – nàng bảo.

Hai đứa ngồi cạnh nhau một lúc rồi vui vẻ gặp lại những người khác. Đó là một ngày đẹp.

Chương 21

Vào đầu tháng Chín, đêm bắt đầu mát. Ngày cũng mát và trong công viên lá bắt đầu đổi màu. Ở mặt trận, cuộc chiến đấu không thu được kết quả gì. Chúng tôi không chiếm được San Gabrielle. Những trận đánh ở cao nguyên Bainsizza đã ngưng và giữa tháng cuộc tấn công San Gabrielle cũng ngưng nốt. Người ta không thể chiếm được nơi đó. Ettore đã trở lại mặt trận. Người ta cũng đã chở những con ngựa về La Mã cho nên không còn những cuộc đua ngựa nữa. Crowell cũng đi La Mã trước khi bị triệu hồi về Mỹ. Ở thành phố có hai cuộc biểu tình chống chiến tranh và ở Torino có một cuộc bạo động trầm trọng hơn. Tại câu lạc bộ, một thiếu tá người Anh đã nói với tôi rằng Ý đã mất một trăm năm chục ngàn người ở cao nguyên Bainsizza và ở San Gabrielle. Ông ta còn nói ngoài ra ở Carso họ còn mất thêm bốn chục ngàn người nữa. Chúng tôi cùng uống rượu và nói chuyện. Ông ta bảo “Năm nay thế là các trận đánh đã chấm dứt ở khu chúng tôi. Dân chúng đã có tham vọng quá lớn”. Ông lại thêm là cuộc tấn công ở Flanders đã thất bại. Nếu địch tiêu diệt quá nhiều như hồi đầu thì đến mùa thu sang năm quân đồng minh sẽ kiệt quệ. Ông ta lại bảo là “Chúng tôi đều kiệt quệ cả, nhưng điều đó không quan trọng, nếu chúng tôi không ngờ tới. Mà tất cả chúng tôi đều kiệt quệ thật”. Tôi hỏi ông về nước Nga. Ông ta bảo nước Nga kiệt quệ hoàn toàn, nước Áo và Ý cũng vậy. “Thôi tôi phải đi đây” – tôi nói “Tôi phải trở về bệnh viện”. “Thôi chào anh” – ông ta nói rồi vui vẻ tiếp “Chúc anh nhiều may mắn”.

Tôi ghé lại tiệm hớt tóc rồi mới về bệnh viện. Chân tôi đã lành hẳn. Tôi không ngờ chân tôi lành mau như vậy. Ba ngày trước tôi còn đi khám lại. Tôi cần phải điều trị thêm vài lần nữa. Dài theo lề đường, tôi đi trên hè phô, cố gắng không tập tễnh. Một ông lão đang ngồi cắt hình dưới cổng tò vò. Tôi dừng chân đứng ngắm ông. Hai thiếu nữ ngồi làm mẫu, ông ta cắt hình hai người chung nhau bằng kéo rất nhanh nhẹn, vừa cắt vừa nhìn họ, đầu nghiêng một bên. Hai cô gái cười khúc khích. Ông ta đưa cho tôi xem hai cái hình bóng rồi dán lên tờ giấy trắng rồi trao lại cho hai cô gái.

- Đẹp lắm – ông ta bảo – Bây giờ đến lượt trung uý chứ?

Hai cô gái vừa đi vừa ngắm hình và cười. Trông họ rất đáng yêu. Một trong hai cô làm việc ở quán rượu trước cửa bệnh viện.

- Được rồi – tôi bảo.

- Xin trung uý bỏ mũ ra cho.

- Không, tôi muốn đội mũ.

- Thế thì không được đẹp cho lắm – ông ta bảo – Nhưng như thế có vẻ quân nhân hơn – Gương mặt ông rạng rỡ hẳn lên.

Ông cắt miếng giấy đen, tách ra làm đôi rồi dán hình nghiêng trên tờ bìa và đưa cho tôi.

- Bao nhiêu hả cụ?

- Không có chi cả - ông khoát tay – Tôi tặng cho trung uý đấy.

- Xin ông vui lòng nhận cho – tôi đưa cho ông tiền lẻ.

- Không, tôi thích cắt hình trung uý. Hãy đem về tặng cho cô bạn gái của trung uý đi.

- Cám ơn ông nhiều lắm, lần khác vậy.

- Tạm biệt.

Tôi tiếp tục đi về bệnh viện. Tôi nhận được một công văn và vài bức thư khác. Tôi còn ba tuần nghỉ phép dưỡng bệnh rồi lại phải trở ra mặt trận. Tôi cẩn thận đọc đi đọc lại bức công văn đó. Phải, đúng thế, giấy phép nghỉ dưỡng bệnh bắt đầu từ hôm mùng bốn tháng Mười. Khi tôi trị xong vết thương là ba tuần lễ, đi 21 ngày, vậy là tôi được nghỉ đến 25 tháng Mười. Tôi báo là tôi không về bệnh viện, tôi đi đến một nhà hàng hơi xa bệnh viện một tí, dùng cơm tại đó, đọc thư và báo. Có một bức thư của ông nội tôi gởi, gồm tin tức gia đình, những lời động viên yêu nước, một ngân phiếu 200 đô la, vài mẩu báo cắt. Một bức thư buồn bã của cha tuyên uý, một bức thư khác của người bạn phi công giúp việc cho Pháp kể chuyện đã gia nhập với một bọn hung dữ và một bức thư của Rinaldi hỏi tôi còn định chôn chân ở Milan bao nhiêu lâu nữa và hỏi thăm tin tức. Anh nhờ tôi mang cho anh mấy cái đĩa hát và kèm theo đó là một danh sách những đĩa hát anh thích. Tôi uống một chai Chianti nhỏ trong bữa ăn, sau đó lại uống cà phê và một ly cô nhắc. Tôi gấp tờ báo lại, cho mấy bức thư vào túi, để tiền thù lao và tờ báo ở trên bàn và đi ra. Về đến phòng riêng ở bệnh viện, tôi thay quần áo ngủ, khoác aó choàng ra bên ngoài. Tôi thả tấm màn che cửa nhìn ra bao lớn xuống, rồi ngồi trên giường đọc tờ báo Boston của bà Meyers mang đến cho các cậu con trai yêu quý trong bệnh viện này. Catherine mãi đến 9 giờ mới phải làm việc. Tôi nghe thấy tiếng chân nàng bước và có lần thấy nàng đi qua hành lang. Nàng đến thăm mấy phòng kia và sau cùng bước vào phòng tôi.

- Em đến trễ quá anh nhỉ? – nàng bảo – Hôm nay có nhiều việc phải làm. Anh có khoẻ không?

Tôi kể cho nàng nghe về báo chí và giấy phép.

- Tuyệt quá – nàng bảo – Thế anh muốn đi đâu nào?

- Không muốn đi đâu cả. Anh chỉ muốn ở lại đây.

- Dại lắm, anh chọn một nơi nào đi, em sẽ đi với anh.

- Em làm cách nào?

- Không biết. Nhưng thế nào em sẽ tìm được cách.

- Em tài thật.

- Không đâu. Nhưng nếu mình không mất mát gì cả thì đời mình sẽ không khổ.

- Em muốn nói gì thế?

- Không có gì cả. Em chỉ nghĩ có những trở ngại không đáng kể trước đây mà mình lại cho là lớn lao.

- Anh nghĩ em khó mà đi được với anh.

- Ồ không đâu anh ạ, nếu cần em chỉ việc xin thôi việc, nhưng sẽ không đến nỗi thế đâu.

- Chúng ta sẽ đi đâu em?

- Em không cần. Anh muốn đi đâu cũng được. Đến nơi nào mà chúng ta không quen biết ai cả.

- Chúng ta đi đến đâu cũng được phải không?

- Vâng, bất cứ nơi nào mà anh thích.

Nàng trông có vẻ bồn chồn và bứt rứt.

- Có chuyện gì thế, Catherine?

- Không, không có chuyện gì cả.

- Có, em có chuyện gì.

- Không, không có gì. Thật không có chuyện gì cả mà.

- Anh biết là co. Em yêu, hãy nói cho anh nghe đi. Em hãy nói cho anh nghe mà.

- Chẳng có chuyện gì cả.

- Nói cho anh nghe đi.

- Em không muốn. Em sợ sẽ làm cho anh mất vui và lo lắng.

- Không , anh sẽ không lo lắng.

- Thật thế ư? Chuyện này không làm cho em lo lắng nhưng em e nó sẽ làm cho anh lo.

- Không , điều đó sẽ không làm cho anh lo lắng.

- Em không muốn nói cho anh nghe.

- Có. Nói anh nghe đi.

- Phải nói à?

- Ừ.

- Em sắp có con anh ạ, gần ba tháng rồi. Anh không lo chứ? Nói cho em biết đi anh. Em van anh đấy. Anh không nên lo lắng về chuyện đó.

- Có gì đâu.

- Thật ư?

- Thật thế chứ sao?

- Em đã làm đủ mọi cách. Em uống đủ mọi thứ nhưng vô ích.

- Có gì đâu mà phải lo lắng thế.

- Em không thể không lo được anh ạ. Em không bao giờ lo về chuyện đó. Anh cũng thế. Anh không nên khổ sở hay lo lắng về chuyện đó anh nhé.

- Anh chỉ lo cho em mà thôi.

- Đấy, đó chính là điều em không muốn. Hàng ngày biết bao nhiêu trẻ con ra đời. Ai cũng có thể có con cả. Đó là tự nhiên mà.

- Em đáng yêu quá.

- Không, không, anh đừng quan tâm được việc đó nữa anh yêu. Em cố làm cho anh không buồn. Em biết em vừa làm cho anh buồn. Nhưng từ trước đến giờ em vẫn là một thiếu nữ đứng đắn chứ? Anh không bao giờ nghi ngờ gì về điều đó phải không anh?

- Không.

- Sẽ mãi mãi như vậy. Chỉ có một điều thôi là đừng lo lắng gì cả. Em thấy rõ là anh lo lắng. Đừng, đừng như thế. Anh muốn uống một tí rượu không anh yêu? Em biết là khi anh uống rượu, anh sẽ vui vẻ lên ngay.

- Không, anh đang vui và em thì rất đáng yêu.

- Không đâu. Nnưng em sẽ thu xếp mọi việc để đi cùng với anh khi anh chọn được địa điểm. Vào độ tháng Mười này thật thú vị vô cùng. Chúng ta sẽ vui vẻ anh ạ, và khi nào anh trở ra mặt trận, mỗi ngày em sẽ viết thư cho anh.

- Lúc ấy em ở đâu?

- Em chưa biết được. Nhưng có thể ở một nơi danh lam thắng cảnh nào đó. Em sẽ lo chuyện đó.

Chúng tôi im lặng một lúc lâu không nói gì. Catherine ngồi trên giường. Tôi nhìn nàng nhưng chúng tôi không đụng vào nhau. Chúng tôi ngồi cách xa nhau như là có ai bất thình lình bước vào phòng. Catherine đưa tay nắm lấy tay tôi:

- Anh không giận gì chứ hả anh?

- Không.

- Và anh cũng không cảm thấy bị ràng buộc chứ?

- Có lẽ hơi hơi thôi. Nhưng không phải bị ràng buộc bởi em.

- Em không muốn nói là anh bị ràng buộc bởi em. Đừng nói bậy bạ, anh đừng giả vờ như thế. Em chỉ muốn nói là bị ràng buộc một cách tổng quát mà thôi.

- Người ta luôn luôn cảm thấy bị giam hãm, ràng buộc đứng về phương diên sinh lý.

Nàng không động đậy, cũng không rút tay lại, nhưng tôi cảm thấy nàng cách xa tôi quá.

- Tiếng luôn luôn nghe không được êm tai.

- Xin lỗi em.

- Không có gì cả. Nhưng có điều này anh như đã biết, em đã chưa hề có con cũng như chưa hề yêu ai cho đến bây giờ…Và em đã cố gắng để trở thành con người mà anh ao ước, thế mà bây giờ anh lại nói “luôn luôn”.

- Thế em có muốn anh cắt lưỡi đi không? – tôi hỏi.

- Ồ anh yêu của em! (nàng trở lại từ thế giới xa xôi mà nàng vừa ở). – Anh đừng quan tâm đến lời em nói.

Chúng tôi lại cảm thấy gần gũi nhau. Mọi buồn bực đều tan biến.

- Thật ra chúng ta tuy hai mà một. Vậy chúng ta không nên hiểu lầm nhau.

- Đúng vậy.

- Tuy vậy điều đó vẫn xảy ra. Lắm người yêu nhau rồi chỉ vì hiểu lầm mà sinh ra cãi cọ rồi chia lìa.

- Chúng ta sẽ không bao giờ cãi cọ với nhau.

- Không, không nên cãi cọ. Bởi vì hai chúng ta là một và trên thế gian này còn có nhiều người khác nữa.

Nàng đến mở cánh cửa tủ rồi đem lại chai rượu và cái ly.

- Anh uống một tí cô nhắc nhé? Anh ngoan lắm – nàng nói.

- Không, anh cảm thấy không muốn uống.

- Một chút thôi.

- Thôi được rồi.

Tôi rót đầy ba phần ly rồi uống cạn.

- Anh uống nhiều quá. Em biết rượu mạnh là đồ uống của người người anh hùng, nhưng cũng không nên quá chén.

- Sau chiến tranh chúng ta sẽ sống ở đâu nhỉ?

- Có lẽ ở nhà mấy ông già bà lão. Ba năm nay em ngây thơ chờ mong chiến tranh chấm dứt vào ngày lễ Giáng sinh. Nhưng bây giờ em cho là sẽ không trước khi con chúng ta làm đến chức tổng tư lệnh.

- Không, nó sẽ làm đến đại tướng.

- Nếu đó là chiến tranh 100 năm, nó sẽ có đủ thì giờ chiếm được cả hai chức ấy.

- Em uống tí gì nhé?

- Không, anh uống vào thấy thích chứ em uống thì thấy chóng mặt lắm anh ạ.

- Em có bao giờ uống rượu mạnh không?

- Không anh ạ, em là một người vợ cổ lỗ.

Tôi với tay lấy chai rượu đã để dưới đất và rót thêm một ly nữa.

- Em phải đi thăm các chiến hữu của anh một chút – Catherine bảo – Anh có thể đọc báo chờ em trở lại.

- Em phải đi thật à?

- Vâng, bây giờ hoặc tí nữa cũng được.

- Vậy thì đi bây giờ đi.

- Tí nữa em sẽ trở lại.

- Anh sẽ đọc xong tờ báo này.

Chương 22

Đêm ấy trời trở lạnh và ngày hôm sau thì mưa. Từ Ospedale Maggiore về, trời mưa to cho nên khi đến nơi tôi ướt sũng. Mưa đổ nặng hạt bên ngoài bao lơn phòng tôi và nước mưa theo gió tạt vào cánh cửa kính. Tôi thay quần áo, uống một it rượu mạnh nhưng không thấy ngon. Ban đêm tôi đau tim, và sáng đó sau bữa điểm tâm, tôi nôn mửa ra hết.

- Thôi không còn nghi ngờ gì hết – bác sĩ trưởng bảo – Này cô, cô hãy nhìn vào tròng trắng mắt hắn xem.

Cô Gage nhìn vào tròng mắt tôi. Họ bắt tôi nhìn vào trong gương. Tròng mắt tôi biến thành màu vàng, tôi đã mắc bệnh hoàng đản. Tôi nằm đau mất hai tuần vì thế chúng tôi không cùng nhau đi nghỉ ở đâu cả. Chúng tôi đã dự định đi Pallenza. Từ Milan đi Stresa dễ dàng nên ở đó có rất nhiều người quen biết. Ở Pallenza có một ngôi làng rất đẹp và có thể bơi thuyền ra các hòn đảo của những người chài lưới, đồng thời ở hòn đảo lớn nhất lại có cả tiệm ăn. Nhưng chúng tôi đã không đi được.

Một hôm tôi đang nằm trên giường vì bệnh hoàng đản thì cô Van Campen bước vào phòng. Cô mở cửa tủ ra và thấy chai rượu không trong đó. Tôi đã gởi đi cho ông thường trực rất nhiều chai không và chắc là cô ta trông thấy cho nên mới lên phòng tôi xem còn chai nào không. Phần nhiều là những chai Vermouth, Capri, Marala và vài hũ Chianti rỗng, một vài chai cô nhắc. Ông thường trực đã mang đi những chai lớn, loại chai đựng rượu Vermouth và các hũ Chianti có chèn rơm chung quanh, ông để lại các chai rượu mạnh. Cô Van Campen tìm thấy những chai rượu mạnh đó và một chai rượu mùi hình con gấu. Chai hình con gấu làm cô giận dữ nhất. Cô đưa cái chai ra ngoài ánh sáng. Gấu ngồi chồm hổm đưa chân lên. Ở đầu gấu có một cái nút và dưới đáy chai còn đóng mấy tảng thuỷ tinh. Tôi bật cười to lên.

- Rượu mùi đấy. Rượu ngon nhất từ Nga đưa sang, đóng trong chai hình con gấu.

- Tất cả những chai này đều là rượu mạnh cả phải không? – Cô Van Campen hỏi.

- Tôi không thấy gì hết, nhưng có lẽ thế - tôi đáp.

- Như thế này đã bao lâu rồi?

- Tôi mua và chính tôi đem vào. Tôi thường có các sĩ quan Ý đến thăm và tôi phải có rượu để mời họ.

- Còn ông không uống chứ? – cô hỏi.

- Có, tôi có uống chứ.

- Ồ, ông uống rượu à? – Cô nói – Mười một chai rượu hết sạch và còn cả chai rượu hình con gấu nữa.

- Rượu mùi đấy mà.

- Tôi sẽ cử người đi mua. Ông chỉ có tất cả bấy nhiêu chai hết phải không?

- Bây giờ thì chỉ có nhiêu đó.

- Tôi thương hại ông mắc phải chứng hoàng đản. Thương hại ông thật thừa!

- Cám ơn.

- Tôi cho rằng người ta không thể khiển trách ông không muốn trở lại mặt trận. Nhưng theo tôi nghĩ ông nên tìm cách nào khác hơn là tạo cho mình chứng hoàng đản bằng cách uống rượu.

- Bằng cách gì?

- Bằng cách uống rượu. Ông nghe tôi nói chứ?

Tôi không nói gì cả.

- Nếu ông không tìm cách nào khác nữa tôi lo rằng ông sẽ phải trở ra mặt trận khi hết chứng bệnh này. Tôi không tin rằng tự mình làm mắc chứng bệnh hoàng đản như thế mà ông được nghỉ phép dưỡng bệnh.

- Ồ, thật thế à?

- Vâng, tôi không tin như thế.

- Thế cô đã mắc chứng bệnh hoàng đản bao giờ chưa hả cô Van Campen?

- Chưa, nhưng tôi đã thấy có nhiều người bị rồi.

- Cô có nhận thấy bệnh nhân thích bệnh ấy như thế nào không?

- Nhưng tôi cho rằng thế còn hơn là bị ra trận.

- Này cô Van Campen – tôi nói – Thế có bao giờ cô thấy người nào tự làm cho mình bất lực bằng cách đá vào bọng đái của mình không?

Cô Van Campen không ngờ đến câu hỏi hóc búa đó. Hoặc là cô giả vờ tảng lờ hoặc là cô nên rời khỏi phòng. Nhưng cô chưa muốn đi vội bởi vì cô đã ghét tôi từ lâu và bây giờ cơ hội đó đã đến.

- Tôi biết nhiều người tự làm cho mình bị thương để khỏi ra mặt trận.

- Tôi không muốn hỏi cô như thế. Chính tôi tôi cũng thấy nhiều vết thương cố tình. Tôi chỉ muốn hỏi cô một điều là cô đã thấy người nào tự ý làm cho mình bất lực bằng cách đá vào bọng đái của mình không. Vì trong những cảm giác, thứ đó giống bệnh hoàng đản nhất. Và đó là một cảm giác tôi tin chắc ít có người đàn bà nào biết. Chính vì thế mà tôi hỏi cô là cô đã mắc bệnh hoàng đản lần nào chưa. Này cô Van Campen, vì…

Cô Campen đã rời khỏi phòng, một lát sau cô Gage đi vào.

- Anh đã nói gì với cô Campen thế? Cô ta rất giận dữ.

- Chúng tôi so sánh các cảm giác. Tôi cố gợi hỏi xem cô ta có bao giờ cảm thấy đau đẻ chưa.

- Anh ngốc. Cô ấy sẽ lột da anh ra cho mà xem.

- Cô ấy đã làm rồi – tôi nói – Cô ấy đã cắt giấy phép nghỉ dưỡng bệnh và có lẽ tìm cách đưa tôi ra toà án quân sự. Như thế thì hèn thật.

- Cô ấy không bao giờ thích anh – cô Gage nói – Vì sao thế?

- Cô ấy bảo tôi tự uống rượu cho mắc chứng hoàng đản để khỏi phải trở lại mặt trận.

- Ô tưởng gì – Cô Gage nói – Tôi sẵn sàng tin rằng anh không hề uống một giọt rượu nào cả và mọi người cũng sẽ tin như thế.

- Nhưng cô ấy đã tìm thấy mấy chai rượu không rồi.

- Tôi đã bảo anh cả trăm lần là nên vứt những chai ấy đi. Thế chúng đâu rồi?

- Trong tủ.

- Thế anh có một cái va ly không?

- Không, hãy bỏ chúng vào trong cái túi của tôi.

Cô Gage xếp chai vào túi rồi bảo “Tôi sẽ giao nó cho ông thường trực”. Nàng tiến ra cửa.

- Khoan đã – Cô Van Campen chặn lại – tôi muốn chính tay tôi lấy mấy chai này đi – Ông thường trực đi theo cô ta – Ông hãy mang những thứ này đi – cô ta bảo – Tôi muốn đưa cho bác sĩ coi để làm bản báo cáo.

Cô ta khuất dần trong hành lang. Ông thường trực mang chiếc túi mà ông biết rõ trong đó đựng những gì.

Chẳng có việc gì xảy ra ngoài việc mất giấy phép cả.

Chương 23

Vào buổi tối, ngày tôi trở lại mặt trận, tôi dặn ông thường trực giữ cho tôi một chỗ trong chuyến xe lửa từ Turin đến. Xe lửa khởi hành vào lúc nửa đêm. Xe từ Turin đến Milan vào khoảng mười giờ rưỡi đêm và ngừng tại đó cho đến lúc khởi hành. Người ta phải túc trực ở đó lúc xe đến để giữ chỗ ngồi. Ông thường trực cùng đi với bạn, là một xạ thủ súng máy nghỉ phép, trước kia là thợ may. Họ cho rằng đi cả hai chắc sẽ giữ được chỗ cho tôi. Tôi đưa cho họ tiền để họ mua vé vào ga và nhờ họ giữ giùm hành lý của tôi, gồm một túi lớn và hai cái túi dết.

Vào khoảng năm giờ, tôi từ giã tất cả mọi người trong bệnh viện rồi ra đi. Ông thường trực để hành lý của tôi ở chỗ ông và tôi bảo tôi sẽ đến ga trước nửa đêm một chút. Vợ ông gọi tôi là “ngài” và khóc. Bà lau nước mắt, bắt tay tôi rồi khóc nữa. Tôi vỗ vai, bà lại càng khóc thêm, bà đã từng vá quần áo cho tôi. Bà mập và lùn, gương mặt vui vẻ, tóc bạc trắng. Khi bà khóc thì gương mặt bà nhăn nhúm lại. Tôi xuống quán rượu ở góc đường vào trong ngồi nhìn ra cửa sổ và chờ đợi. Bên ngoài trời tối và lạnh, sương mù phủ kín. Tôi trả tiền rượu nho và cà phê rồi nhìn ngắm người qua lại nhờ ánh sáng nơi cửa sổ. Khi nhìn thấy Catherine, tôi gõ nhẹ vào cửa sổ. Nàng trông thấy tôi liền quay lại và mỉm cười, tôi ra ngoài đón nàng. Nàng choàng áo khoác ngoài màu xanh đậm, đội chiếc mũ da mềm. Chúng tôi thả bộ trên hè phố dọc theo các quán rượu, qua khu chợ, lên đường cái rồi băng qua cửa ngọ môn, đến khu nhà thờ. Chúng tôi đi qua đường sắt xe điện và thấy nhà thờ từ xa trỗi lên trong sương mù trắng xóa, ướt át. Bên trái chúng tôi là các cửa tiệm buôn bán sáng choang và cửa vào viện bảo tàng. Ở đây sương mù dầy đặc và khi chúng tôi đến trước nhà thờ tôi có cảm giác nó đồ sộ và mặt đá ướt đẫm sương.

- Em muốn vào không?

- Không – Catherine đáp.

Chúng tôi lại tiếp tục đi. Trong bóng tối nơi vòm cửa đá một người lính đang đứng với cô bạn gái. Chúng tôi đi ngang qua họ, họ ôm chặt lấy nhau, dựa vào tường đá và anh trùm cô trong chiếc áo choàng.

- Họ cũng giống như mình – tôi bảo.

- Không ai giống như mình cả - Catherine trả lời. Ý nghĩ này làm nàng không vui.

- Phải chi họ có chỗ để đi.

- Thế họ cũng chẳng hạnh phúc hơn.

- Anh không biết. Ai cũng phải có một nơi để ẩn náu.

- Thế thì họ luôn luôn có nhà thờ - Catherine bảo.

Chúng tôi vượt qua họ. Bây giờ chúng tôi ở bên kia quảng trường và ngắm nhìn nhà thờ. Trong sương mù nó trông đẹp lạ thường. Chúng tôi dừng lại trước cửa hàng da. Trong tủ kính có trưng bày ủng, ba lô, giầy trượt tuyết. Các thứ hàng được sắp riêng ra, ba lô để ở giữa, ủng một bên, và bên kia là giày trượt tuyết, da đen bóng như yên ngựa đã dùng rồi. Ánh đèn điện phản chiếu lấp lánh trên mặt da đen bóng.

- Biết đâu ngày nào đó chúng mình có dịp trượt tuyết.

- Hai tháng nữa sẽ có trượt tuyết ở Murren – Catherine bảo.

- Vậy ta đến đó nhé?

- Vâng – nàng đáp.

Chúng tôi tiếp tục đi qua những cửa hàng khác và rẽ xuống con đường bên cạnh.

- Em chưa bao giờ đi qua con đường này cả.

- Đây là con đường anh đi đến bệnh viện – tôi trả lời.

Con đường hẹp. Chúng tôi đi qua bên tay phải. Trong sương mù dày đặc, nhiều người qua lại. Đây cũng có các cửa hiệu và quầy hàng tràn ngập ánh sáng. Chúng tôi nhìn vào cửa kính gian hàng bán pho mát. Tôi đứng trước cửa hiệu bán vũ khí.

- Vào đây một tí, anh phải mua một khẩu súng.

- Súng loại nào?

- Súng lục.

Chúng tôi bước vào cửa tiệm. Tôi cởi giây thắt lưng để trên quầy với một bao súng không. Sau quầy có hai người đàn bà, họ mang ra nhiều súng lục cho tôi xem.

- Phải vừa cái bao này mới được – tôi vừa nói vừa mở bao súng. Đó là một thứ bao bằng da xám, tôi đã mua lại để mang trong thành phố.

- Mấy khẩu súng này có tốt không hả anh? – Catherine hỏi.

- Khẩu nào cũng giống nhau cả. Tôi thử khẩu này được không? – tôi hỏi một bà.

- Ở đây không có chỗ để thử bắn – bà ta bảo – Nhưng khẩu súng này rất tốt. Với khẩu súng này ông không bao giờ bắn trượt cả.

Tôi lên cò rồi bắn thử, lò xo hơi cứng nhưng rất trơn. Tôi nhắm và bấm cò một lần nữa.

- Súng này đã được dùng rồi. Súng này là của một sĩ quan thiện xạ.

- Thế ra bà đã bán cho ông ấy à?

- Vâng

- Thế làm sao bà có nó lại được?

- Người cần vụ của ông ấy bán lại.

- Biết đâu bà chẳng lấy lại súng của tôi như thế - tôi bảo – Giá bao nhiêu đây?

- Năm chục đồng “lia”. Gía rất rẻ.

- Thôi được. Tôi muốn mua thêm hai gắp đạn và một hộp đạn.

Bà ta cúi xuống quầy hàng lấy những thứ ấy ra.

- Ông có cần gươm không? Tôi có vài cây đã dùng rồi, giá rẻ lắm.

- Tôi sắp sửa ra mặt trận.

- Ô, thế thì ông không cần gươm.

Tôi trả tiền, cho đạn vào súng, đút súng vào bao, nạp đạn dư vào hai gắp nhét vào hai túi dư nhô lên trên bao súng rồi tôi móc nó vào thắt lưng. Tôi nghe nằng nặng ở đai lưng vì có khẩu súng lục. Đến bây giờ tôi vẫn còn nghĩ là luôn luôn mang bên mình một khẩu súng lục.

- Thế là bây giờ mình võ trang đầy đủ rồi. Đó là điều luôn luôn phải nhớ làm trước. Người lấy khẩu súng kia của anh đã nằm viện rồi.

- Khẩu súng này chắc là thứ tốt chứ? – Catherine hỏi.

- Ông còn cần chi nữa không ạ? – bà bán hàng hỏi.

- Không biết nữa, chắc là không.

- Khẩu súng có giây giật đấy.

- Tôi đã thấy.

Bà ta có vẻ muốn nài bán thêm món gì nữa.

- Ông không cần còi ư?

- Chắc là không.

Bà ta chào chúng tôi và chúng tôi bước ra ngoài. Catherine nhìn lại cửa tiệm. Bà bán hàng nhìn theo chúng tôi và cúi đầu chào một lần nữa.

- Mấy miếng gương nhỏ gắn vào mẩu gỗ kia để làm gì thế hả anh? – nàng hỏi.

- Để gài bẫy chim. Người ta đặt nó ra ngoài đồng, những con chim sơn ca thấy lấp lánh sẽ đến và người ta bắn nó.

- Thật là những người tài giỏi – Catherine nói - Ở Mỹ anh có bắn chim sơn ca không anh yêu?

- Chẳng bao giờ.

Chúng tôi băng qua đường và lên phía bên kia.

- Bây giờ em cảm thấy dễ chịu hơn – Catherine bảo – Khi mới bắt đầu đi, em cảm thấy buồn vô cùng.

- Khi ở bên nhau chúng mình luôn luôn thấy sung sướng.

- Thì lúc nào chúng mình lại chẳng ở gần nhau.

- Ừ, nhưng nửa đêm anh phải đi xa rồi.

- Đừng nhắc đến nữa, anh yêu.

Chúng tôi vẫn bước đều. Sương mù làm cho ánh đèn trở nên vàng vọt.

- Anh có mệt lắm không? – Catherine hỏi.

- Thế còn em?

- Em chả sao cả. Đi bộ như thế này vui chứ?

- Phải. Nhưng không nên đi lâu quá.

- Vâng.

Chúng tôi rẽ sang con đường không có ánh đèn. Tôi dừng lại ôm hôn Catherine. Trong khi hôn, tôi thấy tay nàng ôm chặt lấy vai tôi. Nàng núp trong áo choàng của tôi khiến cho áo che kín cả hai. Chúng tôi đang đứng dựa vào bức tường cao bên đường.

- Chúng ta đi đâu đi – tôi bảo.

- Vâng – Catherine đáp.

Chúng tôi tiếp tục đi dài theo con đường đến phố rộng xuôi theo con kênh. Phía bên kia có một bức tường gạch và nhà cửa. Trước mặt chúng tôi ở phía ngoài đường có một chiếc xe điện chạy qua cầu.

- Chúng ta có thể đi xe ngựa ở gần cầu kia – tôi bảo.

Chúng tôi đứng trên cầu trong màn sương mù để chờ xe. Nhiều chiếc xe ngựa chạy ngang qua chở đầy hành khách trên đường về nhà. Một chiếc xe ngựa chạy đến nhưng trong xe đã có vài người khách. Sương mù đã biến thành mưa.

- Chúng ta đi bộ hay đi xe điện vậy anh nhỉ? – Catherine hỏi.

- Sắp có chiếc xe khác bây giờ. Ở đây có nhiều xe chạy qua.

- Một chiếc xe đang đến kìa – nàng bảo.

Người đánh xe ngựa cho xe chạy chậm và dừng lại, hạ tấm bảng kim loại trên chiếc đồng hồ tính tiền xuống. Mui xe được căng lên và trên quần áo người đánh xe lấm tấm vài giọt mưa. Chiếc mũ bóng loáng của anh lấp lánh dưới cơn mưa. Chúng tôi ngồi nép vào trong xe và dưới mui xe rất tối.

- Anh bảo xe chạy đến đâu?

- Đến nhà ga. Chúng ta có thể vào khách sạn trước nhà ga.

- Đi như thế này à? Không hành lý gì cả liệu họ có chịu không?

- Được chứ - tôi đáp.

Đoạn đường đến nhà ga rất dài và chạy qua những phố nhỏ dưới trời mưa.

- Tí nữa chúng ta sẽ ăn tối chứ? – Catherine hỏi – Em đang đói đây.

- Chúng ta sẽ ăn tối trong phòng.

- em không có gì để thay mặc cả. Ngay cả áo ngủ cũng không.

- Mình sẽ mua một cái – Nói xong tôi quay ra người đánh xe – Cho xe trở về Via Manzoni.

Anh ta gật đầu và cho xe rẽ sang con đường bên trái. Đến con đường lớn, Catherine tìm một cửa hiệu.

- Đây này – nàng bảo.

Tôi bảo người đánh xe dừng lại. Catherine xuống xe, đi qua lề bên kia và vào cửa hiệu. Tôi ngồi dựa lưng trong xe chờ, trời mưa và tôi ngửi thấy mùi đường xá ẩm ướt cùng mùi ngựa dưới trời mưa. Nàng trở ra với một gói đồ trên tay, bước vội lên xe, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình.

- Em hoang phí quá anh ạ - nàng nói – nhưng chiếc áo này đẹp lắm.

Tới khách sạn, tôi bảo Catherine ngồi chờ trong xe còn tôi đi vào nói chuyện với viên quản lý. Khách sạn hãy còn nhiều phòng. Tôi trở ra trả tiền xe rồi cùng Catherine vào khách sạn. Chú nhỏ mang hộ gói đồ cho chúng tôi, viên quản lý đưa chúng tôi về phía thang máy. Đâu đâu cũng có màn nhung đỏ và ánh đồng sáng chói. Viên quản lý khách sạn theo chúng tôi vào thang máy.

- Thưa ông bà định dùng bữa tối trong phòng ạ?

- Vâng, mang hộ thực đơn lên nhé – tôi nói.

- Ông dùng món gì đặc biệt không? Thịt rừng và khoai chiên?

Chiếc thang máy vượt qua ba tầng, đến mỗi tầng nó phát ra một tiếng “cách”. Sau một tiếng “cách” nữa, nó dừng lại.

- Thế thịt rừng ông có thịt con thú gì?

- Có chim trĩ, có gà lôi.

- Ông cho gà lôi.

Chúng tôi đi dọc theo hành lang. Tấm thảm đã mòn. Có nhiều phòng đóng cửa. Viên quản lý dừng lại và mở một cửa phòng.

- Đây, một phòng rất đẹp.

Chú nhỏ đặt gói đồ trên bàn giữa phòng. Viên quản lý mở màn cửa.

- Bên ngoài sương mù nhiều quá – ông ta nói.

Phòng được trang hoàng bằng thảm đỏ, trong phòng có rất nhiều gương, hai ghế dựa, một cái giường lớn có phủ tấm trải bằng sa tanh. Một cánh cửa thông sang phòng tắm.

- Tôi sẽ gởi thực đơn lên – người quản lý nói. Ông ta cúi chào rồi đi ra.

Tôi tới bên cửa sổ nhìn ra ngoài rồi kéo tấm màn nhung lại. Catherine đang ngồi trên giường nhìn chiếc đèn treo bằng thuỷ tinh. Nàng đã bỏ mũ ra, mái tóc nàng óng ánh dưới ánh đèn. Nàng soi mình trước gương treo trong phòng. Trông nàng không được vui. Nàng để áo choàng trên giường.

- Có chuyện gì thế em yêu?

- Đây là lần đầu tiên em cảm thấy mình như là một cô gái ăn chơi – nàng bảo.

Tôi trở lại cửa sổ kéo màn sang một bên và đứng nhìn ra bên ngoài. Tôi không hề nghĩ là chuyện lại có thể xảy ra như thế.

- Nhưng em đâu phải là một cô gái ăn chơi.

- Em biết lắm anh ạ. Nhưng cảm thấy mình như thế đâu có hay ho gì – giọng nàng khô khan và đều đều.

- Chỉ có khách sạn này là tốt nhất thôi – tôi bảo.

Tôi nhìn ra cửa sổ. Phía bên kia quảng trường có ánh đèn của nhà ga. Trên đường xe ngựa qua lại tấp nập, tôi nhìn thấy cả cây cối trong công viên. Ánh đèn từ khách sạn phản chiếu trên lề đường ướt át. Chẳng lẽ bây giờ lại cãi vã với nhau sao? Tôi thầm nghĩ.

- Đến đây với em đi anh – giọng Catherine trở lại bình thường – đến đây với em đi anh. Em ngoan lại rồi.

Tôi đưa mắt nhìn về phía giường. Nàng mỉm cười. Tôi tiến đến bên giường cạnh nàng và hôn nàng.

- Em là người vợ đáng yêu của anh.

- Vâng, em lúc nào cũng là của anh cả - nàng bảo.

Khi ăn xong chúng tôi cảm thấy vui vẻ hơn và sau đó thật là hạnh phúc. Trong phút chốc căn phòng như trở thành nhà riêng của chúng tôi. Gian phòng của tôi ở bệnh viện trước kia cũng gần như là nhà riêng vậy.

Catherine vắt chiếc áo của tôi trên vai nàng suốt bữa ăn. Chúng tôi đang đói nên ăn rất ngon, chúng tôi uống hết một chai Capri và một chai St Estephe. Tôi uống nhiều còn Catherine cũng uống, nhưng bấy nhiêu cũng đủ làm cho nàng trở nên vui vẻ. Trong bữa ăn người ta dọn cho chúng tôi thịt gà lôi với khoai chiên và hạt dẻ nấu, sau cùng là món tráng miệng.

- Phòng đẹp đấy – Catherine nói – Chúng ta có thể ở đây suốt thời gian nghỉ tại Milan chứ?

- Phòng này trông buồn cười nhưng cũng dễ chịu.

- Tội lỗi là một điều thú vị - Catherine bảo – Những người lăn mình vào tội lỗi dường như thích thú lắm. Tấm màn nhung đỏ thật thích hợp, còn những chiếc gương này cũng hấp dẫn.

- Em quả là một thiếu nữ có tâm hồn cao cả.

- Em tự hỏi ở trong một gian phòng như thế này, sáng ra khi tỉnh dậy, mình sẽ có cảm tưởng gì nhỉ. Nhưng đây quả là một gian phòng tráng lệ.

