gia dinh

Một Gia Đình

Hoà ơi!

Hoà đâu rồi?

...

Có tiếng chân chạy thình thịch lên nhà trên.

- Dạ con đây, cha cần gì ạ?

- Lấy cho cha cốc nước.

...

Hoà ơi!

HOÀ!

( lại tiếng chân chạy)

- Dạ con đây, cha cần gì ạ?

- Cho cha cái bô....

Đó là tiếng của ông bố nát rượu sau khi say và đứa con trai độc nhất của một gia đình. Gia đình có năm người tất cả Sau này thêm một đứa cháu ngoại nữa là sáu. Hai vợ chồng và ba đứa con. Đứa con gái lớn thì nhìn thấy cái cảnh này quá quen thuộc và mỗi lần thế đều nghiến răng kêu troè trẹo. Đứa con gái thứ thì bị bệnh tật từ bé, không đủ minh mẫn để cảm nhận được như chị nó nhưng nó cũng mang cảm giác sợ sệt. Vì mỗi khi say ngoài người mẹ khốn khổ ra thì nó là đứa bị người cha nát rượu hành hạ nhiều nhất. Một gia đình tôi nói ở đây là một gia đình cá biệt. Một gia đình không đầm ấm hạnh phúc, không có tiếng cười và luôn có tiếng khóc, tiếng chửi bới, tiếng đánh đập, xua đuổi....

Mỗi lần say là một thảm cảnh, mà ngày nào ông ý chả say, tháng nào chả vậy, quanh năm suốt tháng triền miên như thế. Đứa con gái lớn đang học lớp 11 cũng bị ép bỏ học, bị đốt hết sách vở vì người cha không cho học tiếp, vì ông nghĩ con gái học nhiều để làm gì. Ở nhà đi làm để cho ông còn đi uống rượu.

Đứa con gái thứ bị bệnh tật nhưng cũng ham học không kém, nhưng không được đi học vì người cha cũng đâu cho, ông ý cũng nói nó thì học hành cái nỗi gì. Nói là không học được nhưng việc thì vẫn bắt nó làm dấy. Với sức vóc bệnh tật của nó mà ông cũng cứ bắt nó làm việc bình thường. Bắt nấu cơm, mà nấu cơm có nhỡ mà sống thì bị đánh,bị thụi, bị chửi....

Người mẹ tảo tần, quanh năm suốt tháng bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Chả bao giờ ngóc đầu lên được, luôn bị những trận đòn, những trận chửi mắng của người chồng nát rượu vũ phu. Nhìn cảnh đứa con thứ tàn tật bị đánh đập, bị đấm, đập đầu vào tường mà nghẹn ngào không dám lên tiếng. Chỉ dám nói vài câu theo phản xạ quá xót con: - Anh làm gì thế, Nó cũng là con anh mà...Nhưng những lời đó chả thấm vào đâu với cái đầu cố ương ngạnh và độc ác.

Và rồi theo năm tháng....

- Mẹ ơi, chị Phương sao lâu về thế nhỉ?

- Chắc chị ấy đang về thôi.

Đó là sau vài năm sau, người chị đã không chịu được cảnh người cha nát rượu, không chịu được cái cảnh gia đình luôn không có tiếng cười ấy đã bỏ nhà ra đi, mong thoát thân khỏi cái ngục tù đó. Cô gái đã bươn chải ngoài đời, đi làm gì cũng được, miễn là có việc làm và có tiền...Dòng đời xô đẩy cho người con gái đó cũng chả tìm được việc gì tử tế. Cũng có lẽ quá kham khổ nên cuối cùng lao vào con đường không nên...

Hôm nay sau bao trận ốm, bao nhiêu lần đi và về. Bệnh viện đã trả về và đứa con gái thứ của gia đình này đã lâm bệnh nặng. Bệnh Sơ Gan Cổ Trướng. Đáng nhẽ nếu gia đình có tiền có của, phát hiện sớm thì bệnh tình của cô bé này chả đến nỗi y học bó tay và bệnh viện trả về thế này. Nhưng ...tất cả là vì cái nghèo...Mọi đau khổ đổ hết lên đầu một người mẹ.

Và hôm nay theo hẹn của mẹ thì cô chị cả đã từ thành phố về thăm em, về nhìn mặt em lần cuối. Theo mong mỏi của đứa em gái xấu số. Mùa hè nắng chang chang, đang là vụ thu hoạch mùa màng nên dù con ốm sắp chết thì người Mẹ vẫn không thể nào ngưng việc đồng áng thu hoạch mùa màng để mà ở nhà chăm con. Vì người cha độc ác tàn nhẫn đâu có cho phép.

Cuối cùng thì cô gái cũng về đến nhà, chỉ vì đứa em và mẹ nên cô gái mới về nhà chứ cô cũng chả thiết tha gì ngôi nhà này nữa. Cô đã tự hứa, cuộc đời cô dù có thế nào đi nữa, dù có phải long đong bươn chải ngoài đời khổ ải thì cũng không bao giờ lết về ngôi nhà này mà nương tựa. Bởi cô biết chính xác là điều này không thể.

Ngồi nhìn đứa em da vàng vọt, mắt sâu trõm đi vì mất ngủ, vì có nằm được đâu mà ngủ. Cái bụng to như cái trống thế kia thì làm sao mà nằm. Đã thế căn bệnh vào thời kỳ cuối luôn hành hạ đau đớn, khó chịu. Những ngày trước khi chọc để hút dịch thì cô bé rất sợ đi bệnh viện, nhưng giờ thì cô bé luôn mồm kêu:

- Mẹ ơi đưa con vào bệnh viện đi, con đau lắm

- Mẹ, con muốn vào bệnh viện.

Người mẹ nước mắt ngắn nước mắt dài nhìn con mà ruột thắt lại đau nhói.

- Mai mẹ đưa vào viện, con cố nghỉ đi.

- Sao chị Phương lâu về thế mẹ?

- Chị ấy đang trên đường về đấy, trưa là chị ấy về đến nơi thôi.

Khổ thân, chắc cái chết cũng đang đến dần dần, và cô bé đã cảm nhận được nó, và mong mỏi gặp người chị phương xa.

- Con chào mẹ

- Về rồi hả con.

- Vâng! Con đi tàu nên về hơi muộn. Em con thế nào rồi hả mẹ?

- Vào thăm nó đi, trên giường đó, nó mong từ sáng đến giờ đấy.

- Cha à.

- Mới về à( người cha lạnh lùng)

- Chào chị!

- Chào em!

- Em thấy trong người thế nào rồi?

- Em thấy đau lắm, em muốn đi bệnh viện chị ạ

( cô chị nhìn đứa em với cái bụng trướng lên to hơn cái trống mà ruột gan cũng co thắt, nước mắt cô chực trào ra và cô phải trả lời qua quít rồi lảng tránh ra ngoài. Nếu không cô sẽ phải khóc trước mặt đứa em gái mất.)

Buổi chiều cũng đã sắp tàn, cô chị đang nấu cơm ở bếp, đằng kia là cái giường của Mẹ và đứa em gái đang ngồi dựa lưng vào thành giường. Mẹ thì đang mải mê vun thóc ngoài sân. Người cha tàn nhẫn thì đang mải đi ra đi vào nhà trên làm vài ngụm rượu cho mát mẻ.

Bỗng cô chị nghe tiếng "Bộp"

Quay đầu lại thì thấy đứa em gái đã ngã nghiêng xuống. Cô vội vàng hoảng hốt chạy ra sân gọi:

- Mẹ ơi vào xem Thuý nó làm sao ấy.

Người mẹ chạy vào thì...

Tiếng khóc than của mẹ làm cho cái không khí buổi chiều tàn trong ngôi nhà vốn không bao giờ có tiếng cười bỗng như lạnh lùng, bi thương.

- Con ơi là con, sao con bỏ mẹ mà đi sớm thế này, sao con không chờ mẹ đưa con vào bệnh viện. Con ơi là con....

Viết đến đây tôi cũng không cầm được nước mắt nữa, tôi cũng đã phải khóc đấy.

Người chị thì bàng hoàng, không thể nào khóc nên lời được, không phải không thương đứa em gái tội nghiệp, mà chẳng biết vì sao mà không thể nào khóc em.

- Anh Tam ơi, vào đây đi, con nó đi rồi đây này.

- Có chuyện gì thế? Tránh ra nào.

Người cha độc ác đến phút này cũng như tỉnh ngộ ra đôi điều, đã biết xót thương đứa con rứt ruột sinh ra. Đã ra giáng là một người đàn ông trụ cột trong nhà.

- Thôi đừng ngồi đây mà khóc nữa, đứng dậy còn chuẩn bị đi nào.

- Phương đi lên chợ mua mấy tấm vải sô trắng về đây để làm khăn tang cho em. Mua một bộ quần áo mới cho em nữa. Nhanh lên!

Cô gái cuống quít lôi xe đạp chạy lên chợ mua những thứ cần thiết cho em.

- Thằng Hoà đâu, đi báo cho Cậu và các cô chú biết tin, chị Thuý mày đã đi rồi, nhanh lên!

Thế là đứa con gái thứ của cái gia đình ấy đã ra đi vĩnh viễn, tiễn em đi mà cô chị cả vẫn không tài nào khóc được một tiếng. Nhớ lại những chuỗi thời gian em ấy bị chịu đựng người cha tàn ác, chịu đựng cái gia đình không có tiếng cười này đã là quá đủ, em hãy an nghỉ nhé. Có lẽ thầm nghĩ thế mà cô chị không khóc em được. Với cô ấy có lẽ ra đi như thế là một giải pháp tốt để có thể thoát được khỏi cái gia đình này.

Người mẹ, thằng út thì khóc đến khàn cả giọng.

***

**

Thời gian cứ thế trôi và gia đình đó vẫn chưa hề có được tiếng cười, có lẽ cái chết của đứa con cũng không đủ làm tỉnh táo con người tàn ác đó, người mẹ thì vẫn luôn luôn phải chịu đựng cảnh tượng người chồng say xỉn, nằm ườn ở nhà. Đứa con trai duy nhất thì cứ phải chạy lên chạy xuống giữa nhà trên và nhà dưới bởi những tiếng kêu rên của người cha. Đứa cháu ngây thơ thì cũng đến nỗi khiếp sợ người ông nát rượu nên mỗi lần thế nó lại khóc thét lên. Đứa cháu ngoại là kết tinh của cô chị cả bỏ nhà đi và bị một người con trai lừa.

Một gia đình quá vô phúc, giờ này người chị cả vẫn biệt xứ, làm gì không ai biết, thi thonảg hiếm hoi mới ghé thăm con và mẹ. Đứa em út cũng đã lớn và cũng thoát ly đi làm ăn nơi xa. Căn nhà còn lại 3 người, hai vợ chồng già và đứa cháu ngoại ngây thơ. Bơ vơ không cha, không mẹ, sống nương nhờ lòng thương của ông bà ngoại.

Ngôi nhà đó vẫn không bao giờ có tiếng cười, chưa một lần tôi nghe tiếng cười từ trong ngôi nhà đó, lúc nào cũng là sự ảm đạm, sợ sệt và buồn thảm. Liệu rồi đây gia đình này sẽ thế nào đây?

Người chị cả có ăn nên làm ra và quay về với con không? Người cha tàn ác có bỏ được ma men không? Và người mẹ tảo tần, lam lũ có ngẩng mặt lên với đời được không?

Và hơn hết, tiếng cười có sẽ tìm đến với gia đình này không?

- Thảo ơi! Thảo!

Có tiếng chân nhỏ chạy thoăn thoắt lên nhà:

- Dạ! Ông gọi cháu ạ.

- Hôm nay cháu có đi học không?

- Thưa ông có ạ!

- Hôm nay cháu được mấy điểm?

- Dạ cháu được 2 điểm 10 ông ạ.

- Mày nói phét, mày được điểm 2 chứ gì? Học dốt như mày thì sao mà được điểm 10.

....

Thảo ơi! Thảo..!

- Dạ, ông cần gì ạ?

- Lấy cho ông cốc nước.

- ...

- Thảo...!

- Dạ thưa ông.

- Lên đây ngủ với ông nào....

...

Đó là tiếng trao đổi giữa ông và cháu ngoại. Bây giờ đứa con trai đã đi làm, không còn ai để gọi nữa thì người đàn ông nát rượu lại gọi đứa cháu tội nghiệp bé bỏng.

Mỗi lần thế ở nhà dưới nó dẫm chân, khóc lóc, nhưng khi lên đến nhà trên nó lại nhỏ nhẹ thưa bẩm đàng hoàng. Nó mới có 5 tuổi thôi đấy....

Một gia đình......

Gã làm thuê

Gã ngồi tựa vào gốc cây xà cừ nhìn đường phố. Đang giờ người ta đi làm, đường phố đông nghẹt người. Mà sao bây giờ họ lắm tiền nhiều của thế, xe máy ô tô ken vào nhau nghẽn tắc cả đường. Toàn là loại xe sang trọng. Ô tô xịn, xe máy cũng toàn loại xịn và đắt tiền. Nghe nói những cái xe máy bọn choai choai đang cưỡi kia, có cái đến cả trăm triệu đồng, đời gã có nằm mơ cũng chả bao giờ dám mơ tới. Gã chỉ ước gì mua được một các xe đạp tốt cho con gái đi học. Gia tài đáng giá nhất nhà gã chính là chiếc xe đạp sét gỉ gã đang dựa ở gốc cây này. Cái xe mà khi còn ở quê, buổi sáng con gái dùng đi học, buổi chiều gã dùng đi thồ gạch. Bánh xe được gia cố thêm mấy thanh sắt làm nan hoa để khi chở nặng khỏi bị gãy vành. Khi lên thành phố làm thuê, gã đem theo cái xe đạp để chuyên chở đất thải, con gái gã phải đi bộ tới lớp. Từ nhà tới chỗ nó học cũng phải gần bốn cây số... Gã chợt thấy đói cồn cào. Từ hôm qua đến giờ gã chưa có gì cho vào cái bụng lép kẹp. Tối hôm qua lẽ ra thì gã đã có một bữa ngon lành. Bởi mấy ngày vừa rồi gã "may mắn" được một ông thuê phá dỡ hai gian nhà cấp bốn. Đây là mấy gian nhà ông này làm cho mẹ ở. Khi bà cụ mất, ông ta liền phá đi. Gã được ông ta thuê đến thuê phá dỡ, giải phóng mặt bằng lấy để làm nơi treo hoa phong lan và bày cây cảnh. Gã biết, ông này là một cán bộ cấp bự. Làm quan to nên ông đón mẹ từ quê lên phụng dưỡng. Bà mẹ già mắt mờ, chân chậm, lại vốn dĩ là nông dân tần tảo vất vả cả đời nên về già ốm yếu, bệnh tật. Bà cụ sinh hạ được mỗi ông ta là con duy nhất. Chồng chết, cụ ở vậy nuôi con, lần hồi sới đất lật cỏ kiếm từng xu từng hào cho ông ăn học nên người, lam quan chức to nhất vùng. Dân làng thấy ông đánh ôtô về đón mẹ lên thành phố, ai cũng trầm trồ khen ông có hiếu. Bà hàng xóm cứ nức nở mãi: "Thế mới đáng là con cái chứ! Đúng là đẻ con khôn mát... rười rượi, chả bù mấy thằng giặc nhà tôi phá gia chi tử..." Ông bán hết nhà cửa, ruộng vườn rồi đưa mẹ ra đi trong sự thán phục của cả làng.

Lên Hà Nội, bà cụ vẫn quen lối sống tùy tiện thoải mái như ở quê. Bà cụ nhai trầu bỏm bẻm suốt ngày. Nước cốt trầu vương vãi trên salon, và nền phòng khách được lát bằng gỗ quý khiến vợ ông rất khó chịu. Bà vợ ông càng bực bội mặt nặng, mày nhẹ mỗi khi ăn uống cụ làm rơi vung vãi cơm, đổ cả canh ra bàn ăn. Ông cán bộ nọ cũng nhiều phen phát bực vì bà cụ làm cho phát ngượng do mấy lần có khách hỏi thăm, cụ cứ rỉ rả kể lại mãi chuyện quê, chuyện ngày xửa ngày xưa nuôi con vất vả, chuyện ông bíếng học hay chơi bời lêu lổng. Có lần ông đã quát mẹ khi khách vừa mới ra khỏi cửa khiến bà cụ tủi thân cứ sụt sịt mãi. Còn bà con dâu và thằng cháu đích tôn thì thường xuyên trì triết, hạch sách mỗi khi cụ làm đổ nước hay rớt bã trầu ra sàn nhà. Bà cụ buồn lắm. Suốt ngày lầm lì như cái bóng trong căn biệt thự sang trọng. Khi con cháu đi vắng, cụ muốn mở tivi nghe dân ca cho đỡ buồn. Nhưng con dâu sợ làm hỏng tivi nên đã rút mất phích điện. Giá như còn ở quê, cụ sẽ sang nhà bà hàng xóm cùng nhau giã trầu hay tuốt rơm nếp để tết chổi. Còn ở đây giữa chốn nhà cao cửa rộng nhưng cổng khóa, then cài, cụ như bị giam lỏng. Bà cụ muốn trở về quê nhưng đâu còn nhà cửa mà về.

Một lần cụ bảo: "Hay cho mẹ về quê, ở đây mẹ thấy không hợp!" Ông con trai đã gạt đi: "Mẹ về quê thì ở vào đâu, nhà đã bán mất rồi!" Còn bà con dâu nói mát: "Sướng lại chả muốn!" Thằng cháu đích tôn thì lấc cấc: "Cụ về quê lấy ai khuya sớm phụng dưỡng tuổi già!" Mặc dù từ ngày đón mẹ ra ở cùng bao nhiêu phiền nhiễu nhưng con trai, con dâu chẳng bao giờ muốn cho mẹ về quê. Với họ không phải vì đã trót bán mất ngôi nhà của tổ tiên để lại. Chỉ cần vài ba chục triệu là họ thừa sức mua đất và làm cho mẹ căn nhà khác ở quê. Nhưng họ còn mặt mũi nào. Đã được tíếng là hiếu thuận thì phải giữ chứ với lại còn uy tín của ông, của bà trước cơ quan nữa. Thời buổi này cái ghế của ông không ít kẻ nhòm ngó, sơ sảy một tý, sụt giảm uy tín một chút là hỏng ngay. Hơn nữa để bà cụ ở Hà Nội cũng có thêm một nguồn thu đáng kể. ấy là khi tổ chức mừng thọ cho cụ, dịp tết nhất và cả những khi cụ trái gió trở trời ốm đau anh em trong cơ quan, những người được ông bà nâng đỡ sẽ đến chúc mừng, hay thăm hỏi và đều có quà cáp. Quà thì đâu chỉ có cân đường, hộp sữa, nải chuối hay chục trứng gà như ở quê mà là phong bì dày cộp trong để toàn tiền mệnh giá lớn hoặc đôla.

Khi thấy để mẹ ở nhà trên gây nhiều phiền phức, ông bàn với vợ làm hai gian nhà cấp bốn ra góc vườn đưa bà xuống đấy ở. Bà vợ ông sốt sắng đồng ý ngay. Thế là bà cụ chỉ còn được lên nhà trên mỗi khi mừng thọ hoặc ngày tết và lúc nào đau ốm để cho mọi người trong cơ quan con trai con dâu đến chúc mừng, hoặc thăm hỏi. Những người đến thăm hỏi, chúc mừng bà cụ chẳng qua chỉ là cái cớ. Họ đến để cống nộp là chính.

Bà cụ đã trút hơi thở cuối cùng vào một đêm mưa gió trong ngôi nhà cấp bốn ẩm thấp nơi góc vườn. Ngay trong đêm, thi hài cụ đã được di chuyển đến quàn trong phòng lạnh của một nhà tang lễ lớn nhất thành phố. Tại đây cụ được tổ chức tang lễ thật trọng thể. Có rất nhiều đoàn đến viếng. Người làng trong đoàn của địa phương lên dự lễ tang ai cũng nể phục. Vòng hoa nhiều vô kể, không thể đếm nổi. Chẳng có kèn trống như ở quê. Không có các vị sư sãi, các vãi già đến đọc kinh, chèo đò để người chết được siêu thoát được sang Tây Thiên với phật. Quan tài cụ được xe tang đưa thẳng ra đài hóa thân hoàn vũ. ấn nhẹ công tắc điện một cái là đã thành mây khói, chút tro cốt còn lại được cho vào lọ. Thế là xong. Việc này chắc khi con sống bà cụ đã từng nghĩ đến. Cụ sợ lắm. Cụ rất muốn về quê có chết thì về với ông bà ông vải gặp lại mấy bà bạn cùng tuổi đã đi trước nhưng ông con thì không chịu.

Sau đám tang, ông con trai nghĩ ngay đến số tiền phúng viếng, nhẩm tính sơ sơ cũng đủ mua một cái xe ôtô mới tương đối xịn. Và việc ông phải làm đầu tiên là cho phá ngay căn nhà cấp bốn góc vườn. Gã làm thuê được gọi đến. Biết sự tích của căn nhà, gã cũng thấy bùi ngùi.

*

Gã làm thuê bắt đầu phá dỡ dần từng phần căn nhà cấp bốn. Gã cố để lại một góc để ở tạm mấy hôm. Vì buổi tối gã mới có thể thu dọn đống vôi vữa, gạch vụn rồi dùng xe đạp thồ chở ra đổ trộm ngoài bờ đê. Ban ngày mà chuyên chở những thứ này thì sẽ bị công an tóm ngay, với lại muốn đổ trộm những thứ phế thải ra bất cứ chỗ nào cũng đều phải đợi khi đêm đến. Ông chủ nhà dặn gã làm ăn phải cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến ông ta. Gã vâng vâng dạ dạ để ông ta yên tâm.

Sau khi phá nốt góc căn nhà cấp bốn, nơi mấy đêm vừa rồi gã chừa lại lấy chỗ ngả lưng sau những chuyến chở phế thải đi đổ ngoài bờ đê, gã rụt rè lên phòng khách ngôi căn biệt thự gặp ông chủ. Nhìn nền gạch hoa và gỗ bóng loáng gã cứ xoa mãi hai bàn chân mà không dám bước vào. Ông chủ nhà hất hàm hỏi:

- Đã xong xuôi cả chưa?

- Thưa bác chỉ còn một xe đất thải cuối cùng tối nay cháu sẽ chở đi và xin phép bác đi luôn ạ!

- Vậy thanh toán tiền công hả?

- Vâng! Nhưng cháu cũng có việc xin báo với bác...

Gã vừa nói vừa móc trong túi cái quần bộ đội cũ ra một gói ni lông được chằng buộc bằng những cái dây chun rất kỹ đưa cho ông chủ nhà.

- Cái gì đây?

- Dạ! Cháu tìm thấy nó khi phá chỗ góc nhà lúc chiều. Chắc là của bà cụ cất giấu. Là vàng và tiền ạ...

- V...à...n...g... h...ả...?

Ông ta gần như giật phắt cái gói từ tay gã nhanh như một con chim cắt chộp mồi. Chẳng nề hà cái gói ni lông đầy bụi bẩn và dính nước cốt trầu đen xỉn. Ông lập cập mở ra. Trong gói có một đôi hoa tai, một cái nhẫn vàng và một cuộn toàn tiền lẻ độ vài trăm nghìn đồng. Nhưng lại có hai tờ một trăm đôla cuộn bên ngoài. Đây chắc là của người nào đó mừng tuổi bà cụ hôm tết mà ông không biết để thu hồi. Ông hất hàm hỏi gã làm thuê:

- Chỉ có thế này thôi à?

- Vâng ạ!

- Có đúng thế không?

Gã làm thuê thấy mình bị xúc phạm. Gã khinh bỉ nhìn ông chủ nhà. Gã đã quá thật thà đem trả lại toàn bộ số tài sản tìm thấy thế mà không được một lời cảm ơn lại còn bị nghi ngờ. Gã định bỏ đi nhưng ông chủ nhà gọi giật lại:

- Thằng kia đứng lại, tại sao mày không trả lời tao?

Nghe tiếng ồn ào ngoài phòng khách bà chủ nhà và thằng con chạy ra. Biết chuyện bà chủ chu chéo:

- Thôi chết tôi rồi! Cho bà ấy ăn mặc đầy đủ thế mà bà ấy còn lén lút cất giấu tiền của. Mà thằng kia, mày còn giấu giếm cái gì ở đâu không hả... Mấy đêm vừa rồi mày chở bao nhiêu chuyến đi rồi. Nó đem cái gì ra ngoài ông có biết không... Ông phải gọi công an đến khám xét, tra hỏi thằng này ngay cho tôi...

-Bà im đi, để tôi hỏi nó, gọi công an có mà...

Thằng con cầm cái nhẫn vàng của bà nội giơ lên lật đi lật lại xem xét rồi nói nhỏ với bố:

-Thằng này để con xử lý mới được!

*

Lẽ ra gã đã đi khỏi cái nhà này ngay sau khi bị ông chủ nhà xúc phạm nghi ngờ gã bớt giấu tiền vàng tìm thấy khi phá dỡ căn nhà cấp bốn. Nhưng vì chưa được thanh toán tiền công nên gã chưa đi được. Khi gã đang đang chuẩn bị ăn cơm thì thằng con ông chủ dẫn theo một thằng nữa mặt mũi vẻ hung hãn ra chỗ góc vườn. Hai thằng đạp đổ nồi canh đầu cá đang nấu và dí dao vào cổ gã làm thuê. Giọng chúng sực mùi rượu: "Mày giấu tiền, vàng nhà tao ở đâu!!!" Gã nhìn hai thằng côn đồ với vẻ mặt coi thường. Chỉ cần một cái vung tay của gã thì hai thằng oắt con này chết sặc gạch, không kịp ngáp. Nhưng gã không thèm chấp lũ vô lương. Gã bảo:

- Không có tiền vàng nào hết! Có bao nhiêu đã đưa ông chủ cả rồi.

- Vẫn còn! Khôn hồn thì nôn ngay ra!

- Đưa hết rồi!

- Hết... rồi... à...?

Mũi dao trong tay thằng con ông chủ nhích thêm một tý. Máu từ cổ gã rơi xuống ngực áo. Đã thế thì... Bằng một động tác quét chân và vung tay của gã, hai thằng côn đồ đã văng ra xa mấy mét. Chúng lồm cồm bò dậy vung dao định xông vào. Mẹ kiếp! Bọn này muốn chết thật rồi. Gã chợt nhớ lại bữa hai tên lính ngụy cũng từng cầm dao găm lao vào gã như thế này trong một trận đánh khi gã còn là lính của một đơn vị đặc công. Bọn khốn này chắc cũng muốn số phận giống như hai tên lính ngụy ngày nào đây. Hai bàn tay gân guốc của gã vo lại thành hai nắm đấm. Giữa lúc ấy thì ông chủ nhà xuất hiện vội vã ngăn lại. Thực ra ông ta đã theo dõi vụ việc "xin tý tiết" của thằng con ngay từ đầu. Ông bảo: "Thôi để nó đi đi..." Gã làm thuê ném cái nhìn khinh miệt vào cái bản mặt phì phị của ông chủ nhà. Gã nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất, hất trả lại bao vôi vữa phế thải rồi dắt chiếc xe đạp ra khỏi ngôi biệt thự.

Trở về chỗ "chợ người" đầu đường Hoàng Quốc Việt, gã ngồi dựa gốc cây xà cừ ngủ gà ngủ gật bởi mấy ngày đêm mệt mỏi phá nhà, chuyển phế liệu.Khi gã đang mắt nhắm, mắt mở nhìn dòng người nườm mượp trên phố thì có tiếng gọi: "Ê! Phụ hồ có đi không?" Sao lại không! Gã nghĩ đã là kiếp làm thuê còn kén chọn gì nữa. Gã vội đạp xe theo mấy đứa cùng bọn chuyên đi bán sức ở thành phố. Cả bọn hì hục gánh cát, bê xi măng, trộn hồ, xách vữa leo lên giàn giáo. Lên lên xuống xuống, chân gã bủn rủn, bụng đói cồn cào. Đầu óc gã trống rỗng. Lúc vác bao xi măng leo lên tầng, gã cứ lâng lâng như đi trên mây. Đột nhiên, gã thấy mình chơi vơi như bay vào khoảng không vô định...

Gã tỉnh lại và giật mình thấy đang nằm trong bệnh viện. Một cánh tay gã cuốn băng, nẹp cứng treo lên cổ. Gã hốt hoảng nhỏm dậy ngơ ngác nhìn quanh. Cô y tá bảo gã bị ngã giàn giáo được mấy người cùng làm đưa vào viện. May gã chỉ bị gãy tay. Gã bị ngất là do đói quá. Gã chán nản nằm xuống giường. Thế là ky cóp được mấy trăm nghìn đồng cũng chả đủ nộp viện phí. Mấy ngày vừa rồi làm việc cật lực mà chẳng được đồng tiền công nào lại bị bố con ông cán bộ nọ vu cho là ăn cắp. Gã chợt nghĩ: "Biết trước bố con nó bất lương thế thì đừng trả lại số tiền vàng ấy còn hơn". Nhưng rồi gã lại gạt ngay cái ý nghĩ ấy bởi vì những thứ của cải không phải của mình có chết gã cũng chẳng màng. Gã phải nhắn anh bạn cửu vạn cùng làng đến vay thêm để thanh toán viện phí. Tay gãy thế này có lẽ gã đành trở về quê ăn bám vợ thôi. Nghĩ đến vợ, gã lại thấy bồn chồn trong lòng. Vợ gã biết xoay xở thế nào đây. Vợ gã vốn là người ốm yếu chẳng làm được việc gì nặng. Tính gã gia trưởng, không vừa ý là quát tháo, bạt tai vợ con ngay. Gã làm hùng hục suốt ngày như trâu húc mả thế mà nghèo vẫn cứ nghèo. Đi làm thì thôi về đến nhà nhìn căn nhà trống huếch, trống hoác, mẹ ốm nằm một giường, vợ ốm nằm một góc là gã lại muốn phát điên lên. Vợ gã là một người đàn bà luôn hết lòng vì chồng con. Suốt đời thị cam chịu. Chưa bao giờ gã thấy thị kêu ca, phàn nàn dù có thiếu thốn, đói khổ, kể cả những khi biết chuyện gã kiếm được tiền, ngán cảnh vợ ốm yếu mò lên tận thị xã chơi gái. Đến bữa ăn, có miếng nào ngon thị cũng dành cả cho mẹ và chồng con. Có lễ cả đời gã sẽ chẳng bao giờ quên chuyện một lần sau bữa ăn ngon miệng, gã xuống bếp tìm cái bật lửa để châm điếu thuốc. Gã bất chợt bắt gặp cảnh vợ gã đang lén gặm lại cái xương gà của con bé gặm dở lúc nãy. Làm thịt một con gà giò, thị gắp miếng thì cho mẹ, miếng thì cho chồng, miếng cho con. Còn thị suốt bữa chỉ gắp toàn rau cho mình. Sau bận ấy, gã thấy thương vợ hơn, đỡ mắng chửi quát tháo mỗi khi bực dọc. Gã định ra Hà Nội làm thuê chuyến này cố ky cóp để mua cho con gái cái xe đạp đi học, mua cho vợ bộ quần áo. Mấy năm nay gã thấy thị chưa có một bộ quần áo nào cho ra hồn. Thế mà bây giờ mọi dự định của gã đều tan thành mây khói.

Gã tập tễnh dùng một tay dắt chiếc xe đạp lọc cọc ra ga để lấy vé về quê. Trời lất phất mưa. Đã cuối mùa thu. Một cơn gió lạnh bất ngờ thổi tràn trên phố.

Mê... thầy

Nhưng tại sao lại mê thầy? Chắc do tâm sinh lý tự nhiên, hễ con gái thì thích thầy, con trai đương nhiên khoái cô?Hay vì ông thầy đầu tiên để lại ấn tượng sâu đậm quá?

Giả thuyết đầu tiên khả năng sai cao, bởi nhiều đứa con gái bạn tôi mê cô giáo đến mức... xin hình cô đem về nhà treo. Giả thuyết thứ hai cũng không chắc, sâu đậm kiểu gì mà tên của người thầy đầu tiên tôi đã quên mất tiêu rồi. Quên gương mặt, dáng đi, giọng nói. Không biết thầy có đẹp trai không, giọng nói có ấm áp không? Thầy có thường cười đùa hay nghiêm nghị mực thước? Thầy từ đâu tới, người tự nguyện đến cái xóm heo hút đó để khai sáng cho đám trẻ quê nghèo, hay bị ép buộc về nông thôn cho đủ thời gian thử thách trước khi quay lại thành phố. Và, năm mười sáu tuổi, "thì" có "dậy" chút đỉnh, tôi đặt câu hỏi sau cùng về ông thầy thơ ấu đó, là "không biết thầy có... vợ chưa?".

Những câu hỏi không một tiếng vọng. Trong miền nhớ mịt mờ, chỉ là những cảm giác lên tiếng, chúng nói, thầy bị "đày". Vì một ngôi trường (nói vậy cho oai) chỉ có một lớp học ngó ra sông nhỏ, mấy cây cột trâm bầu sần sượng, mái lợp lá chằm đóp, bàn ghế ghép lại bằng những thân cau chẻ, gỗ tạp. Người trong xóm có gì quyên góp nấy, nên lớp học trông lởm chởm như... chổi lông gà. Những bữa mưa nhiều tụi học trò phải ngồi chổm hổm trên ghế, co rúc người cho đỡ lạnh.

Trường lớp ọp ẹp, được nhúm học trò, mà tụi nó cũng ọp ẹp. Ọp ẹp theo kiểu tôi thì ốm tong teo, đen rọi đèn pin còn không thấy, theo kiểu đám bạn tôi cũng đa dạng, đứa thì ghẻ chóc đầy đầu, đứa học nửa năm chỉ nhớ được chữ O, may nhờ nhà nó chuyên ấp gà con bán, có đứa đang học bỗng chạy đi mất tiêu, lúc quay lại nó gãi đầu thưa, con đi thăm lờ, cá nhóc. Có đứa một ngày học, bốn ngày nghỉ vì bận mót lúa ngoài đồng, có đứa ghé qua học chừng hai buổi thì đi, ghe nhà nó nhổ sào rồi.

Sau này, nhớ về lớp học đầu tiên, tôi luôn hình dung ông thầy đứng gần tấm bảng gỗ bào vội, sần sùi, gió sông thổi thốc vào, lá mục bay chấp chới, chim non tao tác kêu trong những lùm cây dại bên hè. Hình ảnh thật buồn, cô đơn, hoang hoải. Nhưng là tôi tưởng tượng vậy, bởi đâu còn nhớ thầy đã từng buồn hay vui. Chỉ biết, thầy hay đến trường bằng nhiều hướng khác nhau, lúc đi ngang nhà ngoại tôi, lúc lại từ đằng kia tới, như thể thầy từ trên trời, rơi ngẫu hứng đâu cũng được. Nên có bữa tôi nán lại chờ ngoại luộc trứng chim canh chừng hễ thầy đi qua thì xách tập chạy theo, chờ hoài, ăn hết mớ trứng thì đằng trường thầy cũng dạy hết một bài. Giữa giờ chơi, thầy thả bộ tà tà lại nhà ngoại tôi uống trà, mà sao không uống trà nhà khác, tôi không hiểu. Mười sáu tuổi (lại mười sáu tuổi), tôi có một giả thuyết, ông thầy thương dì tôi, nên giả bộ lại uống trà với ngoại, để được ngó dì.

Nhưng có giả thuyết khác ít ngang trái lãng mạn hơn, là thầy cần phải gặp ngoại để tìm ra phương cách "chiến đấu" với cái tật... xé tập của tôi. Hồi đó, mỗi cuốn tập của tôi khi viết tới trang cuối thì nó còn chừng... mười sáu trang, cả thảy. Ngoài vụ đó, tôi còn nhiều vấn đề khiến "nhà trường phải phối hợp với phụ huynh". Có lần quậy tưng trong lớp, thầy dọa, chút nữa lại méc ngoại. Báo hại lúc ra chơi phải chạy về nhà để rình, nếu thầy méc thiệt thì thủ tiêu mấy cây roi ngoại hay giắt trên vách. Bi kịch, đứng ngoài hè trò bị kiến vàng cắn tả tơi, trong nhà thầy thủng thỉnh ngồi uống với ngoại, hỏi những câu kiểu như, lúa vụ này khá hôn, chú Hai. Vào học, thầy bảo, méc rồi, về nhà bị đòn nứt đít. Tôi gãi chân, cười thầm, ông thầy nói dóc dễ sợ.

Hồi đó, chắc chắn tôi không sợ thầy, từ đó suy ra là thầy dễ chịu lắm. Thương lắm. Đến nỗi khi trở ra thị xã học tiếp, tôi nhớ mình đã viết một lá thơ gởi thầy (tất nhiên, giấy xé ra từ tập học). Rồi mấy cây cột cặm trong lớp một ngày kia được bà con trong xóm nhổ về làm củi chụm, thầy biến mất, lặng lẽ như hồi thầy tới.

Tôi lại có ông thầy khác, ông này có họ hàng bên má, vai cậu tôi. Vô lớp tôi gọi thầy, trống trường đánh cái thùng, tôi kêu cậu ơi cậu à, mà kêu lớn lắm. Cho tụi bạn nó... nể, thấy tui xấu vậy mà cũng có cậu làm thầy giáo à nghen. Hồi đó sao mà thầy cô giáo có giá dữ vậy không biết, bị tôi đem ra lòe thiên hạ, cũng thu được chút lợi, cái lợi đáng kể nhất khi có ông cậu họ làm thầy giáo là không bị bạn ăn hiếp. Hai mươi sáu tuổi, nghĩ lại thấy mình khờ, giờ thì gặp ai đáng chú, đáng bác cũng muốn gọi bằng thầy, để được xưng... em.

Hơn mươi năm ngồi chai đít khỉ ở trường, học qua nhiều thầy cô giáo, nhưng năm nào có thầy thì năm đó học được, nói chung sáng ngủ dậy có muốn... tới trường. Thầy đẹp trai thì, chậc, còn gì bằng. Có dạo, đi học vi tính, hai ông thầy đều đẹp, độc thân, trẻ trung, khóa ấy, tôi đậu... thủ khoa (ha ha ha).

Thật tình, tôi không biết những ông thầy mà tôi mê có phải là giáo viên giỏi (cấp huyện, cấp tỉnh) không, có phương pháp sư phạm không, hiệu quả tới đâu, giảng bài có cuốn hút không, dạy có dễ hiểu không, và tôi đã nhận được những kiến thức gì, tôi nhớ chỉ vì ông thầy đó dễ thương.

Những ông thầy không làm tôi sợ bằng cách buộc tôi cúi đầu vâng dạ, những ông thầy không bắt tôi phải lễ phép khép nép trước mặt mình, gò học trò vào một sự kính trọng gượng gạo. Có thể có thầy nghiêm khắc, lúc nào đó, quãng nào đó, nhưng tôi không nhớ, chỉ nhớ thầy đó y chang bạn tôi. Trong không gian trường học chật chội, tẻ nhạt với những thứ kỷ luật bó buộc, những bài học khô rốc, cứng ngắc, những ông thầy để lại trong ký ức tôi sự khoáng đạt, mạnh mẽ, dắt tôi lướt đi trên khuôn khổ, tiểu tiết. Tôi quên mình đã học được gì nhưng nhớ mình đã được đối xử như thế nào, từ những người thầy.

Đó là những người đàn ông dịu dàng và bao dung, giống như ông ngoại tôi, ba tôi, đến nỗi, khi tìm kiếm tình yêu, hay bắt đầu quan hệ bạn bè, tôi luôn nghĩ tới những ông thầy của mình. Giữa thầy và trò, giữa bề trên và kẻ dưới, giữa người cho và kẻ nhận, tôi đã nhận được sự thân ái, yêu thương, đồng đẳng giữa người và người.

Nên nhớ thầy, trước nhất, tôi nhớ người.">

Trái tim không cần thay đổi

Lẽ ra, khi biết chắc một mai không còn nhưng thân xác không hoàn toàn tan rã mà vẫn còn lại chút gì tiếp tục tồn tại trên cõi đời này thì cảm xúc của tôi phải là mừng vui, hạnh phúc. Nhất là với tâm trạng được chuẩn bị sẵn sàng đón nhận cái chết thanh thản, nhẹ nhàng... Nhưng, không, tới một lúc bất định, tôi chỉ thấy nơi cổ họng mình niềm dư vị đắng chát.

Như bất kỳ ai sắp chết, tôi cố gắng sắp xếp ngăn nắp cuộc sống của mình. Tuy nhiên, với một cuộc đời đơn giản, một công việc đơn giản, một lối sống đơn giản, một hoàn cảnh gia đình đơn giản, những mối quan hệ càng đơn giản hơn... việc sắp xếp dù chi li cũng không mất nhiều thời gian cho lắm. Tôi vẫn còn dư dả một ít ngày giờ chờ đợi thời điểm chấm dứt.

Giải thích lý do vì sao tôi sắp chết có lẽ chỉ càng làm câu chuyện nhuốm thêm sắc màu bi thương ảo não. Đại khái bạn chỉ cần biết tôi đang mắc phải một căn bệnh không thuốc chữa, kiểu như ung thư hay AIDS (nhưng tất nhiên không phải AIDS lẫn ung thư). Lại phải ghi chú thêm: tôi là một gã trai còn rất trẻ, mới chỉ một lần yêu. Bạn sẽ nói có gì đâu phải dài dòng. Trẻ hay già, yêu ít hay yêu nhiều thì cũng chỉ chết là hết. Chết - động từ không tiếp diễn. Thế giới bên kia là chuyện huyễn hoặc, hành trang cuộc đời cho dù nặng hay nhẹ thì người nằm xuống ba tấc đất cũng không còn biết, không việc gì phải bận lòng hay quan tâm.

Người ta vẫn nói có hai tình huống dễ nói thật - một, lúc đã say mèm và hai, khi sắp chết. Tôi sẽ không việc gì phải giấu bạn: Nhà tôi rất nghèo, sự nghiệp của tôi cho tới nay vẫn chỉ là con số không. Bố mất sớm, mẹ vất vả làm lụng nuôi tôi ăn học trưởng thành. Cuối cùng, mẹ trở nên một người phụ nữ lao lực, suy nhược thần kinh, nhan sắc tàn tạ. Căn bệnh không thuốc chữa của tôi là đỉnh điểm nỗi khổ đau, cay đắng, nhọc nhằn của mẹ. Nhưng không vì vậy mà mẹ bớt yêu thương tôi. Mẹ đã chắt chiu chút sinh lực cạn cùng để nâng đỡ tôi trên hành trình sau cuối... Tôi bây giờ chỉ khát khao mong có được chút gì để đền bù lại cho mẹ, trước khi tôi ra đi. Gì đó là gì thì tôi nghĩ mãi không ra. Ngoài thân xác trống trơn, lắt lay mảnh tình tội nghiệp, tôi hoàn toàn tay trắng. Và rồi ông đã tới. Ông tìm tôi - như tôi khắc khoải tìm cho mình giải pháp.

"Cậu đúng như tôi hình dung", ông nhìn tôi cảm thương.

Tôi chỉ biết gật đầu, vừa là chào ông vừa để đồng ý. Tôi biết tôi bình thường về mọi phương diện, ai đó không có gì khó để tưởng tượng ra một mẫu người như tôi.

"Cậu đúng là người tôi cần", ông nhấn giọng, cách nói ấm áp của người cha chỉ việc cho con - hơn là cách ông chủ căn dặn người làm công mới được tuyển dụng.

Tôi rất muốn vui vẻ đáp: "Bác cũng đúng là người cháu cần", nhưng không hiểu sao tôi chỉ tiếp tục im lặng. Ngắm nhìn ông: một trung niên tầm thước, giàu có, sang trọng, bề ngoài tưởng chừng viên mãn, tràn đầy nếu trong ánh mắt không vướng vất chút muộn phiền sâu thẳm. Tới đây thì hẳn bạn đã đoán được ông là ai, gặp tôi có mục đích gì. Phải, ông chính là người đang có ý mua của tôi một phần thân thể khỏe mạnh, vì một lý do chính đáng, hợp tình hợp lý. Bạn sẽ mơ hồ thắc mắc: phần thân thể nào? À vâng. Tôi cũng không có gì phải giấu: Đó chính là trái tim tôi, "món hàng đặc biệt" mà tôi đã lặng lẽ rao bán suốt mười ngày nay trên Internet.

Ở đây, tôi cần phải rẽ ngang vài dòng để kể về Nga, cô bạn gái, chính xác hơn là người yêu đầu đời (và có lẽ duy nhất) của tôi. Sự thể là, khi phát hiện căn bệnh tệ hại không thuốc chữa, tôi đã kiên quyết chia tay Nga bằng những lý do bịa đặt không xác đáng. Đầu tiên Nga ngạc nhiên phản ứng, sau đó tức giận, cuối cùng thấy tôi cứ khăng khăng, Nga âm thầm điều tra và phát hiện ra sự thật. Từ ấy, Nga sát cánh bên tôi, quan tâm chia sẻ và động viên tôi rất nhiều. Nga là nguồn vui, là năng lượng sống không chỉ với riêng tôi mà còn cả với mẹ tôi. Mẹ thường xót xa thở dài, nói giá như tôi không bệnh tật thì chắc chắn tôi và Nga sẽ là một đôi hạnh phúc lâu dài và viên mãn. Thậm chí tôi biết mẹ có khi đã thả hồn mơ tưởng về những đứa bé...

Trở lại thực tế, tôi và Nga đã kín đáo bàn bạc và tranh luận khá gay gắt để có thể thống nhất với nhau về việc hiến tim có điều kiện. Chính Nga là người đã giúp tôi đăng tải những tin nhắn hết sức tế nhị trên các website rao vặt miễn phí, và cũng Nga đại diện tôi tiếp xúc trước với những người liên hệ. Nhiều lần, nhiều người, dù chỉ trong khoảng thời gian mười ngày ngắn ngủi - cho tới lúc Nga chọn được ông ta.

Chúng tôi phải giấu mẹ vì biết chắc bà sẽ không bao giờ đồng ý để tôi hiến tim, dù lấy bất kỳ lý do nào. Đó quả tình là một quyết định khó chấp nhận. Thử suy nghĩ ở góc độ của bà, tre già phải khóc măng non, làm sao người mẹ có thể đành lòng tiễn đưa con mình về nơi an nghỉ cuối cùng với một cơ thể sẽ không còn trọn vẹn. Một thân xác không có trái tim. Một con ma không tình cảm. Một linh hồn không còn gì để níu kéo, vướng vất... Nhưng thôi, ý tôi đã quyết. Dù ai cản ngăn cũng không khiến tôi thay đổi được nữa. Đúng như câu nói: cái gì cũng có giá của nó. Trái tim tôi sẽ được đền bù bằng khoản tiền không nhỏ: một con số tận cùng bằng tám chữ số không. Tôi khấp khởi với kế hoạch sẽ mở cho mẹ một sổ tiết kiệm tại một ngân hàng uy tín. Tôi yêu cầu ông thay tôi làm việc đó khi tôi qua đời (hợp đồng được thực thi), với sự giám sát của Nga. Ông đồng ý. Món tiền đã làm tôi sôi nổi hẳn lên.

Tới đây, cần phải suy tư để thấu đáo tiếp những vấn đề khác. Tôi hoàn toàn có quyền đòi hỏi được biết ông theo đuổi hợp đồng này với mục đích gì. Cụ thể hơn, ông mua trái tim tôi để làm gì? Lời giải thích của ông với chúng tôi - như một lẽ tất nhiên - là để thay thế cho trái tim bệnh tật vô phương cứu chữa của một người. Người đó là một trong số những người ông vô cùng thân thiết, yêu quý.

Rồi, một sáng chủ nhật đẹp trời, hẹn trước với tôi và Nga để thu xếp cho mẹ tôi vắng mặt hợp lý, ông dắt người con trai (duy nhất của ông) vào thăm tôi trong bệnh viện. Chính hắn là nguyên nhân gây cho tôi dư vị đắng chát về lẽ tồn sinh, luân hồi, phận số, rủi may, ân oán ở đời...

Hắn hai mươi tám tuổi, một đại diện tiêu biểu cho đời sống tự nhiên chủ nghĩa vô ý thức. Tôi nhận ra Nga cũng như tôi, ngay từ đầu ác cảm với hắn. Chúng tôi ngấm ngầm thống nhất quan điểm chung: Hắn chẳng hề xứng là con của một ông cha đàng hoàng tử tế. Hắn ăn mặc hầm hố dị hợm, trang bị vài món phục sức ngớ ngẩn, gây sốc như tên bụi đời. Tóc hắn dài, nhuộm đủ màu, xác xơ, bẩn thỉu (tóc nhuộm màu đang là mốt, tôi cũng chẳng muốn khắt khe - nhưng kiểu tóc tả tơi bết bát mà hắn để quả tình quá sức phản cảm). Vóc dáng hắn tiều tụy, đôi mắt thất thần trõm lơ, ánh mắt bạc nhược của người ăn chơi trác táng, vô độ kinh niên. Qua những nút áo mở phanh bất cần, không hiểu hắn vô tình hay cố ý để lộ vài mảng da thịt có những hình xăm quái gở. Còn những móng tay liên tục búng tanh tách thì còng queo, cáu bẩn.

Hắn thờ ơ khinh bạc quan sát tôi, rồi Nga. Hững hờ nghe giới thiệu, và khi bị cha nhắc nhở, hắn miễn cưỡng hỏi han với lời lẽ hết sức lạnh nhạt. Cũng cần phải nói ngay: tôi không thất vọng do hình dung tệ hại hay thái độ dửng dưng, mà chán vì hắn không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của những gã con nhà giàu đồng thời hư hỏng. Những phẩm chất tầm thường toát ra từ chân lông kẽ tóc.

Hắn ăn nói với cha chỏng lỏn, thường xuyên đổ quạu với chiếc di động vằn vện cứ rú lên từng chặp inh ỏi. Hắn cũng chẳng thèm tiết chế lời lẽ cục cằn khi bị cô y tá của bệnh viện nhắc nhở "đi nhẹ, nói khẽ". Tôi đâm bất bình. Trái tim khỏe mạnh trong lành của tôi, không lẽ sẽ phải trao cho một tên thô bỉ, gớm ghiếc, cục cằn như tên này?

Trong cơn tức giận, tôi đã tính hủy bỏ hợp đồng. Thà để mặc hắn chết quách với trái tim bệnh hoạn của hắn. Đột nhiên, dòng tư duy như cỗ xe đang chạy ro ro ngon trớn bỗng vấp phải cục đá. Có chi tiết nào đó lợn gợn, không ăn khớp ở đây. Phát huy tối đa công suất những nơ-rông thần kinh, tôi kiên nhẫn lần dò. Cuối cùng cũng vỡ ra đầu mối: Tại sao trông hắn không có vẻ gì là sắp chết vì bệnh tim? Gầy guộc, hoang đàng, tàn tạ, bẩn thỉu thì có, nhưng bệnh tật tới mức thập tử nhất sinh thì không. Nếu hắn không bị bệnh tim, cha con hắn cần trái tim của tôi để làm gì? Cho ai? Ngoài ra, thật khó tin một người khả kính như cha hắn lại có ý lừa dối tôi, một người sắp chết ...

Chuyện của người cha:

Ninh sinh thiếu tháng. Ninh ra đời khi thai kỳ vợ tôi mới tròn tháng thứ bảy. Lý do sinh non là vì vợ tôi bị té lúc đang đạp xe trên đường, cơ thể của cô ấy yếu quá nên mới xảy ra nông nỗi. Lúc sinh ra, Ninh cân nặng một ký hai năm chục, một trọng lượng làm tất thảy mọi người đều hốt hoảng lo ngại. Nhất là trong bối cảnh Sài Gòn mới giải phóng được một năm, đất nước còn nhiều thiếu thốn về mọi mặt, kể cả y tế. Đã vậy, Ninh còn bị bệnh tim bẩm sinh. Do đó, tôi cố gắng sắp xếp để vợ tôi nghỉ hẳn việc ở nhà, chỉ còn chăm chú cho việc nuôi nấng săn sóc đứa con đau yếu tội nghiệp.

Thời điểm đó thì đây là một quyết định rất phi thường, huống hồ cuộc sống gia đình tôi chẳng phải khấm khá gì. Vợ tôi đã suy nhược sẵn, con sinh ra lại bệnh triền miên nên cô càng đuối sức; rốt cuộc, cô ấy bị mất sữa, phải nuôi con bằng sữa ngoài. Tuổi thơ của Ninh trôi qua phần lớn trong bệnh viện, những trận cấp cứu thường xuyên như cơm bữa. Theo năm tháng Ninh lớn lên, trái tim bệnh tật trở chứng vô chừng. Đến nỗi dần dần, các bác sĩ, y tá cho tới hộ lý ở khoa nhi bệnh viện đã trở nên nhẵn mặt, "phát chán" gia đình tôi.

Tôi làm quần quật lo cho thân mình đã khó, nay lại phải cáng đáng thêm vợ, con. Khổ cực, thiếu thốn trăm bề. Ngỡ như có phải làm trâu đi cày mà được trả tiền thì tôi cũng chẳng sá. Tôi đã trải qua đủ thứ nghề, kể cả những nghề bây giờ hoàn toàn "tuyệt chủng", không còn thấy ai nhắc nữa.

Ở đây, chỉ xin kể hầu bạn đọc một vài nghề tiêu biểu. Chẳng hạn như có một dạo - vào khoảng những năm 80, một trong số những ông anh bà con của tôi bỏ một ít vốn đứng ra thu gom giá rẻ những vỏ xe tải hư, cũ. Ông ấy đem về phân loại, rồi thuê người có sức khỏe cắt, xẻ, pha ra thành từng "phiến", sau đó giao lại cho các thợ gia công. Những người thợ - trong đó có tôi - dùng một bộ đồ nghề tự chế tỉ mẩn tỉa tót, chế biến thành những đế dép với đủ loại hoa văn. Sau đó, những đế dép này được đem đi gắn quai dây dù, trở thành những đôi dép cao su tuy dày cui, nặng nề nhưng cực kỳ bền chắc, rửa nước thoải mái, có đủ kiểu dáng cho đàn ông, đàn bà, trẻ nít. Những đôi dép mà yếu tố thời trang tuyệt đối bị gạt sang bên, người đeo thấy chán thì quăng bỏ chứ chẳng đời nào hư. Một thời, hàng bán khá chạy vì tính "trường kỳ kháng chiến", đáp ứng cặn kẽ cho một thị trường phục vụ những con người kham khổ, chủ trương ăn chắc mặc bền. Mãi tới khi dép nhựa đủ màu ra đời, rồi "dép Lào" xốp mềm nhẹ nhõm tràn ngập các sạp hàng ở chợ, loại dép cao su "nặng ký" này mới thoái trào.

Tôi chuyển qua nghề mài kính. Nhận hàng qua sự giới thiệu của một người quen, từ một cơ sở sản xuất kính bảo hộ dùng cho thợ hàn. Cũng là một sự tận dụng: từ những mảnh kính màu có kích cỡ, hình dạng, phẩm chất không phù hợp (được thu mua với giá rẻ), phải tốn công sức và thời gian mài lại để có thể đưa vào sử dụng. Giá cả gia công thật bèo bọt, phải làm hoàn toàn bằng tay qua rất nhiều công đoạn như: mài phá, mài tinh, mài bóng... trên các loại đá mài và giấy nhám có độ mịn khác nhau. Chưa kể trong quá trình mài mà làm hư hay bể (rất dễ bể) thì phải đền tiền nguyên liệu rất nặng. Nhưng không làm thì đói, không làm thì có kẻ khác chờ chực sẵn giành ngay mất việc, nên tôi đành phải mắm môi mắm lợi oằn lưng. Bàn tay tôi cứ vậy bợt đi, răn reo nứt nẻ, da mòn tứa máu. Cặm cụi, kỳ cạch, cắc ca cắc củm.

Cơn sốt mài kính tan rã cũng là lúc tôi vớ được nghề uốn dây kẽm gai. Với nghề này, chủ cơ sở mua rẻ được những bó dây kẽm gai từ các cơ sở thu gom phế liệu - nhiều nhất là từ việc dỡ bỏ hàng rào các ấp chiến lược, những khu quân sự ngày trước. Họ giao cho các nhân công từng bó lớn, được tính bằng vài chục ký tới cả trăm ký. Nhân công đem về, dùng những đồ nghề tự tạo để gỡ gai trên dây kẽm, sau đó nắn thẳng, cắt ngắn ra từng đoạn phù hợp (loại bỏ những đoạn bị sét gỉ), rồi uốn lại thành những đầu móc của sợi "dây ràng". Hàng giao lại cho chủ cơ sở đếm cái tính tiền - cũng rẻ bèo, rất tệ so với công sức bỏ ra. Hết dây kẽm gai thì ký sổ nhận dây mới. Cần phải ghi chú thêm rằng thời đó, sợi dây ràng chưa màu mè, kiểu cọ, đẹp đẽ như bây giờ, chủ yếu chỉ dùng cao su ruột xe cắt ra thành sợi, gắn móc hai đầu - cũng một kiểu ăn chắc mặc bền khác. Nghề nào cũng vậy, trăm hay không bằng tay quen. Khi bàn tay tôi bắt đầu chai sần vì công việc cũng là lúc năng suất tăng dần, thu nhập khấm khá hơn. Nhưng có một quy luật tất yếu, nghiệt ngã: chính đó cũng là lúc phong trào từ từ suy thoái, hàng làm ra mất dần người tiêu thụ, cơ sở càng lúc càng lụn bại, èo uột, nhân công thất nghiệp thi nhau bỏ việc, chạy lo xoay xở, tảo tần nghề khác.

Tuy nhiên, chính trong những ngày vất vả uốn móc sắt, tôi vô tình gầy dựng được mối quan hệ tốt đẹp đầu tiên cho nền tảng sau này. Nhiều lần tới tổ hợp gia công nhận kẽm gai, giao móc sắt, tôi quen được với Út Hơn, con trai ông chủ cơ sở mua bán sắt thép phế liệu. Ân nhân này - vì quý mến và cảm thông cho hoàn cảnh của tôi - đã lôi tôi về làm chiến hữu, mở ra cho tôi những đường hướng làm ăn mạnh dạn và lớn lao hơn gấp nhiều lần, so với những công việc chân tay lượm bạc cắc mà tôi đã từng trải nếm.

Tôi thơ thới đạp bỏ quá khứ nhọc nhằn, tận tụy theo chân Út Hơn rong ruổi khắp các nẻo đường từ miền Tây sang miền Đông, ở đâu có dấu vết chiến tranh để lại thì ở đó có mặt chúng tôi. Những đống sắt thép - vốn là tàn dư những thứ vũ khí khủng khiếp trong cuộc chiến - trở thành mỏ vàng của dân thu gom. Thời buổi khó khăn, đất nước còn nhiều vấn đề ngổn ngang cần được ưu tiên giải quyết trước, phế liệu chiến tranh như lãnh địa tạm thời bị bỏ ngỏ, kẻ nào nhanh tay quơ quào thì kẻ đó dễ bề nặng túi. Sau mỗi chuyến đi trở về, tôi kha khá tiền để dúi tay vợ lo cho con, còn dư dả để sắm vàng, từng chỉ góp dần thành cây, gói kỹ, bỏ lon sữa bò chôn dưới chân cột nhà.

Có lẽ tôi cũng chưa dứt khỏi cái nghề thu gom phế liệu đó nếu không xảy ra một biến cố kinh hoàng. Đó là lần tôi cùng Út Hơn đi thu gom hàng ở Phước Long, Sông Bé (tức Bình Phước bây giờ). Chuyến hàng oan nghiệt có lẫn một quả mìn trong đống mảnh vụn sắt thép đã bất ngờ phát nổ. Thật đúng như ông bà xưa nói "Sinh nghề, tử nghiệp", Út Hơn chết bất đắc kỳ tử, không kịp nói với tôi hay với bất cứ ai nửa lời trăng trối, thân xác chẳng còn được mảnh nào trọn vẹn. Tôi đã cùng với gia đình anh tổ chức tang lễ trọng thể, sau đó đưa hỏa táng những phần thi thể còn lại, rồi đem tro cốt vào thờ trong chùa. Cái chết của Út Hơn đã gây cho tôi nỗi đau đớn, xót xa, như lòng tôi bị một vết thương khó thể lành miệng. Tôi đau buồn tới mức quyết định bỏ nghề.

Mười hai năm tiếp theo, vợ tôi tiếp tục một mình xoay xở lo cho Ninh, để tôi hoàn toàn rảnh rang bươn chải làm ăn. Đã dành dụm được chút vốn, tôi mở một cửa tiệm nhỏ buôn bán sắt thép xây dựng. Công việc làm ăn thuận lợi, vốn liếng của tôi phình to dần. Dĩ nhiên, trên bước đường tôi đi, không tránh khỏi những cuộc bon chen, so kè từ những kẻ ganh đua, chọc phá. Nhưng, giống như được Út Hơn phù hộ, bao giờ tôi cũng có đủ tâm sức và bản lãnh vượt qua, để cuối cùng, mọi xung đột căng thẳng cạnh tranh gay gắt đều hóa giải được. Kết thúc chặng đường mười hai năm, tôi trở thành một trong các đại gia mua bán sắt thép khá hùng mạnh trên thương trường. Tôi đã có đất đai, nhà xưởng, phố lầu, xe hơi, đã lo được cho vợ con một đời sống sung túc, dư dả. Thì bỗng nhiên căn bệnh tim của Ninh bùng phát cơn nguy kịch.

Ninh năm đó mới vào tuổi mười chín, lứa tuổi thanh xuân tươi đẹp. Đứa con trai duy nhất tội nghiệp của tôi, vì bệnh tật nên vẫn chưa tốt nghiệp xong trung học phổ thông. Suốt bao năm qua, nó sống hầu như trong cô độc, bởi lẽ không thể lớn lên bình thường như bao nhiêu đứa trẻ bình thường khác. Ước mơ một thời thơ dại của nó - có lẽ chôn vùi quẩn quanh đâu đó giữa bốn bức tường bệnh viện... Bây giờ, nó nằm đó, thoi thóp trên giường bệnh giữa những dây nhợ, chai lọ, máy móc, thuốc men.

Thời gian tuyệt vọng đếm lùi... Ninh. Nó là tất cả tình yêu thương, niềm hy vọng, là mục tiêu phấn đấu của sự nghiệp, tiền tài, là hạnh phúc mà vợ chồng tôi theo đuổi, cả đời hướng tới. Chỉ còn một cách cuối cùng, nếu khả thi sẽ là tia sáng ở đáy đường hầm. Tôi và vợ bám lấy lời ông bác sĩ như người chết đuối bám cọng cỏ rỗng làm phao. Chúng tôi không tiếc bất cứ điều gì để đổi lấy tính mạng cho Ninh. Bác sĩ trầm giọng: "Có lẽ phải thay tim!". Vấn đề không chỉ là tiền, không chỉ là việc thành lập một ê-kíp phẫu thuật cực giỏi có thể đảm đương công việc nặng nề, mà chính là một trái tim. Chúng tôi rất cần một trái tim khỏe mạnh.

Một trái tim khỏe mạnh. Nhưng... Ở đâu? Ở đâu? Ở đâu?

Chạy đua với thời gian, chúng tôi rao tìm khắp nơi, qua nhiều người, với nhiều phương tiện, bằng nhiều cách. Tất cả đều chỉ dừng lại ở những lời hứa, trong khi tình trạng của Ninh mỗi ngày một thêm nghiêm trọng. Ánh sáng tận đáy đường hầm càng lúc càng thêm lu mờ, xa tắp. Tuyệt vọng, buồn bã, không nơi cậy dựa tinh thần, tôi lầm lũi đưa vợ tới thắp nhang ở ngôi chùa nơi để hũ tro cốt của Út Hơn. Chính ở đó, vợ tôi tình cờ quen biết một người đàn bà. Người đời quả không sai khi nói: không nỗi đau nào dễ được cảm thông hơn nỗi đau của người mẹ.

Nghe hết những lời nức nở tâm sự của vợ tôi, người đàn bà kia tỏ ra vô cùng xúc động. Hồi lâu, bằng một giọng trầm khàn u uất, bà cay đắng kể chuyện mình - câu chuyện mà bà ngỡ như sẽ mãi đào sâu chôn chặt trong tim. Thì ra, bà tìm tới nơi này để tụng kinh khấn Phật, cầu xin đấng thiêng liêng rửa sạch những tội lỗi cho con. Con trai bà là một thanh niên hăm lăm tuổi mang án tử hình vì tội cướp của, giết chết ba mạng người vô tội - hai ông bà già và một đứa trẻ lên sáu. Án đã tuyên y sau ba lần xét xử, và sẽ được thi hành trong vài ngày tới. Nỗi đau đớn tận cùng của bà là nỗi đau của người không còn nước mắt để khóc. Đôi mắt bà trống rỗng, âm u. Vợ tôi đã ngồi lặng lẽ bên bà suốt cả buổi chiều. Không một lời nào được thốt ra. Chỉ có bàn tay người này nắm lấy tay người kia, và những cái siết nhẹ. Đầy cảm thông.

Và rồi, tất cả những chuyện xảy ra tiếp theo đều vượt khỏi mọi dự định, suy nghĩ, toan tính của chúng tôi. Người mẹ của tử tội đã thuyết phục được con trai mình hiến cho Ninh trái tim khỏe mạnh của hắn trước khi bị tử hình. Bà khuyên hắn hãy coi hành động đó như một điều thiện cuối cùng, một lời tạ tội sau chót với đời, để mong hóa giải phần nào gánh nặng tội lỗi kinh hoàng của kẻ sát nhân... Mong muốn đó của bà được thực thi - không kèm theo bất kỳ điều kiện nào. Trở thành ơn nghĩa vô biên mà chúng tôi nghĩ sẽ không bao giờ trả hết. Như nỗi niềm day dứt khôn nguôi, sau khi Ninh được thay tim và nhanh chóng bình phục, bà lặng lẽ bỏ đi. Vợ chồng tôi đã cho đăng những lời cám ơn trên báo, đài, và nhắn tin tìm kiếm khắp nơi, nhưng tuyệt nhiên không có hồi âm. Ân nhân của chúng tôi đã hoàn toàn mất dấu.

Trái tim mới đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời Ninh. Từ đứa con trai bệnh hoạn, rụt rè, yếu ớt, cô độc... Ninh như lột xác thành người khác: khỏe mạnh, dạn dĩ, quyết liệt, giỏi xã giao... Chúng tôi vui vẻ dễ dãi, bật đèn xanh cho tất cả những gì Ninh muốn, Ninh đòi hỏi. Chúng tôi cố gắng đền bù cho Ninh những năm tháng thiệt thòi, thiếu thốn, khổ sở. Tốt nghiệp mười hai, Ninh thi vô đại học thiếu bốn điểm. Tôi buộc phải chạy vạy để kiếm chỗ cho nó học tiếp, nhưng Ninh tỏ thái độ không vừa ý. Chiều con, tôi bỏ tiền lo một suất du học ở Úc. Gởi gắm bạn bè, người quen (từ quen thân cho chí quen sơ) bên đó, tôi biết Ninh học thì ít mà đua đòi ăn chơi thì nhiều. Nhưng ạch đụi mãi rồi cũng phải xong, bốn năm sau Ninh tốt nghiệp trở về. Chúng tôi trích vốn, giao cho Ninh để thành lập một công ty - hoàn toàn do nó làm chủ.

Trái với mong đợi của chúng tôi, Ninh càng ngày càng tệ hại. Thay vì chăm chỉ làm ăn, gầy dựng cơ nghiệp, nó mải mê sa đà vào những trò trác táng, hoang đàng, quậy phá. Công ty của nó hoạt động chẳng mấy chốc đã sập tiệm, lún trong nợ nần. Nó bị thưa kiện vì huy động vốn vô tội vạ, suýt nữa bị đi tù nếu tôi không đứng ra bảo lãnh và trả nợ thay. Ngoài ra, nó còn dây dưa cả mớ với những mối tình theo kiểu mua vui qua đường, một vài trong số đó để lại hậu quả. Chính vợ tôi (không chỉ một lần) phải đứng ra dàn xếp. Nó từng đi cai nghiện hai lần. Từng qua tận Ma-cao, rồi cả Gen-ting (Malaysia) để nướng vào casino vài chục ngàn đô chỉ trong vài đêm. Tóm lại, nó gom đủ thói xấu trong tứ đổ tường. Tôi bàng hoàng nhận ra chỉ qua bảy năm kể từ ngày thay tim, hầu như toàn bộ bản chất bên trong con người nó đã trở nên hư hỏng, tác tệ, thối nát.. tới mức không còn tường tận nổi. Thậm chí ngay cái vỏ bên ngoài, càng về sau cũng càng bị nó làm cho xa lạ, biến thái. Nhiều lần, vợ chồng tôi đã thất vọng đến nước chỉ muốn từ bỏ nó.

Cho tới một hôm, Ninh bị bắt vì tội đua xe hơi trái phép trên xa lộ, sau một chầu quậy phá mát trời ông địa trong một bar cao cấp ở khu trung tâm thành phố. Xe sau đó bị tịch thu, còn Ninh bị xử ba năm tù treo, bị phạt tiền, bị đưa đi lao động công ích sáu tháng. Tệ hại hơn, vì "thành tích" hối lộ cảnh sát không thành, gương mặt Ninh liên tục bị đưa lên báo, đài kèm hàng loạt những thông tin đen. Trong đó, người ta không quên day dứt vợ chồng tôi, những đấng sinh thành kém cỏi chỉ biết làm giàu (nứt đố đổ vách) mà không biết dưỡng dục con.

Không thể làm ngơ, chúng tôi thống nhất với nhau phải áp dụng nhanh cấp kỳ giải pháp thay thế. Rõ ràng, trái tim khỏe mạnh nhưng đầy tội lỗi và bất kham của kẻ tử tù đã tha hồ tung hoành, tác oai tác quái trong lồng ngực Ninh. Phải rứt bỏ nó ra khỏi đứa con trai tội nghiệp của chúng tôi, thay vô đó một trái tim khác cũng khỏe mạnh nhưng ôn hòa, nhân hậu. Không chỉ vấn đề tiền, không chỉ là việc thành lập một ê-kíp phẫu thuật có tay nghề thượng thặng, mà là một trái tim. Chúng tôi rất cần một trái tim vừa khỏe mạnh, lại vừa tốt đẹp, trong lành.

Một trái tim tốt đẹp, trong lành. Nhưng... Ở đâu? Ở đâu? Ở đâu?

Thần may mắn dường như lại mỉm cười thêm lần nữa khi cuối cùng, chúng tôi đã tìm được người hiến tim có đầy đủ những yêu cầu cần thiết. Một cậu trai trẻ hiền lành, nhu thuận, hiếu thảo, trong trẻo như suối nguồn. Chuyện còn lại bây giờ chỉ là thuyết phục Ninh thuận tình.

Chuyện của người nhận:

Tôi không sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu. Phải nói ngay như vậy để quí vị hiểu rằng tôi không có thói quen đổ lỗi cho ai, hay cho bất cứ điều gì. Dù tôi hoàn toàn có cơ hội đổ lỗi cho trái tim vốn bệnh tật bẩm sinh của mình.

Tôi lớn lên trong một gia đình khá giả. Ba tôi làm ăn giỏi giang trên thương trường, mẹ tôi vén khéo, đảm đang việc nhà.

Tóm lại, tôi được cưng như trứng mỏng vì ba lý do. Thứ nhất - vì tôi là con trai một. Thứ hai - vì tôi bệnh tật. Thứ ba - vì nhà tôi giàu.

Nếu đã đọc kỹ hai phần trên, chắc chắn bạn sẽ chép miệng than những thông tin tôi vừa liệt kê chẳng mang thêm lại điều gì mới. Do đó, để bạn khỏi chán tôi sẽ cố tránh, không nhắc lại những gì người cho tim và ba tôi đã kể.

Như vậy, chuyện phải được bắt đầu từ chỗ tôi không đồng ý thay tim. Thực tế, quyết định đó của tôi đã làm ba nổi giận, còn mẹ thì khóc lóc. Không phải tôi chê trái tim người ta. Gã trai cù lần tội nghiệp - với sự hỗ trợ nhiệt tình nhưng đầy bế tắc của cô người yêu - vô cùng muốn bán một phần cơ thể để đổi lấy cuốn sổ tiết kiệm cho bà mẹ hay đau yếu, sau khi gã thác về bên kia thế giới. Mặc dù rất ghét cái nhìn đầy ác cảm và vô cùng soi mói của hắn dành cho tôi, nhưng tôi hoàn toàn tin trái tim gã thánh thiện, tốt đẹp, trong lành. Cũng như không nghi ngờ trái tim tên tử tù tôi đang mang trong lồng ngực là trái tim khô lạnh, buông thả, hoang đàng. Nhưng có một lý lẽ khác mà tôi nhất mực đinh ninh: trong những hoàn cảnh sống khắc nghiệt, một trái tim dù thánh thiện, trong lành, tốt đẹp tới đâu vẫn có thể dần dần bị biến chất thành trái tim khô lạnh, hoang đàng, buông thả - thậm chí mục ruỗng.

Bạn sẽ cười khẩy vào mặt tôi, một đời sống viên mãn, phủ phê, muốn gì được nấy, sao có thể gọi là "hoàn cảnh sống khắc nghiệt". Bởi vì bạn không từng phải sống như tôi. Suốt một thời tuổi thơ vào ra bệnh viện như cơm bữa, tôi hầu như chỉ có mẹ, hoàn toàn thiếu vắng tình thương của ba. Đến mức tôi cứ tưởng mình là con ghẻ con thêm. Mặt khác, tôi vẫn hiểu rất rõ không thể trách cứ ba: nếu ông không lăn xả vào đời, bươn chải xuôi ngược làm ăn thì tôi và mẹ đã không có được như ngày hôm nay. Dù vậy, trái tim có lý lẽ riêng. Nhu cầu tình cảm là thứ mà người ta không thể thay thế bằng cơm áo gạo tiền. Khoảng trống mà ba để lại trong tôi mãi mãi không thể lấp đầy. Càng không thể lấp bằng sự cam chịu tới mức nhẫn nhục mà mẹ tôi suốt đời răm rắp. Tôi mãi mãi là kẻ mang tâm hồn khuyết tật. Cho tới khi, tôi được thay trái tim khỏe mạnh, cũng là lúc ba bắt đầu thu xếp được thời gian để gần gũi tôi hơn. Điều này trước hết làm vui lòng mẹ, người đàn bà chưa bao giờ biết đòi hỏi điều gì cho riêng mình. Nhưng với tôi thì khác, sự thể đã quá trễ.

Sau cuộc đại phẫu, tôi âm thầm nhận ra (không cần đợi bác sĩ nói) trái tim mới với tôi hoàn toàn tương thích. Thậm chí, vào một lúc ngồi tĩnh tâm suy tưởng, tôi đã hình dung nếu trái tim nguyên thủy của tôi không bệnh tật, có lẽ nó phải hoang đàng, khô lạnh, buông thả hơn nhiều lần trái tim hiện hữu. Bởi lẽ, tôi càng lúc càng muốn sống như một kẻ hiện sinh, điên cuồng thực dụng. Tôi muốn chết chìm trong chủ nghĩa hưởng thụ, ích kỷ tận cùng. Tôi muốn thả mình trôi vô mục đích. Tóm gọn nhất: tôi muốn là kiểu người hoàn toàn trái ngược với kiểu mà ba tôi (có lẽ cả mẹ tôi) chờ mong, hy vọng. Tôi muốn chống lại ba bằng cách hủy hoại đời mình. Tôi muốn nổi loạn, phản kháng.

Tôi không cần sự nghiệp lẫn danh vọng, bởi nếu cần, ba sẽ tạo ra cả danh vọng lẫn sự nghiệp đặt vào tay tôi trong nháy mắt. Tôi không sợ hư hỏng, sai lầm, vì nếu hỏng, nếu sai, ba sẽ đứng ra thu xếp ổn thỏa, xóa sạch mọi dấu vết. Tôi không có ước mơ, không có khát vọng, do tất cả mọi khao khát hiện sinh của tôi đã, đang và sẽ mua, bán được bằng tiền. Trào lưu hippie những năm 70 của thế kỷ cũ và hiphop đương đại những năm đầu thế kỷ 21 tương đồng nhau ở chỗ đề cao cách sống buông thả tự nhiên theo bản năng, sống phá cách, vượt thoát ngoài mọi khuôn khổ. Hãy thể hiện mình rất quái chiêu, độc đáo, khác đời. Hãy cách tân từ hình thức cho tới nội dung.

Sự lập dị là đỉnh cao của cá tính. Chẳng phải cuốn sách "Những kỷ lục Guiness" ra đời cũng để đáp ứng mục đích đó? Bạn thấy không, có những người trở nên nổi tiếng chỉ vì để tóc, để râu, để móng chân, móng tay luông tuồng không cắt, không cạo, không tỉa, chỉ vì dám ở chung với cả nùi rắn rết, hay ong, hay bò cạp, chỉ vì dám leo lên cọc cao và sống trên đó ngày này qua ngày khác, chỉ vì suốt đời căm cụi nhai nuốt các loại mảnh chai, kim khí...

Như khi bạn đua xe hơi, bạn chơi thuốc lắc, bạn thay bồ như thay rượu tây, bạn hít heroin, bạn dúi tờ xanh tiền Mỹ hối lộ cảnh sát, bạn bị đưa ra xét xử rồi tống vô tù..., vấn đề không phải chỉ là hành động, là cảm giác, là tâm trạng, là biểu hiện, là bề ngoài, mà còn là bạn đã dám dấn thân vào những việc mà người bình thường không dám... Có sá gì một nhân dáng tù mù, một số phận giản đơn, một tính cách cào bằng trong đám đông. Cái chính là bạn đã khác!!!

Mấy năm trời du học Úc là mấy năm tôi tha hồ bay nhảy, tung hê. Tôi hơn tụi nó ở chỗ không phải lo tranh thủ những ngày, giờ nghỉ để làm thêm kiếm tiền (bưng bê, rửa chén, dọn bàn...), tôi còn hơn tụi nó chuyện ăn chơi, xa xỉ, ngạo mạn, coi trời bằng vung. Học hành, dù yếu kém một chút cũng chẳng sao. Hãy vin vào cái lý bất đồng ngôn ngữ! Tôi lượm lặt từ thằng bạn thân câu triết lý xanh rờn: "Đời người ngắn lắm, sống mà không hưởng thụ thiệt uổng phí. Chơi cho thế gian biết đẳng cấp của... ông bà già mình!". Tôi sống không mục đích, không tương lai. Chủ ý của tôi (hơi ác tâm một chút) liên tục được duy trì, đó là: giày vò ba, làm cho ông đi đến tận cùng đau khổ. Tôi cố khoét trong lòng ông một khoảng trống, khiến cho ba cũng phải bị như tôi: khuyết tật tâm hồn.

Tuy nhiên, cũng đã nảy sinh một điều nằm ngoài dự định: nỗi buồn đau của mẹ - người mẹ đã tận tâm, khổ nhọc, cạn lòng yêu thương chăm sóc tôi. Người chưa bao giờ biết đòi hỏi cho riêng mình một điều gì. Người đàn bà chỉ biết cam chịu nhẫn nhục, hết hy sinh cho chồng lại tận tụy vì con. Dễ bi lụy trước tình thương của mẹ chính là điểm yếu của tôi. Rất nhiều khi tôi đã phải nhân nhượng ba - nhân danh những giọt nước mắt của mẹ mà với tôi, xót lòng hơn muối xát.

Nhưng rồi về lâu về dài, tôi cố luyện cho mình cảm xúc chai sạn. Tôi nghiến răng lạnh lùng khi đứng trước thứ vũ khí lợi hại đó. Khi nỗi chai sạn thuần thục, tôi bắt đầu chập chững va vấp những sai phạm đầu tiên. Từ bước trượt thứ nhất tới bước trượt thứ hai, khoảng cách vẫn còn tương đối dài; nhưng ở những bước sau, khoảng cách càng ngày càng thu ngắn. Cho tới lúc, tôi không còn nhớ nổi đã bao nhiêu lần lún trong tội lỗi. Có thể nói, tất cả những lầm lỡ của tôi mà ba tôi đã kể ở trên đều đúng, nhưng chưa đủ. Muốn kể hết, có lẽ phải cần khá nhiều ngày giờ xưng tội, sám hối.

Rốt cuộc, tôi cũng đã phải trả giá. Rất nhiều cái giá ở nhiều mức độ khác nhau. Bởi, ai cũng biết, lưới trời lồng lộng - tuy thưa nhưng không dễ lọt. Lẽ ra, tôi còn phải bị trả giá nhiều lần hơn như vậy mới đáng. Nhưng, ba tôi đã luôn đứng sẵn ở đằng sau tôi. Ba dang tay ra vực đỡ. Nặng nhất là chuyện đi tù, thì ba cũng phải gỡ được cho tôi thành án treo. Sự trừng phạt đã êm đềm chuyển ra cảnh cáo, nói nôm na là hù dọa. Mức độ nghiêm minh, khắc kỷ của luật pháp từ mười phần đã giảm sút xuống chỉ còn hai, ba. Tôi hoang mang xen lẫn hả hê trong sức mạnh của thế lực và đồng tiền...

Thay đổi tim cho tôi chắc chắn sẽ là một giải pháp cực kỳ vô nghĩa, nếu cuộc sống của tôi vẫn vậy, ý thức tinh thần vẫn vậy, hoàn cảnh gia đình vẫn vậy, ba vẫn vậy, và mẹ vẫn vậy... Ngoài ra, cũng cần lưu ý tới lời cảnh báo của vị bác sĩ trưởng ê-kíp giải phẫu: nếu trái tim mới không tương thích, nó sẽ bị cơ thể người nhận đào thải, gây nên hàng loạt rắc rối. Tất nhiên, ông bác sĩ nói với quan điểm y khoa, hoàn toàn về khía cạnh sinh học, giải phẫu. Còn tôi lại nghĩ theo quan điểm tâm lý. Với bề dày hư hỏng bê bối thâm niên, tôi e mình không còn phù hợp với bất kỳ bộ phận cơ thể nào thuộc "trường phái" đàng hoàng tử tế...

Ở đây, xin phép mở rộng ra một chút: bạn chắc đã nghe, xem hay đọc về những trái dưa hấu vuông đầu tiên của trái đất? Theo thông tin mà tôi biết, một nông dân người Nhật đã cho ra đời giống mới này bằng cách chăm sóc và nuôi lớn dần những trái dưa non trong các hộp vuông (lý luận của ông ta là để tiện cho việc đóng gói xuất khẩu). À há, người ta thay ruột đỏ bằng ruột vàng, trái tròn bằng trái dài, rồi bây giờ là trái vuông - vậy mà thiên hạ vẫn coi đó là dưa hấu ư?! Tôi đã trả lời ba mẹ rằng: tôi không muốn trở thành chủ sở hữu của một trái tim vuông, chằn chặn bốn góc, y như quân xúc xắc.

Cái mà tôi thiếu bây giờ có lẽ là sự từng trải đích thực. Tôi cần được sống những ngày khổ cực, thiếu thốn, cơ hàn; cần được biết thế nào là chịu đựng, mất mát, hy sinh; cần được thấm thía nỗi nghèo, nỗi nhục, nỗi đau. Cần bị vấp, bị ngã nhưng phải tự đứng lên. Thật sự giờ đây, tôi chỉ muốn ba tôi hiểu: chính ông mới là người cần thay đổi lý lẽ của trái tim. Giá như ba đến với tôi, tiếp cận tôi, yêu thương tôi, cảm hóa tôi, dạy dỗ tôi, thậm chí răn đe và trừng phạt tôi bằng một cách thức đúng đắn, rất có thể mọi chuyện sẽ khác.

Chẳng đáng gây cho gã trai cù lần tội nghiệp (đang gần đất xa trời) cùng cô nàng người yêu đáng thương của hắn nỗi khổ đau, thất vọng, bi quan. Với chút lương tâm bé bỏng còn sót, tôi đoan chắc một điều rằng bà mẹ khả kính của gã sẽ vẫn nhận được cuốn sổ tiết kiệm đáng giá - cho dù, chúng tôi nhất quyết sẽ chẳng động chạm gì tới trái tim khỏe mạnh, trong lành của gã. Tôi nghĩ gã vô cùng xứng đáng được ra đi, về bên kia thế giới, với một thể xác và linh hồn hoàn toàn trọn vẹn.

Thảo nguyên

Tôi trở về bên ghè rượu uống dở chừng khi chiều, với cảm giác buồn xao xác. Đêm cao nguyên gió quất từng hồi ngoài sàn cửa. Thế là tôi đã về được với H'Noanh, bà chị kết nghĩa thời đánh Mỹ. Chị tôi nằm cuộn khoanh bên ghè rượu, trong tấm đô hoa nhàu nát, bên cạnh là cây đinh-yơng xộc xệch, già nua và cô độc. Nghe tiếng động chị ngóc đầu dậy, nói tiếng Kinh:

- Mày đã về đấy em?

- Chị chưa ngủ à? - Tôi hỏi.

- Ngủ gì. Chị chờ em về chớ. Chờ hàng chục năm còn được nữa là từ tối đến giờ.

Tôi vít cần rượu. Sao giờ này tôi muốn uống thêm, uống nữa, uống cho rõ say, để được chị tôi la rầy như hồi nào quá.

- Chị treo võng cho mày rồi đó - chị nói và nhổm dậy nhìn tôi hút rượu.

- Chị cứ nghỉ trước đi. Em còn uống nữa.

Chị tôi cúi đầu thổi lửa. Đống lửa được đánh thức bùng lên. Chị ngồi nhìn tôi không nói. Tôi âm thầm hút rượu. Vị đắng trào lên, lan khắp cơ thể, sâu dần, đượm dần, cùng với vị ngọt xa xăm cứ như vừa mới đấy mới đây mà lại không sao với tới được. Tôi nhấn cần sâu thêm. Chị tôi mỉm cười. Tôi hút mạnh thêm. Vị đắng nguyên sơ trào lên khiến tôi nhăn mặt. Chị tôi dịu dàng nhấc cần rượu, xoay xoay rồi lại vít xuống cho tôi. Tôi bắt gặp mùi thơm tinh khiết và vị ngọt đằm, cay cay, cùng vị đắng chập chờn. Chị tôi mỉm cười khích lệ và tôi rướn cổ lên hút. Đã mười mấy năm nay tôi chưa có dịp về thăm chị. Mười mấy năm! Cũng bằng thời gian mười mấy năm tôi ở cùng chị trong rừng. Mười mấy năm! Nghe đơn giản thế thôi ư? Ngần ấy thời gian hai chị em tôi chung một kíp trực, chị trạm vào, em trạm ra, cách nhau con dốc Kon Từng, leo lên ba tiếng đồng hồ. Mười mấy năm, trưa nào chị em tôi cũng ăn chung bữa trên đỉnh núi heo hút, gió ào ào, lạnh thấu xương. Tôi nhận gùi đạn của chị, chị nhận gùi công văn của tôi. Tôi được nghe chị thổi đinh-yơng chừng mươi mười lăm phút lúc sắp chia tay. Rồi lại ai về đường nấy. Hiếm khi có dịp chị em mắc võng kề bên tâm sự. Chị tôi thuở ấy đâu rồi? Cái thời Mậu Thân sáu tám đường dây dồn trạm, dồn cung đường giao liên, hai chị em tôi được ở cùng nhau một trạm. Cái dáng cao cao khỏe mạnh và nhanh như con hoẵng, con nai lúc nào cũng cười được, lúc nào cũng vui được của H'Noanh đâu rồi? Pháo nổ sát bên, chị tôi cười ré. Tôi gùi đạn, chị gùi công văn lúc nào cũng gấp, cũng chạy, tôi trượt chân, chị trượt chân ngã trẹo tay, chị em cùng cười vang rừng. Ngày ấy tôi không nghĩ chị có thể già. Ấy vậy mà giờ đây, chị tôi trở thành một bà già đúng theo nghĩa ấy.

Thời gian thật tàn nhẫn quá.

- Thế thì uống đi - Giọng nói chị khàn khàn. Uống tới sáng cũng được, chị tiếp - Tưởng mày quên chị rồi.

Tôi vít cần cho chị. Chị níu vai tôi ngồi xuống. Tôi nghe rõ tiếng rượu chuyển trong ghè roong roóc. Thế là chị tôi còn khỏe, tôi nghĩ. Khi trưa tôi về, mừng quá, chị đem ghè rượu ra mời bà con tới uống. Bà con đem rượu tới mừng ba bốn năm ghè. Cuộc vui của chị em tôi lan sang các nhà, lan tới nhà rông. Tôi bị cuốn vào cuộc vui giờ này mới về.

- Mày vẫn ham vui quá - chị nói tiếng JRai, nhìn tôi âu yếm - Vui một, buồn mười em ạ.

Tôi buông cần, cảm thấy chếnh choáng rồi gục đầu vào ghè rượu cố giữ thăng bằng.

- Uống nữa đi, rồi rượu nó sẽ giải cho em đấy.

Tôi cầm cần rượu chị trao. Chị tôi đưa bầu nước lên miệng ghè, đổ vào. Tôi hút cật lực. Rượu lạt dần.

- Rượu cần mà uống dở chừng - chị tôi nói - Thế nào cũng bị say. Còn uống đến cùng - chị cười, níu vai tôi thêm mạnh - Rượu nó cứu mình khỏi say đấy. Càng uống càng hết say em ạ.

Điều này chị đã dạy tôi hồi tôi mới về Trạm giao liên Kon Từng cùng chị.

- Mày không về được chị cũng không trách đâu.

Chị tôi cầm ống đinh-yơng lên phủi bụi. Rồi chị ngả người vào vách nhà, nghiêng đầu thổi. Những ngón tay chị bật bật nhoáng qua ánh lửa. Tôi ôm ghè rượu lắng nghe. Đêm sâu hun hút gió. Tiếng đinh-yơng chập chờn. Chị tôi sửa thế ngồi, âm thanh chuyển dần, sáng dần lên tựa hồ chị tôi đang đi trên rẫy lúa lúc chiều về. Tựa hồ chị tôi đang ngụp lặn dưới sông tìm ốc. Tựa hồ bản làng đang náo nức rước Mẹ Lúa về kho. Rồi tôi thấy chị tôi đang ngồi trên thân cây đổ bên suối Ia Bool, lưng đeo gùi đựng những trái bầu khô chứa đầy nước. Có tiếng con mang tác bìa rừng. Có con chim chao trên vòm cây. Có con trăn trườn dưới khe đá. Có con nhện đang giăng tơ trên mái hiên ngoài cửa hang đá. Tiếng suối chảy róc rách đâu đó cùng tiếng gió ngoài đồng cỏ. Chị tôi dần dần trẻ lại. Trẻ lại lúc hai mươi tuổi. Trên lưng gùi đạn. Trước ngực cây đinh-yơng. Những người lính B3 trẻ măng trêu chị. Tiếng chị cười vang rừng. Tiếng chị hát vang rừng. Và cả tiếng chị tôi thổn thức khóc trong lùm cây dọc đường. Có người lính gặp nạn chết trong lùm cây. Mưa sầm sập. Tiếng chân sầm sập. Chị tôi ngồi bên xác người lính chết sốt rét dọc đường. Bóng chị tôi hì hục đào hố chôn người lính. Rồi lại tiếng mưa đổ, tiếng vượn hú, chim cu rúc, tiếng cây đổ ngoài bìa nương. Âm thanh chiến tranh cào cấu đất đai, dội nát lòng người. Chị tôi lầm lũi bước. Phía sau lưng chị là những người lính mới lầm lũi bước. Một năm. Hai năm. Ba bốn năm ròng chị tôi bước lên bước xuống cùng những gùi đạn và nhúm rau rừng. Hàng ngàn người lính quen chị, thương chị, chia tay với chị. Hơn mười năm trên một quãng đường rừng. Rừng già từ thuở nào, còn chị tôi già đi từng ngày, từng tháng, từng năm. Chị tôi chợt buông chùm ống nứa, túm tay tôi dìu tôi lên võng.

Tôi ngoan ngoãn làm theo ý muốn của chị.

- Mày say thật à?

- Say gì, nôn nao chút xíu thôi - tôi nói.

- Sao mà bây giờ dở ẹc vậy em?

Rồi chị tôi lại trở về thổi lửa. Ngọn lửa lại bùng lên. Khuôn mặt chị tôi nhòe dần cùng đám tóc bạc rũ. Chị hí húi lấy thuốc trong gùi ra quấn nguyên cả lá đưa cho tôi. Tôi ngậm điếu thuốc trườn ra mép võng. Chị cầm gộc củi đưa cho tôi mồi lửa.

Tiếng chân chị tôi bước chậm trên sàn nhà. Đêm yên tĩnh. Gió giờ này đã nguôi. Tôi ngửa cổ rít thuốc. Tiếng đinh-yơng lại chập chờn ngoài sàn cửa. Tôi không dám cựa mình. Chị tôi đang tâm sự cùng tôi. Vẫn cái gùi giao liên ấy, hàng trăm hàng ngàn trái đạn, hàng trăm hàng ngàn ký gạo, ký muối trên một đoạn đường, chị tôi dùng nó gùi một gùi giấy khen, bằng khen, huân huy chương thành tích ngược về làng sau ngày giải phóng. Không ai nhận ra chị, ngoài già Rơ-Chăm-Đim. Già đưa chị về nhà già ở chung. Ma mí chị đã chết cùng ba người anh em trong một trận càn có B52 của Mỹ cuối năm sáu lăm. Chị theo bộ đội từ ngày ấy, không phải tự dưng chị muốn xa làng đâu. Bây giờ có hòa bình rồi, bộ đội khuyên chị ra Hà Nội học, nhưng chị ưng về làng. Về làng, chị đâu có hình dung được dân làng không ưng chị vì chị quên nhiều phong tục cũ, ham làm cán bộ, ham lên huyện nhận công văn chỉ thị, đôn đốc thúc giục dân xuống núi định cư. Già Rơ-Chăm-Đim chết trên đường dời làng. Làng khua chiêng phạt chị. Chị không thể thanh minh được điều gì. Lần thứ hai chị thành người cô độc sống ở bìa rừng.

Nhưng rồi thời gian cũng lắng dần xuống. Chị tôi thui thủi gần chục năm trời. Không lên huyện. Không làm cán bộ. Không nói lời nào. Chị tôi như cái bóng sống cạnh dân làng. Một năm, hai năm. Mười năm. Dân làng thương chị, kéo chị về ở chung, khi tóc chị đã bạc và răng chị đã rụng rồi. Bao nhiêu huyền thoại về cô giao liên H'Noanh chỉ có những người lính B3 biết. Dân làng nhìn giấy khen. Giấy khen ai cũng có. Chị tôi phải làm lại từ đầu. Cây đinh-yơng thuở còn con gái, giờ đây chị lấy ra thổi. Giọng nó rè rè một lúc rồi ấm dần lên. Tôi loạng choạng bước xuống võng. Ngôi nhà tình nghĩa của tỉnh, của huyện làm cho chị mấy năm nay, cạnh những ngôi nhà của buôn làng, sao cứ thấy có cái gì xa lạ. Đành rằng chị tôi thì chẳng có tài giỏi gì để tự mình làm cho mình một ngôi nhà to đẹp thế.

- Mày không ngủ à, em?

Chị tôi ngừng thổi đinh-yơng hỏi. Tôi níu vai chị, ngồi nhìn buôn làng đang say giấc.

- Em không muốn ngủ - tôi nói và gục vào vai chị. Chị đưa chùm ống nứa già nua lên thổi. Cây đinh-yơng ngúc ngoắc cùng dáng chị tôi ngúc ngoắc. Khi nói bằng lời không được, cả niềm vui và nỗi buồn của lòng người, cây đinh-yơng, một chùm ống nứa, là thần linh huyền diệu nói giùm ta. Chị tôi chừng như trẻ lại một lần nữa.

- Mày vẫn ham vui quá em ạ.

Tôi ôm ngang người chị, nhận ra sương sớm đang tràn xuống vòm cây Pơ-lang, tiếng chày giã gạo và tiếng gà gáy dồn đâu đó. Chị tôi ngưng thổi đinh-yơng, khe khẽ cất tiếng hát. Bài hát ca ngợi thảo nguyên thuở chị tôi bé như cái nấm, chiều chiều chạy thi với gió, chạy thi với chúng bạn và lũ chim te te cuối bãi. Bài hát nhắc tới ngày máy bay Mỹ thả bom xăng đốt làng, đốt đồng cỏ hồi sáu tám. Tôi ngơ ngẩn nhìn ra khoảng xanh vườn cà phê trĩu hoa thơm ngào ngạt, lòng thấy nao nao không rõ vui buồn. Cách đây mười mấy năm rồi nhỉ, vùng này là thảo nguyên.

Cây mận của ba

Một bận về thăm quê, được người bạn biếu cho nhánh mận ghép, ba đem về trồng chỗ góc sân sau nhà, tỉ mẩn chăm chút tưới nước bắt sâu. Theo thời gian cây mỗi ngày mỗi lớn.

Lần đầu cây mận trổ bông, những cánh hoa bé li ti phơn phớt hồng lã chã chao nghiêng mỗi bận có một làn gió thoảng qua. Mấy chú ong bén hơi hoa nấp trong tán lá vo ve rù rì. Khoảng sân sau nhà như được phả lên một sức sống mới. Nhìn ba vui cả nhà cũng vui theo. Rồi những trái mận xinh xinh be bé cũng tượng hình, kết thành chùm to chùm nhỏ oằn sai đung đưa trong nắng. Đúng như cái tên hồng đào huyết, từ màu đỏ tươi mận chuyển dần sang màu huyết dụ (ai không biết dễ lầm tưởng mận đã chín).

Nhưng thật ra mận chỉ chín mùi, ngọt đậm đà và thanh thao khi trở lại màu hồng thắm. Lúc đó ba mới cho mọi người được hái . Ba nói: "Ăn sớm mận sẽ không ngon. Ở đời phàm cái gì đúng thời cơ mới đạt hiệu quả. Dục tốc là bất đạt". Má cười: "Ăn được trái mận của ông không khéo tụi nhỏ trở thành nhà thông thái...". Cây mận của ba lạ lắm, cứ hết đợt trái này lại trổ bông cho đợt trái khác. Thành ra mận có quanh năm. Nhằm lúc mận chín, ai tới chơi cũng được ba mời ăn và biếu một ít mang về. Cây mận trở thành niềm vui, niềm tự hào và là "đầu câu chuyện" của ba.

° ° °

Sau gần 30 năm bôn ba xứ người, chị hai trở về với mái tóc pha sương và hai bàn tay trắng. Thương chị, các em bàn bạc xin ba khoảng đất sau nhà góp tiền xây cho chị một căn nhà nhỏ để cuối đời chị có chỗ mà chui ra chui vào. "Rồi cây mận". Ba dừng lại thật nhanh cũng giống như lúc ba buột miệng bật ra ba tiếng ấy. Nhìn vào mắt ba, mọi người không ai nhắc tới chuyện xây nhà cho chị hai nữa.

Buổi sáng, chị hai đang cặm cụi tưới cây. Ba đi uống cà phê về dắt theo một người bạn: "Ba nhờ bác tới xây nhà cho con. Con thích kiểu nào thì bàn bạc với bác". "Rồi cây mận...". Chị hai bối rối ngập ngừng cũng giống như hồi chị vấp va vấp váp mãi mới thốt ra được ba tiếng ấy. Ba cười tỉnh rụi: " Thì đốn chớ sao".

° ° °

Ngày người ta đến đốn cây để khởi công xây nhà, ba nói có hẹn bạn đi đánh cờ tới tối mịt mới về. Thương ba quá, chị hai thử cho cắt ngang thân cây rồi bứng gốc đặt vào một cái chậu to. Những chiếc lá mận xanh rờn từ từ ngả màu xám xỉn rồi khô quắt lại đổ lợt đợt xuống đất. Cây mận trơ trọi những cành khẳng khiu trông thật tội. Ba giấu nỗi buồn vào trong bụng, hằng ngày vẫn săm soi tưới táp với một chút niềm hi vọng mong manh. Nhà xây xong cũng vừa lúc cây mận quen bàn tay chăm sóc của ba nhú lên mầm sống, những chiếc lá lụa non tơ tim tím mượt mà thoáng chốc đã phủ đầy cành.

Tháng chạp gió chướng nôn nao e ấp thập thò ngoài ngõ. Ba, cổ quàng phu la màu mận chín ngồi co ro uống trà nhìn mấy bông mận rập rờn lim dim trong gió. Từ ngày cây mận được cho vào chậu, tán lá nó không còn rộng, quả mận cũng bé đi, nhưng cái màu đỏ đậm đà và vị ngọt thanh thao thì không lẫn vào đâu được. Ba đặt tên mới cho cây là hồng đào kiểng. Bây giờ hễ có dịp kể với ai câu chuyện về cây mận, ba gọi đó là sự hồi sinh của cây.

° ° °

Ngôi nhà nhỏ một mình chị thênh thang. Nhìn những ô màu xanh đỏ nham nhở, những chiếc cọ vẽ dài ngắn, nhỏ to đủ cỡ mà thằng cháu đang học kiến trúc tha về vứt xó để vòi tiền mẹ nó mua cái mới, bất giác trong chị quá khứ ùa về cùng với niềm mơ ước tuổi thơ một thời chị đã bỏ quên bởi những ngộ nhận về thân phận và cuộc đời. Chị xòe hai bàn tay bần thần nhìn vào những cái hoa đỏ tròn xoe trên đầu ngón rồi nhìn qua ô cửa sổ. Cây mận của ba đằng sau ô cửa tĩnh lặng với những gam màu đi qua giấc mơ của chị.

Ngôi nhà nhỏ trở nên chật chội với bừa bộn giấy má, vương vãi bột màu và lũ học trò nhỏ cùng những trang vẽ ngộ nghĩnh. Chị ngồi trước giá vẽ. Thằng út dán mặt vào ô cửa trêu chị: "Chị hai dạo này trông trẻ đẹp hẳn ra". Chị cười, nụ cười như có nắng. Trước mặt chị là bức tranh cây mận đang vẽ dở dang. Chị thấy mình cũng giống như cây mận của ba. Trong cây có một phần đời hồi sinh của chị.

Đợi hoa

- Con cứ để hết lên bàn, lát bố sẽ thu xếp. Có thể ở góc ấy - anh chỉ tay - Chẳng thể lập bàn thờ ở đâu được. Công cộng mà. Thôi thì mong ông bà thứ lỗi.

Cô bé dỡ ra khỏi giỏ một bịch trái cây được gói cẩn thận trong giấy kiếng. Hai hộp bánh ngọt. Một cặp bánh chưng. Và rượu.

- Bố có cái đĩa nào không bố?

Anh cười buồn, lắc đầu:

- Tô thì có, đêm nào bố với mấy chú cũng chế mì gói ăn. Ờ, mà biết đâu, để bố tìm xem.

Anh lật tung mọi ngóc ngách. Căn phòng hơn chục mét vuông, thế mà đồ đạc cũng chẳng kiểm soát nổi. Tổ bảo vệ có bốn người, xoay vòng. Đồ đạc vừa chung, vừa riêng. Cuối cùng thì cũng có, một cái đĩa dùng để đậy tô khi chế mì. Nhưng đã sứt hết một góc.

- Chả sao - anh lại cười - Mong ông bà thứ lỗi.

Trái cây được sắp lên. Rượu, bánh bày ra. Không đủ để trở thành một cái bàn thờ ông bà đúng nghĩa, nhưng cũng có được một chút hình ảnh mùa xuân. Còn thiếu một cái gì đó nữa... Cô bé ngẩn người:

- Ôi, con quên mất thứ quan trọng nhất, bố ạ. Hồi nhỏ,

cứ mỗi lần Tết, cái con nhớ nhất là mùi nhang trầm. Để con chạy ra siêu thị.

Anh cản:

- Giờ này người ta cũng đóng cửa rồi. Mình bày tạm như vậy đã. Rồi mai, hay khi nào rảnh bố sẽ mua.

- Nhưng đêm nay ông Táo về trời mà bố.

- Táo tiếc gì. Mình cúng ông bà thôi. Con ở lại, ngồi chơi với bố. Quan trọng là bố được gặp con.

Anh quệt hai bàn tay ướt nước dọc hai đùi, kéo ghế. Bố con ngồi đối diện. Anh ngắm con. Khóe mắt cười đã xuất hiện những nếp nhăn nheo.

Cô bé chồm lên:

- Ôi, bố nhiều tóc bạc quá.

- Không bạc sao được, con - anh cười, thở dài. Lại ngắm cô bé. Một cái nhìn hạnh phúc - Vậy là năm nay con mười bảy. Còn bố, bốn hai rồi.

- Nhưng nhìn bố con chẳng thấy thế đâu. Cứ như bố vừa qua ba mươi. Còn mẹ...

Cô bé chợt ngừng lời. Anh cũng hơi chững lại... Nhưng cái cười đã vội vã thắp lên:

- Mẹ sao hả con?

- Con đi với mẹ, người ta bảo chị em.

- Mẹ sinh con năm mẹ mười chín tuổi...

Ánh đèn từ phòng bảo vệ đổ sáng rực khoảnh sân phía trước. Nơi ấy có một vườn bông nhỏ, dưới trồng cỏ, khoảng giữa là hòn non bộ. Có tiếng nước chảy róc rách. Cô bé chỉ tay:

- Ôi, một cây mai, cây mai khổng lồ.

- Người ta mới thuê về để đấy con. Ngày thường nó không có ở đó.

Những búp mai vàng, dưới ánh đèn đêm như tỏa sắc trắng. Một cây mai dát bạc, mơ hồ, huyền ảo.

- Hôm nay mẹ tổ chức cho nhân viên đi nghỉ cuối năm. Cả công ty gần chục xe. Mẹ bảo con đi. Con nhất định không đi.

- Đi những ai mà nhiều thế?

- Tất cả các ban, phòng. Công nhân thì từ trưởng chuyền trở lên. Cả những ai mẹ thấy là họ siêng làm...

- Chắc năm nay mẹ làm ăn khá?

- Con chẳng để ý bao giờ ...

- Dù sao mẹ lo được cho con như thế này là bố mừng rồi. Chiếc xe con chạy, bố phải nhịn ăn trong mười năm mới mua nổi! - Anh hơi chững lại bởi những lời nghe có phần cay đắng. Một tiếng thở dài được nén lại - Mẹ có biết con đến đây với bố?

- Chắc mẹ biết. Mà có thể cũng chẳng biết...

Cô bé đưa ngón tay út chống nhẹ môi trên, lộ ra một hàm răng trong vắt. Anh nhìn con. Nó đẹp rực rỡ. Sắc đẹp của tuổi mười bảy. Nhưng trên hết, đấy là vẻ thanh tú, hoàn hảo, được thừa hưởng từ cả cha lẫn mẹ. Anh mỉm cười:

- Này, con đã có người yêu chưa?

Câu hỏi rơi vào một khoảng lặng, vài giây. Thoáng khắc sau, mặt cô bé vỡ ra một nụ cười:

- Chưa bố ạ. Dù nói thiệt là có nhiều bạn trai mến con.

- Ừ, con mới mười bảy mà...

Một vùng hồi ức vừa được xới lên. Đấy là tuổi xấp xỉ mẹ nó ngày xưa. Cái tuổi mà một thiếu nữ lỡ đắm mê, là gạt sang bên mọi thứ...

- Tết bố trực mấy ngày hả bố?

- Bố nhận trực thay toàn bộ. Để mấy chú có nhiều thời gian hơn với gia đình. Năm nào chả thế hả con.

- Thế các chú có đền ơn gì cho bố không?

- Họ đem lại bánh trái, đồ ăn. Bia bọt thì sếp cấm tiệt rồi. Nhưng hôm nào vui, mấy anh em cũng lai rai chút ít. Công việc này biến bố thành một thầy tu rồi. Bảo vệ mà say thì trộm nó vào khiêng cả công ty.

- Bố đánh võ say chắc hay lắm?

- Võ say thì không, nhưng bố vẫn luyện tập đều.

- Bố đẹp trai, lại giỏi võ. Hèn chi mẹ mê.

Câu chuyện đi loanh quanh, rốt cuộc lại quay về đề tài mà hai bố con đều muốn tránh. Anh thở dài:

- Bởi vậy, bố nghĩ đến đời con sẽ khác...

Cô bé với lấy cái remote ti vi. Những thông tin tết nhất, giá cả thị trường... Cô bé dừng lại ở một kênh. Năm nay ngập nhiều, hoa kiểng mười phần hư hết tám chín... Phóng sự về một làng hoa Tết.

Anh thở dài:

- Sao nhiều người cơ cực quá. Cơ cực hơn mình nhiều.

Cô bé lặng im, mắt ngước nhìn mấy con thằn lằn bò trên vách. Thằn lằn nhiều quá, ngoe nguẩy đầy tường. Đến thằn lằn cũng có cả một cộng đồng, đủ cặp, đủ đôi, đủ lớn, đủ bé...

Anh chỉ tay ra khoảng đường phía trước:

- Hôm nay hăm ba rồi. Thể nào lát nữa xe kiểng cũng dài dài đổ về. Bố nhớ năm nào cũng vậy.

Cô bé chồm người, chống cằm nhìn ra con đường mờ tối:

- Đúng hôm nay hả bố?

- Ừ, thường là vậy. Đã mấy năm nay, bố nhớ, cứ hăm ba tháng chạp là thương lái bắt đầu đưa hoa về phố, qua ngả này.

Mắt cô bé chợt sáng lên:

- Hay thế này nha bố. Con sẽ ở lại với bố, chờ đến lúc chuyến hoa đầu tiên...

Anh lắc đầu:

- Chi vậy con? Phải mờ sáng hoa mới về lận.

Cô bé bướng bỉnh:

- Con sẽ chờ với bố. Như bố con mình cùng đón xuân mà.

- Con có thức nổi không?

- Con sẽ mua cà phê, hai bố con mình uống. Rồi con sẽ về sau khi thấy hoa.

- Ba bốn giờ sáng làm sao con về. Một cô gái xinh đẹp với chiếc xe đắt tiền này?!

- Chẳng sao đâu, con lì lắm bố ơi.

- Được rồi, bố con mình cứ nói chuyện thế này, lát rồi tính.

Lòng anh nhói lên một cảm giác mông lung. Con bé mười bảy. Ngày anh rời nhà, nó chưa vào lớp một. Mười mấy năm trời, chỉ là những lần cha con gặp nhau vội vã. Mà khoảng thời gian bốn năm năm đầu, anh hầu như biệt tích. Trốn thành phố, trốn kỷ niệm, nhưng trên hết là việc mưu sinh. Cha con mới chỉ gặp lại nhau từ khi anh được nhận về đây, đánh bóng mặt ghế của căn phòng tù túng này.

Cô bé nhớm mình ngồi dậy:

- Bố chờ một lát, con đi mua cà phê.

- Cà phê phòng bố thiếu gì. Toàn là dân thức đêm mà. Để bố nấu nước sôi.

Cô bé giành chiếc bình nấu nước từ tay anh.

- Bố để con đi lấy nước. Lâu lắm mới có dịp chăm sóc bố mà.

Anh nhìn theo con bé. Một vùng mờ tối nơi ký ức lại thắp lên. Đấy chính là bóng dáng của mẹ nó. Cô tôn sùng anh từ khi còn là một nữ sinh trung học. Chẳng bởi gì khác, ngoài cái mẽ ngoài đẹp trai, nam tính. Niềm đam mê duy nhất của anh lúc ấy chỉ là võ thuật. Không nghề ngỗng gì ráo. Suốt ngày huỳnh huỵch với mấy cái sàn đấu. Rồi cưới nhau. Bi kịch cũ mèm. Đổ vỡ. Trống rỗng...

Cô bé hí hoáy cắm điện. Thoáng đã nghe tiếng nước reo.

- Y như bố con mình ngồi canh nồi bánh tét, bố nhỉ!

- Mẹ có bao giờ gói bánh tét ở nhà chưa con?

- Bố nói chuyện giống siêu tưởng. Dù sao, đã có một đêm con được ngồi canh nồi bánh tét nhà đứa bạn dưới quê. Năm đó con giận mẹ, xách giỏ biến với nhỏ bạn từ hăm mấy tết.

- Chắc mẹ phải lo sốt vó lên?

- Con đi ba ngày mẹ mới biết. Cuối năm mà bố. Nhưng bố để con kể tiếp. Đêm ấy, đêm ngồi canh bánh tét với nhỏ bạn, hai đứa chụm đầu đọc một tờ báo xuân. Con chỉ ước sao đó là tờ báo bố mua cho con...

Thoáng cái, mắt cô bé đã ướt nhòe. Anh kéo ghế lại gần con hơn:

- Bố xin lỗi. Xin lỗi về mọi chuyện...

- Bố không có lỗi. Mẹ cũng vậy. Con cũng vậy. Chẳng ai có lỗi hết...

- Dù sao đi nữa, con cũng không có được hạnh phúc bình thường như ở những gia đình khác...

- Con thấy có gia đình nào sung sướng đâu. Như nhà nhỏ bạn con đó, đứa mà con ngồi canh nồi bánh tét... Mà thôi...

Con đường phía trước chìm sâu hơn vào giấc khuya. Có tiếng rao bánh chưng, bánh tét. Bóng chiếc xe đạp khập khiễng. Một giọng khan dài, khắc khoải...

- Bố thấy không, cái anh chàng bán bánh tét này. Hăm ba tết rồi còn lặn lội ở đây. Anh ta bán bánh chưng bánh tét, nhưng chắc gì con anh ở quê có được nồi bánh...

- Bố hiểu vì sao con có cái nhìn không vui đó. Con quá già dặn so với tuổi mười bảy...

- Con nít bây giờ đứa nào cũng già trước tuổi bố ạ. Mỗi đứa một kiểu già khác nhau, chẳng riêng gì con... Ơ, mà hoa sắp về chưa hả bố?

Anh ngước nhìn đồng hồ. Mới gần mười hai giờ khuya.

- Phải vài tiếng nữa con à. Hay con nằm nghỉ một lát? Giường chiếu xập xệ quá. Một lũ toàn đàn ông mà. Tiểu thư của bố có chịu nổi cái mùi ở đây không?

- Con chưa bao giờ nghĩ mình là tiểu thư...

Để chứng minh cho lời nói, cô bé kê chiếc gối lên thành giường, tựa lưng vào đó, tư thế nửa nằm, nửa ngồi.

- Con có thể ngủ như thế này. Bố tin không?

- Tại sao lại phải như thế, trong khi con có thể nằm dài ra một cách thoải mái đàng hoàng. Tất nhiên không phải ở cái giường toàn mùi... bảo vệ này.

- Con luôn ngủ kiểu này mười mấy năm rồi. Trước màn hình ti vi. Lúc học bài khuya. Lúc chẳng muốn lên giường... Chẳng ai can thiệp cả.

- Con nằm đây một lát nhé. Bố phải đi một vòng.

- Con muốn đi với bố.

- Con cứ ở đây đi. Khi cà phê xuống hết, con bỏ đường và đá vào giùm bố.

Anh cầm cây đèn pin, bước dọc mé tường. Hơi đêm dìu dịu, lạnh se. Những khoảnh khắc này luôn khiến anh thư thái. Sự cô đơn thấm vào máu, đến thành thói quen, thành yêu thích. Hôm nào hàng về công ty, phải cần hai bảo vệ, anh cảm thấy bứt rứt khi có đồng nghiệp bên cạnh. Những mẩu chuyện vớ vẩn, chẳng đâu vào với đâu. Cứ ngồi thế một mình, thả ánh mắt câm lặng về phía trước, anh có thể ngồi như vậy suốt cả đêm dài. Và nhiều đêm như thế. Tan hẳn vào vô ưu vô ảnh...

Khi anh quay về phòng, cô bé đã thiếp đi, đầu trượt khỏi thành giường cùng với cái gối. Ly cà phê trên bàn đá đã tan ra, nước đọng quanh thành một quầng nhỏ. Anh cất đèn pin, nhón nhẹ ly cà phê ra ngồi ở bậc thềm. Hình như trăng hạ tuần ló ra. Mấy ngôi sao ở chân trời phía đông nhạt đi chút ít.

Nhấp một ngụm cà phê, chợt nhớ gói thuốc để quên trong phòng, anh quay lại. Cô bé đã trở mình, nằm nghiêng về một phía. Sóng mũi cao, những sợi tóc rơi ngang. Hình ảnh của nàng công chúa ngủ trong rừng. Nàng công chúa đi lạc. Lạc vào nơi chốn của quạnh hiu này, vào thế giới của anh, của chính bố nó. Tại sao giữa anh và con lại là hai thế giới trái ngược nhau như thế?

Anh ngồi với đốm thuốc

lập lòe. Quả thực trăng đã lên. Nhưng trăng hạ tuần chẳng

đủ soi sáng chính nó. Đêm vẫn đen huyền bí.

Chẳng biết thời gian đã trôi qua bao lâu. Bóng cô bé chợt hiện ra bên cửa:

- Con nằm chờ bố, ngủ quên lúc nào không hay. Sao bố lại ra ngồi đây?

- Bố hút thuốc, sợ làm con ngộp. Bố con mình vào trong đi. Ngoài này muỗi đấy.

- Con muốn ở ngoài này một lát. Giá mà... không có bố... Con sẽ ngồi một mình, để biết được những đêm dài của bố.

- Bố quen rồi, thành ra lại thấy đêm ngắn, ngày dài. Mới ngồi được tí xíu, đã thấy chộn rộn người xe ra vào.

Cô bé ngồi bệt xuống bậc thềm. Hai cẳng chân đưa ra, ngúc ngoắc. Sương ướt đầm mảng cỏ phía trước vườn bông. Những hạt sương sáng lên dưới ánh đèn hắt ra từ phòng bảo vệ. Trong thanh vắng hình như thoảng mùi hoa mai. Cái mùi hương thật khó cảm nhận. Hoặc mọi cảm nhận chỉ là tưởng tượng. Tự thân sắc vàng của hoa mai đã tỏa ra một thứ mùi riêng. Đài các. Thanh cao.

- Con có ngửi thấy mùi hoa mai không?

- Hoa mai cũng có mùi hả bố?

- Bố nghĩ thế. Một thứ mùi của quạnh hiu. Chỉ nửa đêm về sáng mới thấy. Chẳng bao giờ nghe được mùi hoa mai giữa ban ngày, giữa xe và bụi.

- Bố nói giống như một thiền sư.

- Sự cô độc thường sinh ra những thứ như vậy...

- Hoa sắp về chưa bố?

- Có lẽ sắp rồi.

- Hay bố mở cổng, hai cha con ra đường đứng đợi?

- Mới rạng sáng, một kẻ như bố đứng cạnh cô gái như con bên đường vắng, có thể anh chàng cảnh sát khu vực hay dân phòng đi ngang sẽ có việc để làm. Lúc ấy khó mà chứng minh hai cha con mình là bố con...

Cô bé lặng im, bất chợt thở dài:

- Tại sao lại như thế chứ? Dù mình là hai cha con thật tình.

- Nhưng dù sao, ý con cũng hay. Bố muốn đi dạo một lát. Cảnh thật hiếm gặp trên đời thế này.

Con đường dài ngút, thi thoảng hắt vài vệt đèn loang lổ. Gió đêm quăng vài mảnh lá khô. Dịu lạnh.

- Có phải xe hoa về không hả bố? - Cô bé chợt reo lên, náo nức.

Anh nhìn xuôi theo ánh chập chờn. Một chiếc ba gác cao ngồng. Lúc lắc, nhấp nhô. Trên xe, không lẫn được, ánh vàng đêm của hoa cúc.

- Đúng rồi con. Hoa về đó!

Cô bé không kềm được, quăng chân lao về trước. Mái tóc tung dưới sắc đêm. Bóng chiếc xe hoa lúc lắc rõ dần. Chạy vài chục bước, cô bé bỗng quay ngoắt lại. Mắt cô ngời lên trong nhịp thở hổn hển:

- Quên mất, con phải quay về đón xuân với bố chứ. Lúc chiếc xe đi ngang, mình sẽ làm gì hả bố?

- Bố sẽ bảo họ dừng lại. Mua tặng con một bó.

- Không! Con muốn để tự nhiên vậy. Đừng mua bán gì hết. Mình chỉ nhìn mùa xuân đi qua.

Người phu xe rạp mình trên bàn đạp. Chẳng biết anh ta chở thuê, hay anh là người trồng hoa. Những nụ cúc vàng đẫm nước, ngời lên trong ánh đêm.

Anh nắm chặt tay con gái trong tay mình. Hình như gai ốc rợn đều khắp mặt da.

Không chỉ một, mà cả một đoàn xe bắt đầu nối tiếp... Cứ vài phút lại nhấp nhô phía cuối đường một mùa xuân di động tiến đến gần. Chẳng rõ những người phu xe đang nghĩ gì. Lúc mới rạng ngày, có hai người một nam một nữ, lửng lơ độ tuổi, cứ đứng bên đường ngóng theo những chuyến xe hoa trôi qua trước mặt...

Cô bé bỗng giật tay anh:

- Mình vào nhà đi bố.

- Sao con không muốn nhìn nữa? Mệt rồi hả?

- Nhìn thêm biết đâu lại mất hay, bố. Khi trời bắt đầu sáng, sẽ mất đi cái thiêng liêng, huyền ảo. Bố tin không? Mười bảy năm rồi, lần đầu tiên con cảm được có Tết, thấy được mùa xuân.

Không nói gì, nhưng anh đồng ý với con. Chỉ không lâu nữa, những chiếc xe đầu ngày sẽ hối hả lao qua. Thành phố trở mình, cục súc. Trái ngược hoàn toàn với hình ảnh cha con anh đang cảm nhận lúc này...

Họ trở về phòng. Anh sắp lại mấy cái gối.

- Con nằm nghỉ đi. Chút nữa có người thay ca, bố sẽ gọi dậy, đưa con về.

Cô bé ngả lưng trên chiếc giường cũ kỹ. Nụ cười thắp sáng gương mặt cô, hướng về phía cha.

- Năm sau, con sẽ lại đến đón xuân với bố nhé!

- Tất nhiên, con gái. Mùa xuân là của bố con mình mà...

HÌnh như là mến thương

Lương thấy nhẹ cả người. Thở phào ra một cái nhẹ nhàng gì đâu. Tự dưng Lương thèm thấy đứa nhỏ quá, thèm được bồng nó, bồng cái dải khăn ướt ấy một lần coi sao. Chân tay nó khua khoắng ngộ phải biết. Chắc thương lắm. Mà nó có quen biết gì với Lương đâu chớ, nó chỉ là hàng xóm của vị khách lờ ngờ này, Lương cũng chưa biết gì về anh ta cả. Có ngộ lắm không?

Một bóng người vào quán, nhìn lơ ngơ và chọn một cái bàn sát cửa ra vào. Đám con gái chỉ trỏ vị khách mới đến, cười khúc khích:

- Đứa nào kiếm chút bạc lẻ thì ra tiếp anh chàng đi. Trông lơ ngơ như nai ấy chắc túi rỗng.

Lương đứng lên, chậm chạp tiến lại, hỏi:

- Anh uống gì?

- Cho tôi chai bia.

Đặt chai bia xuống bàn, Lương hất mặt ra phía ngoài: "Anh không phải là khách của quán, nếu cần một chai bia sao anh không sang quán cóc bên kia đường? Ở đó trong lành và mát mẻ hơn". Anh ta nhướng mắt nhìn Lương, tự khui bia và rót vào hai cái ly: "Cô uống với tôi nhé. Tôi không có nhiều tiền để mời cô đâu. Sếp bảo tôi đợi ở đây thì tôi đợi". Lương cười khẽ: "Dễ bảo quá hả".

- Sao cô không uống?

- Buồn chết được!

- Trời, chết mà cũng buồn nữa. Tôi đây còn chưa muốn chết, xinh xẻo như cô chết chi cho uổng?

Lương bật cười, Lương mà xinh xẻo nỗi gì. Lương làm một hơi cạn ly, hơi dằn cái ly xuống bàn, Lương chống cằm: "Chết có gì mà uổng?". "Uổng chớ, công cha mẹ mình sinh ra, nuôi mình lớn vầy, bú mớm vất vả mà đòi chết có phải là bất hiếu không?". Rồi anh ta làm luôn một hơi: "Cô chưa nuôi con cô chưa biết đâu. Hồi mới sinh mình bé xíu bé xiu như chai bia vầy nè. Có khi còn nhỏ hơn chai bia, nhỏ bằng nắm tay thôi. Nuôi nấng cực khổ lắm mới dần lớn, cũng như trái bầu, trái bí vậy. Rồi còn khóc đêm, khóc ngày. Rồi đói cũng khóc, buồn cũng khóc và nhõng nhẽo cũng khóc. Còn ăn bột, uống sữa nữa, trời ơi là vất vả". "Sao anh biết hay vậy? Anh có con rồi hả?". "Trời ơi, tôi chưa có người yêu lấy đâu ra con. Chị Ba hàng xóm của tôi đó, ngày nào tôi chẳng chạy qua bồng đứa nhỏ cho chỉ giặt đồ. Con nhỏ quặt quẹo thấy thương luôn, như dải khăn ướt vậy". "Cha nó đâu?". Anh ta ngửa cổ uống cạn ly bia, trầm hẳn xuống: "Cha nó đạp xích lô, chả vụng về gì đâu. Bồng con mà đánh rớt con mấy lần".

- Vậy thì chết còn gì?

Lương chợt hốt hoảng như chính mình vừa làm rớt đứa nhỏ.

- Hên là rớt xuống đống chăn. Má nó đề phòng trước rồi.

Lương thấy nhẹ cả người. Thở phào ra một cái nhẹ nhàng gì đâu. Tự dưng Lương thèm thấy đứa nhỏ quá, thèm được bồng nó, bồng cái dải khăn ướt ấy một lần coi sao. Chân tay nó khua khoắng ngộ phải biết. Chắc thương lắm. Mà nó có quen biết gì với Lương đâu chớ, nó chỉ là hàng xóm của vị khách lờ ngờ này, Lương cũng chưa biết gì về anh ta cả. Có ngộ lắm không?

- Cô hết buồn chưa?

- Làm sao mà hết được.

- Cô đi chơi với tôi không, tôi đưa cô về thăm con nhỏ đó.

- Anh đã biết gì về tôi đâu mà rủ đi. Anh còn đang đợi sếp anh mà.

Anh chàng gãi đầu: "Vậy mai mốt nghe, nhưng cô rảnh không?". Lương có làm gì đâu mà không rảnh. Lương vẫn tự cho mình là tỉ phú thời gian mà. Thích ăn thì ăn, thích ngủ thì ngủ. Hồi tầm này năm ngoái, Lương hay tin mẹ mất, mẹ đi buôn rau bị xe cán chết. Lương có hay gì đâu, định dành dụm ít tiền rồi mới về thăm mẹ, cho ông cha dượng sáng mắt ra. Vậy mà mẹ mất, Lương cũng không về đưa tang mẹ được. Lương là đứa con bất hiếu. Trên đời, Lương không còn ai là người thân thích, bạn cũng không. Lương thành một cọng cỏ dại nhưng mạnh mẽ, bị chà đạp kiểu gì cọng cỏ cũng vẫn ngoi lên và sống được.

° ° °

Lương ngồi sau xe, Xanh đạp máy cho xe chạy, tiếng xe kêu giòn giã hòa vào dòng người trên đường. Gió thật gió, nắng thật nắng. Xanh ngoảnh lại: "Đừng có hỏi ba con nhỏ nghe". "Sao vậy?". " Ảnh chết rồi. Say rượu trúng gió chết rồi. Chỉ khóc quá trời là khóc". Lương nghe lòng quặn lên một cái. Sao những người yêu nhau, có tình với nhau lại không được sống gần nhau.

Xanh h vồ vập hôn hít con nhỏ một hồi rồi cởi áo, đi quanh quanh nhà, làu bàu thật tình "sao hết củi không chờ tôi về chẻ mà tự chẻ chi vậy, người như thế gánh nước gì nổi mà tự đi gánh nước chớ. Tôi đã bảo là chờ tôi mà". Chị Ba gấp cái áo của Xanh một cách nâng niu rồi vắt lên sợi dây ở góc nhà: "Tôi phải tự làm lấy đi chớ, nhờ Xanh cả đời sao được". "Sao lại không được, chị thiệt tình... Tôi có phải người xa lạ gì chớ". Hai người nói chuyện với nhau như quên sự có mặt của Lương, họ trách móc nhau như kể nỗi đau lòng mình. Lương bồng con nhỏ ra sau nhà, rửa mặt cho nó, đụng nước con nhỏ toét miệng ra cười. Lương thèm biết bao một con nhỏ thế này. Xanh vào bếp tìm con dao rồi lăn ra chẻ củi, Xanh làm thành thục như quen lắm. Chị Ba nhìn Xanh, đưa cho Xanh cái nón và tất tưởi đi pha ly nước, đưa cho Lương:

- Mang ra cho ảnh đi. Ảnh tốt lắm đó.

Lương thấy má mình nóng nóng. Lương vội vàng đính chính:

- Tụi em không có gì đâu.

Xanh ngẩng mặt lên, nhe hàm răng trắng ra cười: - Không có thì giờ có, sao đâu.

- Tôi không có giỡn nghe.

- Tôi cũng đâu có giỡn. Tôi thương người ta thật tình.

Xanh cười cái nữa rồi giơ búa lên bổ, mồ hôi rơi thon thót thấy thương. Chị Ba cười ý nhị nhìn Lương rồi nhìn Xanh, ngày xưa chị với anh Ba cũng bắt đầu như thế. Rồi thành vợ thành chồng. Dăm ba bận cự cãi đánh lộn mà vẫn hạnh phúc tràn đầy. Rồi con bé này ra đời. Hạnh phúc tròn hơn, xinh xinh mang dáng thiên thần. Thấy hai người trẻ tuổi vui, chị cũng thấy vui lây. Nỗi buồn vừa chợt dềnh lên lại lui xuống.

Tự dưng Lương buồn buồn, muốn tâm sự: - Em không xứng với ảnh đâu chị.

Có sao, chị Ba nhìn Lương thương cảm. Chị cũng là phụ nữ, chị hiểu lắm chứ. Nhưng chị tin Lương vẫn là người tốt. Người tốt xứng đáng được hạnh phúc chứ?

Xanh đưa Lương về nhà Xanh, một căn nhà lá bé tí xíu và bừa bộn. Áo quần của Xanh vứt lung tung trên dây, dưới giường. Xanh vơ chúng vào lòng: "Tôi đi suốt ngày, không có thời gian dọn dẹp nữa". Lương giằng đống quần áo trên tay Xanh, đống quần áo sực lên mùi mồ hôi sao thân thương lạ kỳ. Lương hơi ngượng, vờ gắt: "Chỉ có thời gian đi giúp thiên hạ chứ gì?".

Xanh cười không trả lời, lui cui nhóm lửa nấu nước. Phía bên ngoài, tiếng côn trùng rỉ rả thành bè, gió thông thống làm bay mấy cái khăn đang vắt trên dây mắc ngang nhà. Gió thổi phù phù lùa bếp của Xanh reo phần phật. Khung cảnh này sao thấy yêu quá chừng.

- Người ta, Lương hỏi làm gì?

- Tôi tính mua đất dựng túp lều làm hàng xóm của chị Ba.

Lương tính nói "của anh" nhưng cuối cùng lại trớ sang "của chị Ba". Xanh ngẩng đầu lên, nói: "Lương về đây mà ở". "Vô duyên. Nhà anh mắc gì tôi ở?". "Thì thành nhà Lương, có sao". Lương sững người. Phải chăng là lời tỏ tình của Xanh? Liệu Lương có ảo tưởng quá không? Xanh nhìn Lương, cái nhìn rất chân thật. Ly trà ngào ngạt khói lặng lẽ bay. Xanh đã biết gì về Lương đâu, cả Lương cũng thế. Theo Xanh về đây, Lương thấy mình hơi mạo hiểm. Lỡ Xanh là người xấu thì sao. Chợt Lương thấy buồn cười. Lương có gì quý mà còn sợ mất. Những gì mất được Lương đã mất rồi còn đâu. Lương bỗng thèm khóc quá. Khóc vì sao thì Lương cũng không rõ, nhưng thèm được khóc.

- Lương qua ngủ với chị Ba nghe, tôi ngủ bên này.

Lương bướng bỉnh:

- Tôi thích ngủ bên này.

Xanh trợn tròn mắt, gãi đầu sồn sột như bị hàng đàn chấy cắn. Nói là làm, Lương cầm cái gối phủi bụi trên giường như sắp sửa nằm ngủ đến nơi. Xanh luýnh quýnh đi qua đi lại trong nhà. Coi bộ Lương làm thật chứ không đùa. Xanh ngồi xuống cái ghế gỗ vừa nãy Lương ngồi. Nhìn Lương chuẩn bị giường chiếu mà lúng búng: "Không được đâu, Lương không ngủ ở đây được đâu". "Sao lại không được?". Giọng Lương ngược ngạo chua lè. Xanh đứng lên, hai bàn tay vặn vẹo nhau khổ sở: "Không được là không được".

Lương òa khóc, chạy vù qua mặt Xanh ra khỏi nhà, tiếng khóc còn vương lại sau, nghe mà đau thắt ruột. Ngoài trời tối đen như mực, Lương không thạo đường xá, dễ ngã xuống ruộng lắm. Xanh vội vàng lao theo, chợt nghe tiếng nước quẫy ầm ầm. Lương đang ngoi ngóp dưới con mương đầy nước.

Lương ngồi thu lu trên cái giường của chị Ba, con nhỏ đã ngủ ngon lành. Đôi môi tròn xinh hồng hồng như cánh hoa. Hai tay nó dang rộng thoải mái trong giấc ngủ thiên thần. Lương thèm được như nó quá. Chị Ba tém mùng, đưa cho Lương cái gối:

- Ngủ đi em, đàn ông mà.

Lương không hiểu chị Ba nói vậy là sao nhưng cũng không buồn hỏi. Đàn ông với chả đàn iếc. Thây kệ họ. Lương muốn hỏi chị Ba ngày xưa chị yêu anh Ba như thế nào nhưng lại không dám, sợ chị buồn. Trong những nỗi đau, nỗi đau mất người thân là nỗi đau lớn nhất.

Sáng sớm, Xanh qua nhà khua mọi người dậy. Không biết Xanh dậy từ lúc nào mà đã nấu cho mọi người bữa xôi đậu phộng thơm lừng. Xanh đưa tận tay chị Ba dĩa xôi, tiện tay đón con nhỏ, hôn nó thật lâu, thật nồng. Thấy Lương lùng nhùng trong bộ bà ba, Xanh che miệng cười: "Ngủ ngon không? Ăn đi rồi mình về". Chị Ba đẩy lưng Lương một cái, cười mủm mỉm. Lương quay sang chị:

- Chị cho em ở lại đây nghe. Em không muốn về thành phố nữa đâu.

Chị Ba nhìn Xanh bối rối: "Nhưng mà...". Xanh im lặng một chút, nói: "Chị cho Lương ở lại đi chị". Chị Ba nhìn Xanh rồi khe khẽ gật đầu. Lương thấy mình như trút được gánh nặng. Lương sợ thành phố lắm rồi. Đêm qua là một đêm ngắn nhất trong đời Lương. Lương đã ngủ liền một mạch mà không hề mộng mị. Giấc ngủ đến với Lương nhẹ nhàng thanh thản. Giấc ngủ ngon nhất đời. Lương sợ lắm những đêm dài ở thành phố, những cái bóng chập chờn mang gương mặt người luôn vây quanh Lương như trêu đùa, như dọa dẫm, mùi son phấn lẫn mùi bia rượu trộn lẫn tống vào cổ Lương nghẹn đắng. Đêm nào Lương cũng bừng dậy, lưng áo ướt đầm vì sợ.

Xanh chở Lương ra chợ chơi. Chợ quê lèo tèo vài gian hàng xập xệ. Những con cá còn sống nguyên giãy đành đạch trên thảm cỏ, những mớ rau còn ướt sương non mơn mởn. Xanh đưa Lương đến quầy quần áo duy nhất ở chợ, chọn mua cho Lương mấy bộ bà ba. Đưa gói giấy cho Lương, Xanh cười:

- Nhà quê phải vậy. Mặc tạm đi, lần sau tôi về sẽ mua nhiều hơn cho.

- Vầy là đủ rồi. Mua nhiều tốn tiền.

- Không sao đâu, Lương phải mặc cho đẹp chứ.

Ngần ngừ một chốc, Xanh mới nói nhỏ: "Trưa này tôi phải đi, cuối tuần mới về được. Lương chờ nghe...". Tim Lương nhảy thụp một cái như con cá búng nước. Lương im lặng, tìm cho con nhỏ con chị Ba một cái váy đầm. Xanh xoay cái váy ngắm: "Dễ thương quá hén. Xanh cũng thích có con gái lắm. Xanh sẽ mua thiệt nhiều váy cho nó mặc. Hẳn nó sẽ xinh lắm, như công chúa vậy". Lương hừ mũi: "Nói gì thiên địa vậy?". Xanh cười: "Nói thiệt đó. Thôi mình về đi".

Ăn trưa xong Xanh đi. Chị Ba ôm riết cái áo đầm Xanh mua cho con nhỏ. Lần nào về Xanh cũng có quà cho nó, cho mẹ nó nữa nhưng lần này Xanh không mua gì cho chị hết. Lương thấy chị có vẻ buồn buồn, ánh mắt chị nhìn Xanh sao cứ tần ngần, như tủi thân tủi phận.

Xanh đi, chị Ba bồng con vào nhà sau khi chào Xanh. Lương máng cái giỏ vào cổ xe cho Xanh. Xanh nói nhỏ: "Lương qua nhà ở nghe, cho có hơi người. Nhà để lạnh lẽo vậy buồn lắm". Lương mím môi không nói. Xanh cười, chạm nhẹ vào tay Lương rồi cho xe chạy. Đi một đỗi rồi mà Xanh còn ngoái lại cười. Xa thế rồi mà Lương vẫn còn thấy nụ cười với hàm răng lấp lóa nắng.

Lương giơ tay đón con nhỏ, nó cười với Lương một nụ cười nhểu dãi, chị Ba vội vàng: "Nó sắp mọc răng". Lương đưa cho chị Ba gói áo quần: "Lát em cũng phải đi". "Đi đâu?". Lương hít một hơi lấy tinh thần: "Em cũng chưa biết, nhưng em không về nơi cũ nữa đâu. Em chán ngán lắm rồi". "Em ở lại đây đi. Xanh là người tốt đó". Lương cười, Lương có nói Xanh không phải là người tốt đâu, nhưng Lương không thể. Lương thấy mình vô duyên tệ, nếu không có Lương, chắc...

Lương trả con bé, dứt khoát đứng dậy: "Em đi đây. Chị ráng chờ Xanh nghe". Chị Ba nhìn Lương không trả lời. Con bé chợt vặn vẹo khóc. Lương cúi hôn nó một cái, nghe mằn mặn nước mắt.

Không phải là Lương không yêu Xanh, không phải là Lương cao thượng. Mà tại Lương chợt hiểu ra, Lương yêu tất thảy mọi người.

Nói nhiều

Phần I - CHÂN DUNG

Chị mến anh vì anh có nụ cười hiền, ít nói. Rồi chị phát hiện ra anh có tính hài hước và hay cười. Chị thấy anh sống giản dị, chăm chỉ và hòa đồng nên càng cảm mến.

Chị thích anh bắt đầu từ hôm thấy anh vác bọc chăn màn trên vai đem đi giặt. Chị cũng thích thú khi thấy anh trên sân bóng. Những bắp thịt săn chắc khỏe mạnh và nụ cười nghịch ngợm khi phải mặc một lúc hai cái quần đùi. Một cái buộc dây vì sợ đang chạy nhỡ đâu...quần tụt . Anh luôn đá ở chân hậu vệ vì tính anh cẩn thận và chắc chắn.

Chị thấy anh đẹp trai trong một lần đạp xe trên đường gặp anh cắm cúi đi bộ rất nhanh. Mặc cái áo sơ mi đẹp nhất màu cỏ úa. Nghe chị gọi, anh nở nụ cười hàm răng trắng lấp lánh. Không biết nắng hay nóng hay do màu áo phản chiếu mà khuôn mặt anh đẹp lạ lùng với những món tóc quăn tự nhiên bồng bềnh.

Chị xúc động khi thấy anh ra bến ô tô đón chị và tất tả đưa chị đến địa chỉ người nhà. Anh chào lúng túng như thể cậu học trò bị bắt quả tang.

Chị khâm phục anh vì chuyên môn giỏi. Ngoài cái đầu kỹ sư ra anh còn có bàn tay thợ. Bẩn thỉu, đêm tối, giông bão chẳng nề hà. Chị còn thấy anh na ná với bố mình (thần tượng của chị lúc bấy giờ) ở chỗ ngày nghỉ chủ nhật lúc thì vẽ vời nấu nướng ăn uống với bạn bè tại gia, lúc thì đi cả chục km chữa điện các trạm bơm, lúc thì hì hụi quấn sửa cái quạt cháy hay cái đồng hồ báo thức hỏng vì bạn bè nhờ.

Chị bị thuyết phục vào chính cái ngày anh ngỏ lời thương chị. Ban đầu chị thấy lạ và muốn từ chối nên chị nói:

- Anh không nên yêu em, em có nhiều thói xấu, lại vụng về chẳng biết nữ công gia chánh gì hết. Sức khỏe em lại kém, tính tình cũng thất thường. Em cũng hay yêu đương lăng nhăng và nói thật là em không yêu anh.

Anh bảo: Anh cảm thấy em cũng bình thường. Anh cũng dễ tính ăn gì cũng được. Chuyện yêu đương trước đây thì anh không quan tâm. Còn chuyện em không yêu anh thì anh nghĩ: Chỉ cần em cho anh cơ hội thôi, một mình anh yêu là đủ.

"Một mình anh yêu là đủ" chỉ có mỗi vì câu đó thôi mà chị đồng ý trở thành người yêu của anh.

"Cô ấy cần gì khỏe? một mình con khỏe là đủ rồi"- Đó là câu anh trả lời mẹ anh khi bà chê chị yếu. Nghe câu này chị thấy anh vĩ đại đến hết tầm mơ ước.

Không biết bây giờ thế nào chứ ngày xưa tình yêu đẹp lắm.

Nó cứ như cái cây dồn nhựa dần để nuôi nụ hoa lớn lên. Anh chăm chút chị bằng những lo toan lặng lẽ rất đàn ông

Nó cứ xa xa trong khoảng cách mà anh và chị luôn giữ gìn để tạo ra nỗi nhớ vừa đủ cho một ngày cưới thực sự là ngày khai hoa.

Trong suốt cả năm tìm hiểu đó chị đã ngắm nghía anh rất kỹ và có lẽ chị đồng ý lấy anh vì tất cả những cảm xúc của mình. Cũng có lẽ vì bao nhiêu đứa con gái trẻ trung, xinh đẹp hơn chị cứ lồng lên tìm cách làm quen với anh.

Rồi hai kẻ xa nhà tựa vào nhau bước những bước muôn thửa của cuộc sống gia đình. Có đến hai năm đầu cuộc sống ngọt ngào như một bản tình ca. Cùng làm việc. Cùng nấu nướng, cùng trồng cây, cùng nuôi gà, nuôi lợn...

Đến khi đứa con đầu lòng ra đời thì mọi sự bỗng khác. Cái khác đầu tiên là nhu cầu về tiền tăng lên khiến cho cái ngân sách chỉ bao gồm có tiền lương của hai vợ chồng bỗng nhiên trở nên eo hẹp. Chị bắt đầu bớt tiêu pha cho hai vợ chông và dành tất cả cho con.

Chị thấy anh vẫn thế. Hết giờ làm việc là về nhà làm mọi việc rất chăm chỉ. Chăm chút vợ con hết lòng. Không sa đà chơi bời rượu chè cơ bạc ... nhưng không có thêm chút tiền nào ngoài lương.

Có lần chị gợi ý anh nên tranh thủ đi làm thêm. Việc nhà có gì đâu mà phải hai người làm. Chị vốn nhanh nhẹn đảm đang và rất khéo léo (chứ không như chị nói) nên cơm nước, nhà cửa, con cái chỉ loáng cái là xong. Thậm chí chị còn kiếm được thời gian để đan lát, may vá kiếm thêm đồng ra đồng vào.

Chẳng biết anh có nghe thủng câu nào không nhưng rồi đâu vẫn đóng đấy. Điệp khúc cứ như thế. Chị nói - anh làm lơ. Cho đến một ngày chắc do chị sốt ruột vì thiếu tiền (ngày đó công ty nợ lương hai tháng liền) nói nhiều quá. Anh khùng lên quát:

- Nói ít thôi. Từ mai tôi ăn muối !

Chị khóc. Nước mắt nhạt nhòa. Thế là đã rõ rồi. Chỉ một câu đó thôi đủ để chị phải hiểu ra rằng: Dù chị có nói bao nhiêu đi chăng nữa thì anh nhất định vẫn chỉ có vậy. Anh biết khó khăn. Nếu khó khăn quá thì anh "ăn muối" chứ không hề nghĩ đến chuyện làm thêm !

Rồi tìm hiểu. Chị phát hiện ra việc ngày trước anh đi làm thêm chủ nhật toàn là do bạn bè rủ để giải quyết những Pan khó mà họ không thể làm nổi. Kết quả là sau khi học anh rồi họ chẳng bao giờ rủ nữa.

Chị cũng phát hiện ra anh khác xa bố chị. Bố chị là người luôn tìm tòi, rất ham các kiến thức mới và rất hay thực hành để dần dần tìm ra bí quyết riêng cho mình. Bố chị được sinh ra để trở thành một cái đầu tầu. Thế nên mẹ chị mới có thể yên tâm làm toa (ở nhà nội trợ) để bố chị kéo cả 8 mẹ con sống ngon lành suốt bấy nhiêu năm trời khó khăn chứ.

Anh thì khác. Anh được sinh ra để trở thành một cơ cấu thừa hành. Anh không thể cùng lúc làm nhiều việc, anh không quen lập nhiều phương án và càng không bao giờ dám mạo hiểm. Nếu cơ quan không có việc cho anh thì anh sẽ nghỉ bao giờ có việc thì đi làm. Nếu ai gọi hoặc giao việc cho anh thì anh sẽ chu toàn đến nỗi bất cứ ông chủ nào cũng phải cảm động vì sự tận tụy. Sự chăm chỉ kiểu cỗ máy của anh thậm chí không dừng lại kể cả khi chính ông chủ đã chán nhè.

Cuộc sống gia đình cứ trôi đi trong thiếu thốn, bất hòa, cãi cọ, chiến tranh lạnh triền miên.

Chị đã từng bỏ nhà đi mấy ngày liền để suy nghĩ lại về cuộc tình của mình. Ngày chị về. Anh bồng đứa con đã tắm rửa thơm tho đón mừng chị trong ngôi nhà sạch sẽ gọn gàng.

Chán chường nghĩ đến các con và tương lai gia đình chị đã từng thức đến 2h sáng chỉ để dốc hết lọ thuốc ngủ ra đếm và ngắm nghía. Tất nhiên là chị sợ và tiếc đời không dám uống. Chị thiếp đi ngủ gục trên bàn. Khi anh thức giấc nhìn thấy cảnh tượng đó đã hốt hoảng gọi Bác sĩ.

Chị đã ngồi rất lâu bên bờ sông Hồng vào mùa nước lên. Từ chiều đến đêm. Cứ ngồi như thế nghĩ về cái xác của mình sẽ ra sao trên dòng nước cuồn cuộn kia... cho đến khi hai đứa con trứng gà trứng vịt dắt nhau ra ôm lấy chị thì chị òa khóc nức nở.

Chính bốn cái bàn tay bé xíu đó đã nhắc chị trách nhiệm. Rồi đêm đó chị tự thỏa ước với chính mình rằng: Kể từ nay chị không bao giờ trông mong vào chồng mình bất cứ điều gì nữa để tâm có thể thanh thản. Chính chị - con gái bố - sẽ làm cái đầu tầu để kéo cái gia đình này đi về hướng mà chị muốn. Nếu chị giỏi hơn chị sẽ thiết kế công việc phù hợp với vai trò TOA của anh.

Lập tức như một phép lạ. Hòa bình và hạnh phúc tràn vào ngập tràn ngôi nhà bé xíu.

Kinh tế gia đình phát triển. Chị thoải mái "chiến đấu" thi thố các khả năng kinh doanh, kỹ thuật trên mọi chiến trường. Việc nhà đã có anh chu toàn. Con cái khi bé mẹ dạy dỗ. Khi lớn lấy mẹ làm tấm gương.

Chị thấy anh mờ nhạt trong gia đình nên cố gắng đến hết mức trong cư xử và nói năng để anh khỏi mếch lòng. Trong gia đình dần dần chị trở nên ít nói. Anh trở nên lắm lời.

Gần ba chục năm trời trôi qua. Xã hội thay đổi. Đất nước thay đổi, con cái lớn lên kiến thức đầy mình, khoa học kỹ thuật phát triển...chỉ có anh không thay đổi hoặc có thay đổi thì rất ít. Lại một lần nữa chị khuyên anh đọc, học nhưng vô ích.

Anh biết đi xe máy thay cho xe đạp. Biết vào mạng để đọc báo và gõ cả ngày cũng được một trang văn bản không căn nổi khung lề... Hàng ngày hết giờ làm việc, anh về nhà giúp con dọn dẹp, thi thoảng sửa chữa lặt vặt trong nhà. Thời gian còn lại anh xem Ti vi chuyên mục chính là thể thao và thời sự hoặc vào mạng đọc báo.

Chị vật lộn với công việc tư vấn độc lập liên miên ở các tỉnh. Tất tả lo chuyện học hành cho con. Cặm cụi tự học các chương trình vi tính từ W, EX, cad, Powerpoint, Photoshop.., tự học kiến thức chuyên môn, chứng khoán, bất động sản, kiến thức tài chính thuế để quản lý cái công ty riêng của mình. Chị dành thời gian đi học lái ô tô để chủ động trong công việc và tiết kiệm tiền thuê lái xe...

Anh rỗi rãi tất cả các ngày nghỉ và ngoài giờ làm việc.

Chị bận tít mù từ sáng đến tối, chẳng mấy thứ bảy chủ nhật có nhà, không biết đâu là thời gian nghỉ ngơi.

Anh không ham mê bất cứ thứ gì ngoài thể thao.Chị ham mê mọi thứ nhưng lúc nào cũng thiếu thời gian. Bước chân về đến nhà là dường như không còn chút sức lực nào nữa.

Họ bắt đầu đi hai con đường khác nhau mà anh không nhận ra.

Có lẽ bởi chị không nhắc nhở và yêu cầu anh nữa. Chị cho rằng càng nói thì chỉ càng làm không khí gia đình thêm nặng nề mà cuối cùng đâu vẫn đóng đấy. Cái chính là anh không muốn học. Có lẽ cũng bởi chị ngại nói ra đụng vào lòng tự ái đàn ông của anh thì rách việc.

Thế là tối đến mỗi người một cái tivi. Anh xem bóng đá và thể thao. Chị cập nhật kiến thức qua tai mắt hoặc xem phim truyện.

Vào mạng. Chị tham gia quản lý một trang Web chuyên môn, làm thơ, giao lưu với bạn bè Tạo các Side ảnh. Học thiết kế ảnh động và ảnh có hình nền.., học cách làm đẹp, cách nấu ăn, tìm hiểu về phong thủy...

Vào mạng. Anh chỉ thích xem đời tư của những người nổi tiếng. Cập nhật các vụ án, tai nạn hàng ngày, kiến thức phòng the, các thông tin thể thao...

Sáng ra. Chị dậy sớm từ hơn 5h tập YOGA, tắm nước nóng, trang điểm và chuẩn bị đi làm không quên đưa tiền cho con chuẩn bị bữa trưa cho nó, bữa chiều cho cả nhà. ..

Sáng ra. Anh thức dậy vào 6h30 vội vàng mặc quần áo, làm vệ sinh và tất tưởi đi làm.

Lương thưởng anh tiêu rất ít. Bởi anh chẳng thích giao lưu với ai. Chủ yếu là đưa cho vợ hoặc để dành mua quà tặng vợ con. Khi cần mua sắm gì cho bản thân anh thường yêu cầu vợ con mua hộ.

PHẦN 2 - BỆNH NÓI

Cuộc sống gia đình có thể cứ trôi như thế như những ngọn nến cháy song song chẳng ai liên quan đến ai.

Hòa thuận và vui vẻ đấy nhưng anh hoàn toàn không hiểu chị, không thể chia sẻ và đỡ đần cái khối công việc mà chị mang trên vai. Khó khăn về mạng: Anh chịu. Khó khăn về chuyên môn: Anh không biết. Khó khăn về mối quan hệ: Anh càng bó tay.

Không thể là bạn chị khi chị muốn đi chơi lang thang xả stress vì anh vốn không lãng mạn và hoàn toàn vô cảm trước những gì mà chị rung động. Cái đầu của anh không được lập trình theo hướng đó.

Con cái cũng vậy. Những khó khăn thực sự của chúng chỉ có mẹ giải quyết nổi được chút nào hay chút ấy. Còn anh thì hoàn toàn không thể.

Có thể chính vì những điều đó khiến anh cảm thấy vấn đề giao tiếp của mọi người trong gia đình với anh làm anh không thỏa mãn nên anh trở nên ồn ào dần. Cái sự dần dần đó đến chính anh và chị cũng đều không nhận ra.

Đầu tiên là chuyện ốm đau. Khi mới cưới thì mỗi lần anh ốm, thậm chí ốm nặng anh thường cười mỗi khi chị đến gần. Câu anh thường nói nhất là: "Không sao đâu, anh khỏi ngay ấy mà" để chị đừng lo lắng. Bây giờ thì động tí là anh tỏ ra ốm rất nặng. Xoa cao đầy người và hễ ai đến gần là tỏ ra rất mệt mỏi, ốm to...có thể còn lâu mới khỏi. Mọi người cần đặc biệt quan tâm chăm sóc!

Hơi đau mắt thì cô vợ vừa đi công tác 150km về đến nhà, anh đã ấn ngay lọ thuốc nước vào tay nhờ tra hộ hoặc con đang học ở tầng trên cũng dứt khoát gọi xuống để tra cho bố, lí do là bố tra nhỡ nó chảy ra ngoài!

Khi ngồi bên vợ con, ý kiến của anh lúc nào cũng chắc như đinh đóng cột. Có lẽ anh muốn ngầm cho mọi người hiểu rằng: Cái gì anh cũng biết, biết rõ và rất giỏi về mọi chuyện. Đừng có coi thường anh! Tất nhiên là chuyện này thi thoảng xảy ra thì cũng chẳng ai để ý. Nhưng tần số cứ tăng dần cho đến khi bất cứ chuyện gì mà anh nhìn hay nghe thấy anh cũng cho ý kiến.

Anh soi và cho ý kiến mọi chuyện từ từng món nấu ăn sao không thế này, sao chẳng thế kia. Có những ý kiến lãng xẹt đến độ không chịu nổi. Con gái sau một ngày học vất vả, chiến đấu với nạn tắc đường, ghé qua chợ về lụi cụi nấu cơm đã chẳng được khen lại bị kêu ca xưng mặt lên ấm ức giải thích. Ít thì thôi nhưng khi cáu quá chị ngừng xem ti vi và bảo con: "bận sau thì con nhớ hỏi ý kiến bố trước khi nấu bất cứ món nào" hoặc "Con nhớ hỏi ý kiến bố xem múc thức ăn ra vào loại bát đĩa nào nhé". Thế là bữa ăn chiều xum họp bên cạnh cái tivi đang chiếu phim truyện hoặc ca nhạc mất cả vui.

Ngồi xem các gameshow truyền hình lắm lúc anh lựa theo ý số đông để chọn kết quả nhưng lại rao giảng như đó là kiến thức rất chắc chắn làm cả nhà bực mình. Rốt cục lại sai. Có lúc thằng con trai phải bảo: "Bố nói cứ như đúng rồi ấy" hoặc chị hỏi lại "Có thật anh biết chắc không ?". Thế là anh cáu. Cáu loạn nhà.

Chị không hiểu nổi tại sao anh phải giả vờ thông thái như thế. Cái gì biết thì nói biết. Cái gì không biết chính xác thì nói hình như là...cái gì không biết thì bảo không biết. Cứ như ai khác chứ đó không phải là anh nữa.

Sau những lần như thế vợ con càng thêm khép mình. Ai cũng ít nói dần đi. Mặc kệ anh nói chả ai muốn đối chất với anh cho loạn nhà.

Chị nhiều lúc tự hỏi mình xem tại sao anh lại như thế?

Chẳng nhẽ anh giống mẹ anh. Một bà mẹ chồng rất tốt bụng, cả một đời chịu thương chịu khó, thương chồng, thương con phải mỗi cái tội lắm mồm. Giống hệt như anh cái gì bà cũng ý kiến chỉ đạo và điều khiển. Tham dự vào mọi thứ kể cả những thứ mà một bà già hơn tám mươi hoàn toàn mù tịt. Nếu trái ý bà là bà chửi loạn cả lên. Bà đuổi tất. Bà gào lên rằng: "Giời ơi là giời, giờ chỉ có thằng chết (liệt sĩ) nó nuôi tôi thôi còn thằng sống thì đứa nào nó cũng mong cho tôi chết đi cho khuất mắt...!" rồi bà khóc nghều ngào. Thế là con dâu thì cao chạy xa bay. Con trai thì im thin thít. Cả nhà từ lớn đến nhỏ phải nhịn bà như nhịn cơm sống.

nghĩ thế nên vài lần chị đã nhỏ nhẹ bảo anh:

- Từ nay anh đừng cái gì cũng soi nữa

- Tôi soi cái gì? Tôi làm gì nào?

- Thì anh tập trung vào chuyện gì đó đi. Đam mê một cái gì đó đi. Đừng nhìn người khác chăm chú quá làm gì kẻo như mẹ anh ấy. Mẹ anh có làm gì đâu. Chỉ nói lắm thành quen. Cái gì cũng có ý kiến. Không đúng ý thì làm ầm lên khiến cả nhà khó chịu. Anh nói lắm, soi lắm cũng thành quen thì chết mẹ con em

Anh yên lặng không phản bác nhưng....đâu vẫn đóng đấy. Bệnh nói của anh làm cho cả nhà càng thêm hãi hùng.

Rồi chị lại ngh

Chẳng nhẽ anh giống bố anh. Một lão nông vô tích sự đến nỗi chẳng biết làm việc nhà nông. Hồi trẻ may con nhà giầu được đi học đến hết lớp bốn nên được chọn làm chân thư ký hợp tác xã cũng có công điểm. Đến khi hợp tác xã giải thể thì công việc cũng hết.

Lúc này bà mẹ vốn xưa kia kính trọng cái kho chữ trong đầu chồng mới té ngửa ra rằng: hóa ra ông là một người lười biếng xưa nay cứ ôm đống sổ sách để trốn việc là chính. Giờ nghỉ rồi không muốn làm gì, lại cũng không biết làm gì nữa. Cả nhà trần lưng vắt sức ra để nuôi báo cô ông từ khi ông bốn mươi tuổi đến giờ. Đã thế ông còn tham ăn và ở bẩn nữa. Nhưng ông Sĩ lắm. Ngày chị mới về làm dâu ông khủng bố chị nhiều câu về chân lý sống khiến chị xanh cả mắt. Ông sống trong nhà như cái bóng nhưng kiêu căng như một ông hoàng hợm đời.

Anh thì không thế. Anh có thể nấu ăn dẫu không ngon, Anh biết làm nhiều việc như một thợ sửa chữa vặt lành nghề. Anh cũng chẳng tham ăn và rất sạch sẽ. Mỗi tội anh Sĩ giống bố. Ngồi trên ô tô do vợ lái. Thay bằng nhìn ra xung quanh quan sát phong cảnh thì anh chỉ huy vợ đi đường. Kinh nhất là đi cùng anh trong thành phố. Lúc anh gắt lên sao không thế này, sao không thế kia ...làm chị - một tay lái cứng được anh em lái xe công nhận - mấy lần bị phân tâm suýt đâm vào người. Lần nào chuyến đi cũng kết thúc bằng việc chị cáu ầm lên và anh hầm hầm tức giận. Con cái chán nản kêu rức đầu vì bố.

Khiếp nhất là khi có sự cố gì xảy ra. Hư hỏng cái gì đó, quên cái gì đó, mất mát cái gì đó thì ...thôi rồi ! Bao giờ anh cũng ầm ĩ lên tìm bằng được nguyên nhân để quát người này hay người khác. Tưởng cứ như là trời sập đến nơi rồi.

Những lúc đó chị thường chẳng nói gì. Có lần chị đã bảo anh

- Sao anh cứ phải truy tìm thủ phạm để làm gì? rồi làm ầm lên cái chuyện bé như con thỏ có đáng gì đâu.

- Anh sửa rồi lại ầm ĩ lên làm gì để mất cái lòng thảo của mình đi...

Nhưng cũng có lúc chị phải quát lên là:

- Ai chẳng có lúc sai sót. Vấn đề là tập trung giải quyết tốt nhất sai sót đó.Rồi bảo nhau rút kinh nghiệm chứ không phải tìm ra người để quy trách nhiệm hay đổ lỗi

Được cái khi chị đã quát lên thì anh im ngay nhưng lần sau...lại thế. Hình như nó đã trở thành bản năng gốc rễ của anh mất rồi.

Ngày xưa chị lấy anh vì anh ít nói , tự tin, hài hước và không cố chấp. Không biết từ bao giờ anh trở thành lắm lời đến khó chịu và thiếu tự tin đến hết cỡ như vậy chứ?

Chia tay?

Nhưng khác với tuổi trẻ. Anh và chị đã cùng nhau đi gần hết cả chuyến đò đời rồi. Sướng khổ đã trải mà khổ thì nhiều hơn sướng. Cái tình còn nhiều không chẳng biết nhưng cái nghĩa thì rất đầy.

Sao có thể nói chuyện chia tay ?

Một lần chị tình cờ gặp lại ba cô bạn học đại học. Ngồi uống nước với nhau, Đem chuyện nhà ra kể với nhau. Hóa ra cả ba đứa đều rất thành đạt nhưng đều đã chia tay với chồng. Chồng của chúng nó cũng đều có học đàng hoàng. Con cái giờ đứa ở với bố, đứa ở với mẹ. Thỏa mãn sự "nhẹ cái nợ đời" nhưng giờ con cái lớn, chúng có vợ, có con hú hí vui vẻ. Cái cô đơn ngấm vào người mẹ đẫm hơn bao giờ hết. Ba đứa tụ vào với nhau đi chơi, đi hát, đi ăn, đi du lịch, đi học khiêu vũ...

- Mai kia về hưu không biết còn buồn đến mức nào ! - Một đứa chép miệng.

- "Chòng chành như nón không quai" nhiều lúc bọn đàn ông cứ tưởng mình như bông hoa vườn công cộng, lão nào cũng cảm thấy mình có thị phần nên nhào vào tán tỉnh, rồi chẳng biết mình hư lúc nào đâu ! - Đứa khác nói.

- Lỗi tại bọn mày không phải là loại đàn bà xây dựng thôi - Chị kêu lên - Thấy nhà tốc mái đã vội phá nhà đi xây nhà chỗ khác. May mà các lão ấy còn chưa lấy thêm vợ đấy chứ nếu không thì chúng mày còn chán nữa.

- Ôi. Tao thì lại thấy, thà như thế này còn sướng gấp vạn lần phải gắn đời với lão chồng kiểu như chồng mày và chồng chúng tao. Mấy con kia nó thế chứ đời sống được là bao. Tội gì không vui hết mình. Thích ai thì cặp. Thích đi đâu thì đi chẳng ai quản lý. Rồi vài chục năm nữa nhắm mắt xuôi tay chết là hết. Thả các lão ấy ra. Thời này chỉ có đứa nào ngu mới hứng lấy các lão để kiếm tiền hầu cơm nước và thuốc thang. Đến mình bao năm chung sống chịu đựng đến mức chai lỳ mà còn không chịu nổi nữa thì chúng nó hai bàn tay trắng ngớp lên với tí tiền được chia sau ly hôn của lão chịu được mấy nỗi. Hôm nọ lão chồng tao định lấy vợ. Tao bảo con tao là phải bảo lão ra cơ quan luật làm cái "Xác định tài sản cá nhân trước khi cưới" ngay đi. Kẻo lấy nhau vài bữa bỏ nhau con kia cướp mất nửa tài sản của nó sau này đấy. Thế mà nghe lão nói xong con kia cao chạy xa bay ngay hahaha.... Mày bỏ chồng đi cho khỏe. Mình kiếm được tiền có phải bất tài vô dụng như các lão đâu mà sợ! - Con bé nghịch ngợm và thông minh nhất hội diễn thuyết.

Chị ra về. Lòng rất hoang mang. Chị rất thương con. Chị rất thương anh. Chị yêu cái gia đình của chị. Cái gia đình mà từ hai bàn tay trắng hai vợ chống chị gây dựng nên. Đến giờ thì "nhìn lên dẫu chẳng bằng ai nhưng nhìn xuống cũng còn khối người chưa bằng mình".

Công bằng mà nói. Để chị có thể thành công như ngày nay thì anh chính là cái nền móng để chị phát triển. Nếu không có anh chắc không có những đứa con đáng yêu, những đứa con bắt chị phải nỗ lực mỗi ngày. Nếu không có anh chắc chị không yên tâm khi đi công tác xa hay ngồi với bạn bè, đối tác đến muộn vì sốt ruột việc ở nhà. Nếu không có anh có lẽ chị đã không tươi tắn vui vẻ vô tư tiếp xúc với các đối tác đàn ông trước bàn dân thiên hạ.....

Chị cũng nghĩ: Khổ thân anh, biết đâu anh lấy một con vợ yêu anh hơn, con vợ an phận, ít chữ và ngoan ngoãn luôn bằng lòng với cuộc sống gia đình thì chắc gì anh đã đổi tính đổi nết như thế. Bởi vì dẫu lương anh không cao, nhưng vào tay một bà vợ tằn tiện với hai bữa cơm rau dưa, trong ngôi nhà cấp bốn và những đứa con tốt nghiệp phổ thông xong, đi làm công nhân lao động chân tay vì không có tiền học lên nữa thì cũng đủ. Lúc đó lòng tự trọng của anh sẽ được vuốt ve. Bà vợ sẽ nhìn anh như nhìn cái nóc nhà và con cái sẽ xem ý kiến của anh như thánh chỉ.

Chị lại nghĩ: Anh được sinh ra là một cơ cấu thừa hành. Trước đây chị đã xác định mình là đầu tầu rồi. Nay hãy nghĩ rằng cái cơ cấu đó đã đến lúc có lỗi tí chút - nó lọc xọc kêu to rất khó chịu !

Bây giờ có hai khả năng:

Một là thay cái mới như tư bản thường làm là vứt béng cái cũ vào sọt rác.

Hai là rà sửa lại và thêm chút dầu mỡ để nó đỡ kêu hơn. Giữ gìn và nâng niu cùng với bao nhiêu kỷ niệm.

Băn khoăn và day dứt. Chị muốn chọn cách thứ hai nhưng lại tự hỏi lòng mình liệu chị có đủ nội lực để làm như thế được không chứ?

Chị cũng không biết mình có lựa sửa mài rà được lối tư duy của chính mình không nữa, để thấy rằng tiếng ồn đó cũng ...không đến nỗi nào ?

Giá như anh biết anh yêu thương vợ con mà đang làm vợ con chán nản lắm.

Anh đang ôm quá chặt đến mức làm họ đau. Hay như con gái viết nhật ký là:

"moi su quan tam k dung cach deu' de lai hau qua"

Anh đang nhìn họ với con mắt của cô giáo lớp mầm non trong khi họ đã quá trưởng thành.

Họ cần một người bạn để chia sẻ và yêu thương chứ không cần một ông thầy suốt ngày rao giảng, hay một quan tòa lúc nào cũng phán đúng sai trong cái gia đình này.

Giá như anh biết được, anh hiểu được và biết điều chỉnh bản thân một chút thì tốt biết mấy.

Chị viết câu truyện này với ý nghĩ giá như nó được anh đọc và tự thấy mình cần phải đổi thay.

Chị biết, anh và chị đều muốn gia đình hoàn hảo và hạnh phúc hơn. Nhưng anh đang vô tình đầu độc và giết chết nó bằng thói quen đáng sợ của mình : BỆNH NÓI.

ƯỚC GÌ ...

ANH CHỊU CHỮA CĂN BỆNH CỦA MÌNH ĐỂ NHÀ MÌNH NGÀY NÀO CŨNG LÀ TẾT.

Một chuyện khó tin

Năm mười bảy tuổi tôi rời quê vào thành phố làm thuê cho một cửa hàng đồ gỗ cao cấp. Công việc của tôi là ngồi chờ sẵn ở cửa hàng, khi khách mua xong thì chở bàn ghế đến lắp đặt tận nhà cho họ.

Với công việc này tôi chỉ cần học truyền khẩu ba ngày là xong. Khó nhất đối với tôi là phải biết đi xe máy và phải thuộc đường. Thành phố vốn nhiều đường ngang ngõ tắt, tôi lại là anh chàng nhà quê chưa ngồi lên xe máy bao giờ. Nhưng rồi tôi cũng quen dần mọi thứ. Sau một thời gian ngắn tôi được đánh giá là "thạo việc". Tôi ở trọ trong một con ngõ nhỏ cách cửa hàng không xa. Buổi tối tôi thường rỗi. Rất rỗi.

Con ngõ tôi ở toàn dân lao động nghèo. Cùng ở một gian nhà trọ với tôi là anh Hùng. Anh Hùng học trường Xã hội Nhân văn, khoa Hán nôm, ra trường không chịu về quê, ở lại làm việc cho một công ty bảo hiểm của nước ngoài. Anh có xe máy và điện thoại di động, đi suốt ngày, chẳng mấy khi có mặt ở nhà. Với tôi, anh là tấm gương để học tập, vậy mà không hiểu sao anh cứ kêu khổ, câu cửa miệng của anh bao giờ cũng là: Khốn nạn. Trên đời này bất cứ điều gì anh cũng nhìn ra khía cạnh khốn nạn. Anh thường bảo tôi rằng: "Cứ đần đần, quê quê như mày mà hoá lại hay, học lắm biết nhiều chỉ càng thấy lắm sự khốn nạn mà thôi".

Cuối ngõ có mấy anh sinh viên học trường Công đoàn. Các anh này cứ bước chân ra khỏi cửa là ăn mặc rất lịch sự nhưng tối đến, khi họ đi chơi về tôi thường nghe thấy họ bàn nhau ở trước cửa nhà tôi cách vay mượn tiền của ai đó để cứu đói trong những ngày gia đình chưa gửi tiền lên. Bên kia ngõ là một dãy nhà trọ được chia thành từng ngăn, trên có lợp mái phibro-ximăng dành để chứa đủ mọi thành phần, đủ các kiểu người. Hầu hết họ đều là dân tỉnh lẻ như tôi tụ về đây làm thuê kiếm sống. Tiếng là ở với nhau nhưng ban ngày mọi người đều đi làm hết, con ngõ vắng tanh, tối đến ai cũng đi ngủ sớm, con ngõ vắng lặng, đám dân trọ ít quen thân nhau. Ngay tôi với anh Hùng cũng thế. Hai người ở chung một nhà nhưng không ăn chung, không làm chung, không ngủ chung, không dùng chung đồ của nhau, chỉ chung có tiền nhà và tiền điện nước. Sau hai tháng ở trọ tôi quen thân, hay nói đúng hơn là chỉ quen thân được với anh Bền, một người ở dãy nhà phía bên kia. Anh Bền quê Phú Thọ, đã 38 tuổi mà chưa vợ, lên thành phố làm nghề đạp xích lô bảy, tám năm nay rồi. Anh Bền to, cao, dáng lừng lững như con gấu, tính rất hiền. Anh ở một mình một gian nhà trọ. Như thế là khá hoang phí vì đám lao động nghèo thường ở chung nhau để đỡ tốn tiền nhà. Tôi đã có dịp bước vào gian nhà anh ở. Ấy là lần anh Bền uống quá chén ở đâu đó về, đẩy mãi không đưa được chiếc xích lô vào nhà. Tôi đã giúp anh và sau đó được chứng kiến cuộc sống của anh nghèo nàn thế nào. Chiếc xích lô chiếm mất nửa gian nhà, nửa gian còn lại là chiếc giường đôi cũ kỹ, một chiếc tủ mét hai hai buồng cũng cũ kỹ, chiếc mắc áo bằng gỗ xập xệ trên tường treo ơ hờ bộ quần áo dày quỵch, ống tay, ống chân còn nguyên vết xắn. Chỉ thế thôi, xung quanh chẳng còn gì đáng giá. Trong khi anh lăn đùng ra giường gáy vang như sấm thì tôi khẽ khép cửa lại, thầm nghĩ giá có mở cửa cả đêm cũng chẳng có thằng trộm nào thèm mò vào căn nhà này.

Sau lần ấy anh Bền thân với tôi. Chẳng biết gần chục năm làm ăn ở thành phố anh Bền đã tích cóp được những gì, chỉ thấy là anh rất rộng rãi trong chi tiêu. Một tối tôi vừa đi làm về, đang tắm thì anh Bền sang, mang theo cả quần áo lót. Vòi nước ở bên nhà anh cuối đường ống, vào giờ cao điểm nước chảy ri rỉ, không đủ dùng nên anh vẫn thường sang bên tôi tắm nhờ. Anh đứng nhìn tôi dội nước ào ào rồi bỗng đưa tay bóp vào bộ phận nhạy cảm nhất của cơ thể tôi, cười cười, và hỏi:

- Cái của nợ này của chú mày đã có nhu cầu chưa?

Tôi bị bất ngờ, đỏ nhừ mặt, ngượng chín cả người. Anh lại bảo:

- Tối nay anh chiêu đãi chú nhé!

Tôi hỏi:

- Chiêu đãi gì cơ?

Anh Bền bảo:

- Chơi gái chứ còn gì nữa.

Tối hôm ấy chúng tôi rời nhà khá sớm, riêng tôi ăn mặc có phần bảnh bao hơn mọi ngày. Anh Bền dắt tôi ra vườn hoa, qua chỗ Ngã 5, ngược lên công viên rồi lại vòng xuống đằng bờ hồ. Tôi đi theo anh vừa tò mò, háo hức lại vừa hồi hộp, lo âu. Quả thật tôi chưa hình dung nổi cái chuyện ấy nó như thế nào dù tôi đã là một cậu thanh niên trưởng thành. Bởi anh Bền bỗng chốc thổi bùng lên nhu cầu khám phá cảm xúc bản thân khiến tôi khao khát thoả mãn chứ thực sự tôi rất e ngại, vì thế tôi vừa bẻ tay, vừa nén những tiếng thở gấp để tạo cho mình vẻ tự tin khi đi bên anh. Nhưng đi mãi, đi đến mỏi chân mà vẫn chưa có chỗ cho chúng tôi chứng nghiệm "khả năng" của mình. Sau khi đi hết một vòng bờ hồ, anh Bền quay sang tôi bảo:

- Đen cho chú em rồi, hôm nay làm sao ấy, không thấy có đứa nào cả, chắc có động nên chúng nó chuồn hết rồi. Dạo này công an lùa ghê lắm.

Chúng tôi lại lủi thủi cuốc bộ ra về. Chỉ một lần ấy cũng đủ để tôi ấn tượng về cái sự chịu chơi, phóng khoáng của anh Bền. Sự phóng khoáng của anh còn thể hiện rõ ở quán rượu dâm dương hoắc. Anh thường đưa tôi ra cái quán ở đầu phố chuyên bán thứ rượu có tên gọi rất "kích động" ấy để giao lưu , gặp gỡ với đủ các hạng người, trong đó có nhóm bạn Mút chỉ đầu gà của anh. Quán rượu khá đông. Anh Bền bảo: "Người thành phố đang chuộng thứ rượu này, hồi quán mới mở đông khách lắm nhưng bây giờ nhiều quán khác cũng mở ra nên khách ở đây vơi dần, chỉ bằng một phần ba trước đây thôi". Rượu dâm dương hoắc được đóng vào từng chai Lavi nhỏ, có màu nâu nhờ nhợ bán lẫn với thức nhắm là các loại thuỷ hải sản khô, các loại quả xanh như cóc, ổi, chuối, dưa chuột, mận, mơ, các loại nộm rau củ, có cả đậu phộng chiên bơ và bim bim nữa. Nhìn chung đây là một quán rượu vỉa hè rất hợp với khách bình dân, không ít văn nghệ sĩ và trí thức nghèo cũng đến quán này. Theo anh Bền ra quán được vài lần tôi cứ thắc mắc mãi hai điều, một là rượu dâm dương hoắc có cái gì đặc biệt và nó khác với các loại rượu thông thường ở điểm nào? Hai là tại sao nhóm bạn của anh Bền, toàn những người cũng nghèo khổ, vất vả, cũng dân tứ xứ về đây làm thuê kiếm sống như anh lại có biệt danh là Mút chỉ đầu gà?

Điều thắc mắc thứ nhất anh Bền giải thích qua loa rằng rượu dâm dương hoắc trước hết là thứ rượu bình thường được nấu từ gạo, sau đó chủ quán ngâm rượu với một thứ cỏ có tên là dâm dương hoắc. Việc ngâm như thế nào, thời gian ngâm, liều lượng ngâm ra sao điều ấy thuộc về bí mật của nhà quán. "Nhưng rượu này uống vào có gì tốt?" - tôi hỏi. "Thì cứ tin là cái chuyện kia sẽ mãnh liệt hơn, dẻo dai hơn, cơn hứng tình sẽ kéo dài hơn, dâm dương kia mà", anh Bền có vẻ như chỉ giải thích được đến thế.

Còn điều thắc mắc thứ hai anh Bền bảo: "Chúng nó bố láo đấy".

- Bố láo thế nào? - Tôi hỏi.

- Thì bọn anh hay ngồi uống với nhau, một thằng rỗi hơi nào đó thêu dệt nên câu chuyện Mút chỉ đầu gà, sau đó gán vào cho bọn anh. Thế thôi.

- Câu chuyện Mút chỉ đầu gà là sao?

- Là chuyện các bợm nhậu uống với nhau lâu quá, hết cả đồ nhắm, chỉ còn mỗi cái đầu gà. Các bợm liền lấy chỉ buộc cái đầu gà treo lên, xoay vòng uống tiếp, đến lượt người nào thì người ấy được mút đánh roạt vào cái đầu gà. Tàn cuộc rượu, các bợm nhìn lên chỉ thấy sợi chỉ treo lửng lơ còn chiếc đầu gà đã tan biến vào những cái mồm háo rượu. Một câu chuyện bố láo và hết sức xỏ xiên. Thằng buôn chuyện đó đã bị bọn anh túm cổ lẳng ra ngoài đường. Nhưng câu chuyện nó để lại cứ in vào óc người nghe, không sao tẩy rửa đi được. Từ đấy mỗi khi nhóm bọn anh xuất hiện lập tức có tiếng xì xào: Nhóm Mút chỉ đầu gà đến đấy, hãy xem chúng uống kìa!

Nhóm bạn rượu của anh Bền không đông lắm, họ có khoảng sáu, bảy người, hầu hết đều muộn tuổi và chưa vợ. Họ làm đủ các nghề: Bốc vác, coi chợ, xe ôm, xích lô, gác cổng, phụ xây. Tuần nào họ cũng tụ tập ở quán rượu một, hai tối. Những lần gặp nhau như thế họ thường bắt đầu bằng vẻ mặt lầm lầm, lì lì. Khi đã hết bảy, tám chai Lavi đựng thứ nước nâu nâu nhờ nhợ họ mới quay ra chuyện trò với nhau. Những chuyện họ nói thường tẻ nhạt và vô nghĩa nhưng lại làm họ hào hứng, say sưa. Ví như một lần tôi được nghe họ bàn luận về chuyện con rận. Một người bảo: "Có rận chẳng qua là do ở bẩn". Một người khác lại bảo: "Ở sạch cũng có rận". Người khác nữa lại bảo: "Nghĩ có là có, nghĩ không là không". Rồi họ xoay ra tranh luận với nhau. Người thứ nhất bảo: "Ngày nào cũng tắm, dùng xà phòng diệt khuẩn chà xát khắp người, rận sẽ không còn chỗ nào để sống". Người thứ hai bảo: "Rận sẽ trôi xuống đám lông cuối cùng ở hậu môn rồi chui sâu ẩn nấp ở trong đó, thế là hoàn toàn yên tâm trước mọi thứ xà phòng". Người thứ ba bảo: "Cứ nghĩ rằng rận chỉ ở quần áo thì thay quần áo ra là hết rận, còn cứ nghĩ rận bám vào người thì chẳng bao giờ thấy hết ngứa".

Tôi luôn cảm thấy mệt mỏi và chán ngán trước những cuộc tranh luận có vẻ như ngớ ngẩn của đám bạn anh Bền. Nhưng anh Bền bảo tôi: "Chú mày không hiểu gì về con rận nghĩa là còn chưa hiểu gì về cuộc đời". Vâng, tôi chưa hiểu gì về cuộc đời nhưng tôi cũng không hề có ý định tìm hiểu cuộc sống của những chú rận thường quen sống ký sinh và bị người đời hạ sát bằng móng tay. Cuối các buổi rượu anh Bền thường tranh trả tiền trước ánh mắt ngại ngùng của đám bạn. Sau đó họ chia tay nhau, bóng họ liêu xiêu, đổ dài trên hè, chẳng mấy chốc họ mất hút vào những ngóc ngách của thành phố. Một lần từ quán rượu trở về, anh Bền dừng lại dưới gốc cây bàng cách con ngõ chúng tôi ở vài chục bước chân vạch quần ra giải quyết cái phần bí bách trong cơ thể. Bỗng có một "thằng người" từ trên cây bàng nhảy phốc xuống cổ anh. Anh Bền giật mình, theo phản xạ vội đưa tay lên túm lấy thằng người lạ. Anh bỗng bủn rủn cả người khi sờ vào một đám lông như lông chó đang phủ trên vai mình. Vừa lúc ấy một sợi xích lòng thòng vắt xuống cổ anh. "Khẹc...Khẹc". Anh Bền túm lấy sợi xích giật mạnh và "thằng người" trên cổ anh bị quật xuống đất. Hoá ra đó là một con khỉ. Chắc nó bị tuột xích chạy ra phố chơi không chịu về? Anh Bền định đá cho con khỉ một cái để đuổi nó về nhà với chủ nhưng nghĩ thế nào anh lại dắt nó về nhà mình. Hôm ấy tôi không đi cùng với anh vì còn bận ở nhà viết thư cho bố. Lúc sáng tôi vừa nhận được thư. Thư bố tôi viết rằng: "Bố đã nhận được tiền của con gửi về rồi. Bố dành một nửa để thuốc thang cho mẹ, một nửa để cả nhà ăn từ nay đến vụ mùa. Lợn nhà ăn tốn lắm nhưng tốn cũng phải nuôi để cuối năm còn có cái mà thịt. Bố biết con rất vất vả, vì gia đình mà phải bỏ học đi làm lấy tiền gửi về cho bố mẹ. Con cố gắng giữ gìn sức khoẻ, cuối tuần có người làng lên trên ấy bố sẽ gửi cho con ít ngô nếp mới bẻ, con tranh thủ luộc ăn thêm cho lại sức". Đến khi anh Bền gõ cửa khoe với tôi con khỉ anh vừa bắt về thì tôi cũng đã viết xong lá thư trả lời cho bố. Anh Bền nhìn ngắm con khỉ rất kỹ rồi bảo tôi: "Con này có bộ lông màu xám trắng, trông sạch, ưa nhìn, mặc thêm cho nó cái áo lụa màu đỏ hay màu xanh vào nữa sẽ rất ngộ. Anh quyết định nuôi nó, chú thấy thế nào?". Tôi bảo: "Em nhìn cũng thấy thích, anh cứ nuôi đi, nếu không nuôi được thì bán cũng khối tiền".

Những ngày sau đó con khỉ ăn chung, ngủ chung với anh Bền. Nó là một con vật ít nhiều đã được thuần dưỡng nên luôn tỏ ra biết làm vừa lòng chủ. Anh Bền quý nó lắm, đi làm cũng mang nó theo, ra quán rượu cũng cho nó đi cùng. Anh ăn gì nó ăn nấy, anh uống rượu nó cũng được nếm rượu. Anh say, nó cũng lử đử lừ đừ. Lạ một điều là "tửu lượng" của nó hình như mỗi ngày một nâng cao. Mỗi lần anh Bền đưa nó ra quán rượu là nó lại lân la đi đến các bàn, hễ khách mời rượu là nó uống. Lúc đầu nó có vẻ như làm phiền cho chủ quán, nhưng chính việc một con khỉ biết uống rượu đã làm cho khách hiếu kỳ tìm đến quán ngày một đông hơn. Ông chủ quán rượu liền gạ anh Bền bán lại con khỉ cho mình. Ông đang muốn kéo khách quay trở lại trước sự cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt giữa các quán rượu trong thành phố. Nhưng anh Bền không bán. Anh Bền chỉ đồng ý cho thuê thôi. Chủ quán chấp nhận thuê và con khỉ đã làm cho doanh thu của quán rượu tăng lên trông thấy. Điều này đã mang lại cho anh Bền một món tiền không nhỏ. Anh Bền cho quán rượu thuê con khỉ vào buổi tối, ban ngày anh để nó ở nhà nghỉ ngơi giữ sức. Nhiều quý khách đến quán rượu vào ban ngày không có cơ hội được xem khỉ uống rượu. Họ trách móc chủ quán và tỏ ý sẵn sàng trả tiền thêm nếu được uống rượu cùng hậu duệ của Tôn Ngộ Không. Chủ quán rất muốn đáp ứng yêu cầu của khách nhưng không làm sao thuyết phục được anh Bền cho mượn con khỉ cả ngày lẫn tối. Chủ quán rượu cũng đã lên miền rừng mua về vài con khỉ khác nhưng chúng không uống được rượu, tập thế nào cũng chịu, chỉ vài hôm là lăn đùng ra chết.

Tôi thực sự thấy mừng cho anh Bền vì cuộc sống đối với anh có vẻ đã dễ thở hơn. Tôi thấy anh có quần áo mới, lại sắm thêm được một số đồ vật cho căn nhà trọ tồi tàn của mình. Tôi đùa anh: "Cưới vợ đi thôi còn chờ gì nữa?". Anh Bền bảo: "Anh còn nặng nợ lắm, sáu, bảy miệng ăn ở quê trông chờ cả vào anh. Mà đứng trước con gái anh chẳng biết ăn nói ra sao cả. Họ chê anh ù lì, vô duyên".

Nhưng rồi anh Bền cũng có người yêu. Đó là một người đàn bà đã cứng tuổi, ngồi bán hàng nước ở cổng vườn hoa. Tôi bảo: "Trông như các Ma Ma ở lầu xanh ấy, không phải con nhà lành đâu anh Bền ạ". Anh Bền thở dài thườn thượt rồi bảo: "Thì cả đời làm nghề ấy, bây giờ già rồi ra ngồi vỉa hè, giá có chết cũng chưa chắc đã có người chôn, anh thấy tội, ngỏ ý, chị đồng ý ngay. Anh gần bốn mươi rồi, đời cũng đến thế này là hết, anh chị về ở với nhau trước hết là vì cái tình người đã, nếu có được với nhau một mặt con thì thật là ông trời ông ấy thương, em bảo anh còn mong điều gì hơn nữa?".

Giữa lúc anh Bền đang bàn đến chuyện lấy vợ thì tôi nhận được thư bố gọi về quê. Thư bố tôi viết rằng: "Vì nhà nghèo, bố mẹ hèn kém nên con mười bảy tuổi đã phải lăn lóc ra đời kiếm sống, bố nghĩ ngợi nhiều lắm. Nay bố được xã cho thầu khu đầm Mõm Chó gần bãi tha ma chỗ giáp với làng Thượng, vậy là nhà ta có cái để làm kinh tế rồi, con về cùng bố vỡ hoang khu đầm này, chắc chắn cả nhà ta sẽ hết cực khổ, các em con cũng có cơ mở mày mở mặt. Nhận được thư con thu xếp công việc về ngay, bố và các em chờ".

Vậy là tôi chia tay cửa hàng đồ gỗ cao cấp, chia tay anh Bền đang chuẩn bị bắt tay vào xây dựng gia đình riêng, chia tay anh Hùng suốt ngày "đánh bóng mặt đường" để bán hợp đồng bảo hiểm, chia tay thành phố và con ngõ nhỏ, trở về quê làm công việc của nhà nông.

Mãi ba năm sau tôi mới có dịp quay lại con ngõ mà tôi đã trọ suốt tuổi mười bảy. Tất nhiên công cuộc làm kinh tế của bố con tôi ở cánh đồng Mõm Chó đã thất bại thảm hại. Tôi lại mang sức trai hai mươi ra thành phố gánh vác trách nhiệm kiếm tiền gửi về cho bố mẹ trả nợ và nuôi các em. Tôi vội đi tìm những người mà tôi quen biết. Mới có ba năm thôi mà chẳng còn ai là người quen cũ cả ngoài anh Hùng vẫn ở một mình từ sau ngày tôi đi.

- Chú mày lại lên đây cùng anh chia nửa số tiền nhà trọ à? - Anh Hùng đón tôi bằng một câu hỏi thẳng thừng như thế - Khốn nạn! Bỏ quê mà đi là khốn nạn rồi chú em ạ.

- Vâng, anh Bền còn ở đây không anh?

- Không.

- Anh ấy lấy vợ rồi về quê ở hả anh?

- Vợ gì? Chuyện anh Bền chú mày chưa biết gì sao?

- Chưa, có chuyện gì vậy anh?

- Chuyện dài lắm nhưng mà... khốn nạn lắm.

Quả thực tôi không biết anh Bền gặp chuyện vui hay chuyện buồn vì với anh Hùng cái gì cũng "khốn nạn" cả. Học đại học ra cũng khốn nạn, ở lại thành phố cũng khốn nạn, bỏ quê mà đi - khốn nạn, đi làm bằng xe máy, giao dịch bằng điện thoại di động - khốn nạn, người yêu đến tận nhà khóc sướt mướt vì lỡ hẹn - khốn nạn, trúng số đề cũng khốn nạn, vậy chuyện khốn nạn của anh Bền được hiểu theo nghĩa nào?

Đêm hôm ấy anh Hùng đã kể cho tôi nghe chuyện về anh Bền. Câu chuyện như thế này:

Sau một thời gian từ chối không cho ông chủ quán rượu dâm dương hoắc thuê con khỉ đến mua vui vào ban ngày bỗng nhiên anh Bền thay đổi ý. Hình như anh Bền cần tiền, cần nhiều tiền, còn ông chủ quán rượu thì luôn muốn chiều khách. Thế là họ ký tắt với nhau một thoả thuận bằng miệng, đại thể anh Bền sẽ đưa con khỉ đến "làm thêm" ở quán rượu vào các buổi chiều ngày thứ bảy, chủ nhật ngoài các buổi tối như thường lệ. Buổi "làm thêm" đầu tiên anh Bền trực tiếp ôm con khỉ đến quán. Hôm ấy trời mưa sụt sùi, khách đến quán rất đông. Anh Bền chọn một góc quán ngồi độc ẩm. Con khỉ vẫn như mọi hôm, nhảy từ bàn này sang bàn khác, cầm rượu đổ vào miệng rồi tung chén trả lại cho khách. Nó cũng ăn dưa chuột, lạc chiên, bim bim và khi ngà ngà say nó cũng đi chếnh choáng, trệu trạo, trông rất tức cười. Chiều càng về muộn mưa càng to. Nước trút xuống tắc các ngả đường thành phố. Khách vãn dần. Ông chủ ngửa mặt nhìn trời rồi quyết định đóng cửa sớm. Anh Bền kiệu con khỉ ra về. Mưa hắt vào họ làm cả hai đều ướt. Về đến nhà anh Bền thấy người khó chịu, nằm vật ra giường. Con khỉ rúc vào ngực anh tìm hơi ấm, anh Bền quàng tay ôm lấy nó, cả hai cùng ngủ thiếp đi. Trời tối hẳn thì anh Bền tỉnh dậy. Anh có cảm giác ngực mình lành lạnh. Anh vội ngồi bật dậy. Con khỉ như đang ôm hờ vai anh liền rơi tuột xuống đùi. Anh Bền bế con khỉ lên nhưng nó đã chết. Nó chết mà như ngủ, phần lông ở ngực vẫn còn hơi âm ấm. Anh Bền vội hà hơi vào miệng nó, cố truyền cho nó chút sức lực của mình, hy vọng nó sẽ sống lại. Nhưng mọi cố gắng của anh Bền đều vô ích. Con khỉ mỗi lúc một lạnh ngắt, tứ chi bắt đầu cứng lại. Anh Bền ôm mặt, nức nức những tiếng trong cổ họng. Người dân ở trong ngõ chưa bao giờ thấy anh Bền khóc nhưng hôm ấy họ đã được chứng kiến anh Bền khóc thành tiếng. Khó có thể tưởng tượng nổi tiếng khóc của một người đàn ông gần bốn mươi tuổi dãi dầu mưa nắng như anh Bền. Nó ai oán, thảm thiết làm sao! Anh Bền cứ ngồi ôm con khỉ như thế mà khóc. Ngoài trời vẫn mưa. Mưa lây rây, lây rây chứ không ào ạt trút nước như ban chiều. Chẳng mấy chốc cái tin con khỉ chết loan tới tai những người bạn trong nhóm Mút chỉ đầu gà của anh Bền. Họ rủ nhau kéo đến chia buồn. Mỗi người trong số họ mang theo hai chai Lavi rượu, đút căng phồng cả túi quần. Họ kéo anh Bền ngồi xuống rồi xoay tròn cứ thế lần lượt nâng cốc. Vẫn những bộ mặt lầm lầm lì lì khi bắt đầu vào cuộc rượu. Chỉ đến lúc quá nửa số chai Lavi đã được dốc ngược họ mới chuyện trò với nhau. Một người bảo: "Không thể cứu được con khỉ này nữa rồi, hãy chọn cho nó một cách đưa ma sao cho xứng với những gì mà nó đã làm cho chủ". Một người khác tiếp lời: "Hoả táng là sạch nhất". Người khác nữa lại bảo: "Địa táng". Người tiếp theo bảo: "Thiên táng". Các ý kiến cứ nhao nhao lên, chỉ riêng anh Bền vẫn ngồi lặng yên, đôi mắt dại đi, tay trái vòng ôm chặt lấy con khỉ. "Thực táng! Chỉ có thực táng là hợp lý nhất vì máu thịt của con khỉ sẽ hoà vào với máu thịt của chúng ta, như vậy con khỉ sẽ không bao giờ mất đi, nó luôn ở trong mỗi tế bào của chủ nó. Ta sung sướng nó cũng được sung sướng, ta khổ sở nó cũng cùng chịu khổ, chả phải như thế mới đáng gọi là tình chủ tớ tuyệt vời nhất thế gian này hay sao?". Quả là một ý kiến khác thường nhưng nó làm cho đôi mắt của anh Bền sáng bừng lên. Cả nhóm Mút chỉ đầu gà sau một hồi ngớ ra đều nhất loạt vỗ tay hưởng ứng.

Thế là trong khi anh Bền châm hương lập bàn thờ thì nhóm bạn anh đun nước làm thịt con khỉ. Đêm ấy họ uống tới sáng. Cứ chốc chốc lại phải cử người đi lấy rượu. Riêng đầu con khỉ được đặt lên một chiếc đĩa, để ở giữa mâm. Những người tham gia lễ thực táng dùng tay xoay đầu con khỉ quay quay trên đĩa. Cái mõm của nó chỉ vào người nào thì đến lượt người ấy uống. Sáng hôm sau anh Bền tỉnh dậy thì không còn thấy một ai nữa. Nhóm bạn rượu của anh đã bỏ ra về tự lúc nào không biết. Giữa nhà chiếc đầu con khỉ vẫn còn nằm đó, mõm xoay về hướng anh Bền. Anh Bền đi đâu mõm con khỉ xoay theo đó. Anh Bền sợ quá vội quì xuống lạy lấy lạy để đầu con khỉ, đến khi ngẩng lên thấy nó cũng đang gập lên gập xuống lạy trả lại anh.

Anh Bền hét lên một tiếng rồi ngất đi. Người ta đưa anh Bền vào bệnh viện. Bố anh từ dưới quê lên chăm sóc anh. Anh Bền tỉnh nhưng không nói được, mọi việc đều phải ra hiệu, miệng kêu "Khẹc...Khẹc". Đến khi anh Bền khoẻ lại thì mắc bệnh ngứa. Các y bác sĩ cởi quần áo của anh ra và họ vô cùng kinh ngạc khi phát hiện toàn bộ cơ thể anh mọc một lớp lông dày màu xám trắng. Ông cụ đẻ ra anh xin đưa anh về quê để chăm sóc. Anh Bền về quê được hơn một tháng thì chết. Hôm anh chết ông chủ quán rượu dâm dương hoắc cũng có về đưa ma.

- Không, không thể như thế được, sao anh khéo tưởng tượng một cách độc ác thế, anh Bền có thù oán gì với anh đâu? - Tôi bỗng phản ứng lại một cách gay gắt trước câu chuyện được kể từ anh Hùng.

- Khốn nạn! Anh đã nói với chú mày ngay từ đầu là chuyện chẳng hay ho gì cơ mà? Anh chỉ kể lại những gì anh biết, nếu chú mày không muốn nghe nữa thì thôi, anh đâu phải thằng thích buôn chuyện.

Anh Hùng có vẻ bực bội, bỏ về giường nằm, để tôi ngồi lại bên bàn nước một mình. Cả đêm hôm ấy tôi không sao ngủ được. Sáng hôm sau vừa chuông đồng hồ là tôi chạy ngay sang chỗ mấy anh sinh viên trọ ở cuối ngõ. Tôi muốn hỏi họ về chuyện của anh Bền. Nhưng họ đã không còn ở đó nữa. Họ tốt nghiệp rồi và đã rời khỏi nơi đây. Tôi chạy sang nhà anh Bền. Nhà đã có chủ khác. Người mới đến thuê chỉ cho tôi xem chiếc đầu khỉ treo trên tường, bảo: "Tôi đến đây đã thấy treo ở đó rồi, của ai thì tôi chịu, tôi không biết anh Bền nào cả". Tôi chạy một mạch ra đầu phố, đến quán rượu dâm dương hoắc năm xưa. Bà chủ quán bước ra nhìn tôi như một khách quen, cất giọng xởi lởi: "Cậu đến lấy rượu sớm thế? Có điện đặt trước không? Bao nhiêu lít hả em?".

- Không, tôi muốn gặp ông chủ.

- Ông chủ nào?

- Ông chủ quán rượu dâm dương hoắc.

- Vớ vẩn. Lão ấy biến xới lâu rồi.

- Biến đi đâu?

- Ai mà biết được. Bây giờ ở đây bán rượu sán nùng chú em ạ. Dân thành phố bây giờ chuyển sang dùng loại rượu này rồi. Cậu em dùng dâm dương hoắc làm gì, trẻ thế kia đã phải dùng thứ ấy rồi sao? Mà làm gì có dâm dương hoắc, lừa đảo đấy thôi! Chị mày đây bán rượu từ năm lên mười tuổi, cậu em thích rượu gì chị bán cho rượu đó, làm gì phải mất công đi tìm lão chủ quán cũ, mệt người, vô ích, lại chả tốn tiền rước phải rượu rởm".

Tôi bỏ quán rượu, chạy ngược lên chỗ vườn hoa thành phố. Vẫn mấy người ngồi thu lu bên cửa ra vào kia nhưng không có ai là người đàn bà giống Ma Ma cả. "Ai cơ? À, mụ ấy hả, lên trại phục hồi nhân phẩm mà hỏi nhá. Mà sao đã đi tìm cái khoản ấy sớm thế? Giờ này chúng nó còn ngủ cả, chưa ma nào dậy đâu, chú em có chờ được thì chờ".

Thế là chịu. Tôi không còn biết hỏi ai cho rõ thực hư về chuyện của anh Bền nữa. Nếu câu chuyện đúng như anh Hùng kể thì khó tin quá. Nhưng trên đời này thiếu gì những điều khó tin vẫn xảy ra. Và với anh Bền tôi phải tin vào một chuyện không thể tin được như vậy sao? Lần đầu tiên tôi đã thốt lên cái câu cửa miệng của anh Hùng: Khốn nạn!

Tối hôm ấy tôi ngồi viết thư cho bố. Tôi ghi rằng: "Bố ơi, cuộc sống thành phố đối với con rất dễ thở. Con sẽ cố gắng làm để gửi tiền về cho bố mẹ và các em. Bố đừng lo con trẻ người non dạ. Con sẽ làm được những điều mà bố không tin nổi cho mà xem. Bố cứ yên tâm bố nhá!".

Tất nhiên, tôi sẽ còn chưa thôi tìm hiểu về chuyện của anh Bền, một chuyện khó tin đến thế kia mà!

Tiếng nấc đêm đông

Những năm mẹ còn khỏe, mẹ chuẩn bị các món ăn mà các con thích. Dũng thích món foie gras truyền thống làm bằng gan ngỗng béo đậm đà ăn với bánh mì mềm. Khôi đặc biệt thích tôm cua hấp chấm với sauce mayonnaise.

Còn món hàu thì mẹ chờ các con tới tách vỏ. Ấm cúng quá! Lúc này có những dịch vụ giao bánh tận nhà, nên mẹ khỏi phải nhờ các con đi đặt bánh. Mẹ đã chuẩn bị mọi thứ, chỉ chờ các con tới. Nhưng năm nay mẹ không ra sân được. Cái chân trái đau nhức tới hông. Mẹ phải chống nạng, không lên lầu được và lẽ dĩ nhiên không ra ngoài lạnh được.

Người Việt mình! Ba chữ thân tình như được nối thẳng tới cuống tim! Người Việt mình! Ông bà cha mẹ con cái xúm xít, tựa nhau mà sống. Như những cây chuối con vây quanh chuối mẹ, chuối chị bên cạnh chuối em. Cây mẹ xác xơ oằn người vác buồng nặng trĩu. Các con xanh tươi mơn man vuốt ve mẹ, tíu tít xào xạc vỗ về nhau trong hơi gió. Lớn lên, cao gần bằng mẹ, cũng tự mình nẻ buồng nhảy con, nhưng vẫn san sát bên nhau nghiêng mình hứng nắng.

Từ thế hệ này sang thế hệ khác, gia đình kiên cố tiếp tục vững vàng, nhịp nhàng, như hết xuân lại sang đông, hết mưa rồi lại nắng. Những người con xứ mình hiếu thảo một cách tự nhiên. Khi cha mẹ già yếu, không tự lo được nữa, các con chia nhau chăm sóc, sớt nhau nhọc nhằn một cách hiển nhiên, như cây lớn lên phải ra bông kết trái. Nhà nghèo, các con gom sức chăm sóc cha mẹ. Cha mẹ sung túc, các con khỏi phải nghĩ đến bổn phận vật chất, thì cũng phải nghĩ đến tình cảm, tinh thần. Vì đã đến lúc xương loãng, mắt mờ, chỉ cần lỡ đạp lên một hột chanh nhỏ trơn ướt là cha mẹ có thể sẽ trở thành phế nhân.

Các con ơi! Các con là người Việt, được nuôi bằng sữa mẹ, tại sao bắt chước xứ văn minh, không xem trọng cha mẹ ông bà? Các con phải làm gương cho chính con của các con biết thế nào là hiếu đễ. Các con có bổn phận dạy cho chúng biết. Mẹ một thân một mình lo cái ăn cái mặc, không đủ tâm để nhớ chuyện này. Lỗi ở mẹ.

Các con nào có biết, vừa tỉnh ngủ, mẹ đã lo lắng không biết các con và các cháu có khỏe mạnh không, sao cả tháng nay không đứa nào điện thoại hỏi thăm mẹ. Điện thoại miễn phí mà. Nhiều lần mẹ điện qua thấy đường dây bận. Các con điện thoại cho bạn bè mà chẳng hề nhớ tới mẹ. Mẹ đâu còn bao lăm năm để sống nữa mà các con tiếc thì giờ? Mẹ đâu đòi hỏi gì nhiều. Đi đâu tạt tới cho mẹ nhìn mặt con. Cả ngày hết ngồi rồi lại nằm trên ghế salon, kéo cái điện thoại sát bên cạnh để khi nghe tiếng reng là mẹ chụp ngay. Buổi chiều, tới giờ tan sở, mẹ pha nước trà, đem hộp bánh ra ngóng, mong được nghe tiếng giày các con xào xạo trên sân sỏi, để nghe tiếng lách tách từ ổ khóa, và được nhìn những khuôn mặt thân yêu của mẹ sẽ hiện ra như những thiên thần, đem niềm vui, tiếng cười và sự sống cho mẹ.

Ngày Tết nước ta, con cháu tụ họp lại nhà cha mẹ ba ngày trong khi các nước Âu Mỹ, con cháu từ xa về nhà cha mẹ tổ chức ăn uống, quây quần bên nhau trong ngày lễ Giáng sinh, để cháu khỏi quên ông bà, để con khỏi quên cha mẹ.

Những năm mẹ còn khỏe, mẹ chuẩn bị các món ăn mà các con thích. Dũng thích món foie gras truyền thống làm bằng gan ngỗng béo đậm đà ăn với bánh mì mềm. Khôi đặc biệt thích tôm cua hấp chấm với sauce mayonnaise. Còn món hàu thì mẹ chờ các con tới tách vỏ. Ấm cúng quá! Lúc này có những dịch vụ giao bánh tận nhà, nên mẹ khỏi phải nhờ các con đi đặt bánh. Mẹ đã chuẩn bị mọi thứ, chỉ chờ các con tới. Nhưng năm nay mẹ không ra sân được. Cái chân trái đau nhức tới hông. Mẹ phải chống nạng, không lên lầu được và lẽ dĩ nhiên không ra ngoài lạnh được.

Mới ngày 14 tháng chạp mà hàn thử biểu đã xuống gần không độ. Mẹ sợ mọi thứ lạnh. Đã tới lúc mẹ khiêng không nổi thanh củi để chụm lò sưởi, phải thay bằng lò sưởi điện mặc dù mẹ thích nhìn ngọn lửa sáng thiên nhiên. Ngày xưa ba mẹ thường ngồi bên nhau nhìn lửa, có khi còn nấu sôi được ấm nước, nấu chín món ra gu. Mẹ nằm trong nhà đóng kín, áp tai xuống mặt gối, chờ từng tiếng xe chạy chậm dần, hồi hộp ngóng tiếng đóng cửa đánh sầm. Nóng ruột thì điện thoại tới các con, chỉ để xem các con có ở nhà không mà yên tâm.

Mẹ muốn các con tự ý tới thăm vì tình thương nhớ mẹ chớ không phải vì bổn phận. Mẹ đâu cần quà cáp đắt tiền? Mỗi ngày có đi làm thì tạt qua, mua cho mẹ nửa ổ bánh mì, thỉnh thoảng một đôi găng tay hay đôi tất để mẹ mang, lòng ấm áp nhớ con mỗi khi mang. Đi xe hơi sưởi ấm đâu có nhọc nhằn? Đâu phải mẹ chỉ nhớ có con thôi? Mẹ đã từng giữ bốn đứa cháu nội từ lúc mới sinh đến ba tuổi, trụng bình, khuấy sữa cho chúng bú, rửa đít, ẵm cháu đi khám bệnh khi thời tiết thay đổi, nghe chúng bi bô nói, dạy đếm một hai ba, dạy chữ o chữ i, đánh vần bờ a ba huyền bà. Mẹ thuộc lòng từng đặc điểm của mỗi đứa, từ cái ăn cho đến trò chơi. Vậy mà từ khi chúng vô học mẫu giáo tới khi lên đại học, bà chỉ loáng thoáng gặp cháu mấy lần, đến nỗi tưởng tượng nếu gặp ngoài đường, chắc gì bà đã nhận ra cháu? Hai cái piano Yamaha mẹ mua cho hai con, không biết có cháu nào học không, hay chỉ để trang hoàng như mấy tấm sơn mài vô vị?

Bên này con người sống như những ốc đảo mùa đông. Có thì giờ và khỏe mạnh thì với tay bấm điện thoại một hai phút hỏi thăm cha mẹ: a va, khỏe không, xem chừng đã làm tròn bổn phận, lương tâm yên ổn trong suốt mấy tháng. Con tới thăm thì cha mẹ tự hỏi không biết lần này nó tới xin gì.

Đâu ai xa lạ? Mới cách đây ba tháng, Dũng mượn mẹ hai trăm ngàn quan để mua xe Volkswagen. Có xe xong, con ham vui, quên mẹ. Mẹ biết con muốn xin, nhưng số tiền quá lớn, nên để có được nhanh chóng, con dùng chữ "mượn". Mẹ biết hết, nhưng lờ đi. Lâu ngày ăn ít, bao tử mẹ cũng nhỏ lại. Mẹ không cần gì nhiều. Nhà cửa, tài sản của ba và mẹ là của chúng con. Bây giờ sức khỏe mẹ kém, mẹ muốn cho các con hết. Nếu các con tới thăm mẹ thường xuyên, thì mẹ đã chia hết cho hai con rồi. Bởi vì sau khi mẹ chết, nhà nước sẽ đóng thuế trên gia tài thừa kế. Đó là mồ hôi nước mắt của cha các con và mẹ, mẹ không muốn họ lấy của các con. Thuế ở Pháp nặng kinh khủng. Không ít người có tài sản lớn phải bỏ đi nước khác. Còn người nghèo thì lăm le vô để ăn trợ cấp. Mẹ muốn chia cho hai con từ lâu rồi, nhưng mẹ không còn khoẻ, lại nghe nhiều tin tức con bán nhà chia nhau rồi đưa cha mẹ vô viện dưỡng lão. Tiếng xấu của viện dưỡng lão khiến mẹ sợ hãi. Hết tiền trả cho họ, họ giả có đám cháy để khói bay làm ngộp thở nhiều người già rồi.

° ° °

Chuông nhà thờ sát bên gióng những hồi chuông rộn rã. Tại sao mẹ nằm sấp nơi đây? Sao giờ này hai con chưa tới với mẹ? Hôm nay lễ Giáng sinh mà? Các con không biết truyền thống của ngày này sao? Lúc trưa mẹ đói bụng, tới tủ lạnh kiếm trái chuối ăn, chưa tới thì chân trái bỗng khuỵu xuống. Mẹ ráng chống tay ngồi dậy, nhưng tay rã rời và hai chân đau trì xuống. Chắc gãy xương. Ba bốn hôm nay mẹ không có gì để ăn. Mà cũng chẳng muốn ăn. Cúc cu cúc cu cúc cu... À, cái đồng hồ có con cú nhảy ra kêu cúc cu này là quà cưới của mình đây, nó vẫn chạy đều và con chim vẫn không quên bật nắp, nhảy ra báo giờ. Hót xong lại nhảy vô khép cửa lại. Căn nhà rộng thênh thang, nơi hàng rào trước tôi trồng một đám hồng nhung, chỗ góc sau một nhóm hồng vàng. Giờ đây cằn cỗi, lá bị sâu ăn, xoắn lại, thâm từng nơi. Lâu quá chưa bón phân. Cây hồng sướng hơn tôi. Cứ đứng một nơi, đã có nước dưới lòng đất, đã có thán khí, có dưỡng khí, có ánh nắng mỗi ngày. Chẳng cần đến con cháu gì cả.

Những kỷ niệm thời trung học hiện về. Vườn Tao Đàn, chợ Bến Thành, Sở thú, nhà thờ Đức Bà, công viên liên tục quay trong óc. Em thương anh cũng vì anh yêu quý quê hương, hiền lành ít nói. Nhớ lại ngày thời còn sinh viên, vui quá phải không anh? Anh có nhớ vụ bizutage(1) không? Bây giờ hết rồi vì có mấy vụ làm chết người. Nghĩ tụi sinh viên bày ra cái trò chơi ác hành hạ ma mới. Anh may mắn bị phạt nhẹ, chỉ bị tụi ma cũ dựng đầu dậy giữa đêm: "Chúng tôi canh chừng anh đây" rồi bắt anh quỳ. Có người còn bị đánh. Còn em thì chỉ bị hình phạt là khi thấy họ thì phải cúi đầu "chào các anh chị". Trường dệt ở Lyon sinh viên mới bị họ tạt lên đầu cả thùng phẩm nhuộm, đã có vài người chết vì họ đâu nghĩ trong phẩm có chất độc? Lúc bấy giờ con gái chỉ đếm trên đầu ngón tay, nên em có lu bù chàng trai theo em mặc dù em không đẹp. Anh chàng Tuấn, Khanh có bộ mã bảnh bao, nhưng ăn nói vô duyên. Họ có quyền khinh nước Mỹ. Nhưng khinh nước Việt mình thì em không tha thứ. Có lần nghe thằng Khanh nói bập bẹ "cần gì phải học tiếng Việt vì đâu có tới Việt Nam" mà em giận run. Hừ, không "tới" Việt Nam! Không cần học tiếng Việt! Cái mặt Việt đặc sệt! Thằng Chấn qua đây lúc 14 tuổi đã quên hết ráo trọi tiếng mẹ đẻ. Còn anh thì giọng Nam rặt. Hiền lành ít nói nên em thương anh trước khi anh ngỏ lời với em. Bây giờ em mới cho anh biết bí mật của em đó. Mới đó mà anh đã xa em bốn mươi năm! Anh ơi, nhớ lúc anh đi, thằng Dũng mới tám tuổi, hay phá phách bị cô phạt. Thằng Khôi hay khóc lè nhè, méc mẹ mỗi khi bị anh đánh. Trên tay hai đứa con dại, em bận rộn quay quắt nhớ thương.

Lạnh quá! Tấm thảm không đủ chống cái lạnh từ dưới đất truyền lên người tôi. May mà tôi mặc áo len. Đầu tôi nặng quá không ngóc lên nổi. Chiếc khăn choàng cổ đùn lên sát mũi khiến tôi khó thở. Chân nặng không giúp gì được. Tôi hết nghiêng đầu được nữa rồi. Cái điện thoại nằm trên bàn. Mà có nó bên cạnh, tôi cũng không thể bấm số. Chuông nhà thờ đổ liên hồi. Tiếng pháo bông lụp bụp. Tối quá. Dũng ơi, Khôi ơi. Lễ Giáng sinh tưởng được gặp con, sao các con không tới? Các con quên mẹ rồi sao? Mọi gia đình ấm cúng bên Chúa Hài Đồng, trong lúc mẹ lạnh lẽo nằm đây. Chân mẹ không cựa quậy nổi. Mẹ cố hết sức mà quay nghiêng cũng không được! Con ơi, tới cứu mẹ!! Mẹ không sợ chết bởi mẹ đã chết ngay khi sống. Mẹ chết dần mòn chờ con vô vọng. Cô độc và buồn tủi đã tra tấn tâm hồn và xâm nát tim mẹ. Mẹ muốn sống! Mẹ muốn sống để được nhìn hai con và bốn đứa cháu thương quý của mẹ trước khi theo cha hai con.

Mẹ ngộp thở quá. Mặt mẹ bị úp xuống đất ngóc lên không nổi nữa rồi. Mũi mẹ đã dán xuống sàn nhà, mẹ ráng hít thở mạnh. Bụi trên tấm thảm vô đầy phổi mẹ rồi. Các con ơi, xin hãy tới cứu mẹ... Mẹ ngộp thở... Việt Nam ơi! Xin lỗi, tôi đã không có dịp về thăm...

Hoa cho người sống

Tôi là kẻ quét rác, xén cỏ trong công viên. Cái nghề ít ai để ý, chỉ có tự tôi hay để ý mình. Người ta gọi đó là mặc cảm, chẳng biết có đúng không.

Nơi tôi làm, đã thành nếp, sáng sớm các cụ vô tập thể dục. Khi các cụ về thì khách thập phương tới. Trưa, họ kéo nhau đi ăn và chiều, lại các cụ và các cháu nhỏ. Mãi tới tối thanh niên mới vào. Cái chu kỳ chỉ bị phá vỡ vào dịp lễ Tết hoặc chủ nhật. Thi thoảng cũng có ngoại lệ, ấy là vào giờ nghỉ trưa, các cặp tình nhân tới đây hú hí vài giờ, rồi lặng lẽ rút. Đôi khi có một bố già xấu tính, kiếm đâu được cô bồ nhí, đú đởn trong lùm cây, hoặc có gã choai choai ôm eo mụ nạ dòng mập ú. Những ngoại lệ ấy tôi nhổ nước miếng, bỏ qua. Nhưng có một trường hợp khiến tôi day dứt mãi, đó là bà lão, nhìn vẻ ngoài chẳng có gì đặc biệt. Bà xách cái giỏ nhựa, ngày ngày tới ngồi trên ghế đá lặng lẽ têm trầu với cái vẻ lơ đễnh của người vô cảm, không ra buồn, cũng chẳng ra nhàn hạ. Dáng bà thanh mảnh, nhưng không phải cái thanh mảnh của người thành phố. Nghĩa là hơi thô và cứng. Cái cách bà ngồi đó, không ra người giàu, cũng chẳng thể nói bà nghèo. Đôi lúc bà cũng đi dạo, nhưng những bước chân tự chúng đưa bà đi đâu đó chứ quyết không phải bà chủ định tới cái đích nào. Rồi bà ngồi thẫn nhìn vào khoảng không. Tôi đã từng mon men tới gần quét dọn, hy vọng được bà bắt chuyện. Nhưng bà lảng sang chỗ khác ngay.

Cái ghế đá ấy, cả năm nay, dường như chỉ dành riêng cho bà. Khi bà về, không còn dấu vết gì, kể cả bã trầu.

Bẵng đi hàng tháng không thấy bà tới, lòng tôi bồn chồn lo ngại. Chỉ sợ bà đau ốm thì khổ lắm. Nhưng bà lại xuất hiện. Sự xuất hiện của bà làm tôi mừng rỡ. Mặc dù nom bà có vẻ gầy hơn, xa vắng hơn. Bà vẫn mặc bộ đồ lụa thẫm giản dị với búi tóc bạc, khoác hờ chiếc chăn nhung mỏng màu đen và vẫn xách giỏ nhựa, âm thầm như cái bóng.

Một lần. Hai lần... Bà đến rồi đi, tựa hồ có sự phân định nhịp nhàng giống như công việc đơn điệu của tôi, tháng tháng lãnh lương, ngày ngày cặm cụi, riết rồi thành quen, thành ra yên phận. Nói là nói thế, những lúc đẩy cái máy xén cỏ rù rì, tôi cũng hay rù rì nghĩ ngợi, rằng chẳng biết thế nào nhỉ? Con người ta có số phận thật. Bà lão ấy ngày ngày ra công viên, chơi một mình, về một mình, chắc hẳn đời sống thanh nhàn lắm? Mà biết đâu chẳng phải thanh nhàn!? Tôi từ tấm bé lận đận, ba má mất sớm, học hành bỏ dở, chỉ biết lo kiếm sống, xin được việc làm ở đây, rồi lấy chồng, sinh con, được cái chồng hiền, con ngoan, thế là mãn nguyện lắm. Có lẽ vì thế tôi ít ước mơ, ít nghĩ ngợi. Hễ thấy ai nghĩ ngợi là tôi to, tôi sợ, mặc dù chẳng biết lo cái gì và sợ cái gì. Sự hiện diện của bà lão khiến tôi bối rối. Thương chẳng phải thương. Hình như tôi bị ám ảnh. Sáng ra làm việc, đã thấy bà lão ngồi đó nhai trầu. Tôi thầm theo dõi bà. Bà nhai trầu cho có cái để nhai, rồi lẩn thẩn lục lọi trong giỏ, sau đó ngồi im phắc. Trưa, bà lủi tủi xách giỏ về. Chiều bà lại tới. Sự lặp đi lặp lại ấy dai dẳng đến nỗi, tôi không chịu nổi. Một hôm tôi quyết định theo bà, khi cơn dông chiều ập xuống. Bà lập cập xách giỏ, lập cập bước, lập cập cúi chào ông gác cổng rồi men theo lề đường, tới góc phố có ngôi biệt thự, bà dừng bước, mở khoá, lách vô. Tôi chưng hửng quay lại, chợt thấy có tiếng ôtô con, kiếng màu, cũng rẽ vào ngôi biệt thự. Tôi cảm thấy vô duyên cho nỗi day dứt bấy nay của mình. Ngôi biệt thự ấy ngày nào tôi chả đi qua, bốn bề kín cổng cao tường, hoa tigôn nở rộ, um tùm. Các cửa sổ trên tầng lầu đóng im ỉm, như thể nó đã đóng từ thời xa lắm rồi. Rõ ràng đây không phải là nhà của dân thường. Bà lão cũng không phải là dân thường! Nhà dân thường chẳng ai chịu đóng kín thời kinh tế mặt tiền.

Thế nhưng, từ hôm phát hiện ra bí mật ấy, không hiểu vì sao chẳng thấy bà lão ra công viên nữa. Ngôi biệt thự vẫn đóng kín, chiều chiều chiếc xe con vẫn lọt vô. Có tới 2 tháng vẫn vắng bóng bà. Lòng tôi se buồn. Bỗng một buổi sáng, hai ngả đường giáp ngôi biệt thự xe con đậu kín, có cả xe ca và xe tải, chiếc nào cũng ngờm ngợp vòng hoa. Từng đoàn người trang trọng nối đuôi vào viếng. Tấm hình bà lão dán trên góc bảng cáo phó, trước cổng ngôi biệt thự, báo tôi biết bà không còn nữa. Tự dưng tôi cảm thấy bơ vơ. Ông già gác cổng đứng nhìn sang đám tang chép miệng:

- Tội nghiệp bà lão, chết không được một tiếng khóc.

- Hoa nhiều quá, chắc bà làm gì to lắm? - Tôi nói.

Ông già nhìn tôi vẻ thương hại:

- Con bà làm to. Hoa cho người sống đấy, cháu ạ.

Tôi quay người, lau nước mắt.

Kẻ dự phần

"Chị ơi em buồn quá". "Buồn à, buồn thì bắt chuồn chuồn". "Đừng trêu em nữa. Em buồn thật mà"... Yên lặng... "Chị đã ngủ chưa". "Chưa". "Em thấy chán lắm". "Nói chị nghe coi"... Im lặng. Không thấy có thông báo tin nhắn đã đến nơi. Tôi nhá vào máy Khánh. Tín hiệu không liên lạc được. Ngủ rồi à, hay dỗi chị đấy. Thôi, mai tới cơ quan chị sẽ "buôn" với em. Tôi lại dán mắt vào màn hình vi tính tiếp tục công việc.

Vừa đến tòa soạn, cô Ngân đã dúi vào ba lô tôi cái phong bì. Người ta nhờ cô cám ơn mày vụ vừa rồi. Nhờ có mày mà con bé quay về nhà rồi đấy. Vụ nào nhỉ. Tôi ngớ người không hiểu. Con bé cháu cô tháng trước đến gặp mày ở tòa soạn đấy, tên là Hồng, vừa nhìn thấy mày đã khóc thút thít. À, ra là thế. Nó về với mẹ rồi chứ. Ừ, mày phân tích thế nào mà sau bữa đó nó thay nết đổi tính khiến mẹ nó cũng ngỡ ngàng. Mẹ nó biết ơn mày lắm. Chưa biết xử lý thế nào với cái phong bì cám ơn thì chị Năm đã đập trước mặt tôi một lô thư từ.

Từ khi cô Thư đổ bệnh, ngoài nhiệm vụ viết bài cho trang giáo dục tôi còn phải kiêm thêm chuyên mục Gỡ rối tơ vò, một chuyên mục có thâm niên của tờ báo. Qua mấy bức thư trả lời, thấy tôi cũng biết mổ xẻ tâm lý ra trò, lại có cái nhìn cởi mở chứ không khắt khe, cứng nhắc như những mẹ chồng (chúng tôi thường gọi các cô thế hệ trước như thế) nên các cô chú động viên tôi cứ thử sức, đó cũng là mảnh đất không đến nỗi nhàm chán đâu. Một công việc, theo tôi, chẳng oai phong gì so với việc làm một phóng viên đi đây đó. Nhưng tạm thời chưa có ai thay thế cô Thư thì mình làm, vậy thôi. Mà được thế đã tốt. Lũ bạn tôi ra trường bảy, tám năm rồi, vẫn cộng tác cho tờ báo nọ, tờ báo kia hằng tháng chỉ được nhận vài trăm tiền trợ cấp kia kìa.

Rồi cô Thư nghỉ hẳn, tôi trở thành người chịu trách nhiệm chính trả lời những bức thư tâm tình của bạn đọc. Tôi đồng ý với những gì các cô chú nói, công việc "gỡ rối" này cũng không đến nỗi đơn điệu. Đằng sau những bản viết tay vụng về là những tâm sự trĩu nặng, những nỗi niềm không ai giống ai. Tôi phải có trách nhiệm nghe thấu và chia sẻ.

Mới hay cuộc sống không hề đơn giản và không phải ai cũng được hưởng những thuận lợi như mình. Các trung tâm tư vấn tình cảm được quảng cáo khắp nơi nhưng số thư gửi tới chuyên mục tâm sự vẫn không giảm. Người ta đã quen với cách đó, cũng có thể họ tín nhiệm người bạn tâm giao là tôi (có lẽ tôi cũng được quyền vuốt ve mình một chút chứ). Cuộc sống hiện đại cũng đa dạng, phức tạp và nếu không giải tỏa người ta sẽ trầm uất mất. Đó, tôi nghĩ, cũng là một lý do khiến cho chuyên mục tôi phụ trách không bao giờ lo mất khách.

Không chỉ trên mặt báo. Còn rất nhiều cảnh huống, nhiều đối tượng tôi phải gọi điện, viết thư riêng cho họ. Vì thế cũng lu bu lắm. Nhưng, nói như cô Thư, gắn bó lâu với chuyên mục này cũng tìm thấy niềm vui trong đó.

Để giải tỏa hết số thư chị Năm dồn lại, tôi phải ngồi xuyên cả buổi trưa vắt sang cả chiều, nên quên mất ý định gọi điện cho Khánh.

° ° °

Khánh là con trai cậu Long. Cậu Long là em họ mẹ tôi. Em họ nhưng cũng không khác em ruột vì cậu Long ba tuổi đã mồ côi cha mẹ về sống với ông bà ngoại tôi. Mẹ bảo cậu thông minh nhưng nghịch ngợm, lại lười học, nói thế nào cũng không ăn thua, nên sau khi tốt nghiệp cấp ba cậu không học tiếp được nữa mà đi làm công nhân. Cậu yêu và cưới một người bạn của dì út là mợ Nhung. Mợ Nhung vì thương hoàn cảnh cậu mà đồng ý lấy cậu chứ không hẳn đã yêu. Mẹ nói thế cũng tốt lắm rồi.

Trông phớt đời thế nhưng cậu Long sống rất tình cảm. Sau khi cưới, cậu và mợ đưa nhau vào Sài Gòn. Thông tin qua lại chỉ dựa vào thư từ nhưng từ khi ở nhà mắc điện thoại, cậu thường xuyên gọi điện về thăm mọi người. Tôi, đứa cháu gái rất ít gặp nhưng cậu vẫn chuyện trò thủ thỉ có khi hàng tiếng đồng hồ. Tôi than phiền chuyện học hành vất vả, cậu than nỗi cô đơn, thiếu vắng tình cảm anh em, họ hàng, quê hương. Cho nên dù mọi người nói cậu gàn, cậu say sưa tối ngày, hay cậu thường gây sự với mợ thì tôi vẫn đặc biệt yêu quý cậu.

Tết năm đó cậu về quê dẫn theo em Khánh. Khánh đang học lớp mười một nhưng nói năng suy nghĩ như một người từng trải, chín chắn trong cuộc sống. Có lẽ vì em đọc nhiều. Những tác phẩm văn học, văn hóa, lịch sử nổi tiếng, tôi là sinh viên khoa văn còn mơ mơ màng màng thì em đã đọc gần hết, đọc rất kỹ. Vì thế dù hơn Khánh năm tuổi nhưng hai chị em vẫn chuyện trò không khác bạn bè.

Những ngày về quê, tôi đưa Khánh đi khắp ngõ xóm chơi các trò con trẻ, đến các đình chùa, rồi ra đồng bắt cá, mò hến. Khánh trắng trẻo là thế mà về lăn lóc một tuần đã đen nhem đen nhẻm. Cậu Long bảo giá được gần anh gần chị thế này thì Khánh cũng không đến nỗi lười học. Sách đọc say sưa, nói chuyện như ông cụ non vậy nhưng đụng đến bút vở, làm bài tập là như phải điện giật... Tôi nhìn Khánh, muốn phủ định lời cậu nói thì Khánh cười khì. Về quê thích thế này mà mãi đến hôm nay ba mới cho em về.

Chị em quấn quýt được mươi ngày thì Khánh theo ba vào lại Sài Gòn. Tôi ra Hà Nội tiếp tục năm cuối đại học. Hai chị em thường viết thư cho nhau. Tôi luôn háo hức mỗi khi nhận thư Khánh. Dù viết theo cách gì, viết như thế nào thì đọc xong lần nào tôi cũng bái phục thằng em láu lỉnh, lắm trò của mình.

Nếu cũng chăm chỉ học như chăm chỉ đọc sách hay chăm chỉ bày trò thì chắc chắn Khánh đã không trượt đại học. Chị yên tâm, em chỉ lêu bêu vài tháng nữa, ra Tết em đi nghĩa vụ quân sự ngay. Cậu Long vẫn hy vọng môi trường quân đội sẽ rèn dũa, tập cho Khánh nếp sống quy củ. Nhưng chỉ trong hai năm mà số lần bị phạt vì trốn ra ngoài, ngủ dậy muộn của Khánh lên đến số chục. Mẹ tôi bảo thằng Khánh y như ba nó ngày trước.

Ba nó có các anh chị bên cạnh kèm cặp, còn nó thả lỏng giữa thành phố thế chẳng biết đâu mà lần. Không rõ ngày trước cậu thế nào nhưng với Khánh, tôi biết em nghịch ngợm vậy chỉ vì quá hiếu động thôi. Trong tôi, em luôn là cậu bé ngoan, ham tìm hiểu và rất nhạy cảm. Tôi động viên Khánh vừa làm nhiệm vụ vừa cố gắng ôn thi, nếu không thi vào sĩ quan thì sau khi xuất ngũ thi vào đại học. Nể chị, Khánh cũng nhắn ba gửi vào cho nó ít sách vở.

Trong một lá thư, Khánh cho biết mẹ em đã chuyển công tác xuống Vũng Tàu để tránh chung nhà với ba. Hai người không muốn sống với nhau nữa nhưng vì em mà cố chịu đựng. Việc này tôi cũng biết đôi chút. Mợ tâm sự với dì Út rằng cậu thương con nhưng không làm chủ được mình. Mợ lo rồi Khánh sẽ bị ảnh hưởng bởi cách sống bê tha đó. Lo vậy nhưng mợ vẫn chọn cách ra đi.

Ngày ra quân, cả cậu và Khánh hỏi tôi giờ em nên thế nào. Tôi phán, tiếp tục ôn thi, năm này không đậu thì năm sau. Cậu bảo hay cho Khánh học một trường dạy nghề nào đó. Công nhân thì đã sao. Tôi gạt, tốt nghiệp đại học còn chẳng ăn ai nữa là một trường dạy nghề không tiếng tăm. Nhưng Khánh đâu muốn ôn thi nữa, giọng cậu đầy lo lắng. Tôi nhớ một lần Khánh nói rằng không phải em không chịu học mà là học mãi không vô. Nhưng chị đã động viên thì em cố vậy. Tôi tin với một người thông minh, sáng ý như em nếu có ý thức thì việc thi tiếp đại học không phải quá khó.

Sai lầm của tôi chính là chỗ đó. Tôi không biết em đã bị hổng kiến thức cơ bản và rất khó để làm lại từ đầu. Sai lầm nữa của tôi là đã gạt đi tất cả những phương án cậu đưa ra, một mực cho rằng đại học là con đường vào đời duy nhất. Và rồi tôi đã phải trả giá cho sai lầm này bằng những chuỗi ngày day dứt.

Khánh hỏi, chị có xấu hổ khi có đứa em như em không. Chừng này tuổi rồi mà vẫn vô tích sự, không học hành. Sao em hỏi một câu ngớ ngẩn thế. Vì các anh chị ở quê điều kiện khó khăn thế mà tất cả đều đỗ đại học ngon ơ. Ba nói ba xấu hổ vì có đứa con như em đấy. Tôi quát Khánh tơi bời trong điện thoại. Cậu biết mình lỡ lời, bảo em có giận ba đâu. Em cũng thấy xấu hổ cho chính mình thật mà. Em vẫn đang ôn thi đấy thôi. Nhưng có thi nữa em cũng không đỗ đâu. Vớ vẩn, tôi gạt đi và chuyển câu chuyện sang hướng khác.

Những lá thư đầy nước mắt với những tình huống éo le tới tấp gửi về tòa soạn đã chiếm hết thời gian và tâm trí tôi. Cả trên đường về nhà, cả trong giấc ngủ. Những lá thư của Khánh lẫn mất vào đâu đó. Rồi thưa hẳn. Em không còn hứng thú viết thư, cũng có thể chán vì viết mãi mà chẳng mấy khi được hồi âm. Tôi chỉ hơi thắc mắc về em chút chút vậy thôi.

Cậu bảo Khánh muốn về quê nhưng để em về một mình cậu chẳng yên tâm, Tết nhất đến nơi rồi. Con chịu khó động viên em giúp cậu. Nhìn nó nằm mãi ở nhà thế này cậu cũng buồn. Tôi ậm ừ cho cậu yên lòng chứ tôi còn bao việc phải làm, hơn nữa tôi tin Khánh. Từ hôm được ba sắm cho chiếc điện thoại, Khánh liên tục nhắn tin cho tôi. Chị ăn Tết vui không. Khi nào chị vào Sài Gòn chơi với em. Em nhớ chị lắm... Có ngày máy tôi nhận đến hai mươi tám tin nhắn của Khánh, trong khi tôi chỉ reply lại nhiều nhất được dăm tin. Những tin nhắn càng về sau càng nặng nề tâm trạng. Biết thế nhưng tôi vẫn cố lờ đi, nghĩ tại nó rỗi quá đấy thôi. Hơn nữa, tôi cũng đã quá đau đầu bởi trách nhiệm làm người giải tỏa tâm sự bạn đọc rồi.

Tít... tít... Biết là tin nhắn của Khánh nhưng tôi không vội mở ra xem. Tôi đang đối mặt với một ca "cấp cứu". Một sinh viên năm thứ hai muốn bỏ học vì không biết mình tiếp tục học để làm gì. Giảng đường không còn khiến cô háo hức, chờ mong. Bạn bè thì nhạt nhẽo. Rồi cô kêu gào cuộc đời sao buồn quá, và nếu tôi không tìm giúp cô có điều gì đáng để sống, cô sẽ tự tử.

Kinh hoảng, tôi lao xe đến trường tìm cô gái. Trong căn-tin, cô bé cam đoan với tôi số sinh viên ngồi ở đây đông hơn trong lớp, và dọc theo các quán cóc ngoài cổng trường còn đông hơn ở đây. Chưa biết bắt đầu thế nào, cô bé đã lên tiếng. Em cần biết bao một người biết lắng nghe và thấu hiểu nhưng em gần như tuyệt vọng. Nếu chị không đến, có lẽ em sẽ thấy chỉ có chết là cách giải thoát. Cô bé nói tới cái chết thản nhiên như không. Cả người tôi lạnh toát. Tôi rùng mình nghĩ đến Khánh, nhớ ra tin nhắn chưa kịp đọc.

Tối chị sẽ nhắn tin cho Khánh, nhất định thế.

° ° °

Tôi không còn dịp nhắn tin cho em nữa. Mẹ tôi hốt hoảng trong điện thoại. Con thu xếp vào Sài Gòn với cậu ngay... Thằng Khánh chết rồi. Chiều nay. Tôi sững sờ thả máy.

Chiều nay, tôi vừa ngồi với cô sinh viên...

Chị ơi em buồn lắm. Tin nhắn cuối cùng của Khánh còn lửng lơ trong chiếc máy vô tri sẽ ám ảnh tôi suốt phần đời còn lại...

Tôi đã dự phần trong cái chết của em.

° ° °

Và tôi biết mình không thể tiếp tục công việc này được nữa.

Tre nở hoa

- Còn hắn? - Tôi chỉ con chó già cứ lóng nga lóng ngóng bám theo chị. Chị đi, chúng đi, chị ngừng, chúng ngừng. Nó là bóng chị.

- Nhặt Vàng (gold chứ không phải yellow) trước cổng từ nhỏ. Lòa rồi, thấy bằng tai. Sợ Vàng cô đơn, tôi nuôi thêm Mực - Chị chỉ con chó thứ hai đứng cạnh. Vàng thương còn hơn con đẻ, lây cả ghẻ cho nhau - Chủ nhân ngồi xuống quàng tay qua hai đứa cười. Hạnh phúc đôi khi đơn sơ thế đấy.

Sau chó, đến khỉ chuyền cây, chim hót trên cành, cá lội dưới nước, rùa trên bờ...

- Mộng viên là nơi mộng biến thành thực - người, cây cỏ, thú vật sống giao hòa - Tôi tấm tắc.

- Thì tất cả chúng ta sinh ra từ cát bụi của các vì sao, là anh em họ hàng với động vật hoang dã, với hoa đồng cỏ nội(3). Con người không thể độc quyền trái đất. Nó là mái nhà của muôn loài. Nhưng thương cái gì khổ cái nấy anh à! Tui khổ vì thương - Chị cười.

° ° °

Người đàn bà ấy khổ vì thương...

Đêm ngồi trong nhà nghe tiếng gọi miu... miu trải dài suốt xóm. Thằng Tí bảo: "Mụ Tú đi tìm mèo đó. Tối tối gom thức ăn thừa cho mèo hoang. Ăn quen chúng đợi, rứa là có hẹn. Gió mưa lướt thướt cũng che dù đi vì sợ chúng đói. Ông chồng lẽo đẽo theo sau. Rứa không điên thì là chi?" - thằng Tí kết luận.

- Người ta bảo tôi điên anh à - chị nói - Cứ lụy bởi chó mèo. Mà không chỉ chó mèo, con gì cũng thương. Chúng cũng có sinh mệnh, số phận và số phận ấy tùy thuộc con người. Tôi đi đâu chó mèo theo đó. Chúng nhận ra tôi. Thấy con nào đói khát là chịu không nổi. Có khi thương thành hại chúng nữa. Cho ăn có thịt có da, thì người ta bắt làm thịt... Có lần tôi thương một con chó mà đẩy nó vào chỗ chết. Nó ở bên kia, tôi gọi là Lu tồ - Chị chỉ tay vào vườn bên cạnh - cứ chui rào qua chơi với hai con bên này. Ba đứa giỡn với nhau thật hạnh phúc. Rứa là chủ ghét, cột lại trước cổng, bỏ đói như trêu tức tôi. Thấy tôi đi qua, nó tru thảm thiết như cầu cứu. Tôi năn nỉ cho nó làm bạn với con Mực, mấy cũng mua nhưng chị ta lắc đầu khinh khỉnh rồi bỏ bao chở đi. Chồng tôi đi tìm các chỗ bán chó nhưng không thấy...

Con Vàng, con Mực lại biến.

Vợ chồng chị đi quanh mấy xóm vừa gào con vừa bắn tin chuộc lại. Đã mấy lần bị mất nhưng con Vàng không bị thịt. Nó đã quá già, thịt dai nhách. Đợi chuộc tiền gấp ba. Nhưng lần này nó đang ở trong tay một gã không bình thường, Tuệ anormal.

Tuệ anormal ở xóm bên, sống cách biệt và cô đơn trong khu vườn xô bồ, rậm rạp. Gã không vợ con, ít nối kết, chơi với đá. Với gã, đó là những khối vô ngôn dễ chịu, tạo tác tuyệt vời của thời gian và mưa nắng. Chủ nhân cũng như vườn, tóc dài thấu vai, râu ria ngập mặt. Tôi đã thấy gã một lần ở chợ. Gã đi từ đầu đến cuối chợ, mua không cần trả. Nói bao nhiêu đưa bấy nhiêu nhưng chẳng ai dám bán đắt cho gã. Tướng như anh mổ lợn, mặt ngầu như tướng cướp, bí mật và cô đơn như một ốc đảo. Người ta sợ sức mạnh và nỗi cô đơn ấy.

Con Vàng, con Mực quả đang ở trong nhà Tuệ anormal. Nghe tiếng chủ, nó sủa cuống cuồng nhưng cổng vườn không mở. Gọi thì đá thưa. Sợ gã làm thịt con chó, ông chồng nâng giá chuộc từ một triệu lên hai triệu nhưng Tuệ anormal lắc đầu. Gã bảo chó tự động vào vườn gã. Gã chỉ thả với điều kiện nữ chủ nhân Mộng viên vào làm khách nhà gã, không đi kèm với ai.

- Sao không phải anh mà là em? - Ông chồng nghi ngại.

- Không làm theo hắn, con mình sẽ chết - Chị rơm rớm nước mắt.

- Hắn không bình thường...

- Hắn điên, em cũng điên. Hắn không mần chi em được mô! Anh cứ ngồi ngoài, có chi em gọi di động hoặc la lên.

Anh chồng xiêu lòng gọi tôi tới cho có đồng minh. Hai người đàn ông ngồi ngoài cổng, còn chị vợ bước vào Thạch viên. Đúng là Thạch viên. Giữa ngổn ngang cây cỏ, đá đứng ngồi nhấp nhô.

Tiếng chó rộ lên như một dàn đồng ca rồi im bặt. Thời gian dài ra đến nghẹt thở. Kim đồng hồ nhích từng chút khó nhọc. Điện thoại câm lặng. Anh chồng gọi vào thì chị vợ trả lời "An tâm". Gọi nữa thì cáu: "Ai ăn thịt mô mà sợ !". Bóng chị lay động trong cái khung chết tiệt ấy cho đến khi mặt trời đứng ngọ.

Chị trở ra không chỉ với con Vàng, con Mực, mà cả con Lu tồ tưởng đã thành món cầy tơ. Tôi ngây người nhìn chị sóng bước thanh thản bên lũ chó hạnh phúc. Sẵn máy ảnh, tôi chộp khoảnh khắc ấy. Chộp luôn Tuệ anormal đứng dưới bụi tre nhìn theo, bởi tôi phát hiện trên đầu gã một chùm hoa tre vàng nhạt nở bung như pháo hoa. Người ta bảo đời người hiếm ai nhìn thấy hoa tre. Tre chỉ ra hoa cuối đời, mà đời tre có khi dài hơn đời người. Nở hoa xong, tre chết.

° ° °

Bức ảnh chụp khoảnh khắc ấy đổi được một câu chuyện dài.

- Năm đó tôi mười lăm tuổi - Tuệ anormal mở đầu - Nghỉ hè, cha bắt tôi chở cái lồng sắt theo ông. Cha tôi làm nghề buôn chó. Ông nói tôi có học hành mấy cũng không kiếm tiền dễ như nghề buôn chó sống bán chó chết. Chúng tôi rảo khắp hang cùng ngõ hẻm mua chó. Có chủ thì mua. Không chủ thì quật gậy sắt. Chó sống, chó chết, chó bệnh gì mua tất. Chó bệnh hay trúng bả thì người ta cho như tống đi. Chó chết da bọc xương thì vặt sạch lông, chôn xuống cát một ngày rồi bới lên. Trương phình, mập mạp tròn quay, thui rơm vàng ươm hấp dẫn. Một vốn bốn lời.

Chiều đó, cha con tôi đi vào một xóm nghèo. Nghèo người ta mới bán chó, mới thả rong chó. Bọn chúng đều ốm giơ xương, nuôi để dọn cứt trẻ nhỏ. Đến cuối xóm, ngang qua một căn nhà trống hoác thì có tiếng chó sủa. Một người đàn bà đứng ở sân nhìn ra. "Đổi chó lấy tiền đong gạo đi!" - Cha tôi gạ. Con chó vá đánh hơi mùi chết, sủa điên dại. Người đàn bà nhìn nó rồi nhìn cha tôi, lưỡng lự. Ông bồi thêm: "Một ký hơi hai chục nghìn. Con đó khoảng dưới chục ký. Đổi lấy gạo cho con ăn".

Ông vừa dứt lời, một con bé ào ra ôm chó chạy vụt đi. "Bán không, tôi giúp?". Người đàn bà gật. Cha ra hiệu cho tôi đuổi theo con bé. Con chó dài ngoằng, con bé thì gió thổi bay nên tôi dễ dàng bắt kịp nó. "Tau không bán!" - Nó hét rồi thả con chó "Xuỵt, cắn thằng ác ôn đi Vá!". Con chó táp ngay bắp chân tôi. "Chạy đi, Vá !" - Con bé lại ra lệnh, còn nó xông vào cản tôi, đu tấm thân bé bỏng lên người tôi và ngoạm tôi bằng tất cả sức mạnh của những chiếc răng nhọn hoắt. Tôi tát liên hồi lên mặt, nó vẫn không thả. Cha tôi xuất hiện.

Ông huơ chiếc thòng lọng ra, lập tức siết lấy cổ con vật trung thành đáng thương không nỡ bỏ chủ. Tấm thân gầy nhom của con bé như tan thành tiếng thét đớn đau nhọn hoắt. Con chó của nó trong rọ cũng tru lên, chảy nước mắt. Cha tôi quẳng đại cho người đàn bà hai trăm bạc rồi hối tôi đạp xe đi. Con bé ghì lồng sắt lại. Đụng vào, nó cắn còn hơn chó dại. Tôi đạp, con bé vẫn không buông tay. Hết hai con đường, phải tránh chiếc xe lớn, con bé mới thả tay nhưng vẫn kiên trì đeo bám, dẫu khoảng cách cứ xa dần. Không hiểu sao vòng xe của tôi không còn hăm hở nữa. Nó chậm dần, chệnh choạng vì tôi cứ ngoái lại. Lần cuối cùng ngoái lại, trời sắp tối. Con bé chỉ còn là cái chấm nhỏ trong chiều.

Đêm ấy tôi không ngủ được. Vết cắn sưng nhức. Hình ảnh con bé như dại như điên vì mất chó cứ luẩn quẩn trong đầu. Trời sắp tối, chạy xa nhà đến năm cây số, nó có về nhà được không ? Nó có bị xe cán?... Gần sáng, tôi rón rén xuống nơi nhốt chó. Con chó của nó vẫn còn trong rọ sắt, đúng năm giờ cha tôi sẽ hóa kiếp nó, cùng những con khác. Tôi nhấc rọ, bỏ lên xe đạp, chạy lui trở lại...

- Rồi sao? - Tôi bị hút vào câu chuyện.

- Đến đầu xóm, con chó mừng rỡ sủa vang. Nó nhận ra chốn thân quen. Từ trong tối, một cái bóng nhỏ vọt ra. Chính là con bé ấy. Nó không ngủ, nhào tới ôm lồng chó.

- Thả nó ra, muốn gì tau cũng chịu - Con bé năn nỉ.

- Tới coi mi có về thấu nhà hay không chớ không phải tới trả chó. Tiền mẹ mi lấy rồi. Con chó này thuộc về tau - Tôi vờ quay xe.

- Tau sẽ tìm cách trả tiền lại.

- Tau không lấy tiền.

- Rứa mi lấy chi?

- Lấy mi - Tôi trêu - Mi mấy tuổi?

- Mười ba.

- Răng ốm nhách rứa? Đói lắm hả? Ăn thịt chó không? Làm vợ tao, vài ngày tao cho ăn một đùi chó là mập căng ra.

Con bé rùng mình, lắp bắp:

- Mi giết chó là ác lắm.

- Chó cũng như gà heo bò thôi. Nuôi để ăn thịt. Ác chi mà ác.

- Chó là con vật tình nghĩa. Hai cha con mi ác như nhau.

- Rứa thì thôi - Tôi trở đầu xe.

Con bé lập tức nhào tới, bấu chặt cái lồng chó. Con Vá trong lồng cũng cào cấu, rên rỉ.

- Chịu không? Tau đi đây - tôi khoái chí bỏ chân lên bàn đạp.

- Chịu - Con bé đầu hàng.

- Ngoéo đi - Tôi giơ ngón tay út, nó giơ theo. Tôi lồng ngón tay mình vào tay nó rồi dùng tay kia chặt rời.

- Từ rày mi là vợ tao. Lật lọng tao bả chết chó mi.

- Thả chó tau ra!

- Dễ rứa hả? Muốn thả hun chồng miếng đã - tôi chìa má - Càng lúc, tôi thấy trò chơi càng thú vị.

Nó đứng yên liếc con chó trong rọ.

- Hun chứ không phải táp như chó đâu nghe! Mau lên kẻo tau đổi ý.

Nó đến bên tôi, tần ngần. Tôi cúi xuống vì cao hơn nó cả cái đầu. Nó kề má tôi, nhăn mặt hít nhẹ. Còn tôi thoáng một cảm giác thật khó tả.

Sau đó, tôi còn quay lại xóm nhiều lần nhưng nó lẩn như chạch. Một lần tôi đón được nó ở đầu xóm khi nó đi học về, và giở trò đe dọa, đòi hôn. Con bé không nói không rằng, quật cái cặp vào mặt tôi rồi bỏ chạy.

Tôi thích con bé ấy. Quyết liệt dữ dằn nhưng lại đa cảm. Gầy gò xanh xao nhưng rất dễ thương. Không lẫn vào ai bởi một nốt ruồi đen dưới khóe mắt phải, như một giọt lệ không rơi.

Rồi chính nó lại điều khiển tôi. Nó ra giá một con chó tôi trộm của cha trả về cho chủ (để chính mắt nó thấy) được đổi một lần gặp mặt. Tôi trả đến con thứ ba thì bị cha phát hiện, đánh một trận la lết. "Tau đánh cho mi chừa cái thói mê gái khốn kiếp. Con nhà đổi chó mà thả chó là lộn sân rồi! Người còn ăn thịt nhau huống gì thịt chó! Mấy anh chị mi không đứa nào giống mi. Có nước đói thôi con à".

Suốt tuổi thiếu niên tôi rình nó. Mười lăm tuổi, con bé trổ giò lớn vùn vụt. Vừa học vừa bán xôi với mẹ mà vẫn học giỏi và kiêu hãnh như bà hoàng. Ánh mắt nó nhìn tôi lạnh băng. Khóe miệng mím chặt. Tôi sẵn sàng đổi một lồng chó lấy nụ cười của nó nhưng nó không hề cười với tôi. Nó cũng không sợ tôi vì nó biết sức mạnh của mình. Tôi mà giết chó nó, nó sẽ giết tôi với cách của nó. Thế là tôi cứ lẽo đẽo theo nó như một con chó. Chỉ để nhìn thấy nó.

Cái tình thơ dại buồn cười ấy không tàn theo năm tháng mà cứ lớn dần lên. Tôi nhìn nó đẹp lên từng ngày và xa vời vợi.

Mười tám tuổi, nó có vệ sĩ. Một thằng hơn tôi cái khoản dẫn chó đi ị và không có mùi máu chó tanh tao bám vào từng

milimét thịt da như tôi. Cha tôi cũng có mùi đó. Đậm đặc. Tôi chặn đánh mấy bận tóe máu nhưng thằng kia không hề ngán. Con bé đi đâu, nó theo đó. Hai đứa còn phối hợp để trêu tôi. Tôi vạch kế hoạch thịt thằng đó...

Gã đột ngột hạ giọng như tiếng thì thầm: "Ông có bao giờ thấy người hóa chó chưa?".

"Buổi sáng ấy, cha tôi thức dậy vào bốn rưỡi sáng như mọi khi. Hai mươi năm làm nghề buôn chó, giết chó, đồng hồ sinh học của ông chính xác hơn cả đồng hồ thực. Ông bỏ chân xuống giường là đồng hồ báo thức reo. Ông dậy có nghĩa là cả nhà phải dậy và mười con chó phải chết. Đúng mười con. Tẩm ướp, pha phách, chế biến có nghề có ngón tạo thành thương hiệu quán Mười con cầy. Khách nườm nượp, xe hơi sắp hàng, thấy treo chữ Hết to tướng mới quay về.

Nhưng sáng ấy không nghe ông quát tháo. Nhìn qua giường ông, tôi thấy ông ngồi chồm hổm, giơ chân gãi kịch liệt rồi thè lưỡi liếm người. Dạo này tôi hay lén dòm cha... Ông như bị chó nhập, mỗi ngày thêm giống chúng từ điệu bộ đến dáng vẻ. Sáng nay, ông dậy, làm động tác rùng rùng lắc lắc như rũ lông rồi đi ra vườn. Tôi đi theo ông, thấy ông ghếch chân lên cây cau đái rồi vục mặt xuống thau nước cạnh đó uống và đi ra cổng... Tôi kêu toáng lên. Cả nhà đổ ra, chứng kiến cha tôi băng qua đường ở vạch trắng hẳn hoi nhưng bằng bốn chân, lưỡi thè ra...

Cha tôi bị nhốt trong căn phòng trên sân thượng. Dưới nhà, anh tôi, mẹ tôi vẫn bán thịt chó. Một thời gian sau ông chết... Còn tôi bỏ nhà đi...".

Tuệ anormal im bặt. Ngừng luôn ở đó. Tôi đến, thấy cổng vườn khép chặt. Khép một câu chuyện dở dang. Một mối tình dang dở.

Chùm hoa tre nở bung như mây đầu ngõ giờ đã tàn, khô quắp. Thân chuyển qua màu ngà, bạc phếch, sắp chết. Cũng đã đến ngày tôi rời Huế. Chủ nhân Mộng viên tiễn tôi bằng một bữa gỏi hoa hồng. Không kìm được, tôi hỏi chị:

- Tuệ anormal hình như đi đâu. Không chào được hắn.

- Dạ... Đi vắng. Ông ta còn định bán vườn. Con người rứa mà tốt. Ông ta đã mua lại con Lu tồ từ người chủ nhẫn tâm, giờ gửi lại tôi nuôi. Đừng coi chuyện chó là chuyện nhỏ. Nhìn cách con người đối với con vật thì biết ngay người đó thế nào - Chị kết luận.

- Còn cái hôm chị vào vườn, ông ta nói gì? - Tôi tò mò.

- Mắc cười lắm. Ông ta chỉ hỏi chuyện chó. "Chị có nhớ tên con chó chị nuôi hồi nhỏ không?" - "Nó tên Vá" - Tôi trả lời - "Làm ơn kể tôi nghe chuyện về nó". Tôi kể về con Vá. Ông ta ngồi nghe. Sự im lặng của ông ta buộc tôi nói rồi miên man không dừng được. Tuổi thơ ùa về. Ngày tháng cũ hiện ra. Con Vá mà tôi thương, cái thằng mà tôi ghét, chặng đời tôi trải qua... Tới khi dừng, mới biết tôi đã nói hai giờ liền. Ông ta là một người biết nghe chuyện. Chăm chú. Trầm ngâm. Không hỏi. Không ngắt. Xong chuyện, ông ta cám ơn, gửi lại tôi con Vàng, con Mực, cả con Lu tồ. Đúng là ở với đá, lần lần cũng hóa đá, thâm trầm, ít nói và bí mật như đá. Nhưng ông ta là người tử tế, tôi biết - Chị khẳng định.

° ° °

Từ dạo đó, tôi không về lại thôn Kim Long, cũng không gọi điện hỏi thăm thằng Tí về Tuệ anormal, về chị, về chó, về tre. Tôi sợ những kết cục. Tôi đã có một câu chuyện dở dang để họ cùng sống trong đó. Thỉnh thoảng buông viết, tôi liếc nhìn Tuệ anormal trong bức ảnh chụp hoa tre. Ánh mắt gã trầm tĩnh, thanh thản. Ánh mắt của một người yêu vô lượng, một gã đồ tể buông cây dao trong tâm.

Tôi tin gã không còn lẽo đẽo theo chị như con chó trong phần đời còn lại của mình. Tình yêu gã như cây tre nở hoa, kết tụ đằng đẵng, bung nở rồi chết.

Rồi hết.

Hài, hãi

Thị Mẹt ném cặp vé trước mặt Ngơ: "Anh liệu mà nâng cao văn hóa tí chút, suốt ngày sấp mặt vào bia rượu rồi đến ngày lú lấp..."

Ngơ cầm cặp vé giá tám chục ngàn đồng, mắt trợn ngược: Chu cha! Mụ béo nhà mình dám chi tám chục ngàn đồng để nâng cao văn hóa cho chồng. Mọi ngày chỉ toàn quan tâm cá ngựa, tắc kè, hết dâm dương hoắc đến thập toàn đại bổ...

- Xem cái gì đây mình ơi?- Ngơ ngọt ngào tha thiết.

- Xem hài!

Ngơ giật mình đánh thót:

- Bữa trước đã xem hài rồi.Ti vi tối ngày hài, bây giờ còn đi xem nữa, điên à?

- Không xem hài thì xem cái gì? Các nhà hát bây giờ toàn diễn hài thôi. Tối nay toàn danh hài đấy.

Hu hu! Ngơ còn lạ gì danh hài nữa. Danh hài A gọi là danh hài lúm búm. Được mỗi võ lúm búm lỗ miệng mà diễn hoài diễn hỉ, lúm búm từ thủa tóc còn xanh, lúm búm đến ngày bạc tóc.

Danh hài B gọi là danh hài "ối giời ơi!", hễ cứ nhảy ra sân khấu là "ối giời ơi", chưa ai làm gì cứ nhảy dựng lên "ối giời ơi". Không cần nội dung, miễn cứ trương gân cổ lên mà "ối giời ơi" cho hết vở.

Danh hài C gọi là danh hài hát nhái, cứ đặt lời linh tinh những bài hát nổi tiếng, nói linh tinh, nhái linh tinh. Nhái từ thủa 60 cân đến khi 38 cân rưỡi, chỉ còn một nắm xương tàn vẫn múa may quay cuồng và nhái.

Danh hài D gọi là danh hài "ô pê ra rởm". Hơi một tí là phồng mang trợn má cất một tràng ô pê ra rởm nghe đến sởn gai óc.

Danh hài Y gọi là danh hài nhảy. Chẳng biết nóng ruột thế nào mà cứ ra sân khấu là nhảy dựng lên, hét ngược lên.

Còn danh hài Z thì chết cười, ấy là danh hài pê đê, mỗi việc uốn uốn éo éo, ẽo à ẽo ợt, nói chua lòm, diễn chua lòm mà cứ đeo lấy sân khấu hài không chịu bỏ.

Ngơ không đi đâu, đi chỉ mua cái bực mình thì đi làm gì!

Thị Mẹt cười cái xoẹt, vỗ về.

- Ngơ yên tâm đi! Kỳ này sân khấu hài đổi mới toàn diện.

Sân khấu hài đây rồi. Màn mở, vỗ tay. Ô có ai đâu mà vỗ tay? Cứ vỗ tay, thế nào cũng có người. Kìa, MC ra rồi. Vỗ tay. MC vừa thay kiểu tóc, từ tóc ổ rơm chuyển qua tổ quạ. Vỗ tay, hoan hô tóc tổ quạ! Rồi, danh hài A ra rồi. Đấy đã bảo mà, lúm búm vẫn hoàn lúm búm.

Thị Mẹt huých cùi chỏ vào mạng sườn Ngơ đau nhói:

- Ngồi yên xem đi! Hôm qua lúm búm thế này, ngày mai lúm búm thế khác, anh không thấy à?

- Hài là lúm búm à?

- Không biết. Đến đây để cười không phải để hỏi!

Cười đi, thiên hạ cười ầm đó kìa! Không cười, người ta cho mình là ngu. Ôi thôi bỏ mẹ, khéo không mình ngu thật. Thiên hạ cười ầm, trong khi mình méo xệch. Cười! Cười được rồi, ha ha ha, hi hi hi! Danh hài B "ối giời ơi", ra rồi! Cười đi!

- Hài là ối giời ơi à?

- Không biết, cười đi! - Thị Mẹt trừng mắt.

Một hai ba, cười! Cấm hỏi. Danh hài C đang hát nhại, vẫn bài cũ rích, cười! Danh hài D phồng mang trợn mắt ô pê ra rởm, cười! Danh hài Y đang nhảy như ngựa, cười! Danh hài Z uốn như vượn cái, cười! Hài là cười mà, không cười còn ra cái gì.

- Này! - Ngơ huých Mẹt - Em có hiểu gì không?

- Chả hiểu gì. Nói vừa nhanh vừa ngọng, có nghe gì đâu mà hiểu.

- Không hiểu sao cười?

- Thiên hạ cười cả, chả nhẽ mình câm miệng hến.

- Em có biết thiên hạ cười cái gì không?

- Cái gì?

- Ha ha ha, ối giời ơi là vô lối! Hô hô hô, ối giời ơi là vô duyên!

Thị Mẹt vỗ tay bem bép:

- A phải rồi! Cười cái trơ, cười cái dơ đấy, anh có hiểu không?

Ủa, sao lại hỏi Ngơ!

Đôi bàn tay bị hun khói đen

Vào một ngày nọ của hai năm về trước, tôi lái chiếc xe máy mới mua từ ngoại ô vào, cơ quan tôi nằm trong thành phố.

Đúng lúc đi đến đường Đức Thuận ở quận Tân Hoa, tôi gặp một trận hỏa hoạn xảy ra tại một khu nhà tập thể. Hình như ngọn lửa bốc lên từ tầng 9, khói đen mù mịt tỏa ra từ ô cửa sổ, lúc tôi đến đó ngọn lửa đã lan rộng ra các căn hộ khác.

Từ xa tôi nhìn thấy thấp thoáng mấy viên cảnh sát cứu hỏa, họ đứng từ trên đỉnh tòa nhà và thả dây thừng xuống tầng 9, giải cứu cho từng người qua ô cửa sổ. Đúng là một tin rất nóng bỏng, tôi vội lôi ngay chiếc máy ảnh thường xuyên đem theo bên người và chụp ngay mấy tấm ảnh cảnh sát cứu hỏa cứu dân.

Về nhà tôi đã đi rửa mấy tấm ảnh đó, trong đó có một tấm ảnh chụp cảnh viên cảnh sát người thắt dây an toàn lơ lửng trong không trung đang lôi một em bé gái khoảng ba bốn tuổi trong đám khói đen dày đặc ra khỏi hiện trường.

Toàn cảnh bức ảnh đều rất đẹp, duy nhất chỉ có một điểm không được như ý là ở góc ảnh xuất hiện một đôi bàn tay đen vì bị khói hun, làm xấu cả bức ảnh. Thấy vậy tôi đã dùng photoshop xử lí một chút, xóa đôi bàn tay đen đó đi và gửi tấm ảnh cho tòa soạn báo của thành phố.

Mấy hôm sau, trang đầu tờ báo thành phố đã cho đăng tấm ảnh tôi chụp đó, còn có thêm hàng chữ thuyết minh "giữa lúc lâm nguy thấy anh hùng", kèm theo còn có một bài viết tuyên dương, ca ngợi tinh thần quả cảm, anh dũng của cảnh sát cứu hỏa thành phố.

Không ngờ tấm ảnh tôi chụp trong lúc vô tình đó đã gây được ảnh hưởng lớn trong thành phố. Sau đó không lâu lại được phóng to và dán ở bản tin tuyên truyền của ủy ban nhân dân thành phố, trở thành một tác phẩm điển hình nêu gương người tốt việc tốt.

Ngay sau đó, biên tập viên của tờ báo đã gọi điện thoại cho tôi và bảo: "Bức ảnh anh chụp đã gây được ảnh hưởng lớn trong dân chúng, tòa soạn đang chuẩn bị gửi đi tham gia cuộc triển lãm ảnh báo chí của tỉnh, rất có hi vọng là sẽ đoạt giải, anh rửa thêm vài tấm nữa nhé".

Tôi nói: "Cảm ơn cậu nhé. Nếu đạt giải thật thì tớ sẽ chiêu đãi cậu một bữa ở nhà hàng Yến Xuân".

Sau đó nửa tháng, vào một buổi chiều, tôi dắt xe máy ra khỏi chỗ để xe của cơ quan, chuẩn bị ra ngoài có việc thì phát hiện bánh xe đã xẹp lép không còn chút hơi nào. Bực mình tôi chửi thầm, chất lượng sản phẩm bây giờ tệ quá, xe mới mua mà đã thủng săm. Không còn cách nào khác, tôi đành phải dắt xe ra ngoài để vá.

Hôm sau, vừa dắt xe ra ngoài cổng công ty, tôi lại phát hiện ra xe bị hết hơi. Tình hình sau đó còn tệ hại hơn, cứ dăm ba hôm xe tôi lại bị người ta chọc thủng lốp. Không biết ai có thù oán gì với tôi mà cứ nhằm bánh xe tôi mà chọc nhỉ?

Tôi quyết tâm sẽ phải tìm ra thủ phạm. Và thế là tôi chọn một vị trí ngồi rất hợp lí trong phòng làm việc, vừa viết bài vừa theo dõi nhà để xe. Hai ngày liên tục, không phát hiện ra đầu mối gì, đến ngày thứ ba, vẫn chưa bắt được kẻ đã chọc thủng săm xe.

Đến chiều, trời bắt đầu có mưa lất phất. Tôi nghĩ, trời mưa thế này, chắc nó chẳng đến đâu. Đang định quay người bỏ đi thì tôi nhìn thấy một cậu bé ăn mặc nhem nhuốc lén lút mò vào nhà để xe. Nhìn thấy bốn xung quanh không có ai, nó lôi ngay ra một cái dùi và chọc thẳng vào lốp sau xe máy của tôi mấy nhát với vẻ rất căm hận.

Lốp xe vừa mới vá, giờ lại bẹt dí. Tôi định hô lớn, nhưng lập tức kìm ngay lại. Tôi không hiểu, tôi và cậu bé này từ trước tới nay không hề quen biết, tại sao cậu ta lại có thù oán với tôi. Và thế là tôi quyết định sẽ đi theo cậu bé, xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Tôi thấy cậu bé đi dọc theo đường Thủy Tuyền một đoạn rồi rẽ vào một quầy thuốc. Mấy phút sau lại thấy nó đi ra, tay ôm một gói thuốc Bắc trước ngực. Để tránh cho mưa không làm ướt gói thuốc, nó cúi đầu gằm xuống cố để che cho kín. Khi đi qua tấm bản tin tuyên truyền của UBND thành phố, nó nắm một nắm bùn rồi ném thẳng lên tấm kính có bức ảnh tôi chụp.

Hình như chưa hả giận, nó còn xì mũi rồi vẩy ngay lên đó. Rồi nó lại tiếp tục đi, đi qua một đoạn đường khá xa mới rẽ vào một dãy nhà lụp xụp. Tôi biết khu này, chỗ này phần lớn chỉ tập trung người ngoại tỉnh đến thành phố làm thuê hoặc công nhân thất nghiệp.

Cậu bé đẩy tấm cửa rào và bước vào sân, đó là một khoảnh sân cũ nát, chứa toàn đồ phế liệu nhặt trên phố, lon bia, sắt vụn, vải nhựa...Nhìn ngôi nhà nhỏ trong sân đó, ít nhất cũng đã phải có từ mấy chục năm, cột nhà bị khói hun đen bóng...

Tôi đẩy cửa vào thì thấy cậu bé đang lom khom bên bếp lò, bàn tay nhỏ đen đuốc gầy gò đang quạt lò bằng cái quạt mo. Mùi thuốc Bắc tỏa khắp nhà, nằm trên giường là một người đàn ông độ tuổi trung niên người gầy như que củi, có một cô bé chừng bốn năm tuổi đang cho ông ta uống thuốc. Phòng ốc bừa bộn vô cùng.

Thấy tôi bước vào, cậu bé tỏ rõ vẻ sợ hãi, theo bản năng cậu ta lùi ngay vào góc tường. Nhìn thấy tôi, người đàn ông đó gắng sức ngồi dậy, gương mặt xanh xao cố nở một nụ cười, ông ta nhìn tôi rồi bảo, "anh vào đi, mời anh ngồi".

Tôi thực sự không tìm được chỗ nào để ngồi, nhưng rồi cũng đành ngồi lên một chiếc hòm cũ kĩ. Người đàn ông nhìn cậu bé đang đứng ở góc tường, dường như hiểu ra được điều gì: "Có phải thằng Cường lại gây sự gì ở ngoài rồi không?".

Đúng là tôi định tìm cha mẹ cậu bé để mách tội, để họ phải chú ý giáo dục con. Nhưng đứng trước hoàn cảnh này, tôi cố gắng kìm chế vẻ bực mình và bảo: "Không, không có gì đâu".

"Thế thì tốt, thế thì tốt. Tôi cũng chẳng sống được mấy ngày nữa, chỉ khổ nó thôi".

"Mẹ bọn trẻ đi đâu rồi bác?".

"Chết rồi. Chết trong vụ hỏa hoạn năm kia. Nghe nói có một anh nhà báo có chụp một bức ảnh, trong đó có đứa con gái của bà ấy". Người đàn ông đưa mắt nhìn đứa con gái, cô bé sụt sịt vừa khóc vừa kể: "Vụ cháy đó là do cháu gây nên. Cháu thấy đói, bố cháu lại không làm được việc gì, cháu đã tự bật bếp nấu mì tôm ăn. Thế là lửa cháy lan ra". Lời kể non nớt của cô bé tỏ rõ sự ân hận, tự trách.

"Mẹ về đến nhà thì lửa đã lan ra rộng lắm rồi. Mẹ cháu đưa bố và anh ra ngoài cửa sổ trước, rồi lại lôi cháu từ góc tường ra ngoài và giao cho các chú cảnh sát, nhưng sau đó mẹ cháu không ra ngoài được nữa. Vì cứu cháu mà mẹ cháu phải chết, cháu đã hại chết mẹ!". Nghe cô bé kể mà tim tôi đập thình thịch.

Người đàn ông hình như đã chai sạn với mọi thứ, ông ta thở dài rồi nói: "Bà ấy là mẹ đẻ của con bé này, là mẹ hai của thằng Cường. Bình thường thằng Cường chỉ thích gây chuyện với hai mẹ con nó, nhưng giờ thì ổn rồi, nó rất thương em, cũng coi như mẹ nó đã xả thân một lần để cứu nó".

Trên bức tường đối diện là bức ảnh chụp cả gia đình, xộc xệch, nghiêng ngả. Người phụ nữ trong ảnh tầm tuổi trung niên, trông chị rất bình thường, nếu gặp trên đường sẽ thấy chị thật sự không có gì nổi bật. Nhưng trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc đó, chị đã mang hi vọng sống đến cho người có quan hệ ruột thịt và cả người không có quan hệ ruột thịt với mình.

Người đàn ông ngừng một lát rồi nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ, anh đến đây chắc chắn là phải có việc gì. Cậu bé tên Cường nhìn tôi với ánh mắt lo lắng, chờ đợi, hình như cậu định nói gì đó, nhưng mở miệng ra lại thôi. Tôi biết, cậu ta là chỗ dựa duy nhất cho cả gia đình, tôi không thể kể việc cậu đã làm cho bố cậu biết. Em gái cậu còn quá nhỏ, chưa hiểu gì, còn bố cậu cũng đã quá mệt mỏi rồi.

Tôi do dự một lát và nghĩ ra một kế rồi bảo, "Cường trong lúc nhặt phế liệu đã nhặt được của rơi và trả lại người mất. Tôi đến đây để cảm ơn em và bác". Người đàn ông gật đầu với vẻ hài lòng, "nhà này bây giờ chỉ dựa vào đồng tiền nhặt phế liệu của nó để sống cho qua ngày mà thôi".

Tôi rời khỏi ngôi nhà đó mà lòng nặng trĩu. Mưa vẫn rơi tí tách như nước mắt của cô bé em gái Cường.

Đột nhiên, có tiếng người gọi với theo tôi: "Chú ơi, chú đợi cháu".

Quay đầu lại, hóa ra là Cường đang chạy theo tôi. Cậu ta dúi nắm tiền vào tay tôi và bảo: "Tiền của chú, cháu không thể lấy. Cháu có tiền, tiền cháu kiếm cũng đủ tiêu cho cả nhà rồi. Tháng này cháu còn tiết kiệm được 121 tệ 4 hào 5 xu nữa. Lúc đầu cháu rất hận chú, bây giờ thì cháu đã hiểu, chú là người tốt!".

Tôi xoa đầu Cường và bảo: "Cường, cháu không sai, nếu chú là cháu, không những chú sẽ chọc thủng mà còn chọc nát cả săm xe ấy chứ". Cường cười ngượng nghịu và tiếp tục giải thích, "Tấm ảnh và bài viết tuyên truyền trong thành phố đó, không hề nhắc đến tên mẹ cháu, mẹ cháu mới là anh hùng thực sự! Bọn cháu gọi điện cho cảnh sát cứu hỏa, một tiếng sau họ mới đến. Nếu họ đến sớm hơn thì mẹ cháu đã không chết". Trong làn mưa, tôi không thể nói gì hơn, đây là nguyên nhân khiến Cường tìm cách trả thù tôi.

Ngừng một lát, Cường nói với tôi bằng giọng cầu khẩn: "Cho cả mẹ cháu vào nữa, được không chú?". Tôi gật gật đầu.

"Chú có thể giúp cháu được gì không? Cứ nói đi, đừng ngại, cháu là một đứa bé ngoan".

"Chú tìm cho em gái cháu một gia đình nhận nuôi nó, em cháu ngoan lắm. Cháu sợ là cháu không nuôi nổi em gái cháu nữa". Tôi lại gật gật đầu. Thấy vậy Cường nở một nụ cười tươi rói, rồi cậu cảm ơn tôi và biến mất trong làn mưa.

Về đến nhà, tôi đã rửa lại tấm ảnh đó và giữ nguyên ảnh gốc, đôi bàn tay bị khói hun đen đó đã trở thành tiêu điểm của bức tranh, tôi đặt tên cho bức ảnh là: "Sự lựa chọn của mẹ".

Mùa hoa cải bên sông

Đêm xuống. Con thuyền neo lại giữa sông. Ngọn lửa bếp trên mui thuyền hắt một vầng sáng dịu dàng xuống mặt nước. Người trong xóm trại trên bến Chùa không biết con thuyền này từ đâu đến neo lại trên khúc sông này đã hơn một tháng nay.

Hàng ngày những người trong gia đình trên chiếc thuyền ấy làm một công việc là lấy cát rồi bán cho các gia đình trên thị trấn nhỏ bên kia sông đang thi nhau xây nhà. Hơn một tháng không ai thấy những người trên chiếc thuyền lên bờ. Họ đội cát bằng những cái thúng to, đi nhún nhảy trên tấm ván. Khi đến đầu tấm ván nối lên bờ, họ đổ cát xuống bãi cỏ cho người mua, bàn chân không hề chạm mặt đất. Hàng xóm của họ là những chiếc thuyền đánh cá, thuyền chở hàng thuê...

Chủ chiếc thuyền cát là một ông già ngoài sáu mươi, mái tóc dài được búi gọn trên đầu, chàm râu bạc xòa che gần kín bồng ngực vồ lên như tảng đá. Đôi vai ông u lên, đỏ sậm và rạn như vai trâu cày. Cơ thể ông đanh lại như đá tạc, nhưng đôi mắt thì khác, đôi mắt lúc nào cũng u buồn, ngơ ngác như vừa đánh mất một điều gì.

Ông Lư (ông già chủ thuyền) ngồi im lặng trên sàn gỗ của mui thuyền. Bên cạnh ông là một quả bầu khô lớn đựng rượu, một thứ rượu do ôngcất lấy ngâm với củ cỏ gấu, loại củ già đen bóng như sừng. Trước ông là một đĩa cá sông nướng và một chiếc rổ con đựng những con trùng trục đã hấp chín với gừng khô. Chiều nào ông cũng ngồi uống rượu như thế cho tới khuya và không hề động đến một hạt cơm. Chỉ những đêm mưa bão ông mới chịu ở trong chiếc nhà thuyền.

_ Anh cả đâu ? Ông khẽ gọi. Tiếng ông trầm và nặng đổ xuống mặt sông đêm.

_ Dạ bố bảo gì con ? Một người đàn ông gần bốn mươi tuổi trong nhà thuyền chui ra.

_ Mai nghỉ việc, lặn mặt trời thì đi Bãi Yên. Nói chị cả chuẩn bị mọi thứ cho đủ.

Ông nói, người không nhúc nhích, đôi mắt mở to nhìn hút về xa.

Ngày mai cả nhà ông sẽ đi Bãi Yên. Đó là đoạn sông rộng và êm chạy ven chân một dãy núi đá vôi. ở dưới đáy khúc sông đó là mộ người vợ bất hạnh của ông. Thế là đã hơn mười năm rồi. Con sông đổ biết bao nhiêu nước ra biển cũng như ông có biết bao thay đổi trên đời.Vào mùa hè cách đây mười hai năm. Đó là mùa hè đầy bệnh tật và đói kém. Dọc hai bên bờ sông ông qua, ngày nào cũng vọng tiếng kèn đám ma thảm thiết và thấp thoáng sau những lùm tre gầy nhằng, úa vàng là những chiếc cờ tang vật vờ bay. Rồi vợ ông cũng trở thành nạn nhân của mùa hè ghê rợn ấy. Bà để lại cho ông ba đứa con. Đứa con gái hồi đó mới hơn bốn tuổi. Trong suốt ba ngày ròng rã, ông ngồi trên mui thuyền trước xác vợ. Hai đứa con trai ông vừa chèo thuyền vừa dỗ đứa em gái của mình ốm yếu khóc ngặt nghẽo suốt ngày. Ông cập thuyền vào những đám dân cư hai bên sông để xin được chôn cất vợ. Nhưng không một nơi nào chấp thuận. Họ xua đuổi gia đình ông như xua đuổi một thứ ma quỷ chuyên đi gieo rắc cái chết. Họ sợ bị lây bệnh dịch. Ông không còn biết về đâu. Ông sinh ra trên chiếc thuyền này. Ông chỉ biết con thuyền và dòng sông. Đến tối ngày thứ ba, ông ôm xác vợ khóc. Giữa dòng sông mênh mang, con thuyền vật vờ trôi với một ngọn đèn dầu héo hắt trên mui thuyền. Cuối cùng chỉ còn lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi số phận. Ông chôn vợ xuống đáy dòng sông ở chỗ khúc sông rộng và êm nhất. Ông cùng hai đứa con dùng gàu sắt thường dùng để lấy cát đào một cái hố dưới đáy sông và để người đàn bà yên nghỉ ở đó. Họ chở một thuyền đá xanh xếp lên thành chiếc mộ để tránh nước cuốn đi. Đêm đó ông xõa tóc, đốt hương lễ thần sông. Ông đổ hết một bầu rượu lớn xuống sông và nguyền rằng: tất cả những người trong gia đình ông sẽ không bao giờ đặt chân lên mặt đất. Họ sẽ sống một cuộc đời trên sông. Ông luôn luôn nói với con cái rằng: Nếu chúng nó để gót chân chạm vào mặt đất đôi bờ thì trái tim chúng sẽ biến thành trái tim quỷ, chúng sẽ trở thành những con thú độc ác. Hằng năm cứ đến ngày giỗ vợ, dù công việc bận thế nào gia đình ông cũng nghỉ. Ông sắm sửa lễ vật và khi mặt trời khuất núi thì cả gia đình chèo thuyền đến Bãi Yên. Ông xõa tóc và mặc áo, đây là ngày duy nhất trong năm ông mặc áo trừ những ngày đông rét mướt. Sau khi làm lễ ông cùng hai người con trai lặn xuống đáy sông sửa sang lại ngôi mộ. ít năm sau người con trai cả lấy vợ. Cô dâu là con gái một bạn thuyền của ông. Ngày cưới con, ông cho đứa con trai thứ hai bơi chiếc mủng nhỏ đi suốt mấy ngày dọc một bãi sông mời bạn thuyền. Đám cưới được tổ chức ở Bãi Yên với hàng chục chiếc thuyền các loại kết lại thành một chiếc bè lớn.

Đêm hôm sau, khi vầng trăng cuối tháng hiện lên phía ven trời thì chiếc thuyền từ Bãi Yên trở lại bến Chùa.

_ Bố ! Ông nghe tiếng cô con gái út run run gọi ông ở phía sau. Cô ngồi xuống bên cạnh và ôm lấy cánh tay ông- Bố đưa mẹ lên bờ đi. Bố đừng để mẹ ở mãi dưới sông nữa.

Đã bao nhiêu lần cô nói như van lạy ông. Nhưng lần nào ông cũng nhìn cô bằng đôi mắt ngầu đỏ, u uất.

_ Không đứa nào trong nhà này được nói đến điều đó- Ông rít lên- Không đứa nào được giẫm lên lời nguyền của ta.

Nhưng ngay sau đó chính lòng ông đầy đau khổ, giày vò. Ông nhìn con xót xa. Chinh, đứa con gái duy nhất của ông, đã sinh ra trong chiếc thuyền trong dòng sông này. Ngày Chinh ra đời, ông cắt rốn con thả xuống dòng sông và cầu nguyện cho con. Chinh lớn lên khỏe mạnh, dịu dàng và âm vang như dòng sông. Là đứa con gái duy nhất, nhưng cô xông xáo táo bạo hơn các anh cô. Những đêm trăng mùa hạ, cô thích thả mình xuống dòng sông. Cô bơi mềm mại như một nàng tiên cá trong chuyện cổ. Đâu đây có những đàn cá lạ lấp lánh ánh trăng xuyên qua mặt nước bơi theo cô. Thỉnh thoảng cô co người lại, hai tay ôm bó gối để cho cơ thể tuổi dậy thì lóng lánh như một giọt thủy ngân lắng dần xuống đáy sông. Rồi bất chợt, cô ngoi lên khỏi mặt nước gọi bố và cười vang. Ông Lư ngồi trên mũi thuuyền nhìn về phía cô gọi, đôi mắt chợt non tơ đến ngỡ ngàng. Ông không lo lắng gì khi thả cô xuống dòng sông ngay cả mùa nước lớn, nhưng ông lại lo sợ nếu như con gái ông để gót chân chạm vào đất đôi bờ.

Nhưng cô thèm khát đôi bờ. Thuở mẹ cô còn sống, cô vẫn được mẹ cô đưa lên bờ đi chợ hoặc kiếm củi khô trên những bãi vải, bãi ổi ven sông. Sau ngày mẹ cô mất, các anh cô và cô không ai dám bước chân lên bờ. Và thế là hơn mười năm rồi, cuộc đời cô chỉ có con thuyền và dòng sông. Cô thèm khát được đặt chân lên dải đất mịn màng phù sa. Cô muốn được nằm trên thảm cỏ xanh ven đê làng. Có nhiều đêm cô bơi sát vào bờ và khi nghe thấy tiếng lá ngô khua xào xạc, khi ngửi thấy mùi râu ngô non dịu ngọt và mùi cỏ non hăng hăng, người cô lại cảm thấy nao nao, nhịp tim cô dồn dập. Nhưng sau đó cô phải trườn mình quay lại con thuyền ngay khi nghe tiếng mõ gọi của bố. Có một lần cô nhìn thấy xác một người chết trôi qua thuyền. Mặt nạn nhân bị chém nhiều nhát, vết thương đã rữa tỏa mùi tanh nồng nặc. Cô ôm lấy bố run lên: "Trời ơi, ai làm sao vậy bố ? Bố vớt người ta lên bờ đi". "Người trên mặt đất họ giết nhau đấy". Ông Lư trả lời lạnh băng và đẩy cô vào nhà thuyền. Suốt ngày hôm đó cha cô không cho ai chạm vào dòng sông. Ông nói: "Hãy để nước sông đêm cuốn đi mọi bẩn thỉu của mặt đất. Đừng chạm tay vào nước sông cho đến sáng mai".

Một lần khác cô hỏi Sỏi- người anh trai cả của cô: "Anh không thích lên bờ à ?"- "Trên bờ có cái quái gì mà lên"- Sỏi nói- "Cứ ở đây, chẳng phải động chạm đến đứa nào. Làm gì thì làm. Ngày xưa ở trên bờ tao thấy chúng nó suốt ngày cãi chửi nhau."- "Lúc nào anh cũng ngày xưa, thế còn anh Cát ?", cô quay sang người anh trai thứ hai. Cát đang nằm ngủ trên sàn thuyền: "Tao chán cảnh này lắm rồi, cứ như ở tù"- "Mày tưởng tên bờ là thiên đường chắc ? Nhà tù đấy em ạ, gà vịt cũng còn bị tù nữa đấy !". Sỏi nhìn Cát càu nhàu. "Nhưng chắc chắn đó cũng là cái nhà tù rộng rãi hơn cái nhà tù thuyền này !"-"Ai, ai tù mày ? Bố tù mày hay tao, hay con Chinh tù mày ?"- Sỏi thốt lên giọng the thé, Cát thủng thẳng: "Chẳng có ai tù ai hết cả. Ngu dốt nó tù tất cả". Nói xong anh ngửa mặt lên cười. Rồi anh chống tay đứng dậy đi lảo đảo và cười. Rồi tiếng cười vụt tắt. "Trời ơi, - anh kêu lên nức nở- Một ông già độc đoán tự cho mình quyền ngự trị tất cả. Ông bỏ tù chính ông, bỏ tù một cặp đực cái, bỏ tù một thằng hèn hạ như tôi, bỏ tù cả con bé đẹp nhưng mù chữ. Tất cả ỉa đái xuống dòng sông rồi lại nói nước sông trong sạch, lấy nước sông ăn, lấy nước sông uống !"- "Câm đi đồ mất dạy. Bố mà ở nhà bố sẽ giết mày". "Mất dạy hả ? Có đứa nào được dạy dỗ gì đâu mà mất" !

Buổi tối ông Lư trở về. Cô con dâu thì thọt kể lại chuyện cãi nhau giữa hai anh em Sỏi cho ông nghe. Ông nhìn Cát rồi nói: "Mày muốn lên bờ hả ? Được. Tao sẽ chặt đứt đôi chân mày và vứt mày lên bờ để xem mày có phải bò về với dòng sông không ?"- Nói rồi ông cầm lấy lưỡi rìu ấn mạnh vào bắp tay, máu trào ra. Ông lấy lưỡi rìu lau máu và chém phập vào mạn thuyền: "Hày nhìn lưỡi rìu đi. Máu tao đã chảy ở đó. Sáng mai mày hãy trả lời xem mày có thích lên bờ không?"

Rồi Cát cũng không lên bờ. Con thuyền lại tiếp tục các công việc của nó. Thế rồi một mùa xuân lại đến. Chinh đã lên tuổi mười bảy. Một buổi sáng thức dậy ra mạn thuyền vo gạo, cô bỗng thấy trên bãi sông Bến Chùa, một thảm màu vàng tươi, một màu vàng xôn xao, ấm áp ùa vào mắt cô. Hoa cải gặp gió ấm đêm qua đã bung nở. Mỗi khi có ngọn gió chạy qua, cả bãi hoa vàng rợn lên như sóng. "Đẹp quá"- Chinh khe khẽ thốt lên. Cái rá gạo từ từ tuột khỏi tay cô trôi theo dòng nước. Suốt cả ngày hôm đó cô không thể nào rời tâm trí khỏi thảm hoa vàng kia. Một cái gì náo nức vẫy gọi cô. Cô đã bước sang tuổi mười bảy. Thỉnh thoảng có đêm thức giấc, cô cảm thấy một cái gì chập chờn, quấn quít ở đâu đây. Không phải tiếng nước sông chảy trong đêm, không phải tiếng reo của ngọn lửa, không phải hương ổi chín từ bãi sông đưa lại, cũng không phải tiếng gọi nhau của bầy chim ri từ những lùm dứa dại ven đê. Một cái gì đấy làm cô đang chải tóc chợt dừng tay. Cái đó chợt đến, chợt đi, chợt rời ra, quấn quýt.

Một hôm, sau bữa cơm chiều, cô nói với bố là cô đi thả lưỡi câu. Ông Lư chìu con và dặn: "Đi về sớm, trời lạnh đấy". Cô vội vã cởi dây thừng neo chiếc thuyền mủng. Cô không thả lưới mà bơi mủng vào bờ. Cô cắm mủng ở đó và đi về phía bãi cát. Đêm lạnh nhưng trời có trăng. Cô ngồi xuống bên cạnh luống hoa. Đôi tay nâng khẽ những chùm hoa cải ướt sương. Một ngọn gió lướt qua những bông hoa đong đưa chạm vào má cô. Người cô run lên. Những bông hoa nhảy múa và trò chuyện với cô. Cô khẽ áp đôi môi mình vào hết chùm hoa này đến chùm hoa khác. Bỗng cô nghe tiếng mõ tre từ chiếc thuyền cái. Tiếng mõ được quy định thay tiếng gọi nhau của những người sống trên sông. Một lúc sau tiếng mõ lại vang lên. Chinh cuống quít, cô quơ tay đứt những chùm hoa cải. Lần thứ ba, tiếng mõ nghe gấp và chói. Cô biết bố cô đã nổi giận. Cô ôm bó hoa gãy nhàu chạy xuống bờ sông. Vừa ngồi vào mủng, cô vội gõ trả lời và hối hả bơi về thuyền. "Mày đi đâu mà không trả lời". "Con tưởng bố gọi anh cả". Ông im lặng, nghi ngờ nhìn cô.

Rồi đêm sau cô lại tìm cách lên bờ. Và trước khi trở lại thuyền, cô lại ngắt những chùm hoa cải đem về. Nhưng đến đêm thứ ba thì có người phát hiện ra việc làm của cô. Đó là một chàng trai chừng ba mươi tuổi mặc một bộ quân phục đã cũ. Những ngày trước đó bà mẹ chàng trai thường xuống bến sớm và phát hiện những luống hoa cải bà để giống cho vụ sau bị ai đó ngắt nham nhở từng quầng. Bà ca thán với con và chàng trai quyết rình bắt cho được kẻ phá hoại. Khi Chinh đang quỳ trước đám hoa cải vừa vuốt ve chúng vừa thì thầm trò chuyện thì nghe tiếng quát khẽ nhưng rất gắt của chàng trai. Cô giật mình hoảng hốt quay lại, và vẫn trong tư thế quỳ, cô ngước mắt lên nhìn chàng trai, người run lên vì sợ hãi. Cô không khái niệm đuợc sự sai trái do việc làm của mình, mà sợ hãi vì trước cô trong đêm trăng lạnh là một người lạ.

_ Cô là ai? Cô làm gì ở đây ?

Chàng trai hỏi và bước lại gần cô. Cô lúng túng đứng dậy. Chợt những làn mây mỏng tan đi. ánh trăng trong veo đổ tràn gương mặt cô. Bây giờ thì đến lượt chàng trai giật mình. "Đẹp quá !". Anh thầm kêu lên. Sao trong đêm tĩnh lặng trên bãi sông ở một làng quê hẻo lánh này lại xuất hiện một người con gái đẹp như thế ? Chiếc áo tối màu và ánh trăng làm ngời lên đôi bàn tay, cái cổ thon và gương mặt đẹp. Đôi môi cô khẽ mím lại còn đôi mắt thì mở to. Chàng trai hồi hộp, liếc nhanh cơ thể cô và nhận ra dưới lớp trăng mỏng, dưới lớp áo tối màu, là tuổi dậy thì nóng hổi, dịu dàng và phập phồng thở.

_ Em ở đâu đến ?- Chàng trai nói bằng hơi thở. Giọng nói và gương mặt đàn ông đầy độ lượng của anh đã làm cô hết sợ. Cô mỉm cười nhìn xuống dòng sông, ở đó tỏa một quầng sáng đèn dầu. "à", anh chợt hiểu. Hàng tuần về thăm mẹ, anh vẫn thấy chiếc thuyền cát ấy neo ở bến sông làng anh. Biết vậy nhưng anh vẫn hỏi lại:

_ Em ở dưới thuyền à ?

Cô gật đầu.

_ Em thèm ăn rau cải à ?

Chinh bật cười. Nụ cười ngộp lên người anh. Anh thấy mình mê đi trong khoảnh khắc.

_ Thế em muốm gì ? Anh lúng túng hỏi.

Chinh không trả lời mà giơ một nắm ngọn cải nhiều hoa ra trước anh.

_ Hoa cải ? Em thích hoa cải?- Anh ngạc nhiên hỏi. Cô gái lại gật đầu.

_ Em về đây. Bố em gọi !

Anh bỗng hoảng hốt sợ cô biến mất. Anh đứng lặng nhìn cô và rồi vội vã ngắt những chùm hoa cải. Chinh nhận bó hoa cải từ tay anh rồi quay người đi xuống bến.

_ Này em !- Chàng trai chạy theo- Tên em là gì?

_ Chinh.

_ Anh là Thao. Nhà anh ở kia kìa. Mai em lên nhé. Hoa cải nhà anh đấy.

Chinh mỉm cười gật đầu và đi xuống bến. Anh nhìn theo. Đến lúc này anh mới nhận ra mái tóc như thiên thần của cô. Anh ngửa mặt lên trời. Có lẽ mái tóc ấy đã từ vầng trăng chảy xuống.

Sáng sau, Thao dậy sớm. Suốt đêm qua hầu như anh không ngủ. Anh nghe tiếng bà mẹ ca thán dưới bếp: "Không biết đứa nào lại phá luống hoa cải đêm qua". Thao mỉm cười sung sướng. Anh chạy theo con đường nhỏ xuống bờ sông. ở giữa sông, chiếc thuyền của gia đình Chinh nằm bình yên trên mặt nước. Một ngọn khói xanh tỏa ra từ con thuyền lặng lẽ tan xuống mặt sông như sương. Thao đứng trên bờ hồi hộp đợi, nhưng không thấy bóng một người con gái nào. Chỉ có hai người đàn ông đang loay hoay làm gì đó trên mui thuyền. Hay là đêm qua anh nằm mơ. Có phải thật sự đêm qua anh đã gặp một người con gái như thế không? Thao chờ mãi và cuối cùng anh buồn bã trở lại bãi hoa cải. Bên luống hoa vẫn còn in những dấu chân. Và cạnh đó là những cánh hoa cải rụng lấm tấm vàng.

Rồi một đêm sau đó ít ngày, Chinh lại chèo chiếc mủng nhỏ lên bờ. Họ đứng nhìn nhau trong ánh sáng mờ mờ của trăng bị mây mỏng che khất. Họ chưa biết gì về nhau nhưng cả hai đều nhận thấy có một cái gì đó mỏng, trong suốt đang quấn vào họ như tơ nhện.

_ Bố em đi rồi- Chinh thì thào.

_ Đi đâu?

_ Bố đi có vệc mấy ngày tận cuối sông.

_ Đêm nay em ở lại trên bờ vớio anh nhé. Em đừng về.

_ Bữa trước ở dưới thuyền em nhìn thấy anh, nhưng em không dám ra. u anh nhìn thấy em anh gọi thì bố em giết chết em.

_ Sao lại giết? Thao hỏi và bật cười.

_ Thật đấy. Cô nói và nhìn anh bằng đôi mắt buồn, rồi cầm tay anh đi về phía bãi hoa. Họ ngồi xuống giữa những luống hoa cải. Hơi thở họ phả nóng mặt nhau. Xung quanh họ hoa cải vàng lấp lánh dưới trăng.

_ Anh yêu em ! Anh nói như cố gắng hết sức mình. Cô nhìn anh lặng lẽ như không hiểu điều anh nói. Anh nâng gương mặt cô lên.

_ Anh yêu em.

Chinh vẫn im lặng. Gương mặt cô như đang ngủ trong lòng đôi bàn tay anh. Anh cúi xuống hôn cô và thấy cô rùng mình. Đôi môi cô khẽ mím. Cô không biết đó là tình yêu. Cô chỉ thấy rằng ngực cô như bị nén chặt. Người cô bừng nóng. Cô cảm thấy hơi nóng của mẹ cô từ những năm tháng xưa đang tỏa vào cô. Cô vội đứng dậy. Thao ngơ ngác đứng theo. Bỗng cô ôm lấy anh khóc nức nở. Một lúc sau, cô ngước lên nhìn anh và hỏi:

_ Anh là người mặt đất à?

_ Trước đây, anh là một người lính- Anh nói.

*

**

Trời mỗi ngày một ấm lên. Những cánh hoa cải rụng xuống mỗi ngày một nhiều. Rồi đến một hôm anh giật mình nhận thấy hoa cải đang rụng gần hết, chỉ còn lại những bông nở muộn. Anh cứ cảm thấy rằng khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống thì Chinh sẽ biến mất.

_ Em phải ở lại đây với anh. Em sẽ ở nhà anh với mẹ. Em không đuợc đi đâu cả.

Cô nhìn anh lắc đầu. Anh rút trong túi ra một tờ giấy đưa cho cô.

_ Anh chép thơ tặng em đấy. Thơ Tago em biết không?

_ Em không biết chữ.

_ Sao, có thật thế không ?

Anh ngạc nhiên hỏi và lòng anh bỗng xót xa, anh đỡ cô ngồi xuống và ôm cô vào lòng.

_ Anh sẽ dạy em học. Anh cũng đang đi học đấy. Bây giờ anh giúp gì được em nào, em nói đi !

Chinh xoay người ngồi tựa vào lòng anh. Cô kể cho anh nghe cuộc đời của gia đình cô. Cuối cùng cô quay lại nhìn anh và nói:

_ Em muốn nhờ anh một việc. Em muốn đưa mẹ em lên bờ.

_ Lên bờ ! Đúng rồi. Chúng mình sẽ đưa mẹ lên bờ. Chúng mình sẽ để mẹ yên nghỉ ở bãi sông này. Anh sẽ trồng nhiều hoa cải bên mộ mẹ.

Cô gật đầu cười hạnh phúc.

Thế là gần một năm gia đình ông Lư ở lại bến sông làng Chùa. Đôi khi họ cũng vắng bóng dăm ba ngày. Một mùa hè lại đến. Đêm đêm Chinh thích thả mình xuống dòng sông. Bơi bên cô là Thao. Anh có một cơ thể khoẻ mạnh cân đối. Năm năm rèn luyện trong lực lượng đặc công nước đã cho anh vốn sức khoẻ và sự phát triển cơ thể ấy. Sau ngày giải ngũ, anh thi vào đại học ngoại ngữ khoa tiếng Anh. Những đêm trên dòng sông dịu dàng chảy, họ quấn quýt với nhau như một đôi cá thần. Dòng sông bí mật truyền vào cuộc đời họ sức mạnh hạnh phúc và sự khổ đau. Một lần khi đang bơi bên anh,Chinh thấy chóng mặt, cô ôm lấy vai anh thở dốc. Dòng sông chợt dừng chảy, im phắt lắng nghe cô, rồi bỗng trào lên những ngọn sóng reo vui, nhảy nối nhau loan báo cho các loài thủy tộc biết điều hạnh phúc thiêng liêng. Quanh họ, có những con cá bay lên khỏi mặt nước như một mảnh trăng con lấp lóa.

Như thường lệ, vào ngày giỗ bà mẹ, cả gia đình ông Lư nghỉ việc nhổ neo về Bãi Yên. Cũng chính ngày này Thao thay Chinh đốt những nén hương cắm trên mộ của bà mẹ. Thao đã bí mật đưa phần mộ của bà lên bờ mấy tháng nay và chôn ngay trong vườn nhà anh. ở Bãi Yên sau khi làm lễ xong, ông Lư sai Sỏi lặng xuống đáy sông để kiểm tra lại ngôi mộ. Gần một phút sau, tăm nổi lên sùng sục và Sỏi nhao lên khỏi mặt nước kêu thảng thốt: "Mộ bị phá ! Mộ bị phá rồi". Một ngọn lửa bỏng rát táp vào mặt ông Lư. Ông lao xuống sông hít một hơi dài và lặn xuống. Những hòn đá xanh đã bị vứt ngổn ngang. Ông Lư biết không phải nước mà có một ngời nào đó đã phá ngôi mộ. Nhưng ai đã làm việc đó ? Câu hỏi ấy làm máu ông sôi lên. Không ai biết ngôi mộ này ngoài những ngời trong gia đình ông. Ông ngoi lên và ra lệnh: "Thả gầu xúc cát xuống". Họ bắt đầu đào. Sau gần nửa tiếng đồng hồ ông mệt mỏi trèo lên thuyền. Ông lẩy bẩy bước đến cửa nhà thuyền đỡ lấy quả bầu khô đựng rượu, ngữa cổ lên uống.

_ Đứa nào ?- Ông gầm lên- Đứa... ưa... ưa... na...ào... ào?

Tiếng ông kéo dài như tiếng rú khản đặc dội vào đôi bờ, vọng lại rền rền trên mặt sông. Tất cả những người trên thuyền cúi đầu im lặng. Trong góc nhà thuyền, Chinh ôm chiếc gối vào lòng kinh hoàng.

Đến gần nửa đêm chiếc thuyền mới quay trở lại bến Chùa. Ông Lư ngồi gục đầu trên mui thuyền, trông ông già đi hàng chục tuổi. Hai anh con trai im lặng chèo thuyền.

Buổi sáng hôm sau mọi người dậy rất sớm. ở ngoài mui thuyền ông Lư vẫn ngồi đấy. Ông đã ngồi như thế suốt đêm qua. Bỗng cô con dâu chạy từ trong nhà thuyền ra.

_ Bố !- cô gấp gáp gọi ông và giúi vào tay ông một xếp giấy cũ nhàu.

_ Cái gì thế này ? ông hỏi và giơ những tờ giấy ra... Ông không biết chữ nhưng linh cảm thấy một điều không bình thường trong những tờ giấy.

_ Cả đâu !- Ông gọi. Sỏi đang hút thuốc lào vội chạy ra- Mày đọc xem cái gì đây.

Sỏi cầm lấy những tờ giấy và đọc. Trước khi mẹ Sỏi mất, ông Lư vẫn gửi Sỏi đến học một trường làng cùng con một ông bạn thuyền làm nghề chở đò ngang.

_ thưa bố. Đây là thư của một đứa nào đấy gửi cho con Chinh. Chúng nó nói chuyện yêu đương. nhưng con Chinh có biết chữ đâu nhỉ.

_ Con Chinh đâu ? Ra đây.

Ông Lư gầm lên, từ trong nhà thuyền, Chinh vừa khóc vừa chui ra. Cô đã nghe thấy câu chuyện vừa rồi.

_ Đứa nào ? Của đứa nào?- Ông gầm lên và giúi nắm giấy vào mặt cô. Cô khóc nấc lên.

_ Của... của anh ấy. Con xin bố. Con lạy bố !

Ông Lư giáng một cái tát vào mặt cô. Chinh ngã vật xuống sàn thuyền. Cô chống tay ngồi dậy khóc nức nở. Cô chắp tay lạy ông.

_ Con xin bố. Con lạy bố. Con và anh ấy yêu nhau.

_ Trời ơi ! Ông Lư kêu lên- Thế là nó đã lên bờ rồi. Nó đã đạp lên lời nguyền của ta. Nó giết chết cả gia đình này rồi !

Ông túm lấy mái tóc dài của cô, giúi đầu cô xuống sàn thuyền và vung rìu chặt đứt mái tóc. Ông nắm phần tóc bị đứt ném xuống sông. Một cơn gió ở đâu ào đến. Gió cuốn mái tóc lên không. Mái tóc bay rối bời, quằn quại.

_ Đánh tuốt xương nó ra- Ông nói và rút chiếc cần câu trên mái liếp của nhà thuyền quất vào cô vun vút. Chinh vòng tay ôm lấy bụng. Người cô giật lên từng cơn. Một lúc sau ông dừng lại, túm lấy áo cô giật mạnh. Chiếc áo rách chỉ còn lại hai đoạn vạt áo.

_ Tao sẽ lột hết quần áo và vứt mày lên bờ...

Ông nói đến đó bỗng dừng lại, mắt mở tròn. Những người trong gia đình cô cũng chững người lại nhìn cô. Trước mắt họ cô đang ngồi khóc không thành tiếng, mái tóc dứt nham nhở dính bết vào lưng cô đầy máu. Đôi vú cô hơi sệ xuống, núm vú thâm lại, chiếc bụng chửa đã năm tháng của cô bây giờ bỗng to hẳn lên, hổn hển thở.

_ Nó có chửa. Nó có chửa, bố ơi !

Sỏi thảng thốt kêu lên. Đôi mắt ông Lư đờ đẫn. Chân tay ông run lên như bị bệnh thần kinh.

_ Thảo nào...- Cô con dâu chặt lưỡi- Đúng là con của ma của quỷ nên nhìn đẹp đến lạnh cả người.

Đúng lúc đó Thao bám mạn thuyền nhảy lên. Anh chạy lại ôm lấy Chinh.

_ Anh ơi !- Cô nấc lên.

_ Các người không được làm thế. Các người thật dã man. Thao rít lên, lòng anh đầy đau đớn và uất hận. ở sân nhà, anh đã nghe thấy tiếng kêu gào, khóc lóc của Chinh.Anh chạy xuống bến và nhận thấy ông Lư đang đánh Chinh trên thuyền. Anh không kịp cởi quần áo dài, cứ thế bơi đến nơi con thuyền đậu.

_ Mày, chính là mày- Ông Lư bước lại trước Thao- Mày đã hại đời nó. Tao sẽ giết mày. Tao phải giết mày.

_ Chính ông đã giết chết cuộc đời cô ta. Ông đã chôn vùi bà mẹ dưới đáy sông lạnh lẽo tối tăm, ông đã chôn vùi cuộc đời con cái ông trên chiếc thuyền này.

_ Trời ! Ngôi mộ... ngôi mộ. ở đâu ? Mày, mày... ngôi mộ.

_ Đúng. Chính tôi đã đưa ngôi mộ bà mẹ lên bờ. Con gái của ông đã nhờ tôi. Cô ta đã làm đúng lương tâm và lòng hiếu thảo của một người con. Chính ông và gia đình này phải cảm ơn cô ấy. Bây giờ ông chỉ biết quyền lực của ông. Chỉ vài năm nữa ông chết đi. Nhưng ông đã và đang đày ải những người khác sống một cuộc đời tối tăm vô nghĩa. Bây giờ ông phải cho cô ấy lên bờ.

Anh cúi xuống nhìn xót xa tấm lưng cô, lưng Chinh bầm tím và ứa máu. Rồi anh ngẩng nhìn mọi người nói:

_ áo đâu ? Đưa áo cho cô ấy mặc.

Cát lặng lẽ đi vào nhà thuyền và mang ra một chiếc áo đưa cho anh. Anh mặc áo cho cô và đỡ cô vào nhà thuyền. Một lúc sau anh bước ra nhìn ông Lư và nói:

_ Ông phải cho cô ấy lên bờ và chính cả ông nữa. Tôi yêu cô ấy và tôi sẽ cưới cô ấy làm vợ.

_ Mày là một con quỷ. Mày đã phá hại gia đình tao. Mày phải mang trả lại cho tao ngôi mộ.

_ Nếu ông chấp nhận cho cô ấy lên bờ thì tôi sẽ chỉ cho ông biết ngôi mộ ấy ở đâu. Nhưng ông cũng không được đưa ngôi mộ ấy trở lại dòng sông. Bây giờ tôi về lấy thuốc cho cô ấy.

*

**

Khi Thao đi mua được thuốc cho Chinh trở về thì chiếc thuyền không còn trên bến Chùa nữa. Ông Lư đã cho chiếc thuyền nhổ neo ngay sau khi anh rời chiếc thuyền. Anh không biết con thuyền đi về hướng nào. Anh quyết định chạy theo hướng dòng sông chảy. Ông Lư biết trước chuyện đó. Ông căng buồm cho thuyền chạy ngược dòng. Ông ngồi giữ bánh lái. Còn Sỏi và Cát phải lên bờ để kéo phụ cho chiếc thuyền đi nhanh hơn. Mây đen bỗng cuồn cuộn đổ về. Mưa mùa hạ ập xuống như trút nước. Dòng sông rộng nên gió càng thổi mạnh. Thao vừa đi vừa thở trong mưa. Đất trời mù mịt. Trên dòng sông lác đác có những con thuyền cập vào hai bờ tránh bão. Cứ thấy bóng một con thuyền Thao lại cất tiếng gọi. Nhưng chỉ thấy gió bão trả lời anh. Anh rét run lên rồi trong ngực như có một ngọn lửa. Ngọn lửa đốt nóng rát lồng ngực. Ngọn lửa chui qua cổ anh lên mũi, lên mồm. Thao phải quay về nhà. Anh không đủ sức đi tiếp. Vừa về đến nhà thì cơn sốt lên đến lúc cao nhất. Anh cố gắng thay quần áo và nằm vật ra giường. Bà mẹ hốt hoảng đắp chăn cho anh và đi rang cám đánh giá cho anh. Mọi người vội vã đưa anh đi bệnh viện. Mỗi khi tỉnh lại anh lại hỏi:

_ Thuyền về chưa ?

Không ai hiểu câu anh hỏi. Mọi người nhìn anh lo lắng. Còn anh cứ mỗi khi nhắm mắt thiếp đi lại thấy chiếc thuyền, thấy dòng sông và Chinh bơi đến bên anh. Bỗng Chinh dừng bơi, ôm chặt lấy anh kêu lên khe khẽ. Gương mặt cô vừa đau đớn vừa hạnh phúc. Cô mỉm cười và trán đẫm mồ hôi. Rồi anh nghe tiếng trẻ kóc. Tiếng khóc âm vang náo nức cả dòng sông. Anh bế đứa bé nâng lên hkỏi mặt nước. Nhưng rồi đôi tay anh nhẹ bẫng. Anh giật mình, đôi mắt dài dại mở ra nhìn mọi người, môi anh thì thào:

_ Thuyền đã về chưa ?

Khi cơn sốt chưa kịp khỏi hẳn, anh quyết định đi tìm Chinh. Anh nói với bà mẹ rằng có lẽ hai tuần tới anh không về nhà. Anh phải đọc một số sách cho năm học mới. Anh lấy xe đạp và bắt đầu cuộc hành trình dọc sông Đáy nhưng suốt một tuần đầu anh không được một tin gì về Chinh. Anh la cà ở những nơi thuyền tụ tập đông đúc. Anh kể cho những người làm nghề sông nước về gia đình cô. Có người nói họ nhìn thấy chiếc thuyền đó qua nơi họ đã ở mấy hôm trước. ở trên mui thuyền có một cô gái hai tay bị trói vào cọc. Có người lại kể rằng họ thấy một thuyền câu nhỏ cứ quay tròn trôi theo làn nước, trong thuyền có một đứa bé mới đẻ. Một đôi vợ chồng già không có con đã đón đứa bé ấy về nuôi. Rồi lại có người nói rằng họ nghe đồn có một người đàn bà chết trôi, trên bụng có một đứa bé mắt tròn như mắt cá. Đứa bé ấy nhìn vào bờ cứ cười ba tiếng lại khóc ba tiếng... Thao cứ đi mãi theo những lời đồn đại như chuyện cổ tích của những người dân chài cho đến khi ra đến biển. Biền tít tắp không bờ không bến và rền rĩ tiếng sóng.

Cho đến một buổi sáng Thao dậy sớm. Suốt cả bãi sông làng anh rực vàng hoa cải. Những bông hoa cải nhỏ nhắn, mềm mại, ấp áp đung đưa trong gió. Thao bỗng thấy trái tim rung lên đập hối hả. Anh chạy ùa xuống bến. Bỗng anh quỳ xuống bên luống cải. Trước mắt anh, trên mặt phù sa rụng lấm tấm những cánh hoa mỏng và từ đó kéo dài xuống bến sông là những dấu chân mỏng và nhỏ nhắn.

Điên

Sau chuyến công tác dài ngày ở tỉnh, tôi trở về thành phố. Một số thứ nhặt nhạnh từ đặc sản của những vùng đất đã qua được gói ghém làm quà cho anh. Tôi mường tượng khuôn mặt anh trong nỗi nhớ.

Hẳn anh đang dành sẵn một bữa tiệc nho nhỏ dành cho hai người với hoa, nến và rượu. Anh thường thế. Hay có thể là món quà bất ngờ nào đó dành cho tôi. Chồng tôi là kiểu đàn ông thích sự lãng mạn. Anh luôn làm tôi cảm thấy mình là kẻ hạnh phúc nhất trên đời. Tôi vội vã trên chuyến xe một cách ngu ngốc, quên mất mình không phải là tài xế.

Ba lần nhấn chuông cửa. Đón tôi ở cổng không phải là khuôn mặt quen thuộc trong trí nhớ mà là bà giúp việc với khuôn mặt nhăn nheo, đau đáu. Tôi thắc mắc. Khuôn mặt già nua kia càng đau đáu hơn. Bà giúp việc ôm vai tôi dỗ dành như dỗ đứa trẻ lên ba nào đó. Tôi ngơ ngác, không hiểu đã có chuyện xảy ra.

Ba ngày sau khi tôi đi, anh cũng vội vã thu dọn vài bộ quần áo và cũng đi. Những chiếc áo tôi mua tặng anh vẫn nằm ngăn nắp trong tủ. Lá đơn xin ly hôn được viết bằng loại giấy màu hồng được đặt ngay ngắn trên bàn, bên dưới cành hoa hồng giờ đã héo. Cuộc chia tay lãng mạn, đúng theo tính cách của anh. Cố bình tĩnh, tựa đầu vào lòng bà giúp việc, tôi đọc lá đơn. Lá đơn được viết trong sự trốn chạy của anh. Rất chễm chệ và ngạo nghễ, dòng chữ "Chúng tôi không hợp nhau" nằm trên tờ giấy. Khá nổi bật khi nó được viết bằng mực đen. Tôi cười chua chát lần thứ hai. Anh không thể đưa ra một lý do nào khác cái lý do nhàm chán nằm trong hơn năm mươi phần trăm các đơn xin ly hôn ư? Anh đã khó khăn để viết nó.

Nét chữ run run. Anh không dám viết nó khi có tôi. Anh sợ mình không làm được điều đó. Tôi biết. Anh đã chẳng bảo, em cứ như thế này thì biết đến bao giờ anh ngừng yêu em được đây. Anh bảo, chỉ có tôi mới hiểu và thông cảm với anh. Chỉ có em thôi em ạ. Em là nửa mảnh ghép hoàn chỉnh của vòng tròn anh. Thế mà bây giờ, chúng tôi không hợp nhau? Lẽ ra anh nên tốn một ít chất xám nữa để biện minh lý do. Chẳng hạn anh không thể chấp nhận những chuyến công tác dài ngày của tôi. Chẳng hạn không thể chấp nhận được một cô vợ mang khuôn mặt trẻ con, chỉ biết việc yêu anh. Hay là ti tỉ lý do gì đó.

Tôi đặt lá đơn lại vị trí cũ. Cố bình thản, tôi rời khỏi lòng bà giúp việc và bước vào nhà tắm. Bà giúp việc lóng ngóng, tay chân ngơ ngẩn đánh đổ đồ đạc. Có lẽ bà chưa chứng kiến cuộc ly hôn nào như thế. Ít ra phải có trận cãi cọ nào đó, hay là đánh đập, chửi rủa nhau như vợ chồng những đứa con bà. Bà về đây ở ba năm và chưa chứng kiến điều đó bao giờ. Thế thì thật quái lạ? Tôi nghe bà lẩm bẩm, ly hôn của những người có học thật là kỳ quặc. Đến cả tôi còn không thể tin nữa là bà.

Còn một mình với chiếc gương to trong phòng tắm, tôi nhìn lại mình. Hơi nước bám vung vãi trên lớp kính. Hình ảnh không rõ ràng nhưng tôi biết mình vẫn như ngày xưa. Mọi người bảo tôi không đẹp sắc sảo nhưng lại thu hút người khác ngay từ cái nhìn đầu tiên. Đôi mắt tròn vo, ngây thơ lạ lùng. Đôi mắt chỉ cần nhìn người ta thôi đã khiến người ta thấy mình bủn rủn tay chân, chùng ngay ý nghĩ tội ác trong đầu. Anh bảo, thích nhìn tôi cười. Nụ cười ngây ngô trẻ con, xoa dịu mọi mệt nhọc từ người khác. Ở công ty, giám đốc đặc cách tôi lên làm ở phòng kinh doanh với những chuyến gặp gỡ các đối tác quan trọng cũng bởi cái khuôn mặt "ngây thơ, lừa thiên hạ của em" ấy. Và anh yêu tôi hơn sau những lần cãi nhau hay giận dỗi. Chẳng có ai giận chồng như em đâu, ngốc ạ! Khi giận, tôi trút nỗi giận khi nằm cạnh anh. Vùi đầu vào vai anh và cứ thế vẩu môi lên, kèm theo những lời giận dỗi. Có khi cấu vào vai anh sau đó lại xuýt xoa sợ làm anh đau. Giống một cô bé đang nũng nịu hơn là một người vợ đang giận chồng. Phụ nữ như em là đáo để lắm đấy. Vậy thì không phải anh chia tay tôi để đến với người con gái khác xinh đẹp hơn tôi, tuyệt vời hơn tôi. Thà rằng là như thế, thà rằng có cô gái nào đó khiến anh xa tôi, tôi sẽ nhẹ nhõm hơn. Ít ra cũng có lý do. Đằng này... tôi không hiểu gì cả. Không có sự giải thích nào dành cho tôi.

Lá đơn vẫn nằm đó. Cánh của bông hoa hồng đã rời nhau ra, rải rác biến thành màu xám nằm trên lá đơn. Tôi liên tưởng đến bàn tay anh đang rời tôi. Như những cánh hoa kia. Anh không về, cũng không có cuộc điện thoại nào hối thúc bắt tôi phải ký nhanh vào lá đơn. Tôi thay số điện thoại mới. Một nick mới trong Yahoo. Anh đã từng bảo rằng chúng tôi là duyên phận của nhau. Trước tôi, anh đã yêu một vài người con gái khác. Nhưng khi gặp tôi thì anh biết, đó là duyên phận. Là tình yêu thật sự của nhau. Nếu là duyên phận thì giữa thành phố thực hàng triệu người này, chúng tôi sẽ gặp lại nhau. Và giữa ma trận trong thế giới ảo, chúng tôi cũng tìm thấy nhau, như đã từng. Tôi tập thêm thói quen online đêm. Gặp một vài người bạn quen. Họ bảo, chúng tôi là những người điên. Chẳng ai lại chối bỏ hạnh phúc ngu ngốc như thế.

Không có anh, tôi tập một số thói quen và thay đổi một vài thứ. Buổi tối, lang thang ở vài quán cà phê, chui vào một góc và ngồi suy ngẫm về tất cả. Bất chấp cái nhìn dò hỏi của những đôi tình nhân dành cho mình. Hy vọng trong một góc quán, một lần nào đó, tôi sẽ gặp anh đi cùng cô gái nào đó. Khi đó, tôi sẽ đủ dũng cảm, đủ lý do ký vào lá đơn kia. Không có anh.

Tôi tập thói quen đi làm bằng xe buýt vào sáng sớm. Chuyến xe đặc biệt của những con người thích tĩnh lặng tuyệt đối. Mỗi người từ một thế giới khác nhau những lại mang điểm chung khi tụ về một chỗ. Tôi lại tập thêm thói quen quan sát những khuôn mặt trên chuyến xe quen thuộc hàng ngày. Ông già ở hàng ghế thứ ba luôn mang vẻ cau có, đăm chiêu nhìn qua cửa sổ. Đôi khi lại văng tục chửi rủa gã nào đó vô ý thức ở dưới đường. Cô gái ngồi ở hàng đầu đối diện tôi thì luôn vờ chúi mũi vào tờ báo nhưng luôn lén lút nhìn lên khi có khách bước lên xe. Cô gái vẫn còn trẻ và đang tìm kiếm điều gì đó. Tình yêu lãng mạn trên xe buýt chẳng hạn? Người ta vẫn hay viết về mối tình như thế và cô có quyền chờ đợi hay hy vọng. (Hơi điên rồ khi mong chờ điều đó. Tôi thoáng nghĩ).

Đèn đỏ. Xe dừng ở những ngã tư. Tôi nhìn những khuôn mặt bên dưới kia qua lớp kính. Những thứ này, tôi chưa từng thực hiện. Khi đã thực hiện lại thấy lạ lẫm, thích thú. Ngày trước, ở những chỗ như thế này, tôi luôn cố tìm cách thoát khỏi đám đông ngột ngạt này. Giờ lại muốn kẹt xe hay là thời gian cho đèn đỏ kéo dài hơn. Tôi tự hỏi, có khi nào anh nằm trong những con người đang chen chúc ở ngã tư kia. Liệu có khi nào vô tình chúng tôi đã lướt qua nhau? Không! Nếu có, duyên phận sẽ đưa chúng tôi lại với nhau. Như anh vẫn nói. Chúng tôi yêu nhau sau vài lần chat trên mạng và khi gặp nhau thì duyên phận đã gắn kết chúng tôi lại.

Một sáng, như mọi ngày. Ở trạm xe buýt gần khúc cua thứ hai, xuất hiện vị khách mới. Theo thói quen mới tập, tôi ngước lên nhìn vị khách mới chung chuyến xe với mình. Gã đàn ông mang khuôn mặt nghệ sĩ, vẻ bất cần. Gã nhã nhặn xin ngồi xuống cạnh tôi. Tôi gật nhẹ. Cô gái ở bên cạnh ngước lên nhìn gã rất lâu. Ánh mắt lóe lên tia sáng lấp lánh. Tôi nhìn gã. Kiểu đàn ông như gã rất có sức thu hút với phụ nữ.

Buổi sáng có gã, chuyến xe trở nên đi sai lệch với quỹ đạo của nó. Gã xin ông già cau có một điếu thuốc, trò chuyện về vài vấn đề thời sự. Như ông, gã văng tục vài câu. Khuôn mặt cau có kia giãn ra nhanh chóng. Gã tặng cô gái một tờ báo vào mỗi sáng. Tôi nghĩ, không cần thiết lắm. Giờ cô ấy thích nhìn khuôn mặt gã hơn là vờ chúi mũi vào tờ báo. Tôi cười thầm. Cô ta sẽ yêu gã mất.

Gã trò chuyện với tất cả mọi người. Riêng tôi. Gã giữ khoảng cách tuyệt đối. Hình như không nỡ quấy nhiễu phút giây yên lặng của riêng tôi. Với tôi, hình như mọi người luôn luôn "không nỡ". Cả chồng tôi, cả gã. Tôi quay sang gã, bâng quơ một vài điều. Gã nói chuyện khá thú vị. Văn chương, về cuộc sống, về tất cả. Tôi yên ổn với thói quen trò chuyện với gã mỗi ngày.

Hai tuần sau thì không có gã trên chuyến xe nữa. Ông già cau có bảo với chúng tôi gã bị điên. Đấy là nghe người ta nói thế. Gã đang làm việc ở một công ty lớn, tiền lương tính bằng đô la, tự dưng lại xin nghỉ việc. Sau đó thì lại chia tay với cô bạn gái xinh đẹp. Suốt ngày đi lang thang trên những chuyến xe buýt bắt chuyện với mọi người như thế. Cô gái lắng nghe chăm chú. Ánh mắt tiếc rẻ. Suýt nữa thì yêu một gã điên.

Tôi xuống xe ở một trạm xe buýt khác. Không còn muốn lặp lại quy trình xưa cũ của tuyến xe ấy nữa. Ở trạm xe buýt khác của buổi tối. Tôi run rẩy dưới những đợt nước mưa. Ánh đèn vàng vọt ôm ấp mưa. Vô tình thôi, tôi gặp gã bước xuống từ một chuyến xe khác. Gã đứng cạnh tôi. Im lặng rất lâu. Tôi giấu hai bàn tay vào ống tay áo. Bất giác, tôi muốn được nói gì đó. Những điều tôi đã trải qua. Tôi ngồi cạnh gã, và cứ thế nói trong thều thào hơi thở. Gã gẩy một bản nhạc bằng cây đàn đã sũng nước mưa. Gã bảo, gã đang bắt đầu tập đàn. Tôi không rành lắm về đàn nhưng thấy những âm thanh ướt nước mưa ấy rất hay. Kết thúc câu chuyện và kết thúc bản guitar ấy, tôi mở lời.

- Tôi nghĩ, anh nên tìm một bác sĩ tâm lý nào đó. Tình trạng của anh không đến nỗi nào.

Nói chuyện với người điên không phải dễ dàng. Biết đâu gã sẽ phẫn nộ, sẽ làm gì tôi. Tôi hơi co người lại. Trái lại, rất bình tĩnh, gã đặt cây đàn xuống đất, nhẹ nhõm, gã nói:

- Ai cũng bảo tôi điên. Nhưng tôi thấy điên như tôi lại tốt. Tôi không muốn lặp lại những quy trình xưa cũ. Công việc, tình yêu hay bất cứ cái gì cũng đừng nên xưa cũ. Như thế, một ngày mình sẽ chán chính mình. Mỗi ngày, nên cho phép mình có vài phút điên rồ.

- Chồng cô cũng là người điên giống tôi.

- Cô có dám điên như tôi không? Tôi dám cá là không!

Gã thách thức nhìn tôi. Không hiểu sao tôi lại gật đầu.

Tôi trở về nhà trên một chuyến xe khác cùng với những hành khách khác. Tôi bắt chuyện với vài người. Tôi muốn được điên. Theo cách của anh. Theo gã. Tôi đặt bút ký vào lá đơn. Có lẽ, anh cũng không muốn lặp lại quy trình xưa cũ như gã. Bắt đầu từ một kết thúc biết đâu lại tốt hơn.

Tôi bấm số điện thoại của anh.

Vết thương

Con còn nhớ, lúc bé, mỗi lần chạy chơi cùng lũ bạn trong xóm thế nào, con gái nhỏ của mẹ cũng mang về nhà một vết trầy xước nhỏ trên người. Nhìn mắt con bé rớm rớm nước mắt mà mẹ cười.

Tay mẹ dịu dàng lắm, mềm ơi là mềm nhẹ nhàng rửa rồi bôi thuốc cho con. mẹ dùng một miếng băng dán để bịt kín vết thương, vết thương của con sẽ mau lành và không bị nhiễm trùng. Do tay mẹ mềm, thuốc bôi tốt hay là vì miếng băng dán kín mà chỉ sang ngày hôm sau thôi, con lại có thể tiếp tục cùng mấy đứa bạn đùa giỡn trong xóm.

Rồi có một lần mẹ tập cho con chạy xe đạp. Chiếc xe "quá khổ" so với con gái của mẹ, chiếc xe ngã và con gái mẹ lại có thêm một vết thương ở chân. Lần đầu tiên, con gái mẹ bị thương nặng đến thế. Máu chảy nhiều đến nỗi tưởng con đã có thể ngất đi. Con đâu biết rằng con đau một thì mẹ lại đau đến mười. Mẹ khóc vì chính mẹ vô ý làm con gái mẹ bị thương. Rồi ngày hôm sau "hung khí" gây ra vết thương của con biến mất. Mẹ đã mau chóng cho đi chiếc xe chỉ vì không muốn con gái mẹ bị thêm một vết thương nào nữa. Vết sẹo đến bây giờ vẫn còn. Thỉnh thoảng nhớ lại để tin rằng, với mẹ, đứa con gái út là quan trọng nhất. Mặc dù hậu quả cho việc đó là cho đến tận năm lớp 9 con gái yêu của mẹ mới biết chạy xe đạp.

Rồi con lớn lên. Lần đầu tiên con bị bố đánh. Đến bây giờ con vẫn nhớ hai cái tát đầu tiên con nhận được trong đời mình. Con tức, con đau, con khóc. Năm dấu tay hằn rõ trên mặt, đau buốt. Lần đầu tiên con thấy mẹ cãi nhau lại với bố. Hì, cũng vì con, mẹ không chấp nhận bố tát vào má con, mẹ không đồng ý. Lúc đó con hả hê lắm, con vui vì con biết mẹ lúc nào cũng bênh vực con. Vết thương lại nhanh chóng biến mất vì con biết rằng con lúc nào cũng có mẹ.

Rồi con đi học. Hì... cái khoảng không gian rộng lớn là thế giới bên ngoài, là bạn bè, là tiệc tùng đi chơi làm khoảng cách của mẹ và con càng ngày càng xa. Con vẫn bị thương, những vết thương làm con khóc mỗi đêm nhưng mẹ không thấy. Vì con cố tình giấu hay vì... mẹ không thể thấy được những vết thương vô hình.

Năm lớp 8, lần đầu tiên con biết thế nào là phản bội. Tim con vỡ vụn khi bị chính người con yêu thương nhất, người con tin tưởng nhất đâm vào. Con khóc nấc, con tuột dốc không phanh và con không còn tin ai nữa. mẹ lại một lần nữa ra sức bảo vệ con. Nhưng càng ngày vết thương đó càng sâu, mẹ vô tình để con đau hơn nữa. Hì nhưng đúng như người ta nói, thời gian là liều thuốc hữu hiệu nhất cho những vết thương lòng. Rồi nó cũng hết, con không quan tâm nữa, con bỏ mặc cái gọi là "tình bạn". Con không tin rằng trên đời này con tồn tại một cái "xa xỉ" như thế nữa. Mẹ nhìn con, mẹ không nói, cũng không khuyên răn gì. Có lẽ mẹ cũng biết rằng có những vết thương không thể chữa lành bằng băng dán và thuốc đỏ! Nhưng cũng chính nhờ vết thương đó mà con biết cách tự bảo vệ mình, con không dễ dàng trao lòng tin để rồi bị người ta "đâm" như thế nữa. Con lớn rồi, phải không mẹ.

Năm lớp 9, áp lực thi cử, chuyện bạn bè trong lớp làm con chán nản. Con trốn học đi đi chơi. Rồi mẹ cũng biết, mẹ khóc, mẹ đã khóc rất nhiều. Lúc đó con đã ước rằng mình chưa bao giờ làm thế, ước gì thà mẹ cứ lôi con ra đánh như hồi xưa, thà mẹ cứ chửi bới con chứ mẹ đừng khóc như thế. Mẹ ôm con vào lòng và "năn nỉ" con đừng làm thế nữa. Con khóc lại. Những giọt nước mắt hiếm hoi kể từ năm lớp 8. Lần đầu tiên con biết rằng làm tổn thương người mình yêu quý con đau hơn rất nhiều khi bản thân mình bị thương. Cuối cùng thì con và mẹ cũng vượt qua, cái khoảng cách giữa mẹ và con biến mất. Con lại tin rằng đối với một vài người (trong đó có mẹ), con vẫn là quà tặng quý giá nhất.

Hì, nhiều khi con lại nghĩ sao ông trời hay trêu ngươi đến thế. Có những lúc con tưởng rằng gia đình mình là gia đình hạnh phúc nhất thì con chợt nhận ra rằng tất cả chỉ là giả dối. Những cử chỉ yêu thương, lời nói sáo rỗng dùng cho người dưng. Con nhận ra rằng gia đình cũng chỉ là một cái gì đó mong manh lắm. Con nhận ra rằng cái mà con từng gọi là gia đình cuối cùng cũng chỉ còn lại con và mẹ. Con không ghét bố nữa. Con không trách bố đối xử với con và mẹ như thế nào. mẹ từng bảo con người ta phải học cách tha thứ. Tha thứ cho người khác để rồi thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn. Có lẽ những người khác ganh tị với con và mẹ vì có được một "gia đình hạnh phúc", một người cha "mẫu mực", một người chồng "biết quan tâm".

Nhưng cũng chỉ có con và mẹ biết được rằng đằng sau cái vẻ ngoài hạnh phúc ấy là gì. Là tiếng ly vỡ, tiếng la hét, chửi bới, mắng mỏ tim con vỡ. Con không tin vào những gì mình thấy trước mắt. Rồi những tin nhắn "thân mật", những cuộc điện thoại, những sự im lặng. Cuối cùng con và mẹ cũng rút ra được một cáh riêng để bảo vệ mình. Con và mẹ cùng nhau bỏ qua tất cả và không quan tâm nữa. Hì, con nhận ra một điều gia đình nào cũng có mặt trái của nó, quan trọng là bản thân mình vượt qua chuyện đó như thế nào thôi. Có lẽ bây giờ nhà mình là một căn nhà trọ nhưng điều đó cũng không quan trọng nữa, đúng không mẹ. Chỉ cần trong căn nhà trọ đó, có con và có mẹ... thế là đủ.

Hôm nay tự nhiên cái cảm giác ngày xưa lại về. Nghe mẹ kể chuyện mà con lại khóc. Thì ra đã là đàn ông thì ai cũng thế, cũng ngọt ngào, âu yếm khi mới quen nhau. Mẹ cười nhưng sao mà chua chát quá, phải chăng cuộc sống làm mẹ mất rồi cái niềm tin vào người đàn ông vẫn sống bên cạnh mẹ hàng ngày.

Rồi con nhận ra thêm rằng có những lúc mình tưởng rằng vết thương đã lành, đã kín miệng nhưng... thật ra nó vẫn còn đó, đau âm ỉ, âm ỉ trong lòng mỗi người. Chỉ có điều đau quá nhiều rồi, người ta không còn muốn biểu lộ nó ra ngoài nữa. Có những vết thương, không phải chỉ cố gắng là có thể chữa lành được...

Rồi con biết thế nào là trao tình cảm cho một người. Nhớ, thương, giận hờn, những ước mơ, những hy vọng, và những niềm tin. Con không dám kể cho mẹ nghe, vì con biết, mẹ không muốn con gái mẹ dễ dàng trao tình cảm cho cái gọi là "online love". Mẹ chỉ biết rằng con gái mẹ yêu, mẹ thấy con cười nhiều hơn, nói nhiều hơn. Hay ngồi thẫn thờ và mơ mộng, mẹ cười và hy vọng con gái mình có một cái happy ending như mong muốn.

Rồi tất cả biến mất, biến mất qua một đêm. Một buổi sáng con gái mẹ thức dậy và tất cả như một giấc mơ. Giấc mơ biến mất bằng đôi mắt sưng húp. Hì, đau đấy, khóc đấy rồi cũng sẽ qua, con gái mẹ tự an ủi mình như thế. Bạn bè cũng thế và rồi người ta cũng thế, đúng không mẹ?

Cuối cùng thì cũng chẳng ai yêu thương con của mẹ thật lòng, chỉ có mẹ mà thôi. Con không trách anh ấy, con cũng không trách khoảng cách. Có lẽ như người ta nói đó, có duyên mà không có phận. Yêu nhau đó rồi cuối cùng cũng chỉ còn lại nước mắt và nỗi đau. Con cười vào cái gọi là tình yêu chân chính. Chẳng phải con cũng đã tin sao? Con đã cố gắng tin một người, con cố gắng tin vào cái gọi là true love đó. Nhưng... kết cục cũng vẫn thế thôi. Cuộc sống là một tổng hợp tất cả cái nỗi đau và vết thương mà, đúng không mẹ? Hì, con tin rồi con cũng sẽ vượt qua như tất cả những vết thương khác. Có lẽ tất cả mọi chuyện rồi cũng sẽ tốt thôi, mẹ nhỉ?

Giếng cạn

Nhà tôi, nhà Bống ở cùng thôn.Bống chị, Bống em là cách gọi nhà quê. Tên khai sinh, Bống chị là Bích, Bống em là Bình.

Thôn Cự Phú. Tên giàu có no nê, nhưng hữu danh vô thực. Nghèo kiết xác, đói quanh năm. Chỉ được cái tấm lòng thanh sạch. Thanh sạch là giá trị ổn định, quý hiếm, nhưng không bán được.

Cả thôn chỉ tôi và Bống chị học phổ thông trường huyện. Niềm vui chẳng tới. Kiêu hãnh tự hào cũng không. Người thôn nghĩ (cái sự nghĩ đã vào máu): Đi học nhiều chỉ tổ tốn cơm.

Theo đít trâu đến mùa còn được thêm mấy đấu thóc. Chỉ hạng nhác làm mới trốn việc nhà đi học. Họ không biết việc học cũng nhọc chẳng kém thợ thùng đào thùng đấu.

Ai ơi chớ lấy học trò.

Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm

Bọn thất học thôn tôi thường ca như vậy. Thất học nhưng thuộc rất nhiều thơ ca, hò vè mới lạ chứ. Cũng là ghen ăn ghét ở, chúng sợ tôi đi học làm ông to bà lớn về đè đầu cưỡi cổ chúng.

Cha tôi bỏ ngoài tai. "Tao suốt đời nhòm đít trâu, vác đất rồi. Đến đời mày, Lăng ạ (tên tôi là Lăng) dứt khoát phải học mới thành người. Nhưng không được thơ thẩn theo thầy Đô đâu nhá."

Thầy Đô là giáo viên dạy văn cấp 3 đã nghỉ hưu. Thầy làm rể làng cũng vì mến con gái Cự Phú thuộc nhiều thơ ca, hò vè. Thầy có chiếc xe đạp Thống Nhất khung gióng ngang tróc sơn.

Thầy Đô làm thơ gửi tạp chí văn nghệ tỉnh, thỉnh thoảng lên bưu điện lĩnh nhuận bút. Giữa đường gặp, thầy dừng lại năn nỉ Bống chị lên xe đạp, thầy chở. Thầy bảo: Người ta là hoa đất. Con gái là hương của hoa đất, là cái đẹp. Cái đẹp cứu rỗi con người, phải nâng niu, chăm sóc.

Bống chị từ chối: "Em xấu, em không đáng được nâng niu. Em quen đi bộ rồi thầy ạ". Thầy buồn, lên xe đi tiếp, miệng lại lẩm bẩm đọc thơ. Thầy Đô là nhà thơ tỉnh, tỉnh thì phải lớn hơn huyện.

Thỉnh thoảng thầy đến trường tôi nói chuyện thơ. Thầy bảo, nhịn ăn thầy nhịn được một tuần, nhịn đọc thơ nửa ngày không chịu nổi. Nói chuyện thơ ở trường tôi, thầy Đô bảo, thầy thích nhất những đoạn thơ viết các cô gái đi tỉnh về.

Thầy cao hứng ngâm thơ Nguyễn Bính: Hôm qua em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. Thầy đọc thơ Phạm Công Trứ như diễn trên sân khấu: Tuổi thơ chân đất, đầu trần / Từ trong lấm láp em thầm lớn lên.../ Em ra thành phố dần quên một thời... / Em tôi áo chẽn em tôi quần bò.

Thầy đọc. Thầy bình. Thầy nức nở khen. Giọng thầy trầm ấm mà buồn buồn. Như thể mất mát. Như là đổ vỡ. Học sinh khối 12 chúng tôi ngồi im phăng phắc. Sau này, bọn con gái lớp tôi có đứa nào khốn nạn thế không nhỉ?

Cha muốn tôi sau này được làm bàn giấy. Theo cách nghĩ của ông, làm bàn giấy là: Cộng cộng trừ trừ, nhân nhân chia chia. Ghi ghi chép chép. Chân không lấm, tay không bùn.

Mưa chưa đến mặt, nắng không đến đầu. Ví như tay kế toán ủy ban xã. Ví như ông giáo làng chẳng hạn. Mong ước cha tôi quá vĩ đại, có nguy cơ không thành sự thực.

Cha tôi là thợ thùng đào thùng đấu, chuyên vượt đất san nền thuê lấy tiền đóng học cho con trai. Mỗi hòn đất giá ngang một con chữ tôi học. Một trăm hòn đất - một trăm con chữ.

Một ngàn hòn đất - một ngàn con chữ... Cha tôi bảo: "Có dễ tao phải vác một vạn hòn đất thì mày mới nên người". Xót xa quá. Thương cha. Tôi ứa nước mắt. Bao giờ tôi mới có một vạn chữ trong đầu?

Đi học nhọc nhằn. Vác đất vượt nền cực thân. So sánh, có lẽ ngang nhau. Thầy Đô nhà thơ truyền lửa cả làng cả huyện đọc thơ, làm thơ. Thầy chủ nhiệm lớp tôi thì động viên: "Các em là tương lai đất nước, là mùa xuân dân tộc.

Các em phải quyết tâm học hết phổ thông. Học qua đại học. Học chót vót tận tiến sỹ khoa học". Khiếp, toàn những điều cao siêu, xa vời vợi. Nhưng chẳng thấy thầy nói xong tiến sỹ khoa học, chúng tôi phải học tiếp cái gì cao hơn nữa.

Các thầy coi việc học, việc làm thơ cứ nhẹ nhàng, băng băng. Các thầy không biết, chỉ cần cha tôi nghỉ vác đất vượt một tuần là đầu tôi rỗng tuyếch, cái bụng đói trống không. Học với hành, thơ với thẩn biến hết.

Bẩy cây số rưỡi từ nhà đến trường. Toàn cuốc bộ. Đường dài dằng dặc, nhọc nhằn như Đường Tam Tạng sang Tây Trúc lấy kinh. Mùa hè mồ hôi nhễ nhại. Mùa đông rét tê da. Ngón chân nhón trên sương cỏ buốt thon thót.

Qua đầu làng độ nửa cây số có chỗ lội. Tôi xắn quần lội uồm xuống trước. Hơi cúi, quay lưng, chờ Bống chị. Nàng quàng tay lên cổ tôi. Tôi quàng tay quắp cặp đùi đứa gái quê mới lớn.

Tôi chợt nhớ cặp ếch cõng nhau trong đêm mưa rào đầu hạ. Hai vú cộn trên vai tôi âm ấm. Hai đùi non trong lần vải lụa đen cũng âm ấm. Uồm... Uồm... Nước lạnh.

Hơi thở con gái mù sương nóng hổi. Tóc mai con gái vương nhẹ má tôi. Mùi lá bưởi thơm thoảng, vấn vương, quấn quýt. Ước gì quãng lội nước cứ dài thêm mãi. Ước gì người ta đừng đắp đất hàn đường.

Lên bờ. Rửa chân. Thả quần. Bống chị cầm hai bàn tay tôi ấp vào má nàng. Bàn tay tôi lạnh. Má nàng ấm nóng. Mắt nàng long lanh, mặt nàng trìu mến. Lòng tôi nôn nao, tim tôi rạo rực.

Bọn trẻ trâu từ xa nhìn thấy, vận vần nghêu ngao:

Áo trễ ngực gió luồn vào vú / Vú lặng thinh cho gió mơn man / Chán thằng cõng gái lơ ngơ / Khổ thân mà chẳng được sơ múi gì.

Cái loại thơ này có phải thầy Đô nhà thơ dạy không nhỉ? Thơ thầy Đô dạy tinh túy, cao siêu, thanh khiết cơ; chứ không nồng nỗng thế.

Bống chị đỏ mặt cắm cúi bước đi như chạy. Tôi sượng sùng, bước theo.

Chiều về. Lại thấy Bống em hát nghêu ngao mấy câu vần áo trễ ngực gió luồn vào vú...

Bống chị quát em:

- Con nỡm! Mày hát trêu ai?

- Chị và anh Lăng đấy. Khổ thân anh Lăng.

Bống em hát tiếp: "Khổ thân mà chẳng được sơ múi gì..." và chạy biến.

Bống em kém chị ba tuổi, tính lành hiền, chăm chỉ. Bống em ở nhà làm ruộng, thêu hàng xuất khẩu.

Bống chị học buổi sáng, buổi chiều về phụ với em. Mẫu mã đủ loại gối, ga, chăn: Long hoá, Trúc đào, Phượng múa...; rồi các loại tranh thêu: Đám cưới chuột, Đánh ghen, Sân đình, Sen làng, Thiếu nữ ngắm hoa sen...

Hàng xuất khẩu chị em Bống không nhận được trực tiếp, phải qua tay chủ hàng gia công lại, rẻ mạt vẫn phải làm. Nhặt nhạnh từng đồng từng hào lúc nông nhàn còn hơn ngồi không bụng đói. Nhà nghèo, Bống em lại học dốt, thầy dạy vào tai mười chữ thì quên chín chữ. Cọc cạch cố theo, hết phổ thông cơ sở thì bỏ, ở nhà đi thêu, cắt cỏ, cấy hái.

Tối tối, tôi mang sách sang nhà Bống học chung. Lúc giải lao, tôi lại sán vào xem Bống em thêu. Bống em bảo, để Bống em dạy anh Lăng.

Nam nhi chí lớn, làm nghề thêu vá, hèn người. Tuy vậy tôi vẫn học thêu để thêm cớ sang chơi nhà Bống. Vọc vạch vài tuần cũng biết cắn chỉ luồn kim. Tôi phân biệt được chỉ màu hồng đào, hồng sen, chỉ màu hoàng yến, chỉ màu lam. Tôi thêu được thân rồng, thân công, thân phượng,... Nhưng tay nghề như chị em nhà Bống mới thêu nổi râu rồng, mắt phượng, mây cơn...

Đầu học kỳ hai, tôi phải bỏ học.

Hôm ấy, trời xam xám nặng. Gió se se lạnh. Tết xong, ra giêng. Mưa phùn lất phất bay. Cha tôi vượt đất san nền thuê. Hòn đất to hơn cái nồi đình đè nặng trên vai.

Ngón chân quặp xuống bấm đất. Một cơn gió độc bất chợt thốc đến. Cha tôi rùng mình. Dốc trơn trượt chân. Không may đạp phải mảnh sành chai. Gan bàn chân bị xẻ toạc một đường dài. Máu loang đỏ bùn non.

Cha ngã qụy xuống. Sức nặng hòn đất to hơn cái nồi đình bồi tiếp xuống vai. Cha tôi sụn lưng. Ông không vác đủ một vạn hòn đất. Tôi không còn cơ học một vạn con chữ. Tôi chẳng nên người? Tôi đã mồ côi mẹ, giờ lại mồ côi cha.

Cha tôi bị nhiễm trùng uốn ván. Trước lúc chết chân tay còn giật giật. Mắt trợn trừng. Bộ xà tích bạc của mẹ để lại, cha chưa kịp đưa cho tôi đã bị nắm chặt cứng trong lòng bàn tay, tôi phải gỡ từng ngón ra mới lấy được.

Cha chết, tôi phải bỏ học. Cái sự vác đất quan trọng thật, nó quyết định việc tôi có đến trường hay không. Tôi rất thương cha. Ông không còn sống để bắt tôi đến trường học sau này làm bàn giấy.

Tôi khóc như mưa. Dọc đường đưa cha ra nghĩa địa nhìn các hòn đất vượt to như nồi đình xếp lô mô càng khóc to.

Bống chị cũng đòi nghỉ học. Bống chị bảo đi học một mình buồn. Thi, kiểm tra, ai cho Bống chị chép bài? Còn một lý do nữa: Chiếc chăn Phượng múa xuất khẩu sang Đài Loan có hai con đực cái châu mỏ vào nhau, phía trên là những đám mây vần vũ, chị em Bống thêu bị trả về.

Bống chị bỏ học một tuần cùng Bống em cặm cụi rút chỉ, thêu lại các chỗ xấu, chỗ bị lỗi. Rút cục người ta vẫn không nhận. Hàng phế phẩm, chị em Bống phải đền tiền, giá ngang năm tạ thóc.

Gánh nặng lại đè lên vai hai cô gái nhà quê đang tuổi lớn. Giấu mẹ, chị em Bống khóc chán rồi cũng phải nín. Cái thằng tôi có mặt rất đúng lúc. Tôi dốc ống, tiền cha tôi tích cóp để lại, tiền tôi làm thuê chả được bao nhiêu. Tôi bán bộ xà tích bạc của mẹ để lại vừa đủ tiền đền chiếc chăn thêu Phượng múa. Vài hôm sau, nghĩ lại ân hận quá, tồ quá. Sao lại bán đồ kỷ niệm của mẹ?

Bống chị hàm ơn tôi một, Bống em biết ơn tôi mười. Tôi không nhận ơn, chỉ thấy mình bỗng chốc trở thành anh hùng, lớn lao vững vàng như cây cổ thụ xòe tán che chở mưa gió cho chị em Bống.

Bống chị thấy tôi cực thân quá. Bao nhiêu gánh nặng của Bống chị tôi đỡ lên vai tôi. Bống chị bảo, Bống sẽ bỏ học ở nhà gồng gánh, cấy hái, nuôi lợn nuôi gà, chờ ba năm hết tang cha tôi...

Tôi cắt ngang lời Bống, giẫy nẩy:

- ấy đừng. Học khó bỏ dễ. Leo cau đã gần buồng. Bống cố lên sau này về làm bàn giấy ở xã, đỡ khổ.

Bống chị cười nụ, giọng nhấm nhẳng, vẫn ngưng đọng nỗi buồn:

- Làm bàn giấy ở xã chả bõ công. Học xong Bống không về quê đâu.

- Bống đi đâu?

- Bống ở lại Hà Nội. Lăng đi cùng Bống nhá. - Bống chị cười, cái cười méo mó, giọng đầy tiếc nuối. - ấy là nói thế thôi, Lăng ạ. Tiền mua sách bút, tiền đóng học phí ở đâu? Bống lớn rồi, Lăng không thấy a? So với năm ngoái, năm nay may cái áo cũng tốn thêm nửa mét vải.

- Bống chị để tôi lo. Tôi sẽ đi làm thùng đào thùng đấu vượt nền. - Tôi càng nói càng phấn khích. - Tôi sẽ có tiền, Bống chị đi học. Chúng ta cùng ra thành phố nhá.

- Ừ. Bống chị sẽ đưa Lăng ra thành phố.

Từ hôm đó tôi lăn ra làm như trâu cày giữa vụ. Làm để sau này Bống chị đưa tôi ra Hà Nội bằng những hòn đất vượt nền của tôi. Thợ thùng đào thùng đấu tôi theo nghề cha. Đúng là cha truyền con nối vác đất làm thuê.

Da tôi bắt nắng đen ngòm. Tóc cháy hoe hoe vàng. Ngày nào tôi cũng vác hơn một khối đất so với mấy thằng cùng đi. Bọn vai u thịt bắp suốt ngày quần nhau với đất, bảo: Mày thân làm miệng ăn. Đừng cố, có ngày sút lưng.

Tôi là hạng người tham công tiếc việc. Không phẩm chất này, đố anh nào được gọi là nông dân. Đi vượt đất thuê tôi mang theo đôi quang gánh, hai cái mủng to, xương bai trâu.

Lúc về, mắt nhăm nhăm nhìn các đống tròn đen trên đường. Phân trâu, phân bò hót tất, bón cho lúa nhà không hết, tôi đem bán cho người thôn cũng được ứa tiền.

Bống chị học hết phổ thông. Bống chị vào Đại học Nông nghiệp. Bống chị viết thư, yêu quý tôi bao nhiêu thì cũng nhớ thương cây lúa, con trâu, mảnh đất...làng bấy nhiêu.

Thư Bống chị viết: Lăng cố đi học bổ túc cho hết phổ thông. (ừ thì đi học để xứng với Bống). Không học đầu óc u tối, khổ lắm. (Không biết nói vậy là tôi tự ái a?) Suốt đời bán mặt cho đất bán lưng cho trời thôi... (Thì ai chả biết thế).

Bống chị và đứa bạn cùng phòng trọ tự nấu ăn cho đỡ tốn. Thỉnh thoảng ngày chủ nhật Bống về quê. Tôi gói ghém tiền, mì tôm, mì chính, gạo quê, cá khô; có hôm nhổ cả su hào... cho Bống mang đi. Tôi rong xe trâu chở Bống lên ga Xép nhảy tàu chợ về trường.

Năm thứ hai, Bống chị vẫn chăm viết thư cho tôi, vẫn chăm về. Người thôn Cự Phú biết chúng tôi phải lòng nhau. Kẻ nói ra. Người vun vào.

Bống em bảo tôi: Em ức không chịu được. Người ta ghen ăn tức ở cứ xa xôi bóng gió: Tò vò mà nuôi con nhện/ Đến khi nó lớn nó quện nhau đi / Tò vò ngồi khóc tỉ ti / Nhện ơi nhện hỡi nhện đi đường nào? Nghe cứ như bị que chọc vào tai. Có phải họ ám chỉ anh và chị Bống không?

Mặc xác miệng lưỡi thế gian. Tôi lại điềm nhiên theo đuổi việc mình làm. Kệ mẹ miệng lưỡi thế gian. Tôi không tin Bống chị của tôi tệ thế.

Làm thợ thùng đào thùng đấu, vượt đất san nền cực nhọc quá, tôi bỏ.

Ông lão Hạ xóm Đông Tiền sang tên cho tôi cái xe bánh lốp tàng tàng và con trâu dái. Cũ người mới ta, tôi đi đánh xe trâu.

Ông lão Hạ già. Con trâu dái trẻ. Trâu khoẻ ăn, khoẻ kéo xe và hám giống cái. Thấy trâu cái, nó lồng lên, ông lão ngồi sau chịu không nổi. Máu quá, nó rượt trâu cái, xốc nguyên ách trên vai nhảy lên mình con cái.

Càng xe vổng ngược lên. Thùng xe nặng giáng xuống, quẹt xệt xệt mặt đường. Chã, nồi đất nung, chum sành liễn sứ rơi lổng nhổng xuống đường, mười phần vỡ đến bẩy, tám. Ông lão cũng bị hất xuống vệ cỏ. Ông lão sai lầm không mua trâu thiến, nó thuần tính.

Nhưng tôi trị được con trâu dái bất kham này. Tôi đánh xe trâu chở thuê chum vại sành, nồi chã đất nung từ bến sông lên chợ Bút cho chủ hàng. Tôi chở thuê gạo nếp, nhân sen, đậu xanh, gà giò, thịt bò, dê non, bồ câu ra ràng, mèo đen..., tất cả đặc sản nhà quê lên ga Xép để chủ hàng đưa ra Hà Nội.

Năm thứ ba, Bống chị viết thư cho tôi thưa dần, năm thứ tư vắng hẳn. Tôi âm thầm chờ đợi.

Một hôm Bống em tìm tôi. Bống chị gửi thư cho Bống em. Bống viết: "Bống em ơi! Em ở nhà chăm nom anh Lăng thay chị nhé. Lăng con trai tồ lắm, ăn uống, ngủ nghê thất thường. Lăng vất vả vì chị nhiều rồi.

Em bảo Lăng đừng gửi tiền cho chị nữa nhé. Dặn Lăng làm được bao nhiêu gửi tiết kiệm, hay cho vay lãi, biết đâu sau này chị sẽ về quê." Sao lại biết đâu?

Bống em an ủi: "Thư là thế. Em chẳng biết nói với anh Lăng thế nào. Anh Lăng đừng buồn, còn có em ở nhà cơ mà."

Ngóng. Trông. Chờ. Đợi. Tôi đâm căng thẳng mệt mỏi. Tin ồn về làng. Người ta bảo Bống chị đã học xong, đang làm thư ký giám đốc ở Hà Nội. Bống chị cặp bồ luôn với lão già doanh nhân người Đài Loan ấy.

Bống em không tin người ta nói xấu chị gái. Cô tức tốc cơm đùm cơm nắm lên Hà Nội tìm chị. Bống em sẽ làm cho trắng đen rõ ràng. Bống em đi ba ngày, tôi mong cả ba.

Bống em đi bốn ngày tôi ngóng cả bốn. Bống em về. Mặt buồn rười rượi. Hỏi gì cũng không nói. Mẹ gạn hỏi, Bống em lắc quầy quậy. Tôi hỏi, Bống em rấn rấn nước mắt.

- Em không tìm được chị thì anh sẽ đi.

- Đừng đi Lăng ơi! Em xin anh. Bẽ bàng lắm. - Bống em mếu máo, can ngăn. - Anh chịu khó học ôn thi vào đại học. Em sẽ lam lũ gánh phân, cấy hái, em sẽ thêu Long hoá, Trúc đào, Phượng múa lấy tiền nuôi anh như ngày nào anh đã từng nuôi chị gái em.

Tôi lắc đầu, lòng rười rượi.

Tôi chưa kịp đi tìm thì Bống chị đi ô tô về.

Bống về cùng ông người Đài Loan tuổi ngoại ngũ tuần. Bống mặc quần bò, áo phông in hình con Chuột túi, phía dưới in dòng chữ tiếng Anh. Đầu tóc cuốn búp xoăn, nhuộm hoe hoe vàng.

Móng chân sơn đỏ choét. Mi giả uốn cong cong. Mí mắt tô xanh lè. Giầy cao gót nện trên đường quê khấp khểnh và lổn nhổn phân bò. Bống khoác xắc da nâu đỏ dập nổi hình con dao quăng.

Thỉnh thoảng Bống lấy gương soi, kẻ lại lông mày, tô son môi đậm thêm. Khác hoàn toàn, mất hết dấu vết cô Bống mặc quần phin mỏng, áo gụ, tóc buông vấn vương hương lá chanh lá bưởi ngày nào.

Bống về làm xôn xao thôn Cự Phú heo hút, buồn tẻ. Bống về như luồng gió hoang dại đánh thức cái làng quê trì trệ, tù túng, ngái ngủ.

Gặp người thôn, Bống chị chào, cuối câu đệm vài tiếng Anh bồi. Bống chia kẹo bánh cho trẻ con như phát chẩn năm ất Dậu. Bống biếu bánh mọi nhà trong thôn Cự Phú.

Bống bảo: "Đừng gọi là Bống chị, quê lắm. Gọi cháu (chị, cô...) là Ngọc Bích". Ngọc Bích sắc sảo, khôn ngoan. Người thôn nhẩn nha, chậm rãi. Họ xì xào chuyện Ngọc Bích đưa ông doanh nhân về quê tìm hiểu nghề thêu truyền thống.

Ông ta hơn Bống ba mươi tuổi. Mặt tròn, trán bóng, bụng phệ. Mắt một mí, vừa gian giảo, vừa bề trên. Ông ta biết lấy lòng mọi người. Đến khung thêu nhà nào cũng nồng nhiệt bắt tay, cười thân thiện... ấy là Bống em kể, dân thôn kể.

Một chuyện rất buồn cười. Bọn trẻ trâu nhà quê láu lỉnh, ranh mãnh. Chúng thấy Bống chị như sinh vật lạ từ trên trời rơi xuống, nhìn ngứa mắt. Được chia kẹo mà chúng vẫn không tha Bống, chúng lùa cả đàn trâu, bò, bê, nghé lúc nhúc chặn trước mũi xe ôtô.

Còi ô tô nhẫn nại xin đường inh ỏi. Trâu bò kêu, bê nghé rống như bị chọc tiết, mãi mới chịu tản ra. Rồi bọn trẻ chăn trâu đồng thanh ê a:

... Em ra thành phố dần quên một thời... / Em tôi áo chẽn em tôi quần bò.

Lại hát:

Tưởng giếng sâu, anh nối sợi dây dài / Ai ngờ giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây.

Chắc Bống chị nghe được. Chiếc xe ôtô sang trọng bỗng tăng ga phóng vùn vụt. Bụi mù cuốn theo như cơn lốc.

Ngày trước, Bống chị không ngồi gác ba ga xe đạp thầy Đô nhà thơ. Nay, Bống ngồi ô tô anh già ngoại quốc; thầy giáo thù, dạy bọn trẻ con hát thơ chăng? Tôi không tin ông giáo tệ thế.

Buổi tối, Bống chị đã đi rồi, thầy Đô gặp tôi đứng ở cổng làng như chết chôn; thầy bảo: "Cảm ơn con bé Bống quá. Nó về làng làm thầy nẩy ra tứ thơ." Nghe xong, tôi rơm rơm nước mắt.

Độ một tháng sau, tốp người Công ty ông doanh nhân Đài Loan về làm việc, họ ở tạm ủy ban xã. Tuyển thợ, đào tạo lại. Mở xưởng thêu. Về lâu dài thành lập Công ty con tại quê hương.

Bống chị và ông doanh nhân về sau mấy hôm. Ban ngày Bống chị và ông Đài Loan làm thủ tục mở xưởng thêu, chuẩn bị tuyển thợ. Ban tối, ô tô quành mấy chục cây số ra khách sạn ngoài thị xã ngủ.

Bống em đem đến đưa tôi một nắm vàng. "Chị Bống gửi trả cho anh Lăng. Lời lãi tính cả ở đó rồi". Một nắm vàng bằng bao nhiêu gánh phân trâu? Bao nhiêu hòn đất vượt? Bao nhiêu chuyến xe chở chã đất nung, chum vại sành? Một nắm vàng bằng bao nhiêu tình người? Cân! Đong! Đo! Đếm!... Tôi cười. Nụ cười héo hắt, cay đắng:

- Tôi có cho Bống chị vay đâu? Bống em mang về đi.

- Nhưng nó là của anh, là mồ hôi, nước mắt...

- Im ngay. - Tôi quát. - Không mang về ta sẽ ném vào đống phân trâu.

Bống em giật thót mình. Bặm môi, cho khỏi khóc Bống em bước xặm xụi về nhà trong bóng tối đường quê nhập nhoạng.

Đêm hôm ấy, tôi nằm úp thìa, khóc như mưa. Khóc cho mối tình bị phụ bạc. Khóc cho sự ngu đần của thằng con trai quanh năm không đi khỏi huyện.

Gái thôn nô nức ra ủy ban xã tuyển thợ thêu. Có vài đứa con trai èo uột cũng đi. Một dãy khung thêu mắc vải phin trắng và in hình mẫu mới để sẵn, chờ các thí sinh.

Tôi cũng ra ủy ban xã. Tôi không dự tuyển. Tôi là nam nhi, chí khí có thừa. Tôi đã gắng học bổ túc hết phổ thông. Tôi làm thùng đào thùng đấu, đánh xe trâu, biết thêu thùa may vá, biết chờ đợi. Tôi đi tìm Bống chị...

Bống chị nhìn tôi cười cười, bình thản như những người dân quê khác. "Không phân biệt thân sơ, Công ty chúng tôi lấy chất lượng làm chính. Bây giờ là 9 giờ sáng.

Anh chị em bắt đầu thêu." Tiếng Bống chị mà không phải chị Bống. Vậy là Bống và tôi: Như hai người quen biết sơ sơ ở làng. Như chưa từng cõng nhau qua chỗ lội. Như chưa từng chụm đầu học bài, tóc mai cháy xém.

Tôi ngồi trước khung thêu. Đảo mắt quanh không thấy Bống em. Chỉ có Bống chị ngồi kia, cao sang và bụi bặm, quý phái và nhà quê... Chưa bao giờ tôi bình thản như lúc này. Tôi như người đi thi tuyển thật sự, sẵn sàng kim chỉ đua với thời gian...

Kim với chả chỉ! Đợi với chả chờ! Hoài phí một đời trai. Trong đầu tôi lại vang lên tiếng còi tầu gióng giả. Còn đâu chuyến xe trâu chở nhau lên ga Xép, tiễn Bống đi đại học? Bống nhoài đầu qua ô cửa sổ tầu hỏa; Bống vẫy tay: "Lăng về đi. Cố đợi em nhá"...; cứ mồn một hiện lên trong đầu.

Tôi bỏ khung thêu đứng dậy. Coi như phần thi đã xong.

Mấy đứa cắm mặt vào khung thêu bên cạnh liếc sang. Chúng bịt miệng cười, nhưng tiếng cười cứ phì ra. Khung thêu vải phin trắng của tôi vẻn vẹn dòng chữ: "Tưởng giếng sâu, anh nối sợi dây dài...". Chữ thêu màu đen, chữ nào cũng nguệch ngoạc giống các cây cờ phướn đen cắm xiêu vẹo.

Bống chị thấy bọn thợ thêu cười nhăn nhở, đi tới. Tôi đứng bình thản nhìn thẳng vào mặt Bống chị. Một nụ cười khẩy không phải đắc ý cũng chẳng ra đểu, tôi bước nhanh ra ngoài.

Chiều hôm ấy, tôi giao hết nhà cửa, vườn tược, xe bánh lốp, trâu dái nhờ thầy Đô nhà thơ trông coi, và bán tống bán táng hộ. Thầy bảo: "Lăng. Anh là người tốt. Người tốt lúc nào cũng khổ. Bây giờ sáng mắt chưa? Được cái anh còn trẻ. Anh đi, tôi tức cảnh sinh tình, làm thơ tặng. Để tôi đọc nhá".

Tôi nhẫn nại nghe hết bài thơ thầy Đô thì Bống em đến.

- Anh cho em đi với.

- Tôi không dây với chị em nhà Bống nữa. Rách việc!

- Không cho em đi thì thôi. - Bống em sụt sịt. - Cầm lấy này. Của anh đấy.

Bống em dúi vào tay tôi bộ xà tích bạc. Trời ơi! Mắt tôi sáng lên. Bộ xà tích bạc của mẹ, tôi đã bán đền bức tranh thêu Phượng múa, tôi đã quên cả việc chuộc lại.

- Em sẽ nhất quyết giữ số vàng ấy cho anh. Nó là mồ hôi, nước mắt của anh. Anh đi rồi lại về nhá. Em chờ...

- Tôi đấm thèm vào! Không chờ đợi gì sất. - Tôi đập vai người lái xe Honda ôm. - Đi...i...i.

Chiếc xe đang nổ máy xịch xịch, bất ngờ rồ ga phóng vụt đi. Một đoạn đường xa, ngoái lại vẫn thấy Bống em đứng lặng im nhìn theo.

Lòng tôi tự nhiên dịu lại. Bộ xà tích bạc trong tay ấm dần lên.

Chào mẹ

Tôi không khó khăn nhận ra mẹ khi bà vừa bước ra khỏi trạm kiểm soát an ninh phi trường. Một tay kéo chiếc va ly nhỏ, một vai mang chiếc xách tay, mẹ thong dong như trôi theo dòng người. Dáng mẹ trông mảnh mai, thanh nhã, linh hoạt dù rằng đã ở cái tuổi tám mươi. Tóc đã bạc phơ. Chiếc áo sơ mi màu trắng như giúp khuôn mặt mẹ tươi tắn hơn ngày tôi gặp mười lăm năm trước. Mẹ đưa mắt tìm kiếm. Tôi giơ tay vẩy. Bà mừng rỡ vẩy lại. Tôi cười khi mẹ đến gần:

- Chào mẹ!

Mẹ buông rơi chiếc va ly, mở vòng tay ôm ghì lấy tôi. Tôi cũng ôm xiết mẹ mà sao không cảm nhận chút nồng ấm nào. Từ khi chưa đầy một tuổi, ba mẹ tôi đã đành đoạn bỏ rơi tôi. Thôi nôi, ngoại cúng kiến van vái. Lên ba, ông ngoại mất. Lên năm, bà ngoại lìa đời. Cậu mợ tôi thừa hưởng gia sản nên... thừa hưởng luôn việc săn sóc dưỡng dục tôi. Vì vậy mà khi khôn lớn, tôi hầu như quên hẳn mình còn đủ cha đủ mẹ.

Tôi lái xe vào trung tâm thủ đô, chạy vòng vòng cho mẹ xem phố xá rồi quẹo sang đường Constitution. Tôi chỉ mẹ xem đài tưởng niệm Washington, tòa Bạch ốc và hứa một ngày khác sẽ đưa mẹ vào xem tận bên trong. Mẹ nói mẹ muốn ưu tiên gặp em của mẹ, còn việc tham quan chừng nào cũng được. Tôi cho mẹ biết cậu mợ đang chu du Âu châu, hai tuần nữa mới về. Sợ mẹ hiểu lầm, tôi giải bày:

- Cậu mợ ghi tên đi chơi trước ngày mẹ báo tin qua đây nên không hủy bỏ được. Con đã xin nghỉ một tháng. Trong tháng đó mình sẽ đi một vòng sơ khởi nước Mỹ. Mẹ sẽ gặp em trai mẹ vào tuần lễ thứ ba...

Tôi ngưng nói khi thấy mẹ xoay mặt về khung cửa kính. Nhân lúc xe qua cầu, tôi cất cao giọng:

- Đây là sông Potomac. Đi xuôi dòng sẽ trông thấy một phần hình ảnh rất đẹp của thủ đô. Nhà của con phía thượng dòng cách đây độ nửa giờ.

Mẹ vẫn nhìn quang cảnh thành phố, chỉ có tiếng "thế à" hờ hững vang lên. Tôi nhìn đồng hồ và mừng là đã tới giờ cơm chiều. Tôi nói nhỏ nhẹ:

- Suốt ngày đêm trên máy bay, chắc mẹ thèm cơm. Khu thương mại Eden của người Việt vùng này có một nhà hàng nấu món canh chua cá bông lau, cá kho tộ ngon lắm!

Bà nói giọng mệt mõi:

- Nói chung thì mẹ thèm một tô phở.

Một cái gì nghẹn ngào đột ngột trào dâng trong tôi. Hai mươi năm tập kết ra Bắc mẹ đã bị đồng hóa. Không chỉ thay đổi cả giọng nói, ngôn từ mà lơ là luôn cả món ăn ưa thích của miền Nam. Tôi ngờ rằng bà không phải là người sinh ra tôi...

Tôi đưa mẹ vào tiệm Phở Xe Lửa và gọi tô đặc biệt. Mẹ khen ngon hơn phở ở Sài Gòn. "Nhưng vẫn thua phở Hà Nội", tôi nhanh nhẩu tiếp lời. Mắt mẹ thoáng chút ngạc nhiên rồi lặng lẽ quan sát xung quanh... Tôi cũng quan sát bà. Tôi giống mẹ lạ lùng. Chắc chắn nhìn chúng tôi, không ai nghĩ khác hơn là mẹ và con. Mà giống mẹ để làm gì khi tâm hồn chúng tôi không có chút gì hòa điệu...

Tôi nhấn một chiếc nút trên trần khi xe sắp quẹo vào driveway và lái thẳng vào garage. Trong khi tôi mở cóp nhấc xuống các hành lý, mẹ đi ra phía trước đường. Tôi bước đến bên mẹ khi bà ngắm nghía ngôi nhà, trầm trồ:

- Nhà của con đây hả? To và đẹp quá, ngoài tưởng tượng của mẹ. Quang cảnh cũng thật sáng sủa tươi mát.

Tôi cười buồn:

- Chúng con mới mua năm ngoái và chắc cũng sắp bán...

Giọng mẹ thảng thốt:

- Tại sao thế?

Tôi nắm cánh tay mẹ dìu đi:

- Mẹ vào nhà nghỉ ngơi. Từ từ rồi mẹ sẽ biết...

Tôi bấm số liên hợp và mở toang cánh cửa. Mẹ bước vào, đứng sững người trên tấm thảm nhỏ mang chữ welcome. Dường như mẹ không tin những gì mẹ đang thấy. Mẹ ngập ngừng bước đi, mắt dừng lại từng vật trang trí ở phòng khách, phòng gia đình, miệng lẩm bẩm lời tán thưởng. Khi mẹ hướng về khu bếp, tôi biết mẹ sẽ ở đây lâu hơn nên lặng lẽ trở ra ngoài mang hành lý vào nhà. Khóa cửa xong, tôi đảo mắt tìm mẹ. Bà đang ở trong phòng đọc sách, đứng lặng yên trước bàn thờ. Mẹ không nhìn các tượng Phật rất đẹp tôi thỉnh tận Thái Lan. Mắt mẹ đang đăm đăm nhìn di ảnh của Huy. Anh mặc áo tiểu lễ hải quân với dây biểu chương, trên một nắp túi là bảng tên Lê Quang Huy. Bên kia là chiếc huy hiệu hạm trưởng và hai hàng huy chương nhiều sắc màu khác biệt. Và Huy đang tươi cười...

Mẹ nói bằng giọng ngạc nhiên mà bình thản:

- Sao con không nói gì với mẹ?

Tôi lắc đầu:

- Để làm gì? Mẹ có biết gì về ảnh đâu và chắc cũng không ưa ảnh!

Mười lăm năm trước, khi về chịu tang ba tôi, tôi đã từ chối trả lời mọi câu hỏi của mẹ. Tôi muốn cho thấy khi bà đã có can đảm bỏ rơi tôi thì tôi cũng có can đảm coi như đời tôi không dính dáng gì tới bà. Mãi gần đây, khi mẹ ngỏ ý muốn qua thăm chúng tôi, Huy khuyên tôi nhận lời, dù gì bà cũng là người sinh thành ra mình. Tôi nghe lời khuyên nhưng chỉ một mình tiếp đón mẹ. Huy chết bất thần vì cơn đột quỵ.

Mẹ nhìn khắp bàn thờ rồi quay phắt sang tôi:

- Sao không thấy con thờ ba con?

- Thờ ba? Tại sao con phải thờ ba?

Mặc dù đã tự nhủ, tôi vẫn không dằn được cơn bực tức bùng vỡ. Mẹ quay đi, lặng lẽ thắp nén nhang cắm vào lư hương, nhìn Phật Bà, nhìn Huy rồi thở dài lặng lẽ bước lên thang lầu. Tôi đã từng nghe nhiều tiếng thở dài tương tự của mẹ trong suốt thời gian mười ngày về dự đám táng ba tôi. Tôi đã cho bà thấy tôi không chỉ dửng dưng với người chết mà còn lạnh lùng với cả người còn sống. Liệu có ai cư xử khác tôi khi suốt quãng đời dài gần bốn mươi năm mà chỉ vài lần được nghe nhắc đến mẹ cha mình bằng lối bông đùa.

Năm tôi lên mười bốn, sau trận Mậu Thân khói lữa khắp Chợ Lớn Sài Gòn, một bữa, lần đầu tôi nghe cậu nhắc tới ba mẹ. Trong bộ đồ trận rằn ri mang lon trung tá, cậu ra vẻ trịnh trọng: "Nè, Phượng! Con có biết là suýt nữa con đã có dịp trùng phùng ba mẹ con không?" Trong khi tôi tò mò lắng nghe, cậu tỉnh bơ tiếp: " Nhưng vì cậu thấy họ không xứng đáng làm bậc cha mẹ, cậu đã đuổi họ về mật khu rồi!" Tôi thường cười với mỗi cợt đùa của cậu nhưng lần đó tôi mím môi muốn khóc.

Năm hai mươi mốt tuổi, khi tôi đưa Huy về nhà giới thiệu nhân buổi tiệc mừng cậu thăng cấp tướng, cậu nói nhỏ vào tai tôi: " Chà chà! Như vầy là kẹt cậu rồi! Con mà chọn tên hải quân đó làm chồng thì cậu khốn khổ với chị cậu. Tuy nhiên, nếu con... năn nỉ cậu, cậu cũng liều cho con làm... bà thiếu tá. Tôi vẫn cười thầm về chuyện này vì bốn tháng sau, sự thể đảo ngược. Chính cậu lại là người phải "năn nỉ" tôi để cả gia đình được lên tàu của Huy rời khỏi Việt Nam.

Chúng tôi thành hôn ở Mỹ. Huy trở lại đại học, tôi đi làm ngày đêm. Rồi lần lượt hai đứa con ra đời. Huy ra trường đi làm. Tôi vào đại học. Vất vả mà hạnh phúc. Tôi quá bận rộn để nhớ về quê cha đất tổ, cho tới mười năm sau tôi mới lại nghe tin tức ba mẹ. Lại vẫn do cậu đưa tin. Cậu tôi cho biết đã liên lạc được với chị của mình. Không lâu sau đó tôi liên tiếp nhận được thư ba mẹ tôi bày tỏ lòng khao khát mong nhận được thơ tôi và hình ảnh gia đình. Và tiếp đến là những lá thư mong mỏi tôi về Việt Nam. Tôi nhận thư, tôi đọc, lòng ngơ ngẩn, bâng khuâng nhưng không có chút hứng thú trả lời. Thậm chí nhiều năm sau, cái tin ba tôi đau nặng cũng chỉ được đón nhận với lòng dửng dưng.

Huy bảo tôi nên về. Cậu mợ gọi điện bảo tôi phải về. Tôi thưa với cậu mợ rằng tôi không có cha mẹ nào khác ngoài cậu mợ nhưng cậu mợ tiếp tục thúc bách và giảng đạo lý. Tôi rủ cậu mợ cùng về. Cậu bảo cậu không muốn giỡn mặt với chính quyền cộng sản. Cuối cùng tôi khăn gói một mình lên đường. Thời điểm này chúng tôi còn nghèo nên Huy đành ở lại với hai con.

Nhưng đoạn đường quá xa để ba tôi không thể chờ. Ông vĩnh viễn ra đi vài giờ trước lúc tôi bước vào ngôi nhà xưa. Dù vậy tôi vẫn còn kịp nhìn mặt ba tôi. Nhìn chỉ một lần mà vẫn đủ để khuôn mặt già nua, khắc khổ, hoàn toàn xa lạ đó theo tôi về tận xứ Mỹ. Thỉnh thoảng nhân một liên tưởng về dòng họ ai còn ai mất, khuôn mặt của ông lại hiện ra cùng với những tiếng thở dài của mẹ. Thế mà tuyệt nhiên, tôi không hề nghĩ đến việc thờ phượng ông...

Mẹ nằm trong buồng riêng suốt đêm ngày, mãi đến tối hôm sau mẹ mới tươi tỉnh hẳn. Tôi rủ mẹ đi ăn đồ biển. Mẹ ăn tự nhiên, ngon lành. Nếm đủ tôm cua nghêu sò óc hến. Luôn cả hào tươi. Lâu lắm mới có dịp ăn ngoài, tôi cũng tận lực nuốt. Trên đường về nhà, mẹ hỏi:

- Cậu bảo con có hai thằng con trai. Chúng nó đâu mà mẹ chưa gặp?

- Tụi nó đều đã lập gia đình. Mỗi đứa ở mỗi tiểu bang khác nhau, khá xa. Đứa lớn ỏ Georgia, có hai con, đứa nhỏ ở Texas, đang chờ con đầu lòng. Con đã sắp xếp để mẹ đến chơi với chúng nó, mỗi đứa vài ngày, sau khi mẹ gặp cậu mợ.

Mẹ nhìn tôi, dò hỏi:

- Con ở đây một mình sao?

Tôi gật đầu:

- Vì vậy mà con có ý muốn bán nhà này về sống với mấy đứa nhỏ, luân phiên mỗi đứa một thời gian. Tụi nó đang năn nỉ con về ở chung.

Giọng mẹ ngập ngừng:

- Phải thú nhận rằng mẹ vừa trông thấy căn nhà này là mê ngay. Nếu con bán thì bán cho mẹ. Mẹ con ta sẽ ở đây, mãi mãi tới ngày mẹ chết...

Tôi đăm đăm nhìn mẹ. Tôi đã biết từ lâu là mẹ rất giàu, chỉ ngạc nhiên về ý cuối. Nó đến quá bất ngờ như là một nhánh gai quẹt vào người. Tôi nghe xót đau, khó chịu. Tôi không chuẩn bị việc này, cũng không muốn nó xảy ra. Đầu óc tôi đông cứng. Chợt hình ảnh Huy hiện ra, miệng cười cười. Ba tháng nay, từ ngày anh mất, khi tôi gặp điều gì khó xử là anh lại hiện về. Nụ cười của anh luôn luôn giúp tôi tìm giải pháp. Tôi thấy bao nhiêu phiền phức nếu cho mẹ ở chung. Tôi đã quen với cuộc sống không có mẹ. Chỉ mới hai mươi bốn tiếng đồng hồ "có mẹ" mà tôi đã chịu đựng biết bao gượng ép.

Mẹ nhìn tôi dò hỏi. Tôi nói:

- Con mới mất anh Huy. Con cần một thời gian yên tĩnh.

- Mẹ cũng cần có thời gian sắp xếp mọi việc ở Việt Nam. Năm tới mẹ trở qua sống hẳn với con. Con đồng ý chứ?

Tôi không biết nói gì hơn. Tôi như nghe tiếng Huy văng vẳng: "Đừng làm mẹ buồn!" Tôi cố nhìn vào bóng đêm loang loáng tìm hình bóng Huy nhưng chỉ thấy ánh đèn đỏ vừa bật ở ngả tư...

Sau năm ngày dạo chơi phố xá và ngắm cảnh Nữu Ước, chúng tôi dành hai đêm thử thời vận ở sòng bạc Atlantic City. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ, cả hai mẹ con thắng lớn. Chúng tôi về đến nhà, tẩy rửa xong lớp bụi đường thì trời tối hẳn. Tôi thấy mệt mõi nhưng mẹ tỉnh bơ đề nghị để mẹ nấu ăn ở nhà. Tôi nói sẽ ăn ở nhà nhưng mẹ khỏi nấu. Mẹ không tỏ gì ngạc nhiên khi tôi gọi thức ăn bằng điện thoại. Bà ngồi thoải mái trong bộ ghế êm ái, xem truyền hình đưa tin thế vận hội. Tôi sắp đặt chén đũa, khăn ăn và nước ngọt rồi ngồi xuống cạnh mẹ. Chợt mẹ quay sang tôi, giọng ngập ngừng thiếu tự nhiên:

- Mẹ phải nói với con chuyện này. Em trai con muốn nhờ mẹ hỏi con giúp nó một việc.

Em trai tôi? Tôi từ từ hình dung đứa em trai của mình. Tôi đã nhớ ra một hình dáng hiền hòa thường quanh quẩn gần tôi. Cũng như cậu và mẹ, em tôi nhỏ thua tôi năm tuổi. Nhưng nó khác với tất cả chúng tôi là đã không chào đời ở miền Nam. Tôi nhìn mẹ chờ đợi. Giọng mẹ đều đều:

- Đứa con gái út của nó học rất giỏi. Năm tới lên đại học. Nó muốn nhờ con giúp cháu qua học bên này. Nó không muốn cho cháu ở nội trú. Nó xin cho cháu ở với con. Cơ bản là con không phải tốn kém gì hết. Mẹ sẽ lo đi chợ, nấu ăn cho cả nhà...

Cơn giận chợt ứ lên ngực làm tôi khó thở. Tôi hít vào một hơi thật sâu. Tôi biết là mở miệng lúc này tôi sẽ nói ra lời cay độc. Tôi nhìn ra ngoài trời đang đổ mưa với những ánh chớp liên hồi. Tôi nhớ tới những cơn mưa đầy sấm sét trong căn nhà thênh thang thuở lên mười. Thuở đó cậu tôi đổi đi đơn vị xa và mợ theo cậu. Người giúp việc thì ngủ gần bếp, xa căn buồng riêng biệt của tôi. Tôi đã vô cùng sợ hãi và từng ước ao có được một đứa em. Bây giờ tôi đâu còn cần. Tôi nói chầm chậm:

- Thì ra mẹ qua đây không phải vì con mà vì tương lai cháu nội của mẹ!

Bà nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Con nói gì lạ vậy. Tất nhiên mẹ qua đây là vì con, bởi vì mẹ muốn bù lại thời gian ba mẹ bỏ bê con. Mẹ không hề vì cháu nội. Nó chỉ ngõ lời sau khi biết ý định của mẹ.

Mẹ đưa tôi lá thư cầm sẵn:

- Đây là thư nó gửi cho vợ chồng con.

Tôi hững hờ nhận. Mẹ tiếp:

- Thật ra nó cũng đã hỏi các thủ tục xin ở nội trú. Không có con ở đây, con của nó vẫn qua đây học. Mẹ thấy điều quan trọng là có người ruột thịt cận kề, coi sóc, nhắc nhở.

Tôi cười chua xót, không còn ngăn được lời mai mỉa:

- Ruột thịt? Có là ruột dư với thịt thừa! Và mẹ đã từng cắt bỏ không thương tiếc!

Mẹ nhìn tôi đăm đăm:

- Con vẫn còn giận mẹ đến thế sao? Lần con về, mẹ đã hết lời giải thích..

- Con vẫn nhớ các lời giải thích đó: Ba mẹ đâu có muốn xa con, chẳng qua chỉ vì muốn góp phần giành độc lập, thống nhất đất nước. Thì đất nước đã độc lập thống nhất, sao mẹ và cháu nội không ở Việt Nam mà hưởng.

Mẹ buông tiếng thở dài. Tôi cũng chợt nhận ra mình vừa buông lời xỉa xói hỗn hào. Tôi trầm giọng:

- Con xin lỗi. Hễ nhớ đến những ngày con bị bỏ rơi là cứ muốn nổi xung thiên...

- Mẹ phải làm gì để được con tha thứ, quên đi chuyện cũ. Con nghĩ lại đi. Ba mẹ đâu có gửi con cho ai xa lạ. Người đó chính là ba mẹ ruột của mẹ. Con lúc nào cũng nhận được trọn vẹn tình thương và chăm sóc...

Tôi cố giữ giọng bình thường:

- Ba mẹ ruột của mẹ chớ đâu phải ba mẹ ruột của con! Suốt tuổi thơ của con, con bị bạn bè cười nhạo là đứa trẻ mồ côi, là con không cha không mẹ!

Nước mắt tôi tự dưng ứa ra, rơi dài xuống. Mẹ đứng lên, bước lại ôm choàng lấy tôi.

Tôi khóc nức nở trên vai mẹ. Khi muộn phiền đã dịu xuống, tôi nhìn thẳng vào mắt mẹ:

- Mẹ không thấy là mẹ không công bằng sao? Lúc con ở cái tuổi rất cần sự săn sóc của ba mẹ thì ba mẹ bỏ đi biền biệt. Còn bây giờ, khi mẹ muốn ở gần con thì mẹ đã bước vào cái tuổi gần đất xa trời, cái tuổi mẹ cần con chớ con không cần mẹ. Thật lòng mà nói, cho tới giờ phút này, con không một mảy may cảm thấy chút gì thương yêu mẹ, thì nói chi thương yêu cháu.

Mẹ ôm mặt, thân hình thả rơi lên ghế. Tôi nghe tiếng nấc của mẹ và nghe lòng chùng xuống. Tôi nói nhanh như sợ không còn nói được:

- Nhưng có điều chắc chắn là con cũng không thể chối bỏ mẹ không phải là mẹ của con. Chừng nào mẹ muốn ở với con, mẹ cứ ở. Chừng nào mẹ muốn đi, mẹ cứ đi. Điều em con muốn, cháu con muốn, con khó mà nói được lời từ chối!

Mẹ vẫn ngồi yên, thút thít khóc. Đúng lúc tôi muốn ngồi xuống ôm lấy mẹ thì tiếng chuông reo. Tôi thở hắt ra, bước về phía cửa nhận thức ăn mang tới...

Ở San Francisco ba ngày, chúng tôi đi xe đò xuống San Jose. Ba ngày sau nữa chúng tôi về tới quận Cam. Cậu và các con cháu đón chúng tôi ở bến xe, chỉ thiếu có mợ. Khi tôi thông báo mẹ sẽ sang thăm gia đình cậu, cậu nói sẵn sàng gặp mẹ nhưng từ chối cho chúng tôi tạm trú. Nhà cậu mợ rất rộng, nhiều buồng ngủ. Vợ chồng con cái tôi mỗi khi qua Cali là ở nhà cậu mợ hà rầm. Cậu mợ hẳn phải đau lòng khi lần này để tôi ở khách sạn chỉ vì... có mẹ!. Mợ không muốn chứa mẹ trong nhà. Hai đứa em trai của mợ đều bị tập trung, một bỏ xác trong rừng Yên Bái.

Mỗi ngày trong suốt một tuần, cậu lái xe đến khách sạn đón chúng tôi đi viếng thăm hết nơi này đến nơi khác. Ngày đầu, cậu dành cho khu Little Saigon. Mẹ thú nhận là rất ngạc nhiên về mức phát triển quy mô và sự phồn vinh sang giàu của người Việt tỵ nạn. Những ngày kế dành cho danh lam thắng cảnh. Có ngày chúng tôi bay khỏi thành phố đỏ đen Las Vegas về phía Bắc để chiêm ngưỡng Grand Canyon vô cùng ngoạn mục. Ngày khác lái xe tận về phía Nam gần kề Mể Tây Cơ để ngắm nghía những quang cảnh sinh động huy hoàng trong Monterey Bay Aquarium.

Cậu thường dùng khoảng thời gian di chuyển để hỏi mẹ về gia đình và dòng họ ở quê nhà. Cậu cũng kể về cuộc đời của cậu trong suốt nửa thế kỷ không gặp chị. Tôi vô cùng thú vị được nghe hai chị em nhắc lại những kỷ niệm thời họ sống bên nhau. Thỉnh thoảng cậu và mẹ "đụng" nhau về đề tài chính trị thường là do cậu khởi xướng.

Một lần đang lái xe, cậu bỗng nhái cái giọng bắc của mẹ: "Thật đáng tiếc! Nếu chị cả đừng... vớ phải cái ông trí ngủ nằm vùng thì giờ chị em gặp lại dung dăng dung dẻ biết bao!". Mẹ nở ngay nụ cười đáp trả: "Thì cũng lỗi ở em. Phải chi em không làm tay sai cho Mỹ Ngụy". Cậu gật gù ra vẻ tán thưởng rồi bắt sang chuyện khác.

Hôm đứng trước trường đại học danh tiếng Standford, cậu cười nói: "Tham quan trường này chị có nhớ đến những năm chị dạy ở trường Đảng không? Phải công nhận duy vật biện chứng pháp hay tuyệt. Đảng Cộng sản chủ trương " không có người bốc lột người". Thế mà ngày nay bản thân Đảng hóa thành "đảng bốc lột người". Y chang...hủy thể của hủy thể!" Mẹ bậc cười dòn tan: "Đúng ra là... phủ định của phủ định!".

Một buổi tối về khách sạn còn sớm, cậu lân la ở lại. Không biết dẫn dắt từ đề tài gì, hai chị em bắt đầu bàn về Hoàng Sa, Trường Sa và sự hiếp đáp của Trung Cộng. Bỗng cậu đặt câu hỏi: "Ông Bush hứa với ông Dũng là sẽ ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ của VN. Vậy giả sử Trung cộng tấn công Việt Nam và Mỹ đem quân qua giúp đánh lại Trung Cộng, thì đối với hai quân đội ngoại nhập đó, theo chị thì phải gọi là gì? Tàu là quân xăm lăng, Mỹ là bọn xâm lược? Mẹ cười duyên dáng: "Gọi thế là...đúng sách vở đấy".

Vào ngày thăm viếng Getty Center, một công trình chi phí hàng tỷ đô la, vừa đồ sộ về kiến trú tân kỳ, vừa là viện bảo tàng nghệ thuật cổ vật hàng thế kỷ, lại vừa quy mô về tổ chức, tất cả chi phí do nhà tỷ phú Paul Getty đài thọ, cậu tôi bất ngờ hỏi mẹ:" Nghe đâu chị đang là tỷ phú đỏ. Ngày xưa chị chống Mỹ cứu nước, ngày nay nhà tỷ phú Việt Nam đổi mới đã đóng góp được gì để dựng nước?" Mẹ cười: "Chị đang cho xây Đại Nam Quốc Tự thứ nhì. Hôm nào khánh thành chị sẽ mời em về dự". Cậu cười ra vẻ đắc ý: "Xin hỏi lần này chị đặt ông Hồ ngồi ở đâu?" Tôi nhớ vừa đọc tin tức gần đây nói về ngôi chùa vĩ đại mới xây xong có đặt ba bức tượng từ thấp lên cao: Hồ Chí Minh, Khổng Tử, Phật Thích Ca. Tôi lo âu chờ câu trả lời. Mẹ nhởn nhơ: "Em về thì biết".

Đêm chót trước khi rời Quận Cam trở lại Maryland chúng tôi được cậu mời một bữa tiệc cá 7 món, đặc sản Cali. Khi chúng tôi đến nhà hàng, tôi thật sự ngạc nhiên và vui mừng khi thấy có cả mợ hiện diện. Mợ đứng lên vui vẻ chào hỏi và mời mẹ ngồi bên cạnh. Mợ vốn hoạt bát, nên mẹ lúc nào cũng cười tươi. Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Lúc chờ tính tiền cậu hỏi mẹ bao giờ về Việt Nam. Mẹ bảo còn lâu, khoảng sáu tháng nữa. Và năm tới có thể là qua ở luôn. Cậu gật gù nhìn mẹ rồi nhìn tôi. Tôi tưởng cậu tán thành quyết định của mẹ nhưng cậu chậm rãi nói: " Phải nói là rất ngạc nhiên khi nghe chị tính qua Mỹ ở luôn. Chị biết không ông Hồ Chí Minh có làm một câu thơ rất nổi tiếng: đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào! Ba mươi ba năm qua, Ngụy đã nhào Mỹ đã cút. Thế mà giờ đây có người đánh đuổi Mỹ lại muốn... cút theo Mỹ!"

Tôi bật cười nhưng kịp hãm khi thấy mặt mẹ sa sầm...

Về Maryland, theo dự trù chúng tôi nghỉ ngơi ba ngày trước khi bay xuống Georgia và Texas. Nhưng chỉ mới qua đêm, buổi sáng mẹ buồn rầu đổi ý. Mẹ muốn về ngay Việt Nam. Tôi ngỡ ngàng. Nhưng tôi chợt hiểu ra. Câu trêu chọc của cậu đã chạm tự ái mẹ. Xa nhau quá lâu, mẹ không quen tính tình em mình. Cợt đùa, đốp chát vô tội vạ là thói quen của cậu. Hiểu cậu thì không ai giận cậu. Không hiểu cậu, giận cậu thì ráng chịu. Cậu nói đó rồi quên đó.

Tuy nhiên tôi vẫn không muốn thay cậu ngõ lời xin lỗi mẹ. Tôi cũng không có ý định van xin mẹ khoan vội về Việt Nam. Tôi biết chắc nếu tôi năn nỉ, mẹ sẽ ở lại. Gần tháng qua tôi đã cảm thấy chút gì gần gũi mẹ nhưng xem ra vẫn còn một bức vách vô hình ngăn cản sự thoải mái, tự nhiên, thân mật. Thậm chí còn có cái gì khác nữa khiến tôi có lúc bứt rứt, bực mình. Không có mẹ, tôi ngủ nghê, ăn uống thế nào lúc nào tùy thích. Có mẹ, tôi phải hầu hạ, e dè, trông trước ngó sau. Mẹ ở lại lần này, lần tới sẽ ở lại mãi mãi. Mà xem ra thời gian để xây đắp tình mẫu tử chẳng còn bao nhiêu. Luật đời vốn trói buộc tôi vào kiếp nạn mồ côi từ đầu đời. Có gặp lại cha thì chỉ khi cha mất. Gặp lại mẹ thì mẹ lại bỏ đi. Thôi thì hãy coi mươi ngày bên mẹ đã là một hồng ân.

Phải mất một tuần tôi mới đổi được vé máy bay. Trong tuần cuối đó, mẹ chỉ thích đi mua sắm. Mỗi ngày tôi đưa mẹ vào một trung tâm thương mại khác nhau. Ăn thì mỗi bữa một nhà hàng khác xứ. Mẹ đã thưởng thức các món ăn Mỹ, Nhật, Thái, Đại Hàn, Mã Lai, Nam Dương. Đêm cuối cùng, tôi hỏi mẹ có muốn ăn phở lần chót ở Mỹ không, mẹ cười bảo muốn ăn canh chua cá kho tộ. Tôi thấy chút ấm lòng..

Hôm đưa mẹ ra phi trường, chúng tôi im lặng suốt đoạn đường. Gửi xong hành lý, tôi kéo chiếc va ly, tay kia nắm bàn tay mẹ bước chầm chậm về trạm kiểm soát an ninh cá nhân. Khi gần đến dòng người ngoằn ngoèo chờ qua trạm, mẹ dừng lại. Tôi nhìn mẹ dò hỏi. Ánh mắt mẹ ngập tràn âu yếm mà giọng cất lên trầm buồn:

- Chắc mẹ sẽ không qua đây thăm con nữa.

Tôi nghe xao xuyến nhưng vẫn lặng thinh. Lời mẹ êm như tiếng thở dài:

- Và khi mẹ chết, con cũng không cần phải về...

Tôi đứng chết lặng. Tôi có cảm tưởng như tôi đã cư xử quá tệ hại với chính mẹ mình. Ý nghĩ trở thành đứa con bất hiếu khiến tôi buột miệng:

- Mẹ! Con sẽ về. Thế nào con cũng về. Cậu đã dạy con nghĩa tử là nghĩa tận.

Bà vòng tay ôm lấy tôi thật chặt, giọng êm đềm:

- Còn đây là lời mẹ dạy, lần đầu mà cũng là lời cuối. Con hãy luôn luôn ghi nhớ: "Chú như cha, cậu như mẹ". Con gắng giữ sức khỏe. Thôi mẹ đi.

Mẹ nắm chiếc cần va ly từ tay tôi. Tôi vụng về ôm lấy mẹ. Mẹ áp má vào má tôi. Tôi nghe chừng thân mình bay bổng. Khi tôi mở vòng tay, mẹ quay mặt bước đi. Tôi thấy mình quá bất nhẫn, khẻ gọi:

- Mẹ!

Bà quay lui, chân vẫn bước, đôi mắt hiền từ. Tôi lúng túng vẩy tay, cố nở nụ cười:

- Chào mẹ!

Chỉ tại mấy con bò

Trước số nợ khó trả nổi của gia đình, Lan em đã nghe lời bà mối mà không biết mình đang nhắm mắt đưa chân vào hiểm nguy.

Ngày mai, Lan em sẽ lên thành phố để kiếm chồng Đài Loan. Nước lũ trên đồng còn lội ngang đầu gối, Lan chị chống xuồng vô mấy gò cao móc cua đồng cả ngày và đem bán được hai chục ngàn đồng.

Lan chị ra tiệm cô Mười mua cho em chai dầu gió và hộp kem dưỡng da. Còn lại năm ngàn, cô dúi vào tay Lan em: "Ngày mai, em ra chợ ghé ăn tô hủ tíu cho chắc dạ rồi đi!".

Lan em bắt đầu rơm rớm nước mắt: "Chắc còn lâu lắm em mới được về thăm nhà hả chị Hai?".

Lan chị quay vô vách, mắt cay xè: "Không lâu lắm đâu, con Út nhỏ trong xóm lấy chồng Đài Loan mà nó về hoài đó thấy không? Nó còn có nhiều tiền cho ba má trả nợ, xây nhà đúc sướng thấy mồ".

"Sao em thấy hôm bữa chị ấy về chơi buồn lắm. Còn nữa, trước bữa lấy chồng, chị ấy ôm anh Hùng khóc quá trời''.

"Sao mày biết?. "Em với con Tý rình ngoài đầu cầu".

"Quỷ sứ, chuyện này không được nói ai biết nghe không. Con gái xứ mình trước khi lấy chồng, đứa nào cũng khóc, khóc lấy lệ thôi. Lấy chồng vui lắm, vài hôm là quên hết".

"Thiệt không chị Hai?".

"Tại cô Tư Thiện chê chị Hai xấu, nếu không thì chị đi rồi. Lấy chồng Đài Loan dù gì cũng có vài chục triệu đồng trả nợ cho ba. Lâu lâu mình về nhà, nó cho thêm tiền mua đồ cho thằng Tửng anh, Tửng em nữa".

"Nếu nó không cho mình về, còn không cho tiền nữa thì làm sao hả chị Hai?".

"Nói tầm bậy không hà! Cưng đẹp hơn Út Nhỏ nhiều, đứa nào lấy được cưng, nó quý hơn vàng".

"Thiệt hả chị Hai?".

"Thiệt mà! Thôi ngủ đi để mai còn theo cô Tư Thiện lên thành phố. Nhớ xài hũ kem chị mua cho nghen. Em có đẹp thì người ta mới thương, nhớ kỹ chuyện này nè!". Lan chị hạ giọng thì thầm: "Chưa làm đám cưới thì không cho nó đụng tới mình nghe chưa!". "Chuyện đó em biết rồi".

° ° °

Bà Tám chết trong một mùa lũ, lúc đó Lan em mới mười tuổi, còn thằng Tửng em vừa được ba tháng. Ông Tám gà trống nuôi con. Chuyện nhà chuyện cửa đè lên đôi vai bé nhỏ của Lan chị.

Mới mười lăm tuổi, cô phải thay má vừa dạy dỗ các em, vừa phụ giúp ba chuyện đồng áng. Công việc quá sức khiến Lan chị lớn không nổi, giống như trái cây chín ép, người đen thui, suôn đuột như nhánh điên điển.

Lan chị trở mình. Đêm nay sao dài quá, dài y chang như cái đêm đầu tiên sau khi đưa xác má cô ra ngoài gò.

Bên kia vách bồ hình như ba cô cũng không ngủ được. Chiếc đèn soi ếch ông quên tắt, cô cũng kệ, mà cũng hết bình rồi.

Ánh sáng lập lòe như đom đóm, chỉ còn tiếng ềnh oang của lũ ếch trong thùng.

Tiếng con bìm bịp lạc bầy đêm nay sao nghe buồn quá. Lan chị quơ tay sang thấy Lan em ngủ thiệt rồi. Mùi nắng khen khét lẫn mùi nồng nồng của em xông lên mũi cô cay xè. Cô đưa tay quẹt nước mắt.

Nhà nghèo, mấy năm nay trồng lúa sơ vơ sẩn vẩn, lúc trúng mùa thì lúa rớt giá, lượng lúa nhà cô vơ vét bán hết cũng không trả nổi nợ. Bốn chị em có bữa phải ăn khoai luộc trừ cơm. Cực khổ dữ lắm nhưng nhờ trời thương, đám em cô đứa nào cũng tròn vo, chắc nịch, nhất là Lan em.

Từ ngày thành thiếu nữ, thân hình nó hơ hớ như trái cây chín mọng. Đến nỗi lúc nào cô cũng gìn giữ nó như của quý, canh chừng lũ con trai xấu tính hay lượn lờ trước cửa.

Cuộc sống gia đình cô tuy cực khổ nhưng cũng còn cầm cự được, nếu không có chuyện xã cho dân vay tiền để mua bò. Từ ngày mua hai con bò sữa về, nhà cô mới thật là họa vô đơn chí.

Lúc đầu, với lượng sữa bò bán ra, trừ hết chi phí, chủ còn có lời. Ham quá, ông Tám bán ruộng lấy tiền mua thêm hai con nữa.

Tưởng sẽ có cơ hội đổi đời, ai dè không bao lâu giá cám, thức ăn thô lên giá, cỏ khan hiếm mà sữa thì bán không được. Gia đình cô phải chịu lỗ khi đổi chúng thành đàn bò thịt. Thật là đã khổ lại càng thêm khổ, bây giờ nhà cô nợ nần chồng chất.

Ngày mai, đứa em thương yêu đứt ruột của cô phải xa gia đình đi lấy chồng để kiếm tiền trả nợ. Tội nghiệp, nó còn nhỏ xíu. Càng nghĩ, cô càng giận lắm, nhưng phải giận ai, cô cũng không biết.

° ° °

Xa xa đã có tiếng gà gáy sáng ngoài chuồng, mấy con bò đang ậm ừ đòi ăn. Không biết ngày hôm qua Tửng anh, Tửng em đã kiếm đủ cỏ cho chúng hay chưa.

Sáng sớm, Lan chị ra chợ bán mớ cá mắc lưới, còn anh em thằng Từng chống xuồng kiếm cỏ cho bò. Hôm nay không ai thuê chở đất, ông Tám ở nhà một mình. Trời âm u buồn, sau khi một mình làm gần hết ba xị rượu, ông Tám sực nhớ có giấy mời của xã. Từ ngày Lan em đi, đầu óc ông lúc nhớ, lúc quên.

Ông ngật ngưỡng đi đến nơi thì bà con trong xã đã họp từ lâu. Người đứng, người ngồi lố nhố. Ông thấy họ đang tranh cãi chuyện gì quyết liệt lắm, hình như có có mấy ông cán bộ tín dụng ở huyện xuống thì phải.

Thôi chết! Ông Tám nhớ đến số nợ vay nuôi bò đã quá hạn, lòng rối như tơ vò. Ông lấm lét lủi ra tuốt đằng sau.

Chưa kịp ngồi, ồng đã giật bắn mình vì tiếng tháng Tám đen sao hôm nay dữ dằn quá: "Chỉ mấy câu xin lỗi nhận khuyết điểm của mấy ông là xong ư? Vay tiền sử dụng sai mục đích thì mấy ông không cho, vay làm lúa thì lỗ. Các ông xúi tụi tui vay tiền nuôi bò sữa. Bây giờ lỗ, mấy ông cũng phải biết chịu trách nhiệm chớ!".

Ông Ba Sang, chủ tịch xã đứng lên, khoát tay ra hiệu yêu cầu bà con giữ trật tự, phân trần: ''Anh nói bậy rồi! Ở trên thấy dân mình lâu nay làm lúa hoài không khá, muốn giúp mình nên người ta mới khuyến khích chuyển đổi và nuôi cây trồng. Còn muốn làm gì, nuôi gì là tự mình tính, đâu có ai xúi mấy anh nuôi bò sữa".

"Tôi không nói bậy! Nếu không xúi dân tiếp tục làm lúa, nuôi bò thì tại sao vay tiền đi làm lúa nuôi bò mới cho vay. Anh trả lời cho bà con nghe đi. Bà con tụi tui nào giờ đều nghe theo chính quyền. Nếu mấy ông thấy không chắc ăn thì phổ biến chủ trương nuôi bò làm gì?''.

"Ờ phải đó! Trả lời đi!". "Tám đen nói đúng đó, trả lời đi".

Cả đám đông lao nhao, mỗi người một câu làm lỗ tai ông Tám lùng bùng không còn nghe rõ. Hai mắt ông nhíu lại, buồn ngủ quá ông ngã lăn kềnh ra nền trụ sở xã làm một giấc đến xế chiều.

"Xế chiều rồi, dậy đi cha nội! Có về tui cho quá giang nè".

Bị tiếng Ba Sang oang oang hét vào tai, ông Tám giật mình tỉnh giấc: ''Ủa! Chèn ơi, chiều dữ rồi nghen, thôi cho tui quá giang về với anh Ba".

"Cho ông quá giang về là chuyện nhỏ, chuyện này mới lớn nè, cha nội". "Có chuyện gì vậy anh Ba?". "Nghe nói ông sắp gả con phải không?".

"Dạ!". "Ông gả nó cho thằng Đài Loan để lấy tiền trả nợ chứ gì? Vậy sao trong danh sách nợ quá hạn kỳ này còn dính tên ông?".

"Dạ, mới đưa nó lên thành phố cho người ta coi mắt thôi anh Ba ơi! Cô Tư mới đưa tui có chút đỉnh để xoay xở qua lúc ngặt nghèo thôi à! Nếu sau này người ta chịu nó, cưới hỏi xong hết rồi mới chồng tiền".

"Anh gả con thì tui mừng cho anh, nhưng anh cũng phải tìm hiểu kỹ nghe anh Tám. Bây giờ tụi lừa đảo dữ dằn lắm, nợ nần từ từ tính đừng ham tiền rủi có gì tội nghiệp con nhỏ''.

Ba Sang hình như còn muốn nói thêm nhưng nhìn thấy bộ dạng sửng cồ của ông Tám nên nín thinh.

Suốt đoạn đường về nhà, ngồi trên mũi xuồng, ông Tám ngoảnh mặt sang một bên, chửi thầm trong bụng: ''Mẹ cha nó, làm bộ làm tịch nói mình ham tiền. Bộ thằng chả không biết con gái xã này đứa nào cũng khoái lấy chồng ngoại. Nhìn vợ chồng Bảy Thể gả con Út Nhỏ thì biết, cô Tư Thiện là người xứ mình chứ ai xa lạ mà sợ. Con Mai, con thằng chả, thậm thụt với cô Tư hoài, muốn mà không được, thật là thói thường ghen ăn tức ở đây mà''.

Ông mang tâm trạng bực bội lẫn hoang mang về nhà. Thằng Tửng em đi đâu mất, Tửng anh nằm vắt vẻo trên chiếc võng. Ông thấy mớ cỏ trên chiếc xuồng ba lá còn chưa đem vô chuồng.

Giờ này, nếu Lan em còn ở nhà thì bếp núc, nhà cửa đâu có như vầy. Ông nổi nóng: ''Tửng anh, mày dậy liền coi! Trời đất ơi! Mới kiếm được có mấy cọng cỏ mà về ngủ rồi, như vậy làm sao đủ cỏ cho bò ăn?".

"Nước ngập kiểu này ba biểu con kiếm đâu ra cỏ, như vậy là nhiều rồi, không tin thì ba kiếm thử đi!".

Tửng anh cằn nhằn nhưng cũng lật đật đi gom cỏ lên, nhìn thấy đàn bò thảnh thơi nhai cỏ trong chuồng, cái đuôi vung vẫy sao mà thấy ghét quá. Thuận chân, Tửng anh đá luôn vào đít con đực mấy cái: "Cũng tại tụi bây nè! Tại tụi bây mà tao mới cực dữ như vầy nè, cho đáng đời!".

Lũ bò đâu hiểu chuyện gì nhưng hoảng sợ lắm, lồng lên bứt dây, chạy băng qua sân nước, phóng ào ào ra đê. Cha con ông Tám rượt theo muốn hụt hơi.

° ° °

Hôm sau, lúc cha con ông Tám mình mẩy ướt loi ngoi, đóng lại mấy cái cọc chuồng bò, ở thành phố, Lan em được đưa đến một căn phòng sang trọng.

Mấy ngày qua, cô cũng như mấy cô gái khác bị giam lỏng trong căn nhà sàn chật hẹp. Mùi hôi thối của dòng kênh đen sì xông lên khiến Lan em không tài nào ăn ngủ được. Cô đang chán ngấy cái cảnh phải trang điểm lòe loẹt, thay đổi quần áo liên tục, ngồi chen chúc hằng giờ cho bọn đàn ông ngắm nghía, sờ nắn thì cô Tư Thiện đến: "Con hên lắm, mới đây mà đã có người để ý, muốn hẹn gặp mặt, sau này giàu có rồi nhớ tới cô nghen!''.

Suốt thời gian chờ đợi, Lan em choáng ngợp trước vẻ sang trọng của căn phòng. Cô đỏ mặt thẹn thùng nghĩ đến bạch mã hoàng tử của mình. Thế nhưng, câu chuyện cô bé Lọ Lem thử giày để trong một đêm trở thành hoàng hậu còn ở đâu xa lắc.

Giờ đây chỉ có một mình Lan em đối diện với gã đàn ông lớn tuổi, xa lạ và dung tục. Cô co rúm người trước ánh nhìn suồng sã của hắn. Gã nói tiếng Việt nhưng cô nghe tiếng được tiếng mất: ''Hề hề coi bộ em chưa tới tuổi thành niên, nhưng không sao, anh với cô Tư sẽ lo được hết!".

Hắn đưa bàn tay mập mạp đeo đầy nhẫn vuốt mặt cô: ''Nói thiêt đi, em còn nguyên xi phải không? Đừng sợ! Anh không làm em đau đâu, để yên cho anh thương em một chút!".

Lan em ngơ ngác không hiểu hắn nói gì. Đến khi bị bàn tay lông lá của hắn giật phăng nút áo, cô mới hốt hoảng: ''Bớ người ta cứu tui, tui không chịu làm vợ chú đâu. Thiệt tình tui chưa đủ tuổi kết hôn, chú tha cho tui đi!".

Ông ta bực tức, đưa bàn tay in dấu năm ngón tay lên khuôn mặt đầy nước mắt của Lan em: ''Khốn kiếp! Không chịu sao vác xác lên đây đòi kiếm chồng để lấy tiền?".

Không biết trời xui đất khiến hay nhờ bà Tám linh thiêng phù hộ, mà chắc tại ông ta chỉ có một chân, sức không còn đủ để quật ngã cái tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu nên Lan em chạy thoát. Cô vừa chạy vừa khóc. Có một anh dân phòng tình cờ gặp hỏi han rồi dẫn Lan em lên phường lấy lời khai.

Không đủ bằng chứng buộc tội cô Tư Thiện phạm pháp, anh dân phòng coi bộ tức tối lắm.

Khi người cán bộ cầm viết hỏi Lan em vì sao sa vào hoàn cảnh này, cô thút thít khóc: ''Chỉ tại mấy con bò ở nhà tui thôi mà!".

Ông Tám bán hết bầy bò cũng không trả được bao nhiêu nợ, trong đó có cả nợ của cô Tư Thiện. Anh dân phòng đẹp trai tốt bụng gặp Lan em dạo nọ tìm đến xin trả giúp. Anh ta phải bán chiếc xe máy và phải xuống đi xe đạp mới có đủ tiền giúp.

Bù lại, hai năm sau khi Lan em đủ tuổi kết hôn, chú rể toét miệng cười hoài bên cô dâu xinh nhất xã là anh ta. Ngày đưa dâu có đám thiếu nữ trong xóm nhìn theo tiếc rẻ: "Con nhỏ đó ngu quá, lấy chồng nước ngoài giàu sang không chịu, đi ưng cái thằng coi bộ hổng khá!".

Có cô trong đám còn toan tính: "Bây giờ, lấy chồng Hàn Quốc mới sành điệu, lấy chồng Đài Loan là xưa rồi".

Ngày đưa dâu Lan em cũng là ngày trong xã đang có phong trào khuyến khích nuôi ếch. Nghe nói ở xã, huyện nào đó đang có mô hình nuôi ếch thành công lắm.

Thèm hôn

Trời đất ơi!. Lâu quá rồi, không hôn một em gái nào!

Giữa bàn cà phê dăm bảy người lơ đãng, Ngoan bỗng dưng bật nói thật to, như là vừa phát hiện một điều lý thú, hay phát giác chuyện động trời. Tuy nhiên, giọng của hắn thì buồn thiu, như đó là điều tệ hại. Vài người ngó theo ánh mắt của Ngoan, xem thử có em gái nào vừa đi qua, khiến anh chàng bỗng nảy sinh liên tưởng không. Nhưng, không có một em gái nào.

Đám xe ôm cười hô hố. Nhưng mặt Ngoan thì tỉnh rụi. Bảy Dậu - một người đàn ông trung niên lực lưỡng, râu ria xồm xoàm vỗ vai Ngoan một cái thật mạnh, cười ha hả: "Bộ đang chán gấu mẹ vĩ đại hả chú em? Tao có một mối không đến nỗi tệ, nếu thích gật một cái, tao kêu. Hôn hít cái đếch gì. Đánh vật tơi tả luôn". Đám xe ôm lại cười ha hả. Mặt Ngoan hơi sượng. Anh chàng rít một hơi thuốc, mắt nheo nheo, nói như chỉ cho mỗi mình nghe: "Tui có thèm cái khoản đánh vật đâu. Tui thèm hôn kia mà!".

Nói rồi, Ngoan đứng lên rời khỏi bàn cà phê, đi lại chỗ dựng xe của mình.

Ngoan năm nay ba sáu tuổi, đã có một vợ hai con trai. Ngoan có mười năm làm công nhân xưởng in. Nhưng gần năm nay, đường tắc, kẹt xe liên tục khiến Ngoan không thể đảm bảo giờ giấc, đành xin nghỉ ở nhà. Tính Ngoan là vậy, hắn không thích để ai xài xể mình. Ở nhà, không biết làm gì tiện hơn là chạy xe ôm. Ai mà không chạy xe ôm được. Xách xe chạy ra đường thì thành thằng xe ôm. Nói vậy thôi, chứ trong cánh xe ôm xóm đường tàu này, Ngoan có người bảo kê nặng ký là chú Bảy Dậu - người cùng xóm.

Còn lúc này đây, Ngoan ngồi trên xe mà cảm thấy bứt rứt không yên. Tự nhiên cái ý nghĩ quỷ quái thèm hôn lại đến. Chắc chừng bảy năm rồi hắn và vợ hắn không hôn nhau. Nói rõ hơn là hai cái miệng không còn gắn vào nhau, để cho lưỡi lùa lách nhau. Khoảng chừng bảy năm, đối với Ngoan việc đánh răng trước khi đi ngủ cũng rất chểnh mảng, tùy hứng. Còn lưỡi thì chẳng bao giờ được cạo sạch bằng cái thanh nhựa vốn vẫn xuất hiện trong ống đồ dùng vệ sinh cá nhân. Chừng bảy năm, Ngoan thấy vợ vẫn đánh răng, cạo lưỡi đều đặn hằng đêm, nhưng đó có lẽ chỉ do thói quen sạch sẽ tỉ mỉ của phái nữ, chứ chẳng phải làm sạch miệng để... hôn nhau.

Khi còn làm ở xí nghiệp in Ngoan có chơi với một ông nhà thơ sồn sồn. Ông nhà thơ này sống độc thân, nên thỉnh thoảng có dẫn Ngoan đi ăn nhậu, chơi bời tí chút. Thật thà mà nói Ngoan cũng có vài cô gái ở ngoài, nhưng cũng chẳng bao giờ hôn nhau. Ý của Ngoan là miệng chẳng bao giờ gắn vào nhau. Vồ vập lắm thì cũng hôn nháo nhào, dúi dụi đâu đó rồi chợt buông, chợt hẫng, rã rời. Miệng lưỡi như bị bỏ quên ở đâu, bị đánh rơi từ tận kiếp nào.

Ngoan chợt buồn và chợt thèm. Thèm hôn.

Có lẽ nụ hôn chỉ thực sự đến khi hai người yêu nhau, muốn khám phá lẫn nhau. Nụ hôn là một hình thức cũ, nhưng nội dung thì luôn luôn mới. Ngoan nghĩ nôm na vậy. Rồi hắn lại miên man tiếp: "Chẳng lẽ mình lại bi kịch như thế sao? Chẳng lẽ đã đánh mất nụ hôn rồi hay sao? Mình già cái chắc rồi?"- Những ý nghĩ dớ dẩn ấy cứ bám riết lấy Ngoan, ngay cả khi hắn đang chạy ngoài đường chở khách.

Khách của Ngoan là một cô gái rất trẻ, có thể nói là xinh. Cô mặc một chiếc quần jean, áo pull khá mốt, như thông thường chúng ta vẫn thấy ở những cô gái trẻ. Cô không xách, đội cái gì cả. Như từ trong nhà bước ra, ngoắc xe ôm chở đi dạo chơi một vòng vậy. Ngoan nhìn cô gái, cảm thấy một chút lạ lẫm, buồn cười: "Em không cầm mũ bảo hiểm theo hả?". Cô gái trẻ nhìn Ngoan: "Chú chạy xe ôm chú phải có mũ bảo hiểm cho người ta chứ. Chú không có, tui kêu xe khác?". Chú và con. Giọng nghe rất xấc. Ngoan thấy bất mãn tới mức muốn đuổi cô gái đi. Nhưng nghĩ phận xe ôm, hắn tự cười thầm, cầm cái mũ bảo hiểm đưa cho cô gái. Một cái mũ bảo hiểm màu xanh, như mũ công nhân cầu đường, bạc màu, trầy trụa. Cô gái cầm cái mũ bảo hiểm ngắm nghía: "Cái mũ này chú lượm ở đâu vậy? Sao chú không mua cái mũ mới, dán hình decal ngôi sao Hàn Quốc cho đẹp. Mũ gì, nhìn thấy ghê".

Nói vậy, nhưng cô gái vẫn đội cái mũ lên đầu, nói địa chỉ cần đến. Ngoan "tắt giọng" luôn từ đó. Trong khi chở cô gái đi, hắn nghĩ: "Một cô gái trẻ đẹp như thế này. Nếu chỉ nhìn thôi, mình đã có thể rất muốn hôn. Nhưng khi nghe cô nói chuyện vô duyên như thế, thì liệu có hôn được nữa hay không?". Trong khi Ngoan nghĩ, thì cô gái tiếp tục nói: "Con ngựa. Cái thằng bồ của tui. Nó kêu tới chở tui đi ăn sáng, uống cà phê mà giờ này lặn đâu mất tiêu. Tui định gọi cho nó, mà điện thoại hết tiền. Con ngựa. Tui tới phòng trọ nó mà gặp nó đang úm con nào là tui... thiến". Cô gái nói rất hăng, vành mũ bảo hiểm cứ thụi vào lưng Ngoan liên tục. Ngoan trân mình chịu đựng, hắn cảm thấy thật chán nản, nhưng ý nghĩ thèm hôn vẫn không rời. Tất nhiên là không phải với cô gái này.

Buổi cơm tối khá đạm bạc, lèo tèo vài con cá nục chiên, rau muống luộc và nướng rau muống. Ngoan kêu vợ chiên thêm mấy cái trứng cho hai thằng nhóc. Vợ Ngoan lườm hắn: "Hoang phí. Mà ăn trứng thì bổ béo cái gì? Giá cả đang leo thang chóng mặt. Cả nhà phải tuyệt đối thực hiện chính sách tiết kiệm". Nghe vợ nói vậy, Ngoan lại "tắt giọng". Được cái hai thằng nhóc cũng dễ nuôi. Chúng ăn uống xì xoạp, loáng cái đã đứng lên vuốt bụng căng tròn như cái trống. Thôi vậy cũng được rồi, chưa đói là may. Ngoan tự an ủi. Còn lại hai vợ chồng. Vợ Ngoan bỗng nhỏ nhẹ: "Hôm nào có tiền, anh mua cho em một cân thịt heo ngon để em làm heo quay cho cả nhà ăn. Lâu quá không ăn heo quay, em thèm!".

Vợ Ngoan nấu ăn tương đối khéo, riêng món heo quay có thể nói là số một. Ngoan cũng thích ăn heo quay với bánh hỏi. Nhưng nghĩ đến đó Ngoan chợt thấy mắc cười: "Trời đất, trong khi mình đang thèm hôn thì bả lại thèm heo quay, thiệt là tréo ngoe!".

Đêm đó, đi nằm rồi, Ngoan nghĩ sao, chợt nhổm dậy đi đánh răng. Đứng trước chiếc gương trong nhà tắm, Ngoan nhe hàm răng ra, thấy ố vàng khói thuốc, lưỡi nhuộm nâu màu cà phê. Ngoan thấy ngán ngẩm với hàm răng của chính mình. "Có lẽ, nên bỏ thuốc lá thôi" - Ngoan vừa nghĩ vừa đẩy bàn chải thật mạnh, đến mức va vào lợi, bật máu.

Những buổi tối sau đó, Ngoan tiếp tục triển khai đánh răng, cạo lưỡi đều đặn. Nhưng hắn vẫn chưa tìm ra "lý do" gì để hôn vợ. Một đêm, trong khi đang ôm nhau, vợ hắn âu yếm hỏi: "Anh thấy kem mùi bạc hà với mùi dâu mùi nào dễ chịu hơn?". Ngoan cười: "Anh thấy mùi bạc hà sảng khoái hơn. Mùi dâu tụi con nít chắc khoái". Vợ Ngoan nói: "Nhưng em lại thích mùi dâu. Anh nghe thử có dễ chịu không". Nói xong, vợ Ngoan ghé miệng mình vào mũi hắn phả một làn hơi nhẹ. Hắn thấy thơm thơm, làm bộ hít hít, nhưng rồi lại nói: "Mùi này của con nít mà". Vợ Ngoan nghe vậy liền rụt mình lại, không nói gì, lẳng lặng quay lưng, úp mặt vào tường.

Xe chạy qua một con đường đất vắng, rợp mát bóng cây, rồi quẹo qua sân banh. Một cái sân đất nhỏ vẫn thường làm nơi tụ tập cho bọn nhóc trong xóm đá banh vào buổi chiều. Bọc quanh sân banh là những hàng cây tràm bông vàng tươi tốt. Chạy tắt qua sân banh là đến nhà dì Chín. Ngoan đang chở dì Chín đi chợ về nhà. Dì Chín là mối ruột mà Ngoan mới kiếm được gần tháng nay.

Đường vào nhà dì Chín còn có đường đi khác, nhưng Ngoan vẫn thích tắt qua lối này. Mỗi khi chạy ngang qua sân banh, hắn nghĩ: "Mai mốt dắt tụi nhỏ ra đây đá banh chơi!". Nghĩ vậy nhưng rồi có rảnh rang bao giờ đâu. Chuyện áo cơm cứ tối mặt tối mày.

Chợt Ngoan thấy dưới gốc một cây tràm, có một đôi trai gái đang quấn vào nhau, mắt nhắm tịt lại, hai môi không rời. Trời đất, mới hơn chín giờ sáng mà đã hẹn hò ra đây, tình tự quá cỡ. Ngoan muốn ngó lảng đi vì xấu hổ, nhưng rồi hắn cứ mở to mắt nhìn. Lồng ngực Ngoan như rung lên. Tay lái hắn loạng choạng, rồi bất thần ngã uỵch một cái. Đôi trai gái nghe tiếng động chợt rời ra. Ngoan hoảng hồn đỡ dì Chín dậy. Cũng may không sao. Nhưng giỏ đồ ăn thì văng tung tóe.

Khi Ngoan đưa dì Chín về đến nhà, hắn lung búng nói xin lỗi, không nhận tiền. Nhưng dì Chín kiên quyết ấn tiền vào tay hắn rồi nói: "Ngày mai khỏi rước dì nữa nghen. Mày chạy ẩu quá. Để dì kêu người khác".

Ngoan quay xe về bến, buồn thiu. Vậy là hắn đã để mất mối làm ăn vì một chuyện bá láp là nhìn người ta hôn. Ngoan cảm thấy không thể tha thứ cho mình. Thế nhưng, khi "tua" lại cảnh đôi trai gái trẻ đang đắm chìm vào nhau, Ngoan lại thấy bứt rứt không yên. Cơn thèm hôn lại đến.

Ngoan bất ngờ nhận điện thoại của nhà thơ sồn sồn, nhân viên kỳ cựu của nhà in. Nhà thơ sồn sồn bảo: "Gần tết rồi, nhà in đang cần thợ làm ca đêm. Chú mày thu xếp được không?". Ngoan nói ngay: "Dạ, được". Nhà thơ sồn sồn hỏi: "Vậy tối mai đi làm luôn nghen". Ngoan vồn vã: "Làm luôn tối nay cũng được". Nhà thơ sồn sồn cười: "Tối mai đi. Chiều tối nay hai thằng mình kiếm chỗ cụng ly cái cho vui, hả?". Ngoan cười: "Dạ, nhất trí".

Gặp nhà thơ sồn sồn, sau khi làm vài chai, Ngoan dốc bầu tâm sự. Hắn kể chuyện bỗng dưng thèm hôn. Chuyện hắn thèm hôn mà con vợ thèm heo quay. Chuyện hắn nhìn thiên hạ hôn nhau mà té ngã xe, mất mối làm ăn. Chuyện thời buổi gì mà kiếm tiền khó khăn... thí mộ nội.

Nhà thơ sồn sồn nghe hắn nói xong, bèn cười độ lượng: "Chú còn thèm hôn là tốt, không có gì phải xấu hổ cả. Chứng tỏ tuổi thanh xuân của chú vẫn tràn trề. Nhưng hỏi thiệt, xưa giờ chú hôn được mấy em rồi?!". Ngoan gãi đầu: "Dạ, nếu gọi là hôn cho ra hôn thì chỉ có mỗi con vợ em!". Nhà thơ sồn sồn bật cười: "Dở ẹc. Hồi trẻ cỡ tuổi mày, là tao hôn muốn... mòn cái lưỡi". Ngoan xua tay: "Xạo. Vậy sao đến giờ anh còn ở một mình?". Nhà thơ sồn sồn nheo mắt: "Lắm mối tối nằm không. Chú không nghe hả. Nhưng nằm không mà hồi tưởng lại những nụ hôn thì cũng đã lắm nghen". Ngoan bối rối: "Bây giờ mà hôn con vợ, nói thiệt tui thấy nó kỳ kỳ làm sao đó. Nhưng, đâu có con nhỏ nào tự nhiên đưa cái mỏ nó cho mình hôn đỡ thèm?". Nhà thơ sồn sồn bật cười: "Chuyện đó thì tao cũng bó tay thôi. Tao chỉ có thể giúp chú em được một chuyện". Ngoan hỏi: "Chuyện gì?". Nhà thơ sồn sồn lấy trong túi ra mấy tờ giấy năm chục dúi vào tay Ngoan, giọng chân tình: "Cầm lấy đi, lát về ghé tiệm heo quay A Sáng mua một ký về cho vợ con. Tiệm A Sáng không tệ đâu!".

Ngoan về tới nhà thì đã khuya. Hai thằng nhóc đã ngủ say. Vợ Ngoan vẫn còn thức ngồi kết bông vải. Đây là công việc cô vừa kiếm được để làm thêm vào dịp tết. Ngoan lẳng lặng đi thẳng vào bếp, mở bịch thịt heo quay xếp đầy một dĩa to, phần còn lại cất vào tủ lạnh. Vợ Ngoan vẫn cắm cúi làm, coi như không thấy Ngoan trên đời. Cho đến khi Ngoan đặt dĩa thịt heo quay trước mặt thì cô nàng mới ngẩng lên: "Heo quay hả? Tiền đâu mà anh mua? Sao không mua thịt về cho em làm?". Ngoan tủm tỉm: "Heo quay tiệm A Sáng cũng không đến nỗi tệ đâu. Anh làm thử một miếng rồi. Em ăn đi!". Vợ Ngoan cầm lên một miếng, bỏ vào miệng ăn ngon lành. Nhưng rồi cô lại hỏi: "Bữa nay anh vô mánh hả?". Ngoan lắc đầu: "Mánh mung gì đâu. Anh làm mất mối dì Chín luôn rồi". Mặt vợ Ngoan hơi xị xuống: "Sao vậy, mối ruột mà? Anh làm ăn kiểu gì vậy". Ngoan tủm tỉm cười: "Em đừng lo, ngày mai anh đi làm xưởng in lại rồi. Làm ca đêm, ban ngày anh sẽ ở nhà kết bông với em!".

"Tối nay em đánh răng kem bạc hà, anh nghe có dễ chịu không?" - vợ Ngoan thỏ thẻ. Ngoan nghiêng người đưa mũi vào sát miệng vợ. Mùi hương bạc hà thơm thơm. Ngoan ướm thử miệng vào môi vợ. Cô để im, nhưng tay ghì lấy người Ngoan thật chặt. Ngoan quyết định sẽ hôn thật đậm đà. Hắn áp sát khuôn mặt của mình vào mặt vợ. Nhưng đúng lúc đó thì cô nàng đẩy hắn một cái thật mạnh: "Trời ơi, anh chưa đánh răng hả? Miệng anh mới nhậu về hôi quá. Đi đánh răng đi ông tướng".

Ngoan vội nhảy khỏi giường, vào nhà tắm đánh răng thật kỹ. Hắn đẩy bàn chải thật mạnh, va cả vào lợi, bật máu. Xong, hắn thử thở vào lòng bàn tay. Vẫn còn nghe mùi hôi. Hắn lại quẹt kem, đánh răng một lần nữa. Lần này thì hắn không quên dùng thanh nhựa nạo sạch lưỡi.

Ngoan hân hoan bước ra. Hắn mường tượng một bữa hôn đã thèm. Nhưng khi chui vào giường thì hắn thấy vợ đã ngủ say tự lúc nào. Trên môi cô nàng là một nụ cười tươi tắn lạ lùng. Không biết là vì đang mơ thấy nụ hôn của Ngoan hay vì mấy miếng thịt heo quay hồi nãy?!

Làm mẹ

18 tuổi chị sinh con lần đầu. Nỗi ám ảnh kinh hoàng trong phòng đẻ năm ấy chợt hiện lên trước mắt chị.

- Bà P.

- Vâng!

Chị lững thững sách cái túi du lịch nhỏ đi vào phòng số hai. Căn phòng nhỏ gọn, sạch sẽ, được quét vôi màu cam khiến chị cảm thấy ấm cúng phần nào. Chị lẳng lặng trải ga giường, lồng vỏ chăn, gối, thay áo ngủ và đi nguyên cả đôi tất lên giường.

Nằm trong chăn ấm chị cảm thấy dễ chịu hơn. Cả tháng nay bệnh cúm dai dẳng hành hạ chị, những cơn ho kéo dài làm chị kiệt sức. Đầu nặng trĩu, chị muốn chợp mắt cho quên đi những gì sắp xảy ra...

18 tuổi, chị sinh con lần đầu. Nỗi ám ảnh kinh hoàng trong phòng đẻ năm ấy chợt hiện lên trước mắt chị. Hai cô gái nông trường mang bầu 6-7 tháng, bụng căng tròn, lăn lộn rên rỉ trên hai chiếc giường cạnh giường chị nằm.

Giọng bác sĩ quát ầm ầm lạnh như gáo nước giếng. "Đã cô vắc còn kêu nỗi gì, có im đi không, có con mà muốn giết nó thì ráng chịu". Hai cô gái nhỉnh hơn tuổi chị, im bặt, nước mắt giàn giụa.

Chị thấy nhói đau, rồi cơn đau quặn lên, chị vật vã như muốn ngất đi. Ơn trời, con gái chị sinh ra khỏe mạnh, nặng 3 cân 6.

Hai cô gái giường bên không còn rên rỉ nữa, hai đứa trẻ đã được lấy ra.

Đứa con gái con một cô đã tím ngắt không còn hơi thở. Đứa con cô khác còn bật lên được một tiếng oe. Bác sĩ cân nó được 1 cân 9.

"Chị ơi, nó là con trai hay con gái?" - Cô gái thều thào năn nỉ bác sĩ.

Lại giọng nói lanh băng như tát vào mặt. "Con gì thì con, muốn biết làm gì, đằng nào cô cũng giết nó rồi. Con trai".

Cuối cùng người bác sĩ vẫn nói như thể dằn vặt người mẹ vừa từ bỏ con mình.

Hai năm sau chị sinh một bé trai cũng nặng 3 cân 4.

Tạng người chị nhỏ, mang bầu cho đến lúc sinh cũng chỉ nặng 51 cân, mà đẻ con lần nào cũng nặng cân, khỏe mạnh.

19 năm sau, chị mang bầu đứa thứ 3, được 5 tháng thì anh đón chị sang bên này. Sang được mấy tháng là chị có bé Thi bây giờ.

Chị em nó cách nhau đúng 20 năm mà thương em lắm, cứ đòi mẹ mang em về Việt Nam cho con nuôi.

Bé Thi đã được 3 tuổi, cũng là lần thứ 3 trong vòng 4 năm qua chị lại phải đến cái bệnh viện này.

Cả ba lần mang thai cứ được một tháng là lại ra máu, thai chết lưu, đành phải bỏ.

Chị ao ước có một đứa con trai với anh tuy anh vẫn động viên chị, con nào cũng là con.

Mấy chị bạn vẫn nói với chị. "Nhiều tuổi rồi, mày cố để làm gì, mày cứ cố mà chết đi, chồng mày lấy vợ khác thì chỉ khổ con mày thôi". Trong thâm tâm chị vẫn mong mỏi và nuối tiếc những đứa con đã mất.

Chỉ có ai làm mẹ mới hiểu được lòng chị. Dù là con trai hay con gái, chị vẫn mong có con thêm.

Cuộc sống bên này, với quầy hoa gần nhà, dù vất vả nhưng anh chị so với mọi người cũng là khá ổn định. Tài sản quý nhất bây giờ là con cái.

Ngực chị tưng tức, căng lên, ba lần chị làm mẹ, ba lần cũng ốm nghén mà không có được đứa con nào. Chị ứa nước mắt.

Chị nhớ bé Thi, con bé hôm qua, thấy chị kêu đau chân khi vấp vào cánh cửa, chạy lại xoa chân chị "Mẹ đau à, để em xoa chân cho mẹ nhé, đánh chừa cái cửa làm mẹ em đau nè" nó vừa lấy dây quất vào cái cửa vừa xuýt xoa như mỗi lần chị vẫn dỗ nó.

"Bà P, bà sẽ ngủ ngay thôi".

Bác sĩ gây mê, vừa nói vừa tiêm thuốc vào tay chị.

Mí mắt chị nặng dần, nặng dần, chị thiếp đi...

Ăn kiêng và chết

Kính gởi Giáo sư khoa Thẩm mỹ Trường Đại học X... ,

Thưa ông, tôi là một tên sát nhân. Nhưng tôi không bao giờ thú tội trước cảnh sát vì bọn họ chỉ là những cục đất ngờ nghệch, không thể nào hiểu được sự nhạy cảm cũng như động cơ thúc đẩy tôi lần lượt giết chết hai người vợ yêu quý mà không một giây phút ăn năn. Tôi giết vợ không vì phản bội, vì chán ghét nàng, vì muốn chiếm đoạt tiền bạc hoặc vì những lý do thông thường khác - Tôi giết vợ để bảo vệ tính sáng tạo, óc thẩm mỹ và làm đẹp thêm đời sống mà thôi. (Tôi tin rằng, chỉ có những người trông xa hiểu rộng như ông mới thông cảm được tôi).

Trước khi nói đến cái chết của Yvette, người vợ đầu tiên của tôi, tôi xin kể sơ qua về mình. Tôi sinh trưởng trong một gia đình quý tộc. Bố tôi suốt đời bận bịu công việc kinh doanh. Mẹ tôi là một nghệ sỹ, lúc nào cũng muốn thấm nhuần trong lòng tôi tình yêu thơ ca và âm nhạc của bà. Dường như hầu hết quãng đời niên thiếu của tôi trôi qua trong các viện bảo tàng nghệ thuật, những cuộc họp mặt các văn nghệ sỹ. Mẹ tôi đi du lịch khắp nơi và thường dẫn tôi theo.

Tôi được học về ngôn ngữ, nghệ thuật và âm nhạc. Song tôi cảm thấy, mình sành về nghệ thuật thưởng thức hơn là nghệ thuật sáng tạo. Tôi vào được đại học nhưng vì điều kiện tổ chức ở đây quá tồi tệ, nhất là những bữa ăn nhạt nhẽo, cách pha chế gia vị vụng về đến nỗi tôi không chịu được, phải bỏ trường vào năm thứ hai.

Mẹ tôi và tôi lại tiếp tục những chuyến du lịch. Tôi thất bại về mặt học tập nhưng lại thành công trên lãnh vực khác. Tôi đã trở thành chuyên gia về ăn uống, ý kiến về nghệ thuật nấu ăn của tôi không chê vào đâu được. Bất cứ nơi nào chúng tôi đến, Paris, Rome hay Vienne, tôi đều có thể khám phá ra những nhà hàng nhỏ nằm khuất trong hẻm, ở đó có những món ăn thật độc đáo, tuyệt vời. Mẹ tôi và bạn bè của bà rất hài lòng về tôi.

Bố tôi mất. Sau đó mẹ tôi cũng qua đời để lại cho tôi một khoảng trống cô đơn và một gia sản hầu như đã cạn. Qua một loạt tình huống phức tạp khó thể kể ra, tôi kinh hoàng nhận thấy mình lạc lõng giữa New York bởi công việc đè nặng trên vai với đồng lương rẻ mạt. Quả thành phố náo nhiệt này không dành cho một người đa cảm như tôi!

Tôi hoàn toàn cô đơn. Đêm đêm, tôi lang thang qua những con đường nhỏ tìm kiếm những nơi phục vụ những món ăn đúng nghĩa. Nhưng vô ích. Tôi luôn luôn tức giận trước những món ăn dở dang, vô vị: nước xốt mặn chát, rau đậu nát nhừ, bánh ngọt trương phình, còn bánh mì thì cứng như da giày... Cuộc sống thật tệ hại. Tôi cảm thấy không thể chịu đựng được cho đến một hôm, tôi bắt gặp một quán ăn nhỏ tối tăm ảm đạm mang tên Chez Yvette trong một con hẻm ngoằn ngoèo. Tò mò, tôi bước vào quán và gọi một món ăn đơn giản: Cá bơn xốt cà. Khi cô hầu bàn mang đến khay thức ăn, nắp vịn mở ra, tôi nghe trong lòng mình dâng đầy hưng phấn. Tôi đã thấy được những gì mà bấy lâu nay tôi cố công sục tìm. Đó là một đầu bếp am hiểu hoàn toàn nghệ thuật nấu ăn. Không có món cá bơn nào ngon hơn được nữa với nước xốt tuyệt vời, gia vị thấm thía.

Sau khi nhấp cạn ly rượu nho, tôi đề nghị được gặp người đầu bếp để tỏ lòng ngưỡng mộ. Yvette hiện ra trước mắt tôi với dáng dấp to lớn, thô kệch trong chiếc áo đầm xám bạc thếch, gương mặt ngăm đen lấm tấm mồ hôi bên bếp lò đỏ rực. Dù trông nàng già hơn tôi nhiều, tôi vẫn thấy nàng thật đẹp và dè dặt đặt lên má nàng những nụ hôn cảm kích. Yvette rất vui mừng khi gặp được một khách hàng tri kỷ. Chúng tôi cùng hàn huyên đàm luận, cùng ngây ngất khám phá những điều kỳ diệu của nhau. Từ đó, tôi trở thành khách hàng thường xuyên của quán Chez Yvettẹ Nàng đã chăm chút cho tôi từng miếng ăn tuyệt hảo, bánh mì ngọt, tôm hùm, giò gà trống thiến... Nàng luôn ở bên tôi, và sau bữa ăn thường uống cùng tôi một cốc rượu hoặc một tách cà phê kèm với món bánh ngọt ngon nhất.

Yvette là một kho báu, đời tôi không thể thiếu nàng. Nhưng biết làm sao hơn khi món tiền dự trữ của tôi cạn dần, tôi không đủ tiền trả cho những món ăn ngon miệng ấy nữa. Có lẽ Yvette đã cảm nhận được sự bối rối của tôi, nên một hôm, nàng đề nghị tôi ở lại qua đêm. Sự tỏ tình của Yvette thẳng thắn và quả quyết, so với các cô gái mình hạc xương mai thì nàng sâu sắc hơn nhiều. Một tuần sau, chúng tôi cưới nhau. Thoạt đầu, cuộc hôn nhân rất hạnh phúc. Chúng tôi mở rộng quán thành nhà hàng và làm ăn càng lúc càng phát đạt nhờ những món ăn độc đáo do sự sáng tạo của hai vợ chồng chung sức chung lòng. Sự phồn thịnh của nhà hàng đã đưa tôi lên vị trí tầm vóc của một người đàn ông. Tôi yêu nhà hàng và tôi yêu nàng, bởi nàng là một phần đem lại sự hoàn hảo cho nhà hàng. Hạnh phúc biết bao!

Rồi thảm kịch bắt đầu. Một hôm Yvette ngất xỉu trong nhà bếp. Bác sĩ cho biết, trọng lượng quá tải của nàng dẫn đến tình trạng nghẽn mạch, kèm theo bệnh tiểu đường mới phát làm cho bệnh nàng càng phức tạp thêm. Yvette đã phản đối trước một thực đơn ăn kiêng rất khắc nghiệt. Nhưng vị bác sĩ lạnh lùng phán:

- Bà không còn cách lựa chọn nào khác. Hoặc là ăn kiêng, hoặc là chết.

Yvette đã tuân thủ lời bác sĩ một cách tuyệt đối. Nàng sụt ký rất nhanh. Trong vòng vài tháng, nàng không còn là bà vợ mập mạp vui vẻ của tôi nữa, mà trở nên thon thả, ưa nhìn. Vì bị tước mất niềm đam mê ăn uống, Yvette trở nên say sưa chăm chút vẻ bề ngoài của mình (điều mà trước đây nàng không màng đến), do đó tính tình của nàng cũng thay đổi theo. Từ hào phóng, nàng trở nên keo bẩn. Nàng hà tiện mua những vật liệu rẻ tiền để chế biến món ăn, đồng thời bán cho khách những khẩu phần ít hơn thường lệ, dần dần nàng từ chối phục vụ những món ăn cầu kỳ tinh tế khiến cho nhà hàng càng ngày càng vắng khách. Mặc cho khách hàng riêng của chúng tôi ra đi, Yvette chẳng hề bận tâm. Nàng đã có những vị khách đặc biệt cho riêng mình. Đó là những con người tầm thường, thực đơn lúc nào cũng chỉ bánh xăng uýt và rau xanh. Thêm vào đó, chế độ ăn kiêng đã làm cho Yvette mau mệt mỏi nên không đáp ứng được những sinh hoạt vợ chồng, quan hệ giữa chúng tôi tuột dốc nhanh chóng. Từ yêu thương, tôi trở nên căm ghét nàng, nhất là việc nàng không còn khả năng sửa soạn một bữa ăn hợp khẩu vị trong gia đình. Không đếm xỉa đến sự bực dọc của tôi, Yvette còn lên án tôi quá coi trọng miếng ăn và có những nhận xét xúc phạm về vòng eo càng ngày càng phình ra của tôi.

Để giải khuây, tôi thường rời nhà đi lang thang. Một hôm, tôi khám phá ra quán Golden Cock trong một tầng hầm tối có món xúp tôm cà chua tuyệt hảo nhất thành phố. Chủ quán là Germainẹ Nàng già và đẫy đà hơn cả Yvette trước kia, gương mặt khá đẹp, má mịn hồng, ánh mắt xanh xám, mái tóc mềm mại. Chúng tôi bị thu hút lẫn nhau bởi một sở thích chung trong nghệ thuật nấu ăn. Chúng tôi góp ý cách làm một món ăn, bổ sung hoàn chỉnh cho nhau. Một lần nữa, hạnh phúc đã đến với tôi.

Tuy nhiên, tôi là người đã có vợ. Yvette không bằng lòng việc tôi ăn tối ở ngoài. Nàng kiểm soát tiền bạc của tôi rất chặt chẽ. Những món ăn vô vị của nhà hàng Chez Yvette càng làm tôi chán vợ thêm. Tôi không thể ly dị được vì Yvette là tín đồ Thiên chúa giáo, nên đành chờ cơ hội thuận tiện để đến với Germaine mà thôi. Về sau, Yvette đã phá đám chúng tôi, nàng cạn tàu ráo máng với tôi bằng cách biến tôi thành một tên kiết xác, không đồng xu dính túi, buộc lòng tôi phải trở thành người làm công cho nàng, hằng ngày phải ăn những món cà bầm dập, thịt đông hôi mỡ, bánh mì hạ cấp... mà khi nuốt vào chỉ muốn ói ra.

Nàng đã đẩy tôi đến bước đường cùng nên buộc lòng tôi phải nghĩ đến cách loại trừ nàng. Ông nghĩ xem, có gì là quá đáng đâu. Ông thấy đó, tôi không phải là loại người thích bạo lực. Tôi rất sợ dùng súng, dao hay bất cứ hung khí nào. Thuốc độc là phương cách duy nhất tôi nghĩ đến để giải thoát tôi ra khỏi vòng vây kìm kẹp của Yvettẹ Tôi cân nhắc các khả năng của Asen (thạch tín), Cyanur... hai chất này cực độc nhưng rất dễ nhận biết. Vả lại, làm thế nào để bảo đảm hành động của mình không để lại dấu vết hoặc không gây nghi ngờ cho cảnh sát cơ chứ. Suốt một tháng trời, tôi nghiền ngẫm vấn đề đến gầy rạc người đi.

Trong phòng ngủ của chúng tôi, trên bàn trang điểm của Yvette chất đầy những lọ thuốc viên và thuốc con nhộng trợ giúp thêm vào thực đơn ăn kiêng và giảm cân của nàng. Một buổi sáng, có người bạn đi du lịch phía nam về, tặng Yvette một lọ thuốc viên nhãn hiệu Yarubex. Đây là loại thuốc giảm cân rất công hiệu được sản xuất ở Mexico, rất khó tìm ở Mỹ. Yvette rất mừng. Nhưng cùng ngày hôm đó, tờ thời báo New York in đậm bản tin của Bộ Y tế Hoa Kỳ: "Không nên dùng thuốc Yarubex. Những viên thuốc nhỏ đó có thể gây chết người khi uống với liều lượng cao. Đặc biệt gây nguy hiểm cho những người bị bệnh tiểu đường. Đã có 20 trường hợp tử vong vì loại thuốc giảm cân này." Yvette hoảng hồn quăng lọ thuốc vào thùng rác và tôi đã lén nhặt lên. Tôi quan sát rất kỹ. Những viên Yarubex nhỏ, có màu trắng giống hệt những viên Saccharine đựng trong hộp thuốc khảm vàng của Yvette để nơi bàn trang điểm. Không suy nghĩ, tôi trộn những viên Yarubex lẫn vào những viên Saccharine và chờ đợi, lòng không chút hy vọng cũng như mặc cảm tội lỗi nào.

Tôi không thể tin là mình đã thành công dễ dàng như vậy. Vài ngày sau, Yvette chết. Tôi về nhà vào buổi chiều và thấy nàng nằm sóng soãi trên giường ngủ, người còn nguyên quần áo. Sau khi kiểm tra, biết chắc tim nàng đã ngừng đập, tôi lục ví nàng tìm hộp thuốc khảm vàng, trút tất cả xuống cống và thay vào những viên Saccharinẹ Xong, tôi lấy lọ Yarubex để cạnh nàng, rồi gọi cảnh sát.

Tên trung úy cảnh sát Stevens phụ trách cuộc điều tra là một người cục mịch, thô lỗ, cứ nhìn chầm chập vào tôi, mắt thoáng vẻ nghi ngờ. Tuy nhiên, vì không tìm ra dấu vết cũng như bằng chứng, việc điều tra được xếp lại. Tên Yvette được liệt kê vào danh sách nạn nhân của những kẻ vô lương tâm trong ngành kinh doanh dược phẩm.

Tôi bán nhà hàng Chez Yvette và đến với Germainẹ Quán Golden Cock của nàng càng ngày càng nổi tiếng bởi các món ăn ngon đặc biệt, hợp khẩu vị với những người sành ăn. Sau một thời gian vừa đủ, chúng tôi cưới nhau. Tôi trở thành người tự mãn vì hạnh phúc quá tràn đầy. Tôi không hề nghĩ rằng, một cuộc sống quá êm đềm không thể lâu bền được. Cho nên, vào một ngày đẹp trời, Germaine đã sụt sùi bảo tôi:

- Anh yêu, bác sĩ bảo em phải ăn kiêng thôi!

Thưa ông, ông là người giàu trí tưởng tượng. Tôi không muốn làm ông nhàm chán bằng cách nhắc lại những chuyện đã kể. Điều này giống như một cuốn phim hay vở kịch truyền hình phát lại lần thứ hai, chán ngắt. Chỉ nói rằng, phản ứng của Yvette và Germaine rất giống nhau. Và dĩ nhiên sau đó, tôi gặp Suzane.

Khi sa vào bẫy của tên trung úy chết tiệt Stevens, tôi mới nhận ra mình ngu ngốc lạ lùng khi dùng lại phương cách cũ - những viên thuốc Yarubex - để giải thoát cho mình. Tại sao tôi không nghĩ ra cách khác chứ. Vả lại, làm sao tôi tiên đoán được rằng, Stevens lại chuyển công tác về chỗ tôi đang sống?

Tuy nhiên, tôi vẫn tự hào về hành động của mình. Trên đời này, biết bao nhiêu kẻ sát nhân chỉ vì vài trăm đô la hoặc vì một mối hiềm khích vớ vẫn. Còn tôi, tôi chịu sự trừng phạt chỉ vì muốn bảo đảm những món ăn được nấu đúng nghệ thuật để phục vụ cho quý thực khách thân yêu. Người bị kết án có đặc quyền chọn thực đơn cho bữa ăn cuối cùng. Tôi nghĩ đến món sườn thỏ rừng sốt cam, bồ câu nhồi yến kiểu Trung Quốc, hay là gà hấp rượu anh đào. Nhưng thôi, những món này rất khó làm, phải tự tay tôi pha gia vị thì sự thơm ngon mới đạt tới đỉnh cao. Hẳn ông đồng ý với tôi? Xin chào ông

Vĩnh biệt.

Chuyện thời con gái

Bà mẹ ân cần rót một bát nước còn bốc khói, niềm nở đặt vào tận tay chị:

- Chị uống tạm. Ở nhà quê chỉ có nước chè tươi.

Khách mỉm cười:

- Cháu xin bác. Trời nóng quá. Cháu cũng rất thích chè tươi ạ

Rồi chị khẽ thổi, ghé môi uống từng ngụm nhỏ ngon lành, trong lúc bà mẹ cầm quạt ngồi bên, vừa phe phẩy quạt cho chị, vừa ngắm vầng trán thanh khiết rịn mồ hôi của người khách lạ. Một người đàn bà thành phố đã đứng tuổi, ăn vận giản dị, tấm áo sơ mi xám nhạt rất hợp với đôi mắt to phảng phất buồn. Khuôn mặt tao nhã tuy không còn những nét trẻ trung, nhưng sự điềm tĩnh toát ra từ cái nhìn đằm thắm lại có một sức hút kỳ lạ.

- Vậy ra chị là...

Bà mẹ buông lời thăm dò. Thực ra, bà cũng chưa biết người khách lạ này là ai? Vì việc gì chị ghé vào căn nhà đơn chiếc vốn chỉ có tiếng nói cười, những lời chào hỏi vồn vã vào những dịp lễ tết, khi các đoàn thể, chính quyền địa phương đến chúc tụng những gia đình có người hy sinh vì cách mạng. Ngoài những phút vui hiếm hoi ấy thì chỉ có mình bà lão vào ra thầm lặng. Bà chỉ biết rằng, từ lúc khách bước qua rặng cúc tần ngoài ngõ và ngồi xuống bên bà, thì tất cả những đồ vật quen thuộc đến tẻ ngắt ở đây bỗng như có một sức sống mới, từ bức tranh mẹ con gà đã ố vàng dán trên tường, cái chum sành đựng nước mưa dưới gốc cây cau già trước mảnh sân đất nện, đến những cái chén cũ sạch bóng nhưng lạnh lẽo vì ít khi có bàn tay người động đến... Tất cả đều có vẻ niềm nở, sống động khác thường. Căn nhà nhỏ bé của bà mẹ dường như ấm cúng hẳn lên.

- Dạ, cháu làm việc trên tờ báo tỉnh. Nhân hôm nay về xã có chút việc, cháu rẽ vào thăm bác.

- Quý hoá quá.

- Nhà ta cũng vắng vẻ nhỉ, thưa bác?

- Chẳng giấu gì chị - bà mẹ thực thà kể lể - ông lão hy sinh từ ngày đánh Pháp, tôi chỉ được hai em. Con chị lấy chồng bên kia sông, chỉ những ngày giỗ tết mẹ con nó mới bồng bế nhau về thăm bên ngoại. Còn thằng em, nó thuộc diện con một, lại là con liệt sĩ được xã miễn trừ nghĩa vụ. Nhưng nó nhập ngũ ở trường học. Vào bộ đội rồi nó mới biên thư về nhà. Đấy, em nó đấy.

Bà mẹ nói và chỉ tay lên kệ thờ. Trên ấy, tấm ảnh Đạt trẻ măng, tóc rẽ lệch, vẫn cái nhìn hồn nhiên có phần nghịch ngợm như ngày nào nhìn chị thân thiết quá khiến chị chỉ muốn khóc. Bao nhiêu kỷ niệm tưởng như đã quên lãng chợt xô về: những bông hoa trinh nữ tím biếc khẽ đung đưa; cơn gió phóng khoáng trên triền đồi nóng như hun một ngày hè, và những tàu cọ xanh nõn bình yên chở che trên đầu hai người... Khung cảnh thật bình yên, thơ thới, nếu dưới kia, không xa, những chiếc Míc sơn màu nguỵ trang không là lời cảnh báo nhọn hoắt về những bất trắc có thể xảy ra bất kỳ lúc nào...

Chị nuốt thầm nước mắt, cố xua đi những hoài niệm dai dẳng, nắm lấy bàn tay khô gày của bà mẹ, giọng ngàn ngạt:

- Bác ạ, trước đây con là... là... bạn học của anh Đạt.

- Trời đất! - Bà mẹ kêu lên thảng thốt. Chiếc quạt đột nhiên tuột khỏi tay. Bà ôm lấy đôi vai chị, lắp bắp. - Sao con không nói ngay. Thế thì... con phải ở đây ăn cơm với bác. Chị mà từ chối là tôi giận đấy. Ăn cơm với bác, nghe không?

Nỗi vui đột ngột làm bà mẹ cứ cuống lên, chẳng biết xưng hô thế nào cho phải.

Khách mỉm cười, nói giản dị:

- Vâng, con sẽ ngủ lại đây với bác đêm nay. Con xin ăn cơm nhưng có gì ăn nấy, đừng mua bán phiền phức, bác ạ.

- Được rồi. Được rồi. Có gì ăn nấy. Chị đi rửa mặt cho mát, nước mưa đầy chum kia, rồi ngồi nghỉ. Bác chỉ làm một loáng là có cơm nóng ăn ngay.

*

* *

Bà mẹ xách rổ tất tả đi ra ngõ, niềm vui khiến cho tấm lưng còng như thẳng lên, dáng nhanh nhẹn hẳn. Bây giờ trong nhà chỉ còn lại mình Hạnh. Chị đứng lên, đầu óc bỗng chao đảo như say sóng. Chị vội vịn vào tường, khẽ nhắm mắt. Khi trống ngực đã bớt đập thảng thốt, chị đến bên kệ thờ, châm ba nén hương, mắt như mờ đi, chị nhìn chăm chú bức ảnh của Đạt chắc là chụp từ ngày anh mới nhập ngũ, lòng thổn thức: Anh ơi, em đây, Hạnh đây. Hôm nay em mới về thăm mẹ được. Em có lỗi. Mong anh hãy thay lỗi cho em. Thế mà đã hơn hai mươi năm rồi! Khói nhang bốc mờ mờ. Mùi trầm xa vắng. Tấm ảnh Đạt trên kệ thờ khi tỏ khi nhạt. Cái nhìn thân thiết của anh khiến vết xước găm vào tim chị, từ lâu, bỗng nhói đau. Hình ảnh của anh những ngày đầu hai người mới quen biết chợt buốt giá một vùng nhớ. Một cơn lạnh chạy dọc sống lưng, Hạnh rùng mình.

Ngày ấy, chị, một sinh viên khoa văn mới ra trường. Chiến tranh. Bom đạn và những lần đi công tác đạp xe suốt đêm cũng chẳng là gì đối với tuổi trẻ. Ở toà soạn báo nơi chị về thực tập, khi được hỏi nguyện vọng, chị xin viết về đề tài chiến tranh. Lúc ấy, trưởng ban biên tập, cặp mắt kính trễ trên sống mũi không giấu nổi cái nhìn ái ngại: đúng là ngựa non thì háu đá. Hoặc là cô ta còn non nớt quá! Đấy là một đề tài hóc búa nhất, hơn nữa, để có tài liệu mà viết phải có những chuyến đi vất vả, hiểm nguy nữa. Hạnh cảm thấy nóng mặt nhưng vẫn giữ ý mình. Chị biết rằng, ngòi bút chỉ có cảm hứng khi viết về những gì ta căm ghét nhất, hoặc ngược lại, yêu thương đến ngạt thở. Chị khâm phục sự chịu đựng gian khổ của những người lính, nhất là những giây phút họ dũng cảm ngẩng mặt đối diện với cái chết. Từ ngày còn là học sinh phổ thông Hạnh đã yêu thích môn văn, vì văn học chính là sự giãi bày tấm lòng mình, đồng thời là sự lý giải những hiện tượng, những số phận con người ở xung quanh ta bằng những cảm nhận tinh tế nhất - Hạnh nghĩ thế. Và chị khát khao lý giải một cách thấu đáo hành động quên mình của các chiến sĩ.

Năm 1972. Hà Nội là trọng điểm oanh tạc của bọn phi công Mỹ. Những lần chúng lẻn vào đánh phá Thủ đô, những chiếc Míc bé nhỏ lại lập công xuất sắc. Sau lần phi công ta bắn rơi chiếc "Thần Sấm" xuống Ngọc Hà, tấm ảnh chụp cô gái làng hoa bình thản cầm bình nước tưới cho những bông hoa tươi rói bên cạnh cái xác chết kềnh càng của "Thần Sấm" Mỹ làm Hạnh xúc động. Chị quyết định phải gặp gỡ các chàng trai điều khiển những chiếc Míc dũng cảm để viết bài về họ.

Sân bay quân sự là một thung lũng nằm lọt giữa những nếp đồi cọ rất nên thơ ở phía Bắc Hà Nội. Rõ ràng không khí thời chiến, tiếng động cơ máy bay đinh tai nhức óc mỗi khi khởi động không ảnh hưởng đến quy luật sinh tồn của thiên nhiên. Những thân cọ sù sì trên những sườn đồi vẫn đều đặn mỗi mùa trăng lại nảy sinh một phiến lá xanh - một màu xanh non trẻ đến ngỡ ngàng. Hạnh đạp xe lên vùng đồi cọ vào tầm chiều. Đồng chí chính uỷ đoàn bay Lam Sơn thay mặt đơn vị tiếp nhà báo trẻ. Anh nhìn chiếc xe đạp dầu dãi trát kín bụi đỏ của Hạnh, cười điềm đạm:

- Nhà báo lên tận đây vất vả quá. Mời chị vào sở chỉ huy ta làm việc.

Hạnh hơi đỏ mặt vì tiếng "chị" được thốt ra một cách trân trọng ở người chỉ huy dày dạn này, cả cái từ "sở chỉ huy" là lạ đối với một phóng viên quèn khiến chị ngượng ngập. Chị nói nhẹ nhàng:

- Em là Hạnh. Xin anh cứ gọi em là cô cho tiện. Em có một đề nghị là xin được gặp đồng chí phi công nào vừa bắn rơi máy bay địch mới đây.

Chính uỷ đoàn bay tỏ ý ngần ngại:

- Cậu ấy đang ở ca trực ngoài sân bay. Sau giờ trực chiến thì phải ngủ và nghỉ ngơi, đó cũng là kỷ luật. Thời chiến, anh em lái bọn tôi rất ít khi được rảnh rỗi cô Hạnh ạ.

Hạnh cố nài:

- Cái nghề làm báo... Anh thông cảm, trăm điều nghe không bằng một thấy. Hay là... em xin ra chỗ anh ấy đang trực. Em sẽ không làm mất nhiều thì giờ của các anh đâu. Được không ạ?

Hạnh được ra sân bay trên chiếc commăngca dã chiến. Từ sở chỉ huy ra đấy họ phải đi theo con đường đất đỏ ngoằn ngoèo dưới chân đồi. Đây là lần đầu tiên Hạnh được nhìn thấy những chiếc Míc gần đến thế. Đậu trên sân bay dưới những tấm bạt nguỵ trang, ngoan ngoãn để cho những người thợ máy lau chùi, chăm sóc, những chiếc máy bay từng vào sinh ra tử nom vẻ rất đỗi hiền lành, thân thiết. Chị thú vị thầm nghĩ.

Những phi công của ca trực đang có mặt trong căn hầm rộng đào ngoàm vào sườn đồi. Trần hầm căng dù hoa, bên dưới là những giường cá nhân có trải nệm tinh tươm nhưng không có ai nằm trên đấy cả. Anh em đang túm tụm chơi bài tú lơ khơ trong những bộ đồ bay có nhiều khóa thép, nút thắt rối rắm và những ống bơm cao áp gắn bên sườn, nom họ có vẻ kềnh càng, di chuyển chậm chạp tựa những người trên hành tinh khác trong tờ báo nước ngoài có lần Hạnh đã nhìn thấy. Khi đồng chí chính uỷ đoàn bay giới thiệu nữ nhà báo trẻ, các phi công nhìn chị, mỉm cười thân thiện. Đồng chí biên đội trưởng, người đã lập công trong trận không chiến bảo vệ thủ đô mới đây đến gần bắt tay Hạnh. Anh có vẻ là người vui tính:

- Tôi là Độ, quê ở Thanh Chương, đã một vợ, gần hai con. Về mặt này tôi tự nhận là cựu binh. Ở đây anh em nhiều người chưa vợ, chưa cả người yêu cô Hạnh ạ.

Hạnh bật cười, chị thấy có cảm tình ngay với người đàn ông vạm vỡ nói giọng xứ Nghệ đặc sệt này:

- Người Hà Nội rất hả dạ được tận mắt thấy máy bay Mỹ rơi ngay trên đất Thủ đô. Em muốn biết những chi biết khi anh bắn hạ chiếc "Thần Sấm" ấy.

Độ hấp háy mắt nhìn lên vòm hầm căng dù hoa:

- Biết nói thế nào nhỉ. Có lẽ các nhà văn, nhà báo có óc tưởng tượng phong phú nên nghĩ ra nhiều chuyện đấy thôi. Thật ra, với bọn tôi thì khá đơn giản. Điều cốt yếu là phải có một tập thể hiệp đồng chặt chẽ, ăn ý. Tôi nói thật chứ không khiêm tốn vờ đâu. Cô Hạnh biết không? Phải có rađa mặt đất phát hiện mục tiêu chính xác, rồi đài chỉ huy hướng dẫn đường bay tỉnh táo. Việc còn lại là... là bọn tôi phải bám sát mục tiêu, khi nào chúng nó lọt vào vòng ngắm thì phải nhả đạn lập tức, không được chậm trễ. Có vậy thôi.

Hạnh xịu mặt nói như hờn dỗi:

- Anh kể đơn giản thế thì em đến thất nghiệp mất.

Biên đội trưởng cười hiền lành:

- Đúng thế. Tôi có bịa đâu. À, có chuyện này.

- Sao ạ?

- Hôm ấy tôi suýt nguy nếu cậu Đạt, số 2 của kíp bay không nhanh mắt phát hiện một máy bay địch từ tầng cao bổ nhào vào tôi. May thật.

Anh nói đến đây thì một liên lạc chạy đến, mời biên đội trưởng đi hội ý. Độ xin lỗi, đứng lên, rồi ngoái lại phía sau, gọi:

- Đạt ơi, lại đây nào - và anh mỉm cười - có lẽ cậu sinh viên Hà Nội này hợp chuyện với nhà báo hơn.

Đấy là lần đầu hai người gặp nhau, rất tình cờ, nhưng định mệnh hình như đã sắp đặt cho cuộc đời Hạnh có những vết khắc rớm máu trong tim. Nhưng lúc ấy chị hoàn toàn không dự cảm được điều ấy, chỉ biết rằng khi anh rời các bạn, cười ngượng ngập bước đến gần, chị nhận ra người sinh viên Hà Nội này cao hơn mình hẳn nửa cái đầu và khá điển trai. Đạt vui vẻ nói trước:

- Nhà báo gặp may đấy. Chiều nay không hiểu sao chỉ có một lần báo động, chứ mọi ngày bọn tôi chẳng được ngồi yên đâu.

Hạnh nói:

- Anh Đạt, em muốn hỏi chuyện bắn máy bay mà anh Độ không chịu kể.

- Đồng chí biên đội trưởng của chúng tôi đấy ư? Một người tuyệt vời đấy.

