11.💫The Lindon Family💫💫

LINDON
(Vùng Đất Âm Nhạc)

[Tại đây có đăng tải GIF hoặc video. Hãy cập nhật ứng dụng ngay bây giờ để hiển thị.]

Mùa xuân vừa đến hoa về trên những bàn tay
Và em vừa đến thay màu áo mới vì anh
Nguyện cho ngày tháng êm đềm như những sớm mai
Những nhọc nhằn chớm quen
Vẫn trong ngần mắt em đang nhìn về anh
Và anh lại nhớ những giờ em đứng chờ trông
Một mình lặng lẽ ướt lạnh trong mưa vì anh
Tình yêu tìm thấy nguyên vẹn sau đêm bão giông
Giữa hoang tàn lãng quên
Nơi cuối đường có em riêng chờ đợi anh
Như chưa từng có những phút lìa xa
Giấu gương mặt trên vai anh khóc oà
Những con đường anh đi rồi cũng đưa anh về bên em
Như anh được sống giây phút đầu tiên
Có em tận đến những giây cuối cùng
Suốt cuộc đời anh không quên chân tình dành hết cho em

[Tại đây có đăng tải GIF hoặc video. Hãy cập nhật ứng dụng ngay bây giờ để hiển thị.]

Aquarisara 20/1–18/2

[Story]
P/S: Ghi chép của Tiên tộc về Cirincendil đã được lưu lại ở Lothlórien bởi Galadriel và ở Imladris bởi Elrond.

Notes:
L: Laurefindil
C: Cirincendil

☀️Vương quốc Gondolin☀️

🌕Vương quốc Lothlórien và Eryn Galen🌕

⭐️Vương quốc Imladris⭐️

Laurefindil và 🦢Cirincendil

01.Aquarisara Eldar & Elves - Thời Đại Thứ II - Laurefindil và 🦢Cirincendil - Năm 01

01.1.Phố Biển
C (Nàng đi dạo phố biển với Laurefindil, nhìn ngắm hòn đảo Xa Xôi đang im ắng trầm lặng, Nàng thở dài): Thiếu nữ Andreth Sealin, con của Boromir nhà Bëor, người được yêu thương bởi cháu trai anh Lãnh Chúa Aegnor đã ngã xuống ở Chiến Tranh Thịnh Nộ lúc Nàng ấy trú ẩn ở Mithlond.
L (câu chuyện gặp gỡ tình yêu của Aegnor và Andreth, bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của Cirincendil trong bàn tay mạnh mẽ đã cầm chắc thanh kiếm của Laurefindil trong các cuộc chiến đang nắm chắc tay Nàng kiên quyết nhưng nhẹ nhàng, bàn tay anh có những ngón tay gầy khéo léo sử dụng thanh kiếm khéo léo mạnh mẽ): Dù là nổi buồn, ở đây có những hy vọng thay thế cho nổi buồn có thể xoa dịu khi Arda được làm lại, họ sẽ tái hợp, con cháu của Elros và Edain được ban Phước Lành từ món quà Edain đã định sẵn từ những Bài Hát hình thành thế giới.
Cả hai: Đi dạo Phố Biển trên con đường, hai người đi dạo từ tốn trên con phố và uống hai ly nước dừa vừa đỡ khát vừa cung cấp năng lượng khoáng vitamin đường phục hồi máu lọc sạch máu tái tạo máu từ cây Yavanna ban tặng, anh đỡ ly nước dừa cho Nàng với ánh mắt chăm chú dịu dàng và Nàng đi dạo nhẹ nhàng với anh khi tận hưởng không khí trên trời biển lấp lánh những Vì Sao trên màn đêm.

01.2.Lò sưởi
L (anh mặc áo dài, quần legging, ủng, lọn tóc óng ánh vàng đã nhỏ giọt nước mưa): Cirincendil, chúng ta nên vào ngôi nhà bìa rừng này của Xứ Sở Lindon Vùng Đất Âm Nhạc bên kia, sẽ an toàn cho em và em sẽ được nghỉ ngơi trong trời mưa như thế này.
C (Nàng đỏ mặt vì trang phục Nàng hiện tại ướt hết, đang tôn lên vóc dáng duyên dáng, ánh mắt của anh tìm gương mặt Nàng đỏ bừng trong cái quàng tay trên eo thân mật của anh và giọng nói trầm mạnh mẽ sâu lắng như giọng hát ấm áp): Được rồi và đúng vậy, em sẽ pha ly trà ấm áp cho anh và chỗ ở đơn giản êm ấm vượt qua cơn bão bất ngờ ập đến trong khu rừng lạnh lẽo, thật may mắn khi anh đã thiết lập những ngôi nhà trú ẩn trong rừng cho Người Tiên canh gác biên giới khu rừng.
L (ánh mắt ấm áp của anh tìm kiếm Nàng): Cảm ơn em, Cirincendil, Luna yêu quý của anh, và Phu nhân cao quý của anh! Anh sẽ khó để người con gái của mình ra khỏi phòng vì sự thoải mái của anh, chiếc giường ấm áp ở gần lò sưởi này sẽ là chỗ nghĩ ngơi thoải mái trước lò sưởi ấm áp, em thật nhân hậu dịu dàng và tử tế cao quý như mọi người đã nói. (Tối đó khi uống trà và ăn món ăn Nàng nấu là tô canh đơn giản với rau củ được xắt cho vào nồi nước sôi sau khi cho muối, rau củ giòn giã trong miệng anh với vị đậm vừa phải ngon lành, sau khi xúc miệng và thay đổi y phục đơn giản để sẵn; Nàng ngủ trong vòng tay anh, dáng vẻ mảnh khảnh đáng yêu nhẹ nhàng và đường cong mềm mại mỏng manh, anh ấy ôm Nàng đang nằm xoã tóc trên gối và đôi mắt Nàng nhắm nghiền đáng yêu; mái tóc tràn ra gối gợn sóng như sợi chỉ Vàng và Bạc, một bên tay với những ngón tay thon gọn mỏng manh đặt trong bàn tay anh khi Nàng quay người trong cái ôm của anh, một tay ngang tấm chăn trên bụng, lòng ngực nâng lên hạ xuống theo hơi thở nhẹ nhàng mỏng manh trong cái ôm an ủi xoa dịu; khuôn mặt bình yên nhẹ nhõm, cảm giác ấm áp dịu dàng tràn ra, khi Nàng cảm giác an yên trong bóng tối tràn vào những Vì Sao màu bạc và ánh trăng bàng bạc lấp lánh). Đừng lo lắng, Luna, anh ở đây và sẽ không để ai tổn hại đến em, đừng sợ.
C (lo lắng xoa dịu, sợ Bóng Tối, và nổi sợ bị bỏ rơi): Laurefindil, em sẽ không giữ sợ hãi, em hứa.

01.3.Vịnh Lhûn
C: Laurefindil! Andreth rất xinh đẹp, dịu dàng kiên nhẫn, và tử tế tốt bụng, Nàng khôn ngoan ham học hỏi và nhiều yêu thương chân thành, tự lập. Em biết phong tục chúng ta, nhưng em không hiểu ở một điều Aegnor sẽ rời đi không thể kết hôn với Nàng ấy.
L: Aegnor sẽ kết hôn với Andreth, bất kể cuộc đời ngắn ngủi của Nàng ấy, nếu anh ấy được tự do thoát khỏi lời thề độc ác và chiến tranh, nếu họ được sống trong hòa bình, nếu suy nghĩ hay cách suy nghĩ anh ấy giữ bớt sự cực đoan thì anh ấy sẽ kết hôn Nàng ấy trong chiến tranh dành ít thời gian ngắn ngủi của Nàng ấy, Chiến Tranh Thịnh Nộ đến mãi khi Nàng ấy đã già đi, một trăm năm ngắn ngủi một vài thập kỷ bên nhau hơn là không có thời gian dài nào; Người Tiên không suy nghĩ như Con Người, bởi vì chúng ta không chết trừ khi đó là nổi đau đớn và sự bất hạnh, ở các thời đại của chúng ta mà chúng ta không hành động nhanh chóng, Người Tiên không thể kết hôn sinh con trong thời chiến do phong tục và Aegnor cảm thấy sức nặng nhiệm vụ của mình khi anh ấy xa Nàng ấy.
C: Laurefindil tại sao anh ấy không lắng nghe Nàng ấy và lắp đầy trái tim ấm áp thiếu thốn tình cảm Nàng ấy (da anh săn chắc, gân dưới gợn sóng, đôi mắt ấm áp mềm mại về phía Nàng sâu sắc tội lỗi không phải của anh) anh ấy có sợ nhìn Nàng ấy thay đổi không, khi tuổi xuân nhan sắc tàn phai, tuổi tác phai dần như cái chết trong khoảnh khắc của anh ấy, anh ấy có tha cho nổi đau buồn đó khi anh ấy đã bỏ rơi Nàng ấy, nhìn thấy nổi đau chờ đợi không thể hồi đáp và nước mắt của Nàng ấy, đau lòng lắm.
L: Những gì Aegnor làm, bất kể lý do gì anh ấy không thực hiện sự thoải mái của anh ấy, anh ấy đã sẽ không rời đi mong Nàng ấy cả đời đau buồn và cô đơn, chưa bao giờ là ý muốn của anh ấy và anh ấy rất yêu Nàng ấy; anh ấy nghĩ anh ấy rời đi, Nàng ấy sẽ học cách yêu Con Người, có con với anh ấy, già đi cùng anh ấy, hạnh phúc một đời một kiếp.
C: Nàng ấy yêu anh ấy như anh ấy yêu Nàng ấy, tình yêu mãi mãi của Người Tiên nhưng họ bị trói buộc số phận với Arda và Fëa họ bị ràng buộc không chỉ thân thể Elves, Nàng ấy vẫn giữ chung thủy trọng tình trọng nghĩa bất kể một số phận khác biệt giữa Người và Tiên thì Nàng không muốn kết hôn có con với ai khác nếu không phải của anh ấy, sự thật đau lòng đó trên những lý do cao quý anh ấy nói giải thích suy nghĩ về hành động của anh ấy, tiếc quá!!!
L: Anh ước có thể nhưng không có mọi câu trả lời cho những câu hỏi của em, thân yêu!
C: Nhưng sự thật em biết, Eru không tàn nhẫn, bất cứ nơi nào Andreth ở ngoài những Vì Sao và Nàng ấy vẫn yêu Aegnor; bất cứ khi nào Aegnor sống ở Hall of Mandos, anh ấy yêu Nàng ấy, bởi vì điều này nên mối tình câu chuyện của họ chưa kết thúc; tại sao Eru khiến chúng ta giống nhau, yêu thương và chăm sóc nhau, có thể chia sẻ với nhau vượt qua những kết thúc của Arda; chúng ta chưa thấy ngoài kết thúc không phải như không có không thấy gì, Người Tiên yêu Con Người, Con Người yêu thương nhau, Người Tiên yêu thương nhau, Tình bạn giữa Con Người và Người Tiên được hình thành; Aegnor và Andreth sẽ được đoàn tụ lần nữa khi kết thúc ở Arda, bất kể mối tình bị chia cắt bởi Món Quà của Con Người hay Số phận ràng buộc Sự Diệt Vong của Người Tiên, em chắc chắn như thế.
L: Em đã nghiên cứu rất nhiều, câu hỏi đã trong trái tim em nhiều năm, đừng xin lỗi; đôi mắt Xám Bạc của em trông như một bầu trời sao trên màn trời đêm, lấp lánh phản chiếu trên mặt biển mùa hè, anh đã nhận ra.

01.4.Ánh Bạc
C (&L): Cầu mong Elbereth bảo vệ anh! (Và em)!
Những Người Tiên đi bộ xuyên rừng nhẹ nhàng trên đôi chân của họ, Laurefindil nhìn Nàng, mảnh lụa được thắt nơ buộc trên mái tóc Nàng với áo choàng mỏng manh trắng trẻo, bàn tay mảnh khảnh, giọt nước lấp lánh ở thác nước ầm ầm, giọng hát từ âm nhạc như tiếng cười chào đón và âm thanh vui vẻ bên dòng suối, giọng điệu nhẹ nhàng quyến rũ và giai điệu mê hoặc trên ngôn ngữ âm thanh tuyệt đẹp, giọng nói của các Vì Sao đáng yêu lấp lánh ánh bạc được lắng nghe.

01.5.Thư viện
L: Ngày mai, anh sẽ còn lo lắng cho em một thời gian khá dài nếu chúng ta còn ở đây, đặc biệt nếu em còn một mình ở đây, anh sẽ đưa em tới Lord Círdan ở Cảng Xám, và sẽ có nhiều món quà cùng sách để học tập giống như lúc em gặp anh ấy khi đã ở cùng công chúa Tindómiel con của Elros là vợ của Halazel, không cần phải từ chối vì dòng dõi và em khôn ngoan xinh đẹp đủ để có danh dự bằng hành vi riêng em, em sẽ cần được cư trú an toàn ở Ngôi Nhà Tiên tộc ở Lindon.
C: Anh không cho em một cơ hội phản bác luôn í anh, em sẽ lại ở một mình với sách vở và ghi chép bài vở đấy, em biết em sẽ được bảo vệ, nhưng em sẽ ở với ai, tức là ... ai sẽ bảo vệ cho em khi ở đó?
L (đôi mắt ấm áp tốt bụng, có một sự dịu dàng ấm áp trôi qua, cái nhìn của người dành cho người anh ấy yêu thương nhất thế gian và là người anh ấy sống để mang hạnh phúc hoàn thành cho người ấy): ... Ngày mai, chúng ta sẽ đi đến chỗ của Círdan, Người đóng tàu Vĩ Đại, anh ấy sẽ lại chào đón chúng ta, anh ấy sẽ nhớ tới em như ngày trước; với một thư viện sách phong phú thời đại thứ hai, anh ấy coi trọng học tập kiến thức, anh chắc chắn anh ấy sẽ hỗ trợ em có nhiều kiến thức hơn bây giờ nhiều hơn nữa, chúng ta sẽ đi sáng mai, anh tin chắc việc học tập của em sẽ được hỗ trợ đầy đủ không chỉ nhờ Círdan và cả anh sẽ giảng dạy giúp em...
C: (Nhìn anh thở phào nhẹ nhõm và cười vui vẻ) Tốt! Tốt! Tốt! Thật may, sách để đọc, thật nhiều.
L (Nắm tay Nàng): Chúng ta sẽ ở đó đến khi có thể rời đi, đến khi có thể phù hợp cho việc rời đi, chỉ cần là việc thích đọc sách học hỏi.

02.Thư Phòng - Phòng Khách - Năm 02

02.1.Cảng Xám
L (anh nói sau khi anh đỡ ôm eo Nàng xuống khỏi lưng ngựa): Lãnh chúa Círdan, thật vui mừng được gặp lại Ngài, nhiều năm trôi qua và hiện tại chúng ta gặp lại nhau.
C: Cảm ơn Ngài đã đón tiếp chúng ta, ngài thật tốt bụng và nhân hậu, tôi rất vui mừng khi gặp lại ngài.
Círdan: Những người bạn của tôi, đã nhiều năm trôi qua kể từ khi Nàng Cirincendil ra khơi đến Númenor cùng Tindómiel trở thành Nữ Quan rồi trở về lại đây với chúng ta và kể cả anh Lãnh Chúa Nhà Hoa Vàng của Gondolin đã trở về từ Númenor trở về cùng Nàng ấy sau khi đã được gửi bởi các Valar, thật vui khi gặp lại các bạn; (giọng điệu anh ấy to rõ hào phóng hào sảng); nhưng hãy cho tôi biết, ban phước của các Valar, tôi thật vinh dự thế nào với chuyến thăm của các bạn cũ đây?
L: Tôi đã đến với hy vọng, Ngài Círdan, để giúp Nàng học hỏi thêm với sự hỗ trợ của tôi khi ở thư viện của Ngài trong một mùa.
C: Vâng! Tôi muốn tìm kiếm sự khôn ngoan qua thư viện sách của anh, sự khôn ngoan từ chồng tôi khi anh ấy kèm cặp cho tôi, sự khôn ngoan kể cả từ anh.
Círdan: Nàng thích được đọc sách?
C: Vâng! Tôi đã đọc rất nhiều và nghe anh ấy dạy.
Círdan: Nàng có thích học hỏi chứ?
C: Vâng! Tôi tìm kiếm học hỏi rất nhiều.
Círdan (nụ cười ấm áp trên mặt anh): Vậy! Nàng và anh ấy được chào đón ở lại nhất! Cirincendil.
L: Cảm ơn Ngài đã chào đón chúng ta.
C: Cảm ơn anh đã tốt với chúng ta.
Círdan: Tôi rất vui được đón tiếp hai người.

02.2.Bữa ăn
[Lễ nghi diễn ra: Círdan đã đi trước, nói về chức vụ công việc Nữ Quan của Nàng, nói về chức vụ Lãnh Chúa Nhà Hoa Vàng của Laurefindil, nói về sự hy sinh lòng tốt hào phóng và những việc họ đã cống hiến cho Gondolin và Númenor, cách bảo vệ che chở và giám hộ chăm sóc mọi người ở Hòn Đảo xa xôi kia, Laurefindil là người hộ tống Nàng theo lễ nghi nắm lấy tay Nàng, anh ấy nắm chặt chúng giữa ngón cái và hai bên ngón trỏ, kiểu bàn tay hai người không chạm nhau dù đứng cạnh nhau; lễ nghi trang trọng này không chỉ vì những lòng tốt nhân hậu mà hai người họ đã làm, là viên ngọc quý tỏa sáng rực rỡ như Ngôi Sao buổi Sáng, đôi mắt anh ấy dịu dàng mãnh liệt nhìn Nàng, Nàng ấy đẹp hơn bất kỳ ngôn ngữ nào trong lời anh diễn tả và sáng hơn bất kỳ viên ngọc nào trên trái đất hay thiên đường Ngôi Sao May Mắn.]
Gil - Galad: Đức vua tối cao của Noldor - biết rõ Nàng Cirincendil đến học - anh nghĩ nên học khiêu vũ, âm nhạc, dệt vải, cưỡi ngựa, bắn cung, kỹ năng vũ khí, y học, chữa bệnh và vui vẻ nhìn cả hai cười.
Thranduil: Vua Tiên của Eryn Galen - biết rõ về Nàng khi anh còn nhỏ ở Thời Đại Đầu Tiên và Nàng ấy nên học hỏi về thảo dược chữa bệnh như bản năng căn bản kể cả khi sau này Nàng ấy có quên ai, anh ấy sẽ vượt Ered Luin để tạo ra vương quốc - anh nghiêm túc nhưng khá hài lòng chào đón cả hai.
Galadriel: Con gái Finarfin Đức Vua Tối Cao Noldor ở Aman/ Valinor - quan sát Nàng và thấy Nàng vẫn như ngày nhỏ như ngày xưa với mái tóc pha lẫn Vàng ánh nắng và Bạc ánh sao - mỉm cười nhìn hai người và mừng vì Nàng trở lại sau khi đã đi dọc Đông Tây nơi xa xôi vì họ là chị em thân nhất.
Celeborn: Lãnh Chúa- chồng rtanis - Laurefindil sẽ phải dạy Nàng cưỡi ngựa căn bản và vũ khí căn bản Tiên tộc luôn phải học tự vệ rèn luyện mỗi ngày và học văn ôn võ luyện buộc phải chăm sóc bản thân.
Laurefindil: Lãnh Chúa Nhà Hoa Vàng - anh ấy nhận ra tình yêu biển cả không có trong tất cả Người Tiên nhưng nổi nhớ da diết về những người họ yêu thương thì có ở đấy sẵn - khu rừng sẽ cho họ sự vững chãi chắc chắn khi trưởng thành kiên định.
Cirincendil: Nữ Quan Númenor - nắm tay anh xoa dịu nổi đau buồn thất vọng về những gì anh trải qua và dù mệt mỏi vì năm tháng dài nhưng anh ấy vẫn ngay thẳng chính trực hết lòng hết dạ với những người bạn những người yêu thương anh thề sẽ bảo vệ - Nàng chạm tay anh một cách nhẹ nhàng anh nhìn Nàng nở nụ cười với ánh mắt dịu dàng.

02.3.Bói Runes Cirth
L: Chữ Runes sắp xếp thế này có phần lạ hơn em đã biết, nhưng em vẫn tìm kiếm ra được thông điệp và hiểu được những chỉ dẫn, thật thông minh với việc đủ quyển sách em cần.
C: Laurefindil, Clara nhà Gil - Galad uhm có những điều đã được định trên những Vì Sao và Nàng ấy với số phận của mình đã học hỏi lựa chọn của bản thân, như là những việc đã định sẵn bởi số phận và định mệnh có thể thay đổi trên những vì sao của bầu trời.

02.4.Bói Ngắm Sao
L: Đây là Hoa Tindómiel, hoa này cất giữ trong nhiều ngày mà không héo tàn đi, mặc dù chúng tươi lâu hơn khi để trong lọ nước, xinh xắn đáng yêu lấp lánh ánh bạc khi bầu trời đêm buông xuống, với ánh trăng và ánh sao tỏa sáng trên đóa hoa lấp lánh đầy hương thơm ngọt ngào với vẻ đẹp tỏa sáng trong ánh sao phát ánh sáng màu bạc dưới trăng.
C: Nó thật ngọt ngào (họ đi dưới bầu trời sao trên ngọn đồi rải đầy hoa, sườn cát rơi xuống dãi cát trắng được phủ lên con sóng nhẹ nhàng lấp lánh dưới ánh trăng sáng, cảm giác cát trắng dưới chân, cảm nhận sóng biển lấp lánh phủ ẩm ướt dưới chân trần, cảm giác mùi hương gió biển trên tóc, cả vùng đất họ đi qua tràn ngập mùi hương thơm ngát, anh ấy nhẹ nhàng xoa tóc Nàng rồi cài lên tóc Nàng bông hoa lấp lánh màu bạc, màu Ánh Trăng trên tóc Nàng, đôi mắt buồn xa xăm phản chiếu mơ màng của trăng tròn nhưng sáng rỡ lấp lánh của ánh sao) Cảm ơn anh, Laurefindil.

02.5.Bói Ánh Trăng
L: Cirincendil em không thể bảo vệ họ với những sự lựa chọn họ đưa ra một mình họ, cả Artanis cũng không thể quyết định thay sự lựa chọn đó nếu họ buộc phải xa nhau để có lựa chọn tốt nhất vì chúng ta không thể lựa chọn làm điều đó thay họ, như vậy hãy để họ.
C: Em hiểu! Luôn tập trung, nhưng lựa chọn tốt nhất này là con đường của riêng anh ấy và Nàng ấy là một số phận lớn lao dành cho những người phi thường nhưng em biết em chỉ có thể giúp họ, ở việc để họ có sự hiểu biết sâu sắc về những con đường họ đang đi và tốt nhất cho anh ấy lẫn người anh ấy quan tâm là Nàng ấy, anh ấy và Nàng ấy sẽ khó quyết định vội vàng phạm sai lầm trái ý muốn với số phận hay ý muốn riêng bởi vì có một tiếng gọi nội tại thôi thúc lớn hơn những nổi sợ hay ý muốn riêng của họ.

03.Thư phòng với Sofa - Kệ Sách - Năm 03

03.1.Ngọc Trai Trắng
L: Giống như những Viên Ngọc Trai Trắng, em nghĩ mình ít khôn ngoan nhiều thiếu sót không đáng kể như bây giờ, ngay cả bây giờ em vẫn khôn ngoan tốt bụng và đáng yêu dễ mến khi luôn giữ được sự tử tế lịch sự điềm nhiên nhưng em vẫn có thể học vũ khí để giữ an toàn căn bản cho chính mình, lòng tốt của em định sẵn cho tương lai tuyệt vời và số phận vĩ đại trước mắt, anh cảm nhận được.
C (Hai người đi dạo Biển ngắm cảnh đẹp của Vùng Đất Âm Nhạc Lindon và muốn xây Ngôi Nhà Hạnh Phúc ven Biển ở Thành Phố Biển): Cảm ơn anh, Laurefindil, đây là những lời tử tế đối với em.

03.2.Ngọc Trai Đen
L: Có lẽ con đường của anh sẽ như vậy, dù không thể có ý chí tự do và ràng buộc bởi thế giới này, con đường anh đi khác với những người anh em họ hàng mà anh biết rõ.
C: Với số phận của một Người Tiên hoặc ở những lựa chọn được ban ân cho anh, con đường anh trở thành như các anh trai anh thông tuệ quyền uy sẽ không thể vẹn toàn may mắn khi dành tình cảm cho những người con gái đó, nhưng số phận may mắn tươi vui hơn nếu tự chọn một lựa chọn con đường khác hơn là phụ thuộc suy nghĩ cảm xúc bởi định kiến của bản thân anh hay định kiến của mọi người.

03.3.Phòng Trà và Ngắm Starlight
L (Hai Người bước chậm rãi lên tầng lầu ngắm biển Ngày Hạ Chí ở thị trấn ăn mừng lễ tiệc truyền thống, những nghiên cứu về Vùng Đất và Ngôn Ngữ Quenya ở triều đình theo phong tục truyền thống lễ nghi, những câu chuyện trên thế giới Trung Địa mà không ở bất kỳ thế giới nào tương lai): Trang phục truyền thống của người dân ở Trung Địa, Những Bài Hát Truyền Thống của Gia Đình ở Thế Giới sống vui vẻ và sống hạnh phúc, em có còn nghĩ như vậy không?
C (Nàng ngậm trà trong miệng, ngậm hồi lâu mà mắt Nàng ngạc nhiên mở to, Nàng trầm ngâm suy nghĩ chu đáo sâu sắc, Nàng suy tư mỉm cười dựa má trong lòng ngực của anh khi anh ôm Nàng): Bà dì Anne Phu Nhân Xứ York, bà dì của em ở vùng đất nọ kể với em rằng bạn bè Nàng ấy hay nghĩ Nàng ấy kỳ lạ khi Nàng ấy sống vui vẻ khác biệt một mình với ông Nanor của Dunedain thật kỳ lạ với thời gian cách biệt ở hai thế giới của chúng ta, tuy thế bà dì Anne em gái của bà ngoại em là một người giỏi đáng yêu khôn ngoan tử tế nhân hậu nhất trong số những người thiếu nữ Hoàng Gia thời điểm ấy được công nhận bởi các học giả giáo sư của các trường học và Nàng ấy khiến văn hóa Tiên tộc tồn tại ở thế giới này được công nhận được yêu thích bởi những gia đình thế giới đó vì Nàng ấy có lòng tin đến mức giống dì Lilliandil làm mọi thứ được tin tưởng như lẽ dĩ nhiên; họ rất thích nghe nhiều hơn những câu chuyện kể lịch sử truyền thống từ nhỏ, họ rất thích nhìn thấy những trang phục truyền thống em và anh đang mặc đây nhiều hơn trên vùng đất ở đất nước bà dì chăm sóc dân chúng, và họ mong được biết nhiều hơn về ngôn ngữ truyền thống tại Valinor và Númenor hoàng gia; và đúng vậy em đã tạo nên một khu vực trường học trao đổi nghiên cứu học thuật truyền thông khoa học nhân văn xã hội, nơi nhuộm màu dệt vải chuyên may những trang phục truyền thống Tiên tộc, nhóm trao đối ngôn ngữ truyền thống Tiên Tộc và rèn luyện giao tiếp ngôn ngữ; em chỉ thấy đó là hiện thực hóa ý tưởng từ nhà các dì của em, họ thích may những trang phục mới mặc hàng ngày loại trang phục truyền thống Tiên tộc được may để mặc đón dịp lễ Ngày Hạ Chí và thường ngày làm nên những cái váy thanh lịch duyên dáng trong vóc dáng xinh đẹp như một công chúa tiểu thư quận chúa Hoàng Gia thật sự vui vẻ tinh nghịch dễ mến, và họ thường sẽ luôn đặt tên con theo những cái tên của Tiên tộc theo phong tục truyền thống, họ có một mái tóc sẫm màu kết hợp giữa đen ánh nâu xõa ngang đến eo và gợn sóng lăn tăn trên biển.

03.4.Nhật Ký Stardust có mã khóa
L (Hoa Hoàng Lan và Hoa Ngọc Lan, Leilani và Celandine, anh ấy tạo thành bó chùm hoa đưa tặng Nàng): Thanh Mai Trúc Mã, anh sẽ gả đôi song sinh con gái "Leilani và Celandine" của "anh và em" cho "Nhà Vua Con Người và Elves Sindar phóng khoáng."
C (Nàng toát mồ hôi): Em sẽ bảo chúng phải viết Nhật ký cho em để có thể gửi gắm tâm tư cảm nhận suy nghĩ một cách cụ thể chi tiết với những bức tranh minh hoạ phong cảnh và bức tranh ảnh nhà ở, còn với anh thì chắc chắn là hai đứa nhỏ sẽ gửi những lá thư để xin phép anh được kết hôn mất thôi, (anh bật cười ôm lấy eo Nàng trong lòng ngực), nhưng có vẻ như là anh luôn có thể nhận biết được tương lai xảy ra, anh và em sẽ chăm sóc chúng khỏe mạnh vui vẻ với nhiều sự khôn ngoan trí tuệ.

03.5.Hoa Leilani và Hoa Celandine
L: Thời tiết bắt đầu đẹp trời để chúng ta đi đến nhà mới của Artanis và Celeborn, Lothlórien là vùng đất Tiên Tộc thời đại thứ hai, tên Sindarin của anh là Glorfindel và tên Sindarin của em là Inimeitiel.
C: Tên của chúng mình, Laurefindil a Cirincendil, Glorfindel a Inimeitiel; em có thể viết thư cho những người ở Lindon được không, bằng tiếng Quenya hoặc bảng chữ Tengwar với Sindarin với cái tên nào sẽ là chữ ký chúng ta vậy?
L (anh nhíu mày nhìn Nàng, nhưng ánh mắt anh tràn ngập nụ cười, Nàng ấy có những thắc mắc rất độc đáo khác người và suy nghĩ rất lạ kỳ; Nàng chăm chú nhìn vào mắt và gương mặt của anh, anh hắng giọng đỏ tới tận mang tai, mỉm cười): Đừng lo, Cirincendil, anh sẽ chăm sóc em và sẽ nhắc nhở mọi thứ em cần nên nhớ, vùng đất được bao quanh chăm sóc bởi Người Tiên và họ hàng của chúng ta được gắn kết sâu sắc.
C: Em chắc chắn là Lothlórien và Imladris đều là nơi yên bình tuyệt vời và vui vẻ để nghĩ ngơi.
L: Phải! Nhà được xây trên cây, cầu thang uốn lượn tuyệt đẹp trên khu rừng từ sàn rừng, ngôi nhà xây dựng trên các nhánh và bên dưới nhìn xuống là dòng suối trên khu rừng với ánh sáng xuyên qua tán cây.
C (Nàng lúc này nhìn lên chăm chú nhìn anh khi Nàng ngồi trên ngựa trong lòng anh, buổi sáng ở bóng những ngọn núi, ngọn núi trong tối tới mức không thể nhìn thấy bên kia Nàng buộc miệng): Glorfindel, buổi sáng ở những ngọn núi anh vẫn phát ra ánh sáng rực rỡ, buổi chiều khi bóng núi đồ xuống em vẫn thấy anh phát ra ánh sáng rõ hơn.
L (anh bắt đầu cười và không ngừng cười nhìn Nàng, mắt của anh nhảy múa và trêu chọc Nàng, khuôn mặt nghiêm túc): Cirincendil, em biết mà, anh đã qua đời; nhưng từ lâu rồi, không ai nhận xét về ánh sáng của anh, anh đã quên, những Người Tiên thấy ánh sáng Hai Cây cũng phát ra ánh sáng mạnh mẽ hơn và cả ánh sáng trong đôi mắt lấp lánh, đặc biệt là nếu đã mất sống trở lại một thời gian quá dài trước đó, và như em nói trước đây càng vui vẻ càng phát ra ánh sáng, anh được tái sinh với thân thể mới và được trở lại với nhiệm vụ theo dõi chăm sóc Trung Địa từ Thời Đại Thứ Hai như là Nhiệm Vụ Thiêng Liêng, anh đã chiến đấu với Balrog và anh ấy đã cố kéo anh xuống vực sâu trên vách đá khi anh ấy cũng bị đâm kiếm ngã xuống dưới vách, anh ấy kéo tóc thật tuyệt vời anh gần như đã không thể sống, nhưng em lúc ấy xuất hiện ở giấc mơ hiện thực giúp đỡ cho anh, lòng biết ơn của anh khi bảo vệ chăm sóc được tất cả mọi người và cũng được phúc gặp gỡ được em.
C (Nàng dựa vào lòng anh một cách mãn nguyện và hết lòng hết dạ biết ơn cuộc sống): em biết ơn khi biết anh lúc đó dù đã quen với anh trong năm 16 tuổi (1610) dù em đã đau lòng, nhưng mà cũng biết ơn dù quen ngắn ngủi với anh lúc đó, em đã nghĩ tới bản nhạc Ballad tuyệt vời hoành tráng về mái tóc dài gây ra cái chết của anh và cảm giác thật sự gây hại tới anh là mái tóc của anh, (Nàng lảm nhảm), em đã nghĩ mang cho anh buộc tóc của em tặng cho anh, và tưởng tượng ra gương mặt của anh sẽ như thế nào bây giờ, nhưng em nghĩ anh sẽ không buộc tóc đâu, (Nàng mỉm cười), anh chưa có ý định quay về thì em cũng sẽ chưa quay về Imladris được, em lo khi đi một mình, nơi này rất nguy hiểm chỉ là nếu thực tế trong mức cho phép em vẫn ứng phó được.
L (anh ấy cười lớn ôm eo Nàng dựa vào lòng, Nàng vẫn lảm nhảm trò chuyện với anh, anh vuốt mái tóc dài của Nàng ngập mùi hương hoa Hoàng Liên, anh đặt tay lên vai và má Nàng thì thầm vài lời nhẹ nhàng không bắt lên lời khiến giám đau): Anh sẽ hỗ trợ cho em, giúp đỡ em, khi em bận rộn với những quyển sách truyện và nghiên cứu về vương quốc ở thế giới này, anh muốn tặng thêm cho em Nhật Ký được thiết kế đặc biệt bằng bàn tay thủ công tuyệt đẹp dễ chịu, bao giờ em và anh cùng có thể trở về khi nào anh cảm thấy chúng ta sẽ an toàn rời khỏi.

03.6.Thanh Kiếm Sắt Bén và Mũi Tên Bằng Gỗ Hoa Đào
C (Cố gắng cầm cung tên trong tay một cách nghiêm chỉnh nhưng vừa cố gắng để mũi tên vào cung tên thì nó rơi rớt xuống đất): Chậc! Mẹ em làm được, em lại không làm được, ôi thật xấu hổ!
L (Anh nhặt mũi tên lên, đưa cung tên cho Nàng, đặt tay lên tay Nàng và anh ấy đặt tay lên tay của Nàng căng chỉnh mũi tên lên cung tên): Đừng quá lo lắng, Cirincendil, thận! Nào, hít một hơi thật sâu đừng vội vàng mà hãy giữ bản thân ổn định nhắm thẳng mục tiêu, sẵn sàng nào, hãy để mũi tên đi ra. (Âm thanh mũi tên tiến vào gỗ trúng mục tiêu hồng tâm). Làm tốt lắm! Cirincendil.
C (Mỉm cười thật tươi): Em bắn mũi tên vào hồng tâm được, tất cả là nhờ anh giúp đỡ em, để em tự làm một mình thử xem sao đã nhé anh! Một lát nữa, em và anh sẽ đi thuyền nhỏ thiên nga nha, anh dạy em bắn cung tốt quá, em sẽ pha trà lạnh cho anh.

03.7.Tấm Khiên Bảo Vệ và Mùi Hoa Lý
L: Đó có phải là giọt nước mắt trong đôi mắt tuyệt đẹp của em, anh xin lỗi vì điều đau khổ này đã xảy ra, em từng nói anh đi du lịch hoang dã rất thú vị nhưng em có thấy bây giờ rất là nguy hiểm một cách nghiêm trọng (ôm lấy Nàng đang khóc lớn vỗ về lên vai Nàng ấy), em không cần quá xấu hổ khi dành cả đời để lo lắng cho những điều xảy ra với tất cả mọi người hoặc gia đình tất cả chúng ta.
C: Em chưa muốn quay lại Lindon hay Imladris, nếu đó là điều anh muốn thì chúng ta sẽ về nhà, họ sẽ chăm sóc nhau mà em sẽ giữ an toàn cho bản thân và anh đã xoa dịu nổi sợ hãi cho em rất tốt rồi. (Anh ấy ôm vai Nàng kéo Nàng xát vào anh, Nàng cảm thấy anh nhẹ lắc đầu qua tóc dài của anh lắc qua lại dứt khoát hai lần, cảm giác giọt nước mắt của anh lên tóc của Nàng). Những người dân Đất Phong không kịp rời đi đã qua đời, một phần vì những việc độc ác của Sauron và một phần vì chúng ta rời đi, chúng ta buộc phải rời đi nhưng em đã không bảo vệ được họ khiến em và anh cảm thấy rất tệ với sự sụp đổ này một lần nữa. (Nàng khóc nhiều hơn, anh cũng rơi nước mắt nhiều, cả hai ôm an ủi nhau).

03.8.Hoa Ngọc Lan và Hoa Hoàng Lan
Artanis: Em đang vẽ điều gì vậy?
Cirincendil: Một ngôi nhà yên bình ở ven biển mà em thấy trong giấc mơ sau này của chúng em, Glorfindel bây giờ đang thảo luận về Kỹ Thuật Chiến Đấu với những Chiến Binh và Những Người Bảo Vệ Rừng của đội trưởng Haldir, em biết anh ấy đã lo lắng do những chuyện vừa nghe từ khi nhận được tin tức từ những chuyện bìa rừng xa xôi bên kia.
Artanis: Anh ấy sẽ bận rộn trong thời gian dài, và hôm nay anh ấy vẫn sẽ rất bận, cảm ơn em đã dành thời gian với chị cả những ngày này.
Cirincendil: Em phải cảm ơn chị đã dành thời gian cho em, sáng tạo nên một khung cảnh hạnh phúc vui vẻ và trọn vẹn về một gia đình trong bức tranh, thật sự hài lòng vì em đã khóc quá nhiều nước mắt rồi.

03.9.Mặt Trăng ôm Mặt Trời
Artanis: Em đang vẽ mẫu khắc về Mặt Trăng và Mặt Trời đây à? Trông chúng thật duyên dáng! Ý nghĩa của chiếc đây chuyền mẫu khắc này là gì?
Cirincendil: Mặt Trăng ôm Mặt Trời! Câu chuyện cảm hứng về một vị hoàng hậu trong đóa hoa Xanh Nhạt Bạc dưới Ánh Sao Bạc, Nàng ấy là một Mặt Trăng Màu Bạc, nhà vua của Nàng ấy là người mang sức sống ánh sáng Mặt Trời rực rỡ đứng đầu một nơi được che chở về Ánh Trăng Sao Bạc, cặp đôi ấy đẹp đôi và em vẽ vì muốn kỷ niệm tôn vinh họ.
Artanis: Chị nhất định sẽ khắc hai mẫu gửi tới Imladris của Elrond và Lothlórien, cùng hai quyển Nhật Ký được sao chép của em, chúng rất phù hợp để đạt được phong tục lễ nghi phù hợp.
Cirincendil: Vậy được! Hay! Tốt thật rồi!!!!

03.10.Ánh Trăng và Ánh Sáng Sao
Artanis: Cirincendil! Em đã và đang chạy cho tới khi kiệt sức, ôi Eru em chạy cả một giờ đồng hồ và là con người điên rồ nhất chị có đặc quyền được biết, em chạy hết cả sức mình với những gì đã làm vậy.
Cirincendil (Nàng để mái tóc tung bay, Nàng ấy từ mơ màng chuyển sang động tác chạy với tất cả sức lực tự do theo nhịp của chân, Nàng ấy chạy cả ngày trên mặt đất cả ngày nhịp nhàng thật nhanh đến khi hết hơi gục xuống đất thở hổn hển): Tốt!
L: Em cần lấy lại hơi thở của mình.
C: Vâng! Và đúng vậy anh ạ!
L: Chúng ta sẽ có một buổi lễ đặc biệt, kỷ niệm sinh nhật mùa xuân em đã được hình thành trong bụng mẹ rồi xuất hiện trên đời, quên cả sinh nhật mình sao, Cirincendil?
C: Thật là bữa tiệc lớn cho cả một đời rất dài.
L: Phước lành từ hôm đó, mỗi năm và mỗi ngày, đều ăn mừng sự xuất hiện của em.
C: Việc anh mất thời gian cả một ngày, là đây, (Artanis cười với ánh mắt trêu chọc Nàng ấy), thì ra Artanis nói với em là như vậy Laurefindil.
L: Athelas Thảo Dược của Beleriand phát triển mạnh và không còn khi Beleriand chìm, nhờ ân huệ của Valar, chúng được có trở lại hỗ trợ hút hơi thở đen, chúng chữa trị những vết thương nhiễm trùng hay nhiễm độc từ làn khói đen độc từ Angband.

04.Phòng Khách - Kệ Sách & Đèn - Năm 04

04.1.Trái ngược ở Númenor
Vào mùa xuân, họ quay về Lindon, Vùng Đất Âm Nhạc tràn ngập không gian âm thanh đầy nhạc từ những con sóng xô vỗ bờ biển vui vẻ yên bình; vương quốc không bị ảnh hưởng bởi cơn bão tuyết mùa đông, rìa vương quốc được Người Tiên Khu Rừng bảo vệ nơi chốn, Người Tiên Bến Cảng cảm nhận biển vỗ sóng tươi tắn tuyết rơi mùa đông (Q1-18), Nàng cảm thấy lạnh nhưng vui vẻ nằm xuống nền tuyết "Nằm xuống với em đi, Glorfindel" và anh ấy thở dài kịch tính rồi nằm theo lời Nàng nói mà nằm xuống trong tuyết rơi di chuyển trong tuyết rơi vẫy hai tay hai chân, cả hai người họ cười một cách thật tình thật dạ một cách sảng khoải vui vẻ phấn khởi tuyệt vời ngọt ngào.

04.2.Những Người Trung Thành
C: Em pha Sô Cô La Nóng cho anh đây nè, em nghĩ là chúng ta hãy uống đi anh ạ, để khỏe trở lại.
L: Em vẫn còn tuổi trẻ nhiều năm rất dài, em sẽ được phép trở về trước đó nhưng bây giờ thì chưa phải được và nếu tới sẽ là con chúng ta, anh dự định để em có thể tận hưởng nhiều kỷ niệm đẹp mang theo bên mình.
C (cười lớn): Em nhớ, khi anh hứa hẹn khoảnh khắc đáng nhớ, anh ấy bảo chúng ta gần như phá tung đốt cháy vương quốc của anh chị ấy.
L (cười lớn hơn): Không quá kịch tính, anh hứa với em, đảm bảo là không xảy ra nữa.

04.3.Lương Thực ở Vùng Đất Mới
"Đó là nơi đẹp nhất trong số những nơi người Tiên chúng tôi cư ngụ. Không ở đâu cây cối giống như ở đó. Bởi vào mùa thu , lá cây không rụng mà chuyển màu vàng kim. Cho đến khi mùa xuân đến cùng với màu xanh tươi mới, chúng mới chịu rụng xuống, và những cành cây lại mọc trĩu đầy hoa vàng ; khi ấy sàn rừng toàn một màu vàng còn mái rừng bên trên cũng tương phản một màu như vậy, những cột rừng thì lại ánh bạc , bởi vỏ cây đều mịn và xám."- Trích lời của Legolas miêu tả về Lothlorien trong tiểu thuyết Hội Bảo vệ Nhẫn.Lothlorien là một khu rừng và cũng là một trong những nơi cư ngụ của người Elves tại Trung Địa.Nơi này được cư ngụ đầu tiên bởi những người Elves Nandorin và sau này được thừa hưởng cũng như gây dựng thêm bởi 2 vợ chồng lãnh chúa Celeborn và nữ hoàng Galadriel.Có 2 nơi tại chốn Arda được gọi là Lorien và cả 2 đều là những chốn vô cùng tuyệt đẹp. Nơi đầu tiên là những khu vườn của nữ thần Valar Irmo tại thiên quốc Valinor. Và nơi thứ hai chính là Lothlorien,nơi mà Đoàn hộ nhẫn đã ghé qua và gặp gỡ nữ hoàng Galadriel.Dưới phép thuật của Galadriel, hay chính xác hơn là dưới sức mạnh của chiếc nhẫn Nenya, Lothlorien ngày càng trở thành một vùng đất tươi đẹp và dưới những tán rừng đẹp đẽ là những phép thuật kỳ diệu có tác dụng ngăn chặn những thế lực ma quỷ. Những phép thuật của Lothlorien chỉ mất tác dụng một khi chính Chúa tể bóng tối Sauron đích thân đến đây cùng với Chiếc Nhẫn Chủ , bởi chỉ có năng lực của Nhẫn Chủ mới phá được năng lực của nhẫn Nenya.Nếu Frodo tiêu hủy được Nhẫn Chủ thì sức mạnh của nhẫn Nenya cũng biến mất và Lothlorien sẽ mất đi các phép thuật bảo vệ nó. Nhưng điều đó cũng sẽ chẳng quan trọng gì vì bởi một khi Nhẫn Chủ bị tiêu hủy thì đồng nghĩa với việc Chúa tể bóng tối đã bị thất bại và chẳng còn mối đe dọa nào đáng kể lên xứ sở này nữa.Lothlorien được đặt vị cạnh con sông Celebrant, phía Đông Nam là Khazad-dum, đây là nơi duy nhất mà giống cây thần Marlorn có thể mọc được tại Trung Địa. Trái tim của Lothlorien là Caras Galadhon, nơi cư ngụ của 2 vợ chồng lãnh chúa Celeborn.Lothlorien, cũng giống như Vương quốc Đất Rừng tại Rừng Âm U của Vua Thranduil, đều là những vương quốc do người Elves Silvan (Tiên rừng) sáng lập ra từ Thời đại thứ nhất ; lúc đấy , người ta gọi nơi đây là Lindorinand, có nghĩa là Thung lũng của vùng đất yêu ca hát. Cho đến Thời đại thứ 2, vương quốc tiếp tục chào đón sự định cư mới từ nhiều người Elves dòng Sindarin và có một thời gian, nơi đây đã từng được trị vì bởi một lãnh chúa người Sindarin là Amdir. Kể từ đó, người Sindarin làm chủ nhân của vùng đất tươi đẹp này cho đến khi Amroth, lãnh chúa cuối cùng thuộc dòng Sindarin thực hiện hành trình của mình tới Edhellon gần Dol Amroth ở phía Nam Gondor để tìm kiếm nàng Nimdorel, Ngài không trở về vì đã bị mất tích ở giữa lòng biển khơi. Sau thời đại đó, những người Elves tại Lindorinad đã sống một thời gian dài mà không có người trị vì cho đến khi Galadriel và chồng của bà là Celeborn du hành tới đây từ Eregion. Không chỉ đến mà họ còn mang cho những người ở Lindorinad một món quà vô cùng đặc biệt đó là những hạt giống của giống cây thần Marloon do đích thân Đại đế Gil-galad ban tặng cho 2 vợ chồng họ trước kia.Marloon là một giống cây thần với những chiếc lá như vàng và thân cây như bạc. Sở dĩ Gil-galad ban tặng những hạt giống cây thần cho 2 vợ chồng Galadriel bởi tại vương quốc của Ngài, chúng không thể sống được. Tuy nhiên, những cây Marloon lại sinh sôi nảy nở rất tốt tại Lindorinand cho đến khi chúng trở thành những khu rừng Marloon to lớn và đẹp đẽ khủ khắp vùng đất này. Lúc đấy, Lindorinand lại được gọi là Laurelindorenan, có nghĩa là Thung Lũng Vàng Hát , hay đơn giản hơn là Lorinand, có nghĩa là Thung Lũng Vàng, và phổ biến nhất là Lothlorien, nghĩa là Lorien Rực nở. Đối với các dân tộc khác, Lothlorien còn hay được gọi đơn giản là Khu Rừng Vàng.Khu Rừng Vàng có mối liên hệ gần nhất là với Rừng Âm U và pháo đài Dol Guldur, chính bởi vậy mà Dol Guldur trong thời gian mà Sauron tung lực lượng đến Minas Tirith cũng đã tung ra những đạo quân ma quỷ của mình để tấn công vào Lothlorien. 3 cuộc tấn công đã diễn ra nhưng đều bị đánh bật ngay ở bìa rừng của vương quốc, Lothlorien đã đứng vững bởi 2 thứ ; kỹ năng chiến đấu của các chiến binh Elves và phép thuật bảo vệ của nữ hoàng Galadriel. Sau khi những cuộc tấn công thất bại, Lorien đã tung những đạo hùng binh của mình tới chính Dol Guldur và đánh sập pháo đài ma quỷ này.Sau khi nữ hoàng Galadriel thực hiện hành trình tới thiên quốc Valinor thì Lothlorien được tiếp tục trị vì bởi lãnh chúa Celeborn, vương quốc tiếp tục mở rộng một phần tới phía Nam Rừng Âm U nhưng theo thời gian, những người Elves tại đây dần dần ra đi để đến với Vùng đất bất tử cho đến khi nó bị bỏ trống hoàn toàn vào Thời đại thứ 4.Trong "Câu chuyện kể về Aragorn và Arwen", Aragorn đã từng nói rằng thời gian ở Lothlorien rất đặc biệt, cái cách mà thời gian luân chuyển ở đây không giống như ở thế giới bên ngoài.Vào một thời gian sau thắng lợi ở Cuộc Nhẫn Chiến, Aragorn, lúc đó đã là vua Aragorn II Elessar đã tìm về thăm Lothlorien và thấy nó gần như đã bị bỏ không.Câu chuyện về Aragorn và Arwen còn nhắc đến một tình tiết; đó là sau khi vua Aragorn qua đời vào năm 120 của thời đại thứ 4, thì 1 năm sau đó, Arwen, vợ của đức vua, đã lui về ẩn thân tại Lothlorien, nơi mà về sau bà đã từ bỏ cuộc sống và được chôn cất tại đây.
POV
C: Em đã mơ về những giấc mơ báo mộng, những giấc mơ sống động như đang thức về Laurefindil, anh ấy tặng cho em một chiếc vòng cổ Bạc Mithril với Ngọc Trai Trắng và Viên Thạch Anh Hồng.
Artanis: Đây hẳn là món quà mang ý nghĩa mục đích tuyệt vời cao cả, những giấc mơ thế này là món quà của Valar Irmo, đó hẳn là sự thật.
C: Thứ lỗi cho ý nghĩ của em trước đây vì có lẽ em phải chạy trốn khỏi, em muốn anh ấy yên ổn không mất mát mà sống một đời lâu dài mãi mãi với một thân phận bất tử của Người Tiên, nên em đã suy nghĩ khủng khiếp rằng sẽ rời đi không còn anh ấy và sống với việc đau khổ một mình tới cuối đời, hoặc nếu kết hôn với anh ấy rồi mà phải rời đi một mình thì sẽ không bao giờ kết hôn với ai ngoài anh ấy.
Artanis (lắng nghe Nàng): Đừng vội! Cirincendil!
Hiện tại: Tiếng Đàn Hạc được Artanis gảy, Cirincendil cất giọng hát bài hát "Ngôi Sao Narnia" rất tuyệt đẹp đầy mê hoặc, bài hát như lời ca của Hoạ Mi đỏ về ngày Thế Giới được làm lại với Kỹ Năng tuyệt vời như Valiër, Laurefindil vừa trở về đã ngẩn người khi Nàng vui vẻ gọi tên anh rồi nhảy   chân sáo thật nhanh tiến tới ôm lấy anh trong niềm vui thuần khiết, ai cũng thấy rõ tình cảm hai người dành cho nhau.

04.4.Tộc Dunedain với Edain
Loài người là một trong những chủng tộc lớn nhất xuất hiện trên thế giới.Họ phát triển và trở thành bá chủ của Trung Địa vào các thời kỳ sau cùng của thế giới.Con người còn có những cái tên khác được đặt cho bởi các chủng tộc khác như là Atani,Hildor,Firimar (người trần) hay Engmar (người nhiễm bệnh). Loài người là chủng tộc thứ 2 được tạo ra bởi thượng đế Eru Illuvatar sau loài Elves.Nếu như người Elves được thức tỉnh trước khi có Mặt Trời và Mặt Trăng thì loài người lại được thức tỉnh cùng lúc với Mặt Trời vào năm thứ nhất của thời đại đầu tiên của thế giới. Do được sinh ra sau người Elves nên Loài người còn được gọi là "những người sinh sau".Loài người là những đứa con thứ 2 của Thượng Đế nên Ngài ban cho họ một món quà đặc biệt và khác với những người Elves.Những người Elves được trao tặng sự bất tử,khả năng miễn nhiễm với bệnh tật và tuổi tác, khi thân xác của họ bị giết chết thì linh hồn của họ vẫn tồn tại song hành cùng thế giới và có cơ hội được tái sinh trong một cơ thể mới. Loài người lại không có những có khả năng như vậy.Món quà của Thượng đế dành cho loài người lại chính là sự Không bất tử . Con người không miễn nhiễm với bệnh tật và tuổi tác,đến một thời điểm nào đó trong cuộc đời,họ sẽ cảm thấy già yếu và chết đi,linh hồn của họ cũng không tồn tại mãi mãi mà sẽ tan biến và siêu thoát. Với món quà là sự Không Bất Tử này,con người sẽ có trong mình ý chí tự do hơn, trách nhiệm ràng buộc với thế giới và thượng đế cũng nhẹ hơn so với người Elves.Một điều nữa mà món quà này mang lại đó là loài người sẽ được tự do quyết định cuộc sống mà họ muốn và vì thế cũng biết cách để trân trọng cuộc sống ngắn ngủi đó hơn. Mặc dù tất cả những con người của Trung Địa cùng chung một gốc gác nhưng theo quá trình thì họ cũng phân ra làm nhiều chủng tộc người với nhiều nền văn hóa khác nhau.Nhóm Người đóng vai trò quan trọng nhất trong thời đại đầu tiên của thế giới là Người Edain.Nhóm người này sống tại Beleriand và cùng với người Elves Noldor sát cánh bên nhau trong cuộc chiến chống lại thế lực của Chúa tể bóng tối Melkor. Một chủng Người khác là Easterl thì lại chiến đấu cho phe Melkor để chống lại những đồng loại của mình. Vì những đóng góp to lớn của người Edain đối với người Elves và các Valar trong Cuộc chiến Thịnh Nộ mà họ được ban thưởng một vùng đất mới cho riêng mình.Vùng đất mới có tên là Numenor,một hòn đảo nằm giữa Trung Địa và Vùng đất bất tử.Vùng đất bình yên này nằm cách xa khỏi những thế lực đen tối tại Trung Địa. Người Edain đến cư ngụ tại vùng đất mới này và lập ra vị vua đầu tiên của mình là Elros (em trai của lãnh chúa Rivendell,Elrond). Đức vua Elros lấy hiệu là Tar-Minyatur và đổi tên gọi của những người Edain thành Dunedain (những Người Phương Tây).Vương quốc Numenor phát triển vô cùng cường thịnh và Dunedain cũng trở thành nhóm Người cao quí và văn minh nhất trong số những nhóm người sống tại Arda.Numenor trong một thời gian dài đã liên minh với tộc Elves để chống lại Sauron,lúc bấy giờ vẫn là một bề tôi dưới quyền của Melkor. Nhưng những Dunedain đến một ngày nảy sinh trong họ một nỗi khao khát đối với sự bất tử.Những con người đầu tiên tại Numenor đã thể hiện sự không hài lòng đối với món quà đặc biệt mà Thượng Đế Illuvatar đã dành riêng cho họ.Họ muốn được bất tử như người Elves để có thể mãi mãi tận hưởng quyền lực và sức mạnh.Những người Numenor đã quay lưng lại với những Valar,họ oán trách Thượng Đế và những người Valar vì đã ngăn cấm họ đến với vùng đất bất tử.Năm 2899 của thời đại thứ 2,Ar-Adunakhor lên ngôi vua và lấy tên hiệu là Adunaic theo ngôn ngữ mới của loài người thay vì dùng ngôn ngữ Quenya của người Elves như trước kia.Hành động này cộng với những mâu thuẫn âm ỉ đã tồn tại lâu dài tại Numenor đã dẫn tới nội chiến trong vương quốc.Những người Numenor bị chia ra làm 2 phe: phe trung thành với Đức vua và phe chống lại Đức vua (những người này được gọi là Những Người Trung Trành,nhưng là trung thành với tình bạn đối với người Elves và các Valar) .Phe trung thành với Đức vua chiếm số đông và nắm quyền kiểm soát vương quốc Numenor.Vào triều đại của Đức vua Ar-Pharazon,trong hội đồng cấp cao của vương quốc bỗng có sự hiện diện của Sauron.Sauron,một bề tôi của chúa tể bóng tối Melkor,sau khi bị đánh bại bởi liên minh Numenor và Elves,đã trốn tránh và tìm cách đầu hàng Đức vua của Numenor để thực hiện mưu đồ đen tối của hắn. Trong thời gian tại Numenor,Sauron đã bắt thóp được điểm yếu của những con người tại đây ,đó chính là nỗi thèm muốn được trở nên bất tử.Sauron tiến hành xúi giục Đức Vua Numenor mang quân chống lại những Valar để đoạt lấy sự bất tử.Mê muội bởi những lời hứa hẹn về sự bất tử từ miệng Sauron,Đức vua Numenor đã thực hiện theo những điều mà hắn ta xúi giục.Kết quả,Numenor đã phải hứng chịu sự trừng phạt từ những Valar bởi sự phạm thượng này.Vùng đất Numenor bị nhấn chìm xuống lòng Đại dương,những Valar đã không ngần ngại mà xóa xổ hẳn vương quốc hùng mạnh nhất của loài người .Những người duy nhất chạy thoát được khỏi biến cố này là những người thuộc phe chống lại Đức Vua trước kia,họ di tản về Trung Địa và thành lập ra 2 vương quốc lớn ở đó là Gondor và Arnor. Trong thời kỳ mà đế chế Numenor phát triển cực thịnh,họ đã bắt đầu mở rộng và thành lập ra một số thuộc địa ở Trung Địa.Trong thời kỳ thứ 2 của thế giới,sau khi vùng đất Numenor bị đánh chìm thì những người dân tại các thuộc địa đã tuyên bố tự chủ và họ được gọi là những người Numenor Đen.Tại Trung Địa,phần lớn những Numenor đen đều cư ngụ tại Umbar,họ tiếp tục duy trì cuộc chiến với những người DuneDane của Gondor.Một số cá nhân đặc biệt trong họ về sau trở thành Ma Nhẫn phục vụ dưới quyền điều khiển của Sauron.Umbar bị chinh phục bởi Gondor vào năm 933 của thời đại thứ 3. Về phía Đông của Umbar tồn tại một nhóm người khác sinh sống là Haradrim.Họ là những người có nước da ngăm đen,tính cách hiếu chiến và có khả năng thuần hóa những con voi Mumakil khổng lồ.Haradrim cũng chống đối lại vương quốc Gondor của những người DuneDane.Những cướp biển Corsair lại là một nhóm người khác sống tại những vùng cảng của Umbar.Họ là những bậc thầy về biển cả và thuyền bè.Trong cuộc chiến của Sauron với Gondor,những cướp biển Corsair tham gia với tư cách như những lính đánh thuê.Một nhánh khác nữa cũng đối đầu lại với Gondor là Variag,họ có xuất xứ từ vùng phía Nam của Rhun và là những kỵ sĩ điêu luyện.Họ có nước da nâu và cơ thể to lớn.Hầu hết những người phương Đông đều đứng về phe của những chúa tể bóng tối là Melkor và Sauron.Một số ít trong họ phục vụ cho những vương quốc Elves tại Beleriand,trong đó có Ulfang, người cùng với gia tộc về sau đã phản bội lại giống loài trong trận chiến lớn Arnoediad.Sau thất bại của Sauron trong cuộc chiến chống lại Liên minh cuối cùng của Người và Elves ở cuối thời đại thứ 2,những người Easterl là những người đầu tiên mang quân tấn công vương quốc Gondor.Lần đầu tiên họ bị đánh bại bởi Vua Romendacil I vào năm 492 của thời đại thứ 3. 50 năm sau,họ lại tiếp tục lần chinh phạt thứ 2, lần này họ giết được vua Romendacil I nhưng cũng không thu được gì nhiều.Trong suốt một thời gian dài,những người Easterl đã trở thành một nỗi đe dọa thường trực đối với vương quốc Gondor.Những Người phương Bắc cũng bao gồm 2 nhóm chính.Nhóm đầu tiên là những con người thiểu số đã vượt qua Dãy Núi Lam và Dãy Núi Sương Mù.Sau Cuộc chiến Thịnh Nộ,những người Edain không muốn tới Numenor đã gia nhập thêm vào nhóm này.Nhóm thứ 2 là những người sinh sống gần vùng Rừng Âm U và một số vùng rộng lớn khác của Rhovanion.Những người này có mối quan hệ tốt với những người Dunedain.Những người của Vương quốc Thung Lũng Dale,những người tại Esgaroth hay những người Eotheod mà về sau phát triển thành dân tộc Rohirim (xứ Rohan) đều được coi là những người phương Bắc. Dunlend là một nhóm người hoang dã sống tại những vùng rừng lớn của Eriador.Khi những người Dunedain đến Eriador vào thời đại thứ 2, họ đã đốn chặt hầu hết những vùng rừng lớn tại đây và gây ra mâu thuẫn với những người Dunlend.Những người hoang dã này về sau trở thành kẻ thù của vương quốc Rohan,họ phục vụ cho Saruman trong cuộc Thời kỳ Nhẫn Chiến. Có một nhóm người khác sống tại khu rừng Druadan, họ chỉ là một thiểu số và được gọi là dân tộc Druedain.Những người Druedain có nước da đen.Trong thời đại thứ 3 của thế giới,họ đứng về phía của liên minh Trung Địa và đã có những đóng góp trong Cuộc Nhẫn Chiến.
POV: Laurefindil, anh ấy tặng Cirincendil chiếc vòng cổ bạc lấp lánh như Ánh Trăng và ở giữa là Ngọc Trai Trắng dịu dàng như Ánh Sao màu bạc, anh ấy trượt tay quanh cổ Nàng dưới tóc của Nàng để chốt dây lại; đôi mắt anh dịu dàng nhìn Nàng, ánh mắt có sự ngưỡng mộ yêu thương sâu sắc, anh đeo cho Nàng rồi vuốt gương mặt Nàng với tình yêu sâu sắc; trước khi anh tan vỡ và Nàng trở nên đau lòng, anh ấy bày tỏ tình cảm với Nàng vì "Trí tuệ, Nhân hậu tử tế, Chân thực" và anh ấy gọi Nàng là Luna Ánh Trăng Sáng.

04.5.Song Sinh Paredhil
Elros và Elrond sinh sống tại cảng Sirion trong những ngày đen tối nhất của kỷ đệ nhất, khi thế lực của Morgoth kiểm soát hầu hết Beleriand, khi đó cặp sinh đôi chỉ mới sáu tuổi. Những con trai của Feanor vì lời thề năm xưa, tấn công cảng Sirion trong cuộc thảm sát nội tộc lần thứ ba khi họ muốn đoạt lại viên Silmaril trên Nauglamir đang được Eärendil nắm giữ.Maedhros và Maglor, hai người con trai duy nhất không phục tùng Lời thề của Feanor, đã tha cho cặp sinh đôi và nuôi dưỡng họ như con mình trong một thời gian. Sau đó các Elves khác đã tìm thấy họ trong lúc họ đang chơi đùa ở thác nước trong rừng dưới ánh sao, họ đặt tên cho ông là Elros và bảo hộ cặp sinh đôi đến hết kỷ đệ nhất.Sau khi kết thúc cuộc chiến thịnh nộ và sự tàn phá của Beleriand, các Valar đã cho phép cặp sinh đôi Peredhil (Half-Elf) quyền chọn số phận và chủng tộc của họ. Elros đã chọn số phận của loài người, nhưng dù vậy, ông có được cuộc sống lâu dài hơn bất kỳ con người nào.Trong những năm đầu của kỷ đệ nhị, các Valar ban cho người Edain hòn đảo phía Tây biển lớn như một món quà cho sự chống lại Morgoth. Lúc đó, như một người lãnh đạo của người Edain, Elros đã dẫn người dân của mình vượt biển, với sự hướng dẫn của Ngôi sao của Eärendil, cha mình, ông đã vượt biển tới  hòn đảo được các Valar ban cho người Edain. Hòn đảo này có tên Elenna, có nghĩa là "Ngôi sao bảo hộ", và nó nằm gần Aman hơn với Trung-Địa. Các Valar cũng đã cho Edain một cuộc sống lâu dài hơn bất kỳ tộc người nào. Elros và con cháu ông sống lâu dài nhất trong tất cả tộc Edain.Elros lập nên vương quốc Númenor, đổi tên tộc Edain thành Dunedain, và trở thành vị vua đầu tiên vào năm 32 kỷ đệ nhị. Ông lấy tên hoàng gia trong tiếng Quenya là Tar-Minyatur, do đó Quenya trở thành ngôn ngữ hoàng gia trên đảo, mặc dù ngôn ngữ chung là Adûnaic (ngôn ngữ người phương Tây). Ông mang theo Chiếc nhẫn của Barahir, cây rìu của Tuor, Cung của Bregor và thanh kiếm Aranrúth  của vua Thingol làm vật gia truyền trong gia tộc.Ông cho xây dựng tháp hoàng gia tại Armenelos và trong suốt thời gian trị vì, vương quốc luôn nhận được nhiều món quà từ Elves của Tol Eressëa, như hoa từ khu vườn của Yavanna và hạt giống từ Celeborn. Đây là sự khởi đầu của tình hữu nghị lâu dài giữa Númenóreans và Elves phương Tậy.Elros Tar-Minyatur có bốn người con: ba con trai , Vardamir Nólimon, Manwendil, và Atanalcar; và một con gái là Tindómiel. Sau khi sống năm thế kỷ, cai trị Númenor trong 410 năm, Tar-Minyatur đã chết và con trai ông, Vardamir Nólimon, lên ngôi vua của Númenor, lấy tên hiệu là Tar-Vardamir. Elros sống rất lâu nên Tar-Vardamir đã già, vì thế ông chỉ là vua trên danh nghĩa, ngay lập tức ông giao quyền lại cho con trai ông, Tar-Amandil.Elrond, lãnh chúa của Rivendell, là 1 trong những người trị vì vĩ đại nhất xuất hiện từ thời đại đầu tiên cho đến tận thời đại thứ 3 của thế giới.
Elrond được miêu tả qua trong The Hobbit như sau " Ông có sự quí phái và đẹp đẽ của một tiên chúa,mạnh mẽ như một chiến binh,khôn ngoan như 1 phù thủy,đáng kính như một vị vua của những người lùn và có tấm lòng nhân hậu,ấm áp như mùa hạ".
Cha mẹ của Elrond là những người rất nổi tiếng và có vai trò quan trọng vào cuối thời đại thứ nhất. Họ chính là Earendil và Elwing. Elrond được sinh ra ở vùng Sirion tại Belerian vào năm 532 của thời đại thứ nhất. Ông sinh sống ở đây cùng với cha mẹ và người em sinh đôi của mình là Eros cho tới khi họ bị trục xuất bởi những đứa con của Feanor. Elrond và Eros đã bị 2 người con của Feanor là Maedhros và Maglor bắt giữ và nuôi dưỡng. Theo thời gian, cảm tình của Maglor dành cho 2 đứa trẻ ngày càng lớn, ông rất yêu quí 2 anh em và có sự gắn bó với họ trong một thời gian dài. Về sau khi Maedhros và Maglor đều gặp những vấn đề liên quan tới Silmaril thì cả 2 anh em Elrond đã được tự do chuyển đến Lindon.Sau Cuộc chiến thịnh nộ, Manwe, chúa tể Valar quyết định cho những người Elves còn lại được quyền quyết định giữa 2 sự lựa chọn :  về với thiên giới Aman hoặc ở lại với thế giới Trung Địa. Quyết định này có thể được trì hoãn nhưng khi đã quyết định thì không thể rút lại. Ngoài ra thì đối với những người có trong mình 2 dòng máu của cả Người lẫn Elves thì sẽ phải lựa chọn để trở thành duy nhất một trong 2 chủng loài này. Elrond cũng là một Elf lai và ông đã chọn làm một người Elf còn em trai của ông lại chọn làm Người. Elrond sẽ về với Thiên giới còn em trai ông thì ở lại để làm đức vua đầu tiên của người Numenor.Những năm tháng sau đó, Elrond phiêu bạt tới Lindon và nương tựa dưới sự che chở của Gil-galad, Tiên chúa tối cao dòng Noldor hùng mạnh ở cả Trung Địa lẫn lục địa phương Tây Aman (đoạn đầu của phần 1 bộ phim LOTR : The Fellowship of the Ring ,Gil-galad cũng có xuất hiện trong một cảnh nhỏ ở đoạn kể về trận đánh giữa Liên minh cuối cùng giữa Elves và Người với lực lượng Sauron, ông là người có mái tóc dài,cầm 1 chiếc giáo dài và đang thực hiện cú đâm kết liễu 1 chiến binh Orc).Đây cũng là thời điểm mà Elrond đưa ra quyết định sẽ về với thiên giới của những người Valar còn em trai của ông là Eros lại chọn con đường ở lại Trung Địa và trở thành đức vua đầu tiên của Numenor. Tuy vậy thì Elrond chưa thực hiện chuyến hành trình của mình về với thiên giới ngay. Vì một số lí do gì đó mà ông vẫn ở lại Trung Địa.Vào thời đại thứ 2 của thế giới, Elront được Gil-galad phái tới Eregion để cứu nguy cho vương quốc này nhưng thất bại. Sau sự hủy diệt của Eregion, Elrond lại phiêu bạt tới xứ Eriador, và tại đây, ông cùng với những tùy tùng đã cùng nhau lập nên một vương quốc nhỏ trong lòng thung lũng và đặt tên nó là Rivendell. Cho đến cuối thời đại thứ 3 thì Rivendell trở thành một trong những pháo đài cuối cùng còn lại dám công khai chống đối lại thế lực của Sauron. Cùng thời điểm này, Đức vua Gil-galad có trao tặng cho Elrond chiếc nhẫn Vilya, 1 trong 3 chiếc nhẫn sức mạnh của người Elves nhưng không nói rõ cho lãnh chúa Rivendell biết về nguồn gốc và vai trò của nó.Vào cuối thời đại thứ 2 của thế giới,cuộc chiến lớn nhất của thời đại đã nổ ra giữa 1 bên là liên minh các dân tộc tự do của Trung Địa với 1 bên là các thế lực bóng tối dưới quyền chỉ huy của chúa tể bóng tối Sauron.Liên minh Trung Địa gồm có lực lượng người Elves của Đại đế Gil-galad (trong đó bao gồm cả đội quân Rivendell của Elrond), lực lượng loài người bao gồm các chiến binh từ 2 vương quốc Gondor và Arnor do vua Elendil cùng với con trai Ishidul của ông chỉ huy và về sau còn có cả sự gia nhập của lực lượng Dwarf do Đức vua Durin IV dẫn đầu.Với một lực lượng mạnh như vậy, liên minh Trung Địa đã đánh bại thế lực bóng tối của Sauron mà kết thúc bằng việc Ishidur sử dụng thanh kiếm Narsil để cắt đứt chiếc nhẫn Chủ khỏi tay của Sauron.Khi nhận ra ý đồ sở hữu chiếc nhẫn của Isildur, Elrond đã ngay lập tức chạy đi tìm Gil-galad và ông tìm thấy Đức vua của mình đang hấp hối trên chiến trường. Vào những giây phút cuối của mình thì Gil-galad đã hé lộ cho Elrond biết về bí mật và nguồn gốc của những chiếc Nhẫn cũng như ý thức cho ông về sự thao túng nguy hiểm từ chiếc nhẫn Chủ của Sauron. Sau khi dành sự tiếc thương cho Gil-galad, Elrond ngay lập tức chạy đi tìm Isildur và thuyết phục được ông ta mang chiếc nhẫn Chủ vào lòng ngọn lửa của núi Doom để tiêu hủy.Tuy nhiên, vào giây phút quyết định thì Ishidur đã bị cám lực từ chiếc Nhẫn mê hoặc và quyết định không nghe theo lời của Elrond. Elrond tỏ ra thất vọng với quyết định của Ishidur. Ông tuyên bố sẽ không miễn cưỡng để giành lấy chiếc nhẫn từ Ishidur và sẽ để mặc cho con người tự giải quyết vấn đề này.Và từ đó, lãnh chúa Elrond của Rivendell luôn mang trong lòng sự hoài nghi và thiếu lòng tin đối với loài người.Sau chiến thắng trước Sauron, Elrond trở thành 1 trong những Tiên Chúa có quyền lực và địa vị cao nhất ở Trung Địa. Ông trở về Rivendell và kết hôn với Celebrian, con gái của lãnh chúa Celeborn và nữ hoàng Galadriel ở Lothlorien. 20 năm sau, cặp song sinh nam đầu tiên Elladan và Elrohir của cặp đôi Elrond-Celebrian chào đời và sau đó 11 năm Rivendell chào đón sự ra đời của công chúa Arwen Undomiel.Tại đây, ông còn nuôi dậy 1 đứa bé, là con trai của Arathorn và coi nó như con của mình.Trong kế hoạch lấy lại kho báu từ rồng Smaug của Thorin Khiên sồi, Elrond đóng vai trò như là người đã trợ giúp cho nhóm người lùn cùng với Gandalf và Bibbo Baggin thông qua việc tiếp đãi, tặng phẩm, nhận dạng những vũ khí mà nhóm Thorin nhặt được trong hang kho báu của Troll và quan trọng nhất là việc giúp giải mã bức bản đồ cổ của Đức Vua Thror được sử dụng trong đó thứ ngôn ngữ Mặt Trăng.Tháng 10 năm 3018 Thời đại thứ 3, Elrond sử dụng sức mạnh của dòng lũ thần để đẩy lui những Nazgul ,giải cứu cho Frodo Baggin. Ngày 25 cùng tháng, ông triệu tập một hội nghị diễn ra tại Rivendell để bàn về kế hoạch tiêu hủy chiếc nhẫn Chủ.Trong thời gian này, ông cũng đã cho đúc lại lưỡi kiếm Narsil và mang nó tới cho Aragorn. Với lưỡi kiếm này, Aragorn sẽ có thể triệu tập được một đột quân kỳ dị nhất từng xuất hiện trên thế giới tự cổ chí kim. Có thể nói đây là một bước quyết định làm nên chiến thắng cho loài người trong trận chiến Pelennor – trận chiến lớn nhất của thời đại thứ 3 (Trận tử thủ dưới chân thành Minas Tirith). Sau khi chiếc nhẫn Chủ và Sauron bị tiêu diệt, Elrond có tới Minas Tirith để tham gia lễ thành hôn của con gái Arwen với Aragorn. Vào ngày 29 tháng 9 năm 3021, Elrond rời Trung Địa để bắt đầu chuyến hành trình của mình tới thiên giới ở độ tuổi lúc đó là 6,520 với những người tiên khác trong đó có vợ chồng lãnh chúa Celeborn và Galadriel. Một khi tới thiên giới của những Valar, lãnh chúa Elrond sẽ không bao giờ trở lại Trung Địa.Lãnh chúa Elrond là một chiến binh đặc biệt xuất sắc trong các trận chiến khốc liệt. Chính bởi thế mà ông gần như là vị lãnh chúa, chiến binh xuất sắc nhất còn sống cho tới tận thời đại thứ 3 của thế giới. Elrond còn là người có khả năng chỉ huy cực kỳ tài tình và luôn có những quyết định vô cùng sáng suốt trong các chiến dịch tham gia. Elrond sinh ra đã có khả năng tiên đoán, khả năng này giúp ông nhìn thấy được những sự việc, sự vật xảy ra ở ngay cả bên ngoài Rivendell hay thậm chí là cả những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai. Khả năng chữa trị phục hồi của lãnh chúa của Rivendell cũng rất thần kỳ từng được thể hiện qua việc ông chữa gần lành những vết thương bị lưỡi kiếm tử thần Mogul đâm phải cho Frodo.Ngoài ra,Elrond còn được biết đến như là một trong những người hoàn toàn không bị cám lực của chiếc nhẫn Chủ mê hoặc bên cạnh Galadriel và Gandalf. Aragorn và Faramir cũng thoát được cám lực của chiếc nhẫn nhưng là do mức độ tiếp xúc của họ với nó là không nhiều.
POV: Mặc dù thế, Laurefindil vẫn đáng kính như trái tim anh ấy cho Cirincendil, và nếu Nàng chọn rời khỏi anh sẽ không cay đắng; hoặc nếu anh ấy không được Nàng lựa chọn giữa anh là Người Tiên và một Con Người khác, anh ấy sẽ ít nhiều chấp nhận điều đó và để Nàng ra đi vì hạnh phúc của Nàng, bất chấp nổi đau làm tan vỡ trái tim của anh ấy; với một nụ hôn hứa hôn hơn bất kể điều gì có thể diễn tả trước đây và xinh đẹp như tất cả mọi người công nhận, linh hồn họ khao khát nhau tựa như người chồng và người vợ trên tinh thần tự nguyện tôn trọng yêu thương lẫn nhau một cách sâu sắc.

04.6.Cảng Xám và Númenor
The Valar were the fourteen (fifteen including Melkor) Ainur who entered Arda after its creation to give order to the world and combat the evils of Melkor. They helped to begin the shaping of Arda through the music of Ilúvatar. Each of the Ainur added his or her own part to the music creating the world incarnate. All except Melkor. His vision of what Arda should have been was different than Eru's. This led to the casting out of Melkor and his great rebellion that caused so many of the ills of the world of Arda. The Valar originally dwelt on the hidden Isle of Almaren, but after its destruction, long before the Awakening of the Elves, they moved to Aman and founded Valinor.It was originally Melkor's intention to rule Arda from himself, but Manwë called other spirits to help him confront Melkor. Among these were the other Valar and the Maiar. Melkor withdrew from Arda, and the others continued their creation of the World. But Melkor saw this, and returned to fight for control of Arda. The Valar have no fixed shape, but often take the shapes of Men and Elves, or anything they want, or they can remain invisible. They are not gods, though Men often mistake them as such. They are actually emissaries or regents of Ilúvatar, or Eru, the monotheistic God of the world, who rarely directly intervenes in the world's course of events.
Numenor là một hòn đảo lớn có hình ngôi sao năm cánh được các Valar tạo nên để dành tặng riêng cho những con Người dòng Edain sau khi vùng Beleriand ở Trung Địa bị hủy diệt trong Cuộc Chiến Thịnh Nộ. Phần lớn người Edain đều nhận món quà này từ các Valar, họ dong thuyền từ Trung Địa tới Numenor để định cư tại đây. Kể từ đó, những người Edain sống tại đây đều được gọi là những người Numenor, còn bản thân họ về sau lại tự gọi mình là những người DuneDane. Về vị trí trên bản đồ thì Numenor nằm ở giữa đại lục phía Tây Aman và đại lục phía Đông Arda. Numenor là vương quốc của người DuneDane, với những tư chất và phẩm chất thượng thừa của giống người này cộng thêm với sự trợ giúp từ các Valar và người Elves mà Numenor ngày càng phát triển rực rỡ toàn diện về mọi mặt kinh tế, văn hóa và quân sự. Vào thời kỳ huy hoàng của Numenor thì Con Người trỗi dậy trở thành một chủng tộc vô cùng mạnh mẽ. Họ không chỉ xây dựng và phát triển tại Numenor mà còn dong thuyền trở về Trung Địa nhằm khai phá và khai sáng văn minh cho những con người và các vùng đất tại đó. Thời điểm chiếc thuyền đầu tiên khởi bến đến Trung Địa là vào năm 600 của Thời đại thứ 2.Người Numenor có tuổi thọ rất cao và các vua của họ cũng vậy. Elros, con trai của Earendil, em trai của Elrond, chính là vị vua đầu tiên của vương quốc Numenor, triều đại trị vì của ông kéo dài từ năm thứ 32 cho tới tận năm 442 của Thời đại thứ 2. Dưới các triều đại còn lại, Numenor vươn rộng quyền lực ra khỏi cả lãnh thổ của đảo quốc, họ mở rộng tầm ảnh hưởng của mình tới Trung Địa, từ vùng Cảng Xám cho tới tận các vùng đất xa xôi ở phía Đông Arda. Kết quả là một hệ thống các thuộc địa của Numenor đã hình thành ở Trung Địa, vương quốc của người DuneDane giờ không chỉ giới hạn trong quốc đảo mà đã thực sự trở thành một đế chế khổng lồ. Người Numenor là giống người có tuổi thọ cao nhất trong tất cả các giống Người từng tồn tại ở thế giới. Tuổi thọ của mỗi người họ thường có thể kéo dài từ 500 cho tới 600 năm. Tuy sống lâu đến như vậy nhưng họ vẫn là con Người, mà con Người thì không bất tử như các Valar hay người Elves bởi ngay từ đầu tạo ra Loài Người, Thượng Đế Eru đã ban cho họ một món quà đặc biệt chính là sự Không bất tử. Cũng bởi vậy mà các Valar tuy hết sức thương yêu con người nhưng không cho phép những người Numenor được đi tới Vùng đất bất tử bởi như vậy là làm trái với ý muốn ban đầu của Thượng Đế. Đây còn là hẳn một lệnh cấm mà các Valar đã ban ra dành cho người Numenor.Theo thời gian, quyền lực và nền văn minh tại Numenor ngày càng phát triển rực rỡ, một bộ phận hoàng gia quí tộc tại đây đã phát sinh tư tưởng sợ hãi cái chết, họ muốn được bất tử như người Elves để có thể mãi mãi tận hưởng và phát triển viễn cảnh đầy vinh quang của đế chế. Tham vọng bắt đầu nhen nhúm trong tư tưởng của người Numenor, họ bắt đầu có những sự thay đổi. Ở chính đảo quốc đã bắt đầu có sự chia rẽ thành 2 phe, một phe ủng hộ tham vọng và quan điểm của Đức Vua, trong họ dần xuất hiện cảm giác đố kỵ với người Elves bởi người Elves bất tử và được quyền cho phép tới Vùng đất bất tử,  họ dần chối bỏ mối quan hệ tình bạn lâu năm mà 2 chủng loài đã gây dựng tại Numenor , những người này được gọi là phe Thân Vua ;  Phe còn lại là những người ủng hộ quan điểm của các Valar và vẫn duy trì tình bạn thân thiết với người Elves. Những người này được gọi là Faithful (những người bạn Trung Thành).Mặc dù đích thân các Valar đã đến và giải thích cho người Numenor hiểu rằng cái chết không phải là một điều tồi tệ mà ngược lại nó còn là một món quà đặc biệt mà Thượng đế đã ưu ái dành cho Loài Người. Không có sự bất tử, trách nhiệm bó buộc của Con người với thế giới sẽ giảm đi, con người sẽ biết trân trọng cuộc sống hơn bởi họ có thể chết, tâm trí của con người cũng sẽ được tự do hơn so với người Elves.Tuy nhiên, người Numenor vẫn không cảm thấy hài lòng với lời giải thích của các Valar, ngày càng nhiều người trong số họ ủng hộ quan điểm của phe Thân Vua. Phe Faithful ngày càng lép vế và buộc phải di rời tới Trung Địa. Đứng đầu những người Faithful phải ra đi này là Elendil.Còn ở Trung Địa, sự thay đổi cũng bắt đầu thể hiện khi những người Numenor đến đây không còn mang mục đích khai sáng văn minh tốt đẹp như ban đầu nữa. Họ bắt đầu thiết lập quyền lực tại những vùng thuộc địa và quay sang đô hộ những người dân bản xứ sống tại đó.Vào năm 1600 của Thời đại thứ 2, ở Trung Địa, Chúa tể bóng tối Sauron dưới hình dạng của một vị thần kim hoàn đã lừa dối các thợ rèn ở Tiên Quốc Eregion để tạo ra một bộ những chiếc nhẫn quyền lực và phân chia chúng cho những người đứng đầu của các vương quốc. Sau đó, hắn bí mật luyện ra Chiếc Nhẫn Chủ trong lòng núi Doom để điều khiển những chiếc nhẫn còn lại. Nhiều vua chúa của các vương quốc tự do đã rơi vào tầm ảnh hưởng của Sauron và biến thành tay sai của hắn.Cho đến năm 1693, chiến tranh đã nổ ra giữa Sauron và người Elves, 6 năm sau đó, người Elves ngày càng bị thất thế. Eregion bị tiêu diệt còn Lindon thì đứng trước nguy cơ bị chinh phạt. Diễn biến cuộc chiến ở Trung Địa được Numenor chú ý theo dõi, Đức vua Tar-Minastir của lúc đó, đã gửi một đạo quân tới Trung Địa để giải vây cho Lindon. Liên minh Lindon-Numenor đã đẩy lui và giành lại được quyền kiểm soát khu vực Eriador từ Sauron vào năm 1701. Cuộc chiến giữa 2 phe vẫn tiếp tục diễn ra trong hơn 1000 năm tiếp sau đó. Vào năm 3225 của Thời đại thứ 2, Đức vua đời thứ 25 của Numenor là Ar-Pharazon, đã chỉ huy một đạo quân khổng lồ và vô cùng thiện chiến cập bến Trung Địa. Trước sức mạnh của họ, Sauron buộc phải giả vờ đầu hàng. Đức vua chấp nhận sự đầu hàng của Sauron và áp giải hắn về Numenor. Đầu tiên, khi mới tới Numenor, Sauron đã rất choáng ngợp trước sự hùng vĩ và phát triển của đế chế. Hắn biết là không thể dùng sức mạnh để đánh bại được Numenor. Vậy là hắn bắt đầu chuyển sang sử dụng một cách thức mềm mỏng hơn nhưng lại thâm độc hơn. Trong thời gian ở đây, Sauron bắt đầu gây dựng được thiện cảm và lòng tin của những người thuộc hoàng gia quí tộc Numenor. Hắn nắm được tâm lý thèm khát sự bất tử của những người này và ngày càng gièm pha, kích động họ chống lại những ý chỉ của Valar.Bị đầu độc bởi những lời nói thâm hiểm của Sauron, tầng lớp thân quý tại Numenor ngày càng có những hành động quá đáng, họ công khai bộc lộ sự khó chịu của mình với các Valar cũng như người Elves. Thậm chí, vua Ar-Pharazon còn cho xây một đền thờ lớn để tôn thờ Melkor, Chúa tể bóng tối đầu tiên của thế giới ; Trong khi mà Cây Trắng Nimloth, một món quà từ các Valar thì lại bị đốn hạ và đem đốt để hiến tế cho Melkor. Chính Isildur đã cứu được một quả cây của Nimloth và về sau chính từ hạt của quả cây này mà mọc thành Cây Trắng của Gondor.Đỉnh điểm của những hành động điên rồ là việc cho xây dựng các tháp tọa lạc lớn ở vùng biển phía Tây để có thể quan sát được Thiên giới Aman, tiếp đó, những chiến thuyền, những đạo quân lớn bắt đầu rục rịch chuẩn bị cho một kế hoạch tấn công vào vương quốc Valimar của người Elves Vanya tại rìa biển phía Đông của Aman. Kế hoạch này về sau đã được thực hiện thật. Trước thái độ ngông cuồng của người Numenor, Manwe, vua của các Valar, đã đến xin lời khuyên của Thượng Đế Eru Illuvatar. Ngay sau đó, Thượng đế đã quyết định thay đổi thế giới, Ngài làm cho lãnh thổ của Aman bao gồm đại lục lớn phía Tây và đảo Tol Eressea mãi mãi tách xa khỏi tầm nhìn của Arda. Tiếp đó, những đám mây có hình đại bàng liên tục được gửi tới Numenor như là một dấu hiệu cảnh báo cho những con người sống tại đây. Dấu hiệu của Thượng Đế đã được đưa ra, một tai họa sắp ập đến với đế chế hùng mạnh này. Một số người nhận ra điềm báo này còn một số người thì không, những người nhận ra liền nhanh chóng sơ tán khỏi Numenor. Lúc bấy giờ, ở ngoài biển khơi, đạo hùng binh của vua Ar-Pharazor đã bắt đầu cảm nhận được sự sợ hãi nhưng không còn kịp nữa. Một cơn bão lớn đã tạo nên một vũng nước xoáy khổng lồ nhấn chìm toàn bộ các hạm đội. Cơn bão lớn sau đó tiếp tục hướng tới Numenor, dân chúng Numenor hốt hoảng trước sự trừng phạt của Thượng Đế, họ không còn cơ hội để sửa sai bởi toàn bộ quốc đảo đã bị cơn bão khổng lồ nhấn chìm xuống lòng biển khơi cùng với toàn bộ cư dân đang sống tại đó. Vương quốc mạnh mẽ nhất trong lịch sử Loài Người đã bị diệt vong theo cách như vậy.Một lời tiên tri đã nói rằng trong tương lai về mãi sau này, sau khi kết thúc trận chiến cuối cùng của thế giới là Dagor Dagorath thì Numenor sẽ được hồi sinh bởi suy cho cùng vương quốc này cũng là một nạn nhân của phe bóng tối.Numenor có hình dáng hệt như một ngôi sao năm cánh tọa lạc trên vùng biển ở giữa Thiên giới Aman và đại lục Arda. Mỗi cánh của ngôi sao lại là một vùng đất, thứ tự của chúng như sau
Forostar (vùng đất phía Bắc)
Andustar (vùng đất phía Tây)
Hyarnustar (vùng đất phía Tây Nam)
Hyarrostar (vùng đất phía Đông Nam)
Orrostar (Vùng đất phía Đông)
Và cuối cùng là Mittalmar, vùng đất nằm ở trung tâm của đảo quốc. Tại Mittalmar có một ngọn núi tên là Meneltarma, đây cũng là ngọn núi cao nhất tại Numenor và là một nơi linh thiêng đối với người dân đảo quốc bởi trên đỉnh núi có đặt một đền thờ Thượng Đế Eru Illuvatar. Chỉ có duy nhất các Đức vua người Numenor mới được phép nói chuyện khi ở trên đỉnh núi. Tương truyền rằng, vào một ngày quang đãng, người ta có thể nhìn thấy hòn đảo truyền thuyết Tol Eressea khi đứng quan sát từ trên đỉnh của ngọn núi.Dân số chủ yếu của Numenor được tạo nên từ những người Edain còn sót lại sau Cuộc Chiến Thịnh Nộ. Sau khi định cư tại đây, người Edain đã phát triển giống nòi lên một tầm cao hơn và tự gọi mình là những người DuneDane. Người DuneDane là giống người chủ yếu của vương quốc. Ngoài ra thì vùng đất phía Tây, mà đặc biệt là thành phố Andunie còn xuất hiện một lượng nhỏ dân số những người Elves, họ là những người ghé thăm và định cư tới từ hòn đảo huyền bí Tol Eressea ở vùng biển Tây.Người Numenor là những người cực kỳ xuất chúng trong 2 lĩnh vực nghệ thuật và chế tác. Họ xây dựng nên những công trình, những đô thị vàng cực kỳ hoàng tráng và rực rỡ. Những vũ khí, giáp trụ và khí cụ quân đội tại đây cũng vô cùng đa dạng và tinh xảo, mỗi một thứ đồ bất kỳ được làm ra đều có thể được coi là một bảo vật . Những hoa văn trang trí đẹp đẽ được nhìn thấy ở mọi nơi, mọi vật tại Numenor.Về bản chất, người Numenor vốn không có tính hiếu chiến, họ làm mọi thứ chỉ để nhằm vào những mục đích tốt đẹp. Nghệ thuật chế tạo thuyền đi biển của họ phát triển rất rực rỡ, những người Numenor về sau cũng trở thành những nhà thám hiểm và khai phá vô cùng tài ba, họ được phép dong thuyền đi thám hiểm tất cả các hướng ngoại trừ vùng biển ở xa phía Tây, nơi tọa lạc của Vùng đất bất tử Aman. Những nhà thám hiểm Numenor thường xuyên đi tới Trung Địa , sau khi cập bến, họ giúp đỡ những người bản địa bằng cách truyền dạy lại những kỹ năng phát triển xã hội tiên tiến của mình.Người Numenor còn rất tài giỏi trong nghệ thuật nuôi trồng. Tại Mittalamar, trên những đồng cỏ lớn, có tới hàng ngàn những con ngựa lớn thuộc các dòng giống cao quý nhất được chăn thả. Với đàn ngựa và những vũ khí đa dạng, quân đội Numenor ngày càng trở nên hoàn thiện. Mặc dù không có tính hiếu chiến nhưng kỹ năng chiến đấu của các chiến binh Numenor ở mọi mặt là thiên hạ vô địch nếu chỉ xét trên toàn chốn Arda.Numenor là vùng đất có rất nhiều loại thảo thực vật quý hiếm. Hầu như chúng không thể được tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác tại Arda, một phần lí do là bởi rất nhiều những giống cây ở nơi này là của các Valar dành tặng riêng cho người Numenor. Trong số này phải kể đến giống Cây Trắng được trồng tại Cung điện của Đức vua ở Armenelos, đó cũng chính là biểu tượng của Con Người tại Numenor, Arnor và cả Gondor.Tiếp sau Cây Trắng thì có thể kể đến loại cây Laurinque, những người ở Numenor rất yêu thích hoa của loại cây này. Họ tin rằng những cây Laurinque đều có nguồn gốc từ cây thần Laurelin của Valinor. Chính những loại cây lạ kết hợp với những công trình hùng vĩ đã biến Numenor trở thành một kỳ quan có một không hai trong lịch sử phát triển của Loài Người.
POV: Cirincendil có tự nhủ hàng ngàn lần thì ánh mắt dịu dàng của Nàng không bao giờ nói dối tình yêu từ trong tâm hồn Nàng dành cho anh cả những lời lo lắng gửi gắm hy vọng đến anh và anh cũng càng khó giấu được tâm tư tình cảm gửi gắm đều thể hiện trong suy nghĩ hành động của anh cho Nàng.

04.7.Vùng Đất Gondor
Gondor là vương quốc lớn nhất của Con Người tại Trung Địa, có biên giới giáp với vương quốc Rohan ở phía Bắc,phía Tây giáp với Biển Belegaer,phía Nam giáp với Harad và phía Đông giáp với Mordor.Kinh đô đầu tiên của Gondor là Osgiliath,về sau lại chuyển về Minas Tirith vào năm 1640 của thời đại thứ 3.Minas Tirith là kinh đô của Gondor trong nửa sau của thời đại thứ 3 và trong suốt thời đại thứ 4.Gondor được sáng lập bởi 2 anh em ruột Isildur và Anarion,họ đều là những người tha hương của đế chế Numenor.Gondor là vương quốc đồng minh với Arnor, dòng dõi các vua Arnor về sau chính là dòng dõi của Isildur,còn ở Gondor , dòng dõi các vua lại xuất phát từ Anarion.Gondor sớm ở đỉnh cao huy hoàng trong thời gian đầu của thời đại thứ 3 nhưng trải qua nhiều những cuộc xâm lược bởi các đồng minh của Chúa tể bóng tối Sauron,vương quốc đã dần dần bị suy yếu.Gondor chỉ được phục hồi sau sự sụp đổ của Sauron và sự lên ngôi của Vua Aragorn II Elessar.Trước khi đế chế Numenor bị sụp đổ thì Gondor đã là ngôi nhà của rất nhiều người Numenor tha hương ở Trung Địa.Những người Numenor tha hương sống lẫn lộn và hôn phối với nhiều giống Người Trung Địa khác nên bởi thế mà dòng máu thượng đẳng của người Numenor trong họ cũng dần bị pha tạp và yếu kém dần đi cả về sức mạnh,tố chất cũng như là độ dài tuổi thọ.Tuy nhiên,những thế hệ đầu của Người Gondor thì vẫn giữ được những phẩm chất thượng đẳng của Người Numenor mặc dù có phần kém hơn 1 chút, họ được gọi là những Người DuneDane.Đế chế Numenor thời huy hoàng từng có rất nhiều những vùng thuộc địa tại Trung Địa.Về sau, những người sống tại Numenor đã bị chia rẽ ra thành 2 phe, phe Những người Trung thành (những người trung thành với tình bạn đối với người Elves và các Valar) và phe Thân Vua (những người ủng hộ nhà vua). Phe Trung Thành bị lép vế và tự rời khỏi Numenor để đến định cư tại Trung Địa.Thủ lĩnh của nhóm Trung Thành là Elendil được những người dân thuộc địa ở phía Bắc Sông Cả chào đón nhiệt liệt và có ý tôn ông lên làm vua của họ. Elendil ở lại với họ và thành lập ra một vương quốc lấy tên là Arnor, đây chính là Vương quốc phương Bắc.Về sau, 2 người con trai của Elendil là Isildul và Anarion đã đi về phía Nam và cùng nhau thành lập ra một vương quốc mới và đó chính là Gondor.Tuy là 2 vương quốc riêng biệt nhưng Gondor và cả Arnor đều thuộc quyền trị vì của Đức Vua tối cao Elendil. Isildul và Anarion là những người đồng sáng lập ra vương quốc Gondor nhưng Isildul lại là con cả của Đức vua Elendil nên quyền thừa kế vương quốc Arnor sẽ thuộc về ông ta ; còn Anarion,em trai của Isildul sẽ có quyền thừa kế vương quốc Gondor (Vương quốc phương Nam).Gondor đã đưa quân đội của mình tham gia vào Liên minh cuối cùng của Elves và Người trong chiến dịch đánh bại Sauron vào cuối thời đại thứ 2.Trong trận đánh cuối cùng,chính Isildul là người đã cắt đứt được Chiếc Nhẫn Chủ ra khỏi tay của Sauron nhưng không lâu sau đó,ông cũng đã bị chết.Sau cuộc chiến với Sauron,vương quốc Gondor ngày càng trở nên mạnh mẽ và thịnh vượng.Sức mạnh của Gondor tiếp tục lớn mạnh cho đến tận thế kỷ thứ 9 của thời đại thứ 3.Sự xuất hiện của một loạt những thành phố lớn là trung tâm chính trị và quân sự ở Gondor như Minas Arnor,Minas Ithil,Osgiliath hay Pelagir đã tạo ảnh hưởng thống trị lên rất nhiều những nhóm người nhỏ hơn sống tại Trung Địa.Đa phần những nhóm người ở phía Bắc hay ở phía Tây Trung Địa đều thuần phục và là liên minh của người Gondor. Thời kỳ cực thịnh của Gondor nằm vào khoảng 4 triều đại vua
1.Vua Tarannon Falastur, từ năm 830 đến năm 913 của thời đại thứ 3,đức vua không có con.
2.Vua Earnil I , từ năm 913 đến năm 936 của thời đại thứ 3, Ngài là cháu của vua Tarannon
3.Vua Ciryandil từ năm 936 đến năm 1015 của thời đại thứ 3
4.Vua Hyarmendacil I (Ciryhaer), từ năm 1015 đến năm 1149 của thời đại thứ 3.Triều đại của vua Hyarmendacil là một thời kỳ rực rỡ trong lịch sử Gondor.Trong thời kỳ này,biên giới của vương quốc liên tục được mở rộng trải dài về Biển Rhun ở phía Đông,phía Nam kéo tới tận gần vùng đất của người Haradrim,phía Bắc tới sát Rừng Âm U và phía Tây kéo sát đến biên giới của Arnor.
Sự giàu có của Gondor được những người ở những vùng đất khác miêu tả như sau: " ở Gondor,đá quí không khác gì những viên đá bình thường để cho trẻ con chơi ".Với tiềm lực quân sự vô cùng lớn mạnh của vương quốc thì người Gondor đã có một thời gian dài được sống trong sự thái bình. Sau một thời gian dài phát triển rực rỡ,vương quốc Gondor dần dần bị suy thoái bởi những lí do chính như sau
1.Nội chiến: Một cuộc nội chiến lớn xảy ra ở Gondor vào thế kỷ thứ 15 của thời đại thứ 3 đã gây chia rẽ và thiệt hại nặng nề đối với vương quốc.Đức vua lúc bấy giờ của Gondor là Eldacar vốn là một người mang dòng máu lai tạp bởi mẹ ông là một Người Phương Bắc còn cha ông thì lại là một người Gondor.Cũng chính bởi lí do này mà ông bị một số người thuộc tầng lớp hoàng gia chính thống của Gondor ganh ghét mà trong đó có Castamir,đô đốc thống lĩnh toàn bộ lực lượng thủy quân của vương quốc.Castamir đã tiến hành một cuộc đảo chính để giành lấy ngai vàng từ vua Eldacar.Vua Eldacar thất bại và phải chạy về phương Bắc.Castamir trở thành người thống trị mới của vương quốc Gondor.Trong 10 năm cầm quyền, Castamir đã áp dụng một lối cai trị vô cùng tàn bạo và khắc nghiệt.Ngoài ra,do bản thân xuất phát từ lực lượng thủy quân nên ông ta thường ưu ái và tập trung phát triển cho riêng các vùng đất ở gần biển mà bỏ mặc những vùng đất khác.Điều này khiến cho lòng dân tại Gondor trở nên xao động.Tận dụng cơ hội,vua Eldacar đã trở về với một đạo quân từ Phương Bắc,nhân dân và các lực lượng vũ trang tại Gondor đều ủng hộ nhà vua bằng cách gia nhập vào lực lượng của ông.Cuộc nội chiến đầu tiên của Gondor đã diễn ra giữa phe của Castamir và phe của vua Elcadar.Kinh thành Osgiliath bị thiệt hại nặng nề trong cuộc nội chiến,cây cầu lớn bị phá hủy và Quả cầu Palantir ở đó cũng bị thất lạc.Về sau,vua Eldacar đã giết được Castamir và giành lại được ngai vàng.Các con trai của Castamir đã bỏ chạy về Umbar,gia nhập với lực lượng Người Corsair và gây rắc rối cho Gondor trong suốt nhiều năm.
2.Dịch bệnh lớn: Về sau này, Dịch Bệnh Lớn đã xuất hiện tại Trung Địa và gây ảnh hưởng lên hầu hết các vương quốc và xứ sở mà Gondor cũng không phải là ngoại lệ.Rất nhiều người Gondor đã chết bởi dịch bệnh.Cây Trắng , biểu tượng của Gondor cũng chết héo vào thời điểm này.Vua Tarondor lúc đó đã tìm được một mầm sống của Cây Trắng và chuyển kinh đô từ Osgiliath tới Minas Anor,thành phố của Anarion.Trong thời gian này,dân số của Gondor còn lại rất ít khiến cho tiềm lực kinh tế và quân sự của vương quốc bị sụt giảm đáng kể.Nếu các binh đoàn của kẻ địch Mordor tấn công Gondor vào lúc này thì vương quốc chắc chắn sẽ sụp đổ.Tuy nhiên thì Dịch Bệnh Lớn cũng tràn cả vào các vương quốc của Người Easterl hay Người Haradrim và cũng gây cho họ thiệt hại lớn đến mức không thể tiến hành chiến tranh đối với Gondor.
3.Sự xâm lược của của những kỵ sĩ Wain: Sau Dịch Bệnh lớn,Gondor dần khôi phục lại dân số và sức mạnh của mình; nhưng đúng vào thời điểm đang hồi phục này thì vương quốc lại bị xâm lược bởi những Kỵ Sĩ Wain , một chi thuộc tộc người Easterl ở phương Đông.Cuộc chiến với quân xâm lược kéo dài đến gần 1 thế kỷ. Những kỵ sĩ Wain đã tiêu diệt được gần hết Binh Đoàn phương Bắc của Gondor.Nhưng những chiến binh sống sót của binh đoàn đã kịp rút lui và sát nhập vào Binh đoàn phương Nam của Gondor.Dưới sự dẫn dắt của danh tướng Earnil,Binh đoàn phương Nam đã đánh bại người Haradrim ở măt trận Sông Poros trước khi tiến về phía Bắc và đẩy lui được quân Wain ra khỏi bờ cõi trong Trận chiến Doanh Trại.Năm 1944 của thời đại thứ 3,hoàng thất Gondor đối mặt với một biến cố lớn khi Vua Ondoher cùng với 2 hoàng tử đều hi sinh trên chiến trường mà chưa kịp công bố người kế vị. Arveduil,hoàng tử của Arthedain,con rể của vua Ondoher cùng với danh tướng Earnil là 2 người duy nhất lúc bấy giờ có đủ tư cách để lên ngôi hoàng đế.Hội đồng chấp chính tại Gondor cuối cùng đưa ra quyết định sẽ ủng hộ Earnil lên ngôi vua bởi ông là dòng dõi của Anarion còn Arveduil lại tuyên bố ông thuộc về dòng dõi của Isildul mà vương quốc Gondor lại thuộc quyền thừa kế của Anarion.Thật ra,với chiến công đánh đuổi quân xâm lược thì Earnil tất nhiên là xứng đáng để tiếp nhận ngai vàng của Gondor hơn là Arveduil.Trong Trận chiến Fornost, Earnur,người kế vị của vua Earnil đã dẫn dắt quân đội Gondor đánh bại được vương quốc Angmar của Vua Phù Thủy.Sau thắng lợi,vua Earnur dẫn quân trở lại Minas Anor (Tháp Mặt Trời) . Trong thời gian này thì các Ma Nhẫn đã chỉ huy quân đội Mordor đánh chiếm được thành phố Minas Ithil (Tháp Mặt Trăng) và biến nơi đây thành Minas Morgul (Tháp Ma Thuật), hang ổ mới của Bộ Chín Nazgul. Minas Anor cũng vì đó mà đổi tên thành Minas Tirith tức là Tòa Tháp Canh.Giữa 2 nơi này thường xảy ra xung đột.Vua phù thủy,Chúa tể Nazgul,đã 2 lần gửi thông điệp khiêu khích tới kẻ thù cũ của mình là Vua Earnur.Lần đầu tiên,vua Earnur đã từ chối lời thách đấu của kẻ thù nhưng sau đó nhiều năm, ông lại dẫn theo một nhóm chiến binh tới Minas Morgul để chấp nhận đấu tay đôi với Vua phù thủy.Họ mất tích kể từ ngày hôm đó,không ai biết được kết cục của nhà vua cùng với các chiến binh của ngài và dòng dõi Anarion ở Gondor cũng kết thúc từ đó.Sau khi vua Earnur biến mất thì dòng dõi Anarion ở Gondor cũng không còn ai.Không ai có đủ tư cách và quyền lực để có thể kế vị ngai vàng Gondor.Người Gondor e ngại một cuộc nội chiến tranh giành ngai vàng sẽ lại nổ ra và làm suy yếu vương quốc nên vì thế mà họ bầu ra một chức danh mới là Quan Chấp Chính. Về thực tế thì Quan chấp chính sẽ cai trị Gondor với quyền lực như 1 vị vua nhưng về danh nghĩa thì vẫn không phải là vua và khi có một ai đó có đủ tư cách để thừa kế ngai vàng Gondor (1 người thuộc dòng dõi Anarion hoặc dòng dõi Isildul) xuất hiện thì họ phải chuyển giao quyền lực lại cho người đó.Những quan chấp chính được biết tới nhiều nhất là Cirion,người đã ban tặng vùng đất Calenardhon cho Eorl và thiết lập mối liên minh vững chắc với những người Rohan.Trong Thời kỳ Nhẫn Chiến,Quan chấp chính của Gondor là Denethor II,cha của Boromir và Faramir.Denethor II bị chết vào đúng thời điểm mà Aragorn trở về.Aragorn là hậu duệ của cả 2 dòng dõi Isildul và Anarion nên ngôi Vua lại trở về với vương quốc Gondor.Trong suốt thời kỳ này,tại Mordor,Sauron đang tập trung lực lượng cho đợt chinh phạt cuối cùng của mình.Năm 3018,Chúa tể bóng tối cho quân vượt qua Ithilien nhằm tiêu diệt vương quốc Gondor ; tuy nhiên thì cuộc tấn công này đã bị ngưng lại do cây cầu lớn vượt Sông Cả Anduin đã bị phá hủy.Vài năm sau, Minas Tirith, pháo đài vững chắc cuối cùng của Gondor phải đối mặt với một chiến dịch công kích toàn diện của Sauron. Các binh đoàn Haradrim hành quân từ phía Đông Nam,các Corsair (Cướp biển đen) của Umbar tấn công từ bờ biển phía Nam và quân chủ lực gồm Orcs và Trolls của Mordor vượt qua Sông Cả để tiến công từ phía Đông, tất cả là 3 mũi quân lớn cùng tiến vào Minas Tirith.Vào cuối thời đại thứ 3, tại Cánh đồng Pelennor ngoại vi Minas Tirith đã diễn ra trận đại chiến lớn nhất của thời đại này là Trận chiến Pelennor. Cuối cùng, với sự tham chiến của Đội quân Người Chết, phe Con Người đã lật ngược tình thế và đánh bại được phe Mordor dù tổn thất là rất lớn.Sau khi Nhẫn Chủ bị tiêu hủy và Sauron bị sụp đổ,Gondor chính thức chào đón sự trở lại của dòng dõi nhà vua bằng lễ đăng quang của Vua Aragorn Elessar.Vua Elessar sẽ là đức vua tối cao của vương quốc hợp nhất (Đại Vương Quốc Gondor) , là sự sát nhập lãnh thổ giữa vương quốc phương Bắc cũ Arnor và vương quốc phía Nam Gondor.Faramir,dòng dõi các quan chấp chính,được thừa kế ngôi vị tể tướng phục vụ cho nhà vua và có quyền hạn cai trị ở vùng phía Đông Ithilien.Mối liên minh với Rohan được củng cố,2 vương quốc cùng nhau đánh đuổi những tàn dư của người Easterl và người Haradrim; những vùng đất bị chiếm đóng trước đây cũng dần được lấy lại hết.Trong nhiều thế kỷ sau đó,Đại Vương Quốc Gondor còn được mở mang ra rất lớn thành một đế chế có lãnh thổ gần như bao trùm Trung Địa.Người Gondor vốn là những hậu duệ của người Numenor nên các chiến binh của họ trong thời đại thứ 2 thường cao lớn,đẹp đẽ,khỏe mạnh và rất có đầu óc.Những chiến binh Gondor ở thời đại này thường được chú trọng vào việc huấn luyện tinh thần để có được một ý chí chiến đấu cao,dũng cảm và không sợ hãi dù phải chiến đấu tới chết.Do tuổi thọ của người Gondor ở thời kỳ đầu là khá dài nên hầu hết những chiến binh của họ đều rất có kinh nghiệm và kỹ năng điêu luyện.Người Gondor có kỹ năng chế tác giáp trụ,vũ khí và quân dụng chiến tranh rất tốt và với những trang thiết bị đó, họ tạo nên những đạo quân hùng mạnh.Người Gondor thường dùng 3 loại vũ khí chính là giáo dài,kiếm và cung dài.Các đạo quân bộ binh của họ sử dụng kiếm hoặc giáo dài kết hợp với khiên lớn tạo thành các đội hình hình vuông có tác dụng công thủ toàn vẹn.Phải kể đến các đạo Quân cận vệ của Pháo Đài Gondor với khiên lớn, giáo dài và giáp trụ tinh xảo, họ được cho là chủng loại bộ binh lợi hại nhất trong thế giới Loài Người.Các cung thủ của Gondor cũng vô cùng lợi hại bởi họ là những người DuneDane (những Tuần Du), tai thính, khả năng quan sát trong bóng tối tốt kết hợp với khả năng ngụy trang được học hỏi từ những cung thủ người Elves. Kỵ binh Gondor ở thời đại này phải kể đến Đạo Thần kỵ Dol Amroth,được cho là những chiến binh huyền thoại với giáp trụ ,vũ khí, quân trang và kỹ năng chiến đấu đều vào hạng có 1 không 2. Chiến mã hay bản thân các chiến binh đều mang trên mình những bộ giáp trụ đặc biệt có thiết kế tinh xảo,1 tay họ dùng kiếm hoặc giáo dài, tay kia cầm khiên lớn. Có những lúc họ còn dùng cả 2 vũ khí ở cả 2 tay, lối tác chiến của họ còn nhanh và mạnh hơn cả những kỵ binh Rohan ở thời kỳ đỉnh cao.Đến thời đại thứ 3,sức mạnh quân sự của Gondor đã bị suy yếu đi nhiều.Đạo kỵ binh Dol Amroth chỉ còn lại rất ít, những quân dụng chiến tranh tinh xảo trước đây cũng không còn lại nhiều.Giống người DuneDane ngày càng lai tạp,pha trộn với nhiều giống người thấp kém hơn làm cho chất lượng binh lính chung của vương quốc cũng bị thấp hơn so với trước đây.Tuy thế thì về mặt quân sự,Gondor vẫn là một vương quốc có tiềm lực lớn và là đối thủ khả dĩ nhất có thể chống lại thế lực của Sauron.Ở thời đại này,các thể loại binh chủng của Gondor thực chất là vẫn còn nguyên so với trước kia chỉ khác là chất lượng và số lượng đã bị giảm đi nhiều. Họ chủ yếu dùng các đạo bộ binh với kiếm và khiên , Các đạo quân cận vệ giáo dài tinh nhuệ trước kia chỉ còn lại rất ít và được tập trung hết tại Minas Tirith.Đạo thần kỵ Dol Amroth không còn nhưng vẫn có các đạo quân kỵ binh khá mạnh mặc dù vào thời kỳ này họ bị đánh giá thấp hơn so với các kỵ sĩ Rohan.Các cung thủ mà đặc biệt là những đội quân trinh sát vẫn có khả năng xạ tiễn rất lợi hại nhưng số lượng của họ ngày càng ít đi.Trong thời đại của các quan chấp chính,Gondor liên tục có chiến tranh với các quốc gia kẻ thù ở các vùng biên giới nên quân đội thời này được huấn luyện liên tục về kỹ năng chiến đấu trên bộ cũng như là kỹ năng thủy chiến.Các chiến binh Gondor thời này cũng rất mạnh nhưng họ dần dần bị sụt giảm về số lượng do chiến trận quá nhiều và cả bởi Dịch Bệnh Lớn.Vào thời điểm diễn ra Trận chiến Pelennor, quân lực của Gondor là còn lại rất ít và nếu không có sự tham chiến của Đội quân Người Chết thì Gondor sẽ bị sụp đổ.Các thành phố và cứ điểm quan trọng của Gondor trong thời đại thứ 3
·Calembel – một thành phố tại vùng Lamedon
·Dol Amroth – một thành phố ở Belfalas,được cai trị bởi các Hoàng tử của Dol Amroth
·Ethring – một thị trấn lớn được xây dựng bên bờ Sông Ringio
·Henneth Annun – một cứ điểm quan trọng của các Tuần Du người Gondor ở phía Bắc Ithilien.
·Linhir – một thành phố cảng tại Lebennin
·Minas Tirith (khởi nguồn là Minas Anor),Thành phố của các vị Vua,là kinh đô và là thành phố lớn nhất của Gondor.
·Osgilliath, cố đô của vương quốc Gondor nằm bên bờ Sông Cả Anduin,nơi đây bị tàn phá hoàn toàn trong thời kỳ Nhẫn Chiến và được Vua Aragorn Elessar xây dựng lại sau sự sụp đổ của Sauron
·Pelagir , thành phố biển nằm ở bờ phía Nam của vương quốc ,nơi bị chiếm đóng bởi người Corsair trong suốt thời kỳ Nhẫn Chiến
·Tarnost – một thị trấn vùng đồi tại Belfalas.
·Minas Ithil – Tháp Mặt Trăng , về sau bị chiếm đóng bởi các Nazgul và đổi tên thành Minas Morgul
·Cirith Ungol – tòa tháp canh ở phía Tây của Mordor (nơi mà Sam đã đột nhập vào để cứu Frodo) .Nơi này từng bị bỏ hoang bởi dịch bệnh và về sau dễ dàng bị chiếm đóng bởi lực lượng Mordor.
GHI CHÚ: Gondor mang nhiều nét tương đồng với đế quốc Byzantine (Đông Roma) ở ngoài đời thực. Cả hai đều có biên giới giáp với nhiều kẻ thù và phải thường xuyên chiến tranh; Gondor phải đối đầu với người Haradrim,người Easterl và lực lượng Mordor của Sauron; còn đế quốc Byzantine cũng phải đối đầu với người Ba Tư,người Thổ Nhĩ Kỳ và với cả các lực lượng tôn giáo phía Tây.Ngoài ra, vương quốc Gondor mang hình ảnh tôn giáo cao hơn so với các vương quốc khác ở Trung Địa. Điều này cũng đúng với Byzantine vì nơi đây chính là đầu não của Giáo Hội Thiên Chúa. "Anh ta đeo trên mình bộ đai da treo chiếc Tù Và Lớn bịt bạc một đầu giờ đang được đặt trên đầu gối" - Frodo miêu tả khi nhìn thấy Boromir tại Hội đồng của Elrond. Chiếc Tù Và Lớn mà Frodo đã miêu tả là một bảo vật bất ly thân của Boromir, nó là một báu vật gia truyền của dòng dõi Quan chấp chính Gondor và chỉ được truyền lại cho những trưởng nam qua các thế hệ. Cũng giống như các bảo vật khác của Trung Địa thì nguồn gốc chất liệu của nó cũng không hề tầm thường.Thuở xưa, trên những vùng hoang dã ở phía Đông tồn tại một con thú huyền thoại được gọi là Con bò thần của Araw, hay Con bò hoang dã của phương Đông, và rồi chính Vorondil Thợ săn, quan chấp chính của Gondor lúc đó, đã thực hiện một chuyến đi săn và khuất phục được con thú. Chính sừng của con bò thần đã được dùng để tạo ra chiếc Tù Và của Gondor. Tương truyền rằng "Một khi chiếc Tù Và được thổi lên ở bất kỳ đâu trong biên giới của vương quốc Gondor, thì không một ai là không nghe thấy được âm thanh của nó".Đến đời của Quan chấp chính Denethor, ông đã trao chiếc Tù này lại cho con trai trưởng của mình là Boromir và chính Faramir đã nói rằng " không người thừa kế Minas Tirith nào ..... có thể thổi chiếc Tù Và Lớn hùng tráng hơn anh ấy (Boromir)".Boromir đã từng 3 lần sử dụng đến Chiếc Tù này. Lần đầu tiên là tại Rivendell, "Chiếc Tù này kêu to và rõ ở những vùng thung lũng đồi" Boromir nói, " để khiến kẻ thù nào của Gondor cũng phải bỏ chạy ! " Anh ta đặt chiếc Tù Và lên mồm thổi một hồi dài, tiếng tù và vang vọng từ mỏm đá này sang mỏm đá khác, khiến bất cứ ai ở Rivendell nghe được âm thanh đó cũng đều nhảy bật dậy "Lần thứ 2 là tại Moria, tiếng tù và của Boromir đã khiến cho Balrog cùng với lũ Orc truy đuổi bị khựng lại trong một lúc, " Cái hình thù tối tăm phấp phới những ngọn lửa dài lao thẳng về phía họ. Lũ Orc gào thét và tràn qua những cầu đá mới bắc. Boromir bèn nâng cây tù và thổi mạnh. Âm thanh thách thức rống lên vang dội , như tập hợp của biết bao tiếng thét dưới trần cao lộng. Trong phút chốc, lũ Orc nao núng và bóng đen cháy rực đứng khựng lại ".Và lần cuối cùng là tại bờ của Path Galen, khi mà Boromir đang bị bao vây bởi đội quân Uruk-hai và anh đã thổi nó để gửi lời cầu cứu tới những người bạn của mình đang bị thất tán, " Boromir đã thổi chiếc tù và lớn đến nỗi cả rừng cây cũng phải rung chuyển, khiến ban đầu lũ Orc phải nhụt chí và rút quân".Khi lần cuối cùng Boromir thổi chiếc Tù Và, ngay cả em trai Faramir của anh ở cách đó khá xa cũng nghe thấy âm thanh của nó. Trong giấc mộng của mình, Faramir nhìn thấy con thuyền mang xác của Boromir nhưng không thấy có Chiếc Tù và ở bên cạnh. Không lâu sau, những người Gondor tìm thấy những gì còn lại của bảo vật này, nó đã bị chẻ đôi sau trận ác chiến cuối cùng của Boromir. Chiếc Tù Và được gửi về Gondor và đã khiến cho trái tim của Denethor tan nát ngay khi nhìn thấy nó. Lúc Gandalf và Pippin đến Minas Tirith, họ thấy Denethor đang ngồi thẫn thờ trên ngai chấp chính với 2 nửa của chiếc Tù Và trong tay, cái chết của Boromir đã một lần nữa làm ông phát điên. Sau cái chết của đức vua Eärendur năm 861, Arnor lâm vào cảnh nội chiến và sau đó bị chia cắt thành 3 vương quốc nhỏ: Arthedain, Cardolan, Rhudaur, trong đó Arthedain có binh lực và lãnh thổ hùng mạnh nhất.Năm 1300, vương quốc Angmar của Vua phù Thủy xuất hiện tại phía đông bắc của Arthedain. Cho Đến năm 1409, Angmar đã chiếm được cả Cardolan và Rhudaur, chỉ còn Arthedain là còn cầm cự và chiến đấu được trong suốt hơn 500 năm sau đó.Trong khi đó, tại Gondor, năm 1944, vua Ondoher đã bị giết trong trận chiến với tộc người Esterlings cùng với cả hai con trai của ông, điều này dẫn đến Gondor không còn hoàng tử để kế vị ngôi vua. Arvendui, lúc này là hoàng tử của Arthedain cho rằng mình là người thừa kế xứng đáng của ngai vàng Gondor, do ông cũng là hậu duệ của Isildur, mặt khác, vợ ông, Fíriel là con gái của Ondoher, và quy định của Gondor cho rằng con gái cũng có thể làm vua. Tuy vậy, lúc này, Eärnil II, cháu trai của Ondoher lại đang thống lĩnh quân đội và giành chiến thắng trước kẻ thù, vì vậy các quan đại thần của Gondor quyết định tôn Eärnil II lên làm vua để lấy lòng binh sĩ. Chính điều này đã khiến các con cháu của Arvendui sau này, trong đó có Aragorn rất khó khăn trong việc nhận mình là người thừa kế hợp pháp của ngai vàng Gondor, ngay cả khi Gondor được điều hành bởi những người ngoại tộc - những Nhiếp chính vương.Trở lại mặt trận phía bắc, Năm 1974, Witch-King dốc toàn bộ quân đội của mình tấn công và chiếm được thủ đô Fornost của Arthedain, buộc Arvendui, lúc này đã là vua, phải chạy lên vùng phía bắc và nương nhờ những người tuyết Forochel. 1 năm sau đó, Eärnur con trai của Eärnil II mới dẫn quân từ Gondor lên tiếp viện. Với tài năng quân sự thiên tài, Eärnur đã thực hiện thành công 1 việc gần như không thể, tấn công và tiêu diệt Angmar, buộc Witch-King phải bỏ trốn. Lúc này, Cirdan của Grey Havens gửi một hạm đội thuyền lên đón Arvendui trở về, nhưng sau đó ông bị chết đuối trong một trận bão biển.Aranarth, con trai của Arvendui quyết định không xây dựng lại vương quốc, ông chọn một cuộc sống bình dị, lang thang khắp nơi, cứu giúp những người nghèo khổ. Arranrth và con cháu ông được gọi chung là Chieftain of the Dúnedain, trong đó Aragorn là hậu duệ thứ 16.Về phần Gondor, Earnur trở về và lên ngai vàng. Dù vậy, ông cũng không thọ được lâu khi đến năm 2050, trong cuộc chiến đấu tay đôi với Witch-King, ông bị trọng thương và qua đời khi vẫn chưa có con. Từ đây, Gondor đặt dưới sự lãnh đạo của những Nhiếp chính vương cho đến khi một nhà vua đích thực trở về.
POV:
-Sông Ringwil là một con sông tại Beleriand trong suốt Thời đại thứ nhất; nó là một nhánh của con sông Narog. Sông Ringwil chảy qua Taur-en-Faroth từ điểm khởi đầu là bên trong những ngọn đồi bao quanh thành phố bí mật Nargothrond dài khoảng xấp xỉ 25 dặm. Tại điểm gặp gỡ với sông Narog, ở gần đó có được xây 1 cánh cửa bí mật mà Luthien đã từng sử dụng để chạy thoát khỏi Nargothrond khi Celegorm và Curufin giam giữ nàng ta.
-Sông Narog là dòng sông chủ đạo tại phía tây của vùng Beleriand và là nhánh lớn nhất của sông Sirion. Một đầu của sông Narog là xuất phát từ Eithel Irvin trong dãy núi Bóng tối (Ered Wethrin), tiếp đó chảy xuôi về hướng Nam và hướng Đông Nam, qua tiếp một chuỗi những dãy đồi của Andram và cuối cùng là dẫn tới sông Sirion tại vùng đất của những cây liễu Nan-tathren, cách không xa phía trên Vùng miệng của Sirion. Những nhánh của sông Narog bao gồm sông Ginglith ở hướng Bắc và sông Ringwil ở Taur-en-Faroth.Bên trong bờ phía Tây, nơi mà chỉ nằm cách điểm phân nhánh của Rinwil với Narog chếch xuống 1 chút về hướng Nam là nơi hướng tới thành phố Nargothrond, pháo đài cư ngụ của Finrod Felagund, con trai của Finarfin.
Vùng miệng sông Sirion là một vùng hình tam giác bao gồm nhiều nhánh rẽ, chính từ đây, nước biển từ vịnh Balar đã chảy qua rồi tạo nên sông Sirion. Nó nằm ở phía tây Beleriand thuộc vùng đất Arvenien. Bao quanh địa điểm này là những vùng đầm lầy lớn. Những bến cảng của Sirion có vị trí nằm ở xung quanh vùng đất lớn này.Nơi đây vào những ngày xa xưa, từng được cư ngụ bởi những người Elves Teleri và về sau họ chuyển tới vùng bến cảng của Falas, nơi mà lãnh chúa Cirdan đã lập ra ở đó một chốn tị nạn. Cả người Elves và Con người đều bắt đầu sơ tán về đây khi thế lực của Morgoth bắt đầu mở rộng.

04.8.Vùng Đất Arnor
Arnor là một vương quốc của người Dunedain tại vùng Eriador thuộc Trung Địa. Arnor hay được biết tới với cách gọi là Vương quốc phương Bắc để phân biệt với vương quốc Gondor ở phương Nam.Theo ngôn ngữ Tiên thì Arnor có nghĩa là "vùng đất của Đức vua".Arnor được sáng lập ở thời điểm gần cuối Thời đại thứ 2 bởi Elendil, cùng lúc đó thì các con trai của ông cũng đồng thời sáng lập ra vương quốc phía Nam là Gondor. Lịch sử của 2 vương quốc luôn có mối liên kết chặt chẽ với nhau ; cả 2 đều được biết tới như là những vương quốc của người Dunedain tại Trung Địa.Trước khi vương quốc Arnor được sáng lập thì tại vùng đất Eriador đã có một số lượng đáng kể cư dân gốc Numenor sống tại đây, họ là những người di cư đầu tiên của đế chế Numenor tới Trung Địa bắt đầu kể từ triều đại của vua Tar-Meneldur. Bên cạnh những người Numenor di cư thì vùng đất Arnor còn là nhà của một bộ phận người Edain cổ, những người đã định cư tại Trung Địa cách đây rất lâu.Về phương diện tổng quát thì Arnor có nhiều thuận lợi hơn so với Gondor.Về mặt vị trí , Arnor chịu ít đe dọa từ các kẻ thù bên ngoài hơn vì lãnh thổ vương quốc nằm khá kín, phía Tây giáp vương quốc Lindon, phía Nam có vương quốc Gondor tạo thành thế tương trợ, phía Đông giáp núi và chỉ có một kẻ thù gần nhất là vương quốc Angmar ở phía Bắc. Về mặt văn hóa,kinh tế thì Arnor cũng có lợi thế khi họ giáp và có mối quan hệ tốt đẹp với vương quốc Lindon của người Elves, văn hóa và những kỹ nghệ phát triển xã hội bậc cao của người Elves cũng tạo nên một sự ảnh hưởng đáng ghi nhận đối với vương quốc này. Chính vì những lí do như vậy mà Arnor thuở ban đầu được nhiều con người tại Trung Địa chọn làm nơi định cư của họ.Một điều quan trọng nữa đó là khi Elendil đến và thành lập ra vương quốc Arnor thì ông nhận ra rằng những người dân ở đây có mối quan hệ vô cùng tốt đẹp với người Elves và vẫn trân trọng những giá trị tình bạn cũng như là sự giao thoa văn minh cổ xưa giữa 2 giống loài. Ở Numenor thì những giá trị này đã ngày càng bị phai nhạt dần nhưng ở Arnor, vua Elendil lại có chủ trương tiếp tục bảo tồn và phát triển những giá trị cổ xưa này.Đức vua đầu tiên của Arnor tất nhiên là Elendil, quyền thừa kế hợp pháp sau đó thuộc về con trưởng của ngài là Isildur. Sau khi Isildur cùng 3 người con lớn của mình bị giết tại Trận chiến trên cánh đồng Hoan hỷ thì người con trai út là Valandil, người duy nhất sống sót, đã trở thành đức vua tiếp theo của vương quốc Arnor.2 vương quốc Arnor và Gondor đều phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên về thực chất thì quyền lực của Arnor vẫn cao hơn. Những người thống trị của vương quốc Arnor đều dùng danh xưng là Đức vua Tối cao trong khi ở Gondor thì người thống trị chỉ được gọi là Vua. Thủ phủ của Arnor là Annuminas,bên cạnh đó là các thành phố lớn khác như Fornost, Tharbad, Long Daer và Tyrn Gorthad.Về sau, Annuminas không còn là thủ phủ của vương quốc Arnor bởi nó không còn là nơi lý tưởng để định cư như trước. Đến năm 862 của Thời đại thứ 3, thì Fornost đã thay thế Annuminas để trở thành trung tâm thủ đô của vương quốc.Sau triều đại của vua Earendul,tức là năm 861, thì Arnor bị chia cắt bởi một cuộc nội chiến giữa 3 người con trai của đức vua. Người con trai cả là Amlaith, người danh chính ngôn thuận tuyên bố quyền lực trên toàn vương quốc Arnor thế nhưng thực chất lãnh thổ của ông ta lại chỉ là khu vực vương quốc Arthedain; trong khi 2 người con còn lại , mỗi người đều chiếm hữu 1 vùng đất và lập ra 2 vương quốc khác là Cardolan và Rhudaur. Vương quốc phương Bắc lúc này thực chất đã bị chia cắt thành 3 vương quốc nhỏ hơn.Với sự chia rẽ cộng với sự trỗi dậy của vương quốc Angmar ở phía Bắc, Arnor đã bị Vua phù thủy của xứ Angmar chinh phạt và sụp đổ chỉ trong một thời gian ngắn.Mặc dù sau này,Vua phù thủy đã bị đánh đuổi và Angmar bị sụp đổ, thế nhưng vương quốc phương Bắc vẫn không thể phục hồi lại được trong hầu hết thời đại thứ 3.Những người Arnor còn sót lại lánh nạn tới phía Nam của Rivendell, nơi mà một số người họ được biết tới như là những Tuần Du của phương Bắc.Sau chiến thắng của liên minh Trung Địa trước chúa tể bóng tối Sauron thì vua Aragorn II Elessar đã tái lập lại vương quốc Arnor như là một phần của Đại vương quốc Gondor và biến Annuminas thành kinh đô mùa hè của ông. Arnor dần dần được khôi phục và dân số ngày càng được tăng lên, mặc dù xét về độ phát triển thì nó vẫn chịu thua kém so với Gondor.Xứ Shire lúc này đã được ban cho quyền tự trị và không còn thuộc về lãnh thổ của Arnor như những ngày xa xưa trước đây.
POV:
-Doriath là một vương quốc của người Elf Sindar được hình thành vào khoảng cuối kỉ nguyên 2 cây và tồn tại đến gần hết kỉ đệ nhất. Trong hàng ngàn năm tồn tại, nó gần như tách biệt với thế giới bên ngoài dưới sự trị vì của Đức vua Thingol (Elwe) cùng vợ ông là Melian (một Maia).
-Trong cuộc hành trình đến Aman, Elwe - lãnh đạo người Elves Teleri đã bị lạc vào miền đất phía Tây Trung Địa, Tại đó, ông gặp Melian - một Maia nổi tiếng với giọng hát thanh tao nơi chốn thiên đường. Mê đắm trước vẻ đẹp cuả nàng, Elwe quên đi mục đích của mình, ông quyết định ở lại Beleriand kết hôn cùng Melian và cùng những người Elf ở đây lập nên vương quốc Doriath.
-Doriath nằm ở trung tâm Beleriand, bên trong nó là các khu rừng Neldoreth (Rừng sồi phía Bắc), Nivrim (Rừng sồi phía Tây) và Region (Rừng chính). Ngoài ra, 2 khu rừng Brethil và Nan Elmoth cũng chịu ảnh hưởng của Doriath dù nó không nằm trong vòng bảo vệ của Melian. Sau này, người Dark Elf đến đây và được Thingol cho cai quản vùng Nan Elmoth sau khi họ dâng cho đức vua thanh kiếm Anglachel. Một tộc loài người là nhà Haladin cũng được vua Thingol cho sinh sống tại Brethil.
-Trong khoảng thời kì đầu hình thành, Beleriand là một vùng đất hòa bình. Người Elf tại đây, từ những người thợ đóng thuyền của Cirdan hay những thợ săn tại Dãy núi xanh đều tôn Thingol là chúa tể của họ. Tuy nhiên, Melian cảm nhận được cái xấu sẽ xuất hiện tại vùng đất này, nên đức vua Thingol đã kêu gọi người lùn tại Belegost hỗ trợ mình xây dựng một thành phố kiên cố. Thành phố được xây dựng dưới lòng đất dọc theo phía nam của sông Esgalduin và được gọi dưới cái tên Menegroth (Thành phố nghìn hang động). Nó trở thành thủ đô của Doriath và được coi là một trong những kì quan đẹp nhất của Trung Địa.Đúng như những gì Melian dự đoán, sau khi Melkor cùng con nhện khổng lồ Ungoliant tấn công 2 cây và chúng chạy đến Beleriand, tình hình nơi đây bắt đầu trở lên tồi tệ. Sau khi ổn đinh căn cứ tại Angband, Morgoth (Tên khác của Melkor) bắt đầu tấn công về phía đông Beleriand. Với sự trợ giúp của Denethor, con trai của Lenwe, vua của người elf Nandor từ Osiriand, vua Thingol và quân đội Beleriand đã đánh bại được Morgoth. Tuy nhiên, khi trở về, Thingol mới biết rằng quân đội của Morgoth đã tràn vào vùng đất phía tây - Falas. Đây cũng là lần cuối cùng đức vua Thingol dẫn quân ra ngoài lãnh thổ của Doriath. Từ sau, người Elves của Doriath chủ yếu chiến đấu để bảo vệ biên giới của họ cũng như những cửa sông quan trọng gần đó.Khi các Noldor trở về Trung Địa và thời gian đầu của kỉ đệ nhất, Thingol từ chối không cho họ xâm nhập vào lãnh thổ Doriath, trừ các người con của Finarfin, và vợ của Finarfin là con của Olwe, em trai ông.Trong suốt thời gian còn lại của kỉ đệ nhất, Doriath từ chối tham gia tất cả các cuộc chiến tranh, chỉ đến khi Beren, con trai của Barahir, vua của tộc người xuất hiện và nảy sinh tình yêu với con gái vua Thingol là Luthien, Doriath mới bị kéo vào cuộc chiến và dẫn đến sự diệt vong.
-Khi nhận thấy tình yêu của Beren dành cho Luthien, vua Thingol đã không đồng ý, trừ khi Beren có thể lấy được một viên ngọc Silmarils từ chúa tể hắc ám Morgoth. Đây là một nhiệm vụ tưởng chừng như bất khả thi, nhưng cuối cùng nhờ sự giúp đỡ của nhiều người, Beren cũng lấy được Silmarils về cho Thingol, sau cuộc chiến Muôn vàn nước mắt (Battle of Unnumbered Tears), chỉ còn 3 vương quốc Elf tồn tại là Nargothrond, Gondolin và Doriath. Nargothrond cũng bị tiêu diệt ngay sau đó trong câu chuyện về những đứa con của Hurin. Hurin, sau khi được Morgoth thả ra (ông bị bắt trong cuộc chiến muôn vàn nước mắt), ông đến Doriath và tặng Thingol một chuỗi vòng cổ Nauglamir, báu vật của Nargothrond. Thingol nhờ người lùn kết hợp Silmarils và Nauglamir làm một. Không cầm lòng được trước vẻ đẹp của báu vật này, người lùn đã giết vua Thingol và đánh cắp nó. Đau khổ trước cái chết của chồng, Melian gỡ bỏ phép thuật bảo vệ Doriath và bà trở về Aman. Giờ đây Doriath trơ trọi và có thể bị tấn công bất cứ lúc nào. Người lùn sau khi giết vua Thingol và ăn cắp báu vật bỏ chạy đã bị quân đội của Doriath đuổi theo và giết chết, chỉ một số bỏ chạy được và trở về nói với đồng loại rằng họ đã bị người Elff thảm sát. Quân đội người lùn quyết định tấn công Doriath trả thù. Cuộc chiến khốc liệt giữa Elf và Dwarves diễn ra tại thành phố nghìn hang đông với chiến thắng thuộc về người lùn. Họ cướp bóc và tàn phá cung điện của Thingol và lấy được báu vật Silmarils. Nhưng trên đường hành quân trở lại, họ bị phục kích bởi Beren và quân đoàn Green Elf và bị tiêu diệt, Silmarils được cướp lại. Dior, con trai của Beren trở về và làm vua của Doriath, sau khi Beren chết, Silmarils được giao cho Dior, nhưng những đứa con của Feanor không quên lời thề xưa, họ gửi tin cho Dior và muốn lấy lại Silmarils. Dior không trả lời, Celegorm liền khơi dậy hạ thù và tấn công vào Doriath. Dior cùng vợ đều hi sinh trong trận chiến, và cuối cùng vương quốc Doriath cũng bị diệt vong. Những người sống sót cùng Elwing, con gái Dior mang theo Silmarils trốn thoát. Họ sống trên cửa khẩu Sirion và chờ thời cơ phục quốc.

04.9.Mẹ Lucy và Dì Caliel
Nàng nghe tiếng thì thầm của Ellanda và Elrohir, Nàng lắng nghe tiếng thì thầm của âm thanh ngọt ngào ở Imladris, Nàng nghe tiếng thác nước đang đổ xuống dưới vách vực, Nàng nghe tiếng chim hót líu lo từ xa và tiếng cười vang như chuông bạc.
Ellanda: Anh không nhận ra khi Nàng ấy đến.
Elrohir: Mỗi ngày trôi qua, Nàng ấy giống dì Lucy hơn, làm thế nào chúng ta không nhận ra trước đây.
Elladan: Năng lượng ngọt ngào, bản chất bốc đồng, giọng nói dịu dàng trầm mặc nhưng ánh mắt pha lẫn niềm vui và nổi buồn ẩn giấu, dì Caliel và dì Lucy.
Elrohir: Khi mới đến dì Caliel không trông như dì Lucy, và theo thời gian, họ trở nên như nhau giống anh và em giống cặp Song Sinh, và cả Cirincendil, họ làm em khó tin rằng họ sẽ không có mối liên hệ nào.
Ellanda: Chúng ta sẽ điều tra điều đó.
Cirincendil bật cười khi nhớ lại cuộc trò chuyện cũ của hai người họ và cho tới buổi họp về thân phận gia đình Nàng mà diễn ra ở cuộc họp sau Cuộc Họp Nhẫn Chiến, Nàng ấy thở dài về gia đình phức tạp của Nàng, Nàng nhớ hai người là mẹ với dì, cả hai có năng lượng ngọt ngào tính cách Dũng cảm và đôi mắt xanh biểu cảm xinh đẹp, và câu chuyện về họ.Nàng tiếp tục cầm cuốn sách truyện lên đọc, Nàng sẽ rất vui khi họ có thể bất ngờ, Nàng mong họ bất ngờ. Lothlórien và Imladris rất tuyệt vời!

04.10.Công chúa Cirincendil
Nàng cầm quyển Nhật Ký và bút ghi chép, vừa những Glorfindel và Elrohir thi đấu kiếm với nhau, phần thưởng là bữa ăn Kẹo Tuyết Đường Trắng Thổ Nhĩ Kỳ mà Nàng đã được dạy bởi hai cậu hai mợ và mẹ cùng dì Nàng, Nàng ghi chép bằng cách vẽ lại khung cảnh Glorfindel chiến đấu chiến thắng cuộc chiến, anh ấy luôn kéo dài cuộc chiến với việc yêu thích sự hồi hộp cuộc chiến mang lại và việc quan sát rèn luyện những động tác chiến đấu mắc sai lầm của Elrohir vì cậu bé còn trẻ cần phải được chỉ dạy với anh ấy, và đôi khi Nàng sẽ dùng vai vế xã hội là gọi tên vì bối phận xưng hô cứ loạn cả lên, anh ấy thích sự hồi hộp cuộc chiến và Glorfindel kéo dài rồi luôn chiến thắng trước Elrohir, chưa ai thắng, những người mới đến xem để thấy cuộc thử thách kéo dài và học hỏi rèn luyện một điều mới.
Elladan (đang bắn cung và mũi tên vào hồng tâm): Nàng có muốn đến lượt bắn cung hay không?
Glorfindel (anh ấy mỉm cười nói sang khi vẫn tập trung vào Elrohir): Giữa hai người có ai thắng cuộc thi bắn cung chưa?
Elrohir Ellanda: Chưa!
C: Về thân phận, họ là, Dì Caliel và Mẹ Lucy. (Nàng thành công khiến Elladan bắn mũi tên bay trúng vòng thứ hai chệch hướng hồng tâm và Elrohir cầm thanh kiếm theo kịp đã chậm lại động tác). Họ sống ở Cung Điện Lâu Đài Cair Paravel ở Narnia, giống như Imladris hoặc Lothlórien, với thân phận phu nhân chức tước địa vị hoàng gia và Nữ Hoàng. Rồi. (Nàng cố tình dừng lại, mọi âm thanh xung quanh như ngưng lại với Nàng vì mọi người còn đang kinh ngạc khó nói lên lời, Nàng vẫn ghi chú sột soạt trên giấy theo nét chữ và sau đó là vẽ bức tranh dứt khoát về ý niệm nhưng thanh thoát theo từng đường nét rõ ràng tuyệt diệu). Nơi họ đến là một thế giới khác nữa với thân phận Con Người bình phàm, mẹ Lucy và dì Caliel vẫn sống với gia tộc của Helena với Anne mang tước vị hoàng gia trong cung, nên là từ nhỏ họ đã tự nhiên thể hiện bộc lộ nên được một khí chất như hoàng gia. Chỉ có một điều, đó là một gia tộc hoàng tộc nhà bà dì và bà ngoại, họ ở quốc gia hiện sống từ xưa nhưng đã hi sinh trong những cuộc chiến bảo vệ độc lập cả thắng lẫn thua cuộc thậm chí là lúc bị nạn xâm lăng từ đất nước dân tộc khác lên vùng đất quê hương, em đã từng xem Nhật ký của gia tộc được trên nhà mộ thờ tổ gia tộc là dòng họ hoàng gia, gia phả ghi chép của hoàng gia về bản thân gia tộc mình đúng là gắn liền với những sự kiện lịch sử lớn trong dân tộc từ thời đầu đến tận bấy giờ hiện tại ở thế giới đó, thân phận ở đó là Tước Vị được phong hào bởi hoàng gia theo kiểu hoàng thân quốc thích, bối phận theo gia tiên. (Nàng thở dài và tập trung ghi chép Nhật ký). Em có thể hiểu Estel, mang gánh nặng về trách nhiệm vai trò thân phận của mình và những nổi buồn mất mát từ dân tộc Dunedain của Númenor trên vai, với trách nhiệm này không nên trách dì Caliel và mẹ Lucy và em là con gái của Lucianna, nói đến thì phức tạp nhưng cũng dễ hiểu và nói chung thân phận này ở thế giới nào thì cũng đúng như thế. Từ Imare và Ingil, họ là Lucianna hay gọi là Lucy và Ingil, vẫn là thế; riêng dì Caliel dễ hiểu hơn, Nàng ấy là con gái bà dì Anne, họ bằng cách nào đó có sự lựa chọn là Tiên - Người qua các thế hệ nhờ Nanor cha của dì Caliel, do bất đắc dĩ, cả hai đã lựa chọn như Elwing. Nhưng dì Lilliandil và dì Susan chọn cưới hai vị vua con người phàm trần, rồi họ đã rời khỏi đến Vùng Đất của Con Người, tự do và không biết nữa. Còn dì Caliel và Mẹ Lucy thì sao? Chẳng ai biết họ sẽ đưa ra lựa chọn nào! Thực tế là lúc nhỏ họ được sơ tán khỏi cuộc chiến nhưng lại dính vào cả chục cuộc chiến khác ở vùng đất khác, và kiểu như thế nào họ vẫn không thoát được vai trò của mình đúng kiểu Con Vua và Nữ Hoàng thì lại là Vua và Nữ Hoàng, ban đầu có những gia thần giúp sức và càng lớn sức nặng trách nhiệm lớn lên họ cũng phải gánh vác một mình với tất cả những điều quý giá được dạy dỗ từ hai vị Giáo Sư ở A. và ba vị Gia Thần trong C.P.
Elrohir: Và em nói họ là chị em thực sự, tuy nhiên không phải song sinh, và thân phận thì kinh ngạc.
Elladan: Quan trọng là Cirincendil vì Nàng ấy là một công chúa chính thức thật sự, Nàng ấy chẳng nói gì cả ngoài trừ việc được chúng ta gọi Nàng là Nàng Tiên Từ Thế Giới Khác, Nàng ấy vẫn bình thản và thậm chí không nói gì cho tới ngày Cuộc Họp kể tuyên bố quan trọng về bí mật gia đình và bây giờ là bí mật nhỏ để chúng ta biết đầy đủ hoàn toàn về họ.
C: Em đã nghĩ sẽ không tiết lộ hoặc sẽ không nên ghi chép ở những nơi khác, không cho phép sao chép lại Nhật Ký của em hoặc bất cứ ghi chép nào về chúng ta, vì đây là một bí mật và em không muốn nó tồn tại trong những câu chuyện nào trong thời điểm từ trước tới bây giờ, kết quả là chị Artanis đã biết em lại ghi chép Nhật Ký và chỉ là sao chép hai cuốn duy nhất nhưng chỉ có Elrond cùng Artanis giữ lấy bí mật đến khi Círdan cũng sẽ rời đi trên con tàu mang tất cả Nhật ký và tất cả những quyển sách sử theo trở về, haiz và kết quả phụ huynh khiến câu chuyện tồn tại và sau này chắc nó sẽ chỉ là truyền thuyết thần thoại mở đầu lịch sử các dân tộc về tín ngưỡng nguồn gốc thất lạc của họ thôi chứ chẳng hơn. Về việc tại sao không nhận nhau bởi em và họ, thì là do em có một số việc không thể tiện nói, đây là chuyện riêng tư không phải bí mật khi em sống riêng khỏi họ từ nhỏ và có một bí mật là họ đã được quên chuyện quá khứ từ lâu như Con Người tái sinh ở kiếp sống khác, em buộc phải thế và lý do quan trọng là em không muốn màng đến để nói về nó.
L (tiến lại xoa đầu Nàng thở dài): Được rồi, em đã hoàn toàn nói ra hết mọi chuyện, chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi không giấu giếm phần nào nữa về điều này.
Và thế là những câu chuyện kể được hoàn thiện về gia đình họ, những bài hát bản nhạc về những gì họ làm ở thế giới này, và những câu chuyện kể về thế giới khác của Lucianna trong gia tộc của Người Lùn cũng đã được bổ sung kể chuyện, thật kỳ lạ.

05.Phòng Sinh Hoạt - Lò Sưởi - Năm 05

05.1.Sân tập và Đọc sách
Vẫn là ở ngoài sân tập, Laurefindil/ Glorfindel vẫn đang tập luyện cho Elladan và Elrohir, Estel vừa xem vừa học hỏi, Nàng vừa ăn kẹo ngọt vừa uống nhâm nhi tách trà thơm thảo dược và đọc sách.
Cirincendil (Nàng ấy vừa nhâm nhi trà vừa nghe anh ấy đã sửa xong những lỗi sai căn bản trong kỹ thuật chiến đấu của cặp song sinh cũng như thông qua đó huấn luyện dạy dỗ cho Estel): Tối nay, mọi người muốn ăn món ăn nào trong ba món em đã nói để em chuẩn bị, em đã chuẩn bị nguyên liệu sẵn rồi!
Laurefindil (anh ấy mỉm cười, vừa giả vờ thở dài kịch tính, vừa lo lắng về việc suy nghĩ nhiều tới hao tâm tổn trí của Nàng): Anh sẽ phải cố gắng đứng yên ăn nguyên bữa ăn tối, Elladan và Elrohir sẽ muốn lấy mất vị trí ngồi phù hợp và anh chắc chắn sẽ không thể đi nhanh hơn họ, mọi người sẽ luôn thích món ăn em nấu, (trong khi đó Estel bị Elladan trêu chọc bằng cách cù lét, tiếng cười vang lên khắp sân, Elrohir thì lấy hai ngón tay chọc hai bên má của Estel, tiếng cười vang vọng khắp sân ngân vang như chuông bạc lấp lánh), đúng là một năm tốt lành mà chúng ta có thể vui vẻ tận hưởng, bất cứ món nào em làm, anh đều thích, họ cũng vậy, Cirincendil, chúng ta mong tối nay tốt.

05.2.Trò chuyện bên lò sưởi
Estel: Cậu có chắc không? Chị ấy đã 17 tuổi khi tham gia tất cả cuộc chiến những cuộc phiêu lưu riêng mình, chị ấy chiến đấu với Wargs và Evil Witch, chị ấy có cuộc phiêu lưu đầu tiên khi 8 tuổi.
Elladan: Đúng vậy! Nhưng dì ấy sẽ không giống Estel, và Estel sẽ ở lại đây đến khi lớn, dì ấy 8 tuổi và Estel 7 tuổi nhưng phải lớn hơn nữa để tham gia bên ngoài Vùng Hoang Dã như nhiệm vụ chúng ta.
Elrohir: Đôi mắt xanh biểu cảm của Cirincendil hệt như dì ấy, nhưng có một số khác biệt tinh tế mà chúng ta cần có bức tranh chân dung Lucy và Caliel ở Imladris, nhưng chúng ta không có, Elladan; em đã tưởng tượng những bức tranh có nhiều ở vương quốc Người Lùn Erebor và Vương quốc Đất Rừng Eryn Galen, em từng nói Caliel và Lucy giống nhau đến mức là chị em song sinh không gần nhau hoàn toàn, hai người họ giống nhau rất nhiều; nhưng vì chưa có việc để hai người họ gặp nhau, bên ngoài chưa có sự liên quan nói chuyện chúng ta kể cả Ada để ý cố gắng phân biệt ra vấn đề mọi chuyện nhưng chưa phát hiện được sự giống nhau có ý nghĩa gì, chúng ta vẫn đang theo dõi để tìm hiểu kỹ sự liên quan nhau tìm hiểu về lý do của việc giống nhau đó; và sau đó Cirincendil đã nói ra bí mật với bộ dạng có vẻ không quan trọng, nhưng đó là bí mật giúp khám phá ra ý nghĩa mọi chuyện, bí mật chấn động quá!

05.3.Gặp lại Gia Đình - xưng hô chị em xã giao thành nhận lại mẹ con dì cháu - sau ba lần gặp nhau tại Sảnh Lửa ở Imladris
Trái tim của Cirincendil đập thình thịch khi Nàng được Laurefindil dắt tay bước vào phòng khách Imladris đang có Lucy và Ingil, Caliel và Haldir.
L: Tôi muốn chính thức cân nhắc lá thư viết xin phép mọi người tán tỉnh và hẹn hò em ấy, (mặt đỏ và tai ửng hổng), Cirincendil.
Ingil: Anh muốn gì cơ? Anh trông lớn tuổi hơn con bé, thực tế anh sinh ra những năm YT qua YS rồi tái sinh ở SA, chưa kể con bé chúng ta trông như đôi mươi nhưng sinh ra ở sau Cuộc Chiến Thịnh Nộ và tái sinh ở SA, anh vẫn thực sự lớn tuổi hơn con bé.
Haldir: Anh ấy thực sự là người tốt bụng yêu quý đáng mến nhất trong suốt Những Năm của Cây và Thời Đại Đầu Tiên, anh ấy lớn tuổi hơn con bé và việc chênh lệch tuổi tác thể hiện rõ ràng nổi bật, nếu con bé không chấp thuận đồng ý anh phải tin tưởng nhiều hơn để đi chặng đường dài chứng minh, nếu con bé đã chấp thuận anh thì tôi được thuyết phục.
Lucy: Ý tưởng để chấp nhận xin đồng tình về chúc phúc bất chấp tuổi tác, em thích ý tưởng về tuổi tác bất tử khi được ban đôi tai số phận Tiên tộc, như ý tưởng chúc phúc tán tỉnh tình yêu cho em của anh.
Caliel: Chỉ là vấn đề tuổi tác việc anh lớn hơn em thôi mà Haldir, mọi lý do để từ chối em do anh đặt ra để không gặp em đã sụp đổ dưới chân khi em lựa chọn anh cùng số phận của anh, em đã không quan tâm tới khoảng cách tuổi tác mà Haldir và thậm chí em đã phải như Elwing lựa chọn số phận này.
C: Ôi! Cuộc trò chuyện bày tỏ tình cảm của Cha Mẹ, con không quan tâm chuyện tuổi tác và con thích việc hẹn hò nhiều năm của chúng con khi anh ấy tán tỉnh con, con biết anh ấy yêu thương con từ lâu và con cũng yêu thương anh ấy như người vợ yêu thương tôn trọng kính mến người chồng.   
L: Anh nhất định quyết tâm sẽ có thể thuyết phục người lớn đồng ý tình yêu chúng ta.
Ingil: Con có sự chúc phúc của chúng ta!
Haldir: Con có sự chúc phúc của chúng ta!
Caliel: Con có sự chúc phúc của chúng ta!
Lucy: Con có sự chúc phúc của chúng ta!

05.4.Trò chuyện với Mẹ Lucy
Cirincendil: Mẹ Lucy!Con xin lỗi! Con cảm ơn!
Lucy: Được!Con ngồi xuống đây!Cirincendil!
Cirincendil (kể mọi chuyện từ lúc Nàng lên thuyền cùng Artanis, cho đến khi cả hai người trải qua ở "YT,YS,SA", sau đó vùi vào lòng mẹ): "Mẹ!!!".
Lucy: Vậy, và, hai đứa con đã hẹn hò lâu vậy?
Cirincendil (đỏ mặt): Vẫn chưa cưới được, mẹ ơi, thời gian chiến tranh Eldar không kết hôn ạ!
Lucy: Artanis và Celeborn! Đính ước, Đính hôn, Kết hôn! Họ cưới nhau thời gian dài.
Cirincendil: Họ có Cha Mẹ đại diện chúc phúc, con thì con chưa chịu vì chúng con chưa ra mắt Cha Mẹ, con cần được sự chúc phúc yêu thương của cả hai.
Lucy: Mẹ và Cha sẽ chúc phúc cho hai người.
Cirincendil: Thật sao?
Lucy: Được rồi! Con hãy yên tâm! Sẽ ổn thôi.

05.5.Trò chuyện với Dì Caliel
Cirincendil: Dì Caliel! Cảm ơn dì và Haldir.
Caliel: Được rồi! Con ngồi xuống đi! C.
Cirincendil: Mẹ Lucy của con, (kể lại mọi chuyện xảy ra từ đầu và sau đó nói quyết định của mẹ), và vâng vậy nên nói là mẹ con đã đồng ý việc kết hôn.
Caliel: Chúng ta đều đồng ý và chúc phúc.
Cirincendil: Con có nên vui mừng và ghi chép Nhật Ký của mình kỹ càng không, dì Caliel?
Caliel: Vào không khí ngọt ngào của mùa xuân, Kỷ niệm ngày cưới của hai chủ nhân Imladris là Elrond và Celebrían, chúng ta sẽ tổ chức đám cưới cho hai đứa và yên tâm đi.
Cirincendil: Gì cơ?
Caliel: Hai hôm trước, Glorfindel đã bày tỏ với Chúa Tể Elrond vì dù sao hai đứa đã trao tín vật định tình và món quà hôn nhân đính ước, cả hai thực tế đã đính hôn với sự đồng ý của Người Giám Hộ Chúa Tể Imladris. Cha và Dượng con bất chấp đánh nhau với Glorfindel đến khi anh ấy nói sẽ bất chấp đến thế giới khác với con một lần nữa dù hai đứa từng hiểu lầm giận nhau ở đó, vì con đã không chịu nói hết nổi đau chịu đựng kiên nhẫn tử tế của con, hôm qua chỉ là xác nhận lần nữa, chúng ta cần thử sự quyết tâm của anh ấy, cũng như có sự đồng ý chấp nhận kết hôn của con vì không ai muốn ép buộc con phải đồng ý khi con không thích.
Cirincendil:Vậy nên anh ấy nói "Anh nhất định quyết tâm sẽ có thể thuyết phục người lớn đồng ý tình yêu chúng ta." Haiz! Làm con phải lo lắng cả hai ngày đêm, con cứ muốn kết hôn rồi lùi bước muốn tạm hoãn, thực tế ba lần bảy lượt rồi.
Caliel: Con ép anh ấy phát điên, mà thôi, con hãy yên tâm vì chúng ta sẽ chuẩn bị tốt tất cả.

05.6.Nghiên cứu Sách Đỏ của Bilbo
Cuốn sách đỏ của biên Tây là cuốn sách thường được Bilbo Baggin dùng để ghi chép lại những câu chuyện và những hiểu biết của ông về Trung Địa có được thông qua những chuyến phiêu lưu đáng nhớ.
Ở phần mở chuyện đầu bộ phim The Hobbit: The Unexperted Journey cũng có cảnh Bilbo đang ngồi viết lại câu chuyện về Nhiệm vụ Erebor vào cuốn sách Đỏ này. Phần nhiệm vụ Erebor được Bilbo đặt tên là "Ở đó và lại quay trở về", nó được ông ta viết sau khi đã hoàn thành chuyến phiêu lưu và đang nghỉ ngơi ở xứ Shire.Vào đầu sự kiện xảy ra trong Chúa Nhẫn, Bilbo đã một lần nữa rời xứ Shire để đi phiêu lưu, đến lúc ở Rivendell, ông tặng quyển sách lại cho người cháu yêu quý của mình là Frodo Baggin. Sau khi Frodo thực hiện xong Nhiệm vụ tiêu hủy Nhẫn Chủ, anh ta cũng tiếp tục ghi chép thêm vào đó những câu chuyện kể về cuộc phiêu lưu của chính mình. Lúc này, chương mới của cuốn sách có tên là "Sự sụp đổ của Chúa tể những Chiếc Nhẫn và Sự trở về của Đức Vua".Về sau, có rất nhiều những truyền thuyết cổ đã được đưa Bilbo đưa thêm vào cuốn sách, bên cạnh đó còn có nhiều bài thơ và rất nhiều những thông tin thêm nói về lịch sử của các vương quốc Arnor, Gondor và Rohan được bổ sung bởi Peregrin Took và Meriadoc BrandyBuck.Sau khi Bilbo và Frodo lên đường tới thiên quốc Valinor thì cuốn sách đã được để lại cho Samwise Gamgee, thị trưởng của Hobbiton và cũng là người bạn thân thiết nhất của Frodo. Nó về sau trở thành 1 vật gia bảo của dòng họ Gamgee. Cuốn sách Đỏ của biên tây là một cuốn sách có ruột bằng loại giấy cổ và có bìa sách được làm từ da màu đỏ. Bên ngoài bìa sách có hình 1 ngôi sao và biểu tượng "BB" có nghĩa là Bilbo Baggin . Tolkien từng nói là những quyển sách được phát hành của ông đều được dịch lại từ Cuốn sách Đỏ của biên tây.
Nội dung của cuốn sách bao gồm như sau:
- Cuộc phiêu lưu của Bilbo: Anh chàng Hobbit
- Cuộc phiêu lưu của Frodo: Chúa tể những Chiếc Nhẫn
- Thông tin thêm: những phụ lục liên quan đến Chúa Nhẫn
- Những bài thơ và truyền thuyết của người Hobbit: Những cuộc phiêu lưu của Tom Bombadil, Fastitocalon
- Những phiên dịch của Bilbo về các truyền thuyết cổ: Huyền sử Silmaril Trong Cuốn sách Đỏ ở biên Tây, có rất nhiều những Phụ lục được đặt sau phần cốt truyện của Sự trở về của Đứa Vua, phần phụ lục này thường được đặt trong các ấn bản được phát hành của nhà văn Tolkien.
Phần phụ lục này cung cấp thêm cho độc giả nhiều thông tin có liên quan đến các chi tiết về nội dung hoặc nhân vật hay địa điểm trong tác phẩm Chúa tể những chiếc Nhẫn. Phần lớn trong đó đề cập đến Thời đại thứ 3 của Trung Địa và được phân loại theo thứ tự ký tự như sau:
Phụ lục A là phần đầu tiên của loạt phụ lục ghi chép những thông tin thêm về các chi tiết trong Chúa tể những Chiếc Nhẫn. Riêng phần A này có nói nhiều về nguồn gốc của các vua chúa và các bậc trị vì của các vương quốc lớn ở Trung Địa bao gồm
- Các vị vua của Numenor: bao gồm những câu chuyện về người Numenor và vương quốc của họ, các đời vua ở đây, cho đến sự ra đi của Elendil và sự ra đời của vương quốc Arnor tại Eriador, Trung Địa, rồi đến những người thừa kế của dòng dõi Isildur và Anarion. Chuyện tình của Aragorn với Arwen cũng được chép lại ở đây.
- Gia tộc Eorl: nói về nguồn gốc của vương quốc Rohan và một danh sách các đời vua của Rohan.
- Dòng dõi của Durin: kể về nguồn gốc những người Dwarves dòng dõi Durin.
Phụ lục B là phần thứ 2 trong loạt phụ lục thuộc Cuốn sách Đỏ của biên Tây . Phần này có nội dung chính là nói về những sự kiện nổi bật đã diễn ra vào Thời đại thứ 2 và thứ 3 ở Trung Địa.
Phụ lục C là phần thứ 3 trong loạt phụ lục thuộc Cuốn sách đỏ của biên Tây. Phần này có nội dung quan trọng nói về các gia tộc và các dòng họ người Hobbit nổi tiếng như dòng họ Baggins, dòng họ Tooks, dòng họ BrandyBucks và cả dòng dõi gia đình của Sam Gamgee.
Phụ lục D là phần thứ 4 trong loạt phụ lục thuộc Cuốn sách Đỏ của biên Tây với nội dung là nói về lịch năm của người Hobbit ở xứ Shire.
Phụ lục E là phần thứ 5 trong loạt phụ lục thuộc Cuốn sách Đỏ của biên Tây, nó có nội dung bao gồm các giới thiệu về các bản ghi chép và những ngôn ngữ.Chi tiết nội dung bao gồm:
1. Phát âm của một số từ và tên riêng
2. Ghi chép
- Ký tự ngôn ngữ Angerthas
- Ký tự ngôn ngữ Tengwar
Phụ lục F là phần thứ 6 trong loạt phụ lục thuộc Cuốn sách Đỏ của biên Tây có nội dung chính bao gồm các ghi chép về những ngôn ngữ và những chủng tộc xuất hiện tại Trung Địa như
- Elves
- Loài Người
- Người Hobbits
- Các chủng tộc khác bao gồm Ents, Orcs, Trolls, Dwarves

05.7.Eriador Xứ Shire
Xứ Shire được biết tới như là quê hương của những Người Hobbits ở Thời đại thứ 3 của thế giới. Shire là một vùng đất nhỏ nằm ở phía Tây Bắc của Trung Địa, thuộc địa phận của Eriador và từng là một phần lãnh thổ của Arnor, Vương quốc phía Bắc. Shire cũng là một nơi hiếm hoi thuộc Eriador có được sự yên bình trong một thời gian dài và mật độ dân số tại đây cũng khá đông.Thật ra, những người Hobbits ban đầu thì sống ở vùng phía Tây của Dãy Núi Sương Mù.Họ sống ở đó hàng nhiều thập kỷ cho đến khi phải sơ tán đến Dunland bởi những mối đe dọa từ các thứ ma quỷ của Rừng Âm U và cả những rắc rối tới từ Người Easterl. Từ Dunlend, họ chuyển đến xứ Shire và định cư ở đây vào khoảng năm 1601 của thời đại thứ 3 (tức là năm thứ nhất theo lịch của người Hobbit).Shire ban đầu là một phần lãnh thổ của Arnor và vẫn được biết tới như là bãi săn của các Đức vua Arnor. Về sau, đức Vua Argeleb II tại Norbury đã cho phép những người Hobbit được quyền tới đây để khai hoang và định cư lâu dài. Bởi thế mà những người Hobbit ở Shire vẫn giữ truyền thống kính vọng các đức vua của Arnor. Trong trận chiến lớn giữa vương quốc Arnor và vương quốc Angmar, xứ Shire đã cử một nhóm quân của họ đến để trợ giúp cho nhà vua. Sau sự sụp đổ của Arnor, Shire vẫn tồn tại như là một vùng đất nhỏ bé và độc lập. Nhiều người ở Trung Địa còn không biết tới sự hiện diện của nó.Sự yên bình của xứ Shire có chút thay đổi sau khi Bilbo Baggin tình cờ có được Chiếc Nhẫn Chủ. Không lâu sau khi Gandalf khám phá ra bí mật của Chiếc nhẫn, Bộ Chín Nazgul của Chúa tể bóng tối Sauron đã xuất hiện tại Hobbiton và sau đó thì nơi đây đã bị đánh chiếm bởi người của Saruman. Xứ Shire được giải phóng bởi sự giúp sức từ Frodo, Sam, Merry và Pippin, những người hùng Hobbit trở về sau khi kết thúc nhiệm vụ tiêu hủy Nhẫn Chủ. Về sau, Vua Aragorn II Elessar đã công nhận xứ Shire như là một phần của Đại vương quốc Gondor, nơi đây được trở nên an toàn dưới sự bảo hộ của Đại vương quốc.Toàn bộ xứ Shire được chính thức chia ra làm 4 Tổng là Đông, Tây, Nam, Bắc, nhưng về sau thì còn có thêm cả vùng Buckland và cả vùng đầm lầy phía Tây. Trong mỗi Tổng thì lại chia thành vài khu đất dòng họ, trong số đó vẫn còn mang tên của một vài gia tộc lớn mà tiêu biểu là gia tộc Took.Ở Shire hầu như không có một dạng chính quyền nào.Các gia tộc hầu hết tự quản chuyện riêng của họ. Thời mà vương quốc Arnor vẫn còn tồn tại thì người Shire đều nghe theo lệnh và tuân theo những bộ luật mà các đức vua đề ra. Sau khi Arnor sụp đổ, họ vẫn giữ sự tôn kính đối với nhà vua nhưng đã sớm trở thành 1 vùng đất cách biệt và độc lập. Trong thời kỳ đầu thì ở Shire có một chức danh cao nhất có tên gọi là Thain. Các Thain được biết tới như là những thủ lĩnh của người Shire nhưng chỉ có vai trò lớn trong thời kỳ chiến tranh. Sau một thời gian dài sống trong yên bình, người Hobbit dần dần không còn coi trọng vai trò của các Thain nữa nhưng những gia tộc từng nắm giữ chức danh này vẫn có được sự tôn trọng hơn trong cộng đồng người Shire.Ở thời đại về sau, quan chức thực sự ở Shire là Thị trưởng, chức danh này cứ 7 năm được bầu một lần ở Hội Chợ Tự Do trên khu Đồi Trắng vào ngày Hạ Chí. Chức vụ Thị trường này có nhiệm vụ gần như duy nhất là chủ trì các buổi đại tiệc được tổ chức vào các ngày lễ đặc biệt. Ngoài nhiệm vụ chính như vậy thì Thị trưởng còn là người quản lý cả công việc thư tín lẫn công việc cảnh giới cho vùng đất.Ở Shire không có quân đội. Họ chỉ có một lực lượng bảo vệ na ná như các đội dân quân ở nông thôn. Đội dân quân này vốn không có vũ khí gì khác ngoài gậy gộc và súng cao su. Đối tượng quan tâm của họ thường là thú hoang đi lạc chứ không phải là Người.Shire là một vùng đất nhỏ nhưng màu mỡ và trù phú. Đây là một vùng đất rất thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn thả. Rất nhiều những đặc sản nông nghiệp chất lượng có thể được tìm thấy tại đây. Sau một thời gian dài yên bình và cách biệt với thế giới bên ngoài, xứ Shire ngày càng trở nên tươi đẹp và an bình. Cuộc sống của người dân vô cùng đơn giản xoay quanh các việc chính như tiệc tùng, lễ hội, trồng trọt và tán ngẫu. Ở Shire, các lễ hội diễn ra liên tục trong một năm và các đồ ăn thức uống để dùng trong các bữa tiệc thì luôn luôn có thừa ở vùng đất này. Người Hobbit luôn thích vui chơi và ăn uống hơn là đọc sách hay đánh đấm.

05.8.Cây Tiệc Tùng
Cây Tiệc Tùng là một cây lớn nằm ở trung tâm Mảnh đất Tiệc Tùng, ở phía Nam của Bag End ở Hobbiton. Nó được cho là cây dẻ gai hay cây sồi, cũng như những cây khác ở xứ Shire. Một mái lều đã được dựng lên quanh Cây Tiệc Tùng và nó nằm ở đầu chiếc bàn chính trong Bữa Tiệc Sinh Nhật Chia Tay Của Bilbo và những chiếc lồng đèn được treo trên các cành của nó. Bilbo đã làm một trong số những bài diễn văn dài nổi tiếng của ông dưới cái cây này trước khi rời khỏi xứ Shire.Sau cuộc Nhẫn Chiến, Samwise Gamgee trở về xứ Shire vào tháng Mười Một năm 3019 Thời kỳ thứ ba và trông thấy cái cây đã bị đốn hạ dưới mệnh lệnh của Saruman và bị bỏ ở đó ngay giữa mảnh đất. Cái cây đã được dời đi sau Cuộc Thanh Tẩy xứ Shire, và thay thế cho cái cây trước kia, Sam trồng xuống một hạt bạc được Công Nương Galadriel trao cho cậu. Vào mùa xuân năm 3020 Thời kỳ thứ ba, chồi non đầu tiên của một cây Mallorn đã mọc lên từ đất xứ Shire. Nó là cây mallorn duy nhất mọc ngoài khu rừng vĩ đại Lórien, và những người thuộc chủng tộc Người và Tiên đi hàng dặm đường từ khắp mọi miền đến để chiêm ngưỡng nó.Người ta nghĩ rằng Tolkien lấy ý tưởng của mình từ một cây liễu treo mình phía trên hồ chứa nước ở Sarehole, Warwickshire, nước Anh.
"Chúng đã đốn nó rồi' Sam kêu lớn. 'Chúng đã đốn Cây Tiệc Tùng rồi!' Cậu chỉ về nơi mà cái cây từng đứng, cái nơi mà Bilbo đã đọc bài Diễn Văn Chia Tay bên dưới. Nó đang nằm trên mảnh đất, đã chết và bị đốn trụi cành... Như thể giọt nước tràn ly, Sam òa lên khóc". -Sự Trở Về của Đức Vua(tiểu thuyết), Cuộc Thanh Tẩy xứ Shire, một sự cố cụ thể vẫn nằm trong ký ức của ông: "Từng có một cây liễu treo mình phía trên hồ chứa nước (ở Sarehole) và tôi đã học cách leo nó. Nó từng thuộc về một người bán thịt trên Đường Stratford, tôi nghĩ thế. Một ngày nọ họ đốn nó đi. Họ chẳng làm gì với nó cả: khúc gỗ chỉ nằm đó mà thôi, tôi không bao giờ quên chuyện đó."-J.R.R.Tolkien: A Biography

05.9.Athelas từ Thiên Nhiên
Athelas là một loại thảo mộc, còn được gọi là Kingsfoil hoặc Asëa Aranion, chúng mọc rộng khắp Trung Địa.Athelas được mang đến Trung Địa bởi những người Númenór, nhưng vào cuối Thời kì thứ ba những kiến thức về dược tính của nó đã bị thất truyền ở mọi giống loài trừ những tuần du phương Bắc và người Tiên, và chúng thường được hầu hết mọi con người và hobbit cho là loại cỏ vô dụng. Theo như tập quán cổ xưa ở Gondor,  nó đặc biệt có công dụng mạnh trong tay của vua chúa. Nó được dùng bởi Aragorn khi anh bí mật đi vào Minas Tirith trên chuyến trở về của mình về Gondor để chữa cho những người (chẳng hạn Merry) bị Hơi Thở Đen chạm đến, hành động này đã nâng cao danh tiếng của anh và giúp anh giữ vững ngai vàng của mình. Một giai điệu truyền thống xưa của những người Gondor về athelas là:

Khi Hơi Thở Đen thổi qua
và bóng đen của cái chết lớn dần
và mọi ánh sáng đã vụt tắt,
đến đây nào athelas! Đến đây nào athelas!
Mang sự sống cho kẻ đang chết
Nằm trong lòng bàn tay của vua!

Aragorn cũng đã dùng athelas để làm dịu cơn đau từ vết thương của Frodo khi cậu bị đâm bởi một lưỡi kiếm Morgul ở khu cắm trại ở Đỉnh Weather. Hương thơm của lá athelas cũng giúp làm thư giãn tâm trí của các hobbit khác. Athelas cũng được dùng sau khi Hội Đồng Hành vượt qua Moria khi Aragorn chăm sóc vết thương của Frodo và Sam. Sau Trận chiến trên cánh đồng Pelennor, Aragorn đã dùng athelas trong Y Viện để hồi sinh Faramir, Éowyn và chàng hobbit Merry, những người bị cái bóng của Hơi Thở Đen làm hại. Một số người ở Gondor dùng nước sắc của athelas để trị những cơn nhức đầu. Cụm từ Athelas được tạo nên từ những từ tiếng Sindarin là athaya (hữu ích, có lợi) và lass (). Trong tiếng Quenya, từ lasse cũng có nghĩa là "". Trong những ngôn ngữ khác: tiếng Anglo- Saxon æðele ("cao quý") và tiếng Pháp Cổ foil ().Athelas cũng được dùng bởi Huan và Lúthien để chữa trị vết thương của Beren ở đoạn đầu bài thơ Lay of Leithian. Điều này mâu thuẫn với thông tin trong Chúa tể những chiếc nhẫn rằng nó được mang đến Trung địa bởi người Númenór, vậy nên hoặc là điều đó được chỉnh sửa bởi Tolkien ở các phiên bản sau của bộ legendarium của ông, hoặc là athelas đã mọc ở Beleriand trước khi nó bị tiêu diệt, và một lần nữa được mang về Trung Địa bởi bàn tay những con người Númenór vào Thời kì thứ hai.Kingsfoil cũng được nhắc đến trong A Wizard of Earthsea của Ursula K. Le Guin, như là một loại thảo dược trong túp lều của phù thủy làng Gont.

05.10.Món quà của Yavanna
"That is the fairest of all the dwellings of my people. There are no trees like the trees of that land. For in the autumn their leaves fall not, but turn to gold. Not till the spring and the new green opens do they fall, and then the boughs are laden with yellow flowers; and the floor of the wood is golden, and golden is the roof, and its pillars are of silver, for the bark of the trees is smooth and grey."—Legolas - To see other uses of 'Lothlórien see also: Lothlórien (disambiguation).Lothlórien was a forest located in Middle-earth, next to the lower Misty Mountains. It was first settled by Nandorin elves, but later enriched by Ñoldor and Sindar, under Celeborn of Doriath and Galadriel, daughter of Finarfin.Two places in Arda were known as Lórien, and both were exceptionally beautiful. The first was the gardens of the Vala Irmo in Valinor (Irmo was usually called Lórien as well). The second was Lothlórien, where Galadriel dwelled during the events of The Lord of the Rings.

06.Phòng Khách - Bàn chuyện - Năm 06

06.1.Vùng Đất Eregion của Noldor
Eregion hay Hollin từng là một vương quốc của Người Elves dòng Noldor trong gần suốt Thời đại thứ 2 của thế giới. Vương quốc này có vị trí rất gần Cổng phía Tây của vương quốc Dwarves Khazad-dum, những người Elves tại đây đã duy trì được mối quan hệ tình bạn vô cùng hiếm có với những người Dwarves dòng dõi Durin. Cư dân của 2 vương quốc đều có chung đam mê là chế tác và sáng tạo báu vật, họ cũng được tự do qua lại thăm viếng và trao đổi với nhau.Eregion từ năm 750 của Thời đại thứ 2 được trị vì bởi 2 vợ chồng lãnh chúa Celeborn và Galadriel , họ sống cùng nhau tại kinh đô Ost-in-Edhil. Sau năm 1350, cả 2 người đều thực hiện hành trình vượt qua Dãy Núi Sương Mù để tới Lothlorien, họ chọn nơi đó làm vương quốc mới để trị vì.Cũng từ năm đó, quyền trị vì Eregion được để lại cho một nhóm thợ rèn có nguồn gốc Noldor, người đứng đầu trong số họ là Celebrimbor, một hậu huệ cuối cùng thuộc gia tộc Feanor tại Trung Địa. Ở thời điểm này trong vương quốc đã có sự hiện diện của Annatar, Người ban phát những Món quà, vua Celebrimbor chơi rất thân với nhân vật huyền bí này. Cùng với nhau, họ tạo ra 16 chiếc nhẫn sức mạnh. Có thêm 3 chiếc khác được Celebrimbor bí mật làm ra và không để cho Annatar được biết.Khi mà về sau, chân tướng của Annatar được phát hiện ra như là Sauron, Celebrimbor cùng với những người của mình đã nỗ lực ngăn chặn Những chiếc Nhẫn Sức Mạnh rơi vào tay của Chúa tể bóng tối nhưng họ chỉ thành công giải cứu được 3 chiếc là : Vilya, Narya và Nenya. Về sau chính Eregion đã bị chinh phạt và tiêu diệt trong Cuộc chiến giữa Elves và Sauron vào năm 1697 của Thời đại thứ 2.Những người còn sống sót sau trận chiến đã phải di rời đến các vương quốc còn lại của người Elves như Lothlorien hay Lindon, trong khi một số khác lại đi theo Elrond và sáng lập ra Imladris (Rivendell).Tại Thời đại thứ 3, vào khoảng thời gian mà Đoàn Hộ Nhẫn đến gần tới Khazad-dum, họ có đi qua vùng đất ngày xưa của vương quốc Eregion, mà trong tiểu thuyết có nhắc đến với cái tên là Vương quốc Nhựa Ruồi. Không khí ở đây được miêu tả là rất dễ chịu nhưng gần như chẳng còn ai sinh sống, khắp vùng đất này chỉ còn lại đống phế tích của những thành phố bị tàn phá và sót lại một vài thân cây thần minh chứng cho vinh quang của thuở xa xưa.Tên gọi Eregion hay Hollin được cho là lấy từ tên của một giống cây thần đặc trưng của vương quốc này.

06.2.Báu Vật của Celebrimbor
Celebrimbor là một hoàng tử Elf thuộc tộc Ñoldor, là hậu duệ cuối cùng của gia tộc Fëanor còn sót lại ở Middle-earth. Ông cai trị vương quốc Eregion và chính là người rèn nên ba chiếc Nhẫn Elves Quyền lực.Celebrimbor là con trai của Curufin. Curufin đứng thứ năm trong số bảy con trai của Fëanor (người tạo ra ba viên Silmaril trứ danh). Trong Kỷ thứ Nhất, Celebrimbor sống cùng cha ở Nargothrond, nhưng ông hoàn toàn không tham gia vào vụ tranh chấp đẫm máu của Curufin và Celegorm với Lúthien, Beren và Finrod (liên quan đến viên Silmaril). Ông không đồng tình với những việc làm của cha và chú, ông không đi theo khi Curufin và Celegorm bị trục xuất ra khỏi Nargothrond.Sau khi Nargothrond bị rồng Glaurung tàn phá, ông lánh nạn tới vương quốc Gondolin và trở thành một thợ rèn châu báu tin cậy của vua Turgon.Trong Kỷ thứ Hai, Celebrimbor sống ở Eregion và bắt đầu giao thiệp với những Người Lùn ở vương quốc Khazad-dûm (Moria). Cùng với Người Lùn Narvi, ông đã đúc nên Những Cánh cửa của Durin để bảo vệ cho Moria từ phía tây.Năm 1500 Kỷ thứ Hai, Sauron ẩn mình dưới cái tên Annatar ('Chúa tể của quà tặng') và bắt đầu kiếm cách làm quen với các Elves Ñoldor của vùng Eregion. Hắn tự xưng là sứ giả của các Valar, đặc biệt là của thần thợ rèn Aule, hắn muốn truyền cho họ nghệ thuật đúc nhẫn. Celebrimbor không tin hắn, nhưng các thợ rèn ở Eregion thì bị mắc mưu và đã rèn cho hắn nhiều chiếc nhẫn, họ không biết rằng chỉ dẫn của hắn còn hàm chứa ma thuật đối với những chiếc nhẫn này.Năm 1600 Kỷ thứ Hai, bản thân Sauron đã bí mật rèn ra chiếc Nhẫn Chúa có khả năng điều khiển tất cả những chiếc nhẫn thấp hơn. Nhờ vậy, hắn có thể chế ngự những kẻ đeo những chiếc nhẫn kia, và tiến tới chiếm lấy cả Middle-earth. Khi Sauron đeo chiếc Nhẫn Chúa vào tay và tuyên bố sự thống trị với tất cả những chiếc Nhẫn Quyền lực khác, các Elves mới nhận ra bộ mặt thật và ý đồ của hắn.Celebrimbor và các Elves ở Eregion chống lại hắn bằng cách không đeo những chiếc nhẫn kia và giấu chúng đi. Ba chiếc Nhẫn Quyền lực mạnh nhất (sau Nhẫn Chúa) do chính tay Celebrimbor rèn nên: Vilya – Nhẫn Khí, Narya – Nhẫn Lửa, và Nenya – Nhẫn Nước. Vì vậy Sauron chưa từng được cầm chúng và hắn cũng không tha hóa được chúng. Tuy nhiên ba chiếc Nhẫn Elves vẫn phải chịu một sự ràng buộc nhất định với chiếc Nhẫn Chúa. Celebrimbor bí mật gửi chúng cho người khác để giữ an toàn cho chúng: Vilya và Narya gửi cho vua Gil-galad ở Lindon, Nenya gửi cho Galadriel.Sauron trả đũa bằng cách tấn công vào Eregion và tận diệt vương quốc. Hắn bắt được Celebrimbor và tra tấn ông nhằm tìm ra chỗ giấu những chiếc nhẫn kia, nhất là ba chiếc Nhẫn Elves mà hắn vẫn thèm khát. Không chịu nổi sự hành hạ tàn khốc, Celebrimbor đã khai ra chỗ giấu của mười sáu chiếc nhẫn kém hơn. Sauron chiếm lấy chúng và đưa bảy chiếc cho Người Lùn, chín chiếc cho Con Người để thuần phục họ.Tuy nhiên, Celebrimbor nhất quyết không khai ra chỗ giấu ba chiếc Nhẫn Elves. Ông chết trong sự tra tấn, kéo theo sự kết thúc của dòng trực hệ từ Fëanor (trừ Maglor, chú ruột của ông, con trai của Fëanor, mà không ai biết rõ kết cục ra sao sau khi đánh cắp viên Silmaril). Thi thể của Celebrimbor bị bắn đầy tên và bị treo lên một chiếc cọc để thị uy khi quân Sauron tấn công vào các Elves.Celebrimbor là một trong những thợ rèn tài ba nhất của Middle-earth, có lẽ Celebrimbor được thừa hưởng tài năng từ ông nội là Fëanor. Ông đã tự tay rèn nên ba chiếc Nhẫn Elves Quyền lực mà không có sự can thiệp của Sauron. Theo một số nguồn, ông còn rèn một bản sao của viên ngọc Elfstone để làm quà cho Galadriel, người mà ông vẫn thầm thương trộm nhớ.

06.3.Vùng Đất Thợ Tiên năm xưa
CHIẾC NHẪN VILYA: Trong thần thoại của Tolkien, Tam nhẫn của người Elf là những cổ vật được rèn tại vương quốc Eregion. Chúng là những chiếc nhẫn mạnh nhất sau Nhẫn Chúa trong số 20 chiếc nhẫn sức mạnh.Tam nhẫn đã được tạo ra bởi Celebrimbor sau khi Sauron, trong vỏ bọc của Annatar, đã rời bỏ Eregion. Những chiếc nhẫn quyền lực này đã thoát khỏi sự ảnh hưởng của Sauron, do hắn đã không thể tác động vào việc làm ra chúng; tuy nhiên chúng vẫn được rèn bởi Celebrimbor bằng nghệ thuật mà Sauron dạy cho ông ta và do đó chúng vẫn còn ràng buộc với Nhẫn Chúa. Sau khi nhận ra ý định của Sauron, người Elf giấu Tam Nhẫn khỏi sự kiểm soát của hắn. Chúng được đưa ra khỏi Trung Địa vào cuối kỷ thứ 3, sau khi Nhẫn Chúa bị tiêu hủy.Chiếc nhẫn thứ 3, Vilya, được làm bằng vàng và trang trí bằng một viên bảo lục ngọc. Tên có nguồn gốc là Vilya, trong tiếng Quenya có nghĩa là không khí. Nó cũng được gọi là Nhẫn Gió, Nhẫn Thiên đàng hoặc Bảo lục Nhẫn. Vilya được coi là mạnh nhất trong 3 chiếc nhẫn (như đã đề cập trong chương kết thúc của Sự trở về cua Đức vua). Sức mạnh chính xác của Vilya là gì thì không được đề cập, tuy nhiên sẽ là hợp lý khi suy đoán rằng nó sở hữu sức mạnh để chữa lành vết thương và để duy trì sức khỏe (được đề cập trong Huyền sử Silmaril rằng Celebrimbor đã rèn Tam Nhẫn để chữa lành và để duy trì, chứ không phải là để tăng cường sức mạnh của mỗi người đeo nhẫn như Thất Nhẫn, Cửu Nhẫn và Nhẫn Chúa làm được). Có một số suy đoán rằng những chiếc nhẫn kiểm soát các nguyên tố cơ bản, ví dụ như việc Elrond đã triệu hồi một dòng nước khi Nazgul cố gắng bắt Frodo.Khi Sauron làm cho Eregion trở nên hoang tàn, Vilya đã được gửi đến Đại đế Gil-galad nằm sâutrong Lindon, nơi nó được đưa cho Elrond, người mang nó vào những năm cuối Kỷ thứ 2 và suốt Kỷ thứ 3. Khi Gil-galad là Đức vua tối cao dòng Noldor tại thời điểm phát tán những chiếc nhẫn thì người ta nghĩ rằng ông là người phù hợp nhất để cầm chiếc nhẫn mạnh nhất trong Tam Nhẫn. Sau khi tiêu diệt Sauron, sức mạnh của Vilya đã mờ nhạt đi và nó đã được Elrond đem theo khi vượt biển vào cuối Kỷ thứ 3.
CHIẾC NHẪN NARYA: Trong thần thoại của Tolkien, Tam nhẫn của người Elf là những cổ vật được rèn tại vương quốc Eregion. Chúng là những chiếc nhẫn mạnh nhất sau Nhẫn Chúa trong số 20 chiếc nhẫn sức mạnh.Tam nhẫn đã được tạo ra bởi Celebrimbor sau khi Sauron, trong vỏ bọc của Annatar, đã rời bỏ Eregion. Những chiếc nhẫn quyền lực này đã thoát khỏi sự ảnh hưởng của Sauron, do hắn đã không thể tác động vào việc làm ra chúng; tuy nhiên chúng vẫn được rèn bởi Celebrimbor bằng nghệ thuật mà Sauron dạy cho ông ta và do đó chúng vẫn còn ràng buộc với Nhẫn Chúa. Sau khi nhận ra ý định của Sauron, người Elf giấu Tam Nhẫn khỏi sự kiểm soát của hắn. Chúng được đưa ra khỏi Trung Địa vào cuối kỷ thứ 3, sau khi Nhẫn Chúa bị tiêu hủy.Chiếc nhẫn đầu tiên là Narya, được trang trí bằng một viên hồng ngọc. Cái tên có nguồn gốc là từ Nar, trong tiếng Quenya có nghĩa là lửa. Nó cũng được gọi là Narya vĩ đại, Nhẫn Lửa và Hồng Nhẫn.Theo Những câu chuyện dang dở, thời điểm bắt đầu cuộc chiến giữa người Elf và Sauron, Celebrimbor đã đưa Narya cùng với chiếc nhẫn Vilya cho Gil-galad, Đức vua tối cao dòng Noldor ở Trung Địa. Gil-galad giao Narya cho tướng lĩnh của ngài là Cirdan, Chúa tể của vùng cảng Mithlond, người sẽ giữ nó sau cái chết của Gil-galad. Theo Chúa Nhẫn thì Gil-galad chỉ nhận được Vilya, trong khi Cirdan nhận được Narya ngay từ đầu cùng với việc Galadriel nhận Nenya.Trong kỷ thứ 3, Cirdan, nhận ra bản chất thật của Gandalf như là một trong những Maiar đến từ Valinor, đã đưa cho ông chiếc nhẫn để giúp hỗ trợ hơn trong công việc của mình. Nó được mô tả là có khả năng truyền cảm hứng cho những người khác để chống lại sự độc tài, sự thống trị và tuyệt vọng (nói cách khác là gợi lên niềm hy vọng ở những người xung quanh), cũng như đưa ra sự phản kháng chống lại quyền năng lão hóa của thời gian "Hãy nhận chiếc nhẫn ... dành cho những công việc và mối quan tâm nặng nhọc, nhưng nó sẽ hỗ trợ ông và bảo vệ ông khỏi mệt mỏi. Bởi vì đây là Nhẫn Lửa, và cùng với nó, biết đâu được, ông sẽ nhen nhóm lại những trái tim hướng tới dũng cảm của tuổi già trong một thế giới đang trở nên lạnh lẽo" _ trích lời của lãnh chúa Cirdan.Việc tặng Nhẫn Narya của lãnh chúa Cirdan cũng là đầu mối gây hiềm khích giữa Gandalf và Saruman, người đứng đầu nhóm phù thủy Istari và tự cho là chính mình mới xứng đáng được sở hữu chiếc nhẫn. Gandalf cũng bởi lí do này mà thường không đeo nhẫn trên tay, ông chỉ công khai nó khi ở tại Bến Cảng Xám.
CHIẾC NHẪN NENYA: Trong thần thoại của Tolkien, Tam nhẫn của người Elf là những cổ vật được rèn tại vương quốc Eregion. Chúng là những chiếc nhẫn mạnh nhất sau Nhẫn Chúa trong số 20 chiếc nhẫn sức mạnh.Tam nhẫn đã được tạo ra bởi Celebrimbor sau khi Sauron, trong vỏ bọc của Annatar, đã rời bỏ Eregion. Những chiếc nhẫn quyền lực này đã thoát khỏi sự ảnh hưởng của Sauron, do hắn đã không thể tác động vào việc làm ra chúng; tuy nhiên chúng vẫn được rèn bởi Celebrimbor bằng nghệ thuật mà Sauron dạy cho ông ta và do đó chúng vẫn còn ràng buộc với Nhẫn Chúa. Sau khi nhận ra ý định của Sauron, người Elf giấu Tam Nhẫn khỏi sự kiểm soát của hắn. Chúng được đưa ra khỏi Trung Địa vào cuối kỷ thứ 3, sau khi Nhẫn Chúa bị tiêu hủy.Nenya là chiếc nhẫn thứ 2, được làm bằng Mithril và trang trí bằng một viên Bạch ngọc hoặc có lẽ là một viên kim cương. Cái tên của nó có nguồn gốc là Nen, trong tiếng Quenya có nghĩa là nước. Nó cũng được gọi là Nhẫn kim cương, Nhẫn Nước và Bạch Nhẫn.Chiếc nhẫn được nắm giữ bởi nữ hoàng Galadriel xứ Lothlorien, và nó rất rạng rỡ giống như các ngôi sao; trong khi Frodo Baggins có thể nhìn thấy nó bằng phẩm chất của một Người mang Nhẫn thì Samwise Gamgee nói với Galadriel rằng là anh ta chỉ đang nhìn thấy một ngôi sao trên các ngón tay của bà.Sức mạnh của Nenya là duy trì và bảo vệ mọi thứ tại Lothlorien khỏi thế lực tà ma, tuy nhiên, thực tế là lũ Orcs từ Moria đã vẫn thâm nhập được vào Lothlorien sau khi Đoàn hộ Nhẫn tới đây và cũng như là khi Sauron cử lực lượng xâm lược từ Dol Guldur. Sức mạnh của chiếc nhẫn lên khía cạnh quân sự là không rõ ràng nhưng không thể phủ nhận được những quyền năng khác của nó. Người ta nói rằng, nếu được bảo vệ bởi Nenya, Lothlorien sẽ không thất thủ trừ khi Sauron với Nhẫn Chúa trong tay đích thân tấn công. Galadriel đã sử dụng các sức mạnh từ chiếc nhẫn để tạo ra các quyền phép giúp bảo vệ Lothlorien, nhưng nó cũng làm tăng lên trong bà nỗi khao khát về biển và mong muốn trở về Vùng đất Bất tử.Sau sự hủy diệt của Nhẫn Chúa và sự thất bại của Sauron, sức mạnh của nó đã bị suy giảm cùng với những chiếc nhẫn sức mạnh khác. Galadriel mang Nenya trên một con tàu từ Bến Cảng Xám hướng về phía Tây, cùng với 2 chiếc nhẫn Elf còn lại và cả những chủ nhân của chúng. Cùng với việc chiếc nhẫn đã ra đi, sự kỳ diệu và vẻ đẹp của Lothlorien cũng phai nhạt dần cùng với sự sinh trưởng bất thường của các cây Marloon (ngoại trừ một cây do Sam trồng ở Hobbiton đã sống trong nhiều thế kỷ), chúng đã giảm dần về số lượng, cho đến thời điểm Arwen đến đó để chết vào năm 121 của kỷ thứ 4. Sau thời điểm đó, Lorien đã bị bỏ hoang và trở nên đổ nát.
CHIẾC NHẪN CHỦ: Chiếc Nhẫn Một , Nhẫn Chủ  hay chiếc Nhẫn của Sauron, là chiếc mạnh nhất trong số những chiếc nhẫn phép thuật và là báu vật có quyền lực lớn nhất trên khắp cõi Trung Địa.Chiếc Nhẫn Chủ được tạo ra bởi chúa tể bóng tối Sauron trong những ngọn lửa của núi Doom vào thời đại thứ 2 của thế giới.Ý định của Sauron trong việc tạo ra chiếc nhẫn là muốn tăng cường thêm sức mạnh cho chính mình vào thời điểm mà ông ta cho rằng là đã đến lúc để giành quyền thống trị ở khắp Trung Địa. Sauron muốn có khả năng điều khiển được 19 chiếc nhẫn sức mạnh khác, những chiếc mà được tạo ra bởi Celebrimbor với sự trợ giúp từ chính Sauron.Để làm được việc này , Sauron đã cho vào chiếc nhẫn một phần linh hồn của mình,từ đấy, chiếc Nhẫn Chủ tự bản thân nó đã trở thành một phần của Sauron,càng về sau thì sức mạnh của chúa tể bóng tối lại càng bị lệ thuộc vào chiếc nhẫn. Chiếc Nhẫn Chủ chỉ đơn thuần là một vòng tròn phẳng phiu bằng vàng nguyên chất , trong số những chiếc nhẫn phép thuật thì chính chiếc Nhẫn Chủ lại có hình dạng bên ngoài đơn giản nhất nhưng nó lại là chiếc khó phá hủy nhất.Những chiếc nhẫn phép còn lại có thể bị thiêu hủy bởi lửa Rồng nhưng riêng chiếc nhẫn Chủ lại chỉ có thể bị phá hủy bằng cách ném nó vào trong lòng ngọn lửa của núi Doom,nơi đã tạo ra nó.Không giống như những chiếc nhẫn khác thường được đính kèm theo những viên ngọc quý có tác dụng dễ dàng nhận diện ra chúng thì chiếc Nhẫn Chủ lại có 1 đặc điểm nhận diện cực kỳ đặc biệt ; đó là khi nóng ,nó hiện ra một dòng chữ được khắc lên đó theo ngôn ngữ Đen của xứ Mordor "Ash nazg durbatulûk, ash nazg gimbatul,
Ash nazg thrakatulûk, agh burzum-ishi krimpatul " — "Một Nhẫn Chúa thống trị tất cả, một Nhẫn Chúa tìm ra hết, Một Nhẫn Chúa tập hợp tất cả, trong bóng tối trói buộc hết."Dòng chữ này cũng chính là những lời nói tiêu biểu mà mọi người hay dùng để ám chỉ về chiếc Nhẫn Chủ,chiếc nhẫn của chúa tể bóng tối Sauron.Đây cũng chính là những lời mà Sauron đã thốt ra ngay sau khi hoàn thành chiếc nhẫn trong lòng núi Doom.Những lời này bị một người khác nghe thấy ,đó là Celebrimbor,ông vua của người Elves xứ Eregion,người đã tạo ra 19 chiếc nhẫn phép thuật dưới sự trợ giúp của Sauron.Bằng khả năng đặc biệt,Celebrimbor đã nghe được những lời nói của Sauron và may mắn nhận ra được ý đồ đen tối của hắn ta. Ông cùng với những người Elves đã quyết định không sử dụng những chiếc nhẫn phép thuật của mình để tránh bị chiếc Nhẫn Chủ của Sauron điều khiển.Chiếc nhẫn được tạo ra xuất phát từ mục đích chính là để điều khiển được những chiếc nhẫn phép thuật còn lại nên nó có bao gồm cả khả năng điều khiển sức mạnh và ý chí của những chủ nhân đeo chúng. Ngoài ra, Chiếc nhẫn chủ thậm chí còn có khả năng chi phối ý chí của cả những người mới chỉ nghe hoặc nhìn thấy nó. Tuy nhiên ,một sức mạnh khác của chiếc nhẫn lại được chú ý đến nhiều hơn đó là khả năng làm tăng sức mạnh tự nhiên cho chủ nhân của nó. Người nào càng có khả năng điều khiển được chiếc Nhẫn thì lại càng có thể tận dụng được nhiều sức mạnh hơn từ nó.Chính vì vậy mà sức mạnh của chiếc Nhẫn là vô cùng thâm sâu ,tuy nhiên,một điều là cho dù bất cứ ai đeo nó thì sức mạnh của người đó cũng sẽ không thể vượt qua được Sauron,chủ nhân đã tạo ra chiếc Nhẫn. Sauron là người duy nhất có thể làm chủ được hoàn toàn chiếc Nhẫn,khi kết hợp với ông ta,chiếc Nhẫn tạo ra một sức mạnh kinh hồn gây khiếp sợ cho các kẻ thù của chúa tể bóng tối. Một người trần khi đeo chiếc Nhẫn sẽ có khả năng tàng hình,thậm chí cả những người bất tử khi đeo nó cũng có thể có khả năng này.Chiếc nhẫn còn giúp cho những người đeo nó có khả năng chống lại được sự lão hóa tự nhiên.Gandalf từng giải thích rằng chiếc Nhẫn không cho thêm sự sống mới mà nó chỉ đơn thuần là kéo dài sự sống nhưng lại làm cạn kiệt sức sống của người đeo nó.Chiếc nhẫn không có khả năng bảo vệ cho những ai đeo nó thoát khỏi những cái chết được gây ra bởi sự hủy diệt từ các yếu tố bên ngoài (bị đá đè, lửa đốt hay do bị giết ... ); Chính Gollum cũng đã chết trong lòng núi Doom trong khi đang vẫn đang cầm chiếc Nhẫn , và thậm chí là cả chính Sauron, người duy nhất làm chủ hoàn toàn được chiếc Nhẫn ,cũng đã không thể bảo toàn được thân xác của mình khỏi đợt bão tố hủy diệt hoàn toàn đế chế Numenor.Cũng tương tự thì chiếc Nhẫn cũng không thể bảo vệ những chủ nhân của nó tránh khỏi những vết thương vật lý như trong trường hợp của Frodo hay chính Sauron,Frodo đã bị thương nặng từ vết đâm của Witch-King còn Sauron thì đã bị Isildur chém đứt ngón tay đeo nhẫn.Một sức mạnh nữa của chiếc Nhẫn đó là khả năng bào mòn linh hồn của con người. Tiêu biểu là trường hợp của bộ Chín,họ từng là 9 vị vua của loài người,mỗi người đều có cho mình một chiếc nhẫn phép thuật nên họ đã bị Nhẫn chủ điều khiển thông qua đó .Chiếc nhẫn đã cám dỗ và làm tăng thêm lòng tham cũng như những tật xấu của họ và dần biến họ thành những Ma Nhẫn bất tử. Tuy nhiên, những người Hobbit lại có vẻ có khả năng chống lại được sức mạnh này của chiếc Nhẫn,nó không biến họ thành Ma Nhẫn ,điều này được thể hiện thông qua trường hợp của Gollum.Những người đeo nhẫn còn có khả năng bước một thế giới linh hồn đặc biệt,chính là thế giới,nơi mà Frodo có thể nhìn thấy được những hình dáng linh hồn của các Ma Nhẫn .Ở thế giới này,những Ma nhẫn có thể nhìn thấy được Frodo ngay cả khi anh ta đang tàng hình. Ngoài những sức mạnh chính đó ra thì chiếc Nhẫn còn có rất nhiều những khả năng khác được miêu tả rải rác trong các cuốn tiểu thuyết.Ở LothLorien,chiếc nhẫn trong tay của Frodo đã từng chứng tỏ cho thấy rằng nó có thể cho phép chủ nhân của nó có khả năng đọc suy nghĩ và thần giao cách cảm với người khác sau gợi ý từ Galadriel. Khi SamWise Gamgee đến gần tòa tháp đen của Mordor, anh đã nhận ra là chiếc Nhẫn có thể giúp anh nghe và hiểu được ngôn ngữ Đen của loài Orcs.Một khả năng nữa của chiếc Nhẫn đó là tạo ra những cái bóng tạo ảo giác giả lên những chủ nhân của chúng .Nó có thể biến cái bóng của Samwise trông như của một chiến binh khổng lồ và mạnh mẽ giúp anh có thể dọa đuổi được lũ Orc trong tòa tháp Cirith Ungol.Hay trong trường hợp tại núi Doom, khi Frodo và Sam bị tấn công bởi Gollum thì Frodo đã đeo chiếc Nhẫn vào và khiến cho Gollum có cảm tưởng như người anh đang được che phủ bởi một chiếc áo khoác trắng được che phủ bởi những vòng lửa .Trong đoạn này,chiếc Nhẫn còn tự nói với nó về một sự tiên đoán cho cái chết của Gollum.Chiếc nhẫn luôn coi Sauron là chủ nhân đích thực của nó,nên vì thế mà nó sẽ xu hướng lôi kéo những chủ nhân tạm thời của nó đến gần với chúa tể bóng tối, hay nói đúng hơn là nó tìm mọi cách để được trở về với Sauron.Càng gần Sauron thì sức mạnh và ý chí của chiếc Nhẫn lại càng tăng lên,nó có thể làm giảm tầm nhìn,sức chịu đựng của những chủ nhân tạm thời,hoặc khiến cho trái tim họ đau đớn như bị dao khứa.Bất chấp những sức mạnh như vậy thì quyền lực của chiếc Nhẫn cũng không phải là tuyệt đối vượt trội.Minh chứng rõ ràng là Sauron với 3 lần sở hữu nó trong tay đã thất bại trong 3 cuộc chiến lớn,2 lần là với đế chế Numenor và 1 lần là với Liên minh cuối cùng giữa Người và Elves. Gandalf từng nói rằng vào cuối thời đại sẽ không có một anh hùng nào hay một thế lực nào có thể chống lại được Sauron nếu như ông ta có lại được chiếc Nhẫn,nhưng cuối cùng vào thời đại này, chiếc Nhẫn đã hoàn toàn bị tiêu hủy, điều này có nghĩa là bản thân Sauron cũng đã bị mất đi một phần linh hồn của mình.Kế hoạch thống trị Trung Địa của ông ta đã chính thức tiêu tan Tính từ thời điểm bắt đầu được tạo ra cho đến thời điểm bị hủy diệt,chiếc Nhẫn Chủ đã trải qua thời gian tồn tại gần 5000 năm và nằm trong tay của nhiều chủ nhân khác nhau.Với chiếc Nhẫn,Sauron luôn là chủ nhân đích thực của nó,tuy nhiên nó cũng không giúp cho chủ nhân của mình tránh khỏi những thất bại nặng nề trong những cuộc chiến với loài Người hay loài Elves.Năm 1700 của thời đại thứ 2, liên minh Numenor – Elves được dẫn dắt bởi vua Tar-Minastir và Đại đế loài Elves Gil-galad, đã đánh bại quân đội của Sauron và ép ông ta phải quay trở về Mordor.Tới năm 3261 của thời đại thứ 2, vị vua cuối cùng và cũng là vị vua mạnh mẽ nhất trong lịch sử đế chế Numenor, Ar-Pharazôn đã dẫn theo một đạo quân khổng lồ và thiện chiến cập bờ Umbar để chiến đấu với  Sauron.Đạo quân ở thời kỳ đỉnh cao của đế chế Numenor với số lượng và sức mạnh áp đảo đã giành chiến thắng trước chúa tể của Trung Địa. Sauron đã chủ động đầu hàng đức vua Ar-Pharazôn và được áp tải về Numenor.Tại đây,hắn chiếm được lòng tin của khá nhiều người, chiếc Nhẫn cũng vì thế mà ở lại đây với hắn nhưng không một ai nhận thức được sự nguy hiểm của nó.Chính Sauron đã kích động,chia rẽ khiến cho những người Numenor quay lưng lại với những Valar và có chiều hướng ngả về với chúa tể bóng tối Melkor.Hành động này khiến cho những Valar hết sức tức giận,họ nhấn chìm đế chế Numenor hùng mạnh xuống biển sâu,cùng thời điểm, bất chấp việc có được chiếc Nhẫn,thân xác của Sauron cũng vẫn bị tiêu diệt cùng với sự sụp đổ của Numenor. Mặc dù thân xác đã bị tiêu hủy nhưng linh hồn của Sauron vẫn có khả năng mang chiếc Nhẫn quay trở lại Trung Địa. Tại đây,ông ta tái tạo lại được một thân xác mới và tiến hành kêu gọi,tập hợp lại được một đội quân lớn. Trong trận chiến với liên minh cuối cùng của Người và Elves vào năm 3429 của thời đại thứ 2, Sauron đã đeo chiếc Nhẫn trong cuộc chiến cuối cùng,sức mạnh của nó giúp cho Sauron giết được Đại đế Gil-galas và Đức vua Ealendil ,chiến thắng đã nằm trong tầm tay nhưng trong một khoảnh khắc bất ngờ,Isildur đã dùng lưỡi kiếm gãy Narsil để chém rời chiếc nhẫn ra khỏi tay của Sauron. Sức mạnh của Sauron bị phân tán và đành chấp nhận thất bại nặng nề trước liên minh Trung Địa.Chiếc nhẫn sau đó rơi vào tay của Isildur,ông ta bị giết không lâu sau khi sở hữu chiếc nhẫn.Chiếc nhẫn kể từ đó mất tích và thất lạc trong khoảng hơn 2000 năm cho đến khi một người Hobbit có tên Deagol tình cờ phát hiện ra trong lúc đi câu cá.Người bạn và cũng là họ hàng của anh ta là Smeagol đã bị hấp lực của chiếc Nhẫn điều khiển,hắn giết và cướp chiếc Nhẫn từ tay Deagol.Dưới ảnh hưởng của chiếc Nhẫn,Smeagol dần biến thành một sinh vật quái dị được biết tới với cái tên là Gollum.Chiếc nhẫn,mà một phần linh hồn của Sauron ở trong đó, đã khéo léo điều khiển Gollum tới gần được dãy núi Mù Sương gần pháo đài Dol Guldur, nơi mà Sauron đã bắt đầu xuất hiện trở lại trong hình dáng của một Pháp sư gọi hồn. Nhưng chiếc nhẫn chưa đến gần được Sauron thì đã bị rơi vào tay của một người Hobbit khác chính là Bilbo Baggins.Bilbo Baggin đã tình cờ nhặt được nó trong hang động của Gollum.Chiếc Nhẫn có đóng góp đáng kể cho Bilbo trong cuộc hành trình trở lại Erebor với nhóm người Dwarves của Thorin.Chiếc nhẫn vẫn song hành cùng với Bilbo cho đến tận lần sinh nhật thứ 111 của ông, tại buổi tiệc,Bilbo đã dùng nó và tàng hình ngay trước mắt của tất cả khách khứa, điều này gây ra sự chú ý của Gandalf. Vị phù thủy đã có sự nghi ngờ,ông đã đến nói chuyện với Bilbo và khuyên ông ta nên từ bỏ chiếc nhẫn.Bilbo thoát khỏi hấp lực của chiếc nhẫn,ông để chiếc nhẫn lại cho người cháu của mình là Frodo Baggins.Sau này Gandalf đã lại xuất hiện trước Frodo,ông ném chiếc nhẫn vào lửa và trong sức nóng,một dòng chữ đã hiện ra; sau khi đọc được dòng chữ ,Gandalf đã khẳng định nó đúng là chiếc nhẫn của chúa tể bóng tối Sauron.Để tránh được sự truy lùng của Sauron,Frodo đã mang chiếc Nhẫn rời khỏi xứ Shire để lên đường tới Rivendel.Trong hành trình của mình,chiếc Nhẫn đã không giúp cho Frodo thoát được cặp mắt của những Ma Nhẫn.Trên đỉnh Weather,Frodo đã đeo chiếc Nhẫn vào tay,các Ma Nhẫn cảm ứng rất mạnh với sự hiện diện của chiếc Nhẫn,chúng dễ dàng phát hiện và nhìn thấy Frodo.Sau khi đến Rivendel, chiếc Nhẫn đã được hội đồng của Elrond bàn bạc rất kỹ về số phận của nó.Cuối cùng,hội đồng đã quyết định là để cho Frodo mang nó đến những ngọn lửa của núi Doom,nơi duy nhất có thể tiêu hủy được nó.Vậy là chiếc Nhẫn lại tiếp tục đồng hành với Frodo,trên hành trình,chiếc Nhẫn không dễ dàng để có thể điều khiển được Frodo nhưng khi càng đến gần Mordor, sức ảnh hưởng của nó lại càng lớn.Nó làm kiệt quệ sức chịu đựng của Frodo,gieo vào đầu anh ta những suy nghĩ nghi ngờ và sở hữu.Nó cũng khiến cho anh gặp rắc rối khi phải đối phó với âm mưu nhằm đoạt lại chiếc nhẫn của Gollum. Ở thời điểm cuối cùng khi ở ngay trong lòng núi Doom,chính Frodo cũng đã bị hấp lực của chiếc Nhẫn mê hoặc,phải nhờ vào sự tấn công của Gollum mà anh mới hạ đủ quyết tâm phá hủy chiếc Nhẫn.Trong một trận giằng co,Frodo cùng Sam đã xô ngã được Gollum cùng chiếc nhẫn xuống dòng lửa ,chiếc nhẫn Chủ và Gollum đã bị dòng lửa tiêu hủy ngay sau đó. Sự tiêu hủy hoàn toàn của Chiếc nhẫn đã dẫn tới sự phát nổ của núi Doom khiến cho cả một vùng Mordor bị nhấn chìm trong lửa và nham thạch.Phần lớn lực lượng và công trình của Mordor bị tiêu hủy ngay lập tức, Sauron cũng biến mất.Sự hủy diệt của chiếc Nhẫn đánh dấu một thắng lợi gần như tuyệt đối của các dân tộc tự do ở Trung Địa trước chúa tể bóng tối Sauron.Mất chiếc nhẫn,Sauron sẽ gần như không thể phục hồi được sức mạnh của mình và rất khó để lại có thể gây nguy hiểm đối với các dân tộc Trung Địa. Chiếc nhẫn đã từng qua tay của 1 vài chủ nhân.4 người trong số họ có kết cục bi thảm,đấy là những trường hợp như của Sauron (4 lần bị tiêu diệt và đánh bại), Isildur (bị trúng bẫy chết không lâu sau khi có được chiếc nhẫn), Deagol (bị Smeagol giết chết ngay sau khi tìm thấy chiếc nhẫn) và Gollum (bị đày đọa và cuối cùng là bị dòng lửa của núi Doom thiêu tan cùng với chiếc nhẫn). Frodo Baggin, một chủ nhân khác của nó cũng phải chịu nhiều gian nan,khổ sở,dính nhiều vết thương cả về thể xác lẫn tinh thần trong suốt hành trình tiêu hủy nó.Tuy nhiên, cái kết của anh cũng như của Bilbo Baggin và Samwise Gamgee lại tốt hơn so với 4 chủ nhân kia. 3 người là Frodo,Bilbo và Sam đã đều sống sót,họ còn được các Valar cho phép được đến với thiên quốc Valinor như là những trường hợp cực kỳ hiếm hoi đối với những người trần.Tại Valinor,những vết thương cả về tinh thần lẫn thể xác của họ sẽ được chữa lành,họ sẽ được ra đi trong sự yên bình thần thánh dưới sự che chở của những Valar.

06.4.Ký ức câu chuyện Gil - Galad
Gil-galad hay Ereinion Gil-galad, con trai của Orodreth, là một Tiên thuộc tộc Ñoldor. Ông là Đức vua tối cao thứ sáu và cuối cùng của người Ñoldor ở Trung địa. Ông có nhiều biệt hiệu như Đại đế của các Tiên phương Tây, Vua của người Eldar, Vua của Lindon, Chúa tể của các Thượng tiên và Lãnh chúa Eriador.Gil-galad là người quyền lực nhất trong Tiên tộc và được cả người Ñoldor và Sindar kính nể. Đó là lý do ông được xem như Đức vua tối cao của Tiên tộc ở Trung địa. Gil-galad và Elendil đã lập nên Liên minh cuối cùng của Tiên và Người, và ông lãnh đạo toàn thể Tiên tộc chiến đấu chống lại Sauron vào thời kỳ đó. Cái chết của ông đã đặt dấu chấm hết cho thời đại của những vương quốc của các Tiên Ñoldor tại Trung địa, mặc dù nhiều người Ñoldor vẫn còn ở lại Imladris vào Kỷ Đệ Tam.
-Kỷ Đệ Nhất: Gil-galad được sinh ra vào khoảng thế kỷ thứ năm Kỷ Đệ Nhất. Ông và em gái Finduilas là con của Orodreth và một tiên nữ Sindar phương Bắc. Khi trận chiến Dagor Bragollach bắt đầu cuộc phản công của Morgoth diễn ra, ông vẫn còn là một đứa trẻ. Do đó cha ông đã gởi Gil-galad cùng mẹ đến lánh nạn tại cảng Falas của Círdan. Sau khi thành Minas Tirith thất thủ, con đường Sirion đã thuộc về quân đội của Morgoth tuy nhiên chúng vẫn bị cầm chân bởi các vương quốc Hithlum và Nargothrond hùng mạnh. Sau Trận chiến Muôn vàn nước mắt, Hithlum sụp đổ do đó không còn thế lực nào có thể cản bước quân thù. Chúng cũng thừa thế bao vây và đánh chiếm cảng Falas. Círdan, Gil-galad cùng nhiều Tiên khác phải lên thuyền rút chạy về đảo Balar. Họ cũng thành lập một cảng nhỏ tại cửa sông Sirion. Trong trận chiến Muôn vàn nước mắt, Đức vua Fingon hy sinh, quyền thừa kế thuộc về em trai ông là Turgon. Khi thành Gondolin sụp đổ, Gil-galad tiếp nhận vương vị và trở thành Đức vua tối cao của người Ñoldor. Tuy nhiên ông cùng Círdan vẫn nương náo tại đảo Balar và cảng Sirion cho đến thời điểm diễn ra Trận chiến Thịnh nộ đánh dấu sự kết thúc của Kỷ Đệ Nhất.
-Kỷ Đệ Nhị:Sau khi Beleriand bị phá hủy trong Trận chiến Thịnh nộ, Gil-galad thành lập vương quốc Lindon ở xa về phía Tây Bắc của Trung địa, nằm giữa dãy núi Lam và Biển Lớn quanh Vịnh Lhûn và sau đó các thành phố cảng Forlond, Harlond và Mithlond cũng được xây nên. Nhiều Tiên gồm cả người Ñoldor và Sindar đã tụ họp về dưới trướng của ông. Vào thời kỳ đỉnh cao của vương quốc, lãnh thổ của nó trải dài đến tận dãy núi Sương mù và bìa Tây của Rừng Xanh Vĩ Đại. Nhưng rồi lại xảy ra bất hòa giữa những người Ñoldor và nhiều người đã theo Celebrimbor rời Lindon lập nên vương quốc Eregion, mặt khác cũng do họ biết được mithril đã được phát hiện ở Khazad-dûm. Bên cạnh đó, một bộ phận dân Sindar và rất nhiều Tiên Nandor không muốn sống cùng người Ñoldor do tội ác họ từng gây ra và đã di cư về phương Đông đến Lothlórien hay Rừng Xanh.Khi người của hoàng tử Númenor Aldarion đến Trung địa, họ thiết lập mối giao hảo với các Tiên. Vào năm 882 Kỷ Đệ Nhị, Gil-galad trao cho hoàng tử lá thư gởi cho phụ vương là Đức vua Númenor Tar-Meneldur. Ông cảnh báo nhà vua rằng bóng tối đang trỗi dậy ở phương Đông và cầu xin sự giúp đỡ. Khi Aldarion trở thành vua Tar-Aldarion của Númenor đã tặng cho Gil-galad những những hạt giống cây mallorn. Tuy nhiên chúng không mọc được ở vùng đất của ông nên Gil-galad đã tặng lại cho Galadriel trước khi bà rời Lindon. Bà gieo chúng ở Lindorinand và khi những cây mallorn mọc lên, mảnh đất này được gọi là Lothlórien nghĩa là xứ Lorien Hy Vọng.Vào khoảng năm 1000 Kỷ Đệ Nhị, Sauron, dưới cái tên Annatar - "Thần Ban tặng" có ý định dụ dỗ tộc Tiên nhưng Gil-galad và Círdan không tin tưởng và khước từ hắn. Tuy nhiên Sauron lại được hoan nghênh ở vương quốc Eregion và thế là những chiếc Nhẫn quyền lực được tạo ra. Khoảng năm 1600 Sauron đúc chiếc Nhẫn Chủ. Đến năm 1695 hắn lộ rõ bộ mặt và tấn công vùng Eriador, bắt đầu cuộc chiến của tộc Tiên và Sauron. Celebrimbor cứu được Bộ Ba nhẫn và giao cho Gil-galad giữ Narya cùng Vilya trong khi Nenya được bảo vệ bởi Galadriel.Sauron nhanh chóng chiếm được Eregion. Lực lượng Lindon dưới quyền Elrond được Gil-galad gửi đến cứu viện quá trễ và do quân số ít họ cũng phải rút về phía Bắc, nơi Elrond đã lập nên Imladris để cố thủ. Khi Sauron tung toàn lực tấn công Lindon hắn cũng cẩn thận để một đội quân mạnh phía sau để cầm chân Elrond.Cuộc chiến diễn ra đến khi một hạm đội người Númenor cập bến Lindon. Với sức mạnh của quân liên minh, Sauron bị đẩy lùi và bại trận gần Sarnford và buộc phải rút lui về Tharbad để củng cố lực lượng. Nhưng chỉ huy của người Númenor là Tar-Minastir (lúc này vẫn chưa lên ngôi vua) đã đưa hạm đội xuôi dòng Gwathló đánh thọc sườn quân của Sauron và giành thắng lợi hoàn toàn. Sau cuộc chiến, tộc Tiên không còn bị mối nguy Sauron đe dọa suốt một thời gian dài. Trong thời gian này, Gil-galad đã giao hai chiếc nhẫn Narya và Vilya cho những người thân tín của mình là Círdan và Elrond.Sau khi vương quốc Númenor sụp đổ, Elendil cùng các con đến Trung địa và thành lập vương quốc Gondor ở phương Nam và Arnor ở phía Bắc. Gondor bị tấn công bởi Sauron và Isildur con trai của Elendil phải chạy về phương Bắc. Sau đó Gil-galad đem quân giúp đỡ Elendil và cùng nhau họ lập nên Liên minh cuối cùng của Tiên và Người.Mất vài năm để Liên minh xây dựng lực lượng nhưng rồi một khi sức mạnh đã đủ, họ hùng dũng hành quân đến Mordor và đánh bại kẻ thù trong trận chiến Dagorlad. Họ vượt qua đèo Cirith Gorgor và bao vây tháp Barad-dûr. Cuộc bao vây kéo dài bảy năm và đến những phút cuối Sauron buộc phải lộ diện. Bằng sức mạnh của mình, Chúa tể bóng tối phá được vòng vây và quân của hắn tiến về sườn Orodruin. Tại đó hắn mặt đối mặt với Elendil và Gil-galad. Sauron bị đánh bại nhưng cả Gil-galad và Elendil đều hy sinh trong trận chiến. Trong bức thư tịch mà Isildur để lại Minas Tirith trước khi khởi hành về phương Bắc, ông có viết rằng Gil-galad bị giết bởi sức nóng từ bàn tay của Sauron.Thế là Gil-galad trở về Sảnh đường của thần Mandos mà không có vợ con, vì vậy dòng dõi những vị vua Ñoldor ở Trung địa cũng chấm dứt tại đây và Círdan trở thành lãnh chúa tiếp quản Lindon và Cảng Xám. Gil-galad là một từ trong tiếng Sindar có nghĩa là "Ánh sao rực rỡ". Tên ông trong tiếng Quenya là Artanáro có nghĩa "Ngọn lửa mãnh liệt". Trong tiếng Sindar, Artanáro dịch thành Rodnor. Ban đầu, Ereinion bị nhầm lẫn thành tên khai sinh của ông thay vì danh hiệu. Nghĩa là "Dòng dõi các vị vua".

06.5.Chiếc Nhẫn Barahir
" There King Finrod Felagund, hastening from the south, was cut off from his people and surrounded with small company in the Fen of Serech; and he would have been slain or taken, but Barahir came up with the bravest of his men and rescued him, and made a wall of spears about him; and they cut their way out of the battle with great loss. Thus Felagund escaped, and returned to his deep fortress of Nargothrond; but he swore an oath of abiding friendship and aid en every need to Barahir and all his kin, and in token of his vow he gave to Barahir his ring."—Trích The Silmarillion, Of the Ruin of Beleriand and the Fall of Fingolfin. Chiếc Nhẫn của Barahir, nguyên là Chiếc Nhẫn của Felagund, vốn là một bảo vật Elf được Finrod Felagund tặng cho Barahir để cảm ơn cứu mạng trong trận Dagor Bragollach. Từ đó về sau, chiếc Nhẫn được người Edain lưu giữ như một vật gia truyền trong những Kỉ tiếp theo.Chiếc Nhẫn được mô tả giống như hai con rắn có mắt bằng ngọc lục bảo quấn vào nhau, dưới vòng vương miện bằng hoa vàng mà một con rắn nâng lên và một con rắn ngoạm lấy. Đó là biểu tượng của Gia tộc Finarfin. Đôi khi, viên ngọc như cháy lên ngọn lửa xanh biếc.Chiếc Nhẫn được người Noldor rèn ở Valinor và thuộc quyền sở hữu của vị Chúa Elf Finrod Felagund. Ông mang nó đến Trung Địa khi tộc Noldor rời khỏi Valinor, cùng với những báu vật khác mà ông đem đi khỏi Tirion. Ông đeo chiếc Nhẫn này khi trị vì ở vương quốc Nargothrond. Trong Trận chiến ngọn lửa bất ngờ (Dagor Bragollach), một Con Người có tên Barahir, thuộc Dòng dõi Bëor, đã cứu mạng Finrod, và ông đã tặng Barahir chiếc Nhẫn này như một tín vật cho tình bạn vĩnh cửu giữa Finrod và gia tộc của Barahir. Barahir đeo chiếc Nhẫn này suốt đời, cho đến khi bàn tay đeo nhẫn của ông bị tên Gorgol Đồ tể, cầm đầu một toán Orc, chặt mất trong khi chúng giết ông. Beren, con trai ông, đã trải qua rất nhiều gian nguy để báo thù cho cha và đoạt lại bàn tay này. Beren an táng bàn tay của cha cùng với những di vật còn lại, nhưng giữ chiếc Nhẫn và tiếp tục đeo nó.Khi Beren lãnh sứ mạng đi tìm viên ngọc Silmaril, chàng tới vương quốc Nargothrond và dùng chiếc Nhẫn như một tín vật để cầu xin sự giúp đỡ của Finrod. Finrod giữ lời hứa năm xưa, giúp đỡ Beren và bỏ mạng trong hầm tối của Tol-in-Gaurhoth (Đảo Người Sói) mà ông đã chính tay xây nên.Chiếc Nhẫn được truyền trực hệ từ Beren đến Dior, rồi đến con gái Dior là Elwing, đến con trai Elwing là Elros. Elros mang chiếc Nhẫn đến Númenor, và nó trở thành vật gia truyền của các vị Vua Númenor, cho đến khi Vua Tar-Elendil không truyền lại Nhẫn cho người nối ngôi Tar-Meneldur, mà lại truyền cho con gái đầu lòng Silmariën, người không được phép nối ngôi. Nàng lại truyền chiếc Nhẫn cho con trai là Valandil, vị Chúa tể thành Andúnië đầu tiên. Chiếc Nhẫn được truyền tiếp cho các vị Chúa tể hậu duệ thành Andúnië cho đến người cuối cùng trong số những Người Trung Thành (những cư dân Númenór luôn trung thành với ý nguyện của các Valar). Nhờ vậy, nó tránh khỏi sự Sụp đổ của Vương quốc Númenór và theo những Người Trung Thành chạy thoát đến Trung Địa.Trong Kỉ Đệ Tam (KĐT), chiếc Nhẫn tiếp tục được truyền trực hệ từ Elendil, vị Chúa tể thành Andúnië cuối cùng, cho các vị Vua của Arnor, rồi các vị Vua của Arthedain cho đến vương quốc này tan vỡ. Vị Vua cuối cùng của Arthedain, Arvedui, đưa chiếc Nhẫn cho Người Tuyết vùng Forochel để cảm tạ ơn giúp đỡ. Năm 1975 Kỉ Đệ Tam, các Ranger phương Bắc chuộc lại chiếc Nhẫn từ tộc Người Tuyết, và giữ nó ở Rivendell. Năm 2952 KĐT, Lãnh Chúa Elrond đưa lại chiếc Nhẫn cùng với những mảnh vỡ của thanh gươm báu Narsil cho Aragorn, con trai Arathor, khi ngài biết được tên thật và dòng dõi của Aragorn. Năm 2980 KĐT, Aragorn đưa chiếc Nhẫn này cho Arwen Undómiel ở Lórien làm kỉ vật đính hôn. Không ai rõ số phận của chiếc Nhẫn trong Kỉ Đệ Tứ, nhưng nó có thể được truyền lại cho các vị Vua hậu duệ của Aragorn và Arwen, hoặc đi theo Arwen lúc an táng ở Cerin Amroth.

06.6.Maiar
Tilion là một người vô cùng trẻ tuổi được các Valar chọn lựa ra trong số các Maiar để trở thành người bảo trợ cho Mặt Trăng. Tilion từng là một linh hồn Maiar phục vụ dưới quyền của Valar Orome, vị thần săn bắn cho tới khi được các Valar chọn lựa để thực hiện nhiệm vụ mới. Kể từ sau khi 2 cây thần Valinor bị hủy diệt, bông hoa bạc cuối cùng của Telperion đã được bỏ lên một chiếc thuyền do Valar Aule tạo ra và nhiệm vụ của Tilion vào mỗi tối chính là điều khiển chiếc thuyền đó đi lên phía bầu trời. Chiếc thuyền có chở bông hoa bạc của Telperion chính là Mặt Trăng. Tilion yêu tất cả những thứ có ánh bạc. Trong những năm tháng bình yên của Valinor, Tilion cũng từng là một xạ thủ nằm trong nhóm các tùy tùng đi săn cùng Valar Orome, lúc đó, ông vẫn thường dùng một chiếc cung được làm bằng bạc. Vào những khi rảnh rỗi, Tilion thường có thói quen lui tới khu vườn Lorien và những bể nước của Valar Este. Cũng bởi do thường xuyên nghỉ ngơi tại ngay gần ánh sáng của Cây bạc Telperion mà Tilion rất yêu quí nó, chính ông cũng đã cầu xin các Valar cho phép được tự tay chăm sóc bông hoa cuối cùng của cây thần. Mặt trời và Mặt trăng là một cặp nên Tilion cũng thường được nhắc tới bên cạnh Arien, vị nữ Maiar bảo trợ cho Mặt trời. Trong những ghi chép không được xuất bản của Tolkien cũng từng đề cập đến mối quan hệ giữa 2 người, có vẻ như Tilion đã phải lòng Arien nhưng kể từ khi nhận nhiệm vụ mới thì ông không còn lần nào có thể đến gần được bà nữa bởi sức nóng của Mặt trời là thứ khắc kỵ với Mặt trăng. Tuy là đàn ông nhưng Tilion thường bị đánh giá kém hơn về mặt sức mạnh nếu so với Arien. Và khác với Arien, Tilion thường lái con thuyền Mặt trăng đi theo một quĩ đạo tự do khiến cho nhiều lúc, những người trần có thể nhìn thấy cả Mặt trời và Mặt trăng ở trên bầu trời cùng một thời điểm.Là người bảo trợ Mặt trăng, Tilion cũng là một vị Maiar rất được Loài người yêu mến. Nhiều khả năng ông chính là chủ đề của nhiều bài hát và tích truyện được hát và kể tại vương quốc Gondor. Người xứ Shire cũng có ghi lại một bài thơ có tên là "Người đàn ông trong Mặt trăng đã ở lại quá muộn."
Arien là một nữ Maiar, người có nhiệm vụ bảo vệ và điều khiển Mặt Trời. Bà là một trong số ít những linh hồn Ainur tính lửa không gia nhập vào phe của Melkor, trong khi hầu hết những người khác đều đi theo ông ta và về sau trở thành những quỷ lửa Balrogs.Về thân thế, Arien từng là một linh hồn tính lửa phục vụ cho Valar Vana, nữ thần tuổi trẻ, tại những khu vườn của Valinor, mặc dù ở một số ghi chép khác của Tolkien thì lại nói rằng chủ nhân thực sự của bà phải là Valar Varda. Tuy là một linh hồn tính lửa nhưng Arien chưa bao giờ bị cám dỗ trước Melkor, một người có quyền năng sử dụng lửa rất mạnh. Truyền thuyết nói rằng, Arien có một đôi mắt bốc lửa, chúng sáng đến độ không người Elf nào có thể nhìn thẳng vào được và những tay sai của Melkor thì bị làm cho khiếp sợ mỗi khi phải trông thấy vị nữ Maiar này.Lúc còn ở tại Valinor, Arien cũng hóa thân thành một hình dạng tương tự như các Valar nhưng khi thực hiện nhiệm vụ hộ pháp cho Mặt trời thì bà lại biến trở về hình dáng nguyên thủy của mình là một linh hồn lửa đáng sợ và chói lòa. Arien được cho là có sức mạnh lớn hơn nhiều so với Tilion, người hộ pháp của Mặt Trăng.Khi 2 cây thần Valinor bị hủy diệt, chính Arien đã hộ tống trái cây vàng cuối cùng của Laurelin trên một con thuyền được tạo ra bởi Valar Aule để mang nó tới bầu trời. Vì là hộ pháp của Mặt trời nên Arien trở thành một trong những Maiar được yêu mến nhất bởi những người phàm, thêm nữa còn bởi vì chuyến du hành đầu tiên của bà trên bầu trời chính là dấu hiệu giúp cho Loài người được thức tỉnh.Tên của Arien trong tiếng Quenya mang ý nghĩa là Thiếu nữ Ánh dương. Trong những ghi chép bản thảo ban đầu của Tolkien thì Arien còn có 2 cái tên khác là Urien và Urwendi, cả 2 đều mang ý nghĩa là Thiếu nữ Ánh lửa.Trong một số ghi chép không nằm trong Huyền sử Silmaril, Tolkien có nhắc đến việc Melkor có ý muốn chiếm đoạt Arien làm vợ nên đã có hành động cưỡng ép với bà, Arien đã tách hồn ra khỏi phần thân xác và lao mình xuống biển để chết. Lúc bà chết, Mặt trời không còn ai kiểm soát nên đã tự do bay lượn trên bầu trời và thiêu đốt rất nhiều vùng đất phía dưới của Arda. Fionwe, người mà về sau được gọi là Eonwe, được miêu tả như là đã yêu Arien, đặt quyết tâm đánh bại Melkor để trả thù cho bà.
Osse là một Maiar có mối liên hệ mật thiết với Valar Ulmo. Trong số các Ainur, ông thuộc nhóm các linh hồn biển cả nhưng khi tới Arda thì lại theo về phe của Melkor để chống lại các Valar. Với quyền năng của mình, Osse thường vô cớ tạo nên những cơn bão biển nhưng với mục đích chủ yếu là chỉ để cho vui. Về sau, Osse đã bị thuyết phục bởi vợ của ông là Maiar Uinen, nên đã quay trở về phục vụ cho các Valar. Vì là một linh hồn biển cả nên Osse thuộc quyền cai quản của Valar Ulmo, tuy đã được bình dịu hơn về mặt tâm tính nhưng đôi khi Osse vẫn gây ra những cơn bão ở trên biển. Ở thời đại thứ 2, những thủy thủ người Numenor vẫn thường phải cầu khấn sự che chở của Maiar Uinen vì chỉ có bà mới có thể bình lắng được những cơn bão của Osse. Cả 2 vợ chồng Osse và Uinen đều là những người bạn thân thiết với người Elf Teleri và Sindar. Cả lãnh chúa Cirdan cũng là bạn thân của họ. Osse là một trường hợp khá đặc biệt trong số các Maiar, ông là một trường hợp ngược lại của Sauron khi đã từng phục vụ cho Melkor rồi sau đó lại quay về phe Valar trong khi Sauron lại từng ở phe Valar rồi sau đó đã đi theo Melkor. Về vai trò và quyền năng, các Valar cũng từng đánh giá là Osse có giá trị cao ngang như họ.Trong những phiên bản bản thảo không chính thức của Huyền sử Silmaril, Osse bản thân được mô tả có địa vị như là một Valar, và ông thường xuyên cự cãi lại ý muốn của Valar Ulmo.
Uinen là một linh hồn Maiar thường được biết tới với biệt danh là Phu nhân của biển cả, bởi bà là vợ của Maiar Osse và là đấng bảo trợ cho tất cả những người đi biển.Uinen yêu quý tất cả các loài sinh vật sống trong những dòng nước của thế giới bao gồm cả động vật và thực vật. Tình yêu của bà có khả năng làm bình lắng được cả những con sóng và những cơn bão biển hung dữ được tạo ra bởi Maiar Osse. Là một người vợ, Uinen luôn điều tiết được giới hạn trong những hành động của chồng mình. Mái tóc của Uinen rất dài, những sợi tóc của bà thường trải xõa lên trên mặt nước.Trong những ngày ban sơ của Arda, khi mà Osse kiêu ngạo và độc hành thường chống đối lại Valar Ulmo và phục vụ cho Melkor, Uinen đã làm cho ông hiểu được nhiều điều và quay về với chính nghĩa. Bà làm điều đó vì lẽ phải, vì tình yêu dành cho chồng và cũng vì mệnh lệnh của Valar Aule. Kể từ đó, Uinen luôn kiềm chế được chồng mình mỗi lần ông có những hành động quá đà để tránh gây hại cho những con người vô tội sống gần biển cả. Người Teleri dành rất nhiều tình yêu của họ cho Uinen, cả bà lẫn Osse đều là những người bạn thân thiết với họ khi còn ở con sông Sirion. Chính Uinen cũng đã đổ lệ khóc thương cho những người Teleri bị giết trong Cuộc thảm sát nội tộc ở Alqualonde.Do là đấng bảo trợ cho những người đi biển nên sang đến thời đại thứ 2, Uinen lại dành được nhiều tình yêu từ các thủy thủ của đảo quốc Numenor. Mỗi lần gặp tai họa trên biển là người Numenor lại cầu khẩn nữ thần để bà che chở cho họ. Mặc dù về gần cuối những năm tháng tồn tại, người Numenor ngày càng tỏ ra bất kính với các Valar nhưng tình cảm mà họ dành cho Maiar Uinen thì vẫn không thay đổi. Trong 1 số truyền thuyết của Numenor còn nói rằng chính hòn đảo Tol Uinen nằm ở Vịnh Romenna là một món quà mà nữ thần đã tặng cho người dân của họ.
Eonwe là một Maiar, người cầm cờ và là sứ giả đưa tin của Chúa tể Valar Manwe. Ông và Ilmare đều là lãnh đạo của các Maiar khác.Eonwe được nhắc tới như là "vũ khí vĩ đại nhất nơi Arda", có nghĩa là kỹ năng sử dụng vũ khí của ông là điêu luyện nhất. Điều này không đồng nghĩa với việc có thể khẳng định chắc chắn Eonwe là người mạnh nhất trong số các Maiar. Sauron mà Eonwe, ai mới là Maiar mạnh nhất, vẫn còn là một vấn đề đang gây ra tranh luận.Khi Earendil đặt chân lên bờ của vùng đất Aman để trình bày nguyện vọng của mình, chính Eonwe đã chào đón chàng ngay bên ngoài Tirion, ca ngợi cuộc hành trình và thành tích của chàng. Khi Manwe quyết định đáp ứng lời khẩn cầu của Earendil, Eonwe được gửi tới Trung Địa. Ông là Đại thống lĩnh của lực lượng Valinor và đã chiến đấu trong Cuộc chiến Thịnh Nộ.Khi Melkor (Morgoth) bị đánh bại, Eonwe đã giữ lấy 2 viên Silmaril để bảo toàn. Hai người con trai còn lại của Feanor đã ăn cắp chúng và chạy trốn. Eonwe không để họ bị giết chết mà hi vọng họ sẽ thấy sự dại dột trên con đường mà họ đã chọn. Sau Cuộc chiến Thịnh Nộ, Sauron từ nơi ẩn náu đã xuất hiện, tiếp cận Eonwe để tìm kiềm sự tha thứ nhưng Eonwe không có quyền quyết định nên ông khuyên hắn phải quay lại Valinor để nhận sự phán quyết từ các Valar. Thấy vậy, Sauron liền đổi ý và bỏ trốn.Eonwe cũng sở hữu sự khôn ngoan hiếm có, ông đã truyền đạt những kiến thức rộng lớn của mình cho người Edain trước khi Cuộc nổi loạn của người Numenor xảy ra.Trong những ghi chép ban đầu của Tolkien thì Eonwe còn có 1 tên khác là Fionwe Urion và được hình dung như con trai của Manwe, em trai của Erinti, một Maiar khác mà về sau có tên là Ilmare, một trợ thủ bên cạnh Valar Varda. Ở một số phiên bản không chính thống, Eonwe còn là một trong những người tiêu diệt Morgoth, trả thù cho người con gái ông yêu là Maiar Arien (trước đây tên nàng là Urwendi) sau khi nàng bị Morgoth cướp đoạt.
Ilmare là Maiar thân cận nhất phục vụ bên cạnh Nữ hoàng Valar Varda, bà cùng với Eonwe đều là 2 người đứng đầu và dẫn dắt tất cả các Maiar còn lại. Trong Huyền sử Silmaril có nhắc đến việc Ilmare và Eonwe là một cặp Maiar chịu sự quản lý của 2 vợ chồng Chúa tể Manwe và Nữ hoàng Varda. Eonwe là nam còn Ilmare là nữ, Eonwe là cánh tay đắc lực nhất của Manwe trong khi Ilmare lại là hầu cận thân tín nhất của Varda.Tên của Ilmare trong tiếng Quenya có ý nghĩa được lấy từ Ilma, có nghĩa là Ánh Sao. Trong Cuốn sách về những câu chuyện thất lạc có ám chỉ rằng Ilmare rất có thể chính là con gái của Manwe và Varda giống như việc Eonwe cũng là con trai của họ, điều đó có nghĩa Ilmare và Eonwe còn là một cặp anh em. Tuy nhiên, nhà văn Tolkien về sau đã thay đổi tình tiết này trong những ghi chép ở cuốn Huyền sử Silmaril và hầu hết các độc giả đều chấp nhận việc Ilmaren chỉ đơn giản là cùng được tạo ra từ ý nghĩ của Thượng đế Illuvatar giống như các Ainur khác. Không lâu sau đó, Tolkien cũng đã từ bỏ ý tưởng để cho các Valar có con cái với nhau.
Melian là một Maiar nổi tiếng về sự thông tuệ, tài ca hát và vẻ đẹp khó ai sánh bằng. Bà là nữ hoàng của vương quốc Doriath tươi đẹp, vợ của vua Thingol, và mẹ của Lúthien Tinúviel, người đã được thừa hưởng nhan sắc cùng tài năng âm nhạc của bà. Trước khi tới Middle-earth, Melian phụng sự hai vị Valar nữ Vána và Estë. Bà sống ở Lórien và chăm bón cây cối cho những khu vườn của Irmo. Về mặt tính tình thì bà giống vị Valar Yavanna nhất. Khi ánh sáng của Hai Cây Thần hòa vào nhau, Melian thường cất lên tiếng hát tuyệt diệu và các vị Valar sẽ dừng tay lắng nghe. Bà đi đến đâu, sơn ca bay theo đến đó để học hót. Khi loài Elf thức giấc bên hồ Cuiviénen, Melian rời khỏi thiên quốc Valinor để tới Middle-earth, nơi bà sẽ phá bỏ sự yên lặng bằng những bài ca và tiếng chim hót.Bà gặp vua Elu Thingol trong khu rừng Nan Elmoth và hai người phải lòng nhau. Họ sáng lập ra vương quốc Doriath và cùng nhau trị vì qua hàng ngàn năm. Melian dùng pháp thuật của mình tạo ra Vành đai Melian để bao quanh bảo vệ vương quốc, nhưng bà tiên đoán rằng sẽ có một người vượt qua được vành đai trấn giữ này. Quyền năng của Melian rất lớn, gần như là hùng mạnh nhất trong các Maiar, bà có thể dùng Vành đai để chặn đường vào Doriath của Nhện Chúa Ungoliant, một quái vật đã từng bắt trói cả chúa tể hắc ám Melkor. Bà sinh hạ Lúthien, điều đó khiến cho bà trở thành một Ainur hiếm hoi có con cái.Khi Galadriel đến ở tại Doriath, Melian đã trở thành người thầy và người bạn của Galadriel, bà dạy Galadriel cách làm món bánh thần lembas cùng nhiều điều hay khác. Khi Beren vượt qua được Vành đai, như lời tiên đoán, và đến cầu hôn Lúthien, vua Thingol đòi sính lễ bằng một viên Silmaril quý giá. Melian phản đối yêu cầu này vì biết rằng nó sẽ dẫn đến sự diệt vong của vương quốc. Đây là một trong những bằng chứng cho thấy Melian khôn ngoan hơn chồng rất nhiều. Nhờ chuyện tình của Lúthien và Beren, dòng máu Maiar của Melian đã được truyền lại cho cả loài Elf và loài Người.Bà luôn đối tốt với Con Người và giúp đỡ họ rất nhiều: trợ giúp gia đình của Húrin và nhận nuôi Túrin, cung cấp bánh lembas cho Beleg Cúthalion khi chàng đi tìm Túrin. Khi Húrin chua chát quay trở lại Doriath trong cảnh già nua và gia đình tan nát, Melian đã khuyên giải ông và khiến ông tỉnh ngộ.Sau cái chết của vua Thingol, Melian đau khổ bỏ vương quốc để trở về Valinor, vùi lấp nỗi buồn thương trong khu vườn của Lórien nơi bà ra đi ngày trước.Bà được mô tả là có mái tóc đen. Melian là tên trong tiếng Sindarin, có nghĩa là tạo vật đáng yêu. Tên tiếng Quenya của bà là Melyanna. Bà còn mang danh hiệu Tóril, nghĩa là Nữ hoàng.
Salmar là một Maiar quyền năng, ông là một người bạn và cũng là một tùy tùng dưới quyền của Valar Ulmo, vị Thần nước. Là một linh hồn Ainur, Salmar cũng là một trong số những người đã tham gia thực hiện điệu nhạc Ainulindale với việc góp vào đó những khúc khạc tạo nên biển cả.Trong Huyền sử Silmaril, Salmar được liệt vào danh sách các Maiar, những linh hồn bậc dưới so với Melkor và 14 Valar. Khi tới Arda, Salmar thường ở bên cạnh và giúp đỡ cho chủ nhân của mình là Valar Ulmo bên cạnh các Maiar khác như Osse và Uinen. Salmar có thể còn là người bạn thân nhất của Valar Ulmo bởi chính ông là người đã tạo ra Ulumuri, chiếc Tù và thần kỳ của biển cả mà về sau đã được dâng lên cho Valar Ulmo, đó còn là một thứ báu vật mà vị Thần nước vẫn thường mang theo bên mình.Trong những ghi chép thuở đầu của Legendarium được đem ra thảo luận trong cuốn Lịch sử Trung Địa thì Salmar thường được gọi với cái tên khác là Noldorin (đôi khi còn cả là " Lirillo " hay " Golthadriel "). Lúc đầu thì ông ta còn được nhìn thấy trong ảo ảnh như là một Valar phục vụ hỗ trợ cho Valar Aule. Tất cả những ghi chép ban đầu này về sau đều không được sử dụng ở trong cuốn Huyền sử Silmaril được chỉnh lý và xuất bản chính thức bởi gia đình Tolkien.
Gothmog là chúa tể Balrog trong suốt thời đại thứ nhất của thế giới và là Balrog mạnh nhất từng xuất hiện ở Trung Địa. Ông ta là chỉ huy tối cao của pháo đài Angband, một trong số những tướng lãnh tin cậy nhất dưới trướng của Chúa tể bóng tối Melkor, Gothmog là người dẫn dắt các đạo quân của phe bóng tối giành được chiến thắng trong rất nhiều các trận chiến. Xét về địa vị trong phe bóng tối, chỉ có một mình Sauron là có chức vụ ngang ngửa với ông ta.Gothmog, giống như tất cả các Balrog khác, đều mang trên tay một chiếc roi lửa mỗi khi chiến đấu, nhưng ông ta là kẻ duy nhất sử dụng một chiếc rìu chiến màu đen thay cho những thanh kiếm lửa. Gothmog rất nổi tiếng, quyền năng và sự đáng sợ của ông ta không một người nào sống ở Beleriand mà lại không biết tới.Không nghi ngờ gì về việc Gothmog đã từng tham gia thực hiện điệu nhạc thần Ainulindale sáng tạo ra thế giới. Về gốc gác, trước khi hóa thân thành hình dạng quỷ lửa thì Gothmog từng là một linh hồn Ainur hệ lửa. Lúc thực hiện điệu nhạc đầu tiên, Melkor đã làm nhiễu loạn điệu nhạc và khiến cho những Ainur đứng gần ông ta nhất bị thay đổi tâm tính. Nhiều khả năng cả Melkor và Gothmog đều là những linh hồn hệ lửa, không những thế, họ còn là những kẻ mạnh nhất trong hệ này. Lúc diễn ra Cuộc chiến đầu tiên, Gothmog vẫn chưa giáng trần mà phải đợi đến khi Melkor lập ra pháo đài Utumno và tiến hành kêu gọi ở quãng thời gian diễn ra Mùa xuân Arda thì ông ta mới cùng với các Valaraukar khác đi xuống Arda.Gothmog đã đặt lời thề trở thành đồng minh cho Melkor và trong suốt quãng thời gian của thời đại thứ nhất, ông ta được biết tới như là chỉ huy tối cao của pháo đài Angband và thường được mọi người gọi bằng biệt hiệu là Chúa tể Balrog.Trong Trận chiến dưới các vì sao diễn ra vào năm 1498 của Kỷ nguyên Cây thần, đạo quân Noldor do Feanor đứng đầu đã áp đảo được đạo quân của Angband, đích thân Feanor một mình truy kích tới tận gần pháo đài đen nhưng ông đã bị rơi vào bẫy phục kích của một nhóm Balrog mà trong đó có cả Gothmog. Feanor đã chiến đấu dữ dội để thoát khỏi vòng vây nhưng ông đã bị chính chúa tể Balrog chém trọng thương trước khi được các con của mình xông đến cứu. Dù đã đẩy lui được quân địch nhưng Feanor vẫn ra đi bởi vết thương quá nặng. Từ đó, Gothmog trở thành một cái tên bị nguyền rủa của gia tộc Feanor.Sau lần giết chết Feanor, Gothmog còn tái xuất hiện như là chỉ huy của quân đội Angband trong rất nhiều các trận chiến lớn như Trận chiến Ngọn lửa bất ngờ và cả Trận chiến Vô vàn nước mắt. Trong Trận chiến Vô vàn nước mắt, Gothmog đã đối đầu với Fingon, đức vua tối cao dòng Noldor, con trai của vua Fingolfin, trong một trận so tài. Gothmog đầu tiên đã dụ được Fingon ra khỏi nhóm quân chính nhưng ông ta chưa thể hạ được đối thủ cho tới khi một Balrog khác bất ngờ xuất hiện ở phía sau của Fingon rồi đánh một đòn vào đức vua. Gothmog liền chớp lấy cơ hội này để giết chết Fingon bằng một nhát rìu. Sau đó, chính Gothmog là người đã bắt sống được người anh hùng Hurin, chiến binh mạnh nhất trong số Loài Người và bắt giải ông về Angband.Năm 510 của thời đại thứ nhất, Gothmog lại dẫn đầu lực lượng Angband tiến hành bao vây và tấn công thành phố bí mật Gondolin của vua Turgon. Sau một thời gian chiến đấu kịch liệt, đạo quân bóng tối đã chiếm được những cánh cổng ở phía Bắc và tiến vào được trong thành phố. Gothmog cùng lực lượng rồng tiến vào thành phố để tiêu diệt tận gốc mọi thứ và đã đối đầu với những chỉ huy cuối cùng của Gondolin là Tuor, Glorfindel và Ecthelion. Ecthelion là người đứng đầu của gia tộc Giếng thần, ông là một trong những tay kiếm mạnh nhất trong lịch sử người Elf, tuy nhiên, lúc đối mặt với Gothmog thì ông đã bị thương từ trước đó. Vì cứu bạn bè của mình, Ecthelion đã dùng ít sức tàn để đấu nhau với chúa tể Balrog, thanh kiếm của ông bị đánh văng nhưng ông đã húc chiếc mũ nhọn của mình vào người của Gothmog rồi đẩy kẻ thù về phía miệng giếng. Rốt cục cả 2 đối thủ đã cùng rơi xuống giếng và chết.Nhiều người cho rằng, thật khó để cho Gothmog có thể bị chết theo một cách đơn thuần là rơi xuống giếng như vậy bởi ông ta là một Maiar rất mạnh. Một số giả thiết giải thích về cái chết của Gothmog là do bởi nước trong chiếc giếng của đức vua đã làm tan biến ngọn lửa trên người của ông ta. Nên nhớ, Gothmog là một linh hồn hệ lửa nên ông ta rất sợ nước, có thể trong khi ngọn lửa biến mất, sức mạnh của ông ta đã bị hao hụt đáng kể rồi bị chết do cú rơi và do cú đâm từ chiếc mũ nhọn của Ecthelion vào giữa ngực.Cái tên Gothmog trong tiếng Quenya được hợp nên từ 2 từ là goth , có nghĩa là đáng sợ và từ mbaw, có nghĩa là thứ, vật thể. Hợp lại có nghĩa chung là kẻ đáng sợ. Còn trong tiếng Sindar, tên của ông ta lại mang ý nghĩa là "xung đột và thù hận."Trong những bản nháp đầu tiên của Tolkien, lúc đó nhà văn vẫn giữ ý tưởng là để cho các Ainur có con cái, thì Gothmog còn được gọi với một biệt danh là "con trai của Melkor và kẻ khổng lồ Fuithluin".
Sauron, hay Chúa tể của những Chiếc Nhẫn, là một Maia bị sa ngã, người đã đi theo và trở thành tay sai tin cậy nhất dưới trướng của Melkor, Chúa tể bóng tối đầu tiên của thế giới. Sau khi Morgoth bị đánh bại vào cuối Thời đại thứ nhất thì Sauron đã nối bước để trở thành Chúa tể bóng tối đời thứ 2 với cùng tham vọng thống trị Trung Địa.Vào Thời đại thứ 2, Sauron tạo ra Chiếc Nhẫn Chủ để thu gom quyền lực về tay mình nhưng bị Liên Minh Cuối cùng giữa Người và Elves đánh bại vào cuối thời đại này. Ông ta tiếp tục trở về và khôi khục phần nào được sức mạnh vào khoảng thời gian thuộc Thời đại thứ 3, trong thời gian này, Sauron rất khát khao tìm lại được Nhẫn Chủ bởi nó sẽ giúp ông ta nhanh chóng lấy lại được toàn bộ sức mạnh của mình. Tuy nhiên, Sauron đã không đạt được ý muốn của mình, thậm chí còn bị thất bại hoàn toàn do chiếc Nhẫn đã bị Frodo tiêu hủy ngay trong lòng Núi Doom.Ban đầu, khi vẫn còn là một Maia chưa bị sa ngã thì Sauron được gọi là Mairon. Sau khi bị biến chất thì ông ta được gọi bằng nhiều cách như Gorthaur Sauron Tàn Bạo, Kẻ Thù, Kẻ Thù Không tên, Kẻ dối trá, Chúa tể bóng tối , Chúa tể của Barad-dur hay Lãnh Chúa Mordor.Ở Thời đại thứ 2, khi còn che giấu thân phận thì Sauron thường núp dưới những hình dạng con người đẹp đẽ và dùng những cái tên như Annatar, Artano và Aulendil. Vào thời đại thứ 3, Sauron lại được gọi là Pháp sư gọi hồn (Necromancer) bởi những người trông thấy ông ta tại pháo đài cổ Dol Guldur. Thường thì những người trông thấy Necromancer đều không nhận ra đó chính là Chúa tể bóng tối đã quay trở lại.Trước khi vũ trụ Ea được tạo ra, Sauron là một trong số rất nhiều những linh hồn Ainur được tạo ra bởi Thượng Đế Eru Illuvatar. Nói chính xác hơn thì Sauron là một Maia, những linh hồn Ainur bậc thấp hơn so với các Valar, tuy nhiên thì Sauron có pháp lực rất mạnh. Là một trong những người mạnh nhất trong số các Maiar. Cho nên, ở thời gian đầu lúc chưa bị biến chất, Sauron rất được kính trọng và có biệt danh là Mairon Tuyệt Diệu. Mairon cũng là 1 trong số những thành phần đã góp mặt trong quá trình tạo nên Điệu Nhạc của những Ainur, điệu nhạc thần sáng tạo ra thế giới.Mairon về sau trở thành bề tôi đáng tin cậy của Melkor nhưng khác với các Balrog, lúc Melkor gieo vào Điệu nhạc Ainur những âm thanh tà ma quỷ quái thì Mairon không bị ảnh hưởng trong khi các Maiar Balrog thì lại bị ảnh hưởng và đã sớm có tư tưởng sa ngã về phe Hắc Ám từ ngay lúc đó.Khi Điệu nhạc được hoàn tất, Mairon nằm trong nhóm những linh hồn Ainur được Thượng Đế cử xuống Arda. Nghĩa là đến thời điểm đó, ông ta vẫn chưa bị biến chất.Mặc dù là nhân vật phản diện chính trong tiểu thuyết Chúa tể của những chiếc Nhẫn nhưng Sauron lại không được miêu tả nhiều về hình dáng ngoài việc nhắc đến Con Mắt Lửa.Trong Huyền sử Silmaril có miêu tả Sauron kỹ hơn. Là một phù thủy bóng tối, ông ta có khả năng biến thành rất nhiều hình dạng trong đó có cả Rắn, Vampire và cả Sói. Sau thất bại của Morgoth, Sauron hóa thân thành Annatar, một vị thần Ban tặng có hình dạng đẹp đẽ và dễ gây được thiện cảm. Trong cuốn Lịch sử Trung Địa đã chép lại một đoạn miêu tả của người Numenor khi họ nhìn thấy Sauron như sau: " Trên chiếc thuyền, nằm ở nơi cao nhất và hoàn toàn khô cạn trên ngọn đồi có một con người, hoặc một kẻ nào đó trong hình dạng một con người, nhưng to lớn hơn bất kỳ một người Numenor nào về tầm vóc ". Trong mắt người Numenor, Sauron có một ấn tượng gì đó khiến cho họ vừa ngưỡng mộ lại vừa có chút sợ sệt do thứ ánh sáng phát ra từ đôi mắt của ông ta. Với nhiều người, Sauron trông có vẻ đẹp đẽ nhưng với 1 số khác, ông ta trông giống như một ác quỷ. Một số đầu mối khác về Sauron cũng nói đến việc ông ta có hình dạng giống Con Người nhưng to cao hơn 1 chút. Lúc là Chúa tể bóng tối, Sauron thường hay vận một bộ giáp đen cùng với 1 chiếc vương miện tà quái che kín mặt. Toàn thân của ông ta như phát lửa, ông ta từng bóp chặt Đại Đế Gil-Galad và đốt đối thủ của mình cho tới khi chết.Một điều kỳ lạ là tại sao cả Melkor lẫn Sauron đều có khả năng tự tái tạo lại được nguyên cả 1 cơ thể mới nhưng lại không thể tái tạo lại được những vết thương trên cơ thể hiện tại của họ. Melkor đã từng bị Fingolfin chém đứt chân và bị Thorondor mổ mù mắt, Sauron cũng từng bị Isildur chém đứt ngón tay nhưng cả 2 đều không thể phục hồi lại được những vết thương này. Gollum là một trong số những kẻ từng trực tiếp nhìn thấy Sauron, hắn nói rằng ở bàn tay của Chúa tể bóng tối chỉ có 4 ngón tay.Khi mới tới Arda, Mairon là một trong những Maiar thuộc quyền của Valar Aule, vị Thần thợ rèn, nên cũng dễ hiểu khi Mairon đã học được rất nhiều những kiến thức và kỹ năng trong lĩnh vực đúc tạo chế tác. Mairon trở thành một thợ chế tác xuất sắc trong số những người đi theo Aule. Cùng với Mairon, dưới quyền của Aule còn có 2 Maiar rất giỏi khác là Olorin và Curunir nhưng Mairon vẫn được xem là Maiar mạnh nhất trong số này.Trong thời gian đầu, Mairon vẫn cho thấy ông ta là một Maiar tài năng và trong sạch. Suy nghĩ chủ yếu trong đầu của Mairon chính là nỗi khao khát về tính trật tự và sự hoàn hảo, ông ta không thích những thứ mà ông ta cho là lãng phí hay không được tích sự gì. Tuy nhiên, chính nỗi khao khát này lại là nguồn cơn xuất phát cho sự sa ngã của Mairon. Khi Mairon nhìn thấy Chúa tể bóng tối Melkor, ông ta nhìn thấy trong con người đó ý chí và sức mạnh có thể giúp ông ta đạt được những điều mà mình muốn một cách nhanh hơn. Vậy là dần dần, Mairon ngày càng ngả lòng về phía của Melkor. Ông bắt đầu dành sự kính nể và tôn sùng của mình cho Chúa tể bóng tối. Sau khi trở thành đồng minh của Melkor, Mairon vẫn giữ bí mật về mối quan hệ này, trong mắt các Valar, ông ta vẫn là một Maiar tài năng và trung thành nhưng sau lưng họ, ông ta ngầm tiết lộ những thông tin bí mật cho Melkor. Về sau, khi Melkor được tự do và lập ra những pháo đài của ông ta tại Trung Địa thì Mairon đã chính thức lật mặt và rời bỏ vương quốc Valinor để về với chủ nhân của mình.Khi về phe Melkor, Mairon bị những tiên tộc gọi với cái tên khác là Sauron Kinh Tởm, tên gọi này có ý mỉa mai sự biến chất và thói thay lòng đổi dạ của ông ta.Trong suốt Thời đại thứ nhất, người Elves Noldor đã tự ý rời bỏ thiên quốc Valinor để đến Trung Địa với ý định truy đuổi Melkor, giành lại những báu vật Silmaril và trả thù cho đức vua Finwe. Vậy là bắt đầu một thời kỳ chiến tranh giữa phe Morgoth và phe liên minh Beleriand do người Noldor dẫn đầu. Trong suốt cuộc chiến này, Sauron được xem như là bề tôi đắc lực nhất dưới trướng của Melkor. Ông ta đứng đầu nhóm phù thủy bóng tối và là chúa tể của các bóng ma. Sauron còn là một kẻ có khả năng biến hình, một bầy tôi khôn ngoan và hiểm độc luôn phục vụ một cách tích cực cho chủ nhân của mình.Dưới trướng Melkor có 2 loại quái vật cực mạnh là Người Sói và Vampire, những kẻ đứng đầu trong số chúng là Sói Đen Draugluin và Quỷ hút máu Thuringwethil, 2 tên này lại đều phải nghe theo lệnh của Sauron. Khi Melkor rời khỏi Angband với mục đích phá hoại tiến trình làm thức tỉnh Loài Người, Sauron đã thay mặt để tiến hành chiến tranh với người Elves. Ông ta chinh phạt được hòn đảo Tol Sirion và biến nó thành Tol-in-Gaurhoth, hòn đảo của Người Sói. 10 năm sau đó, cũng tại hòn đảo này, Sauron đã bị Luthien và Chó Săn Huan đánh bại. Luthien giải cứu cho người tình của mình là Beren, người đã bị Sauron bắt giam.Sau thất bại trước Luthien, Sauron xuất hiện rất ít và đóng một vai trò rất nhỏ trong các sự kiện lớn còn lại trong Thời đại thứ nhất (có thể là tạm thời ẩn thân để tránh khỏi sự trừng phạt của Melkor). Sau khi kết thúc Cuộc Chiến Thịnh Nộ, Melkor bị các Valar bắt trói và giam cầm một lần nữa. Lúc này, Sauron có ý định hối lỗi và định quay trở lại để cầu xin sự rộng lượng từ các Valar khi đến cầu xin sự tha thứ từ lãnh đạo của quân đoàn Valinor khi đó là Maiar Eowe. Nhưng rồi sau đó, ông ta lại đổi ý và bỏ trốn đên một nơi nào đó bí mật ở Trung Địa.Sau nhiều năm lẩn trốn, Sauron bắt đầu tái xuất một lần nữa. Vào năm 1000 của Thời đại thứ 2, ông ta tập hợp sức mạnh và lập ra vương quốc bóng tối Mordor, tại Mordor mọc lên một tòa tháp đen kinh dị có tên là Barad-dur, nằm ngay gần Núi Doom. Cũng giống như Melkor, Sauron bắt đầu tập hợp và xây dựng một đội quân lớn bao gồm những loài sinh vật gớm ghiếc của Trung Địa như Orcs, Troll, Đại bàng địa ngục, Sói... Bên cạnh những loài quái vật, cả những con người cũng bị chinh phục và bị lôi kéo vào phe Mordor. Tiêu biểu là Người Haradrim và Người Easterling. Sauron giờ đây trở thành Chúa tể bóng tối đời thứ 2 sau Melkor.Sau khi xây dựng lực lượng hùng mạnh của mình từ những bề tôi của Melkor, Sauron bắt đầu lên kế hoạch thu phục những nơi khác thông qua việc điều khiển lãnh đạo của họ và từ đó có lẽ những ý tưởng về các chiếc nhẫn sức mạnh đã ra đời. Năm 1500 SA, Sauron bắt đầu tiến hành âm mưu bằng việc biến hình thành một kẻ lạ mặt có tên là Annatar, hắn tự xưng là Chúa tể Ban Tặng hay Thần Kim Hoàn để có thể dễ dàng gây thiện cảm và lấy lòng tin với tiên tộc. Annatar xuất hiện cả ở Lindon và Eregion rồi thành công trong việc lấy lòng Eregion nhờ lợi dụng tình yêu to lớn với chế tác của họ.Gil-Galad không đón nhận Anantar vào vương quốc Lindon. Vậy nên Annatar chuyển hướng sang Eregion, tại đây, hắn được chào đón bởi lãnh chúa Celebrimbor. Những người Elves ở Eregion rất đam mê công việc chế tác báu vật, trước kiến thức và kỹ năng của Annatar, họ tỏ ra rất hứng thú và ngưỡng mộ hắn. Annatar khuyến khích và bày cho họ cách thức để tạo ra Những Chiếc nhẫn sức mạnh, và cùng lúc đấy, hắn bí mật tạo ra Chiếc Nhẫn Chủ, một chiếc nhẫn có khả năng điều khiển năng lực của tất cả những chiếc nhẫn còn lại bởi chúng đều được tạo ra từ chính ý tưởng của hắn. Chỉ có 3 chiếc trong số đó ít bị ảnh hưởng của Nhẫn Chủ nhất bởi chúng được bí mật làm ra bởi Celebrimbor và không có sự can thiệp nào từ Annatar.Khi Nhẫn Chủ được hoàn thành, Sauron liền đeo nó vào ngón tay của ông ta, ngay lập tức tác dụng chi phối liền thể hiện ngay lên những chiếc Nhẫn còn lại. Đúng như dự tính, Con người là giống loài dễ bị cám dỗ nhất. 9 chiếc Nhẫn tặng cho 9 vị vua của Loài Người đã biến họ thành Bộ Chín Nazgul, những Ma nhẫn, những tay sai chết chóc nhất của Sauron.Người Dwarves thì lại chứng tỏ được tính đề kháng tốt hơn so với dự tính của Sauron, những chiếc nhẫn chỉ làm tăng thói tham vàng của họ chứ không thể trói buộc được linh hồn của họ. Nhưng Sauron vẫn yên tâm bởi ông ta biết rằng chính thói cuồng vàng đó không sớm thì muộn cũng sẽ gây ra cho người Dwarves những rắc rối. Quả nhiên, về sau, các vương quốc của người Dwarves liên tục phải lao đao bởi sự xâm chiếm của lũ Rồng tại Erebor và cả Balrog tại Khazad-dum, tất cả cũng bởi sự tham lam mà ra. Riêng với tiên tộc, Sauron đã gặp thất bại, Celebrimbor đã rất cảnh giác, về sau, ông phát hiện ra thân phận thật sự của Annatar, ông mang 3 chiếc nhẫn còn lại tới chỗ của Đại Đế Gil-Galad, Cirdan (Sau đó giao lại cho Gandalf) và Nữ hoàng Galadriel. Họ sử dụng nó rất cẩn thận và không để cho quyền năng của Nhẫn Chủ chi phối. Đây cũng có thể cho là một thắng lợi vô cùng quan trọng trong lịch sử Trung Địa. Nếu giả dụ như người Elves cũng rơi vào tầm chi phối của Sauron thì hẳn là chỉ có đạo quân Valar ở Thiên giới mới có thể tiêu diệt được ông ta. Mặc dù không chi phối được người Elves nhưng thế lực của Sauron vẫn ngày càng mạnh thêm. Loài người và Dwarves ở Trung Địa đã suy yếu. Giờ đối thủ chính của Mordor chỉ còn lại Elves. Sauron công khai tiến hành chiến tranh với người Elves ở Trung Địa. Đó chính là Cuộc Chiến giữa Elves và Sauron trong lịch sử. Trong cuộc chiến, vương quốc Eregion bị tiêu diệt, còn vương quốc Lindon của đại đế Gil-Galad đứng trước bờ vực nguy hiểm. Đúng lúc đấy thì vua Tar-Minastir của Numenor gửi hạm đội vượt biển tới Trung Địa để chi viện cho Lindon. Liên Minh này đã đánh thắng phe Mordor trong trận chiến cuối cùng gần Gwathlo vào năm 1700 của Thời đại thứ 2. Thất bại nhưng không bị tiêu diệt, Sauron rút lui về Mordor và bắt đầu khôi phục lại sức mạnh của mình trong nhiều thế kỷ.Vào cuối thời đại thứ 2, Sauron lại một lần nữa trỗi dậy. Ông ta tuyên bố mình là Chúa tể của Trái Đất và thách thức với người Numenor. Ngay lập tức, người Numenor đáp trả, đích thân đức vua Ar-Pharazon đã vượt biển tới Trung Địa cùng với một đạo quân lớn mạnh chưa từng thấy. Nhà vua tiến quân đến thẳng Mordor và yêu cầu Sauron phải bước ra để diện kiến trước Ngài. Chúa tể bóng tối bước ra ngoài, ông ta nhìn vào đạo quân của vua Ar-Pharazon và chợt nhận ra rằng trận chiến này rất có thể sẽ lại đưa mình về tay trắng dù thắng hay thua.Trước tình thế đó, Sauron liền hóa thân thành 1 con người đẹp đẽ và bước ra diện kiến trước vua Ar-Pharazon. Ông ta yêu cầu được đầu hàng trước Numenor. Đức vua đồng ý với lời đầu hàng nhưng bắt Sauron phải đi theo về Numenor để làm con tin. Ngoài mặt, Sauron tỏ ra không vui vẻ với điều kiện này nhưng trong lòng ông ta thì lại mừng thầm bởi đây sẽ là cơ hội để chống phá Numenor từ bên trong. Quả nhiên chỉ sau một thời gian ở Numenor, Sauron đã gây dựng được sự tín nhiệm của Đức vua và những người trong hoàng tộc.Nắm được tâm lý sợ cái chết của đại đa phần người Numenor, Sauron đã liên tục gièm pha và kích động những người ở đây quay lưng chống đối lại các Valar và người Elves. Tầm ảnh hưởng của Sauron lên đến đỉnh cao khi ông ta được phép xây dựng một đền thờ, nơi mà ở đó họ dùng người để làm vật hiến tế cho Chúa tể bóng tối Melkor. Chưa hết, Sauron còn thuyết phục được vua Ar-Pharazon tiến hành nổi loạn và đem quân tấn công vào Thiên quốc Valinor.Sự nổi loạn của người Numenor đã khiến cho Thượng Đế Eru phẫn nộ. Ngài nhấn chìm toàn bộ Numenor xuống đáy biển (nhằm giam cầm họ chứ không hẳn là xóa sổ) nhưng những người thuộc phe trung thành với các vị thần vẫn được giúp đỡ để đến với Trung Địa. Sauron lúc đó đang ở trên vương quốc này nên cũng không thể trốn thoát được. Phần cơ thể của ông ta bị tiêu diệt nhưng phần hồn thì vẫn tồn tại. Linh hồn Sauron bay trở về Mordor cùng với Chiếc Nhẫn Chủ, tại đây, ông ta từ từ tái tạo lại một cơ thể mới. Cũng từ thởi điểm này, Sauron mất đi khả năng hóa thân thành những hình dạng đẹp đẽ. Ông ta áp đặt một sự thống trị tàn bạo và mang tính vũ lực đối với các lực lượng dưới quyền.Khi thế lực của Sauron mở rộng tầm ảnh hưởng ở Trung Địa, những người Numenor sống sót (DuneDane) do Elendil lãnh đạo đã liên kết với Đại đế Gil-Galad cùng người lùn của vua Durin 4 để tạo ra Liên Minh Cuối cùng nhằm chống lại Sauron. Họ đánh bại quân đội của Mordor tại Trận chiến Dagorlad và tiến hành bao vây Barad-dur trong vòng 7 năm. Đến những thời khắc cuối cùng, chính Sauron đã thân chinh xuất trận, trước sức mạnh ghê gớm của Chúa tể bóng tối, Elendil và Gil-Galad lần lượt gục ngã. Nhưng trong một khoảng khắc chủ quan, Sauron đã bị Isildur, con trai của vua Elendil dùng lưỡi kiếm gãy Narsil chém rời Chiếc Nhẫn ra khỏi ngón tay. Mất chiếc nhẫn, phần cơ thể của Sauron bị nổ tung. Không có sự hiện diện của thủ lĩnh, quân đội Mordor bị đánh cho tan tác và chiến dịch chinh phục Trung Địa của Chúa tể bóng tối đã 1 lần nữa thất bại.Vũ khí nguy hiểm nhất của Sauron đã không còn nằm trong tay của ông ta, tuy nhiên, đa phần sức mạnh và 1 phần linh hồn của Chúa tể bóng tối là nằm ở trong chiếc Nhẫn. Nó cũng nguy hiểm như chủ nhân của nó vậy. Isildur là người đầu tiên có được chiếc Nhẫn, ông đã có thể tiêu diệt được hoàn toàn Sauron nếu như lúc tại núi Doom, ông ta ném nó xuống ngọn lửa. Nhưng thay vì làm vậy, ông ta lại bị cám dỗ của chiếc Nhẫn mê hoặc và quyết định giữ nó cho chính mình. Về sau Isildur bị giết chết trong khi đang định bỏ chiếc Nhẫn và chiếc Nhẫn bị thất lạc trong lòng Sông Anduin hàng nhiều thế kỷ cho đến khi lọt vào tay của Gollum.Linh hồn của Sauron vẫn luôn tồn tại, nhưng việc mất đi Nhẫn Chủ là một tổn thất lớn bởi đa phần sức mạnh của ông ta đều nằm trong nó. Không có chiếc Nhẫn, Sauron yếu đi rất nhiều và phải cần rất nhiều thời gian để tái tạo lại được một cơ thể mới. Trong thời gian hồi phục này, ông ta tiếp tục ẩn thân để hồi phục và tạo cảm giác chủ quan cho các kẻ thù.Năm 1050 của Thời đại thứ 3, ở pháo đài cổ Dol Guldur phía Nam Rừng Âm U, có 1 số tiên tộc đã nhìn thấy ở đó một Pháp sư gọi hồn, một phù thủy bóng tối nguy hiểm nhưng họ cũng không thể ngờ được rằng đó chính là Chúa tể bóng tối Sauron. Đa phần các lãnh đạo ở Trung Địa không nhận thức được mối hiểm họa này nên tỏ ra khá bàng quan.Trong khoảng thời gian này, các Valar đã gửi xuống Trung Địa nhóm Istari, một nhóm bao gồm 5 Maiar trong hình dạng là 5 phù thủy với nhiệm vụ là giúp cho những dân tộc tự do ở đây chống lại Sauron.Trong lúc Sauron đang tiếp tục tập hợp sức mạnh của ông ta thì các Ma Nhẫn cũng tái xuất ở Trung Địa vào năm 1300. Bọn chúng thay mặt chủ nhân thực hiện các chiến dịch tiêu diệt các vương quốc của Con người. Vua phù thủy xứ Angmar đã thành công trong việc tiêu diệt vương quốc Arnor của Người DuneDane. Nghi ngờ về sự hiện diện của thế lực tà ác, Gandalf Áo Xám đã vào Dol Guldur để điều tra mọi việc, nhưng Sauron khôn ngoan đã chạy về hướng Đông để che giấu hành tung. Năm 2460, ông ta lại tiếp tục quay trở về pháo đài này. Cùng năm này, chiếc Nhẫn Chủ được phát hiện và rơi vào tay của Gollum.Đến năm 2850, Gandalf một lần nữa đột nhập vào Dol Guldur và phát hiện ra Pháp sư gọi hồn đích thực là Chúa tể bóng tối quay trở lại. Ngay lập tức, Gandalf tập hợp Hội Đồng Trắng và cùng với họ tiến vào Dol Guldur để chạm trán với Sauron. Với sức mạnh của Hội Đồng, họ dễ dàng trục xuất được Sauron ra khỏi pháo đài.Tuy bị trục xuất nhưng Sauron không bị ảnh hưởng nhiều, tất cả đã nằm trong sự chuẩn bị của ông ta. Chúa tể bóng tối bay trở về Mordor, sào huyệt cũ của mình và công khai việc tái xuất của mình. Lúc này lực lượng của ông ta đã được tập hợp đủ mạnh để tung ra một cuộc chiến cuối cùng chống lại các dân tộc tự do ở Trung Địa.Thời điểm này, Sauron lấy hình dạng là một Con Mắt Lửa khổng lồ nằm ở trên đỉnh tháp Barad-dur. Biểu tượng của Mordor cũng được lấy theo hình của Con Mắt Lửa. Đó là biểu tượng đã gây ra không ít nỗi sợ hãi cho các dân tộc tự do ở Trung Địa.Tuy có lực lượng mạnh nhưng Sauron vẫn luôn khát khao tìm lại được chiếc Nhẫn Chủ bởi nếu có nó, ông ta sẽ hồi phục lại được toàn bộ sức mạnh của mình. Lúc này, ông ta phát hiện ra Gollum và cho bắt bớ, tra tấn hắn để lấy thông tin về chiếc Nhẫn. Chiếc Nhẫn lúc này không nằm trong tay của Gollum, nó hiện đang thuộc về Bilbo Baggin ở xứ Shire. Sau khi lấy được lời khai từ Gollum, Sauron cấp tốc sai Bộ chín Nazgul đến xứ Shire để truy tìm chiếc Nhẫn.Trong khi đó, Sauron kết giao đồng minh với phù thủy Trắng Saruman rồi ra lệnh cho ông ta dùng lực lượng tại Isengard để tiêu diệt vương quốc Rohan. Tuy nhiên, Saruman đã gặp thất bại.Trước đó, Sauron vẫn nghĩ rằng chính Saruman đã có được chiếc Nhẫn nhưng sau khi Pippin và Aragorn chạm vào quả cầu Palantir của Orthanc, Sauron lại nghĩ rằng chính người thừa kế của Isildur đang giữ chiếc Nhẫn và dùng nó để chống lại ông ta. Sauron ngay lập tức xúc tiến chiến dịch tấn công vào Minas Tirith, điều này là sớm hơn so với dự định ban đầu của ông ta. Tuy nhiên, với sự kết hợp của tất cả lực lượng Con Người, phe Mordor đã bị bại trận trong chiến dịch này.Mặc dù thế, lực lượng của Sauron vẫn còn quá lớn, đủ để chinh phục được Trung Địa. Tuy nhiên, Sauron lại không hành động ngay lập tức. Ông ta nghĩ rằng Aragorn đang có chiếc Nhẫn và đang cố gắng để sở hữu sức mạnh từ nó, bởi vậy mà ông ta ngồi chờ đợi, chờ cho đến khi chiếc Nhẫn làm biến chất Aragorn cùng các lãnh đạo khác của Con Người.Với mục đích trợ giúp cho Frodo cũng như để hạn chế sự chết chóc mà Sauron có thể gây ra ở những vùng ngoại vi, Gandalf và Aragorn đã dẫn toàn bộ lực lượng còn lại của Con Người tới Cánh Cổng Đen và khiến cho Sauron tin rằng đây là một sự thách thức trực tiếp đối với ông ta. Đến lúc này, Sauron vẫn không biết tới kế hoạch của Frodo. Ông ta không nghĩ rằng những con người ở Trung Địa lại có thể thực hiện một kế hoạch liều lĩnh đến vậy.Tất cả các lực lượng đều được dồn về phía Cánh Cổng Đen, điều này tạo sơ hở để Frodo có thể tiến qua các vùng đất đen tối và tới gần được Núi Doom. Khi Frodo đeo chiếc Nhẫn Chủ vào tay mình, Sauron ngay lập tức cảm nhận được sự hiện diện của nó. Một tiếng thét chát chúa cất lên và các Ma Nhẫn liền sau đó cũng bay trở về Núi Doom theo lệnh của chủ nhân chúng nhằm đoạt lại chiếc Nhẫn. Nhưng bọn chúng đã đến muộn, lúc đó, cả Gollum và chiếc Nhẫn đều đã rơi vào lòng lửa, chiếc Nhẫn sau đó bị tiêu hủy ngay.Cùng với sự tiêu hủy của Nhẫn Chủ, mặt đất rung chuyển, Barad-dur sụp đổ, Núi Doom bùng nổ và cả vùng đất Mordor bị nhấn chìm trong biển nham thạch. Con Mắt Lửa bị nổ tung và một lần nữa, linh hồn của Sauron lại vất vưởng không chốn nương tựa. Nhưng lần này khác với những lần trước, Sauron bị một tổn thất lớn chưa từng thấy, pháo đài Barad-dur sụp đổ, toàn bộ sào huyệt Mordor bị tiêu hủy và chiếc Nhẫn Chủ hoàn toàn biến mất.Sau tổn thất này, Sauron vẫn tồn tại ở dạng linh hồn, đó là một cái bóng khổng lồ, mờ ảo như khói bụi, trên đầu đeo vương miện, trông đáng sợ nhưng vô năng. Giờ đây Sauron chỉ còn là một cái bóng vô định được thổi bay đi bởi những cơn gió. Nhẫn chủ đã bị tiêu hủy, Sauron chẳng thể cứu vãn được gì thêm. Vậy là triều đại của Chúa tể bóng tối đời thứ 2 đã chính thức kết thúc.Sauron khởi đầu đã là một trong số những Maiar mạnh và thông thái nhất, sau khi về với Valar Aule, ông ta càng được tiếp thu thêm những kiến thức quan trọng về thế giới. Bằng sự thông thái đó, Sauron đã tạo ra những Chiếc Nhẫn nhằm thu phục và điều khiển những kẻ đeo chúng. Chính khả năng thu phục các chủng tộc khác đã khiến cho Sauron có một giá trị gì đấy rất khác biệt so với Melkor, kẻ mà vẫn thiên về xu hướng sử dụng sức mạnh bạo lực.Nhưng Sauron và Melkor thì cũng có nhiều điểm tương đồng với nhau. Họ đều giỏi trong việc tập hợp và lai tạo ra những lực lượng sinh vật độc ác ở dưới trướng của mình. Ngoài ra, họ còn rất biết cách để tận dụng sức mạnh của lửa, lửa luôn là biểu tượng và là một trong những vũ khí mạnh nhất của các đời Chúa tể bóng tối.Về riêng Sauron, ở Thời đại thứ Nhất, ông ta được nhắc tới nhiều qua khả năng biến hình, phép thuật cao siêu cùng với đầu óc khôn ngoan và kỹ năng chỉ huy tốt. Vào Thời đại thứ 3, cũng giống như các Ma Nhẫn, bao quanh Sauron là một luồng khí ma quái có khả năng gây khiếp sợ cho các kẻ thù đứng ở gần ông ta. Cùng với chiếc Nhẫn Chủ trên tay, Sauron đạt đến ngưỡng cao nhất của sức mạnh. Trong trận chiến cuối cùng với Liên Minh giữa Người và Elves, Ông ta đã chứng tỏ được sức mạnh kinh khủng của mình bằng cách đánh văng hàng loạt đạo quân cũng như cùng lúc tiêu diệt được cả 2 vị vua của 2 giống loài là Gil-Galad và Elendil. Việc bị Isildur chém đứt ngón tay cũng chỉ là do xuất phát từ thái độ chủ quan sơ suất.Trong cuốn Danh mục Quái thú dưới phần Chó sói có viết rằng "Huan đã tấn công kẻ mạnh nhất trong số các Maiar bằng một phát cắn vào cuống họng" câu này nhắc lại trận chiến giữa Sauron với Luthien và sói Trắng Huan. Nếu dựa vào câu này thì Sauron được cho là kẻ mạnh nhất trong số các Maiar. Tuy nhiên trong phần nói về riêng Maiar thì lại viết rằng "kẻ mạnh nhất trong số các Maiar là Eonwe". Ai là Maiar mạnh nhất vẫn chưa rõ ràng. Nhưng chắc chắn 1 điều là so với các Maiar đến Trung Địa thì Sauron là kẻ mạnh nhất.
Meneldor là một Đại bàng Lớn từng được nhắc tới ở chương "Cánh đồng Cormallen" trong cuốn Sự trở về của Đức vua, phần 3 thuộc loạt tiểu thuyết Chúa tể những chiếc Nhẫn của nhà văn Tolkien. Loài Đại bàng lớn tuy là những linh hồn Maiar nhập thể trong thân xác Đại bàng nhưng cũng không có nhiều nhân vật trong số họ được nhắc tới với tên riêng. Chỉ có 4 đại bàng được nhắc tên riêng trong tất cả các tiểu thuyết của Tolkien đó là Vua đại bàng Thorondor, Chúa tể đại bàng Gwaihir, Landroval em trai của Gwaihir và người còn lại chính là Meneldor. Sau khi Nhẫn Chúa bị phá hủy khiến cho núi Doom nổ tung thì Gandalf đã nhờ Gwaihir gọi thêm 2 Đại bàng ưu tú nhất trong bầy đàn của ông để cùng bay vào biển lửa Mordor cứu Frodo và Sam đang mắc kẹt trong đó. Gwaihir đã chọn thêm 2 người nữa là Landroval, em trai của ông và người còn lại chính là Meneldor. Điều đó có thể cho thấy Meneldor là vị đại bàng có độ uy tín đứng thứ 3 trong số các Đại bàng Lớn còn tồn tại ở Trung Địa vào thời đại thứ 3.Là một Maiar bất tử nên gần như chắc chắn là Meneldor cũng đã từng thuộc bầy đàn của Vua Đại bàng Thorondor trong thời đại thứ nhất. Có lẽ cả Gwaihir, Landroval và Meneldor đều đã từng tham gia chiến đấu với đội quân Rồng có cánh do Ancalagon dẫn đầu trong Cuộc chiến Thịnh Nộ. Cũng nhiều khả năng, Trận chiến của 5 đạo quân cũng có sự góp mặt của Meneldor. Trong trận chiến Moranno ở trước Cánh cổng Đen, Meneldor cũng tham gia và sống sót cho tới khi trận đánh kết thúc.Từ Menel trong tên của Meneldor theo ngôn ngữ Sindar có ý nghĩa là "thiên đường" hoặc "bầu trời". Ở thời đại thứ 3 thì Meneldor cùng với các Đại bàng Lớn khác đều cư trú tại một Tổ Đại bàng to nằm ở trên vách núi đá của Dãy núi Sương mù. Nhiều khả năng thì Meneldor, cũng như Landroval, đều có thể hiểu và nói được tiếng người như Gwaihir và Thorondor.Lúc Bilbo Baggin được chở đi từ Tổ Đại bàng, anh ta đã quá sợ nên níu chặt vào người của một Đại bàng đến nỗi mà vị Đại bàng đó đã phải nhắc nhở : "Đừng véo! Cậu không cần phải nhát như thỏ đế, ngay cả khi nom cậu khá giống một chú thỏ đấy. Sáng hôm nay trời đẹp và ít gió. Còn gì tuyệt vời hơn là bay nữa."Không biết vị Đại bàng Lớn đã nói chuyện với Bilbo là ai nhưng có lẽ không phải là Gwaihir bởi thường thì ông ta hay chở Gandalf. Xét về vai vế thì sau Gandalf là Thorin nên Landroval có lẽ là người đã chở Thorin, còn người chở Bilbo thì nhiều khả năng chính là Meneldor.
Thorondor là vua của tất cả các Đại Bàng Lớn ở Trung Địa trong suốt Thời đại thứ nhất. Ông ta có lẽ là con đại bàng có kích cỡ lớn nhất trong số tất cả các con thuộc chủng loài này với sải cánh rộng tới 180 feet.Khi người Noldor rời bỏ Aman thì Thorondor cùng các Đại bàng lớn đã được Chúa tể Valar Manwe điều xuống Trung Địa với nhiệm vụ bảo vệ và hỗ trợ cho họ trong cuộc chiến với Chúa tể bóng tối Melkor. Những người Elves tại Beleriand lần đầu nhìn thấy Thorondor là khi ông ta giúp Fingon giải cứu cho Maedhros khỏi tù ngục của Thangorodrim. Không lâu sau, chính nơi đây trở thành ngôi nhà của Thorondor nhưng chỉ là trong một thời gian ngắn. Về sau, Chúa tể đại bàng cùng với các đồng loại của mình đã đến cư ngụ tại Crissaegrim.Khi vương quốc Gondolin được xây dựng thì Thorondor trở thành một vị thần canh gác và bảo vệ cho thần dân tại đây. Trong trận đấu tay đôi giữa Melkor và Fingolfin, chính Thorondor đã mổ mù mắt của Chúa tể bóng tối và mang được xác của Fingolfin về Gondolin. Cũng chính ông ta cùng với 2 Đại bàng lớn khác đã tiến hành giải cứu Beren và Luthien khỏi Angband.Khi Gondolin bị sụp đổ, Thorondor cũng đã ra tay để cứu giúp những người còn sống sót. Trong suốt Cuộc Chiến Thịnh Nộ, Thorondor và Earendil đã dắn dắt đội quân Đại Bàng chiến đấu với những con Rồng của Melkor, và nhiều khả năng chính ông ta đã cùng với Earendil đánh bại Rồng đen Ancalagon, con rồng mạnh nhất trong lịch sử.Trong những ghi chép của Tolkien thì Thorondor không được đề cập tới thêm sau khi kết thúc Cuộc chiến Thịnh Nộ. Nhiều người tin rằng ông ta đã trở về thiên quốc Valinor nhưng vẫn để lại ở Trung Địa những hậu duệ của mình. Sau khi Thorondor rời đi thì Gwaihir Chúa Gió đã tiếp nối để trở thành Chúa tể Đại bàng ở Trung Địa.Chúa gió Gwaihir được biết tới như là Chúa tể của loài Đại bàng lớn ở Trung Địa trong thời đại thứ 3. Ông ta nhiều khả năng là người có kích cỡ lớn nhất, thông minh nhất và bay nhanh nhất trong số các Đại bàng ở Trung Địa vào thời đại này. Ngoài ra thì Gwaihir còn có khả năng hiểu và nói được tiếng người giống như là Thorondor trước kia.Gwaihir vốn là một hậu duệ xuất sắc của Thorondor, Vua của các Đại bàng lớn trong thời đại thứ nhất. Kích cỡ và sức mạnh của Gwaihir chắc chắn là không bằng được so với Thorondor bởi Vua đại bàng ở Kỷ 1 luôn được cho là người vĩ đại nhất trong giống loài của ông ta. Lúc Thorondor đi giải cứu Beren và Luthien thì Gwaihir và em trai của ông ta là Landroval cũng cùng lúc có mặt bên cạnh vị Vua đại bàng. Nói chung thì ở thời đại thứ nhất, Gwaihir khá lu mờ trước Thorondor và vai trò của ông chỉ được nhắc tới rõ ràng hơn vào thời đại thứ 3 mà đặc biệt là ở các sự kiện trong Anh chàng Hobbit và Chúa Nhẫn. Năm 2941 của thời đại thứ 3, Gwaihir từng dẫn đầu một nhóm Đại bàng đi giải cứu cho nhóm đồng hành của Thorin khi họ đang bị lũ Wargs và Orcs truy đuổi ở gần núi Gundabad. Trong Anh chàng Hobbit thì tác giả Tolkien hồi đó vẫn chưa nhắc rõ ràng về tên riêng của các nhân vật Đại bàng lớn, ông chỉ nói là người dẫn đầu các Đại bàng trong cuộc giải cứu là Chúa tể Đại bàng. Sau khi cứu được nhóm đồng hành, những Đại bàng lớn đã đưa họ về nơi ở và tại đây, Gandalf đã nói với Bilbo rằng là ông ta có mối quan hệ với Chúa tể Đại bàng từ khá lâu. Ở một khoảng thời điểm nào đó trước kia, Gandalf đã từng giúp chữa trị cho Chúa tể Đại bàng khỏi một vết thương nguy hiểm do trúng phải tên độc của lũ Orcs và kể từ đó thì 2 người đã trở thành những người bạn tin cậy của nhau. Mặc dù là tên của vị Chúa tể Đại bàng không được nhắc tới rõ ràng nhưng gần như đó chính là Gwaihir bởi trong số các Đại bàng thì không ai có mối quan hệ thân thiết với Gandalf như ông ta.Về sau ở Trận chiến của 5 đạo quân, Gwaihir đã dẫn một đạo quân Đại bàng đông đảo bay đến Ngọn núi Cô độc để giúp tiêu diệt lũ Orcs tại trận chiến. Gwaihir đã sống sót qua trận chiến và đã bay về nơi ở trên núi trước khi Bilbo kịp tỉnh giấc để nói lời cảm ơn ông ta. Vào mùa hè năm 3018 của thời đại thứ 3, Gandalf có nhờ Radagast chuyển lời tới các loài chim và nhờ chúng lan truyền giúp những tin tức quan trọng đã và đang diễn ra ở các vùng đất. Các loài chim và các đại bàng lớn đã giúp Radagast thực hiện nhiệm vụ này bằng cách quan sát và thông báo các tin tức về các đợt hội quân của lũ Orcs ở gần Dãy núi Sương mù và cả sự trốn thoát của Gollum khỏi Vương quốc Đất rừng. Qua lời kể của Radagast, Gwaihir bay tới Isengard để tìm Gandalf và vào tầm rạng sáng ngày 18-9 năm 3018, ông ta phát hiện ra Gandalf đang bị giam giữ ở trên đỉnh tháp Orthanc bởi Saruman. Vị Chúa gió đã cứu và mang Gandalf ra khỏi Isengard mà Saruman không hề hay biết. Khi Gandalf nói rằng là ông cần một con ngựa thì Gwaihir đã thả ông ta xuống vùng đất của vương quốc Rohan rồi bay đi.Ngày 17-2-3019, Gwahir được nữ hoàng Galadriel mời đến để giúp tìm kiếm tung tích của Gandalf. Ngay sau khi nhận lời với nữ hoàng, Chúa gió đã ngay lập tức thực hiện cuộc tìm kiếm và rồi ông ta đã tìm thấy Gandalf đang nằm hôn mê tại đỉnh Celebdil. Sau đó, ông ta đã mang vị phù thủy trở về Lothlorien cho nữ hoàng Galadriel chăm sóc. Có 1 điểm chú ý đó là lần này, Gwaihir cảm thấy Gandalf đã nhẹ hơn lần chở tại Isengard rất nhiều, nhẹ như không có gì vậy. Lí giải cho điều này là bởi lúc đó, sự sống cũ của Gandalf đã bị thiêu đốt hoàn toàn và ông ta đang trong quá trình hồi sinh thành Phù thủy Trắng.Ngay sau khi đưa Gandalf tới Lothlorien, Gwaihir lại được nhờ để đi theo dõi tung tích và tin tức của Đoàn hộ Nhẫn. Aragorn và Legolas, cả 2 đã từng nhìn thấy ông ta đang bay lượn ở phía trên của Emyn Muil. Gwaihir trở về với Gandalf và cho ông ta biết thêm về những tin tức mới mà trong đó có việc Merry và Pippin đã bị bắt bởi những Uruk-hai của Saruman. Việc này có thể là lí giải cho lí do vì sao mà Gandalf Trắng lại tình cờ xuất hiện tại gần khu vực rừng Fangorn, nơi mà 2 người Hobbit bị giải tới, có thể là từ tin tức của Gwaihir mà ông ta đã đi ngay tới đây với mục đích giải cứu Merry và Pippin.Ngày 25 tháng 3 năm 3019, Gwaihir lại một lần nữa dẫn đạo quân Đại bàng lớn tham gia vào một trận đánh lớn, lần này thì là tại Trận chiến Moranno diễn ra ngay trước Cánh cổng Đen của Mordor. Các Đại bàng lớn đã bất ngờ xuất hiện và mục tiêu đầu tiên của họ chính là những Nazgul đang cưỡi Đại bàng địa ngục ở phía trên không. Đám đại bàng địa ngục tỏ ra yếu thế trước Gwaihir và đội quân của ông ta trước khi chúng bay về phía núi Doom theo mệnh lệnh triệu hồi của Sauron.Sau khi Nhẫn Chúa bị phá hủy và núi Doom phát nổ, Gandalf một lần nữa đã nhờ Gwaihir và 2 người anh em của ông ta bay vào trong biển lửa Mordor để tìm kiếm Frodo và Sam. Gandalf  nói rằng đây sẽ lần cuối cùng mà ông ta làm phiền tới Chúa tể Đại bàng nhưng Gwaihir lại tỏ ra thoải mái khi nói: "tôi sẽ chở ông tới bất cứ đâu ông muốn ... cho dù ông có được đẽo từ đá đi chăng nữa".Khi bay vào trong Mordor, nhờ vào đôi mắt tinh tường của mình mà chính Gwaihir là người đầu tiên phát hiện ra Frodo và Sam đang nằm trên một tảng đá trôi nổi giữa biển lửa. Đi cùng ông còn có 2 đại bàng lớn khác là Landroval và Meneldor. Các đại bàng lớn đã kịp thời cứu được 2 anh chàng Hobbit và đưa họ tới nơi an toàn. Kể từ thời điểm đó, Gwaihir và bầy đàn của ông không còn thấy nhắc tới trong Chúa Nhẫn. Về khả năng Gwaihir có trở về Aman như Thorondor trước đó hay không vẫn còn được bỏ ngỏ.Có những tranh luận nhất định về việc cho rằng Chúa tể Đại bàng trong Anh chàng Hobbit và Gwaihir là 2 nhân vật khác nhau. Những người đưa ra quan điểm này là bởi dựa vào câu nói của Gandalf lúc ông ta nhờ vả Gwaihir lần cuối ở trước cánh cổng Đen, câu nói có nội dung chính xác như sau:"Anh đã đưa tôi đi 2 lần, Gwaihir bạn của tôi .. 3 lần sẽ hoàn trả tất cả, nếu anh thuận ý."Nhiều người cho rằng ở thời điểm câu nói đó thì số lần Gwaihir giải cứu Gandalf phải là 3 lần chứ không phải 2 lần. Lần 1 là ở núi Gundabad, lần 2 ở Isengard và lần 3 là ở đỉnh Celebdil. Tuy nhiên, Admin vẫn tin rằng Gwaihir chính là vị Chúa tể Đại bàng trong Anh chàng Hobbit bởi lần giải cứu ở Gundabad, không có đoạn nào nói tới việc chính đích thân Chúa tể đại bàng đã chở Gandalf bay khỏi cuộc truy sát của lũ Warg và Orcs cả. Chúa tể đại bàng có thể là người đã dẫn đầu nhóm đại bàng giải cứu nhưng chở Gandalf bay đi không nhất thiết phải là ông ta mà có thể là một nhân vật Đại bàng bất kỳ khác.Tiếp nữa, có thể những gì mà Gandalf nói là chỉ liên hệ tới những thời điểm gần nhất. Lần ở Isengard và đỉnh Celedil là 2 lần gần nhất, chúng chỉ diễn ra trong khoảng từ tháng 9 năm 3018 cho đến đầu năm 3019, tức là chỉ trong khoảng nửa năm. Cuối cùng thì là ở đầu mối "3 lần sẽ hoàn trả tất cả" ở chính câu nói trên. Vậy cái gì được hoàn trả ở đây ngoài việc Gandalf đang ám chỉ đến lần ra ơn cứu sống cho Gwaihir thoát khỏi vết thương từ mũi tên độc. Việc cứu sống Chúa tể Đại bàng của Gandalf được nhắc tới trong chính cuốn Anh chàng Hobbit.Cũng có người đặt thắc mắc là tại sao Gandalf lại không nhờ luôn chính Gwaihir chở ông ta tới núi Doom để ném chiếc Nhẫn Chúa vào đó thay vì mạo hiểm dùng phương án Frodo. Lí giải cho điều này thì chính Chúa tể Đại bàng đã từng nói với nhóm đồng hành của Thorin là các Đại bàng lớn không nên bay tới gần các khu người ở vì họ có thể bị bắn hạ bởi các mũi tên lớn. Nếu Gwaihir bay tới gần Mordor thì con mắt của Sauron sẽ phát hiện ra và cho thuộc hạ bắn hạ ông ta ngay lập tức, đó là còn chưa kể tới các Nazgul cưỡi Đại bàng địa ngục ở trên không, chúng cũng có thể ngăn cản được Gwaihir và cướp được chiếc nhẫn từ ông ta.Gwaihir còn có 1 cái tên ban đầu là Gwaewar. Nghĩa của từ Gwaihir trong tiếng Sindar có mang ý nghĩa là Chúa gió. Biệt danh và tên gọi này làm liên tưởng nhiều tới tước hiệu Chúa gió của Chúa tể Valar Manwe, Valar Manwe cũng là người đã tạo ra các Đại bàng lớn, có thể Gwaihir cũng là 1 trong số những đứa con được yêu thích nhất của Ngài. Về kích thước và sức mạnh thì Gwaihir không bằng so với Thorondor nhưng có lẽ về tốc độ thì nhiều khả năng ông ta lại nhanh hơn. Một điều nữa đó là nếu Thorondor là một linh hồn Maiar quyền năng thì chắc chắn Gwaihir cũng vậy.
Landroval là một trong những nhân vật Đại bàng Lớn mạnh nhất ở Trung Địa vào thời đại thứ 3. Ông ta được Gandalf nhắc tới như là em trai của Chúa tể Đại bàng Thorondor và cũng là 1 trong 3 Đại bàng Lớn ưu tú nhất được nhờ cậy để bay vào biển lửa Mordor nhằm cứu thoát Frodo và Sam sau khi Nhẫn Chúa bị phá hủy.Giống như anh trai của mình là Gwaihir thì Landroval cũng là một hâu duệ của Vua Đại bàng Thorondor và cả 2 cùng xuất hiện ở Trung Địa ngay từ thời đại đầu tiên. Lúc Thorondor giải cứu Beren và Luthien khỏi pháo đài Angband của Chúa tể bóng tối Melkor thì chính Gwaihir và Landroval là 2 Đại bàng bay đồng hành cùng với ông.Do các Đại bàng lớn là những linh hồn Maiar nên sức mạnh của họ là rất lớn và cũng bất tử theo thời gian nếu như không bị kẻ thù sát hại. Landroval sống tới tận thời đại thứ 3 của Trung Địa, trong cuốn anh chàng Hobbit có nói tới việc Gwaihir bị thương nặng bởi một mũi tên độc nhưng đã được Gandalf chữa trị. Nếu trong trường hợp Gwaihir bị chết do vết thương đó thì không ai khác ngoài Landroval sẽ kế thừa chức danh Chúa tể Đại bàng. Quan hệ của Landroval là khá tốt với các phù thủy Istari nhưng không thân thiết được như mối quan hệ giữa Gwaihir và Gandalf. Nhiều khả năng là Landroval cũng đã từng tham gia vào Trận chiến của 5 đạo quân bởi ở Trận chiến Moranno thì ông ta cũng tham gia chiến đấu bên cạnh anh trai của mình. Theo giọng điệu của Gandalf thì có vẻ như 2 anh em Gwaihir và Landroval rất hay đi cùng nhau trong những nhiệm vụ mang tính sinh tử.Theo giả thuyết của 1 số người thì họ cho rằng Chúa tể Đại bàng được nhắc tới trong cuốn Anh chàng Hobbit không phải Gwaihir mà chính là Landroval. Lí lẽ cho giả thuyết này được giải thích rõ hơn trong bài viết về Gwaihir.Cái tên Landroval theo ngôn ngữ Sindar có ý nghĩa là " Cánh rộng ". Bên cạnh đó, nhiều khả năng thì Landroval, cũng như là Meneldor, đều có thể hiểu và nói được tiếng người như Gwaihir và Thorondor. Lúc Bilbo Baggin được chở đi từ Tổ Đại bàng, anh ta đã quá sợ nên níu chặt vào người của một Đại bàng đến nỗi mà vị Đại bàng đó đã phải nhắc nhở : "Đừng véo ! Cậu không cần phải nhát như thỏ đế, ngay cả khi nom cậu khá giống một chú thỏ đấy. Sáng hôm nay trời đẹp và ít gió. Còn gì tuyệt vời hơn là bay nữa."Không biết vị Đại bàng Lớn đã nói chuyện với Bilbo là ai nhưng có lẽ không phải là Gwaihir bởi thường thì Chúa tẻ đại bàng hay chở Gandalf. Xét về vai vế thì sau Gandalf là Thorin nên Landroval có lẽ là người đã chở Thorin, còn người chở Bilbo thì nhiều khả năng là Meneldor.
"Manwe triệu tập các Valar đến một hội nghị nhằm đưa ra đề xuất về việc cử đi 3 sứ giả tới Trung Địa và Ngài cất tiếng hỏi là ai sẽ đi .... Chỉ duy nhất 2 người bước lên ; Curumo và Alatar ... và Alatar đã mang Pallando đi cùng như là một người bạn." Alatar là một Maiar có cái tên gốc là Morinehtar, ông là 1 trong 5 phù thủy trong nhóm Istari nhưng trước đó đã từng được cử tới Trung Địa cùng người bạn thân là Romestamo (Pallando) vào thời đại thứ 2. Ở Trung Địa, họ được biến đến như là Ithryn Luin, hoặc là các phù thủy áo Lam. 2 phù thủy Lam đều là các Maiar thuộc quyền của Valar Orome nên họ cũng có thói quen sống ở các vùng thảo nguyên hoặc rừng rậm to lớn, lúc đến Trung Địa, họ được giao nhiệm vụ chính là bình định các mối phản loạn ở những vùng phía Đông như Rhun hay Khand. Tại đây, họ đã thành công trong nhiệm vụ của mình và còn giúp đỡ rất nhiều cho một số bộ lạc có chủ trương không phục tùng Melkor và Sauron.Chính Alatar và Pallando mới là những người đầu tiên trong số các Istari được phái tới Trung Địa vì lúc họ thành công trong nhiệm vụ ở phương Đông thì đó cũng chính là khoảng thời gian mà Những chiếc nhẫn Sức mạnh đang được tạo ra. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ của mình thì 2 phù thủy Lam đã trở về Valinor."Tôi nghĩ rằng họ đã ra đi như là những sứ giả được điều tới những khu vực xa xôi, ở hướng đông và hướng nam, ... nơi nhiệm vụ diễn ra ngay trong lòng những vùng đất từng thuộc về kẻ thù. Họ đã đạt được những thành công gì thì đó là điều mà tôi cũng không biết; nhưng tôi e là họ đã thất bại, giống như Saruman đã từng thất bại, mặc dù vẫn còn rất nhiều sự hồ nghi; và tôi còn cho rằng họ chính là những người đã khai sáng và sáng lập ra các giáo phái bí mật và các phép thuật cổ truyền tồn tại ở phương Đông từ trước cả thời điểm sụp đổ của Sauron."Năm 1000 của thời đại thứ 3, các Valar có ý định lựa chọn ra 5 Maiar để làm 5 sứ giả đại diện cho thiên giới tới Trung Địa để giúp các dân tộc tự do tại đây chống lại mối hiểm họa Sauron. Alatar cùng với Saruman là 2 người duy nhất tự động bước lên để nhận nhiệm vụ này. Về sau, Alatar đã chọn lựa Pallando để làm người bạn đồng hành của mình. 5 người trong nhóm Istari cùng đến Bến cảng Xám ở Trung Địa và cùng gặp lãnh chúa Cirdan, sau khi lãnh chúa đưa cho Gandalf chiếc nhẫn Nanya thì đã gây ra mối bất hòa ngấm ngầm giữa Saruman với Gandalf, thái độ của 3 phù thủy còn lại đối với việc này thì không thấy nhắc tới.Sau khi đến Trung Địa lần thứ 2, Alatar đã cùng với Saruman và Pallando đi tới các vùng đất ở phía Đông để giúp giải phóng cho những con người Numenor cuối cùng, mà lúc đó đã là những tộc người có nền văn minh lớn như Haradrim và Easterling, thoát khỏi sự kiềm tỏa của Sauron. Về sau, Saruman được cho là đã thất bại và quay trở về Gondor một mình trong khi 2 phù thủy áo Lam thì không bao giờ còn được nhắc tới. Số phận của họ vẫn là một bí ẩn nhưng nhiều khả năng là họ đã bị thất bại trong nhiệm vụ lần này.Alatar và Pallando đều được gọi là những phù thủy Lam bởi màu áo mà họ mặc khi tới Trung Địa là màu xanh nước biển, tuy nhiên, màu áo của Alatar thì đúng chuẩn là màu xanh đậm của biển trong khi màu áo của Pallando thì lại nhạt hơn 1 chút và giống với màu xanh da trời.Pallando là một trong số 5 phù thủy Istari được các Valar phái tới Trung địa để giúp các dân tộc tự do ở đây trong cuộc chiến với Chúa tể bóng tối Sauron. Pallando vốn là một Maiar có tên gốc là Romestamo, ông là bạn thân của Maiar Alatar , 2 người được mệnh danh là Ethryn Luin, nghĩa là các phù thủy áo Lam. Sức mạnh và quyền phép của Pallando cũng chưa bao giờ được đem ra để so sánh chính xác với 4 phù thủy còn lại của nhóm Istari. Trước khi đến với Trung Địa, Pallando cùng với Alatar đều là 2 Maiar phục vụ cho Valar Orome nên giữa họ có một liên kết rất đặc biệt. Cũng phải nói đến việc là chính 2 Maiar này mới là những Istar đầu tiên tới Trung Địa chứ không phải là Saruman hay Gandalf. Ở thời đại thứ 2, Pallando và Alatar đã được phái tới vùng phương Đông của Trung Địa để giúp giải quyết những vấn đề rối loạn do những con người đi theo Sauron gây ra. Nhiệm vụ này đã được 2 người thực hiện thành công, ngoài ra thì họ còn giúp đỡ rất nhiều cho những bộ lạc trung lập không phục vụ cho phe bóng tối. Có thể chính 2 người là thủy tổ của những pháp thuật và giáo phái cổ truyền ở những vùng đất phương Đông này.Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, 2 người đã quay trở lại Valinor và cho đến năm 1000 của thời đại thứ 3, khi Valar Manwe quyết định cử 5 sứ giả tới Trung Địa thì Pallando và Alatar lại một lần nữa được chọn lựa để lần thứ 2 thực hiện nhiệm vụ ở đại lục phía Đông. Nhóm Istari đến Bến cảng Xám cũng vào năm 1000, Pallando và Alatar đều được gọi là các phù thủy Lam bởi họ thường khoác lên mình bộ trang phục màu Lam (tức là màu xanh nước biển). Pallando được cho là có màu áo nhạt hơn so với Alatar, bộ râu của ông cũng ngắn hơn so với của Gandalf hay Saruman và nó có màu xám. Ngoài ra thì trông Pallando cũng trẻ trung hơn so với Gandalf và sạch sẽ hơn so với Radagast.Lần tới Trung Địa thứ 2 này, 2 phù thủy Lam lại tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của họ ở vùng phương Đông nhưng lần này thì còn có thêm cả Saruman cùng tham gia. Riêng Pallando thì còn có biệt hiệu là "Người cứu giúp của phương Đông", điều đó cho thấy rằng vai trò của ông là không hề nhỏ trong thời đại thứ 3 mặc dù tung tích của cả 2 phù thủy Lam đều không được nhắc tới rõ ràng. Sau một thời gian ở phương Đông, Saruman được cho là thất bại trong nhiệm vụ đã trở về phương Tây và nhận được sự giao phó Orthanc của quan chấp chính Gondor. Ngược lại, số phận của Pallando cũng như là Alatar thì lại không hề được nhắc tới thêm 1 lần nào nữa. Họ cũng gần như không có sự liên hệ gì với những Istar còn lại bởi Gandalf thậm chí còn không nhớ được chính xác tên của họ.Tolkien từng nói là ông e sợ rằng các phù thủy Lam đã thất bại trong nhiệm vụ của mình nhưng có thể trong thực tế thì vai trò của họ vẫn là vô cùng quan trọng trong thời kỳ Nhẫn chiến. Không biết được rằng họ có còn ở Trung Địa hay đã vượt biển về Aman vào cuối thời đại thứ 3 hay không ? Số phận của Pallando và Alatar vẫn còn là 1 bí ẩn.
Gandalf là một pháp sư (Istari) được các Valar gửi tới Middle-earth trong Kỷ thứ Ba. Ông đã đi cùng Người Lùn Thorin và hội đồng hành trong sứ mệnh chiếm lại vương quốc Erebor từ rồng Smaug. Ông cũng góp công lớn trong Hội Bằng hữu của chiếc Nhẫn để tiêu hủy chiếc Nhẫn Quyền Lực của Sauron. Khi ở dưới hình hài Gandalf Xám, ông được miêu tả như sau 'Ông đội một chiếc mũ xám chóp nhọn, mặc áo choàng xám dài, và quấn khăn màu bạc. Ông có một chòm râu dài trắng xóa và cặp lông mày rậm rạp thò ra dưới vành mũ.'- Trích 'Hội Bằng hữu của chiếc Nhẫn', chương 'Bữa tiệc được mong đợi từ lâu'Nguồn gốc. Gandalf nguyên là một Maiar với tên gọi Olórin. Ông được coi như người thông thái nhất trong số các Maiar. Khi còn ở thiên quốc Valinor, ông thường sống trong những khu vườn của thần Irmo (Lórien). Ông là học trò của thần Nienna, người đã truyền cho ông học thức và lòng trắc ẩn. Khi các Valar quyết định gửi hội Pháp sư tới Middle-earth để tư vấn và tương trợ cho những Giống người Tự do chống lại Chúa tể Hắc ám Sauron, thần Manwë và thần Varda đã chọn Gandalf là một trong số năm sứ giả được gửi đi: Olórin, Curumo, Aiwendil, Pallando, và Alatar, vào năm 1000 của Kỷ thứ Ba.Một truyền thuyết kể rằng thần Yavanna đã trao viên Đá Elf của Eärendil cho Gandalf, để ông mang tới cho người dân của Middle-earth, ngụ ý rằng các Valar không bỏ rơi họ. Ông đã đưa viên đá cho Công nương Galadriel, và tiên đoán rằng Công nương sẽ đưa lại cho một người sau này mang tên Elessar (chính là Aragorn).Khi tới Middle-earth, Gandalf nhận chiếc nhẫn lửa Narya từ tay Cirdan Người Đóng tàu, đó là một trong ba chiếc nhẫn Elf (Tiên). Ông đã ẩn danh trong nhiều thế kỉ, sống giữa các Elf, học từ họ và dạy lại họ. Sau đó, ông tiết lộ thân phận của mình và gia nhập Hội đồng Trắng, mà Công nương Galadriel tiến cử ông làm thủ lĩnh, nhưng ông đã từ chối vị trí này vì muốn giữ sự độc lập. Pháp sư Saruman (Curumo) trở thành lãnh đạo của Hội đồng.
-Hành trình tới Erebor: Năm 2850 Kỷ thứ Ba, Gandalf gặp vua Người Lùn Thráin II, cha của Thorin Khiên Sồi, trong hầm ngục của Dol Guldur, sào huyệt của tên phù thủy Necromancer. Thráin đã đưa cho ông bản đồ và chìa khóa để vào Erebor. Gandalf cũng phát hiện ra Necromancer không phải là ai khác mà chính là Chúa tể Hắc ám Sauron. Trong truyện 'Gã Hobbit', Gandalf xuất hiện trước cậu hobbit Bilbo Baggins của vùng Shire và sắp xếp để Bilbo đi cùng hội mười ba Người Lùn do Thorin Khiên Sồi dẫn đầu, trong sứ mệnh chiếm lại kho báu của Đỉnh núi Cô độc, mà nhiều năm trước rồng Smaug đã đoạt mất. Trong chuyến đi này, Gandalf đã tìm được cây kiếm Glamdring và sử dụng nó từ đó trở về sau. Bilbo tìm được thanh đoản kiếm Sting và chiếc Nhẫn, nhưng không biết rằng đó là Nhẫn Quyền Lực của Sauron.Khi đoàn của Thorin đặt chân tới rừng Mirkwood, Gandalf bỏ đi để tham gia vào cuộc tấn công Dol Guldur của Hội đồng Trắng. Cuộc tấn công này đã đuổi tên Necromancer ra khỏi sào huyệt, tuy nhiên, hắn đã quay trở lại thành trì cũ của hắn ở Barad-dûr và lộ nguyên hình là Sauron vào năm 2951.Gandalf trở lại đoàn của Thorin vào đúng thời điểm Trận chiến của Năm Đạo quân nổ ra. Ông đã chiến đấu trong trận này, và giúp tiêu diệt mối đe dọa của bọn goblin (yêu tinh). Sau trận đánh, ông đi cùng Bilbo trở lại vùng Shire.
-Trở lại vùng Shire: Từ năm 2941 đến năm 3001 Kỉ thứ Ba, Gandalf du hành khắp Middle-earth để tìm kiếm thông tin về sự quay trở lại của Sauron, và về chiếc nhẫn bí ẩn của Bilbo. Ông cũng dành rất nhiều thời gian để ở trong vùng Shire, củng cố tình bạn với Bilbo và cậu cháu của Bilbo, Frodo.Năm 2956, ông gặp và kết bạn với Aragorn, hậu duệ của vương quốc Arnor.Năm 3001 Kỉ thứ Ba, Gandalf tới vùng Shire để tham dự lễ sinh nhật thứ 'một trăm mười một' (111) của Bilbo. Ông thấy không an tâm về dáng vẻ trẻ trung bất thường của Bilbo, và bắt đầu nghi ngờ chiếc Nhẫn. Sau buổi tiệc, Bilbo nói tạm biệt Gandalf để đi khỏi Shire. Vào phút cuối cùng, Bilbo đổi ý và không muốn để chiếc Nhẫn lại cho Frodo. Gandalf cố thuyết phục Bilbo, nhưng Bilbo tỏ thái độ thù địch và kết tội Gandalf muốn chiếm chiếc Nhẫn cho riêng mình. Bilbo bắt đầu gọi chiếc Nhẫn là 'báu vật'. Gandalf kinh ngạc và dùng pháp lực dọa Bilbo để ông tỉnh lại, thoát ra khỏi ảnh hưởng của chiếc Nhẫn. Bilbo xin lỗi, và để chiếc Nhẫn lại, rồi lên đường.Gandalf thấy rất bất an về chiếc nhẫn bí ẩn. Ông đưa nó cho Frodo và dặn cậu giữ nó cẩn thận. Mười bảy năm tiếp theo, ông đi tìm câu trả lời cho vấn đề này. Năm 3017, sau khi Aragorn giúp ông bắt giữ Gollum, ông tra hỏi Gollum về chiếc Nhẫn, và so sánh với các dữ kiện lưu trữ ở Minas Tirith, ông kết luận rằng đó có thể là chiếc Nhẫn Chúa của Sauron. Nhưng không chỉ một mình ông biết thông tin này. Trước đấy, Sauron đã bắt được Gollum ở Mordor và tra khảo hắn, hắn đã khai ra tên 'Baggins' và 'Shire'. Nghe được tin này, Gandalf vội vã quay trở lại vùng Shire để cảnh báo Frodo. Ông nhờ các Elf Rừng của Mirkwood canh giữ Gollum, nhưng hắn đã trốn thoát được.
-Hội Bằng hữu của chiếc Nhẫn: Khi gặp Frodo, Gandalf một lần nữa khẳng định được chiếc Nhẫn mà cậu đang giữ có khắc Ngôn ngữ Đen, và chính là chiếc Nhẫn Chúa. Ông khuyên cậu nên đi khỏi càng sớm càng tốt, mang theo chiếc Nhẫn, và hứa sẽ quay lại để đi cùng cậu tới Rivendell. Gandalf cũng kể cho Frodo nghe về Gollum.Gandalf gặp Radagast, Pháp sư Nâu, ở gần Shire, vị này nhắn Gandalf hãy đến gặp Saruman, vì bọn Nazgûl đã vượt sông Anduin. Gandalf viết thư cho Frodo và nhờ một chủ quán trọ ở Bree gửi hộ, rồi ông đi tới Isengard để gặp Saruman. Tuy nhiên, khi đến nơi, ông mới vỡ lẽ ra rằng Saruman đã trở mặt. Lão cố thuyết phục Gandalf cùng lão đi theo phe Sauron. Thấy không đạt kết quả, lão nhốt Gandalf lại trên đỉnh tháp Orthanc.Sau một thời gian bị giam cầm, Gandalf được Đại bàng Gwaihir giải cứu. Đại bàng đưa Gandalf tới vương quốc Rohan, ông đến gặp vua Théoden và xin một con ngựa cưỡi. Trong đàn ngựa của nhà vua, Gandalf đã chọn ra chú ngựa quý Shadowfax và cùng chú phi về vùng Shire. Nhưng Frodo đã lên đường tới Rivendell từ trước đó, nên Gandalf cũng đi về Rivendell. Dọc đường, ông gặp phải các Nazgûl, thuộc hạ của Sauron, ở đỉnh Weathertop. Ông chiến đấu dữ dội với chúng một đêm và thoát được tới Rivendell. Vài ngày sau, Frodo cũng tới đó trong tình trạng bị thương nặng nhưng vẫn giữ được chiếc Nhẫn.Sau khi vết thương của Frodo đã lành, Gandalf và vị chúa elf Elrond triệu tập một hội đồng bí mật để quyết định cách xử trí với chiếc Nhẫn. Frodo tự nguyện gánh trọng trách mang Nhẫn đến Núi Doom để tiêu hủy nó. Gandalf nhận đi cùng và giúp đỡ Frodo trong sứ mệnh này, cùng với Aragorn, Boromir, hoàng tử elf Legolas, Người Lùn Gimli và các cậu hobbit Samwise Gamgee, Peregrin Took, và Meriadoc Brandybuck, lập nên Hội Đồng hành của chiếc Nhẫn, gồm chín thành viên, do Gandalf dẫn đầu.Ông quyết định rằng cả hội sẽ vượt qua Dãy núi Mù sương bằng lối Caradhras, để tránh Isengard. Nhưng bão tuyết đã cản chân họ. Gandalf đành phải dẫn cả hội đi vào Moria nằm sâu dưới lòng đất, nơi từng là một thành phố mỏ trù phú của Người Lùn. Nhưng Moria lúc này đã bị bỏ hoang và bọn Orc ở khắp nơi. Trong Moria, tại cây cầu Khazad-dûm, ông phải đối mặt với một Balrog vẫn thường được gọi là 'Tai ương của Durin'. Hắn là một Maiar đã bị Melkor tha hóa từ những ngày sơ khai của vũ trụ.Gandalf chiến đấu với hắn, ông dùng gậy phép của mình đập gãy cây cầu khiến cho tên Balrog ngã xuống vực sâu. Nhưng chiếc roi của hắn đã quấn vào chân Gandalf và kéo ông rớt xuống vực cùng hắn. Hội Đồng hành tưởng ông đã chết nên tiếp tục lên đường. Nhưng thực ra, lúc ngã xuống đến đáy vực, ông vẫn tiếp tục chiến đấu với tên Balrog thêm mười ngày nữa. Cuối cùng, ông hạ được hắn trên đỉnh Celebdil, và ông cũng chìm vào trong bóng tối, linh hồn ông rời khỏi thể xác phàm tục.
-Gandalf Trắng: Nhưng linh hồn của Gandalf vẫn chưa vĩnh viễn rời bỏ Middle-earth. Là kẻ duy nhất trong năm Pháp sư giữ trung thành với sứ mệnh được giao, Olórin/Gandalf được thượng đế Eru gửi trở lại Middle-earth, lần này dưới hình hài của Gandalf Trắng, với tư cách là sứ giả tối cao của các Valar, và được bộc lộ nhiều quyền năng thực sự của Maiar hơn trước.Từ đỉnh núi nơi ông đang nằm trần trụi, Đại bàng Gwaihir đưa ông tới Lothlórien. Tại đây, ông được Công nương Galadriel đưa cho một cây gậy phép mới. Dáng vẻ bề ngoài của Gandalf Trắng được mô tả như sau 'Tóc ông bạc trắng như tuyết dưới ánh mặt trời; và trắng phau là tà áo chùng của ông lấp lánh. Đôi mắt sáng của ông dưới cặp lông mày rậm nhìn soi thấu như những tia nắng rọi; và đôi tay ông đầy sức mạnh.' - Trích 'Chúa tể của những chiếc Nhẫn', chương 'Kị sĩ Trắng'. Biết rằng Frodo và Sam quyết định tiến vào Mordor đơn độc không có Hội Đồng hành, Gandalf bèn đi tới rừng Fangorn để gặp Aragorn, Legolas và Gimli. Ông gọi Shadowfax tới, chú chiến mã đã trở nên thân thiết với ông và sẽ đồng hành cùng ông trong chặng đường còn lại ở Middle-earth.Họ cùng phi tới Edoras của Rohan. Gandalf gạt bỏ tên gián điệp của Saruman, Gríma Lưỡi Rắn, ra khỏi vị trí cố vấn của vua Théoden, và khuyên nhà vua ra trận chống lại sự xâm lược của Saruman.Vua Théoden và các vị khách phi ngựa về phía Tây, nhưng họ mau chóng gặp phải quân địch đông gấp bội, nên họ rút vào Helm's Deep cố thủ. Gandalf rời khỏi họ để đi tìm tướng Erkenbrand của vùng Westfold tới trợ chiến, ông cũng gặp các thần cây Ent và đề nghị họ giúp đỡ trong cuộc chiến chống lại Saruman. Ông và các bằng hữu cuối cùng đã giải vây được cho Helm's Deep.Sau trận đánh, Gandalf cùng vua Théoden, Aragorn và một nhóm người đi tới Orthanc, tòa tháp của Saruman. Lúc này, toàn bộ Isengard đã bị các thần cây Ent phá trụi, Saruman bị vây trong tháp cùng với Gríma Lưỡi Rắn. Gandalf yêu cầu Saruman đầu hàng và lấy công chuộc tội, nhưng lão ta từ chối. Gandalf liền dùng pháp thuật bẻ gẫy gậy phép của Saruman, rồi trục xuất lão ta ra khỏi Hội Pháp sư và Hội đồng Trắng.
-Trận Minas Tirith Do sự cố cậu hobbit Pippin nhìn vào Quả cầu đá palantír và gặp phải Chúa tể Sauron, Gandalf đưa cậu ta đi cùng ông tới thành phố Minas Tirith của Gondor, thành trì cuối cùng ở phía tây chống lại Sauron. Nhưng quan Nhiếp chính của Gondor, Denethor II, cha của Boromir đã tử trận, đối xử với ông bằng thái độ trịch thượng và bất nhã. Khi Faramir, con trai út của Denethor, em trai của Boromir, trở về từ Osgiliath và bị các Nazgûl vây đánh, Gandalf cưỡi Shadowfax ra ngoài thành và đuổi các Nazgûl đi bằng quyền năng hùng mạnh của ông. Faramir kể với ông rằng Frodo và Sam vẫn còn sống và đang tiến về Mordor.Chẳng mấy chốc, thành phố Minas Tirith bị một đạo quân lớn từ Mordor vây hãm, do tên Vua Phù thủy chỉ huy. Faramir bị thương nặng do một mũi tên tẩm độc. Trông thấy thành phố bốc cháy và đứa con trai còn lại duy nhất đang hấp hối, Denethor trở nên tuyệt vọng và bỏ mặc người dân. Gandalf đứng ra lãnh đạo binh lính giữ thành.Khi thanh cọc khổng lồ Grond phá vỡ cổng thành tưởng như vững chắc của Minas Tirith, Gandalf cưỡi Shadowfax đứng chắn ở cổng thành, chặn đường tên Vua Phù thủy. Bình minh đến, mang theo tiếng gà gáy báo ngày lên, cùng tiếng tù và của quân Rohan tới chi viện Gondor. Tên Vua Phù thủy liền bỏ đi.Quan Nhiếp chính Denethor định tự vẫn và thiêu cháy cả bản thân lẫn con trai trong tòa tháp cao. Gandalf tới kịp lúc và cứu được Faramir, nhưng Denethor đã bén lửa và qua đời. Gandalf trao quyền tạm quản thành phố cho Quận công Imrahil của vùng Dol Amroth.Trong lúc Gandalf vắng mặt trên chiến trường, quân Rohan, quân Gondor và sau đó là đội quân do Aragorn dẫn đầu đã đánh bại được bọn lâu la Mordor trong Trận chiến trên Cánh đồng Pelennor trứ danh. Sự nhìn xa trông rộng và những lời khuyên sáng suốt của Gandalf  đã góp phần làm thất bại những nước cờ đầu tiên của Sauron.
-Trận chiến cuối cùng Nhưng trận công thành Minas Tirith chỉ là một phần trong kế hoạch thôn tính Middle-earth của Sauron. Hắn có những đạo quân khác tiến đánh Erebor và Vương quốc Rừng cây của vua Thranduil ở phía bắc, cũng như tiến đánh Lothlórien và các vùng đất khác dọc sông Anduin. Chiến thắng về quân sự trước Sauron là điều không tưởng với những Giống người Tự do ở Middle-earth. Trong khi đó, sứ mệnh phá hủy chiếc Nhẫn của Frodo lại đang gặp khó khăn, vì cậu không thể tìm ra cách đi đến Núi Doom.Gandalf, lúc này đã được bầu làm lãnh đạo cho những trận chiến cuối cùng, khuyên các vị tướng lĩnh hãy dốc quân đánh vào Cánh cổng Đen Morannon, để đánh lạc hướng Sauron, nhằm tạo cho Frodo một cơ hội. Khi họ tới Cánh cổng Đen, tên sứ giả của Sauron ra điều đình với họ và giơ cho họ xem bộ giáp mithril của Frodo, khiến họ nghĩ rằng Frodo đã bị bắt và bị tra tấn. Nhưng Gandalf không nao núng, ông thu hồi những kỉ vật của Frodo, và từ chối lời chiêu dụ của Sauron. Quân Mordor tiến ra khỏi Cánh cổng Đen, với lực lượng đông áp đảo.Tuy nhiên, nhờ thế, Frodo và Sam đã tới được đỉnh núi lửa và đứng trước Khe nứt Định mệnh đúng vào lúc Trận đánh ở Morannon bắt đầu. Nhưng chiếc Nhẫn đã chiến thắng ý chí đang suy kiệt của Frodo, cậu không chịu ném nó xuống dòng nham thạch mà lại đeo nó vào tay. Gollum xuất hiện, hắn cố giành chiếc Nhẫn từ tay Frodo và bị ngã xuống luồng lửa cùng với nó. Đúng như lời Gandalf tiên đoán, lòng trắc ẩn đã tha mạng Gollum đóng một vai trò quan trọng trong việc tiêu hủy chiếc Nhẫn Quyền Lực.Chiếc Nhẫn bị hủy, linh hồn Sauron trở nên suy yếu nên không thể quấy nhiễu Middle-earth được nữa. Đội quân của hắn cũng tự tan rã. Gandalf cưỡi lên Đại bàng Gwaihir lần thứ ba để tới cứu Frodo và Sam ra khỏi dòng nham thạch của Núi Doom.Tại lễ đăng quang của vua Elessar (Aragorn), Gandalf đã đặt chiếc vương miện của Gondor lên đầu đức vua, và tuyên bố một kỉ nguyên mới cho loài Người.
-Ra đi: Sau lễ đăng quang và lễ cưới của Aragorn, Gandalf đi cùng những người còn lại trong Hội Đồng hành để trở về quê họ. Đó là chuyến đi dài ngày cuối cùng của Gandalf ở Middle-earth. Khi họ về đến ranh giới của vùng Shire, ông chia tay các hobbit và tới gặp Tom Bombadil để cùng đàm đạo. Vào ngày 29 tháng Chín năm 3021, sau khi ở Middle-earth được hơn 2000 năm, ông lên thuyền đi về thiên giới Aman cùng với Frodo, Bilbo, Galadriel, Celeborn và Elrond. Bóng hình của họ không bao giờ còn xuất hiện ở Middle-earth nữa. Gandalf đã hoàn thành sứ mệnh của mình và trở lại thành Olórin. Gandalf thường mang theo cây gậy của mình, đôi khi chỉ như một cây gậy chống, đôi khi để tăng thêm pháp lực, mặc dù truyện không tả rõ tác dụng của cây gậy này trong việc làm phép. Vào năm 2941, ông tìm được thanh gươm báu Glamdring từ trong hang của bọn Troll. Từ đó về sau, ông luôn dùng thanh gươm này, đặc biệt là trong trận đánh với tên Balrog ở Moria.Gandalf là người phục vụ cho Ngọn lửa Bí mật, là kẻ giữ ngọn lửa của Anor, và là người mang chiếc Nhẫn Lửa Narya. Phần lớn những lần ông thi triển pháp thuật đều có liên quan tới lửa.Ông có một kiến thức uyên bác về các vùng đất và nhiều khả năng pháp thuật khác nhau, từ những khả năng giỡn vui như điều khiển khói tẩu, hoặc pháo hoa, cho đến những khả năng phi thường hơn như tạo ánh chớp hoặc khói lửa. Ông có thể dùng pháp thuật chặn cánh cửa của Moria lại, và làm gẫy cây cầu Khazad-dûm. Những lúc nổi giận, ông thường trở nên cao hơn và mang dáng vẻ đáng sợ hơn. Ông cũng có tài tiên đoán khá chuẩn xác.
Olórin (tiếng Quenya)
Mithrandir (tiếng Sindarin)
Tharkûn (tiếng Người Lùn)
Gandalf Xám
Gandalf Trắng
Kị sĩ Trắng
Gandalf Áo Xám (người Rohan gọi)
Lão già Râu xám (sứ giả của Sauron gọi)
Incánus (một ngôn ngữ không rõ nguồn gốc)
Láthspell (là Tin dữ, do Gríma Lưỡi Rắn gọi)
Gandalf Quạ mổ (do vua Théoden gọi khi chưa tỉnh ngộ)
Radagast phù thủy Nâu là một trong số 5 phù thủy của nhóm Istari. Ông còn là bạn tốt của phù thủy Xám Gandalf và thường ra tay tương trợ mỗi khi cấp thiết. Radagast có mối liên hệ vô cùng đặc biệt với cây cối và động vật, cũng bởi lối sống lập dị và tách biệt với con người mà ông có vai trò không mấy quan trọng trong thời kỳ Nhẫn chiến.Trong cuốn Anh chàng Hobbit, Gandalf từng nói rằng Radagast là anh em của họ của ông ta, nhưng nó có vẻ giống một câu đùa dùng để nói về tình bạn thân thiết giữa họ hoặc cũng có thể là một sự thật bởi cả 2 đều là những linh hồn Maiar được sinh ra từ suy nghĩ của Thượng đế Eru. Radagast cũng giống Gandalf ở điểm là ông khá lương thiện và không có tính kiêu căng, những tính cách này rất hợp với Gandalf và không hợp với Saruman. Tuy nhiên, Radagast ít tiếp xúc và ít tranh luận với Saruman hơn là Gandalf, bản tính của ông cũng ôn hòa và đầy vẻ nhượng bộ khi ở trước mặt người đứng đầu của nhóm Istari. Khi Hội đồng Trắng được thành lập, Radagast cũng là một trong số những thành viên chính thức bởi ông sinh sống rất gần khu vực pháo đài Dol Guldur.Trong thời khắc sa ngã của Saruman, Radagast đã từng vô tình bị Saruman lợi dụng để dụ Gandalf tới Orthanc, nơi mà về sau Gandalf sẽ bị giam cầm. Tuy nhiên, chính Radagast về sau cũng là người vô tình giúp cho Gandalf thoát khỏi Orthanc nhờ việc đã nói cho Chúa tể Đại bàng Gwaihir biết về hành trình của phù thủy Xám. Đó cũng gần như là dấu ấn duy nhất của Radagast trong thời kỳ Nhẫn chiến.Trong suốt lúc diễn ra Hội nghị của Elrond, Gandalf có nhắc tới Radagast như là một "bậc thầy về thay đổi hình dáng và màu sắc". Radagast từng sống tại Rhosgobel, ở gần rìa Tây của phía Đông Rừng U Ám, nơi cũng khá gần với Cánh đồng Gladden.Khi mà các sứ giả của Elrond tìm đến Rhogosbel để gửi lời mời tham dự hội đồng tới Radagast thì họ thấy căn nhà của ông trống không và không biết tìm thấy ông ở đâu. Số mệnh của Radagast sau khi kết thúc Cuộc Nhẫn chiến là không được nói tới.Không rõ ngày tháng chính xác về thời điểm mà Radagast rời khỏi Trung Địa. Tolkien từng viết rằng do đã bỏ bê nhiệm vụ chính mà các Valar giao phó để tập trung vào cây cối và thú vật mà Radagast đã tự cảm thấy xấu hổ và cho rằng mình không được phép quay trở về thiên giới Aman nữa. Tuy nhiên thì Tolkien cũng nói rằng là ông không nghĩ là Radagast phải cảm thấy xấu hổ bởi dù sao thì phù thủy Nâu vẫn là một người lương thiện và còn tử tế hơn nhiều so với sai lầm sa ngã của Saruman. Một mặt khác, Valar chủ quản của Radagast là nữ thần hoa trái Yavanna, nên có thể nữ thần đã dặn dò ông ta đặc biệt dành sự quan tâm hơn cho các khu rừng bởi các cây cối ở Trung Địa có thể nói đều là những đứa con tinh thần của Valar Yavanna.Cũng bởi những lí do này nên có lẽ việc Radagast được trở về thiên giới Aman là một điều hết sức bình thường nhưng cũng nhiều khả năng là ông vẫn ở lại Trung Địa cho đến tận thời kỳ cuối cùng bởi tình yêu và sứ mệnh bảo vệ các loài thảo thực vật cũng như là các loại động vật sinh sống tại đây.
Saruman Trắng là một Maiar có rất nhiều tên gọi khác nhau như Curumo trong tiếng Quenya hoặc Curunir trong tiếng Sindarin, ông ta là người đứng đầu nhóm phù thủy Istari được các Valar phái tới Trung Địa vào thời đại thứ 3 để giúp các dân tộc tự do chống lại thế lực của Chúa tể bóng tối Sauron. Saruman vốn có nhiều phép thuật nhưng càng về sau thì thứ mà ông ta nghiên cứu nhiều nhất lại là phép thuật bóng tối, điều đó khiến cho ông ta ngày càng trở nên đen tối rồi cuối cùng đã bị sa ngã bởi tham vọng giành lấy chiếc Nhẫn Chúa cho riêng mình.Trước khi sa ngã, Saruman còn là người đứng đầu của Hội đồng Trắng. Kiến thức và kỹ năng của ông ta mà đặc biệt là sự hiểu biết sâu rộng về Sauron thì không một ai có thể sánh kịp. Tuy nhiên, cũng hơi giống như lãnh chúa Denethor, Saruman cũng sử dụng quả cầu Palantir để quan sát động tĩnh của Sauron và ông ta ngày càng bị đầu độc về tâm trí rồi dẫn đến sự thay đổi. Saruman vào cuối thời đại thứ 3 đã đi theo một con đường của riêng mình, ông ta nằm ở một nhóm ít những nhân vật không đứng về phe chính nghĩa nhưng cũng không phục vụ cho phe bóng tối. Saruman phản bội cả 2 phe chỉ với mục đích là muốn mình trở thành một chúa tể mới của Trung Địa, với tà tâm ngu ngốc này, việc ông ta phải đón nhận một kết cục thảm hại cũng là điều dễ hiểu.Saruman từng là một Maiar bề tôi phục vụ dưới quyền của Valar Aule, một trong những Valar mạnh nhất của thiên giới. Đáng chú ý là Sauron cũng cùng là một Maiar dưới quyền của Valar Aule giống như là Saruman. Cả 2 Maiar này đều rất mạnh và có kiến thức sâu rộng. Sarumun lúc đầu thường được gọi là Curunir và ông ta ít được nhắc tới hơn so với Sauron trong các thời kỳ đầu tiên của thế giới. Sauron đã phản bội lại Valar Aule để đi theo Melkor nhưng Saruman thì không.Cho đến đầu thời đại thứ 3, tại thiên quốc Valinor, chúa tể Valar Manwe đã tiến hành một hội nghị để thảo luận về vấn đề của Sauron tại Trung Địa. Mặc dù Chúa tể bóng tối lúc bấy giờ vừa bị đánh bại bởi Liên minh cuối cùng nhưng hắn chưa hoàn toàn bị tiêu diệt và vẫn còn nhiều nguy cơ gây ra tai họa cho Trung Địa. Bởi thế mà hội đồng Valinor đã quyết định gửi xuống 5 sứ giả là 5 Maiar có quyền năng mạnh mẽ để giúp thay mặt họ bảo vệ cho các dân tộc tự do ở Trung Địa. 5 người này sẽ được phái xuống trong thân xác phàm trần giống như con người và bởi thế mà sức mạnh của họ cũng bị giới hạn trong cái thân xác đó.Ngoài Saruman thì 4 Maiar còn lại được chọn lựa là Aiwendil (Radagast), Alatar và Pallando (2 phù thủy xanh), và cuối cùng là Olorin (Gandalf). Saruman được chỉ định làm người đứng đầu của nhóm Istari này.Năm phù thủy cập Bến cảng Xám ở phía Tây của Eriador vào khoảng những năm 1000 của thời đại thứ 3. Lúc bấy giờ thì chỉ có duy nhất Cirdan, lãnh chúa của các vùng cảng, mới nhận ra được thân thế và nguồn gốc của 5 vị phù thủy. Cirdan tiếp đón họ và bí mật trao lại chiếc nhẫn Narya cho Gandalf, điều này về sau được chính Saruman phát hiện ra. Ông ta đã không hài lòng với hành động của Cirdan bởi về danh nghĩa ông ta mới là người đứng đầu trong nhóm phù thủy chứ không phải là Gandalf. Lãnh chúa Cirdan với khả năng nhìn người và khả năng tiên đoán đã nhìn ra được chính Gandalf mới là người thông thái và vĩ đại nhất chứ không phải là Saruman, bởi thế mà ngài không thay đổi quyết định của mình. Đây cũng là lí do khiến cho Saruman bắt đầu có cảm giác hằn học và ghen ghét với Gandalf.Saruman và 2 phù thủy Xanh lúc đầu đã đi tới phía Đông của Trung Địa rồi sau khoảng một thiên niên kỷ, ông ta lại trở về vùng phía Tây vào đúng lúc mà sức mạnh của Sauron đang trỗi dậy tại Dol Guldur.Khi Sauron tái xuất hiện ở Trung Địa, một hội đồng tập hợp tất cả những con người quyền phép nhất đã được thành lập vào khoảng năm 2463 của thời đại thứ 3 với mục đích chính là để chống lại Sauron. Với kiến thức sâu rộng về Chúa tể bóng tối mà Saruman được đề cử trở thành lãnh đạo của Hội đồng Trắng mặc dù nữ hoàng Galadriel lại muốn Gandalf ở vào vị trí này. Saruman với sự kiêu hãnh quá cao của mình tỏ ra không muốn đứng dưới Gandalf trong khi Gandalf thì lại luôn miệng từ chối nên cuối cùng người lãnh đạo Hội đồng Trắng vẫn là Saruman. Vào thời điểm này thì Saruman đã cảm nhận được sự trỗi dậy của Sauron và cả nỗi khát khao tìm lại được sức mạnh của ông ta mà đặc biệt là nỗi khát khao tìm lại được chiếc Nhẫn Chúa. Trong cùng năm này, chiếc Nhẫn Chúa đã tái xuất bằng việc rơi vào tay của một tên Hobbit có tên là Smeagol nhưng chưa ai tìm được ra hắn.Cũng chính trong cuộc họp mặt của Hội đồng mà Saruman đã cảm nhận được một sự hứng thú đặc biệt mà Gandalf dành cho giống người Hobbit ở xứ Shire. Sau đó, ông ta liền cho người đến xứ Shire để do thám nhiều hơn. Bản thân Saruman cũng đã từng bí mật đến thăm xứ Shire nhưng sau đó ông ta dành ít sự quan tâm hơn bởi khám phá ra sự hứng thú của Gandalf chỉ là nằm ở lối sống nhàn nhã và vui vẻ của nơi đây. Trong số những mục đích của chuyến viếng thăm của Saruman thì còn có cả việc ông ta tới đây để tìm mua loại thuốc lá dùng để hút tẩu nổi tiếng của người dân xứ Shire. Kể từ đó, mỗi khi không có mặt Gandalf là Saruman lại bắt đầu mang loại thuốc này ra hút.Trong năm 2759, Saruman được giao lại chìa khóa của tòa tháp Orthanc bên trong pháo đài Isengard nằm ở phía tây của Rohan dưới sự cho phép của quan chấp chính Gondor lúc bấy giờ là Beren. Mục đích để Saruman tới đó là khiến cho pháo đài này có thể được bảo vệ tốt hơn bởi một người canh giữ có đủ quyền năng và kiến thức. Ở đó, Saruman sẽ trở thành một đồng minh quan trọng trong việc bảo vệ các mối nguy hại từ phía Tây của Trung Địa. Beren đã đưa cho Saruman chìa khóa của tòa tháp Orthanc và tại đó, phù thủy Trắng đã tìm thấy quả cầu Palantir.Năm 2850, Gandalf tiến vào Dol Guldur và khẳng định được rằng linh hồn ác quỷ hiện diện trong pháo đài đích thực là Chúa tể bóng tối Sauron. Theo lời khuyên của Saruman, Hội đồng trắng đã quyết định tấn công Dol Guldur. Gandalf về sau đã có cảm giác ngờ ngợ về việc Saruman bắt đầu manh nha tư tưởng khao khát được sở hữu Nhẫn Chúa của Sauron. Thực ra Saruman đã sớm biết về thân phận của Sauron tại Dol Guldur nhưng ông ta tảng lơ để tạo điều kiện cho kẻ thù lấy lại được sức mạnh, bởi có thế thì Nhẫn Chúa mới tự động hiện thân. Về sau, ông ta phát hiện ra là khả năng cảm nhận được vị trí Nhẫn Chúa của Sauron là mạnh hơn ông ta nhiều nên đã nhanh chóng quyết định đồng ý để Hội đồng Trắng tấn công vào Dol Guldur và trục xuất Sauron.10 năm sau, Sauron trở lại Mordor và tuyên bố quyền lực của mình một lần nữa. Lúc này, ông ta đã bắt đầu liên hệ với Saruman thông qua quả cầu Palantir được lấy từ Minas Ithil. Cũng cùng năm này, Saruman bắt đầu tiến hành cải tạo toàn bộ Isengard, điều đó vốn nằm ngoài quyền hạn được cho phép của ông ta lúc ban đầu.Lúc Gandalf tìm đến Isengard để thông báo về việc phát hiện ra vị trí của Nhẫn Chúa thì Saruman đã ngay lập tức vui mừng, ông ta liền không giấu giếm ý đồ đen tối của mình và tìm cách để lôi kéo Gandalf về phía mình. Khi mà Gandalf từ chối thì Saruman với pháp lực mạnh hơn đã đánh bại và giam cầm ông tại đỉnh của tòa tháp Orthanc. Saruman sau đó đã tiến hành thực hiện liên minh với Sauron để đánh bại các dân tộc tự do ở Trung Địa, tuy thế thì không có nghĩa là ông ta đứng hoàn toàn về phe bóng tối, đó chỉ là nước cờ tạm thời để mượn tay thế lực Mordor tiêu diệt những kẻ chống đối mình. Saruman thực ra vốn cũng đã có ý phản bội cả Sauron bởi ông ta đã bí mật cho người đi trước để đoạt lấy chiếc Nhẫn Chúa và không có ý định đưa nó cho Chúa tể bóng tối.Sự phản bội của Saruman có thể nói là một biến cố lớn gây tổn thất và nguy hiểm nặng nề cho phe chính nghĩa ở Trung Địa.Có 1 tình tiết đáng chú ý đó là việc chỉ 2 ngày sau khi Gandalf trốn thoát khỏi Orthanc thì những Nazgul đã tìm đến Isengard và Saruman đã sử dụng giọng nói của mình để thuyết phục chúng rằng ông ta không hề biết gì về chiếc Nhẫn nhưng Gandalf thì biết và mục tiêu của các Nazgul nên hướng tới Gandalf thay vì là ông ta. Thực ra Saruman cũng chỉ phát hiện ra là Gandalf đã trốn thoát khỏi Orthanc vào chính lúc mà các Nazgul tìm đến.Các Nazgul về sau phát hiện ra rằng Saruman đã che giấu nhiều thứ so với tất cả những gì mà ông ta biết. Trên đường tới xứ Shire, các Nazgul bắt gặp một tên do thám của Saruman và lấy được từ hắn một tấm bản đồ chi tiết về vùng đất này được làm bởi chính Saruman. Chúng gửi tên do thám trở về xứ Shire sau khi cảnh báo rằng giờ hắn đang phục vụ cho Mordor chứ không phải là Saruman.Saruman tiếp đó đặt hết tâm sức vào việc tìm ra chiếc Nhẫn trước phe Mordor và phe chính nghĩa, ông ta vội vàng phái đi hết những do thám và chuẩn bị một lực lượng lớn mạnh để thôn tính Rohan. Một đạo quân Uruk-hai cũng được cử đi theo dấu của Đoàn hộ Nhẫn nhằm tìm cho được Người mang nhẫn. Đạo quân Uruk-hai này đã bắt được 2 Hobbit là Merry và Pippin đồng thời giết chết được cả Boromir. Nhóm Uruk-hai áp tải 2 người Hobbit về Isengard vì chúng nghĩ là họ mang trong người chiếc Nhẫn Chúa, thái độ phản bội của Saruman cũng được thể hiện qua việc lũ Uruk-hai một mực không giao tù binh cho lũ tay sai của Sauron tới từ Mordor, chúng còn sẵn sàng tiêu diệt những kẻ gây khó dễ cho mình mà không có tí nể nang.Trong quãng thời gian ở Isengard, Saruman đã gây nhiều tội ác lên cánh rừng Fangorn khiến cho những người Ent nổi giận. Vào thời điểm mà Saruman đang tung đội quân chủ lực tấn công vào Helm's Deep thì người Ent mở ra một cuộc hành quân tới Isengard đồng thời phái đi một đạo quân người Huorn tới giúp đỡ cho vua Theoden. Rốt cục, Saruman đã không thể chống lại được sức mạnh của cả một tập thể siêu nhiên gồm người Ent và người Huorn. Đạo quân của ông ta đã bị tiêu diệt tại Helm's Deep và Isengard bị đánh sập bởi người Ent. Saruman thì bị cô lập bên trong tòa tháp Orcthanc.Những kế hoạch của Saruman đã thất bại và ông ta phải chịu đựng một cơn đả kích mạnh mẽ. Sau khi người Ent phá hủy Isengard thì họ vẫn không có khả năng để có thể kéo đổ được tòa tháp Orthanc nên chính vì thế mà Saruman vẫn có thể an toàn ở trong đó cho tới khi nhóm Gandalf quay trở lại để xử lý ông ta.Khi lúc đầu nhóm người Gandalf bước vào gần Orthanc thì Saruman đã sử dụng phép thuật trong giọng nói của mình nhằm cám dỗ và mê hoặc đức vua Theoden. Khả năng thuyết phục của ông ta mạnh đến mức mà nhiều kỹ sĩ trong đoàn người của vua Theoden đã bị mê hoặc và có ý định tha thứ cũng như kết lại tình đồng minh với Saruman. Tuy nhiên, vua Theoden và Eomer không bị mê hoặc, họ phá tan âm mưu của Saruman và khiến cho ông ta thực sự rơi vào cảnh cùng đường. Gandalf đã nói rằng là sẽ cho Saruman một cơ hội để chuộc lỗi nhưng ông ta đã hoài nghi và từ chối lời đề nghị này. Với bản tính kiêu ngạo của Saruman, lời đề nghị của Gandalf chỉ càng khiến cho ông ta tức giận. Trong lúc Saruman từ chối và bước quay lưng vào tòa tháp thì Gandalf đã sử dụng sức mạnh của mình để đánh gẫy chiếc gậy phép của ông ta. "Ta là Gandalf phù thủy Trắng, người đã trở lại từ cái chết. Giờ ngươi không còn màu nữa, và ta phế truất ngươi khỏi Hội Phù thủy và Hội đồng Trắng." – Gandalf, trong chương Giọng nói của Saruman, 2 tòa Tháp.Sau khi bị đánh gẫy cây pháp trượng, Saruman còn bị mất cả quả cầu Palantir do Grima đã ném nó xuống từ trên ban công của tòa tháp. Hắn có vẻ bất mãn với cả Saruman lẫn nhóm người của Gandalf. Sau khi đã phế đi sức mạnh của Saruman, Gandalf giao trách nhiệm canh giữ ông ta lại cho người Ent rồi rời khỏi Isengard.Vào giai đoạn kết thúc Cuộc Nhẫn chiến, Saruman đã dùng sức mạnh thuyết phục của mình để lừa cho người Ent thả ông ta ra khỏi Orthanc. Sau đó ông ta tới xứ Shire và bắt đầu chuỗi ngày ít ỏi được làm một ông trùm tội ác đối với cư dân tại đây. Lúc này Saruman thường được gọi là Sharket, có nghĩa là "lão già" cho tới khi ông ta bị sụp đổ hoàn toàn trong Trận chiến Bywater. Sau trận chiến, Frodo đã đối mặt với Saruman và tuyên bố trục xuất ông ta ra khỏi xứ Shire, và rồi trước khi có thể rời đi khỏi vùng đất thì ông ta đã bị Grima Lưỡi giun đâm chết ở ngay vùng rìa của Bag End (Đáy Túi).Sau khi Saruman rời khỏi Orthanc, vua Aragorn Elessar đã ghé vào tòa tháp và tìm thấy ở đây rất nhiều những báu vật mà Saruman đã lấy trộm từ vua Theoden. Có một cái rương bí mật mà chỉ có thể được tìm thấy nhờ vào sự giúp đỡ của Gimli, trong đó có chứa Viên ngọc Elendilmir, báu vật được cho là đã bị thất lạc khi mà Isildur bị chết trên cánh đồng Gladden, cũng như là sợi dây chuyền vàng mà nhà vua đã từng đeo để giữ chiếc Nhẫn Chúa ở trước ngực của ngài.Là một maiar, Saruman cũng có linh hồn bất tử, thông thường các linh hồn Maiar khác sẽ trở về Cung điện của Mandos nhưng các câu chuyện lại nói rằng linh hồn Saruman đã bị cấm được quay trở lại bởi các tội lỗi mà ông ta đã gây ra. Tolkien nói rằng linh hồn đó còn trần trụi và lõa lồ, vô lực và lang bạt, và sẽ không bao giờ được trở lại Trung Địa.Với địa vị là người đứng đầu nhóm Istari và Hội đồng Trắng, Saruman quả thực được đánh giá rất cao về sức mạnh. Mặc dù đến cuối, ông ta bị đánh bại bởi Gandalf nhưng sức mạnh của ông ta quả thật là rất mạnh ở vào thời điểm đỉnh cao.Về nhiều mặt thì Saruman thực sự là trội hơn so với Gandalf, kiến thức và các kỹ năng của ông ta bá đạo hơn so với bất kỳ một phù thủy nào trong nhóm Istari. Kiến thức về vũ khí, chiến tranh, mưu đồ và các phép thuật bóng tối khiến cho Saruman ngày càng trở thành 1 con người nguy hiểm và có xu hướng giống như 1 lãnh chúa chiến tranh hơn là một con người có quyền phép đơn thuần.Về sức mạnh thì hồi đầu trước khi Gandalf được tái sinh thì Saruman là người mạnh nhất trong số các phù thủy Istari. Về đọ pháp lực, Gandalf cũng không bì lại được với ông ta, minh chứng qua việc Saruman đã đánh bại và giam cầm Gandalf tại Orthanc. Việc Saruman ngày càng bị tụt lùi so với Gandalf là do ông ta phải liên tục hứng chịu nhiều thất bại, đầu óc đã u mê hơn, và cũng là do không còn được sự ủng hộ từ các Valar như Gandalf.Các pháp lực của Saruman khá giống với Gandalf. Ông ta có thể thổi ra một lực mạnh từ cây pháp trượng trên tay và cũng từ nó mà có thể phóng ra một quả cầu lửa về phía địch thủ. Saruman còn có khả năng tác động và sai khiến được các yếu tố thời tiết như mây và sấm sét. Nói chung là quyền năng của ông ta rất mạnh.Trong những quyền phép của Saruman thì nên đặc biệt nói tới khả năng mê hoặc tâm trí, đây thực sự là một khả năng nguy hiểm nhất. Vào thời kỳ đỉnh cao, Saruman có thể mê hoặc và sai khiến được cả những người có tâm trí mạnh mẽ nhất chỉ bằng cách nói chuyện với họ. "Giọng nói của Saruman" là một cụm từ đặc biệt, nó được dùng ám chỉ đến những lúc mà ông ta đang sử dụng khả năng mê hoặc để sai khiến tâm trí người khác. Đây là khả năng cuối cùng mà Saruman còn giữ lại được khi mà ông ta bị thất bại tại Isengard. Trước đó, Saruman còn đầu độc được cả tâm trí của vua Theoden, một con người vô cùng mạnh mẽ và sáng suốt. Đến lúc nhóm Gandalf đi tới Orthanc, gần như tất cả các kỵ sỹ đi theo đều bị giọng nói của ông ta mê hoặc, chỉ trừ có những anh hùng mới có thể trụ được nhờ sự nhắc nhở và bảo vệ của Gandalf. Về sau, Saruman lại dùng khả năng này của mình để đánh lừa TreeBeard và trốn thoát ra khỏi sự canh giữ của người Ent.

06.7.Kết Hôn ở Lindon Vùng Đất Âm Nhạc
Đôi mắt Cirincendil lấp lánh niềm vui, Nàng tươi tắn rạng rỡ như Ánh Trăng Bạc và Ánh Sao Sáng, nhìn về phía anh; đôi mắt Laurefindil sáng rực khi nhìn Nàng, dường như anh ấy tỏa sáng rực rỡ như Ánh Nắng tinh nghịch và Ánh Mặt Trời tươi sáng, tựa như anh thấy Người Xinh Đẹp nhất thế gian trong cuộc đời của anh; đó là cả một ngày hạnh phúc nhất trên đời, Lindon tổ chức cả ngày dài đầy đủ ăn mừng kéo dài 3 ngày 3 đêm, họ trở về Ngôi Nhà Imladris.

06.8.Cặp song sinh nhà Chúa tể Hoa Vàng Laurefindil và Công Nương Cirincendil
Mẹ Lucy dì Caliel làm cho hai cô bé những thứ để mặc hoặc làm những món quà đặc biệt và may sửa lại những chiếc váy dài cho hai đứa con gái song sinh của anh với Nàng, một cảm giác hạnh phúc kéo dài khiến mọi người vui mừng khôn xiết, họ được nuôi dạy hai đứa bé đáng yêu là một cặp song sinh dễ thương cũng như dạy dỗ nghiêm túc lễ nghi phong tục tri thức ba thế giới cho chúng với kỳ vọng lẫn niềm vui lớn lao, chồng Nàng luôn có cảm giác hạnh phúc ngập tràn khi ở với Nàng cùng hai đứa trẻ.

06.9.Cặp Song Sinh Elladan và Elrohir
Mọi đứa trẻ lớn lên, những khóa huấn luyện của Estel đưa anh ấy đi xa ở hoang dã lẫn Nam Rohan và Gondor, Imladris là Ngôi Nhà Ấm Áp Cuối Cùng — Nàng chăm sóc nuôi nấng dạy dỗ hai con gái chu đáo đầy yêu thương nhường nhịn — đôi khi chồng Nàng nhiệm vụ xa cùng cặp song sinh nhà Elrond với sự bảo vệ của Valar đã đi công tác trong nhiều tháng.

06.10.Công chúa Arwen Undómiel
Arwen là một người cô giáo dạy dỗ chăm sóc hai đứa con gái song sinh của Nàng, theo trình tự giáo án hệ thống hóa kiến thức Cirincendil riêng cho hai đứa Con Gái song sinh, niềm vui lan tỏa trong gia đình khi Nàng cũng bên cạnh hỗ trợ dạy dỗ chăm sóc con cái chu đáo; ngày anh ấy trở về sau buổi công tác hai người thường tới Sảnh Lửa dự tiệc trong lúc bên ngoài biên giới Imladris mùa đông, anh ấy vòng tay qua vai Nàng khi Nàng tựa đầu vào ngực anh, họ
cảm thấy tình yêu cuộc sống lan tỏa và họ đã cảm nhận sâu sắc ấm áp gia đình hạnh phúc.

07.POV🌕Ithilwen🌕

07.1.Rồng Ithilwen ở Narnia
Ithilwen: Công chúa Cirincendil, Nàng Tiên Từ Thế Giới Khác và Những Đứa Trẻ Của Vì Sao, Nàng tỏa sáng ở thế giới này nhưng tại sao Nàng tìm thấy quả trứng nở ra tôi ở trong rừng sâu và Nàng lại ở thế giới này?
Cirincendil: Tôi ở đây với Dryad Bạch Dương.
Ithilwen: Nàng đáng ra sẽ nghe thấy sự đơn độc cô đơn ở thế giới này qua thời gian.
Cirincendil: Tôi còn trẻ, ở đây có Nữ Hoàng Thiên Nga Trắng đã trốn chạy khỏi Paravel sau khi duyên dáng né tránh những người ở vương quốc để che giấu tổn thương trái tim với mọi người, tôi không muốn nhớ bản thân mình quay trở lại lâu đài.
Ithilwen: Chỉ như vậy, Nàng không phải Con Người tàn nhẫn, Nàng có dòng máu Vì Sao Tiên tộc và hãy để tôi đưa Nàng về với Valar.
Cirincendil: Nhưng tôi —-
Ithilwen: Đứa trẻ của các vì sao, tôi thấy trong trái tim Nàng những gì nằm trong tôi, cả kho báu và danh hiệu đều không thể tồn tại được con người của chúng ta. Chúng ta khao khát điều gì đó vĩ đại hơn rất nhiều. Ngày càng nhỏ hơn thế giới này ngày càng lớn lên, không có nơi nào cho chúng ta, không có nhà cho chúng ta. Chúng ta không có gia đình. Nàng vẫn chưa hiểu; Nàng giống như tôi. Những người khác này đã quên cách nói, giống như những cái cây mà người của Nàng đã từng dạy để hát. Tôi cũng cô đơn. Tôi muốn về nhà, trở về phía bắc xa xôi đó, dưới những ngọn núi phủ đầy tuyết nơi loài của tôi cư ngụ, tự do và tránh xa sự lo lắng hoặc tầm nhìn của con người. Vâng, Ngôi sao nhỏ, Nàng đã nhìn thấy nó. Nơi đó được hình thành bởi Valar, vùng đất của Trung Địa. Chúng ta đang lưu vong ở đây, vượt ra ngoài sự hình thành của Valar, nhưng Nàng được ban phước. Trên đôi cánh của tôi mang Nàng qua biển, ánh sáng của Nàng, chào đón về nhà cả hai chúng ta sẽ được. Tôi có thể đưa Nàng về nhà, đến Trung Địa, Đứa trẻ của các vì sao, không có ai, tôi đã bao giờ cầu xin. Chúng ta hãy quay trở lại nơi chúng ta sẽ được chào đón. Tôi thấy khao khát của Nàng.
Cirincendil: Tôi có một Chiếc Nhẫn Xanh, nó đưa tôi đến thế giới khác, Chiếc Nhẫn Vàng muốn trao đổi.
Ithilwen: Khi trứng Rồng ở Đảo Rồng nở ra, tôi lại ở gần lâu đài vì Kỳ Lân mang tới, tôi tên Ithilwen tên Tiên tộc là Ánh Trăng Sáng.
Cirincendil: Tên thật đẹp, nhưng, bạn biết tôi rõ.
Ithilwen: Bạn có khao khát về nhà.
Cirincendil: Đúng vậy, tôi biết Sindarin và chút ít Quenya, nhưng tôi đã học viết Tengwar; dù không hiểu sao bác Hải Ly bí mật giữ chúng dạy cho tôi, nhưng chí ít tôi học rất tiếp thu, tôi chỉ ước người dạy tôi kỹ lưỡng về Ngôn Ngữ là Người Bản Xứ.

07.2.Rồng và Chiếc Nhẫn Xanh
Cirincendil: Tôi mơ thấy "Vùng đất tràn ngập Ánh Sáng Bình Minh và Đêm Của Trăng Sao."
Ithilwen: Ánh Sáng yên bình xoa dịu Tổn Thương và Mất Mát, Valar và Ainur đã ban phước lành cho Nàng, Nàng có thể đã sống trong Hạnh Phúc và không còn đau đớn.
Cirincendil: Tôi chưa muốn kết thúc về Vùng Đất Ánh Sáng khi chưa bắt đầu tiếp những cuộc phiêu lưu nằm ngoài giấc mơ hay hành trình của tôi, tôi chưa thể về sống với Valar ở Aman và tôi còn sống ở đây chưa phải Vùng Đất Hằng Phước.
Ithilwen: Sự quên lãng đi hiểu biết về Mẹ Nàng và những người Nàng yêu thương từ lâu thật sự là tội ác, tôi vẫn thấy Nàng không phạm phải hành vi ác ý hay phạm tội khó tha, Nàng hiểu văn hóa và có bản năng tìm hiểu hòa nhập cộng đồng nhưng khó quen thuộc cuộc sống trên thế giới này là cần thiết; Tôi sẽ tự do, bay khắp nơi tôi thuộc về, Nàng hãy đi tiếp về Phía Đông qua Khu Rừng tìm kiếm câu trả lời cho mọi câu hỏi, Nàng không phải Con Người nhưng ban phước bởi các Valar và Cha Mẹ của Nàng; Nàng chỉ cần giữ bí mật thận trọng với những Kẻ Thù và hãy ẩn thân phận mình chỉ gọi một cái tên Nàng có thể xưng hô, đứa trẻ của Vì Sao tôi biết Nàng sẽ an toàn hạnh phúc khi Nàng cũng sống như mọi người qua thời gian dài mà không già đi như họ vì Con Người già đi, khi Nàng biết vị trí của bản thân trong thế giới và chỉ cần chấp nhận bản thân là ai như "những người thân thật sự của Nàng về bản chất tinh thần của Nàng" trong thời gian Nàng lưu vong.  

07.3.Sau khi từ biệt Ithilwen
Gandalf Áo Xám: Nàng không có gì cả, làm thế nào Nàng đến được đây, trang phục của Nàng kèm ghim cài về một nơi kỳ lạ và Nàng tỏa Ánh Sáng kể cả ánh mắt chỉ được trông thấy nằm ở Người Tiên sống tại Valinor.
Ithilwen (Thiên Nga Trắng): Tôi từ Phương Tây bên kia bờ biển khó có thể diễn tả những gì tôi trông thấy, (thực ra là Dịch Chuyển Thời Không do Chiếc Nhẫn Xanh, Nàng và con Rồng từ Narnia thẳng tiến tới Valinor, theo cách con tàu Thiên Nga di chuyển trên Một Đường Thẳng nhưng ở đây là vì Dịch Chuyển Tức Thời), tôi có thể vào được không?
Gandalf Áo Xám: Được! Hãy vào và một cái ghế bên bếp lửa. Bilbo sẽ đón tiếp Nàng.
Ithilwen (Thiên Nga Trắng): Tôi là Ithilwen và tôi nên gọi là Người Hobbit hay gọi là Halfling?
Gandalf Áo Xám: Hobbit cũng được, họ trống rỗng và không có gì trong đầu, vô tư vui vẻ.
Ithilwen (Thiên Nga Trắng): Ôi nghe thật tốt.

07.4.Trong Nhà Bilbo
Gandalf Áo Xám: Tôi phải đi tìm hiểu, Nàng ấy có vẻ nên ở lại nhà anh thật lâu, Bilbo trẻ.
Ithilwen (Thiên Nga Trắng): Việc tôi ở lại đây có làm phiền tới anh hay không, Bilbo?
Bilbo: Ồ! Chúng ta có thể nghe tôi kể chuyện, tôi muốn viết lại cuộc phiêu lưu với Lucy, và Nàng có thể đọc nhiều sách và lục sách trong thời gian tôi viết lách khi Nàng cũng có thể phụ tôi tìm kiếm sắp xếp tư liệu chỉnh chu.
Ithilwen (Thiên Nga Trắng): Nghe thật tuyệt, cảm ơn, tôi sẽ làm thế vì Sách là thứ tôi yêu thích nhất.
Gandalf Áo Xám: Tôi sẽ đi ngay bây giờ.
Ithilwen (Thiên Nga Trắng) và Bilbo (Nhìn theo Istari dũ quần áo chỉnh nón cầm gậy đi ra ngoài để đi cỗ xe ngựa tới vùng đất khác mà Bilbo biết đó là Prancing Boy hoặc Bree của lão): Tạm biệt và chúng ta vào nhà thôi Ithilwen, tôi muốn nghe về Người Tiên tái sinh trừ Glorfindel Nhà Hoa Vàng mà những Người Tiên đã biết - vì Nàng đã nói Nàng trở lại từ Phương Tây xa xôi - nhé, vị Thượng Tiên tràn đầy niềm vui không sợ hãi là biểu tượng của sự quan tâm tuyệt đối của những Người Bạn Tiên Trung Thành từ Númenor hoặc các Rangers Kiểm Lâm Viên tuyệt vời và Nàng giờ là người giải đáp tốt tò mò cho tôi.

07.5.Một số hiểu biết về Rồng
Ithilwen: Nó là Con Rồng nào?
Bilbo: Con Rồng Smaug chúng tôi giết.
Ithilwen: Không! Ý tôi là "Nó có bao nhiêu chân? Sống Trên Núi hay sống Dưới Nước? Nó có màu gì? Nó lớn như thế nào? Da của nó ra sao? Nó ăn gì? Nó hoạt động thế nào?"
Bilbo: Thật đáng kinh ngạc.
Ithilwen: Bởi vì một số con Rồng được dê hoặc cừu xoa dịu, một số tức giận phun lửa xa cả dặm vì nếu thích ăn thịt người hay bất cứ sinh vật nào bước qua cửa nhà bằng cách tàn sát người dân đốt cháy thành phố, ở trường hợp hai chúng bệnh Rồng đam mê Tài Sản Vàng và bất chấp địa vị quyền lực thao túng; Rồng không thích Con Người cũng không làm phiền tới Con Người, Rồng không ưa rời khỏi nhà của họ để làm phiền ai, Rồng chỉ rời khỏi nhà để di cư trong mùa tìm bạn đồng hành cho một đời mà thôi. Tôi là Người Lưu Vong, tôi thấy Rồng bị săn bắt tới tuyệt chủng và họ có câu chuyện Anh Hùng Diệt Rồng, Rồng ở thế giới này và họ cũng khao khát thoải mái khi được an toàn được tôn trọng ở Cộng Đồng.
Bilbo: Nàng là một người hiền lành tử tế, nhân hậu xinh đẹp có sự chân thành, nhưng Nàng có biết cách chữa trị Bệnh Rồng?
Ithilwen: Hoặc là Giết, hoặc bằng một cách tệ hại khiến họ mất hết mọi thứ và bị tra tấn hoặc bị khát nước không uống được nước hồ suối hay bị bỏ đói ăn thịt chết, đó là điều tàn nhẫn nhất với mọi sinh vật sống là bỏ khát nước vì đói thì có thể sống một tháng và khát nước thì chết trong hai ba ngày; thật sự thà rằng giết quách đi Con Rồng khi bị Bệnh Rồng hơn là sống mà như bị tra tấn còn nửa mạng, nếu Con Rồng ở hoang dã thì bất kể sinh vật nào tìm kiếm họ bất kể mục đích cũng sẽ bị phản công lại, Bệnh Rồng khá hiếm nhưng Rồng bị bệnh Rồng cũng sẽ bị một con Rồng bị bệnh Rồng khác giết hoặc Dũng Sĩ Diệt Rồng gì ở đây này hoặc một người Dũng cảm hiếm bị cám dỗ bởi lòng tham.
Bilbo: Smaug đã lăn mình trong vảy giáp, điểm yếu của Smaug lộ ra ở Bụng, một nhát kiếm xuyên lục phũ ngũ tạng dưới bụng nhờ đôi chân nhẹ nhàng như vô hình của Hobbit  hoặc một mũi tên đen sắc bén thẳng vào điểm yếu bị lộ ra từ Người Ven Hồ khiến Smaug đau thấu trời đất mất máu ồ ạt tới chết; Vùng Đất Hoang Dã hiếm câu chuyện tới mức tôi ít nghe về nó, làm sao Nàng có thể hiểu biết nhiều như vậy giữa thế giới Con Người, Nàng không nên có số phận lưu lạc như vậy.

07.6.Câu chuyện gia đình Hobbit
Ithilwen: Thật ra tôi nghĩ anh có thể đến nhà Chúa Tể Elrond, Ngài ấy sẽ chào đón anh và anh nên định cư cả phần đời còn lại với Người Tiên, anh có thể vui vẻ kể chuyện rất nhiều với năng khiếu trò chuyện hay như hát của anh và tôi cảm thấy rất thú vị.
Bilbo: Câu chuyện quen thuộc với Hobbit, nhưng tôi bất ngờ là thấy Nàng yêu thích trò chuyện với tôi, giọng nói của Nàng ríu rít như những con chim đỏ và những câu hỏi kỳ lạ những bình luận ngẫu nhiên vô cùng trung thực đưa ra tôi không thể tranh luận vì nó là sự thực và Nàng tử tế trung thực như vậy.

07.7.Câu chuyện ở Narnia
Bilbo: Câu chuyện của Nàng và tôi sẽ viết nó.
Ithilwen: Trước tiên, chúng ta là Cộng Đồng sống sót qua nhiều nội chiến tranh đấu quyền lực bất ổn của Phù Thuỷ Trắng như một kẻ phản diện hắc ám, trong cuộc chiến đấu cuối tôi đã có một lời tiên tri về sự trở về của Gia Đình tôi là những người sẽ cai trị khi kết thúc Trăm Năm Mùa Đông của Chúa Tuyết. (KỂ TỪ QUYỂN 1-15). Nên tôi là Người Lưu Vong có Nhà nhưng chưa thể về hoặc không về được, tôi có một lời hứa với Mẹ Nuôi Dryad Bạch Dương, tôi hiểu tại sao họ không thích những Kẻ Ngoài Vòng Pháp Luật lạc vào rừng với trái tim nhiễm phải tội ác của Morgoth và Phù Thuỷ Sauron Hắc Ám vì hỏi sẽ phá cây làm ô nhiễm vùng đất cây sinh trưởng vì lòng tham thay vì tôn trọng tự nhiên như thể nên thế vì Cây Cối sẽ giúp hút bớt lượng nước mưa do gió bão không gây cho lũ lụt ngập đầy trên mặt đất hay sói mòn đất đá, cũng như thanh lọc không khí sạch sẽ trở nên trong lành và giữ gìn đất đai được tươi tốt màu mỡ phù hợp cho nhiều cây khác sinh trưởng.

07.8.VALAR và AINUR
Gandalf Áo Xám: (Kể Nàng nghe về Varda) Trí tuệ của Nàng được Ban Phước bởi Elbereth.
Bilbo: Nàng ấy hiểu sinh vật thực vật tự nhiên của các Valar Yavanna.
Ithilwen: Thật ra, tôi nghĩ nó thật ngu ngốc, (Nàng xấu hổ bịt miệng), tôi không hiểu rõ lòng tin mọi người về các Valar và tôi thật sự xin lỗi anh.
Gandalf Áo Xám: Không! Tôi hiểu! (Một tội ác trong cuộc đời Nàng ấy vì dù Nàng không nói rõ thân phận nhưng anh ấy đã thấy được bức ảnh Nàng vẽ về Dryad Bạch Dương mẹ nuôi Nàng có đôi tai đặc biệt, Nàng sẽ không hòa hợp hoàn toàn nơi đáng ra từ nhỏ Nàng phải ở với Người Tiên, Nàng ấy nên được chăm sóc nuôi dạy bởi Người Tiên nếu thực tế sự thật Nàng Tiên Từ Thế Giới Khác này có dòng máu của Người Tiên hoặc Maiar). Đừng tự trách, Nàng Tiên Từ Thế Giới Khác, Ithilwen. (Anh đã thấy đôi tai nhọn của Nàng ấy sau mái tờ khi Nàng vén tóc, nếu là lý do Nàng cần sự an toàn, và anh cũng sẽ giúp Nàng che dấu).

07.9.Tên của Nàng ấy
Bilbo: Tuyệt, Ithilwen, Nàng thật sự tên gì?
Ithilwen (ngập ngừng): Ithilwen Cirincendil.
Bilbo: Ithilwen là Tên Đặt của Nàng ấy, ôi!
Gandalf Áo Xám: Nàng ấy đã che giấu danh tính tên Cha, Nàng ấy là Nữ Quan có cái tên Quenya của Númenor, nếu câu chuyện Lucy là thật thì Nàng ấy đã quên vì đến thế giới khác quá nhiều năm trôi qua là 890 năm.
Bilbo: Gandalf, ông hút thuốc nhiều và ông cũng hay quên thường xuyên, Hobbit và ông Phù Thuỷ cũng như nhau vì chúng tôi không suy nghĩ nhiều và ông trầm tư nghĩ nhiều nghĩ sâu tới độ hay bỏ lỡ mọi chuyện xảy ra.
Gandalf Áo Xám: Tôi còn nghĩ Nàng ấy ở Vùng Đất Lưu Vong, và đã chết với số phận đau thương, sau đó đi qua Phòng Họp Chung Valar rồi được Ban Phước khi đột ngột xuất hiện ở đây như cách Người Tiên tái sinh nếu được phép; những người Noldor hoặc Elves đều không được tái sinh trở lại Trung Địa theo cách đó, trừ Lãnh Chúa Nhà Hoa Vàng tái sinh ở Vùng Đất Hằng Phước và đi tàu trở lại Lindon của Trung Địa, Nàng ấy và anh ấy đã sống ở đó một thời gian Thời Đại Thứ Hai cho đến một ngày Nàng ấy rời khỏi; tôi cứ nghĩ Nàng Cirincendil tái sinh lần 1 ở hình dạng này như xưa vì tôi đã nhớ lại, nhưng không phải, vì Nàng ấy chỉ đến thế giới khác và giờ trở lại thế giới này mà thôi Bilbo ạ.
Bilbo: Tôi sẽ viết được nhiều đây.
Ithilwen: Tôi rời khỏi đây một lần và tôi trở về đây một lần, đầu óc mệt mỏi của tôi cũng cần bình tĩnh để phục hồi trí nhớ, thật xin lỗi đã không nhớ được.

08.POV Cirincendil

08.1.Cirincendil và Bilbo
Bilbo: Nàng trí tuệ, thực tế Nàng đã giúp tôi bổ sung tri thức sách vở quá nhiều, tôi muốn viết toàn bộ Nhật Ký sách đỏ của mình.  
Cirincendil (Tóc màu Ánh Trăng, mắt sáng như Ánh Sao, nụ cười dịu dàng với nét đẹp thanh tao và có lúc rạng rỡ như ánh sáng Mặt Trời): Sáu cuộc phiêu lưu với nhiều cuộc chiến, nội dung đầy đủ tri thức, hình thức bìa và trình bày Tengwar rất đẹp.
Bilbo: Nàng nghĩ gì về mối tình Tiên và Phàm Nhân, Nàng Tiên Từ Thế Giới Khác và Lãnh Chúa Nhà Hoa Vàng không như mối tình Người Tiên - Con Người, nhưng tôi muốn nghe ý kiến của Nàng khi ở đây Imladris. 
Cirincendil: Khi Người Tiên gặp được nửa kia, họ chỉ đơn giản là biết, trong khoảnh khắc đó ngoài những suy nghĩ ban đầu như là khi nhìn tai tròn Con Người hoặc tai nhọn Người Tiên rồi suy sụp hay vui mừng; sau đó họ bên cạnh nhau vẫn biết đây là nửa kia khiến anh và Nàng ấy chờ đợi suốt những năm dài khi lang thang khắp thế giới, khi bên cạnh nhau một trong hai hạnh phúc đến mức quên mất một trong hai không phải Người Tiên, mà chỉ là Con Người là Phàm Nhân hữu sinh hữu tử với Gift.
Bilbo: Andreth, trẻ trung khi gặp Lãnh Chúa Aegnor, nhưng Con Người sẽ già.
Cirincendil: Sinh ly tử biệt, kể cả khi Nàng ấy vẫn giữ nét trẻ trung khi ở thế giới này thì nếu Nàng chết do Kẻ Thù, linh hồn Nàng sẽ lang thang ở thế giới này tới cái thời gian Nàng có thể siêu thoát đến nơi vượt ngoài Arda vì họ không kết hôn với lựa chọn như nhà của Paredhil, bảy người con trai Noldor thì gặp được định mệnh được chọn và dù sao thời điểm đó một bên lệnh cấm trở về của Valar & một bên cái chết sẽ tìm tới họ về sau trong những cuộc chiến.
Bilbo: Đúng là những lời To gan Lớn mật, chỉ có Nàng gan dạ, mới dám nói trung thực.
Cirincendil: Vì các Nàng ấy là Con Người, thì họ sẽ già đi rồi qua đời biến mất khỏi Thế Giới, vì nếu tình cảm được đáp lại họ sẵn sàng chết cùng nhau.
Bilbo: Có nhiều bài hát tình yêu Người - Tiên dù rất hiếm, và, nhiều câu chuyện được kể.
Cirincendil: Tất cả Câu chuyện và Bài hát nhiều, cặp đôi Người - Tiên ít, tất cả những lựa chọn của họ dù hiếm hoi đều có sự hi sinh hoặc kết thúc bi kịch. 

08.2.Mẹ Lucy
Saruman the White, người có trái tim rơi vào bóng tối, khiến Valar tìm cách cân bằng. Và từ Vùng đất lưu vong, bên ngoài bức màn của Thế Giới, Valar đã tạo ra từ Ánh sáng một Istari khác, một thiên thần mới, là một Istari phù hợp từ một Maiar Ánh Sao.

08.3.Suy nghĩ của Laurefindil
Anh đã nghĩ rằng khoảng thời gian ngắn ngủi mà anh dành cho Nàng sẽ không đủ để yêu Nàng ấy, một cô gái, có lẽ anh ấy đã không yêu nhưng hiệu quả của việc chia tay là như nhau. Nàng ấy là trái tim anh ấy, và không có Nàng ấy, những năm tháng dài của cuộc đời anh ấy đã đổ vỡ với anh ấy.Anh ấy chưa bao giờ nghĩ rằng anh ấy sẽ hối hận vì được sinh ra như anh ấy vốn có, anh ấy chưa bao giờ muốn trở thành bất cứ điều gì khác, nhưng trái tim anh ấy có thể là phàm nhân và anh ấy không phải vậy.Anh ấy không muốn đi về phía Tây, anh ấy muốn ở bên cạnh Nàng ấy, và Nàng ấy đã chết, anh ấy muốn chết cùng Nàng ấy.Ngốc nghếch, quá kịch tính, không thực tế.Nhưng anh ấy đã tìm kiếm Nàng ấy, đã chờ đợi Nàng ấy, và để tìm thấy Nàng ấy và khiến Nàng ấy không thể đạt được...Lãnh Chúa Imladris đã an ủi anh rằng ngay cả khi tình yêu của anh là phàm trần, anh vẫn có thể đến với Nàng, vẫn có những kỷ niệm với Nàng, nhưng anh đã từ chối mời nỗi buồn như vậy vào cuộc đời Nàng. Bởi vì nếu Nàng ấy đáp lại tình cảm của anh ấy, thì Nàng ấy sẽ già đi khi anh ấy không... Và Nàng vẫn sống, Nàng đang ở Shire, tất cả mọi lời nói có ý nghĩa chưa bao giờ kết thúc. Không còn xung đột nào trong trái tim anh, ngay cả khi đó là để nói lời tạm biệt, anh sẽ tận dụng cơ hội cuối cùng này để gặp trái tim mình.

08.4.🌠 nhìn lại
Anh không thể nghe thấy bất kỳ ảnh hưởng nào của tuổi tác trong giọng nói của Nàng ấy, điều đó khiến trái tim anh ấy đập nhanh như hy vọng.Chân anh ấy di chuyển về phía trước vào chuồng ngựa.Khi Nàng ấy nhìn anh ấy về phía anh ấy, mọi giả định anh ấy đã đưa ra, mọi lý do anh ấy đưa ra cho mình vì không tìm kiếm Nàng ấy trên thế giới, đều sụp đổ trước chân Nàng ấy.Tuổi tác đã không đánh cắp bất cứ điều gì từ Nàng ấy, trên thực tế, vẻ đẹp của Nàng ấy đã tăng lên và anh cảm thấy như thể anh ấy có thể khóc.Nàng ấy Người Tiên, Nàng ấy có dòng máu Tiên và vẻ ngoài một Maiar hóa thân, và mặc dù điều đó không đảm bảo rằng Nàng ấy sẽ đáp lại tình cảm của anh ấy hoặc chấp nhận anh ấy, điều đó có nghĩa là anh ấy có thể tiếp tục, biết rằng thế giới sẽ không thay đổi vì Nàng sẽ không chết như Phàm Nhân.

08.5.Giấc ngủ trong rừng
Anh đặt một nụ hôn nhẹ nhàng lên thái dương của Nàng và sau đó ngả người ra sau để anh giữ thêm sức nặng của Nàng dựa vào anh. Nàng ấy không chắc sự táo bạo hay thước đo về cảm giác an toàn mà Nàng ấy cảm thấy lúc đó đã thúc đẩy hành động tiếp theo của Nàng ấy. Nàng ấy vặn vẹo, đưa một chân sang bên kia, để có thể được giữ thoải mái hơn. Đùi của Nàng ấy phủ lên một trong những đùi của anh ấy và Nàng ấy tự mình sát vào ngực anh ấy.Nàng ấy hiếm khi khao khát sự thoải mái kiểu này nhưng ngay khi Nàng ấy ổn định, như thể mệt mỏi.Tiếng ù trong đầu Nàng ấy, sự tê liệt trên da Nàng ấy, nhường chỗ cho sự kiệt sức, và Nàng ấy không thể ngẩng đầu lên khỏi nhịp tim ổn định của nhịp tim anh ấy nếu Nàng ấy muốn.Nàng ấy không cần thuyết phục thêm nữa khi Nàng ấy bị cuốn đi bởi một dòng sông của những giấc mơ đã bị giữ lại quá lâu.

09.POV💫Swanwhite💫

09.1.Cair Paravel
Lâu đài Cair Paravel, của rất nhiều năm sau, họ có bốn đứa trẻ: lâu đài Cair Paravel nằm trên ngọn đồi nhỏ cao chót vót trên phần đồi núi, được xây dựng kỳ công và được thiết kế bởi gia đình của Nàng, lâu đài được xây dựng trên đồi cao, nằm phía trước là bãi cát trắng dài dọc theo con đường biển, nhìn xuống từ ban công của lâu đài nhìn thấy sóng biển từ bãi biển đẹp trong lành, vào đêm những ngôi sao lấp lánh in hình trên bầu trời đêm và Nàng có cảm giác mình được ở nhà, Nàng ngồi trên tảng đá ngắm đây khoảng sao trời trên nền trời đêm đang soi sáng lấp lánh cho khoảng vùng biển đêm vỗ sóng ồn ã, Nàng ngửi thấy mùi gió biển mang hơi mặn của muối trong không khí, Nàng tận hưởng mùi biển trong lành, Nàng lắng nghe những dặm sóng vỗ dài trên bờ biển vỗ vào bãi cát trắng, đi dọc theo bờ biển thi thoảng Nàng thấy vỏ sò và cả mùi của rong biển mặn tanh trên bờ biển, vào lúc bình minh đó là bãi cát trắng tuyệt đẹp, vào buổi đêm thế này thì chúng ta lại chỉ thấy khoảng mặt biển xanh da trời và cảnh sao quyến rũ trên nền trời đêm khiến lòng Nàng
không thể nào dễ quên đi được, đây là ngôi nhà hạnh phúc yên bình của riêng Nàng và Glorfindel, cùng mọi người ở đây, thi thoảng lắng nghe tiếng thì thầm của cư dân biển (Merpeople) và cả tiếng cười đùa chạy nhảy của trẻ con những sinh vật kỳ diệu ở Narnia rồi tiếng cây cối xào xạc ồn ả tiếng kể truyện thì thầm của khu rừng trên đỉnh đồi, xa xa tiếng mòng biển réo gọi bất kể ngày đêm, những âm thanh ồn ả trong tai nhưng mang lại yên tĩnh trong tâm hồn Nàng. Khi trở về nhà vui mừng.

09.2.Tol Eressëa
Lâu đài Tol Eressëa, của rất nhiều năm sau, họ có bốn đứa trẻ: Nàng đứng dậy và dọn dẹp nhà bếp. Nàng thu thập những món đồ chơi, giấy tờ và sách vở nằm rải rác, và trả chúng về đúng vị trí của chúng. Trong khi làm việc, Nàng trò chuyện vui vẻ về những việc đang diễn ra trong góc nhỏ Tol Eressëa của mình. Nàng và Glorfindel đã tạo nên một cuộc
sống rất hạnh phúc, rất yêu thương cho chính họ. Và cũng rõ ràng rằng Nàng chào đón tất cả mọi người vào cuộc sống đó. Và sau đó, khi Elrond và Celebrían đến, những đứa con Nàng với đôi mắt như bầu trời băng qua đồng cỏ, mọi người bạn thân thiết của Nàng và Glorfindel được giới thiệu với như người chú và người cô, và khi Glorfindel phát hiện ra họ và ăn mừng trong một cái ôm chặt với nụ cười tươi, và hai đứa con trai nhỏ, với mái tóc xoăn màu vàng, háo hức bắt tay và cầu xin được nghe tất cả câu chuyện về loài rồng băng,như thể họ đã tìm thấy một gia đình. Và điều đó thật tuyệt. Ngón tay anh tìm thấy mái tóc Nàng và Nàng ngủ thiếp đi vì cảm giác ngón tay anh luồn qua mái tóc Nàng.

09.3.Song Sinh Nam
-Gale Elanor (trông như đứa bé 6 tuổi) có một ý nghĩa đẹp (đóa hoa Tiên và tên theo Tiên): lớn hơn Con Người và trẻ hơn Tiên (có khả năng hội họa tuyệt vời do Naneth dạy).
-Olvin Alvin (trông như đứa trẻ 4 tuổi) có một ý nghĩa rất đẹp (người bạn của Tiên): lớn hơn Con Người và trẻ hơn Tiên (có khả năng âm nhạc tuyệt vời do Naneth dạy).

09.4.Song Sinh Nữ
-Con gái Leilani (Hoa Thiên Đường): cô bé trông trẻ hơn Tiên và như một The Star (con gái trưởng nữ của Nàng và anh và cả Gale và Olvin giỏi giống Ada).
-Con gái Celandine /ˈsɛləndaɪn/ (Hoàng Liên là đóa hoa trên biểu ngữ nhà Hoa Vàng của anh): cô bé trông trẻ hơn Tiên và như một The Star (con gái thứ nữ của Nàng và anh và cả Gale và Olvin giỏi giống Ada).

09.5.Ba Thế Hệ Bảo Bình

☀️Bà (Lucianna):☀️
*Đúc kết kinh nghiệm:
-"Dũng cảm là dám vượt qua nổi sợ hãi, nổi sợ hãi trong nội tâm, nổi sợ hãi từ những tác nhân bên ngoài mang đến hiểm nguy"
-"Giữ lời hứa là giữ lòng tự trọng, giữ lời thề, giữ bản tâm của mình"
*Ưu điểm:Khả năng giao tiếp thuyết phục con người, được động vật yêu thích và thân cận tới gần, mang đến lòng dũng cảm cho mọi người xung quanh, có chức vị quyền lực thực tế dễ dàng hỗ trợ mọi người, nhân hậu tử tế và thân thiện rạng rỡ.
*Nhược điểm: Có thể phớt lờ và mặc kệ không dùng thẩm quyền hỗ trợ thêm.

🌕Mẹ (Cirincendil):🌕
*Đúc kết kinh nghiệm:
-"Nhà cửa nát có thể xây lại, quần áo rách có thể may lại, lòng người bị tổn thương tinh thần nghiêm trọng hơn sự đổ vỡ vật chất, cần dùng chân tâm bù đắp."
-"Điều tốt đẹp nhất của con người là tha thứ, tình nghĩa của chúng ta dùng tình bạn cả đời để bên cạnh trân trọng nhau, có thể lâu dài hơn."
-"Gia đình hòa thuận hạnh phúc vui vẻ thì mọi sự mới tốt lành"
*Ưu điểm: khả năng giao tiếp với động vật, yêu thích sống gần thiên nhiên, mang đến cảm giác ấm áp cho mọi người xung quanh, có khả năng hỗ trợ mọi người thông qua việc đưa ra gợi ý về phương pháp thực tế nói đỡ nói giúp người khác, nhân hậu tử tế và thân thiện rạng rỡ.
*Nhược điểm: Có thể mượn đao giết người với phương pháp đuổi cùng diệt tận.

⭐️Bản thân (Leilani & Celandine):⭐️
-"Đến phút cuối không bỏ cuộc thì tuyệt vọng sẽ biến thành hy vọng."
-"Mọi thứ vốn dĩ thế, như nó vốn là thế, nó sao thì nó vậy, vật đổi sao dời, sông núi dễ dời bản tính khó đổi, tính cách và hành vi đã vốn vậy rồi ."
-"Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, cây cao đón gió lớn, phải vững chãi như đại cổ thụ để bảo vệ bản thân và những người mình yêu thương."
*Ưu điểm: khả năng mát tay có thể tưới trồng cho thực vật, yêu thích thú cưng động vật đáng yêu dễ mến như chủ nhân của chúng, mang đến cảm giác vững chãi vững vàng khi đi qua giông bão, có khả năng giảng dạy đào tạo mọi người, thích đi dạo vườn, thông qua việc thư giãn bản thân và chăm sóc thú cưng, nhân hậu tử tế và thân thiện rạng rỡ.

10.Lâu Đài Full House

10.1,2,3.Linh Lan

10.4,5,6.Ngọc Lan

10.7,8,9.Hoàng Lan

11.Đôi Cánh Tự Do

11.1,2,3.Bồ Câu

11.4,5,6.Hạc Đỏ

11.7,8,9.Thiên Nga

12.Song Sinh Hoa

12.1,2,3.Hoa Lan

12.4,5,6.Hoa Hồng

12.7,8,9.Hoa Đào

(Nội dung truyện Q16-18)

End Phần 11 - 100 mẫu truyện Thời Đại II và Thời Đại III ở Imladris - Nhật ký.

-Tiếp theo 12-

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #diary