Tôi rót ra thêm một ly rượu St Estephe.

- Em muốn chúng ta sa vào tội lỗi thật sự - Catherine bảo – Những gì chúng ta cùng làm có vẻ ngây thơ và giản dị. Em không tin chúng ta đã làm những điều xấu.

- Em cao cả quá.

- Em chỉ khao khát thôi. Và em khao khát đến cực độ.

- Em cũng chỉ là một người đàn bà mà thôi.

- Anh nói đúng. Em cũng chỉ là một người đàn bà. Không ai hiểu điều đó ngoài anh.

- Có một lần, lúc anh mới gặp em, anh đã nghĩ về em suốt một buổi chiều. Anh đã mơ có một ngày nào đó chúng ta cùng đưa nhau đến một khách sạn lớn ở Cavour và tưởng tượng những việc sẽ xảy ra ở đấy.

- Anh liều quá nhỉ. Đây không phải là khách sạn ở Cavour đấy chứ?

- Không, nếu là ở Cavour người ta sẽ không tiếp mình.

- Rồi có ngày họ sẽ tiếp mình. Nhưng chính nhờ thế mà mình khác hẳn anh ạ. Em không bao giờ mơ tưởng gì cả.

- Em không bao giờ nghĩ đến điều gì khác cả à?

- Một tí thôi – nàng nói.

- Em tôi ngoan lắm.

Tôi rót một ly rượu vang nữa.

- Em chỉ là một cô gái thôi – Catherine nói.

- Thoạt tiên anh không nghĩ thế, anh cho rằng em điên.

- Em cũng có hơi điên một tí nhưng em không điên một cách quá phức tạp. Em chưa bao giờ làm phật ý anh phải không anh yêu?

- Rượu là tuyệt nhất – tôi bảo – Rượu làm cho em quên những gì không tốt đẹp.

- Vâng – Catherine bảo – Nhưng rượu cũng đã làm cho ba em mắc bệnh phong rất nặng.

- Cha em còn sống à?

- Vâng, nhưng ông mắc bệnh phong rất nặng. Anh sẽ không bao giờ có cơ hội gặp ông. Còn anh, cha anh còn không?

- Không, chỉ có bố dượng.

- Em sẽ có thể đến thăm ông được không?

- Em không bao giờ có dịp gặp ông đâu.

- Chúng ta hạnh phúc như thế này em không hề quan tâm đến điều gì khác nữa. Em rất sung sướng được làm vợ anh – Catherine nói.

Người bồi đến dọn dẹp các thứ. Một lúc sau yên lặng đến mức chúng tôi nghe tiếng mưa rơi. Dưới đường một chiếc xe hơi bấm còi.

Tôi khẽ đọc

“Sau lưng tôi vẫn hàng nghe

thời gian sải cánh lăm le đến gần”

- Em biết bài thơ đó – Catherine bảo – Đó là một bài thơ của Marvell. Nhưng tả một cô gái không được sống chung với người bạn trai.

Tôi thấy đầu óc sảng khoái và tỉnh táo nên muốn bàn đến những vấn đề cụ thể hơn.

- Em sẽ sanh ở đâu?

- Em chưa biết nữa. Em sẽ tìm chỗ nào tốt nhất.

- Em làm sao có thể lo hết mọi việc?

- Em lo được chừng nào hay chừng đó. Anh đừng bận tâm lo nghĩ làm gì đến chuyện đó anh ạ. Chúng ta còn thì gờ có nhiều con trước khi chiến tranh chấm dứt.

- Gần đến giờ khởi hành rồi.

- Em biết. Chúng ta sẽ đi ngay nếu anh muốn.

- Không.

- Thế thì đừng bận tâm nữa anh nhé. Từ nãy đến giờ anh rất đáng yêu nhưng bây giờ anh bắt đầu lo lắng rồi.

- Anh sẽ không lo nghĩ nữa. Em sẽ viết thư cho anh thường xuyên chứ?

- Mỗi ngày anh nhé. Họ có kiểm duyệt thư anh không?

- Họ không biết tiếng Anh nhiều cho nên không nguy hiểm.

- Em sẽ làm cho họ điên đầu lên – Catherine bảo.

- Nhưng đừng quá lắm em nhé.

- Không, chỉ một tí thôi.

- Chắc đến giờ phải đi rồi.

- Phải đấy anh ạ.

- Anh không thích rời khỏi căn nhà đẹp đẽ này của chúng ta.

- Em cũng thế.

- Nhưng mà phải đi.

- Vâng, chúng ta không bao giờ được ở tại ngôi nhà của chúng ta lâu cả.

- Một ngày kia chúng ta sẽ ở lâu.

- Em sẽ có một ngôi nhà đẹp cho chúng ta khi anh trở lại.

- Có lẽ anh sẽ trở lại ngay.

- Có thể anh sẽ bị thương, chỉ một tí ở chân thôi.

- Hoặc ở vành tai.

- Không, em muốn tai anh vẫn như thế này.

- Hay ở chân?

- Chân anh đã bị thương sẵn rồi.

- Thôi phải đi em yêu ạ.

- Thế anh đi trước đi.

Chương 24

Chúng tôi xuống lầu mà không dùng thang máy. Thảm trải cầu thang đã mòn. Tôi trả tiền bữa ăn tối mà người ta đã dọn lên. Người hầu bàn dọn các thức ăn khi nãy đang ngồi cạnh cửa. Lúc chúng tôi đi ra hắn đứng phắt dậy rồi cúi đầu chào. Tôi theo hắn qua phòng bên cạnh để trả tiền phòng. Viên quản lý xem tôi như bạn thân nên không chịu lấy tiền trước, nhưng khi hắn đi vắng thì hắn không quên dặn người hầu bàn đứng túc trực ở cửa chờ tôi để cho tôi không thể nào đi ra mà không trả tiền. Tôi cho rằng việc đó vẫn xảy ra luôn mà ngay cả trước đây đối với bạn của hắn. Mà thời giặc gĩa người ta có nhiều bạn.

Tôi nhờ người bồi đi tìm cho chúng tôi một cỗ xe ngựa. Hắn đỡ hộ tôi gói đồ của Catherine rồi che dù đi ra. Ở cửa sổ nhìn ra chúng tôi thấy hắn băng qua đường dưới trời mưa tầm tã. Chúng tôi đứng bên cạnh phòng nhìn mưa đợi hắn.

- Em cảm thấy thế nào hả Catherine?

- Buồn ngủ.

- Còn anh, anh cảm thấy bụng trống rỗng và đói lắm.

- Anh có mang theo gì để ăn không?

- Có, trong túi dết.

Chiếc xe ngựa chạy đến và dừng lại, đầu cúi xuống trời mưa. Anh bồi bước ra khỏi xe, che dù và đi về phía khách sạn. Chúng tôi đón anh ta ở cửa và cùng che dù đi xuống con đường ướt át đến chỗ xe đậu bên lề đường. Nước chảy mạnh hai bên vệ đường.

- Gói đồ của hai ông bà để ở trong xe – người bồi nói.

Hắn che dù đứng đó cho đến khi chúng tôi bước lên xe, tôi không quên tặng hắn ít tiền.

- Rất cám ơn. Chúc ông bà vui vẻ.

Người đánh xe ra roi, ngựa bắt đầu bổ vó, người bồi quay trở về khách sạn. Xe chạy xuống đường rẽ sang trái, rồi vòng sang phải và đến trước nhà ga. Có hai người lính mang súng trường đứng dưới ánh đèn tránh mưa. Ánh đèn chiếu lấp lánh trên mũ họ. Nước mưa trong vắt phản chiếu ánh đèn sân ga. Một người phu khuân vác từ trong sân ga bước ra, đôi vai gầy nặng trĩu những hạt mưa.

- Không – tôi bảo – không, cám ơn. Tôi không có gì để nhờ đến anh.

Hắn trở lại núp mưa dưới cổng hình cung. Tôi quay sang Catherine, gương mặt nàng khuất sau bóng tối của mui xe.

- Chúng ta nên chia tay nơi đây.

- Em không thể nào vào trong được ư?

- Không. Giã biệt em, Catherine.

- Anh bảo người đánh xe đưa em về bệnh viện được không?

- Được.

Tôi bảo người đánh xe đưa nàng về bệnh viện. Hắn gật đầu.

- Từ biệt em. Em ráng giữ gìn sức khoẻ và lo cho con nhỏ của chúng ta em nhé.

- Giã biệt anh yêu.

- Giã biệt.

Tôi bước đi dưới trời mưa. Chiếc xe từ từ lăn bánh. Catherine nhoài người ra ngoài, tôi thấy khuôn mặt nàng dưới ánh đèn. Nàng mỉm cười đưa tay vẫy, chiếc xe lên dốc, Catherine chỉ tay về phía cổng tròn. Tôi nhìn theo chỉ thấy hai tên lính và chiếc cổng vòng cung. Thì ra ý nàng muốn bảo tôi đi vào đó để tránh mưa. Tôi đi vào trong và đứng nhìn chiếc xe xa dần. Xong, tôi đi qua nhà ga để xuống sân ga.

Ông thường trực tìm tôi ở sân ga. Tôi đi theo ông vào trong toa xe lửa. Tôi phải lách người mở lối đi ở hành lang để đến chỗ anh xạ thủ súng máy ngồi trong góc một toa xe. Chiếc ba lô và hai túi dết của tôi để trên túi lưới phía trên đầu anh ta. Có nhiều người đứng trong hành lang. Nhiều người nhìn chòng chọc khi chúng tôi bước vào. Xe lửa không đủ chỗ ngồi cho nên ai nấy đều hằn học. Anh lính sử dụng súng máy đứng lên nhường chỗ cho tôi. Có ai vỗ nhẹ vào vai tôi, tôi nhìn quanh. Đó là viên đại uý pháo binh cao gầy, có một vết sẹo lớn dưới quai hàm. Nhìn thấy tôi qua cửa kính hành lang, anh ta bèn bước vào trong toa.

- Ông muốn gì? – Tôi hỏi.

Tôi quay người lại và quan sát anh ta. Anh ta cao lớn hơn tôi, khuôn mặt gầy gò dưới vành mũ và vết sẹo hãy còn mới, bóng loáng. Mọi người trong toa xe đều đưa mắt nhìn tôi.

- Ông không có quyền làm như thế - anh ta bảo – ông không có quyền dùng một người lính để giữ chỗ cho ông.

- Tôi làm đó.

Anh ta nuốt nước bọt, tôi thấy cục yết hầu của anh ta chạy lên xuống. Anh lính xạ thủ súng máy đứng tại chỗ. Những người khác nhìn qua cửa kính. Trong toa không ai nói gì cả.

- Ông không có quyền làm thế. Tôi đã đứng đây hai tiếng đồng hồ trước khi ông đến.

- Ông muốn gì?

- Chỗ ngồi này.

- Tôi cũng thế.

Tôi nhìn thẳng vào mặt hắn và cảm thấy cả toa đang nhìn tôi chòng chọc có vẻ phản đối. Tôi không trách họ. Họ có lý nhưng tôi cũng muốn có chỗ ngồi. Tuy nhiên không ai nói gì cả.

“Ồ mình cũng chẳng cần”. Tôi nghĩ.

- Xin mời đại uý ngồi – tôi bảo.

Anh lính súng máy đã xê qua một bên và tên đại uý cao lớn ngồi xuống. Hắn nhìn tôi với vẻ tức giận nhưng dù sao hắn cũng đã có chỗ ngồi.

- Lo giùm tôi một chỗ khác – tôi nói với anh lính.

Chúng tôi bước ra hành lang. Tàu đông quá và tôi biết khó mà tìm được một chỗ. Tôi biếu ông thường trực và anh lính mười lia. Họ đi dọc theo hành lang và xuống sân ga, vừa đi vừa nhìn vào các toa nhưng chẳng còn lấy một chỗ trống nào.

- Đến Brescia sẽ nhiều người xuống – ông thường trực bảo.

- Đến đó họ lại còn lên thêm nữa – anh lính súng máy bảo.

Tôi từ biệt. Hai người bắt tay tôi rồi đi. Cả hai đều có vẻ buồn. Ngoài hành lang mọi người đều đứng cả lúc tàu chạy. Tôi nhìn ánh đèn nhà ga và quảng trường. Trời vẫn mưa, chỉ một lát sau các cửa kính đều ướt khiến cho không thể nhìn ra ngoài được. Sau đó tôi nằm lăn ra ngủ ở hành lang. Tôi đã cất kỹ cái ví đựng tiền và giấy tờ vào áo trong và quần đùi sát người. Tôi ngủ suốt đêm, chỉ thức dậy khi đến ga Brescia và Verona, lúc hành khách lên lại ngủ tiếp. Tôi gối lên một chiếc túi còn tay thì ôm chiếc kia và để người tôi có thể chạm vào cái ba lô. Ai muốn đi thì phải bước qua tôi vậy. Hành khách nằm ngủ la liệt trên sàn ở hành lang. Nhiều người khác đứng tì tay trên song cửa sổ hoặc tựa lưng vào cửa toa. Chuyến tàu này luôn luôn đông khách.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: