Eragon Quyển 4 - Kế Thừa
Loài rồng đã tồn tại từ thuở sơ khai - đầy kiêu hãnh, hung tợn và độc lập. Vảy của chúng như được chạm bằng ngọc thạch, và bất kì sinh vật nào khi ngước nhìn chúng đều cảm thấy tuyệt vọng, vì vẻ mỹ lệ của loài rồng quá vĩ đại và quá đáng sợ.
Và chúng sống tách biệt tại lục địa Alagaësia qua biết bao thế kỷ.
Khi ấy, vị thần Helzvog tạo ra tộc người lùn vạm vỡ và cứng cáp từ đá tại sa mạc Hadarac.
Chiến tranh đã bùng nổ không ngừng giữa hai chủng tộc.
Vào thời điểm ấy, tộc tiên dong buồm vượt Ngân Hải và cập bến Alagaësia. Và rồi họ cũng tuyên chiến với loài rồng. Song sức mạnh của tiên tộc vượt trội hơn người lùn, thậm chí cả hai đều có khả năng tiêu diệt đối phương.
Do đó một hiệp ước đình chiến được lập ra và tạo nên thỏa thuận giữa tộc tiên và rồng. Nhân cơ hội tiếp xúc này, hai tộc đào tạo ra Kỵ Sĩ Rồng, những người bảo vệ nền hòa bình xuyên suốt lục địa Alagaësia trong hàng nghìn năm.
Một thời gian sau, loài người đặt chân đến Alagaësia. Rồi đến tộc Urgals mang sừng. Và cuối cùng là tộc Ra’zac, những kẻ săn đêm chuyên ăn thịt người.
Và tộc người cũng tham gia hiệp ước cùng loài rồng.
Sau đó, một Kỵ Sĩ Rồng trẻ tuổi, Galbatorix, chống lại tổ tiên của hắn. Hắn biến rồng đen Shruikan thành nô dịch và thuyết phục mười ba Kỵ Sĩ khác nối gót hắn. Và mười ba kẻ này được gọi bằng cái tên Tội Đồ.
Galbatorix cùng nhóm Tội Đồ bắt đầu trừ khử những Kỵ Sĩ khác, thiêu rụi thành phố quê hương tại ốc đảo Vroengard, tận diệt loài rồng, trừ những con chúng cưỡi, và lưu lại ba quả trứng: đỏ, xanh dương, xanh lá. Chúng lọc ra những phần tinh túy nhất – Eldunarí – phần chứa đựng quyền năng và trí tuệ của loài rồng, nằm trong tim của mỗi con rồng.
Trong vòng tám mươi hai năm sau, Galbatorix đã hoàn toàn nắm quyền thống trị loài người. Những kỵ sĩ Tội Đồ đã chết, nhưng hắn vẫn còn sống, vì sức mạnh hắn chiếm hữu từ toàn bộ loài rồng, và không một ai có cơ may đánh bại hắn nữa.
Vào năm tám mươi ba kể từ khi Galbatorix trị vì, một người đàn ông đã đánh cắp quả trứng rồng màu xanh dương từ lâu đài của hắn. Và quả trứng được trao cho nhóm kháng chiến chống lại Galbatorix, được biết đến với tên gọi Varden.
Tiên Arya dịch chuyển trứng rồng giữa các căn cứ của Varden và các tiên khác có nhiệm vụ tìm được người hoặc tiên có khả năng khiến quả trứng nở. Với cách thức như thế, hai mươi lăm năm đã trôi qua.
Một ngày kia, Arya đến thành phố tiên, Osilon, nhóm của cô bị một đội Urgal tập kích. Cùng với lũ Urgal là Tà Thần Durza, một pháp sư bị ám bởi chính những linh hồn do hắn triệu hồi. Sau cái chết của nhóm Tội Đồ, hắn trở thành người hầu đáng sợ nhất dưới trướng Galbatorix. Lũ Urgal sát hại đồng đội của Arya trước khi chúng và tên Tà Thần bắt được cô, Arya dùng phép phóng quả trứng đến người mà cô tin tưởng có thể bảo vệ được nó.
Nhưng câu thần chú của Arya lại thất bại.
Hậu quả là trứng rồng được Eragon, một cậu bé mồ côi mười lăm tuổi, tìm thấy gần dãy núi Spine. Cậu mang quả trứng về nông trại, nơi cậu sống cùng với chú Garrow và anh họ Roran. Quả trứng nở ra, cậu đặt tên cho rồng cái là Saphira và chăm sóc cô rồng con tại nơi ấy.
Một thời gian ngắn sau đó, Galbatorix cử hai tên Ra’zac đến để thu thập trứng rồng, chúng giết Garrow và thiêu trụi căn nhà của Eragon. Galbatorix cũng đã nô dịch hóa tộc Ra’zac, và khi ấy chỉ còn một vài tộc nhân sống sót thôi.
Eragon và Saphira lên kế hoạch báo thù hai tên Ra’zac. Cùng với họ là người kể chuyện Brom, người đã từng là Kỵ Sĩ Rồng, trước thời kỳ suy tàn của các Kỵ Sĩ. Người mà Arya định gửi gắm quả trứng rồng chính là ông.
Brom truyền thụ cho Eragon hầu như toàn bộ các kỹ năng kiếm thuật, pháp thuật và về danh dự của một kỵ sĩ. Ông trao cho cậu thanh Zar’roc, từng là thanh kiếm của Morzan, đệ nhất kỵ sĩ trong nhóm Tội Đồ. Nhưng những tên Ra’zac đã sát hại ông tại lần chạm mặt thứ hai, Eragon và Saphira may mắn trốn thoát nhờ sự giúp đỡ của một chàng trai trẻ, Murtagh, con trai của Morzan.
Trong cuộc hành trình, Tà Thần Durza tóm được Eragon tại thành phố Gil’ead. Cậu xoay sở trốn thoát được, và nhân dịp ấy, cậu giải thoát Arya đang bị cầm tù. Arya đã bị đầu độc và thương nặng, vì vậy bộ ba Eragon, Saphira và Murtagh mang cô đến căn cứ Varden, những thành viên kháng chiền vốn đang chung sống với tộc người lùn tại dãy núi Beor.
Khi Arya đã hồi phục, ở đó Eragon chúc phúc một cô nhi tên là Elva, chúc rằng cô bé sẽ được che chở khỏi những điều bất hạnh. Nhưng trớ trêu thay, do Eragon nói nhầm nên đã vô tình nguyền rủa Elva trở thành người gánh nỗi bất hạnh thay cho mọi người.
Ít lâu sau, Galbatorix cử đại quân Urgal đến tấn công những người lùn và quân kháng chiến Varden. Trong trận chiến ấy, Eragon đã giết Tà Thần Durza. Nhưng trước khi chết, Durza đã kịp để lại một vết thương trí mạng trên lưng cậu, khiến Eragon phải quằn quại vì đau đớn, ngay cả thần chú chữa thương của các pháp sư tại Varden cũng vô dụng.
Trong cơn nguy kịch, cậu nghe được một giọng nói; rằng, Hãy đến với ta, Eragon. Đến với ta, và ta sẽ giải đáp tất cả câu hỏi của con.
Ba ngày sau, thủ lĩnh của quân Varden, Ajihad, bị bọn Urgal tập kích và tử thương dưới sự chỉ huy của cặp pháp sư song sinh, kẻ đã phản bội Varden và đầu quân dưới trướng của Galbatorix. Hai tên này bắt cóc Murtagh và âm thầm chuyển cậu đến tay Galbatorix. Đối với Eragon và mọi người trong hội Varden, như thế không khác nào Murtagh đã hi sinh, Eragon thật sự đau buồn với sự lầm lẫn này.
Con gái của cựu thủ lĩnh Ajihad, Nasuada, thay thế chức vị của cha mình.
Từ Tronjheim, trung tâm quyền lực của tộc người lùn, Eragon, Saphira và Arya du hành đến phía Bắc khu rừng Du Weldenvarden, nơi sinh sống của tộc tiên. Đi cùng bọn họ là Orik, cháu trai của vua người lùn, Hrothgar.
Tại khu rừng Du Weldenvarden, Eragon và Saphira gặp gỡ Oromis và Glaedr: vị Kị Sĩ Rồng tự do cuối cùng, phải trốn chui trốn nhủi cả thế kỷ qua, chờ thời cơ đào tạo thế hệ kị sĩ kế tiếp. Đôi người – rồng đồng thời được diện kiến Nữ hoàng Islanzadí, người cai trị tộc tiên và là mẹ của Arya.
Trong lúc Oromis và Glaedr bận huấn luyện cho Eragon và Saphira, Galbatorix điều một tên Ra’zac cùng toán quân đến quê nhà của Eragon, ngôi làng Carvahall, để bắt người anh họ của cậu, Roran. Roran đã trốn thoát kịp thời, và chúng sẽ không tìm thấy cậu nếu không vì lòng căm hờn của lão đồ tể Sloan. Sloan đã giết chết một lính canh để mở cổng cho nhóm Ra’zac tiến vào làng, nơi chúng có thể tập kích Roran bất ngờ.
Roran chiến đấu và trốn thoát được, nhưng lũ Ra’zac lại cướp mất Katrina, người yêu của cậu và là con gái của lão Sloan. Roran bèn thuyết phục dân làng rời xứ theo cậu, và họ đi xuyên qua dãy Spine, hướng xuống phía mặt giáp biển của lục địa Alagaësia và đến miền Nam đất nước Surda, nơi mà ảnh hưởng của Galbatorix chưa với đến.
Vết thương trên lưng Eragon vẫn tiếp tục hành hạ cậu, nhưng trong buổi Huyết Thệ của tộc tiên, nơi hành lễ để tạo nên giao ước chính thức giữa Kỵ sĩ và rồng, vết thương ấy đã được chữa lành nhờ một con rồng ma mà các tiên đã triệu hồi vào cuối buổi lễ. Hơn nữa, nhờ sự xuất hiện của con rồng này mà Eragon đã đạt được sức mạnh và tốc độ ngang với tộc tiên.
Sau đó Eragon và Saphira bay đến Surda, nơi Nasuada đã mang quân khởi nghĩa Varden đến và chuẩn bị tấn công Đế quốc Galbatorix. Tộc Urgal cũng kề vai sát cánh cùng quân Varden với lýdo là Galbatorix đã phù phép lý trí của họ, và giờ đây họ muốn trả thù. Cùng cánh quân Varden, Eragon gặp lại cô bé Elva ngày xưa, giờ đã lớn nhanh như thổi vì lời nguyền của cậu. Từ một bé gái mồ côi sơ sinh nay đã trở thành cô bé ba bốn tuổi với ánh mắt lãnh khốc do khả năng thấu hiểu nỗi đau của mọi người quanh cô.
Cách biên giới Surda không xa, tại vùng Đồng Bằng Cháy, Eragon, Saphira và quân Varden lao vào trận chiến tàn khốc với quân đoàn Galbatorix.
Vào giữa trận chiến, Roran cùng dân làng xuất hiện tiếp tay với quân kháng chiến Varden, tương tự những người lùn, họ đã đi sau Roran và dân làng từ dãy Beor.
Từ phía chân trời hướng Đông bỗng xuất hiện một thân ảnh cùng bộ giáp sáng loáng, cưỡi một con rồng màu đỏ tía rực rỡ. Chỉ với một câu thần chú, hắn đã giết chết vua Hrothgar.
Eragon cùng Saphira chiến đấu với tên Kỵ Sĩ Rồng nọ, để rồi nhận ra rằng hắn chính là Murtagh, nay đã bị ràng buộc với Galbatorix bằng lời thề bất khả kháng. Con rồng đỏ ấy tên là Thorn, được nở ra từ quả trứng đỏ trong ba quả trứng được lưu giữ lại.
Murtagh đánh bại Eragon và Saphira với sức mạnh của Eldunarí mà Galbatorix đã ban cho, nhưng hắn lại thả họ đi vì tình bạn lúc trước. Và bởi vì, theo như lời kể của hắn với Eragon, họ là anh em ruột, cùng được sinh ra từ chính thê ưa thích của Morzan: Selena.
Đoạn Murtagh lấy đi thanh Zar’roc từ Eragon, rút lui khỏi Đồng Bằng Cháy cùng Thorn và số binh lính còn sót lại của Galbatorix.
Tại hồi kết của cuộc chiến, Eragon, Saphira và Roran bay đến tòa hắc ám thạch lâu, Helgrind, nơi được dùng như một căn cứ ẩn náu của tộc Ra’zac. Họ kết liễu được một trong những tên Ra’zac cùng bố mẹ chúng, dòng tộc Lethrblaka, và cứu được Katrina. Trong một hầm ngục tại đó, Eragon phát hiện cha của Katrina, bị mù và trong trạng thái dở sống dở chết.
Eragon cân nhắc việc giết Sloan vì tội phản bội của lão, nhưng cuối cùng lại thôi. Thay vào đó, cậu khiến Sloan chìm vào giấc ngủ sâu và nói với Roran và Katrina rằng ông ta đã chết. Sau đó cậu nhờ Saphira đưa cặp đôi này về Varden trong khi cậu săn lùng tên Za’rac cuối cùng.
Eragon diệt trừ tên Ra’zac cuối cùng một mình và mang Sloan ra khỏi Helgrind. Sau một lúc đắn đo, cậu tìm ra được tên thật của Sloan được viết bằng cổ ngữ, thứ ngôn ngữ tượng trưng cho sức mạnh và ma pháp thực thụ. Eragon ràng buộc lão với cái tên ấy và bắt lão thề rằng lão sẽ không bao giờ gặp con gái lão nữa. Eragon bèn đưa lão về chung sống với tộc tiên, nhưng không hề nhắc đến việc họ có thể chữa lành mắt nếu lão chịu ăn năn về tội mưu phản và sát nhân.
Arya gặp Eragon giữa đường và họ cùng trở về Varden bằng đường bộ, đi xuyên qua lãnh thổ của kẻ thù.
Tại Varden, Eragon nhận được tin Nữ hoàng Islanzadí đã phái mười hai pháp tiên đến, dẫn đầu là tiên Blödhgarm, để hộ vệ cho cậu và Saphira. Eragon cố hết sức để xóa bỏ lời nguyền khỏi cô bé Elva, nhưng khả năng cảm nhận nỗi đau của người khác của cô vẫn còn tồn tại, mặc dầu cô bé không còn cảm thấy sự bắt buộc phải cứu rỗi họ nữa.
Roran tổ chức đám cưới với Katrina, hiện đang mang thai, và đây cũng là lần đầu tiên trong một quãng thời gian dài, Eragon cảm thấy hạnh phúc.
Ít lâu sau, Murtagh, Thorn và nhóm tay sai của Galbatorix tấn công Varden. Cùng với sự giúp đỡ của tộc tiên, Eragon và Saphira mới có thể giữ chân chúng lại, và lần này Eragon và Murtagh đánh ngang tay nhau. Trận đấu diễn ra rất khó khăn vì lần này Galbatorix đã biến binh lính của lão trở nên vô cảm, và quân Varden đã phải chịu nhiều tổn thất về nhân sự.
Sau đó, Nasuada cử Eragon làm đại diện cho những người lùn tại Varden trong khi họ bầu chọn vị vua mới. Eragon lưỡng lự vì Saphira cần phải ở lại và bảo vệ Varden hơn là theo cậu, nhưng cuối cùng cậu vẫn đi.
Ronan gia nhập quân kháng chiến Varden và dần được mọi người xem trọng hơn vì cậu đã chứng tỏ được bản thân là một chiến binh thiện chiến và tài lãnh đạo loài người của cậu.
Khi Eragon ở chỗ người lùn, bỗng có bảy tên lùn định ám sát cậu. Sau một cuộc điều tra, chân tướng đã lộ rõ rằng bộ lạc Az Sweldn rak Anhûin đã đứng sau cuộc tấn công này. Buổi họp mặt giữa các bộ lạc vẫn được tiếp diễn, tuy nhiên, Orick là người được chọn làm đức vua kế nhiệm. Saphira trở lại với Eragon để tham dự lễ đăng quang. Tại lúc ấy, cô rồng cái này toàn thành lời hứa sửa chữa khối ngọc bích hình ngôi sao của người lùn vì đã làm vỡ trong cuộc chiến giữa Eragon và Tà Thần Durza.
Eragon và Saphira trở về Du Weldenvarden. Tại đây Oromis bộc lộ sự thật về nguồn gốc của Eragon; rằng cậu là con trai của Brom chứ không phải của Morzan, mặc dù vậy, cậu có cùng huyết thống với Murtagh vì có cùng một bà mẹ là Selena. Oromis và Glaedr đồng thời giải thích về khái niệm chung của Eldunarí, có nghĩa là một con rồng còn sống có thể loại trừ vật ấy bằng cách nôn nó ra, mặc dù quá trình này yêu cầu khả năng cẩn thận rất cao, và bất kể ai nắm được Eldunarí của con rồng ấy thì có thể điều khiển nó dễ dàng.
Trong lúc lang thang quanh khu rừng, Eragon quyết định rằng cậu cần một thanh kiếm mới để thay thế cho thanh Zar’roc. Nhớ lại những lời khuyên từ tộc người mèo trong chuyến phiêu du cùng Brom, Eragon hướng đến thần cây Menoa cũng tại rừng Du Weldenvarden. Cậu nói chuyện và cuối cùng thần cây đồng ý giao thanh kim loại sáng ngời được chôn sâu dưới rễ với điều kiện cậu phải trả một cái giá bất kì mà thần cây chưa nêu ra.
Thợ rèn giống tiên Rhunön – người đã tạo ra toàn bộ các thanh kiếm cho Kỵ Sĩ Rồng – hợp tác với Eragon và rèn ra một thanh kiếm mới cho cậu. Thanh kiếm ấy có màu xanh của biển, và cậu đặt tên cho nó là Brisingr – “Lửa”. Thanh kiếm này sẽ rực cháy mỗi khi cậu gọi tên nó.
Rồng Glaedr đặt niềm tin vào Eragon và Saphire và trao cho họ phần tinh túy nhất trong trái tim ông, và họ trở về Varden, trong khi Glaedr và Oromis gia nhập quân kháng chiến tấn công miền Bắc của Đế quốc.
Tại lần bị vây hãm ở Feisnter, Eragon và Arya chạm mặt ba pháp sư, và một trong số đó hóa thân thành Tà Thần Varaug. Cùng với sự giúp đỡ của Eragon, Arya đã thành công giết hắn.
Cùng lúc ấy, Oromis và Glaedr đang chiến đấu với cặp Murtagh và Thorn. Galbatorix đột nhiên chiếm thấy tâm trí Murtagh. Bằng thân xác ấy, lão đánh bại Oromis và Thorn đã kết liễu rồng Glaedr.
Mặc dù quân Varden đã thành công chiếm lấy thành Feinster, Eragon và Saphire vẫn buồn thương vì sự mất mát của người thầy của họ, Oromis. Quân kháng chiến Varden tiếp tục tiến sâu vào Đế quốc, thẳng đến thủ đô Urû’baen, nơi tọa trị của Galbatorix đầy kiêu hãnh, tự tin và coi trời bằng vung vì lão nắm trong tay sức mạnh của loài rồng.
Shaphira gầm lên, khiến cho mấy tên lính đứng trước run rẩy.
“Theo ta!” Eragon hét lên. Eragon nâng thanh Brisingr quá đầu, giữ kiếm trên cao cho tất cả đều nhìn thấy. Thanh kiếm xanh loé sáng rực rỡ, tương phản hoàn toàn với bức tường mây đen phía tây. “Vì Varden !”
Một mũi tên rít qua, Eragon không thèm chú ý.
Đám lính tập trung tại chân dốc đá vụn mà Eragon và Saphira đang đứng đồng thanh đáp trả bằng tiếng rống hùng hậu bằng cả cuống họng: “Varden!”. Họ khua vũ khí và tiến về phía trước, tràn lên các tảng đá lộn xộn.
Eragon quay lưng lại đám lính. Ở phía bên kia của gò đất là một khoảng sân rộng. Tầm hai trăm tên lính Đế quốc đứng lộn xộn ở đó. Đằng sau là một cái tháp canh âm u vươn lên cao với nhiều đường rạch chằng chịt để làm khe cửa và vô số pháo đài hình tứ diện; cái cao nhất có treo một chiếc đèn lồng chiếu sáng. Eragon biết rằng đâu đó trong cái tháp canh này chính là Lãnh chúa Bradburn, kẻ cai trị Belatona – thành phố mà Varden đã tấn công được vài tiếng đồng hồ.
Gầm lên một tiếng, Eragon rời ụ đá vụn, lao về phía đám lính. Chúng giật lùi lại phía sau, mặc cho tay vẫn giữ lấy thương và giáo nhắm vào cái lỗ toang hoác mà Saphira đã xé tan trên bức tường bên ngoài của toà lâu đài.
Cổ chân phải của Eragon bị trẹo khi chạm mặt đất. Nó ngã xuống bằng đầu gối và làm cho tay cầm kiếm chống xuống đất.
Một tên trong đám lính nắm lấy cơ hội, phóng ra khỏi đội hình, đâm ngọn giáo vào cái cổ để lộ ra của Eragon.
Eragon gạt nhát đâm bằng một cú lắc nhẹ cổ tay, vung thanh Brisingr nhanh hơn bất cứ người hay tiên nào có thể làm. Mặt tên lính lộ vẻ sợ hãi khi hắn nhận ra sai lầm của mình. Hắn cố gắng chạy trốn, nhưng trước khi hắn bước được một vài cen-ti-met, Eragon đã đâm thẳng vào bụng hắn.
Saphira phun ra một cột lửa vàng xanh, cô nàng nhảy lên sân ngay sau Eragon. Rùn thân xuống và duỗi chân ra khi cô ả hạ xuống nền đất lát đá. Sự va chạm làm rung chuyển cả cái sân. Rất nhiều mảnh vỡ thuỷ tinh từ những bức hình trang trí lớn và sặc sỡ trên tường tháp canh bật ra và xoay tròn như những đồng xu nảy trên một cái trống. Từ trên cao, hai cánh cửa chớp trên cửa sổ của toà tháp đóng mở ầm ầm.
Nàng tiên Arya theo sau Saphira. Mái tóc dài đen bồng bềnh trong gió cuốn quanh khuôn mặt góc cạnh của nàng khi nàng nhảy xuống đống đá vụn. Trên cổ và cánh tay của nàng lốm đốm những vệt máu bắn vào, lưỡi kiếm của nàng cũng đã uống máu. Nàng hạ xuống nhẹ nhàng trên nền đá.
Sự xuất hiện của nàng là sự cổ vũ cho Eragon. Nàng, không ngoài ai khác, chính là người mà nó và Saphira muốn chiến đấu kề bên. Eragon nghĩ rằng nàng chính là một người bạn chiến đấu hoàn hảo.
Nó nở nhanh một nụ cười hướng về phía nàng, và Arya cười đáp lại, một cách mạnh mẽ và vui sướng. Trong chiến đấu, thái độ kín đáo của nàng đã tan biến, thay vào đó là một sự cởi mở mà hiếm khi nàng thể hiện ở bất cứ nơi nào khác.
Eragon cúi xuống nấp sau tấm khiên khi một làn lửa xanh phụt ra giữa họ. Từ dưới vành của mũ bảo vệ, nó theo dõi Saphira tưới một cột lửa lên người đám lính đang co rúm lại vì sợ; tuy nhiên cột lửa chỉ chảy quanh chúng mà không tạo ra một thương tổn nào.
Hàng cung thủ trên tường thành bắn một loạt tên vào Saphira. Nhiệt độ bên trên cô rồng quá cao khiến một nhúm tên bốc cháy giữa trời và vỡ vụn thành tro trong khi chùm tên còn lại bị các vòng bảo vệ bằng pháp thuật mà Eragon đặt quanh Saphira phá giải. Một mũi tên lạc bắn ngược lại vào khiên của Eragon, tạo ra một tiếng ầm vang vọng, và hằn một vết lõm sâu trên khiên.
Chùm lửa đột nhiên cuốn lấy ba tên lính, kết liễu chúng nhanh chóng đến nỗi chúng thậm chí không có thời gian kịp kêu lên một tiếng. Những tên lính khác co cụm lại tại trung tâm vòng tròn lửa, mũi thương và giáo của chúng ánh lên sắc xanh của ngọn lửa.
Dù cố gắng đến mấy, cô rồng cũng không thể làm tổn hại đến những kẻ còn lại. Cuối cùng cô nàng đành bỏ cuộc và đóng miệng lại một cách dứt khoát. Ngọn lửa biến mất để lại khoảng sân yên lặng như tờ.
Cũng như vài lần trước đó, Eragon nghĩ rằng kẻ mà đã phù phép bảo vệ cho đám lính ắt hẳn là một pháp sư lão luyện và mạnh mẽ. Liệu có phải là Murtagh không nhỉ? Eragon tự hỏi. Nếu đúng như vậy, vì sao anh ta và Thorn không ở đây để bảo vệ Belatona? Không phải Galbatorix muốn kiểm soát những thành phố của lão ư?
Eragon xông lên phía trước, và chỉ với một nhát kiếm đã chém bay cả tá mũi giáo, dễ dàng như việc nó nhổ hạt lúa mạch khi còn bé vậy. Eragon chém ngang ngực tên lính gần nhất, xuyên qua lớp áo giáp như thể nó chỉ là một thứ vải mỏng manh nhất. Một tia suối máu phun lên. Rồi nó đâm tên lính tiếp theo và dùng khiên hất vào tên lính phía bên trái, khiến bay hắn về phía ba tên lính khác, khiến bọn chúng ngã lăn lông lốc.
Phản ứng của đám lính có vẻ khá chậm chạp và vụng về so với Eragon, nên nó thậm chí chẳng hề nhận chút thương tổn nào khi xuyên qua đội ngũ và hạ gục chúng.
Saphira tấn công kịch liệt vào đám lính bên trái Eragon, hất tung những tên lính lên trời với cặp móng vuốt đồ sộ, quất chúng bằng cái đuôi đầy gai và cắn giết chúng chỉ với một cú lắc đầu. Trong khi đó, tại phía bên phải, Arya di chuyển nhanh đến nỗi chỉ để lại bóng mờ, mỗi lần kiếm của nàng vung lên lại là một lần báo hiệu cái chết đến cho một tên nô bộc của Đế quốc. Khi Eragon đang xoay tròn để gạt đi hai mũi thương, Eragon nhận thấy Blödhgarm - tiên tộc phủ đầy lông - đang đứng gần đó cùng với mười một vị tiên tộc khác – những người có nhiệm vụ bảo vệ hắn và Saphira.
Xa hơn ở phía sau, các thành viên Varden tràn vào sân từ những lỗ hổng trên tường thành. Nhưng họ chưa dám tấn công vì chiến đầu gần Saphira rất nguy hiểm. Và chẳng ai trong số Saphira, Eragon và các thần tiên cần đến sự trợ giúp để xử lý đám lính này.
Trận chiến nhanh chóng chia cắt Eragon và Saphira, đưa họ tới hai đầu sân. Tuy vậy, Eragon không lo. Dù không có lá chắn phép thuật, Saphira vẫn thừa khả năng một mình hạ gục một nhóm lớn hai mươi ba mươi tên lính.
Một ngọn giáo phóng thẳng vào khiên của Eragon, làm bầm vai nó. Quay mặt về phía kẻ vừa phóng giáo – một gã mặt sẹo to lớn và thiếu mất mấy cái răng cửa dưới – Eragon lao về phía hắn. Gã cố gắng rút thanh chuỳ thủ đeo ở thắt lưng để chống cự. Vào thời khắc cuối cùng, Eragon xoay người, kéo căng cánh tay và ngực, dùng phần vai đang bị đau nện thẳng vào xương ức của gã mặt sẹo.
Lực lượng của vụ va chạm lớn đến nỗi khiến cho tên lính phải giật lùi lại phía sau vài mét, ngã quỵ xuống và lấy tay ôm ngực mà chết.
Sau đó, một cơn mưa tên đen ngòm bay xuống, giết hoặc làm bị thương vô số tên lính. Eragon né khỏi đám tên và dùng khiên che kín người, dù cho nó có tự tin rằng sẽ được phép thuật bảo vệ. Cẩn tắc vô áy náy, vì Eragon chẳng bao giờ biết được liệu có một tên pháp sư phe địch nào đó sẽ bắn một mũi tên ma thuật đủ sức mạnh xuyên thủng vòng bảo vệ pháp thuật.
Một nụ cười cay đắng hiện trên môi Eragon. Đám cung thủ phía trên kia đã nhận ra rằng hy vọng chiến thắng duy nhất của chúng là bằng cách nào đó phải giết chết Eragon và tiên tộc, bất chấp việc chúng phải hi sinh bao nhiêu người đi chăng nữa.
Quá chậm rồi, Eragon thích thú nghĩ thầm. Bọn mi đáng nhẽ ra phải rời bỏ Đế quốc khi còn có cơ hội chứ.
Trận mưa tên dữ dội đã cho Eragon thời gian nghỉ ngơi, một điều mong còn không được. Chiến dịch tấn công thành phố bắt đầu từ lúc bình mình, và kể từ lúc đó đến giờ nó cùng Saphira đã chiến đấu ở tiền tuyến.
Ngay khi các mũi tên ngưng lại, Eragon chuyển thanh Brisingrsang tay trái, cầm lấy ngọn giáo của một tên lính và phóng về phía đám cung thủ ở trên cao 12m. Eragon nhận ra rằng rất khó để ném ngọn giáo một cách chính xác nếu không có sự luyện tập chăm chỉ. Ném hụt tên lính mà Eragon nhắm tới cũng không có gì nhưng nó rất ngạc nhiên khi không phi trúng bất cứ tay cung nào trên tường thành. Ngọn giáo bay qua đầu đám cung thủ và vỡ vụn khi đập vào tường thành phía trên. Đám cung thủ cười lăn lộn chế nhạo Eragon.
Một chuyển động nhanh vụt qua khiến Eragon chú ý. Nó chỉ kịp nhìn thấy Arya phi ngọn giáo về phía đám cung thủ, xuyên qua hai tên đang đứng gần nhau. Sau đó, Arya dùng thanh kiếm chỉ vào đám cung thủ và thét: “Brisingr!” và ngọn giáo bùng lên ngọn lửa màu xanh ngọc.
Đám cung thủ lùi lại tránh xa những cái xác cháy đen. Chúng chạy trốn khỏi tường thành, chen chúc nhau chạy qua những cánh cửa dẫn đến những tầng cao hơn của lâu đài.
“Không công bằng,” Eragon nói. “Tôi không thể sử dụng câu chú đó mà không khiến kiếm của tôi bốc cháy như lửa trại.”
Arya nhìn nó một cách hứng thú.
Trận chiến kéo dài thêm vài phút nữa, cho đến khi những tên lính cuối cùng hoặc đầu hàng hoặc cố gắng tháo chạy.
Eragon mặc cho năm tên lính phía trước bỏ chạy, vì biết rằng chúng cũng chẳng đi được xa. Sau khi kiểm tra nhanh những cái xác nằm ngổn ngang xung quanh xem chúng đã thực sự chết chưa, nó quay lại nhìn qua sân. Một vài thành viên Varden đã mở được cổng thành ngoài và đang vác một súc gỗ công phá cổng thành đi qua con phố dẫn tới lâu đài. Một số người khác đang tập trung thành những hàng ngũ rời rạc ở ngay cạnh cổng vào, chuẩn bị sẵn sàng để tiến vào lâu đài và đối đầu với đám lính phía trong. Trong số đó, Roran – anh họ của Eragon - đang làm vài động tác với cây búa thân thiết của mình trong khi đang chỉ huy đám lính dưới quyền. Ở phía cuối sân, Saphira cúi người bước qua những xác chết đã bị giết dưới tay nó, khu vực xung quanh cô nàng trông chả khác gì lò sát sinh. Máu bám lên những chiếc vảy ngọc, những chấm máu đỏ hoàn toàn tương phản với màu xanh ngọc đẹp đẽ trên cơ thể rồng. Saphira quay đầu gầm chiến thắng, nhấn chìm tiếng la hét trong thành phố bằng tiếng gầm đầy dữ tợn của mình.
Sau đó, từ trong lâu đài, Eragon nghe thấy tiếng va chạm giữa xích và bánh răng vang lên, theo sau là những tiếng kéo mở kẽo kẹt của những thanh xà làm bằng gỗ nặng. Âm thanh đó khiến mọi người nhìn chằm chằm về phía cánh cửa tháp canh.
Với một tiếng nổ khô khốc, cánh cửa mở ra. Một làn khói dày đặc cuồn cuộn bốc ra ngoài từ những bó đuốc bên trong, khiến những thành viên Varden đứng gần nhất ho sặc sụa và phải che đi khuôn mặt. Từ một nơi nào đó trong đám khói mờ mịt, vang lên tiếng móng ngựa bọc sắt gõ lên đá lát đường; sau đó là một ngựa một người phi nước đại xông ra từ giữa đám khói. Ở tay trái, tên kị sĩ cầm một thứ mà lúc đầu Eragon nghĩ là một cây thương bình thường, nhưng rất nhanh sau đó nó nhận ra rằng cây thương đó làm bằng một vật liệu kì lạ màu xanh lá cây, lưỡi thương có ngạnh và hình dáng lạ lùng. Thứ ánh sáng mờ mờ và không bình thường toả ra ở trên đầu ngọn thương đã chứng tỏ sự hiện diện của pháp thuật.
Tên kỵ sĩ giật mạnh dây cương ngựa, chạy về phía Saphira. Cô ả đứng lên bằng hai chân sau, chuẩn bị tung một cú chém kinh hoàng, huỷ diệt bằng bộ vuốt phải của mình.
Lo lắng luẩn quẩn trong đầu Eragon. Tên kỵ sĩ quá tự tin vào bản thân, cây thương đó cũng quá khác thường, quá kỳ quái. Dù cho lá chắn pháp thuật sẽ bảo vệ cô rồng, nhưng Eragon chắc chắn một điều rằng Saphira đang bị nguy hiểm trí mạng.
Mình sẽ không thể tới kịp để giúp nó, Eragon nhận ra. Nó xâm nhập vào trí óc gã kỵ sĩ, nhưng tên kị sĩ quá tập trung vào nhiệm vụ của mình đến nỗi chẳng thèm để ý đến sự hiện diện của Eragon, và chính sự tập trung cao độ đó đã ngăn chặn việc Eragon xâm nhập được vào ý thức của hắn. Rút ý thức trở lại, Eragon nhớ lại 6 từ trong ngôn ngữ cổ xưa, niệm thành một câu thần chú đơn giản để chặn lại con ngựa chiến đang phi nước đại kia. Eragon biết rằng sẽ là vô vọng thôi – vì gã kỵ sĩ kia nếu không phải là một pháp sư thì hắn chắc chắn cũng đã có sự chuẩn bị từ trước nhằm chống lại sự tấn công bằng pháp thuật – nhưng Eragon không định đứng yên trong khi tính mạng của Saphira đang bị đe doạ.
Eragon hít một hơi thật sâu. Nó nhắc mình nhớ lại cách phát âm chính xác của một vài âm khó trong cổ ngữ. Rồi nó mở miệng đọc câu thần chú.
Dù Eragon đã nhanh, nhưng các thần tiên còn nhanh hơn. Trước khi Eragon kịp thốt ra một từ, những tiếng niệm chú trầm thấp vang lên phía sau, những giọng nói rì rầm tạo nên một âm điệu chói tai và gây hoang mang.
“Mäe-” Eragon cố gắng thốt lên, và rồi phép thuật của những thần tiên cũng có hiệu quả.
Khung cảnh phía trước con ngựa xoay tròn và biến đổi, những mảnh nhỏ thuỷ tinh chảy như nước. Một vết nứt dài xuất hiện trên mặt đất, để lộ ra một kẽ hở toang hoác sâu thăm thẳm. Hí vang lên một tiếng, con ngựa lao thẳng xuống cái cái hố khiến cho hai cái chân trước của nó vỡ vụn.
Khi người và ngựa ngã xuống, gã kỵ sĩ trên lưng ngựa vẫn cố nhấc tay về phía sau và ném cây thương đang rực sáng về phía Saphira.
Saphira không thể chạy. Cô nàng cũng không thể tránh. Cô rồng đành vung chiếc móng lên, cố gạt đi cây thương đang lao đến. Nhưng cô nàng đã đỡ trượt – chỉ trượt có vài cen-ti-met thôi – và trong kinh hoàng Eragon nhìn chăm chăm cây thương cắm ngập hẳn một mét vào ngực Saphira, ngay bên dưới xương đòn.
Một cơn thịnh nộ bao trùm lấy tâm trí Eragon. Nó cố dùng hết tất cả số năng lượng dự trữ có thể điều động từ cơ thể, từ trong viên ngọc ở chuôi Hoả kiếm, từ trong mười hai viên kim cương được giấu trong Đai lưng của Beloth Thông Thái đang đeo quanh eo, từ lượng dự trữ khổng lồ trong chiếc nhẫn Aren của tiên tộc đeo trên bàn tay phải – nhằm chuẩn bị tiêu diệt gã kỵ sĩ, bất chấp mọi nguy hiểm.
Tuy nhiên, Eragon đã phải dừng lại khi Blödhgarm xuất hiện, leo qua cái chân trước bên trái của Saphira. Blödhgarm lao vào tên kị sĩ như thể một con báo đang vồ lấy một con nai. Bằng một cú vặt cổ hung tợn, hắn xé toang cổ họng gã kị sĩ bằng những chiếc răng dài trắng hếu.
Một tiếng thét tuyệt vọng đến tột cùng phát ra từ một cánh cửa sổ phía trên lối vào pháo đài, tiếp theo đó là một vụ nổ lớn làm bắn tung những những khối đá trong lâu đài, rơi vào ngay giữa chỗ các thành viên Varden đang tập hợp, nghiền nát tay chân và thân thể họ như thể nghiền nát những cành cây khô.
Eragon mặc kệ trận mưa đá đang trút xuống chiến trường mà chạy về phía Saphira, cũng chẳng để ý tới Arya và những hộ vệ đang chạy theo sau. Những tiên tộc khác ở gần Saphira hơn, đã bao quanh nó, xem xét cây thương đang nhô ra từ ngực cô rồng.
“Vết thương nghiêm trọng thế nào – Liệu Saphira – ” Eragon nói. Nó lo lắng đến nỗi không thể nói hết câu và nóng lòng được trò chuyện bằng ý thức với Saphira, nhưng một khi mà mấy tên pháp sư địch còn có thể ẩn nấp quanh đây thì nó không dám liên lạc bằng ý thức với Saphira, vì lo sợ rằng chúng sẽ xâm nhập vào được ý thức của Saphira để do thám ý nghĩ hoặc thậm chí kiểm soát thân thể con rồng.
Sau những giây phút chờ đợi tưởng như vô tận, Wydren, một trong số các tiên tộc lên tiếng: “Ngài nên cảm ơn số phận, thưa Khắc tinh của Tà thần. Mũi thương không đâm vào các tĩnh mạch và động mạch chính trên cổ Saphira. Nó chỉ gây tổn thương lên các cơ, mà cơ thì chúng tôi có thể chữa trị được.”
“Các ngài rút mũi thương ra được không? Liệu nó có bị phù phép để...”
“Chúng tôi sẽ chú ý tới việc này, thưa Khắc tinh của Tà thần.”
Trang nghiêm như các linh mục đứng trước bàn thờ Chúa, tất cả các thần tiên, trừ Blödhgarm, đặt các ngón tay lên ngực Saphira và cất tiếng hát, như lời thì thầm của gió phiêu du qua rặng liễu. Họ hát về sự ấm áp và sinh sôi, họ hát về cơ bắp, gân và dòng máu nóng và hát về nhiều điều bí ẩn khác. Có lẽ phải bằng một nghị lực ghê gớm lắm Saphira mới có thể duy trì một tư thế trong suốt quá trình niệm chú, dù cho mỗi giây trôi qua cơ thể cô rồng lại run lên bần bật. Một dòng máu chảy dài xuống ngực Saphira từ nơi ngọn thương cắm vào.
Khi Blödhgarm tiến về chỗ Eragon, nó liếc nhìn ông ta. Máu khô làm lớp lông trên cằm và cổ ông bết lại, khiến bộ lông đổi màu từ xanh đen sang màu đen thẫm.
“Cái gì kia?” Eragon hỏi, chỉ vào ngọn lửa vẫn còn đang nhảy múa trên cửa sổ phía trên.
Trước khi trả lời, Blödhgarm liếm môi, để lộ ra những cái răng nanh giống loài mèo. “Ngay trước khi hắn chết, tôi đã xâm nhập vào trí óc tên lính, và qua đó, là trí óc của tên pháp sư đã giúp đỡ hắn.”
“Ông đã giết tên pháp sư đó?”
“Nói đúng ra là tôi buộc hắn tự vẫn. Thông thường, tôi không hay hành động quá khích như vậy, nhưng tôi... giận quá.”
Eragon tiến lên phía trước, tự mình kiểm tra vết thương khi Saphira thốt ra một tiếng rên rỉ dài, trầm thấp trong lúc mũi thương bắt đầu trượt khỏi ngực cô rồng mà không cần ai động tay vào. Mí mắt cô rồng run rẩy, và cô thở dốc liên tục trong khi đoạn thương cuối cùng dài mười lăm cen-time được rút ra khỏi cơ thể. Cái mũi thương đầy gai tỏa ra quầng sáng xanh ngọc, rơi xuống mặt đất và nẩy lên trên nền đá lát, nghe như thể nó làm bằng gốm chứ không phải kim loại.
Khi các thần tiên ngừng hát và nhấc tay khỏi Saphira, Eragon chạy vội đến cô rồng và sờ vào cổ cô nàng. Eragon đã muốn an ủi cô nàng, muốn kể cho Saphira biết nó đã sợ như thế nào, muốn liên hệ bằng ý thức với cô. Nhưng thay vào đó, Eragon chỉ nhìn vào đôi mắt sáng xanh kia và hỏi, “Em có ổn không?” Những từ ngữ mà dường như chẳng đáng kể nếu so với những cảm xúc mãnh liệt của nó.
Saphira đáp lại bằng một cái chớp mắt, rồi cúi đầu xuống và mơn trớn khuôn mặt Eragon bằng một một hơi thở nhẹ nhàng ấm áp từ hai lỗ mũi.
Eragon mỉm cười, rồi quay về phía các vị tiên tộc và nói, “Eka elrun ono, älfya, wiol förn thornessa,” cảm ơn sự giúp đỡ của họ bằng cổ ngữ. Các tiên tộc tham gia việc chữa trị, kể cả Arya, cúi đầu, uốn éo tay phải của họ trước ngực – một cử chỉ thể hiện sự tôn trọng của tiên tộc. Eragon nhận ra rằng hơn nửa số tiên tộc được giao trọng trách bảo vệ đều trở nên xanh xao, yếu ớt, đứng không vững.
“Hãy lui về và nghỉ ngơi đi,” Eragon nói với họ. “Nếu ở lại các ngài sẽ chỉ khiến chính mình bị giết thôi. Đi thôi, đây là mệnh lệnh!”
Dù Eragon biết chắc rằng họ không muốn đi, nhưng bảy tiên tộc đã trả lời nó, “Như mong ước của Ngài, thưa Khắc tinh của Tà thần,” và rời khỏi sân, sải chân bước qua những xác chết và đống gạch vụn. Ở họ luôn thấy được sự quý phái và hãnh diện, kể cả khi sức cùng lực kiệt.
Sau đó, Eragon tiến về phía Arya và Blödhgarm, bọn họ đang nghiên cứu cây thương với cùng một sự biểu cảm kì lạ trên hai khuôn mặt, cứ như thể hai người không chắc phải phản ứng ra sao. Eragon ngồi xuống cạnh hai người, thật cẩn thận và không để bất kì bộ phận nào của cơ thể chạm vào cây thương. Eragon nhìn chằm chằm vào đường chạm khắc tinh tế xung quanh phía dưới của mũi thương. Mặc dù không chắc là tại sao, nhưng Eragon cảm thấy những đường chạm khắc này rất quen thuộc. Nửa phần màu xanh của ngọn thương được làm bằng một loại vật liệu không phải gỗ mà cũng chẳng phải kim loại; và một lần nữa cái thứ ánh sáng dịu nhẹ ấy nhắc Eragon nhớ tới những chiếc đèn không có lửa mà tiên tộc và người lùn sử dụng để thắp sáng các lối đi.
“Hai người có nghĩ đây là sản phẩm của Galbatorix không?” Eragon hỏi. “Có thể lão quyết định rằng nên giết Saphira và tôi hơn là bắt sống. Có lẽ lão tin rằng chúng tôi đã thực sự trở thành một mối đe dọa đối với hắn.”
Blödhgarm cười không hề thoải mái. “Tôi sẽ không tự lựa dối mình bằng những ảo tưởng như vậy, thưa Khắc tinh của Tà thần. Chúng ta chỉ là một mối bận tâm nhỏ đối với Galbatorix không hơn không kém. Nếu lão thật sự muốn hai người hoặc bất kỳ ai trong chúng ta chết, hắn chỉ cần bay tới từ Urubaen và trực tiếp giao chiến với chúng ta và chúng ta sẽ ngã xuống trước mặt hắn như lá rụng trươc cơn bão mùa đông. Bản thân có sức mạnh của những con rồng, không ai có thể chống cự lại lão. Hơn nữa, Galbatorix không dễ dàng thay đổi cách hành xử của mình. Có thể lão ta nổi giận, nhưng vốn xảo quyệt, và trên hết, là quả quyết. Nếu lão ta muốn sự phục dịch của 2 người, thì lão sẽ cố gắng làm cho bằng được, đến cái mức mà có thể coi như là sự ám ảnh, và không gì có thể ngăn lão lại, ngoại trừ bản năng tự bảo vệ của lão”.
“Trong bất kì hoàn cảnh nào,” Arya nói, “ cũng có thể khẳng định rằng thứ này không phải sản phẩm của Galbatorix. Nó là do chúng ta tạo ra.”
Eragon nhíu mày. “Chúng ta? Varden không làm ra thứ này.”
“Không phải Varden mà là thần tiên.”
“Nhưng...” nó dừng lại, cố tìm ra một cách diễn đạt thích hợp. “Nhưng không có tiên tộc nào đồng ý hợp tác với Galbatorix. Họ thà chết còn hơn...”
“Galbatorix chắc chắn không làm ra thứ này, mà kể cả có, lão cũng không bao giờ giao một thứ vũ khí hiếm và mạnh mẽ như thế này vào tay một kẻ thậm chí không thể giữ nó. Trong tất cả các thứ vũ khí chiến tranh trên khắp Alagaesia này, đây chính là thứ Galbatorix không muốn rơi vào tay chúng ta nhất.”
“Vì sao?”
Với một tiếng rên nhỏ trầm thấp, Blödhgarm nói, “Bởi lẽ, thưa Eragon Khắc tinh của Tà thân, đây là một Dauthdaert.”
“Và tên của nó là Niernen, Hoa phong lan,” Arya nói. Cô chỉ vào những đường chạm khắc trên lưỡi thương, những đường khắc mà Eragon sau đó đã nhận ra thực chất chỉ là những nét chạm khắc được cách điệu hoá từ hệ thống chữ viết của tiên tộc– những hình thù uốn lượn, quyện vào nhau và kết thúc bằng những cái dấu chấm dài, có hình như sợi gai.
“Một Dauthdaert?” Khi cả Arya và Blödhgarm đều nhìn một cách hoài nghi, Eragon nhún vai, xấu hổ vì sự thiếu sót của mình. Điều làm nó nản lòng chính là trong khi tiên tộc được học hỏi tri thức với những học giả uyên bác nhất của nòi giống họ từ thập kỉ này sang thập kỉ khác trong quá trình trưởng thành, thì ông cậu Garrow của nó thậm chí không dạy cho nó biết viết tên của mình, vì coi đó là việc chẳng có gì quan trọng. “Tôi chỉ mới đọc được một vài quyển sách tại Ellesméra thôi. Đó là cái gì vậy? Có phải nó được rèn trong giai đoạn Sự suy tàn của các kị sĩ không, và được dùng để chống lại Galbatorix và Những kẻ phản đồ?”
Blödhgarm lắc đầu. “Niernen đã xuất hiện từ rất rất lâu trước đó.”
“Dauthdaertya,” Arya nói. “được sinh ra từ nỗi sợ hãi và sự thù hận, đánh dấu những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến giữa tiên tộc và loài rồng. Những thợ rèn và pháp sư tài giỏi nhất của chúng tôi đã tự tạo ra chúng từ những nguyên liệu mà đến giờ chúng tôi đã không còn hiểu được, phù phép chúng bằng những câu chú mà câu chữ của chúng đến nay chúng tôi không còn nhớ, và đặt tên chúng, tất cả 12 trong số chúng, theo những cái tên của những loài hoa đẹp đẽ nhất – một sự kết hợp vô cùng xấu xí – bởi vì chúng tôi tạo ra chúng không nhằm mục đích gì khác ngoại trừ một mục đích duy nhất: chúng dùng để giết chết những con rồng.”
Nỗi khiếp sợ bất ngờ bao trùm lấy Eragon khi nó nhìn chằm chằm vào cây thương đang phát sáng. “Chúng có làm được việc đó không?”
“Những người chứng kiến kể rằng máu rồng trút xuống từ trên trời cao như mưa rào mùa hạ.”
Saphira rít lên, lớn tiếng và sắc bén.
Eragon nhìn lại cô rồng trong chốc lát và nhìn thấy từ trong mắt cô những thành viên Varden vẫn đang giữ vững vị trí của họ trước tháp canh, chờ đợi cả hai tiếp tục dẫn đầu đợt tiến công.
“Chúng tôi đã nghĩ rằng tất cả Dauthdaertya đều đã bị tiêu hủy hoặc hỏng hóc đến mức không thể phục hồi được,” Blödhgarm nói. “Nhưng rõ ràng là chúng tôi đã lầm. Niernen bằng cách nào đó đã tới tay gia đình Waldgrave và họ đã giấu nó tại đây, trong thành Belatona này. Tôi đoán có thể khi chúng ta vượt qua tường thành, Lãnh chúa Bradburn đã mất hết can đảm, và hắn đã ra lệnh dùng thanh Niernen từ trong kho vũ khí nhằm chặn lại Ngài và Saphira. Chắc chắn Galbatorix sẽ giận dữ tột độ nếu biết rằng Bradburn đã cố ý giết hai người.”
Mặc dù hiểu được tình hình đang rất gấp rút, nhưng sự tò mò không cho phép Eragon rời đi ngay lúc này. “Dù đó có phải là Dauthdaetya hay không, thì hai người vẫn chưa giải thích tại sao Galbatorix không muốn chúng ta có thứ này.” Nó chỉ vào ngọn thương. “Điều gì khiến Niernen còn nguy hiểm hơn đống giáo mác đằng kia, hoặc thậm chí Bris...” nó ngậm miệng kịp thời trước khi thốt ra toàn bộ cái tên. “hoặc thanh kiếm của tôi?”
Arya trả lời nó. “Như cậu đã thấy đấy, nó không thể bị phá hỏng bằng những cách thức thông thường, không thể bị lửa xâm phạm, và hầu như hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của phép thuật. Dauthdaetya được thiết kế để không bị ảnh hưởng bởi bất cứ phép thuật nào mà loài rồng có thể sử dụng và cũng được dùng để bảo vệ người sử dụng nó khỏi viễn cảnh kinh hoàng trước thứ phép thuật mạnh mẽ, phức tạp, và không đoán trước được của loài rồng mang lại. Galbatorix có thể tạo nên nhiều vòng bảo vệ phép thuật cho Shruikan và chính lão, nhiều hơn bất cứ ai ở đại lục Alagaësia này, nhưng Niernen vẫn có thể xuyên thủng những sự phòng ngự đó cứ như thể chúng thậm chí còn không tồn tại.”
Eragon hiểu và nó thấy phấn chấn. “Chúng ta phải...”
Một tiếng thét ngắt lời nó.
Đó là một thứ âm thanh đột ngột, sắc lẻm, run rẩy, như thể kim loại cà vào đá. Âm thanh đó làm cho răng của Eragon run cầm cập và nó phải dùng tay che cả hai tai lại, nó nhăn mặt và xoay xung quanh để cố tìm được ra nơi phát ra âm thanh đó. Saphira ngẩng đầu dậy, và thậm chí trong tiếng ầm ĩ đó, Eragon vẫn nghe thấy tiếng cô rên rỉ vì đau đớn.
Eragon nhìn lướt qua cái sân hai lần trước khi nhìn thấy một đám bụi nhỏ bốc lên từ bức tường tháp canh từ một lỗ hổng rộng bằng một bàn chân bên dưới phần cửa sổ tối đen đã bị hủy hoại một phần khi Blöhgarm giết tên thuật sĩ. Tiếng rít càng lúc càng lớn, Eragon đành phải mạo hiểm bỏ một tay che tai để chỉ về phía lỗ hổng.
“Nhìn kìa!” nó hét lên với Arya, nàng gật đầu tỏ ý đã biết. Nó lại áp tay lên tai.
Không hề báo trước, âm thanh đột nhiên ngừng lại.
Eragon đợi một lúc, rồi từ từ hạ tay xuống. Lần đầu tiên Eragon mong sao thính giác của nó không nhạy cảm đến thế.
Đúng lúc đó, lỗ hổng mở rộng ra – kéo dài đến vài mét – chạy dọc xuống bức tường của tháp canh. Như một tia chớp, lỗ hổng bất chợt vỡ ra và phá tan đá đỉnh vòm phía trên những cánh cửa của toà tháp, làm một trận mưa đá đổ xuống dưới sàn. Toàn bộ lâu đài đổ ầm ầm, và từ cái cửa sổ bị phá huỷ đến chỗ viên đá đỉnh vòm bị vỡ, mặt trước của toà tháp canh bắt đầu sụp xuống, nghiêng nghiêng về phía ngoài.
“Chạy!” Eragon hét về phía các thành viên Varden, mặc dù những người lính đã bỏ chạy tán loạn đến phía bên kia của cái sân, cố gắng trong tuyệt vọng nhằm thoát khỏi bức tường thành đang sụp đổ. Eragon bước một bước lên phía trước, mọi cơ bắp trên người nó căng cứng khi nó cố tìm kiếm bóng dáng Roran ở một nơi nào đó trong đám lính kia.
Cuối cùng, Eragon cũng nhìn thấy anh, bị kẹt phía sau nhóm lính cuối cùng rời khỏi cánh cổng, anh đang rống lên điên cuồng về phía đám lính, tiếng nói của anh bị nhấn chìm trong cơn hỗn loạn. Rồi bức tường đổ sụp xuống dưới vài mét – cách xa hơn phần còn lại của toà tháp – trút đá loạn xạ xuống Roran, làm anh lảo đảo mất thăng bằng, và khiến anh ngã ngược về phía sau, phía dưới cánh cửa đang đổ xuống.
Khi Roran đứng thẳng dậy, anh thấy Eragon, và từ cái nhìn đó Eragon cảm thấy được sự sợ hãi, vô vọng, rất nhanh sau đó là sự cam chịu, như thể Roran biết rằng, dù anh có chạy nhanh thế nào đi chăng nữa, anh cũng không thể kịp thời đến được nơi an toàn.
Roran nở một nụ cười nhăn nhúm.
Và bức tường sập xuống.
“Không!” Eragon hét lên khi bức tường tháp canh ầm ầm đổ xuống, chôn vùi Roran và năm người khác dưới đống gạch đá cao sáu mét, và phủ một lớp bụi đen ngòm lên sân.
Tiếng hét của Eragon lớn đến nỗi khiến cho giọng cậu vỡ ra và một dòng máu tanh nồng như mùi đồng trào lên trong cuống họng. Eragon hít một hơi, rồi một hơi nữa, ho hắng.
“Vaetna,” Eragon hổn hển nói và vẫy tay. Màn bụi xám dày đặc tản ra mang theo tiếng động như tiếng lụa sột soạt, khiến cho cảnh vật ở giữa sân lại trở nên rõ ràng. Quá lo lắng cho Roran, Eragon không hề để ý tới việc câu thần chú đã lấy đi bao nhiêu sức mạnh từ cậu.
“Không, không, không, không,” Eragon thều thào. Anh ấy không thể chết. Anh ấy không thể, không thể, không thể ... Như thể nếu cứ lặp đi lặp lại như vậy sẽ khiến điều ấy thành sự thật, Eragon cứ tiếp tục lẩm nhẩm cụm từ đó trong đầu. Nhưng cứ với mỗi lần lặp lại, lời thì thầm này như một lời cầu nguyện hơn là một lời tuyên bố hay hy vọng.
Đằng trước cậu, Arya và các chiến binh Varden khác đứng ho sặc sụa và dùng tay chùi mắt. Nhiều người cúi gập xuống, như thể đang chờ đợi một vụ nổ; còn những người khác thì nhìn chằm chằm vào mặt trước của cái tháp canh đã bị tàn phá. Những viên đá vỡ ra từ toà tháp trút xuống khoảng giữa của sân, làm cảnh vật tối sầm lại. Hai căn phòng rưỡi ở tầng hai tháp canh và một căn phòng ở tầng ba – căn phòng nơi tên pháp sư đã bị kết liễu bằng một cách thức quá tàn nhẫn – lộ ra ngoài. Những căn phòng và đồ đạc bên trong dường như bẩn thỉu và có vẻ tồi tàn hơn dưới ánh nắng mặt trời. Bên trong, nửa tá lính được trang bị với những cái nỏ tiễn đang cố bò lại phía sau khi chỗ đứng bị sụp xuống. Chúng xô đẩy nhau chạy nhanh qua các cánh cửa ở đầu kia của những căn phòng và biến mất trong tháp canh.
Eragon cố ước tính trọng lượng của một khối đá trong cái đống đá vụn kia; chắc khoảng vài trăm cân. Nếu cậu, Saphira và các tiên tộc cùng hợp tác, chắc chắn rằng họ có thể dùng pháp thuật để di chuyển những tảng đá này, nhưng việc đó sẽ khiến họ kiệt sức và dễ gặp nguy hiểm. Hơn nữa, để làm được điều đó cũng tốn rất nhiều thời gian. Trong chốc lát, Eragon nghĩ tới Glaedr – một con hoàng kim long có thừa sức mạnh để nâng toàn bộ đống đá kia cùng một lúc – nhưng hoàn cảnh thì quá gấp rút và Eldunari của Glaedr phải tốn quá nhiều thời gian mới có thể khôi phục lại sức mạnh. Eragon biết rằng trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể thuyết phục Glaedr nói chuyện chứ đừng nhắc đến việc nhờ cậu đi cứu sống Roran và những chiến binh khác.
Và rồi Eragon hình dung lại lúc Roran xuất hiện ngay trước khi thân ảnh của anh bị trận mưa đá và bụi khủng khiếp che khuất đi, lúc đó anh đang đứng ngay dưới mái hiên của cổng tháp canh. Chợt giật mình, Eragon nhận ra cậu cần phải làm gì.
“Saphira, giúp họ!” Eragon hét lên khi cậu quẳng khiên đi và nhảy bổ về phía trước.
Ở phía sau, cậu nghe thấy tiếng Arya nói gì đó bằng cổ ngữ – một câu ngắn, hình như là “Giấu nó đi!”. Rồi sau đó cô chạy theo hướng Eragon, lăm lăm thanh kiếm trong tay ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
Khi tới chân đống đá vụn, Eragon nhảy lên cao hết mức có thể. Bằng một chân, cậu hạ xuống mặt nghiêng của một tảng đá rồi lại nhảy lên từ chỗ này sang chỗ khác, như một con dê núi đang nhảy nhót trên vách núi. Cậu ghét phải mạo hiểm động đến các khối đá, nhưng trèo lên đó là cách nhanh nhất để đến nơi cần đến.
Với một cú nhảy cuối cùng, Eragon đã lên được tầng 2, tiếp tục băng ngang qua căn phòng. Cánh cửa trước mặt bị hất tung ra với một lực mạnh tới nỗi làm bay cả chốt cửa và bản lề, và khiến cảnh cửa bay đập vào bức tường hành lang phía dưới, và khiến cho những mảnh gỗ sồi của tấm cửa vỡ tung toé.
Eragon chạy nhanh dọc hành lang. Cậu thậm chí không thể nghe rõ những tiếng bước chân và tiếng hít thở của mình , như thể tai cậu chứa đầy nước.
Cậu chạy chậm lại khi gần cánh cửa mở. Qua đó, cậu nhìn thấy một căn phòng trong đó có 5 người có vũ trang đang chỉ trỏ vào một tấm bản đồ và cãi vã. Chẳng ai trong số chúng phát hiện thấy Eragon.
Eragon tiếp tục chạy.
Cậu tăng nhanh tốc độ ở một khúc ngoặt đến nỗi va phải một tên lính đang đi theo hướng ngược lại. Eragon nổ đom đóm mắt khi trán đập vào rìa khiên của tên lính. Cậu lao dính vào tên lính, hai người quần thảo tới lui dọc theo hành lang như thể hai vũ công say rượu.
Tên lính thốt lên một câu chửi thề khi hắn đang cố lấy lại thăng bằng. “Mày có vấn đề gì vậy hả thằng trời đánh thánh vật này...” hắn nói, và sau đó khi nhìn thấy khuôn mặt của Eragon, đôi mắt hắn mở to ra. “Mày!”
Eragon nắm bàn tay phải lại và đấm thẳng vào phần bụng ngay dưới xương sườn hắn. Cú đấm khiến hắn bay lên, đập thẳng vào trần nhà. “Đúng là tao,” Eragon đáp lời khi tên lính ngã rầm xuống nền nhà, bất động.
Eragon tiếp tục chạy dọc hành lang. Từ lúc bước vào tháp canh, nhịp tim vốn đã nhanh của cậu dường như còn dồn dập thêm gấp đôi, như thể trái tim cậu như đang muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Nó ở đâu nhỉ? Eragon thầm nghĩ, phát cuồng lên khi liếc nhìn qua một cảnh cửa khác mà vẫn chỉ thấy một căn phòng trống không.
Cuối cùng, tại phía cuối của một lối đi bên cạnh dơ dáy, cậu nhìn thấy một cầu thang uốn lượn. Nhảy năm bậc thang một lúc và không quan tâm tới sự an toàn của bản thân Eragon cứ thế phóng thẳng xuống tầng một, và chỉ dừng lại để đẩy một tên cung thủ đang sững người vì giật mình sang một bên.
Những bậc thang kết thúc, và cậu bước vào một căn phòng vòm cao mang dáng dấp của nhà thờ ở Dras-Leona. Cậu quay người nhìn quanh và nhanh chóng thu thập ấn tượng: khiên, vũ khí và cờ hiệu đỏ treo trên 4 bức tường; những ô cửa sổ hẹp nằm sát trần nhà; những ngọn đuốc được treo trên những giá đỡ bằng sắt; những lò sưởi trống vắng, những chiếc bàn dài tối màu để dọc hai bên căn phòng; một cái bục ở đầu phòng, tại đó một người đàn ông râu dài, trùm áo choàng đang đứng trước một chiếc ghế tựa. Eragon đang ở trong sảnh chính của toà lâu đài. Phía bên phải, giữa cậu và những cánh cửa dẫn tới lối vào tháp canh, là một đội quân khoảng năm mươi tên lính hoặc nhiều hơn. Sợi chỉ vàng trên quân phục chúng tỏa sáng lấp lánh khi chúng quay người nhìn cậu với vẻ ngạc nhiên.
“Giết hắn!” người đàn ông mặc áo choàng ra lệnh, giọng có vẻ run sợ hơn là kiêu ngạo. “Ai giết được hắn sẽ được một phần ba gia tài của ta! Ta hứa!”
Một nỗi thất vọng tràn trề lại dâng lên trong lòng Eragon lại một lần nữa bị chặn lại. Cậu rút Hoả kiếm khỏi vỏ, giơ cao lên quá đầu và hét lên: “Brisingr!”
Một trận gió thổi tới, ngọn lửa xanh ma mị bao bọc quanh lưỡi kiếm như một cái kén, chạy dọc lên mũi kiếm. Nhiệt lượng phát ra từ ngọn lửa làm ấm bàn tay, cánh tay và một bên mặt Eragon.
Sau đó Eragon hạ mắt nhìn những tên lính. “Tránh ra,” cậu gầm lên.
Những tên lính chần chừ trong thoáng chốc rồi lập tức xoay người bỏ chạy.
Eragon lao về phía trước, không quan tâm tới những kẻ đang hoảng loạn tụt lại phía sau một khoảng bằng chiều dài thanh kiếm. Một kẻ trượt chân và ngã trước mặt nó, Eragon nhảy hẳn qua người tên lính, thậm chí không hề chạm đến những cái tua trang trí trên mũ bảo vệ của hắn.
Những cơn gió tạo ra khi Eragon di chuyển đã kéo dài ngọn lửa trên mũi kiếm về phía sau, trông giống như bờm của một con ngựa đang phi nước đại.
Gập vai lại, Eragon húc tung cánh cửa đôi dẫn tới hành lang chính. Cậu lao qua một khuôn viên dài và rộng lớn, mà trong các góc của căn phòng đứng đầy quân lính – ngoài ra còn có đầy bánh răng, ròng rọc, và những thứ khí cụ khác dùng để nâng hạ các cánh cổng của toà tháp canh – và sau đó chạy hết tốc lực tới khung lưới sắt đang chặn đường tới nơi Roran đã đứng khi bức tường tháp canh sụp đổ.
Cái lưới sắt cong lại khi Eragon nện thẳng vào nó, nhưng như thế là chưa đủ để phá tan những thanh sắt này.
Cậu lùi lại một bước.
Một lần nữa Eragon lại tập trung năng lượng được cất giữ trong những viên kim cương trên thắt lưng – thắt lưng của Beloth Thông Thái – vào thanh Brisingr, dùng hết toàn bộ nguồn năng lượng dự trữ quý giá trong trong viên đá ở chuôi kiếm để tạo nên một ngọn lửa mạnh kinh người trên thân kiến. Hét lên một tiếng, Eragon đưa tay về phía sau lấy đà và chém thắng kiếm xuống khung lưới sắt.
Những tia lửa đỏ và cam bắn tung toé quanh người, làm thủng găng tay và áo ngoài, làm cho phần da thịt lộ ra của Eragon đau nhói. Một giọt sắt nóng chảy rơi xuống mũi giày, cậu phải lắc mạnh cổ chân để nó rớt xuống.
Với ba nhát chém một phần của khung lưới sắt rộng đủ cho một người chui lọt đổ xuống. Những đầu bị cắt xuống của cái lưới sắt toả sáng nóng rực, chiếu sáng một khoảng không gian bằng thứ ánh sáng dịu nhé của chúng.
Eragon để cho ngọn lửa từ thanh Hoả kiếm lụi dần khi cậu bước qua lỗ hổng vừa tạo ra.
Đầu tiên rẽ trái, rồi rẽ phải, và rồi lại rẽ trái, cậu chạy và thay đổi hướng đi liên tục được thiết kế để làm chậm bước tiến của quân địch trong trường hợp chúng muốn tiến vào tháp canh.
Khi rẽ vào khúc cua cuối cùng, Eragon nhìn thấy đích đến của mình: cái tiền sảnh chất đầy đá vụn. Kể cả với tầm nhìn xa của tiên tộc, cậu chỉ có thể nhìn thấy được những hình dạng lớn nhất trong bóng tối, vì những viên đá rơi xuống đã làm tắt hết đuốc trên tường. Cậu nghe tiếng thấy tiếng thở hổn hển và tiếng vật lộn kì quái, cứ như thể một con quái vật vụng về nào đó đang cố ngoi lên từ đống đá vụn.
“Naina,” Eragon lên tiếng.
Một đốm sáng xanh xuất hiện chiếu sáng xung quanh. Và đằng kia, phía trước cậu là Roran, người phủ đầy bụi, máu và mồ hôi, răng nhe ra gầm gừ một cách đáng sợ, lúc này đang vật lộn với một tên lính bên cạnh xác chết của hai tên khác.
Tên lính nheo mắt vì bị chói bất ngờ và Roran nhân cơ hội tên lính mất tập trung, vặn và đẩy người hắn xuống dưới đầu gối, và cướp lấy con dao ở thắt lưng hắn và chém xuống ngay dưới hàm tên lính.
Tên lính giãy lên đá hai nhát rồi sau đó nằm im.
Thở hổn hển, Roran đứng dậy khỏi xác tên lính, máu nhỏ từng giọt từ những ngón tay anh. Anh quay qua nhìn Eragon một cách đờ đẫn pha chút ngạc nhiên.
“Sao bây giờ em mới ...” anh nói, rồi nhắm mắt lại, ngã xuống bất tỉnh nhân sự.
Để bắt kịp Roran trước khi anh ngã xuống sàn, Eragon đành phải ngập ngừng buông thanh Brisingr. Thế rồi, chàng nhanh chóng nới rộng tay ra ôm trọn Roran, cùng lúc với tiếng vang khô khốc của thanh kiếm khi chạm vào đá.
“Cậu ấy bị thương nặng không?” Arya hỏi.
Thoáng ngạc nhiên khi nhận ra rằng nàng và Blödhgarm đã đứng đấy tự khi nào, Eragon lưỡng lự trả lời: “Tôi không nghĩ vậy.”
Chàng vỗ vào má Roran liên hồi để làm phai những vết bẩn trên mặt anh đi. Trong ánh xanh nhàn nhạt từ câu thần chú của Eragon, Roran lộ rõ vẻ hốc hác, đôi mắt của anh thâm quầng, còn đôi môi thì mang một mầu tím đậm, như thể chúng vừa được nhúng vào nước quả mọng vậy.
“Nào nào, dậy đi.”
Một vài giây sau, mí mắt của Roran khẽ giật giật; anh mở mắt ra và hoang mang nhìn Eragon. Cảm giác nhẹ nhõm trào dâng trong lòng Eragon, mãnh liệt đến nỗi chàng như có thể nếm được chúng. “Anh đã ngất đi được một lúc rồi,” chàng giải thích.
“À.”
Anh ấy còn sống! Eragon reo lên với Saphira, mạo hiểm tiếp xúc với cô nàng trong thoáng chốc.
Vẻ hân hoan của cô nàng cũng hiện lên rõ rệt. Tốt. Em sẽ nán lại đây và giúp các tiên khác dịch chuyển mấy tảng đá ra xa khỏi tòa kiến trúc. Nếu anh cần thì cứ thét lớn lên, em sẽ tìm cách tiếp cận.
Bộ giáp của Roran vang lên loảng xoảng khi Eragon giúp anh đứng dậy. “Những người khác thì sao?” Eragon hỏi, và ra dấu hướng về đống đổ nát.
Roran lặng lẽ lắc đầu.
“Anh chắc chứ?”
“Không một ai có thể sống sót dưới đó. Sở dĩ anh có thể trốn thoát là vì … là vì anh được cái mái hiên che bớt một phần.”
“Còn anh? Anh có sao không?” Eragon tiếp tục hỏi.
“Gì cơ?” Roran nhíu mày, có vẻ hơi tư lự, như thể dòng suy nghĩ còn chưa xuất hiện trong đầu anh. “Anh ổn … Có thể cổ tay đã đi tong rồi. Cũng không tệ lắm.”
Eragon liếc mắt đầy ẩn ý với Blödhgarm. Trên mặt gã tiên này phớt qua vẻ không hài lòng, nhưng gã cũng đến gần Roran và nhẹ giọng nói, “Nếu tôi được phép …” Gã vươn tay về phía cánh tay bị thương của Roran.
Trong khi Blödhgarm chữa trị cho Roran, Eragon nhặt thanh Brisingr lên rồi đứng phòng thủ cùng Arya tại lối vào, phòng trường hợp có tay lính cứng đầu nào đó thử tấn công.
“Xong cả rồi đấy.” Blödhgarm nói rồi quay đi. Roran thì đứng đó xoay cổ tay một vòng để thử các khớp nối.
Roran hài lòng rồi hạ tay xuống, cảm ơn Blödhgarm và lục lọi trong đống gạch vụn cho đến khi tìm được chiếc rìu chiến của mình. Anh sửa sang lại bộ giáp trên người và nhìn về hướng ra vào.
“Anh suýt khử được lãnh chúa Bradbum,” anh cố ra vẻ trầm ổn. “Anh nghĩ lão đã giữ chức vị này quá lâu rồi, và cần phải gác lại trách nhiệm thôi. Cô đồng ý không, Arya?”
“Tôi đồng ý,” nàng trả lời.
“Tốt lắm, thế ta hãy tìm cho ra tên già bụng phệ ấy; anh sẽ tặng cho lão vài nhát búa để tưởng niệm những người đã hy sinh hôm nay.”
“Lão đã ở trong đại sảnh vài phút trước,” Eragon nói, “nhưng em không nghĩ lão sẽ ở đấy để chờ ta đâu.”
Roran gật đầu. “Thế ta bắt đầu cuộc săn nào.” Dứt lời, anh lao về phía trước.
Eragon tay nắm chặt thanh Brisingr trong tư thế sẵn sàng, hủy chú thắp sáng và vội nối gót ông anh họ. Arya và Blödhgarm theo sát chàng hết mức mà cái hành lang ngoằn nghoèo này có thể cho phép.
Hành lang dẫn tới căn buồng ngủ đã bị bỏ hoang, cũng tương tự như phần đại sảnh trong lâu đài, nơi này từng có hàng tá binh lính và quan lại nhan nhản khắp chốn, nay chỉ còn sót lại mỗi cái mũ sắt lăn lóc trên sàn.
Eragon và Roran lướt qua bệ cẩm thạch, Eragon phải giảm tốc độ lại để Roran có thể bắt kịp. Họ đá bay cánh cửa phía bên trái và phóng thẳng lên cầu thang.
Tại mỗi tầng, họ dừng lại một lúc để Blödhgarm có thể dùng tinh thần lực truy tìm tung tích của Lãnh chúa Bradburn cùng tùy tùng, nhưng không tìm thấy gì cả.
Khi họ lên đến tầng thứ ba, Eragon chợt bắt được tiếng chân chạy loạn và thấy một chùm thương thình lình thọc mạnh ra từ phía cổng vòm, vào thẳng Roran. Những mũi thương xé toạt gò má và bắp đùi phải, cắt sượt qua đầu gối đầy những máu và máu của anh. Roran gầm vang lên như một con dã thú bị thương và dùng khiên húc thẳng vào đống thương ấy, cố dùng sức càn lên những bậc cuối cùng của cầu thang. Tiếng người thét lên liên hồi.
Phía sau anh, Eragon chuyển thanh Brisingr sang tay nghịch, đi vòng qua người anh họ, chộp lấy một cán thương và giật mạnh nó ra khỏi tay của tên đang giữ. Chàng xoay đầu thương lại, ném mạnh nó vào giữa đám lính lúc nhúc đứng tại cổng vòm. Một trong số chúng gào lên, và một lỗ hổng hiện ra giữa bức tường người ấy. Eragon tiếp tục lặp lại quá trình ấy cho đến khi số lượng chốt hôi cản đường giảm xuống rõ rệt, và Roran từng bước một đẩy lui chúng về phía sau.
Ngay khi Roran thành công dọn sạch cầu thang, mười hai tên lính còn lại liền tản ra theo chiều ngang của căn phòng có nhiều bao lơn, mỗi tên đều tìm chỗ thuận lợi để có thể vung vũ khí mà không bị cản trở. Roran lại gầm lên và bổ vào tên gần nhất. Anh gạt phăng thanh kiếm của tên lính đi, lui về sau thủ thế và phang một cú như trời giáng vào cái mũ của hắn, tiếng vang lớn như anh vừa đánh vào một cái bình sắt vậy.
Eragon lao ngang qua căn phòng và chặn hai tên lính đang đứng gần nhau lại. Chàng húc ngã chúng và phân thây hai tên chỉ với một cú chém bằng Brinsingr. Một chiếc rìu xoay tròn bay thẳng đến chàng, Eragon tránh được và đẩy văng một tên lính khỏi bao lơn trước khi hai tên khác kịp thời dùng lao đâm xuyên bụng chàng.
Còn Arya và Blödhgarm lại yên lặng di chuyển giữa đám đông một cách chết người. Vẻ uyển chuyển cố hữu của giống tiên khiến cảnh tượng đâm chém hiện tại trông như một vũ đài hơn là một tràng thảm sát.
Trong tiếng kim loại va nhau, tiếng xương gẫy lìa và tứ chi bay tứ tung, bốn người họ tiếp tục tiêu diệt số lính còn lại. Như thường lệ, trận chiến khiến Eragon phấn khởi hơn, cảm giác cứ như là bị tạt một xô nước lạnh vào người, và rồi những gì còn sót lại là sự thanh tỉnh không gì so sánh được.
Roran quỵ xuống và chống tay lên đầu gối, thở lấy thở để như vừa hoàn tất một cuộc đua.
“Được chứ?” Eragon hỏi, đồng thời đưa tay chạm vào những vết cắt trên mặt và đùi của Roran.
Roran thử dồn sức vào các vết thương ở chân một vài lần. “Anh cố được. Tìm lão Bradburn trước đã.”
Eragon dẫn đầu nhóm khi họ trở ra cầu thang và tiếp tục tiến lên tầng trên. Cuối cùng, sau năm phút tìm kiếm, họ phát hiện Lãnh chúa Bradbrum đang cố thủ tại tầng cao nhất trong một tòa pháo đài xa tít ở hướng Đông. Với một tràng thần chú, Eragon, Arya và Blödhgarm đã phá giải cánh cửa và toàn bộ các các món đồ trang trí đàng sau bức tường kia. Khi họ tiến vào trong, lũ tùy tùng cùng lính hộ vệ đã đứng chắn đông nghịt trước mặt lão Bradburn, vài tên trong bọn chúng đã bắt đầu run lẩy bẩy. Eragon khẽ thở phào nhẹ nhõm vì chỉ phải giết ba tên lính trước khi số còn lại buông vũ khí và khiên xuống đầu hàng.
Arya ung dung tiến đến trước mặt Lãnh chúa Bradbum, người vẫn một mực im lặng cho đến giờ, và nói, “Giờ thì, liệu ngài có ra lệnh cho binh lính của ngài giải giáp không? Tuy chỉ còn một số ít nhưng ngài vẫn có thể cứu mạng họ.”
“Ta sẽ không chấp nhận ngay cả khi có thể.” Giọng Bradbrum đầy sự căm thù cùng nhạo báng khiến Eragon suýt cho lão ăn một kiếm. “Ngươi sẽ không hưởng được gì từ ta, giống tiên. Ta sẽ không trao người của ta cho thứ hạ đẳng bẩn thỉu bất thường như ngươi. Cái chết sẽ là lựa chọn sáng suốt nhất. Và ngươi đừng nghĩ rằng ta sẽ nghe theo những lời mật ngọt kia. Ta thừa biết chúng bây đã liên kết với lũ Urgal, và ta thà tin vào con rắn kia hơn là thứ ăn nằm cùng bọn quái vật.”
Arya gật đầu và đặt tay lên mặt của Bradburn. Nàng khép mắt lại, và trong khoảng thời gian ấy, nàng và Bradbum trở nên bất động. Eragon liền xuất thần và cảm nhận được trận đấu giữa hai ý chí của họ khi Arya cố xuyên qua bức tường phòng thủ của Bradbum và xâm nhập vào tâm trí lão. Một phút sau, nàng thành công điều khiển lão, và rồi bắt đầu tra xét ký ức cho đến khi tìm được bản chất của lão.
Nàng thốt lên cổ ngữ và hạ một chú ngữ phức tạp để phá vỡ những bản chất ấy và khiến Bradbum ngủ say. Sau khi hoàn tất, đôi mắt của lão dần đóng lại và, với một tiếng thở hắt ra, lão ngã vào vòng tay của nàng.
“Ả đã giết ngài ấy!” Ai đó thét lên, và những tiếng nhốn nháo đầy sợ hãi bắt đầu lan tỏa khắp nhóm lính.
Ngay khi Eragon định trấn an bọn họ, chàng bỗng nghe tiếng kèn báo hiệu của quân Varden vang lên từ phía xa xa. Một lúc sau, tiếng kèn lại vang lên, gần hơn nhiều, vang lên lần nữa, và chàng có thể thề chắc rằng những tiếng động mờ nhạt ấy không phải là tiếng vui mừng chiến thắng vang vọng từ phần sân dưới kia.
Chàng bối rồi nhìn Arya. Rồi họ xoay người lại nhìn qua cửa sổ trên bức tường của căn phòng.
Tại hướng Tây và Nam là Belatona. Đó là một thành phố lớn và thịnh vượng, thành thị sầm uất nhất của Đế quốc. Gần lâu đài là những tòa kiến trúc được dựng lên bằng đá, với mái dốc cùng các cửa sổ nhô ra ngoài, trong khi xa hơn nữa là những dãy nhà có chất liệu từ gỗ và trát vữa. Nhiều ngôi nhà đang được cất dở bốc cháy ngùn ngụt vì lửa chiến tranh. Khói đen tỏa ra dày đặc trong không khí đủ để khiến mắt người ta cay xè và khan giọng.
Ở hướng Tây Nam, khoảng một dặm cách từ thành phố là trại dã chiến của quân Varden: những dãy lều xám được bện từ lông nối liền nhau được bao quanh bởi các dãy hào, một số nhà lều lớn cùng ngọn cờ hiệu chót vót trên đỉnh, và nối dài trên đất liền là hàng trăm người bị thương. Lều cứu thương vốn đã quá sức chứa từ lâu rồi.
Nhìn theo hướng Bắc, vượt qua các cảng và nhà kho là hồ Leona, một nơi rộng mênh mông và chứa đầy nước, thường lăn tăn những dãy sóng bạc.
Trên bầu trời là bức tường mây đen kịt từ phía Tây đang bao trùm cả thành phố, sẵn sàng bao bọc nó trong làn mưa nặng hạt bất cứ khi nào. Những ánh sáng xanh lóe lên và tắt lịm đây đó trong tâm bão, và tiếng trời gầm nổi lên như một con hung thú đang lồng lộn.
Nhưng Eragon lại không thể tìm thấy nới phát tiếng động thu hút chàng.
Chàng và Arya chạy vội đến cửa sổ hướng thẳng về phía hoa viên. Saphia, con người và các tiên vừa hoàn tất việc dọn dẹp những tảng đá cản đường. Eragon huýt sáo, và khi Saphira nhìn lên, chàng bắt đầu vẫy tay ra dấu. Cặp hàm dài của cô nàng nở một nụ cười đầy răng lởm chởm, và khịt một làn khói về phía chàng.
“Này! Có gì mới không?” Eragon hỏi lớn.
Một binh sĩ Varden đứng gần vách lâu đài giơ tay lên và chỉ về hướng Đông. “Hỡi Khắc tinh của Tà Thần! Hãy nhìn đi! Người mèo đang đến! Người mèo đang đến!”
Một cơn ớn lạnh bỗng chạy dọc sống lưng của Eragon. Chàng nhìn theo hướng chỉ của người lính và lần này chàng có thể thấy những bóng đen nhỏ đang tiến tới gần trên mảnh đất cách đây vài dặm, từ bờ bên kia của sông Jiet. Một số chạy bằng bốn chân và một số khác chỉ dùng hai chân, nhưng chúng ở quá xa để có thể xác định đó là người mèo.
“Có thể nào chăng?” Arya hỏi, ngỡ ngàng.
“Tôi không biết … Nhưng bất kể chúng là gì, ta sẽ được biết sớm thôi.”
Eragon đứng trên bục ở sảnh chính của tháp canh, ngay phía bên phải ngai vàng của Lãnh chúa Bradburn, tay trái cậu đặt ở núm tròn phía cuối chuôi thanh kiếm Brisingr vốn đã được bọc lại. Ở phía bên kia ngai vàng, là Jörmundur – tổng chỉ huy lão luyện của quân Varden – đang kẹp cái mũ giáp ở khuỷu tay. Mái tóc màu nâu của ông được bện ra sau, phần tóc mai đã điểm vài sợi bạc. Trên khuôn mặt khắc khổ hiện ra nét lãnh đạm và cẩn trọng của một người có rất nhiều trải nghiệm trong việc chờ đợi người khác. Eragon để ý thấy một đường máu nhỏ màu đỏ chạy dọc theo mặt dưới chiếc bao cổ tay bên phải của Jörmundur, nhưng Jörmundur không hề để ý đến nó.
Đang ngồi giữa là thủ lĩnh của họ, Nasuada, nàng thật lộng lẫy trong bộ váy màu vàng và xanh vừa mới thay chỉ ít phút trước đó. Nàng đã phải cởi bộ chiến y ra để thay vào một loại y phục khác cho phù hợp với phong thái của một nhà lãnh đạo. Dải băng đang quấn quanh bàn tay trái cho thấy nàng cũng đã bị thương khi chiến đấu,
Nasuada nói thì thầm chỉ đủ để cho Eragon và Jörmundur nghe thấy: “Nếu chúng ta có thể được họ trợ giúp...”
“Nhưng bọn họ sẽ muốn được báo đáp gì đây chứ?” Jörmundur hỏi. “Ngân sách của chúng ta sắp cạn, còn tương lai thì mù mịt.”
“Có thể họ không muốn gì hơn ở chúng ta ngoài cơ hội chống lại Galbatorix.” Nasuada nói mà gần như không hé môi. Rồi nàng dừng lại. “Nếu không thì chúng ta sẽ phải tìm những thứ khác ngoài vàng để thuyết phục họ gia nhập hàng ngũ chúng ta.”
“Tiểu thư có thể cho họ vài thùng mỡ(1).” Eragon nói, khiến Jörmundur cười phá lên và Nasuada cũng khẽ cười.
Cuộc trò chuyện thì thầm của họ kết thúc khi ba tiếng kèn trumpet vang lên từ bên ngoài sảnh chính. Một tiểu đồng tóc màu hoe mặc áo choàng dài có khâu phù hiệu của Varden – một con rồng trắng cầm một bông bồng bên trên một thanh kiếm đang chỉ xuống phía dưới một cánh đồng màu tía – bước những bước đều qua cánh cửa mở phía cuối của sảnh, gõ xuống sàn nhà với cái gậy nghi lễ của cậu. Bằng một giọng nói nhỏ nhẹ và trong trẻo, cậu thông báo: “Hoàng thân cao quý, Grimrr Halfpaw, Vua của ma mèo, Chúa tể của Lãnh địa Cô độc, Kẻ thống trị màn đêm, và Kẻ cô độc xin cầu kiến.”
Một danh hiệu thật kì quái: Kẻ cô độc, Eragon nói nhận xét của cậu với Saphira.
Nhưng cũng ổn đấy chứ, em nghĩ thế, cô nàng trả lời. Cậu có thể cảm nhận được sự thích thú của cô nàng, ngay cả khi cậu không nhìn thấy vì cô ả đang nằm cuộn lại một chỗ trong toà tháp canh.
Tiểu đồng bước sang một bên và Grimrr Halfpaw - trong hình dạng một con người - sải chân bước qua cánh cửa, ngay sát phía sau là bốn ma mèo đang bước đi nhẹ nhàng với những cái chân to và bờm xờm. Bốn ma mèo trông tương tự như Solembum, con ma mèo mà Eragon đã từng được thấy trước đó trong hình dáng động vật: vai to lớn và chân dài, một lớp lông màu đen ngắn trên cổ và vai, tai đầy lông, đuôi có đầu màu đen, phe phẩy một cách duyên dáng từ bên này sang bên khác.
Tuy nhiên, Grimrr Halfpaw lại trông không giống bất cứ người hay loài nào Eragon từng thấy. Cao khoảng 1m2, ông ta cao bằng một người lùn, nhưng không ai có thể nhầm lẫn ông ta với người lùn hay thậm chí một con người. Ông ta có một cái cằm nhọn, xương gò má rộng, và, bên dưới hàng lông mày dựng ngược là một cặp mắt xếch màu lục và hàng mi cong. Mái tóc đen bù xù che trước trán, trong khi ở hai bên và phía đằng sau, những sợi tóc bóng mượt thả dài xuống tận vai, khá giống với những cái bờm của mấy ma mèo tùy tùng.
Eragon không thể đoán nổi tuổi của vị vua mèo này.
Thứ đồ duy nhất mà Grimrr đang mặc là một cái áo không tay làm bằng da thô và một cái khố làm bằng da thỏ. Xương sọ của cả tá loài vật – chim, chuột và những con thú nhỏ khác – được treo đầy trên mặt trước áo, và chúng va vào nhau mỗi khi ông ta chuyển động. Một thanh chuỳ thủ đã được bọc lại thò ra từ một góc thắt lưng của cái khổ. Vô số những vết sẹo, mảnh và trắng, làm nổi bật lên làn da màu nâu hạt dẻ của ông, trông chúng như những vết xước trên mặt bàn gỗ đã qua nhiều lần sử dụng. Đúng như tên gọi(2), ông ta thiếu mất hai ngón tay trái, trông như thể chúng đã bị cắn đứt.
Dù diện mạo có nhiều nét thanh tú, nhưng có thể khẳng định chắc chắn rằng Grimrr là giống đực khi nhìn vào những khối cơ bắp rắn chắc, gân guốc ở ngực và cánh tay, chiếc hông thon và những cái sải chân mạnh mẽ khi ông ta thong dong đi dọc căn sảnh, tiến về phía Nasuada.
Dường như chẳng ai trong đám ma mèo nhận thấy ánh mắt của những người đang xếp thành hàng hai bên đường đi của chúng cho đến tận khi Grimrr đi ngang qua bà lang Angela, đang đứng cạnh Roran và tay đang đan một chiếc tất sọc bằng sáu cái kim.
Đôi mắt Grimrr nhíu lại khi nhìn thấy bà lang, và tóc ông ta dựng ngược lên giống như như bốn kẻ tùy tùng. Ông ta nhếch môi lên, để lộ ra cặp răng nanh trắng ởn và sắc nhọn. Và điều thật sự làm Eragon ngạc nhiên là ông ta lại rít lên giận dữ.
Angela ngước lên rời khỏi cái tất bà đang đan, nói một cách uể oải và xấc xược: “Chíp Chíp”.
Trong một thoáng Eragon tưởng lão ma mèo sẽ tấn công bà. Đám lông trên cổ và mặt Grimrr dựng đứng lên, lỗ mũi ông ta phập phồng và ông ta gầm gừ với bà mà không phát ra tiếng động. Những con ma mèo khác cúi thấp người, tai ép sát vào đầu, chuẩn bị nhảy xổ vào bà.
Eragon nghe thấy những tiếng lưỡi kiếm được rút ra khỏi vỏ vang vọng khắp sảnh đường.
Grimrr rít lên một lần nữa rồi quay người đi tiếp. Khi con ma mèo cuối cùng đi lướt qua Angela, nó giơ móng vuốt lên len lén vờn lấy sợi chỉ buông ra từ những cái kim đan của bà Angela, giống hệt cái cách mà một chú mèo nhà ham chơi vẫn thường làm.
Cả Saphira và Eragon đều bối rối. Chíp chíp là cái gì? Cô nàng hỏi.
Cậu nhún vai, quên mất là cô nàng không thể nhìn thấy cậu. Ai mà biết Angela đã làm hay nói cái gì cơ chứ?
Cuối cùng, Grimrr đến trước mặt Nasuada. Ông ta hơi cúi đầu, thể hiện sự tự tin vô cùng, thậm chí có phần ngạo mạn – một tính cách khá đặc trưng chỉ dành cho loài mèo, loài rồng và một vài phụ nữ thân phận cao quý.
“Tiểu thư Nasuada,” ông ta nói. Giọng nói của ông ta trầm thấp một cách đáng kinh ngạc, nghe na ná như tiếng gầm khẽ của một con mèo hoang hơn là giọng nói trong trẻo của một chú bé – hình hài mà hiện giờ ông ta đang có.
Nasuada cũng cúi đầu đáp lễ. “Vua Halfpaw. Varden chào đón ngài và những tộc nhân của ngài. Tôi phải xin lỗi ngài vì sự vắng mặt của đồng minh của chúng ta, Vua Orrin của Surda; mặc dù rất muốn nhưng ngài ấy không thể có mặt tại đây để tiếp đãi ngài được, bởi lẽ ngài ấy và binh lính của mình hiện giờ đang bận bảo vệ sườn phía tây quân ta khỏi sự tấn công của quân đội Galbatorix.”
“Tất nhiên rồi, thưa tiểu thư Nasuada,” Grimrr nói. Những chiếc răng sắc nhọn lóe lên khi ông ta lên tiếng. “Chúng ta không bao giờ được đưa lưng về phía kẻ thù.”
“Dù vậy...và vì nguyên nhân gì mà chúng tôi lại hân hạnh được đón tiếp cuộc viếng thăm đột ngột này của Ngài vậy, thưa Đức vua? Theo như tôi được biết, ma mèo thường được biết đến bởi sự bí ẩn và đơn độc, và bởi qua bao nhiêu năm ma mèo luôn đứng ngoài những cuộc xung đột, đặc biệt là kể từ sự suy tàn của các Kỵ sĩ. Thậm chí, trong suốt thế kỉ qua, có người còn nói rằng giống loài của Ngài đã trở thành một câu chuyện thần thoại hơn là một sự thực. Vậy thì, tôi xin mạn phép hỏi ngài vì lí do gì mà Ngài lại chọn thời điểm này để xuất hiện?”
Grimrr nâng cánh tay phải lên và chỉ vào Eragon bằng một ngón tay cong queo với cái móng tay trông như móng vuốt của loài mèo.
“Vì cậu ấy,” ma mèo gầm lên. “Một thợ săn sẽ không tấn công một thợ săn khác cho đến khi kẻ đó để lộ hết những điểm yếu của hắn, và giờ đây Galbatorix đã để lộ điểm yếu của hắn: hắn sẽ không thể giết Eragon Khắc tinh của Tà thần hay Saphira Bjartskular. Chúng tôi đã chờ đợi cơ hội này rất quá lâu rồi và giờ là lúc nắm chắc lấy điều này. Galbatorix rồi sẽ học được cách sợ hãi và căm ghét chúng tôi, và đến lúc cuối cùng, hắn sẽ nhận ra rằng hắn đã sai lầm nhường nào và biết rằng chúng tôi là chính là những người phá huỷ cuộc đời hẳn. Và hương vị của sự trả thù mới ngọt ngào làm sao, ngọt ngào như miếng thịt lợn đực non mềm. “
“Thời đại của chúng ta đến rồi, hỡi loài người, tất cả các chủng tộc, gồm cả Ma Mèo, đã đến lúc chúng ta sát cánh cùng nhau để chứng tỏ cho Galbatorix thấy hắn không thể tiêu diệt ý chí chiến đấu của chúng ta. Bọn ta tự nguyện gia nhập liên minh của quý vị, thưa Tiểu thư Nasuada, và sẽ giúp quý vị đạt được ước nguyện này.”
Eragon không biết Nasuada đang nghĩ gì nhưng cậu và Saphira bị ấn tượng mạnh với bài phát biểu của lão ma mèo.
Sau một khoảng im lặng ngắn ngủi, Nasuada nói, “Những lời Ngài đã nói quả thật nghe rất lọt tai, thưa Đức vua. Nhưng trước khi tôi đồng ý với đề nghị đó, có một câu trả lời mà tôi mong muốn có được từ ngài, nếu như ngài sẵn lòng”.
Bằng một sự lãnh đạm khó đổi, Grimmr vẫy tay ra hiệu. “Ta đồng ý.”
“Tộc ma mèo của Ngài quá khó hiểu và bí ẩn. Có điều tôi phải thú nhận rằng, cho tới tận ngày hôm nay, tôi chưa từng được nghe nhắc tới Đức ngài. Sự thực là tôi thậm chí còn không biết rằng tộc của ngài có một vị vua thống trị”.
“Ta là một vị vua không giống như vua của các người,” Grimrr nói. “Ma mèo vốn thích sống cô độc, nhưng kể cả vậy thì chúng ta cũng cần phải chọn ra một vị thủ lĩnh khi tham gia chiến tranh.”
“Tôi đã hiểu. Vậy, Ngài có đại diện cho toàn bộ tộc của Ngài, hay chỉ cho những người đi cùng ngài?”
Ngực Grimrr căng ra, và bộ mặt của lão thậm chí trông còn tự mãn hơn như thế, nếu có thể!
“Ta đại diện cho toàn bộ mèo ma, thưa Tiểu thư Nasuada,” ông ta gầm gừ nho nhỏ. “Tất cả những mèo ma khoẻ mạnh trên đất Alagaësia này đã đến đây gia nhập vòng chiến, ngoại trừ những bé mèo còn đang bú sữa. Mặc dù số lượng không nhiều, nhưng không có kẻ nào so sánh được với sự đáng sợ của chúng ta trên chiến trường. Và ta cũng có thể ra lệnh cho những ma mèo Nhất dạng, dù ta không đại diện cho chúng, vì chúng chỉ tầm thường như lũ súc vật khác. Tuy nhiên, chúng vẫn sẽ làm theo những gì mà chúng ta yêu cầu.”
“Nhất dạng?” Nasuada thắc mắc.
“Những kẻ mà được biết đến như những con mèo. Những kẻ không thể biến đổi hình dạng như chúng ta.”
“Và Ngài có được sự trung thành của chúng?”
“Đúng. Chúng ngưỡng mộ chúng ta... một điều cũng tự nhiên thôi .”
Nếu những điều ông ta nói là sự thật, Eragon nói với Saphira, thì vai trò của đám mèo ma này sẽ trở nên vô cùng lớn đó.
Rồi Nasuada nói. “Vậy để đổi lại sự giúp đỡ từ phía Ngài, Ngài mong muốn điều gì từ phía chúng tôi vậy, thưa Vua Halfpaw?” Cô liếc nhìn Eragon cười, rồi nói tiếp, “Chúng tôi có thể cho các ngài bao nhiêu mỡ cũng được, nhưng nếu yêu cầu của ngài hơn thế thì xin thứ lỗi vì tài nguyên của chúng tôi có hạn. Nếu các chiến binh của ngài mong muốn được trả công, thì tôi sợ là họ sẽ chỉ thất vọng thôi.”
“Mỡ chỉ dành cho mèo con và vàng thì chẳng là gì đối với chúng tôi,” Grimrr nói. Khi ông ta nói, ông ta giơ tay phải lên và mắt thì lim dim ngắm nhìn bộ vuốt. “Điều kiện của chúng ta chỉ là như sau: Với những ai chưa có vũ khí, thì chỉ cần được trang bị một chuỳ thủ để chiến đấu. Mỗi người trong chúng ta phải được trang bị hai bộ giáp vừa vặn, một bộ cho lúc chúng ta đứng bằng hai chân(3) và một bộ cho lúc chúng ta đứng bằng bốn chân(4). Ngoài những thứ đó ra thì chúng ta không cần gì cả – không lều trại, không chăn mền, không đĩa chén, không thìa muỗng. Hàng ngày, mỗi người chúng ta phải được ăn một con vịt, hoặc gà gô, hoặc gà hoặc một loại chim nhỏ, và cứ hai ngày thì chúng ta phải được ăn một bát gan tươi sống. Thậm chí nếu chúng ta không chọn thì những thức ăn đấy vẫn phải được cung cấp. Ngoài ra, nếu như các người chiến thắng cuộc chiến này, thì dù ai trở thành vua hoặc nữ hoàng kế tiếp – và cả những người kế vị tiếp sau đó – phải cũng phải đặt một chiếc đệm bông cạnh ngai vàng, và để một tộc nhân trong số chúng ta ngồi tại đó nhằm mục đích tôn vinh. Và đó là tất cả những gì chúng ta yêu cầu”.
“Ngài mặc cả cứ như một nhà lập pháp của tộc người lùn vậy” Nasuada nói bằng giọng khô khốc. Cô nghiêng người về phía Jörmundur, và Eragon nghe thấy tiếng cô thì thầm, “Chúng ta có đủ gan để nuôi họ không?”
“Thần nghĩ là đủ,” Jörmundur trả lời cũng bằng một giọng khô khan. “Nhưng điều đó còn phụ thuộc vào kích cỡ của bát.”
Nasuada ngồi thẳng lưng. “Hai bộ giáp là quá nhiều, thưa Đức vua Halfpaw. Các chiến binh của Ngài phải tự quyết dịnh xem họ muốn chiến đấu trong hình dạng loài mèo hay hình dạng con người và phải tuân thủ theo quyết định đó. Tôi không thể đáp ứng cho họ cả hai bộ giáp”
Nếu mà Grimmr có đuôi, Eragon đoán chắc rằng lão sẽ phe phẩy liên tục. Hầu như không động đậy, lão mèo trả lời “Rất tốt, thưa Tiểu thư Nasuada.”
“Còn một điều nữa. Galbatorix đã cài gián điệp và sát thủ khắp mọi nơi. Vì thế, như một điều kiện để gia nhập Varden, các người phải chấp nhận cho một pháp sư của chúng tôi kiểm tra tư tưởng, có như vậy chúng tôi mới đảm bảo được rằng Galbatorix không kiểm soát các ngài.”
Grimrr khụt khịt. “Nếu mà không làm vậy thì Người quá xuẩn ngốc rồi. Nếu có ai đủ cam đảm để đọc tư tưởng của chúng tôi thì cứ kệ họ. Nhưng không phải bà ta” – và ông ta chỉ vào Angela. “Không bao giờ là bà ta.”
Nasuada chần chừ, và Eragon có thể thấy cô muốn hỏi lí do nhưng cô đã tự kìm nén lại được. “Cũng được. Tôi sẽ gửi các pháp sư tới ngay lập tức và chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này một cách nhanh gọn. Tuỳ thuộc vào điều họ tìm thấy – và tôi đảm bảo là chắc chắn sẽ không có điều gì không may xảy ra –tôi rất vinh dự là người đã thúc đẩy quan hệ đồng minh giữa tộc mèo ma của Ngài và Varden, thưa Đức Vua Halfpaw”.
Sau lời cô nói, tất cả mọi người trong đại sảnh vỡ oà vì sung sướng và họ bắt đầu vỗ tay, bao gồm cả Angela. Ngay cả các vị tiên cũng tỏ ý vui mừng.
Tuy nhiên, đám ma mèo lại chẳng có phản ứng gì, ngoại trừ việc cố ép tai lại vì tiếng ồn làm chúng khó chịu.
Eragon rên rỉ và tựa lưng vào Saphira. Vòng tay quanh đầu gối, cậu trượt xuống qua lớp vảy gồ ghề của cô rồng cho tới khi ngồi xuống dưới đất, rồi cậu duỗi thẳng chân về phía trước.
“Anh đói quá!” Cậu la toáng lên.
Cậu và Saphira đang ngồi ở khoảng sân trong của lâu đài, cách xa đoàn người đang dọn dẹp những đống đá vụn và những cái xác chết rồi chất chúng lên xe ngựa, và dòng người đang ra vào toà lâu đài tan hoang. Nhiều người trong số họ đã từng chứng kiến cuộc gặp mặt giữa Nasuada và Vua Halfpaw và giờ họ đang tản ra để chấp hành những nhiệm vụ khác. Blödhgarm và bốn vị tiên đứng gần họ để đề phòng nguy hiểm.
“Ối!” một ai đó kêu lên.
Eragon ngước nhìn Roran đang đi từ tháp canh tiến về phía cậu. Angela theo sau đó vài bước, những sợi chỉ đan áo bay phấp phới trong khi bà lang nửa đi nửa chạy nhằm cố bắt kịp những sải chân dài của anh.
“Anh đang định đi đâu đây?” Eragon hỏi khi Roran dừng lại trước mặt cậu.
“Đi giúp canh phòng thành phố và sắp xếp đám tù nhân.”
“À...” Eragon đảo mắt qua khoảng sân nhộn nhịp trước khi nhìn vào khuôn mặt bầm tím của Roran. “Anh chiến đấu cừ lắm.”
“Em cũng thế.”
Eragon chuyển sự chú ý qua Angela. Bà lang vẫn còn đang bận đan, ngón tay bà di chuyển nhanh đến nỗi làm cậu không thể nhìn rõ bà đang làm gì. “Chíp chíp?” cậu hỏi.
Nét tinh quái hiện lên trên khuôn mặt Angela, bà lắc đầu làm mớ tóc xoăn tít lùng nhùng trên đầu nảy lên nảy xuống. “Để lúc khác ta sẽ kể cho cậu nghe.”
Eragon chấp nhận sự lảng tránh của bà mà không hề phàn nàn; cậu không hy vọng bà tự mình giải thích. Mà bà cũng hiếm khi làm như vậy.
“Còn em,” Roran nói. “Em định đi đâu?”
Bọn em định đi kiếm chút gì để ăn, Saphira nói, và dùng mõm đẩy nhẹ Eragon. Hơi thở cô nàng phả ra làm ấm cả người cậu.
Roran gật đầu. “Nghe hay đấy. Thế thì tối nay anh sẽ gặp lại bọn em ở doanh trại.” Trước khi quay người bỏ đi, anh nói thêm, “Nói với Katrina là anh yêu cô ấy nhé.”
Angela nhét cái áo đang đan của mình vào trong một cái túi mềm đeo trên thắt lưng. “Ta nghĩ mình cũng nên đi rồi. Ta cần phải đi xem lại thứ thuốc đang đun dở trong lều của mình, và ta cũng cần phải đi tìm một con ma mèo.”
“Grimrr ư?”
“Không, không – người bạn già của ta cơ: mẹ của Solembum, đương nhiên là nếu bà ấy vẫn còn sống. Và ta mong là vậy.” Bà đưa tay đặt lên lông mày, ngón cái và ngón trỏ chụm lại thành một vòng tròn, và bà nói bằng giọng vô cùng vui vẻ “Gặp lại cậu sau nhé!”, rồi bỏ đi.
Nhảy lên lưng em đi, Saphira nói, cô ả đứng dậy, để mặc Eragon tự leo lên.
Cậu trèo lên yên ở trên cổ cô rồng, và Saphira sải rộng đôi cánh, làm vang lên một thứ âm thanh xoàn xoạt êm ái như tiếng da chà nhẹ vào nhau. Cử động đó vô thanh vô tức tạo ra một cơn gió mạnh lan ra như sóng trên mặt hồ. Mọi người trong sân đều ngừng lại ngắm nhìn cô nàng.
Khi Saphira nâng cánh lên quá đầu, Eragon có thể nhìn thấy bên trong đó những mạch máu màu tía đang nảy lên từng hồi. Mỗi khi trái tim rồng mạnh mẽ của cô nàng truyền từng dòng máu đi khắp cơ thể, chúng trông như những con giun đang bò. Rồi với một cái lắc mình, cả thế giới quay cuồng quanh Eragon khi Saphira nhảy từ khoảng sân lên đầu tường lâu đài, chỉ dừng lại một chút để lấy thăng bằng trên lỗ châu mai. Cả đống đá nứt ra dưới móng vuốt của cô nàng. Cậu nắm chắc cái gai trên cổ Saphira để ngồi cho vững.
Mọi thứ chao đảo khi Saphira phóng mình khỏi bức tường thành. Lúc Saphira bay xuyên qua đám khói mù mịt lơ lửng phía trên Belatona như một lớp màn của sự đau khổ và tức giận, Eragon ngửi thấy một thứ mùi vị cay xè, làm cho mắt cậu đau buốt.
Saphira vỗ cánh hai cái thật mạnh, rồi cả hai bay thẳng ra khỏi đám khói, tắm mình trong ánh mặt trời và bay lượn phía trên những con đường lốm đốm lửa. Giữ nguyên hai cánh giang rộng, Saphira lượn một vòng, để cho đám khí nóng bên dưới nâng cô nàng lên cao hơn.
Dù rất mệt, nhưng Eragon vẫn ngắm nhìn cảnh vật tráng lệ trước mắt: cơn bão chuẩn bị nuốt gọn cả Belatona lúc này như đang gầm gừ, và rạng lên thứ ánh sáng bàng bạc và rực rỡ, trong khi đó ở phía xa là những đám mây đen như mực chẳng để lộ ra cái gì bên trong ngoại trừ những tia chớp vạch xuyên qua. Ở một hướng khác, một cái hồ sáng bóng và hàng trăm thuở ruộng nhỏ xanh mướt trải rộng khắp nơi cũng thu hút sự chú ý của Eragon, nhưng không thể làm cậu ấn tượng bằng núi mây trước mắt.
Như mọi khi, Eragon cảm thấy mình đươc quá may mắn mới được chiêm ngưỡng thế giới từ độ cao này, vì cậu biết rằng chỉ có rất ít người mới có cơ hội bay với một con rồng.
Khẽ vỗ nhẹ đôi cánh, Saphira bắt đầu lượn xuống dưới khu lều bạt màu xám trong doanh trại của quân Varden.
Một cơn gió mạnh thổi tới từ phía tây, báo hiệu cơn bão đang tới. Eragon cúi người, bám chặt tay hơn vào cái gai trên cổ cô rồng. Cậu nhìn thấy những gợn sóng bóng loáng chạy dọc trên những cánh đồng tạo thành từ các thân cây đang rạp mình xuống trước sức mạnh của cơn bão đang đến. Những ngọn cỏ phất phơ làm cậu liên tưởng tới bộ lông trên mình một con quái vật xanh to lớn. Một con ngựa hí lên khi Saphira bay sát nóc lều tới một khoảng trống dành riêng cho nó. Eragon nửa ngồi nửa đứng trên yên khi Saphira xòe cánh và giảm tốc độ từ từ, khiến cho đám đất dưới chân bị cày nát. Vụ va chạm khi cô nàng chạm đất hất tung Eragon về phía trước.
Xin lỗi, cô nàng nói. Em cố hạ cánh nhẹ nhàng hết mức có thể rồi.
Anh biết.
Ngay khi hạ xuống, Eragon nhìn thấy Katrina đang chạy hớt hải về phía cậu. Mái tóc màu nâu vàng ôm lấy khuôn mặt cô khi cô chạy qua bãi đất trống và sức ép của gió làm lộ ra vùng bụng đang lớn dần của cô qua lớp váy.
“Có gì mới không?” cô hỏi, vẻ lo lắng hiện lên rõ lên trên khuôn mặt cô.
“Chị đã nghe nói về chuyện ma mèo chưa...?”
Cô gật đầu.
“Không có tin gì mới hơn tin đó đâu. Roran vẫn ổn; anh ấy nói anh ấy yêu chị.”
Mặt cô nhẹ nhõm hẳn đi, nhưng cô vẫn chưa hoàn toàn hết lo lắng. “Thế anh ấy có ổn không?” Cô vân vê chiếc nhẫn trên bàn tay trái, một trong hai chiếc nhẫn mà Eragon đã phù phép cho cô và Roran để cho họ biết nếu người kia gặp nguy hiểm. “Chị nghĩ chị đã cảm nhận thấy điều gì đó, khoảng một tiếng trước, và chị đã sợ rằng...”
Eragon lắc đầu. “Roran có thể kể chuyện đó với chị. Anh ấy bị trầy xước và bầm tím đôi chỗ. Nhưng nói chung là ổn dù anh ấy đã doạ em sợ gần chết.”
Vẻ lo lắng trên mặt Katrina tăng lên. Sau đó, cô gượng cười: “Ít nhất là cả hai người vẫn an toàn.”
Sau khi họ chia tay, Eragon và Saphira đi tới một trong những cái lều bừa bộn gần khu nấu ăn của Varden. Ở đó, hai đứa nhét vào bụng những miếng thịt và rượu mật ong. Lúc này, gió đang rít gào và cơn mưa nặng hạt đang trút túi bụi xuống lều đồm độp.
Khi Eragon đang ngoạm một miếng thịt quay lớn thì Saphira hỏi, Có ngon không? Chắc là ngon tuyệt nhỉ?
“Ừm,” Eragon trả lời, nước mỡ chạy dọc xuống cằm cậu.
“Galbatorix là một kẻ điên nên không thể nói trước được gì, nhưng hắn cũng có những sơ hở trong cách suy luận mà người thường không nghĩ đến. Nếu con có thể tìm ra chúng, Eragon, thì có thể con và Saphira sẽ đánh bại hắn.”
Brom hạ cái tẩu xuống, mặt ông lộ vẻ từ tốn. ”Ta mong là con thành công. Mơ ước lớn nhất của ta, Eragon à, là được thấy con và Saphira sống hạnh phúc bền lâu, không chịu sự đe dọa từ Galbatorix và Đế quốc nữa. Ước gì ta có thể che chở con trước những hiểm nguy đang rình rập kia, nhưng hỡi ơi, điều ấy hoàn toàn vượt quá khả năng của ta. Tất cả những gì ta có thể làm là khuyên nhủ và dạy dỗ con khi ta còn đây … Con trai ta. Bất kể chuyện gì sẽ xảy ra, hãy nhớ rằng ta luôn yêu con, và mẹ con cũng thế. Chúc những vì sao sẽ luôn soi sáng cho con, Eragon Bromsson."
Eragon mở mắt ra khi ký ức ấy nhòa đi. Bên trên cậu là mái lều bị võng xuống, dãn ra như miếng da khô bị thấm nước*, sau khi được gột rửa bằng trận bão vừa qua. Một giọt nước từ khe hở xuống đùi phải, thấm xuyên qua lớp quần khiến làn da cậu trở nên lạnh ngắt. Cậu biết rằng cậu cần phải ra ngoài thắt chặt lại dây buộc lều, nhưng lại lưỡng lự khi phải rời giường.
Brom chưa từng đề cập với em về Murtagh? Ông chưa từng kể với em rằng Murtagh và anh là anh em cùng mẹ khác cha?
Saphia, đang co mình bên ngoài lều, nói, Dù anh có hỏi lại thì câu trả lời của em vẫn không thay đổi đâu
Vì sao thế nhỉ? Vì sao? Ông chắc chắn biết về Murtagh. Ông không thể nào không biết được.
Saphira chậm rãi hồi đáp, Nguyên do vì sao thì chỉ có Brom mới biết được, nhưng nếu em phải đoán, thì ắt hẳn ông từng nghĩ việc nói với anh rằng ông thương yêu anh đến nhường nào là trên hết, và cho anh những lời khuyên càng nhiều càng tốt, hơn là chừa chút thời gian còn lại để nói về Murtagh.
Ông đã có thể cảnh báo cho anh! Chỉ cần một vài từ thôi là đủ rồi.
Em không thể nói được điều gì đã khiến ông ấy làm vậy, anh Eragon à. Anh phải chấp nhận rằng sẽ có những câu hỏi về Brom mà anh không bao giờ lý giải được. Cứ tin vào tình thương của ông dành cho anh, và đừng để những điều khác quấy rầy anh.
Eragon gục mặt xuống và nhìn chằm chằm vào hai ngón tay cái. Cậu đặt chúng cạnh nhau để có thể so sánh dễ hơn. Ngón bên trái có nhiều nếp nhăn tại đốt thứ hai hơn ngón bên phải, trong khi ngón bên phải có một vết sẹo nhỏ và sần sùi mà cậu không tài nào nhớ ra đã có nó từ khi nào; mặc dù nó chỉ có thể xuất hiện vào khoảng thời gian tại buổi Huyết Lễ Agaetí Blödhren.
Cảm ơn em, cậu nói với Saphira. Qua cô nàng, cậu đã xem lại những lời nhắn nhủ của Brom ba lần kể từ khi thành Feinster sụp đổ, và mỗi lần cậu đều có thể nhận ra một vài chi tiết tiết trong đoạn hội thoại của Brom hay một số cử động của ông đã thất thoát. Những cảm nhận này khiến cậu cảm thấy thoải mái và thỏa mãn, vì nó đã toàn thành nguyện ước của đời cậu: biết được tên của cha ruột cậu và biết được rằng ông đã quan tâm đến cậu biết bao.
Saphira chấp nhận lời cảm ơn của cậu bằng cách phà ra một hơi ấm đầy trìu mến.
Mặc dù Eragon đã ăn và nghỉ được khoảng một tiếng đồng hồ, cảm giác mệt mỏi vẫn chưa hoàn toàn hết. Cậu cũng chẳng trông mong gì nhiều. Từ những gì đã từng trải, cậu hiểu rằng cậu sẽ phải tốn nhiều tuần để có thể hồi phục hoàn toàn sau một trận chiến được kéo dài, rất dài. Khi quân Varden tiếp cận Urû’baen, cậu và mọi thành viên trong quân đoàn của Nasuada sẽ càng lúc càng có ít thời gian để nghỉ ngơi trước khi cuộc đụng độ mới bùng lên. Chiến tranh sẽ vắt kiệt sức họ cho đến khi người họ nhuộm đầy máu, rã rời và miễn cưỡng tiếp tục chiến đấu, và khi ấy họ vẫn phải đối mặt với Galbatorix, kẻ đang chờ họ nạp mạng với sự ung dung và nhàn nhã của lão.
Cậu cố tránh nghĩ nhiều về những điều ấy.
Một giọt nước mưa nữa nhỏ xuống chân cậu, rét buốt. Cậu phát cáu lên, vung chân ra khỏi giường, bật thẳng người dậy, rồi đi một mạch đến mảnh vá đầy đất tại góc lều và quỳ xuống cạnh nó.
“Deloi sharjalví!” cậu niệm một tràng cổ ngữ cần thiết để phá giải các bẫy mà bản thân đã đặt hôm trước.
Miếng đất bắt đầu sủi bọt lên như nước gần sôi, trồi khỏi ụ đầy đá, côn trùng và dòi bọ, làm lộ ra một chiếc rương sắt dài hơn bốn mươi cen-ti-mét. Eragon cẩn thận vươn lấy nó và giải phép. Mặt đất liền trở lại bình thường một lần nữa.
Cậu đặt rương lên nền đất cứng. “Ládrin,” cậu thì thầm, và phất tay qua cái khóa không lồ đang ghịt chặt bản lề. Nó kêu “tách” và bật ra.
Ánh sáng vàng nhạt tỏa khắp căn lều khi cậu đẩy nắp rương lên.
Nằm gọn bên trong lớp vải nhung là Eldunarí của Glaedr, phần tinh túy nhất trong tim của một con rồng. Nó lớn như một viên đá quý phát quang ảm đạm, như một nhúm tro tàn đang lay lắt cháy. Eragon chụm tay lại và nâng mảnh Eldunarí đầy góc cạnh nhưng đủ để làm ấm lòng bàn tay của cậu lên, và chăm chú nhìn vào phần lõi đang phập phồng. Một dòng sao li ti cuộn tròn tại tâm mảnh đá, mặc dầu chuyển động của chúng có vẻ chậm hơn và số lượng các ngôi sao đã giảm đi rõ rệt so với lần đầu Eragon chạm vào nó tại Ellesméra, khi Glaedr tống nó ra ngoài và trao cho Eragon và Saphira.
Như thường lệ, Eragon bị cảnh tượng này mê hoặc, cậu có thể ngồi hàng ngày liền chỉ để ngắm dòng sao lưu chuyển bất tận.
Ta nên thử lần nữa, Saphira bảo, và cậu đồng tình.
Cả hai cùng tập trung tinh thần để vươn đến những nguồn sáng xa diệu vợi kia, chạm đến biển sao biểu trưng cho ý thức của Glaedr. Cái lạnh và bóng tối, rồi sự bùng cháy cùng nỗi tuyệt vòng và lòng thờ ơ mênh mang, chúng bào mòn ý chí của họ cho đến khi họ ngừng lại và khóc òa lên.
Glaedr … Elda, họ nức nở, nhưng lại không nhận được sự hồi đáp nào, sự thờ ơ ấy không mảy may thay đổi.
Cuối cùng, cặp người-rồng đành rút lui, không thể chịu đựng gánh nặng từ nỗi niềm của Glaedr thêm phút nào nữa.
Khi vừa trở lại chân thể, Eragon chợt phát hiện tiếng ai đó đang gõ vào cột chống lều, và rồi giọng Arya vang lên: “Eragon? Tôi vào được chứ?”
Cậu hít một hơi đầy và chớp chớp mắt để nhìn rõ hơn. “Tất nhiên.”
Ánh sáng xám lờ mờ từ bầu trời đầy mây hắt vào cậu khi Arya đẩy tấm bạt lều ra. Cơn đau nhói bỗng trào dâng khi mắt hai người chạm nhau – xanh lá, đầy kiên định và không thể nhìn thấu – và sự bức bối đầy thèm khát bao trùm lấy cậu.
“Có điều chi thay đổi chăng?” nàng hỏi, và từ từ khuỵu gối xuống cạnh cậu. Thay vì bộ chiến giáp, hiện nàng khoác bộ áo lông đen, quần dài và mang đôi giày đế mỏng, hệt như ngày cậu đã giải cứu nàng tại Gil’ead. Mái tóc nàng vẫn còn ẩm sau khi đã được gội và hiện đang xõa ra sau lưng cùng những lọn tóc bện dày và nặng. Hương lá thông phảng phất quanh nàng như thường lệ, khiến Eragon tự hỏi đấy là do nàng dùng phép hay là hương thơm tự nhiên. Cậu rất muốn hỏi, song lại không dám.
Để trả lời câu hỏi của nàng, cậu lắc đầu.
“Tôi thử được chứ?” Nàng ra dấu về phần tinh túy nhất trong quả tim của Glaedr.
Cậu bèn nhích sang một bên. “Cứ tự nhiên.”
Arya đặt đôi tay nàng lên Eldunarí và khép mắt lại. Trong lúc ấy, cậu bèn chớp lấy cơ hội được nhìn rõ nàng một cách lộ liễu và đầy chăm chú đến mức dễ gây phản cảm nếu trong trường hợp khác. Trong mọi khía cạnh, nàng là một người đẹp điển hình mặc dù cậu biết rằng những người khác sẽ bảo mũi nàng quá dài, hay mặt nàng quá góc cạnh, hay tai nàng quá nhọn hoặc tay nàng quá cơ bắp.
Với một tiếng hít vào đanh gọn, Arya rút tay ra khỏi Eldunarí như thể nó vừa làm bỏng tay nàng. Đoạn nàng cúi đầu xuống, Eragon có thể thấy chiếc cằm của nàng đang run lên nhè nhẹ. “Ông là sinh vật thống khổ nhất mà tôi từng biết … Ước gì ta có thể đưa tay ra giúp. Tôi không nghĩ ông ấy có thể tự giải thoát bản thân khỏi bóng tối đâu.
“Liệu nàng có nghĩ …” Eragon ngập ngừng, không muốn nêu lên nghi vấn của cậu, rồi tiếp tục: “Liệu nàng có nghĩ ông ấy sẽ phát điên không?”
“Có thể ông đã điên rồi. Nếu không thì có lẽ ông cũng đang bên bến bờ cuồng loạn.”
Nỗi u sầu nhấn chìm Eragon khi cả hai cùng nhìn vào mảnh đá ánh vàng ấy.
Khi cậu có thể trấn tĩnh bản thân, cậu bèn hỏi, “Dauthdaert đâu rồi?”
“Được giấu tại lều của tôi, tương tự như chàng đang giấu Eldunarí của Glaedr. Tôi có thể mang nó đến đây, nếu chàng muốn, hoặc tôi có thể trông chừng cho đến khi chàng cần đến nó.”
“Cứ giữ. Tôi không thể để nó bên người được, hoặc là Galbatorix sẽ phát giác ra sự tồn tại của nó. Hơn nữa, cứ giữ khư khư nhiều báu vật cùng lúc thì không được thông minh cho lắm.”
Nàng gật đầu.
Cơn bức bối trong người Eragon đã lên đến đỉnh điểm. “Arya, tôi–” Cậu chợt im bặt ngay khi Saphira trông thấy bóng của cậu con trai của thợ rèn Horst – Albriech, cậu nghĩ, mặc dầu cậu có chút khó khăn để có thể phân biệt được đứa bé với người anh của nó, Baldor, vì tầm nhìn không được chính xác mấy của Saphira – đang chạy về phía lều. Sự quấy nhiễu này khiến Eragon nhẹ lòng hơn, vì cậu cũng chẳng biết cậu sẽ nói những gì.
“Có người đến” cậu thông báo và che tấm bạt lều lại.
Tiếng chân bì bõm vang lên giữa dãy bùn bên ngoài. Và rồi Albriech, đúng là Albriech, nó hét lớn: “Anh Eragon! Anh Eragon!”
“Gì cơ?”
“Mẹ em sắp sinh! Cha bảo em đến đây để nhờ anh đến chờ cùng ông, trong trường hợp xảy ra biến cố thì sẽ cần đến pháp thuật của anh. Làm ơn, nếu anh có thể…”
Những lời còn lại của đứa bé đều bị Eragon bỏ ngoài tai vì bận khóa và giấu chiếc rương. Đoạn, cậu phủ chiếc áo khoác lên vai và có hơi lóng ngóng khi Arya chạm vào cánh tay cậu và nói: “Tôi có thể đi cùng chàng chăng? Tôi có một ít kinh nghiệm về việc này. Nếu người của chàng cho phép, tôi có thể khiến lần sinh nở này dễ dàng hơn cho bà ấy.”
Eragon không hề ngập ngừng khi đưa ra quyết định. Cậu nhanh chóng mở cửa lều ra. “Mời nàng.”
Bùn đất dính lên đôi ủng làm chậm đi bước chân của Roran, khiến cho đôi chân vốn đã mệt mỏi như bị thiêu đốt mỗi khi anh cố bước đi. Anh có cảm giác dường như cái nền đất lầy lội kia đang cố kéo tuột đôi giày của anh. Không những dày, đống bùn lại còn rất trơn. Lớp bùn thật sâu, chúng trở nên lầy lội dưới gót chân, khiến anh không thể đứng vững được. Dòng người, súc vật và xe cộ đi lại không ngớt, đã khiến cho lớp đất trên bề mặt dày mười lăm centimet gần như biến thành một đầm lầy không ai vượt qua được. Dọc hai bên con đường đi tới doanh trại của Varden, vẫn còn sót lại một vài nhúm cỏ dập nát. Nhưng Roran cho rằng chúng cũng sẽ sớm biến mất khi người ta buộc phải đi vòng qua để tránh bãi lầy lội ở giữa con đường.
Roran chẳng buồn tránh đống đất bẩn nữa, anh không còn bận tâm xem liệu quần áo còn sạch hay không. Anh đã quá kiệt sức rồi. Cứ tiếp bước theo một phương hướng vẫn dễ dàng hơn là phải lo lắng tìm một lối đi từ cụm cỏ này sang cụm cỏ khác để tránh đống đất bẩn.
Roran bước loạng choạng về phía trước, anh đang nghĩ tới Belatona. Từ sau khi Nasuada tiếp kiến ma mèo, anh đã được trao cho một vị trí chỉ huy ở khu Tây Bắc thành phố và anh đang phải cố gắng hết sức để kiểm soát khu vực này bằng cách cử lính đi dập hỏa hoạn, xây hàng rào chắn trên các con đường, tìm nhà ở cho binh lính và tịch thu vũ khí. Đó là một nhiệm vụ khổng lồ, và những việc cần hoàn thành làm anh cảm thấy tuyệt vọng, và lo sợ rằng những cuộc chiến sẽ lại một lần nữa bùng nổ trong thành phố. Mình hy vọng những tên ngu ngốc kia sẽ sống sót qua đêm nay.
Nửa người bên trái của Ronan chợt buốt nhói lên, anh đau đến mức nhe răng nhếch miệng và thở hổn hển.
Tên hèn nhát trời đánh thánh vật.
Kẻ nào đó đã bắn anh bằng một mũi tên từ trên nóc của một ngôi nhà. Và may mắn đã cứu anh thoát chết; ngay khoảng khắc tên hung thủ bắn mũi tên, Mortenson - một người lính dưới quyền anh - đã bước lên phía trước anh. Mũi tên bay xuyên từ lưng qua bụng Mortenson và vẫn còn đủ lực gây ra cho Roran một vết tím bầm đáng sợ. Mortenson chết ngay tại chỗ còn tên cung thủ thì đã trốn thoát.
Năm phút sau, một vụ nổ vang lên, dường như là do pháp thuật gây ra. Có thêm hai người lính nữa dưới quyền anh bị giết khi họ tiến vào một cái chuồng ngựa vì nghe thấy trong đó phát ra tiếng động lạ.
Từ những gì Roran biết được, những vụ tấn công kiểu này đã trở thành một chuyện bình thường khắp thành phố. Không nghi ngờ gì nữa, tay chân của Galbatorix chính là những kẻ đằng sau những vụ tấn công này, nhưng người dân Belatona cũng có phần trách nhiệm – những người đàn ông và phụ nữ không chịu đứng im khi một đội quân chiếm đóng, kiểm soát quê hương mình, dù cho ý định của quân Varden có cao cả thế nào đi chăng nữa. Roran có thể thông cảm được với những người cảm thấy họ phải bảo vệ gia đình mình, nhưng đồng thời, anh cũng nguyền rủa vì họ quá cố chấp mà không nhận ra rằng Varden đang cố giúp chứ không hại họ.
Anh gãi râu khi đợi một người lùn đẩy một con ngựa chất đầy hàng hóa đi qua, và sau đó tiếp tục cắm cúi tiến về phía trước .
Khi về tới gần lều, anh nhìn thấy Katrina đang đứng cạnh một chậu nước xà phòng nóng, giặt sạch một cái băng gạc dính máu bằng ván giặt(1). Tay áo của cô được xắn tới tận khuỷu tay, tóc cô được buộc lại thành một đống bù xù, và má cô đỏ hồng lên vì làm việc, nhưng với anh cô chưa bao giờ trông xinh đẹp đến vậy. Cô là niềm an ủi của anh – niềm an ủi và nơi nương tựa của anh – và chỉ cần nhìn thấy cô là bao nỗi mệt nhọc bao trùm người của anh sẽ biến đi mất.
Khi nhận thấy anh, Katrina liền lập tức bỏ việc giặt giũ lại, chạy về phía anh, lau khô đôi bàn tay hồng hào của cô lên mặt trước váy. Roran vòng tay lại ôm cô khi cô nhảy vào lòng anh, quấn hai tay quanh ngực anh. Nửa người anh buốt lên đau đớn, và anh bật thốt lên một tiếng rên ri.
Katrina nới lỏng tay và nghiêng người nhìn, nhíu mày. “Ôi! Em làm anh đau à?”
“Không... không. Anh chỉ hơi nhức thôi.”
Cô không hỏi thêm mà chỉ ôm anh lần nữa, nhẹ nhàng hơn, và ngước nhìn anh, mắt cô lóng lánh nước mắt. Ôm eo cô, anh cúi xuống và hôn cô, cảm thấy biết ơn khôn xiết vì cô đã hiện diện trong cuộc đời anh.
Katrina đặt tay trái của anh lên vai cô, và anh để cô dìu anh đi về lều. Thở dài một tiếng, Roran ngồi lên một gốc cây mà họ dùng làm ghế. Gốc cây này được Katrina đặt cạnh một một đống lửa nhỏ mà cô đốt để làm nóng chậu nước và bên cạnh đó là một nồi thịt hầm đang sôi.
Katrina múc đầy một bát thịt hầm và đưa cho anh. Cô mang từ trong căn lều ra cho anh một vại bia và một cái đĩa với nửa ổ bánh mì và một miếng pho mát. “Anh có cần gì nữa không?” cô hỏi với giọng khàn không bình thường.
Roran không trả lời mà ôm má cô, dùng ngón tay cái vuốt ve hai lần. Cô nở nụ cười bẻn lẽn và đặt tay lên tay anh, rồi quay lại giặt giũ một cách hăng say cứ như thế cô vừa được tiếp thêm năng lượng vậy.
Roran nhìn chăm chăm vào đống đồ ăn một lúc lâu trước khi cắn miếng đầu tiên; anh vẫn còn quá căng thẳng và anh nghi ngờ việc mình có thể nuốt hết đống thức ăn này vào bụng hay không. Tuy nhiên, sau vài miếng bánh mì, anh đã cảm thấy ngon miệng, và ăn ngấu nghiến bát thịt hầm.
Ăn xong, anh đặt đống đĩa xuống đất và ngồi sưởi ấm bàn tay trên nhóm lửa trong khi uống những hớp bia cuối cùng.
“Bọn em nghe thấy tiếng nổ khi những cánh cổng rơi xuống.” Katrina nói, trong khi tay đang vắt khô cái băng gạc. “Họ không trụ được lâu nhỉ.”
“Không.. Vì quân ta có một con rồng cơ mà.”
Roran nhìn vào bụng cô khi cô treo cái băng gạc lên dây phơi tạm thời chạy từ đỉnh lều của họ sang một cái bên cạnh. Mỗi lần nghĩ tới đứa con cô đang mang, đứa con mà hai người đã cùng nhau tạo ra, anh lại cảm thấy tự hào vô cùng, nhưng xen lẫn chút lo lắng vì anh không biết làm thế nào để đảm bảo cho đứa con của hai người một mái ấm an toàn. Hơn nữa, đến lúc Katrina sinh em bé mà chiến tranh còn chưa kết thúc, thì cô sẽ rời khỏi anh để đến Surda, nơi cô sẽ nuôi dạy đứa con của hai người trong cảnh tương đối an toàn hơn.
Mình không thể để mất cô ấy, không một lần nào nữa.
Katrina lại nhúng một tấm băng gạc khác vào chậu nước. “Còn trận chiến trong thành phố?” cô hỏi trong khi tay đang khuấy nước. “Nó diễn ra như thế nào?”
“Bọn anh phải chiến đấu để giành từng mẩu đất. Ngay cả Eragon cũng gặp khó khăn đấy.”
“Những thương binh có nhắc đến những máy bắn đá được lắp gắn bánh xe”
“Ừ”. Roran uống một ngụm bia làm ướt giọng, rồi sau đó tả lại ngắn gọn cách quân Varden tiến quân qua Belatona và những khó khăn mà họ đã gặp phải trong suốt cuộc hành trình. “Hôm nay bọn anh đã mất rất nhiều người, nhưng mọi chuyện đáng lẽ có thể tệ hơn. Tệ hơn rất nhiều. Rất may là Ngài Jörmundur và Đại tá Martland lên kế hoạch tiến công rất chu toàn.”
“Kế hoạch của họ sẽ không thành công nếu như không có anh và Eragon. Hai người là những người dũng cảm nhất đó.”
Roran cười khan một tiếng. “Ha! Và em biết vì sao không? Anh sẽ nói cho em nghe. Trong mười người thì không có lấy một người thực sự muốn tấn công địch nhân. Eragon không thấy điều đó vì lúc nào nó cũng ở tiền tuyến, lao vào chiến đấu với những tên lính trước mặt nó. Nhưng anh lại thấy. Hầu hết binh lính đứng lùi lại và không chiến đấu trừ khi họ bị dồn đến đường cùng. Hoặc họ chỉ khua khoắng vũ khí và cố tạo nên thật nhiều tiếng ầm ĩ nhưng thực chất lại chẳng hề chiến đấu gì cả.”
Katrina kinh hãi. “Làm sao lại có thể như thế được? Chúng là những kẻ hèn nhất như vậy à?”
“Anh không biết nữa. Anh nghĩ … anh nghĩ rằng, có lẽ, họ chỉ không thể nhìn vào mặt một người rồi giết người đó, mặc dù họ thấy dễ dàng để cắt đầu một tên lính quay lưng về phía họ. Vì thế họ đợi những người khác thực hiện việc họ không thể làm nổi. Họ đợi những người như anh.”
“Anh có nghĩ thủ hạ của Galbatorix cũng miễn cưỡng như vậy không?
Roran nhún vai. “Có thể Nhưng sau đó, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải phục tùng Galbatorix. Nếu lão ra lệnh cho họ chiến đấu, họ sẽ chiến đấu.”
“Nasuada cũng có thể làm thế. Cô ấy có thể sai đám pháp sư niệm chú để đảm bảo chắc chắn sẽ không một ai đào ngũ.”
“Thế thì, cô ta và Galbatorix còn gì khác gì nhau nữa chứ? Trong bất kỳ trường hợp nào, Varden cũng không chịu cho chuyện đó xảy ra đâu.”
Để lại đống băng gạc đang giặt, Katrina tiến lại và hôn lên trán anh. “Em mừng vì anh có thể làm điều anh đã làm,” cô thì thầm. Rồi cô lại quay lại chậu giặt và bắt đầu giặt một bộ quần áo bẩn. “Lúc trước em đã cảm giác gì đó, từ chiếc nhẫn... và em đã nghĩ rằng có thể chuyện gì xấu đã xảy ra với anh. ”
“Anh đang ở giữa một trận chiến mà. Sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả nếu như cứ vài phút là em lại thấy bồn chồn ấy chứ”
Cô dừng lại, tay vẫn đặt trong nước. “Nhưng trước kia em chưa từng bị như thế bao giờ.”
Anh uống cạn vại bia và cố tìm cách trì hoãn nói cho cô biết. Anh đã từng mong muốn chia sẻ với cô từng chi tiết về tai nạn của anh lúc ở trong pháo đài, nhưng rõ ràng là chừng nào mà còn chưa biết được sự thật thì cô ấy sẽ chẳng chịu đi nghỉ. Cố thuyết phục cô rằng không có chuyện gì thì chỉ khiến cô tưởng tượng ra những tai hoạ còn kinh khủng hơn điều thật sự xảy ra. Hơn nữa, sẽ là vô nghĩa nếu anh cứ giấu giếm vì đằng nào tin tức về vụ việc ấy sớm muộn cũng sẽ được truyền khắp Varden. Vì thế, anh kể lại cho cô. Anh kể ngắn gọn và cố biến vụ sụp tường thành nghe giống như một sự bất tiện nho nhỏ hơn là một tai hoạ khủng khiếp suýt chút nữa đã giết chết anh. Tuy nhiên, anh vẫn cảm thấy khó khăn khi miêu tả lại sự việc, và anh cứ ngắc ngứ nói, tìm kiếm những ngôn từ thích hợp. Khi anh kết thúc, anh im lặng như vẫn còn chìm trong ký ức.
“Ít ra anh cũng không bị thương phải không,” Katrina nói.
Anh lấy tay cạy vết nứt ở miệng vại bia và trả lời “Không.”
Tiếng nước bì bõm chợt dừng lại, và anh có thể cảm thấy đôi mắt của cô đang săm soi trên người anh.
“Trước đây anh đã từng đối diện với nhiều chuyện còn nguy hiểm hơn nhiều mà.”
“Ừ, anh cho là vậy.”
Giọng cô nhẹ đi. “Thế thì có chuyện gì xảy ra vậy?” Khi thấy anh không trả lời, cô nói. “Không có chuyện gì kinh khủng đến nỗi mà anh không thể nói với em, Roran. Anh biết điều đó mà.”
Móng tay cái của anh bị gãy khi anh lại cạy vại bia lần nữa và anh lại vân vê miếng vại bia bằng ngón tay trỏ không biết bao nhiêu lần. “Anh đã nghĩ rằng anh sắp chết khi bức tường sụp xuống.”
“Ai mà chẳng phải chết.”
“Đúng. Nhưng vấn đề là, anh đã không thèm để ý.” Roran đau khổ nhìn cô. “Em không hiểu sao? Anh đã từ bỏ. Khi anh nhận ra mình không thể thoát được, anh đã ngoan ngoãn chấp nhận nó như một chú cừu non rơi vào tay gã đồ tể, và anh...”. Không thể tiếp tục nói, anh hạ cốc bia xuống và úp mặt vào tay. Cổ họng bị sưng lên làm anh khó thở. Sau đó anh cảm thấy những ngón tay của Katrina đang đặt nhẹ trên vai anh. “Anh đã từ bỏ,” anh gầm lên, tức giận và phẫn nộ với chính bản thân mình. “Anh đã từ bỏ tranh đấu... Vì em... Vì con chúng ta...” Anh nghẹn ngào nói.
“Suỵt,” cô thì thầm.
“Trước đây anh chưa bao giờ từ bỏ. Chưa một lần nào... Kể cả khi tụi Ra’zac bắt em đi.”
“Em biết là anh không mà.”
“Cuộc chiến này phải kết thúc. Nó không thể cứ tiếp tục mãi thế này được... Anh không thể... Anh ...” Anh ngẩng đầu lên và sợ hãi khi thấy cô cũng sắp sửa nghẹn ngào khóc. Anh đứng dậy, vòng tay quanh người cô và ôm cô thật chặt. “Anh xin lỗi,” anh thì thầm. “Anh xin lỗi. Anh xin lỗi. Anh xin lỗi. Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa đâu. Không bao giờ nữa. Anh hứa đó.”
“Em không quan tâm tới chuyện đó,” cô nói, giọng cô nghẹn ngào trên vai anh.
Câu trả lời của cô khiến anh day dứt. “Anh biết anh đã yếu mềm, nhưng em phải tin lời anh chứ.”
“Em không có ý đó!” cô kêu lên và lùi lại nhìn anh với vẻ cáo buộc. “Đôi lúc anh là một tên ngốc, Roran ạ.”
Anh cười nhẹ. “Anh biết.”
Cô vòng tay ôm cổ anh. “Em sẽ không nghĩ xấu về anh, bất kể anh đã cảm thấy thế nào khi bức tường sụp xuống. Điều quan trọng duy nhất chính là anh còn sống... Anh chẳng thể làm được gì khi bức tường sụp, phải không nào?”
Anh lắc đầu.
“Thế thì anh chẳng có gì mà phải xấu hổ cả. Nếu anh có thể ngăn cho bức tường khỏi đổ, hoặc nếu anh có thể chạy trốn nhưng anh không làm, thì lúc đó em mới khinh thường anh. Nhưng anh đã làm hết những gì có thể, và khi anh không thể làm gì hơn, anh mới chịu chấp nhận số phận mà không hề oán thán. Đó là khôn ngoan chứ không phải yếu đuối.”
Anh cúi xuống và hôn lên lông mày cô. “Cám ơn em.”
“Và theo như những gì em được biết, thì anh chính là người đàn ông dũng cảm nhất, khoẻ mạnh nhất, và tốt bụng nhất mảnh đất Alagaësia này.”
Lần nay anh hôn lên môi cô. Sau đó, cô cười, xua đi những căng thẳng trong lòng, và cả hai đứng lên đu đưa, như thể đang khiêu vũ theo một giai điệu mà chỉ có hai người nghe thấy.
Rồi Katrina đẩy anh ra và tiếp tục giặt giũ, còn anh ngồi xuống gốc cây, và lần đầu tiên kể từ sau trận chiến cảm thấy toại nguyện, dù cho anh đang phải chịu cả đống đau đớn và thương tích.
Roran quan sát đám người, ngựa và thỉnh thoảng là vài người lùn hay đám Urgal cắm cúi đi qua căn lều của hai người, và anh để ý đến những vết thương và tình trạng vũ khí và khôi giáp của họ. Anh cố đánh giá sĩ khí của quân Varden; và kết luận duy nhất mà anh có thể đưa ra là mọi người đều cần một giấc ngủ say và một bữa ăn đầy đủ, ngoại trừ đám Urgal. Và mọi người, kể cả đám Urgal – mà không, đặc biệt là đám Urgal – cần phải được cọ rửa sạch sẽ từ đầu đến chân bằng một bản chải lông lợn và những cái sô đầy nước xà phòng.
Anh cũng ngắm nhìn Katrina, và anh thấy được khi cô làm việc, vẻ phấn khởi ban đầu trên khuôn mặt cô nhạt dần đi và cô trở nên cáu kỉnh hơn bao giờ hết. Cô cứ vò đi vò lại vài vết bẩn mà chẳng thể vò sạch được chúng . Mặt cô đen lại vì tức giận, và cô bắt đầu cáu gắt vài tiếng nhỏ.
Cuối cùng, khi cô ném mớ vải lên tấm ván giặt, làm bắn tung toé bọt xà phòng lên cao cả thước trong không khí, và cúi người về phía chậu giặt, môi mím chặt lại, thì Roran hết chịu nổi và đứng dậy đến bên cô.
“Nào, để anh,” anh nói.
“Thế không được đâu,” cô lẩm bẩm.
“Vớ vẩn. Ngồi xuống đi, để anh làm nốt cho ... Đi đi nào.”
Cô lắc đầu. “Không. Anh mới cần nghỉ chứ không phải em. Hơn nữa, đây không phải việc của đàn ông.”
Anh khịt mũi chế nhạo. “Quy định của ai thế? Đàn ông hay đàn bà thì cũng đều phải làm những việc cần phải làm. Nào, em ngồi xuống đi; em sẽ cảm thấy khá hơn khi ngồi xuống đấy”
“Roran, em ổn mà.”
“Đừng ngốc thế.” Anh nhẹ nhàng cố đẩy cô tránh xa khỏi chậu giặt, nhưng cô chẳng thèm nhúc nhích.
“Như vậy là không đúng,” cô kháng nghị. “Mọi người sẽ nghĩ thế nào chứ?” Cô chỉ về phía đám đàn ông đang vội vã trên con đường lầy lội bùn đất bên cạnh lều của hai người.
“Họ nghĩ gì kệ họ. Anh cưới em chứ không phải là họ. Nếu họ tin rằng vì giúp em khiến anh không còn là đàn ông nữa, thì họ là một lũ ngu.”
“Nhưng...”
“Không nhưng nhị gì hết. Đi đi. Xùy. Đi khỏi đây đi.”
“Nhưng...”
“Anh không định tranh cãi với em đâu đấy. Nếu em mà còn không ngồi xuống, anh sẽ bế em ra đằng kia và trói em vào gốc cây đó.”
Nét mặt cô đang từ cau có biến thành sửng sốt. “Thật thế à ?”
“Ừ. Giờ thì đi đi nào.” Khi cô miễn cưỡng rời bỏ vị trí chậu giặt đồ, anh nói mỉa cô.
“Em rất cứng đầu đấy nhỉ?”
“Có mà anh mới cứng đầu ấy. Anh có thể dạy một con la một vài trò đấy.”
“Không phải anh. Anh không cứng đầu.”. Cởi thắt lưng ra, anh cởi bộ áo giáp và treo lên cột lều, rồi cởi găng tay và xắn tay áo lên. Anh cảm thấy lành lạnh và đống băng gạc thậm chí còn lạnh hơn – chúng lạnh hơn khi được đặt quá lâu trên tấm ván giặt – nhưng anh không quan tâm, vì nước còn ấm và đống vải này rồi cũng nhanh ấm thôi. Những đống bọt bong bóng óng ánh dính trên cổ tay anh khi anh đưa đẩy quần áo dọc theo chiều dài của tấm ván giặt.
Anh liếc qua và hài lòng khi thấy Katrina đã đang ngồi nghỉ ngơi trên cái gốc cây, chí ít cũng nghỉ ngơi hết mức có thể như bất cứ ai khi ngồi trên một gốc cây xù xì như vậy.
“Anh có muốn uống một chút trà hoa cúc không?” cô hỏi. “Bà Gertrude cho em một ít sáng nay đấy. Em có thể pha một ấm cho hai chúng ta”
“Được đó.”
Bầu không khí ấm cúng lan toả giữa hai người khi Roran tiếp tục giặt đống quần áo còn lại. Công việc này làm cho tâm trạng anh trở nên thoải mái; anh thích dùng đôi tay của mình làm một việc gì khác hơn là vung búa lên chiến đấu, và được ở gần Katrina khiến anh cảm thấy thoải mái tột cùng.
Trong khi anh đang vắt khô miếng băng gạc cuối cùng, và tách trà mới pha kia đang nằm anh chờ ngay bên cạnh Katrina, thì anh nghe thấy tiếng ai đó đang réo gọi tên hai người từ bên kia của con đường tấp nập. Phải mất một lúc Roran mới nhận ra đó là Baldor đang chạy xuyên qua lớp bùn đất, xuyên qua giữa dòng người và ngựa, để tiến về phía họ. Cậu ta đeo một chiếc tạp dề thủng lỗ chỗ và một chiếc găng tay nặng nề dài tới khuỷu tay dính đầy nhọ, và cũ kĩ tới mức phần da ở các ngón tay cứng, nhẵn và sáng bóng như mai rùa. Một mẩu da rách nát buộc lại mái tóc đen, và xù xì của cậu, còn trán thì đầy nếp nhăn. Baldor thấp hơn cha cậu, chú Horst, và cả anh trai cậu, Albriech, nhưng cậu ta lại to con với những cơ bắp cuồn cuộn, đó là kết quả của việc cậu dành cả thời thơ ấu phụ giúp cha cậu trong xưởng rèn của ông. Cả ba cha con họ đều không tham gia trận chiến ngày hôm nay – vì thông thường thì những thợ rèn lão luyện quá quí giá để có thể để họ mạo hiểm trên chiến trường – mặc dù Roran ước gì Nasuada để họ chiến đấu, vì họ là những chiến binh có tài và Roran biết anh có thể trông cậy vào họ kể cả trong những hoàn cảnh khốc liệt nhất.
Roran đặt đống đồ giặt xuống và lau khô hai tay, phân vân xem có chuyện gì không ổn. Đứng dậy khỏi gốc cây, Katrina tiến lại gần anh cạnh chậu giặt.
Khi Baldor tới nơi, hai người phải đợi cậu vài giây đồng hồ để thở. Rồi sau đó, một cách vội vàng, cậu ta nói, “Đi nhanh nào. Mẹ em đang lâm bồn, và...”
“Dì ấy đâu?” Katrina bình tĩnh hỏi.
“Trong lều của nhà em.”
Cô gật đầu. “Anh chị sẽ đến đó nhanh nhất có thể.”
Khuôn mặt lộ ra vẻ cảm ơn, Baldor quay người và chạy nhanh về.
Khi Katrina chui vào lều, Roran dội chậu nước vào đống lửa, làm nó tắt ngấm. Khi chậu nước đổ xuống, những thanh củi đang cháy kêu lên xèo xèo, một đám hơi nước bốc hơi lên cao từ đống lửa thay vì khói, khiến không khí tràn ngập một thứ mùi khó chịu.
Sự sợ hãi và hưng phấn làm cho Roran vội vàng hẳn lên. Mình hy vọng dì không sao, anh nghĩ, khi nhớ lại cuộc trò chuyện của đám phụ nữ mà anh nghe được về tuổi tác của dì và việc mang bầu hơi lâu hơn so với bình thường của dì. Dì Elain luôn luôn đối tốt với anh và Eragon, và anh cũng rất quý dì.
“Anh chuẩn bị xong chưa?” Katrina hỏi khi cô bước ra khỏi lều, quấn thêm một chiếc khăn quàng màu xanh quanh đầu và cổ.
Anh chộp lấy thắt lưng và búa khỏi móc treo rồi nói: “Được rồi. Chúng ta đi nào.”
Chương 08 - Cái giá của quyền lực
Dịch: nhongcon_pupa
Biên dịch: thienthanh2807
Biên tập: lacmaitrang
Nguồn: www.tangthuvien.com
“Nào nào, tiểu thư. Người không cần những thứ này nữa. Một sự giải thoát đấy, tôi nghĩ thế.”
Với tiếng sột soạt nho nhỏ, mảnh vải lanh cuối cùng tuột khỏi bắp tay của Nasuada khi cô hầu gái của nàng, Farica, tháo bỏ lớp băng bó đi. Nasuada đã mang thứ này kể từ ngày nàng và chiến tướng Fadawar dò xét lòng can đảm của nhau qua cuộc Sát hạch Trường kích.
Nasuada đứng nhìn chăm chú vào tấm thảm thêu dài rách rưới với đầy những lỗ thủng trong lúc Farica phục vụ nàng. Rồi nàng lấy can đảm và từ từ nhìn xuống phía dưới. Kể từ ngày chiến thắng trong cuộc sát hạch, nàng đã không muốn nhìn vào những vết thương của mình; chúng quá kinh khủng khi vừa xuất hiện, nàng không thể chịu nổi cảnh tượng ấy cho đến lúc chúng gần lành lặn hẳn.
Những vết sẹo nằm ngổn ngang: sáu vết sẹo lồi dọc theo cánh tay trái, ba vết tại tay phải của nàng. Mỗi vết sẹo dài khoảng mười – mười hai cen-ti-mét và thẳng đuột, không tính đến vệt cuối cùng phía bên phải, nơi nàng đã mất tự chủ và bị một con dao chém vào, để lại một đường dài ngoằn ngoèo gấp đôi số còn lại. Lớp da non xung quanh những vết sẹo có màu hồng và hơi nhăn nhúm, nhưng bản thân vết sẹo lại chỉ nhạt hơn phần còn lại trên cơ thể nàng một chút, và điều này khiến nàng hài lòng. Nasuada từng sợ rằng chúng sẽ trở nên trắng sáng và bóng loáng, khiến chúng dễ gây chú ý hơn. Những vết sẹo lồi lên trên mặt cánh tay tầm nửa cen-ti-met, tạo thành những đường cơ thịt rắn chắc hệt như những cuộn dây thừng được bện vào bên dưới lớp da của nàng.
Nasuada cảm thấy hơi mâu thuẫn về những dấu tích này. Cha từng dạy nàng về những tục lệ của tộc khi nàng còn bé, nhưng nàng đã sống cả đời cùng quân Varden và tộc người lùn. Nàng chỉ được chứng kiến những nghi lễ của các bộ tộc du mục, và chỉ khi có việc bất thường, nàng mới liên hệ đến tôn giáo của họ. Nàng chưa từng mơ tưởng đến việc thuần thục Vũ điệu Trống, cũng như việc tham dự vào lễ Xưng Danh đầy khó khăn, hoặc – đặc biệt là việc này – tham gia vào cuộc Sát hạch Trường kích. Và nàng giờ đây, vẫn còn trẻ đẹp, đã mang chín vết sẹo lớn trên đôi tay. Nàng có thể ra lệnh cho một trong những thầy phù thủy tại Varden xóa chúng đi, đương nhiên, nhưng nếu nàng xóa bỏ những vết sẹo chứng minh nàng chiến thắng trong cuộc Sát hạch Trường kích, thì nàng phải trả giá bằng việc các dân tộc du mục không thừa nhận sự lãnh đạo từ nàng
Nàng vừa hối hận vì đôi tay mình đã không còn mịn màng và tròn trịa và sẽ không bao giờ thu hút ánh nhìn ngưỡng mộ từ cánh đàn ông nữa, vừa tự hào về chúng. Những vết sẹo là một minh chứng cho lòng dũng cảm và sự cống hiến thiết thực của nàng cho quân kháng chiến Varden. Bất kì ai nhìn nàng đều sẽ nhận khí chất ấy, và nàng đã quyết định rằng việc đó hữu ích hơn là bảo tồn vẻ bề ngoài của nàng.
“Chàng nghĩ sao?” nàng hỏi, và đưa tay về hướng vua Orrin, người đứng cạnh khung cửa sổ đang mở tại thư phòng, ông nhìn xuống thành phố với vẻ nghiên cứu.
Orrin xoay người và chau mày lại, đôi mắt ông đen láy bên dưới hàng lông mày hẹp màu nâu. Ông đã đổi từ bộ chiến giáp sang chiếc áo chùng dày màu đỏ và áo choàng bằng lông chồn trắng. “Ta cảm thấy không hài lòng khi nhìn vào chúng.” Ông nói, và tiếp tục nhìn chăm chú xuống thành phố. “Hãy che chúng lại, nó không hợp với phép lịch sự xã hội.”
Nasuada quan sát đôi tay nàng một lúc lâu. “Không, em sẽ không làm thế.” Nàng kéo mạnh dãy đăng ten đính liền một phần với ống tay áo cho thẳng thớm, rồi lệnh Farica lui ra. Nàng sải bước qua tấm thảm lộng lẫy ở giữa căn phòng do người lùn dệt để đến bên cạnh Orrin và cùng ông kiểm tra thành phố bị tàn phá bởi chiến tranh, điều khiến nàng hài lòng hơn hết đó là một trong hai đám cháy dọc theo bức tường phía Tây đã được dập tắt. Nàng chuyển ánh nhìn sang đức vua.
Trong một khoảng thời gian ngắn kể từ khi quân Varden và Surdan bắt đầu phát động tấn công Đế quốc, Nasuada thấy Orrin đã trở nên nghiêm nghị hơn rất nhiều, lòng nhiệt tình và tính cách lập dị vốn có của ông đã bị chôn vùi bởi vẻ ngoài đầy cứng rắn. Thoạt đầu, nàng vui mừng vì sự thay đổi này, vì nàng có thể cảm nhận được sự trưởng thành từ ông, nhưng khi chiến tranh kéo dài, nàng lại nhớ cái cách mà ông hào hứng tranh luận về các vấn đề khoa học tự nhiên, cũng như những tính cách khác của ông. Theo dòng hồi tưởng, nàng chợt nhận ra rằng đó là những tháng ngày tươi đẹp, ngay cả khi đôi lúc nàng cảm thấy chúng làm nàng phiền lòng. Hơn nữa, sự thay đổi này đã biến ông thành một đối thủ nguy hiểm; với tính cách hiện nay của ông, nàng có thể dễ dàng hình dung việc ông đang ngầm thay thế vai trò thủ lĩnh quân Varden của nàng.
Liệu ta có hạnh phúc khi lấy ông ấy? nàng tự hỏi. Orrin trông cũng không đến nỗi tệ. Mũi ông cao và nhỏ nhắn, song cằm ông lại bạnh và miệng ông sắc nét và đầy biểu cảm. Nhiều năm luyện tập võ thuật khiến ông có một thân hình cân đối. Chắc chắn rằng không ai có thể hoài nghi về tài trí của ông, và nhân cách của ông có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, nếu ông không có biểu hiện đe dọa đến vị trí của nàng và nền độc lập của Varden, nàng biết rằng nàng sẽ chẳng bao giờ có ý định đối đầu với ông.Liệu người ấy sẽ là một người cha tốt?
Orrin đặt tay ông lên thành đá hẹp và tựa người vào nó. Không nhìn nàng, ông nói: “Nàng phải phá vỡ hiệp ước với tộc Urgal.”
Lời tuyên bố này khiến nàng sửng sốt: “Và tại sao phải thế?”
“Bởi vì chúng đang gây bất lợi cho chúng ta. Những người lẽ ra gia nhập quân kháng chiến nay lại nguyền rủa chúng ta vì hành động liên minh với lũ quái vật và họ từ chối buông vũ khí khi cánh quân đến quê nhà họ. Sự chống cự của Galbatorix dường như hợp lý hơn vì chúng ta liên minh với Urgals. Dân thường không thể hiểu tại sao ta lại hợp tác với chúng. Họ không biết rằng Galbatorix dùng Urgals để tư lợi, cũng như việc lão lừa họ nhằm tấn công Tronjheim bằng lệnh từ Tà Thần. Nàng sẽ không thể khiến một nông dân hiểu được những điều tinh tế này. Họ chỉ biết rằng các sinh vật khiến họ vừa ghét vừa sợ đang trên đường tiến công đến nhà họ , dẫn đầu là một con rồng khổng lồ và một Kỵ sĩ trông giống tiên hơn là giống người.”
“Chúng ta cần sự ủng hộ của tộc Urgal,” Nasuada tiếp tục. “Quân ta đã giảm đi quá nhiều so với lúc ban đầu.”
“Ta không cần bọn chúng đến độ như thế. Nàng đã biết những gì ta vừa nói là đúng; vì sao nàng lại ngăn Urgals tham gia lần công thành Belatona? Vì sao nàng lại ra lệnh cho chúng không được vào thành? Chỉ cách ly chúng khỏi chiến trường thì chưa đủ đâu, Nasuada à. Những lời bàn tán về chúng vẫn sẽ lan ra khắp lục địa. Điều duy nhất nàng có thể làm để cải thiện tình hình là cắt bỏ điều bất hạnh này trước khi chúng gây thêm thiệt hại cho ta.”
“Em không thể.”
Orrin tiến sát nàng, sự giận dữ làm méo mó khuôn mặt ông. “Binh lính ta đang chết vì nàng đã chấp thuận trợ giúp từ Garzhvog. Người của ta, người của nàng, những người tại Đế quốc … chết vàbị chôn. Liên minh này không xứng với sự hy sinh của họ, và đối với tính mạng của ta, ta không thể hiểu tại sao nàng lại bảo vệ mối liên hệ này.”
Nàng không thể trụ vững trước ánh mắt của ông; chúng khiến nàng nhớ đến những mặc cảm tội lỗi cùng những lời cáo buộc nặng nề xuất hiện thường xuyên mỗi khi nàng cố thiếp đi. Thay vào đó, nàng vờ như chăm chú nhìn vào cột khói đen đang bốc lên từ một tòa tháp phía cuối thành phố. Chậm rãi mở lời, nàng nói, “Em bảo vệ điều ấy vì em mong rằng việc gìn giữ mối quan hệ với tộc Urgal sẽ cứu được nhiều mạng người hơn… Nếu chúng ta muốn đánh bại Galbatorix–”
Orrin “hừ” một tiếng đầy hoài nghi.
“Điều này không mang lại kết quả cao,” nàng nói, “Em biết. Nhưng chúng ta phải tính đến mọi trường hợp. Nếu chúng ta đánh bại lão, chúng ta sẽ gánh lấy việc khôi phục dân tộc từ lần nội chiến này và gầy dựng một cường quốc mới từ đống tro tàn của Đế quốc. Và quá trình ấy sẽ đảm bảo rằng, sau bao năm chiến trận, hòa bình đã đến. Em sẽ không lật đổ Galbatorix và để tộc Urgal phá bĩnh ngay tại thời điểm chúng ta suy yếu.”
“Có lẽ chúng sẽ làm thế. Trước đây chúng luôn như vậy.”
“Vậy thì, chúng ta có thể làm gì khác hơn?” nàng phản bác, tức giận. “Chúng ta phải cố gắng chế ngự chúng, khiến chúng phụ thuộc vào chúng ta, để chúng không có cơ hội phản bội chúng ta.”
“Ta sẽ nói cho nàng biết phải làm gì,” ông gầm lên. “Trục xuất chúng. Hủy thỏa thuận giữa nàng và Nar Garzhong và đày hắn cùng bầy đàn của hắn biệt xứ. Nếu chúng ta thắng trận này, thì chúng ta sẽ đàm phán về một hiệp ước mới, vì chúng ta đã ở thế muốn gì được nấy. Hoặc tốt hơn là cử Eragon và Saphira đến dãy Spine với một đạo quân để quét sạch chúng một lần và mãi mãi, là điều mà các Kỵ sĩ nên làm từ hàng thế kỷ trước rồi.”
Nasuada nhìn ông với vẻ bất mãn. “Nếu em cắt đứt thỏa thuận với tộc Urgal, họ sẽ nổi giận và tấn công chúng ta, chúng ta không thể chống chọi với họ và quân Đế quốc cùng lúc được. Để lâm vào tình cảnh ấy là một hành động hết sức điên rồ. Nếu, với trí thông minh của họ, tộc tiên, tộc rồng và các Kỵ sĩ cùng quyết rằng nên chừa cho tộc Urgal một con đường sống – mặc dầu những tộc ấy có thể hủy diệt họ trong chớp mắt – thì ta cũng noi theo gương ấy mà làm. Những tộc ấy hiểu rằng tận diệt tộc Urgal là sai, và chàng cũng nên hiểu là thế.”
“Với trí thông minh của chúng – Hừ ! Cứ y như rằng trí thông minh của chúng có ích lắm! Tốt thôi, chừa vài tên Urgal ra và giết số còn lại, khiến chúng không dám rời ổ trong vòng vài trăm năm nữa.”
Giọng nói đầy đau đớn và những vẻ gượng ép trên mặt ông khiến Nasuada bối rối. Nàng quan sát ông kỹ lưỡng hơn, cố xác định nguồn gốc của phản ứng kịch liệt này. Một vài phút sau, câu trả lời tự hiện ra, như phản ảnh, như tự minh bạch.
“Chàng đã mất ai?” Nàng hỏi.
Nắm tay Orrin vo tròn lại và từ từ, ngập ngừng đặt lên ngưỡng cửa sổ, như thể ông muốn nện một cú cật lực song lại không dám. Ông đánh vào thành cửa hai lần, và nói, “Một người bạn lớn lên cùng ta tại lâu đài Borromeo. Ta không nghĩ nàng đã gặp cậu ta lần nào. Cậu ta là một trong những trung úy tại kỵ đoàn của ta.”
“Anh ấy chết như thế nào?”
“Như nàng dự đoán thôi. Lúc mọi người vừa đến dãy chuồng ngựa ở cổng thành phía Tây và đang canh chừng không cho chúng quấy phá khi đó một tên trong số chúng lao ra từ cửa ngăn chuồng gần đó và đâm xuyên qua người cậu ấy bằng một cây chĩa. Khi tên đó bị dồn vào góc, hắn thét lên những lời vớ vẩn và vô nghĩa về lũ Urgal và về việc bọn hắn không bao giờ chịu sự chi phối… Điều đó chẳng thể giúp ích được cho hắn ngay cả khi thực sự có. Ta đã kết liễu hắn bằng chính đôi tay này.”
“Em rất tiếc,” Nasuada nói.
Những viên ngọc quý trên vương miện chiếu sáng lấp lánh khi ông gật đầu.
“Dù có đau đớn cách mấy, chàng vẫn không thể để sự đau buồn chi phối quyết định của chàng … Việc ấy rất khó, em biết – em biết chứ - nhưng chàng phải trở nên mạnh mẽ hơn bản thân, vì lợi ích của thần dân.”
“Trở nên mạnh mẽ hơn chính bản thân,” ông nhại lại bằng chất giọng đầy chua chát.
“Vâng. Thần dân đòi hỏi ở chúng ta nhiều hơn những người khác; vì vậy chúng ta phải phấn đấu hết sức để chứng tỏ rằng chúng ta xứng đáng với trọng trách ấy… Tộc Urgal đã giết cha em, chàng nên nhớ điều đó, nhưng em vẫn nén mình để chúng trở thành đồng minh với Varden đấy thôi. Em sẽ không cho phép bất cứ điều gì gây cản trở cho việc họ và quân đội của chúng ta trở thành một thể thống nhất, bất chấp việc ấy có gây đau khổ đến đâu.” Nàng nâng đôi tay lên, bày những vết sẹo ra trước mặt ông lần nữa.
“Thế, đó chính là câu trả lời của nàng? Nàng sẽ không cắt đứt với lũ Urgal?”
“Không.”
Orrin chấp nhận việc này với thái độ bình tĩnh đến mức nó khiến nàng lo lắng. Rồi ông ghịt chặt mảnh nhung bằng cả hai tay và tiếp tục quan sát thành phố. Trên các ngón tay của ông là bốn chiếc nhẫn, một trong số đó là chiếc ấn hoàng gia của Surda được khắc trên mặt thạch anh tím: một con nai có gạc sừng với những nhánh tầm gửi đâm vào chân tạo thành nhiều vết thương nó đứng trên một chiếc đàn hạc và đối diện là hình ảnh một pháo đài vững chắc.
“Chí ít,” Nasuada nói, “quân chúng ta vẫn chưa đụng độ những đội lính vô cảm.”
“Ý nàng là lũ xác sống biết cười,” Orrin lầm bầm, sử dụng thuật ngữ khá thông dụng trong quân Varden. “À, và Murtagh hay Thorn, những người này làm ta băn khoăn.”
Sau một khoảng trầm mặc, nàng nói, “Thí nghiệm lúc tối qua của chàng ra sao? Có thành công không?”
“Ta quá mệt mỏi để có thể xem xét nó. Thay vào đó, ta đã ngủ thiếp đi.”
“À.”
Vài phút sau, bằng một sự đồng ý ngầm, họ cùng tiến đến bàn làm việc được dựng sát vách lâu đài. Hàng núi giấy cứng, thẻ gỗ và cuộn giấy da chất đầy cả mặt bàn. Nasuada quan sát tổng quát khung cảnh dễ làm nản lòng này và thở dài. Chỉ nửa tiếng trước, nơi này không có gì, nó đã từng được cô hầu của nàng dọn dẹp sạch sẽ.
Nàng tập trung lên đoạn báo cáo quá-ư-là-quen-thuộc, một danh sách ước lượng số tù binh mà quân Varden bắt sống trong đợt công thành Belatona, với những cái tên của các nhân vật quan trọng được gạch dưới bằng mực đỏ. Nàng và Orrin đã thảo luận về việc ấy từ khi Farica trở lại để tháo dải băng cho nàng.
“Em chẳng thể nghĩ được cách thoát khỏi mớ bòng bong này,” nàng thừa nhận.
“Ta có thể tuyển thêm lính gác từ những người này. Như thế, ta sẽ không cần phải lưu lại quá nhiều binh chính quy.”
Nàng chọn ra một bản báo cáo. “Có thể, nhưng sẽ rất khó để ta tuyển được người phù hợp, và các thầy phù thủy đang trong nguy cơ làm việc quá sức …”
“Du Vrangr Gata đã tìm ra phương thức phá vỡ lời tuyên thệ bằng cổ ngữ chưa?” Ngay khi Nasuada đưa ra đáp án tiêu cực, ông tiếp tục hỏi, “Họ đã thật sự bắt tay tìm kiếm chưa?”
“Không có tin tức thiết thực. Em cũng đã hỏi tộc tiên, nhưng họ cũng chẳng gặp may suốt bao năm qua hơn chúng ta trong vài ngày vừa rồi đâu.”
“Nếu vấn đề này không được giải quyết sớm, ta có thể phải trả giá bằng chiến tranh”, Orrin nói, “Chính vấn đề này, ngay tại đây.”
Nàng day day hai bên thái dương. “Em biết”. Trước khi rời khỏi sự bảo hộ của tộc người lùn tại Farthen Dûr và Tronjheim, nàng đã cố lường trước mọi thách thức mà Varden sẽ đối mặt khi giành thế chủ động. Tuy nhiên, yếu tố đang đe dọa họ lại khiến nàng hoàn toàn ngạc nhiên.
Vấn đề đầu tiên đã sáng tỏ trận chiến trên Cánh đồng Cháy kết thúc, khi họ nhận ra rằng toàn bộ các tướng lĩnh trong quân đoàn của Galbatorix, và phần lớn các binh lính của lão đều bị ép phải thề nguyền sự trung thành của họ với Galbatorix và Đế quốc. Nàng và Orrin nhanh chóng nhận ra rằng hai người không thể tin vào số người này một khi tên bạo chúa cùng Đế quốc của hắn còn tồn tại, và có lẽ ngay cả khi cả hai điều kiện này biến mất. Hệ quả là những người trong số ấy không được phép gia nhập quân đội Varden, dù họ có muốn cách mấy đi chăng nữa vì phần đông đều e ngại sự chi phối của lời thề.
Nasuada chưa toàn tâm chú ý đến tình hình vào thời điểm ấy. Tù binh là minh chứng cho chiến tranh, và nàng đã cùng vua Orrin định sẵn sẽ đưa họ về Surda giam giữ, nơi các binh lính bị bắt sẽ phải tham gia xây dựng đường sá, khai thác đá, đào lũy và các công việc nặng nhọc khác.
Mãi cho đến khi quân Varden nắm quyền tại thành phố Feinster, nàng mới có thể nhìn thấu toàn bộ sự tình.
Gián điệp của Galbatorix không chỉ ép buộc các binh sĩ phải thề nguyền lời thề trung thành, mà còn cho những nhà quý tộc, cho những quan chức hiện đang phục vụ cho phe đồng minh, cho những cá nhân riêng lẻ nằm rải rác trong thành phố - với số lượng người bị tình nghi nhiều đến nỗi nàng chắc rằng quân Varden không thể nhận biết hết được.
Có nhiều người mà họ đã nhận ra, tuy vậy, vẫn phải cố gắng giữ nguyên và không dám truy ra, vì sợ rằng những người đó sẽ cố gắng lật đổ Varden.
Tìm những người đáng tin cậy, rồi đến những người muốn gia nhập quân kháng chiến khó khăn hơn Nasuada dự đoán rất nhiều.
Bởi vì cần phải lưu giữ toàn bộ những người cần thiết, nàng không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc để lại gấp đôi số lính chính quy tại Feinster so với dự tính ban đầu. Và, với số lượng tù binh quá đông, thành phố ngày càng tê liệt, ép nàng phải hướng nguồn cung cấp từ căn cứ chính của Varden đến đó nhằm tránh nạn đói hoành hành. Họ không thể duy trì trạng thái này được lâu, và tình huống càng tệ hơn khi họ cũng đang khống chế thành Belatona.
“Thật đáng tiếc vì tộc người lùn chưa trở về,” Orrin nói, “Chúng ta có thể trông cậy vào họ.”
Nasuada đồng tình. Hiện nay chỉ có vài trăm người lùn trong quân ngũ của Varden; phần lớn trong số họ đã trở về Farthen Dûr để dự lễ chôn cất vị vua quá cố Hrothgar, và đợi tộc trưởng của các bộ lạc chọn ra người kế vị, việc mà nàng đã nguyền rủa không biết bao nhiêu lần. Nàng đã cố thuyết phục phía người lùn hãy bổ nhiệm một người đại diện tại thời buổi chiến tranh, nhưng họ lại cứng đầu như đá và khăng khăng quyết rằng sẽ tiếp tục các nghi lễ cổ truyền, mặc dầu việc ấy đồng nghĩa với việc bỏ rơi các chiến dịch còn dang dở của quân Varden. Trong loạt sự kiện ấy, tộc người lùn cuối cùng đã chọn ra được vị vua mới – cháu trai của Hrothgar, Orik – và đã xuất chinh từ dãy núi Beor xa xôi để tái nhập với quân Varden. Ngay tại thời điểm này, họ đang hành quân xuôi theo những cánh đồng rộng thênh thang tại phía Bắc Surda, đâu đó ở giữa hồ Tüdosten và sông Jiet.
Nasuada tự hỏi rằng liệu họ có thể chiến đấu cho đến khi những người lùn đến đây không. Như một luật bất thành văn, tộc người lùn vốn khỏe mạnh hơn loài người, nhưng họ đã bỏ ra hai tháng để cuốc bộ, và việc ấy có thể gây mệt mỏi cho cả những giống sinh vật khỏe mạnh nhất. Ắt hẳn họ đã phát ngấy vì phải trông thấy cùng một khung cảnh trong khoảng thời gian dài, nàng nghĩ thế.
“Chúng ta đã có quá nhiều tù binh rồi. Và một khi ta chiếm cứ Dras-Leona …” nàng lắc đầu.
Một ý nghĩa bất ngờ xuất hiện, Orrin nói, “Nếu chúng ta bỏ qua Dras-Leona thì sao?” Ông mày mò trong chồng giấy da trên bàn cho đến khi tìm được một bản đồ vẽ tay to tướng về Alagaësia của người lùn, trải dài nó trên các bản báo cáo về vấn đề hành chính. Địa hình nhấp nhô khiến cả vùng đất có hơi bất thường: một vài đỉnh nhọn nhô lên tại phía Tây rừng Du Weldenvarden; vết trũng xuống tại dãy núi Beor; những hẻm núi và khe núi xuyên suốt sa mạc Hadarac; những dãy đá chảy dài xuyên suốt từ phần xa nhất ở hướng Bắc của dãy Spine, tạo ra nhiều gợn lăn tăn bên dưới. “Nhìn này.” Với ngón giữa, ông vạch ra một đường từ Belatona đến thủ đô của Đế quốc, Urû’baen. “Nếu chúng ta đánh thẳng vào đây, chúng ta sẽ chẳng cần phải đến gần Dras-Leona. Sẽ có chút khó khăn khi phải vượt một quãng dài như vậy, nhưng chúng ta sẽ làm được.”
Nasuada không cần phải cân nhắc lời đề nghị của ông; nàng đã tính đến đến khả năng này từ lâu. “Rủi ro quá lớn. Galbatorix vẫn có thể tấn công chúng ta bằng số binh lính đang phòng thủ tại Dras-Leona với số lượng không nhỏ, nếu gián điệp của ta đủ độ tín nhiệm thì ta sẽ bị kẹt vào thế gọng kìm từ hai phía. Em không biết cách nào để thua nhanh hơn như thế trong một trận chiến, hay một chiến trường. Không, chúng ta bắt buộc phải chiếm Dras-Leona.”
Orrin thừa nhận điểm này bằng cách hơi nghiêng đầu xuống. “Thế thì chúng ta cần triệu binh từ Aroughs. Chúng ta cần tất cả các chiến binh nếu muốn tiếp tục.”
“Em biết. Em đã dự trù để chắc rằng cuộc vây hãm sẽ hoàn tất trước khi hết tuần.”
“Không phái Eragon đến đó, ta mong là thế.”
“Không, em có kế hoạch khác.”
“Tốt. Và trong khoảng thời gian này? Chúng ta sẽ làm gì với số tù nhân?”
“Như chúng ta đã làm khi trước: canh phòng, tập trung tụ điểm và tuần tra. Có lẽ ta nên yểm chú hạn chế cử động để không cần phải trông chừng chúng từng li từng tí. Em không nghĩ ra hướng giải quyết khác, trừ việc xử tử hàng loạt, và em thà –” Nàng cố mường tượng những điều nàng sẽ không thực hiện chỉ để đánh bại Galbatorix. “Em thà không cần dùng cách thức tàn nhẫn như thế.”
“Tốt.” Orrin cúi xuống bản đồ, co vai lại như một con kền kền khi ông nhìn chăm chú vào những nét chữ nguệch ngoạc đã mờ đi khi nối ba đỉnh Belatona, Dras-Leona và Urû’baen với nhau.
Và ông giữ nguyên tư thế ấy cho đến khi Nasuada lên tiếng, “Còn việc gì khác mà chúng ta phải duyệt nữa không? Jörmundur đang chờ lệnh và Hội đồng Bô lão gửi thỉnh cầu để được yết kiến em.”
“Ta lo.”
“Về chuyện gì?”
Orrin đặt một tay lên bản đồ. “Rằng việc này đã vượt quá tưởng tượng từ lúc bắt đầu… Rằng lực lượng của ta và của các đồng minh đã bị phân tán đến mức đáng sợ, và nếu Galbatorix đích thân tham dự cuộc chiến này, lão có thể tiêu diệt chúng ta dễ như khi Eragon và Saphira giết một bầy dê. Toàn bộ các chiến lược của chúng ta đều phụ thuộc vào việc xoay sở sao cho Eragon, Saphira cùng các phù thủy phe chúng ta cùng lúc đối mặt với Galbatorix. Hiện trong quân chúng ta chỉ có một số lượng nhỏ các phù thủy có thể huy động, và chúng ta sẽ không thể tập hợp tất cả bọn họ cho đến khi chúng ta đến được Urû’baen và hợp lực với nữ hoàng Islanzadí và quân đội của bà. Cho đến lúc ấy, chúng ta vẫn dễ bị tập kích đến mức đáng thương. Chúng ta vẫn đang mạo hiểm để đánh cược rằng sự khinh người của Galbatorix sẽ khiến lão ở thế bị động, tới lúc cái bẫy của chúng ta ập xuống đầu lão.”
Nasuada thấu hiểu mối lo của ông. Tuy nhiên, vực dậy lòng tự tin của Orrin quan trọng hơn là tỏ ra lo ngại cùng với ông, vì nếu ông trở nên bạc nhược, điều ấy sẽ làm ảnh hưởng đến trách nhiệm của ông và làm giảm sĩ khí của binh lính. “Chúng ta hoàn toàn không thể phòng thủ,” nàng nói, “Không làm gì nữa. Dauthaert hiện nằm trong tay ta, và với thứ vũ khí ấy, em nghĩ chúng ta có thể hạ gục Galbatorix và Shruikan, khi chúng có thể gia nhập trận trấn thành Urû’baen.”
“Có lẽ thế.”
“Hơn nữa, lo lắng suông chẳng giúp ích được gì. Chúng ta không thể thúc giục người lùn đi nhanh hơn, hay đẩy mạnh quá trình tiến tới Urû’baen, hay cúp đuôi bỏ chạy. Vì vậy em sẽ không để tình huống hiện tại ảnh hưởng quá đáng đến chàng đâu. Tất cả những gì chúng ta cần làm là phấn đấu để đối mặt với số phận, dù bất cứ điều gì đang chờ chúng ta đi chăng nữa. Nói cách khác là em sẽ không cho phép những hành động của Galbatorix làm bấn loạn tâm trí. Em không chấp nhận việc bị quyền lực của lão chi phối như thế.”Chương 09 - Rudely into the light
Dịch: Tobano & Dark_Blood
Biên dịch: Tobano & Dark_Blood
Biên tập: VôHưKhông
Nguồn: www.tangthuvien.com
Một tiếng thét chói tai, lớn và cao kỳ lạ vang lên.
Eragon cứng người như thể có ai đâm cậu bằng một mũi kim vậy. Mặc dù đã dành hầu hết cả ngày cho việc chứng kiến cảnh binh sĩ tàn sát nhau - ngay cậu cũng giết được vài người - nhưng cậu vẫn không thể không lo lắng khi nghe tiếng la đau đớn của dì Elain. Thanh âm của dì khó nghe đến mức cậu bắt đầu tự hỏi liệu dì có thể sống sót nổi qua lần sinh này không.
Bên cạnh cái thùng gỗ Eragon đang ngồi, Albriech và Baldor đang ngồi chồm hổm ngắt mấy cọng cỏ dưới chân. Những ngón tay thô dày của hai người mò mẫm rà soát rất kỹ qua từng luống cỏ bằng một phương pháp nhất định trước khi nghiền nát chúng. Trán của họ đẫm mồ hôi, hai cặp mắt ánh lên vẻ giận dữ và tuyệt vọng. Thi thoảng cả hai lại trao đổi ánh nhìn hay nhìn tới túp lều của dì Elain, ngoài ra hai anh em chỉ biết cúi nhìn xuống đất và phớt lờ mọi thứ xung quanh.
Cách đó vài thước, Roran cũng đang ngồi trên một chiếc thùng như Eragon, chỉ có điều do nằm ngang nên mỗi khi anh cử động, cái thùng cũng chuyển động theo. Một vài người khác từ làng Carvahall cũng tụ tập dọc theo con đừơng đầy bùn đất, đa phần là đám đàn ông có quen biết với chú Horst và hai người con của chú ấy , hoặc có vợ đang phụ giúp cho bà lang Gertrude chăm sóc cho dì Elain. Sừng sững đằng sau họ là Saphira. Chiếc cổ của cô ả cong vòng như cánh cung được kéo căng, trong khi phần chóp đuôi của nó cứ ngoe nguẩy như lúc đi săn. Ả rồng liên lục le chiếc lưỡi đỏ thẫm của mình giống như đang "nếm" trong không khí mùi vị của dì Elain và đứa con chưa chào đời của dì ấy vậy.
Eragon xoa bóp phần cơ bị nhức mỏi trên cánh tay trái. Họ đã chờ được vài tiếng rồi, trời cũng đã bắt đầu nhá nhem tối. Những cái bóng đen sẫm được kéo dài ra từ mọi vật, hướng về phía đông tựa như đang cố với lấy chính đường chân trời. Không khí đã dịu mát xuống bớt, đám ruồi muỗi từ dòng sông Jiet gần đó đang lượn lờ vo ve chung quanh họ.
Một tiếng thét nữa phá tan bầu im lặng.
Đám đàn ông đứng ngồi không yên. Họ làm các cử chỉ giống như đang xua đuổi đi những rủi ro không thể ngờ tới và thì thầm với nhau những lời, mặc dù rất nhỏ, Eragon vẫn nghe rõ mồn một. Họ đang bàn tán về cái thai của dì Elain; một số còn nghiêm trọng hóa rằng nếu bà ấy không sinh đứa bé ra sớm, cả hai rất có thể bị nguy hiểm đến tính mạng. Vài người khác thì nói rằng "Thật khổ cho một thằng đàn ông nếu vợ mất vào thời bình, nhưng ngặt nỗi lại vào ngay lúc này, ngay lúc này đây," hoặc "Thật bất hạnh..." Một số khác thì đổ lỗi cho những rắc rối giữa dì và đám Ra'zac hay những sự kiện diễn ra trong thời gian cả làng du hành đến căn cứ quân Varden. Cũng có khá nhiều người nghi ngờ về sự giúp đỡ của Arya cho buổi sinh nở này. "Cô ta thuộc về Tiên tộc, chứ không phải Con Người," lão thợ mộc Fisk nói. "Đáng lẽ cô ta chỉ nên lo lắng chuyện trong tộc, chứ không phải dí mũi vào chỗ không phải của mình. Ai mà biết được mục đích thực sự của cô ta chứ?"
Eragon còn nghe được nhiều thứ khác, nhưng cậu quyết định giữ im lặng vì cậu chẳng muốn làm dân làng khó chịu hơn khi biết thính giác của mình giờ đã phát trểin vượt bậc.
Chiếc thùng phía dưới Roran phát ra vài tiếng cót két khi anh rướn người về phía trước. "Cậu nghĩ chúng ta có nên..."
"Không cần," Albriech trả lời.
Eragon siết chiếc áo choàng vào sát người hơn. Cái lạnh đã bắt đầu ngấm vào xương tủy của cậu. Nhưng cậu quyết định sẽ không rời đi cho đến khi dì Elain hoàn tất việc sinh nở.
"Nhìn kìa," Roran reo lên đầy hưng phấn.
Albriech và Baldor đồng thời ngẩng đầy lên.
Từ bên kia, Katrina bước ra khỏi lều, xách theo một đống giẻ dơ bẩn. Trong một khoảnh khắc trước khi cửa lều đóng lại, Eragon nhìn thoáng được bóng của chú Horst và một người đàn bà khác từ làng Carvahall - cậu không chắc là ai - đứng ở chân giường nơi dì Elain đang nằm.
Khẽ liếc sang đám người đang nhìn, Katrina nửa đi nửa chạy tới chỗ bà Isold, vợ của Fisk, đang đun sôi những chiếc giẻ để tái sử dụng.
Chiếc thùng kêu cót két khi Roran chuyển thế ngồi. Eragon có phần hi vọng Roran sẽ đuổi theo chị Katrina, nhưng anh ta vẫn ngồi nguyên tại chỗ giống như Albriech và Baldor. Họ và cả đám dân làng Carvahall đều theo sát từ động tác của Katrina đến mức không chớp mắt.
Eragon cau mày khi tiếng thét của dì Elain một lần nữa xé toang bầu không khí, lần này nghe cũng chẳng khá hơn lần trước.
Cửa lều lại được vén lên lần nữa, tiếp đó là Arya xông mạnh ra ngoài, cùng với mái tóc rối bời và hai cánh tay áo đã bị xăn lên. Tóc của nàng lòa xòa trước mặt khi nàng bước nhanh đến phía dưới một mái hiên gần đó, chỗ ba cận vệ Tiên tộc của Eragon đang đứng. Trong vài khắc, nàng trao đổi vài lời cấp bách với một vị tiên nữ có khuôn mặt gầy gò tên Invidia, rồi nàng mau chóng quay ngược lại căn lều.
Eragon bắt kịp Arya trước khi nàng phóng đi thêm được vài mét. "Thế nào rồi?" cậu hỏi.
"Tệ lắm."
"Làm gì mà lâu dữ vậy? Em không thể làm dì ấy sinh đứa bé ra nhanh hơn được à?"
Biểu hiện của Arya, vốn đã căng thẳng, giờ lại còn trở nên nghiêm trọng hơn. "Em có thể hát cho đứa bé chào đời nhanh hơn, nhưng Gertrude và mấy người phụ nữ khác chỉ cho phép em được dùng những thần chú đơn giản nhất."
"Vớ vẩn! Tại sao thế?"
"Vì pháp thuật khiến họ sợ hãi, và chính em cũng làm cho họ sợ."
"Vậy nói với họ rằng em không hề có ý định gì nguy hiểm. Dùng cổ ngữ ấy, và họ sẽ bắt buộc phải tin tưởng em thôi."
Arya lắc đầu. "Điều đó chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn mà thôi. Họ sẽ nghĩ em đang cố ếm bùa họ và sẽ đuổi em ra ngoài mất."
"Nhưng chắc Katrina..."
"Cô ấy là nguyên nhân em còn có thể thực hiện chút phép thuật đấy."
Dì Elain lại la lên một lần nữa.
"Ít ra họ cũng phải cho em giảm con đau của dì ấy chứ?"
"Em chỉ làm được đến đó thôi."
Eragon xoay mình về phía căn lều. "Thật vậy sao," cậu gầm khẽ, hàm răng nghiến chặt lại.
Một bàn tay ôm lấy cánh tay trái của Eragon và níu cậu lại. Đầy thắc mắc, cậu quay nhìn Arya để tìm một lời giải thích. Cô ta lắc đầu. "Đừng," nàng nói. "Có những phong tục còn cổ xưa hơn cả dòng thời gian. Nếu đi ngược lại nó, cậu sẽ làm xấu mặt bà Gertrude và khiến tất cả phụ nữ trong làng chống lại cậu đấy."
"Anh không quan tâm!"
"Em biết, nhưng tin em đi: điều thông minh nhất anh nên làm ngay bây giờ là ngồi chờ như những người khác." Như muốn nhấn mạnh quan điểm của mình, nàng buông tay Eragon ra.
"Anh đâu thể đứng yên để dì Elain đau đớn như thế!"
"Nghe lời em đi. Sẽ tốt hơn nếu anh đừng dính vào. Em hứa sẽ giúp bà Elain bằng mọi cách có thể, nhưng cậu tuyệt đối không được bước vào căn lều đó. Sự có mặt của anh chỉ tạo ra thêm những xích mích không cần thiết mà thôi... Làm ơn đi."
Eragon lưỡng lự, cằn nhằn với nỗi kinh tởm và vung tay lên trời khi dì Elain lại phát ra một tiếng thét khác. "Được rồi," cậu nói, vươn người tới gần Arya, "nhưng cho dù có bất cứ điều gì, không được để dì ấy hoặc đứa trẻ phải chết. Anh không quan tâm em làm thế nào, chỉ đừng để họ phải chết."
Arya nhìn cậu với vẻ nghiêm trọng tột bậc. "Em sẽ không bao giờ để một đứa bé lâm vào cảnh hiểm nguy," nàng trả lời và quay bước về phía cửa lều.
Sau khi nàng đã biến mất vào ngôi lều, Eragon mới trở về chỗ đám Roran, Albriech và Baldor đang tụ tập và ngồi xuống lại chỗ cũ.
“Sao rồi?” Roran hỏi.
Eragon nhún vai. “Họ làm tất cả những gì đáng làm. Chúng ta phải kiên nhẫn … Đó là tất cả.”
“Dường như là cô ta có chút chuyện gì đó nên nói ra hơn,” Baldor nói. “Kể cả hiểu ngầm cũng giống như vậy.”
Ánh mặt trời đã chuyển màu trở thành màu da cam và đỏ vang tại đường cuối chân trời. Vài đám mây lác đác còn sót lại trên bầu trời hướng Tây có được màu sắc giống như dấu tích của cơn bão vừa thổi qua gần đây. Phía cao trên đầu, bầy chim hoàng yến chuyên bắt đám sâu bướm, ruồi và sâu bọ khác đang đi tìm ổ mới cho bữa ăn chiều của chúng.
Dần dần, tiếng la khóc của Elain giảm dần cường độ, nhẹ hơn so với những lần trước đó, những cơn hét kinh hoàng, những tiếng rên kinh dị làm dựng tóc gáy Eragon. Hơn bao giờ hết, cậu muốn giải thoát dì khỏi nỗi đau khổ nhưng cậu không thể quên lời khuyên của Arya. Do đó, cậu ở lại tại chỗ, bồn chồn đứng ngồi không yên, cắn bầm móng tay và bận rộn trao đổi với Saphira bằng những câu ngắn gọn và vô nghĩa.
Khi mặt trời xuống chạm vào đất, nó trải dài tận chân trời giống như lòng đỏ trứng gà vĩ đại phun ra từ cái vỏ của nó. Bầy dơi bắt đầu xuất hiện chen lẫn vào đám chim hoàng yến, tiếng đập từ đôi cánh da của chúng yếu ớt và điên cuồng, tiếng rít cao độ của chúng gần như làm điếc tai Eragon.
Rồi sau đó, Elain thốt ra một tiếng thét nhấn chìm tất cả những tiếng động xung quanh, loại tiếng thét như thế này Eragon hy vọng rằng cậu sẽ không bao giờ nghe thấy nữa.
Tiếp nối là một khoảnh im lặng ngắn ngủi và sâu thẳm.
Nó chấm dứt bằng tiếng khóc lớn, ngắt quãng của một đứa bé sơ sinh vang lên từ trong lều- tiếng kèn lệnh của nhân loại thông báo một sinh mạng vừa chào đời.
Ngay khi nghe tiếng khóc, Albriech và Baldor chợt toét miệng cười, Eragon Roran và những người đàn ông chờ đợi bên ngoài cũng vậy.
Niềm hân hoan ngắn ngủi và sống động. Ngay khi sự cổ vũ ngưng lại, những phụ nữ trong lều bắt đầu than van ai oán, thứ âm thanh thảm thiết phiền não làm Eragon lạnh người kinh hãi. Cậu biết sự than khóc của họ có ý nghĩa gì, cái mà họ luôn nghĩ tới: một thảm cảnh đã xảy ra.
“Ồ không,” cậu nói, không tin vào điều đó lúc cậu nhảy xuống từ cái thùng. Đứa bé không thể chết, không thể … Arya đã hứa.
Tựa như đang trả lời ý nghĩ của cậu. Arya mở màn che lều và chạy về hướng cậu, nhảy vọt qua con đường với những cú sải chân không tưởng tưởng nổi.
“Chuyện gì đã xảy ra?” Baldor hỏi khi cô dừng lại.
Arya lờ cậu ta đi và nói, “Eragon, đi nào”
“Chuyện gì đã xảy ra?” Baldor thét lên giận dữ, cậu vươn tay tới vai của Arya. Trong một thoáng dường như một hành động tức khắc, cô tóm lấy cổ tay cậu, bẻ cánh tay cậu ra sau lưng làm cậu đứng khom người xuống giống như người què cẳng. Gương mặt cậu nhăn lên vì đau.
“Nếu như anh muốn em gái cậu sống thì đứng sang một bên và đừng can thiệp!” Cô thả cậu ra với một cái đẩy làm cậu bò loạng choạng đến tay Albriech, rồi cô xoay mình bước ngược về lều của Horst.
“Chuyện gì đã xảy ra trước đó?” Eragon hỏi sau khi nhập bọn với cô.
Arya quay lại đối diện với cậu, đôi mắt sáng lên. “Đứa bé khỏe mạnh nhưng nó sinh ra bị sứt môi.”
Nào bây giờ Eragon hiểu lý do những người phụ nữ thốt lên lời than vãn. Trẻ con bị nguyền rủa bởi cái môi sứt hiếm khi được phép sống còn; rất khó để nuôi chúng ngay cả khi cha mẹ chúng có thể nuôi chúng lớn, những đứa trẻ này thường bị đau khổ rất nhiều: xã hội từ chối, mọi người chọc ghẹo và chúng không thể tìm được người phối ngẫu tương xứng. Trong nhiều trường hợp, nếu như đứa trẻ chưa được sinh ra thì tốt hơn cho tất cả mọi người.
“Anh phải chữa lành cho nó, Eragon,” Arya nói.
“Anh? Nhưng anh chưa bao giờ … Tại sao không phải là em? Em biết rành về việc đó hơn anh.”
“Nếu như em thay đổi gương mặt đứa bé, mọi người sẽ nói em đã bắt cóc nó và tráo người khác. Em biết quá rõ về những câu chuyện nhân loại kể về tiên tộc, Eragon – rất rõ ràng. Em sẽ làm nếu như không có cách khác nhưng đứa bé sẽ chịu khổ về vần đề này mãi mãi. Anh là người duy nhất có thể giúp nó thoát khỏi cảnh khổ này.”
Sự hoảng sợ dâng lên trong lòng cậu. Cậu đã không muốn nhận lấy trách nhiệm về mạng sống cho một người khác nữa, cậu đã nhận quá nhiều rồi.
“Anh phải chữa lành cho đứa bé,” Arya nói, với giọng bắt buộc. Eragon nhắc nhở bản thân những tiên tộc đáng mến này quý trọng trẻ con của bọn họ như thế nào cũng như tất cả những đứa trẻ tộc khác.
“Em sẽ phụ anh khi anh cần chứ?.
“Đương nhiên rồi.”
Em cũng vậy, Saphira nói. Anh cần phải hỏi sao?
“Được rồi,” Eragon nói và xiết chặt lấy cán thanh Brisingr, cậu quyết định. “Tôi sẽ làm vậy.”
Với Arya đi gần đằng sau, cậu thẳng bước tới cái lều, vạch tầm màn chắn cửa bằng len nặng nề lên và chui vào. Khói đèn cầy làm cay mắt cậu. Năm người phụ nữ đến từ Carvahall đứng tụm vào với nhau cạnh vách lều. Tiếng than oán của họ làm tê liệt cậu giống như một cú đấm thật sự. Họ lắc lư, uốn éo thân mình như lên đồng, họ vừa nắm tóc, xé rách quần áo vừa gào khóc. Ông Horst đứng ở cuối cái giường xếp đang thở hổn hển, kiệt lực tranh cãi đỏ mặt với Gertrude. Về phần bà ta, bà lang mập mạp đang ôm trong ngực một gói vải mà Eragon nhận thức rằng trong đó có đứa bé, cho dù cậu không thấy mặt nó bởi vì nó đang ngoe nguẩy và tạo thêm tiếng ồn trong lều bằng tiếng khóc thét của nó. Hai má tròn trĩnh của bà ta bóng nhẫy mồ hôi, và tóc của bà dính bệt vào da. Nhiều dòng chất lỏng khác nhau chảy dọc xuống từ hai cánh tay trần của bà . Ở đầu giường xếp, Katrina quỳ gối trên một cái nệm hình tròn và đang lau trán của Elain bằng một cái khăn ướt.
Eragon không nhận ra Elain, gương mặt bà nhăn nhó và bà có vòng tròn màu đen chung quanh đôi mắt thất thần dường như không có khả năng nhận thức nữa. Một dòng nước mắt kéo dài từ đuôi con mắt chảy qua thái dương và biến mất dưới đám tóc rối beng của bà. Miệng bà há ra rồi ngậm lại, bà rên rỉ những từ vô nghĩa. Một tấm vải dính máu che phần thân thể của bà.
Cả hai Horst và Gertrude không nhận ra Eragon cho đến khi cậu đến gần hai người. Eragon đã lớn nhanh kể từ khi rời Carvahall nhưng ông Horst vẫn đứng cao hơn cậu một cái đầu. Khi cả hai người nhìn thấy cậu, một ánh hy vọng chợt sáng lên trong nét mặt ông thợ rèn.
“Eragon!” Ông vỗ mạnh lên vai cậu, cúi người dựa vào cậu và nói “Cháu đã nghe?” tựa như những sự cố này cậu hiểu chút ít. Đó không phải là câu hỏi nhưng Eragon vẫn gật đầu. Ông Horst liếc nhìn Gertrude thật nhanh sau đó bộ râu rậm rạp như cái xẻng của ông ta di chuyển qua lại khi cái hàm ông động đậy, ông ta lè lưỡi liếm môi. “Cháu nghĩ cháu có thể … có thể làm bất kể điều gì cho con bé phải không?”
“Vâng, có lẽ thế,” Eragon nói. “Cháu sẽ cố gắng.”
Cậu đưa hai tay ra. Sau một thoáng ngập ngừng, Gertrude đặt cái gói ấm vào tay cậu rồi bà lùi lại thái độ bối rối.
Nằm lẫn trong đống vải vóc là một con bé tí xíu, khuôn mặt nhăn lại. Da con bé đỏ đậm, đôi mắt khép kín sưng vù làm cho con bé có vẻ nhăn mặt giống như nó đang giận dữ đối với cách đối xử tệ bạc vừa rồi, đó là câu trả lời mà Eragon nghĩ rằng nó hoàn toàn có lý. Nét đặc trưng nổi bật nhất của con bé đó là một vết hở khá rộng chạy dài từ lỗ mũi bên trái đến giữa môi trên của nó. Xuyên qua đó, có thể thấy rõ cái lưỡi nhỏ xíu màu hồng của con bé, nằm dài ướt nhẹp như con ốc sên thỉnh thoảng lại cựa quậy nhúc nhích.
“Làm ơn,” Horst nói. “Có cách nào cháu có thể …”
Eragon co rúm người lại trước một tiếng than van đặc biệt lanh lãnh điếc tai, cậu nói. “Cháu không thể làm việc ở đây.”
Lúc cậu xoay người rời đi, Gertrude nói với cậu từ phía sau, “Tôi sẽ đi với cậu. Một người trong chúng ta ai biết chăm sóc đứa bé cần phải ở lại với nó.”
Eragon không muốn Gertrude dòm ngó cậu trong khi cậu chữa cho gương mặt đứa bé, khi cậu định nói với bà như thế, cậu nhớ lại những gì Araya nói về việc tráo người. Ai đó từ Carvahall, người mà toàn thể dân làng có thể tin tưởng, cần phải làm chứng cho sự chuyển đổi hình dạng của đứa bé để họ có thể tin rằng đứa bé vẫn là cùng một đứa trước đây.
“Như bà mong muốn,” cậu nói và tự dừng lại sự phản đối của mình.
Đứa bé oằn oại trong tay cậu và thốt ra một tiếng khóc não nùng ngay khi cậu rời khỏi lều. Đối diện bên đường, dân làng đứng và bàn tán, Albriech và Baldor bắt đầu hướng về cậu. Eragon lắc đầu, họ ngừng lại tại đó và theo dõi cậu với nét mặt bất lực.
Arya và Gertrude cùng chiếm lấy vị trí bên cạnh khi cậu bước xuyên qua căn trại đến lều của mình, mặt đất rung lên dưới những bước chân của Saphira đang theo sau họ. Những chiến binh vội vàng mở ra lối đi cho họ đi qua.
Eragon cố gắng sải chân đều bước để tránh chấn động đứa bé. Một mùi hương đậm đà cũ kỹ như đang quyện lấy cô bé như mùi của khu rừng trong ngày hè ấm áp.
Họ gần như tiến đến đích thì Eragon thấy được cô bé phù thủy Elva, đứng giữa hai dãy lều cạnh con đường, cô bé chăm chú nghiêm trang nhìn cậu với đôi mắt tròn màu tím. Cô bé mặc một cái váy màu đen và tím, một cái khăn dài bằng chỉ gấp qua đầu cô, để lộ ra một dấu óng ánh màu bạc hình ngôi sao trên trán cô giống như dấu hiệu Bàn Tay Bạc của cậu.
Không hề nói một chữ, cô cũng không ra vẻ định chận hoặc làm chậm cậu lại. Tuy vậy, Eragon đã hiểu sự cảnh cáo của cô bởi vì sự hiện diện của cô chính là điều khiển trách đối với cậu. Một lần trước đó cậu đã làm xáo trộn số mệnh của đứa bé sơ sinh với hậu quả thảm khốc. Cậu không thể cho phép cậu lập lại cái lỗi ấy nữa, không chỉ riêng bởi vì sự nguy hại nó gây ra mà còn bởi vì nếu như cậu làm nữa, Elva sẽ trở thành kẻ thù truyền kiếp của cậu. Cho dù cậu có đủ pháp lực, cậu vẫn sợ hãi Elva. Khả năng nhìn thấu tâm hồn người khác, thần thánh hóa nỗi đau và phiền muộn của họ và sự tiên đoán mọi sự việc sắp làm hại họ của cô, đã làm cô trở thành người nguy hiểm nhất Alagaesia.
Mặc kệ chuyện gì xảy ra. Eragon suy nghĩ khi cậu đi vào lều, Mình không muốn hại đứa bé này. Rồi cậu cảm thấy lại sự kiên quyết để tạo ra cơ hội cho nó sống một cuộc đời mà không bị xua đuổi bởi hoàn cảnh.Chương 10 - Khúc hát ru
Dịch: Tobano
Biên dịch: Tobano
Biên tập: VôHưKhông
Nguồn: www.tangthuvien.com
Tia nắng yếu ớt của mặt trời cuối ngày thẩm thấu xuyên qua lều của Eragon. Tất cả đồ vật trở nên xám xịt như được tạc ra từ đá cẩm thạch. Với khả năng nhìn của tiên tộc, Eragon có thể thấy mọi vật dễ dàng hơn nhưng cậu biết rằng Gertrude sẽ có vấn đề cho nên để giúp bà ấy cậu đọc một câu chú ngữ: “Naina hvitr un bollr …”. Một đốm sáng nhỏ lập lòe trôi nổi trong không khí trên đỉnh của cái lều. Đốm tròn trắng mềm mại không tỏa ra nhiệt lượng đáng kể nhưng lại tỏa sáng như một ngọn đèn lồng. Cậu kịp ngưng lại câu chú ngữ từ Brisingr để tránh việc thanh kiếm nổi lửa lên.
Cậu cảm thấy Gertrude dừng lại sau cậu, cậu quay lại để thấy bà ta nhìn chằm chằm vào đốm sáng, tay xiết chặt cái giỏ đang mang theo. Khuôn mặt quen thuộc của bà làm cậu nhớ lại căn nhà và Carvahall, nỗi nhớ nhà bỗng dưng gợn dậy trong lòng cậu.
Bà ta từ từ chuyển ánh mắt vào cậu và nói. “Cậu đã thay đổi rồi, tôi nghĩ chú bé ngày xưa tôi ngồi xem chiến đấu vật vã với cơn sốt đã không còn”.
“Bà biết là cháu vẫn thế mà” cậu trả lời.
“Không, tôi không cho là như vậy.”
Câu nói của bà ta làm cậu băn khoăn. Nhưng cậu không thể quan tâm nhiều đến điều đó, cho nên cậu để ngoài tai và đi về giường xếp của mình. Cậu chuyển đứa bé sơ sinh từ tay cậu sang một cái mền một cách nhẹ nhàng vô cùng, tựa như cô bé làm bằng thủy tinh vậy. Cô bé quơ nắm tay trước mặt cậu. Cậu mỉm cười, dùng đầu ngón tay giữa chạm nhẹ vào và đứa bé phì phèo nhỏ một tiếng.
“Cậu định làm gì?” Gertrude hỏi khi bà ta ngồi xuống cái ghế riêng lẻ gần thành lều. “Cậu làm thế nào để chữa lành đứa bé?”.
“Cháu cũng không biết nữa.”
Liền sau đó, Eragon nhận ra rằng Arya không đi theo họ vào trong lều. Cậu gọi tên cô, một lúc sau, cô ấy trả lời từ bên ngoài, giọng cô như bị nghẹn lại bởi lớp vải dày. “Em ở đây,” cô nói. “Em chờ ở đây, nếu anh cần em, anh hãy truyền ý nghĩ của anh về hướng em và em sẽ tới.”
Eragon nhăn mặt một ít. Cậu định dựa vào cô đang ở gần để giúp cậu trong lúc làm thủ tục ở những phần cậu không biết hoặc chỉ điểm cậu nếu như cậu làm sai. Thôi, mặc kệ. Ta vẫn có thể hỏi cô ấy nếu ta muốn. Chỉ còn duy nhất một cách, Gertrude sẽ không có lý do để nghi ngờ rằng Arya làm bất cứ điều gì với đứa bé. Cậu ngạc nhiên với biện pháp phòng ngừa của Arya để tránh khỏi nghi ngờ rằng đứa bé gái sẽ bị tráo đổi bởi tiên tộc và cậu tự hỏi có phải cô ấy đã từng bị kết án bắt cóc trẻ em không.
Khung giường xếp kêu cọt kẹt khi cậu chậm rãi hạ người xuống đối diện với đứa bé. Cậu cau mày sâu hơn. Cậu cảm thấy Shapira đang chăm chú vào đứa bé thông qua cậu. Bây giờ đứa bé đang nằm ngủ say sưa trên cái mền tựa như chưa từng xuất hiện trên thế giới này. Cái lưỡi nó thấp thoáng thấy được trong cái môi trên đã bị sứt.
Em nghĩ sao? Cậu hỏi.
Làm từ từ thôi để anh không gặp tai nạn cắn phải cái đuôi của mình.
Cậu đồng ý với cô nàng, tiếp theo giống như gặp ma, cậu hỏi. Em đã làm chuyện đó trước đây không? Cắn cái đuôi của mình?
Cô im lặng một hồi. Tuy nhiên, cậu cũng bắt gặp một thoáng cảm giác ngắn ngủi: một đống lộn xộn hình ảnh của cây cỏ, mặt trời, dãy núi Spine và kể cả hương vị hoa phong lan đỏ tràn ngập trời, một cơn đau đột ngột, cảm giác bị giữ lại giống như cánh cửa sập đóng lại trên cái đuôi của cô.
Eragon tự cười thầm sau đó tập trung vào sáng tạo chú ngữ cậu nghĩ cậu cần phải có để chữa lành cho đứa bé. Một hồi thật lâu, khoảng nửa tiếng. Cậu và Saphira tốn nhiều thời gian nghiên cứu bí quyết của câu chú ngữ vô số lần, kiểm tra rồi lại thảo luận từng từ từng ngữ và ngay cả giọng phát âm của cậu để bảo đảm rằng câu chú ngữ này sẽ làm đúng điều cậu muốn mà thôi.
Giữa lúc trao đổi thầm lặng, Gertrude cựa động thân mình trên cái ghế ngồi và nói, “Cô bé nhìn chẳng có gì thay đổi. Thất bại rồi phải không? Eragon, không cần phải che dấu sự thật đối với tôi, tôi đã từng gặp nhiều việc còn tệ hơn nữa trong đời.”
Eragon nhướng đôi chân mày và nói với một giọng hòa hoãn. “Cháu chưa làm gì cả.”
Gertrude yên lặng ngồi lại. Bà lấy từ trong túi ra một cuộn chỉ đan màu vàng, cái áo len đã hoàn thành phân nửa và đôi kim đan trơn tru bằng gỗ phong. Ngón tay bà di chuyển với tốc độ nhanh nhẹ khéo léo khi bà bắt đầu đan viền quanh cái áo. Sự va chạm đều đều của đôi kim đan làm Eragon thích thú, tiếng động này cậu đã nghe thường xuyên khi còn bé, cậu liên tưởng đến một buổi chiều mùa thu lành lạnh ngồi xung quanh lò sưởi, nghe người lớn kể chuyện trong khi họ hút ống điếu hoặc nhấm nháp một ly bia nâu sau bữa ăn tối.
Cuối cùng, khi cậu và Saphira thỏa mãn với câu chú ngữ an toàn, Eragon tự tin rằng lưỡi của cậu sẽ không bị vấp bởi những thanh âm lạ của ngôn ngữ cổ, cậu dồn hết sức mạnh của cả hai và chuẩn bị đọc câu thần chú đầu tiên.
Nhưng cậu lại ngần ngại.
Khi tiên tộc dùng phép thuật uốn nắn một cái cây hay một cành hoa theo dạng họ muốn, họ thay đổi cành cây đó bằng một sinh vật khác, đó là điều cậu hiểu biết, họ luôn luôn dấu câu chú ngữ dưới dạng của bài hát. Cậu nên làm như vậy vì điều đó cũng phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Nhưng cậu chỉ biết một vài bài ca tiên tộc và không có bài nào trong đó đủ yêu cầu hoặc phù hợp để tạo ra một giai điệu tuyệt mỹ và phức tạp.
Do đó, thay vì vậy cậu chọn một bài hát nằm sâu trong trí nhớ của cậu, một bài hát mà dì Marian đã hát cho cậu nghe thời cậu còn bé tí trước khi bệnh tật đã giết mất dì ấy. Bài hát mà tất cả phụ nữ ở Carvahall đều hát thì thầm cho trẻ em từ thuở xa xưa khi đắp mền cho chúng vào giấc ngủ ban đêm, bài hát ru em. Cậu hy vọng rằng với âm điệu đơn giản, dễ nhớ và có tác động nhẹ nhàng sẽ giúp trẻ em trở nên trấn tĩnh hơn.
Cậu bắt đầu với giọng thấp, nhẹ nhàng, những lời hát tuôn ra chậm rãi, tiếng hát của cậu vang vọng khắp lều tựa như hơi ấm từ lò sưởi. Trước khi dùng phép thuật, cậu nói với đứa bé gái trong ngôn ngữ cổ rằng cậu là bạn của nó, cậu muốn đem hạnh phúc lại cho nó và rằng cậu là người đáng tin cậy.
Cô bé cựa quậy trong giấc ngủ giống như một câu trả lời, nét mặt cau có của cô đã trở nên mềm mại hơn.
Tiếp theo, Eragon nhấn mạnh câu chú ngữ đầu tiên: một câu bùa chú đơn giản bao gồm hai phần mà cậu ngâm nga đi đi lại lại nhiều lần như lời cầu nguyện. Vết hở màu hồng nằm giữa môi trên của cô bé run rẩy và nhúc nhích tựa như một sinh vật đang ngủ chợt bị khuấy động.
Cái mà cậu định làm không dễ dàng như vậy. Xương của trẻ em sơ sinh vốn mềm dẻo khác với xương của người trưởng thành nên chúng rất khác biệt với các loại xương mà cậu thường nối lại trong thời gian ở với quân kháng chiến Varden. Cậu phải cẩn thận để không lấp vết hở trên môi cô bé bằng xương, thịt và da của người lớn, nếu không vùng này sẽ không phát triển thuận lợi với phần cơ thể còn lại của cô bé. Cũng vậy, khi cậu nối khoảng trống trong vòm miệng và nướu răng của cô bé, cậu phải di chuyển làm thẳng và làm cho chúng cân đối xương tủy của hai cái răng cửa, đây là việc mà cậu chưa bao giờ làm trước đó. Sự phức tạp của tiến trình còn khó hơn nữa chính là điều cậu chưa bao giờ thấy cô bé ở hình dạng hoàn hảo, do đó cậu không chắc chắn môi miệng của cô bé sẽ trở nên như thế nào. Cô bé giống như đứa bé khác cậu thường thấy, tròn trĩnh mập mạp không đường nét rõ ràng. Cậu lo lắng sợ rằng cậu sẽ tạo cho nó một khuôn mặt thích hợp với thời điểm này nhưng sẽ thay đổi khác thường thiếu hấp dẫn sau này khi lớn lên.
Nên cậu tiến hành thận trọng, mỗi lần chỉ thay đổi từng phần nhỏ và dừng lại để kiểm tra kết quả. Cậu bắt đầu từ sâu bên trong của miệng cô bé với xương và vòm miệng, cậu chậm rãi làm việc từ trong ra ngoài và không ngừng hát.
Tại một thời điểm nào đó Saphira cũng cùng hát nhẩm theo cậu từ nơi nó nằm, giọng hát trầm thấp của nó làm rung động không khí. Ngọn đèn pháp thuật chợt tối chợt sáng tùy theo giọng hát lớn nhỏ của cô rồng, một hiện tượng kỳ lạ làm Eragon hết sức tò mò. Tí nữa cậu sẽ hỏi Saphira về chuyện ấy.
Từng chữ, từng câu chú ngữ, từng giờ trôi qua, màn đêm biến dần mặc dù Eragon không để ý lắm đến thời gian. Khi cô bé khóc vì đói, cậu đút cho cô bé một giọt năng lượng. Cậu và Saphira cố gắng tránh việc liên hệ ý thức với cô bé bởi vì họ không biết sự liên hệ này có thể ảnh hưởng đến ý thức non nớt của cô bé nhưng thỉnh thoảng họ cũng động nhẹ vào nó; cậu cảm thấy ý thức của cô bé mơ hồ không rõ ràng, một vùng biển động của hỗn loạn cảm xúc được giảm nhẹ thành một thế giới không rõ ràng.
Bên cạnh cậu, đôi kim đan của Gertrude không ngừng va chạm, nó chỉ dừng lại khi bà ấy không nhớ được bao nhiêu mũi đan hoặc bà ta phải gỡ bỏ nhiều mũi đan để sửa chữa lỗi lầm.
Chậm rãi và chậm hơn bao giờ hết, kẽ hở giữa vòm miệng và nướu răng của cô bé đã dính liền thành một, cái môi sứt đã liền lạc, và da của cô bé trơn tru trông như nước, môi trên của cô bé đã được tạo thành một vòng cung màu hồng không còn thấy thịt tươi nữa.
Eragon run rẩy vặn vẹo thân mình lo lắng nhìn vào hình dạng cái môi của cô bé một thời gian thật lâu cho đến khi Saphira nói, Xong rồi, Bỏ đi, và cậu bắt buộc phải tự nhận rằng cậu không thể làm gì tốt hơn cho hình dạng cô bé và chỉ làm xấu thêm mà thôi.
Sau đó cậu để bài hát ru em chìm dần vào trong im lặng. Cậu cảm thấy lưỡi khô cổ họng rát. Cậu đẩy người rời cái giường xếp và đứng dậy nửa người còn cong vòng cứng ngắc chưa đứng thẳng được.
Ngoài sự tỏa sáng của ngọn lửa phép thuật còn có tia sáng yếu ớt chiếu xuyên qua lều giống như lúc cậu vừa bước vào lều. Lúc đầu cậu còn lẫn lộn, chắc là mặt trời đã tắt! Nhưng rồi cậu nhận ra rằng tia sáng đến từ hướng Đông không phải hướng Tây và bây giờ cậu đã hiểu ra. Không cần hỏi tại sao mình quá mỏi mệt. Mình đã ngồi ở đây suốt đêm!
Còn em thì sao? Saphira nói. Xương của em cũng nhức mỏi như anh. Câu thú nhận của cô làm cậu ngạc nhiên; hiếm khi thấy cô biểu hiện sự bực bội ngay cả khi đó là điều khó chịu đến tột cùng. Chắc là cuộc chiến đấu đã lấy đi nhiều sức lực của cô hơn là cái biểu hiện bề ngoài. Ngay khi cậu tìm ra được kết luận, Saphira biết được điều ấy, cô nhẹ nhàng cản cậu lại và nói, Dù mệt hay không, em vẫn có thể đập tan bọn lính mà Galbatox gởi đến chống lại chúng ta.
Anh biết mà.
Cất đồ đan vào trong túi, Gertrude đứng dậy và chồm qua cái giường xếp. “Từ trước tới giờ tôi chưa từng thấy qua chuyện này”, bà nói. “Ít nhất là từ cả hai, Eragon Bromsson.” Bà nhìn lăm lăm vào cậu và hỏi. “Brom có phải là cha cháu không?”
Cậu gật đầu càu nhàu, “Vâng, thưa bà.”
“Dường như đúng là như vậy một cách nào đó.”
Eragon không muốn bàn luận vấn đề xa hơn nữa nên cậu hầm hừ tắt ngọn đèn pháp thuật với một cái liếc và một ý nghĩ. Liền lập tức, tất cả chìm vào trong bóng tối, chỉ còn chút ánh sáng bình minh lập lòe. Cậu điều chỉnh tầm nhìn nhanh hơn Gertrude. Bà chớp mắt, cau mày, lắc đầu qua lại giống như bà không chắc chắn nơi mình đứng.
Bế cô bé lên, cô bé có vẻ nặng và ấm áp trong tay Eragon. Cậu không chắc là có phải cơn mệt mỏi đến từ việc xử dụng phép thuật quá mức hoặc đơn giản chỉ là làm việc quá lâu gây ra.
Cậu nhìn xuống cô bé, đột nhiên cậu cảm thấy cần phải bảo vệ đứa bé này, cậu thì thầm, “Se ono waise ilia.” Chúc cô bé luôn hạnh phúc. Đó không phải là câu bùa chú chúc phúc nhưng cậu hy vọng rằng điều này sẽ giúp cô tránh được vài điều khốn khổ thường ảnh hưởng đến nhiều người. Dù không được như vậy, cậu cũng hy vọng điều này sẽ làm cô bé cười lên.
Thực tế điều này đã được chứng thực. Từ khuôn mặt bé tí của cô, một nụ cười đang rộng mở đầy nhiệt tình, cô bé thốt ra tiếng, “Gahh!”
Eragon cũng cười theo rồi cậu quay lại bước ra ngoài.
Ngay khi miếng bạt che lều mở ra, cậu thấy một đám đông nho nhỏ đang tụ họp thành nửa vòng tròn chung quanh cái lều, kẻ đứng người ngồi vài người khác ngồi chồm hổm. Cậu nhận ra hầu hết tất cả đều là người Carvahall, Arya và các tiên tộc cũng ở đó nhưng lại đứng riêng biệt cách một đoạn với đám đông cũng giống như nhiều chiến binh của Varden mà cậu không biết tên. Cậu tìm thấy Elva đang núp đằng sau một cái lều gần đó, cái khăn đen đã buông xuống che mặt cô.
Mình có thể làm tốt hơn nữa, cậu tự nói.
Trước đám đông, Horst và con trai dáng vẻ bồn chồn lo lắng. Cặp lông mày ông ta nhăn tít lại khi nhìn thấy một túm đồ trên tay Eragon, ông ta mở miệng dường như muốn nói điều gì nhưng không có âm thanh nào phát ra.
Không một hành động dư thừa, Eragon bước đến ông thợ rèn và xoay đứa bé để ông có thể nhìn thấy mặt nó. Horst không động đậy một lúc lâu, sau đó đôi mắt ông ta tỏa sáng và nét mặt ông thay đổi sang vui mừng và giải thoát một cách sâu sắc, điều này có thể bị xem lầm như thất bại.
Khi trao cô bé cho Horst, Eragon nói, “Tay tôi đã quá vấy máu cho công việc này nhưng tôi lấy làm hài lòng rằng tôi có khả năng giúp đỡ.”
Horst sờ vào môi trên của cô bé với đầu ngón giữa của ông ta, sau đó lắc đầu nói. “ Không thể … tôi không thể nào tin được.” Ông nhìn sang Eragon. “Elain và tôi sẽ nợ cậu suốt đời. Nếu …”
Eragon nhẹ nhàng nói, “Không nợ gì cả. Cháu chỉ làm việc mà tất cả mọi người có khả năng đều phải làm.”
“Nhưng cậu là người chữa lành nó và chính cậu là người tôi phải chịu ơn.”
Eragon bối rối sau đó cậu gật đầu nhận lời cảm ơn của ông ta. “Chú sẽ đặt tên cô bé là gì?”
Người thợ rèn nhìn chằm chằm vào cô con gái. “Nếu như Elain đồng ý, chúng tôi sẽ đặt tên nó là Hy Vọng.”
“Hy Vọng … Một cái tên thật hay.” Không phải chúng ta đang cần hy vọng sao? “Và cô Elain thì sao rồi?”
“Mệt mỏi nhưng bình an.”
Rồi thì Albriech và Baldor dồn lại chung quanh ông ta, nhìn chòng chọc vào cô em gái mới, cùng với Gertrude cũng từ lều đi ra sau Eragon. Sau khi vẻ ngượng ngùng tan dần, những người dân làng cũng gia nhập vào với họ. Ngay cả đám chiến binh tò mò cũng ráng chen vào gần Horst, rướn cổ lên để nhìn thấy bóng dáng của cô bé.
Sau một lúc, những tiên tộc cũng buông tay tiến gần đến. Thấy họ, mọi người lùi ra tránh đường. Ông thợ rèn cứng người, hàm rớt ra như con chó hả miệng, từng người một, họ cúi xuống xem xét cô bé, đôi khi thì thầm với cô bé một hay hai từ bằng ngôn ngữ cổ. Họ dường như không quan tâm đến sự nghi ngờ của dân làng đang nhìn về phía họ.
Khi chỉ còn ba tiên tộc đứng xếp hàng, Elva phóng ra từ đằng sau cái lều nơi cô tự trốn và tham dự vào cuối hàng. Cô không phải chờ lâu trước khi đến phiên cô đứng trước Horst. Mặc dù hơi miễn cưỡng, người thợ rèn vẫn hạ tay và rùn đầu gối xuống nhưng ông ta quá cao so với Elva, cô ta phải nhón chân để nhìn đứa bé. Eragon chờ mong thời điểm cô nhìn chằm chằm vào đứa bé trước đây khiếm khuyết nhưng không thể nào đoán được thái độ của cô qua tấm khăn che mặt.
Sau vài giây, Elva đứng xuống. Với bước chân thong thả, cô đi trở lại con đường đi ngang qua lều của Eragon. Cách xa khoảng mười tám mét, cô dừng và quay lại về hướng cậu.
Cậu nghiêng đầu và cau mày.
Cô bé gật đầu ngắn gọn rồi tiếp tục rời đi.
Lúc cậu đang nhìn cô bé rời đi, Arya ngượng ngập bước tới cạnh cậu. “Anh nên hãnh diện với việc vừa hoàn thành.” Cô thì thào. “Đứa bé bình yên. Ngay cả những thầy bùa lão luyện nhất của bọn em cũng không thể làm tốt hơn pháp thuật của anh. Điều tuyệt vời nhất đó là anh đã cho cô bé này một khuôn mặt và tương lai, cô bé sẽ không quên điều này, em chắc chắn là như vậy … Không một ai có thể quên.”
Eragon thấy rằng cô ấy và những vị tiên khác đang nhìn về phía cậu với ánh mắt đầy sự kính trọng nhưng sự ngưỡng mộ và xác nhận của Arya là quan trọng nhất đối với cậu. “Anh đã có một cô giáo tốt nhất,” cậu trả lời với một giọng đều đều trầm thấp. Arya không muốn thảo luận với anh về điều này. Cả hai chăm chú nhìn dân làng xoay quanh Horst và cô con gái ồn ào trao đổi. Mắt không rời bọn họ, Eragon nghiêng về phía Arya và nói, “Cảm ơn em đã giúp dì Elain.”
“Không có chi. Em sẽ trở nên nhu nhược nếu không làm như vậy.”
Horst quay đi và định mang đứa bé vào trong lều cho Elain xem cô gái sơ sinh nhưng cả đám người không ai chịu tránh đi. Khi Eragon chán ngấy với việc bắt tay và trả lời câu hỏi, cậu nói tạm biệt với Arya sau đó lẻn vào trong lều, cột chặt mảnh vải che lối vào sau lưng cậu.
Trừ khi bị tấn công, anh không muốn thấy người nào trong vòng mười tiếng nữa, ngay cả Nasuada cũng vậy, cậu nói với Saphira lúc cậu ném mình xuống cái giường xếp. Xin em vui lòng nói với Blodhgarm được không?Đương nhiên là được, cô trả lời. Ngủ đi, cậu bé, em cũng vậy.
Eragon thở dài và để cánh tay lên mặt che tia nắng của buổi sáng. Hơi thở cậu chậm dần, ý thức cậu bắt đầu miên man và liền sau đó cảnh vật kỳ quái và âm thanh của giấc mơ sống dậy bao trùm lấy cậu, thực tế hay ảo tưởng; sống động hay mơ hồ dường như cậu nhìn thấy tất cả đều được làm bằng thủy tinh nhiều màu sắc và có lúc cậu có thể quên hết mọi trách nhiệm cũng như biến cố bi thảm của quá khứ. Xuyên qua giấc mơ này, bài hát ru em giống như lời thì thầm của gió, nửa nghe được nửa quên đã ru ngủ cậu đưa cậu về ký ức của một đứa trẻ bình yên ở nhà.
Chương 11 - Không có chỗ cho sự mệt mỏi
Dịch: trangkim
Biên dịch: nhongcon_pupa
Biên tập: Cô Bé Bán Xôi
Nguồn: www.tangthuvien.com
Hai người lùn, hai người đàn ông, hai Urgals thuộc đội cận vệ của Nasuada-đội Nighthawk canh giữ bên ngoài căn phòng trong lâu đài, nơi Nasuada dùng làm tổng hành dinh của nàng.
Họ nhìn chăm chăm Roran với ánh mắt vô hồn. Anh cũng giữ vẻ mặt vô cảm khi nhìn chằm chằm lại.
Đấy là một trò chơi họ đã chơi trước đó.
Mặc dù Nighthawks không biểu lộ ra nhưng anh hiểu họ đang tìm cách nhanh nhất, hiệu quả nhất để giết anh. Anh biết, vì anh đã từnglàm như vậy với họ, luôn luôn như thế.
Mình sẽ phải rút lui sao cho nhanh nhất có thể…. Bỏ xa họ một đoạn, anh quyết định. Người đàn ông sẽ tóm được mình trước, họ nhanh hơn những người lùn và cản trở những Urgals đang ở phía sau. Phải đoạt được những chiếc kích của họ. Sẽ rất rắc rối nhưng mình sẽ giành được … ít nhất là của một trong số họ. Có lẽ phải ném chiếc búa này đi. Một khi đã chiếm được chiếc kích thì mình có thể bỏ xa những người còn lại. Khi ấy, người lùn không có nhiều cơ hội, nhưng mình sẽ gặp phiền hà với hai tên Urgal. Những kẻ cục súc xấu xí… Nếu dùng cây cột kia làm nơi ẩn nấp, mình có thể trốn được.
Cánh cửa bọc thép giữa hai hàng vệ binh phát tiếng kêu cọt kẹt khi mở ra. Một chú bé áo trắng chừng mười hay mười hai tuổi bước vào cao giọng truyền lệnh “Qúy bà Nasuada truyền gọi anh!”
Vài vệ binh co rúm người lại, lộ rỏ vẻ nao núng trong giây lát. Roran mỉm cười khi lướt qua họ, bước vào căn phòng phía bên kia, anh biết quyền lợi của họ vốn có cũng như không, tạo cơ hội cho anh giết được ít nhất hai người trước khi họ trả thù. Cứ để lần sau, anh nghĩ.
Căn phòng hình chữ nhật rộng, bài trí đơn giản: một tấm thảm nhỏ xíu trải trên sàn, một lối đi hẹp, tấm thảm trang trí đã bị nhậy (Một loài sâu) ăn treo trên tường bên trái, một cửa sổ đơn vòm nhọn phía bên phải. Ngoài ra căn phòng không có đồ trang trí nào khác. Kê trong góc là chiếc bàn gỗ dài với chồng sách cao, những cuộn da lừa và những tờ giấy lẻ. Một vài chiếc ghế lớn được bọc nệm da có hàng đinh đồng đã hoen rỉ đứng rải rác cạnh bàn. Cả Nasuada lẫn những người hầu cận của nàng đều không đoái hoài tới chúng. Jörmundur không có ở đây nhưng Roran đã quen thuộc với những chiến binh đang có mặt: anh từng là thuộc cấp của một vài người, anh đã thấy vài người khác trong trận đánh hoặc nghe kể lại từ những đồng đội.
“…Và tôi không quan tâm nếu nó làm anh ta tức nghẹn họng!” Nàng lên giọng, đập mạnh tay phải xuống bàn.” Nếu chúng ta không có những móng ngựa đó, và hơn thế nữa, có lẽ chúng ta cũng sẽ tự ăn ngựa của mình vì những điều tốt đẹp mà họ sẽ làm cho chúng ta. Mọi người rõ chứ?”
Mọi người cùng đồng thanh trả lời “Có “. Có vẻ họ đang bị đe dọa, thậm chí có phần bối rối. Roran thấy vừa lạ vừa ấn tượng với Nasuada, một người phụ nữ được nhận sự tôn trọng từ những chiến binh của nàng và từ chính anh. nàng là một trong những người quả quyết và thông minh nhất mà anh từng biết, anh tin chắc rằng nàng sẽ thành công dù ở bất cứ nơi đâu.
“Giờ thì lui ra“ Nasuada nói, tám người xếp thành hàng cùng đi ra ngoài, nàng ra hiệu cho Roran tiến lại gần. Anh kiên nhẫn đợi nàng chấm bút lông vào lọ mực và viết nguệch ngoạc nhiều dòng trên cuộn giấy nhỏ, sau đó đưa cho một trong các chú bé và nói “Đưa cho người lùn Narheim. Lần này hãy chắc chắn rằng ngươi sẽ lấy được thư hồi âm trước khi trở về, nếu không ta sẽ gửi ngươi đến tộc Urgal để làm trò mua vui và lau chùi cho họ.”
“Vâng, thưa quý bà!” cậu bé trả lời rồi chạy thục mạng ra ngoài, trong lòng có phần khiếp đảm.
Nasuada bắt đầu dở từ đầu đến cuối một chồng giấy đặt ngay trước mặt nàng. Không nhìn lên, nàng hỏi “Anh đã nghỉ ngơi tốt chứ, Roran?”
Anh băn khoăn không rõ lý do nào làm nàng thích thú đến vậy. “Không tốt lắm.”
“Thật không may. Anh đã phải thức suốt đêm?”
“Một chút thôi. Vợ bác thợ rèn mới sinh hôm qua, nhưng..”
“Tôi đã được thông báo. Tôi đoán là anh không đứng canh cho tới khi Evergon chữa lành cho đứa trẻ.”
“Không, tôi đã quá mệt.“
“Ít ra anh đã có trách nhiệm.” Với tay qua bàn, nàng cầm một tờ giấy khác lên , xem xét kỹ lưỡng trước khi xếp nó vào chồng. Giữ nguyên giọng như trước, nàng nói “Tôi có một nhiệm vụ cho anh, Stronghammer. Lực lượng của chúng ta tại Aroughs đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt–mạnh hơn so với dự đoán chúng ta. Thủ lĩnh Brigman đã thất bại trong việc giải quyết tình thế và chúng ta cần họ rút lui ngay bây giờ. Vì vậy, tôi sẽ phái anh tới Aroughs để thay thế Brigman. Ngựa đang đợi sẵn ở cổng phía Nam. Anh hãy đi nhanh nhất có thể để đến Feinster, sau đó từ Feinster đi tới Aroughs. Cứ mười dặm từ đây tới Feinster sẽ có ngựa thay thế cho anh và anh phải tự tìm lấy chúng. Tôi nghĩ rằng anh sẽ tới Aroughs trong vòng bốn ngày. Một khi đã nghỉ ngơi đầy đủ, anh sẽ có khoảng … ba ngày để giải vây.” Nàng liếc nhìn anh. “Một tuần sau hôm nay, tôi muốn lá cờ của chúng ta tung bay trên đất Aroughs. Tôi không quan tâm anh làm cách nào, Stronghammer. Tôi chỉ muốn nó được thực hiện. Nếu anh thất bại, tôi sẽ không có sự lựa chọn nào ngoài việc phái Eragon và Saphira tới Aroughs, để lại lực lượng vừa đủ đề phòng Murtagh hoặc Galbatorix tấn công.”
Và Katrina sẽ gặp nguy hiểm. Roran nghĩ. Một cảm giác khó chịu xâm chiếm lòng anh. Cưỡi ngựa tới Aroughs trong bốn ngày là một thử thách khắc nghịêt, nhất là cơ thể đang đau đớn, bầm dập. Hơn nữa việc phải chiếm được thành phố trong thời gian rất ngắn sẽ là tổng hợp của khốn khổ với điên rồ. Tóm lại, nhiệm vụ này hấp dẫn như thể đấu vật với gấu cùng hai cánh tay bị cột lại phía sau.
Anh gãi má. “Tôi không có một chút kinh nghiệm về đánh kiểu vây đồn,” anh nói. “Chí ít cũng không phải như thế này. Phải có ai khác ở Vaden phù hợp với nhiệm vụ này hơn. Martland Redbeard thì sao?”
Nasuada phất tay, ra vẻ tùy tiện.”Anh ta không thể phi nước đại chỉ với một tay. Anh phải tự tin vào bản thân, Stronghammer. Có những người khác ở Vaden biết rõ hơn về binh pháp, nói đúng hơn, họ đã tham gia chiến đấu lâu hơn, những người được thừa hưởng những kinh nghiệm quý báu nhất từ lớp đàn anh. Nhưng khi chiến tranh nổ ra và anh phải tham chiến thì kiến thức hay kinh nghiệm không phải là thứ quan trọng nhất mà là khả năng để giành được chiến thắng, mưu mẹo này xem chừng anh đã nắm rõ. Hơn thế, anh còn may mắn nữa.”
Nàng sắp xếp những tờ giấy trên cùng và tựa người lên tay. “Anh đã chứng minh được khả năng chiến đấu và khả năng thực thi quân lệnh …khi cần thiết”. Anh so vai khi nhớ lại trận đòn cay đắng, vết thương bỏng giãy của chiếc roi da cắt trên lưng anh khi anh bị kỷ luật vì thách thức mệnh lệnh của thuyền trưởng Edric. “Anh đã chứng minh được khả năng chỉ huy biệt đội đột kích. Vì vậy, StrongHammer hãy cho chúng tôi thấy những khả năng khác của anh, được không?”
Anh nuốt khan. “Vâng, thưa quý bà.”
“Tốt. Tôi sẽ thăng cấp cho anh làm thủ lĩnh trong thời gian tới. Nếu anh chiến thắng trong trận Aroghs, anh sẽ được xem xét để phong tước hiệu, ít nhất cho tới khi anh chứng minh được anh đáng được thăng cấp hay giáng cấp.” Nàng quay lại nhìn chằm chằm xuống bàn, lục tìm trong đống giấy lộn, có vật gì đó ẩn bên dưới.
“Cảm ơn.”
Nasuada đáp lại với giọng uể oải.
“Có bao nhiêu người sẽ dưới quyền chỉ huy của tôi ở Aroughs, thưa bà?” Roran hỏi.
“Tôi đã giao cho Brighman một ngàn chiến binh để tiến hành chiếm thành phố. Tất nhiên, hiện giờ trong số ấy có không quá tám trăm người trong quân chế.”
Roran suýt nữa thì hét lớn. Quá ít.
Dường như nghe được lời của anh ta, nàng nói bằng giọng tỉnh bơ “Chúng tôi tin rằng việc phòng thủ ở Aruoghs dễ dàng hơn là tiếp tục tấn công trong hoàn cảnh như hiện nay.”
“Tôi hiểu. Tôi có thể mang theo ba người từ Carvahall không? Bà đã từng nói bà sẽ cho phép chúng tôi cùng phục vụ nếu có dịp.”
“Được, được” nàng khoát tay “Tôi biết tôi từng nói những gì.” Nàng mím môi, cân nhắc. “Rất tốt, anh hãy mang theo bất cứ ai mà anh muốn, miễn là anh sẽ lên đường trong một tiếng tới. Hãy báo cho tôi biết có bao nhiêu người đi cùng với anh, để tôi chuẩn bị số ngựa thay thế dọc đường cho thích hợp”.
“Tôi có thể mang theo Carn ?” anh hỏi, và gọi tên nhà pháp sư mà anh đã cùng chiến đấu trong nhiều dịp.
Nàng dừng lại, nhìn chằm chằm lên tường trong chốc lát, ánh mắt vô định. Ngay sau đó, nàng gật đầu rồi lại tiếp tục tìm kiếm trong đống giấy nháp “À, chúng đây rồi.” Nàng rút ra một ống giấy da được buộc bằng dây da. Tấm bản đồ của Aroughs và các vùng lân cận, giống y với tấm bản đồ đã phóng lớn của tỉnh Fenmark.” Tôi đề nghị anh nghiên cứu cả 2 bản một cách cẩn thận nhất.”
Nasuada trao cho anh, anh cẩn thận nhét gọn nó vào trong chiếc áo chẽn. ”Và đây” nàng đưa cho anh ta một phong thư bọc giấy da hình chữ nhật đã được áp triện bằng sáp đỏ “Nó là nhiệm vụ của anh, và…” một phong thư thứ hai, dày hơn cái trước, “Nó là thư ủy thác của anh. Hãy trình lên Brighman nhưng không để ông ta giữ chúng. Nếu tôi nhớ chính xác, anh chưa bao giờ học chữ phải không?”
Anh ta nhún vai “Để làm gì? Tôi có thể tính toán và đếm số như bất kỳ người đàn ông nào. Cha tôi nói rằng việc dạy chúng tôi đọc có ý nghĩa không hơn việc dạy con chó đi bằng hai chân sau của chúng: vui, nhưng hầu như không đáng phải nỗ lực.”
“Lúc trước thì đúng như vậy, nhưng giờ thì không”. nàng chỉ về phía những phong thư mà anh đang cầm “Như anh đã biết, một trong số chúng là tờ lệnh để bổ nhiệm anh. Anh có những hạn chế như thế này nên tôi không thể trọng dụng anh. Tôi không thể gửi thư cho anh mà không có người đọc giúp, nếu anh cần báo cáo với tôi, anh cũng không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc dùng thuộc hạ thân tín ghi chép lại chính xác những lời anh nói. Điều đó dễ làm anh bị điều khiển, và bị thất tín. Nếu anh hi vọng được thăng tiến ở Varden, tôi đề nghị anh tìm ai đó dạy cho anh. Bây giờ hãy lên đường, có rất nhiều việc khác đang đợi tôi.”
Nàng búng tay, một trong những tờ giấy bay về phía nàng , nàng đặt tay lên vai cậu bé, cúi nhìn gương mặt của cậu rồi nói, “Tôi muốn cậu đưa Jörmundur về thẳng đây cho tôi, cậu hãy tìm anh ấy dọc theo phố chợ, nơi có ba căn nhà…” Trong lúc đang hướng dẫn, nàng dừng lại và nhướn mày khi thấy Roran vẫn chưa nhúc nhích. “Có việc gì nữa không, Stronghammer?” Nàng hỏi.
“Vâng, trước khi đi, tôi muốn gặp Eragon.”
“Vì sao vậy?”
“Phần lớn số bùa hộ mệnh cậu ấy đưa tôi trước trận đấu giờ đã hết”.
Nasuada cau mày, sau đó nói với cậu bé “Tại phố chợ, nơi có ba ngôi nhà bị cháy. Cậu biết nơi đó chứ? Nào, bây giờ hãy đi đi “. Nàng vỗ nhẹ vào lưng cậu bé, đứng thẳng người nhìn theo cho đến khi nó đi khuất. “Sẽ tốt hơn nếu anh không gặp “.
Câu nói của nàng làm Roran bối rối, nhưng anh giữ im lặng chờ đợi lời giải thích. Nàng biết, nhưng lại trả lời vòng vo “Anh có biết Eragon mệt mỏi thế nào trong cuộc hội kiến với ma mèo không ?”
“Cậu ấy không đủ sức đứng vững nữa.”
“Đúng vậy. Cậu ấy đã quá gầy ốm, Roran. Anh ấy không thể bảo vệ anh, tôi, Saphira, Arya, ai biết còn ai khác nữa,và cậu ấy vẫn phải làm. Cậu ấy cần phải giữ sức cho trận đánh sắp tới với Murtagh và Galbatorix. Và gần hơn nữa là trận đánh với Urû’baen, quan trọng hơn là cậu ta sẵn sàng đối đầu với chúng bất cứ lúc nào, ngày hay đêm. Tôi không thể để cho những lo lắng, phiền nhiễu làm nhụt chí khí của cậu ấy. Điều đáng quý là cậu ấy đã chữa khỏi tật hở hàm ếch cho đứa trẻ, nhưng những việc làm đó có thể gây tổn thất cho cuộc chiến của chúng ta!”
“Anh đã từng không dựa dẫm vào lá bùa khi Ra’zac tấn công ngôi làng của anh ở Spine. Nếu anh quan tâm tới những người em họ của anh và tới mục đích đánh bại Galbatorix, anh phải học cách chiến đấu mà không có chúng thêm một lần nữa.”
Khi nàng vừa dứt lời, Roran cúi đầu chào kính cẩn. Nàng nói đúng .“ Tôi sẽ khởi hành ngay lập tức.”
“ Tôi đánh giá cao điều đó.”
“Xin phép bà.”
Quay lưng, Roran sải bước về phía cửa. Khi anh vừa bước qua ngưỡng cửa, Nasuada gọi lớn “À, còn nữa Stronghammer.”
Anh quay lại, tò mò.
“Cố gắng không thiêu hủy thành phố, được không? Sẽ khá khó khăn để xây dựng lại.”
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top