Chương 1: Bầu trời đơn sắc
Chương 1: Bầu trời đơn sắc"Trời ơi tôi ghét mùa hè.
Đó là những suy nghĩ của tôi khi tôi ngồi nướng trên sân ga bê tông, cầu nguyện chuyến tàu của tôi sẽ đến sớm để ban cho cho tôi sự giải thoát ngắn ngủi khỏi cái nóng giữa buổi sáng. Mới chỉ đầu tháng 7, nhưng cảm giác như bước vào phòng xông hơi mỗi khi tôi bước ra khỏi cửa trước. Cái nóng và độ ẩm thiêu đốt đã đủ khốn khổ rồi nhưng thêm vào đó là tiếng kêu bất tận của lũ ve sầu và nó đủ đẻ khiến việc đi học vào buổi sáng của tôi thành một hình thức tra tấn bệnh hoạn. Đúng lúc tôi nghĩ rằng mọi thứ không thể tệ hơn được nữa, một thông báo nghẹt vang lên từ loa phát thanh duy nhất của nhà ga.
"E hèm, xin chú ý tất cả hành khách. Chúng tôi rất tiếc phải thông báo rằng chúng tôi đang gặp phải sự chậm trễ đáng kể vì va chạm bất ngờ với một con hươu. Chúng tôi vô cùng xin lỗi vì sự bất tiện này, vì chúng tôi biết thời gian của bạn rất quý giá, nhưng mong bạn hãy kiên nhẫn khi chúng tôi đang giải quyết tình hình..."
Chiếc loa cũ rỉ sét phát ra tiếng lạch cạch của tĩnh điện tại chô đặt loa trên đỉnh một cột điện gần đó khi thông báo bị cắt.
"Ugh, không phải lần nữa chứ" Tôi rên rỉ
Chuyện tương tự đã từng xảy ra vào tháng trước, chỉ khác ở chỗ lần trước là lợn rừng thay vì hươu.Chỉ có một bộ đường ray chạy qua nhà ga đổ nát, nhìn thẳng ra đại dương mênh mông. Tất cả những gì nằm ở phía đât liền của nhà ga là rừng rậm và một con dốc đứng. Vì vậy đây là một trong số ít nhà ga thực sự xa xôi còn lại trong tỉnh vẫn chưa được cải tạo, nên nơi này trở thành điểm đến khá phổ biến đối với những nhà thám hiểm muốn mạo hiểm ra khỏi con đường mòn. Thật không may, tình trạng xuống cấp của tuyến đường sắt cũng có nghĩa là những sự chậm trễ như thế này xảy ra tương đối thường xuyên. Không phải là tôi thường bận tâm đến việc đi học muộn bất kỳ thời điểm nào khác trong năm, tôi sẽ rất vui nếu được miễn phí vé đi học muộn. Nhưng bây giờ, tôi sẽ thích ngồi trong lớp có máy điều hòa hơn là ngồi chịu đựng dưới cái nóng bất tận này. Sự chậm trễ do động vật hoang dã có thể kéo dài từ vài phút đến một giờ, mặc dù họ sử dụng từ "đáng kể" khiến tôi tin rằng mình sẽ kẹt ở đây ít nhất ba mươi phút nữa, dựa theo kinh nghiệm trước đó.
"Tuyệt. Tôi đoán mình sắp bị nấu chín rồi..." Tôi càu nhàu khi cuối đầu cam chịu những tia nắng gay gắt chiếu xuống gáy tôi một cách không thương tiếc.
Tôi nhấc tay áo sơ mi cài cúc áo lên và lau một dòng mồ hôi nhỏ giọt trên thái dương trước khi nó kịp chảy vào mắt. Bạn sẽ nghĩ rằng việc lắp đặt một khu vực chờ có mái che cùng với một chiếc điều hòa không khí sẽ không quá khó đối với họ, nhưng một lần nữa, nhà ga này thậm chí còn không có của quay tự động. Vì vậy có lẽ đó là một sự xa xỉ quá lớn. Tất cả những gì tôi có thể làm là tập tễnh đến một hay chiếc ghế dài nhỏ dưới mái che bằng gỗ để cố gắng giải tỏa cái nóng. Một trong hay chiếc ghế đã có một vài cô gái từ trường trung học của tôi ngồi, họ trò chuyện vui vẻ như thể thời tiết nắng nóng không là gì với họ.
"Chắc chắn rồi! Có vẻ như chúng ta có thể trốn lớp thể dục ở tiết đầu tiên sau tất cả"
"Ôi, những con nai tội nghiệp kia kìa..."
"Này, sự sống còn của kẻ mạnh nhất, đúng không?"
Sáng nào cũng thế, hai người này dường như chưa bao giờ ở cùng tần số cả—nhưng dựa trên tiếng cười khúc khích liên tục của họ, thì rõ rang điều này không làm họ bận tâm lắm. Tôi ngồi vào chiếc ghế đối diện và dịch xuống bang ghế càng xa càng tốt để họ không cảm thấy tôi đang xen vào cuộc nói chuyện của họ. Có vẻ như bóng râm chẳng giúp tôi mát mẻ hơn là bao, vì vậy tôi cởi cúc áo trên cùng và quạt nhẹ vào áo vài lần để lấy không khí khi dựa lưng vô ghế. Sau đó, như thể để đáp lại lời cầu nguyện của tôi, một làn gió biển dễ chịu thổi qua, tràn vào lỗ mũi tôi một mùi múi biển mặn nồng. Ngay bên kia đường ray, đất dần dần dốc xuống trước khi chạm đến bờ biển. Qua rìa vách đá, bầu trời xanh nhạt dần khi tiến gần đến đường chân trời mờ ảo, trong khi đó, biển lại trở nên sâu hơn, đầy đặn hơn với sắc xanh biếc. Những con song lấp lánh nhẹ nhàng dưới ánh mặt trời. Có một điều gì đó như mang tính trị liệu khi ngắm nhìn đại dương vào sáng sớm—tương tự như ngắm nhìn ánh nến lung linh mong manh hay dòng suối róc rách chảy. Đó là một trong những thứ mà bạn có thể nhìn hàng giờ liền mà không bao giờ chán, nhẹ nhàng đến mức thôi miên.Sau khi ngắm nhìn những con sóng lăn tăn một lúc, tôi quay lại nhìn lên một cột đồng hồ cao phía sau mình. Lúc đó đã là tám rưỡi. Ngay cả khi tàu chạy vào đúng lúc đó, vẫn mất khoảng hai mươi phút để đến ga dự định của chúng tôi, và các lớp học bắt đầu vào lúc mười giờ. Vì vậy, tôi đành chấp nhận thực tế là không còn hi vọng nào để đến trường đúng giờ nữa và nhắm mắt lại cố gắng chợp mắt một lát.Không lâu sau đó, một cô gái ngồi đối diện tôi đã nói điều gì đó làm tai tôi dựng đứng lên.
"Này... Cậu đã bao giờ nghe nói đến đường hầm Urashima chưa?" cô ấy hỏi bạn mình.
"Ể, cô gái kia rên rỉ. "đây không phải là một câu chuyện ma khác phải không?"
"Không, không hẳn vậy. Ý tớ là, nó là hiện tượng siêu nhiên, đúng vậy nó là kiểu huyền thoại ở thành thị"
"Một truyền thuyết đô thị đáng sợ?"
"Có lẽ là vậy"
"Không. Không đâu, không muốn nghe đâu"
"Ơ kìa, thôi nào, tớ hứa, sẽ không liên quan tới con ma nào đâu. Dù sao thì, cơ bản ý chính của nó là một đường hầm có thể ban bất kỳ điều ước nào cho những ai bước vào đó"
"Ban điều ước? Chỉ cần bước vào thôi sao?"
"Đúng vậy. Bất kỳ ước muốn nào."
"Hể... Và thế là hết à?"
"Không, nhưng cậu thấy đấy đây là lúc mà mọi chuyện trở nên hơi đáng sợ... Vậy thì, giống như, cậu đã đạt được những mong ước của mình thì cậu sẽ sẵn sang trở về nhà đúng không? Nhưng đường hầm Urashima sẽ không để cậu rời đi dễ dàng như vậy. Nó luôn lấy đi thứ gì đó từ cậu để đổi lại"
"Và đó là thứ gì?"
"Nhiều năm. Nhiều năm nữa trong cuộc đời cậu. Khi bước vào cậu vẫn ở tuổi thiếu niên, nhưng khi trở về cậu sẽ là một bà lão nhăn nheo"
"À... Vậy thì kiểu cậu có muốn đánh đổi tất cả những năm tháng đẹp nhất trong cuộc đời để trở thành một tỷ phú hay gì đó không?"
"Đúng vậy, chính xác!"
"Trời ơi, nghĩ thôi cũng đã thấy sợ."
"Thấy chưa, tớ đã nói rồi mà!"
Hai cô gái nói chuyện phiến với nhau
"Ôi trời, nói đến ma quái, tớ đã thấy con nhện to đùng này trong phòng tớ hôm qua!"
"Ew, thật đấy à?"
"Vâng, tớ đã nhờ ông của mình vào và xử lí nó bằng một tờ báo."
"Haha, ông của cậu ngầu thật đấy."
"Đúng ông ấy tuyệt lắm"
"Bỏ qua chủ đề đó, Nhưng mình đã thò tay vào thùng tái chế để lấy ra một bài báo mà mình thấy thú vị trong số những bài đã bị bỏ đi, cứu nó khỏi bị xé nát, rồi lại gấp nó lại để xem lại một lần nữa."
Đường hầm Urashima: một lối đi bí ẩn khiến tất cả những ai bước vào đó già đi một cách đáng kinh ngạc, nhưng lại ban cho họ bất kỳ điều ước nào để đáp lại. Đây là lần đầu tiên tôi nghe truyền thuyết đô thị đặc biệt này, mặc dù tôi có thể biết chỉ từ tên và thời gian, rằng nó dựa trên câu chuyện về Urashima Taro. Trong khi "ban cho mọi điều ước" là một câu sáo rỗng khá nhàm chán đối với những câu chuyện như thế này, thì phần "già đi nhanh chóng" ít nhất cũng khá độc đáo. Tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó đi vào đường hầm đó và muốn trẻ lại. Liệu nó có gian lận hệ thống, hay họ chỉ đơn giản là trẻ lại trong chốc lát trước khi biến thành một lão già ngay khi họ bước ra ngoài? Nếu họ muốn có nguồn huyết thanh trẻ hóa vô tận mà họ có thể mang theo bên mình thì sao? Hay là sự bất tử? Ừ, mấy cái này đúng là mời gọi người ta tìm cách lách luật mà, tôi tự nghĩ khi mở mắt ra và thấy rằng chuyến tàu cuối cùng đã đến. Tôi liếc nhìn đồng hồ - đã muộn ba mươi lăm phút. Nhưng nhờ chợp mắt một lát trong lúc suy nghĩ vẩn vơ về những điều thú vị, tôi không cảm thấy lâu như vậy chút nào. Không có máu hay bất cứ thứ gì ở phía trước tàu có thể cho thấy rằng nó đã cán qua một con hươu; nó trông giống như mọi khi. Tôi lên tàu qua cửa sau và thở phào nhẹ nhõm khi hệ thống điều hòa không khí nhân từ làm mát cơ thể rám nắng của tôi từng centimet một. Ngay khi tôi ngã ngửa ra sau vào chiếc ghế mở gần nhất, cửa khí nén khò khè đóng lại, và tàu lại khởi hành đến đích.
"Cảm ơn bạn đã chọn đi cùng chúng tôi hôm nay. Chúng tôi muốn gửi lời xin lỗi chân thành nhất đến tất cả hành khách, vì vậy hãy lắng nghe thật kỹ đến thông báo sau đây..."
Khoan đã, tôi chợt nghĩ vẩn vơ khi tiếng loa vang lên với lời xin lỗi soạn sẵn từ trước của nhà tàu. Chẳng phải hôm nay chúng ta sẽ có học sinh chuyển trường mới sao?Trường trung học Kozaki chỉ cách ga gần nhất một quãng ngắn, và hầu như tất cả những ai sống quanh đây đều học ở đó, trừ mấy người học quá giỏi hoặc quá kém. Dù nằm ở vùng hẻo lánh, nó vẫn là một trường trung học bình thường như bao trường khác. Đúng là tòa nhà cần được tu sửa, và thỉnh thoảng cũng có cáo hay lửng Nhật xuất hiện trên sân thể thao, nhưng ngoài mấy chuyện đó ra thì chẳng có gì đặc biệt cả.Sau khi thay giày ở lối vào, tôi đi thẳng đến lớp 2-A. Tôi đến đúng lúc giờ chuyển tiết, nên việc thấy nhiều học sinh đứng trò chuyện ngoài hành lang cũng không có gì bất thường. Nhưng khi lên đến đầu cầu thang và rẽ vào góc hành lang, tôi hơi bất ngờ khi thấy một đám đông khá lớn tụ tập ngay bên ngoài lớp mình. Ban đầu, tôi tự hỏi liệu có ai đó làm vỡ cửa sổ hay vừa xảy ra một vụ đánh nhau. Nhưng rồi một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi, và tôi nhận ra có lẽ mọi người chỉ đến để xem học sinh chuyển trường mới. Giáo viên của chúng tôi đã nhắc đến việc sẽ có một "nữ sinh mới trong lớp," nên việc có vài người tò mò cũng là điều dễ hiểu. Nhưng tôi đoán chắc cô ấy phải khá xinh thì mới thu hút được nhiều sự chú ý đến thế. Tôi chen qua đám đông tò mò và bước vào lớp. Và ngay khi vừa vào trong, tôi đã thấy cô ấy.Trong chiếc váy yếm cổ điển sang trọng, cô ấy trông rạng rỡ hẳn lên so với những cô gái khác trong lớp, tất cả đều mặc đồng phục kiểu thủy thủ theo quy định. Tôi đoán là nhà trường chưa kịp chuẩn bị đồng phục cho học sinh mới, nhưng bộ đồ cô ấy đang mặc khiến cô nổi bật đến mức trông như ai đó đã cắt cô ra từ một khung cảnh khác rồi vội vàng dán cô vào đây. Phải nói thật, khuôn mặt xinh đẹp của cô cũng góp phần không nhỏ. Mái tóc dài, đen bóng khiến cô toát lên vẻ trưởng thành, nghiêm nghị, nhưng đôi mắt to tròn, như hạnh nhân lại làm dịu đi nét nghiêm túc ấy. Cách cô chăm chú vào cuốn sách trên tay, vừa đọc vừa giữ tư thế ngồi thẳng hoàn hảo, thật sự rất cuốn hút.Ai cũng công nhận rằng cô ấy xinh đẹp không thua—thậm chí có thể còn hơn—Koharu Kawasaki, người được xem là hot girl của lớp. Thế nhưng, vì lý do nào đó, cô ấy lại toát lên vẻ hoàn hảo đến mức gần như khó gần. Dù trở thành tâm điểm bàn tán khắp trường, đến giờ vẫn chưa ai đủ can đảm để bắt chuyện với cô. Mọi người có vẻ hài lòng với việc ngắm nhìn cô gái chuyển trường mới từ xa. Tôi cũng chẳng định làm chuột bạch, nên chỉ lẳng lặng đi về chỗ ngồi gần hành lang và ngồi xuống.
"Kaoru! Sao vậy, ông bạn?" một giọng nói vui vẻ cất lên từ sau lưng tôi.
"Chẳng có gì cả" tôi đáp, xoay người trên ghế để đối mặt với cậu ấy.
Đó là Shohei Kaga, bạn thân nhất của tôi trong lớp. Với dáng người cao ráo, mái tóc ngắn dựng đứng và cách nói chuyện thẳng thắn, bạn có thể dễ dàng nhầm cậu ấy là kiểu vận động viên cơ bắp điển hình. Nhưng thực tế thì cậu ấy lại là một người thích ở trong nhà với những sở thích khá "trí thức." Cậu ấy là thành viên của câu lạc bộ thư pháp của trường, và thậm chí còn thích lắp mô hình thuyền trong chai vào thời gian rảnh.
"Nghe nói tàu của mày đâm phải một con nai?"
"Ừ."
"Chà, dạo này hình như mấy vụ như thế xảy ra hoài. Tao hơi ghen tị đấy. Ý tao là, với một người đi học bằng xe riêng như tao, chẳng bao giờ được hưởng lợi từ mấy kiểu tai nạn nhỏ thế này."
"Ừ thì, thử ngồi lì ngoài trời nửa tiếng giữa mùa hè—hoặc giữa mùa đông—rồi nói xem mày còn ghen tị không."
"Ý tao là... tao cũng đâu có được bảo vệ khỏi thời tiết khi đi xe máy, mày biết mà."
"Cũng đúng," tôi gật gù.
Shohei liếc nhanh về phía cô gái mới. "...Cá là ở Tokyo họ chẳng bao giờ phải lo mấy vụ tai nạn kiểu đó."
"Có chứ. Suốt ấy."
"Thôi đi, ở Tokyo làm gì có nai."
"Nhưng đầy nhân viên văn phòng tự tử."
"...Này, mày thỉnh thoảng nói mấy thứ nghe thật bệnh hoạn đấy." Shohei nhăn mặt như thể cậu ấy chưa bao giờ thấy tôi kinh khủng hơn thế trong đời.
Nói thật thì đó có lẽ là một câu đùa khá thiếu tinh tế của tôi—dù tôi cũng chẳng thích cái cách cậu ta làm như thể tôi thường xuyên nói những thứ kiểu đó. Dù sao thì, có lẽ nên đổi chủ đề thì hơn.
"Mà này, sao chúng ta lại so sánh mình với Tokyo vậy?"
"À, vì cô Hamamoto bảo cô bạn mới chuyển đến từ Tokyo."
À. Cô Hamamoto là giáo viên chủ nhiệm của chúng tôi, một giáo viên mới được nhà trường tuyển vào năm nay. Mà phải nói rõ là cô ấy không phải kiểu giáo viên trẻ trung nóng bỏng mà mấy cậu con trai tuổi teen thường mơ tưởng đâu."Ồ, cô gái đến từ thành phố lớn à?"
"Ừ, chắc cô ấy khổ sở lắm. Thử tưởng tượng chuyển từ Tokyo ra vùng quê hẻo lánh này mà xem."
"Không đùa đâu." Tôi cười, liếc nhìn cô gái ấy thêm lần nữa. "Mày nghĩ cô ấy bị sốc văn hóa không?"
"Hả? Ý mày là gì?"
"Tao không biết, chỉ là trông như cô ấy đang tự cô lập khỏi bọn mình. Không biết có chuyện gì với cô ấy nhỉ."
"Ồ, vậy à?" Shohei bỗng hứng thú hẳn. "Cô nàng cô đơn đã lọt vào mắt xanh của mày rồi hả? Cũng chẳng trách được, cô ấy xinh vậy mà."
"Không, không phải thế. Tao chỉ tò mò thôi, chứ chẳng có gì đâu."
"À, cô ấy tên là Anzu Hanashiro, chỉ để cậu biết thôi. Và để tao nói cho mày nghe, cô ấy đúng là một người thú vị đấy," Shohei nói rồi bắt đầu kể một câu chuyện khá hài hước.
Theo lời cậu ấy, cô Hamamoto đã giải thích với cả lớp rằng cô gái mới này—Anzu Hanashiro—chuyển đến Kozaki vì lý do gia đình, và đây là lần đầu tiên cô ấy chuyển trường. Nhưng khi cô giáo yêu cầu cô ấy đứng lên nói vài lời giới thiệu bản thân, cô ấy đã đáp lại, nguyên văn là: "Không cần đâu, em ổn. Em ngồi xuống được chứ?" Shohei kể rằng cô Hamamoto đã bối rối đến mức không thốt ra nổi lời nào trước sự phản kháng bất ngờ này.Tôi cũng có thể phần nào hiểu được. Trong lúc Shohei kể câu chuyện, tôi đã thấy một bạn cùng lớp khác thử đến bắt chuyện với cô ấy, chỉ để nhận được một câu phũ phàng: "Cậu có thể đừng làm phiền không? Tôi đang đọc sách."
"Ờ thì... Cũng dễ hiểu vì sao cô ấy lại thành ra cô độc như vậy." Tôi lắc đầu, cười khẽ thở dài.
"Đáng tiếc thật... Cô ấy có thể rất dễ thương nếu thân thiện hơn chút," Shohei ngán ngẩm. "Thôi kệ. Chỉ hy vọng không ai tìm cách gây sự với cô ấy."
"Chắc không sao đâu. Trông cô ấy có vẻ cứng rắn lắm, chẳng ai chọc vào được đâu," tôi đáp.
Tôi có những việc quan trọng hơn phải lo hôm nay thay vì quan tâm đến học sinh mới; tiết sau có một bài kiểm tra. Tôi lôi sách giáo khoa toán và tập ghi chú ra khỏi cặp để học vội. Nhưng chưa kịp bắt đầu, chuông đã reo, và tiết hai bắt đầu.
Mặc dù tính cách có hơi khác người, nhưng Hanashiro-san nhanh chóng chứng minh cô ấy giỏi đáng kinh ngạc ở hầu hết mọi việc. Cô trả lời mọi câu hỏi mà giáo viên đặt ra trong chớp mắt, và trong giờ thể dục, cô còn chạy nhanh hơn cả những vận động viên xuất sắc nhất trong đội điền kinh. Thế nhưng, khi các bạn nữ khác khen ngợi thành tích của cô, cô không bao giờ khoe khoang hay tỏ ra tự mãn; cô chỉ nhìn họ bằng ánh mắt lạnh lùng, khó hiểu, như thể đang đánh giá họ vì cảm thấy những điều đó thật đáng ngưỡng mộ. Một vài bạn học gan dạ hơn đã thử mời cô tham gia câu lạc bộ hoặc đội thể thao của họ, nhưng cô từ chối tất cả bằng sự thờ ơ dứt khoát.
Nói chung, Anzu Hanashiro dường như chẳng có ý định kết bạn với bất kỳ ai ở trường, và cô dành hầu hết thời gian rảnh giữa các tiết học để đọc sách. Thông thường, kiểu người lầm lì, khác biệt như cô sẽ nhanh chóng bị chế giễu và xa lánh, nhưng những thành tích học tập và thể thao vượt trội của cô đủ để biến cô từ "kẻ lập dị kỳ cục" thành "thiên tài bị hiểu lầm" trong suy nghĩ của phần lớn bạn cùng lớp. Đến giờ ăn trưa, cô ấy đã hoàn toàn khẳng định vị trí của mình như một hình mẫu tiêu biểu cho kiểu "sói đơn độc" và hầu hết mọi người đều hài lòng để cô yên, ngưỡng mộ từ xa. Tuy nhiên, sự nổi tiếng mới có được của cô ấy lại không khiến tất cả mọi người trong lớp thấy thoải mái.
"Này, học sinh mới. Hãy ngoan ngoãn mà đi mua cho tôi một lon Cheerio Cola ở máy bán hàng dưới lầu nhé?" một giọng nói vang lên khi cô ta tiến lại gần bàn của Anzu và ném một đồng xu trăm yên lên đó.
Đó là Koharu Kawasaki—"cô gái xinh nhất lớp" như mọi người vẫn thường gọi. Với mái tóc nhuộm vàng nâu, uốn sóng lọn, ngang vai, chiếc váy ngắn đến mức không thể ngắn hơn, và đế giày trong bị dẹp hết dưới gót, cô ta hầu như là một ví dụ sống động cho mọi vi phạm quy định đồng phục của trường. Cô ta là một cô gái rất xinh đẹp, nhưng với vẻ kiêu kỳ và tính cách tự cao tự đại, cô ta chắc chắn bị tụt hạng trong mắt tôi. Thêm vào đó, với những tin đồn lan truyền trong trường rằng cô ta đang hẹn hò với một trong những kẻ côn đồ nổi tiếng nhất lớp 12, không ai dám thách thức cô ta, điều này càng khiến cái tôi của cô ta càng thêm phình to. Với một đàn anh nguy hiểm như vậy bảo vệ phía sau, ai mà không hiểu được vì sao cô ta lại giữ vững vị trí "nữ hoàng" của lớp lâu đến thế.
"Cheerio là gì vậy?" Anzu hỏi, nhìn đồng xu một cách hoài nghi.
"Gì cơ?" Koharu ngạc nhiên. "Cậu chưa từng nghe về Cheerio à?"
"Không thể nói là có."
"Thật sao... Thôi kệ. Cậu là cô gái thông minh, chắc sẽ tìm ra được."
"Một trăm yên có đủ không?"
"Đương nhiên là đủ rồi."
"Ít nhất nó có ngon không?"
"Ờ, cái đó liên quan gì đến việc này?"
"Có mùi vị khác ngoài cola không?"
"Câm miệng lại và đi đi!" Koharu hét lên, đá mạnh vào bàn bên cạnh Anzu.
Anzu không hề sợ hãi. Cô đứng dậy, không biểu cảm gì trên mặt, rồi bước ra khỏi lớp mà chẳng nói một lời.Koharu nhìn cô rời đi, rồi vênh váo quay lại bàn của mình, ngồi xuống và bắt đầu khoe khoang với đám bạn.
"Thấy chưa? Đã bảo là cô ta giả vờ mà. Chỉ cần biết cách chỉ cho cô ta thấy ai mới là chủ ở đây là được."
Chỉ vài phút sau, Anzu quay lại, trên tay là lon Cheerio Cola. Koharu ngồi đó, nở một nụ cười đầy tự mãn khi học sinh mới đi tới để giao lon nước ngọt mà cô ta đã yêu cầu. Nhưng ngay khi Anzu nhìn thẳng vào mắt cô ta, mở lon và uống cạn hết ngay trước mặt Koharu, mặt cô ta như biến sắc, miệng há hốc trong kinh ngạc. Cả lớp im lặng nhìn theo, không thể tin nổi khi cô gái mới cầm lon nước ngẩng cao, từ từ lật ngược nó lên để uống hết từng giọt cuối cùng, trước khi thở phào hài lòng và thả vành lon ra khỏi đôi môi hồng hào.
"Cảm ơn nhé. Đúng là ngon thật." Anzu đập mạnh lon nước ngọt rỗng xuống bàn của Koharu rồi quay lại bàn mình, mở lại cuốn sách như thể chẳng có chuyện gì xảy ra.
Sau một hồi im lặng kéo dài năm giây, Koharu cuối cùng không chịu nổi, nhảy dựng lên định lao về phía Anzu để dạy cho cô một bài học. Nhưng không may cho Koharu (mà may mắn cho chúng tôi), đúng lúc đó giáo viên bước vào lớp. Cô ta chỉ còn cách hậm hực quay lại bàn của mình, thở hắt ra một tiếng rồi lườm lạnh một cái. Sau đó, những tiếng xì xào bắt đầu vang lên.
"Trời ạ, có phải mình tôi thấy vậy không, nhưng cô gái mới có vẻ khá ngầu đấy chứ?"
"Chậc, tôi mà có thể dạy cho Kawasaki một bài học thì hay biết mấy."
"Cậu có thấy kỹ năng uống nước đó không?! Tôi cá là cô ấy biết cách tiệc tùng đấy."
Mặt Koharu đỏ bừng—đỏ hơn cả một lon Cheerio Cola. Thậm chí tôi cũng phải công nhận rằng việc Anzu dạy cho nữ hoàng lớp một bài học về sự khiêm tốn ngay trong ngày đầu tiên của cô ấy là rất ấn tượng.Cùng lúc đó, điều đó chỉ càng khẳng định trong đầu tôi rằng tôi sẽ chẳng bao giờ có cơ hội để làm quen với cô gái này. Có lẽ chúng tôi sẽ cùng nhau tốt nghiệp mà không nói với nhau một lời nào, và rồi trong vài tháng nữa, sẽ quên mất sự tồn tại của nhau. Cô ấy rõ ràng là một người tự do quá mức để có thể quan tâm đến một kẻ tuân thủ quy tắc nhàm chán như tôi, và tôi cũng không cảm thấy có một động lực nào đủ mạnh để muốn tiếp cận cô ấy. Những thế giới mà chúng tôi sống quá khác biệt để có thể hòa nhập với nhau. Đơn giản là vậy.Mặc dù có rất nhiều sự chú ý xoay quanh cô học sinh chuyển trường mới, phần còn lại của ngày hôm đó trôi qua chậm chạp và bình lặng như mọi khi. Khi giờ học thứ sáu kết thúc và chúng tôi cuối cùng cũng được nghỉ, tôi nhấc cặp sách lên và đứng dậy—chỉ để bị Koharu, người vẫn còn rất giận dữ, chặn lại.
"Tono," cô ta lẩm bẩm, vẻ khó chịu.
"Có chuyện gì vậy?" tôi hỏi, quay lại đối diện với cô ta.
"Mua kem cho tôi đi."
Để giải thích một chút, cô ta đang nói đến loại kem ốc quế vanilla cổ điển của thương hiệu Sentan bán ở cửa hàng học sinh. Chúng được đóng gói sẵn trong vỏ nhựa trong suốt, với một viên kem chế biến sẵn hình cầu hoàn hảo trên đầu. Thực ra, cũng chẳng quan trọng mấy.
"Và tiền đâu?" tôi đáp lại.
"Gì, cậu không nghĩ là tôi sẽ trả tiền cho nó chứ?"
Từ kinh nghiệm trước, tôi biết là không nên cãi lại cô ta về chuyện này. Dù tôi không muốn thừa nhận, nhưng cô ta đã đối xử với tôi như người sai vặt từ khi năm học này bắt đầu. Tôi vẫn nhớ rõ ngày hôm đó—tôi đang đi dọc hành lang, loay hoay với mấy chuyện của mình, thì đột nhiên cô ta hỏi tôi có thể cho cô ta mượn một trăm yên không, và tôi nghĩ cũng chẳng sao. Ngày hôm sau, cô ta lại hỏi mượn thêm một trăm yên nữa, và mặc dù tôi có phản đối, nhưng vì số tiền không lớn nên tôi cũng miễn cưỡng đồng ý. Cô ta đã nhìn tôi như một thằng ngốc từ đó, và thỉnh thoảng lại đến nhờ tôi lấy tiền hay đi mua đồ cho cô ta.Tôi không tự hào gì về việc dễ dàng bị thao túng, nhưng mỗi lần tôi cố phản đối, đám côn đồ lớp ba mà cô ta hay đi với lại nhìn tôi như thể tôi đang khiêu khích một trận đấu. Tôi chắc chắn không muốn dính và rắc rối, nên cuối cùng tôi luôn phải chịu thua.
"Được rồi, thôi thì cũng được," tôi miễn cưỡng đồng ý.
"Tốt. Giờ thì đi đi. Nhanh lên!" cô ta gọi theo khi tôi bước ra khỏi lớp để đi mua kem cho cô ta.
Tuy nhiên, khi tôi đang xuống cầu thang, có ai đó chọt vào vai tôi. Bị giật mình, tôi quay lại—nhưng chỉ là Shohei.
"Mày không thể để cô ta dễ dàng bắt nạt mình như vậy được đâu," cậu ấy nói, lắc đầu khi nhảy xuống vài bậc thang để đi ngang hàng với tôi.
"Nhìn này, tao chỉ là ở sai chỗ vào sai thời điểm thôi, được chứ? Và sau những gì đã xảy ra trước đó, tao thật sự không nghĩ rằng làm loạn với cô ta là một ý hay," tôi nói, cố gắng trêu đùa để xoa dịu tình hình.
Shohei không hề bị thuyết phục. Cậu ấy vỗ nhẹ vào lưng tôi bằng cặp sách rồi lắc đầu, khuôn mặt đầy vẻ không đồng ý. "Không đâu, bạn tôi ơi. Mày càng chiều cô ta, cô ta càng lấn tới đấy."
"Ừ, nhưng tao nghĩ mày quên mất bạn trai của cô ta rồi. Tao không muốn cô ta đi kể với hắn và đám bạn của hắn rồi bảo họ đấm tôi dọc đường về chỉ vì tao nói gì đó sai."
"Cái đó sẽ không xảy ra đâu."
"Mày không thể chắc chắn như vậy được."
"Mày thật sự nghĩ một học sinh năm cuối lại mạo hiểm bị đuổi học vì một chuyện tầm thường như vậy trong khoảng thời gian căng thẳng nhất của sự nghiệp học sinh cấp ba sao? Hắn chắc là đủ lo lắng rồi, với kỳ thi vào đại học và phải tìm việc làm nữa. Với lại, chúng ta còn không biết liệu họ có thật sự đang hẹn hò không. Theo những gì tao nghe nói, chẳng ai từng thấy họ đi cùng nhau như một cặp đôi."
"Ý mày là Kawasaki có thể để những tin đồn đó lan ra để mọi người sợ cô ta hơn hả?"
"Khó mà nói chắc chắn. Có thể cô ta là người bắt đầu chúng. Nhưng tao không nghĩ cô ta lại làm gì như vậy đâu."
Tôi cũng không thể phản đối điều đó. Cô ta thật sự rất thích cảm giác quyền lực.
"...Nhưng tao không tin cô ta lại chơi vào những tin đồn nếu chẳng có chút sự thật nào trong đó. Ý tao là, điều đó chỉ làm mọi chuyện tệ hơn cho cô ta thôi khi hắn ta biết được và làm rõ mọi thứ, phải không? Dù sao thì, đừng lo cho tao. Tao chẳng quan tâm đến việc làm ầm lên vì một khoản tiền nhỏ như vậy đâu."
Tôi thật lòng mà nói như vậy. Nếu vài trăm yên là cái giá để tôi vẫn ở phe Koharu, thì đó cũng chỉ là một cái giá quá nhỏ để trả.
Shohei lại thở dài một cách cường điệu. "Mày đúng là không có chút cứng rắn nào, đúng không?""Tao cần thứ đó để làm gì?"
"Mày không muốn thành công trong đời và bị người khác sai bảo suốt ngày sao? Đúng. Nhìn cô gái mới đến kìa, mày có thể học được vài thứ từ cô ấy đấy."
"Chắc cái kiểu cứng đầu đó sẽ chỉ gây ra rắc rối thêm thôi, lâu dài còn tệ hơn. Mà đâu phải tao là người dễ bị bắt nạt gì đâu."
"Thật à? Sao mày lại nghĩ vậy?"
"Thực ra, tao đã biến cái tính không cứng rắn ấy thành cơ chế tự vệ chính của mình."
"Vậy nó bảo vệ mày như thế nào?"
"Mày thử nghĩ thế này: Mày có biết là hầu hết các cột điện thoại thực ra rỗng không? Cái đó làm cho chúng vững chắc hơn và ít bị đổ khi chịu tác động mạnh. Tao cũng vậy, bắt đầu từ việc không có gì để mất, chẳng ai có thể làm tao gãy, chỉ làm tao "uốn cong" thôi. Dù mày thấy nó ngược đời, nhưng thực ra đây là chiến lược khá cao cấp đấy."
Shohei trông rất nghi ngờ. "Mày đang đùa đúng không?"
"Đa phần là vậy đấy."
Anh ta lập tức đá vào đùi tôi.
"Ái! Được rồi, được rồi! Ngừng lại đi!" Tôi la lên, vất vả tránh được cú đá thứ hai. May là kịp. Ai cũng nghĩ cú đá vào đùi không đau lắm, nhưng mà... đau thật đấy.
"Mày phải nghiêm túc hơn với mấy chuyện này đi" Shohei nói.
"Đó là trò đùa thôi."
Tôi vẫn xoa xoa đùi, cố gắng làm dịu đi cơn đau khi chúng tôi đến cửa hàng học sinh. Tôi vội vã chạy đến tủ đông, bỗng nhớ ra rằng kem thường hết rất nhanh vào thời gian này trong năm. May mắn thay, một cây kem vani vẫn còn, cái ốc của nó nhô ra khỏi đống kem khác.
"Phù, cảm ơn trời. Được rồi, đợi tao mua cái này rồi chúng ta đi thôi." Tôi cúi xuống lấy nó ra.
"Khoan đã. Để tao xem thử."
"Hả... được thôi," tôi nói, rồi miễn cưỡng đưa kem cho cậu ta.
"Nhìn này," Shohei nói, rồi dùng một ngón tay gõ nhẹ vào đầu ốc kem. Nó lập tức gãy và vỡ trong lớp vỏ nhựa.
"Ê! Cái quái gì vậy?"
"Nhìn kìa. Hóa ra cái kiểu rỗng bên trong không phải lúc nào cũng tốt."
"Ừ, hay đấy. Mày thực sự chứng minh được điều đó với cái kem rẻ tiền này. Tốt lắm."
Tôi giật lại kem, nhìn thiệt hại.
"Ồ, tuyệt thật... Cái này sẽ chảy hết ra áo cô ấy khi cô ấy ăn..."
"Heh. Và có gì xấu đâu?" Shohei cười khúc khích.
"Mày nói thì dễ, chứ không phải mày phải giải quyết hậu quả à."
"À, đừng lo. Cô ta có thể sẽ không nhận ra cho đến khi mở ra đâu. Mà nếu có, mày cứ nói là nó như vậy khi mua. Dù sao thì tiền của mày mà—mày xứng đáng có chút lợi ích."
"Tao không chắc là tôi cần trả đũa đâu..."
"Chắc chắn mày cần đấy." Shohei quay lại nhìn tôi thẳng vào mắt.
"Mày không phải cột điện hay cái kem mềm yếu đâu. Đôi lúc phải đứng lên cho bản thân. Phải có chút cứng rắn đi! Đối đầu với cô ấy đi!"
"...Nếu cô ấy làm tôi phát điên đủ, tao sẽ làm vậy."
"Heh. Đúng rồi, đến một ngày nào đó..." Shohei thở dài dưới hơi thở.
Sau khi giao kem cho Koharu, tôi nhanh chóng rời khỏi trường. Rồi, như mọi ngày, tôi lên tàu về nhà. Việc này không tốn nhiều thời gian, tôi thường nhìn ra ngoài cửa sổ hay nghịch điện thoại, và nó kết thúc rất nhanh. Khi tàu vào ga của tôi, tôi đứng dậy đưa thẻ tàu cho người lái. Anh ta đã quen tôi rồi, chỉ là thủ tục thôi—không cần nhìn qua thẻ nữa. Tôi bấm nút MỞ bên cửa đôi rồi bước xuống tàu, và ngay lập tức lại phải đối mặt với cái nóng hầm hập và tiếng ve kêu. Không lâu sau, mồ hôi bắt đầu thấm vào áo tôi, và tôi ước có thể đi một tuyến tàu mát lạnh thẳng tới nhà.Tôi đi theo vạch trắng trên đường, cúi đầu tránh ánh sáng mặt trời chói chang. Một đoạn nữa là đến nhà tôi, chỉ cần qua một cửa hàng gạo và một trạm cứu hỏa cũ mà tôi chưa bao giờ thấy mở cửa nữa. Mới đầu hè thôi, nhưng con đường nhựa đen đã bóng loáng như gương, lấp lánh như thể có nước trên đó. Tôi nhớ một lần xem chương trình tài liệu nói rằng những ảo ảnh đường này chỉ xuất hiện khi nhiệt độ vượt qua 35 độ C. Không có gì ngạc nhiên khi trời nóng đến vậy. Lau mồ hôi trán, tôi nhìn lên trời và nheo mắt để thể hiện sự bất mãn. Nhưng thật sự, không thể nhìn lâu quá, tôi lại nhìn xuống đất. Và rồi chuyện đó xảy ra.Từ khóe mắt, tôi thấy một cô gái đứng xa xa, và tôi dừng lại, chớp mắt mấy lần để chắc chắn không phải do ánh nắng. Cô bé ấy mặc áo ba lỗ hơi rộng và quần short, làn da rám nắng, và đuôi ngựa lỏng lẻo từ mũ lưỡi trai. Dù ở xa, tôi vẫn thấy rõ đôi dép đỏ của em ấy đã cũ, càng làm nổi bật tính cách thích khám phá.
"Thấy không? Đó là nơi mưa ngừng đấy!"
Em ấy nói, quay lưng lại với tôi, chỉ tay về phía trước nơi con đường sáng bóng. Giọng em nhẹ nhàng nhưng vang lên rõ ràng trong tai tôi. Có lẽ vì tiếng ve đã im bặt. Một sự im lặng kỳ lạ bao phủ, như thể thời gian dừng lại. Em gái quay lại và nở nụ cười rạng rỡ nhất tôi từng thấy.Đó là em ấy. Karen. Em gái tôi.
"Nhìn này, anh Kaoru! Anh thấy không? Lúc nào cũng khô ráo khi chúng ta đến gần! Nhưng tôi cá là nếu chúng ta chạy nhanh đủ, vẫn còn ít nhất vài vũng nước trên mặt đất!"
Một làn sóng mạnh mẽ của cảm giác hoài niệm ập đến toàn thân tôi.Đúng rồi, tôi nhớ ra rồi. Hồi đó, chúng tôi không biết đó chỉ là ảo ảnh, nên đã cố gắng nghĩ ra một lời giải thích cho việc có những con đường ướt mưa dưới bầu trời trong xanh—một đường phân chia giữa mưa và nắng.Tôi muốn nói với em ấy. Tôi thật sự muốn. Giờ thì tôi đã là học sinh cấp ba, giải thích về ảo ảnh nhiệt chắc chắn không có gì khó khăn. Nhưng tôi không thể làm được. Cơ thể tôi cứng lại như bị tê liệt, và tôi không thể thốt ra nổi một từ. Phần duy nhất còn vận động là trái tim tôi, nó như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
"Nè, sao vậy? Sao anh cứ đứng đó?" em ấy hỏi.
"Nếu anh không đi, thì em sẽ đi trước đấy."
Karen quay lưng lại với tôi lần nữa và bắt đầu đi. Tôi cố gắng gọi em ấy lại, nhưng một lần nữa, lời nói không thể thoát ra. Những âm thanh duy nhất tôi có thể phát ra từ cổ họng khô khốc là vài hơi thở gấp gáp. Tất cả những lời tôi muốn hét lên—trở lại, đợi chút, đừng đi—vẫn mắc kẹt trong cổ họng tôi, quay cuồng trong một đám mây độc hại cùng tất cả những điều tôi chưa từng nói. Ngực tôi đau nhói với nỗi khao khát được thốt ra tất cả, nhưng tâm trí tôi quay cuồng quá nhanh, đến nỗi tôi không nhớ để thở, và tôi bắt đầu cảm thấy choáng váng. Chưa kịp nhận ra, Karen đã biến mất vào trong làn sóng nhiệt trên mặt đường. Một lần nữa, tôi không thể làm gì để ngăn em ấy lại.Sau đó, đột nhiên, âm thanh của những con ve lại trở lại mạnh mẽ, như thể chúng mới trở lại sau giờ nghỉ trưa. Những giọt mồ hôi mà trước đó chỉ chực rơi trên mi mắt tôi cuối cùng cũng chảy vào mắt, và tôi theo phản xạ nhắm chặt mắt lại để xua đi cái cay của muối. Tôi chạy nhanh hết sức có thể về nhà.Khi tôi về đến nhà, tôi lấy chìa khóa từ trong cặp sách và tự mở cửa. Mất một lúc để mắt tôi quen với sự tối tăm bên trong—dù có lẽ điều này là vì bên ngoài quá sáng chói chứ không phải lý do nào khác. Tôi đi thẳng lên phòng thay đồ, mặc một chiếc áo thun và quần short, rồi quay lại phòng bếp. Sau một phút hít thở và uống một cốc trà lúa mạch đá để giải khát, tôi đi ra phòng khách kiểu truyền thống. Phòng khá khiêm tốn—chỉ có tám chiếu tatami tổng cộng—với ít đồ trang trí, ngoài một cuộn tranh treo trên vách trong hốc tường vẽ một cảnh núi non thanh bình. Bây giờ khi mắt tôi đã quen với ánh sáng tối bên trong, nhìn ra ngoài hiên qua cánh cửa trượt cảm giác như đang nhìn vào một thế giới hoàn toàn khác—một thế giới sống động hơn nhiều so với thế giới của tôi.Tôi bước tới và ngồi xuống, chân bắt chéo trên một chiếc đệm sàn đặt trong góc phòng, ngay trước bàn thờ mà chúng tôi đã dựng lên để tưởng nhớ cô em gái Karen của tôi. Em là người em duy nhất của tôi, nhỏ hơn tôi hai tuổi, và đã qua đời cách đây năm năm sau một tai nạn bi thảm.Đó là một ngày hè nóng bức, cũng giống như hôm nay. Karen và tôi đã mang theo lồng bắt côn trùng và vợt bắt bướm, đi vào rừng gần nhà để tìm bọ. Chúng tôi đặc biệt muốn tìm bọ cánh sừng, nhưng đến tận chiều tối, vẫn chưa bắt được con nào. Không phải vì chúng tôi thực sự muốn bắt chúng, mà vì đã hứa với mẹ sẽ mang về một con to khiến mẹ phải ngạc nhiên. Cả hai đứa đều quá cứng đầu để bỏ cuộc. Vậy nên bạn có thể tưởng tượng sự vui sướng của chúng tôi khi phát hiện không chỉ một mà là hai con bọ đang ở cùng nhau trên ngọn một cây rất cao—một con bọ cánh sừng và một con bọ hươu. Chúng tôi quyết tâm làm mọi cách để bắt cả hai.
"Trung úy Karen! Chúng ta có vấn đề!" tôi hét lên, cố bắt chước giọng điệu quân đội chỉ để đùa. Karen vui vẻ nhập vai, đưa tay chào một cách nghiêm túc.
"Có chuyện gì vậy, Trung sĩ Kaoru, thưa ngài?!"
"Cái vợt của chúng ta không thể vươn tới đó!"
"Trời ơi! Lũ khốn kiếp đó thực sự dồn chúng ta vào đường cùng lần này, thưa ngài!"
Tôi không nhịn được, bật cười lớn. "Pfft! Em học cách nói như thế này ở đâu vậy?"
"Em đã nghe trên TV đó!" em ấy nói với một nụ cười tinh nghịch.
"Anh biết ngay mà." Tôi cười toe toét đáp lại.
Quả thật, hai con bọ ở quá cao, không thể với tới nếu không leo lên cây. Nhưng ngay cả việc leo cũng không khả thi, vì không có cành cây nào đủ thấp để bám vào.
"Ừ, không đời nào anh nhảy cao được vậy," tôi kết luận. "Vậy giờ làm gì đây?"
"Em nghĩ... chuyện này khá rõ ràng mà. Chúng ta chỉ cần leo lên thôi."
"Cái gì? Chuyện đó không thể. Chẳng có gì để bám vào ở đoạn thấp này..."
"Trời ạ, anh ngốc quá. Thử suy nghĩ sáng tạo chút xem!"
"Thế em có ý tưởng nào hay hơn không?"
"Có chứ! Anh nâng em lên! Như vậy ít nhất tớ có thể với tới cành thấp nhất, đúng không?"
Tôi ngước lên nhìn cành cây em ấy chỉ. Nó cách mặt đất phải tầm hai mét. "...Chuyện này có hơi nguy hiểm không?"
"Ôi, không sao đâu mà! Em là chuyên gia leo cây đấy!"
"Anh không chắc lắm đâu, Karen..."
"Nếu không nhanh lên, chúng sẽ bay mất đấy!"
Em ấy nói có lý. Đây rất có thể là cơ hội cuối cùng trong ngày. Nghĩ vậy, tôi miễn cưỡng đồng ý với kế hoạch của Karen.
"Được rồi, chúng ta thử xem sao," tôi nói. "Nhưng cậu phải cẩn thận đấy, được chứ?"
"Rồi, rồi. Nào, để em trèo lên vai anh."
Tôi quỳ xuống. Karen tháo đôi dép đỏ cũ kỹ mà em ấy rất thích, rồi trèo lên lưng tôi. Tôi giữ chặt cổ chân em ấy, đứng dậy và nâng em ấy lên gần cành cây, nơi em nhanh chóng bám được mà không gặp khó khăn gì. Karen leo từ cành này sang cành khác một cách dễ dàng, trông chẳng khác gì một con khỉ—tất nhiên tôi không nói ra điều đó, vì nghe có vẻ hơi thô lỗ. Dù vậy, tôi khá chắc chắn rằng em ấy có thể tự xoay sở từ đây, nên tôi cúi đầu xuống để cổ mình được nghỉ ngơi.Nghĩ lại, có lẽ đó chính là sai lầm chí mạng. Tôi lẽ ra không nên rời mắt khỏi em ấy, dù chỉ một giây. Phần còn lại cứ như mờ nhòa—giống như mọi thứ diễn ra trong chế độ tua nhanh. Đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng cành cây gãy trên đầu, và lập tức ngước lên. Nhưng đã quá muộn. Karen đang rơi tự do, đầu chúi xuống đất.Tôi vẫn còn nhớ rõ âm thanh rợn người khi hộp sọ của em ấy va vào mặt đất cứng.Tất cả xảy ra quá nhanh. Tôi đứng đó, choáng váng trong khoảng năm, mười giây, trước khi cuối cùng tỉnh táo lại và gọi tên em ấy. Karen đã không còn ở đó nữa. Không một giọt máu nào trên mặt đất, nhưng em ấy không còn thở nữa.Tôi không nhớ rõ chuyện gì xảy ra sau đó—chỉ biết là tôi sợ hãi kinh khủng và chạy đi nhanh nhất có thể cho đến khi tìm được một người lớn trong khu phố gần đó để giúp đỡ. Tôi không chắc chắn em ấy đã chết cho đến khi bố mẹ tôi thông báo vào ngày hôm sau—điều an ủi duy nhất là kết quả khám nghiệm tử thi cho biết em ấy chết ngay lập tức khi tiếp đất và không phải chịu đựng chút nào.Tuy nhiên, từ đó trở đi, chẳng ngày nào trôi qua mà tôi không tự hỏi mình đã có thể làm gì khác đi. Nếu tôi chỉ từ chối giúp em ấy leo lên, hoặc nói với em ấy là đã muộn và chúng ta nên về nhà, hoặc không ra ngoài bắt côn trùng hôm đó... Karen chắc chắn vẫn còn sống.Tôi ngồi lặng lẽ trước bàn thờ của em ấy một lúc, rồi thắp một cây nhang và rung chiếc chuông nhỏ, tiếp tục viết những bức thư xin lỗi cho em ấy trong đầu, những bức thư mà tôi biết chỉ có thể được gửi trả lại.Khi cảm thấy đôi chân mình sắp tê cứng, tôi đứng dậy và đi vào bếp để chuẩn bị bữa tối. Tôi cho gạo vào nồi sứ có thể tháo rời và xóc lên với nước máy để rửa sạch tinh bột, thay nước tổng cộng năm lần. Tôi luôn gặp khó khăn trong việc nhớ mình đã thay nước bao nhiêu lần, nên mẹo của tôi là chỉ dùng số ngón tay tương ứng với số lần tôi đã thay và đổ nước. Lần đầu tiên, tôi chỉ dùng ngón trỏ; lần thứ hai, tôi dùng cả ngón trỏ và ngón giữa; lần thứ ba, cả ba ngón trỏ, giữa và nhẫn—như vậy. Khi cuối cùng xong, tôi cho bát gạo vào nồi cơm điện và nhấn nút "Nấu nhanh".Hôm nay, tôi sẽ làm món salad khoai tây kiểu Đức. Sau khi lấy đủ nguyên liệu từ tủ lạnh, tôi bắt đầu thái chúng thành miếng nhỏ vừa ăn, rồi xào hành, tỏi và thịt xông khói trên bếp. Kể từ khi mẹ biến mất ngay sau cái chết của Karen, tôi đã phải đảm nhận toàn bộ công việc nấu ăn, vì bố tôi không thể nấu nổi một bữa ăn đàng hoàng. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không thể ăn đồ mang về mỗi ngày, nên đó là điều tôi phải học và làm thôi.Khi món salad khoai tây hoàn thành, tôi cho một nửa lên đĩa, bọc lại bằng màng nhựa và đặt vào tủ lạnh cho bố. Sau đó, tôi đi vào phòng khách, ngồi ăn phần còn lại một mình trong khi chuyển kênh giữa mấy chương trình trò chuyện nổi tiếng, đũa của tôi chỉ dừng lại khi cười vì một câu đùa đặc biệt hay hoặc khi tôi bỗng dưng có cảm giác muốn lẩm bẩm gì đó một mình. Mọi chương trình trong khung giờ bảy giờ tối đều rất hài hước—và kỳ lạ thay, tôi không bao giờ nhớ nổi một câu đùa nào sau khi tắt TV.Sau khi ngâm bát đĩa trong bồn rửa, tôi quay lại phòng và ngã người lên giường, dùng gối để đỡ ngực khi giết thời gian bằng cách nghe nhạc một lúc, rồi đọc một chút manga. Chẳng mấy chốc, mí mắt tôi trở nên nặng trĩu, và cổ bắt đầu đau khi tôi bắt đầu gật gù. Tôi biết mình vẫn cần tắm trước khi đi ngủ, nhưng cơn buồn ngủ bất chợt quá mạnh mẽ để cưỡng lại, và tôi chìm vào giấc ngủ sâu và bình yên.Ít nhất là tôi đã ngủ một lúc, cho đến khi tôi bị đánh thức bởi một loạt âm thanh ầm ĩ và tiếng vỡ từ dưới tầng. Tôi biết ngay thủ phạm không phải là kẻ trộm thông thường—ngay cả trong trạng thái nửa ngủ nửa tỉnh, tôi cũng khá chắc chắn biết chuyện gì đang xảy ra dưới đó. Vì vậy, tôi quyết định không bận tâm, nằm lại trên gối và nhắm mắt một lần nữa.
"Kaoru! Xuống đây ngay!"
Ôi trời. Chết tiệt. Tôi rời giường và hít một hơi thật sâu trước khi bước vào phòng khách, nơi tôi thấy bố tôi, người vừa trở về từ công việc ở tòa thị chính. Ông chưa thay đồ, vẫn mặc quần tây và áo sơ mi cài cúc, đang ngồi trên một chiếc đệm sàn ở bàn thấp. Khuôn mặt ông đỏ bừng, trông hoàn toàn say. Tôi nhìn thấy yết hầu của ông lên xuống khi ông uống một cốc nước lớn. Má ông hóp lại, và những đốm tóc bạc lấm tấm xuất hiện trên mái tóc rối bù của ông. Ông bắt đầu trông già đi thật—dù tôi nghĩ rằng đó là điều dễ hiểu với một người đàn ông đã ngoài năm mươi.Khi ông uống hết cốc nước, ông đập mạnh cốc xuống bàn đến nỗi tôi nghĩ nó có thể vỡ.
"Chuẩn bị nước trong bồn tắm cho tao" ông ra lệnh, không hề quay mắt khỏi TV dù chỉ một giây để nhìn tôi. Nhân tiện, TV đang tắt, nên tôi không biết ông nghĩ mình đang xem gì.
"Xin lỗi, con sẽ làm ngay."
Tôi đi về phía phòng tắm. Cứ lúc đó, tôi bước chân vào một thứ mềm nhũn bằng chân trần, và một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng tôi. Khi từ từ kéo chân mình ra khỏi đó, tôi nhận ra đó là món salad khoai tây kiểu Đức tôi đã làm, vương vãi khắp các tấm chiếu tatami. Một ít dính vào tường, khiến tôi nghĩ rằng ông đã ném cả đĩa thức ăn vào đó. Quả nhiên, tôi nhìn thấy những mảnh gốm vỡ gần chân tường.
"Này! Mày đứng đó làm gì?! Có gì muốn nói với tao à?!" ông gào lên.
"Không, con chẳng có gì để nói cả," tôi đáp, rồi tiếp tục đi về phía phòng tắm.
Thực sự là vậy—tôi chẳng quan tâm chút nào đến việc ông yêu cầu tôi chuẩn bị bồn tắm cho ông, hay việc ông ném món salad khoai tây vào tường, hay thậm chí việc ông làm vỡ một cái đĩa.Tôi chỉ cảm thấy thương hại cho bố mình, người đã mất cả Karen và mẹ tôi gần như cùng lúc. Tôi hiểu rằng ông sẽ chẳng bao giờ có thể làm một hình mẫu cha hoàn chỉnh cho tôi nữa, và tôi đã chấp nhận điều đó. Chưa kể đến nỗi áy náy khổng lồ của tôi vì đã là người duy nhất ở bên Karen khi em ấy qua đời, và do đó là người duy nhất có thể ngăn chặn được tai nạn đó. Trái tim tôi đầy ắp thương hại, tội lỗi, và hối tiếc đến mức không còn chỗ cho một chút tức giận nào nữa.Bố tôi từng là một người đàn ông rất điềm đạm, nhưng cái chết của Karen và những hậu quả kéo theo đã đập vào ông quá mạnh đến nỗi ông trở nên hoàn toàn bất ổn. Dù có rất nhiều lần như thế này, khi ông mất bình tĩnh và ném đồ vào tôi, cũng có những lúc ông trở nên yêu thương tôi một cách kì lạ. Lúc đầu, tôi đã cố gắng làm bất cứ điều gì có thể để giúp ông giảm bớt những thay đổi tâm trạng cực đoan đó, nhưng rồi có một ngày, ông nói điều gì đó khiến tôi không còn quan tâm nữa.
"Lẽ ra mày phải chết thay cho Karen."
Đó là một đêm lạnh giá vào mùa đông năm tôi học lớp tám. Ngay khi bố tôi bước vào cửa, say xỉn, ông nói những lời đó thẳng vào mặt tôi, với giọng điệu như thể ông đang nói "Trời lạnh quá nhỉ!" Tôi thật sự không thể trách ông vì cảm giác đó; tôi thậm chí còn khá bình tĩnh và chấp nhận cảm xúc đó. Nó không làm tôi bối rối hay tổn thương chút nào. Tuy nhiên, điều nó làm là cắt đứt bất kỳ mong muốn nào tôi có thể có để gần gũi với bố và giúp ông vực dậy. Tất cả những cảm xúc đó như đổ hết xuống biển khi tôi nhận ra rằng ông chưa bao giờ coi tôi là con trai của ông ngay từ đầu.Tôi là kết quả của một cuộc ngoại tình mà mẹ tôi có với một người đàn ông khác — điều này tôi biết khi mới tám tuổi, nhưng cho đến nay tôi vẫn không biết hết đầu đuôi câu chuyện. Mặc dù khi đó tôi còn rất nhỏ, nhưng tôi đã nhận ra rằng đó là một chủ đề rất tế nhị mà có lẽ tôi không nên tò mò tìm hiểu, đặc biệt là vì tôi không cảm thấy cần phải biết thêm. Mẹ tôi yêu tôi rất nhiều, và thậm chí cả bố tôi cũng đối xử tốt với tôi khi đó, mặc dù không có sự kết nối sinh học. Trong đầu óc trẻ thơ của mình, tôi nghĩ rằng bất kỳ cuộc ngoại tình nào trước đó đều là một sai lầm không quan trọng và đã được tha thứ từ lâu. Tôi khá chắc rằng Karen cũng nghĩ như vậy. Vì vậy, mặc dù có một chút căng thẳng lạ lùng, chúng tôi vẫn yêu thương nhau và hòa thuận như bất kỳ gia đình nào có thể hy vọng. Chúng tôi là một gia đình, và không có gì có thể thay đổi điều đó.Nhưng rồi Karen chết, và mọi thứ sụp đổ. Mọi hình ảnh về sự hòa thuận gia đình được gió cuốn bay ra ngoài cửa sổ. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, tôi vẫn thường tự hỏi liệu mọi chuyện có thể đã khác nếu tôi thực sự là người chết thay, như lời bố tôi nói. Dù tôi khá chắc chắn rằng câu trả lời là điều không cần phải nói.Tôi xoay van và dùng vòi sen để rửa món salad khoai tây khỏi chân. Sau đó, tôi làm đầy bồn tắm, bật gas và chờ nước nóng lên. Nghĩ rằng tôi sẽ lại bị mắng nếu không dọn dẹp món salad khoai tây và đĩa vỡ, tôi bước nặng nề quay lại phòng khách, chỉ để thấy bố tôi đã say xỉn ngủ gục trên sàn. Người say khó chịu đã biến mất, thay vào đó là một người đàn ông nằm lười biếng trên đất với miệng mở rộng. Trông ông ấy, thật ra, khá buồn cười.
"Heh... May mà tôi không thừa hưởng cái gen đó."
Tạm quên chuyện đó đi. Tôi vẫn còn phải dọn dẹp, và tôi muốn hoàn thành nó khi bố vẫn còn ngủ. Tôi nhặt những mảnh vỡ của đĩa và lau những đám salad khoai tây vương vãi trên sàn và tường. Lạ một điều, món salad khoai tây có cảm giác hơi ấm, điều này cho thấy ông chắc chắn đã hâm nóng nó trong lò vi sóng. Tôi không thể tưởng tượng nổi điều gì đã khiến ông từ "Ừ, tôi sẽ ăn cái này" chuyển ngay sang ném nó vào tường. Tuy nhiên, tôi cũng chẳng bao giờ hiểu nổi sự thay đổi tâm trạng của bố. Và tôi cũng không có nhu cầu hiểu.Khi tôi đã dọn dẹp xong, tôi quay lại phòng tắm. Sau khi kiểm tra nhiệt độ nước đã đủ ấm, tôi tắt lửa. Giá mà chúng tôi có một bình nước nóng chuyên dụng có thể làm việc này chỉ với một nút bấm, nhưng đáng tiếc, ngôi nhà của chúng tôi quá cũ để có thể có thứ đó. Tôi liếc nhìn đồng hồ — đã khá gần nửa đêm. Thông thường, tôi sẽ đi ngủ vào giờ này, nhưng vì tôi đã ngủ một chút lúc chiều, nên thực tế tôi không cảm thấy mệt lắm.Vậy là tôi quyết định ra ngoài hít thở không khí trong lành. Sau khi thắt dây giày trong hành lang, tôi bước ra ngoài cửa và hòa mình vào đêm hè dễ chịu. Thật là thời tiết lý tưởng cho một cuộc đi bộ dài.Khoảng 30 phút sau, tôi thấy mình đang đi dọc theo đường ray xe lửa. Tôi thường xuyên đi dạo vào ban đêm như thế này, nhưng đây là lần đầu tiên tôi bị thôi thúc quay xuống các đường ray và xem chúng sẽ đi đâu. Quan trọng hơn hết, đó là một sự thôi thúc bất ngờ muốn tái hiện lại một cảnh tượng mang tính biểu tượng mà tôi nhớ từ một bộ phim cũ — nhưng giờ khi thực sự làm vậy, nó lại trở thành một trải nghiệm thú vị hơn tôi tưởng. Có một cảm giác thích thú liều lĩnh khi làm điều gì đó táo bạo mà ban ngày chắc chắn không thể làm được. Một cảm giác thú vị khi lảo đảo trên một thanh ray như đi trên dây, vào một nhà ga xe lửa vắng vẻ. Tiếng đá kêu lạch cạch dưới chân tôi cũng khá dễ chịu, dù có hơi ồn. May mắn là tôi biết sẽ không có ai đi bộ vào giờ này, nên tôi cũng không bận tâm lắm. Khu vực này không có nhiều đèn đường, nhưng ánh trăng sáng giúp tôi nhìn rõ xung quanh. Nó sáng đến mức vào một đêm không mây như thế này, bạn có thể dễ dàng nghĩ rằng mặt trời chưa lặn.Thực ra, chính vào một đêm như thế này, tôi đã thấy những ngôi sao băng đầu tiên của mình. Karen và tôi ngồi ngoài hiên, ngước lên bầu trời đêm hy vọng sẽ thấy được mưa sao Perseus. Tôi đã nhìn thấy ba ngôi sao băng vào đêm đó, nhưng Karen cứ ngủ gật và cuối cùng cả đêm đó em ấy không nhìn thấy một ngôi sao nào. Em ấy buồn bã đến mức sáng hôm sau trông như sắp khóc, nhưng tôi đã trấn an em ấy rằng em sẽ có cơ hội khác vào lần sau. Cuối cùng, lần sau đó đã không bao giờ đến. Khi còn nhỏ, tôi nghe nói rằng khi bạn chết, bạn sẽ biến thành một trong hàng tỷ ngôi sao chiếu sáng bầu trời đêm. Nếu điều đó là thật, tôi hy vọng Karen đã tìm được một góc tĩnh lặng của vũ trụ, nơi em ấy có thể nhìn ngắm mưa sao băng mỗi ngày. Tôi mong điều đó sẽ đến với Karen.Sau khi đi dọc theo đường ray khoảng một giờ, tôi cuối cùng cũng dừng lại. Không phải vì tôi gặp phải một ngõ cụt, mà vì tôi đã đến cửa vào một đường hầm dài, tối tăm. Đây là đường hầm mà chuyến tàu của tôi đi qua mỗi sáng trên đường đến trường, vì vậy tôi biết chính xác nó dẫn đi đâu — dù tôi chắc chắn không đủ can đảm để bước vào đó một mình giữa đêm khuya. Vậy là tôi quay lại, đi theo con đường mình đã đến. Sau đó tôi nhận thấy điều gì đó.Ở bên rãnh ven đường ray, tôi phát hiện một tay vịn gỗ cũ bị bao phủ bởi đám cỏ cao. Tò mò, tôi vén những đám cỏ rậm ra và tìm thấy một bộ cầu thang nhỏ dẫn xuống phía bên biển của đường ray. Nó xuống với một góc khá kỳ lạ, điều này giải thích tại sao tôi chưa bao giờ thấy nó khi nhìn ra ngoài cửa sổ tàu. Tôi đoán nó có lẽ chỉ là một cầu thang phục vụ cho công nhân bảo trì đường sắt, nhưng nó không được rào lại với biển cảnh báo "Cấm vào" hay bất cứ điều gì tương tự.Không thể kiềm chế sự tò mò, tôi quyết định đi xuống xem thử có gì ở đó, tim tôi đập nhanh hơn với mỗi bước đi. Khi cuối cùng tôi đến đáy cầu thang, sau khi gạt vài mạng nhện ra khỏi mặt, tôi phát hiện mình đang đứng trong một không gian nhỏ, nơi có cây cối thấp một cách bất ngờ, ngay trước cửa vào một đường hầm khác.
"Đùa à?"
Đường hầm này nhỏ hơn nhiều — chỉ cao khoảng ba mét — và chạy vuông góc với đường hầm lớn phía trên. Nó được xây bằng đá, và mép ngoài của cửa vào bị bao phủ bởi một lớp rêu dày. Tôi không thể nhìn thấy phía bên kia từ vị trí của mình, vì vậy không biết nó có kéo dài bao xa. Nó toát lên một cảm giác rùng rợn đến nỗi tôi nghĩ sẽ có rất nhiều câu chuyện ma về nơi này nếu nó nằm ở vị trí dễ tiếp cận hơn. Không ai tỉnh táo lại dám vào một đường hầm như thế này. Chín mươi chín trong số một trăm người sẽ sợ hãi và quay lại. Tôi cũng sẽ làm như vậy, nếu như tôi không chợt nhớ lại một chi tiết nhỏ mà tôi nghe được sáng nay.
"Này... Cậu đã bao giờ nghe nói đến đường hầm Urashima chưa?"
Không, không thể nào. Tôi lắc bỏ suy nghĩ ngớ ngẩn đó khỏi đầu trước khi nó có cơ hội bén rễ. Đó chỉ là một huyền thoại đô thị thôi mà. Thực ra không có đường hầm nào có thể thực hiện bất kỳ điều ước nào. Dù có đi nữa, nghĩ đến việc tôi tình cờ tìm thấy nó ở quê hương mình vào đúng ngày đầu tiên nghe về nó thật quá vô lý. Tôi mới mười bảy tuổi. Lẽ ra tôi phải hiểu rằng không nên tin vào những câu chuyện cổ tích ngớ ngẩn này. Điều khôn ngoan là trở về nhà và giả vờ như tôi chưa từng phát hiện ra đường hầm rùng rợn này. Khi tôi một lần nữa bước lên cầu thang, tôi tự trách mình vì đã nghĩ đến chuyện đó. Nhưng ngay trên bậc cuối cùng, tôi lại dừng lại.Liệu có thể — và đây là một điều rất lớn — nhưng nếu tin đồn là sự thật, và Đường hầm Urashima thực sự tồn tại thì sao?Nếu nó thật sự có thể biến bất kỳ điều ước nào thành hiện thực, thì...Liệu có thể mang Karen trở lại cuộc sống?Chỉ với đèn flash trên điện thoại di động để soi đường, tôi bước những bước thử thách đầu tiên vào trong đường hầm. Tôi quyết định chỉ nhìn qua một chút thôi, đi vào một đoạn và nếu không thấy gì, tôi sẽ quay lại ngay. Tôi tiến về phía trước từ từ, chú ý bước đi để không vấp ngã hay đạp phải thứ gì bẩn thỉu. Mùi đất ẩm tràn ngập không khí. Tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần sẽ gặp phải một xác động vật chết nào đó, nhưng cho đến lúc này tôi vẫn chưa thấy một chiếc lá rơi nào trên mặt đất. Thực ra, bên trong đường hầm cực kỳ sạch sẽ — thậm chí không có lớp rêu dày mà bao phủ xung quanh cửa vào. Điều duy nhất thực sự khiến tôi cảm thấy không yên là làn gió ẩm ướt và ấm áp thổi qua. Cộng thêm việc lối đi quá hẹp, tôi cảm giác như mình đang đi xuống cổ họng của một con rắn nguyên thủy khổng lồ.Nếu điện thoại của tôi mà tắt nguồn ngay lúc này, tôi chắc chắn sẽ rất hoảng sợ. Bỗng dưng lo lắng về khả năng này, tôi nhìn xuống và thấy chỉ còn 10% pin. Quả thật, không đủ để tôi tự tin đi tiếp thêm nữa.Ngay khi tôi chuẩn bị quay lại, tôi thấy một ánh sáng mờ phía trước. Liệu đó có phải là lối ra không? Tôi tự hỏi. Hóa ra, chắc chỉ là một cái đường hầm bình thường thôi.Dù sao, tôi cũng muốn nhanh chóng ra khỏi cái hành lang tối tăm và ẩm ướt này, nên tôi chạy về phía ánh sáng... nhưng khi nó càng lúc càng sáng lên, tôi mới nhận ra rằng đó không phải lối ra gì cả.
"Cái quái gì vậy?"
Đó là một cổng torii cỡ vừa, kiểu cổng bạn thấy ở những đền Shinto. Nhưng thay vì màu đỏ tươi như thường lệ, cổng này lại có màu trắng ngà, gần như màu xương người. Nó đứng đó, giữa đường hầm, như thể đã chờ đợi suốt mấy thế kỷ để ai đó — bất kỳ ai — đi qua dưới thanh ngang của nó. Và không chỉ có một cổng. Nhìn về phía bên kia, tôi nhận ra đó là một dãy cổng torii nối tiếp nhau, đều đặn. Càng kỳ lạ hơn, ánh sáng mà tôi đã thấy trước đó hóa ra là từ một loạt ngọn đuốc treo chéo trên tường, mỗi cái chỉa lên trần. Lửa cháy đều và sáng rõ, không hề lay động. Nơi này rõ ràng có ý nghĩa tâm linh hoặc tôn giáo gì đó, và cảm giác trong tôi mách bảo rằng tôi nên nghĩ kỹ trước khi đi tiếp.Tôi chẳng biết mình đang ở đâu, cũng chưa từng nghe nói về những địa điểm như thế này ở vùng quê tôi. Tôi thử kiểm tra GPS nhưng điện thoại không có sóng — điều này khá phổ biến ở nhiều nơi trong Kozaki, nhưng lúc này lại thật sự kỳ lạ khi tôi hoàn toàn bị mất kết nối. Đột nhiên, một cảm giác sợ hãi sâu sắc bao trùm tôi. Tôi cần phải rời khỏi đây ngay lập tức. Lẽ ra tôi không nên đi xa như vậy từ đầu. Nhưng khi tôi chuẩn bị quay lại, một thứ gì đó nằm sâu trong đường hầm thu hút ánh mắt tôi.
"Đó là cái gì vậy...?"
Một vật gì đó nhỏ và đỏ nằm trên mặt đất ngay sau cổng torii đầu tiên, nhưng vì đường hầm quá tối nên tôi không nhìn rõ. Tôi quyết định sẽ tiến lại gần một chút để xem thử rồi quay lại sau. Tôi bước chậm rãi qua cổng torii và cúi xuống để nhìn rõ hơn.Hình như... là một đôi dép?Nó đã cũ và phai màu đỏ—nhỏ vừa kích cỡ của một đứa bé. Tôi chậm rãi cúi xuống, nhặt nó lên để xem kỹ hơn. Khi nhìn thấy cái tên được viết nguệch ngoạc bằng bút màu trên quai giày, hơi thở của tôi như nghẹn lại.KARENKhông thể nào. Chắc chắn là không thể, tôi tự nhủ. Nhưng đó là sự thật. Đây chính là một trong những đôi dép mà bố mẹ chúng tôi đã mua cho em ấy từ nhiều năm trước. Tôi vẫn nhớ như in cảnh em ấy hỏi tôi xem chúng có đẹp không. Ngay cả nét chữ cũng không thể nhầm lẫn được; chữ "N" trong tên được viết ngược, một thói quen xấu mà em ấy luôn mắc phải.Nhưng tại sao nó lại ở đây? Lần cuối cùng tôi thấy chiếc dép này, tất nhiên, là vào ngày em ấy qua đời. Nhân viên y tế không mang chúng đi khi họ đưa em ấy đến bệnh viện, vì vậy tôi đã quay lại khu rừng để tìm. Chiếc dép có họ của chúng tôi, TONO, được tôi tìm thấy ngay, đúng nơi tôi nhớ em ấy đã ném nó ra trước khi trèo lên lưng tôi. Nhưng dù có tìm kiếm khắp nơi suốt cả tháng trời, tôi vẫn không bao giờ tìm được chiếc dép có chữ KAREN. Cuối cùng, tôi đã chịu thua và từ bỏ cùng hàng nước mắt.Tuy nhiên, khu rừng đó cách đây ít nhất năm cây số, nên không lý nào chiếc dép của em ấy lại xuất hiện trong đường hầm này. Đây chẳng lẽ thực sự là Đường hầm Urashima sao? Không thể nào. Còn quá sớm để đưa ra kết luận hoang tưởng như vậy. Có lẽ một con chó hoang hoặc một con quạ đã nhặt nó lên và tha đến đây. Chắc chắn đó là lời giải thích hợp lý hơn nhiều. Hơn nữa, đường hầm này vẫn chưa thực sự thực hiện bất kỳ điều ước nào. Đúng là tôi đã tìm chiếc dép này trong nhiều tuần liền, nhưng điều tôi muốn không phải là chiếc dép—mà là Karen.Dù sao thì, tôi nghĩ nếu tiếp tục đi tiếp, tôi sẽ sớm biết được sự thật. Nếu tôi tìm thấy Karen ở cuối đường, thì đó là thật. Nếu không, đây chỉ là một đường hầm bình thường (dù rất kỳ lạ). Chậm rãi, sự háo hức dần chiến thắng những lo ngại ban đầu của tôi. Đặt chiếc dép vào một túi và điện thoại vào túi kia, tôi tiến sâu hơn vào bên trong, tò mò muốn biết hàng cổng torii này sẽ kéo dài đến đâu. Nghĩ lại thì, những ngọn đuốc còn kỳ lạ hơn—chúng đã cháy bao lâu rồi? Không thể có chuyện ai đó biết trước tôi sẽ đến đây và thắp chúng lên sẵn. Tôi đoán rằng chúng đã cháy một thời gian khá dài. Nhưng điều đó lại đặt ra câu hỏi: làm sao chúng có đủ nhiên liệu để cháy mãi như vậy? Chắc phải có một cơ chế bí mật nào đó, có thể là một tấm sàn hay thứ gì đó kích hoạt chúng khi có người bước vào. Nhưng ai lại thiết kế một thứ như vậy cho một đường hầm ngẫu nhiên nằm cách xa mọi đường chính, và để làm gì? Tôi cố suy nghĩ nhưng không thể tìm ra bất kỳ lời giải thích hợp lý nào.
"Karen...? Em có ở đó không?" Tôi khẽ gọi, giọng nói vang vọng trong đường hầm. Dĩ nhiên, tôi biết sẽ chẳng có lời đáp lại. Nhưng rồi, có tiếng trả lời.
"...rrr..."
Một giọng nói vọng lại, khàn đục và yếu ớt đến mức tôi không thể nhận ra đó là giọng của trẻ con hay người lớn, thậm chí còn không biết là nam hay nữ. Dù vậy, chắc chắn đó là một giọng nói, không phải tiếng gió lướt qua. Tim tôi bắt đầu đập nhanh hơn, ngày càng nhanh. Có ai đó ở trong đó, ngay phía trước. Và nếu có dù chỉ một chút khả năng người đó là Karen, tôi phải đến chỗ em ấy càng nhanh càng tốt.Vậy nên tôi đã chạy. Tôi chạy qua những cổng torii tiếp theo cho đến khi nghe thấy một âm thanh khác, liền dừng lại lắng nghe. Đó là âm thanh kiểu như tiếng sột soạt, giống tiếng một con bọ lớn hay một con vật nhỏ đang chạy trốn. Tiếng động nghe như đến từ rất gần, nhưng tôi không thấy gì phù hợp với nó, có lẽ vì thứ đó đang ẩn sau một trong những cột torii. Nhịp tim tôi càng lúc càng nhanh; tôi cố trấn an bản thân rằng đó chỉ là một con chuột hay gì đó, rồi cố lao nhanh qua—nhưng bất kể đó là gì, nó đã nhảy ra từ sau cánh cổng kế tiếp.
"Áaaa!" Tôi hét lên, ngã ngửa ra sau.
Ngay lập tức, tôi ngước lên và thấy một con chim nhỏ đậu trên đỉnh cổng torii tiếp theo, nghiêng đầu nhìn xuống tôi như thể không hiểu tại sao tôi lại sợ hãi mà ngã.
"Chết tiệt, chim ơi... Làm tao sợ chết khiếp..."
Tôi thở phào nhẹ nhõm, tôi phì cười. Tôi đứng dậy, nhìn lên kẻ gây rối nhỏ bé kia. Đó là một chú chim nhỏ với bộ lông vàng rực—có lẽ là thú cưng của ai đó đã bay đi lạc. Tôi biết chắc rằng ở vùng Kozaki này không có loài chim nào có màu lông như vậy. Dù sao đi nữa, làm thế nào mà nó có thể lạc sâu đến mức này trong một đường hầm?
"Này, đợi đã... Mày là một con vẹt đuôi dài hả?"
Khi nhìn kỹ hơn thì đúng là như vậy. Đôi mắt đen láy, chiếc mỏ tròn nhỏ—đúng rồi, đó chỉ là một chú vẹt yến phụng nhỏ. Tôi nhận ra ngay lập tức vì trước đây nhà tôi từng nuôi một con y hệt. Nó tên là Kee, và bộ lông vàng óng của nó giống hệt chú chim này, đến cả những đốm trắng quanh cổ. Càng nhìn, tôi càng thấy nó giống Kee đến kỳ lạ...Nhưng tôi biết, màu lông vàng với mấy đốm trắng như vậy cũng đâu phải hiếm gặp ở loài vẹt này. Và hơn nữa, Kee đã mất từ lâu rồi. Karen và tôi thậm chí còn tự tay chôn nó trong sân sau, kèm theo một buổi lễ nhỏ. Thế nên... không thể nào đây là Kee được. Không đời nào, tôi tự nhủ, nhận ra mình đang thở hổn hển. Có vẻ như nỗi sợ hãi xen lẫn hồi hộp trong tôi đang dâng trào đến mức sắp bùng nổ.
"...rrr..."
Chú vẹt dường như đang cố nói gì đó. Tôi đặt tay lên ngực, cố làm dịu nhịp tim và lắng nghe.
"Ộp ộp, ộp ộp... chú ếch nhỏ..."
Tim tôi chậm một nhịp. Thật lạ khi nó vẫn chưa ngừng đập.
"Nhảy qua... đầm lầy ẩm ướt..."
Không thể nào. Chuyện này không thể xảy ra. Làm sao có thể chứ?Chú vẹt đang hát chính bài đồng dao mà chúng tôi đã dạy Kee hồi mang nó về nhà. Lúc đó, chúng tôi hát đi hát lại bài đó, nghĩ rằng sẽ thật vui nếu cả ba cùng hát. Nhưng cuối cùng, Kee chỉ học được hai câu đầu. Nó đã chết trước khi kịp học phần còn lại. Và bây giờ, chú chim này hát đúng y như Kee.Đó là chưa kể đến màu lông và những đốm trắng giống hệt. Tất cả những điều này—thẳng thắn mà nói—là điều không thể. Não tôi chạy hết công suất, cố tìm một lời giải thích nào đó.Đúng rồi—chắc chắn là ảo giác! Tôi đang nhìn thấy và nghe thấy những thứ không có thật. Ở trong đường hầm đáng sợ này giữa đêm khuya, chắc đầu óc tôi kiệt sức rồi. Chắc chắn trên kia chẳng có con chim nào cả! Tôi cá là nếu thử chạm vào nó, tay tôi sẽ xuyên qua ngay!Nghĩ vậy, tôi thử đưa tay ra, nhẹ nhàng chạm vào chú chim bằng một ngón tay. Nhưng không, chú chim nhỏ không hề né tránh, dù ngón tay tôi chạm vào lớp lông mềm mại dưới cổ nó. Tôi cảm nhận được cơ thể nó co lại, cả hơi ấm nhẹ từ thân nhiệt—tất cả chỉ trong một cái chạm. Đây không phải ảo giác. Đây là một chú chim thật, sống động—và kỳ lạ thay, đó chính là Kee. Kee, chú vẹt đã mất từ lâu, giờ đây lại hiện diện trước mặt tôi.
"Chuyện quái gì đang xảy ra vậy...?"
Làm sao một chú chim đã chết lại có thể đứng đây, ngay trước mặt tôi? Liệu đây thực sự có phải là Đường hầm Urashima không? Nhưng ngay cả thế, điều đó cũng không giải thích được chuyện này. Trong khi tôi còn đang bối rối tìm kiếm câu trả lời, Kee bất ngờ bay sâu hơn vào đường hầm. Theo phản xạ, tôi chạy theo. Dù vẫn có chút nghi ngờ liệu đây có phải là Kee thật hay không, tôi chắc chắn không muốn để mất nó thêm lần nữa.Rồi đột nhiên, một cảm giác lạnh lẽo tràn ngập trong lòng tôi, khiến tôi khựng lại. Có điều gì đó đang gặm nhấm trong tâm trí tôi, như thể tôi đã quên mất một điều rất quan trọng. Thường thì tôi là kiểu người luôn cố gắng nhìn mọi chuyện theo hướng đơn giản—kiểu như, nếu điều đó thực sự quan trọng, chắc chắn tôi đã không quên. Nhưng lần này, sâu thẳm trong lòng, tôi biết mình cần phải cố nhớ ra. Một linh cảm mơ hồ—một cảm giác bất an đang lớn dần trong tôi, không thể lý giải nổi.Giả sử đây thực sự là Đường hầm Urashima thì sao? Tôi cố nhớ lại những gì cô gái ở nhà ga sáng nay đã nói. Cô ấy mô tả thế nào nhỉ? Tôi lục lại ký ức.
"cậu đã đạt được những mong ước của mình thì cậu sẽ sẵn sang trở về nhà đúng không?"
Không, không phải đoạn đó.
"Nhưng Đường hầm Urashima không cho bạn rời đi dễ dàng vậy đâu. Nó luôn lấy đi thứ gì đó từ cậu để đổi lại."
Đúng rồi, cô ấy nói nó lấy đi thứ gì?
"Năm tháng. Rất nhiều năm trong cuộc đời bạn. Đi vào khi còn là thiếu niên, và khi ra, bạn sẽ thành một bà lão nhăn nheo."
Tôi chợt cảm thấy lạnh toát. Mặt tôi tái lại.Đúng vậy, Đường hầm Urashima có thể thực hiện bất kỳ điều ước nào, nhưng cái giá phải trả là tuổi thọ của bạn. Làm sao tôi có thể quên phần quan trọng nhất của truyền thuyết đô thị này? Lúc này, tôi đứng đó, phân vân, nội tâm bị giằng xé giữa suy nghĩ rằng có thể tôi sẽ tìm thấy Karen ngay phía trước và nỗi sợ hãi về việc bán cả cuộc đời mình để đổi lấy điều đó. Cuối cùng, nỗi sợ hãi đã chiến thắng. Sau cùng, tôi làm sao biết được con đường hầm này dài bao nhiêu, hay liệu tôi thực sự có thể tìm thấy Karen ở phía bên kia, vì vậy tiếp tục đi như thế này có vẻ quá nguy hiểm.Sau khi đã quyết định, tôi quay người và chạy hết tốc lực theo hướng ngược lại. Tôi ra khỏi đường hầm nhanh nhất có thể, loạng choạng trong bóng tối đến nỗi suýt ngã vài lần. Nhưng khi tôi nhìn về phía trước, cửa hầm dường như gần hơn tôi tưởng. Khi đến nơi, tôi gần như lao qua ngưỡng cửa và quay lại thế giới bên ngoài, lăn mấy vòng khi cơ thể chạm đất. Mặc dù chắc chắn tôi đã làm bẩn quần áo, tôi chỉ nằm đó một lúc, thở hổn hển nhìn lên bầu trời đêm, khi những vì sao im lặng nhìn tôi từ trên cao. Khi tôi điều chỉnh lại hơi thở, tôi giơ tay lên trước mặt. Tôi không thấy nếp nhăn, nếp gấp hay tĩnh mạch giãn—tay tôi trông vẫn hoàn hảo, có hơi nữ tính một chút so với lứa tuổi của tôi. Nhưng thật ra, chúng lúc nào cũng thế.
"Vậy là... không có gì thay đổi sao?"
Tôi thử vỗ lên mặt. Tôi cũng không phát hiện nếp nhăn hay lông mặt ở đó. Cảm giác chính xác như lúc trước khi tôi bước vào đường hầm. Thật tốt quá, tôi thầm nghĩ, khi thở phào nhẹ nhõm. Tôi không hề già đi một chút nào. Tất nhiên, ngay từ đầu tôi đã nghĩ việc "lão hóa ngay lập tức" có vẻ quá vô lý để là sự thật, nhưng, tôi thật mừng khi mình đã đúng.Tôi ngồi dậy và cố gắng phủi bụi trên lưng. Giờ đã bình tĩnh lại, tôi không thể tin được không khí trong đường hầm lại khác biệt đến vậy so với bên ngoài. Cảm giác gần như tôi vừa mới tỉnh dậy từ một giấc mơ rất kỳ lạ. Nghĩ một cách lý trí, tôi cũng không ngạc nhiên nếu đó thực sự chỉ là một giấc mơ—vì sao lại có một số lượng cổng torii và đuốc vô tận trong một đường hầm ngẫu nhiên ở giữa nơi hoang vu thế này? Tôi đã sẵn sàng bỏ qua trải nghiệm này như một giấc mơ khi bị sốt... nếu không phải vì đôi dép lót nhô ra từ túi bên trái của tôi.
"Không, thật sự là của em ấy... Không thể phủ nhận được."
Chiếc dép đỏ nhỏ mà tôi cầm trong tay là bằng chứng rõ ràng rằng những gì đã xảy ra trong đó không phải là một giấc mơ hay ảo giác. Hơn nữa, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi có thể nhớ rõ từng chi tiết về Kee, và cả hình ảnh mục nát của những cánh cổng torii, gần như chúng vẫn còn ngay trước mắt tôi. Không nghi ngờ gì nữa, tôi biết chắc chắn rằng cái đường hầm tôi vừa ra khỏi có liên quan gì đó đến không gian kỳ lạ, siêu nhiên đó.Với tất cả những câu hỏi chưa được giải đáp này, tôi cảm thấy hơi hoang mang vì toàn bộ trải nghiệm, mặc dù phần lớn tôi vẫn cảm thấy biết ơn vì đã thoát ra được một cách an toàn. Đồng thời, một phần trong tôi lại bị cuốn hút một cách kỳ lạ bởi cái đường hầm bí ẩn, cảm thấy thôi thúc phải khám phá bản chất thực sự của nó. Có lẽ đó chỉ đơn giản là tôi chưa sẵn sàng từ bỏ khả năng (mặc dù cực kỳ nhỏ bé) rằng nếu tôi theo đường hầm đến tận cùng, tôi có thể gặp lại em gái nhỏ của mình. Nhưng hiện tại, tôi quá mệt mỏi và cần phải về nhà. Có lẽ ngày mai, sau giờ học, tôi sẽ thử lại.Tôi nhét chiếc dép của Karen vào túi, rồi lê bước lên cầu thang ra đường ray và duỗi đôi chân mệt mỏi để bắt đầu cuộc hành trình dài về nhà. Khi về đến nhà, tôi mở cửa một cách nhẹ nhàng để không làm cha tôi thức giấc, rồi bước vào hành lang. Không may, trong lúc đó, tôi đã làm đổ một chiếc ô dựa vào tường, nó rơi xuống sàn gỗ phát ra tiếng động lớn. Tôi nhăn mặt, rồi vội vàng đặt lại chiếc ô ngay ngắn trước khi cố gắng chạy lên phòng—nhưng rồi đèn hành lang bỗng sáng lên.
"Kaoru!" cha tôi thốt lên, từ cửa phòng ngủ chính nhìn ra.
Chết thật. Ông đã bắt quả tang tôi đi quá giờ giới nghiêm mà không xin phép. Tôi thực sự không muốn bị mắng, nên hy vọng ông sẽ kết thúc nhanh chóng. Tôi cúi đầu xuống để tạo vẻ ăn năn khi cha tôi lao ra hành lang, túm chặt vai tôi. Tôi nhắm mắt lại, chuẩn bị tinh thần cho một cú tát vào đầu. Tuy nhiên, sau vài giây, chẳng có cú đấm vào bụng hay cái tát nào. Tôi mở mắt ra một cách thận trọng và thấy cha tôi đang nhìn tôi, vẻ mặt như thể ông sắp khóc. Thực sự khá là đáng sợ.
"Ôi Kaoru... thật tốt quá..." cha tôi nói, giọng nghẹn ngào như vắt nước từ một chiếc khăn lau ướt.
Thật tốt quá nhưng cho cái gì cơ?
"Bố không biết mình sẽ làm gì nếu mất cả con nữa... Xin lỗi vì hành động của bố lúc trước. Bố uống hơi quá chén một chút thôi."
Aha, tôi hiểu rồi. Cha tôi lại rơi vào trạng thái hối hận sau cơn say nổi tiếng của mình và đang cố gắng chuộc lỗi cho những hành động hung hãn mà ông có thể đã làm khi say. Mỗi khi như vậy, ông luôn trở nên quá đỗi dịu dàng và xin lỗi, đến mức tôi cảm thấy hơi khó chịu, nên tôi nhanh chóng bảo ông đừng lo về chuyện đó.
"Xin lỗi con thật nhiều, con trai. Từ giờ bố sẽ chú ý hơn đến việc uống rượu," ông hứa, nhưng như mọi khi, lại không chịu cam kết hoàn toàn việc sẽ bỏ rượu. "Vậy con hứa là sẽ không bỏ nhà ra đi nữa nhé?"
Tôi gật đầu, mặc dù thấy thật buồn cười khi ông nói tôi "bỏ nhà ra đi" chỉ vì tôi vắng nhà một vài tiếng. Đâu phải lần đầu tiên tôi làm vậy đâu.
"Bố nói thật đấy, con trai. Bố đã liên tục nhận được điện thoại từ trường, và bố chẳng biết phải nói gì với họ... Con đã đi đâu vậy?"
Điện thoại từ trường? Ông đang nói cái quái gì vậy? Tôi cảm thấy cực kỳ bối rối lúc này, nhưng vẫn trả lời câu hỏi của ông.
"Đừng lo về chuyện đó," tôi nói. "Con chỉ đi dạo một chút thôi."
"...Vậy là con không chịu nói cho tôi biết phải không? Thế chắc hẳn là con đi đâu đó mà ta không đồng ý rồi."
"Không đâu, con nói thật đấy. Con chỉ muốn ra ngoài hít thở không khí thôi mà."
"Con cứ nói thật đi, con trai. Con ở nhà ai à? Hay là con bỏ trốn vào thành phố?"
"Con không ở nhà ai hết. Thật ra, con còn chẳng rời khỏi Kozaki nữa..."
"Thôi bỏ đi," cha tôi nói, vẻ mặt chuyển sang cau có. "Đừng để chuyện này xảy ra nữa. Nếu người ta biết con mất tích, hậu quả sẽ nghiêm trọng đấy. Cả hai chúng ta."
Cha tôi quay lại phòng, vừa gãi đầu vừa tắt đèn. Chuyện quái gì vậy? Tôi hoàn toàn không hiểu nổi, nhưng tôi cố gắng bỏ qua và quyết định đi tắm để rửa sạch mồ hôi sau một đêm dài.Rồi cha tôi nói thêm một câu cuối cùng trước khi đóng cửa, một câu nói khiến tôi thực sự bối rối.
"Không thể tin nổi... Con trai mình, bỏ đi cả tuần trời mà không ai biết đang làm cái quái gì... Mình đã sai ở đâu vậy?"
Ông lẩm bẩm, có thể tôi đã nghe nhầm, nhưng dù sao tôi cũng đang đi tới phòng tắm để gội rửa mồ hôi. Nhìn vào gương, tôi xác nhận rằng mình chẳng hề thay đổi chút nào. Cảm thấy nhẹ nhõm, tôi đặt điện thoại lên bệ rửa mặt để thay quần áo. Rồi màn hình điện thoại bật sáng, khiến tôi phải nhìn lại một lần nữa. Nó hiển thị hàng tá cuộc gọi nhỡ — không chỉ từ cha tôi mà còn từ Shohei nữa. Dưới đó là một loạt tin nhắn.
"Con đang ở đâu?"
"Mày ơi, đừng chơi trốn tìm nữa."
"Tao hy vọng mày sẽ về nhà trước ngày mai. Lệnh đấy."
"Ê, mày đi đâu vậy, tao buồn chán chết đi được."
"Ít nhất trả lời cho tao biết mày có an toàn không."
"Mọi người đang lo cho mày đấy... thôi, tao nói dối. Chỉ có mình tao thôi. Nhưng mà vẫn thế!!"
Cái quái gì đang xảy ra vậy? Làm sao tôi có thể nhận được nhiều cuộc gọi và tin nhắn như vậy trong khi tôi đang đi dạo mà chẳng nghe thấy một cái nào? Điều này quá phi lý. Còn nữa...Tại sao ngày trên điện thoại của tôi lại lệch gần cả tuần?
"Cái gì vậy..." tôi lẩm bẩm, nheo mắt nhìn vào màn hình điện thoại.
Nó rõ ràng hiển thị ngày 8 tháng 7 — trong khi tôi mới chỉ rời khỏi nhà vào đêm trước, vào lúc gần nửa đêm ngày 1 tháng 7, vậy lẽ ra chỉ mới là ngày 2 tháng 7 thôi.
"Điện thoại tôi bị lỗi à?"
Tôi thử chỉnh lại nhưng mọi thứ khác vẫn hoạt động bình thường — chỉ có ngày là không khớp. Tất cả các cuộc gọi nhỡ và tin nhắn đều từ sau ngày 2 tháng 7. Đột nhiên, tôi cảm thấy một cảm giác lạnh sống lưng. Tôi không còn muốn tắm nước nóng nữa, nên rời khỏi phòng tắm và ra phòng khách, nơi tôi lấy điều khiển từ bàn và bật TV. Màn hình sáng lên ngay lúc dự báo thời tiết đang phát. Khi những bản nhạc piano cổ điển nhẹ nhàng vang lên từ loa, tôi đọc dòng chữ chạy trên màn hình dưới cùng.
"ĐÊM NAY (7/8): TỈ LỆ MƯA DAO ĐỘNG TỪ10 ĐẾN20%"
Tôi dụi mắt để chắc chắn rằng mình không bị nhìn nhầm. Nhưng lúc này, không phải tôi không thể tin vào mắt mình, mà là tôi muốn loại trừ tất cả các giả thuyết khác trước khi hoàn toàn chấp nhận điều không thể xảy ra này.
"Không thể nào. Này, đang đùa à?" tôi thì thào cùng hơi thở, cố gắng xua tan lo âu.
Tôi tắt TV và vội vàng lấy điện thoại để gọi cho người duy nhất tôi có thể hỏi. Sau vài lần gọi vào hộp thư thoại, cuối cùng Shohei cũng bắt máy khi tôi gọi lần thứ mười.
"Gì vậy...?" giọng Shohei trầm trọ.
"Này, Kaga, tao có thể hỏi mày một câu được không?"
"Ê, mày có biết bây giờ là mấy giờ không?"
"Ừ, cái đó thì... mày có thể cho tao biết hôm nay là ngày mấy được không?"
"Cái gì? Ngày 8 rồi chứ gì? Ừ, 4 giờ sáng ngày 8."
"Chắc chắn chưa?"
"Ừ, chắc chắn rồi. Thằng bạn mày mà. Mà này, sao mày lại gọi tao về cái chuyện này? Sao không coi lịch trên điện thoại mày đi, hay làm cái gì đó thay vì gọi tao dậy lúc 4 giờ sáng vào một đêm học bài thế này? Nói vậy thôi, khi nào mày mới quay về nhà—"
Trước khi Shohei có thể nói hết câu, cuộc gọi bị ngắt. Tôi nhìn xuống điện thoại và hiểu lý do. Pin đã hết. Thật là một thời điểm tệ hại., nhưng ít ra tôi cũng đã có câu trả lời cho câu hỏi chính. Theo tất cả các nguồn, hôm nay thực sự là ngày 8 tháng 7.
"Cái quái gì đang diễn ra vậy..."
Cơn đau đầu bắt chợt ập đến. Điều này không thể nào xảy ra được; tôi chỉ rời khỏi nhà có ba tiếng, tối đa là vậy. Tôi có thể chấp nhận rằng mình có thể sai lệch một, hai tiếng, nhưng cả tuần? Tôi vội vàng chạy vào phòng tắm và nhìn vào gương thêm lần nữa. Râu của tôi không dài ra chút nào. Bình thường tôi cạo râu mỗi ba ngày, vậy mà nếu tôi không cạo trong cả tuần, chắc chắn sẽ rất rõ rệt. Tôi cũng không thấy đói, mặc dù tôi đã không ăn gì kể từ khi rời khỏi nhà, giả sử là một tuần trước.Điện thoại của tôi cũng vậy. Không thể nào pin có thể tồn tại suốt cả tuần mà không cần sạc, nhất là khi nó chỉ còn 10% pin khi tôi bước vào đường hầm. Thế mà nó vẫn còn đủ pin để tôi thực hiện một cuộc gọi ngắn với Shohei. Điện thoại đâu phải không tiêu tốn điện khi không sử dụng đâu. Việc nó tự động cập nhật ngày thành 8 tháng 7 ngay khi tôi ra khỏi đường hầm và có tín hiệu lại đã là bằng chứng rõ ràng về điều đó."Đường hầm... Đường hầm Urashima..."Đó là lời giải thích duy nhất tôi có thể nghĩ đến. Tất cả những hiện tượng kỳ lạ này chỉ bắt đầu xảy ra sau khi tôi bước vào đó: tìm thấy dép của Karen, gặp lại con vẹt đã chết của chúng tôi, và giờ là sự chuyển giao thời gian không thể giải thích được. Rốt cuộc là chuyện gì đang xảy ra với tôi? Tôi có bị mất trí nhớ không? Tất cả có phải chỉ là ảo giác? Liệu có ai đó đã tẩy não hay thôi miên tôi không? Dù tôi cố gắng vắt óc tìm câu trả lời, tất cả những gì tôi nghĩ ra chỉ là thêm những câu hỏi và một đống lo lắng.
"...Mình không thể suy nghĩ được nữa. Mình cần phải ngủ."
Đầu óc tôi giờ rối bời. Tôi cần nghỉ ngơi trước khi cố gắng hiểu rõ hơn về tình huống này. Chưa kể, sáng mai tôi phải đi học... Hay đúng hơn là chỉ trong vài tiếng nữa.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top