Phần 1
Nhân loại quả nhiên là giống loài ngông cuồng hơn hết thảy.
Được ban cho trí tuệ và tri thức, từ đó phát triển thành sức mạnh, ở nhân gian dường như có thể đối đầu với tất cả, ngoại trừ thiên nhiên.
Tự cho mình là đúng, tham lam, ích kỷ, thường lấy oán trả ân, đặt lợi ích bản thân lên cao nhất.
Ta trao cho chúng niềm tin mãnh liệt, cho chúng tất thảy bình yên cùng may mắn, đổi lại là vĩnh viễn vùi thây dưới muôn trùng sóng cả.
Thời khắc làn nước đen kịt bao bọc lấy mình, ta cảm nhận cái lạnh buốt giá của đại dương vậy mà chẳng lạnh bằng lòng người. Đại dương lạnh lẽo vô cùng, nhưng cũng rất mực bao dung, chưa bao giờ từ chối bất kể thứ gì, bất cứ một ai.
Lúc này đây, trong lòng nước mênh mang, cuối cùng ta có thể bình yên chìm vào giấc ngủ.
...
Ta tỉnh lại vào một ngày trời quang, sắc trời qua làn nước sóng sánh rất đỗi mông lung, xanh không tì vết.
Ta vươn mình lên khỏi mặt nước, nhận ra hình dáng bản thân đã thay đổi. Từ mặt nước nhấp nhô gợn sóng phản chiếu hình ảnh một kẻ cao lớn cùng gương mặt tĩnh lặng như gương, còn đâu bóng dáng người thiếu niên ngây ngô thuở nào.
Trước mắt không xa là hòn đảo khổng lồ xanh mướt, là chốn xưa xé nát vọng tưởng của ta về cuộc sống bình yên cùng nhân loại.
Ta bước trên mặt biển ung dung tiến đến. Nhìn xem, tình cảnh hiện giờ của nơi này thê thảm tột cùng, hiển nhiên chúng phải trả giá cho hành động ngu xuẩn của mình.
Sóng vỗ lên bờ cát trắng, thản nhiên chơi đùa trước tàn tích hung tợn của ngôi làng từng một thời vô ngần trù phú. Lấp ló bên bìa rừng còn rải rác mấy kẻ sống sót đương sợ hãi dõi theo ta. Những thứ ta từng vì chúng mà ra sức bảo vệ, giờ cũng nên cùng bản thân ngu ngốc của ngày xưa cuốn đi theo dòng nước dữ.
Hết rồi. Niềm tin của ta qua một kiếp phù du vỡ tan như bọt nước. Giống loài xấu xa ấy không đáng được hưởng ân huệ thánh thần.
Vậy mà ta lại nghe đám yêu quái kháo nhau, rằng ở trong một khu rừng rất xa về phía Đông, có một vị thần bị con người ruồng bỏ vẫn một lòng chờ chúng trở về.
Ngu si đến thế, còn tự xưng là thần sao?
——
Ta bắt đầu cuộc hành trình của riêng mình tới lui khắp chốn nhân gian, thưởng thức thiên nhiên bốn mùa chuyển đổi. Đến một ngày tình cờ ghé qua một ngôi làng bỏ hoang, ta trông thấy có mấy đứa trẻ chơi đùa ven sông rồi sẩy chân té nhào xuống con nước xiết. Vốn định mặc kệ, ngờ đâu ngay lúc đó từ trong rừng thổi ra từng luồng gió rít, nhanh chóng cuốn lấy bọn chúng thả lại lên bờ. Trong cơn hoảng hốt, bọn trẻ vẫn nhớ phải hướng vào rừng lạy mấy lạy, xong mới vội vã kéo nhau chạy mất.
Khi bóng dáng lũ nhóc vừa khuất hẳn, sau rặng cây nơi gió khởi nguồn xuất hiện một bóng người cứ đứng nhìn theo chúng, chìm trong xúc cảm tịch mịch mơ hồ.
Dường như phát hiện ánh mắt của ta, y quay sang soi xét ta trong chốc lát, sau đó xoay lưng một mạch tiến vào rừng sâu. Ta nghĩ y đang không hài lòng, thái độ vừa rồi mười mươi là "không tiễn khách".
Thế nhưng vị khách này đang rảnh rỗi lắm, yêu thần cai quản nơi đây nên ra mặt chào đón đi chứ?
Ta đuổi theo hướng y biến mất, chẳng bao lâu liền trông thấy một dải thang theo sườn dốc kéo lên cao chót vót. Mất hai bước nhảy để vượt qua hết gần trăm bậc thang, lại băng qua cây cầu gỗ bắc ngang dòng suối, trước mắt ta hiện ra một ngôi đền bề thế, quạnh quẽ giữa muôn sắc xanh mơn.
Lá cây tán loạn rơi trên nền đất lạnh, cỏ dại tua tủa, áng chừng rất lâu rồi không có người ghé đến trông nom. Tòa đền còn thảm thương hơn, vách gỗ chi chít đường trầy vết xước, rêu lan nhan nhản, nước sơn đã phai thành những tông màu loang lổ. Ta bất giác cau mày tiến vào bên trong, càng thêm khó chịu bởi bụi bặm và mạng nhện giăng kín bốn bức tường, nền nhà ngổn ngang vật dụng cùng vải vóc, khung cửa rách nát cánh mất cánh còn... Đến hôm nay ta mới biết được thế nào là chân dung một ngôi đền hoang phế, thảm hại tới nỗi những hoa văn rồng mây chạm khắc tỉ mẩn trên kèo cột, xà nhà chẳng vớt vát lại được chút uy nghi cỏn con nào.
Giữa gian đền dựng một pho tượng thần cao ngất, cơ bắp cuồn cuộn, đôi mắt lồi không đối xứng trợn trừng trên khuôn mặt dữ tợn.
Thật xấu xí. Ấn tượng của ta về bức tượng này là thế.
Kì lạ là trên bệ thờ dưới chân pho tượng, ngoài lớp tro nhang đóng thành tảng còn đặt một bó sen cùng vài ba loại quả cây tươi, trên mặt sàn phủ bụi cũng in mấy dấu chân be bé, không nhầm thì là của đám nhóc ban nãy ở bờ sông. Cũng còn một số kẻ biết điều, vượt gần trăm nấc thang đến tận đây cúng bái thần linh, chẳng trách vị thần này lại ra tay cứu giúp chúng.
Bất chợt bên ngoài có tiếng gió xôn xao khác thường, ta bèn ra khỏi điện thờ, tức tốc hướng đến nơi phát ra tiếng gió. Ở đó có một sườn núi, treo lên một con thác hùng vĩ giữa lưng chừng trời, nước đổ ầm ầm, bọt tung trắng xóa. Trên mỏm đá dưới chân thác an tĩnh ngồi một người, tay ôm bó búp sen, chậm rãi tách từng cánh hoa thả xuống dòng nước trong leo lẻo.
Dòng nước đẩy đưa mấy cánh hoa dạt đi xa, điểm lên mặt nước những đốm hồng li ti rải rác, chẳng đẹp đẽ gì, càng nhìn càng thêm xốn mắt. Không biết y học từ đâu cái trò thiếu nữ xuân thì vớ vẩn này, trông có hợp với tác phong của thần linh không? Ta nhón nhẹ mũi giày nhảy đến trước mặt y, y cũng cùng lúc dừng tay ngẩng đầu nhìn ta.
Y trông mảnh khảnh chẳng khác cậu thiếu niên độ mười lăm, mười sáu tuổi, nửa mái tóc bạch kim và dải băng che đi nửa khuôn mặt cùng con mắt phải, chỉ để lộ một viên lục bảo trong veo điềm tĩnh xoáy thẳng vào ta không chút e sợ; trang phục của y không quá cầu kỳ, đều hội tụ những tông màu mộc mạc thanh tao, rất mực hài hòa.
Ta mở lời: "Dân chúng nhìn đâu mà tạc ra được bức tượng Phong thần chẳng khác gì Lưỡng Diện Phật thế kia?"
Như bất ngờ vì câu hỏi của ta, con mắt duy nhất kia tròn xoe giây lát, sau đó y lắc đầu, bất đắc dĩ đáp:
"Hình dáng đó tạo thành từ suy tưởng của họ, ta không để tâm. Còn ngài," y cúi đầu tiếp tục ngắt hoa, "chưa có sự cho phép đã tự ý bước vào lãnh thổ của ta, ngài khá bất lịch sự rồi đấy, Hoang đại nhân".
Thật bất kính. Một vị thần nhỏ bé lại dám buông lời như thế với ta. Y có biết dù là thiên đình hay âm phủ đi chăng nữa, chỉ cần ta muốn đến thì chẳng kẻ nào dám ngáng đường ta? Ta vừa định dạy dỗ vài câu, y đã lên tiếng tiếp:
"Nếu cả Thiên giới hay Âm tào địa phủ ngài muốn đến thì đến muốn đi thì đi, vậy mời ngài rời khỏi đây đến những nơi đó thăm thú. Ngọn núi này của ta nhỏ bé vô cùng, bé đến nỗi không chứa nổi hai chữ 'thành kính' ngài chờ mong đâu."
... Y hẳn có ác cảm với ta vì chuyện sống còn của đám trẻ loài người ban nãy. Ta gióng mắt nhìn bao quát nơi đây, núi, rừng, sông, thác, quá mức đơn điệu, chẳng có thứ gì gọi là điểm nhấn, so cùng bao cảnh đẹp ta từng thưởng qua thì ngọn núi này cũng chỉ có thể xem như một chỗ ẩn cư có cảnh sắc tầm thường, ừm, tầm thường đến vô vị.
Y chợt cười khẩy: "Ngài nhìn chán chê rồi đúng không? Nơi này từ thuở ban sơ đã vốn chẳng có gì đặc sắc, ngắm đôi ba lượt là sẽ quên ngay".
... Nhìn thấu suy nghĩ của ta? Ta bèn hắng giọng đáp một câu kha khá lạc đề:
"Cảnh sắc cũng có thể thay đổi".
"Trước đây thế nào thì sau này vẫn nên thế ấy. Mời ngài đi cho, chốn này của ta không dám phiền ngài phí phạm tâm tư".
Dứt lời, y hóa thành cơn gió biến mất tăm, để lại một bó nhụy non chơ vơ trên mỏm đá.
Không chào đón ta đến thế sao? Được rồi, quả núi này cũng chẳng có gì ấn tượng với ta, thế nhưng ta vô cùng không hài lòng bởi thái độ của tên thần linh cỏn con ấy. Ta chợt nảy ra ý muốn lưu lại một dấu ấn khó phai cho y, bèn nhặt bó sen y bỏ đó, xắn tay hành động.
——
Ta lại bắt đầu một cuộc ngao du xem bốn bể là nhà, bầu bạn cùng núi non, mây trời và biển cả. Nhân gian thay đổi thực chóng vánh, có những cánh đồng bao la phút chốc biến thành làng mạc, có những đình đài lầu các sụp đổ rồi lại xây lên, có những thành quách nguy nga phút chốc chìm trong biển lửa. Bao lần bãi bể hóa nương dâu, nương dâu lại thành bãi bể, sinh mệnh người phàm ngắn ngủi tựa phù du, vội vã sinh ra, hối hả đua tranh, đôi khi chẳng kịp chờ đến con trăng tròn tiếp theo đã chớp mắt trở về với cát bụi.
Nhân loại khó ưa còn tìm đủ cách xuất hiện nhan nhản khắp nơi, phiền nhiễu như ruồi muỗi vo ve khiến ta hết mực chướng tai gai mắt. Ta đi sâu hơn vào những vùng đất nồng nặc yêu khí, chỉ nơi như thế mới vơi bớt bóng dáng con người.
Yêu quỷ thì được cái loạn riêng của yêu quỷ. Quần yêu tôn một gã nát rượu làm quỷ vương, tay sai đắc lực của gã là một tên thích giả gái bám riết gã không rời. Có một kẻ cầm đầu như vậy, yêu giới chỉ có thể ngày một hỗn loạn hơn, chẳng hạn nhiều lúc chuyện bé xé ra to, đơn giản như lông vũ nhà ngươi rụng sang hồ nước nhà ta thế là chúng ta thành oan gia ngõ hẹp. Chậc, chỉ trách chúng yêu có cuộc sống trường sinh bất lão, lại phải cái sự rỗi rãi quá lâu sinh ra nhàn cư vi bất thiện.
Cứ thế qua trăm năm, nhân gian vẫn luôn muôn màu muôn vẻ.
Ta từng đứng trên đầu ngọn Châu Mục Lãng Mã Phong (Cho-mo-lung-ma/ Everest) thử nhảy sang đỉnh Phú Sĩ, chẳng hiểu làm sao lại đáp nhầm xuống một quả núi không biết tên. Lúc ấy đương là đầu xuân, ngút tầm mắt ta là một biển hoa trắng dã hoang sơ ẩn trong màn sương của buổi sớm. Hàn mai cùng mận, ở chốn heo hút không người lặng lẽ đơm hoa.
Ta ở lại nơi này vài ba tháng, khi mận và mơ bắt đầu trĩu quả thì nhắm hướng Tây Bắc mà đi, bước vào một vùng núi khác ngay mùa đỗ quyên rừng trổ bông. Sườn núi khi ấy trải độc một sắc đỏ đến mênh mang, rực rỡ hơn cả ráng chiều khiến lòng ta thoáng chút ngẩn ngơ. Ta chợt nghĩ, nếu chốn vô vị của Phong thần cũng được ánh tà của đỗ quyên tô điểm, phá mất cái bình dị nhợt nhạt y hết bề chăm nom, y sẽ trưng ra bộ mặt nào đón tiếp ta?
Hào hứng với suy nghĩ đó, ta bẻ xuống một cành đỗ quyên, tìm đường quay về núi Phong thần.
——
Núi Phong thần không còn như xưa, khu vườn chẳng mấy nên thơ năm đó giờ hóa thành đồng cỏ hoang vu, cây cối chen chúc đan cài vào nhau, lộ vẻ điêu tàn âm u bọc lấy ngôi đền hoang phế. Ta lắc đầu ngán ngẩm, tận đáy lòng tràn lên một nỗi tiếc thương khó nói thành lời. Phong thần không có trong đền, ta bèn rẽ sang lối mòn dẫn ra con thác trước kia, lại bị khung cảnh nơi đây khiến cho hết sức bất ngờ.
Hồ sen ta gieo từ trăm năm trước đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Lạ thật, ta cứ nghĩ y sẽ nhổ bỏ hay làm gì tương tự thế kia, hoặc có lẽ từ hôm ấy Phong thần không hề trở lại đây. Ta nhìn xuống nhánh đỗ quyên đang khẽ rung rinh, cảm thấy hoàn toàn nên đổi chỗ trồng.
Ta quay về vườn chính, nhảy lên cao tìm đến nóc tòa đền. Xung quanh ngôi đền không còn mảnh đất trống nào, ta ngẫm lựa ra một khoảnh ưng ý rồi nhổ trụi cây đi, cắm xuống nhành đỗ quyên, bắt đầu đọc chú. Nhánh cây còm cõi yếu ớt một lúc sau đâm rễ vươn thân vượt quá nóc nhà, trở mình thành một gốc đại thụ mấy vòng người ôm, trổ lá, đơm hoa, phút chốc mang ráng chiều đỏ thắm điểm tô cho núi Phong thần. Ta treo lên tán cây thấp nhất một mẩu giấy ghi vài con chữ, cuối cùng hài lòng phủi tay ngắm nhìn thành quả của mình.
Mục đích hoàn thành, ta về lại với hành trình dang dở. Có điều lần này gặp được loài hoa nào vừa mắt, ta đều ngắt một bông cất vào ngực áo.
——
Năm mươi năm nữa lặng lẽ vụt qua.
Suốt khoảng thời gian này ngoài tắm máu vô số kẻ lớn mật mò đến thách thức, ta thường lui tới địa phận của Vạn Niên Trúc – một gã yêu quái kì dị sở hữu tiếng sáo mượt mà như đong từ tất cả tha thiết của thế gian, không gì sánh được. Tuy nhiên gã rất hiếm khi chường mặt ra cho thiên hạ nhìn ngắm, ở chỗ gã lâu như vậy mà chỉ duy nhất một lần ta được thấy cái bóng mảnh khảnh của gã, vẹn nguyên, in trên nền trăng tròn vành vạnh.
Ba năm trở lại đây có thêm một tên Yêu Cầm Sư mặt liệt qua ngày đoạn tháng bầu bạn với cây đàn. Hắn đột nhiên xuất hiện cách nơi ở của Vạn Niên Trúc không xa, mang theo một thứ âm thanh huyền diệu và sâu lắng, vỗ về không gian rừng núi âm u. Thi thoảng còn có tiếng hát trầm bổng cất lên, ngâm nga mấy làn khúc ta chưa bao giờ nghe qua, khi ngọt ngào, lúc tịch mịch, phần nào gợi lên tâm trạng rối bời của hắn.
Một đêm, Vạn Niên Trúc như thường lệ mất tăm hơi, ta bèn ghé sang căn chòi nơi Yêu Cầm Sư thường ngồi diễn tấu. Hắn luôn có mặt ở đó, nề nếp khoanh chân bên một cái lư nghi ngút hương trầm, vuốt ve cây đàn cũ kĩ. Kì lạ là hôm nay chỉ có lư hương vẫn chăm chỉ nhả khói và cây đàn lăn lóc chỏng chơ, còn người biến đâu mất dạng.
Bốn phía chung quanh vắng lặng như tờ. Ta đành đi loanh quanh xem xét, mãi lâu sau mới thấy một lưng áo trắng tựa mây bơ vơ bên vách núi.
Yêu Cầm Sư một mình đứng trông về phía kinh đô, tấm lưng gầy cô độc đón gió. Nghe thấy tiếng chân ta, hắn quay ngoắt lại, trưng ra khuôn mặt thảng thốt cùng đôi mắt đỏ ngầu, khó nhọc thốt lên:
"Bình An kinh... gặp tai ương rồi".
Ta cũng thấy rồi, vương đô đồ sộ kia đang chìm trong biển lửa, từ đây nhìn xuống chẳng khác một bông hoa đỏ au bùng lên sức sống mãnh liệt. Mà việc đó thì liên quan gì đến yêu quái như hắn? Trừ khi...
"Người thương của ngươi đang ở kinh đô?"
Ta hỏi, hắn không đáp, chỉ một mực dõi theo đóa hoa chói mắt càng lúc càng rực rỡ dưới kia. Việc nhân loại sống chết ra sao ta không quan tâm, càng ngán ngẩm thứ tình cảm khiến bản thân trở nên mù quáng, nhưng vì kính nể tiếng đàn của Yêu Cầm Sư, ta đành rộng lòng giúp hắn gỡ đi phần nào gút mắc.
"Nếu thật sự trong biển lửa kia có người ngươi thương nhớ, ngươi còn ngây ra đấy làm gì?"
Hắn thẫn thờ giây lát, rồi đáp bằng thứ giọng nghèn nghẹn khó ghìm: "Một mình y thì sẽ không sao, nhưng trách nhiệm tên ngốc ấy tự gánh lên vai là bảo vệ kinh đô, bảo vệ dân chúng. Y bảo, y sinh ra để làm người bảo hộ. Ngọn lửa lớn thế này, y sẽ không vì an nguy của mình mà bỏ mặc người dân đâu".
Rốt cuộc là vì sợ ngăn không nổi người thương lao vào chỗ chết. Tự quàng lên mình trách nhiệm bảo vệ con dân, nghe như một kẻ ta biết vậy. Ta thầm lắc đầu, mấy tên ngốc nơi nào cũng có, lỡ trao cả tấm lòng cho chúng vậy vận số ngươi đến hồi tận rồi. Nhìn bóng dáng liêu xiêu đơn độc của Yêu Cầm Sư ta thật chẳng đành, mới thật lòng khuyên hắn một câu:
"Ngươi nhận ra yêu khí ngút trời đang bao bọc toàn kinh đô đúng không? Nhân loại hẳn lại chọc giận phải đại yêu quái nào rồi. Ngươi xem, hận ý nương theo ngọn lửa ấy bùng lên càng lúc càng dữ dội, kẻ kia của ngươi dù tài giỏi đến đâu, ta nghĩ phen này cũng khó mà qua được. Ngươi muốn kề vai bên hắn lúc nguy nan, hay vì khúc mắc của bản thân mà ôm đàn ngẩn ngơ suốt phần đời còn lại, tùy ngươi."
Hắn ngơ ngác nhìn ta, hồi lâu cũng không nói được gì. Ta thở dài hỏi: "Ta từng cho rằng ngươi là kẻ ngại phiền phức, càng không muốn dính dáng gì đến con người, cớ gì lại vướng vào một gã phiền hà như vậy?"
Yêu Cầm Sư bỗng nhoẻn miệng cười, lần đầu tiên suốt ba năm qua ta biết được hắn có thể cười, một nụ cười chát chúa. Hắn bảo:
"Cảm xúc nào phải thứ dễ dàng kiểm soát. Đến bây giờ ta vẫn không rõ tại sao mình phải lòng y. Ta chứng kiến từng ngày y lớn lên, từ lúc còn chập chững đạp theo dấu chân ta trên tuyết, đến khi y đủ khả năng chắn gió che mưa cho mảnh đất kinh đô. Cũng từ đó, chúng ta bắt đầu mâu thuẫn. Y muốn dân chúng được bình an, còn ta, chỉ muốn y được bình an. Nhiệm vụ nguy hiểm giao đến y nhận lấy chẳng nề hà, ta muốn theo giúp, y không cho, còn giăng kết giới giữ chân ta. Y... dù mạnh đến đâu vẫn là người trần mắt thịt, không ít lần trở về với cái thân đầy xây xát. Đến một ngày, người ta đưa y về trên cáng thương, từng hơi thoi thóp. Ta ở ngay cạnh nắm chặt tay y gào gọi tên y, nhưng y chỉ không ngừng lẩm bẩm 'Mọi người đã an toàn chưa?' Rốt cuộc ta có vị trí nào trong y??"
Lồng ngực Yêu Cầm Sư phập phồng dữ dội, nhớ lại khoảng thời gian đó quả thực khó khăn cho hắn. Hắn hít một hơi dằn lòng, lại nói : "Sau chuyện đó, mặc y sống chết thế nào ta cũng không quan tâm nữa, ta phải khuất mắt y, chờ lửa lòng nguội lạnh. Tiếc là, càng xa lại càng nhớ, càng muốn quên lại càng đau đáu không nguôi... Haha, yêu sao mà khổ thế này..."
Xa của ngươi, là đứng ở nơi có thể nhìn thấy được toàn kinh đô?
Trái với lời thở than, khuôn mặt Yêu Cầm Sư dần trấn tĩnh trở lại. Lòng hắn đã có đáp án.
"Ta phải đến chỗ y đây." Hắn nói một câu rõ ràng rành mạch.
"Chắc chắn rồi chứ? Đối đầu với đại yêu kia không phải lựa chọn sáng suốt đâu".
Hắn cười khổ: "Ta đâu có gì để mất, chỉ có y là điều duy nhất khiến ta bận lòng. Cùng lắm thì chết, vừa hay kết thúc được nỗi dằn vặt dai dẳng này.".
Rồi hắn quay sang ta, kính cẩn gập người:
"Cảm tạ ngài bớt chút thời gian lo lắng, ta nên đi rồi... Còn nữa, hoa của ngài sao chưa mang đến cho người ta đi?"
Dứt lời, hắn xoay lưng mất hút vào cánh rừng tối đen, kéo theo một đường rẽ sóng hướng thẳng đến kinh đô, hệt như một con thiêu thân lao vào ngọn lửa.
Thật là, vừa trút được nỗi lòng đã vội vã đâm đầu vào chỗ chết. Tình cảm đến cùng là cứu rỗi hay là độc dược đây?
Ta quay về căn chòi của Yêu Cầm Sư, lấy từ lồng ngực ra một đóa quỳnh hương đặt lên cây đàn của hắn. Lúc này mới để ý, mớ cỏ cây này càn rỡ quá thể. Chúng nương nhờ linh khí của ta rồi mọc rễ cắm cứng vào da thịt ta, chẳng mấy chốc sẽ sinh linh trí mất. Không được, phải tống cổ chúng đi càng sớm càng tốt.
Vậy nên, ta đem theo đống phiền phức lần thứ ba mò lên đất Phong thần.
——
Quang cảnh lần này so với trước chẳng khác là bao, cỏ vẫn rậm rạp, cây cao bóng cả vẫn che kín đường đi, và gốc đỗ quyên đại thụ chưa đến mùa hoa đang thảnh thơi tắm nắng. Ta... có hơi thất vọng, nghĩ chẳng nhẽ Phong thần đã ngủ đông, để mặc ngọn núi không người cai quản? Nếu vậy thì mảnh giấy ta viết năm ấy phải giải thích ra sao? Tờ giấy vẫn treo lủng lẳng trên tán cây thấp nhất, khác chăng là ai đó đã quết thêm một lớp dầu tránh nắng mưa. Ta bất giác hướng về lối mòn dẫn ra thác nước, giữa con đường mòn đó, có một bóng người đi ngược hướng ta.
Kẻ kia đúng là Phong thần.
Vẫn những tông màu mộc mạc khoác trên mình chẳng mấy bắt mắt, lần này y ôm theo một bó sen sắp độ nở bung, hẳn là hồ sen đến tận giờ vẫn còn tồn tại. Ta đứng không xa lắm, mà dường như Phong thần không nhìn thấy ta. Phải tới khi cái bóng đen dài của y đổ trên mặt đất chạm vào mũi chân ta, y mới giật mình ngỡ ngàng ngước mắt.
Y trông tiều tụy, gầy rộc hẳn đi, con ngươi lục bảo phủ lên một lớp ảm đạm lờ mờ, đôi môi khô cằn mấp máy không thành tiếng, cố lắm mới thều thào được ba chữ khàn đặc:
"Hoang đại nhân?"
Chỉ ba chữ thốt ra đã muốn hao hết nửa sinh mạng mình. Phong thần ta gặp năm ấy dù không có thân hình vạm vỡ như núi non, không hiếu chiến, ranh ma như loài yêu quỷ, nhưng nào có kẻ dám đến đây khiêu khích Phong thần. Tuy mất đi tín ngưỡng thờ phụng, tính ra y vẫn có thể sống an nhàn thêm bốn trăm năm nữa, thế nhưng kẻ trước mắt ta có khác gì con sông đã gần trơ đáy, rốt cuộc là vì sao?
Phong thần thẫn thờ bước lên mấy bước, loạng choạng thế nào lại té nhào ra. Bó sen trong lòng xổ tung, y vội quơ hai cánh tay quấn đầy băng vải mò mẫm nhặt lên. Chỉ có mấy cành cỏ con mà cả buổi trời y nhặt chẳng xong, ta đành tới kéo y dậy, một lần gom hết mớ cây trên đất, giằng luôn cả bó sen to quá khổ với y, cứng nhắc lên tiếng:
"Ngươi muốn đến đâu, dẫn đường đi".
Y chớp mắt ngạc nhiên, sau đó dần cong môi vẽ thành một đường trăng khuyết. Mặt trời lửng lơ sau đôi vai gầy guộc, tỏa ra thứ ánh sáng mông lung khát khao hòa tan nét mĩ lệ cuối cùng của y vào trong đó.
......
[Cont.]
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top