Eragon T3P2

Eragon 3 : Hỏa Kiếm – P2
Chương 26 : Dấu chân mờ ảo
Sau một loạt chuỗi biến cố choáng váng , Saphira đưa Eragon tới khu trại , nơi cắm lều của Roran và Katrina . Bên ngoài lều , Katrina đang giặt quần áo bên chậu xà phòng ,và đống vải trắng bên máng gỗ . Cô đưa tay che mắt khi đám bụi bốc lên sau cú hạ cánh của Saphira ngay cạnh cô.
Roran bước ra khỏi lều , thắt lại dây đai quần . Anh ho sù sụ và liếc nhìn đám bụi :"Cái gì đã mang em tới đây?" . Anh hỏi trong khi Eragon nhảy xuống .
Eragon kể nhanh với họ về chuyến đi sắp tới và cắt nghĩa cho họ tầm quan trọng việc giữ bí mật sự vắng mặt của nó với toàn thể dân làng . "Không vấn đề gì với những thứ họ cảm thấy bởi vì em đã từ chối gặp họ , anh chị đừng nói ra sự thật kể cả với chú Host và thím Elain . Cứ để họ nghĩ em đã trở nên lạnh lùng vô cảm , và thô lỗ trước khi tiết lộ về kế hoạch của Nasuada . Đây là lời đề nghị của em , vì lợi ích của mọi người đang chống lại đế quốc . Anh chị sẽ làm thế chứ?"
"Chúng tôi sẽ không bao giờ phụ lòng chú , Eragon ." Katrina nói: "Vì thế đừng lo lắng gì cả." Rồi Roran nói rằng anh cũng sắp phải ra đi .
"Đi đâu?" Eragon la toáng lên.
"Anh vừa mới nhận nhiệm vụ cách đây vài phút . Bọn anh sẽ đột kích đoàn viện binh của đế quốc – đâu đó phía bắc chúng ta , sau phòng tuyến của chúng."
Eragon nhìn chằm chằm vào sự thay đổi của cả ba . Đầu tiên là Roran , rắn rỏi quyết tâm , vốn đã căng thẳng trước trận chiến , rồi Katrina , lo lắng và cố che giấu điều đó , và Saphira- lỗ mũi bập bùng những tia lửa nhá lên mỗi khi ả thở . "Vậy chúng ta đều sẽ đi những ngả đường riêng "
Dù không ai nói gì nhưng tất cả đều thấy sợ hãi , như thể sẽ không gặp lại nhau lần nữa.
Giữ lấy Eragon trước mặt , Roran kéo nó lại gần , ôm chặt trong một lúc . Anh buông Eragon ra và nhìn thẳng vào sâu đôi mắt nó :"Hãy tự bảo vệ , em trai . Galbatorix không phải kẻ duy nhất muốn đâm sau gáy em khi em sơ suất ."
"Anh cũng vậy . Và nếu anh đương đầu với một pháp sư , hãy chạy xa khỏi tầm kiểm soát của hắn . Sự bảo trợ của em đặt cạnh anh sẽ không tồn tại mãi mãi."
Katrina ôm Eragon và thì thầm : "Hãy sớm trở về." "Chắc chắn rồi"
Cùng nhau , Roran và Katrina tiến lại gần Saphira và chạm trán vào giữa đầu mũi ả rồng . Thân thể ả rung động khi một giọng trầm sâu phát ra từ cuống họng :"Hãy nhớ ,Roran" Ả nói :"Đừng phạm sai lầm khi tha cho kẻ thù của anh . Và Katrina . Đừng làm quá sức để thay đổi điều gì . Nó sẽ làm nỗi buồn của cô tồi tệ hơn " . Với tiếng kêu xào xạc của da và vảy , Saphira giang cánh ôm lấy Roran , Katrina và Eragon trong tình cảm ấm áp ủa nó , tách họ rời khỏi thế giới này .
Khi Saphira nâng đôi cánh lên , Roran và Katrina lùi lại trong khi Eragon leo lên chỗ ngồi . Nó vẫy tay chào đôi vợ chồng trẻ , tiếng nói tắc nghẹn trong cổ họng và vẫn tiếp tục vẫy tay ngay cả khi Saphira đã phóng lên bầu trời . Chớp mắt để có tầm nhìn tốt hơn , Eragon bỏ lại đằng sau nỗi đau chia cách , nhìn thẳng lên bầu trời trước mắt . "Tới khu lương thực ?" Saphira hỏi .
"Ừ"
Saphira lượn trên cao vài trăm mét trước khi ả rồng hạ cánh xuống góc tây nam của doanh trại nơi cột khói bốc lên cao từ những chiếc lò lửa . Một cơn gió nhẹ thoảng qua Saphira và Eragon khi ả rồng lướt xuống bãi đất trống giữa hai ngôi lều , cao chừng 50 mét . Bữa sáng đã sẵn sàng vì thế quanh lều trống trơn không có ai khi Saphira hạ cánh với một tiếng động lớn.
Eragon nhanh chóng tiến lại chiếc bếp bên kia bàn . Saphira ngay sau nó . Hàng trăm người đang bận rộn giữ lửa , cắt thịt, bóc trứng , nhào bột , khuấy đều gia vị , cọ rửa núi bát đĩa khổng lồ và những người khác cũng bận rộn không kém trong việc duy trì nguồn lương thực tới cho cả Varden , họ không hề dừng lại ngó Eragon và Saphira . Điều gì quan trọng làm một con rồng và một kị sĩ thu hút họ , ai mà chẳng cần thực phẩm để duy trì sự sống . Một người đàn ông rắn rỏi với bộ râu dài màu trắng và đen , và đặc biệt lùn tới nỗi có thể so sánh với người lùn . Ông ta chạy lại cúi chào Eragon và Saphira :"Tôi là Quoth Merrinsson . Tôi có thể giúp gì ngài ? Nếu ngài muốn , khắc-tinh-của-tà-thần , chúng tôi có một ít bánh nướng" . Ông ta chỉ về một hàng bánh mì nằm trên đĩa gần bàn . "Tôi muốn nửa chiếc , nếu ông có thể cắt nó ra "Eragon nói:"Dù sao cơn đói của tôi cũng không phải lí do chúng tôi tới đây . Saphira muốn một chút gì đó để ăn và chúng tôi không có thời gian để có thể đi săn như mọi khi." Quoth quay lại đằng sau và nhìn cơ thể Saphira , mặt ông ta tái nhợt "Nó cần khoảng bao nhiêu .. À , tôi quên ,
ngươi thường ăn khoảng bao nhiêu Saphira ? Ta có khoảng sáu miếng thịt sườn bò ngay lập tức và sáu miếng khác sẽ sẵn sàng sau 15 phút . Như vậy đã đủ chưa , hay ...?" Ông ta nuốt nước miếng . Saphira phát ra một tiếng gầm nhẹ làm Quoth rên lên và nhảy lùi lại . "Nó muốn thịt tươi , nếu vậy tiện hơn." Eragon nói.
Với giọng cao khác thường , Quoth nói :" Tiện hơn ? Vâng quả thật là tiện" . Ông ta lắc đầu , chùi lên tạp dề với bàn tay dính đầy dầu mỡ . "Quả là tiện khắc-tinh-của-tà-thần , rồng Saphira . Bàn của vua Orrin sẽ vắng trong trưa nay , nên , ồ không ..."
"Và một thùng rượu mật ong" . Saphira nói với Eragon.
Quoth trợn mắt khi nghe Eragon lặp lại lời của Saphira :"Tôi , tôi e là người lùn đã mua lại hầu hết số rượu của chúng tôi . Chúng tôi chỉ còn vài thùng và chúng chỉ dành cho Vua" . Quoth e ngại khi một ngọn lửa từ mũi Saphira bùng ra , thiêu rụi cỏ dưới chân ông ta. Một đường khói dài giận dữ bốc lên đen kịt . "Tôi – tôi – tôi sẽ có một thùng mang tới ngay . Nếu ngài đi theo tôi , tôi sẽ đưa ngài tới kho , nói có mọi thứ ngài muốn ."
Đi vòng qua những đống lửa, những cái bàn và những đám người khó chịu, ông đầu bếp dẫn họ đến một khu gồm nhiều bãi rào lớn bên trong nhốt lợn, gia súc, ngỗng, dê, cừu, thỏ, và vài con hươu mà những người đi kiếm thức ăn cho Varden đã bắt được khi khai phá vùng hoang dã xung quanh. Gần mấy bãi rào là những cái chuồng đầy gà, vịt, bồ câu, chim cút, gà gô, và nhiều loại chim khác. Những tiếng quang quác, chiêm chiếp, những tiếng gù tiếng gáy lập nên một bản hợp xướng chói tai khiến Eragon phải nghiến răng vì khó chịu. Để tránh bị áp đảo bởi những suy nghĩ và cảm xúc của quá nhiều sinh vật, nó cẩn thận khép kín tâm trí lại với tất cả, chỉ trừ Saphira.
Họ dừng lại cách mấy bãi rào hơn ba chục thước để sự hiện diện của Saphira không làm bọn thú hoảng sợ. “Có con nào ở đây hấp dẫn mi không?” Quoth hỏi, ngẩng nhìn Saphira và xoa xoa tay với một vẻ khéo léo bồn chồn.
Quan sát khu rào, Saphira đánh hơi và nói với Eragon, Những con mồi đáng thương…. Em không thật sự đói đến thế, anh biết mà. Em mới đi săn hôm kia, và em vẫn đang tiêu hóa mớ xương của con hươu em đã chén.
Em vẫn đang lớn nhanh lắm. Thức ăn sẽ tốt cho em. Sẽ không nếu em không tiêu hóa được.
Thì chọn con nào nhỏ thôi. Một con lợn chẳng hạn.
Thế gần như chả có ích gì cho anh. Không… em chọn con kia. Từ Saphira, Eragon nhận hình ảnh một con bò cỡ trung bình với những vệt trắng lốm đốm bên sườn trái.
Sau khi Eragon chỉ con bò, Quoth hét gọi mấy người đang rảnh rỗi bên cạnh khu rào. Hai người trong số họ tách con bò ra khỏi đàn thú còn lại, tròng một dây thừng qua đầu nó, rồi kéo con vật vùng vằng tới chỗ Saphira. Còn cách Saphira khoảng mười thước, con bò chùn lại rồi rống lên khiếp sợ, cố gắng vùng thoát khỏi cái dây thừng để chạy trốn. Trước khi con vật có thể chạy thoát, Saphira xông tới, vọt qua khoảng trống giữa họ. Hai người đang kéo cái dây nằm bẹp xuống đất khi Saphira lao vào họ, hai hàm ngoác rộng.
Saphira ập vào mạn sườn con bò khi nó vừa quay đầu chạy, quật ngã con thú và kìm chặt nó một chỗ bằng hai bàn chân xòe rộng. Con vật bật ra một tiếng be kinh hãi trước khi hàm răng của Saphira đớp vào cổ nó. Với một cú lắc đầu tàn khốc, nó bẻ gãy xương sống con thú. Rồi nó dừng lại, hạ thấp con mồi xuống và nhìn Eragon trông đợi.
Nhắm mắt, Eragon mở rộng tâm trí của mình về phía con bò. Ý thức của con vật đã mờ nhạt vào bóng tối, nhưng cơ thể nó vẫn còn sống, cơ thịt nó vẫn còn khẽ giật vì động năng từ sự sợ hãi cực độ vừa chạy suốt cơ thể nó trước đó. Lòng ngập tràn ghê sợ vì những gì mình sắp làm, nhưng Eragon phớt lờ và đặt một bàn tay lên chiếc đai lưng Beloth Khôn ngoan, nó chuyển năng lượng từ cơ thể con bò vào mười hai viên kim cương xung quanh hông. Quá trình chỉ kéo dài vài giây.
Nó gật đầu với Saphira. Xong rồi.
Eragon cảm ơn sự giúp đỡ của hai người kia, rồi họ để Eragon với Saphira ở lại.
Trong lúc Saphira đánh chén, Eragon ngồi tựa vào thùng rượu mật ong và nhìn đám đầu bếp làm việc. Mỗi lần họ
hoặc một người giúp việc chặt đầu một con gà hoặc cắt họng một con lợn hay một con dê hay bất cứ con vật nào khác, nó lại chuyển nguồn năng lượng của con vật sắp tàn đời vào đai lưng Beloth Khôn ngoan. Một việc làm tàn nhẫn, vì hầu hết những con vật vẫn nhận thức được sự tiếp xúc của nó và cơn bão táp của sợ hãi và rối loạn và đau đớn quật đập vào nó cho đến khi tim nó nện thình thịch và mồ hôi lấm tấm trên trán và nó chỉ ước sao được chữa trị cho những con vật đau đớn đó. Nhưng nó biết số kiếp của chúng là phải chết, hoặc là Varden phải chết đói. Nó đã rút cạn năng lượng dự trữ của mình trong mấy trận chiến gần đây, và Eragon muốn bổ sung lại trước khi lại lao vào một chuyến đi dài và ẩn tàng hiểm nguy. Nếu Nasuada cho nó ở lại với Varden thêm một tuần nữa, nó có thể nạp vào những viên kim cương năng lượng từ chính cơ thể nó và vẫn có thời gian hồi phục lại trước khi chạy đến Farthen Dûr, nhưng nó không thể làm được thế chỉ với vài giờ. Và kể cả nếu nó không làm gì hết mà chỉ nằm trên giường và rót sinh lực từ tứ chi mình vào những viên ngọc, nó cũng không thể thu được nhiều công lực như nó vừa làm với một đám đông thú vật.
Những viên kim cương trong đai lưng của Beloth Khôn ngoan dường như có khả năng hấp thụ một khối năng lượng gần như vô tận, nên nó ngừng lại khi nó không thể chịu đựng được cảnh nhấn chìm mình vào nỗi đau đớn khi giãy chết của một con vật nào khác. Run rẩy và đẫm mồ hôi từ đầu đến chân, nó cúi về trước, tay chống lên gối, nhìn chằm chằm mặt đất giữa hai chân và cố không phát bệnh. Những ký ức không phải của nó xâm nhập vào tâm tưởng, ký ức về Saphira bay trên Hồ Leona với nó trên lưng, về cảnh hai đứa lao xuống mặt nước trong mát, một đám bong bóng trắng tung lên quanh chúng, rồi về niêm hân hoan mà hai đứa san sẻ khi bay và bơi và chơi đùa cùng nhau.
Hơi thở điều hòa lại, nó nhìn Saphira đang ngồi giữa mớ tàn dư của con mồi, nhai nhai cái sọ con bò. Nó mỉm cười và gửi cho ả rồng sự biết ơn vì đã giúp đỡ.
Đi được rồi đấy, nó nói.
Nuốt xuống, ả rồng đáp, Lấy cả sức mạnh của em này. Anh cần đấy. Không.
Anh không thắng vụ tranh cãi này đâu. Em nhất quyết.
Còn anh nhất quyết ngược lại. Anh sẽ không để em suy yếu và thiếu sức chiến đấu đâu. Nhỡ Murtagh và Thorn tấn công ngay hôm nay thì sao? Cả hai ta đều cần sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Em sẽ bị nguy hiểm hơn anh bởi vì Galbatorix và toàn thể Đế quốc vẫn tin anh ở cùng em.
Đúng, nhưng anh sẽ đơn độc với một tên Kull giữa chốn hoang vu.
Anh quen với chốn hoang vu cũng như em vậy. Bị tách khỏi nơi văn minh không làm anh sợ đâu. Còn về tên Kull, ừ thì, anh không biết liệu anh có thể ăn được một tên trong một trận đấu vật không, nhưng vòngphép của anh sẽ bảo vệ anh khỏi sự bội phản…. Anh có đủ sức mạnh mà Saphira. Em khôngphải cho anh thêm đâu.
Ả rồng quan sát nó, cân nhắc từng lời của nó, rồi nhấc một chân lên và bắt đầu liếm sạch máu. Được rồi, thế em giữ thân… cho em nhé? Góc miệng nó hình như nhấc lên vì thích thú. Hạ chân xuống, nó nói, Liệu anh có tử tế đến mức lăn cái thùng kia ra cho em không? Càu nhàu, Eragon đứng thẳng dậy và làm theo lời ả rồng. Nó đưa một vuốt ra và đục hai lỗ trên nắp thùng, làm tỏa ra một mùi thơm ngọt ngào của rượu mật ong táo. Uốn cong cái cổ để đầu mình thẳng phía trên cái thùng, ả rồng ngoạm lấy cái thùng bằng cặp hàm đồ sộ rồi nhấc thằng nó lên và rót ồng ộc xuống cổ họng. Cái thùng gỗ rơi xuống đất vỡ tan khi nó nhả ra, và một cái vành sắt lăn ra xa vài thước. Môi trên cong lại, Saphira lúc lắc đầu, rồi hơi thở nó kéo lên và nó hắt hơi mạnh đến nỗi mũi nó nện xuống đất và một bụm lửa phun ra từ cả miệng lẫn hai lỗ mũi.
Eragon ré lên ăng ẳng vì bất ngờ và nhảy sang một bên, đập đập cái vành áo bốc khói. Bên má phải nó khô rát vì sức nóng của ngọn lửa. Saphira, cẩn thận chứ! nó kêu lên.
Ui tiếc. Nó cúi đầu và giụi cái mũi bám bụi vào cạnh một chân trước, gãi gãi lỗ mũi. Rượu làm em nhột.
Thiệt tình, giờ cô biết rõ hơn rồi đấy, nó cằn nhằn khi trèo lên lưng ả rồng.
Giụi mũi vào chân trước một lần nữa, Saphira vọt lên không và lướt qua khu cắm trại của Varden, đưa Eragon về lại lều. Nó trượt xuống, rồi đứng nhìn Saphira. Trong một lát cả hai không nói gì, để cho những xúc cảm chung của hai đứa nói thay cho mình.
Saphira nháy mắt, và Eragon nghĩ mắt ả rồng long lanh hơn bình thường. Đây là một thử thách, nó nói. Nếu chúng ta vượt qua, chúng ta sẽ mạnh hơn, với tư cách rồng và Kỵ sĩ.
Chúng ta phải có khả năng hoạt động đơn lẻ khi cần thiết, nếu không chúng ta sẽ mãi mãi bị bất lợi so với những kẻ khác.
Vâng. Ả rồng đục khoét mặt đất bằng những cái móng siết lại. Nhưng biết vậy cũng chẳng làm dịu được nỗi đau. Một cơn rùng mình chạy dọc cơ thể uốn khúc của nó. Nó ngọ nguậy đôi cánh. Cầu mong gió nâng đỡ đôi cánh của anh và mặt trời luôn luôn soi chiếu cho anh. Đi an lành và đi nhanh, anh nhóc.
Tạm biệt, Eragon nói.
Eragon cảm thấy nếu nó còn tiếp tục ở đây, nó sẽ không bao giờ rời đi được, vì thế nó quay người và, không hề nhìn lại, bước vào khoảng tối trong lều của mình. Nó ngắt hoàn toàn mối liên hệ giữa hai đứa – mối liên hệ đã trở nên thiết yếu với nó như chính xương thịt nó vậy. Đằng nào thì chúng cũng sẽ nhanh chóng cách xa nhau đến mức không thể cảm nhận được tâm trí của nhau nữa, và nó không hề ham muốn kéo dài nỗi đau chia cắt. Nó đứng tại chỗ một lát, nắm chặt chuôi thanh kiếm cong và lắc lư như bị chóng mặt. Nỗi đau ảm đạm vì cô độc đã tràn ngập trong nó, giờ đây nó cảm thấy thật nhỏ bé và đơn côi vì không có sự hiện hữu an ủi từ ý thức của Saphira. Mình đã làm việc này rồi, và mình có thể làm lại, nó nghĩ, và tự bắt mình giữ thẳng vai, ngẩng cao đầu.
Từ bên dưới cái giường, nó lấy ra cái túi nó đã làm trong chuyến đi từ Helgrind. Nó đặt vào đó cái ống gỗ chạm khắc bọc vải chứa cuộn giấy có bài thơ nó đã viết trong hội Agaetí Blödhren, Oromis đã sao ra cho nó bằng thuật thư pháp tuyệt mỹ của ông; chai đựng faelnirv được làm phép và một hộp nhỏ bằng hoạt thạch đựng nalgask cũng là quà của sư phụ Oromis; cuốn sách dày, Domia abr Wyrda, tặng vật của Jeod; viên đá mài và cái dây da mài dao cạo của nó; và, sau một lát lưỡng lự, nó cho vào luôn những mảnh giáp của nó, vì nó lập luận, Nhỡ mà có dịp mình cần đến, mình sẽ mừng vì có nó hơn là khốn khổ vì mang theo nó suốt chặng đường đến Farthen Dûr. Hoặc là thế, nó hy vọng. Nó mang theo cuốn sách và cuộn giấy là vì – sau bao nhiêu chuyến đi – nó đã kết luận rằng cách hay nhất để tránh làm mất những vật nó quý là giữ chúng ở bên mình dù đi bất cứ đâu.
Trang phục mà nó mang theo chỉ là một đôi găng – nó nhét vào trong mũ sắt, và cái ào choàng len nặng nề của nó, trong trường hợp trời trở lạnh khi nó ngừng lại ban đêm. Tất cả mớ còn lại, nó bọc hết vào trong túi yên của Saphira. Nếu mình thật sự là một tộc viên của Dûrgrimst Ingeitum, nó nghĩ, họ sẽ cho mình ăn mặc tử tế khi mình đến Hang Bregan.
Thắt chặt cái túi, nó đặt cái cung đã tháo dây và ống tên lên trên và buộc chúng vào cái túi. Nó định làm thế với thanh kiếm cong nhưng nó nhận ra nếu nó nghiêng sang bên, thanh kiếm có thể trôi ra khỏi bao. Vì thế nó buộc thanh kiếm áp vào sau túi, nghiêng nó đi để cho chuôi kiếm nằm giữa cổ và vai phải nó, do đó nó vẫn có thể rút ra khi cần.
Eragon khoác cái túi lên và rồi đâm xuyên qua rào chắn trong tâm trí mình, cảm nhận năng lượng dâng tràn trong cơ thể và trong mười hai viên kim cương gắn ở đai lưng của Beloth Khôn ngoan. Nhấn vào dòng chảy sức mạnh đó, nó lẩm nhẩm câu thần chú nó chỉ mới niệm một lần trước đây: câu thần chú bẻ cong tia sáng xung quanh nó và làm cho nó vô hình. Một thoáng mệt mỏi làm chân tay nó yếu đi khi nó phóng thích thần chú.
Nó liếc xuống và cảm thấy bối rối khi nhìn xuyên qua chỗ mà nó biết là thân mình và chân của nó và thấy dấu giày của nó hằn trên nền đất bên dưới. Giờ đến đoạn khó đây, nó nghĩ.
Đi đến cuối lều, nó rạch lớp vải căng bằng con dao săn và lách qua khe hở. Béo tốt như một con mèo no đủ, Blödhgarm đang đợi nó bên ngoài. Ông ta cúi đầu về hướng có vẻ là Eragon và lẩm bẩm, “Khắc-tinh-của-Tà
thần,” rồi tập trung vá lại lỗ thủng bằng vài từ cổ ngữ ngắn ngủn.
Eragon đi xuống con đường giữa hai dãy lều, sử dụng kiến thức đi rừng để gây ít tiếng ồn nhất có thể. Bất cứ khi nào có ai đến gần, Eragon nhảy ra khỏi lối đi và đứng bất động, hy vọng họ không nhận thấy những dấu chân của bóng tối trên đất hay trên cỏ. Nó nguyền rủa vì đất quá khô; giày của nó cứ làm cuộn lên những đám bụi nhỏ bất kể nó có đặt chân nhẹ nhàng đến thế nào. Nó ngạc nhiên nhận thấy vô hình làm giảm sút cảm giác thăng bằng của nó; không thể thấy được tay hay chân mình chỗ nào, nó liên tục tính nhầm khoảng cách và va đụng vào các thứ, cứ y như tại nó đã nốc quá nhiều bia.
Dù tiến trình có trúc trắc, nó vẫn đến được rìa khu trại khá nhanh chóng và không làm nảy sinh ngờ vực gì. Nó dừng lại sau một thùng chứa nước mưa, dùng bóng tối dày đặc che giấu vết giày của nó, và quan sát thành lũy đắp đất cùng những đường hào đầy cọc vót nhọn bảo vệ sườn đông của Varden. Nếu nó cố xâm nhập khu trại, sẽ vô cùng khó khăn để không bị phát hiện bởi một trong rất nhiều lính gác tuần tra quanh lũy, kể cả khi vô hình. Nhưng vì những con hào và lũy được thiết kế để đẩy lùi phe tấn công mà không cầm tù phe phòng thủ, do đó vượt qua chúng theo hướng ngược lại là một công tác dễ hơn nhiều.
Eragon đợi cho đến khi hai lính gác gần nhất đã quay lưng lại nó, rồi nó phi như bay về phía trước, vung tay thật lực. Trong vài giây, nó đã vượt qua quãng chục thước ngăn cách cái thùng nước mưa với đoạn dốc lũy rồi lao lên đường đê, nhanh đến mức nó cảm thấy mình như một viên đá nhảy trên mặt nước. Tới mặt đường đê, nó đạp chân xuống đất, tay vùng vẫy, tung mình qua các tuyến phòng thủ của Varden. Trong ba nhịp tim, nó bay, rồi tiếp đất với một pha chấn động đến nhức xương.
Ngay khi lấy lại được thăng bằng, Eragon dán mình xuống đất nín thở. Một lính gác dừng lại, nhưng anh ta hình như không nhận thấy có gì bất thường , và sau một lát anh ta lại tiếp tục bước đi. Eragon thở ra và thầm thì, “Du deloi lunaea,” và cảm giác câu thần chú san phẳng những dấu giày nó để lại trên đường đê.
Vẫn vô hình, nó đứng dậy và từ từ chạy ra khỏi khu trại, cẩn thận chỉ giẫm lên những đám cỏ để không làm tung bụi lên. Càng đi xa khỏi đám lính gác, nó chạy càng nhanh, cho đến khi nó lao còn nhanh hơn cả một con ngựa đang phi nước đại.
Gần một giờ sau, nó nhảy xuống bờ dốc của một con lạch hẹp mà gió và mưa đã ăn xuống bề mặt bãi cỏ. Dưới đáy là một dòng nước nhỏ với đầy những cây cói và cỏ nến. Nó tiếp tục xuôi dòng chảy, tránh thật xa phần đất mềm bên cạnh dòng nước – cố không để lại dấu vết nó đã đi qua – cho đến khi con lạch mở rộng thành một cái hồ nhỏ, và ở đó bên cạnh bờ, nó thấy vóc dáng một gã Kull ngực trần ngồi trên một tảng đá.
Khi Eragon chen lấn qua một hàng cây cỏ nến, tiếng lá và thân cây sột soạt cảnh báo cho gã Kull về sự xuất hiện của nó. Hắn quay cái đầu sừng đồ sộ về phía Eragon, đánh hơi không khí. Chính là Nar Garzhvog, lãnh đạo của nhóm Urgals đồng minh với Varden.
“Ngươi!” Eragon kêu lên, hiện hình trở lại.
“Chào mừng, Hỏa Kiếm,” Garzhvog gầm gừ trong họng. Nâng chân tay to đùng và thân hình khổng lồ lên, gã Urgal vươn thẳng người đến chiều cao hai thước rưỡi của gã, cơ bắp bọc da xám của gã cuộn lên trong ánh mặt trời ban trưa.
“Chào mừng, Nar Garzhvog,” Eragon nói. Bối rối, nó hỏi, “Thế bầy đàn của ngươi thì sao? Ai sẽ lãnh đạo chúng nếu ngươi đi với ta?”
“Em ruột của tôi, Skgahgrezh, sẽ lãnh đạo. Hắn không phải Kull, nhưng hắn có sừng dài và cổ to. Hắn là một chiến tướng giỏi.”
“Ta hiểu…. Nhưng tại sao ngươi muốn đi với ta? “
Gã Urgal ngẩng cái cằm vuông, để lộ cổ họng. “Cậu là Hỏa Kiếm. Cậu không thể chết, nếu không chủng tộc Urgralgra – hay Urgals, như các người gọi – sẽ không trả thù được Galbatorix, và chủng tộc chúng tôi sẽ chết trên
mảnh đất này. Vì thế tôi sẽ chạy với cậu. Tôi là người mạnh nhất trong các chiến binh phe tôi. Tôi đã đánh bại bốn mươi hai con đực trong đấu tay đôi.”
Eragon gật đầu, không thấy khó chịu vì sự việc xoay ra thế này. Trong tất cả đám Urgals, nó tin tưởng Garzhvog nhất, vì nó đã thăm dò ý thức của gã Kull trước Trận chiến Cánh Đồng Cháy và đã khám phá ra rằng, dựa trên tiêu chuẩn về chủng tộc của gã, Garzhvog trung thực và đáng tin. Miễn là hắn đừng quyết định rằng danh dự của hắn yêu cầu hắn phải thách đấu với mình, ta và hắn không có lý do gì để xung đột cả.
“Rất tốt, Nar Garzhvog,” nó nói, thắt chặt lại dây túi quanh hông, “ Chúng ta cùng chạy, ngươi và ta, việc chưa từng có trong toàn bộ lịch sử được ghi chép.”
Garzhvog khẽ cười sâu trong lồng ngực. “Chúng ta cùng chạy, Hỏa Kiếm.”
Họ cùng nhau hướng về phía đông, và cùng nhau lên đường đến rặng núi Beor, Eragon chạy nhẹ và nhanh, còn Garzhvog nhảy đằng sau nó, cứ hai bước của Eragon thì một sải chân của Garzhvog, mặt đất rung lên dưới sức nặng của gã. Bên trên họ, những đám mây dông nở lớn dồn tụ dọc theo đường chân trời, báo hiệu một cơn bão dữ dội, và những con diều hâu lượn vòng phát ra những tiếng kêu cô độc trong lúc săn tìm con mồi của mình.
Chương 27: Băng qua đồi núi
ERAGON và NAR GARZHVOG chạy không ngừng nghỉ, ngày cũng như đêm, chỉ dừng lại để uống nước và cho bớt căng thẳng.
Cuối ngày thứ hai, N nói:
- “Hỏa Kiếm, tôi phải ăn và ngủ một chút!”
ERAGON tựa người vào một thân cây bên cạnh, thở hổn hển. Nó không muốn nói ra trước, nhưng nó cũng cảm thấy đói và kiệt sức như Kull. Chẳng mấy chốc sau khi rời khỏi Varden, nó nhận ra rằng trong khi nó có thể chạy nhanh vượt xa GARZHVOG những năm dặm, thì sức bền của GARZHVOG cũng ngang ngửa hoặc thậm chí hơn cả nó.
- “Tôi sẽ giúp ông săn bắn” – Nó nói.
- “Không cần thiết. Xin hãy đốt một đống lửa lớn, và tôi sẽ lấy thức ăn cho chúng ta.”
- “Được thôi.”
Trong khi GARZHVOG sải dài đến một đám cây sồi phía Nam, ERAGON tháo cái khóa thắt lưng, và với một tiếng thở dài khoan khoái, nó ném cái túi vào gốc cây bên cạnh. – “Một bộ giáp kinh khủng!” – Nó càu nhàu. Trong khi ở Đế quốc, nó còn chưa phải đi xa khi chỉ mang một ổ bánh mì. Nó không thể biết được là có lúc như thế này. Bàn chân nhức nhối, hai cẳng chân mỏi nhừ, đến cái lưng cũng không cựa quậy nổi. Nó cố cúi xuống, tất cả những cái xương trên người nó như phản kháng kịch liệt hành động này ngay lập tức.
Cố quên đi sự khó chịu này, nó thu cỏ và những gốc cây khô để nhóm vào ngọn lửa mà nó đã tạo ra trên nền đá. Nó và GARZHVOG đang ở đâu đó phía đông nam của hồ Tudosten, đất dưới chân ẩm ướt và đầy sức sống, với những đồng cỏ cao những 6 feet, xa xa là những bầy hươu, linh dương và những con bò hoang dã khoác một bộ da đen và dày cùng những cặp sừng móc ngược về sau. ERAGON biết, sự giàu có mà vùng đất này được hưởng, chứng minh rằng chúng đã đến rặng Beor, được bao phủ bởi những đám mây khổng lồ dài hàng dặm che phủ mặt đất, mang mưa đến cho vùng đất này mà nếu không có nó thì sẽ chẳng khác gì sa mạc Hadarac.
Mặc dù cả hai đã chạy được một quãng đường dài nhưng ERAGON vẫn thất vọng vì tiến độ của họ. Chúng đã mất một vài giờ vì phải đi đường vòng và ẩn mình để tránh bị nhìn thấy khi băng từ song Riet đến hồ Tudosten. Giờ thì hồ Tudosten đã ngay bên cạnh chúng, nó hi vọng tốc độ chạy sẽ tăng. “Nasuada không thể đoán trước được sự chậm trễ này ít nhất cho đến lúc này. Ồ không! Cô ta hẳn nghĩ mình sẽ phóng một mạch đến Farthen Dur trong chớp mắt! Ha!” Đá vào một khúc cây chắn ngang đường đi, nó tiếp tục thu nhặt gỗ, càu nhàu mất một hồi lâu.
Một tiếng sau GARZHVOG quay về, ERAGON đã nhóm được một đống lửa lớn dài một yard và rộng gần hai feet và đang ngồi đối diện đó, chăm chăm vào ngọn lửa, cố chống lại cơn buồn ngủ ùa đến. Cổ nó kêu răng rắc khi phải ngước nhìn lên.
GARZHVOG đứng trước nó, kẹp xác một con nai bụ bẫm dưới nách trái. Nhẹ nhàng như ôm một bao giẻ, hắn cắm đầu con nai vào cái chạc ba trên một cái cây cao hai mươi yard xa đống lửa. Sau đó rút ra một con dao để làm sạch xác con nai. ERAGON đứng dậy, cảm giác như những cái xương của nó cọ vào tảng đá, ngần ngại nó tiến về phía GARZHVOG.
- “Ông đã giết nó như thế nảo vậy?” – Nó hỏi.
- “Bằng cái ná của tôi” – Giọng GARZHVOG ùng ục.
- “Ông sẽ nướng nó lên chứ? Hay các Urgal thường ăn thịt sống?”
GARZHVOG quay đầu lại, nhìn chằm chằm ERAGON qua cuộn sừng cong bên trái nó, con mắt vàng khè và hàm răng trắng nhởn với một biểu lộ khó hiểu. “Chúng tôi không phải lá thú, Hỏa Kiếm ạ.”
- “Tôi không có ý thế đâu.”
Với một tiếng ùng ục phát ra trong cuống họng (có lẽ là tiếng cười của Urgal), GARZHVOG làm tiếp công việc của nó.
- “Sẽ mất nhiều thời gian để nướng đây” – ERAGON nói.
- “Tôi nghĩ một món hầm, hay ta có thể rán nó trên một tảng đá”
- “Hầm? Như thế nào? Chúng ta không có một cái nôi.”
Với tay xuống, GARZHVOG chà sạch tay phải trên mặt đất, sau đó lấy đồ nghề trong cái túi treo bên thắt lưng của nó, ném cho ERAGON.
ERAGON cố gắng bắt lấy nó nhưng vì quá mệt, nó bắt hụt, và cái vật đó đập xuống đất. Cái vật đó trông như một miếng da lớn khác thường. Khi nó nhắt lên, cái khối vuông đó mở ra, và nó thấy thứ đó có hình dạng của một cái túi, rộng một hay nửa feet và sâu ba feet.
Vành túi được củng cố bằng 1 miếng da dày, ở trên được may lại bằng những cái vòng kim loại. nó lật túi ra, tưởng tượng bên trong rất mềm và sự thật là không có đường chỉ khâu bên trong.
“cái gì vậy” nó hỏi.
“dạ dày của 1 con gấu tôi đã giết cách đây 1 năm, từ khi tôi có sừng. treo nó trên ngọn lửa hoặc bỏ nó vào 1 cái lỗ, đổ đầy nước rồi bỏ đá nóng vào, đá làm nóng nước và món hầm sẽ rất ngon.”
“nhưng mấy viên đá nóng đó không làm thủng cái dạ dày đó dược à?” “không đâu”
“nó được yểm bùa rồi hả?”
“không có phép thuật đâu, chẳng qua là do cái dạ dày rất chắc chắn.” Garzhvog thở hổn hển vì đang túm chặt hông của con nai, bằng 1 động tác ngắn gọn, hắn đã bẻ khung chậu của nó ra làm 2.hắn xẻ bộ ức bằng con dao nhỏ.
“chắc nó con gấu đó to phải biết,” eragon nói.
Cổ họng Garzhvog kêu rột – roạt: nó chỉ lớn hơn tôi 1 chút thôi, thưa Khắc Tinh Của Tà Thần.” :anh chỉ giết nó bằng ná bắn đá thôi hả?”
“tôi bóp cổ nó bằng tay cho đến khi nó chết thì thôi. Không có vũ khí nào được chấp nhận khi bạn sinh ra trong thời đại này và phải chứng tỏ sự dũng cảm của chính mình.” Garzhvog dùng lại 1 tẹo, con dao của hắn cắm ngập sâu trong cái xác con thú.”hầu hết mọi người không ai cố gắng giết gấu núi , mà bọn họ thường giết chó sói và dê núi.đó là lí do tại sao tôi trở thành thủ lĩnh còn những người khác thì không.”
Eragon rời khỏi chỗ hắn đang chuẩn bị bữa ăn, nó đi về phía đống lửa. Sau đó, nó đào 1 cái lỗ, chỗ đề cái dạ dày gấu, rồi gắn cọc nhọn vào mấy cái vòng kim loại để cố định cái dạ dày.xong xuôi nó gom khoảng 1 tá những viên đá cỡ quả táo ở xung quanh đó rùi bỏ vào giữa ngọn lửa. trong lúc chò cho đá nóng lên, nó dùng phép thuật đỏ đầy nước vào cái dạ dày, nó còn làm 2 cái kẹp bằng cây liễu nhỏ cùng với 1 mảnh da sống được thắt nút.
Khi đá đã nóng đỏ, nó kêu lên “ sẵn sàng rồi!” “bỏ vào đi” Garzhvog đáp lại.
Sử dụng cái kẹp, Eragon nhấc viên đá gần mình nhất lên rùi bỏ nó vào cái “túi” 1 cách chuẩn xác. Mặt nước xỏi bọt khi viên đá chạm vào.nó bỏ thêm 2 viên đá nữa vào cái dạ dày gấu, làm cho nước sôi cuồn cuộn.
Garzhvog xẻ 1 miếng thịt dùng cho 2 người và bỏ vào nước, rồi thêm muối,1 ít cành hương thảo,cỏ xạ hương lấy từ túi đeo trên thắt lưng,và vài loại cây màu xanh mà hắn tình cờ lượng được tron g khi đi săn. Xong xuôi hắn đặt 1 tảng “đá phiến sét” rộng, bằng phẳng ngang qua ngọn lửa. khi tảng đá đã nóng, hắn rán 1 lát thịt trên đó.
Trong khi chờ đợi thức ăn được nấu xong, Eragon và Garzhvog tự làm cho mình muỗng từ cái gốc cây mà eragon để đồ đạc.cái đói làm Eragon cảm thấy thời gian trôi chậm rì, nhưng lát sau, cái “túi” đã chín, và nó cùng Garzhvog ăn ngấu nghiến như chó sói vậy.Eragon ăn nhiều gấp 2 lần bình thường, nó tưởng như không thể tiêu thụ được lượng thức ăn như vậy. Garzhvog cũng vậy, hắn ăn thức ăn đủ cho 6 người đàn ông lực lưỡng.
Sau đó, Eragon nằm xuống, dựa người vào khuỷu tay, và nhìn chằm chặp vào ánh sáng lóe lên cạnh đỉnh cây sồi, nghĩ vẩn vơ về ai đó mà bọn nó đang theo đuổi. đâu đó vẳng lên tiếng cú kêu, mượt mà nhưng hơi khàn khàn. 1 vài ngôi sao đầu tiên xuất hiện làm lốm đốm bầu trời màu tía.
Eragon nhòn chòng chọc không nghĩ đến Saphira và Arya, và rồi nó nhắm mắt lại, 1 cảm giác uể oải trỗi dậy trong đầu nó. Nó nghe tiếng kêu răng rắc, mở mắt ra nó thấy Garzhvog đang chà răng bằng 1 cái xương đùi bị gãy bên cạnh cái dạy dày gấu. Eragon đưa mắt xuống đôi chân của Urgal- Garzhvog đã bỏ dép ra trước bữa ăn- và nó
ngạc nhiên nhận ra rằng mỗi bàn chân của Urgal có 7 ngón. “người cũng có số ngón chân như anh vậy,” nó nói.
Garzhvog nhổ 1 mảnh thịt vào đống lửa.” tôi không biết điều đó. Tôi chưa bao giờ muốn nhìn chân của người lùn”.
“ anh không tò mò là vì sao Urgal và người lùn có 14 ngón chân trong khi yêu tinh và con người cjỉ có 10 ngón ư ?”
Môi của Garzhvog nhếch lên, gầm gừ:” chúng tôi không đổ máu với nhũng con chuột núi không có sừng ấy, Hỏa Kiếm. bọn chúng có 14 ngón chân, chúng tôi cũng co14 ngón chân. Hãy hài lòng với những gì ông trời ban cho chúng ta từ khi tạo lập trời đất. không có sự giải thích nào khác đâu. ”
Eragon càu về câu trả lời và nó quay lại nhìn vệt sáng lúc nãy. Rồi:” kể cho tôi câu truyện của anh đi, Nar Garzhvog.”
The Kull cân nhắc 1 lát, rồi bỏ xương ra khỏi miệng, hắn nói:” rất lâu trước đây, có 1 Urgalgra, tên cô ấy là Maghara.Sừng sáng bóng như đá vậy, tóc ngang lưng, và nụ cười thì quyến rũ cả chim trên cây. Nhưng cô ấy không xinh đẹp, mà lại còn xấu xí nữa.bấy giờ, trong làng có 1 con đực rất khỏe mạnh.hắn đã giết 4 con đực khác trong 1 trận đấu vật và đã đánh bại 23 con đực khác. Cho dù trận chiến đã làm cho danh tiếng hắn vang dội, hắn vẫn chưa chọn được người bạn đời ưng ý. Maghara ước mình được làm ngưởi bạn đời của hắn nhưng hắn không để ý jì đến cô cả, bởi vì cô xấu xí. Vì sự xấu xí đó mà hắn thấy được cặp sừng bóng lộn, mái tóc dài và ging5 nói thánh thót đó của cô. Đau khổ trong lòng, cô trèo lên đỉnh cao nhất của ngọn Spine, và kêu to tên của Rahna dđể giúp cô. Rahna là mẹ của tất cả chúng tôi, và bà ấy chính là người đã dưng nên ngọn Beor Mountains khi bà ấy đang bị 1 con rồng truy đuổi. Rahna, người đàn bà có Gilded Horns, bà ấy trả lời Maghara, và hỏi tại sao lại gọi bà ấy đến.”hãy làm cho tôi đẹp hơn, Horned Mother, để con có thể thu hút người đó đến với con.” Maghara nói. Và Rahna trả lòi rằng:” Con không cần xinh đẹp nữa, Maghara à. Con có cặp sừng đẹp, 1 mái tóc dài và tiếng nói rất hay rồi. Với những thứ đó, con có thể lấy người mà không ngu ngốc đến độ chỉ biết nhìn vào mặt con gái để đoán sự xinh đẹp.”và Maghara, quăng mình xuống đất và nói:” con sẽ không hạnh phúc trừ khi con có được người đó, Horned Mother. Làm ơn, hãy làm cho con đẹp hơn”Rahna, bà cười và nói” nếu ta làm như vậy, cô bé, con sẽ trả ơn ta như thế nào?”và Maghara trả lời:” con sẽ đưa cho bà bất cứ thứ gì.”
Rahna hài lòng với lời đề nghị của cô ấy và bà đã làm cho Maghara xinh đẹp. Maghara trở về làng và mọi người đều ngạc nhiên trươic1 vẻ đẹp của cô ấy. với 1 khuôn mặt mới, Maghara trở thành người bạn bạn đời của chàng trai cô ấy mún, và cô ấy có rất nhiều đứa con, bon họ sống hạnh phúc trong 7 năm sau đó. Rồi Rahna đến và nói:” con đã có 7 năm hạnh phúc bên người con yêu, con có vui không?” và Maghara đáp:” thưa bà, con rất hạnh phúc.”Và Rahna nói:” bây giờ hãy trả nợ cho ta nào.” bà ta nhìn xung wanh căn nhà bằng đá, dừng lại trên người con trai cả của cô ấy và nói:”ta sẽ lấy hắn “.Maghara nài nỉ Người Đàn Bà Có Gilded Horns đừng mang con của cô ấy đi, nhưng Rahna không hề động lòng. Cuối cùng, Maghara lấy cây gậy của chồng mình, và đập vào người Rahna, nhưng cây gậy gãy tan trong tay cô ấy.Để trừng phạt, Rahna đã lấy đi sắc đẹp của Maghara, và mang con của Maghara đi về chổ ở của mình, nơi 4 ngọn gió cư ngụ. bà ta đặt tên đứa con của Maghara là Hegraz. Bà ta đã huấn luyện hắn thành 1 trong những chiến binh mạnh nhất từng đi trên mảnh đất này.Có thể rút ra được bài học từ Maghara rằng đừng bao giờ chống lại số phận, vì bạn sẽ mất đi những gì thân yêu nhất.
Eragon ngắm nhìn ánh sáng rực rỡ của mặt trăng lưỡi liềm đang xuất hiện trên đường chân trời phía đông.”kề cho tôi cái jì đó về làng của anh đi”
“kể cái jì?”
“ cái jì cũng được. tôi đã nhìn thấy hàng trăm ký ức khi tôi đi vào tư tưởng của anh, của Khagra, và của Otvek, nhưng I chỉ gợi lại được 1 ít , nó không hoàn hảo. tôi đang cố gắng phán đoán những gì tôi nhìn thấy được.”
“có rất nhìu thứ tôi có thể nói với ngài” Garzhvog đáp. Đôi mắt hắn thoáng buồn, hắn xoay xở xỉa răng bằng tăm và nói tiếp:” chúng tôi lấy gỗ mói xẻ, khắc lên chúng mặt những con thú trên núi, rùi chúng tôi chôn chúng thẳng đứng trước cửa nhà để trừ tà ma, cô hồn. Thỉnh thoảng những cái hình đó dường như có sự sống. Khi ngài đi vào làng của chúng tôi, ngài có thể cảm nhận được nhũng đôi mắt của bon chúng nhìn ngài…”khúc xương dừng lại trên tay của Urgal, rùi lại chuyển động tiếp tục.” trước lối ra vào của mỗi lều, chúng tôi đều treo namna – 1 mảnh vải được căng rộng ra bằng bàn tay. Namna có màu sắc rực rỡ, và trên nền của mảnh vải người ta miêu tả lại lịch sử của gia đình sống trong túp lều đó. Chỉ có người giệt vải lớn tuổi nhất và lành nghề nhất mới được giệt thêm hay thay cái mới nếu mảnh vải bị hư hại…”
Khúc xương biến mấy khỏi bàn tay Garzhvog”trong xuốt những tháng mùa đông, những dệt thảm bắt đầu công việc cảu mình. Cần ít nhất 5 năm để hoàn thành 1 cái thảm, vì vậy khi chiếc thảm được hoàn thành, người ta sẽ bít được trình độ của người dệt.”
“tôi chưa từng nhìn thấy 1 ngôi làng nào của các anh cả.”eragon nói “chắc là chúng được che giấu rất kĩ.” “che giấu kĩ và phng2 thủ chắc chắn.chỉ 1 vài người nhin thấy làng của chúng tôi còn sống để kể về nó.”
“tập trung vào lời nói của Garzhvog, eragon hỏi” anh học tiếng của chúng tôi như thế nào, Garzhvog? ” “hay là có 1 người nào đó sống giữa các anh? Các anh có bắt giữ ai làm nô lệ không? ”
Garzhvog đáp lại cái nhìn của Eragon không hề nao núng. “ chúng tôi không có nô lệ, Hỏa Kiếm. Tôi học được chúng trong tư tưởng của 1 người đàn ông tôi từng chiến đấu, và tôi chia sẻ vốn hiểu biết với mọi người trong bộ lạc.”
“anh đã giết rất nhiều con người, phải không ?”
“ ngài cũng đã giết nhiều Urgals, Hỏa Kiếm. đó là lí do tại sao chúng ta vẫn sống đến ngày hôm nay, hoặc bộ lạc của tôi sẽ không sống sót.”
Eragon khoanh hai tay lại.
- Khi Brom và tôi theo dõi Ra'zac, chúng tôi đã băng qua Yazuac, ngôi làng kế sông Ninor. Chúng tôi đã tìm thấy tất cả dân làng chất đống ngay giữa làng, đã chết, với xác một em bé nằm ngay trên đỉnh của đống xác đó. Cảnh tượng đó là cảnh kinh khủng nhất mà tôi từng chứng kiến. Và đó là do Urgals đã giết họ.
- Trước khi tôi nhận được sừng. Garzhvog kể.
- Cha tôi đã cho tôi đến thăm một trong những ngôi làng của chúng tôi dọc theo rìa phía tây của núi Spine. Chúng tôi đã tìm thấy người dân tôi bị tra tấn, bị đốt cháy, và bị giết. Những con đực của Narda nhận thấy sự có mặt của chúng tôi, và họ đã đột kích ngôi làng với nhiều chiến sĩ. Không ai trong làng chạy thoát được... Đúng là chúng tôi thích chiến tranh nhiều hơn các chủng tộc khác, Hoả Kiếm, và điều đó làm chúng tôi suy sụp nhiều lần trước đây. Những con cái sẽ không thừa nhận một con đực chừng nào nó chứng minh được trong trận chiến và giết được ít nhất ba đối thủ. Và đó là niềm vui trong trận chiến hơn bất cứ niềm vui nào khác. Mặc dù chúng tôi thích sức mạnh của tay chúng tôi, nhưng không có nghĩa là chúng tôi không nhận thức được lỗi của mình. Nếu chủng tộc tôi không thể thay đổi, Galbatorix sẽ giết hết chúng tôi khi ông ta đánh bại phe Varden, và ngài và Nasuada sẽ giết chúng tôi nếu chúng tôi phản bội. Không phải sao, Hoả Kiếm?
Eragon giật giật cằm trong lúc gật đầu.
- Đúng thế.
- Cả hai phía đều không ổn, vậy thì, nhìn lại những lỗi lầm trong quá khứ. Nếu chúng tôi không thể nhận ra điều gì trong chủng tộc tôi đã làm, thì sẽ không bao giờ có được hoà bình giữa tộc người và Urgralgra.
- Chúng tôi sẽ phải đối xử với anh như thế nào, khi mà, nếu như chúng tôi đánh bại được Galbatorix và Nasuada cho chủng tộc anh đất riêng như anh đã đề nghị, và hai mươi năm tới, các thế hệ sau bắt đầu giết và cướp bóc để tìm bạn đời? Nếu anh biết lịch sử chúng tôi, Garzhvog, và anh biết điều đó sẽ luôn trong sử sách ngay cả khi Urgals ký hiệp ước hoà bình.
Với một tiếng thở dài, Garzhvog nói:
- Vậy thì chúng tôi sẽ hy vọng rằng vẫn còn Urgralgra bên kia biển và rằng chúng thông minh hơn chúng tôi, cho dù chúng tôi sẽ không còn ở mảnh đất này nữa.
Không ai nói thêm gì nữa trong đêm đó. Garzhvog cuộn mình lại và ngủ với cái đầu to nằm trên mặt đất, trong khi Eragon trùm kín chính nó trong cái áo khoác và ngồi tựa vào gốc cây, ngắm các ngôi sao chuyển động chầm chậm, trôi vào và ra khỏi giấc mơ của nó.
Vào cuối ngày hôm sau, họ đã tới điểm có thể nhìn thấy núi Beor. Lúc đầu, ngọn núi không có gì nhiều hơn sương mù bao phủ chân núi, nhưng tới xế chiều, đã bắt đầu có thể thấy được hình dáng ngọn núi, và Eragon đã có thể trông thấy dải tối quanh những cái cây che khuất căn cứ, và trên đó, từng dải rộng của tuyết và băng và cao hơn nữa, ngay đỉnh núi, màu xám, lộ ra đá, quá cao, không cây nào có thể mọc trên đó và bị tuyết phủ kín. Giống như lần đầu nó nhìn thấy, kích cỡ của núi Beor hoàn toàn áp đảo Eragon. Theo như bản năng của nó thì không có gì to lớn có thể tồn tại, và bây giờ nó biết mắt nó không lừa nó. Ngọn núi cao khoảng mười dặm, và có thể cao hơn.
Eragon và Garzhvog không dừng đêm đó nhưng tiếp tục chạy qua đêm đến tận sáng ngày hôm sau. Eragon dừng lại, dọc bờ suối, và ngắm cảnh trong vài phút im lặng đến kinh ngạc. Như phạm vi rộng lớn của núi Beor tương tự
như hành trình gian khổ của Eragon từ Gil'ead đến Farthen Dûr với Murtagh, Saphira, và Arya. Nó nghĩ ngay cả khi tính luôn tất cả các nơi mà họ dừng lại sau khi vượt qua sa mạc Hadarac.
Ngày dài và đêm còn dài hơn trôi đi với sự chậm chạp khốn khổ cũng như một tốc độ đáng ngạc nhiên, vì từng giờ đồng hồ đều giống hệt như giờ cuối cùng, khiến cho Eragon thấy không chỉ cuộc thử thách này có vẻ không bao giờ chấm dứt, mà một phần lớn của nó hình như vẫn chưa hề trôi qua.
Khi nó với Garzhvog đến miệng khe nứt khổng lồ chia cắt dãy núi suốt nhiều dặm từ bắc tới nam, họ ngoặt sang phải và băng qua cái lạnh cùng những đỉnh núi lãnh đạm. Đến Sông Răng Gấu - chảy ra từ thung lũng hẹp dẫn đến Farthen Dûr - họ lội qua dòng nước giá lạnh và tiếp tục hướng về phương bắc.
Đêm đó, trước khi phiêu lưu về phương đông để vào trong những ngọn núi, họ dựng trại bên một cái hồ nhỏ và thư giãn chân tay. Garzhvog giết một con hươu nữa bằng cái ná của gã, lần này là một con hươu đực, và cả hai ăn no nê.
Thỏa mãn được cơn đói, Eragon đang khom lưng vá lại một lỗ thủng trong chiếc giày của nó thì chợt nghe thấy một tiếng hú kỳ quái khiến huyết mạch nó đập dồn. Liếc nhìn khung cảnh tối thui xung quanh, nó kinh hoàng nhận ra bóng của một con thú khổng lồ đang nhảy quanh bờ rải đá cuội của cái hồ.
“Garzhvog,” Eragon thấp giọng, với tới chỗ cái túi của nó và rút kiếm.
Nhặt một hòn đá to cỡ nắm đấm từ mặt đất, gã Kull đặt nó vào cái túi da trên cái ná, rồi vươn thẳng người, gã há họng rống to vào trong đêm cho tới khi cả vùng đất vang dội lời thách thức của gã.
Con thú ngừng lại, rồi bước chậm rãi, đánh hơi mặt đất xung quanh. Khi nó bước vào vòng tròn sáng của ánh lửa, hơi thở Eragon nghẹn lại trong họng. Đứng trước mặt họ là một con sói lưng xám to ngang một con ngựa, với những cái răng nanh như những lưỡi kiếm cong và đôi mắt vàng rực theo sát từng cử động của họ. Bàn chân con sói có kích cỡ như những cái khiên.
Một con Shrrg! Eragon nghĩ.
Khi con sói khổng lồ đi vòng quanh trại, chuyển động gần như vô thanh bất chấp vóc dáng đồ sộ, Eragon nghĩ tới thần tiên và cách họ đương đầu với một con thú hoang, và bằng cổ ngữ, nó nói, “Người anh em Sói, chúng ta không có ý làm hại mi. Đêm nay đàn chúng ta chỉ nghỉ ngơi và không đi săn. Mi được chào mừng đến chia sẻ thức ăn và sự ấm áp trong hang ổ chúng ta cho tới sáng.” Con Shrrg ngừng lại, tai nó xoay ra trước trong lúc Eragon nói bằng cổ ngữ.
“Hỏa Kiếm, cậu làm cái gì thế?” Garzhvog gầm gừ. “Đừng tấn công trừ khi nó tấn công.”
Con thú với đôi vai nặng nề từ từ bước vào chỗ cắm trại, chóp mũi ướt át khổng lồ không ngừng giật giật. Con sói đưa cái đầu bờm xờm của nó về phía đám lửa, dường như tò mò về ngọn lửa đang nhảy múa, rồi lại gần những mẩu thịt thừa và nội tạng vương vãi trên mặt đất chỗ Garzhvog đã làm thịt con hươu. Cúi xuống, con sói đớp lấy những miếng thịt lớn, rồi ngẩng lên và, không hề nhìn lại, bước vào bóng đêm sâu thẳm.
Eragon thả lỏng và tra kiếm vào bao. Garzhvog, ngược lại, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, đôi môi co lại gầm gừ, quan sát và lắng nghe bất cứ điều gì bất thường từ bóng tối xung quanh.
Bình minh vừa ló dạng, Eragon và Garzhvog rời điểm cắm trại và chạy về phía đông, tiến vào thung lũng dẫn họ đến Núi Thardûr.
Khi họ đi dưới những cành cây của khu rừng rậm rạp canh gác vùng đất bên trong dãy núi, không khí trở nên mát hơn một cách đáng chú ý và đệm lá kim mềm mại trên mặt đất ôm lấy những bước chân của họ. Những cái cây cao lớn, tối tăm, hung dữ hiện ra lờ mờ bên trên họ dường như đang quan sát khi họ mở lối giữa những thân cây to và vòng qua những đám rễ xoắn vặn gồ lên từ mặt đất ẩm ướt, cao đến nửa thước, một thước, và thường là
thước rưỡi. Những con sóc lớn màu đen vụt qua các cành cây, ríu rít một cách ồn ào. Một lớp rêu dày bao phủ những xác cây đổ. Những cây dương xỉ, những bụi mâm xôi và các loại cây xanh rậm rạp khác phát triển sum suê kế bên những cây nấm với mọi loại hình dạng, kích thước, và màu sắc.
Thế giới thu hẹp lại khi Eragon và Garzhvog đã hoàn toàn ở trong cái thung lũng dài. Những ngọn núi khổng lồ ép vào từ cả hai bên với tầm vóc nghẹt thở, và bầu trời là một dải màu thiên thanh xa xôi không thể với tới, bầu trời cao nhất mà Eragon từng thấy. Một vài đám mây mỏng lướt qua vai những ngọn núi.
Một giờ hay cỡ đó sau giữa trưa, Eragon và Garzhvog đi chậm lại khi một chuỗi những tiếng gầm khủng khiếp vang vọng giữa rừng cây. Eragon rút kiếm ra khỏi bao, và Garzhvog chộp lấy một hòn đá cuội nhẵn nhụi trên mặt đất và gắn vào cái túi trên cái ná của gã.
“Một con gấu hang,” Garzhvog nói. Một tiếng eng éc the thé giận dữ, nghe như tiếng kim loại nghiến lên kim loại, ngắt lời gã. “Và Nagra. Hỏa Kiếm, chúng ta phải cẩn thận.”
Họ bước từng bước chậm rãi và nhanh chóng phát hiện ra những con thú cách đó khoảng trăm thước trên một sườn núi. Một bầy lợn lòi hung đỏ với những cái răng nanh dày khua nhặng xị, nháo nhác trong tiếng kêu hỗn loạn trước một khối khổng lồ có lông nâu bạc, móng vuốt cong như những cái móc, và những cái răng đớp táp chuyển động với tốc độ chết người. Ban đầu khoảng cách đánh lừa Eragon, nhưng rồi nó so sánh những con thú với những cái cây bên cạnh chúng và nhận ra mỗi con lợn lòi đều làm cho con Shrrg nhỏ đi còn con gấu thì to gần bằng cái nhà của nó ở Thung lũng Palancar. Bầy lợn lòi đã làm hai bên sườn con gấu nhuốm máu, nhưng điều đó hình như chỉ làm con thú thêm điên tiết. Đứng lên trên hai chân sau, con gấu rống lên và đập một con lợn lòi bằng một bàn chân khổng lồ, đánh văng con lợn sang một bên và xé toạc da nó. Con lợn lòi cố sức vùng dậy ba lần, và ba lần con gấu đều tung đòn vào nó, cho đến cuối cùng con lợn lòi đầu hàng và nằm im re. Khi con gấu cúi xuống ăn, đám lợn đang rống rít còn lại rút lui vào bên dưới những cái cây, hướng lên núi và tránh xa khỏi con gấu.
Kinh sợ vì sức mạnh của con gấu, Eragon đi theo Garzhvog khi gã Urgal từ từ băng ngang qua tầm nhìn của con gấu. Ngẩng cái mõm đỏ lòm của nó lên khỏi dạ dày con mồi, con gấu quan sát họ với đôi mắt nhỏ, tròn và sáng, rồi hình như quyết định họ không phải mối đe dọa với nó và tiếp tục bữa ăn.
“Ta nghĩ cả Saphira cũng không chắc hạ được một con quái như thế,” Eragon lẩm bẩm. Garzhvog khẽ càu nhàu. “Nó biết phun lửa. Gấu thì không.”
Không ai trong bọn họ rời mắt khỏi con gấu cho đến khi những thân cây che khuất nó khỏi tầm nhìn, và kể cả khi đó họ vẫn sẵn sàng vũ khí, không biết liệu mình còn có thể đụng phải những hiểm nguy gì nữa.
Ngày hôm đó đã về chiều muộn khi họ nhận ra thêm một loại âm thanh khác: tiếng cười. Eragon và Garzhvog dừng lại, rồi Garzhvog giơ lên một ngón tay và, với vẻ lén lút đáng ngạc nhiên, bò xuyên qua một hàng cây, về phía tiếng cười. Đặt chân một cách thận trọng, Eragon đi cùng gã Kull, nín thở vì sợ hơi thở tiết lộ sự hiện diện của họ.
Nhìn qua một đám lá sơn thù du, Eragon thấy một con đường mòn ở dưới thung lũng, và cạnh con đường, ba đứa trẻ người lùn đang nô đùa, ném gậy vào nhau, vừa la hét vừa cười. Không thấy người lớn nào. Eragon lui lại một khoảng cách an toàn, thở ra, và quan sát bầu trời, phát hiện vài đám khói trắng, có lẽ ở xa thêm một dặm ngược lên thung lũng.
Một cành cây gãy khi Garzhvog ngồi xuống bên cạnh nó, để hai người ngang bằng nhau. Garzhvog nói, “Hỏa Kiếm, chúng ta chia tay tại đây.”
“Ngươi không đến Hang Bregan với ta?”
“Không. Nhiệm vụ của tôi là giữ an toàn cho cậu. Nếu tôi đi cùng, người lùn sẽ không tin tưởng cậu nữa. Núi Thardûr ở rất gần rồi, và tôi tin chắc sẽ không kẻ nào dám làm cậu bị thương trong khoảng từ đây đến đó đâu.”
Eragon xoa xoa gáy, nhìn tới lui giữa Garzhvog và làn khói ở phía đông. “Ngươi sẽ chạy thẳng về Varden à?” Cười khẽ, Garzhvog nói, “Đúng, nhưng chắc không nhanh được như khi ta tới đây đâu.”
Không chắc phải nói sao, Eragon lấy mũi giày đẩy một đầu khúc cây đã mục, để lộ ra một cái tổ ấu trùng trắng đang ngọ nguậy trong cái đường hầm mà chúng mới đào. “Đừng để một con Shrrg hay gấu nào ăn thịt, được chứ? Nếu không ta sẽ phải truy lùng con thú và giết nó, mà ta thì không có thời gian cho vụ đó.”
Garzhvog ấn hai nắm đấm lên cái trán xương xẩu của gã. “Mong cho kẻ thù run sợ trước cậu, Hỏa Kiếm.” Đứng và quay người, Garzhvog bước đi xa khỏi Eragon. Khu rừng nhanh chóng che khuất hình thù to lớn của gã Kull.
Eragon hít đầy phổi khí núi trong lành, rồi mở đường xuyên qua lùm cây. Khi nó hiện ra từ những bụi dương xỉ vả sơn thù du, đám trẻ lùn bất động, vẻ cảnh giác lộ ra trên những khuôn mặt tròn trĩnh. Giữ hai tay hai bên, Eragon nói, “Ta là Eragon Khắc-tinh-của-Tà-thần, Con trai của Không Ai Cả. Ta đang tìm Orik, con trai của Thrifk, ở Hang Bregan. Các bạn có thể đưa ta tới chỗ ông ấy chứ?”
Đám trẻ không đáp, và Eragon nhận ra chúng không hiểu tiếng của nó. “Ta là một Kỵ sĩ Rồng,” nó nói, chậm rãi và nhấn mạnh từng từ. “Eka eddyr aí Shur’tugal…Shur’tugal…Argetlam.”
Tới đó, mắt đám trẻ bừng sáng, và miệng chúng vẽ ra hình tròn kinh ngạc. “Argetlam!” chúng kêu lên. “Argetlam!” Và chúng chạy tới, nhào vào Eragon, quàng những cánh tay ngắn ngủn vào chân nó và túm quần áo nó, không ngừng hò hét hớn hở. Eragon nhìn xuống đám trẻ, cảm thấy một nụ cười ngốc nghếch đang nở rộng trên mặt mình. Lũ trẻ túm tay nó, và nó để cho chúng kéo mình đi xuống con đường mòn. Mặc dù nó chẳng hiểu gì, đám trẻ cứ nói liên hồi bằng tiếng Người lùn, kể cho nó những điều nó không biết, nhưng nó vui vẻ lắng nghe cuộc chuyện trò của chúng.
Khi một đứa trong đám trẻ – một đứa con gái, nó nghĩ – đưa tay về phía nó, nó nhấc cô bé lên và đặt lên vai mình, nhăn nhó khi cô bé túm lấy một nắm tóc nó. Cô bé cười, giọng cao và du dương, khiến Eragon lại cười theo. Vậy là, được hộ tống và tháp tùng, Eragon tìm đường đến Núi Thardûr và từ đó đến Hang Bregan, đến chỗ nghĩa huynh của nó, Orik.
Chương 28 - Vì tình yêu
Roran nhìn chằm chằm xuống đất, viên sỏi nằm gọn trong tay. Đôi lông mày của anh nhíu lại thành một đường thẳng giận dữ.
"Stern risa!" anh gầm gừ trong hơi thở. Viên sỏi vẫn không chịu nhúc nhích.
"Cậu đang làm gì thế, Cây-búa-dũng-mãnh?" Carn hỏi và ngồi phịch xuống khúc gỗ Roran đang ngồi.
Nhét viên sỏi vào thắt lưng, Roran cầm lấy miếng bánh mì và mẩu phô mai Carn đem đến và nói: "Không có gì. Chỉ mơ màng thôi."
Carn gật đầu. "Chuyện thường thấy trước khi làm nhiệm vụ."
Vừa ăn, Roran vừa đưa mắt quan sát những người cùng đi với anh. Nhóm gồm 30 người đàn ông khỏe mạnh, kể cả Roran. Họ đều là những chiến binh dũng mãnh. Người nào cũng mang cung, và hầu hết đều mang gươm, nhưng cũng có một số người chọn giáo, chùy, hoặc búa. Anh đoán trong số đó có khoảng 7, 8 người cùng độ tuổi với mình, còn lại thì đều lớn tuổi hơn nhiều. Người lớn tuổi nhất trong bọn là viên chỉ huy, Martland Redbeard, vị bá tước đã bị truất phế của Thun, người đã trải qua nhiều mùa đông đến nỗi hàm ria nổi tiếng của ông trở nên bạc trắng như băng tuyết.
Khi Roran mới gia nhập đội quân của Martland, anh đã đến trình diện trong lều của ông ta. Bá tước là một người thấp bé, cơ bắp lực lưỡng do cả đời ngồi trên lưng ngựa và vung kiếm. Bộ ria nổi tiếng của ông dày, được chải
chuốt cẩn thận, dài đến giữa ngực. Sau khi nhìn ngắm Roran cẩn thận, bá tước nói: "Công nương Nasuada đã kể cho ta nghe những chuyện tuyệt vời về cậu, con trai của ta, và ta còn nghe được nhiều hơn thế từ lính của ta, từ những tin đồn, đại loại thế. Cậu biết chúng thế nào rồi đấy. Không nghi ngờ gì nữa, cậu đã đạt được những chiến công cao quý; ví dụ như đương đầu với bọn Ra'zac ngay trong hang ổ của chúng, đó quả thật không phải là việc dễ dàng. Tất nhiên, cậu được em mình giúp đỡ, đúng không, hmm?... Cậu có thể đã quen làm việc theo cách riêng của mình với dân làng của cậu, nhưng giờ cậu đã là một phần của Varden, con trai của ta ạ. Hơn nữa, cậu còn là chiến binh của ta. Chúng ta không phải gia đình cậu. Chúng ta không phải láng giềng của cậu. Thậm chí, bọn ta còn không cần phải là bạn cậu. Nhiệm vụ của chúng ta là thực hiện mệnh lệnh của Nasuada, bất kể bản thân cảm thấy thế nào. Khi cậu chiến đấu dưới quyền của ta, cậu phải làm những gì ta bảo, khi ta bảo, và theo cách của ta, hoặc là ta thề trên nấm mồ của mẹ ta rằng – mong bà được yên nghỉ - đích thân ta sẽ lột da cậu ra, mặc kệ cậu là bà con của ai đi nữa. Cậu hiểu chứ?"
"Vâng, thưa ngài!"
"Rất tốt. Nếu cậu cư xử tốt và thể hiện rằng mình có chút đầu óc, và nếu cậu sống sót, thì việc thăng tiến trong Varden đối với một người có quyết tâm không phải là không thể. Và điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào chuyện ta có cho rằng cậu thích hợp để chỉ huy một đội quân riêng không. Nhưng cậu đừng bao giờ cho rằng, đừng bao giờ, rằng cậu có thể nịnh bợ ta để ta đánh giá tốt về cậu. Ta không quan tâm cậu thích hay không thích ta. Ta chỉ quan tâm đến việc cậu có thể làm được chuyện cần làm hay không."
"Tôi hoàn toàn hiểu, thưa ngài"
"Ừm, được, có lẽ cậu sẽ làm được, Cây-búa-dũng-mãnh ạ. Chúng ta sẽ biết ngay thôi. Giờ thì đi báo cáo với Ulhart, cánh tay phải của ta."
Roran nuốt chửng mẩu bánh mì cuối cùng và tọng nó xuống bằng một ngụm rượu từ chiếc túi da luôn mang theo mình. Tối qua anh đã mong có được một bữa ăn nóng sốt, nhưng bọn họ đang ở sâu trong Đế quốc, và đám lính có thể phát hiện ra ngọn lửa. Anh thở dài, duỗi hai chân ra. Hai đầu gối anh đau nhừ vì cưỡi Hỏa tuyết suốt từ bình minh tới hoàng hôn trong ba ngày liền.
Sâu trong lòng, Roran cảm thấy một áp lực mơ hồ nhưng liên tục, một nỗi bứt rứt không yên mà đêm ngày đều hướng anh về một phía: Katrina. Nguyên nhân của cảm giác này là chiếc nhẫn Eragon tặng anh, nó là một niềm an ủi lớn cho Roran khi biết rằng, nhờ có nó, anh và Katrina có thể tìm ra nhau ở bất cứ nơi nào trên Alagaesia, ngay khi cả hai đều điếc và mù.
Nghe Carn đang thì thầm những từ ngữ cổ bên cạnh, anh mỉm cười. Carn là pháp sư của họ, anh ta được điều đến để đảm bảo rằng các pháp sư đối phương không thể giết hết mọi người chỉ bằng một cái phẩy tay. Từ một số người lính, Roran biết được rằng Carn không phải là một pháp sư cao tay – anh ta khá vất vả để thực hiện được một câu thần chú – nhưng anh ta bù đắp vào khiếm khuyết đó bằng cách sáng tác ra nhiều câu thần chú rất hay và đặc biệt nổi trội trong việc lẻn vào tâm trí đối phương. Carn khá gầy ốm, có đôi mắt luôn lo lắng ủ rũ, kiểu người dễ bị kích động. Roran thích anh ta ngay lập tức.
Phía trước Roran là hai người đàn ông, Halmar và Ferth, đang ngồi trước lều của họ. Halmar bảo Ferth, "… vì thế khi bọn lính tới tìm ông ta, ông ta rút hết quân vào điền trang của mình và cho đốt những bể dầu sôi mà người hầu đã chuẩn bị trước, bẫy bọn lính và làm cho bọn đến sau tin rằng tất cả đã bị thiêu sống. Cậu tin nổi không? Ông ta giết một lúc 500 tên lính mà thậm chí không cần vung gươm!"
"Làm sao ông ấy thoát được?" Ferth hỏi.
"Ông của Redbeard là một thằng cha xảo quyệt, thật vậy. Ông ta cho đào một đường hầm suốt từ đại sảnh gia đình đến tận dòng sông gần nhất. Nhờ đó, Redbeard đã cứu thoát cả gia đình mình, và cả những người hầu nữa. Ông đưa họ đến Surda, và vua Larkin thu nhận tất cả. Nhiều năm sau, Galbatorix mới phát hiện ra rằng họ vẫn còn sống. Chúng ta rất may mắn được dưới quyền Redbeard. Ông ta chỉ mới thua có hai trận, và đó là vì phép thuật."
Halmar im lặng khi Ulhart bước vào giữa 16 căn lều. Tay chiến binh kì cựu với khuôn mặt khắc nghiệt đứng với hai chân dang rộng, vững chãi như một cây sồi đâm rễ sâu, quan sát những căn lều để chắc rằng mọi người đều có mặt. Ông ta nói: "Mặt trời lặn rồi, mau đi ngủ đi. Chúng ta sẽ khởi hành hai tiếng trước bình minh. Đoàn xe cách chúng ta khoảng 7 dặm về phía tây bắc. Nếu tận dụng được thời gian, ta sẽ tấn công ngay khi chúng bắt đầu di chuyển. Giết hết tất cả, đốt sạch mọi thứ, và chúng ta sẽ được về nhà. Các ngươi biết rồi đấy. Cây-búa-dũngmãnh, ngươi đi với ta. Nếu ngươi gây sự, ta sẽ moi ruột ngươi ra bằng một lưỡi câu cùn." Đám lính cười thầm. "Được rồi, đi ngủ ngay đi."
*********************************
Gió quất vào mặt Roran. Tiếng tim đập thình thình trong tai anh át đi mọi tiếng động khác. Hỏa Tuyết lồng lên, phi nước đại. Tầm nhìn của Roran thu hẹp lại, anh không thấy gì khác ngoài hai tên lính cưỡi hai con lừa cái màu nâu cạnh cỗ xe áp cuối trong đoàn xe tải lương.
Nâng cao cây búa, Roran gào to hết sức có thể.
Hai tên lính giật mình dò dẫm với vũ khí và khiên của mình. Một tên làm rơi ngọn giáo và phải cúi xuống để nhặt nó lên.
Kéo cương để Hỏa Tuyết chạy chậm lại, Roran đứng hẳn lên bàn đạp ngựa, và, khi vừa ngang tầm tên lính đầu tiên, anh đánh vào vai hắn, xẻ đôi áo giáp của hắn. Tên lính thét lên, cánh tay hắn mềm nhũn ra. Roran giải quyết hắn bằng một cú đấm.
Tên lính kia đã nhặt được ngọn giáo, hắn cố đâm vào cổ Roran. Roran né ra sau tấm khiên tròn, ngọn giáo thép đâm mạnh vào gỗ gây nên một tiếng động chói tai. Roran thúc chân vào sườn Hỏa Tuyết làm nó lồng lên, hí vang, chồm hai chân trước lên trời. Một chiếc móng sắt của nó đập vào ngực tên lính, xé nát chiếc áo trấn thủ màu đỏ của hắn. Hỏa Tuyết vừa hạ chân xuống, Roran liền vung búa lên, chặt nát cổ họng tên lính.
Để mặc tên lính nằm thoi thóp trên mặt đất, Roran thúc Hỏa Tuyết chạy về phía cỗ xe kế tiếp trong đoàn xe, nơi Ulhart đang một mình đấu lại ba tên lính. Mỗi xe được bốn con bò kéo, và khi Hỏa Tuyết chạy qua chiếc xe Roran vừa chiếm được, con bò dẫn đầu hất đầu lên, chóp sừng trái của nó đâm vào chân phải Roran. Roran thở hổn hển. Anh cảm thấy như vừa bị ai đó đặt một cái bàn ủi nóng đỏ lên ống quyển. Anh nhìn xuống và thấy một mảnh ủng rách ra đang lủng lẳng cùng với một mẩu da và cơ.
Thét lên một tiếng xông trận, Roran chạy đến tên lính gần nhất trong số ba tên đang đấu với Ulhart và hạ hắn chỉ với một nhát búa. Tên kế tiếp thoát được cú đánh của Roran và xoay ngựa chạy trốn.
"Chặn hắn lại!" Ulhart hét lên, nhưng Roran đã đang đuổi theo hắn rồi.
Tên lính chạy trốn thúc ngựa mạnh đến mức con vật đổ máu, nhưng dù hắn đã cố gắng tuyệt vọng đến mức tàn nhẫn, con chiến mã của hắn vẫn không thể vượt nổi Hỏa Tuyết. Roran nằm rạp xuống cổ Hỏa Tuyết khi nó phi như bay trên mặt đất với tốc độ phi thường. Nhận thấy chạy trốn là không thể, tên lính ghìm cương, xoay ngựa lại và chém Roran bằng một thanh kiếm lưỡi cong. Roran nâng búa lên và suýt nữa đã không đỡ được lưỡi kiếm sắc như dao lam. Anh lập tức trả đũa bằng một cú đánh móc phía trên đầu nhưng hắn ta đỡ được và lại chém vào tay chân Roran thêm hai lần nữa. Roran thầm chửi thề trong đầu. Rõ ràng tên lính kia dùng kiếm giỏi hơn anh; nếu anh không thẳng nổi trong vài giây tới, anh sẽ bị giết.
Tên lính hẳn đã cảm thấy lợi thế của mình, hắn tấn công dồn dập hơn, buộc Hỏa Tuyết phải lùi lại. Ba lần Roran đã chắc rằng tên lính sẽ làm anh bị thương, nhưng rồi cuối cùng lưỡi kiếm của hắn bị chệch hướng và trượt khỏi Roran như bị tác động bởi một lực vô hình. Lúc đó, Roran cảm thấy rất biết ơn sự bảo trợ của Eragon.
Không còn biết trông cậy vào gì khác nữa, Roran đành phải viện đến yếu tố bất ngờ: anh thò đầu và cổ ra ngoài tấm khiên và la lên: "Bah!" như thể đang dọa người nào đó trong một hành lang tối tăm. Tên lính chùn bước, và ngay lúc đó, Roran nhoài người tới trước, đập búa vào đầu gối trái hắn ta. Mặt hắn trắng bệch ra vì đau. Trước khi hắn kịp hồi phục lại, Roran đánh mạnh vào thắt lưng hắn ta và tên lính thét lên, cột sống hắn cong vòng. Roran
kết thúc sự đau đớn của hắn bằng một cú đập vào đầu.
Roran ngồi xuống, thở hổn hển một lúc, sau đó anh kéo cương Hỏa Tuyết và thúc nó chạy nước kiệu về lại đoàn xe. Mắt đảo quanh bắt lấy từng chuyển động nhỏ nhất, Roran thầm đánh giá kết quả trận chiến. Bọn lính chết gần hết, cả những người đánh xe cũng vậy. Carn đứng cạnh cỗ xe dẫn đầu, đối diện với một người mặc áo choàng, cả hai hoàn toàn bất động, ngoại trừ vài cơn co giật nhỏ, dấu hiệu duy nhất của cuộc chiến vô hình của họ. Khi Roran còn đang quan sát, đối thủ của Carn bỗng ngã vật ra, nằm bất động trên đất.
Ở khoảng giữa đoàn xe, năm tên lính dũng cảm đã thả lũ bò ra và kéo mấy cỗ xe lại tạo thành một hình tam giác, bẫy Martland Redbeard và mười chiến binh Varden khác. Bốn tên lính thọc giáo vào các cỗ xe, trong khi tên thứ năm bắn cung vào các chiến binh Varden, buộc họ phải rút về nấp sau cỗ xe gần nhất. Tay cung thủ đã làm thương khá nhiều chiến binh Varden, vài người ngã khỏi ngựa, những người còn lại cố thủ trên yên, tìm chỗ nấp.
Roran nhíu mày nghĩ ngợi. Họ không thể nấn ná quá lâu trên một trong những trục đường chính của Đế quốc, trong khi bọn lính lại đang giết dần từng người lính đang ẩn nấp. Thời gian đang chống lại họ.
Bọn lính quay mặt về hướng tây, phía các chiến binh Varden tấn công. Ngoài Roran ra, không chiến binh Varden nào đi về phía kia của đoàn xe. Do đó, bọn lính không hề ngờ rằng chúng bị anh phục kích từ phía đông.
Một kế hoạch nảy ra trong đầu Roran. Trong bất cứ tình huống nào khác, anh cũng sẽ gạt nó sang một bên ngay vì nó quá lố bịch và phi thực tế, nhưng cũng chính vì vậy mà anh chọn nó, vì hiện giờ đó là cách duy nhất để giải quyết tình hình. Anh không màng đến việc bản thân gặp nguy hiểm, anh đã gạt nỗi sợ chết sang một bên khi họ bắt đầu nhiệm vụ.
Roran thúc Hỏa Tuyết phi nước đại. Anh đặt tay trái lên trước yên, chân đặt sát phía ngoài bàn đạp ngựa, sẵn sàng hành động. Khi Hỏa Tuyết cách tam giác xe khoảng 50 feet, anh chống tay, nâng người lên, đặt hẳn chân lên yên, thu mình lấy đà ngay trên lưng Hỏa Tuyết. Anh phải tập trung hết mức và vận dụng hết sự khéo léo để giữ thăng bằng. Như Roran mong đợi, Hỏa Tuyết giảm tốc độ và chuyển hướng sang bên khi đám xe bắt đầu hiện ra lù lù.
Roran thả dần dây cương khi Hỏa Tuyết rẽ, rồi anh nhảy khỏi lưng ngựa, phóng thẳng lên chiếc xe ngựa đang xoay về phía đông. Bao tử của anh quặn lên. Anh bắt gặp ánh mắt của một cung thủ đang ngước lên, mắt hắn ta tròn, tròng trắng phân rõ, rồi anh lao thẳng vào hắn, và cả hai cùng ngã xuống. Roran đè lên tên lính, cơ thể hắn làm đệm cho anh. Roran quỳ dậy trên hai gối, nâng khiên lên và đập mạnh vào khe hở giữa chiếc nón sắt và cái áo trấn thủ của tên lính, làm hắn gãy cổ. Rồi anh đứng hẳn dậy.
Bốn tên lính còn lại phản ứng khá chậm. Tên bên trái Roran mắc sai lầm, hắn cố đâm giáo vào giữa tam giác xe nhưng quá vội vàng nên làm cho ngọn giáo kẹt giữa hông một chiếc xe và bánh trước của một chiếc khác. Roran lao tới tấn công hắn. Tên lính cố rút lui, nhưng mấy chiếc xe chặn đường hắn. Vung búa lên, anh chặt vào ngay dưới cằm hắn.
Tên lính thứ hai khôn hơn. Hắn bỏ giáo và rút gươm từ thắt lưng ra nhưng chỉ mới được nửa chừng thì đã bị Roran đánh vỡ ngực.
Tên lính thứ ba và thứ tư thì đã sẵn sàng đối đầu với Roran. Chúng kéo về phía anh, gươm tuốt trần, gầm gừ. Roran định bước tránh chúng, nhưng cái chân bị thương phản bội anh, anh vấp và ngã quỵ gối. Tên lính gần nhất chém thẳng xuống. Roran giơ khiên chặn cú đánh, rồi trườn tới và nghiền nát chân của hắn bằng búa. Tên lính buột ra một tiếng rủa, ngã ra đất. Roran lập tức đập nát mặt hắn, sau đó nhảy lên lưng hắn, và nhận ra rằng tên lính cuối cùng đang ở ngay sau lưng mình.
Roran cứng người, tay chân dang rộng.
Tên lính đứng trước anh, kiếm giương lên, mũi kiếm sáng loáng cách họng Roran có một inch. Vậy là xong, Roran nghĩ.
Nhưng rồi một cánh tay khỏe mạnh vòng quanh cổ tên lính, kéo giật hắn về phía sau, tên lính bật ra một tiếng nấc nghẹn khi một lưỡi kiếm nhú ra từ ngực hắn cùng với một tia máu. Tên lính ngã xuống như một đống thịt, và ngay chỗ hắn vừa đứng là Martland Redbeard. Bá tước thở gấp, râu và ngực ông toàn máu khô.
Martland cắm gươm xuống đất, tựa vào chuôi kiếm và xem xét cảnh tàn sát trong lòng tam giác xe. Ông gật đầu : "Ta biết là cậu làm được mà."
*************************
Roran ngồi cuối cỗ xe, cắn lưỡi trong khi Carn cắt nốt chiếc ủng của anh ra. Cố gắng phớt lờ cơn đau kinh khủng ở chân, Roran liếc nhìn bọn kền kền đang đảo quanh trên đầu và tập trung vào những kỉ niệm về mái nhà ở thung lũng Palancar.
Anh khẽ làu bàu khi Carn chọc sâu vào vết cắt. "Xin lỗi," Carn nói. "Tôi phải kiểm tra vết thương."
Roran không trả lời, tiếp tục nhìn chằm chằm vào bọn kền kền. Một phút sau, Carn lẩm bẩm một tràng cổ ngữ, và vài giây sau, cơn đau ở chân Roran dịu hẳn lại. Nhìn xuống, Roran thấy chân mình đã lành lại.
Nỗ lực chữa thương cho Roran và hai người khác khiến Carn tái mặt và run lẩy bẩy. Tay pháp sư ngồi sụp xuống, vòng tay ôm lấy bụng, trông như sắp nôn mửa tới nơi.
"Anh không sao chứ?" Roran hỏi.
Carn khẽ nhún vai. "Tôi cần một lúc để hồi phục… Con bò đã làm xước xương chân anh. Tôi đã chữa vết xước, nhưng tôi không đủ sức để chữa toàn bộ vết thương cho anh. Tôi đã khâu sơ lại da và cơ bắp của anh, nên anh sẽ không bị chảy máu hay quá đau đớn. Tuy nhiên, phần cơ đó chỉ có thể đỡ nổi trọng lượng của chính anh, không hơn, cho đến khi nó tự lành hẳn."
"Phải mất bao lâu?" "Một hoặc hai tuần."
Roran xỏ chân vào phần còn lại của chiếc ủng. "Eragon đã niệm thần chú bảo vệ tôi khỏi bị thương. Mấy câu thần chú đó đã nhiều lần cứu mạng tôi hôm nay. Nhưng sao chúng không bảo vệ tôi khỏi sừng của con bò?"
"Tôi không biết, Roran à," Carn nói, thở dài. "Không ai có thể lường trước được hết mọi chuyện. Đó là một trong những lý do khiến cho phép thuật trở nên nguy hiểm. Nếu anh bỏ sót một khía cạnh của một câu thần chú, nó sẽ làm anh yếu đi hoặc tệ hơn nữa, nó sẽ gây ra những điều tệ hại mà anh không mong muốn. Chuyện đó xảy ra ngay cả với những pháp sư cừ khôi nhất. Hẳn là đã có một lỗ hổng trong câu thần chú của em anh – một từ ngữ bị đặt nhầm chỗ, hoặc một câu không rõ nghĩa – và nó đã để cho con bò húc anh."
Thấy thoải mái hơn, Roran khập khiễng đi về phía chiếc xe đầu đoàn, đánh giá kết quả trận đánh. Năm chiến binh Varden bị thương, kể cả anh, và hai người nữa chết: một người Roran ít khi gặp, còn người kia là Ferth, người mà anh thường hay trò chuyện. Còn bọn lính và người đánh xe thì không ai sống sót.
Roran dừng lại bên tên lính đầu tiên trong hai tên anh đã giết và xem xét cái xác. Miệng anh đắng nghét, còn ruột anh thì quặn lại vì kinh sợ. Giờ đây, mình đã giết người… Mình cũng chẳng biết bao nhiêu người nữa. Anh nhận ra rằng trong cơn điên cuồng trong trận Cánh Đồng Cháy, anh đã không thể đếm nổi số người mình giết. Việc anh đã giết nhiều người đến nỗi không nhớ hết làm anh bối rối. Liệu mình có phải giết cả một rừng người để đòi lại những gì Đế quốc đã cướp của mình không? Một ý nghĩ nữa xuất hiện, làm anh càng mất bình tĩnh hơn: Và nếu có, thì làm cách nào mình có thể trở lại thung lũng Palancar để sống một cách bình yên khi tâm hồn mình đã vấy bẩn bởi máu của hàng trăm người?
Nhắm mắt lại, Roran thả lỏng cơ bắp, cố gắng bình tĩnh lại. Mình giết chóc vì tình yêu. Mình giết người vì tình yêu dành cho Katrina, cho Eragon, cho dân làng Carvahall, cho Varden, và cho mảnh đất này. Vì tình yêu, mình sẽ bơi vào biển máu, dù nó có hủy hoại mình đi nữa.
"Chưa bao giờ thấy chuyện nào như vậy, Cây-búa-dũng-mãnh ạ," Ulhart nói. Roran mở mắt ra và thấy người chiến binh tóc hoa râm đang đứng trước mặt mình, tay nắm cương Hỏa Tuyết. "Chưa từng có ai điên khùng đến mức thực hiện một kế hoạch như vậy, nhảy lên những cỗ xe, chưa có ai còn sống mà nghe chuyện này, tuyệt đối chưa. Làm tốt lắm! Nhưng hãy cẩn thận. Ngươi không thể cứ đi lòng vòng, nhảy khỏi ngựa rồi giết một lúc năm tên mà vẫn còn mong được thấy mùa hè sau, đúng không? Hãy cẩn thận hơn nếu ngươi có đầu óc."
"Tôi sẽ ghi nhớ điều đó," Roran nói và cầm lấy cương Hỏa Tuyết.
Vài phút sau khi Roran hạ tên lính cuối cùng, những chiến binh không bị thương đã đến từng cỗ xe trong đoàn, mở tung những kiện hàng, và báo cáo lại cho Martland, người ghi chép lại những gì họ tìm thấy để Nasuada xem xét và có thể đoán ra phần nào kế hoạch của Galbatorix. Roran xem họ kiểm tra mấy cỗ xe cuối cùng, chúng chứa toàn bột mì và quân phục. Khi mọi việc đã xong, họ cắt cổ mấy con bò khiến máu đổ đầy đường. Giết lũ bò khiến Roran khó chịu, nhưng anh hiểu tầm quan trọng của việc không được để cho Đế quốc có chúng, và anh sẵn sàng làm điều đó nếu được bảo. Đúng ra họ nên đưa chúng về với Varden, nhưng chúng quá chậm và sẽ trở nên vướng víu. Ngựa của bọn lính thì có thể theo kịp khi họ chạy ra khỏi lãnh thổ kẻ thù, nên họ bắt lại càng nhiều càng tốt và cột chúng sau ngựa của mình.
Sau đó, một người rút từ trong túi yên ngựa của mình ra một cây đuốc tẩm nhựa thông, và đốt nó lên bằng đá lửa. Chạy tới lui giữa đoàn xe, anh ta dí ngọn đuốc vào từng cỗ xe cho đến khi nó bắt lửa, rồi ném ngọn đuốc vào cỗ xe cuối cùng.
"Đi thôi!" Martland nói to.
Chân Roran run lên khi anh nhảy lên Hỏa Tuyết. Anh thúc con chiến mã đến kế bên Carn khi những người sống sót tụ lại thành hai hàng phía sau Martland. Lũ ngựa khịt mũi và gõ móng xuống đất, nôn nóng đi xa khỏi đám cháy.
Martland phi nước kiệu nhanh đi trước, mọi người theo sau, để lại một dãy những cỗ xe cháy rừng rực, như một chuỗi hạt lấp lánh giữa con đường cô độc.
Tiếng reo hò vang lên từ đám đông.
Chương 29: RỪNG ĐÁ
Eragon đang ngồi trên một khán đài gỗ mà người lùn đã xây men theo đường chân lũy ở mặt ngoài Hang Bregan. Pháo đài nằm trên một bờ núi tròn của ngọn Thardûr, cao hơn một dặm bên trên thung lũng đặc sương mù, và từ trên đó có thể nhìn được nhiều dặm theo cả hai hướng, hoặc cho đến khi những đỉnh núi che khuất tầm nhìn. Giống như Tronjheim và những thành phố người lùn khác mà Eragon đã viếng thăm, Hang Bregan hoàn toàn được dựng lên bằng đá mỏ – trong trường hợp này, một loại đá hoa cương màu hung đỏ khoác lên vẻ ấm áp cho những căn phòng và hành lang bên trong. Cái hang là một công trình dày, vững chắc mọc cao năm tầng lên đến một tháp chuông mở, có đỉnh là một khối thủy tinh to ngang hai người lùn và được giữ bởi bốn gọng đá hoa cương kết nối với nhau tạo thành một chỏm đá nhọn. Khối thủy tinh, theo như Orik nói với Eragon, là một mẫu lớn hơn của những ngọn đèn không lửa của người lùn, và trong những dịp quan trọng hoặc khẩn cấp, có thể dùng nó để soi sáng toàn bộ thung lũng bằng ánh sáng màu vàng. Những người lùn gọi nó là Az Sindriznarrvel, hay Viên ngọc Sindri. Rất nhiều ngôi nhà phụ tụ tập quanh sườn cái hang, là nơi cư trú của những người phục vụ và chiến binh của Dûrgrimst Ingeitum, cùng với những công trình khác, như chuồng ngựa, xưởng rèn, và một nhà thờ dựng lên dành cho Morgothal, vị thần lửa của người lùn và là thần hộ mệnh của các thợ rèn. Bên dưới những bức tường cao, nhẵn nhụi của Hang Bregan là hàng tá những trang trại rải rác đó đây trong những khoảng rừng trống, những cuộn khói lững lờ trôi bên trên những ngôi nhà đá.
Và còn nhiều điều khác nữa, Orik đều đã chỉ và giải thích cho Eragon sau khi ba đứa trẻ lùn hộ tống nó vào đến sân trong của Hang Bregan, la hét “Argetlam!” với bất cứ ai trong tầm nghe. Orik đã đón mừng Eragon như một
người anh em, rồi đưa nó đến nhà tắm và, khi nó đã sạch sẽ, ông lo liệu cho nó một cái áo choàng màu tía sẫm, với một vòng xuyến vàng để đeo vào lông mày.
Sau đó, Orik đã làm Eragon ngạc nhiên khi giới thiệu nó với Hvedra, một nữ người lùn có đôi mắt sáng, khuôn mặt tròn với bộ tóc dài, và hãnh diện tuyên bố rằng họ vừa mới làm đám cưới hai ngày trước. Trong khi Eragon bày tỏ sự ngạc nhiên và chúc mừng, Orik đứng đổi chân liên tục trước khi đáp lại, “Tôi đã rất đau lòng vì cậu không có ở đây để dự lễ, Eragon ạ. Tôi đã nhờ một pháp sư liên lạc với Nasuada, và tôi hỏi cô ta liệu có thể chuyển lời mời của tôi đến cậu và Saphira không, nhưng cô ta từ chối nói lại với cậu; cô ta sợ lời mời có thể khiến cậu xao nhãng nhiệm vụ sắp tới. Tôi không thể trách cô ta, nhưng tôi ước gì cuộc chiến này cho phép cậu dự đám cưới của chúng tôi, và chúng tôi dự đám cưới anh họ cậu, vì tất cả chúng ta giờ đều đã là họ hàng, theo luật pháp nếu không phải theo huyết thống.”
Bằng giọng nặng nề, Hevdra nói, “Xin hãy coi tôi là họ hàng của cậu, thưa Khắc-tinh-của-Tà-thần. Miễn là khả năng của tôi cho phép, cậu sẽ luôn được đối đãi như người nhà ở Hang Bregan, và cậu có thể thỉnh cầu sự che chở của chúng tôi bất cứ khi nào cậu cần, cho dù kẻ săn lùng cậu là Galbatorix đi nữa.”
Eragon cúi đầu, biết ơn vì đề nghị giúp đỡ của bà. “Bà thật tử tế.” Rồi nó hỏi, “Nếu bà không phiền vì sự tò mò của tôi, tại sao bà và Orik lại chọn làm đám cưới vào thời điểm này?”
“Chúng tôi đã dự định sẽ thành thân mùa xuân này, nhưng…”
“Nhưng,” Orik tiếp lời với vẻ cộc cằn, “đám Urgals tấn công Farthen Dûr, rồi Vua Hrothgar phái tôi đi dạo mát với cậu ở Ellesméra. Khi tôi trở lại đây và các gia đình trong tộc đã chấp thuận tôi làm grimstborith mới, chúng tôi nghĩ đã đến lúc làm trọn lời hứa hôn của chúng tôi và trở thành vợ chồng. Có khi chẳng ai trong chúng tôi sống được đến hết năm, vậy thì lần lữa mà làm gì?”
“Vậy là ông đã thực sự trở thành tộc trưởng,” Eragon nói.
“Đúng. Chọn ra người lãnh đạo mới cho Dûrgrimst Ingeitum là một vụ gây nhiều tranh cãi – chúng tôi gặp phải nhiều khó khăn trong hơn một tuần – nhưng đến cuối cùng, hầu hết các gia tộc đều tán thành rằng tôi nên tiếp bước Vua Hrothgar mà kế vị ngài vì tôi là người thừa tự duy nhất mang tên ngài.”
Lúc này Eragon đang ngồi cạnh Orik và Hvedra, ăn ngấu nghiến bánh mì và thịt cừu mà những người lùn đã mang tới và quan sát cuộc thi đấu diễn ra trước các khán đài. Đã là thông lệ, Orik nói, nếu một gia tộc người lùn có vàng thì họ sẽ tổ chức các cuộc chơi để giúp vui cho khách dự đám cưới. Gia tộc của Vua Horthgar rất giàu có, các cuộc chơi hiện giờ đều đã kéo dài được ba ngày và đã được lên lịch để tiếp tục thêm bốn ngày nữa. Cuộc chơi gồm nhiều nội dung: đấu vật, bắn cung, đấu kiếm, đọ sức, và nội dung đang diễn ra, là Ghastgar.
Từ hai đầu đối diện của một sân cỏ, hai người lùn trên lưng hai con Feldûnost trắng đang tiến về phía nhau. Hai con dê núi có sừng nhảy băng qua bãi cỏ, mỗi con bật xa hơn hai mươi thước. Người lùn ở bên phải có một cái mộc nhỏ cột bên tay trái nhưng không có vũ khí. Còn người lùn bên trái không có khiên, nhưng trong tay phải, ông ta giữ một ngọn giáo trong tư thế sẵn sàng để ném.
Eragon nín thở khi khoảng cách giữa hai con Feldûnost thu hẹp. Khi chúng còn cách nhau không tới chín thước, người lùn có cây giáo vung tay trong không trung và phóng ngọn giáo vào đối thủ. Người lùn kia không hề lấy khiên che chắn mà vươn tay ra và, với một sự khéo léo đáng kinh ngạc, chộp lấy cán giáo. Ông ta vung nó lên quá đầu. Đám đông tụ tập quanh trường đấu hò reo vang dội, cả Eragon cũng góp vào, vỗ tay nhiệt liệt.
“Quả đó khéo thật!” Orik kêu lên. Ông cười và nốc cạn vại rượu mật ong của mình, bộ giáp khoác ngoài bóng loáng của ông lấp lánh trong ánh sáng chiều tối. Ông đội một mũ sắt có gắn vàng, bạc, hồng ngọc, và trên ngón tay ông là năm chiếc nhẫn thiệt lớn. Trên hông ông là cây rìu vẫn luôn luôn hiện hữu. Hvedra còn được tô điểm lộng lẫy hơn, với những mảnh vải được thêu thùa trên bộ áo váy xa hoa của mình, những dây ngọc trai và vàng xoắn xuýt quanh cổ, và trong mái tóc bà là một chiếc lược ngà gắn một viên lục bảo to như ngón cái của Eragon.
Một hàng người lùn đứng và thổi một bộ tù và chạm trổ, âm thanh lanh lảnh vang vọng trong dãy núi. Rồi một
người lùn to như một thùng rượu bước tới trước và, bằng tiếng Người lùn, tuyên bố người chiến thắng trong cuộc thi cuối cùng, cũng như đọc tên cặp đấu tiếp theo sẽ tranh tài trong môn Ghastgar.
Khi người điều khiển buổi lễ nói xong, Eragon cúi xuống và hỏi, “Bà có đi cùng chúng tôi đến Farthen Dûr không, Hvedra?”
Bà ta lắc đầu và cười rạng rỡ. “Tôi không thể. Tôi phải ở lại đây và lo công việc của Ingeitum trong lúc Orik đi vắng, như vậy lúc quay lại anh ấy sẽ không phải thấy chiến binh của mình chết đói còn vàng thì bị tiêu sạch.”
Tủm tỉm cười, Orik đưa cái vại của mình ra cho một người phục vụ cách đó vài thước. Khi người lùn vội vã đi tới và rót thêm rượu vào vại từ một cái bình, Orik nói với Eragon với một vẻ hãnh diện rõ rệt, “Hvedra không nói khoác đâu. Cô ấy không chỉ là vợ tôi, cô ấy là… Chà, các cậu không có từ này. Cô ấy là grimstcarvloss của Dûrgrimst Ingeitum. Grimstcarvloss nghĩa là… ‘người giữ nhà,’ ‘người quản lý nhà.’ Nhiệm vụ của cô ấy là đảm bảo rằng các gia đình trong tộc trả mức thuế đã thỏa thuận cho Hang Bregan, rằng các đàn thú của chúng tôi được đưa đến đúng cánh đồng và đúng thời điểm, kho thức ăn và ngũ cốc của chúng tôi không vơi đi quá mức, phụ nữ Ingeitum dệt đủ vải, chiến binh của chúng tôi được trang bị đầy đủ, thợ rèn luôn luôn có quặng để luyện thành sắt, và nói chung, đảm bảo rằng bộ tộc của chúng ta được trông nom tốt và sẽ thịnh vượng và phát đạt. Chúng tôi có một câu nói: một grimstcarvloss tốt có thể tạo dựng cả một bộ tộc –”
“Và một grimstcarvloss tồi có thể hủy diệt cả một bộ tộc,” Hvedra nói.
Orik cười và siết tay bà. “Và Hvedra là người giỏi nhất trong các grimstcarlossn. Đấy không phải là một danh hiệu thừa kế. Cậu phải chứng minh cậu xứng đáng với nhiệm vụ nếu cậu muốn giữ nó. Cũng hiếm khi vợ của một grimstborith lại là một grimstcarvloss. Tôi thật may mắn nếu xét theo mặt này.” Cúi đầu, ông ta và Hvedra cọ mũi vào nhau. Eragon liếc đi chỗ khác, cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Ngả đầu ra, Orik làm một hơi rượu mật ong, rồi nói, “Có rất nhiều grimstcarvlossn nổi tiếng trong lịch sử chúng tôi. Người ta thường nói là đám tộc trưởng chúng tôi chỉ giỏi tuyên chiến với nhau và các grimstcarvlossn lại thích chúng tôi cứ đi mà cãi vã nhau để khỏi có thời gian can thiệp vào công việc của bộ tộc.”
“Nào nào, Skilfz Delva,” Hvedra quở. “Anh biết điều đó không đúng mà. Hay ít nhất là không đúng đối với chúng ta.”
“Ừm,” Orik nói, và chạm trán mình vào trán Hvedra. Họ cọ mũi với nhau lần nữa.
Eragon lại chú ý đến đám đông bên dưới khi họ bùng ra la ó và huýt sáo điên cuồng. Nó thấy một người lùn tham gia trong cuộc thi Ghastgar đã mất chiến ý và, vào phút cuối, ông ta giật con Feldûnost của mình sang một bên để rồi cố gắng chạy trốn khỏi đối phương. Người lùn có cây giáo truy đuổi liền hai vòng quanh trường đấu. Khi họ đã đủ gần nhau, ông ta đứng lên trên hai bàn đạp và phóng cây giáo ra, đâm trúng vào sau vai trái của ông lùn nhát gan. Người lùn đó hú lên, rơi khỏi lưng chiến mã và nằm nghiêng sang bên, ghì chặt lấy lưỡi giáo và cái cán đang găm vào thịt. Một người chữa trị nhào tới chỗ ông ta. Sau một lát, mọi người đều quay lưng lại quang cảnh đó.
Môi trên Orik cong lên phẫn nộ. “Ha! Gia đình hắn sẽ tốn nhiều năm mới tẩy sạch được vết nhơ hổ nhục của đứa con trai. Tôi rất tiếc vì cậu phải chứng kiến hành động đáng khinh này, Eragon ạ.”
“Nhìn ai đó tự làm xấu mặt mình chẳng bao giờ là thú vị.”
Ba người họ ngồi yên lặng suốt hai cuộc đấu tiếp theo, rồi Orik làm Eragon giật mình khi nắm lấy vai nó và hỏi, “Cậu có muốn thấy một khu rừng bằng đá không, Eragon?”
“Một thứ như thế không tồn tại, trừ khi là chạm khắc.”
Orik lắc đầu, mắt lấp láy. “Không phải chạm khắc, và nó có tồn tại. Vậy tôi hỏi lại, cậu có muốn thấy một khu rừng bằng đá không?”
“Nếu ông không giỡn… có, tôi muốn.”
“A, tôi mừng là cậu chấp thuận. Tôi không giỡn, và tôi hứa với cậu là ngày mai cậu và tôi sẽ tản bộ giữa rừng cây bằng đá hoa cương. Đó là một trong những kỳ quan của rặng núi Beor. Mọi vị khách của Dûrgrimst Ingeitum đều nên có dịp đến thăm nơi đó.”
☻ ☻ ☻
Sáng hôm sau, Eragon ngồi dậy trên cái giường nhỏ quá khổ trong căn phòng đá trần thấp, cùng những đồ đạc có kích cỡ chỉ bằng nửa bình thường. Nó rửa mặt trong một chậu nước lạnh, và, trái lệ thường, nó nới rộng tầm ý thức về phía Saphira. Nó chỉ cảm nhận được tâm tưởng của những người lùn cùng những con thú bên trong và xung quanh cái hang. Nản chí, Eragon cúi ra trước, nắm lấy vành cái chậu, kiệt quệ vì cảm giác bị cách ly. Nó giữ nguyên tư thế đó, không thể cử động hay suy nghĩ, cho đến khi tầm nhìn của nó hóa thành đỏ thẫm với những đốm sáng nhấp nháy trôi nổi trước mắt. Hổn hển, nó thở ra và lại hít vào thật sâu.
Mình nhớ ả suốt hành trình từ Helgrind, nó nghĩ, nhưng ít nhất mình biết là mình đang trở lại với ả nhanh nhất có thể. Còn giờ đây mình đang rời xa khỏi ả, và mình không biết khi nào mới lại được đoàn tụ.
Giũ mình, nó mặc quần áo rồi tìm đường xuyên qua những hành lang xoắn ốc của Hang Bregan, cúi đầu với những người lùn mà nó đi ngang, và họ chào nó bằng cách lặp lại “Argelam!” một cách hồ hởi.
Nó thấy Orik và mười hai người lùn khác ở sân trong của cái hang, đang đóng yên cho một hàng ngựa nhỏ, hơi thở của chúng sinh ra những cụm khói trắng trong không khí lạnh. Eragon thấy mình như một ông khổng lồ khi những người đàn ông thấp lùn vạm vỡ di chuyển quanh nó.
Orik đón chào nó. “Chúng tôi có một con lừa trong chuồng ngựa, nếu cậu muốn cưỡi.” “Không, tôi sẽ đi bộ, nếu các ông không thấy vấn đề gì.”
Orik nhún vai. “Tùy ý cậu.”
Khi họ đã sẵn sàng khởi hành, Hvedra bước xuống những bậc thang rộng bằng đá dẫn từ cổng vào đến đại sảnh của Hang Bregan, váy của bà ta lê dài phía sau, và đưa cho Orik một cái tù và bằng ngà phủ vàng kim bao quanh hai đầu. Bà nói, “Cái này của cha em khi ông đi cùng Grimstborith Aldhrim. Em đưa nó cho anh để anh có thể nhớ đến em trong những ngày sắp tới.” Bà nói nhiều điều nữa bằng tiếng Người lùn, nhỏ nhẹ đến mức Eragon không thể nghe thấy, rồi bà ta và Orik chạm trán vào nhau. Ngồi thẳng lại trên yên, Orik đưa tù và lên môi và thổi. Một âm thanh trầm và mạnh mẽ vang lên, âm lượng tăng dần cho đến khi không khí bên trong khoảng sân dường như rung động như một chiếc dây thừng bị gió đưa đẩy. Một đôi quạ đen bay ra từ ngọn tháp bên trên, kêu vang. Tiếng tù và làm máu Eragon rộn lên. Nó cựa quậy, hăm hở muốn rời đi.
Nâng cái tù và lên quá đầu và với một cái nhìn cuối cùng dành cho Hvedra, Orik thúc con ngựa tiến tới, đi nước kiệu ra khỏi cổng chính của Hang Bregan, rồi ngoặt sang hướng đông, về phía đầu thung lũng. Eragon và mười hai người lùn kia theo sát phía sau.
Trong ba giờ, họ đi theo một lối mòn kéo dài ngang qua sườn núi Thardûr, trèo lên cao hơn bao giờ hết bên trên lòng thung lũng. Những người lùn cố điều khiển những con ngựa nhanh nhất có thể mà không làm chúng bị đau, nhưng tốc độ của chúng vẫn là rất nhỏ so với Eragon nếu nó được chạy thoải mái. Dù phát nản, Eragon vẫn không phàn nàn gì, vì nó nhận ra ngoài thần tiên và Kull, nó không thể tránh được việc phải đi chậm lại với tất cả các sinh vật khác.
Nó rùng mình và kéo cái áo khoác vào sát hơn. Mặt trời vẫn chưa xuất hiện trên rặng Beor, và một cái lạnh ẩm ướt lan tỏa khắp thung lũng, cho dù chỉ còn vài giờ nữa là đến giữa trưa.
Rồi họ lên đến một dải đá hoa cương bằng phẳng rộng hơn ba trăm thước, viền bên phải tiếp giáp với một vách nghiêng của những cái cột đá thiên tạo hình bát giác. Màn sương mù lay động che khuất đầu kia của dải đá.
Orik đưa một tay lên nói, “Nhìn đi, Az Knurldrâthn đó.”
Eragon cau mày. Chăm chú hết sức, nhưng nó không nhìn ra cái gì đáng chú ý ở nơi cằn cỗi đó. “Tôi không thấy rừng đá nào cả.”
Trèo xuống ngựa, Orik đưa dây cương cho một người lính đằng sau và nói, “Đi bộ với tôi nếu cậu không phiền, Eragon.”
Cùng nhau họ bước về phía đám sương mù xoáy cuộn, Eragon thu ngắn bước chân cho ngang với Orik. Sương mù lướt qua mặt Eragon, mát lạnh và ẩm ướt. Hơi nước trở nên dày đặc đến mức che khuất toàn bộ phần thung lũng còn lại, bao bọc chúng trong một khung cảnh màu xám buồn tẻ, ở đó mọi chỗ đều y hệt nhau chẳng có gì phân biệt. Không e dè, Orik bước tới với dáng đi tự tin. Eragon, tuy vậy, cảm thấy mất phương hướng và hơi lảo đảo, và nó đi với một tay đưa ra trước mặt, đề phòng trường hợp húc phải bất cứ thứ gì ẩn nấp sau làn sương mù.
Orik dừng lại ở rìa một vết nứt mảnh làm hư hại bề mặt đá hoa cương mà họ đang đứng ở trên và nói, “Giờ cậu thấy gì?”
Nheo mắt, Eragon đảo nhìn tới lui, nhưng sương mù vẫn có vẻ đơn điệu như trước. Nó mở miệng định nói nhưng rồi để ý thấy một điểm hơi khác biệt trong màn sương về phía bên phải, một khuôn mẫu mờ nhạt của ánh sáng và bóng tối vẫn giữ nguyên dạng ngay cả khi sương mù trôi qua. Nó chợt nhận ra những vùng khác nữa cũng tĩnh tại: những mảng tương phản lạ thường và trừu tượng, không tạo thành thứ gì có thể nhận ra được cả.
“Tôi không…,” nó bắt đầu nói khi một cơn gió nhẹ làm lay động tóc nó. Dưới sự khích lệ nhẹ nhàng của làn gió, sương mù mỏng đi và những kết cấu rời rạc của bóng tối tan ra tạo thành thân của những cái cây lớn màu tro với những cành nhánh trần trụi và nứt vỡ. Hàng tá những cái cây như thế vây bọc nó và Orik, những bộ xương nhợt nhạt của một khu rừng cổ xưa. Eragon ấn lòng bàn tay lên một thân cây. Vỏ cây lạnh và cứng như đá cuội. Những mảng địa y xanh xao bám lấy bề mặt cái cây. Eragon thấy gai gai phía sau gáy. Dù nó không cho là mình mê tín quá mức, nhưng màn sương ma quái và thứ ánh sáng chập chờn kỳ dị và bề ngoài của chính những cái cây – dữ dằn, xúi quẩy và huyền bí – kích phát một tia sợ hãi trong nó.
Nó liếm môi và hỏi, “Làm sao lại thành ra thế này?”
Orik nhún vai. “Vài người cho rằng Gûntera đã đặt chúng ở đây khi người sáng tạo ra Alagaësia từ cõi hư không. Một số khác lại cho là Helzvog đã tạo ra chúng, vì đá là nguyên tố ưa thích của ngài, và chẳng lẽ vị thần của đá lại không có những cái cây bằng đá trong vườn của mình? Vẫn có những người khác nói không phải, rằng những cái cây này đã từng giống như bao cây cối khác, nhưng một thảm họa ghê gớm từ xa xưa đã chôn vùi chúng vào lòng đất, và trải qua thời gian, gỗ biến thành đất, và đất biến thành đá.”
“Lẽ nào lại như thế?”
“Chỉ có chúa mới biết chắc. Còn ai khác ngoài họ có thể hy vọng hiểu được những điều tại sao hay thế nào của vạn vật?” Orik dời chỗ. “Tổ tiên của chúng tôi đã tìm ra những cái cây đầu tiên trong khi đang khai thác đá hoa cương ở đây, hơn ngàn năm trước rồi. Hvalmar Lackhand, sau này trở thành grimstborith của Dûrgrimst Ingeitum, đã ngừng việc khai thác và bảo những thợ xây của mình đục những cái cây ra khỏi đá bao xung quanh. Khi họ đã tách ra được gần năm chục cây, Hvalmar nhận ra có thể có hàng trăm, hoặc hàng ngàn những cái cây đá bị chôn vùi trong sườn Núi Thardûr, cho nên ông ta ra lệnh cho người của mình ngừng công việc lại. Nơi này, tuy vậy, đã thu hút trí tưởng tượng của chủng tộc chúng tôi và kể từ đó, knurlan từ mọi tộc đã tới đây và lao động để tách thêm nhiều cây khác ra khỏi lớp đá hoa cương. Thậm chí có những knurlan đã cống hiến cả đời cho công tác này. Việc gửi mấy đứa con cháu quậy phá xuống đây đục ra một hay hai cái cây dưới sự giám sát của một thợ cả cũng đã trở thành truyền thống rồi.”
“Nghe tẻ nhạt quá.”
“Việc đó cho chúng thời gian để ăn năn về lề thói của mình.” Dùng một tay, Orik vuốt ve bộ râu bện của mình.
“Chính tôi đã phải tiêu vài tháng ở đây hồi tôi còn là một thằng cứng đầu cứng cổ ở tuổi bốn mươi ba.” “Thế ông có ăn năn về lề thói của mình không?”
“Eta. Không. Nó quá là… tẻ nhạt. Sau tất cả những tuần đó, tôi chỉ lôi ra được một cái cành từ phần đá hoa cương, cho nên tôi bỏ trốn và tình cờ gặp một nhóm Vrenshrrgn –”
“Những người lùn của tộc Vrenshrrgn?”
“Đúng, knurlagn của tộc Vreshrrgn, Sói Chiến, Sói Chiến tranh, hay bất cứ từ gì cậu có thể dùng trong ngôn ngữ này. Tôi tình cờ gặp họ, rồi say sưa bia rượu, và khi họ đi săn Nagran, tôi quyết định mình cũng nên giết một con lợn rừng và mang đến cho Vua Hrothgar để làm nguôi cơn giận của ngài đối với tôi. Đó không phải điều khôn ngoan nhất tôi đã làm. Kể cả những chiến binh lão luyện nhất cũng ngại săn Nagran, mà tôi vẫn còn giống thiếu niên hơn là đàn ông. Khi đã thấu hiểu, tôi nguyền rủa sự ngu ngốc của bản thân, nhưng tôi đã thề là tôi sẽ làm, nên tôi không còn lựa chọn nào khác hơn là thực hiện lời thề.”
Khi Orik ngừng, Eragon hỏi, “Chuyện gì đã xảy ra?”
“À, tôi giết một con Nagra, với giúp đỡ từ Vrenshrrgn, nhưng con lợn rừng đã húc vào vai tôi và tung tôi lên cành một cây gần đó. Nhóm Vrenshrrgn đã phải vác cả hai, con Nagra và tôi, về lại Hang Bregan. Nhà vua hài lòng vì con lợn rừng, và tôi… tôi, cho dù được những người trị thương giỏi nhất chăm sóc, vẫn phải mất nguyên tháng tiếp theo nằm trên giường, và Vua Hrothgar nói như thế là đủ để trừng phạt tôi vì tội trái lệnh ngài.”
Eragon quan sát ông lùn một lát. “Ông rất nhớ ngài.”
Orik đứng yên một thoáng, cằm tựa lên bộ ngực chắc nịch. Nâng cây búa của mình lên, ông đập cái cán vào mặt đá hoa cương, tạo ra một tiếng cách sắc nét vang vọng giữa rừng cây. “Đã gần hai thế kỷ kể từ khi dûrgrimstvren cuối cùng – cuộc chiến thị tộc cuối cùng – tàn phá đất nước chúng tôi, Eragon à. Nhưng trước bộ râu đen của Morgothal, chúng ta đang phải đối mặt với một cuộc chiến mới.”
“Ngay lúc này ư?” Eragon kêu lên, thất kinh. “Tệ đến thế thật sao?”
Orik cau có. “Tệ hơn rồi. Tình trạng căng thẳng giữa các bộ tộc đang mạnh hơn lúc nào hết trong ký ức của bất cứ ai. Cái chết của Vua Hrothgar và sự xâm lấn Đế quốc của Nasuada đã làm khuấy động sự phẫn nộ, làm trầm trọng hơn những đối nghịch cũ, và càng thúc đẩy mạnh những kẻ vẫn tin rằng chia sẻ số mệnh với Varden là điên rồ.”
“Làm sao họ lại tin như thế khi mà Galbatorix đã tấn công Tronjheim bằng đám Urgals?”
“Bởi rằng,” Orik nói, “họ đã tin là không thể đánh bại được Galbatorix, và những vụ tranh cãi của họ gây ảnh hưởng nhiều đến người của chúng tôi. Thành thật với tôi nào, Eragon, nếu Galbatorix đương đầu với cậu và Saphira ngay lúc này, hai vị có thể thắng được hắn không?”
Eragon nghẹn họng. “Không.”
“Tôi nghĩ là không. Những người phản đối Varden đã mù quáng trước sự đe dọa của Galbatorix. Họ nói rằng nếu chúng tôi từ chối che chở cho Varden, nếu chúng tôi không chấp nhận cậu và Saphira vào Tronjheim, thì Galbatorix đã không có lý do gì để gây chiến với chúng tôi. Họ nói rằng nếu chúng tôi cứ lo cho bản thân và cứ ẩn trốn trong những hang động và đường hầm, chúng tôi sẽ không phải sợ Galbatorix nữa. Họ không nhận ra rằng cơn khát quyền lực của Galbatorix là không đáy và rằng hắn sẽ không ngừng lại cho đến khi nào toàn thể Alagaësia nằm dưới chân hắn.” Orik lắc đầu, cơ bắp trên cẳng tay ông cuộn lên và rắn lại khi ông nắm chặt cây rìu. “Tôi sẽ không cho phép chủng tộc tôi co rúm trong hang như những con thỏ đế cho đến khi con sói bên ngoài đào đường vào và xơi tái tất cả. Chúng ta phải tiếp tục tranh đấu với hy vọng rằng bằng cách nào đó chúng ta tìm ra được một cách để giết Galbatorix. Và tôi sẽ không để cho đất nước bị tan rã vì chiến tranh thị tộc. Với hoàn cảnh như hiện giờ, một dûrgrimstvren khác sẽ hủy diệt nền văn minh của chúng ta và có lẽ sẽ nhấn chìm Varden luôn.” Hàm rắn lại, Orik quay sang Eragon. “Vì sự tốt đẹp cho người của chúng ta, tôi dự định sẽ giành lấy ngôi
vua. Dûrgrimstn Gedthrall, Ledwonnû, và Nagra đã cam kết sẽ ủng hộ tôi. Tuy nhiên có quá nhiều người đứng giữa tôi và vương miện; sẽ không dễ gì gom đủ phiếu để trở thành vua. Tôi cần phải biết, Eragon à, cậu sẽ ủng hộ tôi trong chuyện này chứ?”
Khoanh tay lại, Eragon bước từ cây này đến cây kế tiếp rồi lại quay lại. “Nếu tôi làm vậy, sự ủng hộ của tôi có thể sẽ làm các tộc khác chống lại ông. Không chỉ bởi ông sẽ phải yêu cầu mọi người trở thành đồng minh với Varden, mà ông còn phải yêu cầu họ chấp nhận một Kỵ sĩ Rồng như một thành viên trong số họ, họ chưa bao giờ làm điều này trước đây và tôi không tin bây giờ họ lại muốn làm thế.”
“Đúng, điều đó có thể khiến một số chống lại tôi,” Orik nói, “nhưng cũng có thể giúp tôi thu được phiếu bầu của số khác. Điều đó cứ để cho tôi phân xử. Tất cả những gì tôi muốn biết chỉ là, cậu sẽ ủng hộ tôi chứ? …Eragon, sao cậu do dự?”
Eragon nhìn chăm chăm một cái mấu rễ cây nhô ra từ mặt đá hoa cương dưới chân nó, tránh ánh mắt Orik. “Ông lo lắng về những gì tốt đẹp cho người của ông, đúng là phải như vậy. Nhưng mối lo của tôi rộng hơn thế; chúng chứa đựng những gì tốt đẹp cho cả Varden và thần tiên và bất cứ ai chống lại Galbatorix. Nếu… nếu ông không chắc giành được vương miện, và có một tộc trưởng khác có khả năng, và người đó không có ác cảm với Varden

“Không tộc trưởng nào có thiện cảm với Varden hơn tôi được nữa!”
“Tôi không chất vấn tình bằng hữu của ông,” Eragon phản kháng. “Nhưng nếu những gì tôi nói xảy ra và vì những gì tốt đẹp cho toàn phần còn lại của Alagaësia, chẳng lẽ tôi không nên ủng hộ người lùn nào có cơ hội thành công lớn nhất sao?”
Bằng giọng trầm chết người, Orik nói, “Cậu đã thề lời huyết-thệ trước Tim của Đá, Eragon à. Xét theo mọi điều luật trong vương quốc, cậu là một tộc viên của Dûrgrimst Ingeitum, cho dù những kẻ khác có phản đối dữ dội đến đâu. Việc Vua Hrothgar nhận cậu vào tộc là chưa từng có tiền lệ trong toàn bộ sử sách, và điều đó không thể bị tháo bỏ trừ khi, với tư cách grimstborith, tôi khai trừ cậu khỏi tộc. Nếu cậu quay lưng lại tôi, Eragon à, cậu sẽ làm ô danh tôi trước toàn thể giống loài tôi và không ai có thể tin vào sự lãnh đạo của tôi được nữa. Hơn thế, cậu sẽ chứng tỏ cho những kẻ gièm pha cậu rằng chúng tôi không thể tin tưởng một Kỵ sĩ Rồng. Các tộc viên không phản bội lẫn nhau vì ngoại tộc, Eragon ạ. Sẽ không xong đâu, không xong, trừ khi cậu muốn tỉnh dậy trong đêm với một con dao găm cắm vào tim cậu.”
“Ông đang đe dọa tôi?” Eragon hỏi, cũng bằng giọng lặng lẽ tương tự.
Orik chửi thề và đập cái rìu vào đá hoa cương lần nữa. “Không! Tôi sẽ không bao giờ giơ tay chống lại cậu, Eragon! Cậu là nghĩa đệ của tôi, cậu là Kỵ sĩ duy nhất tự do ngoài vòng kiềm tỏa của Galbatorix, và quỷ tha ma bắt tôi nếu tôi không thấy quý mến cậu sau những chuyến ta đi cùng nhau. Nhưng kể cả tôi không làm hại cậu, như thế không có nghĩa là toàn thể tộc Ingeitum cũng sẽ nhẫn nại như thế. Tôi nói vậy không phải như một lời hăm dọa mà như một phát biểu chân thật. Cậu phải hiểu điều này, Eragon à. Nếu bộ tộc nghe được cậu ủng hộ tộc khác, chắc tôi sẽ không thể kiềm chế họ được đâu. Cho dù cậu là khách của chúng tôi và luật hiếu khách bảo vệ cậu, nhưng nếu cậu tuyên bố chống lại Ingeitum, cả tộc sẽ coi cậu như một kẻ phản bội, và tục lệ của chúng tôi sẽ không cho phép kẻ phản bội đứng trong hàng ngũ mình. Cậu hiểu tôi không, Eragon?”
“Ông trông đợi gì ở tôi?” Eragon hét lên. Nó vung tay ra và bước tới lui trước mặt Orik. “Tôi cũng đã thề với Nasuada, và đó là lệnh cô ta đưa ra cho tôi.”
“Và cậu cũng đã nguyện trung thành với Dûrgrimst Ingeitum!” Orik rống lên.
Eragon ngừng lại, nhìn chằm chằm ông lùn. “Ông sẽ buộc tôi đày đọa toàn bộ Alagaësia chỉ để ông có thể duy trì chỗ đứng của mình giữa các tộc?”
“Đừng lăng mạ tôi!”
“Vậy thì đừng yêu cầu điều không thể ở tôi! Tôi sẽ hậu thuẫn ông nếu ông có khả năng bước lên ngôi báu, còn
nếu không, thì tôi sẽ không. Ông lo lắng cho Dûrgrimst Ingeitum và cả chủng tộc của ông nói chung, trong khi trách nhiệm của tôi là lo lắng cho họ và cả toàn thể Alagaësia.” Eragon ngồi sụp xuống, tựa vào một thân cây lạnh lẽo. “Và tôi lại không thể làm mếch lòng ông và tộc của ông – ý tôi là, của chúng ta – cũng như cả vương quốc người lùn.”
Bằng giọng hòa nhã hơn, Orik nói, “Có một cách khác, Eragon ạ. Sẽ khó khăn hơn cho cậu, nhưng sẽ giải quyết được tình thế khó xử của cậu.”
“Sao? Giải pháp xuất sắc nào thế?”
Đẩy cái rìu vào đai lưng, Orik bước tới chỗ Eragon, nắm lấy cẳng tay nó, và ngước nhìn nó qua đôi lông mày rậm. “Hãy tin tưởng tôi đang làm điều đúng đắn, Eragon Khắc-tinh-của-Tà-thần. Hãy cho tôi lòng trung thành như là cậu thực sự được sinh ra trong Dûrgrimst Ingeitum. Những người dưới tôi không bao giờ dám liều tuyên bố chống lại chính tộc trưởng của mình để ủng hộ ngoại tộc. Nếu một grimstborith đánh nhầm tảng đá, đó sẽ là trách nhiệm của một mình ông ta, nhưng như thế không có nghĩa là tôi không thấy được những băn khoăn của cậu.” Ông nhìn xuống một lát, rồi nói, “Nếu tôi không thể làm vua, hãy tin rằng tôi không quá mù quáng vì quyền lực trước mắt đến nỗi không nhận ra được nỗ lực của mình đã thất bại. Nếu điều đó xảy ra – không phải tôi tin nó sẽ xảy ra – thì tôi sẽ tự nguyện ủng hộ cho một ứng viên khác, vì tôi cũng như cậu, không hề muốn thấy một grimstnzborith thù địch với Varden lên ngôi. Và nếu tôi phải giúp tiến cử một ai khác lên ngôi, thì địa vị và uy tín mà tôi giao cho tộc trưởng đó sẽ tự nhiên bao hàm cả của cậu, vì cậu thuộc Ingeitum. Cậu có tin tưởng tôi không, Eragon? Cậu sẽ chấp nhận tôi như grimstborith của cậu chứ, như mọi thần dân đã tuyên thệ của tôi?”
Eragon rên rỉ và tựa đầu vào cái cây thô ráp, ngước nhìn những cành cây vặn vẹo trắng như xương bị sương mù bao bọc. Tin tưởng. Trong tất cả mọi thứ, Orik đã yêu cầu ở nó thứ khó đưa ra nhất. Eragon thích Orik, nhưng tự đặt mình xuống dưới uy thế của ông lùn trong khi quá nhiều điều đang lâm nguy như vậy sẽ càng làm giảm tự do của nó, và nó rất miễn cưỡng với viễn cảnh đó. Và cùng với tự do của nó, nó cũng sẽ làm giảm phần trách nhiệm của nó đối với số mệnh của Alagaësia. Eragon cảm thấy như thể nó đang bị treo trên mép một vách đá và Orik đang cố thuyết phục nó rằng có một gờ đá ở dưới chỉ cách chân nó có một thước, nhưng Eragon không thể bắt mình buông tay được, vì sợ rằng mình sẽ ngã vào sự diệt vong.
Nó nói, “Tôi sẽ không làm một bầy tôi thiếu suy nghĩ cho ông sai bảo này nọ đâu. Nếu là vấn đề Dûrgrimst Ingeitum, tôi sẽ theo ý ông, nhưng trong mọi vấn đề khác, ông sẽ không thể tác động gì lên tôi đâu.”
Orik gật đầu, mặt nghiêm nghị. “Tôi không lo lắng về nhiệm vụ mà Nasuada giao cho cậu, cũng như cậu sẽ giết những ai trong khi đánh lại Đế quốc. Không, điều làm tôi mất ngủ, trong khi lẽ ra tôi phải ngáy như Arghen trong hang của mình, chính là tưởng tượng ra cậu cố gắng tác động lên việc bầu chọn của hội đồng thị tộc. Ý định của cậu là cao thượng, tôi biết, nhưng dù cao thượng hay không, cậu cũng không quen với chính trị của chúng tôi, cho dù Nasuada đã giảng giải cho cậu kỹ đến đâu. Đây là lãnh vực chuyên môn của tôi, Eragon ạ. Cứ để tôi kiểm soát theo cách mà tôi cho là thích đáng. Đó là điều mà Vua Hrothgar đã chuẩn bị cho tôi trong suốt cuộc đời tôi.”
Eragon thở dài, và với cảm giác đang bị rơi, nó nói, “Được rồi. Tôi sẽ làm theo cách mà ông cho là tốt nhất trong việc nối ngôi, Grimstborith Orik.”
Một nụ cười nở rộng trên mặt Orik. Ông siết chặt tay Eragon hơn, rồi buông ra và nói, “A, cảm ơn cậu, Eragon. Cậu không biết điều đó có ý nghĩa thế nào đối với tôi đâu. Cậu thật là tốt, rất tốt, và tôi sẽ không quên điều đó, cho dù tôi có sống đến hai trăm tuổi và râu mọc dài đến mức kéo lê trên đất.”
Phớt lờ chính mình, Eragon tủm tỉm cười. “Ừ, tôi hy vọng nó không mọc dài đến thế. Ông sẽ quàng chân vào đó liên tục mất!”
“Điều đó thì có lẽ,” Orik vừa nói vừa cười. “Với lại, tôi thì nghĩ là Hvedra sẽ cắt ngắn nó đi một khi nó dài đến đầu gối tôi. Cô ấy có lập trường rõ ràng về độ dài thích hợp của một bộ râu.”
₪ ₪ ₪
Orik dẫn đường khi hai người rời khỏi khu rừng đá, bước xuyên qua màn sương không màu xoáy cuộn giữa những thân cây bị vôi hóa. Họ nhập bọn với mười hai người lính của Orik, rồi bắt đầu đi xuống sườn núi Thardûr. Dưới lòng thung lũng, họ tiếp tục đi thẳng sang sườn phía bên kia, và tại đó những người lùn đưa Eragon đến một đường hầm được che giấu rất khéo léo dưới bề mặt đá, nó sẽ chẳng bao giờ tự mình tìm ra được lối vào.
Eragon có phần tiếc rẻ vì bỏ lại sau lưng ánh mặt trời nhợt nhạt và khí núi trong lành để đổi lấy bóng tối của đường hầm. Hành lang rộng hai thước rưỡi và cao gần hai thước – hơi thấp so với Eragon – và giống như những đường hầm khác của người lùn mà nó đã vào, đường hầm này thẳng như một mũi tên theo như nó có thể thấy. Nó ngoái lại nhìn qua vai vừa đúng lúc thấy ông lùn Farr đóng lại phiến đá hoa cương có bản lề, có chức năng như cánh cửa đường hầm, nhấn chìm cả đám vào bóng tối. Một lát sau, mười bốn quả cầu rực rỡ đủ màu xuất hiện khi những người lùn lấy những cái đèn lồng không lửa ra khỏi túi yên của họ. Orik trao một cái cho Eragon.
Rồi họ bắt đầu tiến về phía trước, bên dưới chân những ngọn núi, và móng ngựa làm vang vọng trong đường hầm những tiếng lách cách, nghe như những hồn ma giận dữ đang quát vào họ. Eragon nhăn nhó, biết rằng họ sẽ phải nghe những tiếng ầm ĩ này suốt cả chặng đường đến Farthen Dûr, vì đó là nơi mà đường hầm kết thúc, cách đó rất nhiều dặm. Nó khom hai vai và siết chặt quai túi và ước rằng nó đang ở cùng Saphira, bay bổng thật cao bên trên mặt đất.
Chương 30:
Roran ngồi xổm trên mặt đất ,nhìn chằm chằm qua tấm lưới đan bởi những cành liễu .
Gần 200 mét phía xa, 53 người lính & lái bò ngồi quanh 3 bếp lửa, ăn bữa tối của họ khi màn đêm vội vã buông xuống mặt đất. Những người giải quyết xong bữa tối, đang nghỉ ngơi bên bờ 1 con sông vô danh, rộng & fủ đầy cỏ. Mấy con bò đừng thành 1 hình nửa vòng tròn lởm chởm quanh mấy bếp lửa. Rất nhiều con bò tập tễnh ăn cỏ sau trại , thi thoảng lại rống lên với nhau . Gần 20 mét phía dưới dòng , 1 gò đất mềm nhô lên cao khỏi mặt đất, cản bước bất kì kẻ nào tấn công hay rút chạy khỏi cái góc chết đó.
“Họ đang nghĩ gì vậy?” Roran lấy làm lạ. Chỉ cần cẩn thận khi đang trong vùng địch ,dựng trại phòng thủ (trong khi họ đang trong lòng Đế quốc). Nghĩa là tìm 1 địa thế có thể bảo vệ phía sau. Nhưng dù vậy cũng fải cẩn thận chọn nơi nghỉ chân nào có thể rút lui khi bị mai phục. Như thế này, thiệt dễ như ăn kẹo cho Roran & những chiến binh khác dưới quyền của Martland ,lướt qua những bụi cây họ đang nấp & dồn những người lính của Đế chế vào ô đất hình chữ V tạo bởi dòng sông & mô đất, nơi họ có thể thong thả mà tiêu diệt từng người. Những người lính đã được huấn luyện lại có thể mắc lỗi rành rành như vậy khiến Roran bối rối. Có lẽ họ từ 1 thành phố, anh nghĩ Hoặc là ít kinh nghiệm, Roran cau mày. Vậy tại sao họ lại được giao nhiệm vụ cho 1 chiến dịch quan trọng như thế này?”.
“Anh có phát hiện ra cái bẫy nào ko?”, Roran hỏi. Anh không cần quay đầu lại cũng biết Carn ngay bên cạnh mình, cùng với Halmar & 2 người khác. Trừ 4 tay kiếm gia nhập đội của Martland thế chỗ những người đã hi sinh hoặc bị thương quá nặng trong trận đánh trước, Roran đã kề vai chiến đâu với tất cả mọi người trong đội.
Không muốn đơn độc, Roran tin tưởng họ bằng cả mạng sống của mình, khi anh biết sự tin tưởng của họ dành cho anh. Như thể có 1 sợi dây ràng buộc họ với nhau vượt qua tuổi tác, thân phận. Sau trận đánh đầu tiên, Roran cảm thấy bất ngờ khi anh ,cũng như bọn họ, có thể cảm thấy thân thiết với đồng đội như vậy.
“Không có gì để nói cả” Carn thì thầm “ Nhưng mà…”
“Họ có thể nghĩ ra những câu thần chú mà anh ko thể dò ra được , phải, phải. Nhưng có pháp sư nào đi với họ ko?”
“Ko chắc lắm, nhưng ko, tôi nghĩ vậy”
Roran vạt sang 1 bên đám lá liễu để nhìn rõ hơn cách bố trí đàn bò.”Tôi ko thích điều này”, anh lầm bầm “ 1 pháp sư hộ tống đoàn khác. Sao ko fải đoàn này?”
“ Họ ít người hơn anh tưởng”
“Mmh.” Roran gãi râu, vẫn lo lắng trước sự bất cần của đám lính. “Liệu họ có dụ ta tấn công? Họ không có vẻ sẵn sàng cho điều đó, nhưng lộ diện bây giờ cũng nguy hiểm đủ đường. Cái bẫy nào họ đang dành cho chúng ta? Không còn ai khác trong vòng 90 dặm quanh đây , Murtagh & Thorn thì đc nhìn thấy lần cuối đang bay về phương bắc từ Feinster. “Gửi tín hiệu đi”, Roran nói. “Nhưng bảo với Martland rằng tôi lo lắng về việc họ dựng trại như thế này. Có thể họ là những thằng khờ hoặc là họ có được sự bảo vệ vô hình bởi phép thuật hay những trò ma quỷ của tên vua. ”
Im lặng, và rồi “ Tôi đã nhắn. Martland có nói ông ấy cũng có cùng mối bận tâm như anh, nhưng trừphi anh muốn cong đuôi chạy về với Nasuada, còn không, chúng ta sẽ thử vận may của chính mình.”
Roran càu nhàu, quay về phía những người lính. Anh ra hiệu bằng cằm, rồi cùng với những người lính khác, bò nhanh tới nơi họ để ngựa lại.
Tới nơi, Roran leo lên lưng Hoả Tuyết.
“Họ! Đứng yên, chàng trai” anh thì thầm, vuốt ve Hoả tuyết khi con ngựa hất đầu lên. Trong ánh sáng mờ, bờm & lông Hoả tuyết lấp lánh ánh bạc. Không phải lần đầu, Roran ước con ngựa ít bị nhận ra hơn, màu hồng hoặc hạt dẻ chẳng hạn.
Lấy tấm khiên đc treo trên yên ngựa, Roran luồn tay qua dây đai & kéo chiếc búa ra khỏi thắt lưng. Roran nuốt khan, nắm chặt chiếc búa,1 sự căng thẳng quen thuộc chạy qua vai, .
Khi 5 người đã sẵn sàng, Carn giơ 1 ngón tay, mí mắt khép hờ, đôi môi khẽ giật giật như thể đang nói chuyện với chính mình. 1 con dế gáy gần đó.
Mí mắt Carn chợt mở ra. “Hãy nhớ, nhìn thẳng xuống đất cho đến khi các anh quen được với ánh sáng, và ngay cả khi đó, cũng đừng nhìn lên bầu trời.” Sau đó tay pháp sư bắt đầu niệm cổ ngữ , những từ ngữ khó hiểu đầy phép thuật.
Roran che người lại bằng chiếc khiên, ngồi lệch 1 bên trên yên ngựa khi 1 tia sáng trắng ,sáng như ánh mắt trời giữa trưa chiếu xuống khoảnh đất. Ánh sáng phát ra từ đâu đó phía trên căn lều & Roran phải cố ngăn mình tìm chính xác xuất phát điểm của nó .
Hét lớn, anh thúc vào sườn con Hoả tuyết & khom người lại khi con chiến mã lướt đi. Phía bên kia, Carn & những người lính khác hành động tương tự, vung vũ khí của họ lên. Cành cây đập mạnh vào đầu & vai của Roran, trước khi Hoả tuyết phóng khỏi bụi cây & phi nước đại hết tốc lực về phía doanh trại.
2 nhóm kị binh khác, 1 của Martland, 1 của Ulhart cũng lao ầm ầm về phía doanh trại,
Lính & lái bò thét lên báo động, nhắm mắt lại. Lảo đảo như người mù, chúng sờ soạng tìm vũ khí vừa cố xếp đội hình đẩy lùi cuộc tấn công.
Roran không cố gắng làm Hoả tuyết chậm lại. Thúc con ngựa nhanh hơn, Roran đứng hẳn lên , giữ chặt bằng tất cả sức mạnh khi Hoả tuyết nhảy qua khoảng trống hẹp giữa 2 con bò. Hàm răng của anh va vào nhau lập cập khi chạm đất. Hoả tuyết đá đất tơi vào 1 trong những ngọn lửa trại làm tàn lửa bắn tung toé.
Những người còn lại trong đội của Roran cũng nhảy qua những con bò. Họ sẽ chăm sóc những tên lính ở sau, Roran chỉ phải lo những tên phía trước. Hướng Hoả tuyết về phía 1 tên lính, Roran đập vỡ mũi tên lính bằng cán búa, máu đỏ bay vụt qua mặt anh. Roran kết liễu tên lính với 1 cú đập nữa vào đầu trước khi gạt thanh kiếm từ 1 tên khác. Bên phía kia, Martland,Ulhart & những người lính cũng họ cũng nhảy vào trại, tiếp đất trong tiếng lách cách của móng ngựa & tiếng kêu chói tai của áo giáp, vũ khí. 1 con ngựa rống lên & gục xuống khi 1 tên lính xiên nó bằng giáo.
Roran lại chặn thanh kiếm, đập gãy xương tay tên lính, buộc hắn fải buông kiếm . Ko dừng lại, Roran đập vào giữa chiếc áo trấn thủ đỏ của tên lính, khiến hắn gãy xương ức, vết thương đau đớn khiến hắn thở hổn hển, gục xuống.
Roran ngồi lại yên ngựa, tìm kiếm đối thủ tiếp theo. Bắp thịt của Roran rung lên với niềm hứng khởi điên rồ. Mọi thứ xung quanh anh rõ ràng & sắc xảo như được khắc trên kính. Roran cảm thấy mình ko thể bị thương, cảm thấy mình vô địch. Thời gian dường như bị kéo dãn & trôi 1 cách chậm chạp đến nỗi nghe tiếng bướm đêm đập cánh như thể nó đang bay qua hũ mật chứ ko fải ko khí.
1 đôi bàn tay kẹp chặt lưng áo giáp của Roran & kéo mạnh anh khỏi lưng Hoả tuyết, ném anh xuống nền đất cứng, hơi thở thoát ra hết khỏi lồng ngực Roran. Đôi mắt anh lập loè & tối sầm trong giây lát . Khi đủ sức nhìn lại, anh thấy tên lính đầu tiên anh tấn công đang ngồi trên ngực , bóp cổ mình. Tên lính che kín nguồn sáng Carn đã tạo ra trên bầu trời. 1 quầng sáng trắng bao quanh đầu & vai hắn, khuôn mặt hắn ngập trong bóng tối. Roran ko thể nhìn rõ khuôn mặt của hắn trừ những chiếc răng hở loé sáng.
Tên lính siết chặt những ngón tay của hắn quanh cổ Roran, khiến Roran phải thở hổn hển. Roran mò tìm cây búa đánh rơi nhưng nó ngoài tầm với. Gồng cứng cổ ngăn ko cho tên lính bóp nát sự sống của mình, anh móc con dao găm từ chiếc thắt lưng, đâm xuyên qua áo giáp, qua lớp áo trấn thủ & xuyên qua xương sườn bên trái.
Tên lính ko chút ngần ngại cũng chẳng nới tay .
1 tràng cười điên dại tuôn ra từ tên lính. Đầu óc quay cuồng, tim ngừng đập cùng nỗi ghê tởm khiến cho dạ dày Roran lạnh toát vì khiếp sợ. Anh nhớ lại những âm thanh anh đã nghe thấy khi nom Varden đánh nhau với những người ko biết đau đớn trên cánh đồng cỏ cạnh sông Jiet. Trong thoáng chốc, anh đã hiểu tại sao những tên lính lại chọn địa điểm cắm trại bất lợi như vậy. Chúng ko quan tâm có dính bẫy hay ko, khi chúng ta ko thể làm đau chúng.
Sao đỏ, sao vàng nhảy múa trong mắt Roran . Lảo đảo trong trạng thái vô thức, Roran rút mạnh con dao ra, đâm vào nách tên lính, xoắn mạnh . Máu nóng bắn ra nhưng tên lính dường như ko để ý. Vạn vật vỡ ra thành muôn vệt sáng khi tên lính lại đập đầu Roran xuống đất .1 lần . 2 lần. 3 lần. Roran cố gắng nâng hông lên, đẩy tên lính ra
nhưng ko thành. Mắt ko nhìn thấy gì nữa, tuyệt vọng , anh đâm vào nơi đoán là mặt tên lính & cảm thấy con dạo chạm vào 1 miếng thịt mềm. Roran rút dao về 1 cách yếu ớt & đâm lại về hướng đó, cảm thấy như đâm vào đầu 1 khúc xương.
Sức ép quanh cổ Roran tan biến.
Roran nằm trên đất, ngực nặng trịch, rồi lăn tròn, nôn mửa, cổ họng khô cháy, Vừa thở hổn hển vừa ho, Roran lảo đảo đứng lên , trông thấy tên lính nằm sõng soài bất động ngay bên cạnh, con dao găm nhô ra từ mũi hắn.
“Đánh vào đầu”, Roran hét lên,dù cổ họng khô cháy “Vào đầu !”.
Anh để con dao lại trên mũi tên lính, vớ cây búa trên nền đất bị giày xéo, tranh thủ nhặt 1 cây giáo bị bỏ rơi cùng với cái khiên. Nhảy qua tên lính, Roran chạy về phía Halmar, đang đứng đọ kiếm với 3 tên lính cùng 1 lúc. Trước khi mấy tên lính kịp nhận ra, Roran nện mạnh vào đầu 2 tên gần nhất, mũ sắt vỡ thành từng mảnh. Tên thứ 3 để lại cho Halmar, còn anh chạy đi kiếm tên lính đã bị anh đập vỡ mũi (???- Roran đánh ai đầu tiên vậy T.T ) & coi như đã chết. Roran trông thấy tên lính đang ngồi trên 1 bánh xe bò, phun ra từng cục máu khô & cố căng dây cung.
Roran xuyên thủng 1 mắt hắn bằng cây giáo. Những miếng thịt xám ngoét bám vào đầu mũi thương khi anh buông nó ra. ( T.T )
1 í nghĩ loé lên trong đầu Roran. Anh phóng ngọn giáo về phía 1 tên lính mặc áo trấn thủ đỏ bên kia đống lửa gần anh nhất – cây giáo xuyên qua người hắn - rồi đẩy nhẹ cán búa vào dưới thắt lưng, Roran căng cây cung của tên lính. Tựa lưng vào bánh xe, Roran bắt đầu bắn những tên lính lao ra từ khu trại, cô gắng kết liễu chúng với 1 mũi tên may mắn trúng mặt , cổ hay tim bằng ko cũng có thể làm chúng bị thương, giúp cho đồng đội của anh có thể hạ chúng 1 cách dễ dàng hơn. Nếu ko có gì khác thì Roran đoán rằng những tên lính sẽ chảy máu đến chết trước khi trận đánh kết thúc.
Sự tự tin trước khi bắt đầu trận đánh đã chuyển thành sự thất vọng. Quân Varden tán loạn, mất hết tinh thần, có người vẫn ngồi trên lưng ngựa, có người ko , và đa số đều đã phải đổ máu. Ít nhất 5 người lính mà Roran có thể chỉ ra, đã chết khi những tên lính họ nghĩ là đã giết được quay lại tấn công họ. Không thể nói bao nhiêu lính đã ngã xuống giữa cái mớ hỗn độn này nhưng Roran có thể nhìn ra Varden còn hơn 25 người hay đại loại vậy. Roran nhận ra “Chúng có thể xé chúng ta ra từng mảnh chỉ với 2 tay không trong khi chúng ta đang cố băm vằm chúng ra”. Đưa mắt tìm Hoả tuyết giữa đám hỗn loạn, Roran tìm thấy con bạch mã xa hơn phía dưới dòng sông, đang đứng cạnh 1 cây dương liễu, lỗ mũi mở to, 2 tai bịt tẹt đầu.
Với cây cung trong tay, Roran giết thêm 4 tên lính nữa & làm bị thương hơn 1 tên. Khi chỉ còn 2 mũi tên , Roran phát hiện ra Carn đang đứng bên kia khu trại, đấu tay bo với 1 tên lính bằng 1 góc lều bị cháy. Kéo dây cung cho đến khi mấy sợi lông vũ trên mũi tên chạm vào tai, Roran bắn vào ngực tên lính. Tên lính ngừng lại & Carn chặt đầu hắn. Roran vứt cây cung sang 1 bên, búa trong tay, chạy về phía Carn, la lớn “Anh ko thể giết bọn chúng bằng phép thuật sao?”
Trong 1 thoáng, Carn chỉ có thể thở hổn hển, rồi lắc đầu, trả lời “Câu thần chú nào tôi thốt ra cũng bị vô hiệu”. Ánh sáng từ chiếc lều cháy mạ vàng khuôn mặt anh ta.
Roran nguyển rủa. “ Đi cùng tôi” anh hét to, nâng chiếc khiên lên.
Vai kề vai, 2 người tiến về phía bọn lính gần nhất: 1 đám 8 tên lính đang bao vây 3 người của Varden. Vài fút sau, ánh vũ khí loé lên loang loáng, Roran nhận những vết thương bất ngờ, da thịt rách bươm. Bọn lính dai sức hơn người thường, chúng không bao giờ né khi bị tấn công & cũng chẳng mảy may gì ngay cả khi nhận những vết thương khủng khiếp nhất. Cố sức quá nhiều, Roran lại buồn nôn, 8 tên lính vừa ngã xuống , Roran cúi người, nôn lại. Anh quệt miệng lau đám mật sót lại.
1 trong 3 người lính họ định cứu đã chết, dao cắm vào cật, 2 người còn trụ lại được tiếp tục nhập bọn vs Roran & Carn, tiếp tục tấn công nhóm lính tiếp theo.
“ Dồn chúng về phía dòng sông”,Roran hét lớn ( Roran = Rocker ^^ ). Nước & bùn sẽ làm những tên lính khó cử động & có lẽ sẽ giúp Varden thắng thế hơn.
Cách đó ko xa, Martland sốc lại 1 đội 12 người lính Varden còn đang ngồi trên lưng ngựa, đang làm đúng những gì Roran đã nói: dồn bọn lính xuống dòng nước lấp lánh ánh sáng.
Bọn lính & mấy tên lái bò còn sống vẫn cố kháng cự. Chúng tống khiên vào mấy người lính bộ. Chúng thọc khiên vào ngựa. Nhưng dù chúng chống trả rất hung tợn Varden vẫn buộc chúng lùi từng bước 1 cho đến khi lũ người trong lớp áo trấn thủ đỏ đó đứng ngập quá gối dưới dòng nước chảy xiết, 1 nửa bị loá mắt bởi ánh sáng kì lạ chiếu vào.
“Dàn hàng”, Martland hô lớn, xuống ngựa, đứng dạng 2 chân trên bờ sông “Đừng để chúng lên bờ. ”
Roran hạ thấp nửa người, ấn mạnh gót chân xuống nền đất mềm cho đến khi thoải mái với tư thế của mình, chờ đợi tên lính to con, đang đứng trước anh vài feet trong dòng nước lạnh, tấn công. Gầm lên 1 tiếng, nước bắn tung toé khỏi vũng nước nông, hắn vung kiếm. Roran đưa khiên lên đỡ, nện trả 1 cú nhưng hắn lấy khiên chặn lại &
chém rách chân anh. Sau vài giây giao đấu, ko ai có thể làm bị thương kẻ kia. Bất ngờ, Roran đánh gãy cẳng tay trái tên lính, dồn hắn lùi lại vài bước. Tên lính chỉ cười, thốt ra những tiếng rầu rĩ, lạnh lẽo.
Roran lo sợ liệu anh & đồng đội có sống sót qua đêm nay. Chúng khó giết hơn cả loài rắn. Chúng ta có thể chém chúng tơi tả, chúng vẫn bổ tới trừ khi có đòn gì đó kết liễu chúng. Suy nghĩ của Roran bị cắt ngang khi tên lính lại lao vào anh, thanh kiếm hình chữ V của hắn lung linh như 1 lưỡi lửa dưới ánh sáng mờ .
Trận đấu bỗng trở thành 1 cơn ác mộng với Roran. Luồng sáng kì lạ trở thành tai hoạ khi ban cho dòng nước & lũ lính 1 diện mạo kì dị , tẩy trắng chúng, & đẩy những cái bóng của chúng thành những vệt dài, mỏng, sắc như dao cạo xuyên qua làn nước,trong khi khắp nơi xung quanh đó, bong tối dày đặc vẫn đang bao phủ. Hết lần này đến lần khác Roran đẩy lùi những tên lính lao lên giết anh, nện búa vào chúng cho đến khi không còn nhận ra hình người , nhưng chúng vẫn không chết. Sau mỗi cú đòn, từng giọt máu đen như mực phủ lên dòng sông, chảy theo dòng nước. Những tiếng loảng xoảng chết người đều đều tiếp diễn khiến cho Roran khó chịu & tê dại. Cho dù anh có cố gắng thế nào đi nữa, luôn luôn có lớp lính khác lao lên hết đâm rồi lại chém . Và những tiếng cười điên dại vẫn ko ngừng vang lên từ những kẻ biết mình đã chết, chỉ còn duy trì hình hài của sự sống khi Varden đang tàn phá cơ thể chúng.
Và rồi im lặng.
Roran vẫn nấp sau chiếc khiên, cây búa giơ lên, thở hổn hển, nhễ nhãi mồ hội & máu. 1 phút trôi qua, Roran dần nhận ra rằng ko còn ai đứng dưới nước trước anh nữa. Roran nhìn qua trái, qua phải 3 lần, không hiểu nổi sao những tên lính quỷ quái đó cuối cùng cũng chết. 1 cái xác trôi ngang qua anh giữa dòng nước lấp lánh.
Roran gầm lên 1 tiếng không rõ rãng, khi 1 bàn tay nắm chặt cánh tay phải của anh, xoay người lại, anh chỉ thấy Carn đang đứng bên cạnh. Người pháp sư nhợt nhạt, lấm tấm vết máu khô, nói” Chúng ta thắng rồi, Roran! Ê? Chúng ta đuổi được chúng rồi.”
Roran buông thõng 2 tay, ngả đầu ra phía sau, quá mệt để ngồi nghĩ. Anh cảm thấy….cảm thấy các giác quan sắc bén dị thường và mọi xúc cảm được nhồi sâu trong lòng. Anh hài lòng về điều đó, bằng ko, anh nghĩ mình sẽ phát điên.
“Tập trung lại & kiểm tra mấy cái xe bò!”, Martland la lớn. “ Càng nhanh chúng ta càng sớm ra khỏi cái nơi đáng nguyền rủa này! Carn, chăm sóc cho Welmar, tôi ko thích trông thấy vết rạch đó.”
Bằng 1 nỗ lực phi thường, Roran quay người lại & lê bước qua bờ sông, tiến lại chiếc xe gần nhất. Chớp chớp mắt khi giọt mồ hôi chảy qua lông mày, Roran nhận ra trong đội chỉ còn 9 người trụ lại . Anh dẹp mọi thứ ra khỏi đầu “Ko fải lúc để than khóc. ”
Khi Martland Redbeard bước ngang qua khu trại giờ chỉ còn là bãi xác chết, 1 tên lính Roran cho là đã chết bật dậy & chặt đứt tay phải bá tước. Bằng 1 động tác thuần thục duyên dáng, ông đá thanh kiếm văng khỏi tay tên lính, quỳ lên họng hắn, và dùng tay trái, rút dao ra khỏi thắt lưng đâm xuyên qua tai trái tên lính, giết chết hắn. Khuôn mặt ông ấy đỏ bừng đầy căng thẳng, Martland kẹp phần còn lại của cổ tay phải xuống dưới nách trái, xua những người đang chạy tới “ Để tôi yên!Không nặng lắm đâu. Đến mấy cỗ xe kia! Trừphi mấy thằng lười các anh nhanh lên còn ko chúng ta sẽ ở lại đây cho đến khi râu tôi bạc như tuyết. Nhanh lên!” Carn từ chối nhúc nhích , dù Martland quắc mắt, quát lớn “Xéo đi, hoặc là tôi sẽ quất roi lên người anh tội trái lệnh”.
Carn đỡ cánh tay vụng về của Martland “ Tôi có thể gắn nó lại nhưng có lẽ sẽ cần vài phút. ”
“Ah, đồ chết tiệt, tha cho ta” Martland la lên, rụt cánh tay lại, giấu vào trong áo trấn thủ. “Đừng làm ta cáu nữa, hãy cứu Welmar & Lindel nếu anh có thể. Hãy tính chuyện này sau khi chúng ta bỏ lại những con quái vật này vài dặm. ”
“Có thể quá muộn.” Carn nói.
“Đó là lệnh, thưa ngài pháp sư, ko phải lời yêu cầu.” Martland lớn tiếng.
Khi Carn lui xuống, Martland dùng 2 hàm răng thắt lại ống tay áo phía trên cánh tay phải trước khi kẹp lại dưới nách trái. Khuôn mặt vị bá tước lấm tấm mồ hôi “ Được rồi! Có đồ gìjấu sau mấy cỗ xe chết tiệt đó?”
“Dây thừng!” ai đó la to.
“ Rượu! ” (whiskey = whisley + whisky ?! T.T) Martland cằn nhằn. “Ulhart, ghi lại cho tôi.”
Roran júp những người khác xem xét mấy cái xe, thông báo cho Ulhart. Sau cùng, họ giết hết những con bò & đốt những cỗ xe như thường lệ. Mấy người lính bắt lại ngựa, leo lên chúng & buộc những người bị thương vào yên ngựa.
Khi mọi thứ đã sẵn sàng , Carn hướng về phía ngọn lửa sáng trên bầu trời, lẩm nhẩm 1 tràng cổ ngữ dài, lộn xộn. Màn đêm lại bao phủ thế giới. Liếc sang, Roran trông thấy khuôn mặt Carn rộn ràng khi nhìn ngắm những ngôi sao nhợt nhạt trước khi chìm vào bóng tối quen thuộc, anh trông thấy những con bướm đêm màu xám nhạt bay vô hướng trên bầu trời như linh hồn người đã chết.
Tim nặng trĩu, Roran đặt gót chân lên sườn Hoả tuyết, rời khỏi bãi chiến trường.
CHƯƠNG 31 : MÁU TRÊN ĐÁ
Nản chí, Eragon lao ra khỏi phòng hội nghị tròn được giấu sâu dưới trung tâm của Tronjheim. Cánh cửa bằng gỗ cây sồi đóng lại đằng sau nó với một tiếng vang ầm.
Eragon đứng chống tay lên hông ngay giữa hành lang vòng cung bên ngoài phòng họp và nhìn chằm chằm xuống sàn đá, nơi được khảm đá mã não và ngọc bích hình chữ nhật. Từ khi nó và Orik đến Tronjheim, cách đây ba ngày, thì những việc mà mười ba tộc trưởng của các bộ tộc người lùn đã làm không có gì khác ngoài việc tranh cãi về vấn đề mà Eragon nghĩ là không cần thiết, chẳng hạn như có nhiều bộ tộc đòi quyền lợi cho người bị thương của họ ngay giữa cuộc tranh cãi. Khi nghe những cuộc tranh luận tối nghĩa của các tộc trưởng đưa ra những quan điểm pháp lý của họ, Eragon cảm thấy như muốn la to lên rằng họ đang bị mù bởi cho rằng số phận bất hạnh của toàn Alagaësia là do chính sách cai trị của Galbatorix trừ khi họ đặt mối quan tâm nhỏ nhen ít kỷ của họ qua một bên và chọn người đứng đầu mà không trì hoãn nữa.
Vẫn đang chìm đắm trong suy nghĩ, Eragon chậm bước xuống hành lang, để bốn vệ sĩ theo sau nó - như họ đã làm dù cho nó có ở bất cứ đâu - cũng như trong tộc người lùn, nhiều người chào nó với nhiều cách dành cho "Bàn-tay-bạc". Người mà nó không mong muốn nhất là Íorûnn, Eragon nghĩ vậy. Một phụ nữ người lùn là tộc trưởng của Dûrgrimst Vrenshrrgn, một thị tộc hùng mạnh, hiếu chiến, và bà ta đã làm rõ, từ khi cuộc họp bắt đầu, rằng bà ta dự tính chiếm lấy ngai vàng cho riêng mình. Chỉ có một thị tộc khác, Urzhad, đã cởi mở thừa nhận họ theo phe bà ta, nhưng như những gì bà ta đã có dịp thể hiện trong cuộc họp giữa các tộc trưởng thì bà ta quá thông minh, xảo trá, và có thể giải quyết hầu hết các tình huống. Bà ta có thể là một nữ hoàng xuất sắc, Eragon thừa nhận, nhưng bà ta quá xảo quyệt, không thể biết được bà ta có hỗ trợ Varden hay không một khi bà ta lên ngôi. Nó tự thưởng cho mình một nụ cười nhăn nhó. Khi nói chuyện với Íorûnn, bà ta luôn cảnh giác nó. Người lùn coi bà ta là một biểu tượng sắc đẹp, và ngay cả nếu theo các tiêu chuẩn của con người, thì bà ta gây một ấn tượng rất mạnh. Bên cạnh đó, bà ta dường như làm mê hoặc Eragon khiến nó không thể không để ý. Trong tất cả các cuộc tranh luận, bà ta cứ luôn đưa ra lời ám chỉ về lịch sử và thần thoại của bộ tộc người lùn, điều mà Eragon không hiểu lắm nhưng dường như để Orik và các người lùn khác phân tâm không dừng lại được.
Thêm vào với Íorûnn, hai tộc trưởng khác đã nổi lên như là địch thủ của nhau cho ngôi vua. Gannel, tộc trưởng của Quan Dûrgrimst, và Nado, tộc trưởng của Dûrgrimst Knurlcarathn. Như người quản lý của các tôn giáo người lùn, các Quan có ảnh hưởng rất lớn giữa các thị tộc của họ, nhưng cho đến nay, Gannel đã đạt được sự hỗ trợ của hai thị tộc khác, Dûrgrimst Ragni Hefthyn và Dûrgrimst Ebardac – thị tộc chỉ chủ yếu dành riêng cho các học giả nghiên cứu. Ngược lại, Nado đã giả tạo một liên minh lớn hơn, bao gồm các thị tộc Feldûnost, Fanghur, và Az Sweldn rak Anhûin.
Ngược lại với Íorûnn dường như muốn cái ngai chỉ dành cho cái quyền lực mà bà ta có ý định đạt được sau đó, Gannel, vốn đã không có vẻ thù nghịch với Varden - mặc dù không phải là ông ta thân thiện với họ - Nado thì thẳng thắn và kịch liệt chống lại bất kỳ những dính dáng có sự hiện diện của Eragon, Nasuada, Đế Quốc, Galbatorix, Nữ Hoàng Islanzadí, hoặc, cho đến nay Eragon có thể nói, bất kỳ sinh vật nào bên ngoài Núi Beor. Knurlcarathn là thị tộc xây dựng và ở nam giới cũng như về nhu cầu vật chất, họ không có sự cân bằng, vì mỗi thị tộc khác đều phụ thuộc vào chuyên môn của họ cho việc đào hang hay xây dựng nơi ở, và thậm chí ngay cả Ingeitum cũng cần họ khai thác các mỏ quặng cho lò rèn của mình. Và nếu Nado giành được ngôi vua thì sẽ có biến động, Eragon biết rằng nhiều người trong số ít tộc trưởng sẽ chịu chia sẻ quan điểm của ông ta, sẽ nhảy lên và chiếm lấy ngôi của ông ta. Az Sweldn rak Anhûin, là một ví dụ điển hình như là Galbatorix và Forsworn, đã gần như xoá sổ trong thời gian của cuộc nổi dậy - đã công khai rằng sẽ lấy máu của kẻ địch là Eragon trong thời gian nó ghé thăm thành phố Tarnag và trong mỗi hành động của họ tại cuộc họp của các thị tộc, đã chứng tỏ lòng căm thù vẫn không nguôi đối với Eragon, Saphira, và mọi thứ cần làm với con rồng và người cưỡi chúng. Họ đã tỏ ra khó chịu khi để Eragon tham dự tại cuộc họp của các tộc trưởng, mặc dù nó đã được pháp luật của người lùn hoàn toàn cho phép, và được phép tham dự cuộc họp này, do đó không cần phải trì hoãn các nghi thức những sáu giờ.
Một trong những ngày này, Eragon nghĩ, mình sẽ phải tìm cách để tạo hoà bình với họ. Nếu không mình sẽ phải hoàn thành những gì Galbatorix gây ra. Mình từ chối tiếp tục sống trong sự sợ hãi về Az Sweldn rak Anhûin. Một lần nữa, như nó đã thường xuyên làm vậy trong quá khứ cách đây vài giờ, nó chờ hồi âm của Saphira, và khi không nhận được, một cảm giác đau nhói quen thuộc như đâm vào tim nó.
Liên minh giữa các thị tộc vững chắc đến đâu, tuy nhiên, đó là câu hỏi không chắc chắn. Orik, Íorûnn, Gannel cũng như Nado, tất cả đều không có đủ ủng hộ để thắng cuộc bình chọn người được bầu chọn lên ngôi, vì thế tất cả họ đều tích cực tham gia vào việc giữ lại lòng ủng hộ của các thị tộc, những người mà đã hứa sẽ giúp họ trong khi đó, họ lại đang đâm lén sau lưng kẻ địch. Mặc cho tầm quan trọng của vấn đề, Eragon cho rằng việc đó cực kỳ chán ngắt và bực bội.
Dựa trên những lời giải thích của Orik và theo như Eragon hiểu thì trước khi các tộc trưởng muốn đưa ra một điều lệ, họ phải thông qua bỏ phiếu, cho dù muốn hay không thì họ phải chuẩn bị sẵn sàng để chọn ra một vị vua hay nữ hoàng và việc bầu cử sơ bộ phải được bỏ vào ít nhất chín phiếu bằng chính năng lực của họ để được thông qua. Đến bây giờ, không một tộc trưởng nào, kể cả Orik, cảm thấy đủ an toàn ở vị trí của họ để đưa ra vấn đề vào đầu và tiếp tục đến cuối cuộc bầu cử. Đó là, như Orik đã nói, trong vài trường hợp, được biết như là kéo theo một khoảng thời gian dài bực bội.
Khi đã cân nhắc về tình trạng đó xong, Eragon đi thơ thẩn qua nhiều ngõ ngách dưới Tronjheim cho tới khi nó tìm lại được chính nó trong cái phòng khô và đầy bụi bặm, với năm cung vòm đen trên một mặt và một bức phù điêu được khắc với một con gấu cao hai mươi feet đang gầm gừ ở mặt còn lại. Con gấu có răng vàng và tròn, mắt được khảm màu hồng ngọc.
- Chúng ta đang ở đâu vậy, Kvîstor?
Eragon hỏi, nhìn qua những vệ sĩ. Tiếng nói của nó vang khắp phòng. Eragon có thể cảm thấy được tâm trí của nhiều người lùn với cấp độ trên họ, nhưng nó không biết làm sao để tiếp cận.
Người vệ sĩ dẫn đầu, một người lùn khá trẻ không hơn sáu mươi, bước lên.
- Các phòng này đã được dọn cách đây nhiều thiên niên kỷ bởi Tộc trưởng Korgan, khi Tronjheim đang xây dựng. Chúng tôi đã không sử dụng chúng nhiều từ đó, ngoại trừ khi toàn bộ tập hợp ở Farthen Dûr.
Eragon gật đầu:
- Có thể đưa tôi quay trở lên phía trên?
- Tất nhiên, thưa Bàn-Tay-Bạc.
Một vài phút đi bộ đưa họ lên một cầu thang rộng không sâu lắm, với kích cỡ bước chân của người lùn, lên khỏi mặt đất đến một hành lang nào đó nằm ở phía tây nam của thành Tronjheim. Từ đó, Kvîstor hướng dẫn Eragon vào hành lang phía nam khoảng chừng bốn dặm dài, chia Tronjheim dọc theo xung quanh điểm chính giữa.
Đó cũng là cái hành lang mà qua đó Eragon và Saphira đã lần đầu tiên bước vào Tronjheim cách đây vài tháng trước, và Eragon đi xuống, hướng về trung tâm của thành phố núi, với một cảm giác lạ của lòng hoài cổ. Nó cảm thấy như đã già đi nhiều năm tuổi.
Đại lộ số bốn mươi, một đám đông người lùn trong nhiều bộ tộc khác nhau. Hầu hết trong số họ nhận ra Eragon, nó chắc chắn thế, nhưng không ai chào nó, điều mà nó rất cảm ơn, vì điều đó cứu nó khỏi các nỗ lực phải trả lại nhiều hơn là các lời chào.
Eragon gần như hoá đá khi trông thấy một nhóm người của tộc Az Sweldn rak Anhûin băng qua hành lang. Một trong số họ quay lại nhìn nó, mặt của họ bị che khuất sau mạng che màu tím, cái mà họ luôn đeo khi đi ra ngoài. Người lùn đi cuối cùng trong đó phỉ nhổ ngay trước mặt Eragon trước khi đi nhập vào dòng người và ra khỏi hành lang cùng với anh em của hắn.
"Nếu Saphira ở đây, chúng sẽ không dám xấc láo như thế", Eragon nghĩ.
Nửa giờ sau, nó đến khúc cuối hành lang tráng lệ, và mặc dù nó đã đi nhiều lần trước đây nhưng một cảm giác của sự sợ hãi và thắc mắc bao trùm lấy nó như khi nó đi giữa các cột mã não đen có ngọn màu vàng đá zircon với kích thước gấp ba lần của một người. Nó đi vào phòng họp tròn ngay giữa Tronjheim.
Phòng họp rộng khoảng một ngàn feet, với một tầng khắc đá carnelian bóng loáng với một cái búa, bao quanh là mười hai biểu tượng, là gia huy của thị tộc Dûrgrimst Ingeitum và của vị vua người lùn đầu tiên, Korgan, người đã phát hiện ra Farthen Dûr trong khi đào mỏ vàng. Đối diện với Eragon và cũng như phía bên kia là ngõ ra vào của ba đại sảnh dẫn xuyên qua thành phố núi. Phòng hội nghị không có nóc nhưng dẫn lên phía trên cùng của Tronjheim, khoảng một dặm.Đó là nơi dành cho rồng khi Eragon và Saphira đã từng ở cho đến khi Arya làm vỡ ngôi sao Sapphire, và rồi bầu trời: một màu xanh sáng xa xăm có vẻ không thể tưởng tượng được, bao lấy miệng thành phố núi Farthen Dûr cao trên mười dặm, để che khuất Tronjheim khỏi tầm nhìn của thế giới bên ngoài.
Chỉ có một số lượng ánh sáng vừa đủ chiếu vào Tronjheim. Thành phố Chạng Vạng Vĩnh Cửu, các thần tiên gọi như vậy. Bởi chỉ một vài tia nắng mặt trời có thể lọt vô được thành-phố-núi, ngoại trừ một chút tia nắng chói loá mắt nửa giờ trước và sau buổi trưa khi nắng hè lên cao. Người lùn thắp sáng bằng nhiều các lồng đèn không có lửa. Hàng ngàn trong số đó soi sáng phòng hội nghị. Một cái lồng đèn treo ở ngoài trên từng cây cột của mái vòm cong mà mỗi tầng của thành-phố-núi đều có, và thậm chí nhiều đèn hơn được gắn vào nhiều mái vòm, tạo thành lối vào cho các phòng xa lạ, cũng như con đường của Vol Turin, Cầu Thang Vô Tận, cái mà xoắn quanh phòng hội nghị từ đỉnh tới đáy. Hiệu quả cực kỳ cách điệu lẫn đẹp mắt. Các lồng đèn có nhiều màu sắc khác nhau, làm cho sự xuất hiện của nó như là bên trong phòng hội nghị như được điểm thêm với nhiều viên đá quý rực rỡ.
Vẻ lộng lẫy của nó, tuy nhiên, lu mờ bên cạnh vẻ đẹp lộng lẫy của một viên đá quý thật sự, viên đá quý lớn nhất trong tất cả: Isidar Mithrim. Trên sàn nhà của phòng họp, các người lùn đã xây dựng một cái giàn giáo gỗ có đường kính khoảng sáu mươi mét, và phía bên trong của hàng rào gỗ sồi tươi, chúng là, từng mảnh quý giá kề nhau, ráp lại các mảnh vỡ của Khối Ngọc Sao Hoa với một cách cực kỳ cẩn thận và tinh vi . Các mảnh chưa tìm ra chỗ để ráp lại thì được lưu giữ trong các hộp đang mở với miếng lót bằng len phía trong, mỗi hộp được dán nhãn với một dòng chữ cổ khẳng khiu. Cái hộp được mở đầy ra ở mặt phía Tây của phòng họp rộng lớn. Có lẽ ba trăm người lùn ngồi quanh, chăm chú vào công việc của họ trong lúc họ tìm chỗ để gắn các mảnh vỡ phù hợp vào nhau để thành một khối. Nhóm khác hối hả chung quanh giàn giáo, giữ cho các mảnh đá quý trong vòng, như cũng như xây dựng thêm các cấu trúc.
Eragon quan sát chúng trong vài phút, rồi thả bộ qua khu lầu nơi mà Durza đã tàn phá khi hắn và lũ chiến binh Urgal của hắn xâm nhập vào Tronjheim từ đường hầm phía dưới. Dùng mũi giầy, Eragon đá cục đá phía trước. Không còn một vết tích hư hại mà Durza gây ra. Người lùn đã xoá sạch các vết tích còn lại của trận chiến Farthen Dûr, mặc dù Eragon hy vọng rằng họ sẽ để lại làm kỷ niệm, cho thế hệ sau không bao giờ quên là máu của nhiều người lùn và Varden đã đổ xuống trong quá trình đấu tranh chống lại Galbatorix.
Khi Eragon đi lại giàn giáo, nó gật đầu chào Skeg, người đang đứng trên nền đá nhìn Khối Ngọc Sao Hoa. Eragon đã gặp người lùn gầy, nhanh nhẹn này trước đây. Skeg là thành viên của Dûrgrimst Gedthrall, và đã được Vua Hrothgar tin tưởng giao cho nhiệm vụ phục hồi kho báu quý giá nhất của người lùn.
Skeg ra hiệu cho Eragon leo lên trên nền đá. Một khung cảnh đầy đá quý, hình chóp nhọn, lấp lánh, cạnh mỏng như giấy, bề mặt gợn sóng làm cho Eragon thấy giống như nó kéo chính nó lên trên tấm ván thô sơ. Phía trên của Khối Ngọc Sao Hoa nhắc nó nhớ đến băng trên sông Anora ở thung lũng Palancar vào cuối mùa đông, khi mà băng vừa tan vừa đông lại nhiều lần và rất nguy hiểm khi đi qua, có nhiều cú va mạnh và băng nhấp nhô qua lại khi nhiệt độ lên cao. Thay vì chỉ có màu xanh biển, trắng, hay là trong suốt thì những mảnh còn lại của Khối Ngọc Sao Hoa lại mềm, hồng hồng, nhìn được thông qua các vết nâu cam.
- Việc như thế rồi vậy? Eragon hỏi.
Skeg nhún vai và khua tay trong không khí như hai cánh bướm.
- Nó vẫn như thế, thưa Bàn Tay Bạc. Ngài không thể vội vàng để hoàn thành.
- Đối với tôi thì ông đang tiến hành nhanh tiến trình.
Với một ngón trỏ xương xẩu, Skeg giơ tay lên, chùi chùi cái mũi rộng và tẹt.
- Phần trên của Isidar Mithrim – Khối Ngọc Sao Hoa, những gì bây giờ ở phía dưới, Arya đã làm vỡ nó ra thành nhiều mảng lớn, nên dễ gắn lại với nhau. Phần dưới của Khối Ngọc Sao Hoa, tuy nhiên, những gì hiện ở phía trên ...
Skeg lắc đầu, nhăn mặt đau buồn.
- Do ảnh hưởng của vụ vỡ, tất cả các phần ngược lại với bề mặt của khối ngọc, bị đẩy ra do Arya và rồng Saphira, hướng xuống phía ngài và Tim Đen... nó đã vỡ hoa hồng phía trong thành từng miếng nhỏ hơn bao giờ hết. Và hoa hồng, Bàn-Tay-Bạc à, hoa hồng là biểu tượng của viên đá. Nó là phần phức tạp nhất, phần đẹp nhất của Khối Ngọc Sao Hoa. Và giờ nó nằm ở hầu hết các phần. Trừ khi chúng tôi có thể ráp lại hết, ở mọi nơi nó lẫn vào, chúng tôi có thể đưa viên đá cho các thợ kim hoàn và họ mài nhẵn thành vòng tròn cho mẹ của chúng tôi.
Các từ Skeg nói ra như nước tràn bờ. Ông ta la bằng ngôn ngữ người lùn vào người đang mang cái hộp qua hành lang, sau đó giật giật râu trắng của ông và hỏi:
- Ngài đã bao giờ nghe kể lại chưa, Bàn-Tay-Bạc, câu chuyện kể về Khối Ngọc Sao Hoa được khắc ra, trong thời đại của Herran?
Eragon ngập ngừng, nhớ lại bài học lịch sử ở Ellesméra.
- Tôi biết nó được khắc bởi Dûrok.
- Đúng thế. Skeg nói:
- Đó là Dûrok Ornthrond - Mắt Sáng, như ngài nói theo ngôn ngữ chúng tôi. Không phải chính ông ta là người phát hiện ra Khối Ngọc Sao Hoa, nhưng nó được ông ta phát hiện ra từ những hòn đá xung quanh, ông ta là người khắc ra nó, và cũng là người làm đẹp cho nó. Năm mươi năm, ông ta dùng hết thời gian để làm ra Ngôi Sao Hoa. Viên đá mê hoặc ông hơn bất cứ thứ gì khác. Mỗi đêm, ông ta lúi cúi ngồi nhìn Khối Ngọc Sao Hoa đến khi trời sắp sáng, như ông ta đã xác định rằng Khối Ngọc Sao Hoa không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn liên kết tâm hồn của tất cả những ai cầu nguyện với nó và nó sẽ cho người đó tìm được một chỗ trong bàn của các vị thần. Lòng tận tâm của ông ta là như vậy, trong ba mươi năm thứ hai của ông, khi bà vợ nói với ông ta rằng ông phải chia sẻ gánh nặng với người học việc hoặc bà ta sẽ rời khỏi nhà, Dûrok không nói lời nào nhưng xoay vai lại và típ tục làm cánh hoa như ông ta đang làm một năm trước. Dûrok típ tục làm Khối Ngọc Sao Hoa cho tới khi ông ta hài lòng với tất cả các đường thẳng và cong. Sau đó ông mặc một bộ đồ trang nhã, bước lại Khối Ngọc Sao Hoa và nói: "Gûntera, hãy bảo vệ tôi; tất cả đã xong", và rồi ngã chết trên sàn.
Skeg đập lên ngực mình, tạo ra một tiếng đập mạnh.
- Trái tim của ông ta đã ra, cho cái gì nữa mà ông ấy phải sống? ... Đó là những gì chúng tôi đang khôi phục lại, Bàn Tay Bạc: năm mươi bảy năm của việc không ngừng cố gắng bởi một trong những nghệ sĩ của tộc chúng tôi đã được biết. Trừ khi chúng tôi có thể đặt Khối Ngọc Sao Hoa trở lại chính xác ban đầu, chúng tôi sẽ phải hoàn thành những gì Dûrok đã làm, cho tất cả những ai chưa từng nhìn thấy Khối Ngọc Sao Hoa.
Nắm chặt bàn tay phải của mình, Skeg thình lình đập xuống đùi để nhấn mạnh từng từ của mình.
Eragon tựa lên lan can cao tới hông ở phía trước nó và theo dõi năm người lùn phía đối diện của viên đá đang treo thấp người lùn thứ sáu, người đang buộc chặt trong sợi dây, cho tới khi anh ta treo người từng tý một lên phía trên cạnh nhọn của viên đá vỡ Sapphire. Thò tay vào trong, người lùn đang treo lơ lửng tháo từng mảnh nhỏ của Khối Ngọc Sao Hoa từ cái ví da và túm lấy cái miếng vỡ với cái kiềm nhỏ, vừa đủ để đặt vào phía trong của khối ngọc.
– Nếu như lễ đăng quang được tổ chức sau hôm này ba ngày, ông có thể khôi phục Khối Ngọc Sao Hoa trước lúc đó không?
Eragon hỏi.
Skeg gõ gõ cái lan can với mười ngón tay của ông ta, tạo ra một nhịp điệu mà Eragon không thể nhận ra là điệu gì, ông lùn nói:
– Chúng tôi sẽ không vội vàng khôi phục Khối Ngọc Sao Hoa nếu như không phải con rồng của ngài đề nghị giúp đỡ. Việc hấp tấp vội vàng xa lạ với chúng tôi, Bàn-Tay-Bạc à. Nó không phải là bản chất của tộc chúng tôi, đó là của tộc người, vội vàng như vậy thì giống loài kiến khích động. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ làm hết mình để Khối Ngọc Sao Hoa sẵn sàng vào thời điểm lễ đăng quang. Nếu như ngài cần trong ba ngày kể từ bây giờ... cũng được, tôi không nên quá hy vọng về tiến trình chúng tôi đang làm. Nhưng nếu như được thì trong tuần sau, tôi nghĩ là chúng tôi sẽ hoàn tất.
Eragon cảm ơn Skeg vì dự đoán của ông ta, sau đó nó đi khỏi. Với những người bảo vệ theo sau nó, Eragon đi tới một trong những phòng ăn ở thành-phố-núi, một phòng dài, thấp với nhiều bàn đá sắp xếp theo hàng dài một bên, và nhiều người lùn đang bận về cái lò đá phía bên kia.
Ở đây Eragon ăn bánh mì, cá có thịt trắng mà người lùn bắt ở dưới hồ, nấm, và một số loại khoai nghiền nhừ mà nó đã ăn trước đây ở Tronjheim nhưng chưa biết nguồn gốc mà nó giờ mới biết. Trước khi nó bắt đầu ăn, thế nhưng, nó cẩn thận kiểm ra thức ăn coi có độc hay không, bằng cách sử dụng phép mà Oromis đã dạy nó.
Khi Eragon ăn nốt mẩu bánh mì cuối cùng với, uống một chút bia vào buổi sáng, Orik và khoảng mười chiến binh cùng bộ tộc đi vào phòng ăn. Các chiến binh ngồi tại bàn của họ, nơi mà họ có thể quan sát cả hai cổng ra vào, trong khi Orik tham gia với Eragon, đặt mình ngồi vào bàn phía đối diện. Anh ta đặt khuỷu tay lên bàn và để mặt lên tay.
Eragon thi triển một vài phép để ngăn ai đó nghe lén, rồi hỏi:
- Có phải chúng ta vừa trải qua một cuộc thất bại khác?
- Không, không có cuộc thất bại nào hết. Chỉ có những cuộc bàn cãi trong bực bội.
- Tôi đã nhận thấy.
-Và mọi người thì nhận thấy tâm trạng thất vọng của cậu. Orik nói.
-Cậu phải kiểm soát mình tốt hơn về sau, Eragon à. Để lộ ra điểm yếu cho đối thủ của cậu không có gì hơn là giúp cho họ. Tôi
Orik đột nhiên im lặng khi một người lùn bệ vệ đi lạch bạch và đặt dĩa đồ nóng hổi trước mặt anh ta.
Eragon cau mày nhìn góc bàn.
-Nhưng chẳng phải anh là ứng cử viên tốt nhất cho ngôi vua? Chúng ta có tiền thêm được bước nào với tất cả những chuyện tầm phào lê thê này không?
Orik giơ một ngón tay lên trong khi nhai cái miệng đầy bánh mì.
-Chúng ta đã đạt được rất nhiều. Đừng có ủ rũ thế! Sau khi cậu đi, Havard đã đồng ý giảm thuế đánh vào giá muối của Dûrgrimst Fanghur bán cho Ingeitum, đổi lại trong mùa hè, họ có thể vào đường hầm của chúng ta tới Nalsvrid-mérna, để họ có thể săn hươu đỏ tụ tập quanh hồ trong những tháng ấm áp của năm. Cậu nên thấy Nado nghiến răng thế nào khi Havard chấp nhận lời đề nghị của tôi.
- Chết tiệt!
Eragon nhổ nước bọt.
-Thuế, hươu - việc đó có ảnh hưởng gì tới người lãnh đạo thành công như Hrothgar? Thành thật với tôi đi, Orik. Vị trí của anh như thế nào so với những tộc trưởng khác? Và việc này còn kéo dài tới chừng nào nữa? Với mỗi ngày qua đi, nó càng khiến cho Đế Quốc sẽ phát hiện ra trò lừa này và Galbatorix sẽ tấn công Varden khi tôi không có đó để bảo vệ khỏi Murtagh và Thorn.
Orik chùi miệng của mình vào một góc khăn trải bàn.
-Vị trí của tôi ảnh hưởng vừa đủ. Không có các tộc trưởng nào có đủ hỗ trợ để kêu gọi biểu quyết, nhưng Nado và tôi có nhóm người ủng hộ tốt nhất. Nếu một trong hai giành được ủng hộ của hai hoặc ba bộ tộc khác, thế cân bằng sẽ nhanh chóng thuộc về người đó. Havard đang dao động rồi. Cho nên việc này sẽ không mất quá nhiều công khích lệ, tôi nghĩ, để thuyết phục ông ta vào chung phe với ta. Tối nay chúng ta sẽ ăn bánh mì với ông ta, và tôi sẽ làm những gì tôi có thể để thu xếp việc đó.
Orik nhai ngấu nghiến miếng nấm khô, rồi nói:
-Khi cuộc họp giữa các thị tộc kết thúc, có thể sau đó một tuần nếu chúng ta may mắn, và có lẽ hai nếu không.
Eragon lầm bầm chửi rủa. Nó quá căng thẳng, bụng của nó sôi ầm ầm và đe doạ sẽ loại bỏ miếng thịt nó vừa ăn. Chồm qua bàn, Orik nắm lấy cổ tay Eragon.
-Không có gì mà cậu và tôi có thể làm hơn nữa để đẩy nhanh quyết định của cuộc họp các thị tộc, do đó đừng để việc đó làm cậu lo nữa. Lo lắng về những gì cậu có thể thay đổi, và để phần còn lại theo cách của nó, hiểu chứ? Anh ta thả tay Eragon ra.
Eragon thở nhẹ ra và chống cánh tay lên bàn.
-Tôi biết. Nó chỉ là chúng ta có quá ít thời gian, và nếu thất bại thì...
-Việc gì tới sẽ tới.
Orik nói. Anh ta cười nhưng mắt anh ta buồn và trống rỗng.
-Không ai có thể thoát được sự sắp đặt của số phận.
-Anh không thể chiếm cái ngai bằng vũ lực ư? Tôi biết anh không có nhiều quân ở Tronjheim, nhưng với sự hộ thuẫn của tôi, ai có thể chống lại anh?
Orik dừng con dao ở giữa cái dĩa và miệng mình, rồi lắc đầu, tiếp tục ăn.Vừa nhai nhồm nhoàm, anh ta vừa nói: –Như thế sẽ chỉ tai hại thêm.
–Tại sao?
–Cần tôi phải giải thích ư? Toàn bộ chủng tộc tôi sẽ chống lại chúng ta, và thay vì kiểm soát được quốc gia, tôi sẽ thừa kế chỉ có hư danh. Nếu họ chống lại, tôi sẽ không đặt cược dù chỉ một thanh kiếm gãy là chúng ta sẽ không sống nổi trong một năm.
–À!
Orik không nói thêm gì nữa đến khi thức ăn trên đĩa anh ta sạch bách. Sau đó, anh ta uống một ngụm bia, và tiếp tục cuộc trò chuyện:
–Chúng ta đang ở thế cân bằng trên một đường núi lồng lộng gió với dốc đứng cao một dặm ở cả hai đầu. Nhiều bộ tộc trong chúng tôi ghét và sợ Kỵ Sĩ Rồng bởi những tội ác mà Galbatorix, và Lũ Phản đồ gây ra, và giờ là Murtagh đã cam kết chống lại chúng tôi. Và nhiều người trong số họ lo sợ thế giới bên ngoài các ngọn núi, đường hầm và hang mà chúng tôi ẩn nấp.
Orik nhìn xung quanh bàn và nói tiếp:
–Nado và Az Sweldn rak Anhûin chỉ làm tình hình thêm xấu đi. Họ lợi dụng nỗi lo sợ của mọi người để chống lại cậu, Varden, và Vua Orrin... Az Sweldn rak Anhûin chỉ là bản sao thu nhỏ của những gì chúng ta phải vượt qua nếu tôi lên làm vua. Bằng cách nào đó, chúng ta phải tìm ra cách xoa dịu mối quan tâm của họ, và của những người như họ, thậm chí nếu cho tôi làm vua, tôi sẽ phải cung cấp cho họ nghe những điều đúng sự thật nếu tôi muốn duy trì được sự hỗ trợ của các bộ tộc. Vua hay Nữ hoàng người lùn luôn phải khoan nhượng giữa các thị tộc, cho dù họ là người cầm quyền mạnh đến thế nào đi nữa,cũng như khi các tộc trưởng có ủng hộ của các gia đình trong thị tộc của họ.
Nghiêng đầu, Orik uống cạn cốc bia của mình, rồi đặt xuống với một tiếng cạch.
–Có gì tôi có thể làm không, bất cứ tập quán hay nghi lễ nào của tộc anh mà tôi có thể thực hiện, điều gì đó sẽ làm Vermûnd và những người của ông ta nguôi giận?
Eragon hỏi, tên của người lãnh đạo hiện thời của Az Sweldn rak Anhûin.
–Phải có cái gì để tôi có thể làm dịu lại sự nghi ngờ và đem đến một kết thúc cho mối thù này.
Orik bật cười và đứng dậy khỏi bàn: –Cậu có thể đi chết.
Sáng sớm hôm sau, Eragon ngồi tựa lưng lại bức tường cong trong một phòng tròn, sâu dưới trung tâm của Tronjheim, cùng với một số nhóm chiến binh, cố vấn, phục vụ, và thành viên các gia đình của các tộc trưởng, những người đủ tư cách để tham dự cuộc họp các thị tộc. Các lãnh đạo thị tộc thì ngồi trên ghế lớn, được khắc, bố trí xung quanh các cạnh của bàn tròn, mà hầu hết đều giống lời chú giải ở tầng cuối cùng của thành-phố-núi đào qua đỉnh của Korgan và Ingeitum.
Vào lúc này, Gáldhiem, lãnh đạo bộ tộc Dûrgrimst Feldûnost, đang nói. Ông ta lùn, ngay cả với một người lùn khó hơn hai feet chiều cao - và mang mẩu áo choàng vàng, nâu đỏ nhat, và xanh đậm. Không giống như nhiều người lùn trong Ingeitum, ông ta không gọn gàng hoặc tết râu lại, để nó lòng thòng trước ngực như là bụi cây gai. Đứng trên ghế, ông đập mạnh cái bàn bóng loáng bằng tay nắm lại trong găng của ông ta và gầm lên, " ... Eta! Narho ûdim etal os isû vond! Narho ûdim etal os formvn mendûnost brakn, az Varden, hrestvog dûr grimstnzhadn! Az Jurgenvren qathrid né dômar oen etal-"
"... Không," Eragon dịch lại, một người lùn tên Hûndfast, thì thầm. "Ta sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Ta sẽ không để các lũ đần độn không râu này, lũ Varden, phá huỷ quốc gia của chúng ta. Cuộc Chiến Rồng làm chúng ta yếu đi và không -"
Eragon cố kiềm chế ngáp, chán chường. Nó tự cho phép chính nó thả hồn nhìn xung quanh bàn đá granit, từ Gáldhiem đến Nado, một người lùn mặt tròn với tóc màu vàng nhạt, người đang gật đầu lia lịa với bài diễn thuyết như sấm của Gáldhiem; Đến Havard, người đang dùng dao găm để làm sạch móng tay dưới của hai ngón tay còn lại trên tay phải của ông; Đến Vermûnd, lông mày rậm nhưng mặt khác, khó dò sau mạng che tím của ông; Đến Gannel và Ûndin, người ngồi hướng gần nhau, đang thì thầm, trong khi Hadfala, một phụ nữ người lùn cao tuổi là tộc trưởng Dûrgrimst Ebardac và là thành viên thứ ba trong liên minh với Gannel, cau mặt nhìn mớ giấy da đầy phép thuật mà bà ta mang đến mọi cuộc họp; Và rồi tới tộc trưởng của Dûrgrimst Ledwonnû, Manndrâth, người ngồi nghiêng về phía Eragon, lộ ra cái mũi dài, khoằm xuống để ấn tượng tốt; Đến Thordris, tộc trưởng của Dûrgrimst Nagra, người mà nó có thể thấy một chút trừ mái tóc gợn sóng màu nâu vàng của bà, mà nó thì xoã ra sau vai bà xuống sàn, bằng hai lần chiều cao của bà; Đến phía sau đầu của Orik mà nó có thể thấy sau lưng ghế anh ta là Freowin, tộc trưởng Dûrgrimst Gedthrall, một người lùn cực kỳ béo, người luôn giữ mắt ông cố định lên khúc gỗ mà ông đang bận khắc vào chân dung một con quạ to tướng; Đến Hreidamar, tộc trưởng của Dûrgrimst Urzhad, người mà trái ngược với Freowin, tướng người vừa vặn, với cẳng tay nhỏ, người mặc áo giáp dài và chỉ huy việc thu thập thông tin; Và cuối cùng đến Íorûnn, da của bà ta nâu sẫm bị một vết thương mỏng, hình lưỡi liềm ngay trên xương gò má bên trái, một mái tóc bóng mượt buộc dưới mũ bạc hình đầu sói, mặc một cái váy màu đỏ son và đeo vòng cổ bằng vàng nạm ngọc lục bảo lấp lánh.
Íorûnn để ý Eragon đang nhìn bà ta. Một cái cười mỉm hiện ra trên môi bà. Với vẻ khêu gợi, bà ta nháy mắt về phía Eragon, che khuất một trong hai cặp mắt hình quả hạnh của bà từng làm lỗi nhịp nhiều trái tim.
Má của Eragon đỏ lên như máu bị dồn lên, tai nó đỏ bừng như bị ong đốt. Nó thay đổi cái nhìn về phía Gáldhiem, ông ta vẫn còn đang bận cố chấp với ý kiến của ông, đưa ngực ra trước như con gà trống oai vệ.
Vì Orik đã nói trước, Eragon vẫn bình thản suốt cuộc họp, giấu phản ứng lại những người nhìn nó. Khi cuộc họp tạm dừng để ăn trưa, nó vội đi lại Orik và giả bộ về hướng khác để không ai có thể nghe thấy, nói:
– Đừng tìm tôi từ bàn của anh. Tôi chịu đủ việc ngồi và nói rồi. Tôi sẽ đi khám phá các đường hầm một tý.
Orik gật đầu, giả vờ lãng đi, và thì thầm trả lời:
– Cứ làm gì mà cậu muốn, nhưng chắc chắn là cậu sẽ về trước khi cuộc họp tiếp tục; Sẽ không tốt nếu cậu trốn, cho dù cuộc họp chán như thế nào đi nữa.
– Theo ý anh vậy.
Eragon ra khỏi phòng họp, qua khỏi một nhóm người lùn đang hăm hở ăn bữa trưa của họ, và quay trở lại với bốn vệ sĩ đang chờ ở ngoài hành lang, nơi họ đang chơi trò may rủi với nhiều chiến binh nhàn rỗi của các thị tộc khác. Với những vệ sĩ theo sau, Eragon đi vào một hướng ngẫu nhiên, cho phép đôi chân mang nó đi nơi nào muốn trong khi nó suy nghĩ về cách hàn gắn lại việc chia bè phái bất đồng của người lùn thành một khối đoàn kết chống lại Galbatorix. Theo như nó nghĩ thì cách duy nhất nó có thể hình dung ra thì thật là quá cường điệu, thật quá ngớ ngẩn để tưởng tượng ra cách đó có thể thành công.
Eragon để ý đến nhóm người lùn mà nó gặp trong đường hầm—ngoại trừ lầm bầm vài câu chào mà đôi khi phép xã giao lịch sự đòi hỏi—thậm chí rào cản xung quanh của nó cũng không chính xác, tin tưởng rằng Kvîstor có thể dẫn nó trở về phòng họp. Mặc dù Eragon không học lập rào cản xung quanh, nó vẫn giữ dấu tư tưởng của hầu hết
các sinh vật mà nó có thể cảm nhận được trong bán kính vài chục thước, thậm chí đến cả con nhện nhỏ nhất đang trốn sau cái mạng nhện trong góc một căn phòng, vì Eragon không muốn bị bất ngờ vì ai đó tìm ra nó.
Cuối cùng khi nó dừng lại, nó ngạc nhiên khi thấy chính nó ở trong cùng căn phòng bụi bặm mà nó đã phát hiện trong lần đi lang thang ngày hôm trước. Phía bên trái nó vẫn là năm khung vòm đen dẫn tới cái hang bí ẩn này, trong khi phía bên phải nó cũng là bức phù điêu khắc đầu và vai một con gấu đang gầm gừ. Vẫn còn ngạc nhiên bởi sự trùng hợp ngẫu nhiên, Eragon đi chậm rãi về phía bức phù điêu bằng đồng và nhìn lên răng nanh trắng bóng của con gấu, tự hỏi cái gì đã kéo nó quay trở lại.
Một lúc sau, nó đi vào giữa năm khung vòm và nhìn qua đó. Hành lang chật hẹp phía dưới không có đèn lồng và sớm chìm vào bóng tối. Phóng tư tưởng của nó ra, Eragon thăm dò xem độ dài của đường hầm và một số các phòng mỏ ngõ bị bỏ. Một nửa tá nhện và một đống gồm bướm đêm, động vật nhiều chân, và dế là những loài duy nhất cư trú ở dưới.
–Xin chào.
Eragon kêu, và nghe như là giọng nói của chính nó quay lại còn một nửa âm lượng. –Kvîstor.
Eragon nói, nhìn vào anh ta.
–Không lẽ chẳng có ai sống ở nơi cổ xưa này?
Một người lùn mặt trẻ măng trả lời:
–Có một số. Một số ít người lùn kỳ quặc, những người mà không có bạn bè là niềm vui hơn so với cái chạm của tay vợ hoặc âm thanh tiếng nói của bè bạn. Một trong những người lùn trong số đó đã báo cho chúng ta cách tiếp cận đội quân của Urgal, nếu ngài còn nhớ, Bàn-Tay-Bạc. Ngoài ra, mặc dù chúng tôi không nói tới họ thường xuyên, nhưng họ là những người đã vi phạm pháp luật của vùng đất chúng tôi và những tộc trưởng của họ đã đày họ đi với thời hạn nhiều năm, hoặc, nếu có vi phạm nghiêm trọng, thì sẽ hết phần đời còn lại của họ. Tất cả họ như là những xác chết biết đi đối với chúng tôi; chúng tôi tránh xa họ nếu gặp họ ở bên ngoài vùng đất của chúng tôi và treo họ nếu chúng tôi bắt được họ trong biên giới chúng tôi.
Khi Kvîstor đã nói xong, Eragon cho biết là nó đã sẵn sàng rời khỏi nơi này. Kvîstor chỉ đường, và Eragon theo anh ta ra cửa mà qua đó họ đã đi vào, ba người lùn khác theo sau. Họ đi chưa tới hai mươi mét thì Eragon nghe một tiếng gió lướt nhẹ từ phía sau, mà Kvîstor thì không có vẻ để ý.
Eragon nhìn trở lại. Với ánh sáng màu hộ phách chiếu bởi các đèn lồng không có lửa treo ở hai đầu hành lang, nó thấy bảy người lùn mặc toàn một màu đen, mặt chúng thì che bằng mảnh vải đen và chân chúng được quấn bằng vải rách, đang chạy về phía nhóm của nó với một tốc độ mà Eragon cho rằng chỉ duy nhất tộc thần tiên, các Kỵ sĩ, và các sinh vật khác mang dòng máu ma thuật trong người đạt được. Trên tay phải của chúng cầm một cây dao găm dài, sắc bén với lưỡi dao phản chiếu lập loè nhiều màu sắc rực rỡ, còn tay trái chúng, cầm một cái khiên bằng kim loại với nhiều đinh sắt nhọn nhô ra phía trước. Tâm trí của chúng như là Ra’zac, giấu kín khỏi Eragon.
Saphira! Là ý nghĩ đầu tiên trong đầu Eragon. Sau đó nó mới nhớ ra nó chỉ có một mình.
Xoay người đối mặt với các người lùn quấn vải đen, Eragon rút kiếm ra trong khi la lên cảnh báo. Nhưng đã quá trễ.
Tiếng la đầu tiên vừa thoát ra khỏi cổ họng nó, ba trong số các người lùn lạ mặt chộp được vệ sĩ ở xa nhất của Eragon và nâng dao găm của chúng để đâm anh ta. Nhanh hơn lời nói hoặc suy nghĩ, Eragon hoà mình vào trong dòng chảy của phép thuật và, không dựa vào ngôn ngữ cổ để tạo ra kết cấu câu thần chú, mà kết lại cấu trúc trên thế giới thành một mô hình dễ chịu hơn đối với nó.. Ba người bảo vệ đứng giữa nó và những kẻ ám sát thì bay về phía nó như bị giật mạnh bởi sợi dây vô hình nào đó, và đặt chân chúng bên cạnh nó, không bị tổn hại gì nhưng bị mất phương hướng.
Eragon nhăn mặt vì bị giảm sức bất ngờ.
Hai trong số người lùn quấn vải đen tấn công ào ạt vào nó, đâm vào bụng nó bằng những con dao găm khát máu.
Kiếm trong tay, Eragon gạt được cả hai cú, sửng sờ vì tốc độ và sự tàn bạo của họ. Một trong số những vệ sĩ của nó nhảy tới trước, hét lên và vung cây rìu của vào những kẻ ám sát. Trước khi Eragon có thể túm lấy áo giáp của ông lùn và kéo ông ta lại an toàn, một lưỡi kiếm trắng, cong queo như có những ngọn lửa ma quái, chọc thủng cái cổ quấn dây thừng của ông ta. Khi ông ta ngã xuống, Eragon nhìn thoáng qua gương mặt méo mó của ông ta và bị sốc khi nhận ra Kvîstor – và cổ họng anh ta chảy ra đỏ rực như thể nó đang bị phân hủy xung quanh con dao găm.
Mình không thể để chúng làm trầy da mình, Eragon nghĩ.
Nổi khùng vì cái chết của Kvîstor, Eragon đâm thật nhanh vào tên sát nhân, người lùn áo đen không có cơ hội để tránh cú ra đòn và gục xuống chết dưới chân Eragon.
Với tất cả sức mạnh, Eragon hét lên, “Đứng phía sau tôi!”
Nhiều vết nứt hẹp chia cắt các sàn và bức tường, và những viên đá rơi từ trần xuống khi giọng nó vang dội xuyên suốt hành lang. Những tên lùn đang tấn công chùn trước uy lực giọng nói không kiềm chế của nó, rồi lại tiếp tục tấn công.
Eragon lùi vài mét để tạo khoảng trống cho nó di chuyển để không bị vướng các xác chết và cúi người xuống thấp, vung lưỡi kiếm cong qua lại, như một con rắn sẵn sàng tấn công. Tim nó đập nhanh gấp hai lần bình thường, và mặc dù cuộc chiến chỉ mới bắt đầu, nó đã phải thở hổn hển.
Hành lang rộng tám feet, vừa đủ rộng cho ba trong số sáu kẻ địch còn lại tấn công nó cùng một lúc. Chúng tản ra, hai tên cố tấn công hai bên hông trái và phải của nó, trong khi tên thứ ba đánh thẳng vào nó, chém với một tốc độ điên cuồng vào chân và tay Eragon.
Ngại phải đấu với những tên lùn theo cách mà lẽ ra nó đã sử dụng nếu chúng dùng những thanh kiếm thường, Eragon dồn lực chân xuống sàn và nhảy tới trước. Nó quay người nửa vòng và đạp chân trước lên trần. Bật người ra sau và quay nửa vòng lần nữa, và tiếp đất bằng cả chân và tay khoảng một mét đằng sau ba tên lùn. Ngay khi chúng xoay về phía nó, nó bước tới trước và chém đầu cả bọn với một cú ra đòn trái tay.
Dao găm của chúng rơi loảng xoảng xuống đất ngay tức khắc trước cái đầu của chúng.
Tung người nhảy qua những cái xác cụt đầu, Eragon lượn người trong không trung và tiếp đất tại đúng chỗ mà nó đã bắt đầu.
Nó chẳng hề sớm một tý nào.
Một làn gió cù vào cổ nó khi mũi một con dao găm sượt qua cổ họng nó. Một lưỡi kiếm nữa giật mạnh vào cổ chân đeo xà cạp của nó, cắt chúng mở ra. Nó do dự và vung thanh kiếm cong, cố gắng tạo khoảng trống để chiến đấu. Lẽ ra vòngphép bảo vệ của mình đã bẻ hướng kiếm của chúng đi chứ! Nó nghĩ, lúng túng.
Một tiếng thét vô tình thoát ra khỏi cổ họng nó khi nó dẫm phải một mảng máu trơn khiến nó mất thăng bằng và ngã ra đằng sau. Với một tiếng răng rắc nghe phát khiếp, đầu nó đụng với nền đá. Ánh sáng xanh loé lên trước mắt nó. Nó thở hổn hển.
Ba vệ sĩ còn lại của nó nhảy qua nó và vung rìu của họ lên cùng một lúc, dọn dẹp khoảng trống bên trên Eragon và cứu nó khỏi cú đâm của những con dao găm loé sáng.
Đó là tất cả thời gian Eragon cần để hồi phục. Nó bật người dậy và, tự trách mình vì đã không thử điều này sớm hơn, hét một câu thần chú trói buộc thứ chín trong số mười hai từ chết người mà Oromis đã dạy nó. Tuy nhiên ngay lúc nó giải phóng phép thuật, nó bỏ ngay câu thần chú, vì những tên lùn áo đen này được bảo vệ bằng rất nhiều vòng phép. Nếu được gia hạn thêm mấy phút, nó đã có thể tránh được hoặc là phá hủy những vòng phép đó, nhưng vài phút này có lẽ cũng tương tự như nhiều ngày trong một trận chiến thế này, khi mà từng giây đều dài như một giờ. Phép thuật bị thất bại, Eragon gồng cứng suy nghĩ của nó thành một ngọn giáo cứng như sắt và phóng đến chỗ mà nó đoán là tư tưởng của một trong những tên lùn áo đen. Ngọn giáo trượt khỏi áo giáp tâm trí
mà Eragon chưa từng đụng phải trước đây: trơn mượt và liền một mảnh, có vẻ như không thể phá vỡ bởi những mối quan tâm tự nhiên đối với những sinh vật đang bị vướng vào một cuộc chiến đấu với cái chết.
Một kẻ nào đó đang bảo vệ chúng, Eragon nhận ra. Có nhiều kẻ đứng sau cuộc tấn công này hơn là chỉ có bảy tên ở đây.
Trụ lên một chân, Eragon nhào tới trước và lưỡi kiếm cong của nó xuyên qua đầu gối tên tấn công ngoài cùng phía bên trái, máu bắn vọt ra. Tên lùn sẩy chân, và những vệ sĩ của Eragon đổ về phía hắn, túm chặt tay tên lùn để tên đó không thể vung kiếm được, rồi chém mạnh vào hắn bằng thanh rìu cong.
Tên gần hơn trong hai kẻ ám sát còn lại đưa khiên lên chống lại cú chém mà Eragon định nhắm vào hắn. Dồn toàn bộ giới hạn sức mạnh, Eragon chém vào cái khiên, định chặt nó và cả cánh tay bên dưới ra làm đôi, như nó vẫn thường làm với thanh Zar’roc. Tuy nhiên, trong suốt cuộc chiến, nó đã quên không tính đến tốc độ của tên lùn. Khi lưỡi kiếm đến gần mục tiêu của nó, tên lùn nghiêng cái khiên của hắn, làm chệch hướng cú chém về một phía.
Hai chùm sáng bắn ra từ bề mặt tấm khiên khi thanh kiếm xược qua phía trên, rồi đến mũi đinh thép gắn ở giữa. Xung lực đẩy lưỡi kiếm đi xa hơn Eragon dự đoán, và nó tiếp tục bay xuyên qua không khí cho đến khi đâm vào cạnh một bức tường, làm choáng cả cánh tay Eragon. Với một âm thanh trong như pha lê, lưỡi kiếm vỡ thành nhiều mảnh, để lại một mũi nhọn kim loại lởm chởm dài mười sáu phân nhô ra khỏi chuôi kiếm.
Mất hết tinh thần, Eragon buông thanh kiếm gãy ra và nắm lấy vành khiên của tên lùn, vật lộn với hắn và cố gắng hết sức để giữ cho cái khiên ở giữa nó với con dao găm lóe hào quang với những màu sắc mờ đục. Tên lùn mạnh không thể tin được; hắn chống lại được nỗ lực của Eragon và thậm chí còn thành công trong việc đẩy nó lùi một bước. Thả tay phải ra khỏi cái khiên nhưng vẫn giữ chặt bằng tay trái, Eragon thu tay lại và đấm lên cái khiên mạnh hết mức mà nó có thể, đấm xuyên qua lớp thép đã được tôi luyện một cách dễ dàng như thể làm bằng gỗ mục. Nhờ những cục chai sần trên các khớp đốt ngón tay, nó hoàn toàn không cảm thấy đau bởi cú đấm.
Lực của cú đấm ném tên lùn văng vào bức tường đối diện. Đầu hắn ngoẹo sang một bên trên cái cổ không xương, tên lùn đổ xuống đất, như một con rối bị cắt hết dây.
Eragon rút tay lại qua cái lỗ lởm chởm trên tấm khiên, bị trầy da vì đấm vào kim loại, và rút con dao săn của nó ra.
Rồi tên cuối cùng trong đám người lùn mặc đồ đen tấn công nó. Eragon gạt con dao găm của hắn hai lần… ba lần… và rồi cắt xuyên qua tay áo của tên lùn và rạch tay cầm dao của hắn từ khuỷu tay đến cổ tay. Tên lùn rống lên vì đau, đôi mắt xanh biển trở nên điên tiết dưới miếng vải che mặt. Hắn bắt đầu một loạt những cú đánh, con dao găm rít lên trong không khí nhanh hơn so với mắt có thể theo kịp, buộc Eragon phải nhảy đi để tránh lưỡi dao chết người. Tên lùn thúc đẩy cuộc tấn công. Trong vài mét, Eragon tránh được hắn thành công, cho đến khi gót chân nó va vào một cái xác và, trong nỗ lực bước qua cái xác, nó bị vấp và ngã vào bức tường, làm thâm tím vai mình.
Với một tiếng cười độc địa, tên lùn đâm thẳng vào, đâm xuống lồng ngực đang phơi bày ra của Eragon. Quăng một cánh tay lên trong cố gắng vô ích để bảo vệ bản thân, Eragon lăn xa hơn xuống dưới hành lang, biết rằng lần này may mắn của nó đã hết và nó sẽ không thể thoát được nữa.
Khi nó đã lăn hết một vòng và mặt nó xoay về phía tên lùn, Eragon nhận thấy lờ mờ con dao đang đâm xuống da thịt nó, như một tia sét từ trên cao giáng xuống. Rồi, nó ngạc nhiên khi thấy mũi con dao đâm trúng một cái đèn lồng không lửa gắn trên tường. Eragon xoay mình lăn ra ngoài trước khi nó có thể nhìn thấy gì thêm, nhưng một lúc sau đó, một bàn tay nóng cháy hừng hực dường như tấn công nó từ phía sau, ném nó bay ít nhất sáu thước xuyên qua hành lang, cho đến khi nó ngã đập vào cạnh của một cái cổng vòm đang mở, ngay lập tức nhiều vết trầy xước và thâm tím khác hiện ra như một bộ sưu tập. Một tiếng nổ ầm làm điếc tai nó. Cảm thấy như có ai đó đang lùa những mảnh vụn vào trong màng nhĩ nó, Eragon chụp tay lên đầu và cuộn người thành một quả bóng, rít lên.
Khi tiếng động và cơn đau đã dịu đi, nó hạ tay xuống và lảo đảo đứng lên, nghiến chặt răng vì những vết thương trên người. Lảo đảo và loạng choạng, nó nhìn chằm chằm về phía vụ nổ.
Vụ nổ đã phủ đen một khoảng dài hơn mười bước trong hành lang bằng bồ hóng. Những bụi tro tàn mềm mại cuộn lên trong không trung, cũng nóng như không khí từ trong một cái lò rèn đang đốt nóng. Tên lùn vừa nãy định đâm Eragon thì nằm trên mặt đất, thảm bại, cơ thể phủ đầy vết bỏng. Sau vài cơn co giật, hắn nằm bất động luôn. Ba vệ sĩ còn sống của Eragon nằm ở bờ của đám bồ hóng, nơi mà vụ nổ chắc đã quăng họ ra. Ngay khi nó nhìn, họ lảo đảo đứng dậy, máu nhỏ giọt từ tai và những cái miệng mở tang hoác của họ, râu cháy xém và rối tung. Những đường nối chạy dọc vành áo giáp của họ sáng rực màu đỏ, nhưng lớp da lót áo giáp của họ có vẻ đã bảo vệ họ khỏi những việc tồi tệ nhất từ nhiệt.
Eragon bước tới từng bước, rồi dừng lại và rên rỉ khi một cơn đau bùng ra giữa hai xương vai của nó. Nó cố xoay tròn cánh tay để cảm nhận phạm vi của vết thương, nhưng khi da nó giãn ra, cơn đau trở nên quá lớn khiến nó không thể tiếp tục. Gần như mất đi ý thức, nó tựa vào tường để chống. Nó liếc nhìn tên lùn bị cháy lần nữa. Chắc mình cũng bị thương tương tự như vậy trên lưng.
Tự ép buộc chính nó phải tập trung, nó đọc lại hai câu thần chú được tạo ra để chữa những vết bỏng mà ông Brom đã dạy nó trong suốt những chuyến du hành. Khi chúng có hiệu lực, nó cảm thấy như một dòng nước mát êm dịu đang chảy dọc lưng nó. Nó thở dài nhẹ nhõm và đứng thẳng dậy.
–Các anh có bị thương đâu không?
Nó hỏi khi mấy người vệ sĩ khập khiễng bước tới.
Người lùn đi đầu nhăn mặt, đập nhẹ vào tai, và lắc đầu.
Eragon lầm bầm nguyền rủa và chỉ khi đó nó mới nhận thấy nó không thể nghe được giọng nói của nó. Một lần nữa rút năng lượng dự trữ từ bên trong cơ thể, nó đọc thần chú khôi phục lại cơ cấu bên trong tai của nó và của họ. Khi câu thần chú kết thúc, một cơn ngứa đến khó chịu bò ngoằn ngoèo trong tai nó, rồi mất dần cùng với câu thần chú.
–Các anh có bị thương đâu không?
Người lùn phía bên phải, một người vạm vỡ với bộ râu hình chữ chi, ho và phun ra một cục máu đông, rồi càu nhàu
–Không gì mà thời gian không sửa được. Ngài thì sao, Khắc-tinh-của-Tà-thần?
–Tôi sẽ sống.
Kiểm tra sàn trên từng bước, Eragon bước vào khu vực phủ đen bồ hóng và quỳ xuống bên cạnh Kvîstor, hy vọng nó vẫn có thể cứu ông ta khỏi nanh vuốt thần chết. Ngay khi nó trông thấy vết thương của Kvîstor, nó biết điều đó là không thể.
Eragon gục đầu xuống, ký ức về cuộc đổ máu mới đây làm đau xót tâm hồn nó. Nó đứng dậy. –Tại sao cái đèn lồng lại phát nổ?
–Chúng chứa đầy hơi nóng và ánh sáng, thưa Bàn-Tay-Bạc. Một vệ sĩ trả lời.
–Nếu chúng bị vỡ, tất cả sẽ thoát ra cùng một lúc và lúc đó tốt hơn là nên đứng xa chúng ra.
Ra dấu về phía các xác chết nhàu nát của những kẻ ám sát, Eragon hỏi: –Anh có biết chúng là người của tộc nào không?
Người lùn với bộ râu hình chữ chi lục lọi quần áo của vài tên lùn áo đen từ bên này qua bên kia, rồi nói: –Barzûl! (Chết tiệt!) Chúng không mang một dấu hiệu nào trên người để ngài có thể nhận ra, Bàn-Tay-Bạc ạ, nhưng chúng có mang cái này.
Anh ta đưa ra một cái vòng đeo tay làm bằng lông ngựa tết lại có gắn những viên thạch anh tím tròn bóng. –Nó có nghĩa gì?
–Loại thạch anh tím này,
Anh lùn nói, và gõ vào một trong những viên ngọc với một cái móng tay đầy vệt bồ hóng.
–Loại thạch anh tím đặc biệt này, nó chỉ mọc trên bốn phía của dãy núi Beor, và ba trong số đó thuộc về Az Sweldn rak Anhûin.
Eragon nhăn mặt.
–Vậy là Tộc trưởng Vermûnd đã sắp đặt cuộc tấn công này sao?
–Tôi không chắc chắn lắm, thưa Bàn-Tay-Bạc. Có thể một bộ tộc khác đã để cái vòng này lại cho chúng ta tìm thấy. Họ có thể muốn chúng ta nghĩ rằng đó chính là tộc Az Sweldn rak Anhûin, như thế chúng ta sẽ không nhận ra kẻ thù thực sự là ai. Nhưng… nếu tôi phải đánh cược, Bàn-Tay-Bạc, tôi sẽ cược một xe đầy vàng rằng chính bọn Az Sweldn rak Anhûin chịu trách nhiệm trong vụ này.
–Quỷ tha ma bắt chúng đi. Eragon lầm bầm.
–Cho dù là kẻ nào, quỷ tha ma bắt chúng.
Nó siết chặt hai nắm tay để ngăn chúng run lên. Bằng một bên đôi bốt, nó đá vào những con dao găm hình trụ mà bọn ám sát đã sử dụng.
–Những câu chú trên những vũ khí này và trên những… những tên đàn ông này. Nó hất cằm ra dấu
–Đàn ông, người lùn, cái gì cũng thế, chúng phải đòi hỏi một lượng nội lực kinh khủng, và tôi không thể tưởng tượng ra được độ phức tạp của những từ ngữ. Thực hiện chúng sẽ rất khó và nguy hiểm…
Eragon nhìn lần lượt những vệ sĩ của mình và nói.
–Các anh là các nhân chứng của tôi, tôi thề sẽ không để cuộc tấn công này, cũng như cái chết của Kvîstor, thoát khỏi sự trừng phạt. Dù bất cứ một bộ tộc hay những bộ tộc nào gửi những tên sát thủ thú vật này đến, tôi mà biết được tên chúng, chúng sẽ ước rằng chưa bao giờ nghĩ đến việc tấn công tôi và, bằng việc tấn công tôi, tấn công vào Dûrgrimst Ingeitum. Điều này tôi thề với các anh, nhân danh một Kỵ sĩ Rồng và như một thành viên của Dûrgrimst Ingeitum, và nếu bất cứ ai hỏi các anh, cứ nhắc lại lời hứa của tôi với họ như tôi đã nói với các anh.
Những người lùn cúi đầu trước nó, và người có râu hình chữ chi đáp lời.
–Như ngài ra lệnh, chúng tôi làm theo, thưa Bàn-Tay-Bạc. Ngài làm tôn vinh ký ức về vua Hrothgar bằng những lời nói của ngài.”
Rồi một người lùn khác nói:
–Dù là bất cứ bộ tộc nào, chúng đã xâm phạm luật về lòng hiếu khách; chúng đã tấn công một vị khách. Chúng còn không sánh bằng lũ chuột, chúng là những menknurlan.
Anh ta nhổ lên sàn, và những người lùn kia nhổ theo anh ta.
Eragon đi lại nơi vẫn còn những tàn tích của thanh kiếm nó. Nó quỳ gối xuống đám bồ hóng và, dùng đầu ngón tay, chạm vào một trong những mảnh vỡ bằng kim loại, lần theo hai cạnh tả tơi của nó. Chắc mình đã chém vào cái khiên và bức tường rất mạnh, lấn áp cả những thần chú mà mình đã dùng để tăng cường sức mạnh cho lưỡi kiếm, nó nghĩ.
Rồi nó nghĩ, Mình cần một thanh kiếm. Mình cần một thanh kiếm Kỵ sĩ.
Chương 32: Vấn đề trước mắt
Cơn gió nóng buổi sáng dưới lòng đất phía trên các căn phòng ngầm thật khác biệt với gió buổi sáng trên đồi, chuyển động luân phiên liên tục. Saphira chỉnh góc đôi của cánh cô nàng lấy lại thăng bằng tốc độ và áp lực không khí, nâng những cái chân nặng cả ngàn cân của nó dưới ánh sáng mặt trời đang chiếu xuống dưới lòng đất.
Hai mí mắt của nó nhắm lại một lúc, tận hưởng một chút êm ái trong làn gió, cũng như sự ấm áp của những tia sáng đang chiếu xuống bên trên thân hình đồ sộ. Cô rồng tưởng tượng ánh sáng làm cho nó như đang lóng lánh rạng rỡ trong mắt những người đã xem nó lượn vòng trước mặt trong bầu trời một cách kì diệu, và nó bay thật nhanh với niềm vui, rằng từ những điều đã biết từ trước tới giờ thì nó là con rồng đẹp nhất ở Alagaësia, không ai có thể hy vọng sánh bằng với những cái vảy rực rỡ, thân hình dài, cái đuôi thon nhọn; và đôi cánh đẹp, rất to lớn, tương xứng với thân hình đồ sộ; những cái vuốt cong, những cái răng nanh dài trắng bóng, có thể làm đứt đôi một cái cổ hoang dã của một con bò chỉ với một nhát cắn? Không phải là rồng vàng Glaedr, anh rồng đực đã mất một chân trong thời kì sụp đổ của các Kị Sỹ. Cũng không phải là Thorn hoặc Shruikan, dù họ đều phải làm nô lệ của Galbatorix, họ đã bị buộc phải quy phục điều trái với lí trí của họ. Một con rồng, mà không được tự do làm những gì mà nó muốn thì không thực sự là một con rồng. Bên cạnh đó, họ là rồng đực, và trong khi những con rồng đực có thể xuất hiện một cách rất hùng vĩ và hoành tráng, thì họ vẫn không thể có một thân hình với những vẻ đẹp tráng lệ như của cô rồng. Không, nó đã được ban tặng những phẩm chất tuyệt vời nhất, tốt nhất ở đất nước Alagaësia này, và nó xứng đáng được như thế .
Saphira vặn vẹo thân mình, hài lòng với tất cả mọi thứ từ những cái gai trên đỉnh đầu cho đến chóp đuôi của nó. Hôm nay là một ngày đẹp trời. Cái nóng của mặt trời làm cho cô rồng cảm thấy như đang được nằm trong một cái tổ ấm áp. Bụng nó được ăn no đủ, bầu trời trong xanh, và chẳng có gì đáng phải bận tâm tham gia vào, ngoài việc canh chừng kẻ địch cho những người chiến đấu, điều nó luôn làm như là một thói quen vậy.
Niềm hạnh phúc của nó từ trước tới giờ chỉ có một nỗi băn khoăn nhỏ, nhưng bây giờ đã là một một vết rạn nứt lớn trong lòng, một vấn đề sâu sắc đáng để cho nó phải suy nghĩ tới, và nó vẫn còn xem xét điều đó, những chi tiết bất thường, nó đã lớn lên, cho đến khi nó đã nhận thức được mình đã thực sự trưởng thành; nó mong có Eragon ở bên cạnh để chia sẻ với mình trong lúc này. Cô rồng khẽ gầm lên một tiếng nhỏ và phun ra một ngọn lửa màu xanh từ giữa hai hàm răng, đốt nóng không khí trước mặt, một lúc sau nó khép miệng lại, cắt đứt dòng nước lửa. Cái lưỡi của nó ngứa ran như vẫn còn những hạt lửa li ti đang chạy trên đó. Khi Eragon, một phần của linh hồn và trong chính trái tim nó, đi liên lạc cho Nasuada từ Tronjheim và hỏi nó liệu có nên tham gia không? Saphira đã từng thúc giục Eragon tuân lệnh Nasuada và đi tới những ngọn-núi-cao-không-thể-bay-tới đó, nhưng bây giờ đã quá nhiều thời gian trôi qua, và Saphira cảm thấy lạnh lẽo và trống rỗng trong lòng.
Có một bóng đen bao phủ trên thế giới, nó nghĩ:" Đó là những gì làm tôi có buồn bã". Có vài thứ làm ảnh hưởng tới Eragon. Anh ấy đang ở trong nguy hiểm, hoặc đã bị nguy hiểm trong thời gian gần đây. Và mình không thể giúp đỡ được gì cho anh ấy. Nó đã không phải là một con rồng hoang dã. Kể từ khi nó nở ra, cô nàng đã chia sẻ tất cả cuộc sống với Eragon, và không có anh ấy, nó chỉ như đang sống với có một nửa mình. Nếu anh ấy chết mà không có nó ở bên để bảo vệ , nó sẽ không còn có lý do gì để tiếp tục sống nữa, chỉ còn sống để theo đuổi sự trả thù mà thôi. Nó biết, nó sẽ lao tới đâm bổ vào bất cứ kẻ nào mà đã giết anh ấy và rồi sau đó, nó sẽ bay trên thành phố đen của tên phản bội, kẻ phá huỷ trứng rồng, người đã cầm tù nó trong rất nhiều thập kỷ qua, và nó sẽ làm tất cả trong khả năng để giết hắn ta, dù rằng điều đó cũng có nghĩa là sẽ có một cái chết đón chờ nó ở nơi đó.
Saphira lại gầm lên giận giữ và chộp nhanh một con chim sẻ nhỏ dại dột đã bay vào trong phạm vi những cái răng của nó. Nó đã đớp hụt, và con chim đã lao đi và nó tiếp tục bay mà không bị cản trở nữa, tâm trạng nó chỉ hơi bực tức một chút. Để có một chút thời gian, nó đi săn chim sẻ nhưng sau đó thì lại quyết định không đáng phải bận tâm về thứ cỏn con như xương và những cái lông vũ chim sẻ. Nó sẽ không bao giờ là một món ăn ngon và đủ no cả.
Nghiêng cánh trên gió, và nó lắc đuôi về hướng đối diện để dễ xoay trở, nó đảo vòng xung quanh, dõi theo mặt đất và tất cả những con vật nhỏ ở xa phía dưới đang chạy nhốn nháo để tìm chỗ trú ẩn khỏi đôi mắt săn mồi sắc sảo của nó. Ngay cả từ độ cao cả ngàn feet, nó vẫn có thể thấy hết tất cả những cái chấm nhỏ li ti trên lưng của một con gà đang chạy trên cánh đồng trồng lúa mì phía tây của sông Jiet. Nó có thể thấy cả những vết màu nâu như là một con thỏ đang hăm hở chạy đến cái tổ an toàn với đầy những con thỏ khác. Nó có thể nhìn ra một bầy nai nhỏ đang co rúm lại bên dưới các bụi cây nho dọc theo một nhánh nhỏ của sông Jiet. Và nó có thể nghe những tiếng chút chít the thé đầy hoảng sợ, khiếp đảm của những con vật đang cảnh báo cho đồng loại của mình sự hiện diện của nó. Những tiếng kêu la của chúng làm nó hài lòng, một điều thật đúng là: chúng nên biết sợ hãi nó. Nếu mà chúng không bao giờ sợ nó nữa, thì nó biết rằng đó là cái lúc mà nó đã chết.
Cách xa khoảng 3 dặm về phía đầu nguồn của dòng sông, Varden đã cắm trại bên bờ sông Jiet thành một đoàn dài những cái lều nhỏ màu đỏ nằm dựa vào những vách đá nhô ra của dãy núi. Varden đã đến và đang vượt sông từ
ngày hôm qua, và từ đó, mới có ba đạo quân loài người, các Urgals đồng minh và những con ngựa-nó-khôngđược-ăn thịt đã băng qua chỗ cạn của sông. Đạo quân di chuyển chậm như vậy, nó thấy băn khoăn rằng là con người chẳng có nhiều thời gian để làm nhiều việc khác hơn nếu cứ phải đi như thế này, cuộc đời của họ thật quá ngắn ngủi. Sẽ thuận tiện hơn biết bao nếu họ có thể bay, nó nghĩ vậy, và tự hỏi tại sao con người không làm thế. Bay lượn rất dễ dàng, nó không bao giờ nghĩ rằng tạo hoá sinh ra mình mà lại để bó buộc ở dưới mặt đất. Thậm chí Eragon cũng giữ mình dính chặt vào với mặt đất, mà nó cũng biết anh ấy cũng có thể tham gia cùng nó trên bầu trời vào bất kỳ lúc nào chỉ với vài từ Cổ ngữ. Nhưng sau cùng, nó vẫn không thể hiểu những hành động của những kẻ thậm chí cứ phải lảo đảo đứng không vững trên hai chân, vì phải mang những thứ lỉnh kỉnh như vòng tai, chỉ tai, hay sừng hay những thứ bé nhỏ mà nó có thể dẫm nát chúng ngay dưới chân mình.
Một thoáng chuyển động ở phía đông bắc thu hút sự chú ý của ả rồng, nó tò mò nghiêng về phía đó. Nó thấy một đoàn ngựa bốn mươi lăm con đang mệt mỏi lê bước về phía nhóm Varden. Phần lớn lũ ngựa đều không có người cưỡi, nên nó không nghĩ ngợi gì cho đến khi thêm nửa giờ nữa trôi qua và từ gương mặt của những người đang cưỡi ngựa, nó nhận ra đó có thể là nhóm của Roran đang trở về sau cuộc đột kích. Nó tự hỏi điều gì đã xảy ra làm quân số của họ suy giảm đến thế và cảm thấy một thoáng bứt rứt lo lắng. Nó không bị ràng buộc với Roran, nhưng Eragon quan tâm đến anh ta, và đó đủ là lý do cho nó lo lắng về phúc lợi của anh ta.
Phóng tâm trí xuống phía nhóm Varden nhốn nháo, nó lần tìm cho đến khi tìm thấy điệu nhạc trong tâm trí của Arya. Khi nàng tiên đã nhận ra nó và cho nó tiếp xúc với tâm tưởng của cô, Saphira nói, Roran sẽ tới đây trước chiều tối. Tuy nhiên quân số nhóm anh ta bị giảm thiểu trầm trọng. Một thảm họa nào đó đã xảy ra với họ trong chuyến này.
Cảm ơn, Saphira, Arya nói. Ta sẽ báo cho Nasuada.
Khi Saphira rút khỏi tâm trí Arya, nó cảm thấy một sự tiếp xúc lùng soát của Blödhgarm-lông-sói-xanh-đen. Tôi có phải một con chim mới nở đâu, nó cáu kỉnh. Ông không phải kiểm tra sức khỏe tôi mỗi vài phút như thế.
Mi có lời tạ lỗi nhún nhường nhất của ta, Bjartskular, chỉ là mi đã đi được khá lâu rồi, và nếu bất cứ ai đang quan sát, họ sẽ bắt đầu thắc mắc sao mi và
Rồi, biết rồi, nó cằn nhằn. Thu ngắn sải cánh, nó nghiêng xuống dưới, cảm giác về trọng lượng rời khỏi nó, và xoay tròn theo những đường xoắn ốc chậm chạp khi lao xuống phía dòng sông cuộn nước. Tôi sẽ ở đó ngay.
Ba trăm thước bên trên mặt nước, nó giang cánh và cảm thấy sức căng trên màng bay khi gió ép lên chúng một lực khổng lồ. Nó chậm lại gần như đứng yên, để không khí tràn ra khỏi cánh và lại tiếp tục bay nhanh, lướt vào trong phạm vi ba chục thước quanh mặt nước-uống-không-tốt màu nâu. Đập cánh một cái để duy trì độ cao, nó bay ngược Sông Jiet, cảnh giác về sự thay đổi áp suất đột ngột làm ảnh hưởng đến khí-lạnh-bên-trên-dòng-nước, và có thể đẩy nó vào một hướng ngoài ý muốn, hay tệ hơn, vào những mũi-cây-nhọn hoặc mặt-đất-bẻ-gãy-xương.
Nó lướt cao bên trên nhóm Varden đang tụ tập bên sông, đủ cao để sự xuất hiện của nó không làm hoảng vía mấy con ngựa ngờ nghệch. Rồi, trôi dần xuống với đôi cánh giữ yên, nó đáp xuống một khoảng trống giữa những cái lều – khoảng trống Nasuada đã lệnh đặt riêng ra cho nó – và lê bước qua khu trại đến cái lều trống của Eragon, nơi Blödhgarm và mười một thần tiên mà ông ta chỉ huy đang đợi nó. Nó chào họ bằng một cái nháy mắt và một cái búng lưỡi, rồi cuộn mình lại trước lều của Eragon, cam chịu ngủ gà gật chờ đợi bóng tối như nó sẽ làm nếu Eragon đang thực sự ở trong lều và anh ta và nó là đoàn bay đêm. Thật chán ngắt và nhạt nhẽo, cứ nằm đó ngày qua ngày, nhưng đó là điều cần thiết để giả bộ rằng Eragon vẫn còn ở cùng Varden, vì vậy Saphira không than phiền, cho dù sau mười hai giờ hoặc hơn thế trên mặt-đất-cứng-lởm-chởm làm bẩn những cái vảy, nó thấy chỉ muốn đánh nhau với cả ngàn tên lính, hoặc san bằng một cánh rừng bằng răng và móng và lửa, hoặc vọt lên và bay cho đến khi không thể bay được nữa hoặc cho đến khi tới điểm tận cùng của đất, nước, và không khí.
Gầm gừ với chính mình, nó lấy móng nhào nặn làm mềm đất, rồi đặt đầu vắt ngang cẳng chân và đóng mí mắt trong lại, như thế nó có thể nghỉ ngơi mà vẫn quan sát được những ai đi ngang. Một con chuồn chuồn vo ve trên đầu nó, và không phải lần đầu nó thắc mắc là cái gì đã khiến những kẻ đần độn tầm thường đặt tên thứ côn trùng đó theo tên chủng tộc nó. Trông nó chả giống rồng ngã nào, cô ả càu nhàu, rồi trôi vào một giấc ngủ thư thái.
Vòng-lửa-lớn-trên-trời tiến gần lại chân trời khi Saphira nghe thấy những tiếng kêu la hò hét chào mừng, nghĩa là
Roran và các chiến hữu của anh đã đến khu dựng trại. Nó tỉnh dậy. Như những lần trước, Blödhgarm nửa hát nửa thầm thì một câu thần chú tạo ra một chân dung ảo của Eragon, rồi khiển nó bước ra khỏi lều và trèo lên lưng Saphira, ngồi đó và nhìn quanh, mô phỏng hoàn hảo một sự sống độc lập. Nhìn bề ngoài, hình ảnh này không có khiếm khuyết gì, nhưng nó lại không có tâm trí riêng, và nếu bất cứ điệp viên nào của Galbatorix thử lén đọc suy nghĩ của Eragon, chúng sẽ khám phá ra sự lừa đảo ngay lập tức. Bởi vậy, sự thành công của mưu kế phụ thuộc vào Saphira chở hình ảnh này qua khu trại và biến khỏi tầm nhìn càng nhanh càng tốt, và phụ thuộc vào hy vọng rằng danh tiếng ghê gớm của Eragon sẽ làm chùn bước những tên mật thám trước nỗ lực lượm lặt thông tin về Varden từ tâm trí nó, vì sợ nó trả thù.
Saphira đứng dậy và lao xuyên qua trại, mười hai thần tiên chạy thành đội hình xung quanh nó. Mọi người nhảy tránh khỏi đường của họ, hô to, “Chào, Khắc-tinh-của-Tà-thần!” và “Chào, Saphira!”, làm ngời lên cảm giác ấm áp trong bụng ả rồng.
Khi nó đến chỗ cái lều-nhộng-bướm-đỏ-cánh-gấp của Nasuada, nó cúi xuống và chui đầu vào trong lỗ hổng tối trên một bức vách, ở đó các vệ sĩ của Nasuada đã kéo một ô vải sang một bên cho nó chui vào. Blödhgarm liền tiếp tục bài hát nhẹ nhàng của ông, và bóng ma Eragon trèo khỏi Saphira, bước vào cái lều đỏ thẫm và, khi đã khuất tầm nhìn của những kẻ đang dòm ngó bên ngoài, tan ra thành hư không.
“Ngài có nghĩ mưu mẹo của chúng ta đã bị khám phá ra không?” Nasuada hỏi từ chiếc ghế tựa cao của cô.
Blödhgarm cúi đầu với một cử chỉ thanh nhã. “Một lần nữa, Tiều thư Nasuada, tôi không thể nói chắc. Chúng ta sẽ phải đợi và xem liệu Đế quốc có lợi dụng sự vắng mặt của Eragon hay không trước khi chúng ta biết câu trả lời cho câu hỏi đó.”
“Cảm ơn ngài, Blödhgarm. Vậy thôi.”
Với một cái cúi chào nữa, vị thần tiên rút khỏi lều và chọn một vị trí khoảng vài thước đằng sau Saphira, canh gác bên sườn nó.
Saphira nằm xuống và bắt đầu liếm sạch những cái vảy quanh cái móng thứ ba của bàn chân trái trước, ở chỗ đó đã đóng những vệt đất sét trắng khô xấu xí mà nó nhớ đã giẫm lên trong lúc ăn con mồi cuối cùng.
Không tới một phút sau, Martland Râu đỏ, Roran, và một người-đàn-ông-tai-tròn, ả rồng không nhận ra người này, bước vào cái lều đỏ và cúi chào Nasuada. Saphira ngừng việc làm sạch, dùng lưỡi nếm không khí và nhận ra vị máu khô, mùi mồ hôi chua đắng, mùi ngựa và da hòa lẫn, và, mờ nhạt nhưng không thể nhầm lẫn, mũi gai nhọn của nỗi sợ con người. Ả rồng kiểm tra bộ ba lần nữa và thấy người đàn ông râu đỏ dài đã mất cánh tay phải, rồi tiếp tục đào đất sét ra khỏi vảy của mình.
Nó tiếp tục liếm láp bàn chân, hoàn lại vẻ rực rỡ vốn có cho từng cái vảy, trong khi Martland, rồi đến người-đànông-tai-tròn-Ulhart, và rồi Roran, kể lại câu chuyện máu lửa về những kẻ thích cười mà không chịu chết khi đã được phân công là phải chết, và nhất quyết chiến đấu tiếp rất lâu sau khi Angvard đã gọi tên chúng. Như thông lệ, Saphira giữ yên lặng trong khi những người khác – cụ thể là Nasuada và cố vấn của cô, Jörmundur-hốc-hác-chândài – thẩm vấn các chiến binh về chi tiết nhiệm vụ xúi quẩy của họ. Saphira biết đôi khi Eragon thấy khó hiểu tại sao cô ả không tham gia nhiều hơn vào các cuộc đối thoại. Lí do im lặng của nó rất đơn giản: ngoại trừ Arya và Glaedr, nó chỉ cảm thấy thoải mái nhất khi truyền đạt tư tưởng với Eragon, và theo ý nó, hầu hết những cuộc đối thoại chẳng là gì hơn sự do dự vô nghĩa. Cho dù tai tròn, tai nhọn, có sừng, hay lùn, những kẻ hai-chân có vẻ khoái do dự. Brom không do dự, một điều mà Saphira thích ở ông. Với nó, những lựa chọn rất đơn giản; hoặc là có một hành động nó có thể thực hiện để cải thiện tình hình, và nó sẽ thực hiện trong những trường hợp đó, hoặc là không, và mọi điều khác nói về chủ đề đó đều chỉ rặt là những tiếng ồn vô nghĩa. Trong mọi trường hợp, nó đều không tự khiến mình lo lắng về tương lai, ngoại trừ đối với Eragon. Nó luôn lo lắng, về anh ta.
Khi đã hoàn tất những câu hỏi, Nasuada bày tỏ lời chia buồn của mình về cánh tay bị mất của Martland, rồi cho Martland và Ulhart đi, trừ Roran, cô nói, “Anh đã chứng tỏ được lòng can trường của mình một lần nữa, Cây-búadũng-mãnh à. Tôi rất hài lòng về năng lực của anh.”
“Cảm ơn Tiểu thư.”
“Những người chữa trị giỏi nhất sẽ chăm sóc Martland, nhưng ông ấy vẫn cần thời gian để hồi phục từ những thương tích của mình. Nhưng kể cả khi đó, ông ấy cũng không thể chỉ đạo những trận đánh như thế này chỉ với một tay. Từ bây giờ, ông ấy sẽ phải phục vụ Varden từ đằng sau chiến tuyến, không phải đằng trước. Tôi nghĩ, có lẽ tôi sẽ thăng cấp và cho ông ấy làm cố vấn quân sự của tôi. Jörmundur, ông nghĩ sao về ý đó?”
“Tôi thấy đó là một ý tưởng xuất sắc, thưa Tiểu thư.”
Nasuada gật đầu, vẻ hài lòng. “Tuy nhiên, điều đó nghĩa là, tôi phải tìm đội trưởng khác cho anh phục vụ, Roran à.”
Roran liền nói, “Thưa Tiểu thư, thế còn đội quân của riêng tôi? Chẳng lẽ tôi chưa chứng tỏ được mình với sự hài lòng của Tiểu thư bằng hai trận đánh này sao, cũng như những thành tích quá khứ của tôi?”
“Nếu anh tiếp tục nổi bật như vậy, Cây-búa-dũng-mãnh, anh sẽ sớm có đội quân của riêng anh. Tuy nhiên, anh phải kiên nhẫn và chờ đợi thêm một thời gian. Chỉ hai nhiệm vụ, dù ấn tượng đến đâu, có thể vẫn chưa cho thấy một cái nhìn toàn diện về tính cách của một người. Tôi là người thận trọng trong việc giao phó người của tôi cho những người khác, Cây-búa-dũng-mãnh ạ. Trong chuyện này, anh phải theo ý tôi.”
Roran nắm chặt đầu cây búa giắt ở thắt lưng, gân và mạch máu nổi phồng trên tay, nhưng giọng nói anh vẫn giữ vẻ lịch sự. “Dĩ nhiên, thưa Tiểu thư Nasuada.”
“Rất tốt. Lát nữa một người phục vụ sẽ mang đến nhiệm vụ mới cho anh. Ồ, và nhớ lo liệu cho mình một bữa ăn ra trò khì anh và Katrina đã xong việc tổ chức mừng đoàn tụ. Đó là lệnh, Cây-búa-dũng-mãnh à. Nhìn anh như sắp đổ nhào đến nơi rồi.”
“Dạ, Tiểu thư.”
Khi Roran sắp sửa rời đi, Nasuada đưa một tay lên, nói, “Roran này.” Anh ngừng lại. “Vì anh đã đánh với những kẻ không biết đau đớn, anh có tin rằng có một sự bảo vệ khỏi đau đớn tương tự như thế sẽ làm cho việc hạ chúng dễ dàng hơn không?”
Roran lưỡng lự, rồi lắc đầu. “Sức mạnh của chúng chính là điểm yếu của chúng. Chúng không che chắn bản thân giống như khi sợ bị kiếm chém hay tên đâm, do đó chúng bất cẩn với chính mạng sống của mình. Đúng là chúng có thể đánh tiếp sau khi một người bình thường đã phải gục chết từ lâu, và đó không phải một lợi thế nhỏ trên chiến trường, nhưng chúng cũng vong mạng nhiều hơn, bởi vì chúng không bảo vệ thân thể mình như một điều nên làm. Trong sự tự tin tê liệt, chúng sẽ đi vào bẫy và những hiểm họa mà chúng ta phải làm mọi điều để tránh. Miễn là tinh thần của Varden giữ vững, tôi tin với những chiến thuật đúng đắn chúng ta có thể đánh bại những con quái thích cười đó. Nhưng, nếu chúng ta giống chúng, hai bên sẽ chặt chém nhau đến quên lãng luôn, mà chẳng bên nào thèm quan tâm, vì chúng tôi đâu có suy nghĩ giữ gìn thân mình. Đó là suy nghĩ của tôi.”
“Cảm ơn anh, Roran.”
Khi Roran đi rồi, Saphira nói, Vẫn chưa có tin gì của Eragon?
Nasuada lắc đầu. “Chưa, vẫn chưa có gì, và sự im lặng của anh ta bắt đầu làm tôi thấy lo. Nếu trước ngày mốt anh ta vẫn không liên lạc, tôi sẽ nhờ Arya gửi tin nhắn đến một pháp sư của Orik yêu cầu phản hồi của anh ta. Nếu Eragon không thể đẩy nhanh kết thúc cuộp họp các bộ tộc người lùn, thì tôi e ta không thể trông cậy vào người lùn như đồng minh trong những trận đánh sắp tới. Điều tốt duy nhất của kết quả tai hại đó là Eragon có thể về với chúng ta mà không phải trì hoãn lâu hơn.”
Khi Saphira chuẩn bị rời khỏi cái lều-nhộng-đỏ, Blödhgarm lại triệu hồi bóng ma Eragon và đặt nó lên lưng Saphira. Saphira rút đầu ra khỏi lều, và như nó đã làm trước đó, lao xuyên qua khu trại, các thần tiên uyển chuyển giữ đều bước với nó trên suốt đoạn đường.
Khi nó đã tới lều của Eragon và cái bóng-màu-của-Eragon biến mất trong đó, Saphira hạ mình xuống đất và cam chịu chờ đợi thời gian còn lại của ngày trôi qua trong sự buồn tẻ đơn điệu. Tuy vậy, trước khi miễn cưỡng chợp mắt tiếp, nó mở rộng tâm trí về phía lều của Roran và Katrina và nhấn vào tâm trí Roran cho đến khi anh ta hạ hàng rào quanh ý thức của mình xuống.
Saphira à? anh hỏi.
Chứ anh còn biết ai như em nữa à?
Dĩ nhiên là không. Chỉ là em làm anh ngạc nhiên. Anh… à, hơi bận một chút vào lúc này.
Cô ả nghiên cứu màu sắc cảm xúc của anh, cũng như của Katrina, và khoái chí với phát hiện của mình. Em chỉ muốn chào mừng anh quay về. Em mừng vì anh không bị thương.
Suy nghĩ của Roran nháng lên nóng-lạnh-bối-rối, và có vẻ anh gặp khó khăn trong việc tổ chức một câu trả lời mạch lạc. Cuối cùng, anh nói, Em thật tử tế, Saphira.
Nếu anh có thể, hãy ghé chỗ em vào ngày mai, chúng ta có thể nói chuyện thật lâu. Em không thể chịu được cứ phải ngồi đây hết ngày này đến ngày khác. Anh có thể kể em nghe nhiều hơn về Eragon như thế nào trước khi em nở ra cho anh ấy.
Đó… đó là vinh dự của anh.
Hài lòng vì đã thực hiện yêu cầu của phép xã giao tai-tròn-hai-chân bằng việc chào đón Roran, và phấn khởi vì biết ngày tiếp theo sẽ không quá nhàm chán nữa – vì không thể nghĩ ra kẻ nào lại dám lờ đi đề nghị yết kiến của nó – Saphira cố cảm thấy thoải mái nhất có thể trên nền đất trần, ao ước – như nó vẫn thường làm – có được cái tổ mềm mại trong ngôi-nhà-cây-đu-đưa-gió của Eragon ở Ellesméra. Một luồng khói thoát ra khi ả thở dài và ngủ thiếp đi, mơ thấy mình bay cao hơn bất cứ lần bay nào trước đây.
Nó vỗ cánh và cứ vỗ cánh cho đến khi vượt lên trên những đỉnh núi không thể với tới của rặng Beor. Nó lượn vòng ở đó một lúc, nhìn xuống toàn thể Alagaësia đang nằm bên dưới nó. Rồi một ham muốn không thể kìm nén được khiến nó muốn leo lên cao hơn nữa để xem nó có thể thấy những gì, và thế là nó lại bắt đầu vỗ cánh, và tưởng chừng như trong một cái chớp mắt, nó bay vút lên vượt qua mặt trăng ngời sáng, cho đến khi chỉ còn lại nó và những ngôi sao bạc treo trên nền trời đen. Nó lững lờ trôi giữa những khoảng trời trong một khoảng thời gian mơ hồ, nữ hoàng của thế giới rạng rỡ như đá quý bên dưới, nhưng rồi lo lắng len vào tâm hồn nó, và nó gào lên bằng suy nghĩ của mình:
Eragon, anh ở đâu!
Chương 33: Hôn Anh Ngọt Ngào
Sau khi thức dậy, Roran nhấc mình rời khỏi vòng tay trơn tru của Katrina rồi cởi trần ngồi xuống cạnh chiếc giường hai vợ chồng nằm chung. Anh ngáp và dụi mắt, sau đó ngắm nhìn ánh sáng lò sưởi bập bùng le lói bên hai nếp cửa, cảm thấy cả người đờ đẫn mụ mị từ những mệt mỏi tích lũy bao lâu nay. Một cảm giác ớn lạnh len vào người anh, nhưng anh vẫn ở nguyên một chỗ, không nhúc nhích.
"Roran?" Katrina hỏi bằng giọng còn ngái ngủ. Cô chống một tay ngồi dậy và dùng tay kia với tới anh. Anh không phản ứng gì khi cô chạm vào người, tay cô vuốt khắp lưng trên của anh, xoa xoa cần cổ. "Ngủ đi. Anh cần phải nghỉ ngơi. Không bao lâu nữa là anh lại phải ra đi rồi."
Anh lắc đầu, không nhìn lấy cô.
"Chuyện gì vậy?" cô hỏi. Cô ngồi thẳng người, kéo một tấm chăn lên đắm qua vai anh, sau đó tựa vào người anh, gò má ấm áp của cô kề sát tay anh. "Anh vẫn còn lo về người đội trưởng mới hay lo không biết tiểu thư Nasuada sẽ gởi anh đi đâu?"
"Không phải."
Cô im lặng một lúc. "Mỗi lần anh ra đi, em cảm thấy như bản thân anh trở vê với em ít đi. Anh đã trở nên nhẫn tâm và trầm lặng hơn… Nếu anh muốn nói cho em biết chuyện gì khiến anh phiền muộn, thì anh có thể mà,
không cần biết là dễ sợ đến cỡ nào. Em là con của ngưòi hàng thịt, và ngay cả em cũng đã từng thấy bao nhiêu chiến binh tử trận xa trường."
"Muốn!" Roran hét lên, lời nói nghẹn trong cổ. "Anh không bao giờ muốn nghĩ về chuyện này nữa." Anh nắm chặt tay, hơi thở thất thường. "Một chiến sĩ chân chính sẽ không biết tới những thứ anh cảm nhận."
"Một chiến sĩ chân chính," cô nói, "không cần phải chiến đấu vì lý tưởng nhưng chỉ làm thế vì họ phải làm thôi. Một người mà khát khao chiến tranh, một người mà hưởng thụ cảm giác giết chóc, hắn ta là một kẻ tàn bạo, một con quái vật. Không cần biết hắn có được bao nhiêu vinh quang trong chiến trường, điều đó không thể xoá đi sự thật rằng hắn không khá hơn một con sói dại sẵn sàng quay mình cấu xé bạn bè gia đình cũng như đối với kẻ thù." Cô vuốt tóc đang xoả ngang mắt anh sang một bên và nhịp lên đầu anh, nhẹ và chậm. "Anh từng nói với em rằng ‘Bài hát của Gerand’ là câu chuyện anh thích nhất về Brom, rằng đấy chính là lý do anh chiến đấu với cây búa thanh vì lưỡi kiếm. Anh còn nhớ Gerand ghét giết chóc tới cỡ nào hay không và ông ta miễn cưỡng thế nào khi phải cầm lại vũ khí?"
"Ài."
"Vậy mà ông ta vẫn được con là chiến sĩ dũng mãnh nhất trong lứa của ông ta." Cô ôm lấy hai gò má của anh vào tay và xoay mặt anh khiến anh bị ép phải nhìn thẳng vào cặp mắt nghiêm nghị của cô. "Và anh là người chiến sĩ dũng mãnh nhất mà em được biết, Roran, ở đây hay ở bất kỳ nơi nào."
Anh cảm thấy miệng khô đi, nói: "Còn Eragon hay…"
"Họ không có được nửa phần dũng cảm như anh. Eragon Murtagh, Galbatorix, những người lùn… tất cả bọn họ tham chiến với thần chú trong miệng và năng lực manh mẽ hơn anh nhiều. Nhưng anh…" cô hôn lên mũi anh, "anh chỉ là một người tầm thường. Anh đối diện với kẻ thù bằng hai chân. Anh không phải là pháp sư, vậy mà vẫn vặn được cặp anh em sinh đôi. Anh chỉ nhanh và mạnh như một người bình thường, vậy mà vẫn không lẩn trốn lần tấn công đám Ra’zac trong hang ổ bọn chúng và cứu em thoát khỏi ngục tù của bọn họ."
Anh nuốt ực một tiếng: "Lúc đó anh được bùa bảo hộ của Eragon bảo vệ."
"Nhưng cái đó cũng không còn nữa. Hơn nữa, anh không có gì bảo hộ lúc ở làng Carvahall, lúc đó anh có trốn né tụi Ra 'zac không?" Khi anh ta không trả lời, cô nói: "Anh không hơn gì một người tầm thường, nhưng anh đã làm những chuyện mà ngay cả Eragon hay Murtagh cũng không làm được. Với em, những điều đó khiến anh trở thành người chiến sĩ dũng mãnh nhất Alagaësia… Em không thể nghĩ ra ai khác ở làng Carvahall có thể tốn bao nhiêu công sức vậy như anh đã làm để cứu em."
"Cha em cũng sẽ làm được như vậy." anh ta nói.
Anh cảm nhận được cô run rẩy bên anh, "Đúng vậy, cha có thể làm được." cô thì thầm, "nhưng cha sẽ không bao giờ có khả năng thuyết phục mọi người đi theo như anh được." Cô ôm chặc lấy anh hơn. "Bất cứ anh đã thấy hoặc đã làm chuyện gì, anh vẫn còn có em."
"Đó là tất cả mà anh muốn có." Anh nói rồi sau đó ôm lấy cô vào lòng một hồi lâu. Qua một chút, anh thở dài: "Mặc dù vậy, anh ước mong là cuộc chiến này đã được kết thúc. Anh ước mong có thể về cày ruộng lại, gieo giống và gặt hái mùa vụ sau khi đã chín bông. Nghề nông tuy cơ cực, nhưng ít nhất cũng là lao động chân thật. Chuyện giết chóc thế này không thể tính là chân thật. Đó chính là trộm cướp… trộm cướp nhân mạng, và không có người tâm tình bình thường nào mong đợi."
"Đúng như em nói."
"Đúng như em nói." Dù có chút khó khăn, anh cũng ráng mỉm cười. "Anh đã đánh mất bản thân. Lại còn đem buồn phiền trút lên người em trong khi em cũng có đủ chuyện phải lo." Rồi anh lấy ta đặt lên bụng bầu tròn trĩnh của cô.
"Buồn phiền của anh cũng đã coi như là buồn phiền của em kể từ khi chúng ta cưới nhau." Cô thì thầm và rúc vào tay anh.
"Chuyện phiền thế này," anh nói, "không ai phải chịu đựng cả, đặc biệt là đối với những người mình thương yêu." Cô kéo người khỏi anh một chút và anh thấy ánh mắt cô trở nên ảm đạm thờ ơ, giống như mỗi khi cô nghiền ngẫm lại khoảng thời gian tù đày tại Helgrind. "Không," cô thì thào, "có nhiều chuyện phiền phức không ai cần phải chịu đựng cả."
"À, đừng buồn nữa." Anh kéo cô lại gần hơn, cả hai đung đưa, trong lòng thầm nghĩ ước gì Eragon chưa từng kiếm được viên trứng Saphira kia ở núi Spine. Sau một hồi khi Katrina đã thả lỏng người trong vòng tay anh và anh cũng không còn thấy căng thẳng nữa, anh vuốt ve đường cong ở cổ cô, "Lại đây, hãy cho anh một nụ hôn ngọt ngào, rồi chúng ta trở về giường, anh đã mệt rồi và cũng muốn ngủ một giấc.
Cô phá lên cười rồi trao cho anh một nụ hôn ngọt ngào nhất, rồi họ nằm bên nhau như cũ, ngoài lều vẫn tĩnh lặng ngoại trừ tiếng của dòng sông Jiet chảy qua khu trại, không ngừng nghỉ, tràn ngập vào những giấc mơ của Roran, nơi mà anh tưởng tượng ra cảnh bản thân đứng trước mũi thuyền, Katrina bên cạnh, cùng nhau nhìn vào cuống
họng của đại dương, Mắt Lợn Lòi.
Rồi anh nghĩ, làm sao có thể hy vọng trốn thoát?
CHƯƠNG 34 : GLUMRA
Hàng trăm feet dưới Tronjheim, tảng đá mở ra 1 cái hang động sâu hàng nghìn feet dẫn tới 1 hồ màu đen tĩnh lặng 1 bên không biết sâu bao nhiêu,bờ bên kia là đá cẩm thạch. Những nhũ đá màu nâu, hơi ngà ngà nhỏ giọt trên trần hang, trong khi những nhũ đã khác mọc lên từ nền hang, tạo thành cột hình trụ phình to, dày hơn cả những cây lớn nhất ở Du Weldenvarden. Rải rác trên các cột nhũ là những ụ nấm to như những cái lều đá loại thấp cho từ 3 đến 20 người ở.ngọn lửa không bao jờ tắt từ những chiếc đèn chihếu ánh sáng đỏ rực của sắt lên mỗi cánh cửa gần đó.bóng tối phủ kín khoảng đất đằng sau mấy cái đèn.
bên trong 1 cái lều, Eragon ngồi trên cái ghế dường như quá nhỏ cho nó, bên cạnh cái bàn bằng đá granite cũng không cao hơn đầu của nó. Mùi của phó-mát dê loại mềm, những miếng nấm mỏng, men rượu, thịt hầm, trứng chim bồ câu, bụi than tràn ngập trong không khí. Ngồi đối diện nó, Glûmra,, 1 phụ nữ người lùn thuộc Gia Đình Mord, bà ta là mẹ của Kvîstor, cận vệ thân cận của Eragon, đang rên rỉ và lấy nắm tay đấm vào ngực mà than khóc. Nước mắt của bà sáng long lanh trên khuôn mặt tròn trĩnh.
2 người bọn nó ngồi 1 mình trong lều. 4 cận vệ mới của Eragon- được Thrand bổ sung, bao gồm 1 chiến binh từ đoàn tùy tùng của Orik- đang đợi bên ngoài, cùng với Hûndfast, thông dịch viên, người mà Eragon đã cho ra ngoài lều khi nó biết là Glûmra có thể nói tiếng của nó.
Ngay sau vụ mưu hại nó, Eragon đã liên lạc với Orik bằng tinh thần, và rồi Orik nài nỉ nó chạy thật nhanh đến những căn phòng dưới Ingeitum, nơi mà nó thật sự an toàn tránh khỏi bất kì vụ ám sát nào khác. Eragon nghe theo, và hiện jờ nó vẫn đang ở đây, trong khi Orik ra lệnh hoãn cuộc họp bộ tộc lại đến sáng ngày mai, trên mặt đất tình trạng khẩn cấp được ban bố nên sự quyết định nhanh chóng của ông là cần thiết. Sau đó Orik cùng với những chiến binh dũng mãnh nhất và những phù thủy lão luyện nhất, đến địa điểm phuc kích, rồi bọn họ xem xét và ghi chép lại bằng cả 2 cách, phép thuật và phi phép thuật. Sau khi đã hài lòng về những jì tìm hiểu được, Orik nhanh chóng chạy về căn hầm của nó, và nói với eragon, “ chúng tôi có nhiều việc để làm nhưng có wá ít thời gian để hoàn thành chúng. Trước khi buổi họp bộ tộc bắt đầu lại vào giờ thứ 3 của buổi sáng ngày mai, chúng ta phải tìm ra tất cả sự nghi ngờ về kẻ đã ra lệnh ám sát. Nếu chúng ta làm được, chúng ta sẽ có thể sử dụng chúng để chống lại kẻ thù, Nếu không, chúng ta sẽ bị động trong bóng tối, đối với kẻ địch. Chúng ta chỉ có thể giữ bí mật vụ ám sát đến cuộc họp bộ tộc, không thể lâu hơn. Knurlan đã nghe được tiếng đánh nhau của ngài vang khắp đường hầm dưới Tronjheim, mặc dù thế, tôi biết bọn họ sẽ tìm khiếm nguyên nhân của sự náo loạn, e rằng có thể có sự sụp đổ, hoặc những tai họa tương tự vậy xảy ra, tàn phá thành phố ngay trên đầu chúng ta.”. Orik giậm đôi chân và nguyền rủa tổ tiên bất cứ người nào đã gửi tên thích khách đến, rồi ông chống tay lên hông và nói :” 1 cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc đã đang đe dọa chúng tôi rồi, nó đang đứng trước ngưỡng cửa. chúng ta phải nhanh chóng di chuyển nếu chúng ta muốn ngăn chặn định mệnh nghiệt ngã này. Knurlan đang tìm kiếm chúng ta, câu hỏi cần được trả lời, lời đe dọa phải đáp trả, vật hối lộ cần cung cấp, và cuộn giấy phải đánh cắp – và tất cả phải làm trước buổi sáng ngày mai !”
“ còn tôi thì sao ?” Eragon hỏi.
“ ngài vẫn nên ở đây chho đến khi chúng ta biết Az Sweldn rak Anhûin hay các bộ tộc khác có 1 lực lượng lớn ở đâu đó muốn giết ngài. Hơn nữa, chúng ta giấu kín vụ mưu sát ngài và chuyện ngài còn sống đã chết hay bị thương càng lâu, thì kẻ tấn công càng không chắc chắn lắm về sự an toàn của hắn.
Ban đầu, Eragon đồng ý với đề xuất của Orik, nhưng sau khi nhìn những người lùn hối hả bàn tán, nó cảm thấy sự khó khăn và bất lực tăng dần lên. Cuối cùng, nó chộp lấy Orik và nói : “ nếu tôi phải ngồi đây, nhìn chòng chọc vào bức tường này trong khi các ông tìm kẻ gây ra zụ này, thì tôi sẽ nghiến răng trèo trẹo mất.(--> khúc này khó dịch cực (+.+)
Phải có cái jì đó để tôi làm giúp các ông chứ… còn Kvîstor thì sao? chúng ta phải làm jì đó cho gia đình của anh ta ở Tronjheim này chứ? Có ai nói cho bọn họ về cái chết của anh ta chưa? Bởi vì nếu chưa, tôi sẽ là người đưa tin tức đó, vì bảo vệ tôi, anh ấy đã chết.”
Orik hỏi cận vệ của ông, và từ bọn họ, ông biết là quả thực ở Tronjheim, Kvîstor có gia đình , và chính xác hơn là ở bên dưới Tronjheim. Nghe xong, Orik cau mày và lẩm bẩm 1 từ kì quặc với Dwarvish. “bọn họ là những người rất khó hiểu”, ông nói, “ Knurlan là người đã từ bỏ mặt đất để xuống thế giới dưới lòng đất, ngoại trừ 1 vài lần cướp bóc trên mặt đất. Rất nhiều trong số bọn họ sống ở đây, dưới Tronjheim và Farthen Dûr hơn bất kì nơi bào khác, bởi vì bọn họ có thể thoát ra khỏi Farthen Dûr và không thể chắc chắn rằng bọn họ có ở bên ngoài hay ko, vì hầu hết bọn họ không thể sinh sản, bọn họ đã làm wen với việc giảm không gian sinh sống. Tôi không biết là Kvîstor cũng thuộc số đó.” ( hix chỗ này đọc khó hiểu thiệt áh._>.<)
“ Ông có phiền nếu tôi đi thăm gia đình của anh ta ko?” Eragon hỏi.” trong những phòng này, có những bậc thang
dẫn xuống dưới, đúng ko? Chúng ta có thể đi mà không bị ai phát hiện.”
Orik suy nghĩ trong giây lát, rồi gật đầu.” ngài nói đúng. Con đường đủ an toàn, và không 1 ai sẽ nghĩ rằng sẽ tìm thấy ngài giữa những người kì bí đó.bọn chúng sẽ đến đây đầu tiên, rồi từ đây chúng sẽ phải tìm cách khác để truy tìm ngài… Hãy đi, và đừng way trở lại cho đến khi tôi gửi thông điệp tới ngài, cho dù Gia Đình Của Mord có xua đuổi ngài đi chăng nữa, thì ngài cũng phải ngồi trên 1 tảng măng đá cho đến khi trời sáng. Nhưng, Eragon, ngài phải cẩn thận; những người kì bí đó giữ kín lòng họ, và bọn họ rất coi trọng danh dự của bộ tộc, và bọn họ có những phong tục riêng rất kì lạ. Bước đi cẩn thận, bởi vì ngài đang đứng trên những tảng đá phiến sét mục,eh?” Và vì thế, cùng với cận vệ Thrand bổ sung, và Hûndfast đi cùng, Eragon- với 1 cây kiếm của người lùn dắt vào thắt lưng-tiến đến cầu thang dẫn xuống dưới gần nó nhất, và đi vào đó, nó tiến xuống sâu hơn vào lòng đất mà trước jờ nó chưa từng đặt chân đến. và đến đúng lúc thích hợp, nó báo tin cho Glûmra về cái chết của Kvîstor, vá nó ngồi xuống lắng nghe bà than khóc về đứa con xấu số của mình, xen lẫn trong đó là tiếng gào thét đứt đoạn, không rõ tiếng của Dwarvish, âm điệu rất chói tai và rùng rợn.
Lúng túng vì cường độ nỗi đau của bà ta, Eragon liếc mắt ra khỏi khuôn mặt bà. Nó nhìn cái bếp lò bằng đá màu lục đứng dựa vào một bức tường và những vết khắc mòn vẹt mô tả các mẫu hình vẽ trang trí các cạnh. Nó xem xét tấm thảm màu nâu và lục trải trước lò sưởi, thùng đánh kem ở góc, và thực phẩm dự trữ treo thòng xuống từ xà nhà. Nó nhìn chằm chằm một khung dệt vải bằng gỗ nặng đứng dưới một cửa sổ tròn với kính bằng thủy tinh màu hoa oải hương.
Rồi, than khóc đến đỉnh điểm, Glûmra lôi kéo ánh mắt Eragon khi bà đứng dậy khỏi cái bàn, đến chỗ bàn bếp, và đặt bàn tay trái lên cái thớt. Trước khi Eragon kịp ngăn lại, bà ta lấy ra một con dao lạng thịt và cắt đứt một lóng ngón tay út của mình. Bà ta rên rỉ và kêu to gấp đôi.
Eragon bật dậy nửa chừng với một tiếng kêu không chủ ý. Nó thắc mắc cơn loạn trí nào đã khiến bà lùn mất tự chủ và liệu nó có nên cố kìm nén bà ta không, sợ rằng bà ta sẽ tự gây thêm thương tích cho bản thân. Nó mở miệng định hỏi liệu bà ta có muốn nó chữa trị vết thương không, nhưng rồi nó đổi ý, nhớ lại những lời cảnh báo của Orik về những tục lệ kỳ quặc của những cư dân dưới lòng đất và ý thức mạnh mẽ về danh dự. Bà ta có thể sẽ coi lời đề nghị là một sự sỉ nhục, nó nhận ra. Ngậm miệng lại, nó lại ngồi xuống cái ghế nhỏ quá cỡ của mình.
Sau một lát, Glûmra ngồi thẳng lại, hít sâu một hơi, rồi lặng lẽ và điềm tĩnh rửa sạch đầu ngón tay chảy máu của mình bằng rượu mạnh, bôi lên đó một thứ thuốc mỡ màu vàng, và băng bó vết thương. Khuôn mặt tròn vành vạnh vẫn còn tái nhợt vì cú sốc, bà ngồi vào cái ghế đối diện Eragon. “Tôi cảm ơn cậu, Khắc-tinh của Tà-thần, vì đã đích thân mang đến cho tôi tin tức về số phận đứa con tôi. Tôi mừng vì biết nó đã chết một cách kiêu hãnh, một chiến binh cần phải vậy.”
“Ông ấy là người can đảm nhất,” Eragon nói. “Ông ấy có thấy rằng kẻ thù nhanh nhẹn như thần tiên, nhưng ông ấy vẫn xông tới để bảo vệ tôi. Sự hi sinh của ông ấy cho tôi thời gian để tránh những lưỡi dao, đồng thời để lộ sự nguy hiểm của bùa phép mà chúng yểm lên vũ khí. Nếu không có hành động của ông, tôi không nghĩ hiện giờ tôi có thể ở đây.”
Glûmra chậm rãi gật đầu, mắt nhìn xuống, vuốt phẳng mặt trước áo váy. “Cậu có biết ai đứng sau cuộc tấn công này không, Khắc-tinh của Tà-thần?”
“Chúng tôi chỉ nghi ngờ thôi. Grimstborith Orik đang cố xác minh sự thật ngay lúc chúng ta trò chuyện.”
“Có phải là Az Sweldn rak Anhûin?” Glûmra hỏi, phỏng đoán sắc sảo của bà khiến Eragon ngạc nhiên. Nó cố hết sức che đậy phản ứng của mình. Trong lúc nó im lặng, bà nói, “Tất cả chúng tôi đều biết mối huyết thù của chúng đối với cậu, Argetlam; mọi knurla trong dãy núi này đều biết. Vài người trong chúng tôi đã ủng hộ sự chống đối của chúng, nhưng nếu chúng thực sự tính đến chuyện giết cậu, thì chúng đã tính lầm hướng của đá và đã tự kết tội mình vì điều đó.”
Eragon nhướn một bên lông mày, chăm chú. “Kết tội? Như thế nào?”
“Chính là cậu, Khắc-tinh của Tà-thần, đã kết liễu Durza, do đó giúp chúng tôi bảo vệ Tronjheim và sự sống bên dưới thoát khỏi nanh vuốt của Galbatorix. Chủng tộc chúng tôi sẽ không bao giờ quên điều đó khi mà Tronjheim vẫn còn đứng vững. Và có lời đồn từ các đường hầm rằng rồng của cậu sẽ khôi phục lại Isidar Mithrim?”
Eragon gật đầu.
“Cậu thật tốt, Khắc-tinh của Tà-thần. Cậu đã làm nhiều điều cho chủng tộc chúng tôi, và dù bất cứ tộc nào đã tấn công cậu, chúng tôi sẽ chống lại chúng và báo thù.”
“Tôi đã thề trước các nhân chứng,” Eragon nói, “và tôi thề với bà nữa, rằng tôi sẽ trừng trị bất cứ kẻ nào đã phái những tên sát nhân đâm sau lưng đó tới và tôi sẽ buộc chúng phải ước chưa bao giờ nghĩ ra một việc làm bẩn thỉu đến vậy. Tuy nhiên –”
“Cảm ơn cậu, Khắc-tinh của Tà-thần.”
Eragon lưỡng lự, rồi cúi đầu. “Tuy nhiên chúng tôi không được phép làm bất cứ điều gì có thể dẫn động chiến tranh thị tộc. Không phải lúc này. Nếu phải dùng đến vũ lực, chính Grimstborith Orik sẽ quyết định khi nào và ở đâu chúng tôi phải rút kiếm, bà đồng ý chứ?”
“Tôi sẽ nghĩ về những điều cậu nói, Khắc-tinh của Tà-thần,” Glûmra đáp. “Orik…” Điều bà ta định nói tiếp nghẹn lại trong miệng bà. Mí mắt dày của bà ta sụp xuống và bà ta nghiêng ra trước một lát, nhấn bàn tay thương tật lên bụng. Khi cơn đau qua đi, bà đứng thẳng dậy và áp mu bàn tay lên má bên kia và lắc lư sang hai bên, than van, “Ôi, con trai tôi… con trai đẹp đẽ của tôi.”
Đứng dậy, bà lảo đảo đi vòng qua cái bàn, hướng về phía một bộ sưu tập nhỏ gồm kiếm và rìu gắn trên tường sau lưng Eragon, bên cạnh là một hốc tường phủ một tấm màn lụa đỏ. Sợ bà ta định gây thêm thương tích cho bản thân, Eragon bật dậy, hất đổ nhào cái ghế gỗ sồi trong cơn hấp tấp. Nó với đến chỗ bà ta, rồi nhận ra bà ta đang đi về phía hốc tường phủ vải, chứ không phải đám vũ khí, và nó giật tay mình về trước khi mạo phạm.
Những cái khoen bằng đồng thau khâu ở mép trên mảnh lụa va vào nhau lách cách khi Glûmra dẹp mảnh lụa sang một bên, làm lộ ra một cái kệ sâu, bị che khuất, chạm khắc những dấu hiệu và hình thù chi tiết đến kinh ngạc, Eragon nghĩ nó có thể ngắm nhìn hàng giờ mà vẫn không thể nắm bắt được chúng trọn vẹn. Trên cái kệ thấp là tượng sáu vị thần lớn của người lùn, cùng với chín thực thể khác mà Eragon không nhận ra, tất cả được chạm trổ với những đường nét và tư thế được cường điệu hóa nhằm truyền đạt hiệu quả hơn những đặc tính của hình tượng được miêu tả.
Glûmra lấy ra một cái bùa bằng vàng và bạc từ lớp áo lót, hôn lên nó rồi áp nó vào chỗ hõm ở cổ họng mình khi bà quỳ xuống trước hốc tường. Giọng thăng giáng trong những đoạn nhạc kì lạ của người lùn, bà bắt đầu ngâm nga một khúc ai ca bằng ngôn ngữ của mình. Giai điệu làm mắt Eragon nhỏ lệ. Trong vài phút, Glûmra hát, rồi chìm vào im lặng và tiếp tục nhìn chằm chằm những bức tượng nhỏ, và khi bà nhìn chúng, những đường nét trên khuôn mặt bị đau buồn tàn phá của bà dịu đi. Và nếu trước đó trên mặt bà Eragon chỉ thấy có giận dữ, đau khổ, và tuyệt vọng, thì giờ đây lại mang một khí sắc chấp nhận điềm tĩnh, sự thanh thản, cùng một vẻ siêu nghiệm uy nghi. Một ánh sáng êm dịu dường như tỏa ra từ nét mặt bà. Khi sự biến đổi của Glûmra hoàn tất, Eragon gần như không nhận ra bà ta.
Bà nói, “Tối nay Kvîstor sẽ dùng bữa trong lâu đài của Morgothal. Tôi biết điều đó.” Bà hôn cái bùa một lần nữa. “Tôi ước tôi có thể ăn cùng nó, cùng với chồng tôi, Bauden, nhưng mà vẫn chưa đến lúc tôi được nghỉ ngơi trong hầm mộ của Tronjheim, và Morgothal từ chối cho những ai đẩy nhanh hành trình của mình vào lâu đài của ngài. Nhưng dù sớm hay muộn, gia đình tôi sẽ lại đoàn tụ, cùng với tất cả những tổ tiên của chúng tôi từ khi Gûntera sáng tạo ra thế giới từ bóng tối. Tôi biết điều đó.”
Eragon quỳ xuống cạnh bà, giọng khàn khàn, nó hỏi, “Làm sao bà biết?”
“Tôi biết vì nó là như thế.” Cử động chậm rãi và kính cẩn, Glûmra chạm đầu ngón tay vào những bàn chân chạm trổ của những ông thần. “Làm sao có thể khác được? Bởi vì thế giới, cũng như một lưỡi gươm hay một chiếc mũ giáp, không thể tự tạo ra nó, và bởi những đấng duy nhất đủ năng lực để tạo hình cho cõi trần và thiên đường là những đấng quyền năng siêu phàm, cho nên chúng ta phải tìm kiếm câu trả lời ở những vị thần. Tôi tin tưởng giao phó cho họ sự công bằng của thế giới, và nhờ niềm tin của tôi, tôi giải phóng con người tôi khỏi gánh nặng của xác thịt tôi.”
Bà nói với một sự tin tưởng đến mức, Eragon đột nhiên cảm thấy muốn được chia sẻ niềm tin với bà ta. Nó ao ước được quẳng sang một bên những ngờ vực và sợ hãi của mình để biết rằng, đôi lúc dù thế giới có thể xấu xa đến đâu, cuộc sống cũng không phải chỉ đơn thuần là hỗn loạn. Nó ao ước được biết chắc rằng cuộc đời nó sẽ không chấm dứt ngay cả khi một thanh kiếm chặt lìa đầu nó và rằng một ngày nó sẽ được gặp lại ông Brom, cậu Garrow, và mọi người khác mà nó đã quan tâm và đã đánh mất. Một khát khao dữ dội được hy vọng và an ủi tràn ngập trong nó, khiến nó rối loạn, để lại nó chấp chới trên bề mặt quả đất.
Còn lúc này.
Một phần trong nó do dự không cho phép nó tự giao mình cho những vị thần người lùn và trói buộc nhân dạng và ý thức về phúc lợi của mình vào một thứ mà nó không hiểu. Nó cũng thấy khó khăn khi phải thừa nhận rằng nếu các vị thần thực sự tồn tại, thì những vị thần người lùn là duy nhất. Eragon chắc chắn là nếu nó hỏi Nar Garzhvog hay một thành viên của những bộ lạc du mục, hay thậm chí là những linh mục áo đen của Helgrind, rằng thần của họ có thật hay không, họ cũng sẽ tán dương uy thế những vị thần của họ một cách sôi nổi y như Glûmra vậy.
Mình phải làm sao để biết tín ngưỡng nào là tín ngưỡng đích thực? nó tự hỏi. Chỉ vì một ai đó theo một đức tin nào đó không nhất thiết có nghĩa đó là con đường đúng…. Có lẽ không một tín ngưỡng nào chứa đựng toàn bộ sự thực về vạn vật. Có lẽ mỗi tín ngưỡng chứa đựng một mảnh rời của sự thực và trách nhiệm của chúng ta là nhận biết những mảnh rời đó và hợp nhất chúng lại. Hoặc có lẽ những thần tiên đã đúng và không hề có thần. Nhưng làm sao mình biết chắc?
Thở dài thật dài, Glûmra lẩm nhẩm mấy từ bằng tiếng Người lùn, rồi đứng dậy và kéo tầm màn lụa phủ lên hốc tường. Eragon cũng đứng dậy, nhăn mặt khi những cơ bắp đau nhức vì trận chiến giãn ra. Nó theo bà đến chỗ cái bàn, rồi ngồi lại vào ghế. Từ một tủ đá đặt trong tường, bà lùn lấy ra hai cái vại thiếc, rồi lấy ra hai túi đầy rượu treo trên trần và rót ra cho cả bà và Eragon. Bà đưa vại của mình lên và phát biểu một lời nâng cốc uống mừng bằng tiếng Người lùn, mà Eragon cố gắng bắt chước, rồi họ uống.
“Thật là tốt,” Glûmra nói, “khi biết rằng Kvîstor vẫn sống tiếp, khi biết rằng ngay lúc này nó được khoác áo choàng hợp với một ông vua trong khi hưởng thụ bữa tiệc tối trong lâu đài của Morgothal. Cầu mong nó giành được nhiều vinh quang khi phục vụ các vị thần!” và bà lại uống.
Khi nó đã uống cạn, Eragon định chào từ biệt Glûmra, nhưng bà khoát tay ngăn nó. “Cậu có chỗ ở chưa, Khắctinh của Tà-thần, an toàn khỏi những kẻ muốn giết cậu?” Eragon liền nói với bà việc nó phải ẩn mình bên dưới Tronjheim cho đến khi Orik gửi người đưa tin đến. Glûmra gật đầu với một cái giật cằm gọn và dứt khoát, nói, “Vậy thì cậu và người của cậu phải đợi ở đây cho đến khi sứ giả đến, Khắc-tinh của Tà-thần à. Tôi nhất quyết như thế.” Eragon bắt đầu phản đối, nhưng bà lắc đầu. “Tôi không thể để những người đã chiến đấu cùng con trai tôi phải chờ mòn mỏi trong mấy cái hang vừa ẩm vừa tối khi mà tôi vẫn còn sự sống trong xương của tôi. Cho gọi người của cậu đi, chúng ta sẽ ăn và vui vẻ trong buổi tối ảm đạm này.”
Eragon nhận ra nó không thể rời đi mà không làm Glûmra phật ý, nên nó gọi mấy người lính và người phiên dịch của nó. Họ cùng nhau giúp Glûmra chuẩn bị bữa tối gồm bánh mì, thịt, bánh nướng, và khi mọi thứ đã xong, bọn họ cùng ăn uống và nói chuyện đến tối muộn. Glûmra đặc biệt sôi nổi; bà uống nhiều nhất, cười lớn nhất, và luôn luôn là người đầu tiên đưa ra những nhận xét hóm hỉnh. Ban đầu Eragon bị sốc vì cách cư xử của bà, nhưng rồi nó nhận thấy những nụ cười của bà không bao giờ với tới đôi mắt bà, và khi bà nghĩ không có ai nhìn, niềm vui rút khỏi gương mặt bà và biểu hiện của bà lại trở nên u sầu và tĩnh lặng. Làm cho họ vui lòng, nó nghĩ, là cách mà bà tổ chức kỷ niệm cho ký ức về con trai bà, cũng như để chống đỡ nỗi thương tiếc trước cái chết của Kvîstor.
Tôi chưa bao giờ gặp ai giống như bà trước đây, nó nghĩ khi nó quan sát bà ta.
Rất lâu sau nửa đêm, ai đó gõ cửa căn chòi. Hûndfast mở ra một người lùn giáp trụ đầy đủ có vẻ cáu kỉnh và không thoải mái; ông ta cứ liếc về phía các cửa chính và cửa sổ và các góc tối. Với một tràng từ bằng cổ ngữ, ông ta thuyết phục Eragon rằng ông ta là người đưa tin của Orik, và ông ta nói, “Tôi là Farn, con trai của Flosi…. Thưa Argetlam, Orik yêu cầu cậu trở về với tất cả sự khẩn trương có thể. Ông ấy có những thông tin quan trọng nhất liên quan đến những sự kiện ngày hôm nay.”
Ở ngưỡng cửa, Glûmra tóm lấy cẳng tay trái của Eragon với những ngón tay như thép, và khi nó nhìn xuống đôi mắt cứng rắn của bà, bà nói, “Hãy nhớ lời thề của cậu, Khắc-tinh của Tà-thần, và đừng để những tên sát hại con trai tôi thoát khỏi sự trừng phạt!”
“Tôi sẽ không quên,” nó hứa.
Chương 35: HỘI ĐỒNG THỊ TỘC
Những người lùn canh gác bên ngoài khu phòng của Orik mở toang cánh cửa đôi dẫn vào trong khi Eragon bước về phía họ.
Lối vào trước mặt dài và trang trí lộng lẫy, có ba ghế ngồi hình tròn bọc vải đỏ xếp thành một hàng kéo xuống giữa phòng. Những tấm rèm thêu trang trí các bức tường, cùng những ngọn đèn không lửa ở khắp nơi, trong khi trần nhà được khắc chạm để mô tả một trận chiến lừng danh trong lịch sử người lùn.
Orik đang đứng hội ý với một nhóm lính của mình và vài người lùn râu xám của tộc Ingeitum. Eragon vừa đến gần, Orik quay sang nó, nét mặt dữ tợn. “Tốt, cậu đã không chậm trễ! Hûndfast, anh lui về doanh trại của mình được rồi. Chúng tôi cần nói chuyện riêng.”
Phiên dịch viên của Eragon cúi đầu và biến mất qua cái cổng tò vò phía bên trái, bước chân ông ta vang dội trên sàn đá mã não láng bóng. Khi ông ta đã ở ngoài tầm nghe, Eragon nói, “Ông không tin ông ta?”
Orik nhún vai. “Giờ tôi chẳng biết tin ai hết; càng ít người biết chúng ta đã khám phá ra những gì, càng tốt. Chúng ta không thể liều để cho tin tức rò rỉ sang tộc khác trước ngày mai. Nếu bị thế, điều đó chắc chắn đồng nghĩa với một cuộc chiến thị tộc.” Những người lùn đằng sau ông thì thầm với nhau, có vẻ bối rối.
“Thế tin tức của ông là gì?” Eragon lo lắng hỏi.
Orik ra hiệu, những người lính đứng sau lưng ông liền bước sang một bên, để lộ ra trong góc ba người lùn bết máu me bị trói chồng chất lên nhau. Người lùn nằm dưới cùng rên rỉ và đá chân trong không trung nhưng không thể tự thoát ra khỏi bên dưới mấy tên bạn tù.
“Bọn nào đây?” Eragon hỏi.
Orik đáp, “Tôi đã nhờ vài thợ rèn kiểm tra mấy con dao găm của bọn tấn công. Họ xác nhận tay nghề đó là của một gã Kiefna Mũi-dài, một thợ rèn kiếm của tộc ta, có khá nhiều tiếng tăm.”
“Tức là ông ta có thể cho ta biết ai đã mua những con dao đó và do đó kẻ thù của chúng ta là ai?”
Một tiếng cười cộc cằn làm rung bộ ngực của Orik. “Gần như không, nhưng chúng tôi đã truy dấu được những con dao từ Kiefna đến một tay sản xuất vũ khí ở Dalgon, cách đây rất nhiều dặm, hắn ta đã bán chúng cho một knurlaf với –”
“Một knurlaf?” Eragon hỏi.
Orik cáu kỉnh. “Một phụ nữ. Một phụ nữ với bảy ngón mỗi bàn tay đã mua những con dao cách đây hai tháng.” “Thế ông tìm thấy bà ta chứ? Không thế có quá nhiều phụ nữ có số ngón tay như vậy được.”
“Thực ra, tình trạng đó là khá phổ biến trong chúng tôi,” Orik nói. “Nhưng mặc xác vụ đó đi, sau khá nhiều vất vả, chúng tôi đã xoay sở định vị được bà ta ở Dalgon. Lính của tôi ở đó đã thẩm vấn bà ta một cách tỉ mỉ nhất. Bà ta thuộc bộ tộc Nagra, nhưng theo như chúng tôi xác định được, bà ta đã hành động theo ý muốn cá nhân, và không theo lệnh nào từ những người đứng đầu tộc của bà ta cả. Từ bà ta, chúng tôi biết được là một người lùn đã thuê bà ta mua những con dao găm rồi giao cho một tay buôn rượu rồi tay đó sẽ mang chúng đi từ Dalgon. Kẻ thuê người phụ nữ không cho bà ta biết những con dao sẽ được đưa đến đâu, nhưng nhờ hỏi những thương gia của
thành phố, chúng tôi đã phát hiện ra rằng hắn đi thẳng từ Dalgon đến một trong những thành phố được quản lý bởi Dûrgrimst Az Sweldn rak Anhûin.”
“Như thế chính là bọn chúng!” Eragon kêu lên.
“Hoặc thế hoặc có thể là kẻ nào đó muốn ta nghĩ đó chính là chúng. Ta cần nhiều chứng cứ hơn trước khi có thể xác minh được chắc chắn tội ác của Az Sweldn rak Anhûin.”
Một tia sáng lóe lên trong mắt Orik, và ông giơ một ngón tay.
“Vậy là, bằng cách dùng một thần chú rất, rất thông minh, chúng tôi đã vạch lại đường đi của bọn sát thủ ngược lại qua các đường hầm và hang động rồi lên đến một khu vực bỏ hoang ở tầng thứ mười hai của Tronjheim, tách khỏi đại sảnh phụ thêm vào ở nhánh phía nam của góc phía tây, dọc theo…thôi, được rồi, cái đó không vấn đề. Nhưng một hôm nào đấy tôi sẽ phải dạy cậu cách các phòng được bố trí trong Tronjheim, để nếu có lúc nào cậu cần tìm một nơi bên trong thành phố một mình, thì cậu còn tìm được. Dù thế nào thì, con đường dẫn chúng tôi đến một nhà kho bỏ hoang nơi mà ba tên kia –” ông ra dấu về phía những gã lùn bị trói –“đang ở. Chúng không ngờ đến chúng tôi, và do đó chúng tôi có thể bắt sống chúng, dù chúng đã cố tự sát. Chẳng dễ dàng gì, nhưng chúng tôi đã công phá ký ức của hai tên – để lại tên thứ ba cho những grimstborithn khác thẩm vấn tùy ý – và chúng tôi đã khai thác mọi thứ chúng biết về vụ này.” Orik lại chỉ vào mấy tù nhân. “Chính là bọn này đã hỗ trợ cho bọn sát thủ tấn công, cung cấp dao với mớ quần áo đen, và cho chúng ăn và trú ẩn tối hôm qua.”
“Chúng là ai?” Eragon hỏi.
“Ha!” Orik kêu lên, và nhổ xuống sàn. “Chúng là Vargrimstn, những chiến binh đã tự làm nhục mặt mình và giờ không thuộc tộc nào cả. Chả ai giao du với những tên rác rưởi như thế trừ khi phải dính líu vào những hành vi côn đồ mà không muốn có người biết. Về ba tên đó thì là thế. Chúng nhận lệnh trực tiếp từ Grimstborith Vermûnd của Az Sweldn rak Anhûin.”
“Không còn nghi ngờ gì sao?”
Orik lắc đầu. “Không nghi ngờ gì cả; chính Az Sweldn rak Anhûin đã cố giết cậu, Eragon ạ. Chúng ta chắc sẽ không bao giờ biết được có tộc nào khác tham gia với chúng trong pha tấn công này hay không, nhưng nếu ta vạch trần sự phản trắc của Az Sweldn rak Anhûin, điều đó sẽ buộc bất cứ kẻ nào khác có liên quan đến âm mưu này phải làm ô danh chính những đồng mưu trước đây của chúng; phải từ bỏ, hoặc ít nhất là trì hoãn, những công kích xa hơn vào Dûrgrimst Ingeitum; và, nếu việc này được xử lý thích đáng, phải đưa tôi lá phiếu của chúng cho ngôi vua.”
Một hình ảnh nhá lên trong tâm trí Eragon về lưỡi kiếm màu sắc lấp loáng lòi ra từ sau cổ của Kvîstor và biểu hiện đau đớn của ông ta khi ngã xuống sàn chết. “Chúng ta sẽ trừng trị Az Sweldn rak Anhûin như thế nào vì tội này? Có nên giết Vermûnd không?"
“A, cứ để việc đó cho tôi,” Orik nói, gõ nhẹ lên mũi. “Tôi có một kế hoạch. Nhưng chúng ta phải bước đi thật cẩn thận, vì đây là một tình huống thuộc loại vô cùng tinh vi. Một sự bội phản như thế chưa hề xảy ra trong rất nhiều năm rồi. Là người ngoài, cậu không thể biết chúng tôi thấy ghê tởm thế nào khi phát hiện ra một kẻ trong chính chúng tôi lại tấn công một vị khách. Việc cậu là Kỵ sĩ tự do duy nhất chống lại Galbatorix càng làm cho tội lỗi trở nên tồi tệ hơn. Có thể cuộc đổ máu tiếp theo là cần thiết, nhưng vào lúc này, nó sẽ chỉ dẫn đến một cuộc chiến thị tộc khác.”
“Một cuộc chiến thị tộc có thể là cách duy nhất để giải quyết Az Sweldn rak Anhûin,” Eragon chỉ ra.
“Tôi nghĩ là không, nhưng nếu tôi lầm và chiến tranh là không thể tránh khỏi, chúng ta phải đảm bảo rằng đó là một cuộc chiến giữa các tộc còn lại với Az Sweldn rak Anhûin. Điều đó sẽ không quá tệ. Hợp sức lại, chúng ta có thể nghiền bẹp chúng trong vòng một tuần. Nhưng một cuộc chiến thị tộc mà chia ra hai hoặc ba phe sẽ hủy diệt đất nước chúng ta. Cho nên, điều then chốt là trước khi ta rút kiếm của mình ra, ta phải làm cho các tộc khác thấy được những gì Az Sweldn rak Anhûinn đã làm. Để được như thế, liệu cậu có cho phép các pháp sư từ các tộc khác kiểm tra ký ức của cậu về cuộc tấn công để họ có thể thấy chuyện đã xảy ra đúng như lời ta nói, và rằng chúng ta không dàn dựng chuyện đó vì lợi ích của chính mình?”
Eragon lưỡng lự, không thật lòng muốn mở trí óc mình cho người lạ, rồi hất đầu về phía ba gã lùn nằm chất đống lên nhau. “Thế chúng thì sao? Ký ức của chúng không đủ thuyết phục các tộc khác về tội lỗi của Az Sweldn rak Anhûin sao?”
Orik nhăn nhó. “Có thể, nhưng để cho thấu đáo, các tộc trưởng sẽ nhất quyết thẩm tra ký ức của chúng ngược lại cậu, và nếu cậu từ chối, Az Sweldn rak Anhûin sẽ quả quyết rằng chúng ta đang che giấu điều gì đó khỏi hội đồng thị tộc và rằng lời cáo buộc của chúng ta không hơn gì những lời bịa đặt vu khống.”
“Được rồi,” Eragon nói. “Nếu phải làm, thì tôi sẽ làm. Nhưng nếu những pháp sư đó xớ rớ ở những nơi họ không được phép, dù là vô tình, tôi sẽ không có lựa chọn nào khác hơn là đốt cho những gì họ thấy ra khỏi tâm trí họ. Có vài điều tôi không thể cho phép mọi người biết đến.”
Gật đầu, Orik nói, “Đồng ý, tôi có thể nghĩ ra ít nhất một thông tin ba-chân sẽ khiến chúng tôi khiếp vía nếu nó được loan báo khắp vùng, nhỉ? Tôi chắc chắn các tộc trưởng sẽ chấp nhận điều kiện của cậu – vì tất cả bọn họ đều có những bí mật của riêng mình mà họ sẽ không muốn bị bàn tán đó đây – nhưng tôi cũng tin chắc là họ sẽ ra lệnh cho các pháp sư của họ phải tiến tới, bất chấp nguy hiểm. Cuộc tấn công này có khả năng kích phát một sự náo động trong chủng tộc chúng tôi, nên các grimstborithn sẽ cảm thấy bắt buộc phải xác minh sự thật, mặc dù điều đó có thể khiến họ trả giá bằng những pháp sư cao tay nhất.”
Vươn thẳng người, Orik ra lệnh chuyển đám tù nhân ra khỏi lối vào được trang hoàng và cho giải tán tất cả cấp dưới, trừ Eragon và một lực lượng gồm hai mươi sáu chiến binh giỏi nhất của ông. Vung tay một cách thanh nhã, Orik nắm lấy khuỷu tay trái của Eragon và dẫn lối cho nó vào khu phòng bên trong. “Tối nay cậu phải ở yên đây, với tôi, tại đây Az Sweldn rak Anhûin sẽ không dám tấn công đâu.”
“Nếu ông định ngủ,” Eragon nói, “tôi phải cảnh báo ông, tôi không thể nghỉ ngơi, không phải đêm nay. Máu trong người tôi vẫn còn tưng bừng hết lên vì cuộc chiến hỗn loạn đó, còn ý nghĩ của tôi thì cũng không ổn tương tự thế.”
Orik đáp, “Nghỉ hay không tùy cậu; cậu không được quấy giấc của tôi, vì tôi sẽ kéo một cái mũ len dày trùm qua mắt. Tuy thế tôi khẩn thiết mong cậu hãy cố mà bình tâm lại – có thể với vài kỹ thuật mà thần tiên đã bày cho cậu – và hồi phục sức mạnh của cậu. Ngày mới đã ở trước mặt chúng ta rồi, và chỉ còn lại vài giờ trước khi hội đồng thị tộc được triệu tập. Chúng ta phải tươi tỉnh hết mức có thể cho những gì sắp đến. Những điều chúng ta làm và nói hôm nay sẽ quyết định vận mệnh sau cùng của người của tôi, đất nước của tôi, và toàn phần còn lại của Alagaësia…. A, đừng làm cái miệng khó chịu thế! Thay vì vậy hãy nghĩ đến điều này: cho dù thành công hay thất bại đang chờ chúng ta, mà tôi tất nhiên hy vọng chúng ta thắng, tên tuổi của chúng ta sẽ được nhớ đến cho tới ngày tận thế vì cách chúng ta đã xử sự trong hội nghị này. Ít nhất đó cũng là một thành tích để làm cậu no bụng bằng lòng kiêu hãnh! Chúa hay thay đổi, và cái bất diệt duy nhất mà chúng ta trông chờ được chính là những gì mà chúng ta đạt được qua những việc làm của mình. Danh vọng hay ô nhục, cả hai cái đó đều đáng quên đi khi cậu đã ra đi từ vương quốc này.”
Khuya đêm đó, trong những giờ yên ắng trước buổi sáng, tâm tưởng của Eragon đi lang thang khi nó ngồi chìm trong vòng tay lót đệm của một cái tràng kỷ của người lùn, và trạng thái ý thức của nó tan vào mớ hình ảnh tưởng tượng lộn xộn của những giấc mơ tỉnh. Tuy nhiên nó vẫn nhận thức được những hình khảm ở những tảng đá màu gắn trên bức tường đối diện, và nó cũng trông thấy, y như một miếng vải lót rực rỡ phủ lên những hình khảm, những khung cảnh về cuộc sống của nó trong Thung lũng Palancar, trước khi định mệnh trọng đại và đẫm máu xen vào sự tồn tại của nó. Tuy nhiên, những khung cảnh đó xa rời khỏi sự thực đã được thiết lập, và nhấn chìm nó vào những trạng thái tưởng tượng được dựng lên dần từ những mảnh vụn của những gì đã thực sự xảy ra. Trong những khoảnh khắc cuối cùng trước khi nó tỉnh lại từ trạng thái ngẩn ngơ, những hình ảnh đó lung linh và trở nên hiện thực một cách mạnh mẽ.
Nó đang đứng trong xưởng của chú Horst, những cánh cửa ở đó để mở, lỏng lẻo trên bản lề, giống như những tên ngốc ngoác miệng cười nhăn nhở. Ở ngoài là một đêm không sao, và bóng tối bao trùm tất cả dường như áp lên viền ánh sáng đỏ mờ đục tỏa ra từ những viên than đá, cứ như háo hức muốn ngốn hết mọi thứ bên trong phạm vi của khối cầu đỏ hoe đó. Bên cạnh cái lò rèn, chú Horst hiện ra to lớn như một người khổng lồ, những cái bóng
nhảy múa trên khuôn mặt và bộ râu của ông trông thật đáng sợ. Cánh tay lực lưỡng của ông giơ lên và hạ xuống, và một tiếng lanh lảnh như tiếng chuông làm rung động không trung khi cái búa của ông giáng xuống đầu một thanh thép sáng rực màu vàng. Một chùm tia lửa tung ra rồi tiêu tan trên mặt đất. Người thợ rèn đập thanh kim loại thêm bốn nhát nữa; rồi ông nhấc thanh thép ra khỏi cái đe và nhúng nó vào một thùng dầu. Những lưỡi lửa như những bóng ma, xanh và mỏng như tơ, bập bùng dọc trên bề mặt lớp dầu rồi biến mất với những tiếng rít khẽ giận dữ. Lấy thanh thép ra khỏi cái thùng, Horst quay về phía Eragon và cau mày với nó. Ông nói, “Sao mày lại đến đây, Eragon?”
“Cháu cần một thanh gươm của Kỵ sĩ Rồng. ”
“Biến đi. Tao không có thời gian để rèn cho mày một thanh gươm Kỵ sĩ đâu. Mày không thấy là tao đang làm việc với cái treo nồi của Elain à? Bà ấy phải có nó trong trận chiến. Mày đi một mình à?”
“Cháu không biết. ”
“Cha mày đâu? Mẹ mày đâu?” “Cháu không biết. ”
Rồi một giọng nói mới vang lên, một giọng nói được đánh bóng bởi sức mạnh và quyền lực, và giọng đó nói, “Vị thợ rèn tốt này, nó không đi một mình. Nó đi với ta. ”
“Thế ông là ai?” Horst gặng hỏi. “Ta là cha nó. ”
Giữa hai cánh cửa rộng mở, một dáng vẻ to lớn vây bọc bởi ánh sáng nhợt nhạt hiện ra từ bóng tối ngưng đọng và đứng trên ngưỡng cửa của xưởng rèn. Một chiếc áo choàng đỏ tung phần phật trên đôi vai rộng hơn cả của một tên Kull. Trong tay trái người đàn ông lập lòe thanh Zar’roc, sắc bén như sự đau đớn. Qua khe hở của cái mũ sắt sáng loáng, đôi mắt xanh dương của ông ta xoáy vào Eragon, ghim nó xuống đất, như một mũi tên xuyên qua một con thỏ. Ông ta nâng tay kia của mình lên và đưa về phía Eragon. “Con trai ta, đi với ta. Cùng với nhau chúng ta có thể hủy diệt Varden, giết Galbatorix, và chinh phục toàn thể Alagaësia. Nhưng hãy đưa ta trái tim con, và chúng ta sẽ là bất khả chiến bại. ”
“Đưa cho ta trái tim con, con trai. ”
Kêu lên tắc nghẹn, Eragon bật ra khỏi cái tràng kỷ và đứng nhìn chằm chằm sàn nhà, nắm tay nó siết chặt, ngực phập phồng. Mấy người lính gác của Orik liếc nó dò hỏi, nhưng nó phớt lờ họ, quá rối loạn để có thể giải thích cơn bộc phát của nó.
Vẫn còn sớm, vì thế sau một lát, Eragon ngồi lại xuống cái tràng kỷ, nhưng sau đó, nó giữ mình tỉnh táo và không cho phép mình chìm vào vùng đất của những giấc mơ, vì sợ những sự hiện hình có thể giày vò nó.
Eragon đứng tựa lưng vào tường, tay đặt trên đốc thanh kiếm của người lùn, nhìn các tộc trưởng đi thành hàng vào phòng hội nghị hình tròn nằm bên dưới Tronjheim. Nó đặc biệt để mắt đến Vermûnd, grimstborith của Az Sweldn rak Anhûin, nhưng nếu người lùn che mạng đỏ tía đó có ngạc nhiên vì thấy Eragon còn sống và khỏe mạnh thì ông ta cũng không thể hiện ra.
Eragon cảm thấy giày của Orik thúc vào giày nó. Không rời mắt khỏi Vermûnd, Eragon cúi về phía Orik nghe ông thì thào, “Nhớ, bên trái và xuống dưới ba ô cửa,” ám chỉ nơi Orik đã chốt một trăm lính của mình mà không cho các tộc trưởng khác biết.
Cũng thì thào, Eragon nói, “Nếu máu phải đổ, tôi có nên chớp cơ hội mà khử con rắn Vermûnd đó không?” “Trừ khi hắn cố làm thế với tôi hay cậu, không thì làm ơn đừng.” Orik bật cười thầm. “Làm vậy sẽ khó mà khiến
cho các grimstborithn khác quý mến cậu…. À, tôi phải đi đây. Cầu nguyện Sindri ban cho may mắn chứ? Chúng ta chuẩn bị mạo hiểm vào một biển dung nham mà chưa ai dám vượt qua trước đây đâu.”
Và Eragon cầu nguyện.
Khi tất cả các tộc trưởng đã yên vị xung quanh cái bàn ở giữa phòng, những người quan sát từ vòng ngoài, gồm cả Eragon, nhận chỗ ngồi của mình trong số những cái ghế xếp vòng tròn đặt tựa vào bức tường uốn cong. Nhưng Eragon không ngồi thoải mái vào ghế như những người lùn khác, mà chỉ ngồi ở mép, sẵn sàng đánh nhau ngay khi thấy dấu hiệu nguy hiểm nhỏ nhất.
Khi Gannel, chiến binh-linh mục mắt-đen của Dûrgrimst Quan, đứng dậy và bắt đầu nói bằng tiếng Người lùn, Hûndfast khép nép lại gần cánh phải của Eragon và lẩm nhẩm dịch không ngừng. Ông lùn nói, “Chào mừng một lần nữa, các tộc trưởng huynh đệ của tôi. Nhưng dù có thích đáng hay không, tôi vẫn phân vân, vì một số tin đồn gây nhiễu loạn – tin đồn của tin đồn, nếu đó là sự thật – đã tới tai tôi. Tôi không có thông tin gì ngoài những lời mơ hồ và gây lo lắng này, cũng như bằng chứng để theo đó tìm ra lời kết tội cho những hành động xấu. Tuy vậy, vì hôm nay là ngày của tôi để chủ trì việc này – buổi hội họp của chúng ta – tôi đề nghị chúng ta hãy tạm hoãn cuộc thảo luận hệ trọng nhất của chúng ta lại, và nếu các vị tán thành, cho phép tôi đưa ra một vài câu hỏi cho hội đồng.”
Các tộc trưởng thì thầm với nhau, và rồi Íorûnn, Íorûnn rạng rỡ má lúm đồng tiền, nói, “Tôi không có phản đối, Grimstborith Gannel. Ông đã khơi dậy trí tò mò của tôi bằng những lời bóng gió khó hiểu này. Hãy để chúng tôi nghe những câu hỏi mà ông có.”
“Đúng vậy, cho chúng tôi nghe đi,” Nado nói.
“Cho chúng tôi nghe đi,” Manndrâth và tất cả các tộc trưởng còn lại, kể cả Vermûnd, nhất trí.
Đã nhận được sự tán thành mà mình yêu cầu, Gannel tỳ các khớp ngón tay của ông lên bàn, im lặng một lát để tập trung sự chú ý của mọi người trong phòng. Rồi ông nói. “Ngày hôm qua, trong khi chúng ta đang dùng bữa trưa ở những địa điểm nhất định, các knurlan ở khắp trong các đường hầm bên dưới góc tây của Tronjheim đã nghe thấy tiếng huyên náo. Báo cáo về độ ồn là khác nhau, nhưng có nhiều người như vậy nhận thấy nó trên một phạm vi rộng, chứng tỏ nó không phải là một náo động nhỏ. Giống như các vị, tôi đã nhận được một cảnh báo thường lệ về một vụ sập hầm có thể đã xảy ra. Tuy nhiên, điều mà các vị có thể không ý thức được, là chỉ hai giờ sau –”
Hûndfast ngập ngừng, và nhanh chóng thì thầm, “Từ này rất khó diễn tả bằng ngôn ngữ này. Những-người-chạytrong-hầm, tôi nghĩ vậy.” Rồi ông ta tiếp tục dịch:
“– những-người-chạy-trong-hầm đã phát hiện ra vết tích của một trận chiến phi thường bên trong một trong số những đường hầm cổ mà ông tổ danh tiếng của chúng ta, Korgan Râu-dài, đã khai phá. Sàn phủ đầy máu, tường đen thui vì bồ hóng từ một cái lồng đèn mà một chiến binh với lưỡi gươm bất cẩn đã đánh thủng, các vết nứt chia cắt đá xung quanh, và ngổn ngang khắp nơi là bảy thân thể nát nhừ và cháy thành than, cùng những dấu hiệu chứng tỏ có những thân thể khác đã bị mang đi. Đây cũng không phải tàn tích của những cuộc xung đột vụn vặt mơ hồ từ Trận chiến Farthen Dûr. Không! Vì máu còn chưa khô, bồ hóng vẫn còn mềm, những vết nứt mới bị vỡ ra là rõ ràng nhất, và, tôi được cho biết, những tàn dư của phép thuật hùng mạnh vẫn có thể được phát hiện ra bên trong khu vực đó. Ngay lúc này, vài pháp sư giỏi nhất của chúng tôi đang nỗ lực tái dựng một hình ảnh bản sao của những gì đã xảy ra, nhưng họ ít có hy vọng thành công, vì những thứ có liên quan được bao bọc bởi bùa phép rất ranh ma. Như vậy câu hỏi đầu tiên của tôi cho hội đồng là: có ai trong các vị có hiểu biết sâu xa hơn về sự việc bí ẩn này không?”
Khi Gannel kết thúc phần nói của mình, Eragon gồng cứng chân sẵn sàng bật dậy nếu những tên lùn che mạng tía của Az Sweldn rak Anhûin với tay đến kiếm của chúng.
Orik hắng giọng nói, “Tôi tin rằng tôi có thể thỏa mãn một chút sự tò mò của ông về điểm đó, Gannel à. Tuy nhiên, vì câu trả lời của tôi nhất thiết phải là một câu trả lời dài, tôi đề nghị ông hỏi luôn những câu hỏi khác của mình trước khi tôi bắt đầu.”
Trán Gannel sa sầm vì một nét cau mày. Gõ gõ các đốt ngón tay lên bàn, ông nói, “Được thôi…. Về những điều có liên quan rõ ràng tới tiếng binh khí trong các đường hầm của ngài Korgan, tôi đã được báo lại rằng rất nhiều knurlan đang đi lại trong Tronjheim và, với ý định ngấm ngầm, đã tập hợp ở nhiều nơi thành những nhóm lớn có vũ trang. Các điệp viên của tôi không thể xác định các chiến binh thuộc tộc nào, nhưng nếu bất cứ ai trong hội đồng này cố lén lút sắp đặt lực lượng của mình trong khi chúng ta đang tham gia vào cuộc họp quyết định ai sẽ kế vị Vua Hrothgar, thì điều đó sẽ ám chỉ những động cơ thuộc loại đen tối nhất. Như vậy câu hỏi thứ hai của tôi cho hội đồng là: ai là người đứng sau cuộc vận động thiếu suy nghĩ này? Và nếu không ai sẵn lòng thừa nhận hành vi sai trái của mình, tôi đề nghị một cách kiên quyết nhất rằng chúng ta hãy ra lệnh trục xuất tất cả binh lính, không phân biệt thị tộc, ra khỏi Tronjheim trong thời hạn cuộc họp và rằng chúng ta hãy lập tức cử ra một ngôn-luậtviên để điều tra những việc này và xác định ai là người chúng ta phải khiển trách.”
Tiết lộ, câu hỏi, và kiến nghị sau đó của Gannel đã gợi lên một cuộc đàm luận sôi nổi xôn xao giữa các tộc trưởng, trong đó những người lùn tung ra những lời buộc tội, rồi phủ nhận, rồi buộc tội ngược lại nhau với độ cay độc ngày càng tăng, cho đến cuối cùng, khi một Thordris điên tíêt quát lác với một Gáldhiem mặt đỏ bừng, Orik lại hắng giọng, khiến mọi người ngừng lại và nhìn ông chăm chăm.
Bằng một giọng ôn hòa, Orik nói, “Điều này tôi cũng tin là có thể giải thích cho ông, Gannel, ít nhất là phần nào. Tôi không thể nói gì về hoạt động của các tộc khác, nhưng vài trăm lính đang hối hả trong các đại sảnh của người hầu trong Tronjheim chính là của Dûrgrimst Ingeitum. Điều này tôi thoải mái thừa nhận.”
Tất cả yên lặng cho đến khi Íorûnn nói, “Và ông có lời giải thích nào cho hành động mang tính tham chiến này, Orik, con trai của Thrifk?”
“Như tôi vừa nói, thưa Íorûnn xinh đẹp, câu trả lời của tôi phải là một câu trả lời dài, nên nếu ông, Gannel, có bất cứ câu hỏi nào khác, tôi đề nghị ông hãy đưa ra luôn.”
Gannel cau mày sâu hơn cho đến khi đôi lông mày lồi ra của ông ta gần như chạm nhau. Ông nói, “Tôi sẽ giữ lại những câu hỏi khác của tôi vào lúc này, vì tất cả chúng đều liên quan đến những câu tôi vừa đưa ra, và hình như chúng tôi đang phải đợi trên sự thích thú của ông để được biết thêm bất cứ điều gì về những chủ đề đó. Tuy nhiên, vì ông có liên quan chặt chẽ đến những hành động đáng ngờ này, một câu hỏi mới đã nảy ra với tôi mà tôi phải hỏi ông một cách rõ ràng, Grimstborith Orik. Vì lý do nào mà ông đã rời khỏi cuộc họp ngày hôm qua? Và cho tôi cảnh báo ông, tôi sẽ không chấp nhận sự thoái thác. Ông đã cho hay là ông có hiểu biết về những vụ việc này. Vậy được, giờ là lúc cho ông tự mình cung cấp một lời giải thích toàn vẹn, Grimstborith Orik.”
Orik đứng dậy ngay khi Gannel ngồi xuống và nói, “Tôi rất sẵn lòng.”
Hạ thấp cái cằm râu ria của mình đến khi nó chạm vào ngực, Orik dừng lại một thoáng và rồi bắt đầu nói bằng một giọng vang dội, nhưng ông không mở đầu như Eragon đã mong đợi, cũng như Eragon đã phỏng đoán, hay hội đồng đã mong đợi. Thay vì mô tả nỗ lực lấy mạng Eragon, từ đó giải thích tại sao ông đã kết thúc buổi họp trước thời hạn, Orik mở đầu bằng việc thuật lại, vào bình minh của lịch sử, dòng giống người lùn đã di cư như thế nào từ những cánh đồng đã một thời xanh tươi của Sa mạc Hadarac đến rặng núi Beor, nơi họ đã khai quật những đường hầm dài vô số dặm, xây cất những thành phố hoa lệ của mình cả bên trên lẫn bên dưới mặt đất, và tiến hành những cuộc chiến đầy sức sống giữa những phe phái của mình, cũng như với rồng, những sinh vật mà, trong hàng ngàn năm, người lùn vẫn nhìn nhận với một con mắt pha trộn giữa ghét, sợ, và kính nể bất đắc dĩ.
Rồi Orik nói về sự xuất hiện của thần tiên ở Alagaësia và thần tiên đã tranh đấu với rồng như thế nào cho đến khi hai phía gần như diệt tuyệt lẫn nhau và, kết quả, hai loài đã nhất trí ra sao để sáng tạo ra những Kỵ sĩ Rồng để duy trì hòa bình về sau này.
“Và sự đáp lời của chúng ta là sao khi chúng ta biết được ý định của họ?” Orik gặng hỏi, giọng nói ngân vang trong phòng họp.
“Chúng ta có yêu cầu được dự phần vào hiệp ước của họ không? Chúng ta có mong muốn được chia sẻ quyền năng của Kỵ sĩ Rồng không? Không! Chúng ta trung thành với lề lối cũ của chúng ta, lòng căm hờn cũ của chúng ta, và chúng ta bác bỏ ngay cả cái ý nghĩ ràng buộc với loài rồng hay cho phép bất cứ ai bên ngoài vương quốc kiểm soát chúng ta. Để bảo tồn uy quyền, chúng ta đã hy sinh tương lai của mình, vì tôi tin rằng nếu vài người
trong số Kỵ sĩ Rồng là knurlan, Galbatorix có khi đã không bao giờ gây dựng được quyền lực. Thậm chí nếu tôi lầm – và tôi không hề có ý coi nhẹ Eragon, người đã chứng tỏ mình là một Kỹ sĩ giỏi – rồng Saphira có thể đã nở ra cho một người trong chủng tộc chúng ta chứ không phải là một con người. Và khi đó những vinh quang nào có thể thuộc về chúng ta?”
“Thay vì thế, tầm quan trọng của chúng ta trong Alagaësia đã bị suy giảm kể từ khi Nữ hoàng Tarmunora và người trùng tên Eragon hòa giải với loài rồng. Ban đầu địa vị bị hạ thấp của chúng ta cũng không quá đắng để nuốt trôi, và thường thì phủ nhận vẫn dễ hơn là chấp nhận. Nhưng rồi lũ Urgals đến, và rồi là con người, và thần tiên sửa đổi những thần chú của họ để con người cũng có thể làm Kỵ sĩ. Vậy rồi chúng ta có yêu cầu được bao hàm vào hiệp định của họ, như đó là… quyền của chúng ta không?”
Orik lắc đầu. “Lòng kiêu hãnh của chúng ta sẽ không cho phép điều đó. Tại sao chúng ta, chủng tộc lâu đời nhất trên vùng đất này, lại phải cầu xin thần tiên ân huệ từ phép thuật của họ? Chúng ta đâu cần phải trói buộc định mệnh của mình với loài rồng để bảo vệ chủng tộc ta khỏi diệt vong, như là thần tiên với loài người. Chúng ta lờ đi, dĩ nhiên, những trận chiến đã nổ ra giữa chính chúng ta. Những cuộc chiến đó, chúng ta lập luận, là những việc riêng tư và không liên can đến ai khác hết.”
Các tộc trưởng đang lắng nghe cựa quậy. Nhiều người trong số họ có vẻ không hài lòng với sự chỉ trích của Orik, trong khi những người còn lại có vẻ tiếp thu hơn những lời bình luận của ông và có vẻ trầm ngâm.
Orik tiếp tục: “Trong khi những Kỵ sĩ trông nom Alagaësia, chúng ta đã hưởng thụ thời kỳ thịng vượng tuyệt vời nhất chưa từng được ghi chép trong niên sử của vương quốc. Chúng ta phát triển hưng thịnh hơn bao giờ hết, nhưng chúng ta lại chẳng có góp phần gì vào nguyên nhân của điều đó: Kỵ sĩ Rồng. Khi những Kỵ sĩ suy tàn, cơ đồ của chúng ta cũng chấn động, nhưng một lần nữa, chúng ta không có góp phần gì vào nguyên nhân của điều đó: những Kỵ sĩ. Tôi thấy rằng, cả hai tình trạng trên đều không thích hợp cho một chủng tộc có tầm cỡ như chúng ta. Chúng ta không phải là một đất nước đầy tớ lệ thuộc vào những ý tưởng bất chợt của những ông chủ ngoại quốc. Những kẻ không phải hậu duệ của Odgar và Hlordis cũng không có quyền thao túng vận mệnh của chúng ta”
Lời lập luận này được các tộc trưởng thích hơn; họ gật đầu và mỉm cười, và Havard thậm chí vỗ tay vài cái ở lời cuối cùng.
“Giờ cân nhắc kỷ nguyên hiện tại của chúng ta,” Orik nói.
“Galbatorix đang nắm thế lực, và mọi giống loài đều chiến đấu để duy trì sự tự do. Hắn đã trở nên rất hùng mạnh, và lý do duy nhất chúng ta vẫn chưa phải nô lệ của hắn, cho đến giờ, chính là hắn vẫn chưa quyết định bay ra trên lưng con rồng đen của hắn và đánh thẳng vào chúng ta. Hắn mà làm vậy, chúng ta sẽ sụp đổ trước hắn như cây non trước tuyết lở. May mắn là, có vẻ hắn bằng lòng với việc chờ cho chúng ta chém giết và tự mở đường đến tận cổng thành trì của hắn ở Urû’baen. Bây giờ, tôi xin nhắc các vị rằng trước khi Eragon và Saphira xuất hiện ướt nhẹp và lê bước đến ngưỡng cửa trước của chúng ta, với một trăm tên Kull đang la ó ngay sát gót, hy vọng duy nhất của chúng ta đánh bại Galbatorix là một ngày nào đó, ở nơi nào đó, Saphira sẽ nở ra cho Kỵ sĩ mà nó chọn và người bí ẩn này sẽ, có thể, may ra, nếu chúng ta may mắn hơn mọi con bạc đã từng thắng một cú tung súc sắc, có khả năng lật đổ Galbatorix. Hy vọng? Ha! Chúng ta thậm chí còn không có hy vọng; chỉ có hy vọng của hy vọng. Khi Eragon lần đầu trình diện, rất nhiều người trong chúng ta đã mất tinh thần vì bề ngoài của cậu ta, kể cả chính tôi. ‘Nó chỉ là một cậu bé,’ chúng ta đã nói. ‘Sẽ tốt hơn nếu cậu ta là một thần tiên,’ chúng ta đã nói. Nhưng nhìn xem, cậu ta đã chứng tỏ bản thân mình là hiện thân cho mọi hy vọng của chúng ta! Cậu ta kết liễu Durza, từ đó cho phép chúng ta cứu sống thành phố yêu quý nhất của chúng ta, Tronjheim. Rồng của cậu ta, Saphira, đã hứa sẽ hồi lại cho Ngôi Sao Hoa Hồng vẻ huy hoàng trước đây. Trong Trận chiến Cánh Đồng Cháy, cậu ta đã đánh đuổi Murtagh và Thorn, nhờ vậy giúp chúng ta chiến thắng ngày đó. Và nhìn xem! Cậu ta giờ đây đã khoác vẻ bề ngoài của một thần tiên, và nhờ những ma thuật kỳ lạ của họ, cậu ta đã nhận được tốc độ và sức mạnh của họ.”
Orik giơ một ngón tay nhấn mạnh.
“Hơn thế nữa, Vua Hrothgar, bằng sự thông tuệ của mình, đã làm điều mà không một vị vua hay grimstborith nào khác từng làm; ngài đề nghị nhận Eragon vào Dûrgrimst Ingeitum và để cậu ta trở thành một thành viên của chính gia đình ngài. Eragon không có nghĩa vụ phải chấp nhận đề nghị này. Thực tế, cậu ta nhận thức được rất nhiều gia tộc của Ingeitum phản đối điều đó, và nói chung rất nhiều knurlan sẽ không thích thú gì điều đó. Nhưng bất chấp
những ngăn trở đó, và bất chấp thực tế rằng mình đã bị ràng buộc lòng trung thành với Nasuada, Eragon vẫn đón nhận món quà của Vua Hrothgar, biết hoàn toàn rõ rằng điều đó sẽ chỉ làm cho cuộc đời mình khó khăn hơn. Như đã tự mình nói với tôi, Eragon đã tuyên thệ trước Tim của Đá vì ý thức được nghĩa vụ mà mình cảm thấy đối với tất cả giống loài trong Alagaësia, và đặc biệt là đối với chúng ta, bởi vì chúng ta, nhờ việc làm của vua Hrothgar, đã cho cậu ta và Saphira thấy một lòng tốt đến vậy. Nhờ thiên tư của Vua Hrothgar, người Kỵ sĩ tự do cuối cùng của Alagaësia, là hy vọng duy nhất của chúng ta chống lại Galbatorix, đã thoải mái lựa chọn trở thành một knurla toàn diện chỉ trừ dòng máu. Kể từ đó, Eragon đã tôn trọng luật lệ và truyền thống của chúng ta với tất cả sự hiểu biết của mình, và cậu ta mong muốn học hỏi nhiều hơn về văn hóa của chúng ta để có thể chứng tỏ lòng kính trọng của mình đối với ý nghĩa đích thực của lời thề. Khi Vua Hrothgar gục ngã, bị quật ngã bởi tên phản bội Murtagh, Eragon đã thề với tôi trước mọi hòn đá của Alagaësia, và cũng ở cương vị một tộc viên của Dûrgrimst Ingeitum, rằng cậu ta sẽ đấu tranh để trả thù cho cái chết của Vua Hrothgar. Cậu ta đã cho tôi lòng kính trọng và sự phục tùng mà tôi đáng được nhận với danh hiệu grimstborith, và tôi tự hào coi cậu ta là nghĩa đệ của tôi.”
Eragon liếc nhìn xuống, má và chóp tai nó nóng bừng. Nó ước Orik đừng quá thoải mái tán dương nó như thế; điều đó chỉ làm địa vị của nó khó giữ vững hơn trong tương lai.
Khoát tay bao quát các tộc trưởng khác, Orik kêu lên, “Mọi điều chúng ta có thể ao ước ở một Kỵ sĩ Rồng, chúng ta đều đã nhận được ở Eragon! Cậu ta tồn tại! Cậu ta hùng mạnh! Và cậu ta đã che chở người của chúng ta theo cách mà chưa có Kỵ sĩ nào từng làm!”
Rồi Orik hạ tay xuống, hạ cả giọng nói của mình, cho đến khi Eragon phải ráng sức mới nghe được lời của ông. “Nhưng chúng ta đã đáp lại tình bằng hữu của cậu ta như thế nào? Chỉ toàn bằng những cái cười nhạo, sự xem thường và sự gắt gỏng oán giận. Tôi nói, chúng ta là một chủng tộc vô ơn, và trí nhớ của chúng ta là quá dai cho chính những tốt đẹp của mình…. Thậm chí có những kẻ đã chất chứa quá nhiều ung nhọt căm hờn, họ đã dùng đến bạo lực để làm nguôi cái khát từ cơn giận của mình. Có lẽ họ vẫn tin là họ đang làm những gì tốt nhất cho người của chúng ta, nhưng nếu vậy, thì tâm trí họ mốc meo như một miếng phó mát lâu năm. Nếu không, tại sao họ lại cố giết Eragon?”
Các tộc trưởng đang lắng nghe im lặng hoàn toàn, mắt họ dính chặt vào gương mặt Orik. Sự tập trung của họ quá căng thẳng, tộc trưởng to béo Freowin, đã dẹp việc chạm khắc hình con quạ và khoanh tay lại trên cái bụng phì nhiêu của mình, mang một cái vẻ không khác gì một bức tượng lùn.
Với những đôi mắt nhìn mình không chớp, Orik thuật lại cho hội đồng về việc bảy tên lùn trang phục đen đã tấn công Eragon và cận vệ của nó như thế nào trong khi họ đang lang thang trong những đường hầm bên dưới Tronjheim. Rồi Orik cho họ biết về cái vòng đeo tay tết bằng lông ngựa gắn những viên thạch anh tím mài tròn mà lính gác của Eragon đã tìm thấy trong một cái xác.
“Đừng nghĩ đến chuyện buộc tội cuộc tấn công này lên bộ tộc chúng tôi chỉ với một bằng chứng tầm thường như thế!” Vermûnd kêu lớn, bật dậy. “Ai cũng có thể mua những thứ trang sức rẻ tiền như thế ở hầu hết các chợ trong vương quốc này!”
“Đúng thế,” Orik nói, nghiêng đầu về phía Vermûnd. Bằng một giọng bình thản và bước chân nhanh nhẹn, Orik kể cho các thính giả của mình, như ông đã kể với Eragon tối trước đó, người của ông ở Dalgon đã xác nhận với ông rằng những con dao găm lung linh kỳ dị mà bọn sát thủ sử dụng được rèn bởi thợ rèn Kiefna, và cả việc người của ông đã khám phá ra rằng gã lùn mua những vũ khí đó đã tính vận chuyển chúng từ Dalgon đến một trong những thành phố do Az Sweldn rak Anhûin giữ.
Thấp giọng gầm gừ nguyền rủa, Vermûnd lại bật dậy. “Những con dao đó có thể chưa bao giờ đến được thành phố chúng tôi, và thậm chí nếu có, ông cũng chẳng thể rút ra kết luận gì từ việc đó! Có nhiều knurlan thuộc rất nhiều tộc sống bên trong những bức tường của chúng tôi, cũng như bên trong những bức tường của Hang Bregan chẳng hạn. Điều đó chẳng cho biết gì cả. Cẩn trọng những gì ông sắp nói, Grimstborith Orik, vì ông không có lý lẽ nào để chĩa những cáo buộc đó vào tộc của tôi.”
“Tôi cũng có quan điểm như ông vậy, Grimstborith Vermûnd,”
Orik đáp. “Bởi vậy, tối qua, các pháp sư của tôi và tôi đã tái lập lộ trình của bọn sát thủ ngược lên nơi xuất phát của chúng, và trên tầng mười hai của Tronjheim, bọn tôi đã bắt giữ ba knurlan đang ẩn trốn trong một kho chứa
bám bụi. Bọn tôi đã công phá ý thức của hai trong số chúng và, từ chúng, bọn tôi biết chúng đã cung cấp lương thực cho bọn sát thủ trong vụ tấn công. Và,” Orik nói, giọng ông trở nên cay nghiệt và ghê gớm, “từ chúng, bọn tôi đã biết được nhân dạng của kẻ đứng sau. Tôi nói tên ông, Grimstborith Vermûnd! Tôi nói ông Kẻ sát nhân và Bội-thệ. Tôi nói ông là kẻ thù của Dûrgrimst Ingeitum, và tôi nói ông là một kẻ phản bội đồng loại của mình, vì chính ông và tộc của ông đã cố sát hại Eragon!”
Hội đồng thị tộc nổ ra hỗn loạn khi mọi tộc trưởng, trừ Orik và Vermûnd, bắt đầu la hét và vung tay, đồng thời cố át cuộc đối thoại. Eragon đứng dậy và nới lỏng thanh kiếm đi mượn khỏi vỏ, rút ra hơn một phân, như thế nó có thể phản ứng với bất cứ một tốc độ nào nếu Vermûnd hay một trong những tên lùn của ông ta chọn đúng thời điểm đó để ra tay. Tuy nhiên Vermûnd không động đậy, cũng như Orik; họ nhìn chằm chằm vào nhau như những con sói đối địch và không bận tâm đến những chuyển động xung quanh.
Cuối cùng khi Gannel đã tái lập được trật tự, ông nói, “Grimstborith Vermûnd, ông có thể bác bỏ những công kích này không?”
Bằng một giọng đều đều vô cảm, Vermûnd đáp, “Tôi phủ nhận chúng với mọi cái xương trong người tôi, và tôi thách thức bất cứ ai chứng tỏ được chúng là thỏa đáng với một ngôn-luật-viên.”
Gannel quay sang Orik. “Vậy hãy đưa ra chứng cứ của ông, Grimstborith Orik, để chúng tôi có thể phán xử liệu chúng có hiệu lực hay không. Có năm ngôn-luật-viên ở đây ngày hôm nay, nếu tôi không lầm.” Ông ra dấu về phía bức tường, nơi năm người lùn râu trắng đứng và cúi đầu. “Họ sẽ đảm bảo rằng chúng ta không lạc ra khỏi ranh giới của luật pháp trong quá trình điều tra. Chúng ta tán thành chứ?”
“Tôi tán thành,” Ûndin nói.
“Tôi tán thành,” Hadfala nói và tất cả các tộc trưởng còn lại nói theo, trừ Vermûnd.
Đầu tiên, Orik đặt cái vòng thạch anh tím lên mặt bàn. Mỗi tộc trưởng nhờ một trong những pháp sư của mình kiểm tra nó, và tất cả đều nhất trí chứng cứ đó chưa đủ thuyết phục.
Rồi Orik nhờ một hầu cận mang vào một cái gương gắn trên một cái kiềng bằng đồng. Một pháp sư trong đoàn tùy tùng của ông niệm một thần chú, và trên bề mặt bóng loáng của cái gương xuất hiện hình ảnh về một căn phòng nhỏ, chất đầy sách. Một thoáng trôi qua, rồi một người lùn lao vào phòng và cúi đầu về phía hội đồng từ bên trong cái gương. Bằng giọng hổn hển, ông ta giới thiệu mình là Rimmar, sau đó tuyên thệ bằng cổ ngữ để đảm bảo sự trung thực của mình, ông ta kể với hội đồng làm thế nào ông ta và trợ thủ của mình đã tìm ra những điều có liên quan đến những con dao mà những kẻ tấn công Eragon đã sử dụng.
Khi các tộc trưởng đã thẩm vấn xong Rimmar, Orik bảo những chiến binh của mình mang vào ba tên lùn mà tộc Ingeitum đã bắt giữ. Gannel ra lệnh cho chúng tuyên thệ trung thực bằng cổ ngữ, nhưng chúng nguyền rủa ông ta và nhổ lên sàn và từ chối. Rồi các pháp sư từ tất cả các tộc nhập vào suy nghĩ của chúng và xâm chiếm ý thức chúng, moi lấy thông tin mà hội đồng yêu cầu. Không hề có phản đối, các pháp sư chứng thực những gì Orik đã nói.
Sau cùng, Orik gọi đến Eragon làm chứng. Eragon thấy hồi hộp khi nó đi đến chỗ cái bàn và mười ba tộc trưởng dữ tợn đang nhìn nó chằm chằm. Nó nhìn ngang qua căn phòng dán mắt vào một xoắn màu trên một cái trụ cẩm thạch và cố phớt lờ nỗi lo của mình. Nó lặp lại những lời thề chân thực khi một pháp sư nói với nó, và rồi, không nói nhiều hơn mức cần thiết, Eragon thuật lại cho các tộc trưởng nó và các cận vệ của nó đã bị tấn công như thế nào. Sau đó, nó trả lời những câu hỏi không thể tránh khỏi của những người lùn và rồi cho phép hai trong số các pháp sư – hai người Gannel đã chọn ngẫu nhiên trong số những người được tập hợp – để kiểm tra ký ức của nó về vụ việc. Khi Eragon hạ thấp hàng rào xung quanh tâm trí nó, nó nhận thấy hai pháp sư có vẻ e sợ, và nó cảm thấy an ủi một chút vì điều đó.
Tốt, nó nghĩ. Họ sẽ ít có khả năng đi lang thang vào những nơi không nên nếu họ biết sợ mình.
Eragon nhẹ nhõm vì cuộc thanh tra trôi qua không có rắc rối nào, và những pháp sư chứng thực cho phần tường thuật của nó với các tộc trưởng.
Gannel đứng dậy khỏi ghế và gọi các ngôn-luật-viên, hỏi họ: “Các vị đã thỏa mãn với chất lượng của những bằng chứng mà Grimstborith Orik và Eragon Khắc-tinh của Tà-thần đã đưa ra chưa?”
Năm người lùn râu trắng cúi đầu, và người lùn ở giữa nói, “Chúng tôi đã thỏa mãn, thưa Grimstborith Gannel.”
Gannel lẩm bẩm, có vẻ không ngạc nhiên. “Grimstborith Vermûnd, ông chịu trách nhiệm cho cái chết của Kvîstor, con trai của Bauden, và ông đã cố giết một vị khách. Với việc đó, ông đã mang đến sự ô nhục cho toàn thể chủng tộc chúng ta. Ông nói sao về điều này?”
Tộc trưởng của Az Sweldn rak Anhûin ấn bẹp tay xuống bàn, mạnh máu nổi phồng lên dưới lớp da nâu.
“Nếu tên Kỵ sĩ Rồng này là một knurla toàn diện chỉ trừ dòng máu, vậy thì hắn không phải là khách và bọn ta có thể đối xử với hắn như với bất cứ kẻ thù nào ở một tộc khác.”
“Tại sao, điều đó thật vô lý hết sức!” Orik kêu lớn, gần như líu lưỡi vì giận dữ. “Ông không thể nói cậu ấy –”
“Hãy bớt lời, nếu ông vui lòng, Orik,” Gannel nói. “La hét sẽ không giải quyết việc này. Orik, Nado, Íorûnn, vui lòng đi cùng tôi.”
Lo lắng bắt đầu làm Eragon bứt rứt khi bốn người lùn đi ra và hội ý với các ngôn-luật-viên trong vài phút. Chắc chắn họ sẽ không để Vermûnd thoát được sự trừng phạt chỉ bởi một trò bịp bợm miệng lưỡi nào đó! nó nghĩ.
Trở lại bàn, Íorûnn nói, “Các ngôn-luật-viên đều nhất trí. Tuy Eragon là một thành viên ràng buộc bởi lời thề của Dûrgrimst Ingeitum, nhưng cậu ấy cũng giữ những vị trí quan trọng bên ngoài vương quốc chúng ta: cụ thể, là một Kỵ sĩ Rồng, đồng thời là một đại diện chính thức của Varden, gửi đến bởi Nasuada để chứng kiến lễ đăng quang của người cai trị kế tiếp của chúng ta, và cũng là một bằng hữu có ảnh hưởng lớn đối với Nữ hoàng Islanzdí và chủng tộc của bà nói chung. Vì những lý do đó, Eragon xứng đáng với sự hiếu khách tương tự như chúng ta sẽ dành cho bất cứ một đại sứ viếng thăm nào, thái tử, quốc vương, hay bất cứ một yếu nhân nào khác.” Nữ người lùn liếc sang Eragon, đôi mắt tối, lóe sáng của bà ta rõ nét trên tứ chi nó.
“Tóm lại, cậu ấy là vị khách danh dự của chúng ta, và chúng ta phải đối đãi với cậu ấy như là… mà mọi knurla không mất trí cần phải biết.”
“Đúng, cậu ta là khách của chúng ta,” Nado đồng tình. Môi ông ta mím lại trắng bệch và má co rúm lại, như thể ông ta vừa mới cắn một quả táo chỉ để phát hiện ra nó vẫn chưa chín.
“Giờ ông nói sao, Vermûnd?” Gannel vặn hỏi.
Đứng dậy khỏi chỗ ngồi, người lùn che mạng tía nhìn quanh bàn, lần lượt nhìn chằm chằm vào các tộc trưởng. “Tôi nói điều này, và hãy nghe cho rõ, hỡi các grimstborithn: nếu bất cứ tộc nào vung rìu chống lại Az Sweldn rak Anhûin bởi những lời buộc tội giả dối này, chúng tôi sẽ coi đó là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp lại thích đáng. Nếu các vị bỏ tù tôi, điều đó chúng tôi cũng coi là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp lại thích đáng.” Eragon thấy cái mạng của Vermûnd giật giật, và nó nghĩ tên lùn có thể đang cười ở bên dưới. “Nếu các vị tấn công chúng tôi theo bất cứ cách nào, cho dù bằng thép hay bằng lời, không cần biết lời khiển trách của các vị ôn hòa đến cỡ nào, chúng tôi sẽ coi đó là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp trả thích đáng. Trừ khi các vị nóng lòng muốn xé tan đất nước này thành ngàn mảnh đẫm máu, tôi khuyên các vị hãy để gió cuốn trôi đi cuộc thảo luận sáng nay, và hãy lấp đầy đúng chỗ trong tâm trí các vị với suy nghĩ ai sẽ là người cai trị tiếp theo trên ngôi báu hoa cương.”
Các tộc trưởng ngồi yên lặng một lúc lâu.
Eragon đã phải cắn lưỡi mình để khỏi nhảy lên bàn mà chửi Vermûnd cho đến khi những người lùn đồng ý treo cổ hắn lên vì tội ác của hắn. Nó tự nhắc mình rằng nó đã hứa với Orik là sẽ nghe theo chỉ dẫn của Orik khi đối phó với hội đồng thị tộc.
Orik là tộc trưởng của mình, và mình phải để ông ta đáp trả theo cách mà ông ta thấy là thích hợp.
Freowin gỡ tay ra và đập một bàn tay đầy thịt xuống mặt bàn. Bằng giọng trung khàn khàn vang khắp phòng, dù có vẻ không lớn hơn một lời thì thầm, ông lùn to béo nói, “Ông đã làm ô danh chủng tộc chúng ta, Vermûnd. Chúng tôi không thể giữ lại danh dự knurlan của mình và phớt lờ sự xúc phạm của ông.”
Người phụ nữ lùn cao tuổi, Hadfala, xốc lại bó giấy chi chít chữ rune và nói, “Ông mong đạt được gì, ngoài sự tiêu vong của chúng ta, bằng việc giết Eragon? Thậm chí nếu Varden có thể lật đổ Galbatorix mà không cần đến cậu ấy, những bất hạnh nào mà rồng Saphira sẽ giáng xuống chúng ta nếu chúng ta giết chết Kỵ sĩ của nó? Nó sẽ làm Farthen Dûr ngập máu của chính chúng ta.”
Không một lời nào từ Vermûnd.
Tiếng cười phá vỡ sự yên lặng. Âm thanh quá bất ngờ, ban đầu Eragon không nhận ra nó đang phát ra từ Orik. Tiếng cười dịu xuống, Orik nói, “Nếu chúng ta chống đối lại ông hay Az Sweldn rak Anhûin, ông sẽ coi đó là hành động chiến tranh ư, Vermûnd? Được thôi, vậy chúng tôi sẽ không chống đối lại ông, hoàn toàn không.”
Lông mày Vermûnd nhô ra. “Làm sao điều này lại cho ông sự thích thú đó?”
Orik lại cười khẽ. “Bởi tôi đã nghĩ đến một điều mà ông không nghĩ đến, Vermûnd. Ông muốn chúng tôi để yên cho ông và tộc của ông? Vậy tôi đề nghị với hội đồng rằng chúng ta sẽ làm theo nguyện vọng của ngài Vermûnd đây. Nếu Vermûnd đã tự hành động theo ý mình mà không phải trên danh nghĩa grimstborith, ông ta sẽ bị đày xử tử vì những tội lỗi của mình. Do đó, hãy để chúng tôi xét xử tộc của ông như đối với người đó; hãy để chúng tôi trục xuất Az Sweldn rak Anhûin khỏi trái tim và trí óc chúng tôi cho đến khi họ chọn thay thế Vermûnd bằng một grimstborith khác với khí chất có chừng mực hơn và cho đến khi họ công nhận hành vi đê hèn của mình và ăn năn về nó trước hội đồng thị tộc, cho dù chúng ta có phải chờ cả ngàn năm.”
Lớp da nhăn nheo quanh mắt Vermûnd tái đi. “Ông sẽ không dám đâu.”
Orik cười. “A, nhưng chúng tôi sẽ không đụng một ngón tay đến ông và đồng loại của ông. Chúng tôi chỉ đơn giản là phớt lờ ông và từ chối giao thương với Az Sweldn rak Anhûin. Ông sẽ tuyên chiến vì chúng tôi không làm gì cả chăng, Vermûnd? Vì nếu hội đồng nhất trí với tôi, đó chính xác là những gì chúng tôi sẽ làm: không gì cả. Ông sẽ dùng mũi kiếm bắt chúng tôi phải mua mật ong và vải và đồ trang sức thạch anh của ông chăng? Ông chẳng có lính để bắt chúng tôi phải làm thế.” Quay về phía những người còn lại ở bàn, Orik hỏi, “Các vị còn lại nói sao?”
Hội đồng thị tộc không mất nhiều thời gian để quyết định. Từng người một, các tộc trưởng đứng dậy và biểu quyết trục xuất Az Sweldn rak Anhûin. Thậm chí Nado, Gáldhiem, và Havard – cựu đồng minh của Vermûnd cũng ủng hộ đề xuất của Orik. Với mỗi biểu quyết xác nhận, da mặt Vermûnd trước đó còn rõ nét trở nên càng lúc càng trắng bệch, cho đến khi ông ta trông như một con ma ăn vận trang phục kiếp trước của chính mình.
Khi biểu quyết đã xong, Gannel chỉ về phía cửa và nói, “Xéo đi, Vargrimstn Vermûnd. Hãy rời khỏi Tronjheim ngay hôm nay và mong không ai trong Az Sweldn rak Anhûin gây rắc rối cho hội động thị tộc cho đến khi họ đáp ứng những điều kiện chúng ta đã đặt ra. Cho đến lúc những điều đó xảy ra, chúng ta sẽ tẩy chay mọi thành viên của Az Sweldn rak Anhûin. Tuy nhiên, hãy biết điều này: kể cả tộc của ông có thể tự miễn thứ cho chính họ về sự hổ thẹn của mình, thì ông, Vermûnd, sẽ mãi mãi là Vargrimstn, thậm chí cho tới ngày chết của ông. Đó chính là ý nguyện của hội đồng thị tộc.” Tuyên bố xong, Gannel ngồi xuống.
Vermûnd ở nguyên chỗ cũ, vai ông ta rung lên với một cảm xúc mà Eragon không xác định được. “Chính các người mới là những kẻ đã làm ô danh và phản bội dòng giống,” hắn gầm gừ. “Bọn Kỵ sĩ giết tất cả người trong bộ tộc chúng ta, trừ Anhûin và những người lính của bà. Các người mong chúng ta quên điều này ư? Các người mong chúng ta tha thứ điều này ư? Ha! Ta nhổ lên nấm mồ tổ tiên các người. Chúng ta ít nhất cũng không để mất râu của chúng ta. Chúng ta sẽ không nhảy cẫng lên với cái con rối của đám thần tiên này trong khi những thành viên gia đình đã chết của chúng ta vẫn thét gọi sự báo thù.”
Phẫn nộ siết chặt Eragon khi không ai trong số các tộc trưởng đáp lại, và nó sắp sửa trả lời sự đả kích của
Vermûnd với những lời cay nghiệt của chính nó khi Orik liếc nó và lắc đầu thật nhẹ. Một cách khó nhọc, Eragon cố kìm hãm cơn giận, mặc dù nó tự hỏi sao Orik lại để cho một sự sỉ nhục khốc liệt như vậy qua đi mà không phản bác.
Đó gần như là… Ồ.
Đẩy người khỏi bàn, Vermûnd đứng dậy, bàn tay cuộn lại thành nắm đấm và vai ông ta gù lên. Ông ta tiếp tục nói, nhiếc móc và miệt thị các tộc trưởng với sự căm giận tăng dần cho đến khi ông ta la lối thật lực.
Tuy vậy, dù những lời chửi rủa của Vermûnd tệ hại đến mức nào, các tộc trưởng vẫn không đáp lại. Họ nhìn chằm chằm vào khoảng không, như thể đang trầm tư về những tình huống khó xử phức tạp, và mắt họ trượt khỏi Vermûnd mà không dừng lại. Trong cơn thịnh nộ, khi Vermûnd túm vào ngực áo giáp của Hreidamar, ba trong số lính gác của Hreidamar nhảy tới và kéo Vermûnd ra, nhưng khi họ làm thế, Eragon nhận thấy biểu hiện của họ ôn tồn và không biến đổi, như thể họ chỉ đơn thuần là giúp Hreidamar làm ngay ngắn áo giáp của mình. Khi họ thả Vermûnd ra, những người lính không nhìn vào ông ta nữa.
Một cơn ớn lạnh trườn lên xương sống Eragon. Những người lùn hành động như thể Vermûnd đã ngừng tồn tại. Như vậy đây chính là ý nghĩa của việc bị trục xuất khỏi những người lùn. Eragon nghĩ nó thà bị giết còn hơn phải chịu đựng một số phận như thế, và trong một khoảnh khắc, nó cảm thấy một dao động vì thương hại Vermûnd, nhưng lòng thương hại của nó biến mất ngay khoảnh khắc tiếp theo khi nó nhớ lại vẻ mặt lúc chết của Kvîstor.
Chửi thề lần cuối cùng, Vermûnd sải bước ra khỏi phòng, theo sau bởi những người thuộc tộc của ông ta, đã hộ tống ông ta đến cuộc họp.
Không khí giữa các tộc trưởng khác lại thoải mái ngay khi hai cánh cửa đóng sập sau lưng Vermûnd. Một lần nữa những người lùn lại nhìn ngó xung quanh không hạn chế gì, và họ tiếp tục nói chuyện ầm ĩ, bàn tán xem họ sẽ cần làm gì tiếp với Az Sweldn rak Anhûin.
Rồi Orik gõ gõ lên mặt bàn bằng đốc con dao găm của mình, và mọi người quay lại để nghe ông. “Giờ chúng ta đã giải quyết xong Vermûnd, còn một vấn đề nữa tôi muốn hội đồng xem xét. Mục đích chúng ta tập hợp tại đây là để chọn ra người kế nhiệm Vua Hrothgar. Tất cả chúng ta đều có nhiều điều để nói về chủ đề này, nhưng tôi tin giờ là thời điểm chín muồi để dẹp lời nói ra sau và để hành động nói thay cho chúng ta. Vì vậy tôi kêu gọi hội đồng hãy quyết định liệu chúng ta đã sẵn sàng hay chưa – và theo ý tôi, chúng ta còn hơn cả sẵn sàng – để tiến hành cuộc biểu quyết cuối cùng ba ngày sau kể từ lúc này, theo như luật của chúng ta. Biểu quyết của tôi, như tôi đưa ra, là rồi.”
Freowin nhìn Hadfala, bà này đang nhìn Gannel, ông này đang nhìn Manndrâth, ông này đang giật giật cái mũi của mình và đang nhìn Nado, và ông này đang chìm sâu vào cái ghế của mình và nhai nhai bên trong má.
“Rồi,” Íorûnn nói. “Rồi,” Ûndin nói.
“…Rồi,” Nado nói, và cả tám tộc trưởng còn lại cùng nói.
Vài giờ sau, khi hội đồng nghỉ ăn trưa, Orik và Eragon trở lại khu phòng của Orik để ăn. Không ai nói gì cho đến khi họ vào khu phòng, đã được phòng bị chống nghe trộm. Tại đó Eragon cho phép mình cười. “Ông đã lên kế hoạch trục xuất Az Sweldn rak Anhûin ngay từ đầu, đúng không?”
Vẻ thỏa mãn hiện trên mặt, Orik cũng cười và vỗ bụng. “Quả là vậy. Đó là hành động duy nhất tôi có thể thực hiện để không chắc chắn dẫn đến chiến tranh thị tộc. Chúng ta vẫn có thể có chiến tranh, nhưng sẽ không phải do chúng ta gây ra. Nhưng tôi không cho một tai họa như thế có thể xảy ra. Chỉ với mức độ ghét cậu, tôi nghĩ hầu hết Az Sweldn rak Anhûin sẽ hoảng sợ vì những gì Vermûnd đã làm trên danh nghĩa của họ. Tôi nghĩ ông ta sẽ không giữ chức grimstborith được lâu đâu.”
“Và bây giờ ông đã đảm bảo cuộc biểu quyết cho vị vua mới –”
“Hoặc nữ hoàng.”
“– hoặc nữ hoàng mới sẽ diễn ra.” Eragon ngập ngừng, miễn cưỡng làm vơi niềm vui chiến thắng của Orik, nhưng rồi nó hỏi, “Ông có thực sự có được hậu thuẫn cần thiết để giành ngôi không?”
Orik nhún vai. “Trước sáng nay, không ai có được sự hậu thuẫn cần thiết. Bây giờ cán cân đã chuyển rồi, và vào lúc này, sự đồng tình nằm bên chúng ta. Chúng ta cũng có thể tranh thủ thời cơ; chúng ta sẽ không bao giờ có một cơ hội ngon ăn hơn thế này đâu. Dù sao thì, chúng ta không thể để hội đồng thị tộc lề mề lâu thêm nữa. Nếu cậu không quay về Varden sớm, có thể sẽ mất tất cả.”
“Chúng ta sẽ làm gì trong lúc đợi cuộc biểu quyết?”
“Trước hết, chúng ta sẽ tổ chức ăn mừng thành công của chúng ta bằng một chầu,” Orik tuyên bố. “Sau đó khi ta đã no nê rồi, ta sẽ tiếp tục như trước: nỗ lực tập hợp thêm phiếu bầu trong khi giữ vững phần mà chúng ta đã giành được.”
Răng của Orik lóe lên màu trắng bên dưới mép bộ râu khi ông ta lại cười. “Nhưng trước khi chúng ta được nốc đến một ngụm rượu, cậu phải quan tâm một điều, mà cậu đã quên mất.”
“Cái gì?” Eragon hỏi, khó hiểu vì sự khoái trá rõ ràng của Orik.
“Tại sao, cậu phải triệu hồi Saphira đến Tronjheim, dĩ nhiên rồi! Dù tôi có trở thành vua hay không, chúng ta vẫn sẽ tôn lên một tân vương trong thời hạn ba ngày. Nếu Saphira định dự buổi lễ, nó sẽ phải bay gấp để có thể đến đây trước lúc đó.”
Kêu không thành tiếng, Eragon chạy đi tìm một cái gương.
Chương 36: BẤT TUÂN
Đất đen tươi tốt áp vào tay Roran mát lạnh. Anh nhặt một cục đất xốp và bóp vụn trong các ngón tay, công nhận rằng nó ẩm ướt và chứa đầy lá, thân cây, rêu, và các chất hữu cơ khác đang phân hủy, những thứ cung cấp thức ăn tuyệt hảo cho cây trồng. Anh áp nó vào môi và lưỡi mình. Vị rất sống động, chứa hàng trăm mùi vị khác nhau, từ núi nghiền vụn đến những con bọ hung và gỗ mục và phần chân rễ mềm mại của cỏ.
Đất trồng tốt đây, Roran nghĩ. Anh hồi tưởng về Thung lũng Palancar, và anh lại nhìn thấy mặt trời mùa thu lướt ngang qua ruộng lúa mạch bên ngoài căn nhà của gia đình mình - những hàng ngay ngắn thân cây vàng óng đu đưa trong gió nhẹ - với Sông Anora về phía tây và những đỉnh núi phủ tuyết nhô cao trên cả hai phía thung lũng. Đó là nơi mình nên ở, cày ruộng và xây dựng gia đình với Katrina, chứ không phải tưới mặt đất bằng chất lỏng từ chân tay người ta.
“Cậu kia!” Đội trưởng Edric quát, chỉ về phía Roran từ trên ngựa. “Thôi lãng phí thời gian đi, Cây-búa-dũngmãnh, đừng để tôi phải đổi ý và cho cậu đứng gác với đám cung thủ!”
Phủi tay vào xà cạp, Roran đứng dậy từ tư thế quỳ. “Rõ, thưa ngài! Tuân lệnh!” anh nói, nén mối ác cảm của mình đối với Edric. Từ lúc gia nhập đội của Edric, Roran đã cố nắm bắt những gì có thể về lai lịch của người này. Theo những gì anh nghe được, Roran kết luận Edric là một chỉ huy giỏi – nếu không Nasuada đã không giao cho ông ta đảm trách một nhiệm vụ quan trọng thế này – nhưng ông ta có tính cách rất khó chịu, và ông ta kỷ luật lính của mình chỉ vì những sai lệch nhỏ nhất trong những bài luyện tập được đưa ra, Roran chán nản nhận ra điều đó sau ba dịp khác nhau trong ngày đầu tiên của mình với đội của Edric. Roran tin rằng, đó là một kiểu chỉ huy làm suy yếu tinh thần người lính, cũng như làm trì trệ óc sáng tạo và sáng kiến của những người dưới mình. Có khi Nasuada giao mình cho ông ta vì chính những lý do đó, Roran nghĩ. Hoặc có lẽ đây là một bài kiểm tra khác của cô ta. Có thể cô ta muốn biết liệu mình có thể nén được kiêu hãnh lại đủ lâu mà làm việc với một người như Edric hay không.
Trở lên lưng Hỏa Tuyết, Roran đi đến phía trước hàng dọc gồm hai trăm năm mươi người. Nhiệm vụ của họ rất
đơn giản; vì Nasuada và Vua Orrin đã rút phần lớn lực lượng ra khỏi Surda, Galbatorix có vẻ đã quyết định tranh thủ sự vắng mặt của họ và tàn phá khắp đất nước vô phương tự vệ, cướp bóc các thị trấn và làng mạc và thiêu rụi những cây trồng cần thiết để hậu thuẫn cho cuộc xâm chiếm Đế quốc. Cách đơn giản nhất để loại bọn lính là cho Saphira bay ra mà xé xác chúng thành từng mảnh, nhưng trừ khi nó bay đến chỗ Eragon, chứ mọi người đều nhất trí rằng sẽ rất nguy hiểm cho Varden nếu vắng ả rồng quá lâu. Vì thế Nasuada đã gửi đội của Edric đến để đẩy lui bọn lính, và quân số của chúng, theo như các gián điệp của Nasuada đã ước lượng lúc đầu, là vào khoảng ba trăm. Tuy nhiên, hai ngày trước, Roran và những người lính còn lại đã hoảng vía khi bắt gặp những dấu vết chỉ ra rằng lực lượng của Galbatorix là gần tới bảy trăm.
Roran gò cương Hỏa Tuyết đến bên Carn đang ngồi trên con ngựa cái có đốm vừa gãi cằm vừa nghiên cứu địa hình.
Trước mặt họ là một thảm cỏ gợn sóng rộng mênh mông, điểm trên đó lác đác một vài cây liễu và cây dương. Diều hâu săn mồi từ trên cao, trong khi bên dưới, thảm cỏ đầy những tiếng rít của chuột, thỏ, những con gặm nhấm đang đào bới, và những con thú hoang khác. Bằng chứng duy nhất cho thấy con người đã từng tới đây là những vệt cỏ bị giẫm đạp hướng về chân trời phía đông, đánh dấu đường đi của bọn lính.
Carn liếc nhìn mặt trời ban trưa, da quanh đôi mắt ủ rũ co lại khi anh nheo mắt. “Ta phải bắt kịp chúng trước khi bóng dài hơn chiều cao của ta.”
“Và rồi chúng ta sẽ khám phá ra liệu bên ta có đủ đông mà dẹp được chúng không,” Roran lẩm bẩm, “hay là chúng sẽ đè bẹp chúng ta. Chỉ lần này thôi, tôi muốn ta đông hơn nó.”
Một nụ cười nham hiểm hiện trên mặt Carn. “Với Varden thì luôn là vậy.”
“Vào hàng!” Edric hét lớn, thúc ngựa đi xuống vệt đường dẫn xuyên qua thảm cỏ. Roran ngậm chặt miệng và thúc gót chân vào sườn Hỏa Tuyết khi đoàn quân theo bước người đội trưởng.
Sáu giờ sau, Roran ngồi trên Hỏa Tuyết, nấp bên trong một nhóm cây sồi mọc dọc theo bờ một dòng suối nhỏ phẳng lặng đầy những bụi cói và tảo nổi. Qua mớ cành cây đan xen trước mặt, Roran nhìn chăm chú một ngôi làng đổ nát với không hơn hai mươi căn nhà. Roran quan sát với cơn giận càng lúc càng tăng khi các dân làng đã phát hiện ra đám quân lính đang tiến tới từ phía tây, rồi thu gom vài bọc tài sản và chạy trốn về phía nam, hướng tới trung tâm Surda. Nếu Roran có quyền quyết định, anh sẽ cho dân làng biết sự có mặt của họ và đảm bảo rằng họ sẽ không phải mất nhà của mình, nếu như anh và những người đồng hành có thể ngăn chặn điều đó Anh nhớ rõ nỗi đau và sự tuyệt vọng cũng như cảm giác vô vọng khi anh rời bỏ Carvahall, và anh sẽ giúp họ thoát khỏi điều đó nếu anh có thể. Anh cũng sẽ yêu cầu đàn ông trong làng chiến đấu cùng mình. Thêm mười hay hai chục bộ vũ khí nữa có thể đồng nghĩa với sự khác biệt giữa chiến thắng và chiến bại, và Roran biết rõ hơn hầu hết mọi người về lòng hăng hái khi người ta chiến đấu để bảo vệ nhà của mình. Tuy nhiên, Edric đã phản đối ý kiến đó và nhất quyết rằng Varden phải ẩn nấp trong những ngọn đồi phía đông nam của làng.
“May là chúng đi bộ,” Carn lẩm bẩm, nói về cột quân lính màu đỏ đang diễu hành về phía ngôi làng. “Chứ không chúng ta sẽ không đến đây trước được.”
Roran liếc nhìn lại những người đang tập trung sau lưng. Edric đã cho anh quyền chỉ huy tạm thời đối với tám mươi mốt người lính. Trong số họ có người dùng kiếm, dùng giáo, và nửa tá cung thủ. Một trong những người bạn của Edric, Sand, chỉ huy một đội tám mươi mốt người nữa, trong khi Edric đích thân lãnh đạo phần còn lại. Cả ba nhóm tập trung co cụm giữa đám cây sồi, và Roran nghĩ đó là một sai lầm; khi họ phá bỏ thế yểm trợ thì thời gian để sắp xếp đội hình sẽ chính là thời gian cho bọn lính bố trí phòng thủ.
Nghiêng đầu về phía Carn, Roran nói, “Tôi không thấy tên nào có dấu hiệu bị cụt tay què chân hay thương tích đáng kể gì khác, nhưng thế cũng chẳng chứng tỏ được gì. Cậu có thấy bất cứ tên nào là người không biết đau không?”
Carn thở dài. “Ước gì tôi thấy. Em họ anh thì được, vì Murtagh và Galbatorix là hai pháp sư duy nhất mà Eragon nên sợ, còn tôi chỉ là một pháp sư quèn, mà tôi cũng không dám kiểm tra bọn lính. Nếu có pháp sư cải trang trong bọn, chúng sẽ biết tôi do thám ngay, và khả năng là tôi không thể phá được tâm trí của chúng trước khi chúng báo
động cho đồng bọn là ta đang ở đây.”
“Có vẻ mỗi lần chuẩn bị đánh nhau chúng ta đều có cuộc thảo luận này,” Roran nhận xét, quan sát lực lượng của bọn lính và cố quyết định xem dàn quân thế nào là tốt nhất.
Carn cười, nói, “Không sao. Tôi chỉ hy vọng chúng ta cứ thảo luận thế đi, bởi vì nếu không –” “Một hoặc cả hai ta đã toi –”
“Hoặc Nasuada đã chia lại chúng ta sang hai đội trưởng khác nhau –”
“Rồi sau có thể chúng ta vẫn toi, bởi vì sẽ chẳng có ai yểm trợ chúng ta,” Roran kết luận. Một nụ cười nở trên môi. Đó đã là trò đùa quen thuộc của họ. Anh rút búa ra khỏi thắt lưng và nhăn mặt khi cái chân trái của anh nhói đau ở chỗ mà con bò đã dùng sừng làm rách thịt anh. Cau có, anh với tay xuống xoa bóp chỗ đau.
Carn nhìn thấy liền nói, “Ổn chứ?”
“Không giết được tôi đâu,” Roran nói, rồi cân nhắc lại lời của mình. “À, có thể có, nhưng quỷ tha ma bắt tôi đi nếu tôi đợi ở đây trong khi cậu ra xẻ thịt mấy con lừa lóng ngóng kia.”
Khi bọn lính tới làng, chúng đi thẳng qua, chỉ dừng lại để phá cửa chính mỗi nhà và ngó vào các phòng xem có ai trốn bên trong không. Một con chó chạy ra từ sau một cái thùng đựng nước mưa, lông cổ dựng đứng, bắt đầu sủa bọn lính. Một tên trong bọn bước tới trước phi cây giáo của hắn ra, giết chết con chó.
Ngay lúc tên đầu tiên trong bọn lính tiến đến đầu kia làng, Roran siết chặt tay quanh cán búa, sẵn sàng xông trận, nhưng rồi anh nghe thấy một tràng những tiếng la chói lói, và một cảm giác sợ hãi túm chặt lấy anh. Một toán lính đi ra từ căn nhà áp chót, kéo theo ba người đang vùng vẫy: một người đàn ông tóc bạc cao gầy, một phụ nữ trẻ áo cánh tả tơi, và một thằng nhỏ không hơn mười một tuổi.
Mồ hồi túa ra trên trán Roran. Bằng một giọng đều đều, thấp và chậm, anh bắt dầu nguyền rủa, nguyền rủa ba nạn nhân vì đã không bỏ trốn cùng làng xóm, nguyền rủa bọn lính vì những gì bọn chúng đã làm và có thể sắp làm, nguyền rủa Galbatorix, và nguyền rủa bất cứ ý tưởng nào của số phận đã gây nên tình cảnh như thế này. Sau lưng anh, anh ý thức được đồng đội của anh cựa quậy và lẩm bẩm giận dữ, nóng lòng muốn trừng trị bọn lính vì sự tàn bạo của chúng.
Lục soát hết các nhà, bọn lính quay lại đường cũ đến giữa làng và lập thành một nửa hình tròn nham nhở vây quanh các tù nhân của chúng.
Hay! Roran thầm reo lên khi bọn lính quay lưng lại nhóm Varden. Kế hoạch của Edric chính là chờ cho chúng làm vậy. Trong trạng thái sẵn sàng phát lệnh tấn công, Roran nhỏm người khỏi yên cương khoảng chục phân, toàn thân căng lên. Anh cố nuốt, nhưng cổ họng quá khô.
Tên sĩ quan chỉ huy bọn lính, tên duy nhất ngồi trên ngựa, xuống ngựa và trao đổi vài lời không thể nghe thấy với người đàn ông tóc bạc. Không hề cảnh báo, tên sĩ quan rút thanh kiếm cong và chặt đầu người đàn ông, rồi bật lùi lại để tránh dòng máu phun ra. Người phụ nữa thét lên thậm chí còn lớn hơn trước đó.
“Xông lên,” Edric nói.
Roran mất nửa giây mới lĩnh hội được từ mà Edric vừa điềm tĩnh thốt ra chính là câu lệnh mà anh đang chờ đợi. “Xông lên!” Sand hét lên phía bên kia Edric, phi nước đại ra khỏi bãi sồi cùng với người của mình.
“Xông lên!” Roran hét, thúc gót vào sườn Hỏa Tuyết. Anh cúi người đằng sau tấm khiên của mình khi Hỏa Tuyết chở anh lao xuyên qua đám cành cây, rồi lại hạ khiên xuống khi đã ra ngoài, phi xuống sườn đồi, với tiếng móng ngựa vang rền xung quanh. Tha thiết muốn cứu mạng người phụ nữ và cậu bé, Roran thúc Hỏa Tuyết phi hết tốc
độ. Nhìn lại, anh phấn khởi thấy nhóm của anh đã tách khỏi nhóm Varden còn lại mà không có vấn đề gì nhiều; ngoài vài người bị tụt lại sau, còn phần lớn tập hợp lại thành một nhóm duy nhất không tới chục thước sau lưng anh.
Roran lướt mắt sang Carn đang cưỡi ngựa trong nhóm tiên phong của Edric, cái áo choàng xám của anh ta tung phần phật trong gió. Một lần nữa, Roran ước gì Edric cho họ được ở cùng một nhóm.
Theo lệnh của ông ta, Roran không đâm thẳng vào làng, mà hơi lái sang trái và đi vòng qua các nhà để ép sườn bọn lính và tấn công từ một hướng khác. Sand cũng làm vậy ở cánh phải, trong khi Edric và lính của ông xông thẳng vào làng.
Một dãy nhà che khuất những tiếng va chạm lúc đầu, nhưng Roran nghe thấy những tiếng la hét đồng thanh vang lên, rồi một chuỗi những tiếng tưng tưng kim loại kỳ lạ, và tiếp đến là tiếng la hét của người và ngựa.
Bụng dạ Roran rối lên vì lo lắng. Tiếng gì thế? Chẳng lẽ là cung kim loại? Có cả món này sao? Không bận tâm đến nguyên nhân, anh biết lẽ ra không thể có nhiều tiếng ngựa kêu đau như thế. Tay chân anh phát lạnh khi nhận ra với sự chắc chắn tuyệt đối rằng cuộc tấn công đã gặp rắc rối và trận chiến có thể đã thất bại rồi.
Anh giật mạnh cương Hỏa Tuyết khi họ đi ngang ngôi nhà cuối cùng, hướng con ngựa về phía trung tâm làng. Sau lưng anh, người của anh cũng làm theo. Hai trăm thước trước mặt, Roran thấy ba hàng lính đang đóng giữa hai ngôi nhà, chặn đường họ. Bọn lính có vẻ không hề sợ sệt những con ngựa đang lao về phía chúng.
Roran lưỡng lự. Lệnh cho anh rất rõ ràng: anh và người của anh lo sườn phía tây và mở đường xuyên thủng đội quân của Galbatorix cho đến khi họ nhập lại với Sand và Edric. Nhưng Edric đã không cho Roran biết anh phải làm gì trong trường hợp lao thẳng vào bọn lính không còn có vẻ là một ý tưởng hay nữa, khi anh và người của mình đã vào vị trí rồi. Và Roran biết nếu anh làm trái lệnh đã ra, kể cả là để ngăn người của anh khỏi bị tàn sát, anh sẽ mắc tội bất tuân thượng lệnh và Edric có thể trừng trị anh vì điều đó.
Rồi bọn lính quẳng những cái áo choàng lụng thụng của chúng sang một bên và đưa nỏ lên vai.
Khoảnh khắc đó, Roran quyết định anh sẽ làm bất cứ điều gì để đảm bảo rằng Varden sẽ thắng trận này. Anh sẽ không để bọn lính tiêu diệt lực lượng của anh với một loạt tên duy nhất chỉ vì anh muốn tránh những hậu quả không dễ chịu của việc trái lệnh đội trưởng.
“Nấp ngay!” Roran hét lên, giật mạnh đầu Hỏa Tuyết sang phải, bắt con vật ngoặt ra phía sau ngôi nhà. Một tá mũi tên găm vào mặt bên căn nhà chỉ một giây sau đó. Nhìn quanh, Roran thấy tất cả lính của mình đã xoay sở cúi xuống sau mấy ngôi nhà gần đó trước khi bọn lính bắn, chỉ trừ một người. Người lính quá chậm chân này nằm đổ máu trên đất, hai mũi tên xuyên qua ngực anh ta. Mũi tên đục thủng áo giáp anh ta như thể nó không dày hơn một mảnh giấy lụa. Hoảng sợ vì mùi máu, ngựa của anh ta tung vó lên và trốn khỏi làng, để lại một đám bụi cuộn lên phía sau.
Roran với tay lên túm lấy cạnh một cái xà ở mặt bên căn nhà, giữ Hỏa Tuyết đứng yên một chỗ trong khi anh tuyệt vọng cố tính toán cách hành động. Bọn lính đã trói chân anh và đồng đội; họ không thể bước trở ra khoảng trống mà không bị lãnh tên khắp người, họ sẽ biến thành nhím ráo.
Một nhóm lính của Roran tiến đến chỗ anh từ một căn nhà được căn của anh che một phần khỏi tầm nhìn của bọn lính. “Làm sao đây, Cây-búa?” họ hỏi. Họ không có vẻ khó chịu với việc anh đã làm trái lệnh; ngược lại, họ nhìn anh với biểu hiện của một sự tín nhiệm mới.
Nghĩ nhanh hết sức, Roran đưa mắt nhìn xung quanh. Anh chợt nhìn thấy một cây cung cùng một ống đựng tên buộc sau yên ngựa của một người trong nhóm. Roran mỉm cười. Chỉ vài người trong nhóm là cung thủ, nhưng tất cả bọn họ đều mang theo cung tên để săn bắn lấy thức ăn và giúp nuôi quân khi họ đang ở giữa nơi hoang dã mà không có hỗ trợ từ nhóm Varden.
Roran chỉ căn nhà anh đang tựa vào và nói, “Lấy cung của các anh rồi trèo lên mái, vừa bao nhiêu người thì lên
bấy nhiêu, nhưng nếu các anh quý trọng mạng mình, hãy ở ngoài tầm nhìn cho đến khi tôi bảo làm ngược lại. Và khi tôi bảo, hãy bắn và cứ bắn cho đến lúc các anh hết sạch tên hoặc cho đến khi tên cuối cùng chết. Hiểu chứ?”
“Rõ, thưa ngài!”
“Vậy đi đi. Những người còn lại, tìm các căn nhà mà các anh có thể tận dụng để tỉa bớt bọn lính. Harald, nói cho tất cả mọi người biết, rồi tìm mười người dùng giáo và mười người dùng kiếm giỏi nhất trong số ta và đưa họ đến đây càng nhanh càng tốt.”
“Tuân lệnh!”
Với tác phong nhanh nhẹn, người lính vội vàng thi hành. Những người gần Roran nhất lấy cung và ống tên của họ từ sau yên cương rồi đứng lên lưng ngựa, trèo lên mái tranh của căn nhà. Bốn phút sau, phần lớn người của Roran đã vào vị trí trên mái của bảy căn nhà khác nhau – khoảng tám người một mái – và Harald đã quay lại cùng với số người được yêu cầu.
Roran nói với những người lính đang tụ tập quanh anh, “Rồi, giờ nghe đây. Khi tôi phát lệnh, những người ở trên sẽ bắt đầu bắn. Ngay khi mũi tên đầu tiên bay vào bọn lính, chúng ta sẽ xông ra và cố giải cứu Đội trưởng Edric. Nếu ta không thể, ta sẽ phải làm sao cho mấy cái áo đỏ kia biết mùi thép lạnh. Các cung thủ chắc sẽ làm bọn lính bối rối đủ cho ta lại gần chúng trước khi chúng kịp dùng đến mấy cái nỏ. Hiểu rồi chứ?”
“Rõ, thưa ngài!”
“Thế thì bắn!” Roran hét lên.
Với những tiếng thét đến lạc giọng, những người lính trên mấy căn nhà nhô ra khỏi rìa mái và đồng loạt nhả tên vào bọn lính phía dưới. Cơn mưa tên rít lên trong không khí như những con chim bách thanh khát máu lao xuống con mồi của mình.
Một khoảnh khắc sau, khi những tên lính bắt đầu gào thét đau đớn vì những vết thương, Roran nói, “Giờ xông lên!” và nện gót chân vào Hỏa Tuyết.
Cùng nhau, anh và người của mình phi nước đại vòng qua căn nhà, kéo những con chiến mã của mình quẹo ngặt đến mức họ gần như lộn nhào. Trông cậy vào tốc độ của mình và trình độ của những cung thủ bên trên, Roran lượn vòng qua đám lính, chúng đang vùng vẫy một cách hỗn loạn, cho đến khi anh đến địa điểm cuộc tấn công tai họa của Edric. Mặt đất ở đó loang đầy máu, và những xác chết của rất nhiều chiến binh chiến mã rải rác khắp khoảng trống giữa các căn nhà. Lực lượng còn sót lại của Edric đang phải đánh giáp lá cà với bọn lính. Roran ngạc nhiên thấy Edric vẫn còn sống, đang chung lưng chiến đấu với năm người lính của ông.
“Đi cùng tôi!” Roran hét lên với những người đi cùng anh khi họ lao vào trận chiến.
Bằng hai cú đá bất ngờ, Hỏa Tuyết hạ gục hai tên lính, đánh gãy tay cầm kiếm và phá thủng lồng ngực chúng. Hài lòng với chiến mã, Roran quai búa tứ tung, gầm gừ trong sự hân hoan điên cuồng của trận chiến khi anh đốn ngã hết tên này đến tên khác, không một tên nào có thể trụ được trước những cú đánh tàn bạo của anh. “Theo tôi!” anh hét lên khi anh lên ngang hàng với Edric và những người còn sống sót khác. “Theo tôi!” Trước mặt anh, trận mưa tên vẫn tiếp tục đổ xuống bọn lính, buộc chúng phải che chắn bằng khiên đồng thời cố gắng né gạt những thanh kiếm và mũi giáo của quân Varden.
Khi anh và lính của mình đã vây quanh nhóm Varden đang đứng, Roran hét lên, “Lui! Lui! Về chỗ mấy cái nhà!” Từng bước một, tất cả bọn họ rút lui cho đến khi họ ở ngoài tầm chém của bọn lính, và rồi họ quay đầu chạy thẳng về phía căn nhà gần nhất. Bọn lính bắn và giết mất ba người Varden trên đường chạy, nhưng số còn lại đến được căn nhà mà không bị thương tích gì.
Edric ngồi sụp xuống cạnh căn nhà, hớp hơi để thở. Khi đã nói lại được, ông ra dấu về phía người của Roran và nói, “Can thiệp rất đúng lúc và rất được hoan nghênh, Cây-búa-dũng-mãnh, nhưng sao ta lại thấy cậu ở đây, mà
không phi ra từ giữa đám lính, như ta trông đợi?”
Rồi Roran giải thích những việc mình đã làm và chỉ cho ông thấy các cung thủ trên mái nhà. Trán Edric sa sầm khi ông nghe Roran báo cáo. Tuy nhiên ông không truy cứu Roran vì tội bất tuân của mình mà chỉ nói, “Cho những người kia xuống ngay. Họ đã thành công trong việc phá hàng ngũ bọn lính. Giờ chúng ta phải trông cậy vào việc chơi kiếm trung thực để loại chúng.”
“Chúng ta còn quá ít người để tấn công trực tiếp bọn lính!” Roran phản đối. “Chúng áp đảo ta còn hơn ba trên một.”
“Thế thì ta sẽ lấy can trường bù số lượng!” Edric rống lên. “Ta được biết là cậu có can đảm, Cây-búa-dũng-mãnh, nhưng rõ ràng lời đồn đã lầm và cậu nhát như một con thỏ đế đang run vậy. Giờ thì làm như ta nói, và đừng chất vấn ta lần nữa!” Người đội trưởng chỉ một người của Roran. “Cậu kia, cho ta mượn con ngựa.” Sau khi người lính xuống ngựa, Edric trèo lên và nói, “Một nửa số các cậu lên ngựa, theo ta; ta đi tiếp viện cho Sand. Những người khác, ở lại với Roran.” Đá vào sườn con ngựa, Edric phi nước đại cùng những người ông chọn theo, phi từ nhà này sang nhà khác khi tìm đường đi vòng qua đám lính đang túm tụm ở trung tâm ngôi làng.
Roran lắc đầu tức giận nhìn họ rời đi. Anh chưa từng bao giờ để cho ai chất vấn lòng can đảm của mình mà không đáp lại lời chỉ trích bằng lời hoặc bằng những cú đánh. Tuy nhiên khi mà trận chiến còn tiếp diễn thì sẽ không thích đáng cho anh đối đầu với Edric. Được lắm, Roran nghĩ, ta sẽ cho Edric thấy lòng can đảm mà ông ta tưởng mình thiếu. Nhưng đó sẽ là tất cả những gì ông ta lấy được của mình. Mình sẽ không cho cung thủ ra đối mặt với bọn lính khi mà ở vị trí hiện giờ họ an toàn hơn và hiệu quả hơn.
Roran quay lại xem xét những người mà Edric đã để lại cho anh. Trong số những người mà họ cứu được, Roran mừng vì thấy Carn, trầy xước và máu me, nhưng về tổng thể, vô sự. Họ gật đầu với nhau, và Roran nói với cả nhóm: “Các anh đã nghe Edric nói đấy. Tôi không đồng ý. Nếu làm theo ý ông ta, tất cả chúng ta sẽ tàn đời thành một đống trước khi mặt trời lặn. Chúng ta vẫn có thể thắng trận này, nhưng không phải bằng cách bước thẳng vào chỗ chết! Chúng ta thiệt về số lượng, thì có thể bù lại bằng khôn ngoan. Các anh biết tôi đã đến gia nhập Varden như thế nào. Các anh biết tôi đã từng chiến đấu và đánh bại Đế quốc, và chỉ trong một làng như vậy thôi! Chuyện này tôi làm được, tôi thề với các anh. Nhưng tôi không thể làm một mình. Các anh có theo tôi không? Nghĩ kĩ đi. Tôi sẽ nhận trách nhiệm vì bỏ qua lệnh của Edric, nhưng ông ta và Nasuada có thể vẫn trừng phạt bất cứ ai có liên quan.”
“Thế thì họ là đồ ngốc,” Carn làu bàu. “Họ thích chúng ta chết ở đây à? Không, tôi nghĩ là không. Anh có thể tin tưởng tôi, Roran.”
Ngay khi Carn tuyên bố, Roran thấy những người khác giữ thẳng vai, cân lại hàm và mắt họ bừng cháy với quyết tâm mới, và anh biết họ đã quyết định chia sẻ số phận với anh, cho dù là vì họ không muốn bị tách ra khỏi pháp sư duy nhất của đội. Rất nhiều người là những chiến sĩ Varden đã nợ ơn cứu mạng của một thành viên trong Du Vrangr Gata, và những kỵ binh mà Roran đã gặp thà tự đâm vào chân mình còn hơn là ra chiến trận mà không có một pháp sư ở kề bên.
“Được,” Harald nói. “Anh cũng có thể tin tôi, Cây-búa-dũng-mãnh.”
“Vậy theo tôi!” Roran nói. Với tay xuống, anh kéo Carn lên lưng Hỏa Tuyết ngồi sau anh, rồi khẩn trương đưa nhóm của mình quay lại vòng qua làng đến chỗ những cung thủ trên mái nhà, họ vẫn tiếp tục bắn tên vào bọn lính. Trong lúc Roran và người của anh phi từ nhà này sang nhà khác, các mũi tên vù vù sướt qua họ – âm thanh nghe như những con côn trùng khổng lồ giận dữ – và một cái thậm chí còn xuyên một nửa qua khiên của Harald.
Khi họ đã an toàn sau chỗ nấp, Roran bảo những người trên ngựa đưa cung tên cho những người dưới đất, và những người này lại trèo lên mái tham gia với các cung thủ kia. Khi họ trèo lên theo lời anh, Roran ra hiệu với Carn, anh này đã nhảy khỏi Hỏa Tuyết ngay khi họ dừng lại, và nói, “Tôi cần một thần chú của cậu. Cậu có thể che chắn cho tôi và mười người khác khỏi bị tên bắn không?”
Carn ngần ngừ. “Bao lâu?”
“Một phút? Một giờ? Ai mà biết?”
“Che chắn từng đấy người khỏi một nắm tên thôi sẽ nhanh chóng vượt quá giới hạn của tôi… Nhưng nếu anh không phiền việc tôi chặn những mũi tên trên đường bay, tôi có thể bẻ hướng của chúng khỏi các anh, như thế –”
“Thế cũng được.”
“Chính xác anh muốn tôi bảo vệ ai?”
Roran chỉ những người anh chọn để đi cùng mình, và Carn hỏi tên từng người họ. Đứng gù vai lên, Carn bắt đầu lẩm nhẩm bằng cổ ngữ, mặt tái đi và căng thẳng. Ba lần anh ta cố tung phép, nhưng cả ba lần đều hỏng. “Xin lỗi,” anh nói, run run thở ra. “Tôi không tập trung được.”
“Chết tiệt, đừng xin lỗi,” Roran làu bàu. “Cứ làm đi!” Nhảy khỏi Hỏa Tuyết, anh nắm lấy hai bên đầu Carn, giữ anh ta đứng yên. “Nhìn tôi này! Nhìn thẳng vào mắt tôi này. Đúng rồi. Cứ nhìn tôi… Tốt. Giờ đặt phép xung quanh chúng tôi đi.”
Nét mặt Carn thư thái và vai anh thả lỏng, rồi với một giọng tự tin, anh lặp lại câu thần chú. Ngay khi bật ra từ cuối cùng, anh khẽ đổ vào tay Roran trước khi hồi phục lại. “Xong rồi,” anh nói.
Roran vỗ nhẹ vào vai anh ta, rồi lại trèo lên Hỏa Tuyết. Lướt mắt qua mười kỵ sĩ, anh nói, “Yểm trợ sau lưng và hai cánh của tôi, nhưng cứ ở sau tôi chừng nào mà tôi vẫn còn vung được búa.”
“Tuân lệnh!”
“Hãy nhớ, những mũi tên không thể làm hại được các anh nữa. Carn, cậu ở đây. Đừng cử động quá nhiều; giữ sức đi. Nếu cậu thấy không thể duy trì được thần chú nữa, ra hiệu cho chúng tôi trước khi cậu kết thúc. Đồng ý không?”
Carn ngồi trên bậc cửa của căn nhà, gật đầu. “Đồng ý.”
Siết lại tay quanh khiên và búa, Roran hít thật sâu, cố trấn tĩnh. “Cố lên nào,” anh nói, và chắt lưỡi cho Hỏa Tuyết chạy.
Với mười người lính cưỡi ngựa sau lưng, Roran phi ra giữa con đường đất chạy giữa các căn nhà và đối diện bọn lính một lần nữa. Năm trăm tên hay khoảng đó trong đoàn quân của Galbatorix vẫn đang ở trung tâm ngôi làng, hầu hết bọn chúng đều cúi hoặc quỳ đằng sau khiên của mình trong khi cố gắng lên lại nỏ. Thỉnh thoảng một tên lại đứng lên và nhả một mũi về phía các cung thủ trên mái nhà trước khi lại thụp xuống đằng sau cái khiên khi một mũi tên xé gió bay qua chỗ hắn vừa mới đứng. Khắp khoảng trống vương vãi xác người, những mũi tên rải rác đầy mặt đất như lau sậy đâm ra từ đất đẫm máu. Vài chục thước phía bên kia bọn lính, Roran có thể thấy một nhóm thân thể vùng vẫy, và anh cho rằng đó là chỗ mà Sand, Edric, và bất cứ thứ gì còn lại trong lực lượng của họ đang chiến đấu với bọn lính. Nếu người phụ nữ trẻ và cậu bé đang ở trong khoảng trống, anh không nhận ra họ.
Một mũi tên lao đến Roran. Khi mũi tên còn cách ngực anh không tới một thước, nó đột ngột đổi hướng và bay nghiêng đi, trượt khỏi anh và đồng đội. Roran nao núng, nhưng mũi tên đã bay qua rồi. Họng anh nghẹn lại, và nhịp tim tăng gấp đôi.
Liếc xung quanh, Roran phát hiện một cái xe hàng đổ vỡ tựa vào một căn nhà bên tay trái. Anh chỉ vào nó và nói, “Kéo cái kia ra đây và lật ngược nó lại. Chắn bớt càng nhiều đường càng tốt.” Anh hét lên với các cung thủ, “Đừng để bọn lính lẻn sang đánh từ hai cánh! Lúc nào chúng xông vào ta, làm mỏng lực lượng chúng đi càng nhiều càng tốt. Còn lúc nào hết tên là xuống gia nhập với bọn tôi ngay lập tức!”
“Rõ!”
“Coi chừng bắn nhầm bọn tôi, không tôi thề là sẽ ám nhà các anh đến ngày tận thế!” “Rõ!”
Thêm nhiều mũi tên nữa bay vào Roran và những người lính, nhưng trong mọi trường hợp các mũi tên đều trượt khỏi vòng bảo vệ của Carn và đổi hướng đâm vào tường hoặc xuống đất hoặc biến luôn lên trời.
Roran nhìn người của anh kéo cái xe hàng ra đường. Khi họ gần xong, anh ngẩng đầu, hít hơi đầy phổi, rồi hướng giọng nói về phía bọn lính, anh rống lên, “Này bọn chó thối tha rúm ró kia! Xem mười một người bọn ta chặn đường bọn mày đây. Thắng bọn tao, và bọn mày sẽ được tự do. Thử dùng tay đi nếu chúng mày có gan. Sao? Do dự à? Dũng khí đàn ông của chúng mày đâu rồi, bọn giòi bọ biến dạng, bọn sát nhân mặt heo bệnh hoạn kia? Cha chúng mày là đồ ngu si chảy nhớt đáng lẽ phải chết chìm từ lúc mới sinh! Đúng, và mẹ chúng mày là đồ rác rưởi vô giá trị, là thê thiếp của lũ Urgals!”
Roran cười thỏa mãn khi vài tên trong bọn lính hú lên giận dữ và bắt đầu nhục mạ lại anh. Tuy nhiên, một tên trong bọn có vẻ đã mất tinh thần chiến đấu tiếp, vì hắn bật dậy và chạy về phía bắc, che chắn mình bằng cái khiên và nhảy nhặng xị từ bên này sang bên kia trong nỗ lực tuyệt vọng tránh né các cung thủ. Bất chấp nỗ lực của hắn, nhóm Varden bắn hắn chết tươi trước khi hắn chạy được hơn ba mươi thước.
“Ha!” Roran kêu lên. “Đồ hèn, tất cả chúng mày, đồ chuột sông chấy rận! Nếu tin này cho chúng mày thêm can đảm, thì cho chúng mày biết: Roran Cây-búa-dũng-mãnh là tên của tao, và Eragon Khắc-tinh của Tà-thần là em họ tao! Giết được tao, lão vua thối tha đó sẽ thưởng chúng mày chức bá tước đấy, có khi còn hơn. Nhưng chúng mày sẽ phải giết tao với một lưỡi gươm; nỏ của chúng mày không ích gì với tao đâu. Tới đi, đồ ốc sên; đồ con đỉa; đồ ve trắng chết đói! Tới hạ tao đi nếu chúng mày có thể!”
Những tiếng hét xông trận vang lên xôn xao, một nhóm ba chục tên lính liệng mấy cây nỏ đi, rút những thanh kiếm sáng loáng ra, và, khiên giơ cao, chạy về phía Roran và người của anh.
Qua vai phải của mình, Roran nghe Harald nói, “Thưa ngài, chúng đông hơn ta nhiều.”
“Đúng,” Roran nói, dán chặt mắt vào bọn lính. Bốn tên trong số chúng vấp ngã và nằm bất động trên đất, bị xuyên thủng bởi vô số mũi tên.
“Nếu cả bọn đánh cùng một lúc, chúng ta không có cơ đâu.”
“Đúng, nhưng không đâu. Nhìn xem, chúng bối rối và mất tổ chức rồi. Chắc chỉ huy của chúng gục rồi. Miễn là chúng ta giữ vững đội hình, chúng không đè bẹp được ta đâu.”
“Nhưng mà, Cây-búa, chúng ta cũng không thể giết hết từng đấy tên được!”
Roran liếc Harald ở phía sau. “Chắc chắn có thể! Chúng ta chiến đấu để bảo vệ gia đình chúng ta và để giành lại nhà và đất của chúng ta. Còn chúng chiến đấu là vì Galbatorix bắt chúng làm thế. Chúng không có được trái tim cho trận đánh này. Cho nên hãy nghĩ về gia đình anh, nghĩ về nhà anh, và nhớ rằng anh đang bảo vệ những điều đó. Một người đàn ông chiến đấu vì những điều lớn lao hơn bản thân anh ta có thể giết bay cả trăm tên lính!” Trong lúc nói, Roran nhìn thấy trong tâm trí anh hình ảnh Katrina trong bộ váy cưới màu xanh dương, và anh ngửi thấy hương thơm từ da cô, và anh nghe thấy giọng nói câm lặng của cô trong cuộc nói chuyện của họ khuya đêm đó.
Katrina.
Rồi bọn lính đã ở trước mặt họ, và trong một lát Roran không nghe thấy gì ngoài những tiếng thịch thịch của kiếm nảy ra khỏi khiên của anh và tiếng loảng xoảng khi búa của anh giộng xuống mũ sắt và những tiếng kêu la của bọn lính khi chúng bẹp rúm dưới búa của anh. Bọn lính quăng mình vào anh với sức mạnh tuyệt vọng, nhưng chúng không phải đối thủ của anh và đồng đội. Khi anh hạ gục tên lính cuối cùng, Roran phá ra cười phấn khởi. Thực là vui khi được nghiền nát những kẻ sẽ làm hại vợ và đứa con chưa chào đời của anh!
Anh vui mừng thấy không một ai trong số lính của anh bị thương nghiêm trọng. Anh cũng nhận thấy trong cuộc đụng độ, vài cung thủ trên mái đã xuống khỏi mái nhà và chiến đấu trên lưng ngựa với họ. Roran cười toe với
mấy người mới và nói, “Chào mừng đến với trận chiến!” “Nhiệt liệt là đằng khác!” một người đáp lại.
Đưa cây búa phủ máu của anh chỉ vào lề đường bên phải, Roran nói, “Anh, anh, và anh, chất đống mấy cái xác ra kia. Dùng thêm cái xe để tạo ra một cái phễu, như thế mỗi lượt sẽ chỉ có hai hay ba tên xông vào được thôi.”
“Tuân lệnh!” những người lính trả lời, nhảy khỏi lưng ngựa.
Một mũi tên rít lên lao vào Roran. Anh phớt lờ nó và tập trung vào nhóm lính chính, ở đó có một toán nữa, có lẽ khoảng một trăm tên, đang tụ tập lại chuẩn bị cho trận kịch chiến thứ hai. “Nhanh lên!” anh hét lên với những người đang dời chỗ mấy xác chết. “Chúng đến ngay trước mặt rồi. Harald, đi giúp đi.”
Roran liếm môi, hồi hộp khi nhìn người của anh làm việc trong khi bọn lính đang đến gần. Anh nhẹ nhõm nhìn bốn người Varden kéo cái xác cuối cùng vào chỗ và trèo trở lên ngựa trước khi toán lính bổ tới.
Những căn nhà ở hai bên đường, cũng như cái xe hàng lật ngược và rào chắn kinh khủng bằng xác người, làm chậm và ngăn cản dòng lính, cho đến khi chúng gần như bị tắc lại khi đến được chỗ Roran. Đám lính bị ép lại quá chật, chúng vô phương thoát khỏi những mũi tên cắm xuống chúng từ phía trên.
Hai hàng lính đi đầu mang giáo, và chúng dùng để đe dọa Roran và những người Varden khác. Roran né được ba nhát đâm, nguyền rủa vì anh không thể với quá được cây giáo bằng cái búa của mình. Rồi một tên đâm trúng Hỏa Tuyết vào phần vai, Roran cúi rạp ra trước để khỏi bị quẳng xuống đất khi con ngựa hí vang và lồng lên.
Khi Hỏa Tuyết hạ trở xuống, Roran trượt ra khỏi yên, giữ con ngựa ở giữa anh và hàng rào lính dùng giáo. Hỏa Tuyết nhảy lên khi một cây giáo nữa xuyên vào da nó. Trước khi bọn lính có thể làm nó bị thương tiếp, Roran giật cương Hỏa Tuyết và bắt nó nhảy lùi ra sau cho đến khi đủ khoảng trống giữa những con ngựa khác để nó có thể xoay trở. “Yah!” anh hét lên, và phát vào mông con ngựa, cho nó phi nước đại ra khỏi làng.
“Tránh đường!” Roran gầm lên, vẫy nhóm Varden. Họ tạo một khoảng trống cho anh giữa đám ngựa của họ, và anh lại vọt lên tuyến đầu của trận đánh, giắt búa vào thắt lưng.
Một tên lính thọc giáo vào ngực Roran. Anh chặn nó bằng cổ tay, bị cái cán bằng gỗ cứng làm thâm tím, rồi giật cây giáo khỏi tay tên lính. Hắn ngã dập mặt xuống đất. Quay cây giáo trong tay, Roran đâm tên lính, rồi nhào ra trước và đâm luôn hai tên nữa. Roran đứng rộng chân, trụ vững hai chân trên nền đất tươi tốt nơi mà một lần nữa anh lại mong ước được gây dựng mùa màng, rồi vung vẩy cây giáo vào đám lính, hét lớn, “Tới đi, lũ khốn đê tiện! Giết tao đi nếu chúng mày làm được! Tao là Roran Cây-búa-dũng-mãnh, và tao không sợ thằng nào cả!”
Bọn lính bước tới trước, ba tên bước qua xác các đồng đội cũ của chúng để giao chiến với Roran. Nhảy sang một bên, anh xiên cây giáo vào hàm tên ngoài cùng bên phải, làm tan tành răng của hắn. Máu loang ra trên lưỡi giáo khi anh rút nó ra và, quỵ xuống một gối, anh xỏ lụi tên ở giữa vào trúng nách hắn.
Một va chạm làm rung động vai trái Roran. Khiên của anh dường như nặng hơn gấp đôi. Nhô đầu lên, anh thấy một cây giáo đang ghim vào tấm ván gỗ sồi trên khiên của anh, và tên lính còn lại của bộ ba nhào vào anh với một thanh kiếm tuốt trần. Roran đưa cây giáo lên quá đầu như là anh đang chuẩn bị ném nó và, khi tên lính chùn bước, anh đá vào giữa hai chân hắn. Anh giải quyết hắn với một cú duy nhất. Trong khoảng tạm lắng ngắn ngủi sau đó của cuộc chiến, Roran gỡ cái khiên vô dụng khỏi tay và liệng nó cùng với cây giáo đang găm vào xuống dưới chân bọn lính, hy vọng làm rối chân chúng.
Thêm nhiều tên lính bước tới, nao núng vì nụ cười toe toét hung tợn và cây giáo thọc xỉa của Roran. Một núi xác người mọc lên trước mặt anh. Khi nó lên đến ngang hông, Roran nhảy lên trên cái khoảng hẹp đẫm máu, và anh đứng nguyên ở đó, bất chấp khó giữ thăng bằng, vì độ cao cho anh lợi thế. Do bọn lính buộc phải trèo lên một dốc xác người để với đến chỗ anh, nên anh có thể giết cả mớ bọn chúng khi chúng vấp phải một cái tay hay một cái chân hay giẫm lên cái cổ mềm oặt của một trong số những kẻ tiền nhiệm của mình, hay trượt chân trên một cái khiên nằm nghiêng.
Từ vị trí cao của mình, Roran thấy những tên lính còn lại đều đã tham gia hết vào cuộc tấn công, trừ hai chục tên ở đầu kia làng vẫn đang đánh với lính của Sand và Edric. Anh nhận ra anh sẽ không thể nghỉ ngơi gì nữa cho đến khi trận đánh kết thúc.
Thời gian trôi qua, Roran lãnh thêm hàng tá vết thương. Nhiều vết thương không đáng kể – một vết cắt ở mặt trong cẳng tay, một ngón tay gãy, một vết rách dọc sườn chỗ mà một con dao găm đã rạch xuyên áo giáp – nhưng những vết khác thì không. Một tên nằm trên đống xác đã đâm Roran vào bắp chân phải, làm anh cà nhắc. Không lâu sau đó, một tên to đùng chắc nịch bốc mùi hành và phó mát ngã đè lên Roran và, trong hơi thở hấp hối, hắn đâm một mũi tên vào vai trái Roran, khiến sau đó anh không thể nhấc tay mình lên quá đầu. Roran cứ để mũi tên găm vào thịt, vì anh biết anh có thể chảy máu đến chết nếu rút nó ra. Đau đớn trở thành cảm giác thống trị anh; mọi cử động của anh đều gây ra những đau đớn mới, nhưng đứng yên có nghĩa là chết, do đó anh tiếp tục tung ra những cú chết người, bất chấp những thương tích và bất chấp sự kiệt sức.
Thỉnh thoảng Roran ý thức được nhóm Varden ở sau lưng hoặc bên cạnh anh, như khi họ ném một cây giáo ngang qua anh, hay khi một lưỡi gươm phóng qua vai, hạ gục một tên sắp sửa đánh vỡ sọ anh, nhưng chủ yếu Roran đơn độc đối diện bọn lính, do đống xác mà anh đang đứng ở trên và khoảng trống giới hạn giữa cái xe hàng lật ngược và mấy căn nhà. Phía trên, các cung thủ vẫn còn tên tiếp tục bắn yểm trợ, những mũi tên xám lông ngỗng của họ đâm thấu bất kể xương hay gân.
Lâu sau đó, Roran xiên cây giáo của mình vào một tên lính, và khi mũi giáo đâm vào áo giáp hắn, cái cán liền nứt ra và tách dọc. Tên lính có vẻ bất ngờ vì thấy mình còn sống, vì hắn ngập ngừng trước khi vung kiếm lên trả đòn. Sự chậm trễ bất cẩn của hắn cho phép Roran cúi xuống bên dưới thanh thép đang rung lên, nhặt một cây giáo khác trên mặt đất, rồi dùng nó kết liễu tên lính. Roran chán nản và phẫn nộ nhận thấy cây giáo thứ hai cũng không trụ được tới một phút trước khi vỡ tan trong tay anh. Ném những mảnh vụn vào bọn lính, Roran lấy một cái khiên từ một cái xác và rút búa ra khỏi thắt lưng. Ít nhất, cây búa của anh chưa bao giờ làm anh thất vọng.
Kiệt quệ chứng tỏ là kẻ thù lớn nhất của Roran khi mấy tên cuối cùng trong bọn lính từ từ tiếp cận, tên nào cũng đợi đến lượt mình đấu với Roran. Tứ chi anh nặng nề và thiếu sức sống, thị lực anh chập chờn, và có vẻ anh không thể hớp đủ không khí, vậy mà làm cách nào đó anh vẫn triệu tập được sức mạnh để hạ gục đối thủ tiếp theo của mình. Do phản xạ của anh chậm đi, bọn lính gây thêm cho anh vô số vết cắt và thâm tím mà trước đó anh đã có thể tránh dễ dàng.
Khi khoảng trống hiện ra giữa mấy tên lính, và qua đó Roran thấy không gian rộng mở, anh biết cuộc thử thách của anh đã gần kết thúc. Anh không tỏ ra khoan dung với mười hai tên cuối cùng này, chúng cũng không hề yêu cầu điều đó, mặt dù chúng không thể hy vọng vượt qua được anh và nhóm Varden đằng sau. Chúng cũng không hề cố chạy trốn. Thay vào đó, chúng nhào vào anh, gầm gừ, chửi rủa, chỉ mong muốn giết kẻ đã tàn sát bao nhiêu đồng đội của chúng trước khi chúng tới được khoảng trống.
Ở một mức nào đó, Roran khâm phục lòng can đảm của chúng.
Tên bắn xuyên ngực bốn tên trong bọn, quật ngã chúng. Một mũi giáo ném ra từ đâu đó sau lưng Roran trúng xương đòn tên thứ năm và hắn cũng đổ xuống cái giường xác chết. Thêm hai cây giáo nữa chọn được nạn nhân, và rồi mấy tên lính đến được chỗ Roran. Tên đi đầu chặt vào Roran bằng một cái rìu gắn đinh. Mặc dù Roran có thể cảm thấy đầu mũi tên nghiến vào xương, nhưng anh vẫn vung tay trái lên dùng khiên chặn cái rìu. Hú lên vì đau và điên tiết, cũng như khát khao cháy bỏng được kết thúc trận đánh, Roran quay vòng cây búa và kết liễu tên lính với một quả vào đầu. Không dừng lại, Roran nhảy tới trên cái chân lành lặn và nện tên tiếp theo liền hai quả vào ngực trước khi hắn có thể phòng thủ, đập vỡ xương sườn hắn. Tên thứ ba tránh được hai đòn của Roran, nhưng rồi Roran lừa hắn với một cú nghi binh và khử luôn hắn. Hai tên cuối cùng kéo về Roran từ hai phía, chém vào mắt cá anh khi chúng trèo lên đỉnh của đống xác. Sinh lực bùng lên, Roran cầm cự với chúng trong một lúc lâu và mệt nhọc, cả hai bên cùng cho và nhận thương tích, cho đến cuối cùng anh giết một tên bằng cách đục thủng mũ giáp của hắn và tên kia bằng cách đập gãy cổ hắn với một cú chuẩn xác.
Roran chao đảo rồi gục xuống.
Anh thấy mình được đỡ dậy, liền mở mắt ra và thấy Harald đang kề một túi rượu vào miệng mình. “Uống đi,” Harald nói. “Anh sẽ thấy đỡ hơn.”
Ngực phập phồng, Roran vừa hớp hơi vừa uống vài ngụm. Rượu ấm làm cay xè khoang miệng méo mó của anh. Anh cảm thấy chân mình vững lại và nói, “Ổn rồi, anh cứ thả tôi ra.”
Roran tựa vào cây búa và quan sát chiến trường. Lần đầu tiên anh nhận thức được đống xác người đã dâng cao đến thế nào; anh và đồng đội phải đứng cao ít nhất là sáu thước trong không trung, gần như ngang nóc mấy căn nhà ở hai bên. Roran thấy hầu hết bọn lính chết vì tên bắn, nhưng kể cả thế, anh biết tự anh cũng đã tàn sát một lượng vô kể.
“Bao… bao nhiêu?” anh hỏi Harald.
Người lính máu me đầy người lắc đầu. “Sau ba mươi hai thì tôi mất dấu. Chắc người khác biết đấy. Những gì anh đã làm, Cây-búa-dũng-mãnh… Chưa bao giờ tôi thấy một kỳ công như vậy, thực hiện bởi một người với khả năng của người thường. Rồng Saphira đã chọn đúng; người trong gia đình anh đúng là những chiến binh không giống ai. Không một sinh vật nào sánh được can trường của anh, Cây-búa ạ. Dù hôm nay anh đã tàn sát bao nhiêu, tôi –”
“Một trăm chín mươi ba!” Carn kêu lên, trèo lên chỗ họ. “Cậu chắc không?” Roran hỏi, nghi ngờ.
Carn gật đầu khi anh đến chỗ họ. “Chính xác! Tôi đã quan sát, và tôi đếm rất cẩn thận. Một trăm chín mươi ba tên, là - chín mươi tư nếu anh tính cả cái thằng mà anh đâm thủng ruột trước khi đội cung xử hắn.”
Con số làm Roran sững sờ. Anh không ngờ con số tổng thể lại lớn đến thế. Anh bật ra một tiếng cười khan. “Tiếc là không có thêm. Thêm bảy thằng nữa là tôi có chẵn hai trăm.”
Những người khác cũng cười.
Lo lắng phủ lên gương mặt gày gò, Carn đưa tay đến cái chốt đâm ra từ vai trái Roran, nói, “Đây, để tôi xem vết thương cho.”
“Không!” Roran nói, và gạt tay anh ta ra. “Có thể có những người khác bị nặng hơn tôi. Xem cho họ trước đi.” “Roran, có mấy vết cắt có thể nguy hiểm tính mạng nếu tôi không cầm máu lại. Sẽ chỉ mất –”
“Tôi ổn,” anh càu nhàu. “Cứ mặc tôi.” “Roran, nhìn lại anh kìa!”
Anh nhìn rồi ngoảnh đi. “Vậy thì nhanh nhanh lên.” Roran nhìn chăm chăm bầu trời quang đãng, tâm trí trống rỗng khi Carn kéo mũi tên ra khỏi vai anh và lẩm nhẩm vài câu thần chú. Ở mỗi chỗ thần chú phát tác, Roran cảm thấy da anh ngứa lên và ngọ nguậy, tiếp theo đó là sự sung sướng khi cơn đau chấm dứt. Khi Carn đã xong, Roran vẫn đau, nhưng không quá đau nữa, và tâm trí sáng sủa hơn trước.
Việc chữa trị làm Carn xám mặt và run rẩy. Anh tì vào đầu gối cho đến khi cơn run rẩy ngừng lại. “Tôi sẽ đi…” Anh ngừng lại lấy hơi. “…đi giúp những người bị thương khác.” Anh đứng thẳng người và tìm đường trèo xuống dưới, lắc lư như đang say rượu.
Roran nhìn anh ta đi, lo lắng. Rồi anh chợt thắc mắc về số phận những người còn lại trong đoàn của họ. Anh nhìn về phía đầu kia của làng, không thấy gì ngoài những thân thể vương vãi, một số trong trang phục đỏ của Đế quốc, số khác là len nâu của Varden. “Edric với Sand sao rồi?” anh hỏi Harald.
“Tôi xin lỗi, Cây-búa, nhưng tôi chẳng thấy gì ngoài tầm gươm của tôi.”
Gọi mấy người vẫn đứng trên mái nhà, Roran hỏi, “Edric với Sand sao rồi?” “Chúng tôi không biết, Cây-búa!” họ đáp.
Dùng búa giữ thăng bằng, Roran từ từ trèo xuống đống xác người, với Harald và ba người khác bên cạnh, họ băng qua trảng trống ở trung tâm làng, xử tử bất cứ tên lính nào còn sống. Khi họ đến rìa trảng trống, nơi số Varden chết thảm vượt trội số quân lính, Harald đập kiếm lên khiên và la lên, “Có ai còn sống không?”
Một lúc sau, một giọng nói đáp lại từ phía những căn nhà: “Xưng tên đi!”
“Harald và Roran Cây-búa-dũng-mãnh và những người Varden khác. Nếu ngươi phục vụ Đế quốc, thì hãy đầu hàng đi, vì đồng đội của ngươi chết hết rồi và ngươi không thể đánh được bọn ta đâu!”
Từ đâu đó giữa mấy căn nhà có tiếng loảng xoảng kim loại rơi, và rồi một hai người một, các chiến binh Varden hiện ra từ chỗ trốn và đi khập khiễng ra trảng trống, nhiều người đang dìu những đồng đội bị thương. Họ tỏ vẻ sửng sốt, và vài người bị dính rất nhiều máu, khiến Roran lúc đầu nhầm họ với những tên lính bị bắt. Anh đếm được hai mươi tư người. Trong số những người đi sau cùng có Edric, đỡ theo một người bị mất cánh tay phải trong trận đánh.
Roran ra hiệu, và hai người của anh vội tới đỡ cho Edric. Người đội trưởng thẳng người dậy. Từng bước chậm chạp, ông đến chỗ Roran và nhìn thẳng vào mắt anh, vẻ mặt khó hiểu. Cả ông và Roran đều không chuyển động, và Roran nhận thấy khoảng đất trống trở nên đặc biệt yên lặng.
Edric là người đầu tiên nói. “Bao nhiêu người của cậu còn sống?” “Hầu hết. Không phải toàn bộ, nhưng hầu hết.”
Edric gật đầu. “Còn Carn?” “Cậu ấy sống… Thế còn Sand?”
“Một tên bắn trúng anh ta lúc hắn tấn công. Anh ta chết chỉ vài phút trước.” Edric nhìn trượt qua Roran, rồi nhìn về phía đống xác chết. “Cậu làm trái lệnh ta, Cây-búa-dũng-mãnh.”
“Vâng.”
Edric đưa một bàn tay mở về phía anh.
“Đội trưởng, không!” Harald kêu lên, bước tới trước. “Nếu không nhờ Roran, chúng tôi đã chẳng còn ai đứng đây. Và lẽ ra ngài phải thấy anh ấy đã làm những gì; anh ấy tự tay hạ gần hai trăm tên!”
Lời cầu xin của Harald không gây ấn tượng gì với Edric, ông tiếp tục đưa tay ra. Roran cũng giữ nguyên vẻ thản nhiên.
Harald liền quay sang anh nói, “Roran, anh biết mọi người ủng hộ anh. Nói đi, chúng tôi sẽ –” Roran liếc mắt ra dấu cho anh ta yên lặng. “Đừng ngốc thế.”
Edric nói qua đôi môi mỏng, “Ít nhất cậu cũng không hoàn toàn mất khôn. Harald, ngậm cái miệng cậu lại trừ khi cậu muốn dẫn đầu đám ngựa thồ suốt đường về.”
Nâng cây búa lên, Roran trao cho Edric. Rồi anh mở khóa đai lưng, thanh kiếm và dao găm của anh giắt ở đó, và anh cũng nộp luôn cho Edric. “Tôi không có vũ khí nào khác,” anh nói.
Edric gật đầu dữ tợn, và ngoắc cái dây lưng lên vai. “Roran Cây-búa-dũng-mãnh, bằng việc này ta sa thải cậu khỏi đội. Ta có lời hứa danh dự của cậu rằng cậu sẽ không cố bỏ trốn chứ?”
“Thưa có.”
“Vậy thì cậu có thể trở nên hữu ích ở chỗ nào cậu có thể, còn trong mọi trường hợp khác, cậu sẽ cư xử như một tù nhân.” Edric nhìn quanh và chỉ vào một người lính, “Fuller, cậu sẽ nhận vị trí của Roran cho đến khi chúng ta trở lại trụ sở chính của Varden và Nasuada sẽ quyết định phải làm gì về việc này.”
“Rõ, thưa ngài,” Fuller nói.
₪ ₪ ₪
Trong vài giờ, Roran cúi người cùng các chiến binh khác thu nhặt các xác chết của người bên họ và chôn trên con đường rìa làng. Trong lúc làm việc, Roran nhận ra chỉ có chín người trong số tám mươi mốt lính của anh bị chết trong trận đánh, trong khi Edric và Sand đã mất gần một trăm năm mươi người, và Edric lẽ ra đã mất nhiều hơn, không kể một nhóm lính đã đi theo Roran sau khi anh đến cứu họ.
Khi họ đã mai táng xong những người thương vong, nhóm Varden nhặt lại các mũi tên, rồi dựng một giàn thiêu ở giữa làng, lột bỏ quân trang của bọn lính, kéo chúng lên trên đống gỗ, rồi châm lửa. Những cái xác cháy làm bốc đầy trời những cột khói đen nhờn mỡ kéo lên phải đến hàng dặm. Qua làn khói, mặt trời nhìn như một cái đĩa dẹt màu đỏ.
Không thể tìm thấy người phụ nữ trẻ và cậu bé mà bọn lính đã bắt giữ. Vì không thấy xác của họ trong số xác chết, Roran đoán hai người đã trốn khỏi làng khi trận chiến nổ ra, và anh nghĩ đó là điều hay nhất mà họ có thể làm được. Anh chúc họ may mắn, dù họ đã đi bất cứ đâu.
Roran ngạc nhiên và vui mừng thấy Hỏa Tuyết chạy nước kiệu vào làng vài phút trước khi nhóm Varden chuẩn bị rời đi. Ban đầu con ngựa bất kham và cảnh giác, không cho phép ai đến gần, nhưng bằng cách nói chuyện nhẹ nhàng với nó, Roran đã xoay sở trấn tĩnh được con ngựa đủ để làm sạch và băng bó vết thương ở vùng vai của nó. Vì cưỡi Hỏa Tuyết lúc nó còn chưa lành hoàn toàn là không khôn ngoan, Roran buộc nó vào trước mấy coan ngựa thồ, và con ngựa tỏ ra không thích ngay lập tức, nó cụp tai lại, quất đuôi sang hai bên, và cong môi lên để nhe răng ra.
“Ngoan nào,” Roran nói, vuốt ve cổ con ngựa. Hỏa Tuyết đảo tròng mắt nhìn anh và hí khẽ, tai nó từ từ thả lỏng.
Rồi Roran nhảy lên một con ngựa thiến vốn thuộc về một người Varden đã chết và đi đến cuối hàng người tập trung giữa những căn nhà. Roran tảng lờ nhiều cái liếc nhìn của họ, mặc dù anh thấy phấn khởi khi vài người bọn họ lẩm bẩm, “Tốt lắm.”
Trong lúc ngồi đợi Edric ra lệnh xuất phát, Roran nghĩ đến Nasuada và Katrina và Eragon, và một cảm giác sợ hãi bao trùm suy nghĩ của anh khi anh tự hỏi liệu họ sẽ phản ứng ra sao khi biết sự nổi loạn của mình. Roran gạt bỏ những lo lắng của mình một giây sau đó. Mình đã làm những gì đúng đắn và cần thiết, anh tự nhủ. Mình sẽ không hối tiếc, không cần biết kết quả có thể ra sao.
“Đi thôi!” Edric hét lên từ phía đầu đoàn người.
Roran thúc con ngựa đi nhanh hơn, và anh cùng những người khác đồng loạt tiến về phía tây, ra khỏi làng, bỏ lại đống xác lính cháy dần vào hư không.
Chương 37: Thông Điệp Trong Gương
Ánh bình minh phủ khắp người Saphisra, thấm vào người một sự ấm áp dễ chịu.
Cô nàng nằm phơi nắng trên một phiến đá bên trên căn lều bọc vải trống trơn của Eragon chừng vài bộ. Hành động đêm qua: bay trinh sát các cứ điểm của triều đình, việc mà cô ả làm mỗi đêm kể từ khi Nasuada gởi Eragon tới núi rỗng ruột Farthen Dûr, đã khiến cô nàng uể oải. Những chuyến bay này thật cần thiết để che dấu sự vắng mặt của Eragon, nhưng chương trình này khiến cô nàng bị hao mòn thể lực, mặc dù màn đêm không khiến cô ả
hoảng sợ, nhưng cô nàng không phải là kẻ có thói quen sống về đêm, vả lại cô ta không thích làm chuyện gì mà có tính đều đặn như vậy. Hơn nũa, phải một khoảng thời gian dài người Varden mới di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, cho nên hầu hết thời gian là cô nàng bay qua bay lại cùng một phong cảnh mỗi đêm. Lần kích thích duy nhất là cô nàng phát hiện tên chậm tiêu rồng vảy đỏ Thorn đang bay thấp ở chân trời đông bắc buổi sáng hôm trước. Hắn không có quay lại đối phó với cô nàng nhưng lại tiếp tục lên đường hướng sâu về phía triều đình. Khi Saphira báo cáo lại điều này, Nasuada, Arya và các người lùn canh giữ Saphira đã phản ứng như một bầy chim sẻ bị hoảng sợ, la hét rên rỉ với nhau rồi phóng đi tứ phía. Họ còn khăng khăng muốn tên tóc xanh đen như sói Blödhgarm, bay với cô nàng làm thế thân cho Eragon, dĩ nhiên cô nàng từ chối. Cho phép thần tiên đặt một nhân ảnh ma nước của Eragon lên lưng là một chuyện, nhưng cô nàng không sẵn lòng để ai khác ngoài Eragon cưỡi trừ khi là trong một trận chiến không thể tránh khỏi, nhưng cho dù thế cũng chưa chắc được.
Saphira ngáp dài, duỗi chiếc chân trước bên phải, vươn các ngón có móng trong lòng bàn tay. Lại lần nữa thư giãn, cô nàng cuộn đuôi quanh người và sửa tư thế đầu và bàn tay một chút, viễn cảnh của hươu và các con mồi khác trôi từ từ qua tâm trí của cô nàng.
Không lâu sau, cô ả nghe tiếng chân lạch bạch của ai đó chạy qua dinh trại, hướng về phía căn lều bướm nhộng cách xếp đỏ của Nasuada. Saphira không chú tâm tới âm thanh này; đám người truyền tin lúc nào cũng luôn gấp rút đi tới đi lui.
Vừa khi tính chợp mắt, Saphira nghe tiếng một người nữa chạy nhanh qua, rồi sau một chút, thêm hai người nữa. Không cần mở mắt, cô nàng thò lưỡi ra nếm không khí. Không phát hiện được mùi lạ nào. Quyết định rằng lần náo động này không đáng điều tra, cô nàng thiếp đi mơ đến nhảy xuống bắt cá ở một hồ nước lạnh trong xanh. Tiếng la hét tức giận đánh thức Saphira.
Cô nàng không nhúc nhích nằm lắng nghe một đám người hai giò tai tròn cãi lộn với nhau. Bọn họ quá xa để có thể nghe được chuyện gì, nhưng từ âm điệu có thể thấy bọn họ giận đến mức sẵn sàng giết người. Tranh chấp đôi khi xảy ra giữa người Varden, giống như bất cứ tộc lớn nào, nhưng chưa bao giờ cô nàng nghe kể đám hai chân này cãi dai với nhiều cảm xúc như vậy.
Mạch máu đập nhè nhẹ ở gáy Saphira khi đám hai chân càng lúc càng hò hét lớn hơn. Cô nàng co vuốt trên mặt đá và sau tiếng rạn, từng mảng đá thạch anh văng ra dưới móng vuốt cô nàng.
"Ta sẽ đến ba mươi ba," cô nàng nghĩ, "và nếu bọn họ còn không dừng thì họ nên hy vọng là chuyện gì khiến họ nổi giận đáng phá ngang giấc nghỉ ngơi của người con của gió này."
Khi đếm đến bảy hai mươi, bọn hai chân đã yên lặng trở lại. "Cuối cùng cũng xong!" nhích người sang tư thế thoải mái hơn, cô nàng chuẩn bị quay về giấc ngủ vốn đang rất cần thiết.
Tiết sắt thép leng keng, tiếng cỏ vải da sột xoạt, tiếng móng bọc nện xuống đất, lại còn mùi không thể lầm lẫn của chiến sĩ da đen Nasuada thoảng qua phía Saphira. "Gì đây?" cô nàng ngạc nhiên rồi một ý nghĩ muốn gầm lên một tiếng cho mọi người hoảng sợ bỏ chạy để cô nàng được một mình yên tịnh thoáng qua đầu.
Saphira mở một mắt và thấy Nasuada và sáu vệ sĩ sải bước tới chỗ cô nàng đang nằm. Saphira hạ lệnh cho vệ sĩ dừng chân ở phía đầu thấp của phiến đá coi chừng Blödhgarm và một số người lùn khác, lúc đó vẫn còn đang cãi nhau trên một dải cỏ nhỏ, rồi sau đó cô mới tự mình trèo lên phiến đá.
"Xin chào Saphira," Nasuada nói. Cô mặc một bộ áo đỏ, màu sắc tương phản với cành lá xanh tươi của cây táo phía sau lưng. Ánh sáng phản chiếu từ vảy của Saphira điểm lốm đốm lên mặt cô.
Saphira nháy mắt đáp lễ, cảm thấy không cần thiết phải đáp lại bằng lời.
Sau khi liếc nhìn xung quanh, Nasuada bước đến gần bên tai Saphira và thì thầm: "Saphira, ta cần nói chuyện riêng với cô. Cô có thể thăm dò ý nghĩ trong đầu ta nhưng ta lại không thể thăm dò. Vậy cô có thể ở trong đầu ta để ta có thể truyền đạt những thứ ta muốn nói và cô có thể nghe được?"
Saphira vươn người về phía cô gái đang mệt mỏi căng thẳng này, truyền đạt tới cô ấy sự bực bội vì không ngủ được rồi nói: "Ta có thể thăm dò cô được nhưng ta cũng không bao giờ làm vậy khi không được cô cho phép." "Đương nhiên," Nasuada trả lời. "Ta hiểu mà." Lúc đầu, Nasuada chỉ nhận được những hình ảnh và cảm nhận rời rạc của nàng: một thòng lọng treo cổ trống không, máu ở dưới đất, những khuôn mặt gầm gừ, khiếp sợ, mệt mỏi, định lực nhẫn tâm ngấm ngầm. "Tha thứ cho ta," Nasuada nói, "hôm nay ta đã ráng hết sức rồi. Nếu ý tưởng của ta trải quá nhiều nơi, thì xin hãy chịu đựng với ta một chút."
Saphira lại nháy mắt. "Chuyện gì mà làm khuấy động người Varden vậy? Một nhóm đàn ông nóng tính cãi lộn đánh thức ta trong giấc ngủ, và trước đó, ta có nghe một số người truyền tin chạy qua doanh trại.
Nasuada mím môi quay lưng lại Saphira khoanh hai tay, gác cánh tay còn bàn tay thì nắm lại. Màu sắc trong ý tưởng của cô trở nên đen nhứ mây đêm, đầy vẻ chết chóc và bạo lực. Sau khi ngưng một lúc lâu trái với bản sắc hàng ngày, cô nói: "Một người đàn ông Varden tên Othmund, lén vào doanh trại Urgals tối qua và giết chết ba tên trong lúc bọn chúng đang say ngủ bên lửa trại. Đám Urgals không có bắt được Othmund lúc đó, nhưng sáng nay hắn ta tự nhận chiến tích cho vụ này và khoe khoang khắp quân đội.
"Tại sao hắn ta làm như vậy?" Saphira hỏi, "bộ đám Urgals giết gia đình của hắn ta à?"
Nasuada lắc đầu: "Ta thật gần mưốn là như vậy, nếu vậy thì đám Urgals đâu có giận dữ như vậy; trả thù, ít nhất bọn họ hiểu điều này. Không phải, đây là phần lạ trong vụ việc này; Othmund ghét đám Urgals không ngoài nguyên do gì khác chính là vì họ là Urgals. Họ chưa bao giờ có gì sai trái với hắn, hoặc với người thân hắn, vậy mà hắn vẫn thù ghét người Urgals với từng thớ thịt của hắn. Ta chỉ biết có vậy sau khi nói chuyện với hắn mà thôi."
"Cô tính xử hắn ta cách nào đây?"
Nasuada nhìn Saphira một lần nữa, một nét buồn sâu thẳm lộ ra trong mắt nàng. "Hắn ta sẽ bị treo cổ vì tội ác này. Khi ta chấp nhận xác nhập Urgals vào với người Varden, ta đã ra sắc lệnh bất kỳ ai tấn công Urgals sẽ bị trừng phạt như thể hắn ta tấn công một người bình thường khác. Ta không thể lật ngược lời nói của mình." "Cô có hối hận vì lời hứa hẹn này không?"
"Không. Mọi người cần biết rằng ta không tha thứ những hành động như vậy. Nếu không, bọn họ đã trở mặt với tụi Urgals ngay ngày Nar Garzhvog và ta có hiệp định. Bây giờ, ta lại phải cho bọn họ thấy đã hứa là làm. Nếu không làm vậy thì sẽ có nhiều vụ giết chóc, rồi sau đó giống Urgals sẽ tự làm chủ lấy vấn đề này, rồi cả hai giống sẽ lại đòi bẻ cổ nhau nữa. Việc Othmund sẽ bị chết là đáng lắm cho việc giết hại giống Urgals và cho việc chống lại mệnh lệnh của ta, nhưng ôi thôi, Saphira, người Varden sẽ không thích chuyện này. Ta đã phải hy sinh cả tính mạng để giành lấy sự trung thành của bọn họ, nhưng giờ đây, họ sẽ ghét ta vì đã mang Othmund đi treo cổ… Họ sẽ ghét ta vì đã đánh đồng sinh mạng của giống Urgals với của loài người." Nasuada hạ hai tay xuống rồi nhét vào ống tay áo. "Và ta không thể nói là ta thích chuyện này hơn họ. Cho dù mọi cố gắng của ta về việc đối xử rộng mở, công bằng đối với họ, như chính cha ta mong muốn, ta cũng không tự kềm chế được nhớ lại những cảnh giống Urgals giết hại người Varden trong trận chiến Farthen Dûr. Ta không tự kềm chế được nhớ lại những câu truyện thiếu nhi về giống Urgals càn quét các đồi núi, giết người vô tội trong giấc ngủ. Ta không tự kềm chế được nhớ lại tất cả những việc này, Saphira, và ta tự hỏi có phải là mình đã quyết định đúng đắn hay không."
"Cô không kềm chế được là vì cô là loài người," Saphira nói, cố gắng an ủi Nasuada. "Nhưng cô cũng không cần bị ràng buộc bởi những thứ người chung quanh tin tưởng. Cô có thể trưởng thành vượt quá giới hạc sắc tộc nếu cô có ý chí. Nếu những việc trong quá khứ có thể dạy chúng ta điều gì thì đó là các vua, hoàng hậu và các lãnh tụ có thể kéo gần các sắc dân lại với nhau là những người đạt được những điều tốt nhất cho Alagaësia. Xung đột và nóng giận là những thứ chúng ta luôn phải giới hạn, nhưng cũng không nên đào sâu mối quan hệ với những kẻ cựu thù. Nên ghi nhớ sự nghi ngờ đối với giống Urgals vì chính họ đáng bị vậy nhưng cũng nên ghi nhớ quan hệ giữa người lùn và rồng từng không khác gì giữa nhân loại và giống Urgals. Loài rồng chúng ta đã từng gây chiến tranh với người lùn và đã có thể diệt tộc bọn họ. Những việc này đã từng là sự thật nhưng nay đã không còn, vì có những người như cô, dám gạt căm thù sang một bên thắc chặc mối quan hệ bằng hữu mà xưa nay chưa hề có. Nasuada đẩy mạnh trán vào ngang một bên hàm của Saphira rồi nói: "Cô rất là uyên bác, Saphira."
Saphira lấy làm buồn cười, ngẩng đầu lên và lấy mũi cọ vào trán của Nasuada: "Ta chỉ nói lên sự thật mà ta cảm nhận được, không hơn không kém. Nếu cô cho đó là khôn ngoan thì thật là hoan ngênh; nhưng mà ta tin cô có đủ trí khôn ngoan cần thiết. Xử tử Othmund có lẽ sẽ phật lòng người Varden, nhưng phải cộng thêm nhiều việc khác nữa để có thể phá vỡ lòng sùng bái của người Varden đối với cô. Hơn nữa ta tin chắc cô có thể tìm ra cách để xoa dịu bọn họ.
"Ài," Nasuada vừa nói vừa chùi khoé mắt: "Đương nhiên rồi." Sau đó cô mỉm cười, vẻ mặt đã hoàn toàn thay đổi. "Nhưng Othmund không phải là lý do ta đến tìm cô. Eragon vừa liên lạc với ta và yêu cầu cho cô gia nhập hành động với anh ta tại Farthen Dûr. Mấy người lùn…"
Saphira ngửa cổ hống một tiếng lớn lên trời, lửa từ trong bụng khè ra khỏi miệng từng mảng bập bùng. Nasuada lảo đảo bước ra sau trong khi mọi người chung quanh đứng lặng đó nhìn chằm chằm tới Saphira. Saphira nhỏm lên lắc một cái từ đầu tới đuôi, lúc này cô đã hoàn toàn quên đi sự mệt nhọc, cánh giang rộng ra chuẩn bị phi hành.
Đám vệ sĩ của Nasuada tính đi về phía cô nhưng cô ra dấu cản bọn họ lại. Một màn khói thổi qua ngưòi khiến cô phải lấy dải áo vừa che mũi vừa ho. "Sự hăng hái của cô thật đáng tuyên dương Saphira, nhưng…"
"Eragon có bị thương tích hay không?" Saphira hỏi. Cô ả hơi hoảng khi thấy Nasuada ngập ngừng. "Anh ta khỏe như mọi khi," Nasuada trả lời. "Nhưng, có một chuyện… xảy ra… hôm qua." "Chuyện gì?"
"Anh ta và đám vệ sĩ bị tập kích."
Cả người Saphira đều không nhúc nhích trong lúc Nasuada kể lại cuộc đối thoại giữa cô và Eragon. Sau đó, Saphira nhe răng: "Dûrgrimst Az Sweldn rak Anhûin nên biết ơn là ta không có ở đó với Eragon; Ta sẽ không để bọn chúng trốn thoát dễ dàng như vậy sau khi muốn giết anh ấy."
Nasuada cười mỉm nói: "Vì thế cho nên cô ở đây có lẽ là tốt hơn."
"Có lẽ vậy," Saphira cũng đồng ý rồi hà ra một đám khói nóng bỏng trong lúc cái đuôi lúc lắc. "Tuy vậy huyện này không làm ta ngạc nhiên. Mỗi lần Eragon và ta rời nhau, thể nào cũng có người tập kích anh ấy. Thật khiến vảy toàn thân ta ngứa ngáy mỗi khi để anh ấy rời khỏi tầm mắt hơn vài tiếng đồng hồ."
"Anh ta có thừa khả năng để tự bảo vệ mà."
"Đúng vậy, nhưng đám kẻ thù của chúng ta cũng không tệ." Saphira nôn nóng, cả người dịch chuyển, giơ cánh càng cao hơn. "Nasuada, ta thật muốn rời khỏi đây. Còn chuyện gì khác ta cần biết không?"
"Không," Nasuada nói. "Bay nhanh tới nơi Saphira, đừng chậm trễ tới ngay Farthen Dûr. Ngay khi cô rời khỏi đây, chúng tôi chỉ còn vài ngày ngắn ngủi trước khi triều đình nhận ra là ta đã không còn gởi cô và Eragon đi trinh sát trên không nữa. Galbatorix có thể quyết định tấn công chúng tôi trong lúc cô bỏ đi, nhưng mỗi giờ cô vắng mặt khả năng sẽ càng tăng lên. Còn nữa, ta thích có cả hai người bọn cô với chúng tôi khi tập kích Feinster. Chúng tôi có thể lấy được thành này không cần cô, nhưng sẽ tốn thêm nhiều sinh mạng lắm. Nói ngắn gọn một chút, vận mạng của toàn dân Varden tùy thuộc vào tốc độ của cô."
"Chúng ta sẽ nhanh như gió bão." Saphira đảm bảo.
Sau khi Nasuada chào tạm biệt và cất bước đi khỏi phiến đá, Blödhgarm và các thần tiên khác đổ xô tới cạnh Saphira buộc yên ghế của Eragon lên lưng Saphira rồi chất một đống thực phẩm và dụng cụ cần thiết lên đó như thể cô nàng đang chuẩn bi bay với Eragon. Thật sự thì cô nàng không cần những thứ này cũng như không với ra sau được, nhưng để đánh lừa kẻ địch, cô ả bắt buộc phải mang theo những thứ này. Sau khi cô nàng đã sửa soạn xong, Blödhgarm chắp tay xéo ngực theo cử chỉ tôn kính của các thiên thần và nói bằng cổ ngữ: "Tạm biệt Saphira Vảy Sáng. Chúc cô và Eragon mau trở về với chúng ta mà không hề hấn gì."
"Tạm biệt, Blödhgarm"
Saphira chờ cho các thần tiên tóc xanh đen như sói kia tạo ra một nhân ảnh ma nước của Eragon rồi bóng ma kia bước ra khỏi lều đạp lên chân trước rồi leo lên vai cô. Khi Blödhgarm gật đầu cho biết bóng ma Eragon kia đã yên vị, cô nàng vỗ cánh phóng lên khỏi phiến đá.
Khi cả người rới xuống phía cái lều xám bên dưới, cô nàng phẩy cánh lần nữa đẩy người rời xa mặt đất cứng kia. Cô nàng quay về hướng Farthen Dûr và bắt đầu bay lên tần khí quyển lạnh bên trên, hy vọng tìm đước làn gió ổn định để trợ lực cho chuyến phi hành.
Cô nàng bay một vòng quanh bờ sông đầy gỗ mà người Varden dừng chân hồi tối, toàn thân cảm thấy vui sướng mãnh liệt. Không còn phải chờ trong lúc Eragon đi phiêu lưu mà không có cô. Không còn phải tốn cả đêm bay qua bay lại một chỗ. Và cũng không còn phải để cho đám người dám khiến cho người bạn đồng tâm hợp ý của cô trốn chạy khỏi sự phẫn nộ của cô! Saphira hả họng thiệt lớn thét tiếng vui mừng tự tin cho cả thế gìới hay, thách đố bất kỳ thánh thần nào dám thách thức cô ả, vì cô nàng chính là con của Iormûngr và Vervada, hai con rồng dũng mãnh nhất trong thế hệ của họ.
Khi vừa đạt đến cao độ khoảng một dặm ở trên Varden và tìm được một cơn gió thuận hướng tây nam, Saphira xoay người nương theo chiều gió bay trên phất phới trên vùng đất đai đang thấm nhuần ánh mặt trời.
Cô ả nghĩ trong đầu: "Em đang trên đường tới đây, tiểu ca!"
Chương 38: Bốn nhịp trống đánh
Eragon nghiêng người về phía trước, từng bắp thịt trên cơ thể nó căng ra, khi phụ nữ người lùn tóc trắng Hadfala, tộc trưởng của bộ tộc Ebardac, đứng dậy khỏi cái bàn, nơi mà hội đồng thị tộc đang tụ họp, phát biểu một dòng ngắn bằng ngôn ngữ của bà ta.
Thì thầm vào tai trái của Eragon, Hûndfast dịch lại: "Thay mặt bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi."
Eragon thở phào nhẹ nhõm. Một. Điều kiện để trở thành nhà cầm quyền trong tộc người lùn, là một tộc trưởng phải thắng đa số phiếu bầu từ các tộc trưởng khác. Nếu không ai đạt được, thì theo luật tộc người lùn, tộc trưởng nào với số phiếu bầu ít nhất sẽ bị loại ra khỏi vòng đấu và cuộc họp sẽ hoãn lại ba ngày trước khi tiếp tục cuộc bầu cử. Quá trình sẽ tiếp tục diễn ra đến khi nào một tộc trưởng chiếm được số phiếu bầu cần thiết, vào thời điểm đó, tất cả sẽ phải thề trung thành với ông ta hoặc bà ta như là người đứng đầu mới. Tính toán khoảng thời gian eo hẹp mà Varden cho phép, Eragon tràn trề hy vọng rằng cuộc bầu cử này sẽ không kéo dài quá một vòng, và nếu sự việc diễn ra như thế, người lùn sẽ không tốn nhiều thời gian hơn vài giờ. Nếu việc đó xảy ra, nó nghĩ chắc nó sẽ đập vỡ cái bàn đá ở giữa phòng ra vì thất vọng.
Hadfala đó, tộc trưởng đầu tiên bỏ phiếu, đã cho thấy cảm tình của bà ta đối với Orik. Hadfala, theo như Eragon biết, đã từng theo phe Gannel của bộ tộc Quan trước khi cuộc ám sát Eragon xảy ra. Nếu lòng trung thành của
Hadfala thay đổi, thì rất có thế những thành viên còn lại trong liên minh của Gannel, Tộc trưởng Ûndin—có thể sẽ bỏ phiếu bầu của ông ta cho Orik.
Tiếp theo, Gálhiem của bộ tộc Feldûnost đứng dậy khỏi bàn, mặc dù ông ta rất là lùn, ông ta vẫn cao khi ngồi hơn là khi đứng dậy. "Thay mặt bộ tộc của tôi," ông ta tuyên bố, "Tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi."
Nghiêng đầu về một phía, Orik nhìn qua Eragon và nói với nó bằng một giọng rất nhỏ, "Đúng như những gì chúng ta dự đoán."
Eragon gật đầu và nhìn về phía Nado. Ông lùn mặt tròn đang vuốt chòm râu vàng của ông ta, vẻ mặt rất hài lòng.
Sau đó Manndrâth của bộ tộc Ledwonnû nói, "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi." Orik gật đầu cảm ơn, và Manndrâth gật đầu đáp trả, chóp mũi dài của ông ta lắc lư.
Khi Manndrâth ngồi xuống, Eragon và mọi người khác đều nhìn về phía Gannel, và căn phòng trở nên cực kỳ im lặng, Eragon còn không nghe tiếng thở của các ông lùn. Như là tộc trưởng của bộ tộc tôn giáo, Quan, và là vị pháp sư cao nhất của Gûntera, vua của các thần linh người lùn, Gannel chiếm một vị trí quan trọng trong chủng tộc; Bất cứ gì ông ta chọn, đám đông đều vui lòng theo sau.
"Thay mặt cho bộ tộc của tôi," Gannel nói, "Tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi."
Một làn sóng xầm xì nổ ra từ những người lùn đang đứng xem ở ngoài vòng họp của căn phòng tròn, và vẻ mặt hài lòng của Nado càng lộ ra hơn. Nắm chặt tay lại, Eragon im lặng nguyền rủa.
"Đừng từ bỏ hy vọng ngay bây giờ, chàng trai trẻ à," Orik thì thầm. "Chúng ta chỉ mới chưa biết hết. Việc này đã từng xảy ra khi tộc trưởng của Quan mất phiếu bầu."
"Vậy việc này có thường xuyên xảy ra không?" Eragon thầm thì. "Vừa đủ."
"Vậy lần cuối xảy ra là khi nào?"
Orik chuyển hướng nhìn sang chỗ khác. "Tám trăm hai mươi bốn năm về trước, khi mà Nữ hoàng—"
Ông ta đột nhiên im lặng khi Ûndin của bộ tộc Ragni Hefthyn tuyên bố, "Thay mặt cho tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi."
Orik khoanh tay lại. Eragon chỉ có thể thấy mặt ông ta từ một phía, nhưng chắc chắn là Orik đang giận dữ.
Cắn mặt trong của má, Eragon nhìn chằm chằm xuống sàn nhà đầy hoa văn, đếm số phiếu đã bầu, cũng như số phiếu còn lại, cố gắng xác định xem liệu Orik vẫn còn có thể thắng cuộc bầu cử này. Cho dù trong tình huống tốt nhất, thì việc vẫn rất cần thiết. Eragon càng nắm chặt tay lại, móng tay của nó cắm sâu vào mặt trong của tay nó.
Thordris của bộ tộc Nagra đứng lên và vén dải viền áo dài, mỏng của bà ta lên một tay. "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi."
"Vậy là ba phiếu so với ba." Eragon nói trong giọng hạ thấp. Orik gật đầu.
Tới lượt Nado nói. Vuốt thẳng chòm râu bằng một tay, vị tộc trưởng của bộ tộc Knurlcarathn cười với nhóm người của ông ta, một tia nhìn tà đạo trong mắt ông loé lên. "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho chính bản thân tôi như là vị vua mới của chúng tôi. Nếu các bạn có tôi, tôi hứa sẽ loại bỏ quốc gia chúng ta khỏi lũ ngoại tộc làm ô nhiễm quốc gia, và tôi hứa sẽ mang lại vàng và các chiến binh để bảo vệ mọi người, và không phải bảo vệ cổ của lũ thần tiên, lũ người, và lũ Urgal. Điều này tôi thề trước danh dự của dòng họ tôi."
"Bốn trên ba," Eragon lưu ý.
"Đúng thế," Orik nói. "Tôi biết thế nào thì Nado cũng sẽ không bầu cho ai cả ngoại trừ chính hắn ta."
Đặt dao và gậy qua một bên, Freowin của bộ tộc Gedthrall nhấc thân hình nặng nề của ông ta ra khỏi cái ghế, và giữ góc nhìn xuống, nói trong một giọng trầm thầm thì, "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi." Sau đó, ông ta hạ mình xuống chỗ ngồi của ông và tiếp tục khắc con quạ, mặc kệ bầu khí ngạc nhiên đang quét qua căn phòng. Vẻ mặt của Nado thay đổi từ hài lòng sang tự mãn.
"Chết tiệt," Orik gầm gừ, cơn giận của ông tăng thêm. Cái ghế của ông ta kêu cọt kẹt khi ông ép cẳng tay xuống tay dựa, gân tay nổi lên và căng ra. "Tên giả vờ phản bội. Hắn ta hứa sẽ bỏ phiếu của hắn cho tôi!"
Bao tử của Eragon kêu la. "Tại sao ông ta lại phản bội anh?"
"Hắn ta đến thăm đền Sindri hai lần trong ngày. Đáng lẽ ra tôi phải biết là hắn sẽ không đi ngược lại ý muốn của Gannel chứ. Chết tiệt! Tên khốn Gannel đang chơi tôi hầu hết thời gian. Tôi—" Vào lúc đó, sự quan tâm của hội đồng thị tộc đổ về phía Orik. Che dấu nỗi tức giận của mình, Orik để chân xuống và nhìn chung quanh bàn tới mỗi tộc trưởng khác, và với ngôn ngữ riêng của mình, ông ta nói, "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho chính mình như là vị vua mới của chúng tôi. Nếu các bạn có tôi, tôi hứa sẽ mang lại vàng và sự tự do để sống ở trên mặt đất mà không phải sợ Galbatorix phá huỷ nhà của chúng ta. Điều này tôi thề trước danh dự dòng họ tôi."
"Năm trên bốn," Eragon nói với Orik khi ông ta trở về chỗ ngồi. "Và không phải có sự ủng hộ nào." Orik càu nhàu. "Tôi có thể đếm, Eragon."
Eragon đặt khuỷu tay lên đầu gối, mắt nó ném từ người lùn này tới người lùn khác. Lòng thèm muốn hành động đang gặm nhấm trong nó. Bằng cách nào, nó không biết, nhưng với nhiều cách, nó cảm thấy là nó phải tìm một cách để đảm bảo Orik sẽ trở thành vua và, vì thế, tộc người lùn sẽ tiếp tục viện trợ cho Varden trong công cuộc đấu tranh chống lại Đế quốc. Đối với tất cả những việc mà nó đang cố gắng, tuy nhiên, Eragon chỉ có thể nghĩ không có gì để làm bằng việc ngồi và đợi.
Người lùn tiếp theo đứng dậy là Havard của bộ tộc Fanhur. Với cái cằm gấp chống vào xương ức, Havard đẩy môi ra và gõ nhẹ vào bàn với hai ngón tay mà ông ta còn trên bàn tay phải, xuất hiện chỉnh chu. Eragon nhích tới trước trên chỗ ngồi của nó, tim nó đập thình thịch. Liệu ông ta có giữ nguyên thoả thuận với Orik không? Eragon tự hỏi.
Havard gõ bàn lần nữa, rồi đập lên đá với tay của ông. Nhấc cằm lên, ông ta nói, "Thay mặt cho bộ tộc tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi."
Việc này làm cho Eragon cảm giác hài lòng khi nhìn vào đôi mắt to rộng của Nado, và sau đó ông lùn nghiến răng mình, cơ bắp trong má của ông ta giật giật. "Hà!" Orik thì thầm." Việc này như đặt gai trong râu hắn ta."
Chỉ còn hai tộc trưởng chưa bỏ phiếu là Hreidamar và Íorûnn. Hreidamar, tộc trưởng đầy cơ bắp vạm vỡ của bộ tộc Urzhad, xuất hiện không dễ dàng với tình trạng thế này, trong khi Íorûnn—bà ta thuộc bộ tộc Vrenshrrgn, các con sói chiến—vạch ra vết sẹo hình trăng lưỡi liềm trên má trái của bà ta, với đầu của móng tay và nụ cười như con mèo tự mãn.
Eragon giữ hơi thở của nó và chờ nghe những gì mà hai người họ nói. Nếu Íorûnn bầu cho chính bà ta, nó nghĩ, và nếu Hreidamar vẫn còn trung thành với bà ta, thì cuộc bầu cử này sẽ phải diễn ra vòng hai. Không có lý do gì cho bà ta làm thế cả, tuy nhiên, ngoại trừ muốn sự kiện này chậm trễ, và theo xa nhất mà mình biết, bà ta sẽ không được lợi ích gì từ sự chậm trễ này. Bà ta cũng không hy vọng trở thành nữ hoàng trong thời điểm này; tên của bà ta sẽ bị loại bỏ trước khi bắt đầu vòng hai, và mình đoán là ba ta sẽ không ngu ngốc đến nỗi lãng phí quyền lực mà bà ta có bây giờ để chỉ khoe khoan cho con cháu là bà ta đã một lần làm ứng cử viên cho ngôi vua. Nhưng nếu Hreidamar theo bà ta, như thế thì cuộc bầu cử này vẫn phải tiếp tục diễn ra và liệu chúng ta sẽ tiếp
tục vào vòng thứ hai hay không... Argh! Ước gì mình có thể nhìn thấu tương lai được! Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Orik thua? Mình có nên bắt lấy cơ hội này mà điều khiển hội đồng thị tộc? Mình có thể niêm phong căn phòng lại để không ai có thể vào cũng như ra, và rồi... Nhưng không, mà có thể
Íorûnn làm gián đoạn suy nghĩ của Eragon bằng cách gật đầu với Hreidamar và rồi chiếu tia nhìn nặng nề về hướng Eragon, làm cho nó cảm thấy như nó là phần thưởng mà bà ta đang kiểm tra. Cái vòng của cái áo giáp của ông ta kêu lẻng kẻng, Hreidamar đứng thẳng lên và nói, "Thay mặt bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi."
Cổ họng của Eragon siết lại.
Đôi môi đỏ của bà ta cong lên như trò đùa, Íorûnn đứng dậy khỏi ghế với một động tác uyển chuyển và nói với một giọng thấp, khàn khàn, "Dường như đổ hết lên tôi để quyết định kết quả của cuộc họp ngày hôm nay. Tôi đã lắng nghe rất kỹ lý lẽ của ông, Nado, và lý lẽ của ông, Orik. Trong khi cả hai đã nêu lên những điểm mà tôi đồng ý với một số các chủ đề, vấn đề quan trọng nhất là chúng ta phải quyết định có hay không cam kết với chiến dịch của Varden để chống lại Đế quốc. Nếu chỉ là cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc, thì sẽ không thành vấn đề cho tôi nếu bên nào thắng, và tôi chắc chắn sẽ không cân nhắc để các chiến binh của bộ tộc chúng tôi cho lợi ích của người ngoài. Tuy nhiên, trường hợp này không phải như thế. Tính xa hơn. Nếu Galbatorix xuất hiện chiến thắng từ cuộc chiến tranh này, thì ngay cả Núi Beor cũng không thể bảo vệ chúng ta khỏi sự tức giận của hắn ta. Nếu chúng ta muốn sống sót, chúng ta phải chứng kiến Galbatorix bị lật đổ. Hơn thế nữa, điều đó thúc đẩy tôi rằng trốn tránh trong hang động và các hầm thế này trong khi những người khác quyết định số phận của Alagaësia là không thích hợp cho một chủng tộc vừa già vừa mạnh như chủng tộc ta. Khi sử biên niên của thời đại ghi chép, thì họ có viết về chúng ta chiến đấu cùng với tộc người và tộc thần tiên, như là các đấng anh hùng già dặn, hay viết là chúng ta ngồi co rúm, sợ hãi trong khi một trận chiến đang diễn ra phía bên ngoài? Tôi, vì một điều, tôi biết câu trả lời của riêng tôi." Íorûnn hất mái tóc của bà ta về phía sau, rồi nói, "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi!"
Các bô lão của năm nhà luật học đang đứng tựa vào bức tường tròn bước lên phía trước và dọng đầu cuối của cây gậy bóng láng vào sàn đá và tuyên bố, "Tất cả hãy hoan nghênh Vua Orik, vị vua thứ bốn mươi ba của Tronjheim, Farthen Dûr, và tất cả các knurla ở trên và dưới của Núi Beor!"
"Tất cả hãy hoan nghênh Vua Orik!" hội đồng thị tộc gầm lên, giơ cao chân họ lên với một tiếng sột soạt ầm ỹ của quần áo và áo giáp. Đầu nó như đang bơi, Eragon cũng làm tương tự, nhận thức được ràng nó đang có mặt trong hoàng tộc. Nó nhìn về phía Nado, nhưng mặt của ông lùn là một cái mặt nạ mù.
Chòm râu trắng của các nhà luật học dọng cây gậy xuống sàn một lần nữa. "Hãy để các nhà ghi chép cùng lúc quyết định của hội đồng thị tộc, và hãy để cho tin tức này lan truyền cho từng người trong vương quốc. Sứ giả đâu! Thông báo cho các pháp sư với gương bói của họ tiết lộ việc gì xảy ra vào hôm nay, và sau đó tìm người giám sát của núi và nói với họ, 'Bốn nhịp trống. Bốn nhịp, và lắc cái vồ của nhà ngươi như ngươi chưa bao giờ lắc trước đây trong đời, bởi vì chúng ta có vị vua mới. Bốn nhịp với hết sức mạnh, Farthen Dûr chính nó sẽ phải rung chuyển vì tin này.' Nói với họ như thế, tôi giao nhiệm vụ cho các anh đó. Đi!"
Sau khi các sứ giả rời khỏi, Orik đẩy mình ra khỏi ghế và đứng dậy nhìn khắp xung quanh. Vẻ mặt của ông ta, theo Eragon, dường như là vẫn đang sững sờ, như là ông ta không nghĩ là có thể giành được ngôi vua. "Đối với trách nhiệm tuyệt vời này," ông ta nói, "Tôi rất cảm ơn mọi người." Ông ta dừng lại, rồi tiếp tục, "Ý nghĩ ngay bây giờ của tôi là sự cải thiện tốt hơn cho quốc gia chúng ta, và tôi sẽ theo đuổi mục đích đó mà không nao núng cho đến ngày tôi trở về thành đá."
Sau đó các tộc trưởng bước lên trước, từng người một, và quỳ trước mặt Orik và thề lòng trung thành của họ cho ông ta. Khi đến lượt Nado thề, ông lùn biểu lộ ra không tình cảm gì ngoại trừ những từ ngữ mà lời thề bắt buộc với không chuyển giọng, những từ thốt ra từ của miệng ông ta như là thanh chì rơi xuống.Bầu không khí xuyên qua phòng họp có cảm giác nhẹ hẳn khi ông ta kết thúc lời thề.
Sau khi nghi thức thề trung thành kết thúc, Orik ra lệnh rằng lễ đăng quang của ông sẽ diễn ra vào sáng ngày hôm sau, và rồi ông ta và nhóm người của ông rút qua phòng kế bên. Ở đây Eragon nhìn Orik, và Orik nhìn Eragon, và
không ai nói gì cho tới khi một nụ cười rộng xuất hiện trên mặt Orik và ông ta cười thật lớn, má ông ta chuyển sang màu đỏ. Cười với ông ta, Eragon túm lấy ông ta bằng cẳng tay và ôm chặt ông ta. Vệ sĩ và cố vấn của Orik tập hợp xung quanh, vỗ vai Orik và chúc mừng ông với những lời thật tâm.
Eragon thả Orik ra, nói, "Tôi không nghĩ là Íorûnn sẽ ở bên phe chúng ta."
"Đúng vậy. Tôi mừng là bà ta ở bên phe ta, nhưng việc này làm cho vấn đề thêm phức tạp, đúng thế." Orik nhăn mặt. "Tôi nghĩ là tôi sẽ phải thưởng cho sự trợ giúp của bà ta bằng một vị trí trong hội đồng của tôi, chắc là phải thế thôi."
"Nếu thế thì tốt nhất là vậy!" Eragon nói, căng thẳng làm nó nghe như có cơn chấn động. "Nếu các con sói chiến giống nhau về tên của chúng, chúng ta rất cần chúng trước khi chúng tới các cánh cửa của Urû'baen."
Orik bắt đầu trả lời, nhưng rồi một nốt nhạc dài, trầm của âm thanh kỳ lạ vang dội khắp các sàn và trần và không khí của các phòng, làm xương của Eragon rung chuyển với mức năng lượng của chính nó. "Lắng nghe!" Orik la lên, và giơ một tay lên. Tất cả rơi vào im lặng.
Bốn lần trong tổng số nốt bass vang lên, làm rung động các phòng với từng âm thanh cứ lập lại, như là một gã khổng lồ đang đập mạnh vào bên hông của Tronjheim. Sau đó, Orik cho biết, "Tôi chưa từng nghĩ sẽ nghe tiếng trống của Derva thông báo lễ lên ngôi vua của tôi."
"Cái trống này lớn thế nào?" Eragon hỏi, run sợ. "Khoảng năm mươi feet, nếu tôi nhớ đúng."
Một ý nghĩ loé lên trong đầu Eragon là mặc dù người lùn thấp nhất trong các chủng tộc, họ đã xây dựng lên cấu trúc lớn nhất ở Alagaësia, mà dường như điều đó là kỳ lạ đối với nó. Có lẽ, nó nghĩ, bằng cách làm những vật khổng lồ như thế, họ không cảm thấy họ bé nhỏ. Nó đã định đề cập giả thuyết của nó cho Orik nhưng quyết định là điều đó có thể xúc phạm đến ông lùn, do đó nó giữ lưỡi lại.
Bao vây xung quanh, nhóm người của Orik bắt đầu hỏi ý kiến ông về tương lai của tộc người lùn, thường xuyên khi người này đang nói người khác xen ngang với giọng lớn, và Eragon, nó đang muốn hỏi Orik một câu khác, nhận ra nó đang bị bỏ rơi vào một góc. Nó cố gắng kiên nhẫn chờ đợi để có một cuộc trò chuyện im ắng, nhưng sau vài phút, có vẻ nhóm người lùn này không ngừng tiếp tục chất vấn Orik với hàng ngàn câu hỏi và lời khuyên, vì thế, nó cho rằng, đó là bản chất của họ.
Vì vậy, Eragon nói, "Orik Könungr (Tâu vua Orik)," và nó nhúng ngôn ngữ cổ vào, chia một phần năng lượng, như vậy nó có thể thu hút được sự quan tâm của tất cả mọi người hiện tại. Căn phòng trở nên im lặng, và Orik nhìn về phía Eragon và nhướng một lông mày lên. "Tâu bệ hạ, tôi có thể có sự cho phép của ngài để lui ra không? Có một số ... vấn đề mà tôi muốn tham gia vào, nếu như không quá trễ."
Lông mày của Orik sáng ra. "Bằng mọi cách, nhanh lên! Nhưng cậu cũng không cần phải gọi tôi bằng bệ hạ, Eragon, cũng không gọi bằng ngài, cũng không gọi bằng các danh hiệu khác. Dù gì, chúng ta là bạn bè và cũng là anh em kết nghĩa."
"Vâng, thưa bệ hạ." Eragon trả lời, "nhưng với thời gian sắp tới, tôi tin chắc điều này thích hợp hơn khi tôi nên gọi giống mọi người khác. Anh là vua của chủng tộc anh bây giờ rồi, và cũng là vua của tôi, vì tôi là một thành viên của bộ tộc Ingeitum, và điều này tôi không thể không để ý."
Orik suy ngẫm một chút, như là một khoảng cách xa xăm, và sau đó gật đầu và nói, "Theo ý cậu vậy, Kỵ sĩ rồng."
Eragon cúi chào và rời khỏi phòng. Theo sau là bốn vệ sĩ, nó đi xuyên qua đường hầm và lên cầu thang dẫn tới tầng mặt đất của Tronjheim. Khi bọn nó tới nhánh phía nam của bốn hành lang chính chia thành-phố-núi, Eragon quay qua Thrand, đội trưởng đội cận vệ của nó, và nói, "Tôi muốn chạy hết con đường còn lại. Vì ông sẽ không thể theo kịp tôi, tôi nghĩ ông nên dừng lại và đi tới cửa nam của Tronjheim và chờ tôi trở lại."
Thrand trả lời, "Bàn-Tay-Bạc à, xin ngài đừng đi một mình. Tôi không thể thuyết phục ngài giảm tốc độ để chúng tôi có thể theo ngài sao? Chúng tôi có lẽ không nhanh như thần tiên, nhưng chúng tôi có thể chạy từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, và trong lúc áo giáp vẫn còn trên người."
"Tôi hiểu sự quan tâm của ông." Eragon nói, "nhưng tôi sẽ không chần chừ lâu hơn một phút, ngay cả khi nếu tôi biết có kẻ ám sát đang ẩn mình đằng sau mỗi cột đá. Tạm biệt!"
Và ngay lập tức, nó chạy xuống hành lang rộng, lắt léo né các người lùn đang cản đường nó.
Chương 39: Tái Hợp
Từ nơi Eragon bắt đầu cách cổng nam của Tronjheim chừng một dặm, nó chạy đoạn này chỉ mất vài phút, tiếng bước chân vang lên trên nền đá. Vừa chạy nó vừa thấy những tấm thảm lộng lẫy treo trên lối vào các hành lang hai bên, cũng đồng thời thấy những tượng đá kỳ dị củ các mãnh thú, quái vật ẩn hiện giữa các cột đá bằng huyết ngọc thạch dựng dọc theo một đại lộ có mái che. Thông đạo bốn tầng này thật lớn quá, Eragon dễ dàng tránh né đám người lùn cư trú ở đây, tuy vậy có một lần một đám người lùn Knurlcarathn bước tới ngay trước mặt của nó và nó không còn chọn lựa nào khác ngoại trừ phóng qua đầu bọn họ lúc đó vừa cúi người né vừa la hét kinh hãi. Eragon thích thấy cái nhìn ngạc nhiên của bọn họ khi nó phóng qua đầu người ta.
Eragon chạy nhẹ nhàng từng bước dài dưới cánh cổng gỗ khổng lồ bảo vệ cửa nam của thành núi này, lại nghe tiếng thị vệ canh cổng hét lên: "Dừng lại, Argetlam!" khi nó vừa lướt qua. Ra khỏi được độ hai mươi thước, thì cánh cửa gỗ đóng sầm xuống nền móng của Tronjheim, nó lúc này chạy hết lực giữa hai tượng quái vật sư tử đầu chim đúc bằng vàng khổng lồ đang dõi mắt nhìn xa xăm về phía chân trời, vùng đất rộng mở đã hiện ra trước mặt. Không khí ẩm uớt lạnh mang theo mùi mưa vừa rơi. Mặc dù vẫn còn là buổi sáng, ánh hoàng hôn xám đã phủ lấy khu đất bằng hình dĩa bao quanh Tronjheim, vùng đất mà cỏ không lên nổi, chỉ có rêu, địa y và vài khoảnh nấm mũ độc sộc mùi là có thể mọc được. Ở phía trước, Farthen Dûr cao sừng sững mười dặm với lối vào hẹp, chỉ có ánh sáng phản chiếu yếu ớt lọt vào miệng núi lửa khổng lồ này. Eragon khó khăn lắm mới nhận biết được mức độ to lớn của trái núi này khi nó ngước nhìn lên.
Vừa chạy, nó vừa lắng nghe tiếng đơn điệu đều đặn của từng nhịp thở cũng như tiếng từng bước chân vang vọng xuống đường. Ngoại trừ một con dơi tò mò đang từ trên cao nhào xuống phát ra những tiếng chít chít lanh lãnh thì nó chỉ có một mình. Trạng thái yên tĩnh bao trùm khu núi rỗng này khiến nó thoải mái, giải trừ mọi ưu phiền thường ngày của nó.
Eragon đi theo con đường lát đá trải dài từ cửa nam Tronjheim tới tận hai cánh cổng đen cao ba mươi bộ phía nam chân núi Farthen Dûr. Lúc nó dừng lại, hai người lùn hiện ra từ một trạm gác bí mật lanh lẹ mở cổng, để lộ ra một đường hầm giường như vô tận ở phía trước.
Eragon tiếp tục đi tới. Những cột đá hoa dát ngọc rubi đỏ và đá thạch anh tím xếp dọc suốt năm chục bộ đầu của đường hầm. Qua khỏi đoạn đó, đường hầm trở nên trống trải hoang vắng, tường xung quanh trơn tru cách mỗi hai chục thước có treo một ngọn đèn lồng không lửa, và cách một khoảng không cố định lại có một cổng bị đóng lại hay một cánh cửa. "Không biết lối này dẫn đến đâu nữa đây," Eragon nghĩ thầm. Và nói lại tưởng tượng ra cảnh đá trên đầu dồn xuống đè nó khiến lúc đó đường hầm tạo nên áp lực nặng nề không chịu được. Nó nhanh chóng xóa hình ảnh đó ra khỏi đầu.
Đi được nửa đường hầm, nó cảm giác được cô nàng.
"Saphira!" nó hét lên, bằng cả giọng nói lẫn ý nghĩ, tên của cô nàng dội lại từ những tường đá xung quanh như cả tá tiếng la hét.
"Eragon!" Một lúc sau, thanh âm ầm ĩ yếu ớt từ xa vọng tới kéo nó đi về hướng cuối đường hầm.
Eragon tăng tốc gấp đôi, mở rộng tâm ý đón Saphira, gỡ đi mọi cấm chế quanh người để cả hai có thể liên thông với nhau không hạn chế. Như một giòng nước lũ ấm áp, ý thức của Saphira tràn tới nó cũng như của nó tràn tới cô nàng. Eragon thở hổn hển vấp và xuýt nữa thì bị ngã. Cả hai quấn lấy nhau trong tư tưởng, xiết chặc lấy nhau còn hơn những đụng chạm thực thụ, khiến thân phận cả hai lại lần nữa trở nên đồng nhất. Niềm an ủi lớn nhất đối với bọn họ rất đơn giản: họ không còn bị lẻ lỏi nữa. Biết được bạn đang ở bên người luôn lo lắng cho bạn, luôn hiểu cả con người bạn, và sẽ không bao giờ bỏ bạn ngay cả trong tình huống tuyệt vọng nhất, đó là mối quan hệ trân quý nhất mà một người có thể có được, và cả Eragon lẫn Saphira đều quý mến điều này.
Không lâu sau Eragon thấy Saphira từ xa vội vàng tiến về phía nó ráng không để đầu bị đụng lên trần hay cánh quẹt lên các bức tường xung quanh. Móng vuốt của cô nàng cạ xuống nền đá xẹt lửa khi lướt tới trước mặt Eragon.
Eragon vui mừng hét lên, nhảy tới trước cô ả, mặc kệ lớp vảy bén, mở rộng vòng tay hết sức xiết chặt lấy cô
nàng, hai chân của nó đung đưa cách mặt đất vài gang tay. "Tiểu ca," Saphira nói, giọng cô nàng ấm áp. Cô nàng từ từ hạ nó xuống sàn, khịt một tiếng rồi nói: "Tiểu ca, trừ khi là anh muốn xiết cổ em, anh phải thả tay ra một chút."
"Xin lỗi," nó toét miệng cười lui ra sau một chút rồi lấy trán ịn vào mũi cô nàng rồi bắt đầu gãi gãi hai bên hàm của ả.
Tiếng ầm ừ của Saphira vang dội cả đường hầm. "Em mệt rồi," nó nói.
"Em chưa bao giờ bay xa mà nhanh như vậy. Em chỉ dừng lại một lần từ lúc rời khỏi Varden, và em đáng lẽ cũng không dừng lại nếu không phải vì khát nước quá."
"Em nói là cả ba hôm nay em chưa ăn chưa ngủ gì cả à?"
Cô nàng đá mắt với nó một cái, che đậy cặp mắt trong xanh như ngọc xaphia trong một khoảnh khắc.
"Chắc em đói lắm rồi!" Eragon lo lắng la lên. Nó nhìn khắp thân cô nàng xem có vết thương tích gì hay không. Cũng may là nó không tìm thấy gì.
"Em mệt lắm." Cô nàng thừa nhận. "Nhưng không có đói. Chưa tới lúc. Khi nghỉ ngơi xong, thì em mới ăn. Hiện giờ, em không nghĩ là em có thể ăn ngay cả chỉ một con thỏ… Mặt đất dưới chân thấy không chắc chắn tí nào, em cứ tưởng như vẫn còn đang bay.
Nếu bọn họ không có bị cách xa bấy lâu, Eragon có lẽ sẽ trách cô ả vì thiếu thận trọng như vậy, nhưng như vầy, nó lại cảm thấy cảm động và dễ chịu khi thấy cô nàng cố gắng như vậy. "Cảm ơn em," nó nói, "I thiệt bực nếu còn phải đợi thêm một ngày nữa để chúng ta được gặp nhau."
"Em cũng vậy," cô nàng nhắm mắt cạ đầu vào bàn tay nó trong lúc nó vẫn đang tiếp tục gãi gãi nơi quai hàm. "Ngoài ra, em cũng không nên đến trễ lễ đăng quang chứ hả? Ai sẽ là người…"
Trước khi cô nàng hỏi xong, Eragon đã truyền hình ảnh của Orik sang. "A!" cô nàng thở phào, lộ rõ vẻ hài lòng. "Ông ta sẽ là một vì vua tốt." "Anh cũng hy vọng vậy."
"Đã chuẩn bị Tảng ngọc Hình Sao cho em tu bổ chưa?"
"Nếu người lùn còn chưa nối cái miếng nhỏ lại với nhau, anh chắc là ngày mai họ sẽ làm xong."
"Vậy là tốt rồi." Cô nàng mở một mí mắt ra nhìn thẳng vào mắt nó. "Nasuada nói với em về âm mưu của Az Sweldn rak Anhûin. Anh lúc nào cũng đụng phải rắc rối lúc em không có ở đó."
Nó toét miệng cười, "còn lúc em ở đó thì sao?"
"Em ăn thịt phiền phức trước khi phiền phức ăn thịt anh."
"Thiệt vậy sao. Vậy còn lần đám quái Urgals phục kích chúng ta ở Gil’ead rồi bắt giữ anh thì sao?"
Một làn khói xả ra từ giữa hàm răng nanh của Saphira. "Lần đó không tính. Em lúc đó còn nhỏ, thiếu kinh nghiệm. Bây giờ thì không thể nào. Với lại anh bây giờ cũng không vô dụng như vậy."
"Anh có bao giờ vô dụng đâu," nó phản đối. "Anh chỉ có địch thủ mạnh thôi."
Vì lý do gì đó, Saphira cảm thấy câu cuối của nó rất buồn cười; cô nàng bắt đầu cười sằng sặc khiến Eragon cũng phá ra cười. Cả hai không thể dừng cười được cho tới khi Eragon nằm lăn ra đất hả họng ra lấy hơi, còn Saphira thì phải ráng kềm lại những tia lữa đang khịt ra từ lỗ mũi. Sau đó Saphira đánh ra một tiếng lạ mà Eragon chưa nghe bao giờ, một tiếng gầm gừ dựng lên kỳ cục, và nó cảm nhận được một cảm giác lạ lùng qua đường liên hệ của hai bên.
Saphira lại làm ra tiếng đó một lần nữa, rồi lắc đầu một cái như muốn dẹp bỏ đi cái cảm giác bồn chồn trong bụng đó. "Trời ạ," cô nàng nói. "Hình như em bị nấc cục rồi."
Eragon há họng ra giữ nguyên tướng đó một hồi rồi mới trở mình cười dữ hơn, nước mắt chảy ra luôn trên mặt. Mỗi khi sắp nín được, Saphira lại nấc một cái, đầu cô nàng gục gặc như quả lắc khiến nó lại cười đến thắt ruột. Cuối cùng nó đành lấy ngón tay bịt hai tai, ráng nhìn lên nóc và lặp lại tên các kim loại, đá quý mà nó có thể nhớ được.
Sau khi đọc xong, nó mới hít một hơi dài rồi đứng dậy.
"Đỡ chưa?" Saphira hỏi. Hai vai cô nàng rung lên vì một cơn nấc cục nữa.
Eragon ráng cắn lười trả lời, "Đỡ rồi… Thôi đi, chúng ta đi tới Tronjheim. Em cũng cần uống chút nước rồi. Có lẽ sẽ giúp đõ được một chút. Rồi sau đó đi ngủ đi."
"Anh không chữa nấc cục bằng thần chú được à?"
"Có thể được. Có lẽ được. Nhưng cả sư phụ Brom lẫn Oromis cũng chưa có chỉ anh thế nào." Saphira lẩm bẩm ra vẻ hiểu, rồi lại tiếp tục bị nấc. Eragon càng phải cắn lưỡi chặt hơn chỉ đành nhìn xuống đôi ủng, "Thôi đi chứ?" Saphira đưa chân trước bên phải ra mời, Eragon lanh lẹ trèo lên lưng cô nàng rồi leo lên yên ghết ở ngay dưới cổ. Cả hai bay qua đường hầm về hướng Tronjheim, cả hai đều cảm thấy vui vẻ hạnh phúc vì được chia xẻ niềm vui bên nhau.
Chương 40: Đăng quang
Tiếng trống của Derva vang lên, triệu tập tất cả người lùn của Tronjheim có mặt để tham dự lễ đăng quang của nhà vua mới.
“Như thường lệ ” Orik đã nói với Eragon vào đêm hôm trước “ Khi các bộ tộc chọn ra một vị vua hoặc một nữ hoàng, hoàng thân này ngay lập tức thi hành quyết định, nhưng lễ lên gôi sẽ được tổ chức dài bét nhất là 3 tháng liền, bởi thế tất cả những ai muốn tham dự nghi lễ có thời gian để sắp xếp,hoàn thành công việc và hành hương về Farthen Dur từ những vùng xa xôi nhất nhất của vương quốc Chúng tôi không thường tập hợp tất cả thần dân , nhưng khi đã làm vậy, những người hành hương này tổ chức rất nhiều sự kiện , các buổi yến tiệc và ca nhạc trong hàng tuần lễ, và với các trò câu đó, thi sức mạnh và các cuộc thi tài luyện kim, điêu khắc, cũng như các loại hình nghệ thuật khác … tuy nhiên nó khó hơn bình thường rất nhiều.
Eragon đứng cạnh Saphira bên ngoài căn phònglớn ở trung tâm của Tronjhem, cố lờ đi tiếng trống ầm ĩ kinh khủng. Ở khu khác của đại sảnh rộng hàng dặm, cả trăm người lùn đang tụ tập ở cổng vòm của các tầng,nhìn săm soi vào Eragon và Sophira bằng những cặp mắt đen hình viên đạn.
Cái lưỡi có ghạnh của Saphira tương phản hoàn toàn với những chiếc vẩy khi cô ả liếm mép. Đó là việc cô ả vẫn làm từ khi ngấu nghiến xong 5 con cừu to hết cỡ sáng sớm nay.
Rồi ả giơ chân trái trước lên và bịt miệng. Mùi lông cừu cháy ám khắp người. Đừng sốt ruột nữa, Eragon nói, họ đang nhìn chúng ta kìa.
Tiếng gầm khẽ phát ra từ Saphira. Em không thể làm được. Có lông dính ở kẽ răng của em.
Bây giờ thì em nhớ ra là tại sao mình lại ghét ăn thịt cừu rồi. Thật kinh khủng, những thứ lông lá này tạo cho em mấy quả bóng bằng bông khó tiêu hóa.
Anh sẽ giúp em làm sạch kẽ răng khi chúng ta xong chuyện ở đây. Chỉ cần giữ yên được đến lúc đó Hmph
Có phải Blodhgarm đã đeo rong lửa trong mấy cái túi trên yên ngựa không? Nó sẽ làm cho dạ dày của em khá hơn.
Em không biết
Mmm. Eragon nghĩ một lát. Nếu không anh sẽ hỏi Orik nếu họ có tích trữ chúng trong kho ở Tronjhem, chúng ta nên …
Nó tự ngừng lại khi nhịp cuối cùng của tiếng trống vừa dừng. Đám đông đã di chuyển và nó nghe thấy tiếng sột soạt khẽ khàng của quần áo và thỉnh thoảng tiếng xì xầm của vài nhóm người lùn.
Hàng tá kèn lệnh trumpet vọng ra, vang khắp thành phố trong lòng núi với tiếng triệu tập háo hức, và ở đâu đó một đội hợp xướng người lùn bắt đầu cất giọng trầm bổng. Âm nhạc làm da đầu Eragon ngứa ran và nổi da gà , máu thì chảy nhanh hơn, như khi người ta dấn thân vào một cuộc đi săn cổ xưa. Saphira quét đuôi từ bên này sang bên khác, và nó biết rằng cô ả cũng có cùng cảm giác như vậy.
Chúng ta đi thôi, nó nghĩ trong đầu.
Cả hai, nó và Saphira tham gia vào cuộc khám phá căn phòng trung tâm của thành phố núi hòa mình giữa các tộc trưởng, những thủ lĩnh, và những nhân vật đáng kể khác bao quanh, trong căn phòng cao chót vót
Tại chính giữa của căn phòng, ngôi sao sapphire đang được tu sửa vẫn tọa lạc , bao quanh bởi bộ khung bằng cột gỗ . một giờ trước lễ đăng quang, Skeg đã gửi một lời nhắn đến Eragon nói rằng đội thợ thủ công của ông ta đã hoàn thành lắp ráp mảnh vỡ cuối cùng của viên ngọc lại với nhau và rằng Mitthrim đã sẵn sàng cho Saphira biến nó trở lại hoàn toàn như trước đây.
Ngai vàng bằng đá granite đen của người lùn đã được chuyển đến, từ vùng đất cổ đã chết sâu trong lòng đất Tronlhem và được đặt trên một chiếc bục bên cạnh ngôi sao sapphire, đối diện với nhánh phía đông của bốn con đường dẫn vào đại sảnh để phân biệt địa vị ở Tronjhem, hướng đông bởi vì đó là phương mặt trời mọc và biểu tượng cho bình minh của một thời đại mới, Hàng nghàn chiến binh người lùn ăn mặc những bộ giáp sắt sáng bóng đứng thành hai đạo lớn trước ngai vàng.
Tương tự với thành hai dài hàng quanh cổng vào phía đông của đại sảnh và dọc mọi con đường dẫn tới cánh cổng phía đông Tronjhem cách đó 1 dặm. Rất nhiều chiến binh mag giáo cưỡi ngựa cầm cờ hiệu. Hvedra, vợ của Orik đứng đầu đám đông, sau buổi họp bộ tộc quyết định trục xuất Grimstborith Vermund được đưa ra. Orik đưa bà ta đi để đảm bảo cho việc đăng quang. Bà ta chỉ được ở lại Tronjhem vào sáng hôm đó.
Trong nửa giờ đồng hồ, những người chơi kèn trumpet cứ mặc nhiên thổi mà không quan tâm đến tiếng hát của dàn hợp xướng. Thận trọng từng bước một, Orik tiến lại từ cổng Đông tới khu trung tâm của Tronjhem. Bộ râu của ông ta được chảy chuốt và uốn cong, ông đi một đôi ủng da thanh lich và cầu kì nhất với gót ủng như hai mũi giáo bạc, chiếc xà cạp lông màu xám, một chiếc áo sơ mi lụa tím sáng mờ ảo trong ánh đèn lồng, và khoác bên
ngoài chiếc sơ mi là một bộ giáp dài, mỗi chi tiết đều được trang trí bằng bạch kim nguyên chất. Một chiếc áo lông chồn được thêu gia huy của Durgrimst Ingeitum chảy dài sau lưng Orik và lết trên sàn nhà phía sau ông. Volund, cây búa chiến đấu của Korgan, vị vua đầu tiên của người lùn,đã được rèn lại , đeo bên eo , thắt lưng đính ngọc ruby. Bởi vì y phục quá cầu kì và bộ áo giáp của ông lộng lẫy, xung quanh Orik nom như đang phát sáng làm Ergon nhìn lóa cả mắt.
Mười hai đứa trẻ người lùn đi theo sau Orik, sáu bé trai và sáu bé gái, hoặc cũng không hẳn vậy bới Eragon chỉ căn cứ vào kiểu tóc của chúng để đoán.Bon trẻ mặc những bộ quần áo chùng đỏ và nâu dát vàng,Mỗi đứa bưng trong lòng bàn tay một quả cầu bóng láng tinh tế đường kính khoảng 6 inche, mỗi quả cầu được làm từ một loại đá quý khác nhau.
Khi Orik đến được tới trung tâm của thành phố, căn phòng được thắp sáng và bóng những chiếc đèn có hoa văn trang trí xuất hiện trên khắp mọi vật. Hơi lúng túng, Eragon liếc nhìn lên và kinh ngạc bắt gặp những cánh hoa hồng rơi lác đác từ đỉnh Tronjhem. Thật nhẹ nhàng,như một trận tuyết dày đặc, những cánh hoa mượt như nhung vương trên đầu và vai của tất cả mọi người tham dự, và dĩ nhiên phủ khắp mặt sàn, tràn ngập trong không trung với hương thơm ngào ngạt. Tiếng trumpet và dàn hợp xướng ngưng bặt khi Orik quỳ trước chiếc ngai vàng đen và cúi đầu . Đằng sau ông, mười hai đứa trẻ cũng dừng lại và đứng bất động. Eragon đặt bàn tay lên lớp da ấm áp của Sophira, chia sẻ với cô ả biết về mối quan tâm và thích thú của mình.
Nó không đoán được việc gì sẽ diễn ra tiếp theo, vì Orik đã từ chối kể cho nó nghe về những phần nghi lễ về sau. Nâng cây quyền trượng cao quá đầu bằng hai tay, Gannel nện nó xuống trên sàn đá tạo nên một tiếng động vang rền. “Hwatum il skilfz gerdûmn!” Ông ta hét lên, và tiếp tục nói bằng ngôn ngữ của những người lùn trong vài phút,Eragon khó mà nghe hiểu được toàn bộ, bởi nó ko đi cùng người lùn phiên dịch. Nhưng ngay sau đó, tông giọng tenor cao vút của Gannel thay đổi, và Eragon phát hiện ra rằng những gì ông ta đang nói thuộc về một loại ngôn ngữ cổ xưa, và nó nhận ra Gannel đang cố tạo một câu thần chú, nhưng không phải một câu thần chú mà Eragon quen thuộc. thay vì điều khiển bùa phép với đối tượng hoặc một nguyên tố của thế giới quanh chúng, người chủ tế đã nói bằng một thứ ngôn ngữ thần bí và đầy quyền lực: “Gûntera, Người sáng tạo ra thiên đường và trái đất và sự vô tận của đại dương, hãy lắng nghe tiếng khóc của bày tôi chân thành tận tụy của Ngài! Chúng tôi cảm ơn Người bởi lòng hào hiệp của Người, Nòi giống chúng con phát triển thịnh vượng.Hằng năm , chúng con vẫn thờ phụng Người hiến tế những con cừu đực khỏe mạnh nhất trong bày, và cả những hũ rượu mật ong thơm ngon cùng phần hoa màu thu hoạch, trái cây, rau tươi và ngũ cốc. Đền thờ của Người được xây dựng tráng lệ nhất trên vùng đất này, và không một kẻ nào có thể cạnh tranh được với sự vinh quang của Người. Ôi, Guntera hùng mạnh, vua của những vị chúa trời, hãy nghe lời cầu khẩn của con và chấp nhận thỉnh cầu của kẻ tiểu nhân này: xin hãy dành thì gian để bổ nhiệm cho một người lùn vĩ đại cai quản những vấn đề trần tục của chúng con. Người sẽ rủ lòng nhân từ để để ban tặng lời chúc phúc cho Orik, con trai của Thrifk, và để ủng hộ sự nối ngôi của ông?” Đầu tiên Eragon nghĩ, lời thỉnh cầu của Gannel sẽ không được hồi âm, nó cảm thấy không hứng thú với phép thuật của người lùn khi ông ta khấn xong. Tuy nhiên, ngay sau đó Saphira lại huých nó một phát và nói.
Nhìn xem kìa.
Eragon nhìn theo ánh mắt chăm chú của cô ả và , trên cao 30 feet, nó thấy một luồng không khí bao quanh những cánh hoa đang rơi: một lỗ hổng, có một khoảng chân không tại nơi những cánh hoa bị giữ yên trong không khí, như có một thứ gì đó vô hình chiếm lĩnh không gian. Lỗ hổng căng ra, vươn theo mọi hướng xuống sàn nhà, và chỉ có thể trông thấy được nhờ sự đinh hình của những cánh hoa như những đường nét của một sinh có cánh tay và đôi chân giống như một người lùn hay một con người hoặc một elf hay Urgal, nhưng với một tỷ lệ khác thường hơn bất cứ loài nào mà Eragon được biết. Khuôn mặt sát với bả vai, đôi tay đồ sộ giơ lủng lẳng quá đầu ngối và trong khi thân hình kềnh càng thì đôi chân lại ngắn và xiêu vẹo.
Vị thánh sau đó nói, và giọng của ông ta như là tiếng nghiến của những phiến đá và như tiếng lướt của gió qua đỉnh núi khô cằn như tiếng vỗ của sóng biển vào hang đá. Vị thần nói bằng thứ ngôn ngữ của người lùn, và Eragon không biết những gì đang được nói, nó bỡn cợt với sức mạnh trong những lời nói của vị thần này. Ba lần vị thần hỏi Orik, và ba lần Orik đáp lại, giọng nói của ông yếu ớt so với vị thần kia. Có vẻ, rất hài lòng với những câu trả lời của Orik, Vị thần quỷ quái mở rộng vòng tay trông rất sống động của mình và đặt ngón trỏ lên đỉnh đầu Orik.
Không gian giữa các ngón tay của vị thần gợn sóng, và đỉnh trán Orik hiện lên chiếc mũ miệm dát vàng mà Hrothgar đã từng đội. Vị thần vỗ vào bụng mình và phát ra tiếng cười ồm ồm vang vọng rồi biến mất dần trong hư không. Những cánh hoa hồng tiếp tục rơi.
“Ûn qroth Gûntera!” Gannel tuyên bố. Ồn ào và vô lối, tiếng trunpet lại vang lên.
Từ từ đúng dậy, Orik bước lên bục, quay mặt lại với đám đông và sau đó ngồi chìm nghỉm trên chiếc ngai vàng đen bóng.
“Nal, Grimstnzborith Orik!” Những người hô vang, vỗ những chiếc rùi vào tấm khiên và những cây giáo được gõ
mạnh xuống sàn nhà
“Nal, Grimstnzborith Orik! Nal, Grimstnzborith Orik!”
“ Xin được gửi lời chào tới vua Orik” Eragon hét lên. Căng ngực lên, Saphira rống to tỏ lòng tôn kính và phóng ra 1 cụm khói đen sì qua đầu mấy người lùn,thiêu rụi một vệt những cánh hoa hồng.
Mắt Eragon nhòe đi khi luồng khói nóng phả vào người.
Sau đó Gannel quỳ gối trước Orik và nói thêm một số điều bằng tiếng người lùn. Khi kết thúc, Orik đặt tay vào mái tóc của ông ta và rồi Gannel quay trở lại vị trí của mình trong gian phòng. Nado tiến lại gần ngai vàng và cũng nói cùng một điều tương tự, sau ông, dĩ nhiên là Manndrâth và Hadfala cùng tất cả các tộc trưởng khác, duy chỉ thiếu Grimstborith Vermûnd người đã bị trục xuất từ lễ đăng quang.
Họ phải lấy chính mình ra để thề sẽ phục vụ Orik. Eragon nói với Saphira. Họ có tự nguyện nói những lời đó không?
Aye, không hẳn là đa số. Eragon nhìn Thordis tiến về phía ngai vàng trước khi cất tiếng.
Saphira, em có nghĩ là chúng ta đã trông thấy không? Đó có thể thực sư là Guntera hay chỉ là một ảo giác? Khả năng của ông ta dường như rất thật, và anh không biết làm cách nào mà có thể giả mạo được như vậy, nhưng … Đó có thể chỉ là ảo giác, cô ả nói. Những vị thần của người lùn không bao giờ giúp sức cho họ trên chiến trường hay bất kì sự trợ lực nào khác. Em dám chắc điều đó, Hoặc em không tin rằng một vị thần thực sự sẽ chạy đến vì lời triệu tập của Gannel như một con chó săn được huấn luyện . em không tin và có thể có vị thần nào vĩ đại hơn một con rồng chứ? … nhưng rốt cục, có rất nhiều điều khó lí giải ở Alagaësia. Có thể là chúng ta đã thấy cái bóng từ một thời đại rất xa xôi bị quên lãng, một tàn dư lờ mờ còn ám ảnh trên mảnh đất này, mong chờ sức mạnh quay lại với nó. Ai mà biết chắc được?
Sau khi tộc trưởng cuối cùng trao lời thề cho Orik, các thủ lĩnh bộ lạc cũng tiếp tục như vậy, rồi Orik ra hiệu cho Eragon. Thật chậm rãi và cẩn trọng, Eragon bước ra giữa hàng ghế các chiến binh người lùn đang ngồi, tiến tới thềm của ngai vàng và quỳ xuống, như một thành viên bộ tộc Durgrimst Ingeitum, thừa nhận Orik là vị vua của mình và thề sẽ phục vụ cũng như bảo vệ ông. Sau đó hành động như một sứ giả của Nasuada, Eragon chúc mừng Orik thay mặt Nasuada và Varden cũng như hứa hẹn với ông ta về tình hữu hảo của Varden.
Một vài người khác bước tới và nói với Orik khi Eragon đã rút xuống, đó là một chuỗi liên miên dường như không dứt của những người lùn tha thiết bày tỏ lòng trung thành của mình với vị hoàng đế mới.
Quá trình đó cứ tiếp diến đến vài giờ đồng hồ, và sau đó bắt đầu đến phần tặng lễ vật. Mỗi người lùn mang đến cho Orik một tặng phẩm của bộ tộc hay bộ lạc của mình: một chiếc ly có chân đế làm bằng vàng đựng đầy những viên ngọc ruby và kim cương, một bộ áo giáp được bỏ bùa để không thanh kiếm nào có thể xuyên thủng, một tấm thảm dài hai mươi feet được dệt bằng thứ lông mềm mại mà người lùn chọn lựa từ râu của những con dê sống ở Feldunost, một phiến đá mã não khắc tên tất cả tổ tiên của Orik, một con dao găm làm từ răng rồng,và rất nhiều bảo vật khác. Để đáp lại, Orik ban những chiếc nhẫn cho người lùn để biểu hiện sự cảm ơn.
Eragon và Sahira là những người cuối cùng tiến đến trước Orik, Một lần nữa quỳ gối ở bậc thềm của ngai vàng, Eragon rút ra từ áo, một chiếc vòng đeo cổ tay mà nó luôn cất giữu cẩn thận từ cái đêm hôm những người lùn đã tặng nó. Nó nâng lên cao trước mặt Orik và nói “ Đây là lễ vật của tôi thưa vua Orik. Tôi đã không làm ra đồ vật này nhưng tôi đã đặt vào đó một câu thần chú để bảo vệ ngài bất cứ khi ngài còn măc nó trên người, ngài sẽ không phải lo sợ bị hành thích. Nếu một kẻ ám sát dám đập hay chém ngài hoặc dùng bất cứ thứ gì đâm ngài, vũ khí đó sẽ bị trệch mục tiêu, Những thứ này thậm chí sẽ che chở cho ngài khỏi ma thuật của kẻ thù. Và nó sẽ là vật rất có ích mà ngài cần đến khi gặp nguy hiểm.
Cúi đầu xuống , Orik nhận lấy từ Eragon và nói “ Món quà của cậu là thứ đáng giá nhất, Eragon Khắc tinh của tà thần” Mọi cặp mắt đổ dồn về họ, Orik luồn nhẹ chiếc vòng vào tay trái.
Saphira nói tiếp sau, để mở suy nghĩ của mình cho tất cả mọi người đang chứng kiến. Đây là món quà của tôi, Orik.
Cô ả bước ra đằng sau ngai vàng, những móng vuốt cắm mạnh trên sàn nhà tạo thành tiếng lách cách, ngẩng đầu lên và chân trước vươn tới mép dàn giáo chống quanh ngôi sao sapphire. Cây gỗ xà gỗ chắc chắn oẳn lên dưới sức nặng của cô ả, nhưng vẫn còn chống được. Vài phút trôi qua không có chuyện gì xảy ra nhưng Sarphira vẫn đứng y nguyên tại chỗ, nhìn chằm chằm vào khối đá quý.
Những người lùn dõi theo ả không hề chớp mắt, thở sâu khó nhọc.
Em có chắc là mình làm được không? Eragon hỏi, bất tắc dĩ phá tan sự tập trung của cô em rồng.
Em không biết. Em đã dùng phép thuật đến vài lần rồi, em không hề dừng để coi xem mình có đang tạo ra một câu thần chú hoặc là không. Em chỉ dồn toàn bộ ý chí để biến đổi nó, và em đã làm thế. Không sai một bước nào .. em chắc , em sẽ phải đợi cho đến lúc mình cảm nhận được nó để sửa lại Isidar Mithrim
Để anh giúp. Hãy để anh sử dụng một câu thần chú qua em.
Không, không được chút nào. Đây là việc của em, không phải của anh.
Một âm thanh cất lên, nhỏ và trong trẻo, thoảng qua gian sảnh, khúc ca chậm rãi, một giai điệu buồn bã.
Từng người một, những thành viên khác của đội hợp xướng dấu mặt cũng tham gia vào bài hát, Tronjham tràn ngập trong sự đau buồn của âm nhạc. Eragon sẽ đề nghị họ giữ im lặng nhưng Saphira nói. Cũng được thôi, hãy để họ như thế.
Mặc dù không hiểu dàn hợp xướng này hát những gì, Eragon có thể nói từ sắc thái của mình âm thanh đó đang than khóc cho những gì đã từng tồn tại và giờ không còn nữa, như ngôi sao sapphire. Khi bài hát đã đến phần kết, nó tự như thấy những suy nghĩ của chính mình về cuộc sống đã mất ở Palancar Valley, và những giọt nước mắt trào ra nơi khóe mắt.
Thật kinh ngạc, nó cảm nhận thấy được giọng nói quen thuộc trầm ngâm u sầu từ phía Saphira. không đau khổ hay hay ân hận là một phần tính cách thường ngày của cô rồng này.bởi vậy nó ngỡ ngàng và không hề đạt câu hỏi với cô ả. Mặc dù nó nhận thấy sự kích động nào đó sâu sắc từ phía ả, như một sự thức tỉnh của phần nào đó lâu đời, cổ xưa có trong cô nàng.
Bài hát kết thúc ở một quãng dài, nốt nhạc luyến cao, và nó như sự héo tàn của quên lãng. Một dòng năng lượng đang tràn lên phóng ra từ phía Saphira- rất nhiều năng lượng. Eragon há hốc mồm kinh ngạc trước cường độ của nó và cô ả vươn tới, chạm vào ngôi sao sapphire bằng chóp mũi. Các đường nứt trên phiến đá quý khổng lồ bừng lóe sáng rực rỡ như ánh chớp của tia sét, và sau đó dàn giáo cỡ tan và rơi xuống đất, để lộ ra Isidar Mithrim hoàn toàn và vẹn nguyên như cũ.
Nhưng không hẳn là như cũ. Màu sắc của viên ngọc thắm hơn, nhiều sắc đỏ hơn trước , và những vân của cánh hoa hồng là những đường ngân bằng vàng tối màu.
Những người lùn nhìn chằm chằm kinh ngạc trước Isidar Mithrim, rồi họ dậm chân, phấn khởi và vẫy ta ca ngợi Saphira một cách hăng hái, tiếng người la hét rầm rập như một thác nước. Cô ả rồng quay đầu về phái đám đông rồi tiến lại Eragon, dẫm nát những cánh hoa hồng dưới chân. Cảm ơn, cô ả nói với nó.
Vì điều gì?
Vì đã giúp em. Sự xúc động của anh đã chỉ cách cho em, nếu không có chúng, em có thể sẽ phải ở đây vài tuần trước khi thấy đủ cảm hứng cho việc sửa chữa Isidar Mithrim
Giơ hai tay lên, Orik chấn áp đám đông, rồi nói “ Thay mặc cho toàn thể nòi giống của ta, ta xin cảm ơn ngươi về món quà, Saphira. Hôm nay ngươi đã khôi phục lại được niềm tự hào của vương quốc chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ quên kì tích này. Không thể nói rằng hoàng thân này là người vô ơn, từ bây giờ và mãi mãi về sau, tên ngươi sẽ được truyền tụng trong thơ ca của lễ hội mùa đông, nằm cùng tên của những đấng sáng tạo, và khi Isidar Mithrim được trở lại về là viên ngọc của Tronohem, tên tuổi của ngươi dẽ được khắc lên vành đai của ngôi sao hoa hồng Star Rose cùng với Dûrok Ornthrond, người lùn đầu tiên tạc nên khối đá quý.
Orik nói với cả Eragon và Saphira, “ Một lần nữa các ngươi đã chứng tỏ tình hữu nghị của mình tới thần dân của ta. Nó làm ta hài lòng, bằng hành động của mình, các ngươi đã chứng minh cho quyết định của cha nuôi là đúng đắn khi nhận ngươi là con của Dûrgrimst Ingeitum.”
cuối cùng, sau vô số lễ hội tiếp theo sau lễ đăng quang, và sau khi Eragon giúp lấy những mớ lông mắc trong răng của Saphira – một nhiệm vụ trơn tuột, nhày nhụa, và nặng mùi làm cho nó cần phải đi tắm ngay- Cả hai đứa đều được mời bữa yến tiệc danh dự của Orik. Một bữa ăn ồn ào, huyên náo và kéo dài suốt đêm.
Những nghệ sĩ tung hứng và uốn dẻo mua vui cho khách mời, cùng với một đoàn kịch với những diễn viên nhảy một điệu gọi là Az Sartosvrenht rak Balmung, Grimstnzborith rak Kvisagûr, điệu mà Hûndfast đã nói cho Eragon biết có nghĩa là Chiến công của vua Balmung xứ Kvisagûr.
Khi tiệc ăn mừng đã tàn vài và hầu hết những người lùn đã say bí tỉ, Eragon đi vòng về phía Orik, đang ngồi ở góc đầu chiếc bàn bằng đá và nói “ Tâu bệ hạ”
Orik vẫy một tay :” đừng gọi tôi như thế, cứ tâu bẩm bệ hạ suốt ngày, Eragon à, đừng có làm như thế, nếu như không cần thiết. gọi tên của tôi là được rồi, như kiểu cậu vẫn dùng ấy, đấy là 1 lời đề nghị ” Ông ta với lấy chiếc ly rượu của mình nhưng bị trượt, và gần như đánh phăng chiếc cốc ra xa. Ông ta cười.
Eragon cười nói” Orik, tôi phải hỏi, Gûntera, người đã làm lễ trao vương miện cho ông, ông ta thật ra là người thế nào?”
Cằm của Orik cắm cả xuống ngực, và các ngón tay chặn chiếc cốc, nét mặt trở nên nghiêm túc “Gûntera gần như là thứ mà chúng ta chưa bao giờ từng thấy trên trái đất này. Đó có phải là câu hỏi của cậu không Eragon?”
“ Tôi … tôi nghĩ rằng, Có phải ông ta luôn đáp lại khi được thỉnh cầu không? Ông ta đã bao giờ từng cự tuyệt đăng quang cho một trong những người cai trị?”
Một cái nhíu mày rất hẹp của Orik “ Cậu đã từng nghe về những vị vua và nữ hoàng của Heretic trước đây chưa?” Eragon lắc đầu.
“Họ là những thân vương không có được lời ban phúc của Gûntera với tư cách là người kế vị tiếp theo mà vẫn
khư khư ôm lấy ngai vàng,” Môi Orik cong lên “ Không có ngoại lệ, triều đại của họ đều rất ngắn và bất hạnh” Ngực Eragon dường như thắt lại “vậy, thậm chí cuộc họp các bộ tộc chọn được người lãnh đạo, nếu Gûntera không trao vương miện cho ông thì giờ ông sẽ không phải là vua?”
“Là như thế hoặc tôi sẽ là một ông vua của những cuộc xung đột nội bộ” Orik rụt vai “ Tôi không lo lắng về chuyện đó. Cùng với Varden chống sự xâm lược của Hoàng đế, chỉ có một tên điên mới mạo hiểm phá hủy bình yên của đất nước mình chỉ để đơn thuần là đưa mình lên ngai vàng, và Gûntera có thể là rất nhiều thứ,nhưng ông ta không phải người điên”
“Nhưng ông không biết chắc” Eragon nói.
Orik lắc đầu “ Không cho tới khi ông ấy trao quyền lãnh đạo đặt lên đầu tôi”
Chương 41: Những Lời Vàng Son
"Xin lỗi," Eragon nói vừa lúc đụng tới bồn nước.
Nasuada cau mày, mặt nhăn lại dài ra như một gợn nước đánh trên mặt hồ. "Vì chuyện gì chứ?" cô hỏi. "Tôi tưởng phải nên chúc mừng anh mới đúng. Anh đã làm được nhiều hơn chuyện mà tôi nhờ anh đi làm."
"Không, tôi…" Eragon khựng lại vì nhận thấy cô không thấy được những khuấy động trong nước. Thần chú khiến tấm kiếng của Nasuada có thể nhìn rõ ràng nó và Saphira nhưng không rõ những vật khác. "Tôi dùng tay đụng phải bồn nước rồi, có vậy thôi."
"Ồ. Nếu vậy, để tôi chính thức chúc mừng anh, Eragon. Bằng cách bảo đảm ông Orik trở thành vua…" "Cho dù là bản thân tôi bị tập kích?"
Nasuada mỉm cười. "Đúng vậy, cho dù khiến bản thân anh bị tập kích, anh vẫn phải giữ quan hệ với người lùn, và điều này chính là yếu tố quyết định thành bại. Câu hỏi hiện giờ là, bao lâu thì số quân còn lại của người lùn có thể tham chiến với chúng ta?"
"Ông Orik đã ra lệnh cho quân sĩ chuẩn bị xuất binh," Eragon nói. "Họ có lẽ cần vài ngày để tập họp toàn quân, nhưng một khi xong, họ sẽ hành quân ngay lập tức."
"Vậy cũng tốt. Chúng ta cần sự giúp đỡ của họ càng sớm càng tốt. Nhắc tới mới nhớ, khi nào thì bọn anh quay về với chúng tôi? Ba ngày? Bốn ngày?"
Saphira vẫy vẫy cánh, hơi thở nóng thổi ngay sau gáy của Eragon. Eragon liếc nhìn cô nàng rồi cẩn thận nói: "Tùy thuộc. Cô còn nhớ cuộc bàn thảo trước khi tôi ra đi không?"
Nasuada mím môi. "Dĩ nhiên nhớ, Eragon, tôi…" Cô nhìn sang hình ảnh bên cạnh lắng nghe lời của một người đàn ông khác, giọng của ông ta thầm thì nhỏ khiến Eragon và Saphira không nghe được. Quay trở lại bọn họ, Nasuada nói: "Đoàn quân của chỉ huy trưởng Edric đã trở về. Bọn họ bị tử thương nghiêm trọng, nhưng lính gác cho hay Roran vẫn còn sống."
"Anh ta có bị thương hay không?" Eragon hỏi.
"Tôi sẽ cho anh biết khi hay tin mới. Hiện giờ thì cũng không nên lo lắng quá. Roran có vận may của…" Lại một lần nữa, một tiếng nói khác khiến Nasuada lo ra, rồi cô bước ra khỏi tầm nhìn.
Eragon có chút bồn chồn trong lúc chờ.
"Cho tôi xin lỗi," Nasuada nói, vẻ mặt của nàng lại hiện lên trên bồn nước. "Chúng ta đã tới gần Feinster, hiện giờ đang phải chống chọi với đám lính cướp bóc do phu nhân Lorana gởi đến từ thành thị để làm khó dễ chúng tôi… Eragon, Saphira, chúng tôi cần các vị cho cuộc chiến này. Nếu người dân Feinster chỉ thấy có chúng tôi, người lùn, giống Urgals tụ binh ngoài thành, bọn họ vẫn còn có niềm tin sẽ giữ vững được thành và sẽ chiến đấu dũng mãnh hơn. Đương nhiên là họ sẽ không giữ được điều mà đến giờ họ vẫn chưa nhận thức được. Nếu họ thấy một con rồng và một Kỵ Sĩ cầm đầu ba quân tấn công, đương nhiên là họ sẽ mất hết ý chí."
"Nhưng…"
Nasuada giơ tay lên ngắt ngang nó. "Còn có lý do khác để cho các vị quay về nữa. Vì các vết thương từ sau vụ thử Trường Kiếm, tôi không thể lên ngựa ra trận với người Varden như trước. Tôi cần các vị ngồi vào chỗ của tôi, Eragon, để có thể đem mệnh lệnh của tôi ban ra và cũng đồng thời nâng cao sĩ khí. Còn nữa, tin đồn các vị vắng mặt đã lan tràn khắp trại, cho dù chúng tôi có gắng bưng bít cách nào đi nữa. Nếu Murtagh và Thorn trực tiếp tấn công vì việc này, hoặc nếu Galbatorix gởi quân chi viện cho Feinster… chỉ sợ, ngay cả có các thần tiên bên cạnh, tôi nghi ngờ khả năng chống giữ bọn họ. Tôi xin lỗi, Eragon, nhưng tôi không thể cho phép anh quay lại Ellesméra bây giờ. Hiện giờ tình thế nguy hiểm quá."
Nhấn tay lên bàn đá lạnh buốt đang giữ cái bồn nước, Eragon nói, "Nasuada, làm ơn đi. Nếu không bây giờ thì khi nào?"
"Sớm lắm. Anh phải kiên nhẫn một chút."
"Sớm lắm." Eragon hít một hơi dài, xiết chặc nắm tay trên bàn. "Sớm cỡ nào?"
Nasuada cau mày nhìn nó. "Anh biết là tôi không biết mà. Trước tiên chúng ta phải lấy được Feinster, sau đó
khoá chặc vùng nông thôn, rồi…"
"Rồi sau đó cô sẽ tấn công Belatona hay Dras-Leona rồi tới Urû’baen." Eragon nói. Nasuada muốn trả lời nhưng nó không cho cô ta cơ hội. "Càng tới gần Galbatorix thì cơ hội bị Murtagh và Thorn tấn công cao hơn hoặc ngay cả vua cũng sẽ tham chiến, đến lúc đó thì cô lại càng khó lòng để chúng tôi đi… Nasuada, Saphira và tôi không có đủ pháp thuật, trí tuệ và sức lực để giết Galbatorix. Cô biết điều này mà! Galbatorix có thể chấm dứt cuộc chiến bất cứ lúc nào nếu hắn chịu rời lâu đài của hắn và tấn công trực tiếp người Varden. Chúng tôi cần phải nói chuyện với các vị sư phụ lại. Họ có thể cho chúng tôi biết pháp lực của Galbatorix là từ đâu mà ra, và họ có thể chỉ thêm một hai chiêu cho chúng tôi để có thể đánh bại hắn."
Nasuada nhìn xuống đất, ngắm ngía hai bàn tay. "Thorn và Murtagh có thể tiêu diệt chúng tôi lúc hai người bỏ đi."
"Nếu chúng tôi không bỏ đi, Galbatorix sẽ tiêu diệt chúng ta khi tới Urû’bae… Cô có thể chờ vài ngày trước khi tấn công Feinster không?"
"Được, nhưng mỗi ngày chúng tôi còn cắm trại ngoài thành sẽ tốn nhiều nhân sĩ lắm." Nasuada dùng gót bàn tay xoa xoa hai bên thái dương. "Điều anh muốn sẽ rất hao tốn cho một giải pháp không chắc chắn đó Eragon." "Giải pháp này có thể không chắc chắn," nó nói, "nhưng sự tận vong của chúng ta là không thể tránh khỏi nếu không thử."
"Thật không? Tôi không chắc lắm. Nhưng mà…" Một khoảng thời gian dài khó chịu trôi qua mà Nasuada vẫn im lặng nhìn quá khỏi hình ảnh trước mặt. Cuối cùng cô cũng gật đầu một cái, như quyết định một việc gì rồi nói: "Tôi có thể trì hoãn việc tấn công Feinster khoảng hai hay ba ngày. Có vài thị trấn khác trong vùng mà chúng tôi có thể nắm giữ trước. Một khi tới được thành thị, thì có thể qua thêm hai ba ngày nữa chờ người Varden chế tạo các máy công thành và các công cụ trấn thủ. Chắc không có ai lấy làm lạ đâu. Sau đó thì tôi bắt buộc phải đánh Feinster, không lý do gì khác ngoại trừ chúng tôi cần kho lương thảo của bọn họ. Một đoàn quân vẫn còn trong lãnh thổ của kẻ thù là một đoàn quân đói. Cao nhất là tôi có thể cho anh sáu ngày, và có lẽ chỉ được bốn ngày thôi."
Cô ta vừa nói xong Eragon đã nhẩm tính lẹ trong đầu, "Bốn ngày thì không đủ," nó nói, "sáu cũng có lẽ không xong. Saphira cần ba ngày không ngủ mà không phải chở tôi để bay tới Farthen Dûr. Nếu bản đồ tôi có là chính xác thì khoảng cách tới Ellesméra cũng cỡ đó hoặc hơn, tương tự như từ Ellesméra về lại Feinster. Nếu phải chở tôi, Saphira sẽ không có khả năng bay xa lẹ như vậy được."
"Không, em không làm được đâu," Sophira nói với nó.
Eragon tiếp tục: "Dưới tình huống tốt nhất, chúng tôi vẫn cần một tuần để gặp lại mọi ngưòi ở Feinster và đó là chỉ tính không ngừng lại phút nào tại Ellesméra."
Một vẻ mệt mỏi chán chường phủ lên mặt Nasuada. "Anh có cần phải bay tới tận Ellesméra không? Một khi qua khỏi cấm chế quanh Du Weldenvarden anh có đủ điều kiện để bói thủy tinh cầu với các vị sư phụ hay không? Bớt được chút thời gian nào rất là quan trọng."
"Tôi không biết nữa. Chúng tôi sẽ cố gắng."
Nasuada nhắm mắt một lúc lâu. Bằng giọng khàn khàn cô nói: "Chúng tôi có thể trì hoãn hành quân tới Feinster khoảng bốn ngày… Có đi Ellesméra hay không tôi sẽ để cho anh quyết định. Nếu phải đi thì nên ở đó cho đến khi xong chuyện. Anh nói đúng, trừ khi có cách đánh bại Galbatorix, còn không thì chúng ta không có hy vọng chiến thắng. Cho dù vậy, xin luôn nhớ về sự mạo hiểm kinh khủng mà chúng tôi đang lãnh, những mạng người Varden mà tôi phải hy sinh để giành thêm thời gian cho anh, và bao nhiêu nhân mạng Varden nữa sẽ chết nếu chúng tôi tấn công Feinster mà không có anh."
Eragon ủ rủ gật đầu. "Tôi sẽ không quên đâu."
"Tôi hy vọng là vậy. Thôi đi đi! Đừng chậm trễ nữa. Bay! Bay! Hãy bay lẹ hơn chim ưng lao đầu tìm mồi Saphira và đừng để bất cứ chuyện gì làm các vị chậm lại." Nasuada lấy đầu ngón tay chạm vào môi rồi lại dùng ngón tay đó điểm lên mặt vô hình của tấm kiếng, nơi nó biết là đang giữ hình ảnh của nó và Saphira. "Chúc may mắn đến với cuộc hành trình của hai vị, Eragon, Saphira. Nếu chúng ta còn gặp mặt, lần sau sợ rằng là ở trên chiến trường rồi đó."
Rồi cô rời khỏi tầm nhìn của họ, sau đó Eragon giải bò thần chú và mặt bồn nưóc lại trở nên trong veo.
Chương 42: Cây giá hành hình.
Roran ngồi thẳnng lưng và nhòm chòng chọc phía sau Nasuada, đôi mắt nhìn xa xăm vào một nếp gấp của chiếc lều đỏ tía.
Anh có cảm giác là Nasuada đang phân tích mình, nhưng anh không dám nhìn thẳng vào ánh mắt chằm chằm đó. Suốt một hồi lâu, sự im lặng nặng nề bao phủ, Anh suy tính một loạt những khả năng kinh khủng có thể xảy ra, và thái dương giật mạnh vì một cơn nóng dữ dội. Anh ước giá mình bước ra khỏi cái lều ngột ngạt này và hít thở
không khí mát lạnh bên ngoài. Cuối cùng Nasuada nói
“Tôi sẽ làm gì với anh đây, Roran ?” Anh gồng thẳng người hơn
“Bất cứ điều gì cô muốn, thưa công nương.”
“Câu trả lời tuyệt vời, Cây búa dũng mãnh, nhưng cách đó không giải quyết được tình thế khó xử của tôi” Nasuada nhấp một ngụm rượu vang trong cốc
“Anh đã hai làn coi thường mệnh lệnh chỉ thị của đội trưởng Edric, nếu lúc đó anh không làm vậy thì cả ông ta lẫn anh hay cả nhóm người đã tử trận các anh cũng sẽ không thể còn nói năng được gì về chuyện này. Dẫu vậy, sự thành công của anh không thể phủ nhận sự thật về sự bất phục tùng của anh. Theo như anh giải thích, anh đã cố tình làm trái mệnh ệnh, và tôi phải trừng phạt anh nếu muốn duy trì kỉ luật cho Varden.”
“Vâng thưa công nương” Trán cô ta tối sầm lại
“Tức muốn chết! Cây búa dũng mãnh, nếu anh là bất cứ ai khác ngoại trừ anh họ của Eragon, và nếu màn khởi đầu của anh ít có ảnh hưởng hơn, tôi sẽ trói anh lại và treo lên vì hành vi sai quấy này”
Roran nuốt nước miếng khi tưởng tượng ra cảnh một chiếc thòng lọng quấn quanh cổ. Bằng ngón giữa bàn tay phải, Nasauda gõ nhẹ vào tay vịn chiếc ghế dựa cao
Với nhịp ngày càng nhanh trước khi ngừng lại, cô nói “ Anh có muốn tiếp tục chiến đấu cùng Varden không Roran ?”
“Có, thưa công nương” anh đáp lại không hề ngập ngừng.
“ Anh sẽ làm gì để tuân thủ mệnh lệnh nhằm tiếp tục đứng trong quân đội của tôi?” “ Bất cứ điều gì tôi phải làm thưa công nương”
Sự căng thẳng trên khuôn mặt biến mất, Nasuada gập đầu, sự hài lòng lộ rõ”Tôi hy vọng rằng anh sẽ nói vậy. Theo tiền lệ và các quy định trước đây, tôi có ba sự lựa chọn. Một là, tôi sẽ trói anh lại, nhưng tôi sẽ không làm vậy,… Vì vô số lí do. Hai là, tôi sẽ phạt anh 30 roi rồi cắt chức anh trong hàng ngũ của Varden. Hoặc điều thứ ba, tôi sẽ phạt anh 50 roi và giữ anh lại dưới sự chỉ huy mình”
50 roi không nhiều hơn 30 là mấy, Roran nghĩ, cố nén sự can đảm của mình xuống. Anh liếm môi “ Tôi có bị đánh ở nơi tất mọi người đều thấy không?”
Lông màu Nasuada nhíu lại một phần vài inch. “Sự kiêu hãnh của anh không có phần tại đây, Cây búa dũng mãnh ạ. Sự trừng phạt phải rất khắt khe để những người kháckhông kích động theo bước của anh, và nó phải được công khai để toàn thể Varden có thể có được bài học từ đó.Nếu anh chỉ thông minh bằng một nửa những gì đã thể hiện, anh sẽ biết khi làm trái lệnh Edric rằng quyết định của mình sẽ có hậu quả và rằng những hậu quả đó sẽ không mấy dễ chịu gì. Sự lựa chọn của anh bây giờ rất đơn giản: Anh sẽ ở lại cùng Varden hay từ bỏ bạn bè, gia đình và đi con đường của riêng anh?”
Roran ngẩng cao cằm, tức giận vì cô ta đã nghi ngờ về lời hứa của anh
“Tôi sẽ không đi đâu thưa quý công nương Nasuada. Cô phạt cho tôi bao nhiêu roi không thành vấn đề, chúng không thể đau đớn bằng việc mất người cha và gia đình của tôi.”
“Không” Nasuada nhẹ nhàng nói.
“ Chúng không bằng … một phù thủy của Du Vrangr Gata sẽ theo dói trận đòn này và chăm sóc cho anh sau đó, để đảm bảo tuyệt đối là anh không bị thương tật vĩnh viễn. Tuy nhiên, họ sẽ không hoàn toàn chữa khỏi thương tích của anh, hoặc không anh có thể kiếm một phù thủy để chữa lưng cho mình”
“Tôi hiểu”
“Trận đòn của anh sẽ sớm được tiến hành khi Jörmundur có thể sắp xếp xong quân lính.Cho đến sau đó, anh sẽ ở nguyên dưới sự canh gác trong một căn lều gần giá chụi phạt.
Roran bớt căng thẳng hơn rằng anh không phải đợi quá lâu, anh không muốn phải gồng mình nhiều ngày dưới bóng tội lỗi phủ xuống mình.
“Công nương của tôi” anh nói, nhưng cô ta đã ra hiệu cho anh rút ra bằng một cái vẫy ngón tay.
Quay gót giày, Roran bước đều ra khỏi căn lều. Hai người lính canh dẫn anh tới chỗ của mình khi anh xuất hiện. Không thèm nhìn hoặc nói bất cứ điều gì với anh, họ dẫn anh qua khu ldoanh trại cho đến khi tới một căn lều nhỏ trống không, không xa lắm với chiếc cột xử phạt tối sẫm đang đứng trên một gò đất mỏng xa xa rìa của khu doanh trại.
Chiếc cột cao sáu feet rưỡi và có một thang ngang như một cây thập giá ở gần phía trên để trói tay phạm nhân. Hàng dài những vết xù sì do vết cào từ móng của các nạnh nhân phủ kín cây thập giá.
Roran ép mình nhìn đi hướng khác rồi cúi xuống chui nhanh vào lều.Thứ đồ dùng duy nhất bên trong là một chiếc ghế đẩu méo mó. Anh ngồi xuống và tập trung vào hơi thở của mình, xác định rõ lại mọi chuyện để tĩnh tâm.
Một vài phút trôi qua, Roran bắt đầu nghe thấy âm thanh nặng nề của những đôi giày và giáp trận khi quân Varden tập hợp quang cây cột hành quyết. Roran hình dung ra hàng nghìn người, đàn ông và đàn bà nhìm chòng chọc vào anh, bao gồm cả những dân làng Carvahall. Mạch anh đập nhanh và mồ hôi chảy như suối trên trán. Sau khoảng nửa giờ, cô phù thủy Trianna bước vào lều và bắt anh thay quần khiến Roran rất bối rối, mặc dù người phụ nữ này có vẻ như không quan tâm đến việc đó. Trianna kiểm tra anh từ đầu tới chân và thậm chí còn niệm thêm cả thần chú để khám chữa cho cái vai trái của anh, chỗ anh đã bị một tên lính bắn trúng.
Sau khi tự nhiên sửa chữa khắp cơ thể anh, cô ta đưa cho anh một chiếc áo sơ mi thụng của lều giam.
Roran vừa kéo xong chiếc áo qua khỏi đầu khi Katrina bước vào lều. Vừa trông thấy cô, sự vui sướng lẫn cả lo sợ tràn ngập Roran.
Katriana nhìn anh và Trianna rồi khẽ nhún người chào với cô phù thủy. “ Tôi có thể nói chuyện riêng với chồng tôi một lúc không thưa bà?”
“DĨ nhiên là được, tôi sẽ chờ ở ngoài “
Ngay lập tức Trianna biến đi, Katrina vội vàng lao về phía Roran, vòng tay ôm ghì lấy anh. Anh cũng ôm chặt lấy cô mãnh liệt bù cho những ngày anh đã không được gặp cô kể từ khi trở về Varden.
“Oh, em mới nhớ anh làm sao” Katrina thầm thì vào tai phải anh “ Và anh cũng vậy” anh nói nhỏ.
Họ đã phải cố rời xa nhau quá lâu vì thế họ có thể nhìn mãi vào mắt nhau, và rồi Katrina giận giữ.
“ Đây là một sai lầm. Em đã đến chỗ Nasuada, và em đã cầu xin cô ấy tha cho anh hay ít nhất là bớt đi số roi anh phải chịu, nhưng cô ấy đã từ chối chấp nhận lời khẩn cầu của em”
Âu yếm xoa bàn tay vào lưng Katrina, Roran cất tiếng. “Anh ước rằng em đã không làm như vậy” “Sao không?”
“ Bởi vì anh đã nói rằng anh sẽ ở lại cùng Varden, và anh sẽ không quay lưng lại với lời hứa của mình” “Nhưng như thế đâu có đúng ” katrina nói, ôm chặt lấy vai anh.
“Carn đã nói với em những việc anh đã làm Roran ạ : anh đã tự hạ gục được gần 200 tên lính, và nếu không có hàng động anh hùng của anh, sẽ không có ai kể cả anh còn sống sót. Nasuada phải ca ngợi tán dương và tặng tặng vật cho anh chứ không phải phạt đòn anh như một tên phạm tội tầm thường!”
“ Không phải vấn đề là đúng hay sai” anh nói với cô “ Đó là cần thiết. Nếu anh ở địa vị của Nasuada anh cũng sẽ ra lệnh như vậy”
Katrina rùng mình “ 50 roi, dù sao … nó có phải nhiều đến như thế không? Một người có thể sống đi chết lại rất nhiều lần với chừng ấy roi vọt. ”
“ Chỉ khi trái tim họ quá hèn yếu thôi. Đừng lo lắng gì, sẽ cần hiều hơn thế mới hạ được anh.”
Một nụ cười ngượng gạo nở trên môi Katrina, cô thôi nức nở và dựa khuôn mặt mình vào cổ anh. Anh nâng nui cô trong vòng tay vuốt ve mái tóc cô và làm cô yên lòng bằng cách tốt nhất mà anh có thể, mặc dù anh cảm thấy mình làm việc đó không giỏi bằng cô. Sau đó vài phút, Roran nghe thấy tiếng tù và bắt đầu thổi phía ngoài lếu, và anh biết rằngthời khắc họ phải rời nhau đang đến rất gần.Tách mình khỏi vòng tay Katrina, anh nói “Có vài việc anh muốn em làm giúp anh”
“ Việc gì vậy?” Cô hỏi, chớp nhẹ đôi mắt.
“Hãy đi về lều của chúng ta và đừng rời khỏi đó cho đến hết cuộc hành hình này” Katrina thấy shock vì lời đề nghị của anh.
“ Không! Em sẽ không bỏ anh lại …. Không phải bây giờ”
“ Làm ơn đi mà” anh nói “ Em không nên chứng kiến điều này” “ Và anh không nên phải chịu đựng điều này” Cô vặn lại.
“ Quên điều đó đi. Anh biết em muốn bên cạnh anh, nhưng anh có thể chịu đựng được nó đỡ hơn nếu anh biết rằng em không ở đó để chứng kiến … Anh Anh đã tự chuốc lấy điều này, Katrina, và anh không muốn em phải đau khổ bởi vì nó “
Nét mặc cô trở nên miễn cưỡng.
“ Biết về vận mệnh anh đang phải gánh chịu sẽ làm tổn thương em bất kể em có đứng ở đâu đi nữa. Tuy nhiên …. Em sẽ làm như anh bảo, nhưng chỉ vì bởi điều đó sẽ giúp anh vượt qua thử thách này … Anh biết rằng em ước mình chịu thay anh những phát roi quất lên cơ thể anh nếu em có thể .“
“ Và em biết “ anh nói, hôn lên hai má cô “ rằng anh không muốn em đến gần đó”
Nước mắt lại trào ra ướt nhòe đôi mắt, cô kéo anh lại gần hơn, ôm anh thật chặt, anh phải rất khó mới thở nổi. Họ vẫn quấn lấy nhau khi tiếng người xôn xao trên lối đi tiến về phía căn lều đã yên ắng và Jörmundur đã đi vào,cùng với hai người của nhóm Ó đêm. Katriana rời khỏi Roran,nhún người chào Jörmundur sau đó cúi người bước khỏi căn lều trong im lặng.
Jörmundur chỉ tay về phái Roran “ Đã đến giờ”
Gật đầu, Roran đứng dậy đi theo Jörmundur và những người lính gác bày tỏ lòng kính trọng với anh xung quanh cây cột hình phạt. Hàng nối hàng, những người Varden quây quanh cây cột , mọi người, đàn ông, đàn bà, cả người lùn và Urgal đều đang đứng thằng người và nghiêng vai. Sau kho liếc qua một lượt, Roran tập trung nhìn chằm chằm vào đường chân trời, đó là cách tốt nhất để anh có thể phớt lờ mọi khán giả chung quanh .
Hai người lính nhấc tay Roran lên cao quá đầu và buộc chặt cổ tay vào thanh ngang của cây cột. Trong khi đó, Jörmundur bước quanh đằng trước chiếc cột và cầm một cuộn vải da. “Đây, cắn vào đây” ông nói bằng một giọng nhẹ nhàng “ nó sẽ giữ cho anh khỏi tự làm mình bị thương”
Một cách biết ơn, Roran mở miệng và để cho Jörmundur nhét cuộn da giữa hai hàm răng. Mảnh da có vị đăng đắng, như quả dầu xanh.
Sau đó một tiếng tù và và một hồi trống vang lên rồi Jörmundur đọc to những lời buộc tội chống lại Roran và những người lính cắt rách chiếc áo sơ mi thụng của Roran.
Anh rùng mình khi khi luồng không khí lạnh lướt qua nửa thân trên để trần. Ngay trước khi bị đánh, Roran còn nghe thấy tiếng roi rít lên trong không trung.
Cảm giác giống như một cây gậy nung đỏ quất vào da thịt. Roran uốn cong lưng và cắn mạnh vào miếng vải chặn trong miệng. Một tiếng rên rỉ vô tình buột ra,dù vậy miếng vải đã chặn âm thanh đó lại nên anh nghĩ rằng sẽ không một ai nghe thấy được cả.
“Một” Tiếng người thi hành án vang lên cùng với tiếng roi.
Roi thứ hai quất xuống làm cho Roran lại thốt lên một tiếng rên, nhưng sau đó anh lập tức im lặng, quyết tâm không được tỏ ra yếu đuối trước toàn thể Varden.
Roi đánh cũng đau đớn như bất cứ vết thương nào Roran đã phải trảu qua vài tháng trước đây, nhưng sau mười hai hoặc nhiều hơn, anh phải cố gắng chống lại sự đau đơn và nhượng bộ,anh dần rơi vào chạng thái hôn mê lờ mờ.Thị lực yếu dần cho tới khi thứ duy nhất anh trông thấy là chiếc cột gỗ đã mòn phía trước mặt, những lúc đó, khung cảnh trước mặt anh như chập chờn và trống không khi bị cuốn vào cơn lũ dữ dội của trạng thái vô thức. Sau một một hồi tưởng như vô tận , anh nghe thấy như không rõ ràng và rấy xa xôi một giọng nói cất vang, “ ba mươi” và sự tuyệt vọng vây chặt khi anh kinh ngạc, làm sao mình có thể chịu đựng được hai mươi roi còn lại? Rồi anh nghĩ tới Katrina và đứa trẻ chưa sinh của họ, điều đó tiếp cho anh thêm sức mạnh.
--
Roran tỉnh dậy thấy mình đang nằm úp ngực trên võng trong căn lều của anh và Katrina. Katrina đang quỳ gối cạnh anh, vuốt ve mái tóc anh và thì thầm vào tai anh, trong khi môt ai đó đang bôi một thứ chất lành lạnh, nhày nhày lên những hằn roi trên lưng anh. Anh cau mày và gồng mình khi người lạ mặt đó ấn ngón tay vào một điểm đặc biệt nhạy cảm.
“ Đó không phải là cách tôi đối xử với bệnh nhân của mình” Anh nghe thấy Trianna nói bằng một giọng kiêu ngạo”
“Nếu bà hành hạ tất cả bệnh nhân của mình như đang làm với Roran” một phụ nữ khác đáp lại. “ Tôi ngạc nhiên là có ai còn sống sót vì sự chữa trị của bà”
Sau một lát, Roran nhận ra giọng nói của người lạ thứ hai, bà lang mắt sáng Angela.
“Tôi xin bà tha lỗi” Trianna nói “ Tôi sẽ không ngồi đâu và chịu lăng mạ bởi một mụ hát rong lẩm cẩm,người phải cố gắng lắm mới miện được câu thần chú cơ bản nhất”
“Ngồi xuống, rồi, nếu việc đó làm cô hài lòng , nhưng nếu cô ngồi hay đứng , tôi cũng sẽ tiếp tục làm phật ý cô cho đến khi cô chấp nhận rằng huyệt trên lưng của cậu ta nằm ở đây chứ không phải ở đấy” Roran cảm thấy một ngón tay chạm vào anh ở hai điểm khác biệt, cách nhau nửa inch.
“Oh” Trianna nói, và rời khỏi lều.
Katrina cười với Roran, và lần đầu tiên, anh nhận thấy nước mắt chảy dài trên mặt cô. “Roran, anh có hiểu em nói gì không?” Cô hỏi “Anh tỉnh dậy chưa?”
“ Anh … anh nghĩ vậy” anh đáp, giọng bực bội.Quai hàm anh nhức nhối vì cắn vào miếng bịt miệng quá lâu. Anh ho đằng hắng, rồi nhăn mặt khi tất cả vết hằn của 50 roi cùng hợp lại làm anh đau nhức nhối.
“Tôi đi đây” Angela nói. “Tất cả đã xong”
“Thật ngạc nhiên. Tôi đã không mong chờ bà và Trianna lại làm nhiều đến vậy “ Katrina nói. “Theo lệnh của Nasuada”
“ Nasuada? … Tại sao….”
“ Cô sẽ phải tự đi hỏi cô ta, nói với cậu ta đừng dùng đến lưng nếu muốn nó lành. Và bắt cậu ta lật người lại nếu không muốn nước mắt làm nhiễm trùng vết thương.”
“Cám ơn bà “ Roran thì thào.
Angela cười lớn phía sau anh. “Đừng nghĩ ngợi về nó, Roran. Hoặc tốt hơn, nghĩ vài điều về nó, nhưng đừng nghĩ
nó quá quan trọng. Ngoài ra, nó làm ta thấy thú vị khi chăm sóc vết thương cho cả lưng ngươi và lẫn lưng Eragon.Phải, sau này ta dự trữ sẵn, Đề phòng để khỏi phải đi tìm”
Khi bà lang đã đi, Roran nhắm mắt lại. Những ngón tay mềm mại của Katrins vuốt nhẹ trán anh. “ Anh đã rất can đảm” Cô nói.
“Anh ư?”
“Aye, Jörmundur và mọi người khác em đã nói chuyện đều kể rằng anh không hề khoác lóc hay van xin dừng đánh”
“Tốt” Anh muốn biết vết thương của mình nghiêm trọng đến mức nào nhưng anh đã miễn cưỡng buộc cô miêu tả lại những chấn thương trên lưng mình.
Katrina dường như ý thức được yêu cầu của anh, tuy nhiên, thay vào đó cô nói “ Angela tin rằng với một chút may mắn anh sẽ không có những vết sẹo quá xấu xí. Bất kì lúc nào,anh sẽ chóng lành vết thương, Eragon hoặc ai phù thủy nào đó có thể xóa những vết sẹo khỏi lưng anh và nó sẽ như thể anh chưa từng bị đòn lần nào.” “Mmh.”
“Anh có muốn uống chút gì không?” Cô hỏi. “Em có một bình trà thảo mộc đang pha” “Có,cho anh xin”
Khi Katrina đứng dậy, Roran nghe thấy một người khác bước vào lều.Anh mở một mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy Nasuada đang đứng cạnh cây cột trước lều.
“ Công nương” Katrina nói,giọng cô sắc lạnh. Bất chấp những vết thương trên lưng, Roran trở mình một phần với sự giúp đỡ của Katrina , cố ngồi dậy. Dựa vào Katrina, anh bắt đầu đứng lên, nhưng Nasuada đã giơ tay “Làm ơn đứng. Tôi không muốn là nguyên nhân khiến anh đau đớn hơn nữa so với gì tôi đã làm”
“Tại sao cô tới đây, công nương Nasuada?” Katrina hỏi.
“Roran cần nghỉ ngơi và bình phục, không phải giành thời gian tiếp chuyện nếu anh ấy không bị bắt buộc” Roran rời một tay khỏi vai trái Katrina “ Anh có thể tiếp chuyện nếu anh phải làm vậy” Anh nói.
Tiến gần hơn vào trong lều, Nasuada nắm lấy gấu váy xanh của cô và ngồi xuống chiếc rương nhỏ của Katrina được mang đi theo cô từ Carvahall. Sau khi xếp lại nếp váy, cô ta nói ”Tôi có một nhiệm vụ khác cho anh, Roran: một cuộc đột kích bất ngờ nho nhỏ mà anh sẵn sàng tham gia.”
“Khi nào thì tôi sẽ đi?” Anh hỏi, bối rối vì cô ta đã phải quấy rầy anh chứ không phải ai khác như một phân công đơn giản.
“Ngày mai”
Mắt Katrina trợn lên. “Cô có điên không?” cô la lên.
“Katrina … “ Roran lầm bầm,cố gắng trấn tĩnh cô, như cô làm lơ anh và nói ” Chuyến đi gần nhất cô bắt anh ấy đi suýt đã giết chết anh ấy, và cô lại vừa quất chồng vào từng inch một lên cuộc sống của anh ấy!Cô không thể ra lệnh cho anh ấy trở lại chiến đấu quá nhanh. Anh ấy sẽ không thế tiếp tục chống lại quân đội của Galbatorix thêm một phút nào nữa!”
“Tôi có thể và tôi phải làm vậy!” Nasuada cất giọng đầy quyền lực, Katrina giữ lời và chờ đợi để nghe Nasuada giải thích, mặc dù Roran có thể nói rằng sự tức giận của cô đã giảm bớt.Nhìn chằm chằm vào anh một cách dữ dội, Nasuada nói.
“Roran, nếu anh có hoặc không biết rằng,liên minh của chúng ta với Urgal đang trên bờ đổ vỡ. Một trong số những người của ta đã giết ba Urgal trong khi anh đang phục vụ dưới trướng đội trưởng Edric, là ai, anh có thể không cần quan tâm, đó là một đội trưởng không hơn. Dù vậy, tôi đã có một người giết Urgal xấu số bị treo cổ, nhưng từ việc đó, mối quan hệ với những con đực của Garzhvog trở nên càng ngày càng bất hòa.“
Nasuada mím môi rồi nói”Tôi cần thuyết phục Varden chấp nhận sự hiện diện của Urgal mà không có thêm đổ máu, và cách tốt nhất tôi có thể làm đó là chứng minh cho Varden thấy rằng hai loài có thể cùng nhau làm việc trong hòa bình để tiếp tục theo đuổi việc chia sẻ cùng một thắng lợi.Theo phương châm đó đến cùng, nhóm của anh sẽ hành quân với quân số bao gồm cả con người và Urgal với số lượng như nhau.”
“Nhưng như thế vẫn không …” Katrina bắt đầu nói.
“Và tôi đang đặt tất cả họ dưới sự chỉ huy của anh, cây búa dũng mãnh.” “Tôi ư?” giọng nói the thé, đầy kinh ngạc “Tại sao?”
Với nụ cười tỉnh queo, Nasuada nói” Bởi vì ai sẽ làm bất cứ điều gì phải làm để ra lệnh bảo vệ những người bạn và gia đình. Về điều đó, anh giống tôi, mặc dù gia đình tôi lớn hơn của anh, đó là tôi nói đến toàn thể Varden, những người ruột thịt đối với tôi. Ngoài ra, bởi vì anh là anh họ Eragon, tôi không thể để anh lại trái lệnh để dưỡng bệnh, tôi không thể chọn giữa việc xử phạt anh hay trục xuất anh khỏi Varden. Tôi cũng không muốn làm vậy.”
“Giả thuyết là, tôi đang trao cho anh quyền chỉ huy tự quyết bởi thế không ai có thể trái lệnh anh trừ tôi.Nếu anh
phớt lờ các mệnh lệnh, tốt nhất đó là vì mục đích tiêu diệt Galbatorix, thì không cần một lí do nào khác để cứu anh tránh xa những trận roi như anh đã nhận được hôm nay.
Và tôi trao anh quyền chỉ huy này, bởi anh đã chứng minh rằng anh có thể thuyết phục những người khác đi theo mình, mặc dù thực tế có rơi vào hoàn cảnh gian nan nhất.Anh có khả năng tốt để để duy trì sự kiểm soát đối với cả nhóm người và Urgal. Tôi sẽ cử Eragon nếu tôi có thể, nhưng cậu ta không có ở đây, trách nhiệm này rơi vào tay anh. Khi Varden nghe rằng chính anh họ Eragon, Roran, Cây búa dũng mãnh- anh người đã tự tay tiêu diệt gần hai trăm quân địch-đến với sứ mệnh với Urgal và sứ mệnh đó đã thành công,rồi chúng ta có thể giữ cho liên minh với Uragl trong thời điểm cuộc chiến này. Đó là lí do tôi cử Angela và Trianna tới chữa trị cho anh nhiều hơn là thường lệ: Không phải là thừa đâu, nhưng bởi vì tôi cần anh đảm nhận sự lãnh đạo này. Nào, những gì tôi nói với anh, Cây búa dũng mãnh? Tôi có thể đặt cược vào anh không?”
Roran ngước nhìn Katrina. Anh biết cô đã ước liều rằng anh sẽ nói với Nasuada là anh không thể chỉ huy một cuộc đột kích. Ánh mắt anh dịu đi bới anh đã không phải nhìn thấy cô đau buồn, Roran nghĩ về sự kích thước khổng lồ của đội quân tương phản với Varden, và rồi, bằng một giọng khàn khàn rất khẽ anh nói:
“Cô có thể đặt cược vào tôi, công nương Nasuada.”
Chương 43: Giữa Các Tầng Mây
Từ Tronjheim, Saphira bay năm dặm tới tường trong của Farthen Dûr, rồi cô nàng và Eragon đi vào đường hầm đào theo hướng đông trải dài hàng dặm dưới chân Farthen Dûr. Eragon có thể chạy hết đoạn đường hầm này trong mười phút nhưng nóc hầm khiến Saphira không thể bay hay nhảy được cho nên cô nàng sẽ không thể giữ tốc độ với nó được, vì thế nó chỉ giới hạn bản thân bằng cách đi bộ thật lẹ thôi.
Một tiếng sau, bọn họ xuất hiện tại thung lũng Odred trải dọc theo hướng nam bắc. Xen giữa các chân đồi ở ngay đầu hẹp của thung lũng đầy dương xỉ này là hồ Fernoth-mérna, một hồ khá lớn trông xa giống như một giọt mực đen giữa các rặng núi cao của dãy Beor. Đầu phía bắc của hồ Fernoth-mérna là giòng Ragni Darmn, chảy quanh co trong thung lũng cho tới khi được nhập vào hồ Az Ragni ở ngay sườn núi Moldûn the Proud, ngọn núi cực bắc của dãy Beors.
Bọn họ rời khỏi Tronjheim từ sớm trước khi trời sáng và cho dù đường hầm khiến họ bị chậm lại, lúc này vẫn còn đang trong buổi sáng sớm. Những dải mây tả tơi trên trời xen lẫn với những tia nắng vàng le lói qua đỉnh các ngọn núi cao chót vót. Ở thung lũng bên dưới, những gợn mây bám vào các ngọn núi như những con rắn khổng lồ. Từng lọn mây mù bay lơ lửng trên mặt hồ trong như gương.
Eragon và Saphira dừng lại cạnh hồ Fernoth-mérna để uống nước và thấm mát da cho chặng tới của hành trình. Nước hồ được tan ra từ tuyết và đá ở trên cao ngọn núi. Nước lạnh khiến răng Eragon hơi nhức. Nó nhắm mắt, dậm chân, la hết khi bị lạnh buốt lên tới đầu.
Khi đã đỡ nhứ một chút, nó nhìn ngang hồ. Giữa tấm màn sương mù, nó thấy được một lâu đài đổ nát xây trên đá nằm trải dài trên một ngọn núi. Dây leo quấn chằng chịt chung quanh các bức tường đổ nát, nhưng ngoài việc đó ra, cả kiến trúc không hề có sức sống. Eragon rùng mình. Toà nhà bỏ không nhìn u ám, đáng ngại giống như một xác chết bị rữa ở giữa bầy thú rừng bẩn thỉu.
"Xong chưa?" Saphira hỏi.
"Xong rồi," nó nói rồi leo lên yên ghế.
Từ hồ Fernoth-mérna, Saphira bay theo hướng bắc, dọc theo thung lũng Odred ra khỏi rặng núi Beor. Thung lũng này không dẫn thẳng tới Ellesméra vốn ở xa hơn nữa về hướng tây, nhưng bọn họ không có chọn lựa nào khác nên đành phải ở trong thung lũng vì các hẻm núi ở đây đều cao hơn năm dặm.
Saphira chỉ bay cao đến mức Eragon có thể chịu đựng nổi vì cô nàng bay càng cao nơi không khí loãng hơn, thì càng lẹ. Eragon chống cái lạnh cóng bằng cách mặc nhiều lớp áo và dùng thần chú để tách luồn hàn khí dạt sang hai bên.
Ngồi trên người Saphira cũng không phải dễ chịu lắm, nhưng cô nàng ráng quạt cánh chậm và đều đặng nên Eragon cũng không phải chú tâm giữ thăng bằng như khi cô nàng đảo người, bổ nhào hoặc thi triển những thao tác phức tạp khác. Hầu hết thời gian là nó chia ra giữa nói chuyện với Saphira và suy nghĩ về những chuyện xảy ra trong vài tuần qua cũng như luôn quan sát học hỏi những cảnh vật bên dưới.
"Anh dùng pháp thuật mà không cần tới cổ ngữ khi người lùn tấn công anh," Saphira nói. "Làm vậy nguy hiểm lắm."
"Anh biết, nhưng anh không có thời gian để nghĩ ra chữ. Hơn nữa, mình không cần phải dùng cổ ngữ khi niệm thần chú.
"Cái đó thì khác. Em là rồng. Tụi em không cần cổ ngữ để biểu lộ ý tưởng; chúng em biết mình muốn gì và suy nghĩ cũng không thay đổi dễ dàng như loài người hay các thần tiên."
Mặt trời chỉ mới nhú lên khỏi chân trời một bàn tay là Saphira đã lướt qua khỏi miệng thung lũng lên một khoảng
đất cỏ bằng phẳng không bóng người ráp gianh với rặng núi Beor. Ngồi thẳng người trên yên, Eragon ngó kỹ xung quanh rồi lắc đầu, vô cùng ngạc nhiên về khoảng cách bọn họ vừa bay qua. "Nếu chúng ta bay tới Ellesméra trước," nó nói. "Chúng ta có lẽ có nhiều thời giờ với Oromis và Glaedr hơn." Saphira chỉ gật đầu đồng ý.
Saphira bay cho tới khi mặt trời lặn và các vì sao bao phủ khắp trời và các ngọn núi chuyển sang màu tím đen mờ mờ phía sau. Cô nàng có lẽ còn muốn bay nữa nhưng Eragon nhất quyết muốn bọn họ phải nghỉ ngơi. "Em vẫn còn mệt lắm sau chuyến đi Farthen Dûr. Chúng ta có thể bay nguyên đêm ngày mai và ngày mốt cũng được, nếu cần, nhưng tối nay em phải ngủ.”
Mặc dù Saphira không thích đề nghị này lắm nhưng cô nàng cũng đồng ý và lựa một đám liễu mọc bên bờ một dòng suối để dừng chân. Khi Eragon vừa nhảy khỏi yên, nó phát hiện cả hai chân đều cứng lại, khiến nó phải khó khăn lắm mới đứng vững được. Nó cởi yên ra khỏi Saphira, rồi trải một tấm thảm lên mặt đất kế cô nàng và nằm xuống, lưng đụng vào thân thể ấm áp của cô ả. Nó không cần lều vì cô nàng dùng cánh bao bọc lấy nó như một con chim mẹ che chở chim con. Cả hai mau chóng chìm vào giấc ngủ mộng mị lại liên kết được với nhau trong mộng vì đường truyền tinh thần của cả hai vẫn còn đó.
Ánh sáng vừa xuất hiện ở phía đông là Eragon và Saphira đã tiếp tục lên đường, bay cao trên những đồng bằng xanh tươi.
Đến giữa sáng thì đụng phải gió ngược khiến Saphira chậm lại phân nửa tốc độ bình thường. Cho dù cố cách mấy, cô nàng vẫn không bay cao hơn ngọn gió này được. Cô nàng cả ngày phải chống cự lại gió cuốn, công việc thật khó khăn cho dù có Eragon bên cạnh giúp thêm sức, đến trưa thì rõ ràng cô nàng đã mệt nhoài. Cô nàng bổ nhào xuống một gò đất trên đồng cỏ và xếp cánh ngồi đó, thở hổn hển, cả người rung rẩy.
"Tối nay chúng ta nên ở lại đây." Eragon nói. "Không."
"Saphira, tình trạng em không khá để đi tiếp. Hãy dựng trại cho tới khi em hồi phục. Biết đâu chiều mai gió sẽ giảm bớt."
Nó nghe tiếng xoẹt xoẹt ươn ướt khi cô nàng liếm miệng rồi cố thở phịch một cái rồi tiếp tục thở hổn hển. "Không," cô nàng nói. "Trên những đồng bằng này, gió có thể thổi mấy tuần hoặc mấy tháng lận. Chúng ta không thể nào chờ cho dịu lại được."
"Nhưng..."
"Em sẽ không chịu thua chỉ vì mệt một xí đâu, Eragon. Quá nhiều thứ được đánh cược trong chuyến đi này..." "Vậy để anh đem năng lực từ chiếc nhẫn Aren chuyền cho em. Nhẫn còn đủ để giúp em từ đây tới Du Weldenvarden."
"Không," cô nàng khăng khăng. "Chừa Aren lại khi chúng ta không còn cách nào khác. Em có thể nghỉ và phục hồi trong rừng. Nhẫn Aren chúng ta có thể cần phải dùng bất cứ lúc nào; anh không nên hao phí như vậy chỉ đễ em dễ chịu một chút."
"Anh không thích thấy em bị đau nhức như vậy."
Một tiếng gầm nhẹ rời khỏi miệng cô nàng. "Tổ tiên của em, loài rồng hoang dã, không phải thấy gió tí tẹo vậy mà rụt mình, em cũng vậy thôi."
Nói xong, cô nàng bay lên không tiếp tục mang nó theo vào cơn gió lốc.
Đến gần cuối ngày, gió vẫn còn gào thét chung quanh họ, đẩy ngược vào người Saphira như thể vận mạng không muốn họ tới được Du Weldenvarden, Eragon nghĩ tới cô gái người lùn Glûmra và lòng tin của cô ta ở các vị thần người lùn, và đây là lần đầu tiên trong đời, nó có ý định muốn cầu nguyện. Eragon rút bỏ liên lạc tinh thần giữa hai người, cô nàng lúc này cũng mệt và lo ra quá nên không để ý, Eragon thì thầm, "Gûntera, vua của các vị thần, nếu quả người hiện hữu, và có thể nghe được con, nếu có thể, xin người hãy dừng cơn gió này lại. Con biết con không phải là người lùn, nhưng vua lùn Hrothgar đã nhận con vào bộ tộc của ông ta vì thế con nghĩ con có quyền cầu nguyện tới người. Gûntera, van xin người, chúng con phải đến được Du Weldenvarden càng sớm càng tốt, không phải chỉ vì lợi ích của dân chúng Varden mà còn là lợi ích của con dân của ngài, người lùn. Van xin ngài, xin ngài làm gió ngừng lại. Saphira sẽ không còn chịu đựng được bao lâu nữa." Sau đó cảm thấy như hơi bị khờ tí, Eragon nối lại sợi dây tinh thần với tri thức của Saphira, nháy mắt tội nghiệp khi nó cảm nhận được bắp thịt cô nàng như đang bị thiêu đốt.
Đêm đó, khi mọi thứ đều trở nên lạnh và đen thủi, cơn gió lúc này liền dịu lại, và cuối cùng chỉ còn đôi lúc tạt vào người một làn gió mạnh mà thôi.
Đến khi trời sáng, Eragon nhìn xuống thì thấy mảnh đất khô cằn của sa mạc Hadarac. "Chết thật," nó nói vì bọn họ không đi xa được như ý nó muốn. "Chúng ta sẽ không đến kịp Ellesméra hôm nay phải không?"
"Trừ khi gặp gió thuận có thể đẩy chúng ta từ sau lưng." Saphira ráng sức thêm được vài phút rồi nói thêm, "nhưng trừ khi có gì trục trặc, bọn mình sẽ tới Du Weldenvarden lúc buổi chiều."
Eragon làu bàu.
Hôm đó bọn họ chỉ dừng chân hai lần. Trong một lần dừng chân, Saphira nuốt cả đàn vịt hoang bắt được và giết bằng cách khà ra một đám lửa, nhưng ngoài ra thì không ăn gì khác hết. Để bớt giờ, Eragon chỉ đành ăn trên yên. Như Saphira dự đoán, Du Weldenvarden hiện ra trong tầm mắt trước khi mặt trời lặn. Khu rừng trước mặt trở nên một dải xanh tươi vô tận. Các loại cây sồi, cây thích mọc đầy ngoài bìa rừng nhưng càng vào sâu, Eragon biết là những cây thông cấm tạo nên phần lớn các loại cây trong đó.
Bóng tối bắt đầu phủ lên trên vùng cây xanh này khi bọn họ vừa tới ven Du Weldenvarden, Saphira lượn nhẹ xuống một nhánh cây to của một cây sồi khổng lồ. Cô nàng xếp cánh ngồi mồi chút, không còn sức để đi nữa. Cái lười đỏ tươi của cô nàng thè ra ngoài. Trong khi cô ả nghỉ mệt, Eragon lắng nghe tiếng sột soạt của cành lá trên đầu, tiếng cú kêu ư ử, tiếng chíp chíp của các loài sâu bọ côn trùng về đêm.
Khi đã tương đối hồi phục, Saphira đi về phía trước, qua khỏi hai cây sồi khổng lồ bám đầy rêu, tiến nhập Du Weldenvarden bằng chân. Các vị thần tiên đã khiến cho bất kỳ ai cũng không thể nào vào rừng bằng pháp thuật, mà loài rồng thì không chỉ đơn giản dùng thân thể để bay, cho nên Saphira không thể tiến nhập trong lúc còn ở trên không trung, nếu không đôi cánh sẽ không hoạt động được và cô nàng sẽ rơi xuống đất.
"Xa tới đây là đủ rồi," Saphira nói, rồi dừng chân ở một bãi cỏ cách bìa rừng vài trăm thước. Eragon cởi dây buộc quanh chân và trượt xuống bên hông Saphira. Nó tìm trong bãi cỏ cho tới khi thấy được một khoảng đất trống. Nó liền dùng hai tay móc lên một cái lỗ sâu chừng hai gang tay và chiều ngang cỡ nửa như vậy. Nó triệu nước tới để đổ đầy lỗ rồi thốt ra những câu thần chú về bói thủy tinh cầu.
Mặt nước mờ đi và đổi thành màu vàng óng ánh trong lúc Eragon ngắm nhìn bên trong túp lều của sư phụ Oromis. Vị thần tiên tóc bạc này đang ngồi ở bàn ăn đọc một cưộn giấy rách tả tơi.
"Sư phụ," Eragon nói, rồi lấy hai tay chắp ngang ngực. "Chào con, Eragon. Ta đang chờ con đây. Con ở đâu vậy?"
"Con và Saphira vừa mới tới rừng Du Weldenvarden... Sư phụ, con biết là tụi con có hứa sẽ quay về Ellesméra, nhưng người Varden chỉ còn cách vài ngày là tới thành Feinster, và bọn họ thật sự có yếu điểm nếu tụi con không ở đó. Chúng con kho6ng có giờ để bay tới tận Ellesméra. Sư phụ có thể giải đáp vài thắc mắc của con qua thủy tinh cầu này không?"
Oromis ngả lưng ra ghế, vẻ mặt sắc cạnh của ông trầm ngâm nghiêm trọng. Sau đó ông nói, "Ta sẽ không chỉ dẫn pháp thuật cho con qua khoảng cách thế này được, Eragon. Ta có thể đoán biết những điều con muốn hỏi là gì, nhưng đây là những chuyện phải trực tiếp gặp mặt bàn thảo con ạ."
"Sư phụ, làm ơn nha. Nếu Murtagh và Thorn..."
"Không được, Eragon. Ta hiểu nguyên do của sự cấp bách của con, nhưng học hỏi của con cũng rất quan trọng với người Varden, có lẽ còn nhiều hơn vậy. Chúng ta phải làm cho đúng cách, nếu không thì đừng làm." Eragon thở dài gục người về phía trước, "dạ, sư phụ."
Oromis gật đầu. "Glaedr và ta sẽ chờ con. Bay nhanh và lẹ tới đây. Chúng ta có nhiều chuyện để bàn lắm." "Dạ, sư phụ."
Sau khi kết thúc phát thuật, Eragon liền cảm thấy cả người tê tái mệt mỏi. Nước đã ngấm cả xuống đất. Nó lấy hai tay ôm đầu, nhìn khoảng đất ẩm ở dưới chân. Tiếng thở ồn ào của Saphira ở ngay bên cạnh. Nó nói, "anh đoán bọn ta phải tiếp tục lên đường rồi. Xin lỗi nha."
Cô nàng ngưng thở một chút liếm liếm miệng. "Không sao mà. Em chưa có bị ngã gục đâu." Nó nhìn lên nói. "Em có chắc không?"
"Chắc."
Eragon miễn cưỡng nhất người lên, trèo lại lên lưng cô nàng. "Nếu mà chúng ta phải đi tới Ellesméra," nó vừa nói vừa xiết dây buộc ở chân, "vậy cũng nên tới thăm lại cây Menoa đi. Chúng ta rốt cuộc có thể biết con ma mèo Solembum nói gì. Anh dĩ nhiên cũng cần một thanh kiếm mới."
Lần đầu Eragon gặp Solembum ở Teirm, con ma mèo có nói nó, "khi thời cơ đến và người cần một vũ khí tùy thân, hãy tìm dưới gốc cây Menoa. Rồi nếu khi ngươi thấy lạc hướng và năng lực bản thân không còn đủ, hãy đi tới Tảng Đá Kuthian và xưng tên để mở được Hầm chứa Linh Hồn." Eragon đến giờ vẫn chưa biết Tảng Đá Kuthian là gì nhưng lần ở Ellesméra, nó và Saphira đã có vài cơ hội xem xét cây Menoa. Lần đó bọn họ không phát giác được đầu mối gì về vị trí của vũ khí này. Rêu, đất, vỏ cây và cả kiến nữa là những thứ duy nhất mà họ tìm thấy ở gốc cây Menoa, và không có cái gì trong đó cho biết chỗ nào để mà đào.
"Solembum có lẽ không chỉ về một thanh kiếm," Saphira chỉ ra. "Ma mèo thích chơi câu đố như loài rồng vậy. Cho dù là có, vũ khí đó có lẽ là một đám giấy da có thần chú in lên đó, hoặc là một quyển sách, một bức tranh, một cục đá nhọn hay là những thứ nguy hiểm khác."
"Mặc kệ là gì, anh hy vọng chúng ta tìm được. Ai biết được khi nào lại có cơ hội quay lại Ellesméra lần nữa?" Saphira cào bay một cây đổ nằm trước mặt cô nàng, rồi cúi người mở rộng đôi cánh mượt như nhung, bắp vai cô nàng cuồn cuộn. Eragon kêu lên một tiếng rồi nắm lấy phía trước yên trong lúc cô nàng phóng về phía trước bằng
một sức lực không ngờ, phóng cao phát chóng mặt lên trên các ngọn cây.
Phóng qua một biển các nhành cây, Saphria hướng mình về phía tây bắc rồi theo hướng đó tiến về kinh thành của các thần tiên, nhịp cánh của cô nàng trở nên chậm chạp, nặng nề.
Chương 44: butting heads
Đoàn xe chở lương đã đến đúng như Roran dự đoán" ba ngày sau khi rời đoàn quân chính của Varden, anh và những kị binh của mình đã hạ trại tại một hẻm núi và tấn công đoàn xe buồm chở lương thực từ bờ sông. Trong khi đó, những Urgal nấp sau những tảng đá rẳi rác trên hẻm núi và tấn công đoàn xe từ phía trước, ngăn đoàn lính lại trong trận công kích. Những tên lính và người đánh xe bị tấn công bất ngờ , nhưng trận mai phục đã tóm gọn chúng trong khi đang ngủ và đội hình lỏng lẻo, đơn vị của Roran đã nhanh chóng áp đảo chúng. Không người lính hay Urgal nào bị chết trận, chỉ có ba bị thương: hai người và một Urgal.
Roran đã tiêu diệt được rất nhiều tên địch, nhưng phần lớn thời gian, anh lui lại phía sau và tập trung và việc chỉ huy trận đánh, bây giờ đó là trách nhiệm của anh. Anh vẫn còn thấy đau nhức từnhững vết thương, anh không muốn tự tham gia nếu không thực sự cần thiết vì sợ làm rách toác vết thương cũ đang đóng tróc trên lưng.
Ngoại trừđiều đó, Roran không mấy khó khăn để duy trì kỉ luật giữa hai mươi người lính và hai mươi Urgal này. Dù vậy, rõ ràng là cả hai nhóm này đều không ưa thích hay tin tưởng nhóm kia – anh cũng thấy như vậy, vì thế nên thái độ của anh đối với những Urgal này chỉở mức cảnh giác và khinh thường như bất cứ người đàn ông nào trưởng thành từ dãy núi Spine thân yêu - họđã thành công trong việc cùng hợp tác trong suốt ba ngày qua mà không than phiền một lời. Cả hai nhóm được phân công đểở cùng nhau hòa hợp, anh biết vậy, không có nhiều việc để sử dụng quyền chỉ huy của anh. Nasuada và Nar Garzhvog đã rất cẩn thận chọn lựa những chiến binh cho chuyến đi của anh, chỉ chọn họ dựa trên tiêu chí nổi bật nhất về sự nhanh nhẹn, có tiếng nói công bằng, và trên tất cả là phải bình tĩnh và tính khí điềm đạm.
Tuy thế, sau của cuộc đột kích xe lương, khi những người lính đang bận rội kéo lê những xác địch và người kéo xe đến dàn hỏa thiêu, và Roran đang cưỡi ngựa quanh hang xe thùng để xem xét công việc, anh nghe thấy một tiếng hét đau đớn từ đâu đó đằng xa cuối dãy xe. Nghĩ rằng đó có thể là một tên lính may mắn trốn thoát, Roran la lớn gọi Carn và vài người lính khác đi cùng anh, khi anh thúc bàn đạp vào mạn sườn Hỏa Tuyết và phi nước đại về phía sau những chiếc xe thùng.
Bốn Urgal đã trói chặt một tên lính địch vào thân một cây liễu gai và đang vui sướng nhảy múa , đâm hắn bằng kiếm. Rủa thề, Roran nhảy xuống khỏi lưng Hỏa Tuyết , kết liễu gã lính khỏi sựđau khổ bằng bằng nhát búa của mình.
Một luồng mây đen âm u phủ quanh nhóm của Carn và bốn người lính phi ngựa về phía cây liễu. Họ ghìm cương và tập trung ở một hướng khác chỗ Roran đang đứng, nắm vũ khí trong tư thế sẵn sàng.
Urgal to lớn nhất, một con đực tên là Yarbog, tiến lại.
"Cây búa dũng mãnh, tại sao anh lại kết thúc trò chơi của chúng tôi? Hắn ta còn muốn nhảy với chúng tôi lâu hơn mà."
Rít qua kẽ răng, Roran nói” “Bao giờ anh còn dưới quyền chỉ huy của tôi, anh sẽ không được tra tấn tù binh vì bất kì lí do nào. Tôi không biết hay sao chứ? Rất nhiều những người lính này bị ép buộc phục dịch cho Galbtorix trái với ý muốn của họ. Rất nhiều người trong số họ là bạn hay người nhà hay láng giềng của chúng tôi, trong khi đó chúng tôi lại phải tiêu diệt họ, tôi sẽ không để các anh hành hạ họ nếu không cần thiết phải ra tay tàn ác. Nếu không do số phận, sẽ không một ai muốn ở vị trí của họ.Họ không phải là kẻ thù của chúng tôi, mà là Galbatorix, cũng như hắn là kẻ thù của các anh. "
Vầng trán nặng nề của tên Urgal dày như một chiếc đe, gần nhưche khuất cặp mắt vàng sâu hoắm. "Nhưng anh vẫn giết chúng phải không? Tại sao chúng tôi lại lại không thể thưởng thức cảnh chúng quằn quại vài co giật trước được?
Roran tự hỏi sọ của Urgal có quá dày để bị vỡ nát vì cây búa của anh không. Đấu tranh để kìm nén cơn tức giận, anh nói, " Bởi vì việc đó là sai trái, không có gì để bàn!" Chỉ vào tên lính đã chết, anh nói, " Việc gì xảy ra nếu như hắn ta là một người trong số giống nòi của anh, một kẻ bị tà thần Durza bắt làm nô lệ? Anh vẫn muốn tra tấn hắn như vậy chứ?"
" Tất nhiên" Yarbog nói. " Họ sẽ mong muốn chúng tôi hành hạ họ bằng kiếm, vì như vậy họ có thể có cơ hội chứng tỏ sự gan dạ của mình trước khi chết. Nó không giống cách của những người không sừng các anh ư, hay là các anh không có dạ dày để đâm thủng?”
Roran hơi mơ hồnvề sự nghiêm trọng trong một lời lăngmaj của đám Urgal khi gọi người khác là kẻ không sừng, nhưng dù vậy, anh không nghi ngờ rằng, hỏi một ai đó về sự can đảm của họ là một sự công kích đối với cả Urgal lẫn cả con người, nếu không thì còn tệ hơn thế.
"Bất cứ ai trong số chúng tôi cũng có thể chịu đựng vết thương mà không khóc lóc một tiếng giỏi hơn anhđấy,
Yarbog,” anh nói, nắm chặt cán búa và tấm khiên. "Bây giờ, nếu anh không muốn phải nến trải một sựđau đớn tột độ mà anh không thể hình dung nổi thì hãy bỏ kiếm xuống đầu hang cho tôi, xong rồi cởi trói cho con người khốn khổ này và mang hắn đến chỗ an nghỉ của những xác chết. Sau đó, đi kiếm những bộ yên cương. Chúng là của anh trông coi cho đến lúc trở lại Varden.”
Không cần đợi sự tuân lệnh từgac Urgal, Roran quay ngựa, nhấn chân vào bàn đạp của Hỏa Tuyết và chuẩn bị trèo lên lưng ngựa.
"Không" Yarbog rống lên.
Roran đông cứng mộ trân trên cương ngựa, và tự rủa thầm mình.Anh đã hy vọng rằng không hề có một tình huống nào phát sinh trong suốt chuyến hành trình. Nhẹ nhàng quay người lại, anh nói, "Không ư? Anhđang phản đối việc chấp hành mệnh lệnh của tôi đấy à?"
Cong môi trên lên lộ những chiếc răng nanh ngắn, Yarbog nói, “Không, tôi đã thách thức anh về quyền lãnh đạo của bộ tộc, Cây búa dũng mãnh ạ,"
Và gã Urgal ngửa cái đầu đồ sộ của mình về phía sau, rống to để những người lính đang rỗi rãi và Urgal dừng việc đang làm lại và chạy đến chỗ cây liễu cho đến khi tất cả bốn mươi người bọn họ tụ tập quanh Yarbog và Roran
"Chúng tôi sẽ hạ tên súc vật này cho anh nhé?" Carn hỏi, giọng như chuông ngân. Ước rằng không có nhiều khán giả như vậy, Roran lắc đầu.
"Không, tôi sẽ tự xử lý hắn ta" Lời nói đầy tức giận, anh mừng vì có những người lính của mình bên cạnh, đối diện với một hàng lộn xộn những những Urgal làn da xám ngoắt. Loài người bé nhở hơn so với Urgal, ngoại trừ Roran, tất cảđều đang cưỡi ngựa, điều đó làm họ có một chút ưu thế nếu có một trận chiến giữa hai nhóm. Nếu điều đó xảy ra, pháp thuật của Carn sẽ không giúp ích được nhiều, vì Urgal có một người làm phép bảo vệ riêng, một pháp sư tên là Dazhgra, và từ những gì Roran được chứng kiến, Dazhgra có năng lực phép thuật mạnh hơn, nếu không thì hắn cũng có kĩ năng khéo léo hơn trong việc vận dung thứ nghệ thuật kì lạ của bọn họ.
Roran nói với Yarbog, " Đó không phải là tục lệ của Varden, quyết định quyền lãnh đạo dựa trên phán xét của sự thách đấu. Nếu anh muốn đánh , tôi sẽ đánh, nhưng anh sẽ không được lợi lộc gì trong việc này. Nếu tôi thua, Carn sẽ tiếp nhận quyền chỉ huy của tôi, và cậu ta sẽ phục tùng cậu ta thay cho tôi."
"Chà" Yarbog nói, " Tôi không thách thức anh để chỉ huy loài các anh, tôi thách thức anh về quyền chỉ huy đối với loài của tôi, những con đực thiện chiến của tộc Bolvek! Anh đã không thể hiện được mình, Cây búa dũng mãnh ạ, bởi thế, anh không thể có quyền phán quyết của thủ lĩnh. Nếu anh thua, tôi sẽ trở thành thủ lĩnh ởđây, và chúng tôi sẽ không ngẩng cao cằm với anh, Carn, hay bất cứ sinh vật nào quá yếu đến mức không thể tự kiếm lấy sự tôn trọng của chúng tôi!”
Roran cân nhắc về tình huống của mình trước khi chấp nhận sự việc bất tắc dĩ này, Thậm chí nếu nó có làm anh mất mạng, anh vẫn phải thửđể duy trì quyền lực của mình đối với những Urgal này, thêm vào nữa Varden sẽđánh mất họ như là những đồng minh. Thở một hơi, anh nói “ Trong loài của tôi, theo tục lệ, những người bị thách đấu được lựa chọn thời gian và địa điểm để quyết đấu cũng như vũ khí mà hai bên sử dụng."
Cười khùng khục trong cổ họng, Yarbog nói, "Thời gian là ngay bây giờ, Cây búa dũng mãnh ạ. Địa điểm là tại đây, và trong loài của tôi, chúng tôi đánh nhau chỉ mặc khố và không dùng vũ khí."
"Thế thì thật khó mà công bằng cho được, vì lẽ tôi không có sừng," Roran chỉ ra. "Anh có đồng ý để tôi dùng cây búa của mình để bù đắp cho sự thiếu thốn của tôi được không?”
Yarbog nghĩ vềđiều đó rồi nói, " Anh có thể mang giáp và khiên, nhưng không có búa. Vũ khí khôngđược mang theo khi chúng tôi chiến đấu giành quyền thủ lĩnh."
"Tôi biết rồi … vậy, nếu tôi không thể có cây búa của mình, tôi cũng sẽ không cần mang giáp và khiên. Luật lệ thách đấu là gì, và chúng ta sẽ phân định người thắng như thế nào?"
"Chỉ có một luật thôi, Cây búa dũng mãnh: Nếu anh bỏ chạy, anh bị loại khỏi trận đấu và bị trục xuất khỏi đàn của anh. Anh thắng khi chứng tỏđược để đich thủ đầu hàng, nhưng tôi chưa bao giờđầu hàng, tôi sẽ chiến đấu đến chết.”
Roran gật đầu. Đó có thể là điều anh sẽ làm, nhưng mình sẽ không giết anh ta nếu mình có thể. "Bắt đầu nào" anh gào to, đập mạnh cây búa của mình vào tấm khiên.
Với sự chỉ huy của anh, những người lính và Urgak phát quang một khoảng giữa khe núi và đóng những chiếc cọc thành một bãi đất, mỗi chiều hai mươi bước. Rồi Roran và Yarbog để trần, hai Urgal to lớn bôi mỡ lên khắp người Yarbog trong khi Carn và Loften, một con người khác, cũng làm như vậy với Roran.
"Anh có thể bôi được đến đâu thì bôi" Roran làu bàu. Anh muốn để những vết thương đang lành được yên nếu có thể cũng như bôi ít nhất vào những nơi anh bị quất roi.
Hướng người lại gần anh, Carn nói, "Sao anh lại từ chối khiên và áo giáp?"
"Chúng sẽ chỉ làm tôi chậm chạp thôi. Tôi sẽ phải nhanh như một chú thỏ rừng đang hoảng loạn nếu tôi muốn
tránh bị anh ta bóp náp." Khi Carn và Loften làm bôi mỡ lên chân tay anh, Anh nghiên cứu đối thủ của mình, tìm kiếm bất cứđiểm yếu nào có thể giúp anh đánh bại được gã Urgal đó.
Yarbog cao hơn sáu feet. Lưng của gã ta to rộng, ngực dày, và các khớp tay và chân được yểm trợ bằng những mấu xương cứng chắc. Cổ của gã ta dày như của một con bò tót vì nó phải chống đỡ sức nặng của cả cái đầu và cặp sừng cong vút. Ba vết thương theo ba hàng dài trên hông trái như từng bị một con thú nào đó cào. Những sợ lông đen lưa thưa mọc khắp cơ thể.
Chí ít thì gã ta cũng không phải là một tên Kull, Roran nghĩ. Anh tin tưởng vào sức mạnh của mình, nhưng thậm chí là vậy, anh không tin rằng mình lại khỏe hơn Yarbog với sức mạnh dữ dội. Hiếm khi con người có hy vọng đánh lại được kĩ năng tuyệt đối của một con đực Urgal khỏe mạnh. Ngoài ra, Roran biết rằng, những chiếc móng to đen, răng nanh và cặp sừng, lớp da dày của gã ta đều chứng tỏ Yarbog chiếm ưu thế đáng kể trong trận thách đấu tay không mà họ thường đấu. Nếu mình có thể, mình sẽ, Roran quả quyết, nghĩ về mọi mánh vặt mà anh có thể dùng đối với Urgal, vì chiến đấu với Yarbog sẽ không như đấu vật với Eragon hay Baldor hoặc bất cứ người đàn ông nào ở Carvahall, khó hơn nhiều, Roran chắc rằng nó sẽ dã man và vô cùng tàn bạo giữa hai sinh vật hoang dã.
Nhìn đi nhìn lại, mắt Roran quay về cặp sừng thiện chiến của Yarbog, vì chúng, anh biết, sẽ là thứđặc biệt nguy hiểm nhất của Yarbog. Với chúng, Yarbog có thể húc và đâm thủng Roran không thương tiếc, và chúng cũng sẽ bảo vệ phần đầu của Yarbog đối với bất cứ đòn đánh nào Roran có thể tung ra bằng tay không, dù vậy chúng lại hạn chế tầm nhìn của Urgal. Rồi vụt xuất hiện trong Roran rằng những chiếc sừng là món quà tự nhiên tuyệt vời của Yarbog vậy chúng cũng là sự bất lợi của hắn ta.
Roran vòng vai và xương bánh chè, háo hức vì màn trình diễn được kết thúc.
Khi cả Roran và Yarbog được bôi mỡ gấu xong, đến hiệu lênh thứ hai và họ bước tới ranh giới của khoảng đất đóng cọc xung quanh.
Roran để đầu gối hơi chùng xuống, sẵn sàng nhảy tới với bất cứ dấu hiệu nhỏ nhặt nào của những di chuyển từ phía Yarbog. Đất đá lạnh , nặng và thô ráp bên dưới bàn chân để trần của anh.
Một cơn gió nhẹ làm lung lay cành lá của cây liễu gai.Một con bò kéo chiếc xe dúi chân xuống một lùm cỏ, dây buộc của nó kêu kẽo kẹt.
Cùng với một tiếng gầm nhỏ, Yarbog đột kích.
Roran, duy trì khoảng cách giữa họ bằng ba bước dài. Roran chờđợi cho tới khi Yarbog tới gần hơn đến chỗ anh, rồi nhảy vồ tới trước. Tuy nhiên, anh đã đánh giá không đúng về tốc độ của Yarbog. Cái đầu đầy đe dọa, gã Urgal đâm đôi sừng vào vai trái Roran và quăng anh tung người qua bãi đất.
Những viên đá sắc nhọn chọc vào người Roran khi anh tiếp đất. Những vết thương dài đau nhói trên lưng, di chứng của những lằn roi đã lành được nửa chừng của anh. Anh cằn nhằn và lồm cồm bò dậy, cảm thấy như vô số vết thươngđã nứt toác, phơi ra những thớ thịt chảy máu trong không khí sắc nhưdao. Bùn đất và những hòn cuội nhỏ dính chặt vào lớp mỡ trên người anh. Giữ cho cả hai chân trên mặt đất, anh lê bước về phía Yarbog, không hề rời mắt khỏi gã Urgal đang gầm gừ.
Yarbog lại tấn công và Roran lại bịđánh văng ra xa. Lần này anh, anh tiếp tục kế hoạch, anh phóng vụt qua gã Urgal hơn vài inch. Quay người lại, Yarbog chạy về phía anh ba lần, và hơn một lần, Roran chủđộng để tránh gã ta.
Rồi Yarbog thay đổi chiến thuật.
Tiến lên theo chiều ngang, như một con cua, gã huých mạnh vào người anh, cong tay để tóm lấy Roran và kéo giật anh vào một cái ôm tử thần. Roran chùn bước và thoái lui. Dù có chuyện gì, anh cũng phải tránh ngã vào những chiếc khớp của Yarbog, với sức mạnh to lớn của mình, gã Urgal có thể nhanh chóng kết liễu anh.
Những người lính và Urgal tụ tập quanh bãi đất yên lặng, vẻ mặt thản nhiên khi họđang chứng kiến Roran và Yarbog đẩy nhau qua lại trong bùn đất. Trong vài phút, Roran và Yarbog trao cho nhau những cú đánh sượt qua người. Roran tránh lại gần Yarbog bất cứ chỗ nào có thể, cốđể gây tổn thương cho gã từ tầm xa, nhưng nhưng khi trận chiến đang bị kéo dài và Yarbog dường như chẳng hề mệt mỏi hơn lúc họ bắt đầu, Roran nhận ra rằng thời gian không phải là bạn của anh. Nếu anh muốn thắng, anh phải kết thúc trận chiến nàu không được trì hoãn lâu. Hy vọng lại chọc tức được Yarbog xung thiên – vì kế hoạch đã vạch ra- Roran rút ra xa tới góc của bãi đất và bắt đầu lên tiếng chế nhạo, nói , " Ha! Anh béo tốt và chậm chạp như một con bò sữa vậy! Anh có thể bắt được tôi không, Yarbog, anh chân của anh làm bằng mỡ lợn? Anh nên tự xấu hổ mà cưa cặp sừng của mình đi vì đã để một con người biến anh thành trò hề. Hậu duệ của anh sẽ nghĩ gì khi nghe thấy điều này? Anh sẽ kể cho chúng là …"
Yarbog áp đảo lời nói của Roran bằng một tiếng gầm. Gã Urgal lao nhanh tới anh, hơi nghiêng người, định nghiền nát Roran bằng toàn bộ sức nặng cơ thể. Nhảy khỏi đường tấn công, Roran túm chóp sừng phải của Yarbog nhưng hụt mục tiêu và thấy mình suýt ngã vào giữa bãi đất, cả hai đầu gối bị toác cả da. Anh tự rủa mình
khi chỉnh lại tư thế đôi chân.
Kiểm tra lại sự liều lĩnh nóng vội của mình ngay trước khi cú đẩy huých anh qua lằn ranh của bãi đất, Yarbob quay lưng, cặp mắt nhỏ tí hi màu vàng tìm kiếm Roran. "Yah!" , la lớn với Roran. Anh giả giọng và làm mọi sử chỉ thô lỗ mà anh có thể nghĩ ra" Anh không thểđâm một cái cây thậm chí nó đứng ngay trước mũi anh!”
"Chết đi, tên người yếu đuối kia!” Yarbog gầm lên và nhảy bổ vào Roran, đôi tay giang rộng. Hai chiếc vuốt của Yarbog đẫm máu cắt qua xương sườn Roran khi anh phóng sang bên trái, nhưng anh vẫn chủ động tóm và giữ lấy một chiếc sừng của gã Urgal . Roran cũng tóm nốt chiếc sừng còn lại khi Yarbog kịp ném anh ra. Dùng những chiếc sừng và lợi thế của cánh tay, Roran giật mạnh đầu của Yarbog sang một bên và kéo căng mọi bắp thịt, ném gã Urgal trên sàn đất. Lưng Roran nóng bừng phản đối sự vận động đó, Vừa khi ngực Yarbog chạm bùn, Roran đè một đầu gối lên vai phải của gã chốt chặt gã tại chỗ. Anh chống chân trên đá và vặn đầu gã Urgal quay hết mức, anh kéo mạnh đến nỗi có thể làm gãy cổ bất cứ một con người nào. Lớp mỡ bôi trên gan bàn tay làm anh khó mà giữđược cặp sừng của Yarbog. Yarbog thả lỏng một lúc, rồi tự quăng mình lên bãi đất bằng cánh tay trái, ném theo cả Roran, và đạp chân loạn xạ chân cố gắng để đá chúng vào dưới người anh. Roran nhăn mặt,vòng lại phía trước cổ và vai Yarbog, Sau mộtt động tác nhún người trong vài giây, Tai trái của Yarbog bị khóa và gã Cảm thấy cả dạ dày của mình đang trào lại lên.
Cả Roran và Yarbog sẽ bị thương như nhau nếu họ chung một loài. Chỗ họ chạm vào nhau, những chiếcc lông cứng trên người Urgal đâm vào Roran như những sợi kim loại. Bùn đất bám đầy người họ. Máu chảy như suối từ những mảnh da phồng rộp của Roran và từ vết thương ở lưng.
Yarbog lại đá và quật khi gã lấy lại hơi, bì bõm trong bùn như một con cá mắc cạn. Roran đã mất toàn bộ sức lực, nhưng anh vẫn kiên trì, cố phớt lờ những viên đá cắt sâu vào bàn chân và cẳng chân. Bằng cách đó, không để mình được nghỉ, tay Yarbog nắm lấy tay anh và rồi dùng căng cổđập mạnh nhiều lần vào ống tay Roran.
Họ cứđể như thế, cả hai đều không di chuyển nhiều hơn một inch nào khi người này vùng vẫy với người kia. Một con ruồi vo ve quanh họ và đậu lên mắt cá chân Roran.
Con bò rống lên.
Sau gần mười phút, mồ hôi chảy đầm đìa trên mặt Roran. Anh dường như không thể nạp đầy không khí vào phổi. Cánh tay mất cảm giác. Những vết thương trên lưng như là bị rách toác thành từng mảnh nhỏ. Sườn anh bị dập mạnh ở chỗ bị Yarbog cào.
Roran biết anh không thể tiếp tục lâu hơn. Tức thật! anh nghĩ. Gã ta chưa từng đầu hàng ư?
Ngay sau đó, đầu của Yarbog run lên khi một cơ trên cổ gã Urgal bị kéo căng ra. Yarbog kêu lên rên rỉ, đầu tiên, anh ta kêu lên trong hơn một phút và với một giọng thều thào, gã nói khẽ "Giết tôi đi, Cây búa dũng mãnh. Tôi không thể thắng anh."
Chỉnh lại tư thế nắm chặt sừng của Yarbog, gầm lên với một tone giọng cũng thấp như vậy, "Không. Nếu anh muốn chết, thì đi tìm người khác để giết anh đi. Tôi không chiến đấu theo luật lệ của các anh, bây giờ anh sẽ chấp nhận đã thất bại theo luật của tôi. Làm như thế, tôi sẽđể anh đi. Nếu không, tôi sẽ giữ anh ở đây đến khi anh đổi ý, bao lâu không thành vấn đề.”
Đầu Yarbog vòng dưới tay Roran khi gã Urgal cố gắng một lần nữa để tự thoát ra. Anh tức giận, gã đánh vào một đám bụi nhỏ trong không trung rồi gầm rống lên., " Sự sỉ nhục quá lớn, Cây búa dũng mãnh ạ. Giết tôi đi.” Tôi không thuộc giống loài các anh, và tôi không tuân theo phong tục của các anh," Roran nói. "Nếu anh quá lo về danh dự, hãy nói với những người tò mò rằng anh đã bị đánh bại bởi anh họ của Eragon khắc tinh của tà thần. Điều đó chắc chắn không có gì phải xấu hổ. " Khi vài phút đã trôi qua, Yarbog vẫn không đáp lại, Roran kéo mạnh sừng Yarbog và hét lên, "Vậy?"
Giọng anh lên cao để mọi người lính và Urgal có thể nghe thấy, Yarbog nói, "Gar! Svarvok nguyền rủa tôi; tôi đầu hàng! Tôi không nên thách thức anh, Cây búa dũng mãnh. Anh xứng đáng là thủ lĩnhchứ không phải tôi" Lập tức, những người lính cổ vũ và la hét, đập chuôi kiếm vào khiên. Những Urgal đứng yên và không nói gì. Hài lòng, Roran thả cặp sừng của Yarbog và lăn ra khỏi gã Urgal xám ngoắt. Cảm thấy gần như anh vừa trải qua một trận chiến khác, Roran chậm rãi nhấc chân và tập tễnh bước ra khỏi bãi đất đến chỗ Carn đang chờ.
Roran nhăn mặc khi Carn phủ một tấm mềm lên vai anh, tấm vải chà sát vào làn da bị hành hạ. Nhe răng cười, Carn đưa anh một túi da đựng rượu. “ Sau khi anh bị ngã, tôi nghĩ chắc hắn sẽ giết anh mất. Tôi nên học tập từ giờ để không bao giờ đặt cược vào anh , Eh, Roran? Ha! Đó là trận đấu hay nhất tôi từng chứng kiến. Anh là người đàn ông duy nhất trong lịch sử chiến đấu với một Urgal.”
"Có thể là không" Roran nói trong khi nhấp một ngụm rượu. " Nhưng tôi có thể là người đàn ông duy nhất vượt qua trải nghiệm này." Anh mỉm cười khi Carn cười phá lên. Roran nhìn quanh đám Urgal đang tụ tập lại quanh Yarbog, đang nói chuyện với gã bằng những giọng cằn nhằn trong khi hai đồng đạo của chúng lau sạch mỡ và đất bẩn trên người Yarbog. Mặc dù hiện ra rất ít, chúng vẫn không tỏ ra giận dữ hay bực bội. Từ phía xa anh xem xét, và anh tin chắc rằng anh sẽ không có thêm rắc rối nào với chúng nữa.
Những vết thương cũ của anh đang tức giận, Roran cảm thấy hài lòng với kết quả của trận đấu. Đây không phải là trận chiến lớn nhất giữa hai loài, anh nghĩ nhưng cho đến lúc chúng ta an toàn trở về Varden, những Urgal này sẽ không phá vỡ tình đồng minh của chúng ta, ít nhất là trong thẩm quyền của mình.
Sau khi nhấp ngụm rượu cuối cùng, Roran đậy lại nắp túi rượu và đưa cho Carn rồi nói lớn. "Được rồi, bây giờ hãy ngừng túm tụm như những con cừu cằn nhằn và hoàn thành việc kiểm kê danh sách những gì có trong những xe thùng kia đi! Loíten, khoanh vùng ngựa địch ại, nếu chúng đang chạy quá xa! Dazhgra, đi tìm con bò. Nhanh lên! Thorn và Murtagh có thể bay đến đây ngay bây giờ đấy. Đi thôi, bắt đầu nhanh lên!
"Và, Carn, Cái tay áo của tôi ở chỗ nào?"
Chương 45: Gia Phả
Ngày thứ tư kể từ khi rời khỏi Farthen Dûr, Eragon và Saphira đến được Ellesméra.
Mặt trời sáng trong ở trên đầu khi những toà nhà đầu tiên của thành trì hiện ra. Những toà nhà này là những thái hẹp vặn vẹo với cửa sổ lấp lánh dựng giữa ba cây thông cao, mỗi cây đều mọc cành lá xen lẫn vào nhau. Phía trước những tháp bọc vỏ cây này, Eragon nhận ra được một đám những khu đất lộn xộn đánh dấu một thành thị trải dài.
Trong lúc Saphira lướt trên bề mặt khu rừng gập ghềnh thì Eragon điều tra kiếm tri thức của Gilderien Khôn Ngoan, người nắm quyền Ngọn Lửa Trắng Vándil, cũng đồng thời là người bảo hộ Ellesméra khỏi các kẻ thù của thần tiên từ hai ngàn rưỡi năm nay. Eragon dùng cổ ngữ phóng ý thức về phía thành phố, "Gilderien-elda, xin ban phép cho chúng tôi vào thành"
Một giọng trầm ấm vang lên trong đầu Eragon, "Ngươi được vào Eragon, Kẻ Khắc Tinh của Tà Thần và Saphira Vảy Sáng. Miễn là gìn giữ hòa bình, ngươi sẽ được hoan nghênh ở lại Ellesméra."
"Tạ ơn ngài, Gilderien-elda," Saphira nói.
Móng vuốt cô nàng chạm lên đầu các cây thông đen cao hơn ba trăm bộ trong lúc cô nàng lướt qua thành phố gỗ thông và hướng về khu đất dốc cao ở bên mặt kia của Ellesméra. Giữa những cành cây trồng chéo lên nhau ở dưới, Eragon nhìn thoáng thấy bóng dáng những khu nhà dựng theo những cây còn đang sinh trưởng, những thảm hoa nở rộ đầy màu sắc, những giòng suối róc rách, những đèn lồng không ngọn lửa toả ửng màu nâu vàng và đôi khi, những vẻ mặt tái nhợt của một vị thân tiên.
Saphira nghiêng cánh lượn thẳng lên dốc cho tới khi cô nàng đến được bờ vực Tel'naeir cao hàng ngàn bộ trải dài cả dặm về hai bên mà đáy của vách đá trắng này là một khu rừng trọc. Sau đó cô nàng vỗ cánh hai cái để giữ nguyên tốc độ và cao độ rồi xoay sang phải bay về hướng bắc dọc theo một đỉnh núi đá.
Một khoảng đất cỏ bao phủ xuất hiện ở sát vực đá. Một căn nhà trệt được dựng từ bốn loại thông khác khau với phong cảnh cây cối um tùm sau lưng. Một dòng suối róc rách hiện ra từ một rừng cây đầy rong rêu chảy ngay dưới một trong bốn cây thông đó trước khi lại biến mất vào rừng Du Weldenvarden. Đang cuộn mình nằm cạnh căn nhà là con rồng vàng to, óng ánh Glaedr, hàm răng hắn trắng ngà bự thân răng bự cỡ ngực Eragon, móng vuốt như cái đồ cắt cỏ, cặp cánh đang xếp lại mềm như nhung, cái đuôi lực lưỡng của nó dài cỡ Saphira, sọc của con mắt duy nhất của hắn lóng lánh như ánh sáng bên trong một viên ngọc xaphia hình sao. Một chân cụt đằng trước được cả người dấu đi. Ở phía trước Glaedr có một cái bàn tròn nhỏ với hai cái ghế. Ông Oromis ngồi trên chiếc ghế gần con rồng Glaedr nhất, vị thần tiên tóc bạc này nhìn lấp loé như kim loại dưới ánh mặt trời.
Eragon nhỏm người ra đằng trước, Saphira dựng ngược ra sau rồi bay chậm lại. Cô nàng hạ cao độ ào một phát lên một bãi cỏ xanh rồi mới chạy tới vài bước, quạt cánh ra sau trước khi dừng lại.
Ngón tay Eragon còn lọng cọng vì kiệt lực, nó cởi nút dây buộc quanh chân rồi ráng trèo xuống từ chân phải trước của Saphira. Khi nó bắt đầu trèo xuống, cả hai đầu gối đột nhiên thụng xuống và té ào ra đất. Nó giơ ta ra để bảo vệ bộ mặt và thế là cả người bị ngã chỏng bốn vó lên trời, cẳng chân thì bị cào trầy bởi một viên đá nằm khuất trong cỏ. Nó càu nhàu trong đau đớn, cặp giò bị tê cứng như một ông già, bắt đầu ráng đứng lên."
Một bàn tay chắn trước mặt nó.
Eragon nhìn lền thì thấy sư phụ Oromis đứng bên cạnh, một nụ cười nhẹ trên khuông mặt muôn đời không đổi của ông. Oromis dùng cổ ngữ nói: "Chào mừng con trở lại Ellesméra, kỵ sĩ Eragon. Và mi cũng vậy Saphira Vẩy Sáng, chào mừng. Chào mừng cả hai con."
Eragon cầm lấy tay sư phụ, rồi ông Oromis kéo nó đứng dậy mà không tốn chút lực nào. Lúc đầu Eragon không nói ra được lời gì vì nó cũng đã bao lâu không nói chuyện từ lúc cả hai rời khỏi Farthen Dûr và cũng vì quá đuối sức. Nó phải lấy hai ngón tay để lên môi rồi mới dùng cổ ngữ nói được, "Chúc người được nhiều may mắn tiền bối Oromis."
Sau đó Eragon cũng dùng lễ đối đáp với con rồng Glaedr. Lúc nào cũng thế, sự lạc quan của rồng cũng khiến Eragon phải cảm thấy khúm núm.
Saphira thì không chào cả ông Oromis lẫn Glaedr, cô nàng đứng nguyên một chỗ, cổ gục xuống cho tới khi mũi
đụng đất, còn vai và hai bên hông thì run run như thể bị lạnh. Hai bên mép cô nàng xùi bọt màu vàng đã đóng khô từ lúc nào. Cái lưỡi có ngạnh của cô nàng thì quẹo một bên giữa hàm răng nanh. Eragon giải thích, "tụi con bị ngược gió sau khi qua khỏi Farthen Dûr, và..." Eragon ngừng nói trong lúc Glaedr ngẩng cái đầu khổng lồ lên thò qua phía Saphira, còn cô nàng thì giả vờ như không nhận ra anh chàng này có mặt tại đó. Glaedr thở phì một cái, lửa khịt ra từ hai bên lỗ mũi. Eragon thấy nhẹ nhõm hẳn đi khi nhận thấy năng lực được truyền qua phía Saphira, ráng hồi phục tay chân lúc này vẫn còn đang run rẩy của cô nàng.
Sau một lúc thì lửa từ mũi Glaedr đã tắt chỉ còn một làn khói lởn vởn. "Ta đi săn sáng nay," giọng anh chàng truyền âm vang lên trong đầu Eragon. "Ngươi cứ tới cái cây cành trắng ở cuối cánh đồng sẽ thấy phần còn lại của con mồi của ta. Ăn được bao nhiêu thì ăn."
Saphira chỉ yên lặng cảm ơn. Nhấc cái đuôi rồi khập khiễng bò tới cái cây Glaedr chỉ, ngồi xuống bắt đầu xé xác con nai ở đó.
"Lại đây," ông Oromis nói, rồi chỉ về phía bàn ghế. Trên bàn có một mâm trái cây và các loại hạt, một nửa khúc phó mát, một ổ bánh mì, một bình rượu đỏ và hai ly thủy tinh có chân. Eragon vừa ngồi xuống, ông Oromis đã chỉ bình rượu và hỏi, "con có muốn uống một hớp cho rửa sạch bụi khỏi cổ họng không?"
"Dạ được," Eragon trả lời.
Ông Oromis hết sức nhẹ nhàng mở nắp bình và châm đầy hai ly. Ông đưa Eragon một ly rồi ngồi xuống ghế dùng ngón tay dài, trơn tru, sửa soạn lại áo mặc trên người.
Eragon hớp một miếng rượu. Rượu này ngọt dịu và có vị cuả anh đào và mận. "Sư phụ, con..."
Ông Oromis giơ ngón tay lên ngăn nó. "Trừ khi là quá khẩn cấp, ta muốn đợi cho đến khi Saphira quay lại trước khi bàn chuyện khiến con tới đây. Con đồng ý không?"
Eragon lưỡng lự một chút rồi gật đầu chăm chú quay lại ăn uống, thưởng thức mùi vị của trái cây tươi. Oromis cảm thấy hài lòng ngồi yên lặng bên cạnh nó, uống rượi và nhìn ra ngoài bờ vực của Tel’naeír. Đằng sau ông ta, Glaedr nằm nhình việc xảy ra như một pho tượng sống bằng vàng.
Gần cả giờ đồng hồ Saphira mới nhấc mình khỏi bữa ăn, bò tới dòng suối gần đó liếm nước cả mười phút. Khoé miệng cô nàng còn dính vài giọt nước khi quay lại, cô nàng thở phào một tiếng rồi mới nằm ườn bên cạnh Eragon mí mắt như muốn nhắm lại. Sau đó cô nàng ngáp lớn nhe cả hàm răng rồi mới chào hỏi Oromis và Glaedr. "Có gì thì nói hết đi," cô ả nói. "Nhưng đừng bắt con nói nhiều nha, con có thể ngủ bất cứ lúc nào."
"Nếu em muốn thì mọi người có thể chờ em ngủ dậy rồi mới tiếp tục," anh chàng Glaedr nói. "Được vậy là ... dễ thương lắm," Saphira trả lời, mí mắt lúc này còn muốn sụp xa hơn vừa rồi.
"Thêm rượu không?" Ông Oromis hỏi và nhấc bình rượu lên khỏi bàn. Thấy Eragon lắc đầu, ông đónh nắp bình rồi lấy hai ngón tay nhấn vào nhau, đầu ngón tay tròn trịa bóng láng. Ông nói, "con không cần phải kể lại những chuyện đã xảy ra trên người con mấy tuần vừa qua, Eragon. Từ khi Islanzadí rời khỏi khu rừng, Arya đã giữ mọi người cập nhật về tin tức trong thế gian, và cứ mỗi ba ngày, Islanzadí lại gởi người từ quân đội của chúng ta chạy sang Du Weldenvarden. Vì thế ta có biết về cuộc chiến giữa con và Murtagh và rồng Thorn ở Cánh đồng Cháy. Ta cũng có biết về chuyến đi của con tới Helgrind và cách con trừng phạt lão hàng thịt ở làng. Rồi ta được biết con đến dự hội nghị của người lùn tại Farthen Dûr và những chuyện xảy ra sau đó. Còn chuyện gì khác thì con cứ nói nhưng không cần phải lo là ta đã biết trước rồi."
Eragon lăn một trái việt quất khô trong lòng bàn tay. "Sư phụ có biết về Elva và chuyện xảy ra sau khi con giải trừ cô ta khỏi lời nguyền của con không?"
"Điều đó ta cũng biết. Con có lẽ không có thành công giải trừ toàn bộ thần chú trên người cô ta, nhưng con đã trả xong nợ đối với đứa con nít này, và đó là điều mà Kỵ Sĩ Rồng phải làm: thực hiện mọi giao ước, cho dù nhỏ hay khó cỡ nào cũng vậy."
"Cô ta vẫn còn cảm nhận thấy đau đớn của người chung quanh."
"Nhưng bây giờ là do sự lựa chọn của cô ta," ông Oromis nói. "Pháp lực của con không còn ép cô ấy... Mà con cũng không phải tới đây hỏi ý ta về Elva. Là chuyện gì khiến con lo lắng Eragon? Và nếu con muốn sư phụ sẽ mang mọi hiểu biết của mình để ráng trả lời mọi câu hỏi của con.
"Còn nếu con không biết hỏi sao cho đúng thì sao?" Eragon nói.
Một tia sáng lấp lánh hiện lên trong khoé mắt xám của Oromis. "À, con bắt đầu suy nghĩ như một thần tiên rồi. Con phải tin tưởng những sư phụ đã dạy dỗ con và Saphira mà trong đó nhiều thứ con không thèm để ý tới. Và con phải luôn tin tưởng sự phán quyết của chúng ta khi cần thiết phải giải quyết vấn đề, vì có nhiều yếu tố trong sự tu luyện của con không thể đảo lộn thứ tự được."
Eragon đặt trái việt quất ngay giữa khay rồi chặc giọng nói, "hình như thấy sư phụ nói như chưa nói gì cả." Một khoảng thời gian trôi qua, chỉ còn lại tiếng cành lá sột soạt, tiếng dòng suối chảy róc rách và tiếng chít chít của đám sóc ở xa.
"Nếu ngươi có gì cần tranh cãi với chúng ta Eragon," Glaedr nói, "thì hãy lên tiếng nhưng đừng có ở đó mà gặm
lấy cục giận như một cái xương khô cũ rích."
Saphira nhích ngưòi, Eragon tưỏng nghe được tiếng gầm gừ của cô nàng. Nó liếc mắt nhìn nhưng cũng ráng kềm chế những tâm tìmh đang dâng trào trong người, nó hỏi, "Lần trước con ở đây, sư phụ có biết cha con là ai không?"
Ông Oromis gật đầu một cái. "Chúng ta biết."
"Và sư phụ có biết Murtagh là người anh ruột của con không?" Ông Oromis lại gật đầu một lần nữa. "Chúng ta biết, nhưng mà..."
"Vậy sao không cho con biết!" Eragon hét lên, rồi nhảy xuống đất khiến cái ghế bị đổ. Nó lấy nắm tay dọng vào hông, rồi bước đi vài bước, nhìn chằm chằm tới bóng của khu rừng ở đằng xa. Eragon xoay qua xoay lại, cơn giận dữ nổi lên đùng đùng trong lúc ông Oromis vẫn bình tĩnh như trước. "Đến khi nào mới cho con biết? Có phải sư phụ muốn giấu sự thật về bí mật thân thế của con để con chú tâm tu luyện phải không? Hay là sợ con sẽ trở nên giống cha con?" Một ý nghĩ tồi tệ hơn hiện lên trong đầu Eragon. "Hay là sư phụ nghĩ nó không quan trong lắm để nhắc tớ? Còn Brom thì sao? Ông ta có biết hay không? Ông ấy chọn làng Carvahall để ẩn mình là vì con, là vì con là đứa con của kẻ thù ông ta sao? Sư phụ không nghĩ là con tin mọi thứ đều là ngẫu nhiên khiến ông ta và con chỉ sống cách nhau vài dặm và Arya lại chỉ 'ngẫu nhiên' đưa quả trứng Saphira cho con ở dãy núi Spine." "Chuyện Arya làm chỉ là một tai nạn thôi," ông Oromis chêm vào. "Cô ta lúc đó không biết về con."
Eragon nắm lấy chuôi đoản kiếm của nó, bắp thịt cả người gồng lên cứng như sắc. "Khi Brom nhìn thấy Saphira lần đầu, con có nhớ ông ta tự nói không chắc 'cái vật này' là hỷ kịch hay bi kịch. Lúc đó, con cứ tưởng ông ta nói tới chuyện một người nông dân bình thường như con lại trở thành Kỵ Sĩ thứ nhất trong vòng mấy trăm năm qua. Nhưng đó không phải là ý này phải không? Ông ta đang tự hỏi không biết là hỷ hay bi kịch mà con út của Morzan lại khoác lên người áo Kỵ Sĩ."
"Đây có phải là lý do tại sao sư phụ và ông Brom muốn huấn luyện con, để trở thành không gì khác ngoài vũ khí đối địch Galbatorix để con có thể đền bù tội ác của cha con phải không? Con chỉ là như vậy với các người hay sao, một cục sắt giữ thăng bằng trên bàn cân?" Trước khi Oromis có thể trả lời, Eragon thề nói, "Cả cuộc sống của con đều là một sự giả dối! Từ khi con sinh ra, không có ai ngoài Saphira muốn con; không phải mẹ, không phải Garrow, không phải dì Marian, cũng không phải ông Brom. Ông Brom chỉ thích con vì Morzan và Saphira. Con lúc nào cũng là một sự phiền phức. Sư phụ nghĩ con thế nào cũng được, con 'không' phải là cha con, hay anh con, và con từ chối tiếp nhận theo gót bọn họ." Nắm lấy cạnh bàn, Eragon nhỏm người ra trước. "Con không phản bội các vị thần tiên hay người lùn hay người Varden trước mặt Galbatorix, nếu đó là điều các ngưòi lo lắng. Con sẽ làm chuyện con phải làm, nhưng từ giờ trở đi, các người không còn được lòng trung thành và sự tin tưởng của con. Con sẽ không..."
Không khí chung quanh lay động khi Glaedr gầm lên, mép trên của hắn kéo lại thò ra cả hàm răng nanh. "Ngươi có nhiều lý do để tin tưởng chúng ta hơn mọi ai khác, con chim mới nở," hắn nói, thanh âm của hắn như tiếng sấm vang lên trong đầu Eragon. "Nếu không phải chúng ta bỏ sức, ngươi đã chết từ lâu rồi."
Sau đó, khiến Eragon ngạc nhiên, Saphira nói với Oromis và Glaedr, "nói cho anh ấy biết đi." và điều này khiến nó chấn kinh khi thấy nỗi đau đớn trong tư tưởng cô nàng.
"Saphira?" nó hoang mang hỏi. "Nói với anh cái gì?"
Cô nàng lờ nó, "chuyện cãi lộn này không phải là không có nguyên nhân. Đừng khiến Eragon khó chịu hơn nữa." Một bên mí của Oromis nheo lại. "Mi biết hả?"
"Con biết."
"Em biết cái gì?" Eragon rống lên, thiếu điều muốn tuốt kiếm khỏi vỏ và ép họ phải nói ra.
Ông Oromis dùng một ngón tay dài chỉ vào cái ghế ngã nói, "ngồi xuống". Khi Eragon vẫn còn đứng đó, quá giận và đầy phẫn uất để nghe lời, ông Oromis chỉ đành thở dài. "Ta hiểu chuyện này quá khó chịu đối với con Eragon, nhưng nếu con cứ muốn hỏi và từ chối nghe trả lời, thì chỉ được thất vọng mà thôi. Bây giờ, hãy ngồi xuống, chúng ta có thể nói chuyện với nhau cho lịch sự một chút."
Eragon trợn mắt, cầm cái ghế dựng lên rồi ngồi phịch xuống. "Tại sao?" nó hỏi. "Tại sao mọi người không cho con biết Morzan là cha của con, người cầm đầu của đám Phản Đồ?"
"Lúc đầu," ông Oromis nói, "chúng ta sẽ may mắn nếu con không giống chút gì với cha con, điều này thật sự là ta đã tin rồi. Và ta tính cho con hay trước khi con ngắt lời ta, Murtagh không phải là anh ruột của con, mà chỉ là anh cùng mẹ khác cha thôi."
Trái đất xung quanh Eragon như bị đảo lộn lên, cảm giác chóng mặt thật mạnh khiến nó phải nắm lấy cạnh bàn để giữ vững người. "Anh em cùng mẹ khác cha.. Nếu vậy thì ai...?"
Ông Oromis khều một quả mọng từ trong khay, ngắm nghía một hồi rồi mới ăn. "Glaedr và ta không muốn giấu bí mật này với con nhưng chúng ta không có quyền lựa chọn khác. Cả hai đều đã hứa, với lời tuyên thệ ràng buộc nhất, là chúng ta sẽ không bao giờ tiết lộ lai lịch của cha con, hay của người anh cùng mẹ khác cha kia, hay bàn
thảo chuyện dòng dõi của con với con, trừ khi con đã tự khám phá ra sự thật hoặc lai lịch của người thân của con khiến con lâm vào hiểm cảnh. Truyện bị tiết lộ ra giữa con và Murtagh trong trận chiến Cánh đồng Cháy đã đáp ứng được các điều kiện ràng buộc của lời thề, bây giờ chúng ta có thể tự do bàn bạc vấn đề này."
Cả người Eragon run rẩy vì ráng kềm chế cảm xúc, nó nói, "Tiền bối Oromis, nếu Murtagh chỉ là người anh cùng mẹ khác cha của con, vậy thì ai là cha con?"
"Hãy nhìn kỹ vào tâm của ngươi Eragon," Glaedr nói. "Ngươi vốn đã biết ông ta là ai, và cũng đã biết khá lâu rồi."
Eragon lắc đầu. "Ta không biết! Ta không biết! Làm ơn...."
Lửa và khói bắn ra từ hai lỗ mũi của Glaedr khi hắn khịt một cái. "Còn không rõ ràng sao? Cha của ngươi chính là ông Brom."
CHƯƠNG 46: ĐÔI UYÊN ƯƠNG BẤT HẠNH
Eragon nhìn chằm chằm con rồng vàng.
“Nhưng như thế nào?” nó kêu lên. Trước khi Glaedr hay sư phụ Oromis có thể trả lời, Eragon lao về phía Saphira và, bằng cả ý nghĩ lẫn lời nói, nó gào lên: “Em đã biết phải không? Em đã biết, và em đã để anh tin rằng Morzan là cha anh suốt cả thời gian vừa qua, dù cho … dù cho anh – anh …” Ngực phập phồng, Eragon lắp bắp và hạ giọng, không đủ khả năng nói một cách mạch lạc. Tự nhiên, những ký ức về ông Brom ùa về, cuốn sạch những suy nghĩ khác của nó. Nó nghĩ về ý nghĩa của từng lời, từng câu ông Brom đã nói, và trong chốc lát, cảm giác về sự hợp lý đọng lại trong Eragon. Nó vẫn còn muốn những lời giải thích, nhưng nó không cần chúng để xác định tính xác đáng trong lời nói của Glaedr, vì từ tận xương tuỷ, Eragon cảm nhận được sự thật trong những gì Glaedr đã nói.
Eragon bắt đầu khi sư phụ Oromis chạm vào vai nó. “Eragon, con cần phải giữ bình tĩnh”, vị tiên già nói với giọng dịu dàng. “Hãy nhớ tới những kỹ năng ta đã dạy con về cách vượt qua tâm trạng căng thẳng. Kiểm soát hơi thở, và tập trung đẩy sự căng thẳng đó thoát khỏi tứ chi xuống mặt đất phía dưới con … Đúng, như thế. Lại lần nữa, và thở sâu vào.”
Đôi bàn tay Eragon trở nênbất động và nhịp tim chậm đi khi nó làm theo lời hướng dẫn của sư phụ Oromis. Khi những ý nghĩ đã được rũ sạch, nó nhìn Saphira lần nữa và hỏi bằng giọng nhẹ nhàng, “Em đã biết phải không?” Saphira nâng đầu lên khỏi mặt đất. Ôi, Eragon, em đã rất muốn nói với anh. Em đau đớn khi thấy những lời của Murtagh dày vò anh mà không thể giúp anh. Em đã cố gắng giúp – em đã cố rất nhiều lần – nhưng giống với sư phụ Oromis và Glaedr, có quá nhiều lời thề bằng cổ ngữ giữ cho thân thế của ông Brom là bí mật đối với anh, và em không thể phá vỡ lời thề của mình được.
“Ô…ông ấy nói với em khi nào?” Eragon hỏi, xúc động đến nỗi nó lại tiếp tục nói to.
Một ngày trước khi bọn Urgals tấn công chúng ta bên ngoài thành Teirm, khi anh vẫn còn bất tỉnh. “Đó có phải là lúc ông ấy nói cho em cách liên lạc với Varden ở Gil’ead không?”
Phải. Trước khi em biết được Brom định nói gì, ông ấy đã bắt em thề sẽ không bao giờ nói điều này với anh trừ khi anh tự khám phá ra. Rất tiếc, em đã đồng ý.
“Ông ấy còn nói với em điều gì nữa không?” Eragon hỏi, cơn giận của nó lại bùng lên. “Còn có những bí mật nào khác mà anh phải biết không, như Murtagh không phải là anh ruột duy nhất của anh, hay cách đánh bại Galbatorix?”
Trong suốt hai ngày em và ông Brom săn tìm để diệt bọn Urgal còn lại, ông ấy đã thuật lại các chi tiết về cuộc đời ông ấy để nếu ông ấy chết, và để nếu có khi nào anh tìm ra được mối liên hệ với ông ấy, thì con trai ông có thể biết được ông ấy đã là một người như thế nào và tại sao ôngphải hành động như vậy. Ông cũng gửi em một món quà dành cho anh.
Một món quà sao?
Một ký ức của ông ấy nói chuyện với anh như cha của anh chứ không phải là Brom người kể chuyện.
“Tuy nhiên, trước khi Saphira chuyển ký ức này cho con,” sư phụ Oromis nói, và Eragon nhận thấy cô rồng đã cho phép vị tiên ông cùng nghe những lời của nó, “ta nghĩ tốt nhất là con phải biết làm cho điều này qua đi. Con sẽ nghe ta một lúc chứ, Eragon?”
Eragon lưỡng lự, không chắc lắm về điều sư phụ nó muốn, rồi nó gật đầu.
Nâng cái ly pha lê có chân của mình lên, sư phụ Oromis uống phần rượu của ông, rồi đặt cái ly trở lại bàn và nói: “Con biết rồi đấy, cả Brom và Morzan đều là học trò của ta. Brom, ít hơn 3 tuổi, dành cho Morzan sự quý trọng cao tới nỗi, làm cho Morzan xem thường ông ấy, sai bảo ông ấy, và thậm chí đối xử với ông ấy một cách đáng xấu hổ nhất.”
Bằng giọng cáu kỉnh, Eragon nói, “Khó mà tưởng tượng ông Brom lại để ai đó sai bảo mình”.
Oromis nghiêng đầu như thể một con chim. “Và đã là như thế. Brom yêu quý Morzan như anh trai, bất chấp thái
độ của hắn. Chỉ duy nhất khi Morzan phản bội lại các Kỵ sĩ để đi theo Galbatorix và Forsworn giết chết Saphira, con rồng của Brom, thì Brom mới nhận ra bản chất thật của Morzan. Cũng mạnh như sự yêu mến mà Brom đã dành cho Morzan, nỗi căm ghét thay thế đó giống như một lò luyện ngục thay vì một cây nến như trước đây. Brom đã thề sẽ cản trở Morzan bằng mọi cách và mọi nơi ông ấy có thể, để xoá bỏ mọi thành quả của hắn và đưa những tham vọng của hắn trở thành những nỗi ân hận cay đắng. Ta đã cảnh báo Brom tránh khỏi con đường đầy rẫy căm ghét và bạo lực, nhưng ông ấy đã phát điên vì nỗi đau gây ra bởi cái chết của Saphira, và ông ấy không nghe lời ta.”
“Trong những thập kỷ tiếp sau đó, sự căm ghét của Brom không hề suy giảm, ông ấy chưa hề chùn bước trong những cố gắng chống lại Galbatorix, giết Forsworn, và, trên tất cả, là trả cho Morzan những nỗi đau mà ông ấy đã phải chịu. Sự bền bỉ của Brom là không giới hạn, tên ông ấy trở thành ác mộng đối với Forsworn và là sự soi sáng của hy vọng cho những ai vẫn còn muốn chống lại Đế quốc.” Sư phụ Oromis nhìn về dải trắng phía chân trời và uống thêm một ngum rượu nữa. “Ta rất tự hào về những gì ông ấy đã làm được bằng chính bản thân mình khi không còn con rồng của ông ấy trợ giúp. Đó luôn là một sự khích lệ đối với một người thầy khi nhìn thấy một trong những học trò của mình trở nên xuất sắc, tuy vậy nó phải … Nhưng ta lạc đề mất rồi. Sau đó, cách nay 20 năm, phe Varden bắt đầu nhận được những báo cáo gửi từ các điệp viên của họ trong lòng Đế quốc về những hoạt động của một phụ nữ bí ẩn chỉ được biết đến với cái tên Bàn Tay Đen.”
“Mẹ của con,” Eragon nói.
“Mẹ của con và Murtagh,” sư phụ Oromis chữa lại. “Lúc đầu Varden không biết gì về bà ta, ngoại trừ việc bà ta vô cùng nguy hiểm và bà ta trung thành với Đế Quốc. Đến lúc, và với rất nhiều đổ máu, mới phát hiện ra bà ta phục vụ Morzan, rằng Morzan độc thân, và rằng hắn dựa vào bà ta để thực hiện những ý muốn của mình trên khắp Đế quốc. Biết được điều này, Brom khởi hành đi giết Bàn Tay đen và vì thế đánh lại Morzan. Khi Varden không thể đoán được nơi mẹ con sẽ xuất hiện lần tới, Brom bèn đi đến lâu đài của Morzan và do thám cho tới khi ông ấy tìm ra cách thâm nhập lâu đài.”
“Lâu đài của Morzan đã ở đâu ạ?”
“Đang, chứ không phải đã; lâu đài đó vẫn còn. Hiện giờ Galbatorix dùng nó cho chính hắn. Nó nằm giữa những chân núi của rặng Spine, gần bờ tây bắc của hồ Leona, được giấu rất khéo khỏi những phần đất còn lại.”
Eragon nói, “ông Jeod đã nói với con rằng ông Brom đã lọt vào lâu đài nhờ giả làm một trong những người phục vụ.”
“Ông ấy đã làm thế, và đó không phải một nhiệm vụ dễ dàng. Morzan đã yểm vào pháo đài của hắn hàng trăm câu thần chú nhằm bảo vệ hắn khỏi kẻ thù. Hắn cũng ép mọi kẻ phục vụ mình phải thề trung thành, và thường là với tên thật của họ. Tuy vậy, sau nhiều thử nghiệm, Brom tìm ra kẽ hở của Morzan cho phép ông ấy kiếm được một chân làm vườn tại điền trang của hắn, và trong lớp vỏ nguỵ trang đó ông ấy đã gặp mẹ con lần đầu”
Liếc nhìn xuống đôi tay mình, Eragon nói, “Con đoán rằng rồi sau đó ông ấy dụ dỗ mẹ con làm hại Morzan” “Không hoàn toàn như vậy,” sư phụ Oromis đáp. “Đó có thể là ý định ban đầu của ông ấy, nhưng sau đó đã có điều gì đó xảy ra mà cả ông ấy lẫn mẹ của con lường trước được: họ yêu nhau. Dù tình yêu mẹ con từng dành cho Morzan đã như thế nào, thì nó cũng không còn nữa bởi cách đối xử ác nghiệt của ông ta đối với bà và đứa con mới sinh của họ, Murtagh. Ta không biết chính xác trình tự các sự kiện, nhưng ở vài điểm nào đó Brom hẳn đã bộc lộ nhân dạng thật của mình cho mẹ con. Thay vì làm lộ ông ấy, bà đã cung cấp cho Varden những thông tin về Galbatorix, Morzan, và phần còn lại của Đế quốc.”
“Nhưng,” Eragon nói, “không phải chính Morzan đã có được lời thề trung thành bằng cổ ngữ của mẹ con sao? Bằng cách nào mà bà có thể quay sang chống lại hắn được?”
Một nụ cười hiện ra trên đôi môi mỏng của sư phụ Oromis. “Bà ấy có thể bởi vì Morzan cho phép bà ở một mức độ nào đó được tự do hơn những kẻ tôi tớ khác của hắn để bà có thể sử dụng tài khéo léo và sáng kiến của mình khi thực hiện những mệnh lệnh của hắn. Chính vì tính kiêu ngạo của mình, Morzan tin rằng tình yêu mà bà ấy dành cho hắn sẽ đảm bảo lòng trung thành của bà tốt hơn bất cứ lời thề nào. Ngoài ra, bà ấy không còn là người đàn bà đã tự nguyện đến với Morzan; làm mẹ và gặp Brom làm thay đổi tính cách bà làm cho tên thật của bà thay đổi, điều này đã giải thoát cho bà khỏi những cam kết trước đó. Nếu Morzan đã cẩn trọng hơn – nếu, giả dụ như, hắn đã bố trí một câu thần chú có thể cảnh báo hắn khi nào bà ấy không còn tiếp tục giữ đúng lời hứa nữa – thì hắn đã có thể biết được cái khoảnh khắc hắn mất đi quyền lực đối với bà. Nhưng đó luôn luôn là một thiếu sót của Morzan; hắn có thể nghĩ ra một câu thần chú khôn khéo, nhưng sau đó trở nên vô dụng bởi vì, bằng tính nôn nóng của mình, hắn bỏ sót vài chi tiết cốt yếu.”
Eragon tư lự. “Vậy sao mẹ con không rời bỏ Morzan ngay khi bà có cơ hội?”
“Sau mọi việc bà đã làm dưới danh nghĩa của Morzan, bà cảm thấy mình có nghĩa vụ phải giúp Varden. Nhưng quan trọng hơn là, bà không thể cho phép mình bỏ Murtagh lại cho cha nó”
“Bà không thể đưa hắn đi cùng mình sao?”
“Nếu điều đó nằm trong khả năng của bà, ta chắc chắn bà đã làm rồi. Morzan nhận thấy đứa trẻ đem lại cho hắn một quyền năng vô cùng lớn đối với mẹ con. Hắn ép bà phải giao Murtagh cho một vú em vô tích sự và chỉ cho phép bà tới thăm nó ngắn ngủi và không thường xuyên. Điều mà Morzan không biết đó là, trong những khoảng thời gian ngắn ngủi này, bà cũng gặp cả Brom nữa.”
Tiên ông Oromis đưa mắt nhìn đôi chim nhạn đang chao liệng trên bầu trời xanh. Nhìn nghiêng, những đường nét thanh tú của ông gợi Eragon nghĩ tới một con chim ưng hay một con mèo đẹp mã. Vẫn nhìn chăm chú vào đôi chim nhạn, sư phụ Oromis nói, “Mẹ con không biết trước nơi Morzan sẽ cử mình đến vào lần tới, cũng như không biết khi nào thì bà có thể trở về lâu đài của hắn. Vì thế, Brom phải lưu lại điền trang của Morzan thêm một thời gian nếu ông ấy muốn gặp bà. Trong gần ba năm, Brom đã phục vụ với vai trò một người làm vườn của Morzan. Khi đó và sau này, ông ấy có thể thoát ra để gửi cho Varden một lời nhắn hoặc liên lạc với những gián điệp của ông ấy trên khắp Đế quốc, nhưng không làm thế, ông ấy đã chẳng hề rời khỏi khu vực lâu đài.”
“Ba năm! Ông ấy không sợ Morzan có thể nhìn thấy và nhận ra mình ư?”
Sư phụ Oromis hạ thấp cái nhìn khỏi bầu trời, chuyển sang nhìn Eragon. “Brom là một người lão luyện trong việc tự cải trang, và đã nhiều năm kể từ khi ông ấy và Morzan mặt đối mặt lần cuối.”
“Ra vậy.” Eragon xoay cái ly nhỏ bằng những ngón tay, tìm hiểu ánh sáng khúc xạ qua pha lê như thế nào. “Rồi điều gì đã xảy ra vậy, thưa sư phụ?”
“Sau đó,” sư phụ Oromis trả lời, “một trong những đặc vụ của Brom ở thành Teirm đã liên hệ cùng với một học giả trẻ tên là Jeod mong muốn được gia nhập Varden và khẳng định rằng anh ta đã khám phá ra bằng chứng của một đường hầm dẫn đến lâu đài do loài tiên xây dựng ở Urû’baen mà cho đến khi ấy vẫn còn là bí mật. Brom đã cảm thấy một cách đúng đắn rằng phát hiện của Jeod quá quan trọng để mà bỏ qua, vì thế ông ấy thu vén đồ đạc, giải thích với những bạn cùng làm, và đến thành Teirm với tất cả sự vội vã.”
“Mẹ con thì sao?”
“Bà ấy đã ra đi cho một nhiệm vụ khác của Morzan trước đó một tháng.”
Cố gắng chắp nối những đầu mối để làm thành một bức tranh tổng thể từ những miêu tả rời rạc nó đã nghe từ nhiều người khác nhau, Eragon nói, “Rồi sau đó … ông Brom gặp ông Jeod, và ông ấy tin chắc rằng đường hầm là có thật, ông thu xếp để một thành viên của Varden cố gắng trộm ba trứng rồng mà Galbatorix cất giữ tại Urû’baen.”
Gương mặt của sư phụ Oromis tối lại. “Thật không may, bởi những nguyên nhân không bao giờ được làm rõ, người họ lựa chọn cho nhiệm vụ, Hefring của Furnost, đã thành công trong việc đánh cắp duy nhất một trứng – là Saphira – khỏi kho tàng của Galbatorix, và ngay khi có được quả trứng, anh ta lẩn trốn cả phe Varden lẫn Galbatorix. Vì sự phản bội này, Brom đã phải bỏ ra 7 tháng tiếp theo để tìm đem Hefring về và vượt qua vương quốc trong một nỗ lực tuyệt vọng đoạt lại Saphira.”
“Và trong thời gian đó, mẹ con đã bí mật quay về Carvahall, nơi bà đã sinh con năm tháng sau đó?
Sư phụ Oromis gật đầu. “Con được thụ thai ngay trước khi mẹ con đi thực thi nhiệm vụ cuối cùng. Kết quả là, Brom chẳng biết gì về tình trạng của bà khi ông ấy truy tìm Hefring và trứng của Saphira … Cuối cùng khi Brom và Morzan đối đầu nhau ở Gil’ead, Morzan đã hỏi Brom có liên quan đến sự biến mất của Bàn Tay Đen hay không. Thật không thể ngờ được Morzan lại nghi ngờ sự dính líu của Brom, vì Brom đã nhiều lần cố gắng giết Forsworn. Tất nhiên Brom ngay lập tức kết luận rằng đã có gì đó kinh khủng xảy đến với mẹ con. Sau này ông ấy nói với ta rằng chính niềm tin đó đã đem đến cho ông sức mạnh và sự dũng cảm ông cần để giết Morzan và con rồng của hắn. Khi cả hai đã chết, Brom lấy trứng của Saphira từ xác của Morzan – vì Morzan đã tìm ra Hefring và tịch thu quả trứng – và rồi Brom rời khỏi thành phố, chỉ ngừng lại đủ lâu để giấu Saphira tại nơi mà ông ấy biết Varden sẽ tìm thấy.”
“Vậy ra đó là lý do vì sao Jeod nghĩ ông Brom đã chết ở Gil’ead,” Eragon nói.
Sư phụ Oromis gật đầu lần nữa. “Bị tác động bởi nỗi sợ, Brom không dám chờ những cộng sự của mình. Kể cả khi mẹ con còn sống và khoẻ mạnh, Brom lo ngại rằng Galbatorix sẽ quyết định khiến Selena làm Bàn Tay Đen cho ông ta và bà ấy sẽ không bao giờ có cơ hội thoát khỏi việc phải phục vụ Đế quốc lần nữa.”
Eragon thấy mắt nó ướt. Ông Brom đã yêu mẹ mình đến thế nào, để bỏ lại mọi người khi ông biết bà đang gặp nguy hiểm.
“Từ Gil’ead, Brom phi ngựa thẳng tới lâu đài của Morzan, chỉ dừng lại để ngủ. Tuy nhiên với tốc độ ấy, ông ấy vẫn quá muộn. Khi ông ấy tới lâu đài, ông phát hiện ra rằng mẹ con đã trở về từ hai tuần trước, yếu ớt và kiệt sức vì hành trình bí mật của bà. Các thầy thuốc của Morzan đã cố gắng cứu bà ấy, nhưng mặc dù những cố gắng của họ, bà ấy vẫn đi vào cõi hư vô chỉ vài giờ trước khi Brom đến được lâu đài.”
“Ông ấy không bao giờ nhìn thấy bà sao?” Eragon hỏi, cổ họng nghẹn lại.
“Không bao giờ nữa.” Sư phụ Oromis ngừng lại, và lời lẽ của ông dịu dàng hơn nữa. “Mất bà ấy, ta nghĩ, đối với Brom cũng khó khăn như khi ông ta mất con rồng của mình, và nó dập tắt gần hết lửa trong tâm hồn ông ấy.
Nhưng, ông ấy đã không đầu hàng, cũng không hoá điên như khi Forsworn giết chết Saphira. Thay vào đó, ông ấy quyết định tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến cái chết của mẹ con và trừng phạt những kẻ có trách nhiệm nếu ông đủ khả năng. Ông tra hỏi những thầy thuốc của Morzan và ép họ mô tả bệnh tật của mẹ con. Từ những gì họ nói, và dựa vào những chuyện ngồi lê đôi mách mà ông nghe thấy những người phục vụ trong lâu đài nói với nhau, Brom đoán ra sự thật về việc mẹ con mang thai. Bị ám ảnh bởi hy vọng đó, ông ấy cưỡi ngựa đến một nơi ông biết để nhìn lại: nhà của mẹ con ở Carvahall. Và tại đó ông ấy thấy con trong sự bảo bọc của cậu và mợ.”
“Tuy vậy Brom không sống tại Carvahall. Ngay khi ông đảm bảo rằng không ai ở Carvahall biết rằng mẹ con là Bàn Tay Đen và rằng không có nguy hiểm gì sắp xảy đến với con, Brom bí mật quay về Farthen Dûr, nơi ông tự nguyện phục vụ Deynor, lúc đó là thủ lãnh của Varden.
Deynor đã kinh ngạc khi gặp ông ấy, vì cho đến khi đó, mọi người đều tin rằng Brom đã hy sinh ở Gil’ead. Brom đoan chắc Deynor giữ cho sự tồn tại của ông ấy là một bí mật đối với tất cả trừ một số người được chọn lựa, và sau đó—“
Eragon giơ một ngón tay lên. “Nhưng vì sao? Vì sao ông ấy phải giả vờ là đã chết?”
“Brom muốn sống đủ lâu để trợ giúp dạy dỗ Kỵ sĩ mới, và ông ấy biết một cách duy nhất để tránh bị ám sát để trả thù cho việc giết Morzan là để Galbatorix tin rằng ông ấy đã chết và đã được chôn cất. Mặt khác, Brom hy vọng tránh thu hút sự chú ý không cần thiết tới Carvahall. Ông ấy muốn định cư ở đó để được gần con, quả thực ông ấy đã làm thế, nhưng ông ấy đã quả quyết rằng Đế quốc cuối cùng cũng không biết đến sự hiện diện của con.”
“Khi còn ở Farthen Dûr, Brom giúp Varden thương lượng một bản thoả ước với Nữ hoàng Islanzadí về việc làm thế nào mà tiên và người có thể luân phiên canh giữ trứng rồng và Kỵ sĩ mới sẽ được huấn luyện ra sao, nếu và khi quả trứng nở. Rồi Brom hộ tống Arya khi cô vận chuyển trứng từ Farthen Dûr tới Ellesméra. Khi tới đây, ông ta kể với ta và Glaedr những gì ta vừa kể cho con, vì thế sự thật về nguồn gốc của con sẽ không bị quên lãng nếu ông ta chết. Đó là lần cuối cùng ta gặp ông ta. Kể từ đó, Brom trở về Carvalhall, nơi ông ta tự giới thiệu mình là một nhà thơ và một người kể chuyện. Những gì xảy ra kế tiếp, con đã biết cụ thể hơn ta.”
Sư phụ Oromis trở nên im lặng, và trong một lúc, không ai nói gì.
Nhìn chăm chăm xuống đất, Eragon nghĩ về mọi lời sư phụ Oromis đã nói với nó và gắng sắp xếp những cảm nghĩ của mình. Cuối cùng nó nói, “Và ông Brom thực sự là cha của con, chứ không phải Morzan phải không ạ? Ý con là, nếu mẹ của con là vợ của Morzan, rồi sau đó …” Nó nói nhỏ dần, quá lúng túng để tiếp tục.
“Con là con trai của cha con,” tiên ông Oromis nói, “và cha của con là Brom. Về điểm này không còn nghi ngờ gì nữa”
“Vậy còn nghi ngờ ở điểm gì nữa không ạ?” Sư phụ Oromis lắc đầu. “Không con ạ.”
Sự choáng váng cuốn lấy Eragon, và nó nhận thấy nó đang ngưng thở. Thở hắt ra, nó nói, “Con nghĩ con hiểu vì sao” – nó dừng một chút để lấp đầy không khí vào buồng phổi – “vì sao ông Brom đã không nói gì về điều này trước khi con tìm thấy trứng của Saphira, nhưng tại sao ông không nói với con sau đó? Và tại sao ông tiết lộ cho sư phụ và cho Saphira điều bí mật ấy? … Chẳng phải ông muốn khẳng định con là con trai của ông sao? Hay ông đã xấu hổ vì con?”
“Ta không thể giả vờ là mình biết nguyên do mọi hành động mà Brom đã làm, Eragon à. Tuy nhiên, về điều này thì ta rất chắc chắn: Brom không muốn gì hơn gọi con là con trai ông ấy và nuôi nấng con trưởng thành, nhưng ông ấy không dám để lộ ra rằng con có liên quan đến mình, vì sợ Đế quốc có thể tìm ra con và gắng làm hại ông thông qua con. Sự cẩn trọng của ông ấy cũng đã được minh chứng. Hãy nhìn cái cách mà Galbatorix đã cố gắng để bắt người anh họ của con hòng sử dụng anh ta để ép con đầu hàng.”
“Ông Brom lẽ ra nên nói cho cậu con biết,” Eragon phản đối. “Cậu Garrow sẽ không phản bội ông Brom để theo phe Đế quốc.”
“Nghĩ xem, Eragon. Nếu con sống cùng Brom, và nếu tin tức về việc Brom còn sống tới tai những kẻ do thám của Galbatorix, thì cả hai đều phải trốn chạy khỏi Carvahall vì lo sợ cho cuộc sống của hai người. Bằng việc giấu sự thật với con, Brom hy vọng bảo vệ con khỏi những nguy hiểm đó.”
“Ông ấy đã không thành công. Dù sao chúng con cũng đã phải trốn chạy khỏi Carvahall.”
“Đúng,” sư phụ Oromis nói. “Sai lầm của Brom, như đã là xảy ra, mặc dầu ta đánh giá nó đem lại nhiều điều tốt hơn là không tốt, là ông ấy không chịu được việc phải chia tách hoàn toàn khỏi con. Nếu ông ấy có đủ sức tự kiềm chế quay về Carvahall, con đã có thể không bao giờ tìm thấy trứng của Saphira, bọn Ra’zac đã không giết cậu của con, và rất nhiều việc lẽ ra không xảy ra thì đã xảy ra, và rất nhiều việc lẽ ra phải xảy ra thì lại không xảy ra. Dầu vậy, ông ấy không thể chia cắt con ra khỏi trái tim mình.”
Eragon nghiến chặt hai hàm khi một cơn rùng mình xuyên suốt người nó. “Và sau khi biết Saphira đã nở ra cho con?”
Sư phụ Oromis ngập ngừng, và vẻ điềm tĩnh của ông trở nên có chút gì đó băn khoăn. “Ta không chắc lắm,
Eragon à. Có thể Brom đã vẫn cố bảo vệ con khỏi những kẻ thù của ông ấy, và ông ấy không nói với con cùng một lý do với việc ông ấy đã không đưa con thẳng tới Varden: con chưa sẵn sàng. Có thể ông ấy dự định nói cho con biết ngay trước khi con đến với Varden. Dù thế, nếu phải đoán, ta đoán rằng Brom kín tiếng không phải vì ông ấy xấu hổ vì con mà bởi vì ông ấy đã trở nên quen với việc sống cùng những bí mật của mình và rất miễn cưỡng phải xa rời chúng. Và còn bởi – và điều này chỉ đơn thuần là sự suy đoán – bởi ông ấy không chắc về phản ứng của con đối với tiết lộ ấy. Chính bản thân con cũng đã không quen biết lắm với Brom trước khi con rời Carvahall với ông ấy. Đó là lẽ đương nhiên khi ông ấy lo sợ rằng con có thể sẽ ghét ông ấy nếu ông ấy nói cho con biết ông ấy là cha đẻ của con.”
“Ghét ông ấy ư?” Eragon thốt lên. “Con sẽ không ghét ông ấy. Dẫu cho …con có thể sẽ không tin ông ấy.” “Và con có thể tin tưởng ông ấy sau sự tiết lộ như thế không?”
Eragon cắn vào bên trong má mình. Không, con sẽ không.
Sư phụ Oromis tiếp tục, “Brom đã làm điều tốt nhất mà ông ấy có thể trong một hoàn cảnh phải cố gắng đến đáng kinh ngạc. Trên hết, đó là trách nhiệm của ông ấy phải đảm bảo cho hai con sống sót và khuyên bảo, dạy dỗ con, Eragon ạ, thế nên con mới không sử dụng sức mạnh của mình cho những phương tiện cá nhân, giống như Galbatorix vẫn làm. Bằng việc đó, Brom đã làm trọn bổn phận với sự khác biệt rõ ràng. Ông ấy có thể đã không là người cha như con hằng mơ ước, nhưng ông đã để lại cho con một di sản thừa kế vĩ đại mà chưa người con trai nào trên đời này từng nhận được.”
“Chẳng hơn gì điều mà ông ấy cũng sẽ làm cho bất cứ ai trở thành Kỵ sĩ mới.”
“Điều đó không làm giảm giá trị nó chút nào,” thầy Oromis nhấn mạnh. “Nhưng con đã lầm; Brom đã làm cho con nhiều hơn ông ấy sẽ làm cho bất cứ ai. Con chỉ cần nghĩ đến việc ông ấy đã hy sinh bản thân như thế nào để tránh cho con khỏi sự thật ấy.”
Bằng móng ngón trỏ phải, Eragon sờ vào cạnh bàn, lần theo một dấu vết mờ nhạt tạo nên bởi một trong những vòng tròn của thớ gỗ. “Và thực sự chỉ là tình cờ khi Arya chuyển trứng Saphira cho con?”
“Đúng thế,” sư phụ Oromis thừa nhận. “Nhưng không hoàn toàn là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Thay vì chuyển trứng cho người cha, Arya lại làm nó xuất hiện trước mắt người con.”
“Làm sao điều đó lại xảy ra khi cô ấy không biết chút gì về con?”
Sư phụ Oromis nhún đôi vai gầy guộc của ông. “Dẫu hàng ngàn năm học tập, chúng ta vẫn không thể tiên lượng hoặc giải thích mọi tác động của phép thuật.”
Eragon vẫn tiếp tục lần ngón tay theo dấu vết ở cạnh bàn. Mình có một người cha, nó nghĩ. Mình đã nhìn ông chết, và mình không hề biết ông là gì của mình … “Cha mẹ con,” nó nói, “họ đã bao giờ làm lễ cưới chưa?” “Ta hiểu vì sao con hỏi vậy, Eragon à, và ta không biết câu trả lời của ta có làm con hài lòng hay không. Cưới không phải là một phong tục của loài tiên, và sự tinh tế của nó thường không đọng lại trong ta. Không ai từng buộc tay Brom với tay Selena trong một đám cưới, nhưng ta nghĩ họ đã tự cho rằng họ là vợ chồng. Nếu con đủ sáng suốt, con sẽ không phiền lòng về việc những kẻ khác trong loài người của con có thể gọi con là đồ con hoang mà nên bằng lòng được biết rằng con là con của cha mẹ mình và họ đã trao cho con cuộc sống mà con hằng tận hưởng.”
Eragon ngạc nhiên khi nó thấy mình bình thản đến thế. Trong cả đời mình nó đã suy ngẫm về nhân dạng cha nó. Khi Murtagh tuyên bố đó là Morzan, sự tiết lộ đã làm Eragon choáng váng dữ dội tương tự cái chết của cậu Garrow. Những lời nói ngược lại của rồng Glaedr rằng cha của Eragon là ông Brom lại cũng làm nó choáng váng, nhưng sự choáng váng dường như như chưa thể qua đi, có lẽ bởi vì, lần này, điều được tiết lộ không phải là một điều làm nó đau khổ. Vẫn yên lặng, Eragon nghĩ phải mất nhiều năm nữa nó mới có thể chắc chắn về cảm nghĩ của nó về cha mẹ mình. Cha của mình là một Kỵ sĩ và mẹ của mình là vợ của Morzan và cũng là Bàn Tay Đen. “Con có thể nói với Nasuada được chứ?” Nó hỏi.
Sư phụ Ormis xoè đôi bàn tay “Nói với bất cứ ai con muốn; bí mật đó giờ đây thuộc về con toàn quyền hành động. Ta ngờ rằng con sẽ gặp nhiều nguy hiểm hơn nếu cả thế giới biết rằng con là người thừa kế của Brom.” “Murtagh.” Eragon nói. “Hắn tin rằng chúng con là anh em ruột. Hắn đã nói vậy với con bằng cổ ngữ.”
“Và ta chắc rằng Galbatorix cũng vậy. Chính cặp sinh đôi đã khám phá ra rằng mẹ của Murtagh và mẹ của con chỉ là một người, và chúng tin đó cho tên vua kia. Nhưng chúng đã không thể báo cho hắn về sự dính líu của Brom, vì không ai trong Varden chia sẻ thông tin bí mật đó.
Eragon ngước nhìn cặp chim nhạn sà xuống phía trên đầu nó, và nó tự cho phép mình nở một nụ người nửa miệng gượng gạo.
“Vì sao con cười?” sư phụ Oromis hỏi. “Con không chắc Người sẽ hiểu.”
Vị tiên khép đôi tay vào giữa hai đùi. “Ta có thể, đúng thế. Nhưng, con không thể biết chắc chắn khi con không thử giải thích.”
Eragon mất một lúc để tìm ra những từ ngữ nó cần. “Khi con còn nhỏ, trước khi … mọi việc này diễn ra” – nó khoát tay chỉ Saphira, sư phụ Oromis và Glaedr và cả thế giới nói chung – “con thường tự tiêu khiển bằng cách tưởng tượng ra rằng, bởi sự hóm hỉnh và sắc đẹp vượt trội, mẹ con đã được đưa đến một trong số các cung điện của Galbatorix. Con đã tưởng tượng rằng bà đi từ thành phố này sang thành phố khác và ăn tối cùng với các bá tước và các quý bà trong những đại sảnh của họ và rằng … ờ, bà đã liều lĩnh đem lòng yêu một người giàu có và quyền thế, nhưng vì những lý do nào đó, bà bắt buộc phải giấu con khỏi ông ấy, vì vậy bà trao con cho cậu Garrow và mợ Marian nuôi giữ, và một ngày nào đó bà sẽ trở lại và nói cho con biếtcon là ai và rằng bà chưa bao giờ muốn để con xa bà.”
“Điều đó chẳng khác là mấy so với những gì đã thực sự xảy ra,” sư phụ Oromis nói.
“Vâng, nó không khác, nhưng … con đã tưởng tượng ra rằng cha mẹ con là những người quan trọng và con cũng vậy. Định mệnh đã đem lại cho con những gì con từng muốn, nhưng sự thật thì không đẹp và hạnh phúc như con đã từng nghĩ … con nghĩ rằng con đã cười vào sự ngu dốt của mình, và cười cả với sự chẳng giống ai của mọi việc xảy ra với con.”
Một cơn gió nhẹ cuốn qua mặt cỏ thưa gợn sóng dưới chân họ và làm rung rinh các cành nhánh trên những cái cây trong khu rừng bao quanh họ. Eragon ngắm nhìn sự dao động trên mặt cỏ trong một thoáng, rồi hỏi chậm rãi, “Mẹ con có phải là người tốt không ạ?”
“Ta không thể nói gì, Eragon. Những sự kiện trong cuộc đời bà thật phức tạp. Sẽ thật ngu ngốc và ngạo mạn khi ta mạo muội phán xét một người ta biết rất ít.”
“Nhưng con cần phải biết!” Eragon nắm chặt đôi bàn tay, những ngón tay nó cùng với những cục chai sần trên khớp tay siết lại. “Khi con hỏi Brom có biết bà không, ông ấy đã nói rằng bà đã rất kiêu hãnh và có phẩm giá và rằng bà đã luôn giúp những người nghèo khó và kém may mắn hơn bà. Nhưng làm sao mà bà làm được? Làm sao mà bà vừa là một người như thế vừa là Bàn Tay đen? Ông Jeod đã kể với con những câu chuyện về những việc những việc xấu xa, kinh khủng – mà bà đã làm khi phục vụ Morzan … Bà là quỷ dữ khi đó, phải không? Phải chăng bà không quan tâm đến quyền lực của Galbatorix? Tại sao bà lại đi cùng Morzan ngay từ đầu?”
Sư phụ Oromis ngập ngừng. “Tình yêu có thể là một lời nguyền khủng khiếp, Eragon ạ. Nó có thể làm con không nhận thấy thậm chí là những điểm xấu lớn nhất trong cách hành xử của một con người. Ta ngờ rằng mẹ con đã biết hết về bản chất thật của Morzan khi bà rời Carvahall cùng hắn, và đã có một thời gian hắn không cho phép bà bất tuân những ý muốn của hắn. Bà trở thành một nô lệ của hắn về mọi lẽ trừ cái tên, và đó chỉ là khi bà thay đổi bản chất, bà mới có thể thoát khỏi vòng kiểm soát của hắn.”
“Nhưng ông Jeod đã nói rằng bà ấy đã thích thú với những gì bà làm khi là Bàn Tay Đen.”
Một sự khinh bỉ thoáng hiện làm thay đổi nét mặt của sư phụ Oromis. “Những miêu tả về các hành động tàn bạo đã qua thường cường điệu và bị bóp méo. Đó là những gì con nên lưu lại trong đầu mình. Không ai ngoại trừ mẹ con biết chính xác những gì bà đã làm, hay vì sao, hay bà cảm thấy thế nào về những việc đó, và bà không còn là một sinh linh sống để tự mình giải thích nữa.”
“Vậy, con biết phải tin ai?” Eragon van nài, “Brom hay Jeod?”
“Khi con hỏi Brom về mẹ mình, ông ấy đã nói với con những gì ông ấy nghĩ là những phẩm chất quan trọng nhất của bà. Lời khuyên của ta là không nên tin vào những gì ông ấy biết về bà. Nếu điều đó không làm nguôi được sự ngờ vực của con, thì hãy nhớ rằng dù những tội ác nào mà bà đã tận tâm phục vụ khi là Bàn Tay Đen của Morzan, thì rút cục bà đã theo phe Varden và ra đi với những sức mạnh phi thường để bảo vệ con. Biết được điều đó rồi, con không nên tự dằn vặt mình nhiều hơn về bản chất thực sự của bà nữa.”
Được đẩy tới bởi ngọn gió, một con nhện treo mình trên sợi tơ cuốn qua Eragon, trầm bổng trong những xoáy khí vô hình. Khi con nhện đã ra khỏi tầm nhìn, Eragon nói, “Lần đầu con đến Tronjheim, bà thầy bói Angela đã nói với con rằng đó là sự trớ trêu của cuộc đời Brom khi ông thất bại ở mọi việc ông cố gắng, trừ việc giết Morzan.” Sư phụ Oromis nghiêng đầu. “Có người thì nghĩ thế. Người khác lại kết luận rằng Brom đã làm được nhiều điều khó khăn và vĩ đại. Điều đó phụ thuộc vào việc con chọn cách quan sát thế giới như thế nào. Những lời của các thầy bói hiếm khi dễ dàng giải đoán. Ta đã có kinh nghiệm rằng những lời tiên đoán của họ không bao giờ cho phép đầu óc ta được nghỉ ngơi. Nếu con muốn được hạnh phúc, Eragon à, thì đừng nghĩ gì về điều sẽ xảy tới hay về điều con không kiểm soát được, mà nên nghĩ tới hiện tại và tới những gì con có khả năng làm thay đổi.”
Một ý nghĩ xuất hiện trong Eragon khi đó. “Blagden,” nó nhắc đến con quạ trắng luôn ở bên Nữ hoàng Islanzadí. “Nó cũng biết Brom phải không?”
Một bên lông mày sắc nét của sư phụ Oromis nhướng lên. “Nó ấy à? Ta chưa bao giờ nói về điều đó với nó. Nó là một tạo vật hay thay đổi và không nên đặt niềm tin.”
“Cái ngày con và Saphira bay tới Cánh đồng Cháy, nó đã đưa ra một câu đố cho con … Con không thể nhớ mọi câu, nhưng đó là về cái gì đó mà hai thành một, khi mà một lại thành hai. Con nghĩ nó ám chỉ con và Murtagh có
cùng cha mẹ.”
“Điều đó là có thể,” sư phụ Oromis nói. “Blagden đã ở đây, tại Ellesméra khi Brom nói với ta về con. Ta không ngạc nhiên nếu tên trộm mỏ nhọn đó đã đậu trên một cái cây gần đây khi chúng ta nói chuyện. Nghe lén là một thói quen không may của nó. Cũng có thể câu đố đó là kết quả của sự thấy trước tương lai đôi khi cũng diễn ra với nó.”
Lát sau, rồng Glaedr chuyển động, và sư phụ Oromis quay lại và liếc nhìn con rồng vàng. Vị tiên đứng dậy khỏi ghế với một dáng vẻ thanh nhã, nói, “Hoa quả, các loại hạt và bánh mỳ luôn sẵn, nhưng sau hành trình của mình, con nên nạp vào dạ dày thứ gì đó bổ dưỡng hơn. Ta có một nồi súp cần giữ cho sôi trong lều của ta, nhưng, đừng có cựa quậy. Ta sẽ đem nó cho con khi xong.” Với những bước chân nhẹ trên cỏ, sư phụ Ormis đi về phía ngôi nhà phủ vỏ cây của ông và khuất vào trong đó. Khi cánh cửa chạm khắc đóng lại, Glaedr thở ra và nhắm mắt lại, dường như chìm vào giấc ngủ.
Và mọi vật đều im lặng, để lại tiếc xào xạc của cành lá đu đưa trong gió.
Chương 47: DI SẢN KẾ THỪA
Eragon ngồi yên một lúc bên chiếc bàn tròn, sau đó đứng dậy và đi về phía bờ vực đá Tel’naeír, tại đó nó hướng tầm mắt bao quát khu rừng trải rộng phía dưới ba trăm thước. Nó dùng mũi giày đẩy hòn sỏi qua vách đá, nhìn nó nảy trên mặt đá dốc cho đến khi mất hút dưới những vòm cây sâu thẳm.
Có tiếng cành cây gãy răng rắc khi Saphira tiến tới từ phía sau. Ả rồng thu mình bên cạnh nó, những cái vảy của cô nàng ánh sang nó hàng trăm đốm sáng xanh nhảy múa, và cũng nhìn về hướng nó đang nhìn. Anh giận em à? ả hỏi.
Không, đương nhiên là không. Anh hiểu là em không thể phá vỡ lời thề bằng cổ ngữ… Anh chỉ ước rằng chính ông Brom nói điều này với anh, và rằng ông ấy đã không thấy cần thiết phải che giấu sự thật với anh.
Ả đưa đầu về phía nó. Vậy anh cảm thấy thế nào, Eragon? Em biết rõ như anh mà.
Vài phút trước thì thế, nhưng giờ thì không. Anh lặng lẽ quá, và nhìn vào tâm tư của anh như soi vào mặt hồ sâu thẳm, em không thể nhìn thấy đáy. Điều gì chứa đựng trong anh, tiểu huynh? Tức giận? Hạnh phúc? Hay không có xúc cảm gì hết?
Những gì trong anh bây giờ là sự chấp nhận, nó nói, và quay sang đối diện với Saphira. Anh không thể thay đổi việc cha mẹ anh là ai, anh đã tự thích nghi với điều đó sau trận chiến ở Cánh Đồng Cháy. Điều đó nghĩa là gì, dù anh có nghiến vụn răng mình ra thì cũng không thay đổi được. Anh nghĩ là anh…vui, khi coi Brom là cha mình. Nhưng anh không chắc… Quá nhiều thứ để có thể nắm bắt cùng một lúc.
Em có cái này có thể giúp anh. Anh có muốn xem ký ức mà ông Brom đã để lại cho anh không, hay anh muốn đợi?
Không, không đợi, nó nói. Nếu trì hoãn, có thể em sẽ không bao giờ còn cơ hội. Vậy thì hãy nhắm mắt lại, và để em cho anh thấy điều gì đã từng xảy ra.
Eragon làm như ả nói, và thông qua Saphira, một dòng chảy cảm xúc lướt tới: những hình ảnh, âm thanh, mùi vị, và hơn thế, nó cảm nhận được mọi thứ cô rồng trải qua vào thời điểm đó.
Trước mặt, Eragon thấy một khoảng thưa của một khu rừng nằm đâu đó giữa những chân đồi chồng chất ở phía tây rặng Spine. Cỏ dày và tươi tốt, và những tấm màn địa y màu lục nhạt rủ xuống từ những thân cây cao, ủ rũ, phủ đầy rêu. Nhờ những trận mưa từ đại dương quét qua vùng đất, cây cối xanh hơn và ẩm ướt hơn nhiều so với ở Thung lũng Palancar. Dưới con mắt của Saphira, màu xanh lục và màu đỏ trở nên dịu hơn so với cái nhìn của Eragon, trong khi mọi gam màu lam đều nổi bật lên. Mùi đất ẩm và gỗ mục tràn ngập không khí.
Tại chính giữa trảng trống là một thân cây đổ, và ngồi trên thân cây đó chính là Brom.
Cái mũ trùm của ông già được kéo ra sau, để lộ đầu trần. Thanh kiếm của ông để ngang đùi. Cây gậy xoắn lượn chạm trổ những hình bí ẩn đứng dựa vào khúc cây. Chiếc nhẫn Aren lấp lánh bên bàn tay phải ông.
Trong một lúc lâu, Brom không dịch chuyển, rồi ông nheo mắt nhìn lên trời, cái mũi khoằm của ông đổ bóng dài trên mặt. Giọng ông nghe khó chịu, và Eragon chao đảo, cảm thấy như bị lạc nhịp khỏi thời gian.
Brom nói, “Mặt trời vẫn theo lối từ chân trời này đến chân trời kia, mặt trăng vẫn theo sau, và ngày tháng vẫn trôi qua mà không hề bận tâm đến những cuộc đời mà chúng đang đè nén, từng cuộc đời một”. Hạ thấp mắt, Brom nhìn thẳng vào Saphira, và qua nó, thẳng vào Eragon. “Dù cố gắng đến đâu, không ai có thể trốn tránh mãi cái chết, ngay cả thần tiên hay những linh hồn. Tất cả đều sẽ có một kết thúc. Nếu con đang quan sát ta, Eragon, tức là ngày tàn của ta đã tới rồi, và ta đã chết, và con biết rằng ta là cha của con”.
Từ cái túi da đeo bên mình, Brom rút ra cái tẩu thuốc của ông, nhồi đầy cỏ cardus, rồi nhóm lửa bằng cách khẽ lẩm bẩm “Brisingr”. Ông bập bập cái tẩu thuốc vài lần cho lên lửa, trước khi trở lại cuộc nói chuyện. “Nếu con thật sự nhìn thấy điều này, Eragon à, ta hi vọng rằng con được an toàn và hạnh phúc, và rằng Galbatorix đã chết. Tuy nhiên ta thấy là chuyện đó rất khó xảy ra, nếu xét riêng cái lý do con là một Kỵ sĩ rồng, và một Kỵ sĩ rồng có thể không bao giờ được nghỉ ngơi khi mà sự bất công vẫn còn hiện diện trên mảnh đất này.”
Brom khẽ bật cười, và ông lắc đầu, chòm râu gợn sóng như làn nước. “A, ta không có đủ thời gian để nói dù chỉ là một nửa những gì ta muốn nói, ta sẽ phải già gấp đôi hiện giờ trước khi ta kể xong. Để cho ngắn gọn, ta sẽ cho rằng Saphira đã cho con biết mẹ con và ta đã gặp nhau ra sao, Selena đã chết như thế nào, và làm sao mà ta lại đến sống tại Carvahall. Ta ước rằng ta và con có thể nói chuyện trực tiếp, Eragon à, chúng ta sẽ vẫn chia sẻ kí ức này, còn Saphira sẽ không cần phải chia sẻ với con, nhưng ta nghi ngờ điều đó. Những năm tháng khổ đau đè nặng lên ta, Eragon à, và ta cảm thấy một sự lạnh lẽo len vào tứ chi, một thứ mà ta chưa bao giờ phải lo lắng trước đây. Ta nghĩ đó là vì ta biết giờ đã đến lượt con phải gánh vác nhiệm vụ này. Vẫn còn rất nhiều thứ ta hi vọng đạt được, nhưng không cái gì là dành cho bản thân ta cả, chỉ cho con thôi, và con sẽ che át đi mọi thứ ta đã từng làm. Ta hoàn toàn chắc chắn về điều đó. Dù vậy, trước khi nấm mồ nuốt lấy ta, ta vẫn muốn có thể, dù chỉ một lần này, gọi con là con trai… con trai của ta… Trong cả cuộc đời con, Eragon ơi, ta đã mong mỏi được nói với con ta là ai. Đó là niềm hân hoan không thể tả xiết đối với ta khi được trông thấy con trưởng thành, nhưng cũng là sự tra tấn khủng khiếp bởi sự thật mà ta đang che giấu trong tim mình.”
Rồi Brom cười, giọng khắc nghiệt, ngắt đoạn và khô khốc. “Ừ, ta đã không thực sự giữ được con an toàn khỏi Đế quốc, còn giờ thì sao? Nếu con vẫn tự hỏi ai là kẻ phải chịu trách nhiệm trước cái chết của cậu Garrow, thì con không phải tìm đâu xa đâu, bởi vì hắn đang ngồi đây này. Đó hoàn toàn là sự dại dột của ta. Ta không bao giờ nên trở lại làng Carvalhall. Và bây giờ thì xem này: Garrow chết, và con, một Kỵ sĩ rồng. Ta cảnh báo với con, Eragon à, hãy thận trọng đối với người mà con yêu, bởi vì định mệnh có vẻ quan tâm đến gia đình ta một cách dễ sợ.”
Ngậm vào cái ống tẩu, Brom rít thuốc vài lần, thổi làn khói trắng sang một bên. Mùi cay nồng xông vào mũi Saphira. Brom nói, “Trong đời ta đã phải hối tiếc rất nhiều rồi, nhưng con không phải là một trong số đó, Eragon à. Có thể đôi khi con cư xử như một tên ngốc mất trí, như vụ con để cho lũ Ugals đáng nguyền rủa này trốn thoát, nhưng con cũng không ngốc nghếch hơn ta khi ta bằng tuổi con đâu.” Ông gật gù. “Thật ra là còn ít ngốc hơn. Ta tự hào vì con là con trai của ta, Eragon à, tự hào hơn con có thể tưởng tượng ra đấy. Ta không bao giờ nghĩ rằng con sẽ trở thành một Kỵ sĩ như ta, hay mong rằng tương lai đó sẽ đè lên con, nhưng nhìn con và Saphira, a, nó làm ta cảm thấy muốn gáy lên mặt trời như một con gà trống vậy.”
Brom lại đưa cái tẩu lên hút “Ta hiểu con có thể sẽ giận ta vì đã giấu con chuyện này. Ta không thể nói là ta sẽ hạnh phúc nếu khám phá ra tên của chính cha ta theo cách này. Nhưng dù con có muốn hay không, chúng ta vẫn là một gia đình, ta và con. Bởi vì ta không thể dành cho con sự quan tâm mà ta nợ con như một người cha, nên thay vào đó, ta sẽ cho con một thứ, đó là lời khuyên. Cứ ghét bỏ ta nếu con muốn, Eragon à, nhưng hãy lưu ý những gì ta nói, bởi ta biết rõ ta nói về cái gì.”
Ông nắm chặt vỏ thanh kiếm bằng tay kia, mạch máu phồng lên trên mu bàn tay. Ông đảo tẩu thuốc sang một góc miệng.
“Rồi. Bây giờ, lời khuyên của ta có hai phần. Bất kể con có làm gì đi nữa, hãy bảo vệ những người mà con quan tâm. Không có họ, cuộc sống của con sẽ đau khổ hơn con có thể tưởng tượng ra. Một điều hiển nhiên, ta biết, nhưng đúng là như vậy đó. Đó, phần đầu lời khuyên của ta. Về phần còn lại… nếu con có may mắn giết được Galbatorix - hoặc là nếu ai đó thành công cắt họng được tên phản đồ đó - thì xin chúc mừng. Còn nếu không, thì con phải nhận ra rằng Galbatorix là kẻ thù lớn nhất và nguy hiểm nhất của con. Khi nào mà hắn còn chưa chết, cả con và Saphira sẽ không thể tìm thấy sự yên bình. Con có thể chạy đến nơi cùng trời cuối đất, nhưng trừ khi con theo phe Đế quốc, còn không một ngày nào đó con sẽ phải đương đầu với Galbatorix. Ta rất tiếc, Eragon, nhưng đó là sự thật. Ta đã chiến đấu với rất nhiều pháp sư, và vài tên Phản đồ, và cho đến giờ, ta luôn luôn đánh bại đối thủ của mình.”
Những nếp nhăn trên trán ông hằn sâu hơn. “Ừ, chỉ trừ một lần duy nhất, nhưng đó là vì ta chưa hoàn toàn trưởng thành. Dù sao đi nữa, lí do mà ta đã luôn luôn chiến thắng, là bởi vì ta sử dụng bộ óc, không như hầu hết mọi người. Ta không phải pháp sư mạnh, so với Galbatorix, và con cũng thế, nhưng trong quyết đấu của phù thủy, trí thông minh còn quan trọng hơn sức mạnh. Cách để đánh bại một pháp sư khác, không phải là mù quáng đập lia lịa vào tâm trí kẻ đó. Không! Để đảm bảo thắng lợi, con phải tìm ra cách mà kẻ thù của con phân tích thông tin và cách hắn phản ứng với vạn vật. Khi đó con sẽ tìm được điểm yếu của hắn, và nhằm vào đó mà tấn công. Mấu chốt không phải là sáng tạo ra một thần chú mà chưa ai từng nghĩ ra, mấu chốt là tìm ra câu thần chú mà kẻ thù đã bỏ qua và sử dụng nó chống lại hắn. Mấu chốt không phải là cày xuyên qua rào chắn trong tâm trí ai đó, mấu chốt là lách xuống dưới hoặc vòng qua rào chắn đó. Không ai thông suốt được mọi sự, Eragon ạ. Hãy nhớ điều đó. Galbatorix có thể có quyền năng vô song, nhưng hắn không thể lường trước mọi khả năng. Dù con có làm gì, con phải giữ được sự lanh lợi trong đầu óc mình. Đừng quá bám lấy một niềm tin nào đó đến mức không thể nhìn vượt tới một khả năng khác. Galbatorix bị điên và vì thế không thể đoán được hắn làm gì, nhưng hắn cũng gặp phải những lỗ hổng trong suy luận mà một người bình thường sẽ không mắc phải. Nếu con có thể tìm thấy điểm yếu đó, Eragon à, khi đó con và Saphira có thể đánh bại hắn.”
Brom hạ thấp tẩu thuốc, khuôn mặt ông nghiêm nghị. “Ta hy vọng con làm được. Mong muốn lớn nhất đời ta, Eragon ơi, là con và Saphira sẽ sống thật lâu và xán lạn, không âu lo về Galbatorix và Đế quốc. Ta ước rằng ta có thể bảo vệ con khỏi tất cả những hiểm nguy đang đe dọa con, nhưng than ôi, điều đó không nằm trong khả năng của ta. Tất cả những gì ta có thể làm là cho con những lời khuyên và dạy con những gì ta có thể dạy lúc này khi mà ta vẫn còn đây… Con trai ta. Dù điều gì xảy ra với con đi nữa, hãy biết rằng ta yêu con, và mẹ con cũng vậy. Cầu mong những vì sao dõi theo con, Eragon Bromsson.”
Khi những lời cuối cùng của Brom vang lên trong tâm trí Eragon, ký ức mờ nhạt đi, để lại đằng sau bóng tối trống rỗng. Eragon mở mắt, bối rối khi nhận thấy những giọt nước mắt đang chảy trên má mình. Nó bật cười nghẹn ngào, và lau mắt bằng rìa cái áo trấn thủ. Brom đã thật sự sợ rằng anh sẽ ghét ông, nó nói, sụt sịt mũi.
Anh sẽ ổn chứ? Saphira hỏi.
Ừ, Eragon nói, ngẩng đầu lên. Thật sự anh nghĩ là thế. Anh không thích một số chuyện Brom đã làm, nhưng anh tự hào khi gọi ông là cha của anh, và được mang tên ông. Ông là con người vĩ đại... Nhưng anh thấy buồn bực vì không bao giờ có dịp để nói chuyện với cha và mẹ anh như cha mẹ.
Ít nhất anh đã có thời gian ở bên ông Brom. Em còn không được may mắn như vậy, cả cha và mẹ em đều đã chết rất lâu trước khi em sinh ra. Mức gần nhất em có thể đến với họ chỉ là một vài kí ức mơ hồ từ Glaedr.
Eragon đặt một bàn tay lên cổ ả rồng, và chúng cố gắng làm dịu lòng nhau bằng cách tốt nhất có thể trong khi đứng ở rìa vực Tel’naeír và trải tầm mắt ra khu rừng của thần tiên.
Không lâu sau đó, Oromis hiện ra từ túp lều của ông, mang theo hai bát súp, và Eragon với Saphira quay lại, chậm rãi bước về phía chiếc bàn nhỏ phía trước thân hình đồ sộ của Glaedr.
Chương 48: Những linh hồn trong đá
Khi Eragon đẩy chiếc bát trống không của nó ra xa, Oromis nói " Con có muốn xem bức fairth của mẹ con không, Eragon?"
Eragon đông cứng người mất một lúc, kinh ngạc. "Có, xin thầy" Từ những nếp gấp của chiếc áo chùng trắng, Oromis rút ra một phiến đá mỏng màu xám đưa cho Eragon. Tảng đá lạnh và trơn nhẵn giữa những ngón tay
Eragon, Trên mặt kia của phiến đá, nó biết,nó sẽ tìm thấy được một hình dung hoàn hảo về mẹ mình, được vẽ lên bởi một câu thần chú với những màu sắc mà một thần tiên đã đưa vào phiến đá này nhiều năm về trước. Một cơn lo lắng kích động chạy ngang người Eragon. Nó luôn muốn nhìn thấy mẹ, dù bây giờ cơ hội đó đang đứng trước mặt, nó lại sợ rằng thực tế sẽ làm nó thất vọng.
Cùng một sự cố gắng, nó quay phiến đá lại và trông thấy một bức vẽ - trong trẻo như một ảo ảnh nhìn qua khung cửa sổ - của một khu vườn hoa hồng đỏ và trắng lung linh trong những tia nắng mờ ảo của buổi bình minh. Con đường nhỏ rải sỏi chạy qua những luống hoa hồng. Và ở chính giữa con đường là một người phụ nữ, đang quỳ gối, một bông hồng trắng đặt giữa hai lòng bàn tay đang khum khum và bà cười với nhành hoa, mắt bà khép lại nụ cười khẽ nở trên môi. Bà ấy thật xinh đẹp, Eragon nghĩ. Nét mặt bà thật dịu dàng và nhân từ, lúc đó bà đang mặc một bộ quần áo bằng da, với một chiếc bao tay bắn cung đen thẫm đeo ở cánh tay những chiếc giáp che nơi ống quyển, một cây kiếm và một con dao găm quàng trên vai. Trong những đường nét khuôn mặt bà, Eragon có thể nhận một nét đặc trưng của chính mình cũng như một chút sự tương đồng với cậu Garrow, anh trai bà.
Hình ảnh đó làm Eragon bị mê hoặc , Nó đặt tay mình lên mặt tấm fairth, ước rằng nó có thể với vào bên trong và chạm tay tới bà.
Mẹ
Oromis nói, "Brom đã trao tấm faith này cho ta cất giữ an toàn trước khi ông ấy rời Carvahall, và giờ ta trao nó lại cho con."
Không hề ngước lên, Eragon hỏi, " Thầy có thể giữ nó an toàn thật tốt hộ con không? Nó có thể sẽ bị vỡ trong suốt cuộc hành trình và chiến đấu của chúng con ."
Sự yên lặng theo sau làm Eragon chú ý. Nó rời ánh mắt chăm chú từ mẹ mình để trông thấy rằng Oromis có vẻ sầu muộn và lơ đãng
"Không, Eragon ạ. Ta không thể. Con sẽ phải thu xếp cách khác để bảo quản bức faith này/" Tại sao cơ? Eragon muốn hỏi, nhưng sự lo lắng trong mắt Oromis đã ngăn nó lại.
Rồi sau đó Oromis nói, "Thời gian của con có hạn, và chúng ta vẫn còn có nhiều vấn đề để thảo luận. Ta sẽ đoán về chủ đề con muốn nói tiếp theo, hay con sẽ nói cho ta điều đó?"
Cùng một sự bất tắc dĩ to lớn, Eragon đạt tấm fairth lên bàn và lật nó lại để hình ảnh trên bề mặt lắng dần. "Hai lần chúng con đã chiến đấu với Murtagh và Thorn, Murtagh đã mạnh hơn bất cứ kẻ bị ràng buộc nào. Trên Cánh đồng cháy, hắn đã đánh bại Saphira và con nhưng bọn con không nhận ra được là hắn mạnh lêm bằng cách nào. Nếu không vì sự thay đổi thái độ của hắn, chúng con bây giờ đã là tù binh ở Urû’baen. Một lần thầy đã đề cập rằng thầy biết cách mà Galbatorix trở nên hùng mạnh. Thầy sẽ kể với con bây giờ chứ, Sư phụ? Vì sự anh toàn của chính chúng con, chúng con cần phải biết."
"Đây không phải trách nhiệm của ta để nói cho con về điều này" Oromis nói."Vậy nó là của ai?" Eragon gặng hỏi. "Thầy không thể ..."
Phía sau Oromis, cặp mắt màu kim loại nóng chảy của Glaedr mở một bên, lớn như một tấm khiên tròn, và nói, "Là của tôi ...Nguồn gốc quyền lực của Galbatorix nằm trong những trái tim của loài rồng. Hắn đã ăn cắp sức mạnh từ chúng tôi. Không có sự trợ giúp của chúng tôi, Galbatorix đã bị đáng bại bởi thần tiên và quân Varden từ lâu rồi.
Eragon giận dữ. "Tôi không hiểu, tại sao các ngươi lại giúp Galbatorix? Và làm thế nào các ngươi có thể? Chỉ có bốn con rồng và một thần tiên ở Alagaësia ... phải vậy không?"
Rất nhiều những con rồng mà thân xác của chúng bị Galbatorix và những lời nguyền giết chết vẫn tồn tại đến ngày nay.
"Vẫn tồn tại ...? " Hoang mang, Eragon liếc nhìn sang Oromis, nhưng vị thần tiên này vẫn yên lặng, nét mặt bí hiểm. Thậm chí lúng túng vì là Saphira dường như không hề bối rối như nó"
Gã rồng vàng nhấc chân để quay đầu nhìn Eragon rõ hơn, những cái vẩy của nó cọ vào nhau. Không giống như hầu hết những sinh vật khác, gã nói, tư tưởng của một con rồng không chỉ trú ngụ trong bộ óc. Nó ở trong những bộ ngực rắn chắc của chúng ta, một vật giống như khối đá quý, giống cấu tạo lớp vẩy chúng ta được gọi là Eldunarí, có nghĩa là " trái tim trong trái tim". Khi một con rồng chui ra từ trứng, Eldunarí của nó trong suốt và không rực rỡ. Thông thường nó tồn tại suốt cả của cả cuộc đời một con rồng và phân hủy cùng với thi hài của con rồng khi chúng chết, Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn, chúng ta có thể chuyển dời tư tưởng của mình vào Eldunarí. Sau đó nó sẽ có được cùng màu sắc như lớp vẩy và bắt đầu cháy rực như than. Nếu một con rồng làm xong việc này, Eldunarí đó sẽ tồn tại lâu hơn cả sự thối rữa của xác thịt, và bản chất của một con rồng có thể sống trong vĩnh viễn. Ngoài ra, một con rồng có thể nhả ra Eldunarí của chúng trong khi vẫn còn sống. Vì lí đó, thân xác của một con rồng và tư tưởng của rồng có thể thoát ra tách biệt nhau mà lúc đó vẫn giữ được sự liên kết. Qua đó, bọn chúng đã bắt chúng ta làm theo mệnh lệnh của chúng, bất chấp hèn hạ.
Sự ngụ ý trong những gì Glaedr đã nói làm Eragon sửng sốt. Di chuyển ánh mắt chăm chú sang Saphira, nó hỏi,
Em đã biết về điều này chứ?
những chiếc vẩy trên ngực cô ả gơn sóng khi ả thúc một cú, di chuyển chiếc đầu như một con rắn. Em luôn luôn nhận thức được về trái tim trong trái tim, Luôn luôn em có thể cảm thấy nó bên trong mình, nhưng em không bao giờ nghĩ đến để nói với anh.
Làm sao em có thể không nói gì khi nó quan trọng đến như thế?
Anh có nghĩ nó cũng tương tự như nói rằng anh có một cái dạ dày không, Eragon? Hoặc một trái tim hay một lá gan hay bất cứ cơ quan nào khác. Eldunarí của em là một phần không thể thiếu của của chính em. Em không bao giờ nhìn thấy dấu hiệu tồn tại rõ ràng của nó... Ít ra là không cho tới khi chúng ta đến Ellesméra lần trước.
Vậy là em đã biết!
Chỉ một chút thôi. Glaedr đã gợi ý rằng trái tim trong trái tim của em, quan trọng hơn em tưởng trước kia, và anh ta đã cảnh báo em để bảo vệ nó, vì sợ rằng em vô tình tự giao chúng vào bàn tay kẻ thù của chúng ta, anh ta không hề giải thích gì hơn nữa, nhưng về sau, em đã rút ra được nhiều điều từ những gì anh ta nói.
Bây giờ đây em vẫn không nghĩ đây là điều đáng bàn ư? Eragon hỏi gặng.
Em đã muốn nói, cô ả gầm lên, nhưng cũng như với Brom, em đã hứa với Glaedr rằng em sẽ không nói việc này cho bất cứ ai, không ngoại trừ cả anh.
Và em đã đồng ý à?
Em tin tưởng Glaedr, và em tin tưởng Oromis, anh thì không sao?
Eragon cau có và quay trở lại với vị thần tiên và con rồng vàng. " Sao thầy không kể với chúng con việc này sớm hơn?"
Mở nút chiếc bình cao cổ, Oromis rót đầy cốc rượu vang và nói, "Nằm trong lệnh lệnh để bảo vệ Saphira." "Bảo vệ em ý ư? từ cái gì?"
Từ ngươi, Glaedr nói. Eragon quá kinh ngạc và thấy bị xúc phạm, nó cố điềm tĩnh trở lại đủ tốt để không phản kháng trước khi Glaedr nói tiếp. Trong tự nhiên, một con rồng sẽ học được về Eldunarí từ một tiền bối của nó khi nó đủ hiểu biết để sử dụng Eldunarí. Theo cách đó, một con rồng sẽ không tự chuyển vào trái tim trong trái tim mà không có sự nhận thức đầy đủ ý nghĩa những hành động của chúng. Sống cùng các kị sĩ, một thói quen khác phát sinh, Đầu tiên một vài năm trong sự gắn kết giữa rồng và các kị sĩ chủ yếu là thiết lập một mối quan hệ chặt chẽ giữa cả hai, và những kị sĩ đã nhận ra rằng tốt hơn là đợi cho tới khi sự gắn kết mới mẻ của kị sĩ và rồng trở nên thân thuộc hơn với mỗi người sau đó nói cho họ biết về Eldunarí. Mặt khác, trong hàng động bất cần dại dột của tuổi trẻ, một con rồng có thể quyết định nhả ra trái tim trong trái tim ra chỉ để giải khuây hay gây ấn tượng với kị sĩ của nó. Khi chúng ta trao tặng Eldunarí của mình, là chúng ta đang tặng cả hiện thân với toàn bộ sự sống của mình. Và chúng ta không thể đặt nó quay lại nơi đã thuộc về nó trong cơ thể một khi đã được lấy ra. Một con rồng không nên ở tình trạng chia cắt với tư tưởng soi sáng nó, vì nó sẽ làm thay đổi cách chúng sống thanh thản trong suốt cả cuộc đời, thậm chí nếu chúng có thể tồn tại hàng nghìn năm.
"Ngươi vẫn còn trái tim trong trái tim chứ?" Eragon hỏi.
trảng cỏ xung quanh chiếc bàn rũ xuống dưới luồng hơi nóng phun ra từ lỗ mũi Glaedr. Đó không phải là câu hỏi xã giao để hỏi bất cứ con rồng nào trừ Saphira. Đừng bao giờ đánh bạo để hỏi lại tôi điều đó, đồ mới nở.
Mặc dù sự khiển trách của Glaedr làm hai má Eragon nóng ran, nó vẫn cần thiết đáp lại khi phải làm, bằng một phản ứng nhượng bộ và những lời lẽ "Không, thưa tiền bối"
rồi nó hỏi, " Điều ... điều gì xảy ra nếu Eldunarí của ngươi bị vỡ?"
Nếu một con rồng đã sẵn sàng chuyển tư tưởng của nó vào trái tim, rồi thực sự chết đi. chúng ta cất giữ trái tim của mình ở Du Fells Nángoröth, những dãy núi trong trung tâm của sa mạc Hadarac. Về sau, khi các kị sĩ tự thành lập trên đảo của Vroengard và xây dựng tại đó một nơi cất giữ Eldunarí, những con rồng hoang dã và những con rồng có liên kết đều giao trái tim của mình cho các kĩ sĩ cất giữ an toàn.
"Rồi sau đó" Eragon nói, "Galbatorix đã đoạt được Eldunarí ?"
Trái với sự trông chờ của Eragon, Oromis lại là người trả lời. "Hắn ta đã làm vây, nhưng không phải tất cả trong một lần. Nó xảy ra từ rất lâu rồi , từ thời không một ai có thể thực sự đe dọa tới các kị sĩ rồng, rất nhiều người trong chúng ta trở nên bất cẩn với việc bảo vệ Eldunarí. trong thời Galbatorix quay sang chống lại chúng ta, Không hề nghi ngờ vì một con rồng nhả Eldunarí của chúng ra chỉ đơn thuần vì bị sự lung lạc bởi lợi ích."
"Lơi ích?"
Bất cứ người nào nắm giữ những trái tim của chúng ta, Galbatorix nói, có thể liên lạc với con rồng đó từ mà không cần quan tâm tới khoảng cách. Toàn thể Alagaësia có thể cách li kị sĩ và rồng, nếu kị sĩ có bên cạnh Eldunarí con rồng của anh ta, họ có thể chia sẻ ý nghĩ một cách dễ dàng như cậu và Saphira đang làm bây giờ. "Thêm vào đó" Oromis nói, "một phù thủy chiếm hữu được một Eldunarí có thể có rút từ sức mạnh của rồng giúp sức cho những thần chú của hắn, Lại cũng chẳng cần quan tâm đến con rồng đó có thể đang ở đâu. Khi ..."
Một chú chim ruồi màu sắc sặc sỡ làm gián đoạn cuộc nói chuyện của họ bằng cách phóng như tên qua chiếc bàn. Đôi cánh đập mạnh loang loáng, chú chim bay liệng bên trên chiếc bát đựng hoa quả và tớp thứ chất lỏng tràn ra từ một quả mâm xôi bị nát, rồi chuyền cành và bay đi, biến mất giữa những tàng cây của cánh rừng.
Oromis lại đang tiếp tục nói. "Khi Galbatorix giết kị sĩ đầu tiên, hắn đã ăn cắp luôn trái tim rồng của kị sĩ đó. Trong suốt nhiều năm sau Galbatorix ẩn mình trong vùng hoang vu, hắn phá vỡ tâm trí của rồng và chiếm lấy nó cho tham vọng của mình, hình như là cùng với Durza. Và khi Galbatorix bắt đầy sự nổi loạn của hắn trong điềm báo, với Morzan bên cạnh, hắn trở nên mạnh hơn hầu hết tất cá các kị sĩ khác. Sức mạnh của hắn không chỉ là phép thuật mà còn cả trí tuệ từ quyền lực tư tưởng của Eldunarí’s gia tăng cho chính hắn.
"Galbatorix không chỉ cố giết những Kị sĩ và rồng. Hắn biến nó thành mục tiêu để chiếm được càng nhiều Eldunarí càng tốt, bằng cách sự ăn cắp từ kị sĩ hay hành hạ một kị sĩ cho tới khi con rồng của anh ta nhả trái tim trong trái tim ra. Lúc chúng ta nhận ra việc mà Galbatorix đang làm, hắn đã thực sự quá hùng mạnh để ngăn chặn. Điều giúp cho Galbatorix là chẳng những nhiều kị sĩ du hành không chỉ bằng Eldunarí của chính con rồng của họ mà còn với với Eldunarí của những con rồng đã chết, vì những con rồng thường trở nên buồn chán với việc ngồi yên một góc và khao khát thám hiểm, dĩ nhiên, một lần Galbatorix và lời thề cướp phá thành phố Doru Araeba trên đảo Vroengrand, hắn đã chiếm được toàn bộ kho cất dấu mà Eldunarí được bảo quản trong đó.
"Galbatorix đạt chiến thắng của mình bằng cách sử dụng sức mạnh và sự thông thái của những con rồng để chống lại toàn thể Alagaësia. Đầu tiên hắn không thể kiểm soát được một số Eldunarí mà hắn chiếm được. Đó không phải là một việc dễ dàng gì để bắt một con rồng phục vụ cho mình, dù con có mạnh thế nào cũng không là vấn đề. Galbatorix nhanh chóng đè bẹp các kị sĩ và tự dưng hắn lên làm vua của Urû’baen, hắn đã tự vạch ý đồ để khuất phục sự yên nghỉ của những trái tim, từng trái từng trái một.
"Chúng ta tin rằng đó là mục tiêu quan tâm chính của hắn trong của 40 năm sau đó , trong suốt thời gian đó hắn chỉ trả miếng Alagaësia bằng một cuộc tấn công uy hiếp nhỏ - đây cũng là nguyên nhân mà những người Surda có thể li khai khỏi đế quốc. Khi đã hoàn tất Galbatorix lui về sống ẩn dật và bắt đầu áp đặt quyền kiểm soát trên khắp đế quốc và những vùng đất lân cận. Vì một số lí do, sau hai năm rưỡi gia tăng các cuộc thảm sát và nỗi kinh hoàng, hắn lại rút khỏi Urû’baen, hắn chú ý tới những điều chưa từng để ý trước kia, không phải chỉ một như trước, nhưng rõ ràng có một vài kế hoạch chỉ riêng hắn biết.Nhược điểm của hắn rất nhiều, nhưng hắn không tự tỏ ra sơ hở, rất nhiều những điệp viên của Varden đã quả quyết như vậy. Chúng ta cũng không thể phát hiện được gì hơn."
Không suy nghĩ nhiều, Eragon nhìn chăm chú vào khoảng không đằng xa. Lần đầu tiên, tất cả những câu chuyện mà nó được nghe về sức mạnh phi thường của Galbatorix được giải thích. Một cảm giác không rõ ràng về sự lạc quan trỗi dậy từ Eragon khi nó tự nói với mình, Mình không chắc là như thế nào, nhưng nếu chúng ta có thể giải phóng những Eldunarí khỏi sự thao túng của Galbatorix, hắn sẽ không còn hùng mạnh hơn bất kì kị sĩ rồng nào khác. Không giống như sự tưởng tượng hình dung, nó khích lệ Eragon khi biết rằng tên bạo chúa đã có một nhược điểm, dù nhỏ như thế nào cũng không quan trọng.
Khi Eragon tiếp tục trầm ngâm quanh vấn đề đó, một câu hỏi khác xuất hiện trong nó. " tại sao con chưa bao giờ nghe kể về trái tim của rồng trong những câu chuyện cổ? Nếu chúng quan trọng thực sự, thì các thi sĩ và học giả sẽ phải nhắc đến chứ."
Oromis đặt một tay lên bàn và nói, "Trong tất cả những bí mật của Alagaësia, bí mật về Eldunarí là điều được che đậy kín đáo nhất. Suốt trong lịch sử , loài rồng cố gắng dấu đi trái tim trong sự yên nghỉ của thế giới, Chúng đã tiếp lộ lối sống của mình cho chúng ta chỉ sau khi hiệp ước về phép thuật giữa các loài được thiết lập, và cũng chỉ một vài điều chọn lọc."
"Nhưng tại sao?"
Ah, Glaedr nói, thường thì chúng ta khinh thường việc cần thiết của sự kín đáo, nhưng nếu kiến thức về Eldunarí từng được chia sẻ, mọi tên vô lại tầm thường trên mảnh đất này sẽ muốn cố gắng để đánh cắp nó, và cuối cùng vài tên có thể đạt được mục đích, đó là kết luận rút ra trong một thời gian dài phòng bị.
"Có phải không có cách nào để một con rồng tự ngăn chúng nghĩ về Eldunarí đúng không?" Eragon hỏi.
Con mắt Glaedr dường như sáng lấp lánh chưa từng thấy. Một câu hỏi thông minh. Một con rồng nhả ra Eldunarí của chúng nhưng chúng vẫn thích sử dụng thân thể của chúng nếu có thể, dĩ nhiên, bảo hệ trái tim bằng móng vuốt, răng nanh, và đuôi và với những đập cánh mạnh mẽ.Một con rồng mà thân thể của chúng đã chết, dĩ nhiên, không còn lại gì từ những lợi thế đó nữa. Vũ khí duy nhất của chúng là ý chí của mình, tuy nhiên nếu thời điểm đó đến, vũ khí phép thuật là điều mà chúng ta không thể điều khiển bằng ý chí. Đó là một lí do vì sao rất nhiều rồng không chọn kéo dài cách sống lưu lại trong thân xác của chúng. Không thể di chuyển theo ý muốn của cậu, không thể cảm nhận thế giới xung quanh cậu ngoại trừ suy nghĩ của kẻ khác, và chỉ có thể tác động đến các sự vận đang diễn ra bằng suy nghĩ của cậu, hiếm khi và không đoán được sự bùng phát của phép thuật, Một tình trạng khó khăn với hầu hết bất cứ sinh vật nào.Nhưng đặc biệt với loài rồng thì khác, kẻ tự do nhất trong số tất cả
những loài từng tồn tại.
"Tại sao chúng làm vậy, rồi sau đó thì sao?" Eragon hỏi.
Thỉnh thoảng cũng xảy ra tai nạn. Khi thân thể chúng tôi là yếu điểm, một con rồng có thể hoảng sợ và chạy trốn vào Eldunarí của chúng . Hoặc nếu một con rồng nhả ra trái tim chúng trước khi thân xác chết đi, chúng sẽ không có lựa chọn nhưng vẫn tiệp tục tồn tại. Dù hầu hết, những con rồng chọn sống trong Eldunarí của chúng đã quá già rồi, già hơn cả Oromis và ta bây giờ, đủ già để mối quan tâm của thân xác thôi quan trọng với chúng ,chúng quay trở về với chính mình và muốn sống trong sự yên nghỉ vĩnh hằng những thắm mắc mà những con rồng trẻ hơn đang sống không thể hiểu thấu đáo được. Chúng ta sùng kính và gìn giữ những trái tim của rồng đó vì sự hiểu biết rộng lớn và thông thái của chúng . Cả những con rồng hoang dã và những con rồng có gắn kết cũng như những kị sĩ, đểu tìm kiếm lời chỉ bảo từ họ về những vấn đề quan trọng. Vì thế Galbatorix nô dịch họ là một hành động vô đạo gần như tàn bạo và độc ác không thể tưởng tượng được.
Bây giờ em đang có một câu hỏi, Saphira nói, sợi dây suy nghĩ phong phú của cô ả chạy qua tâm chí Eragon. Trước tiên nếu một trong số chúng bị giam hãm trong Eldunarí chính mình, chúng phải tiếp tục sống hay là điều đó là tùy vào chúng. Nếu chúng không cam chịu sống trong hoàn cảnh đó nữa, thì chúng sẽ tự giải phóng mình khỏi sự giam cầm ở trần gian và đi về bên kia bóng đêm chứ?
"Không phải do chúng tự quyết được" Oromis nói. "trừ phi không có cảm hững phép thuật bao phủ quanh con rồng và điều đó sẽ cho phép chúng phá vớ Eldunarí từ bên trong, với hiểu biết của ta, điều đó hiếm khi xảy ra. Chỉ có thể chọn cách duy nhất khác là thuyết phục ai đó đập vớ Eldunarí cho chúng. Sự mất tự chủ là một lí do tại sao khác loài rồng cực kì cảnh giác về việc chuyển mình vào trái tim trong trái tim, vì sợ rằng tự đánh bẫy chính họ trong một nhà tù không có lỗi thoát.
Eragon có thể thấy sự kinh tởm trong ý nghĩ của Saphira về viễn cảnh đó. Cô ả không nói về nó nữa, tuy nhiên, vẫn hỏi, Bao nhiêu Eldunarí bị Galbatorix giữ làm nô lệ?
"Chúng ta không biết chính xác con số " Oromis nói, "nhưng chúng ta ước đoán rằng kho chứa của hắn có tới hàng trăm."
Một tia sáng lờ mờ lách qua thân hình lộng lẫy của Saphira, Vậy sau tất cả, giống loài của chúng ta không hề đứng trên bờ diệt vong đúng không?
Oromis ngập ngừng, và Glaedr là người trả lời, Tiểu muội, gã nói, làm Eragon ngạc nhiên khi vì cách gã sử dụng tính ngữ, thậm chí nếu mặt đất có bị chôn vùi cùng với Eldunarí thì giống loài chúng ta cũng vẫn bị kết tội. Một con rồng đã được lưu giữ trong Eldunarí thì vẫn là một con rồng, nhưng chúng không còn ám ảnh bởi sự thôi thúc của thể xác, hay các cơ quan với đầy đủ chức năng. Chúng không thể sinh sản.
Gáy Eragon bắt đầu đau âm ỉ, và đánh thức nhanh chóng tình trạng mệt mỏi từ chuyến du hành bốn ngày trước. Sự kiệt sức làm nó khó mà giữ được suy nghĩ thêm một lúc nữa, trong một sự xao lãng nhỏ nhất, chúng trượt khỏi sự kiểm soát của nó.
Chóp đuôi của Saphira giật giật. Em không ngốc lắm khi tin rằng Eldunarí có thể sinh con đâu. Tuy nhiên, thật dễ chịu cho em khi biết mình không hề đơn độc như đã nghĩ ... Loài chúng em có thể phải mang tôi, nhưng ít nhất có nhiều hơn bốn con rồng còn tồn tại trên thế giới, dù chúng có được ở trong thể xác hay không.
"Đó là sự thật" Oromis nói, "nhưng chúng cũng bị giam cầm như Mutagh và Thorn."
Giải phóng cho chúng giúp ta có cái gì đó để mà tranh đấu, tuy nhiên , cũng với việc giải cứu quả trứng cuối cùng nữa, Saphira nói.
"Có vài việc cho chúng ta để giải cứu cả hai" Eragon nói, " Chúng ta là hy vọng duy nhất. " nó bóp trán bằng ngón cái phải rồi nói, " Vẫn có vài điều con không hiểu"
"Oh?" Oromis hỏi. " Khía cạnh nào làm con lẫn lộn?"
"Nếu Galbatorix tìm thấy sức mạnh từ những trái tim đó, làm cách nào chúng tạo ra năng lượng cho hắn sử dụng?" Eragon ngừng lại, để kiếm cách diễn giải tốt hơn câu hỏi của nó. Nó chỉ vào bày chim nhạn vút qua trên bầu trời. "Mọi sinh vật sống đều ăn và uống để duy trì sự sống của chính mình, ngay cả với thực vật. Thức ăn cung cấp năng lượng mà cơ thể dùng để hoạt động thực tế. Nó cũng cung cấp năng lượng chúng ta cần cho việc tạo ta phép thuật, theo con, chúng ta dựa vào sức lực của chính mình để tạo một câu thần chú hoặc sử dụng sức mạnh từ những thứ khác. Nó cũng như vậy kể cả với những Eldunarí đó chứ? Chúng không có xương, cơ và da phải không ạ? Chúng không ăn ư? Vậy , làm cách nào chúng tồn tại được? Chúng lấy năng lượng từ đâu? Oromis cười, chiếc răng nanh của ông sáng loáng như lớp men sứ. "Từ phép thuật"
"Phép thuật?" Nếu định nghĩa phép thuật như là sự vận động của năng lượng, thực tế nó là vậy, thì dĩ nhiên, phép thuật. Nơi chính xác mà các Eldunarí thu năng lượng của chúng là một điều huyền bí đối với cả chúng ta và loài rồng, chưa từng có một ai biết được nguồn gốc. Chúng có thể hấp thụ ánh sáng mặt trời như thực vật hoặc đươc cung cấp sức mạnh của những sinh vật xung quanh.Dù câu trả lời là gì, nó cũng chứng minh rằng khi một con rồng thoát khỏi thân xác đã chết và tư tưởng của chúng được đặt vào trái tim trong trái tim của chúng, chúng
mang theo mình rất nhiều sức mạnh dự trữ bằng cách nào đó từ thân xác đã ngừng hoạt động. Sau đó, kho năng lượng của chúng tăng trưởng một cách đều đặn trong năm đến bảy năm tiếp theo, cho tời khi đạt được sức mạnh tràn đầy, thứ thực sự vô cùng to lớn, Toàn bộ lượng năng lượng của Eldunarí có thể cất giữ phụ thuộc vào khích cỡ của trái tim. Con rồng già hơn, Eldunarí của chúng lớn hơn và nhiều năng lượng hơn nó có thể hấp thụ trước khi trở thành bão hòa.
Nhớ lại khi nó và Saphira chiến đấu với Murtagh và Thorn, Eragon nói, " Galbatorix phải trao cho Murtag rất nhiều Eldunarí.Đó là cạc giải thích duy nhất cho việc sức mạnh của hắn tăng nhanh chóng."
Oromis gật đầu. " Con rất may mắn, Galbatorix đã không cho hắn mượn thêm một bất trái tim nào nữa, nếu thêm nữa, Murtagh đã dễ dàng áp đảo con, Arya và tất cả các pháp sư khác cùng với Varden."
Eragon nhớ lại bằng cách nào mà cả hai lần nó và Saphira chạm trán Murtagh và Thorn, Tâm trí của Murtagh như là bao gồm cả những tồn tại phức tạp nữa.Eragon chia sẽ sự tổng hợp lại của mình với Saphira và nói, Những thứ đó phải là Eldunarí anh cảm thấy ... anh tự hỏi về nơi mà Murtagh cất chúng? Thorn không mang yên cương, và anh không thấy bất kì thứ gì phồng ra trên áo Murtagh.
Em không biết, Saphira nói. Anh nhận ra rằng Murtagh đang ám chỉ đến Eldunarí khi hắn nói rằng thay vì đâm nát trái tim của anh, còn hơn là đâm nát những tim của hắn. Những trái tim. không phải là một trái tim.
Em đã đúng! Có thể hắn đang cố cảnh báo cho anh.
Hít vào, Eragon thả lỏng đốt xương bả vai và ngả lưng trên ghế tựa của mình. "Trừ trái tim trong trái tim của Saphira và của Glaedr, còn có Eldunarí nào mà Galbatorix không chiếm được không?"
Những nếp nhăm thoáng xuất hiện quanh khóe miệng Oromis. "Không ai trong chúng ta biết được. Sau khi sự sụp đổ của kị sĩ rồng, Brom đã tìm kiếm Eldunarí mà có thể Galbatorix đã bỏ sót nhưng không thành công, và cũng không , trong tất cả những năm Alagaësia yên bình theo trí nhớ của ta, ta đã tìm kiếm những lời thì thầm của một Eldunarí. Mọi Eldunarí đều bị chiếm đoạt khi Galbatorix và Morzan bắt đầu cuộc chiến tấm công chúng ta, và không một Eldunarí nào biến mất mà không giải thích được. Thật phi thường nếu có bất kì một kho cất giữ Eldunarí đồ sộ nào có thể nằm ẩm mình ở đâu đó, sẵn sàng giúp sức chúng ta nếu chúng ta có thể tìm ra chúng. Mặc dù Eragonkhoong mong chờ một câu trả lời nào khác, nó vẫ bị thất vọng. " Một câu hỏi cuối cùng. Khi cả kị sĩ hoặc rồng của kị sĩ chết đi, người còn lại của bộ đôi thường bỏ đi xa hoặc sớm tự sát sau đó. Và họ thường trở nên điên loạn sau mất mát đó, con nói đúng không ạ?"
Ngươi đã đúng, Glaedr nói.
"Điều gì sẽ xảy ra, nếu con rồng chuyển tư tưởng của chúng vào trái tim và rồi sau đó thân thể của chúng chết đi?"
Qua đế giày, Eragon cảm thấy một sự rung lắc nhẹ của mặt đất khi Glaedr di chuyển vị trí. Con rồng vàng nói, nếu thân thể một con rồng từng trải chết đi và lúc đó kị sĩ của chúng vẫn còn sống, Chúng cũng được biết đến như một Indlvan. Sự chuyển đổi trở nên khó mà dễ chịu gì với một con rồng, nhưng rất nhiều kị sĩ và rồng đã thích ứng được với sự thay đổi và chúng tiếp tục phục vụ các kị sĩ bằng sự lỗi lạc. Tuy nhiên nếu kị sĩ của con rồng là người bị chết, thì con rồng đó thường sẽ đập vớ Eldunarí của chúng hoặc dàn xếp với ai đó để đập vỡ nó cho chúng nếu thân xác chúng không còn nữa, theo cách đó tự giết mình và đi theo kị sĩ của chúng vào hư không. Nhưng không phải tất cả. Một số con rồng có thể vượt qua được sự mất mát của chúng - như một vài kị sĩ, ví dụ như Brom - và tiếp tục phụng sự xứ mệnh trong nhiều năm sau đó, bằng cả thân xác và trái tim trong trái tim của chúng.
Thầy đã cho chúng con rất nhiều điều để suy nhẫm, Oromis tiền bối , Saphira nói. Eragon gật đầu nhưng vẫn giữ yên lặng, vì nó đang bận cân nhắc về tất cả những gì vừa được nghe.
Chương 49: Đôi tay của chiến binh.
Eragon nhấm nháp một quả dâu tươi, ngọt lịm trong khi nhìn đau đấu vào bầu trời sâu thăm thẳm. Khi ăn xong , búng đầu ngón tay trỏ, nó vứt cuống vào cái khay trước mặt và sau đó mở miệng nói. Trước khi nó có thể cất tiếng, Oromis đã nói, " Giờ thì sao đây, Eragon?"
"Giờ thì sao ạ?"
"Chúng ta đã vừa nói chuyện rất lâu về những vấn đề mà các con quan tâm. Giờ con và Saphira muốn làm gì? Con không thể chần trừ ở Ellesméra, vậy nên ta tự hỏi con còn mong chờ điều gì khác trong chuyến thăm viếng này hay con sẽ lại khởi hành theo kế hoạch vào sáng mai? "
" Chúng con đã hy vọng " Eragon nói, "rằng khi chúng con trở lại, chúng con có thể tiếp tục sự huấn luyện như trước, Hiển nhiên là chúng con không có thời gian rồi, nhưng còn có một việc khác con muốn làm."
" Và đó là ?"
"... thưa sư phụ, con đã không nói cho người nghe tất cả mọi việc xảy ra khi con và Brom ở Teirm. " Và rồi Eragon thuật kĩ lại nó đã hiếu kì và bị lôi cuốn như thể nào ở của hiệu của Angela và bà ta đã nói về số phận của
nó ra sao, và chỉ dẫn của của Solembum đã cho nó sau đó.
Oromis đưa một ngón tay lên bên dưới vành môi, Thái độ trầm mặc. " Ta đã nghe nhắc đến,bà thầy bói này thường xuyên trong suốt năm trước, cả từ con và báo cáo của Arya về Varden. Bà Angela này hình như là người một thầy thuốc tài giỏi trong những lúc nguy cấp và có mặt ở bất cứ đâu xảy ra những sự kiện đáng chú ý
Đấy là bà ta, Saphira xác nhận.
Oromis tiếp tục nói, " Thói quen của bà ta nhắc ta nhớ nhiều đến một pháp sư đã từng đến thăm các lâu đài của ở Ellesméra một lần, mặc dù bà ta không dùng tên là Angela, có phải Angela là một phụ nữ dáng thấp, đậm người, tóc nâu quoăn, đôi mắt rất sáng và hóm hỉnh sắc xảo đến kì cục không?
"Thầy vừa miêu tả bà ta một cách hoàn hảo, " Eragon nói. " Bà cùng là một người ư?"
Oromis búng nhẹ tay trái ra hiệu " Nếu là bà ta, bà ta đúng là một người kì lạ ... cũng như những tiên đoán của bà ta, ta không muốn suy đoán nhiều về chúng. Chúng có thể đúng hoặc cũng có thể không , và không biết được gì hơn, không ai trong chúng ta có thể tác động đến kết cục đó.
"Những gì con mèo ma đã nói, dù gì, cũng đáng để cân nhắc kĩ. Đáng tiếc, ta không thể giải thích được những gì nó tuyên bố. Ta chưa bao giờ nghe về bất cứ nơi nào như là Hầm mộ của những linh hồn, trong khi tảng đá của Kuthian đánh đúng vào điểm quen thuộc trong trí nhớ của ta, ta không thể gọi lại được về nơi đã đã bắt gặp cái tên đó. Ta sẽ tra cứu về nó trong các cuộn giấy da, nhưng bản năng mách bảo rằng ta sẽ chẳng tìm thấy sự đề cập nào về nó trong những ghi chép của thần tiên.
" Vũ khí nào nằm bên dưới cây Menoa ạ?"
" Ta không biết vũ khí gì, Eragon ạ, và ta rất quen thuộc vùng rừng này. Trong tất cả thần tiên ở Du Weldenvarden, có lẽ chỉ có du nhất hai người có hiểu biết vượt hơn ta về những nơi có liên quan đến khu rừng này. Ta sẽ hỏi họ, nhưng ta nghi ngờ đó chỉ là cố gắng vô ích."
Khi Eragon thể hiện sự thất vọng của mình, Oromis nói. "Ta hiểu rằng con cần một thứ thay thế được cho thanh Zar'roc, Eragon ạ, và điều này thì ta có thể giúp con. Bên cạnh lưỡi kiếm của chính ta, thanh Naegling, thần tiên chúng ta đã trao tặng hai thanh kiếm cho kị sĩ rồng. Chúng là Arvindr và Támerlein. Arvindr hiện nay đang được giữ tại Nädindel, nơi con sẽ không có thời gian để đến đó đâu. Nhưng Támerlein thì ở đây, tại Ellesméra. Nó là báu vật của dòng họ Valtharos, và trong khi huân tước của dòng họ, huân tước Fiolr, sẽ không nhiệt tình muốn xa nó đâu. Ta nghĩ ông ta sẽ tặng nó cho con nêu ta hỏi ông ta một cách kính cẩn. ta sẽ thu xếp cho con gặp ông ta vào sáng mai."
"Và sẽ ra sao nếu thanh kiếm đó không phù hợp với con?" Eragon hỏi.
Hãy hy vọng. Tuy nhiên, ngoài ra ta sẽ gửi lời đến thợ rèn Rhunön rằng bà ta có thể đợi con vào chiều muộn." " nhưng bà ta đã thề sẽ không bao giờ rèn bất kì thanh kiếm nào nữa."
Oromis thở dài. "Bà ta đã thề, nhưng lời khuyên của bà ta vẫn đáng để xin đấy. Nếu ai đó có thể chỉ ra một thanh kiếm phù hợp cho con thì đó là bà ta. Bên cạnh đó, thậm chí nếu con mượn được Támerlein, ta chắc chắn Rhunön sẽ muốn kiểm tra cây kiếm đó trước khi con đi cùng với nó. Hơn một trăm năm trôi qua từ khi Támerlein lần cuối được dùng trong trận chiến và và nó cần được tân trang lại."
"Có thần tiên nào khác có thể rèn một thanh kiếm cho con không?" Eragon hỏi.
"Không," Oromis nói. " Không nếu so với sự tinh xảo của Zac'roc hay bất cứ thanh kiếm nào Galbatorix đánh cắp để sử dụng. Rhunön là một trong số những thần tiên nhiều tuổi nhất trong loài của chúng ta, và bà ta là người duy nhất rèn được những thanh kiếm theo yêu cầu của chúng ta."
"Bà ấy nhiều tuổi như những kị sĩ rồng ư? Eragon ngạc nhiên hỏi, "Thậm chí là già hơn"
Eragon ngừng lại. " Chúng ta sẽ làm gì từ giờ đến mai vậy thưa sư phụ?"
Oromis cả Eragon và Saphira rồi nói, " Hãy đi và thăm quan cây Menao đi. Ta biết có sẽ không dễ dàng gì chịu yên nếu chưa làm việc đó. Quan sát chỗ đó nếu con có thể tìm thấy thứ vũ khí mà con mèo ma đã cám dỗ con. Khi con đã thỏa mãn trí tò mò của mình, đến nghỉ ngơi ở khu nhà cây mà người hầu của Islanzadí’s dọn sắn cho con và Saphira. Sáng mai chúng ta sẽ làm những gì có thể làm."
"Nhưng thưa thầy, chúng ta vẫn còn một ít thời gian ... "
" và cả hai người các con đã quá mệt để chịu thêm bất cứ sự kích động nào nữa hôm nay. Tin ta đi Eragon, con tốt hơn là nên nghỉ ngơi. Ta nghĩ vài giờ sẽ giúp con sắp xếp lại tất cả những gì chúng ta đã nói. thậm chí với địa vị một ông vua, bà hoàng và những con rồng, cuộc thảo luận này của chúng ta không có tính thương lượng lớn đâu." Bất chấp sự cương quyết của Oromis, Eragon thấy chẳng dễ chịu gì về việc dành cả ngày nhàn rỗi. Tình cảnh cấp bách của nó rất lớn, nó muốn tiếp tục công việc thậm chí khi nó đã biết nó bắt buộc phải hồi lại sức.
Eragon nhấp nhổm trên ghế, và bằng hành động nó phải bộc lộ gì đó về sự mâu thuẫn của mình cho Oromis đang cười và nói. " Nếu nó giúp con thư dãn, Eragon, ta hứa với con điều này: Trước khi con và Saphira rời đi vì Varden, con có thể chọn bất kì cách sử dụng phép thuật nào, và ta sẽ chỉ cho con , Ta sẽ dạy cho con mọi thứ ta
biết."
Ngón tay cái Eragon xoay xoay chiếc nhẫn quanh ngón trỏ phải và xem xét đề nghị của Oromis, cố gắng để cân nhắc trong tất cả lĩnh vực phép thuật, điều gì nó muốn học nhất. Cuối cùng nó nói, " Con muốn biết cách hiệu triệu những linh hồn."
Gương mặt Oromis tối sầm. " Ta sẽ giữ lời, Eragon, nhưng ma thuật là nghệ thuật hắc ám và không đúng đắn. Con không nên tìm kiếm sự kiểm soát sinh vật khác vì lợi ích của bản thân. Thậm chí nếu con có không màng tới sự xấu của ma thuật, sự tập luyện nó đặc biệt nguy hiểm và vô cùng phức tạp.Một phù thủy đòi hỏi ít nhất ba năm chuyên tâm tu luyện trước khi muốn hiệu triệu những linh hồn mà không bị nó chiếm hữu chính mình.
"Ma thuật không giống những phép thuật khác, Eragon ạ, vì thế, con cho con sức mạnh đáng kinh ngạc và những sinh linh thù địch phải tuân theo mệnh lệnh của con, những sinh linh đó dành mọi lúc bị giam cầm của họ để tìm kiếm một kẽ hở trong giao ước bởi thế họ có thể đến với con và làm nô lệ cho con với sự hù hằn.Trong suốt lịch sử, chưa từng có một tà thần nào đồng thời là một kị sĩ cả và với tất cả nỗi kinh hoàng trên đã trải qua của mảnh đất thần tiên, kinh tởm chỉ như việc tồi tệ dễ dàng nhất, tệ hơn cả Galbatorix, Làm ơn hãy chọn lĩnh vực khác đi Eragon, thứ ít nguy hiểm hơn cho con và vì chính nghĩa của chúng ta."
"Vậy," Eragon nói, "Thầy có thể dạy con về tên thật của con không?"
" Lời đề nghị của con, " Oromis nói, " thậm chí trở nên khó hơn nữa, Eragon công tử ạ. Ta sẽ đoán tên thật của con nếu con muốn " Vị thần tiên tóc bạc quan sát Eragon, sự dữ dội tăng lên, đôi mắt ông nặng nề nhìn nó, "Đúng, ta tin ta có thể, nhưng ta sẽ không làm. Một cái tên thật mang ý nghĩa phép thuật to lớn, nhưng nó không phải là một thần chú, tự nó không phải là một thần chú, và vì thế nó được miễn với lời hứa của ta. Nếu sự khao khát của con lớn hơn sự hiểu biết của chính mình, Eragon à, thì hãy tìm cách khám phá thì hãy tự tìm ra tên thật của mình đi. Nếu ta đưa nó cho con, con có thể thuận lợi từ đó , nhưng khôn ngoan hơn thì con nên tìm cách khác để biết được tên thật của mình trong suốt cuộc hành trình đó. Con người phải tự kiếm lấy ánh sáng cho mình, Eragon ạ, Không có kẻ khác ném nó cho con được, bất chấp họ có được kính trọng ra sao,"
Eragon lại xoay xoay chiếc nhẫn của mình, rồi nuốt nước bọt và lắc đầu. "Con không biết ... những câu hỏi của con trở nên vô vị."
" Ta rất nghi ngờ điều đó, " Oromis nói.
Eragon khó khăn khi tìm kiếm sự tập trung giữa tay nó và vị sư phụ, suy nghĩ của nó trở lại với Eldunarí và Brom. Eragon lại kinh ngạc về chuỗi những sự kiện kì lạ, sự sắp đặt Brom đếm cư trú ở Carvahall, sau đó, đến việc Eragon, chính nó trở thành một kị sĩ rồng. Nếu Arya không ... Eragon dừng lại và cười khi một ý nghĩ xuất hiện với nó. " Thầy sẽ dạy con làm cách nào để di chuyển một vật thể từ nơi này đến nơi khác ngay tức khắc không, như là Arya đã làm với trứng của Saphira?"
Oromis gật đầu. "Một sự lựa chọn tuyệt với. Thần chú này rất tiêu hao, nhưng có thể dùng nhiều lần. Ta chắc nó sẽ tỏ ra hữu ích nhất cho con trong việc cân bằng với Galbatorix và đế quốc. Arya, trong một lần đã chứng tỏ rằng nó hữu dụng.
Nhấc chiếc cốc trên bàn lên, Oromis nâng nó lên về hướng mặt trời, và những tia sáng trên cao làm cho thứ rượu vang trong suốt. Ông chăm chú vào loại chất lỏng đó một hồi lâu, rồi hạ thấp chiếc cốc và nói, "Trước khi con đi khám phá thành phố, con nên biết rằng ông ta, người con đã gửi con đến sống quanh chúng ta đã đến đây vài lần trước đó."
Mất một lúc trước khi Eragon nhận ra người mà Oromis đang nhắc đến. "Sloan đang ở Ellesméra ạ?" Eragon nói, kinh ngạc.
"Ông ta đang sống một mình ở một căn lều nhỏ gần dòng suối phía tây bìa rừng của Ellesméra. Ông ta đã gần như chết đi khi ông ta tới được mé rừng, nhưng chúng ta đã chăm sóc những vết thương của ông ta và giờ ông ấy rất khỏe mạnh. Các thần tiên trong thành phố mang cho ông ấy quần áo và thức ăn và mặt khác trông chừng để chăm sóc ông ta thật tốt. Họ hộ tống ông ta tới bất cứ đâu ông ấy muốn tới và thỉnh thoảng họ đọc cho ông ta nghe, nhưng phần lơn, ông ấy thích ngồi một mình hơn, không nói năng gì với những người đến gần. Hai lần ông ta thử trốn đi, nhưng câu thần chú của con đã ngăn cản ông ta."
Anh ngạc nhiên là lão ta lại đên đây quá nhanh, Eragon nói với Saphira. Sự ép buộc mà anh đặt vào lão ta phải mạnh hơn anh đã tưởng.
Đúng vậy. nói bằng ý nghĩ, Eragonhoir, " Thầy có thể xem xét chữa trị để trả lại thị lực cho ông ấy không? " Chúng ta không thể."
Tiếng khóc than của người đàn ông vỡ òa bên trong, Glaedr nói. Lão ta không thể nhìn một cách sáng suốt đủ để đôi mắt của lão sáng lại bằng bất cứ cách nào"
"Con có nên đi thăm lão ta không? Eragon hỏi. Không chắc về điều mà Oromis và Glaedr trông đợi. " Đó là quyết định của con," Oromis nói. " Gặp lại con có thể chỉ làm ông ta bối rối."
"Tuy nhiên, con có trách nhiệm vì hình phạt của ông ấy, Eragon ạ, Sẽ là sai quấy nếu con quên về ông ta đi "
"Không thưa sư phụ, con sẽ không quên"
Gật đầu phấn khởi, Oromis đặt chiếc cốc lên bàn và chuyển chiếc ghế của mình tới gần Eragon. " Ngày đang cạn dần, và ta sẽ không giữ cở đây lâu hơn nữa, E rằng ta đã cản trở sự nghỉ ngơi của con,nhưng có một điều ta muốn quan tâm trước khi con khởi hành : Tay của con, ta có thể kiểm tra chúng không? Bây giờ ta muốn xem những gì họ nói về con. " Và Oromis với cánh tay của ông về phía Eragon.
Duỗi thẳng cánh tay, Eragon đặt tay nó lên gan bàn tay Oromis, Run run khi vị thần tiên chạm những ngón tay lên cổ tay nó. Chỗ chai sần được kéo dài ra đổ bóng trên lưng bàn tay nó, khi Oromis nghiêm bàn tay nó từ phía này qua phía khác. Sau đó, với một sự hăng hái nhỏ nhưng quả quyết, Oromis lật tay Eragon lại và xem xét kĩ gan bàn tay của nó dưới những ngón tay ông.
"Thầy thấy sao ạ?" Eragon hỏi. Oromis quay bàn tay Eragon lại và chỉ chỗ chai trên tay nó. " Giờ con có đôi tay của một chiến binh rồi, Eragon, Hãy giữ để chúng không trở thành đôi tay của kẻ say máu trong chiến trận."
Chương 50: Cây của sự sống
Từ những vách núi treo leo của Tel’naeír,Saphira bay sát phía trên khu rừng cho tới khi cô ả hạ cánh xuống chỗ cây Menoa.Dày hơn cả 100 cây thông khổng lồ đứng xung quanh,cây Menoa vươn lên bầu trời sừng sững như một cây cột khổng lồ,tán của nó rộng tới hàng ngàn feet.Các tua đan xen nhau như tấm lưới, bao phủ mặt đất rộng tới 10 Mẫu-Anh, trước khi rễ của nó cắm sâu vào lớp đất phù xa mềm.Xung quanh cây Menoa không khí trở lên mát mẻ và ẩm thấp,những giọt sương đọng lại là kết quả của màn sương mù lơ lửng phía trên tấm lưới,tưới cho những đám dương xỉ lớn bám trên thân nó.Vài chú sóc đỏ thi nhau truyền qua lại trên những cành cây cổ thụ cùng những tiếng ríu rít của hàng trăm chú chim lao ra từ những bụi mâm xôi…Cây Menoa được biết đến với sự tích của 1 vị thần tiên mang tên Linnëa,người mà tinh thần của bà giờ đây đang duy trì sự sống cho cây và cho cả khu rừng.
Eragon cố tìm những chỗ gồ ghề xung quanh với hy vọng có liên quan chút gì đó tới vũ khí, nhưng cũng như trước kia,nó chẳng thể tìm thấy gì cả.Nó chú ý tới một mảnh gỗ đã mọc rêu dưới chân nó và mang tới chỗ Saphira, nó hỏi : Em nghĩ thế nào,nếu anh niệm vào nó một số phép thuật liệu anh có thể đem nó đi chém giết được không?
Anh có thể giết chết một tên lính chỉ với một công cỏ nếu anh muốn, tuy nhiên để chống lại Murtagh và Thorn hoặc lão vua già và con rồng của hắn thì có lẽ anh phải cần nhiều hơn thế.
Em nói đúng.Nó ném khúc gỗ đi.
Nếu là em,em không cần thiết phải hoàn toàn tin vào những điều Ma mèo nói.
Không.Nhưng dĩ nhiên anh nên xem xét các vấn đề khác nếu như anh có thể tìm ra được thứ vũ khí này.Biết đâu nó có thể là 1 hòn đá, 1 cuốn sách hay 1 cái gì đó tương tự,hoặc 1 cây gậy từ 1 trong những cành của cây Menoa cũng rất có thể sẽ trở thành một thứ vũ khí quý giá,anh nghĩ thế.
Nhưng không thể bằng 1 thanh kiếm được.
Không hẳn…Nhưng anh nghĩ không nên lấy đi bất kỳ cành cây nào khi chưa được sự cho phép của bà ấy.Anh không biết làm cách nào để thuyết phục bà ấy đáp ứng yêu cầu của mình.
Saphira uốn cổ,nhìn chằm chằm vào cái cây,rồi lắc đầu và vai để rũ bỏ những giọt nước đọng trên lớp vảy của cô nàng.Khi cành cây tấn công Eragon,nó kêu lên và nhảy lì lại để tránh.Bà ta nói : Nếu có bất kỳ kẻ nào muốn làm hại cây Menoa,ta sẽ bắt chúng phải trả giá cho lỗi lầm của chúng.
Vài giờ sau đó,hai trong số họ vẫn đi lảng vảng xng quanh,Eragon vẫn tiếp tục hy vọng sẽ vấp phải cái gì đó nơi mà có thể có chiếc rương cũ nào bị dấu đi có chứa 1 thanh kiếm.Kể từ khi Murtagh lấy đi thanh Zar’roc,nó nghĩ đó phải là thanh kiếm mà Rhunön làm cho Brom.
Và cả màu cả thanh kiếm nữa chứ.Saphira thêm vào.Con rồng của Brom,cũng tên là Saphira,và nó cũng màu xanh.
Cuối cùng,thất vọng, Eragon cố dùng sy nghĩ thâm nhập vào cây Menoa để giải thích việc tìm kiếm của mình và yêu cầu sự trợ giúp,nhưng có lẽ không dễ dàng gì.
Chán nản,nó và Saphira bỏ đi,lúc này mặt trời đã gần khuất núi.Từ khu đất trống,Saphira bay thẳng tới trung tâm của Ellesméra,nơi cái cây mà cô ả hạ cánh và làm phòng ngủ đã được 1 vị tiên sắp xếp cho từ trước.Ngôi nhà gồm những phòng hình cầu giống như một cái vương miện khổng lồ nằm trên 1 cái cây vững trãi cách mặt đất vài trăm feet.
Một bữa ăn đơn giản với trái cây, rau xanh, đậu quả và bánh mỳ đang đợi Eragon trong phòng ăn.Sau bữa ăn,nó chui vào trong đôi cánh của Saphira đã được xếp như 1 cái lều.Nó nằm đó,vẫn tỉnh táo và mở tâm trí nhận thức mọi điều xung quanh trong khi Saphira đã chìm sâu vào giấc ngủ.Nó nhìn bầu trời,sao mọc rồi lại lặn,chỉ còn áh trăng trải trên khu rừng rộng,nó lại nghĩ tới ông Brom và những điều bí mật về mẹ nó.Đêm dần khuya hơn,nó đã chìm vào giấc mơ tự lúc nào không hay,ở đó nó được nói chuyện với cha mẹ.Nhưng nó không thể nghe thấy cha
mẹ nó nói gì,giọng của nó và cha mẹ nó không thành tiếng và rất mơ hồ.Tuy nhiên không hiểu sao nó vẫn cảm nhận được tình yêu và niềm kiêu hãnh mà cha mẹ dành cho nó.và mặc dù nó biết họ không còn nữa nhưng nó vẫn trân trọng những kỷ niệm về họ.
Bình minh,một vi tiên nữ đưa Eragon và Saphira nhà Valtharos.Họ bước qua khoảng tối giữa hai cây thông,nơi này thật tĩnh mịch và trống rỗng,nó nhận ra 3 vị tiên đang đứng trên cây : cao,dáng thanh nhã lướt đi nhẹ nhàng. Khi những vị thần tiên tham gia chiến tranh.Saphira quan sát phía sau còn lại không nhiều.Aye
Chúa tể Fiolr đang đợi họ trong phòng lớn được chiếu sáng bởi một vài ngọn đèn.Mặt của ông ta dài,nghiêm nghị và có góc cạnh rõ ràng hơn tất cả.Bởi vậy dáng vẻ của ông làm Eragon liên tưởng tới cây giáo dài và dày.Ông ta mặc cái áo choàng màu xanh lá cây dát vàng,cổ áo loe cao phía sau gáy,giống như lông cổ của một chú chim quý hiếm.Tay trái ông cầm một chiếc gậy phép làm bằng gỗ trắng với nét trạm trổ từ Liduen Kvaedhí.Phía trên cùng có gắn 1 hạt ngọc sáng chói.
Uốn cong thắt lưng,ông cúi chào.Eragon cũng làm vậy.Sau đó họ thi hành những nghi lễ chào hỏi của thần tiên.Và nó cảm ơn sự hào phóng cuả ông vì đã cho phép nó được chiêm ngưỡng thanh kiếm Támerlein.
Fiolr nói : Đã từ rất lâu Támerleinlà một tài sản quý giá của gia đình ta, và nó luôn có ý nghĩa đặc biệt đối với ta.Cậu có biết tí gì về lai lịch của nó không,hỡi Bàn tay bạc?
Không.
Bạn của ta,người thông thái và trung thực nhất Naudra,cùng người anh em của cậu ấy Arva,một kỵ sĩ rồng trong thời đại Fall.Naudra đã đến thăm anh ấy ở Ilirea khi Galbatorix và Forsworn quét sạch thành phố như một cơn bão đến từphía bắc.Arva đã đánh nhau với kỵ sĩ kia nhằm bảo vệ Ilirea,nhưng thanh Kialandí của Forsworn đã kết liễu anh ấy.Khi anh ấy ngã xuống trong trận đánh này anh ấy đã trao thanh Támerlein cho Naudra để giúp cô ấy tự bảo vệ mình.Với thanh Támerlein trong tay cô đã thoát khỏi Forsworn và trở về đây cùng với 1 kỵ sỹ và 1 con rồng mặc dù cô ấy đã chết không lâ sa đó.
Dùng 1 ngón tay, Fiolr che ánh sáng mờ mờ của viên ngọc trên cây gậy phép : Támerlein có ý nghĩa rất lớn đối với tôi,nó cũng giống như không khí đối với phổi vậy.Nhưng có lẽ tôi và dòng tôc không xứng đáng khi sở hữu nó. Támerlein xứng đáng được dành cho 1 kỵ sĩ,còn như chúng tôi thì không.Tôi sẽ cho cậu mượn nó,Bàn tay bạc ạ,coi như là sự giúp đỡ của chúng tôi để cậu chiến đấu chống lại Galbatorix.Tuy nhiên Támerlein vẫn thuộc quyền sở hữ của dòng họ Valtharos,và cậu phải hứa rằng sẽ trả lại nó khi mà ta hoặc người thừa kế của ta yêu cầu.
Eragon đồng ý và sau đó Fiolr đưa họ đi lấy kiếm được đặt trên 1 chiếc bàn lộng lẫy trong phòng khách cùng với bao kiếm.
Lưỡi kiếm màu xanh,tối màu,và bao kiếm cũng thế.Một viên ngọc màu lục gắn phía chuôi kiếm.Thanh kiếm được rèn từ 1 thanh thép màu xanh,có 1 đường trang trí dọc thân kiếm. Bằng ngôn ngữ thần tiên, họ nói :Tôi là Támerlein, người đem lại giấc ngủ cuối cùng.Thanh Támerlein có cùng chiều dài với thanh Zar’roc nhưng lưỡi kiếm rộng hơn, mũi kiếm không nhọn bằng, và tất nhiên nó nặng hơn Zar’roc.Nó thật tuyệt,một vũ khí sắc bén hoàn hảo.Nhưng chỉ nhìn vào nó Eragon cũng biết được rằng Rhunön đã tạo ra Támerlein cho một kỵ sĩ có kiểu chiến đấu không hợp với nó.Một kiểu mà thiên về sức mạnh chứ không thiên về sự nhanh nhẹn và kỹ thuật như Brom đã từng dạy nó.
Dùng những ngọn tay vuốt ve thanh kiếm,Eragon nhận ra rằng chuôi kiếm quá lớn so với bàn tay của nó,và ngay lập tức nó biết rằng thanh kiếm này không phải thứ nó cần.Nó không được thoải mái như khi cầm thanh Zar’roc.Eragon ngập ngừng,và hy vọng tại một nơi nào đó nó có thể tìm thấy 1 thanh kiếm phù hợp. Arvindr,nó nghĩ tới một thanh kiếm khác mà Oromis đã nhắc tới trước kia.
Saphira nói : Đừng nhận nó,khi anh mang kiếm vào trận đánh cuộc sống của anh và của em sẽ phụ thuộc vào nó, vì thế chúng tao cần phỉa chọn một thanh kiếm hoàn hảo.Bên cạnh đó em cũng không thích cái điều kiện mà lão già Fiolr đưa ra.
Eragon quyết định từ chối và xin lỗi Fiolr,giải thích rằng tại sao nó không thể nhận thanh kiếm.Không phải là những bộ mặt cau có thất vong,mà trại lại Eragon thấy vẻ mặt hài lòng của Fiolr.
Từ đại sảnh của nhà Valtharos,Eragon và Saphira đi thẳng tới cái hang động tối nằm trong khu rừng cây sơn thù du, rồi bước vào nhà của Rhunön.Khi họ bước vào Eragon có thể nghe tháy tiếng búa nện trên đe,và nó thấy Rhunön đang ngồi trên chiếc ghế dài trong lò rèn ngay sau cánh cửa.Bà tiên già đang vật lộn với một khối thép trước mặt.Eragon không thể đoán được bà đang làm gì.
Khắc tinh của Tà thần,ngươi vẫn còn sống sao.Miệng nói nhưng mắt bà vẫn không rời khỏi khối thép.Oromis nói với ta rằng con trai của Morzan đã cướp mất thanh Zar’roc của ngươi.
Eragon cau mày và gật đầu thậm chí nghĩ bà ấy không thèm nhìn nó. Vâng thưa Rhunön,hắn đã cướp mất nó trong trận chiến tại Cánh đồng cháy.
Hừm. Rhunön vẫn tập trung vào quại búa với tốc độ khác thường.Rồi bà ngừng lại và nói:Thanh kiếm đã được trở
về với đúng chủ của nó,nhưng ta không thích hắn-hắn tên gì nhỉ? Ah,đúng Murtagh vầ Zar’roc.Nhưng tất cả các kỵ sĩ đều xứng đáng có được thanh kiếm thích hợp.Và ta nghĩ cũng không có thanh kiếm nào thích hợp với con trai của Morzan hơn là thanh kiếm của chính hắn đâu.Bà tiên già liếc nhìn Eragon với cái trán nhăn nheo.
Theo hiểu biết của ta,sẽ tốt hơn nếu ngươi giữ thanh Zar’roc,Khắc tinh của Tà thần ạ.Nhưng ta sẽ rất vui lòng nếu ngươi có một thanh kiếm được chế tạo cho chính ngươi.Có thể Zar’roc phục vụ ngươi rất tốt nhưng hình dáng của nó khôngphù hợp với thân hình của ngươi.Và càng khôngphù hợp khi nhắc tới Támerlein.Thật ngớ ngẩn khi nghĩ ngươi sẽ sử dụng nó.
Như bà thấy đấy,tôi đã từ chối nhận nó. Tốt. Rhunön gật đầu và tiếp tục công việc.
Nếu Zar’roc thích hợp cho Murtagh,thì thanh kiếm của Brom chắc sẽ thích hợp với tôi chứ? Rhunön cau mày,ngập ngừng : Undbitr ư? Tại sao ngươi nghĩ lại là kiếm của Brom?
Bởi vì ông ấy là cha tôi.Eragon cảm thấy hơi rùng mình khi nói như vậy.
Thật vậy sao. Rhunön bỏ búa xuống và đi lại quanh lò rèn rồi đứng đối diện với Eragon.Thân hình mảnh khảnh của bà đã không còn khi từ rất lâu bà vùi đầu và công việc làm lưng còng xuống,và vì thế bà đứng thấp hơn nó vài Inch.Uhm,ta nhìn ngươi trông khá giống Brom.Hắn là một người khiếm nhã.Hắn nói rằng hắn muốn thứ gì đó nhưng không muốn phí lời.Ta thích thế.Ta không thể giữ được nguyên tắc của mình.Chúng thật quá lễphép,quá thuần khiết,quá hoàn hảo.Ha ha,ta còn nhớ khi những thần tiên cười nhạo và đánh nhau như những sinh vật tầm thường.Và bây giờ họ đã trở lên lãnh đạm và một số dường như không có cảm xúc,thật chẳng khác gì một bức tượng cẩm thạch.
Saphira nói:Thế bà có biết những thần tiên trước kia bằng cách nào đã để các loài khác gia nhập cùng họ. Rhunön quắc mắt về phía Saphira: Vảy sáng, xin chào mừng.ta xin nói về thời gian trước khi mối quan hệ giữa thần tiên và loài rồng được thành lập.Ta đã chứng kiến sự thay đổi đó.thật khó tin là nó lại xảy ra,nhưng đó là sự thật,và ta vẫn còn sống đủ để biết chúng ta đã như thế nào trước kia.
Rhunön chuyển cái nhìn sang Eragon : Undbitr không thể trở về với ngươi được.Brom đã mất kiếm của hắn khi hắn ko còn còn là 1 kỵ sĩ đích thực vì cái chết của Saphira-con rồng của hắn.nếu nó không rơi vào tay của Galbatorix thì rất có thể nó đã ị phá hủy hoặc có thế đã bị chôn vùi ở một nơi nào đó phía dưới đống xương vụn của trận chiến đã bị lãng quên từ lâu.Thậm chí nếu như tìm thấy nó ngươi cũng không thể mang nó về trước khi ngươi lại tiếp tục đối mặt với kẻ thù.
Vậy tôi nên làm gì,thưa Rhunön.Eragon bối rối.và nó nói với bà ta về thanh kiếm cong mà nó đã chọn khi còn ở Varden và những phép thuật mà nó đã yểm và thanh kiếm,và việc thanh kiếm bị hỏng khi đánh nhau trong đường hầm phía dưới Farthen Dûr.
Rhunön khịt mũi: không nó sẽ không bao giờ được việc.một thanh kiếm được rèn và tôi luyện,mặc dù được yểm hàng đống phép thuật ,nhưng thứ kim loại làm ra nó mà ko tốt thì cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì.Một kỵ sĩ cần nhiều hơn thế,một thanh kiếm có thể chịu được tất cả các tác động khủng khiếp và vô hiệu với hầu hết pháp thuật.Điều ngươi cần phải làm là yểm phép thuật lên kim loại nóng từ khi đang trong quá trình kéo dài ra từ quặng,cũng như khi đang trong quá trình rèn nó,có như thế mới làm thay đổi và cải thiện được cấu trúc của kim loại.
Thế làm sao tôi có thể có được 1 thanh kiếm đây,bà có thể làm giúp tôi không, thưa Rhunön.Eragon nói. Những sợi gân hằn sâu trên khuôn mặt Rhunön.suy nghĩ,trà sát khủy tay trái,những thớ thịt cuồn cuộn trên bắp tay:Ngươi có biết rằng ta đã thề ta sẽ không bao giờ chế tạo vũ khí cho bất cứ ai nữa chừng nào ta còn sống. Tôi biết.
Lời thề trói buộc ta,ta không thể phá vỡ nó,và khôn việc gì ta phải làm thế.Vẫn giữ thái độ, Rhunön đi tới chỗ ngồi và ngồi xuống trước tác phẩm của mình đang làm dở:Và tại sao ta phải làm như thế,hỡi kỵ sĩ.
Cẩn thận trong lời nói,Eragon lên tiếng:Bởi vi nếu bà làm thế bà có thể giúp tất cả thoát khỏi triều đại của Galbatorix.Nếu tôi giết chết ông ta bằng thanh kiếm mà bà chế tạo cho tooikhi đó thanh kiếm của bà đã trả thù cho những kỵ sĩ và con rồng của họ đã chết dưới tay của hắn và Forswon.Chẳng phải bà rất ghét việc bọn chúng sử dụng kiếm của bà hay sao.Việc này cũng giúp cân bằng lực lượng giữa 2 phe và sau đó nó cũng là sự chuẩn bị cho cái chết của Galbatorix.
Rhunön dừng tay và nhìn lên bầu trời :Một thanh kiếm…Một thanh kiếm mới.Đã quá lâu rồi ta lại trở lại với nghề…Ánh mắt đau khổ nhìn Eragon và nói : Có thể lắm, có thể ta sẽ có 1 cách để giúp ngươi.nhưng có thể sẽ là vô nghĩa bởi ta ko thể cố gắng thêm nữa.
Tại sao không ?Saphira hỏi
Bởi vì ta không có thứ kim loại mà ta cần Rhunön lẩm bẩm.Ngươi không định nghĩ rằng ta sẽ chế tạo kiếm cho 1 kỵ sĩ bằng thứ kim loại tầm thường đó chứ.Không,đã rất lâu rồi ta băn khoăn liệu còn có được mảnh thiên thạch rơi xuống trái đất chỗ người lùn nữa hay không.Những mảnh có chứa quặng thứ mà không giống như bất kì thứ
gì ta đã từng làm trước đây.Bởi vậy ta đã đưa tới lò rèn,tinh chế nó,và ta khám phá ra rằng sựpha trộn đó đã tạo ra 1 loại thép vô cùng khỏe và cứng,đồng thời dẻo dai hơn bất kỳ thứ gì trên trái đất này.Ta đặt tên nó là Thép sáng,một phát minh vĩ đại và khi Nữ hoàngTarmunora đề nghị ta rèn cây kiếm đầu tiên cho Kỵ sĩ,ta đã sử dụng loại Thép sáng này.Về sau bất cứ khi nào ta có cơ hội ta lại tìm kiếm loại quặng đó trong khu rừng ấy.Không mấy khi ta tìm được nhưng mỗi khi thành công ta lại chế tạo kiếm cho kỵ sĩ.
Qua nhiều thế kỷ,loại quặng đó trở nên cực kỳ hiếm,cho tới lần cuối cùng ta nghĩ rằng nó không còn trên trái đất này nữa.Ta phải mất 24 năm đẻ tìm thấy vật đó.Nhờ nó ta đã chế tạo thêm được 7 thanh kiếm trong đó có Undbitr và Zar’roc.Kể từ khi thời kỳ kỵ sĩ tan rã ta cố tìm Thép sáng thêm một lần nữa và đó là đêm cuối cùng khi Oromis nói với ta về ngươi. Rhunön nghiêng đầu,đôi mắt rưng rưng nhìn Eragon : Ta đã đi rất xa và rộng,ta đã dùng rất nhiều phép thuật để tìm nhưng chẳng kết quả gì.Nếu may mắn tìm được 1 chút ta sẽ cân nhắc tới việc làm kiếm cho ngươi,Khắc tinh của Tà thần ạ.Bằng không thì chuyện này chỉ là phù phiếm.
Eragon cúi chào và cảm ơn bà đã dành thời gian cho nó,sau đó nó và Saphira cáo từ.
Khi họ đi tới 1 trảng đất mà Saphira có thể hạ cánh,Eragon nói :Thép sáng,có phải là thứ mà Solembum ám chỉ.Chắc chắn là thép sáng nằm bên dưới gốc cây Menoa.
Nhưng làm cách nào mà nó biết được?
Dĩ nhiên cái cây không tự nói cho hắn.vậy vấn đề là ở đâu?
Thép sáng có thể ở đó hoặc không,cô ả nói,làm thế để lấy bất kỳ thứ gì dưới gốc cây Menoa?Chúng ta không thể bới tung lên.Chúng ta thậm chí còn không biết chỗ nào để đào bới mà tìm nữa.
Anh phải tìm ra cách.
Từ trảng đất của nhà Rhunön,chúng bay tới Ellesméra quay trở lại những vách núi ở Tel’naeír,nơi mà Oromis và Glaedr đang đợi.Saphira hạ cánh và Eragon trèo xuống,cô ả cùng Glaedr nhảy khỏi vách đá và lượn vòng lên phía trên,không thật sự phải đi bất cứ đâu nhưng thật thoải mái khi luôn thấy sự có mặt của nhau.
Trong khi hai con rồng đang bay lượn giữa các tầng mây,Oromis dạy Eragon cách mà 1 pháp sư có thể chuyển 1 vật từ nơi này tới nơi khác mà không phải mang nó đi cũng như không quan tâm tới khoảng cách.Một sự kỳ diệu nhất của phép thuật,Oromis nói :yêu cầu cần thêm nhiều năng lượng để giữ được khoảng cách giữa con và mục tiêu.Tuy nhiên, không có trường hợp cá biệt,nó đòi hỏi cùng 1 lượng năng lượng để chuyển hòn đá trong tay ta đến 1 nơi khác cũng như việc chuyển nó bằng tất cả các con đường tới phia nam Isles.Vì lý do này,Phép thuật có ích nhất khi con chuyển 1 vật bằng phép thuật qua 1 khoảng cách cực lớn, con sẽ chết nếu con chuyển vật đó theo cách thông thường.Mặc dầu vậy,phép thuật này cũng có những yêu cầu khắt khe con chỉ nên dùng nó nếu thực sự không còn cách nào khác.Để dịch chuyển một số thứ lớn hơn như trứng Saphira làm ví dụ,nó sẽ làm con kiệt sức. Oromis dạy Eragon câu thần chú thực hiện phép đó và một só biến dạng của nó.Chỉ cần 1 lần nó phải cố nhớ những câu thần chú này để làm vừa lòng vị sư phụ già người mà bắt nó phải dịch chuyển hòn đá nhỏ nó đang cầm trong tay.
Ngay khi nó hoàn thành toàn bộ những câu phép thuật đó hòn đá đã biến mất,và trong chốc lát nó xuất hiện lại ở giữa khu đất trống với ánh sáng màu xanh cùng một tiếng nổ lớn một đám lửa lớn bùng cháy trong không khí.Eragon hơi hoảng hốt sau tiếng nổ và níu vào 1 cành cây gần đó để đứng vững khi hai đầu gối nó chùn xuống,một sự ớn lạnh khắp người.Đầu nó ù đi khi mắt nhìn vào hòn đá đang nằm giữa đám cỏ cháy, và nó lại nhớ tới lần đầu tiên nó bắt được trứng Saphira.
Làm tốt lắm.Oromis nói : bây giờ con thể nói cho ta biết tại sao viên đá lại gây tiếng độngkhi nó được chuyển tới bãi cỏ không?
Eragon ra vẻ chú ý tới mọi điều Oromis nói,nhưng bỏ qua bài học nó tiếp tục sy nghĩ đến câu hỏi của cây Menoa,thậm chí khi biết Saphira đang bay ngay phía trên.càng suy nghĩ nó càng thất vọng vì không tìm ra giải pháp.
Khi Oromis kết thúc bài giảng về cách đi chuyển vật,vị tiên già hỏi : Từ khi nào mà con và saphira từ chối thanh Támerlein,con và Saphira tính ở lại đây lâu hơn hay sao?
Con không biết, sưphù à.Nó đáp lại : Có một số điều con muốn tìm hiểu thêm về cây Menoa, nhưng nếu không thành công thì không còn lựa chọn nào khác là trở vê Varden với đôi bàn tay không.
Oromis gật đầu : trước khi con đi,hãy cùng Saphira quay lại đây lần cuối cùng. Vâng thưa thầy.
Khi Saphira bay tới cây Menoa,Eragon ngồi trên lưng, cô ả nói : Tại sao không phải là trước kia mà lại là bây giờ.
Bởi vì bây giờ chính là lúc cần phỉa làm việc này.thế em có ý kiến nao khác sao.
Không,nhưng em không thích thế này.Chúng ta không biết bà ấy sẽ phản ứng thế nào.Nên nhớ, trước khi Linnëa biến thành cây bà ấy đã giết chết người đàn ông đã phản bội tình cảm cả bà ấy.Bà ấy có thể giận dữ trở lại đó. Bà ấy không dám đâu khi mà có em ở đây bảo vệ anh.
Uhm.
Saphira bay vòng vòng phía trên cây Menoa cách khoảng vài trăm feet.Những chú sóc trên những cây thông khổng lồ sơ hãi cảnh báo đồng loại về sự xuật hiện của cô ả.
Trượt xuộng dưới,Eragon chống tay xuống đùi,càu nhàu: Không thể lãng phí thời gian được.Nhẹ nhàng từng bước,nó chạy lại gần thân cây,dang hai cánh tay ra để giữ thăng bằng.Saphira cũng theo sau với từng bước chậm chạp,móng vuốt của cô ả cào rách lớp vỏ cây.
Eragon ngồi xổm trên một cành trơn trượt,mống tay bấu vào những kể nứt nẻ trên thân cây để giữ cho nó khỏi bị té.Nó chờ cho đến lên Saphira cũng leo lên được phía bên trên nó,nó nhắm mắt, thở sâu để hít cái không khí lạnh và ẩm ướt, rồi nó phóng suy nghĩ tới cái cây.
Cây Menoa dường như không làm gì để cản trở nó.Ý thức của bà ta thật quá sâu rộng và khác thường.Bất kỳ ai có ý muốn điều khiển cái cây này cũng cần phải so một ý thức cực kỳ to lớn và mạnh mẽ,mà một người đơn độc có nằm mơ mới đạt được.
Từ chỗ chiếc cây,Eragon có thể cẩm giác xng quanh,từ cái ấm áp của chỗ đất bị rễ cây nén lại trải ra hàng trăm thước Anh về mọi hướng.Nó cảm nhận được sự di chuyển của một con ruồi trâu bay qua các cành lá chằng chịt, và dòng chất lỏng nhờn nhờn rỉ ra từ những vết cắt trên thân cây, nó cảm nhận được các cây xung quanh cũng như thế.So sánh với đêm diễn ra lễ Huyết thệ,cái cây dường như đang chìm trong giấc ngủ.Chỉ có 1 điều Eragon có thể nhận ra di chuyển quá chậm và không thể biết đó là cái gì.
Tập trung nội lực,Eragon cố ném ý thức của mình qua cây Menoa : Xin hãy nghe tôi,hỡi cây khổng lồ kia ! Tôi cần sự giúp đỡ của bà.Khắp nơi đang xảy ra chiến tranh,các vị tiên đã rời bỏ khu an toàn Du Weldenvarden,tôi thì cần một thanh kiếm để chiến đấu.mèo ma Solembum nói với tôi rằng khi tôi cần 1 vũ khí hãy đến tìm dưới cây Menoa.Và bây giờ chính là lúc.Xin hãy nghe tôi,hỡi Mẹ của rừng,xin hãy giúp tôi.Trong khi nói,nó cố chuyển những hình ảnh về Murtagh và Thorn và thế lực của Đế quốc.Cộng thêmmột vài ký ức lẫn lộn,Saphira cũng giúp nó bằng nguồn nội lực từ bên trong cô ả.
Tiếp tục cố gắng,nhờ nguồn nội lực mạnh mẽ của cô ả rồng,Eragon cố gửi những lời lẽ và những hình ảnh tới cây Menoa với hy vọng sẽ kích thích được trí tò mò của Bà ta.
Vài phút sau, cái cây dường như vẫn không nghe những gì Eragon nói,Eragon bắt đầu thấy chán nản.Nó hy vọng cái cây di chuyển chậm chạp hơn loài tiên và cả loài người nhưng vẫn sẽ có phản ứng mặc dù là không phỉa ngay tức khắc.
Bọn ta không còn đủ sức lực nữa.Saphira nói,bằng không chúng ta phải quay trở lại Varden cho kịp thời gian thôi.
Eragon đồng ý và miễn cưỡng ngắt dòng suy nghĩ.
Trong khi họ tiếp tục nài nỉ cây Menoa,mặt trời đã lên tới đỉnh và bắt đầu ngả bóng.Những đám mây cuồn cuộn hối hả trôi về phía cuối trời.Những chú chim lao như têm bắn, vài chú sóc giận dũ la hét gọi bầy, mấy chú bướm dập dờn qua lại, một đàn kiến hành quân ngang qua giầy của Eragon mang những chiến lợi phẩm nhỏ màu trắng trên những đôi càng to khỏe của chúng.
Saphira gầm lên làm lũ chim hoảng hốt sợ hãi.Sự kiên nhẫn của ta như thế là quá đủ rồi đấy.Ta là 1 con rồng, ta sẽ không bỏ qua đâu, bất kỳ một cây nào.
Không, đợi đã.Eragon nức nở.Biết được ý định của cô ả,nhưng cô ả vẫn phớt lờ.Lùi lại vài bước Saphira dùng móng vuốt cào sâu vào rễ cây, giật mạnh làm ba miếng gỗ lớn bật ra khỏi rễ cây.Ra đây và hãy nói chuyện với bọn ta.Cô ả gầm lên.Cô ả rụt đầu lại và phun ra 1 luồng lửa giữa hai quai hàm làm thân cây chìm trong bão lửa màu trắng xanh.
Che mặt lại,Eragon nhảy ra xa để tránh hơi nóng. Dừng lại Saphira.Nó gào lên.
Em sẽ chỉ dừng lại chừng nào bà ta chịu trả lời chúng ta.
Một đám mây mù trĩu nước đem mưa tới.Ngước lên,Eragon thấy những cành thông đang đung đưa và rung mạnh dần, tiếng rên rỉ của gỗ phảng phất trong không khí.Cùng lúc đó một mảnh băng lạnh lao vút tới má của Eragon, và nó nghĩ nó đã ngã lăn đùng ra xuống dưới chân.Xung quanh nó thấy dường như tất cả các cây rung lên, cao hơn và dữ tợn hơn.Nó cảm nhận được rằng các cành cây của chúng đang nhắm về nó như những chiếc móng vuốt.
Eragon bắt đầu thấy sợ.
Saphira…,nó gọi, khom người xuống sẵn sàng để chạy hoặc chiến đấu.
Ngừng phun lửa,Saphira quán sát xung quanh.Khi cô ả chú ý tới vòng vây do các cây tạo thành,vảy cô ả như dựng ngược vì tức giận.Cô ả gầm vang cả khu rừng, dang cánh định bay thoát khỏi cây Menoa.Nhanh,leo lên lưng em nào.
Trước khi Eragon có thẻ tiến thêm 1 bước,một cái rễ lớn đâm lên khỏi mặt đất và quấn lấy chân trái của nó,làm
nó không thể di chuyển..Hơn thế nữa một cái rễ lớn hơn xuất hiện từ một phía khác của Saphira và túm lấy chân và đuôi của cô ả,làm cô ả không bay lên được.Saphira rống lên giận dữ ,ngoái cổ lại định phun lửa tiếp.
Ngọn lửa thoát ra từ miệng cô ả rồi tắt ngấm khi một âm thanh vang lên trong tâm trí Eragon và cô ả,rất chậmmột tiếng thì thầm giống tiếng lá xào xạc : Ai dám phá vỡ sự thanh tịnh của ta đó?Ai dám cắn ta và đốt ta đó?Xưng tên đi để ta biết kể ta sắp giết là ai.
Eragon nhăn nhó tron đau khổ khi một chiếc rễ xiết chặt quanh mắt cá chân nó.Thêm một chút nữa là nó sẽ bị gãy chân. Tôi là Eragon-Khắc tinh của Tà thần,và đây là Vảy sáng.
Chết đi,Eragon-khắc tinh của tà thần và Saphira-Vảy sáng. Đợi đã.Eragon nói : Tôi chưa nói hết.
Im lặng hồi lâu rồi giọng nói lại vang lên :Nói tiếp đi.
Tôi là Kỵ sĩ rồng cuối cùng ở Alagaësia,và Saphira là con rồng cái cuối cùng còn sống.Chúng tôi dĩ nhiên là những người duy nhất có thể đánh bại Galbatorix,kẻ phản bội-người đã phá hủy thời đại kỵ sĩ và chiếm lĩh một nửa Alagaësia.
Tại sao ngươi lại tấn côn ta,con rồng kia?Giọng nói lại vang lên.
Saphira nhe răng: Bởi vì ngươi không chịu nói chuyện với bọn ta,và bởi vì Eragon đã đánh mất thanh kiếm của anh ấy và con mèo ma bảo đến gặp ngươi để tìm vũ khí.Chúng ta đã cố gắng nhưng không tìm thấy gì.
Và sau đó ngươi sẽ chết 1 cách vô ích thôi vì chẳng có vũ khí nào bên dưới bộ rễ của ta đâu.
Cố gắng tiếp tục nói chuyện với cái cây,Eragon nói : Chúng tôi tin rằng con mèo ma muốn ám chỉ Thép sáng, thứ kim loại từ các vì sao rớt xuống mà Rhunön sử dụng để rèn kiếm cho các kỵ sĩ.Nếu không có nó tôi sẽ không có thanh kiếm nào cả.
Mặt đất lồi lên bởi mạng lưới rễ cây làm náo động tất cả các loài động vật sống trong hang dưới mặt đất như thỏ,chuột,khiến chúng phi ra khỏi tổ và tìm chỗ trốn.
Phía xa, Eragon thấy vài chục thần tiên chạy đến mái tóc họ óng như nhữn sợi tơ.Xuất hiện trong im lặng,họ dừng lại bên dưới những cái cây đang bao quanh Eragon và Saphira, nhưng họ không tiến lại gần hoặc có dấu hiệu giúp đỡ.
Erago cố phóng suy nghĩ để gọi cho Oromis và Glaedr,khi giọng nói quay trở lại : Mèo mà biết nó nói về cái gì,đó là một mẩu quặng của Thép sáng được chôn bên dưới bộ rễ của ta,nhưng ngươi sẽ không có được nó vì ngươi đã đánh ta,đốt ta.
Nghe thấy sự tồn tại của mẩu quặng, Eragon phấn chấn hẳn lên : nhưng Saphira là con rồng cái cuối cùng,bà có chắc là bà muốn giết nó chứ.
Rồng phun lửa giọng nói thì thầm,một cái rùng mình chạy dọc thân cây : Lửa phải được dập tắt.
Saphira gầm lên :Nếu chúng ta không thể ngăn chặn kẻ đã phá hoại thê hệ kỵ sĩ rồng,hắn ta sẽ tới đây và đốt cả kh rừng này,cả ngươi nữa.Nếu nguwoi giúp bọn ta, bọn ta có thể sẽ ngăn được hắn.
Một tiếng kêu thất thanh vang vọng giống như kh hai cành cây đập vào nhau: Nếu hắn cố giết các cây yêu quí của ta,hắn sẽ phải chết,giọng nói vang lên.Không ai khỏe bằng sức mạnh của rừng này,không ai có thể hủy điệt được,ta đại diện cho khu rừng dám tuyên bố như thế.
Chúng tôi sẽ chữa thương cho cây có được không.Eragon hỏi.
Cây Menoa không trả lời,nhưng như một cơn gió mạnh thổi thẳng vào tâm trí Eragon : Ngươi là gì,kỵ sĩ kia.Ta biết tất cả cả loài sống trong khu rừng này,nhưng chưa bao giờ gặp 1 kẻ như ngươi.
Tôi không phải thần tiên cũng khôngphải người.Eragon nói : tôi là sựpha trộn của cả hai.Loài rồng đã thay đổi tôi trong lễ hội Huyết thệ.
Tại sao họ lại thay đổi ngươi, hỡi kỵ sĩ?
Để tôi có thể chiến đấu tốt hơn chống lại Galbatorix và thế lực của hắn.
Ta còn nhớ rằng ta đã từng thấy một thế giới hoang tàn trong suốt buổi lễ đó,ta đã nghĩ nó không có gì là quan trọng cả…Nhưng bây giờ có vẻ trở nên quan trọng hơn 1 chút. Hãy cứu mặt trời và mưa.
Chúng tôi sẽ chữa lành vết thương cho rễ và thân cây của bà nếu điều đó làm bà thỏa mãn, nhưng cầu xin bà hãy để chúng tôi lấy Thép sáng.
Những cây khác rên rỉ như những linh hồn sắp chết.Giọng nói lại vang lên : Ngươi sẽ làm những gì ta muốn chứ,Kỵ sĩ rồng?
Nhất định rồi.Eragon đáp không chút do dự.Bất kỳ giá nào nó cũng vui vẻ chấp nhận.
Sau vài phút,khu đất trống đang im lặng bỗng mặt đất bắt đầu rung chuyển và những cái rễ cây trước mặt Eragon bắt đầu tách ra chồi lên kéo rẽ đất về hai bên.Sau đó một cục sắt gỉ xuất hiện trên nền đất phù sa màu mỡ đen và dơ bẩn.Eragon cảm thấy dạ dày quặn thắt, một cảm giác nhói đau khó chịu xuất hiện rồi chợt biến mất.Rồi những cái rễ đang quấn vào chân Eragon lỏng dần rồi tuột ra chui xuống biến mất khỏi mặt đất.Chỗ Saphira cũng thế,cô ả không còn bị trói buộc nữa.
Kim loại của ngươi đây.Giọng thì thầm của cây Menoa :Cầm lấy và đi đi… Nhưng-Eragon hỏi.
Đi…Giọng nói từ cây Menoa ẩn đàn rồi biến mất:Đi…Và ý thức từ cây Menoa biến mất khỏi tâm trí của Eragon và Saphira,rút dần ngày câng mờ nhạt cho đến khi Eragon không còn cảm nhận thấy ý thức đó nữa.Xung quanh chúng bóng của những cây thông cũng lùi xa và trở lại vị trí cũ.
Nhưng…Eragon hét to hơn,bối rối vì không thấy cây Menoa đưa ra điều kiện gì.
Vẫn cồn ngỡ ngàng,nó bước tới chỗ cục quặng,lần những ngọn tay xuống cạnh dưới và nhấc cái khối có trọng lượng khác thường này lên cánh tay nó và cằn nhằn vì nó khá nặng.Ôm chặt nó trước ngực,quay đầu ngược lại phía cây Menoa,nó rảo bước tiến về nhà của Rhunön.
Saphira ngửi khối Thép sáng khí cô ả đi bên cạnh Eragon : Anh đã đúng.Em không nên tấn công bà ta. Nhưng ít nhất chúng ta cũng có được Thép sáng.và cây Menoa…tốt thôi,anh không biết bà ta sẽ làm gì,nhưng chúng ta sẽ làm,và đó không phải là vấn đề.
Các thân tiên ở đó tụ tập dọc đường đi của Eragon để đi theo và nhìn chằm chằm nó và Saphira khiến nó càng bước nhanh hơn,gáy nó như mốn nổi da gà…
Một luông khói phun ra từ mũi Saphira :Nếu Galbatorix không giết chúng ta trước,em nghĩ chúng ta sống sẽ phải ân hận về điều này.
Chương 51: Ý TRÍ TRÊN THÉP
“Ôi ở đâu ra thế này” Rhunön sững sờ khi thấy Eragon bước vào và ném cục quặng xuống đất ngay trước chân của Rhunön.
Bằng cách ngắn gọn nhất, Eragon giải thích về Solembum và cây Menoa .
Ngồi trước cục quặng, Rhunön vuốt ve bề măt thô ráp của nó, những ngón tay bà mâm mê những mẩu kim loại nằm rải rác trên cục đá. “Ngươi thật điên rồ hoặc có lẽ ngươi thật dũng cảm khi dám thách thức cây Menoa.Bà ta không phải dễ đùa thế đâu.”
“Bằng này có đủ ch 1 cây kiếm không” Saphira hỏi.
“Vài cây cũng đủ,nếu như ta dựa vào kinh nghiệm của mình để khẳng định như thế”. Rhunön nói, sự hưng phấn trong bà đang tăng.Bà tiên già liếc nhìn cái lò rèn của mình nằm chính giữa cửa,vỗ hai tay vào nhau, mắt bà sáng lên với tất cả sự nhiệt huyết và quả quyết. “Bắt đầu thôi,ngươi muốn một cây kiếm phải không, Khắc tinh của Tà thần? Rất tốt, ta sẽ cho ngươi một cây kiếm chưa bao giờ có ở Alagaësia này”.
“Nhưng còn lời thề của bà?”
“Đừng nghĩ về nó, nên nhớ hai ngươi phải quay về Varden đó” “Đáng lẽ chúng tôi nên rời đi từ cái ngày mà chúng tôi đến”
Rhunön ngừng lại, tâm trạng bị dồn nén : “Ta sẽ phải khẩn trương hơn mức bình thường và sử dụng phép thuật để làm việc, vì nếu không sử dụng phép thuật thì có lẽ phải mất tới cả tuần để hoàn thành.Ngươi và Vảy sáng sễ giúp ta”.Không phải là môt câu hỏi nhưng Eragon vẫn gật đầu đồng ý. “Chúng ta sẽ không nghỉ tối nay, nhưng ta hứa với ngươi, Khắc tinh của Tà thần, sáng ngày mai ngươi sẽ có kiếm để dùng”.Khụy gối, Rhunön nâng cục quặng khỏi mặt đất mà không cần phải tận sức và mang nó tới cái đe chô đang làm dở tác phẩm của bà.
Eragon cởi bỏ bộ trang phục của mình để tránh khi làm việc sẽ làm hỏng nó, rồi Rhunön đưa cho nó cái áo chẽn da bó sát người và môt cái tạp dề chống cháy. Rhunön cũng măc như thế. Khi Eragon nhắc tới găng tay, bà cười và lắc lắc cái đầu. “Nó chỉ làm cho người thợ rèn thêm vụng về.”
Rhunön dẫn nó tới một cái hang giống như phòng ngủ ở giữa một cái thân cây to trong khu nhà của bà. Bên trong là những bao chứa than cốc và những viên như đất sét trắng xốp.Dùng phép thuật, họ nâng vài trăm viên lên và mang chúng ra ngoài đưa đến lò rèn,sau đó họ cũng mang chừng ấy bao than tới, mỗi bao còn to hơn cả một người đàn ông.
Chỉ môt lần họ đã mang đủ những thứ mà họ cần làm Rhunön rất hài lòng,bà và Eragon cùng bắt tay vào nấu chảy quặng.Việc nấu chảy này khá phức tạp, Rhunön không dám dùng quá nhiều phép thuật can thiệp vào cấu trúc của nó. Bởi vậy việc này mất gần hết buổi chiều.Đầu tiên họ đào một cái hố hình chữ nhật sâu 5 feet để họ có thể đổ đầy cát,sỏi, đất sét, than, tro, và họ tạo một số lỗ và kênh dẫn hơi ẩm để không làm ảnh hưởng tới quá trình nung chảy.Khi lấp đầy hố bằng với mặt đất,họ tạo một cái máng gạch, sử đụng nước và đất sét tạo thanh một loại vữa không cháy.Lục lọi trong nhà Rhunön quay lại với một cặp ống bễ để gắn lên những cái lỗ của máng.
Họ giải lao, uống và ăn một ít bánh mì với phó mát.
Sau bữa ăn nhanh, Rhunön đặt một nắm nhỏ cành cây xuống cái máng và nhóm lửa, miệng lẩm bẩm điều gì đó.Khi lửa cháy, bà đặt những miếng gỗ sồi vừa vừa xuống dưới đáy.Gần một giờ, bà trông ngọn lửa, chú tâm như người làm vườn đang trồng hoa hồng, cho tới khi gỗ cháy và thậm chí than đã đỏ rực. Sau đó Rhunön gật đầu với Eragon và nói: “Bắt đầu”.
Eragon nâng cục quặng lên và nhẹ nhàng đặt nó xuống cái máng.Hơi nóng chạm vào tay làm nó không thể chịu đựng nổi nó buông cục quặng ra và nhảy lùi lại, lửa bắn tung tóe giống như một đàn đom đóm bay lượn.Phía trên đỉnh nó dùng xẻng xúc than phủ một lớp dày để làm nguyên liệu cháy.
Eragon phủi lớp bị than dính vào tay, sau đó cầm chiếc bễ thổi đặt vào vi trí và bắt đầu đẩy để tạo gió, trong khi phía bên kia Rhunön cũng đang ra sức đẩy.Lửa được đốt với từng luồng khí cấp đều đặn bởi vây cục quặng càng được nung nóng hơn.
Những chiếc vảy trên ngực Saphira cũng như phía dưới đầu và cổ của cô ả phản chiếu những ánh lửa lấp lánh trong vũ điệu nung chảy.Cô ả khom người ngồi cách xa và thước Anh, mắt cô ả dán vào trung tâm ngọn lửa : “Em có thể giúp được mà,chỉ mất 1 phút là cục quặng sẽ tan ra như nước thôi.”
“Được đấy.” Rhunön nói, “Nhưng nếu chúng ta nấu chảy nó quá nhanh,kim loại sẽ không kết hợp với than và nó sẽ trở nên không đủ độ cứng và mềm dẻo cần thiết để rèn kiếm.Hãy tiết kiệm ngọn lửa của ngươi, Vảy sáng ạ.Chúng ta sẽ dùng tới nó sau.”
Nhiệt từ vât nung và nỗ lực kéo bễ làm người Eragon đẫm mồ hôi,cánh tay trần của nó sáng bóng dưới ánh lửa. Kể từ bây giờ họ sẽ dừng bễ thổi,dùng xẻng thêm một lớp than lên ngọn lửa.
Công việc cứ đều đều như thế làm Eragon quên cả thời gian.Lửa vẫn cháy đều dưới bàn tay kéo bễ thổi của Eragon,nó chú ý đến dáng vẻ thận trọng của Saphira.
Nó bất chợt giật mình khi Rhunön nói : “Đủ rồi không cần bễ thổi nữa,nó có thể tự cháy”.
Lau trán xong, Eragon giúp Rhunön xúc những cục than nóng ra khỏi lò và nhúng vào một cái thùng đầy nước.Những cục than kêu xèo xèo và phát ra một làn hơi cay xè.
Cuối cùng cũng xuất hiện những vũng kim loại trắng nóng hổi ở đáy phễu-xỉ và những chất cặn khác đã được lấy đi hết trong suốt quá trình nung. Rhunön thu thập kim loại với từng mẩu nhỏ màu trắng,sau đó đưa chúng tới chiếc ghế gần chỗ rèn.
“Làm gì bây giờ”. Eragon hỏi. “Giờ thì đợi”
“Đợi để làm gì”
Rhunön ngước nhìn bầu trời, nơi mà những vết sáng của mặt trời lặn sơn lên những mẳng mây rách nát đủ thứ màu đỏ, tím, vàng. “Phải đợi trời tối chúng ta mới làm tiếp vì lý do tạo màu cho thanh kiếm Thép sáng cần thời gian để nguội đi làm cho nó mềm ra và dễ để tạo hình.”
Với tay ra đằng sau, Rhunön cởi sợi dây buộc tóc, gom lại mớ tóc rồi buộc lại cho gọn gàng : “Trong thời gian chờ đợi, chúng ta hãy nọi chuyện vê kiếm của cậu.Cậu dùng kiếm 1 tay hay hai tay?”
Eragon suy nghĩ một chút sau đó nói : “Không nhất thiết.Nếu phải lựa chọn tôi thích cầm kiếm 1 tay và tay kia cầm khiên.Tuy nhiên hoàn cảnh không phải lúc nào cũng thuận lợi, tôi thường phải chiến đấu mà không có khiên.Do vậy tôi thích cầm kiếm cả hai tay để có thể tung ra cú đánh mạnh hơn..Chuôi thanh Zar’roc đủ lớn để tôi cầm bằng tay trái,nhưng đầu chuôi có gắn thêm viên hồng ngọc nên không được thoải mái lắm,nó không tạo cho tôi cảm giác an toàn khi cầm nó.Vì vậy tốt hơn hết là chuôi nên dài hơn một chút.”
“Thế cậu muốn chính xác là một thanh kiếm dùng hai tay hả ?” Eragon lắc đầu : “Nó quá lớn khi đánh nhau trong nhà”
“Còn tùy thuộc vào sự kết hợp giữa lưỡi kiếm và chuôi kiếm,nhưng thông thường,cậu đã đúng.cậu có muốn một thanh kiếm một tay rưỡi không (hannd-a-half-hand sword) ?”
Một hình ảnh chợt lóe lên trong đầu Eragon về thanh kiếm đầu tiên của Murtagh,nó cười Tại sao không nhỉ : “Đúng., thanh kiêm một tay rưỡi là hoàn hảo, tôi nghĩ thế.”
“Thế cậu muốn lưỡi kiếm dài bao nhiêu ?” “không dài hơn thanh Zar’roc”.
“Uhm.Cậu muốn lưỡi kiếm thẳng hay lưỡi kiếm cong ?” “ Thẳng.”
“Thế còn vấn đề phòng thủ ?” “Không vấn đề gì.”
Khoanh tay,cằm Rhunön chạm xương ức,mắt ba nặng trĩu,môi run run.
“Thế độ rộng của bản kiếm,Nên nhớ, nó rất quan trọng để giữ cho thanh kiếm khỏi bị gãy. ” “Dĩ nhiên là rộng hơn một chút so với Zar’roc”.
“Tại sao ?”
“Tôi nghĩ trông nó như thế sẽ tốt hơn.”
Giọng khàn khàn một tiếng cười vỡ ra từ trong họng của Rhunön : “Nhưng bằng cánh nào có thể cải thiện được việc sử dụng kiếm?”
Lúng túng, Eragon không nói một lời nào
“Đừng bao giờ đề nghị ta thay đổi một vũ khí chỉ đơn thuần làm thay đổi diện mạo của nó.” Rhunön quở mắng “Vũ khí là công cụ,nếu nói nó đẹp thì là bởi vì nó hữu dụng.Một thanh kiếm mà không có đủ chức năng của nó thì trong mắt ta nó chỉ là một thứ xấu xí cho dù nó có hình dáng đẹp thậm chí được trang trí bởi những thứ trang sức đẹp mắt,quý giá.” Vị tiên già bĩu môi,ném chúng ra khỏi suy nghĩ : “Một thanh kiếm phải phù hợp trong một trận chiến sống còn,nó phải bảo vệ được cậu trong những đường hầm chật hẹp ở Farthen Dûr.Một thanh kiếm hội tụ đủ các yêu cầu, chiều dài vừa phải,chuôi kiếm sẽ không dài hơn mức bình thường.”
“Một thanh kiếm để kết liễu Galbatorix.” Eragon nói.
Rhunön gật đầu “Và nó cũng phải chống lại được phép thuật nữa…”Cằm bà lại chạm vào ngực. “Áo giáp đã có những bước cải tiến rất lớn trong những thế kỷ trước, bởi vậy vấn đề bây giờ là phải làm thế nào để chọc thủng được miếng kim loại trên áo giáp và đâm sâu vào bên trong.Hừm.”Từ một cái túi bên hông, Rhunön lấy ra một sợi dây rồi bà đo bàn tay và cánh tay của Eragon.Sau đó bà tìm một cái que cời than bằng kim loại và quăng cho Eragon.Nó bắt lấy bằng 1 tay và rướn lông mày nhìn Rhunön.Bà chỉ 1 ngón tay và nói “tiếp tục đi, hãy để ta xem cách cậu di chuyển khi trong tay cầm một thanh kiếm.”
Đi bộ xung quanh lò rèn, Eragon thầm cảm ơn bà vì làm nó gợi nhó đến những động tác Brom đã day nó.Sau vài phút, nó nghe thấy tiếng leng keng của kim loại rơi trên đá, Rhunön ho và nói “Chẳng hy vọng gì.” Rhunön bước tới trước mặt Eragon,cầm một cái que cời than khác.Trán nhăn lại,đôi mắt quắc vẻ nghiêm nghị,khi bà ấy tung chiếc que cời than và hét : “Đỡ này, Khắc tinh của Tà thần.”
Chiếc que cời than nặng trịch của Rhunön rít lên trong không khí lao tới Eragon với một đòn mạnh phi thường.Nhảy qua 1 bên, Eragon né đòn tấn công.Chiếc que kều bật khỏi tay nó khi hai thanh kim loại chạm nhau.Mặc dù Rhunön không thực sự có kinh nghiệm về kiếm thuật,nhưng Eragon vẫn thấy bà là một đối thủ đáng gờm.Cuối cùng họ buộc phải dừng lại hai thanh cời quá mềm và đã bị cong oằn như cành của cây thủy tùng. Rhunön nhặt hai thanh cời đem vất vào chỗ để dụng cụ hỏng. Sau đó quay trở lại, bà tiên già hất cằm và nói “bây giơ thì ta biết chính xác hình dạng thanh kiếm của cậu rồi.”
“Nhưng bà sẽ làm nó như thế nào?”
Sự tinh nghịch lấp lánh trong con mắt Rhunön: “ta sẽ không làm.Chính cậu sẽ làm nó chứ không phải ta, khắc tinh của tầ thần ạ.”
Eragon há hốc mồm nhìn Rhunön một lúc,nó lắp bắp : “tôi hả.Nhưng tôi chưa bao giờ thử làm việc ở một lò rèn.Thậm chí tôi không hề có tí kỹ năng nào để rèn 1 con dao thông thường.”
Vẫn ánh mắt đó, Rhunön nói : “Ấy thế mà chính cậu sẽ là người làm thanh kiếm này đấy.” “Nhưng bằng cách nào ?Bà sẽ đứng cạnh tôi và đưa ra yêu cầu khi tôi nện búa hay sao?”
“Gần như thế” Rhunön nói : “Không, ta sẽ hướng dẫn động tác cho cậu thông qua ý chí để đôi tay của cậu có thể làm cái mà ta không thể.Đó không phải là một giải pháp hoàn hảo,nhưng ta nghĩ còn 1 lý do khác là tránh được việc phá vỡ lời thề của ta và nó cho phép ta tiếp tục nghề nghiệp của mình.”
Eragon tỏ ra lo lắng : “Nếu làm thế thì cũng có khác gì chính tay bà làm đâu.” Rhunön sầm mặt,giọng cộc cằn : “Thế cậ có muốn kiếm nữa hay thôi.”
“Tất nhiên là muốn”
“Ngươi thật là phiền phức.Việc rèn kiếm do ngươi làm là khác vì ta nghĩ nó như thế là khác.Nếu không thì chính lời thề của ta sẽ ngăn cản trong quá trình làm việc.Bởi vậy, trừ phi cậu muốn trở về Varden với hai bàn tay trắng, bằng không cậu nên khôn ngoan im lặng mà làm theo.”
“Vâng thưa Rhunön.”
Họ đi tới chõ nung chảy, rồi Rhunön và Saphira chăm chú quan sát khối còn ấm của cục Thép sáng nằm dưới đáy cái phễu gạch. “Đập nó thành những miếng có kích thước ban đầu” Rhunön chỉ đạo, và lùi ra để giữ khoảng cách an toàn.
Nhấc chân trước lên, Saphira đập vào khối thép bằng tất cả sức lực.Đất rung lên, khối thép xuất hiện vài vết nứt.Phải mát ba lần Saphira mới làm thỏa mãn Rhunön về kết quả của mình.
Rhunön thu những miếng thép sắc nhọn lại đặt vào cái tạp dề và mang xuống cái bàn thấp cạnh chỗ rèn.Sau đó bà phân loại dựa theo độ cứng của từng miếng, rồi nói với Eragon, bà có thể quyết định màu cũng như cấu trúc kim loại “Cái thì quá cứng, cái thì quá mềm” bà nói “và trong khi ta tìm ra cái mà ta muốn thì nó cũng đòi hỏi về nhiệt độ nữa. Bởi vậy chỉ sử dụng những miếng thật sự thích hợp để rèn kiếm.Trên lưỡi kiếm thì phải cần thép cứng hơn”-bà chọn những miếng sán màu ,lấp lánh “Thật tốt dể làm 1 cái lưỡi sắc bén”.phần giữa cả kiếm nên được làm bằng thép mềm hơn-bà chọn nhữn miếng xám màu và không sáng “Thật tốt để chịu 1 cú đánh mạnh”. Trước khi kim loại được rèn thành hình dạng nhất định, chúng ta cần phải làm sạch nó khỏi cặn bẩn.
“Bằng cách nào?” Saphira hỏi.
“Ngươi sẽ thấy ngay thôi.” Rhunön đi tới cây cột chống đỡ mái nhà của lò rèn,ngồi dựa lưng vào nó,khoanh chân, mắt nhắm lại, khuôn măt điềm tĩnh bà hỏi : “Sẵn sàng chưa, Khắc tinh của Tà thần.”
“Sẵn sàng” Eragon trả lời mặc dù trong bụng nó thật hồi hộp và căng thẳng.
Điểu đầu tiên mà Eragon chú ý đến Rhunön là khi tâm trí ho gặp nhau giống những âm thanh nhỏ vang vọng xuyên qua bóng tối và những hình ảnh lộn xộn trong đầu bà ta.Tiếng nhạc chầm chậm và thận trọng đâu đó lóe lên một nốt lạ và lơ đãng như tiếng kèn kẹt trong não bà.Điều đó nói lên điều gì về tính cách của bà, Eragon không chắc chắn lắm nhưng những dư âm sợ sệt làm nó cân nhắc lại tới sự cho phép của tâm trí Rhunön để điều khiển con người nó.Nhưng khi nó nghĩ về Saphira đang ngồi bên cạnh, chăm chú nhìn nó, sư lo lắng trong nó giảm dần,những bức tường phòng thủ xùng quanh ý thức nó cũng mờ đi.
Cảm giác giống như có một tấm len thô ráp trượt trên da nó khi Rhunön dùng ý thức xâm chiếm lấy tâm trí nó, Ý thức bà len lỏi vào những nơi riêng tư nhất của cuộc đời nó.Nó rùng mình và mốn cắt đứt mối giao cảm ngay lập tức, nhưng sa đó giọng nói thô ráp của Rhunön vang lên trong đầu nó: “Thư giãn đi, Khăc tinh của Tà thần, tất cả rồi sẽ ổn thôi.”
“Vâng thưa Rhunön”.
Sau đó, Rhunön bắt đầu nâng cánh tay của Eragon lên, dịch chuyển chân của nó, xoay đầu nó và một mặt thử khả năng của cơ thể nó.Thật lạ khi Eragon cảm thấy đầu và tứ chi nó di chuyển ngoài sự điều khiển của chính nó, lạ hơn nữa là mắt nó bắt đầu cử động từ nơi này nhìn sang nơi khác, dừơng như họ đã hòa hợp làm một.Cảm giác không tự chủ được làm nhóm lên trong lòng Eragon một sư hoảng loạn đột ngột.Khi Rhunön điều khiển Eragon đi bộ về phía trước chân vập vào một cái xó xỉnh nào đó trong lò rèn, và dường như nó sẽ ngã lăn ra ngay lập tức nếu như nó không phản xạ nắm lậy chiếc đe để giữ thăng bằng.
“Đừng cản trở.Nếu tâm trí cậu can thiệp không đúng lúc trong suốt quá trình rèn kiếm, cậu sẽ tự gây ra cho bản thân những tổn thương vĩnh viễn”.
“Vậy thì bà nên cẩn thận 1 chút” Eragon vặn vẹo.
“Kiên nhẫn nào, Khắc tinh của Tà thần.Sẽ dần tốt hơn,trời đã tối rồi.”
Trong khi chờ những vệt sáng cuối cùng mờ dần đi trên nền trời nhưng tấm thảm nhung khổng lồ, Rhunön chuẩn bị sẵn sàng cho công việc, chuẩn bị rất nhiều loại công cụ khác nhau..Sự vụng về ban đầu của bà thể hiện trên các động tác của cơ thể Eragon sớm biến mất, mặc dù một lần bà vung trượt cây búa nện xuống đầu ngón tay của Eragon đang để trên bàn.Sự đau đớn làm mắt Eragon ngấn lệ. Rhunön xin lỗi và nói : “Cánh tay của cậu dài hơn của tôi.”Một phút sau đó khi họ bắt đầu, Rhunön giải thích : “Thật là may mắn vì cậu có được sự nhanh nhẹn và sức mạnh của thần tiên, Khắ tinh của Tà thần ạ, bằng không chúng ta không thể hoàn thành công việc trong đêm nay đâu.”
Lấy một mảnh Thép sáng cứng và một mảnh mềm mà Rhunön đã lựa ra, bà dặt chúng vào trong lò.Thuận theo yêu cầu của bà tiên già, Saphira đốt nóng thanh thép. Saphira hơi há miệng chỉ đủ nhỏ để phun một luồng lửa trắng xanh tập trung thành 1 dòng nhỏ,không để lửa tràn ra những chỗ khác của xưởng rèn.Ngọn lửa nhỏ ào ào tuôn ra thắp sáng cả không gian trước của với một luồng sáng màu xanh cực mạnh, nó làm cho vảy của Saphira phản chiếu và lóe lên những tia sáng chói.
Rhunön điều khiển Eragon đưa Thép sáng di chuyển trong ngọn lửa bằng một cái kẹp mỗi khi miếng kim loại này rực đỏ.Bà ddawtjnos lên chiếc đe, rồi vung hàng loại cú giáng từ chiếc búa tạ xuống, làm dẹt tấm kim loại thành những miếng mà có độ dày chỉ còn vẻn vẹn độ 1 Inch.Bề mặt của miếng kim loại nóng đỏ sáng rực lên bởi những hạt búi sắt sáng chói.Mỗi khi bà hoàn thành một tấm, bà lại ném nó vào cái máng bên cạnh đựng đầy nước muối. Tất cả các tấm Thép sáng đã được làm phẳng dẹt, Rhunön keeos những tấm này ra khỏi máng nước, nước muối làm nóng cánh tay Eragon, cọ rủa chúng bằng 1 viên sa thạch để loại bỏ hết những lớp cặn đen bám trên bề mặt.Việc cọ rửa là lộ ra cấu trúc kết tinh như pha lê của những miếng kim loại, Rhunön chăm chú qua sát.Hơn thế nữa bà phân loại chúng theo độ cứng và sự nguyên chất thông qua cấu trúc tinh thể của chúng.
Eragon vẫn còn bị giữ bí mật với tất cả mọi ý nghĩ và cảm giác của Rhunön, bởi một số lý do khó nói giữa họ.Sự hiểu biteets sâu sắc của bà là nó bất ngờ, bà thấy được nhiều thứ bên trong kim loại mà nó nghĩ chúng không tồn tại, và sự dự liệu của bà có liên quan đến thái độ vượt ra ngoài sự am hiểu của nó.Nó cũng cảm thấy được bà không hoàn toàn hài lòng khi cầm búa để nện dẹt tấm kim loại.
Sự không hài lòng của bà vẫn tiếp tục gia tăng cho đến khi bà nói : “Ô hay. Hãy nhìn những vết lồi lõm trên tấm kim loại kìa.Ta không thể rèn một thanh kiếm giống như thế này được.Sự điều khiển của ta không phù hợp với cánh tay của cậu, và đôi bàn tay không đủ tốt để rèn một cây kiếm tốt.”Trước khi Eragon có thể cố gắng để giai thích lý do với Rhunön thì Saphira đã nói : “Những côn cụ này không phù hợp, Rhunön ạ.Hãy chắc chắn rằng bà có thể tìm ra giải pháp để bù lại sự bất tiện này.”
“Bất tiện ư ?” Rhunön khịt mũi. “Ta không có gì hơn là một chú chim non mới ra ràng.ta là một kẻ lạ mặt sống trong một ngôi nhà lạ hoắc”. Vẫn cằn nhằn, bà hơi cúi đầu cân nhắc, thái độ là Eragon thấy khó hiểu.Rồi bà nói tiếp : “Được thôi ta có một giải pháp, nhưng ta cảnh báo trước, ta sẽ không tiếp tục nếu ta không duy trì được sự
khéo léo cần thiết.”
Bà không giải thích thêm giải pháp đó là gì, nhưng tự từng người biết, đặt những tấm thép trên đe và bẻ gãy chúng thành những mảnh không rộng hơn cánh hoa hồng.Thu thập một nửa số miếng cứng hơn, Rhunön xếp thành 1 cục sau đó phủ đất sét để giữ chúng lại với nhau.Cục này tiếp tục dày lên và dài khoảng 7 gang tay, tương tự như một người thợ làm bánh mì thêm hoặc bớt những ổ bánh mỳ trong lò nướng.
Rhunön đặt phàn cuối của thanh dài trên và giữa lò, và cho Eragon lùi lại xa nhát có thể trong khi một tay nó vẫn cồn giữ cái tay cầm.Rồi bà đề nghị Saphira tiếp tục phun lửa, Khung cảnh giữa cánh cửa lại rực sáng bởi một thứ ánh sáng màu xanh cực mạnh.Nhiệt quá lớn đến mức Eragon cả thấy như phần da trần của mình trở lên khô cứng, và nó thấy nhữn viên đá Granit trong lò bị nung nóng ánh lên sắc vàng rực rỡ.
Thép sáng có thể tan chảy trong nửa giờ nung trong than hồng, nhưng với ngọn lủa từ miệng Saphira chỉ cần một ít phút nó đã tan chảy trước khi nó trắng sáng.lúc ây Rhunön yêu cầu Saphira ngừng thổi lửa, cả lò rèn chìm trong bóng tối sâu thẳm và tĩnh mịch khi Saphira đóng hai hàm răng của cô ả.
Điều khiển Eragon tiến lại gần mang mang thanh thép nóng cháy sáng gồm những mảnh Thép sáng và đất sét lại chỗ chiếc đe, dùng búa bà nện xuống để hàn những miếng đó lại với nhau thành một khối.Bà tiếp tục giáng những nhát búa xuống cục kim loại cho tói khi nó dài ra và xuất hiện một đường cắt ở giữa,sau đó lại hàn chúng lại với nhau.Những âm thanh vang vọng quanh những cáy cây cổ thụ, lởn vởn quanh chiếc của lớn.
Rhunön điều khiển Eragon mang Thép sáng quay lại chỗ lò, màu sắc của nó đã chuển từ trắng sang vàng, và Saphira lại tiếp tục phun lửa lên kim loại.Sáu lần Rhunön đột nóng và quện thứ kim loại này, mỗi lần như thế nó trở lên mịn hơn và dẻo dai hơn, cho đến khi uốn cong nó mà không tạo ra vết nứt nào.
Khi Eragon quai búa lên kim loại, mọi hành động của nó đều do Rhunön điều khiển.Bà tiên già bắt đầu hát bằng cả tiếng của bà và cả tiếng của nó.Cùng nhau, hai giọng hát tạo thành bài hòa âm khó nghe quyện cùng tiếng búa nện.Một cảm giác ngứa ran chạy dọc xương sống nó khi nó cảm thấy luồng năng lượng đang chảy từ những lời hát ra miệng, và nó nhận ra rằng trong lời hát có chứa phép thuật của sự hình thành, định hình và gắn kết.Bằng hai giọng hát, Rhunön hát lên kim loại Thép sáng đang nằm trên đe, mmo tả những đắc tính của nó, phân tích chúng theo những cách mà Eragon không tài nào hiểu được, và yểm vào trong Thép sáng những mạng lưới bùa chú phức tạp để giúp khối thép này trở lên chắc khỏe và dẻo dai hơn bất cứ thứ kim loại thông thường nào.Với cánh tay quai búa của Eragon, Rhunön cũng hát và dưới lời hát ngâm nga dịu dàng của bà mọi cú giáng xuống đều trúng đích.
Rhunön làm nguội thanh Thép sáng sau 6 lần tôi luyện.Bà lặp lại toàn bộ quá trình với nửa số miếng Thép sáng còn lại,tôi luyện giống hệt như thanh đầu tiên.Sau đó bà thu thập số miếng thép mềm, tôi luyện và hàn chúng 10 lần trước khi biến nó thành cái nêm ngắn và nặng.
Tiếp theo, Rhunön nhờ Saphira lại tiếp tục đốt nóng hai thanh thép vừa xong. Rhunön đặt hai thanh thép nóng rực cạnh nhau trên chiếc đe,ghì chặt chúng lại với nhau nhờ 1 cặp kìm kẹp, và sau đó xoắn chúng lại 7 lần.Những tia sáng lóe lên trong không khí khi bà nện búa xuống để hàn chúng lại với nhau thành một tấm duy nhất.Kết quả là một khối Thép sáng đã được Rhunön tôi luyện, hàn, và quại búa xuống làm cho nó tăng chiều dài tới 6 lần.Khi bà hài lòng với chất lượng của kim loại,bà đập dẹt thanh thép thành một miếng phẳng dày hình chữ nhật, cắt miếng đó doc chiều dài bằng một cái đuc vô cùng sắc bén, và uốn cong mỗi thanh ở chỗ giữa, và như thế chúng đã có chiều dài được định hình..Hình chữ V.
Qua đó , Eragon có thể ước tính bà sẽ hoàn thành tiến trình trong một giờ rưỡi nữa.Nó thật kinh ngạc về tốc độ của bà, thậm chí dường như chính cơ thể nó cũng làm nó ngạc nhiên.Chưa khi nào trước đây nó thấy một thợ rèn nào làm việc thoải mái như thế.Và bây giờ không còn việc gì khó khăn nữa, Rhunön tiếp tục hát để thêu dệt lên những cấu trúc phps thuật yểm vào trong Thép sáng và điều khiển cánh tay Eragon chính xác một cách tuyệt đối. Giữa những tiếng động hỗn tạp, lửa, ánh sáng, và sự nỗ lực Eragon nghĩ thoáng nhìn thấy khi Rhunön nhìn toàn bộ lò rèn qua con mắt của nó, bà cái bóng mảnh mai đứng trước cửa.Saphira biết được sự nghi ngờ của nó, cô ả nói : “Eragon chúng ta không chỉ có 1 mình.”
“Họ là ai?” Eragon hỏi.Saphira gửi cho nó những hình ảnh ngắn, nhăn nheo của con mèo ma Maud, trong hình dạng 1 con người đứng giữa hai vị tiên,những người mà không cao hơn nó.Một trong số họ là nam,một là nữ, và cả hai đều đẹp lạ thường thậm chí đẹp theo cả tiêu chuẩn của loài tiên.Khuôn mặt nghiêm nghị của họ trông có vẻ uyên thâm và vô hại làm Eragon không thể đoán được tuổi của họ.Da họ nhợt nhạt, ánh bạc.
Eragon chất vấn Rhunön về sự xuất hiện của hai vị tiên khi bà để cho cơ thể của nó được nghỉ ngơi một chút. Rhunön liếc nhìn họ, tao cho nó có một cái nhìn dễ dàng hơn sau đó không phá vỡ bài hát của bà, bà nọi bằng ý thức : “họ là Alanna và Dusan, chỉ là những đứa trẻ của Ellesméra.Thật là quá đỗi vui mừng khi cách đây 12 năm chúng được sinh ra.”
“Họ không giống các thần tiên khác mà tôi từng gặp.” Nó nói.
“Những đứa trẻ của chúng ta thật là đặc biệt, Khắc tinh của Tà thần ạ.Chúng đã được chúc phúc với những món
quà của sức mạnh và vẻ đẹp thanh nhã.Ở độ tuổi của chúng ta không thể như thế mặc dầu phép thuật của chngs ta có từ rất sớm nhưng khon bao giờ thục sự ruồng bỏ chúng.”
Rhunön không lãng phí thêm thời gian để nói chuyện.Bà điều khiển Eragon bê cái nêm làm bằng Thép sáng đặt vào giữa hai cái mảnh hình chữ V và nện búa lên chúng cho tới khi những mảnh này bao lấy cái nêm và chúng gắn sát vào nhau.Sa đó Rhunön hàn những mảnh này thành một khối và trong khi kim loại vẫn còn nóng bà bắt đầu kéo nó thành hình gần giống với một thanh kiếm.Miếng nêm mềm trở thàn xương sống của kiếm,trong khi hai mảnh cứng trở thành hai lưỡi và mũi kiếm.Công việc trở nên chậm lại khi Rhunön quay trở lại với phần chuôi kiếm và thận trọng nện búa lên lưỡi kiếm để hòa thành đến những góc cạnh cuối cùng và thật cân đối.
Rhunön nhờ Saphira nung thanh kiếm từng đoạn một, mỗi đoạn không dài hơn 6 hoặc 7 Inch, bằng cách Rhunön cầm kiếm kề sát một lỗ mũi của cô ả, bằng cách đó cô ả chỉ cho 1 ngọn lửa nhỏ đi qua.Bống tối lại bị đẩy lùi ra ngoài cửa mỗi khi ngọn lửa lóe lên.
Trố mắt nhìn,Eragon kinh ngạc khi đôi bàn tay nó đã biến cục kim loại thô thành một vũ khí chiến tranh hoàn hảo.Bằng tất cả các cú đánh, lưỡi kiếm trở lên sáng hơn,từ cục Thép sáng giờ chuyển thành một thanh kiếm mà Rhunön hằng ao ước.
Cuối cùng công việc cũng sắp kết thúc,nằm trên chiếc đe là 1 thanh kiếm màu đen dài, mắc dù nó còn thô ráp và chưa hoàn thiện,nhưng nó tỏa ra một cảm giác đầy sát khí.
Rhunön cho phép cánh tay của Eragon được nghỉ ngơi một lúc khi chờ thanh kiếm nguội dần trong không khí.Rồi bà điều khiển Eragon mang thanh kiếm tới một góc khác của xưởng rèn, nơi mà bà đã sắp xếp 6 cái bánh xe khác nhau,những chiếc dũa, chiếc nạo và những hòn đá mài.Bà cố định thanh kiếm bởi hai khúc gỗ và sử dụng 1 giờ tiếp theo để bào mòn bề mặt thanh kiếm bằng một con dao bào,dùng dũa để tạo những đường viền cho thanh kiếm.Trong khi bào dũa, mỗi phát mài hoặc dũa dường như hiệu quả gấp hai lần bình thường, bà biết cách chính xác dùng những công cụ này để lấy đi bao nhiêu lượng thép cần thiết.
Trong khi dũa, Rhunön cho thêm một viên than vào lò,đợi một lúc cho lửa cháy to,bà trộn bùn than, đất sét mịn,tro sấy khô tạo thành thứ đá bọt để đánh bóng và chúng kết tinh thành một loái sáp.Dùng thứ đã pha chế được bà sơn lên thanh kiếm hai lần và nhiều hơn ở chỗ sống của thanh kiếm, bôi lớp dày hơn là đất sét nhão, thanh kiếm nguội dần và tạo một lớp mềm bao phía bên ngoài.
Đất sét nhẹ đi khi Rhunön sấy khô nhanh nó bằng một câu thần chú.Dưới sự điều khiển của bà tiên già, Eragon đi tới chỗ lò.Nó đặt thanh kiếm phẳng phía trên lớp đất sét trộn than, đẩy chiếc bễ thối bằng tay còn lại,nó kéo chầm chậm hướng về phía hông của nó.Chỉ một lần mũi kiếm chạm lửa, Rhunön lật đi lật lại và lặp lại một cách tuần tự. Bà tiếp tục kéo lưỡi kiếm qua than hồng cho đến khi cả hai bên lưỡi đều đạt được màu vàng cam và sống kiếm màu sáng đỏ.Sau đó ,với một sự di chuyển nhịp nhàng, nâng thanh kiếm lên khỏi than hồng, Rhunön huơ huơ thanh kiếm trong không khí rồi nhúng nó vào trong cái máng đầy nước cạnh lò.
Một tiếng nổ của hơi nước thoát ra từ mặt nước, kèm theo tiếng xèo xèo và bọt xủi xng quanh thanh kiếm.Sau một phút,nước đục lắng xuống, Rhunön rút thanh kiếm ra bây giờ trông nó óng ánh màu ngọc trai xám.Mang trở lại ngọn lửa, à nung toàn bộ thanh kiếm với nhiệt độ giống nhau để giảm sự vỡ, mẻ của lưỡi kiếm, sau đó lại đem nó đi lam nguội một lần nữa.
Eragon hy vọng Rhunön sẽ buông tha cho cơ thể của nó sau khi họ đã rèn, tôi thanh kiếm,nhưng ngạc nhiên thay, bà vẫn dùng ý chí để điều khiển các chi của nó.
Rhunön điều khiển nó tắt lò, sau đó cho Eragon đi tới chỗ chiếc ghế dài với những cái dũa, cái nạo và những hòn đá mài.Bà để nó ngồi xuống và sử dụng những hòn đá mịn hơn để đánh bóng kiếm.Trong ký ức của bà, Eragon nhận ra bà thường sử dụng cả tuần hoặc hơn thế nữa để đánh bóng một thanh kiếm.Nhưng vì có bai hát phép thuật nên việc này chỉ mất 4 giờ,thêm vào đó cũng là để trạm trổ những đường nét tỉ mỉ cho lưỡi kiếm.Khi thép sáng trở lên mịn hơn, màu sắc thực sự của nó mới được bộc lộ,nhìn nó Eragon có thể thấy màu sắc lung linh mờ ảo,những đường viền hoa văn cực đẹp…
Cơ bắp trên cánh tay phải Eragon nở ra khi Rhunön cầm cái chuôi kiếm được trang trí khá đẹp, và cái dũa mà nó vẫn cầm trên tay trượt khỏi chuôi kiếm bật ra khỏi các ngón tay của Eragon..
“Đủ rồi” Rhunön nói và rút khỏi tâm trí Eragon.
Bị sốc bởi sự đột ngột này, Eragon đung đưa trên ghế gần như mất thăng bằng trước khi lấy lại sự điều khiển các chi của mình. “Nhưng chúng ta chưa hoàn thành mà” nó miễn cưỡng, quay đầu lại phía Rhunön…
Rhunön đứng dậy và lắc đầu : “Ta không cần cậu giúp đỡ thêm nữa, Khắc tinh cảu Tà thần ạ.Hãy đi chợp mắt một chút cho tới khi bình minh lên.”
“Nhưng…”
“Cậu đã quá mệt rồi, và thậm chí với phép thuật của ta cậu cũng có thể sẽ làm hỏng thanh kiếm nếu cậu vẫn tiếp tục cố sức.Nào hãy để thanh kiếm đó,ta sẽ chăm sóc nó mà không sợ vi phạm vào lời thề đâu. Nào đi đi. Cậu sẽ tìm thấy một chiếc giường trên tầng hai. Nếu cậu đói thì còn thức ăn trong phòng ăn đó.”
Eragon ngập ngừng, miễn cưỡng dời đi, gật đầu và ròi khỏi chiếc ghế dài,lê bước chân vét cả bụi tung lên.Khi đi ngang qua bà, vẫy tay về phía Saphira để chào cô ả và quá mệt mỏi để nói thêm được một lời nào nữa.Qay lại cô ả làm tóc nó rối bù bởi một hơi thở trong không khí và nói : “Em sẽ canh chừng cho, cậu bé ạ.”
Eragon ngừng lại trên ngưỡng cửa nhà Rhunön và nhìn qua cánh cửa tối tới nơi mà Maud và hai vị tiên vãn còn đứng đó.Nó giơ một tay lên chào, và Maud cười với nó,bộc lộ sự hóm hỉnh của cô ta bằng một cái răng nhọn.Một cảm giác ngứa ran trườn xuống cổ Eragon khi hai vị tiên trẻ nhìn chằm chằm vào nó, đôi mắt to và soi mói của chúng phát sáng lờ mờ trong bóng tối.Khi họ không còn có thêm cử động nào nữa,nó cúi đầu rảo bước vào trong, nằm ngay xuống cái đêm êm ả.
Chương 52: Kỵ Sĩ Thực Thụ
"Dậy đi tiểu ca," Saphira gọi. "Mặt trời đã mọc và Rhunön đã hết kiên nhẫn nổi rồi kìa."
Eragon dựng bật dậy, quăng mền sang một bên dễ dàng như rời bỏ một giấc mơ. Tay và vai của nó đều đau nhừ sau khi dụng lực ngày hôm trước. Nó kéo ủng, háo hức mày mò buộc dây giầy, nắm lấy cái tạp dề cáu bẩn từ dưới sàn nhà rồi phóng xuống cầu thang được trạm trỗ tinh vi đi tới cổng vào ngôi nhà cong của Rhunön.
Bầu trời bên ngoài trong xanh với những tia nắng ban mai đầu tiên bắt đầu rọi sáng, cho dù bóng đen vẫn còn bao phủ cánh cửa. Eragon nhìn thấy Rhunön và Saphira đứng ở ngay lò rèn bèn phóng nhanh tới đó, vừa đi vừa lấy mấy ngon tay chải tóc.
Rhunön đứng tựa vào cạnh một chiếc ghế dài. Dưới hai mắt bà có quầng mắt đen và những nếp nhăn trên mặt đã hằn sâu hơn trước.
Trước mặt bà có một thanh kiếm được một miếng vải trắng phủ lên suốt chiều dài.
"Ta đã làm được chuyện không tưởng được," bà nói, giọng khàn khàn rời rạc. "Ta đúc ra một thanh kiếm mà ta thề sẽ không làm. Hơn thế nữa, ta chỉ tốn chưa tới một ngày lại dùng không phải chính đôi tay của mình. Nhưng thanh kiếm này lại không cùn và cũng không phải là phế phẩm. Không! Đây là thanh kiếm tốt nhất mà ta rèn từ trước tới giờ. Ta có lẽ nên dùng ít pháp thuật trong giai đoạn đúc kiếm, nhưng đó chỉ là mối lo nhỏ, rất nhỏ so với sự hoàn hảo của thành phẩm. Xem đây!"
Bà Rhunön kéo góc miếng vải ra để lộ thanh kiếm. Eragon há hốc miệng nhìn.
Nó vốn nghĩ chỉ trong vài giờ ngắn ngủi từ lúc hắn tạm biệt bà, bà Rhunön chỉ có đủ giờ làm một cái cán đơn sơ và một thanh chắn ngang cho thanh kiếm và nếu có thể một cái vỏ kiếm gỗ bình thường. Thay vì vậy, thanh kiếm mà Eragon nhìn thấy trên ghế thật vô cùng đẹp như các thanh Zar’roc, Naegling, và Támerlein và theo ý nó, còn đẹp hơn những thanh đó nữa.
Bọc lưỡi kiếm làm một vỏ kiếm bóng lưỡng màu lục đậm như màu vảy trên lưng Saphira. Màu sắc lại điểm những đốm nhỏ như những đốm sáng ở đáy một ao nước rừng trong veo. Một miếng thép xanh sáng chạm theo hình một chiếc lá được hàn ở cuối vỏ kiếm trong lúc cổ vỏ kiếm được chạm trổ với những hình dây leo uốn lượn. Thanh ngang của kiếm được đúc thành hình cong cong cũng bằng thép xanh sáng và bốn sợi gân lớn cũng được dùng vật liệu tương tự ôm lấy một viên ngọc xaphia lớn tạo thành núm chuôi kiếm. Cán kiếm dài độ một bàn tay rưỡi được làm bằng gỗ đen cứng.
Ráng nén lấy vẻ sùng kính, Eragon thò tay ra chạm thanh kiếm rồi ngừng lại, liếc nhìn bà Rhunön. "Cho phép con nha?" nó hỏi.
Bà gật đầu. "Con có thể dùng. Ta tặng nó cho con, Khắc Tinh của Tà Thần."
Eragon nâng thanh kiếm khỏi ghế. Vỏ kiếm và gỗ cán kiếm lành lạnh trong tay nó. Qua vài phút, nó vẫn còn bị ngạc nhiên vì những chi tiết chạm trổ của vỏ kiếm, đồ bảo vệ tay và chuôi kiếm. Sau đó nó xiếc chặt tay quanh cán kiếm và tuốt kiếm khỏi vỏ.
Như các bộ phận khác của thanh kiếm, lưỡi kiếm màu lục nhưng lại hơi xanh nhẹ hơn một chút; màu lục này giống nhưng màu vảy trên hốc cổ của Saphira thay vì là vảy lưng của cô nàng. Và cũng giống như thanh Zar'roc, thanh kiếm phát ra ánh sáng ngũ sắc khi Eragon di động nó, màu sắt này trở nên lung ling tạo thành nhiều sắc lục như toàn thân Saphira. Nhưng dù màu sắc có óng ra cỡ nào, những đường vân trên lười kiếm bằng thiết sáng kia vẫn rõ mồn một.
Eragon dùng một tay múa thanh kiếm lên không, rồi nó cười khi biết được thanh kiếm này nhẹ và nhanh cỡ nào. Toàn thân kiếm như là vật sống. Nó dùng hai tay nắm lấy thanh kiếm và vô cùng mừng rỡ khi thấy cán kiếm vừa khít với vòng ôm của tay. Nó đâm kiếm tới trước như đang tấn công một kẻ thù với niềm vững tin là kẻ đó sẽ chết dưới đòn tấn công này của nó.
"Đây," bà Rhunön nói, rồi chỉ về về phía ba thanh sắc dựng ngoài lò rèn. "Thử lên thân đám đó xem sao." Eragon dùng toàn lực để tập trung tinh thần, rồi cất một bước tiến về phía những thanh sắt đó. Nó thét lên một tiếng, chém ra một nhát, tiện đứt cả ba thanh sắt. Lưỡi kiếm phát ra một thanh âm tinh khiết duy nhất rồi từ từ tan
biến đi. Khi Eragon kiểm tra lại lưỡi kiếm chỗ vừa mới chạm phải sắt thì thấy sự va chạm không hề làm hư lưỡi kiếm một chút nào.
"Con có hài lòng chưa, Kỵ Sĩ Rồng?" bà Rhunön hỏi.
"Còn hơn là hài lòng nữa tiền bối Rhunön, Eragon vừa nói vừa cúi người cảm ơn bà. "Con không biết lấy gì để cảm ơn bà đã cho một món quà như thế này."
"Con có thể giết Galbatorix để cảm ơn ta. Nếu có thanh kiếm nào được dành riêng để giết tên vua điên khùng đó thì đó chính là thanh kiếm này."
"Con sẽ cố hết sức tiền bối Rhunön.
Bà thần tiên này gật đầu, tỏ vẻ hài lòng. "Được rồi, con cuối cùng rồi cũng có một thanh kiếm của riêng mình, điều đó đương nhiên phải thế. 'Bây giờ' con đã trở thành một Kỵ Sĩ Rồng thực thụ."
"Dạ," Eragon nói, rồi chỉa kiếm lên trời, nhìn nó một cách hâm mộ. "Bây giờ con thực thụ là một Kỵ Sĩ." "Trước khi đi, còn một việc con phải làm," bà Rhunön nói.
"Ồ?"
Bà ta búng ngón tay về phía thanh kiếm. "Con phải đặt một cái tên cho nó để ta có thể chạm lưu ký tương ứng trên lưỡi kiếm và vỏ kiếm."
Eragon tiến về phía Saphira rồi nói, "Em nghĩ sao?"
"Em không phải là người xử dụng kiếm. Anh nghĩ sao cho đúng là được rồi." "Nhưng em cũng cho chút ý kiến đi!"
Cô nàng cúi đầu hửi hửi thanh kiếm rồi nói, "Răng ngọc xanh là tên em sẽ gọi hay là Móng Xanh Đỏ." "Kêu vậy đối với con người thì hơi lố bịch."
"Hay gọi là Tàn Phá hay Rọc Ruột? Hay có lẽ là Móng Trận hay Gai Lộng Lẫy hay Tàn Chi Kiếm? Anh có thể gọi nó là Khủng Bố hay Đau Đớn hay Đồ Cắn Tay hay Luôn Bén hay Vảy Lăn Tăn, cái này là theo đường vân trên sắt kiếm. Lại còn có Lưỡi Tử Thần hay là Thần Tiên Thiết hay Sao Sắt hoặc nhiều tên khác nữa."
Cô nàng phun ra một tràng khiến Eragon ngạc nhiên. "Em thật có biệt tài cho cái vụ này," nó nói.
"Đặt ra mấy cái tên tào lao dễ lắm. Nhưng đặt tên cho đúng lại có thể làm khó ngay cả đối với thần tiên." "Hay là Giết Vua đi?" Nó hỏi.
"Rồi nếu chúng ta thật giết được Galbatorix. Sau đó thì sao? Anh nghĩ thanh kiếm này không còn chỗ để dùng à?" "Ừm," Eragon dựng thanh kiếm dọc theo chân trái của Saphira rồi nói, "nó có cùng màu như em... Anh có thể đặt tên nó theo em."
Saphira làu bàu. "Không được."
Hắn cười phản kích lại, "Em chắc không? Thử nghĩ lúc chúng ta ra trận và..."
Cô nàng cắm móng xuống đất. "Không được. Em không phải là thứ đồ mà anh vung vẩy chọc cười được." "Không phải vậy, em nói đúng rồi. Anh xin lỗi... À, hay là gọi nó là Hy Vọng theo cổ ngữ đi? Za'roc có nghĩa là 'Khốn Cùng', vậy nếu anh đặt tên kiếm ngược lại là đúng rồi."
"Lại còn có vẻ tao nhã nữa," Saphira nói. "Nhưng anh thật có cho kẻ địch hy vọng không vậy? Anh có muống đâm Galbatorix bằng hy vọng không?"
"Chơi chữ kiểu này cũng thú đấy chứ," nó cười khúc khích. "Một lần thôi, là đủ, nhưng không được nữa."
Cảm thấy khó xử, Eragon chỉ nhăn mặt vuốt cằm, ngồi ngắm nhìn những tia nắng loé lên trên thân kiếm lóng lánh. Khi nhìn kỹ vào thân sắt, mắt nó vô tình nhìn thấy mô hình lấm tấm nằm ngay chỗ giao điểm giữa lưỡi kiếm và thân kiếm, rồi nó nhớ lại lời ông Brom thường dùng mỗi khi mồi lửa hút thuốc, cảnh tưọng đã từng được Saphira gợi nhớ lại. Rồi Eragon lại nghĩ về Yazuac, nơi mà nó lần đầu xử dụng pháp thuật, và cũng nhớ tới cuộc song đấu với Durza tại Farthen Dûr, và ngay lúc đó nó biết chắc nó đã kiếm được tên cho thanh kiếm.
Eragon bàn thảo với Saphira và khi cô nàng đồng ý với lựa chọn này, nó nâng thanh kiếm lên ngang vai và nói, "Ta đã quyết định. Kiếm kia, ta đặt tên ngươi Brisingr!"
Với tiếng gió lồng lộng thổi, lưỡi kiếm đột nhiên phụt lửa, một màng lửa màu lục xaphia bao trùm quấn lấy lưỡi sắt vô cùng bén này.
Giật mình thét lên, Eragon buông thanh kiếm và nhảy về phía sau vì sợ bị phỏng. Thank kiếm rơi xuống đất rồi mà vẫn còn cháy, ngọn lửa trong mờ đốt cháy đen một khoảng cỏ xung quanh. Đến lúc đó Eragon mới nhận thức ra được chính bản thân nó đã truyền năng lực để tạo ra ngọn lửa không tự nhiên này. Nó liền lập tức ngừng pháp thuật và ngọn lửa liền biến mất khỏi thanh kiếm. Vẫn còn thắc mắc về việc tại sao pháp lực được thi triển mà không phải do cố ý, nó lại nhặt thanh kiếm lên rồi lấy ngón tay gõ gõ lên lưỡi kiếm. Lúc này lại không thấy thanh kiếm bị nóng nữa.
Bà Rhunön cau mặt đi tới, giựt lấy thanh kiếm từ tay Eragon và xem xét lại thanh kiếm kỹ lưỡng từ mũi tới chuôi kiếm. "Con may mắn là ta đã dùng pháp lực bảo bọc thanh kiếm tránh sức nóng và va chạm nặng, nếu không là
con đã làm trầy kiếm và hủy đi tâm linh của nó. Đừng bao giờ làm rơi kiếm lần nữa, Khắc Tinh của Tà Thần, cho dù là ta có biến thành rắn, ta cũng sẽ lấy lại thanh kiếm và thế vào đó cho con một cây búa cùn." Eragon xin lỗi và có vẻ như mắc cỡ hẳn đi, bà Rhunön thấy vậy bèn đưa thanh kiếm lại cho nó. Bà hỏi, "con có cố ý khiến lửa bốc cháy lên thanh kiếm không vậy?"
"Dạ không," Eragon nói mà không biết làm sao để giải thích chuyện vừa xảy ra. "Nói một lần nữa đi." Bà Rhunön ra lệnh.
"Cái gì ạ?"
"Cái tên đó, cái tên thanh kiếm đó, nó lại đi."
Vừa cầm thanh kiếm cách xa người hết cỡ, Eragon vừa hét lên, "Brisingr!"
Một cột lửa phực lên bao trùm lấy lưỡi kiếm, sức nóng của nó phà lên mặt Eragon. Lần này Eragon cảm nhận được pháp lực của mịnh có bị rút đi một chút. Một lúc sau, nó dập tắt ngọn lửa không khói này.
Eragon lại kêu lên một lần nữa, "Brisingr!" Và lần này cũng vậy, lưỡi kiếm sáng mờ ánh màu lục, với ngọn lửa như quyện quanh như những cái lưỡi đang thè ra.
"À đây mới là một thanh kiếm vừa cho một Kỵ Sĩ và một con rồng!" Saphira hài lòng nói. "Thanh kiếm này phóng lửa dễ dàng như ta vậy."
"Nhưng ta đâu có cố ý phóng pháp lực!" Eragon phản đối. "Ta chỉ là gọi tên Brisingr và..." Nó vừa nói tới đó thì thanh kiếm lại phóng lửa ra, rồi nó lại phải dập tắt ngọn lửa tính ra là đã lần thứ bốn.
"Cho ta thử được không?" bà Rhunön hỏi, giơ tay về phía Eragon. Nó đưa bà thanh kiếm và bà ta cũng nói, "Brisingr!" Lưỡi kiếm như rung lên nhưng ngoài chuyện đó ra, nó cứ nằm đó vô tri vô giác. Bà ta chỉ lẳng lặng đứng đó suy nghĩ, rồi trả lại thanh kiếm cho Eragon nói, "ta chỉ có thể đưa ra hai giải thích cho sự kỳ diệu này. Một là vì con có tham gia vào việc rèn kiếm, con đã thấm vào thân nó với tính chất của con vì thế nó đã hòa hợp được với nguyện vọng của con. Một giải thích khác là con đã khám phá ra được cái tên thật của thanh kiếm. Có lẽ cả hai giải thích đều đã xảy ra. Sao cũng được, con đã chọn tốt lắm, Khắc Tinh của Tà Thần. Brisingr! Đúng lắm, ta thật thích cái tên này. Đây là cái tên rất tốt cho một thanh kiếm."
"Một cái tên rất tốt," Saphira cũng đồng ý.
Sau đó bà Rhunön đặt tay lên giữa lưỡi kiếm Brisingr và lẩm bẩm một câu thần chú. Một chữ Lửa theo tiếng Thần Tiên hiện lên trên hai bên lưỡi kiếm. Bà cũng làm y như vậy cho vỏ kiếm.
Eragon lại cúi người chào vị nữ thần tiên này, cả nó và Saphira đều lộ vẻ chân thành cảm ơn với bà. Khuông mặt già cả của bà Rhunön hiện lên một nụ cười, và bà dùng ngón cái chai sần rờ lên chân mày của mỗi đứa. "Ta rất mừng là ta có thể giúp đỡ các Kỵ Sĩ Rồng thêm một lần nữa. Đi đi, Khắc Tinh của Tà Thần. Đi đi, Vảy Sáng. Hãy quay lại nơi người Varden và khiến cho kẻ thù của các con trốn chạy trong sợ hãi khi bọ chúng nhìn thấy khả năng của thanh kiếm này."
Eragon và Saphira chào tạm biệt bà, rồi cả hai cùng nhau rời khỏi nhà bà Rhunön , Eragon ôm lấy thanh Brisingr trong tay như thể đang bế một em bé sơ sinh.
Chương 53: Chiến Giáp
Một ngọn đèn cầy chiếu sáng bên trong căn lều vải len xám, ánh sáng này so với tia sáng măt trời quả là nghèo nàn.
Roran đứng giang tay ra trong lúc Katrina thắt lại phần hông của chiến áo chẽn bằng da dầy mà cô may cho anh. Làm xông, cô vuốt nhẹ vạt áo cho thẳng ra những vết nhăn rồi nói, "Xong rồi. Xem có quá chật không?"
Anh lắc đầu nói. "Không."
Cô lấy giáp bó chân từ trên giường của bọn họ rồi quỳ xuống trước anh dưới ánh đèn cầy nhấp nháy. Roran đứng xem cô buộc phần dưới giáp ở chân anh. Cô bóp lấy phần cong của bắp chân trong lúc thắt chặt miếng giáp thứ hai, da thịt của cô truyền hơi ấm qua lớp vải quần của anh.
Rồi cô đứng lên quay về giường lấy nốt bộ giáp bọc tay của anh. Roran gìơ tay thẳng ra về phía cô và nhìn vào mắt cô trong lúc cô cũng nhìn vào mắt anh. Cô từ từ chậm rãi xiết bộ giáp vào cánh tay anh, rồi rút lần tay từ khuỷu tay xuống cổ tay anh, nơi anh dùng tay mình nắm lấy tay cô.
Cô mỉm cười và kéo người ra khỏi bàn tay nắm giữ nhẹ nhàng của anh.
Sau đó cô lấy tới bộ áo giáp trên giường. Cô phải nhón chân nâng chiếc áo giáp dài này quá đầu anh trong lúc anh thọt hai tay vào ống tay áo. Các miếng giáp chạm nhau kêu leng keng khi cô rút tay cho bộ giáp rơi xuống vai anh phần dưới phủ ngang tới đầu gối của anh.
Cô lấy chiếc mũ da đặt lên đầu anh rồi buộc chặt dưới cằm. Cô lấy hai tay ôm lấy mặt anh một lúc, hôn anh một cái lên môi rồi lấy phần giáp cổ cẩn thận tuột qua phần mũ bảo vệ.
Roran vòng tay quanh eo lúc này đã lớn hơn của cô khi cô vừa quay người đi về phía giường khiến cô khựng người lại. "Hãy nghe anh nói, anh sẽ không có chuyện gì hết." Anh ráng chuyển đến lòng yêu thương của mình
đến cho cô qua thanh âm của giọng nói và sức mạnh của cái nhìn. "Đừng chỉ có ngồi đó một mình. Hãy hứa với anh. Đi tới chỗ thím Elain, bà có lẽ cần sự giúp đỡ của em. Bà ta đang bệnh còn cô con gái thì đã sắp sanh rồi." Katrina ngẩng cằm lên, mắt cô rưng rưng nước mắt mà anh biết cô sẽ không nhỏ nước mắt cho tới khi anh rời khỏi. "Anh có phải đi trong hàng ngũ tiên phong không?" cô thầm thì.
"Có người phải đi thì chẳng thà để bản thân anh đi. Thay vì anh thì em muốn kiếm ai thay đây?"
"Ai cũng được... ai cũng được mà." Katrina nhìn xuống đất và im lặng một hồi, rồi cô lấy một chiếc khăn tay đỏ từ bên trong áo lót rồi nói, "Đây, hãy lấy vật yêu quý này của em, để cả thế gian này biết em tự hào về anh như thế nào." Rồi cô buộc chiếc khăn tay vào đai kiếm của anh.
Roran hôn cô hai cái rồi thả người cô ra, cô lấy khiên và giáo của anh từ trên giường. Anh lại hôn cô lần thứ ba sau khi lấy những thứ cô trao, rồi mới đút tay vào dây buộc của chiếc khiên.
"Nếu có chuyện gì xảy ra với anh..." anh bắt đầu nói.
Katrina để một ngón tay lên môi anh. "Shhh. Đừng nói về chuyện đó, đừng để nó thành sự thật." "Thôi được." Anh ôm chặt cô lần cuối. "Bảo trọng."
"Anh cũng vậy."
Mặc dầu rất ghét phải rời khỏi cô, Roran nâng khiên lên và bước ra khỏi lều dưới anh ban mai nhợt nhạt. Người, người lùn, giống Urgal thành từng hàng tây tiến đi ngang qua trại, hướng về phía cánh đồng đang bị giẫm nát nơi người Varden đang hội binh.
Roran hít một hơi dài của không khí lạnh buổi sáng sớm rồi đi theo bọn họ, trong lòng biết rõ anh em chiến sĩ đồng đội đang chờ anh tới. Khi anh tới cánh đồng, anh tìm tới sư đoàn Jörmundur và sau khi báo danh với Jörmundur, anh liền tới phía trước đoàn binh, chọn đứng kế bên Yarbog.
Tên người Urgal liếc mắt nhìn anh rồi lẩm bẩm, "thật là một ngày tốt cho chiến trận" "Thật là một ngày tốt."
Tiếng kèn thổi lên từ hàng đầu của người Varden khi mặt trời vừa lộ ra khỏi chân trời. Roran nâng giáo lên và bắt đầu chạy tới trước như mọi người xung quanh, dùng hết sức hú lên trong lúc rừng tên phóng xuống bọn họ còn đá cuội bay rít lên trên đầu theo mọi hướng. Ở phía trước mặt anh, lù lù hiện ra một bức tường đá cao tám mươi bộ. Cuộc hãm thành Feinster đã bắt đầu.
Chương 54: Từ biệt
Từ nhà của Rhunon, Saphira và Eragon đã bay về nhà cây của mình. Eragon thu thập hành lý trong phòng, thắng yên cho Saphira, và sau đó trở lại chỗ ngồi thường ngày của mình trên lưng cô nàng. "Trước khi chúng mình đến vách núi Tel'naeir", nó nói, "còn một điều anh phải làm ở Ellesmera". "Phải làm? Em sẽ không hài lòng nếu em không làm". Saphira nhảy khỏi nhà cây. Cô ả lướt qua phòng phía tây cho đến khi số lượng các ngôi nhà bắt đầu giảm, sau đó cô ấy rẽ xuống để hạ cánh nhẹ nhàng trên một đường mòn hẹp phủ rêu. Sau khi hỏi han và tìm kiếm, theo lời dẫn đường của một yêu tinh ngồi trên cành cây gần đó, Eragon và Saphira lại tiếp tục xuyên qua khu rừng cho đến khi họ đến một ngôi nhà một phòng nhỏ mọc lên từ góc cao của thân cây linh sam. Ngôi nhà nép mình vào thân cây cứ như bị một cơn gió thổi liên hồi ép chặt nó. Bên phía trái ngôi nhà là một ụ đất cao hơn Eragon một vài feet. Một dòng suối nhỏ đổ xuống bờ sông rồi trút tất cả vào một hồ nước trong veo trước khi đi khuất vào nơi sâu thẳm của khu rừng. Những cây phong lan trắng sắp thành hàng bên bờ hồ. Một gốc cây phình ra nhô khỏi bãi đất từ trong số những cành hoa mảnh mai mọc dọc theo bờ hồ, và ngồi trên cây là Sloan. Eragon im lặng, nó không muốn mất bình tĩnh với sự có mặt của ông ta. Lão hàng thịt mặc áo choàng màu nâu cam, bên trong là thời trang yêu tinh. Một dải băng đen nhỏ được quấn trên đầu lão, che đi lỗ hổng nơi đôi mắt không còn. Trong vạt áo của mình, lão nắm chặt một cây gậy dài mà lão đã vót bằng một con dao cong nhỏ. Khuôn mặt lão bị che phủ bởi nhiều nếp nhăn hơn Eragon từng nhớ, và trên cả bàn tay lẫn cánh tay của lão hằn thêm nhiều sẹo mới, xám ngoét tương phản với vùng da xung quanh.
"Chờ ở đây nhé", Eragon vừa nói với Saphira vừa trượt khỏi lưng cô em rồng. Khi Eragon lại gần lão, Sloan dừng đẽo và dỏng tai nghe. "Cút ra ngoài", lão quát. Không biết làm thế nào để phản ứng lại, Eragon dừng bước và giữ im lặng. Bằng tất cả sức lực quai hàm, lão vặn xoắn thân gỗ đang cầm, sau đó cắm phập đầu con dao vào thân cây trước mặt và nói: "Nguyền rủa mày. Mày có thể để tao lại một mình với ngày tàn của tao vài giờ không? Tao không muốn nghe bất kì lời nào của mày, càng không bận tâm đến những gì mày hỏi tao, tao sẽ không bao giờ thay đổi suy nghĩ. Bây giờ thì cút đi. Tránh xa tao ra." Lòng thương hại và sự giận dữ cùng lúc khuấy đảo trong Eragon, nhưng đồng thời cũng tồn tại một ý thức đòi chuyển đổi cái nhìn với một người để hắn ta dần trưởng thành lên, và sự sợ hãi cùng với sự căm ghét tầm thường phải bị ném đi để tiếp nhận một cuộc đời. "Ông có thoải mái không?" Eragon nói bằng cổ ngữ, âm vang trong veo như ánh sáng, như một lời ca du dương. Sloan bật ra một tiếng gầm phẫn nộ:" Mày biết tao không hiểu miệng lưỡi của mày, và tao cũng không muốn phải học nó. Những từ ngữ rung lên trong tai tao dài hơn những gì chúng phải có. Nếu mày không nói ngôn ngữ của cuộc đua,
thì sau đó không cần nói gì với tao." Bất chấp lời khẩn cầu của Sloan, Eragon vẫn không lặp lại câu hỏi bằng ngôn ngữ thông thường, nhưng cũng không bỏ đi. Với một lời chửi rủa, Sloan lại vót gậy. Hơn vài phút sau, với một giọng nói yếu ớt, Sloan nói: " Mày nói đúng, có nhiều thứ để làm với đôi tay và một khối óc minh mẫn. Đôi khi...Đôi khi tao gần như có thể quên đi những gì tao đã mất, nhưng kí ức luôn hiện về, và tao cảm thấy dường như tao đang bóp nghẹt trái tim mình...Tao sung sướng khi được mài sắc một con dao. Con dao của một người đàn ông phải luôn luôn sắc bén." Eragon nhìn lão hơn một phút, rồi sau đó nó đi đến nơi Saphira đang chờ. Dường như nó đang tự dứt mình ra khỏi nỗi buồn, nó nói:"Sloan hình như đã không thay đổi quá nhiều". Và Saphira đáp lại:"Anh không nên mong chờ ông ấy trở thành một người hoàn toàn khác trong một thời gian ngắn. Không, nhưng em hi vọng rằng ông ấy sẽ học được nhiều điều từ sự khôn ngoan ở đây, tại Ellesmera và có thể ông ấy sẽ ăn năn về tội lỗi của mình. Nếu ông ta không thừa nhận lỗi lầm, Eragon, không gì có thể ép buộc ông ấy. Trong vô vàn sự kiện, anh đã làm hết sức có thể cho ông ta. Còn bây giờ ông ấy đành phải đi tìm một con đường để hóa giải tất cả mọi thứ cho mình. Nếu không, ông ta sẽ chỉ tìm thấy sự thanh thản vĩnh viễn ở chốn âm ty." Từ căn nhà của lão Sloan, Saphỉa phóng lên trên rặng cây xung quanh, trực chỉ hướng bắc mà bay đến vách núi Tel'naeir, cố sức đập cánh mạnh nhất mà cô ấy có thể. Mặt trời lúc bình minh lóe sáng nơi chân trời, tỏa những tia nắng xuống mặt nước, trên những hàng cây tạo thành những vệt sáng kéo dài về phương tây giống như lá cờ đuôi nheo màu đỏ tía. Saphira tiếp tục bay theo hướng ngôi nhà gỗ thông của sư phụ Oromis, nơi mà người và Glaedr đang chờ. Eragon giật mình khi thấy Glaedr đang đeo một bộ yên giữa hai cánh, còn sư phụ Oromis thì mặc một bộ quần áo đi đường với áo choàng xanh lơ và xanh lá cây, cùng với áo giáp vàng chằng dây nối trên cánh tay. Ông cầm một cái khiên tạo hình kim cương buộc dây đeo theo hình thập tự giá, bên tay trái ông là cây trượng với một cái tay cầm cổ xưa, đeo quanh thắt lưng là dây lưng màu đồng treo thanh kiếm Naegling. Với một cơn gió mạnh quạt từ cánh cô nàng, Saphỉa đáp xuống trên bãi cỏ ba lá xanh. Cô ả thè lưỡi nếm không khí trong khi Eragon nhẹ nhàng trượt xuống mặt đất. "Có phải các sư phụ định bay cùng chúng con tới Varden?" Saphira hỏi. Chót đuôi của ả run lên vì kích động. "Chúng ta sẽ bay với các con đủ xa để đến vành đai của Du Weldenvarden, như con đường của chúng ta phải phân ra" ,Oromis nói. Thất vọng tràn trề, Eragon tiếp tục hỏi:" Rồi sư phụ sẽ trở về Ellesmera?". Oromis lắc đầu." Không, Eragon, sau đó chúng ta sẽ tiếp tục tiến đến thành phố Gil'ead." Saphira huýt gió kkinh ngạc, trong khi một cảm xúc len lỏi trong đầu Eragon. "Tại sao lại là Gil'ead?", nó hỏi một cách hoang mang. "Bởi vì Islanzadí và quân đội của bà đã hành quân đến đó từ Ceunon, và họ đang chuẩn bị vây thành", Glaedr nói. Thật bất thường, một ý nghĩ lướt qua chống lại sự sáng suốt của Eragon. "Nhưng anh và sư phụ Oromis có thể không để lộ tung tích trong lòng Đế quốc không?", Saphira hỏi. Oromis khép hờ đôi mắt trong giây lát, trông ông đầy sự cố gắng một cách bí ẩn. "Thời gian ẩn dật đã qua, Saphira. Glaedr và ta đã dạy cho hai con mọi thứ chung ta có thể bằng cách vắn tắt nhất trong khi các con học từ chúng ta. Đó là cách giảng dạy ngắn nhất khi so sánh với những gì các con sẽ có thể nhận được từ một vị tiền bối, nhưng qui định ra sao về những sự kiện đang thúc giục chúng ta, chúng ta thật may mắn vì có thể dạy các con nhiều hơn những gì chúng ta đã làm. Dù sao Glaedr và ta đã thật sự mãn nguyện rằng các con giờ đây đã biết mọi thứ có thể giúp các con đánh bại Galbatorix. Từ đó, bởi vì dường như không chắc chắn rằng mỗi người trong các con sẽ có cơ hội để trở lại đây cho những chỉ dẫn xa hơn trước khi kết thúc cuộc chiến, và từ lúc đó chiến trường dường như đang ngang bằng ở thế giằng co, nên sẽ luôn luôn là những chỉ thị cho những con rồng và Kị sĩ của chúng, trong khi Galbatorix vẫn âm thầm làm nóng trận chiến, chúng ta đành phải quyết định rằng chúng ta không thể kéo dài những lí do để tiếp tục sống ẩn cư trong Du Weldenvarden. Đó là tối quan trọng khi chúng ta giúp đỡ Islanzadí và Varden chống lại Galbatorix còn hơn chúng ta lưu lại đây hưởng thụ cuộc sống nhàn rỗi thoải mái trong khi chờ một Kị sĩ và một con rồng khác tìm kiếm chúng ta." "Khi Galbatorix biết được chúng ta vẫn còn sống, nó sẽ làm sụp đổ lòng tin của hắn, và hắn sẽ không biết có còn những kị sĩ và những con rồng khác vẫn đang sống sót ngoài những cố gắng của hắn nhằm tiêu diệt họ hay không. Cũng như hiểu biết về sự tồn tại của chúng ta sẽ ủng hộ cho tinh thần của người lùn và Varden, đồng thời cũng chống lại hiệu quả nhiều bất lợi từ sự xuất hiện của Murtagh và Thorn ở Cánh đồng cháy có thể có trên những cương quyết của những chiến binh. Và nó có thể làm tăng nhanh số tân binh mà Nasuada thu nhận từ đế quốc." Eragon liếc nhìn thanh Naegling và nói:" Chắc chắn rồi, dù vậy, thưa sư phụ, người không nên mạo hiểm vào trận chiến này". "Tại sao không nên?", Oromis hơi nghiêng đầu tỏ vẻ thăm dò. Bởi lẽ nó không muốn làm cho Oromis và Glaedr phật lòng, nên Eragon không dám chắc phải trả lời như thế nào. Suy nghĩ hồi lâu, nó nói: "Tha lỗi cho con, thưa sư phụ, nhưng sư phụ sẽ chiến đấu ra sao khi người không thể niệm những câu thần chú đòi hỏi quá nhiều nội lực? Mà còn những cơn đau nào nữa mà người phải gánh chịu? Nếu như xung đột giữa trận đấu thì nó có thể chứng minh là gây nguy hại đến tính mạng của thầy". Oromis đáp lại:"Như con đã biết, với tình hình hiện nay, chỉ có sức mạnh đặc biệt mới quyết định phần thắng thuộc về ai khi 2 pháp sư đọ sức tay đôi. Ngay cả như vậy, ta cũng đã có tất cả sức mạnh ta cần tại đây, trong viên đá quí của thanh gươm Naegling". Và ông ấy khẽ chạm tay vào viên kim cương màu vàng kim trên chuôi kiếm. "Một trăm năm về trước, Glaedr và ta đã tích trữ một số lượng lớn nội lực dư thừa vào viên đá quí này, cũng
giống như một số kị sĩ khác trữ năng lượng của mình vào ngọc thạch vậy, nó tăng thêm sau mỗi tuần, từ khi một số yêu tinh của Ellesmera đến thăm ta tại đây và chuyển giao sức mạnh sống của họ vào viên kim cương để họ khỏi giết chết chính mình. Số năng lượng chứa đựng bên trong viên đá này cực kì khủng khiếp, Eragon ạ! Với nó, ta có thể dịch chuyển hoàn toàn cả một ngọn núi. Nó là một vật phẩm nhỏ, sau đó dựa vào Glaedr và chính nội lực của ta lấy từ thanh kiếm cùng với cây thương và cung tên, hay ngay cả từ việc quăng những viên đá cuội như 1 phương tiện để vây hãm. Như mong muốn của ta, ta đã gắn bó cả cuộc đời vào viên đá trong Naegling, vì vậy nó sẽ bảo vệ ta khỏi mọi hiểm nguy khi ta cạn kiệt công lực trên chiến trường. Vậy nên, như con thấy, Eragon, Glaedr và ta đã có quá nhiều trợ lực rồi". Bị thuyết phục, Eragon lắc đầu rồi lầm bầm, "Vâng, thưa sư phụ". Oromis thể hiện một cử chỉ nhẹ nhàng làm dịu đi bầu không khí. "Ta cảm kích trước tấm lòng của con, Eragon, con đã đúng, chiến tranh luôn ẩn chứa hiểm nguy cận kề, và ngay cả một chiến binh cừ khôi nhất cũng có thể tìm thấy cái chết đang chờ đợi anh ta giữa sự điên cuồng rực lửa của chiến trường. Dù thế nào thì lí do của chúng ta cũng là điều xứng đáng. Nếu như Glaedr và ta có tử trận thì chúng ta cũng vui lòng, bởi vì bằng sự hi sinh chúng ta có thể giải thoát cho Alagaesia khỏi bóng tối từ đế chế bạo ngược của Galbatorix". "Nhưng nếu thầy chết", Eragon hạ giọng, "kể cả khi giết được Galbatorix và cứu thoát được trứng rồng cuối cùng, vậy thì ai sẽ huấn luyện con rồng và Kị sĩ đó". Eragon kinh ngạc khi Oromis mở rộng vòng tay ôm chầm lấy nó. "Nếu điều đó xảy đến", nói như một thần tiên, khuôn mặt ông trở nên nghiêm nghị, "thì trách nhiệm đó sẽ thuộc về con, Eragon, và con nữa, Saphira, hãy đào tạo Kị sĩ và rồng mới theo con đường mà chúng ta đã truyền dạy cho các con. Ah, đừng có nhìn ta nghiêm trọng thế, Eragon. Con sẽ không đơn độc đâu. Ta chắc rằng Islanzadi và Nasuada sẽ trở thành những cố vấn khôn ngoan nhất giúp cho con hoàn thành nhiệm vụ của chúng ta". Một cảm xúc lạ kì làm cho Eragon mơ hồ lo ngại. Nó đã đủ lớn để có thể được coi như một người đàn ông trưởng thành, nhưng chẳng bao giờ như thế, lúc này nó biết nó đang cảm thấy chưa sẵn sàng rời bỏ nơi đây. Hình như có vấn đề nằm ngoài dự tính của nó. Ngay từ đầu, Eragon đã biết rằng một ngày nào đó nó sẽ trở thành thế hệ tiền bối, và khi đó nó sẽ không chỉ là một người dẫn đường để dẫn dắt thế hệ kị sĩ tiếp theo. Cổ họng nó nghẹn đắng. Rời tay khỏi Eragon, Oromis khoát tay chỉ Hỏa Kiếm, rồi đặt thanh gươm vào tay nó và nói, "Toàn thể khu rừng đã rúng động khi con đánh thức cây Menoa, Saphira, và phân nửa thần tiên trong Ellesmera đã tìm gặp Glaedr và ta với lời thỉnh cầu cho phép họ giúp sức cho con. Hơn nữa, chúng ta đã phải can thiệp giúp nhân danh con với Gilderien Khôn Ngoan để ngăn không cho ông trừng phạt con vì đã sử dụng đến biện pháp mạnh". "Con sẽ không xin lỗi", Saphira nói. "Chúng con không còn thời gian để chờ cho một việc quá nhẹ nhàng". Oromis hơi nghiêng đầu. "Ta hiểu, và ta không phê bình con, Saphira. Ta chỉ muốn con nhận thấy hậu quả của việc con đã làm". Trong khi ông nói, Eragon đưa thanh kiếm mới của mình cho Oromis, nó nắm chặt tay trong khi ông tiên xem xét thanh gươm. "Rhunon đã chiến thắng chính mình", Oromis khẳng định. "Rất hiếm khi có một vũ khí nào, kiếm hoặc các loại vũ khí sắc bén khác, có thể được như thế này. Con thật may mắn khi được sử dụng lưỡi kiếm hoàn hảo này, Eragon". Cặp chân mày sắc nét của ông nhướng lên khoảng 1 inh khi ông đọc thấy cái tên khắc trên lưỡi kiếm. "Brisingr, một cái tên rất thích hợp cho thanh kiếm của một Kị sĩ Rồng". "Vâng", Eragon nói. "Nhưng vì một số nguyên nhân, mỗi khi con gọi tên nó thì lưỡi kiếm cứ thình lình rực cháy vào lúc nói...",nó ngập ngừng thay vì nói câu thần chú lửa -"cái đó dĩ nhiên là Brisingr trong Cổ ngữ" - nó nói, "bốc cháy". Chân mày của Oromis lại nhướng lên cao hơn nữa. "Thực sao? Vậy Rhunon đã giải thích hiện tượng kì bí này chưa?" Oromis hỏi đồng thời ông trả lại Brisingr cho Eragon. "Vâng, thưa Sư phụ", Eragon nói và sau đó nó thuật lại 2 giả thuyết của Rhunon. Ngay khi nó kết thúc, Oromis rì rầm: "Ta tự hỏi...", rồi cái nhìn của ông trượt khỏi Eragon hướng tới nơi chân trời xa xăm. Oromis chậm rãi lắc đầu, và đôi mắt xám của ông lại tập trung vào Eragon và Saphira. Khuôn mặt ông trở nên nghiêm nghị hơn. "Ta sợ rằng ta phải để lòng kiêu hãnh của ta nói cho con. Glaedr và ta không thể giúp con được, nhưng không, như con đã chỉ ra, Eragon, là chúng ta hoàn toàn vô dụng. Glaedr bị thương tật, còn chính ta thì suy yếu. Có thể nói là chẳng còn gì, và ta đã phải tự gọi mình là người "tàn mà không phế". Sự bất lực của chúng ta không thành vấn đề nếu kẻ thù chỉ là người. Ngay cả trong hoàn cảnh hiện nay, chúng ta cũng có thể giết chết 100 người thường, 100 hay 1000, cái đó chỉ là số nhỏ. Dù sao đi nữa, kẻ thù của ta là những địch thủ nguy hiểm nhất trên mảnh đất này mà ta luôn phải đương đầu. Qúa nhiều thứ ta không muốn thừa nhận, nhưng Glaedr và ta là những kẻ tàn phế, và nhiều khả năng chúng ta sẽ không thể sống sót khi đã tham gia vào trận chiến. Chúng ta đã sống rất lâu, đã phải chịu sự đè nặng của nỗi đau thế kỉ, nhưng hai con còn trẻ và tràn đầy hi vọng vào tương lai, và ta tin rằng sự can trường của các con sẽ đánh bại Galbatorix và đem lại cuộc sống tự do cho những người khác". Oromis thoáng nhìn Glaedr, và nét mặt ông tiên bỗng trở nên nghiêm trọng. "Từ đó, số mệnh giúp bảo đảm sự tồn tại của chúng ta, và như một sự phòng ngừa cho cái chết bất ngờ, Glaedr, với sự chúc phúc của ta, quyết định để...". "Ta đã quyết định", Glaedr nói, "đưa cho các con trái tim trong trái tim của ta, Saphira Vảy Sáng, Eragon-Khắc tinh của tà thần". Sự kinh ngạc của Saphira không ít hơn gì so với Eragon. Cùng nhau chúng nhìn chằm chằm vào con rồng vàng uy nghiêm cao vượt hơn hẳn chúng. Saphira nói, "Sư phụ, có thể thầy đã đề cao chúng con trên lời nói nhưng...Thầy có chắc rằng muốn giao trái tim của thầy cho chúng con?".
"Ta chắc chắn", Glaedr nói và khẽ hạ cái đầu khổng lồ xuống cho đến khi đôi mắt rồng nhìn thẳng Eragon. "Với nhiều nguyên do, ta chắc chắn. Nếu con nắm giữ trái tim của ta, con sẽ có thể giao tiếp với Oromis và ta mà không khoảng cách nào đủ xa để ngăn trở, và ta có thể hỗ trợ con với sức mạnh của ta bất cứ khi nào con gặp khó khăn. Và nếu như Oromis và ta gục ngã trên chiến trường thì kiến thức và kinh nghiệm của chúng ta, cũng như sức mạnh của chúng ta sẽ được chuyển giao cho con. Trong thời gian dài ta đã cân nhắc quyết định của mình và ta tin chắc rằng nó đúng"."Nhưng nếu sư phụ Oromis chết", Eragon hạ giọng, "Thầy có thực sự muốn sống khi không có ông không, Và với một Eldunari?". Glaedr quay đầu lại, đôi mắt bao la nhìn thẳng vào Eragon. "Ta không hề mong muốn rời bỏ Oromis, nhưng dù cho bất kì điều gì xảy đến, ta sẽ tiếp tục làm tất cả những việc mà ta có thể để lật đổ Galbatorix từ ngai vàng của hắn. Đó là mục tiêu duy nhất của chúng ta, và cái chết sẽ không thể ngăn cản chúng ta theo đuổi nó. Ý nghĩ mất Saphira sẽ rất kinh khủng đối với con, Eragon, và đúng như vậy. Hơn nữa, Oromis và ta đã mất nhiều thế kỉ để hòa hợp giữa chúng ta và đó là sự thật dường như không thể tránh khỏi. Nếu chúng ta sống đủ lâu, kết quả tất yếu có thể xảy đến là một trong hai chúng ta sẽ chết. Đó không phải là một ý nghĩ hạnh phúc nhưng đó là sự thật. Như một qui luật vận động của thời gian". Thay đổi thái độ, Oromis nói: "Ta không thể giả vờ như ta đã không hề quan tâm tới nó, nhưng mục đích của cuộc sống là không làm cái chúng ta muốn nhưng cần cái mà chúng ta làm. Đó là cái mà định mệnh yêu cầu chúng ta". "Vì vậy giờ đây ta hỏi con", Glaedr nói, "Saphira Vảy Sáng và Eragon - Khắc tinh của tà thần, các con sẽ chấp nhận món quà của ta và làm tất cả để thừa kế nó chứ?". "Con chấp nhận", Saphira nói. "Con chấp nhận", Eragon đáp lời sau khi lưỡng lự một vài giây. Sau đó Glaedr quay đầu lại. Những bắp thịt và cơ bụng của anh rồng co lại, siết chặt trong vài giây, yết hầu của rồng vàng bắt đầu co giật như có thứ gì bị hóc trong đó. Mở rộng thế đứng, rồng vàng duỗi dài cổ, mọi đường gân trên cơ thể anh chàng căng cứng bên dưới lớp vảy lóng lánh. Cổ họng Glaedr uốn cong, giãn ra và giảm tốc cho tới khi kết thúc, anh rồng hạ thấp đầu xuống trước mặt Eragon, nóng, luồng khí cay xè phả ra từ cái dạ dày to lớn của anh ta. Eragon nhìn chếch sang bên và cố gắng không che miệng. Nó nhìn chằm chằm vào sâu trong miệng Glaedr, Eragon nhìn thấy cổ họng rồng co nhỏ lại một vài giây, và sau đó một vật ánh vàng lấp lánh xuất hiện giữa những nếp gấp của lưỡi. Một lát sau, một vật thể tròn đường kính khoảng bằng 1 feet trượt xuống trên cái lưỡi đỏ thắm của Glaedr và rơi nhanh ra khỏi miệng rồng, Eragon gần như bắt trượt nó. Tay nó nắm chặt lấy viên đá trơn tuột, nằm giữa vũng nước miếng là Eldunari, Eragon thở hổn hển và lảo đảo ngã lùi về phía sau, thình lình nó như cảm thấy mọi suy nghĩ và cảm xúc của Glaedr cũng như tất cả cảm giác trên cơ thể anh ta. Lượng thông tin ồ ạt trào ra như là sự kết thúc việc giao cảm giữa chúng. Eragon đã mong chờ nhiều hơn thế, nhưng nó bị sốc lúc nhận thấy mình đang nắm giữ toàn bộ tâm hồn của Glaedr giữa 2 bàn tay. Glaedr chùn bước, lắc nhẹ đầu, nét mặt anh rồng đau đớn như bị đâm, và nhanh chóng quay về bảo vệ ý nghĩ khỏi Eragon, mặc dù Eragon vẫn còn mơ hồ nhận thấy một vài dòng suy tưởng còn lại thoáng qua của sự chuyển đổi ý thức, cũng như muôn vàn cung bậc màu sắc trong cảm xúc của Glaedr. Eldunari tự nó giống như 1 viên ngọc hoàng kim khổng lồ.
Bề mặt của nó ấm áp và lấp lánh trăm ngàn cạnh sắc, phản chiếu vô vàn tia nắng nhảy múa, và đôi khi còn phát ra một vài tia sáng lấp lóe từ những khía cạnh chếch nghiêng. Trung tâm của Eldunari rực cháy một ngọn lửa chói sáng rực rỡ, giống như được phát ra từ một chiếc đèn lồng, ánh sáng tỏa ra đều đặn và chậm rãi như một phách nhạc hiền hòa dịu êm. Từ cái nhìn đầu tiên, nguồn sáng đã xuất hiện không hề biến đổi, nhưng một lúc sau khi Eragon nhìn kĩ thì nhiều chi tiết nó chưa thấy mới bắt đầu lộ ra: những xoáy lốc nhỏ và những dòng chảy xoắn ốc cuộn tròn hỗn độn theo nhiều hướng ngẫu nhiên như thật, một lớp màn bụi đen như mơ hồ chuyển động trong nó, sự xao động của những tia sáng lóe lên không lớn hơn cái đầu đinh ghim chói rực trong khoảnh khắc, rồi sau đó mờ dần trở lại vào bên trong mặt đá. Nó sống. "Đây", Oromis nói và xé một mảnh vải để bọc lấy viên ngọc trên tay Eragon. Để yên tâm, nó ngừng giao cảm với Glaedr và đặt Eldunari vào túi, tay nó cẩn thận không chạm vào viên ngọc. Vẫn còn một vài chấn động, Eragon nắm chặt viên Eldunari bọc vải trong túi nó và nó lạnh gáy khi biết rằng tay mình đang nắm lại quanh bản chất linh hồn của Glaedr; nó sợ cái mà có thể xảy đến với nó nếu nó cho phép trái tim trong trái tim vượt ra ngoài tầm kiểm soát của nó. "Cảm ơn thầy, Sư phụ" Eragon cẩn trọng nói, trong khi cúi đầu biểu lộ cử chỉ kính trọng trước Glaedr. "Chúng con sẽ bảo vệ trái tim của thầy bằng mạng sống của chính mình", Saphira nói thêm. "Không!", Oromis quát, giọng nói của ông bỗng trở nên mạnh mẽ dữ dội. "Không phải bằng cuộc sống của các con! Đó là điều chúng ta lo sợ nhất. Đưng cho phép bất kì rủi ro nào xảy đến với trái tim của Glaedr và hãy bảo vệ Eldunari như một phần cơ thể của các con, nhưng đừng nên hi sinh chính bản thân mình để bảo vệ nó, hay ta, hay bất kì ai khác. Không có gì quí hơn sự sống của con, và nếu như hi vọng của các con tiêu tan thì tất cả sẽ chìm trong bóng tối". "Vâng, thưa Sư phụ", Eragon và Saphira cùng đồng thanh, nó với cái lưỡi của nó và cô ả với suy nghĩ của mình. Glaedr nói, "Bởi vì con đã tuyên thệ trung thành với Nasuada, và con nợ cô ta lòng trung thành của mình nên con phải tuân lệnh của Varden. Con có thể nói với cô ấy về trái tim nếu con phải làm như vậy, nhưng chỉ khi con buộc phải làm thế. Vì lợi ích của rồng ở khắp mọi nơi, cho một số ít chúng ta còn tồn tại, thì sự thật về Eldunari không thể trở thành một kiến thức thông thường". "
Chúng con có thể nói với Arya không?", Saphira hỏi. "Và phải nói gì với Blodhgarm và những thần tiên khác của Islanzadi gửi đến để bảo vệ chúng con?" Eragon hỏi. "Con đã cho phép họ vào suy nghĩ của con khi Saphira và con chiến đấu với Murtagh"."Họ sẽ thông báo sự có mặt của con, Glaedr, nếu con giúp họ trong trận chiến". "Con có thể nói cho Blodhgarm và những chiến hữu của anh ta về Eldunari", Glaedr nói, "nhưng chỉ sau khi họ đã chịu ràng buộc bởi lời thề phải giữ bí mật cho con". Oromis khẽ đặt tay lên đầu nó. "Arya là con gái của Islanzadi, chính vì thế nên ta cho rằng cô ấy nên biết là tốt nhất. Dù thế nào thì như với Nasuada, đừng nói với cô ấy nếu không nó sẽ trở thành điều hoàn toàn không cần thiết. Một bí mật bị chia sẻ sẽ không còn là một bí mật nữa. Nếu con có thể bị trừng phạt bởi lời tuyên thệ, thì đừng nghĩ về nó, cũng đừng quá xem trọng Eldunari, vậy nên không một ai có thể đánh cắp thông tin từ tâm tưởng của con". "Vâng, thưa Sư phụ". "Bây giờ là thời khắc chúng ta phải đi khỏi nơi đây", Oromis nói và kéo đôi găng tay dày cộp khỏi tay.
“Ta đã nghe nữ hoàng Islanzadí nói rằng Nasuada đang bao vây thành phố Feinster, và quân Varden đang rất cần sự giúp đỡ của con. ”
“Chúng ta đã ở Ellesméra quá lâu rồi .”Saphira nói.
“Dĩ nhiên.” Glaedr đáp lại, nhưng cần thiết phải như thế.
Không làm mất thời gian, Oromis nhảy lên chân trước còn lại của Glaedr và buộc yên.”Khi chúng ta bay.” Oromis gọi với xuống Eragon “chúng ta sẽ ôn lại tất cả những gì con đã học trong suốt thời gian đến đây lần này.”
Eragon bước tới Saphira và cẩn thận trèo lên cổ cô ả, bọc trái tim của Glaedr bằng một miếng vải mềm và bỏ nó vào một cái túi vải trên yên một cách cẩn thận.Sau đó dngf dây đai thắt chặt chân của nó giống như Oromis vẫn làm.Phía sau nó có thể cảm thấy một luồng năng lượng đều phát ra từ Eldunarí.
Glaedr đi tới mỏm của vách núi dựng đứng Tel’naeír và mở đôi cánh khổng lồ ra.Đất đá rung lên khi Glaedr nhảy lên hướng tới những đám mây.Không khí lạnh là Glaedr rùng mình khi vẫy đôi cánh, thoát ra xa rừng cây xanh bạt ngàn.Eragon nắm chặt cái mấu phía trước nó khi Saphira tung mình lên đuổi theo, lao vút lên khoảng không rồi rơi xuống vài trăm feet sau cú bổ nhào trước khi cô ả bay tới bên cạnh Glaedr.
Glaedr tỏ ra là kẻ chỉ huy khi hai con rồng hướng về phía nam.Thi nhau bứt tốc độ, chẳng mấy chốc chúng đã vượt ra khỏi khu rừng.
Saphira rướn cổ và rống lên môt tiếng.Phía trước Glaedr cũng có phản ứng tương tự.Tiếng rống dữ tợn của chúng vang vọng khắp 1 vùng trời làm những chú chim phía dưới sợ hãi bay nháo nhác.
Chương 55: Chuyến bay.
Từ Ellesmera, Saphira và Glaedr bay không nghỉ trên bầu trời của khu rừng yêu tinh cổ, cao vượt lên những cây thông cổ thụ. Sau khi bay qua khu rừng, Eragon thấy 1 cái hồ nối thông với 1 dòng sông lượn quanh co. Đôi lúc nó nhìn thấy những đàn hoẵng nhỏ tụ họp bên bờ sông, và những con thú ngước mắt kinh ngạc nhìn rồng bay qua. Trong suốt hành trình, dù vậy lúc nào Eragon cũng chỉ chú ý một chút đến cảnh vật xung quanh, bởi vì nó đang bận đọc thuộc lòng trong trí mọi từ cổ ngữ mà Oromis đã dạy nó, bởi nếu nó mà quên mất chúng hoặc là mắc lỗi phát âm thì Oromis sẽ liên tục lặp lại từ đó cho tới khi nó nhớ. Họ đến bìa rừng Du Weldenvarden lúc chiều muộn của ngày đầu tiên. Tại đó, ngay trên ranh giới giữa khu rừng và đồng cỏ, Glaedr và Saphira liệng vòng cung, Glaedr nói:"Gĩư an toàn cho trái tim mình, Saphira, và ý nghĩ cũng vậy". "Sẽ mãi như vậy, thưa sư phụ", Saphira đáp lời. Oromis xuống khỏi lưng rồng,"Cầu chúc những cơn gió nâng cánh cho các con, Eragon, Saphira! Đến lần tới chúng ta gặp lại, hãy là ở trước cổng thành Urubaen". "Cầu chúc những cơn gió lành cũng đến với thầy!" Eragon chào đáp lại. Sau đó Glaedr bay về khu rừng phía tây, theo đường đến bắc hồ Isenstar, và từ đó thẳng đến Gil'ead trong khi Saphira tiếp tục bay về phương nam theo chỉ định trước đó. Saphira bay suốt đêm, chỉ dừng lại 1 lần để uống nước, vì thế nên trong suốt thời gian đó Eragon chỉ có thể co duỗi chân để thư giãn một chút. Khác với chuyến bay đến Ellesmera, bọn nó bị ngược gió thì lúc này thì không khí lại rất mát lành và êm dịu cứ như cả thiên nhiên cũng thiết tha muốn chúng nó trở lại với Varden. Đến hoàng hôn ngày thứ 2, chúng nó đã vào sâu trong sa mạc Hadarac và thẳng đường về phía nam dọc theo bề ngang của Đế quốc. Và lại một lần nữa bóng tối nhận chìm mặt đất, bầu trời bị ghì chặt trong cái thăm thẳm của đêm đen, khiến cho tầm nhìn của Saphira và Eragon bị hạn chế bởi những cồn cát hoang vu cao hơn rất nhiều những cánh đồng xanh rì của Đế quốc. Hành trình của chúng như được kết thúc khi đến giữa Uru'baen và hồ Tudosten trên đường đến thành phố Feinster. Sau khi bay suốt 2 ngày 2 đêm không ngủ, Saphira đã mệt, không thể bay tiếp nữa. Sà xuống 1 bụi cây Bu-lô trắng to bằng cái ao, cô nàng nằm dài trong bóng cây rồi chợp mắt vài tiếng trong khi Eragon canh gác và luyện tập kiếm thuật với thanh Brisingr. Mãi từ khi chúng chia tay với Oromis và Glaedr, Eragon cứ cảm thấy một mối lo mơ hồ đến mức trở nên rắc rối làm cho nó phải suy nghĩ xem cái gì đang chờ đợi nó và Saphira ở Feinster. Nó biết rằng họ đã được bảo vệ tốt hơn từ cái chết và thương tích, nhưng khi nó nghĩ về Cánh đồng cháy và đến trận chiến tại Farthen Dur, và khi nó nhớ đến hình ảnh máu phụt ra dữ dội từ chân tay hay tiếng thét của người bị thương cùng
với màu trắng nóng của lưỡi kiếm của nó lia trên da thịt, ruột Eragon quặn thắt và từng thớ thịt trên người nó kích động với nguồn nội lực bị nén lại, và nó không biết có nên đấu tranh với tất cả chiến binh trên mảnh đất này không hay là nên trốn chạy và ẩn nấp trong hang tối. Sự sợ hãi chỉ tệ hơn khi nó và Saphira lại tiếp tục hành trình dấn sâu vào con đường của 1 chiến binh hành quân trên những chặng đường xa. Ở đây vào lúc này, những cột khói xám đang bay lên từ những ngôi làng bị đánh phá. Quang cảnh hủy diệt bừa bãi làm nó phát ốm. Quay đi, nó cố gắng không nhìn cho đến khi thấy được sự thông suốt tinh thần che mờ mắt nó như vết chai trắng trên khớp đốt ngón tay. "Một chút nữa", Saphira nói, suy nghĩ của cô ả chậm rãi và mệt mỏi," Chúng ta đã hoàn thành trước kì hạn. Đừng cho phép bất kì cái gì làm xáo trộn tâm trí anh". Hối hận rằng nó đã làm cô ả thức giấc, nó nói, "Anh xin lỗi...Anh sẽ để ý hơn". Eragon hít và quệt cái sống mũi lạnh cóng bằng cổ tay áo. "Đôi khi anh ước rằng anh đã thích thú với trận chiến nhiều như anh đã từng chiến đấu. Sau đó nó sẽ trở nên dễ dàng hơn". "Nếu anh làm thế", cô ả đáp, "toàn thể thế giới sẽ phải thu mình lại dưới gót giày của chúng ta, bao gồm cả Galbatorix. Nhưng không, sẽ tốt hơn nếu anh không chia sẻ tình cảm của em trong máu. Chúng ta cân nhắc mọi quyết định, Eragon,...Một phần của chúng ta là khiếm khuyết, nhưng ở bên nhau chúng mình là hoàn thiện. Còn bây giờ thì rũ sạch suy nghĩ của anh đi, về cái ý nghĩ tệ hại đó, và hãy nói cho em 1 câu đố giúp em tỉnh táo". "Rất sẵn lòng", nó nói sau khi suy nghĩ một vài giây:
"Tôi có màu đỏ, xanh, vàng và mọi màu sắc khác của cầu vồng. Tôi dài và ngắn, mập và ốm, tôi thường cuộn tròn khi ngủ. Tôi có thể ăn 100 con cừu khi đói. Tôi là gì?".
"Một con rồng, đương nhiên", cô ả trả lời không do dự. "Sai, một cái thảm len".
"Không thể tin được!".
Ngày thứ 3 trong chuyến hành trình của chúng qua đi chậm chạp trong lo âu, chờ đợi khắc khoải. Chỉ có tiếng đập cánh của Saphira, nhịp thở đều đặn của cô ả, và tiếng rít ào ào của gió làm ù tai Eragon. Chân nó đau nhức nhối vì ngồi trên yên rồng quá lâu, nhưng sự khó chịu của nó không thể so sánh với Saphira, từng thớ thịt trong người cô ả như bị đốt cháy. Tuy vậy nhưng cô nàng vẫn kiên trì chịu đựng không 1 lời phàn nàn, và để từ chối lời đề nghị của nó nhằm xoa dịu cơn đau bằng thần chú, Saphira nói: "Anh sẽ cần dùng đến chúng khi mình đến nơi". Vài tiếng sau trời chạng vạng tối, Saphira chao đảo và hạ thấp xuống một vài feet, lắc lư một cách mệt mỏi. Eragon ngồi thẳng dậy, đề cao cảnh giác, và nhìn quanh tìm kiếm mọi dấu hiệu chứng tỏ là nguyên nhân quấy rầy, nhưng nó chỉ thấy 1 màn đen mịt mùng bên dưới và bầu trời lấp lánh ánh sao trên đầu. "Em nghĩ chúng ta vừa tới sông Jiet", Saphira nói. Không khí ở đây mát và ẩm. Feinster không còn xa nữa. "Em có thể tìm thấy thành phố trong đêm tối không? Chúng mình sắp tới nơi rồi. Anh muốn quan sát nó từ trên cao. Hình như là 100 dặm nữa về phía bắc hay phía nam gì đó! Không, chúng ta không thể. Trực giác của anh không thể nhầm được, nhưng chắc ngoài chúng ta ra còn rất nhiều sinh vật sống khác. Nếu như bản đồ yêu tinh chính xác, thì chúng mình không thể hạ cánh quá xa hơn 50 dặm về phía bắc hay nam của Feinster, ở độ cao này bọn mình có thể nhìn bao quát thành phố từ trên cao. Chúng ta còn có thể ngửi thấy khói từ bếp lò của người dân trong thành và còn nhiều điều khác nữa". Sau đêm nay, khi chỉ còn vài giờ nữa là tới bình minh, mặt trời đỏ rực nhô ra từ phía đông đường chân trời. Nhìn nó, Eragon quay qua kiểm tra lại áo giáp trong túi yên rồi mặc vào người cùng với mũ chiến đấu và đeo xà cạp bảo vệ tay. Ước gì lúc này nó có 1 cái khiên, nhưng nó đã để quên khiên của nó ở Varden trước khi đến núi Thardur với Nar Garzhvog. Sau đó nó thò tay vào túi đồ lục lọi cho đến khi tìm thấy bình rượu bạc mà sư phụ Oromis cho nó. Chiếc bình kim loại mát lạnh khi chạm vào.
Eragon uống một ngụm nhỏ chất rượu ngọt hấp dẫn, vị của rượu tan ra trên đầu lưỡi, ngon tuyệt mùi mật ong pha lẫn với vị táo. Hơi nóng bừng bừng xông lên mặt nó. Chỉ trong giây lát, nội lực của nó đã hồi phục dưới tác dụng của rượu tiên. Eragon lắc bình. Nó lo lắng, vì bình rượu sắp cạn mà nó mới chỉ dùng một lượng nhỏ trước đó. "Sau này mình sẽ cẩn thận hơn", nó nghĩ. Eragon và Saphira tiếp tục chuyện trò đến khi chân trời rực sáng với muôn ngàn tia nắng ban mai, giống như ánh sáng từ những chiếc đèn lồng nhỏ cầm tay đến khi cháy bùng thành một đống lửa lớn làm tan dần tấm màn khói đen của đêm tối. Xuyên qua những tia nắng đỏ rực màu lửa cháy, Eragon thấy một biển giáo sáng choang và ánh sáng lập lòe của những cái mũ sắt phản chiếu ánh nắng. Qủa thật là một thành trì kiên cố! Những bức tường dày đặc với những bó đuốc nhỏ xíu đang bận đốt cháy loạt tên của đội quân bên dưới, đun sôi những vạc dầu giữa khe hở của các công sự, những sợi dây thừng xuyên qua những bức tường để cố gắng tiến đến những thang gỗ nhỏ được thiết kế xung quanh phòng ngự. Những tiếng la hét yếu ớt và tiếng khóc vọng lên từ mặt đất bị át đi trong tiếng nện uỳnh uỳnh của khúc gỗ lớn công phá cổng thành. Cuối cùng thì Eragon cũng đã mặc xong quân phục, và nó cũng đã học được rằng vị trí của một người đàn ông trên chiến trường là phải xây dựng hòa bình trên cỗ máy chiến tranh. Trải rộng bên ngoài bức tường của Feinster là hàng trăm túp lều xiêu vẹo đổ nát, với những căn phòng chỉ đủ rộng cho một con ngựa chui vào: những chỗ ở quá tồi tàn để có thể gọi là một căn nhà trong phần chính của thành phố. Phần lớn trong chúng là những căn nhà bỏ hoang, và một khoảng rộng bị Varden phá hủy để tiếp cận tường thành. Một số túp lều đang cháy, ngay khi nó
thấy, ngọn lửa lan rộng ra, thiêu rụi hết mái nhà tranh này đến ngôi nhà khác. Những căn nhà phía tây tạo thành những đường nét đen dài trên đất, nơi mà chiến hào được đào để bảo vệ quân trại của Varden. Những nơi khác của thành phố được bố trí giống hệt như Eragon đã từng thấy ở Teirm. Mặt biển trải dài dường như vô hạn. Một cảm giác hồi hộp kích động lan tỏa trong Eragon, và nó cũng cảm thấy Saphira rùng mình cùng lúc đó. Nó nắm chặt chuôi kiếm Brisingr. Hình như họ không hề thông báo về sự hiện diện của chúng nó. "Phải tới nơi chúng mình mới báo tin à?", Saphira hỏi nó trong khi bật ra một tiếng gầm rít qua kẽ răng, và trút giận lên cả bức tranh bầu trời trước mặt bằng một hơi lửa xanh lè. Bên dưới, Varden đang tấn công vào thành, hàng phòng thủ đã bị đẩy lùi, và trong khoảnh khắc sự im lặng bao vây chiến trường. Ngay sau đó, Varden bắt đầu tung hô và đập mạnh những ngọn giáo và kiếm của họ vào những cái khiên, át đi bầu không khí thất vọng bao trùm khắp người dân thành phố. "A!", Eragon la lên khó chịu. "Anh ước gì anh đã không làm thế. Nãy giờ anh không để ý. Anh xin lỗi. Sự im lặng đến khó chịu", nó nói. "Việc đầu tiên chúng mình nên làm bây giờ là tìm ngay một con ngựa mới chết, hay bất cứ con vật nào khác để anh có thể phục hồi lại sức lực cho em". Anh không thể..."- Saphira ngắt lời và chặn ngay những dòng suy nghĩ khác đụng đến bọn nó. Sau nửa giây hoang mang, Eragon cũng nhận ra ý thức của Trianna. "Eragon, Saphira!" Cô phù thủy kêu thét lên. "Cậu đến rồi! Arya và các yêu tinh khác đang dàn quân trên tường thành, nhưng họ đang bị mắc bẫy của một nhóm lớn binh lính. Họ sẽ không thể sống sót trong vài phút nữa nếu như không có ai đó đến giúp! Nhanh lên!".
Chuong 56: HỎA KIẾM
Saphira gập cánh sát mình và bổ nhào xuống,nhắm những tòa nhà tối tăm trong thành phố mà phi đến.Eragon cúi sát đầu để tránh nhữn côn gió mạnh tạt vào mặt.Cả thế giới như quay cuồng, Saphira lượn sang bên phải để tránh những mũi tên bắn lên từ dưới mặt đất.
Tứ chi của Eragon nặng trĩu khi Saphira lắc mạnh thoát ra khỏi cú bổ nhào.Rồi cô ả lấy lại thăng bằng, sức nặng đè lên Eragon biến mất.Thật lạ,những tiếng la hét inh ỏi, tiếng rít gió của những mũi tên bay sượt qua chúng, Eragon cố gắng làm chệch hướng chúng.
Bổ nhào xuống ngay bên ngoài những bức tường thành, Saphira gầm lên quật mạnh cái đuôi và những chiếc móng vuốt xô ngã đám lính trong sự hoảng sợ tột cùng, làm chúng rơi khỏi bờ tường ngã xuống mặt đất phía dưới cách chừng 80 feet.
Một cái chòi cao vuông vắn được trang bị 4 máy bắn đá đặt cuối phía Nam của bức tường.Những chiếc trường cung rất lớn bắn những chiếc lao dài chừng 6 mét tới đội quân Varden đang đứng trước cổng thành.Phía trong tường thành Saphira và Eragon thấy lốm đốm hàng trăm tên lính đang bao vây 2 chiến binh đang bị ép vào chân tháp canh, liều mình chống đỡ những những búi gươm giáo tua tủa vây quanh.
Thậm chí khuất trong khoảng tối, và nhìn từ trên cao nhưng Eragon vẫn nhận ra một người là Arya.
Saphira nhảy xuống từ trên bờ tường và và đáp xuống ngay giữa đám lính, xé xác vài tên ngay bên dưới chân cô ả.Những gương mặt hoảng sợ và sửng sốt, Saphira gầm lên làm một số bỏ trốn, dùng đuôi cô ả quất bọn chúng làm hơn chục tên dẹp lép.Một tên chạy ngang qua cô ả bị cô ả kẹp vào giữa hai hàm, lắc mạnh cái đầu làm xương sống hắn gẫy đôi.Cô ả cũng làm như thế với 4 tên nữa.
Tên còn lại chạy thoát được biến mất dạng sau những tòa nhà.
Eragon nhanh chóng cởi dây bảo vệ, nhảy xống đất.Cộng thêm chiếc áo giáp nặng nề làm nó khụy gối khi tiếp đất.Nó cằn nhằn và đứng thẳng người.
“Eragon !” Arya nức nở, chạy tới chỗ nó. Nàng thở hổn hển, người đẫm mồ hôi.Áo giáp của nàng chỉ là một chiếc áo chẽn bằng da nhẹ, màu đen bó sát người.
“Xin chào, Bàn tay bạc.Xin hoan nghênh, Khắc tinh của tà thần” Blödhgarm đan đứng cạnh Arya,nhe những chiếc răng nanh ngắn màu vàng cam lóe lên như ánh đuốc, mắt ông ta màu vàng.Cái cổ áo dựng cao đằng sau gáy được làm bằng lông chim là cho ông dữ tợn hơn bình thườn.Cả ông và Arya đều dính rất nhiều vết máu trên người,đến nỗi Eragon cũng không thể đoán được có máu của họ thấm trên đó hay không.
“Các người có bị thương hay không?” Eragon hỏi.
Arya lắc đầu còn Blödhgarm nói “Một chút trầy da nhưng không nghiêm trọng.” “Hai người đang làm gì đơn độc ở đây thế?” Saphira hỏi .
“Cánh cổng.” Arya vừa nói vừa thở hổn hển “Đã ba ngày, chúng tôi cố gắng để phá hủy chúng, nhưng chúng được bảo vệ bằng phép thuật và những thanh chắn, những khúc gỗ rất lớn. Bởi vậy ta tin chắc Nasuada sẽ…” Khi Arya ngừng lại để lấy lại hơi thỏ, Blödhgarm tiếp lời “Arya tin chắc Nasuada sẽ dốc lực tấn công vào tối nay, bởi vậy chúng tôi phải luồn vào bên trong Feinster một cách bí mật để mở cánh cửa.Thật không may.chúng tôi đã chạm trán với 3 pháp sư.Họ dùng ý chí để ngăn cản chúng tôi sử dngj phép thuật trong khi họ báo cho quân lính tới đây với số lượng rất lớn.”
Trong khi Blödhgarm đang kể lại, Eragon đưa một tay lên ngực của một tên lính đã chết và hút lấy chút năng
lượng còn sót lại trên người hắn ta, rồi chuyển cho Saphira. “Thế những pháp sư đó giờ ở đâu?” Nó hỏi, tiếp tục với một xác chết khác.
Blödhgarm trả lời “Dường như họ hoảng sợ vì sự xuất hiện của cậu” “Sợ là phải” Saphira gầm gừ.
Eragon hút thêm năng lượng từ 3 xác lính nữa, và cuối cùng nó nhặt lấy cái khiên gỗ của một tên.”Tốt.giờ chúng ta sẽ đi mở cánh của kia chứ”Nó nói.
“Đúng, ngay lập tức” Arya nói,Nàng bắt đầu bước tới và thoáng liếc cái nhìn sang phía Eragon. “Chàng có một thanh kiếm mới.”Đó không phải là một câu hỏi.
Nó gật đầu “Rhunön đã giúp tôi chế tạo nó”, “Và tên nó là gì vậy, Khắc tinh của Tà thần.” Blödhgarm hỏi. Eragon định trả lời thì 4 tên lính chạy ra khỏi một cái ngõ tối,hạ thấp ngọn giáo.Nhẹ nhàng tuốt thanh Brisingr ra khỏi vỏ, nó chém đứt đôi cây giáo của tên đi đầu, tiếp tục cú đánh nó chặt đầu tên lính.Brisingr dường như lờ mờ phát ra vẻ hung dữ. Arya bước tới đâm hai trong ba tên còn lại trước khi chúng kịp phản ứng, Blödhgarm nhảy tới tên cuối cùng và kết liễu hắn bằng một con dao găm.
“Khẩn trương lên” Arya thúc giục, và bắt đầu chạy tới phía cánh cổng.
Blödhgarm và Eragon chạy theo sau nàng, Saphira cngx theo sát ngay đằng sa, móng vuốt của cô ả cào vào đá lát nền trên đường phố gây ra những tiếng động lớn.Những mũi tên lửa lao tới họ từ phía trên bờ tường, và ba lần khác,những tên lính lao ra khỏi đội hình chính, nhào tới ngăn cản họ.Không hề chậm trễ, Eragon, Arya và Blödhgarm nhanh chóng giải quyết những đợt tấn công, hoặc là Saphira giải quyết bọn chúng bằng một ngọn lửa phun ra từ miệng cô ả.
Nhìn những thanh chắn cổng ngày càng trở lên lớn hơn khi họ tiến lại gần cánh cổng. Eragon thấy hai người đàn ông và một người đàn bà mặc chiếc áo choàng màu đen, đứng trước cái núm cửa.Miệng lầm rầm cổ ngữ, thân hình lắc lư, những cánh tay giơ lên. Ba pháp sư phá vỡ sự im lặng khi họ chú ý tới Eragon và các chiến hữu của nó,rồi bỏ chạy trên con đường hính của Feinster.
Eragon lùa theo họ.tuy nhiên việc qan trọng hơn là để cho quân dội Varden vào được trong thành, vì họ không thể ở lâu hơn phía bên ngoài cổng thành, họ sẽ chết dần chết mòn vì sự chống trả từ phía trên tường thành. “Tôi đang băn khoăn vì những cái bẫy mà họ đã dựng sẵn” vẻ mặt nghĩ ngợi,nó lo lắng khi nhìn những cái bóng của bọn pháp sư khuất dần.
Trước khi Eragon, Arya, Blödhgarm, và Saphira đến được chỗ cánh cổng, 50 tên lính chạy ra khỏi tháp canh và tiến về cánh cổng lớn bằng gỗ.
Một trong số đó đập chuôi gươm vào khiên và hét lớn “Các ngươi sẽ không bao giờ qa được đây,lũ quái vật ghê tởm.Đây là nhà của bọn ta, và bọn ta sẽ không cho phép lũ Urgals và bọn thần tiên cngx những loại không phải người bước vào.Cút đi, bọn mày sẽ chẳng tìm thấy gì ngoài máu và đau khổ ở Feinster đâu.”
Arya chỉ cái tháp canh và nói nhỏ với Eragon. “Cơ quan để mở cánh cổng nằm trong đó.”
“Đi đi.” Eragon nói “Nàng và Blödhgarm sẽ luồn qua đám lính và trườn tới chỗ tháp. Saphira và tôi sẽ ở đây kéo dài thời gian.”
Arya gật đầu, rồi cùng Blödhgarm biến mất vào trong bóng tối và men theo nhữn ngôi nhà phía sau Eragon và Saphira.
Thông qua giao cảm giữa hai người, Eragon cảm nhận được Saphira đang nôn nóng muốn dùng móng vuốt chụp lấy một đám línhĐặt tay lên chân trước của cô ả nó nói : “Đợi đã.Để anh thử trước.”
“Nếu không có kết quả, em sẽ được phép xé vụn chúng ra chứ?”Cô ả hỏi,liếm những chiếc răng nanh. “Được lúc đó tùy ý em.”
Eragon chậm rãi bước tới chỗ những tên lính, giữ kiếm và khiên ra phía khác.Một mũi tên lao tới nó từ phía trên, chỉ dừng lại ngay tức khắc trước ngực nó 3 feet và rơi xuống đất. Eragon nhìn tên lính đó, nết sợ sệt hiện rõ trên khuôn mặt hắn, nó cao giọng : “Tên ta là Eragon, Khắc tinh của tà thần.Dĩ nhiên các người chắc đã nghe về ta, cũng có thể là chưa,các ngươi nên biết rằng ta là một kỵ sĩ cưỡi rồng, và ta đã thề sẽ giúp Varden tiêu diệt Galbatorix và đế chế của hắn.Hãy nói cho ta biết các ngươi có từng thề bằng ngôn ngữ cổ rằng sẽ phục vụ hắn và để chế của hắn hay không?”
Một tên lính khác xuất hiện đó là tên đội trưởng, hắn nói : “Chúng ta chắng có lời thề nào với hắn cả, kể cả khi hắn kề kiếm vào cổ chúng ta.Nhưng chúng ta trung thành với công nương Lorana.Cô ấy và gia đình cô ấy đưa ra 4 điều kiện và họ đã thực hiện nó rất tốt.”. những tên lính khác cũng gật đầu đồng ý.
“Hãy đi theo chúng ta !” Eragon giọng năn nỉ “bỏ vũ khí xuống và ta hứa sẽ không làm hại các ngươi và gia đình của các ngươi.Các ngươi không thể chống lại được khối liên minh giữa Varden, Surda, người lùn và các thần tiên đâu.”.
“Ngươi nói thế” Một tên lính quát lớn “Nhưng chúng ta sẽ làm gì khi Murtagh và con rồng của hắn quay lại đây?” Eragon ngập ngừng, rôi nói với một giọng tự tin : “hắn không phải là đối thủ của ta và các thần tiên những người
đang giúp đỡ Varden.Chúng ta đã từng đánh bại hắn một lần trước kia.”nhìn sang bên trái đám lính, Eragon thấy Arya và Blödhgarm đang lén lts đi qua phía sau cái cầu thang đá để đi tới phía trê của bức tường, với những bước chân thật nhẹ, họ bò tới phía trái của tháp canh.
Tên đội trưởng của đám lính nói “Chúng ta có thể đã không thề với tên vua, nhưng công nương Lorana thì đã…Ngươi muốn bọn ta làm gì với Larana? Giết cô ta à? Bỏ tù cô ta à? Không chúng ta sẽ không phản bội niềm tin của chúng ta và chúng ta sẽ không để người qua kể cả những tên quái vật đang chầu trực ngoài thành.Ngươi và Varden sẽ chẳng được gì.”
“Tại sao ngươi không chặt cái đầu ngươi xuống để cho bọn ta được bình yên mà sống.Không,sự quyến rũ của danh tiếng, tham vọng và giàu có thật quá lớn.Nên ngươi đã mang sự chết chóc và đổ nát đến cho gia đình chúng ta để đạt được và thỏa mãn tham vọng của ngươi.Được, ta nguyền rủa ngươi, Kỵ sĩ rồng.ta nguyền rủa ngươi bằng cả trái tim.Sao ngươi không cút khỏi Alagaësia và đừng bao giờ quay trở lại.”
Môt cảm giác ớn lạnh bò khắp người Eragon, những lời nguyền rủa của tên lính giống như tên Ra’zac cuối cùng nguyền rủa nó ở Helgrind, và nó còn nhớ những gì mà Angela nói về tương lai của nó.Cố gắng gạt những suy nghĩ đó sang một bên, ó nói “Ta không muốn giết các ngươi, nhưng ta sẽ nếu như ta bắt buộc phải làm điều đó.bỏ vũ khí của các ngươi xuống!”
Arya lặng lẽ mở cánh cửa ở phía cuối bên trái tháp phòng thủ và luồn vào trong.Lén lút như một thợ săn mèo rừng, Blödhgarm bò ra phía sau những tên lính đến môt cái tháp khác.và nếu như có bất kỳ tên nào quay lại hắn sẽ nhìn thấy.
Tên đội trưởng đập xuống mặt đất chỗ chân Eragon “Ngươi không giống loài người.ngươi đã phản bội loài của chúng ta.”Tên lính giơ khiên và kiếm của hắn lên và từ từ bước lại phía Eragon “Khắc tinh của Tà thần,Ha ha, ta tin 20 năm nữa con trai ta sẽ giết ngươi khi nó bằng tuổi ngươi bây giờ.”
Eragon đợi cho đến khi tên đội trưởng chỉ còn cách 1 feet. Rồi nó bước tới 1 bước và đâm thanh Brisingr ngay chính giữa khiên của tên đội trưởng, xuyên qua phía dưới cánh tay hắn và đâm xuyên ngực xuyên ra phía sau lưng hắn.Tên đội trưởng giãy một cái rồi chết.Khi Eragon rút kiếm về,thì từ phía tháp canh cơ quan và các sợi dây xích bắt đầu quay, và các thanh chắn cửa được nâng lên, cánh cửa bắt đầu mở.
“Bỏ vũ khí của các ngươi xuống hoặc là chết !” Eragon hét lớn.Đồng thanh hét lớn, khoảng 20 tên lính lao vào Eragon, vung kiếm lên.Những tên khác bỏ kiếm và giáo xuống, quỳ gối giữa đường, tay đặt trên đầu gối.
Một màn sương mù máu vây quanh Eragon khi nó vung kiếm chém giết,nhảy từ tên này qua tên khác nhanh hơn phản xạ của bọn chúng.Saphira đánh hai tên líh văng đi, rồi nướng hai tên khác bằng lửa thoát ra từ mũi cô ả, nấu chảy chúng cùng với áo giáp của chúng. Eragon trượt ra vài bước thoát ra khỏi tên cuối cùng và giữ vị trí, cánh tay cầm kiếm duỗi thẳng sau 1 cú đòn và giữ nguyên như thế và đợi cho tới khi tên lính ngã vật ra đất, một nửa đầu tiên, và sau đó là một nửa còn lại.
Arya và Blödhgarm hiện ra từ tháp canh, khi cánh cổng ầm ầm từ từ mở toang ra.Phía trên bờ tường, các cung thủ mất hết tinh thần và bỏ chạy phá vỡ đội hình phòng thủ.Hàng tá những đôi tay xuất hiện quanh mép cánh cổng và đẩy chúng mở rộng ra, Eragon nhìn thấy dội quân Varden, những người đàn ông và những người lùn vẫn còn sống và ùa vào cái cổng vòm.
“Khắc tinh của Tà thần” họ gào thét “Chúc mừng đã quay trở lại, thật là một ngày tốt để đi săn.”
“Những người này là tù nhân của tôi” Eragon nói và dùng thanh Brisingr chỉ vào đám lính đang quỳ trên đường . “Hãy trói họ lại nhưng không được ngược đãi họ.Tôi đã hứa không làm hại họ.”
Sáu chiến binh khẩn trương thi hành lệnh của nó.
Quân Varden hành quân vào trong thành phố, tiếng ầm vang của áo giáp và giày. Eragon rất vui mừng vì được gặp lại Roran và chú Horst và một vài người trong làng Carvahall.Nó gọi họ, Roran giơ cao cây búa lên chào và chạy lại.
Nắm lấy tay phải Rora và ôm trầm lấy anh của nó.Buông ra, nó qan sát thấy đôi mắt anh nó quầng sâu hơn hồi trước.
“Về thời gian em ở đây, ” cằn nhằn . “ Chúng đang sắp chết vì hàng trăm nỗ lực để chiếm thành .” “ Saphira và em đã đến nhanh nhất có thể. Chị Katrina thế nào ạ?”
“ Chị ấy khỏe.”
“ Khi vụ này xong, anh phải kể với anh mọi việc xảy ra kể từ khi em đi đấy.”
Roran bậm môi và gật đầu . Rồi anh chỉ thanh Brisingr và nói. “Ở đâu mà em có thanh kiếm này vậy?” “Từ thần tiên”
“ Nó tên là gì?”
“ Bris …” Eragon giật mình khi nói, nhưng sau đó các thần tiên khác mà Islanzadí chỉ định để bảo vệ Eragon và Saphira đang rút nhanh khỏi hàng ngũ của địch và hai trong số họ đang bị bao vây . Arya và Blödhgarm quay lại với họ thật nhanh, Arya chùi sạch lưỡi kiếm của cô.
Trước khi Eragon có thể nói tiếp , Jörmundur phi ngựa qua cánh cổng và hét lớn chào Eragon, “ Kkắc tinh của tà thần! Quả là cuộc gặp gỡ tuyệt vời”
Eragon chào lại ông ta và hỏi, “ Chúng ta nên làm gì bây giờ?”
“Bất cứ điều gì cậu thấy để giành chiến thắng “Jörmundur đáp lại, nghìm chiếc cương ngựa màu nâu lại. “ Chúng ta phải phá vỡ hàng phòng thủ. Không như thế nếu như Saphira phá nát hầu hết những ngôi nhà , vậy, hãy bay quanh và quấy nhiễu tổ chức của chúng ở những chỗ có thể. Nếu ngươi có thể phá vòng phòng thủ ngoài hoặc bắt được công nương Lorana, đó sẽ là một sự trợ giúp tuyệt với. “
“ Nasuada đang ở đâu?” Jörmundur chỉ sau vai nó. “ Ở đằng sau cánh quân, chỉ huy hàng ngũ của chúng ta cùng vua Orrin.
Jörmundur liếc qua dòng chiến binh đang tràn vào, quay lại nhìn Eragon và Roran. “ Cây búa dũng mãnh, chố của anh là ở cũng với lính của mình, không phải là buôn chuyện tầm phào với em họ anh.” Rồi nghiêng người, viên chỉ huy dẻo dai thúc ngựa tiến lên và phi qua một bụi cây càn cỗi, hét to những mệnh lệnh cho quân Varden.
Khi Roran và Arya bắt đầu theo sau, Eragon túm lấy vai Roran và ngăn lưỡi kiếm của Arya bằng kiếm của nó. “ Đợi đã “ nó nói.
“ Gì!” Cả Arya và Roran càu nhàu giọng bực bội. Phải, gì vậy? Saphira hỏi. Chúng ta không nên ngồi và nói chuyện khi cuộc chơi đang diễn ra.
“ Bố em, “ Eragon la lên. “ Không phải là Morzan, đó là Brom!” Roran chớp mắt “ Brom ư?”
“ Phải , Brom!”
Thậm chí cả Arya cũng tỏ ra ngạc nhiên. “ Anh chắc chứ Eragon? Làm sao anh biết được?”
“ Dĩ nhiên tôi chắc! Tôi sẽ giải thích sau, nhưng tôi không thể chờ để nói cho hai người sự thật này.”
Roran lắc đầu. “ Brom … anh không bao giờ đoán nổi, nhưng anh tin rằng điều này rất có ý nghĩa. Em phải mừng vì thoát được cái tên của Morzan. “
“ Hơn cả vui mừng, “ Eragon nói, cười nhe răng.
Roran vỗ vai nó rồi nói, “ Tự nhìn em xem, nhỉ?” và chạy nước kiệu đằng sau Horst và những dân làng khác. Arya cũng di chuyển vòng quanh theo cùng một chỉ thị. Nhưng trước khi đi được hơn vài bước, Eragon gọi tên cô và nói, “ Phế nhân ,người ẩn cư đã rời Du Weldenvarden và đã đến với Islanzadí ở Gil’ead. “ Cặp mắy xanh lục của Arya mở lớn và đôi môi mím lại, như khi cô muốn đặt ra một câu hỏi. Trước khi cô có thể, Dòng chiến binh đã lao tới đẩy cô vào sâu hơn trong thành phố.
Blödhgarm rụt rè tiến lại gần Eragon. “ Khắc tinh của tà thần, tại sao Vị hiền triết áo trắng lại rời khu rừng?” “Ông ấy và người bạn của mình thấy rằng thời điểm đà tới để chiến đấu chống lại đế quốc và tiết công khai sự hiện diện của mình với Galbatorix.”
Lớp da thú của vị thần tiên gợn sóng. “ Đó quả là những thông tin quan trọng.” Eragon trèo lại lên lưng Saphira. Nó nói với Blödhgarm và những vệ sĩ khác của ông, “ Hãy phá vỡ hàng phòng thủ. Chúng tôi sẽ gặp các vị ở đó.” Không cần chờ vị thần tiên trả lời, Saphira nhảy lên những bậc thang dẫn tới đỉnh những bức tường của thành phố. Những bậc thang đá vỡ vụ dưới trọng lượng của cô ả khi ả trèo lên bức tường phòng thủ rộng, từ đó cô rồng cất cành bay trên những căn nhà nhỏ tồi tàn đang bốc cháy phía ngoài Feinster, Đập cánh vội vàng để tăng tốc bay lên cao.
Chúng ta sẽ phải xin phép sự chấp nhận của Arya trước khi có thể nói với bất cứ ai khác về Oromis và Glaedr, Eragon nói, vừa nhớ lại lời thề về giữ kín bí mật của nó, Orik và Saphira đã thề với nữ hoàng Islanzadí trong suốt chuyến đi đầu tiên tới Ellesméra.
Em chắc là cô ấy sẽ nghe một lần về bổn phận của chúng ta, Saphira nói. Nhất trí.
Eragon và Saphira bay từ chỗ này đến chỗ khác trong thành Feinster, đáp xuống bất cứ đâu chúng phát hiện ra một đám lớn lính hoặc bất cứ chỗ nào quân Varden bị bao vây. Nếu không có ai đó bất ngờ tấn công, Eragon cố gắng thuyết phục mỗi nhóm quân địch đầu hàng. Thường thì nó không thành công, nhưng nó thấy khá hơn vì đã cố thử, vì rất nhiều những người đàn ông xúm lại thành đám trên phố là những người dân thường của Feinster, không đươc huấn luyện trở thành những quân nhân. Eragon nói với mỗi người, “ Đế quốc này là kẻ thù của chúng ta chứ không phải các bạn. Đừng theo quân đội để chống lại chúng tôi thì các bạn sẽ không có lí do gì để sợ chúng tôi. “ Vài lần Eragon đã thấy một phụ nữ hơacj trẻ em chạy băng qua thành phố tăm tối, Nó sắp xếp cho họ nấp ở căn nhà gần nhất , và không phản kháng, họ làm theo.
Eragon dò xét tâm trí của mọi người quanh nó và Saphira, tìm kiếm những phù thủy cao tay có thể gây tổn hại đến chúng, nhưng nó không tìm thấy một thầy phép nào ngoài ba người mà chúng đã sớm thấy, và cả ba đều cẩn thận để giữ suy nghĩ của mình dấu xa nó. Nó cho thấy rằng họ dường như không quay lại cuộc chiến theo bất cứ cách nào đáng chú ý.
Có thể chúng dự định rời bỏ thành phố này, nó nói với Saphira. Galbatorix muốn đưa chúng rời khỏi tring tâm trận chiến ư? Anh nghi ngờ là hắn muốn mất bất cứ thầy phép nào của hắn.
Có thể, nhưng chúng ta vẫn nên tiến quân một cách cẩn thận.Ai mà biết được chúng đang lên kế hoạch gì? Eragon nhún vai. Còn giờ, điều tốt nhấy mà chúng ta cí thể làm để giúp quân Varden vây chặt Feinster nhanh nhất có thể.
Cô ả đồng tình và liệng theo hướng một cuộc chạm trán nỏ ở một quảng trường cách đó không xa.
Chiến đấu trong một thành phố rất khác với tấn công tiên phong, như Eragon và Saphira vẫn thường làm. Những đường phố chật hẹp và những toàn nhà san sát làm cản trở sự di chuyển của Saphira và làm khó mà phản ứng lại khi những tên lính tấn công, thậm chí ngay cả khi Eragon có thể cảm nhận được những người lính từ xa trước khi họ tới. Những cuộc chạm trán của chúng với những tên lính nấp trong bóng tối và liều mạng tấn công, bị đập tan không chỉ bằng những luồng lửa hoặc phép thuật. Hơn một lần, Saphira phá hỏng một ngôi nhà vì cái đuôi quét lê một cách bất cẩn. Cô ả và Eragon luôn kiểm soát để tránh gây ra những tổn thương vĩnh viễn cho ai đó – Bằng sự kết hợp của may mắn, kĩ năng và những né tránh của Eragon – nhưng những cuộc tấn công làm chúng thậm chí thận trọng và căng thẳng hơn khi những trận chiến thông thường.
Sau lần đối đầu thứ năm Eragon nổi khùng khi những tên lính bắt đầu rút lui, như họ luôn luôn làm khi kết thúc, nó đuổi theo, kiên quyết giết đến tên cuối cùng. Chúng kinh ngạc vì nó, toán loạn trên phố và đâm sầm vào cánh chặn ngang của của hàng thời trang nữ
Eragon đuổi theo, nhảy qua những đống đổ vỡ của cánh cửa. Bên trong của hàng tối như hắc ín và có mùi lông gà và tỏa ra mùi mốc meo. Nó có thể thắp sáng cửa hàng bằng phép thuật, nhưng từ khi nó biết những tên lính này có một nhược điểm lớn hơn nó, nó ngừng lại. Eragon cảm nhận thấy tâm trí của chúng quanh đó, và nó có thể nghe được hơi thở rời rạc của chúng , nhưng nó không chắc chắn vầ cái gì đó nằm giữa nó và chúng. Nó tiến sâu hơn vào cửa hàng tối như mực, cảm nhận đường bằng đôi chân . Nó giữ tấm khiên đằng trước và thanh Brisingr cao quá đầu, sẵn sàng tấn công.
Một sợi chỉ mảnh vương trên sàn nhà, Eragon nghe thấy một vật bay qua không khí.
Nó giật mình lùi lại và tránh sang khi một cây gậy hay một cây búa đập vào tấm khiên của nó và làm vỡ vài mẩu. Tiếng la hét nổ lên. Một người đàn ông quăng một cái ghế hoặc một cái bàn và vật gì đó vào một bức tường, Eragon quất mạnh kiếm và cảm thấy thanh Brisingr cắm vào một thân thể và xuyên qua cả xương của nó. Sức nặng dồn về phái cuối thanh kiếm của nó. Eragon giật mạnh thanh kiếm ra, và người đàn ông đổ sụp dưới chân nó.
Eragon thách thức nhìn lại Saphira,đang chờ nó trên con phố chập hẹp bên ngoài. Chỉ sau khi Eragon nhận thấy rằng có một cây đèn treo trên cây cột sắt ngoài phố và ánh sáng đã làm nó hiện hình trước những tên lính. Nó nhanh chóng tiến qua cửa ra vào và ném những gì còn lại của chiếc khiên đi..
Một tiếng vỡ khác vang vọng khắp gian hàng, và có những bước chân hỗn độn khi những tên lính vội lùi lại sau và chạy lên những bậc cầu thang sáng. Eragon trèo lên sau chúng. Câu chuyện thứ hai xảy ra ở khu phố của một gia đình đơn độc trong cửa hàng giảm giá
Nhiều người la hét và một đứa bé bắt đầu khóc ré khi Eragon nhảy qua một mê cung của những căn buồng nhỏ, nhưng nó phớt lờ họ, chú tâm tới mục đích của mình. Cuối cùng nó kết nối với được một tên lính trong một phòng khách chật hẹp được rọi sáng bằng một cây nến đang cháy.
Eragon giết chết bốn tên lính bằng bốn nhát kiếm , cau mày khi máu của họ bắn tung tóe vào nó. Nó tìm cho mình một chiếc khiên mới từ chúng , rồi dừng lại và nghiên cứu những xác chết. Dường như là bất lịch sự nếu để họ nằm giữa phòng khách, bởi thế nó ném họ qua cửu sổ gần đó.
Trên đường quay ra cầu thang, một dáng người bước quanh góc và đâm một con dao găm thẳng vào xương sườn Eragon. Mũi dao dừng lại cách Eragon chỉ một phần inch , bị chặn lại bởi sự bảo hộ của nó. Giật mình, Ergon giơ thanh Brisingr lên cao và đánh trả vào đầu kẻ đã tấn công nó nhìn xuống qua vai khi nó nhận ra người cầm con dao găm chỉ là một cậu bé gày gò không quá mười ba tuổi.
Eragon đông cứng. Đó có thể là mình, nó nghĩ. Mình cũng sẽ làm như thế nếu mình ở địa vị của cậu ta. Nhìn lại cậu bé, nó thấy một người đàn ông và một phụ nữ đang mặc đồ ngủ và chiếc mũ len, ôm lấy nhau và nhìn chằm chằm về nó kinh hãi.
Một cơn chấn động chạy qua Eragon . Nó hạ thanh Brisingr xuống và bằng tay kia nhổ con dao găm từ cái nắm tay nhẹ hều cậu bé. “ Nếu anh là em” Eragon nói, và âm thanh nó cất lên làm chính nó bị shocked, “ Anh sẽ không ra ngoài cho đến khi trận chiến này kết thúc. “ Nó ngập ngừng và nói thêm “ Anh xin lỗi “
Cảm thấy xấu hổ, nó vội vàng rời khỏi cửa hàng và tham gia cùng Sahpira. Chúng tiếp tục tiến thẳng trên con phố dài.
Không xa tiệm đồ nữ trang, Eragon và Saphira bước qua chỗ những người lính của vua Orrin đang mang những
chiếc giá nến bằng vàng, những đồ dùng bằng bạc, đồ trang sức và hàng loạt các đồ dùng khác ra khỏi lâu đài. Eragon lao tới giằng một món đồ từ tay 1 người đàn ông : “Mang tất cả quay trở lại” nó hét lên với tất cả đám đông “Chúng ta ở đây là để giúp mọi người chứ không phải là để ăn trộm đồ của họ.Họ là những anh chị em của chúng ta, họ là cha mẹ chúng ta.Ta tha cho các ngươi lần này, nhưng nếu lần sa các ngươi hoặc bất kỳ ai tại phạm ta sẽ xử tội như những tên trộm cắp.”Saphira gật đầu theo Eragon.Dưới những vẻ mặt thận trọng đám lính mang những đồ đạc quay trở lại lâu đài và đặt chúng về vị trí cũ.”Bây giờ”Eragon nói với Saphira “Có thể chúng ta sẽ…”
“Khắc tinh của Tà thần!”Một người đàn ông gọi lớn, chạy lại phía họ từ một ngõ sâu của thành phố.Cánh tay hắn ta và cả chiếc khiên chứng tỏ hắn là quân của Varden.
Eragon xiết chặt thanh Brisingr “Gì vậy ?”
“Chúng tôi cần sự giúp đỡ của ngài, Khắc tinh của Tà thần.Và cả ngài nữa, Saphira !”
Họ theo chiến binh đó đi cho tới khi đến một ngôi nha lớn bằng đá.Có hàng vài tá quân Varden đang khom người ngồi phía sau một bức tường thấp phía trước tòa nhà.Họ cảm thấy thoải mái hơn khi thấy sự xuất hiện của Eragon và Saphira.
“Lùi lại” một người lính Varden nói “Có một nhóm lớn lính ở phía bên trong và họ đang giương cung nhắm về phía chúng ta.”
Eragon và Saphira tạm dừng lại để quan sát tòa nhà.Người lính hồi nãy nói “Chúng ta không thể vào trong.Những cánh cửa và cửa sổ đã bị khóa, và họ sẽ bắn chúng ta nếu chúng ta cố tiến lên.”
Eragon nhìn Saphira “Anh hay là em đây ?”
“Em sẽ chăm sóc chúng”cô ả nói và nhảy với một cái vỗ cánh.
Tòa nhà rung lên,cửa sổ bật ra khi Saphira đáp xống mái nhà.Eragon và những chiến binh khác lo lắng theo dõi khi cô ả bập vuốt lên lớp hồ vữa ở những kẻ cả các phiến đá, và gầm lên, cào phá từng phần của tòa nhà cho đến khi lộ ra những vể mặt sợ sệt của những tên lính, những kẻ mà bị cô ả giết chết giống như con chó săn giết những côn chuột.
Khi Saphira quay trở lại chỗ của Eragon, quân Varden tránh cô ả, thực sự hoảng sợ bởi vẻ hung dữ của cô ả.Cô ả không thèm để ý và bắt đầu liếm chân, làm sạch nhữn vết máu khô trên vảy.
“Anh đã bao giờ nói với em rằng anh vui cỡ nào khi chúng ta không phải là kẻ thù chưa ?” Eragon hỏi. “Chưa, nhưng anh thật dễ thương.””
Cả thành phố, quân lính chiến đấu thật ngoan cường làm Eragon phải thán phục,Họ chỉ trao đất đai khi bị ép buộc, và họ luôn cố gắng cản bước tiến của quân Varden.Vì sự kháng cự quyết liệt của họ,nên quân Varden đã không đến được từ phía tây thành phố một nơi rất vững trãi, chỉ tới khi những tia sáng mờ nhạt đầu tiên của bình minh trải rộng trên bầu trời.
Sự phòng thủ này quả là một kết cấu hùng vĩ.Đó là những bức tường cao, vuông vức với số lượng lớn các tháp canh có độ cao khác nhau.Mái trần làm bằng đá phiến, bởi vậy không thể dùng lửa tấn công nó.Đằng trước là một cái sân lớn là nơi có vài tòa nhà thấp và một hàng gồm 4 chiếc máy bắn đá, và xây quanh là những lớp tường dày , rải rác những tháp canh nhỏ hơn đặt giữa chúng,Hàng vài trăm quân lính đứng vị trí tường có lỗ châu mai và vài trăm khác đứng trong sân.Chỉ có duy nhất 1 con đường vào sân đó là đi qua 1 lối đi uốn lượn theo những lớp tường, nhưng đã bị chặn bởi một tấm lưới sắt và một cánh cửa dày bằng gỗ sồi.
Vài ngàn quân Varden đứng tiến sát lại phía tường và cố gắng đập đổ tấm lưới sắt bằng cách dùng khúc gỗ lớn để công phá cổng thành hồi trước.
“Cánh cổng” Eragon chỉ.
Saphira lượn từ trên cao xuống và dọn sạch bờ tường ngay phía trên tấm lưới thép bằng một luồng lửa,cột khói lớn phun ra từ mũi cô ả.Cô ả đáp xuống bờ tường và gọi Eragon “Đi đi, em sẽ xử lý những chiếc máy bắn đá, trước khi chúng kịp ném bất kỳ viên đá nào xuống quân Varden.”
“Em phải cẩn thận.”Nó cúi người chui qua.
“Tất cả cũng phải cẩn thận.”Cô ả đáp lại.Ả gầm gừ nhìn những tên lính đứng cạnh những chiếc máy bắn đá.Một nửa bọn chúng khiếp quá chạy vào bên trong.
Bức tường quá cao để Eragon có thể thoải mái nhảy xuống đường phố phía dưới, bởi vậy Saphira hạ thấp cái đuôi để giúp đỡ cho Eragon.Nó tra kiếm vào bao, nhảy xuống bằng cách sử dụng chiếc đuôi của cô ả như một chiếc thang.Khi leo xuống phía cuối đuôi, nó bỏ tay ra và nhảy xuống khi còn cách đường khoảng 20 feet.Nó lăn tròn để làm giảm bớt tác động khi nó tiếp đất giữa đám đông quân Varden.
“Chào mừng, Khắc tinh của Tà thần” Blödhgarm nói,xuất hiện từ đám đông cùng với 11 vị thần tiên khác. “Xin chào.” Eragon đáp lại Blödhgarm . “Tại sao mọi người chưa sẵn sàng mở cánh cửa.?”
“Cánh cửa được bảo vệ bởi rất nhiều phép thuật, Khắc tinh của Tà thần ạ.Cần phải có một sức mạnh rất lớn mới phá nổi nó.Tôi và mọi người ở đây là để bảo vệ cậu và Saphira.Chúng tôi sẽ không hoàn thành trách nhiệm của
mình nếu chúng tôi tốn hết sức lực cho những việc khác.”
Tỏ thái độ, Eragon nói “Cả tôi, Saphira và các ngài đều sẽ cạn sức, Blödhgarm ạ.Như thế chúng ta mới được an toàn.”
Vị tiên nhìn nó một lúc, cặp mắt vàng của ông lóe lên, sau đó ông cúi đầu “Thôi được, chúng ta sẽ mở cánh cửa, Khắc tinh của Tà thần ạ.”
“Không.Hãy đợi ở đây.”Eragon ngăn cản.
Eragon tiến lên phía trước và sải bước về phía tấm lưới thép. “Hãy tránh tôi ra 1 chút ”nó nói lớn với các chiến binh.Đội quân Varden lùi lại đằng sau, một khoảng trống được tạo ra cỡ khoảng 20 feet.Một chiếc lao bắn ra từ một cỗ máy sượt qua người nó và bay xuống mặt đất.Saphira từ phía trong sân gầm lên,Tiếp đến là những âm thanh của tiếng gỗ bị gãy, những chiếc dây căng bị đứt. trong một cú đớp của cô ả.
Rút kiếm bằng hai tay,Eragon giơ cao quá đầ và hét lớn “Brisingr !” Thanh kiếm bừng cháy với ngọ lửa xanh, những chiến binh phía sau kinh ngạc không thốt ra được lời nào.Eragon bước tới và sau đó chém một nhát vào thanh chắn của tấm lưới thép.Những kẽ nứt trên tường và xung quanh tòa nhà lóe sáng khi thanh kiếm cắt ngọt tấm kim loại dày.Cùng lúc đó Eragon để ý thấy sự mệt mỏi đột ngọt xuất hiện khi thanh Brisingr phá vỡ những sự bảo vệ của tấm lưới thép.Nó mỉm cười và hy vọng những phép thuật phòng thủ mà Rhunön đã yểm cho thanh Brisingr có đủ khả năng để đánh bại những thứ phép thuật yểm trên tấm lưới thép.
Di chuyển bằng những bước chân nhanh và vững chãi, Eragon cắt một có lỗ lớn trên tấm lưới thép, sau đó đứng sang một bên khi những mảnh lưới sắt rơi xuống đường đá với những âm thanh chói tai.Nó bước qua những mảnh vỡ đó và đi vào trong tới chỗ cánh cửa lớn và dày bằng gỗ sồi chằn ngang lối đi.Nó lại giơ thanh Brisingr lên thẳng với kẽ hở giữa hai cánh cửa sau đó đẩy mũi kiếm qua lỗ trống hẹp sâu vào bên trong. Sa đó nó tăng nội lực dồn cho ngọn lửa của thanh kieemscho đến khi nó đủ nóng để đốt cháy tấm gỗ dày, đặc một cách dễ dàng giống như dùng một con dao cắt lát bánh mì.Một số lượng lớn khói phát sinh xung quanh lưỡi kiếm làm cho hơi thở cả nó cay xè và mắt nó đau nhức.
Eragon đẩy thanh kiếm lên, đốt cháy cái xà gỗ lớn chặn cửa từ phía bên trọng,.Chẳng mấy chốc nó cảm thấy lực chống lại thanh Brisingr yếu dần, nó rút kiếm ra và dập tắt lửa.Nó đeo một cái bao tay dầy,bởi thế mà nó không thể co lại để nắm lấy cạnh của cánh cửa để đẩy nó ra.Cánh cửa khác cũng thế, dường như nó đã dùng hết sức mặc dù sau đó nó thấy Saphira đẩy cánh cửa ra, cô ả nhìn sâu vào lối đi bên trong,rồi quay sang nhìn anh với ánh mắt lóe lên màu saphia.Đằng sa cô ả 4 chiếc máy bắn đá đã trở thành đống vụn nát.
Eragon bước tới đứng cạnh Saphira khi quân Varden ùa vào trong sân, Tiếng kêu gọi xung phong vang lên khắp nơi.Kiệt sức nó đặt 1 tay lên chiếc đai lưng Beloth và rút một số năng lượng đã tích trữ từ trước trong 12 viên kim cương gắn trên chiếc thắt lưng.Nó cũng chuyển năng lượng sang Saphira, cô ả trông cũng đã mệt lả, nhưng ả từ chối, và nói “Hãy giữ nó để dùng cho chính anh.Cũng không còn lại nhiều lắm đâu.Bên cạnh đó, em cũng chỉ cần một bữa ăn và một giấc ngủ trọn vẹn là ổn.”
Eragon dựa vào cô ả, mi mắt trũng xuống, rồi nó nói “Tất cả rồi cũng sẽ kế thúc.” “Em cũng hy vọng thế.”Cô ả đáp lại.
Từ những chiến sĩ bà lang Angla bước đến trong bộ trang phục áo giáp kỳ lạ màu xanh và đen và mang theo cặp kiếm Hûthvír của bà.Bà lang dừng lại chỗ Eragon và với một nét mặt quỷ quái nói “Một sự biểu diễn ấn tượng, nhưng cạu không nghĩ là làm hơi quá nó lên đấy chứ.”
“Ý của bà là gì ạ ?”Eragon hỏi, và nhăn nhó.
Nhích một bên lông mày “Nào, có thực sự cần thiết phải làm cây kiếm của cậu bừng cháy lên như thế hay không ?”
Sự diễn đạt của nó trở lên rõ ràng hơn khi nó hiểu bà nuốm nói tới cái gì. Nó cười “Không cần thiết cho việc phá tấm lưới, nhưng cháu thích thế.bên cạnh đó cháu cũng không thể làm gì được vì cháu đã đặt tên cho nó là thanh kiếm lửa bằng ngôn ngữ cổ, và mỗi khi cháu nhắc tới thanh kiếm, lưỡi của nó lại bốc cháy giống một khúc gỗ khô thật dễ bắt lửa vậy.”
“Cậu đã đặt tên cho nó là kiểm lửa hả ?”Angela rên lên với một sự ngờ vức. “Lửa à ?Một thể loại tên ngớ ngẩn nào vậy. Sao cậu không đặt những cái tên hay hơn nhiều so với nó chứ.Lửa thật à.hừm. Tái sao tốt hơn cậu không gọi nó như Sheepbiter hoặc Chrysanthemum Cleaver hay một cái gì đó ngoài sức tưởng tượng ? ”
“Cháu đã có môt Sheepbitter ở đây”nó nói, và đặt 1 tay lên Saphira “Tái sao cháu lại cần thêm một cái khác.” Angela bật cười to lên “Cậu thật sự không có chút hài hước nào cả.Ta chỉ hy vọng làm cho cậu thư giãn hơn thôi mà.”Và bà nhảy lên phía trước múa hai thanh kiếm quanh người và lẩm bẩm “Lửa. Bah !”
Một tiếng gầm nhẹ phát ra từ phía Saphira, cô ả nói “Hãy cẩn thận với cái từ Sheepbitter của bà, Eragon hoặc bà có thể sẽ cắn phải chính mình đấy.”
“Đúng thế, Saphira ạ.”
Chương 57: Bóng đen của sự bất hạnh
Tiếp ngay sau, Blödhgarm và những thần tiên đi theo ông gia nhập cùng Eragon và Saphira ở sân trong, nhưng Eragon không để ý đến họ và tìm kiếm Arya. Khi nó thấy cô, đang chạy sát cạnh ngựa của Jörmundur, Eragon chào cô và vung chiếc khiên của nó lên để thu hút sự chú ý.
Arya để ý tới lời gọi của nó và nhảy lên cao,sải bước của cô duyên dáng như của một con linh dương. Cô đã kiếm được một chiếc khiên, một chiếc mũ trụ vừa khít, và một một bộ giáp dài kể từ lúc họ chia tay, ánh kim loại trên chiếc áo giáp của cô trông yếu ớt trong vùng tranh tối trang sáng xám xịt bao phủ khắp thành phố. Khi cô dừng lại, Eragon nói, “ Saphira và tôi sẽ xâm nhập pháo đài từ trên cao và cố để bắt được phu nhân Lorana. Cô có muốn đi với chúng tôi không?”
Arya đồng ý bằng một cái gật đầu nhanh chóng.
Saphira gập một chân trước xuống, Eragon trèo lên bộ yên cương của cô rồng. Arya làm theo nó sau một lúc và ngồi sát sau Eragon, Những mối nối của chiếc giáp cô mặc đè lên lưng nó.
Saphira giang rộng đôi cánh mượt như nhung và bay lên, rời xa Blödhgarm những thần tiên khác đang nhìn chăm chằm vào cô ả với vẻ thất vọng.
“Anh không nên bỏ lại đội bảo vệ của mình quá dễ dàng như vậy.” Ayra thì thầm vào tai trái Eragon. Cô quàng chuôi kiếm qua vai và ôm chặt lấy nó khi Saphira lộn vòng phía trên một bãi cỏ.
Trước khi Eragon có thể trả lời, nó cảm thấy sự tiếp xúc với tư tưởng bao la của Glaedr. Trong một khoảng khắc, thành phố như sụp biến mất, và nó chỉ trông thấy và cảm nhận được những gì Glaedr nhìn và cảm nhận.
Những mũi giáo-nhỏ như vòi chích của các chú ong bắp cày- cắm phật vào bụng nó khi nó bay lên phía trên những-cái-hang-bằng-gỗ của loài hai-chân-tai-tròn. Không khí trôi êm ả và nâng đỡ đôi cánh nó từ dưới lên, hoàn hảo để bay lượn nếu nó cần. Trên lưng nó, bộ yên cương đè lên lớp vẩy khi Oromis sửa lại tư thế.
Glaedr thè lưỡi và nếm mùi hương lôi cuốn của thịt-tươi-ứa-máu-nấu-bằng-những-cây-gỗ-cháy. Nó đã đến nơi này rất nhiều lần trước đó. Khi nó còn trẻ, nơi này được biết đến bằng nhiều cái tên khác hơn là Gil’ead, và chỉ có duy nhất những dân cư là những thần tiên- loài vẫn còn ngôn ngữ và vui vẻ với thi ca - và những người bạn của thần tiên. Những chuyến thăm viếng trước đây của nó luôn luôn rất thoải mái, nhưng gợi nó nhớ lại một-cặpcùng-tổ đã chết ở đây, bị giết bởi cố tình bội ước.
Mặt trời-con-mắt-lười-nhác lơ lửng trên đường chân trời. Theo phương Bắc, con nước lớn Isenstar như một dải bạc lăn tăn tao nhã. Ở hướng thấp hơn, loài tai-nhọn đã kiểm soát được bởi Islanzadí đã cho dàn trận bao vây thành-phố-tổ-kiến-vỡ. Áo giáp của họ lấp lánh như những mẩu băng nhỏ. Một lớp áo mỏng bằng khói xanh bao phủ cả một vùng, dày và lạnh như sương mù buổi sớm.
Và từ hướng nam, con ngựa-còm-có vuốt-đang tức tối-Thorn đang bay thẳng tới Gil’ead, Rống lên sự thách thức của nó cho tất cả cùng nghe. Murtagh-con-trai-của-Morzan ngồi chễm chệ trên lưng nó, và trong tay phải của Murtagh, thanh Zar’roc chói sáng như một chiếc vuốt.
Sự phiền muộn tràn ngập Glaedr khi nó trông thấy hai tên mới nở đáng thương. Nó ước gì nó và Oromis không phải giết chết chúng. Hơn một lần, nó đã nghĩ, rồng phải chiến đấu với rồng và Kị sĩ phải chiến đấu với kị sĩ, và tất cả là vì tên đập vỡ trứng rồng Galbatorix đó.Tâm trạng nó trở nên dữ tợn, Glaedr đập mạnh cánh và giương vuốt chuẩn bị xé toang những kẻ thù sắp đến.
Đầu Eragon đập mạnh vào cổ khi Saphira lắc lư một bên và nhón một chân rơi xuống trước khi cô ả lấy lại được trạng thái thăng bằng. Anh cũng nhìn thấy điều đó chứ? Cô ả hỏi.
Anh có thấy. Lo lắng, Eragon liếc ra đằng sau chỗ có chiếc túi của bộ yên cương , nơi trái tim trong trái tim của Glaedr được cất dấu.và tự hỏi, nếu nó và Saphira cố thử giúp Oromis và Glaedr nhưng rồi một lần nữa tự chấn an bản thân vì biết rằng có đông đảo những thầy phép ở quanh vị thầy tiên này. Sư phụ của nó sẽ không muốn sự giúp đỡ.
“Điều gì không ổn?” Arya hỏi, giọng cô la lớn vào tai Eragon. Oromis và Glaedr sắp đánh nhau với Thorn và Mutagh, Saphira nói.
Eragon cảm thấy Arya đông cứng người tì vào nó. “Làm sao anh biết được?” Cô hỏi. “Tôi sẽ giải thích sau. Tôi chỉ huy vọng rằng họ không bị thương.”
“ Tôi cũng vậy” Arya nói.
Saphira bay cao phía trên pháo đài rồi từ từ đáp xuống rất khẽ và đậu trên đỉnh chóp ngọn tháp cao nhất. Khi Eragon và Arya trèo lên nóc nhà dốc, Saphira nói, Em sẽ gặp hai người ở căn phòng bên dưới. Cái cửa sổ này quá bé với em. Và cô nàng cất cánh, luồng gió từ đôi cánh của cô ả đập túi bụi vào người họ.
Eragon và Arya trượt qua gờ của nóc nhà và nhảy bộp xuống một rìa đá nhỏ cách đó khoảng tám feet. Phớt lờ cảm giác chóng mặt báo trước của cú rơi đang chờ nếu nó trượt chân, Eragon nhích dọc gờ đá để tới một chiếc của sổ có chắn song chữ thập,nó nhảy vào bên trong một gian phòng với không gian rộng lớn với những bó tên được xếp thành hàng và những cái giá chất nặng những chiếc nỏ. Nếu bất cứ ai vừa ở căn phòng này khi Saphira
hạ cánhvì họ cũng đã biến mất rồi.
Arya tròe qua cửa sổ theo sau nó, cô xem xét kĩ căn phòng, ra hiệu về cái cầu thang ở góc đằng xa và bước nhẹ nhàng tới đó, đôi ủng da của cô không hề phát ra tiếng động trên sàn nhà bằng đá.
Khi Eragon theo sau, nó cảm thấy một điểm giao cắt kì lạ của các dòng năng lượng ngay bên dưới chúng và ngoài ra dòng tư tưởng của năm người đang suy nghĩ này rất gần chỗ nó đứng, thận trọng theo tinh thần của cuộc chiến, Eragon thu tư tưởng về và tập trung lẩm nhẩm lại một mẩu thơ của thần tiên. Nó chạm vào vai Arya và thì thầm, “ Cô có cảm thấy cái đó không?”
Cô gật đầu. “Chúng ta nên đưa Blödhgarm đi cùng.”
Họ cùng nhau bước xuống những bậc thang,cố gắng hết sức để giữ yên lặng. Căn phòng tiếp theo trong tháp còn rộng hơn cái trước, trần nhà phải cao hơn ba mươi feet, và có treo một chiếc đèn lồng với các mặt là những ô kính vuông. Một ngọn lửa vàng đang cháy bên trong. Hàng trăm bức tranh sơn dầu treo kín khắp các bức tường : Chân dung những người đàn ông có râu mặc những tấm áo choàng lộng lẫy và những phụ nữ đờ đẫn đang ngồi giữa những đứa trẻ có hàm răng sắc, và cả những đứa răng bằng bình thương, cơn gió lướt qua mặt biểm u ám trong bức tranh mô tả cảnh biển khơi đang nhấn chìm những thủy thủ, và những cảnh chiến trường, nơi con người tàn sát những nhóm Urgal kệch cỡm. Một dãy những cánh cửa chớp bằng gỗ trên tường phía bắc, mở ra một ban công có một chắn song bằng đá
Đối diện cửa sổ, gần bức tường đằng xa, là một bộ sưu tập những chiếc bàn tròn nhỏ vứt bừa bãi những cuộn giấy da, ba chiếc ghế lót đệm, và hai chiếc bình bằng đồng thau to quá khổ cắm đầy những bông hoa đã khô. Một người đàn bà hơi mập mạp, tóc xám mặc một bộ váy màu hoa oải hương ngồi trên một trong số những chiếc ghế. Bà ta ăn vận mạnh mẽ tương tự như những người đàn ông trong tranh. Một chiếc mũ miệng bạc trang trí bằng ngọc bích và hoàng ngọc nằm ngay ngắn trên đầu bà.
Ở trung tâm căn phòng có ba phù thủy đang đứng, Eragon đã thoáng bắt gặp họ lúc trước ở trong thành phố. Hai đàn ông và một phụ nữ đang đối mặt nhau, những chiếc mũ chùm đầu trong trang phục của họ được hất ra sau và đôi cánh tay dang ngang ra. Bởi thế đầu ngón tay họ chạm vào nhau. Họ đu đưa theo một giai điệu, lẩm bẩm một câu thần chú kì lạ bằng cổ ngữ. Người thứ tư ngồi ở giữa hình tam giác mà họ tạo ra: Một người đàn ông ăn mặc tương tự, nhưng không nói gì, và sẽ là người nhăn nhó nếu như ở trong tranh.
Eragon tự đưa nó vào tâm trí của một trong số những tên thầy phép nam, nhưng gã đàn ông này quá tập trung vào nhiệm vụ, Eragon thất bại trong việc thu thập thông tin từ ý thức hắn ta và cũng không thể làm giảm sự tập trung ý nghĩ của hắn. Gã đàn ông thậm chí dường như không chú ý thấy sự xâm phạm. Arya cũng thử cố gắng tương tự, cô cau mày và thầm thì, “ Họ được huấn luyện rất tốt.”
“ Cô có biết họ đang làm gì không? Nó lẩm bẩm. Cô lắc đầu. Rôi người phụ nữ bận chiếc váy hoa oải hương ngước lên, trông thấy Eragon và Arya nấp trên những bậc thang đá. Điều làm Eragon ngạc nhiên, người phụ nữ không hề kêu cứu mà đúng hơn là đặt một ngón tay lên môi, rồi ra hiệu. Eragon trao đổi cái nhìn bối rối với Arya. “ Có thể là một cái bẫy, “ nó thì thầm.
“Rất giống,” cô nói. “ Chúng ta nên làm gì?” “Saphira có ở gần đây không?”
“Có.”
“Vậy thì hãy đến và chào hỏi chủ nhà nào.”
Dậm bước, chúng nhón nhẹ xuống những bậc thang chính và lén băng qua căn phòng, không hề nói gì,đôi mắt rời khỏi những phù thủy đang chuyên tâm. “Bà là phu nhân Lorana ư?” Arya hỏi bằng một giọng nhẹ nhàng khi chúng dừng lại trước người phụ nữ trên ghế.
Người phụ nữ nghiêng đầu. “Đó là ta, cô tiên thẳng thắn ạ.” Bà đưa ánh mắt sang Eragon rồi nói, “ Và ngươi là kị sĩ rồng kẻ mà chúng ta đã được nghe nhắc rất nhiều gần đây? Ngươi là Eragon, khắc tinh của tà thần ư?”
“Là tôi, “ Eragon nói. Một biểu hiện bớt căng thẳng hơn xuất hiện trên gương mặt người phụ nữ cao quý. “Chao ôi, ta đã hy vọng ngươi sẽ đến. Ngươi phải ngăn chúng lại, Khắc tinh của tà thần.” Và bà ta chỉ về những tên phù thủy.
“Tại sao bà không ra lệnh cho chúng đầu hàng?” Eragon thì thầm.
“Ta không thể,” Lorana nói. “ Chúng duy nhất chỉ tuân theo lệnh của hoàngh đế và tên kị sĩ mới. Ta đã tự thề với Galbatorix … Ta không có quyền chọn lựa chuyện đó … vậy nên ta không thể giơ một tay lên để chống lại hắn và bầy tôi của hắn, mặt khác, ta muốn tự sắp đặt cái chết của chúng theo ý mình.”
“Tại sao?” Arya hỏi. “ Điều gì làm bà sợ hãi đến vậy?”
Vùng da quanh mắt của Lorana nhăn lại. “ Chúng biết chúng không thể hy vọng thoát được quân Varden khi họ tới đây, và Galbatorix không gửi thêm quân cứu viện đến giải vây. Bởi thế chúng đang thử, ta không biết bằng cách nào, để tạo ra một tà thần với hy vọng rằng gã quái vật đó sẽ quay sang chống Varden và reo rắc sự đau khổ, hỗn loạn cho hàng ngũ của các người.”
Sự kinh hãi bao trùm Eragon. Nó không thể tưởng tượng sẽ phải chiến đấu với một Durza khác. “ Nhưng một tà thần cũng dễ dàng quay lưng chống lại chúng hay bất cứ ai khác ở Feinster giống như chống lại Varden.”
Lorana gật đầu. “ Chúng không quan tâm. Chúng chỉ muốn gây ra đau thương và hủy diệt khi chúng còn có thể trước lúc chết. Chúng mất trí rồi, Khắc tinh của tà thần ạ. Làm ơn, cậu phải ngăn chúng lại vì lợi ích thần dân của ta!”
Khi bà ta ngừng nói, Saphira đáp xuống trên ban công bên ngoài phòng, làm vỡ vụn hàng lan can bởi cái đuôi của ả. Ả đập vào một bên cánh cửa chớp bằng một chân sau,ngọn lửa chập chờn như bé nhỏ hơn rất nhiều và rồi thò đầu và vai vào trong căn phòng, gầm lên.
Những phù thủy vẫn tiếp tục tụng kinh, có vẻ dường như không biết đến sự hiện diện của cô ả. “ Trời ạ, “ Công nương Lorana nói, bấu chặt thành ghế.
“Phải,” Eragon nói. Nó giơ cao thanh Brisingr và nhìn chằm chằm vào những thầy phù thủy, như Saphira đang làm ở hướng đối diện.
Thế giới quay cuồng quanh Eragon, và nó lại tìm thấy mình qua con mắt của Glaedr.
Đỏ. Đen. Những ánh vàng rực rỡ lóe lên. Vết thương … Xương – vết thương vắt qua bụng nó và trên vai trái. Sự đau đớn mà nó chưa từng cảm nhận trong hơn một trăm năm nay. Rồi dịu đi khi một người đồng hành của đời nó – Oromis chữa vết thương cho nó.
Glaedr lấy lại thăng bằng và tìm kiếm Thorn. Tên rồng - con-chim-non-đỏ đó đã mạnh hơn và nhanh hơn Glaedr dự tính, bởi sự can thiệp của Galbatorix.
Thorn giội mạnh vào bên trái Glaedr, bên yếu hơn của nó, chỗ nó đã mất chân trước. Chúng quần nhau mệt lử, lao thẳng về bãi-đất-thẳng-cánh-cò-bay-tan-hoang. Glaedr tớp, xé và cào bằng chân sau, cố để tấn công tới tấp bắt con rồng nhỏ hơn phải khuất phục.
Ngươi sẽ không thắng được ta, nhóc con ạ, nó rủa thầm. Ta đã già dặn trước cả khi ngươi được sinh ra. Chiếc-vuốt-dao-găm-trắng sượt dọc xương sườn nó và bên dưới. Nó uốn cong đuôi và đập vào Thorn-răng dài nhăm nhở- bằng một chân, đâm vào bắp đùi tên nhãi bằng các cạnh gai ở đuôi. Trận chiến kéo dài từ lúc những tấm khiên thần chú vô hình của cả hai bọn chúng cùng bị suy yếu, mất chúng mọi thứ thương tổn đều trở nên nguy hiểm.
Khi bãi đất trũng chỉ còn cách vài ngàn feet, Glaedr hít một hơi sâu và ngửa đầu ra sau. Nó ôm nắm chặt cổ, và ghì mạnh bụng vào bụng, kéo ra ra dòng-dung-nham sâu trong ruột. Dòng chất lỏng bùng lên khi nó kết hợp với không khí trong họng nó. Nó há quai hàm rộng hết cỡ và phun lửa con rồng đỏ nhấn chìm nó trong cái kén bao kín. Luồng-lửa-cồn-cào-mãnh-liệt buồn buồn trong miệng Glaedr.
Nó đóng cổ họng, luồng lửa ngừng lại khi nó và con rồng uốn-éo-la-ré-như-một-con-chim-bị-đòn đó nhảy ra xa nhau. Từ trên lưng, Glaedr nghe thấy Oromis nói, “Sức mạnh của chúng đang giảm, ta có thể thấy điều đó trong dáng điệu của chúng. Vài phút nữa, sự tập trung của Murtagh sẽ giảm và ta sẽ có thể có được quyền kiểm soát ý nghĩ của hắn. Như thế hoặc là chúng ta sẽ hạ chúng bằng kiếm và răng nanh.”
Glaedr gầm lên tán đồng, nản lòng rằng nó và Oromis không dám liên lạc bằng tâm chí của họ, như họ vẫn thường làm. Cưỡi trên một luồng gió ấm bốc lên từ mặt đất, nó quay về phía Thorn,tứ chi đang nhỏ những giọt đỏ sẫm, gầm rống và chuẩn bị để vật lộn với nó một lần nữa.
Eragon nhìn chằm chằm lên sàn nhà, mất phương hướng. Nó đang nằm ngửa trong tháp pháo đài. Arya đang quỳ gối cạnh nó, sự quan tâm khắc trên nét mặt. Cô túm lấy nó bằng một tay và giúp nó đứng dậy, đỡ nó khi nó lảo đảo. Qua căn phòng, Eragon nhìn thấy Saphira lắc đầu, và cảm nhận được sự rối loại của chính cô ả.
Ba phù thủy vẫn đứng với những cánh tay giang rộng,lắc lư và ngâm nga những giai điệu bằng cổ ngữ.
Những từ ngữ trong câu thần chú của họ vang lên với một sức mạnh kì lạ và tồn tại nấn ná trong không khí một lúc lâu sau khi chúng chìm dần vào yên tĩnh. Gã đàn ông ngồi đang ngồi ôm chặt lấy gối, Thân thể gã ta run bắn lên khi gã đập đầu mình từ bên này sang bên kia.
“Chuyện gì vậy?” Arya thấp giọng hỏi căng thẳng. Cô kéo Eragon lại gần và hạ giọng thậm chí còn thấp hơn. “ Làm sao anh biết những gì Glaedr đang nghĩ từ rất xa như vậy, và thậm chí cả khi ông ấy đóng tâm trí với cả Oromis? Tha lỗi cho tôi vì đã dò dẫn trong suy nghĩ của anh mà không được cho phép, Eragon, nhưng tôi lo lắng về sức khỏe của anh. Loại giao ước nào mà anh và Saphira đã thực hiện với Glaedr?”
“Để sau đi,” Nó nói và căng vai.
“ Oromis đã cho anh một thứ bùa hay cái gì đó rẻ tiền khác để cho phép anh liên lạc với Glaedr ư?” “Sẽ mất nhiều thời gian để giải thích. Để sau đi, tôi hứa.”
Arya do dự, rồi gật đầu và nói. “ Tôi sẽ bắt anh làm việc đó.”
Eragon, Saphira và Arya cùng tiến tới phía những tên phù thủy và chia ra tấn công từng tên. Một tiếng ngân như chuông vang khắp căn phòng khi thanh Brisingr sượt qua một bên trước khi nó chạm tới mục tiêu nhắm vào, trật cả vai Eragon.
Cũng tương tự, như thanh kiếm của Arya bật lại khi chạm vào thân người kia, như chân trước trái của Saphira. Những chiếc vuốt của cô ả rít lên cào trên sàn đá.
“Tập trung vào tên này!” Eragon hét lên và nhìn vào tên thày phép cao nhất, một người đàn ông tái nhợt với bộ râu lởm chởm.
“Nhanh lên trước khi chúng sai khiến để triệu tập linh hồn!” Eragon và Arya có thể cố dập vỡ hoặc làm yếu sự phòng thủ của những thầy phép bằng chính thần chú, nhưng sử dụng phép thuật chống lại phép thuật khác luôn vấn đề nguy hiểm Nếu tâm trí của những thầy phép này không nằm dưới sự kiểm soát của họ. Cả Eragon và Arya đều không muốn mạo hiểm để giết chết thân xác chúng như vậy thật không phải.
Bao vây để tấn công, Eragon, Saphira và Arya chém, đâm và đập tên thầy phép có râu gần một phút. Không đòn đánh nào của chúng chạm được vào gã đàn ông. Rồi, cuối cùng, chỉ có một điện trở rất nhỏ, Eragon cảm thấy thứ gì đó nâng thanh Brisingr lên, và thanh kiếm tiếp tục đường kiếm của nó và chặt đứt đầu tên thầy phép. Không khí phía trước Eragon mờ ảo. Cũng trong khoảng khắc đó, nó cảm thấy một đột ngột kiệt sức khi lưới bảo vệ của nó phản ứng lại một thần chú lạ mặt. Sự tấn công dồn dập sau một vài giây, cơn chóng mặt đi qua và tỉnh táo lại. Dạ dày nó sôi ùng ục. Nó nhăn nhó và lấy lại sức từ năng lượng của Beloth khôn ngoan.
Chỉ bằng phản ứng của hai thầy phép còn lại đã chứng tỏ cái chết của đồng bọn đã làm giảm tốc độ lời cầu khấn của chúng. Bọt vàng sủi ở khóe miệng chúng, và nước dãi ứa qua miệng, cặp mắt trắng dã mở ra, nhưng chúng vẫn không cố gắng để chạy thoát thân hay tấn công lại.
Tiếp tục với tên thầy phép kế theo – một tên đàn ông béo tốt với những chiếc nhẫn đeo ở ngón cái – Eragon , Saphira và Arya lặp lại quá trình như đã làm với tên phù thủy trước: ra đòn liên tục cho tới khi chúng thàng công trong việc phá bỏ lưới phòng thủ của hắn. Saphira giết chết gã đàn ông, ném hắn trong không trung bằng một cú táp với những chiếc móng của cô ả. Nó đánh từ phía cầu thang và đập vỡ toang sọ của gã trong góc cầu thang. Lần này không có phép thuật nào phản hồi.
Khi Eragon di chuyển tới chỗ mụ thầy phép, một quầng sáng sặc sỡ nổ ầm trong căn phòng qua cánh cửa chớp hỏng và cùng đổ bề phía người đàn ông ngồi trên sàn. Những linh hồn sống động lập lòe với vẻ giận giữ hiểm ác khi chúng xoáy tít quanh gã đàn ông, tạo thành một bức tường bất khả xâm phạm. gã ta kéo cánh tay của mình lên như để chắn cho mình và hét lên.
Không khí rền vang và ran nứt bởi năng lượng phát ra rừ những quả cầu đang đung đưa. Một mùi ẩm ướt và có vị tanh tràn vào lưỡi Eragon, và da nó nổi gai. Tóc trên đầu mụ thầy phép dựng ngược. Phía bên kia mụ, Saphira rít lên và quoắp lấy lưng mụ, mọi thớ tịt trên người mụ cứng nhắc.
Ánh chớp sợ hãi lóe qua Eragon. Không! Nó nghĩ. Nó đã mạnh hơn so với hồi nó đối mặt với tà thần Durza ở Tronjhem, nhưng la gì, nó thậm chí nhận thức rõ ràng hơn là một tà thần thì có thể nguy hiểm ra sao . Chỉ có ba chiến binh từng sống sót khi giết một tà thần: Tiên ông Laetrí, Kị sĩ Irnstad và chính nó – và nó không tự tin rằng nó có thể lập lại kì công tương tự. Blödhgarm, ông ở đâu? Eragon hét lớn trong tâm trí. Chúng tôi cần giúp đỡ! Và rồi mọi thứ quanh Eragon chớp mắt thay đổi cảnh vật và nơi nó đứng nó trông thấy:
Sắc bạc, Sắc bạc trống rỗng. Bầu trời mát lạnh nhẹ nhàng như nước thật dễ chịu dưới chân Glaedr sau cảm xúc ngột ngạt vì trận chiến. Nó lộn vòng trong không trung, đón lấy một dải mây mỏng mang hơi nước nóng thứ tràn vào trên cái lưỡi khô rát khó chịu của nó.
Nó đập cánh một lần nữa và bầu trời ẩm ướt bị sẻ từng mảnh sau lưng, lộ ra mặt trời chói lòa cháy rực khô hạn và mặt đất xanh mâu mịt mờ. Hắn đang ở đâu? Glaedr tự hỏi. Nó lắc lư đầu, tìm kiếm Thorn. Con-chim-rồng-nonmàu đỏ đã bay cao phía trên Gil’ead, cao hơn bất cứ con chim bình thường nào vẫn bay, nơi không khí loãng và hơi thở bị đóng băng.
“Glaedr, đằng sau chúng ta!” Oromis hét lên. Glaedr lộn vòng nhưng quá muộn. Con rồng đỏ đâm sầm vào vai trái của nó, huých nó rơi xuống. Gầm gừ, Glaedr quặp chiếc chân trước còn lại của nó quanh con-chim-non-bịthương-dữ-tợn và cố gắng bóp vụn sự sống ra khỏi thân thể đang quằn quại của Thorn. Con rồng đỏ luồn xuống và thoát được nửa đường cái ghì chặt của Glaedr, cắm những chiếc móng của hắn vào ngực Glaedr. Glaedr cúi ngực xuống và cắn phập răng vào đùi trái của Thorn và đá như một con mèo hoang hưng phấn. Dòng máu mặn chát nóng bỏng chảy đầy trong miệng Glaedr.
Khi chúng rơi thẳng xuống, Glaedr nghe thấy âm thanh những thanh kiếm chém vào những tấm khiên khi Oromis và Murtagh trao nhau như mưa những miếng đòn mạnh mẽ.Thorn rối loạn, và Glaedr nhìn liếc qua Murtagh-contrai-của-Morza. Tên người này có vẻ khiếp sợ, nhưng nó không hoàn toàn chắc chắn. Thậm chí rất lâu sau giao kèo với Oromis, nó vẫn khó khăn để giải mã biểu hiện của loài-hai-chân-không-sừng, yếu đuối , mặt phẳng và không có đuôi.
Tiếng vang rền của kim loại đã dừng và Murtagh hét lên, “Nguyền rủa các ngươi vì các ngươi không lộ diện sớm hơn! Nguyền rủa các ngươi! Các ngươi đã có thể giúp chúng ta! Các ngươi đã có thể …” Murtagh dường như cứng lưỡi trong một lúc.
Gaedr cằn nhằn khi cơn gió vô hình nâng cú ngã của chúng đột ngột ngừng lại, gần như xô mạnh nó tuột mất cái chân của Thorn, và rồi nâng bổng cả bốn lên trời, cao hơn và cao hơn, cho đến khi thành phố tổ kiến đổ nát chỉ còn là một vết mờ nhạt bên dưới và thậm chí Glaedr thấy khó thở trong không khí quá loãng.
Tên non nớt này đang làm gì? Glaedr tự hỏi, lo lắng. Có phải hắn đang muốn tự sát?
Rồi Murtagh nói tiếp, và khi hắn nói, giọng hắn bay bổng và sâu hơn trước, và ngân vang như thể hắn đang đứng ở một hôi trường trống trải.Glaedr cảm thấy những chiếc vẩy trên vai dựng ngược khi nó nhận ra giọng nói của kẻ thù cũ.
“ Vậy là các ngươi vẫn còn sống, Oromis, Glaedr,” Galbatorix nói. Ngôn từ của hắn quanh co và ngọt sớt,như lời nói của một nhà thuyết giáo lão luyện, và giọng điệu như thể là bằng hữu vậy. “Từ lâu rồi ta đã nghĩ những thần tiên có thể dấu một con rồng hoặc một kị sĩ khỏi tầm nhìn của ta.Thật phấn khởi cho sự nghi kị thâm căn cố đế này.”
“ Xéo ngay, tên bội ước bẩn thỉu!” Oromis gào lên. Ngươi sẽ không toại nguyện được bất cứ điều gì từ chúng ta đâu!”
Galbatorix cười thầm. “ Giống một màn chào đón khó chịu đây. Vì xấu hổ, Oromis tiền bối ạ. Có thần tiên nào lại quên mất truyền thống nhã nhặn trong hơn thế kỉ qua không?”
“Ngươi không xứng được lịch sự hơn một con sói điên.”
“Tut- tut, Oromis. Nhớ những gì ông đã nói với tôi khi tôi đứng trước ông và những tiền bối khác không:’Tức giận là thuốc độc. Ngươi phải thanh lọc nó trong suy nghĩ của mình nếu không nó sẽ quấy nhiễu những bản chất khác tốt đẹp hơn của ngươi.’ Ông nên lưu ý đến lời khuyên của chính mình.”
“ Ngươi không thể làm ta bối rối bằng cái lưỡi rắn của nhà ngươi, Galbatorix. Ngươi là một thứ ghê tởm, và chúng ta sẽ nhìn xem ngươi bị trừ khử như thế nào, thậm chí nếu nó phải trả giá bằng tính mạng của mình.”
“ Nhưng tại sao phải thế, Oromis? Tại sao ông lại muốn tự đào hố chôm mình để chống lại ta? Ta thật buồn rằng ông vẫn dành chỗ để lòng thù hận của mình làm sai lệch sự thông thái, vì ông là một người khôn ngoan, Oromis ạ, có thể là người thông thái nhất trong toàn bộ người cầm quyền của các người. Ông là người đầu tiên nhận ra sự điên rồ đang ăn mòn gần hết tâm hồn ta, và là người thuyết phục các tiền bối khác từ chối yêu cầu cấp một trứng rồng khác của ta. Đó quả thật là sự rất khôn ngoan của ông, Oromis. Vô ích, nhưng khôn ngoan. Và bằng cách nào đó ông đã tự kiềm chế để thoát khỏi Kialandí và Formora, thậm chí sau khi chúng hạ được ông và rồi ông ẩn cư cho đến khi tất cả trừ một kẻ địch của ông đã chết cả. Đó quả là sự khôn ngoan vô cùng của ông, thần tiên ạ.” Một sự ngập ngừng nhỏ rõ rệt trong lời nói của Galbatorix. “Không cần thiết để tiếp tục chiến đấu với ta. Ta tự cho rằng ta đã phạm tội ác kinh khủng khi còn trẻ, nhưng những ngày đó qua lâu rồi, và giờ khi ta ngẫm nghĩ về sự tàn sát mà ta đã làm, nó dằn vặt lương tâm ta. Ông vẫn còn muốn có gì ở ta nữa? Ta không thể đảo ngược được những gì đã làm. Bây giờ, sự lo lắng nhất của ta là đảm bảo hòa bình và thịnh vượng khắp đế quốc, điều làm ta tìm thấy chính mình, chúa tể và ông chủ. Ông không thể thấy rằng ta đã để mất hết sự khao khát báo thù rồi sao? Cơn thịnh nộ đã lái ta đi quá nhiều năm đã cháy thành tro. Hãy tự hỏi bản thân mình về việc này, Oromis: Ai là người chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh lan tràn trên Alagaësia? Không phải ta. Quân Varden là những kẻ khiêu lên sự xung đột này. Ta đang bằng lòng để trị vì những thần dân của mình, tránh xa thần tiên và người lùn và để người Surdan tự lo liệu cho họ. Nhưng quân Varden không thể để ta được đủ yên thân. Chúng, những kẻ được chọn để ăn cắp trứng của Saphira, và chúng những kẻ đã phủ kín mặt đất những xác người. Không phải ta. Trước kia ông là một người khôn ngoan, Oromis ạ, và ông có thể lại trở nên khôn ngoan một lần nữa. Hãy dẹp bỏ sự căm ghét của mình và gia nhập cùng ta ở Ilirea. Với ông ở bên cạnh, chúng ta có thể mang đi và chấm dứt cuộc xung đột này và dẫn dắt một kỉ nguyên hòa bình có thể tồn tại hàng ngàn năm hoặc hơn.”
Gladr không hề bị thuyết phục. Nó quặp chặt những chiếc vuốt sắc nhọn hủy diệt của mình, làm cho Thorn rống lên. Vết thương ồn ào dường như lớn một cách kinh ngạc sau lời nói của Galbatorix.
Bằng một giọng quả quyết và ngân vang, Oromis nói, “Không, ngươi không thể khiến chúng ta quên được sự tàn ác của ngươi bằng cách xoa dịu với những lời nói dối đường mật… Thả chúng ta ra!Ngươi không có cách nào để giữ chúng ta ở đây lâu hơn , và ta từ chối trao đổi sự giễu cợt vô nghĩa với một tên phản bội như ngươi.”
“ Ô hay! Ông là một lão già suy kiệt ngu ngốc, “ Galbatorix nói, giọng hắn trở lại khó chịu, bao trùm cả sự tức tối.
“ Ông nên chấp nhận yêu cầu của tôi, ông sẽ trở thành người đầu tiên và đứng đầu trong đám nô lệ của ta. Ta sẽ khiến ông hối hân về sự hiến dâng thiếu suy nghĩ của mình để tha hồ mà kêu ca về sự chính trực của ông. Và ông sai rồi. Ta có thể giam cầm ông theo cách này bao lâu ta muốn, vì ta đã trở nên hùng mạnh như một vị thần, và không có ai có thể ngăn cản được ta.”
“Ngươi sẽ không chiếm ưu thế được đâu,” Oromis nói. “Ngay cả thần thánh cũng không tồn tại mãi mãi.” Lúc đó, Galbatorix phát ra một lời nguyền độc địa.
“Triết lí của ông không ngăn cản được ta,lão thần tiên! Ta là phù thủy vĩ đại nhất, và sớm thôi ta thậm chí sẽ còn
vĩ đại hơn. Cái chết sẽ không chạm đến ta. Ông, tuy nhiên, sẽ chết. Nhưng đầu tiên ông sẽ phải đau đớn, và cả đau đớn ngoài sức tưởng tượng, và rồi ta sẽ giết ông, Oromis, và ta sẽ mang đi trái tim trong trái tim của ông, Glaedr, và ông sẽ phục vụ cho ta cho tới khi hết thời gian.”
“ Không bao giờ.” Oromis la lên.
Và Glaedr lại nghe thấy tiếng chan chát của những thanh kiếm trên bộ giáp.
Glaedr đã ngăn Oromis vào tâm trí của nó trong thời gian xảy ra trận chiến, nhưng mối ràng buộc của họ ăn sâu hơn cả suy nghĩ trí tuệ, bởi thế nó cảm nhận được khi Oromis khó khăn hơn, bất lực bởi vết thương cũ của vị thần tiên tàn nhưng không phế của nó. Được cảnh báo, Glaedr phóng thích cho chiếc chân của Thorn và cố đá tên rồng đỏ bay ra xa. Thorm rống lên vì cú va chạm nhưng vẫn giữ nguyên tại chố. Thần chú của Galbatorix giữ cả hai chỉ có thể cách xa nhau hơn vài feet dù có bất kì sự cố gắng giải thoát nào.
Có một tiếng kim loại vang rền khác từ phía trên, và rồi Glaedr thấy thanh Naegling rơi qua nó. Thanh kiếm lóe lên ánh vàng và phát ra tia sáng yếu ớt khi nó rơi nhanh về phía bãi đất. Lần đầu tiên, những những chiếc vuốt lạnh lùng sợ hãi kẹp chặt Glaedr. Năng lượng ý chí đảm bảo của Oromis tích trữ trong cây kiếm, và mạng lưới bảo vệ của nó được ràng buộc với lưỡi kiếm. Không có kiếm, nó sẽ mất sự bảo vệ.
Glader tự quăng người mình vào rìa câu thần chú của Galbatorix, Vật lộn bằng tất cả sức lực để phá vỡ thoát ra. Trong sự giận giữ vì cố gắng, tuy vậy, nó không thể thoát ra. Và chỉ khi Oromis bắt đầu tỉnh lại, Glaedr cảm thấy thanh Zar’roc chém vào bờ vai Oromis.
Glaedr gầm rống lên.
Nó gầm lên như Oromis đã gầm khi Glaedr bị mất một chân.
Sức mạnh tiềm ẩn tập hợp lại bên trong bụng Glaedr. Không cần dừng lại để tính toán được mất. Nó đẩy Thorn và Murtagh ra xa bằng sự bùng phát của phép thuật, quăng chúng bay đi như những chiếc lá bị gió thổi lìa, và rồi gập dang cánh trở lại và bay về Gil’ead. Nếu nó có thể đi đủ nhanh, thì Islanzadí và những thầy phép của bà có thể cứu mạng Oromis.
Thành phố cách quá xa, nghĩ vậy. Sự tỉnh táo của Glaedr lung lay … giảm dần … tuột mất …
Glaedr truyền sức mạnh của chính nó vào cơ thể tàn tạ của Oromis, cố để cứu sống ông cho tới khi họ chạm bãi đất. Nhưng với tất cả năng lượng nó đã truyền cho Oromis, không thể làm ngừng lại dòng máu đang chảy, máu chảy quá chừng.
Glaedr … hãy giải thoát cho ta, Oromis nói thầm trong ý thức.
Một lát sau, bằng một giọng đều đều yếu ớt, ông thì thào, Đừng than khóc cho ta. Và rồi người đồng hành của cuộc đời Glaedr đã ra đi trong nỗi tiếc thương.
Đi rồi, Đi rồi,
ĐÃ ĐI RỒI! Bóng tối. Trống rỗng. Nó đơn độc.
Bụi mù đỏ thẫm bao trùm trái đất, ai ca vang lên trong trong từ xúc cảm của chính nó. Nó xòe cánh, lảo đảo quay lại con đường nó đã đi, tìm kiếm Thorn và tên kị sĩ của hắn. Nó sẽ không để chúng thoát, nó sẽ bắt chúng và xé toang chúng,đốt cháy chúng tới khi nó tiễu trừ chúng ra khỏi thế giới này.
Gleadr nhìn thấy con chim rồng đỏ đang bay tới phía nó, nó rống lên nỗi tiếc thương của mình và tăng nhanh tốc độ. Con rồng đỏ thình lình đổi hướng vào phút cuối, trong một cố gẵng vòng qua sườn nó, nhưng hắn không đủ nhanh để tránh được Glaedr. Glaedr phun lửa, cắn và ngoạm sâu ba feet vào đuôi con rồng đỏ. Dòng máu như suối trào ra từ chân răng. Kêu ăng ẳng trong đau đớn, con rồng đỏ lách ra xa và phóng tới đằng sau Glaedr. Glaedr nhìn chằm chằm vào những thớ gân quanh mặt mình, nhưng con rồng nhỏ hơn quá nhanh nhẹn, quá ranh mãnh. Glaedr cảm thấy một vết thương sâu ở trên trán, và rồi thị lực mờ dần và yếu đi.
Nó đang ở đâu? Nó đơn độc.
Nó đơn độc và trong bóng tối.
Nó đơn độc và trong bóng tối, và nó không thể cử động hay nhìn thấy gì.
Nó có thể cảm thấy tâm trí của một sinh vật khác gần ngay cạnh nó, nhưng chúng không phải là tâm trí của Thorn và Murtagh mà là của Arya, Eragon và Saphira.
Và rồi Glaedr nhận ra nơi nó đang ở, và sự kinh hãi thực sự của tình thế đánh quị nó, và nó gầm rống lên trong bóng tối. Nó rống và rống, và ruồng bỏ sự đau đớn về tinh thần của bản thân, không cần bất cứ điều gì tương lai có thể đem lại, vì Oromis đã chết và nó đơn độc.
Đơn độc!
Nó ôm lấy mắt cá chân, nước mắt chảy dài trên mặt.
Hổn hển, nó tự dựng bản thân đứng dậy khỏi sàn và tìm kiếm Saphira và Arya.
Nó mất một lúc để nhận thức về những gì nó đã thấy. Mụ thầy phép mà Eragon đã giáng đòn tấn công trước đó, bị giết bởi một thanh kiếm đâm sâu. Những linh hồn mà bà ta và những đồng bọn của mụ đã triệu tập không còn thấy ở chỗ nào nữa. phu nhân Lorana vẫn ngồi gọn lỏn trên chiếc ghế của bà. Saphira trong lúc vật lộn giờ đang ở phía đối diện của căn phòng. Và người đàn ông đang ngồi trên sàn giữa ba thầy phép đang đứng gần chỗ nó, bóp cổ và nhấc bổng Arya trong không trung.
Màu sắc biến mất trên lớp da của gã đàn ông,lộ ra những mảng xương trắng. Tóc hắn, thứ đã từng màu nâu, giờ có ánh đỏ thấm, và khi hắn nhìn Eragon rồi cười, Eragon thấy rằng mắt hắn đã trở thành màu hạt dẻ. Từ dáng vẻ bề ngoài và thái độ của mình, gã đàn ông này cũng giống như Durza.
“Tên của chúng ta là Varaug,” tên tà thần nói. “ Hãy khiếp sợ chúng ta.” Arya đá vào hắn, nhưng cú đòn của cô có vẻ không có hiệu quả.
ý thức bùng cháy của gã tà thần lấn át, ghì chặt lấy tâm trí Eragon, cố để đập tan lưới phòng hộ của nó.
Sức mạnh của sự tấn công làm Eragon bất động, nó chỉ có thể chỉ vừa vặn đầy lùi những cái xúc tu của tâm trí gã tà thần đào bới trong óc nó. Quá nhanh để lao tới hay vung một thanh kiếm. Vì bất kì lí do gì, Varaug dường như mạnh hơn Durza, và Eragon không chắc nó có thể chống lại sức mạnh của tên tà thần này trong bao lâu. Nó thấy rằng Saphira cũng đang chịu sự tấn công, cô ả ngồi một chỗ và bất động bên ban công. Một sự nhăn nhó hiện trên mặt.
Những đường gân trên trán Arya căng ra, và khuôn mặt cô trở nên đỏ ửng và tím tái. Miệng cô mở, nhưng không hề thở. Bằng gan bàn tay phải, cô giật khóa khủy tay của tên tà thần và bẻ gãy nó với một tiếng răng rắc. Cánh tay của Varaug võng xuống và trong một lúc, những ngón chân của Arya quết trên sàn, nhưng những khớp xương trong cánh tay tên tà thầy vụt trở lại vào đúng vị trí và hắn thậm chí nhấc cô lên cao hơn.
“ Ngươi sẽ chết,” Varaug rống lên. “ Ngươi sẽ chết vì đã giam cầm chúng ta trong đất nặng và lạnh lẽo.”
Nhận thức rằng cuộc sống của Arya và Saphira đang lâm nguy đã giải phóng Eragon khỏi mọi cảm xúc, cứu vớt, điều đó là giao kèo làm siêu lòng. Suy nghĩ của nó nhạy bén và minh mẫn như một mảnh kính vỡ. Nó lái bản thân vào tư tưởng xáo trộn của tà thần. Varaug quá mạnh, và những linh hồn trú ngụ trong đó quá phức tạp, để Eragon áp đảo và kiểm soát được, tìm kiếm để phân tán tên tà thần này. Nó bao quanh tâm trí Varaug bằng tâm trí của chính mình: mỗi lần Varaug cố tấn công Saphira hay Arya, Eragon lại chặn lại một sợi dây tinh thần, và mỗi lần gã tà thần cố để thay đổi vị trí, hình dáng cơ thể hắn, Eragon lại làm mất tác dụng ý muốn đó của hắn bằng một mệnh lệnh của chính nó.
Cuộc chiến diễn ra ở tốc độ của những suy nghĩ, đẩy lùi và đánh bật ra khỏi vành đai của tâm trí gã tà thần, đó là một cảnh rất lộn xộn và rời rạc, Eragon sợ rằng nó sẽ làm nó hóa điện nếu nó nhìm chằm chằm vào đó quá lâu. Eragon thu bản thân về hết mức khi nó đối đầu với Vargaug, cố gắng để lường trước mọi hành động của gã tà thần, nhưng nó biết rằng cuộc so tài này chỉ kết thúc khi nó thất bại. Nhanh nhất có thể, Eragon không thể suy tính cính xác hơn những trí óc đông đảo chứa trong gã tà thần.
Sự tập trung của Eragon cuối cùng cúng yếu thế, và Varguag đã chộp được cơ hội để tác động sâu hơn vào tâm trí Eragon, chặn hắn lại … đông cứng hắn lại … những suy nghĩ của nó lên tiếng từ bên trong, Eragon không thể làm gì hơn là nhìn chòng chọc vào gã thà thần với sự giận giữ câm nín. Sự đau đớn râm ran khắp tay chân Eragon khi những linh hồn phia nhanh đến khắp cơ thể nó, tràn vào một trong những dây thần kinh của nó.
“ Chiếc nhẫn của ngươi chứa đầy ánh sáng!” Varaug la lên, mắt hắn mở to vẻ hài lòng. “ Ánh sáng tuyệt đẹp! Nó sẽ nuôi dưỡng được chúng ta trong một thời gian dài!”
Rồi hắn gào lên tức giận hơn khi Arya túm lấy khớp hắn và bẻ gẫy ở ba chỗ. Cô vùng ra được sự kìm kẹp của Varuag trước khi hắn có thể làm lành vết thương và rơi xuống đất, thở hổn lấy hơi.Varaug đá vào cô, nhưng cô đã lăn được ra xa. Cô với tay tới thanh kiếm bị rơi của mình.
Eragon run rảy khi nó đấu tranh để thoát khỏi sự có mặt lấn áp của gã tà thần.
Tay Arya nắm chặt quanh cán kiếm. Không nói một lời sau khi thoát khỏi gã tà thần. Hắn vồ lấy cô, và họ lăn lộn trên sàn, vật lộn để giành lấy vũ khí. Arya hét lớn và đập Vargaug vào đầu bằng múm tròn trên chuôi kiếm. Gã tà thần lả đi một lúc, và Arya trườn lùi lại, nhổm đứng dậy.
Một ánh sáng lóe lên, Eragon giải thoát được nó khỏi tên tà thần. Không quan tâm đến sự an toàn của bản thân, nó tấn công vào tư tưởng của tà thần, suy nghĩ duy nhất của nó là ngăn cản gã tà thần này trong vài phút.
Varguag đang quì gối đứng thẳng dậy, rồi loạng choạng khi sự cố gắng của Eragon trở nên mạnh mẽ hơn. “ Tóm lấy hắn!” Eragonhest lên.
Arya đang thở ở phái sau, mái tóc đen của cô đang bay …
Và cô đâm mạnh qua tim gã tà thần. Eragon cau mày và tách chính mình ra khỏi tâm chí tên tà thần cùng lúc gã tà thần lùi ra được, Arya rút lưỡi kiếm của cô ra khỏi hắn. Tên tà thần mở miệng và phát ra một giọng the thé, run
rẩy khóc thét lên làm nổ tung những mảnh kính vuông của chiếc đèn lồng trên cao. Hắn với về phía Arya và lảo đảo trong tầm kiểm soát của cô, rồi ngừng lại khi lớp da của hắn mờ dần rồi trở nên trong suốt, làm lộ ra cả tá linh hồn rực rỡ bị giữ lại bên trong ranh giới thân xác hắn. Những linh hồn đập mạnh và gào thét trong đó, và lớp da của Varaug tách dọc ra từ những thớ thịt phồng lên. Cùng với ánh sáng cuối cùng nhá lên, những linh hồn xé toạt từng phần Vargaug và bay lượn trong căn phòng trong tháp , lao xuyên qua tường như thể những phiến đá không hề tồn tại.
Nhịp đập của Eragon từ từ chậm rãi. Rồi, cảm thấy hết sức già nua và mệt mỏi, nó bước qua chỗ Arya đang đứng hơi tì lên chiếc ghê,cô đang ôm một tay qua ngực mình. Cô ho, khạc ra máu. Từ lúc đó dường như cô không thể phát ra tiếng, Eragon đặt tay lên tay cô và nói, “Waíse heill.” Khi năng lượng chữa lành những vết thương chảy ra từ nó, Đôi chân Eragon yếu đi, và nó phải chống mình lên chiếc ghế.
“Đỡ hơn chứ?” Nó hỏi khi câu thần chú đã kết thúc nhiệm vụ.
“ Đỡ hơn,” Arya thì thầm, và cảm ơn nó bằng một nụ cười yếu ớt. Cô di chuyển về chỗ Vargua. “ Chúng ta đã giết được hắn … Chúng ta đã giết hắn, và đến giờ chúng ta đã không chết.” Cô kêu lên kinh ngạc. “ Không nhiều người từng giết một tà thần mà còn sống.”
“ Đó là vì họ đã chiến đấu một mình, không phải cùng nhau như chúng ta.” “Không, không giống chúng ta.”
“ Tôi đã có cô giúp sức ở Farthen Dûr, và cô có tôi giúp sức ở đây.” “ phải.”
“ Bây giờ tôi sẽ phải gọi cô là Khắc tinh của tà thần.” “ Cả hai chúng ta … “
Saphira hoảnng hốt bởi sự yên lặng hồi lâu, buồn rầu ai oán. Vẫn quì gối, cô ả cào cào những chiếc móng trên sàn, những phiến đã sứt mẻ và nham nhở. Cái đuôi cô ả kéo lêtừ bên này sang bên khác,đập mạnh bộ yên cương và những bước tranh tàn nhẫn trên tường. Đi rồi! Cô ả nói. Đi rồi! Ra đi vĩnh viễn! “Saphira, có chuyện gì không ổn?” Arya la lên. Khi Saphira không trả lời, cô lặp lại câu hỏi với Eragon. Góp nhặt từng từ, Eragon nói,”Oromis và Glaedr đã hy sinh. Galbatorix đã giết họ.”
Arya lảo đảo như thể vừa bị đánh. “Ôi chao,” cô nói. Cô ghì chặt hơn lấy chiếc ghế, những ngón tay trở nên trắng bệch. Nước mắt đầy lên trên đôi mắt xếch, rồi ôm lấy má và cúi gằm mặt. “Eragon.” Cô với tới và níu lấy vai nó, và gần như tình cờ nó thấy nó đang ôm cô trong vòng tay.Eragon cảm thấy chính mắt mình ươn ướt. Nó nghiến chặt quai hàm trong nỗ lực duy trì sự bình tĩnh; nếu nó bắt đầu khóc, nó biết nó sẽ không thể ngừng lại được.
Nó và Arya vẫn ôm nhau trong một lúc lâu, an ủi lẫn nhau, rồi Arya tách ra và nói, “Nó xảy ra như thế nào?” “Oromis có một cuộc vây bắt, và trong khi thầy bị tê liệt, Galbatorix đã dùng Murtagh để …” Giọng Eragon vỡ òa, và nó lắc đầu. “Tôi sẽ kể cho cô nghe về nó cùng với Nasuada. Cô ta nên biết về điều này, và tôi không muốn phải hơn một lần miêu tả về nó.”
Arya gật đầu. “Vậy chúng ta hãy đi kiếm cô ta.”
Chương 58 : MẶT TRỜI MỌC
Khi Eragon và Arya áp giải công nương Lorana từ căn phòng bên trong tháp, họ đã gặp Blödhgarm và 11 vị thần tiên khác đang chạy lên cầu thang.
“Khắc tinh của Tà thần ! Arya ! ” một nữ thần tiên với mái tóc đen dài la lên. “Các người có bị thương không. Chúng tôi nghe Saphira rên rỉ và chúng tôi nghĩ có thể một trong các người đã chết.”
Eragon liếc nhìn Arya.Lời thề giữ bí mật của nó với nữ hoàng Islanzadí không cho phép nó nói về Ormis và Glaedr trong khi có sự xuất hiện của của người ngoài nhóm Du Weldenvarden- công nương Lorana- không có sự cho phép của nữ hoàng, Arya hoặc bất cứ ai kế thừa nữ hoàng Islanzadí ở Ellesméra, thì nó không thể nói.
Nàng gật đầu và nói “Ta giải thoát cho chàng khỏi lời thề, Eragon, cả hai người.Hãy nói với bất kỳ ai mà chàng muốn.”
“Không, chúng tôi không bị thương,” Eragon nói. “Tuy nhiên, Oromis và Glaedr đã chết trong trận chiến ở Gil’ead.”
Tất cả các vị thần tiên đều sửng sốt và òa khóc, sau đó hỏi Eragon hàng tá những câu hỏi khác. Arya giơ tay và nói “Hãy kiềm chế bản thân.Bây giờ không phải lúc hoặc nơi thích hợp để giải đáp những thắc mắc của các vị. Vẫn còn quân lính ở ngoài kia, và chúng ta không biết được liệu có ai có thể sẽ vô tình nghe được những điều mà chúng ta nói.Hãy kìm nén những muộn phiền và đợi cho đến khi chúng ta chắc chắn được an toàn.”Nàng dừng lại và nhìn Eragon, rồi nói tiếp “Tôi sẽ giải thích cặn kẽ về cái chết của họ, tất cả những điều mà tôi biết.”. “Nen ono weohnata, Arya Dröttningu,” họ thì thầm.
“Ngài có nghe thấy tôi gọi không?” Eragon hỏi Blödhgarm.
“Có” vị tiên nói “Chúng tôi cố gắng đến nhanh nhất có thể, nhưng có quá nhiều lính ở đó và ở đây.”
Eragon đưa tay lên ngực theo nghi lễ truyền thống của thần tiên “Tôi thành thật xin lỗi vì đã bỏ các ngài lại, Blödhgarm.Sức ép của trận chiến đã làm tôi cư xử ngớ ngẩn, mất tự chủ, và suýt chết vì lỗi lầm của mình.” “Cậu không cần phải xin lỗi, Khắc tinh của Tà thần ạ.Chúng tôi cũng có lỗi ngày hôm nay.Chúng tôi hứa sẽ không lặp lại.Từ bây giờ trở đi, chúng tôi sẽ luôn chiến đấu bên cạnh cậu và quân Varden.”
Họ cùng nhau xuống cầu thang và ra tới sân.Quân Varden đã giết hoặc bắt giữ hầu hết quân lính bên trong pháo đài, và một vài người vẫn còn cố chống đối khi họ thấy công nương Lorana bị quân Varde áp giải.Cầu thang quá nhỏ, vì vậy Saphira đã bay xuống sân trước và đợi mọi người ở đó.
Eragon đứng cạnh Saphira, Arya, và công nương Lorana, trong khi một người đàn ông đi tới, Jörmundur. Jörmundur đến chỗ họ,họ thuật cho ông ta nghe việc đã xảy ra bên trong tòa tháp, làm ông vô cùng kinh ngạc, và sau đó giao công nương Lorana cho ông quản thúc.
Jörmundur cúi chào công nương. “Công nương hãy yên tâm, chúng tôi sẽ đối xử với công nương bằng sự kính trọng như trước kia.Chúng tôi có thể đã là kẻ thù của công nương, nhưng chúng tôi là những người chính nghĩa.” “Cảm ơn” công nương đáp lại. “Ta thật vui về điều này.tuy nhiên mối quan tâm chính của ta bây giờ là sự an toàn của những người nhà của ta.Nếu có thể ta muốn được gặp công nương Nasuada, để thỏa thuận về chuyện đó.” “Tôi tin rằng Nasuada cũng sẽ không làm khó công nương.”
Khi họ tách nhóm,công nương Lorana nói “Tôi rất biết ơn cậu và tôi thấy cậu thật giỏi, kỵ sĩ rồng ạ khi cậu giết chết thứ quái vật đó trước khi nó có thể đem sự bi thương và chết chóc đến cho Feinster.Định mệnh đã đặt chúng ta vào thế đối địch, nhưng như thế không có nghĩa là tôi không thể ngưỡng mộ sự gan dạ và lòng quả cảm của cậu. Chúng ta có thể không bao giờ gặp lại nhau nữa, vậy xin tạm biệt cả hai.”
Eragon cúi chào và nói “Tạm biệt công nương Lorana.” “Các vì sao sẽ luôn soi đường cho công nương” Arya nói.
Blödhgarm và các vị tiên khác theo lênh của ông bám sát Eragon, Saphira và Arya khi họ đi tìm Nasuada. Họ tìm thấy cô đang cưỡi ngựa trên con đường trải đá xám, xem xét những thiệt hại của thành phố sau cuộc chiến. Nasaauda vui mừng chào Eragon và Saphira “Tôi thật vui vì cuối cùng hai người cũng trở lại.Chúng tôi đã rất cần hai người ở đây mấy ngày trước.Tôi thấy cậu có một thanh kiếm mới, Eragon, một cây kiếm đích thực của Kỵ sĩ rồng.Các vị thần tiên đã tặng nó cho cậu đúng không?”
“Cũng không hẳn là như thế.” Eragon đảo mắt nhìn những người đứng xung quanh và thấp giọng “Nasuada, chúng ta cần phải nói chuyện, chỉ có chúng ta.Rất quan trọng đấy.”
“Tốt thôi.”Nasuada quan sát những tòa nhà nằm cạnh đường phố và chỉ một căn nhà bỏ hoang ở đằng xa “Chúng ta sẽ nói chuyện ở đó.”
Hai cận vệ của Nasuada, hai Nighthawk, chạy tới và vào trong căn nhà đó.Họ trở ra sau ít phút và cúi đầu trước Nasuada và nói “Nó trống rỗng, thưa công nương.”
“Tốt, cảm ơn hai người.”Cô xuống ngựa,đưa dây cương cho một trong số những tùy tùng của cô, và sải bước vào bên trong . Eragon và Arya bước theo.
Ba bọn họ bước vào trong căn nhà tồi tàn, cho tới khi họ tìm được một phòng bếp, với một cái cửa sổ lớn, từ đó Saphira có thể thò đầu vào. Eragon mở cánh cửa chớp, Saphira đặt đầu lên bậc gỗ, hơi thở cô ả toàn mùi thịt cháy. “Chúng ta có thể thoải mái nói chuyện rồi” Arya thông báo sau khi dùng phép thuật cách ly căn phòng khỏi bất cứ sự nghe trộm nào.
Nasuada xoa tay và run run “Chúng ta sẽ nói về cái gì, Eragon ?”cô hỏi.
Eragon nén lòng, và ước gì nó không phải chứng kiến định mệnh của Oromis và Glaedr.Rồi nó nói “Nasuada… Saphira và tôi không đơn độc…còn có một con rồng và một kỵ sĩ khác cũng chiến đấu để chống lại Galbatorix.” “Tôi biết” Nasuada thốt ra và mắt cô sáng lên “Họ là sư phụ của cậu ở Ellesméra. Phải không ?”
“Đúng thế. Nhưng bây giờ thì không còn nữa.”Saphira nói. “Không còn nữa là sao ?”
Eragon mím chăt môi và lắc đầu, mắt rơm rớm “Chỉ trong buổi sáng nay, họ đã tử trận ở Gil’ead.Galbatorix đã sử dụng Thorn và Murtagh để giết họ, tôi đã nghe thấy hắn nói chuyện với họ bằng giọng của Murtagh .”
Sự háo hức của Nasuada trên khuôn mặt được thay thế bằng một sự khó hiểu và một cảm giác trống rỗng.Cô ngồi phịch xuống chiếc ghế gần nhất và nhìn chằm chằm vào đống than hồng trong lò sưởi.Căn bếp trở lên tĩnh mịch lạ thường. Cuối cùng cô phá vỡ sự yên lặng và nói “Cậu có chắc là họ đã chết không ?”
“Chắc.”
Nasuada lau mắt bằng một cái khăn trên tay cô “Hãy kể cho tôi về họ, Eragon?”
Trong nửa giờ, Eragon kể về Oromis và Gleadr. Nó giải thích cách mà họ thoát được khỏi sự hủy diệt của thế hệ kỵ sĩ và tại sao họ lại chọn cách sống ẩn mình sau đó.Nó giải thích về sự bất lực của họ, và nó dành môt lúc để nói về bản thân họ và những gì cần phải học hỏi ở họ.Cảm xúc của Eragon càng thấm sâu hơn khi nó hồi tưởng những ngày dài nó sống bên thầy Oromis trên vách đá Tel’naeír và rất nhiều thứ người thầy già đã làm cho nó và
Saphira.Khi nó nhắc đến cuộc đối đầu giữa họ với Thorn và Murtagh tại Gil’ead, Saphira bỏ đầu ra khỏi bệ cửa và lại bắt đầu than khóc,Tiếng khóc của cô ả thật thê lương và dai dẳng.
Về sau, Nasuada thở dài và nói “Tôi ước gì tôi đã được gặp Ormis và Glaedr, nhưng than ôi, không thể nữa…Có một điều mà tôi không tài nào hiểu nổi, Eragon. Cậu nói cậu nghe thấy Galbatorix nói chuyện với họ. Sao cậu nghe thấy được ?”
“Đúng, ta cũng muốn biết tại sao ?” Arya nói.
Eragon tìm một thứ gì đó để uống , nhưng chẳng có chút rượu hay nước nào ở đây cả.Nó ho một tiếng, sau đó thuật lại chuyến đi tới Ellesméra trước đây.Saphira thỉnh thoảng lại chen vào một vài lời bình luận, nhưng hầu hết cô ả để cho Eragon thuật lại.Rùng mình với sự thật về nguồn gốc của nó, Eragon, thuật lại nhanh những sự kiện đã xảy ra với họ, từ việc khám phá ra Thép sáng của họ dưới gốc cây Menoa đến việc rèn thanh Brisingr, đến việc tới thăm Sloan. Cuối cùng, nó nói với Arya và Nasuada về trái tim trong trái tim của rồng.
“Tốt.”Nasuada nói.Cô đứng rồi đi lại quanh khu bếp và sau đó quay lại “Cậu là con trai của Brom, và Galbatorix đã đánh cắp những tâm hồn của những con rồng đã chết.Dường như thật quá nhiều điều để có thể lĩnh hội hết được…”Cô lại khoah hai tay. “Ít nhất chúng ta cũng biết được về nguồn sức mạnh của Galbatorix.”
Arya đứng bất động, hơi thở nàng nhe nhàng, biểu lộ sự kinh ngạc “Những con rồng vẫn còn sống.”nàng thì thầm. Nàng xiết chặt hai tay giống như cầu nguyện và đưa lại gần ngực. “chúng vẫn còn sống sau ngần ấy năm.Oh nếu như chỉ có chúng tôi nói về sự yên nghỉ của loài chúng tôi thì thât là vui mừng và cũng thật là tồi tệ khi khi họ nghe về sự tồn tại của Eldunarí.Chúng ta sẽ chạy thẳng tới Urû’baen, và sẽ không nghỉ ngơi cho tới khi chúng ta giải thoát cho những trái tim kia thoát khỏi sự điều khiển của Galbatorix, và cũng chẳng có vấn đề gì khi nhiều người trong chúng ta phải bỏ mạng vì điều đó.”
“Nhưng chúng ta không thể nói gì với chúng.”Saphira nói.
“Không” Arya nói và hạ thấp cái nhìn“Chúng ta không thể, nhưng ta ước gì chúng ta có thể.”
Nasada nhìn nàng “Đừng có đánh nhau thêm nữa. Tôi ước gì mẹ của nàng, nữ hoàng Islanzadí đã thấy được và chia sẻ những điều đó với chúng ta.Chúng ta đã có thể sử dụng nó từ cách đây rất lâu.”
“Tôi đồng ý.” Arya nói, vẻ mặt nghiêm trọng “Trong trận chiến ở Cánh đồng cháy, Murtagh đã có thể giết chết cả hai người”- nàng ám chỉ Eragon và Saphira – “Bởi vì chàng đã không hề biết rằng Galbatorix có thể sẽ đưa một số Eldunarí cho hắn ta như vậy chàng đã thất bại cũng là thích đáng thôi.Nếu như Murtagh không còn một chút lương tâm, cả hai bây giờ có thể đã trở thành nô lệ của Galbatorix rồi và thậm chí bây giờ Oromis và Gleadr, và cả mẹ của ta nữa cũng đã có lý do để giữ bí mật về Eldunarí, nhưng sự trầm lặng của họ gần như đã làm hỏng việc.Ta sẽ bàn về vấn đề này với mẹ của ta trong lần gặp tới.”
Nasuada đi đi lại lại cạnh cái lò sưởi. “Cậu đã kể về quá nhiều thứ làm tôi phải suy nghĩ, Eragon…”Cô miết nền nhà bằng đôi ủng của cô. “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của Varden, chúng ta biết 1 cách để giết chết Galatorix.Nếu chúng ta có thể cách ly hắn khỏi những trái tim kia, hắn sẽ mất hầu hết sức mạnh của hắn, và sau đó cậu và các pháp sư khác của chúng ta sẽ có thể chế ngự được hắn.”
“Đúng thế nhưng bằng cách nào chúng ta có thể cách ly hắn khỏi những trái tim ?” Eragon hỏi.
Nasuada nhún vai “Tôi không biết, nhưng tôi chắc chắn rằng sẽ có cách. Từ bây giờ trở đi,cậu sẽ phải làm việc theo kế hoạch được đề ra trước.”
Eragon cảm thấy Arya đang để ý nó với một mối quan tâm khác thường.Bối rối, nó hỏi nàng.
“Ta luôn băn khoăn.” Arya nói “Tại sao trứng Saphira lại xuất hiện trước mặt chàng, mà không phải là một nơi nào khác.Nó dường như là một sự trùng hợp quá ngẫu nhiên đã xảy ra,nhưng ta không thể nghĩ ra được bất kỳ sự giải thích hợp lý nào.Và bây giờ ta đã hiểu.Ta phải nên sớm đoán ra rằng chàng là con trai của Brom từ lâu rồi mới phải.Ta không biết nhiều lắm về Brom, nhưng ta cũng không phải hoàn toàn là không biết gì về ông,và chàng có rất nhiều điểm giống Brom.”
“Tôi hả ?”
“Cậu nên tự hào khi được gọi Brom là cha” Nasuada nói “Bởi tất cả những gì đã làm, ông ấy là một nhân vật kiệt xuất.Nếu không có ông, Varden đã không hề tồn tại.Dường như thật thích hợp khi cậu tiếp tục gánh vác những công việc còn dở dang của ông.”
Sau đó, Arya nói “Eragon, chúng tôi có thể xem Eldunarí của Gleadr không ?”
Eragon do dự một chút, sau đó đi ra ngoài và lấy chiếc túi từ yên trên lưng của Saphira.Cẩn thận không để chạm vào Eldunarí, nó nới lỏng sợi dây buộc phía miệng túi và để cái túi trượt xuống để lộ ra viên đá ngọc màu vàng.Khác với lần trước nó nhìn thấy, lần này Eldunarí sâu hơn và mờ nhạt bởi ý chí của Gleadr đã trơ trụi đi nhiều.
Nasuada tiến lên phía trước và quan sát những cột xoáy bên trong Eldunarí, mắt cô lóe lên bởi ánh sáng phản chiếu. “Vậy Gleadr thật sự ở bên trong đó à ?”
“Đúng thế.”Saphira nói.
“Tôi có thể nói chuyện với anh ta không ?”
“Cô có thể thử, nhưng tôi nghĩ rằng anh ta sẽ không có phản ứng gì đâu.Anh ta vừa mất đi người Kỵ sĩ của mình.Sẽ phải mất một thời gian rất dài để anh ta thoát khỏi tình trạng Shock, và lấy lại bình tĩnh.Xin hãy để anh ấy được yên tĩnh Nasuada, nếu anh ấy muốn nói chuyện với cô, anh ấy sẽ có phản ứng.”
“Tất nhiên rồi.Tôi không có ý quấy rầy anh ấy trong thời gian anh ấy đang đau buồn đâu.Tôi sẽ đợi để được gặp anh ấy cho tới khi nào anh ấy lấy lại sự điềm tĩnh vốn có của mình.”
Arya tiến đến sát bên Eragon và đặt tay lên phía khác của Eldunarí, những ngón tay của nàng cách bề mặt Eldunarí gần 1 inch.Nàng nhìn vào bên trong viên đá với một sự tôn kính, dường như ẩn sâu vào bên trong nó, sau đó thì thầm một vài lời bằng cổ ngữ.Ý chí của Gleadr làm viên đá lóe sáng lên.
Arya hạ thấp đôi bàn tay. “Eragon, Saphira, hai người phải có trách nhiệm với Eldunarí, phải giữ nó an toàn.Dù bất cứ chuyện gì xảy ra,hai người cũng phải bảo vệ Gleadr.Khi Oromis đã đi xa, chúng ta sẽ cần sức mạnh và sự hiểu biết của anh ấy hơn bất cứ cái gì khác.”
“Đừng lo, Arya.Chúng tôi sẽ không cho phép bất cứ thứ gì làm hại anh ta đâu”Saphira hứa.
Eragon bỏ Eldunarí lại vào trong cái túi vải, thắt dây buộc.Quân Varden đã có một chiến thắng quan trọng và các thần tiên đã chiếm được Gil’ead,nhưng những điều đó chỉ đem lại cho Eragon một sự vui mừng nho nhỏ.Nó nhìn Nasuada
Và hỏi “Vậy bây giờ chúng ta sẽ làm gì ?”
“Bây giờ.” Nasuada nâng cằm “Chúng ta sẽ tiến quân lên phía Bắc tới Belatona, và khi chúng ta chiếm được nó,chúng ta sẽ tiếp tục tiến về Dras-Leona, chiếm lĩnh rồi đưa quân tới Urû’baen,nơi mà chúng ta sẽ hạ bệ Galbatorix hoặc kết liễu hắn.Đó là những gì chúng ta phải làm bây giờ, Eragon ạ.”
Sau đó họ từ biệt Nasuada, Eragon và Saphira đồng ý rời Feinster để đến doanh trại của quân Varden để cả hai có thể yên tĩnh nghỉ ngơi, thoát khỏi tiếng ồn ào của thành phố. Blödhgarm và các vị thần tiên cùng lính bảo vệ luôn đi quanh họ, họ tiến bước tới cổng chính của thành phố. Eragon vẫn còn giữ Eldunarí của Gleadr trong vòng tay mình.
Eragon nhìn chằm chằm xuống mặt đất phía dưới chân mình.Nó chú ý tới người đàn ông đang chạy cũng có thể là đang hành quân qua, nhiệm vụ của nó trong trận chiến đã kết thúc, và tất cả những gì nó muốn làm bây giờ là nằm xuống và quên đi tất cả những phiền muộn của ngày hôm nay.Cảm nhận cuối cùng mà nó thấy từ Gleadr vẫn còn vang vọng trong tâm trí nó : Gleadr đơn độc. anh ấy chỉ có một mình trong bóng tối… Cô độc ! Hít một hơi, nó có cảm giác buồn nôn về những suy nghĩ trong đầu.Đó là cái cảm giác kh mất đi con rồng hoặc người kỵ sĩ của mình.Nó thấy sợ sự điên cuồng của Glabatorix.
“Cuối cùng chỉ còn lại chúng ta”Saphira nói. Eragon cau mày, tỏ vẻ không hiểu.
“Con rồng và kỵ sĩ tự do cuối cùng”cô ả giải thích “Chỉ còn lại có mỗi mình chúng ta.Chúng ta thật đơn độc.” “Đúng thế”
Eragon bị vấp khi chân nó đá vào một hòn đá nhô lên trên đường mà nó không nhìn thấy.Đau nhói, nó nhắm chặt mắt một lúc. “Chỉ có chúng ta sẽ không thể chiến thắng” nó nghĩ. “Chúng ta không thể ! Chúng ta chưa sẵn sàng”.Saphira đồng ý,sự đau buồn cùng những lo âu của cô ả hòa cùng với nó làm nó chán nản.
Khi chúng đến tới cánh cửa, Eragon dừng lại,miễn cưỡng bước qua đám đông đang tập trung phía trước cửa, cố gắng thoát ra khỏi Feinster.Nó nhìn xung quanh một lượt, mắt nó hướng ra ngoài những bức tường, rồi đọt nhiên nó muốn ngắm nhìn thành phố trong ánh sáng của ban ngày.
Rời bước khỏi Saphira, nó chạy lên cầu thang tới đỉnh của những bức tường thành.Saphira gầm gừ đuổi theo, dang một nửa đôi cánh khi cô ả nhảy một phát lên bờ tường.
Chúng đứng bên nhau hàng tiếng đồng hồ và ngắm nhìn mặt trời mọc.Những tia nắng vàng óng ả chiếu xuống cánh đồng xanh mướt xa xa phía đằng đông,Những tia nắng chiếu sáng vô số những hạt bụi trong không khí, chúng bay lượn khắp nơi theo những cơn gió nhẹ thổi qua.Những cột khói lớn cũng được chiếu sáng làm chúng ánh lên sắc vàng cam và đỏ, cuồn cuộn bốc lên trôi dạt về cuối chân trời.Những ánh lửa dọc những ngôi nhà bên ngoài thành phố hầu hết dường như đã tắt ngấm, mặc dầu từ khi Eragon và Saphira đến những ngôi nhà đó đang bốc cháy rừng rực, và những cột lửa đó nhanh chóng lan ra khắp thành phố dấy lên cảnh hoang tàn nhưng cũng rất đẹp và bi tráng.Phía sau Feinster,biển vẫn mờ mờ sóng vỗ trải rộng ra tới tít đường chân trời, nơi đó các thủy thủ trên những con tàu đang đưa chúng đi về phía bắc và ngày một khuất xa tầm nhìn,bé tí tẹo rồi mất hút.
Khi mặt trời đã chiếu rọi những tia nắng ấm áp lên bộ áo giáp Eragon đang mặc, hơi ấm vuốt ve nó, những sầu muộn trong lòng nó dần lắng xuống rồi như những màn sương mờ tan biến dần vào trong nắng vàng tươi, để lộ ra dòng sông thơ mộng phía dưới.Hít một hơi thật sâu rồi thở ra nhẹ nhàng, toàn thân nó mềm nhũn, các cơ bắp dãn ra, thoải mái và bình yên.
“Không” nó nói, “Chúng ta không đơn độc.Anh có em , và em có anh. Và chúng ta cũng có Arya, Nasuada và
Orik nữa, và rất nhiều người khác ngoài kia, họ sẽ luôn bên cạnh và giúp đỡ chúng ta trên suốt chặng đường gian nan mà chúng ta phải đi qua.”
“Và còn Gleadr nữa chứ.”Saphira nói. “Chính xác.”
Eragon đưa cái nhìn xuống Eldunarí đang nằm im trong vòng tay nó và cảm thấy dồn lên sự thương cảm và che chở từ phía con rồng đang ẩn trong trái tim kia.Nó ôm Eldunarí thật chặt vào ngực nó và đặt một bàn tay lên Saphira,một cảm giác thật nhẹ nhàng và dễ chịu của tình bạn.
“Chúng ta sẽ làm được” nó nghĩ . “Galbatorix không phải là bất bại.Hắn cũng có điểm yếu, và chúng ta có thể lợi dụng điểm yếu này để chống lại hắn ta… Chúng ta hoàn toàn có thể.”
“Chúng ta có thể và chúng ta phải làm như thế.”Saphira nói. Vì lợi ích của bạn bè chúng ta, vì lợi ích của gia đình chúng ta.
- Và vì sự yên bình của Alagaësia Chúng ta cần phải hành động.
Eragon nâng trái tim của Gleadr lên quá đầu để cho mặt trời của ngày mới chiếu rọi, và nó nở một nụ cười, háo hức chờ đợi những trận đánh tiếp theo, và để cuối cùng nó và Saphira có thể đánh bại Galbatorix và giết chết tên vua đen tối này.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #eragon