Chí Phèo
1. Phân tích nhân vật Chí Phèo
Với mười lăm năm cầm bút, Nam Cao đã kịp để lại một khối lượng tác phẩm không nhỏ, đặc biệt trong hệ thống tác phẩm của ông, nổi bật một phong cách Nam Cao trữ tình, sâu lắng, trào lộng, xót xa, hóm hỉnh mà tế nhị, sang trọng mà bình dị, tinh vi mà khái quát. Ông tự thoát ly với thứ văn chương lãng mạn thi vị hóa cuộc sống, ông chọn cho mình con đường đến với đời sống lầm than của người dân lao động. Là người cầm bút, ông không được trốn tránh hiện thực mà phải miêu tả được hiện thực, phải diễn tả được tiếng lòng đau khổ của quần chúng. “ Chí Phèo” đã ra đời với mục đích ấy. Là truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao viết vào tháng 2 năm 1941, đây là tác phẩm xuất sắc, thể hiện nghệ thuật viết truyện độc đáo của Nam Cao. Đồng thời thể hiện tấm bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội.
Không gian làng Vũ Đại đóng kín, chật hẹp với những luật lệ, hủ tục đã vùi dập và tước đoạt đi quyền làm người của một con người mang tên Chí Phèo. Đứa con làng Vũ Đại đã xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà lại bằng tiếng chửi, hắn “Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa nào đã sinh ra hắn”. Tiếng chửi như hé lộ một cuộc đời đau thương của một con người nhận biết được bi kịch của chính mình nhưng lại đầy bất lực, Chí Phèo như đang cố vùng vẫy để thoát ra nhưng vô vọng.
Với Chí, nó là con đường giao tiếp duy nhất của hắn với cộng đồng nhưng cay đắng thay, khi đáp lại những uất ức, bất mãn của hắn lại là “tiếng chó cắn lao xao”. Tiếng chửi – tiếng kêu tuyệt vọng của một con người cô đơn, khát khao được giao tiếp dẫu là cách hạ đẳng nhất nhưng người dân Vũ Đại đã quen coi hắn là quỷ dữ mất rồi…Chí Phèo sống một cuộc sống bị gạt bỏ ra khỏi thế giới loài người, và cuộc đời đắng cay đau khổ ấy sẽ còn đi đến đâu, sẽ như thế nào đi nữa vẫn còn là một ẩn số và Nam Cao sẽ chính là người đưa ta chiếc chìa khóa giải mã nó.
Cuộc đời Chí Phèo trải dài trên một tấm bi kịch, bi kịch là một đứa con hoang bị bỏ rơi, bi kịch tha hóa, lưu manh. Cuộc đời, ai chẳng khao khát một tuổi thơ êm đềm trong vòng tay cha mẹ cơ chứ, thế nhưng thượng đế lại ban cho Chí Phèo một cuộc đời đầy ầy nghiệt ngã, thượng đế đã tạo ra một con người không nguồn gốc, không nơi nương tựa, không tương lai. Hắn được cưu mang bởi những con người nghèo khổ, được người này đến người khác truyền tay nuôi nấng mà lớn lên. Rồi đến năm 20 tuổi, hắn đi làm canh điền cho Bá Kiến, là một con người giàu lòng tự trọng, biết ghét những con người đáng khinh nên khi bị bà Ba bắt phải bóp chân cho mình, hắn cảm thấy nhục, vừa làm lại vừa run, làm một việc đáng khinh chẳng biết làm sao tránh được, hắn đành chấp nhận làm trong sự cưỡng ép. Tuy vậy, đây chính là khoảng thời gian tương đẹp nhất trong cuộc đời Chí, bởi đó là quãng đời hắn dám ước mơ, dám suy nghĩ về tương lai sẽ tương đẹp, như bao người, hắn có những ước mơ đầy giản dị, yên bình “hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ, . Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng thật đau đớn khi cái xã hội bất nhân ấy đã bóp chết ước mơ đó của Chí khi vừa chớp nở. Một cơn ghen của lão Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo đi vào nhà tù thực dân, Tại nơi đây đã biến một con người hiền lành, chất phát thành một tên lưu manh, tội đồ.