- Vậy theo anh, thế nào là một người tuyệt vời?

- À, trong hoàn cảnh cụ thể hiện nay thì đơn giản là thế này, anh ấy mà xuất kích thì bọn địch hãy liệu hồn! Bọn tôi thường nói vụng với nhau: Biên đội trưởng say đánh địch hơn là mình say người yêu.

Đến lượt Hạnh bật cười. Không hiểu sao chị cảm thấy nói chuyện với anh thật dễ chịu. Có lẽ anh chỉ hơn Hạnh vài ba tuổi. Nhưng rõ ràng nếp sống quân ngũ, sự luyện tập khắc nghiệt và những lần đối mặt với nguy hiểm đã giúp anh bớt đi sự phù phiếm và những non nớt trong ứng xử. Không hề kiểu cách, Đạt rất cởi mở và anh biết cách diễn đạt ý mình một cách độc đáo. Bất giác, chị bỗng nảy ra ý muốn trêu chọc người đối diện:

- Nói như vậy tức là... là anh Đạt đã có người để say mê rồi?

Câu hỏi vừa buột ra Hạnh bỗng thấy mình sao ngốc quá. Một câu hỏi thật vô ý. Và chị đỏ mặt nhìn nhanh Đạt. Ánh mắt họ gặp nhau. Rồi cả hai cùng nhìn lảng đi, ngượng ngập. Câu hỏi không có lời giải đáp. Vừa lúc ấy chiếc kẻng treo trên cành bạch đàn cụt ngọn ngoài cửa hầm bỗng khua dồn dập. Đạt vội đứng lên, anh nói nhanh: "Hẹn gặp Hạnh sau vậy nhé!".

Những phi công vội vã rời cửa hầm. Hạnh nhìn thấy Đạt chạy trong tốp đầu tiên, anh vừa sải bước vừa sửa lại chiếc mũ bay nặng trịch trên đầu. Rồi chị nhận ra cái dáng vạm vỡ của Độ từ đài chỉ huy bước vội xuống những bậc tam cấp. Chị hiểu rằng đồng chí biên đội trưởng đã không chịu bỏ lỡ trận chiến. Những người thợ máy đã nhanh chóng có mặt dưới chân thang máy bay. Một người đỡ khoang buồng lái. Đạt trèo lên khoang máy, ngồi xuống. Tiếng động cơ lập tức gầm lên khởi động. Không khí nóng ngột như rung lên. Bạt ngàn cỏ dại bên đường băng thi nhau ngả rạp xuống. Kể từ giây phút ấy mặc nắng nóng và gió quật vào tóc rối bời, Hạnh không sao rời mắt khỏi những con chim sắt giờ đây đã trở nên rất thân thiết đối với tâm hồn chị. Chiếc Míc đầu tiên do Độ lái đã rời đường băng. Liền sau đó, máy bay của Đạt lăn bánh trên nền xi măng đẫm nắng. Hạnh để hết tâm trí mình dõi theo những chuyển biến mau lẹ trước mắt. Rồi chị sửng sốt nhận thấy, trong một tích tắc trước lúc rời đường băng, hình như Đạt còn quay lại, thoáng giơ một bàn tay vẫy về phía chị. Rồi những cánh bay nhanh chóng xa dần, mất hút vào vòm trời xanh nhức mắt. Đồng chí chính uỷ đoàn bay đứng sau Hạnh chợt nói: "Địch vào hai tốp, tám chiếc. Chúng định giở trò gì đây?". Trái tim Hạnh bỗng thắt lại vì lo sợ: Phía quân mình chỉ có bốn máy bay xuất kích, lực lượng chênh lệch quá. Lạy trời cầu mong cho các anh ấy an toàn trở về!

*

* *

Khó có thể nói rằng, đấy là chuyến đi thực tế thành công hay thất bại đối với Hạnh. Tuy nhiên, nếu hiểu một cách đơn giản, là năng lực của nhà báo phải căn cứ vào số lượng bài in ra, thì cuộc gặp gỡ các phi công lần ấy với chị không có được kết quả cụ thể. Chị không thể chỉ viết bằng những khái niệm mơ hồ hoặc sự bịa đặt sống sượng. Nhưng trong sâu thẳm lòng mình, Hạnh hiểu rằng từ nay, tâm hồn chị sẽ giầu có hơn vì sự quen biết một vùng đất mới có rất nhiều những phiến lá cọ bình thản đón nắng, và những người bạn mới đáng yêu. Và chính vì những tình cảm chưa chuyển tải được lên trang viết lại khiến tâm trí Hạnh luôn hướng về nơi đó như một món nợ chưa trả xong.

Khi chị lên sân bay lần thứ hai, không quên mang theo dăm số báo mới nhất và mấy cuốn sách văn nghệ tặng thư viện đoàn Lam Sơn, thì mọi người ở đây đối với nhà báo trẻ đã trở nên rất thân thiết. Hôm ấy, những phi công chị đã quen trong giờ nghỉ. Họ ở trong doanh trại - những căn nhà cấp 4 nằm sơ tán dưới chân đồi cọ. Anh em đang xúm quanh bàn bóng. Tiếng cầu nhựa đập trên sàn gỗ và tiếng cười trẻ trung, sôi nổi. Hạnh đến, họ vui vẻ kéo chị cùng tham gia cuộc vui. Và làm như vô tình mọi người ghép Hạnh và Đạt là một đôi nam nữ phối hợp trong cuộc thi đấu. Hình như sự có mặt một cô gái đẹp từ Hà Nội đến khiến cho không khí thêm hào hứng. Các phi công trổ hết tài năng. Họ thực sự là những cây vợt đáng nể. Nhưng Hạnh cũng từng là cây vợt không thuộc loại xoàng của toà soạn. Kết cục là hai người giành phần thắng. Chính uỷ đoàn bay vui vẻ bắt tay Hạnh và trao phần thưởng cho họ: một hộp kẹo ngon mà ngày ấy, chỉ những phi công được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt mới có. Một rắc rối nho nhỏ đã nảy sinh: Họ có chung quyền sử dụng chiến lợi phẩm. Hạnh muốn cùng mọi người chia xẻ nhưng Đạt ngăn lại, anh tuyên bố tất cả phần thưởng là của Hạnh và chị phải mang nó về Hà Nội làm quà. Mọi người xung quanh rào rào vỗ tay khiến Hạnh thật khó từ chối. Chị cười, đôi mắt đẹp nhìn Đạt cảm kích. Nhưng các chàng trai trong phút vui cuồng nhiệt lại không hài lòng với cử chỉ rụt rè ấy của chị. Họ đều đã được huấn luyện lái máy bay chiến đấu ở một xứ sở có nhiều tuyết rơi về mùa đông. Ở đấy, con trai con gái gặp nhau dạn dĩ hơn, phóng khoáng hơn. Và họ đồng thanh hét lên: "Hôn đi! Hôn đi!" Hạnh lúng túng thật sự, chị đỏ mặt. Nhưng mọi người vẫn không tha. "Hôn đi! Hôn đi!". Họ giục giã. Và chị cảm thấy đôi môi Đạt lướt qua má mình.

Sau đấy, hai người ngồi bên nhau trên sườn đồi. Xung quanh họ, những cụm cỏ trinh nữ đầy gai nhọn có những bông tím khẽ đu đưa mỗi khi một cơn gió thổi tới. Mùi hoa chè thơm thoảng đâu đây. Mặt trời đã lặn bên kia đồi. Những tia nắng cuối cùng của ngày hè tưới đẫm lên những tàu cọ non, biến chúng thành màu vàng chanh lộng lẫy. Hạnh thích thú ngắm nhìn những sắc màu biến đổi nhanh chóng trước mặt. Chị nói mơ màng:

- Khi anh bay trên ấy nhìn xuống hẳn là thú vị lắm?

Đạt cười:

- Không hẳn thế đâu. Khi ngồi vào buồng lái bọn anh thậm chí không có thì giờ để cảm nhận trời đẹp hay xấu, vì còn phải theo dõi những đồng hồ bay để kiểm tra máy móc, xăng dầu và tốc độ bay, rồi còn phải giữ liên lạc với mặt đất nữa.

- Em cũng muốn biết...

Đạt nheo mắt:

- À, cuộc phỏng vấn bắt đầu?

Hạnh cũng cười:

- Không, không phải phỏng vấn. Em chỉ muốn biết cảm giác khi anh rời mặt đất.

Đạt nói nhẹ nhàng:

- Với người khác thế nào không rõ. Còn với anh, ngay sau khi người thợ máy đóng nắp cabin buồng lái, bước xuống đất, ở vào khoảnh khắc ấy, với anh, tất cả những gì thân thiết đã ở phía sau rồi, trước mắt người lái chỉ còn bầu trời rộng khôn cùng với vô vàn những bất trắc có thể xảy ra trong một cái chớp mắt... Đạt ngừng lời, hình như anh đang chọn từ ngữ để diễn đạt cho chính xác những ý nghĩ của mình.

- Anh nói đi.

- Nói thật nhà báo đừng cười. Lúc ấy tôi thấy rất rõ cảm giác cô đơn. Cô đơn đến thắt lòng. Rất may cảm giác hẫng hụt ấy qua đi mau. Ngay sau lúc hệ thống máy móc bắt đầu hoạt động thì tâm trí người lái lập tức bị hút vào công việc: phải bảo vệ đồng đội và tuyệt đối tuân theo sự chỉ huy của biên đội trưởng bay phía trước.

Hạnh bỗng sực nhớ:

- À, cả buổi chiều nay em không thấy anh Độ?

- Anh ấy đi công tác - Đạt trả lời và cảm thấy đôi mắt đen lo lắng nhìn anh chăm chú, lặng câm trong một câu hỏi bồn chồn, thôi thúc. Không thể đừng, anh ghé tai chị nói nhỏ điều gì.

- Thế thì tốt quá! - Hạnh thở ra nhẹ nhõm, nhưng thực tình chị cũng chẳng rõ mình vui sướng vì sao. Vì anh đã tin cậy thổ lộ với chị những ý nghĩ và công việc của một phi công trong chiến trận? Vì một kiểu máy bay mới họ sắp được trang bị để đối phó hiệu quả hơn với bọn kẻ cướp nhà giàu? Vì không phải Độ đã gặp chuyện chẳng lành như chị đã hoang tưởng? Hay vì chị đang được ngồi cạnh Đạt trong một buổi chiều hiếm hoi tuyệt đẹp này? Hạnh không rõ, chỉ biết rằng, những điều chị đã cảm nhận thật cần thiết cho công việc và cho cuộc đời chị.

Đạt quay sang Hạnh. Khi nhìn nghiêng, khuôn mặt chị thật dịu dàng, sống mũi nhỏ, cái nhìn đầm ấm và vầng trán cao thanh khiết. Một người thông minh và tốt bụng, anh nghĩ thế và mạnh dạn nắm lấy bàn tay rám nắng, trên cườm tay có đeo một chiếc lắc nhỏ bằng bạc của chị. Anh nói ngập ngừng:

- Lần trước Hạnh về rồi anh Độ cứ nhắc mãi. Còn anh thì tin rằng nhất định em sẽ lên.

- Điều gì làm anh tin như vậy? Giọng chị hơi run, tim đập thảng thốt, nhưng Hạnh không tìm cách rút tay về.

- Linh tính.

- Vậy, giả dụ em không lên?

- Thì có dịp, anh sẽ về Hà Nội tìm em.

Hạnh bối rối im lặng. Đạt nhìn vào mắt Hạnh, nói thêm:

- Nhưng điều ấy đối với bọn anh lúc này hơi khó, em hiểu không?

Chị ngoan ngoãn gật đầu, lại chợt nhớ đến điều anh ấy vừa nói về cái cảm giác cô đơn khi người phi công rời mặt đất, Hạnh bỗng thấy một niềm xót thương lẫn sự trìu mến tràn ngập khiến ngực chị đau nhói. Cần phải nói một câu gì, hay làm một điều gì để anh ấy luôn cảm thấy rằng, trên ấy và dưới này luôn là sự ràng buộc chặt chẽ, rằng tất thảy mọi người và cả chị nữa, luôn luôn ở bên anh ấy, rằng anh ấy phải chiến thắng trở về... Hạnh nghĩ thế, nhưng tất cả những điều đang diễn ra trong lòng chị thật khó nói nên lời, vì thế, chị chỉ khẽ rút chiếc lắc bạc trên cườm tay trao cho anh và nói ngập ngừng:

- Anh giữ lấy. Và hãy... nhớ em luôn.

Điều kỳ lạ là dường như anh đã hiểu tất cả những điều chị chưa kịp nói. Anh trân trọng đón tặng vật và bỏ nó vào túi áo bên trái tim mình:

- Nó sẽ ở đây, mãi mãi, kể cả lúc anh phải quần nhau với chúng nó. Hạnh ơi, từ nay anh đã có nơi để mà mong nhớ, phải không em?

Hạnh không trả lời, chỉ ngước nhìn anh bằng ánh mắt tràn ngập sung sướng. Và đấy là lần đầu tiên trong đời con gái, chị run rẩy đón nhận nụ hôn bỡ ngỡ của mối tình đầu trong trắng, để sau này những kỷ niệm về nó trở thành vết xước trong trái tim chị. Thời gian có thể làm lành vết thương, nhưng vết sẹo thì vẫn còn đó, mãi mãi ghi dấu vào cuộc đời người đàn bà.

Cuối năm 1972. Bầu trời Hà Nội luôn bị xé nát bởi những luồng đạn phòng không và tiếng rú đột ngột của còi báo động. Những pháo đài bay B.52 đã cắt bom rải thảm xuống cả bệnh viện và những khu phố đông dân. Công việc của một phóng viên chiến tranh ngày càng vất vả hơn. Ban đêm Hạnh cặm cụi viết bài. Ban ngày chị đội mũ rơm đến các cụm pháo bảo vệ cầu Long Biên. Có lần chị xông vào tận Hoả Lò gặp những giặc lái Mỹ vừa bị bắn hạ, nghe chúng kể: "Những chiếc Míc bé nhỏ thật đáng sợ. Họ dám lao đến gần vùng điểm nổ mới ấn nút phóng tên lửa. Theo lý thuyết thì không được phép làm như thế. Ở vùng điểm nổ, nếu tên lửa trúng đích, máy bay đối phương bốc cháy có thể gây sát thương cả cho mình. Chúng tôi bị bất ngờ. Hoàn toàn bất ngờ". Hôm sau ở toà soạn Hạnh nhận được bức thư của Đạt chỉ vẻn vẹn một câu ngắn ngủi: "Anh mãi yêu em. Bên dưới là chữ ký rắn rỏi quen thuộc. Hạnh khóc. Nước mắt chị thấm ướt những nét chữ phóng khoáng của người yêu. Lâu nay hai người vẫn trao đổi những bức thư đắm say. Rồi qua những dòng chữ nhiều hoặc ít của anh, chị thầm đoán định mức độ ác liệt của những cuộc không chiến. Bức thư gần đây anh viết: "Thật kỳ lạ, từ khi có em, anh thấy dường như cái chấm xanh lung linh dưới chân Tháp Rùa, mỗi khung cửa sổ sáng đèn trong đêm Hà Nội, cả những lối mòn ven đê như gắn bó máu thịt với mình hơn. Vì ở đó có em - cái dáng bé nhỏ vô cùng thương mến trong tấm áo màu cỏ mải miết đạp xe đi về, cặm cụi làm việc và lo lắng cho anh... Còn bây giờ, chị hiểu rằng anh không có nhiều thì giờ dành cho tình yêu.

Khoảng hơn tháng sau, vào một ngày vùng trời Hà Nội chẳng mấy lúc được yên tĩnh, toà soạn nhận tin có một máy bay rơi xuống vùng ngoại ô. Khi Hạnh đến nơi thì đám ruộng nước ở ven đê đã có đông bà con tụ tập. Mọi người ra sức đào bới. Gần một tiếng sau thì những mảng kim loại cháy đen đã bị biến dạng khi va chạm mạnh lúc rơi xuống đất, nhưng vẫn có thể nhận ra đấy là cái bộ phận buồng lái được đưa lên khỏi mặt ruộng vũng vĩnh bùn. Một cán bộ huyện đội, sau khi xem xét kỹ đã xác định đấy là máy bay ta. Có người còn cam đoan rằng đã nhìn rõ mảnh vỡ này bốc lửa ở trên cao nhưng không thấy dù bật ra. Hạnh hồi hộp chen trong đám đông cố đến gần khoang lái với chiếc máy ảnh trong tay. Mọi người không ai nghĩ đến việc can ngăn cô phóng viên khi chị loay hoay chui đầu vào khoang lái. Ở đấy, Hạnh cố sức quan sát, lục lọi, mong tìm thấy những dấu vết còn lại của người chiến sĩ đã hy sinh. Rồi chị run bắn người lên khi chợt nhận ra, trong đống tàn tro và những thanh sắt cong queo có một vật sáng lấp lánh. Hạnh nhặt lên và nhận ra chiếc lắc bạc quen thuộc của chính mình. Chiếc máy ảnh tuột khỏi tay Hạnh. Mặt trời, ruộng lúa và những đám mây quay tròn, quay tròn, Hạnh gục xuống ngất đi...

Ít lâu sau Hạnh nhận được một bức thư đóng dấu bưu điện từ sân bay vùng đồi cọ. Đó là thư của đồng chí biên đội trưởng. Trong thư Độ viết:

Em Hạnh thân mến!

Cho phép tôi coi em như người thân thiết trong gia đình phi công. Bởi vì trước đây, có lần Đạt đã tâm sự với tôi về tình yêu của hai người. Biết được tin ấy cả đơn vị chúng tôi vui mừng lắm. Thú thật, tôi còn chút thầm ghen tị với hạnh phúc của các bạn đấy. Thật là một lứa đôi lý tưởng. Và tôi tin chắc rằng tình yêu của các em sẽ mãi mãi bền vững. Vậy nên lúc này tôi đã đắn đo rất nhiều khi cầm bút viết thư này cho em, nhưng tôi tự thấy mình không được quyền giấu em cái tin Đạt đã hy sinh trong một trận không chiến ở vùng trời Hà Nội. Tôi thông cảm nỗi đau đớn này của em, nhưng nếu có chút nào an ủi được em thì đấy là một trường hợp hy sinh rất dũng cảm, là cái chết của một người anh hùng. Em biết không? Hôm ấy, bọn B.52 chúng nó vào Hà Nội nhiều đợt. Anh em chúng tôi phải xuất kích nhiều phen. Cũng như những lần trước đây, tôi rất yên tâm mỗi khi có Đạt là số hai yểm trợ phía sau. Chúng tôi đã cùng bay đôi nhiều lần. Cậu ấy không bao giờ để tôi bị hở sườn hoặc để chúng nó bám đuôi mình. Và lần ấy, cả hai chúng tôi đều đã lập công. Đạt phóng hai quả tên lửa làm tan xác một "Con ma", còn tôi thì bắn hạ một B.52. Sau đấy chúng tôi đã hết đạn, đang trên đường quay về lại nghe tin có thêm Pháo đài bay chúng nó đang vào không phận Hà Nội. Và những chiếc tiêm kích đi kèm yểm trợ B.52 đã rất xảo quyệt xông vào công kích bọn tôi. Tôi ra lệnh cho Đạt phải cố tránh cuộc giao chiến không cân sức, trở về sân bay an toàn. Hạnh biết đấy, mỗi chiếc Míc với đất nước còn nghèo khó của chúng ta là cả một tài sản khổng lồ. Trong hoàn cảnh ấy tôi cho rằng, đưa được máy bay an toàn trở về là một nhiệm vụ không dễ dàng. Và chỉ còn khoảng 3 phút bay nữa chúng tôi đã về đến vùng đồi cọ. Đúng lúc ấy, tôi nhận thấy bọn B.52 đã cắt bom rải thảm xuống Hà Nội do những đợt sóng xung kích va đập trên không trung. Rồi tôi thấy mình bỗng mất liên lạc với Đạt. Thoạt đầu tôi ngờ cậu ấy bị bọn tiêm kích bắn hạ, bèn cố sức quan sát xung quanh, nhưng tôi đã không hề nhận thấy có dấu hiệu xấu, chỉ đơn giản là Đạt không trả lời những mệnh lệnh của tôi. Lúc ấy tôi không khỏi bực bội trong lòng. Đấy là lần đầu số 2 có hành động vô kỷ luật trong chiến đấu. Tôi đâu biết rằng, Đạt đã lẳng lặng cho máy bay vòng trở lại, vừa cố tránh bọn tiêm kích, cậu ấy vừa tìm cách tiếp cận pháo Pháo đài bay. Vì Đạt đã quyết định sẽ dùng chính máy bay của mình làm quả đạn thứ ba. Tăng hết tốc lực, cậu ấy cho chiếc Míc đâm thẳng vào chiếc B.52 gần nhất. Một đám cháy khổng lồ đã thiêu rụi chiếc Pháo đài bay khốn kiếp. Nhưng Hạnh ơi, người yêu của em thì không trở về nữa. Sau đấy, kỳ tích của người anh hùng của chúng ta đã được cả quân chủng chúng tôi học tập, noi theo...

*

* *

Hai người đàn bà đã dùng xong bữa. Hạnh thấy ngon miệng với bát canh hoa lý nấu trứng tôm ăn với cà muối xổi và món cá rô ron rán vàng chấm với nước mắm chanh ớt. Quả thật những món ăn không chút cầu kỳ này chị thích hơn nhiều những lần dự tiệc tùng trong đời làm báo. Hạnh thành thật nói ra điều ấy khiến bà mẹ rất vui:

- Tưởng chị ưa ăn các thứ cao sang gì, chứ thích những món nhà quê ấy thì cứ ở lại đây với bác một tháng.

- Con cũng muốn thế, nhưng còn công việc và các cháu.

- À, bác sơ ý thật. Anh chị được mấy cháu rồi?

- Dạ hai. Cháu lớn năm nay đã vào đại học.

- Quý hoá quá. Anh ấy chắc cũng làm việc trên tỉnh?

- Vâng - Khách đáp gọn rồi ánh mắt chị ngó mung ra mảnh vườn nhỏ. Ngoài ấy, chút ráng đỏ cuối ngày còn ửng lên chiếc đọt cau mềm lả. Những nụ hoa trinh bạch lấm tấm rơi quanh chum nước. Không khí yên tĩnh thoảng mùi hoa cau thơm ngọt. Xa xa vẳng tới tiếng vạc gọi đàn. Đã lâu lắm, lâu lắm Hạnh mới có một buổi chiều tĩnh lặng, không có tiếng động cơ rú nhức óc, không bụi bậm phù du chốn thị thành, không cả mùi thuốc lá ám ảnh trong căn hộ tập thể trên tầng bốn có chiếc cầu thang tôi tối lúc nào cũng thoảng mùi khai để nghe lòng mình lắng lại với những kỷ niệm của thời con gái. Không thấy chị nói gì thêm, lúc sau bà mẹ ngước nhìn lên và nhận ra nét buồn đang đọng trên gương mặt thiếu phụ. Chị ấy không nói gì về chồng. Lạ nhỉ. Nếu được sung sướng người đàn bà nào cũng muốn san sẻ niềm vui. Nhưng không lẽ người đẹp như thế mà không có hạnh phúc? Bà mẹ băn khoăn.

Và bà mẹ đã đoán không sai. Niềm vui thì khó giấu, còn nỗi buồn chỉ muốn nén chặt trong tim. Sau ngày mất Đạt, Hạnh buồn đến ngơ ngẩn. Chị không còn chú ý gì đến xung quanh. Nhiều đồng nghiệp săn đón cô phóng viên trẻ đẹp chỉ được đáp lại bằng thái độ lạnh lẽo. Tám năm sau, Hạnh đồng ý lấy một người bạn học cũ. Người ta bảo Quý là một kiến trúc sư có tài. Có thể đúng vậy. Những bản vẽ thiết kế của anh về các biệt thự, nhà cao tầng và công sở bao giờ cũng được cơ quan đánh giá cao. Nhưng Quý bĩu môi: "Đồng lương rẻ mạt, còn thù lao chẳng ra quái gì. Giá làm cho nước ngoài hay các liên doanh mạnh, bản thiết kế của anh phải được trả 7, 8 ngàn đô". Hạnh nói nhỏ: "Đòi hỏi thì vô cùng, nhà mình còn thiếu gì đâu". Quý cười khẩy: "Em lạ thật. Tự bằng lòng với cái lồng nhỏ này thì còn gì là ý chí vươn lên nữa. Làm thằng đàn ông cho ra thằng đàn ông phải có một gia đình sung túc! Rồi anh sẽ kiếm đủ tiền cho em được nghỉ ngơi". Hạnh hiểu, hai chữ "nghỉ ngơi" theo cách của Quý nghĩa là chị sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào chồng. Hàng tháng anh sẽ chi cho vợ một món tiền chợ dư dả gộp cả tiền mua son phấn, giầy dép và quà bánh hàng năm đôi lần chị về thăm bên ngoại. Rồi hàng ngày chị lo thay đổi món ăn và các thứ tráng miệng sao cho hợp khẩu vị của chồng. Tối đến thì nằm dài trên đi văng coi ti vi và dũa móng tay móng chân... Tóm lại, một kiếp sống của loài tầm gửi. Thế thôi. Hạnh không tưởng tượng nổi mình sẽ biến thành một mệnh phụ ăn nói kiểu cách như thế nào. Chị yêu công việc của mình và cố không động đến những món thu nhập thêm của chồng. Đêm đêm nằm bên Quý nghe anh tính toán về cuộc sống tương lai sung túc, tự nhiên chị lại nhớ Đạt. Anh ấy nhập ngũ khi học năm cuối cùng đại học ngoại ngữ. Chưa bao giờ anh ấy nghĩ đến việc làm cho người nước ngoài chỉ vì mục đích kiếm tiền. Anh ấy yêu Hà Nội... Nước mắt ứa ra, chị lặng lẽ cố nhích xa cái bụng đã bắt đầu xệ vì bia bọt của Quý. Với chồng, Hạnh chưa bao giờ tìm thấy sự đồng điệu về tâm hồn.

- Bác ơi, ngày ấy... người ta báo tử về trường hợp hy sinh của anh Đạt vào thời gian nào?

- Tháng 4 năm 1973, chị ạ.

- Từ dạo ấy đơn vị có cử người về thăm gia đình ta không ạ?

Bà mẹ ngừng nhai trầu:

- Có đấy. Năm nào đơn vị cũng cho người về. Mới đây có một anh cao to nói giọng xứ Nghệ, bảo là bạn chiến đấu của em nó. Bác cũng giữ lại ăn cơm. Anh ấy ở chơi cả buổi sáng.

- Anh ấy có nói gì không ạ?

- Kể nhiều chuyện từ ngày em nó còn, hai anh em lúc nào cũng ở bên nhau. Có điều...

- Sao ạ?

Bà mẹ kéo vạt áo, chấm mắt:

- Bác có nhờ anh ấy đề nghị giúp với đơn vị: em nó đã hy sinh vì nước cũng là vinh dự cho gia đình. Giờ bác chỉ có một ước nguyện được đưa em nó về cho có mẹ có con. Anh ấy đã hứa sẽ báo cáo lại với cấp trên. Nhưng bác chờ đã lâu không thấy đơn vị hồi âm. Mà bác thì mỗi tuổi một yếu.

- Mẹ ơi! Chị buột gọi mẹ một tiếng rồi thốt im bặt, ngực lại nhói đau. Có lẽ hơn ai hết, chỉ mình chị biết được điều này, rằng hôm ấy anh đã chấp nhận hy sinh cùng cánh bay yêu quý với cả thể xác và linh hồn mình cho tình yêu Hà Nội, bởi vậy, phần mộ của anh hiện giờ ở nghĩa trang đơn vị chỉ đơn thuần là sự tưởng nhớ công lao của người anh hùng, là sự tiếc thương của những tấm lòng đồng đội với người bạn chiến đấu không còn nữa. Nhưng chuyện ấy làm sao có thể nói với mẹ? Và chính điều đó cũng là nỗi khổ tâm của Độ, anh đã không thể đáp ứng yêu cầu của mẹ. Chị xích ngồi gần lại, lặng lẽ ôm lấy đôi vai gày của mẹ và nhận ra rằng mình đã đến đây hôm nay thật đúng lúc, vì chỉ có chị, với những vật chứng quý giá mới có thể an ủi tuổi già của mẹ.

Hạnh lặng lẽ mở túi xách lấy ra một tấm ảnh khổ lớn đưa cho mẹ. Bà mẹ ngỡ ngàng giơ tay đón lấy tấm ảnh chụp một ngôi mộ kiểu dáng đẹp, khá bề thế. Các em thiếu nhi và những quân nhân mũ nâng ngang ngực đứng trang nghiêm trước bó hương đang nghi ngút toả khói. Bà lập cập đeo kính và nhẩm đánh vần những hàng chữ trên tấm bia đen: Liệt sĩ Phan Hữu Đạt. Sinh 15-1-1950. Quê thôn Hạ, xã Ngọc Châu...

Khi bà mẹ sững sờ ngẩng lên, đôi mắt bà ràn rụa ướt:

- Thế ra con đã...

Chị ngẹn ngào:

- Vâng. Con đã đến với anh ấy - Ngừng một lát, chị nói thêm. - Mẹ ơi, vong hồn anh ấy sẽ về đây, ở bên mẹ. Còn phần mộ ở đơn vị đã có đồng đội anh ấy chăm lo. Mẹ cứ yên tâm. Mẹ đã già yếu. Đường sá cách trở. Con xin mẹ nghe con.

Bà mẹ nấc khe khẽ. Cả chị nữa, chị cũng không cầm được nước mắt. Đã bao năm nay chị mới được thoả lòng khóc nhớ anh ở chính căn nhà đã bao lần chị muốn đến mà chưa được thoả nguyện. Lâu sau chị ngẩng lên lau nước mắt:

- Mẹ à, còn cái này. Đây là di vật...

Hạnh tháo chiếc lắc bạc từ ngày ấy vẫn không rời tay chị, trao cho mẹ. Cầm chiếc vòng bạc, bà mẹ khóc oà. Bà vẫn không quên, lần ấy anh về phép đã vui vẻ khoe với mẹ vật này đây. Anh còn đoan chắc rằng sẽ đưa cô gái của chiếc vòng bạc này về với mẹ. Bà đã chờ đợi, và hy vọng rất nhiều. Nhưng con của mẹ đã không trở về, giờ chỉ còn chiếc vòng bạc này trong tay mẹ...

Hạnh nhẹ đỡ mái đầu bạc của mẹ để tựa vào vai mình. Nước mắt bà thấm ướt áo chị. Khi nỗi đau theo nước mắt đã nguôi ngoai, bà mẹ bỗng lờ mờ cảm thấy rằng, người có chiếc vòng bạc mà con trai mẹ nặng lòng yêu chính là thiếu phụ này. Chính là chị - mối tình đầu trong sáng, niềm say mê bền bỉ đã tạo nên niềm vui rạng ngời trên nét mặt anh cả trong những tháng ngày chiến đấu gian nan là người đàn bà này. Bà tin chắc vào điều đó, bằng trái tim đau khổ và mẫn cảm của người mẹ, rằng chính nỗi đau của tình yêu đã để lại nét buồn thẳm sâu trên gương mặt khả ái của chị. Vẫn gục đầu trên vai Hạnh, bà mẹ nghẹn ngào thì thầm gọi: "Con ơi!". Và tiếng gọi thân thiết xiết bao mong ước ấy khiến nỗi đau của mẹ như đã được chia sẻ. Còn Hạnh, chị biết rằng mình đã nói với mẹ những điều chỉ xuất phát từ tấm lòng chị. Nhưng chuyện ấy thực sự không quan trọng, miễn là mẹ được thanh thản sống vui những ngày cuối đời.

Ngoài kia, bóng tối đã choàng lên mảnh vườn nhỏ. Sương đã xuống trong gió đêm lành lạnh. Nhưng cái lạnh đêm nay với hai người đàn bà đã trải qua nỗi đau mất mát chỉ càng làm họ gần gũi, thân thiết nhau hơn.

Anh Phải Sống

Trên đê Yên Phụ một buổi chiều mùa hạ.

Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưong muốn lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi.

Theo dòng nước đỏ lờ đờ, những thân cây, những cành khô từ rừng về nổi lềnh bềnh, như một dãy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thật nhanh tới một nơi không bờ không bến.

Ðứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ, ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài, nói:

-- Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau lắm. Mưa đến nơi mất, mình ạ

Người chồng cũng thở dài, đi lững thững. Rồi bỗng dừng lại, hỏi vợ:

-- Mình thổi cơm chưa ?

Vợ buồn rầu đáp:

-- Ðã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay.

Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau... Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ.

Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ:

-- Liều !

Vợ lắc đầu không nói. Chồng hỏi:

-- Mình đã đến nhà bà Ký chưa ?

-- Ðã.

-- Thế nào ?

-- Không ăn thua. Bà ấy bảo có đem củi vớt đến, bà ấy mới giao tiền. Bà ấy không cho vay trước.

-- Thế à ?

Hai chữ "thế à" rắn rỏi như hai nhát bay cuối cùng gõ xuống viên gạch đặt trên tường đương xâỵ Thức quả quyết sắp thi hành một việc phi thường, quay lại bảo vợ:

-- Này ! Mình về nhà, trông coi thằng Bò.

-- Ðã có cái Nhớn, cái Bé chơi với nó rồi.

-- Nhưng mình về thì vẫn hơn, cái Nhớn nó mới lên năm, nó trông nom sao nổi hai em nó.

-- Vậy thì tôi về... Nhưng mình cũng về chứ đứng đây làm gì ?

-- Ðược, cứ về trước đi, tôi về sau.

Vợ Thức ngoan ngoãn, về làng Yên Phụ.

Tới nhà, gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm, chị phó Thức đứng ở ngưỡng cửa, ngắm cái cảnh nghèo khó mà đau lòng.

Lúc nhúc trên phản gỗ không chiếu, ba đứa con đang cùng khóc lóc gọi bu. Thằng Bò kêu gào đòi bú. Từ trưa đến giờ, nó chưa được tí gì vào bụng.

Cái Nhớn vỗ em không nín cũng mếu máo, luôn mồm bảo cái Bé:

-- Mày đi tìm bu về để cho em nó bú.

Nhưng cái Bé không chịu đi, nằm lăn ra phản vừa chưởi vừa kêu.

Chị phó Thức vội chạy lại ẵm con, nói nựng:

-- Nao ôi ! Tôi đi mãi để con tôi đói, con tôi khóc.

Rồi chị ngồi xuống phản cho con bú. Song thằng Bò, ý chừng bú mãi không thấy sữa, nên mồm nó lại nhả vú mẹ nó ra mà gào khóc to hơn trước.

Chị Thức thở dài, hai giọt lệ long lanh trong cặp mắt đen quầng. Chị đứng dậy, vừa đi vừa hát ru con. Rồi lại nói nựng:

-- Nao ôi ! Tôi chả có gì ăn, hết cả sữa cho con tôi bú !

Một lúc thằng bé vì mệt quá, lặng thiếp đi. Hai đứa chị, người mẹ đã đuổi ra đường chơi để được yên tĩnh cho em chúng nó ngủ.

Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc đời đã qua. Bộ óc chất phát của chị nhà quê giản dị, không từng biết tưởng tượng, không từng biết xếp đặt trí nhớ cho có thứ tự. Những điều chị nhớ lại chen chúc nhau hỗn độn hiện ra như những hình người vật trên một tấm ảnh chụp. Một điều chắc chắn, chị ta nhớ ra một cách rành mạch, là chưa bao giờ được hưởng chút sung sướng thư nhàn như những người giàu có.

Năm mười hai, mười ba, cái đĩ Lạc, tên tục chị phó Thức, xuất thân làm phu hồ. Cái đời chị, nào có chi lạ. Ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm...

Năm chị mười bảy, một lần cùng anh phó Thức cùng làm một nơi, chị làm phu hồ, anh phó ngõa. Câu nói đùa đi, câu nói đùa lại, rồi hai người yêu nhau, rồi hai người lấy nhau.

Năm năm ròng trong gian nhà lụp sụp ẩm thấp, tối tăm ở chân đê Yên Phụ, không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép và hai cái đời trống rỗng của hai con người khốn nạn, càng khốn nạn khi họ đã đẻ luôn ba năm ba đứa con.

Lại thêm gặp buổi khó khăn, việc ít, công hạ, khiến hai vợ chồng loay hoay, chật vật suốt ngày này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi con.

Bỗng mùa nước mặn năm ngoái, bác phó Thức nghĩ ra được một cách sinh nhai mới. Bác vay tiền mua một chiếc thuyền nan, rồi hai vợ chồng ngày ngày chở ra giữa dòng sông vớt củi. Hai tháng sau, bác trả xong nợ, lại kiếm được tiền ăn tiêu thừa thải.

Vì thế năm nay túng đói, vợ chồng bác chỉ mong chóng tới ngày có nước to.

Thì hôm qua, cái ăn, trời bắt đầu đưa đến cho gia đình bác.

Nghĩ đến đó, Lạc mỉm cười, se sẽ đặt con nằm yên trên cái tã, rồi rón rén bước ra ngoài, lên đê, hình như quả quyết làm một việc gì.

Ra tới đê, Lạc không thấy chồng đâu.

Gió vẫn to, vù vù gầm thét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm chảy quanh như thác. Lạc ngước mắt nhìn trời; da trời một màu đen sẫm.

Chị đứng ngẫm nghĩ, tà áo bay kêu phần phật như tiếng sóng vỗ mạnh vào bờ. Bỗng trong lòng nẩy ra một ý tưởng, khiến chị hoảng hốt chạy vụt xuống phía đê bên sông.

Tới chỗ buộc thuyền, một chiếc thuyền nan, Lạc thấy chồng đương ra sức níu lại cái gút lạt. Chị yên lặng đăm đăm đứng ngắm đợi khi chồng làm xong công việc, mới bước vào thuyền hỏi:

-- Mình định đi đâu ?

Thức trừng mắt nhìn vợ, cất tiếng gắt:

-- Sao không ở nhà với con ?

Lạc sợ hãi ấp úng:

-- Con... nó ngủ.

-- Nhưng mình ra đây làm gì ?

-- Nhưng mình định đem thuyền đi đâu ?

-- Mình hỏi làm gì ? Ði về !

Lạc bưng mặt khóc. Thức cảm động:

-- Sao mình khóc ?

-- Vì anh định đi vớt củi một mình, không cho tôi đi.

Thức ngẫm nghĩ, nhìn trời, nhìn nước, rồi bảo vợ:

-- Mình không đi được... nguy hiểm lắm.

Lạc cười:

-- Nguy hiểm thời nguy hiểm cả... Nhưng không sợ, em biết bơi.

-- Ðược !

Tiếng "được" lạnh lùng, Lạc nghe rùng mình. Gió thổi vẫn mạnh, nước chảy vẫn dữ, trời mỗi lúc một đen. Thức hỏi:

-- Mình sợ ?

-- Không.

Hai vợ chồng bắt đầu đưa thuyền ra giữa dòng, chồng lái, vợ bơi. Cố chống lại sức nước, chồng cho mũi thuyền quay về phía thượng du, nhưng thuyền vẫn bị trôi phăng xuống phía dưới, khi nhô, khi chìm, khi ẩn, khi hiện trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son.

Nhưng nửa giờ sau, thuyền cũng tới được giữa dòng. Chồng giữ ghì lái, vợ vớt củi.

Chẳng bao lâu thuyền đã gần đầy, và vợ chồng sắp sửa quay trở vào bờ thì trời đổ mưa... Rồi chớp nhoáng như xé mây đen, rồi sấm sét như trời long đất lở.

Chiếc thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu.

Hai người cố bơi nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi...

Bỗng hai tiếng kêu cùng một lúc:

-- Trời ơi !

Thuyền đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và lạnh lùng trôi đi, lôi theo cả chiếc thuyền nan lật sấp...

Chồng hỏi vợ:

-- Mình liệu bơi được đến bờ không ?

Vợ quả quyết:

-- Ðược !

-- Theo dòng nước mà bơi... Gối lên sóng !

-- Ðược ! Mặc em !

Mưa vẫn to, sấp chớp vẫn dữ. Hai người tưởng mình sống trong vực sâu thẳm. Một lúc sau, Thức thấy vợ đã đuối sức, liền bơi lại gần hỏi :

-- Thế nào ?

-- Ðược ! Mặc em !

Vợ vừa nói buông lời thì cái đầu chìm lỉm. Cố hết sức bình sinh, nàng mới ngoi lên được mặt nước. Chồng vội vàng đến cứu. Rồi một tay xốc vợ một tay bơi. Vợ mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Chồng cũng mỉm cười. Một lúc, Thức kêu:

-- Mỏi lắm rồi, mình vịn vào tôi, để tôi bơi ! Tôi không xốc nổi được mình nữa.

Mấy phút sau, chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh ta rã rời. Vợ khẽ hỏi:

-- Có bơi được nữa không ?

-- Không biết. Nhưng một mình thì chắc được.

-- Em buông ra cho mình vào nhé ?

Chồng cười:

-- Không ! Cùng chết cả.

Một lát -- một lát nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày -- chồng lại hỏi:

-- Lạc ơi ? Liệu có cố bơi được nữa không ?

-- Không ?... Sao !

-- Không. Thôi đành chết cả đôi.

Bỗng Lạc rung khẽ nói:

-- Thằng Bò ! Cái Nhớn ! Cái Bé ! ... Không ? ... Anh phải sống !

Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để mình xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ.

Ðèn điện sáng rực xuống bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỏ đứng bên cạnh. Ðó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy sinh vì lòng thương con.

Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng

Tháng bảy

Tháng bảy năm ấy, một năm trong thập niên 1960, trời mưa thúi đất. Cứ hễ chiều đến là các sợi nước dài, mỏng mảnh lại lướt thướt nối nhau rơi, triền miên không dứt, mãi cho đến tận sáng hôm sau. Để rồi ngừng chẳng bao lâu, đến xế chiều lại lướt thướt mưa. Và không biết có phải vì nhiều mưa hay không, năm ấy trúng lớn mùa cá nục.

Những chiếc nốt(1) chạy buồm đầy khẳm nhộn nhịp vào vào ra ra cửa biển. Cá được chở về thị xã bằng xuồng, bằng xe lam, đổ đống ngồn ngộn trước cửa các nhà lều(2) muối nước mắm. Những người gánh cá cong oằn cả lưng, còn đám trai lều(3) thì mệt bã người, chẳng còn ai nhấc nổi chiếc bồ cào trộn muối nữa, đành để cho những đống cá cứ mặc tình phơi mưa phơi nắng, những đôi mắt cá chết trắng dã ngước nhìn trời, thân cá sình lên xọp xuống, máu chảy thành những dòng lớn, đỏ lòm hoặc đen thẫm, chạy ngoằn ngoèo men theo bờ lộ trước khi đổ xuống cống. Mùi tanh tưởi ban đầu bao trùm lên khắp thị xã, sau biến thành mùi thối, sau nữa đúng là mùi xác chết. Như thể có hàng trăm cái xác người thối rữa treo lơ lửng ở khắp các hang cùng ngõ hẻm vậy.

Tôi năm ấy là một chú nhóc mười hai tuổi, về quê ngoại ở Phan Thiết để nghỉ hè. Ông ngoại tôi có một trại cưa nhỏ, chuyên đóng ghe cho người đi biển. Nhà là căn nhà chồ đóng bằng ván thô nằm trườn dài nửa trên bờ nửa dưới sông giữa một xóm nhà được gọi tên là xóm Lò heo, đa phần dân trong xóm sống nghề đồ tể. "Cọp Khánh Hòa ma Bình Thuận" mà, thiên hạ thời ấy ai cũng đồn là xóm có nhiều ma. Rằng tối tối ma heo kéo đi cả bầy, luẩn quẩn khắp ngõ làng nẻo xóm đến gần sáng mới biến đi, nhất là trong những đêm tháng bảy lê thê mưa dầm, đêm đầy bóng tối và bóng các oan hồn vất vưởng. Những người đi uống rượu về khuya còn đoan chắc rằng có khi họ trông thấy cả những con ma người lất phất bay trên nóc nhà ngoại tôi, vừa bay vừa hát những câu hát sầu não mê hoặc, mà ai nghe trọn hết những câu hát ấy sẽ trở nên nửa điên nửa dại vì mất hết linh hồn. Nhất là trên nóc nhà bà Cả Mạnh, đêm nào cũng có ma bay. Đó là chưa kể đến ngôi trường Bạch Vân bỏ hoang, cách đó chỉ chừng trăm bước chân chứ bao nhiêu, cứ hễ chiều xuống là tuyệt đối không ai dám đi ngang qua. Bởi vì bao nhiêu lời đồn đãi đã xoay quanh ngôi trường ấy, từ chuyện ma bay, ma ném đá, ma xõa tóc ngồi than khóc trên ngọn cây me, hễ thấy ai đi ngang qua là nhảy xuống quặp chặt lấy cổ không gỡ ra được..., đến ma le lè lưỡi, ma vòng treo cổ trên xà nhà...

Bọn trẻ con chúng tôi tối tối rúc cả vào nhà mình, hoặc có đi đâu thì tay bấm chặt ấn quyết theo kiểu Phật Bà Quan Âm, miệng lầm rầm không ngớt câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật, kẻo bị ma giấu vào bụi tre đố ai tìm được, miệng bị trét đầy đất sét mà cứ tưởng là bánh trái. Chẳng biết có phải nhờ thế hay không mà sau này tôi nghiệm ra rằng chẳng có đứa nào trong bọn trẻ con chúng tôi thật sự từng gặp ma cả. Mà ngay người sống trong những ngôi nhà có ma bay trên nóc, thật ra cũng chưa từng thấy ma. Nhưng nỗi sợ ma thì rất thật, và nỗi sợ ấy cùng với những bóng ma oan khuất cứ đương nhiên mà sống chung với người, đương nhiên len lỏi vào mọi ngóc ngách tâm hồn và cuộc đời chúng tôi, đương nhiên cũng như mùi cá mắm nồng nặc vẫn lẩn quẩn sống cùng vậy thôi.

Bà Cả Mạnh làm nghề giết mổ trâu bò. Nhà của bà là ngôi nhà hai tầng, bề thế và đẹp đẽ nhất trong cái xóm nghèo ấy, nghe đâu trước kia là của một ông sĩ quan, được xây cùng lúc với ông hoàng thân Pháp đã xây lầu Ông Hoàng bên Phú Hài. Nhà đẹp lắm, đắp cả phù điêu ở các đầu cột và đầu tường, nhưng lúc này đang bắt đầu rệu rã. Nhà quay mặt ra sông. Lòng sông trước nhà đổ đầy những đầu trâu đầu bò đã róc sạch thịt da. Trên bờ là một khoảng đất rộng trồng mấy hàng dừa, thường có vài con bò được buộc ở đó, chúng vừa phẩy đuôi đuổi ruồi vừa hấp háy những đôi mắt ướt mơ màng, buồn thiu nhơi cỏ. Đó là chỗ để bà Cả và những người lái bò chiều chiều ngồi chồm hổm trên đất cát cò kè, thương thảo giá cả cho những sinh mệnh ngắn ngủi và vô tội. Qua khoảng đất đó là sân trước, có một dãy chuồng để nhốt những con bò đã thuộc sở hữu của bà, xong mới tới nhà chính. Lò mổ ở sân sau, có cửa hậu để vận chuyển thịt ra chợ.

Tôi chơi với hai thằng cháu nội bà Cả nên thường vào nhà bà chơi nhưng chưa thực sự trông thấy việc giết mổ bao giờ, vì việc ấy chỉ làm vào lúc gần sáng, khi chẳng có đứa trẻ con nào thoát ra khỏi các giấc ngủ đầy mộng mị của chúng cả. Chỉ nghe kể đó là một công việc ghê rợn của sự giết chóc: những cú chày vương vãi máu và óc. Những bắp thịt điên lồng lên vì hoảng loạn. Những tiếng rống đau đớn, thảm thiết, hờn oán. Ròng ròng mọi thứ chất lỏng thoát ra khỏi một cơ thể sống: máu, đờm nhớt, mồ hôi, cứt đái, nước mắt, nước mũi...

Sống chung với bà Cả là gia đình ông Thân, con trai thứ ba của bà. Hai người con trai lớn làm ăn buôn bán ở Sài Gòn. Những người con gái kẻ lấy chồng gần người lấy chồng xa, có con đều gửi cho bà Cả nuôi. Ông Thân học hành làm ăn không tới đầu tới đũa, ở lại với mẹ lấy vợ đẻ con, lúc ấy đi lính địa phương quân, đóng lon thượng sĩ, doanh trại ở bên kia sông. Đám cháu nội ngoại của bà Cả sống cùng trong mái nhà ấy không phải là ít, nhưng hiếm con gái, duy nhất chỉ được chị Hạnh, con gái lớn của thượng sĩ Thân.

Chị Hạnh học trên dì Út tôi một lớp, được nhiều người yêu thích theo đuổi, trong nhà thì nhất mực được cưng chiều, nhưng chị lại rất ít nói, sống xa cách với mọi người. Chị đẹp lắm, cái đẹp vừa đài các vừa trong trẻo của một thiên thần. Tôi là một thằng nhóc lêu lổng có tiếng mà lắm lúc không cưỡng được việc nằm im thin thít hàng giờ như một con mèo rình mồi để nhìn chị chải tóc, trong lòng dậy lên một thứ gì đó mà sau này lớn lên mới hiểu nó chính là sự mê đắm. (Về sau, mỗi khi nhớ về quãng thời gian ấy, tôi vẫn tự hỏi phải chăng sự mê đắm đó là mối tình đầu của mình? Lúc đó tôi có chút khái niệm nào về tình yêu đâu, làm sao hiểu nổi những xúc cảm mộng mị kỳ lạ lúc ấy chính là thuộc tính của ái tình. Hay thực ra đó chỉ là libido? Như là một thứ dục tính có tính chất tiềm ẩn?).

Tóc chị Hạnh dài, khi ngồi lên bộ ván ngựa thì ngọn tóc vừa chấm mặt ván. Chị bôi một thứ dầu gì đó lên tóc rồi ngồi cả buổi dùng một chiếc lược sừng chải cho dầu ấy tan hết vào chân tóc, mắt không rời một cuốn sách nào đó mở rộng đặt trên bệ cửa sổ. Những cuốn sách ấy lạ lẫm biết bao đối với tôi, cho đến lúc ấy tôi chưa từng ngồi yên đọc cho hết dù là một quyển truyện nhi đồng. Kín cửa, Ngộ nhận, Buồn ơi chào mi... và hàng đống các truyện tình ái lãng mạn khác, đều do anh Hoàng mang sang cho chị mượn. Anh ấy sắp vào Sài Gòn học đại học, là con trai duy nhất của ông thiếu tá tiểu khu trưởng, người khét tiếng về sự chuyên quyền.

Phòng chị Hạnh ở trên lầu, có cửa sổ mở xuống sân sau. Tối chị đóng cửa sổ lại khi đi ngủ. Không ai biết rằng vào mỗi sáng tinh mơ tiếng rống thảm thiết của những con bò đang giẫy chết có chui qua được những khe cửa hở, len lỏi vào các giấc mơ thanh tân của chị hay không. Các giấc mơ không có máu và nước mắt, chỉ có tình yêu và hạnh phúc.

° ° °

Chuyện xảy ra sau ngày rằm tháng bảy, nên lễ Vu Lan năm ấy mọi người trong xóm vẫn cùng đi chùa với nhau trong tâm trạng rất vui vẻ, có cả mấy thằng cháu của bà Cả Mạnh nữa. Sân chùa rộng mênh mông mà hôm ấy chật kín người, không có chỗ chen chân. Lũ trẻ con ngồi đầy các dãy bàn trong nhà trù và trong nhà khách chờ bữa cơm thí, đám khác không tìm được chỗ thì chạy nhảy ngoài sân, chờ xô cộ sau lễ cúng cô hồn các đẳng.

Trong chánh điện cũng đông người, khói hương mù mịt. Các vị Phật ngồi đứng trên các tòa sen, mắt khép, vẻ mặt thanh thản bao dung. Các thầy cũng lim dim mắt chuông mõ boong boong, miệng đọc bản danh sách dài vô tận những vong nhân đang được thân nhân cầu xin xá tội. Lũ chúng sinh bên dưới, từ bà hàm hộ(4) tay đeo kín hột xoàn đến chị gánh cá có đôi lòng bàn chân bị miểng chai cắt nát, từ bác xích lô mặt mày đen đúa nhăn nhúm đến ông thầy giáo trắng trẻo đạo mạo..., thảy đều xì xụp lạy, xì xụp cầu xin. Quang cảnh trang nghiêm là thế, mà không khỏi nhiều lúc mọi người đồng loạt khịt mũi hoặc bịt mũi, không chịu nổi cái mùi xác thối cứ hỗn hào chen lấn với đám khói hương lãng đãng bay khắp chánh điện.

Được một lát dì Út kéo tôi ra ngoài chờ giờ xô cộ. Dì nói: Mày có thấy ứa gan không, mấy cái bà đó tay thì đeo hột xoàn, chân thì bước qua đống cá chết sình trước nhà lều mấy bả, rồi tới đây nam mô, lạy lạy, làm dơ cả cửa chùa. Mấy bả muốn cầu xin cái gì nữa? Bao nhiêu tiền chưa đủ sao, bao nhiêu con cá đang nhởn nhơ bơi lội ngoài biển bây giờ thành đống chết sình như vậy còn chưa đủ sao? Phật nào mà chứng cho mấy bả... Dì Út tôi lúc ấy sắp lên lớp đệ nhị, bắt đầu hiểu những điều tôi lờ mờ chưa hiểu, thường hay bị bà ngoại mắng là con người lý sự. Lúc ấy tôi chỉ thấy đó là chuyện người lớn, mắc chi mà dì phải nóng giận đến vậy. Khi xô cộ xong, hè(5) được mấy chiếc bánh bò bánh ít dập nát đất cát gói trong tờ lá loan(6) mang về, tôi tung tăng vừa nhảy vừa hát, mà không hiểu sao dì Út vẫn không buông tha, tiếp tục rót vào tai tôi những lời u ám: "Mày biết bà Hạnh xóm mình giống mấy bà hàm hộ ở chỗ nào không? Ở chỗ họ cùng sống trên những xác chết đó". Tới đây thì tôi vùng bỏ chạy, thật tình tôi không muốn nghe những chuyện rối rắm và xúc phạm đến chị Hạnh của tôi như vậy.

Hôm sau ngày mười sáu, bà ngoại tôi cúng cô hồn. Lúc bà ngoại cúng cháo thí thực, dì Út đứng bên cạnh bảo tôi: "Tháng này là tháng cô hồn rong chơi, mày có đi đâu phải cẩn thận, kẻo gặp quỷ ma xúi bẩy làm điều bậy bạ đó". Xế trưa tôi đi theo bà ngoại ra cầu sông để thả chiếc bè kết bằng bẹ chuối chở đầy chè bánh cho những người mà ngoại tôi giải thích là những người Hời, xưa kia là chủ của vùng đất này. Lúc ấy tôi trông thấy anh Hoàng ngồi trên bờ sông, trước sân nhà chị Hạnh. Tôi vẫy tay gọi nhưng anh không trả lời. Không ngờ ngay hôm sau đã xảy ra cái chết bi thảm của anh làm rúng động cả thị xã, có phải chăng ma quỷ đã xúi bẩy anh làm cái việc quá đỗi sai lầm ấy? Vụ tự tử dữ dội ấy xảy ra ở một cái giếng cạn bỏ hoang trong khu gia đình binh sĩ nằm bên kia sông. Anh đã ném một trái lựu đạn, tay kia cầm một trái khác, cùng nhảy theo nó xuống đáy giếng. Trái lựu đạn nổ, kích trái kia nổ theo, thân xác anh bị bằm xé hai lần, nát tan như xác pháo.

Những tin tức loại đó lan truyền rất nhanh trong đám trẻ con chúng tôi. Khi tôi nhanh chân chạy đến thì đã có mặt hàng trăm đứa khác, đang chen lấn bao chặt lấy miệng giếng để nhìn xuống. Những đứa xem xong thì chen ra ngoài, mặt mày xanh lét. Có đứa ói, có đứa òa ra khóc nức nở. Tôi không dám chen vào xem, chỉ nhìn thấy mấy vết máu dính trên thành giếng đã tự nhiên run lẩy bẩy, mà thật tình lúc ấy cũng chưa biết ai nằm dưới đáy giếng. Một lúc sau tôi trông thấy dì Út. Dì hét lên: "Mày chạy mau lên, thật mau, báo cho bà Hạnh hay liền". Tôi lắp bắp: "Tại sao? Tại sao phải cho chị Hạnh hay?". Dì hét lên: "Ảnh là anh Hoàng, là người yêu của bà Hạnh. Trời ơi, sao mày ngu quá vậy, đồ con bò! Mau lên!". Tôi vừa chạy vừa run vừa khóc vừa té bầm dập vì trượt nước mưa vừa tự hỏi, tại sao vậy nhỉ, tại sao lại là người yêu của chị Hạnh được, không phải chỉ là bạn thôi à?

Thành ra tôi là người đầu tiên cho chị hay cái tin dữ ấy. Ban đầu mắt chị mở to ngơ ngác, rồi sụp xuống, ánh lên thứ ánh sáng hoảng loạn, đau đớn. (Về sau tôi nghĩ đôi mắt ấy có lẽ rất giống mắt những con bò hấp hối bên dưới cánh cửa sổ phòng chị). Chị gào lên: "Mấy người vừa lòng chưa? Mấy người bắt tôi giết anh ấy, đã vừa lòng chưa?". Rồi chị đổ gục xuống, như một cây chuối bị dao chém ngang.

***

Người ta bàn tán đồn đãi rất nhiều về vụ tự sát đó, nên không khó khăn gì cho tôi trong việc ráp nối chúng thành câu chuyện có đầu có đuôi, có cả những lời bình luận. Anh Hoàng và chị Hạnh yêu nhau, nhưng không được gia đình chấp thuận. Cha anh ấy là chỉ huy trực tiếp của cha chị Hạnh, cho rằng mối tình ấy không xứng đáng, làm uổng phí tương lai sự nghiệp con trai ông. Trong khi gia đình chị Hạnh kiếm sống bằng nghề hạ tiện, thượng sĩ Thân là thuộc cấp dưới quyền, ít học, tính tình lại ương bướng làm sao mà kết thành thông gia được, thì con trai ông cứ khăng khăng rằng chưa làm lễ đính hôn thì nhất quyết không vào Sài Gòn đi học.

Sáng thứ hai ấy, trong doanh trại có lễ chào cờ, mọi sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ đều có mặt đủ, xếp hàng ngay ngắn dưới sân. Sau lễ ấy, như thường lệ, ông thiếu tá lôi các lính tráng phạm lỗi ra chửi bới và phạt. Thượng sĩ Thân hôm ấy không biết ma đưa lối quỷ dẫn đường thế nào, lại lớn tiếng bênh vực cho người lính tài xế đang bị ông thiếu tá mắng mỏ. Thế là bao nhiêu bực bội, tức tối trong lòng ông thiếu tá bấy lâu nay tuôn trào cả lên đôi bàn tay. Mặt đỏ rần, ông hét to lên, thẳng cánh tát vào mặt thượng sĩ Thân. Không phải chỉ một cái, mà cái nữa, cái nữa, cái nữa, cái nữa, cái nữa... Càng tát càng say, càng hả hê, càng sung sướng.

Ban đầu ông Thân ngớ ra ngạc nhiên, nhưng sau đó cúi đầu chịu tát. Cả một sân người im phăng phắc. Nỗi nhục đi qua cổ họng, ông thượng sĩ nuốt đánh ực xuống bụng. Ông biết nếu mình đánh lại ông thiếu tá thì nắm chắc chuyện phải ra tòa án binh. Nỗi nhục ấy, trưa về đến nhà, lại trào lên lần nữa lên đôi cánh tay ông Thân, ông thẳng cánh tát vào mặt con gái. Mặt chị Hạnh sưng vù, ông xô chị vào một căn phòng kín, khóa trái cửa nhốt lại. Ông cho rằng chính chị đã rước nỗi nhục đến cho ông, và ông sẽ không bao giờ tha thứ cho chị cái tội đã yêu con trai của kẻ thù.

Anh Hoàng không biết chuyện chị Hạnh bị cha đánh và nhốt. Chiều ấy anh đến tìm chị. Người trong nhà không cho vào, anh bỏ ra ngồi suốt buổi ở bờ sông trước sân nhà, chỗ những người lái bò thường ngồi hút thuốc, mặc cho mưa cứ từng sợi từng sợi dài ướt đẫm áo. Anh cũng hút thuốc, liên miên, nối điếu này với điếu kia, không nói với ai một lời nào, cũng không lần nào ngước mắt nhìn lên cửa sổ nhà chị. Ai mà biết được anh đang suy nghĩ những gì! Anh ngồi đấy đến tối, rồi sáng lại đến ngồi đúng vào chỗ cũ. Mặc cho mưa rơi. Cha chị không đuổi anh ấy đi, mà đe dọa chị đủ điều, buộc chị viết thư tuyệt tình. Chị khóc sưng mắt, rồi chị viết. Mẹ chị mang thư ra, không ai biết chị đã viết gì, anh đọc xong lẳng lặng vò bức thư ném xuống dòng nước sông đang chảy. Hôm anh ném thư xuống sông đúng là hôm rằm, người trong xóm đều ở cả trên chùa. Sau hôm ấy là ngày tôi đã vẫy gọi nhưng anh không trả lời. Hôm sau nữa anh lại đến, nhưng ngồi không lâu thì cha anh đến với hai người lính ngồi trên xe Jeep. Anh không cãi cọ gì, ngoan ngoãn ngồi vào xe, nhưng tuyệt đối không hé răng nói lấy một lời, mặc cho ông bố la hét điên cuồng trên xe.

Khi về đến nhà thì cơn giận của người cha lên đến cực điểm. Ông lôi anh xuống xe, rồi đánh anh tới tấp bằng hai sợi dây nịt nhà binh chắp lại. Con ông không bao giờ hiểu ông, và trời ơi, có phải là cũng chưa bao giờ ông hiểu con ông? Những đầu móc kim loại trên các sợi dây nịt xé rách thịt da anh, cũng là xé rách cõi lòng ông. Đánh mệt rồi, ông sầm sầm nhảy lên xe lái đi. Từ khi con còn nhỏ, từ khi vợ ông mất đi, từ khi ông nhận ra cuộc đời mình nhiều nỗi cô đơn hơn là niềm vui thú, thì đây là lần đầu tiên ông đánh con trai của mình. Đứa con mà ông quý còn hơn sinh mệnh ông. Khi người cha đi rồi, anh Hoàng mím môi đi xuống nhà sau, lặng thinh như một nấm mồ. Lúc ấy anh đã không hề nói với ai một lời giã từ, hay một lời trăng trối, hoặc gửi lại cho ai một dòng chữ nào. Cũng không lý gì tới người chị gái nãy giờ vẫn nước mắt lưng tròng cố chen vào giữa cuộc xung đột của hai cha con. Bởi thế không ai đánh hơi được cái chết đang rình rập, không ai ngờ đến sự nguy hiểm của việc anh đi xuống nhà sau. Ở đó, trong hốc tường, anh biết chỗ cha anh cất giữ lựu đạn. Có thể lúc ấy anh chỉ nghĩ đến cái giếng, là nơi trái đạn có thể nổ mà không gây hại gì cho ai khác.

Sau này không bao giờ tôi còn gặp lại chị Hạnh nữa. Lúc ấy người ta mang ngay chị vào Sài Gòn sống với hai người bác, còn tôi cuối tháng ấy cũng rời quê ngoại trở lên Đà Lạt để bắt đầu năm học mới. Mấy năm sau tôi được nghe kể rằng chị Hạnh ở Sài Gòn lúc tỉnh lúc điên, khi lên cơn bốc cả cứt chó mà ăn. Nhưng một người khác lại quả quyết rằng đã từng gặp chị ở Vũng Tàu, bấy giờ mới lấy chồng, sống trong khu cư xá dành riêng cho cố vấn Mỹ trồng đầy hoa đại trắng. Dù tỉnh hay điên, hẳn chị đã quên đi câu chuyện cũ. Tôi vẫn hằng mong như thế, bởi vì nếu cứ phải nhớ những điều đau đớn thì làm sao mà sống nổi.

Ở trên đời, quả là rất khó lý giải được tâm tình của con người, mà việc đoán được mỗi con người sẽ phản ứng như thế nào trong mỗi tình huống lại càng khó hơn. Về cái chết của anh Hoàng người ta quy cho nhiều lý do rất khác nhau. Người cho rằng vì được nuông chiều quá đáng mà hình thành trong anh những cơn nư giận cũng dữ dội quá đáng. Người thì bảo đó hoàn toàn là một câu chuyện tình, tỏ rõ sức mạnh của tình yêu, có khi còn mạnh hơn cái chết. Rất nhiều người khác lại đoan chắc rằng chẳng qua do ma xui quỷ khiến mà thôi. Riêng dì Út tôi (sau này lớn lên không còn tin dị đoan hay ma quỷ nữa, lại đi học môn triết ở đại học Văn khoa Sài Gòn) một hôm nhân nói chuyện với tôi về thuyết hiện sinh của Jean Paul Sartre, dì nhắc lại câu chuyện cũ: "Mày có biết tại sao ông Hoàng ổng chết không? Cha ổng từ nhỏ đến lớn sống trong nền giáo dục của Khổng tử, tin chắc vào một xã hội theo trật tự quân sư phụ. Trong khi đó lại để cho ông Hoàng đọc tiểu thuyết quá nhiều, nhiễm vào đầu ông cái triết lý hiện sinh, cho rằng tha nhân là địa ngục, còn cái cá nhân tôi của mình thì bất khả xâm phạm. Thế thì chuyện xung đột là đương nhiên phải xảy ra rồi, ai thua thì chết thôi". Rồi dì kết luận một câu xanh rờn: "Bởi vậy mày đừng có tưởng rằng chữ nghĩa mà không giết được người".

Chú thích:

Trong truyện có dùng một số từ ngữ địa phương:

(1) Nốt: Thuyền gỗ lớn chạy bằng sức gió, dùng để đánh cá nục.

(2) Nhà lều: Nhà xưởng để sản xuất nước mắm. Gọi là lều nhưng thường rộng lớn và được xây dựng kiên cố.

(3) Trai lều: Nhân công làm việc trong nhà lều.

(4) Hàm hộ: Chủ nhân của xưởng sản xuất nước mắm.

(5) Hè: Giành giật.

(6) Lá loan: Một loại lá rừng bản rộng, thời ấy được dân Phan Thiết dùng để gói thức ăn (Cũng giống như lá sen được dùng ở Vũng Tàu, hay lá chuối ở Sài Gòn).

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: