7.6.Tổng kết cuộc sống
Tiểu kết:
Tuor dẫn những người còn lại đến cửa khẩu sông Sirion. Không hẹn mà gặp, họ gặp được nhóm người của Doriath, trong đó có Elwing con gái đức vua Dior. Dòng tộc Noldor đã được xum vầy, và về sau Ereinion Gil-Galad con trai Fingon được tôn làm vua. Morgoth nghĩ kế hoạch của hắn đã thành công, những gì Tiên còn sót lại không đe doạ được hắn. Trong tình thế đó, vị thần Ulmo đại diện cho Tiên van xin Valar tha thứ cho Noldor, hãy đến Trung Địa và trợ giúp những đứa con Illuvatar chống lại ác ma Morgoth. Lời van xin của Ulmo không làm thay đổi quyết định của Valar, chuyện kể rằng chỉ có kẻ nào có thể đại diện cho cả hai giống loài Người và Tiên mới có thể thuyết phục được Manwë. Thời gian thắm thoát trôi qua, Tuor giờ đã già nua. Anh cho xây một chiếc thuyền thật lớn và cùng với Idril du hành về phươngTây, tìm đường vào Aman...Vì vậy, anh ấy đã chế tạo một con tàu tuyệt vời, và anh ấy đặt tên cho nó là Earrame, đó là Sea-wing, và với idril Celebrindal, anh ấy đã chèo thuyền vào suset và phương Tây, và không tham gia bất kỳ câu chuyện hay bài hát nào nữa: khi con tàu của anh đi trên biển của vùng đất Elven, hoặc nghĩ ngơi một lúc trong bến cảng của Gnomes of Tol Eressëa; hát rằng Tour một mình của những người phàm trần được tham gia trong chủng tộc lớn tuổi, và được gia nhập vào Noldor, người anh ta yêu, và số phận của anh ta bị thay thế từ số phận của Con Người. Túor cưới Idril con gái của vua Turgon của Gondolin; và 'người ta cho rằng' (không nói rõ) rằng anh ta là một ngoại lệ duy nhất nhận được 'sự bất tử' có giới hạn của người Elvish: một ngoại lệ theo cách nào đó. Sự bất tử và sự chết là những món quà đặc biệt của Thiên Chúa đối với Eruhíni (trong đó quan niệm và sáng tạo của Valar không có phần nào) phải giả định rằng không có sự thay đổi nào về loại cơ bản của họ có thể được thực hiện bởi Valar ngay cả trong một trường hợp: trường hợp của Lúthien (và Túor) và vị trí của con cháu họ là một hành động trực tiếp của Thiên Chúa.
Những thư viện quan trọng nhất tại Trung Địa cuối kỷ đệ Tam, đầu kỷ đệ Tứ:
- Thư viện Rivendell của Elrond: thung lũng Rivendell là nơi Elrond đặt toà sảnh tên Mái Ấm Cuối Cùng Phía Đông Biển Cả. Đó là nơi mà thoả mãn được đam mê ăn ngon, ngủ ngon, đọc và viết, kể truyện và nghe kể truyện... Bởi vậy nó đã thu hút được nhiều kỳ nhân dị sĩ qua lại thăm thú như Bilbo Baggins. Thư viện của Rivendell lưu giữ nhiều sự tích về thời Cựu Niên dưới dạng thơ ca theo truyền thống Tiên tộc. (người Tiên không viết văn mà chỉ làm thơ và sáng tác nhạc) Đây là nơi lưu giữ các tài liệu lịch sử quý giá. Hơn nữa làm gì có chốn nào phục vụ cho nghiên cứu lịch sử tốt hơn là nơi có chủ nhân đã tận mắt chứng kiến và can thiệp vào dòng lịch sử?
- Thư viện xứ Shire: thời gian làm nghiên cứu ở Rivendell đã khiến Bilbo Baggins thành một học giả tai tiếng. Ông đã ghi chép nhiều tích truyện của Tiên tộc thành dạng thơ tiếng phổ thông và văn xuôi trong cuốn Sách Đỏ. Cuốn sách này là cảm hứng để họ Took xứ Shire dưới thời ông Peregrin (Pippn) lập nên một thư viện lớn tại dinh cơ của dòng tộc. Thư viện của Shire có nhiều tài liệu quý báu về lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán của người Hobbit và miền Tây Trung Địa; tất nhiên có cả bản sao của cuốn Sách Đỏ trứ danh. Ngay cả học giả của kinh thành Minas Tirith cũng tới để xin sao chép các sách vở giá trị.
- Đại thư viện Minas Tirith: là nơi lưu giữ các sách vở, tài liệu, báo cáo về dòng lịch sử vĩ đại của Numenor và vương quốc Gondor. Không những thế các học giả của kinh thành còn thường xuyên sưu tầm, sao chép các nguồn tài liệu có thể tìm được. Về số lượng có lẽ đây là nơi lưu giữ nhiều sách vở nhất trên toàn Trung Địa. Minas Tirith có lẽ là nơi thích hợp để đào tạo ra nhiều học giả tinh thông nhiều thứ tiếng, nhiều lĩnh vực vì dưới thời vua Elessar đã có nhiều người Lùn và Tiên Tộc hay tới giao lưu trao đổi.
🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌
Một số biểu tượng quan trọng và phổ biến tại Trung Địa:
- Bảy Ngôi Sao: biểu tượng này xuất hiện trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Nó tượng trưng cho chòm sao Valacirca (tức Lưỡi Liềm Của Valar). Năm xưa nữ thần Ánh Sáng Varda đã đặt chòm sao này trên phương Bắc để thách thức Morgoth và cảnh cáo về đòn trừng phạt sẽ đến. Ý nghĩa của nó là "chiến đấu với bóng tối".
- Hai cây: là biểu tượng của Thượng Tiên. Hai cây tượng trưng cho cây Vàng Laurelin và cây Bạc Telperion. Chỉ người Tiên nào từng nhìn thấy ánh sáng hai cây thần mới được gọi là Thượng Tiên. Đôi mắt họ sẽ tỏa sáng và trở nên thông tuệ hơn nhiều.
- Ngôi sao 8 cánh: là biểu tượng của gia tộc Feanor thời kỷ đệ Nhất.
- Ngôi sao 5 cánh: là tượng trưng cho sao Earendel. Chàng Earendel đã mang một viên Silmaril du hành trên bầu trời và trở thành một vì sao. Ngôi sao này được hoàng tộc Numenor trân trọng vì Earendel là ông tổ của họ. Trong Kỷ Đệ Tam, ngôi sao 5 cánh là biểu tượng của vương quốc Arnor.
- Cây Trắng: tượng trưng cho cây Nimloth được người Tiên trồng trên đảo Numenor. Nó là biểu tượng cho tình hữu nghị giữa hai giống loài và cho vinh quang của Numenor vì vua khai quốc Elros có một nửa dòng máu tiên. Trong kỷ đệ Tam, Cây Trắng là biểu tượng của vương quốc Gondor.
- Búa và đe rèn: là biểu tượng chung của người Lùn, để vinh danh vị thần tạo ra họ là Aule Thợ Rèn.
- Vương miện với 7 ngôi sao viền quanh: là biểu tượng của hoàng tộc Durin. Thời xa xưa ông Durin Bất Tử đã tìm thấy Moria. Khi ông soi bóng xuống mặt hồ Kheled-zâra thì thấy chòm Valarcirca tỏa sáng ngay trên đầu mình. Cho rằng đó là điềm lành, ông đã đặt nền móng cho một vương quốc người Lùn vĩ đại, về sau sẽ là minh chủ của mọi dòng người Lùn.
- Cánh chim biển: chim biển màu trắng là sứ giả của thần biển Ulmo. Người Numenor rất coi trọng biểu tượng này vì tổ tiên của họ là chàng Tuor đã đi theo chim biển để tìm thấy tín vật của vua Turgon. Cánh chim trắng tượng trưng cho việc tìm kiếm, dẫn dắt để thấy định mệnh.
- Đại bàng: đại bàng là sứ giả của thần vương Manwe. Họ được ngài cử tới Trung Địa để giám sát Morgoth. Bởi vậy đại bàng là biểu tượng của cảnh giới và bảo vệ. Trong các vệ binh của Gondolin có một đội mặc đồ mang hình đại bàng và bao quanh viên ngọc Elessar là hình đại bàng màu trắng.
- Màu đen tuyền: biểu tượng của chúa tể hắc ám Morgoth chính là không có biểu tượng gì cả, chỉ có một màu đen thẫm tượng trưng cho bóng tối.
- Mắt đỏ trên nền đen: biểu tượng của Sauron. Con mắt tượng trưng cho "nhìn thấy hết", "thống trị hết". Sauron thậm chí còn kiêu ngạo hơn cả ông thầy Morgoth. Có điều không nhìn thấy mấy anh hobbit.
- Bàn tay trắng: biểu tượng của Saruman vì ông ta tự hào là pháp sư trắng và có đôi tay cực khéo léo.
- Đầu lâu: biểu tượng của hồn ma, ma thuật đen và thuật gọi hồn necromance là những môn đắc ý của thầy trò Morgoth, Sauron.
- Ngựa bạch: tượng trưng cho thần mã Mearas, là biểu tượng của người Rohan.
- Cành, lá và hoa: biểu tượng của người tiên rừng.
🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌
Ẩm thực kỳ thú chốn Trung Địa:
- Cram: loại bánh quy của vùng Dale và Erebor. Cực kỳ giàu dinh dưỡng do được làm từ bột mì, sữa và mật ong. Có thể bảo quản lâu ngày. Nhược điểm là rất cứng, nhai rất mệt và cũng không ngon lắm.
- Honey Cake: bánh mật ong của vùng thung lũng ven sông Anduin. Được phát minh bởi ông Beorn Người Đổi Lốt. Mật ong được làm ra bởi những con ong nuôi khổng lồ giúp cho bánh có vị đậm đà khó quên. Người Beorning coi loại bánh này là bí truyền nên người vùng khác chỉ có thể mua được một cách hạn chế.
- Lembas: bánh ngô của người Tiên, vị ngon hơn cả Honey Cake và dinh dưỡng hơn Cram rất nhiều. Chỉ một miếng bánh nhỏ là đủ cho một người trưởng thành no bụng suốt một ngày. Phương pháp làm ra là bí mật.
- Earth-bread: một loại rễ cây kỳ lạ, khi được rửa sạch, thái mỏng và luộc lên nó sẽ có màu trắng, ăn bổ và vị như bánh mì. Phương pháp tìm ra rễ cây này là bí quyết của một số người Lùn.
- Thịt lợn muối Isengard: ngon thượng hạng. Dùng để phục vụ cho Saruman và các quản lý cấp cao. Không biết có phép thuật can thiệp gì không.
- Các món ăn thường nhật tại nhà Bilbo: mứt phúc bồn tử, bánh táo, bánh phủ nho khô, phô mai, bánh nhân thịt, salad, gà ủ muối, dưa muối, bia, rượu vang, cà phê.
- Người Tiên ăn món thường ngày gồm hoa quả tươi và thịt nướng, có thể có phép can thiệp làm tăng độ ngon, độ thơm, độ tinh khiết.
Các đồ uống đặc sản:
- Bia quán Prancing Pony xứ Bree: được Elessar Đại Đế chứng nhận chất lượng cực kỳ ngon và ổn định.
- Rượu vang Dorwinion: loại rượu đỏ cực kỳ mạnh dùng để phục vụ cho các bữa đại tiệc của lãnh chúa. Mạnh đến mức mà người Tiên uống vào cũng say tít, cười nói lung tung.
- Miruvor: loại rượu mật ngọt của người tiên. Có màu trong suốt tinh khiết, chứa trong cốc thủy tinh. Uống vào sẽ thấy sinh lực hồi phục, tinh thần sảng khoái vui tươi.
- Ent-draught: loại nước dinh dưỡng bí ẩn của người Ent. Uống mát, thơm mùi gỗ, có cảm giác đầy chất bổ. Các loài phàm tục được khuyến cáo là không nên uống quá hai lần trong đời. Nước này sẽ làm tăng chiều cao và lông tóc rậm rạp xoắn tít.
- Orc-liquor: loại nước tăng lực của Orc có vị khó uống, sẽ ngay lập tức giảm đau, làm cơ thể nóng ấm, tăng sự hung hãn. Tuy nhiên tác dụng của nó chỉ kéo dài vài giờ.
Đặc sản danh dự:
- Cỏ hút vùng Shire: loại cỏ cuốn để hút rất phê, ngay cả các maiar như Gandalf và Saruman cũng không cưỡng lại nổi.
Về cơ bản thì phép thuật trong thần thoại Tolkien được chia làm 2 loại: magia và goeteia.
- Magia: là loại phép thuật tác động lên vật chất, làm biến đổi vật chất. Ví dụ: phép đốt lửa và bắn ánh sáng của Gandalf, phép dâng nước của Elrond, phép nổ của Witch King. Tác động của Magia là hữu hình và cần phải đọc câu thần chú để thực hiện.
- Goeteia: là loại phép tác động lên tinh thần. Ví dụ như aura gây sợ của ma nhẫn, phép gây chán nản mệt mỏi của Saruman, phép thống trị ý chí toàn bộ loài orc của Sauron. Tác động của Goeteia vô hình, không cần đọc thần chú.
Con người cho rằng Magia là phép tốt còn Goeteia là phép xấu, tuy nhiên tác giả khẳng định rằng tốt hay xấu là tùy người dùng.
Thần và Tiên không hiểu khái niệm "phép thuật" nghĩa là gì. Vì họ có sự gắn bó mật thiết với bản chất thế giới, cái mà loài người gọi là phép thuật thì với họ chỉ là quy luật vận động tự nhiên. Logic giống như thế này: người hiện đại hiểu vật lý nên thấy nhật thực và thủy triều không có gì lạ. Người thời cổ chưa hiểu vật lý nên nghĩ rằng đó là thế lực siêu nhiên.
Chỉ có Thần và Tiên mới có thể ứng dụng Goeteia. Một vài ngoại lệ là ma nhẫn và bọn rồng do chúng mượn sức mạnh từ các chúa tể hắc ám vốn từng là thần.
Loài người học hỏi từ loài Tiên nên có thể dùng magia khi đọc câu chú bằng Tiên ngữ. Thực ra bản chất nó không phải là thần chú mà là lời người Tiên đang "thuyết phục" các lực lượng tự nhiên vận động. Tất nhiên con người khó mà hiểu sâu về điều này. Thời đế quốc Numenor, giao lưu giữa Người và Tiên rất sâu sắc. Đã xuất hiện nhiều phù thủy (sorcerer) loài người nhờ học lóm tri thức của Tiên. Một số kẻ đã dùng phép thuật làm những chuyện xằng bậy. Trong số các ma nhẫn có một số kẻ vốn xuất thân là phù thủy.
Người Lùn không học từ loài Tiên mà được thần thợ rèn Aule chỉ dạy. Họ dùng phép thuật thông qua các ký tự rune để gia cường các món đồ chế tác ra. Bởi vậy vật phẩm của người Lùn luôn là số một về chất lượng.
Quy đổi tuổi của các nhân vật ra tuổi con người bình thường:
Những người Rohan bình thường có thể sống đến những năm 80 tuổi. Người Hobbit có thể sống đến quanh mốc 100. Người Dunedain phương Nam thời cuối Kỷ Đệ Tam có thể tới 120 tuổi, Người Dunedain phương Bắc như Aragorn có tỷ lệ tuổi thọ là 5:2 so với người thường. Người Lùn có tuổi thọ trung bình quanh mốc 240 tuổi (gấp 3 con người).
Về Tiên tộc, theo cuốn sách Nature of Middle Earth thì Tiên sống ở Trung Địa có tỷ lệ tuổi thọ so với con người là 100:1 Vì tuy người Tiên không già đi nhưng môi trường Trung Địa khiến họ mỏi mệt và phai tàn dần. Người Tiên cỡ 10.000 tuổi thì cũng mệt mỏi như con người 100 vậy, Trước mốc đó tốt nhất Tiên tộc nên bắt tàu trở về Aman. Aman là Miền Đất Bất Tử thật sự, nơi người Tiên không chịu tác động phai tàn và sẽ lâu mệt mỏi hơn.
Vậy nếu quy đổi tất cả ra tuổi thọ của người bình thường thì sẽ như sau: (trong ngoặc là tuổi theo năm của họ)
- Eowyn: 24
- Pippin: 24 (28)
- Faramir: 24 (36)
- Eomer: 28
- Boromir: 28 (41)
- Arwen: 28 (2778)
- Merry: 29 (37)
- Sam: 30 (39)
- Legolas: khoảng 30 (3000 tuổi, ta không biết chính xác)
- Aragorn: 35 (88)
- Frodo: 40 (50)
- Gimli: 46 (140)
- Denethor: 60 (89)
- Elrond: 65 (6520)
- Thranduil: khoảng 65-70
- Theoden: 71
- Galadriel: hơn 90 (khi không có quyền năng của nhẫn Nước thì Galadriel đã gần đến ngưỡng mệt mỏi và rời Trung Địa là hợp lý)
🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌
Tiên ánh sáng, hoàng hôn và bóng tối:
Thời xa xưa tất cả Tiên được gọi chung là Quendi. Khi các vị thần triệu tập loài tiên tới Valinor, đã có một nửa ra đi gọi là Eldar (nguyện ý) và một nửa không lên đường gọi là Avari (không nguyện ý).
Trong số Eldar có dòng Vanyar (fair-elves) tới Valinor trước nhất, tiếp theo là Noldor (deep-elves). Còn lại dòng Teleri (cuối cùng).
Một số người Teleri đi tới dãy núi Sương Mù thì bỏ cuộc, gọi là Nandor (thoái lui).
Những người Teleri đi tới bờ biển thì ở lại không đi tiếp gọi là Sindar (grey-elves).
Những người Teleri còn lại hoàn thành được chuyến đi đến Valinor gọi là Falmari (sea-elves).
Vậy từ đây ra đời khái niệm Tiên Ánh Sáng (elves of the light) hoặc Thượng Tiên (high-elves) để chỉ những dòng tiên tới được Valinor, nhìn thấy hai cây thần tỏa sáng là Vanyar, Noldor, Falmari.
Những người tiên dòng Sindar có vua là Elu Thingol lấy vợ là maiar Melian. Họ được nhìn gián tiếp ánh sáng thần thông qua đôi mắt của bà, được bà chỉ dạy nên phát triển hơn đồng loại ở Trung Địa. Bởi vậy họ gọi là Tiên Hoàng Hôn (elves of twilight).
Những người tiên chưa bao giờ nhìn thấy ánh sáng thần gồm Avari, Nandor thì gọi là Tiên Bóng Tối (elves of darkness).
Trong kỷ đệ Nhất, dòng tiên Noldor đã rời Valinor để về Trung Địa báo thù chúa tể bóng tối Morgoth. Khi kỷ đệ nhất kết thúc, hai dòng tiên Noldor và Sindar bị tổn thất nhân số nặng nề. Nhiều người đã rời Trung Địa về Valinor.
Những người Noldor và Sindar còn sót lại hợp thành một dòng định cư tại vương quốc Lindon, gọi là Tiên Phương Tây (elves of the West).
Một số quý tộc Sindar không muốn có vua là Noldor nên vượt qua dãy Sương Mù tới bên các đồng bào dòng Nandor. Các quý tộc Sindar theo đuổi lối sống hòa hợp tự nhiên của Nandor, trong khi người Nandor khâm phục trình độ tổ chức của Sindar và tôn các hoàng tử Sindar làm vua. Từ đó ra đời dòng tiên chung gọi là Silvan (tiên rừng). Về sau dòng Silvan tiếp nhận thêm các anh em Avari, nhân số tăng cao, tạo thành dòng Tiên Phương Đông (East-elves).
Vậy là từ Kỷ Đệ Nhị, người Tiên chia làm 3 nhóm lớn là: Tiên Cực Tây (elves of Valinor) sống ở Aman, Tiên Phương Tây xây nhà xây cảng và Tiên Phương Đông sống hòa hợp với rừng. Về sau hầu hết tiên Trung Địa sẽ đều về Valinor. Một số nhỏ không lên đường thì sẽ phai tàn, mờ ảo dần cho đến khi biến mất hẳn (linh hồn họ lúc tối hậu vẫn về sảnh Mandos).
🌌🌌🌌🌌🌌🌌
Về cơ bản thì phép thuật trong thần thoại Tolkien được chia làm 2 loại: magia và goeteia.
- Magia: là loại phép thuật tác động lên vật chất, làm biến đổi vật chất. Ví dụ: phép đốt lửa và bắn ánh sáng của Gandalf, phép dâng nước của Elrond, phép nổ của Witch King. Tác động của Magia là hữu hình và cần phải đọc câu thần chú để thực hiện.
- Goeteia: là loại phép tác động lên tinh thần. Ví dụ như aura gây sợ của ma nhẫn, phép gây chán nản mệt mỏi của Saruman, phép thống trị ý chí toàn bộ loài orc của Sauron. Tác động của Goeteia vô hình, không cần đọc thần chú.
Con người cho rằng Magia là phép tốt còn Goeteia là phép xấu, tuy nhiên tác giả khẳng định rằng tốt hay xấu là tùy người dùng.
Thần và Tiên không hiểu khái niệm "phép thuật" nghĩa là gì. Vì họ có sự gắn bó mật thiết với bản chất thế giới, cái mà loài người gọi là phép thuật thì với họ chỉ là quy luật vận động tự nhiên. Logic giống như thế này: người hiện đại hiểu vật lý nên thấy nhật thực và thủy triều không có gì lạ. Người thời cổ chưa hiểu vật lý nên nghĩ rằng đó là thế lực siêu nhiên.
Chỉ có Thần và Tiên mới có thể ứng dụng Goeteia. Một vài ngoại lệ là ma nhẫn và bọn rồng do chúng mượn sức mạnh từ các chúa tể hắc ám vốn từng là thần.
Loài người học hỏi từ loài Tiên nên có thể dùng magia khi đọc câu chú bằng Tiên ngữ. Thực ra bản chất nó không phải là thần chú mà là lời người Tiên đang "thuyết phục" các lực lượng tự nhiên vận động. Tất nhiên con người khó mà hiểu sâu về điều này. Thời đế quốc Numenor, giao lưu giữa Người và Tiên rất sâu sắc. Đã xuất hiện nhiều phù thủy (sorcerer) loài người nhờ học lóm tri thức của Tiên. Một số kẻ đã dùng phép thuật làm những chuyện xằng bậy. Trong số các ma nhẫn có một số kẻ vốn xuất thân là phù thủy.
Người Lùn không học từ loài Tiên mà được thần thợ rèn Aule chỉ dạy. Họ dùng phép thuật thông qua các ký tự rune để gia cường các món đồ chế tác ra. Bởi vậy vật phẩm của người Lùn luôn là số một về chất lượng.
🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌
Các nhân vật nữ trong bộ ba truyện Chúa Nhẫn không được xây dựng theo cùng một khuôn mẫu chung mà mỗi người một vẻ khác nhau:
- Công nương Galadriel: là một nhà lãnh đạo uy nghi, có trí tuệ uyên bác. Bà là đã tập hợp Hội Đồng Trắng, gửi trợ giúp đúng nơi cần đến, chủ trì sự nghiệp chống hắc ám qua nhiều kỷ nguyên. Bà "xinh xắn như một bông hoa, đẹp như một cây cổ thụ, lạnh lùng như băng, ấm áp như mặt trời, kiêu kỳ như núi tuyết và thân thiện như cô gái cùng xóm." Từ Galadriel ta cảm thấy sự vĩ đại của người làm sự nghiệp lớn cũng như sự dịu dàng thân thương của một phụ nữ chín chắn.
- Arwen: công nương Arwen mang vẻ đẹp kiêu sa nằm ngoài tầm với, có những lúc dù là Aragorn cũng cảm thấy như vậy. Nàng được sinh ra với quyền chọn lựa số phận giữa Tiên và Người và đã một lòng một dạ với lựa chọn đó. Khi Arwen nguyện đính ước với Aragorn trên đồi Cerin Amroth, chàng ta chưa có gì trong tay, tương lai lên làm vua nghe rất viễn tưởng trong khi hắc ám đang dần phủ bóng xuống. Arwen đã ôm ấp hy vọng trong suốt nhiều năm trời và luôn động viên Aragorn bằng niềm tin không lay chuyển. Nàng chính là ngôi sao dẫn lối cho chàng ranger trong suốt những tháng ngày gian khó.
- Eowyn: công chúa Eowyn là một chiến binh tài giỏi và can trường. Nàng sống với khao khát và dám chiến đấu vì nó. Khi đối mặt với Witch King, Eowyn với nước mắt chảy tràn trên má, tiếng cười vang như thép lạnh và đường kiếm điêu luyện phi thường đã tuyên bố sự nữ tính của mình: "ta nào có phải đàn ông, Eowyn con gái Edmund chính là ta. Ngươi đang đứng chắn giữa ta và người ta thương mến. Cút đi nếu ngươi không bất tử vì ta sẽ đánh chặn ngươi chừng nào còn có thể."
- Rosie Cotton: sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến người thương của Samwise Gamgee. Cô là bạn thanh mai trúc mã với Sam và dù chưa nói nhưng cả hai đều đã có tình cảm với nhau. Khi lên đường theo Frodo, Sam đã chưa kịp chào tạm biệt cô. Chuyến hành trình dài hơn dự tính, trải qua bao khốn khó hiểm nguy. Khi Sam trở về đã là 1 năm rưỡi sau, người làng đã tưởng là cậu đã chết nhưng Rosie vẫn chờ đợi Sam trở về. Khi gặp nhau, xứ Shire đang bị bọn côn đồ của Saruman chiếm đóng. Rosie nhắc Sam hãy đi làm nhiệm vụ bảo vệ quê hương, bảo vệ chủ nhân rồi hãy về với cô. Frodo không thể đi xa nếu không có Sam nhưng Sam cũng không thể trở về mà vẫn như xưa nếu không có Rosie.
🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌
Về bi kịch của Amroth
Amroth là một quý tộc tiên Sindar. Ban đầu tác giả định cho anh là con trưởng của Galadriel và Celeborn nhưng về sau bỏ chi tiết này đi. Bởi vậy Amroth con trai Amdir có tư cách gần như là đệ tử của Galadriel. Trong Kỷ Đệ Nhị, Amroth đã tháp tùng Galadriel đi xuyên qua Moria để về phía Đông trù tính công việc. Nhận thấy rừng Loriand (sau là Lothlorien) có vị trí chiến lược quan trọng nên Galadriel đã bảo hộ để cha con Amdir, Amroth lập nên một vương quốc nhỏ ở đây.
Trong cuộc chiến Tiên Tộc - Sauron, khi mà Sauron tấn công người tiên Eregion rất nguy cấp, Amroth (hẳn là dưới sự điều động của Galadriel) đã đem một đội quân tiên rừng đi qua Moria, hợp quân với người lùn và đánh vào hậu quân của Sauron. Nhờ vậy tiên tộc Eregion được Elrond dẫn chạy thoát, lập ra Rivendell. Amroth và người lùn cũng bị đẩy lui, trở về Moria đóng cửa cố thủ.
Sau này khi Liên Minh phát động chiến tranh với Sauron, cha con Amdir, Amroth cũng tham gia. Amdir tử trận, Amroth kế vị thành vua của Loriand. Amroth đem lòng yêu một nàng tiên rừng tên là Nimrodel. Nhưng nàng chưa đồng ý hôn ước vì lo sợ sự bất ổn của miền Đông. Hai người hẹn ước cùng nhau đi ra biển để đón tàu về Valinor rồi mới kết hôn.
Trên đường đi, vì một sự cố gì đó mà lịch sử không ghi chép, Amroth và Nimrodel bị lạc mất nhau. Amroth đã xin thuyền hoãn chuyến đi, chờ đợi mãi bên bờ biển. Nhưng Nimrodel vẫn không đến. Một đêm nọ, bão nổi lên cuốn chiếc thuyền ra khơi. Amroth cô đơn và tuyệt vọng khi không còn cả người yêu lẫn đồng bào, đã nhảy xuống biển. Chàng bơi theo những con sóng cho đến khi kiệt sức và nằm lại đáy đại dương.
Về sau mỏm đất mà Amroth tử nạn được gọi là Dol Amroth của Gondor. Tương truyền rằng con người ở Dol Amroth vẫn có dòng máu lai tiên do hoà hợp với những người tiên thất lạc của nàng Nimrodel dù số phận của nàng thì không ai biết.
Người Druedain là những người điều khiển Golem trong thế giới Trung Địa.
Họ thuộc chủng Con Người nhưng có chiều cao và bề rộng cơ thể tương tự người Lùn. Da sẫm màu, mắt đen huyền nhưng sẽ chuyển màu đỏ khi nổi giận, khuôn mặt thô, không được coi là "đẹp" theo chuẩn Người - Tiên. Định kiến ngoại hình khiến nhiều Con Người coi người Druedain là hoang dã, kém trí tuệ, thậm chí thù địch.
Thế nhưng thực chất người Druedain là bộ tộc lành tính, họ vui vẻ như người Hobbit nhưng ít vô tri hơn, cứng cỏi như người Lùn nhưng ít khó tính hơn. Kiến thức về thảo mộc và nấm của họ thậm chí còn cao hơn cả người Tiên. Họ từng sống ở châu thổ sông Anduin từ rất lâu đời, khi các chủng Con Người khác tràn đến thì lãnh thổ của họ thu hẹp dần, chỉ để lại dấu tích là các hình nhân bằng đá.
Nhưng không có nghĩa là người Druedain vô hại. Họ biết tự vệ bằng mũi tên và phi tiêu tẩm độc, ngoài ra họ còn có một loại phép thuật đặc biệt khiến cho hình nhân đá cử động (khiển Golem?). Có điều họ thường chọn đường lối ôn hòa thay vì xung đột.
Trong cuộc chiến Nhẫn, người Druedain cũng thù ghét bọn Orc nên đã dẫn đường cho đạo quân của vua Theoden đi tắt tránh mai phục. Sau chiến tranh vua Elessar đã tuyên bố cho họ toàn quyền cai quản khu rừng Druadan và nghiêm cấm người ngoài bước chân vào.
🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌🌌
Không phải người hobbit nào cũng sống ở Shire. Gollum thuộc nhánh hobbit sống gần Đồng Diên Vỹ bên bờ sông Anduin. Vào năm 2463 TA, hắn đã sát hại người họ hàng Deagol để đoạt lấy Chiếc Nhẫn.
Có nhẫn trong tay, hắn đã dùng khả năng tàng hình để ăn trộm, rình mò, phá phách. Cuối cùng hắn bị trưởng tộc, đồng thời chính là bà nội hắn trục xuất khỏi cộng đồng.
Gollum bỏ chạy vào sâu trong núi, sống lẩn lút trong hang tối tăm. Hắn đã có hơn 400 năm cô độc trong bóng tối như vậy, chỉ nói chuyện với bản thân. Từ đó Gollum phát điên, sinh ra hai nhân cách mà Sam gọi là Stinker và Slinker.
Năm 2941 TA, Gollum bị Bilbo đoạt mất chiếc Nhẫn. Vì ảnh hưởng của Nhẫn đã quá sâu nên thay vì được giải thoát, Gollum đã lao vào cuộc truy lùng theo dấu Bilbo.
Cuộc truy lùng đã dẫn hắn qua Rừng Âm U, Dale, Thung Lũng Anduin...mỗi nơi hắn đi qua đều để lại tin đồn kinh hoàng về một con quái vật hút máu lẩn lút. Ba mươi năm sau, Gollum mò vào Mordor thông qua Hang Nhện, qua mặt được cả Shelob.
Tuy nhiên hắn bị Sauron tóm gọn và đích thân tra tấn trong nhiều năm, làm lộ ra thông tin về "Baggins" và "Shire". Năm 3017 TA Gollum được thả ra và bị theo dõi để tìm cái nhẫn vì chính Sauron cũng không biết Shire là cái gì.
Thời điểm đó Gandalf đã nhờ người theo dấu giỏi nhất Trung Địa là Aragorn truy lùng Gollum. Anh ta tóm được hắn rồi giao cho Gandalf tra vấn tại rừng Âm U. Có lẽ Gollum là sinh vật duy nhất từng khiến 2 maiar phải tốn công moi tin tức.
Sau khi nắm được toàn cảnh tình hình, Gandalf giao Gollum cho người Tiên rừng giam giữ và an trí. Nhưng tộc nhân của Legolas không nỡ giam hắn mãi trong những nhà tù sâu trong hang. Một đêm khi Gollum đang được đi hít khí trời thì du binh của Sauron tấn công, Gollum chạy thoát khỏi cả Tiên rừng lẫn do thám của Sauron và nấp trong Moria cho đến ngày tình cờ Frodo đi qua.
Về kết thúc của Gollum, tác giả viết trong thư rằng: Frodo đã thất bại, mọi sinh vật đều định sẵn là phải thất bại trong nhiệm vụ này. Tuy nhiên đó là lúc mà "một thế lực cao hơn", "tác giả thực sự" can thiệp để an bài. Bức thư này thường được hiểu là chính thượng đế Eru đã làm Gollum trượt chân rơi xuống núi lửa để kết liễu cái Nhẫn.
Tuy nhiên cũng có ý kiến khác cho rằng thượng đế Eru sẽ không can thiệp theo cách trực tiếp như vậy. Sự can thiệp ở đây có lẽ chỉ dừng ở mức đảm bảo luật nhân quả sẽ xảy ra: Gollum đã thề nhân danh núi Doom sẽ không phản bội Frodo nên khi bội thề thì rơi xuống vực núi. Sauron tạo ra cái Nhẫn, cái Nhẫn tha hóa Gollum, Gollum ôm cái Nhẫn lao xuống núi lửa; Bilbo thương hại tha chết cho Gollum, Gollum đưa Frodo vào Mordor để đem cái Nhẫn tới tận kết cục. Đó đều là luật nhân quả.
🌌🌌🌌🌌🌌🌌
Không phải người hobbit nào cũng sống ở Shire. Gollum thuộc nhánh hobbit sống gần Đồng Diên Vỹ bên bờ sông Anduin. Vào năm 2463 TA, hắn đã sát hại người họ hàng Deagol để đoạt lấy Chiếc Nhẫn.
Có nhẫn trong tay, hắn đã dùng khả năng tàng hình để ăn trộm, rình mò, phá phách. Cuối cùng hắn bị trưởng tộc, đồng thời chính là bà nội hắn trục xuất khỏi cộng đồng.
Gollum bỏ chạy vào sâu trong núi, sống lẩn lút trong hang tối tăm. Hắn đã có hơn 400 năm cô độc trong bóng tối như vậy, chỉ nói chuyện với bản thân. Từ đó Gollum phát điên, sinh ra hai nhân cách mà Sam gọi là Stinker và Slinker.
Năm 2941 TA, Gollum bị Bilbo đoạt mất chiếc Nhẫn. Vì ảnh hưởng của Nhẫn đã quá sâu nên thay vì được giải thoát, Gollum đã lao vào cuộc truy lùng theo dấu Bilbo.
Cuộc truy lùng đã dẫn hắn qua Rừng Âm U, Dale, Thung Lũng Anduin...mỗi nơi hắn đi qua đều để lại tin đồn kinh hoàng về một con quái vật hút máu lẩn lút. Ba mươi năm sau, Gollum mò vào Mordor thông qua Hang Nhện, qua mặt được cả Shelob.
Tuy nhiên hắn bị Sauron tóm gọn và đích thân tra tấn trong nhiều năm, làm lộ ra thông tin về "Baggins" và "Shire". Năm 3017 TA Gollum được thả ra và bị theo dõi để tìm cái nhẫn vì chính Sauron cũng không biết Shire là cái gì.
Thời điểm đó Gandalf đã nhờ người theo dấu giỏi nhất Trung Địa là Aragorn truy lùng Gollum. Anh ta tóm được hắn rồi giao cho Gandalf tra vấn tại rừng Âm U. Có lẽ Gollum là sinh vật duy nhất từng khiến 2 maiar phải tốn công moi tin tức.
Sau khi nắm được toàn cảnh tình hình, Gandalf giao Gollum cho người Tiên rừng giam giữ và an trí. Nhưng tộc nhân của Legolas không nỡ giam hắn mãi trong những nhà tù sâu trong hang. Một đêm khi Gollum đang được đi hít khí trời thì du binh của Sauron tấn công, Gollum chạy thoát khỏi cả Tiên rừng lẫn do thám của Sauron và nấp trong Moria cho đến ngày tình cờ Frodo đi qua.
Về kết thúc của Gollum, tác giả viết trong thư rằng: Frodo đã thất bại, mọi sinh vật đều định sẵn là phải thất bại trong nhiệm vụ này. Tuy nhiên đó là lúc mà "một thế lực cao hơn", "tác giả thực sự" can thiệp để an bài. Bức thư này thường được hiểu là chính thượng đế Eru đã làm Gollum trượt chân rơi xuống núi lửa để kết liễu cái Nhẫn.
Tuy nhiên cũng có ý kiến khác cho rằng thượng đế Eru sẽ không can thiệp theo cách trực tiếp như vậy. Sự can thiệp ở đây có lẽ chỉ dừng ở mức đảm bảo luật nhân quả sẽ xảy ra: Gollum đã thề nhân danh núi Doom sẽ không phản bội Frodo nên khi bội thề thì rơi xuống vực núi. Sauron tạo ra cái Nhẫn, cái Nhẫn tha hóa Gollum, Gollum ôm cái Nhẫn lao xuống núi lửa; Bilbo thương hại tha chết cho Gollum, Gollum đưa Frodo vào Mordor để đem cái Nhẫn tới tận kết cục. Đó đều là luật nhân quả.
-End-
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top