Bảy, tám năm sau, Chí ra tù với một nhân dạng chẳng ai ngờ tới và cũng chẳng ai nhận ra. Anh canh điền ngày nào giờ đã biến mất, thay vào đó, hiện ra trước mắt người đọc một tên lưu manh gớm ghiếc, cái đầu hắn trọc lóc, cái răng thì cạo trắng hớn, cai mặt thì lại đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết, ngực và tay đầy những nét chạm trỗ. Thật sự rất đáng sợ dù chỉ mới tưởng tượng qua. Và đến cả nhân tính đẹp đẽ ngày nào, giờ đây cũng bị xã hội giết chết, hắn giờ trở thành một kẻ chìm ngập trong cơn say rượu triền miên, hắn trở thành tay sai cho Bá Kiến – kẻ đã từng là nguyên nhân chính khiến hắn trở nên như bây giờ, mọi thứ ở Chí Phèo đã bị xã hội phong kiến ép đến mức phải quay lưng lại với làng Vũ Đại, nó hoàn toàn đối lập với nhân dân lao động cần cù, chịu khó lúc bấy giờ. Từ một người nông dân hiền lành ngày nào, giờ đây ai có thể nhận ra đây là Chí Phèo năm ấy cơ chứ, Chí bây giờ chẳng sống bằng tình thương trong vòng tay của người dân nghèo khó làng Vũ Đại nữa, hắn bắt đồng cuộc sống bằng rượu, bằng máu và nước mắt của những con người lương thiện. Chưa bao giờ hắn thật sự tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao xót thương cho nhận vật do chính mình tạo ra và cũng như đang xót thương cho những kiếp người lúc bấy giờ, bị chính cái xã hội mình đang sống tha hóa dần bản tính lương thiện vốn có.
Nhịp điệu thời gian trong Chí Phèo là sự gối đầu chồng chéo các sự kiện, tạo nên một nhịp điệu gấp khúc đầy đau đớn, xót xa. Chí đã bị đẩy vào tù, khi ra tù thì trở thành tay sai cho Bá Kiến, Và giờ may mắn thay, Chí gặp Thị Nở - kim chỉ nam đưa Chí trở về cuộc đời là con người của mình. Vậy, mối duyên nơi bụi chuối sau một đêm sau này có thật sự sẽ là hồi kết cho tấm bi kịch đời Chí?
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra bên ngoài căn lều, âm thanh cuộc sống tràn đầy. Nam Cao đã dành ra một khoảng lặng để Chí cảm nhận về cuộc sống tươi đẹp mà trước kia hắn không hề nhận ra “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!Có tiếng nói của những người đi chợ. Anh thuyền chày gõ mái chèo đuổi cá”. Chí muốn sống một cuộc sống lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời, hắn được bàn tay của một người phụ nữ chăm sóc, nấu cháo cho hắn ăn. Hắn cho rằng chỉ có Thị Nở mới có thể mở đường cho hắn sẽ trở về với cuộc sống lương thiện trước đây. Nam Cao đã không trách giận nhân vật của mình, ông nhận ra được chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mạnh mẽ, tha thiết. Chí sống những ngày tiếp theo cùng Thị Nở, một sự lương thiện đến lạ. Bản tính con người ngày nào bị khuất lấp sau những ngày rạch mặt ăn vạ, đập đầu, chém giết chửi bởi bây giờ bỗng sống lại “Hắn không kinh rượu nhưng cố uống cho thật ít. Để cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tần tảo yêu nhau”. Chí tỏ tình một cách trân trọng nhất, tình tứ nhất như bao gã đàn ông “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”, Chí dùng hết sự chân thành của mình để bày tỏ với Thị “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ? “ lời bày tỏ hiền lành, ngờ nghệch, hồn nhiên của một người biết yêu nhưng cũng đầy tội nghiệp, hắn cảm nhận được sợi dây hạnh phúc rất mong manh, con người khốn khổ ấy trong phút làm người ít ỏi vẫn dự cảm được những điều bất hạnh phía trước.
Và đỉnh điểm của bi kịch chính là lúc này đi, hắn cự tuyệt quyền làm người của chính mình. Một hạnh phúc nhỏ bé, chớm nở này đây đã bị chính cái xã hội vô nhân tích lúc bấy giờ giết chết. Sự ngăn cản của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt vào ngọn lửa đang cố sáng lên trong cuộc đời của Chí, Thị Nở cũng phải đành từ chối Chí Phèo. Tất cả, tất cả đã làm thiêu trụi những ước mơ, niềm vui và hạnh phúcvừa lóe lên trong lòng Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng không lối thoát. Rồi Chí lại tìm đến rượu, hắn cầm dao đi trả thù cho những nỗi uất hận trong lòng hắn, hắn dự định rẽ vào nhà Thị Nở nhưng thứ gì đó đã khiến hắn phải rẽ vào nhà lão Bá Kiến. Nam Cao đã từng bình luận “Những thằng điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm”. Đó có lẽ chính là nguyên nhân khiến Chí rẽ sang hướng nhà Bá Kiến, Chí chỉ thẳng vào mặt Bá Kiến, hắn đòi cho mình quyền làm người nhưng chính Chí cũng biết rằng đó rất vô vọng “Ai cho tao lương thiện…Tao không thể là người lương thiện nữa”. Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến sau đó để trả thù cho tất cả bi kịch đời mình. Giết Bá Kiến, Chí không thể tiếp tục tồn tại trong một cộng đồng tuyệt đối không ai dám thừa nhận hắn. Chí đành chọn cách kết liễu đời mình. Nếu trước đây, để tồn tại thì hắn đã phải bán bộ mặt và linh hồn cho quỷ dữ, thì giờ đây khi linh hồn trở về, Chí đã phải đổi lấy cả sự sống của mình.
Cái chết của Chí Phèo là một cái chết bi thảm của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát, Chí chết khi đang trở về trên ngưỡng cửa lương thiện. Đó như bản án tố cáo chế độ xã hội thực dân một cách gay gắt mà Nam Cao muốn truyền đạt.
Nam Cao đã khiến cho người đọc phải ám ảnh bằng chính nhân vật của mình. Là đứa con của quỷ dữ nhưng họ cũng đã từng là một con người, họ cũng biết yêu, biết buồn, biết hờn, biết ghen tuông. Nam Cao đã soạn thảo rất thành công một bản án về tội ác của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến đã đàn áp, bóc lột nhân dân đến mức nào. Bên cạnh đó, ông cũng đã kịp thời trân trọng và phát hiện vẻ đẹp trong chính nhân vật của mình – Chí Phèo, để đến cuối cùng, sau một vòng tròn, ông đã cho họ một kiếp người mới, chắc chắn sẽ tốt hơn, hạnh phúc hơn, xứng đáng với bản tính tốt đẹp của mình.
2. Quá trình tha hoá của Chí Phèo
Nam Cao là một nhà văn bậc thầy chuyên viết truyện ngắn và các tác phẩm văn xuôi. Người ta nhớ đến tác phẩm của ông là nhờ giá trị nhân đạo sâu sắc cùng cách xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật độc đáo, sáng tạo. Tiêu biểu nhất trong các nhân vật ông từng gây dựng đó chính là Chí Phèo – một kẻ có tâm lí phức tạp. Chí Phèo chính là hiện thân của nông nghèo thời xưa, cuộc sống nghèo đói, khó khăn bị áp bức bóc lột đến cùng cực khiến con người ta bị tha hóa, biến chất
Sự tha hóa của một con người có thể được hiểu là sự biến đổi về tâm lí, tính cách, nhân phẩm từ tốt sang xấu. Nguyên nhân gây nên sự tha hóa đó có thể là do điều kiện ngoại cảnh, gia đình, xã hội… hoặc do bản chất bên trong mỗi con người thay đổi. Chí Phèo chính là một minh chứng rõ ràng của sự tha hóa do ngoại cảnh, cuộc sống nghèo đói, xã hội bất công đã đẩy hắn vào con đường sa đọa, sai trái. Quá trình tha hóa, biến chất của Chí Phèo diễn ra theo quy luật: từ một người nông dân lương thiện, hắn trở thành một tên lưu manh, rồi sau cùng là một quy dữ đội lốt người. Xã hội phong kiến đầy những định kiến, những con người độc ác trong xã hội đã đẩy Chí Phào vào bước đường cùng.
Từ khi còn nhỏ, Nam Cao đã miêu tả Chí Phèo là một người nông dân hiền lành, tốt tính. Hắn được sinh ra ở một cái lò gạch cũ, không cha, không mẹ, không người thân thích. Lớn lên, hắn làm thuê, trở thành kẻ ở từ gia đình này qua gia đình khác, là một thanh niên khỏe mạnh, đầy lòng tự trọng. Không chỉ có một sức khỏe cường tráng, Chí Phèo còn có một tâm hồn trong sáng, lương thiện, biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng với nhục dục tầm thường. Hắn cũng có những ước mơ giản dị, đẹp đẽ như bao con người khác: có một gia đình nho nhỏ, chồng cày mướn quốc thuê, vợ thêu hoa dệt chỉ, khá giả thì làm vài mảnh đất trồng trọt. Ấy vậy mà số phận như đã trêu ngươi con người hắn, cho hắn vào làm thuê trong nhà Bá Kiến. Đây có thể coi như là dấu mốc đánh dấu quá trình tha hóa của Chí Phèo. Từ một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng lại bị bà Ba – vợ Bá Kiến lợi dụng làm những việc sai trái để thỏa mãn dục vọng của ả. Để rồi sau đó Chí phèo bị Bá Kiến ghen ghét, tìm đủ mọi lí do đẩy vào tù. Ở trong một xã hội phong kiến đầy bất công như thế thì những con người như Chí thì làm sao có tiếng nói, hắn đành ngậm ngùi, uất ức vào tù bảy tám năm. Thời gian trong là khoảng thời gian cay đắng của Chí Phèo, bị bọn thực dân áp bức, bóc lột, khiến phần “người” trong con người hắn mất dần đi, chỉ còn lại sự tàn ác, ngang ngạnh.
Trở về sau những năm tháng tù giam, Chí Phèo trở lại xã hội nhưng lại không được mọi người công nhận. Mang một hình hài gớm ghiếp “ cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng”, đi đến đâu cũng bị mọi người xua đuổi, xa lánh. Chìm trong cơn say triền miên, đi đâu hắn cũng chửi bới, ăn vạ, dọa nạt kẻ khác, đích thị là một kẻ lưu manh bị mọi người ghen ghét. Thế rồi trong cơn say, hắn tìm đến nhà Bá Kiến để ăn vạ, quấy rối. Để rồi từ đây, cuộc sống của hắn trở thành cuộc sống của một con quỷ dữ đội lốt người
Đến nhà Bá Kiến, bị lí Cường mắng cho mấy câu, hắn liền nằm ngay ra đất ăn vạ, đập cái chai vào cổng, lấy mảnh vỡ tự rạch mặt mình rồi nằm đó rên ư ử. Chi đến khi cụ ông về, bằng những lời nịnh nọt ngon ngọt mà Chí Phèo đã trở thành tay sai dưới chướng của Bá Kiến. Hắn đích thị trở thành một tên đâm thuê chém mướn, ai sai gì thì làm nấy, phá hoại không biết bao nhiêu của cải, vật chất của làng Vũ Đại. Cứ như thế, Chí Phèo trượt dài trên sự tha hóa, bản thân thì bị hủy hoại, nhân cách thì ngày càng độc ác, tàn nhẫn, sống một cuộc sống bị mọi người xa lánh, ghét bỏ. Chính xã hội bất công cùng sự hiểm độc của bọn địa chủ, cường hào đã đẩy Chí Phèo vào những bước đường cùng. Qua đây, ta có thể thấy được cuộc sống khổ cực, bị áp bức bóc lột của nông dân nghèo thời xưa, đồng thời Nam Cao cũng muốn tố cáo sự áp bức, bất công của giai cấp tư quyền thời phong kiến.
Những tưởng cuộc đời của Chí Phèo sẽ trượt dài, chỉ toàn là những tăm tối, khổ đau thì bằng lòng nhân đạo sâu sắc, tác giả đã cho Chí Phèo cơ hội giác ngộ và làm lại con người. Cuộc gặp gỡ của Chí với Thị Nở, một người đàn bà xấu xí và ế chồng, đã thức tỉnh phần “người” trong con quỷ đó. Chí Phèo sau đêm say rượu, ăn nằm với Thị Nở đã nảy sinh tình cảm, những ước mơ đẹp đẽ cứ hiện lên trong đầu hắn. Hắn muốn trở lại làm người, muốn được lương thiện, muốn có một cuộc sống êm đềm, gia đình nho nhỏ cùng những đứa con sinh đẹp. Lần đầu tiên trong đời có người cho không hắn cái gì, đối xử với hắn tốt như vậy, chính điều này đã khiến hắn bừng tỉnh, không muốn trượt dài trên con đường tha hóa nữa. Nhưng số phận lại một lần nữa trêu đùa với hắn, sự dở hơi của Thị Nở cùng định kiến của xã hội xưa đã khiến hai người họ chẳng thể đến được với nhau. Chí Phèo bị Thị Nở từ chối trở nên đau khổ, uất hận tột cùng. Hắn nhận ra một điều là mình không thể trở lại làm người được nữa, cái xã hội này không công nhận hắn, không ai cho hắn được lương thiện. Rồi như để kết thúc tất cả, hắn đã chọn phương án tiêu cực và bi kịch nhất đó chính là giết chết Bá Kiến và tự sát. Đây cũng giống như một sự giải thoát cho một kiếp người đau khổ, dấu chấm hết của một con người tha hóa, biến chất.
Qua hình tượng và diễn biến tâm lí nhân vật Chí Phèo ta đã thấy được ngòi bút nghệ thuật của Nam cao. Ông muốn tố cáo xã hội xưa, muốn lên án đòi lại công bằng cho những số phận nông dân nghèo khổ bị áp bức, bóc lột. Những giá trị nhân đạo mang tính nhân văn sâu sắc cùng với nghệt thuật miêu tả tính cách diễn biến tâm lí nhân vật đã đem lại thành công cho ông cùng với tác phẩm truyện ngắn này.
3. Bi kịch bị cự tuyệt làm người
Đề tài về người nông dân đã trở thành nguồn cảm hứng rất lớn cho các nhà văn sáng tác trong giai đoạn trước cách mạng tháng Tám. Nhà văn Ngô Tất Tổ đã cày xới trên mảnh đề tài ấy khi đi sâu vào nỗi thống khổ của người dân trước sưu thuế qua tiểu thuyết “Tắt đèn”. Nguyễn Công Hoan tái hiện tình trạng khốn khổ của những người nông dân bị quan lại chèn ép qua “ bước đường cùng”. Nhà văn Nam Cao cũng đã từng hướng ngòi bút để phản ánh số phận bi thảm của lão Hạc. Nhưng có lẽ khi Chí Phèo ngặt ngưỡng bước ra từ trang văn của ông người ta mới thấu hiểu nỗi khổ đau tột cùng của một người bị cự tuyệt và bị tước đi quyền sống quyền làm người chính đáng.
Vậy, bi kịch là gì? Bi lịch là mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát có thể dẫn đến cái chết. Trong văn học Việt Nam ta đã từng gặp bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, bi kịch nghệ thuật của nhà văn Hộ, bi kịch của Vũ Như Tô...nhưng lạ lùng nhất là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
Chí Phèo đã bị bỏ rơi ngay từ khi mới sinh ra, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không gia đình, không nhà cửa. Lai lịch của Chí được mở ra trong câu chuyện là một đứa trẻ “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”, sau đó một người đi thả ống lươn đem về trong một buổi sớm tinh sương. Hắn được cưu mang bởi những con người nghèo khổ, Chí Phèo đi hết nhà này đến nhà khác, từ bà góa mù đến bác phó cối. Tuổi thơ của hắn sống trong bất hạnh, tủi nhục ‘’hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác’’. Năm 20 tuổi, Chí Phèo đi làm canh điền cho Bá Kiến. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị bà chủ bắt làm việc không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích.
Khoảng thời gian đi làm thuê cuốc mướn là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời Chí, bởi đó là quảng đời lương thiện, quảng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí cũng như bao con người khác, cũng có ước mơ giản dị, yên bình được toan lo làm lụng ‘’có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm’’. Nhưng đau đớn thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi mới chỉ trong trứng nước, một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy anh canh điền lương thiện Chí Phèo rơi vào vòng tù tội... Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến để rồi biến một con người hiền lành, chất phác thành một kẻ lưu manh, tội đồ bị xa lánh. Chỉ thế thôi đã đủ để thấy được tương lai của hắn sẽ còn là một chuỗi ngày bi kịch.
Sau bảy, tám năm trong nhà tù thực dân đã thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính của hắn. Chí không còn là anh canh điền hiền lành như trước nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một thân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết...cái ngực với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế”. Từ một người nông dân hiền lành, lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh, “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn trong vòng tay đùm bọc vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Giờ đây Chí Phèo trượt dài trong những cơn say triền miên, với những tội ác không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của người dân Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động. Từ đây, hắn sống bằng rượu, máu và nước mắt của những người dân thiện lương “hắn đã đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước Cách mạng. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân phải bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hoá.Tưởng chừng như cuộc đời của Chí sẽ mãi như thế cho đến chết, nhưng rồi cho đến khi gặp Thị Nở và hắn ước mơ được hoàn lương. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Cháo hành đã tẩy ố đi men rượu, gột rửa những tội lỗi trong con người Chí, vô hình dung đã sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và mở đầu cho một mối thiên duyên.
Thế nhưng đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người là ngay cả Thị Nở - người thắp sáng lên sự lương thiện của hắn không thể gắn bó cùng nhau. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí, làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa mới được nhen lên. “Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ.” – “Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh. Chí “ngẩn người”, “sửng sốt”, “gọi thị lại, nắm lấy tay” nhưng không được. Chí đã cố níu kéo Thị lại nhưng thị đã đi, đã đi...
Đau đớn cùng cực, Chí Phèo mang rượu ra uống nhưng “càng uống càng tỉnh ra” và “tỉnh ra, chao ôi, buồn”. Rượu không thể làm tê liệt tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng làm cho hắn thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức và quyết định trả thù kẻ đã gây cho hắn ra nông nỗi này”. Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó.Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi đã dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về, tỉnh táo để xác định kẻ thù: “Ai cho tao lương thiện ?”,tỉnh táo để thể hiện mong muốn cháy bỏng của bản thân: “Tao muốn làm người lương thiện !” và tỉnh táo với sự thật phũ phàng trước mắt: “Tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Những câu nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí Phèo. Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và đâm chết hắn. Nỗi đau đớn tận cùng của con người không phải chết mà là sống nhưng không có quyền làm người. Chính vì thế có thể khẳng định đây là bi kịch lớn nhất của Chí Phèo. Sau khi đâm chết lão cáo già Bá Kiến, Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn.
Là một nhà hiện thực từ cốt tuỷ, Nam Cao luôn đau đớn thấy rằng cái phần người đang bị băng hoại mà vô phương cứu chữa. Các thế lực thù địch với con người: cường quyền bạo ngược, định kiến hà khắc, định mệnh tàn khốc, thù hận mù quáng, cùng biết bao những thói đời khác nữa (ích kỉ, tham lam, đố kị, vô tình...) ở làng Vũ Đại đã là những đồng loã vào hùa với nhau thành cái hoàn cảnh phi nhân, ráo hoảnh tình người, cạn khô tính người, tiêu diệt phần người. Phần người lương thiện không thể cưỡng được hoàn cảnh phi nhân. Trong cái gầm trời có tên là Vũ Đại kia, phần người của Chí Phèo đã bị bóp nghẹt, bị biến dạng, bị chặn đứng, bị ngoảnh mặt. Phần người quằn quại trong Chí. Phần người luôn làm quằn quại ngòi bút Nam Cao."
4. Diễn biến tâm lí của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn, xuất sắc của nền văn học Việt nam. Các tác phẩm của ông mang đạm chủ nghĩa nhân đạo. Hai đề tài chính mà ông hướng tới là người trí thức nghèo và nông dân nghèo bị bần cùng hóa. Trong đề tài về người nông dân nghèo nổi bật lên là “ Chí Phèo”, một kiệt tác văn xuôi Việt Nam hiện đại một tác phẩm có giá trị hiện thức và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, là nét đặc sác giữa sự kết hợp của cái tài và cái tâm của một nhà văn lớn. Diễn biến tâm lí nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thi Nở cho đến hết tác phẩm đã thể hiện rõ tài năng miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí nhân vật của Nam Cao.
Chí phèo vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi bên cái lò gạch cũ, không cha, không mẹ, Chí lớn lên nhờ chén cơm của người làng, dù lớn lên trong cô độc và thiếu tình thương nhưng Chí có bản chất của một con người lương thiện, cũng có một ước mơ nhỏ bé và bình dị là một gia đình và có cuộc sống như bao người.. Năm 20 tuổi, Chí làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến. V Nhưng vì một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến, Chí Phèo đã bị đẩy vào tù. Chế độ nhà tù thực dân đã vùi dập, xô đẩy một con người lương thiện trở thành một kẻ lưu manh. Trở thành tay sai độc ác của Bá Kiến, suốt ngày chìm trong cơn say, phá làng, phá xóm, rạch mặt ăn vạ và biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Tưởng như Chí Phèo sẽ sống kiếp thú vật mãi và sẽ kết thúc ở một nơi nào đó nhưng bằng tài năng và trái tim nhân hậu của mình, Nam Cao đã đưa Chí trở về với bản chất vốn lương thiện của mình. Dưới màn đêm thanh vắng, vầng trăng sáng tỏ làm chứng, Chí Phèo đã gặp Thị Nở – tình yêu thiên sử của cuộc đời mình. Trong buổi đêm ấy, Chí Phèo gặp Thị Nở không chỉ đơn giản là sự va chạm về xác thịt mà nó đã khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng của con người.Một con quỷ của làng Vũ đại cộng với một người phụ nữ xấu nhất làng đã thành một tình yêu kỳ diệu. Kỳ diệu ở chỗ, một con người lưu manh hóa, bị cả làng xa lánh lại có tình yêu. Kỳ diệu ở chỗ, một người phụ nữ ngẩn ngơ, xấu ma chê quỷ hờn lại có tình yêu. Đó là điều kỳ diệu, điều kỳ diệu có thể thay đổi cả một con người.
Quỷ dữ say ngàn năm đã tỉnh dậy sau một đêm, một con người lưu manh đã cảm nhận được cuộc sống. Trước đây, vây quanh Chí chỉ có rượu cay, rượu thơm, rượu nồng. Nhưng giờ đây, Chí tỉnh rượu sau bao nhiêu năm say triền miên. Trận thổ nữa đêm đã loại bỏ hết men rượu trong người Chí, Chí cảm thấy mình tỉnh hơn bao giờ hết. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí nghe thấy những âm thanh của cuộc sống. “Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ, lúc nghe tiếng chim bên ngoài đã đủ biết… chim hót ngoài kia vui tai quá! Có cả tiếng cười nói của người đi chợ, anh thuyền chai gõ mái chèo đuôi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chẳng có, nhưng hôm nay hẳn mới nghe thấy”. Một người như Chí chỉ có rượu làm bạn mà đã nghe thấy tiếng gọi cuộc sống, đó là một điều kỳ diệu.
Điều kỳ diệu không chỉ có thế, đây cũng là lần đầu tiên Chí biết chiêm nghiệm về cuộc đời mình, “ Tỉnh dậy hẳn thấy mình đã già mà vẫn còn cô độc”, Chí đã sang con dốc bên kia của cuộc đời rồi mà vẫn còn lẻ bóng. Những người bằng tuổi Chí thì đã có gia đình sum vầy hạnh phúc, cha con quây quần. Nhìn lại cuộc đời, Chí thấy mình đã yếu nhiều, lắm chỗ hư hỏng nặng nề. Chí nhớ rằng, trước kia Chí cũng từng có một ước mơ, có một gia đình nhỏ bé, chồng cuốc mướn cấy thuê, vợ dệt vải. Nhưng vì cái xã hội này mà Chí đã quên đi cái cuộc đời này. Mọi người mới sinh ra không ai là độc ác cả mà chỉ tại cái xã hội tàn bạo này đã biến họ thành một con người khác, bị lưu manh hóa, bị xã hội coi thường, khinh bỉ, xa lánh.
Và rồi, thị Nở cũng xuất hiện, thị sang mang cho Chí bát cháo hành nóng hổi, bát cháo hành không chỉ để cho Chí giải cảm mà còn là sự quan tâm bởi tay một người đàn bà. Thị quan tâm, chăm sóc Chí thật tốt, tình cảm của thị gửi đến cho Chí quá đột ngột khiến Chí quá ngạc nhiên “ hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt”.Cầm bát cháo trên tay hít một hơi dài, húp một mạch đến cạn bát. Chí thấy cháo hành mới ngon làm sao, “ những người suốt đời không ăn cháo hành không biết cháo hành ăn rất ngon”. Giờ đây, Chí tin tưởng rằng thị sẽ làm cầu nối đưa Chí về thế giới bằng phẳng kia, Chí muốn làm người lương thiện. Thế mới biết, sự lương thiện của một con người luôn ẩn náu trong một góc khuất nào đó ngay cả khi họ bị biến thành quỷ dữ.
Đương lúc niềm tin dâng trào thì chí Phèo lại rơi vào một bi kịch đau đớn hơn bi kịch lúc đau gấp trăm ngàn lần, thị Nở cự tuyệt Chí Phèo. Đang lúc tình yêu say đắm,thị Nở thương Chí Phèo, Chí Phèo mến thị Nở mà bà cô thị rắc tâm chia cắt mối tình đẹp. Thái độ của bà cô thị đại diện cho thái độ của những người dân trong làng, họ không thể tiếp nhận lại Chí Phèo, ước mơ của Chí Phèo đã bị dập tắt, rồi cuộc đời Chí sẽ trôi về đâu?
Theo bản tính sẵn có, cứ buồn là Chí tìm đến rượu, uống cho say để quên đi cuộc đời. Lần này cũng thế, Chí lại uống rượu. Rượu luôn trung thành với Chí nhưng giờ Chí càng uống lại càng tỉnh, càng tỉnh lại càng buồn. Chí thấy thoang thoảng mùi cháo hành. Trước lúc uống, Chí định bụng sẽ đến nhà Thị Nở giết cả nhà con mụ đàn bà xấu xí ấy nhưng khi có rượu trong người, Chí lại xách dao đến nhà Bá Kiến. Chí đòi sự lương thiện: “ ai cho tai lương thiện”? Chí giết chết Ba Kiến rồi tự sát, Chí chết giãy đành đạch giữa vũng máu, Chí chết bởi Chí không muốn trở lại kiếp quỷ dữ. Cái chết của Chí là sự giải thoát cho mọi đau khổ, cuộc đời Chí đặt dấu chấm hết.
Khép lại truyện ngắn “ Chí Phèo”, tác phẩm đã thể hiện cả giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ. Hiện thực ở chỗ đã phản ánh số phận bi thảm của những người nông dân bị áp bức bóc lột trước cách mạng. Đồng thời tố cáo chế độ thực dân nửa phong kiến tàn bạo. Còn nhân đạo ở chỗ, phát hiện và miêu tả những phẩm chất tốt đẹp của con người ngay cả khi họ biến thành quỷ dữ. “ Chí Phèo” là một kiệt tác của nền văn học Việt Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top