IV, Kết - Ngàn năm còn mãi
Khuya.
Bờ sông lặng ngắt như tờ, bốn bề âm u cô tịch. Không khí ẩm nồm tanh nồng mùi máu, đặc quánh lại trong màn sương buốt giá. Gió độc khẽ rít qua từng cành cây, rên rỉ trên đầu ngọn cỏ. Thanh âm của gió tựa tiếng gầm gừ phát ra từ loài tà vật hung ác, âm thầm lẩn khuất đâu đó giữa bóng tối quạnh quẽ. Mặt nước đen ngòm, phản chiếu ảo ảnh của lửa cháy bập bùng, hắt quầng sáng loang lổ lên những gương mặt phờ phạc vây quanh đống củi.
Đêm thứ tư, sau ngày thủ cấp vị mãnh tướng nước Nam biến mất, toán quân ở lại Thiên Mạc trông coi hiện chỉ còn chưa tới hai chục mạng. Chúng đang ngồi co cụm với nhau, ngước những ánh mắt mông lung chất chứa nỗi sợ hướng về tay chủ tướng người Mông Cổ ở chính giữa, yên ắng chờ lệnh. Khốn thay, tên tướng đấy cũng chẳng khá khẩm gì hơn đám lính. Hắn mệt mỏi day hai hốc mắt trũng sâu, tinh thần gần như kiệt quệ sau những ngày đóng quân tại Thiên Mạc. Dường như, bóng đêm ở đây đã ngấm sâu vào con người hắn, gặm nhấm từng mảnh linh hồn và gieo rắc nỗi sợ vô hình đày đọa tâm trí tới cùng cực.
Đất An Nam ít người nhiều ma - vài kẻ hắn quen nhận xét như vậy. Hắn vốn không tin lời chúng, bởi vó ngựa quân binh kéo đến nơi nào, nơi đấy lập tức biến thành bình địa. Trước thế quân mạnh mẽ nhường đó, người sống còn phải kinh sợ mà chắp tay thần phục, nói chi đến vài hồn ma bóng quế tồn tại vất vưởng?
Thế nhưng, khi hoàng hôn tắt nắng trên bờ Thiên Mạc, tên tướng giặc biết mình đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng vì đánh giá thấp nơi này. Không giáo mác, không giao tranh, đất thiêng An Nam ngấm ngầm nhe nanh múa vuốt, ngấu nghiến hắn cùng binh lính bằng những cái chết câm lặng. Hàng đêm, khi gió ngân nga khúc ca thuộc về riêng nó, bầy rắn độc hung hãn chẳng rõ ở đâu xuất hiện, vây lấy trại tạm, điên cuồng thưởng thức bữa tiệc máu. Lũ rắn như có linh tính của quỷ, khôn khéo luồn lách, đem nọc độc giết hại từng tốp lính thiện chiến. Chúng lại cũng như trêu đùa, mỗi đêm chỉ tấn công trên dưới chục người rồi lủi mất vào thinh không, để lại nỗi ám ảnh kinh hoàng bám vấy hơi thở. Đến nay, quân lính của hắn đã chết hết quá nửa, kẻ còn sống thì ngày ngày run sợ, bất lực trước sức mạnh của tự nhiên. Không một ai trong số đám lính biết bao giờ cái chết sẽ gọi tên mình.
Canh ba, sương giá buông xuống dày hơn, Thiên Mạc cựa mình tỉnh giấc.
Khúc ca không lời lần nữa vang lên, tan vào trong gió, dội thẳng tâm trí những kẻ xâm lăng. Chúng hốt hoảng bật dậy, tay lăm lăm vũ khí, mắt dáo dác nhìn quanh. Vẻ khiếp nhược hiện rõ trên gương mặt đám giặc khi những tiếng bò trườn sột soạt ở khắp nơi vọng tới. Rất nhanh, kẻ địch của giặc đã lộ diện.
Lũ rắn độc nay nhìn đông đảo hơn hẳn, dễ phải có đến hàng mấy chục con, thi nhau ùa ra từ các bụi rậm, từ dưới sông, từ những kẽ hở người không thể thấy. Chỉ trong thoáng chốc, đám tàn quân đã bị bầy rắn vây lại một góc. Chúng nhấp nhô những cái đầu bé xíu, lưỡi mảnh xẻ đôi thè ra chực lấy mạng bọn rợ Nguyên, cảnh tượng quỷ dị vô cùng.
"Rắn rết, sâu bọ... con nào cũng đáng yêu! Chỉ riêng lũ đỉa chúng mày là đáng chết."
Trong lúc đám giặc ngơ ngác đứng giữa vòng vây, tuyệt vọng tìm đường thoát thân, một bóng áo trắng rẽ màn đêm, đủng đỉnh tiến lại. Tiếng cười lảnh lót vẳng giữa không gian, ma mị như đến từ cõi u linh. Ánh lửa giúp tên tướng giặc trông rõ nhân diện kẻ vừa xuất hiện. Đó là một đứa con gái, trạc cỡ mười ba, mười bốn tuổi, gương mặt xinh đẹp lộ ra cái vẻ tinh quái khó đoán. Hắn thoáng ngẩn người trong giây lát, rồi nhanh chóng vỡ lẽ mọi thứ.
"Thì ra là mày giả thần giả quỷ." Hắn bật cười bằng chất giọng khàn khàn, nặng thứ khẩu âm đặc trưng của vùng phương Bắc. "Tao lại tưởng đất này có ma..."
"Thì lát nữa kiểu gì cũng thành ma hết ấy!" Đình Thư nhoẻn miệng chen ngang lời hắn, tỏ vẻ thích thú khi phát hiện nét mặt đám lính đang chuyển dần từ sợ hãi sang kinh ngạc. "Sao, thấy sản vật nước Nam có độc đáo không? Nghe nói chúng mày thích vơ vét lắm mà nhỉ?"
Tên tướng giặc chau mày, thầm đánh giá đứa con gái trước mặt. Rõ ràng nó vẫn là trẻ con, nhưng sao khẩu khí lẫn ánh mắt lại mang nhiều điểm tương đồng với chủ nhân thủ cấp mà tướng Khoan Triệt đã đánh bại lần trước. Trong suy nghĩ của hắn, vài phỏng đoán lờ mờ hiện ra, nhưng hắn không có thời gian phân tích cặn kẽ. Ở phía ngoài vòng vây rắn độc, Đình Thư lấy ra ống sáo ngọc dài cỡ chừng một gang tay, cất tiếng nói:
"Đại Việt là đất địa linh, chúng mày chắc phải biết chuyện xưa Cao Vương [14] sang đây đắp thành, bị thần Long Đỗ nước tao doạ cho hồn bay phách lạc rồi chứ?"
Thư dừng lại, ánh nhìn rơi trên cây sáo nhỏ. Năm kia, một ông lão chấp tác chùa Phổ Minh đã trao nó cho nàng, nói rằng sáo ấy có người tự xưng thần xà Nguyệt Nương nhờ ông gửi đến Phạm Đình Thư, con gái quan tri huyện Phạm Đình Thạch ở Thanh Liêm, hay chính là đứa cháu nuôi của Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng. Dặn nàng nhất nhất phải mang theo bên mình, sau ở vùng sông nước ắt có dịp cần dùng.
Ngày đấy, Thư về nghĩ mãi mà không nhớ ra mình có quen ai tên giống vậy. Rồi khi nàng tới bãi Thiên Mạc để tìm nơi chúng giặc giữ thủ cấp Bảo Nghĩa hầu, vô tình gặp được Xà tổ [15] trấn thủ vùng này, mọi chuyện mới dần sáng tỏ.
Ngài nói, cây sáo ngọc vốn là tín vật trung gian, chuyên dùng để trao đổi quyền phép với thần linh tộc rắn. Một năm tuổi thọ sẽ đổi được một lần tương trợ, không hơn không kém. Ngài cũng nhắc nhở Đình Thư sử dụng cẩn trọng bởi những đứa con cầu tự như nàng thọ mệnh vô cùng ngắn ngủi. Trừ khi là bán khoán lên chùa rồi tìm người đỡ đầu phù hợp, bằng không chẳng mấy ai sống nổi qua tuổi mười tám. Trước đây, cha mẹ từng làm lễ gửi nàng ở chùa Phổ Minh, song người đỡ đầu của nàng - Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng đã hy sinh nơi chiến trường. Sợi dây bảo vệ khi xưa bị cắt đứt, nàng chỉ còn lại cho riêng mình bốn năm để sống.
Đó là tất cả những gì Xà tổ có thể tiết lộ với Đình Thư. Dù không chắc lắm nhưng Thư đoán, người tên Nguyệt Nương hẳn phải là một trong số các đấng thần linh bảo hộ Đại Việt [16], hiện thân xuống trần dẫn đường chỉ lối cho nàng. Có cây sáo trong tay, Thư an toàn vượt qua nơi rừng thiêng nước độc như Mạn Trù, còn được Xà tổ giúp đỡ đoạt lấy thủ cấp của chú đem tới nơi Hoài Nhân vương Trần Quốc Kiện đang đóng nhờ chôn cất. Nhiệm vụ mà Thư tự đặt ra đã thành công mỹ mãn. Giờ sẽ là lúc nàng thay mặt chú tiễn lũ giặc ngoại xâm kia về nơi chín suối.
Nghĩ kỹ rồi, Thư ngẩng đầu lên, đối diện với những ánh mắt căm phẫn của lũ giặc đang bị vây khốn, nở nụ cười nhàn nhạt ra vẻ thách thức. Thời điểm phát hiện dị tượng diễn ra bao ngày qua đều do con người gây nên, bầy sói thảo nguyên dần lấy lại tự tin của chúng. Tên tướng giặc quát lớn hòng khích lệ tinh thần binh lính:
"Chỉ là một đứa trẻ ranh, chẳng lẽ chúng ta lại phải sợ nó? Thế còn gì là uy phong của thiên triều, của nhà Nguyên ta nữa?"
Tiếng hô vang dội của hắn phần nào kích động đám lính. Tàn quân Nguyên Mông ít nhiều cũng từng là những chiến binh dạn dày kinh nghiệm, chúng gầm lên theo chủ tướng, cố vớt lại chút kiêu hãnh đã bị vùi dập mấy nay. Một số kẻ siết chặt vũ khí, vẻ mặt dữ tợn hướng về phía Đình Thư.
Nhìn đám giặc diễu võ giương oai, Đình Thư lẳng lặng rút thanh kiếm đeo trên lưng xuống, chặc lưỡi tỏ ra miễn cưỡng: "Chết dở, còn cầm cả kiếm thật đánh nhau thế này, chú thấy được sẽ phạt mình gấp ba lần mất... à không, bốn lần chứ!"
Rồi đưa cây sáo kề lên môi, cất giọng đọc lớn câu thần chú Xà tổ đã dạy - cũng chính là bài thơ năm xưa Thái úy Lý Thường Kiệt đọc vang trên dòng Như Nguyệt [17]:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư."
Lời nàng vừa dứt, bầy rắn độc lập tức nổi cơn cuồng nộ, rít gào từng hồi đinh tai nhức óc. Mắt chúng sáng rực trong đêm, nhất tề xông lên tấn công lũ sói dữ. Hỗn chiến nổ ra, bầy rắn độc thoắt ẩn thoắt hiện, lao vào cắn xé, nanh nhọn cắm sâu da thịt, độc tố lan dần bòn rút sinh mạng những kẻ ngu dại phạm tới đất thiêng. Những con sói thảo nguyên chẳng thể chống cự nổi trước sự hung bạo của bầy rắn nước Nam. Kết cục dành cho chúng đã định, chẳng kẻ nào được phép thoát khỏi bàn tay của quỷ thần. Tiếng chúng la hét thảm thiết dồn lại giữa không trung, sau bị nuốt chửng bởi màn đêm vô tận.
Thời gian vừa hết một tuần hương, quanh chỗ trại tạm la liệt những xác người co rút, tím tái chẳng còn nhìn rõ dung diện. Ấy là kết cục của chúng, của lũ giặc Nguyên to gan, ngông cuồng.
Sát bên bờ sông, cuộc chiến của con sói cuối cùng trong đàn sắp đi đến hồi ngã ngũ. Đó là tên tướng giặc, hắn đang giằng co, khổ chiến với Đình Thư. Sau đợt tấn công của bầy rắn, binh lính dưới trướng hắn đều đã bỏ mạng. Dựa vào kinh nghiệm đánh trận từ khắp các chiến trường lớn nhỏ, hắn sớm nhận ra ở nơi nàng Thư đứng, lũ rắn không hề bén mảng tới gần. Tưởng như nắm được yếu tố mấu chốt giúp chiếm thế thượng phong, hắn quyết chí bám theo hòng tiêu diệt con nhãi tai quái ấy.
Chỉ tiếc, ý đồ của tên tướng giặc nhanh chóng bị dập tắt khi hắn vung đao đỡ những đường kiếm đầu tiên. Trái ngược với điều hắn hình dung, con nhãi người ngợm nhỏ thó nhưng thực lực mạnh đến khó tin. Vài lần, hắn xém thất thế trước lối đánh đấm bạt mạng, lăn xả của nó. Con nhãi khiến hắn nhớ lại cái đêm đụng độ với quân Thánh Dực ở Mạn Trù, bọn chúng cũng điên cuồng như thế.
"Đúng là đỉa, dai như đỉa!"
Tiếp ngay sau tiếng cười mỉa là ánh kim loại loang loáng bổ tới. Tên tướng giặc vội nghiêng người né sang bên cạnh. Vừa tránh được nhát đâm chí tử, hắn trúng ngay hai cú đạp vào cẳng chân, cả người mất đà phải thoái lui đến mấy bước. Ba đêm liên tục quần nhau với lũ rắn, thể lực lẫn tinh thần của hắn đã bị bào mòn gần hết. Cố điều chỉnh lại nhịp thở, hắn gằn giọng nói:
"Mày cũng khá đấy, con ranh." Tuy không muốn nhưng hắn phải thừa nhận, trong cuộc chiến này, nàng hoàn toàn trên cơ mình.
Đáp lại lời khen bằng một cái nhếch môi đầy khinh miệt, mắt Thư vẫn chăm chú quan sát từng cử động của tên tướng giặc: "Khá hơn chúng mày là chuyện hiển nhiên thôi." Nhờ công bầy rắn hỗ trợ tập kích, tiêu hao lực lượng địch những ngày vừa qua, nàng mới có thể dốc hết sức đánh trận sống còn với hắn. Xác định địch đã vào thế yếu, nàng thừa thắng xông lên, quyết không cho hắn cơ hội phản công.
Sức cùng lực kiệt, tên tướng giặc khó nhọc chống trả, thân thể dính không ít vết thương. Bất ngờ, Đình Thư áp sát, chém một đường kiếm ngang mạn sườn phải, làm lưỡi đao trên tay hắn chực rơi xuống đất. Hắn nghiến răng siết chặt chuôi đao, tay còn lại hốt nhiên túm được nàng. Vào thời khắc lưỡi đao của hắn lạnh lùng đâm xuyên qua thân thể nàng, hắn ngỡ mình đã thắng...
... cho đến khi cảm nhận được cơn đau khủng khiếp phía sau gáy truyền thẳng đến tim.
"Mày... con nhãi..." Hắn ngắc ngứ, chẳng thể nói thêm bất cứ lời nào sau đó.
Thì ra, bầy rắn dữ không hề bỏ qua con sói đầu đàn. Độc tố chết người lan nhanh như chớp giật, cảnh vật trong mắt hắn mờ đi. Sự sống sót lại chỉ đủ cho tên tướng kịp trông thấy nụ cười đắc thắng của Đình Thư.
Phải, nàng đã đánh thắng giặc rồi. Lần này Thư lập công lớn thế, chú Trọng chắc sẽ không phạt nàng nữa đâu.
Đình Thư ngửa mặt nhìn nền trời sắp sáng, thu vào trong đáy mắt hình bóng thân thương của non sông Đại Việt. Chẳng bao lâu nữa, khi bình minh tới, hai cánh quân của anh Toản, của anh Kiện sẽ về đến Thiên Trường hội họp cùng Quan gia. Nếu muốn đuổi kịp các anh, Thư phải nhanh chân hơn mới được!
Dùng chút sức lực cuối cùng bật cười thành tiếng, nàng thét lớn:
"Lũ đỉa đói chúng mày về dưới ấy mà đền mạng cho dân tao đi."
Nói rồi kéo cả mình lẫn địch ngã xuống dòng sông, xem như kết thúc một đời trọn vẹn, chẳng còn lưu luyến điều gì.
Tháng Ba năm đó, sóng Thiên Mạc cuồn cuộn nhấn chìm tên tướng giặc, rửa trôi hận nước thù nhà. Nó cũng mở rộng vòng tay, dịu dàng ôm lấy người con gái đất Việt vào lòng, để hồn thiêng ấy hòa cùng sông núi, đưa hào khí Đông A vượt khắp giang sơn, quét sạch bóng quân thù.
*
Anh hùng chí lớn ngang trời
Non sông nguyện giữ, một đời kiên trung.
Hết.
-
Chú thích:
14, Cao Vương hay Cao Biền, gắn với truyền thuyết trấn yểm bị thần Long Đỗ dằn mặt
15, Xà tổ: từ này trong truyện mang ý chỉ con rắn thần già nhất, đứng đầu bầy rắn
16, Phóng tác theo phong tục thờ rắn ở Việt Nam từ thời xa xưa
17, Bài thơ thần được coi như một bản tuyên ngôn độc lập của nước ta, được Thái úy Lý Thường Kiệt đọc trong thời kỳ kháng chiến chống quân Tống xâm lược.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top