Em ở đâu? (c1-c4)
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Lời mở đầu
Nguyên văn tiếng Pháp: Où es- tu?
Chỉ tình yêu và tình bạn mới khỏa lấp nỗi cô đơn của đời người. Không phải ai cũng có quyền luôn hạnh phúc, đó là một cuộc chiến thường nhật. Tôi tin rằng phải nắm bắt lấy hạnh phúc một khi nó nằm trong tầm tay.
Orson Welles.
Nó được sinh ra vào ngày 14 tháng Chín năm 1974, lúc 8 giờ sáng, tại vị trí 15.30 độ vĩ bắc, 65 độ kinh tây. Chiếc nôi của nó đặt tại một hòn đảo nhỏ ở ngoài khơi Honduras. Chẳng ai chú ý đến sự ra đời của nó. Trong sổ trực, nó mang số 734. Hai ngày đầu tiên sau khi chào đời, mọi người hoàn toàn thờ ơ trước sự phát triển rất đỗi bình thường của nó. Các thông số theo dõi tình trạng phát triển của nó đều rất ổn định nên không có lí do gì để người ta phải quan tâm một cách đặc biệt. Người ta theo dõi nó bình thường như tất cả các trường hợp tương tự khác. Cứ sáu giờ một lần, người ta đến ghi lại các thông số về sự phát triển của nó đúng như quy trình hiện hành. Nhưng sang ngày 16 tháng Chín, vào lúc 14 giờ, các kết quả phân tích bắt đầu thu hút sự quan tâm của một nhóm các nhà khoa học Guadeloupe. Người ta lo lắng về sự phát triển của nó có vẻ như đang chệch ra khỏi quy luật thông thường. Buổi tối, trưởng nhóm phụ trách theo dõi tình hình không thể giấu nổi sự lo lắng của mình và ngay lập tức liên lạc với các đồng nghiệp người Mĩ. Điều gì đó quan trọng đang xảy ra. Sự phát triển bất thường của đứa bé này đang làm cho cả nhân loại phải quan tâm lo lắng. Là sự kết hợp giữa cái nóng và cái lạnh, tình khí đáng sợ của nó đang bắt đầu bộc lộ. Ngược lại với người chị gái Élaine, sinh ra cùng tháng Tư năm đó và chỉ sống được vỏn vẹn có mười một ngày vì không hội đủ sức mạnh để lớn lên, nó đang mạnh dần với một tốc độ đáng báo động và chỉ sau hai ngày đã đạt đến sức vóc đáng lo ngại. Sang ngày thứ ba, nó bắt đầu chuyển động hỗn loạn theo khắp các hướng. Nó xoay quanh chính mình, càng ngày càng bộc lộ sức sống mãnh liệt và xem ra chưa quyết định được là sẽ đi theo hướng cụ thể nào.
Vào lúc hai giờ sáng, đêm ngày 16 rạng sáng ngày 17 tháng Chín , dưới ánh sáng rọi tới từ chiếc đèn nê- ông duy nhất kêu o o trong phòng, giáo sư Huc đang nghiêng người trên chiếc bàn đầy những tờ kết quả khảo sát với những cột dãy số và những biểu đồ dễ khiến người ta nhầm tưởng là những đường biểu diễn điện tâm đồ. Trước diễn tiến như vậy, ông quyết định phải nhanh chóng đặt tên cho nó, như thể điều đó có thể giúp xua đuổi mối hiểm họa đang dần lộ nguyên hình. Cứ xem những chuyển biến đáng sợ đang diễn ra là đủ hiểu chắc chắn nó sẽ không chỉ dừng ở đó. Người ta đã chọn tên cho nó, trước cả khi nó được tạo thành: nó sẽ mang tên Fifi. Nó đã đi vào lịch sử ngày 17 tháng Chín năm 1974, lúc 8 giờ sáng, khi vượt qua giới hạn vận tốc 120 km/h. Những nhà khí tượng học của Viện nghiên cứu bão Pointe-à-Pitre và các đồng nghiệp của họ ở trung tâm phòng chống bão quốc gia Miami đã chính thức xếp hạng nó ở cấp độ I trên thang đo Saffir Simpson. Những ngày sau đó, nó sẽ còn tiếp tục mạnh hơn, nhanh chóng chuyển sang cấp độ 2 trước sự bàng hoàng của tất cả giáo sư đang theo dõi. Lúc 14 giờ, Fifi bắt đầu tạo ra những trận gió thổi với tốc độ 138km/h, và ngay tối đó, nó lướt đi với tốc độ 150km/h. Nhưng điều khiến người ta lo lắng là nó đang chuyển hướng vô cùng nguy hiểm. Hiện giờ nó nằm ở vị trí 16.30 độ vĩ bắc, 81.70 độ kinh tây. Người ta bắt đầu gửi đi báo động tối khẩn cấp. Ngày 18 tháng Chín, vào lúc 2 giờ sáng, nó tiến gần bờ biển Honduras, từng đợt cuồng phòng quét qua bờ bắc với tốc độ gần 240km/h.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 1
Sân bay Neward. Chiếc taxi vừa thả cô xuống bên vỉa hè và nhanh chóng lẫn vào đống xe cộ hỗn loạn trên đường. Cô nhìn theo chiếc taxi đang mất hút đằng xa. Chiếc ba lô vải màu xanh lá cây kếch xù đặt dưới chân nặng gần hơn cả trọng lượng của cô. Cô nhấc túi lên, nhăn mặt và cố sức giữ nó trên vai. Cô bước qua cánh cửa tự động của trạm số1, băng qua khu sảnh rộng và bước xuống vài bậc thang. Bên tay phải cô là một chiếc cầu thang hình xoắn ốc. Bất chấp chiếc túi đang đè nặng trên lưng, cô vẫn leo lên từng bậc thang và bước những bước cả quyết dọc theo hành lang. Cô đứng bất động phía trước mặt tiền của một quán bar đang ngập chìm trong ánh sáng màu vàng cam và nhìn xuyên qua cửa kính. Một đám khoảng chục người đàn ông đang ngồi xung quanh quầy bar, vừa nhấm nháp từng ngụm bia vừa ồn ào bàn luận về kết quả những trận đấu đang hiện ra trên màn hình tivi treo phía trên đầu họ. Đẩy cánh cửa gỗ trang trí kiểu mắt bò với những ô rộng, cô bước vào, phóng tầm mắt qua những dãy bàn màu xanh đó.
Cô nhìn thấy anh. Anh ngồi tận cuối phòng, lưng xoay lại tấm vách kính nhìn ra khu vực đường băng. Một tờ báo gấp lại để trên một góc bàn, anh đang tựa cằm lên bàn tay phải, tay trái hờ hững cầm cây bút chì vẽ hình một khuôn mặt lên trên tấm khăn giấy trải bàn.
Cô vẫn chưa nhìn được rõ đôi mắt anh nhưng dường như ánh mắt ấy đang mất hút phía xa trên con đường rải nhựa có những vạch màu vàng, nơi những chiếc máy bay đang lăn bánh chuẩn bị cất cánh. Cô ngập ngừng rồi vòng theo lối đi bên phải để khẽ tiến gần đến chỗ anh. Cô đi qua chiếc tủ lạnh kêu rù rì, sải một bước nhanh nhưng thật êm đến sát bên anh. Cô đưa tay lùa vào tóc chàng trai đang đợi cô và âu yếm xoa tóc anh rối tung lên. Trên chiếc khăn giấy trải bàn có đột lỗ, bức chân dung mà anh đang vẽ chính là hình cô.
- Em để anh đợi có lâu không? Cô hỏi.
- Không, em đến gần như đúng giờ. Bây giờ em mới sắp sửa bắt anh phải đợi đây.
- Anh ngồi đây lâu chưa?
- Anh hoàn toàn không để ý. Trông em đẹp quá! Em ngồi xuống đi.
Cô mỉm cười và nhìn đồng hồ.
- Máy bay của em sẽ cất cánh trong một tiếng nữa.
- Anh sẽ làm bất cứ điều gì để em bị lỡ chuyến bay ấy, để em không bao giờ bay nữa!
- Vậy thì em sẽ đi khỏi đây ngay lập tức! Cô vừa nói vừa ngồi xuống.
- Thôi, anh hứa, anh không nói như vậy nữa. Anh có mang đến cho em một cái này.
Anh đặt lên bàn một chiếc túi nhỏ bằng nhựa dẻo màu đen và lấy ngón trỏ đẩy nó về phía cô. Cô nghiêng đầu, đó là cách riêng của cô để hỏi "Cái gì thế?". Và vì anh hiểu rõ từng điệu bộ dù là nhỏ nhất trên gương mặt cô, ánh mắt anh dường như đang trả lời "Mở ra đi, em sẽ thấy." Đó là một cuốn album hình nhỏ.
Anh bắt đầu lật từng trang. Trên bức hình đầu tiên, một bức đen trắng, hai đứa bé hai tuổi đứng đối diện nhau, đứa này tựa vào vai đứa kia.
- Đó là tấm hình xưa nhất của chúng ta mà anh tìm thấy được, anh nói.
Anh lật qua trang khác, tiếp tục bình luận:
- Đây là anh và em, vào một mùa Noel mà anh không còn nhớ là năm nào nữa, chỉ biết rằng khi đó chúng ta vẫn còn chưa lên mười. Anh nghĩ chính vào năm đó, anh đã tặng cho em cái mặt dây chuyền của anh.
Susan luồn tay vào giữa ngực, kéo sợi dây chuyền mảnh với mặt tròn mang hình thánh Tê-rê-sa ra. Sợi dây này lúc nào cô cũng mang bên mình, không bao giờ rời xa. Thêm một vài trang nữa, rồi cô ngắt lời anh và đến lượt mình bắt đầu bình luận.
- Hình này là lúc chúng mình mười ba tuổi, trong vườn nhà ba mẹ anh, em vừa hôn anh xong. Đó là nụ hôn đầu tiên của chúng ta. Anh nói "Ôi, ghê quá" lúc em định đưa lưỡi vào miệng anh. Và hình này là hai năm sau, khi đó, đến lượt em thấy thật kinh khủng khi anh muốn chúng ta ngủ với nhau.
Lật qua trang khác, Philip dành lại quyền nói và chỉ vào một tấm hình khác.
- Và một năm sau đó, vào cuối buổi tiệc hôm ấy, nếu anh nhớ chính xác, em không cảm thấy điều đó là kinh khủng chút nào nữa.
Cứ thế, mỗi trang album đều đánh dấu một thời khắc riêng của quãng thời gian tuổi thơ mà cô và anh đã cùng nhau chia sẻ bao điều bí mật. Cô ngăn anh lại.
- Anh đã bỏ cách sáu tháng rồi, sao không có tấm hình nào về đám tang bố mẹ em? Ấy thế mà đó lại là lúc em thấy anh hấp dẫn nhất!
- Đừng có tỏ ra hài hước kiểu điên khùng như thế Susan !
- Em có đùa đâu. Đó là lần đầu tiên em cảm thấy anh mạnh mẽ hơn em, lúc đó em cảm thấy thật sự an tâm. Anh biết không, em sẽ không bao giờ quên được...
- Thôi đi nào...
- ...rằng chính anh là người đã đi tìm lại chiếc nhẫn cưới của mẹ trong đêm thức canh bên quan tài ba mẹ...
- Thôi nào, chúng ta chuyển đề tài được chưa?
- Chính anh là người mỗi năm nhắc em nhớ lại những sự kiện ấy. Anh bao giờ cũng chu đáo, luôn ở bên và ân cần chăm sóc em, mỗi năm, vào tuần tưởng nhớ đến tai nạn đã xảy ra.
- Chúng ta chuyển sang chuyện khác được chưa vậy?
- Tiếp tục đi anh, tiếp tục làm cho chúng ta già đi nào, lật sang những trang khác đi anh.
Anh nhìn cô, lặng im bất động, có một bóng tối đang chùm lên đôi mắt cô. Cô nhìn anh mỉm cười và nối tiếp.
- Em biết rằng em thật ích kỉ khi để anh ra tận sân bay này tiễn em.
- Susan, tại sao em làm vậy?
- Bởi vì "làm vậy" có nghĩa là em đang đi đến tận cùng những giấc mơ của mình. Em không muốn kết thúc cuộc đời như ba mẹ em, Philip . Em đã thấy, cả đời mình họ chỉ làm một việc là trả tiền nợ ngân hàng, và để làm gì chứ? Để cả hai kết thúc cuộc đời mình tại một gốc cây, trong chiếc xe hơi đẹp đẽ mà họ vừa mua. Cả cuộc đời của họ chỉ xuất hiện trong hai giây ngắn ngủi của chương trình tin tức buổi tối, còn em thì đang ngồi xem trước cái tivi đắt tiền mà thậm chí ba mẹ em còn chưa bắt đầu trả nợ. Em không phán xét bất cứ ai hay bất cứ cái gì, Philip, nhưng em, em muốn làm điều gì đó khác, và chăm sóc cho người khác là một lí do thực sự để em cảm thấy mình đang sống.
Anh nhìn cô, cảm thấy chới với, ngưỡng mộ sự quyết tâm của cô. Từ khi tai nạn xảy ra, cô không còn thực sự là cô của ngày xưa nữa, dường như những ngày tháng cứ chen chúc thi nhau chạy đến ngưỡng cửa của đêm giao thừa, giống như những lá bài mà người ta thảy xuống hai lá một để chia cho nhanh hơn. Ngay bây giờ, trông Susan đã không có vẻ gì của một cô gái mới hai mươi mốt tuổi, trừ khi cô cười, và cô vẫn rất hay cười. Kết thúc những năm học trường Junior College(1), nhận bằng Associate of Arts(2) trong tay, cô đã đầu quân cho tổ chức Peace Corps, một tổ chức nhân đạo chuyên gửi thanh niên tình nguyện sang hỗ trợ nhân đạo ở nước ngoài.
Trong chưa đầy một giờ nữa, cô sẽ ra đi làm việc ở Honduras trong suốt hai năm dài. Ở nơi cách New York vài ngàn cây số ấy, cô sẽ bước sang hẳn phía bên kia của tấm gương thế giới
* * *
Trong khu vịnh Puerto Castilla và vịn Puerto Cortes, vài người mới trước đó định ra bãi cát nằm ngủ ngoài trời đã phải từ bỏ ý định. Cuối giờ chiều, gió bắt đầu nổi lên và thổi rất mạnh. Dân làng không hề tỏ ra lo lắng. Đây không phải là lần đầu tiên, cũng không phải là lần cuối cùng một cơn bão nhiệt đới xuất hiện, xứ sở đã quen với những trận mưa vẫn xảy ra thường xuyên vào mùa này. Ngày có vẻ tối đi nhanh hơn, lũ chim vội vã sải cánh bay tìm nơi trú ẩn. Dấu hiệu của điềm chẳng lành. Vào nửa đêm, cát trên bãi bôc lên, tạo thành một đám bụi mù cách mặt đất vài centimet. Sóng biển bắt đầu cuộn lên rất nhanh, và bây giờ, vài người í ới gọi nhau đi cột lại dây neo tàu đã chìm hút không còn nghe rõ nữa.
Theo nhịp của những tia chớp đang xé tan bầu trời đêm, sóng biển cuồn cuộn dâng lên khiến cho những chiếc ụ nổi trên biển lắc lư một cách đáng sợ, những chiếc xuồng xô đập vào nhau trong tiếng gỗ cọ xát nơi mạn xuồng. Vào 2 giờ 15 phút, chiếc tàu chở hàng San Andre, dài 35 mét, bị sóng nhấc bổng lên rồi quăng xuống đập vào đá ngầm, dọc mạn tàu bị xé toạc. Chỉ trong vòng tám phút, nó đã bị nhận chìm. Cùng lúc đó, tại El Golason, sân bay nhỏ của thành phố La Caibe, chiếc trực thăng DC3 màu xám bạc đậu trước cửa kho hàng bất thần cất cánh và ngay sau đó lại hạ cánh dưới chân đài điều khiển không lưu, không có một người phi công nào trong khoang lái. Hai cánh quạt bị bẻ gập, phần cánh đuôi gẫy làm đôi. Vài phút sau, chiếc xe tải chở nhiên liệu đậu gần đó bị lật nghiêng và bắt đầu trượt trên mặt đất. Một chùm tia lửa bắn vào thùng xăng.
Philip cầm lấy tay Susan , lật lên và nhẹ nhàng vuốt ve lòng bàn tay.
- Anh sẽ nhớ em biết bao, Susan
- Em cũng vậy... em sẽ nhớ anh vô cùng, anh biết không!
- Anh tự hào về em, dù anh rất ghét em bỏ lại anh ở đây như thế này.
- Thôi nào anh, mình đã hứa với nhau là hôm nay sẽ không có nước mắt mà .
- Đừng đòi hỏi ở anh điều không thể!
Ngả người vào nhau, họ cùng chia sẻ nỗi buồn của xa cách và cảm giác hạnh phúc vì đã ở bên nhau suốt mười chín năm, chia sẻ bao buồn vui, bao điều bí mật. Mười chín năm, gần như là toàn bộ khoảng thời gian sống của hai người.
- Em sẽ thường xuyên cho anh biết tin của em chứ?- Anh hỏi với vẻ mặt của một cậu bé
- Không!
- Em sẽ viết thư cho anh chứ?
- Em có thể ăn một ly kem được không?
Anh quay người lại và gọi người phục vụ. Khi người phục vụ đến gần, anh gọi hai viên kem vani phủ socola nóng rắc những lát hạnh nhân, rồi rưới đẫm lên trên một lớp caramen lỏng. Đây là món tráng miệng yêu thích nhất của cô, nhưng li kem phải được trình bày chính xác theo thứ tự mô tả.
- Còn anh?
- Anh sẽ viết thư cho em ngay sau khi anh có được địa chỉ của em ở đó.
- không, ý em là anh đã quyết định mình sẽ làm gì chưa?
- Hai năm ở trường Cooper Union và sau đó anh sẽ thử tìm kiếm cơ hội của mình ở một công ty quảng cáo lớn.
- Vậy là anh đã không thay đổi ý định. Mà em nói cái gì ngốc thế nhỉ, anh có thay đổi ý định bao giờ đâu.
- Thế còn em, em thì đang thay đổi chắc?
- Philip, chắc chắn anh sẽ cùng đi với em nếu em đề nghị anh làm điều đó, bởi vì đó không phải là cuộc sống của anh. Còn em, em không ở lại bởi vì nơi này không phải dành cho em, bởi vậy anh đừng có làm cái vẻ mặt đó nữa được không?
Susan nhấm nháp từng muỗng kem với vẻ ngon lành, thỉnh thoảng cô múc đầy muỗng và đưa đến miệng Philip. Anh ngoan ngoãn để cô đút kem. Cô vét đáy ly kem, cố gom hết những hạt hạnh nhân cuối cùng còn sót lại dính vào thành ly. Chiếc đồng hồ lớn treo trên bức tường đối diện điểm chuông báo hiệu đã đến 5 giờ. Đó là một buổi chiều mùa thu. Một phút im lặng kì lạ nối tiếp; cô rời sống mũi nãy giờ vẫn tì sát vào cửa kính, nghiêng người trên bàn để quàng tay quanh cổ Philip, thì thầm vào tai anh:
- Em đang sợ đây, anh biết không?
Philip đẩy cô ra xa một chút để nhìn thấy rõ mặt cô.
- Anh cũng vậy
3 giờ sáng, tại Puerto Lempira, đợt sóng đầu tiên cao 9 mét cuốn phăng con đê trên đường đi của nó, mang theo hàng tấn đất và đá về phía bến cảng giờ đã bị cào xé nham nhở. Chiếc cần cẩu oằn mình trước sức mạnh của gió, khi đổ xuống, cái cần trục của nó cắt đứt đôi chiếc cầu vận chuyển công-ten-nơ Rio Platano. Chiếc cầu chìm nghỉm trong những cơn sóng cuồn cuộn. Thỉnh thoảng còn nhìn thấy mũi cầu nhô cao hướng lên trời giữa những đợt sóng; khuya hơn chút nữa nó biến mất hẳn và không bao giờ người ta thấy dấu vết của nó nữa. Ở vùng này, nơi mà lượng mưa trung bình hàng năm là 3 mét nước, những người sống sót sau những đợt càn quét đầu tiên của cơn bảo Fifi đang cố tìm chỗ ẩn náu phía sâu trong đất liền rồi cũng mất tích. Những con sông đang ngủ bỗng bị đánh thức vào giữa đêm, hung hăng rời khỏi giường cuốn theo những con người ấy và tất cả những gì nằm trên đường đi của chúng. Tất cả các thành phố nằm trong thung lũng đều biến mất khi bị nhận chìm dưới dòng nước lũ cuồn cuộn mang theo những khúc cây nhọn sắc, những mảng thân cầu gẫy, những mảng đường và nhà bị sập. Trong vùng Limon, toàn bộ những ngôi làng bám trên sườn núi Amapala, núi Piedra Blanca, núi Biscuampo Grande, núi La Jigua và núi Capiro trượt theo hàng khối đất đổ về phía những thung lũng đã ngập chìm trong nước. Vài người may mắn bám được vào những gốc cây còn trụ lại cũng bỏ mạng trong vài giờ sau đó. 2 giờ 52 phút, đợt sóng thứ ba thẳng tay quất mạnh vào quận Atlantida, toàn bộ dải bờ biển nơi này bị một lưỡi dao dài hơn 11 mét chém ngang. Hàng triệu tấn nước tràn về hai thành phố La Ceiba và Tela, lao phăng phăng qua những con phố nhỏ mà khoảng cách hẹp chỉ càng làm tăng thêm sức công phá của dòng thác nước. Những ngôi nhà nằm ngay bên hai bờ nước là những nạn nhân đầu tiên, chúng lung lay rồi đổ sập trong dòng nước, nên nhà nện bằng đất nhanh chóng tan ra trong dòng thác. Mái tôn bị nhấc bổng lên trước khi quật mạnh xuống đất, cứa đứt đôi những nạn nhân đầu tiên trong cơn càn quét tàn khốc của thiên nhiên.
Đôi mắt của Philip hướng về phía bộ ngực căng tròn với những đường cong đầy khiêu khích của cô. Susan nhận thấy ánh mắt ấy, mở một nút áo và lấy ra chiếc mặt dây chuyền mạ vàng.
- Em chẳng gặp phải chuyện gì đâu, em đã có cái mặt dây chuyền may mắn này của anh và em sẽ không bao giờ rời xa nó. Nó đã một lần cứu em, chính nhờ nó mà ngày hôm ấy em đã không lên xe đi cùng bố mẹ.
- em đã nhắc đi nhắc lại điều đó cả trăm lần rồi, Susan, đừng có nói chuyện đó ngay trước khi lên máy bay được không em?
- Dù sao đi nữa, cô nói và bỏ trở lại chiếc mặt dây chuyền trên cổ mình, khi có nó, sẽ chẳng có gì nguy hiểm xảy đến với em.
Đó là một vật kết ước. Một mùa hè, cả hai muốn nhận nhau làm anh em ruột thịt. Kế hoạch của hai đứa trẻ đã được nghiên cứu một cách tỉ mỉ. Trong giờ ra chơi, trên chiếc ghế băng sân trường, hai đứa trẻ cắm cúi nghiên cứu kĩ lưỡng một cuốn sách về thổ dân da đỏ mượn ở thư viện. Kết luận được rút ra, phương pháp thực hiện đã rõ. Phải trao máu cho nhau, phải lấy dao cắt đâu đó trên cơ thể. Susan đã lén lấy trộm chiếc dao đi săn của ba để trong phòng làm việc và hai đứa chui vào trốn trong căn lều của Philip. Cậu bé đưa một ngón tay ra và cố nhắm nghiền mắt lại, nhưng khi dao kề đến gần, nó cảm thấy chóng mặt. Với cách này, cô bé cũng chẳng thấy thoải mái chút nào, thế nên cả hai lại tiếp tục vùi đầu nghiên cứu những cuốn sách về thổ dân da đỏ để tìm một cách giải quyết khác: "Một linh vật thiêng liêng được trao tặng sẽ là vật chứng cho sự gắn kết trọn đời của hai tâm hồn", trang 236 của cuốn tài liệu nói vậy.
Sau khi kiểm tra lại lần cuối để hiểu chính xác nghĩa của từ "vật trao tặng", hai đứa trẻ cùng thấy hài lòng và thống nhất chọn phương pháp này. Trong buổi lễ long trọng được tiến hành, hai đứa cùng đọc lên vài bài thơ của thổ dân I-rô-qua và người Si-u, và Philip đeo lên cổ Susan chiếc dây chuyền kết ước. Cô bé không bao giờ chịu rời xa nó nữa, ngay cả khi mẹ cô muốn cô tháo nó ra để đi ngủ.
Susan mỉm cười, khiến hai gò má nhô cao.
- Anh xách giúp em cái túi được không? Nó nặng đến cả tấn, em muốn đi thay đồ, em sẽ chết mất vì nóng khi đến nơi.
- Nhưng em đang mặc áo sơ mi rồi mà.
Cô đã đứng dậy và nắm tay anh kéo đi theo, ra hiệu cho người phục vụ đứng nơi quầy bar giũ chỗ cho hai người. Anh phục vụ gật đầu ra hiệu đồng ý, căn phòng hầu như không có khách. Philip đặt chiếc túi ngay cửa phòng vệ sinh, Susan đứng sát trước mặt anh.
- Anh vào chứ? Em đã nói là nó rất nặng mà.
- Anh cũng muốn vậy, nhưng nơi này trên nguyên tắc là dành riêng cho phụ nữ hay sao ấy?
- Thì sao nào? Bây giờ anh sợ vào toelet để rình trộm em rồi sao? Như thế này có phức tạp hơn cái vách ngăn trong phòng vệ sinh trường trung học hay khó khăn hơn cái cửa áp mái của phòng vệ sinh nhà anh không? Vào đi!
Cô kéo anh về phía mình, không cho anh một sự chọn lựa nào khác ngoài việc đi theo cô; anh cảm thấy đỡ hơn khi chỉ có một buồng vệ sinh duy nhất. Cô vịn vào vai anh, tháo chiếc giầy bên chân trái và nhắm thẳng bóng đèn gắn trên trần. Ngay lần đầu tiên cô đã nhắm trúng đích, bóng đèn hình bát úp nổ tung kêu một tiếng khô gọn.
Trong ánh sáng mờ của chiếc đèn nê-ôn duy nhất gắn phía trên tấm gương, cô tựa người vào chiếc bồn rửa mặt, vòng tay ôm lấy anh và gắn đôi môi của mình vào môi anh. Sau một nụ hôn dài hơn bất cứ nụ hôn nào khác trên đời, cô ghé sát miệng vào tai anh, sự nồng nhiệt của giọng nói thì thầm truyền run rẩy sang tai anh, kết thúc bằng những rung động khó tả chạy dọc sống lưng.
- Em đã có chiếc mặt dây chuyền của anh luôn nằm trên ngực em ngay cả trước khi nó bắt đầu nhú lên, em muốn làn da của anh mãi nắm giữ ký ức về hai bầu ngực ấy. Em sẽ ra đi nhưng em muốn sẽ mãi mãi là nỗi ám ảnh của anh chừng nào em còn tồn tại trên đời, để mãi mãi anh không thể thuộc về ai khác.
- Em thật là quá hoang tưởng đấy!
Nửa vòng tròn màu xanh trên tay khóa cửa chuyển sang màu đỏ.
- Anh im đi và tiếp tục nào, em muốn xem anh đã tiến bộ thế nào rồi.
Một lúc lâu sau, hai người ra khỏi phòng và trở lại bàn, dưới ánh mắt dò xét của người phục vụ quầy bar đang vừa liếc nhìn họ vừa tiếp tục công việc chùi ly của mình.
Philip lại cầm bàn tay Susan , đặt trong lòng bàn tay mình, nhưng anh có cảm giác như cô đã ở một nơi khác.
Xa hơn về phía Bắc, ngay của ngõ thung lũng Sula, những dòng nước lũ đã dâng cao cuộn xiết hơn, xóa sổ tất cả những gì nằm trên đường đi của nó trong một thứ tiếng gầm thét át hết mọi tiếng động khác. Xe hơi, gia súc, đò gạch vữa đổ nát, một thứ hỗn độn thỉnh thoảng bất chợt xuất hiện giữa lòng vòng xoáy của cơn lốc bùn, và có những lúc từ vòng xoáy đó trồi lên một mớ kinh hoàng những tay chân người rách tướp. Chẳng có gì có thể chống cự lại được,các cột điện, xe tải, cầu, nhà máy cũng bị bốc lên khỏi mặt đất và cuốn đi trong cái mớ hỗn hợp tạo thành từ nhiều nguồn sức mạnh siêu nhiên này. Chỉ trong vài giờ, thung lũng đã chỉ còn là một cái hồ rộng. Nhiều năm sau đó, những người lớn tuổi kể lại rằng chính vẻ đẹp của cảnh vật nơi này đã giữ chân cơn bão Fifi ở lại trong hai ngày; hai ngày đủ để gây ra cái chết của mười nghìn đàn ông, đàn bà và trẻ em, bỏ lại gần sáu trăm nghìn người không nhà cửa và lương thực. Chỉ trong vòng bốn mươi tám tiếng, đất nước nhỏ bé, với diện tích chỉ bằng bang New York, nằm gọn giữa Nicaragua, Guatemala và Salvador này đã bị tàn phá tan hoang bởi một sức mạnh tương đương với ba quả bom hạt nhân gộp lại.
- Susan, em sẽ ở lại đó bao lâu?
- Em phải đi đây, em phải lên máy bay đây, anh muốn ở lại đây à?
Anh đứng lên không trả lời, để lại một đola trên bàn. Cô dấn bước ra lối hành lang rồi lại quay người dán mặt vào ô kính nhìn về phía chiếc bàn trống nơi họ vừa ngồi. Cô cố hết sức kìm nỗi xúc động đang trào lên trong lòng và nói thật nhanh:
- Thế nhé, sau hai năm nữa khi em trở lại, anh sẽ đợi em ở đây, sẽ hơi giống như chúng ta đang lén gặp lại nhau. Em sẽ kể cho anh nghe tất cả những gì em đã làm và anh cũng vậy, anh kể em nghe tất cả những gì anh đã làm, và chúng ta sẽ ngồi đúng tại chiếc bàn này bới vì nó sẽ thuộc về chúng ta; và nếu như sau này em đã trở thành Florence Nightingale( 1) của thời hiện đại và anh, một họa sĩ nổi tiếng, một ngày nào đó, người ta sẽ gắn ở đây một tấm bảng đồng nhỏ viết tên của hai chúng ta.
Nơi cửa lên máy bay, cô giải thích với anh rằng cô sẽ không quay đầu lại, cô không muốn nhìn thấy khuôn mặt sầu não của anh, cô muốn mang theo mình nụ cười của anh; cô cũng không muốn phải đối diện với sự vắng mặt của bố mẹ cô, chính điều đó đã khiến bố mẹ Philip không đến sân bay. Anh quàng tay ôm lấy cô và thì thầm: "Nhớ chăm sóc cho mình, em nhé!" Cô vùi đầu vào ngực anh để đánh cắp một chút mùi hương của anh, và để lại trên cơ thể anh thêm một chút mùi của cô. Cô đưa vé cho cô tiếp viên, ôm hôn Philip lần cuối, hít một hơi đầy lồng ngực và phồng má lên để bộ mặt hề vui nhộn này sẽ là hình ảnh sau rốt cô để lại cho anh. Cô bước xuống thật nhanh những bậc thang dẫn về phía lối đi, chạy hết quãng đường dài với hai hàng nhân viên phục vụ mặt đất đứng hai bên, leo lên những bậc thang và chui ào vào chiếc phi cơ.
Philip quay trở lại quầy bar và ngồi vào đúng chiếc bàn lúc nãy. Bên phía khu vực máy bay đậu, loạt động cơ của chiếc Douglas bắt đầu gầm lên, nhả ra từng cột khói xám. Hai chiếc cánh quạt máy bay xoay một vòng ngược chiều kim đồng hồ, rồi chầm chậm quay hai vòng theo chiều ngược lại trước khi quay tít và trở nên vô hình. Máy bay quay một vòng để hướng ra phía đường băng và chầm chậm lăn bánh. Tới cuối đường băng, nó dừng lại vài phút, chỉnh lại cho đúng vị trí để chuẩn bị cất cánh. Những chiếc bánh xe máy bay vừa vặn che lấp những vệt sơn trắng trên đường băng giờ đây lại một lần nữa nằm im bất động, cái càng hạ cánh gấp lại. Hai bên lề đường những ngọn cỏ cao mà chiếc máy bay dường như đang chào tạm biệt nằm xuống đất. Cửa kính của quán bar rung lên trước sự tăng tốc của các động cơ, hàng cánh phụ chào các khán giả một lần cuối và chiếc phi cơ bắt đầu lăn bánh. Vận tốc tăng rất nhanh, chiếc máy bay nhanh chóng đtaj đến tốc độ cần thiết và Philip nhìn thấy đuôi máy bay nâng lên, rồi những chiếc bánh rời khỏi mặt đất. Chiếc DC3 nhanh chóng tăng độ cao, nghiêng mình chuyển hướng bay về phía bên trái rồi mất hút sau những lớp mây mỏng đằng xa.
Anh còn ngồi đó, mắt đau đáu nhìn về phía bầu trời trong giây lát, rồi đưa mắt nhìn sang chiếc ghế mà cô ngồi vài phút trước đó. Một cảm giác cô đơn tột cùng xâm chiếm anh. Anh đứng dậy và rời khỏi nơi đo, hai tay đút trong túi.
Chú thích:
(1)Junior College: trong hệ thống giáo dục của Mỹ, tương đương với trường trung cấp
(2)Associate of Arts: trong hệ thống giáo dục của Mỹ; bằng do hệ thống trườngJunior College cung cấp hoặc 1 số trường khác cung cấp, thường chương trình học kéo dài 2 năm
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 2
Ngày 25 tháng Chín năm 1974, trong khoang máy bay...
Philip của em,
Chắc rằng lúc nãy, em đã không giấu nổi anh nỗi sợ hãi đang cuộn lên trong lòng em. Sân bay vừa vụt biến mất sau lưng em. Em đã cảm thấy chóng mặt mãi đến khi những đám mây che lấp hoàn toàn mặt đất, bây giờ đã đỡ hơn nhiều. Em thất vọng quá, em không thấy được Mahattan, nhưng phía dưới em, bầu trời vừa lộ ra và em gần như có thể đếm được từng đầu ngọn sóng, chúng nhỏ xíu, giống như những con cừu. Thậm chí em đã dõi mắt theo một con tàu lớn đang hướng về phía anh. Ở Mahattan, anh sẽ có một thời tiết rất đẹp.
Em không biết anh có đọc được chữ em đang viết không, máy bay đang lắc rất mạnh. Cả một hành trình dài đang đợi em phía trước , em sẽ đến Miami trong sáu giờ nữa, sau khi quá cảnh ở Washington, sau đó hành khách chúng em sẽ đổi phi cơ để bay đến Tegucigalpa (1). Chỉ riêng cái tên thành phố thôi đã thấy kì diệu rồi. Em đang nghĩ đến anh thật nhiều, anh chắc hẳn đang trên đường trở về nhà; hãy ôm hôn ba mẹ anh thật chặt cho em nhé, em sẽ viết cho anh, kể anh nghe về chuyến đi này, anh cũng vậy, hãy tự chăm sóc cho mình, Philip của em...
* * *
Susan ,
Anh vừa về đến nhà, ba mẹ chẳng hỏi han anh câu nào, chắc chỉ nhìn thấy bộ mặt của anh ba mẹ đã đủ hiểu. Anh tự trách mình về thái độ của anh ban nãy, lẽ ra anh phải tôn trọng niềm vui và mong muốn của em được rời xa nơi này, em đã có lí, anh cũng không biết nếu em yêu cầu anh cùng đi với em, anh có đủ can đảm để ra đi không. Nhưng em đã không làm điều đó và anh nghĩ rằng như vậy lại tốt hơn. Anh không biết câu vừa rồi diễn đạt điều gì nữa. Những buổi tối sẽ rất dài khi không có em. Anh sẽ gửi lá thư đầu tiên tới văn phòng của Peace Corps ở Washington, họ sẽ chuyển tới em.
Chưa gì anh đã nhớ em nhiều quá.
Philip .
* * *
...em lại lấy giấy và bút ra, có một ánh sáng thật đặc biệt, anh chưa bao giờ nhìn thấy ánh sáng nào như vậy đâu và em cũng vậy. Ở đây, phía trên những đám mây, em đang chứng kiến cảnh mặt trời lặn thực sự, nhìn từ trên cao, cảnh tượng đẹp đến khó tả, em cứ tiếc mãi là anh không có ở đây để chứng kiến những gì em đang nhìn thấy, lúc nãy em quên nói với anh một điều rất quan trọng, em nghĩ rằng em sẽ nhớ anh kinh khủng.
Susan .
* * *
Ngày 15 tháng Mười năm 1974,
Susan .
Đã ba tuần trôi qua kể từ ngày em đi, anh vẫn chưa nhận được lá thư đàu tiên của em, anh tưởng tượng nó đang đi chu du ở đâu đó, giữa anh và em. Những người thân của anh và em vẫn thường xuyên hỏi anh tin tức về em, nếu như anh vẫn không nhận được gì trong mấy ngày tới, anh sẽ phải bịa ra cái gì đó để kể...
* * *
Ngày 15 tháng Mười năm 1974,
Philip
Hành trình của em đã gặp nhiều xáo trộn. Chúng em đã bị kẹt lại trong suốt bốn ngày tại chặng quá cảnh ở Miami, phải đợi hai contener lượng thực và đợi sân bay La Ceiba, chặng dừng chân tiếp theo, mở cửa trở lại. Em định tranh thủ đi vòng quanh thăm thành phố nhưng hóa ra chỉ là mơ tưởng hão. Em và những thành viên khác trong đoàn phải ở lại trong một nhà kho. Mỗi ngày ba bữa ăn, hai lần tắm và ngủ trên một cái giường kiểu trại lính, những giờ học tiếng Tây Ban Nha cấp tốc và học cứu nạn, tất cả giống như cuộc sống trong quân đội, chỉ thiếu một người chỉ huy trưởng. Cuối cùng thì chiếc DC3 cũng đưa bọn em đến Tegucipalpa, từ đó một chiếc trực thăng quân đội đưa bọn em đến Ramon Villesla Morales, một sân bay nhỏ của thành phố San Pedro Sula. Thật khó tưởng tượng nổi, Philip , nhìn từ trên cao, người ta cứ tưởng thành phố này bị dội bom. Hàng cây số vuông mặt đất hoàn toàn trơ trụi, những mảng tường đổ nát, cầu gãy, những nghĩa địa tạm bợ hầu như mọc khắp nơi. Khi máy bay bay thấp, bọn em có thể nhìn thấy rõ những cánh tay nhô lên từ những đại dương bùn lầy, hàng trăm xác thú vật chết phơi bụng. Khắp nơi tràn ngập một thứ mùi hôi thối. Mặt đường bị xới bât lên, nhìn giống như những dải băng keo bị tháo bung trên những chiếc thùng cac tông nằm phanh bụng. Những gốc cây bật rễ nằm chồng chất lên nhau. Không có bất cứ thứ gì sống sót được trong những khu rừng ở Mikado này. Những triền núi hoàn toàn đổ sập, hàng loạt những ngôi làng nằm cheo leo nơi này vĩnh viễn bị gạch tên trên bản đồ. Chẳng ai đếm được hết số xác chết nhưng chắc hẳn phải là con số hàng nghìn. Ai biết được thực sự con số những xác chết bị chôn vùi? Làm sao những người may mắn thoát chết tìm lại đủ sức mạnh để sống sót qua cơn hoạn nạn này, với chừng ấy nỗi tuyệt vọng? Trên chiếc trực thăng này, chúng em chỉ có mười sáu người trong khi lẽ ra phải cần đến hàng trăm người để hỗ trợ họ.
Nói em nghe đi, Philip , nói em nghe tại sao những cường quốc chúng ta gửi hàng đại đội đi tham chiến, nhưng chúng ta lại chỉ có thể cử vài nhúm người đến cứu mạng sống của các trẻ em? Phải mất bao nhiêu thời gian nữa, chúng ta mới học được điều hiển nhiên đó? Philip, với anh, em có thể chia se cảm giác kì lạ này, em đang đứng đó giữa những xác chết, và hơn bao giờ hết em cảm thấy mình đang sống. Điều gì đó đã thay đổi, đối với em, sống không chỉ còn là một quyền lợi, nó đã trở thành một ân huệ . Em yêu anh rất nhiều, Philip của em
Susan .
* * *
Ngày 25 tháng Mười,
Susan
Hàng loạt phóng sự kể lại những điều kinh hoàng nới em đang sống đã xuất hiện trên các trang báo tuần này, vào đúng thời điểm anh nhận được bức thư đầu tiên của em. Báo chí nói đến con số mười nghìn người chết. Anh nghĩ đến em từng giây phút, cố tưởng tượng những gì em đang trải qua. Anh kể về em với từng người và tất cả đều nói về em. Trong tờ Montclair Times ra ngày hôm qua, phóng viên đã viết về nhóm cứu trợ nhân đạo mà đất nước chúng ta gửi sang đó, cuối bài anh ta nhắc đến tên em, anh đã cắt bài báo và gửi kèm cho em theo lá thư này. Tất cả mọi người đều hỏi anh tin tức về em, điều đó càng làm cho sự thiếu vắng em trở nên khó khăn hơn đối với anh. Anh nhớ em biết bao! Năm học đã bắt đầu trở lại, anh đang tìm một chỗ ở gần trường, anh đã nộp hồ sơ đăng kí thuê một căn phòng kiểu nghệ sĩ để ở và làm việc nhưng sẽ phải sơn sửa lại, trong một chung cư nhỏ ba tầng ở phố Broome. Nơi này sẽ cần được sửa sang lại. Nguyên cả khu phố cũng ở trong tình trạng khá cũ kĩ, nhưng căn phòng rộng và giá thuê nhà ở đây quả thật rất phải chăng, hơn nữa, em thử tưởng tượng xem, sống ngay giữa Manhattan! Khi em quay lại đây, chúng ta sẽ sống chỉ cách rạp Fiml Forum mấy dãy phố, em còn nhớ nó không ? Thật khó mà tin nổi, trên cửa kính của quán bar đối diện có treo một lá cờ Honduras; trong khi chờ đợi em ở đây, mỗi ngày anh đều đi ngang qua phía trước quán, đó là một dấu hiệu. Em nhớ giữ gìn sức khỏe. Anh nhớ em.
Philip .
* * *
Những lá thư của Susan đều đặn đến tay anh mỗi tuần một lá, anh viết thư trả lời ngay tối hôm nhận được thư. Có khi lá thư gửi đi và lá thư đến tình cờ gặp nhau, và anh nhận được những câu trả lời trước cả khi kịp gửi những câu hỏi. Dưới vĩ tuyền thứ hai mươi, những cộng đống dân cư tự trang bị cho mình một thứ vũ khí duy nhất là lòng dũng cảm, và cả đất nước nỗ lực tái thiết trong những điều kiện thiếu thốn do thiên tai. Susan và các đồng nghiệp của cô đã dựng được trại trú ẩn đầu tiên. Họ đã chọn nơi xây dựng của mình tại thung lũng Sula, giữa các dãy núi San Idelfonso và Cabaceras de Naco. Tháng Giêng khởi đầu cho một chiến dịch tiêm chủng rộng rãi. Với một chiếc xe tải cũ kĩ, Susan rong ruổi trên mọi con đường, tranh thủ phân phát lương thực, hạt giống và thuốc men. Khi không ngồi sau tay lái chiếc Dodge, cô dành thời gian để tổ chức trại. Ngôi nhà đầu tiên được dựng lên được dùng làm nơi khám chữa bệnh, căn phòng tiếp theo làm văn phòng hành chính. Mười ngôi nhà làm từ đất trộn và gạch đã trở thành nơi trú chân cho ba mươi gia đình. Cuối tháng Hai, khu xóm nhỏ của Susan được hình thành, trải rộng trên ba con phố, với hai dãy gồm hai mươi mốt căn nhà tranh vách đất. Trong số hai trăm con người trú ngụ nơi đây, hai phần ba đã có lại được một mái nhà để ở. Những người khác ngủ trong lều. tại nơi đã trở thành một quảng trường nhỏ để tập trung dân làng, móng của một trường học đang bắt đầu mọc lên. Mỗi buổi sáng, sau khi nuốt vội một chiếc bánh bắp, cô lái xe đến nhà kho bằng gỗ vừa dựng xong đúng vào dịp Noen, chất đầy hàng hóa trên xe tải và bắt đầu cuộc hành trình thường lệ. Khi Juan quay chiếc tay quay để khởi động xe, cả cabin rung lên ầm ầm. Juan phải buông tay lái ra bởi nếu không tay cậu sẽ bị mẩn ngứa hết lên, và chờ cho đến khi chiếc xilanh nóng lên đủ để những chiếc pittong chấp nhận bắt đầu chu trình vận hành.
Juan chưa tròn mười tám tuổi. Cậu sinh ra tại Puerto Cortes và không còn nhớ nổi gương mặt cha mẹ mình nữa. Lúc chín tuổi, cậu đặt chân đến cảng, mười một tuổi rưỡi cậu bắt đầu biết thả lưới trên một chiếc thuyền đánh cá. Mười ba tuổi, cậu một mình đến sống trong thung lũng và từ đó, tất cả mọi người đều biết cậu. Cậu thiếu niên với dáng vóc của một người đàn ông đã ngay lập tức chú ý đến người mà cậu gọi là "Senora Blanca"(1) ngay khi cô vừa bước xuống từ ở chiếc xe đến từ Sula. Cậu bé lập tức quanh quẩn bên cô. Thoạt đầu Susan tưởng cậu là một đứa trẻ ăn mày. Juan tự mình kiếm sống bằng cách làm thuê. Cậu làm một số việc vặt cho người ta để đổi lấy một ít thức ăn hoặc chỗ trú chân trong những đêm trời mưa to. Cậu sửa mái nhà, sơn lại hàng rào, tắm cho ngựa, chăn gia súc, mang vác đủ các loại hàng hóa, bốc dỡ kho thóc. Trong tất cả mọi việc, dù là khởi động chiếc Dodge xanh da trời nhạt, chất các két hàng lên hay ngồi phía sau xe để giúp cô trong những chuyến hành trình hàng ngày, Juan luôn chăm chú đón đợi từng cử chỉ của Susan tỏ ra là "tôi cần sự giúp đỡ". Từ tháng Mười một, mỗi sáng cô đều chuẩn bị hai chiếc bánh bắp, đôi khi kèm thêm một thỏi socola, hai người cũng chia nhau ăn trước khi lên đường. Dù có lạc quan đến mấy, đất đai vẫn chưa thể cho rau xanh vào trước mùa tới, và những con đường bị đứt đoạn khiến cho thực phẩm tươi không thể chuyên chở được đến khắp các vùng của đất nước. Những loại lương thực gọi là để duy trì cuộc sống là thứ duy nhất người ta có, và như thế đã đủ để dân làng coi như là bữa tiệc của Thượng Đế. Trên những nẻo đường đi ngang qua một vùng nông thôn hoang tàn, sự có mặt của Juan, đang nằm dài dưới mái bạt trong thùng xe phía sau làm cho Susan cảm thấy yên tâm hơn, nhưng im lặng vẫn bao trùm lên hành trình của họ và những nơi họ đi qua vẫn hằn dấu vết của tang tóc.
* * *
Ngày 8 tháng Giêng năm 1975,
Philip
Những ngày cuối năm đầu tiên xa anh, xa thành phố của chúng ta, xa tất cả. Một thời khắc kì lạ, tất cả lẫn lộn trong đầu em: một cảm giác cô đơn xâm chiếm em, đôi khi vơi đi phần nào bởi niềm vui được trải nghiệm nhiều điều rất đỗi đặc biệt. Trước đây, vào thời khắc của nửa đêm giao thừa, chúng ta vẫn ở bên nhau, trao cho nhau những món quà. Còn giờ đây, em đang sống khoảnh khắc này giữa những con người thiếu thôn mọi thứ. Những đứa trẻ ở đây đánh nhau để tranh giành những tờ giấy gói, một mẩu dây bình thường nhất cũng có lợi ích của nó. Điều kiện thì thiếu thốn như vậy đấy, nhưng giá mà anh có thể thấy được hương thơm của lễ hội đang tràn ngập khắp các con đường. Những người đàn ông bắn lên trời những viên đạn cũ để mừng niềm hi vọng đã giúp họ tiếp tục tồn tại. Những người phụ nữ nhảy múa trên đường, nắm tay những đứa trẻ quay tròn ngập tràn trong cảm giác hạnh phúc, còn em, em cảm thấy ngất ngây. Em vẫn nhớ cảm giác buồn man mác xâm chiếm chúng ta vào thời khắc cuối cùng của một năm, em nhớ em đã trải qua hàng giờ trút sang anh những ý nghĩ ảm đạm của em, bởi vì mọi thứ không được êm đẹp trong cái thế giới nhỏ bé của em. Ở đây, tất cả mọi người đều để tang người thân, những người phụ nữ mất chồng, và những người đàn ông mất vợ, nhưng họ đều bám víu vào cuộc sống để tồn tại mà vẫn giữ được một niềm kiêu hãnh đến khó tin. Chúa ơi, dân tọc này mới đẹp làm sao trong cơn hoạn nạn mà họ đang trải qua. Món quà Noel của em, Juan đã làm nó cho em, một món quà mới đặc biệt làm sao! Đó là ngôi nhà đầu tiên của em, nó sẽ rất đẹp, trong vài tuần nữa, em sẽ có thể dọn đến nhà mới. Juan đang đợi đến cuối tháng, những cơn mưa sẽ ngưng và cậu ấy sẽ có thể sơn mặt tiền ngôi nhà. Để em miêu tả nó cho anh nhé. Juan đã đắp nền nhà bằng đất trộn với rơm và sỏi, rồi cậu lấy gạch để xây tường xung quanh. Cùng với một vài người dân làng đến giúp, cậu tận dụng những khung cửa trong đống đổ nát và đặt hai ô cửa sổ ở hai bên chiếc cửa xinh đẹp màu xanh da trời. Nền của căn phòng duy nhất vẫn còn bằng đất. Bên trái sẽ có một lò sưởi nằm dựa vào một trong những bức tường, bên cạnh sẽ có một cái chậu bằng đá, đó sẽ là góc nhà bếp. Để làm vòi hoa sen, Juan sẽ bố trí một bể hứng nước mưa trên nóc nhà mái bằng.. Khi kéo sợi dây xích, em sẽ có một vòi sen nước lạnh hoặc nước ấm tùy vào thời điểm trong ngày. Miêu tả thế này, phòng tắm của em có vẻ thật tồi tàn và căn nhà của em quá trống trải, nhưng em biết là nó sẽ ngập tràn sự sống. Em sẽ đặt bàn làm việc trong góc phòng khách, đó là phần mà Juan muốn ốp ván sàn ngay khi cậu ấy tìm được một vật liệu gì đó thích hợp. Một chiếc thang dẫn lên gác lửng, em sẽ đặt trên đó cái nệm của mình. Thôi kể vậy là nhiều rồi, đến lượt anh viết cho em, kể em nghe anh đã trải qua những ngày lễ cuối năm như thế nào, cuộc sống của anh ra sao. Em vẫn luôn nhớ anh. Muốn làm một cơn mưa phủ đầy những nụ hôn của em lên giường của anh.
Susan của anh.
* * *
Ngày 29 tháng Giêng năm 1975,
Susan
Anh không nhận được những lời chúc của em! Đúng ra là vẫn chưa nhận được. Hi vọng là bức tranh anh vẽ gửi tặng em kèm trong lá thư này không bị hư hại nhiều sau quá trình vận chuyển. Chắc em sẽ tự hỏi hình ảnh con đường vào ban mai này có nghĩa gì, thì em biết không, anh có một tin vui muốn báo cho em đây, căn phòng phố Broome, anh đã thuê được rồi, hiện nay anh đang ở đó, và anh đang vừa viết cho em, vừa nhìn ra con phố vắng vẻ của khu SoHo qua khung cửa sổ trước mặt, đó chính là hình ảnh mà anh vẽ cho em. Em không thể biết được việc dời khỏi Montlair đã là một thay đổi lớn đối với anh như thế nào đâu, anh có cảm giác như mình đã đánh mất hết mọi điểm quy chiếu trong cuộc sống; nhưng đồng thời, anh cũng biết rằng điều đó sẽ giúp mình cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều.
Anh dậy sớm và đến quán cà phê Reggio để dùng bữa điểm tâm sáng, phải đi vòng một chút, nhưng anh rất thích ngắm ánh sáng buổi sớm chiều rọi xuống những con phố nhỏ lát những viên đá lớn hơi gồ ghề và không đều này, những vỉa hè ngoằn ngoèo với những tấm bảng đúc bằng gang gắn những viên bi ve, những mặt tiền nhà như được trang trí hình răng cưa bởi những cầu thang sắt gắn phía trước, khu này thật tuyệt. Em biết không , anh nghĩ rằng anh sẵn sàng viết lung tung bất cứ điều gì để thỉnh thoảng em nghĩ đến anh, để em trả lời thư anh và kể anh nghe về em. Anh không ngờ là anh lại nhớ em đến thế,Susan, anh vùi đầu vào bải vở và anh tự nhủ với mình mỗi ngày qua, rằng không có em ở bên thời gian trở nên quá dài, rằng lẽ ra anh phải nhảy lên một cái máy bay và đến ngay bên em, dù anh biết, như em đã nhiều lần nói với anh, rằng đó không phải cuộc sống của anh. Nhưng xa em, anh tự hỏi cuộc sống của anh sẽ như thế nào.
Vậy đó, nếu lá thư này không kết thúc đời mình trong thùng rác thì có nghĩa là chai rượu bourbon(1) anh vừa uống cạn đã có ep-phê., anh sẽ tự cấm mình đọc lại thư vào sáng mai, hay là ngay đêm nay, anh đã ghé thăm chiếc thùng thư nằm ở góc phố. Sáng sớm, khi ra khỏi nhà, anh vẫn thường liếc mắt nhìn nó khi băng qua đường như thể chính nó sẽ mang đến cho anh một lá thư của em, chốc lát nữa trong ngày, một lá thư mà anh sẽ tìm thấy khi từ trường về nhà. Đôi khi anh có cảm giác như nó mỉm cười giễu cợt anh, một cách rất thản nhiên. Trời lạnh khủng khiếp. Anh hôn em,
Philip .
* * *
Ngày 27 tháng Hai năm 1975,
Philip
Một lá thư ngắn. Hãy tha lỗi cho em vì đã không viết được cho anh thường xuyên hơn, lúc này em đang ngập đầu trong công việc, và, khi trở về nhà, em không còn đủ sức để viết nữa, chỉ vừa đủ sức để lê đến cái nệm và ngủ vài tiếng đồng hồ. Tháng Hai sắp kết thúc , ba tuần liền không mưa, đó như một điều kì diệu. Những hạt bụi đầu tiên sau một khoảng thời gian chỉ biết đến bùn. Bọn em đã có thể thực sự bắt tay vào việc và em có cảm giác như những cố gắng đầu tiên đã được đền đáp: sự sống đang chiến thắng.
Đây là lần đầu tiên em ngồi ở bàn làm việc của mình, em đã treo bức tranh của anh phía trên lò sưởi, như thế em và anh có cùng một hình ảnh trước mặt. Em rất vui biết anh đã chuyển đến sống ở Manhattan. Ở trường đại học, cuộc sống của anh thế nào, anh hẳn bị vây quanh bởi rất nhiều cô sinh viên không cưỡng lại sự quyến rũ của anh? Hãy tranh thủ đi, anh ạ, đừng để các cô ấy phải khốn khổ quá anh nhé. Gửi anh những nụ hôn dịu dàng.
Susan
* * *
Ngày 4 tháng Tư năm 1975,
Susan
Ánh sáng của những ngày lễ đã tắt từ lâu và những trang lịch của tháng Hai đã nằm phía sau chúng ta. Cách đây hai tuần, tuyết bắt đầu rơi, làm tê liệt cả thành phố trong suốt ba ngày liên tiếp, trong một nỗi sợ hãi khó tả bao trùm. Không có một chiếc xe nào có thể đi lại, những chiếc taxi chạy theo hình zigzag giống như những chiếc xe trượt tuyết trên đại lộ Cinquieme, đội lính cứu hỏa đã không thể dập tắt một đám cháy ở khu Tribeca vì nước đã đóng băng. Và thật là kinh hoàng, ba người ăn mày chết vì lạnh trong công viên Central Park, trong đó có một người phụ nữ ba mươi tuổi. Người ta đã tìm thấy người phụ nữ này đang ngồi, bị đóng băng trên một chiếc ghế trong công viên. Chương trình thời sự buổi sang và buổi tối trên đài truyền hình chỉ toàn nói về chuyện này. Ai cũng tự hỏi tại sao hội đồng thành phố không mở những trung tâm hỗ trợ cho người vô gia cư khi những đợt lạnh cao điểm kéo về. Làm sao có thể chấp nhận còn những con người phải chết như vậy ở thời đại của chúng ta, trên đường phố New York, thật thương tâm! Thế em cũng vậy à, em cũng đã dọn về ở trong một ngôi nhà mới? Cái câu châm chích của em về những cô gái trong trường hay nhỉ, vậy thì đến lượt anh: cái anh chàng Juan, người chăm sóc cho em tận tình đến thế là ai vậy? Anh học như điên, chỉ vài tháng nữa là các kì thi bắt đầu. Em vẫn nhớ anh đôi chút đấy chứ? Hãy viết cho anh nhanh đi.
Philip
* * *
Ngày 25 tháng Tư năm 1975,
Philip
Em đã nhận được thư anh, lẽ ra em phải viết thư trả lời anh từ cách đây hai tuần cơ, nhưng em chẳng thể nào có đủ thời gian, đã đến cuối tháng Tư rồi, trời rất đẹp, và nóng lắm, đôi khi không khí bốc một mùi thật khó chịu. Bọn em đã đi suốt mười ngày cùng với Juan, đi xuyên qua thung lũng Sula và leo lên những con đường trên đỉnh Cabacelas de Naco. Mục đích chuyến đi của bọn em là đến được với những xóm dân cư nằm cheo leo trên vách núi. Hành trình không dễ dàng chút nào. Dodge, đó là cái tên mà chúng em đã đặt cho chiếc xe tải của cả bọn, đã suýt bỏ rơi bọn em đến hai lần, nhưng Juan quả thật có đôi bàn tay của nhà ảo thuật. Lưng em bây giờ mỏi nhừ, anh không thể biết được phải thay bánh cho một cái xe như vậy là thế nào đâu. Thoạt đầu những người nông dân trong làng tưởng bọn em là mấy người sandiniste(2), còn mấy người sandiniste thì lại thường lầm tưởng chúng em là những người bên quân đội giả làm thường dân. Giá mà họ có thể thống nhất được với nhau thì đỡ cho công việc của bọn em biết mấy.
Ở chốt chặn đầu tiên, thú thật là tim em đập loạn cả lên. Em chưa bao giờ nhìn thấy những họng súng máy kê sát mặt mình đến thế. Chúng em đã phải đưa cho họ vài túi bột mì và mười hai cái chăn để đổi lấy sự bình yên cho chuyến đi. Con đường dọc sườn núi đá khó đi vô cùng. Bọn em đã phải mất hai ngày mới lên cao được 1.000 mét. Thật khó có thể miêu tả hết với anh những gì chúng em đã thấy trên đó. Những xóm dân đói không có gì để ăn, chưa bao giờ nhận được sự hỗ trợ từ bất kì ai. Juan đã phải thương lượng rất gay go mới có thể chiếm được lòng tin của những người canh gác ngọn đèo...
Họ được đón tiếp bởi những con người với thái độ hết sức nghi ngờ và đề phòng. Tiếng kêu ì ì của cỗ máy xe tải truyền đi trước khá xa và những người dân trong xóm đã tập trung dọc theo con đường để dõi theo bước tiến chậm chạp của chiếc Dodge già nua với cái hộp số kêu lên như sắp gẫy mỗi khi đến một khúc quanh. Khi đến chỗ ngoặt báo hiệu điểm cuối của con đường hoang vu, chiếc xe gần như phải dừng hẳn lại trong một nỗ lực để bám cua, hai người đàn ông phóng ra từ hai bên lề đường, nhảy lên đứng trên bậc lên xuống của xe và chĩa những chiếc dao rựa của họ vào khoang lái. Giật mình, Susan giật tay lái làm chiếc xe bị trệch hướng, cô vội đạp phanh gấp, xém chút xíu là chiếc xe lao xuống vực.
Giận điên lên, không còn biết sợ hãi là gì nữa, cô lao ra khỏi cabin. Cô đẩy cửa xe ra quá mạnh nên đã hất ngã một trong hai người đàn ông xuống đất. Ánh mắt sầm lại và hai tay chống ngang hông, cô rủa xả họ một trận tơi bời. Người nông dân đứng dậy ngỡ ngàng, anh ta không hiểu một từ nào trong cả tràng ngôn ngữ mà người phụ nữ da trắng đang hét vào mặt anh ta, nhưng Quý cô da trắng rõ ràng là đang giận dữ ghê lắm. Đến lượt Juan xuống xe, với một vẻ bình tĩnh hơn, cậu giải thích với họ lí do của cuộc viếng thăm này. Sau vài giây lưỡng lự, một trong hai người nông dân giơ cánh tay trái lên trời và một nhóm khoảng mười người dân làng tiến lại phía anh ta. Họ túm tụm lại và bắt đầu tranh luận. Cuộc nói chuyện kéo dài rất lâu, ngày càng trở nên sôi nổi và có vẻ như không có hồi kết. Susan leo lên mui xe tải và lạnh lùng ra lệnh cho Juan bấm còi. Cậu ta mỉm cười và thi hành mệnh lệnh. Tiếng tranh cãi bị tiếng còi khàn khàn của chiếc xe tải át dần và cuối cùng ngưng hẳn. Cả nhóm người quay về phía Susan. Cô cố gắng tập trung hết vốn liếng tiếng Tây ban Nha của mình và hướng về phía người có vẻ là thủ lĩnh trong nhóm.
- Tôi mang theo chăn đắp, lương thực và thuốc men. Bây giờ, hoặc là các anh giúp tôi gỡ mọi thứ xuống, hoặc tôi sẽ thả phanh tay và đi bộ về nhà!
Một người phụ nữ băng qua đám đông đang đứng im lặng và tiến lên phía trước chiếc xe tải, bà làm dấu thánh giá. Susan tìm cách trèo xuống từ mui xe, tìm cách tránh không để bị trẹo mắt cá chân, người phụ nữ giơ một tay ra đỡ cô, và ngay lập tức một người đàn ông khác cũng đến giúp. Mặc kệ đám đông , cô đi ra phía sau xe nơi Juan đang đứng. Dân làng từ từ rẽ ra hai bên nhường đường cho cô. Juan nhảy lên thùng xe phía sau và hai người cùng nâng tấm vải bạt lên. Cả dân làng vẫn lặng im đứng bất động, cô lấy ra một lố chăn và quảng xuống đất.. Không ai động đậy.
- Họ đang chờ cái gì cơ chứ, phát điên mất!
- Cô ơi, Juan nói, những gì cô mang đến là vô giá đối với những con người này, họ đang chờ xem cô sẽ đòi hỏi họ điều gì và họ biết rõ là họ chẳng có gì để đổi lại cho cô.
- Vậy thì hãy nói với họ rằng điều duy nhất cô yêu cầu ở họ, đó là giúp chúng ta dỡ những thứ này xuống.
- Thực ra thì sẽ hơi phức tạp hơn thế một chút đấy cô ạ.
- Thế nếu muốn đơn giản thì phải làm sao đây?
- Cô hãy mang băng tay của tổ chức Peace Corps vào và lượm một trong số những cái chăn mà cô vừa quăng xuống đất lên và mang đến đặt lên vai của người phụ nữ vừa làm dấu thánh giá.
Vừa đặt chiếc chăn ca-rô nhỏ lên vai người phụ nữ, cô vừa nhìn sâu vào mắt bà và nói bằng tiếng Tây Ban Nha: "Tôi tới đây để mang cho các bạn những thứ mà lẽ ra chúng tôi đã phải mang đến cho các bạn từ lâu rồi, hãy tha lỗi cho tôi vì đã chậm trễ đến thế."
Teresa ôm lấy cô và hôn lên má cô. Những người đàn ông vô cũng hoan hỉ tranh nhau chạy lại phía xe tải và dỡ hết hàng hóa trên xe xuống, Susan và Juan được mời ăn tối với tất cả dân làng. Màn đêm buông xuống, một đống lửa to được nhóm lên và một bữa ăn đạm bạc được dọn ra.
Trong lúc ăn tối, một cậu bé đến gần sau lưng Susan. Cô cảm nhận được sự có mặt của cậu bé, quay lưng lại và mỉm cười nhưng ngay lập tức cậu bé chạy trốn. Lát sau, cậu bé lại xuất hiện, đến gần cô hơn chút nữa. Một cái nháy mắt và cậu bé lại bỏ chạy. Màn làm quen lặp đi lặp lại như vậy nhiều lần, cho đến khi cậu bé đến sát bên Susan, cô nhìn cậu bé, không một cử động và im lặng. Dưới lớp cáu bẩn dày đặc trên khuôn mặt cậu bé, cô nhận ra vẻ đẹp của tròng mắt với đôi mắt đen huyền.
Cô chìa bàn tay về phía cậu bé, lòng bàn tay hướng lên trời. Đôi mắt cậu nhỏ lưỡng lự hết về hướng về phía gương mặt cô rồi lại nhìn vào bàn tay cô, và những ngón tay cậu rụt rè khẽ bám vào ngón nhỏ bé đang muốn kéo cô đi. Susan đứng dậy và để mặc cho cậu bé dắt cô băng qua những lối đi hẹp ngăn cách giữa những ngôi nhà. Cậu bé dừng lại sau một bức vách và đặt một ngón tay lên miệng ra hiệu cho cô không gây tiếng ồn và để cô quỳ gối xuống ngang chiều cao của cậu.Cậu bé chỉ một lỗ hổng trên tấm liếp đan bằng sậy, ghé một mắt nhìn vào để cô bắt chước làm theo. Cậu bé vừa lùi ra sau, Susan lập tức bước tới nhìn xem cái gì đã có thể khiến cậu bé này có đủ chừng ấy sức mạnh vượt qua nỗi sợ hãi để dẫn cô đến tận đây.
...Em nhìn thấy một bé gái chừng năm tuổi đang chết dần, chân của em đã bị hoại thư quá nặng. Trong khi một bộ phận dân làng đang bị cuốn đi trong dòng thác bùn, một người đàn ông may mắn bám được vào thân cây, và trong khi đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng đứa con gái nhỏ vừa mất tích, ông đã nhìn thấy một cánh tay nhô lên từ dòng thác. Giành lại được đứa trẻ từ tay của thần chết, ông ôm chặt lấy cơ thể bé nhỏ trong lòng. Hai người đã băng qua hàng cây số trong bóng tối, cố gắng để đứng vững trên đôi chân trong tiếng gào thét đến điếc tai của những cơn gió xoáy đang chỉ chực nuốt chửng lấy họ. Họ cứ đi cho đến khi kiệt sức và ngã xuống bất tỉnh. Khi trời sáng, người đàn ông tỉnh dậy, bé gái nằm cạnh ông. Họ bị thương nhưng đã sống sót. Chỉ có một khác biệt duy nhất: cô bé mà ông cứu sống không phải là con gái của ông. Ông đã không thể tìm lại được xác của con gái.
Sau một đêm thương thảo dằng dai, cuối cùng người đàn ông đã chấp nhận giao cô bé cho chúng em, em không chắc cô bé có sống sót được sau chặng đường dài không , nhưng nếu ở lại trên đó, cô bé sẽ chỉ còn sống được thêm vài ngày nữa. Em đã hứa với người đàn ông ấy là sẽ quay trở lại sau một, hai tháng nữa, mang theo một xe tải đầy lương thực. Nhờ thế ông ấy đã chấp nhận hi sinh, chắc hẳn vì nghĩ đến những người dân khác trong làng. Dù lý do của em là chính đáng, em vẫn cảm thấy mình thật là xấu xa trong ánh mắt của ông. Em về đến San Pedro, bé gái vẫn đang ở ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, em thì hoàn toàn kiệt sức. Để anh biết mà tiện đường ứng xử, Juan là trợ lí của em. Cái câu nói đầy ẩn ý của anh mới ngớ ngẩn làm sao! Em có phải đang ở trại hè nghỉ mát bên Canada đâu!!! Dù sao em vẫn hôn anh.
Susan.
TB: Vì anh và em đã thề luôn luôn nói ra sự thật giữa hai chúng ta, em phải thú thật với anh một điều: anh và cái thành phố New York của anh làm em phát ngán với câu chuyện về những người vô gia cư mà anh kể!
Chú thích:
(1): tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản, có nghĩa là "Quý cô da trắng"
(2): một đảng phái chính trị tại Nica ra gua, tạo nên một cuộc cách mạng tại nước này vào những năm 1979
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 2 (B)
Lá thư của Philip cô nhận được liền ngay sau đó; tuy anh đã viết lá thư ấy trước khi nhận được thư cô.
Ngày 10 tháng Năm năm 1975
Susan
Anh cũng vậy, anh cũng không trả lời em được ngay, anh đã vùi đầu học như một thằng điên, anh vừa thi học kì xong. Thành phố đang lấy lại màu sắc tháng Năm của mình, và màu xanh thật là hợp với nó. Chủ nhật vừa rồi, anh đã đi dạo với các bạn trong công viên Central Park. Lại bắt đầu thấy những cặp tình nhân đầu tiên ôm nhau trên bãi cỏ, báo hiệu mùa xuân đã trở lại sau một mùa đông dài. Anh leo lên nóc tòa chưng cư, ngồi vẽ quang cảnh khu phố đang trải dài dưới chân mình. Anh ước gì có em ở đó. Hè này anh đã được nhận vào thực tập trong một hãng quảng cáo. Hãy kể anh nghe mỗi ngày anh sống thế nào, em đang ở đâu? Viết cho anh nhanh đi, mỗi khi chờ lâu quá không thấy tin tức gì của em, anh lại lo lắng.
Hẹn sớm gặp lại trong thư sau, anh yêu em.
Susan.
Dưới sâu thung lung, cô đang ngắm nhìn những làn ánh sáng đầu tiên của buổi bình minh rọi xuống xuyên qua bóng tối của màn đêm còn đang bao trùm lên thung lũng. Chẳng mấy chốc, mặt trời ló rạng chiếu sáng con đường. Nó trải qua như một đường vạch dài băng qua những đồng cỏ mênh mông còn ẩm ướt sương đêm. Vài chú chim bắt đầu sải cánh bay trên nền trời còn nhợt nhạt. Susan vươn vai, đốt sống ngang lưng làm cô đau, cô thở dài. Cô bước xuống cầu thang đi về phía bồn rửa mặt, để chân trần bước trên nền đất. Cô hơ tay phía trên đống than còn âm ỉ đỏ hồng trong lò sưởi. Cô cầm lấy chiếc hộp bàng gỗ trên cái kệ mà Juan đóng trên tường, đổ một ít cà phê vào trong chiếc ấm kim loại tráng men; cô lấy đầy nước vào ấm và đặt nó vào trong một thế cân bằng tạm bợ trên những cái thanh cong queo của tấm vỉ kim loại đặt sát phía trên đống tro.
Trong khi chờ nước sôi, cô đánh răng và ngắm nghía khuôn mặt mình trong chiếc gương nhỏ treo tạm vào một cái đinh trên tường. Cô nhăn mặt khi nhìn vào hình ảnh phản chiếu trong gương, lùa tay vào mái tóc rối. Cô vạch chiếc áo thun đang mặc ra để xem vết nhện cắn trên vai."Đồ đáng ghét!" Cô leo ngay trở lại trên gác xép, quỳ lom khom cố gắng lật tung lớp đệm nằm để đánh đuổi kẻ đã tấn công mình. Tiếng kêu của bình nước sôi khiến cô quyết định bỏ cuộc và quay xuống. Cô lấy giẻ lót tay và rót thứ nước đen trong một chiếc ly, lấy một trái chuối trên bàn và bước ra ngoài để ăn sáng. Ngồi trước hè, cô đưa chiếc ly lên môi và phóng tầm mắt ra phía trên trời nhìn xa đến hút tầm mắt. Cô đưa tay xoa nhẹ bắp chân và thoáng rùng mình. Cô nhảy ra khỏi chỗ ngồi, cô đến bên bàn làm việc và vồ lấy chiếc bút bi.
Philip
Em hy vọng là lá thư này sẽ nhanh chóng đến tay anh, em có một việc muốn nhờ anh, anh có thể gửi cho em kem dưỡng da toàn thân và dầu gội đầu được không?
Em chờ anh gửi đấy. Em sẽ trả lại tiền cho anh khi nào em ghé qua gặp lại anh. Hôn anh.
Susan
Chiều thứ bảy, ngày đang dần hết, đường phố đông đúc người qua lại, anh ngồi trên vỉa hè một quán cà phê ngoài đường để hoàn tất một bức phác họa. Anh gọi một ly cà phê phin, còn loại cà phê espresso vẫn chưa vượt qua Đại Tây Dương để du nhập sang đây. Anh nhìn theo một phụ nữ trẻ đang băng qua đường đi về phía cụm rạp chiếu phim. Bỗng nhiên anh cảm thấy thèm đi xem một bộ phim, anh trả tiền và đứng lên. Hai giờ sau anh ra khỏi rạp chiếu. Tháng Sáu ban tặng cho thành phố những buổi hoàng hôn đẹp nhất của mình. Trung thành với thói quen bắt đầu có từ vài tháng nay, khi đến ngã tư, anh không quên chào hòm thư. Anh lưỡng lự một chút không biết có nên ghé qua chỗ mấy người bạn đang ăn tối tại bistrot (1) trên phố Mercer chơi hay không, nhưng rồi lại quyết định về nhà.
Anh tra chiếc chìa khóa dẹt vào lỗ khóa, tìm cái vị trí duy nhất cho phép bật lẫy khóa và đẩy chiếc cửa dày nặng bằng gỗ của chung cư mở ra. Ngay khi anh vừa gạt cầu dao, một ánh sáng màu vàng nhạt bừng lên chiếu sáng lối đi hẹp dẫn đến cầu thang. Một chiếc bì thư màu xanh ló ra khỏi cái khe trên thùng thư của anh. Anh cầm lên ngay và bước từng bước dài, vội vàng lên cầu thang. Khi anh buông mình xuống chiếc ghế đệm, bức thư trên tay đã được mở ra sẵn sàng.
Philip
Nếu lá thư này có thể đến được với anh trong khoảng mười lăm ngày nữa, lúc đó chúng ta đã ở vào cuối tháng Tám và chúng ta sẽ chỉ phải chờ thêm một năm nữa để có thể gặp lại nhau, ý em muốn nói là chúng ta đã vượt qua được một nửa chặng đường. Em vẫn chưa có thời gian kể anh nghe, nhưng có thể em sắp được lên chức đấy, mọi người đang bàn đến việc mở thêm một trại nữa trên núi và có tin đồn rằng em có thể được bổ nhiệm làm phụ trách trại. Cảm ơn anh đã gửi đồ cho em, anh biết đấy, cho dù những lá thư em viết ngày càng ít đi, em vẫn nhớ anh nhiều, chắc bấy lâu nay anh đã già đi nhiều rồi nhỉ? Viết thư cho em biết tin anh nhé.
Susan
Ngày 10 tháng Chín năm 1975,
Susan
Anh sẽ không bao giờ còn có thể cảm thấy dửng dưng khi nhìn thấy dòng chữ "Một năm sau..." thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trên màn hình ở rạp chiếu phim nữa. Trước đây, anh chưa bao giờ để ý đến cái cảm xúc ẩn giấu đằng sau ba dấu chấm lửng nhỏ xíu mà chỉ những ai biết chờ đợi có thể làm cho người ta cảm thấy cô đơn đến chừng nào mới có thể hiểu nổi. Những phút giây chờ đợi được gói gọn trong hai dấu ngoặc kép ấy mới dài làm sao! Mùa hè đang gần kết thúc, cả đợt thực tập của anh cũng vậy, họ đã đề nghị nhận anh vào làm chính thức ngay khi anh nhận bằng tốt nghiệp. Thế là anh đã không hề một lần ra biển tắm, anh đã ngu ngốc đi xem một bộ phim về một con cá mập trắng lớn gieo rắc nỗi kinh hoàng trên những bãi biển của chúng ta, phim cũng của đạo diễn đã làm phim Duel, anh và em, chúng ta đã từng thích phim này lắm, bộ phim mình đã xem ở rạp Film Forum ấy, em có nhớ không? Ngày đó, khi bước ra khỏi rạp chiếu phim, anh đã không thể biết trước rằng vài năm sau anh sẽ phải sống những giây phút chờ đợi em ngay trên con phố có quán bar mà hôm đó chúng ta đã ghé! Khi đó, không một giây phút nào anh có thể tưởng tượng rằng anh sẽ phải viết cho em, gửi đến tận "đầu bên kia trái đất". Trong lúc chiếu đến một cảnh phim kinh hoàng, một người phụ nữ trẻ ngồi cạnh anh đã thỏa sức bấm móng tay vào cánh tay anh đang để trên ghế. Thật buồn cười, cô ấy cứ rối rít xin lỗi mãi trong suốt phần còn lại của buổi chiếu. Trong đời anh chưa bao giờ nghe thấy nhiều tiếng "xin lỗi" và "Tôi rất tiếc" đến như thế trong vòng một giờ đồng hồ. Em sẽ không nhận ra anh đâu. Một người có thể đợi đến sáu tháng để mở lời bắt chuyện với một cô gái nào đó đã cười với mình trong một quán ăn như anh, anh đã dám nói với người phụ nữ đó như thế này: "Nếu cô còn tiếp tục nói như vậy, họ sẽ cho chúng ta ra ngoài hết đấy, hãy để lát nữa cùng đi uống một ly và nói tiếp". Cô ấy đã im luôn cho đến hết buổi chiếu và tất nhiên là anh ngồi xem phim nhưng chẳng còn nhìn thấy gì trên màn ảnh nữa. Thật ngớ ngẩn vì anh đã đã tưởng cô ấy sẽ lẩn ngay đi khi cảnh cuối kết thúc. Khi đèn vừa bật lên, cô ấy đã nối bước theo anh ra lối đi và anh đã nghe thấy tiếng cô ấy hỏi từ đằng sau: "Chúng ta sẽ đi ăn tối ở đâu?" Anh và cô ấy đến quán Fanelli's, cô ấy tên là Mary, sinh viên ngành báo chí. Đêm nay trời mưa rất to, anh đi ngủ đây, vậy tốt hơn, anh có thể kể lung tung bất cứ chuyện gì chỉ để làm em phải ghen lên. Cho anh biết tin của em nhé.
Philip
Một ngày tháng Mười một năm 1975, em không còn biết chính xác là ngày nào nữa.
Philip của em,
Vài tuần đã trôi qua kể từ khi em viết bức thư gần nhất cho anh, nhưng anh biết không, thời gian ở đây trôi qua không giống như ở những nơi khác. Anh còn nhớ cô bé mà em đã kể với anh ở một trong những lá thư trước? Em đã trở bé về với người cha mới của bé. Người ta đã không cứu được một bên chân của bé, em đã lo lắng không biết ông ấy sẽ phản ứng như thế nào khi nhìn thấy cô bé như vậy. Bọn em đã đi đến Puerto Cortes để đón bé, Juan đi cùng với em. Trong thùng xe phía sau của chiếc Dodge, cậu ấy lấy các bao bột mì xếp lại để làm thành một cái nệm ngả lưng. Khi tới bệnh viện, em đã thấy cô bé nằm dài trên cáng, đợi bọn em ở cuối hành lang. Em đã buộc mình tập trung mọi chú ý lên gương mặt cô bé, cố gắng để không nhìn vào khoảng trống, nơi cả một bên chân đã bị cắt đi? Tại sao chúng ta cứ phải bận tâm đến cái không còn tồn tại nữa mà quên đi tất cả những gì đang hiện hữu ở đó. Tại sao lại phải quá đau khổ trước những gì không hay đã diễn ra mà quên đi là phải biết yêu quý những gì tốt đẹp đang tiếp tục?
Em không ngừng tự hỏi cô bé sẽ tiếp tục sống như thế nào với khuyết tât của mình, Juan đã hiểu được sự im lặng của em, và trước khi em mở lời nói chuyện với cô bé, cậu ấy đã nói khẽ vào tai em: "Đừng để cho cô bé thấy sự buồn đau của cô, cô phải vui lên, điều làm cho cô bé khác với mọi người khác, đó không phải một bên chân đã bị cắt cụt, đó là câu chuyện của bé, là sự sống sót kì diệu của bé."
Cậu ấy nói đúng. Bọn em đã để cô bé nằm trên những bao bột, và đi theo con đường dẫn lên núi. Cậu ấy đã chăm sóc cho cô bé suốt chặng đường, tìm cách làm cho cô bé vui lên và em chắc là Juan còn cố gắng để làm cho em bớt căng thẳng nữa. Để đạt được mục đích của mình, cậu ấy không ngừng trêu chọc em. Cậu ấy để em ngồi chết dí đằng sau tay lái của chiếc xe nặng nề này. Qua mỗi cây số, chiếc xe có vẻ như muốn chứng tỏ cho em thấy nó mạnh hơn em rất nhiều, dường như sức nặng bảy tấn mà nó mang theo chưa đủ làm nó mệt! Juan ngả người nửa ngồi nửa nằm, cánh tay duỗi dài ra phía trước và không ngừng làm mặt hề bắt chước nét mặt của em mỗi khi em phải cố gắng để bắt chiếc xe đổi hướng khi đến chỗ cua, còn đế thêm rằng vốn tiếng Tây Ban Nha của em không đủ để em hiểu hết được ý nghĩa của những điều cậu ấy nói. Và sau sáu giờ đi đường, điều đó đã xảy ra. Em vừa chỉnh xe và để số lùi, em đã chửi thề và đập một cú vào tay lái vì bực mình, cái phần tính khí xấu xa ấy của em vẫn còn nguyên, anh biết đấy. Juan chỉ chờ có thế, cậu ấy liền lập tức tuôn ra một tràng dài những tiếng chửi thề, vừa nói vừa bắt chước em đập tay vào chiếc thùng đặt trước mặt thay cho cái vô lăng, và, một điều không ai ngờ, cô bé bắt đầu cười.
Thoạt đầu là âm thanh trong văt của hai tiếng cười, rồi một khoảnh khắc ngượng ngùng ngắn ngủi, một tiếng cười khác bật lên từ cổ họng cô bé, rồi đột nhiên, cái giây phút phải tới đã tới: cả chiếc xe tràn ngập tiếng cười như nắc nẻ của cô bé. Em chưa bao giờ ngờ được, chỉ một tiếng cười của một đứa trẻ thôi lại có thể đột nhiên mang lại ý nghĩa quan trọng đến thế nào với cuộc đời của một con người. Trong khung kính chiếu hậu, em ngắm nhìn cô bé đang cố lấy lại hơi sau trận cười. Trận cười ấy cũng đã chinh phục cả Juan. Em nghĩ em đã khóc còn nhiều hơn cả vào cái ngày anh ôm chặt em trong vòng tay anh, bên mộ của ba mẹ em, chỉ có điều ngày hôm ấy, nước mắt em chảy ngược vào trong. Đột nhiên, bao nhiêu sức sống, bao nhiêu niềm hi vọng hiện ra trước mắt, em quay đầu lại nhìn họ, ở giữa những chuỗi cười giòn tan, em nhận ra nụ cười mà Juan dành cho em. Rào cản ngôn ngữ không còn nữa... Mà đúng rồi, anh nói tiếng Tây Ban Nha rất khá mà, kể cho em nghe phần cuối của bữa ăn tối hôm đó sau khi phim phim đi, nếu được thì bằng tiếng Tây Ban Nha nhé, nó sẽ giúp em hoàn thiện khả năng đọc hiểu của mình...
Chú thích:
(1) bistrot : một loại quán cà phê phổ biến ở phương Tây, người ta có thể uống cà phê và ăn nhẹ.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 2 (C)
Ông đã nhận ra chiếc xe tải ngay khi nó vừa tiến đến gần những khúc cua đầu tiên ở dưới thung lũng. Ông nhất định bỏ mọi công việc, ngồi xuống một tảng đá và không một giây rời mắt khỏi chiếc xe trong suốt cuộc hành trình chầm chậm leo núi kéo dài năm tiếng đồng hồ của nó. Rolando đã chờ đợi trong suốt mười ba tuần. Ông không ngừng tự hỏi không biết cô bé có còn sống, không biết con chim đang bay cao trên trời đang muốn báo điềm dữ, rằng cô bé đã không qua khỏi được, hay muốn báo điềm lành, rằng cần phải hi vọng. Và ngày càng nhiều ngày trôi qua, ông càng biến những điều đơn giản nhất xung quanh thành những điềm báo, thấp thỏm sống với cái trò chơi ngoài tầm kiểm soát, tùy vào tâm trạng của ông lúc ấy như thế nào mà những dấu hiệu trở thành điềm dữ hay điềm lành.
Mỗi lần đến một khúc quanh, Susan lại bấm còi ba lần, chiếc xe gióng lên ba tiếng khàn khàn. Đối với Rolando, đó là một dấu hiệu tốt, một tiếng còi dài có thể là dấu hiệu báo điều tệ nhất, nhưng ba tiếng ngắn, có lẽ đó là một tin tốt lành. Bằng một cử chỉ rất gọn, ông cho trượt bao thuốc Paladines màu hung nhạt ra khỏi tay áo. Loại thuốc này đăt đỏ hơn nhiều so với những điếu Dorados ông hút trong ngày. Mỗi ngày ông chỉ hút một điếu duy nhất từ bao thuốc này ra để hút sau bữa tối. Ông đưa điếu thuốc lên môi và bật một que diêm. Hít một hơi thật sâu, ông lấp đầy phổi mình cái không khí ẩm ướt thơm mùi đất và mùi của rừng thông. Đầu thuốc đỏ rực lên trong tiếng kêu lách tách của sợi thuốc lá cháy. Chiều nay, cả gói thuốc lần lượt bị đốt hết. Cần phải kiên nhẫn, họ sẽ leo được lên đến đỉnh đèo vào cuối giờ chiều.
Tất cả các campesino(1) đã tập hợp lại đứng dọc hai bên lề đường dẫn vào thôn. Lần này, không ai dám leo lên bậc lên xuống của xe. Susan cho xe chạy chậm lại và dân làng lại đứng túm tụm quanh chiếc xe. Cô tắt máy và bước xuống, quay đầu từ trái qua phải, hãnh diện đáp lại mỗi ánh mắt đang nhìn mình. Juan đứng phía sau cô, lấy chân di di lên nền đất, cố gắng lấy vẻ bình tĩnh. Rolando đến đứng trước mặt cậu. Ông ném mẩu thuốc lá xuống đất.
Susan hít một hơi thật sâu rồi bắt đầu đi vòng ra sau chiếc Dodge. Đám đông đưa mắt nhìn theo cô. Rolando tiến đến gần. Gương mặt ông không để lộ một chút cảm xúc. Bằng một động tác nhanh gọn, cô nâng tấm bạt lên, và ngay lập tức Juan giúp cô hạ tấm cửa chắn xuống, để lộ ra cô bé mà Susan đưa trở lại về làng. Cô bé chỉ còn một bên chân, nhưng cô bé dang rộng hai cánh tay về phía người đã cứu mạng mình. Rolando leo lên thùng xe và nâng bổng cô bé lên.Ông thì thầm vài tiếng vào tai cô bé, làm em mỉm cười. Khi bước xuống xe, ông đặt cô bé xuống đất, quỳ xuống ngang tầm vai em để đỡ em đứng thẳng. Vài giây im lặng, rồi tất cả những người đàn ông có mặt ở đó tung cao mũ lên trời và hét lên những tiếng reo vang dội rừng núi. Susan ngại ngùng cúi đầu để không ai nhìn vào cô trong khoảnh khắc này, khi mà cô cảm thấy mình vô cùng yếu đuối. Juan nắm lấy cổ tay cô. "Để kệ tôi" cô nói. Cậu siết chặt tay cô: "thay mặt họ cảm ơn cô." Trong khi đó, Rolando đã trao lại bé gái cho một người phụ nữ rồi bước đến gần bên cô. Ông đưa tay về phía gương mặt cô, nâng cằm cô lên và quay sang hỏi Juan với một vẻ uy quyền:
- Tên của cô ấy là gì?
Juan nhìn chăm chăm vào người đàn ông có vóc dáng lừng lững và đợi vài giây trước khi trả lời.
- Dưới kia, trong thung lũng, người ta gọi cô ấy là Senora Blanca.
Rolando tiến thêm một bước đầy thân thiện về phía cô, ông đặt đôi bàn tay to bè lên vai cô. Những nếp nhăn hằn sâu quanh mắt ông nheo lại, miệng ông rộng mở trong một nụ cười phóng khoáng, để lộ một phần hàm răng.
- Dona Blanca(2)! ông thốt lên. Rolando Alvarez đã gọi cô như thế.
Người nông dân nắm tay dẫn Juan đi trên con đường mòn rải đá dẫn vào làng, tối nay, họ sẽ cùng nhau uống rượu guado.
Những ngày đầu tiên của tháng Giêng năm 1976 nối tiếp đến Giáng Sinh thứ hai họ ở xa nhau. Susan vẫn làm việc không ngừng nghỉ trong suốt những ngày lễ. Philip cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết, anh viết cho cô liền năm lá thư trong mấy ngày, từ lễ Tạ Ơn đến đêm đầu năm mới.
Trong đêm mùng 4 tháng hai, một cơn địa chấn khủng khiếp đã làm rung chuyển mặt đất ở Guatemala, cướp đi sinh mạng của hai mươi lăm nghìn người. Susan đã làm tất cả những gì để tới cứu trợ người dân ở đó, nhưng những bánh xe của guồng máy hành chính không chịu vận hành theo đúng chiều của nó, và cô đành chịu bó tay. Ngày 24 tháng Ba, tại Ác-hen-ti-na, chính phủ Peron bị lật đổ, tướng Jorge Rafel Videla vừa ra lệnh bắt Isabel Peron (3); một hi vọng khác đang tắt đi tại phần đất này của thế giới. Tại Holywood, giải Oscar được trao cho Jack Nicholson. Ngày 4 tháng Bảy, cả nước Mỹ hoan hỉ ăn mừng hai trăm năm độc lập. Vài ngày sau, cách đó hàng trăm ngàn cây số, một chiếc vệ tinh Viking đáp xuống sao Hỏa và gửi về trái đất những hình ảnh đầu tiên chụp hành tinh màu đỏ mà trái đất lần đầu khám phá. Ngày 28 tháng Bảy, một trận động đất khác vượt qua ngưỡng báo động số tám theo thang đọ Richter. Đúng 3 giờ 45 phút, thành phố Đường Sơn của Trung Quốc bị xóa tên khỏi bản đồ trái đất, chỉ vài phút trước, thế mà một triệu sáu trăm nghìn người dân đã từng sống bình yên tại đó. Cũng vào đêm đó, bốn mươi nghìn thợ mỏ đã bị chôn vùi dưới đáy một khu mỏ ở phía nam thành phố Bắc Kinh. Trong đống đổ nát ngổn nganh của thành phố lớn này, sáu triệu người trong phút chốc trở thành người vô gia cư, phải sống trong những lán trại tạm bợ dưới trời mưa như trút nước. Đất nước Trung Quốc để tang bảy trăm năm mươi nghìn người thiệt mạng. Ngày mai, máy bay của Susan sẽ hạ cánh xuống Newark.
Hôm nay anh rời khỏi hãng sớm hơn mọi khi. Trên đường về, đầu tiên, anh dừng lại để chọn một bó hoa hồng đỏ và hoa ly trắng, những loài hoa yêu thích nhất của Susan. Anh dừng lại lần thứ hai ở tiệm tạp hóa nơi góc phố. Anh mua một tấm khăn trải bàn bằng vải để chuẩn bị cho một bữa ăn tối thịnh soạn, sáu chai coca-cola nhỏ, bởi vì cô không thích những chai loại lớn, và thật nhiều túi kẹo các loại, nhất là những túi kẹo nhân dâu chua ngọt mà cô luôn ăn một cách thích thú. Hai tay xách nặng, anh leo lên những bậc thang của chung cư. Anh đẩy bàn làm việc ra giữa phòng khách và bày bàn ăn, kiểm đi kiểm lại để chắc chắn là những chiếc đĩa được đặt ngay ngắn đối diện nhau, bộ dao nĩa bày thật cân đối và những chiếc ly thật thẳng hàng. Anh dốc sạch những chiếc kẹo vào chiếc tô dùng để ăn sáng và đặt nó lên bậu cửa. Suốt một tiếng đồng hồ sau đó anh tập trung vào việc cắt tỉa những cành hoa và cắm vào hai lọ. Lọ hoa hồng đỏ anh đặt trong phòng ngủ, trên chiếc bàn phía tay phải đầu giường. Sau đó, anh thay ga trải giường. Anh đặt thêm một chiếc cốc súc miệng lên trên kệ trong chiếc phòng tắm nhỏ xíu của căn hộ. Các vòi nước, bồn rửa mặt và bồn tắm anh đã cọ rửa thật kĩ. Đêm đã về khuya khi anh bắt đầu đi rảo một vòng khắp căn hộ để kiểm tả tất cả, và vì mọi thứ có vẻ hơi gọn gàng, sạch sẽ quá mức, anh lại loay hoay bố trí lại một vài thứ đồ vật để khung cảnh có vẻ tự nhiên sống động hơn. Sau khi nhấm nháp hết một gói khoai tây chiên ngay bên chiếc sọt rác đựng giấy vụn trong phòng, anh rửa rat rửa mặt ngay tại bồn rửa chén trong bếp và ngả lưng xuống chiếc ghế nệm. Giấc ngủ chẳng buồn đến, cứ mỗi tiếng đồng hồ anh lại mở mắt thức dậy. Khi trời sang, anh mặc quần áo và ra khỏi nhà đón xe buýt để đên sân bay Newark.
Mới có 9 giờ sáng, chiếc phi cơ từ Miami sẽ hạ cánh trong hai giờ nữa. Hi vọng là cô chọn chuyến bay đầu tiên này, anh đã đến sớm, "xí trước" bàn của mình bằng cách gập lưng ghế lại và ra ngồi ở quầy bar, cố gắng bắt chuyện với anh phục vụ quầy để quên đi phần nào sự sốt ruột vì chờ đợi của mình. Anh này không giống với những người tiếp tân mặc chế phục màu đen hay trắng trong các khách sạn lớn, vốn có thói quen lắng nghe tâm sự của khách hàng, anh ta vừa làm vừa nghe Philip nói chuyện một cách lơ đãng. Trong khoảng từ 10 đến 11 giờ, anh đã lưỡng lự đến cả trăm lần, muốn ra cửa sân bay để đợi cô, nhưng cuộc hẹn mà cô dành cho anh là ở đây, tại chiếc bàn này. Chi tiết này hoàn toàn đúng với con người Susan, như một minh họa tuyệt vời cho những điều mâu thuẫn ở cô, cô căm ghét những tình huống cường điệu hóa nhưng lại tôn vinh những điều mang tính biểu tượng. Khi chiếc Super Continental của hãng Eastern Airlines bắt đầu bay thấp xuống phía trên khu đường băng, con tim của Philip bắt đầu đập nhanh hơn và miệng anh khô lại. Nhưng ngay khi chiếc máy bay dừng hẳn, anh đã biết là cô không ở trên chuyến máy bay này. Ngồi dán vào cửa kính, anh có thể nhìn thấy các hành khách lần lượt rời khỏi khoang máy bay, anh nhìn theo những con người đang đi theo đường kẻ màu vàng trên mặt đất để đến cửa ra. Chắc hẳn là cô sẽ đến vào chuyến bay cuối giờ chiều, "như thế mới hợp lí". Vậy là để giải khuây trong một thời gian dài chờ đợi, anh bắt đầu ngồi vẽ. Một giờ đồng hồ trôi qua; sau khi phác thảo chân dung của bảy người khách vào quán rồi lại đi, trên những tờ giấy sọc khổ lớn, anh cuộn cuốn tập vẽ của mình lại và tiến đến gần anh phục vụ quầy bar để hỏi:
- Có thể anh sẽ thấy tôi kì cục, nhưng tôi đợi một người chắc đã lên máy bay ở Miami sáng nay, chuyến kế tiếp mãi đến 19 giờ mới tới nơi, tôi còn phải giết thời gian trong hơn sáu tiếng nữa mà tôi thì chẳng có trò gì để làm.
Người phục vụ nhìn anh vẻ dò hỏi, anh ta tiếp tục điềm nhiên lau khô ly chén và xếp chúng lên chiếc kệ phía sau lưng. Philip tiếp tục cuộc độc thoại của mình:
- Đôi khi một giờ đồng hồ thật dài! Có những ngày thời gian trôi qua nhanh đến nỗi ta chẳng thể có lúc để làm hết mọi thứ muốn làm, và có những ngày khác, như hôm nay, ta không ngừng nhìn đồng hồ và cứ tưởng như nó đã bị chết gí một chỗ. Tôi có thể giúp anh lau khô các ly chén được không, hay là làm việc gì khác tôi cũng không biết nữa, đến các bàn ghi các món mà khách hàng gọi chẳng hạn, chỉ cốt sao để tôi có thể giết thời gian thôi? Tôi đang quay vòng vòng không biết làm gì đây!
Anh phục vụ vừa xếp xong chiếc ly cuối cùng lên giá. Anh ta đưa mắt nhìn một vòng quanh quán bar vắng khách, và với một giọng uể oải, anh ta hỏi Philip có muốn uống thêm gì nữa không, đồng thời, đẩy về phía anh môt cuốn best-seller mà anh ta lấy lên từ phía dưới quầy. Philip nhìn vào tựa sách: "Will you please be quiet...please(4)"! Anh cảm ơn người phục vụ và quay trở về chỗ ngồi của mình. Vào giờ ăn trưa, quán đầy chật khách, anh tự ép mình gọi một món, để làm cho người phục vụ hài lòng hơn là để cho cái dạ dày không hề thấy đói của mình. Anh nhấm nháp chiếc sandwich và tiếp tục đọc tập truyện ngắn của Raymond Carver. Lúc 14 giờ, khi cô gái phục vụ vừa vào ca làm việc đến rót đầy vào ly của anh ly cà phê thứ mấy anh cũng không nhớ nữa, anh gọi một phần bánh ga tô sôcôla mà sau đó cũng không hề động đến, anh vẫn đang đọc mãi truyện ngắn thứ nhất. Lúc 15 giờ, anh nhận ra mình đang đọc đi đọc lại một trang suốt mười phút qua, và đến 15 giờ 30, rằng mình vẫn đọc mãi một dòng; anh gấp cuốn sách lại và thở dài.
Ngồi trong chiếc Boeing bay từ Miami đến Newark, Susan nhắm mắt thầm đếm trong đầu những ngọn đèn màu cam treo phía trên quầy bar, nhớ lại cái sàn bằng gỗ đánh verni, cánh cửa quán với cái ô cửa tròn to rộng hơn hẳn cái ô cửa trong khoang máy bay mà cô đang tựa đầu.
Khoảng 16 giờ, quay trở lại trên chiếc ghế đẩu cạnh quầy bar, anh lau khô những chiếc ly vừa được rửa, vừa lau vừa nghe anh phục vụ quầy mới, thay cho người ban sáng, kể lại một vài giai đoạn của cuộc đời đầy sóng gió của anh ta. Philip bị thu hút bởi thứ trọng âm Tây Ban Nha của anh này, anh liên tục hỏi về nguồn gốc xuất xứ của anh ta, anh ta cứ phải nhắc đi nhắc lại rằng mình là người gốc Mê-hi-cô và chưa từng tới Honduras. Vào 17 giờ, quán bar đông khách trở lại, anh quay về chiếc bàn của mình. Một bà cụ lưng còng bước vào khi tất cả các bàn đã có người ngồi và chẳng có ai để ý đến bà. Anh lấy cuốn tập vẽ để trước mặt để không phải bắt gặp ánh mắt của bà cụ. , chỉ trong một vài giây, thời gian đủ để anh cảm thấy một cảm giác tội lỗi. Anh bày đồ ra quanh bàn, một lần nữa gấp vai tựa ghế ngồi của mình lại, đứng lên và đi ra phía quầy nơi bà cụ đang phải đứng một cách tội nghiệp. Bà cụ cảm ơn và đi theo anh, nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế còn trống mà anh dành cho bà.
Quá bồn chồn, không thể ngồi yên một chỗ, Philip dặn đi dặn lại để bà giữ chỗ rồi tự đi ra quầy để lấy đồ uống. Mười lăm phút tiếp theo đó, bà cụ tìm cách bắt chuyện thăm hỏi anh vài câu. Khi bà cụ cố tình gợi chuyện đến lần thứ hai, một cách lễ phép nhưng dứt khoát, anh mời bà uống nước và giữ im lặng. Ba mươi phút dài vô tận cuối cùng cũng chấm dứt, cuối cùng cũng đứng dậy! Bà chào anh, anh nhìn theo bà chầm chậm bước ra phía cửa.
Tiếng động cơ inh tai ngay phía trên đầu bất chợt bứt anh ra khỏi những suy nghĩ triền miên. Anh gần như cúi hẳn đầu xuống khi chiếc phi cơ DC3 lượn qua trên mái nhà, bay một vòng qua khu vực sân bay. Người cơ trưởng cho chiếc máy bay nghiêng sang phải, tiếp tục vòng lượn chuẩn bị hạ cánh, bay song song phía trên đường băng. Đăng xa, chiếc máy bay hai động cơ lại nghiêng mình một lần nữa, lần này nó nhắm thẳng hướng vuông góc với mặt đất, và gần như ngay lập tức, nó bắt đầu hạ cánh. Những bánh xe to nặng nhô ra phía dưới động cơ, dàn đèn gắn trên hai cánh máy bay phía trước nhấp nháy. Vài giây sau, cái mũi to tròn của máy bay hơi ngả về phía sau, chiếc bánh xe ở đuôi máy bay vừa chạm mặt đất. Dần dần, người ta đã có thể nhìn thấy rõ những cánh quạt đang quay của máy bay. Đến ngang tầm khu nhà ga sân bay, chiếc DC3 quay đầu, tiến về phía bãi đậu nằm ngay dưới chân quán bar. Máy bay của Susan vừa đỗ lại. Philip ra hiệu cho người phục vụ để anh ta đến lau sạch bàn, xếp lại lọ muối, lọ tiêu và hũ đường cho ngay ngắn. Khi những hành khách đầu tiên bước xuống thang máy bay, anh bống thấy lo lỡ linh tính của mình mách bảo sai.
Cô mặc trên người một chiếc sơ-mi con trai, hai vạt dài phủ xuống hai bên chiếc quần jean bạc màu. Cô gầy đi một chút nhưng nhìn có vẻ hoàn toàn khỏe mạnh, đôi gò má vốn nhô cao của cô rướn lên vài centimet khi cô nhìn thấy anh ngồi trên tầng lầu, phía bên kia cửa kính. Anh phải gồng người lên, cố gắng làm cái điều không thể này: tôn trọng ý muốn của cô và ngồi yên tại bàn. Ngay khi cô bước vào khu nhà ga, biến mất khỏi tầm mắt của anh trong một lúc, anh quay người lại và gọi một ly hai viên kem vani phủ sô-cô-la nóng trên rắc những lát hạnh nhân, trên cùng rưới một lớp caremen lỏng.
Vài giây sau, cô dán mắt vào chiếc cửa sổ mắt bò bằng kính và nhăn mặt làm hiệu với anh. Anh đứng lên ngay khi cô xuất hiện ở ngưỡng cửa quán bar. Cô mỉm cười khi nhận ra anh đã ngồi đúng chiếc bàn ngày trước. Trong một cuộc đời mà cô đã mất đi gần hết những chỗ dựa để có thể bám víu, cái góc nhỏ bé quen thuộc nằm trong góc của cái phi trường xa lạ này đã trở thành một điều gì đó quan trọng đối với cô. Cô đã tự thú nhận với chính mình điều đó trước khi bước xuống từ chiếc máy bay nhỏ của bưu điện đã đưa cô từ Puerto Cortes đến Tegucigalpa.
Khi cô đẩy cánh cửa bước vào, anh đã cố hết sức để ép mình không chạy về phía cô, cô sẽ rất ghét nếu anh làm thế; bây giờ, cô đang cố tình bước chậm rãi. Đến hàng ghế thứ ba, cô buông chiếc túi sách thành phố kềnh xuống đất, bắt đầu chạy lại để nhào vào vòng tay anh. Cô tựa đầu lên bờ vai anh, hít thở mùi hương tỏa ra từ gáy anh. Anh đưa hai bàn tay nâng lấy mặt cô để nhìn vào mắt cô. Họ im lặng một lúc lâu. Người phục vụ ho khẽ mấy tiếng phía sau và hỏi Philip vẻ nghịch ngợm: "Ông có muốn tôi thêm một chút kem chantilly lên trên không?"
Cuối cùng họ cũng ngồi xuống bàn, cô ngắm nhìn ly kem, thọc ngón tay trỏ vào ly rồi đưa lên miệng mút lớp caramen bao quanh ngón tay.
- Anh nhớ em kinh khủng! anh nói
- Anh đời nào mà nhớ em! cô trả lời châm chọc. Cuộc sống của anh thế nào?
- Chuyện đó không quan trọng, hãy để anh ngắm anh nào.
Cô đã thay đổi, có thể những nét thay đổi nhỏ đó người khác không nhận ra, nhưng chúng không thể trốn đi đâu được dưới con mắt của Philip. Má cô hơi hóp lại và nụ cười của cô toát lên một vẻ mệt mỏi mà anh có thể cảm thấy nhưng không thể giải mã được. Như thể mỗi bi kịch mà cô từng chứng kiến đã in hằn lên da thịt cô, vẽ lên những đường lằn của vết thương mà từ đó quặn lên tình yêu thương đồng loại đan xen với tâm trạng rối bời.
- Tại sao anh lại nhìn em như thế,Philip?
- Bởi vì em khiến anh rất ấn tượng.
Susan bật cười vang, tiếng cười lan đi khắp quán bar, khiến cho hai khách hàng đang ngồi ở một chiếc bàn gần đó quay lại nhìn. Cô đưa tay lên che miệng.
- Ui, em xin lỗi!
- không, em đừng xin lỗi, em trông thật tuyệt vời khi cười, ở đó thỉnh thoảng em có cười như vậy không?
- Anh biết không, điều khó tin nhất, đó là nơi với anh có vẻ như tận cùng thế giới, thật ra nó lại ở rất gần. Nhưng thôi, kể cho em nghe về anh, về New York đi.
Anh hạnh phúc khi được sống tại Manhattan.Anh được nhận vào một hãng quảng cáo ,họ đã giao cho anh làm một story-board.Các bức vẽ của anh khiến hãng hài lòng,anh bắt đầu chuyển sang một dự án khác.Với công việc này anh không kiếm được nhiều tiền lắm,nhưng anh đã làm được điều gì đó cụ thể. Khi cô hỏi anh có hài lòng với cuộc sống của mình không, anh trả lời bằng một cái nhún vai. Anh muốn biết còn cô, cô có hài lòng với kinh nghiệm đã trải qua không, cô có tìm được điều cô đang tìm kiếm không. Cô lảng tránh câu hỏi của anh và tiếp tục đặt câu hỏi cho anh. Cô muốn biết tin về bố mẹ anh. Họ đang dự đính bán ngôi nhà ở Montclair và chuyển đến sống ở khu bờ Tây. Philip gần như không gặp họ suốt một năm qua, trừ vào dịp lễ Tạ Ơn. Về nhà đêm nằm ngủ trong căn phòng của mình, anh có một cảm giác không mấy dễ chịu, anh cảm giác như mình đang xa dần bố mẹ, và lần đầu tiên trong đời anh thấy họ già đi, như thể khoảng cách đã cắt đứt sợi dây thời gian, và chia cuộc đời ra thành những hình ảnh tách biệt nối tiếp nhau,trên đó những khuôn mặt biến đổi từ một sự kiện này sang một sự kiện khác,tất cả được vẽ trên một tờ giấy nhuốm màu nâu ánh vàng. Anh phá vỡ sự yên lặng.
- Khi người ta sống bên cạnh người thân,người ta không thật sự nhận ra rằng họ đang dần thay đổi,và chính vì thế mà cuối cùng ta đánh mất họ.
- Đó cũng chính là điều mà em vẫn luôn nói với anh,anh ngốc của em,sống chung hai nguời rất nguy hiểm,cô nói.Anh có thấy em mập ra không?
- Không,ngược lại thì có, sao vậy?
- Vì cái điều anh vừa nói đó. ANh thấy em thay đổi àh?
- Em có vẻ rất mệt, Susan, chỉ có vậy thôi.
- Vậy là em đã thay đổi!
- Em bắt đầu lo lắng về hình thức của mình từ khi nào vây?
- Mỗi khi em gặp anh.
Cô dõi mắt nhìn theo những lát hạnh nhân chìm vào trong lớp sô-cô-la đang tan ra và chảy xuống đáy ly.
- Em muốn ăn một món gì đó nóng sốt.
- Em sao vậy, Susan?
- Chắc sáng nay em đã quên không uống mấy viên thuốc gây cười của em!
Cô làm anh giận. Cô bắt đầu ân hận về câu nói đùa của mình,nhưng cô nghĩ rằng quan hệ của họ thân thiết đến mức cô có thể thoải mái xử sự thế nào cũng được, như ý cô thích.
- Ít nhất em cũng có thể cố gắng một chút được chứ?
- Anh đang nói về chuyện gì vậy?
- Để làm cho anh tin rằng em được hạnh phúc khi gặp anh.
Cô đưa một ngón tay vuốt lên má của anh.
- Anh ngốc nghếch của em, tất nhiên là em hạnh phúc chứ, thái độ vừa rồi không liên quan gì đến anh!
- Vậy thì đến cái gì?
- Thật khó khăn đối với em khi trở về đất nước mình. Ở đây, tất cả mọi cái đều xa vời với cuộc sống mà em đang sống. Ở đây,cái gì cũng có, tất cả đều đầy đủ, còn ở đó, mọi thứ đều thiếu thốn.
- Cái chân gãy của cô hàng xóm cũng không làm cho mắt cá chân bị bong gân của em bớt đau đi đâu. Nếu em không thể tương đối hoá mọi thứ nữa, hãy cố gắng để sống ích kỉ hơn một chút, điều đó sẽ làm cho em trở thành một người hay hơn đấy.
- Oao, anh trở thành một triết gia rồi đấy, anh ngốc của em.
Philip đột ngột đứng dậy và bước về phía cửa. Anh ra ngoài hành lang rồi lại quay trở lại ngay, bước nhanh đến bên cô.Anh nghiêng người và hôn vào cổ cô.
- Chào em, anh thật hạnh phúc vì được gặp em.
- Em có thể hỏi anh đang chơi trò gì không?
- ANh hoàn toàn không chơi đùa gì cả! Anh đã chờ em suốt hai năm nay, tay anh đã chai cả đi vì viết thư cho em, bởi vì đó là cách duy nhất anh có thể chia sẻ với em một chút những điều tối thiểu nhất trong cuộc sống của em, anh thấy rằng cuộc hội ngộ của chúng ta hôm nay đang bắt đầu khác so với những gì anh hình dung trong tâm trí, vì vậy anh muốn làm lại tất cả từ đầu!
Cô nhìn chăm chú vào mặt anh trong vài giây rồi phá lên cười.
- Anh vẫn ngố như ngày xưa, anh ngốc của em, em cũng nhớ anh nhiều lắm!
- Thế bây giờ em kể chuyện của em cho anh nghe chứ?
- Không anh trước, kể cho em nghe cuộc sống của anh ở đây, ở New York, em muốn biết tất cả.
- Món gì nong nóng đây?
- Anh đang nói chuyện gì vậy?
- Lúc nãy em nói em muốn ăn một món gì nóng, em muốn ăn gì?
- Nhưng đó là lúc nãy. Kem là một ý tưởng rất dễ thương.
Cả hai đều nhận thấy một cảm giác rất lạ mà họ không dám thú nhận, không muốn đề cập đến.Thời gian đã tạo ra những cột mốc trong cuộc đời của họ, với những cung bậc thăng trầm khác nhau, với những bưóc đi không còn chung nhịp điệu. Nhưng tình cảm gắn liền họ với nhau vẫn còn nguyên vẹn không hề thay đổi, chỉ có điều họ không tìm được từ ngữ để diễn đạt. Cũng có thể mối quan hệ sâu sắc và chân thành giữa hai người đã chịu đựng quá nhiều xa cách, một sự xa cách không chỉ diễn đạt bằng con số kilomet.
- Vậy em ăn kem nhanh lên rồi chúng ta đi thôi, anh có một điều bất ngờ cho em.
Cô đưa mắt nhìn xuống và im lặng trong một khoảnh khắc, một vài giây trước khi ngẩng đầu lại để nhìn anh.
- Em không có thời gian đâu... Em muốn nói là em sẽ không ở lại, em đã đồng ý ra hạn hợp đồng của mình, ở đó họ thực sự cần em, anh biết đấy. Em rất tiếc, Philip.
Anh cảm thấy như đất đang sụp xuống dưới chân mình, một cảm giác chóng mặt kì lạ xâm chiếm khiến cho người ta càng trở nên khuyết thiếu hơn khi ta muốn mình hiện hữu thật nhiều.
- Đừng làm mặt như vậy với em, em xin anh đấy.
Cô đặt bàn tay lên tay anh, và ngay lập tức Philip đưa mắt nhìn đi nơi khác để giấu không cho cô thấy nỗi buồn và cảm giác rối bời đang biểu hiện trong đôi mắt anh. Một cảm giác cô đơn bóp nghẹt trái tim anh. Anh đưa ngón tay cái vuốt ve mu bàn tay Susan, làn da cô đã mất đi sự mềm mại ngày nào, những nếp nhăn nhỏ bắt đầu xuất hiện, anh tránh không để ý đến những nếp nhăn ấy.
- Em biết, điều đó rất khó. Không thể giữ nguyên bàn tay mềm mại của cô gái trẻ ngày xưa, anh đã thấy móng tay của em rồi đấy, đó là em còn chưa nói đến đôi chân của mình. Anh muốn đưa em đi xem gì thế?
Anh định đưa cô đến và chỉ cho cô xem căn hộ nhỏ ở Manhattan của mình, nhưng không sao, nhất định là lần sau. Anh chăm chú nhìn vào mắt cô, cô đưa mắt nhìn đi chỗ khác. Cô nhìn chăm chú vào chiếc đồng hồ của mình.
- Em ở lại bao lâu?
- Hai giờ.
- Hả!
- Em biết, nhưng anh không thể tưởng tượng được em đã fải khó khăn nói dối mọi người như thế nào để trốn khỏi đó và ở lại đây trong chốc lát thế này.
Cô lấy ra một bọc giấy gói màu nâu đặt lên bàn.
- Anh nhớ chuyển gói hàng này đến địa chỉ này cho em nhé, đó là văn phòng của bọn em đặt tại New York, và đó là một phần của lý do mà em bịa ra để có thể đến gặp anh.
Anh không nhìn gói hàng.
- Anh cứ tưởng là em làm việc cho một tổ chức cứu trợ nhân đạo, anh không biết là em ở trong một trại thiết quân luật.
- Vậy thì bây giờ anh biết rồi đấy!
- Kể cho anh đi nào!
Trong vòng hai năm,cô đã khẳng định được vị trí của mình. Đích thân cô được triệu tập đến Washington để giải trình về những nguồn kinh phí xin cấp, và cô phải nhanh chóng trở về mang theo những kiện thuốc men, vật dụng và lương thực được bảo quản lâu dài.
- Thậm chí em không thể đợi ở đây trong khi họ đóng gói các kiện hàng được sao?
- Em đến đây để có thể tự mình chuẩn bị các kiện hàng, đó cúng là mục đích chuyến đi của em, em phải mang về những gì bọn em thực sự cần, chứ không phải hàng tấn những thứ vớ vẩn gì mà họ gửi đến chỗ chúng em.
- Thế cụ thể là bọn em cần thứ gì?
Cô làm ra vẻ như rút ở trong túi ra một danh sách trong túi ra và đọc:
- Anh đi theo lối bên trái, còn em, em đi phía quầy đông lạnh ở cuối cửa hàng, sau đó chúng ta gặp lại nhau ở quầy tính tiền. Anh có nhớ hết những thứ cần không? Chúng ta phải mua dụng cụ học tập, ba trăm cuốn vở, chín trăm cái bút chì, sáu tấm bảng đen, một trăm hộp phấn, giáo trình học tiếng Tây Ban Nha, tất cả những gì anh thấy trên quầy hàng, chén bát bằng nhựa, khoảng sáu trăm cái đĩa, hai nghìn con dao, chừng đó nĩa ăn và gấp đôi chừng đó muỗng ăn, chín trăm cái chăn, một nghìn cái tã lót, một nghìn khăn mặt, một trăm tấm ga trải giường cho trạm xá...
- Còn anh điều anh cần là em, Susan.
- ...sáu nghìn miếng gạc, ba trăm mét chỉ khâu y khoa, thiết bị tiệt trủng, gạc phẫu thuật, panh, kẹp, kìm y khoa, pênicilin, thuốc kháng sinh phổ thông, thuốc gây mê... Thứ lỗi cho em, em không được hài hước cho lắm.
- Không sao, không tệ đến thế đâu! Ít nhất thì anh cũng có thể đi với em đến Washington chứ?
- Nơi mà em phải đến, anh không đi theo em được đâu. Anh biết không, họ sẽ không thèm cho em một phần hai mươi của những gì bọn em cần.
- Em đã bắt đầu nói "bọn em" để chỉ nơi đó?
- Em không cố ý.
- Khi nào em trở lại?
- Em không biết nữa, có thể là một năm nữa.
- Lần sau em sẽ ở lại chứ?
- Philip, đừng trầm trọng hoá mọi việc lên thế, nếu một trong hai chúng ta đi học ở trường đại học ở bờ bên kia của nước Mỹ thì cũng vậy thôi, không đúng sao?
- Không, kỳ nghỉ ở trường đại học sẽ không chỉ ngắn ngủi có hai giờ đồng hồ. Ôi, anh hơi quá, anh rất buồn và anh không thể giấu nổi em điều đó. Susan, em cố tình tìm đủ mọi lý do trên trái đất này để điều đó sẽ không xảy ra với em sao?
- Để cái gì không xảy ra với em cơ?
- Để em không phải đối diện với nguy cơ đánh mất mình khi gắn bó với một ai đó trên cõi đời. Đừng có nhìn mãi đồng hồ như vậy nữa!
- Đến lúc thay đổi đề tài rồi, Philip!
- Khi nào thì em sẽ dừng lại?
Cô rút tay lại,khẽ nheo mắt.
- Còn anh thì sao? Cô nói.
- Anh àh, em muốn anh dừng cái gì cơ?
- Cái sự nghiệp lớn lao của anh, những bức vẽ hạng trung và cuộc sống tầm thường của anh.
- Em đang trở lên cay nghiệt đấy!
- Không, em chỉ thẳng thắn hơn anh thôi, sự khác nhau chỉ là vấn đề từ ngữ.
- Anh nhớ em, Susan, chỉ thế thôi, anh không đủ sức để giấu em điều đó, nhưng em không biết rằng đôi khi anh cũng biết nổi giận.
- Có lẽ bây giờ đến lượt em là người phải đi ra khỏi quán và quay lại để bắt đầu lại cuộc gặp gỡ, em rất tiếc, em thề với anh là em không thực sự nghĩ như những điều em nói.
- Mà dù em có nghĩ, có thể là theo cách khác, thì trên thực tế cũng vẫn vậy thôi.
- Em không muốn dừng lại, không phải là bây giờ, Philip, những gì em đang sống thật khó khăn, đôi khi quá khó khăn, nhưng em có cảm giác em thật sự có ích cho ai đó.
- Chính điều đó làm cho anh cảm thấy phát ghen, chính đó là điều anh cảm thấy thật trớ trêu.
- Anh ghen vì cái gì?
- Vì anh đã không đủ sức tạo ra nguồn cảm hứng ấy trong em, vì tự nhủ rằng nỗi đau khổ của người khác là điều duy nhất thu hút em, như thể nó giúp em chạy trốn sự đau khổ của chính mình thay vì đối diện với nó.
- Anh làm em phát chán, Philip!
Anh bỗng lên giọng nói lớn, cô hơi bất ngờ, và, điều hiếm khi xảy ra, cô không thể cắt ngang lời anh dù cho những điều anh nói khiến cho cô rất khó chịu. Anh không chấp cái bài diễn văn nhân đạo của cô.
Chú thích:
(1) campesino: Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản, có nghĩa là "dân làng"
(2) Dona Blanca : Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản , có nghĩa là "bà da trắng".
(3) Isabel Peron: Nữ tổng thống Ac hen ti na 1974-1976
(4) "Will you please be quiet...please!": Tiếng anh trong nguyên bản: "Anh có thể làm ơn yên lặng giùm được không!"
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 2 (D)
Đối với anh Susan đang tự dấu mình trong một cuộc sống không thuộc về cô nữa, kể từ cái mùa hè buồn thảm năm cô mười bốn tuổi. Thông qua những cuộc đời mà cô cứu sống, cô đang cố gắng cứu cuộc đời của chính bố mẹ cô. Bởi vì cô cảm thấy mình là người chịu trách nhiêm về cái chết của họ, vì ngày hôm đó, nếu cô phát bệnh cúm thật nặng thì điều đó đã có thể giữ họ ở nhà.
- Đừng có cố gắng ngắt lời anh, anh nói tiếp, vẻ quyết đoán; anh biết rõ tất cả những cảm xúc và tất cả những trò lẩn tránh của em, anh có thể hiểu chính xác mỗi nét biểu hiện trên gương mặt em. Sự thật,đó là em phải sống, và chính vì để thoái khỏi nỗi sợ hãi này mà em ra đi cứu giúp những người khác. Nhưng Susan, em chẳng đối diện với điều gì hết,em đang bảo vệ cho cuộc sống của họ, chứ không phải cuộc sống của chính em. Bỏ rơi những người yêu quý em để ra đi mang tình yêu đến cho những người mà em không quen biết, số phận của em mới kì lạ làm sao! Anh biết là điều đó giúp em tồn tại, nhưng em đang quên đi chính mình.
- Đôi khi em quên mất rằng anh yêu em nhiều đến thế, em cảm thấy thật tội lỗi vì không yêu anh được nhiều như anh đã yêu em.
Kim đồng hồ quay với một tốc độ nhanh đến bất thường, Philip đành chấp nhận thực tế, anh có biết bao điều muốn nói với cô, anh sẽ viết thư cho cô vậy. Họ chỉ có vừa đủ chút thời gian ngắn ngủi để chia sẻ với nhau một phần rất ít của hai năm dài anh đã chờ đợi cô. Susan cảm thấy hơi mệt, cô nhận thấy gương mặt Philip đã thay đổi, anh trông có vẻ "đàn ông" hơn, anh xem lời nhận xét của cô như một lời khen. Anh thấy cô xinh đẹp hơn ngày xưa. Cả hai người đều nhận ra rằng khoảng thời gian ngắn ngủi này sẽ không đủ cho họ. Khi tiếng rè rè phát ra từ chiếc loa thông báo chuyến bay của cô đến giờ khởi hành, anh quyết định ngồi lại bên bàn. Cô nhìn anh vẻ dò hỏi.
- Anh sẽ chỉ tiễn em đến cửa máy bay khi nào em ở lại lâu hơn bốn tiếng, em nên biết điều đó để cho những lần sau.
Anh ép mình nở một nụ cười gượng gạo.
- Môi của anh kìa, Philip! Giống hệt như Charile Brown vậy!
- Anh rất vui vì điều đó, đó là cuốn truyện tranh yêu thích nhất của em mà!
- Em chỉ làm ra vẻ vậy thôi, nhưng anh biết đấy...
Cô đứng dậy,anh cầm tay cô và siết chặt trong tay anh.
- Anh biết! Em đi nhanh đi.
Anh khẽ đặt một nụ hôn vào lòng bàn tay cô, cô nghiêng người để hôn lên khoé môi anh; khi lùi lại sau, cô đưa tay vuốt má anh âu yếm.
- Anh thấy không, anh già đi này, râu của anh châm vào tay em!
- Bao giờ cũng vậy, mười tiếng sau khi anh cạo râu, đi đi, em sẽ lỡ chuyến bay mất!
Cô quay gót và chạy. Khi cô tiến gần đến đầu dòng người đang xếp hàng, anh gọi với theo dặn cô tự chăm sóc cho chính mình và bảo trọng. Cô không quay người lại, chỉ giơ cánh tay lên vẫy vẫy. Cánh cửa gỗ màu nâu từ từ khép lại, nuốt chửng lấy bóng dáng của cô. Anh còn ngồi lại như vậy suốt một tiếng đồng hồ sau, rất lâu sau khi chiếc máy bay của cô đã biến mất trên bầu trời. Anh bắt một chuyến xe bus để trở về Manhattan, đêm đã xuống và anh quyết định đi bộ trên những con phố khu SuHo.
Đứng trước cửa kính tiệm Fanelli s, anh ngập ngừng không biết có nên bước vào. Trên trần,những quả cầu tròn to chiếu lên những mảnh tường phủ lớn gỉ đồng một thứ ánh sáng màu vàng; phía sau những khung gỗ, Joe Frazier... đang quan sát căn phòng, nơi nhứng người đàn ông cười đùa và nghiến ngấu hamburger và những người phụ nữ nhón từng miếng khoai tây chiên lên nhấm nháp. Anh đổi ý, anh không đói lắm và quyết định quay về thẳng nhà. Tại Washington, Susan bước vào căn phòng của mình trong một khách sạn. Vào cùng lúc đó, trong phòng của mình, Philip ngắm chiếc giường. Anh đưa tay vuốt nhẹ chiếc gối bên phải và quay trở ra căn phòng khách vắng lặng, anh không dọn bàn, anh cứ để nguyên vậy, lặng lẽ ngồi ngắm nó rất lâu, rồi anh ra ghế đệm nằm ngủ. Ngày mai, anh sẽ đi giao gói hàng.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 3
Ngày 10 tháng 10 năm 1976,
Susan,
Lẽ ra anh phải viết thư cho em sớm hơn, nhưng anh không tìm được từ ngữ để diễn đạt, và anh có cảm giác như đã dùng hết sạch số quota những điều ngớ ngẩn mà anh được nói với em trong năm nay, thế nên anh quyết định đợi, chỉ có vậy thôi. Cơn bão tràn qua Mêhicô có gây thiệt hại ở chỗ em không? Báo chí cho biết ước tính có gần hai nghìn năm trăm người chết và mười bốn nghìn người bị thương. Mêhico không xa chỗ em, và mỗi tin tức xấu trong những vùng gần nơi em ở đều làm anh sợ. Anh cứ mong em quên cuộc cãi vã của chúng ta đi, anh không có quyền nói với em những điều như vậy, anh không muốn phán xét em, anh xin lỗi. Anh biết là đôi khi anh làm em tức giận một cách vô lý. Đôi khi anh biết mình ngoan cố một cách ngu ngốc, đôi khi anh ko kiểm soát được lời nói của mình, như thể những điều anh nói có thể làm cho em quyết định quay trở lại, như thể những điều anh suy nghĩ hay cảm nhận sẽ làm thay đổi cuộc sống mà em đang có. Nhưng hình như một số câu chuyện tình vĩ đại trong lịch sử bắt đầu từ một sự miễn tố. Viết cho anh nhanh nhé. Cho anh biết tin của em.
Với tất cả sự trìu mến,
Philip
* * *
Ngày 11 tháng 11,
Philip,
Em đã nhận được thư của anh, và ... anh có quyền đấy. Anh đã nhầm, nhưng dù sao anh vẫn có cái quyền đó, và dù cho anh ko muốn làm điều đó, những lời anh nói thực sự đã trở thành những lời phán xét. Em không quên những điều anh nói, ngược lại,em thường xuyên suy nghĩ về những điều ấy, chẳng phải chính vì mục đích đó mà chúng được nói ra đấy sao? Lisa, đó chính là tên của cơn bão đã khiến anh lo lắng. Nó đã không ảnh huởng rìa đến chúng em. Cuộc sống khó khăn vậy đấy, em cứ nghĩ là mình phải bỏ cuộc. Anh biết không, đất nước này thật đặc biệt. Máu của những người đã chết giờ đã khô và năm lẫn trong đất. Trên cái nền những mảnh chứng tích của đau khổ ấy, những người sống sót đã dựng lại nhà của họ, chắp vá gom góp những rìa còn sót lại từ gia đình và từ cuộc sống của họ. Khi đến đây em có nhiều niềm tin chắc chắn khiến em tưởng rằng em thông minh hơn họ, có học hơn họ, và vững vàng hơn họ về mọi điều. Mỗi ngày sống với những con người nơi đây, em mới thấy rằng họ mạnh mẽ hơn em và em yếu đuối hơn họ rất nhiều.
Có phải chính sự kiêu hãnh của họ đã khiến cho con ngươìi họ trở nên đẹp đến nhường ấy? Những gì xảy ra ở đây rất khác với khi người ta cứu trợ những đất nước bị tàn phá vì chiến tranh. Ở đây, cuộc chiến đáng sợ là cuộc chiến với gió và mưa. Không có vai thiện cũng không có vai ác, chỉ có những con người ở trong hoàn cảnh khốn khó đến cùng cực. Chỉ duy nhất sự dũng cảm trong họ là điều làm cho cuộc sống được tái sinh giữa đống tro tàn,nơi mọi hi vọng dù nhỏ nhất đã bị thiêu trụi. Em nghĩ rằng chính vì điều đó mà em yêu quý họ, và em cũng biết chính vì điều đó mà em ngưỡng mộ họ. Em đến đây và những tưởng rằng họ là những nạn nhân cần đến em, và từng giờ từng khắc, họ đã cho em thấy em hoàn toàn sai lầm, và ngày hôm nay, những gì họ cho em còn nhiều hơn cả những gì em có thể mang lại cho họ. Nếu ở lại Montclair, cuộc sống của em sẽ không có ý nghĩa, em sẽ không biết phải làm gì với cuộc đời của mình. Sự cô đơn khiến con người ta đánh mất lòng kiên nhẫn và sự nôn nóng giết chết tuổi thơ. Đừng buồn với những điều em nói với anh, nhưng em từng rất cô đơn trong suốt quãng đời niên thiếu mà chúng ta đã chia sẻ với nhau hết mức trong khả năng của mình. Đúng vậy, em đã luôn rất nóng vội, và bây giờ em vẫn thế. Nhu cầu muốn đốt cháy các giai đoạn khiến cho em sống với một nhịp độ mà anh không thể hiểu được, bởi vì nó rất khác với cuộc sống của anh.
Khi chia tay em đã quên nói với anh một điều cũng quan trọng nhất như tất cả những điều này: em nhớ anh rất nhiều, Philip, em vẫn thường lật ra xem những tấm hình trong cuốn ablum của chúng ta, và những hình ảnh về hai chúng ta đối với em là vô giá, những khoảng khắc thời gian ấy là toàn bộ tuổi thơ của chúng ta. Hãy tha thứ cho em vì đã như thế này, em không thể sống vì người khác.
Susan.
* * *
Quảng trường Thời Đại. Trong đám đông nhốn nháo của dòng người hàng năm vẫn tập trung về Quảng trường Thời Đại trước khoảng khắc giao thừa, Philip tình cờ gặp và nhập vào một nhóm bạn sinh viên. Bốn con số lớn chiếu sáng toà nhà trụ sở của tờ New York Times. Bây giờ là mười hai giờ đêm, 1977 vừa bắt đầu. Một trận mưa kim tuyến hoà quyện trong những nụ hôn mà mọi người trên phố trao cho nhau. Philip cảm thấy vô cùng cô đơn giữa đêm đống náo nhiệt. Thật lạ lùng khi có những ngày như thế này, khi mà niềm vui sống của con người đã được lập trình sẵn trên những tờ liịch. Một cô gái trẻ lần đi dọc theo một hàng rào, cố gắng mở một lối đi giữa dòng người cuồn cuộn này. Cô đụng vào anh, băng qua anh, quay người lại và mỉm cười. Anh đưa tay lên vẫy vẫy, cô đáp lại anh bằng cách gật đầu ra hiệu như để xin lỗi vì không thể tiến lên nhanh hơn. Đã có ba người chen vào giữa họ, cô như bị một ngọn sóng cuốn đi, đẩy ra ngoài khơi. Anh len lỏi qua 2 du khách đang bị lạc giữa lòng người. Có lúc gương mặt cô biến mất rồi hiện ra, nhô lên khỏi đám đông như thể để thở hít không khí. Anh cố gắng không để mất dấu cô. Khoảng cách giữa hai người giảm dần, cô gần như đã ở một khoảng cách vừa đủ để có thể nghe tiếng anh giữa đám đông ồn ào này. Lách vai một cú cuối cùng, anh đã ở sát bên cô gái, anh nắm lấy cổ tay cô. Cô quay người lại ngac nhiên, anh mỉm cười và gần như hét lên hơn là nói:
- Chúc mừng năm mới, Mary. Nếu cô hứa là không cấu vào tay tôi, tôi sẽ mời cô đi uống một ly, trong khi chờ dòng người này tản bớt!
Cô mỉm cười đáp lại nụ cười của anh và đến lượt cô cũng hét lên:
- Với một người tự nhận mình là nhút nhát như anh, anh đã tiến bộ nhiều đấy!
- Khi đó cách đây đã một năm rồi, tôi đã có đủ thời gian để tiến bộ!
- Chắc anh phải thực hành nhiều lắm?
- Cô chỉ hỏi thêm hai câu nữa thôi là đủ để cho tôi bị mất tiếng luôn đấy! Cô đúng ý chúng ta tìm một nơi nào yên tĩnh hơn chứ?
- Tôi đang đi cùng mấy người bạn nhưng có vẻ như tôi đã lạc mất họ thật rồi. Chúng tôi có hẹn nhau tập trung ở trung tâm thành phố, anh có muốn nhập bọn với chúng tôi ko?
Philip gật đầu ra hiệu đồng ý, và hai kẻ bị đắm tàu để cho đám đông cuốn xuống hướng trung tâm thành phố. Đến đầu đại lộ số Bảy, họ rẽ qua đường Bleekcer. Dòng người lại cuốn họ về đường số Ba. Tại quán Blue Note, nơi các bạn của Mary đang chờ, một nghệ sĩ Piano đang quyến rũ người nghe theo những điệu nhạc jazz mà không một điều gì khác trên cõi đời có thể phá ngang.
Trong cái lạnh giá của buổi sáng sớm, trên những hè phố lát đá vắng tanh của khu SoHo, những chai rượu rỗng thò ra khỏi những thùng rác rải rác đây đó, như là nhân chứng cho những giờ phút tiệc tùng say sưa của buổi tối vừa trôi qua. Cả thành phố chìm trong giấc ngủ. Thỉnh thoảng, chỉ có tiếng vài chiếc xe hiếm hoi chạy qua làm khuấy động không gian yên lặng của khu phố, còn chìm trong màn sương ẩm ướt của giấc say. Mary đẩy cánh cửa khu nhà chung cư của Philip bước ra. Một cơn gió lạnh lướt qua cổ cô, cô rùng mình, co ro trong chiếc áo măngtô. Cô bước dọc con phố, giơ một tay vẫy khi đến gần ngã tư. Một chiếc taxi màu vàng dừng lại bên lề đường. Nó nuốt chửng cô rồi biến mất về hường Broadway. Ngày mùng hai tháng Giêng năm đó, Errol Garnel vĩnh viễn đóng nắp chiếc đàn piano của mình. Philip quay trở lại khoá học.
Đầu tháng Hai, Susan vừa nhận được một lá thư từ Washington. Những lời khien ngợi, những lời chúc muộn màng từ cấp trên. Họ giục cô xem xét khả năng phát triển thêm trại tị nan mới trên núi mà cô đã chờ đợi từ lâu nay. Cô phải tính toán ngân sách cần thiết và tới trình bày về tính khả thi của dự án ngay khi cô chuẩn bị xong. Những cơn mưa vẫn chưa ngưng. Ngồi dưới mái hiên nhà, cô nhìn nước mưa đang chảy và xói thành rãnh trên mặt đất.
Không lúc nào cô thôi nghĩ đến những dân sống trên núi, những con người mỗi mùa đông vẫn bất lực chứng kiến sự bạo tàn của thiên nhiên đang đùa giỡn với những gì họ đã phải cật lực gây dựng và chỉ vừa mới hoàn thành, khi mùa hè đang chớm bắt đầu. Trong vài tuần nữa, họ sẽ phải làm lại tất cả từ đầu, không một lời kêu ca, họ sẽ còn nghèo hơn một chút so với những mùa trước.
Juan im lặng, cậu châm một điếu thuốc, cô lấy lại điếu thuốc từ tay cậu và đưa lên môi. Ánh lửa từ đầu điếu thuốc chiếu sáng phần dưới gương mặt cô, cô rít một hơi thật sâu.
- Cậu đang đốt cả tấm vé hạng nhất của hãng "Air Ganja" đấy à? Juan cười ranh mãnh.
- Thuốc lá vàng trộn lẫn với thuốc nâu đấy, chính hỗn hợp đó cho hương vị như thế đấy.
- Nghe như mùi long diên hương, cô nói.
- Tôi không biết nó là gì.
- Mùi hương này có gì đó khiến tôi nhớ lại thơ ấu, mùi hương của mẹ tôi, người bà ấy vẫn thường toả ra mùi long diên hương.
- Cô nhớ tuổi thơ của mình lắm phải không?
- Tôi chỉ rất nhớ một vài gương mặt thôi, gương mặt của ba mẹ tôi, của Philip.
- Tại sao cô không ở lại bên anh ấy?
- Anh ấy trả tiền cho cậu để hỏi tôi câu hỏi đó à?
- Tôi không biết anh ta, và cô chưa trả lời câu hỏi của tôi.
- Vì tôi không muốn trả lời.
- Cô thật kỳ lạ, Donã Blanca, cô chạy trốn điều gì để lưu lạc đến đất nước của chúng tôi vậy?
- Ngược lại thì có, chàng trai trẻ, chính nơi đây tôi đã tìm lại được mình, mà cậu đang làm tôi phát chán với mấy câu hỏi của cậu đấy. Cậu bảo, cơn giông còn kéo dài lâu không?
Juan đưa tay chỉ vệt sáng thật đặc biệt đag hiện ra phía chân trời khi cái aguacero đang lùi dần. Lâu nhất là trong vòng một giờ nữa, mưa sẽ ngưng. Một thứ mùi đất ẩm ướt lẫn với mùi gỗ thông tràn vào chiếm lĩnh mọi ngõ ngách trong căn nhà nhỏ của cô. Cô đi đến mở tung cửa của cái tủ đồ duy nhất có trong nhà, để cho quần áo của cô được thấm đẫm mùi hương ấy. Khi cô mặc lên người một chiếc áo sơ mi vải cotton thơm mùi hương của đất ẩm và gỗ thông, một rung động thể xác chạy dọc theo làn da cô.
Cô vứt mẩu thuốc lá vào góc phía bên kia của hiên nhà, đứng phắt dậy và nở một nụ cười thật tươi nhìn Juan.
- Nhảy lên xe nào, chúng ta đi thôi!
- Đi đâu?
-Đừng có đặt câu hỏi mãi thế nữa!
Chiếc Dodge húng hắng ho hai tràng trước khi chịu nổ máy. Những bánh xe to lớn trượt một hồi trong vũng bùn lõng bõng trước khi bám được vào viên đá, cầu sau của xe lắc lư một lúc rồi cuối cùng cũng nằm ngay ngắn trên đường. Từng đám bùn bắn tung toé bám vào hai bên gương mặt rạng ngời hạnh phúc, cô buột thở dài một tiếng. Juan đến ngồi bên cô. Họ đi về phía núi.
- Ta đi đâu đây?
- Thăm con bé, tôi nhớ nó quá!
- Đường đất đã nhão ra dưới mưa, chúng ta sẽ không leo lên được tới đó đâu.
- Cậu có biết Tổng thống của chúng tôi đã nói gì không? Có những người nhìn sự vật trong trạng thái hiện tại của chúng và tự hỏi tại sao lại như vậy. Còn tôi, tôi nhìn mọi việc theo cách mà tôi muốn, và tại sao không! Tối nay, chúng ta sẽ cùng ăn tối với Senor Rolando Alarvez.
Nếu Kennedy biết thế nào là những con đường ở Honduras vào mùa đông, hẳn ông đã đợi đến mùa xuân để phát biểu câu châm ngôn của mình. Sáu giờ đồng hồ sau, khi họ đi được một nửa quãng đường, lên đến lưng chừng núi, trục bánh xe bị lún trong bùn lầy nên không còn đủ sức đê lấy chiếc xe tải lên nữa. Bộ ly hợp quay tại chỗ và một thứ mùi hăng hắc bốc lên khiến Susan phải chấp nhận thực tế. Bị kẹt lại đây trên đoạn đường đèo, họ sẽ không thể vượt qua mười khúc quanh cuối còn lại trước mặt, ngăn cách họ với một ngôi làng nhỏ nơi có một bé gái đang sống, một cô bé từ bao giờ đã chiếm chỗ quá lớn trong con tim của Susan. Juan đi ra phía sau xe và lấy ra bốn cái chăn từ trong chiếc túi đan bằng cói.
- Tối nay ta sẽ ngủ lại đây, cậu nói một cách ngắn gọn.
- Đôi khi, tôi thấy mình ương bướng như một con lừa, đến nỗi chính tôi cũng không chịu nổi mình nữa.
- Cô đừng lo, không phải chỉ mình cô có kiểu tính khí đặc biệt như vậy đâu.
- Cậu đừng phóng đại thế chứ. Hôm nay không phải là ngày thánh Susan đâu, nếu muốn mừng lễ bổn mạng cho tôi thì chịu khó chờ đi.
- Tại sao cô lại muốn đi gặp con bé?
- Ở phía sau xe chúng ta có lương thực gì thế? Tôi đói rồi, cậu đói không?
Juan lục tìm trong một túi khác và lấy ra một hộp lớn đựng đậu. Cậu muốn làm cho cô món Casamiento, nhưng để làm món này cần phải nấu chín cơm, mà trời thì còn mưa quá nên không nhóm lửa được. Susan nhúng gần hết cả một gói bánh bích quy vào một hộp sữa đặc rồi để bánh tan ra trong miệng cô. Nước chảy ròng ròng trên tấm kính xe. Cô đã cho ngưng vũ điệu của hai cây gạt nước để tiết kiệm bình ắc quy. Nhìn thấy rõ bên ngoài thì có để làm gì đâu!
- Cô có vẻ yêu quý cô bé con ngày hơn là những đứa trẻ dưới thung lũng.
- Sao cậu lại có thể nói những điều như thế. Đó là hai việc hoàn toàn khác, lâu lắm rồi tôi mới được gặp cô bé một lần, vì vậy mà tôi nhớ nó thôi.
- Thế còn Philip, cô có nhớ anh ta không?
- Cậu thôi không nói về Philip đuợc không! Cậu sao vậy?
- Không gì cả, tôi chỉ cố gắng hiểu cô một chút.
- Nhưng không có gì để cậu phải tìm hiểu cả. Có, đúng rồi, tôi nhớ Philip đấy.
- Tại sao cô lại không ở bên anh ta?
- Bởi vì tôi đã chọn ở đây.
- Cuôc sống của một Senora là ở bên người đàn ông mà cô ấy yêu.
- Câu mà cậu vừa nói thật ngu ngốc.
- Tôi không thấy có gì ngu ngốc. Một người đàn ông cũng vậy, anh ta phải ở bên mà người anh ấy yêu.
- Không phải lúc nào cũng dễ dàng như thế.
- Tại sao những nguời Mỹ như cô lại phức tạp đến thế?
- Bởi vì chúng tôi đã đánh mất những lý lẽ của sự đơn giản, cũng chính vì thế mà tôi cảm thấy thích được ở đất nước của cậu. Yêu không thôi chưa đủ, còn phải hợp với nhau nữa.
- Điều đó nghĩa là gì?
- Phải yêu cái cuộc sống mà ta sẽ sống cùng với người kia, chia sẻ những ước mơ, những mong đợi, cùng có những mục đích, chung những đam mê.
- Làm sao mà biết trước được những điều đó? Không thể biết được! Không thể hiểu rõ người kia ngay từ ban đầu, khi yêu người ta phải biết kiên nhẫn.
- Cậu có nói dối tôi về tuổi của cậu không?
- Ở chỗ chúng tôi, yêu không phải bao giờ cũng là đủ, dù cho điều đó có vẻ hết sức vô lý. Tôi đồng ý với cậu, đôi khi chúng tôi thật là kỳ cục, và tôi là một ví dụ tuyệt hảo cho điều đó.
Một tia sáng trắng xé toạc bầu trời,một tiếng nổ lớn vang lên cắt ngang câu chuyện của họ. Cơn giông đang quay chở lại fía họ, giờ nó đã mạnh gấp đôi, mưa càng trút xuống dữ đội trên những triền núi mong manh của ngọn Cabacerá de Naco. Rất nhanh chóng, mặt đất đã ứ nước không còn hấp thụ được lượng nước từ trận mưa đang đổ xuống như trút. Nước lũ ào ào đổ xuống dọc theo sườn núi, kéo theo từng mảnh đất đá. Juan không còn nghe Susan nói nữa, gương mặt cậu cuối cùng cũng để lộ rõ vẻ lo lắng càng lúc càng tăng. Cậu cố thử mở cửa sổ,nhưng một cơn lốc mạnh tạt đến đã làm cậu phải từ bỏ ý định ngay lập tức. Thế rồi cậu khẽ nghiêng đầu sang khắp các hướng, với những cử động đứt đoạn, như khi một con thú đang rình mồi.
- Cậu bị làm sao vậy? Cô hỏi
- Cô im lặng đi!
Tai phải áp sát vào cửa kính, cậu có vẻ như đang thăm dò chờ đợi điều gì đó, trong khi ánh mắt của Susan không ngừng dò hỏi xem chuyện gì đang xảy ra. Đặt một ngón tay lên miệng, cậu ra hiệu cho cô giữ im lặng. Cô không thèm quan tâm.
- Cậu đang làm trò gì vậy, Juan?
- Vì Chúa, cô yên lặng để cho tôi nghe!
- Mẹ kiếp, mà cậu nghe cái gì mới được?
- Bây giờ không phải lúc để chửi thề, tôi đang nghe đất chuyển động.
- Cái gì?
- Cô im đi nào!
Một tiếng đứt gãy khô khan vang lên phá tan sự im lặng. Cố hết sức, Juan hé mở cửa xe. Một đợt gió dữ dội mang theo những hạt mưa to nặng lập tức ào vào trong khoang lái. Cậu quan sát phía dưới bánh xe. Một khe nứt ngay giữa tim đường báo hiệu điều tồi tệ nhất sắp xảy đến. Cậu ra lệnh cho Susan bật đèn pha lên. Cô thi hành mệnh lệch ngay lập tức. Luồng sáng đi xuyên qua màn nước mưa. Phía trước,trên fần đường mà ánh sáng chiếu tới, có thể nhìn thấy một khe nứt chạy dọc con đường.
- Đi ra phía sau, chúng ta phải ra khỏi đây ngay lập tức.
- Cậu điên rồi, cậu có thấy ngoài trời đang mưa gió thế nào không?
- Chúng ta sắp rớt xuống vực tới nơi rồi, nhanh lên nào, đừng đi ra phía cửa bên đó, hãy làm theo những gì tôi nói!
Cậu vừa dứt lời,chiếc xe tải bỗng nghiêng qua một bên, như thể một con tàu đang sắp sửa chìm xuống nước bắt đầu từ mạn trái. Cậu lấy cánh tay và đẩy cô về phía sau thùng xe. Cô cố gắng lấy thăng bằng, nhẩy qua đống túi đựng lương thực. Lách qua trước mặt cô, cậu nâng tấm bạt phía trên tấm cửa lên, kéo mạnh tay cô, cả hai cùng nhảy xuống. Khi vừa chạm đất, hai người lộn vòng trên mặt đất, cậu kéo cô về phía núi đá và bắt cô nép sát xuống. Mắt mở to ra, cô bỗng nhìn thấy trước mặt mình chiếc xa tải trượt về phía sau và rơi xuống phía dưới vách đá. Nó còn dựng đứng lên trong một nỗ lực cuối cùng, ánh đèn pha vươn dài chiếu thẳng lên trời rồi chiếc Dodge cũ kĩ của cô biến mất hoàn toàn dưới vực.
Tiếng mưa lớn át hết mọi âm thanh. Cứng người vì sợ hãi, Susan không còn nghe thấy gì ở xung quanh mình nữa. Juan fải gọi đến ba lần cô mới trả lời. Họ phải nhanh chóng leo lên cao, mô đất nơi họ đang ẩn náu có dấu hiệu không trụ nổi. Cô bám vào Juan và họ leo lên được vài mét. Giống như trong các cơn ác mộng kinh hoàng nhất, cô có cảm giác như mỗi bước đi lại khiến cô lùi lại phía sau trong khi cô bắt cả thân mình phải tiến lên phía trước. Nó không phải chỉ là cảm giác chủ quan, đất đang hẫng xuống dưới chân cô, lôi họ về phía vực. Cậu hét to bảo cô cố lên, nắm lấy chân cậu, những ngón tay đã tê cứng của Susan không thể níu kéo được gì nữa, ống quần của Juan đang tụt dần khỏi tay cô.
Cô bị trôi đi và ném vào thành của một vách đất xốp, những dòng thác bùn đang chảy xuống bắt đầu trùm lên cô. Cô phải lấy hết sức khạc nhổ bùn ra, cô bắt đầu không thở được nữa. Bóng tối xung quanh chợt loé sáng lên như sao trong mắt cô, cô bất tỉnh. Juan thả mình trượt dài bằng lưng xuống đễn chỗ cô. Cậu nâng đầu cô lên và kê trên ngực mình. Ngay lập tưc,cậu móc bùn đang bít kín trong miệng cô ra, đặt nghiêng người cô qua một bên và thọc sâu hai ngón tay vào họng cô. Lên cơn co thắt dữ dội, cô lập tức ói ra tất cả. Juan ôm chặt cô vào lòng,còn bản thân cậu lấy hết sức nắm chắt vào một cái rễ cây. Cậu không biết mình sẽ trụ được như vậy trong bao lâu, nhưng cậu biết rằng đó sẽ chính là khoảng thời gian còn lại mà họ được sống.
Ngày 10 tháng Hai năm 1977,
Susan,
Em đang ở đâu?Anh lo lắng lắm đây. Tin tức từ Salvador nói rằng những nhóm du kích có vũ trang đang tập hợp dọc theo biên giới chỗ em ở. New York Time nói chúng đã đột nhập vào lãnh thổ Honduras và rải rác có những cuộc đụng độ. Ít nhất thì cũng viết cho anh vài dòng, cho anh biết em vẫn khoẻ và an toàn. Anh van em đấy, hãy chú ý giữ an toàn cho mình và viết cho anh sớm nhé.
Philip
Họ đã trụ lại được hai giờ đồng hồ. Tranh thủ lúc tình hình tạm lắng, họ bò lên được vài xăngtimet, tìm đưọc một chỗ trú ẩn chắc chắn hơn. Susan đã tỉnh lại.
- Suýt nữa thì tôi chết chìn trên một ngọn núi cơ đấy, có kể ra thì cũng chẳng ai thèm tin tôi đâu.
- Hãy để dành sức của cô thì hơn.
- Cậu sắp sửa có thói quen bảo tôi im miệng rồi đấy.
- Chúng ta vẫn chưa thoát khỏi tai hoạ này đâu.
- Nếu thật Chúa của cậu muốn lấy đi mạng sống của chúng ta thì chúng ta đã tiêu từ nãy rồi.
- Nguy hiểm đang rình rập chúng ta không đến từ phía Chúa, nó đến từ núi cao và từ mưa, mà chúng thì còn xấu tính hơn cô nhiều!
- Tôi mệt rồi, Juan.
- Tôi biết, tôi cũng vậy.
- Cảm ơn, Juan, cảm ơn vì những gì cậu đã làm.
- Nếu tất cả những người mà cô cứu giúp đều phải nói cám ơn cô, chắc từ vài tháng nay, chúng ta sẽ suốt ngày chỉ nghe thấy có bấy nhiêu lời ấy!
- Hình như mưa đã ngớt nhiều rồi.
- Chính lúc này đây chúng ta phải cầu xin Chúa để cho mưa tiếp tục.
- Tốt hơn hết là cậu làm điều đó đi, tôi nghĩ tôi còn đang mắc nợ ông ý vài điều.
- Đêm sẽ còn dài đấy, cô nghỉ một chút đi.
Từng tiếng đồng hồ lặng lẽ trôi qua,không gian yên lặng chỉ bị khuấy động bởi cơn giông đỏng đảnh vẫn còn lưỡng lự chưa muốn bỏ đi. Khoảng bốn giờ sáng, Juan thiu thiu ngủ, tay cậu lỏng ra, lập tức Susan bị trượt xuống dưới và cô bật kêu lên một tiếng. Giật mình,cậu lại siết chặt vòng tay, kéo cô trở lại về phía cậu.
- Tôi xin lỗi, tôi ngủ thiếp đi mất!
- Juan, cậu phải giữ sức cho mình, cứ dằng díu thế này, cả hai chúng ta sẽ chết. Nếu cậu cứ để kệ tôi, cậu sẽ thoát được.
- Nếu chỉ nói ra những điều ngớ ngẩn, tốt nhất là cô im đi thì hơn.
- Rõ ràng cậu chỉ bị ám ảnh có một điều là bắt tôi im miệng!
Cô cố gắng được vài phút rồi lại xoá tan sự im lặng của Juan để kể với cậu về nỗi sợ hãi mà cô đã cảm thấy. Cậu cũng vậy, cậu đã tưởng tưởng cuộc đời của họ sắp sửa kết thúc. Lại một chuỗi im lặng tiếp theo, rồi cô hỏi cậu đang nghĩ gì. Cậu đã cầu nguyện để bố mẹ cậu phù hộ. Cô im lặng. Lại một khoảng im lặng nữa và cô bắt đầu phá lên cười sặc sụa.
- Có điều gì đáng cười vậy?
- Philip hẳn đang ngồi trước màn hình tivi.
- Cô đang nghĩ đến anh ấy?
- Quên điều tôi vừa nói đi. Cậu có nghĩ rằng nếu chúng ta lên tivi, họ sẽ chôn chúng ta như những người anh hùng không?
- Điều đó quan trọng với cô lắm sao?
- Tôi không biết...(cô lưỡng lự giây lát), có thể (lại suy nghĩ), không, mà tôi không nghĩ vậy đâu, chỉ là, nếu không có được một đám cưới lộng lẫy, tôi cũng chỉ hi vọng rằng sẽ có được một đám ma cho ra hồn.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 3 (B)
Họ cần phải cố gắng bò lên thêm vài mét nữa, dù rằng trận mưa đã ngớt đi nhiều, đất dưới chân chỗ họ đang ngồi có thể rã ra bất cứ lúc nào và lôi họ xuống vực. Cậu thuyết phục cô gắng sức một lần cuối và họ bắt đầu một chặng đường hết sức nguy hiểm. Có lúc cô đã phải hét lên để gọi cậu, chân cô bị kẹt. Vừa đỡ cô, cậu vừa vòng qua một bên để bò xuống bên dưới và thận trọng gỡ chân cô ra khỏi vật gì đó mà trong bóng tối không thể nhận ra. Sau một chằng đường leo núi gian nan, cuối cùng họ cũng bò được lên đến triền núi, chỗ khúc quanh phía trên của con đường. Họ băng qua đường và ngồi tựa lưng vào vách núi. Một lúc sau đó, cơn giông với tính khí thất thường và dữ dội đổi hướng đi về phía đỉnh núi Ignacio cách đó 100cây số, suy yếu dần và tan ra hẳn tại đó. Bầu đoàn của nó và những cơn mưa như trút cũng ra đi theo.
- Tôi rất tiếc, Juan nói.
- Về chuyện gì cơ?
- Vì đã cướp đi của cô cơ hội có đám tang linh đình, chúng ta thoát rồi!
- Ồ, không sao đâu, cậu đừng lo, tôi có hai ba cô bạn chưa lấy chồng ở tuổi ba mươi cơ, bởi vậy tôi vẫn còn có thể chờ thêm vài năm nữa để được đưa ma mà không bị xem là gái già.
Juan không thích thú lắm với cái kiểu khôi hài của Susan, cậu đứng dậy để chấm dứt cuộc nói chuyện. Ngày vẫn chưa bắt đầu, phải chờ cho trời sáng để có thể đi tiếp trên con đường dẫn tới làng. Trong bóng tối, mỗi bước đi đều rất mạo hiểm. Cả hai người uớt sũng và cô bắt đầu run lên, không chỉ vì bị lạnh mà còn vì những cảm xúc hoàn toàn chính đáng của một người may mắn thoát trong cái chết trong chân tơ kẽ tóc. Cậu chà xát cho cô thật mạnh.
Hai ánh mắt gặp nhau. Răng đánh lập cập, giọng run run, cô đẩy mặt cậu ra xa khỏi mặt mình.
- Juan, cậu là một thanh niên rất đẹp trai, nhưng cậu còn quá trẻ để sờ soạng vú tôi, có lẽ cậu không nghĩ thế, tôi có thể hiểu được điều đó, nhưng đối với tôi,cậu còn phải chờ thêm vài năm nữa.
Juan không chịu nổi kiểu nói của cô. Ngay lập tức,cô thấy vẻ mặt của cậu với hai mắt nheo lại. Nếu không quá rõ khả năng bình tĩnh đến đáng nể của người bạn đồng hành, hẳn cô đã ngờ rằng cậu sẽ cho cô một cái tát. Juan chẳng làm gì hết, cậu chỉ tách xa khỏi cô, bóng của cậu chợt biến mất hẳn. Cô gọi tên cậu trong bóng tối tưởng như dài vô tận.
- Juan, tôi không muốn làm tổn thương cậu!
Để vẫy cho khô cánh, vài con dế lại bắt đầu tiếng kêu râm ran đơn điệu.
- Juan, đừng có giận như vậy, quay trở lại đây và nói với tôi đi!
Bình minh sắp sửa lên. Susan ngồi tựa người vào một gốc cây chờ ngày mới bắt đầu.
Cô hơi thiu thiu ngủ. Khi người đàn ông lay vai cô, ban đầu cô tưởng là Juan, nhưng cái người nông dân đang ngồi xổm trước mặt cô không giống Juan chút nào. Ông ta mỉm cười. Da ông nhăn nheo vì những cơn mưa đã in dấu lên cuộc đời ông. Cô bàng hoàng nhìn cảnh vật hoang tàn xung quanh. Phía dưới kia, cô có thể nhận ra cái gốc cây nhô lên khỏi mặt đất, chính nó đã giữ họ lại, và xa hơn chút xíu,cô nhìn thấy gò đất nơi họ đã ẩn náu, và cuối cùng dưới đáy vực, xác chiếc Dodge gần như đã bị vùi lấp hẳn.
- Ông có thấy Juan đâu không? Cô hỏi giọng yếu.
- Chúng tôi chưa tìm thấy cậu ta, nhưng chúng tôi chỉ có hai người đi tìm cô và cậu ấy.
Mọi người đã nghe thấy tiếng chiếc xe tải. Rolando một mực tin rằng ông đã nhìn thấy đèn pha lao chúi xuống khe núi, nhưng trong khi cơn giông điên cuồng vẫn còn đang hoành hành, việc đi kiếm người là quá nguy hiểm; ông đã không thể thuyết phục được ai đi cùng ông. Khi cơn giông vừa lắng, ông đã cử hai dân làng mang theo một cái xe lừa đi tìm họ, ông tin chắc rằng nếu may mắn lắm tìm được họ còn sống, thế nào họ cũng bị thương và cần chở về làng bằng xe. Người lớn tuổi hơn nói với Donã Blanca rằng cô hẳn đã may mắn được một vị thần hộ mạng che chở thì mới sống sót được qua một cơn bão như vừa rồi.
- Phải đi tìm Juan!
- Không cần phải đi tìm, chỉ cần mở to mắt ra thôi! Cả ngọn đồi đã bị quét sạch, từ đây cho đến tận sâu dưới thung lũng, chẳng còn sinh linh nào sống sót. Nhìn phía bên phải xem, xác chiếc xe tải của cô nhô lên khỏi mặt đất. Nếu thằng bé không thể lên được tới làng có nghĩa là nó đã bị chôn sâu ở đâu đó dưới bùn. Chúng tôi sẽ làm một chữ thập và sẽ cắm xuống tại nơi mà cô và người bạn đồng hành của cô bị trượt xuống khỏi đường.
- Con đường đã bị trượt đi, không phải chúng tôi!
Người trẻ hơn trong hai người đàn ông vung sợi dây da và con lừa bắt đầu lên đường. Trong khi con vật ì ạch tiến lên, Susan băn khoăn lo lắng về số phận của cậu bé được cô bảo trợ, người này đã trở thành vị thần hộ mệnh của cô, cô nghĩ.
Một tiếng đồng hồ sau,họ tới được cổng làng. Cô vội nhảy khỏi chiếc xe lừa và gào lên tên Juan. Chẳng có ai đáp lại lời cô. Chỉ tới lúc đó cô mới nhận thấy bầu không khí im lặng là lùng bao trùm lên con đường duy nhất của ngôi làng. Chẳng có ai ngồi tựa lưng trước cổng nhà hút thuốc lá như mọi khi, không bóng dáng một người dân đi trên con đường dẫn ra suối. Lập tức cô nghĩ đến những cuộc đụng độ đôi khi dẫn đến những trận chiến giữa người dân vùng núi với nhóm phiến quân trên đường chạy trốn khỏi Salvador. Nhưng biên giới cách đó rất xa và người ta chưa bao giờ thấy sự xuất hiện của phiến quân trong những khu vực xung quanh đây. Cô hoảng loạn. Cô gào lên một lần nữa gọi tên người bạn của mình, nhưng câu trả lời duy nhất mà cô nhận được chỉ là chính tiếng cô vọng lại từ vách núi.
Juan xuất hiện dưới cổng của ngôi nhà nằm tận cuối đường. Gương mặt còn nhem nhuốc đầy vết đất khô với những nếp nhăn để lộ rõ nỗi buồn của cậu. Cậu chậm chậm tiến lại gần Susan. Cô đang giận điên người.
- Thật là ngu xuẩn khi cậu bỏ lại tôi một mình như vậy, tôi đã lo lắng cho cậu đến phát điên, đừng bao giờ chơi cái kiểu như vậy với tôi nữa, cậu có phải là đứa bé lên mười đâu!
Cậu nắm lấy cánh tay cô và kéo cô đi theo.
- Đi theo tôi và đừng nói nữa.
Cô vùng ra từ chối không chịu đi theo và nhìn thẳng vào mắt cậu.
- Cậu thôi ngay cái kiểu lúc nào cũng bảo tôi im miệng như vậy đi!
- Tôi xin cô đấy, đừng lớn tiếng, chúng ta không có nhiều thời gian để mất đâu.
Cậu dẫn cô đến trước ngôi nhà nơi cậu vừa bước ra khỏi lúc nãy và họ chui vào căn phòng duy nhất của nó. Trên cửa sổ,người ta căng những tấm vải màu để ngăn không cho ánh sáng chiếu vào. Susan phải mất mấy giây để cho đôi mắt cô quen dần với bóng tối. Cô nhận ra tấm lưng của Rolando Alvarez. Ông đang quỳ gối. Ông đứng dậy và quay về phía cô, đôi mắt đỏ vằn tia máu.
- Thật là một điều kỳ diệu vì cô đã có mặt ở đây, Donã Blanca, con bé không ngừng gọi tên cô.
- Chuyện gì đang xảy ra ở đây? Tại sao làng lại trống trơn không có một bóng người?
Ông đẩy cô về phía cuối văn phòng, vén một bức màn để lộ chiếc giường kê sát vách.
Cô nhận ra cô bé, nguyên nhân để cô dấn thân vào chuyến đi mạo hiểm này. Nó nằm bất tỉnh trên giường. Nhìn vào gương mặt nhỏ bé nhợt nhạt, mồ hôi chảy từng dòng, người ta có thể đoán được nguồn cơn của cơn sốt đã quật ngã cô bé. Susan kéo mấy tấm chăn ra. Khúc chân ít ỏi còn sót lại của cô bé tím tái, sưng tấy vì bệnh hoại thư. Cô nhắc áo lên và thấy bẹn của bé cũng bị lở loét. Khắp cơ thể đã nhiễm trùng. Từ phía sau lưng cô bé, giọng ông Rolando run run, giải thích rằng vì trận bão hoành hành từ ba ngày nay mà ông đã không thể mang cô bé xuống dưới thung lũng. Ông đã cầu nguyện để nghe thấy tiếng xe tải của cô, và trong đêm tối, ông những tưởng lời khẩn cầu của mình được chấp nhận, và rồi ông đã nhìn thấy ngọn đèn pha của xe lao xuống chiếu sáng vực núi. Dù sao cũng phải cảm ơn Chúa vì Donã đã sống sót. Dù sao đối với con ông cũng đã quá muộn, ông đã cảm nhận điều đó từ hai hôm nay, cô bé không có sức lực để chống chọi với căn bệnh nữa. Những người phụ nữ trong làng thay phiên nhau túc trực cạnh giường cô bé, nhưng từ hôm trước, cô bé đã không mở mắt ra nữa và không thể ăn uống được gì. Ông đã mong có thể cứu được cô bé thêm một lần, ông sẵn sàng cho đi một bên chân của chính mình nếu có thể làn được điều đó. Susan ngồi xuống bên cạnh thân thể nhỏ bé bất động, cô lấy miếng vải đang ngậm trong tô nước, vắt khô rồi dịu dàng chấm những giọt mồ hôi đang rịn ra trên trán cô bé. Cô đặt một nụ hôn lên đôi môi nhỏ và thì thầm vào tai cô bé một chuỗi những lời hỗn độn buột ra khỏi miệng cô
- Chị đây, chị đến để chữa bệnh cho em đây, mọi việc sẽ ổn thôi. Hôm qua ở thung lũng dưới kia, đột nhiên chị nhớ em, muốn gặp em quá, và bây giờ chị đã đây rồi. Khi nào em khỏi bệnh, chị sẽ kể cho em nghe, chị đã trải qua một hành trình gian khổ lắm mới đến được đây...
Susan nằm xuống sát bên cạnh cô bé, lùa những ngón tay vào mài tóc đen dài của em để gỡ những lọn tóc rối và thơm lên gò má nóng hổi của em.
- Chị muốn nói với em là chị yêu em và nhớ em nhiều lắm. Nhiều lắm lắm. Ở dưới kia, lúc nào chị cũng nghĩ đến em. Chị muốn lên đây sớm hơn nhưng không được vì mưa lớn quá. Juan đang ở đây, anh ấy cũng muốn gặp em. Chị muốn đưa em ra bờ biển, chị sẽ dạy em bơi và chúng ta sẽ bơi theo những con sóng. Em chưa bao giờ nhìn thấy gì như vậy đâu, đẹp lắm. Khi mặt trời nhô lên phía trên mặt biển, đại dương giống nhu một tấm gương. Rồi chúng ta sẽ cùng đi thăm khu rừng trải dài xa tít tắp, có những con thú đẹp tuyệt.
Susan ôm chặt lấy cơ thể cô bé trong lòng mình, và cô cảm thấy những nhịp tim cuối cùng trong cơ thể ấy đang tắt dần, ngay cạnh trái tim cô. Đầu cô bé giờ đã trở nên nặng trĩu, cô đưa tay nâng lấy và ép sát vào ngực mình rồi bắt đầu hát khe khẽ. Cô cứ hát ru mãi như vậy cho đến khi ngày tàn hẳn. Tối đến, Juan lại gần và quỳ xuống bên cạnh cô.
- Đã đến lúc phải xa cô bé rồi, chúng ta sẽ phủ mặt em lại để em có thể lên được thiên đàng.
Susan không nói nữa. Ánh mắt trống rỗng vô hồn, cô nhìn chăm chăn lên trần nhà. Juan phải nâng cô dậy và đỡ ngang vai cô. Cậu đưa cô ra ngoài. Khi đi ra đến cửa, cô quay người lại. Một người phụ nữ đã đắp kín cơ thể của cô bé lại. Susan thả mình trượt xuống dọc theo tường, Juan ngồi cạnh cô, cậu chân một điếu thuốc lá và đưa đến miệng cô. Cô ho một chặp sau khi rít hơi đầu tiên. Họ cứ như vậy, nhìn chăm chăm lên những vì sao trên bầu trời.
- Cậu có nghĩ là cô bé đã ở trên đó rồi không?
- Có.
- Lẽ ra tôi phải đến sớm hơn.
- Bởi vì cô nghĩ rằng cô sẽ thay đổi được điều gì sao? Cô không hiểu gì hết về ý muốn của Chúa. Hai lần Người đã gọi cô bé về với Người, cả hai lần con người đã chống lại ý muốn của Chúa : Alvarez đã cứu cô bé khỏi cơn thác bùn, và sau đó,cô đã mang cô bé về để phẫu thuật cho bé. Nhưng bàn tay của Người bao giờ cũng có quyền năng hơn. Người muốn cô bé ở bên Người.
Những giọt nước mắt to lăn dài trên gò má Susan. Cơn tức giận và nỗi đau đớn khiến cho lòng cô quặn lại. Rolando Alvarez bước ra khỏi căn nhà và tiến lại phía họ. Ông ngồi xuống cạnh cô. Cô cúi xuống giấu mặt mình vào giữa hai đầu gối và không thể kiềm chế được cơn giận dữ của mình nữa:
- Phải đi đến cầu nguyện nơi nhà thờ nào đây để trẻ con không còn phải chịu những nỗi thống khổ, và, nếu chúng phải chết, còn ai là người vô tội trên cái hành tinh đầy rẫy những điều ngu xuẩn này?
Alvarez đứng bật dậy và nhìn Susan với một ánh mắt kiêu hãnh. Bằng môt giọng mạnh mẽ và kiên quyết, ông nói với cô rằng Chúa không thể ở khắp mọi nơi, rằng Người không thể cứu tất cả mọi người. Còn đối với Susan, vị Chúa đó đã hoàn toàn quên không ngó ngàng gì đến đất nước Honduras này từ lâu rồi.
- Cô hãy đứng dậy và đừng có than vãn cho chính mình nữa, ông tiếp tục. Có hàng trăm đứa trẻ bị chôn vào đất nơi vùng thung lũng này. Đây chỉ là một đứa trẻ mồ côi đã cụt mất một chân. Nó sẽ hanh phúc bên cha mẹ nó hơn ở đây. Cô còn phải biết khiêm tốn, nhẫn nhục hơn để có thể hiểu được điều đó. Nỗi đau này không thuộc về cô, và đất đai của chúng tôi đã chứa quá nhiều nước rồi, đừng đổ thêm những giọt nước mắt của cô nữa. Nếu như cô không dằn lòng được, hãy đi về đi!
Nói đoạn, người đàn ông với dáng vẻ uy nghi quay gót và biến mất nơi góc đường. Juan để mặc Susan với sự im lặng của cô. Đi theo hướng Alvarez đã đi, cậu tìm thấy ông đang dựa vào một bức tường đắp bằng đất. Ông đang khóc.
Tiếp đó là một mùa xuân tang tóc trôi qua theo nhịp của những lá thư mà hai người gửi cho nhau. Trên đường đi của mình, hẳn chúng gặp nhau đâu đó trên bầu trời Trung Mỹ.
Tháng Ba, Philip thổ lộ với Susan nỗi lo lắng của anh khi các tờ báo của New York đăng tin về những nguyên nhân và hậu quả của lệnh giới nghiêm đưa ra tại Nicaragua, nơi mà theo anh, biên giới quá gần với chỗ cô đang sống. Cô trả lời anh rằng thung lũng Sula cách xa với tất cả. Mỗi lá thư của Philip đều kết thúc bằng một câu hay mô từ nói về sự vắng mặt của cô và nỗi đau mà nó gây ra cho anh; mỗi lá thư trả lời của Susan lại là một lần lẩn tránh chủ đề này. Philip làm việc cho một hãng quảng cáo đặt tại đại lộ Madison. Mỗi sáng, sau khi đi bộ băng qua khu SoHo, anh lên chuyến xe bus của mình và nửa tiếng sau đã có mặt tại văn phòng. Suốt nửa tháng nay, cả ekip của anh như đang lên cơn sốt từ khi bắt đầu cuộc tranh đua giành hợp đồng làm chiến dịch quảng cáo truyền thông cho hãng Ralp Lauren. Nếu ekip của anh chiến thắng, sự nghiệp của anh sẽ bắt đầu, đây là lần đầu tiên anh thử sức trong vài trò sáng tạo, và,hàng ngày, trong khi cặm cụi trên bàn vẽ, anh đã mơ tưởng đến ngày anh sẽ quản lý cả bộ phận. Như bao lần khác, anh lao đầu tập trung hoàn toàn vào công việc để rồi nộp bản vẽ phác thảo của anh gần như trước cả khi chúng được đặt hàng.
Sau lần chạy trốn khỏi nhà anh lúc rạng sáng ngày đầu năm mới, Mary đã gọi lại cho anh và từ đó, họ gặp nhau đều đặn mỗi tuần hai lần tại góc phố Prince và Mercer, cùng đi ăn tối tại nhà hàng Fanelli s, nơi có thực đơn vừa túi tiền của họ. Lấy cớ cung cấp cho cô những chủ đề thú vị mà cô có thể sử dụng để viết báo, anh thường xuyên nói cới cô về Susan, và hay phóng đại những câu chuyện cô kể cho anh trong thư để chúng thêm phần hấp dẫn. Buổi tối tiếp tục trong không gian đầy khói thuốc và ồn ào của quán. Đến khi đang nói dở một câu, anh thấy hai mí mắt cô đã nặng, anh liền tính tiền và cùng đi bộ tiễn cô về.
Từ khoảng thời gian cuối tháng Ba này, họ bắt đầu cảm thấy lúng túng khi nói tạm biệt. Hai mái đầu họ sát gần lại, nhưng vào khoảng khắc hứa hẹn một nụ hôn, Mary lại kín đáo lùi lại rồi biến mất hút trong bóng tối âm u lối vào khu chung cư nơi cô ở. Thế là,Philip lại thọc sâu hai tay trong túi áo choàng và trở về nhà, vừa đi vừa suy nghĩ về số phận của mối quan hệ đang được hình thành giữa cô phóng viên thực tập và anh hoạ sĩ thiết kế quảng cáo.
Ngoài đường trang phục của giới nữ báo hiệu đang độ giữa xuân. Philip không hề sống thời khắc những mầm non nẩy lộc của tháng Tư, cũng không để ý đến những chiếc lá rụng vào tháng Sáu, chừng nào còn dồn hết tâm trí vào công việc. Ngày 14 tháng Bảy, sét đánh trúng vào hai nhà máy điện của New York, khiến cho cả thành phố chìm ngập trong bóng tối trong suốt 24 giờ đồng hồ. "Sự cố lớn" được đăng trên trang nhất của tất cả các tờ báo trên thế giới, làm tăng vọt tỉ lệ sinh nở chín tháng sau đó, riêng Philip vẫn ở nhà một mình miệt mài ngồi vẽ suốt đêm với ba ngọn nến đặt trên bàn.
Giữa tháng Tám, Mary vừa trải qua một tuần nghỉ ngơi vui chơi tại nhà các bạn cô ở vùng Hamptons. Ngày hôm sau, cô bắt đầu ngày làm việc đầu tiên của mình với tư cách phóng viên hợp đồng tại toà soạn báo Cosmopolitan.
Chiếc phi cơ của Susan vừa rời trạm quá cảnh sân bay Miami. Tại sân bay Newark, nhà ga sân bay đang tạm đóng cửa để sửa chữa. Philip ra tận hành lang lên máy bay để đón cô. Cũng chỉ một lần này thôi. Cô đặt túi hành lý xuống đấy và lao vào vòng tay anh. Họ cứ đứng như vậy thật lâu, ôm chặt lấy nhau. Anh nắm tay cô, cầm lấy chiếc ba lô nhỏ và kéo cô về phía quán bar.
- Lỡ bàn của chúng ta có người ngồi rồi thì sao?
- Anh đã lo trước rồi!
- Dừng lại đã nào, để em ngắm anh chút đã. Anh trông già đi đấy!
- Cảm ơn em, thật tử tế.
- Không, em thấy trông anh như thế này rất đẹp.
Những ngón tay của cô vuốt dọc hai bên má anh, cô mỉm cười âu yếm nhìn anh và kéo tay anh về nơi đã trở thành một chốn đặc biệt của riêng họ. Cô trông thật rạng rỡ dù còn mệt mỏi sau chuyến đi. Anh hỏi cô thật lâu, thật kỹ về những gì cô đã sống trong năm vừa qua, như thể để xoá đi mọi dấu vết của những giây phút cuối cùng trong lần gặp nhau trước của họ, cô không nói gì về mùa đông cô vừa trải qua. Trong khi cô miêu tả cho anh nghe một ngày bình thường của mình, Philip cầm lấy bút chì và bắt đầu vẽ khuôn mặt cô trong cuốn vở gáy lò xo của anh.
- Thế còn Juan của em, cậu ấy thế nào rồi?
- Em đang tự hỏi khi nào thì anh sẽ nhắc đến chuyện đó. Juan đi rồi. Chỉ có Chúa mới biết liệu em có còn gặp lại cậu ấy hay không.
- Hai người cãi nhau à?
- Không mọi chuyện phức tạp hơn thế. Chúng em đã mất một bé gái, và từ đó, mọi thứ không còn như trước nữa; có một điều gì đó đã vỡ và chúng em đã không thể hàn gắn lại. Có những lúc em và cậu ấy đã ngồi nhìn nhau trừng trừng hàng giờ, như thể cả em và cậu ấy đều có lỗi trong cái chết của cô bé.
- Đêm đó có chuyện gì đã xảy ra?
- Trời mưa, đường đi bị sạt lở khỏi thành núi, em đã suýt làm hại cậu ấy.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 3 (C)
Cô không kể cho anh nghe thêm gì khác. Có những câu chuyện chỉ thuộc về những người gặp nạn, và sự kín đáo của những người cứu hộ giúp cho những bí mật ấy được giữ kín. Đầu tháng Năm, Juan đã đến nhà cô, trên vai vác một túi vải lớn mày xanh lá cây. Cô hỏi có phải cậu định đi đâu không? Cậu nhìn thẳng vào mắt cô đầy kiêu hãnh, thông báo rằng mình sẽ ra đi. Ngay lập tức, cô cảm thấy cô sẽ rất nhớ cậu, giống như cô đã từng đau đớn khi tất cả những người mà cô yêu quý đều lần lượt đột ngột biến mất. Đứng ở bậc thềm ngôi nhà nhỏ khiêm tốn của cô, hai tay chống nạnh như để biểu lộ rõ hơn nỗi tức giận trong lòng, từ phía cao hơn, cô không tiếc lời mạt sát cậu. Juan không hề phản ứng lại, điều đó làm cho nỗi tức giận trong cô cuối cùng cũng dịu xuống. Cô ôm siết lấy cậu trong vòng tay, sau đó chuẩn bị bữa tối cho cậu.
Khi chiếc đĩa cuối cùng được lau khô và xếp vào tủ, cô chùi tay vào quần và quay về phiá cậu. Cậu đã đứng ở giữa căn phòng duy nhất trong nhà, túi hành lý để dưới chân,vẻ mặt tiu nghỉu. Thấy thế, cô mỉm cười và, để cho giây phút chia tay dễ dàng hơn, cô chúc cậu lên đường bình an và mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống. Quên đi trong giây lát sự ngượng ngùng của mình, cậu tiến đến gần bên cô. Cô đưa hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt cậu và đặt môi mình lên môi cậu. Sáng hôm sau, từ rất sớm,cậu đã ra đi, chân bước trên những con đường quê hương, đi về phía một giai đoạn mới của cuộc đời. Những tuần sau đó, Susan đã cố gắng chống lại nỗi buồn xâm chiếm lấy cô khi cánh cửa nhà chỉ mở ra trên nỗi cô đơn của chính mình.
- Em nhớ cậu ấy phải không?
- Juan đã nói đúng, chỉ nên phụ thuộc vào chính mình; những người xung quanh ta đều tự do, và việc gắn kết cuộc đời vào một người nào đó là một điều ngu ngốc, nó chỉ khiến cho ta phải đau đớn.
- Vậy là em sẽ không ở lại! Hay là anh phải hỏi lần này em sẽ ở lại trong bao nhiêu tiếng đồng hồ?
- Philip, đừng bắt đầu như vậy!
- Tại sao? Bởi vì nhìn vào em, anh có thể đoán được điều em còn chưa nói, rằng trong một tiếng nữa, em sẽ lại ra đi, và em sẽ lại phải đặt cuộc đời của mình đằng sau ba dấu chấm lửng cho đến năm sau phải không? Anh biết là em sẽ không ở lại, trời ạ, anh đã chuẩn bị tinh thần bao lần để nghe điều đó từ em. Em sẽ đợi đến bao nhiêu tuổi nữa mới nghĩ đến chúng ta, đến cuộc sống của em, cuộc sống thực sự của một người phụ nữ?
- Em mới hai mươi tư tuổi,em còn nhiều thời gian!
- Điều mà anh đang cố gắng nói cho em hiểu, đó là em đang hi sinh cuộc đời của mình cho rất nhiều người, nhưng em vẫn chỉ có một mình, chẳng có ai trong cuộc đời em, để chăm sóc cho em, bảo vệ em, hay ít ra cũng để làm tình với em mỗi đêm.
- Nhưng anh biết gì về cuộc sống của em nào? Anh thật quá đáng, chắc em có cái vẻ mặt thèm khát của một người đàn bà lâu không được làm tình lắm hả?
Susan hét lên, Philip sững lại trong giây lát. Anh cắn môi, tìm cách nối lại cuộc chuyện trò của họ.
- Đó không phải là điều anh muốn nói và em không cần phải hét lên như vậy đâu, Susan.
- Em gào lên như vậy bởi vì anh đã điếc mất rồi. Em không thể sống vì một ngưồi đàn ông duy nhất, mỗi ngày em đang nuôi ba trăm người như vậy, em không thể có con, em đang cố gắng để cho một trăm mười đứa trẻ được sống sót, chỉ tính riêng trong thung lũng nơi em ở.
- À! Thế là em có thêm mười đứa nữa hả? Lần trước, em mới chỉ có một trăm đứa!
- Không, năm nay, em đã có thêm mười tám đứa nữa, trừ đi tám đứa em đã đem chôn, tổng cộng vẫn còn một trăm mười đứa, nhưng lần này cái hay ho đã giảm đi tám lần, anh vừa lòng chưa! Xung quanh em toàn là những đứa trẻ mồ côi, quỷ tha ma bắt!
- Và bởi vì chúng giống em nên em muốn cứ mãi như chúng. Ý nghĩ trở thành một người mẹ trước khi là một đứa trẻ mồ côi không có chút hấp dẫn nào với em ư?
- Anh say sưa với lối phân tích của anh để rồi nói với em những điều ngu ngốc đó hả? Anh khôg thể hiểu được là cuộc sống mà em đang có quá nguy hiểm hay sao?
Người phục vụ bàn tiến lại gần yêu cầu họ bình tĩnh lại. Anh ta kín đáo nháy mắt với Philip và đặt một ly kem lớn trước mặt Susan. Bằng thứ tiếng vùng Ca-xti chuẩn xác, anh ta nói với cô rằng ly kem này do nhà hàng tặng cô, và rằng có rất nhiều lát hạnh nhân dưới lớp sô-cô-la lỏng. Khi rời khỏi bàn, anh ta lại gật đầu ra hiệu với Philip bấy giờ đang làm vẻ như chưa hề nhìn thấy gì.
- Cái anh chàng phục vụ này, hắn nói với em bằng tiếng Tây Ban Nha như vậy có ý gì chứ? cô hỏi vẻ sững sờ.
- Chẳng có gì cả, anh ta chẳng có ý gì với em hết, mà em nói nhỏ hơn chút được không, quỷ tha ma bắt!
Cô chuyển sang thì thầm cố ý thách thức anh.
- Em sẽ không chấp nhận khả năng bị bỏ rơi một lần nữa đâu, em không có cậu, cũng chẳng có gì để thừa kế nếu lỡ có sự gì xảy ra.
- Em đừng có nhầm lẫn giữa những cái cớ này cớ khác mà em viện ra cho những lý do thực sự, em chỉ làm khổ chính mình thôi! Nếu có chuyện gì không hay xảy ra với em như em nói, anh sẽ luôn ở bên em. Em sợ phải phụ thuộc người khác về mặt tình cảm, nhưng Susan, yêu không phải là từ bỏ tự do của mình, mà là mang đến cho nó một ý nghĩa.
Philip không hề muốn cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của họ lại kết thúc như lần vừa rồi, nhưng anh không tìm được chủ đề nói chuyện nào khác. Bởi vì tâm trí của anh không làm sao giải phóng được những từ ngữ ngổn ngang đang đè nặng lên nó, và vì anh không sao diễn đật cho chính xác thành lời.
- Hơn nữa, đã có chiếc mặt dây chuyền của anh bảo vệ em.
- Anh có một trí nhớ thật khéo chọn lọc khi việc đó có lợi cho anh.
Cô chịu mỉm cười và nhận ra ánh mắt của anh khi cô đưa tay vào dưới lớp áp pull. Cô lấy chiếc mặt dây chuyền nhỏ.
- Anh có muốn vào toilet thay đồ không? cô hỏi vẻ kiêu ngạo, kể cho em nghe về cuộc sống của anh đi?
Đỏ mặt vì bị bắt quả tang khi đang thèm muốn cô, anh kể với cô về những trọng trách được giao phó. Dù chưa hoàn toàn chính thức, nhưng trên thực tế anh đã đứng đầu một nhóm nhỏ, quản lý sáu nguồn kinh phí khác nhau. Nếu mọi việc tiếp tục như thế này, chỉ sau hai năm nữa, anh sẽ trở thành giám đốc bộ phận thiết kế sáng tạo. Ngoài ra anh chẳng có gì đặc biệt kể với cô. Cô không để anh thoát dễ dàng đến thế.
- Thế còn cô bạn gái di xem phim với anh, cô ta chỉ bấu vào tay anh trong khi xem phim kinh dị hay cả bên ngoài phòng chiếu?
- Bộ phim hôm đó hoàn thoàn không phải là một phim kinh dị!
- Thêm một lý do, anh đừng làm điệu bộ nữa, sao rồi, anh và cô ấy đến đâu rồi?
- Chẳng tới đâu hết!
- Nghe này tình yêu bé bỏng của em, trừ khi anh đã bị mất đàn ông tính, anh phải nhận ra là có điều gì đó đang xảy ra trong cuộc đời anh chứ.
Anh phản pháo lại lời khen ngợi của cô. Cô nói là không có thời gian, nhưng chắc hẳn cô đã từng suýt ngã vàovòng tay của người đàn ông nào đó trong những tối vui chơi khởi đầu tại một quán bar, dù chỉ để tìm thấy nơi đó nột chút nhiềm an ủi mà cô đang tìm kiếm. Anh cũng nói đến trạng thái giống hệt như thế để lý giải cho đời sống độc thân của mình. Susan lại tấn công tiếp, dịu dàng hơn, và xoay câu hỏi của mình theo một cách khác. Anh nói đến những buổi đi chơi rất tâm đầu ý hợp với Mary Gautier Thomson, phóng viên tạp chí Cosmopolitan, người mà mỗi tuần ba lần, anh tiễn về đến tận nhà nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra.
- Cô ấy hẳn phải tự hỏi không biết anh có vấn đề gì không.
- Cô ấy cũng vậy, cô ấy không bao giờ chủ động vượt khỏi ranh giới!
- Cô gái này mới thật là cao tay đấy, bởi vì bây giờ chúng ta sẽ là người phải đi bước đầu tiên phải không?
- Em đang đẩy anh vào vòng tay của cô ấy đấy à?
- Em có cảm giác là cũng chằng cần phải đẩy mạnh cho lắm để anh ngã vào cô ấy.
- Như vậy em sẽ hài lòng à?
- Câu hỏi của anh thật kì cục.
- Sự nghi ngờ gặm nhấm con người ta hàng ngày, Susan ạ. Thật là dễ nếu như có ai đó quyết định thay cho mình.
- Nhưng mà quyết định gì cơ chứ?
- Quyết định lấy đi của chúng ta mọi hi vọng.
- Đó là một chủ đề khác, Philip. Để có một câu chuyện, cần phải có những con người phù hợp vào đúng thời điểm phù hợp.
- Thật là dễ biết mấy khi chỉ cần tự nhủ chưa phải là một thời điểm phù hợp, nhưng đó chính là lúc mà số phận buộc chúng ta phải phân định rõ mọi chuyện.
- Anh muốn biết em có nhớ anh không chứ gì? Câu trả lời là có. Thường xuyên không à? Gần như là mọi lúc, chính xác hơn là ngay khi em có thì giờ, và điều này có thể anh thấy rất vô lý, nhưng em cũng chẳng biết rằng chính em vẫn chưa sẵn sàng.
Cô nắm lấy bàn tay anh và áp má mình lên đó, anh mặc cho cô như vậy. Cô nhắm mắt lại và anh có cảm giác như cô sắp sửa ngủ thiếp đi trong khoảng khắc êm đềm này. Anh ước gì nó kéo dài hơn chút nữa, nhưng tiếng nói từ loa nhà ga đã vang lên thông báo đã đến lúc họ phải chia tay. Cô vẫn cứ để cho hàng giây trôi qua, như thể cô không nghe thấy lời thông báo. Khi anh vừa phác một cử chỉ, cô nói với anh rằng cô biết, rằng cô đã nghe thấy. Cô để yên như vậy thêm vài phút, mắt nhắm nghiền, đầu ngả vào cánh tay anh, và bất chợt bằng một cử chỉ dứt khoát, cô đứng bật dậy, mở to mắt. Cả hai cùng đứng lên và anh ôm cô vào lòng, tay còn lại cầm túi hành lý. Trong hành lang dẫn về phía máy bay, cô hôn lên má anh.
- Anh phải tới với cô bạn gái phóng biên tạp chí mốt lừng danh của anh đi!Nếu như cô ấy xứng đáng với anh. Dù sao đi nữa, anh không đáng phải sống một mình mãi như vậy.
- Nhưng mà anh rất thoải mái khi độc thân thế này.
- Thôi đi, em biết anh quá rõ, cái anh đặc biệt sợ là sự cô đơn. Philip, ý nghĩ rằng có anh ở đó chờ đợi em khiến cho em cảm thấy yên tâm, nhưng em không đủ ích kỉ để kham nổi nó. Em, thực không dám chắc rằng một ngày nào đó, em sẽ mong muốn sống cùng với một ai, và dù em biết chắc chắn không một mảy may nghi ngờ rằng nếu điều đó xảy ra, người ấy sẽ là anh, ván cá cược cho tương lai này vẫn là rất bất công. Rồi anh sẽ căm ghét em.
- Em đã xong chưa? Em sẽ lỡ chuyến bay đấy!
Họ bắt đầu chạy về phía cánh cửa,nó đang khép lại quá nhanh.
- Hơn nữa, một chút tình cảm thoáng qua cũng chẳng có hại gì cho anh cả!
- Ai nói với em nó sẽ chỉ là một tình cảm thoáng qua?
Cô chìa ngón tay út ra và với một dáng điệu ranh mãnh, cô nhìn chăm chăm vào ngón tay:"Nó!" (Người Pháp có câu thành ngữ " Ngón tay út đã nói cho tôi nghe rồi"). Cô nhào tới ôm lấy cổ anh, hôn vào gáy anh rồi chạy vụt về phiá hành lang dẫn ra máy bay. Cô quay đầu lại lần cuối cùng và gửi cho anh một nụ hôn. Khi cô khuất hẳn, anh thì thầm :" Ba chấm lửng cho đến năm sau."
Về đến nhà, anh quyết định sẽ không để mình đắm chìm vào nỗi buồn của những ngày sau khi cô đi. Anh nhắc điện thoại lên và yêu cầu cô tiếp tân nối máy cho anh nói chuyện với Mary Gautier Thomson.
Họ gặp lại nhau khi màn đêm buông xuống, tại chân của toà tháp. Ánh sáng đèn lấp lánh bao trùm lên những ngừơi qua đường tại Quảng trường Thời Đại những màu sắc kì lạ. Trong rạp chiếu phim đang chìm trong bóng tối của bộ phim Một người đàn và bị ảnh hưởng, anh thoáng chạm nhẹ vào cánh tay cô. Hai tiếng sau, họ cùng thả bộ, đi ngược lên con phố số 42. Đến Đại lộ số 5, anh nắm tay cô và kéo cô băng qua đường trước khi đèn đường giải phóng cho đoàn xe đang đứng chờ. Một chiếc taxi vàng đưa họ về phía khu SoHo. Tại quán Fanelli's, họ cùng chia nhau một đĩa xa- lát, và cùng sôi nổi bàn luận về bộ phim của đạo diễn Cassavetes. Trước cửa ra vào chung cư nơi cô ở, anh tiến đến gần cô và những cái chạm má vô tình làm cho hai đôi môi khe chạm vào nhau, trong những nhịp tim đập dồn.
Trời mưa không ngớt từ nhiều ngày nay. Mỗi tối, những trận gió lốc báo trước những cơn giông sẽ rạch nát bầu trời đêm trong khu thung lũng. Những con đường đất bị những rãnh nước nhỏ xẻ ngang xẻ dọc, nước chảy rỉ rỉ đến tận chân của những căn nhà, xói mòn những nền nhà đắp đất tạm bợ. Nước mưa ngoan cố len lỏi qua các mái nhà, chảy thành dòng dọc theo xà nhà. Tiếng la hét và tiếng cười của lũ trẻ con vẫn gọi Susan là " Maestra"(1) làm thành nhịp điệu của những buổi học hàng sáng cô dạy chúng học trong nhà kho mượn tạm làn trường. Buổi chiều, hầu như bao giờ cô cũng lái chiếc xe Jeep Wagoneer, nó ngoan ngoãn và dễ sử dụng hơn chiếc Dodge già nua nhiều. Nhưng dù sao thì cô cũng vẫn tiếc khi mất chiếc Dodge. Cô đi khắp nơi trong thung lũng, mang đến cho mọi người thuốc men, thực phẩm và đôi khi là cả các giấy tờ hành chính mà cô cẩn thận giúp họ điền. Sau những ngày làm việc vất vả đến sụn lưng, thỉnh thoảng có những tối vui vẻ. Cô đi đến một trong những quán bar trong thung lũng, nơi mà đàn ông đến để uống bia và thứ đặc sản yêu thích của họ, guajo. Mùa đông ở Honduras năm nay đến sớm hơn dự kiến, đi liền với bầu không khí buồn thảm và cuộc chiến chống chọi lại với thiên nhiên bất kham. Để chống lại sự cô đơn của mùa đông, đôi lần Susan lấp đầy ban đêm của mình trong vòng tay của một người đàn ông, và không phải bao giờ cũng với cùng một người.
Ngày 10 tháng Mười một năm 1977,
Susan,
Em là người mà anh muốn chi sẻ tin vui này, chiến dịch quảng cáo lần đầu tiên của anh vừa gặp khách mua. Vài tuần nữa, một trong những dự án của anh sẽ trở thành những tấm áp-phích quảng cáo vĩ đại, dán ở khắp nơi trong thành phố. Đây là chương trình quảng cáo cho bảo tàng Nghệ thuật hiện đại. Khi nào chúng được in ra, anh sẽ gửi cho em bài báo sẽ được đăng trên một tạp chí chuyên ngành, anh vừa ở chỗ phỏng vấn. Lâu lắm rồi anh không nhận được thư của em. Anh biết rằng em rất bận, nhưng anh cũng biết rõ rằng đó không phải là lý do duy nhất của sự im lặng này. Anh thực sự nhớ em, có lẽ anh không nên nói với em điều này, nhưng anh sẽ không chơi với em cái trò chơi ngu ngốc kiểu "theo tình, tình phớt, phớt tình, tình theo".
Anh đã tưởng tượng chuyện anh đến thăm em vào mùa xuân, anh cảm thấy thật có lỗi vì đã không đề nghị với em điều đó sớm hơn. Anh cũng giống như tất cả mọi người, anh ích kỉ. Anh muốn đến để khám phá thế giới của em, để hiểu xem cái gì đã níu giữ em cách xa với cuộc sống của chúng ta, với tất cả những bí mật tuổi thơ mà chúng ta đã có. Thật trớ trêu khi ở nơi đâu cũng in dấu sự vắng bóng của em, anh vẫn thường xuyên hẹn hò với cô bạn mà anh đã kể cho em nghe, mỗi lần tiễn cô ấy về nhà, anh lại cảm thấy rõ rằng mình đang lẩn tránh. Tại sao anh lại nói với em những điều này? Bởi vì anh vẫn còn cái cảm giác rất vô lý là mình đang phản bội một niền hi vọng mà chưa bao giờ anh dám thú nhận. Anh phải dứt ra khỏi cảm giác này. Cũng có thể viết thư cho em là một cách để anh thức tỉnh.
Ngày mai, có thể em sẽ quay lại, nhưng anh muốn mình chưa từng phải chờ đợi em trong suốt thời gian trước đó, chưa từng phải nghe những lời mà em có thể nói với anh hay có thể không cần để ý đến chúng, với một thái độ nhẹ nhàng như một thứ đối trọng với sự vắng mặt của em. Anh sẽ không đến gặp em vào mùa xuân, đó không phải là một ý hay, dù cho anh rất thèm được làm như vậy, anh vẫn nghĩ tốt hơn anh cần phải tạo một khoảng cách với em, và qua khoảng cách giữa nhứng lá thư ít ỏi của em, anh đoán là em cũng đang làm như vậy.
Anh hôn em.
Philip
Tái bút: 7 giờ sáng, khi ngồi uống cà phê, anh đọc lại nhứng gì đã viết cho em hôm qua, anh sẽ để em đọc những dòng chữ mà thường anh sẽ vứt vào thùng rác.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 3 (D)
Như rất nhiều thứ ở xung quanh cô, Susan đang thay đổi. Khu tạm cư đang là nơi trú ngụ của hai trăm gia đình và nhịp sống của tất cả những con ngừơi mà nỗi đau chỉ vừa mới lành sẹo này dần dần đã giống với sinh hoạt của một ngôi làng. Mùa đông năm đó, những lá thư của Philip ngày càng thưa dần, và những câu trả lời cũng trở nên ngày càng khó viết. Susan ăn mừng tiệc đêm Giáng sinh cùng với nhóm làm việc của mình tại một nhà hàng ở Puerto Corres, mọi người đều có mặt đông đủ. Trời đẹp một cách lạ lùng và buổi tiệc chuếnh choáng hơi men kết thúc trên con đê chắn sóng đối diện với biển. Bên thềm năm mới, cả đất nước dường như đã tìm lại được nhịp sống náo nhiệt của mình. Bến cảng đã nhộn nhịp trở lại và từ nhiều tuần nay, màn múa bale của những chiếc cần cẩu xoay vòng phía trên những chiếc xe chở container không lúc nào ngưng. Từ sáng sớm đến chiều tối, bầu trời luôn có bóng máy bay qua lại, chuyên chở nối liền giữa các sân bay với nhau. Nhiều chiếc cầu vẫn chưa được xây lại nhưng người ta hầu như không còn thấy dấu vết của trận bão - hay cũng có thể người ta đã quen thuộc với chúng rồi. Bầu trời đầy sao hứa hẹn một năm mới tốt lành với những mùa gặt bội thu. Tiếng còi hơi rúc lên báo hiệu mưòi hai giờ đêm và con tàu chất đầy chuối chuẩn bị khởi hành đi châu Âu.
Buổi tối đêm giao thừa, Philip đến nhà đón Mary. Họ sẽ đến buổi tiệc do toà soạn báo của cô tổ chức tại tầng thứ ba mươi ba của một toà tháp nằm ngay cạnh toà tháp của tờ New York Times. Dưới lớp áo choàng, cô mặc một cái váy đen dài, cô đã quàng thêm chiếc khăn lụa mỏng. Cả hai người đều trong tâm trạng rất vui vẻ và dù thỉnh thoảng họ vẫn quay đầu lại để thử cố gắng gọi một chiếc taxi, họ biết rằng trong một dịp lễ như tối nay, họ sẽ phải đi bộ đến tận Quảng trường Thời Đại. Đêm đầy sao và êm dịu. Mary mỉm cười im lặng, còn Philip say sưa châm chọc, nói với cô về những mặt trái của nghề làm quảng cáo. Đèn đỏ giữ chân họ lại ở góc đường Phố 15.
- Anh nói nhiều quá phải không?
- Nhìn em có vẻ đang chán sao? cô trả lời.
- Em qúa tử tế, em sẽ không bao giờ tỏ thái độ như vậy. Xin lỗi em, anh đã giữ tất cả những từ ngữ này trong suốt cả tuần, anh đã làm việc rất nhiều, đến nỗi gần như không hề nói chuyện với ai cả.
Họ rẽ một lối đi giữa ba trăm con người đang tập trung tại văn phòng nơi mà buổi tiệc đang đến hồi cao trào. Những món ăn buffet vừa dọn ra đã bị tấn công hết sạch và đội quân những người phục vụ đang nỗ lực tiếp viện đồ ăn. Phần lớn những chiến sĩ mặc đồng phục trắng phải quay lại giữa đường vì khay thức ăn mà họ bưng đã bị cướp phá sạch trước cả khi tới được đến đích. Có muốn nói, nghe hay thậm chí đến cả nhảy, người ta đều không thể làm được vì đám đông quá dày đặc. Hai giờ sau, Mary ra hiệu bằng tay cho Philip trong khi anh đang đứng nói chuyện cách cô vài mét. Tiếng ồn ào hỗn loạn khiến cho anh không thể nghe được một từ nào, nhưng ngón tay trỏ của cô đang chỉ về hướng duy nhất mà anh quan tâm, cửa ra. Anh khẽ gật đầu ra hiệu đã nhận được thông điệp và bắt đầu tìm cách rời khỏi phòng. Mười lăm phút sau, họ gặp lại nhau ở quầy gửi đồ. Cửa vừa đóng lại, không khí đã khác hẳn, sự yên lặng bao trùm khu hành lang chờ thang máy. Trong khi Philip bấm nút và đứng chờ phía trước lớp của đôi bằng đồng của cái thang máy ở chính giữa, Mary lùi ra xa và chầm chậm bước về phía hành lang chắn kính, nơi có thể nhìn toàn cảnh thành phố:
- Cái gì làm cho anh nghĩ rằng chiếc thang máy đó sẽ đến mà không phải là cái bên trái hay bên phải?
- Chẳng có gì cả, chỉ là một thói quen thôi, hơn nữa, đứng giữa, khoảng cách giữa anh và một trong những chiếc cửa sẽ mở ra là ngắn nhất.
Anh vừa dứt lời thì bóng đèn màu xanh lá cây phía trên đầu anh sáng lên, kèm theo một tiếng chuông.
- Em thấy không, anh đã nhắm chính xác!
Mary không phản ứng gì. Cô ép sát trán vào khung cửa kính. Philip để cho thang máy đi qua các tầng khác, đến lượt mình, anh tiến về phiá cửa kính và đứng bên cô. Bây giờ, ánh mắt hướng về phía đường phố bên dưới, cô khẽ len bàn tay mình vào bàn tay anh.
- Một năm tốt lành, cô nói.
- Chúng ta đã chúc nhau điều đó từ suốt nửa giờ nay rồi!
- Em không nói về năm mới. Gần như cùng vào giờ này trong đêm giao thừa năm ngoái, anh đã tìm thấy em, chúng ta đã bơi trong bể người phía dưới kia thay vì đứng ở đây, hầu như đó là chi tiết khác biệt duy nhất. Thực ra, em cũng chẳng có gì để phải kêu ca, dù sao thì từ đó đến nay chúng ta cũng đã lên cao được đến ba mươi tầng lầu!
- Em đang cố nói điều gì vậy?
- Philip, đã một năm nay chúng ta cùng ăn tối ba lần mỗi tuần, từ một năm nay anh kể cho em nghe chuyện của anh và em cũng kể anh nghe chuyện của em, đã bốn mùa qua chúng ta cùng đi dọc những con phố trong khu SoHo, khu Village, khu NoHo, thậm chí một hôm chủ nhật, chúng ta đã đi đến tận TriBeCa. Chúng ta chắc đã mài mòn hết tất cả các băng ghế ở quảng trường Washington, thử tất cả các bữa brunch(1) ở đầu bên kia thành phố, cụng ly trong tất cả các quán bar, và cuối mỗi tối đi chơi, anh đưa em về nhà, với cái nụ cười miễn cưỡng này, vì sẽ bỏ lại em một mình suốt đêm. Và mỗi lần bóng anh khuất hẳn nơi góc đường, lòng em lại quặn lên. Em nghĩ là bây giờ em đã biết rõ đường về rồi và anh có thể để em về nhà một mình.
- Em không muốn chúng ta gặp lại nhau nữa sao?
- Philip, em có tình cảm với anh, anh không thể lờ điều đó đi! Khi nào thì anh sẽ thôi chỉ nghĩ đến mình? Anh là người cần chấm dứt mối quan hệ của chúng ta nếu như nó không thực sự tồn tại, anh không thể giả mù đến mức đó!
- Anh làm em đau lòng ư?
Mary hít một hơi đầy buồng phổi, ngẩng mặt nhìn lên trần nhà, cô khẽ thở dài.
- Không, bây giờ anh mới đáng khiến cho em đau lòng đây, làm ơn gọi lại cho em chiếc thang máy tệ hại này đi!
Bối rối, anh thực hiện theo yêu cầu của cô và cánh cửa lập tức mở ra.
- Cảm ơn Chúa, cô thở dài, em đã gần như hết cả ô-xy rồi!
Cô lao vào thang máy, Philip chặn cửa lại nhưng không biết phải nói gì.
- Để cho em đi, Philip, em vẫn rất thích khi anh tỏ ra ngốc nghếch, nhưng bây giờ, ngốc nghếch của anh trở nên thật tàn nhẫn.
Cô đẩy anh ra sau, hai cánh cửa khép lại. Anh quay trở lại bên khung cửa kính, như để cố nhìn thấy cô đi ra khỏi toà nhà. Anh ngồi xuống bên thành lan can và ngắm nhìn cái tổ kiến đang chuyển động không ngưng ở phía dưới.
Từ hai tuần sau, Susan bắt đầu hẹn hò với anh chàng phụ trách phòng khám bệnh nằm phía sau cảng. Cách ba ngày cô mới gặp anh một lần vì đoạn đường phải đi khá xa, nhưng những buổi tối họ ở bên nhau cũng đủ để hai núm đồng tiền lại xuất hiện trên gương mặt mỗi khi cô hạnh phúc. Cô như được "tiếp ô-xy" khi lên thành phố. Tiếng ồn ào của xe cộ, bụi đường, tiếng còi xe lẫn với tiếng người la hét ngoài phố, tiếng của những thùng hàng được vứt xuống mặt đất, tất cả những sự dư thừa của cuộc sống này khiến cô say sưa, cho cô thoát khỏi trạng thái đờ đẫn của một cơn ác mộng dài. Đầu tháng Hai, cô bỏ rơi anh chàng hậu cần của mình và bắt đầu đi ăn tối cùng một chàng phi công của hãng Hondurian Airlines, mỗi ngày anh nhiều lần lái chiếc máy bay hai động cơ chở hành khách đến Tegucigalpa. Buổi tối, khi anh từ đó bay trở về San Pedro, anh vẫn thường đùa nghịch bay là là sát phía trên làng của cô. Cô liền nhảy lên chiếc xe Jeep phóng đuổi theo, bắt đầu cuộc đua về đích trước máy bay dù biết cầm chắc phần thua.
Chàng đợi cô bên hàng rào chấn song bao quanh khu sân bay, cách thành phố 20 cây số. Với bộ râu quai nón và chiếc áo khoác bằng da, chàng giống với một hình tượng thời những năm năm mươi. Những điều đó không làm cho cô bớt thích chàng, đôi khi cô cảm thấy thật tuyệt khi đuợc mặc sức sống như trong xi-nê.
Sáng sớm, sau khi anh đi làm, cô thường phóng nhanh hết cỡ trên con đường dẫn về làng. Cô thích để mở cửa kính xe và ngửi hít mùi đất ẩm ướt trộn lẫn với hương thơn của những cây thông. Mặt trời nhô lên phía sau cô, và khi cô quay đầu lại trong giây lát để nhìn đám bụi đường cuốn theo bánh xe, cô cảm thấy mình đuợc sống. Khi những chiếc cánh máy bay mầu đỏ và trắng bay qua đến lần thứ hai mươi phía trên đầu cô, và khi chiếc phi cơ chỉ còn lại một đốm nhỏ phía chân trời, cô quay đầu xe và trở về nhà. Bộ phim đã hết.
Philip cầm một bó hoa trên tay, bấm nút hệ thống điện thoại nội bộ. Anh đợi vài giây, ổ khoá cửa kêu một tiếng nhỏ. Ngạc nhiên, anh lên ba tầng gác trên chiếc cầu thang cũ kĩ của khu chung cư. Nền cầu thang kêu cọt kẹt dưới chân anh. Khi anh bấm chuông cửa, cánh cửa cũ kĩ màu xanh da trời mở ra ngay tức thì.
- Em đang đợi anh à?
- Không, vì sao?
- Em thậm chí không hỏi xem ai khi anh bấm chuông ở dưới kia.
- Chẳng có ai ở New York này bấm chuông một hồi ngắn ngủi như anh!
- Em đã nói đúng!
- Về chuyện gì?
- Về điều mà em đã nói với anh hôm trước, anh đúng là một thằng ngốc. Em là một phụ nữ rộng lượng, thông minh, hài hước và xinh đẹp, em làm cho anh hạnh phúc còn anh, anh đúng là đã vừa mù vừa điếc.
- Em chẳng cần đến những lời khen ngợi của anh đâu, Philip!
- Điều mà anh muốn nói với em, đó là không được nói chuyện với em, anh muốn phát điên, không được ăn tối với em, anh chẳng còn thấy ngon miệng nữa, và từ mười lăm ngày nay, anh cứ nhìn chằm chằm vào điện thoại của mình như một thằng ngốc.
- Bởi vì anh đúng là một thằng ngốc!
Anh đang định đáp lại thì cô đã ngắt lời anh bằng cách dịu dàng đặt đôi môi của mình lên miệng anh, và khẽ luồn lưỡi của mình vào giữa hai môi anh. Anh buông rơi bó hoa hồng xuống bậc thềm trước cửa nhà để ôm ghì lấy cô rồi bị cô lôi tuột vào phía trong căn hộ nhỏ.
Khuya hơn một chút trong đêm, Mary thò tay qua cánh cửa hé mở và nhặt lấy nó hoa bị bỏ quên trên tấm thảm chùi chân.
Trường học ngày càng chiếm nhiều thời gian của cô, lớp học của cô hiện tại đang ngày có trung bình sáu mươi ba học trò, số lượng thay đổi tuỳ thuộc vào sự tích cực của nhân viên lo việc lùa lũ trẻ đến trường và vào ý thức chuyên cần của đám học trò. Bọn chúng ở vào khoảng từ sáu đến mười ba tuổi và cô phải chuẩn bị một trong những chương trình học đa dạng nhất để thu hút chúng trở lại trường ngày hôm sau, và hôm sau nữa. Đầu giờ chiều, cô ăn trưa bằng một lát bánh ngô cùng với Sandra, một nhân viên mới đến làm việc vài ngày. Khi đi đón Sandra tại sân bay San Pedro, cô đã cầu mong để Sandra không đến trên chuyến máy bay cánh sơn màu đỏ và trắng. Để cho chắc chắn, cô đợi nhân viên mới ở phía trong khu nhà tạm dùng làm nhà ga sân bay. Chàng phi công mà cô ngại chạm trán chỉ dừng máy bay trong chốc lát và không bao giờ rời khỏi khoang lái.
Sandra trông rất trẻ và đẹp. Chưa có chỗ ở nên cô đến ở tạm nhà Susan vài ngày, hoặc cũng có thể một hay vài tuần... Một buổi sáng, trong khi hai nguời đáng ngồi uống cà phê, Susan nhìn cô gái trẻ từ đầu đến chân với vẻ săm soi.
- Tôi khuyên cô nên ở sạch một chút, nếu không với cái nỏng và ẩm thế này, chằng mấy chốc da cô sẽ mọc đầy mụn!
- Tôi không đổ mồ hôi!
- Ồ, có chứ, cô bạn quý của tôi! Cô sẽ đổ mồi hôi như tất cả mọi người, tin tôi đi. Nhân tiện, cô đến giúp tôi chất hàng lên xe nào! Chúng ta có mười lăm túi bột mì phải phân phát trong chiều nay.
Sandra chùi hai tay vào quần và đi về phía nhà kho. Susan đi sát theo sau. Khi nhìn thấy hai cánh cửa nhà kho để mở toang, cô dấn bước và chạy vượt lên phía trước Sandra. Cô vào nhà kho và nhìn quanh khắp những chiếc giá để hang, điên lên vì tức giận.
- Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt!
- Có chuyện gì vậy? Sandra hỏi.
- Chúng ta bị mất một số bao bột rồi.
- Nhiều không?
- Tôi làm sao biết được, hai mươi, ba mươi bao, phải kiểm kê mới biết được.
- Làm thế có ích gì, nó cũng chẳng giúp ta tìm lại được những bao hang đã mất.
- Nó có ích bởi vì tôi nói với cô như vậy và bởi vì tôi là người phụ trách ở đây. Tôi phải báo cáo về sự việc đã xảy ra. Đã bao nhiêu chuyện thế còn chưa đủ hay sao, đến phát điên lên được!
- Cô bình tĩnh đi, cô có nổi cáu lên như thế cũng chẳng thay đổi được chuyện gì đâu.
- Cô im miệng đi Sandra, ở đây,tôi là người ra lệnh, vì thế, cho đến khi có lệnh mới, cô đừng có mang cái kiểu bình luận như vậy ra nói ở đây rõ chưa.
Sandra chụp lấy vai Susan, ghé sát vào mặt cô. Một đường mạch máu xanh chạy ngang trán Sandra.
- Tôi không thích cái cách cô nói chuyện với tôi, tôi không thích cái kiểu của cô, tôi nghĩ đây là một tổ chức nhân đạo chứ không phải là một trại lính, nếu như cô tự coi mình như một anh binh nhì, hãy tự đi mà đếm mấy cái bao bột của cô đi.
Cô quay gót đi và dù Susan gào lên cách mấy kêu cô quay lại ngay lập tức, cô cũng chẳng mảy may để ý. Vài dân làng đã tập trung lại đứng nhìn, Susan xua xua tay về phía trước như để xua họ đi. Những người đàn ông nhún vai giải tán còn đám phụ nữ nhìn cô ra vẻ không hài lòng. Cô nhấc hai bao lương thực đang còn nằm dưới đất lên và xếp lên giá. Rồi cô lụi hụi tiếp tục làm cả ngày, cho tới khi đêm xuống, cô nén cơn giận và nuốt những giọt nước mắt vào trong. Lưng dựa vào vách, cô cảm nhận được hơi nóng mà bức tường đã hấp thụ trong suốt một ngày đang lan toả đến tận vùng thắt lưng của cô. Cảm giác thật êm dịu. Cô lấy mũi chân vạch mấy chữ cái lên nền đất, một chữ P thật lớn, cô ngồi ngắm trước khi lấy đế giày xoá đi rồi lại viết một chữ J lớn và cô thì thầm : "Tại sao cậu lại đi, Juan?" Khi cô về đến nhà, Sandra đã không còn ở đó.
Ngày 1 tháng Hai năm 1978
Susan,
Một cuộc chiến sôi nổi mà có lẽ em chưa từng thấy bao giờ đang bắt đầu, cuộc chiến của những quả bóng tuyết. Anh biết là em cười vào những trận bão mà người dân ở đây phải chịu, nhưng quả thật trận bão đã tới cách đây ba đêm thật kinh khủng, và suốt mấy ngày nay anh phải chôn chân ở nhà. Cả thành phố hoàn toàn tê liệt, bị phủ dưới một chiếc áo choàng trắng dày đến tận nóc se hơi. Sáng nay, những tia nắng mặt trời đầu tiên đã trở lại. Lũ trẻ con, người lớn, người cao tuổi, tất cả đều đổ ra chơi trên các vỉa hè, đó là lý do có câu mở đầu lá thư này của anh. Có lẽ lát nữa anh sẽ mạo hiểm ra khỏi nhà đi mua thêm lương thực tiếp tế, mặc trời rét như cắt. Nhìn thành phố như thế này thật đẹp! Lâu lắm rồi anh không nhận được thư của em. Khi nào thì em lại về? Liệu lần này em có thể cố gắng thu xếp để ở lại hai hay ba ngày không? Năm mới có vẻ hứa hẹn nhiều điều tốt lành. Ban giám đốc hài lòng về công việc của anh. Em sẽ không nhận ra anh đâu. Hầu như tất cả các tối, hễ không phải làm việc là anh đi chơi cho đến sáng, và rất thường xuyên như thế. Anh cảm thấy kỳ kỳ khi nói với em về chuyện công việc của anh, giống như bỗng chốc, chúng ta bước vào thế giới người lớn mà chưa hề ý thức về sự thay đổi đó. Một ngày không xa, chúng ta sẽ nói chuyện về con cái của chúng ta và chúng ta sẽ nhận ra rằng chính chúng ta đã trở thành những ông bố bà mẹ. Đừng bắt đầu nhăn mặt lại như thế, từ đây anh có thể nhìn thấy em đó! Khi anh nói con cái của chúng ta, đó chỉ là một cách nói thôi, anh không muốn nói con của em hay của anh, đó chỉ là một hình ảnh, anh cũng hoàn toàn có thể viết "những đứa cháu của chúng ta", nhưng hẳn ngay lập tức em sẽ nghĩ rằng không bao giờ em có thể sống đến già, đủ để trở thành bà. Em và những điều cả quyết đầy bi quan của em! Dù có thế nào đi nữa, thời gian ở đây đang trôi với một tốc độ chóng mặt, và anh đang chờ đợi mùa xuân tới, một khoảng thời gian lạc quan hơn khi ngày em trở lại đến gần. Anh hứa với em, năm nay sẽ không có bất cứ cuộc cãi cọ nào nữa, anh sẽ chỉ nghe em nói với anh tất cả những gì em muốn kể cho anh nghe, và chúng ta sẽ cùng chia sẻ với nhau khoảng thời gian quý báu mà mỗi năm anh vẫn chờ đợi như chờ một đêm giáng sinh giữa mùa hè này. Trong khi chờ đến mùa đó, anh gửi đến em cả một trời nụ hôn.
Philip.
Chú thích:
(1) Bữa ăn sáng quá buổi người ta thường dùng khi dậy muộn vào những ngày nghỉ,thay cho cả bữa trưa.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 4
Ngày Lễ tình nhân, Philip chở Mary đến bến xe. Họ lên chếc xe bus tuyến 33 nối liền Montclair với Manhattan bằng một giờ đi xe và xuống xe ở giao lộ giữa đường Grove và Alexander. Đi bộ băng qua thành phố, anh chỉ cho cô những nơi đã gắn bó với tuổi thơ của anh. Khi đi ngang qua ngôi nhà cũ của anh, cô hỏi anh có nhớ bố mẹ không từ khi họ chuyển đến ở California; anh không trả lời. Ở nhà bên cạnh, anh nhìn thấy cửa sổ nơi trước đây là phòng của Susan đang sáng đèn. Có thể một cô bé khác đang ngồi ôn bài.
- Đó là nhà của cô ấy phải không? Mary hỏi.
- Đúng thế, làm sao em đóan được?
- Chỉ cần nhìn theo ánh mắt của anh thôi, anh đã thả hồn đến một nơi rất xa.
- Bởi vì thời đó đã xa lắm rồi.
- Có thể không lâu đến thế, Philip.
- Bây giờ, anh đang sống với hiện tại...
- Quá khứ của anh và cô ấy dầy đặc đến mức em không thể nhìn thấy một tương lai nào giữa chúng ta. Em không mơ tưởng đến một tình yêu hoàn hảo, nhưng em không thể sống ở lối điều kiện, càng không thể sống ở thì quá khứ chưa hoàn thành.(1)
Để kết thức chủ đề này, anh hỏi một ngày nào đó cô có muốn đến sống ở đây không. Cô cười phá lên và trả lời rằng, đổi lại, chỉ khi nào anh cho cô tối thiểu hai đứa con thì có thể cô sẽ đồng ý đến sống ở tỉnh. Từ trên những đỉnh đồi, Philip đáp lại, người ta có thể nhìn thấy thành phố Mahattan chỉ cách đó nửa giờ đi xe hơi. Đối với Mary, nhìn thấy thành phố và sống trong nó là hai chuyện hoàn toàn khác nhau; cô không bỏ công học nghề báo chí để rồi đến sống tại một tỉnh lẻ của nước Mỹ, dù nó có gần với "trái táo vĩ đại"(2) đến thế nào đi nữa. Dù sao thì cũng chưa ai trong số hai người bọn họ đến tuổi về hưu.
- Nhưng ở đây, với cùng số tiền thuê nhà, em có thể có một ngôi nhà với vườn bao quanh, em thở hít không khí trong lành và thậm chí em có thể hàng ngày đi làm tại New York. Ở đây em có tất cả lợi thế, anh nói tiếp.
- Chính xác thì anh đang nói về cái gì vậy, Philip? Một kẻ phục tùng không điều kiện cái gọi là khoảnh khắc hiện tại như anh, vậy mà bây giờ anh lại đang nói đến chuyện xây dựng kế hoạch đấy à?
- Em đừng có giễu cợt anh như thế.
- Anh thiếu óc hài hước, anh làm em buồn cười, có vậy thôi. Chưa bao giờ anh đủ khả năng nói với em xem buổi tối cùng ngày hôm đó, anh và em có ăn tối với nhau không, thế mà bây giờ, anh đang hỏi em có muốn chuyển đến tỉnh sống với anh không. Xin lỗi anh, nhưng quả thật là một bước nhảy ngoạn mục vào khoảng không trống rỗng!
- Chỉ có những kẻ ngu đần mới không bao giờ thay đổi ý kiến.
Họ quay trở xuống khu trung tâm thành phố, anh dẫn cô vào một nhà hàng ăn tối. Khi đã ngồi xuống đối diện với anh, cô cầm lấy tay anh.
- Vậy là anh muốn thay đổi ý kiến à? Mary hỏi.
- Hôm nay là một ngày khá đặc biệt, ngày mà người ta coi như là một ngày hội, em có thể đừng nói đến chủ để này được không?
- Anh nói đúng, Philip, hôm nay là một ngày rất đặc biệt và anh đã dẫn chúng ta đến đứng dưới cửa sổ nhà của người con gái đang ám ảnh cuộc sống của anh.
- Đó là điều em nghĩ hả?
- Không Philip, đó chính là điều mà anh nghĩ!
- Chính em mới là người mà anh đang ở bên tối nay, không phải với cô ấy.
- Còn em thì nghĩ đến những tối sau đó.
Cách đó mười lăm ngày và vài ngàn cây số, một người đàn ông khác và một người phụ nữ khác đang cùng ngồi bên một bàn ăn tối khác. Người ta vẫn chưa tìm ra thủ phạm ăn cắp kho hàng. Hiện giờ, cửa nhà kho bị khoá kĩ bằng một sợi dây xích và một ổ khoá và chỉ mình Susan có chìa khoá. Điều này không tránh khỏi việc gây nên một sự bực bội khó chịu cho nhóm làm việc của cô. Sandra càng ngày càng tỏ ra chống đối cô, cô gái này ra mặt chống lại quyền hành của Susan đến mức cô đã phải doạ sẽ gửi báo cáo về Washington để người ta triệu hồi cô ta về nước. Mélanie, một bác sĩ làm việc tại Puerto Cortes đã làm dịu được phần nào mâu thuẫn và sự căng thẳng ở mỗi người, cuộc sống tại đoàn Peace Corps đang làm nhiệm vụ ở đất nước Honduras dần dần trở lại bình thường. Chỉ trừ Susan. Thomas, anh đội trưởng phụ trách phòng khám bệnh, người từng có quan hệ tình cảm với cô trong một thời gian ngắn đã mời cô đến gặp anh với lý do công việc.
Cô lên thành phố vào cuối ngày và đứng đợi anh ở bên ngoài toà nhà. Cuối cùng anh cũng xuất hiện, cởi chiếc áo blu trắng và ném nó ra phía sau chiếc xe hai cầu. Anh đã đặt bàn trước tại một quán ăn nhỏ cạnh cảng. Họ ngồi vào bàn, gọi hai chai bia trước khi xem thực đơn.
- Mọi chuyện ở chỗ anh thế nào? cô hỏi.
- Như mọi khi, thiếu thốn dụng cụ, thiếu thốn nhân lực, quá tải công việc, ê-kíp mệt mỏi, công việc đơn điệu ngày nào cũng như ngày nào. Còn chỗ em thì sao?
- Em à, em có cái lợi thế hay cũng có thể gọi là bất lợi cũng được là ở chỗ chúng em rất ít người.
- Em có muốn anh gửi người tăng viện cho em không?
- Đề nghị này chẳng logic với câu nói vừa rồi của anh chút nào.
- Em có quyền chán mọi thứ, Susan em có quyền cảm thấy mệt mỏi và em cũng có cả quyền ngưng công việc lại.
- Anh mời em đi ăn tối để nói những điều xuẩn ngốc đó à?
- Trước hết, anh không hề nói là anh sẽ mời em... Tất cả mọi người đều nhận thấy là từ vài tuần nay em không được ổn lắm. Em cáu gắt gây sự với mọi người và theo những gì anh được biết, uy tín của em trước dân làng đang xuống rất thấp. Chúng ta không ở đây để làm mất tình cảm của mọi người, em phải biết kiểm soát mình nhiều hơn.
Người phục vụ mang đến hai đĩa tamal, cô mở mảnh lá chuối và từ từ gạt lớp nứơc sốt bao lấy miếng thịt heo. Vừa rưới nước sốt cay một cách hào phóng vào đĩa của mình, Thomas vừa gọi thêm hai chai Salva Vida, một loại bia của vùng này. Mặt trời đã lặn cách đó hai giờ và ánh trăng trước đêm rằm đang toả xuống cảnh vật xung quanh đẹp một cách lạ kỳ. Cô quay đầu ra để ngắm bóng những chiếc cần cẩu dài phản chiếu dưới nước đang uốn lượn chuyển động theo những làn sóng.
- Với đàn ông các anh, phạm sai lầm là điều không thể chấp nhận!
- Cũng như đối với các bác sĩ thôi, dù là nam giới hay phụ nữ! Em là một mắt xích trong mọt guồng máy, dù em có là người đảm trách vai trò điều khiển guồng máy đó đi nữa; chỉ cần em bứt ra, cả guồng máy sẽ bị khựng lại!
- Đã xảy ra một vụ trộm và điều đó làm em không chịu nổi, em không thể chấp nhận được, chúng ta ở đây để giúp đỡ họ, vậy mà "mấy người đó" lại đi ăn cắp đồ ăn của chính đồng bào mình.
- Susan, anh không thích cái cách em gọi "mấy người đó". Ở nước chúng ta, cũng có những vụ trộm cắp trong các bệnh viện đấy thôi. Và em tưởng là ở chỗ phòng khám bọn anh điều đó không xảy ra à?
Anh cầm lấy khăn định lau tay. Cô cần lấy đầu ngón tay trỏ của anh, đưa lên miệng mình, vừa cắn nhè nhẹ vừa nhìn anh một cách ranh mãnh. Khi ngón tay của Thomas đã sạch, cô mới thả nó ra.
- Đừng có giảng đạo đức cho em nữa, tha cho em đi, cô nói và mỉm cười.
- Em đang thay đổi, Susan.
- Hãy cho em ngủ ở nhà anh tối nay, em không muốn về nhà một mình cả đêm.
Anh tính tiền và bảo cô đứng dậy. Khi hai người rảo bước đi bộ dọc bến cảng, cô quàng tay qua hông anh và ngả đầu lên vai anh.
- Em đang để mình bị nhấn chìm trong cô đơn, và lần đầu tiên trong đời, em có cảm giác mình không thể vượt qua nó nữa.
- Hãy trở về nhà em đi.
- Anh không muốn em ở lại à?
- Anh không nói về tối nay, anh nói về cuộc sống của em, em nên quay về nước.
- Em sẽ không từ bỏ đâu.
- Ra đi không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với một sự từ bỏ, đó cũng có thể là một cách để giữ gìn những gì đã trải qua, nếu người ta đi trước khi quá trễ. Để tay lái cho anh, anh sẽ lái xe.
Động cơ xe nhả ra một luồng khói đen và bắt đầu khởi động. Thomas bật đèn pha, chúng quét lên những bức tường phái trước một đường sáng trắng.
- Em phải thay nhớt cho xe đi, nếu không nó sẽ tiêu mất.
- Anh đừng lo, em đã quen với việc mọi cái xung quanh bị hư hỏng rồi!
Susan nằm ngửa ra ghế, thò hai chân qua cửa, gác lên chiếc kính chiếu hậu. Ngoài tiếng động cơ đang chạy, không khí thật tĩnh lặng. Khi Thomas dừng xe đậu phía trước nhà, Susan vẫn không nhúc nhích.
- Anh có nhớ những giấc mơ đã từng có khi còn nhỏ không? cô hỏi.
- Đến cả những giấc mơ đêm hôm trước anh cũng còn không nhớ nổi nữa, Thomas trả lời.
- Không, em nói về những điều anh mơ ước, rằng khi lớn lên, mình sẽ trở thành như thế nào đó cơ.
- À, có, cái đó thì anh nhớ, anh đã muốn trở thành bác sĩ, và bây giờ thì anh là một người phụ trách hậu cần trong một trạm xá. Như người ta thường nói, trúng vào bia, nhưng không trúng hồng tâm.
- Còn em, em muốn trở thành hoạ sĩ, để vẽ một thế giới đầy màu sắc, Philip thì muốn trở thành một nghệ sĩ sáng tạo trong ngành quảng cáo còn em thì hoạt động trong lĩnh vực nhân đạo. Có lẽ cả hai bọn em đã nhầm lẫn ở đâu đó.
- Đó không phải là lĩnh vực duy nhất mà cả hai đều nhầm lẫn đâu.
- Thế nghĩa là sao?
- Em nói rất nhiều về anh ấy, và mỗi lần em gọi tên anh ta, giọng nói của em đầy nhớ nhung xa vắng, chẳng còn có thể nghi ngờ gì nữa.
- Nghi ngờ gì cơ?
- Những điều nghi ngờ của em! Anh nghĩ rằng em yêu người đàn ông này và điều đó làm cho em hoảng sợ.
- Đi thôi, chúng ta vào nhà anh nào, em bắt đầu thấy lạnh.
- Làm thế nào mà em có thể có đến chừng ấy dũng cảm cho mọi người, và ít đến thế cho chính em?
Sáng sớm cô bước xuống giường không gây một tiếng động và nhẹ nhàng nhón chân rời khỏi nhà.
Tháng Ba trôi qua nhanh như một tia chớp. Buổi tối, sau khi kết thúc công việc văn phòng. Philip đến chỗ Mary. Ngủ ở nhà cô, cả hai tiết kiệm đươc mười phút quý giá cho mỗi buổi sáng. Cuối tuần, hai người đổi qua ngủ trên giường trong căn hộ của anh tại khu SoHo mà họ đã đặt cho một cái tên mới "nhà nghỉ ở nông thôn", và ở đó đến hết tuần. Những ngày đầu tiên của tháng tư run rẩy trong cái lạnh của những cơn gió từ phía bắc thổi xuống, dù vậy chúng cũng không làm ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt của người dân thành phố. Chồi non trên cây vẫn nằm im, chỉ duy nhất những tờ lịch là báo hiệu mùa xuân bắt đầu.
Chẳng mấy chốc, Mary được chính thức tuyển làm phóng viên của tờ tạp chí và cô cho rằng đã đến lúc họ cần có một nơi để dọn đồ đạc về ở chung. Cô dàn nhiều thời gian đọc tất cả các mẩu quảng cảo để tìm một căn hộ cho thuê tại khu Midtown. Ở đó giá thuê nhà rẻ hơn và tiện đường đi làm hơn cho cả hai người.
Phần lớn thời gian Susan ngồi sau tay lái chiếc xe Jeep. Cô đi hết làng này đến làng khác làm nhiệm vụ phân phát hạt giống và nhu yếu phẩm. Đôi khi, con đường dẫn cô đi quá xa nên cô không thể trở về nhà vào buổi tối, và cô bắt đầu có thói quen thực hiện những chuyến đi nhiều ngày, rong ruổi trên con đường đến tận những vùng sâu nhất trong thung lũng. Hai lần cô gặp nhóm quân Sandiniste trốn trong những dãy núi. Chưa bao giờ cô thấy nhóm quân này đi xa khỏi biên giới của nước họ đến thế. Đối với cô, tháng Tư có vẻ như dài vô tận. Ngay cả cơ thể cô cũng để lộ sự mệt mỏi với cuộc sống này. Chứng khỏ ngủ buộc cô phải lao đầu vào những cuộc chơi bời hàng đêm đến rất khuya, và mỗi buổi sáng lại trở nên khó khăn hơn. Một hôm, sau khi đã chất đầy mười bao bột ngô lên chiếc xe hai cần, cô lên đường giữa trời nắng gay gắt để đến thăm ông Alvarez. Đến giũa giờ chiều cô tới nơi. Sau khi đã dỡ hàng xuống, họ cùng ngồi ăn tối trong nhà của ông. Ông nói với cô rằng nhìn cô có vẻ không khoẻ lắm và mời cô đến nghỉ ngơi trên núi vài ngày. Cô hứa sẽ suy nghĩ rồi lên đường trở về nhà vào cuối buổi chiều, từ chối lời mời ngủ lại đêm trong làng. Thấy khó ngủ, cô không dừng lại nhà mà đến thẳng một quán rượu vẫn còn mở cửa vào giờ khuya này.
Cô phủi mạnh chiếc quần jeans vào áo thun khi bước vào quán bar để rũ lớp bụi đường và đất khô bám trên quần áo. Cô gọi một ly rượu mía. Người đàn ông phía sau quầy chộp lấy chai rượi đặt trước mặt cô. Anh ta nhìn cô chăm chăm và đẩy ra phía cô một cái ly bằng thiếc.
- Tôi để cô tự rót nhé. May mà cô vẫn còn bộ ngực và mái tóc dài, nếu không thì người ta đến nhầm tưởng cô đã trở thành đàn ông mất rồi.
- Lời nhận xét sâu xa này có ý gì vậy?
Anh ta nghiêng người về phiá cô nói nhỏ, giọng nói nghiêm trọng nhưng tỏ vẻ thông cảm.
- Cô đi với đàn ông quá thường xuyên hay nói cách khác là quá ít xuất hiện với những người đồng giới với cô, vì thế mọi người ở đây bắt đầu bàn tán về cô.
- Thế những người ở đây họ nói gì?
- Đừng có lên giọng như vậy với tôi, Senorã Blanca! Vì cô nên tôi mới nói thẳng với cô những gì người ta đang xì xào bàn tán sau lưng cô.
- Tất nhiên rồi, bởi vì khi các anh trưng "của quý" của các anh ra trước thiên hạ thì các anh tự coi mình là những kẻ giỏi tán gái, còn khi chúng tôi chỉ cần để lộ ngực một chút thôi thì chúng tôi bị coi là những con điếm. Anh biết không, khi một người đàn ông muốn ngủ với một người phụ nữ, trước tiên phải có một người phụ nữ đã.
- Đừng làm tổn thương đến trái tim của những người phụ nữ trong làng, đó là tất cả những gì tôi đang nói với cô!
- Với rất nhiều người trong số đó, phần nào nhờ có tôi ở đây mà trái tim của họ mới còn đập cho đến ngày hôm nay. Ấy thế mà tôi lại đang làm họ khó chịu cơ đấy!
- Chẳng có ai trong chúng tôi cầu xin sự thương hại của cô, chẳng có ai gọi cô đến để cứu giúp. Nếu cô không muốn ở đây, hãy quay về nhà cô đi. Nhìn cô mà xem, trông cô chẳng ra sao cả. Khi tôi nghĩ đến việc cô là cô giáo gõ đầu trẻ, tôi tự hỏi không biết chúng có thể học được cái gì.
Ông già đang đứng dựa vào quầy ra hiệu để anh ta đừng nói nữa, nhìn vào đôi mắt của Susan là đủ biết anh ta đã quá lời. Anh phục vụ đưa tay chộp lấy chai rượu và cất lên giá; không thèm quay mặt lại, anh ta tuyên bố rằng ly rượu cô uống quán sẽ không tính tiền. Ông già nở một nụ cười thương cảm, hào phóng để lộ hàm rằng đã gãy hết chỉ còn trơ lại mấy cái chân răng, nhưng cô đã quay đi và chạy trốn khỏi quán. Ra đến bên ngoài, cô tựa người vào lan can và nôn ra tất cả những gì đang còn trong bao tử. Cô ngồi xổm xuống để lấy lại hơi. Khi đã ngồi trong xe chạy trên đường về nhà, cô ngửa mặt lên trời như để đếm các vì sao, nhưng đầu óc cô quay cuồng và cô phải dừng xe lại lần nữa. Kiệt sức, cô để mặc cho đôi chân dẫn dắt về đến tận thềm nhà.
Ngày 10 tháng Năm năm 1978,
Philip
Mùa đông này chúng ta đã không viết thư được nhiều cho nhau, có lúc này lúc khác, cũng đã có những khi thật khó khăn. Em muốn biết tin tức về anh, xem cuộc sống của anh ra sao, anh có hạnh phúc không. Tấm áp-phíc quảng cáo của anh treo ở đầu giường em, em nhận ra quanh cảnh Manhattan mà lúc nhỏ chúng ta thường leo lên những đỉnh đồi ở Montclair để nhìn ngắm. Đã có lúc em chìm sâu vào bức tranh ấy đến mức em đã có thể tưởng tượng được một trong số những đốm sang nhỏ ấy là ánh sáng từ cửa sổ của anh. Anh đang ngồi đó làm việc trên một bản vẽ. Anh lùa tay vào mái tóc bù xù như anh vẫn hay làm, và anh gặm đầu bút chì, anh, anh không bao giờ thay đổi. Em rất xúc động khi nhìn thấy hình ảnh của một thời khắc tuổi thơ của chúng ta. Em thật là kỳ lạ. Em nhớ anh và em lại thấy thật khó khăn để thừa nhận điều đó. Anh có nghĩ rằng yêu một người lại có thể khiến cho người ta sợ hãi đến mức chaỵ trốn không? Em có cảm giác mình đang già đi.
Tiếng động quanh nhà khiến cho em thức giấc vào giữa đêm, làm cho em không thể ngủ tiếp được, em cảm thấy nóng rồi lại lạnh trong người, và mỗi buổi sáng em thức dậy trong cảm giác lo âu hồi hộp vì những công việc còn dang dở của ngày hôm trước. Mùa này thời tiết thật êm dịu, em có thể kể cho anh nghe về tất cả những cảnh vật xung quanh, kể cho anh nghe từng giây phút em trải qua mỗi ngày, chỉ cốt để có thể tiếp tục nói với anh về em. Năm nay em sẽ gặp anh sớm hơn, em sẽ về vào giữa tháng Sáu, vô cùng nóng lòng mong gặp lại anh, có một điều rất quan trọng em muốn nói với anh, điều mà em muốn chia sẻ với anh ngay bây giờ và cả về sau. Trong khi chờ đợi, gửi đến anh những cái hôn và sự dịu dàng, hãy để ý chăm sóc cho mình.
Susan.
***
Ngày 2 tháng Sáu,
Susan,
Anh thì nhớ giọng nói của em. Em có còn hay hát như trước không? Bản nhạc trong lá thư của em được viết từ những nốt nhạc hơi buồn. Mùa hè đã đến rồi và những quán cà phê trên vỉa hè luôn kín chỗ. Anh sắp sửa chuyển nhà, anh sẽ chuyển đến ở phía trên thành phố một chút. Đi lại ngoài đường ngày càng khó khăn và chuyển đến nhà mới anh sẽ đi làm gần hơn. Em biết không, ở đây, nửa giờ cũng quý như vàng. Mọi người ai cũng vội vàng đến mức bây giờ, gần như không thể dừng lại khi đang đi trên vỉa hè, vì nếu không em sẽ có nguy cơ bị cả dòng người đang di chuyển đè bẹp. Anh tự hỏi cái dòng người hỗn độn dường như không gì có thể chặn lại này đang chạy về đâu, phải chăng chính em là người có lý khi đến ở nơi đó, nơi mà không khí còn có một mùi hương. Cuộc sống của em hẳn rất đẹp, anh nôn nóng mong sớm được nghe em kể mọi chuyện, anh thì đang bận túi bụi vì công việc muốn báo với em. Điều quan trọng mà em nói trong thư là gì vậy? Anh sẽ đợi em như mọi khi. Hẹn sớm gặp lại em.
Hôn em.
Philip.
Chú thích:
(1)Hai trạng thái của động từ trong ngữ pháp tiếng Pháp.
(2)Tên gọi người Mỹ thường dùng chỉ New York.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top