Đường lối có cô góp ý

Câu 1) cơ sở của những chuyển biến về kinh tế-chính trị-văn hóa-xã hội Việt

è Hoàn cảnh thế giới và VN

Câu 2) vai trò của lãnh tụ nguyễn ái quốc đối với sự ra đời của Đảng?

è Vai trò của nguyễn ái quốc (Tìm đường cứu nước, công tác chuẩn bị...)

Câu 3) Tính đúng đắn, sáng tạo của cương lĩnh chính trị đầu tiên.

è Phân tích nội dung cương lĩnh.

Câu 4) Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ tháng 10-1930 đến tháng 5-1941,

è Luận cương chính trị tháng 10, 3 hội nghị 6-7-8 của Đảng.

Câu 5) Nghệ thuật tạo dựng thời cơ (từ 1939 đến 1945) và chớp thời cơ trong cách mạng tháng 8-1945 của Đảng.

è Nghệ thuật qua trình chuẩn bị (căn cứ địa, tư tưởng, đón trước...), chọn đúng thời cơ "sau khi Nhật hàng, trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương"

Câu 6) Cơ sở hình thành và nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954.

è Hoàn cảnh lịch sử, nội dung kháng chiến.

Câu 7) Tính đúng đắn, sáng tạo, độc đáo của việc thực hiện đồng thời 2 chiến lược cách mạng ở hai miền giai đoạn 1954-1975.

è Hoàn cảnh lịch sử 1954-1975 (miền bắc hòa bình đi lên CNXH, miền nam tiếp tục đấu tranh) 2 miền hai nhiệm vụ khác nhau nhưng lại cùng một mục tiêu,...thắng lợi trong 21 năm.

Câu 8) Đảng kế thừa và đổi mới tư duy công nghiệp hóa như thế nào?

è Trước đổi mới (Đặc trưng, phương hướng...)

Câu 9) Cơ sở để xây dựng nội dung định hướng CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.

è Điều kiện quốc tế và trong nước, yêu cầu của Việt Nam hiện nay.

Câu 10) Vì sao mô hình kinh tế nước ta là mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN?

è Ưu, nhược điểm của kinh tế thị trường à phải định hướng XHCN để khắc phục nhược, phát huy ưu.

Câu 11) Quá trình đổi mới tư duy về hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

è Đổi mới tư duy hệ thống chính trị.

Câu 12) Tại sao nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển....

è Bài văn hóa tinh thần, lấy thêm ví dụ minh họa.

Câu 13) Từ những thành tựu đã đạt được chứng minh chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội là đúng đắn và kịp thời.

è Đúng như thế nào? - Xã hội, y tế (bảo hiểm)

-    Chăm sóc sức khỏe

-    Giáo dục phổ cập.

Câu 14) Đường lối đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ đổi mới và thành tựu.

è Khái quát đã tham gia những tổ chức kinh tế - chính trị nào?

Câu 15) Những thành tựu của cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng.

è Từ 1930.... 3 ý nghĩa lớn có ý nghĩa quan trọng

+ CMT8 (ý nghĩa à sự ra đời của nhà nước VNDCCH)

+ Giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ.

+ Những thành tựu bước đầu trong công cược đổi mới (chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội y tế-giáo dục...) đối ngoại (ngoại giao).

Các câu hỏi bổ sung..

Câu 16) So sánh cương lĩnh chính trị đầu tiên và luận cương chính trị tháng 10-1930.

 

Câu 17) Làm rõ tình thế ngàn cân treo sợi tóc của CMVN sau CMT8 -1948 và chủ trương của Đảng từng bước đưa cách mạng Việt Nam thoát khỏi tình thế đó.

è Hoàn cảnh thế giới, Việt Nam sau CMT8 + khó khăn (trọng tâm) + thuận lợi

Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (ý nghĩa của chỉ thị).

Câu 18)             "Chín năm làm một Điện Biên,

                   Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng."

        Bằng lý luận và thực tiễn anh (chị) hãy làm rõ quan niện trên.

è + lý luận: đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1950, 1951-1954.

+ thực tiễn, 3 thắng lợi kháng chiến

-    Việt Bắc thu đông 1947

-    Chiến thắng biên giới 1950

-    Điện Biên Phủ 1954.

Câu 19) Sự lãnh đạo của Đảng ta trong các giai đoạn CM miền Nam.

è + 1954-1960: nghị quyết TW15,phong trào Đồng Khởi

+ 1961-1965 Chống chiến tranh đặc biệt à chiến thắng Ấp Bắc

+ 1965-1968: Nghị quyết TW 11,12 à chiến thắng mậu thân 1968.

+ 1969-1975: Chống "Việt Nam hóa chiến tranh" à chiến thắng 30-4-1975.

Câu 20) So sánh, chỉ ra sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm vô sản và phi vô sản trong phong trào yêu nước VN cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.

è 6 nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên.

Câu 1) Cơ sở dẫn đến những chuyển biến kinh tế, chính trị,  văn hóa - xã hội ở Việt Nam. Mâu thuẫn xã hội thuộc địa, nửa phong kiến?

   Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc.

     Chủ  nghĩa đế quốc xuất khẩu tư bản, đầu tư khai thác thuộc địa đem lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc, trước hết là tư bản lũng đoạn; làm cho quan hệ xã hội của các nước thuộc địa biến đổi một cách căn bản. Các nước thuộc địa bị lôi cuốn vào con đường tư bản thực dân. Sự áp bức và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa thực dân càng gay gắt, sự phản ứng dân tộc của nhân dân các thuộc địa càng quyết liệt. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải phóng khỏi ách thực dân, lập lại các quốc gia dân tộc độc lập trên thế giới chịu tác động sâu sắc của chính sách xâm lược, thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân.

     Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Ngày 1-9-1858 thực dân Pháp nổ súng tiến vào Đà nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Đến năm 1884, với việc ký Hiệp ước Patơnốt, triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp. Với tư cách là một nước phong kiến độc lập đã hoàn toàn sụp đổ, từ đây xã hội Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

    

     Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam. Bắt đầu là cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929) ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.

     Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự biến đổi.

     Về kinh tế: Một mặt thực dân Pháp khuyến khích, tạo cơ hội cho bọn quan lại, địa chủ cướp ruộng đất của nông dân; mặt khác, chúng cũng ra sức chiếm đoạt ruộng đất của nông dân để lập đồn điền trồng lúa, trồng cây công nghiệp. Quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.

     Về chính trị: Thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ  Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ với mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng (Nam Kỳ là chế đọ thuộc địa, Bắc Kỳ và Trung ồy là chế độ bảo hộ) và nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.

     Về văn hóa: Chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, bưng bít ngăn cản văn hoá tiến bộ trên thế giới du nhập vào Việt Nam, gây tâm lý tự ti dân tộc; chúng tuyên truyền văn hoá thực dân vong bản nhằm thủ tiêu tinh thần yêu nước và và nền văn hoá dân tộc của Việt Nam. Đồng thời, chúng đẩy mạnh tuyên truyền ca ngợi chính sách "khai hoá" của nhà nước "bảo hộ", du nhập văn hoá đồi phong bại tục; khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè, nghiện hút... Thực dân Pháp hạn chế đến mức tối đa việc phát triển giáo dục, chúng thi hành chính sách ngu dân, kìm hãm nhân dân Việt Nam trong vòng ngu dốt để dễ bề cai trị; lập nhà tù nhiều hơn trường học. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán.  

Về xã hội: Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn, xã hội Việt Nam bên cạnh những giai cấp cũ vốn có là giai cấp địa chủ phong kiến và nông dân còn xuất hiện những giai cấp mới : giai cấp nông dân, giai cấp tư sản và giai cấp tiểu tư sản.

      Giai cấp địa chủ phong kiến: Đã tồn tại hơn ngàn năm, vốn là giai cấp thống trị được Pháp sử dụng làm tay sai. Tuy nhiên do chính sách KT và chính trị phản động của TDP mà giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hóa thành 3 bộ phận : đại địa chủ, trung địa chủ và tiểu địa chủ. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế, nên một bộ phận không nhỏ là tiểu và trung địa chủ có mâu thuẫn với thực dân Pháp về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phản động tay sai.

     Giai cấp nông dân: Chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề; ruộng đất bị bọn tư bản thực dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng, chế độ cho vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa không lối thoát. Là lực lượng yêu nước đông đảo nhưng đại diện cho nền sản xuất nhỏ, phân tán nên nông dân không tự vạch ra đường lối giải phóng mình và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.

 Giai cấp công nhân: Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển nhanh chóng về số lượng từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên hơn 22 vạn (năm 1929), chiếm 1,2% dân số. Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, đồng thời còn có những điểm riêng của mình như: chịu ba tầng áp bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản); phần lớn xuất thân từ nông dân, nên có mối quan hệ gần gũi với nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, sống ở một đất nước có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình và sẽ trở thành người lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam.

Giai cấp tư sản: Gồm tư sản mại bản (hợp tác và gắn liền với tư bản Pháp) và tư sản dân tộc. Hình thành sau chiến tranh thế giới thứ nhất, trong điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên tư sản dân tộc Việt Nam không thể phát triển. Do hình thành muộn, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối nên tuy có tinh thần yêu nước chống phong kiến, đế quốc nhưng tư sản dân tộc Việt Nam không có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chỉ tham gia trong điều kiện nhất định.

 Giai cấp tiểu tư sản: Ra đời và phát triển nhanh trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (bao gồm tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do). Giữa những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng bị tư bản Pháp chèn ép, bạc đãi nên địa vị kinh tế của họ đều rất bấp bênh, luôn luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp. Họ có tinh thần yêu nước nồng nàn; đặc biệt là tầng lớp trí thức, sinh viên là tầng lớp rất nhạy cảm với thời cuộc, có điều kiện tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ bên ngoài nên rất hăng hái tham gia cách mạng và đóng vai trò là lực lượng quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô thị.

Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời hai giai cấp mới là công nhântư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này dều mang thân phận của người dân mất nước, và ở những mức độ khác nhau đều do thực dân Pháp áp bức bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến, nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Hai mâu thuẫn này có quan hệ mật thiết, đan xen và quy định lẫn nhau. Hai mâu thuẫn cơ bản này xuất hiện trong lòng xã hội Việt Nam , nếu giải quyết đúng đắn hai mâu thuẫn này tạo ra một xã hội hoàn toàn mới, tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam phát triển. Do đó ta nói việc giải quyết những mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nằm ngay trong lòng xã hội ấy.

            Chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông Dương nói chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, giáo dục, chứ không phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hoá văn minh" - một sự khai hoá và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của "sứ mạng khai hoá" đó chính là sự khai thác thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém, v.v.. Hồ Chí Minh từng nói về "nhà khai hoá" như sau: "Khi người ta đã là một nhà khai hoá thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn minh nhất". Và nếu dân bản xứ không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các nhà khai hoá "điều quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến, người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy! Công cuộc khai hoá nhân từ là như thế đấy!" 

-----hết-----

LƯU Ý: Tầng lớp tiểu tư sản, chứ không phải giai cấp tiểu tư sản; bổ sung thêm tính chất XHVN đã chuyển từ phong kiến sang thuộc địa nửa phong kiến.

 

Câu 2) Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng.

Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890 (tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi thành Nguyễn Tất Thành) ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên trên quê hương có truyền thống đánh giặc ngoại xâm, từ nhỏ đã có chí đuổi giặc Pháp, giải phóng đồng bào. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng không tán thành con đường yêu nươvs của các cụ.

Ngày 5-6- 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)... nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó, Người khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước thuộc địa nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng. Người đặc biệt quan tâm tìm hiểu cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Người rút ra kết luận: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật sự". và  "Ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn ác, ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man".

Cuối năm 1917, Người từ nước Anh trở lại Pháp và tham gia các hoạt động xã hội. Năm 1919, Người tham gia Đảng xã hội Pháp, một chính Đảng tiến bộ nhất lúc đó tại Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị Vécxây (versailles), Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới hội nghị Bản yêu sách của nhân dân An Nam, gồm 8 điểm đòi chính phủ Pháp thực hiện quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.Vào tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng xã hội Pháp. Người tìm thấy trong Luận cương của Lênin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam; về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.

Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tours (12/1920), Người đã bỏ phiếu tán thành việc Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế III và trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặc trong cuộc đời họat động cách mạng của Người - từ một thanh niên yêu nước trở thành 1 chiến sĩ cộng sản và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Người tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản".

Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch ra phương hướng, chiến lược nhằm chuẩn bị tiền đệ về tư tưởng, chính tụ và tổ chức cho sự ra đời của chính Đảng tiên phong ở Việt Nam.

Về tư tưởng: với tư cách là tiểu ban Đông Dương của Đảng Công sản Pháp, người đã viết nhiều bại đăng trên các báo và tạp chí (Người cùng khổ (le Paria), Nhân đạo (L'Humanite), Đời sống công nhân và xuất bản các tác phẩm, đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925)). Góp phần quan trọng trong việc vạch rõ âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc che dấu tội ác dưới cái vỏ bọc "khai hóa văn minh", Đồng thời tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn chặt giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuốc.

Từ ngày 17-6 đến 18-7-1924, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia Đại hội lần thứ V của Quốc tế cộng sản tại Mátxcơva (Liên Xô). Tại đại hội này người đã trình bày bản báo cáo rất quan trọng về vấn đầ dân tộc và thuộc địa. Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) kết hợp nhiệm vụ quốc tế và trách nhiệm đối với dân tộc. Bằng nhiều con đường, Người truyền bá lý luận Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là sự chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho quá trình thành lập Đảng.

Về chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống lý luận chính trị (sau này phát triển thành những nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị của Đảng).

Thứ nhất, chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân (CNTD). Xác định CNTD là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, các giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.

Thứ hai, xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. cách mạng dân tộc tại các nước thuộc địa và cách mạng chính quốc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giir phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phân thúc đẩy cách mạng chính quốc.

Thứ ba, trang nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, cần phải xây dựng được khối công nông làm động lực cách mạng, đồng thời tập hợp được sự tham gia đông đảo của các giai cấp tầng lớp khác.

Thứ tư, cách mạng muốn giành được thắng lợi trước hết phải có Đảng cách mạng nắm vai trò lành đạo. Đảng muốn giữ vững phải được trang bị chủ nghĩa Mác-Lênin.

Thứ năm, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, không pahir của một vài người: "công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ...là bầu bại của cách mệnh công nông. Cách mạng "là việc chung cả dên chúng chứ không pahir việc một hai người". Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.

Những quan điểm này được Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên truyền bá về trong nước dưới nhiều hình thức, làm cho phong trào công nhân  và phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ.

Về tổ chức: ngay từ giữa năm 1923 , trước khi rời nước Pháp sang Liên Xô, trong một bức thư giửu cho các bạn cùng hoạt động Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ ý định của mình "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ rang: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ đấu tranh giành tự do độc lập.

Tại Quảng Châu (Trung Quốc) nơi đay có rất nhiều người Việt yêu nước đang hoạt động để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập chính Đảng mácxít. Với trách nhiệm phụ trách cục Phương Nam của Quốc tế Cộng sản Nguyễn Ái Quốc lấy tên Lý Thụy, công tác trong phái đoàn cố vấn chính phủ Liên Xô bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên do Bôrôđin làm trưởng đoàn. Tháng 2-1925 người đã lựa chọn một số thanh niên ưu tú trong Tâm tân xã lập ra nhóm cộng sản đoàn.  Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Sau khi thành lập, từ năm 1925-1927 Hội đã mở trên 10 lớp đào tạo bòi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin cho những người trong tổ chức của hội với hơn 75 cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng trở thành những cán bộ nòng cốt cho việc thành lập Đảng cách mạng sau này. Hội còn xuất bản tờ báo Thanh niên in bằng chữ quốc ngữ, ra số đầu tiên ngày 21-6-1925. Tháng 7 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia...tham gia sang lập "Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông".

Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ ở Quảng Châu được tập hợp trong cuốn "Đường Kách Mệnh" và những hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã có ảnh hưởng và thúc đâye mạnh mẽ sự phát triển của phong trào công nhân, phong trào yêu nước, đưa chủ nghĩa Mác-Lênin và tôn chỉ, mục đích đấu tranh của hội vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

Từ năm 1928, phong trào "Vô sản hóa" của hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã giác ngô sâu sắc phong trào cách mạng của công nhân Việt Nam. Đến năm 1929 các hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên nhận thấy sự cần thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản thay thế Hội Việt Nam cách mạng thanh niên để đưa cách mạng đi đến thắng lợi.

Như vậy, từ năm 1921 đến 1929 bằng nhiều hình thức hoạt động phong phú, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành cuộc đấu tranh kiên trì, gian khổ nhằm truyền bá những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đặc biệt, Người tiếp tục đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ từ việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925), tổ chức tiền than của Đảng tại Quảng Châu (Trung Quốc). Đó là sự sang tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức để dẫn đến việc thành lập chính Đảng Cộng sản trong hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến.

-----hết-----

LƯU Ý: Trình bày ngắn gọn quá trình tìm đường cứu nước của Bác (1911-1920); tập trung trình bày quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng (1920-1930)-phần này e tham khảo trong cuốn ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG.

Câu 3) Phân tích tính đúng đắn, sáng tạo của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Hội nghị hợp nhất thành lập dảng thông qua Chánh cương vắn tắc, Sách lược vắn tắc, chương trình tóm tắc của Đảng, hợp thành cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng có tính đúng đắng, sáng tạo.

Về phương hướng chiến lược:Từ việc phân tích một cách khách quan tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, Cương lĩnh đã vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam: "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản". Tính chất giai đoạn và lý luận cách mạng đã được thể hiện trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng: Cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiến lên cách mạng XHCN. Đây là con đường cứu nước mới, khác với những chủ trương, những con đường cứu nước của những nhà yêu nước đương thời đã đi vào bế tắc và thất bại. Đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam được phản ánh trong cương lĩnh đã thể hiện được tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Việc xác định đúng đắn phương hướng và con đường của cách mạng Việt Nam ngay từ đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là ngọn cờ tập hợp lực lượng cách mạng, là cơ sở để giải quyết đúng đắn các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.

Ngay từ đầy Đảng đã nhận thức rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là kết hợp và dương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là điều hoàn toàn đúng đắn vì nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể nước ta. Đồng thời chúng ta cũng thấy rõ sự vận dụng sáng tạo và hợp lý lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Về nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của Cách mạng Tư sản Dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân). Cách mạng dân tộc dân chủ có nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng dây là hai nhiệm vụ cơ bản. Xuất phát từ đặc điểm của chế độ thực dân nửa phong kiến, cương lĩnh đã phân tích mối liên hệ gắn bó của hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống phong kiến có gắn bó mật thiết với nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc chủ nghĩa "làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập".

Cương lĩnh đã giải quyết đúng hai mâu thuẩn cơ bản của xã hội Việt Nam và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Mâu thuẩn chủ yếu của cách mạng nước ta lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược; mâu thuẫn giưa nông dân với địa chủ phong kiến. Cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi phải giả quyết thành công hai mâu thuẫn đó, nghĩa là phải hoàn thành hai nhiệm vụ mà cương lĩnh đề ra.

Về lực lượng cách mạng: Cương lĩnh chỉ ra rằng, phải đoàn kết tất cả các gia cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đồng thời cương lĩnh cũng đã chỉ ra lực lượng chính, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam là: "Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được"; đây là sự thể hiện tính nguyên tắc trong chính sách đại đoàn kết dân tộc và sự sắp xếp, tổ chức lực lượng cách mạng của Đảng ta.Việc tập hợp lực lượng rộng rãi cũng như xác định được động lực chủ yếu, cơ bản của sư nghiệp cách mạng phản ánh sự mền dẻo và linh hoạt trong chiến lược đại đoàn kết của Đảng.

Ngoài công nhân và nông dân là hai lực lương chính của cách mạng, cương lĩnh chủ trương phải tranh thủ các lực lượng khác; tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trung tiểu địa chủ các loại. Điều đó hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Vì các giai cấp khác ngoài công nhân và nông dân, có một bộ phận khác có tinh thần yêu nước. Vì thế, cần phải tranh thủ kéo họ về phía cách mạng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc của cương lĩnh, đều hoàn toàn hợp lí và đúng đắn.

Về phương Pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đáng đổ đế quốc phong kiến. Việc nêu lên phương Pháp cách mạng bạo lực để thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác-Lênin. Con đường phát triển của cách mạng chứ không phải cải cách thỏa hiệp.

Về lãnh đạo cách mạng: gia cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phỉa thu phục được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.

Cương lĩnh đã xác định đúng đắn vai trò lãnh dạo của Đảng đối với cách mạng. Để thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng cương lĩnh khẳng định; Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp: cách mạng muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một chính Đảng của giai cấp công nhân.

Về vấn đề đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh nêu rõ: "trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bại áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp". Đồng thời cương lĩnh cũng xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Đề cao vấn đề đoàn kết quốc tế chính là sự thể hiện việc kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để giải phóng khỏ áp bức, bất công trên thế giới.

Ngày nay tính đúng đắn sáng tạo của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn còn thể hiện rất rõ nét.

Trước hết cương lĩnh khẳng định tính chất của cách mạng Việt Nam là cách mạng "tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới cách mạng XHCN". Nước ta hiện nay đang quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội , tức là đã hoàn thành nhiệm vụ tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất, vì vậy nhiệm vị hàng đầu hiện nay là xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, tiếp tục kiên trì con đường đi lên CNXH, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XNCH tức là không thay đổi chiến lược, không xa rời nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin mà làm cho nhiệm vị ấy thục hiện có hiệu quả, vận động theo tiến trình của lịch sử dân tộc.

Cương lĩnh khẳng định lực lượng cách mạng là công nhân, nông nhân, tiểu tư sản, tri thức. Đối với phú nông, trung nông hoặc tư sản thì phải lôi kéo lợi dụng họ hoặc ít nhất làm cho họ trung lập. điều nàu đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại ngày nay, bên cạnh liên minh công nông làm nền tảng chúng ta cần phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết của cả dân tộc điều này cũng có nghĩa là phải nâng cao dần trình độ của công -nông thời đại mới để họ làm chủ tư liệu sản xuất phát triển đội ngũ tri thức học sinh sinh viên bởi đây là nguồn lực để phát minh cũng như tiếp thu những thành tự văn minh nhân loại thời đại mới.

Cương lĩnh khẳng định Đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp vô sản giữ vai trò lành dạo. Điều này có vai trò quan trọng trong việc chống âm mưu "diễn biến hòa bình" tronh bối cảnh tình hình thế gới còn nhiều phức tạp với các cuộc bạo loạn lật đổ, đảo chính. Kiên trì siuwj lãnh đạo của một Đảng lãnh đạo chính là tuân thủ nghiêm ngặt nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới.

Cương lĩnh còn khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. vì vậy, phải đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đay cũng chính là cơ sở để sau này để Đảng ta thừa kế và phát huy "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới trong thời đại mới, bên cạch đó chúng ta tích cực hội nhập thế giới, góp phần tiếng nói của mình trong phong trào cách mạng thế giới, đoàn kết tương trợ trên tinh thần tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, dáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại.

Sự đúng đắn, sáng tạo của cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta trong gần 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

-----hết-----

 

LƯU Ý: Bổ sung hoàn cảnh lịch sử và nội dung của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (HN thành lập Đảng) và vai trò của lãnh tụ NAQ trong HN thành lập Đảng.

Câu 4) Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ tháng 10-1930 đến tháng 5-1941.

Quá trình nhận thức và phát triển đường lối cách mạng của Đảng từ tháng 10-1930 đến tháng 5-1941 được chia làm hai giai đoạn: 1930-1935 (với cương lĩnh chính trị) và 1936-1941 (với hội nghị 6,7,8).

Trong giai đoạn 1930-1935: Sau hội nghị thanh lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ Đảng được bí mật đưa vào phong trào cách mạng của quần chúng, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ và tiến dần lên cao trào.Ban chấp hành trung ương lâm thời của Đảng vừa thành lập đã bước ngay vào một cuộc thử thách toàn diện trên cương vị đội tiền phong lảnh đạo cuộc đấu tranh mới của dân tộc

Tháng 4-1930,đồng chí Trần Phú từ Mát xcơ va về nước,đồng chí được bầu bổ sung vào Ban chấp hành trung ương lâm thời và được phân công cùng Ban thường vụ chuẩn bị soạn thảo luận cương chính trình hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng (BCHTW).

 Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng được tiến hành từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng Sản Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương. Thông qua "luận cương chính trị" của Đảng, bầu ra BCHTW chính thức gồm 7 ủy viên, đồng chí Trần Phú làm tổng bí thư.

 Luận cương đã phân tích đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Về mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương: Một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa. Tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thuộc địa và phản đế sau đó phát triển bỏ qua thời kì tư bản tiến lên thẳng con đường xã hội chủ nghĩa.

  Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: Đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được giai cấp địa chủ, để tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi, và có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Trong 2 nhiệm vụ này, Luận cương xác định "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền" và là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.

Về lực lượng cách mạng: Luận cương chỉ rõ, giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền vừa là giai cấp lãnh đạo cách cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.

Về phương Pháp cách mạng: Luận cương chỉ rõ, để đạt được mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường "võ trang bạo động". Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, "phải tuân theo khuôn phép nhà binh".

Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Luận cương khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên hệ với quần chúng và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương, đấu tranh để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: luận cương khẳng định, cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương.

         Sau khi đã nhận thức rõ tình hình thực tế cũng như con đường cách mạng của dân tộc, thì Đảng đã phát triển thành những chủ trương đường lối thực hiện chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.

Ngay từ khi mới ra đời Đảng đã đề ra nhiệm vụ cho cách mạng tư sẳn dân quyền ở nước ta là; đánh đuổi bọn đế quốc Pháp và bọn phong kiến cùng giai cấp tư sản cách mạng làm cho nước Việt Nam dân giàu nước mạnh. Hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến quan hệ khăn khít với nhau.

 

Đường lối của Đảng trong giai đoạn 1939-1941 được thể hiện trõ các hội nghị 6, 7, 8.

Trước những biến chuyển mới của tình hình thế giới và trong nước, khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng đã chỉ đạo các lực lượng cách mạng kịp thời rút vào bí mật. Tháng 11-1939, Đảng họp Hội nghị trung ương lần thứ 6. Phân tích tình hình, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, phân tích chính sách của thực dân Pháp và nhận định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp; chúng đang đẩy mạnh và đàn áp cách mạng, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân, mâu thuẩn dân tộc đang nổi lên hàng đầu, yêu cầu cứu nước, giải phóng dân tộc được đặt ra cấp thiết. Vì vậy Đảng đề ra chủ trương:

Đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên làm nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách của cách mạng Đông Dương.

Tạm gác khẩu hiệu "cách mạng ruộng đất" để phân hoá giai cấp địa chủ yêu nước đi với CM. Hội nghị chủ trương chỉ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn Việt gian phản động làm của công hoặc tạm giao cho dân cày nghèo cày cấy. Như vậy, nhiệm vụ dân chủ vẫn thực hiện nhưng chỉ được tiến hành từng bước để phục vụ cho nhiệm vụ dân tộc.

Xúc tiến chuẩn bị mọi mặt để tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang khi có thời cơ.

Tập hợp lực lượng yêu nước ở Đông Dương để thành lập mặt trận chung lấy tên là: "Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương" thay cho "Mặt trận dân chủ".

Phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh với nhiều hình thức để thực hiện nhiệm vụ cứu nước giải phóng dân tộc.

Nghị quyết 6 của Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương đúng chuyển hướng cơ bản về chỉ đạo chiến lược và phương Pháp CM của Đảng.

Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Hội nghị Trung ương 6 là đúng đắn, quyết định phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và đình chỉ cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ, nhấn mạnh nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến là "hai bộ phận khăng khít của CM tư sản dân quyền"

Mùa thu 1940, phát xít Nhật vào Đông Dương, mâu thuẫn dân tộc ngày càng thêm gay gắt. Trong tình hình ấy, Nguyễn Ái Quốc về nước (2-1941). Người triệu tập và chủ trì Hội nghị  Trung ương lần thứ 8 (từ ngày 10 đến 19-5/1941) tại Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị đã phân tích tình hình thế giới và trong nước và đến chủ trương:

Tán thành nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên nhiệm vụ hàng đầu. Xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là phát xít Pháp - Nhật và tay sai.

Tạm gác khẩu hiệu "ruộng đất dân cày", chỉ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn Việt gian phản động, chia lại ruộng đất, giảm địa tô.

Xúc tiến chuẩn bị mọi mặt để tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang khi có điều kiện. Hội nghị còn nhấn mạnh rằng, việc tiến hành khởi nghĩa vũ trang phải chuẩn bị lâu dài, phải đấu tranh từ hình thức đến hình thức cao, phải kịp thời phát động quần chúng đứng lên tiến hành khởi nghĩa khi có tình thế CM. Hội nghị dự kiến tình thế CM sẽ xuất hiện, khi phong trào chống Nhật ở Trung Quốc phát triển mạnh có ảnh hưởng tới CM Việt Nam, hoặc khi quân đồng minh đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật. Lúc bấy giờ với một lực lượng đã được chuẩn bị có thể đúng lên phát động quần chúng đứng lên tiến hành cuộc khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, để rồi tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Hội nghị nhấn mạnh phải coi việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là một nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân ta lúc này.

Phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh dưói nhiều hình thức phù hợp với tình hình mới.

Ngoài ra, Hội nghị còn chỉ rõ phải tổ chức việc lãnh đạo cách mạng trong phạm vi từng nước, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước ở Đông Dương. Vì vậy, cần thành lập một mặt trận dân tộc riêng ở mỗi nước: "Ai - Lao độc lập đồng minh hội" ở Lào, "Khơ Me độc lập đồng minh hội ở Campuchia. Ở Việt Nam, mọi lực lượng yêu nước tập hợp trong "Việt Nam độc lập đồng minh hội" (gọi tắt là Việt Minh). Chủ trên trên vừa chống xuyên tạc của kẻ thù về "Liên bang Đông Dương", vừa làm cho mỗi dân tộc ở Đông Dương thấy hết trách nhiệm của mình trong việc đứng lên tự giải phóng, khong ỷ lại, trông chờ vào người khác. Tuy nhiên cách mạng của các nước anh em trên bán đảo Đông Dương vẫn có mối liên quan mật thiết và ủng hộ lẫn nhau.

Nghị quyết của hội nghị trung ương lần thứ 8 (1941) đánh dấu một bước tiến so với nghị quyết 6, vì đã hoàn chỉnh được chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cho cách. Nghị quyết đã có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của CMT8 ở Việt Nam và ghi nhận sự đóng góp của Nguyễn Ái Quốc trong buổi đầu về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng trong nước.

-----hết-----

LƯU Ý: Còn thiếu CHỦ TRƯƠNG VÀ NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG THỜI KỲ 1936-1939

 

Câu 5) Nghệ thuật tạo dựng thời cơ (từ năm 1939 đến 1945) và chớp thời cơ trong cách mạng tháng 8-1945 của Đảng.

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Pháp lao vào vòng chiến, chính phủ Pháp thi hành biện Pháp đàn áp lực lượng dân chủ nhân dân trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa. Tháng 6-1940 Đức tấn công Pháp, chính phủ Pháp dầu hàng Đức. Ngày 22-6-1941 quân phát xít Đức tiến công Liên Xô.

Chiến tranh thế giới thứ hai ã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Lợi dụng Pháp thua Đức. Ngày 22.9.1940, Nhật tiến công vào nước ta, ngày 23-9-1940 Pháp đầu hàng Nhật. Từ đó dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng. Mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc phát xít Nhật-Pháp trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

 

Trước chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước ban chấp hành trung ương Đảng hoạp ội nghị tháng 11-1939 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do đồng chí Nguyễn Văn Cừ-tổng bí thư Đảng chủ trì, Hội nghị TW tháng 11-1940 tại Đình Bảng, Từ Sơn (Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì và hội nghị TW lần thứ Tám (tháng 5-1941) tại Khuổi Nậm Pắc Bó (Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, đánh giá sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng ghỉa phóng dân tộc, đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng.

Đảng đã xác định những điều kiện cơ bản cho tổng khởi nghĩa qua sự chuẩn bị suốt mười lăm năm (1930-1945) mà trực tiếp là sự chuẩn bị 1939-1945.

     Thứ nhất, Xây dựng lực lượng cách mạng của quần chúng nhân dân tập hợp trong mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc.

Lực lượng chính trị của quần chúng được tập hợp trong Mặt trân dân tộc thống nhất tạo nên sức lực lượng chính trị hùng mạnh. Hội nghị TW lần thứ Tám quyết định thành lập một Mặt trận lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là mặt trận Việt Minh) để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc. Mặt trận Việt Minh giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của dân tộc Việt Nam chứ không phải là mặt trận chung của Đông Dương vì thế nó khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc của mỗi người Việt Nam. Mặt trận Việt Minh hình thành về mặt tổ chức  là hệ thống tổ chức từ TW đến cơ sở nên đã phát huy sức mạnh ở chính tổ chức đó. Hội nghị TW tháng 2-1943 tại Võng La (Đông Anh Hà Nội) quyết định đẩy nhanh sự phát triển của Mặt trận Việt Minh.

Thứ hai, Xây dựng phát triển lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng, chú trọng đấu tranh. Vũ trang và khởi nghĩa, đi từ khởi nghĩa từng phần sang khởi nghĩa giành thắng lợi.

Hội nghị TW tháng 11-1939 quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa, nhấn mạnh nhiệm vụ chính trị của công tác quân chủng lúc này là dự bị điều kiện tiến tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn đội du kích Bắc Sơn ra đời, căn cứ địa Bắc Sơn-Vũ Nhai do thường vụ TW chỉ dạo được hoàn thành. Hội nghị TW tháng 11-1940 duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, lực lương vũ trang Bắc Sơn phát triển thành các đội cứu quốc quân. Tại Cao Bằng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập ngày 22-11-1941. Căn cứ địa Cao Bằng do HCM và TW Đảng chỉ đạo đến năm 1943 đã nối liền với căn cứ địa Bắc Sơn Vũ Nhai. Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ từ ngày 13 đến 20-4-1945 tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) đã quyết định lập chiến khu trong cả nước, nối liên lạc giữa các chiến khu Bắc-Trung-Nam. Xây dựng những căn cứ địa kháng Nhật ở những nơi có điều kiện. Hội nghị quyết định thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, cứu quốc quân và các lực lượng vũ trang cách mạng

Khác thành Việt Nam giải phóng quân.

Đầu tháng 5-1945, HCM về tuyên quang, Người chọn Tân Trào làm căn cứ địa để chỉ đạo cách mạng cả nước. Ngày 4-6-1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập bao gồm 6 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang). Khu giả phóng trở thành căn cứ đụa của cả nước.

Thứ ba, xác định tình hình, phương thức dấu tranh: tư tưởng chỉ đạo đi từ khởi nghĩa từng phần, giành thắng lợi bộ phận đến tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước được Hội nghị TW tháng 11-1939 đề ra và Hội nghị TW lần thứ 8 (5-1941) xác định "Chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại". Hội nghị TW lần thứ 8 xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa của nước ta "phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù...với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khowtr nghĩa từng phần  sang trong từng địa phương cũng có thể giành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".

Vấn đề thời cơ cách mạng cũng được các hội nghị trung ương nêu rõ.

Hội nghị TW tháng 11-1939 dự kiến thời cơ: cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này rẽ nung nấu cách mạng Đông Dương bùng nổ và tiền đồ cách mạng giải phóng dân tộc nhất định sẽ quang minh rực rỡ. Hội nghị TW tháng 11-1940 dự đoán "một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy Đảng phỉa chuẩn vị để giành lấy sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo các dân tộc bị áp bức Đông dương vũ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập". Hội nghị TW 8 dự kiến chiều hướng phát triển chiến tranh: phát xít Nhật sẽ đánh Liên Xô, chiến tranh Thái Bình Dương sẽ bùng nổ, cuộc chiến tranh do bọn đế quốc gây ra sẽ tàn sát lào người một cách nghê gớm nhưng phe đồng minh chống đế quốc và cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô nhất định  sẽ thắng lợi, phe phát xít Nhật thất bại, điều kiện thuận lợi cho các dân tộc đấu tranh giải phóng. Cuối năm 1943, HCM dự báo chiến tranh thế giới có thể kết thúc trong một hay một năm rưỡi nữa, đây là cơ hội tốt nhất cho ta giành thắng lợi. Dự báo thời cơ, chớp thời cơ là một khoa hoac, nghệ thuật trong lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang của Đảng. Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng đòng minh, đó là cơ họi thuận lợi cho cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.

Vào cuối năm 1944 đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn kết thúc, Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình và tiến như vũ bão về phía Berlin. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng gay gắt. Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng quân Nhật.

Ngay đêm ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta".

Chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.

Chỉ thị xác định: Sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương. Vì vậy phải thay khẩu hiệu "đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp" bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phát xít Nhật".

Chỉ thị chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa như tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc...

Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng vùng, mở rộng căn cứ địa.

Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.

 

Chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 9-5-1945 phát xít đức đầu hàng Liên Xô và Đồng minh vô điều kiện. Ở châu Á, phát xít Nhật đang đi gần đến thất bại hoàn toàn. Trước sự phát triển mau lẹ của tình hình, TW Đảng quyết định triều tập hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến 15-8-1945. Hội nghị nhận định cơ hội tốt cho ta giành chính quyền đã tới và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tai sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Hội nghị nêu rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: "phản đối xân lược", "hoàn toàn dộc lập", "chính quyền nhân dân". Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là: tập trung, thống nhất và kịp thời. Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng  và chính sách đối nội đối ngoại trong tình hình mới. Quyết định cử ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh làm phụ trách và kiện toàn ban chấp hành TW.

Đêm 13-8-1945, ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, đại hội quốc dân họp tại Tân Trào. Đaị hội nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh, quyết định thành lập ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam.

Ngay sau đại hội, chủ tịch HCM đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng ta". Dưới sự lãnh dạo của Đảng, hơn 20 triệu đồng bào ta đã nhất tề nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. từ ngày 14-8-1945, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn bốt của Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 18-8-1945, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phú Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tỉnh, Quảng Nam và Khánh Hòa giành chính quyền ở tỉnh lỵ.

Ngày 19-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, hàng chục vạn đồng bào dự cuộc mittinh lớn tại Quảng trường nhà hát lớn thành phố, sau mittinh quần chúng tỏa đi chiếm phủ khâm sai, Tòa thị chính, Trại lính bỏa an, Sở cảnh sát và các công sở của chính phủ bù nhìn. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi nghĩa, quân Nhật ở Hà Nội hoàn toàn bị tê liệt, không giám chống cự. Thắng lợi của cộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với cả nước, cổ vũ động viên nhân dân cả nước khởi nghĩa giành chính quyền. Nhiều địa phương căn cứ vào chỉ thị "Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" đã kịp thời phát động khởi nghĩa giành chính quyền mặc dù chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa của TW Đảng.

Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi tại Huế, ngày 25-8-1945 tại Sài Gòn. Chỉ trong 15 ngày (kể từ ngày 14 đến 28-1945), cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 2-9-1945, thay mặt chính phủ lâm thời, Chủ tịch HCM trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo cách mạng tháng Tám thành công. Có thể nói, có được thắng lợi này yếu tố quyết định hết sức quan trọng đó là nghệ thuật tạo dựng thời cơ và chớp thời cơ của Đảng.

-----hết-----

LƯU Ý: I. Tạo dựng thời cơ (chuẩn bị lực lượng)

1. Chuẩn bị về đường lối: trình bày khái quát nội dung chuyển hướng chỉ đạo CM của Đảng qua 3HNTƯ 6,7,8; chỉ thị "Nhật, Pháp bắn nhau..." và chủ trương phát động Tổng k/nghĩa trong Hội nghị Toàn quốc của Đảng (8/45)

2. XD lực lượng chính trị

3. Xây dựng lực lượng vũ trang

4. XD lực lượng văn hóa, tư tưởng

5. XD Đảng

I. Chọn đúng thời cơ (chớp thời cơ)                                                                                                                        13/8-2/9/1945                                         

Nhật đầu hàng Đồng minh­-----------------------àquân Đ/minh vào ĐD

                                             thời cơ của TKN

 

Câu 6) Cơ sở hình thành và nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954.

 

Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối cảnh vừa có thuận lợi cơ bản vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, nghiêm trọng.

Trên thế giới: Hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ.

Ở trong nước: Chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Bên cạnh đó nước ta phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng: Hậu quả do chế độ cũ để lại rất nặng nề như: nạn đói, nạn dốt, ngân quỹ quốc gia trống rỗng. Kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ các cấp non yếu. Nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Với danh nghĩa quân Đồng minh đến tước khí giới của phát xít Nhật, quân đội các nước đế quốc ồ ạt vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt gian chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta. Nghiêm trọng nhất là quân Anh, Pháp đã đồng lõa với nhau nổ súng đánh chiếm Sài Gòn nhằm tách Nanm Bộ ra khỏi Việt Nam. "Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm" là những hiểm họa đối với chế độ mới, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc', tổ quốc lâm nguy.

Trước tình hình mới ngày 25/11/1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng là:

Về chỉ đạo chiến lược: Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng. Khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết" nhưng không phải giành độc lập mà là giữ vững độc lập.

Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương và chỉ rõ "kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Vì vậy, phải "lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược"; mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào .v.v...

Về phương hướng, nhiệm vụ: Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện là: "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân". Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và "độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối với Pháp.

 

Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp và được thể hiện tập trung trong ba văn kiện Chỉ thị toàn quốc kháng chiến của TW Đảng (12-12-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch HCM (19-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của tổng bí thư Trường Chinh (1947).

Nội dung đường lối được thể hiện qua các mặt.

Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng tháng Tám, "đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập".

Tính chất kháng chiến: "Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu dài". "Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình". Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

Chính sách kháng chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến... Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt".

Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: "Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí... Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến. Giành quyền độc lập, bảo tòan lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc. Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ... Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc...".

Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

          Kháng chiến toàn dân: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, Đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người V.n phải đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.

         Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:

  Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.

  Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài... Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ.

Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công  nghiệp quốc phòng.

 Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.

Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.

       Kháng chiến lâu dài: là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa" của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

       Dựa vào sức mình là chính: "Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt" vì ta bị bao vây 4 phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước song lúc đó cũng không được ỷ lại.

Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.

 

Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân 3 nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử đó đặt ra yêu cầu bổ sunh và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.

Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương họp Đại hội đại biểu lần thứ hai tại Tuyên Quang. Đại hội nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương do Hồ Chí Minh trình bày và ra nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương thành 3 Đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của 3 dân tộc đi tới thắng lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động Việt Nam.

Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng bí thư Trường Chinh trình bày đã kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong các cương lĩnh chính trị trước đây của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam với những nội dung sau.

Tính chất xã hội: "xã hội Việt Nam hiện nay gồm có 3 tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và bọn can thiệp".

Đối tượng cách mạng: cách mạng Việt Nam có 2 đối tượng: Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động.

Nhiệm vụ cách mạng: "Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hòan thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược".

Động lực của cách mạng: gồm "công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức".

Đặc điểm cách mạng: "Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân dân lao động làm động lực, công nông và lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng đó không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa".

Triển vọng của cách mạng: "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội".

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: "Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau".

Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: "Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân". "Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam".

Chính sách của Đảng: Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi2.

Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hòa bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và đoàn kết Việt - Miên - Lào.

Đường lối, chính sách của Đại hội đã được bổ sung, phát triển qua các hội nghị Trung ương tiếp theo.

Tại hội nghị lần thứ nhất (3/1951), Đảng đã phân tích tình hình quốc tế và trong nước, nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến tranh, "củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích"; "gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính", "thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và góp vốn của tư nhân để phát triển công thương nghiệp", "tích cực tham gia phong trào bảo vệ hòa bình thế giới", "củng cố Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức".

Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ hai (họp từ ngày 27/9 - 5/10/1951) đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt 3 nhiệm vụ lớn là "ra sức tiêu diệt sinh lực của địch, tiến tới giành ưu thế quân sự"; "ra sức phá âm mưu thâm độc của địch: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt", đẩy mạnh kháng chiến ở vùng bị tạm chiếm; "củng cố và phát triển sức kháng chiến của toàn quốc, toàn dân, củng cố và phát triển đoàn kết".

Tại hội nghị Trung ương lần thứ 4 (1/1953), vấn đề cách mạng ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng: muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.

Đến hội nghị Trung ương lần thứ 5(11/1953), Đảng quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. "Cải cách ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi". "Cải cách ruộng đất là chính sách chung của cả nước nhưng phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì làm trước nơi thì làm sau". "Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên chuẩn bị phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ...".

Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản nêu trên là đúng đắn, sáng tạo, vùa kế thừa được những kinh nghiệm của cha ông, đúng với nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ.

-----hết-----

LƯU Ý: Chỉ trình bày hoàn cảnh lịch sử nước ta từ năm 1946, khi TD Pháp từng bước mở rộng chiễn tranh ra địa bàn cả nước. nêu thuận lợi, khó khăn khi toàn quốc bước vào kháng chiến. Câu nầy em soạn quá dài, 90 phút chép không hết đâu.

Câu 7) Tính đúng đắn, sáng tạo độc đáo của việc thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền giai đoạn 1954 - 1975

Sau chiến thắng oanh liệt của ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) chống thực dân Pháp hoà bình được lặp lại, lúc này đặc điểmlớn nhất của đất nước ta là tạm thời bị chia cắt hai miền, với hai chế độ chính trị độc lập. Miền Bắc đã giành đựoc hoà bình, dưói sự lãnh đạo của Đảng đang xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Miền Nam vẫn còn dưới ách dô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc.

Đảng ta nhận định rằng nếu trong giao đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vịêc kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến cí tác dụng góp phần quyết định thắng lợi, thì trong thời kỳ mến việc kết hợp đúng đắn giữa nhiệm vụ xây dựng  CNXH ở miền Bắc và nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước cũng có tác dụng quyết định đến thắng lợi của cách mạng miền Nam. Đảng ta phải giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cách mạng ở hai miền trong lúc trên thế giới chưa có tiền lệ giải quyết thành công vấn đề này. Đó cũng là vấn đề quan hệ giữa hào bình và cách mạng nổi lên thành vấn đề lý luận và thực tiễn nóng hổi, trong lúc giữa chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc đang làm cho tình hình thêm phức tạp và cách mạng gặp phải không ít khó khăn.

Trên thế giới đế quốc Mỹ âm mưu bá chủ toàn cầu  với tiền lực về kinh tế quân sự hùng mạnh đã thực hiện các chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Xuất hiện sự bất hoà trong hệ thống XHCN nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt. Thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh  lạnh.

Trong nước, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam - Bắc với hai chế độ chính trị khác nhau lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới phân chia. Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta, quân đội ồ ạt vào nước ta và thực hiện "chiến tranh đặ biệt" và "chiến tranh cục bộ", tương quan lực lượng rất bấtlợi cho ta.

Bên cạnh đó cách mạng Việt Nam cũng có đựoc những thuận lợi trên thế giới: Những phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh. Năm 1957 diễn ra hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế (nhằm đưa ra tuyên bố hoà bình và đề ra, xác định các quy  luật cách mạng XHCN). Hệ thống XHCN tiếp tục phát triển và lớn mạnh về mọi mặt nhất là Liên Xô.

ở trong nước: Miền Bắc được giải phóng hoàn toàn, có vai trò làm căn cứ địa chung cho cả nước. Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Miền Bắc ngày càng vững mạnh về mọi mặt. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt mục tiêu về kinh tế, văn hoá,... Toàn dân một ý chí thống nhất tổ quốc ở miền Nam, với tinh thần chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta đã đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ (1965) cuộc đấu tranh của quân ta đã có những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê nin, với lợi ích nhân dân và nghĩa vụ quốc tế Đảng ta từng bước giải quyết mối liên hệ giữa cách mangk hai miền.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960) đã quyết định đường lối cách mạng chung của cả nước là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược.

Một là, tiến hành CNXHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc cho miền Nam trong cuộc đấu tranh chống đế quốc.

Hai là,  tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam để non sông quy về một mối, giành độc lập dân tộc, tự do cho cả nước hai nhiệm vụ này có mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau có tác dụng thúc đẩy nhau để thực hiện nhiệm vụ chung của cách mạng có nước là đấu tranh giành độc lập cho cả dân tộc hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước.

Nhiệmvụ cách mạng miền Bắc là đoàn kết toàn dân và phát huy tư tưởng yêu nước của  nhân dân lao động thời đoàn kết với các nước XHCN. Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN, góp phần giữ vững hoà bình ổn định ở Đông Nam Á và thế giới.

Nhiệm vụ cách mạng  miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến. Thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng" xay dựng 1 nước Việt Nam hoà bình độc lập,thống nhất và giàu mạnh Đảng ta xác định rõ vị trí của từng miền cách mạng miền Bắc quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng  miền Nam và sự nghiệp thống nhất nước nhà  bỏ lở miền Bắc là hậu phương lớn cung cấp sức người sức của cho cách mạng miền Nam, cách mạng miền Bắc quyết định sức mạnh trên chiến trường miền Nam. Cách mạng miền Bắc phái gắn với xu thế của thời đại nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước.

Cách mạng miền Nam giữ vị trí quyết định trực tiếp đốivới sự nghiệp giải phóng miền Nam,thống nhất đất nước ta. Sự phân tích hoàn cảnh lịch sử và đường lối chung cách mạng cả nước. Đảng khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là cuộc đụng đầu lịch sử.

Thông qua thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của cả nước là hoàn thnàh độc lập, thống nhất đất nước. Bởi vậy, Đảng có quan điểm chờ miền Nam hoàn toàn giải phóng rồi cả nước cùng tiến lên CNXH là không đúng. Đường lối tiêu biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng lý luận cũng như thực tiễn chứng minh đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là đúng đắn

Trong khi đề ra nhiệm vụ phương Pháp cách mạng ở miền Nam cũng như quyết định mở những trận chiến chiến lược Đảng phải căn cứ vào tình hình miền Nam và có tình hình miền Bắc, xem xét tác động của những thắng lợi sẽ giành được có ảnh hưởng đối với miền Nam và cả đối với miền Bắc. Tiến lên CNXH, lực lượng moin mặt của cả miền Bắc sẽ được tăng cường nhanh chóng. Đảng có thể lãnh đạo nền kinh tế theo hướng giải quyết khác mâu thuẫn giữa  sức người, sức của có hạn yêu cầu ngày càng lớn của sự nghiệp cách mạng của hai miền. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa có lực lượng vững mạnh mới đủ sức làm tròn nhiệm vụ căn cứ địa của cả nước, đủ sức tự bảo vệ, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, có đủ điều kiện khi chi viện cho cách mạng miền Nam đồng thời là tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cà hai nước là và Campuchia

Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam làm cho thế và lực của cách mạng cả nước cũng như của miền Nam không ngừng tăng lên. Nhờ vậy, cách mạng miền Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng hợp của cả nước để tiến công địch, đánh bịa mọi chiến lược, chiến thuật của đế quốc Mỹ và tay sai.

Kẻ thù cũng thấy được mối quan hệ cách mạng hai miền chúng đánh phá miền Bắc đặc biệt là đánh vào các đường giao thông, các cơ sở kinh tế, xuyên tạc và lu loc miền Bắc "xâm lược miền Nam".... Chính còn chúng nhận rõ vai trò của miền Bắc XHCN đối với cách mạng miền Nam và cách mạng đối phó trong thế thua ở miền Nam

Đảng nhận định rằng, âm mưu và hành động phá hoại miền Bắc của địch chỉ có thể chấm dứt chừng nào miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Nhờ nhận định đúng đắn đó, Đảng ta luôn luôn sáng suốt, chủ động trong mọi tình huống trong quá trình chỉ đạo cách mạng. Đảng đưa ra nhiều nhận định, trong đó hai nhận định thể hiện sâu sắc nhất của Đảng nắm vững mối quan hệ giữa cách mạng hai miền

Một là tháng 3 - 1964 trong hội nghị chính trị đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi " mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt"

Hai là, cuối năm 1965, nghị quyết lần thứ 12 của trung ương Đảng nào cao quyết tâm giữ  vững chiến lược tiến công, giữ thế chủ động trên chiến  trường và nhất là kiềm chế và thắng địch ở miền Nam. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thắng lợi của cả hai chiến lược cách mạng được tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ với nhau.

Cách mạng XHCN ở miền Bắc có nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất đất nước. Đảng khẳng định "không thể có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có miền Bắc XHCN, suốt 16 năm qua luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược". Dù có những sai lầm, khiếm khuyết trong quá trình chỉ đạo thực hiện do hạn chế  lịch sử, chúng ta vẫn thấy kết luận trên của Đảng là thoả đáng Đảng cũng kết luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Đi đôi với việc coi trọng cũng cố và bảo vệ hậu phương lên miền Bắc, nhân tố thường xuyên quyết điịnh thắng lợi của chiến tranh, Đảng hết sức coi trọng việc xây dựng và phát triển thực lực cách mạng ở miền Nam.

    Đảng đã dựa trên nền tảng lý luận chính trị là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và áp dụng vào thực tiễn cách mạng nước ta một cách độc đáo, sáng tạo của cách mạng Việt Nam thời kỳ này là một Đảng thống nhất lãnh đạo nhân dân của cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược. Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiếnlược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẻ với nhau, trong đó cách mạng miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam, cách mạng miền Nam giữ vị trí quan trọng, tác động trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Sau 21 năm nỗ lực phấn đấu, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn đáng tự hào. Một chế độ xã hội mới, chế độ CNXH bước đầu được hình thành.Dù chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất, thiệt hại lớn về người, song không có nạn đói, dịch bệnh và sự rối loạn xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường.

Quân dân miền Bắc đã đánh thắng lịch sử của trận " Điện Biên Phủ trên không" trền bầu trời Hà Nội cuối năm 1972 Miền Bắc không chỉ chia với các chiến trường mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa của cách mạng cả nước và nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến tranh miền Nam ở miền Nam, với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng quân dân ta đã vượt lên mọi gian khổ hy sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Trong giai đoạn 1954 - 1960 đánh bại " chiến tranh đơn phương" của Mỹ nguỵ, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang tiến công giai đoạn 1961 - 1965 đã giữ vững và phát triển thế tiến công đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ, giai đoạn 1965 - 1968 đã đánh bại chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ và chư hầu, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pari; giai đoạn 1969 - 1975 đã đánh bại chiến lược " Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ và tay sai mà đỉnh cao là đại thắng Mùa Xuân 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

-----hết-----

 

LƯU Ý: Bổ sung nội dung của Nghị quyết trung ương 15(1/1959) và NQTƯ11,12 (1965)

Câu 8) Đảng kế thừa và đổi mới tư duy công nghiệp hóa như thế nào

Đường lối công nghiệp hóa (CNH) ở nước đã được hình thành từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9/1960). Đến nay quá trình CNH của nước ta đã tiến hành hơn 50 năm, trong đó khoảng 25 năm đầu (1960-1985) chúng ta đã tiến hành CNH theo kiểu cũ, trên cơ sở đường lối CNH của các kỳ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, IV (12-1976) và V (3-1982). Quá trình đổi mới tư duy của Đảng về CNH được "khởi động" từ Đại hội V (3-1982) với những bước điều chỉnh về tốc độ, bước đi và nội dung chính của CNH trong chặng đường trước mặt. Tuy nhiên, phải đến Đại hội VI của Đảng (12-1986), quá trình đổi mới tư duy CNH mới chính thức bắt đầu bằng việc chỉ ra và phê phán những sai lầm trong nhận thức và chủ trương CNH thời kỳ 1960-1985.

Đường lối CNH trước thời kỳ đổi mới nước ta chia làm 2 giai đoạn: từ 1960 - 1975 triển khai ở miền Bắc và từ 1975 - 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước với những nội dung cơ bản sau.

Trước hết, Đảng khẳng định tính tất yếu của CNH đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm miền Bắc, trong đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đại hội III của Đảng khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Tức là khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội cũng chỉ rõ, để thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề quan trọng có tính chất quyết định là thực hiện trang bị kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện cơ giới hóa sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động.

Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan điểm đúng đắn này được khẳng định nhiều lần trong tất cả các Đại hội của Đảng.

Thứ hai, Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được Đại hội III xác định là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.

Thứ ba, để đạt được mục tiêu đó, vấn đầ quan trọng có tính chất quyết định là thực hiện trang bị kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện cơ giới hóa sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động.

Thứ tư, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa III) nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp. Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Ra sức phát triển công nghiệp trung ương đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương

Sau Đại thắng mùa xuân 1975, cả nước độc lập, thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện đặc điểm, tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (12/1976) đề ra đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất". Đường lối này nhất trí với những nhận thức cơ bản về công nghiệp hóa ở miền Bắc trước đây đồng thời có sự phát triển thêm.

Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976 - 1981), Đảng rút ra kết luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt vấn đề như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh đúng đắn bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này.

  Đường lối CNH của Đảng thời kỳ trước đổi mới (1960-1986) phản ánh tinh thần trách nhiệm và quyết tâm cao của Đảng trước yêu cầu phát triển đất nước theo con đường XHCN. Đó cũng là quyết tâm và nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, đường lối đó thể hiện sự nóng vội, giản đơn, duy ý chí của Đảng về vấn đề CNH, muốn làm nhanh, làm lớn mà ít quan tâm đến hiệu quả kinh tế, xã hội. Mặc dù đã có sự điều chỉnh quan trọng về tốc độ, bước đi và nội dung chính của CNH trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta, những vấn đề cơ bản và trên thực tiễn vẫn chưa thoát khỏi những nhận thức cũ về CNH.

   Nhìn chung trong thời kỳ 1960 -1985, chúng ta đã nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu cũ với các đặc trưng chủ yếu là Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng. Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước. Việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, không tôn trọng các quy luật của thị trường. Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.

 

Đổi mới tư duy CNH, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI cùa Đảng (12/1986) với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật" đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960 - 1985, mà trực tiếp là 10 năm từ 1975 - 1985. Đó là:

Chúng ta đạ phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, v.v... Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý ktế.

Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.

Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V, như: vẫn chưa thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng được 3 chương trình mục tiêu: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (1/1994) có bước đột phá mới trong nhận thức về công nghiệp hóa. Bước đột phá này thể hiện trước hết ở nhận thức về khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương Pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao".

Đại hội VIII của Đảng (6/1996) nhìn nhận lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã có nhận định quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội tiếp tục khẳng định quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu ra ở hội nghị Trung ương 7 khóa VII.

Đại hội nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và định hướng những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập kỷ 90. Các quan điểm và định hướng này đến nay về cơ bản vẫn đúng và có giá trị chỉ đạo thực tiễn.

Đến Đại hội IX (4/2001) và Đại hội X (4/2006), Đảng tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số quan điểm mới về công nghiệp hóa:

Con đường công nghiệp hóa: ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.

Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn so với các nước đi trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: phát triển kinh tế  và công nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam. Đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta: phải phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.

Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, sản phẩm nông nghiệp.

LƯU Ý: Nêu định nghĩa về CNH; Phần trước đổi mới trình bày ngắn gọn; chỉ ra những điểm gì trong đường lối CNH trước đổi mới mà sau đổi mới vẫn kế thừa và nội dung gì đã được điều chỉnh cơ bản

-----hết--

Câu 9) Cơ sở để xác định nội dung và định hướng CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong nước và quốc tế, Đảng nêu lên những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Những quan điểm này được hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa VII nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các Đại hội VIII, IX và X của Đảng. Trong đó Đảng đã nêu lên quan điểm "công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức".

Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp hóa. Khi đó công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày nay, Đại hội X nhận định: "khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất". Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.

Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức đã phát triển. Chúng ta có thể và cần thiết không trải qua các bước tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, Đại hội X chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Khái niện Kinh tế tri thức : Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa : kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học, công nghệ cao. Tại đây giá cả phụ thuộc vào hàm lượng chất xám (tri thức) kết tinh trong hàng hóa đó.

Đại hội X của Đảng chỉ rõ: 'Chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi trọng kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa'.

Nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát triển của kinh tế tri thức được thể hiện ở các nội dung sau : Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế - xã hội. Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ. Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngàn, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.

Những định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức :

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

Thứ nhất là, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn cùa quá trình công nghiệp hóa đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn, gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và đô thị. Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn cho công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm ki bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa. Trong những năm tới, định hướng phát triển cho quá trình này là:

Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao sản xuất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương.

Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.

Thứ hai là, về quy hoạch phát triển nông thôn. Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông nghiệp, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ...Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Thứ ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn. Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng có sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông nghiệp theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng lao động làm công nghiệp, dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao động nước ngoài. Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ: Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỳ trọng của nông nghiệp giảm còn công nghiệp, dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Thứ nhất là, đối với công nghiệp và xây dựng. Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất. Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.

Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô. Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài.

Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội nhất là các sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thủy lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính - viễn thông.

Thứ hai là, đối với dịch vụ. Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ phát triển của ngành dịch vụ cao hơn với tốc độ tăng GDP. Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển ngành 'công nghiệp không có khói' này. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương mại, ngân hàng, bưu chính viễn thông, du lịch. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông thôn.

Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng. Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo hàng lang Pháp lý, môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh trạnh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.

Phát triển kinh tế vùng: Cơ cấu kinh tế vùng là một trong những cơ cấu cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Xác định đúng đắn cơ cấu vùng có ý nghĩa quan trọng, nó cho phép khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh của từng vùng, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Để phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng trong những năm tới, cần phải :

Thứ nhất là, có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong nước cùng phát triển nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của mỗi vùng và liên vùng, đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các vùng nhằm đem lại hiệu quả cao, khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính.

Thứ hai là, xây dựng 3 vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam thành những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao để các vùng này đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước. Trên cơ sở phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo ra động lực và sự lan tỏa đến các vùng khác và trợ giúp các vùng khó khăn, đặc biệt các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nguyên, Tây Nam, Tây Bắc. Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các vùng khó khăn. Bổ sung chính sách, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh tại các vùng khó khăn.

Phát triển kinh tế biển : Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Sớm đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.

Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch biển, đảo. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển, đồng thời hình thành một số hành lang kinh tế ven biển.

Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ : Để chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức cần phải :

Phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao, tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội.

Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ. Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở một số ngành, lĩnh vực then chốt. Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả, trong từng ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.

Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách, hàng đầu, tạo động lực thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.

Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động khoa học và công nghệ.

Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên: Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ, sử dụng tài nguyên và cải thiện môi trường tự nhiên được xác định:

Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sản và rừng. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường, khắc phục tình trạng xuống cấp môi trường ở các lưu vực sông, đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, nơi đông dân cư và có nhiều hoạt động kinh tế. Quan tâm đầu tư cho lĩnh vực môi trường, nhất là các hoạt động thu gom, tái chế và xử lý chất thải, phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường. Hoàn chỉnh luật Pháp, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải xử lý ô nhiễm hoặc chi trả cho việc xử lý ô nhiễm.

Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng, thủy văn, chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.

Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.

Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.

LƯU Ý: Nêu định nghĩa CNH, HĐH; nêu định nghĩa tri thức và kinh tế tri thức; nêu ngắn gọn nội dung và định hướng CNH,HĐH gắn với ktế tri thức; nêu cơ sở để Đảng xác định nội dung và định hướng....là xuất phát từ xu thế của thế giới hiện nay và tiềm năng của đất nước, con người VN và yêu cầu phát triển đất nước hiện nay.

-----hết-----

Câu 10) Vì sao mô hình kinh tế nước ta là mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN) ?.

Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới, sau một thời gian tìm tòi khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, Đại hội VI của Đảng (1986) kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh XHCN, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và vai trò của thị trường.

Trước đổi mới, nền kinh tế vận hành theo cơ chế hoạch hóa, tập trung, hành chính bao cấp, do đó đã nhận thức không đúng về cơ chế thị trường, về sản xuất hàng hóa và vai trò của các thành phần kinh tế.

Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu Pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu Pháp lệnh được giao. Tất cả các phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chì tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Lỗ thì nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu.

Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.

Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu như: Bao cấp qua giá, bao cấp qua chế độ tem phiếu, bao cấp theo chế độ cấp phát vốn.

Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát công nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học - công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khuyết điểm của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.

Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.

Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chúng ta đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để. Đó là khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở Long An; nghị quyết Trung ương 8 khóa V (1985) về giá - lương - tiền; thực hiện Nghị định 25 và Nghị định 26-CP của Chính phủ...Tuy vậy, đó là những căn cứ thực tế để Đảng đi đến quyết định thay đổi cơ chế quản lý kinh tế.

Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định: "Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội". Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.

So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đổi căn bản và sâu sắc:

Thứ nhất, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.

Lịch sử phát triển sản xuất xã hội cho thấy sự sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi, các yếu tố thị trường như cung, cầu, giá cả có tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hóa, phân bổ các nguồn lực kinh tế và tài nguyên thiên nhiên như vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động... phục vụ cho sản xuất và lưu thông. Thị trường giữ vai trò là một công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong một nền kinh tế khi các nguồn lực kinh tế được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường thì người ta gọi đó là kinh tế thị trường.

Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa đều dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất làm cho những người sản xuất vừa độc lập vừa phụ thuộc vào nhau. Trao đổi mua bán hàng hóa là phương thức giải quyết mâu thuẫn trên. Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, đối lập với kinh tế tự nhiên nhưng còn ở trình độ thấp, chủ yếu là sản xuất hàng hóa tư nhân, quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng suất thấp. Còn kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.

Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư  bản, kinh tế thị trường còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt đến trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó. Điều đó khiến người ta nghĩ rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay cách thức sử dụng kinh tế thị trường theo lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.

Thứ hai, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

Kinh tế thị trường xét dưới góc độ "một kiểu tổ chức kinh tế" là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương diện điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội khác. Bản thân kinh tế thị trường không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã hội. Kinh tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng. Vì vậy, kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cả trong chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường không phải là phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và tất nhiên, xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn đến phủ định kinh tế thị trường.

Đại hội VII của Đảng (6/1991) trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là "cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" bằng Pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp Pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nhà nước quản lý nền kinh tế để định  hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội.

Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII (6/1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta:

Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Kinh tế thị trường là thành tựu của văn minh nhân loại, bản thân kinh tế thị trường không có thuộc tính xã hội, vì vậy, kinh tế thị trường có thể được sử dụng ở các chế độ xã hội khác nhau. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:

Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ - lãi tự chịu. Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo. Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Có hệ thống Pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trò rất to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội.

Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường nên chúng ta đã xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã thực hiện phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu còn thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch do đó không cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ kinh tế thị trường, nếu biết vận dụng đúng thì có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cải lạc hậu, yếu kém.

Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết kế thừa và khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh tế thị trường để phát triển. Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng đã minh chứng sự cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội IX của Đảng (3/2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý sang coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội". Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của "thị trường" được sử dụng để "phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân", còn tính "định hướng xã hội chủ nghĩa" được thể hiện trên cả 3 mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là "dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc".

Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nói đến kinh tế không phải là kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc, cũng không phải kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cũng không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính "định hướng xã hội chủ nghĩa" làm cho mô hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

LƯU Ý: Bổ sung: Kinh tế thị trường vừa có nhiều ưu điểm (hàng hóa phong phú đa dạng, lợi ích người tiêu dung ngày càng được đảm bảo, sử dụng có hiệu quả TNTN, thúc đẩy KHCN và GDĐT phát triển, mở rộng quan hệ qtế...), lại vừa tồn tại nhiều khuyết tật (vì lợi nhuận sẵn sang vi phạm pháp luật; xói mòn các gtrị văn hóa, đạo đức truyền thống; ô nhiễm môi trường; phân hóa giàu nghèo; khủng hoảng kinh tế; các nước lớn có xu hướng áp đặt các nước nhỏ...) . Nên cần có định hướng XHCN trong nền kinh tế để phát huy ưu điểm và khắc phục khuyết tật của KTTT.

Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở 4 tiêu chí:

Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn"

Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người, mọi người đều được hưởng những thành quả phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.

Về phương hướng phát triển: phát triển các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là nhằm giải phóng mọi tiềm năng để phát triển trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin - cho hay độc quyền kinh doanh. Mặc khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặc ra yêu cầu nền kinh tế phải được dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.

Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội vừa bảo đảm sự phát triển bền vững vừa thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, thực hiện mục tiêu phát triển con người.

Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển còn thực hiện phân phối theo định mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.

Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự quản lý, điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng Pháp luật đảm bảo mục đích của nền kinh tế, sự vận động của chế độ sở hữu, phân phối theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi con người.

Những tiêu chí trên vừa thể hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta, vừa thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

 Sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hóa tập trung, để xây dựng hệ thống kinh tế thị trường phát triển. đây là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu và văn minh nhân loại. Chúng ta không chấp nhận kinh tế thị trường như một thứ công nghệ-kỹ thuật thuần túy, hay một phương thức đơn thuần, thủ đoạn tạo ra của cải và sự giàu có cho tư bản, mà phát huy những thế mạnh của kinh tế thị trường, chủ động hướng kinh tế thị trường phụ vụ cho việc nâng cao đời sống dân cư, sự phồn vinh và hạnh phúc của xã hội. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là thấm nhuần sự kết hợp giữa tính tất yếu của thời đại và nguyện vọng tha thiết của một dân tộc tự do, độc lập và luôn mong muốn sống trong hào bình, hạnh phúc, với các giá trị truyền thống dân chủ, nhân văn và tương thân tương ái. Khẳng định quyết tâm và vai trò sáng tạo rất cao của kiến trúc thượng tần chính trị, Pháp luật là Đảng Cộng sản, nhà nước Pháp quyền XHCN nhằm tạo lập thể chế kinh tế thị trường văn minh và theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

-----hết-----

Câu 11) Quá trình đổi mới tư duy về hệ thống chính trị và vai trò của HTCT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

Trong mỗi giai đoạn cách mạng, từ khi Đảng Cộng sản cầm quyền sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, khái niệm hệ thống chính trị được diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau. Trước năm 1986 và trong những năm đầu của quá trình đổi mới, trong các văn kiện Đảng sử dụng khái niệm "chuyên chính vô sản", "hệ thống chuyên chính vô sản". Từ Hội nghị TW 6, khóa VI (tháng 3-1989), Đảng ta chính thức sử dụng khái niệm "hệ thống chính trị".

Hệ thống chính trị của CNXH được quan niệm là hệ thống của các tổ chức chính trị - xã hội mà nhờ đó nhân dân lao động được thực thi quyền lực của mình trong xã hội. Hệ thống chính trị này bao trùm và điều chỉnh mọi quan hệ chính trị giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, tập thể và cá nhân về vấn đề quyền lực, về hoạch định xã hội, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, khái niệm hệ thống chính trị có những nội hàm đặc thù nên được gọi bằng những thuật ngữ khác nhau. Hệ thống chính trị nước ta hiện nay bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; các mối quan hệ qua lại giữa các thành tố đó với nhau và với xã hội nói chung để cùng thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Trước thời kỳ đổi mới, việc xây dựng hệ thống chính trị được quan niệm là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Tức là xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội thể hiện ngày càng đầy đủ sự làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân. *Do đó, chủ trương xây dựng hệ thống chính trị gồm những nội dung sau đây:

      Xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng dựa trên nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, được thực hiện chủ yếu bằng kế hoạch Nhà nước đồng thời thực hiện bằng hoạt động của các đoàn thể quần chúng. Xác định Nhà nước trong chế độ làm chủ tập thể là Nhà nước chuyên chính vô sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Một tổ chức thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Muốn thế nhà nước phải đủ năng lực tiến hành 3 cuộc cách mạng: cách mạng xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới. Xác định Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động xã hội trong điều kiện chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Xác định nhiệm vụ chung của các đoàn thể là bảo đảm cho quần chúng tham gia và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường học về chủ nghĩa xã hội. Vai trò và sức mạnh của các đoàn thể chính là ở khả năng tập hợp quần chúng, hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho quần chúng. Muốn vậy, các đoàn thể phải đổi mới. Hoạt động của các đoàn thể phải năng động, nhạy bén với những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống, khắc phục bệnh quan liêu, giản đơn và khô cứng trong tổ chức và trong sinh hoạt. Mở rộng các hình thức tổ chức theo nghề nghiệp, theo nhu cầu đời sống và sinh hoạt văn hóa để thu hút đông đảo quần chúng vào các hoạt động xã hội, chính trị. Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý.*

 

Quá trình hình thành đường lối đổi mới hệ thống chính trị thể hiện ở nhận thức đúng đắn của Đảng:

Thứ nhất, nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị. Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Phải tập trung đổi mới kinh tế trước hết vì có đổi mới thành công về kinh tế mới tạo được điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị - xã hội và tiến hành đổi mới hệ thống thuận lợi. Mặt khác, nếu không đổi mới hệ thống chính trị thì đổi mới kinh tế sẽ gặp trở ngại. Hệ thống chính trị được đổi mới kịp thời, phù hợp sẽ là điều kiện quan trọng để thúc đẩy đổi mới và phát triển kinh tế. Như vậy, một cơ sở của đổi mới hệ thống chính trị là yêu cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, nhận thức về mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) khẳng định "Toàn bộ tồ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân". Báo cáo chính trị tại Đại hội VII (1991) chỉ rõ, thực chất của công việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới.

Thứ ba, nhận thức mới về đấu tranh giai cấp và về động lực chủ yếu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Đại hội IX cho rằng: "Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lới về kinh tế xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp  là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp câng nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, chống bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực; sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

Động lực chủ yếu phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở lien minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa vói lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.

Thứ tư, nhân thức mới về cơ cấu và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Trong đó, Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị vừa là "hạt nhân" lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến Pháp và Pháp luật. Nhà nước Pháp quyền của xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Nhà nước có chức năng thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phản biện, giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội, làm chủ thông qua cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"; làm chủ thông qua hình thức tự quản.

Thứ năm, nhận thức về xây dựng nhà nước Pháp quyền trong hệ thống chính trị. Trong đổi mới tư duy về hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới tư duy về Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Thuật ngữ "xây dựng nhà nước Pháp quyền" lần đầu tiên được đề cập tại hội nghị Trung ương 2 khóa VII (1991). Đến hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), Đảng đã khẳng định phương hướng xây dựng nhà nước Pháp quyền Việt Nam. Đại hội VIII, IX và X của Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và làm rõ thêm nội dung của nó. Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến Pháp và Pháp luật. Pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội. Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền tự do sống và làm việc theo khả năng và sở thích cùa mình trong phạm vi Pháp luật cho phép.

Thứ sáu, nhận thức mới về vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị. Trong đổi mới tư duy của Đảng về hệ thống chính trị thể hiện ở nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò và phương thức lãnh đạo của Đảng. Đảng cộng sản cầm quyền là Đảng lãnh đạo nhà nước chứ không làm thay nhà nước. Đảng quan tâm xây dựng, củng cố nhà nước, phát huy vai trò của nhà nước trong quản lý, điều hành xã hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế.

Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta đã có nhiều đổi mới góp phần xây dựng và từng bước hoàn thiện về dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng hướng về cơ sở. Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong các khóa đã có nhiều đổi mới theo hướng phát huy dân chủ, cải cách hành chính, công khai các hoạt động của chính quyền, tăng cường đối thoại, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Dân chủ trong xã hội có bước phát triển. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên.

Đổi mới hệ thống chính trị đã khắc phục dần những khuyết điểm, nhược điểm của hệ thống chuyên chính vô sản trước đây, đước đầu đáp ứng những yêu cầu của tình hình mới.

Đổi mới hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu chuyển đổi từ kinh tế tập trung quan lieu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, thúc đẩy xã hội phát triển, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ trong xã hội có bước phát triển, trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên.

Tạo tiền đề cần thiết để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội.

Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước được phân định rõ hơn, phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh. Nhà nước từng bước được kiện toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động trên các lĩnh vực lập Pháp, hành Pháp và tư Pháp. Những quan điểm của Đảng về nhà nước đã được thể chế hóa trong Hiến Pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và trong các đạo luật cụ thể. Quản lý nhà nước bằng Pháp luật được tăng cường.

Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội đã có nhiều đổi mới về tổ chúc, bộ máy; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức để tập hợp ngày càng đông đảo các tẩng lớp nhân dân; phát huy dân chủ; chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền; hướng mạnh hoạt động về cơ sở, bước đầu thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội.

Đảng đã thường xuyên coi trọng việc xây dựng, chỉnh đốn, giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong điều kiện mới. Phương thức thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, phong cách công tác có nhiều đổi mới và tiến bộ; dân chủ trong Đảng được phát huy, quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố.

 

Tóm lại, hơn 20 năm qua, hệ thống chính trị đã thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng, đặc biệt quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa được phát huy. Các kết quả đạt được đã khẳng định đường lối đổi mới nói chung, đường lối đổi mới hệ thống chính trị nói riêng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, bước đầu đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, khắc phục dần những khuyết, nhược điểm của hệ thống chuyên chính vô sản trước dây. Kết quả đổi mới hệ thống chính trị đã góp phần làm nên thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở nước ta.

 

LƯU Ý: Em viết câu hỏi chưa chính xác, cô đã sửa lại

Chưa nêu được vai trò của HTCT trong sự nghiệp XD và bảo vệ Tổ quốc:

- HTCH vừa bảo đảm quyền lợi của giai cấp cầm quyền, vừa bảo đảm quyền lợi chung cuả toàn XH

- HTCT giữ vai trò quyết đinh trong việc huy động tối đa, phát huy và sử dụng có hiệu quả sức mạnh của cả dân tộc vào việc thực hiện nhiệm vụ CM trong từng giai đoạn

- Vai trò của HTCT trong sự nghiệp XD và bảo vệ Tổ quốc được thể hiện qua vai trò của từng thành tố trong HTCT:

+ Vai trò của Đảng (từ khi thành lập đến nay)

+ Vai trò của Nhà nước (từ khi ra đời đến nay)

+ Vai trò của MTTQVN và 5 tổ chức ctrị-xh (...): từ khi ra đời đến nay

-----hết---

Câu 12) Tại sao nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.

Khái niệm văn hóa hiểu theo nghĩa rộng: "văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước". Theo nghĩa hẹp "văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội"; "văn hóa là các hệ giá trị, truyền thống, lối sống"; "văn hóa là năng lực sáng tạo" của một dân tộc; "văn hóa là bản sắc" của một dân tộc, là cái phân biệt dân tộc này với dân tộc khác...

Từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng đã hình thành từng bước nhận thức mới về đặc trưng của nền văn hóa mới mà chúng ta cần xây dựng; về chức năng, vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.

Cương lĩnh 1991 (được Đại hội VII thông qua) lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có đặc trưng là: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thay cho quan niệm nền văn hóa Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa, có tính chất dân tộc, có tính Đảng, tính nhân dân đã được nêu ra trước đây.

Đại hội VII, VIII, IX, X và nhiều nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Đây là một tầm nhìn mới về văn hóa phù hợp với tầm nhìn chung của thế giới đương đại.

*Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996) khẳng định: khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó, phải coi sự nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình phát triển văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (1/2004) xác định thêm "phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển kinh tế". Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (7/2004) đặt vấn đề bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Đây chính là bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về vị trí của xã hội và công tác văn hóa trong quan hệ với các mặt công tác khác.

Hội nghị Trung ương 10 khóa IX đã nhận định về sự biến đổi của văn hóa trong quá trình đổi mới. Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ hóa đời sống xã hội. Do đó, phạm vi, vai trò của dân chủ hóa - xã hội hóa văn hóa và của cá nhân ngày càng tăng lên và mở rộng là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công tác văn hóa của Đảng và Nhà nước.*

Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển văn hóa chỉ ra rằng: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm này chỉ rõ chức năng, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển xã hội.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:

Theo ý kiến của nguyên Tổng giám đốc UNESCO: văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.

Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội - vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng; được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ; được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc (ví dụ: cấu trúc này ở Việt Nam là cấu trúc Nhà - Làng - Nước) đồng thời nó tác động hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội - văn hóa (bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể).

Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua sóng gió và thác ghềnh để tồn tại và không ngừng phát triển.

Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ. Biện Pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phường xã văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa;  nêu gương người tốt việc tốt.

Văn hóa là một mục tiêu của phát triển:

Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" chính là mục tiêu văn hóa.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 xác định "Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người". Đồng thời nêu rõ yêu cầu "tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường". Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa - xã hội mới bảo đảm phát triển bền vững.

Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển là vấn đề bức xúc của mọi quốc gia. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các nước độc lập dân tộc đang tìm con đường dẫn tới ấm no, hạnh phúc thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lất át mục tiêu văn hóa và thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình, chính sách phát triển của nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con đường công nghiệp hóa.

Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:

Khi xác định mục tiêu, giải Pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và hướng tới mục tiêu giải Pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn hóa trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hóa, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phải có chính sách kinh tế trong văn hóa để gắn văn hóa với hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa. Xây dựng chính sách văn hóa trong kinh tế để chủ động đưa các yếu tố văn hóa thâm nhập vào các hoạt động kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp, xây dựng đội ngũ doanh nhân thời hội nhập.

Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển:

Nguồn nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn, phát huy cội nguồn. Cội nguồn của mỗi quốc gia dân tộc là văn hóa.

Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra. Nển kinh tế Việt Nam hôm nay đã có bước tiến đáng kể so với thời kỳ thực hiện chế độ kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp. Nguyên nhân không phải chỉ ở sự tiến triển tự nhiên của các nhân tố kinh tế mà còn do sự đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và chế độ quản lý, còn do sự giải phóng tư tưởng và bước phát triển mới về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, cán bộ quản lý và lực lượng lao động. Nghĩa là động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hóa đang được phát huy.

Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ, là thông tin, là ý tưởng sáng tạo và đổi mới không ngừng thì một nước trở thành giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có nhiều hay ít lao dộng và tài nguyên thiên nhiên mà trước hết là có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong tri thức và khả năng sáng tạo, trong bản lĩnh tự đổi mới của mỗi cá nhân và cùa cả cộng đồng.

Nói cách khác, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng hiện thực và bền vững bấy nhiêu. Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hóa với số lượng và chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu của xã hội. Mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng hàng hóa và đồng tiền "xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản chất con người cũng như những mối liên hệ khác" dẫn tới suy thoái xã hội.

Nền văn hóa Việt Nam đương đại, với những giá trị mới sẽ là một tiền đề quan trọng đưa đất nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới.

Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn chế lối sống chạy theo ham muốn quá mức của "xã hội tiêu thụ', dẫn tới chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.

Văn hóa, nhất là văn hóa phương Đông cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống có chừng mực, hài hòa với thiên nhiên. Nó đưa ra mô hình ứng xử thân thiện giữa con người với thiên nhiên vì sự phát triển bền vững cho thế hệ hiện nay và cho các thế hệ mai sau.

LƯU Ý:  Cần tìm thêm định nghĩa về văn hóa. Định nghĩa em nêu đó là định nghĩa về văn hóa VN

-----hết-----

Câu 13) Từ những thành tựu đã đạt được chứng minh chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội là đúng đắn và kịp thời.

     Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những chủ trương, giải Pháp lớn nhằm phát triển kinh tế - xã hội của Đảng trong thời kỳ đổi mới. những vấn đề xã hội Đảng ta quan tâm bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội như: dân số và nguồn nhân lực, lao động và việc làm, giáo dục và y tế, đạo đức và văn hóa, an ninh và an toàn xã hội của đời sống cá nhân và cộng đồng.

Trước thời kỳ đổi mới: (Từ 1945 đến 1954) Ngay sau cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong những năm thực hiện nhiệm vụ "kháng chiến, kiến quốc", chính sách xã hội của Đảng được chỉ đạo bởi tư tưởng: "Chúng ta giành được độc lập tự do rồi mà dân ta cứ chết đói, chết rét, thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ". Do đó, chính sách xã hội cấp bách lúc này là làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, dân được học hành. Tiếp sau đó là làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm. Chủ trương này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và đạt được những hiệu quả thiết thực.

Trong mô hình Dân chủ nhân dân: Chính phủ có chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân chủ động và tự tổ chức giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình. Chính sách tăng gia sản xuất (nhằm tự cấp tự túc), chủ trương tiết kiệm, đồng cam cộng khổ trở thành phong trào rộng rãi từ cơ quan chính phủ đến bộ đội, dân chúng, được coi trọng như đánh giặc. Khuyến khích mọi thành phần xã hội phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Thực hiện chính sách điều hòa lợi ích giữa chủ và thợ.

Giai đoạn 1955 - 1975:Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, trong hoàn cảnh chiến tranh. Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp tràn lan dựa vào viện trợ.

Giai đoạn 1975 -1985:Các vấn để xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô lập và cấm vận.

Bước vào thời kỳ đổi mới:Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986), lần đầu tiên Đảng nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách xã hội, đặt rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội đối với chính sách kinh tế và chính sách ở các lĩnh vực khác. Đại hội cho rằng trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế. Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm... Do đó, cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài phù hợp với khả năng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.

Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở chỗ đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) nêu rõ hệ thống chính sách xã hội phải được hoạch định theo những quan điểm sau đây:

   Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.

    Thực hiện nhiều hình thức phân phối.

     Khuyến khích làm giàu hợp Pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.

     Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa.

Đại hội đại bieeir toàn quoovs lần thứ  IX của Đảng (tháng 4-2001) chủ trương các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp Pháp.

Đại hội X của Đảng chủ trương phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương.

Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế, hội nghị Trung ương 4 khóa X (1/2007) nhấn mạnh phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với WTO. Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo định kỳ về tác động của việc gia nhập WTO đối với lĩnh vực xã hội để có biện Pháp xử lý chủ động, đúng đắn, kịp thời.

Trên cơ sở nhũng định hướng đó, Đảng dảng đã khẳng định một số quan điểm chỉ đạo việc kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ. Coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con người (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.

        Đảng chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội với các nội dung sau:

Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo Pháp luật, thực hiện có hiệu quả mục tiêu xóa đói giảm nghèo.Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển. Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư bằng tài năng, sáng tạo của bản thân trong khuôn khổ Pháp luật và đạo đức cho phép. Xây dựng và thực hiện có kết quả cao chương trình xóa đói giảm nghèo; đề phòng tái đói, tái nghèo; nâng cao dần chuẩn đói nghèo khi mức sống chung tăng lên.

Hai là, bảo đảm cung úng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm ở trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội. Đổi mới chính sách tiền lương; phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp lý.

Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả. Hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; quan tâm chăm sóc y tế tốt hơn đối với các đối tượng chính sách; phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, các dịch vụ y tế ngoài công lập.

Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện giống nòi. Quan tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản. Giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi, kiên trì phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội.

Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Giảm tốc độ tăng dân số, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bảo đảm bình đẳng giới, chống nạn bạo hành trong quan hệ gia đình.

Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội. vận động taonf dân tham gia các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhơ nguồn đối với các lão thành cách mạng, người có công với đất nước, người hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già neo đơn không nơi nương tựa. Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang thang.

Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng. Phát trển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ công cộng, nâng cao năng lực quản lý nhà nước.

Sau 20 năm đổi mới chính sách xã hội, nhận thức về vấn đề phát triển xã hội của Đảng và nhân dân ta đã có những thay đổi có ý nghĩa bước ngoặt quan trọng.

    Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể, trông chờ viện trợ đã chuyển sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư.

    Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu tượng; thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân - cào bằng đã từng bước chuyển sang thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực khác nhau vào sản xuất - kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy, công bằng xã hội được thể hiện ngày một rõ hơn.

   Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ tương tác với chính sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội.

   Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm.

   Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp Pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo, coi việc có một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển.

   Từ chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội "thuần nhất" chỉ còn có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đã đi đến quan niệm cần thiết xây dựng một cộng đồng xã hội đa dạng, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh.

LƯU Ý: Cần lấy dẫn chứng để chứng minh cho những thành tựu đạt được:

VD: hàng năm giải quyết được bao nhiêu việc làm cho người lao động, chăm soc sức khỏe cho ND, chỉ số HDI, chính sách DSKHHGĐ, công tác đền ơn đáp nghĩa, quan tâm đến những người tàn tật, nạn nhân chất đọc dacam...

-----hết-----

 

Câu 14) Đường lối đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ đổi mới và thành tựu.

 

Qua trình toàn cầu hóa tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước, do đó bên cạnh những cơ hội to lớn, đất nước ta còn phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng và nhà nước ta tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".

Lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo them nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp đẻ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới và hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm:

Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.

Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.

Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập.

Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hoà bình, hợp tác với khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu.

Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tês quốc tế là công việc của toàn dân.

Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tếđộc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nưởctong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tanưg cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế

Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá X (2-2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn như:

Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trât tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi dianh nghiệp Việt Nam tranh các cuộc tranh chấp thương mại với các nước khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ động và tichá cực xác định lộ hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng những ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng phải hội nhập từng bước, dần dând mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý.

Bổ sung và hoàn thiện hệ thống Pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO: bảo đảm tính đồng bộ của hệ thông sPháp luật; đa dnạg hoá các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các sắc thuế công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước: Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đẩy mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý.

Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp điều chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng dắn chiến lược sản phẩm và thị trường; điều chỉnh quy hoạch phát triển, nhanh chóng có biện Pháp nâng cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm.

Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập; xây dựng cơ chế kiểm soát và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá không lành mạnh, gây phương hại đến đến sự phát triển đất nước, văn hoá và con người Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá tiên tiến trong quá trình giao lưu với các nền văn hoá bên ngoài.

Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế; đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo; có các biện Pháp cấm, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có các phương án chống lại âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.

Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoai: Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi.

Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách hành chính.

 

Hơn 20 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế, nước ta đã đạt được những kết quả có ý nghĩa lịch sử :

Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việc tham gia ký Hiệp định Pải (23-10-1991) về một giải Pháp toàn diện cho vấn đề Camphuchia, đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (10-11-1991); tháng 11-1992 Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam; bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ (11-7-1995). Tháng 7-1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nước ta với khu vực Đông Nam Á.

Hai là, giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan. Đã đàm phán thành công với Malaixia về giải Pháp "gác tranh chấp, cùng khai thác" ở vìng biển chồng lấn giữa hai nước. Thu hẹp diện tranh chấp vùng biển giữa ta và các nước ASEAN. Đã ký với Trang Quốc: Hiệp ước về phân định biên giới trên bộ, Hiệp định phân Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác về nghề cá.

Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ chínhthức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tất cả các nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. Đã ký Hiệp định khung về hợp tác với EU (1995); năm 1999 ký thoả thuận với Trung Quốc khung khổ quan hệ " Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai"; tháng 5-2008 thiết lập quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt Nam - Trung Quốc; ngày 13-7-2001, ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ; tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược với Nga (2001); khung khổ quan hệ đối tác tin cậy và ổn định lâu dài với Nhật Bản(2002).

Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 169 nước trên tổng số hơn 200 nước trên thế giới. Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009.

Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); sau khi gia nhập ASEAN ( AFTA); tháng 3-1996, tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; tháng 11-1998, gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác châu Á - Thái Bình Dương (APEC); ngày 11-1-2007, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Năm là, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quản lý.

Về mở rộng thị trường: Nước ta đã tạo dựng được quan hệ kinh tế thương mại với trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 74 nước áp dụng quy chế tối huệ quốc; thiết lập và ký kết hiệp định thương mại hai chiều với gần 90 nước và vùng lãnh thổ. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất kẩu chỉ đạt 789 triệu USD, đến năm 2007 đạt 48 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng 62,9 tỷ USD. Việt Nam đã thu hút được khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Năm 2007, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng 65 tỷ USD.

Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.

Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh. Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Tư duy làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ các nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.

Những kết quả trên có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài kết hợp với các nguồn lực trong nước hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn. Góp phần giữ vững và củng cố độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc; nâng cao vị thế và phát huy vai trò nước ta trên trường quốc tế.

Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế những năm qua dưới chủ trương đường lối của Đảng đã đạt được những thành tựu cơ bản, có ý nghĩa quan trọng. các thành tựu đó đã chứng tỏ đường lối đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, nhà nước trong thời kì đổi mới là đúng đắn và sáng tạo.

LƯU Ý: Tìm thêm những thành tựu về đối ngoại từ 2007 - 12/2010

-----hết-----

Câu 15. Những thắng lợi cá ya ngiã trọng đại của CMVN trong h[n 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tám mươi năm qua dưới sự lãnh dạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, sự nghiệp Cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử mang tính thời đại. Từ một nước thuộc địa nửa thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng mở, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ Đất nước, làm chủ Xã hội. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu nay Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Những thắng lợi của Cách mạng Việt Nam trong 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện qua 3 thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử.

Thứ nhất, Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền Cách mạng tháng Tám (1945).

Ngay từ khi mới ra đời với đường lối Cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quy tụ đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng Cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn Phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Qua 1 lăm năm lãnh đạo trải qua đấu tranh gian khổ hy sinh, Đảng từng bước vận động, giáo dục quần chúng, qua ba cao trào lớn (1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945) như ba cuộc tổng diễn tập với khí thế Cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng đã lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa Tháng tám năm 1945 thành công trọn vẹn.

Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát tồn tại gần một thế kỷ.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước của nhân dân, do dân và vì dân. Dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do dân chủ nhân dân tiến lên xã hội chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết chẳng những giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử Cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền, toàn quốc.

Thứ hai, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chốn thực dân Pháp (1945 - 1954) và đế quốc Mỹ (1954 - 1975).

Chống thực dân Pháp (1945 - 1954)

Ngay từ khi mới ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã bị các nước đế quốc và các thế lực phát động trong và ngoài nước chống phá quyết liệt. Chưa bao giờ trên đất nước Việt Nam có nhiều quân đội nước ngoài chiếm đóng như vậy (Tưởng, Pháp, Nhật, Anh và sự can thiệp Mỹ). Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà nước Việt Nam như "Ngàn cân treo sợi tóc". Song, Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn toàn diện, trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch, Đảng thực hiện chính sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn phân hóa chúng giành thời gian củng cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối, chính sách sáng suốt, và cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm tưởng như không qua được, củng cố, giữ vững chính quyền đưa Cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống  thực dân Pháp.

Bất chấp nguyện vọng của nhân dân Việt Nam và mặc dù Chính phủ Việt Nam đã nhân nhượng, nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam lần nữa.

Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách gay gắt mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của Tổ Quốc. Đêm 19/12/1945 Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn Quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Hồ chủ tịch, nhân dân cả nước đã quyết tâm "thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất Nước, không chịu làm nô lệ". Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đảng đã lãnh đạo  nhân dân vượt qua mọi khó khăn giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Chiến thắng Điện Biên Phủ (5/1954) mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam nhưu một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, báo hiệu sự suy sụp hoàn toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ "lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó àm sáng tỏ một chân lý". Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đáng Mác Lênin để giành độc lập và dân chủ thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chúng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối Cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù giành tự do dân tộc.

Chống đế quốc Mỹ (1954 - 1975)

Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới, đất nước tạm thời chia làm 2 miền với 2 chế độ chính trị xã hội đối lập nhau. Con đường phát triển tất yếu của Cách mạng Việt Nam như Đảng xác định là tiến hành đồng thời hai hiệm vụ chiến lược.

Một là, tiến hành Cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của Cách mạng cả nước.

Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.

Tuy mỗi miền thực hiện một chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó Cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của Cách mạng Việt Nam. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam  giữ vị trí quan trọng có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Nhân dân cả nước tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với tinh thần "không có gì quý hơn độc lập, tự do" quyết "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào".

Trong cuộc đối đầu này, đế quốc Mỹ với một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Song, trải qua 21 năm dưới  sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu kiên cường, cùng với sự ủng hộ của lực lượng tiến bộ thế giới, đã lần lượt đánh thắng các cuộc chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, với thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội.

Thắng lợi oanh liệt Mùa Xuân 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, chấm dứt thực dân cũ và mới trên Đất nước Việt Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước bảo vệ thành quả của Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc, mở ra bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, mở ra thế kỷ mới, thời kỳ độc lập thống nhất đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội trên phạm vi cả nước.

Thứ  ba, Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN (1975 - 2010).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975 - 1985) Cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn trở ngại, thu được những thành tựu nhất định. Nhân dân ta đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ vững chắc tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa trên các lĩnh vực Kinh tế - Văn hóa - Xã hội nhân dân Việt Nam đã có những cố gắng lớn, đáng chú ý là công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân. Tuy nhiên những thành tựu về kinh tế - xã hội còn thấp so với mục tiêu đề ra và công sức bỏ ra, nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng, công cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng gay gắt và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sai nói rõ sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12 - 1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, nhìn lại những mặt đã làm được và chưa làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặc trong công cuộc xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam.

Đường lối xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, phát huy các thành phần kinh tế, giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, thực hiện chính sách mở cửa, hợp tác và tranh thủ các nguồn lực trong nước và quốc tế, đổi mới nội dung và phương Pháp lãnh đạo của Đảng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm quốc phòng - an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.

Đến Đại hội VII (6/1991), trước bố cảnh mô hình Chủ Nghĩa Xã Hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ hống Xã Hội Chủ Nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đảng ta đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tên lên Chủ Nghĩa Xã Hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển của đất nước và chiến lược phát triển kinh tế - Xã hội đến năm 2000, khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác Lênin nền tảng tư tưởng và kim chỉ nan cho hoạt động của Đảng ta. Nêu lên mô hình chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng là: Do dân lao động làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa vào tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công làm theo năng lực, hướng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện có nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Đến Đại hội VIII và Đại hội IX, chúng ta tiếp tục phát triển tư duy lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam, nhận thức ngày càng cụ thể và sâu sắc hơn vì tư tưởng Hồ Chí Minh, vì xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong  tình hình mới, về xây dựng nền văn hoá, về hội nhập kinh tế quốc tế và về vấn đề đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.

Nhìn lại chặng đường phát triển của cách mạng Việt Nam trong gần tám thập kỷ qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ nghĩa Việt Nam đã giành được những thắnglợi, thành tưu rất vẻ vang. Tuy nhiên, Đảng cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sơm phát hiện những sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những biện Pháp sữa chữa đúng đắn, kịp thời. Dảng đã công khai tự phê bình nhận khuyết điểm trước dân, quyết tâm sữa chữa và sữa chữa có hiệu quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin cậy thừa nhận Đảng là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chấn chính duy nhất của cả dân tộc. Thực tiễn, lịch sử đã chứng minh ở Việt Namngoài Đảng cộng sản không lực lượng nào có đủ sức lãnh đạo cách mạng.

LƯU Ý: thắng lợi thứ 3, em nêu (XD CNXH và bvệ Tổ quốc VN XHCN) có thể thay bằng Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới.

Em tìm thêm thành tựu của công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa-XH, đối ngoại...để bài làm thuyết phục hơn

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #lemon