ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945 - 1954)

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ

ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945 – 1954)

I.ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, BẢO VỆ  CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG

CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 – 1954):

1.  Chủ trương  xây  dựng  và  bảo vệ  chính  quyền cách mạng  (1945  –

1946):

a.  Hoàn cảnh nước ta sau cách mạng tháng Tám:

Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng

hòa ra đời, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối

cảnh vừa có thuận lợi cơ bản vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.

Thuận lợi cơ bản:

-Trên thế giới: hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được

hình  thành.  Phong  trào  cách  mạng  giải  phóng  dân  tộc  có  điều  kiện

phát triển, trở thành 1 dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và

hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ.

-Ở trong nước: chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ

thống từ trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã  làm chủ vận

mệnh của đất nước. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường.

Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam

Dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Khó khăn nghiêm trọng:

-Hậu quả do chế độ cũ để lại rất nặng nề như: nạn đói, nạn dốt, ngân

quỹ quốc gia trống rỗng. Kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ

các cấp non yếu.

-Nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công

nhận và đặt quan hệ ngoại giao.

-Với danh nghĩa quân Đồng minh đến tước khí giới của phát xít Nhật,

quân đội các nước đế quốc ồ ạt vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến

khích bọn Việt gian chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ

nền độc lập và chia cắt nước ta. Nghiêm trọng nhất là quân Anh, Pháp

đã đồng lõa với nhau nổ súng đánh chiếm Sài Gòn nhằm tách Nanm

Bộ ra khỏi Việt Nam.

-“Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế

độ mới, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc’.

b.  Chủ trương “kháng chiến kiến quốc” của Đảng:

Trước tình hình mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt

phân tích tình thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên

thế giới và sức mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh

nhằm  giữ  vững  chủ  quyền,  bảo  vệ  nền  độc  lập  tự  do  vừa  giành  đươc,  Ngày

25/11/1945,  Ban  chấp  hành  Trung  ương  Đảng  ra  Chỉ thị Kháng  chiến  kiến  quốc,

vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chủ trương

kháng chiến kiến quốc của Đảng là:

-Về  chỉ  đạo  chiến  lược:  Đảng  xác  định  mục  tiêu  phải  nêu  cao  của  cách

mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng. Khẩu hiệu lúc này là

“Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết” nhưng không phải giành độc lập mà là

giữ vững độc lập.

-Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với

Đông Dương và chỉ rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm

lược phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy, phải “lập mặt

trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”; mở rộng mặt trận

Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất mặt trận Việt –

Miên – Lào .v.v…

-Về  phương  hướng,  nhiệm  vụ: Đảng  nêu  lên 4  nhiệm vụ  chủ  yếu  và  cấp

bách cần khẩn trương thực hiện là: “củng cố chính quyền, chống thực dân

Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”. Đảng

chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa

- Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “độc lập về chính

trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.

Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị xác

định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược. Đảng chỉ

ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu

rõ 2 nhiệm vụ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám

là xây dựng đất nước đi đôi với bảovệ đất nước. Đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ

thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống thù trong giặc ngoài,

bảo vệ chính quyền cách mạng.

Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được Đảng tập trung

chỉ đạo thực hiện trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng

tạo, trước hết là trong giai đoạn từ tháng 9/1945 đến cuối năm 1946.

c.  Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm:

Cuộc  đấu tranh thực  hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc  của  Đảng giai

đoạn 1945 – 1946 đã diễn ra rất gay go, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị,

kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao và đã giành được những kết quả hết sức to lớn.

-Về chính trị - xã hội: xây dựng được nền móng của một chế độ mới - chế

độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội,

HĐND các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến pháp dân

chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính quyền

từ Trung ương đến làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công cụ

chuyên chính như Vệ quốc đoàn, công an nhân dân thiết lập và tăng cường.

Các đoàn thể  nhân dân như  mặt trận Việt Minh,  Hội liên hiệp quốc dân

Việt  Nam,  Tổng Công đoàn Việt Nam,  Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

được xây dựng và  mở rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng xã hội Việt

Nam được thành lập.

-Về kinh tế, văn hóa: phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa

bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng

ngân quỹ quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được hồi phục. Cuối năm 1945,

nạn đói cơ bản được đẩy lùi. Năm 1946, đời sống nhân dân được ổn định

và có cải thiện. Tháng 11/1946, giấy bạc “Cụ Hồ” được phát hành. Mở lại

các trường lớp và tổ chức khai giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn

dân xây dựng nền văn hóa mới đã bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã

hội và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện

sôi nổi. Cuối năm 1946, cả nước đã có thêm 2,5 triệu người biết đọc biết

viết.

-Về  bảo  vệ  chính  quyền cách  mạng: Ngay  từ khi thực  dân Pháp  nổ  súng

đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ,

Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến và phát

động phong trào Nam tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho quân Pháp

đánh ra Trung bộ. Ở miền Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong

nội bộ kẻ thù, Đảng và Chính phủ thực hiện sách lược nhân nhượng với

quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung

lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Khi Pháp - Tưởng ký Hiệp ước Trùng

Kháng (28/2/1946) thỏa thuận mua bán quyền lợi với nhau, cho Pháp kéo

quân ra miền Bắc, Đảng mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp hòa hoãn, dàn xếp

với  Pháp  để  buộc  quân  Tưởng  phải  rút  về   nước.   Hiệp  định  sơ  bộ

(06/03/1946),   cuộc   đàm  phán  ở   Đà   Lạt,   ở   Fontainebleau,   Tạm  ước

(14/9/1946) đã tạo điều kiện cho quân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị

cho cuộc chiến đấu mới.

Ý nghĩa của những thành quả đấu tranh nói trên là bảo vệ được nền độc lập

của đất nước, giữ vững chính quyền cách  mạng; xây dựng được những nền móng

đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân chủ cộng hòa; chuẩn

bị được những điều kiện cần thiết trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.

Nguyên nhân thắng lợi: Có được những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng đã

đánh  giá  đúng  tình  hình  nước  ta  sau  Cách  mạng  tháng  Tám,  kịp  thời  đề  ra  chủ

trương kháng chiến kiến quốc đúng đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh của

khối  đại  đoàn  kết  toàn  dân  tộc,  lợi dụng  được  mâu  thuẫn  trong  hàng  ngũ  kẻ  thù

v.v…

Bài học kinh nghiệm: trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương kháng

chiến kiến quốc giai đoạn 1945 – 1946 là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc,

dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu

thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có

nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong

hoàn cảnh  cụ thể.  Tận dụng  khả  năng  hòa  hoãn để  xây  dựng  lực  lượng,  củng cố

chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với khả năng

chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ thù bội ước.

2.  Đường lối  kháng chiến chống  thực  dân Pháp xâm lược và  xây dựng

chế độ dân chủ nhân dân (1945 – 1954):

a.  Hoàn cảnh lịch sử:

Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải

Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây ra nhiều cuộc khiêu khích, tàn

sát đồng bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với phía

Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán, thương lượng.

Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho

chúng kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô, ngày 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung

ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì

của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái

viên đi gặp phía Pháp để đàm pháp song không có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành

động của Pháp chứng tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hòa

hoãn không còn. Hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Trong thời điểm lịch sử

phải quyết đoán ngay, hội nghị đã hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả

nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính

quân  sự  ở  Hà  Nội.  Mệnh  lệnh  kháng  chiến  được  phát  đi.  Vào  lúc  20  giờ  ngày

19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng

ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi

trên Đài tiếng nói Việt Nam.

Thuận  lợi của  nhân dân ta  khi  bước  vào  cuộc  kháng chiến chống thực  dân

Pháp xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc và đánh địch

trên đất nước mình nên ta có chính nghĩa, có “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Ta cũng

có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt nên về lâu dài ta sẽ có khả năng đánh thắng quân

xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân

sự ở trong nước và tại Đông Dương không dễ khắc phục được ngay.

Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây

4 phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân,

đã chiếm đóng được 2 nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có

quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc.

Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn là cơ sở để Đảng

xác định đường lối cho cuộc kháng chiến.

b.  Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến:

Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối

phó với âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp.

Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong chỉ thị Kháng chiến

kiến quốc, Đảng đã xác định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân

Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ

đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã chỉ đạo kết

hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp

định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.

Ngày 19/10/1946,  Thường  vụ  Trung  ương Đảng  mở  hội  nghị quân sự toàn

quốc  lần  thứ  nhất  do  Tổng  bí  thư  Trường  Chinh  chủ  trì.  Xuất  phát  từ  nhận  định

“không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”,

hội nghị đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả

nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây

giờ (5/11/1946), Hồ Chủ tịch đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi

bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.

Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập

trung trong 3 văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc

kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn quốc kháng chiến của Trung

ương  Đảng  (12/12/1946),  Lời  kêu  gọi  toàn  quốc  kháng  chiến  của  Hồ  Chí  Minh

(19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh.

Nội dung đường lối:

-Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng tháng

Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc

lập”.

-Tính  chất  kháng  chiến:  “Cuộc  kháng  chiến  của  dân  tộc  ta  là  một  cuộc

chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính

chất toàn dân, toàn diện, lâu dài”. “Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do,

độc lập, dân chủ và hòa bình”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc

giải phóng và dân chủ mới.

-Chính sách kháng chiến: “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động

thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do,

hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến…

Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”.

-Chương  trình  và  nhiệm  vụ  kháng  chiến:  “Đoàn  kết  toàn  dân,  thực  hiện

quân, chính, dân nhất trí… Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện

toàn  dân  kháng  chiến,  toàn  diện  kháng  chiến,  trường  kỳ  kháng  chiến.

Giành  quyền  độc  lập,  bảo  tòan  lãnh  thổ,  thống  nhất  Trung,  Nam,  Bắc.

Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ… Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự

túc…”.

-Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,

thực  hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện,  lâu dài, dựa  vào sức  mình là

chính.

-Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng

phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người V.n phải đứng lên

đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng

xóm là một pháo đài.

-Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế,

văn hóa, ngoại giao. Trong đó:

o   Về  chính  trị:  thực  hiện  đoàn  kết  toàn  dân,  tăng  cường  xây  dựng

Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào

và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.

o   Về  quân  sự: Thực  hiện  vũ trang toàn dân,  xây dựng lực  lượng vũ

trang nhân dân, tiêu diệt địch giải phóng nhân dân và đất đai, thực

hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng

chiến lâu dài… Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo

thêm cán bộ.

o   Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc,

tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và

công  nghiệp quốc phòng.

o   Về văn hóa: Xóa bỏ  văn hóa thực dân, phong kiến,  xây dựng nền

văn hóa dân chủ mới theo 3  nguyên tắc: dân tộc, khoa  học  và đại

chúng.

o   Về  ngoại  giao: Thực  hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực  lực.

“Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn

sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.

o   Kháng chiến lâu dài: là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh

của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân

hòa”  của  ta,  chuyển  hóa  tương  quan  lực  lượng  từ  chỗ  ta  yếu  hơn

địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

o   Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt” vì ta bị

bao vây 4 phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh

sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước

song lúc đó cũng không được ỷ lại.

o   Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song

nhất định thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng

đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý

về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất

nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm có tác dụng

đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng

bước đi tới thắng lợi vẻ vang.

Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 – 1950, Đảng đã tập

trung chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự

do lớn, đánh bại cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây

dựng hậu phương, tìm cách chống phá thủ đoạn “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh,

dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên

Giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta

giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.

Đến đầu năm 1951, tình hình thế  giới và cách mạng Đông Dương có nhiều

chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan

hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân 3 nước Đông Dương đã giành được

những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế

quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử

đó đặt ra yêu cầu bổ sunh và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh

đến thắng lợi.

Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương họp Đại hội

đại biểu lần thứ hai tại Tuyên Quang. Đại hội nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của

Ban chấp hành Trung ương do Hồ Chí Minh trình bày và ra nghị quyết tách Đảng

cộng sản Đông Dương thành 3 đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của 3

dân tộc đi tới thắng lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng

lao động Việt Nam.

Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới

chủ nghĩa xã hội do Tổng bí thư Trường Chinh trình bày đã kế thừa và phát triển

đường lối cách mạng trong các cương lĩnh chính trị trước đây của Đảng thành đường

lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó được phản ánh trong Chính

cương của Đảng Lao động Việt Nam. Nội dung cơ bản là:

-Tính chất xã hội: “xã hội Việt Nam hiện nay gồm có 3 tính chất: dân chủ

nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu

tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính

chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải

quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân

Pháp và bọn can thiệp”.

-Đối  tượng  cách  mạng: cách  mạng Việt  Nam có  2  đối tượng: Đối tượng

chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc

Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể

lúc này là phong kiến phản động.

-Nhiệm  vụ  cách  mạng:  “Nhiệm  vụ  cơ  bản  hiện  nay  của  cách  mạng  Việt

Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật

sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm

cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho

chủ  nghĩa  xã  hội.  Ba  nhiệm  vụ đó  khăng  khít  với  nhau.  Song  nhiệm  vụ

chính trước mắt là hòan thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập

trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược”.

-Động lực của cách mạng: gồm “công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị,

tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ)

yêu  nước  và  tiến bộ.  Những  giai cấp,  tầng  lớp  và  phần tử đó  họp  thành

nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức”.

-Đặc điểm cách mạng: “Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân

dân lao động làm động lực, công nông và lao động trí thức làm nền tảng và

giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng đó không phải là cách

mạng dân chủ tư sản lối cũ cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa

mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng

xã hội chủ nghĩa”.

-Triển  vọng  của  cách  mạng: “cách  mạng  dân tộc  dân chủ  nhân dân Việt

Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội”.

-Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Đó là một con đường đấu tranh lâu

dài, đại thể trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là

hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa

bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người

cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai

đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội,

tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau,

mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau”.

-Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: “Người lãnh đạo cách mạng là

giai cấp công nhân”. “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công

nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển

chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để

thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và

tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam”.

-Chính sách của Đảng: Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân

chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng

chiến đến thắng lợi2.

- Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hòa bình và dân chủ, phải tranh thủ

sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc,

Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt – Trung – Xô và đoàn kết Việt – Miên – Lào.

Đường lối, chính sách của Đại hội đã được bổ sung, phát triển qua các hội

nghị Trung ương tiếp theo.

Tại hội nghị lần thứ nhất (3/1951), Đảng đã phân tích tình  hình quốc tế  và

trong nước, nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến

tranh, “củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân

quân du kích”; “gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính”, “thực hiện việc khuyến

khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và góp vốn của tư nhân để phát triển công

thương nghiệp”, “tích cực tham gia phong trào bảo vệ hòa bình thế giới”, “củng cố

Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức”.

2. 15 chính sách gồm: kháng chiến, chính quyền nhân dân, mặt trận dân tộc thống nhất, văn hóa giáo dục, đối với tôn

giáo, chính sách dân tộc, đối với vùng bị tạm chiếm, ngoại giao, đối với Miên Lào, đối với ngoại kiều, đấu tranh cho

hòa bình và dân chủ thế giới, thi đua ái quốc.

Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ hai (họp từ ngày 27/9 – 5/10/1951)

đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt 3 nhiệm

vụ lớn là “ra sức tiêu diệt sinh lực của địch, tiến tới giành ưu thế quân sự”; “ra sức

phá âm mưu thâm độc của địch: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt

đánh người  Việt”, đẩy mạnh kháng chiến ở vùng bị tạm chiếm; “củng cố và phát

triển sức kháng chiến của toàn quốc, toàn dân, củng cố và phát triển đoàn kết”.

Tại hội nghị Trung ương lần thứ 4 (1/1953), vấn đề cách mạng ruộng đất được

Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô,

chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng: muốn kháng chiến hoàn toàn

thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi

kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.

Đến  hội  nghị  Trung  ương  lần  thứ  5(11/1953),  Đảng  quyết  định  phát  động

quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. “Cải

cách  ruộng  đất  để  đảm  bảo  cho  kháng  chiến  thắng  lợi”.  “Cải  cách  ruộng  đất  là

chính sách chung của cả nước nhưng phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì

làm trước nơi thì làm sau”. “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân,

một cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên

chuẩn  bị  phải  thật  đầy  đủ,  kế  hoạch  phải  thật  rõ  ràng,  lãnh  đạo  phải  thật  chặt

chẽ…”.

Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân,

tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thực hiện trên thực tế trong giai đoạn 1951

– 1954.

3.  Kết  quả,  ý  nghĩa  lịch  sử,  nguyên  nhân  thắng  lợi  và  bài  học  kinh

nghiệm:

a. Kết quả và ý nghĩa lịch sử:

Kết quả của việc thực hiện đường lối:

-Về  chính  trị: Đảng ra  hoạt  động công khai đã  có  điều kiện kiện toàn tổ

chức, tăng cường sự lãnh đạo của đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính

quyền 5 cấp được củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên

Việt) được thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước

mới. Chính sách ruộng đất được triển khai, từng bước thực hiện khẩu hiệu

người cày có ruộng.

-Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có 6 đại đoàn bộ

binh,  1  đại  đoàn  côngbinh  –  pháo  binh3.  Thắng  lợi  của  các  chiến  dịch

Trung   Du,   Đường   18,   Hà-Nam-Ninh,   Hòa   Bình,   Tây   Bắc,   Thượng

Lào.v.v… đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất

đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và cho cách mạng

Lào.v.v… Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi vào lịch sử

3. 6 đại đoàn bộ binh là: 308, 304, 312, 320, 325 và 1 đại đoàn công – pháo binh là 351. Bộ đội tập trung năm

1953 lên đến 33 vạn người.

-dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế

kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu

sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa

thực dân.

-Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và

ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta thì

ngày 27/12/1953, Ban Bí thư ra thông tư nêu rõ: “lập trường của nhân dân

Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân

dân  và  Chính  phủ  ta  cũng  tán  thành  thương  lượng  nhằm  mục  đích  giải

quyết  hòa  bình  vấn  đề  Việt  Nam”.  Ngày  8/5/1954,  Hội  nghị  quốc  tế  về

chấm dứt chiến tranh Đông Dương chính thức khai mạc ở Genéve (Thụy

Sỹ).  Ngày  21/7/1954,  các  văn  bản  của  Hiệp  nghị  Genéve  về  chấm  dứt

chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta kết thúc thắng lợi.

-Ý nghĩa lịch sử:

o   Đối với nước ta: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng

chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến

tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức

độ  cao,  buộc  chúng  phải  công  nhận  độc  lập,  chủ  quyền,  toàn  vẹn

lãnh  thổ  của  các  nước  Đông Dương;  đã  làm thất  bại âm  mưu  mở

rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh,

lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo

điều  kiện để  miền  Bắc  tiến  lên chủ  nghĩa  xã  hội  làm căn cứ,  hậu

thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân

tộc cho  nhân dân ta  và  nâng cao  uy tín của Việt Nam trên trường

quốc tế.

o   Đối với quốc tế: Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên

thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội

và cách mạng thế giới cùng với nhân dân Làovà Campuchia đập tan

ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ

thống thuộc địa của thực dân Pháp.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm

lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu

đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân

dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ

và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”.

b. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm:

Nguyên nhân thắng lợi:

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kết

quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là:

44 

-Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, với đường lối kháng chiến đúng đắn

đã huy động được sức mạnh toàn dân đánh giặc. Có sự đoàn kết chiến đấu

của toàn dân tâp hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi - Mặt trận

Liên Việt, được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông và trí

thức vững chắc.

-Có lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân do Đảng trực tiếp lãnh đạo ngày

càng vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí, là lực lượng quyết

định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải

phóng đất đai của Tổ quốc.

-Có  chính quyền dân chủ  nhân dân,  của  dân,  do  dân và  vì dân được  giữ

vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng

chiến và xây dựng chế độ mới.

-Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa 3 dân tộc Việt Nam, Lào,

Campuchia cùng chống 1 kẻ thù chung. Đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to

lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc yêu

chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.

Bài học kinh nghiệm:

Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến kiến quốc, Đảng đã tích

lũy được nhiều kinh nghiệm quan trọng.

Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho

toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực  hiện. Đó là đường lối chiến tranh  nhân dân;

kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ

chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ

nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế quốc, giải phóng dân

tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới,

xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng yêu

cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Thứ tư, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài. Đồng

thời tích cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ

thuật  quân sự sáng tạo,  kết  hợp  đấu tranh quân sự  với đấu tranh  ngoại  giao,  đưa

kháng chiến đến thắng lợi.

Thứ  năm,  tăng cường công tác  xây dựng  Đảng,  nâng cao  sức  chiến đấu và

hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: