duy khanh truyen ngan 30/8
Một Đêm Mưa
Font Size: Tác Giả: Tatsuo Nagai
Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:
Hôm mười chín, lúc hai giờ chiều, người ta phát hiện thấy bốn xác chết nằm trên giường trong nhà ông già thất nghiệp Senjô Ôta, sinh sống tại thị trấn Ph. thuộc quận Kanagawa. Người chết là bản thân chủ nhà - Ôta, bảy mươi bảy tuổi; vợ ông ta là bà Hiđê, sáu mươi bảy tuổi; cô con nuôi của hai người là Haruê, năm mươi mốt tuổi, và bà chị vợ chủ nhà - Yuki Hayasi, bảy mươi hai tuổi. Phát hiện ra xác chết, ông Sađayô Umêmôtô, chủ một cửa hàng tạp hóa ở cùng phố, một người bà con của họ, liền đến báo ngay cho cảnh sát biết.
Trong quá trình điều tra, cảnh sát khu vực đã tìm thấy dưới gối ông già Ôta một mẩu giấy nội dung như sau: "Tôi còn nợ năm trăm nghìn yên của cửa hiệu Hôriê ở thành phố Tôkiô, phố Kôênji Nacađôri, phường Sughinami. Hoàn toàn mất hết hy vọng kiếm được việc làm, tôi và gia đình tôi quyết định từ giã cõi đời". Tờ giấy đề ngày mười bốn.
(Các xác chết mãi đến hai giờ chiều ngày mười chín mới được phát hiện).
Dưới gối còn tìm thấy bốn mươi chín nghìn yên dành để chi phí cho việc ma chay cho cả gia đình, và một bức thư nhờ chăm lo giúp việc chôn cất. Trên cơ sở những tang vật trên, cảnh sát đi đến kết luận "đây là một vụ tự sát tập thể có bàn bạc trước, bằng cách uống thuốc độc".
Theo lời khai của ông Umêmôtô, người thu tiền hơi đất trông thấy ngoài cửa chồng báo tích lại từ mấy ngày thì sinh nghi, vội đến báo cho ông ta biết.
Cuộc điều tra tiếp tục ghi nhận rằng Ôta vốn là viên chức một công ty, và có tiếng là một con người rất đứng đắn. Tháng năm năm ngoái, ông có vay của cửa hiệu Hôriê số tiền năm trăm ngàn yên và trả lãi phần trăm đều đặn mỗi tháng hai mươi hai ngàn năm trăm yên. Ngoài ra, để có quyền được vay, ông đã phải đặt cược ngôi nhà, vườn, bàn ghế, đồ đạc và ngay cả súc vật chăn nuôi của mình nữa. Hoàn cảnh sinh sống của gia đình trở nên cực kỳ khó khăn.
Các báo đưa tin: do việc làm ăn bị thua thiệt và lâm vào cảnh túng thiếu cao độ, đêm mười bốn, gia đình nhà ông Ôta đã bàn định trước và tự sát tập thể bằng cách uống thuốc độc, và như vậy là: "bốn con người đã thà chết còn hơn sống trong cái thế giới bất công này".
Các báo còn cho biết, (trong các giấy tờ ông ta để lại người ta tìm thấy bức thư báo hết hạn cho vay và yêu cầu ông tức khắc đến thanh toán khoản nợ năm trăm nghìn yên).
Chuyến tầu rời Tôkiô đi Sênan khởi hành lúc chín giờ tối và chừng một giờ sau, đã đến ga Ph.
Đã ba ngày liền trời mưa tầm tã, hành khách đều mặc áo mưa hoặc che ô. Tại ga Ph, nơi tầu hỏa điện Ênosim nối liền với đường sắt của Nhà nước, đang có đoàn tàu đi Kamakura dừng chân. Nhà ga tồi tàn bé nhỏ, thấp như ta thường thấy ở những đoạn đường chỉ có một tuyến đường. Trong số ít ỏi hành khách đi tàu vào giờ khuya khoắt này có cả ông Ôta. Ông từ Tôkiô về. Ông đi khắp các toa tàu, nhìn vào cửa sổ như có ý tìm ai. Các toa tàu vắng khách, tìm người quen chẳng có khó khăn gì, nhưng người mà ông Ôta tìm lại không có.
Tính thời gian, ông Ôta đoán chị vợ ông là Yuki và cô con nuôi Haruê phải ngồi ở đoàn tàu này, nhưng có lẽ ông nhầm.
Ông Ôta bước xuống tàu, ngồi phịch xuống ghế băng. Cái ghế ướt sũng, chiếc áo mưa của ông dính chặt vào ghế.
"Chờ chuyến sau chăng?" - Ông Ôta nghĩ, nhưng nhìn đồng hồ nhà ga, ông lại đứng dậy. Bây giờ đã gần mười giờ, chuyến tàu sau nửa tiếng nữa mới chạy. Ông cầm ô và cặp tiến lại phía quầy hàng đang chuẩn bị đóng cửa.
- Cô làm ơn cho tôi... - Ông Ôta lúng túng nói, tay chỉ lên giá hàng. - Cho tôi xin chai rượu Xakê chừng hai gô (1). - Hỏi giá xong, ông định mở ví, nhưng sau đó lại rút ở túi áo trong ra một chiếc phong bì, rồi chậm chạp lấy ra một tờ năm mươi nghìn. - Xin lỗi cô, cô có tiền trả lại không? - Người bán hàng, một cô gái kém lịch sự, thái độ khó chịu, lẳng lặng đếm tiền trả lại. - Xin lỗi, - Ông Ôta lại nói, - cô có thể đổi giúp tờ năm trăm yên này thành đồng hào bạc không?
Vừa lúc ấy, tiếng còi báo hiệu tàu khởi hành vang lên.
Ông Ôta lấy những ngón tay cứng queo cố nhặt những đồng tiền bạc bỏ vào ví. Người lái tàu và người bán vé đã vào chỗ, đèn tàu bật sáng, trong ánh đèn, thấp thoáng những hạt mưa nhỏ và mau.
Tuy đã có còi báo khởi hành, ông Ôta vẫn thủng thỉnh đặt chai rượu xakê vào cặp, rồi cài khóa cặp thật cẩn thận.
- Nhanh lên, ông ơi! - người bán vé quát to, nhưng ông Ôta vẫn không chạy nhanh hơn.
Ông đã đi tàu hỏa điện này hơn chục năm nay. Nhưng hôm nay ông ngồi vào chỗ với sự hồi hộp kỳ lạ chưa bao giờ thấy.
- Ông ơi, có phải cái ô này của ông không? - Người trưởng ga đứng ở bậc cửa thò đầu vào trong toa hỏi to.
Qua hai ga thì ông già xuống tàu.
Sau hàng cây rậm rạp thấp thoáng có ánh đèn. Theo con đường mòn hẹp vòng vèo ông Ôta đi về ngôi nhà nằm sâu trong lùm cây.
Đó là một ngôi nhà nhỏ theo kiểu nhà nghỉ mát, có cảm tưởng cả ngôi nhà cùng với hàng rào và cái cổng bằng gỗ kêu ken két dưới sức nặng của những cây to um tùm, lá cây ướt sũng và chìm đắm trong đêm đen. Người thợ vườn rõ ràng đã lâu không nhòm ngó đến khu vườn của Ôta.
Đóng cửa lại, ông Ôta ngẩng đầu nhìn ngọn đèn treo trên cột. Ông đứng lặng, cảm thấy những giọt mưa lạnh chảy trên mặt. Rồi ông chậm rãi theo con đường nhỏ đi qua vườn, khẽ gạt những cành tre năm nay mọc rất rậm làm cản cả lối đi.
- Bố đã về đấy à? - Cô con nuôi của ông là Haruê hồ hởi bước ra đón ông.
- Hai bác cháu về chuyến tàu trước hay sao? - Ông Ôta hỏi.
- Không ạ, về từ chuyến trước nữa, - Haruê đáp rồi quay vào.
Đứng sau Haruê, người đẫy đà to lớn, là Yuki Hayasi, một bà già lưng còng, chị vợ ông Ôta. Bà lão cũng ra đón ông.
- Chúng tôi gặp may, thế là lên ngay tàu Enôsim về, bà nói bằng cái giọng trẻ trung khác thường.
- Thế nào, xem có hay không?
- Ồ, bác thích lắm bố ạ - Haruê đáp.
- Tốt, thế là cuối cùng hai bác cháu đã được giải trí một tý.
Haruê giúp ông lão cởi áo mưa.
- Nhưng bác con bảo mấy cô vũ nữ mông to quá. Bác con ngạc nhiên lắm, bố ạ, - Haruê cười to.
- Mà sao họ kiếm đâu ra nhiều vũ nữ thế kia chứ, - bà lão nói. - Cô nào cô nấy cứ trẻ măng!
Trước đây Haruê làm y tá. Gần đây, cô bị đau tim nặng, cố chữa đủ mọi thứ thuốc mới nhất. Ngay cả khi gia đình lâm vào cảnh phá sản đến nơi, cô vẫn thường xuyên mua thuốc ở hiệu thuốc thị trấn. Vì thế, hãng dược phẩm mới biếu cô hai chiếc vé đi xem biểu diễn ở rạp hát địa phương (ở đây ít khi có biểu diễn), coi đấy như phần thưởng tặng khách hàng thường xuyên của mình. Tối hôm ấy, cô và bà Yuki vừa mới đi xem về.
- Ông đã về đấy à? - Có tiếng bà vợ ông Ôta từ phòng ngủ vọng ra. - Ông về lâu chưa?
- Tôi vừa về thôi, bà nó ạ!
Ông Ôta cởi chiếc kimônô mặc ngoài, đưa cho Haruê.
- Cô mang cái cặp vào trong kia cho thày nhé, - ông lão nói, thò tay vào túi áo trong của chiếc kimônô lúc này đã treo trong tủ, rồi lại tiếp: - Còn đèn thì tắt đi, cô ạ.
Ông Ôta chờ cho Haruê tắt đèn, mới rút trong túi ra chiếc phong bì. Hai người đi vào buồng ăn còn sáng ánh đèn.
Haruê khập khiễng bước theo.
Buồng ăn hẹp mười thước và buồng khách rộng hơn một chút ở cạnh nhau, cửa nhìn ra vườn.
Bà vợ đau ốm của ông Ôta là Hiđê đang ngồi trên giường trong buồng ngủ chải đầu.
Trông thấy thế, Haruê kêu lên:
- Con đã bảo để con vào chải đầu cho mẹ ngay bây giờ mà? Mẹ nhìn kìa, tóc rụng đầy cả gối rồi!
Bà Hiđê trông lại còn bé hơn cả bà chị Yuki, ngay cả cái gương bà vừa đặt sang một bên cũng bé tí xíu.
- Thế nào? Ngồi trong buồng ngủ, nhìn ra phía chồng, bà Hiđê hỏi, - mình đã thu xếp ổn thỏa cả rồi chứ?
- Kể ra thì cũng gọi là ổn...
Ông Ôta đặt chiếc phong bì lên bàn trong buồng ăn, rồi ngồi xuống chiếu.
- Mẹ đưa con cặp tóc nào, - Haruê nói và cầm lấy cái lược. Rồi quay sang bảo ông Ôta: - Hôm nay nhà đun nước tắm. Bố bị ướt hết rồi. Bố đi tắm ngay đi!
- Tắm bây giờ thì nhất rồi. Cả nhà tắm hết rồi chứ?
- Tôi cũng bị ướt như chuột, bà Yuki đáp. - Nên tôi đã tự cho phép mình tắm trước tiên. Dì Hiđê cũng tắm rồi. - - Tắm xong ta uống trà chứ? - bà Yuki đứng trước tủ chè, đối diện với ông Ôta. Bà đi đôi bít tất thô trắng đã cũ.
- Tôi có món này còn cao cấp hơn cả trà kia, -- bỗng ông Ôta sực nhớ. Ông lấy trong cặp chai rượu xakê, đặt lên bàn.
- Đấy, các bà đã thấy tôi mua gì chưa nào? - Khuôn mặt ông thoáng nở nụ cười.
- Ôi! - Bà Yuki reo lên. - Thế này thì quả là ngoài sức tưởng tượng! Hiđê ơi, dì có biết chú ấy mua gì không nào? Rượu xakê cơ nhé!
Ông Ôta rút tiền trong phong bì ra và nói to cho bà Hiđê cũng nghe thấy:
- Chỗ này ít ra tôi cũng có ba mươi sáu nghìn yên.
Haruê cúi xuống nhắc lại cho bà Hiđê nghe rõ số tiền.
- Thôi được, có chừng nào hay chừng nấy, - bà Hiđê nói khẽ, tay sờ sờ trên giường, có lẽ bà định vun tóc rụng. - Cuối cùng thế là cả viên ngọc xanh của chị và ngọc hồng của ông đều mất toi cả.
- Thôi tiếc làm gì, - Haruê bình tĩnh nói. - Đằng nào thì đến bây giờ cũng chẳng còn cơ mà.
- Cô nói đúng, - bà Hiđê đồng ý. - ít ra thì bấy giờ ta cũng trả được tiền lợi tức đất... Thế bây giờ ở nhà còn được bao nhiêu tiền?
- Một tờ mười nghìn yên và một tờ một nghìn yên...
- Có lẽ từng đấy tiền cũng đủ cho chúng ta rồi, - Ông Ôta nói. - Tiền giấy không bảo đảm. Vì thế lúc mua rượu tôi đã nhờ cô bán hàng trả lại cho năm trăm yên bằng bạc. Bạc vẫn là loại tiền ổn định hơn.
Ông Ôta rút trong túi quần ra những đồng tiền bạc và đồng.
- Thôi, mời bố vào tắm đi ạ, - Haruê nói.
- Ừ, phải, - Ông Ôta tán thành. - Không có nước lại nguội hết.
Ông già đi rồi, Haruê cũng đứng dậy.
Khi cô đi, chiếu cũ dưới chân cong lại và bốc lên mùi ẩm ướt.
- Ừ phải, đúng là cái viên ngọc xanh của mình bị mất toi thật...- bà Yuki nói một mình. - Khi bán nó đi...
- Chị ơi? - bà Hiđê từ trong buồng ngủ gọi. Chị dọn chỗ này đi, và mang cái cặp vào đây...
Có tiếng ông Ôta cởi dây lưng trong buồng tắm và cánh cửa buồng tắm đóng sập lại.
- Bác làm gì đấy ạ? - Haruê ngạc nhiên hỏi khi ở bếp quay ra. Bà Yuki đang ngồi trong buồng ăn xếp các đồng tiền bạc và đồng lên bàn - Bác thật chẳng khác gì đứa trẻ, - Haruê cười.
- À, tôi muốn xem đây là những thứ tiền gì, bà lão đáp - Lần đầu tiên tôi được nhìn chúng gần như thế này đấy.
Bà Yuki vẫn tiếp tục xếp cẩn thận thành ba hàng những đồng tiền bạc và đồng, rồi chăm chú nhìn chúng.
- Kể giá mà góp nhặt mãi thành một triệu, rồi mười triệu...- Haruê mỉm cười.
- Ừ, được chứ, - bà già đáp. Vì những đồng tiền này chính là của hãng có hàng triệu, hàng chục triệu đấy!
- Thế thì còn nói làm gì nữa, thế thì tuyệt nhất rồi, - Haruê vừa nói, vừa ngồi xuống bàn. Rồi quay sang bà Hiđê, cô nói:
- Mẹ ơi, tí nữa mẹ cũng sang đây chứ ạ?
Bà Hiđê đeo kính đang đọc các giấy tờ trong cặp ông Ôta.
- Phải, phải! - bà đáp.
- Mẹ lẩn mẩn làm gì ở trong ấy đấy ạ? - Haruê hỏi.
- Hả? - bà Hiđê hỏi lại, bà mắc chứng hơi nặng tai.
- Con hỏi: giấy tờ gì đấy ạ?
- À, đây là bản sao các giấy khai sinh. Ông Ôta ông ấy xin ở tòa thị chính quận Tôkiô mới mang về đấy.
- Hừ...- Haruê đưa mắt nhìn bà Yuki ngồi trước mặt. - Nhà không có chén chính cống để uống rượu xakê. Hay là lấy mấy cái tách kia ạ?
Cô lấy trong tủ chè ra bốn cái tách nhỏ.
- Nhưng cô cần chén uống rượu làm gì? - Bà Yuki không ngẩng đầu hỏi.
- Để uống xakê chứ còn để làm gì ạ?
- À thế thì dùng tách kia cũng được.
- Bác ơi, bác định suốt đời ngắm nghía những đồng tiền này hay sao đấy?
- Đâu nào, tôi đang nghĩ đến chuyện khác, - bà lão ngẩng đầu lên, đáp. - Ngày bán cái nhẫn xanh của tôi, tôi đang còn ở tuổi thanh xuân.
- Từ bao giờ ạ?
- Từ lâu rồi. Năm chục năm về trước.
- Ồ thế thì ngày ấy bác còn trẻ lắm nhỉ?
- Kể ra, tất nhiên nếu không có lý do tôi cũng chẳng chịu bán cái nhẫn ấy đâu. Nhưng vì nó là nhẫn giả.
- Giả hả bác? Nhưng bác trai có bao giờ nói thế đâu ạ?
- Thiếu gì cái ông ấy không nói! ông ấy bảo cái ngọc hồng của cô là giả, còn cái nhẫn xanh của tôi là thật. Ông ấy dốt.
- Nhưng mà những người khác cũng bảo con rằng cái viên ngọc hồng của con là loại nhân tạo.
- Ai nói thế?
- Một chị bạn thân của con cùng làm y tá ở bệnh viện. Chính chị ấy cho con trước khi qua dời.
- Cô suốt đời lo nghĩ, chăm sóc cho người khác, Haruê ạ.
- Vâng, bác nói đúng.
- Đấy, dì Hiđê mà không có cô thì...
- Nhưng ngày còn bé con cũng dễ dãi với mình quá. Người ta đồn đủ thứ chuyện về con với bác trai. Con nhớ có lần suốt ba tháng liền con không về nhà - lúc ấy con giận quá.
- Phải, phải, đó là hồi chúng ta còn ở Ajabu ở Tôkiô.
- Và khi ấy con cũng hãy còn trẻ.
- Mọi người đều bảo cuộc đời trôi nhanh như một giấc mơ. Nhưng không ai biết rõ hơn tôi là giấc mơ ấy ngắn ngủi như thế nào.
- Bác còn khỏe lắm, bác ạ.
- Đúng thế, cả đời tôi chưa phải vào bệnh viện lân nào.
- Bác nghe cũng còn rất tốt. Bác chỉ cần uống thêm ít thuốc thì sức khỏe sẽ hoàn toàn tốt.
- À này, cô đã mang áo tắm vào cho ông lão chưa?
- Con mang vào bây giờ đây. - Haruê đứng dậy, cầm lấy xấp quần áo mới lấy ở hiệu giặt khi đi xem hát về. - Thích quá - Haruê nói, tay giở chiếc áo khoác còn cứng nếp mang cho ông Ôta.
Bà Yuki lại say sưa sáp xếp các đồng tiền bạc và đồng.
- Cơ thể của mình đúng là nhạy với thuốc, - bà nói to một mình.
IV
- Gớm, hôm nay tôi phải chạy mới vất vả làm sao chứ, - Ông Ôta từ buồng tắm bước ra, tay buộc dây lưng áo choàng.
- Chắc ông mệt lắm nhỉ? - Bà Hiđê từ buồng ngủ nhìn ra, hỏi chồng.
- Ấy thế mà không mệt lắm đâu, bà ạ. Thế mới lạ chứ. Ô, mà đã gần mười một giờ rồi kia kìa?
- Đêm qua quá một giờ tôi mới đi nằm, - bà Yuki nói. - Bỗng tôi nghe có tiếng cú kêu.
- Đấy, chị thấy không, chị nghe còn tinh lắm, - bà Hiđê mỉm cười.
Không để ý đến câu chuyện của hai chị em, ông Ôta bước ra thềm, mở cửa kính ra vườn nói.
- Cho nó thoáng một tý.
- Dì Hiđê sợ muỗi vào nên chúng tôi mới đóng kín mít đấy, - bà Yuki nói. - Tạnh mưa rồi hở chú?
- Không, vẫn mưa đấy, bác ạ, thật là tệ hại. Mưa suốt ngày.
- Bác ơi! - Có tiếng Haruê từ trong bếp vọng ra.- Cháu muốn tắm thật nhanh. Bác giúp cháu một tý nhé!
- Thế là mọi việc đã xong xuôi, đâu vào đấy cả, - Ông Ôta nói với vợ, khi trong phòng chỉ còn hai người. Xếp chân vòng tròn, ông ngồi lên giường. - Suốt ngày tôi chỉ lo quên làm một việc gì đó, nhưng sau đó, lên tàu điện ờ Tôkiô, tôi cảm thấy rất yên tâm. Chưa bao giờ như hôm nay, tôi cảm thấy có thể thanh thản nhìn thẳng vào mặt bất kỳ người nào mà không hề sợ hãi. - Ông Ôta nói vừa như cho vợ nghe, vừa như tự nói với mình. - Tuy vậy tôi vẫn thấy hình như tôi còn quên một việc. Có lẽ tôi dã quên một việc. Nhưng tôi hy vọng tôi sẽ được tha thứ.
- Ông có ghé vào bệnh viện thăm ông Yamađa không?
- Mình đoán đúng. Không, không, tôi không quên đâu. Chẳng qua vì tôi không thể đến thăm ông ấy được. Nghe nói ông ấy bị mổ lân thứ hai, nhưng tình hình gay go lắm. Uống một cốc sữa mà mất những tiếng rưỡi đồng hồ. Có lẽ bệnh đã lan sang cuống họng. Tôi thương ông ấy quá nên không dám nhìn ông ta. Tôi nghĩ ông ấy sẽ hiểu và tha thứ cho tôi.
- Ông Yamađa năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
- Tôi không nhớ năm sinh. Chắc khoảng năm bảy, năm tám gì đó. Nhưng chắc chắn là chưa đến sáu mươi.
Ông Yamađa làm cho ông Ôta từ lúc ông trở thành quản lý của nhà máy. Đầu năm nay, người ta phát hiện ra ông ta mắc bệnh ung thư và đưa vào bệnh viện.
Để thay đổi đề tài câu chuyện, ông Ôta cúi xuống thì thào bảo vợ:
- Lúc bác Yuki và Haruê đi xem hát mình ở nhà một mình à? Tội nghiệp.
- Nhưng tôi lại có thể bình tĩnh lau chùi dọn dẹp căn buồng đấy, bà Hiđê đáp.
- Ừ nhỉ, trông sạch bóng thật kia kìa! Thế chắc mình mệt lắm nhỉ?
- Người ta vững vì tinh thần. Cho nên khi cần thiết con người có thể khuất phục ngay cả cơ thể của mình nữa.
- Như hôm qua chúng mình đã thỏa thuận, tôi sẽ không nói gì nữa, nhưng mình có muốn nói gì với tôi lần chót nữa không?
- Cám ơn mình đã chung sống với tôi một cuộc đời dài như thế.
- Chính tôi phải cám ơn mình mới đúng. Tôi không có đủ tài năng và ý chí để tạo ra những điều kiện sống xứng đáng với mình. Mình hãy tha lỗi cho tôi.
- Xin lỗi mình, nhưng hôm qua chúng mình đã thỏa thuận là sẽ không bàn chuyện ấy nữa cơ mà.
- Đời người dài dằng dặc, không biết đó là ba tháng, nửa năm, một năm, hay trăm năm?
- Mình tha lỗi cho tôi, Ôta. - vợ ông ngắt lời - Trong tủ, ở ngăn kéo dưới, có hai đôi bít tất mới của tôi và chị Yuki. Mình lấy ra hộ tôi với.
Từ buồng tắm vọng ra tiếng Haruê và tiếng cười trẻ trung của bà Yuki.
- Bác ạ, có hai bác cháu cháu mới nói thế...
- Nhưng dù sao thì...
Trong ngôi nhà này, giữa đêm khuya, tiếng chuyện trò sôi nổi và nhất là tiếng cười còn rất trẻ của bà lão Yuki nghe thật kỳ lạ.
- Ồ, đã lâu lắm tôi không trông thấy cái hộp này dấy nhé, ông Ôta vừa nói, vừa kéo trong ngăn tủ ra cái hộp gỗ trạm khắc thủ công rất đẹp và hai đôi bít tất, những mặt hàng nổi tiếng của vùng Hakônê. Vừa tìm các thứ trong hộp, ông vừa nói tiếp: - Trong này mình để các loại cúc và các thứ linh tinh khác. Không biết cái vật này bầng kim loại gì nhỉ?
- Ai mà biết được, - bà Hidê đáp, - tôi cứ nhặt nhạnh gom góp những thứ lặt vặt vì nghĩ biết đâu có ngày sẽ có ích.
- Ừ, tất cả đều là quá khứ, quá khứ...- Đẩy ngăn kéo vào, ông Ôta ngồi ngay cạnh tủ, tay quàng lấy đầu gối, nhìn chăm chăm lên ngọn đèn điện. Vừa lúc ấy, bà Yuki bước vào.
- Tôi cũng mặc chiếc áo khoác mới lấy ở hiệu giặt về, dễ chịu quá, - bà vừa nói vừa bước lại tủ.
- Bác với Haruê cười gì mà vui thế? - Ông Ôta hỏi - Chắc có chuyện gì vui lắm phải không?
- Cô Haruê làm điệu bộ bắt chước các vũ nữ, trông buồn cười quá.
- Hiđê, mình cùng đi sang phòng bên đi, - Ông Ôta vừa nói vừa chỉ tay vào buồng khách.
- Vâng. Mình đưa hộ cho chị Yuki hai đôi bít tất này.
- Ồ, cám ơn dì. - Bà Yuki nói và nhận từ tay ông Ôta gói bít tất. Quay sang em gái, bà dịu dàng nói: - Hay là dì cùng đi sang luôn? Nào để tôi giúp một tay. Dì cứ tì hẳn vào vai tôi mà đi.
Ông Ôta mở nút chai, rót đầy tách mình, nhấp nhấp qua, rồi đằng hắng nói:
- Bà ấy chẳng bao giờ tự ra khỏi buồng tắm được.
Bà Hiđê và bà Yuki ngồi xuống bàn. Hai chị em giống nhau như đúc.
- Vẫn chưa tạnh mưa à?
- Chưa, vẫn cứ mưa hoài.
- Nghe thấy không? Đấy là tàu chở hàng đấy, - bà Yuki nói. - Đêm nào nó cũng chạy đúng vào giờ này. Nghe tàu xình xịch là tôi thức giấc.
- Chẳng có gì phải ngạc nhiên, chị ạ. Tai em nghễnh ngãng, vậy mà đêm em cũng còn nghe thấy nữa là.
- Không thể nào tiếp tục sống nổi trong cái nhà này nữa rồi - Ông Ôta nói. - Phải phá nó đi và xây cái nhà mới.
Cả ba người - mỗi người một ý nghĩ, nhìn quanh buồng.
- Lạ thật, chị Yuki và em chẳng còn có bà con thân thích nào nữa.
- Phải, chỉ còn lại có tôi với dì, bà Yuki nói.
- Cuối cùng, tôi đã thoát được hết mọi lo âu vất vả, - ông Ôta nói - Tôi cảm thấy mặc cái áo thơm tho vừa lấy ở hiệu giặt về thật là dễ chịu. Nhưng mà này, gấu áo bị rách rồi.
- Ừ nhỉ, thế mà tôi không để ý, - bà Hiđê nói. - Sao lại đưa cho ông cái áo này?
- Đấy là tại hiệu giặt đấy. Nhưng mặc kệ, mặc nó vẫn tốt chán. Tôi chỉ thấy xấu hổ với các bà, chứ còn người ngoài thì cần quái gì? Mặc như thế trước mặt họ tôi chẳng thấy làm sao hết. Tôi cố tránh làm phiền đến mọi người. Vì thế tôi mới mặc cái áo choàng này...
Ông Ôta cười chua chát.
- Ừ nhưng đem khoe khoang với mọi người để làm gì? - bà Yuki hỏi.
- Cô Haruê nhà mình, nghĩ cho kỹ, quả là một người rất cô đơn, - bà Hiđê nói, mắt ướm nhìn chiếc bàn nhỏ.
Cơn gió thoảng trong đêm nhẹ nhàng đưa đẩy tấm cửa kính trông ra vườn, rồi lặng đi.
- Nào, ta cùng uống một hơi nhé, - Ông Ôta nói, tay cầm chai rượu.
Haruê khập khiễng bước vào phòng khách. Cô đi nhẹ nhàng quá khiến không ai nghe thấy tiếng chân.
Mặt cô trắng bệch như vôi. Có lẽ do vừa tắm rửa xong...Cô mặc chiếc áo choàng tắm sạch.
Bây giờ cả bốn người cùng ngồi xếp chân bằng tròn theo kiểu Nhật Bản, trên chiếu, cạnh cái bàn nhỏ.
- Uống đi, Haruê! - Ông Ôta chìa cho cô chén rượu xakê. Haruê hai tay bưng lấy chén. Tay cô run run, chén rượu sóng sánh. Thở dài nặng nhọc, Haruê lên tiếng.
- Thưa bác, thưa bố, thưa mẹ...
- Ừ, cứ nói đi, sao tự dưng cô lại thôi thế!
- Hôm nay, suốt từ sáng, cả nhà không ai nói một lời về cái chết. Cả con, con cũng cho rằng con đã tỏ ra vững vàng. Nhưng lúc này, cho đến lúc này thì...
Cố ngăn nước mắt đang trào ra, cô không nói thêm được gì nữa, gục đầu xuống bàn khóc nức nở.
Và không còn gì có thể phá tan cảnh yên lặng như tờ đã bao trùm ngôi nhà ông già Senjô Ôta đêm nay.
- o O o -
Ông chủ hiệu tạp hóa Sađayô Umêmôtô được chứng kiến cuộc khám nghiệm điều tra, nói:
- Thực ra, tôi không có họ với gia đình ông Ôta. Khoảng chục năm về trước, ông cụ tôi hầu hạ nhà này. Từ đó tôi vẫn giữ quan hệ thân thuộc với ông Ôta. Trước đây vợ ông ta có điều trị bệnh phổi tại một nhà thương ở Tôkiô, nơi cô Haruê làm hộ lý. Ông bà Ôta liền nhận cô Haruê làm con nuôi.
Thuốc ngủ chắc là do cô Haruê tích trữ dần. Người ta hỏi Haruê có quan hệ lăng nhăng gì với ông Ôta hay không, tôi chịu không trả lời được, vì tôi không biết.
Câu hỏi về quan hệ lăng nhăng chắc là do phóng viên một tờ báo nào đó hỏi. Nhưng đó chỉ là một thói xấu nghề nghiệp của họ. Cánh nhà báo ngày nay thường hay gộp tất cả câu hỏi và câu trả lời thành một mớ và đăng thành bài báo.
1) Gô: đơn vi đo lường bằng khoảng 0,18 lít
Kết Thúc (END)
Xếp Vào Kỷ Niệm
Font Size: Tác Giả: Lê Thị Hoàng Anh
Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:
Thúy đang loay hoay xếp lại chồng sách báo ngổn ngang trên giường thì nàng nghe tiếng con trai gọi:
- Mẹ ơi! Con làm bài toán đố này không được, Mẹ chỉ cho con đi Mẹ!
- Ừ, chờ Mẹ một chút.
Cầm quyển vở của con lên tay, chỉ đọc thoáng qua, Thúy không khỏi cau mày khó chịu khi thấy lối tuyên truyền rẻ tiền của các cấp lãnh đạo ngay cả trong việc giáo dục trẻ con: " Trong một trận đánh, ngày đầu quân ta anh hùng giết được 4 tên lính Ngụy. Ngày thứ hai, giết thêm được 8 tên. Ngày thứ ba, giết được 2 tên. Vậy ba ngày đánh giặc, chiến sĩ ta diệt được bao nhiêu tên lính Ngụy cả thảy?". Thúy thừ người suy nghĩ. Bé Kiệt thấy Mẹ im lặng quá lâu, nó tựa đầu vào bắp vế Mẹ, hỏi khẽ:
- Bộ khó quá, Mẹ cũng không làm được hả mẹ?
Thúy cười buồn vì nàng cũng không biết phải giải thích thế nào với con. Từ biến động Bẩy Lăm, chồng đã theo gia đình di tản,Thúy và hai con còn kẹt lại, lòng Thúy đã nhen nhúm ý nghĩ táo bạo là sẽ tìm đường để dẫn hai con vượt biên; giờ đây thêm một vấn đề con của mình với một trí óc non nớt đang bị đầu độc bởi những tư tưởng hèn hạ thế này thì chuyện lìa bỏ nơi đây chỉ là sớm muộn mà thôi! Nàng chỉ giúp con bằng cách bảo nó viết ngắn gọn:4 + 8 +2 = 14 và cố tình né đi chữ "Lính Ngụy" mà nàng biết chắc con mình khi nộp bài lên cho "giáo viên" chấm sẽ không đạt được điểm cao.
Những đêm thức trắng, ngồi suy nghĩ đủ phương cách hầu kiếm ra tiền để thực hiện một cuộc vượt biên, cứ mỗi ngày nghe tên một người quen ra đi, có người thoát, có người bị bắt lại, có người thì chưa nghe tin gì cả, tức là coi như mất tích, Thúy như ngồi trên lửa. Phương cách nào để tìm cho ra tiền làm lộ phí, ngày càng đi vào ngõ cụt!
Vào một đêm thanh vắng, Thúy đang vặn nho nhỏ chiếc radio cassette để lén nghe những lời ca ngọt ngào của những ca sĩ đã thoát ra nước ngoài mà chế độ mới có lệnh cấm. Tiếng gõ cửa nhè nhẹ khiến Thúy vội vàng tắt máy, nhét vội cái "đài" xuống gầm giường. Tiếng gõ cửa lớn hơn. Nàng lên tiếng:
- Ai đó?
- Tui đây! Mở cửa cho tui "dô" rồi nói "chiện"!
- Nhưng bà là ai?
- Tui là A Múi!
- A Múi là ai, tui đâu có quen!
- Chời ơi! Mở cửa đi mà! Có tin dui!
Thúy yên tâm, mở hé cửa ra nhìn. Một bà xẩm không xấu, không đẹp, mặc chiếc áo hoa nhỏ li ti với quần tây mầu nâu, bà nhìn Thúy một lúc lâu rồi hỏi:
- Cô có phải là Lê Thị Thúy không?
- Dạ, đúng! Mời bà vào nhà. Có gì không bà?
- Có phải cô có hai thằng "con chai"?
Thúy nghi ngờ:
- Có gì nói lẹ lên, hỏi như điều tra, nghe ghê quá!
- Mà có đúng hông đã?
- Thì đúng!
- Ờ, cô có người "dà" đưa "dàng" cho cô đây nè!
À, mà cô cho tôi coi thẻ chứng minh nhân dân đi!
Thúy lặng người, bán tín, bán nghi, chỉ sợ đây là một cái bẫy. Nàng dè dặt:
- Thẻ chứng minh của tôi làm rồi mà công an phường chưa phát, chỉ có giấy tạm đây thôi.
- Ờ thì giấy đó cũng được. Đưa cho tui coi có đúng tên thì tui mới giao "dàng" chớ!
Thúy vẫn cố gắng kiên nhẫn, mặc dù lòng đã tin tưởng không bị lừa gạt đến bảy tám chục phần trăm.
- Không! Tôi không nhận đâu! vì tôi đâu có biết ai gửi cho tôi?
- Chời ơi! "dàng" mà chê! Nè, ông Đỗ ở Mỹ, chịu chưa hả bà?
Giọng của bà ta thay đổi tiếng Bà thay cho tiếng Cô , Thúy nghe và biết bà ta đang giận. Thúy hồi hộp vào trong tủ lấy tờ giấy hộ thân đưa cho bà ta xem. Nàng không quên đưa ta chỉ hai đứa con đang nằm ngủ say trên giường như ngầm cho biết về gia đình của mình.
- Đó! Hai thằng con của tôi!
Bà xẩm rút trong cái bao vải lớn ra một bao vải nhỏ, cầm săm soi kỹ rồi mới giao cho Thúy:
- Nè, đếm cho đủ đi, mười tám cây tất cả!
Thúy run run đón nhận, đặt xuống bàn, đổ ra, hất từng lượng vàng để đếm. Bà xẩm lên tiếng:
- Mở "da" coi cho kỹ đi, tui đưa toàn "dàng" tốt không đó!
Thúy lặng người một lúc mới đếm hết, nàng không dám tin đây là sự thật. Bà đưa cho Thúy quyển sổ và bảo Thúy:
- Ký "dận" vô đây đi!
- Viết gì bây giờ hả Dì?
- Thì ký tên nói mình "dận" đủ mười tám cây!
Thúy răm rắp làm theo. Bà ta thấy xong công việc bèn cáo từ, lúc đó Thúy mới hoảng hốt:
- Mời Dì uống miếng nước rồi đi!
Bà ta lắc đầu từ giã, vội vàng bước đi khiến Thúy áy náy vì sự nghi ngờ lúc ban đầu của mình. Áp bao vàng vào lòng. Thúy nghe mắt cay cay, nàng muốn đánh thức hai con dậy để nói cho chúng nghe là ba còn thương nghĩ đến ba mẹ con mình. Nàng thì thầm với chồng ở nơi xa xôi mịt mùng nào đó:" Bất chấp sống hay chết giữa biển khơi, em nhất định sẽ tìm anh! Đợi em! Chờ em, nghe anh!"
Cuối tháng ba 1979, Thúy theo lời chỉ điểm của một người bạn thân nàng móc mối được với một chuyến đi và tin chắc sẽ tới bến một cách an toàn - Đó là con đường Ra Đi Bán Chính Thức do nhà nước tổ chức.
Ngày hẹn giao nộp vàng, người anh trai của Thúy đã đi thế, anh ngụy trang trong lon nhôm Guigoz đựng cơm và để vài miếng cá kho nằm trên mặt cơm. Trong lòng Thúy lúc nào cũng run sợ, có thể nàng chỉ cần một người nào đó thét lên một câu "Có gì khai thật đi" là nàng sẽ phun ra tất cả không thiếu một chi tiết nào, nhưng lúc nào nàng cũng im lặng, không nói không cười với ai và cũng không dám bước ra khỏi nhà.
Đêm cuối, nàng và hai con tá túc trong nhà người anh để sáng hôm sau ra đi cho được an toàn. Lòng Thúy buồn rười rượi, nàng cứ cầm tay cha già áp lên má mình mà nước mắt tuôn ra, không nói được một lời từ giã vì anh nàng đã dặn:" Ba già rồi, cho ba biết rủi ba lẩm cẩm nói lại với chòm xóm là chết cả lũ đó!" Ba mẹ con ôm nhau ngủ đêm cuối cùng trên đất Sài Gòn, nhưng Thúy không tài nào chợp mắt được. Hai mắt nàng cứ mở thao láo. Thấp thoáng bóng ông anh đứng lấp ló nhìn vào, Thúy nhoẻn miệng cười để anh không ngượng vì Thúy thấy mắt anh long lanh. Thúy tự dặn lòng: "Đến mỹ, bất cứ giá nào em cũng tìm cách cho anh thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng này ". Ba năm anh đi "cải tạo" về, anh đã đi mòn không biết bao nhiêu đôi dép vẫn không tìm được việc làm bởi lý lịch Sĩ Quan Chế Độ Cũ!
Tập trung tại một ngoi chùa Tàu tại Bạc Liêu, đêm đầu tiên Thúy vô cùng vui sướng và tưởng chừng mình chỉ còn gang tấc thôi là đến Mỹ vì đây cũng là nơi tập trung của đám người Hoa cùng cảnh ngộ: Muốn ra khỏi Việt Nam để có một cuộc sống khác ở nước ngoài. Thúy nghĩ chỉ tới khuya là sẽ được gọi lên xe, ra tầu vì tiền vàng đã đóng cho "chính phủ", ba mẹ con nàng mười sáu lượng. Có sự bao che của nhà nước thì cầm chắc cái thắng trong tay! Thế mà...
Đã bốn tuần trôi qua, tiền cầm theo đi đường của ba mẹ con đã gần cạn. Hai hôm nay, hai con còn được ăn cơm để cầm hơi, còn Thúy thì ăn bánh mì không xịt xì dầu, ăn để cốt cầm hơi. Đêm ấy, vừa thiu thiu ngủ thì tiếng la hét ầm ầm cách mùng của ba mẹ con chừng một chiếc chiếu. Đèn bật lên. Một bà xẩm tay túm một thanh niên, tay còn lại đập lia lịa thật mạnh vào mặt cậu ta bà la bài bài:
- Ngộ lang ngủ mà mày dám mò ngộ hả?
Một tay bị nắm quá chặt, tay kia xá lia lịa, chàng thanh niên nói:
- Cháu không phải mò bác đâu! Cháu hết tiền rồi định ăn cắp của bác để ăn chờ ngày đi thôi. Chờ tầu lâu quá cháu hết tiền rồi!
Nghe câu giải thích rõ ràng của cậu ta, bà xẩm dịu bớt, xô hắn ngã sấp xuống nền gạch và bà la lên:
- Cái lồ chó lẻ! Lụng tới tao lần nữa, tao quýnh bỏ mẹ mày!
Tiếng cười xen lẫn tiếng thở dài của mọi người khi vở kịch kết thúc; nhìn mặt mũi chàng thanh niên sưng vù lên, Thúy bặm môi quay đi hướng khác không bật cười nổi. Nàng chạnh nghĩ đến mình mai mốt đây, trong tình trạng này, sẽ biết xoay sở làm sao? Căn phòng này, mỗi ngày bao nhiêu tấn kịch vui buồn diễn ra một cách bất đắc dĩ. Đã có lần chủ tầu cho biết là được công an báo tin rằng vì quốc tế lên án chế độ " nhà nước " phải tạm ngưng, chờ lệnh mới sẽ cho đi ngay. Ai cũng hy vọng có tin ra đi đến một cách bất ngờ, nên không người nào dám rời khỏi ngôi chùa , chỉ ra tiệm mua vài món đồ dùng lặt vặt rồi lại về ngay điểm tập chung!
Hôm sau, mặt cậu thanh niên sưng mọng lên, cậu vừa mượn được ít tiền của bà sư cô người Hoa để làm lộ phí về lại Sài Gòn xin thêm tiền mẹ già ăn chờ ngày đi. Có lẽ ni cô cũng biết chắc chắn tiền tầu chàng ta đóng đủ rồi thì thế nào cũng phải quay trở lại nên mới yên chí mà cho mượn. Nhưng định mệnh thật trớ trêu! Ngay đêm ấy đoàn người đi cùng chuyến với mẹ con Thúy có lệnh rời chỗ đến chỗ mới sẵn sàng lên "con cá lớn ". Tất cả đều vui mừng nhưng không khỏi xót xa cho cậu thanh niên bất hạnh ấy...
Ba ngày vật lộn với tử thần vì biển động bất ngờ, mọi người chen chúc ngồi trong tầu, vừa đói, vừa khát...Những cơn sóng dữ...đập vào hông tầu khiến tầu bị nứt một đường nhỏ, nước từ từ chảy vào khiến cả tàu náo loạn. Nhiều người thay phiên nhau múc nước chuyền lên boong tàu đổ nước ra ngoài trong lúc tiếng cầu kinh vang lên rì rầm trong hầm tầu nhỏ bé, chật chội. Cuối cùng thì tầu của Thúy cũng may mắn gặp được tầu của Mã Lai vớt và cho vào bờ, một hòn đảo nhỏ vô danh.
Đêm đầu tiên kinh hoàng với những lính Mã Lai về việc chúng lục lọi tìm vàng và...tìm gái. Đêm thứ hai, cả hoang đảo chìm đắm trong im lặng nặng nề đến nghẹt cả thở khi những tiếng bước chân của lính Mã nghe xào xạo trong đêm. Bỗng một tiếng thét vang dội cả khu vực. Thì ra một cậu bé bị bò cạp...kẹp! Những ngày đói khát, những đêm hãi hùng khiến ai cũng lơ láo như là bị đói khát lâu năm. Ngày nóng như thiêu đốt, đêm thì lạnh buốt xương. Cuối cùng...một dịp tình cờ vì có người đói người đói quá. Trèo lêm trộm dừa, gặp lúc máy bay Hồng Thập Tự bay ngang qua, ông ta đánh liều vẫy tay cầu cứu. Thế là người trên máy bay phát giác ra được tầu vượt biển của Thúy bị đám lính Mã Lai giam lỏng để làm tình làm tội. Chiều đó, một chiếc tầu của Hồng Thập Tự đến đảo, thương lượng với đám lính Mã chúng mới chịu cho đoàn người khốn khổ rời đảo để vào đảo khác: đảo Pulau Bidong!
Đến đây rồi, mọt người lại trực diện với những kinh hoàng mới: Không có tiền để dựng lều thì không thể nào có chỗ trú mưa, tránh nắng. Ba mẹ con núp tạm dưới mái hiên của Trạm Y Tế, nhìn vào những căn lều có giường, ghế đóng bằng gỗ thô sơ mà thèm thuồng một chỗ đặt lưng! Ngày cũng như đêm, đi đâu, Thúy cũng đều ôm kè kè cái bao đựng quần áo của ba mẹ con, đó là gia tài duy nhất của mẹ con Thúy!
Đứa con trai lớn đột ngột hỏi mẹ:
- Mẹ nói tới đây gặp ba mà sao con chẳng thấy ba?
Thúy im lặng vì nàng cũng đang lo âu không biết phải tìm chồng bằng cách nào? Vì lúc Thúy còn ở Việt Nam thì chồng nàng còn có địa chỉ nàng để nhờ người đem "quà" đến, Thúy chỉ biết mù mờ rằng chồng "ở Mỹ", không rõ ở đâu trên nước Mỹ. Nhìn con thơ cứ ngước mặt lên chờ câu trả lời, Thúy đành phải trả lời bừa đi cho xong:
- Thì phải vài ba bữa nữa người ta mới cho mẹ con mình gặp ba chứ con!
Đứa con của Thúy đưa tay lên gãi đầu và càu nhàu:
- Sao ai cũng có nhà mà mình không có nhà hả mẹ? Con không muốn ở đây, nắng quá hà!
Nhìn tấm lưng trần đen đủi của hai đứa con ốm tong ốm teo, Thúy cố nén xúc động, bảo:
- Các con mặc áo vào để che nắng thì bớt nóng!
Danh sách tầu của Thúy đã được Cao Ủy Tị Nạn chấp thuận. Lần đầu tiên cả tầu được phát lương thực. Thúy vui thật sự khi nghe hai đứa con nói với nhau:
- Bữa nay mẹ nói mình được ăn no!
Đứng dưới cái nắng gay gắt của Mã Lai, hơi nước biển tỏa lên không đủ cho mọi người một chút mát mẻ nào, thêm chứng kiến chứng kiến chuyện một thanh niên lớn tuổi cứ trần truồng ngớ ngẩn đi lang thang, nhiều lần cảnh sát Mã Lai túm lại lôi vô lều mặc quần áo cho, vài giờ sau người vẫn y như cũ! Hỏi thăm mới biết anh ta vượt biển cùng gia đình, khi tàu ra khơi bị ngu phủ Thái Lan giở trò hải tặc xáp vào tàu anh và đàn bà, con gái trên tàu hầu như không thoát khỏi bàn tay hung bạo của chúng. Trong số đó có vợ anh, có em gái anh! Anh đã chống lại và anh bị chúng ôm ném mạnh vào khoang tầu va đầu quá mạnh nên bây giờ ra nông nỗi thế! Vợ anh, em gái anh bị bọn hải tặc hành hạ xong ném xuống biển cùng với trẻ con, trong đó có đứa con nhỏ của vợ chồng anh. Không phải chỉ có hai người đàn bà xấu số, còn nhiều nữa! Người thanh niên này khi được cứu vớt (cùng với những người khác) thì trở nên...vô hồn, khi thì nhớ, nhớ mang máng, khi thì quên, lắc đầu lia lịa và nước mắt ngập mặt! Anh ta có lúc thấy thật hiền, có lúc tự dưng hung dữ, la hét om xòm! Anh điên rồi! Anh thật sự là một người điên! Cũng may cho anh, anh không biết mình cô đơn! Anh không biết mình đang ở trên đất lạ, anh vẫn tưởng mình còn ở trong trại Cải Tạo, nhiều lúc anh gào tên "Bác Hồ" và hát bài quốc ca của nhạc sĩ Văn Cao " Thề phanh thây xác quân thù..."
Qua tuần lễ sau, cũng trong lúc chờ đợi để lãnh phần rau tươi, Thúy thấy hai thanh niên gầy gò đang dìu một cô bé đến trạm Y Tế với nét mặt đau đớn. Nàng tò mò hỏi han thì biết cô bé ấy mười ba tuổi, trên đường vượt biển bị đám hải tặc Thái Lan gồm năm tên thay phiên nhau hãm hiếp. Vì cô còn quá nhỏ, từ tuổi tác đến vóc dáng nên chúng đã dùng dao xẻ ra cho rộng hỏng thỏa mãn thú tính. Thúy chỉ biết im lặng dõi mắt nhìn theo từng bước chân của những người đồng bào mình mà lòng còn hơn bị ai xé rời ra từng mảnh!
Một buổi sáng, Thúy đang dùng sức để kéo hai đứa con lên con dốc để đến nhà một người quen hứa cho Thúy một ít sữa bột bồi dưỡng cho hai con. Bỗng một trong hai thằng bé hét toáng lên. Thúy hoảng hốt bế thốc nó đến trạm Y Tế. Thằng nhỏ út thì không biết chuyện gì, thấy mẹ bế thằng anh thì cứ cắm đầu chạy theo mẹ, vừa vấp vừa khóc, rồi lại lật bật ngồi dậy, đứng lên lảo đảo chạy theo như cái bóng...đến trạm Y Tế. Bác sĩ khám, mới biết: bệnh thòng ruột của nó bị tái phát.
Đợi tin chồng từ hy vọng đến tuyệt vọng, Thúy mệt mỏi với bao nhiêu áp lực đè nặng. Thúy đã gửi đi ba mươi lá thư nhờ người mang đi khi họ rời đảo với địa chỉ ghi ở Pháp trên họ của người em chồng (cô ta có chồng là người Ấn Độ). Bức thư thứ ba mươi ba, câu cuối cùng, Thúy nhớ hoài nàng đã viết trong đau đớn: " Nếu anh đã có gia đình cũng xin cho em biết để em định liệu đời em và hai con - Thúy." Bức thư này Thúy nhờ hội Hồng Thập Tự chuyển hộ với địa chỉ KBC 3750 dưới họ tên cấp bậc của chồng chớ không với cái địa chỉ tại Pháp. Lá thư viết trên giấy bạc của một gói thuốc lá Thúy nhặt được trên bờ biển Bidong. Thư đi, gặp lúc phái đoàn Úc dến nhận thêm một số người di dân gọi là "Hốt Rác" ( tiếng lóng có nghĩa là ai -không -có - thân - nhân, hai chữ hốt rác từng lọt vào tai phái đoàn Mỹ, họ đã giải thích nghe rất cảm động:" Chúng tôi làm việc nhân đạo và các anh chị không phải là rác rến! ). Các phái đoàn không biết có cảm thông trước tình trạng số người vượt biển phải ở trại ngày càng đông, ngày càng lâu, tự họ đã cảm thấy mình chẳng khác nào đồ bỏ rồi! Thúy nản lòng lắm, nàng xin đi Úc và được phái đoàn Úc gọi lên phỏng vấn. Chỉ hôm sau là có người tới đón số người nhập cư Úc. Thúy không còn tin tưởng ở số may của mình nữa (nàng có đi coi bói ở Việt Nam, bà thầy bói nói Thúy có số may, chao ôi!). Điều duy nhất lúc này nằm trong đầu Thúy là làm sao cho hai con lên được một lục địa văn minh, vào một bệnh viện xin chữa bệnh thòng ruột cho thằng con lớn. Hai đứa con của nàng ngày một héo hắt, tiều tụy, trông thương quá là thương.
Nhưng cái thư viết trên tờ giấy thuốc lá thế mà may mắn! Hội Hồng Thập Tự đã làm phóng ảnh nó và gửi đi các hội thiện nguyện nhờ tìm hỏi giùm người sĩ quan có họ tên đó, từng ở KBC đó và trời ơi...chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa thì ba mẹ con Thúy lên tàu đi Úc, loa phóng thanh vang dội tên nàng gọi lên văn phòng trại nhận một điện tín khẩn! Thúy đâm đầu chạy lên phòng thông tin! Nàng run rẩy đón nhận tờ điện tín, mở ra đọc liền: " Em vẫn là dâu nhà họ Đỗ. Anh luôn yêu và chờ em cùng hai con. Anh sẽ làm thủ tục bảo lãnh gấp ". Nàng lao đầu chạy thẳng vào chỗ phái đoàn Mỹ và Úc, may mắn gặp một người Mỹ biết nói tiếng Việt, người đó chận Thúy lại, hỏi: "Bà cần gì? ". Thúy chìa tờ điện tín và nàng nói, nói thật nhiều , bao nhiêu uẩn khúc trong lòng nàng tuôn ra hết, không cần biết người trong phái đoàn Mỹ có hiểu hay không...
Không lâu sau đó, ba mẹ con Thúy đoàn tụ với chồng, với gia đình chồng thì đúng hơn. Tới Mỹ, Thúy vỡ lẽ ra là người em bà con bên chồng nàng không ở Pháp nữa, lâu rồi, cả gia đình dọn qua Mỹ trước khi thư nàng từ đảo tị nạn gửi đi. Ba mươi hai bức thư không được phát hoàn, cũng đúng thôi vì phương tiện ở đảo thủa ấy thật khó khăn.
Đi về phía mặt trời mọc, nhiều khi Thúy bồi hồi nhớ lại câu của người tài công chiếc tàu vượt biển đã nói: " Cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà đi tới, tới đâu cũng được, càng xa Việt Nam Xã Hội Chủ NGhĩa càng tốt ". Chiếc tầu của Thúy tắp vào Mã Lai có lẽ vì xuôi dòng nước và con sóng. Từ năm 1979 đến nay, 2002, Thúy nhớ lại, giật mình, tưởng mình vừa tỉnh một cơn mơ...
Chuyến đi của Thúy có gian nan thật đó, nhưng cũng nhiều may mắm là đã tới bến bờ, trong khi bao chuyến khác, cái may thật ít, cái rủi thì nhiều. Mấy câu thơ của ai làm ra trong thời dân mình bỏ nước, đơn sơ, mộc mạc mà thâm thúy lạ lùng:" Một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con! "
Ai cũng hiểu rằng nếu đến vùng đất tự do an lành thì con sẽ giử tiền về để đền ơn công lao sinh thành dưỡng dục của mẹ, nếu chẳng may gặp phong ba bão táp giữa biển khơi thì xác con làm mồi cho cá. Là nếu bất hạnh hơn cả cái chết là bị công an biên phòng bắt được thì..."Má ơi! Con đang bị tù tội đây, má hãy bán....bán máu để nuôi con!"
Những cuộc hành trình trên biển Đông là một niềm đau của dân tộc Việt. Hầu như ai cũng muốn quên đi để sống, hôm nay có người khơi lại, Thúy nghe nhức nhối như muôn vàn mũi kim châm vào tim, và Thúy viết - một lần sau cuối rồi vĩnh viễn....và vĩnh viễn nàng xếp vào kỷ niệm.
Kết Thúc (END)
Cái Chết Của Người Lính
Font Size: Tác Giả: Nguyễn Thanh Hoài
Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:
Nếu phân loại theo giới tính của nhóm người trên chiếc ghe này, có thể nói tôi là một người đàn ông trẻ nhất trong nhóm, mặc dù lúc vượt biên tôi chi tròn trèm mười bốn tuổi. Hay nói cho đúng hơn nữa, có thể gọi tôi là một thằng con nít chưa hiểu sự đời. Thật sự mà nói, tôi chẳng hiểu sự đổi thay của chế độ như thế nào mà rất nhiều người bỏ nước ra đi. Với cá nhân tôi, tôi chỉ biết là tôi rất buồn khi bố mẹ gởi gắm tôi cho một người quen làm chuyến phiêu lưu này. Tôi phải bỏ quên tuổi thơ của tôi, những chiều đá banh, tắm sông, nghịch ngợm chọc phá và hái trộm xoài nhà ông Cả Đậu làng bên. Tôi chỉ có một cảm giác thích thú duy nhất là khi xuống tầu, tàu lướt sóng nhịp nhàng khi lên khi xuống mà tôi gọi là cưỡi ngựa trên biển.
Nhưng cái cảm giác thích thú này chẳng duy trì trong tôi lâu được. Hơn cả tuần vật lộn với sóng biển, giữa phong ba bão táp, ói tới mật xanh, cái sống và cái chết chỉ cận kề trong gang tấc, tôi đã nghĩ là bố mẹ tôi đem sinh mạng tôi đùa giỡn với tử thần.
Chỉ mới ngày thứ hai trên biển, chú thím Bảy - người mà bố mẹ tôi gửi gấm tôi - đã nằm la liệt trên tàu. Chẳng ai còn ngó ngàng chăm sóc đến tôi. Tôi có cảm giác lạc lõng giữa một nhóm người xa lạ. Chiếc tầu thì quá chật. Tôi lâu nay đã quen chạy nhảy, nghịch ngợm, giờ bó gối trên chiếc tầu con chật hẹp tưởng chừng như con chim bị nhốt trong lồng. Tôi chỉ có một may mắn duy nhất là tiêu chuẩn thực phẩm phân phát cho tôi đầy đủ hơn mọi người khác bởi tôi còn quá nhỏ so với những người trên tầu.
Ngày đầu tiên trên biển, cái thích thú cỡi tầu trên sông nước đã đè ép cái mệt nhọc, phiền muộn của tôi. Tôi reo mừng nhảy cỡn lên theo cái nhịp nhàng lướt sóng lên xuống của con tầu. Tôi đã tạm quên đám bạn bè cùng trang lứa, những ngày thả diều, đá bóng, bắt dế...ở quê nhà. Cứ nghĩ như một cuộc du ngoạn xa. Tôi vẫn chưa ý thức được rằng sự ra đi này như đi tìm sự sống trong cái chết. Và cái lạ lẫm thú vị trong tôi đã dần mất hẳn trong hành trình của những ngày cuối cùng.
Tôi bắt đầu thấm nỗi cô đơn và sự nhớ nhung giữa gia đình. Tựa như con chim non vừa rời xa tổ ấm. Những đứa em của tôi, cu Vũ, bé Tý giờ này chắc đã ngủ yên bên mẹ. Tôi đã cảm thấy mệt mỏi và mất đi vẻ linh hoạt vỗn sẵn trong tôi. Tôi chẳng còn thấy thiết tha hay thú vị trong hành trình bắt buộc này khi cơn bão ập xuống trong ngày thứ ba trên biển. Mưa tầm tã như trút nước, sấm sét giông gió và cả một khoảng trời trên biển mù mịt mây xám.
Tàu phải bỏ neo giữa biển như một chấp nhận, một chịu đựng không lối thoát. Tôi tưởng chừng như cái chết đang cận kề bên mình. Bão táp làm bầm dập tôi đến tả tơi. Ruột gan như lộn phèo và ói mửa tới cả mật xanh. Tôi ngất đi trong sự khiếp hãi kinh hồn này.
Chẳng biết bao lâu thời gian đã qua, tôi tỉnh dậy. Nắng chiều chiếu trải rộng trên tầu. Tôi nhìn quanh. Mọi người trên tầu cũng tả tơi, rách nát như tôi. Tựa như tất cả từ cõi chết trở về. Tôi đưa mắt tìm chú thím Bảy. Hai người còn nằm thiêm thiếp mê mệt. Tôi gượng dứng dậy. Nhưng sức lực dường như tiêu tán đâu hết. tay châm run rẩy và tôi lại ngã nhào xuống.
Tôi ngã vào vòng tay một người đàn ông. Anh ta chụp lấy tôi và dìu tôi ngồi lại xuống sàn. Ánh mắt và nụ cười đầy vẻ thân thiện. Tôi nhìn lại anh ta chỉ hơn tôi độ mười mấy tuổi. Làn da rám nắng. Khuôn mặt dày dạn nét phong trần. Tôi như có cảm giác an ủi và đỡ lạc lõng. Tôi đã có người để làm bạn, chuyện trò. Rồi từ hôm ấy, tôi thường xuyên lân la bên cạnh anh ở trên tầu.
Tầu của chúng tôi đã lênh đênh trên biển sang ngày thứ bảy. Trận bão đi qua đã làm thiệt hại nặng nề con tầu. Máy hư, bánh lái gẫy. Tàu hết phương cứu chữa, chỉ còn theo sức gió trôi dạt. Thức ăn đã dần dần vơi và nước uống thì gần cạn. Mỗi người trên tầu bây giờ phải ăn cháo thật lỏng thay cơm và chỉ uống được một ngụm nhỏ nước mỗi ngày.
Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng có lúc cái đói và cơn khát hành hạ tôi như lúc này. Tôi đang sức lớn mà tiêu chuẩn ăn chỉ vừa nhét đủ kẽ răng và nước uống thì chưa đủ thấm giọng. Đêm ngủ lại trăn trở theo tiếng reo của bao tử, tôi tưởng chừng như điên lên được. May mà có người anh tôi mới quen trên tầu, mà trong thân mật tôi quen gọi anh là anh cả. Anh tìm cách xin thêm phần ăn và nước uống cho tôi. Lắm khi thấy tôi quá đói, anh còn nhường luôn phần ăn của anh cho tôi nữa. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn còn thấy thẹn thùng trong lòng. Bởi nhũng lần như vậy tôi chưa bao giờ biết từ chối. Tuổi tôi còn quá nhỏ, tôi chưa cảm nhận được cái hy sinh của người khác dành cho mình.
Qua đi sóng gió bắt đầu cơn nắng cháy cả da. Mọi người chúng tôi được lên hết trên khoang để hưởng chút gió mát của biển. Tôi vẫn lân la theo bên cạnh anh. Anh thường đặt đầu tôi nằm trên đùi anh và kể chuyện của anh cho tôi nghe. Chuyện đời lính. Những lần đụng trận trên chiến trường. Những sự chia sẻ hy sinh của đồng đội. Tôi thấy mắt anh rực lửa và đanh lại. Rồi lần bỏ trận chiến chạy về phố thị Pleiku tìm người thân trong lửa đạn, vợ con anh đã thất lạc phương nào. Anh đã rong ruổi hàng bao năm để tìm tin tức nhưng vẫn hoài công. Nhìn gương mặt anh, nét chua xót ngậm ngùi trong tròng mắt cho tôi cảm nhận được cái đau đớn trong lòng anh. Cũng nhờ những câu chuyện ấy của anh đã đánh lừa ảo giác cho tôi vơi bớt cơn đói khát đang hành hạ.
Ngày thứ mười trôi qua. Mọi người trên tầu gần như kiệt sức. Con tầu vẫn bồng bềnh trên nước chạy theo sức gió đẩy đưa. Chẳng còn biết số mạng mình đang đi về đâu. Chỉ còn chờ đội một may mắn nào đó xảy đến. Tôi thầm phục ý chí của anh cả. Anh vẫn tìm cách an ủi giúp đỡ mọi người. Rồi sang ngày thứ mười hai. Có vài người trên ghe đã kiệt sức không chịu đựng nổi đã bị chết. Cuối cùng một đời người không được trở về lòng đất mà phải đành gởi thây xuống biển cả.
Bây giờ thì tôi đã thực sự kinh hoàng. Sự sợ hãi đã đi theo cả trong giấc ngủ. Tôi không ngớt mê sảng, cứ mơ thấy bố mẹ và các em tôi. Họ đang vẫy tay gọi tôi. Tôi lơ lửng bay theo mà chẳng thể nào bắt kịp. Anh cả vẫn bên cạnh tôi, mớm cho tôi từng thìa cháo, từng muổng nước.Tôi đã đến giai đoạn không còn cảm nhận sự đói khát nữa, mà chỉ còn mong cho sự chết đến sớm như là một giả thoát còn hơn cứ mãi như thế này.
Chưa hết tai ương này lại đến tai ương khác. Nhưng có lẽ cái tai ương cuối cùng này đã kết thúc cái sự không may mắn của chúng tôi.
...Giữa lúc mọi người hoàn toàn tuyệt vọng thì có tiếng ghe máy tiến lại gần. Như được uống thuốc hồi sinh, mọi người cùng bật dậy. Kể cả tôi. Đến lúc đủ tỉnh táo để nhìn mọi vật chung quanh thì tôi đã suýt rú lên vì sợ hãi. Anh cả đã ôm choàng tôi lại và vỗ nhẹ vào vai trấn an tôi. Tôi nhìn thấy khoảng chừng năm tên cầm giáo mác, mã tấu đang đứng chung quanh trên tầu.
Những khuôn mặt dữ dằn đến ghê sợ. Bọn chúng đang hò hét và ra dấu cho mọi người tháo nữ trang , tiền bạc giao nộp cho chúng. Chúng còn lục soát từng hang hốc, ngõ kẹt quanh tầu. Lúc này chẳng còn ai đủ sức lực để phản kháng. Cho đến khi chẳng còn tìm thấy được gì thêm chúng quan sát một lượt quanh tầu. Tầm nhìn của chúng chiếu vào hai cô gái chỉ hơn tôi độ mấy tuổi đang sợ hãi nép vào lòng mẹ. Chúng tiến đến và nâng mặt hai cô lên. Đầu tóc rũ rượi. Khuôn mặt còn đọng nét kinh hoàng. Nhìn hai cô gái đang sụp lạy như tế sao, chúng cười len ha hả.
Cuối cùng chúng lôi hai cô gái đứng dậy như chuẩn bị đưa xuống tầu của chúng. Hai người mẹ sợ hãi nhưng vì tình thương con đã nhào tới ghì tay chúng. Có lẽ sợ mất thời gian, tên đứng cạnh tiện tay vung nhát mã tấu lên. Mọi người kinh hoàng đồng kêu rú lên. Nhát mã tấu ngọt xớt hớt một mảng trên đầu người đàn bà. Máu bắn lên có vòi. Người đàn bà chẳng kịp kêu lên một tiếng nào.
Tôi run cầm cập trong vòng tay anh cả. Hình như tôi cảm thấy anh cùng độ rung như tôi. Tôi ngước nhìn anh. Khuôn mặt anh đanh lại và rực lửa. Tôi thấy lại lần thứ hai như lần anh kể chuyện lúc trạm trán trước quân thù. Nhưng lần này trước đám cướp biển, nhìn gương mặt anh như vậy tôi có linh không may lẫn khiếp sợ thực sự.
Đúng như tôi dự đoán, khi nhìn người đàn bà giẫy giụa trước lúc xuôi tay, anh đẩy tôi ra khỏi lòng và bật dậy như chiếc lò xo. Anh lao đến bọn chúng và thuận tay giật được chiếc mã tấu trên tay đứa đứng gần nhất. Anh vung đao chém loạn xạ vào bọn chúng. Tôi cũng không tưởng tượng được đột nhiên anh lại khoẻ mạnh đến như vậy. Hai tên đứng bên cạnh anh không dự trù được trước phản ứng đột ngột của anh, lãnh trúng hai nhát vào đầu ngã nhào xuống biển. Ba tên còn lại buông tay hai cô gái và sửng sốt lùi lại thủ thế đứng nhìn anh.
Lúc này anh cũng đã dừng tay lại và cắm thanh mã tấu xuống sàn tầu vịn tay thở dốc. Tôi biết rằng sức lực anh đã kiệt. Những ngày chịu đói khát trên biển đã bào mòn sức lực anh. Cái căm hận trước bạo lực chỉ là một chút kích thích ngắn hạn tăng sức mạnh cho anh trong những nhát dao đầu tiên mà anh đã trút hết trên hai tên cướp biển. Bây giờ súc lực anh đã tiêu tán hết.
Có lẽ ba tên cướp biển đã nhìn thấy điều đó. Nhưng chúng cũng còn dè dặt và từ từ thủ thế tiến lại. Anh cũng run run rút thanh mã tấu lên cầm lại trên tay. Tên cướp đi đầu dừng lại một tích tắc rồi vung dao nhắm vào đầu anh chém tới. Anh ngã người ra sau né tránh. Vừa vặn lúc đó, có âm thanh của ghe máy nổ cách không xa lắm đang xé nước lao tới.
Bọn cướp nhìn thấy và biết không còn đủ thời gian để trả đũa, nhưng trước khi nhảy lại xuống tầu bỏ chạy, chúng còn cố ném vụt những chiếc mã tấu vào người anh. Có một chiếc cắm phập vào nagy giữa ngực. Máu tuôn xối xả và anh đã ngã quị xuống sàn tầu.
Chiếc tầu tuần dương của cảnh sát Thái Lan đã cứu chúng tôi nhưng không cứu sống được anh. Vết thương gần ngay giữa tim ra quá nhiều máu. Tôi nắm chặt tay anh và nhìn anh thoi thóp thở. Lần đầu tiên trong đời có lẽ đây là lần tôi biết cảm nhận cái đau đớn và biết khóc thật sự. Tôi muốn nói với anh thật nhiều điều những suy nghĩ của tôi dành cho anh. Nhưng tôi chỉ biết uất nghẹn. Anh đã tắt thở trước khi vào đến đất liền. Cái cuối cùng tôi còn được nhìn thấy ở anh là cái siết tay nhẹ và nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt anh trước khi nhắm mắt.
Ngôi mộ anh được chôn trên đồi phía sau hàng rào của trại dành cho những người tị nạn. Ở nơi đây cũng có những ngôi mộ nằm san sát với nhau. Những xác người vượt biên trên biển trôi dạt vào đất liền.
Tôi đã được nhận đi định cư ở Mỹ bởi tôi thuộc diện trẻ em dưới tuổi thành niên. Những ngày nằm đợi lên đường, nhớ anh tôi thường thích thơ thẩn ra thăm mộ. Tôi thích hái những hoa tím dại trên đồi đặt lên mộ anh như một ngậm ngùi, thương tưởng.
Đã gần hai mươi năm qua. Tôi bây giờ đã thực sự trưởng thành. Chuyện vượt biển của ngày xưa chừng như nhạt nhòa. Duy chỉ còn hình ảnh của anh đọng mãi trong ký ức. Tôi có thể trả lời cho tôi được một điều đã ấp ủ mãi trong lòng. Cái giá của sự tự do mà mọi người phải đem sinh mạng mình thi gan cùng biển cả. Và với riêng cá nhân anh cả anh không nằm xuống trên chiến trường, nhưng anh đã trọn cái hy sinh đúng nghĩa cho đồng đội là những người vượt biển trên tàu, kể cả hai cô gái bé bỏng trước móng vuốt hung dữ của hải tặc.
Tôi chỉ có mỗi một ân hận duy nhất là chưa được biết tên anh. Hình ảnh anh trong tôi là một anh hùng vô danh không tên tuổi. Cuối cùng tôi đã nghiệm ra ở anh một điều mà cho đền cuối đời chưa chắc tôi đã làm được:
Đời sống thì ngắn ngủi. Duy những điều có ý nghĩa để lại cho đời mới thật sự bất tậm. Phải vậy không anh?
Kết Thúc (END)
Tình Đầu
Font Size: Tác Giả: Hiền Vy
Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:
Lấy tay lau những giọt nước mắt cứ liên tục chảy dài xuống má, Châu Thúy ngả đầu vào khung cửa sổ nhỏ của chiếc phi cơ 747, đang mang nàng xa dần gia đình và bạn bè. Bên ngoài, trời trong sáng, khác hẳn trời Sàigòn đầy mây với mưa tầm tã khi máy bay cất cánh.
Nhắm mắt lại, nàng hình dung đến khuôn mặt của Mẹ đầm đìa nước mắt, đến đôi mắt cương nghị của Bố long lanh ướt khi tiễn nàng vào cửa máy bay. Bố mẹ đã quyết định cho nàng sang Pháp học khi nàng xin được học bổng. Dù rất buồn vì phải xa nàng, Mẹ cũng đành lòng cho nàng đi.
Đã hai năm liên tiếp, Châu Thúy cùng Mẹ lo xin được miễn tuổi để thi Tú Tài I và II. Và cả hai năm, nàng đã không làm Bố Mẹ thất vọng với hạng Bình. Châu Thúy khóc thút thít, nhớ lại mới hôm qua, hai mẹ con còn nằm tâm sự trong nhà cậu Hoàng, trên đường Cách Mạng, Mẹ dặn dò đủ chuyện. Mười bảy tuổi, một thân một mình sang Pháp, Châu Thúy cũng ngại, nhưng đã lỡ rồi, làm sao kêu máy bay ngừng cho nàng nhảy xuống, hay nhờ phi công quay đầu lại...
- Cô có cần uống nước gì không?
Châu Thúy giật mình khi nghe tiếng của một người đàn ông hỏi bên tai. Nàng bối rối ngồi thẳng người lên, quay nhìn bên tay trái của mình, ngập ngừng:
- Dạ không.
Người đàn ông có mái tóc nâu nhạt, đôi mắt hạt dẻ, sóng mũi thật cao, da trắng, đưa bàn tay phải ra trước mặt nàng:
- Tôi tên André, hân hạnh được biết cô.
Châu Thúy bối rối, vụng về đưa tay ra, rồi ngượng ngập nói:
- Hân hạnh được biết ông.
Cầm tay nàng, André cười nhẹ, nói:
- Cô khóc nhiều quá, có lẽ đây là lần đầu tiên cô xa nhà?
- Dạ
Vừa dứt lời, nước mắt lại rơi đầy trên má Châu Thúy. André kéo trong túi ra một bao giấy Kleenex, đưa cho nàng:
- Cô dùng giấy này nè, khăn tay của cô ướt đẫm hết rồi.
Chờ Châu Thúy lau nước mắt xong, André hỏi:
- Cô tên gì?
- Châu Thúy.
- Cô đi đâu đây?
- Dạ, Pháp.
André reo lên:
- Vậy là cô sẽ cùng bay đến Paris với tôi rồi. Vui quá!
Châu Thúy ngớ ngẩn hỏi lại:
- Ông cũng đi Paris à?
- Đúng vậy, tôi về thăm gia đình. Lâu rồi tôi chưa gặp lại mẹ tôi.
- Sao vậy?
- Tôi là ký giả, đi làm xa hoài, ít khi về lại Paris. Còn cô, đi Paris làm gì?
- Dạ đi học.
- Thảo nào cô nói tiếng Pháp chuẩn quá.
Châu Thúy ngượng ngùng:
- Dạ cũng tàm tạm thôi.
- Không tàm tạm đâu, tôi nói thật mà.
- Cám ơn ông.
- Cô ở Sàigòn hay ở đâu?
- Dạ, Huế.
- Cô là học sinh Đồng Khánh?
- Dạ không, tôi học Jeanne D'Arc.
- Thế thì tôi không ngạc nhiên nữa khi cô nói tiếng Pháp gần giống người Pháp.
Châu Thúy bẽn lẽn đáp nhỏ:
- Ông quá lời rồi.
André cười lớn rồi vỗ nhẹ vào vai Châu Thúy:
- Thôi, đừng khiêm nhượng nữa, cô bé. Tôi hỏi nè; sao cô có nhiều nước mắt thế?
- Tôi không biết.
Châu Thúy bật cười sau câu trả lời và André cười theo.
Nhìn đôi mắt tròn xoe của người bạn nhỏ đồng hành đang mở lớn, André tiếp câu chuyện:
- Tôi thích làm phóng viên chiến trường vì tôi thấy thế giới bên ngoài cần được biết rõ cuộc chiến đang xảy ra tại Việt Nam.
Với vẻ khâm phục, Châu Thúy hỏi:
- Ông không sợ nguy hiểm sao?
- Cũng có lúc sợ... nhưng mỗi người đều có số phần của mình.
- Ông là người Pháp mà cũng tin vào "số phận" sao?
- Tin chứ.
Châu Thúy tò mò:
- Tôi tưởng chỉ có người Á Châu mới tin vào số phận thôi chứ!
- Không, cô sai rồi, người Pháp chúng tôi cũng tin vào "số phận" và "nhân quả" như một số lớn người Việt đó cô ạ.
- Có nhiều người Pháp tin như vậy không ạ?
- Tôi không biết có bao nhiêu người tin như vậy, nhưng riêng tôi, tôi rất tin.
André nhìn cô gái với vẻ hoài nghi, tiếp:
- Chắc là cô không tin hả?
- Tại sao ông hỏi vậy?
- Thấy cô còn nhỏ, lại học trường Tây, chắc chắn là các Souer không dạy như vậy đâu!
Châu Thúy gật đầu:
- Đúng là trong trường không dạy như vậy, nhưng tôi vẫn theo mẹ tôi lên chùa mỗi tuần nên được biết chút đỉnh về "nhân quả."
Quay người qua một chút, nàng tiếp:
- Thế còn ông, bằng cách nào ông lại tin vào nhân quả?
André nhấc ly nước đang uống dở, nhắp một ngụm nhỏ, ra chiều suy nghĩ, chậm rãi trả lời:
- Chuyện của tôi dài dòng lắm, không biết kể đến lúc nào mới hết, nhưng để tôi tóm tắt một chút cho cô nghe nhé...
Đặt ly nước xuống, ông nhìn ra ngoài khung cửa hẹp của máy bay, mắt mơ màng, tiếp:
- Tôi có một người bạn Việt Nam, anh là một tu sĩ Phật giáo, anh dạy tôi về Phật pháp, và dạy cả tiếng Việt nữa.
- Bạn ông đang ở đâu?
- Bạn tôi đang ở ngay Paris, dạo trước bạn tôi ở bên Mỹ nhưng mới qua Pháp chừng vài năm nay thôi.
Lầm lũi đi hết đường này qua đường khác trong khu chợ Quận 13, cuối cùng Châu Thúy bước vào một tiệm ăn Tàu. Kêu một tô mì và ly trà nóng xong, nàng chậm rãi cởi bớt áo choàng ra. Ngồi chờ thức ăn, nàng kéo trong ví ra tờ điện tín đã nhàu nát, Châu Thúy đọc lại hàng chữ đánh đi từ Sàigòn: Bố Mẹ sẽ rời Sàigòn ngày mai...
Từ lúc nhận được bức điện tín, Châu Thúy lo lắng vô cùng, không biết bố mẹ sẽ đến đâu. Hơn 2 tuần vẫn chưa có tin tức của bố mẹ. Sàigòn đã thất thủ, tin tức, hình ảnh trên báo chí, trên vô tuyến truyền hình làm nàng mất ăn mất ngủ.
Mới qua đây hơn một năm, đang chập chững làm quen với đời sống sinh viên xa nhà, Châu Thúy vẫn còn khóc vì nhớ bố mẹ và đôi khi nàng nhớ đến người ký giả đã gặp trên chuyến bay từ Sàigòn qua Paris. Trong lúc buồn vì xa nhà, sự chăm sóc của ông đã làm nàng cảm động. Trên chuyến bay mười mấy giờ đồng hồ, ông đã kể cho nàng nghe nhiều về người bạn của ông, cũng như đã nói cho nàng nghe về thuyết nhân quả của Đạo Phật. Lúc thì bằng tiếng Pháp, có lúc thì bằng tiếng Việt.
Cả năm nay, mỗi khi có dịp về lại Paris, nàng lang thang trên đường phố với hy vọng mong manh là sẽ được gặp André. Từ ngày chào nhau tạm biệt ở phi trường Orly, nàng tưởng rồi thế nào cũng gặp lại, nhưng Paris không nhỏ như Huế. Mỗi lần có dịp nghỉ học vài ngày, nàng lại leo lên xe lửa từ Caen về Paris. Đi bộ nhiều lần trong vườn Luxembourg, rồi lê chân qua những con đường vắng người, nàng đã giật mình vài lần khi thấy có người dáng dấp hao hao giống André.
Đưa mắt lơ đãng nhìn ra phố đêm, ánh đèn vàng làm Châu Thúy càng nhớ những đêm mùa Thu ở Huế. Nàng nghĩ đến bố mẹ và rồi lại nghĩ tới André. Lạ thật, chỉ một lần gặp gỡ mà vấn vương cả cuộc đời như vậy sao. Nàng nhớ lại những câu chuyện André kể về những lần ra chiến trường làm phóng sự. Bây giờ chiến tranh đã chấm dứt trên quê hương nàng, không biết André ở đâu.
- Châu Thúy, bây giờ cháu tính sao đây?
- Dạ cháu không biết tính sao cả.
Đáp xong, Châu Thúy nhìn bà Nam rồi cúi xuống trang sách, những ngón tay bối rối mân mê cây bút chì đang cầm. Bà Nam nhìn nàng một lúc, rồi ngập ngừng:
- Sàigòn mất cũng mấy tháng nay rồi, tin bố mẹ cháu thì biền biệt, cháu có định học tiếp không?
- Dạ cháu cũng không biết nữa, thưa Bác.
- Sàigòn mất thì chắc chắn là cháu sẽ không còn học bổng nữa...
- Dạ cháu biết, vì cháu được học bổng quốc gia, mà bây giờ...
Châu Thúy nghẹn lời, cố dấu những giọt lệ, nàng chậm rãi tiếp:
- Cháu sẽ xin việc làm và sẽ cố học tiếp.
- Vậy thì tốt quá.
Bà Nam thở ra nhẹ nhỏm, như vừa trút được gánh nặng:
- Cháu biết là hai bác cũng muốn giúp cháu nhưng đời sống càng ngày càng khó khăn... Mẹ cháu là bạn thân của bác nhưng bác cũng không thể lo cho cháu như bố mẹ cháu được.
- Dạ, cháu biết, cháu cám ơn bác...
- Cháu có thể xin đi bán hàng hay giữ trẻ con sau giờ học...
- Dạ, cháu sẽ tính.
Sau vài tuần khó nhọc kiếm việc làm, cuối cùng Châu Thúy cũng tìm được một chân bán hàng trong tiệm bán thực phẩm. Lúc đầu không quen việc, làm gì cũng chậm chạp, nhưng lần lần mọi việc cũng xong. Nàng gặp nhiều người Việt Nam mới đến Pháp sau Tháng Tư Năm 1975, hỏi thăm tin tức về những ngày cuối cùng của Sàigòn để rồi buồn bã thất vọng vì không tìm được tung tích của cha mẹ nàng.
Nàng không ngờ ngày từ giã bố mẹ năm nào lại là ngày cuối được thấy mặt song thân. Tự nhiên thành mồ côi, bơ vơ nơi đất lạ. Tin tức cha mẹ không biết, bà con họ hàng cũng không. Viết thư về nhà cậu Hoàng ở Sàigòn, thư không được trả lời. Gởi thư về Huế cho gia đình cũng không thấy hồi âm. Nàng hình dung đến cảnh bố mẹ đã không may mắn, khi chen lấn xuống tàu trong những ngày cuối của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, hoặc bị đạn pháo kích trong phi trường Tân Sơn Nhất lúc đang chờ chuyến bay...
Bức thư cuối nàng nhận được của Mẹ, khi bố mẹ nàng đã vào tới Sàigòn sau những ngày lênh đênh trên biển, từ Đà Nẵng. Mẹ đã kể về đoạn đường bộ gay go từ Huế vào Đà Nẵng, trước khi Huế thất thủ, rồi khi đến Vũng Tàu, và cuối cùng là Sàigòn vào những ngày hỗn độn giữa Tháng Tư năm 1975...
Châu Thúy không dám suy nghĩ nhiều, nhưng rồi những cảnh vượt biển bị hải tặc tấn công đã làm nàng khủng hoảng nhiều đêm.
***
Nắm chặt tay Châu Thúy, Simone hỏi bạn:
- Mày nhất định không chịu nhận việc với hãng điện thoại khi ra trường thật sao?
- Tao muốn lắm chứ, nhưng tao phải về Việt Nam kiếm tin tức của bố mẹ tao xem thế nào hẳn.
- Thì mày đi làm vài năm rồi về kiếm cũng được cơ mà.
- Gần mười năm không có tin tức của bố mẹ tao, tao không chờ được nữa.
- Mày chờ được gần mười năm, thì có chờ thêm vài năm nữa cũng đâu có sao?
Rút tay ra khỏi tay bạn, Châu Thúy đáp nhỏ:
- Có sao lắm chứ, tại mày không hiểu thôi.
- Hay là mày lại nhất định kiếm cho ra anh chàng phóng viên ngày xưa?
Châu Thúy cười nhỏ, rồi gật gật cái đầu:
- Cũng có thể.
Simone lắc đầu:
- Tao không hiểu được mày! Tại sao chỉ một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi trên đường bay từ Sàigòn đến Paris mà mày nghĩ là mày yêu ông ta được?
- Tao đã kể với mày nhiều lần rồi mà.
- Ừ, thì mày đã nói nhiều lần, nhưng tao vẫn không tin được.
Giọng Châu Thúy buồn buồn:
- Mày không tin cũng phải thôi, vì tình cảm người Á Đông chúng tao hơi khác...
- Mày ở đây gần mười năm, trước đó mày lại học trường Tây mà sao mày vẫn "nhà quê" như vậy được?
- Thì tao đã nói với mày rồi mà.
Simone lắc đầu thật mạnh, mái tóc ngắn, vàng óng ả bay qua bay về, làm khuôn mặt cô như cứng rắn hơn:
- Chỉ tại ông ta là người đàn ông đầu tiên nắm tay mày, phải không?
- Ừ, nhưng không phải chỉ có vậy thôi đâu!
Cười chế nhạo, Simone gằn giọng:
- Tại vì ông ta dạy cho mày về "số phận," về "nhân quả" nữa, phải vậy không?
Châu Thúy im lặng không trả lời, nàng biết bạn thương mình nên không buồn lòng khi thấy bạn khó chịu. Simone nhìn bạn, dịu giọng:
- Xin lỗi mày, tại tao thấy vô lý quá. Cả một thập niên mày nhớ cha, nhớ mẹ, cái đó tao hiểu, nhưng cũng cả mười năm trời, mày ôm ấp một bóng hình cái "ông già" phóng viên chiến trường đó, rồi mày sống như một nữ tu... vô lý quá, Châu Thúy à.
- Cám ơn mày.
Đạp xe qua những con đường quen thuộc ngày trước, Châu Thúy nhìn lên bầu trời xanh trong, lòng bồi hồi nhớ lại ngày xưa. Cùng với Mẹ, nàng đã đi dưới những hàng cây Đuốt mát rượi vào những buổi chiều tắt nắng.
Trở lại Huế, nàng đã đến ngay căn nhà cũ tìm bố mẹ. Ra mở cửa cho nàng là một người đàn ông xa lạ, Châu Thúy hỏi thăm, ông ta hoàn toàn không biết người chủ trước là ai. Thất vọng, nàng cám ơn rồi lên xe đạp tiếp.
Qua khỏi dốc Nam Giao, Châu Thúy mệt lả người, nàng xuống xe, dắt bộ. Bên kia đường, một tấm bảng màu vàng, chữ đỏ, "Cô Nhi Viện Đức Sơn" đập vào mắt nàng. Mình cũng mồ côi mà, nàng nghĩ, và băng qua đường.
- Các em trong chùa ni tội lắm cô nờ, có em mất cả ba lẫn mẹ, có em nhà nghèo quá, ba mạ nuôi không nổi, đem đến nhờ Chùa nuôi dùm...
Tiếng Sư Cô trụ trì chậm chậm bên tai, Châu Thúy nhìn một bé gái kháu khỉnh đứng nép vào tường, đang mở lớn mắt nhìn nàng. Nàng ra dấu cho con bé tới gần, nhưng con bé cứ đứng yên một chỗ. Sư Cô trụ trì cười, nói tiếp:
- Cháu nớ tên Châu, mới được một ông ký giả Pháp xin rồi đó cô, chừng vài tuần nữa thì cháu sẽ theo cha nuôi về Pháp.
Châu Thúy bỗng cảm thấy hồi hộp, ngập ngừng một lúc, nàng quay qua Sư Cô, hỏi:
- Ở đây có cho nhận con nuôi hả, Sư Cô?
- Có chớ cô, ai xin thì Chùa cho bớt, chớ đông các cháu quá, quí cô nuôi cũng không xuể.
- Thưa Sư Cô, con có thể hỏi tên người cha nuôi của bé Châu được không?
Sư Cô trụ trì cười ngượng ngập:
- Được chơ cô, nhưng mà tui không biết đọc tiếng Tây, tui gọi ổng là ông Ăn Đê, còn mấy Cô nhỏ trong Chùa thì kêu là Ăn Đi...
Cười ngượng ngùng, Sư Cô trụ trì tiếp:
- Cái ông Ăn Đê ni tức cười lắm cô nờ, ổng nói là mười năm trước, ổng gặp một cô gái Việt Nam tên là Chau Tuy, hay Châu Thuy gì đó, ổng nói không rõ lắm, thành ra tui cũng không biết tên cô Việt Nam đó, rồi ông kể là họ mất liên lạc, ổng kiếm hoài không được vì nước mình bị giải phóng đó cô.
Châu Thúy kinh ngạc, hỏi dồn dập:
- Ủa, Sư Cô nói ông là người Pháp, tên là André, hả Sư Cô?
Sư Cô trụ trì gật đầu:
- Đúng rồi, ổng người Pháp, mà tên, thì trong chùa quí cô cứ kêu là Ăn Đê đó. Mấy tháng trước, ổng tới đây, thấy cháu Châu, ổng nói cháu giống cái cô Chau Tuy chi đó, nên ổng xin làm con nuôi. Ủa mà cô mới bên Tây về phải không nờ? Cô ở đây ăn cơm cho vui, chiều ni ông Ăn Đê có nói là sẽ ghé Chùa đem thêm áo quần cho bé Châu.
Châu Thúy không cầm được xúc động, nước mắt dàn dụa, nàng không còn nghe được Sư Cô trụ trì nói gì nữa. Hình ảnh André bỗng hiện ra rõ rệt như hôm ngồi trên máy bay mười năm về trước.
Tiếng Sư Cô trụ trì văng vẳng bên tai:
- Ủa mà răng cô khóc rứa? Ừ lạ kỳ, ai tới Chùa, thấy mấy cháu cũng thương, rồi cũng khóc hết..../.
Kết Thúc (END)
Cái Chết Trong Thang Máy
Font Size: Tác Giả: Peter Cheyney
Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:
Thưa các bạn, đôi khi giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau chừng một sợi tóc. Chẳng ai có thể biết nó rõ hơn tôi. Nhưng, nếu có ông bạn nào lại hỏi tôi trong trường hợp phải giết người thì sao? Điều ấy tôi thấy cần phải trả lời nước đôi như thế này: Cái đó còn tùy theo trạng huống.
Tôi cũng Chẳng cần phải giấu giếm làm gì: tôi đã giết một người, và trong cái hoàn cảnh đặc biệt ấy, tôi tự nhận thấy tôi đã hành động đúng với tất cả sự logic.
Có điều khi nghĩ rằng mình có quyền giết hắn ta thì tôi đã hoàn toàn không tính gì đến những chuyện bất ngờ.
Dạo đó tôi là tùy viên tại sứ quán của nước tôi ở Luân Đôn. Tất nhiên, mười năm về trước tôi rất bô trai và lại to con. Tôi thường có thói quen đi coi hát vào mỗi tối thứ sáu và khi vãn tuồng, quay trở lại Queens Gate - tôi cư ngụ tại khu vực đó - rồi đi lòng vòng một tua.
Đêm Luân Đôn, không còn gì thoải mái hơn bằng cách thả bộ trên những đường phố rộng lớn và sạch sẽ. Trước khi trở về nhà, tôi không bao giờ quên ghé vào tửu quán Con ngựa điên, ở đó tôi có thể gặp đủ mọi hạng người vô công rồi nghề của cái thủ đô bốn mùa sương mù này. Tôi gọi một tách trà không phải cốt để uống mà chỉ để quan sát một cách thích thú những nhân vật điển hình Anh Cát Lợi đang ngồi trầm mặc trên quầy.
Một đêm kia, trong lúc đang ngồi uống trà, bất chợt tôi thấy hiện ra từ trong bóng tối một trong những người đàn bà lộng lẫy nhất mà trong đời tôi chưa bao giờ được gặp.
Với tư cách tùy viên sứ quán, tôi thường tiếp xúc với rất nhiều người đẹp: những vị phu nhân, những bà quận chúa, những ái nữ của các ông đại sứ thuộc đủ các quốc tịch, và đôi khi cả những nữ minh tinh nổi tiếng trên thế giới ; nhưng người đàn bà này lại có một nhan sắc cực kỳ, khiến cho trong giây phút tôi như ngây dại hẳn đi, và chỉ một chút xíu nữa, tôi đánh rơi tách trà xuống sàn.
Tuy trong lúc say mê điên dại, tôi cũng còn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng, hình như nàng đang có một tâm trạng thảng thốt.
Thỉnh thoảng nàng lại nhìn ngang ngó dọc, như thể sợ hãi một kẻ nào đang rình rập đâu đây. Khuôn mặt trái xoan của nàng nhợt nhạt. Đôi mắt màu tử thạch anh của nàng như có một vùng bóng tối che phủ. Những ngón tay trắng nõn nà của nàng run rẩy nâng cái ly lên.
Ví thử rằng tôi là dân Anh, có lẽ tôi cũng sẽ tỉnh bơ đi. Nhưng ác một nỗi tôi lại không phải là người Anh nên tôi không có hân hạnh để có được cái tính phớt tỉnh Ăng- lê như dân bản địa. Tôi không thể đành tâm nhìn một người đàn bà đẹp như thế gặp khó khăn. Thế là tôi lại gần nàng và lịch sự hỏi nàng xem tôi có thể giúp được gì.
Thoạt đầu, nàng tỏ vẻ sợ hãi, nhưng sau khi đã tự chủ, nàng cám ơn tôi về sự giúp đỡ ấy. Tôi khuyên nàng hãy cứ bình tĩnh uống trà, rồi sau đó hãy nói cho tôi biết điều gì đã khiến nàng lo ngại.
Trả tiền xong, chúng tôi đi ra phố. Với giọng nói run run, nàng kể cho tôi nghe câu chuyện của nàng. Nàng không thể nín lặng mãi được. Nàng hầu như đã kiệt sức và cần phải tìm chỗ bấu víu.
Đã có thời gian nàng sống ở Mỹ. Sẽ lãng phí giấy mực và thậm chí vô ích để kể lể dài dòng về cuộc tình của nàng với một thằng cha căng chú kiết nào đó ở trên cái mảnh đất mà cứ mươi mười lăm phút lại xảy ra một vụ án mạng ấy. Nó, phải, chính nó, sau khi vớ được nàng, đã bám chặt lấy nàng ; dù hết sức vùng vẫy, nàng cũng không thể sao thoát ra khỏi những cánh tay bạch tuộc của nó.
Nhưng rồi một dịp may đã đến, và người đàn bà trẻ đẹp kia đã tố cáo những hành vi tàn bạo của nó với nhà chức trách. Nó bị 7 năm tù và người đàn bà trốn sang nước Anh.
Chỉ có điều rằng nó đã thề sẽ giết nàng sau khi mãn hạn tù. Và nàng biết rằng đó không phải là những lời đe dọa suông ; nó nói và nó sẽ làm. Luật Vendetta (trả thù), nàng đã từng chứng kiến.
Đúng vào cái bữa tôi gặp nàng ở trong tửu quán Con ngựa điên thì nàng được tin nó tới Luân Đôn cùng hai đồng bọn.
Tôi giải thích cho nàng hay rằng, nước Anh không phải là nước Mỹ ; ở đây người ta không bao giờ cho phép những tên cùng hung cực ác ấy có thể làm mưa làm gió, muốn giết ai thì giết.
Nhưng nàng vẫn không tin.
- Dầu cho có trốn vào trong nhà tù Sing Sing, chúng nó cũng sẽ cố tình phạm một tội ác nào đấy, để vào tù rồi giết mình, nàng nói.
Nàng hoảng hốt thật sự và không dám trở về nhà. Nàng nói:
- Suốt ngày hôm nay, có hai tên lạ mặt canh chừng ở gần nhà em.
Thưa các bạn, tôi vừa xúc động vừa phẫn nộ. Như tôi đã nói ở trên, cách đây 10 năm, tôi hãy còn trẻ, hùng tâm tráng khí còn đầy, hễ thấy sự bất bằng là xắn tay áo lên, nhào vô can thiệp liền, huống hồ nạn nhân lại là một người đẹp.
Đầu óc tôi chợt nảy ra một ý nghĩ. Tôi bảo sẽ đưa nàng về văn phòng sứ quán của tôi ; nàng có thể tạm nghỉ ở đấy một đêm, trong phòng họp của chúng tôi và, sáng hôm sau, tôi sẽ trù liệu những biện pháp để bảo đảm an toàn cho nàng.
Sau một hồi tính toán, nàng đồng ý. Tôi gọi tắc xi đưa chúng tôi về sứ quán. Tôi mở cửa dẫn nàng vào. Tôi bật đèn ở phòng họp, kéo cái canapé ra phía trước lò sưởi điện. Và chính vào lúc tôi sắp sửa từ giã nàng thì sự việc xảy ra.
Lúc đó chúng tôi đang đứng ở giữa phòng. Chợt có một tiếng nổ chát chúa ; cửa kính ở cuối phòng vỡ tan ra từng mảnh và viên đạn nằm gọn ở trong tường. Cũng may nàng không hề hấn gì.
Không chậm trễ một giây, tôi tắt đèn và nắm tay nàng lôi thẳng một mạch ra khỏi sứ quán và, nhảy đại lên một cái tắc xi, đưa nàng tới nhà một người bà con của tôi. Trong lúc ngồi trên xe, nàng nói:
- Anh thấy đó, vô ích thôi! Nó sẽ giết em! Bọn chúng nó sẽ không buông tha em đâu! Bữa nay nó bắn hụt, nhưng mai nó sẽ bắn trúng.
- Cô đừng có nghĩ quẩn, tôi đáp. Phải can đảm lên chứ! Bây giờ là an toàn một trăm phần trăm. Cô có biết cái tên khốn kiếp ấy ở đâu không? Nếu biết thì bảo tôi để tôi trị cho nó một trận.
Mới đầu nàng từ chối không cho tôi biết, nhưng khi đến nhà cô em tôi thì nàng cảm thấy hơi an tâm bèn nói:
- Nó ở khách sạn Phượng Hoàng, khu Picadilly, lầu 2, phòng số 15. Nhưng em van anh, đừng có tới đó làm gì! Nó nguy hiểm lắm, lại có thêm hai đứa nữa, mặt mũi giống như đười ươi.
Thà rằng nàng đừng tiết lộ địa chỉ của nó, tất nhiên tôi sẽ vô kế khả thi. Nhưng một khi đã biết rồi, không lẽ tôi lại làm ngơ. Thế là cái máu yêng hùng của tôi sôi lên sùng sục. Tôi quên hẳn cái tư cách nhân viên ngoại giao của tôi: phải tránh né tất cả mọi xì căng đan vì có khi, chỉ cần một sự rắc rối nhỏ nhặt do tôi gây ra là sẽ trở thành một biến cố ngoại giao giữa hai nước.
Sau khi giao phó nàng cho cô em họ, tôi lao tới cái khách sạn đó, mặc dù nàng hết sức khuyên can.
Đó là một khách sạn loại trung bình, nằm lọt thỏm giữa những tòa building đồ sộ. Tôi đẩy cái cửa quay, bước vào và đảo mắt nhìn người gác đêm ; nhưng căn phòng trống vắng, không có một ai.
Khi nhìn thấy thang máy nơi hậu phòng, tôi lặng lẽ tiến vào.
Đến lầu 2, trong lúc tôi bước ra thì ở hành lang, một cánh cửa, đối diện với thang máy, hé mở. Đó chính là phòng số 15. Một người đàn ông ăn vận chỉnh tề xuất hiện. Bộ quần áo đâu có tạo ra được ông thầy tu. Đúng thế! Chỉ cần nhìn cái bản mặt cô hồn, tôi cũng biết chính là hắn, kẻ tôi đang tìm kiếm.
Tiên hạ thủ vi cường, tôi đấm ngay một phát vào giữa mặt hắn, và khi hắn loạng choạng dựa vào tường để cho khỏi ngã, tôi sử dụng một thế nhu đạo khóa tay hắn lại. Rồi tôi áp dụng một thứ ngôn ngữ bẩn thỉu nhất mà tôi chợt nhớ ra để bảo với hắn rằng: nếu hắn còn tiếp tục hành hạ người đàn bà ấy, một phụ nữ chân yếu tay mềm mà tôi đã hứa bảo vệ, thì tôi sẽ giết hắn như một con chó ghẻ.
Sau đó, tôi phủi áo và buông tha cho hắn.
Được trả lại tự do, nó lẹ làng như một con rắn, luồn vào trong thang máy. Hắn kéo cái cửa ngoài lại, và khi cảm thấy mình đã được an toàn sau khung sắt, nó bèn cười gằn rồi cất tiếng sủa:
- Hừ! Đồ chó đẻ! Đồ tiện dân! Đồ trôi sông lạc chợ! Bộ mày tưởng mày hay hóm lắm đấy hả? Được rồi, mày cứ việc quay trở lại với con điếm thối tha kia đi, và mày cũng nên bảo cho nó biết trước rằng, nhất định tao sẽ thanh toán được nó. Đó là luật Vendetta. Mày đã nghe rõ chưa? Khi tao muốn, tao sẽ có cách. Có thể ngày mai, và cũng có thể tháng sau. Nó có thể chuồn đi bất cứ đâu tùy thích, nhưng tao sẽ bám sát nó. Nó sẽ không bao giờ biết là khi nào thì xảy ra sự việc đâu. Có điều nó phải xảy ra, vậy thôi. Chào, đồ chó đẻ!
Cái thằng khốn kiếp ấy cười vào mũi tôi rồi đóng cái cửa sắt bên trong. Tôi sôi tiết lên và làm một cử chỉ bất ngờ: cầm ngược cái ba- toong, tôi thọc qua khung cửa sắt. Thực tâm, tôi chỉ muốn đập vào mặt hắn. Nhưng tôi đánh hụt, và cái cán cong của cái ba- toong ngoặc luôn vào cổ hắn, và khi hắn bấm nút để cho thang máy hạ xuống thì lại đúng vào lúc tôi kéo được cái đầu của hắn ra phía trước.
Cổ hắn bị kẹt giữa sàn thang máy và sàn hành lang. Thang máy trong lúc vút xuống đã kẹp nát bét đầu nó như một trái dưa hấu, đồng thời cái cán ba- toong của tôi cũng gãy vụn.
Sống lưng tôi lạnh toát. Tôi vội phóng nhanh xuống cầu thang. Hậu phòng vẫn vắng lặng và kế bên, cái thang máy, bên trong có một cái xác cụt đầu, đã trở về vị trí cũ.
Tôi bước vội đến cửa quay và ra khỏi khách sạn. Chẳng có một ai trông thấy tôi. Rồi tôi lặng lẽ trở về nhà.
Sáng hôm sau, tôi đọc thấy trong các báo mẩu tin về "tai nạn" xảy ra đêm qua tại khách sạn Phượng Hoàng ; phía dưới bản tin có vài dòng cáo bạch khẩn thiết khuyên mọi người hãy đóng chặt hai cánh cửa thang máy lại trước khi bấm nút.
Bây giờ, như các bạn thấy đó, định mệnh quả thật là kỳ lạ! Vì cũng chính trong ngày hôm ấy, một vị đạo cao đức trọng ngụ ở một căn nhà áp phía sau sứ quán đã tới xin lỗi chúng tôi: trong lúc lau khẩu súng bắn chim, ông ta đã vô ý để cho đạn nổ làm vỡ mất một khung cửa kính của sứ quán.
Nếu súng của ông ta không bị cướp cò thì đâu có nên chuyện.
Một sự ngẫu nhiên, có phải không, thưa các bạn?
Kết Thúc (END)
Đừng Nói Lời Chia Tay
Font Size: Tác Giả: Phạm Ngũ Yên
Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:
Tháng mười một năm trước tôi đưa dùm Solani về San Antonio để làm lễ tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ. Nàng nói với tôi chồng nàng, Michael, không thể từ Thái Lan về kịp trước mùa Giáng Sinh. Và dù có về kịp, nàng cũng không muốn "nhờ cậy" một kẻ không ra gì. Nàng đang trong thời kỳ ly thân nhưng Michael thỉnh thoảng vẫn ghé lại thăm hai đứa con trong những ngày cuối tháng. Tôi không biết với nàng một người đàn ông "ra gì" hàm chứa những yếu tố nào và làm sao để nàng yên tâm khi nhờ cậy tôi là một kẻ mà nàng chỉ mới vừa quen biết chỉ mới vài tháng. Nhưng chắc không phải do vấn đề tiền bạc. Nhưng tôi vẫn không thắc mắc và lái xe chở nàng. Khi trở về, tôi rủ nàng ghé thăm đồn Alamo cách đó năm dặm về hướng Nam. Mùa thu vàng úa hai bên đường và tôi nhìn thấy những con chim cánh đen đậu từng bầy trên bãi cỏ bên kia cầu xa lộ. Những con chim làm tăng thêm vẻ đen tối một mùa thụ Vì đang mùa Halloween, nên người ta bày biện những trái bí màu vàng chói chang và những hình nộm ma quái màu đen trước những cửa tiệm chạy dọc theo đường phố.
Đây là lần thứ nhì tôi về thăm lại đồn Alamo. Cảnh vật không thay đổi, nhưng tấm lòng tôi mang một mùa thu đã khác. Bên cạnh tôi Solani đang tò mò quan sát những dấu tích ghi dấu một thời oanh liệt đã qua. Những kiến trúc nhân tạo bên cạnh những đổ vỡ lâu đời vẫn được giữ nguyên vẹn làm cho cổ thành mang một không khí vừa thân mật, vừa gần gụi. Trong đó lịch sử được trộn lẫn vào quá khứ, và mỗi phiến đá sần sùi trở nên một đời sống riêng. Chúng gợi cho con người hình ảnh tuyệt đẹp của một thứ hạnh phúc tàn phai đồng thời cũng nói lên một niềm hi vọng bất biến. Chiếc cổng sắt nặng nề màu sét rĩ tương phản với màu gạch đá ong lúc tôi và nàng dừng lại. Nàng quỳ xuống cột lại dây giầy. Tự dưng tôi muốn chụp cho nàng một tấm hình với một dáng điệu trong một bối cảnh như vậy. Nàng bằng lòng ngồi lại bên thềm đá rũ rượi những chiếc lá vàng khô mắt tư lự nhìn về phía ống kính. Sau lưng nàng là những con chim bồ câu mập mạp đang chậm rãi tìm mồi. Miệng nàng như muốn cười và trong một phút giây ngắn ngủi tôi bấm máy. Tôi bảo nàng cứ ngồi yên như vậy để tôi chụp lại lần nữa, phòng hờ tấm hình bị hư. Khi người ta mang trong trái tim mình một hình ảnh đẹp, người ta sẽ thôi không thấy mình già. Tôi cũng vậy. Có một chút nắng còn sót lại trong vòm lá trên cao. Bầu trời tức tưởi không có một giãi mây để gởi gắm vào đó một tâm sự.
- Anh có muốn em chụp cho anh không? Nàng hỏi.
- Không cần.
- Tại sao?
Tôi không biết trả lời tại sao. Nhưng nếu dung nhan của mình không rực rỡ lắm thì đừng nên nén chặt nó xuống lòng giấy. Đôi lúc, chúng ta cần thiết quên đi những gì mà thời gian đã tàn nhẫn ném lên mặt mũi. Nhưng với Solani thì không sao. Nàng là một người đàn bà kỳ lạ mà tôi đã quen. Không biết có phải tôi đã bị sự thu hút của nàng từ lần gặp nàng đầu tiên hay không. Nhưng tôi biết những bão giông sẽ chờ tôi ở một góc đường.
Tôi sẽ không bao giờ biết tuổi thật của nàng. Chỉ biết nàng là một người đàn bà không còn trẻ thực sự trên giấy tờ nhưng lại khuôn mặt thì phản đối lại điều đó. Nàng là một phụ nữ sinh tại Campuchia. Và cách đây một tiếng đồng hồ nàng đã trở thành một công dân Mỹ. Tiếng Anh nàng nói rất lưu loát và đôi lúc nàng nói được vài câu tiếng Việt, dù không rõ ràng.
Tôi và nàng làm chung một ca trong một hãng điện tử lớn tại thành phố Austin. Một ngày nào đó tôi sẽ nhớ lại cách thức mà tôi đã quen biết nàng và tại sao tôi đã yêu say đắm được nàng khi ngôn ngữ là một rào chắn mạnh mẽ để tôi và nàng tìm đến sự cảm thông. Bây giờ tôi chỉ muốn nhớ rằng tôi quá yêu nụ cười nàng và khó lòng quên được nó. Nụ cười có những chân răng trắng đều không khuyết điểm như hàm răng của các người mẫu.
Một ngày nào đó nàng sẽ xa tôi vì không có gì tồn tại mãi trong cuộc đời nầy. Và chúng tôi ai là người sẽ quên ai trước? Nhưng để xóa đi một cái gì dính líu đến một nhân cách hay một con người thì hơi khó. Nụ cười nàng đủ khả năng làm cho tôi tiếp tục đi trên những chông gai sắp tới với những bước chân mệt mõi già nua. Như một con sói miền hoang mạc đi trên những dấu chân bỏng rát cuộc đời.
Tôi đang sánh vai đi với nàng dưới bóng mát êm dịu của một mùa thu tháng mười một. Tôi không muốn mọi suy nghĩ buồn rầu nào làm quấy rầy một niềm vui. Solani cũng muốn như vậy. Không phải nàng đã nói với tôi là chấp thuận cho tôi đưa nàng đi đến tận cùng góc bể chân trời nào khi nàng chui vào ngồi trong lòng xe của tôi? Câu nói đùa nhưng nghe ra thật có lý.
Có một vòm cầu nối liền phố xá bên nầy và khu rừng nhỏ phía bên kia. Dòng sông êm đềm trôi bên dưới. Cách đây mấy trăm năm, có lẽ những thổ dân da đỏ đã từng đi lại trên dòng sông nầy bằng những chiếc thuyền độc mộc trong khi bầy cá sấu hả miệng rượt đuổi theo. Bây giờ những con sấu già nua nhất chắc đang tồn tại trong một sở thú nào đó và trên dòng nước đang lôi kéo theo những xác lá vàng kia, chiếc thuyền độc mộc được thay thế bằng những chiếc xà lan sơn phết rực rỡ. Chúng đang làm công chuyện chuyên chở những du khách từ mọi nơi đổ về. Chúng tôi dừng lại bên cầu, nhìn xuống. Khuôn mặt nhìn nghiêng của nàng kề cận bên tôi.
Tôi ngây ngất tận hưởng mùi thơm đang đầm đìa bên cạnh hương thể nàng và ước ao trái đất nầy đừng quay và thời gian sẽ nằm yên tại chỗ. Từ hướng nhìn như vậy, tôi phát giác thêm một ưu điểm khác làm nên bởi chiếc mũi thẳng thớm tự nhiên của nàng. Tôi yêu mến những người đàn bà không cầu kỳ khi mời gọi người ta chiêm ngưỡng nhan sắc mình. Vì một người đàn bà đẹp không cần có sự tiếp tay của mỹ phẩm hay dao kéo vớ vẩn.
Nơi góc tối của những bụi dứa dại, bức tượng cao bằng người thật của Thánh Antonio ôm con cừu nhỏ trên tay. Lau lách dưới chân ông và cuộc đời gai góc bên ngoài. Trong khi chúng tôi như hai người còn trẻ tuổi bám lấy nhau không rời. Đi qua những hàng quán, những siêu thị. Thỉnh thoảng nàng dừng lại hồi lâu dùng tay rờ rẫm lên trên mặt đá lạnh lùng. Hình như từ nơi đó đang toát ra sự sống của quá khứ. Mỗi một cảnh vật hình như đang có hơi thở và biết bao nhiêu năm tháng ràn rụa trên mỗi hòn cuội âm thầm kia. Biết bao nhiêu nỗi vui và đau khổ chạy đuổi nhau trên từng cánh lá và tiếng kèn xung trận một thuở nào còn vang động đâu đây.
Chiều xuống ngoài bến nước đang lên đầy làm ướt đẫm những tam cấp dẫn lên những vỉa hè. Tiếng vang khô khốc khi một con nhái xanh vừa rời khỏi chỗ trốn để nhảy phóng vào lòng nước. Người ta ngồi nhâm nhi những ly cà phê thơm mới lấy ra từ lò xây và mùi những trái dâu trong ly kem hồng đào. Mùi thịt nướng tươm mỡ cùng với mùi hành phi từ các quán ăn Tàu. Tất cả mọi thứ không gian và con người trộn lẫn vào nhau giống như một hoạt cảnh trong tranh của Monet.
- Em muốn về. Hình như trời sắp mưa. Solani nói khi ra ngoài.
Một cơn dông báo hiệu sẽ đến trong vài phút nữa mà khi còn bên trong chúng tôi không thấy. Chúng tôi chia tay Alamo vội vàng. Cơn mưa chờ đợi chúng tôi ra đến tận ngoài bãi đậu xe mới ném vào mặt chúng tôi những hạt nước hung bạo. Tôi lái xe chầm chậm lòng tiếc rẻ một ngày vui chóng qua. Con đường mịt mùng đôi lúc không thấy những lằn lane vàng phân chia hai chiều. Một vài tia chớp lóe sáng ở cuối chân trời màu chì. Có một lúc mưa to quá tôi phải đậu dạt vào khu vực emergency bên lề. Solani hơi có vẻ sợ hãi. Tôi an ủi nàng:
- Đừng sợ. Anh sẽ đưa em về bình an. Chỉ một chút nữa thôi trời sẽ tạnh lại. Nàng không nói gì một hồi lâu. Bàn tay run run trong bàn tay của tôi và tôi tưởng nàng đang buồn ngủ:
- Em sợ, Se Tran.
- Điều chi?
- Ám ảnh của quá khứ. Đôi khi em thấy em đang sống lại thời thơ ấu trong giấc ngủ. Cánh đồng chết và những thây người chưa kịp vùi lấp. Khi nãy dòng sông làm em nhớ lại con sông quê nhà. Nhưng không phải yên bình như tại đây.
- Anh biết. Quê của anh cũng có hình ảnh như vậy.
- Con sông của quê em đục ngầu phù sa vào mùa mưa và càng về thượng nguồn phù sa càng trở thành màu đỏ. Không phải màu đỏ tự nhiên mà là màu đỏ của máu. Đó là những ngày tháng bắt đầu cuộc đại khủng bố của Pôn Pốt. Nàng tâm sự. Mười lăm tuổi em bỏ học vì Ponpot không muốn thấy mọi giai cấp tồn tại ngoại trừ giai cấp thống trị. Mười bảy tuổi chứng kiến cả gia đình bị thảm sát bằng rìu, sau khi bị kéo lê trên khắp đường phố bằng dây kẻm gai. Em sống sót lạ lùng và mười tám tuổi đi qua cánh đồng chết một mình cùng tất cả những sợ hãi.
- Việt Nam của anh cũng có những thứ đó, sau đó vài năm. Những kích thước đau khổ nào cũng đều giống nhau. Chỉ khác ở kinh nghiệm và sự cảm nhận của mỗi người.
Khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống khỏi những cành nhánh oằn oại của các cây sồi trước hãng, mùa đông sừng sững hiện ra không dự báo trước. Buổi sáng đi làm đã có thấy vài chiếc áo ấm mọc trên vai vài người. Bên hành lang đường dẫn vào cổng phía tây, những vòng khói thuốc bay quanh co trong sương mù từ những tay ghiền thuốc đang tiếc rẽ một hơi ấm tàn đêm. Lòng tôi thấy mê mệt một hạnh phúc dịu dàng khi hai bàn tay thủ kín trong túi áo. Lâu lắm rồi tôi mới thấy lòng tràn ngập một nỗi thôi thúc giang hồ khi đi qua một góc phố mù sương đầu ngày, khi thành phố đang còn giữa thức và ngủ. Nhớ Đà Lạt ngày mới lớn, thời lính tráng lãng mạn, tôi cũng đã từng đi qua một vài con đường. Rời bỏ vài con phố để đến nơi người tình ở. Và hơi thuốc đầu ngày ngập ngừng trên một địa chỉ hoa, khi tôi đưa tay lên gõ cửa.
Câu chuyện tôi và Solani, cho đến bây giờ, tôi không biết tôi và nàng ai là người khánh tận khi tình yêu trở thành một vết thương. Tôi không muốn đau khổ vì điều nầy tự dưng đối với tôi quá mới mẻ. Nàng chẳng từng nói với tôi rằng đối với Michael thì khó lòng có một sự ràng buộc nào khiến nàng hồi tâm để quay về. Nàng cũng từng nói với tôi là chồng nàng là người đàn ông rộng lượng và hiểu nàng hơn ai hết. "Nhưng lý do nào mà em và Michael lại không ở chung với nhau?" Tôi đem thắc mắc đó hỏi nàng trong giờ ăn tại hãng.
- Khi một người đàn ông quá hiểu tường tận về người bạn đời của mình thì sẽ không còn gì để say đắm. Nàng nói mà nhìn tôi với đôi mắt như muốn cười. Đó là một kinh nghiệm. Anh ấy là chủ một tiệm rượu nhỏ ở đường số Tám. Vài năm trước công việc buôn bán đang phát đạt và thu nhập hàng ngày có vẻ tiến bộ trông thấy. Em lúc đó đang ở nhà không đi làm vì không có ai coi chừng thằng con nhỏ, nó mới được bốn tuổi. Rất ít khi em đi tới Liquor của Michael vì anh biết đường xá ở Downtown rất phức tạp. Trong khi em lái xe "quờ quạng" hơn ai hết. Một lần có việc cần em chạy đi tìm hắn, mà đáng lý em nên gọi phone trước mới đúng. Nhưng phone ngoài tiệm đang bận lúc đó. Và anh biết em thấy gì không?
- Thấy gì?
- Một con mẹ người Mễ nào đó đang ngồi trên đùi của Michael và áo quần thì xốc xếch. Em không nói không rằng và đập bể không thương xót những gì kề cận trong tầm tay. Một mảnh vỡ văng ra từ những chai rượu làm tay em bị chảy máu. Và xe cứu thương tới. Và sau đó thì... đó thì mạnh ai nấy sống.
Nàng chỉ cho tôi thấy một vết thẹo nằm dưới cổ tay. Tôi nói:
- Em dữ quá.
- Em vậy đó. Có thể là bản năng từ những ngày còn nhỏ, khi em đối diện với những bất trắc...
Đâu phải ai cũng là một con bướm nhởn nhơ mãi trong khu vườn đầy ứ những nụ hoa. Một lúc nào cánh bướm sẽ mỏi và nhịp vỗ sẽ không còn đủ sức làm nên một tín hiệu. Trong khi tôi không còn thời gian để chờ đợi. Tôi hứa với nàng sẽ từ bỏ cuộc đời độc thân kể từ mùa xuân này để cưu mang nàng và hai đứa con. Tôi sẽ làm hôn lễ với nàng dù không rình rang nhưng đầy đủ những lễ nghi trong một nhà thờ công giáo. Có vị linh mục chủ lễ ban phép hôn phối và chúng tôi sẽ quỳ bên nhau dưới những ngọn nến rực rỡ.
Tôi không thể đè nén niềm vui xuống tận đáy lòng. Vì khi nghĩ đến nàng lòng tôi dâng lên một nỗi hân hoan kỳ thú. Tôi trở thành một người đàn ông mất thì giờ rất nhiều khi đứng thường xuyên trước tấm gương trong phòng rửa mặt, chỉ để nhìn ngắm dung nhan mình. Một công việc mà tôi rất ghét từ trước đến nay. Tôi tự tìm mua những món đồ dành cho một tổ ấm. Những món đồ vặt vảnh, củ kỹ không xài tôi đem cho ở Goodwill, và dùng những ngày cuối tuần đi ăn với mẹ con nàng.
Tình yêu làm cho người ta vững vàng hơn hay yếu đuối hơn. Tôi ghé thăm nàng thường xuyên nơi căn phòng nàng thuê ở đường Lamar. Nàng ngược lại cũng hỏi thăm địa chỉ tôi và đôi khi tạt qua nói là để mượn của tôi một tờ tạp chí, hoặc nhờ tôi chỉ cho nàng xào nấu một món ăn Việt Nam. Khả năng bếp núc của tôi chỉ đủ dạy cho nàng món trứng chiên và thịt bò xào trộn với rau muống. Một món mà nàng rất thích.
Mùa đông lấp lánh trên mấy con suối chảy quanh co dưới sườn đồi và tiếng chim kêu ít hơn trên những đụn tranh sau lưng nhà bưu điện. Đó đây, cảnh vật mang một nỗi buồn khi tôi lái xe đi về buổi chiều, ngang qua mấy bờ cỏ xám xịt. Qua một con đường xe lửa nhức nhối nằm đợi những toa tàu. Một cái quán bán đồ fast food nằm khép nép bên cạnh một sân chơi trẻ con. Nơi đó tôi có thể tìm thấy một vài món mà đôi lúc tôi có thể đem về tiêu thụ ngay sau một ngày làm việc quần quật ở hãng. Một ly cà phê chỉ có 59 cent cho bất cứ mọi size. Dĩ nhiên, tôi luôn chọn cho mình một ly cà phê lớn nhất.
Một lần tôi gặp Michael tại sân chơi. (Nàng không bao giờ cho tôi có dịp biết mặt chồng của nàng- nhưng tôi đoán ra Michael vì thấy đứa con trai nhỏ của nàng). Hai cha con đang chơi ném bóng vào một cái giá bóng rỗ. Tôi quên hôm đó là ngày chủ nhật cuối tháng, thời gian mà Michael có quyền đến thăm con. Họ quay lưng về phía tôi và tôi cũng không muốn đứa bé bắt gặp. Có một sự cảm xúc dâng lên trong tâm hồn tôi khi tôi cầm lấy tiền thối từ người bán hàng. Nhìn dáng điệu của Michael cố vươn mình tới trước để đón quả bóng từ con trai, và cách thức liệng quả bóng làm sao không rơi xa ngoài tầm tay của đứa bé, tôi biết tôi khó lòng bày tỏ hơn được như vậy. Một người cha biết chăm sóc tốt cho con cái trong một chuyện nhỏ nhặt thì chắc không phải hoàn toàn là một người đàn ông xấu. Biết vậy, nhưng tôi vẫn không làm sao giũ bỏ hình ảnh Solani ra khỏi tâm trí tôi. Đã không thể quên lãng được mà trái lại tôi lại càng muốn chiếm hữu nàng. Càng lúc, tôi càng cảm biết được sự ghen tị đang nẩy nở trong tôi từ sau buổi sáng hôm đó.
Gần Giáng Sinh, tôi hỏi nàng có cho phép tôi mời nàng đi nhà thờ và sau cùng ghé về nhà tôi ăn bữa cơm tối mừng Chúa ra đời. Nàng trả lời:
- Không được. Michael muốn có buổi tối Giáng sinh với hai đứa nhỏ. Anh biết, trẻ con chưa quen thuộc với không khí thiếu mất một người cha hay một người mẹ trong gia đình. Chúng không muốn biết lý do và mọi sự bào chữa. Vì lỗi lầm thuộc về người lớn.
Vậy là tôi sẽ ăn lễ một mình trong căn phòng quá rộng rãi và gặm nhắm nỗi buồn như ngày nào tôi chưa từng quen nàng. Buổi chiều tôi vào siêu thị tìm mua cho nàng một chiếu áo len cao cổ và hai con gấu nhồi bông cho hai đứa con nàng. Tôi cũng mua thêm một bình hoa hồng để trang trí căn phòng bớt hiu quạnh. Nơi một ngã ba dẫn vào khu tôi ở bóng những cây thông có treo đèn màu xanh đỏ dội xuống đường ánh sáng huyền hoặc. Những vạt sương mù vương vãi đó đây che lấp hàng rào chung quanh công viên và khi tôi trở về nhà đêm đã qua lâu. Có ánh đèn trong nhà khiến tôi ngỡ mình quên tắt điện buổi chiều. Nhưng khi cánh cửa mở ra tôi thấy Solani đang ngồi coi truyền hình nơi ghế sophạ Tôi ngạc nhiên:
- Em đến bao giờ?
- Chỉ mới đây thôi.
- Không thấy xe em đậu ngoài sân?
- Em đến đây bằng taxi. Lát nữa anh phải đưa em về. Nàng cười rạng rỡ khi thấy tôi ngẩn ra. Đùa thôi. Xe em đậu phía bên kia đường đối diện với người hàng xóm của anh. Để anh bất ngờ.
- Bất ngờ thật. Mấy đứa con em ra sao? Chúng không biết em đang ở đây chứ?
- Michael đưa chúng đi xem phim và bây giờ chắc đang ngồi trong một tiệm ăn nào đó. Thật tình mà nói, giữa em và Michael chưa ai thấy tự nhiên sau một biến cố như vậy. Nhưng không thể làm khác hơn.
Nàng nói và đứng lên, cùng lúc cánh tay đưa ra nhưng không thể cản ngăn cái hôn sỗ sàng của tôi. Tôi tưởng nàng mới vừa uống nước bạc hà vì môi của nàng có mùi vị giống như vậy.
- Anh sẽ không muốn em về, trước khi trời sáng. Em làm anh đau khổ khi nghĩ rằng em sắp vuột khỏi tầm tay.
- Có thể như vậy. Đôi lúc em nghĩ em rất yêu anh. Đôi lúc em nghĩ em không thể xa rời hai đứa con em. Chúng vẫn còn yêu mến Michael.
- Nhưng không phải em đã dứt khoát vấn đề từ mấy tháng nay? Và còn lời cầu hôn của anh?
- Mới đầu thì như vậy. Nhưng bây giờ thì câu chuyện có vẻ theo một chiều hướng khác.
- Tại sao?
- Đừng hỏi tại sao? Chỉ biết bây giờ em đang ở đây. Tại sao anh không mời em uống một cái gì đó để đánh đấu một đêm Giáng Sinh êm đềm?
Nàng nói vậy. Nhưng khi tôi định rời nàng để đi tìm chai rượu vang thì nàng đổi ý. " Chúng ta không có thì giờ phải không? Se Tran". Nàng thì thào.
Chúng tôi không biết ai đã kéo ai ngã xuống chiếc giường chật chội trong phòng, trong bóng tối mờ nhạt thơm mùi nước hoa từ mái tóc nàng. Trong bóng tối đôi mắt nàng quay nhìn về hướng khác, như hai hướng đời chia xa. Tôi biết từ bây giờ tôi sẽ mất nàng.
Lâu lắm rồi, tôi mới biết được tình yêu và sự đau khổ. Phải chi chúng tôi còn thanh xuân để nghiền nát đời nhau và bù đắp cho nhau mọi bất hạnh cùng mọi lạc thú. Chúng tôi không thể bơi ngược dòng sông bằng đôi cánh tay mang triệu chứng già nua trong khi đôi môi run rẩy một quá khứ buồn. Nhưng không phải vì vậy mà thân xác chúng tôi không hòa nhập nhau được. Vì ngoài sự đam mê, chúng tôi đều có chung một mẫu số đau khổ. Nàng đã qua một thời ấu thơ buồn rầu như tôi. Trên những dấu chân tàn phai và bóng tối của những tàn cây thốt nốt. Nơi những sợ hãi luôn là kích thích tố làm tăng trưởng mọi đời sống và cánh đồng chết chôn vùi mọi thanh xuân.
Bây giờ nàng và tôi không còn ai dấu diếm những rung động của mình. Chúng tôi phơi bày cho nhau một phần đời sống quanh co khuất lắp. Và giữa tôi và nàng, không còn khoảng cách nào để chúng tôi từ chối tham dự vào một vũng lầy hấp hối cuối đời. Một lần nào nàng nói với tôi tên nàng có nghĩa là một dòng sông. Tôi cũng đang là một nhánh sông tìm cách chảy xuôi vào định mệnh nàng, nhưng không thể.
Đêm khép nép trên những tàn cây ủ ê bên ngoài và không bao lâu trời sẽ sáng. Mùa đông không cần khua động những nhát dao nhưng rét mướt làm điếng tê da thịt. Có tiếng dế kêu râm ran từ một góc tối. Không rền rĩ, nhưng đầy những cáo trách.
Trong bóng tối mù căm, nàng mặc quần áo lặng lẽ, nhanh chóng như lúc vuột bỏ ban đầu. Chỉ còn một mảng trắng màu sữa từ chiếc cổ thanh tân của nàng. Như một đánh dấu giữa mộng và thực. Solani hôn tôi vội vàng, trước khi tôi kịp vươn cánh tay ra để níu lại vòng lưng thon thả.
- Good bye, Se Tran. See you later. Nàng lìa xa tôi bằng cách thức như vậy. Tôi không kịp nói lời chia tay. Nàng đang nắm tay vịn cánh cửa, nghiêng về phía tôi. Cuối cùng cánh cửa mở ra, đóng lại. Đóng kín niềm hi vọng mới mẻ trong tôi. Nàng đã ở bên ngoài. Nàng sẽ đứng lại một chút và cuối xuống cột lại giây giầy như thói quen. Đi bộ băng qua bên kia đường để đến nơi đậu chiếc xe Nisan Sentra đen của nàng. Nơi đó có một bụi xương rồng và gió đêm sẽ lau khô dùm nàng những dòng lệ nếu có. Nàng sẽ vươn vai đi về phía mặt trời sáng mai, nỗi đau đớn lìa xa dần dà sẽ kéo da non trong tâm hồn son trẻ của nàng. Vì không ai nhớ hoài một vết thương. Bổn phận làm vợ làm mẹ sẽ làm nguôi ngoai nàng một vài tháng sau. Dầu gì nàng vẫn còn một gia đình để quay về. Có những ngọn nến chảy miệt mài dành cho nàng suốt một mùa đông và những mùa xuân kế tiếp.
Còn tôi? Căn phòng mà tôi và nàng sống qua một đôi giờ hoan lạc nhìn xuống con đường 183. Ngày cũng như đêm xe cộ lao vun vút không ngừng như nhịp chảy của cuộc đời. Chỉ có tôi đang bị ném hụt hẫng bên ngoài như một món đồ tình cờ văng ra khỏi chuyến xe đời chạy vội. "See you later" Làm sao gặp lại? Đó không phải là một lời nói qua đường nhưng tôi thấy khó khăn làm sao để thực hiện lời hứa đó. Khoảng vài tháng sau tôi bị nghỉ việc vì hãng bị down. Phòng nhân viên đưa ra một danh sách những nhân viên không cần thiết cho hãng trong đó có tôi. Solani vẫn còn ở lại. Tôi không gặp nàng một ít lâu. Lý do vì tôi phải đi tìm một việc làm mới trước khi mùa đông chấm dứt. Và một lý do khác, có lý hơn, là mặc cảm.
Tôi không kịp gởi cho nàng chiếc áo len màu tím tượng trưng cho một tình yêu buồn. Món đồ không đáng là bao nhưng tôi thấy lòng nặng trĩu. Buổi chiều tôi lang thang vào trong mall xem người ta mua sắm, cười nói. Xem người ta đầu tư lòng tin trên những mặt hàng. Tôi đi qua những nơi mà tôi và Solani đã từng đi qua trong thời kỳ tiền "trăng mật". Mùa xuân phồng căng cánh gió dưới chân cầu Downtown. Những bầy dơi bay về đậu đen một góc phố. Có một vài đêm tôi không đè nén lòng mình, gọi phone cho nàng. Đầu giây bên kia tiếng message yêu cầu tôi để tên lại, chủ nhân về sẽ trả lời. Có cần thiết nêu lên lý do cho một lần gặp gỡ?
Cho đến một ngày, tôi gặp lại Solani khi tôi bị kẹt xe bên nầy đường. Tôi có công việc làm trở lại sau hơn ba tháng ăn tiền thất nghiệp. Buổi sáng mùa xuân ánh nắng rực rỡ bên cạnh vòi nước bên hông nhà thờ. Con đường hai chiều dành cho người đi bộ, tôi thấy nàng phía bên kia. Trên lưng nàng mang một túi xách đeo lưng dành cho người leo núi. Chiếc quần jean màu xanh da trời dể chìm khuất trong những màu xanh tương tự. Dòng người đông đảo xô đẩy nàng tiến về phía trước. Nàng không thấy tôi, dù tôi chỉ cách nàng khoảng hai chục feet. Mái tóc màu đen của nàng đánh dấu cho tôi biết nàng còn trong đám đông hỗn độn. Không có vẻ gì báo hiệu cho tôi biết là nàng đi với ai đó. Gương mặt nàng thoáng hiện ra và một lúc lại bị che mất bởi người đi bên cạnh. Nàng đi những bước chân dài dọc theo bức tường sần sùi chạm trổ hình thù Ai Cập. Trái tim tôi quặn thắt lại và toàn thân như muốn lên cơn động kinh. Một chiếc xe buýt chợt trờ tới đậu trước mặt tôi. Vài ba người lần lượt trèo xuống đường. Một vài người chuẩn bị bước lên. Mãi đến khi xe buýt chậm chạp bò đi thì Solani không còn trước mặt tôi. Tôi dáo dác tìm nàng. Và đèn xanh bật lên, xe tôi phải lao về phía trước.
Có những mối tình bị chết cạn vô lý trong lòng suối hẹp. Hay đôi tình nhân tình cờ lạc nhau giữa một ngã ba. Tất cả đều mang một dáng vẻ bi thiết mà trái tim con người không thể cân đối được. Trên những con đường một chiều, người ta luôn vẽ những bảng cấm Do not enter. Và không ai vượt qua được những nỗi đau đầm đìa ẩn dấu đàng sau đó những điều dụ hoặc. Một lúc nào đó, theo thời gian, nụ cười của nàng sẽ mất đi một chút quyến rũ, nhưng sự thương tổn thì vẫn còn.
Phải mất nhiều năm sau ngày tôi xa Solani, tình yêu mới bắt đầu trở nên lắng đọng trong tôi. Hai lần tôi nghe tiếng phone của nàng nhưng cả hai lần tôi đều không muốn trả lời. Lần thứ ba nàng gọi tôi báo tin chồng nàng vừa mất. Chuyến máy bay gồm có 201 hành khách vừa rớt xuống biển Thái Bình Dương. Chồng nàng có mặt trong chuyến may bay thảm khốc cuối cùng của thế kỷ. Tôi an ủi nàng và tôi nhớ mình có gởi đến nhà nàng một vòng hoa phân ưu. Trong khi tôi loay hoay tìm kiếm địa chỉ nhà quàn để đến chia buồn, tôi tình cờ nhìn thấy hộp giấy gói chiếc áo len định tặng nàng mùa Giáng Sinh và hai con gấu nhồi bông nằm chìm khuất trong góc tủ...
Kết Thúc (END)
Người Đi Tìm Trầm Về Lại Biển
Font Size: Tác Giả: Trúc Chi
Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:
Làng Cọp Râu Trắng
1987-1997
Làng Cọp Râu Trắng có một cậu bé lúc lên năm tuổi vào ngày tế lễ thường lén bé lúc lên năm tuổi vào ngày tế lễ thường lén ngồi gần Cọp Râu Trắng
Một lần Cọp Râu Trắng rỏ bọt trắng lên người cậu bé. Một ngày sau, cậu bé ra đi mất tích. Có tin cậu bé bị người đi tìm trần bắt. Cậu bé bị bắt đi lên mười cánh rừng, qua mười ngọn núi.
Một hôm đến một rừng sâu, người đi tìm trầm trói cậu bé vào một gốc cây để làm lễ tế thần núi. Trước khi tế, người đi tìm trầm cho cậu bé ngậm mười lá ngải để khi chết được linh thiêng chỉ chỗ có trầm cho họ. Đến giờ vào lễ, bỗng một tiếng gầm rung chuyển. Cọp Râu Trắng xuất hiện.
Lúc cậu bé tỉnh dậy không thấy người đi tìm trầm, mà chỉ thấy bên mình một cây đàn bầu và cây gậy có mấu hình đầu cọp. Cậu bé khẩy đàn thử, tiếng đàn như phát ra có tiếng người và tiếng sóng biển.
Từ đó cậu bé ở lại trong rừng làm quen với chim và hồn những cây trầm. Thường trong giấc ngủ cậu bé mơ được Cọp Râu Trắng ấp ủ. Lúc thức dậy thấy bọt trắng đầy hai bàn tay. Lúc cậu bé đánh đàn bầu thì thấy mình như đang trong cơn mê, có thần trầm xõa tóc ngồi bên cạnh dạy đàn. Tiếng đàn làm cậu bé thức giấc mê nhớ về biển da diết. Tiếng sóng, tiếng chim tiếng trầm giục gọi, giục cậu bé lớn lên như thổi. Những lúc, rừng sâu, núi thẳm chắn lối, thì tiếng đàn và cây gậy có mấu hình đầu cọp chỉ cho cậu bé hướng đi. Có một hướng đi về lại biển hiện lên rõ từng nét trong mắt cậu bé.
Đi hết mười cánh rừng, mười ngọn núi cậu bé thành người đánh đàn bầu về đến bên gốc cây cốc làng Cọp Râu Trắng. Ngồi dưới gốc, tiếng đàn bầu rung lên, cành lá cây cốc lay chuyển có giọng vang xa kể lại chuyện cho người đánh đàn bầu nghe về mình.
Sáu mươi năm về trước, một bà mẹ nghèo làm chòi bên gốc cây cốc bán nước để sống. Một hôm bà ra giếng lấy nước, chân giẫm lên một hòn đá có dấu chân Cọp Râu Trắng để lại tử xửa xưa. Mấy ngày sau, bà có thai. Bà đẻ đúng vào giờ dần, ngày dần, tháng dần. Lúc bà đau đẻ thì dấu chân Cọp Râu Trắng trên hòn đá biến mất. Vào giờ sinh cậu bé thì ngoài đình làng cũng đang làm lễ tế thần Cọp Râu Trắng. Ngày đó, Cọp Râu Trắng từ núi về, dừng lại bên gốc cây cốc gầm một tiếng vang động. Giọng gầm của Cọp Râu Trắng vừa dứt thì trong chòi tranh bà mẹ đẻ xong, mẹ tròn con vuông. Tiếng khóc của đứa bé cất lên chào đời.
Một tuổi, cậu bé cầm đũa gõ vào bét. Tiếng bát giống tiếng đàn ngân. Hai tuổi, cậu bé cầm đá gõ vào đá. Tiếng đá giống tiếng đàn. Ba tuổi, cậu bé thả con ốc xuống giếng đá, tiếng giếng đá rung lên như tiếng đàn. Lên năm tuổi, tay cậu bé sờ vào cây cốc, cây cốc rung lên giống tiếng đàn. Trong tiếng đàn bầu có giọng trầm của cây, giọng cao của núi, giọng vang của sóng làng Cọp Râu Trắng.
Kết Thúc (END)
Bão
Font Size: Tác Giả: Lê Minh Hà
Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:
Bão được báo trước. Tối tối tivi thông báo từng bước đi của nó. Hướng bão. Sức gió. Bão lần này sẽ đổ vào vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những vùng chịu ảnh hưởng của bão. Người lớn nhà nghèo dặn con xem lại can dầu và lau ống thông phong. Người lớn nhà giàu loay hoay nạp điện cho mấy cái đèn neon nhỏ. Mấy bà chép miệng rồi gạo lại lên đùng đùng. Rau nữa. Dập nát hết. Mấy con mẹ bán rau thế nào cũng thẽ thọt bác đi cả chợ xem có kiếm được mớ rau nào ngon hơn rau em không? Và tất cả cười ù, háo hức chờ Một mình chống lại maphia. Diễn viên dũng cảm y như thật.
Cơn bão mạnh không ngờ. Dù Hà Nội chỉ là vùng chịu ảnh hưởng. Gió lồng lộn. Gió khan. Cả khu tập thể chẳng nhà nào còn cửa kính từ hơn hai mươi năm trước, khi Mỹ đánh phá khu vực Vĩnh Tuy và làng Thanh Nhàn bên đê. Thư đã cẩn thận cặp chặt một tấm nilon vào hai cánh cửa chớp, lại còn chặn thêm cả cái thớt gỗ nghiến nặng chịch mẹ thỉnh từ quê ra. Vậy mà gió hất tung, hắt nước như tát vào phòng. Cả nhà loay hoay trong diện tích hẹp còn khô ráo sát cửa ra vào. Không ai ngủ nổi. Rồi cuối cùng Thư phải bò lên gác xép vốn là giang sơn của bố mẹ, nơi không có cửa sổ và có thể nằm đưa cánh tay lên là chạm trần.
Bão tan lúc gần sáng. Thư dậy sớm, uể oải dọn dẹp nhà cửa. Chủ nhật, Thư có tại nhà một lớp học thêm thi đại học. Nhưng trời đất thế này chắc chẳng có đứa học trò nào. Vậy mà chúng vẫn bò tới. Một cô bé nhà ở tít Nghĩa Đô sụt sịt cười: Em mất dép cô ạ. Chỗ hồ Thiền Quang nước ngập ngang thắt lưng em. Trôi tuột hết. Bao nhiêu người hôi cá. Xe máy thành xe lội nước. Người giàu cũng khóc. Bọn trẻ lục tục theo nhau vào chào râm ran trong khi bố mẹ Thư tươi tỉnh theo nhau ra khỏi cửa sang nhà hàng xóm ngồi nhờ để con gái có chỗ lên lớp. Lòng Thư bồn chồn: Chúng nó thiết tha với việc học hay thiết tha với gì?
Bữa cơm trưa mỗi mình mẹ nói. Toàn thông tin bà lượm lặt được từ sáng tới giờ. Một tay giáo viên trường Dược bên dốc Thọ Lão đưa em vợ ra ga đúng lúc bão to trở về thì bị một cành cây rơi trúng đầu. Chết. Chết ngay chứ còn gì nữa. Trên Thi Sách có một cặp vợ chồng đi làm ca đêm về vấp phải dây điện đứt. Để lại hai đứa trẻ. Khổ. Bố hững hờ khêu một ngọn rau xào: Thôi mẹ nó ăn đi cho con còn dọn. Thư nhìn mâm. Mưa bão mà mẹ vẫn lo được mâm cơm chu đáo cho ngày chủ nhật. Rau muống xào tỏi vắt chanh, thêm chút mắm tôm xanh ngắt. Đĩa thịt quay. Đĩa kiệu chua. ớt thái từng lát mỏng nổi lập lờ giữa bát nước chấm trong một màu nâu quý. Thiếu kinh giới. - Mẹ phàn nàn - Mưa bão thế này... Nhà nào trồng rau thơm thì chỉ có nước khóc.
Buổi chiều Thư dắt xe ra khỏi nhà. Đi lăng quăng. Đường phố ngổn ngang cây đổ. Hồ Gươm. Cây cối ven hồ bị vặt trụi hết lá. Mặt hồ trống trải soi rõ từng tảng mây trắng nhờ nặng nước đang lừ đừ trôi ngang. Thư ngó về phía Nhà Thờ. Ngày trước Thư hay lên phố ấy. Ngày trước nhà Trung ở phố ấy.
Cả nhà Thư tiếc Trung. Trung khi đó hai hai tuổi. Vừa xong đại học quân sự, được phân công về một chỗ rất thơm. Nhà Trung gia giáo. Trung lại không phải là con cả. Đằng sau cũng chỉ còn một cô em sắp ra trường. Trung mê Thư và bố mẹ Trung xoắn xuýt kết Thư làm con dâu.
Thư hay lên nhà Trung từ trước đó. Theo bà chị có gần bảy năm phổ thông cùng Trung. Nhà mái ngói, không có trần chống nóng. Nhưng rộng. Giữ được nguyên cả số nhà sau khi tiếp quản Thủ đô như thế không phải dễ. Ông bà nội Trung ở nhà ngoài. Ông cụ gần tám mươi, còn nguyên phong thái của một công chức thời cũ. Mùa đông áo khoác dạ và mũ phớt. Mùa hè quần áo đũi màu sáng. Batoong và tẩu. Tươi cười nhưng không niềm nở. Bà cụ là đời vợ thứ hai của ông lão, không biết xuất thân thế nào nhưng bao giờ cũng dịu dàng: Thưa cậu, dạ thưa cậu, tôi đã... dạ chưa... Không hiểu sao cái phong cách sống bặt thiệp lỗi thời đó của hai ông bà già lại quyến rũ Thư.
Nhưng lối sống của nhà Trung thì xô bồ. Trừ đoạn thưa gửi. Bố mẹ Trung đều là dân Bách khoa khóa một, ra trường xung phong về Hòn Gai. Xung phong trước khi bị phân công về đúng chỗ ấy, sau còn dễ cựa. Mẹ Trung có lần cười cười giảng giải. Thư không biết bản tính năng nổ dễ dàng thích nghi với đời sống của bà hay mười mấy năm vùng mỏ đã đưa lại cho bà cách sống xởi lởi, ăn to nói lớn, rất dễ chan hòa cùng hàng phố. Cái để người ta có thể đoán ra gốc gác của bà có lẽ chỉ là cách ăn mặc. Bao giờ cũng giản dị, mà thực ra rất cầu kì. Trung có lần đã tự hào: Ông bà ngoại anh ngày xưa có tới một nửa phố như phố này để cho thuê.
Thư biết chính mẹ Trung mới là người chèo lái gia đình chứ không phải ông bố đạo mạo chuyên môn thuần túy và suốt đời cả nể. Nói chuyện với bà thật dễ chịu. Không phải rụt rè khép nép mỗi lần theo Trung ra phố. Thư đã tưởng mười mươi mình về làm dâu phố ấy. Còn phải làm gì nữa nhỉ để cho một đám cưới diễn ra? Chạm ngõ. Ăn hỏi. Chia trầu cau chè hạt sen thành từng gói nhỏ dán giấy bóng đỏ để đưa cùng thiếp mời. Nhà thân thêm cặp bánh cốm. Và may áo cưới, đặt hoa. Không dơn trắng kèm một dải hồng bạch dài thật dài kết cùng với thật nhiều lá măng. Sẽ chỉ một vài bông cúc nhỏ... Nhưng đám cưới ấy không bao giờ có. Không ai biết vì sao. Bố mẹ hai đứa không biết. Trung không biết. Đến Thư cũng không biết, dù sau này, đã nhận mình lỡ một thì con gái rồi, Thư vẫn cật vấn mình trong những đêm khó ngủ.
Có phải mọi sự bắt đầu từ mấy cái chậu nhôm méo hứng nước giột mẹ Trung đặt rải trong phòng chưa kịp đổ đi sau một đêm mưa mùa hạ? Có phải là vì Trung đã không vào phòng trong mặc quần áo dài lúc Thư tới mà lại tươi cười đâm bổ ra đỡ lấy cái ghi đông xe đạp của Thư và cô bạn đi cùng. Trung trưa đó đánh độc một cái quần đùi, vai ngực nhễ nhại mồ hôi. Thư nhớ là lúc đó không hiểu sao Thư ngần ngại không muốn nhìn Trung và chỉ muốn ngồi lại phòng ngoài nói chuyện với ông cụ bà cụ.
Hay điều đó bắt đầu từ mâm cơm em gái Trung bùng xụng bùng xịu dọn ra cho Trung và Thư một buổi xế chiều nào? Mùa xuân. Mưa phùn.Trời nồm. Không khí nặng trịch hơi nước. Quần áo cả nhà Trung phơi trong phòng không biết mấy ngày vẫn chưa khô quyện với mùi bếp dầu vừa tắt làm Thư khó thở. Chỗ nào cũng ướt rườn rượt. Nền nhà. Ghế ngồi. Chiếu rải trên giường. Cái bát cầm trên tay cũng có cảm giác dinh dính nhơm nhớp. Và Thư đã nhắm mắt đưa miếng giò thủ Trung vừa gắp cho vào miệng, nuốt. Thứ giò mậu dịch thái dối gói dối bán đầy vỉa hè sau tết. Thư không dám nhìn. Những sợi lông lợn tua tủa. Miếng giò sắp nhão. Dường như đã hơi có mùi. Hay là Thư cảm thấy thế. Cái mâm nhôm xam xám, đĩa giò, bát nước chấm còn vương một mảnh lá rau, chiếc bát Thư cầm trên tay có một đường rạn đã thâm lại... Một mâm cơm bình thường trong hoàn cảnh một nhà bình thường. Nhưng chính vào lúc đó Thư đột nhiên hiểu rằng mình không thể, không thể ngày ngày ngồi bên một mâm cơm như thế, cầm một cái bát như thế, cầm đũa nhấc cả tảng rau luộc từ rổ đặt vào đĩa như thế.
Mẹ vẫn bảo Thư khảnh ăn và kỹ tính như một bà già phố cổ. Phần cơm cho Thư, mẹ với chị phải thận trọng rót nước mắm mới, thận trọng khơi từng ngọn rau ra đĩa, có miếng cháy cũng phải gạt đàng hoàng sang thành nồi. Nhưng mẹ ơi, đấy là tại mẹ. Tại sao mẹ lại nuôi con như thế? Tại sao mẹ không dạy con biết xô bồ? Cũng lạ lùng. Ông bà ngoại người nhà quê, ông chỉ là giáo làng, thế mà ra Hà Nội làm dâu mẹ lại dễ dàng tiếp thu trọn vẹn nếp sống Hà Nội cũ. Thư không dám cắt nghĩa cho mẹ hiểu vì sao đột nhiên Thư lảng Trung. Nhà Thư nghèo hơn nhà Trung. Từ đời cụ đời kỵ đã nghèo hơn. Thư chỉ biết về một cuộc sống khá hơn qua lối sống của ông bà Trung, qua đĩa thịt đầy hơn, đĩa rau vơi hơn nhoáng mỡ hơn, mùi gạo thơm hơn trong nồi cơm của các nhà khác. Nhưng không hiểu sao Thư thiết tha đặc biệt với lối sống của những gia đình như gia đình ông bà nội Trung. Dường như nó đã mất hẳn sau mấy chục năm vất vả. Mất ngay ở chính nơi nó ra đời.
Nhà Trung nay không còn ở phố cũ. Thời mở cửa, nhà mặt phố, lại ở trung tâm. Núi vàng. Hai ông bà cụ đã nằm xuống cả rồi. Việc chia chác con cháu thu xếp nhẹ nhõm. Ông bác Trung một đời thắt ca vát đi phiên dịch ở Tây tháng trước chồng đủ số tiền các em trai gái dâu rể định giá, tháng sau thuê thợ đập nhà cũ xây khách sạn mini. Cái phố nhỏ đùng đùng đổi lốt. Những nhà hai tầng ba tầng mọc trồi lên bên trên những nhà một tầng mái ngói trông giống những chiếc răng vàng của mấy ông thoát ly mấy bà buôn chuyến không hề bị sâu răng một thời. Nhà Trung nhận phần tiền được chia mua đất xây nhà mạn Hồ Tây. Bọn em mới xin ra ăn riêng. Ông bà nội chia cho tầng ba. Khi nào mời chị lên chơi với bố mẹ em. Nhà dễ tìm lắm. Ông bà nội cháu vẫn nhắc chị. Cô vợ rất trẻ của Trung, núng nính hơi sớm với tuổi, ngồi trên xe máy sau lưng Trung, một chân đặt hờ trên vỉa hè, hai tay ôm eo chồng đầy ý thức sở hữu mời vồn vã, mắt lạnh teo. Trung, béo ra, nhìn Thư trìu mến, dò hỏi. Trung đã chuyển ngành, giờ quay ra hùn vốn mở công ty trách nhiệm hữu hạn. May mà Trung không có dáng hỉ hả. Câu đó Thư không nói khi kể cho mẹ với chị nghe cuộc gặp gỡ tình cờ.
Bây giờ với Thư sao lắm cuộc gặp gỡ không tình cờ. Đi dạy về, có tháng tối nào Thư cũng thấy anh kỹ sư mới về phòng của bố đến thỉnh ý ông cụ. Rồi bạn của anh rể Thư. Đến rồi đi. Người chì nhất cũng lai vãng được tới cả năm. Và anh hàng xóm Trung biết từ bé bố mẹ vào Sài Gòn chạy trốn bệnh thấp khớp để lại cho căn phòng, mùa hè cởi trần cuốn một chiếc phula quanh bụng vì đau dạ dày giờ không thấy cởi trần hôm nào đi về Thư cũng gặp khi dắt xe ngang cửa. Mẹ dạo này hay than thở chị Thư lấy chồng cách nhà cả một đầu thành phố nhiều khi mẹ muốn nhờ việc gì cũng không được và nhắc tới anh. Như ngày xưa hay nhắc Trung.
Ngày xưa, buổi tối, Trung hay đến đón Thư đi. Lang thang. Mùa đông. Mùa hạ. Vị bánh trôi Tầu một đêm mưa phùn. Tiếng gió chuyển huyền bí trên vòm sấu chứa đầy bóng tối. Góc đường hai đứa ngồi nhâm nhi cốc nước mía lạnh buốt. Những vòng bánh xe quay trong gió lạnh bời bời. Nhịp đời chậm rãi, cam chịu, dường như thanh thản ấy không bao giờ có nữa. Cũng không bao giờ có lại nữa cái nhịp đời Thư thấy ở nhà ông bà Trung và mong được sống qua. Bây giờ xe máy lao ầm ầm. Người ta không thể nhận ra cái yên tĩnh kì lạ của một trưa hè đột nhiên ve bặt tiếng, hay tiếng gió mùa xao xác bay trên mặt phố tinh tươm màu nắng hanh vàng. Cũng chẳng thể vừa nhấn ga vừa ngước mắt tìm trong đêm một vì sao dường như biết nói...
Nhưng mùa vẫn không khác. Tại sao mùa vẫn không khác? Và mình nữa, tại sao không biết khác ngày xưa? Thư cúi mặt, dừng chân, nhấc xe lên vỉa hè, nghe loáng thoáng bà hàng quà rong nói với bà đồng nát về một mùa bão sớm.
Kết Thúc (END)
Mưa - Hoàng Thảo
- Lại mưa nữa rồi, mưa gì mưa mãi!
- Thì mùa mưa mà em!
Hình như tôi không còn là tôi. Chỉ một cái nhìn cũng khiến tôi rùng mình. Một hơi thở cũng đủ quấn chặt lấy tôi kéo lại gần anh ấy. Mọi lời anh nói dù rất khẽ cũng làm tôi đau. Ngay cả những lúc anh im lặng uống cà phê, tiếng những viên nước đá lanh canh trong lòng cốc cũng khua vào lòng tôi những nhịp đập nghẹn thở. Anh kể toàn những chuyện vui khiến tôi không thể nhịn cười. Nhưng những tiếng cười ấy cũng làm tôi ray rứt mà anh không biết. Giá như anh đừng nói gì. Chỉ cần anh ngồi im thôi cũng đủ làm tôi ấm áp. Tôi lạnh không phải vì những cơn gió đêm mang theo hơi mưa. Những tiếng cười của tôi đang làm tôi tê tái.
Bỗng dưng những lần gặp nhau bình thường ở quán cà phê lại trở thành một niềm mong mỏi, những giây phút khuấy động nhịp sống đơn điệu hàng ngày của tôi, lấp đầy một khoảng trống âm ỉ ngày càng lớn trong đời sống. Tôi bỗng sợ ngày mai, khi anh ra đi, những ngày cũ sẽ lập lại, dài hơn, chậm hơn, trống vắng hơn. Tôi ngồi với anh đã hơn 3 giờ đồng hồ mà anh vẫn không nói điều tôi muốn được nghe. Chỉ cần một lời thôi cũng có thể làm tôi sung sướng thao thức suốt đêm để mơ mộng, để tưởng tượng về cả phần đời còn lại. Có lẽ anh biết điều tôi thầm mong muốn và cố tình đùa cợt tôi chăng?
- Mới tạnh một chút trời lại mưa nữa. Mưa hoài, anh nhỉ?
- Ừ, trời mưa thế này thì đành ngồi tán gẫu cho qua thời gian chứ biết làm gì!
Tôi không muốn biện hộ. Sự thành thật của những rung cảm sẽ làm chứng cho tôi. Em cười rất tươi theo những câu chuyện bông đùa của tôi nhưng em không biết tôi đang chết héo trong cảm xúc của mình. Những câu chuyện linh tinh ấy là cái phao cuối cùng để tôi bám víu vào thực tại. Ngày mai tôi đi rồi. Có nên không để lại một niềm lưu luyến và bao tiếc nuối? Em đâu biết rằng tôi muốn vứt bỏ hết màn kịch tôi đang độc diễn để có thể nói lên một lời thành thật duy nhất, rất thiết tha, và rất quen thuộc, như đã bao lần tôi đã thốt lên với những người con gái đi qua hay ở lại trong đời mình.
Tôi không muốn những cảm xúc vừa êm ái vừa đau đớn này tan biến. Cái cảm xúc khi tim chợt sai nhịp đập, khi tâm trí bỗng nhiên mộng du, khi mỗi ánh mắt chạm vào đâu cũng biến nơi đó thành vàng ngọc quý giá. Chỉ có sự từng trải của một người đàn ông mới giúp tôi giữ được vẻ bình thản cần thiết. Và sự lo sợ nữa! Tôi sợ rằng nếu tôi không đủ tỉnh táo thì những giây phút đẹp đẻ này sẽ vỡ tan và trở thành nỗi ân hận khôn nguôi như những mối tình đã trót đánh mất. Những mối tình luôn là mối tình đầu.
- Vậy là ngày mai anh đi?
- Ừ, ngày mai anh đi.
Sao anh không hiểu rằng em đang chờ chỉ mỗi một lời ấy? Em bồng bột ư? Có thể. Nhưng em đang sống thực với chính mình nhất trong sự bồng bột ấy, anh có biết không? Chỉ có anh mới có thể cuốn em vào cái dòng lũ mê đắm này. Chưa bao giờ em có cái cảm giác ấy mặc dù không ít người đã từng đến với em và mong mỏi ở em nỗi xao xuyến dữ dội như thế. Em đang buông trôi chính mình trong dòng thác ấy, đang chờ đợi những phiêu lưu đầy mê hoặc. Nhưng anh đã neo chặt em lại bên này bờ an toàn. Em nào cần tới sự an toàn ấy đâu anh!
Không, em tin là anh hiểu rõ em. Nhưng anh không thể cho em điều em khao khát. Điều đó càng làm em thêm đau, và muốn đau hơn. Cái đau đớn ấy sao mà đầy ma lực bởi vì chính sự hóa giải nỗi đau mới là điều kỳ diệu. Anh, chỉ có anh mới có thể cho em điều kỳ diệu ấy. Em không cần biết đằng sau điều kỳ diệu lấp lánh ấy những bất trắc gì đang chờ đợi. Em chỉ cần một lời của anh thôi cũng đủ thấy mình đã sống bằng muôn cuộc đời. Chẳng lẽ anh muốn chính em phải nói ra với anh những điều ấy sao anh?
- Mình đã ăn hai tô mì và uống mấy ly nước rồi mà vẫn chưa hết mưa, anh nhỉ?
- Chắc sắp tạnh mưa rồi. Mưa đã bớt nặng hạt.
Em ngồi im lặng đã lâu. Hình như em đang chịu đựng những cơn mưa. Mưa sắp tạnh rồi. Những câu chuyện bông đùa của tôi cũng gần khô kiệt. Khách trong quán cà phê đã lần lượt ra về. Cuối cùng chỉ còn lại hai người. Tôi sẽ nói lời ấy chứ? Gương mặt em trong bóng tối của quán cà phê vắng sao quá gần! Nếu mình nói ra mà bị từ khước, bị hoài nghi thì đau đớn lắm. Nhưng nếu được chấp nhận thì có hết đau đớn không?
Chỉ một lát nữa thôi là mưa sẽ tạnh. Và tôi sẽ không còn cơ hội nào nữa để được thấy mình lớn lao hơn chính mình trong niềm ngây ngất được vượt thoát cái thực tại không có thực này. Có lẽ những gì không thể cầm giữ trong lòng bàn tay mới là những điều có thực bởi vì ai cũng trân trọng và khao khát. Biết là không thể cầm giữ được nhưng vẫn muốn vươn tay ra vồ chặt lấy. Điều có thực ấy đang ở ngay cạnh bên tôi. Chỉ cần tôi đưa tay ra... Và nói một lời... Tôi đưa tay ra. Bàn tay cầm chiếc thìa khoắng lanh canh trong lòng ly cà phê đã cạn. Tôi không nói được điều mình muốn nói.
- Anh ơi, tạnh mưa rồi!
- Ừ, thôi mình về.
Vào ngày cưới, xe đưa dâu dừng tại trước tổ uyên ương. Đám bạn thân của tôi nhất quyết bắt tôi phải đưa nàng ra khỏi xe trên đôi tay của mình. Do vậy, tôi đã bế nàng vào nhà. Lúc đó, nàng là một cô dâu tròn trĩnh và e thẹn, còn tôi là một chú rể rất sung sức và tràn trề hạnh phúc.
Nhưng đó là cảnh của mười năm trước. Những chuỗi ngày sau đó cũng giản dị như một cốc nước tinh khiết: chúng tôi có con, tôi bước vào thương trường và cố gắng kiếm thật nhiều tiền. Khi của cải trong gia đình chúng tôi mỗi lúc một nhiều hơn cũng là lúc tình cảm giữa hai chúng tôi suy giảm dần.
Vợ tôi là một công chức nhà nước. Mỗi sáng chúng tôi cùng ra khỏi nhà với nhau và hầu như về nhà cùng một lúc. Con chúng tôi thì học tại một trường nội trú. Cuộc sống hôn nhân của chúng tôi nhìn bề ngoài hạnh phúc đến nỗi nhiều người phải ganh tị. Nhưng thật ra cuộc sống yên ấm đó gần như bị xáo trộn bởi những đổi thay không ngờ...
Dew đã bước vào cuộc đời tôi.
Đó là một ngày đầy nắng. Tôi đứng trước một ban công rộng lớn. Dew ôm vòng sau lưng tôi. Con tim tôi, một lần nữa, lại đắm chìm trong dòng suối yêu đương cùng nàng. Đây là căn hộ tôi mua cho cô ấy.
Dew nói: "Anh là mẫu đàn ông có sức cuốn hút với đàn bà nhiều nhất". Câu nói của Dew đột nhiên nhắc tôi nhớ đến vợ mình. Hồi chúng tôi mới cưới, nàng nói: "Mẫu đàn ông như anh, khi thành đạt sẽ rất quyến rũ với phụ nữ". Nghĩ đến lời nói đó của vợ mình, tôi thoáng do dự. Tôi hiểu mình đang phản bội lại nàng. Nhưng tôi đã không thể cưỡng lại chính mình.
Kéo tay Dew sang một bên, tôi nói: "Em đi mua mấy món đồ nội thất nhé? Anh có vài việc phải làm ở công ty". Hiển nhiên là nàng thất vọng rồi bởi vì tôi đã hứa sẽ cùng đi với nàng. Ngay lúc ấy, ý nghĩ phải ly hôn xuất hiện trong tâm trí tôi mặc dù trước đây ly hôn là một điều tưởng chừng không thể.
Nhưng tôi nhận ra khó mà mở lời với vợ về chuyện này. Cho dù tôi có đề cập nó một cách nhẹ nhàng đến đâu chăng nữa, cô ấy chắc chắn sẽ bị tổn thương sâu sắc.
Công bằng mà nói, cô ấy là một người vợ tốt. Tối nào, cô ấy cũng bận rộn chuẩn bị bữa ăn tối, trong khi tôi ngồi phía trước màn ảnh TV. Bữa ăn tối thường xong sớm. Sau đó, chúng tôi cùng xem TV. Không thì, tôi lại thơ thẩn bên máy tính, mường tượng thân thể của Dew. Đó là cách tôi thư giãn.
Một ngày nọ, tôi nửa đùa nửa thật nói với vợ tôi, "Giả dụ chúng ta phải ly hôn, em sẽ làm gì?". Cô ấy nhìn chằm chặp tôi phải đến vài giây mà không nói lời nào. Hiển nhiên cô ấy tin rằng ly hôn là một cái gì rất xa vời với cô ấy. Tôi không hình dung được vợ tôi sẽ phản ứng thế nào một khi biết rằng tôi đang nói nghiêm túc về chuyện đó.
Lúc vợ tôi bước vào phòng làm việc của tôi ở công ty thì Dew cũng vừa bước ra. Hầu như tất cả nhân viên ở văn phòng tôi đều nhìn vợ tôi với ánh mắt ra chiều thông cảm và cố giấu giếm chút gì đó khi nói chuyện với nàng. Vợ tôi dường như có nghe phong phanh vài lời bóng gió. Cô ấy chỉ mỉm cười dịu dàng với đám nhân viên, nhưng tôi đọc được nỗi đau trong đôi mắt ấy.
Một lần nữa, Dew lại nói với tôi: "Ninh, anh ly dị cô ấy đi? Rồi chúng mình sẽ cùng chung sống với nhau". Tôi gật đầu. Tôi biết mình không thể chần chừ thêm được nữa. Khi vợ tôi dọn ra bàn chiếc dĩa cuối cùng, tôi nắm lấy tay cô ấy. "Anh có điều này muốn nói với em", tôi nói. Cô ấy ngồi xuống, lặng lẽ ăn.
Tôi lại nhìn thấy nỗi đau trong đôi mắt nàng. Đột nhiên, tôi không biết phải mở miệng như thế nào. Nhưng tôi phải nói cho cô ấy biết những gì tôi đang suy nghĩ thôi. "Anh muốn ly hôn". Cuối cùng thì tôi cũng đặt vấn đề hết sức nặng nề này một cách thật nhẹ nhàng.
Cô ấy tỏ ra không khó chịu lắm với lời tôi nói mà chỉ hỏi nhỏ: "Tại sao?". "Anh nói thật đấy", tôi tránh trả lời câu hỏi của cô ấy. Cái gọi là câu trả lời của tôi đã khiến cô ta giận dữ. Cô ấy ném đôi đũa đi và hét vào mặt tôi: "Anh không phải là đàn ông!".
Đêm đó, chúng tôi không nói chuyện với nhau. Cô ấy khóc lóc. Tôi hiểu cô ấy muốn biết chuyện gì đã xảy ra với cuộc hôn nhân của chúng tôi. Nhưng tôi khó đưa ra được câu trả lời thỏa đáng bởi vì trái tim tôi đã nghiêng về Dew.
Trong tâm trạng tội lỗi tột cùng, tôi thảo đơn ly hôn ghi rõ cô ấy sẽ sở hữu căn nhà, chiếc xe hơi và 30% cổ phần trong công ty tôi. Nhìn lướt qua tờ đơn, cô ấy xé nó ra từng mảnh. Tôi cảm thấy tim mình đau nhói. Người phụ nữ chung sống với tôi suốt mười năm nay bỗng trở nên xa lạ chỉ trong một ngày. Nhưng, tôi không thể rút lại những lời đã nói.
Cuối cùng, điều tôi mong đợi đã đến. Cô ấy òa khóc trước mặt tôi. Tiếng khóc của cô ấy thực sự là liều thuốc an thần cho tôi. Ý định ly hôn dằn vặt tôi suốt nhiều tuần qua giờ đây dường như càng trở nên rõ rệt và mạnh mẽ.
Trời khuya, tôi về nhà sau tiệc chiêu đãi khách hàng. Tôi nhìn thấy vợ tôi đang cắm cúi viết tại bàn làm việc. Tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Nửa đêm, tỉnh giấc, tôi thấy cô ấy vẫn ngồi viết. Tôi trở mình và ngủ tiếp.
Vợ tôi đưa ra điều kiện ly hôn: Cô ấy không cần bất cứ thứ gì của tôi, nhưng tôi phải cho cô ấy thời gian một tháng trước khi chính thức ly hôn; và trong thời gian một tháng đó, chúng tôi phải sống với nhau một cuộc sống bình thường. Lý do chỉ đơn giản vì: tháng sau con trai của chúng tôi sẽ kết thúc kỳ nghỉ hè và cô ấy không muốn nó phải chứng kiến cuộc hôn nhân của chúng tôi đổ vỡ.
Cô ấy đưa cho tôi thư thỏa thuận cô ấy soạn sẵn và hỏi: "Anh còn nhớ em đã vào phòng cô dâu trong ngày cưới như thế nào không?". Câu hỏi này chợt làm sống tại trong tôi tất cả những kỷ niệm tuyệt vời ngày ấy. Tôi gật đầu và nói: "Anh còn nhớ".
"Lúc đó, anh đã bế em trên đôi tay của anh", cô ấy tiếp tục, "do vậy, em có một yêu cầu là anh phải bế em ra vào ngày chúng ta ly hôn. Từ giờ đến hết tháng này, anh phải bế em từ giường ngủ đến cửa nhà mình vào mỗi sáng". Tôi mỉm cười đồng ý. Tôi biết cô ấy đang nhớ lại những chuỗi ngày ngọt ngào hạnh phúc và muốn cuộc hôn nhân của mình kết thúc lãng mạn.
Tôi kể cho Dew nghe về điều kiện ly hôn của vợ mình. Cô ấy cười to và cho rằng đó là một yêu cầu ngu xuẩn. "Cho dù cô ta có đưa ra mánh khóe gì chăng nữa, thì vẫn phải đối mặt với kết cục ly hôn mà thôi", cô ấy nói một cách khinh bỉ. Lời nói đó của Dew ít nhiều khiến tôi cảm thấy khó chịu.
Vợ tôi và tôi đã không đụng chạm gì về thể xác kể từ khi tôi có ý định ly hôn. Chúng tôi đối xử với nhau như hai người xa lạ. Vì vậy ngày đầu tiên tôi bế cô ấy, cả hai chúng tôi tỏ ra khá lóng ngóng, vụng về. Đứa con trai vỗ tay theo sau chúng tôi: "Cha đang ôm mẹ trên tay". Lời nói của con trẻ làm tim tôi đau nhói. Từ phòng ngủ đến phòng khách, sau đó mới đến cửa ra vào, tôi đã đi bộ trên mười mét với cô ấy trên tay. Cô ấy nhắm mắt và nói nhẹ nhàng: "Chúng ta sẽ bắt đầu từ hôm nay đừng nói gì cho con hay". Tôi gật đầu và cảm thấy chút gì đổ vỡ. Tôi đặt cô ấy xuống ở cửa ra vào. Cô ấy đứng đó chờ xe buýt, còn tôi lái xe đến công ty.
Vào ngày thứ hai, chúng tôi "diễn" dễ dàng hơn. Cô ấy dựa vào ngực tôi. Chúng tôi quá gần nhau đến nỗi tôi có thể ngửi được mùi hương từ áo khoác của nàng. Tôi nhận ra rằng đã lâu lắm rồi tôi không nhìn kỹ người phụ nữ thân yêu của mình. Tôi nhận ra vợ tôi không còn trẻ nữa. Đã xuất hiện một vài nếp nhăn trên gương mặt của nàng.
Ngày thứ ba, cô ấy thì thầm vào tai tôi: "Vườn ngoài kia đang bị xói mòn đấy. Anh cẩn thận khi đi qua đó nghe". Ngày thứ tư khi tôi nâng cô ấy lên, tôi có cảm giác chúng tôi vẫn còn là một đôi uyên ương khăng khít và tôi đang ôm người yêu trong vòng tay âu yếm của mình. Những tơ tưởng về Dew trở nên mờ nhạt dần.
Đến ngày thứ năm và thứ sáu, cô ấy tiếp tục dặn dò tôi vài thứ, nào là cô ấy để chiếc áo sơ mi vừa ủi ở đâu, nào là tôi phải cẩn thận hơn trong lúc nấu nướng. Tôi đã gật đầu. Cảm giác thân thiết, gần gũi lại trở nên mạnh mẽ nhiều hơn.
Nhưng tôi không nói với Dew về điều này. Tôi cảm thấy bế cô ấy dễ dàng hơn. Có lẽ mỗi ngày đều luyện tập như vậy đã làm tôi mạnh mẽ hơn. Tôi nói với cô ấy: "Có vẻ bế em không còn khó nữa".
Vợ tôi đang chọn váy đi làm. Tôi thì đứng đợi để bế cô ấy. Cô ấy loay hoay một lúc nhưng vẫn không tìm ra chiếc váy nào vừa vặn cả. Rồi, cô ấy thở dài: "Mấy cái váy của em đều bị rộng ra cả rồi". Tôi mỉm cười. Nhưng đột nhiên tôi hiểu rằng thì ra cô ấy đã ốm đi nên tôi mới bế cô ấy dễ dàng, chứ không phải vì tôi mạnh khỏe hơn trước. Tôi biết vợ mình đã chôn giấu tất cả niềm cay đắng trong tim. Tôi lại cảm thấy đau đớn. Theo phản xạ tự nhiên, tôi đưa tay chạm vào đầu cô ấy.
Đúng lúc đó, thằng con chúng tôi chạy đến. "Cha à, đến giờ bế mẹ ra rồi", nó nói. Đối với nó, hình như nhìn thấy cha bế mẹ ra đã là một phần tất yếu trong cuộc sống của nó rồi. Vợ tôi ra hiệu cho nó lại gần và ôm nó thật chặt. Tôi quay mặt đi vì sợ rằng mình sẽ thay đổi quyết định vào phút chót.
Tôi ôm cô ấy trong vòng tay, bước từ phòng ngủ qua phòng khách, qua hành lang. Tay cô ấy vòng qua cổ tôi một cách nhẹ nhàng và tự nhiên. Tôi ôm cô ấy thật chặt, tưởng tượng như chúng tôi đang trở về ngày tân hôn. Nhưng tôi thật sự buồn vì vợ tôi đã gầy hơn xưa rất nhiều.
Vào ngày cuối cùng, tôi thấy khó có thể cất bước khi ôm cô ấy trong vòng tay. Con trai chúng tôi đã lên trường. Vợ tôi bảo: "Thực ra, em mong anh sẽ ôm em trong tay đến khi nào chúng ta già". Tôi ôm cô ấy thật chặt và nói: "Cả em và anh đã không nhận ra rằng cuộc sống của chúng mình từ lâu đã thiếu vắng quá nhiều những thân mật, gần gũi".
Tôi phóng ra khỏi xe thật nhanh mà không cần khóa cả cửa xe. Tôi sợ bất cứ sự chậm trễ nào của mình sẽ khiến tôi đổi ý. Tôi bước lên tàu. Dew ra mở cửa. Tôi nói với cô ấy: "Xin lỗi, Dew, anh không thể ly hôn. Anh nói thật đấy".
Cô ấy kinh ngạc nhìn tôi. Sau đó, Dew sờ trán tôi. "Anh không bị sốt chứ", cô ấy hỏi. Tôi gỡ tay cô ấy ra. "Dew, anh xin lỗi", tôi nói. "Anh chỉ có thể xin lỗi em. Anh sẽ không ly dị. Cuộc sống hôn nhân của anh có lẽ tẻ nhạt vì cô ấy và anh không nhận ra giá trị của những điều bé nhỏ trong cuộc sống lứa đôi, chứ không phải bởi vì anh và cô ấy không còn yêu nhau nữa. Bây giờ, anh hiểu rằng bởi anh đưa cô ấy về nhà, bởi cô ấy đã sinh cho anh một đứa con, nên anh phải giữ cô ấy đến suốt đời. Vì vậy anh phải nói xin lỗi với em".
Dew như choàng tỉnh. Cô ta cho tôi một cái tát như trời giáng rồi đóng sầm cửa lại và khóc nức nở. Tôi xuống cầu thang và lái xe đến thẳng công ty.
Khi đi ngang tiệm hoa bên đường, tôi đặt một lẵng hoa mà vợ tôi yêu thích. Cô bán hàng hỏi tôi muốn viết lời chúc gì vào tấm thiệp. Tôi mỉm cười và viết: "Anh sẽ bế em ra, vào mỗi sáng cho đến khi chúng ta già".
Tình yêu
Đã một năm kể từ khi Susan bị mù vì một chẩn đoán sai của bác sĩ, cô đột ngột bị ném vào thế giới của bóng tối, tức giận, tuyệt vọng và mặc cảm. Và tất cả những gì đủ để cô còn bám víu vào cuộc sống là vì bạn trai cô - Mark.
Mark là một sĩ quan quân đội. Anh rất yêu Susan, đã nhìn thấy cô tuyệt vọng đến mức nào, anh quyết định giúp Susan lấy lại được sức mạnh và tự lập.
Đầu tiên, anh tìm cho cô một công việc dành cho người khiếm thị. Nhưng làm sao cô đến chỗ làm việc được đây? Mark đề nghị đưa cô đến chỗ làm hằng ngày, dù hai người ở hai đầu thành phố. Tuy nhiên sau đó, Mark nhận ra rằng đó không phải là giải pháp. Susan sẽ phải tự mình đi xe buýt, tự đến chỗ làm - đó mới là cách đúng. Nhưng Susan rất nhạy cảm, cô ấy sẽ phản ứng thế nào?
Đúng như với Mark nghĩ, Susan hết sức hốt hoảng khi nghe tới việc mình phải tự đi xe buýt. "Em bị mù" mà"- Cô phản ứng bằng giọng cay đắng - "Làm sao em biết em sẽ đi đến đâu? Anh bỏ rơi em phải không?"
Mark rất đau lòng khi nghe những lời đó, nhưng anh biết phải làm gì. Anh hứa sẽ cùng cô đi xe buýt mỗi sáng và mỗi chiều, bao lâu cũng được, cho đến bao giờ cô quen với việc đi xe buýt.
Trong hai tuần liền, Mark trong bộ đồng phục quân đội, đi theo Susan đến nơi làm việc. Anh dạy cô làm sao để sử dụng các giác quan khác, nhất là thính giác, để biết mình đang ở đâu và làm sao để quen với môi trường mới. Anh cũng giúp cô làm quen với những người lái xe buýt, nhờ họ để mắt đến cô, giữ cho cô một chỗ ngồi hằng ngày...
Cuối cùng, Susan nói cô có thể tự đi được.
Sáng thứ hai, lần đầu tiên, họ đi theo hai hướng khác nhau.
Thứ ba, thứ tư, thứ năm... Mỗi ngày Susan đều tự đi xe buýt đến chỗ làm và đón xe buýt đi về. Susan cảm thất rất vui vì cô vẫn tự mình làm được mọi việc.
Thứ hai của 5 tuần sau đó, Susan đón xe buýt đi làm như mọi khi. Khi cô đang đóng tiền mua vé tháng cho người lái xe, bỗng anh lái xe nói: "Tôi thật ghen tỵ với cô đấy nhé!".
Susan không biết có phải anh ta nói với mình không. Nhưng nói cho cùng, có ai mà lại đi ghen với một cô gái mù đang đấu tranh để mà sống chứ? Cô hỏi:
- Sao anh lại ghen với tôi được?
- Vì cô được quan tâm và bảo vệ. Cô quả là hạnh phúc!
- Tôi được bao vệ? Anh nói thế tức là sao?
- Suốt mấy tuần qua, sáng nào tôi cũng thấy một chàng trai mặc đồng phục quân đội lái xe theo, rồi đứng bên kia đường nhìn cô xuống xe. Anh ta nhìn theo đến khi cô đi qua đường an toàn, đi vào nơi cô làm việc và vẫy tay chào cô rồi mới lái xe đi. Cô quả là một người may mắn!
Susan khóc. Vì cô không nhìn thấy Mark nhưng cô cảm thấy Mark ở bên cạnh. Cô là người may mắn vì cô đã nhận được một món quà mà cô không cần phải nhìn thấy tận mắt để tin: món quà của tình yêu có thể mang ánh sáng đến những nơi nhiều bóng tối nhất.
Tình yêu đích thực không bao giờ gục ngã.
(sưu tầm)
Cô gái và Chàng trai
Cô gái và Chàng trai chơi với nhau từ nhỏ, và khi lớn lên một chút, tình bạn của họ chuyển thành tình yêu, nhưng bố mẹ hai bên không đồng ý .
Rồi Chàng trai nhận được một học bổng du lịch. Sợ tình yêu sẽ ảnh hưởng đến việc học của Chàng trai, bố mẹ cậu tìm đến Cô gái, yêu cầu cô tránh mặt Chàng trai. Nghĩ đến sự nghiệp của Chàng trai nên Cô gái đồng ý .
Chàng trai cực kỳ suy sụp. Vài ngày sau, Cô gái nghe chị gái Chàng trai nói rằng cậu đã tới London.
Nhiều tháng trôi qua, Cô gái không nhận được tin gì từ Chàng trai. Đôi khi, không chịu nổi nữa, cô gọi điện cho chị gái Chàng trai để hỏi thăm. Chị Chàng trai nói rằng cậu vẫn khỏe mạnh, học giỏi và đã có bạn gái mới.
Cô gái cảm thấy mọi thứ như đều đảo lộn, dù biết đó là điều tốt nhất của Chàng trai. Cô cố quên Chàng trai, nhưng ko thể. Cô gái trở nên tuyệt vọng, mệt mỏi và hay khóc .
Một đêm, khi Cô gái đang khóc, thì có tiếng chuông điện thoại. Đầu dây bên kia là tiếng của Chàng trai :
- Cô bé, đừng khóc. Anh sắp về nhà rồi, chờ anh nhé !
Chỉ được có thế, rồi Chàng trai vội vã gác điện thoại .
Đêm hôm đó, Cô gái nằm mơ thấy Chàng trai. Họ gặp nhau ở khu công viên trước đây hai người thường đến chơi. Chàng trai nói rằng cậu rất vui được gặp lại Cô gái, rằng cậu không hề có bạn gái mới. Nhưng trước khi Cô gái kịp hỏi gì thì Chàng trai đã biến mất.
Sáng hôm sau, Cô gái vội vã gọi điện cho chị của Chàng trai, kể lại mọi chuyện và hỏi có phải Chàng trai sắp về không .Chị gái Chàng trai chợt òa khóc:
- Xin lỗi em, tất cả là do chị nói dối đấy. Em trai chị đã mất cách đây 6 tháng, nó bị tai nạn ô tô... Nó từng nói là nó không chịu được khi thấy em buồn ..... Chị đã nghĩ là có thể nói dối để em quên nó đi....
Cho dù Cô gái khẳng định một ngàn lần rằng đêm hôm trước, Chàng trai đã thật sự gọi điện về cho cô, thì chị gái Chàng trai vẫn khăng khăng rằng đó chỉ là do cô tưởng tượng và sự thật là Chàng trai đã mất rồi .
Nhưng Cô gái không tin. Cô tin rằng Chàng trai sẽ gọi điện lần nữa. Và đúng như thế, khoảng bằng giờ đêm trước, điện thoại reo. Cô gái nhấc máy ngay lập tức.
Lần này, Chàng trai nói nhiều hơn, rằng cậu chưa bao giờ quên Cô gái, rằng cậu không ở cạnh Cô gái được, nhưng họ vẫn có thể nói chuyện qua điện thoại như vậy.
- Anh đã sửa điện thoại rồi à ? - Mẹ Cô gái hỏi bố cô như vậy khi ông vừa bước vào nhà - Em thấy con gái nói chuyện điện thoại với ai đó suốt đêm hôm qua.
- Em làm sao thế ? - Bố Cô gái lắc đầu khó hiểu - Anh đã sửa điện thoại đâu, máy vẫn hỏng mà !
Hoa hướng dương
--------------------------------------------------------------------------------
Đơn độc giữa cánh đồng, một bông hoa hướng dương như một mặt trời bé nhỏ đứng lẻ loi toát lên màu vàng huyền diệu làm lu mờ cả mặt trời lúc bình minh. Ánh nắng ngọt ngào đến, dịu dàng vuốt ve, hôn cái hôn đầu làm bông hoa ngơ ngác, ngỡ ngàng. Dường như cả thế giới loài hoa phải nghiêng mình trước vẻ đẹp trong trắng dịu hiền của đóa hoa hướng dương đang sống trong tình yêu đầu tha thiết êm đềm...
Mặt trời lên cao dần và luôn hướng những tia nắng thật dịu dàng về phía bông hoa. Màu vàng huyền diệu của đóa hoa hướng dương làm mặt trời như sáng hơn. Hoa hồng rực rỡ hơn, hoa tuylip thơm hơn. Nhưng khi những hạt sương long lanh của buổi bình minh chưa kịp tan thì một trận cuồng phong bất thần kéo đến. Mây đen che kín bầu trời. Đất mù mịt. Mặt trời biến mất trong mây và bông hoa thảng thốt kiếm tìm... Rồi nó thút thít khóc. Những hạt ngọc long lanh thánh thót tan vỡ dưới gốc, thân hoa yếu ớt bị gió vật vã nhưng nhờ một sự thần diệu nào đó, nó vẫn xoay được về phía có mặt trời - nó chờ mong một sự chở che ấm áp - nhưng nó có ngờ đâu mặt trời của nó thường ngày hùng vĩ là thế mà giờ đây lại an phận lẩn kín trong mây. Ôi có lẽ nào mặt trời thân yêu lại nỡ bỏ mặc cho bão táp phong ba dập vùi thân hoa yếu đuối! Nhưng dẫu thế nào chăng nữa bông hoa vẫn thủy chung xoay mãi theo hướng mặt trời. Dẫu thế nào chăng nữa, bông hoa vẫn đứng vững trước phong ba, đàng hoàng uy nghi trong bão tố.
Cơn bão chưa qua hẳn nhưng giông bão lặng dần. Mây đen chưa tan hết nhưng mặt trời cũng hiện ra lấp ló... Lúc ấy mặt trời mới tìm kiếm bông hoa. Bông hoa vẫn đứng đó, những cánh hoa vẫn xòe căng tràn đầy, màu vàng huyền diệu vẫn đẹp chói chang nhưng bông hoa giận dỗi ngoảnh mặt đi, trên những cánh hoa còn thẫm đẫm bao giọt nước mắt dỗi hờn buồn tủi. Mặc cho mặt trời vuốt ve, năn nỉ, bông hoa vẫn chưa thể nào tha thứ dẫu nó thương mặt trời thân yêu đến cháy lòng!
Thời gian trôi đi, cuộc sống nhiều biến đổi. Ngày xưa mảnh đất nuôi hoa màu mỡ tốt tươi, bông hoa hướng dương chỉ việc lớn vô tư như bao bông hoa khác. Giờ đây mảnh đất nuôi hoa bỗng nhiên cằn cỗi. Bông hoa hướng dương khổ sở vật lộn với cuộc sống. Cuộc sống của nó lúc này sao khốn khó và nghiệt ngã quá chừng! Giữa lúc ấycó bao bàn tay êm ái cùng vươn tới muốn nâng đỡ bông hoa nhưng bông hoa đau khổ không mở lòng với bất cứ một ai, nó vẫn khép chặt cánh cửa trái tim, vẫn cứ sống một mình, âm thầm, lặng lẽ...
Ngày qua ngày, đứng giữa một rừng hoa rực rỡ, trông đóa hoa hướng dương nhợt nhạt hẳn đi. Nó bỗng khát thèm một cuộc sống bình thường, thật bình thường thôi để cuộc đời trả lại cho nó nguyên vẹn sự hồn nhiên tươi thắm của một thờI tuổi trẻ! Mặt trời buồn bã, âu sầu. Đóa hoa hướng dương vật vã đớn đau. Nó quỵ ngã dần trong bao nỗi khổ buồn cay đắng. Nó thương mặt trời bằng tình thương tha thiết trong tận cùng sâu lắng. Tuy rằng nó vẫn ngoảnh mặt quay đi, nhưng nó mãi mãi yêu mặt trời, đắm say và tha thiết như buổi ban đầu. Nhưng nó có ngờ đâu khi sắc màu của nó phai tàn dần theo ngày tháng, phai tàn dần vì cuộc đời vất vả nhọc nhằn thì mặt trời của nó lại bắt đầu dành thời gian trau chuốt cho những tia nắng bóng bẩy hơn xưa, và những tia nắng vui tươi ấy lại tung tăng trải rộng khắp cánh đồng, lại hớn hở nô đùa cùng những đóa hoa tuylip ngát hương và những cánh hồng tươi thắm. Nó có ngờ đâu khi đôi lứa chia phôi, khi cõi long nó đang tan nát thì mặt trời lại nhanh chóng rũ bỏ mọi ưu phiền để lại lao vào những cuộc vui mới với bao niềm hứng khởi.
Vậy thì trái tim nhân hậu và chan chứa yêu thương của bông hoa còn có ý nghĩa gì nữa trong đời? Thật bẽ bàng vì một kẻ khốn khổ khốn nạn lại dám xót thương một kẻ đang sống an nhàn sung sướng, đang ngụp lặn trong những nguồn vui bất tận. Bông hoa âm thầm sống và âm thầm khóc. Nó khóc mãi, khóc mãi, khóc cho đến khi những giọt nước mắt dần dần kết tụ quanh thân cây và hóa đá! Đến lúc ấy nó mới cay đắng nhận ra rằng cuộc đời này thật lắm điều gian dối và bạc bẽo. Trăn trở đêm ngày, trái tim hoa nghẹn ứ những niềm đau...
Đã bao lần mặt trời tìm đến hoa nhưng bông hoa không thể nào tha thứ. Đột nhiên, do một sự tình cờ, bông hoa biết được rằng trong suốt những ngày qua chưa một giây phút nào mặt trời nguôi thương nhớ. Bông hoa thấy mình có lỗi vì nó luôn nghiêm khắc với mặt trời. Đến lúc này nó mới thấm thía tình yêu sâu nặng của mặt trời, mới thấu hiểu "những ước mơ lặng thầm, những khát khao gần gũi" của mặt trời trong bao ngày thương nhớ chia xa... Ôi những bông hoa bé dại! PhảI chăng bông hoa bé dại chính là hội tụ tình thương để mặt trời tìm đến như "cái thiếu tìm về nơi sẵn có" ? Trời ơi! "Tâm hồn đói khát ư?" Có lẽ nào lại như thế được? Trái tim hoa buốt nhức.
Nó khóc nức nở. Nó ân hận xót xa vì những ngày qua nó không hề bù đắp gì được cho mặt trời yêu dấu. Nhưng bao giọt nước mắt nóng bỏng tuôn rơi vẫn không đủ sức làm tan chảy những giọt nước mắt ngày xưa đã kết tụ quanh thân cây và hóa đá, bởI lẽ mặt trời chưa làm sống dậy niềm tin trong trái tim hoa. Bông hoa hiểu rằng mặt trời vẫn yêu nó bằng tình yêu thiêng liêng nhất, rằng mặt trời không bao giờ quên nó trong đời. Nhưng còn lòng chung thủy? Đó, chỉ khi nào mặt trời nhen lại được ngọn lửa tin yêu ấm áp thì những mảng đá dưới chân hoa mới có thể tan chảy và trôi đi... Nhưng biết đến bao giờ? Biết đến bao giờ những nỗi khổ đau bất hạnh của bông hoa mới tan chảy và trôi đi như thế? Vẫn biết rằng "Tha thứ là sự báo phục quang vinh nhất" Nhưng bông hoa chỉ có thể tha thứ khi nào mặt trời tuyệt đối trung thành!
......... Ai mà biết được kết cục sẽ ra sao?......
(sưu tầm)
Những câu văn..."chết người" tại kỳ thi tốt nghiệp THPT 2009
--------------------------------------------------------------------------------
1 - Sai lạc đến chết người
- Lỗ Tấn, sinh năm 1985, mất năm 1963, quê quán ở tỉnh Bắc Ninh, gốc Ba Tàu, từng có 3 đời vợ, 5 người con.
- Hạ Dụ là con của bà cụ Tứ, con ruột của Tràng, từng bị trận đói năm 1945 hành hạ, đe dọa cho tơi tả, xơ xác mướp. (Sau đó, câu chuyển sang Hạ Du - một người cách mạng trong quân ái quốc. Dùng bánh bao để trị bệnh điên cho Hạ Du).
- Tô Hoài sinh năm 1920, quê Nghệ An, năm 1960 ông có 200 bài thơ và đạt kỹ luật (kỉ lục) nhà thơ Việt Nam.
- Tô Hoài là người chiến sĩ cách mạng đã từng sống và chiến đấu trên vùng đất... Tây Nguyên.
2 - Các câu văn ngây ngô... không nhịn được cười:
- Các bạn không được đọc những cuốn sách đồ trị (đồi trụy) mà nhà sách cấm nhé!
- Người xưa từng nói: "ăn gì bổ nấy". Việc đọc sách cũng vậy.
- Cho nên chúng ta hay đọc xách (sách) trong những giờ rãnh (rảnh) rỗi, chúng ta đọc không phải mằm (nằm) chổ (chỗ) này đọc, hay ngồi chổ (chỗ) kia, ngồi chổ (chỗ) nào có đủ lượng ánh xáng (sáng) chiếu vào để k (không) thể tăng cho mắt chúng ta bị cận được.
- Ông Tô Hoài đã giết chết Mỵ nhưng vì Mỵ có sức sống tiềm tàng nên cho Mỵ sống lại, để tiếp tục chung sống với Pa trá.
- Mị sinh ra trong 1 gia đình nghèo, nghèo từ trong trứng nghèo ra.
- Khi A Sử thay đồ chuẩn bị đi chơi. Mỵ cũng xin A Sử cho đi theo nhưng A Sử không cho mà còn đánh đập, trụt quần và trói Mỵ vào cái cột.
- Mỵ muốn được chơi nhảy như bao người khác. Hình dáng Mỵ đẹp tuyệt trần, đôi mắt long lanh lúc nào cũng buồn, hàm răng đẹp, gò má cao, đầu tóc dài xinh đến không thể tả được chỉ có một cái là Mỵ hơi ốm một tí mà thôi. Nhớ tới Mị là em nhớ đến những thiếu nữ Hà Nội tha thướt bên Hồ Gươm chiều chủ nhật.
- Vợ chồng thống lí đại diện cho phái ác. Hắn ức hiếp Mị, làm cho Mị không có lối thoát, còn vợ hắn thì lấy cớ đó đánh đập tàn nhẫn cho rằng Mị đụ dỗ chồng bà ta.
- Tô Hoài như đang đùa giỡn khi xây dựng Mị như vậy... Có lẽ Tô Hoài cũng đau xót. Nhưng thật khó để mà hiểu biết được một tác giả lớn Tô Hoài: vùi dập, khai mở rồi lại vùi dập. Những hy vọng sống của Mị lại bị A Sử cho đi vào ngõ hẻm.
3 - Những câu văn so sánh thuộc hàng... siêu so sánh
- Khi A Phủ đến thuê cho nhà thống lí với công việc chăn trâu, sau một thời gian qua Mị vẫn ngồi trong chuồng heo, giống một con heo đang tìm chỗ trốn mà cứ người khác.
- Người nhà Pa tra đánh cho A Phủ đến ngất sỉu (xỉu) rồi đổ nước cho tỉnh lại. Thể hiện con người nhà thống lí độc ác, dã man, đánh người đánh như con chó.
- Được thả A Phủ chạy ra khỏi nhà thống lí như một con trâu điên và vài phút do dự, sửa sang lại trang phục Mị đã chạy theo A Phủ như mây bay, gió thổi.
- Có thể thấy, việc Tô Hoài xây dựng một con người với những phẩm chất đẹp đang bị vùi dập và đang như tan chảy giống như phiến băng để trên một lò lửa, tan ra và khi chỉ còn là nước nó chỉ chờ đủ độ 100 độ c để sôi thôi.
- Sông Hương to như một con thuồng luồng đực cụp đuôi, to lớn, lượn quanh những khúc cua của đường đua công thức một...Sông Huơng với ba màu khác nhau có lúc là màu tím của gương mặt người thấm đẫm rượu say.
4 - Những dẫn chứng ví dụ... độc chiêu
- "Quê hương tôi có con sông xanh biếc.
Nước chảy mãi hai bên bờ."
Trong bài thơ Nhớ con sông quê hương của nhà thơ Tế Hanh, chúng tôi chưa bao giờ thấy có câu thơ thứ hai như thí sinh đã dẫn: "Nước chảy mãi hai bên bờ".
- "Trong tập sáng tác ca dao tục ngữ Việt Nam có câu:
Giang hồ hiểm ác anh không sợ
Chỉ sợ đường về vắng bóng em
Anh tôi đã "lấy 2 câu thơ làm của riêng". Chỉ câu nói ấy thôi mang anh đã tán được nhiều người, người ấy bây giờ mà tôi gọi là "chị hai". Đã thấy được sức hút của việc đọc sách làm cho con người ta sống vui tươi và hạnh phúc hơn".
Vừa dẫn ca dao tục ngữ, vừa chứng minh về tác dụng, ảnh hưởng của nó đối với đời sống tình cảm của anh trai mình. Đúng là một ví dụ khó ai mà nghĩ ra được!
5 - Râu ông nọ cắm cằm bà kia
- Đang giới thiệu về Tô Hoài lại chuyển sang nói về Tố Hữu; chẳng ăn nhập vào đâu: "Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hay nhất nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu trữ tình lãng mạn luôn nói về những số phận đâu (đau) thương của con người và lên án sự bất công của các thế mạnh đã đem đến cho con người."
- Đề bài yêu cầu làm về Vợ chồng A Phủ, thì một thí sinh lại say sưa phân tích về các nhân vật trong Vợ Nhặt của Kim Lân đến 3 trang. Giám khảo chào thua.
Xin dẫn một đoạn: "Nạn đói trong năm 1975 thât khủng kiếp. Nạn đói tràn đến xóm ngụ cư, mọi người lâm vào tình trạng khốn khổ vô cùng. Tô Hoài đã miêu tả không gian trên đường Tràng về nhà thật bi thảm...."
Nói về sức sống mãnh liệt của nhân vật Mỵ trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" một thí sinh khác bình luận. "Ông Tô Hoài đã giết chết Mỵ, nhưng vì Mỵ có sức sống tiềm tàng nên cho Mỵ sống lại, để tiếp tục chung sống với Pá Tra".
"Mỵ sinh ra vốn nghèo đói xấu xí vì không có ai lấy làm vợ nên Mỵ theo Thống Lý Pá Tra tình nguyện về làm nô lệ. Ánh sáng tình yêu soi đường khiến Mỵ tỉnh ngộ, trong đêm tối vùng dậy cùng với A Phủ chạy thoát khỏi nhà Thống Lý nhưng chạy mãi vẫn thấy trước mắt một chiếc lò gạch cũ... Chao ôi thật xót xa", thí sinh bày tỏ cảm xúc với nhân vật Mỵ.
"Ngày xưa, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Cha mẹ Mỵ đã đặt Mỵ vào làm dâu nhà Thống Lý Pá Tra nhưng tình yêu tự do lên tiếng, Mỵ đã tìm mọi cách để chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ ấy, tìm đến tình yêu đích thực với A Phủ. Ngày nay, các bậc phụ huynh, những người làm cha làm mẹ cũng không nên ép duyên con như thế"...
"Trên diễn đàn văn học hiện đại Việt Nam thì Lỗ Tấn được xem là nhà văn nổi tiếng, có nét cá tính riêng nhất cùng với những nhà văn, nhà thơ khác như Tô Hoài, Nguyễn Tuân..."
"Đọc, đọc nữa, đọc mãi, đọc sách không bao giờ làm cho người ta cảm thấy nhàm chán, nhất là sách kiếm hiệp". "Trong tất cả các loại sách, em thích nhất là sách truyện tranh trên mạng. Nó có sức thu hút với em nhất, những cuốn sách này vừa có tính minh họa, vừa dễ đọc lại vừa không mất tiền mua",
"Vợ chồng A Phủ là một bài thơ tình nổi tiếng của Tô Hoài", "Cha con Thống Lý Pá Tra đối xử với Ánh Nguyệt rất tàn nhẫn". Đặc biệt hơn, có những em còn hồn nhiên so sánh "Sông Hương đã được Nguyễn Tuân so sánh với sông Hàn ở Seoul, con sông được coi là biểu tượng của Hàn Quốc".
Xương rồng can đảm
--------------------------------------------------------------------------------
Anh từng bảo tính bướng bỉnh của Đan như loài xương rồng đầy gai góc. Mày cứ để cái mặt ủ rũ ấy cho đến bao giờ hả con? Con mệt lắm rồi, bố ạ. Nó vẫn chưa liên lạc gì à? Mày là vợ nó sao mày không gọi cho nó.
- Dạ thôi!
Đan buông chiếc áo len đan dở xuống ghế rồi bước ra ngoài, nơi có chậu xương rồng xanh mướt. Từng cái gai mạnh mẽ của nó chĩa ra bướng bỉnh, hệt như bản tính của Đan. Hiếu đã nói thế lúc tặng chậu xương rồng cho Đan.
Hiếu cho rằng xương rồng với những cái gai bướng bỉnh nếu được chăm sóc tốt nó sẽ nở ra những nụ hoa tuyệt đẹp. Ngoài ra, xương rồng luôn kiên cường trong môi trường khắc nghiệt và khao khát tình yêu thương chân thành mà không thừa mứa.
Giờ thì niềm tin ấy đang lung lay. Đã hơn một tháng qua, Đan không có tin tức gì từ Hiếu. Từ ngày Hiếu ra đảo, đây là lần đầu tiên trong một năm qua Hiếu không liên lạc với Đan. Hiếu đã hứa sẽ liên lạc với cô mỗi ngày dù có chuyện gì xảy ra và anh làm đúng như đã hứa trong suốt năm qua.
Thế nhưng, trong suốt một tháng qua, cô không biết Hiếu đã làm gì. Nhiều lúc, Đan muốn đi tìm Hiếu nhưng lòng tự trọng níu chân cô lại. Đan sẽ không níu kéo nếu Hiếu đã có ai đó ở nơi công tác mới.
Cái Đan muốn giữ lại sau tất cả là lòng tự trọng của mình. Dù rằng vì yêu Hiếu, đôi khi cô muốn ném quách cục tự trọng vào sọt rác. Bởi vì dù Đan có mạnh mẽ, bướng bỉnh đến đâu thì cũng chỉ là phụ nữ. Một phụ nữ nhạy cảm đến mức tiếc một chiếc lá vàng rơi cũng rưng rức khóc.
Lúc này đây, bên món quà của Hiếu, những giọt nước mắt cứ lặng lẽ thấm ướt cây xương rồng. Đan ước mình có thể khóc to lên, khóc như một đứa trẻ con vừa bị mẹ đánh oan. Thế nhưng, ngay cả tiếng nấc cũng nghẹn trong cuống họng.
Đêm qua, Đan xem lại những tấm ảnh chụp hai đứa hồi mới yêu nhau và phát hiện lá thư Hiếu để lại. Theo như ngày tháng đề trong thư, nó được viết ngay trước ngày Hiếu ra đảo. Lá thư sắp đặt rất kỹ càng. Hiếu viết:
"Xương rồng của anh! Anh yêu em biết dường nào. Trong mỗi phút giây được sống trên đời này, anh đều nhớ về em. Anh biết ơn bố mẹ đã sinh ra em cho anh ngày hôm nay. Anh biết ơn xương rồng đã nghĩ đến anh mà yêu thương anh. Anh thật lòng mong muốn em đừng vì anh mà bẻ đi bất kỳ một cái gai nào đấy, xương rồng ạ!
Khi em đọc những dòng này, có lẽ trong em, những cái gai đã bớt phần sắc nhọn và anh đau vì điều đó. Mạnh mẽ lên và nghe anh đây. Em hiểu mà đúng không? Em đừng chịu đựng trong nỗi nhớ nhung mà hãy kiêu hãnh từ bỏ để tìm vùng đất mới.
Xương rồng em không hợp với đất lòng anh nữa rồi. Em đã hứa sẽ không níu kéo phải không? Giờ là lúc anh cần em thực hiện lời hứa. Đừng khóc nào. Xương rồng không thể khóc. Xương rồng mạnh mẽ hơn ở những nơi khắc nghiệt, đừng làm ướt tâm hồn mình bởi anh. Mạnh khỏe nhé em!"
Thư chỉ có thế thôi. Giống như tính cách của Hiếu. Anh là người ăn cơm cả bữa nhưng chỉ nói nửa lời. Đan chưa kịp hiểu Hiếu muốn nói gì. Đan cũng chẳng khóc được. Đan cứ ngồi im lặng như thế trong đêm tối. Đan không gào lên vì nhớ Hiếu nhưng cô cũng không thể cứ đến ba bữa thì ăn, đến giờ thì ngủ được.
Đan nén chặt nỗi nhớ trong lòng. Ngay cả lá thư cũng không làm nó vỡ òa được. Nó càng nén chặt, càng nén càng bức bách. Theo như những gì Hiếu viết, cô biết anh đã chuẩn bị tinh thần sẽ có một ngày không còn liên lạc gì với Đan nữa. Vậy Hiếu đi vì nhiệm vụ hay còn một điều gì khác, một ai đó chẳng hạn. Ai đó trong người không chứa cái gọi là chất độc màu da cam như Đan.
Có phải Hiếu sợ những đứa con teo tóp trong tương lai? Hiếu sợ sẽ không có được một đứa con như bao người đàn ông khác? Hiếu hoàn toàn khỏe mạnh và không việc gì phải trói buộc đời mình với Đan.
Nếu thế, tại sao khi bố cự tuyệt, Hiếu lại hạ mình quỳ xuống xin và lấy Đan làm vợ? Sao Hiếu lại nói như thể anh mang ơn những người như bố Đan để đất nước có được hòa bình ngày nay?
Hiếu đã chẳng rơi nước mắt khi đến thăm làng trẻ em bị nhiễm chất độc màu da cam cùng Đan sao? Hiếu còn cả nghìn tin nhắn yêu thương trong cuốn sổ tặng Đan. Hiếu đã nói Đan hãy chép chung vào sổ để đến già vẫn có thể đọc lại mà cười móm mém kia mà.
Đan không tìm ra câu trả lời nên cứ tự hỏi mãi, hỏi mãi cho đến khi phải bước ra trước thềm. Cô ngửa cổ lên và hớp từng giọt sương trong màn đêm đặc quánh. Bầu không khí ngột ngạt lan khắp cả khu vườn. Ngột ngạt siết lấy Đan. Có tiếng của bố vọng ra:
- Đan à, mày lên đơn vị thằng Hiếu hỏi xem địa chị cụ thể để bố đi tìm nó.
- Anh ấy không về nữa đâu.
- Nó không về cũng phải nói lý do tại sao chứ.
- Anh ấy nói rồi. Bố để anh ấy đi đi.
- Mày làm sao? Chúng mày bóp cổ ông già này chết quách đi, không thì mua cho tao liều thuốc chuột. Thế này chẳng khác đang đọa đầy nhau đấy à?
- Đừng bố ạ! Con xin bố.
Bố bật dậy nắm lấy vai Đan. Trong mắt ông, hàng nghìn câu hỏi tại sao xoáy vào tim Đan rớm máu. Bố đã đưa ra bao nhiêu là lý do cự tuyệt khi Hiếu muốn yêu và muốn cưới Đan làm vợ. Ông bảo rằng Đan không bình thường. Đan bị bệnh, bệnh mãn tính, bệnh suốt đời. Chưa ai rửa sạch chất độc da cam có trong cơ thể con người. Ông kể xấu rằng Đan bướng bỉnh, ương ngạnh. Đan chưa và không thể học cách làm vợ.
Ông còn chê Hiếu không đủ giàu để nuôi Đan suốt đời trong no đủ. Hiếu là bộ đội và là nhà báo, sẽ vắng nhà thường xuyên trong khi Đan không thể ở một mình dù chỉ một ngày. Rằng quê Hiếu ở tận đầu kia đất nước, Đan làm sao mà về thăm bố. Rằng... gì nữa mà nhiều lắm.
Ngay cả bố cũng không nhớ đã nói những gì để từ chối. Thế nhưng Hiếu hay tình yêu của anh đã thắng. Tình yêu gắn kết hai người đã năm năm qua. Vậy điều gì đã khiến Hiếu ra đi như thế? Điều gì khiến Hiếu từ bỏ Đan? Bố không thể như Đan đứng trước cây xương rồng Hiếu tặng. Bố muốn một câu trả lời, một sự thật.
Bố chỉ có mình Đan sau ngày mẹ bạo bệnh qua đời. Đan là tất cả của bố nên lúc này Đan không thấy được ông cũng đang nén cơn quẫy đạp để thoát ra khỏi sự bức bách Hiếu để lại. Ông giận mình sao mềm lòng với thằng trai ở mút đầu kia đất nước để giờ nó bỏ con gái ông mà đi. Ông giận cả cái sự đời quen thói bỡn đùa con người ta.
Ông giận cả cái chậu xương rồng đáng ghét. Nếu Đan không khư khư ôm nó trong lòng thì ông đã ném quách nó vào sọt rác. Người còn chẳng nên thân huống chi là cây cỏ. Thế nhưng ông nghĩ lại nó cũng chỉ là vật thế thân của cái thằng sở khanh kia. Cái thằng xảo trá, đốn mạt, dám làm con ông khóc. Ông phải đi tìm nó, lôi đầu nó về dần cho mềm xương ra.
Cú đấm của ông chỉ lăm lăm trước kẻ thù nay lại đang tìm cái thẳng rể quý mà nã vào. Cứ thế ông đi, ông đi tìm cái thằng khốn nạn ấy. Chắc nó vướng vào con hư thân nào rồi đây. Quân rửng mỡ! Cha ông đổ máu cho chúng mày sướng quá rồi hóa điên. Ông vào báo với chỉ huy cho mày tiệt đường trở lại.
Con gái ông không tìm thì ông tìm. Có chết ông cũng bắt mày dẫn xác về lạy Đan xin tha tội. Rồi ông sẽ lấy thau nước rửa chân hất thẳng vào mặt cái thằng tráo trở ấy.
Mà lạ thật, ngày xưa, khi bắn được thằng lính Tây trẻ trẻ, ông còn xót và báo tội cho những thằng phái phục tùng khát vọng điên cuồng của những kẻ cầm đầu man rợ. Ra trận mà chẳng biết chiến đấu vì mục đích gì thì lấy đâu ra ý chí mà chiến thắng. Vậy mà giờ ông thù cái thằng làm khổ con ông đến mức băm vàm nó ra thả trôi sông cho cá rỉa.
Cứ suy nghĩ ấy, ông xông thẳng vào đơn vị Hiếu. Ông nghĩ thằng này chắc không ra đảo mà chỉ lừa đảo thôi.
Căn phòng có những bức tường sơn trắng tinh sạch sẽ. Bên trên góc trái là tượng bán thân của Bác làm bằng thạch cao, hai dãy ghế ngay ngắn dọc theo chiếc bàn hình chữ nhật. Phía dưới có cái ti - vi đặt trong cái tủ đựng. Phía trên tủ là bình hoa dừa cạn đặc trưng dễ trồng, dễ sống mà bất cứ doanh trại bộ đội nào cũng có.
Đồng chí chính trị viên đeo quân hàm đại úy thông báo Hiếu đã xuất ngũ. Ông điếng người:
- Nó đào ngũ đi đâu?
- Dạ không ạ! Cậu ấy xin xuất ngũ về quê. Cậu ấy...
Trời ơi, thẳng rể trời đánh, thằng rể đáng thương. Ông thà tin Hiếu là kẻ phản bội đang phè phỡn đâu đó trên sự đau khổ của con gái ông còn hơn là nghe tin ấy. Con gái ông làm sao chịu được khi biết tin này. Đến cả ông còn rụng rời.
Ông phải giấu, không thể để con gái biết sự thật. Con của ông sẽ gục ngã mất. Làm sao nó có thể chấp nhận cả điều ấy với cơ thể bé nhỏ chứa đầy chất độc kia. Ông trời thật khéo bày trò. Chọc ai không chọc lại cứ nhằm vào con gái bé nhỏ của ông. Ông thà để Đan bị phản bội mà sống chứ không để nó biết sự thật.
Cả tuần sau đó ông sống trong câm lặng. Đan cũng thế. Hai bố con cứ kẻ trong người ngoài tránh nhau như mặt trời, mặt trăng. Đan sợ bố sẽ phải đau lòng một lần nữa khi nói lại mọi chuyện với Đan. Đan quen với sự im lặng ấy rồi. Bốn mươi sáu ngày không có tin tức của Hiếu đã làm Đan thành ra câm lặng mất rồi.
Hiếu sao thế? Bóp chết Đan trong im lặng vậy sao? Khi hai đứa đi nghỉ tuần trăng mật ở Sa Pa, chẳng phải Hiếu đã hứa sẽ như sương mù Sa Pa phủ kín cuộc đời của Đan sao? Giờ Hiếu đâu rồi? Chiếc giường cưới còn chưa kịp khô màu gỗ mà Hiếu đã như xa lắm rồi. Tất cả còn đây mà Hiếu như ở thế gian khác. Hiếu không lẽ lại là người như thế sao, đang tâm bỏ Đan mà không đau xót?
Càng nghĩ Đan càng không hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình. Chất độc màu da cam trong người cản bước không cho Đan tìm đến Hiếu. Đan yêu Hiếu nhiều, nhiều lắm nên Đan chọn cách để Hiếu ra đi.
Có lẽ Hiếu đã khổ tâm lắm rồi. Đan chấp nhận tất cả không bởi những cái gai bướng bỉnh trong lòng mà vì cô yêu Hiếu vô cùng, yêu hơn hết thảy tình yêu chiếm hữu. Hiếu ở đây này, trong trái tim và khối óc của Đan. Nơi ấy, Đan có Hiếu trọn vẹn nhất, nguyên sơ và thánh thiện nhất...
Đan à! Xếp quần áo đi. Bố đưa mày đi tìm thằng Hiếu, sau hơi thuốc dài, bố nói với Đan bằng những lời chậm rãi nhưng chắc nịch.
- Bố, con...Đan chẳng biết mình cần phải làm gì nữa.
-Nhanh lên, bảy giờ tối tàu chạy rồi đấy. Bố nói nửa như mệnh lệnh nửa như van lơn khiến Đan chỉ có thể làm theo như một cái máy. Hai ngày trên tàu từ Hà Nội và Sài Gòn, bố chẳng nói gì với Đan. Chưa bao giờ bố khó gần và lặng im đến thế. Bố tránh cả cái nhìn thẳng vào mắt Đan. Điều đó làm Đan sợ.
Từ trước đến giờ, Đan chỉ chứng kiến bố như thế lúc mẹ qua đời. Linh cảm mách bảo Đan chuyện chẳng lành. Thế nhưng, đó là chuyện gì? Đan không thể biết. Đan cũng không dám hỏi khi giữa hai bố con như có bức tường lửa chắn ngang. Nếu bị đốt cháy để sang được bờ bên kia kia chắc Đan cũng chấp nhận. Đằng này...
Thêm vài trăm cây số từ Sài Gòn đi Cà Mau trong im lặng. Hai bố con như hai người xa lạ với nhau. Còn vài cây số đường đất nữa mới vào nhà Hiếu. Hai bố con xuống xe và cứ thế đi bộ. Đan bước đủ chậm để bố hiểu Đan muốn dừng lại. Hơn hai nghìn cây số giờ chỉ còn vài cây nhưng Đan biết nói gì khi gặp Hiếu đây.
Đan không thể lao vào cấu xé Hiếu như bản năng ghen của những người phụ nữ khác. Đan cũng không thể van xin nơi Hiếu bất kỳ điều gì khi anh đã chọn ra đi. Vậy Đan đến làm gì, biết được sự thật hay cái giống như sự thật có làm Đan vơi bớt?
Rồi bố nữa, bố sẽ ra sao đây? Hình như bố hiểu điều Đan nghĩ. Bố luôn hiểu Đan hơn chính bản thân Đan. Ông lùi lại đỡ lấy chiếc giỏ trên tay Đan khoác chồng lên cái giỏ trên vai ông. Tay còn lại siết chặt tay Đan. Cái siết chặt khiến Đan rơi lệ.
- Bố có chuyện muốn nói. Con đừng bỏ về lúc này...thằng Hiếu...nó...Đôi vai ông kìm nén cái run dưới trời trưa nắng.
- Thôi, bố...Đan định nói muốn về nhà nhưng lại nhớ bố vừa nói "Con đừng bỏ về lúc này" nên lại thôi.
- Thằng Hiếu bị nhiễm HIV. Đơn vị và bệnh viện khuyên nó nên chữa trị nhưng nó nhất quyết đòi về nhà. Một năm qua nó không ra đảo nào cả. Nó về đây để con khỏi đau lòng. Bố đã định im lặng nhưng một ngày cũng nên nghĩa vợ chồng. Bố không muốn con dằn vặt bởi cảm giác tội lỗi khi biết sự thật. Nó có quyền được ở bên con lúc này và con cũng thế!
Đan như người rơi xuống vực thẳm. Không thể như thế được. Bố nói dối, bố ghét Hiếu nên nói thế. Bố chỉ muốn Hiếu chết đi vì Hiếu đã bỏ Đan. Bố là người ích kỷ, nhỏ nhen. Không, bố không phải là người như thế. Nếu bố nói dối thì lặn lội đường xa đưa Đan đến đây làm gì. Đôi chân Đan lao đi trong sự giằng xé để lại bố lê từng bước khó nhọc.
Hiếu vẫn ngồi đó, trước hiên nhà, nơi có vạt rau lang bên hè phải, lần trước về thăm nhà, hai đứa đã trồng. Những bông hoa thạch thảo tím cả một góc sân. Luống đồng tiền sặc sỡ và cả cây hoa trạng nguyên đỏ rực.
Không có dấu hiệu của con bệnh, không có dấu hiệu của sự chết chóc. Điều làm Đan khựng lại là sự sặc sỡ muôn màu ấy có nói lên dấu hiệu của một người phụ nữ, ngoài mẹ Hiếu? Ý nghĩ ấy vụt bay vì Đan chưa bao giờ nghi ngờ tình yêu của Hiếu.
- Đan về rồi hả con?
- Mẹ! Con...
- Vào nhà đi.
- Mẹ! Chồng con, anh ấy... Thế con không định vào nhà sao?
- Dạ? Con xin lỗi mẹ.
Mẹ Hiếu vừa đi chợ về, bà nhìn thấy Đan từ phía sau với cả nỗi lòng nặng trĩu. Khi bảo Đan vào nhà, bà không biết vừa đem lại cho con trai mình niềm vui hay thêm một nỗi day dứt trước khi xa lìa với cuộc sống.
Bà không biết có nên chọn cách nghĩ con mình sẽ hy sinh nơi chiến trường hay lũ thượng nguồn cuốn mất. Lính thời bình không chết vì bom đạn, súng nổ đầu rơi, lại chết vì căn bệnh ác nghiệt ấy. Mà Hiếu có phải xông pha gì đâu.
Thằng Hiếu là bộ đội thời bình, kiêm nghề viết báo. Nó chỉ viết bài và chụp ảnh thôi. Việc bắt bớ cái lũ tội phạm kia đã có công an lo. Con bà lao vào làm gì cho đến nỗi bị nó đâm kim tiêm vào người. Bà hy sinh cả một thời con gái nơi chiến trường ác nghiệt với bom đạn, với trộn sốt rét rừng đâu phải để con trai sống trong hoà bình mà ra đi tức tưởi như thế.
Lý tưởng ư? Ừ, thì lý tưởng. Nhưng có lý tưởng nào cho phép nó ra đi trước bà già đầu bạc này? Nó tưởng bà sẽ hiểu và tự hào về đứa con luôn đặt công lý lên tất cả ư? Vậy ai sẽ hiểu nỗi đau trong lòng bà? Nếu hiểu, con bà có sống được thêm ngày nào không?
Thân bà đây, cắt máu cho nó uống, lóc xương cho nó ăn liệu nó có khoẻ mạnh lại? Gì bà cũng chịu được, gì bà cũng làm được, chỉ có làm cho nó khỏi bệnh là bà không làm được. Sự bất lực làm ơn hãy kéo bà đi theo nó cho rồi.
Con bà không đi, không hy sinh như thế thì sẽ là con người khác, con ai cũng là con. Người khác cũng chỉ là người mẹ bình thường thôi. Người ta có thể thắc mắc một vài giây khi dạo gần không đọc được những bài phóng sự điều tra của tác giả Ngọc Giang, nhưng bà sẽ thắc mắc một đời trong nỗi đau mất mát.
Bó rau muống trong tay bà nát bấy, miếng thịt bò định xào với cần tây, món ruột của đứa con trai, cũng bị bà băm nát như thể bà đang băm nát con bệnh trong người con.
Ngoài kia, đứa con dâu của bà cứ đứng trơ ra như gỗ đá khi nghe chồng nói về căn bênh của mình. Đứa con dâu bà yêu thương hết mực nhưng cắn răng từ bỏ để con trai mình tránh tội bất hiếu tổ tiên. Ý nghĩ phong kiến ăn sâu trong bà mất rồi, không những thế nó còn ăn sâu trong bao người ấu trĩ khác. Cả bao thế hệ trôi qua. Bà biết làm sao?
Qua khe cửa nhỏ, bà chẳng thấy giọt nước mắt nào của Đan rơi ra mà chỉ thấy dưới làn môi mím chặt có giọt gì đo đỏ rỉ xuống. Thằng con trai bà đưa tay lên giọt đo đỏ ấy rồi bất ngờ rụt lại.
Nó sợ, chắc vậy rồi. Nó sợ con bệnh chạy từ người nó qua vợ. Con bé đã chứa đủ trong người chất dioxin rồi. Không phải là nỗi đau, không phải là căm thù, hờn tủi mà là tất cả đang trỗi lên làm bà uất nghẹn. Phải chi bà đui, bà điếc, phải chi bà điên để thấy đó là trò đáng cười sặc sụa. Đằng này...
Mình à, mình không có quyền bỏ em. Em không cho phép. Còn một năm thì mình bên nhau một năm, còn một ngày thì mình bên nhau một ngày, một giây nữa thôi thì mình cũng bên nhau. Mình sợ em yếu đuối, không chịu nổi sao? Không biết con bệnh có ăn tới trí nhớ của mình chưa mà quên mất em là xương rồng không biết mệt mỏi, yếu đuối. Em mọc thêm mọt bó gai nữa rồi này, để chống chọi với những gì đang diễn ra đấy mình ạ! Mình hiểu em nói gì không?
- Đan ơi! Anh xin lỗi.
- Em không còn là Đan, là xương rồng. Xương rồng có gai, không nỗi đau đớn nào đi qua đựơc lớp gai ấy để vào trong xương rồng.
Đan cười, khuôn mặt dãn ra. Đó là nụ cười Hiếu chưa từng trông thấy bao giờ. Hơn ai hết, cô đã hiểu vì sao Hiếu làm thế và không còn giận nữa. Anh là người suốt đời không vì mình. Đan cũng không giữ bản thân của mình nữa. Đan giữ niềm tin của Hiếu cho đến ngày cuối cùng, Đan giữ vai trò làm con với mẹ Hiếu, với bố Đan nữa. Ông đã bước đến bậc tam cấp cuối cùng để vào trong nhà. Đôi mắt ông nói rằng: "Đan ơi, con phải mạnh mẽ. Đan phải sống cho bố, mẹ và Hiếu!".
Nhiều buổi sáng qua đi, hoa xương rồng không còn đẫm nước mắt nữa. Nó tươi xanh với những gai góc và kiên cường dù thời tiết khắc nghiệt.
(Linh San - Tiếp thị GĐ)
Tìm trong nỗi nhớ
--------------------------------------------------------------------------------
Lê Ngọc Mai
Vài nét về tác giả: Sinh tại Hà Nội, nguyên là giảng viên Văn học Nga của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, hiện tiến sĩ Ngữ văn Lê Ngọc Mai đang sống ở Pháp. Tìm trong nỗi nhớ là tác phẩm đầu tay đoạt giải B cuộc thi tiểu thuyết lần thứ hai (2002 - 2004) của Hội Nhà văn Việt Nam.
Chương 1.
Đó là một ngày mùa hè nắng chói chang cách đây vừa đúng hai mươi năm. Chiếc xe commăngca dã chiến bạt sờn, sơn lở mà bố tôi mượn của cơ quan chở ba bố con tôi ra sân bay Nội Bài. Tôi lên đường đi học đại học ở Nga, bố và em trai đi tiễn. Đây là lần đầu tiên tôi rời Việt Nam. Mười tám tuổi, bốn mươi ba cân, hành lý là một chiếc vali lèn đầy quần áo và các mặt hàng tạp hóa. Son phấn Thái (xịn), kimono Nhật (rởm), áo phông nữ "cành mai", áo phông nam "cá sấu"..., mỗi loại xếp thành một xấp. Một đống quần lót "hoa hồng" xanh đỏ tím vàng với số lượng thừa thãi cho cả năm năm đại học. Hai bức tranh sơn mài màu sắc na ná như nhau, đỏ đỏ, xỉn xỉn, một bức "chăn trâu thổi sáo" và một bức "vịnh Hạ Long". Vài tấm tranh lụa, cái nào cũng tre, chim với thiếu nữ áo dài (khi tre chim nhiều thì áo dài ít, khi tre, chim ít thì áo dài nhiều). Dăm gói bột nghệ, một lô dầu cao "Sao Vàng", mấy hộp "sâm quy bổ thận" (thành phần ghi ngoài vỏ hộp gồm nhiều loại cây thuốc nghe tên rất đáng nể, nhưng không thấy có sâm.)
Số hàng hóa này không phải là dành cho tôi, tức là không phải để tôi dùng. Phần tôi, chỉ có vài bộ quần áo và hai tập từ điển Nga-Việt dày cộp. Còn lại, quần áo, son phấn, thuốc thang là để xuất khẩu sang thị trường Nga với mục đích đổi về bàn là, nồi hầm, ấm điện, tủ lạnh... Các tác phẩm nghệ thuật thì dành để khi có dịp dùng làm quà tặng thầy giáo, bạn bè (người Nga, tất nhiên, chứ người mình có ai treo những thứ này trong nhà.) Suốt cả tuần lễ trước ngày tôi lên đường, chiều nào sau giờ làm việc cô tôi cũng phải lăn lóc lượn đi lượn lại Hàng Ngang, Hàng Đào để kiếm cho đủ chủng loại, số lượng hàng hóa cần thiết. Cô nhất quyết dành cái công việc khổ sai này về phần mình vì không tín nhiệm bố con tôi. "Lù đù như bố con mày, không mua nhầm hàng rởm thì cũng bị chúng nó chém cho, thôi cứ để đấy cô lo, cô có kinh nghiệm mua đồ cho thằng V. đi Hung năm ngoái rồi". Những túi to, bọc nhỏ mà cô hì hụi vác đến làm bố tôi phát hoảng: "Con L. C. đi học chứ có đi buôn đâu mà cô bắt nó tha đi nhiều thứ thế!" " Ai cũng mang đi như vậy cả, tội gì không mang", cô tôi gạt phắt.
Đúng, ai cũng mang đi như vậy cả. Lúc kiểm tra ở hải quan, hơn ba chục cái vali của cả đoàn mở ra, cái nào cũng có ngần ấy thứ: "cành mai", "cá sấu", phấn "con bướm", xi líp "hoa hồng"... Mấy cậu bạn tôi, trong lúc xếp lại đồ đạc, vụng về làm tung ra ngoài xấp quần lót nữ màu sặc sỡ, mặt đỏ lựng lên ngang màu đỏ của bông hồng thêu trên quần lót (thời ấy khái niệm "đỏ mặt" còn tương đối thông dụng.)
Trong vali của tôi có một thứ mà chắc chẳng ai trong đoàn cùng đi hôm ấy có. Không, không phải là một mặt hàng "độc" mang lậu qua hải quan. Đó chỉ là một tờ giấy đơn sơ với vài hàng chữ viết to, đường nét rắn rỏi, tự tay bố tôi viết và dán vào mặt trong của nắp vali cho tôi trước hôm tôi lên đường. "Tính con hay quên nên bố dán vào đây cho khỏi thất lạc, và để mỗi lần con mở vali ra thì lại thấy ngay", bố tôi bảo. Nội dung tờ giấy là những điều bố tôi căn dặn cô con gái lần đầu tiên đi học xa nhà. Ông đánh số cẩn thận, có bảy điều cả thảy.
Hai mươi năm đã qua, chiếc vali cũ mòn và quê kệch của chuyến xuất ngoại đầu tiên đã bị quẳng từ lâu ra bãi rác, nhưng tờ giấy ấy thì đến giờ tôi vẫn giữ. Ố vàng, mép giấy chỗ sờn mỏng tang, chỗ cộm vệt hồ dán, nó nằm sâu trong một ngăn tủ của tôi, kẹp giữa cuốn sổ thơ thời sinh viên. Bây giờ đọc lại, thấy thương bố đến nao lòng.
Nhưng ngày đầu tiên ở Matxcơva, lúc mở vali ra, đập vào mắt những lời dặn dò của bố, tôi chỉ thấy buồn cười. Từ khi mẹ tôi mất, mọi nỗi lo toan cho hai đứa con dồn cả lên vai bố tôi, ông đâm ra thành người kỹ tính. Con gái đã mười tám tuổi mà bố phải dặn chi li từ chuyện ăn, chuyện mặc. Mặc đủ ấm khi trời lạnh... (Ông già không yên tâm với cô con gái chủ trương ăn mặc vị nghệ thuật, bất chấp thời tiết. "Mặc gì" luôn luôn là đề tài tranh luận nảy lửa giữa hai bố con, những sáng mùa đông trước giờ đi học, kể từ khi tôi bắt đầu trở thành một cô bé thích làm điệu, lớn lên giữa Hà Nội đói nghèo của thời bao cấp mà khái niệm "ấm" và khái niệm "đẹp" chẳng mấy khi may mắn đi đôi được cùng nhau.) Ăn uống điều độ... (chứ đừng thỉnh thoảng lại bỏ bữa ban ngày, lục cơm nguội ăn đêm, như hồi ôn thi đại học!) Chịu khó tập thể thao... (đây là điều mà cụ vẫn phàn nàn rằng con chẳng giống cha: bố thì hăng hái hết chạy lại bơi, con thì rảnh rỗi chỉ thích nằm dài ra đọc truyện.) Học tập là nhiệm vụ chính, không được để các hoạt động khác làm ảnh hưởng đến việc học... (Các hoạt động khác? Hẳn cụ muốn nói đến "hoạt động thương mại"? Nghe nói sinh viên Việt Nam ở Liên Xô và Đông Âu bây giờ buôn bán rầm rầm, bố tôi chỉ sợ con gái theo đuôi bạn bè mà xao lãng chuyện học. Nếu không có cô tôi vừa thuyết phục vừa trách móc thì bố tôi đã quyết không cho tôi mang đi những mặt hàng "chiến lược" kể trên. ("Dính vào chuyện buôn bán phức tạp lắm, nhà mình không có khiếu đi buôn!"). Tôi đang háo hức với chuyến đi, thấy bố bảo sao cũng sẵn sàng nghe vậy, nhưng cô tôi đã đưa ra một lý lẽ đơn giản: "Anh có lo được cho con L.C. không, mà không để nó tự lo cho nó? Mấy năm nữa nó học xong về nước, lấy chồng đẻ con, anh muốn nó cũng sống cực như anh bây giờ à?". Bố tôi lập tức đầu hàng, những rõ ràng trong lòng vẫn không yên.) Tuyệt đối tránh quan hệ yêu đương với người nước ngoài... A, đây mới là vấn đề mấu chốt!
"Tình không biên giới" là nỗi lo sợ ám ảnh hầu hết các ông bố bà mẹ có con đi du học thời bấy giờ. Đương nhiên, ở một cái xứ, một cái thời, mà việc cô con gái Hà Nội lấy chồng Nghệ Tĩnh đôi khi cũng đủ làm nên một bi kịch gia đình, thì chuyện dâu tây rể tây phải bị coi là đại họa. Vả lại, ai cũng biết rằng đi du học mà "lấy tây" thì chẳng còn đường về nước: đương sự bị coi như kẻ đào ngũ, bố mẹ mất con, gia đình mất danh dự. Đây mới là điều đáng sợ nhất đối với các bậc phụ huynh. Hai tiếng "lưu vong" thời ấy nghe giống như một án tù. Những trường hợp "lưu vong ái tình" trong giới lưu học sinh mới chỉ xảy ra hiếm hoi lẻ tẻ, nhưng cũng đủ để treo gương tày liếp.
Cuộc đời luôn luôn có những biến động bất ngờ. Thế hệ của chúng tôi, lớp du học sinh ra đi vào những năm tám mươi, sẽ mở đầu cho một làn sóng lưu vong mới mà "ái tình" không phải là nguyên nhân và con đường duy nhất như các năm về trước. Nhưng vào thời điểm đó, đứng chen chúc trên sân bay Nội Bài, nhễ nhại mồ hôi trong cái oi ả của một ngày cuối tháng tám, không ai trong chúng tôi có thể ngờ trước được điều này. Vali đầy ắp hàng và đầu đầy ắp ước mơ, chúng tôi ra đi, để lại sau lưng mình quê hương mà sau này đối với nhiều người mãi mãi sẽ chỉ còn là một chốn để thương để nhớ.
Đêm đầu tiên ở Matxcơva, trời cuối hè bắt đầu se lạnh. Mệt phờ người sau một chuyến bay dài và một lô thủ tục hành chính rắc rối, nhưng không sao ngủ được, tôi và T.H. ra đứng bên cửa sổ, nhìn xuống thành phố lấp lánh dưới ánh đèn. Choáng ngợp trước vẻ đẹp lộng lẫy của đêm Matxcơva, choáng ngợp vì nhiều cảm xúc mơ hồ, lẫn lộn, choáng ngợp với những dự cảm về một tương lai còn chưa rõ nét nhưng chính vì vậy mà lại có vẻ đẹp huyền bí đến nao lòng. Còn gì rạo rực hơn khi người ta mười tám tuổi, thả hồn bay bổng đến một vùng trời mà mọi mơ ước đều được phép, một vùng trời bí ẩn có cái tên gọi rất quyến rũ là Tương Lai.
Chương 2.
Mùa đông bao giờ cũng là mùa cửa hàng vắng khách nhất trong năm. Kỳ nghỉ Noel đến gần, thiên hạ nô nức đi mua sắm quà cáp, các cửa hàng quần áo, giày dép, đồ chơi...ở trung tâm thành phố đông nghịt người. Hiệu sách to đùng bên cạnh cũng kẻ ra người vào tấp nập, nhưng cửa hàng của Lan Chi thì vắng hắt vắng hiu. Văn hóa Á đông không phải là một món quà Noel thích hợp đối với cả người Âu lẫn người Á.
Cả buổi sáng nay cánh cửa ra vào cửa hàng được đẩy ra có năm lần. Đầu tiên, một người Âu vào mua một quyển sách về đạo Phật. Tiếp đến là ba người Á Đông cùng đi với nhau, mua một quyển truyện ở ngăn "văn học Thái Lan". Rồi một tốp năm người Á Đông nữa, cười rất to, tranh luận rất ồn ào (bằng một thứ tiếng mà Lan Chi không hiểu), nhưng không mua gì hết. Sau khi nhóm người này đi ra, cửa hàng rơi vào trạng thái lặng như tờ đến gần một tiếng, rồi có một phụ nữ tóc vàng vào mua một bức tượng gỗ. Đến quá trưa, khi Lan Chi chuẩn bị kết thúc ca làm việc của mình, thì một đôi nam nữ thanh niên đẩy cửa bước vào. Chàng trai tóc đen, rõ là dân châu Á. Cô gái tóc nâu, nhưng mặt mũi cũng không Âu gì hơn. Căn cứ vào hai đĩa nhạc Việt Nam mà họ mua, Lan Chi giả thiết rằng họ là đồng hương của mình. Nhưng vì đã có kinh nghiệm cay đắng nên tất nhiên cô không thốt ra một câu tiếng Việt nào. Đôi thanh niên nhìn cô vẻ dò hỏi, mỉm cười thân thiện, nhưng có thể vì họ cũng có kinh nghiệm cay đắng như cô, hay vì một lý do gì khác mà cô không rõ, họ chỉ trao đổi với Lan Chi vài câu ngắn gọn bằng tiếng Pháp.
Một giờ trưa, Lan Chi bàn giao cửa hàng cho Julie, cô bạn người Pháp làm ca chiều. Cả Lan Chi lẫn Julie đều chọn làm việc theo hình thức "mi-temps", tức là chỉ làm nửa ngày. Làm như vậy thu nhập ít, nhưng lại có thời gian và sức lực để chăm sóc chồng con. Lan Chi chủ trương làm việc "tà tà", vì với cái nghề bán sách của cô, dù có làm cả ngày, hay thậm chí làm cả đêm đi nữa, thì cũng đến thế mà thôi. Đường công danh có gì hứa hẹn đâu mà phải cố.
Về đến nhà, việc đầu tiên của Lan Chi là bật máy vi tính lên. Sau đó, cô mở tủ lạnh nhặt ra vài thứ, đặt vào máy vi sóng cho nóng lại, rồi đem ra bàn làm việc, vừa ăn, vừa dán mắt vào màn hình vi tính. Trung đã đi làm, ăn trưa ở bệnh viện. Ba đứa con ăn ở trường. Có một mình, Lan Chi chỉ ăn qua quýt vài miếng cho xong chuyện.
Nếu không kể thời gian ngủ mà sáng nào Lan Chi cũng phải rời bỏ với rất nhiều lưu luyến, thì quãng thời gian từ hai giờ chiều đến bốn giờ chiều là quãng thời gian mà cô cho là "xa xỉ" nhất trong hai mươi tư tiếng đồng hồ của một ngày, tức là quãng thời gian mà cô có thể yên tâm dành hoàn toàn cho những sở thích cá nhân của riêng cô.
Ba mươi phút đầu, Lan Chi dùng để xem e-mail, trả lời thư từ, và vào những địa chỉ yêu thích trên Internet để xem bài vở, tin tức. Tuy đã qua cái tuổi dễ bị mốt ảnh hưởng, nhưng cô vẫn không tránh được cái bệnh dịch thời đại đang lan nhiễm toàn cầu, tức là căn bệnh "nghiện Internet". Ngày nào không mò được vào mạng một chút là cô ăn không ngon, ngủ không yên, cảm giác như là mình bỗng trở thành Robinson sống giữa đảo hoang, bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới loài người. Lòng dạ bồn chồn như thể có biến cố gì vĩ đại lắm đang diễn ra, mà mình lại bị đẩy ra ngoài cuộc, không được ai cho biết.
Có hai bức e-mail nằm trong hộp thư của Lan Chi hôm nay. Bức đầu là của Thanh Hoa. Cô bạn thông báo rằng đến kỳ nghỉ Noel sắp tới sẽ cùng chồng con đi xuống miền Nam trượt tuyết ở vùng núi Alpes, nếu tiện thì lúc về sẽ lái xe đi vòng vài trăm cây số để đến thăm gia đình Lan Chi. "Nếu tiện", cô bạn nhấn mạnh. "Nhất định phải tiện", Lan Chi viết trả lời, bỗng thấy cồn lên trong lòng niềm ước muốn được gặp lại cô bạn cũ, để trò chuyện, hàn huyên, kể lể... Hay thậm chí là để không nói gì hết, chỉ khóc một chút thôi cho vợi bớt nỗi lòng. Thanh Hoa là nhịp cầu duy nhất ở đây nối Lan Chi với khoảng trời xưa, với cái thời tuổi trẻ xa quá mà thương quá.
Bức thư thứ hai là của cậu em trai ở Berlin, giục chị đến kỳ nghỉ thì đem lũ nhóc sang Đức chơi với hai đứa em họ ở Đức, cho chúng nó luyện tiếng Việt với nhau, "cố sang nhé, chị hứa nhiều lần rồi đấy!". Lan Chi biết là mình lại phải khất thêm lần nữa. " Năm nay chị không thu xếp đi được. Hay vợ chồng em đem bọn trẻ sang đây chơi?"
Thư từ xong, dạo một vòng qua mấy site Internet, biết thế giới vẫn không có gì đặc biệt, tức là vẫn động đất ở chỗ này, lũ lụt ở chỗ kia, khủng bố ở một (hay vài) nơi khác, các loại tội phạm giết người, trộm cắp... ở khắp mọi nơi, Lan Chi thở dài, gạt ra khỏi đầu một triết lý sáo mòn về nhân tình thế thái mà bao giờ cũng hiện đến với cô ngoài ý muốn, những lúc cô vào Internet đọc tin. Rồi Lan Chi ngắt mạng và nhấn con chuột, mở ra một cửa sổ mới trên màn hình vi tính.
Cái cửa sổ này là bí mật của Lan Chi, nỗi đam mê của cô, niềm hạnh phúc của cô. Cô giấu nó với chồng như người vợ ngoại tình giấu thư của tình nhân. Cô giấu nó với tất cả người quen như một người đàn bà đoan chính giấu thói nghiện rượu hay thói ham cờ bạc của mình. Mỗi ngày, cô chỉ dành cho cái ô cửa ấy chừng một tiếng rưỡi đồng hồ, nhưng đó là những giờ phút cô sống mãnh liệt nhất, hết mình nhất, những giờ phút mà quá khứ, tương lai, hiện tại hòa trộn vào nhau, hiện thực và ước mơ không còn ranh giới. Ở ô cửa này, Lan Chi viết và lưu giữ một bản thảo đang dở dang của cô.
Lan Chi chưa bao giờ là nhà văn. Cô chưa biết nên gọi bản thảo đang viết dở là gì. Nó bắt đầu từ những hồi ức xa xưa, nhưng không hẳn là hồi ký: Lan Chi muốn hình dung lại cái không khí chung của một thời đã sống, chứ không định ghi lại chính xác một trăm phần trăm từng chi tiết, từng sự kiện. Vả lại, Lan Chi không định dừng câu chuyện của mình lại trong quá khứ, cô vẫn còn chưa biết sẽ kéo dài nó đến tận đâu. Thôi thì cứ tạm gọi đó là một cuốn tiểu thuyết tự truyện.
Đây là lần đầu tiên Lan Chi viết tiểu thuyết. Dự định về cuốn tiểu thuyết ấy cô đã ấp ủ rất lâu rồi, nhưng sau khi xóa đi viết lại nhiều lần và bỏ dở nửa chừng, cô chỉ mới thực sự bắt đầu lại cách đây có vài tháng. Cô chưa hề nghĩ đến chuyện mình sẽ gửi in ở đâu (thậm chí có gửi in hay không cũng chưa nghĩ đến), chỉ thấy có sức mạnh vô hình nào cứ thôi thúc mình phải viết. Viết như một sự giải thoát. Viết để sống lại với quá khứ, để nhìn lại con đường đi của mình và bạn bè, một thế hệ mà cô cho rằng có số phận thật là đặc biệt (thực ra, thế hệ nào mà chẳng coi số phận của họ là đặc biệt?) Và có lẽ còn viết để thực hiện những ước mơ thầm kín mà cô không thể thực hiện được ngoài đời.
Người duy nhất được Lan Chi tiết lộ về cuốn tiểu thuyết này là Thanh Hoa. Chính Thanh Hoa là người đầu tiên đã gieo vào đầu Lan Chi cái ý định viết tiểu thuyết. Từ hồi học cấp ba, cô bạn đã ngưỡng mộ Lan Chi như một " tài năng văn học", vì đợt thi báo tường nào của trường lớp họ cũng giật giải nhờ những bài thơ vần điệu du dương của Lan Chi (những câu thơ đại loại như "Con đường mờ sương ngày ta đi học", hay "Làn tóc em bay, mát cả trời chiều"... một thời đã khiến cho các cậu con trai trong trường ra ngẩn vào ngơ, chốc chốc lại tìm dịp nhìn trộm nữ thi sĩ một cái, - của đáng tội, không có thơ thì cũng đã khối người muốn liếc trộm cô rồi). Trong một lần ngồi trò chuyện với nhau, nhắc đến bạn bè giờ đây chỉ có vài đứa còn ở trong nước, còn thì tung tán khắp mọi nơi, Nga, Pháp, Anh, Đức, Mỹ, Nhật... nơi nào cũng có, Thanh Hoa chợt buột miệng nói: "Tao mà có tài như mày thì tao sẽ viết một cuốn tiểu thuyết về thế hệ bọn mình. Mà sao mày không viết đi, tha hồ lắm chuyện giật gân."
Vậy là Lan Chi viết tiểu thuyết. Viết một cách giấu giếm vì cô không muốn trở thành lố bịch dưới mắt người đời (đặc biệt là dưới mắt chồng). Thời buổi này tiến sĩ tâm lý học đi bán sách thì chẳng ai ngạc nhiên, chứ cô bán sách mà lại viết tiểu thuyết thì đúng là làm trò cười cho thiên hạ.
Đúng bốn giờ chiều, chuông đồng hồ reo vang, Lan Chi rời máy vi tính đứng dậy nhưng mắt vẫn mơ màng như người chưa tỉnh ngủ. Cô phải đặt chuông đồng hồ, nếu không thì thể nào cũng mê mải viết mà quên đi giờ giấc. Cô dành nửa tiếng để dọn dẹp nhà cửa trước giờ đi đón con ở trường. Nửa tiếng ấy cũng là để cho Lan Chi hồi tỉnh, bứt ra khỏi cái trạng thái như người lên đồng mà cô thường có trong khi viết, để trở về với hiện thực. Kỷ luật này Lan Chi đặt ra cho mình sau một lần suýt phải trả giá đắt: lần ấy, quá ham viết, cô ngồi lỳ trước máy vi tính cho đến tận bốn giờ rưỡi mới hốt hoảng bật dậy chạy đi đón con, và vừa đi vừa chìm trong dòng suy nghĩ như một kẻ mộng du, cô đã lững thững bước qua đường giữa lúc chưa có đèn xanh cho người đi bộ. Nếu người lái chiếc xe ô tô hôm ấy không phanh két lại kịp thời (kèm theo một câu gắt gỏng), thì có lẽ giờ đây ba đứa con cô đã mồ côi mẹ.
Lan Chi đến trường mẫu giáo đón hai bé sinh đôi trước, rồi dẫn hai đứa sang trường tiểu học đón cu Nam. Bốn mẹ con thong thả đi bộ về nhà. Không ai chạy như lúc sáng nữa, vì bây giờ chẳng có gì mà vội. Vả lại, sau một ngày ở trường cả ba đứa trẻ đều đã thấm mệt.
Mới quãng năm giờ chiều mà trời đã xâm xẩm tối. Thành phố bắt đầu lên đèn. Còn hơn chục ngày nữa mới đến Noel, nhưng phố xá đã chăng đèn kết hoa rực rỡ. Gió thổi vù vù làm những chuỗi dây đèn màu chao đi đảo lại. Trời lạnh buốt, bốn mẹ con bước co ro, chỉ mong chóng về đến nhà. Vẫn là con đường đi buổi sáng, mà sao như dài ra gấp đôi. Lan Chi bỗng thấy thèm một vài bông tuyết rơi, thật nhẹ, thật mềm, để xóa mờ đi cái vẻ nghiệt ngã của thành phố mùa đông mà tất cả những chùm đèn lấp lánh kia cũng không sao làm dịu được.
Mùa đông năm nay thật lạ. Trời lạnh đến thế rồi mà sao vẫn chưa có tuyết rơi? Chương 3.
Tuyết rơi nhiều, rất nhiều, mùa đông năm ấy ở Matxcơva.
Đầu tháng mười một, tuyết bắt đầu rơi, như thường lệ năm nào cũng vậy. Tinh khiết và dịu dàng, những bông tuyết đầu mùa rơi thật chậm trong không trung, lượn lờ mãi rồi mới thong thả ngập ngừng đáp xuống. Đất và trời hòa lẫn vào nhau trong một màu trắng muốt tinh khôi.
Nhưng rồi tuyết cứ rơi mãi, mỗi lúc một hối hả hơn, dạn dĩ hơn, đáo để hơn. Rơi như không có cách nào ngừng lại được.Từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, từ phố này qua phố khác..., người ta có cảm giác như không đi đâu cho thoát nổi cái màu trắng ấy, đơn điệu đến mức tẻ ngắt, buồn bã đến độ thê lương.
Đó là một mùa đông khắc nghiệt của tôi. Tôi bước vào năm cuối đại học. Kỳ thi tốt nghiệp đến gần, và lấp ló ngay sau đó là ngày về nước. Đi cùng với khái niệm " về nước" là khái niệm "gửi hàng biển". Đi cùng với khái niệm "gửi hàng biển" là khái niệm "magazin" Vấn đề nan giải đặt ra là làm sao có đủ thời gian để vừa học thi và làm luận văn tốt nghiệp, vừa đi magazin kiếm đồ lấp cho đầy thùng hàng sẽ được gửi về nước bằng đường biển. Sau một mùa đông hớt hải chạy trên những con đường ngập tuyết theo lộ trình "trường-thư viện-cửa hàng-nhà", người cứng đờ vì lạnh, ê ẩm vì những cú trượt chân, tuyết đọng trên má, trên mi và táo tợn chui vào tận cổ..., tôi thôi không làm thơ về những bông tuyết dịu dàng trong trắng nữa. Và cứ nghe nói đến từ magazin là ngao ngán cả người.
Thậm chí cho đến tận mấy năm sau, cứ nghe nhắc tới từ magazin là tôi vẫn còn thấy chóng mặt. Thấy hiện lên trước mắt những cửa hàng rộng thênh thang hàng ít, người nhiều. Thấy hàng trăm con người nhẫn nhục đứng chờ từ giờ này sang giờ khác trong giá lạnh, xếp thành những cái đuôi rồng rắn dễ đến vài cây số. Thấy những cảnh ẩu đả loạn xị ngậu, võ mồm và võ tay chân, trên cái nền là một bản hợp âm nhiều thứ tiếng (Việt, Nga và gì gì nữa), nhiều thứ giọng ( đanh đá, hăm dọa, than thở, phân bua và gì gì nữa)...., tất cả là để bảo vệ chỗ đứng chính đáng của mình trong hàng, để duy trì niềm mơ ước cũng vô cùng chính đáng là một cái ấm điện. Thấy nụ cười khoái trá một cách độc ác của cô bán hàng trước sự tẽn tò, thất vọng của đám dân đen khi bỗng nhiên nghe người nắm trong tay niềm mơ ước của mình dõng dạc tuyên bố: "Hôm nay thôi không bán nữa!" Thấy mình thiểu não ra về, mặt mũi bơ phờ, nhân cách tơi tả...
"Chiến hữu" gần gũi nhất của tôi, người luôn luôn kề vai sát cánh với tôi trong những chiến dịch "đánh quả" là T.H. Đó là cô bạn gái thân từ hồi học cấp ba, đến khi sang Nga thì hai đứa lại may mắn được học cùng trường (tuy khác ngành nhau). T.H. nhanh nhẹn, xông xáo hơn tôi, cho nên cô giữ vai trò thủ lĩnh trong mọi " phi vụ thương mại" mà chúng tôi thực hiện. Nhưng cô cũng gầy và nhỏ như tôi, nên mỗi khi may mắn "trúng quả" thì hai đứa đều thở không ra hơi lúc chuyên chở chiến lợi phẩm về. Hồi đó bọn tôi nghèo lắm, toàn lấy công làm lãi, đâu dám động tí bỏ tiền ra đi taxi như những lớp sinh viên về sau. Mùa đông, đường thật trơn, gió thật lạnh, tay xách nách mang, hai đứa đi lò dò như ríu vào nhau, chỉ sợ ngã. Nhưng ngã còn không đau bằng thỉnh thoảng bắt gặp những cái nhìn thiếu thiện cảm của dân Nga ném vào mình. Chạm trán các đấng mày râu đồng hương, cũng còm và làm thân ngựa thồ như mình, thì chẳng hy vọng gì được họ giúp, mà còn phải nghe họ chớt nhả: "Xinh thế mà sao không có anh nào giúp?"
Ừ, sao không có anh nào giúp? Lũ bạn gái cùng trường bảo tôi và T.H. khổ vì quá kiêu, bao nhiêu thằng theo, sao không nhận đại một thằng làm bồ để nó đi đánh quả hộ cho khỏi nhọc thân. Thì ai chả biết rằng làm thân con gái đã muốn đánh quả mà không có bồ là rất thiệt. Nhìn chị em phụ nữ ở đây thì thấy ngay, người nào có bồ thật đúng như có cánh. Bàn là, nồi hầm... cứ tự dưng bay vèo vèo về nhà.
Nhưng "nhận đại" thì tôi và T.H. chịu không làm được. Thâm tâm cũng muốn có bồ, nhưng trong đám con trai lượn lờ xung quanh, chẳng thấy ai làm mình rung động. Hai đứa đều được coi là xinh xắn, dễ thương, nhưng học đến năm cuối đại học rồi, bạn gái có đứa đã thay đến bồ thứ ba, mà tôi với T.H. thì vẫn "trơ thổ địa".
Một trong những vệ tinh lượn quanh tôi dai dẳng nhất hồi ấy là T., thường được bạn bè gọi là T. "ủng", còn bản thân anh ta thì luôn luôn tự giới thiệu mình bằng tên kép như nghệ sĩ là S.T.
T. hơn tôi bốn tuổi, là nghiên cứu sinh ngành kinh tế. Đẹp trai, dân Hà Nội gốc ba đời là ít (bố mẹ anh ta có cửa hàng buôn bát rất phát đạt ở khu Hàng Ngang, Hàng Đào), chỉ riêng hai ưu điểm ấy đã đủ để T. lọt vào mắt xanh của nhiều cô gái. Một ưu điểm cực kỳ quan trọng nữa của T. là anh ta rất giàu (cái này khiến nhiều chị em chết hẳn!). Giàu vì được hưởng lộc nhà thì đã đành, nhưng anh ta còn giầu thêm gấp nhiều lần do tài làm kinh tế. Đó là một nhà kinh tế bẩm sinh mà ảnh hưởng rất đậm nét trong hoạt động thương mại của sinh viên Việt Nam ở Nga lúc bấy giờ: anh buôn gì là nhân dân ào ào buôn theo. Từng là trùm buôn "sâm bổ thận" (nhà anh ta có thời giống như kho chứa hàng của xí nghiệp dược phẩm, thuốc "bổ thận" xếp chót vót đến tận trần), T. lại là người đầu tiên đánh hơi thấy rằng mặt hàng này đã bão hòa trên thị trường Nga. Trong lúc nhiều người còn lóc cóc vác thuốc "bổ thận" từ Việt Nam sang Nga, để rồi ế chỏng ế trơ tiếc của đành đem ra tự uống (hậu quả thế nào có trời mà biết được!), thì T. đã nhanh nhẹn chuyển sang lĩnh vực khác: anh ta trở thành người đi tiên phong trong việc buôn bao cao su, mặt hàng của thời kỳ "hậu bổ thận". Chính vì phát hiện ra mặt hàng bao cao su này mà T. được gọi là T. "ủng", chứ anh ta hoàn toàn không có quan hệ gì với loại giày cao cổ đi mưa.
Tôi không hiểu sao một người như vậy lại mê tôi, một đứa con gái chẳng có gì đặc biệt ( thực lòng, tôi biết mình cũng dễ thương, nhưng trong số con gái mê anh ta có cô còn xinh hơn tôi), đã thế còn hết sức lớ ngớ trong chuyện làm ăn. Bạn gái thì bao nhiêu đứa bảo:"Gật nhanh đi kẻo hết rồi lại tiếc". Đến T.H., tuy không tỏ thái độ vun vào, cũng nói: "Mày mà lấy T. thì đúng là chuột sa chĩnh gạo nhé".
Nhưng tôi không chịu được T. Không chịu được cái vẻ đẹp trai trơ trẽn và lọc lõi của anh ta. Không chịu được cái lối cười hơ hớ vừa tự mãn, vừa khả ố của anh ta. Không chịu được cái thói suồng sã, gặp con gái chưa quen biết gì mà đã xưng "anh, em" xoen xoét.
Phải công nhận là T. rất kiên nhẫn với tôi. Dù cho tôi đã nói hết sức thẳng thắn về tình cảm của mình, dù cho anh ta cực kỳ bận với các hoạt động kinh tế, T. vẫn đều đặn một tuần một buổi đến thăm tôi rất đúng lịch. Lần nào đến thăm anh ta cũng có hai thứ quà, lãng mạn và hiện thực: nước hoa thì đi cùng bàn là, sôcôla thì cặp đôi với ấm điện. Ngày mùng 8 tháng 3 năm trước, anh ta mang tặng tôi một bó hoa hồng to tướng, kèm theo một cái nồi hầm. Tất nhiên, bao giờ tôi cũng tìm cách từ chối lịch sự nhưng kiên quyết. T. chẳng hề chạnh lòng, không nhận thì thôi, anh ta gói lại cẩn thận để mang về, rồi thản nhiên ngồi nói chuyện như không có việc gì xảy ra (và lần sau đến lại tiếp tục mang theo quà khác). Tán chuyện cũng là một cái tài của T., mồm anh ta dẻo quèo quẹo, ngồi mấy tiếng cũng không hết chuyện. Đối với tôi, ngồi tiếp chuyện T. quả là một cực hình, nhưng may quá cực hình đó không kéo dài lắm. Tôi nhanh chóng nhận ra lịch đến thăm của T.: tuần nào cũng đúng tối thứ sáu. Thế là tôi chỉ việc đi lánh nạn sang nhà T.H. vào tối thứ sáu hàng tuần. Sau nhiều lần đến hụt, để lại những mẩu giấy đầy tình cảm (âu yếm, trách móc như đã là gì của nhau!), T. có thử đến thăm tôi một cách thất thường, không theo lịch, và bắt gặp tôi ở nhà được vài lần. Nhưng hình như việc đi thăm tôi thất thường như vậy là quá sức đối với T., một nhà kinh doanh mà thời giờ hết sức khít khao và kế hoạch đã lên trước đến cả tháng. Thành thử những chuyến viếng thăm của anh ta cuối cùng thưa dần đi, chỉ còn được ở mức khoảng mỗi tháng một lần.
Thời ấy, T.H. cũng thường được hưởng những chuyến viếng thăm đều đặn như tôi, nhưng cây si trung thành của cô là một đối cực của T "ủng". Không dám nói là quy luật, nhưng tôi nghiệm ra rằng những chàng đáo để đôi khi hay mê những cô gái hiền hiền, nhà lành, còn ngược lại những chàng lành như bụt thì cứ thấy các cô gái sắc sảo là y như rằng bị hút hồn, không tránh vào đâu được. Tội nghiệp Q., anh hoàn toàn như bị thôi miên, không còn sức kháng cự trước cô bạn thông minh, lém lỉnh của tôi.
Q. bằng tuổi tôi và T.H., học cùng năm, cùng trường, nhưng khác khoa. Anh cũng đẹp trai, nhưng là một vẻ đẹp trí thức hơi "cây cảnh". Anh cũng nổi tiếng lẫy lừng như T. "ủng", nhưng không phải vì tài làm ăn, mà vì học giỏi. Q. đã từng được giải cao trong một kỳ thi toán quốc tế, tên và ảnh của anh có thời đã từng xuất hiện trên nhiều tờ báo lớn nhỏ ở Việt Nam. Với những chi tiết có thật và không có thật về Q., báo chí đã làm cho anh trở thành một nhân vật gần như huyền thoại trong giới sinh viên, anh đi đến đâu là con gái ở đấy đổ xô ra xem mặt. Nhưng bụt chùa nhà không thiêng, tuần nào T.H. cũng được nhìn mặt Q. ít nhất là vài lần rồi, nên cô không thấy ở anh có gì là huyền thoại cả.
Thực tình, tôi thấy Q. có rất nhiều ưu điểm. Anh không chỉ học giỏi mà còn có máu nghệ sĩ, đàn ngọt, hát hay. Hội diễn văn nghệ nào của trường mà không có Q. lên sân khấu thì đám con gái bỏ về đến một nửa. Có lần tôi nói với T.H., nửa đùa nửa thật: " Tao không hiểu mày còn chê gì nữa. Tao mà là mày thì đã đổ từ lâu." T.H. trả lời tỉnh bơ: "Thằng này còn non lắm, phải dạy dỗ nhiều mới cho đi lấy vợ được." Tôi biết, trong thâm tâm T.H. cũng quý Q., nhưng gọi là tình yêu thì chưa phải, hoàn toàn không phải. Cho nên cô cứ để lửng lơ con cá vàng mãi, không từ chối mà cũng chẳng nhận lời. Nói đúng ra thì cũng có lời gì mà nhận đâu, Q. chưa bao giờ đủ can đảm thốt lên một câu tỏ tình với T.H. Lỗi chính là tại T.H. thôi: với loại nhát gái tầm cỡ như Q. mà T.H. lại nhất quyết không chịu bật đèn xanh thì đời nào anh dám tiến.
Vậy là trong khi tất cả sinh viên Việt Nam ở Matxcơva đều biết là Q. chết mê chết mệt vì T.H., thậm chí thỉnh thoảng có người gặp anh còn hỏi thăm "bao giờ cưới", Q. vẫn không hề dám thổ lộ với T.H. về tình cảm của mình. Cứ vài tối anh lại đến thăm cô một lần, sau mấy câu ấp úng hỏi thăm sức khỏe, bàn chuyện thời tiết, anh bèn ngồi vào bàn giở báo ra đọc. Bao giờ T.H.cũng để sẵn trên bàn một chồng báo dầy cộp, "cho hắn có việc mà làm". Đọc hết xấp báo, uống xong bốn cốc nước chè to tướng (T.H. phải đổ thêm nước ít nhất là hai lần vào bình trà), Q. nhìn quanh quất dường như để tìm xem có cớ gì ngồi thêm nữa không. Vì việc tìm cái cớ này đối với Q. cũng khó ngang việc kiếm hàng "độc" ở Matxcơva thời ấy, cho nên nói chung Q. thường phải ngậm ngùi đứng dậy ra về sau cốc nước chè thứ tư, miệng lí nhí vài lời "chúc ngủ ngon nhé".
Thỉnh thoảng tôi cũng gặp Q. trong những tối sang nhà T.H. để tránh mặt T. "ủng". Bình thường, đi tán gái mà lại gặp phải bạn gái của đối tượng ngồi lù lù ra ở đấy thì ai chẳng bực mình (còn làm ăn gì được nữa!), nhưng Q. thì ngược lại: anh có vẻ thoải mái hẳn lên với sự có mặt của tôi.. Chưa đủ bản lĩnh để mặt đối mặt với ý trung nhân, khi chỉ có một mình với T.H., dáng điệu Q. cứ như người xấu hổ vì có ba tay bốn chân thừa thãi quá không biết để đâu. Tấm thân mét bảy của anh cứng đờ ra mỗi khi chạm phải ánh mắt tinh quái của nàng. Cái không khí căng thẳng này được phá vỡ với sự xuất hiện của một người thứ ba: thần kinh của Q.được giải tỏa khỏi trạng thái ức chế. Chồng báo bị bỏ rơi, trà chỉ nhấp vài ngụm rất phong thái con người lịch lãm, óc hài hước được phát huy hết sức triệt để, Q. trở nên dạn dĩ hẳn, đến mức đã vài bận dám liều mình nhìn thẳng vào mắt nàng một cái ( công nhận là một cái nhìn hãy còn ngắn, và chưa thể hiện được hết độ sâu tình cảm, nhưng như vậy đã hứa hẹn lắm rồi). Nói chung là tình hình tỏ ra có rất nhiều triển vọng. Từ lúc nào không biết, tôi nhận thấy mình đã bất giác trở thành đồng minh của Q.: tôi đâm ra mến anh và rất muốn tác thành anh với cô bạn thân nhất của mình.
Những buổi tối ngồi nói chuyện trong căn phòng ấm áp của T.H. thật thoải mái, dễ chịu, nhưng đề tài rồi cũng đến lúc cạn dần. Từ chuyện hài hước đến chuyện nghiêm chỉnh, từ tình hình chính trị Việt Nam và quốc tế đến tình hình buôn bán của dân ta ở Nga...., tóm lại, chỉ còn thiếu mỗi đề tài tình yêu thôi, còn thì không đề tài nào là không được lôi ra phân tích hết sức kỹ lưỡng. Q. bắt đầu rơi vào tình trạng phải đối đầu với nguy cơ lặp lại những điều "biết rồi, khổ lắm, nói mãi". Hoặc là đành trở về với chồng báo mà ít lâu nay đã bị lãng quên. Cả hai nguy cơ này đều đe dọa những thành quả rất đáng khích lệ đã đạt được.
Thêm nữa, căn phòng của T.H. ấm thì có ấm, nhưng trong khi chưa chuyển sang được giai đoạn "hai trái tim vàng", thì khung cảnh lâu dần đâm trở nên đơn điệu. Không thể trông chờ bất cứ một sự thăng hoa tình cảm nào diễn ra ở đây.
Q. nhận thấy rằng thời cơ đã chín muồi cho một cuộc nhảy vọt mới về chất. Anh quyết định rủ T.H. đi xem phim.
Sau ba lần rình đợi trên con đường đi học quen thuộc của T.H. để "tình cờ" gặp nàng một mình, sau ba lần ném cho nàng một cái nhìn theo dự định là dài và đắm đuối, nhưng không hiểu sao lại biến thành một cái cụp mắt hướng xuống đất quá nhanh, sau ba lần lời mời đi xem phim (đã ôn luyện trước cả đêm) tự dưng biến thành một câu hỏi ngớ ngẩn và ấp úng "T.H. đi đâu đấy?", Q. hiểu rằng thời cơ vẫn chưa chín muồi cho một cuộc đi xem phim chỉ có nàng và anh, vai kề vai, mặt đối mặt. Anh bèn gọi điện thoại cho tôi.
Sứ mệnh lịch sử mà Q. muốn giao phó cho tôi thực ra rất đơn giản: tôi phải chuyển hộ Q. lời mời đi xem phim đến T.H., đồng thời chính tôi cũng là người được mời đi. "Mình sẽ rủ thêm mấy thằng bạn nữa, -Q. bảo, - cả hội sẽ cùng đi cho vui, còn lúc về thì mình sẽ đi tiễn T.H".
Kế hoạch như vậy là đã được suy tính khá chặt chẽ. Tôi thực hiện nhiệm vụ của mình không chút khó khăn. Gì chứ chuyện vui chơi giải trí thì cô bạn tôi rất ít khi từ chối, nhất là khi có tôi cùng tham dự.
Điểm hẹn để cùng xuất phát là trước cổng B của tòa nhà chính trường bọn tôi. Khi tôi và T.H. đến nơi thì Q. đã có mặt ở đó, dáng điệu không giấu được vẻ bồn chồn. Tôi nhận thấy cái gọi là "mấy thằng bạn" của Q.thực ra chỉ là một nhân vật không dưới 1m75, mái tóc bờm xờm nuôi ít ra đã được ba tháng, ánh mắt tò mò hướng về T.H. và nụ cười tủm tỉm cho thấy đây là một người ý thức rất rõ về vai trò ông mối của mình. Q. giới thiệu: "K., bạn mình, học bên trường kiến trúc."
Q. chọn một rạp chiếu bóng khá xa trường, hẳn là do đặt nhiều hy vọng vào màn "đưa em về trong tuyết lạnh". Phải chuyển tuyến tàu điện ngầm hai bận, đi mất chừng bốn mươi phút mới tới được rạp. Hai tiếng đồng hồ ngồi trong rạp trôi nhanh, rất nhanh đối với Q., lần đầu tiên được ngồi bên nàng cùng xem một bộ phim tình yêu khá lâm ly.
Đường về, chúng tôi đi cùng một đoạn rồi phải chia đôi ngả, vì T.H. và tôi tuy học cùng trường nhưng sống ở hai ký túc xá khác nhau. Mạnh dạn một cách đáng ngạc nhiên ( chắc là do tác động của bộ phim vừa xem), Q. nhận đưa T.H. về, và đương nhiên, theo phép lịch sự, K. nói sẽ đi tiễn tôi. Giờ G. đã điểm, chúng tôi tạm biệt nhau, và không ai bảo ai, tôi và K. cùng gửi cho Q. một cái nháy mắt tinh nghịch.
K. tiễn tôi về. Dọc đường anh bảo: "Q. tính hay lắm đấy, phải cái mê cô bạn của L.C. quá rồi thành ra cứ như thằng mất hồn, mà cái cô T.H. này xem chừng nói năng đáo để ra phết nhỉ, cô ấy thương cho thì thôi, chứ muốn hành kiểu gì thì thằng Q. cũng phải chịu." "T.H. dễ thương lắm, - tôi cãi, - mồm miệng nó loe toe như vậy, chứ nó rất tốt bụng và tình cảm." "Q. thực sự là loại thiên tài hiếm có đấy, -K. tiếp, - cô nào vớ được nó thì bằng trúng số độc đắc." "Thì T.H. cũng lắm tài, - tôi lại nói, - cả thành phố này kiếm được một đứa con gái tài sắc vẹn toàn như nó chẳng phải dễ đâu." Câu chuyện cứ thế tiếp tục. K. khen Q. hết lời, tôi khen T.H. hết lời, cuối cùng chúng tôi nhất trí với nhau ở chỗ mong sao cho trai anh hùng chiếm được trái tim của gái thuyền quyên.
Hết chuyện người đến chuyện mình. Tôi được biết K. cũng là người Hà Nội như tôi. Anh đã tốt nghiệp đại học từ năm ngoái, hiện là nghiên cứu sinh năm thứ nhất ở trường kiến trúc. Thấy tôi bảo học ngành tâm lý, K. kêu sợ quá, kiểu này mình nghĩ gì L.C. biết hết phải không? "Việc gì mà sợ, -tôi cười, - cây ngay đâu có sợ chết đứng, nếu K. không nghĩ gì xấu thì chẳng có gì phải lo." "Biết thế nào là tốt là xấu,- K. nói,- tốt xấu nhiều khi phụ thuộc vào quan niệm của mỗi người". Sực nhớ mình đang phải làm một cuộc điều tra xã hội học về "quan niệm tình yêu và hôn nhân" để lấy tài liệu cho luận văn tốt nghiệp, tôi bèn hỏi K. có nhận phát giùm tôi khoảng vài chục tờ anketa cho các bạn trai của anh được không. K. đồng ý ngay. Chúng tôi thỏa thuận là K. sẽ phát hộ tôi hai mươi tờ, cho các sinh viên hoặc nghiên cứu sinh nam độ tuổi từ 20 đến 25, nếu được mười người Việt và mười người Nga là tốt nhất.
K. đưa tôi lên đến tận phòng để nhận anketa. Tôi cám ơn anh rồi tiễn anh ra thang máy. Trong lúc đợi thang máy, K. bảo tối nay đi xem phim vui quá nhỉ, có khi lần sau thì lại đến lượt mình phải nhờ Q. mời L.C. và T.H. đi xem phim mới được. "K. cứ phát anketa hộ mình đi cái đã, chuyện xem phim sẽ bàn sau", tôi nói. K. định đáp lại điều gì, nhưng thang máy đã đến, anh bước vào, mỉm cười và chào tôi "hẹn gặp lại". Cánh cửa tự động đóng sập ngay tức khắc, mang theo nụ cười rất tươi của anh. Tôi nhận thấy K. có nụ cười thật dễ thương.
Đúng hẹn, một tuần sau, K. đến tìm tôi để đưa cho tôi tập anketa đã điền câu trả lời. Thay vào hai mươi tờ như tôi chờ đợi, K. chỉ chìa ra được có năm tờ.
- Tại mấy thằng bạn mình ẩu quá, - K. thanh minh, - đã hứa như đinh đóng cột là chậm nhất chiều nay sẽ đưa, vậy mà cuối cùng thằng thì quên, thằng thì biến đâu mất hút, chịu không tìm ra được. Vì đã hẹn nên mình phải đến kẻo L.C. lại trách. Thôi, nhất định lần sau mình sẽ mang đến đủ những tờ còn lại. Còn bây giờ có cái này để đền cho L.C. đây.
Nói rồi, K. chìa ra một bông hoa. Chỉ một bông hoa thôi, chứ không phải cả một bó to đùng như T. "ủng" tặng tôi hồi trước, nhưng đó là một bông hồng nhung tuyệt đẹp. Trên cái cọng rất thẳng và cứng cáp là một cái nụ vừa mới chúm chím hé nở thành hoa, đỏ thắm và óng ả, thật hợp với lọ hoa xinh xinh của tôi. Mọi lời trách móc của tôi tiêu tan hết, tôi chỉ còn biết mỉm cười và cám ơn K.
Ngồi nói chuyện trên trời dưới biển thế nào mà ba tiếng đồng hồ trôi vèo qua chẳng ai kịp nhận thấy. Đã đến lúc K. phải ra về. Chia tay, anh hứa đi hứa lại mấy lần là nhất định tuần sau tôi sẽ có đủ các bản anketa mong đợi.
Một tuần nữa trôi qua. Vào buổi tối mà K. hẹn đến, tôi nhận thấy mình nhấp nhổm đứng ngồi không yên trước đó cả tiếng đồng hồ. Chốc chốc lại đứng dậy nhìn qua cửa sổ hoặc vểnh tai lên khi nghe thấy tiếng ồn của thang máy, tiếng bước chân ngoài hành lang. Đúng tám giờ có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở cửa và thấy trước mắt mình là một bông hoa. Một bông hồng nhung tuyệt đẹp vừa hé nở, đỏ thắm và óng ả, thật hợp với lọ hoa xinh xinh của tôi.
- Sao, lại lỡ hẹn nên phải đền lần nữa à? - Tôi vừa cười vừa hỏi.
- Chịu L.C. thật, đúng là nhà tâm lý học, chỉ cần nhìn hoa là đoán ngay được tội lỗi của kẻ tặng hoa. Lần này mình chỉ đem thêm được tám tờ nữa thôi. Tại mấy thằng bạn mình ẩu quá... - K. lại bắt đầu thanh minh, nội dung không có gì mới hơn là những lý do lần trước.
Bông hồng được đem cắm ngay vào lọ, thay cho bông hôm nọ đã bắt đầu tàn mà lúc trước tôi còn lưu luyến chưa muốn bỏ đi. "Lọ hoa đẹp thế này thì phải luôn luôn có hoa tươi mới xứng", K. bảo.
Hai ngày trước buổi hẹn lần thứ ba với K., tôi được biết là đúng buổi tối hôm đó tôi sẽ không rảnh. Ông thầy của tôi bảo tôi đến làm việc với ông vào buổi chiều, sau đó ở lại ăn cơm luôn với gia đình ông buổi tối. Lý do là vì nhân dịp một giáo sư người Anh cùng chuyên môn với thày trò tôi đang dự hội nghị ở Matxcơva, ông thầy tôi có mời vị giáo sư này đến nhà ăn tối, và ông muốn tôi có mặt để tham gia câu chuyện.
Tôi gọi điện thoại cho K. để đổi lại ngày hẹn. Tìm mãi không thấy ngày nào thích hợp, hôm tôi rảnh thì K. bận, lúc tôi bận thì K. rảnh, mà đợi thêm một tuần nữa thì cả tôi và K. đều không muốn. Cuối cùng chúng tôi thỏa thuận là vẫn giữ nguyên ngày cũ, nhưng thay vào việc đến nhà tôi buổi tối thì K sẽ đợi tôi ở ga tàu điện ngầm "Thư viện Lênin". Buổi chiều tôi phải đọc tài liệu ở thư viện đó, đến năm giờ rưỡi thì có hẹn ở nhà thầy giáo. Về phần K., quãng bốn rưỡi năm giờ chiều anh cũng có việc đi về phía này. Vì vậy, chúng tôi hẹn nhau vào lúc năm giờ kém mười lăm ở trước cửa ga tàu điện ngầm ấy để K. trao tập anketa cho tôi, xong xuôi tôi vẫn còn hơn nửa tiếng đồng hồ, đủ thời gian thong dong đến nhà ông giáo (cũng nằm trên tuyến đường đó, chỉ cách có vài bến tàu). "Liệu có phải để lại vài tờ đến lần sau không?", tôi hỏi qua điện thoại, nửa đùa nửa thật. " Đừng lo, sẽ thanh toán dứt điểm lần này. Lần sau thì để dành cho chuyện khác", K. trả lời.
Chúng tôi đến chỗ hẹn gần như cùng một lúc. Khi tôi đang đi về phía cửa ga thì thấy K. từ trong ga đi ra. Nhìn thấy trong tay anh không có hoa, tôi cười bảo:
- May quá, không mang cái gì để đền thế này thì chắc là đã có đủ anketa?
- Không phải vậy đâu. Mình không mang hoa tặng L.C. là vì biết L.C. phải đến nhà ông thầy ngay nên không tiện, chứ chuyện này chẳng liên quan gì đến mấy tờ anketa cả.
- Vậy K. có mang được đủ tất cả các tờ còn lại cho mình không? - tôi hỏi.
- Có chứ, - K. trả lời, tay lục lọi trong cặp, - tức là chỉ còn thiếu một tờ thôi.
- Lại thiếu một tờ? Chắc vẫn còn một thằng bạn ẩu quá!
- Không, bọn bạn mình lần này chu đáo hết ý, chẳng có thằng nào ẩu cả, - K. cười hì hì trả lời.- Thiếu một tờ, nhưng là một tờ có thể giải quyết ngay tại chỗ, tức là tờ của mình ấy mà. Mình sẽ điền anketa cho L.C. ngay bây giờ đây.
K. hỏi nhà ông thầy tôi ở chỗ nào. "Phố Arbat", tôi đáp. "Mình cũng có việc phải đi về hướng đó,- K. nói như reo lên,- vậy mình sẽ điền anketa cho L.C. lúc ngồi đợi tàu và trong khi tàu chạy."
Chúng tôi cùng đi vào ga. K. ngồi viết hí hoáy trong lúc đợi tàu, vẻ mặt rất tập trung khiến tôi không dám nói chuyện. Tàu đến, K. ngẩng lên, tôi hỏi anh đã làm xong chưa. "Còn một câu cuối cùng thôi", K. đáp.
Giờ cao điểm, trong tàu đông nghẹt người. Có chỗ đứng là may, hy vọng gì viết lách được. K. bảo: "Mình sẽ viết nốt khi xuống tàu, được không?" "Tất nhiên là được", tôi trả lời.
Tàu đến nơi. Chúng tôi đi ra. K. rút tờ giấy, viết thêm vài chữ rồi đưa cho tôi và bảo: "L.C. đọc hộ mình xem đã đạt yêu cầu chưa?" "K. điền câu trả lời thế nào chẳng được, làm gì có chuyện đạt hay không đạt ở đây", tôi đáp. "Thì L.C. cứ đọc thử xem, biết đâu có câu hỏi mình hiểu sai thì còn chữa lại được kịp thời", K.nhất quyết nài.
Tôi vừa đi vừa đọc, K. đi theo. Rẽ vào phố Arbat thì tôi đọc đến câu hỏi thứ năm: Mẫu người yêu lý tưởng của bạn? Có ba câu trả lời cho sẵn để lựa chọn và một dòng thứ tư để trống cho người làm test tự viết ý của mình, nếu cảm thấy không thích hợp với cả ba câu trả lời trên. Tôi đọc thấy tên tôi ở dòng thứ tư, viết bằng nét chữ to và đậm: L.C.
Có lẽ chỉ có tuổi sinh viên cách đây hai mươi năm mới tỏ tình ngây thơ và vòng vo như vậy. Có lẽ, chỉ cần thêm vài năm nữa, nếu một tờ giấy như vậy rơi vào tay tôi thì tôi sẽ dứt khoát coi đó là một trò đùa ngớ ngẩn. Có lẽ, vào ngay thời điểm này, nếu người trao cho tôi tờ giấy là T. "ủng" chứ không phải là K, thì lập tức anh ta sẽ bị tôi cười khẩy vào mặt và dán ngay cho cái nhãn "lố bịch" to tướng. Nhưng lúc này đây, ở bên tôi là K., căng thẳng, đợi chờ và hơi hốt hoảng, hệt như một chú bé vừa mới đánh liều châm vào ngòi nổ của quả pháo đùng. Sự hốt hoảng của K. lan sang tôi.
- Sao K. lại viết thế? - Tôi lúng búng nói một câu thật vô nghĩa, giọng hơi lạc đi.
Giọng nói của K. cũng lạc đi không khác gì tôi:
- Tại vì, tại vì... anh yêu em, - anh nói như hụt hơi.
Chúng tôi dừng lại bên một cây đèn lồng. Tôi ngước mắt nhìn K., đầu óc rối loạn, chưa biết đáp lại thế nào thì anh đã cúi xuống, đôi môi kề sát miệng tôi. Câu nói chưa kịp thốt lên vụt tắt ngấm, người tôi như tan đi trong một cái hôn dài.
Khi tôi mở mắt ra, hoàng hôn hình như vừa buông xuống. Đường phố bồng bềnh trong một màu tím hồng huyền ảo, ánh chiều đang lịm dần phía trên những ngọn đèn đường còn chưa kịp sáng lên.
Matxcơva bắt đầu vào tháng ba, tuyết đang tan, trời rất trong, rất dịu.
Chương 4.
Trời rất trong, rất dịu khi Lan Chi bước ra đường vào buổi sáng hôm nay. Cô đang có tâm trạng khá vui vẻ. Chỉ còn một hôm nữa thôi là hai tuần nghỉ lễ sẽ bắt đầu, lũ trẻ nhà cô sẽ được nghỉ ở nhà, Lan Chi cũng không đi làm vì vào dịp này cửa hàng của cô bao giờ cũng đóng cửa cùng một lúc với các trường học. Và sau đó, vào giữa kỳ nghỉ, Thanh Hoa sẽ cùng chồng con đến chơi với gia đình Lan Chi chừng bốn, năm hôm. Một kế hoạch chu đáo đến từng chi tiết cho dịp hội ngộ này đã được vạch ra. Lần đầu tiên sau rất nhiều năm hoàn toàn dửng dưng với Noel, Lan Chi nhận thấy mình bị cuốn vào không khí náo nức, hội hè của dân châu Âu từ lúc nào không biết.
Một tiếng đồng hồ sau, bên ngoài cửa sổ tình hình thời tiết và không khí đường phố dường như vẫn không có gì thay đổi, nhưng tâm trạng của Lan Chi thì đã không còn dấu vết gì của sự vui vẻ lúc trước. Nguyên nhân của sự biến chuyển đột ngột này là hai cú điện thoại mà cô vừa nhận được. Cú đầu tiên cho Lan Chi biết rằng kỳ nghỉ này nhà cô sẽ không có những người khách đang mong đợi: hai đứa con của Thanh Hoa tự dưng lăn ra ốm làm cho kế hoạch đi nghỉ của cả gia đình phải hủy bỏ. Cú thứ hai thông báo một sự kiện bất ngờ: bà mẹ chồng sẽ từ Paris xuống miền Nam nghỉ Noel đợt này với gia đình Lan Chi. Qua điện thoại, cô em chồng giải thích một cách rất dài dòng lý do dẫn đến chuyến đi Mỹ ngoài dự kiến của vợ chồng mình vào đúng dịp Noel, thổ lộ một cách rất thân tình rằng để má lại một mình ở Paris vào dịp lễ tết này thì tội quá, em đã tính hay đem má đi chơi cùng, mà nhiều việc quá lo không kịp, mà má cũng đâu có muốn... Rồi, sau khi thông báo rằng em đã mua vé máy bay cho má xuống chỗ anh chị ngày mai, cô em như sực nhớ ra bèn hỏi bằng giọng của một người đã biết trước câu trả lời: "Má xuống chơi đường đột vậy có phiền anh chị quá không?" "Phiền gì đâu", Lan Chi đáp lại bằng giọng của một người biết rằng mình không có cách trả lời nào khác.
Trưa hôm sau, hết ca làm việc, Lan Chi không về nhà mà lái xe ôtô ra thẳng sân bay đón mẹ chồng. Như thường lệ, ban ngày Trung không có được một phút rảnh rỗi, nếu không bận rộn ở bệnh viện thì lại có người bệnh đợi ở phòng khám, vì vậy, buổi sáng trước khi đi làm, anh giao hẹn với Lan Chi là để lại cho cô chiếc ôtô cùng với nhiệm vụ đi đón mẹ.
Máy bay từ Paris đến chậm hai mươi phút. Hai mươi phút ngồi đợi ở sân bay, không mang theo cái gì để đọc, đầu óc Lan Chi chỉ có mỗi một việc để nghĩ là cuộc giáp mặt sắp tới với mẹ chồng. Lần cuối cùng cô gặp bà cách đây đã năm năm, khi hai bé sinh đôi ra đời và bà nội từ Paris xuống thăm cháu, đánh dấu sự kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh dai dẳng nhiều năm giữa mẹ chồng và nàng dâu. Từ đó đến nay, quan hệ của họ vẫn chỉ dừng lại ở vài câu trao đổi ngắn gọn, lạnh lùng nhưng lịch sự qua điện thoại. Đôi lần, vợ chồng Lan Chi cũng đã dự định thu xếp một kỳ nghỉ nào đó đưa lũ trẻ lên Paris chơi với bà nội, nhưng rồi cô luôn luôn có những lý do chính đáng để hoãn lại chuyến đi, nhiều khi vào phút cuối cùng. Thường thì năm nào Trung cũng có việc phải đi Paris ít nhất một lần, kết hợp luôn ghé thăm mẹ, nhưng gần một năm nay anh quá bận công việc ở đây nên chưa đi được, có lẽ đó cũng là một trong những lý do của việc mẹ anh đột ngột quyết định đến chơi vào kỳ nghỉ cuối năm này.
Phút đầu gặp lại diễn ra hơi sượng sùng. "Thằng Trung đâu?", bà mẹ chồng hỏi thay câu chào, tuy đã biết từ trước là con trai bận không ra sân bay được. "Dạ, giờ này anh ấy bận ở bệnh viện. Má đưa vali con xách cho", Lan Chi nói rồi tự cảm thấy cái từ "má" phát ra bằng chất giọng Hà Nội trăm phần trăm của mình nghe giả dối đến nỗi cô bực bội cắn vào lưỡi mình một cái.
Ngồi vào ôtô, hai bên trao đi đổi lại những lời thăm hỏi. Đầu tiên, mẹ chồng hỏi lũ nhỏ có khỏe không, có ngoan không, có nhanh lớn không. Lan Chi túm ngay lấy cơ hội kể lể về con để chuyển cách xưng hô, vẫn xưng "con" nhưng gọi mẹ chồng là "bà", cái lối gọi thay con này làm cô nhẹ nhõm hẳn. Nói được chừng năm phút thì Lan Chi nhận thấy mẹ chồng bắt đầu lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ, cô bèn chuyển đề tài, hỏi thăm tình hình gia đình cô em chồng ở Paris. Câu hỏi này đem lại cho cô hơn mười phút khỏi động não tìm chuyện để nói, chỉ việc nghe mẹ chồng kể về lũ cháu ngoại một cách say sưa, say sưa đến mức tự dưng cô đâm chạnh lòng nghĩ đến mấy đứa con mình chẳng còn bà ngoại. Rồi Lan Chi hỏi thăm đến gia đình ông chú ruột chồng và được biết tiệm ăn của bà thím dạo này không còn đông khách như trước, cậu em họ sắp cưới đến nơi thì chả biết bị bồ bỏ hay bỏ bồ, giờ lại cặp với một cô bồ khác, lần này là tây..."Vậy cái cô định cưới thì là người Việt ạ?", Lan Chi hỏi. "Ờ,... mà không, con trước cũng tây, nhưng con trước nữa thì là Việt. Con nhỏ nhà ông Tư Bình đó. Hai nhà ưng lắm rồi mà hai đứa nó lại chẳng chịu nhau..." Câu chuyện được chuyển sang nhà ông Tư Bình. Lan Chi thoáng nghĩ không biết ông Tư Bình là ai nhỉ, tuy vậy cô không hỏi để mẹ chồng khỏi mất hứng. Điểm một vòng hết tình hình bà con, người quen và không quen ở Paris, thêm được mười phút nữa mà vẫn chưa về được tới nhà. Mấy phút im lặng nặng nề, rồi mẹ chồng kêu buồn ngủ và ngả người vào lưng ghế lim dim mắt.
Vào đến trung tâm thành phố, ôtô giảm tốc độ rồi lăn từng tí một như bò trên những đường phố tắc nghẽn xe và đông nghịt người qua lại. Ở mỗi ngã tư, đèn hiệu màu xanh lấp lóe như trêu ngươi: cứ mỗi một lần ôtô nhích lại được đến gần thì nó lập tức chuyển sang thành màu đỏ. Mười phút đã trôi qua mà ôtô của Lan Chi vẫn chưa ra khỏi được cái đại lộ chỉ dài có quãng nửa cây số. Không khí nhốn nháo ngoài đường làm sự im lặng trong xe trở nên mỗi lúc một ngột ngạt hơn. Lan Chi hạ cửa kính xuống, gió lạnh và và những âm thanh đường phố hỗn độn ập vào. Mắt vẫn nhắm lim dim, người vẫn ngả trên lưng ghế, mẹ chồng bỗng nói như than: "Chỗ này tỉnh lẻ mà sao cũng đông dữ vậy!" "Dạ, sắp đến Noel nên người ta đi mua sắm", Lan Chi đáp bằng một giọng chán nản. Noel, sao Noel nào cũng vậy, cứ đến cái thời điểm mà thiên hạ vui vẻ nhất thì cô lại thấy lòng mình cô độc nhất.
Cuối cùng thì ngôi nhà nhỏ nằm nép mình buồn bã trong một góc phố vắng cũng hiện ra. Lan Chi nhìn đồng hồ: ba giờ mười lăm, còn hơn một tiếng nữa mới đến giờ đi đón bọn trẻ ở trường về. Ăn trưa giờ này đã muộn nhưng tối qua Lan Chi biết trước là buổi trưa sẽ cập rập nên đã cẩn thận nấu nướng sẵn vài món. Cô vừa vào bếp định làm nóng lại thức ăn thì mẹ chồng nói ngay là không đói, đã ăn trên máy bay rồi. Bà kêu mệt và muốn đi nằm. Lan Chi đành tự thưởng thức một mình những món ăn mà cô đã lụi hụi làm cả tối hôm qua, món nào cũng cho đường ngọt lự để chứng tỏ thiện chí với mẹ chồng.
Cây thông cao mét rưỡi đã được dựng lên ở một góc phòng khách từ cách đây mấy hôm. Thông nhựa, nhưng nhìn xa cũng na ná như thông thật. Đèn màu nhấp nháy, dây kim tuyến lóng lánh, những đồ trang trí hình quả thông, quả chuông, hình ông già Noel... đủ màu sắc treo lủng lẳng khá vui mắt trên những cành thông. Kỳ nghỉ đã bắt đầu. Không khí Noel cuối cùng cũng đã lan được đến đây.
Sáng 24 tháng 12, tuy không phải đi đâu nhưng Lan Chi dậy rất sớm. Trung vẫn phải đi làm như thường lệ, sáu giờ rưỡi sáng đã vừa ngáp ngắn ngáp dài vừa làu bàu than thở rồi chui ra khỏi giường. Ở phòng bên cạnh, mẹ chồng cũng cựa mình, lục đục. Lan Chi bật dậy theo Trung, xăng xái đi pha cà phê và làm mấy lát bánh cho chồng ăn sáng, mặc dù anh đã ra sức can ngăn "ngủ tiếp đi, anh tự làm lấy được mà". Trung đi rồi, ba đứa con còn ngủ say sưa, Lan Chi bèn tranh thủ dọn dẹp nhà cửa. Bữa ăn Noel tối nay sẽ đặc biệt hơn mọi năm: ngoài mẹ chồng ra, nhà còn có thêm một vị khách nữa là bà hàng xóm Xvetlana. Cô đã có lời mời bà đến ăn tối Noel với gia đình cô từ tuần trước, sau khi tình cờ biết rằng dịp nghỉ lễ này cô con gái duy nhất của bà có việc bận nên không về thăm mẹ được.
Lan Chi vừa đặt vào dưới gốc thông vài gói quà mua sẵn từ hôm trước cho lũ trẻ thì mẹ chồng từ phòng ngủ bước ra. Nhìn thấy những gói quà bọc giấy màu bóng bẩy và thắt nơ diêm dúa, bà sực kêu lên: "Mấy thứ đồ chơi mua ở Paris lại đưa ngay cho sắp nhỏ từ hôm trước mất rồi, tối nay vậy là không còn gì hết trơn cho tụi nó". Cô con dâu phải ra sức can ngăn bà mới đành từ bỏ ý định chạy ra cửa hàng mua thêm quà khác cho cháu, bụng vẫn áy náy không yên, bảo vậy là tối nay lũ trẻ chỉ có quà của ba mẹ chúng thôi mà không có quà của bà. "Quà Noel thì phải để tối Noel mới mở chớ", bà nói. Rồi bà lại băn khoăn hỏi: "Không biết để quà dưới gốc thông vậy đã đúng chưa, hay phải cho vào trong cái giày cao cổ? Mà là đưa ngay cho tụi nó tối nay, hay phải giấu đi đợi đến sáng ngày mai mới đúng? Có phải thuê ông già Noel đến đưa quà không? Vợ chồng con Hạnh ở Paris năm nào cũng thuê người làm ông già Noel mang quà đến tận nhà cho bọn nhỏ đó."
"Mấy thứ thủ tục ấy con cũng không rõ lắm, - Lan Chi nói. - Thôi thì cứ có quà cho bọn trẻ con nó vui là được rồi, cho nó khỏi thấy khác biệt con nhà người ta. Chứ còn truyền thống của người ta, phong tục của người ta, mình làm sao biết hết, theo hết được. Bọn con cứ phiên phiến thôi bà ạ."
Bảo là phiên phiến nhưng bữa ăn tối nay vẫn phải có sâm banh và một con gà tây rôti nhồi thịt băm to đùng cho đúng lệ. Trung thắp mấy cây nến thơm tỏa hương ngào ngạt để tạo thêm không khí Noel. Mẹ anh bảo đã thắp nến rồi sao còn để đèn điện làm gì. Cu Nam nghe bà nói liền nhanh nhảu chạy đi tắt đèn. Mọi người ngắm nghía một hồi rồi quyết định phải châm thêm cây nến nữa không thì tối quá. Trung châm thêm luôn hai ngọn nến cuối cùng còn sót lại trong nhà. Cả nhà lại ngắm nghía thêm lần nữa rồi quyết định bật đèn lên, vừa nến vừa đèn càng tốt.
Đúng bảy giờ rưỡi tối thì có tiếng chuông. Lan Chi ra mở cửa. Bà hàng xóm Xvetlana xuất hiện với một chiếc bánh gatô rất to. "Gatô tôi làm theo kiểu Nga đấy,- bà nói,- chắc cô đã ăn loại này rồi chứ nhỉ?" "Cám ơn bác, cháu cũng không nhớ nữa bác ạ, lâu quá rồi mà, để tí nữa ăn thử có khi lại nhớ", Lan Chi vừa đáp vừa nhận chiếc bánh từ tay bà hàng xóm rồi mang vào bếp.
Trung giới thiệu bà Xvetlana với mẹ. Sau vài câu chào hỏi xã giao, mẹ anh ồ lên sửng sốt khi biết bà hàng xóm là người Nga.
- Bà nói tiếng Pháp hay quá, hệt như người Pháp vậy, - mẹ Trung khen bà khách bằng một thứ tiếng Pháp ngọng nghịu.
- Tôi sống ở đây gần bốn chục năm rồi, toàn nói tiếng Pháp chứ có mấy dịp để nói tiếng Nga đâu, muốn nói tiếng Nga ở nhà với chồng con cũng khó thì còn nói ở đâu được nữa, - bà hàng xóm cười trả lời.
- Vậy ông nhà là người Pháp? - mẹ Trung hỏi.
- Ông ấy cũng người gốc Nga, nhưng sinh ở Pháp. Ông ấy mất mười năm rồi.
Mẹ Trung có vẻ định hỏi tiếp điều gì, nhưng xem ra phải diễn đạt bằng một câu tiếng Pháp không đơn giản, cho nên bà nhăn mặt lại, căng thẳng lựa lời, rồi sau một hồi ậm ừ đành bỏ cuộc. Để lấp chỗ trống trong lúc đợi người đối thoại tìm được một câu khác dễ nói hơn, bà Xvetlana quay sang chỉ vào Lan Chi và nói rất âu yếm:
- Cô Lan Chi thì nói tiếng Nga giỏi lắm. Từ khi quen cô ấy, tôi lại có thêm dịp nói tiếng Nga.
Mẹ chồng ném cho con dâu một cái nhìn lạ lẫm nhưng không bình luận gì mà quay sang hỏi thăm chuyện con cái của bà hàng xóm. Đề tài "mấy con, mấy cháu" rõ ràng là vừa đơn giản về mặt ngôn ngữ, vừa thích hợp về mặt tuổi tác và giới tính đối với cả hai người, cho nên câu chuyện lại có cơ kéo dài thêm được.
Bà Xvetlana là người hàng xóm duy nhất ở phố này mà Lan Chi có quen thân. Những người khác thì quan hệ nhiều nhất cũng chỉ ở mức một câu chào khi thỉnh thoảng chạm trán nhau ngoài phố. Trong hai năm đầu Lan Chi sống ở đây, quan hệ của cô với bà Xvetlana thực ra cũng chỉ có vậy. Bà sống ở ngay ngôi nhà bên cạnh, hàng ngày Lan Chi vẫn nhìn thấy bà đi ra đi vào, nhưng cô không hề biết điều gì về bà, thậm chí đến cả cái tên cũng không biết. Thế rồi một hôm cô vừa về đến cửa thì gặp bà đi chợ về. Hai tay xách khệ nệ hai túi to, bà trượt chân ngã làm cà chua, cà rốt, khoai tây... rơi ra vỉa hè tung tóe. Lan Chi vội chạy đến đỡ bà già dậy, giúp bà nhặt các thứ đồ ăn xếp lại vào trong túi. Rồi tiện thể, cô xách hộ luôn cả hai cái túi đến tận cửa nhà bà. Trong lúc bà già cám ơn Lan Chi rối rít thì tình cờ cô nhìn thấy cái tên đề trên một khung giấy nhỏ phía dưới nút bấm chuông ở cửa: Xvetlana Popova. Một cái tên Nga chính hiệu không lẫn đi đâu được. Lan Chi buột miệng hỏi bằng tiếng Nga: "Bác là người Nga ạ?" " Vâng", bà già ngẩn người ra sững sờ, đáp lại câu đầu bằng tiếng Pháp, rồi lập tức chuyển sang tiếng Nga: "Sao cô lại nói được tiếng Nga?" "Cháu đã học ở Nga tám năm". "Những tám năm cơ à? Vậy cô học ở thành phố nào?" "Ở Matxcơva ạ." "Tôi là người Matxcơva đây", bà già nói và đột nhiên cầm lấy tay Lan Chi, miệng cười như mếu, rồi nhất định kéo cô vào nhà chơi, "để nói chuyện về Matxcơva một chút cho đỡ nhớ". Đang có thời gian rảnh, Lan Chi theo bà hàng xóm vào nhà ngay. Cô cũng muốn nói chuyện về Matxcơva một chút cho đỡ nhớ.
Ngồi nửa tiếng với bà Xvetlana, Lan Chi đã biết rất nhiều điều về bà. Biết rằng bà đến Paris vào đầu những năm sáu mươi, khi đang là sinh viên Pháp văn, được gửi qua Pháp thực tập. Chỉ định đi có một năm thôi, rồi lấy chồng là người gốc Nga (bố mẹ ông ấy sang Pháp sống ngay sau cuộc cách mạng năm 1917), thế rồi ở lại Pháp mãi cho đến tận bây giờ. Mấy năm trước chồng bà chết vì tai nạn ôtô. Cô con gái duy nhất lấy chồng người Pháp, hiện sống ở Lille, một thành phố tận cực bắc nước Pháp, thỉnh thoảng mới đem con về thăm bà. "Sao bác không chuyển đến đó ở cho gần con cháu?", Lan Chi hỏi. "Tôi sống ở đây mấy chục năm rồi. Nhà cửa ở đây, thói quen cũng ở đây, không nhổ rễ đi đâu được nữa. Nếu đi được thì tôi đã về Matxcơva sống chứ chẳng đi chỗ khác. Bao nhiêu năm nay lúc nào cũng nghĩ đợi thêm ít nữa rồi về Nga hẳn, vậy mà cuối cùng có về được đâu."
Từ đó họ thường xuyên qua lại thăm nhau. Để chia xẻ với nhau những hồi ức về một thành phố xa xăm trong quá khứ. Matxcơva, thời thơ ấu của bà. Matxcơva, tuổi trẻ của cô. Đôi lúc, nhìn cặp mắt long lanh ngấn lệ của bà khi nhắc tới những tên đường, tên phố, Lan Chi tự hỏi không biết đằng sau những cái tên ấy bà cất giữ những kỷ niệm gì. Còn cô, ở mỗi một con đường xưa cô đều nhìn thấy bóng hình Kiên. Ở góc phố này là nụ hôn đầu cháy bỏng của anh, một ngày cuối đông tuyết tan. Ở vỉa hè kia, dưới một hàng hiên, cô đã nép trong vòng tay anh để tránh một cơn mưa tầm tã đến hơn tiếng đồng hồ, hai đứa trò chuyện huyên thuyên, trời tạnh lúc nào không biết. Còn ở con đường nhỏ rợp bóng cây ấy, cô đã gục vào vai anh khóc nức nở sau một trận cãi nhau kịch liệt rồi lại làm lành, hai tháng trước ngày họ chia tay mãi mãi... Bà Xvetlana rất ngạc nhiên và cảm động khi thấy Lan Chi biết rõ cả cái phố nhỏ của bà, một phố hoàn toàn chẳng có gì đặc biệt ở gần ga Kiev. Đành rằng Lan Chi đã sống ở thành phố này tám năm, nhưng Matxcơva rộng mênh mông, nhiều người sống ở đó cả đời cũng chưa chắc đã biết được hết tất cả các phố. Mà phố của bà thì có danh lam thắng cảnh gì đâu. Lan Chi chỉ cười, không dám khai thật rằng cô hay lui tới nơi này, vì ở gần đó có một "danh lam thắng cảnh" rất quan trọng đối với cô: một cửa hàng bán dụng cụ gia đình khá lớn, nơi thường bán nhiều mặt hàng được dân Việt Nam hồi đó ưa chuộng. Có những buổi chiều cùng Kiên đi "đánh quả" ở đó nhưng chẳng kiếm được gì, cô và anh bèn đi dạo lang thang và bao giờ cũng tạt vào cái phố nhỏ này, một con phố vắng lặng và thơ mộng, tách biệt hẳn thế giới náo động bên ngoài, dường như được làm ra để dành riêng cho các cặp tình nhân. Nếu cô không lầm thì họ đã từng có lần dừng lại hôn nhau ngay trước ngôi nhà mà có thời đã là nhà của bà. Có phải nhà số sáu mươi của bác là cái nhà bốn tầng có cây phong trước cửa, hàng rào xanh, cửa sổ xanh không ạ? Cây phong thì có đấy, còn hàng rào, cửa sổ tôi cũng không dám chắc nữa cô ạ. Bao nhiêu năm rồi, chắc người ta đã sơn lại nhiều lần. Bao nhiêu năm rồi còn gì...
Các món ăn đã được dọn lên bàn. Sâm banh sủi bọt trong các ly dành cho người lớn. Nước cam vàng óng trong những cốc nhỏ của lũ trẻ con. Mọi người cùng nâng cốc, chẳng biết chúc gì đặc biệt vào lễ Noel, cho nên cuối cùng tất cả đều chúc nhau điều có thể chúc vào bất cứ dịp nào là sức khỏe. Hai bé sinh đôi là hăng hái nhất với việc chạm cốc: chúng nhất định đòi đập cốc rõ to vào ly của từng người một, không chịu bỏ sót một ai.
Câu chuyện được đưa ra khai mào ở bữa ăn tiện nhất tất nhiên vẫn là chuyện thời tiết. Lan Chi nói: "Sao Noel năm nay buồn quá nhỉ, chẳng có lấy một bông tuyết rơi." Trung bảo: "Hình như ở Paris mấy hôm rồi cũng có tuyết đấy, phải không má (mẹ anh gật đầu), nhưng tuyết thì có gì hay đâu, ở đây miền Nam ấm áp sướng hơn nhiều chứ." "Đúng là vùng này ấm áp dễ chịu hơn Paris, - bà hàng xóm góp chuyện,- nhưng Noel mà lại không có tuyết thì tôi thấy không giống Noel. Ở Nga vào dịp này thì tuyết phủ trắng đường." "Năm nào cũng vậy hả bà", mẹ Trung hỏi. "Vâng, năm nào cũng vậy, tuyết rơi suốt bốn tháng mùa đông", bà hàng xóm trả lời. Cu Nam hóng chuyện đến đây bèn kêu lên là bốn tháng tuyết rơi liền thì thích quá nhỉ, con thích đi trượt tuyết lắm. Trung bèn vỗ vào vai con trai rồi hứa để kỳ nghỉ sau ba sẽ đưa cả nhà lên núi Pyrenees trượt tuyết, chịu không?
Chuyện tuyết đến đây hình như là cạn ý. Mọi người bèn cúi đầu vào đĩa chăm chú ăn. Mẹ Trung ăn vài miếng rồi ngẩng lên, quay sang nói với con trai bằng tiếng Việt:
- Cái món gà tây rôti này ăn vài miếng thì được, chớ ăn nhiều ngán thấy mồ, sao Noel nào, nhà nào cũng cứ ăn hoài vậy?
- Thì nó đã thành tục lệ rồi, làm sao bỏ được. Cũng như bánh chưng bánh tét của mình đó má, - ông con trai trả lời.
- Bánh tét của mình ngon chớ, ăn đâu có ngán. So vậy sao được, - bà mẹ cãi.
Thấy tiếng nói chuyện, bà hàng xóm bèn ngẩng lên nhìn chăm chú. Nhận ra là người ta nói một thứ tiếng mà mình không hiểu, bà mỉm cười hơi ngượng nghịu rồi quay sang Lan Chi:
- Cái món gà tây này cô làm ngon quá, ăn nhiều cũng không sợ ngán, có phải cô làm theo kiểu Việt Nam không, lúc nào bày cho tôi cách làm với nhé.
- Không phải kiểu Việt Nam đâu bác ạ, - Lan Chi trả lời. - Cách làm này cháu học theo một quyển sách Pháp thôi. Thực ra về cơ bản cũng như cách làm thông thường, chỉ đặc biệt ở chỗ có một vài loại gia vị lạ và phải bơm thêm rượu vào dưới da gà cho đỡ ngán. Còn ở Việt Nam thì không có lệ ăn gà tây vào lễ Noel đâu, đúng hơn là không có ăn mừng Noel gì cả.
- Thế à! - bà Xvetlana tỏ ra sửng sốt.
- Vâng, à mà cháu cũng không biết chắc. Hồi trước thì không có, còn bây giờ thì không biết thế nào. Nghe nói ở châu Âu có gì Việt Nam bây giờ có hết. Nghe nói vậy thôi, chứ cháu đi lâu rồi nên cũng không biết nữa.
- Ở Nga bây giờ cũng thay đổi nhiều lắm, - bà hàng xóm thở dài. - Không như cái hồi xưa tôi ở đó...
__________________
Câu chuyện lại rộ lên quanh bàn ăn. Ở góc này mẹ Trung kể với con trai (bằng tiếng Việt) rằng nhà cô em gái anh ở Paris Noel năm ngoái cũng làm con gà tây to lắm, dễ đến bốn cân, cả nhà ăn hai ngày không xong, ngán quá phải đem vứt đi đến gần một nửa. Rồi bà kể tiếp đến chuyện nhà ông chú, xong chuyển sang nhắc đến người quen nào đó còn sống ở Sài Gòn, xong lại sực nhớ đến một người bà con bên Mỹ... Ở một góc bàn khác, bà Xvetlana và Lan Chi hồi tưởng (bằng tiếng Pháp, thỉnh thoảng xen lẫn tiếng Nga) những Noel ở Matxcơva. Rồi cô kể cho bà nghe Noel ở Hà Nội của cô, không có tuyết nhưng cũng lạnh cắt da và thỉnh thoảng lại mưa phùn bác ạ, người ta không ăn gà tây ở nhà, nhưng thanh niên đi ra đường đông như trảy hội, vui lắm, quanh Hồ Gươm đông nghịt toàn người là người...
Sau lễ Noel, Trung được nghỉ hai ngày liền. Lâu lắm rồi bữa ăn sáng mới quây quần cả nhà đông vui như vậy. Sáng hôm ấy, trong lúc ngồi ăn, mẹ Trung bảo: "Mai là ngày rằm, má ăn chay đó." Rồi bà hỏi: "Hai đứa xem liệu ngày mai có đưa má lên chùa được không, à mà ở đây có cái chùa nào không vậy?" Chuyện chùa chiền thì vợ chồng Lan Chi chịu không có khái niệm gì. Trung bèn gọi điện hỏi bà Thanh, một người quen, sống ở thành phố này đã mấy chục năm. May quá túm đúng được chuyên gia. "Chùa thì thiếu gì, - bà Thanh bảo, - nhưng má cháu muốn đi chùa nào?" "Chùa nào cũng vậy thôi, - Trung lúng túng, - có cái nào gần gần của người Việt mình là được". "Ấy, không đại khái vậy được đâu, - bà Thanh kêu lên trong điện thoại. - Thì toàn là chùa của người Việt mình đó chớ, nhưng có đến năm bảy cái, năm bảy hội khác nhau, ông nào cũng thờ Phật hết nhưng mỗi ông thờ một kiểu, cách thức khác nhau, khác nhau nhiều thứ lắm, hội nào đi chùa của hội đó thôi. Vậy má cháu thường đi chùa nào ở Paris?" Đến đây thì Trung đành chịu, anh chuyển máy cho mẹ anh nói chuyện trực tiếp với bà Thanh. Hóa ra mẹ anh cũng là người đã dạn dày kinh nghiệm và chính kiến vững chắc trong lĩnh vực này. Hai bà trao đổi với nhau sôi nổi một hồi, rồi cuối cùng mẹ Trung cũng chọn được một cái chùa phù hợp. Hơi xa một tí, cơ ngơi thì cũng hãy sơ sài, chỉ là một căn phòng ở tầng trệt của một cư xá thôi, nhưng các mặt khác thì đều hợp ý bà cả. Vậy là tốt rồi, thờ Phật tại tâm chớ đâu phải hơn kém nhau cái chỗ chùa to chùa nhỏ.
Sáng hôm sau, Trung đưa mẹ lên chùa. Lan Chi vào phòng ngủ thắp một nén hương trên cái tủ thấp kê ở góc phòng. Ở đó có tấm ảnh đã ố vàng của một người phụ nữ ba mươi nhăm tuổi, trẻ hơn cô hiện nay. Mấy chục năm rồi, vào ngày này bao giờ Lan Chi cũng thắp hương. Bao giờ cô cũng khóc. Mấy chục năm rồi, vết thương chỉ dịu đi chứ không lành hẳn được.
Hai mẹ con Trung đi chùa về khi Lan Chi đang lúi húi chuẩn bị bữa ăn trưa trong bếp. Vừa bước vào cửa, mẹ Trung nhận ngay ra mùa hương. Bà thắc mắc sao ở nhà lại cũng thắp nhang vậy? Trung thoáng giật mình, hình như lúc này anh mới nhớ ra, anh hạ giọng nói với mẹ rằng hôm nay là ngày giỗ bà ngoại lũ nhỏ đó. Mẹ Trung im lặng không nói gì. Không ai nói gì nữa cả. Mọi người đều biết mẹ Lan Chi mất năm 1972 ở Hà Nội, trong một trận bom B52.
Bữa trưa, món gà tây Noel còn thừa lại được bê ra. Lan Chi rán thêm mấy cái nem vì lũ trẻ không muốn ăn gà tây nữa. Mẹ Trung ăn chay thì có đĩa rau và đĩa đậu phụ riêng. Mùa hương từ phòng ngủ đưa ra làm không khí trầm lắng hẳn. Chỉ có ba đứa trẻ là đùa nghịch trêu ghẹo nhau chí chóe, còn người lớn ai nấy ngồi ăn chẳng nói năng gì. Cuối bữa, mẹ Trung buông đũa rồi quay sang bảo con trai: "Tháng sau là giỗ ba mày. Định làm ở nhà chú Cừ cho nó tiện và mời được bà con đông đủ. Con tính xem rồi cố thu xếp để lên Paris. Năm nay là vừa đúng hai mươi năm rồi đó."
Hai mươi năm trước, mẹ Trung được gọi đến nhận vài thứ kỷ vật của ba anh, sĩ quan của quân đội Sài Gòn cũ, chết bệnh trong một trại cải tạo ở vùng núi phía Bắc. Sau ngày này, cả gia đình Trung rời Việt Nam.
Trung không lên Paris ngày giỗ ba anh được. Bệnh viện đang lúc thiếu người, không thể tìm được một bác sĩ khác để tạm thay anh dù chỉ một hôm. Mẹ anh buồn. Trung cũng buồn và áy náy, nhưng anh hứa với mẹ là ít ngày nữa, đến Tết ta, anh sẽ đưa cả nhà lên Paris cùng ăn Tết, rồi thắp nhang luôn cho ba. Tết âm lịch năm nay rơi đúng vào kỳ nghỉ đông tháng hai của bọn trẻ con, Lan Chi không phải đi làm, Trung cũng đã xin được nghỉ vào ngày hôm đó.
Vậy là đúng ngày ba mươi Tết cả nhà có mặt ở Paris. Đi máy bay thì chỉ hơn một tiếng đồng hồ, nhưng lũ trẻ cứ nhất quyết đòi đi tàu hỏa. Lan Chi cũng cùng ý thích như con nên Trung đành miễn cưỡng đầu hàng. Kết quả là hôm đó cả nhà phải dậy từ sáng sớm, chỉ kịp ăn sáng qua quýt vài miếng rồi chạy vội ra ga, vậy mà đến quá trưa bầu đoàn thê tử mới lếch thếch kéo nhau tới Paris được.
Hạnh, em gái Trung, ra đón anh chị và các cháu ở ga rồi lái xe chở mọi người về thẳng nhà mình. Gia đình cô sống trong một căn hộ bốn phòng, ở tầng ba của một tòa nhà xây theo kiểu cũ, trần rất cao. Mẹ Trung cũng sống trong tòa nhà này, bà có căn hộ một phòng ở ngay tầng trệt. Thành thử, tuy là con gái đã lấy chồng, ở riêng, mà mẹ con bà cháu vẫn được gần nhau.
Vào đến nhà Hạnh, lập tức thấy mùi phở bò thơm ngào ngạt. Hạnh bảo biết anh chị đi tàu mệt và háo lắm, nên em nấu phở bò cho nó dễ ăn, còn cỗ giao thừa thì tối nay mình qua ăn bên chú Cừ, chú thím đã hẹn trước rồi. Mọi người đều đói ngấu nên ngồi vào ăn ngay, không đợi mời đến lần thứ hai. Trung ăn nhoáng một cái đã xong bát phở to đùng, cô em gái lại tất tả làm thêm bát khác. Bốn mẹ con Lan Chi ăn từ tốn hơn. Lan Chi ăn chậm phần vì còn mệt, phần vì thói quen, còn ba đứa trẻ thì rõ ràng không thích ăn phở lắm. Chẳng cần tinh ý cô Hạnh cũng nhận thấy điều này, cô hỏi:
- Sao, ba đứa không thích ăn phở hả? Có phải tại phở cô nấu khác phở mẹ nấu không?
- Không phải vậy đâu, - Lan Chi trả lời thay con.- Tại bọn này nó không thích ăn những món nhiều nước lõng bõng. Phở, bún hay miến mì gì cũng vậy thôi.
- Vậy thì cũng giống con Linh nhà này, - cô Hạnh bảo. Rồi cô động viên lũ trẻ: - Các con ráng ăn một chút cho đỡ đói nghen, ngoan rồi mai cô cho đi ăn McDonald với thằng Vinh, con Linh.
Trẻ con cả hai nhà vừa a lên mừng rỡ thì bà chúng đã lừ mắt bảo con gái: "Mai mùng một Tết, thiếu gì cái ăn, sao lại đi ăn McDonald? " "Tại con quên mất", Hạnh cười xí xóa rồi quay sang hỏi Lan Chi:
- Phở em nấu kiểu Sài Gòn vậy chị ăn được không?
- Ăn được chứ, - Lan Chi trả lời. - Có phở ăn là thích rồi. Phở Sài Gòn hay phở Hà Nội thì mình đều thấy ngon cả..
- Dân Bắc nhiều người ăn phở Sài Gòn riết rồi lại ghiền hơn phở Hà Nội đó, - Hạnh nói. - Người ta cứ bảo phở Hà Nội thanh, chớ em thấy nó hơi lạt lẽo, lại ít rau, chỉ có vài cọng hành lơ thơ, không đậm đà phong phú như phở Sài Gòn.
"Đừng có dại mà sa vào cái trận chiến muôn thuở này", Lan Chi tự nhủ. Nghĩ vậy, nhưng nuốt miếng phở đang ăn dở trong miệng xong, cô lại quay sang nhìn em chồng, cười thật hiền rồi nói rất nhẹ nhàng:
- Ừ, đúng đấy, phở Sài Gòn ai ăn quen như mình thì thấy cũng ngon lắm. Nhưng người không quen thì họ kêu là cho nhiều đường thành ra hơi ngọt lợ. Với lại ăn kèm giá nó không hợp, cứ tanh tanh thế nào ấy. Rau cho đủ loại cũng hơi hổ lốn, chả vị nào ra vị nào cả.
Trung vừa giải quyết xong hai bát phở bèn ngẩng lên cười bảo: "Lại bắt đầu rồi. Thôi dẹp đi hai bà. Hôm nay ngày Tết đó. Tranh luận mấy cái thứ này thì vài chục năm nữa cũng chưa xong."
Vài chục năm nữa thì chưa biết có đúng không, nhưng trên thực tế cuộc tranh luận này suýt nữa đã kéo dài từ năm cũ sang năm mới. Bữa ăn tất niên ở nhà ông chú, nó lại thập thò xuất hiện ở bàn tiệc, lúc thì dưới dạng cụ thể "bánh tét - bánh chưng", lúc thì ở mức khái quát "Tết Nam - Tết Bắc". Nhưng lần này Lan Chi nhất quyết không chịu tham chiến, phần vì đã ngán, phần nữa lại biết mình thân cô thế cô, sức mấy đọ lại được với một lực lượng áp đảo dễ đến hai chục người của bà con họ hàng nhà chồng. Cô bèn đóng vai gái ngoan nghe lời chồng dạy, đáp lại mọi nhận xét có tính chất "khiêu chiến" bằng một nụ cười tủm tỉm, chẳng ra phản đối, chẳng ra đồng tình. Cuộc tranh luận được nhen lên nhưng thiếu người đối đáp nên đâm ra chết yểu.
Cảm giác rõ rệt nhất mà Lan Chi lưu giữ lại từ bữa tiệc tất niên này là quá đông và quá ồn ào. Hơn hai chục người dự tiệc trong căn phòng rộng thênh thang, tiệm ăn của nhà ông chú: bà thím đã đóng cửa tiệm để ăn tết trong gia đình. Nhưng bữa tiệc gia đình này không có gì giống với những bữa ăn đêm ba mươi Tết đầm ấm ở nhà Lan Chi ngày xưa. Ngoài bánh tét cũng có cả bánh chưng (không biết vì mọi người thích ăn cả hai thứ bánh, hay chỉ do chiếu cố đến cô con dâu Bắc Kỳ?), nhưng bánh chưng Paris ăn không thấy giống bánh chưng Hà Nội, không buộc lạt, mà lại buộc bằng dây nylon. Lại thêm mấy quả dưa hấu to đùng, kiếm được ở Pháp mùa này là một thành tích không nhỏ. Trung bảo ăn dưa hấu nhớ Tết Sài Gòn quá, nhưng đối với Lan Chi, quả dưa ngày Tết này chẳng khác gì món gà tây Noel.
Vui nhất có lẽ chỉ là khi bữa tiệc đã tàn, lũ trẻ con trổ tài biểu diễn múa hát. Đầu tiên, bà thím đem cô cháu ngoại ra khoe: cô bé sáu tuổi, xinh như một con búp bê, mắt đen láy trong veo, giọng hát cũng trong veo và đặc biệt là hát rất diễn cảm và đúng nhạc.Điệu đàng trong chiếc áo dài màu đỏ xinh xắn may vừa khít, cô bé hát luôn ba bài, hai bài tiếng Pháp và một bài tiếng Việt về trăng Trung Thu, không hợp cảnh lắm, nhưng hát tiếng Việt mà hay được như thế thì đã là quá giỏi. Tất cả mọi người vỗ tay nhiệt liệt. Thế là trẻ con các nhà khác, được bố mẹ chúng khuyến khích, cũng hăng hái xông ra. Sau khi hai đứa con của Hạnh trình diễn xong một tiết mục song ca, Hạnh bèn quay sang hỏi: "Ba anh em cu Nam chắc cũng biết hát chớ?" Ba đứa đã nhấp nha nhấp nhổm muốn lên biểu diễn từ lâu, nhưng còn e ngại vì là người lạ, nay thấy cô hỏi vậy phấn khởi đứng lên ngay. Cu Nam chọn bài hát và lĩnh xướng, hai bé sinh đôi ra sức gân cổ hát theo anh. Ba đứa say sưa hát liền một lúc ba bài hát trẻ con tiếng Pháp, hết "Au clair de la lune" đến "Il était un petit navire", xong lại "Joli tambour". Được mọi người cổ vũ bằng những tràng pháo tay sôi nổi, cu Nam phấn khởi bèn quyết định gây ấn tượng với dân Paris bằng bài hát tủ của mình: ba anh em liền hát tiếp bài hát thứ tư, một bài hát người lớn mà chúng rất thích và thuộc làu do nghe đĩa CD của mẹ: " À toutes les filles que j ai aimées avant". Khỏi phải nói bài hát đã thu được thành công lớn đến thế nào: mọi người vừa cười nghiêng ngả vừa vỗ tay không ngớt, mà người vỗ tay to nhất có lẽ là ông bố của ba đứa. Khi tiếng vỗ tay lắng lại, bà nội hỏi: "Ba đứa có biết bài hát tiếng Việt nào không? Hát hay lắm, nhưng Tết ta sao toàn hát bài tây vậy? Má bầy nhỏ không dạy con hát tiếng Việt à?". Lan Chi cười chống chế: " Hồi nhỏ bọn nó cũng biết nhiều bài hát tiếng Việt lắm ạ. Con có mấy cái băng nhạc cũ mang đi từ Việt Nam, bọn nó nghe rồi hát theo được hết. Nhưng lớn lên, đi học ở trường cả ngày, chúng nó đâm ra quên dần bài hát Việt Nam." Cu Nam cãi lại ngay: "Có bài con vẫn thuộc đấy chứ mẹ!". "Bài nào, hát thử coi", bà nội bảo. " Bài "Hà Nội, niềm tin và hy vọng", cu Nam trả lời. Một thoáng im lặng. Rồi bà nội bỗng à lên như vừa mới sực nhớ ra, bà bèn quay sang nhắc cô Hạnh tuần sau phải gọi thợ đến sửa lại cho bà cái lò sưởi. Trung và Lan Chi cười cười nhìn con trai, chưa biết nói sao thì cu Nam chạy đến bên mẹ, bảo: "Con thuộc thật đấy, ba mẹ không tin con hát cho mà xem". Lan Chi dịu dàng vuốt nhẹ tóc con: "Mẹ tin, mẹ tin chứ. Nhưng hôm nay hát thế nhiều rồi. Để lần sau con nhé."
Mùng một Tết là ngày chủ nhật. Đêm hôm trước, sau bữa tiệc tất niên, lúc vợ chồng nằm trong giường, Lan Chi vừa định nói chuyện với Trung thì anh đã đoán ngay được ý vợ và bảo: "Mình còn ở đây nốt ngày mai thôi. Mai em tranh thủ ghé thăm Thanh Hoa đi. Để con anh giữ cho. Anh sẽ dẫn bọn nhỏ đi chơi với lũ con nhà Hạnh."
Để đền bù cho lũ trẻ chuyện không được đi ăn McDonald ngày mùng một Tết, Hạnh và Trung quyết định cho chúng đi chơi Disneyland. Lan Chi ấn vào tay chồng một cái túi to, nào khăn mùi xoa, nào nước uống, nào bánh phòng khi bọn trẻ đói, nào áo quần dự trữ nhỡ đứa nào ngã bẩn hay uống nước rớt ra còn có cái thay... Trung phải sốt ruột kêu lên:" Mấy ba con đi chơi không có mẹ mỗi một buổi thôi mà mẹ làm như xa cả năm vậy." Sau khi lặp lại đến lần thứ ba những lời dặn dò cho cả bốn bố con, Lan Chi tiễn Trung và ba đứa trẻ cùng mẹ con Hạnh ra ôtô rồi đi đến nhà Thanh Hoa bằng tàu điện ngầm.
Bốn năm rồi họ mới lại gặp nhau. Thanh Hoa nhìn Lan Chi vẻ xót xa rồi bảo:
- Tao thấy mày hơi gầy đi đấy.
- Một chồng ba con rồi còn béo làm sao được, - Lan Chi đáp. - Mà mày cũng gầy đi thì phải. Có sụt cân không?
- Sụt hai cân so với trước đây vài năm. Thôi thế là vừa. Khỏi phải thể dục, khỏi phải ăn kiêng để giữ co nữa nhé.
- Tuổi bọn mình bây giờ phải béo mới sang Hoa ạ. Gầy như tao với mày về nước thế nào cũng bị chê là số vất vả.
- Thì vất vả thật chứ còn gì, - Thanh Hoa cười.- Chục năm rồi chẳng được ăn một cái Tết nào cho ra hồn. Ở Việt Nam có ai vất vả đến thế không?
Rồi Thanh Hoa than thở: "Hôm qua mua một cái bánh chưng ở chợ về, thấy sao mà quái dị. Đã một lớp lá bên trong, lại phải thêm một lớp giấy nylon bên ngoài. Mở ra ăn, thấy nếp đỗ thịt đủ cả, không biết thiếu cái gì, mà sao ăn chẳng giống bánh chưng. Bực mình chỉ muốn mua gạo mua lá về tự gói, nhưng chồng con có ai thích ăn đâu, ăn một mình thì chẳng bõ công gói. Đấy, mấy hôm vừa rồi thấy thèm canh măng quá bèn ninh một nồi rõ to cho có không khí Tết, mà chồng con mỗi người chỉ nếm thử một hai thìa rồi thôi, mình tao ăn chắc phải đến Tết sang năm mới xong. Tết năm ngoái đi chợ thấy có quả gấc đẹp quá lại còn hứng chí vác về nấu đĩa xôi, lão kia (Thanh Hoa hất đầu chỉ về phía ông chồng đang ngồi đọc báo ở góc phòng) ăn một miếng tí teo rồi lịch sự rút lui chẳng phát biểu gì. Còn mấy đứa nhóc không được lịch sự như bố nó nên bảo thẳng: "Khiếp, mẹ nấu món gì mà kinh thế." Từ đó tao cạch, không trổ tài nấu các món ăn dân tộc nữa mày ạ. Chả ai hưởng ứng mình cả, mà mình thì Noel nào cũng chịu khó gặm gà tây với chúng đấy chứ, mày bảo thế có bất công không? À, may còn món nem thì cả nhà đều thích, nên tao phải tích cực làm nem cho bố con nó ăn, chứ không dám mua ở chợ. Nem mua chợ họ cho đường ăn ngọt khé cổ, hỏng khẩu vị đi mình..."
Pascal, "lão kia", ngồi đọc báo, chẳng hiểu được câu tiếng Việt nào, nhưng chắc nghe giọng điệu của Thanh Hoa, rồi nhìn vẻ mặt của cô và cái hất đầu hướng về phía anh, anh cũng đủ hiểu là vợ mình đang kể khổ, và kẻ phải chịu trách nhiệm về nỗi thống khổ bao la ấy đích thị là mình chứ không còn ai khác. Hẳn là để lập công chuộc tội (hay cũng có thể do đã bàn trước với Thanh Hoa?), anh đứng dậy lại gần hai người, mỉm cười ra chiều thông cảm và bảo rằng hôm nay là Tết Việt Nam, lại chẳng mấy khi có Lan Chi đến chơi, nếu Thanh Hoa muốn dẫn bạn đi chơi Paris thì anh xung phong quản lý lũ nhóc và chịu trách nhiệm cơm nước, cứ đi đi rồi tí nữa về là có cơm ăn. Thanh Hoa bảo anh trông hai đứa trẻ không để xảy ra chuyện gì là được rồi, còn ăn uống thì bọn này đi chơi tiện đâu ăn đấy (cô quay lại thì thầm với Lan Chi: "Đừng có dại ăn cơm lão ấy nấu!"). Lan Chi hỏi: "Mày định đi đâu?" "Đi dạo loăng quăng ngoài đường một chút cho thoáng, đâu chả được. Hôm nay mùng một, đi hái lộc!"
Gọi là hái lộc chứ lấy đâu ra lộc mà hái. Hai người đi lang thang trên đường phố, nhìn bất cứ cái gì cũng nhớ đến Tết ở quê hương. Ngày chủ nhật, người đi chơi ngoài đường khá đông vui, Lan Chi bảo nếu mình ở Hà Nội thì giờ này cũng đang đi chúc Tết đấy. Thấy một quầy bán hoa, Thanh Hoa kêu nhớ cái lần cuối bọn mình cùng đi chợ hoa Hàng Lược quá, hôm ấy hai đứa mua được hai cành đào đẹp ghê người, chỉ phải cái hơi đắt, Chi nhớ không, cứ như mới ngày nào Chi nhỉ. Hơn hai chục năm rồi, còn mới mẻ gì nữa, hồi ấy bọn mình chỉ có mười bảy tuổi thôi mà Hoa... Rẽ vào một phố vắng, đi ngang qua một biệt thự, thấy trong vườn nhà người ta có cây gì nở hoa na ná giống hoa đào, Thanh Hoa bảo: "Bây giờ già rồi nên bắt buộc phải đứng đắn, chứ không tao đã nhảy vào kia bẻ trộm một cành về cắm cho đỡ nhớ hoa đào. Không có ngày nào trong năm thấy nhớ nhà như ngày Tết ta, Chi ạ."
Đi một lúc đã đến giữa trưa, Thanh Hoa nói xem gần đây có hiệu nào ăn được thì ghé vào ăn tạm. "Hôm nay Tết ta, mình vào ăn quán Việt Nam đi", Lan Chi đề nghị. "Thôi, ăn Việt Nam làm gì chán lắm, - Thanh Hoa gạt đi. - Gọi là Việt Nam chứ ta chẳng ra ta, Tàu chẳng ra Tàu. Món nào cũng có, món nào cũng hơi giông giống, nhưng chẳng món nào đúng hẳn, ăn cứ như ăn của giả. Ngày Tết ăn như thế càng thêm nhớ nhà. Muốn ăn món ta thì để khi nào về Hà Nội ăn cho bõ. Còn bây giờ ở đây mình đi ăn món Pháp cho xong."
Vào một hiệu ăn tình cờ ở dọc đường, Lan Chi chọn món cá hấp, Thanh Hoa gọi miếng thịt bò bifteck nướng đúng kiểu Pháp, bên trong còn hồng hồng, nước đỏ chảy ra. "Không sợ bò điên à?", Lan Chi hỏi. "Sợ gì, bây giờ muốn điên cũng không phải dễ đâu", Thanh Hoa cười đáp.
- Vợ chồng mày dạo này thế nào?, - ăn được một chút, Thanh Hoa bỗng hỏi.
- À, bình thường thôi, vẫn chịu đựng được nhau, - Lan Chi trả lời.
- Chịu được nhau là tốt rồi. Tao với Pascal cũng vậy. Thế mẹ chồng mày bây giờ ra sao?
- Không có vấn đề gì.
- Quá trình hòa giải hòa hợp dân tộc vậy là tiến triển tốt hả? - Thanh Hoa cười hỏi.
- Sự thể đã thế, không hòa giải thì mày bảo còn làm gì nữa? - Lan Chi cũng cười theo. Rồi bỗng nhiên, cô đổi đề tài:
- Lâu nay mày có tin tức gì của Quân không, Hoa?
- Hình như hiện giờ hắn dạy đại học ở Mỹ hay Canađa ấy, tao cũng không rõ lắm. Mấy năm trước thì hình như ở Anh. Nghe nói hắn có vợ và một con trai rồi thì phải. Toàn là nghe nói thôi, chứ hơn chục năm rồi có lúc nào thư từ cho nhau đâu mà biết rõ được. Còn Kiên ra sao, mày biết tin tức gì của hắn không?
- Cũng toàn tin cũ và tin "nghe nói" thôi. Thấy bảo Kiên vẫn ở Hà Nội, vợ con đề huề, làm giám đốc công ty gì đó, có biệt thự to hơn đứt bọn mình ở đây.
Im lặng một chút, rồi Thanh Hoa thở dài:
- Tao không bao giờ hiểu nổi vì sao hồi đó mày và Kiên lại bỏ nhau. Yêu nhau dữ dội như Romeo và Juliette, vậy mà đùng một cái...
- Thời đại này chết vì tình hết mốt rồi. Càng Romeo - Juliette thì lại càng dễ tan.
- Nhưng tại sao bọn mày lại bỏ nhau? Có chuyện gì vậy? Bao nhiêu năm rồi, tại sao không khi nào mày chịu kể cho tao nghe chuyện gì đã xảy ra?
- Tại vì chính tao cũng không biết rõ chuyện gì đã xảy ra, - Lan Chi nói. - Có lẽ vì tất cả. Vì Kiên, vì tao, vì hoàn cảnh. Mọi sự đã thay đổi rất nhiều sau khi mày rời khỏi Matxcơva, Hoa ạ.
Chương 5.
Mọi sự đã thay đổi rất nhiều sau khi T.H. rời khỏi Matxcơva.
Trước đó một năm, chúng tôi cứ tưởng mình không còn có thể hạnh phúc hơn được nữa. Tốt nghiệp đại học xong, về nước nghỉ ngơi được vài tháng thì cả tôi, T.H. và Q. đều được trở lại Matxcơva làm tiếp nghiên cứu sinh. Ba đứa lại cùng đi một chuyến máy bay, lần này có cảm giác như trở về nhà. Sau năm năm, Matxcơva đã trở nên thân thương với đầy kỷ niệm.
K. ra đón tôi ở sân bay. Anh ôm ghì lấy tôi rồi kêu sao có mấy tháng mà em gầy đi thế. "Tại mùa hè nóng quá, em chưa quen lại được với khí hậu ở nhà", tôi bảo. Tôi không muốn thú nhận với K. rằng lý do chính là vì tôi chưa quen sống xa anh. Kể từ buổi hoàng hôn trên phố Arbat ấy, tôi như bị cuốn theo K. vào một cơn bão lốc. Tình yêu của anh mạnh mẽ, ào ạt đến nỗi tôi không có lúc nào dừng lại để thở, để suy nghĩ, để nhìn ra xung quanh. Lúc nào cũng chỉ thấy có K. trước mắt. Đi đâu cũng có anh ở bên. Tôi ngồi nhà viết luận văn tốt nghiệp, K. mang tài liệu sách vở của anh đến nhà tôi, ngồi bên cạnh, nói là để cùng "thi đua" học tập. Nhưng chốc chốc anh lại rời sách ra, lúc thì vuốt tóc tôi rồi bảo:"Cứ viết đi, đừng để ý gì đến anh", lúc khác lại năn nỉ: "L.C. ơi, cho anh hôn một cái, một cái thôi, không thì anh chết mất!" "Hôn lên trán thôi nhé", tôi đùa. "Hôn trán thì chán chết", K. cười, rồi tự coi là đã được phép, anh nghiêng người về phía tôi, sách vở của hai đứa rơi rào rào xuống sàn nhà và phải đến mười lăm phút sau mới được K. cúi xuống nhặt lên đặt lại vào chỗ cũ. Kết quả là chương cuối cùng trong luận văn của tôi bị ông thầy bắt viết lại lần thứ hai và kêu là mắc nhiều lỗi chính tả vớ vẩn ("Có chuyện gì thế? Những chương trước khó hơn thì em lại viết rất tốt, và hầu như không có lỗi", - ông thầy tôi ngạc nhiên bảo). May mà trước đó tôi đã viết xong những phần cơ bản, cho nên cuối cùng cũng hoàn thành được luận văn và tốt nghiệp đại học với bằng đỏ. Nhận bằng, vừa mừng vừa lo sợ vì không hình dung nổi về nước sẽ sống ra sao khi không có K.bên cạnh. Thời hạn nghiên cứu sinh của anh còn hai năm nữa mới xong. Tôi và anh đều không dám nghĩ đến chuyện phải sống xa nhau những hai năm. Cả hai đứa đều bám vào niềm hy vọng là mấy tháng sau tôi sẽ được quay lại để học tiếp. "Nhưng nếu em không được sang lại thì sao?", tôi hỏi. "Thì đến kỳ nghỉ Noel anh sẽ về Hà Nội. Chúng mình sẽ làm đám cưới", K. trả lời chắc như đinh đóng cột. Tôi ngả đầu vào vai anh, mơ màng tưởng tượng đến lễ cưới của mình ở Hà Nội, tưởng tượng đến một bé con sẽ ra đời chín tháng sau đó, tưởng tượng rằng cái nhìn sâu thẳm và nụ cười dễ thương của bé, giống hệt như K., sẽ giúp cho tôi chịu đựng nốt một năm cuối cùng sống xa anh.
Nhưng niềm hy vọng của bọn tôi vậy là đã thành hiện thực. Trước mắt chúng tôi còn có hai năm sống bên nhau ở Matxcơva. Kế hoạch về lễ cưới và "baby" tạm gác lại, bây giờ chuyện cần phải lo là học hành, thi cử, luận án. "Chỉ hoãn lại ba năm, đợi em học xong thôi đấy nhé", K. cảnh cáo tôi. Rồi nghĩ ngợi một lúc, anh hăng hái bảo:"Mà sao phải hoãn lại nhỉ? Chúng mình cứ làm luôn đám cưới ở Matxcơva ngay bây giờ đi!" Anh đâm ra phấn khởi với sáng kiến đó tới mức ngày nào cũng nhắc đi nhắc lại đến mấy lần, làm tôi sốt cả ruột. "Thì cứ từ từ, để em thở một cái đã, rồi chúng mình tính sau", tôi bảo.
Tính đi tính lại tôi vẫn muốn đợi lúc học xong về Hà Nội mới làm đám cưới. Tôi muốn lễ cưới của tôi phải có mặt bố tôi, có mặt cô tôi mà từ khi mẹ tôi mất đã thương yêu chăm sóc chị em tôi như mẹ, có mặt đông đủ bạn bè học cùng từ phổ thông đến đại học. Vả lại có gì mà vội? Cưới hay không thì lúc nào K. cũng vẫn ở bên tôi. "Mày có đuổi hắn cũng chẳng chịu đi đâu, việc gì phải lo giữ", T.H. xui. Lúc tưởng rằng sẽ phải sống xa K. lâu thì tôi phát hoảng, sẵn sàng cưới ngay, sẵn sàng có con ngay. Bây giờ anh đang ở bên, tôi lại nấn ná chưa muốn vội bước vào cuộc sống đó. Tôi luyến tiếc cái thời lãng mạn, tán tỉnh, tặng hoa... "Cưới rồi thì anh vẫn tặng hoa cho em hàng ngày", K. thề thốt. Tôi bèn cò kè mặc cả: "Thôi, không phải ba năm, mà chỉ hai năm nữa thôi nhé. Khi nào anh bảo vệ xong về nước, thì em sẽ xin về phép cùng với anh. Chúng mình cưới ở Hà Nội rồi em quay sang học tiếp. Anh ở lại nhà chẳng biết có đủ sức thủ tiết đợi em một năm không?" "Đợi em thì mấy chục năm anh cũng đợi được. Nhưng giá em đừng bắt anh đợi ngày nào thì hơn", K. bảo. Nhưng rồi cuối cùng anh cũng đồng ý với "kế hoạch hai năm" của tôi, chỉ bảo thêm rằng nếu em thay đổi ý kiến, muốn cưới sớm hơn thì nói ngay với anh nhé, anh lúc nào cũng sẵn sàng "nộp mạng" cho em.
Tạm thời thì hầu như ngày nào K. cũng đã đến "nộp mạng" ở nhà tôi. Ngoảnh đi ngoảnh lại, tự nhiên tôi thấy căn phòng nhỏ của mình bị lấn chiếm từ lúc nào không biết, khắp nơi bừa bộn sách vở đồ đạc của K. Đầu tiên chỉ là mấy quyển sách thôi, K. mang đến đọc (vẫn với tinh thần "thi đua" như trước), rồi buổi tối đứng dậy ra về thì bảo:"Anh để sách lại đây L.C. nhé. Mai anh đến đọc tiếp". Dần dần, hình như cả tủ sách của K. đã được chuyển hẳn về nhà tôi. Sau thì đến các loại quần áo, đồ dùng, cũng xâm nhập bằng cách ấy. Cuối cùng đến lượt cái giá vẽ cồng kềnh với tất cả đống phụ tùng kèm theo. Hôm K. vác cái đống lỉnh kỉnh này vào nhà, tôi vừa định mở miệng phản đối thì anh chặn họng ngay:
- Thiếu những thứ này anh không sống thoải mái được. Cảm thấy hình như không phải là nhà của mình nữa!
- Thì tất nhiên đây không phải là nhà của anh. Em nhắc cho anh nhớ đây vẫn là nhà em đấy nhé, - tôi nhận xét.
- Ừ nhỉ, dạo này ngày nào cũng ở đây từ sáng đến tối nên đâm ra quên mất, cứ tưởng bở, - K. cười xòa. - Nhưng mà không có em thì anh càng không sống thoải mái đựợc, thấy rõ ràng không phải là nhà của mình. Hay là em chuyển đến chỗ anh ở đi, anh sẽ mang đồ của anh về đó ngay.
Tôi lắc đầu.
- Thấy chưa, - K. đắc thắng. - Chuyển mấy thứ đồ này dễ hơn là chuyển em.
Tôi đành chấp nhận cho cái giá vẽ vị trí thứ nhì trong đời K., sau tôi, và chia sẻ căn phòng chật chội của mình với nó. Nhờ đó mà tôi biết được niềm đam mê lớn của anh: vẽ. Vẽ chỉ là một say mê nghiệp dư của K., ngành học của anh là kiến trúc, nhưng đôi khi tôi có cảm giác là anh dành nhiều tâm huyết cho hoạt động này hơn cho ngành học chính của mình. Anh có thể vẽ hầu như mọi lúc: lúc vui, lúc buồn, lúc gặp bế tắc trong luận án, lúc nghĩ ra một ý tưởng hay. Tranh của K. rất trừu tượng, khó hiểu. Tôi vốn đã mù tịt về hội họa, xem tranh của anh cứ thấy đầu óc mình sao mà u u mê mê. Nhưng càng không hiểu thì lại càng ngưỡng mộ. K. bảo, từ khi anh gặp tôi, trong tranh nào của anh cũng có tôi. Anh nói vậy thì tôi sung sướng tin là vậy, chứ thực ra nhìn căng cả mắt tôi cũng không dám quả quyết là có mình trong tranh của anh. Giữa những bố cục kỳ lạ, đôi khi thấy thấp thoáng mờ ảo cái gì đó giống như một bờ vai gầy với mái tóc đen dài buông xõa, một thân hình thon thả với vạt váy trong gió bay bay, hay là một đôi mắt to, to quá khổ... Tất cả đều là tôi, theo như K. nói. Tôi gật gù đồng tình và nói với vẻ mãn nguyện:"Ít nhất thì những đứa béo quay và tóc ngắn cũng không thể nhận vơ là được anh vẽ. Mấy cô tây tóc vàng cũng không có cớ để nhận xằng!" Rồi tôi chỉ vào bức tranh có đôi mắt to và hỏi: "Mắt em thô lố như thế này à?" "Mắt em mênh mông như thế đó", K. cười và cúi xuống hôn vào mắt tôi.
T.H. và Q. đến chơi, sửng sốt khi thấy căn phòng của tôi đã biến thành xưởng vẽ với ngổn ngang đồ đạc.
- Chết thật!- cô bạn tôi thốt lên. - Hai vị này đã xây tổ ấm ở đây rồi đấy hả? Sao không báo cho bà con biết để ăn mừng?
Tôi hơi ngượng, chưa biết nói sao thì K. đã nhanh nhảu trả lời:
- Chưa xây gì đâu. Mới chỉ là tổng diễn tập thôi. Mục đích là để huấn luyện L.C. dần dần. Tại vì L.C. kêu sợ cuộc sống gia đình, tiếc thời lãng mạn, nên phải có thời kỳ quá độ.
- Thằng cha này số đỏ thật, - Q. bình luận rồi liếc xéo T.H. một cái. - Thời kỳ quá độ như thế này thì mình cũng muốn tiến vào lắm, mà không biết làm sao để tiến được.
Quan hệ giữa Q. và T.H. vẫn đang ở giai đoạn mập mờ khó hiểu. Tất nhiên, cái thời chàng không dám nhìn thẳng vào mắt nàng thì từ lâu đã thuộc về cổ tích. Hai người dạo này thường hay đi chơi với nhau, nhưng mỗi khi tôi hỏi đến, T.H. đều khăng khăng bảo: "Bạn thân thôi, không có gì khác đâu". Giới tự cho là thạo tin trong trường nói rằng Q. đang ở bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ. Nhưng K., nguồn tin sát nhất với Q., lại ngao ngán bảo tôi rằng: "Cái thằng lóng ngóng ấy bao nhiêu lâu rồi vẫn chỉ giơ chân ra, chứ đã bước được bước nào đâu. Dạy mãi rồi mà cũng không khá lên được".
Cái giọng kẻ cả của một kẻ dày dạn kinh nghiệm trong tình trường ấy, K. mới sắm được kể từ ngày có tôi. Lắm lúc tôi bực mình, chỉ muốn dẹp ngay cái giọng này đi. Nhưng khổ nỗi, chẳng làm sao dẹp nổi, vì bọn con trai ở đây thán phục thành tích "đánh nhanh thắng nhanh" của K. đã đồng loạt tôn anh lên làm sư phụ. Thỉnh thoảng lại có một kẻ thất tình đến hỏi ý kiến quân sư. Gì chứ về khoản lời khuyên thì bao giờ K. cũng rộng rãi ban phát. Rồi, sau khi kẻ đi "thỉnh kinh" đã ra về, anh lại quay sang tôi, nói với một vẻ rất hoài nghi:" Chỉ bảo cho cu cậu cặn kẽ lắm rồi đấy, nhưng chẳng biết có ăn thua gì không. Chuyện này nhiều khi học mấy cũng không đủ. Còn phải có khiếu nữa!"
Q. được K. xếp vào loại "học trò" đặc biệt không có khiếu của anh. Về mặt chuyên cần học hỏi và tinh thần cầu tiến thì đố ai dám chê Q. Động có vấn đề gì là anh lại hớt hải đến thỉnh ý quân sư ngay lập tức. Nhiều khi hai gã ngồi bày mưu tính kế cả buổi. K. phán gì, Q. cũng ngoan ngoãn nuốt lấy từng lời. Vậy mà trời chẳng đền đáp cho cái công khó nhọc ấy. Cứ mỗi lần tôi hỏi thăm K. về tình hình "học trò" anh thì anh lại thở dài: "Thê thảm lắm L.C. ạ. Theo đuổi gần hai năm rồi mà vẫn chưa hôn được cái nào thì đúng là tuyệt vọng!" "Lỗi tại thầy trước hết, - tôi nói. - Anh từ chức đi cho Q. kiếm thầy khác". "Vấn đề không phải là ở thầy, -K. phản đối.- Nói em đừng bảo là tự kiêu, chứ thầy giỏi tầm cỡ như anh thì cả Mat này không kiếm được người thứ hai đâu. Tại cái thằng Q. ấy chứ, lý thuyết thì hỏi đến đâu nói vanh vách đến đó, mà thực hành thì chả biết gì sất cả. "
Quả thật, lỗi không phải ở thầy. Nhưng theo tôi, lỗi cũng không phải ở trò nốt. Sau khi gặng hỏi T.H. nhiều lần, tôi ngờ rằng nguyên do chủ yếu là tại cô bạn tôi đọc quá nhiều tiểu thuyết. Từ lâu, T.H. đã mắc phải một khuyết điểm rất lớn là có sự ham mê thái quá đối với các loại truyện tình yêu lâm ly đẫm nước mắt. Đọc nhiều, rồi so sánh với tình cảm của mình và Q., cô nhận thấy là hình như nó không giống. "Không giống cái gì?", tôi hỏi. "Không giống tình yêu", T.H. trả lời. "Không tình yêu thì là tình bạn à?", tôi lại hỏi. "Hình như cũng không phải là tình bạn", T.H. ậm ừ nói. Tôi phì cười: "Không tình yêu, không tình bạn, thế thì mày bảo là tình gì?"
Vấn đề hóa ra là không đơn giản tí nào. Theo như T.H. nói thì cô rất quý mến Q. Đi chơi với Q. thấy rất thoải mái. Lâu không gặp cũng thấy trống trải, vắng vẻ. Như vậy chắc là hơn tình bạn rồi. Khốn nỗi, gọi là trống trải vắng vẻ, nhưng có lần Q. bận việc phải đi xa, không gặp nhau đến hai tuần mà vẫn cứ chịu được. Không hề thấy khắc khoải đau thương như trong sách tả. Lúc gặp lại nhau thì quả là có vui mừng, nhưng không thấy tim mình đập loạn xạ gì hết. Vậy chắc chưa phải là tình yêu.
Tình hình đã phức tạp như vậy thì tôi và K. lại vô tình làm rối thêm. Vẫn theo T.H., thì sau khi nhìn tôi với K., cô mới hiểu thế nào là tình yêu đích thực, mãnh liệt, say đắm và v.v... (vân vân ở đây là nhiều tính từ mạnh khác.) Tình cảm với Q. lại bị T.H. đem ra so sánh thêm lần nữa, rồi bị nhận thêm một dấu hỏi to đùng.
- Thế mày định thế nào? - tôi hỏi.
- Chưa định gì hết, - T.H. trả lời.
- Gì thì cũng nên quyết định sớm đi cho Q. nó được nhờ, - tôi bảo. - Nếu không xơ múi gì thì nó còn được giải phóng để đi kiếm chỗ khác. Cứ om nó mãi thế tội nghiệp.
- Tao có om gì đâu, - T.H. cãi. - Tao đã nói hết với Q. như vừa nói với mày ấy. Nhưng Q. vẫn hy vọng là sẽ có lúc tao hiểu ra rằng đó là tình yêu đích thực. Thật tình, tao cũng hy vọng như vậy.
Tất cả chúng tôi đều hy vọng như vậy. Nhưng cuộc đời đã quyết định theo kiểu khác, bằng cách đưa vào một nhân tố mới.
Nhân tố mới này là một nhà khoa học Pháp đến làm việc ba tháng trong phòng thí nghiệm của T.H., theo chương trình hợp tác khoa học Pháp - Nga (T.H. học ngành sinh học phân tử). Cùng với ông thầy của mình, T.H. là một trong những người tham gia trực tiếp vào chương trình này. Vì ông thầy của T.H., một giáo sư có tên tuổi khá uy tín, còn bận rất nhiều việc khác, nên nói chung ông chỉ đứng tên vào đề tài là chính, còn mọi công việc "trâu bò" thì giao cả cho T.H. Lại vì đề tài luận án của T.H. gắn liền với chương trình hợp tác này, cho nên quyền lợi thiết thân của mình khiến cô phải hùng hục kéo cái cày ông thầy giao cho một cách vui vẻ, tự nguyện. Thành thử, cuối cùng, người đại diện cho nền khoa học Nga để làm việc với nền khoa học Pháp, trên thực tế chính là cô bạn T.H. của tôi.
Sứ giả của nền khoa học Pháp là một giáo sư tiến sĩ có những công trình nghiên cứu nghe nói rất đáng nể, nhưng lại hiện diện dưới cái lốt của một người đàn ông trẻ, tuổi mới ngoài ba mươi. Giáo sư hãy còn độc thân vui tính, lại rất say mê khoa học, thành ra suốt ba tháng ở Matxcơva ông chẳng còn biết làm gì, ngoài việc miệt mài tối ngày trong phòng thí nghiệm. Đề tài nghiên cứu nghe nói rất lý thú. Đại diện cho nền khoa học Nga thì rõ ràng vừa có tài, vừa duyên dáng, xinh tươi. Giáo sư không còn muốn rời phòng thí nghiệm ra nữa. Ngày nào ông cũng yêu cầu đồng nghiệp ở lại làm việc cùng ông đến tận gần nửa đêm. Một sự tận tụy với khoa học như vậy hiển nhiên sẽ dẫn đến những kết quả tuôn ra ào ạt. Ào ạt đến nỗi là sau khi thời hạn ba tháng kết thúc, giáo sư Pháp cho rằng sẽ có tội với khoa học nếu dừng chương trình hợp tác lại ở đây. Mọi người đều nhất trí là phải tiếp tục chương trình này, nhưng địa điểm của sự hợp tác sắp tới sẽ chuyển từ Matxcơva sang Paris.
Giáo sư Pháp đúng là người có tác phong làm việc khoa học, nhanh nhẹn. Về Pháp được một tháng, ông đã dàn xếp xong chuyến đi Paris của các nhà khoa học Nga. Ông thầy của T.H. bận đủ thứ việc nên chỉ nhận lời đi một tháng. Về phần T.H. thì lời mời của giáo sư Pháp quả thực là hơi bất ngờ: ông không mời cô đi hợp tác nghiên cứu ngắn hạn, mà đề nghị cô chuyển hẳn sang làm tiếp luận án ở phòng thí nghiệm của ông. Ông đã kiếm được cho cô một học bổng để làm luận án tiến sĩ ở Paris, thời hạn ba năm.
T.H. tự dưng bị đặt trước sự lựa chọn Matxcơva -Paris. Một bên giống như ngôi nhà thân thương với những thói quen, bạn bè, thầy cô, kỷ niệm..., nhưng đi cùng với nó là cuộc sống vất vả: vừa làm khoa học lại phải vừa lo "đánh quả" để có "lương khô" về nước ăn dần. Bên kia là chân trời mới choáng ngợp, niềm mơ ước của bao người, và quan trọng nhất là ở đó, chỉ với khoản tiền học bổng của mình, T.H. cũng đã có thể yên tâm với công việc nghiên cứu khoa học, không phải lo nghĩ nhiều đến chuyện "dự trữ" cho tương lai. Vả lại (cái "vả lại" này chỉ là một lý do tiện thể nói thêm, nhưng xem chừng cũng hơi quan trọng), như T.H. tâm sự với tôi, thì cô thấy mình làm việc với ông thầy hiện nay tuy cũng tốt, nhưng không được ăn ý như khi làm việc với Pascal (giáo sư tiến sĩ Durant, chỉ sau nửa tháng hợp tác khoa học, đã bị đồng nghiệp hạ bệ xuống thành "Pascal" cụt lủn). T.H. cũng có nghĩ đến Q., nhưng những tình cảm mơ hồ của cô đối với anh không đủ sức nặng để thay đổi cán cân lực lượng. Sự lựa chọn như vậy là đã rõ. Ông thầy của T.H. phải trả giá cho sự hợp tác với nền khoa học Pháp bằng việc mất cô học trò cưng. Nhưng sự mất mát này làm sao so sánh nổi với sự mất mát của Q.
T.H. đi rồi, Q. gần như suy sụp hẳn. Một trong những mục tiêu phấn đấu chính của đời anh, tưởng như đã ở trong tầm tay đến nơi, đùng một cái lại tự nhiên biến mất, thử hỏi làm sao mà không suy sụp được? Ngoài những bài toán yêu quý của mình ra, từ nay thế là Q. không còn có chỗ nào để tiêu hao cho hết thời gian và năng lượng. Thỉnh thoảng buồn quá không chịu nổi, Q. lại mò đến nhà tôi để ăn vạ ông bạn thân thiết nhất của mình. K. bị mất vai trò "cố vấn ái tình", nhưng anh lập tức vào vai "chị Thanh Tâm", an ủi, động viên rất khá, cho nên dần dần thì nỗi buồn của Q. cũng có vẻ phần nào nguôi đi. Mà nguôi đi là phải, vì đã là đàn ông chân chính thì không nên để cho những chuyện tình cảm nhỏ mọn ấy nó làm ảnh hưởng đến sự nghiệp lớn của mình, càng không nên chấp nhặt hay luyến tiếc cái bọn đàn bà nhẹ dạ, không biết đâu là giá trị đích thực (câu này là của K. nói với Q., sau khi nhìn quanh quất và hạ giọng thì thào, tưởng rằng tôi không nghe thấy, và được Q. cho là rất chí lý).
Thời gian có lẽ sẽ làm lành mọi vết thương. Cuộc sống có lẽ sẽ trở lại với dòng chảy bình thường của nó.
Nhưng mọi sự đã thay đổi rất nhiều sau khi T.H. rời khỏi Matxcơva.
Tất cả chúng tôi đều bước vào thời kỳ bận rộn với việc làm luận án: năm đầu thong dong đã trôi qua, thời hạn càng rút ngắn đi thì sức ép lại càng lớn.
Trong ba người chúng tôi thì K. là người bận nhất. Anh học trên Q. và tôi một năm, thời hạn bảo vệ luận án của anh đã đến gần, chỉ còn tính bằng từng tháng.
Thực ra, những phần cơ bản trong luận án của K. cũng đã hòm hòm, anh có thể ung dung hoàn chỉnh nốt những phần còn lại nếu không bị các công việc khác chi phối. Có điều, bao giờ cũng vậy, bảo vệ luận án xong là phải nghĩ đến chuyện về nước, phải lo đến cuộc sống tương lai ở Việt Nam. Với K., nỗi lo này còn nhân lên gấp bội, vì cái dự định lễ cưới đã ôm ấp từ hai năm nay. Chàng họa sĩ chuyên vẽ tranh siêu thực và trừu tượng của tôi giờ đây đã không còn tâm trí và thời gian để ngó ngàng đến giá vẽ. Trong đầu anh lúc này, chỉ còn bức tranh rất hiện thực và rất cụ thể về một ngôi nhà nhỏ, tổ ấm tương lai của chúng tôi.
"Anh muốn chúng mình cưới xong phải có nhà ở riêng. Anh không muốn em về nước phải vất vả, lam lũ, đầu tắt mặt tối. Anh muốn anh với em có tiền đủ sống để làm công việc chuyên môn của mình. Anh không muốn nhìn thấy em phải đi nuôi lợn, nuôi gà, hay gò lưng may thuê, đan thuê. Anh muốn con mình sinh ra phải được nuôi nấng tử tế..." Để giải quyết những cái "muốn" và "không muốn" này, lúc đó K. chỉ còn một cách là lao đầu vào "đánh quả".
Nhưng "đánh quả" ở Matxcơva trước đã không đơn giản, đến thời kỳ này lại càng rắc rối. Nước Nga đang ở những ngày cuối cùng trước khi Liên Xô sụp đổ. Các cửa hàng hầu như trống rỗng. Tình hình xã hội bắt đầu rối ren. Thời thế thay đổi, những người Việt Nam tháo vát cũng tìm đến những phương án làm ăn khác, chẳng mấy khi buồn bỏ thời gian đi lùng sục cửa hàng để chầu chực mua vài thứ đồ lặt vặt như trước nữa. Hoạt động thương mại của người Việt ở Nga đã chuyển sang giai đoạn "làm ăn lớn" với nhiều cách thức phức tạp mà tôi chỉ có một khái niệm hết sức mù mờ, vì K. kiên quyết không cho tôi tham gia vào những hoạt động này.
Anh bảo, những việc này hoàn toàn không thích hợp với loại con gái chân yếu, tay mềm, ngơ ngác như em. Anh bảo, anh không muốn em làm những cái trò đó vì sợ em sẽ không còn là em nữa. Thế nhưng anh lại bảo, những việc ấy sẽ cho chúng mình nhiều tiền để sống thoải mái ở Việt Nam, vì vậy anh không thể bỏ lỡ cơ hội. Tôi không hiểu mình phải làm gì, không thể và không dám ngăn cản anh, chỉ còn biết thương xót nhìn anh gầy rộc đi giữa những chuyến đi, những chuyến hàng và bản luận án.
Rồi cuối cùng, đúng hạn, K.cũng bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ. Ngày anh bảo vệ, lại có những đóa hồng nhung thắm đỏ, nhưng lần này, lần đầu tiên, người tặng là tôi, còn người nhận là anh. Có lẽ đến khi tôi bảo vệ thành công luận án của mình, tôi cũng không thể mừng hơn thế được. Một năm nay, tôi luôn luôn trong tình trạng căng thẳng, nín thở lo sợ nhìn anh chơi trò xiếc leo dây, đi chênh vênh giữa công việc nghiên cứu khoa học và hoạt động kinh tế. Nhiều lúc đứng tim lại vì tưởng thấy anh ngã lộn nhào đến nơi. Nhưng bây giờ, tất cả những nỗi lo sợ này đã chấm dứt, chấm dứt một cách may mắn. K. sẽ về nước với tấm bằng phó tiến sĩ và một khoản tiền, không nhiều lắm nhưng cũng đỡ được phần nào cho cuộc sống tương lai của chúng tôi. Một nỗi buồn ập đến khi tôi nghĩ rằng mình sẽ còn phải ở lại Matxcơva học tiếp một năm nữa, xa K. Nhưng tôi tự an ủi mình là tôi sẽ chỉ xa anh sau khi đã làm đám cưới. Một năm sẽ trôi qua rất nhanh. Tôi sẽ trở về với anh. Chúng tôi sẽ có một cuộc sống gia đình thực sự ở Hà Nội. Những bé con xinh xắn, giống anh và giống tôi, sẽ ra đời. Sau một "thời kỳ quá độ" được K. "huấn luyện", tôi cảm thấy mình đã hoàn toàn sẵn sàng cho cuộc sống đó.
Thế nhưng, người chưa sẵn sàng bây giờ lại là K.
Ở Matxcơva, K. đã nhận bằng. Ở Hà Nội, bố mẹ anh đã đến gặp bố tôi để làm lễ ăn hỏi và bàn chuyện tổ chức đám cưới. Mọi việc đều phải lo tính trước thật chu đáo, vì tôi chỉ được về phép ít ngày, cưới xong là phải quay lại Matxcơva ngay.
Đột nhiên, K. tuyên bố là anh chưa muốn về nước lúc này. Anh muốn ở lại Matxcơva, đợi tôi bảo vệ xong thì hai đứa về luôn một thể. Anh đã xin được giấy tờ để ở lại thêm một năm nữa, dưới dạng "cộng tác viên khoa học". Nhưng anh cũng nói thẳng với tôi rằng chuyện "cộng tác" ấy chỉ là hình thức. Lý do chính của việc anh ở lại đây, ngoài chuyện muốn được ở gần tôi ra (K. nhấn mạnh điều này), là vì anh đang có một mối làm ăn rất tốt, bỏ đi bây giờ thì quá phí. "Chỉ cần thêm một năm nữa thôi, anh sẽ kiếm thừa tiền cho chúng mình về nước sống thoải mái, rồi em xem", K. bảo. Rồi, nhìn thấy vẻ mặt băn khoăn của tôi, anh hỏi: "Em không thích anh ở lại đây với em à?"
Tất nhiên là tôi thích, nhưng cái thích ấy không đủ để bóp nghẹt nỗi sợ trong tôi. Tôi sợ khi thấy anh quyết định bỏ ra một năm để toàn tâm toàn ý dấn thân vào cái thế giới làm ăn ngày càng trở nên kinh khủng ấy. Gần đây, thỉnh thoảng lại nghe thấy những tin hãi hùng. Những chuyện trấn lột, đâm chém, giết người xảy ra trong giới làm kinh tế. Tôi sợ cho anh, cho tôi.
Suốt một năm tiếp đó, tôi triền miên sống trong nỗi buồn và nỗi sợ. K. nói là chưa về nước vội để được ở lại gần tôi, nhưng công việc làm ăn cứ buộc anh phải đi vắng suốt. Những chuyến đi ngày một xa hơn, ngày một kéo dài hơn. Đầu tiên chỉ là đi đến các thành phố khác, vài ngày thôi. Rồi sau đó anh bắt đầu phải đi xa hơn, sang Ba Lan. Độ dài cây số kéo theo độ dài thời gian. K. bắt đầu vắng mặt một tuần, hai tuần, rồi đôi khi thành cả tháng.
Nếu không có bản luận án phải hoàn thành mà thời hạn bảo vệ ngày càng đến sát, thì có lẽ sự đợi chờ căng thẳng đã làm cho tôi phát điên lên. Tôi vùi đầu vào luận án, tự nhủ rằng một khi tôi bảo vệ xong, thì mọi chuyện điên rồ này sẽ chấm dứt.
Sau mỗi chuyến đi về, giờ đây K. đến ở hẳn nhà tôi. Căn phòng của anh bây giờ hoàn toàn bỏ trống, kể cả ban đêm.
Lần đầu tiên chuyện đó xảy ra là khi K. trở về sau một phi vụ làm ăn ở một thành phố phía Nam. Chuyến tàu của anh quá nửa đêm mới về đến Matxcơva. Gần một giờ, khi tôi đã lên giường ngủ, nhưng chưa tài nào ngủ được vì những nỗi lo cho K. ám ảnh trong đầu, thì anh đập cửa và ào vào như một cơn gió lốc. Anh bảo, anh nhớ em quá không chịu được nên phải đến đây ngay. Anh bảo, anh không muốn một mình về ngủ trong căn phòng lạnh lẽo trống hơ trống hoác của anh nữa. Anh bảo, em nhìn bạn bè mà xem, mọi người có cần đợi cưới đâu mà đều đã sống hẳn với nhau rồi. Anh bảo, chúng mình đã ăn hỏi, lẽ ra là đã cưới, thực chất cũng sắp cưới, anh có điên mới trở về ngủ một mình ở cái căn phòng đáng ghét ấy. Anh bảo... rất nhiều thứ, tôi không kịp nghe, không kịp hiểu, không kịp có ý kiến, chỉ còn kịp nhận thấy những cái hôn của anh tới tấp phủ khắp người mình. Nỗi mừng được gặp lại anh, nỗi nhẹ nhõm vì anh đã trở về nguyên vẹn, tình yêu dâng lên tràn ngập khiến tôi không còn đủ sức kháng cự, không còn ý định kháng cự. Tôi để yên cho anh kéo mình vào một cơn xoáy lốc điên cuồng.
Buổi sáng tỉnh dậy, một cảm giác dịu dàng tràn ngập người tôi. Bàn tay anh đang nhẹ nhàng nghịch một túm tóc tôi. Mở mắt ra, tôi nhận thấy anh đang nhìn tôi đăm đắm. "Sáng dậy, ngái ngủ trông em xinh quá!", anh nói. Tôi mỉm cười, định đáp lại là trông anh cũng rất "xinh", nhưng anh đã cắt ngang câu nói của tôi bằng một nụ hôn cuồng nhiệt.
Ngày hôm ấy, chúng tôi nằm lỳ trong giường đến hơn mười một giờ sáng. K. bảo hôm nay anh quyết định nghỉ ngơi, không làm việc gì cả. Tôi cũng không muốn làm việc, bản luận án cứ để nằm đấy đợi tôi thêm một ngày cũng chẳng sao. Hai đứa chúng tôi nói đủ thứ chuyện linh tinh. Anh hỏi: "Tình hình luận án của em bây giờ ra sao, có cần anh phát hộ anketa nữa không?" Tôi bảo: "Bây giờ mà còn đợi anh giúp thì chắc luận án của em toi mất rồi anh ạ." Rồi tôi hỏi về những chuyến đi của anh. K. kể cho tôi về những thành phố mà anh đến, về những câu chuyện buồn cười mà anh gặp ở dọc đường, về nỗi nhớ tôi, nỗi nhớ đã làm anh khổ sở ra sao..., nhưng không đả động một câu nào đến những chuyện làm ăn của anh. Sau này cũng vậy, không bao giờ anh hé răng nói một lời đến chuyện đó. Tôi có gặng hỏi thì anh cũng dứt khoát gạt đi bằng một câu trả lời ngắn gọn là anh không muốn tôi phải dính vào những chuyện như thế.
Lâu lắm rồi chúng tôi mới lại cảm thấy hạnh phúc đến như vậy. K. không muốn xa tôi nửa bước. Như thời xưa, anh lại luẩn quẩn bên tôi khi tôi ngồi viết luận án. Nhưng bây giờ K. đã bảo vệ luận án rồi, anh không còn gì để "thi đua" với tôi, thành thử anh bèn trở về với niềm say mê của mình là cái giá vẽ. Và thế là tôi lại được dịp căng mắt ra để tìm những đường nét của mình trong bức tranh khó hiểu của anh.
Một tuần sau đó, lẽ ra K. lại có việc phải đi xa. Nhưng đang ở trạng thái ngất ngây như trong tuần trăng mật, anh quyết định tung hê tất cả. Anh bảo anh không thích đi đâu bây giờ, thế thôi, muốn ra sao thì ra. Sau một cú điện thoại gọi đến một nơi nào đó, thuyết phục, cãi cọ một hồi, cuối cùng K. bảo tôi rằng anh đã giải quyết xong việc này. Chuyến đi đã hoãn lại. Tuần này, anh sẽ ở nhà với em, đồng ý không L.C.?
Ngày tôi bảo vệ luận án, K. không ở nhà với tôi. Tôi khóc, khi nhận những bông hoa hồng nhung do bạn bè tặng. K. đang có việc bận ở Ba Lan. Cách đó vài ngày, anh còn gọi điện thoại cho tôi, bảo rằng nhất định anh sẽ về. Rằng anh không thể vắng mặt trong một ngày như vậy được. Nhưng cuối cùng anh đã vắng mặt.
Hai ngày sau anh mới trở về. Với một đống quà, một bó hồng nhung đồ sộ và hàng trăm lời thanh minh, hàng ngàn lời xin lỗi. Rằng anh bị giữ lại đúng phút cuối cùng. Rằng nếu anh bỏ đi lúc đó thì hỏng hết cả, bao nhiêu công lao của mình bấy lâu nay sẽ thành công cốc... Tôi thấy mình quá mệt mỏi, những lời anh nói nghe bập bùng chẳng lọt vào tai. Đợi cho anh nói xong, tôi hỏi:
- Bao giờ chúng mình về nước?
- Từ từ cái đã, để anh giải quyết xong mấy việc rồi tính sau, - K. hơi bối rối.
- Anh đã nói là đợi em bảo vệ luận án xong thì chúng mình sẽ cùng về nước. Em đã bảo vệ xong rồi. Vậy bao giờ thì chúng mình về? - tôi nhắc lại.
- Anh nghĩ là chỉ khoảng hai tháng nữa là anh giải quyết xong mọi chuyện. Đợi anh hai tháng nữa thôi, L.C. nhé.
Tôi đã đợi anh hai tháng. Tôi lại đợi anh thêm hai tháng nữa. Những tháng ngày dài dằng dặc sau khi bảo vệ luận án. Không còn có việc gì làm cho khỏi điên đầu. Tôi sống vật vờ giữa những chuyến đi của anh, giữa những ngày nhớ nhung lo sợ dài lê thê, và những đêm yêu đương cuồng nhiệt ngắn ngủi.
Loáng thoáng đến tai tôi những tin đồn thực hư chẳng biết ra sao. Người ta bảo là K. gần đây "đánh quả" bị lừa mất sạch hết tiền. Rồi có cô bạn cùng trường lại nói với tôi, vẻ rất thương hại, rằng thấy bảo hình như K. đã từng qua đêm ở đâu đó, với một cô gái nào đó, trong hội cùng đi "đánh quả". "Nghe đồn vậy thôi, chứ chẳng có gì chắc chắn đâu. Nhưng L.C. cũng nên biết để đề phòng. Khi người ta đi làm ăn xa nhà thì những chuyện như vậy cũng dễ xảy ra lắm", cô bạn bảo.
Sức chịu đựng của tôi đã đến lúc cạn kiệt.
Anh lại trở về sau một chuyến đi, ập vào nhà, ôm ghì lấy tôi, dữ dội và cuồng nhiệt như lần nào cũng vậy.
Tôi quay mặt đi để tránh cái hôn của anh.
- Có chuyện gì thế, L.C.? - anh sững sờ hỏi.
- Bao giờ chúng mình về nước? - tôi trả lời bằng một câu hỏi khác.
- Sao em cứ hỏi mãi một câu ấy thế, - K. nói với vẻ chán nản. - Anh đã bảo đợi thêm một thời gian nữa, anh giải quyết xong mọi việc thì chúng mình về.
- Em không muốn đợi thêm nữa, - tôi nói gay gắt.
- Vậy em muốn gì? - K. bực bội hỏi.
- Anh không biết là em muốn gì à? - tôi gào lên. - Em muốn chúng mình về nước. Em muốn chúng mình làm lễ cưới. Em muốn đi làm. Em muốn có một gia đình. Em muốn có con. Em muốn có con!
Chợt nhìn thấy vỉ thuốc tránh thai đang uống giở để trên cái tủ nhỏ phía đầu giường, tôi chộp lấy, giơ lên và nói vẻ hăm dọa:
- Em nói cho anh biết, em không nuốt cái của này vào người nữa đâu!
Rồi tôi xăm xăm cầm vỉ thuốc ra bỏ tọt vào sọt rác.
K. đứng đờ người ra, nhìn tôi kinh hãi. Anh chưa bao giờ nhìn thấy tôi hung hăng như vậy cả. Anh lúng búng:
- L.C, nghe anh nói đây...
Nhưng tôi không còn muốn nghe gì nữa. Tôi khóc òa lên, vớ lấy cái áo khoác rồi chạy ra ngoài cửa.
K. chạy theo tôi. Tôi lao vào thang máy, ấn nút. Cánh cửa tự động đóng sập lại trước mặt anh.
Khi bước ra khỏi thang máy, tôi nghe tiếng K. gọi từ cầu thang vọng xuống. Phòng chúng tôi ở trên tầng thứ bảy, không biết bằng cách nào mà anh đã chạy được gần xuống tới tầng trệt.
Người tôi mụ mẫm đi, không còn suy nghĩ được gì. Tôi cứ vừa khóc vừa lao ra đường, mặc cho K. đuổi theo gọi đằng sau. Trong đầu tôi bây giờ chỉ còn một ý muốn là hành hạ anh cho bõ ghét.
Một chiếc xe buýt xịch đến, tôi nhảy vội lên ngay. Khi xe bắt đầu chạy tiếp, tôi ngoái lại nhìn qua cửa kính, thấy K. đang vẫy một chiếc taxi.
Xe đi qua bao nhiêu bến tôi cũng không nhớ nữa. Đứng dựa vào thành xe, nhìn ra ngoài đường, tôi thổn thức, mặc kệ những cái nhìn tò mò của hành khách trên xe.
Khi xe dừng lại ở một phố nhỏ rợp bóng cây, mấy hành khách đứng sau tôi lách ra để xuống. Tôi bèn xuống theo họ, thẫn thờ bước đi, như một cái máy, chẳng hiểu mình định đi đâu.
Có tiếng bước chân chạy phía sau tôi. Tôi chẳng buồn quay lại mà vẫn biết đó là ai. Rồi K. chạy tới gần. Anh thở hổn hển, đặt tay lên vai tôi và bảo: "L.C., tha lỗi cho anh. Anh biết anh làm khổ em nhiều lắm. Nhưng anh không bao giờ muốn như thế cả. Đó là vì hoàn cảnh. Có những chuyện không may..."
Không đợi K. nói hết câu, tôi gục đầu vào vai anh, khóc như mưa như gió.
Đêm, nằm trên giường, trong vòng tay K., tôi lặp lại câu hỏi cũ:" Bao giờ chúng mình về nước?" "Cho anh thêm một tháng nữa, anh sẽ cố thu xếp xong mọi việc, rồi chúng mình về", K. hứa. Rồi anh nói rằng chính anh cũng rất muốn về, muốn chúng tôi làm lễ cưới, muốn có con với tôi... "Em sẽ sinh ngay cho anh một thằng cu thật giống anh", tôi bảo. "Không, con trai để sau. Anh muốn đứa đầu của chúng mình là con gái. Một bé gái giống hệt như em. Nước da trắng mịn như thế này này. Hàng mi rợp như thế này này. Và đôi mắt phải đúng như thế này này, mênh mông, mênh mông... " Và K. kết thúc bài văn tả chân dung của mình bằng những cái hôn cuồng nhiệt như thường lệ.
Một tháng sau đêm đó, K. lại đang trong một chuyến đi xa.
Tôi đi mua một vé máy bay về Hà Nội. Ngày bay ghi trên vé là đúng một tháng sau. Tôi đã cho anh một tháng như anh yêu cầu. Tôi lại sẽ cho anh thêm một tháng nữa. Nhưng đây là lần cuối cùng.
Một tuần lễ trôi qua, K. trở về. Tôi lẳng lặng đưa vé máy bay của mình cho anh xem. Mặt K. nhợt đi.
- Sao em tự ý mua, không bàn bạc gì với anh cả?
- Anh đi đánh quả có bao giờ bàn bạc gì với em không?
Im lặng một lúc, rồi K. lại hỏi:
- Em định bỏ anh thật đấy à, L.C.?
- Không. Em không bao giờ bỏ anh cả. Em chỉ về Hà Nội thôi. Anh cũng về với em đi.
- Nhưng anh không về được, lúc này anh không thể về được, - K. nói như rên lên.
- Tại sao thế? Anh có vay nợ gì ai không? - tôi hỏi.
- Có những khó khăn, - K. lấp lửng. Rồi anh lại giở bài ca quen thuộc của mình: - Anh không muốn em phải dính vào những chuyện như thế này. Em biết cũng chẳng ích gì, chỉ tổ đau đầu. Để đó rồi dần dần anh sẽ giải quyết xong.
- Vậy thì anh cứ giải quyết đi, - tôi nói. - Nhưng nhanh nhanh lên. Em sẽ đợi anh ở Hà Nội. Đừng bắt em phải đợi cả đời.
- Sao em không ở lại đây đợi anh? Trả vé máy bay lại đi, L.C., trả vé lại đi, anh xin em, - anh nhìn tôi với một vẻ van xin, tội nghiệp đến nỗi tôi suýt khóc.
- Em không thể chịu đựng nổi cuộc sống như thế này nữa. Nếu em không về, anh sẽ chẳng bao giờ về cả. Em phải về để kéo anh ra khỏi cái vũng lầy ấy, - tôi nói.
K. không nài nỉ gì thêm nữa. Anh ngồi ngả lưng vào ghế, nhắm mắt lại, vẻ hết sức mệt mỏi.
Ba tuần cuối cùng trước khi tôi về Hà Nội, K. không đi đâu xa cả. Anh cùng tôi đi mua sắm những đồ linh tinh vớ vẩn, giúp tôi thu dọn đồ đạc, giành lấy việc xếp vali cho tôi. Anh nhét vào vali của tôi một xấp phong bì đã có sẵn tem Nga, ghi sẵn tên và địa chỉ của anh, và dặn:" Nếu có ai đi Nga thì em nhờ gửi thư cho nhanh nhé, còn nếu không cứ bỏ bưu điện ở Hà Nội cũng được, đừng để anh đợi lâu". Anh có vẻ khá là bình thản. Tôi nghĩ, anh đã hiểu quyết định về Hà Nội của tôi là đúng.
K. giữ được vẻ bình thản ấy cho đến tận lúc tiễn tôi ra sân bay. Nhưng đến khi chuẩn bị chia tay, chúng tôi hôn nhau lần cuối, cái hôn từ biệt, thì tự nhiên anh xiết chặt lấy tôi, chặt đến nỗi làm tôi phát đau lên, và toàn thân anh run lên trong những tiếng nức nở cố ghìm.
- Anh không muốn mất em, - anh nói bằng một giọng khàn khàn, đứt đoạn.
- Nhưng anh có mất em đâu, - tôi đáp, nước mắt rơi lã chã. - Về với em đi. Em chờ anh ở Hà Nội.
Tôi đợi K. nói rằng anh sẽ về ngay đây, ngay trong chuyến bay sau. Nhưng anh đứng đờ đẫn, không nói gì hết cả, nước mắt chảy ràn rụa trên mặt chẳng buồn lau. Đây là lần đầu tiên tôi thấy anh khóc. Từ trước đến giờ, chỉ có tôi chuyên lấy nước mắt để dọa anh.
Tôi vừa bước lên máy bay vừa khóc, nhưng vẫn tin rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ lại gặp anh. Tôi biết anh không thể chịu đựng nổi cuộc sống xa tôi quá lâu. Anh sẽ vứt bỏ tất cả để về Hà Nội với tôi, chậm nhất thì cũng chỉ thêm vài tháng nữa. Tôi tin chắc là như vậy.
Chương 6.
Không điều gì có thể tin chắc được ở đời, đặc biệt khi đó lại là lời hứa của một ông chồng mắc bệnh đãng trí. Lan Chi đã rút ra kết luận này vào buổi tối hôm nay, khi cô hỏi Trung:
- Chú Cừ bảo thế nào hả anh?
- Bảo cái gì nhỉ? - Trung lơ đãng hỏi lại.
- Ơ kìa, còn cái gì nữa! Thế anh đã gọi điện cho chú Cừ chưa? - Lan Chi sốt ruột kêu lên.
- Trời đất! Anh quên béng đi mất cái chuyện này rồi! - Trung ồ lên, có vẻ bây giờ mới sực nhớ ra.
- Quên là thế nào? - Lan Chi cáu. - Anh đã hứa đi hứa lại với em bao nhiêu lần, chắc như đinh đóng cột. Em tin anh mới đi hứa lại với Thanh Hoa. Bây giờ để lỡ việc của người ta ra thì có phải ê mặt mình không!
- Lỡ sao được, anh sẽ đi gọi điện ngay bây giờ đây, - Trung cười xí xóa. - Vậy cái ông viện sĩ của em bao giờ thì về nước đó?
- Thấy Thanh Hoa bảo là ngày hai mươi tư tháng ba này ông ta sẽ bay về Hà Nội. Hôm nay là ngày bao nhiêu nhỉ? - Lan Chi nhìn lịch và nhẩm tính. - Mười chín tháng ba. Như vậy chỉ còn năm hôm nữa thôi. Anh làm sao giải quyết cho xong việc này thì làm.
- Rồi, xong ngay chớ có gì đâu, - Trung đáp. - Mà nói thiệt, anh vẫn chưa hiểu tại sao em với Thanh Hoa lại nghĩ ra cái trò này. Hết sức vớ vẩn. Vậy mà em cứ làm như quan trọng lắm, - Trung làu bàu nói, nhưng không giấu được nụ cười tủm tỉm.
Không riêng Trung, mà đến cả Lan Chi lúc đầu cũng không hiểu được ngay tầm quan trọng của vấn đề. Cô hết sức sửng sốt khi Thanh Hoa gọi điện cho cô, tha thiết nhờ vợ chồng cô giúp cho việc tổ chức cuộc gặp gỡ giữa một nhà khoa học Việt Nam, giáo sư viện sĩ viện gì đó, với ông chú của chồng cô.
- Này, mày định đùa đấy hả? - Lan Chi hỏi. - Giáo sư, viện sĩ thì gặp cái ông hâm ấy để làm gì?
- À, nhưng mà giáo sư viện sĩ này lại là lão Tài mày ạ, - Thanh Hoa đáp.
- Tài nào? - Lan Chi hỏi.
- Tài "ủng " ấy, cây si của mày ngày xưa ấy. Mày không nhớ à?
- Tài "ủng" thì tao nhớ. Nhưng sao mày lại bảo là giáo sư, viện sĩ? - Lan Chi vẫn chưa hiểu.
- Chậm hiểu quá, - Thanh Hoa cười rộ lên trong máy điện thoại. - Này, bây giờ chớ có gọi là Tài "ủng" mà phạm thượng đấy nhé. Người ta bây giờ là giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài!
Hóa ra là từ cái thuở trồng cây si trước cửa phòng Lan Chi đến giờ, Tài "ủng" đã đi được một chặng đường rất xa, vượt lên tất cả bạn bè cùng trang lứa. Vượt một cách xuất sắc mà không ai ngờ đến.
Tất nhiên, ở Matxcơva thời ấy, ai cũng phải công nhận Tài là một tay anh hùng hảo hán, chứ không phải là loại tầm thường. Trong khi thiên hạ đi buôn hầu như ai cũng phải trải qua những thời kỳ lên voi xuống chó, thì Tài bao giờ cũng vẫn cứ giàu sụ. Bất kể thời nào, bất kể phương thức làm ăn nào, Tài luôn luôn ung dung giữ vai trò thủ lĩnh trên thương trường. Về cái khoản làm kinh tế này, thì tài năng và bản lĩnh của Tài đã thể hiện quá rõ. Giá như bảo rằng anh bây giờ đã trở thành triệu phú, tỷ phú, giám đốc công ty gì gì đó..., thì hẳn là chẳng có ai lấy làm ngạc nhiên.
Thế nhưng, không hiểu mồ mả tổ tiên anh chọn được chỗ long mạch tốt thế nào, mà bây giờ con cháu không những chỉ được hưởng phúc đức ở khoản no cơm ấm cật, mà lại còn phát cả sang đường khoa học nữa! Điều này quả thật nghe có hơi lạ tai. Rất lạ tai đối với những người đã biết Tài từ cái thời Matxcơva xa vắng ấy.
Thời ấy, ai cũng biết là toàn bộ thời gian, tâm huyết của Tài đều được dành hết cho việc làm kinh tế. Làm kinh tế, chứ không phải là nghiên cứu kinh tế học, cái ngành học của anh. Nói đến việc học của anh, thì kết quả của nó cho thấy rằng kinh tế học hóa ra lại là một khoa học hết sức xa rời thực tế. Vì thế mới có hiện tượng quái lạ như thế này: một nhà thực hành kinh tế xuất sắc như Tài, trong khi toàn bộ tài ba và nhiệt huyết đã thể hiện chói sáng trên thương trường không ai có thể chối cãi, thì cứ đến kỳ thi ở khoa Kinh tế lại vác về một đống điểm hai! Tình hình trầm trọng đến mức suýt nữa Tài đã bị đuổi học. May quá, cuối cùng nhờ rất nhiều tác động ở đủ mọi phía, nhờ cả thái độ ăn năn thành khẩn, những lời hứa quyết tâm học tập và những điểm ba khi thi lại của Tài, cuối cùng, khoa Kinh tế đã tránh được cái sai lầm tai hại là đuổi nhầm một nhà kinh tế có tài năng thực sự.
Rồi mọi việc cũng đâu vào đấy. Tài cũng bảo vệ xong luận án phó tiến sĩ, nhận bằng đàng hoàng. Bọn xấu miệng thì bảo rằng đó là bằng đi mua. Những kẻ khác (có thể do ghen tị với tài sản của anh) thì bảo rằng luận án của anh là thuê người viết, chứ một chữ trong đó anh cũng chẳng hiểu. Mua hay thuê không biết, không có bằng chứng gì cả. Có điều chắc chắn rằng đó là bằng thật, xịn một trăm phần trăm. Đố ai dám bảo đó là bằng giả. Điều này mới là quan trọng, chứ còn miệng lưỡi thế gian thì người đứng đắn hơi đâu thèm để ý đến.
Có lẽ chính nhờ một số người giữ những trọng trách nào đó ở trong nước có thái độ nghiêm túc và thận trọng với những điều thị phi như vậy, mà Tài bỗng dưng xuất hiện ở Việt Nam với danh nghĩa một nhà khoa học có tên tuổi tầm cỡ thế giới.
Trong khi bạn bè cứ tưởng anh vẫn còn đi buôn ở Nga, thì báo chí trong nước cho biết rằng anh hiện là giáo sư viện sĩ của những cơ quan khoa học danh tiếng ở nước ngoài, niềm tự hào của khoa học Việt Nam, người đã mở ra một chân trời mới cho nền khoa học thế giới. Giáo sư trường nào, viện sĩ ở đâu thì còn là một vấn đề khó hiểu. Vì cứ căn cứ vào những cái tên trường, tên viện mà một vài tờ báo trong nước cung cấp, thì bạn bè của anh ở nước ngoài chưa lần ra được, hoặc đã lần ra được rồi nhưng lại thấy nó không giống như báo nói. Theo như những kẻ tò mò, đa nghi, cứ thích đi kiểm tra lại những điều viết trong báo, thì cái trường mà anh nhận chức danh giáo sư chỉ là một cái trường ma, không hề tồn tại trên đời. Còn cái viện hàn lâm khoa học mà anh là viện sĩ thì quả là có thật, nhưng lại không thiêng liêng như sự mô tả của nhà báo. Là vì bất cứ ai có được tấm bằng tiến sĩ đều có thể thành viện sĩ ở đây, không cần phải qua bầu chọn gì hết cả. Điều kiện duy nhất để có được danh hiệu cao quý đó là phải nộp tiền. Tai hại nhất là cái viện hàn lâm khoa học này lại không hề biết giữ giá, lại đi bán giấy chứng nhận viện sĩ với giá rẻ mạt đến mức đau lòng. Thành thử người Việt mình làm ăn ở Nga thừa tiền là đua nhau trở thành viện sĩ cả loạt.
Về phần Tài thì, với những chức danh khoa học vẻ vang trên, tuy làm ăn ( hay là hoạt động khoa học, theo cách gọi của báo chí) ở Nga, nhưng anh vẫn thường xuyên đi về thăm Tổ quốc. Nghe nói mỗi lần anh về nước là báo chí lại có dịp để bàn về tương lai tươi sáng của khoa học Việt Nam, mà một trong những niềm hy vọng lớn là Tài. Thậm chí, hình như có một đài truyền hình nào đó còn phấn chấn đến mức làm hẳn một bộ phim tài liệu về cuộc đời hoạt động khoa học của anh, tái hiện lại những nỗ lực của anh trong việc vượt khó khăn để làm khoa học, cảm động không kém gì chuyện Lomonoxop ngày xưa đi bộ hàng ngàn cây số từ nhà quê lên Matxcơva để tìm đến với khoa học vậy. Xem phim, bạn bè của Tài sững sờ được biết rằng thuở hàn vi, khi còn làm nghiên cứu sinh ở Matxcơva, do không muốn mất thời giờ vào chuyện làm ăn buôn bán, nên Tài đã phải sống rất vất vả bằng số tiền học bổng ít ỏi, chỉ toàn ăn bánh mỳ với bơ thôi mà đã đóng góp được cho đời những công trình khoa học đồ sộ.
Sau khi danh tiếng đã nổi như cồn ở trong nước, tiền đô đã ních chặt túi ở Nga, Tài quyết định về nước hẳn để dành trọn những ngày còn lại của đời mình (nếu không có gì bất trắc thì còn khá dài) cho nền khoa học nước nhà. Dễ hiểu là với một tên tuổi như vậy, anh được mời ngay về làm việc ở một viện khoa học lớn, được giao cho một chức vụ khá quan trọng. Và bây giờ, với tư cách là đại diện cho viện khoa học này, anh đang có mặt ở Paris.
Thực ra, chuyện giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài đến Paris cũng có nhiều pha khá là gay cấn, chứ không đơn giản như việc người ta đi trao đổi khoa học thông thường. Số là, tuy rằng anh đã mở ra một chân trời mới cho nền khoa học thế giới như báo chí nước nhà cho biết, nhưng các nhà khoa học Pháp hình như thiếu thông tin, nên không hề biết đến anh là ai. Vì vậy, sau nhiều năm tung hoành ngang dọc ở Nga, giờ đây Tài muốn đưa chân trời của anh đến phương tây, cụ thể là sang Pháp, nhưng tìm mãi mà chưa thấy được nhà khoa học nào ở nước này hưởng ứng.
May thay, trời thương (hoặc là do long mạch của tổ tiên anh quá tốt), cứ mỗi lúc Tài bí kế thì lại có trời hiến kế cho. Tự dưng, vợ Tài được một suất đi thực tập ở Pháp một năm. Tài bèn quyết định nhân dịp này bám váy vợ sang Pháp để xem xét tình hình khoa học của nước này.
Tuy vậy, tham vọng của Tài là mang lại vinh quang cho khoa học nước nhà. Là để chứng tỏ cho đồng nghiệp trong nước rằng uy tín khoa học của anh vang dội không chỉ ở Nga, mà còn ở phương tây. Là để báo chí nước nhà còn có dịp vui mừng bàn luận về vị trí sáng giá của các nhà khoa học Việt Nam trong nền khoa học thế giới. Vì thế, nếu giáo sư viện sĩ lại xuất ngoại một cách chính thức dưới dạng bám váy vợ thì còn ăn thua gì nữa.
Cần phải có một cái giấy mời. Một cái giấy mời khống cũng được, nhưng phải là giấy mời hẳn hoi. Do một nhà khoa học hẳn hoi hoặc một cơ quan khoa học hẳn hoi ở Pháp đứng tên chịu trách nhiệm. Tài nghĩ rằng việc xin cái giấy mời này có thể là chuyện khả thi nếu anh hứa với phía mời là anh không đòi hỏi gì hết, không quấy rầy gì hết. Không đòi hỏi kinh phí tài chính cho chuyến đi. Không đòi hỏi cả việc đón tiếp. Tức là trong thời gian anh ở Pháp, phía mời thậm chí không cần biết đến mặt anh. Chỉ cần họ biết tên anh để viết giấy mời cho đúng. Đã có vợ Tài ở Pháp để lo cho anh những chuyện lạ nước lạ cái, Tài chỉ cần một tấm giấy mời để xuất ngoại cho vẻ vang.
Với những yêu cầu khiêm tốn như thế, Tài thấy rằng không cần các nhà khoa học Pháp phải biết đến chân trời khoa học của anh. Chỉ cần anh tìm được một người nào đang ở Pháp, có nhiều quan hệ trong giới khoa học Pháp, có thể đứng ra đảm bảo về những lời hứa của anh để xin được cho anh một tấm giấy mời. Sau một thời gian ngắn đi điều tra tìm hiểu, Tài đã chộp được đúng cái con người hội đủ mọi điều kiện ấy. Người ấy là Thanh Hoa.
Lan Chi rất ngạc nhiên trước sự tận tâm của Thanh Hoa trong việc thực hiện những tham vọng của Tài "ủng". Theo trí nhớ của cô thì thời ở Matxcơva hai người này có thân thiết gì với nhau đâu. Hay là họ có những mối liên quan họ hàng mà hồi trước Thanh Hoa không cho cô biết?
- Không có họ hàng gì cả, - Thanh Hoa bảo. - Nhưng lại quan trọng hơn cả họ hàng mày ạ. Là vì em họ của vợ Tài "ủng" là cô giáo của thằng con trai của ông anh ruột của tao.
Chết thật, một cái quan hệ phức tạp như thế này thì người thường nghe qua làm sao có thể hiểu được cho thấu đáo. Lan Chi cứ phải hỏi đi hỏi lại mấy bận, đếm đi đếm lại mấy lần "của", mà cuối cùng vẫn chịu chết không luận ra nổi tầm quan trọng của mối quan hệ ấy. Cô chỉ vỡ ra sau khi đã được Thanh Hoa bỏ công giải thích cặn kẽ. Phải thừa nhận rằng đây là một chuyện không thể xem nhẹ được.
Sự thể là thế này: vợ chồng ông anh ruột của Thanh Hoa có độc mỗi một cậu quý tử, năm nay học lớp bảy. Cậu này không những là niềm hy vọng duy nhất của hai bậc thân sinh, mà còn là biểu tượng tương lai của cả dòng họ. Là vì dòng họ nhà Thanh Hoa đã ba bốn đời rồi toàn là độc đinh cả. Bố cô là con trai duy nhất, anh cô là con trai duy nhất, và đời này thì đến lượt cậu quý tử này. Nhưng cu cậu vô tư, chẳng hề ý thức chút nào về trách nhiệm nặng nề của mình đối với tổ tiên, cho nên học hành hết sức ấm ớ, năm ngoái vừa mới bị đúp. Cả họ phát hoảng, phải họp bàn, rồi ra quyết định là tốn bao nhiêu thì tốn cũng phải lo cho quý tử nên người bằng được, mục tiêu phấn đấu lâu dài là phải nhồi cho được cu cậu vào đại học, mục tiêu cụ thể trước mắt là làm sao đừng có đúp năm nào nữa. Vợ chồng ông anh ruột của Thanh Hoa, chịu trách nhiệm trước dòng họ về việc thực hiện những mục tiêu khó khăn trên, đã đến gặp cô giáo chủ nhiệm của quý tử để bàn bạc cặn kẽ những phương án thực hiện. May được cô giáo thông cảm, nhận lời giúp đỡ. Chỉ sau ba tháng học thêm ở nhà cô giáo theo chế độ đặc biệt (số giờ học gấp đôi các bạn cùng lớp, số tiền học còn gấp nhiều lần hơn), cu cậu đã có những kết quả khá là hứa hẹn, tuy chưa được hẳn như mong muốn. Bố mẹ quý tử nhẩm tính rằng nếu tăng tiền học lên mà kết quả tăng nhanh hơn thì cũng bõ. Thế nhưng, chưa kịp bàn phương án này với cô giáo thì cô đã đích thân đến tận nhà, bảo là có việc muốn nhờ vả. Cái việc ấy, tất nhiên, chính là cái việc mà Tài "ủng" muốn nhờ Thanh Hoa.
Cô giáo hết sức tha thiết muốn giúp đỡ ông anh rể họ, vì tuy chỉ là em họ, nhưng quan hệ của cô với vợ chồng Tài thân thiết quý hóa có khi còn hơn anh chị em ruột trong nhà. Chẳng thân, chẳng quý, sao khi vợ chồng cô mua nhà, ông anh rể họ lại đồng ý cho vay ngay năm ngàn đô? Mà là với lãi suất hữu nghị thôi đấy nhé. Năm ngàn đô ấy, cô mới trả được có hai ngàn, còn ba ngàn hiện chưa có khả năng, anh chị họ cũng không nỡ thúc ép quá (đành rằng đôi khi anh chị cũng có nhắc nhở, bảo rằng đang có nhiều khoản cần tiêu). Bây giờ, anh rể muốn nhờ mỗi một việc này, mà mình không giúp được, thì thật là áy náy.
Không những cô giáo áy náy, mà anh ruột chị dâu của Thanh Hoa cũng áy náy, thậm chí đến mẹ của Thanh Hoa cũng áy náy nốt. Cho nên, sau khi ông anh ruột đích thân gọi điện sang Pháp để bàn với Thanh Hoa về việc này, thì mẹ cô vẫn không yên tâm, còn phải gọi điện thêm lần nữa. Bảo rằng con cố giúp anh Tài con nhé, chứ có mỗi một việc như vậy mà không giúp người ta được thì cô giáo của thằng Thắng cô ấy giận cho đấy, mà thằng Thắng nó lại đúp thêm một lần nữa thì mẹ khổ lắm con ơi. Thanh Hoa hiểu rằng vấn đề không đơn giản là một cái giấy mời, mà là danh dự của cả dòng họ.
Phải nói thêm rằng sở dĩ Thanh Hoa được Tài "ủng" chọn mặt gửi vàng, là vì gia đình chồng cô là một gia đình có nhiều quan hệ rộng rãi trong giới khoa học Pháp. Bố chồng cô, mẹ chồng cô đều là những giáo sư đại học có tên tuổi. Bản thân Pascal, chồng Thanh Hoa, cũng đã trở thành giáo sư từ khi tuổi còn rất trẻ, chưa đến ba mươi. Chuyện này thì cả Hà Nội đều biết, thậm chí còn biết hơn cả Thanh Hoa. Có lần cô về Hà Nội thăm nhà, nghe nói chuyện mới vỡ nhẽ ra rằng cả bố chồng, mẹ chồng lẫn chồng mình đều là viện sĩ hết.
Như vậy, Thanh Hoa đã phải huy động hết những mối quen biết của mình, của chồng ra để tìm cho được một nhà kinh tế học đồng ý làm một cái giấy mời khống cho Tài. Cuối cùng thì cũng tìm được một ông bạn của Pascal nhận giúp cho việc đó. Cái giấy mời lập tức được gửi về Hà Nội. Công việc đến đây tưởng là đã xong.
Nhưng giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài đến được Paris rồi thì lại nảy ra những tham vọng khác. Sau khi đi dạo Paris một vòng, chụp một cái ảnh ở nhà thờ Đức Bà Paris, ba cái ở tháp Eiffel (ba góc độ khác nhau), một cái đứng tư lự bên dòng sông Seine, hai cái cười trước trường Đại học Tổng hợp Paris 7, một cái cũng trước trường này nhưng đăm chiêu trầm tư..., Tài thấy rằng tư liệu ảnh để cung cấp cho giới báo chí vậy là đã đủ. Nhưng vẫn còn thiếu một cái gì đó. Một cái gì đó làm bằng chứng về những hoạt động khoa học của Tài ở Paris.
Suy đi nghĩ lại, Tài nảy ra ý muốn gặp gỡ một nhà kinh tế học Pháp để bàn luận, trao đổi. Không nhất thiết phải bàn luận sâu vào những vấn đề chuyên môn cụ thể, mà chỉ cần là một sự gặp gỡ làm quen giữa giới kinh tế học hai nước, đặt tiền đề cho sự hợp tác khoa học trong tương lai. Bản thân Tài cũng không sẵn sàng cho những trao đổi chuyên môn, vì khi sang đây, có thể do quá nặng, anh không mang theo tài liệu công trình gì của mình hết cả. Bù lại, Tài mang theo một đống danh thiếp, in rất đẹp, chữ đã lấp lánh lại còn tỏa mùi thơm ngan ngát, trong đó ghi rõ họ tên chức vụ và mọi học hàm học vị của anh. Ngoài ra, Tài còn cẩn thận mang kèm cả tờ giấy giới thiệu của viện khoa học nơi anh làm việc, viết cả bằng hai thứ tiếng Việt - Pháp, xác nhận tư cách đại diện cho viện của anh. Giấy giới thiệu có đóng dấu đỏ chói, hoàn toàn là dấu thật (Trần Sỹ Tài xưa nay không có xài của rởm bao giờ!) Với từng ấy thứ giấy tờ, Tài thấy anh đã được trang bị đầy đủ cho một cuộc gặp gỡ khoa học. Vấn đề là phải tìm cho được ra đối tác.
Chuyện này tất nhiên lại phải nhờ đến Thanh Hoa. Cô bạn của Lan Chi, sau khi nghe Tài bày tỏ nguyện vọng trên, thì vò đầu kêu khổ. Là vì cô không hình dung được có nhà kinh tế học Pháp nào lại chịu bỏ thời gian ra để làm cái công việc khó nhọc đó. Nhưng cô không dám gạt phắt đi, vì sợ làm cho nhiều người ở Hà Nội áy náy.
__________________
Được cái, Thanh Hoa xưa nay bao giờ cũng là người lắm sáng kiến. Vò đầu bứt trán, đào sâu suy nghĩ một hồi, trong đầu cô chợt lóe ra một cái tên. Một cái tên hoàn toàn ngang tầm cỡ giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài. Hoàn toàn đủ tư cách để đàm đạo khoa học với giáo sư viện sĩ. Cái tên đó là Ba Lê Dị Nhân.
Ba Lê Dị Nhân chính là ông chú của chồng Lan Chi. Tên cha sinh mẹ đẻ của ông là Phan Cừ. Tên riêng của ông khi nhập làng tây là Philippe. Tên đầy đủ của ông khi xuất hiện trên những tờ báo tiếng Việt của cộng đồng người Việt hải ngoại là giáo sư tiến sĩ Philippe Phan Cừ. Tên do những miệng lưỡi thích châm chọc ở Paris đặt cho ông và được những người quen dùng để gọi vụng sau lưng ông là Ba Lê Dị Nhân.
Ba Lê Dị Nhân có một lý lịch khoa học kỳ bí không kém gì giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài. Trước năm 1975, ông đã từng học luật ở Sài Gòn. Nhưng học được hai năm thì phải đi quân dịch, thành ra sự học nửa chừng dang dở. Rời Sài Gòn sau tháng 4 năm 1975, ông đến Paris, lúc đó mới ngoài ba mươi tuổi. Thôi binh nghiệp, không biết làm gì, ông bèn quyết chí trở lại với con đường khoa bảng. Lần này, ông chọn học ngành kinh tế.
Chí lớn, thế thời thuận lợi, nhưng không rõ vì lý do gì ông cũng chỉ mài đũng quần trên ghế giảng đường đại học ba năm rồi thôi. Hẳn là ông cho rằng đã đến lúc nên mang học vấn của mình ra giúp sức cho đời. Bằng chứng là từ đó ông thôi hẳn đời học trò dài lưng tốn vải, chuyển sang ngạch làm công ăn lương.
Tiểu sử của Ba Lê Dị Nhân đến chỗ này thì hoàn toàn minh bạch. Bà con, bạn bè nhiều người có thể đứng ra xác nhận cho ông.
Hành tung của ông mới chỉ trở nên mù mờ bí hiểm trong vòng một chục năm trở lại đây, khi tên tuổi ông bỗng dưng xuất hiện rộn rã trên báo chí tiếng Việt hải ngoại, kèm theo các chức danh "tiến sĩ kinh tế học, giáo sư trường X kiêm giám đốc viện Y". Những người quen ông lúc bấy giờ mới ngã ngửa ra, không hiểu ông âm thầm đi học lấy bằng tiến sĩ lúc nào mà khiêm tốn không cho bà con biết. Nhiều người thường gặp ông ở trường X, nơi ông lui tới làm việc hàng ngày, thì bảo rằng chức danh của ông tại đó là nhân viên thư viện, chứ chẳng phải giáo sư gì hết. Thực hư chưa biết thế nào, nhưng ít ra trường X còn tồn tại thật bằng gạch, bằng bê tông ở giữa Paris, chứ còn viện Y nơi ông làm giám đốc thì chỉ có độc mỗi một cái tên và một địa chỉ e-mail trên Internet.
Ba Lê Dị Nhân là một nhà khoa học uyên bác trong nhiều lĩnh vực. Ông không chỉ thu hẹp hoạt động khoa học của mình trong lĩnh vực kinh tế học, mà còn xông xáo đánh Nam dẹp Bắc trong cả chính trị học và sử học. Tất cả các công trình nghiên cứu khoa học của ông đều được đăng tải trên các tờ báo tiếng Việt đại chúng hải ngoại, báo giấy hoặc báo Internet. Theo như ông cho biết, thì bản gốc của những công trình này được công bố dưới dạng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, trên những tạp chí khoa học quốc tế danh tiếng. Nhưng do khiêm tốn, hoặc vì thông cảm với trình độ ngoại ngữ có hạn của đồng bào mình, không bao giờ ông chịu nên tên những tạp chí quốc tế đã đăng công trình của ông ra.
Một trong những điều khiến Ba Lê Dị Nhân nổi bật lên trong giới khoa học là vốn cổ học vô cùng thâm thúy của ông. Các công trình khoa học của ông, do vậy, là một sự kết hợp tài tình đông tây kim cổ. Tên gọi thì là "điều trần khoa học" hoặc "tham luận khoa học", từ ngữ sử dụng thì "khảo sát", "chứng minh", "luận cứ", luận điểm"... đâu ra đấy, nhưng nội dung khoa học (bản tiếng Việt, còn tiếng ngoại quốc không biết ra sao) lại thường được trình bày bằng thể văn biền ngẫu, thỉnh thoảng lại xen một hai khổ thơ tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ý tứ hết sức sâu xa. Làm khoa học với cả bầu nhiệt huyết, nên ông không thể che giấu được cảm xúc của mình: nhiều khi chứng minh xong một "luận điểm khoa học", ông lại tuôn ra một câu cảm thán "ô hô, ai tai"... Có lẽ, chính do đem cái phong cách quân tử Tàu này ra làm khoa học, nên ông mới được nhận cái tên gọi là Ba Lê Dị Nhân.
Xem đi xét lại, Thanh Hoa thấy rằng không thể tìm ra được một đối tượng nào phù hợp hơn là Ba Lê Dị Nhân cho cuộc gặp gỡ khoa học với giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài. Ngành nghề phù hợp, chức danh tương đương, tên tuổi đều vang dội như nhau trên báo chí: một người là niềm hy vọng của khoa học nước nhà, người kia lại là biểu tượng "vẻ vang dân Việt" của cộng đồng người Việt hải ngoại. Thanh Hoa bèn đề xuất ý kiến này với Tài. Mới đầu, Tài không được phấn khởi lắm, vì anh muốn gặp một nhà kinh tế học Pháp xịn kia. Nhưng Thanh Hoa đã thuyết phục được Tài bằng cách đưa ra đầy đủ học hàm, học vị, chức vụ của đối tác, kèm thêm cả cái tên tây Philippe của ông.
Nhiệm vụ môi giới được giao cho vợ chồng Lan Chi, mà Trung là người trực tiếp thực hiện.
Đúng như Lan Chi dự kiến, thoạt đầu ông chú của chồng cô tỏ ra không mặn mà với cuộc trao đổi khoa học này. Ông bảo là ngôn ngữ bất đồng, e rằng không nói chuyện với nhau được.
Phải công nhận rằng nỗi lo ngại của Ba Lê Dị Nhân là hoàn toàn có cơ sở. Ai cũng biết rằng tiếng Việt Hà Nội với tiếng Việt Sài Gòn vốn đã có nhiều chỗ khác nhau, đằng này lại là tiếng Việt Hà Nội nguyên chất từ trong nước, và tiếng Việt Sài Gòn đã phôi pha nhiều năm ở Paris, thì sự khác nhau có thể còn hơn cả tiếng Việt và tiếng Pháp.
Nhưng Trung không phải là người dễ đầu hàng. Một trong những ưu điểm lớn của anh là rất kính nể vợ, nên nhiệm vụ vợ giao anh quyết thực hiện cho bằng được, chứ không có chuyện nửa chừng thoái lui. Anh ra sức thuyết phục ông chú bằng nhiều lý lẽ, đặc biệt là cứ nhằm vào tình yêu khoa học của ông mà kích động.
Có cái may là người Việt mình, tuy có thể không nhìn mặt nhau vì đối lập chính kiến, cãi nhau chí chóe vì dị biệt địa phương, nhưng vẫn mang trong người rất nhiều điểm chung chứng tỏ ngày xưa chui ra từ cùng một bọc. Một trong những điểm chung ấy chính là tình yêu thiêng liêng đến mức sùng kính đối với khoa học (cụ thể trong trường hợp này là đối với các danh vị khoa học, đặc biệt là danh vị ngoại). Bị Trung lôi cái tình yêu ấy ra để kích động, bằng cách trưng bày toàn danh vị có nguồn gốc châu Âu, kêu vang như tiếng kèn đồng, của giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài, cuối cùng Ba Lê Dị Nhân đã phải xiêu lòng, nhượng bộ. Ông đồng ý tiến hành cuộc trao đổi khoa học này.
Cuộc gặp gỡ như vậy về nguyên tắc đã có thể tiến hành, nhưng cụ thể thế nào thì còn phải để Ba Lê Dị Nhân xem lại lịch làm việc cái đã. Vì rằng lịch làm việc của ông bao giờ cũng xếp đặt trước cả tháng rất khít khao. Những người thường gặp ông luẩn quẩn ở nhà hàng của vợ ông mà tưởng rằng ông rỗi rãi là hết sức nhầm. Phải đọc báo tiếng Việt hải ngoại thì mới biết là hoạt động khoa học của ông cực kỳ bận rộn: lúc thì đi điều trần ở viện khoa học uy tín nọ, khi lại đi thỉnh giảng ở trường đại học danh tiếng kia...
Cái sự xem lại lịch của ông chú làm Lan Chi hơi lo, vì thời gian còn lại trước chuyến bay của Tài không còn nhiều, nhỡ trong thời gian đó ông chú lại phải đi thỉnh giảng ở đâu thì phiền quá. Nhưng đúng là vì số Tài bao giờ cũng đỏ, cho nên cuối cùng Ba Lê Dị Nhân cũng tìm được một ngày còn trống trong lịch làm việc của ông. Ông ấn định cuộc gặp gỡ vào ngày hai mươi hai tháng đó, vào lúc bốn giờ chiều.
Cuộc gặp gỡ của đại diện giới kinh tế học hai nước Việt -Pháp mới đầu dự định tổ chức trong phòng giám đốc của viện Y, nhưng đến phút cuối cùng, Ba Lê Dị Nhân cho biết phòng làm việc của ông tạm thời không sử dụng được, vì có một vài công việc thay đổi về trang trí nội thất đang tiến hành dở dang. Ông đề nghị chuyển địa điểm gặp gỡ sang nhà hàng của vợ ông cho ấm cúng.
Vì theo như thỏa thuận thì cuộc gặp gỡ này mới chỉ có tính chất làm quen, giới thiệu, đặt nền móng..., cho nên nó diễn ra khá là ngắn ngủi. Nó được bắt đầu bằng sự kiện then chốt là hai bên trao cho nhau những chứng cớ khoa học của mình, tức là hai tấm danh thiếp, nội dung dài xấp xỉ nhau, về độ lấp lánh thì tài liệu Hà Nội xem ra có phần trội hơn tài liệu Paris một chút. Sau khi bên này đã khảo sát kỹ càng tài liệu của bên kia, sự tin cậy có vẻ đã được thiết lập. Hai bên bèn chuyển sang bàn đến những vấn đề cụ thể hơn của việc hợp tác khoa học Pháp - Việt trong tương lai.
Kết quả của sự hợp tác khoa học này như thế nào thì phải đợi tương lai lâu dài mới biết rõ được, vì làm khoa học là một quá trình gian khổ, không phải ngày một ngày hai là xong. Tuy vậy, trong tương lai không xa lắm, tức là chỉ khoảng một tháng sau, cuộc gặp gỡ này cũng đã đem lại cho đời được hai kết quả cụ thể là hai bài báo. Bài thứ nhất đăng trên một tờ báo đứng đắn ở trong nước, thuật lại những hoạt động khoa học của giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài ở Paris, mà đáng chú ý nhất là việc xây dựng một đề án hợp tác khoa học với giới kinh tế học Pháp, đại diện là giáo sư tiến sĩ giám đốc Philippe Phan Cừ. Bài thứ hai đăng trên một tờ báo tiếng Việt hải ngoại, cũng đứng đắn không kém, trong đó tác giả (chính là Ba Lê Dị Nhân) cho biết rằng vừa rồi, trên cương vị giám đốc của mình, ông đã giúp cho ngành kinh tế học Việt Nam (thông qua một giáo sư viện sĩ) một số phương hướng nghiên cứu mới, ngõ hầu đưa kinh tế học Việt Nam ra khỏi tình trạng tụt hậu so với thế giới.
Trước mắt thì cuộc gặp gỡ này có một kết quả rõ ràng là giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài khá thỏa mãn, Thanh Hoa cũng nhẹ cả người, và ở Hà Nội không có ai phải áy náy cả. Công việc đến đây hẳn đã là xong.
Buổi sáng ngày hai mươi ba tháng ba, Lan Chi đang ngồi ở hiệu sách thì một hồi chuông điện thoại vang lên. Cô nhấc ống nghe. Một giọng đàn ông nói bằng tiếng Việt xin được gặp cô.
- Vâng, tôi đây, - Lan Chi trả lời.
- Hê hê hê hê...- lập tức, một tràng cười vang dội lên ở đầu máy bên kia. - Lan Chi đấy hả, Sỹ Tài đây, có nhận ra anh không em?
Bao nhiêu năm rồi mà nghe cái tiếng cười khả ố ấy Lan Chi vẫn thấy gai cả người. "Lại vẫn xoen xoét anh em như là thân thiết lắm", cô nghĩ thầm rồi nói:
- Vâng, chào anh Tài, nghe Thanh Hoa bảo anh đang ở Paris phải không?
Tài gọi điện để cảm ơn về việc vợ chồng Lan Chi đã giúp anh. Mồm miệng vẫn dẻo như xưa, anh kể tràng giang đại hải về những ấn tượng của anh khi đến Paris, rồi về cuộc sống và công việc của anh ở Hà Nội ("Sống trong nước bây giờ sướng lắm rồi, Lan Chi ạ. Gì cũng có, mà rẻ hơn ở Pháp nhiều!"). Tiếp đó, Tài nhắc đến những bạn bè thuở Matxcơva hiện sống ở Hà Nội, ai cũng ăn nên làm ra. Vẻ hết sức tình cờ, Tài kể chuyện trước hôm đi sang đây anh có gặp Kiên.
- Kiên bây giờ làm ăn rất phát đạt, xây nhà ba tầng, có một con trai rồi, vợ trẻ và xinh lắm, chắc Lan Chi cũng biết?
- Vâng, cũng có nghe nói thế, - Lan Chi trả lời, cố giữ giọng thật bình thản.
- Anh có bảo Kiên nếu muốn gửi thư hay quà gì cho Lan Chi thì anh cầm sang cho, nhưng không thấy nó đến gửi gì cả. À, mà đến giữa tháng bảy này thì Kiên đi công tác sang Berlin hai tuần đấy. - Tài nói, rồi sau một lúc im lặng tế nhị đủ để cho cái tin ấy có thời giờ tác động đến Lan Chi, anh nói tiếp, vẫn với một vẻ hết sức tình cờ:
- Thấy Thanh Hoa bảo cậu em của Lan Chi ở Đức đang mời Lan Chi sang đó chơi. Hè này Lan Chi có định sang Đức chơi với cậu em không đấy?
"Sang hay không thì việc gì đến ông mà hỏi", Lan Chi bực bội nghĩ rồi xẵng giọng trả lời:
- Chưa định gì hết cả. Để xem tình hình thế nào cái đã.
__________________
Chương 7.
"Anh chưa định gì hết cả. Để xem tình hình thế nào cái đã."
K. đã trả lời tôi như vậy trong cuộc nói chuyện điện thoại lần thứ hai của chúng tôi sau ngày tôi về Hà Nội, khi tôi nhắc lại câu hỏi muôn thuở của mình: "Anh định bao giờ thì về nước?"
Lần nói chuyện đầu tiên, lúc tôi mới về được một tuần, K. vẫn còn bảo anh sẽ cố về sau một, hai tháng nữa. Một tháng trôi qua, bây giờ, đến cả một cái thời hạn anh cũng không thể xác định nổi. Giọng anh đầy vẻ mệt mỏi và thiếu tin tưởng đến nỗi tôi không dám gặng hỏi gì thêm. Mà có hỏi nữa thì cũng vô ích. K. vẫn tránh nói về chuyện làm ăn của mình như thường lệ. Chỉ nói đi nói lại là anh rất nhớ tôi. Rồi anh hỏi tôi đã quen được với cuộc sống ở trong nước chưa, đã nghĩ đến chuyện thử đi xin việc làm chưa?
Rời máy điện thoại, tôi ngồi lặng hồi lâu, nước mắt chỉ chực trào ra. Tôi đã hy vọng biết bao nhiêu vào cú điện thoại này. Tôi cứ đinh ninh rằng K. gọi điện để báo cho tôi biết ngày giờ anh về nước. Thế mà giờ đây thậm chí anh không còn dám hứa hẹn bất cứ điều gì. Tình hình ngày càng xấu hơn, hay trước kia nó đã xấu như vậy rồi, mà K. cứ hứa bừa để giữ tôi ở lại? Một linh cảm đen tối ập đến bóp nghẹt tim tôi. Lần đầu tiên kể từ ngày cầm trên tay tấm vé máy bay về Hà Nội, tôi tự hỏi liệu quyết định về nước của mình lúc đó có vội vàng quá không?
Dù thế nào đi nữa thì bây giờ cũng không thể nghĩ đến chuyện trở lại Matxcơva được. Chỉ còn cách duy nhất là ổn định dần cuộc sống ở Hà Nội trong lúc chờ đợi K. về.
Một tháng sau ngày về nước, tôi bắt đầu tính chuyện đi xin việc. Lúc mới về, nhiều người xui tôi là cứ nghỉ ngơi vài tháng cho bõ tám năm đèn sách nhọc nhằn, chứ làm việc thì còn làm cả đời, đi đâu mà vội. Nhưng chỉ nghỉ được hai ba tuần, đi thăm họ hàng bạn bè một lượt xong, tôi đã bắt đầu cảm thấy buồn chán. Nửa năm ngồi đợi K. ở Matxcơva đã làm tôi ngấy đến tận cổ cuộc sống ăn không ngồi rồi. Thêm nữa, nhìn bạn bè nhiều người về nước trước tôi cả năm mà giờ vẫn cứ lông bông chưa có việc làm, tôi đâm ra sốt ruột, nghĩ mình cần phải nhanh chân, chứ không lại rơi vào cảnh trâu chậm uống nước đục.
Tôi bắt đầu bằng việc đi tìm hiểu tình hình, lên một danh sách các cơ quan cần đến những ngành nghề gần gũi với chuyên môn của tôi. Sơ bộ ban đầu, có khoảng hơn một chục cơ quan như vậy đóng trên địa bàn Hà Nội hoặc các vùng lân cận. Tôi đánh số theo thứ tự ưu tiên, đứng đầu là những cơ quan mà tôi thích nhất, đến cuối bảng thì là những nơi không thật phù hợp với ngành học của tôi, nhưng nếu không kiếm được chỗ khác thì làm việc ở đó cũng tạm được.
Tuy đã đi học ở nước ngoài tám năm, tôi vẫn có đủ kiến thức thực tế để hiểu rằng nếu tự dưng lại tò tò vác mặt đến xin việc ở một cơ quan không có quan hệ quen biết gì, thì chắc chắn người ta sẽ nhìn mình như nhìn người từ hành tinh khác rơi xuống. Vì vậy, bước tiếp theo của tôi là mở cuộc điều tra trong tất cả bà con họ hàng xa gần lẫn bạn bè người quen thân sơ, xem có người nào dính dáng dây mơ rễ má gì đến những cơ quan mà tôi đang nhòm ngó không.
Thật là một công việc mò kim đáy bể. Hai bố con tôi ngồi bàn bạc suốt cả buổi tối mà không tìm ra được một ai có thể giúp tôi xin việc. Cả họ nhà tôi xưa nay chẳng có ai học ngành tâm lý bao giờ. Bố tôi là kỹ sư, làm việc ở một Viện khoa học kỹ thuật. Mẹ tôi khi còn sống cũng là kỹ sư, làm việc ở một nhà máy.Tóm lại là phạm vi quan hệ của bố mẹ tôi hoàn toàn không có liên quan gì đến lĩnh vực ngành nghề của tôi.
Tình hình khả quan hẳn lên khi bố con tôi đi tham khảo ý kiến họ hàng. Chú tôi cho biết rằng một bà làm việc cùng phòng với chú có ông chồng vốn là viện phó của viện B (cơ quan đứng thứ hai trong danh sách của tôi), nay đã về hưu. Cô tôi thì nhớ ra được rằng mẹ của anh bạn rất thân của cậu em họ tôi (tức là con trai đầu của cô tôi) là giảng viên đại học, dạy chính ở khoa C (đứng thứ ba trong danh sách của tôi). Bà bác ruột (chị ruột của mẹ tôi) lại cung cấp thêm rằng cô em chồng của bác có ông chồng làm việc ở cơ quan E (đứng thứ năm trong danh sách ), ông này vừa mới về hưu cách đây có vài tháng.
Vậy là trước mắt tôi đã có con đường tiếp cận đến ba cơ quan. Tôi đành từ bỏ mơ ước về Viện A, cơ quan mà tôi xếp số một trong danh sách, vì không tìm được người quen nào ở đó. Bù lại, tôi có thể tự coi mình là người tốt số, nếu xin được vào làm việc ở một trong ba cơ quan B, C và E.
Sau khi được ông chú, bà cô và bà bác dẫn đi thăm hỏi, trình diện (và quà cáp) ở ba nơi cần thiết, tôi đã có trong tay hai lá thư giới thiệu, lời lẽ rất nhiệt tình, làm vũ khí phòng thân để đến Viện B và cơ quan E. Riêng cô Châu, mẹ của anh bạn cậu em họ tôi thì lại còn nhiệt tình hơn một bậc: cô hẹn ngày đích thân dắt tôi đến trường để yết kiến ông trưởng khoa C.
Viện B là nơi mà tôi chọn để mở màn chiến dịch đi xin việc của mình.
Chẳng cần học tâm lý cũng phải biết rằng ấn tượng đầu tiên là hết sức quan trọng. Vì vậy, buổi sáng hôm ấy, tôi mất hơn nửa tiếng đồng hồ để lựa áo chọn quần. Tiêu chuẩn là trang nhã mà không già, tươi trẻ mà không lòe loẹt, diện nhưng không được phô trương quá làm cho người ta ghét, giản dị nhưng không được nhếch nhác để người ta có thể coi thường... Toàn bộ kho quần áo của tôi đem ở Nga về bị bới tung ra nhưng tôi không thể tìm được cái gì khả dĩ đáp ứng được những yêu cầu trên. Cuối cùng tôi đành phải cắn răng khoác vào người mình một bộ, nhủ thầm rằng nếu mình biết cách thì lụa sẽ đẹp vì người.
Tiếp đó, mục trang điểm mà mọi khi tôi chỉ mất có mười phút là xong, lần này cũng ngốn của tôi mất đứt hơn nửa tiếng. Sau ba lần bôi vẽ mắt xanh mỏ đỏ rồi xóa đi làm lại từ đầu (lúc thì đậm quá, lúc thì nhạt quá), tôi đành phải dừng lại ở lần thứ tư, không phải do đã chọn được gam màu thích hợp, mà vì sợ nếu còn tiếp tục thì chắc là đến chính ngọ mới có thể xuất hành. Hớt hải nhét cái thư quý vào túi rồi dắt xe ra ngoài cửa, chuẩn bị lên xe mới tôi sực nhớ ra rằng mình để quên tập hồ sơ ở nhà, lại phải quay vào lấy. Lúc đi ra vội vã, tí nữa thì tôi đâm sầm phải cô bé hàng xóm đang lễ mễ xách hai tay hai xô nước. Cô hàng xóm cười hỏi thay câu chào: "Chị L.C. đi đâu mà diện thế?" Tôi cười đáp lại rồi lao vọt đi, vốn tính vô thần nên chẳng nghĩ ngợi gì, nhưng đến tối về ngán ngẩm nhớ lại mới thấy rằng cái câu "ra ngõ gặp gái" của ông bà mình có khi lại đúng. Rõ ràng ngày lành, tháng tốt, thời tiết đẹp, thế mà đi chẳng được việc gì.
Đến viện B, cầm lăm lăm lá thư của ông cựu viện phó trong tay, tôi vào xin gặp ông viện trưởng.
- Cô tìm bác viện trưởng có việc gì?, - một bà quãng ngoài năm chục tuổi, mặt khó đăm đăm, ngồi ở một cái phòng mà tôi đoán là phòng thường trực, hỏi.
- Dạ, cháu có một cái thư của bác Bình gửi cho bác viện trưởng ạ, - tôi vừa nói vừa đưa cái thư quý cho bà này xem.
Bà ta lơ đãng liếc qua phong bì rồi lại hỏi:
- Bình nào nhỉ?
- Dạ, bác Bình trước là viện phó ở đây, - tôi trả lời.
- À à..., - người đối thoại của tôi gật gù đáp lại một cách khó hiểu như vậy rồi cúi xuống tờ báo đang đọc dở.
Tôi đứng đần ra một lúc, hy vọng bà ta sẽ ngẩng lên nói tiếp, nhưng đợi mãi không thấy động tĩnh gì, tôi đành phải đánh bạo hỏi tiếp:
- Thưa bác, cháu có thể vào gặp bác viện trưởng bây giờ không ạ?
- Cô cứ để thư lại đây rồi tôi chuyển cho, - người đối thoại của tôi nói, không buồn ngẩng đầu lên.
- Nhưng cháu có việc cần phải nói trực tiếp với bác viện trưởng cơ ạ.
- Bác viện trưởng đang bận họp, chẳng biết sáng nay có xong không. Không xong buổi sáng thì chiều còn họp tiếp. Cô muốn đợi thì ra ngồi trước cái cửa phòng ở cuối hành lang kia mà đợi.
- Thế cháu có thể gặp bác viện trưởng một hôm khác được không ạ, một hôm nào đó không có họp? - nghĩ đến chuyện chờ đợi vô vọng, tôi hơi nản, định lấy hẹn trước cho một ngày khác.
- Tôi không biết, cô tìm bác ấy mà hỏi. Nói chung thì ngày nào bác ấy cũng bận, không họp chỗ này thì họp chỗ kia.
Không còn cách nào khác, phải đợi thôi. Tôi ra trước cửa căn phòng ở cuối hành lang, nhớ lời dặn "ngồi đợi" nên bèn nhìn quanh quất tìm một cái ghế để ngồi. Hành lang trống trơn, không có bất cứ một vật gì có thể làm chức năng của ghế. Chắc bà kia có ý nói ngồi bệt, ngồi xổm hay ngồi lên thành cửa sổ chăng? Tôi không dám chọn kiểu nào trong ba kiểu ngồi nói trên, cho nên đành dựa lưng vào tường đứng đợi.
Một tiếng đồng hồ trôi qua, chân tôi bắt đầu tê cứng. Tôi bèn đi đi lại lại trong hành lang, không dám xa cái cửa phòng kia quá năm mét, mắt vẫn dán chặt vào đó. Thỉnh thoảng lại có người đi qua hành lang, nhìn tôi tò mò, nhưng không hỏi gì, tôi cũng thấy chả có việc gì phải hỏi, cho nên chỉ tập trung toàn bộ sức lực vào việc bám sát mục tiêu.
Hai tiếng đồng hồ trôi qua, đã gần mười hai giờ trưa, tôi bắt đầu thoái chí thì cánh cửa phòng đột nhiên bật mở. Một tốp chừng bốn năm người đi ra. Tôi lao đến, hỏi ngay ông đi đầu: "Chú làm ơn cho cháu hỏi bác viện trưởng có ở đây không ạ?" Ông này nhìn tôi tủm tỉm cười, lúc đó tôi mới nhận ra rằng "chú" chỉ quãng ngoài ba mươi, hơn tôi dăm tuổi là căng. "Bác viện trưởng đang ở trong phòng đấy", "chú" chỉ tay vào phòng nói rất nhã nhặn.
Qua cánh cửa hé mở, tôi nhìn thấy ông viện trưởng ngồi trầm ngâm trước một chồng tài liệu, có vẻ đang suy nghĩ rất mông lung. Tôi ý tứ gõ nhẹ vào cánh cửa hai tiếng. Đợi một lát, chẳng thấy động tĩnh gì, tôi bèn gõ tiếp hai cái nữa, mạnh hơn lần trước. Ông viện trưởng vẫn ngồi trầm tư, mắt tiếp tục nhìn vào cõi hư vô. Để kéo ông trở lại với thực tế, tôi đánh liều gõ ba tiếng "cộc cộc cộc" thật to. Quả là hiệu nghiệm, viện trưởng giật nảy mình, quay nhìn ra cửa rồi nghiêm khắc hỏi:
- Có chuyện gì thế?
Hốt hoảng trước sự nghiêm khắc của viện trưởng, tôi luống cuống nói líu cả lưỡi:
- Dạ, thưa bác, cháu... cháu có việc...
- Việc gì? - viện trưởng cắt ngang.
- Dạ, cháu có việc xin được gặp bác ạ.
- Cô ở phòng ông Liêm phải không? Đã xin ý kiến trưởng phòng chưa?
- Dạ, không ạ, cháu không ở phòng nào cả, - tôi hoang mang nói.
- Không ở phòng nào thì đến đây có việc gì? - ông viện trưởng bắt đầu có vẻ khó chịu.
- Dạ, cháu có một cái thư của bác Bình gửi bác, nói rõ chuyện này, - vừa nói, tôi vừa đưa bức thư ra.
- Bình nào? - ông viện trưởng hỏi, không buồn nhìn vào phong bì.
- Dạ, bác Bình trước là viện phó ở đây.
- À à..., - lại một chuỗi "à à" bí hiểm hệt như cái bà ở phòng thường trực, rồi ông viện trưởng cầm phong bì, lấy thư ra đọc.
Tôi nín thở, hồi hộp theo rõi từng nét mặt, cử chỉ của ông.
Đọc được một chút, viện trưởng có vẻ sốt ruột, ông gập thư lại rồi ngẩng lên bảo tôi:
- Tóm lại là cô muốn về làm việc ở đây phải không?
- Dạ, vâng ạ, - tôi đáp.
- Thôi, thế này nhé, để tôi dẫn cô ra gặp cậu Công, phụ trách về tổ chức cán bộ ở đây, chuyện này phải làm việc trực tiếp với cậu ấy mới được. Cầm cả cái thư này đưa cho cậu ấy xem, - ông viện trưởng vừa nói vừa đứng lên, đưa cái thư lại cho tôi và đi ra cửa, ra hiệu cho tôi đi theo.
Tôi cầm lấy cái thư bảo bối của mình và lẽo đẽo theo đuôi ông viện trưởng. Đi được một đoạn trong hành lang thì thấy một người đàn ông bước từ một căn phòng ra, khép cửa lại rồi bước đi. Ông ta không nhìn thấy chúng tôi. Ông viện trưởng gọi:
- Này, Công!
- Dạ, anh gọi em ạ? - người đàn ông quay lại, cười rất nhũn nhặn.
- Có cô này muốn xin về làm việc ở đây. Cậu xem tình hình thế nào thì nói cho cô ấy biết. Có thủ tục gì cần làm thì hướng dẫn người ta, - ông viện trưởng nói, rồi vừa định quay đi thì ông sực nhớ, bèn nói tiếp:
- Cô ấy có cái thư giới thiệu, cậu đọc kỹ xem trong thư nói gì.
- Dạ, vâng, em sẽ giải quyết ngay chuyện này, - ông Công nói, vẫn với nụ cười nhũn nhặn trên môi. Rồi ông ta quay sang tôi, bảo:
- Bây giờ hết giờ làm việc buổi sáng rồi. Cô về nhà nghỉ ngơi rồi đầu giờ buổi chiều quay lại đây, ta nói chuyện.
Đúng hai giờ chiều, tôi có mặt ở trước cửa phòng ông Công. Cửa đóng im ỉm. Tôi thử gõ nhẹ hai tiếng, rồi lại ba tiếng tiếp theo mạnh hơn. Không có ai trả lời. Tôi bèn kiên tâm đứng đợi.
Lần đợi này may mắn hơn buổi sáng. Quãng hai giờ rưỡi, khi chân tôi mới bắt đầu mỏi chứ chưa kịp tê cứng, thì ông Công xuất hiện.
- À, cô đến rồi đấy à, vào đây, - ông Công vừa nói, vừa mở cửa phòng bước vào.
Tôi vào theo, đang lựa lời để nói thì cán bộ tổ chức đã nhanh nhẹn bảo:
- Thư giới thiệu của cô đâu, đưa tôi xem nào.
Tôi vội vã đưa ngay bảo bối. Ông Công vừa cầm phong bì vừa hỏi:
- Ai viết cho cô thư này?
- Dạ, bác Bình, trước là viện phó ở đây ạ, - rút kinh nghiệm hai lần trước, tôi khai tuồn tuột ra ngay để tránh câu hỏi "Bình nào?"
- À, à..., - cán bộ tổ chức gật gù. Rồi ông gập luôn cái thư vừa mới lấy ra chưa kịp xem, nhét lại vào phong bì và lắc đầu bảo:
- Ông Bình về hưu lâu rồi, thành ra quên hết cả nguyên tắc làm việc. Lẽ ra ông ấy phải giới thiệu cô lên Bộ, Bộ có giới thiệu xuống thì chúng tôi mới nghiên cứu xem có phù hợp với Viện không, có thể nhận được không. Nói thật với cô, hiện giờ chúng tôi cũng không có biên chế đâu. Biên chế là ở trên Bộ dội xuống, mà muốn làm hợp đồng để đợi biên chế thì cũng phải do Bộ quyết định mới được. Tóm lại là cô phải lên Bộ cái đã. Lấy được cái giấy giới thiệu của Bộ xuống đây, thì chúng tôi sẽ nhận hồ sơ của cô và xem xét.
Rồi ông Công đưa trả lại tôi lá thư. Tôi chẳng còn biết nói gì nữa, đành chào một câu và lủi thủi đi ra.
Mấy ngày sau, tôi đi lên Bộ, đương nhiên là phải được trang bị bằng một lá thư giới thiệu, cũng của bác Bình. Chú tôi đã lóc cóc đến nhà bác nói khó thêm lần nữa. Nể đồng nghiệp của vợ lắm, bác Bình mới viết thêm cho một lá thư, dài chỉ bằng nửa thư trước, độ nhiệt tình cũng giảm đi một nửa. Nhưng tôi đã có kinh nghiệm là nội dung dài ngắn ra sao không quan trọng, người ta đâu có thời giờ đọc hết lá thư. Cái chính là có tên người nhận ở ngoài phong bì, để tôi còn có chỗ mà bấu víu.
Người mà bác Bình có nhã ý gửi gắm tôi trên Bộ là một bà trông tuổi chắc cũng sắp về hưu đến nơi. Tôi phải mất thời gian giải thích khá dài dòng bà mới hiểu bác Bình của tôi là ai. Có điều đáng mừng là sau khi hiểu ra, bà bèn mở thư ra đọc rất chăm chú. Đáng mừng hơn nữa là đọc xong bà còn đăm chiêu suy nghĩ một lúc (chứng tỏ có sự quan tâm!). Rồi bà hỏi tôi:
- Hồ sơ của cô chuyển lên Bộ lâu chưa?
Tôi vội rút ngay tập hồ sơ của mình ra và nói:
- Cháu chưa nộp hồ sơ. Cháu nộp ngay bây giờ có được không ạ?
Bà bạn bác Bình xua tay, có vẻ ngán ngẩm vì sự thiếu hiểu biết của tôi:
- Không, là tôi nói hồ sơ do Viện chuyển lên ấy chứ, cái quan trọng là phải có ý kiến của Viện.
- Ở Viện người ta bảo cháu là phải có Bộ giới thiệu xuống thì người ta mới nhận hồ sơ.
- Ai bảo cô mà linh tinh thế? Viện có chuyển hồ sơ lên thì Bộ mới căn cứ vào đó mà xem xét được chứ.
- Vậy bác có thế cấp cho cháu một cái giấy giới thiệu xuống Viện, để cháu được nộp hồ sơ ở Viện không ạ?- tôi năn nỉ.
- Không có nguyên tắc làm việc nào như thế cả, - bạn bác Bình trả lời. - Làm thế rồi người ta lại bảo là trên áp đặt dưới. Cô cứ về nộp hồ sơ ở Viện đi. Khi nào Viện chuyển lên Bộ thì tôi sẽ cố giúp cô ở trên này. Nhưng đầu tiên phải ở cấp Viện cái đã. - Rồi bà đổi giọng rất thân mật: - Bảo bác Bình viết cho cái thư đến Viện. Bác ấy vốn là người của Viện, dễ quá còn gì.
- Bác Bình đã viết thư cho cháu đến Viện rồi, nhưng người ta bảo phải có Bộ giới thiệu mới được, - nhớ đến ông Công, tôi cố lèo nhèo.
Nhưng bà bạn bác Bình tỏ ra không muốn tiếp tục câu chuyện nữa. "Bao giờ hồ sơ của cô chuyển từ Viện lên đây thì báo cho tôi biết", bà nói rồi đứng dậy đích thân đưa tôi ra khỏi phòng.
Hôm sau, tôi nhẫn nhục vác mặt đến viện B lần nữa để trình bày với ông Công ý kiến của "Bộ". " Bộ nào bảo cô mà linh tinh thế, - ông Công nói. - Nguyên tắc làm việc xưa nay vẫn thể, Viện cứ thế mà làm. Bộ muốn thay đổi thì gửi công văn xuống đây. Trong khi chưa có gì thay đổi, thì cứ phải có giấy giới thiệu của Bộ chúng tôi mới nhận hồ sơ của cô được." Vẻ mặt và giọng điệu của ông Công đanh thép đến nỗi tôi đâm ra nghi ngờ, không hiểu cái Bộ của ông và Bộ của bà bạn bác Bình có phải là một không nữa.
Biết là có lên Bộ lần nữa cũng chẳng ích gì, tôi bèn ngậm ngùi gạch viện B ra khỏi danh sách của mình. Cũng không buồn lắm, vì tôi vẫn còn hai niềm hy vọng nữa. Ở khoa C và cơ quan E, tình hình có vẻ tươi sáng hơn hẳn.
Ông trưởng khoa C là một người vui tính và gần gũi quần chúng. Khi cô Châu dẫn tôi đến yết kiến ông, đang đi lên cầu thang thì tôi nghe thấy một tiếng cười sảng khoái từ tầng trên vọng xuống. "Ông ấy đã ở trên khoa rồi đấy", cô Châu vui vẻ bảo. Đi gần đến cánh cửa phòng có biển đề "Ban Chủ nhiệm khoa C" thì lại được nghe thêm một tràng cười nữa, rộn rã hơn, hào hùng hơn, không đơn lẻ như lần trước mà được nhiều chất giọng khác nhau cùng hòa nhịp. Trong phòng chủ nhiệm khoa như vậy là đang có nhiều người. Tôi ngần ngại bước chậm lại. Cô Châu bảo: "Vào đi, đừng sợ". Rồi chẳng gõ cửa gì hết, cô đẩy cửa bước vào luôn. Tôi líu ríu đi theo cô. Trong phòng có bốn người (vậy mà lúc nghe tiếng cười tôi lại cứ tưởng phải có ít ra là chục giọng), một bà và ba ông. Tôi và cô Châu vào, mọi người quay ra nhìn, vẻ mặt ai cũng như đang cười dở chuyện gì hay lắm. "Xin lỗi, các vị họp ban chủ nhiệm khoa đấy à?", cô Châu hỏi. "Xong từ nãy rồi, ngồi nói chuyện thôi", ông to béo đeo kính vừa cười vừa trả lời. Cô Châu quay lại chỉ tôi (đang đứng rúm ró trong một góc ), bảo: "Đây là L.C. mà hôm trước tôi đã nói qua với anh rồi đấy". "À, L.C. đấy hả?", ông to béo (chính là trưởng khoa) thân mật nói rồi vồn vã đứng lên bắt tay tôi và mời tôi ngồi xuống. Ba người kia ý tứ cáo lui. Cô Châu bảo: "L.C. ngồi nói chuyện với chú Thành nhé, cô có việc đi chỗ này một chút." Tôi vừa đáp "vâng ạ" thì trưởng khoa đã cười ròn rã và bảo: "Gọi "anh" thôi. Sắp thành đồng nghiệp ở đây rồi, gọi là "chú" nó bất bình đẳng, khó làm việc ra." Câu đầu của trưởng khoa làm tôi hơi hoảng (vì tôi chưa từng gọi ai quãng ngoài năm chục như ông là anh), nhưng câu sau của ông làm cho tôi sướng râm ran, vì vậy tôi quyết định liều mình gọi ông là "anh" cho đúng lệ làng.
Trưởng khoa và tôi ngồi trò chuyện đến hơn một tiếng đồng hồ. Đúng hơn, người nói chủ yếu là trưởng khoa. Tôi chỉ nghe, trả lời, và đưa đẩy vài câu phụ họa. Hóa ra trước đây ông đã từng làm nghiên cứu sinh ở Matxcơva, ở chính trường mà tôi học. Thành thử, bao nhiêu kỷ niệm tuổi trẻ được dịp tuôn ra. Bao nhiêu người quen chung, từ các giáo sư đến bà giữ thư viện, được dịp nhắc đến. Ôn chuyện cũ chán chê rồi thì trưởng khoa cũng sực nhớ đến mục đích cuộc yết kiến này, ông bèn hỏi tôi về đề tài luận án tốt nghiệp và hướng nghiên cứu của tôi, tóm lại là về các vấn đề chuyên môn. Rồi ông hỏi tôi có mang theo hồ sơ và luận án của tôi không? Tôi sướng rơn, đưa ngay cho trưởng khoa đủ mọi thứ mà ông yêu cầu. Trưởng khoa bảo sẽ nghiên cứu kỹ những thứ này và hẹn tôi mười ngày nữa thì quay lại để biết trả lời của khoa.
Câu trả lời của trưởng khoa C sau đó mười hôm làm cho tôi mất ngủ ít nhất là một đêm vì sung sướng. Ngành chuyên môn và trình độ của tôi hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của khoa C, khoa sẽ ủng hộ tôi nếu có biên chế, anh trưởng khoa tuyên bố rõ ràng như vậy (đến lần gặp thứ hai này, tôi đã gọi được trưởng khoa bằng "anh" một cách rất trơn tru). Thêm nữa, anh trưởng khoa còn cho biết rằng theo một nguồn tin khá chắc chắn thì Bộ sắp cho trường một vài chỉ tiêu biên chế năm nay, trong đó khoa C nhất định sẽ được một suất. Bây giờ, tôi chỉ còn việc mang hồ sơ lên nộp ở phòng tổ chức của trường, đợi xét duyệt, khi trường hỏi ý kiến thì khoa sẽ trả lời ủng hộ ngay lập tức. Vốn đã có kinh nghiệm về cán bộ tổ chức, tôi bèn xin ngay anh trưởng khoa một cái giấy giới thiệu để lên phòng tổ chức của trường. "Cần gì giấy giới thiệu, - trưởng khoa gạt đi. - Em cứ bảo là anh Thành đồng ý nhận rồi, anh Thành nói em lên nộp hồ sơ ở đây, thế là được." "Thì anh cứ cho em một cái giấy giới thiệu để đề phòng gặp người khó tính, có mất gì đâu", tôi nói bằng một giọng thân mật không kém gì trưởng khoa. "Cô này kỹ tính nhỉ, - trưởng khoa cười hề hề bảo. - Thôi được, ngồi đây đợi tí rồi anh viết giấy giới thiệu cho." Nói rồi, trưởng khoa lục tung các ngăn kéo, lôi ra một quyển vở, xé một mảnh giấy và ngồi hý hoáy viết. Xong, anh đưa cho tôi và hỏi: "Thế này được chưa?"
Nhìn mảnh giấy xé nham nhở với vài dòng chữ viết tay loằng ngoằng, tôi hơi ngạc nhiên. "Khoa mình không có mẫu giấy giới thiệu in sẵn, không có dấu má gì hả anh?", tôi hỏi. "Cô này tây du lâu nên quan liêu quá, - trưởng khoa cười rộ lên. - Lại còn đòi khoa phải có mẫu giấy in sẵn với lại dấu má nữa cơ chứ! Này, em về năm nay là khoa mình đã hiện đại hóa lên nhiều rồi đấy, chứ năm ngoái thì đến cái điện thoại cũng chẳng có đâu, khoa mới đặt điện thoại được hơn nửa năm nay thôi em ạ."
Kể ra một cái khoa lớn của một trường đại học lớn nằm ở ngay thủ đô mà lại giản dị thế thì cũng lạ. Nhưng tôi chẳng lấy đó làm điều. Thậm chí tôi còn mong rằng phòng tổ chức của trường cũng xuề xòa, giản dị, dễ gần như thế để mọi việc của tôi trót lọt.
Trái lại với mong đợi của tôi, ở phòng tổ chức của trường không có ai cười cả. Khi tôi bước vào, có ba người ngồi ở trong phòng. Ngồi trong cùng là một ông già mặt mũi nghiêm trang, tiếp đó là một bàn để trống, hai bàn gần cửa ra vào thì có một cô còn khá trẻ và một bà cỡ trung niên. Mặt cô trẻ có vẻ bất cần, mặt bà trung niên thì đầy mệt mỏi. Tôi hắng giọng đánh tiếng, bà trung niên ngẩng đầu lên hỏi tôi đến có việc gì.
- Em đến nộp hồ sơ để xin làm việc ở đây ạ. Em xin về khoa C, anh Thành trưởng khoa đã nhận rồi, anh ấy bảo em mang hồ sơ lên đây để trường xét duyệt. Giấy giới thiệu của anh Thành đây ạ, - đã dày kinh nghiệm nên tôi nói luôn một lèo rồi đưa tờ giấy của anh trưởng khoa ra (mép giấy đã được tôi cắt lại tối hôm trước nên không còn lem nhem nữa).
Bà trung niên uể oải cầm lấy tác phẩm của thủ trưởng tương lai của tôi, nhìn qua, rồi đứng dậy lấy một tờ giấy khác đưa cho tôi và bảo:
- Cô điền tờ giấy này đi
Đó là một mẫu giấy in sẵn, chỉ có vài mục đơn giản: tên tuổi, ngày tháng năm sinh, địa chỉ thường trú, ngành nghề, nguyện vọng... Tôi viết ngoáy một cái là xong rồi đưa lại cho bà trung niên. Bà lơ đãng nhét vào một ngăn kéo rồi không nói gì thêm nữa.
- Còn hồ sơ thì em phải nộp ở đâu hả chị? - tôi vội hỏi.
- Hồ sơ đầy đủ thì bây giờ chưa cần, vì hiện trường chưa có chỉ tiêu. Bao giờ Bộ cho chỉ tiêu, trường chuẩn bị họp xét duyệt, thì cô nộp hồ sơ là vừa.
- Vậy bao giờ thì Bộ cho chỉ tiêu ạ? - tôi lại hỏi.
- Nghe nói sắp có, nhưng chính xác thì tôi không biết. Khi nào có thì chúng tôi sẽ thông báo.
Tôi năn nỉ xin được để hồ sơ lại vì sợ lỡ, nhưng bà trung niên kiên quyết từ chối. "Ở đây không còn chỗ nào để chứa hồ sơ mới cả", bà bảo. Thế là tập hồ sơ của tôi lại bị cán bộ tổ chức hắt hủi thêm lần nữa. Nhưng tôi vẫn thấy mừng vì không bị bắt lên Bộ xin thêm giấy giới thiệu. Như vậy là có tiến bộ nhiều so với viện B.
Để nắm sát tin tức về chỉ tiêu của Bộ, cứ một tuần tôi lại lên phòng tổ chức trường một lần. Sau hai lần thì bà trung niên nhẵn mặt tôi, cứ nhìn thấy tôi là bà nói luôn: "Chưa có gì đâu". Đến lần thứ năm thì bà bảo, vẻ khó chịu hiện rõ trên nét mặt: "Sao ngày nào cô cũng đến thế. Thôi từ nay cô đừng đến nữa, ảnh hưởng đến chúng tôi làm việc. Địa chỉ của cô có ở đây rôi, cần gì thì chúng tôi sẽ gửi giấy báo cho cô". Tôi định thanh minh là không phải ngày nào tôi cũng đến, nhưng vẻ mặt nghiêm khắc của bà làm tôi sợ rụt cả lưỡi lại, chả dám nói gì.
Ngồi nhà đợi hai tuần không thấy giấy báo đâu, tôi sốt ruột liều mạng ôm tập hồ sơ rủi ro lên phòng Tổ Chức trường lần nữa. Vừa thò mặt vào cửa thì bà trung niên nhìn ra, quắc mắt lên. Tôi hoảng quá, lí nhí nói một câu xin lỗi, làm như vào nhầm phòng, rồi chuồn thẳng.
Cái quắc mắt ấy yểm tôi ngồi nhà được thêm một tháng nữa thì nỗi sợ nhường chỗ cho nỗi lo. Mãi chả thấy giấy báo gì cả, tôi quyết định lại lên phòng tổ chức hỏi tình hình.
May quá, khi tôi đến thì bà trung niên không ngồi ở đó. Tôi bèn tiến lại gần cô gái trẻ có vẻ mặt bất cần để hỏi. Phải giải thích rất dài dòng cô ấy mới hiểu tôi nói chuyện gì. "Bộ cho chỉ tiêu lâu rồi, trường họp xét cả tháng nay rồi, còn nộp hồ sơ gì nữa", cô gái thản nhiên bảo. "Ơ..., chị xem lại hộ xem có nhầm không. Mới hôm nọ bà gì ngồi đây còn bảo tôi là chưa có gì hết cả", tôi ú ớ nói. Cô gái nhìn tôi thương hại rồi bới ra một đống giấy tờ, đọc vanh vách công văn của Bộ, rồi quyết định của trường về việc tuyển người, đọc cả tên người được nhận về khoa C năm nay (không phải tôi). Theo như ngày tháng cô gái đọc, thì mọi việc mới được giải quyết khoảng ba tuần nay. Tôi bực quá hóa liều, nói một cách cáu kỉnh:"Sao tôi không nhận được giấy báo gì cả?" "Cái gì?", cô gái kinh ngạc hỏi. "Bà gì ngồi đây hôm nọ bảo rằng khi nào Bộ cho chỉ tiêu thì sẽ gửi giấy báo để tôi đến nộp hồ sơ. Tôi đợi mãi không thấy giấy báo đâu", tôi nói. "Ối giời ơi! - cô gái cười rú lên. - Chị đi xin việc mà lại ngồi nhà đợi giấy báo à? Thế thì có đến mùng thất mới xin được việc. Chị tưởng chị là con ai? Con Tổng bí thư chắc? Hi hi hi...", cô gái ôm bụng cười ngặt nghẽo mãi không dừng lại được. Ông già trang nghiêm ngồi ở góc phòng cũng ngẩng đầu lên cười khùng khục rung cả kính. Bất giác, tôi cũng cười theo một cách ngớ ngẩn. Vui thật, thế mà lúc trước tôi lại cứ tưởng các cán bộ phòng này không biết cười
Thế là cuối cùng, tôi chỉ còn có mỗi cơ quan E để mà hy vọng. Một niềm hy vọng rất đáng để bám chặt lấy, vì ngay từ đầu, cơ quan này đã hơn hẳn hai nơi kia ở chỗ họ sẵn sàng nhận hồ sơ của tôi. Nhận luôn, ngay tại chỗ, không đòi giấy giới thiệu nào, cũng không bắt đợi chỉ tiêu của Bộ. Người trực tiếp nhận hồ sơ của tôi là một ông già có vẻ mặt khá hiền lành, đôi mắt hơi dài dại sau cặp kính dày cộp. Không ai giới thiệu nên tôi không biết ông giữ chức vụ gì, nhưng chắc không phải là nhân viên quèn, vì ngồi bàn cạnh ông là một bà (cũng già nhưng ít nhăn nheo hơn ông một chút), thường xuyên bị ông sai vặt. Ông nhận hồ sơ từ tay tôi, xem qua một tí rồi đưa cho bà kia bảo cất đi. Có lúc cần tìm giấy tờ gì ông cũng sai bà kia đi lấy.
Thực ra, trước khi tiếp cận được ông này tôi cũng đã phải đi một vòng qua ba bốn cửa. Đầu tiên, cầm thư giới thiệu của ông em rể bà bác ruột, tôi đến gặp cái ông có tên ghi trên phong bì. Ông này đọc thư xong bèn sốt sắng dẫn tôi đến trình diện một ông khác. Ông khác hỏi tôi khá kỹ về quá trình học tâp, bằng cấp, chuyên môn rồi bảo là có thể nhận tôi về được nhưng phải tham khảo ý kiến cấp trên.
Cấp trên không đọc hồ sơ của tôi, cũng không hỏi han gì, chỉ đọc ý kiến của cấp dưới ghi ngoài hồ sơ của tôi, rồi bảo tôi đến nộp hồ sơ ở phòng tổ chức đợi xét duyệt. Nghe nói đến phòng tổ chức tôi đã hãi hùng, không ngờ gặp được một ông già mặt mũi thật là phúc hậu, đã thế lại còn nhận ngay hồ sơ của tôi, không đòi hỏi hạch sách thêm gì nữa. Ông bảo hồ sơ của tôi như vậy là đầy đủ rồi, ít nữa lãnh đạo cơ quan sẽ họp xét duyệt, có kết quả sẽ thông báo công khai. Tôi chỉ còn mỗi việc chờ đợi.
Lãnh đạo cơ quan E chắc cũng nhiều việc bận, nên tôi đợi đến mấy tháng mà cuộc họp vẫn chưa diễn ra. Được cái may là cán bộ tổ chức ở đây rất hiền, tuần nào tôi cũng vác mặt đến hỏi tình hình, nhưng luôn luôn được ông tiếp đón rất nhã nhặn. Phải cái trí nhớ ông không được tốt như cái bà trung niên ở trường đại học nọ, cho nên sau bốn năm lần mà ông vẫn nhìn tôi như mới gặp lần đầu, và tôi luôn luôn phải trình bày lại hết sức dài dòng điều mình muốn hỏi.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top