Chương 64

Thư gửi ánh trăng lòng tôi

---

edit bihyuner. beta bihyuner

Dạo này em khoẻ không? Có nhớ tôi không? Chúng mình hàn huyên vài câu về chuyện thời tiết nhé?

Gần đây tôi vẫn ổn, tôi rất nhớ em, nói chuyện với tôi một lát đi, đừng chỉ nói chuyện thời tiết được không, Tiểu Ý à, tôi nhớ em nhiều lắm.

Tôi vốn tưởng rằng, khu vực gần hồ Baikal sẽ không bị ảnh hưởng bởi khí hậu lục địa. Nhưng khi đến nơi rồi mới có thể cảm nhận rõ ràng, khí hậu miền đông Siberia này quá khắc nghiệt— nhiệt độ mùa hè rất cao, có thể lên tới 40 độ C, nhưng chỉ cần bước qua tháng tám và tháng chín, mùa thu sẽ bị bỏ qua và chuyển thẳng sang mùa đông rét căm căm.

Thời gian vừa rồi tuyết đã rơi, trời ngày càng lạnh. Cái lạnh nơi đây không nơi nào bì nổi, nó không đẹp đẽ và dịu dàng chút nào, là kiểu lạnh khiến người ta không cảm thấy buồn bã nổi, vì cả niềm hy vọng lẫn nỗi sợ hãi đều đã bị đóng băng.

Dần bước vào giai đoạn ngày ngắn đêm dài, hoàng hôn thì buồn chán còn bóng tối cứ như không bao giờ kết thúc, thời gian là một thứ lẽ ra có thể đong đếm chính xác, vậy mà lúc này cũng bị phóng đại và kéo dài đến vô tận.

Khi sự yên tĩnh đạt đến đỉnh điểm, em có thể tưởng tượng ánh trăng giống như con cá hồi trắng Bắc Cực với lớp vây lấp lánh bạc, nó cứ vùng vẫy không biết mệt là gì. Mặt trời, mặt trăng và các vì sao vĩnh hằng, lúc này trở thành những vật sống kiên cường nhất trong thế giới tuyết phủ trắng xoá này.

Những thứ mà tôi vẫn luôn cho rằng mình có thể kiểm soát thật chặt chẽ, lúc này đều đã đi chệch khỏi quỹ đạo. Không chỉ thời gian đang giãy dụa hòng thoát khỏi sự trói buộc trong ý thức chủ quan của tôi, mà ngày cả nỗi nhớ em cũng đã lan tới ranh giới sinh mệnh của tôi.

Em từng nói với tôi rằng, "không có chuyện gì là bắt buộc phải làm hết". Nhưng vì đã quen với nếp sống tuần tự trước đó, tôi không thể thoát khỏi suy nghĩ ép bản thân phải đi đúng phương hướng đã định sẵn. Để rồi khi đến đây, tất cả mọi thứ đều trở nên lệch đường ray, nhưng cái lệch lạc ấy lại là lẽ tất yếu.

Nước Nga rộng lớn, gió xuân không bao giờ thổi tới miền bắc Siberia, bất kể là không gian hay thời gian, chúng đều đang nhấn chìm tôi một cách tàn nhẫn. Tôi bắt đầu mong chờ đến mùa xuân, mong chờ ánh bình minh kết thúc màn đêm dài đằng đẵng đang bao phủ làng Kordivier này, mong chờ đến ngày tôi có thể quay lại quỹ đạo ban đầu, chật vật để được về bên em.

Cho dù lạnh buốt như thế, người dân Haler vẫn vào rừng săn thú, phá băng câu cá. Trước khi khởi hành, tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để hoà nhập với cộng đồng này. Nhưng không ngờ khi đến đây vẫn vấp phải khá nhiều thử thách.

Phán đoán thời tiết để tránh gặp phải bão tuyết khi đang ở ngoài trời là kĩ năng sinh tồn đầu tiền mà chúng tôi học được. Nhưng dù vậy, chúng tôi vẫn chưa thể hoàn toàn thích nghi với cái rét như tra tấn ở đây.

Hai đứa nhóc Tưởng Tân Minh và Hứa Lộ, lúc đầu vì không chịu được lạnh mà ôm nhau khóc lóc. Nhưng đến khi nước mắt cũng đóng băng và trở thành một sự phiền phức, hai cô nhóc lại không dám khóc nữa. Trách không được, trong tiểu thuyết nước Nga luôn so sánh nước mắt với đá quý, ngay cả nỗi bi thương cũng mang theo vẻ đẹp lộng lẫy gắn liền với sự sống. Đại loại là, bọn chúng không thể khóc nổi nữa...

Đông cứng là điều thường thấy ở nơi này, tôi thường xuyên nhìn những bộ phận mất tri giác trên cơ thể mình rồi bật cười. Quá trình lấy lại cảm giác rất đau đớn, còn đau hơn cả việc bị tê buốt, giống như chân và tay không còn là một bộ phận trên cơ thể mình.

Có điều, cũng phải biết ơn quá trình tập thích nghi cực khổ ấy, nhờ có nó mà tôi được trải nghiệm góc nhìn và cảm nhận thế giới bằng các giác quan của người Halemino, rốt cuộc tôi đã thấu hiểu vì sao họ lại coi "thân thể" là một "trạng thái trung gian".

Người Halemino có sự tôn sùng bẩm sinh đối với "thân thể" và "các giác quan". Mỗi khi thợ săn đi tìm thú rừng, bọn họ sẽ vận dụng các giác quan một cách tối đa, đặc biệt là khứu giác. Bọn họ thậm chí còn có thể thông qua mùi hương mà đoán được loài vật ấy là gì, vị trí ở đâu, là con đực hay con cái, là con non hay con già.

Chính vì nguyên nhân này, tôi thường hay có suy nghĩ, nếu như linh hồn thực sự không thể tan biến, liệu kiếp sau tôi còn có cơ hội gặp lại em hay không, nếu được, liệu tôi sẽ cảm thấy vui mừng chứ? Bởi vì những suy nghĩ hoang đường ấy thực sự có thể trở thành hiện thực tại làng Kordivier xa xôi này— cho nên hai chúng ta dù cách xa vạn dặm vẫn có thể dựa vào khứu giác được phóng đại, vượt qua cách trở không gian, ngửi thấy mùi thơm ngọt ngào của quả phật thủ, từ đó cảm nhận được sự tồn tại của đối phương.

Dạo này trong đầu tôi rất hay hiện lên những câu thơ của Pushkin và Akhmatova, tôi cũng hay suy nghĩ miên man rằng, nếu lúc trước tôi quyết định chọn địa điểm nghiên cứu ở phía tây, liệu khung cảnh trước mắt sẽ khớp với những gì được miêu tả trong thơ văn chứ?

Nhưng sống gần hồ Baikal cũng có cái hay của nó, đối với tôi mà nói, thời gian vừa qua không chỉ là một quá trình khảo sát thực địa, mà nó còn lại một cuộc hành trình đi tìm chính mình— tôi bắt đầu tiếp nhận thứ gọi là "chủ nghĩa thị giác" mà trước đây từng có một học giả đề cập tới, nó giúp tôi buông bỏ những chấp niệm một cách nhẹ nhàng. Rồi những vấn đề khiến tôi phải trăn trở đi tìm lời giải bao lâu nay, lúc này cũng dần trở nên mờ nhạt, không còn quan trọng nữa.

Giống như Lỗ Tấn từng nói, "ở nơi xa xôi, vô số con người, đều có mối liên kết với tôi". Bây giờ tôi cảm thấy vạn vật trên đời này, vừa có liên quan đến tôi, vừa chẳng liên quan gì đến tôi. Đáng tiếc nhất là, với khả năng tư duy lúc này của tôi, tôi thực sự không dám định nghĩa những suy nghĩ mơ hồ này có phải là "trung dung*" như người ta thường gọi hay không, nhưng tôi có thể chắc chắn rằng, trên vai gánh vác trách nhiệm nhưng toàn thân lại nhẹ nhõm thoải mái, loại cảm giác này khiến tôi cực kì dễ chịu.

*

Trong dòng chảy lịch sử nhân loại, các triết gia chưa bao giờ ngừng tranh luận về những thứ liên quan đến tín ngưỡng và sự tồn tại. Bọn họ thường nói, "vạn vật đều có linh hồn" là một quan điểm thuộc về tín ngưỡng dân gian, nhưng tôi lại cảm thấy đó là một lối sống.

Nhất là từ khi sống ở miền tây Siberia này, tôi thường sinh ra sự đồng cảm với những thứ phi nhân loại— tôi như hoà mình với tuyết trong rừng rậm, tôi có thể biến thành từng cây tùng, từng con nai; giống như trong thế giới của tôi, em vừa là ánh trăng trên bầu trời, vừa là mặt trời sưởi ấm cho tôi.

Kể từ học lên tiến sĩ, tôi bắt đầu cảm thấy nghiên cứu học thuật vừa là niềm hy vọng vừa là nỗi thất vọng. Bởi vì điều kiện lý tưởng chỉ tồn tại trong một số ít trường hợp, và sau một thời gian dày công nghiên cứu, những kết quả mà chúng ta thu được thường khác xa với những giả thiết ban đầu. Vì vậy, hầu hết chúng ta thường thất vọng nhiều hơn là hy vọng.

Có thể cảm xúc bi quan này của tôi quá mãnh liệt nên nó ảnh hưởng đến cả những học trò mà tôi dẫn dắt. Nhưng tôi thực sự phải cảm thán một câu, hai cô sinh viên này có tính giác ngộ cao hơn tôi rất nhiều.

Trong học viện, các giáo sư khác thường cho rằng tôi quá chiều học trò, thực ra là vì tôi ngại phiền phức, có một số việc nếu giao cho đám sinh viên làm, chẳng thà tôi tự làm cho xong. Có những lúc ngay cả sinh viên cũng khen ngợi tôi, nói rằng tôi có niềm tin vào sức mạnh nữ quyền. Lời khen này, thực sự nghe mà thấy ngại, bởi vì mãi đến bây giờ tôi mới nhận ra, "lòng tin" này của tôi chẳng có giá trị gì, sự lạc quan và kiên cường của hai cô nhóc này đã sớm vượt xa sức tưởng tượng nghèo nàn của tôi.

Ban đầu tôi còn cảm thấy tội nghiệp cho Tưởng Tân Minh và Hứa Lộ vì phải lặn lội tới miền cực Bắc xa xôi lạnh lẽo, nhưng hiện tại thì... nếu công trình nghiên cứu này không có hai cô nhóc ấy, hẳn là sẽ không thể thu được kết quả gì.

Ngay từ ban đầu, công trình nghiên cứu này được đánh giá nằm ở mức độ khó, tiến triển không mấy thuận lợi. Người dân tộc Halemino thế hệ trước, thậm chí cả người Nga cũng bị bọn họ bài xích, bọn họ cảm thấy người ngoại tộc khuyết thiếu bản sắc dân tộc của họ. Bị coi là "những kẻ ngoại lai", đoàn chúng tôi xuất hiện và xâm nhập lãnh thổ của bọn họ, đương nhiên sẽ gặp phải những khó khăn và mâu thuẫn.

Tha hương dị quốc, khí hậu khắc nghiệt, chịu đói chịu khát... quả thực là một cuộc khảo sát mang độ khó âm ty địa phủ.

Rét lạnh còn có thể chịu đựng, chướng ngại ngôn ngữ mới là rào cản lớn nhất.

Rõ ràng trong sách tham khảo và các tài liệu nghiên cứu đều viết rằng, sau những cuộc cách mạng về chính trị và kinh tế, tiếng dân tộc Halemino đã dần mất đi vị thế của mình. Thế nhưng thực tế thì, số lượng người sử dụng ngôn ngữ dân tộc không hề ít, nhất là khi bọn họ đàm phán những thương vụ quan trọng, bọn họ luôn ưu tiên sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình.

Tiếng Anh và tiếng Pháp không thông dụng, tiếng Nga chỉ được sử dụng trong phạm vi nhỏ, việc giao lưu trao đổi trở thành một rào cản to lớn giữa đoàn chúng tôi và người Halemino.

Mọi thứ cứ giậm chân tại chỗ, tôi và giáo sư Sài đều bó tay bất lực.

Nhưng tôi không bao giờ có thể tưởng tượng được rằng, trong lúc tôi đang vắt óc nghĩ cách an ủi hai cô sinh viên kia, bọn họ lại phá lên cười trong vui sướng. Căn nhà gỗ yên tĩnh lập tức tràn ngập tiếng cười của hai cô nàng.

Loài người thật thú vị, hạt giống hy vọng trong lòng mỗi người là một loại mị lực. Rõ ràng phút trước ai cũng đang nghiến răng chịu đựng cơn tê buốt do bị cái lạnh tra tấn, vậy mà giây tiếp theo lại có thể vui cười trò chuyện trên trời dưới biển.

Sau đó, Hứa Lộ là người lập công lớn. Cô nhóc tìm được điểm tương đồng giữa ngôn ngữ của người Yakut và người Halemino. Các kĩ năng, ngữ cảnh, áp lực phải học tập thật nhanh khiến chúng tôi tiến bộ thần tốc và mau chóng thành thạo thứ ngôn ngữ xa lạ này, trong tình cảnh khốn đốn rốt cuộc sinh ra một tia hy vọng.

Rốt cuộc chúng tôi đã giành được sự tín nhiệm của người dân địa phương, được một gia đình thợ săn tiếp đãi— không chỉ là quan hệ chủ khách xã giao mà là hoàn toàn tiếp nhận và hoan nghênh.

Dần dần, chúng tôi cũng học hỏi được một số kỹ năng sinh tồn trong rừng sâu, học được cách săn thú, cách bắt cá, cách chế tác đồ thủ công mỹ nghệ địa phương.

Cuộc sống bắt đầu trở nên bận rộn, mỗi ngày tôi không còn nhiều thời gian để suy ngẫm về những định luật triết học, để tự hỏi thế nào là sự sống, thế nào là cái c.hết, thế nào là giết chóc, thế nào là hy sinh,... Người dân nơi này theo đuổi một loại chủ nghĩa thực dụng vô cùng mộc mạc và chân thật, họ khiến tôi muốn vứt bỏ tất cả những dàn ý phân tích học thuật cũng như lối suy nghĩ lý tính, những gì còn lại trước mắt tôi chỉ là một con cá, một miếng thịt, một chén rượu mà thôi.

Được những cánh rừng bao bọc, tôi cảm thấy rất an toàn. Tôi thấy mình như một loài động vật thực thụ, ẩn náu giữa trời đất bao la, bốn bề đều là nhà, không một chút sợ sệt. Có lẽ loài người vốn nên thuộc về rừng rậm, khi bản năng được kích thích, sự kiên định "luôn hướng về thiên nhiên" mới được sản sinh đúng lúc.

Mặc dù tràn đầy hứng thú với việc nghiên cứu học thuật, tôi cũng không thể không thừa nhận rằng nó là một việc rất buồn tẻ. Tôi từng kể với em rồi, tôi không thể dứt hẳn khỏi lối mòn nghiên cứu định lượng, việc chuyển sang nghiên cứu định tính chẳng qua chỉ là một hình thức giải trí giết thời gian mà thôi, nhưng sự xuất hiện của em khiến tôi ngày càng khao khát hướng đến những phương pháp nghiên cứu dân tộc học.

"Lý giải" là chuyện rất dễ dàng, nhưng "cố gắng lý giải" lại thực khó khăn. Ý thức chủ quan của loài người luôn tạo ra vô số trở ngại trên con đường "lý giải", thế nên chúng ta dễ trở nên lười suy nghĩ. Tôi không biết mình đã may mắn đến nhường nào, có thể gom đủ dũng khí, một lần nữa hoà mình vào đám đông, đi tới chân trời góc bể, thay đổi góc quan sát mới, một lần nữa tìm cách lý giải nhân loại và xã hội sinh tồn của bọn họ. Quá trình này vừa buồn tẻ lại vừa sung sướng.

Từ ngày đầu tiên thu nhận Tưởng Tân Minh, tôi liền nhận ra rằng cô nhóc này phù hợp cho việc nghiên cứu xã hội học hơn tôi. Quả nhiên khi hai cô nhóc Tưởng Tân Minh và Hứa Lộ giải quyết xong khúc mắc logic, quyết định vứt bỏ chủ nghĩa cấu trúc và thảo luận với tôi, ý tưởng của chúng tôi không hẹn mà gặp lại giao nhau tại cùng một điểm.

Đó là một tín hiệu tốt— nó báo hiệu chúng tôi sắp thu được rất nhiều tư liệu có giá trị, báo hiệu chúng tôi sẽ tìm được tiếng nói chung trong quá trình nghiên cứu, báo hiệu kết quả của đề tài này sẽ có tính đột phá... Và quan trọng nhất đó là, nó báo hiệu tôi sẽ sớm được gặp lại em.

Gần đây tôi thường nhớ đến nhân vật Larry, tôi tự hỏi sự huyền bí và tĩnh lặng mà anh ta luôn theo đuổi, rốt cuộc có dáng vẻ như thế nào? Có lẽ cấp ba không phải thời điểm phù hợp để đọc cuốn <*>. Ngày đó tôi thực sự không thể hiểu, vì sao khi bị kìm hãm bởi hai loại gông cùm, chiến tranh và khủng hoảng kinh tế, mô hình tư duy của Larry vẫn không bị đóng khung và công nghiệp hoá?

Mà khi sức khoẻ thể chất bắt đầu trở thành lý do để tôi tự nhìn lại nội tâm mình, tôi mới dần ý thức được rằng, có lẽ sự thay đổi tư duy của mỗi người cũng thay đổi một cách khó lường, giống như những chuyển biến bên ngoài vậy. Tựa như những gì người Halemino thường nói với nhau, trong nhận thức của loài sói, con người mới là giống loài độc ác, tranh cướp đồ ăn của chúng.

Chúng ta sống trong một thế giới sử dụng ngôn ngữ, nơi này ai cũng có quyền phán xét và áp đặt. Bởi vì lạm dụng phép ẩn dụ, cho nên loài người quên mất quy luật phát triển thực sự của vạn vật, nhầm lẫn giữa biểu tượng và bản chất. Trong trạng thái này, có lẽ tự do và mưu cầu đều là xiềng xích trói buộc con người.

Cho nên tôi muốn thử buông bỏ hết chấp niệm.

Nếu cuộc sống của tôi từng chao đảo vì căn bệnh trầm cảm, vậy thì cứ để nó chạy lệch đường ray đi, ngay từ ban đầu, lẽ ra nó không nên chạy theo một đường ray cố định nào đó.

Tôi không biết lý thuyết tâm thần học của các em định nghĩa thế nào là "căn bệnh". Có nhất thiết phải chịu đựng một loại đau đớn nào đó mới được coi là mắc bệnh không? Những chứng bệnh tâm lý có giống một loại virus nào đó không, một khi nhiễm phải sẽ rất khó để loại trừ tận gốc?

Từ khi bị chẩn đoán mắc trầm cảm cho đến nay, nỗi sợ của tôi đối với căn bệnh này như đang giảm đi dần dần, có thể là vì tôi đã quen với nó, cũng có thể là vì nó đã quen với tôi. Tóm lại nó như đã trở thành một người hàng xóm, một người bạn sát vách hay thay đổi cảm xúc, một cái cớ mà tôi thường vin vào mỗi khi muốn trốn tránh điều gì đó.

Mặc dù đã có Tưởng Tân Minh và Văn Việt báo cáo thường xuyên, tôi vẫn muốn chính miệng nói với em rằng, gần đây tôi rất ổn, không còn phát tác cơn trầm cảm, không còn dấu hiệu bệnh trạng, ăn cơm đúng giờ, uống thuốc đủ liều. Em đừng lo lắng nhé, không cần lo lắng về bất cứ điều gì hết, đúng như những gì em từng nói, tôi không có gì đáng lo hết.

Em chỉ cần chăm sóc bản thân thật tốt, nếu có thời gian nhớ về thăm nhà, ăn hộ tôi một bát cháo hầm đông trùng hạ thảo của dì Phương, lâu rồi không được ăn, thỉnh thoảng rất nhớ hương vị ấy.

Tôi thấy hồ Baikal đã đóng băng hoàn toàn rồi, Tân Minh chê mấy đôi giày trượt băng bán trên thị trấn không đẹp, cô nhóc mất nửa tháng năn nỉ Hứa Lộ và giáo sư Sài, rốt cuộc họ mới đồng ý cùng tới thành phố Irkutsk để mua một đôi màu đỏ.

Mua về xong, Tân Minh bày nó ở giữa phòng khách, lau chùi đến bóng loáng, chỉ chờ nhiệt độ xuống thấp thêm một chút nữa, sau đó canh một ngày trời quang mây tạnh để thực hiện mấy hoạt động đổ mồ hôi.

Đôi giày trượt băng màu đỏ kia đẹp phết, không chỉ cô nhóc mà cả tôi và chủ căn nhà gỗ này thỉnh thoảng đi ngang qua cũng phải ngắm nghía một lát, chúng giống như hoa mai nở trong sương, toát lên một sức sống chưa từng có trong mùa đông rét buốt.

Hoá ra cuộc sống cũng có nhiều điều thú vị như vậy, niềm vui và hy vọng cũng dễ dàng xuất hiện như vậy, có lẽ sau khi rời khỏi Siberia, tôi cũng sẽ tĩnh tâm thay đổi góc nhìn, một lần nữa quan sát lại cuộc sống xung quanh.

Tôi bắt đầu nhớ ban công đầy nắng ở nhà mình, nhớ chiếc khăn mặt được phơi nắng thoảng mùi xà phòng và mùi quả phật thủ; nhớ những bộ đồ đi ngủ vừa mặc lên người đã nhăn nhúm; nhớ cả mùa nồm ở Nguyệt Cảng, cả những khi phơi quần áo vài ngày không khô; tôi bắt đầu nhớ cốc cà phê được em pha bằng đường hoa nhài, nhớ những chai bia được em mix cùng soda, nhớ những lọ tương ớt rỗng không vì đã được em tiêu thụ hết, còn có cuốn <Lịch sử triết học phương Tây> mới đọc được một nửa đã bị em lãng quên trên sofa... Những gì tôi nhớ đến, đều có bóng dáng em.

Không biết khi nào em sẽ nhận được bức thư này nhỉ? Liệu hôm đấy trời có đổ mưa không? Hay sẽ là một ngày tuyết rơi trắng xoá? Có khi nào nhiệt độ sẽ đột ngột giảm sâu không?

Ở một nơi như Nguyệt Cảng, nhiệt độ không bao giờ dưới 0 độ ngay cả trong tháng Chạp, liệu em có nhớ đến tôi khi mùa đông đến không?

Hôm nay tuyết lại rơi ở làng Kodivier, buổi tối nhóm thợ săn chắc chắn lại kéo tôi đi uống rượu, tôi đã từ chối nhiều lần lắm rồi, xem ra tối nay khó mà thoát được.

Uống rượu xong bọn họ sẽ hát vang trời đất, đợt trước còn bắt tôi phải lên hát một bài. Không hiểu vì sao, dưới tác động của rượu Vodka và hơi ấm lò sưởi, trong đầu tôi bỗng bật lên một giai điệu, thế nhưng cố mãi mà không nhớ ra lời, vì thế tôi đành vừa bịa vừa hát bằng tiếng Nga pha với tiếng dân tộc Halemino.

Cho đến khi chúng tôi quay về nhà gỗ nhỏ của mình, giáo sư Sài mới hỏi tôi, sao đột nhiên lại hát bài <Đom đóm bay>, ngày xưa khi ru con ngủ bà ấy cũng thường hát bài này.

Nhưng tôi thực sự không có chút kí ức nào, tôi không biết tên bài hát kia, cũng chưa bao giờ tìm nghe, thế nhưng cảm giác giai điệu của nó vô cùng thân thuộc, dường như từng có người hát ru tôi bằng bài hát này. Nếu tôi thực sự đã quên đi điều gì đó, vậy thì người hát bài này cho tôi nghe, chỉ có thể là em. Tiểu Ý à, tôi đoán có đúng không?

Người Halemino luôn háo hức muốn nghe những câu chuyện về tình yêu đôi lứa của nước mình. Tưởng Tân Minh không biết mệt mà dùng thứ ngôn ngữ Halemino chắp vá, thêm mắm dặm muối, soạn ra hàng loạt những câu chuyện về những người xung quanh mình. Hơn nữa trong lúc đi săn, tôi thường bí mật chạy lên trước và xua đuổi mấy con thú nhỏ, tránh để bọn chúng bị thợ săn bắn trúng. Thế rồi nhóm thợ săn về làng và bắt đầu lan truyền một tin đồn, rằng em là một con nai biến thành người, rằng em có khả năng thôi miên thợ săn, giống như truyện thần thoại vậy, qua miệng bọn họ bỗng trở nên thần bí và huyền ảo vô cùng.

Nhưng tôi biết, em chẳng phải thần thoại Hy Lạp, cũng chẳng phải một bài thơ Sonnet, em giống như câu "Chào buổi sáng", "Chúc ngủ ngon" và "Hẹn gặp lại", em là nguồn năng lượng, là sự lãng mạn đơn giản nhất, dễ hiểu nhất.

Mọi việc trước mắt đều thuận lợi, có lẽ không lâu nữa, tôi sẽ được gặp em và nói với em ba câu ấy.

Ngày mai sắp đến rồi, tôi vội vã bước vào mùa đông buồn chán, cũng may còn có em, còn có xuân hạ phương xa đang chờ mong.

Chúc Tiểu Ý bình an hạnh phúc, thuận lợi suôn sẻ!

Đới Lam,

Hạ tuần tháng 10 năm 2023.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top