Chương 31 - 50
Chương 31: Tôi phải ra đi
Một chiếc bàn gỗ được dưng bên bờ sông TongChang, thân thể Kumarayana được bọc kín trong những lần vải trắng. Tục lệ an táng của người Khâu Từ là an táng, nhưng vì Kumarayana là người Ấn Độ, nên ông sẽ được hoả táng theo phong tục của Ấn Độ.
Bạch Thuần cùng các thành viên của hoàng thất, các vương công đại thần xếp thành một hàng dài, tất cả đều mặc y phục màu trắng. Cạnh khung gỗ đặt thi thể Kumarayana là các nhà sư, do Rajiva dẫn đầu, sư phụ của cậu – Bundahatta cũng đến dự, họ ngồi xếp bằng trên sông và cùng tụng niệm.
Pusyseda vận đồ tang màu trắng, vấn khăng tang, tay cầm đuốc, mắt đỏ hoe, thâm quầng, nét mặt đau thương. Theo phong tục thì con trưởng là người cầm đuốc, nhưng vì Rajiva đã xuất gia, cậu không còn thân phận phàm tục nên việc này được giao cho con út.
Bạch Thuần ra hiệu cho Pusyseda, cậu đến bên chiếc bàn gỗ, châm lửa lên lớp cỏ khô phủ xung quanh khung đỡ. Chỉ một lát, ngọn lửa bùng cháy nuốt trọn Kumarayana.
Tiếng kêu khóc thương tâm hoà lẫn tiếng tụng kinh trầm buồn, tạo nên một khung cảnh vừa trang nghiêm vừa thê lương.
Pusyseda quỳ xuống, hai tay chống đất, đầu cuối thấp, hai vai rung động. Tôi nhìn sang Rajiva, cậu ấy như quên cả tụng niệm, đôi mắt thẫn thờ nhìn người cha đang tan biến dần trong đống lửa, nỗi đau đớn tột độ hiện trên nét mặt khiến tôi không đủ can đảm nhìn cậu ấy. Trong cuốn "Trung Luận" của Bồ Tát Long Thụ mà Rajiva sẽ dịch sang tiếng Hán có đoạn: "Con người, từ nhân quả kiếp trước nên sinh ra trong kiếp này, vì có sinh nên có già cỗi và chết đi, từ già cỗi và chết đi nên sinh ra buồn sầu, đau khổ. Mọi muộn phiền của con người đều từ đó mà ra. Nên biết rằng, sinh tử được tạo ra bởi nghiệp chướng của những kẻ u mê ngu muội". Vòng luân hồi sinh lão bệnh tử là nghiệp chướng, là nỗi khổ của đời người. Bởi vậy, kẻ sáng suốt phải biết cách "diệt trừ sự mê muội, để diệt trừ nghiệp chướng" Nhưng nếu Rajiva có thể diệt trừ được sự mê muội, thì vì sao đêm đó, cậu ấy lại khóc cha thê thảm đến như vậy?
Tôi lặng nhìn ngọn lửa đó, thầm cầu nguyện: Quốc sư, cầu mong ông sẽ gặp được người mà trọn đời ông thương nhớ. Nỗi lòng của ông, Phật Tổ sẽ thấu hiểu, vì Ngài cũng từng trải qua nổi khổ tương tư dày vò, nhất định Ngài sẽ giúp hai người được đoàn tụ. Cầu chúc hai người hạnh phúc nơi cục lạc...
Nghi lễ an táng kéo dài hơn một giờ. Khi tàn lửa cuối cùng lịm tắt, Pusyseda cùng người nhà thu lượm hài cốt của cha, rắc xuống sông TongChang. Trái tim tôi như thắt lại khi thấy Pusyseda ôm bình tro và kêu khóc thống thiết.
Trở về phủ quốc sư, tôi không nói với Pusyseda về ý định ra đi của mình, vì lúc này cậu đang quá đỗi đau buồn, tôi không nỡ nêu ra chuyện đó. Rajiva không ở lại phủ, mà cùng sư phụ Bandhudatta trở về chùa Cakra. Trước lúc ra đi, cậu ấy lặng nhìn tôi hồi lâu, tôi không hiểu ánh mắt phức tạp ấy muốn truyền đạt điều gì, thực ra thì tôi cũng không muốn tìm hiểu, vì tôi đã quá mệt mỏi...
Tôi ngồi trong sân nhìn ngắm bầu trời. Trước kia tôi thường băn khoăn, bầu trời 1650 năm về trước chắc hẳn là trong lành và thoáng đãng hơn bầu trời thế kỷ XXI, nhưng cứ ngắm mãi bầu trời ấy có gì thú vị đâu chứ? Bây giờ tôi mới hiểu, không phải bầu trời không có thứ gì đáng để ngắm, mà vì khi trong lòng chất đầy tâm sự, ngắm nhìn bầu trời cao xa vời vợi kia sẽ cảm thấy dễ chịu hơn là ngồi thu mình một chỗ.
- Ngải Tình!
Quay lại đã thấy Pusyseda đứng trên bậc thềm, cậu ta vẫn mặc áo tang, đôi mắt trũng sâu, khuôn mặt hốc hác, râu ria lúng phúng quanh cằm. Cậu ta trở nên trầm tĩnh hơn trước, chín chắn hơn trước rất nhiều. Người xưa nói không sai, đàn ông trưởng thành hơn vào ngày đưa tang cha.
Hai chúng tôi đã nhiều ngày không trò chuyện với nhau. Pusyseda bước xuống bậc thềm, đến bên cạnh tôi. Không cười đùa cợt nhã như trước kia, cậu ta chỉ cuối đầu nhìn tôi. Kể từ sau khi trở về phủ quốc sư, cậu ta luôn tỏ ra giữ ý với tôi.
- Ngải Tình, hôm đó...
Cậu ta ngập ngừng, tôi băn khoăn, hôm đó là hôm nào?
- Ý tôi là hôm ở Subash ấy...
Nhớ rồi! Tôi khẽ lắc đầu:
- Chuyện qua lâu rồi, cậu nhắc lại làm gì!
- Tôi chưa bao giờ thô bạo với phụ nữ, nhưng không hiểu sao, với chị, tôi lại không kiềm chế nổi.
- Pusyseda, nếu cậu vẫn muốn xin lỗi, thì câu trả lời là, tôi đã tha thứ cho cậu từ lâu lắm rồi.
- Vậy còn... chỗ đó...
Cậu ta chỉ tay vào môi tôi, gương mặt ửng đỏ:
- Nghe nói phụ nữ người Hán rất coi trọng tiết hạnh.
Tôi giật mình! Thì ra cậu ta muốn nói đến cái hôn đó. Tôi cười:
- Cái đó... không sao. Cứ xem như bị chó cắn đi...
Thật tình tôi chẳng còn nhớ gì về chuyện đó nữa. Với tôi, đó không phải là một nụ hôn, mà chỉ là một vật thể nào đó áp lên môi tôi mà thôi.
- Chị... mắng tôi là chó ư?
Cậu ta tức giận, nhào đến bên tôi.
- Cẩn thận kẻo bị chó cắn lần nữa đấy!
Tôi né sang một bên, Pusyseda không rượt đuổi tôi như trước nữa, chỉ đứng đó và cười. Nụ cười hiếm hoi sau gần 2 tháng. Pusyseda khi cười mới giống con người thật của cậu ấy!
Nhưng nụ cười không kéo được bao lâu đã tắt lịm, đưa mắt nhìn xung quanh, giọng cậu ta trở nên thê thiết:
- Cha ra đi, căn nhà trở nên trống trải lạ thường, quạnh quẽ lạ thường.
Rồi quay lại nhìn tôi ánh mắt dịu dàng, ấm áp.
- May có chị ở đây, khiến tôi thấy vui hơn một chút.
Pusyseda đưa tay ra định chạm vào má tôi, tôi giật mình lùi lại. Cậu ta hụt hẫng, rụt tay lại.
- Ngải Tình, sau cái đó đó, tôi mới biết mình đã trách oan chị.
Tôi sững người, không hiểu.
Pusyseda mỉm cười:
- Phản ứng khi đó của chị chắc chắn là của một cô gái trinh nguyên, Pusyseda nhận ra điều này dựa trên kinh nghiệm dày dặn của mình về phụ nữ.
- Cậu...
Tôi giậm chân.
- Sao cậu cứ nghĩ mãi về chuyện đó thế? Tôi có phải cô gái trinh nguyên hay không thì liên quan gì đến cậu?
- Chị gạt tôi nói rằng chị vừa trở về, đến tận hôm đó tôi mới phát hiện ra chị đã sống cùng anh ta ba tháng rồi. Trai đơn gái chiếc ở cạnh nhau ba tháng trời, dù có là bậc cao tăng đi nữa, anh ta rốt cuộc vẫn là một người đàn ông. Tôi không tin giữa hai người không có chuyện gì. Tôi luôn cảm thấy mình kém cỏi so với anh ta, cha mẹ yêu chiều anh ta, đức vua tôn kính anh ta, người đời sùng bái anh ta. Còn tôi thì sao, tôi chẳng có gì cả. Mọi người chỉ biết tôi là em trai của đại pháp sư Kumarajiva, có ai biết đến tôi tên là gì, có ai thèm quan tâm tôi đã làm được gì đâu. Chờ đợi mãi mới gặp được cô gái mà tôi thích thì lại bị anh ta cướp mất. Nên, tôi không cam tâm. Chờ mãi chị không về, nên tôi đoán chắc chị đã đến chùa tìm anh ta. Tôi như hoá điên, nên mới hành xử thô bạo như vậy với chị.
Cậu ta cúi đầu, như hồi tưởng lại điều gì, tủm tỉm cười nhìn tôi:
- Nhưng sau khi hôn chị, tôi đã bình tâm trở lại. Tôi thấy mừng, vì chỉ môi chạm môi mà chị đã phản ứng dữ dội như vậy, chắc chắn không thể có gì với anh ta được. tôi vẫn còn cơ hội. Vì dù sao anh ta không thể thành thân, nhưng tôi thì có thể.
Tôi bực mình.
- Cậu thật trẻ con! Chỉ vì đố kị với Rajiva mà cậu biến tôi thành thứ đồ để tranh giành với cậu ấy? Tôi thật không hiểu nổi, làm một người bình thường có gì không tốt? Người thông minh có những phiền não của riêng họ, tiếng tăm càng lừng lẫy, cuộc sống càng mệt mỏi. Cậu muốn trở thành một người bình thường vui vẻ hay trở thành một vĩ nhân bất hạnh?
- Vậy là...
Cậy ta nhìn tôi chăm chú, ánh mắt ắp đầy sự trông đợi.
- Chị muốn chồng mình là một người bình thường ư?
Sao cậu ta lại hỏi vậy? Trống ngực đập thình thịch, một lúc lâu tôi mới lấy lại được ngữ điệu bình thản.
- Pusyseda, tôi đã liên hệ với đội thương nhân. Năm ngày nữa sẽ xuất phát, họ sẽ cùng tôi đến thành cổ Taqian, sau đó sẽ đi Trường An.
Tôi đã phải trả thêm một khoản tiền để đội thương gia đó nhận lời cùng tôi đến thành cổ Taqian.
- Chị...
Gương mặt Pusyseda biến sắc, cậu ấy chụp lấy vai tôi.
- Chị vẫn muốn ra đi ư?
- Tôi không có lí do gì để ở lại đây cả.
- Hãy lấy tôi, chị sẽ có lí do để ở lại.
Vậy là đã rõ ý tứ cậu ấy.
- Pusyseda...
- Chị đừng để bụng việc trước đây tôi qua lại với nhiều phụ nữ, tôi xin thề, từ nay tôi sẽ một lòng một dạ với chị, tôi sẽ chỉ có mình chị mà thôi.
- Pusyseda...
- Đừng nói với tôi về tuổi tác, vài năm nữa tôi sẽ già hơn chị. Cũng đừng nói với tôi chị không thuộc về nơi này. Trên trời hay Trường An, không có tôi ở đó, chị tìm đâu được niềm vui? Tôi chỉ muốn nghe một câu trả lời: đồng ý hay không đồng ý?
Chưa từng thấy cậu ta nghiêm túc như thế bao giờ. Nếu không phải trái tim tôi từ lâu đã thuộc về người khác, hẳn là tôi sẽ chẳng thể cự tuyệt những lời thổ lộ ấy.
- Pusyseda, tôi không đồng ý.
Tôi gỡ bàn tay Pusyseda đang nắm chặt vai mình, bình thản đối diện cậu ta.
- Lý do duy nhất là: tôi không yêu cậu.
Pusyseda thoáng chao đảo, nụ cười chán nản hiện trên khoé môi.
- Ngải Tình, chính chị đã dạy cho tôi biết thế nào là yêu. Nhưng khi tôi biết yêu một người, chị lại nói với tôi rằng, chị chưa bao giờ yêu tôi.
- Tôi xin lỗi...
- Đừng nói lời xin lỗi với tôi!
Pusyseda đột ngột quay lại, túm lấy tay tôi!
- Chị yêu anh ta phải không?
- Tôi...
Tôi không thể thừa nhận, tôi phải giữ gìn danh tiếng cho cậu ấy...
- Đừng giấu nữa! Thời gian về đây ngày nào anh ta cũng chăm sóc vết thương cho chị và còn ánh mắt anh ta khi nhìn chị nữa. Chị tưởng tôi không biết chắc?
Pusyseda kéo tôi lại gần, ánh mắt sắc lẹm dò thám gương mặt tôi.
- Chị thừa biết anh ta chẳng thể cưới chị mà vẫn yêu hay sao?
- Pusyseda, tôi cũng mong người tôi yêu là cậu. Nếu là một thời điểm khác, ở một nơi khác, chắc hẳn tôi đã yêu cậu. Ở bên cậu tôi thấy rất vui vẻ, cậu mang lại tiếng cười và khiến tôi quên hết nỗi cô đơn, buồn chán.
Tôi không thể tiếp tục phủ nhận. Thật ra thừa nhận hay không có gì khác nhau đâu, cũng đâu thay đổi được gì.
- Nhưng, tình yêu vốn mù quáng, tôi không biết tại sao mình lại yêu cậu ấy. Dù biết sẽ không có kết cục gì, nhưng tôi vẫn chẳng thể kìm chế bản thân. Vậy nên, tôi đã quyết định ra đi.
Pusyseda buông tôi ra, cất giọng cười lạnh lùng, biểu cảm trên gương mặt phức tạp đến nổi tôi không sao hiểu được.
- Vậy là tôi vẫn chậm hơn anh ta một bước...Một năm qua tôi đã chán ngấy trò chơi tình ái với đám phụ nữ nhạt nhẽo, tôi không có tình cảm thực sự với họ nên những mối quan hệ đó diễn ra chóng vánh, khi giây phút nồng nản qua nhanh, nỗi cô đơn lại trở về, xâm chiếm tâm hồn tôi. Từ lúc ấy, tôi bắt đầu mong chờ ngày chị trở về. Tiên nữ của tôi từng nói rằng, nếu tôi học thuộc lòng "Kinh Thi", nàng sẽ quay lại. Chị nghĩ rằng mười năm trước tôi đã bắt đầu học thuộc "Kinh Thi" ư? Không đâu, mới từ năm ngoái thôi, tôi muốn thử xem lời chị nói có thật hay không. Kết quả, sau khi tôi học thuộc cả cuốn "Kinh Thi" ấy, chị đã trở về. Chị không hề thay đổi, vẫn nụ cười ngây ngô, gương mặt thuần khiết của mười năm về trước. Trước kia, cha sốt ruột giục giã tôi thành thân, tôi luôn cao giọng tuyên bố sẽ chỉ kết hôn với cô gái độc nhất vô nhị tự xưa đến nay. Khi đó chỉ vì muốn thể hiện với cha, nên tôi mới thốt ra nhưng lời to tát ấy. Nhưng từ lúc gặp lại chị, tôi đột nhiên nhận ra chị chính là cô gái có một không hai ấy. Vì vậy, tôi muốn giữ chị ở bên mình, tôi muốn được ngắm nhìn tôi mắt trong sáng của chị mãi mãi. Tôi nghĩ lần này tôi đã nhanh hơn anh ta một bước. Nào ngờ cuối cùng vẫn bị anh ta cướp mất chị.
Tôi không phải không mảy may xúc động, nhưng những lời nói của Pusyseda khiến tôi lo lắng nhiều hơn.
- Pusyseda, mười năm trước, tôi chỉ sống cùng cậu vẻn vẹn ba tháng và khi đó cậu mới 10 tuổi. Sau mười năm, e rằng hình dáng tôi thế nào cậu cũng chẳng nhớ nổi, nói chị đến chuyện ngày đêm nhung nhớ?
- Tôi nhớ chứ...
Cậu ta đưa tay ra định chạm vào má tôi, nhưng tôi đã kịp lùi lại. Cậu ta không tiến đến, chỉ đứng đó, tưởng tượng ra khuôn mặt tôi trong không gian.
- Một năm qua, hình bóng chị luôn hiện lên trong tim tôi, ngày một rõ ràng, sống động. Bởi vậy, khi chị xuất hiện trên phố với bộ dạng ngây ngô đó, tôi đã lập tức nhận ra.
Tôi thở dài, không thể tiếp tục tình trạng này nữa. Tuy rằng không biết vì sao cậu ta đột nhiên nảy sinh tình cảm với tôi, nhưng tôi cũng không muốn tìm hiểu. Chuyện đã như vậy, có tìm hiểu thêm nữa cũng đâu có nghĩa lý gì. Tôi đưa mắt nhìn những cành nho trụi lá trong sân, thở dài.
- Pusyseda, ngày mai tôi sẽ đến chùa Cakra.
- Để gặp anh ta?
- Đúng vậy, nhưng là để chào từ biệt, đừng lo, sẽ không xảy ra bất cứ chuyện gì giữa chúng tôi đâu.
Tôi cười cay đắng.
- Tôi và Rajiva đều rất tự trọng...
Tôi tháo chuỗi ngọc hình sư tử xuống, đưa cho Pusyseda.
- Hãy tặng cho người con gái sau này cậu yêu.
Cậu ta lặng lẽ nhìn viên ngọc, không đón lấy, cũng không trả lời, một lúc sau mới lên tiếng
- Nó vốn là của chị mà!
Cậu ta bắt chước tôi ngó lên trời. Ánh chiều tà đổ bóng lên thân người cao lớn ấy, sáng lạn, rực rỡ.
Chương 32: Làm sao sống được mà không yêu
Mavasu đã rất kinh ngạc khi mở cổng và thấy tôi. Sau lễ tang Kumarayana ông đã theo Rajiva quay lại Subash. Người nô bộc rất mực trung thành này đã chăm sóc cha con Rajiva và cả tôi nữa, hết mực ân cần tận tuỵ. Tôi mỉm cười với ông, nói rằng tôi tới để từ biệt và nhờ ông tới chùa thông báo với Rajiva.
Mavasu quay về cùng với Rajiva. Bây giờ còn chưa đến giờ tụng kinh buổi chiều, vậy là cậu ấy lại trốn việc rồi!
Khi Rajiva bước chân qua cánh cổng, cậu ấy bị vấp vào bậc cửa, lúc đó tôi đang đứng ngoài cửa phòng nên đã thấy cả. Một bậc cao tăng đại đức, mọi cử chỉ thường ngày vốn rất từ tốn nho nhã vậy mà cũng có lúc vấp chân vào bậc cửa suýt ngã, tôi bật cười.
Thấy tôi cười cậu ấy có vẻ hốt hoảng, dừng bước trấn tĩnh, chỉ một lát đã lấy lại được phong thái ung dung đĩnh đạc thường thấy, chậm rãi tiến về phía tôi.
- Vì sao không chờ kết thúc buổi tụng kinh buổi tối hãy về?
Cậu ấy sững người, gương mặt ửng đỏ, lặng yên không đáp, ánh mắt trôi về phía xa xôi.
- Rajiva, cậu là trụ trì của một ngôi chùa lớn, cậu không thể tuỳ ý vi phạm giới luật như khi còn nhỏ được.
Tôi nghiêm mặt, nói với cậu ấy bằng giọng điệu lên lớp của cô giáo năm xưa.
- Cậu về chùa đi, hết giờ tụng kinh buổi tối hãy quay lại.
Ngừng một lát, tôi nói tiếp:
- Tôi có chuyện muốn nói.
- Chuyện ra đi ư?
Tôi hơi ngạc nhiên, rồi thì gật đầu. Cậu ấy thông minh tuyệt đỉnh như vậy lẽ nào không đoán ra được.
- Nếu vậy, buổi tối Rajiva sẽ quay lại.
Giọng nói điềm tĩnh, không mảy may xao động. Cậu ấy khẽ cúi người, xoay lưng bước đi. Nhưng khi đi qua bậc cửa, không hiểu sao lại bị vấp một lần nữa. Nhưng lần này, tôi chẳng cười nổi.
Mùa thu, màn đêm buông xuống nhanh hơn. Mặt trời vừa khuất núi, gió đã se se lạnh trong không gian, sương đêm buốt giá. Tôi ngồi bên cửa sổ, ánh mắt đổ dồn về phía cánh cổng, Rajiva xuất hiện, tôi chăm chú quan sát bước chân của cậu ấy. Tốt rồi, lần này không bị vấp nữa.
Cậu ấy bước vào phòng, vừa thấy tôi bèn cất giọng trầm ấm:
- Trời về khuya lạnh lắm, cô mặc thêm áo vào cho ấm.
Mũi tôi cay cay, nước mắt chỉ trực trào ra. Tôi hít một hơi dài che đi thanh âm đang nghẹn ngào nơi cổ họng:
- Đúng vậy, tôi cảm lạnh mất...
- Cô không biết quý trọng sức khoẻ gì cả, ngày mai tôi sẽ mời thấy thuốc đến khám xem sao.
Ánh mắt Rajiva di chuyển đến cánh tay bị thương của tôi.
- Mấy ngày nay vẫn bôi thuốc đều đặn chứ?
Hơn một tháng ở phủ quốc sư, Rajiva không tự mình đến băng bó cho tôi nhưng hằng ngày vẫn có một a hoàn đến giúp tôi. Và dù bận bịu chăm sóc cha, cậu ấy vẫn ngày ngày đều đặn đến thăm tôi và dặn dò tôi không được động vào vết thương khi đã ăn da non. Sự chăm sóc ân cần kéo dài đến tận khi cậu ấy rời phủ.
- Không cần đâu!
Rajiva đừng chăm chút tôi như vậy, tôi không dám nhận. Tôi cắn chặt môi, cố gắng giữ cho giọng nói của mình thật bình thản.
- Ngày mai tôi sẽ trở về thành Khâu Từ. Tôi đã liên hệ được với đội thương nhân, chúng tôi sẽ nhanh chóng lên đường đi Trường An.
Cậu ấy không lên tiếng, ánh mắt lại trôi xa, một lúc lâu mới quay lại nhìn tôi, chậm rãi nói:
- Cô vẫn muốn đến thăm thành cổ Taqian kia mà! Rajiva vừa quyết định tới Yarkland học đạo, trên đường sẽ đi ngang qua đó...
- Rajiva!
Tôi ngắt lời cậu ấy, chỉ muốn ngay lập tức đẩy những ẩn ức dồn nén, chất đầy trong lòng ra bên ngoài.
- Cậu vẫn không hiểu sao? Tôi ra đi vì không muốn tiếp tục ở bên cậu nữa.
Ánh mắt Rajiva đột ngột tối sầm, hàng mi dài rũ xuống, một tiếng cười chua chát bật lên:
- Ra là vậy
Cậu ấy nghiêng đầu, hít một hơi thật sâu, khe khẽ cất tiếng:
- Vậy thì để Pusyseda chăm sóc cho cô. Cậu ấy tuy nóng nảy nhưng thật lòng với cô...
- Rajiva!
Tôi không kềm chế nổi nữa, cậu ấy thông minh như vậy, nhưng vì sao đến giờ vẫn không hiểu ra?
- Thế nghĩa là sao? Nhường tôi cho em trai cậu ư? Bởi vì Pusyseda có thể danh chính ngôn thuận ở bên cạnh tôi ư? Rajiva, tôi không cần ai chăm sóc cả, tôi...
- Ngải Tình..
Rajiva đột nhiên ngẩng lên, ánh nhìn sắc lẹm bừng lên trong đôi mắt màu xám nhạt long lanh ấy.
- Phải thế nào mới chịu ở lại?
Tôi mở miệng nhưng không thốt được nên lời, nước mắt lăn dài trên má.
- Tôi...
Lại mở miệng, nhưng vẫn chưa thể bật ra một câu nói hoàn chỉnh.
- Tôi...
Tôi quay đi. Tôi không muốn cậu ấy thấy tôi khóc, nhưng không hiểu sao tôi không kềm chế nổi. Tôi làm sao kềm chế nổi.
- Ngải Tình...
Giọng nói khẽ khàng, nhẹ như hơi thở, cánh tay dài gầy guộc vươn đến với tôi. Tôi nhắm mắt lại. Ngã mình vào vòng tay đang run rẩy của Rajiva.
Khoảnh khắc chạm vào khuôn ngực của cậu ấy, một tiếng nói mơ hồ, bồng bềnh trôi trên đỉnh đầu tôi:
- Mười năm chờ đợi chẳng lẽ chỉ đổi được vài tháng ngắn ngủi bên nhau?
Tôi không khống chế nổi mình, đã bật khóc thảm thiết. Rajiva, Rajiva, vì sao người tôi yêu lại là cậu? Vì sao chúng ta yêu nhau lại không thể ở bên nhau? Vì sao khi ấy tôi lại đồng ý tham gia vào dự án vượt thời gian ngu ngốc này?
Trong vòng tay cậu ấy, tôi đã khóc triền miên, khóc nhiều đến nghiêng ngả cả đất trời, khóc ướt đẫm vai áo của người ấy. Hơi ấm của Rajiva qua làn vải mỏng ấy khiến má tôi bỏng rát. Ước gì vòng tay ấm áp này là nơi tôi có thể nương tựa vào bất cứ khi nào.
- Ngải Tình...
Cậu ấy khẽ đẩy tôi ra, nhìn sâu vào mắt tôi. Hai hàng lệ đổ dài trên gương mặt hao gầy, đọng lại thành những giọt trĩu nặng nơi chiếc cằm nhọn, lún phún sắc xanh, rồi nhỏ xuống chiếc áo cà sa màu nâu sòng. Nước mắt vỡ òa, thấm trên làn vải mỏng, tạo thành hình những bông hoa nhỏ sẫm màu.
- Đây là lần đầu tiên trong đời Rajiva khóc. Lần đầu khóc vì mẹ, nhờ có cô mà tôi biết được lúc đau khổ có ai đó ở bên cạnh thật dễ chịu biết bao. Lần thứ hai vào buổi tối ngày cha mất, một mình Rajiva lặng lẽ chạy ra ngoại thành để khóc. Khi ấy tôi đã mong có cô ở bên cạnh biết nhường nào.
- Tôi ở đó...
Tôi đã khóc không thành tiếng, ngước nhìn cậu ấy bằng đôi mắt ướt nhòe.
- Tôi đã đến đó, đến rất gần cậu và chờ đợi đến tận bình minh ngày hôm sau khi cậu quay về.
Rajiva siết tôi trong vòng tay thật chặt, không giống như trước đó. Cánh tay cậu ấy ngày một mạnh mẽ hơn, như muốn hòa tan tôi trong lồng ngực cậu ấy vậy. Vòng tay cuồng nhiệt khiến tôi chới với. Tôi vòng tay ôm lấy bờ vai gầy guộc của cậu ấy. Rajiva khẽ rùng mình, đột nhiên đẩy tôi ra.
- Ngải Tình, Rajiva chưa bao giờ thấy vui vẻ như trong ba tháng qua. Cứ nghĩ đến thời khắc cuối ngày được trở về gặp cô, tôi ngày ngày mong chờ giờ tụng kinh buổi tối.
- Rajiva...
Tôi như mê đi trong ánh mắt đám đuối của cậu ấy.
- Tôi cũng vậy, ngày nào cũng mong ngóng cậu trở về...
- Tôi muốn...
Rajiva ngập ngừng. Ánh mắt khóa chặt đôi mắt tôi. Mỗi tiếng thốt ra như có sức nặng nghìn cân.
- Rajiva từ lâu đã muốn...
Tôi nhìn Rajiva, chớp mắt, hít một hơi thật sâu, chờ đợi. Cậu ấy ngập ngừng rất lâu, cứ khẽ mở miệng lại mím chặt môi lại, không sao cất nổi dù một tiếng.
- Rajiva...
Tôi khẽ gọi, mắt nhìn sâu vào hai vực nước hun hút của cậu ấy.
- Cậu muốn nói gì?
- Muốn... hôn... nàng, được không?
Cậu ấy nói ra rồi, tuy giọng còn run run nhưng mỗi chữ thốt ra là cả một nỗ lực dời non lấp bể. Gương mặt bừng bừng như thiêu đốt, đôi mắt như hai vực nước trong suốt, sâu hun hút ấy gắn chặt lấy tôi, như chờ đợi. Trái tim tôi lại chịu thử thách, nước mắt tuôn trào. Ôi người đàn ông này mới thuần khiết làm sao, đến bây giờ vẫn còn hỏi tôi có được hay không.
- Không được.
Tôi cố gắng hít một hơi thật sâu, nhẹ nhàng đáp lại.
- Chàng không thể phá giới.
Rajiva giật mình, cánh tay khi nãy vẫn siết chặt hai vai tôi khẽ buông và quay mặt đi. Một nỗi thất vọng, buồn tủi đày đọa gương mặt chàng.
Đó là sắc diện luôn khiến trái tim tôi quặn thắt.
- Nhưng, em có thể hôn chàng...
Tôi kiễng chân, vòng tay lên níu lấy chiếc cổ thiên nga của chàng, khẽ đặt môi lên bờ môi mỏng manh của chàng. Từ khoảng cách gần trong gang tấc ấy, đôi mắt to của chàng trùm lên tôi tựa hai vực nước sâu vô tận hút tôi vào bên trong. Hàng lông mày dài thanh tú khẽ rung động, đẹp như thần tiên. Môi chàng rất mềm. Khoảnh khắc chạm vào đôi môi ấy như có một luồng điện lan tỏa khắp cơ thể tôi.
Rajiva khẽ rùng mình, đôi mắt vẫn mở to, đáy mắt hắt lên một tia kinh ngạc, tiếp theo đó là niềm vui rạng rỡ. Tôi nhắm mắt lại, cảm nhận sự ngọt ngào của đôi môi chàng bằng trái tim. Thì ra nụ hôn tuyệt vời đến như vậy! Trước đó, với Pusyseda không thể gọi là hôn. Đây mới là nụ hôn thực sự của tôi. Nụ hôn mà suốt đời tôi sẽ không thể nào quên.
Rajiva chỉ đứng yên lặng, để mặc tôi gắn môi mình lên làn môi mềm mượt của chàng. Khi tôi đánh liều dùng đầu lưỡi liếm nhẹ trên bờ môi vẫn đang mím chặt của chàng, Rajiva kinh ngạc, khẽ kêu lên một tiếng, đôi môi hé mở. Chỉ nửa giây đắn đo, đầu lưỡi tôi nhẹ nhàng vân du vào bên trong, chạm vào đầu lưỡi ngọt và ấm của chàng. Chàng vẫn đứng yên, không động đậy, nhưng hơi thở bỗng trở nên gấp gáp. Lúc chạm phải đầu lưỡi tôi, chàng đột ngột ôm chặt lấy eo tôi, đầu cuối thấp, thân người đổ về phía trước, chủ động đẩy cao đầu lưỡi cuốn lấy tôi. Chúng tôi mê man đuổi bắt nhau, cuốn lấy nhau, quấn quít bên nhau. Trời sập thì đã sao, đất lở thì đã sao?! Giữa đất trời này, chỉ có tôi và chàng, người đàn ông và người phụ nữ...
Lúc tách nhau ra, hai chúng tôi cùng thở hổn hển, nhìn vào mắt nhau và cười...
- Chàng nhớ nhé, chàng bị em ép buộc, em chính là người dụ dỗ chàng phá giới, vì vậy, em sẽ gánh chịu mọi tội lỗi. Chàng không có tội gì cả. Dù phải sa xuống bất cứ tầng địa ngục nào, Ngải Tình cũng không sợ...
- Ngải Tình...
Một tay chàng giữ chặt eo tôi, một tay khẽ đặt lên má tôi, chàng dịu dàng vuốt ve gương mặt tôi. Bàn tay với những ngón dài, thon gầy ấy chạm đến đâu là làm cho gương mặt tôi bừng sáng đến đó.
- Rajiva đã phá giới từ lâu rồi...
Chàng khẽ cất tiếng, cọ trán chàng vào trán tôi.
- Ghen tị với em trai, phạm phải giới luật đố kỵ. Luôn mơ tưởng đến nàng, phạm phải giới luật tư dâm. Ở bên nàng lại khao khát được chạm vào nàng, phạm phải giới luật khát khao dục vọng. Ngải Tình, mười năm trước, mười năm qua, Rajiva đã luôn phá giới.
Chàng xoay người tôi lại, để mắt tôi nhìn vào mắt chàng. Vẻ dịu dàng trong đôi mắt ấy khiến tôi như mềm đi.
- Bởi vậy, ta mới đáng bị đẩy xuống địa ngục, chứ không phải nàng...
- Rajiva...
Tôi áp mình vào ngực chàng.
- Chàng không có tội gì cả. Chính em đã quyến rũ chàng. Em giống như yêu nữ từng quyến rủ Phật tổ năm xưa. Khi chàng tỉnh cơn mơ, em sẽ tan theo mây khói.
Ngón tay chàng đặt trên miệng tôi, ngăn tôi nói tiếp. Tôi ngước nhìn đôi mắt long lanh, tinh khôi như hồ nước thu. Giọng chàng êm như lụa, thoảng bên tai:
- Không đâu, nàng không như vậy...
Chàng nhìn tôi, ngập ngừng, do dự, đắn đo.
- Nàng...
Hít một hơi thật sâu giọng chàng nhẹ bẫng như làn gió.
- Nàng... có muốn Rajiva hoàn tục không?
- Không!
Tôi hoảng sợ, rời khỏi vòng tay chàng. Hiện thực nghiệt ngã đã ùa về.
- Chàng không thể!
- Rajiva, sau này chàng sẽ có được những thành tựu lớn lao, chàng sẽ đến Trung Nguyên truyền bá Đạo Phật và giúp cho đạo Phật ở Trung nguyên phát triển rực rỡ.
Tôi đăm đăm nhìn chàng, giọng nói không biết từ lúc nào trở nên quá đỗi bi ai:
- Bởi vậy, chàng không thể hoàn tục. Nếu chàng làm vậy, em không thể tưởng tượng nổi hậu quả sẽ ra sao, em sẽ hoá điên mất! Và cả đời này em sẽ không thể tha thứ cho mình. Rajiva, số mệnh của chàng đã được định đoạt, không thể nào thay đổi...
Tôi nghẹn ngào, tôi biết vận mệnh của chàng, tôi không thể thay đổi vận mệnh đó, vậy còn vận mệnh của tôi thì sao? Lẽ ra, tôi sẽ không bao giờ chạm được vào chàng, nhưng dự án vượt thời gian này đã thay đổi số mệnh của tôi. Ai mà biết được rồi số mệnh của tôi sẽ đi về đâu...
Chàng thở dài, kéo tôi vào lòng.
- Ngải Tình, Phật tổ đã cử nàng đến bên ta phải không? Nàng là tiên nữ, nên nàng biết tương lai của ta phải không?
- Rajiva, em không biết phải giải thích như thế nào với chàng về sự xuất hiện của em, nhưng những gì em nói đều là sự thật. Hãy hứa với em, cả đời này chàng sẽ không hoàn tục. Xin đừng quên lý tưởng lớn lao của chàng: Hãy đưa Đạo Phật đến Trung nguyên để cứu rỗi biết bao con người đang đắm chìm trong bể khổ.
Chảng xiết chặt tôi hơn, khuôn ngực phập phồng, hồi lâu mới cất lời:
- Được, ta hứa với nàng, nàng muốn ta đến Trung nguyên truyền bá đạo Phật, ta nhất định sẽ đi.
Chàng ngập ngừng, lấy giọng, câu hỏi xen trong nỗi ngẹn ngào trôi đến bên tai tôi:
- Nhưng, nàng vẫn phải ra đi ư?
- Rajiva, chàng từng nói, mọi thứ đều không tồn tại kia mà! Em chỉ là một ảo ảnh, em không tồn tại thực sự, em sẽ nhanh chóng biến mất. Sau này, chỉ cần chàng cố gắng, chàng nhất định sẽ quên được em...
- Chúng sinh trong cõi phàm trần ai nấy đều bị ràng buộc bởi thế giới vật chất và tinh thần mà chẳng thể thanh thản.
Chàng nhẹ nhàng buông tôi ra, xoay lưng, hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ, ngọn đèn dầu buổi chiều muộn không che nổi nét cô đơn trong đáy mắt.
Rajiva đắm chìm trong cõi trần ai, biết bao điều ràng buộc, làm sao có thể an nhiên tự tại?
Mọi ân oán đời này
Đều vô thường chóng phai
Cõi thế nhiều khổ não
Đời người như sương mai
Vì yêu nên sợ hãi
Vì yêu nên ưu phiền
Kẻ nào lià chữ "ái"
Tâm mới được an nhiên.
Tôi khẽ nhẩm đọc những câu thơ trong tiểu thuyết "Phi hồ ngoại truyện" mà Viên Tử Y đọc cho Hồ Phỉ nghe trước khi ra đi, đây cũng chính là những câu kệ trong kinh văn Phật giáo (cuốn "Phật thuyết diệu sắc vương nhân duyên kinh").
Từng câu từng chữ lúc này như cứa vào tim gan tôi.
- Rajiva, lìa xa ái tình, sẽ không còn ưu sầu khổ não nữa...
- Nếu nói quên là sẽ quên được thì đâu còn là "vì yêu nên sợ hãi, vì yêu nên ưu phiền" nữa.
Rajiva khép mắt, giọt nước mắt sau cùng nhỏ xuống.
- Ý trời không thể trái. Nếu đã vậy ta trả nàng về cõi trời...
Đêm đó, không sao chợp mắt được, chúng tôi nương tựa vào nhau, truyền hơi ấm cho nhau. Trời trở sáng sẽ là thời khắc li biệt, giá như thời khắc ấy đừng bao giờ đến.
- Rajiva...
- Ừm...
- Đến giờ tụng kinh buổi sáng rồi...
- Hết một đêm rồi ư? Sao thời gian trôi nhanh đến vậy?
- Hôm nay sự phụ lên đường về Jabul, ta phải đi tiễn người, sau đó sẽ tới Yarkand. Các tăng sỹ ở đó đã nhiều lần mời ta đến thuyết giảng về giáo lý Đại Thừa...
- Ừm...
- Vì vậy, ta không thể tiễn nàng...
- Ừm...
- Ngải Tình, liệu ta có được gặp lại nàng không...?
- Em không biết.
- Ngải Tình, hôm nay ta đã hôn nàng, vì vậy, tội nghiệt của chúng ta là như nhau. Rajiva thân là bậc tăng nhân, thờ Phật, nhưng đã phá giới, ta đáng bị đày xuống địa ngục đại tiêu nhiệt...
- Vâng, vậy em sẽ tới đó tìm chàng...
Chương 33: Ai nợ Ai?
Tỉnh dậy, thấy Pusyseda đang ngồi trước mặt, ánh mắt đăm chiêu, chăm chú quan sát gương mặt tôi. Tôi lẳng lặng đứng lên. Hôm nay là ngày cuối của tôi ở Khâu Từ, sắp xếp đồ đạc xong xuôi, nhét chặt hai chiếc balô Northface, lát nữa tôi sẽ đến điểm hẹn để gia nhập đoàn thương nhân.
Khoác áo lên người, tôi đưa tay xuống dưới gối, không thấy gì cả. Kéo gối ra, cũng không thấy. Nhìn quanh xem có rơi đâu đó không, vẫn không thấy. Đâu rồi nhỉ?
- Đừng tìm nữa.
Giọng nói đượm vẻ mệt mỏi của Pusyseda cất lên:
- Tôi giấu đi rồi.
- Cậu...
Tôi nổi giận:
- Sao cậu làm vậy? Trả lại cho tôi.
- Không có cái vòng bự tướng ấy, chị sẽ không bay được lên trời.
- Cậu!
Việc đó mà cậu ta cũng nghĩ ra, thật liều lĩnh!
- Trả chiếc đồng hồ, à không, trả chiếc vòng lại cho tôi. Nếu cậu bất cẩn ấn vào nút đó, hậu quả khôn lường.
- Hậu quả ư?
Cậu ta cười mỉa, thái độ bất cần.
- Hậu quả là tôi sẽ bay lên trời ư?
- Không.
Không có áo chống tia phóng xạ, cậu ta chẳng thể bay đi đâu.
- Khi đó sẽ có một luồng ánh sáng cực mạnh, nếu bị chiếu vào, chỉ vài ngày sau, thân thể cậu sẽ tan rữa, cạn máu mà chết.
Tôi tưởng tượng ra hậu quả khủng khiếp ấy để doạ cậu ta.
- Được thôi, tôi sẽ không động vào bất cứ thứ gì. Nhưng, cái vòng đó, tôi sẽ giữ.
Pusyseda tỏ ra không biết sợ hãi là gì, thản nhiên đứng lên, cười với tôi.
- Nếu chị cho rằng vào phòng tôi có thể tìm thấy chiếc vòng thì xin mời tự nhiên!
- Pusyseda, cậu muốn gì?
Tôi mệt mỏi tựa vào thành giường, sao cậu ta cứ gây chuyện vào lúc tâm tư tôi rối bời thế này?
- Muốn gì chị còn không hiểu hay sao?
Cậu ta sáp lại gần tôi, đấy mắt vằn lên những tia đỏ.
- Tôi biết bây giờ chị vẫn chưa yêu tôi, nên tôi phải tận dụng thời gian.
Tôi cắn môi, nghiêng đầu đi, không muốn nhìn cậu ấy.
- Vô ích thôi.
- Cứ mặc tôi!
Cậu ta đột nhiên nổi đoá, cáu gắt:
- Dậy mau, đến giờ phải đi rồi!
- Đi đâu?
- Thành cổ Taqian. Tôi và các anh em sẽ đưa chị đến đó.
Tôi gần như bị cậu ta nhấc lên xe. Không muốn nhưng tôi không lại được với sức mạnh của cậu ta, chỉ đành ngậm đắng nuốt cay ngồi yên trong xe. Pusyseda cùng bốn người bạn trong đội cấm vệ quân hộ tống tôi ra khỏi thành Khâu Từ.
Cỗ xe lắc lư, tôi thẫn thở, cảm giác có thứ gì đó đang dồn tụ trong lòng, muốn đẩy ra không đẩy được, muốn nuốt vào không nuốt được. Sáng sớm hôm qua, tôi đứng nép vào một góc tường cách cổng chùa không xa, lén dõi theo cậu ấy. Rất nhiều người đã đến tiễn Bundahatta, người dân trong thành Subash cũng kéo đến rất đông, cả biển người nhấp nhô, chen chúc, kín hết khoảng không gian trước cổng chùa. Tôi không thấy Rajiva đâu cả. Mải đến khi cậu ấy lên lưng lạc đà, tôi mới vội đưa tay xoa nhẹ chiếc cổ đã tê dại vì mỏi của mình và dặn lòng không được chớp mắt. Cách nhau cả biển người mênh mông, nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được nổi cô đơn trong mắt cậu ấy. Lúc Rajiva đưa tay lên, để lộ chuỗi hạt bằng gỗ đàn hương đã sờn bạc, tôi bất giác nắm chặt vành khăn lụa Atala choàng trên cổ. Lục lạc vang lên lanh canh, Rajiva dõi mắt kiếm tìm, nhưng vô vọng, cậu ấy cúi đầu, xoay người bước đi. Đoàn người dằng dặc nối nhau với những chiếc áo cà sa màu nâu sòng chầm chậm trôi xa, rồi mất hút ở một khúc quanh nơi hẻm núi Thiên Sơn heo hút. Tôi không nén nổi nước mắt.
Xe ngựa lắc lư, nghiêng ngả. Tôi mê man, đắm chìm trong từng khoảnh khắc của hồi ức, cho đến khi Pusyseda thông báo đoàn xe phải dừng lại để dựng trại. Tôi phớt lờ sự tức giận trào lên trong sóng mắt Pusyseda, ăn uống qua loa, rồi nhanh chóng rút về lán trại của mình.
Cậu ta bướng bỉnh đi theo, tôi lẳng lặng xoay lưng lại, nằm xuống ngủ, xem cậu ta như không khí. Pusyseda thở dài, buồn bã, bước ra.
Chúng tôi đến Taian lúc chiều muộn ngày hôm sau, hoàng hôn đổ dài trên những bức tường loang lổ. Chứng kiến khung cảnh tiêu điều ấy, nỗi buồn như thuỷ triều dâng lên xâm chiếm. Tôi chưa bao giờ cảm thấy chán nản với công việc như lúc này. Đột nhiên băn khoăn, liệu việc tiến hành khảo sát, đo đạt, xác định vị trí của một thành trì đã hoang tàn sau gần hai nghìn năm bể bãi nương dâu có thực sự ý nghĩa hay không? Con người luôn vội vã tiến về phía trước, mọi thứ trong thế kỷ XXI thay đổi chỉ trong tích tắc, liệu ai có đủ kiên nhẫn dừng bước để chiêm nghiệm những thứ đã thuộc về quá khứ?
Rajiva cũng vậy, ngoài những nhà nghiên cứu về Phật giáo và lịch sử, thử hỏi có bao nhiêu người biết đến sự tồn tại của cậu ấy? Hoạt hình Nhật Bản đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của giới trẻ, nhưng thử hỏi có bao nhiêu bạn trẻ biết rằng, các nhân vật quen thuộc với tên gọi thường khiến chúng ta níu lưỡi khi đọc như:
Asura, Dragon, Yaksha, Gandharva, Garuda, Kinnava, ... đều là thành quả dịch thuật của Rajiva?
Tôi uể oải lôi đồ nghề ra, mặc lòng có thích hay không, lúc này tôi phải làm một việc gì đó mới được. Nếu không, đầu óc tôi sẽ nổ tung vì những suy nghĩ chất ngất, hỗn độn mất! Lúc đầu tôi một mực từ chối sự giúp đỡ của Pusyseda, nhưng cậu ta nằng nặc giằng lấy thước cuộn nên tôi đành để mặc cho cậu ta giúp.
Buổi tối, chúng tôi dựng trại trên nền đất cũ hoang tàn, đổ nát của thành phố cổ. Ngồi bên đống lửa gặm bánh nướng Khâu Từ trệu trạo nhai, nuốt từng miếng, tôi nhanh chóng "bỏ cuộc", đưa mắt về phía toà thành hoang phế trong đêm u tịch. Không biết giờ này cậu ấy đang ở đâu? Có đang ngồi trước đống lửa và bận lòng về "ai đó" như tôi không? Còn nhớ lần đầu tiên gặp Rajiva, cũng vào một đêm tháng 10 giữa sa mạc mênh mông hoang vu. Khi ấy cậu vẫn là một thiếu niên, đôi mắt long lanh, chăm chú nhìn tôi đầy vẻ hiếu kỳ.
- Chị đang nghĩ gì thế?
Một cốc nước được đẩy đến trước mặt tôi, ánh lửa bập bùng trong mắt Pusyseda, cậu ta giống Rajiva quá!
Tôi đón lấy cốc nước, áp tay vào sưởi ấm.
- Nơi đây từng là Đô hộ phủ của Ban Siêu tại Tây Vực, 16 năm chinh chiến của cha con Ban Siêu đã làm thay đổi lịch sử Tây vực và cả lịch sử Khâu Từ.
Pusyseda ngồi xuống bên cạnh tôi, hướng mắt vào đống lửa.
- Kể cho tôi nghe về ông ấy đi.
- Tôi rất ngưỡng mộ Ban Siêu. Cha ông là Ban Bưu, anh trai là Ban Cố, em gái là Ban Chiêu, họ đều là những nhà sử học và nhà văn nổi tiếng thời Hán. Bản thân ông lúc đầu cũng theo nghiệp văn chương nhưng sau đó đã bỏ bút để cầm gươm.
Tôi nhấp một ngụm nước, hồi tưởng lại gia đoạn lịch sử hào hùng ấy.
- Hán Vũ Đế hạ lệnh cho Trương Khiên "khai thông" Tây vực, thi hành chính sách kết giao hoà hảo, chỉ cần các tiểu quốc Tây vực thuận theo nhà Hán, không những không phải cống nạp, mà còn được Hán triều ban thưởng và cấp cho các kỹ thuật tiên tiến của Trung Nguyên. Thái độ cầu hoà này khác hẳn với chính sách xâm chiếm tàn bạo của quân Hung Nô đối với Tây vực. Bởi vậy, trong một thời gian dài, Tây vực đã hoàn toàn quy thuận triều Hán, khiến quân Hung Nô vô cùng tức tối. Nhưng đến cuối đời Hán, Vương Mãng soán ngôi, thiên hạ đại loạn, quân Hung Nô được dịp ngóc đầu dậy, khống chế toàn bộ Tây vực. Đến khi Minh Đế, con trai của Quang Vũ Đế lên ngôi mới phải Đậu Cố điều binh tấn công quân Hung Nô ở phía Bắc. Từ đó, lịch sử đã viết những trang hào hùng về cuộc đời người anh hùng Ban Siêu.
Thành quách tiêu điều ủ mình trong gió thu se sắt là chứng tích của những tháng năm huy hoàng ấy. Ban Siêu cùng với đội quân 36 người của mình đã chiến đấu và tiêu diệt 130 tên địch, từ chiến thắng đó, người đời mới có câu ngạn ngữ "không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con". Khi Hán Chương Đế quyết định từ bỏ tây vực và hạ chiếu triệu hồi Ban Siêu về Trung Nguyên, ông đã kháng chỉ và cùng các tộc người Tây vực kiên trì trấn giữ Salaq suốt năm năm trời. Số binh lính người Hán dưới quyền chỉ huy của ông không nhiều, nhưng ông đã thuần phục được các tiểu quốc Tây vực bằng nhân cách và tài trí của mình.
Sau rất nhiều nỗ lực của cha con Ban Siêu, Khâu Từ đã quy thuận nhà Hán. Vương triều nhà Bạch do Ban Siêu dưng lên đã cai quản Khâu Từ gần tám trăm năm. Nhưng đến thời kì này, Khâu Từ không còn nghe theo hiệu lệnh của Trung Nguyên nữa, nên mới dấy lên cơn binh biến, để rồi mười một năm sau, Rajiva sẽ phải đối diện với bước ngoặt lớn trong cuộc đời.
Trái tim như vỡ ra, rỉ máu, cảnh sắc trước mắt như cũng nhuốm một màu sẫm đỏ. Tôi nhắm mắt lại.
- Sao chị không kể tiếp?
- Cậu là người khâu Từ kia mà, sao lại không hay biết về giai đoạn lịch sử này?
Mở mắt ra, sắc đỏ biến mất, chỉ thấy đôi mắt Pusyseda long lanh, dò xét. Tôi cười buồn.
- Tôi không sao, không cần nghĩ cách làm thay đổi tâm trạng của tôi đâu.
Cậy ấy mỉm cười, rồi yên lặng.
- Quan hệ giữa cậu và Bạch Chấn thế nào?
Cậu ta nheo mày.
- Vẫn ổn, sao chị hỏi chuyện này?
Tôi do dự nhưng rồi vẫn quyết định nói ra:
- Cậu đừng làm quân nhân nữa, được không?
Pusyseda tỏ ra kinh ngạc, nhìn tôi đầy nghi hoặc.
- Có thể cậu cho rằng lời nói của tôi là hàm hồ, nhưng hãy tin tôi, những gì tôi nói đều là sự thật.
Tôi nhìn thẳng vào mắt cậu ta, chậm rãi buông từng tiếng:
- Ngày sau, Khâu Từ sẽ trải qua biến cố rất lớn, gia nhập quân đội sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Hãy kết thân với Bạch Chấn, người đó rất có thể sẽ là chỗ dựa của cậu trong tương lai.
Pusyseda dường như quá đỗi kinh ngạc, trầm ngâm hồi lâu. Lúc sau mới nhếch môi cười rất khó khăn:
- Không ngờ, chị cũng đã tiết lộ cho tôi biết trước tương lai của mình.
Chưa hết ngạc nhiên, bàn tay tôi đã bị cậu ta nắm chặt, giọng nói dịu dàng đến bất ngờ.
- Ở lại bên tôi, cùng tôi vượt qua giai đoạn khó khăn mà chị vừa nói, được không?
Cậu ta đặt tay tôi vào lòng mình.
- Chị là tiên nữ giàu lòng từ bi, chắc sẽ không để mặc tôi chịu khổ, đúng không?
Tôi gượng gạo vùng thoát, chạm phải vết thương, không chịu nổi tôi kêu đau Pusyseda lập tức buông tay.
Cậu ta thở dài, vẻ đau buồn gợn trong đáy mắt, quay lại với ngọn lửa bập bùng.
- Ngải Tình, nếu tôi xuất gia, liệu chị có thích tôi không?
- Cậu!
Tôi giật mình:
- Cậu nói bậy cái gì thế!
Cậu ta cười vang:
- Đùa chị thôi. Tôi mà xuất gia, sẽ có không biết bao nhiêu cô nàng khóc sưng mắt lên mất! Rồi tôi lại phải phá giới để dỗ dành họ thôi! Người như tôi, chẳng thể thành Phật được.
Tôi bật cười:
- Pusyseda, rốt cuộc cậu thích tôi ở điểm nào?
- Không biết. Chị có xinh lắm đâu, ngực lại nhỏ, không biết tôi thích chị ở điểm gì cơ chứ?
Cậu ta nhìn tôi, nụ cười vụt tắt, nhẹ nhàng cất giọng:
- Ngải Tình, chị rất thuần khiết.
Đôi mắt màu xám nhạt từ tốn chiêm ngưỡng khuôn mặt tôi.
- Đôi mắt thuần khiết, nụ cười thuần khiết, tâm hồn thuần khiết. Ở bên chị, tôi thấy mình cũng trở nên thuần khiết, không muốn nghĩ đến những chuyện bậy bạ nữa.
Cậu ta nhắm mắt lại, lúc mở ra nhìn tôi, ánh mắt buồn xa xăm.
- Ngải Tình, chị nhất định phải về trời ư, không thể lưu lại nhân gian ư?
Tôi đứng lên.
- Khuya rồi, đi nghỉ thôi.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi lên đường quay về. Tôi vốn chẳng có hứng để làm việc, lại cũng không muốn ở cùng Pusyseda, nên đã đề nghị về sớm. Nhất định phải lấy lại được chiếc đồng hồ vượt thời gian. Tôi đã ở Khâu Từ gần nửa năm, nếu không gấp rút lên đường, có khi vừa đặt chân tới kinh đô Trường An, thời hạn một năm đã hết, chưa gặp được Phù Kiên đã phải quay về thế kỷ XXI cũng nên.
Chúng tôi phải dựng trại qua đêm trên đường, lẽ ra chỉ tối hôm sau là có thể về đến thành Khâu Từ. Nào ngờ, trưa hôm đó khi chúng tôi đang nghỉ ngơi trong rừng dương thì đã xảy ra một biến cố lớn.
Khi ấy chúng tôi vừa nghỉ ngơi xong, đang chuẩn bị lên đường. Vừa bước vào xe, tôi bỗng nghe thấy những tiếng động lạ. Khẽ thò đầu ra ngoài thì một vật thể lạ đột ngột bay vút tới, cắm phật vào cửa xe, tôi lập tức nhận ra đó là một mũi tên. Tiếng Pusyseda gào lên:
- Ngải Tình, vào xe, ngồi yên trong đó!
Vừa ngồi xuống, cỗ xe bỗng nghiêng về phía sau, bên ngoài, tiếng ngựa hí lên thảm thiết, cỗ xe lao đi như bay. Xe ngựa rung lắc dữ dội khiến tôi ngã lên ngã xuống đau điếng, tôi cố sức bò ra cửa xe. Vất vả lắm mới kéo nổi rèm cửa, tôi thấy một mũi tên cắm trên lưng ngựa còn phu xe thì đã mất tăm mất dạng từ bao giờ. Bốn bề là sa mạc hoang vắng, không thấy Pusyseda. Tôi chao đảo, choáng váng, buồn nôn nhưng vẫn gắng gượng lết đến bên cánh cửa, cắn răng, co người nhảy xuống. Không biết tôi đã lăn trên mặt đất bao nhiêu vòng, chỉ thấy cánh tay bị thương truyền đến cơn tê buốt, rụng rời.
Sau đó, đầu tôi va phải một vật gì đó rất lạnh, trời đất tối sầm và tôi không thấy gì nữa cả.
Chương 34: Cách biệt phương trời
Mọi thứ trước mắt dần trở nên rõ ràng hơn, đôi mắt màu xám nhạt đang nhìn tôi đầy vẻ lo âu, chớp mắt, tôi nhận ra Pusyseda.
- Ơn trời, chị tỉnh lại rồi!
Cậu ta muốn ôm tôi, nhưng cánh tay chạm phải vết thương của tôi, cơn đau dội về, mồ hôi đầm đìa trên trán tôi.
- Xin lỗi, tôi vụng về, thô lỗ quá!
Cậu ta vội buông tay tôi, chăm chú quan sát vết thương của tôi.
- Đừng lo, tôi nhất định sẽ chữa khỏi cho chị.
Đưa mắt nhìn quanh, vậy là tôi đã trở về căn phòng của mình ở phủ quốc sư. Cánh tay được phủ kín bởi không biết bao nhiêu lớp vải quấn, vết thương sưng lên thật đáng sợ.
Tôi hỏi Pusyseda đã xảy ra chuyện gì qua làn hơi yếu ớt của mình. Thì ra là một vụ cướp bóc thường gặp ở vùng này. Đám cướp thấy đoàn chúng tôi, tính cả phu xe cũng chỉ vỏn vẹn sáu người đàn ông, nên đã tấn công trực diện. Nhưng Pusyseda và bốn người bạn của cậu ta lại là những binh lính được đào tạo bài bản, một người có thể hạ gục bốn tên, đám cướp biết không thể làm bậy, đã bỏ chạy. Bọn họ không hề hấn gì cả, chỉ có tôi là kém may mắn nhất, đầu đập vào phiến đá, ngất đi, nhưng đó chưa phải là điều khiến tôi lo sợ, đáng ngại nhất là vết thương chưa lành, nay lại chịu thêm chấn thương nghiêm trọng. Các khớp xương ở khu vực nhạy cảm vốn đã rất khó liền, bây giờ lại càng nguy hiểm hơn.
Pusyseda nổi trận lôi đình muốn trị tội tên phu xe nhát gan bỏ trốn, nhưng tôi đã ngăn lại. Dù sao đó là bản năng tự bảo vệ để có thể tiếp tục sinh tồn mà thôi.
Ngự y trong cung đã đến, khi cánh tay được vén lên, tôi rụng rời. Nếu không phải là một phần thân thể mình, chắc chắn tôi sẽ cười phá lên và bảo rằng, cánh tay trông như chân giò ninh nhừ ấy! Vết thương đã bị vi khuẩn tấn công, rất có thể sẽ bị hoại tử. Trời ơi, sao lại như thế được! Vết thương này đã bám theo tôi gần nửa năm, tôi vẫn tích cực chữa trị kia mà, vì sao khả năng phục hồi lại kém như vậy?
- Ngải Tình, đừng sợ!
Pusyseda nắm chặt cánh tay còn lại của tôi, cậu ta dường như còn sợ hãi hơn cả tôi.
- Chờ nhé, tôi sẽ vào cung tìm loại thuốc tốt nhất cho chị.
Pusyseda vội vã rời phủ cùng ngự y, tôi nằm trên giường suy nghĩ mông lung. Rốt cuộc là vì sao? Lẽ nào, vì tôi sử dụng cỗ máy vượt thời gian quá nhiều lần, nên đã bị nhiễm phóng xạ? Cánh tay tôi, liệu có tàn phế?
Càng nghĩ càng sợ hãi, không chịu nổi nữa, tôi bèn ngồi dậy. Tôi nói với cô người rằng tôi muốn một mình yên tĩnh, sau đó tôi cắn răng chịu đau, lê bước đến phòng Pusyseda. Chắc chắn cậu ta đã cất giấu chiếc đồng hồ ở một nơi nào đó rất kín đáo. Tôi gõ nhẹ vách tường, rồi lật tìm trong tủ sách. Chỉ dùng được một bên tay nên động tác rất chậm. Trong lòng bồn chồn, lo lắng, không biết khi nào cậu ta sẽ về?
Tôi bám vào thành giường, quỳ xuống, thò tay vào gầm giường tìm kiếm. Hình như tay tôi chạm phải một vật gì đó, tôi mừng rỡ, kéo ra ngoài. Đó là một chiếc hộp gỗ hình chữ nhật rất bình thường, chỉ rộng bằng tờ giấy A8. Tôi cuống quít mở hộp và toàn thân như hóa đá.
Chỉ vài ba nét phác họa nhưng đã tái hiện được hình ảnh một cô gái với nụ cười rạng rỡ, sống động, trang phục giản dị, gương mặt tươi tắn, người đó chính là tôi! Bức họa được vẽ bằng giấy nháp và bút chì của tôi.
Trang tiếp theo là một bức vẽ bán thân của tôi, đôi mắt trong sáng, lí lắc, nụ cười ngây ngô đậu trên khóe môi. Tiếp theo nữa là bức vẽ tôi cưỡi trên lưng lạc đà, vẻ mặt khổ sở vì ngồi không vững, suýt nữa thì ngã nhào xuống đất. Tiếp theo là bức vẽ tôi ngủ gục trên bàn, mái tóc dài xõa xuống, che khuất nửa khuôn mặt. Một bức vẻ mô tả động tác nghiêng đầu, há miệng kỳ quặc của tôi, hình như lúc tôi hát. Có cả bức vẽ khi tôi trầm ngâm, chăm chú đọc sách...
- Cảm động lắm hả?
Tôi giật bắn, chiếc hộp rơi xuống nền nhà, tập giấy vương vãi.
Pusyseda ngồi xuống, lượm nhặt từng tờ, xếp gọn lại, nở nụ cười khó hiểu.
- Nếu tôi nói với chị đó là những bức tranh do tôi vẽ, chị sẽ yêu tôi chứ?
- Tôi...
Nước mắt lăn dài trên má.
- Pusyseda...
Cậu ta lật mở từng trang, ánh mắt đổ dồn vào những bức vẽ, điệu cười buồn bã.
- Vẽ rất có hồn phải không?
Những bức về sau không đẹp lắm, nét vẽ thô lậu, xuất hiện nhiều dấu vết của sự tẩy xóa. Thần thái của tôi không sống động như những bức vẽ trước. Pusyseda lật đến những trang cuối cùng, người trong hình không phải tôi. Đó là những bức chân dung Rajiva do chính tôi vẽ. Nụ cười ấm áp, một bên vai để trần, thân hình gầy gò. Hình vẽ khá giống, có điều, chưa lột tả được hết thần thái của cậu ấy.
- Tôi cũng mong đây là những bức tranh do tôi vẽ.
Cậu ta vẫn không rời mắt khỏi những bức họa, bàn tay run run.
- Như thế, sẽ khiến chị cảm động. Ngải Tình, lúc gặp chị tôi mới mười tuổi và chúng ta chỉ sống cùng nhau vẻn vẹn ba tháng. Khi trưởng thành, tôi chỉ nhớ mình từng gặp tiên nữ, nhưng dung mạo của cô tiên nữ đó thế nào, tôi không nhớ nữa. Trong ký ức của tôi, chỉ vương vấn lại những bài hát của chị, tiếng cười lảnh lót của chị lúc chơi đùa với tôi trong sân nhà và hơi ấm của chị mà thôi. Chắc chị đã đoán được những bức họa này do ai vẽ? Cô gái trong tranh có đôi mắt thuần khiết, trong sáng mà tôi không thấy được từ những người phụ nữ bên cạnh tôi những năm qua. Đôi mắt ấy đã đánh thức ký ức về chị trong tôi. Trong phút chốc những kỷ niệm thuở nhỏ hiện ra thật sống động. Chị dạy tôi trò oẳn tù tì, chị cùng tôi đóng kịch tướng quân và kẻ cướp, chị cùng tôi đắp người tuyết, chị dạy tôi học Hán ngữ cổ đại, chị vừa vỗ lưng vừa hát ru tôi ngủ. Mọi thứ đều mới mẻ như mới hôm qua. Từ lúc đó, tôi luôn mong mỏi được gặp lại chị.
- Tôi đã lấy trộm những bức vẽ này. Anh ta không dám đòi lại, nhưng tôi biết anh ta đã đến đây lục tìm rất nhiều lần. Một năm qua, tôi vẫn thường lật mở, ngắm nghía những bức vẽ này và sau đó thì rất tức giận. Vì sao anh ta vẽ được chân dung chị sống động, có hồn đến thế, khiến cho tôi mỗi lần nhìn ngắm lại khao khát được gặp chị. Anh ta chưa bao giờ nổi tiếng về tài vẽ tranh, điều đó chứng tỏ anh ta đã phác họa hình ảnh chị trong trái tim mình hàng ngàn hàng vạn lần, mới có thể vẽ được những bức chân dung tài hoa đến thế!
Tôi run rẩy đưa tay ra, muốn lấy lại những bức hình, Pusyseda do dự giây lát, rồi trả cho tôi. Tôi chậm rãi lật mở từng trang, những nét vẽ từ gượng gạo, thô kệch đến bay bổng tinh tế và cuối cùng là sống động, hài hòa. Phải chăng vì thế mà cậu ta từng thú nhận: mười năm trước, mười năm qua vẫn luôn vi phạm giới luật. Không biết từ khi nào, tôi đã bước vào trái tim cậu ấy, đến tận nơi sâu thẳm nhất.
Tôi không khóc nổi, vết nứt trong trái tim ngày một khoét rộng ra, cảm giác như tôi đã hoàn toàn mất nó.
- Ngải Tình!
Pusyseda ôm chặt lấy hai vai tôi, sợ hãi kêu lên.
- Chị sao vậy?
Tôi làm sao? Một giọt màu đỏ rơi xuống, thấm nhòe trên nụ cười ngây ngô của tôi. Một giọt khác che khuất ánh mắt sáng long lanh của tôi.
Một cánh tay vươn đến, cuống quít chặn trước mũi tôi, ngón tay dính đầy những giọt đỏ tươi. Tôi gắng gượng ngẩng đầu nhìn lên, bắt gặp vẻ mặt hoảng sợ của Pusyseda. Tôi muốn nói rằng tôi không sao, nhưng vừa định mở miệng, dòng máu đỏ đã trào ra, nở bung như những bông hoa nhỏ, sắc đỏ vương lên những bức tranh chân dung của tôi. Cơ thể tôi ngày càng mệt mỏi, rã rời, đầu óc quay cuồng hỗn loạn, trong khoảnh khắc, mọi thứ bỗng trở nên tịch lặng.
Tôi gắng mở mắt, đây là căn phòng của tôi, Pusyseda ngồi bên cạnh, hai mắt thâm quầng. Thấy tôi tỉnh lại, cậu ta cuống quýt hỏi han đủ thứ.
Tôi ra hiệu muốn uống nước, Pusyseda vội mang đến một cốc nước nóng. Hơi ấm của nước lan tỏa khắp cơ thể, tôi đã lấy lại được một chút cảm giác. Tôi lặng nhìn cậu ta, không muốn nói năng gì, cũng không đủ sức để cất lời.
- Ngải Tình, đừng nhìn tôi như vậy!
Cậu ta nghiêng đầu tránh đi, giọng nói nghẹn ngào:
- Kể từ lúc chị ngắm nhìn những bức vẽ đó, tôi biết mình đã thua. Thực ra, tôi chưa bao giờ thắng. Chị luôn thuộc về anh ta, mười năm trước đã như vậy rồi.
Cậu ta hít một hơi rất sâu, gắng giữ cho hơi thở ở trạng thái bình thường.
- Anh ấy sắp về rồi. Tôi đã cử người đi thông báo.
Tôi kinh ngạc bật dậy, nhưng cơn đau khiến tôi đổ xuống. Pusyseda vội lao đến giữ chặt lấy tôi, ánh mắt đau khổ xen lẫn lo âu nhìn tôi, giọng nói đầy xúc động:
- Khi nào Rajiva về đây, tôi sẽ xin với đức vua cho phép anh ấy hoàn tục. Nếu anh ấy không đồng ý, tôi sẽ dần cho một trận.
- Không được!
Tôi thốt lên trong hơi thở cực nhọc.
- Vì sao?
Cậu ấy kề sát mặt tôi, nỗi bi ai hiển hiện trên nét mặt.
- Hai người yêu thương nhau kia mà? Vì sao phải đày đọa bản thân như vậy? Nếu thật lòng yêu chị, anh ấy nên từ bỏ thân phận tăng sĩ của mình.
Nước mắt lăn dài trên má.
- Pusyseda, không kịp nữa rồi...
Vết thương lâu lành, hai lần chảy máu cam và một lần thổ huyết, tôi biết sức khỏe của mình đã chịu tổn thương khá nghiêm trọng qua những lần vượt thời gian, mặc dù không biết đã mắc bệnh gì, nhưng tôi hiểu rằng mình không thể tiếp tục ở lại, tôi phải nhanh chóng quay về. Tôi nghĩ vết thương của tôi không chỉ đơn giản là cánh tay sắp gãy kia. Tôi cay đắng nhận ra rằng, thay đổi lịch sử thì phải trả giá.
- Hãy trả lại tôi chiếc vòng đó...
Tôi thốt lên từng tiếng khó khăn
- ...Nếu cậu không muốn tôi chết...
- Ngải Tình!
Cậu ta ôm chầm lấy tôi, nghẹn ngào:
- Là lỗi của tôi, tôi đã ép chị ở lại, mà quên rằng, tiên nữ không thuộc về nơi này...
Pusyseda nhẹ nhàng ngả đầu tôi xuống gối, những giọt đau thương đọng trên khóe mắt, vành môi run run.
- Tôi trả chị về trời.
Khâu Từ vốn ít mưa, mùa thu lại càng khô nẻ. Nhưng vào ngày cuối cùng tôi ở đây, cơn mưa giăng giăng ngoài cửa sổ, bầu trời u ám, lạnh lẽo và thê lương như tâm trạng của tôi lúc này. Pusyseda cho mọi người trong phủ nghỉ làm một ngày, để không ai bị choáng váng trước sự biến mất kỳ lạ của tôi. Sức khỏe yếu ớt, nên chỉ với một bên tay trái, tôi không thể tự mặc áo chống phóng xạ, Pusyseda đón lấy chiếc áo, giúp tôi.
Nếu không bị ốm, chắc chắn khuôn mặt tôi đã đỏ gay đỏ gắt. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi để một người con trai mặc áo cho mình và người đó lại áp sát thân mình vào người tôi thế này. Tôi tựa vào khuôn ngực vạm vỡ của Pusyseda, hai má nóng bừng, vừa hướng dẫn cậu ta kéo những chốt khóa phức tạp. Tuy hơi vụng về nhưng cậu ta rất tập trung, thận trọng và tỉ mỉ, vừa thao tác vừa không ngừng hỏi tôi, có đau không.
Khuôn mặt cậu ấy cũng ửng đỏ, nhưng đôi mắt ắp đầy nỗi buồn thương vô hạn, khiến tôi không dám nhìn. Cánh tay bị thương của tôi sưng tấy nghiêm trọng, không sao đút vừa tay áo, mồ hôi ướt đầm vầng trán. Cậu ta lập tức dừng lại, nâng cánh tay của tôi lên ngắm nghía với vẻ xót xa. Tôi ra hiệu cho cậu ta tiếp tục. Pusyseda cắn răng, dường như phải tốn sức lắm để có thể luồn tay áo qua cánh tay tôi. Khi lớp vải cọ vào vết thương, tôi như muốn ngất đi vì nhức buốt.
- Tôi chưa bao giờ mất nhiều thời gian để mặc quần áo như thế này.
Tôi nén cơn đau, mỉm cười với cậu ta.
Pusyseda có chút ngạc nhiên, miễn cưỡng nở một nụ cười méo mó.
- Đây cũng là lần đầu tiên tôi giúp phụ nữ mặc quần áo.
Ánh mắt cậu ta dừng lại nơi miếng ngọc hình sư tử trên cổ tay tôi, với tay chạm khẽ:
- Hứa với tôi, chị sẽ luôn đeo nó bên mình, để thỉnh thoảng còn nhớ đến tôi.
Tôi gật đầu, cảm giác như sắp nghẹt thở trong bầu không khí ngậm ngùi này, tôi gắng sức diễn một nụ cười ngô nghê "thương hiệu" Ngải Tình.
- Pusyseda, tiết lộ cho cậu biết "định luật ba không" mà các bạn nam trường tôi khi theo đuổi các bạn nữ luôn ghi nhớ.
Pusyseda quả nhiên rất tò mò.
- "Định luật ba không" ư?
Tôi cười.
- Bụt chùa nhà không thiêng. Chia tay rồi là không vương vấn. Con gái không phải lá mùa thu.
Cậu ta lẩm nhẩm đọc đi đọc lại, điệu bộ rất mắc cười, sau đó quay ra chọc tôi:
- Cho chị thêm một cơ hội cuối cùng, đừng để đến khi đám phụ nữ xinh đẹp vây lấy tôi mới lại hối hận.
Tôi cười vang, mặc cho cánh tay bị thương truyền đến cơn nhức nhối. Đã rất lâu rồi mới lại được thấy Pusyseda vui vẻ như vậy.
Cậu ta giúp tôi khoác bộ Hán phục ra bên ngoài lớp áo chống phóng xạ, rồi xách hai chiếc ba lô Northface đến trước mặt tôi.
- Tôi không muốn chị vác theo hai cái ba lô khổng lồ này. Chị yếu như vậy...
- Không sao, cậu cứ đeo lên vai giúp tôi.
Pusyseda nhẹ nhàng ôm lấy tôi, cử chỉ dịu dàng khác hẳn thường ngày.
Rất lâu không thấy cậu ấy buông ra, tôi đành chủ động lên tiếng:
- Tôi đi đây!
Pusyseda ngoảnh đầu đi, khẽ hỏi:
- Không chờ anh ấy về sao? Chắc là sắp đến nơi rồi.
Tôi lắc đầu. Còn nhớ, buổi tối ở Subash, Rajiva từng hỏi tôi có muốn cậu ấy hoàn tục không. Giả dụ tôi bất chấp lịch sử, khiến cho dịch giả Phật học lừng danh Kumarajiva biến mất, rồi cậu ấy sẽ ra sao? Cậu ấy có lí tưởng vĩ đại, có nhân sinh quan của riêng mình. Nếu phải xa rời nơi cậu ấy đã gắn bó từ thuở nhỏ để đến thế giới hiện đại làm một người bình thường, liệu cậu ấy có thể chấp nhận được không, có thể thích ứng được không?
Kết thúc truyện cổ tích luôn là hoàng tử và công chúa sống bên nhau hạnh phúc. Nhưng cuộc sống chung ấy sẽ ra sao? Những lo toan thường nhật sẽ bào mòn nỗi háo hức ban đầu của cậu ấy. Cậu ấy sẽ trở nên hụt hẫng, hoang mang, mất đi phương hướng trong cuộc sống. Tình yêu dù có đẹp đẽ đến đâu cũng không thể bù đắp những dày vò về tinh thần khi lý tưởng bị đánh cắp. Bởi vậy, tôi không thể nhẫn tâm ép buộc cậu ấy phải lựa chọn.
Tôi là người rất thực tế, tôi trở về để giữ mạng sống. Nếu nhất định phải ra đi và không muốn cậu ấy phải khó xử, chi bằng không gặp, gặp nhau chỉ thêm đau lòng! Hơn nữa, gặp cậu ấy, tôi không dám đảm bảo sẽ vẫn giữ vững được lập trường của mình. Lặng lẽ ra đi, đối với cả hai chúng tôi, có lẽ là cách từ biệt tốt nhất...
- Khi nào chị trở lại?
- Tôi không biết.
Tôi gượng cười, đúng là tôi không biết. Sau khi quay về, tôi không biết mình có mắc bệnh gì không. Tôi không biết nhóm nghiên cứu có tiếp tục để tôi vượt thời gian lần nữa không. Nếu tiếp tục vượt, tôi không biết có quay lại không gian và thời gian này không. Có quá nhiều điều tôi chưa thể biết, nhiều chuyện sẽ xảy ra ngẫu nhiên, nếu tính theo phương pháp xác suất, thì cơ hội là bằng không. Vậy nên, có lẽ chúng tôi không còn cơ hội gặp lại nữa...
- Nếu ta không gặp gỡ
Ta đã chẳng yêu nhau.
Nếu ta không thấu hiểu
Ta đã chẳng thương nhau... [22]
[22] Bài thơ "Thập giới" của Tsangyang Gyatso :
Nếu ta không gặp gỡ
Ta đã chẳng yêu nhau.
Nếu ta không thấu hiểu
Ta đã chẳng thương nhau.
Nếu ta không trao gửi
Ta đã chẳng nợ nhau.
Nếu ta không gắn bó
Ta đã chẳng rời nhau.
Nếu ta không khác biệt
Ta đã chẳng gần nhau.
Nếu ta không lầm lỡ
Ta đã chẳng phụ nhau.
Nết ta không hứa hẹn
Ta đã chẳng vì nhau.
Nếu ta không gắn bó
Ta đã chẳng cần nhau.
Nếu ta không gặp nhau
Ta đâu là của nhau.
Nhưng, ta đã gặp và rồi, yêu nhau.
Đã yêu, sao có thể từ bỏ.
Dù cho nỗi tương tư theo ta trọn kiếp này.
Tôi lẩm nhẩm những câu thơ của Tsangyang Gyatso, vị Đạt Lai đời thứ sáu của Tây Tạng, nỗi bi thương, phút chốc như khiến tôi già đi mấy chục tuổi. Tôi đã lưu lại nơi này cả tâm hồn mình! Thứ tôi mang theo chỉ là một cơ thể suy nhược, không trái tim... mà thôi...
- Ngải Tình...
Pusyseda xiết chặt lấy tôi thêm một lần nữa, cúi đầu hôn nhẹ lên trán tôi. Nụ hôn của cậu ấy nóng ran, chất chứa nỗi lòng sinh ly tử biệt. Rất lâu mới nhẹ nhàng thả tôi ra, giúp tôi đội mũ chống phóng xạ lên đầu, kéo khóa lại, chậm chạp bước ra ngoài, nhưng đến cửa vẫn lưu luyến quay lại nhìn tôi.
- Pusyseda!
Tôi hét to khi cánh cửa đóng lại,
- Hãy sống thật hạnh phúc! Hãy tìm một người phụ nữ thật lòng yêu cậu!
- Tôi hứa...
Giọng nói nghẹn ngào của cậu ta lướt qua khe cửa.
- Khi trở lại, chị sẽ được thấy tôi sống vui vẻ như thế nào...
Tôi bật công tắc, đèn tín hiệu nhấp nháy, đồng hồ bắt đầu đếm ngược. Tôi đưa mắt nhìn lại căn phòng một lần nữa, những chữ viết siêu vẹo của Pusyseda trên tường, những bức tranh Rajiva vẽ chân dung tôi, Pusyseda đã hứa sẽ trả lại cho cậu ấy. Thế giới này sẽ biến mất trong vòng chưa đầy một phút nữa. Ra đi, mong là tôi có thể quên tất cả...
Giây phút vút bay lên không trung, hình như tôi nghe thấy tiếng gọi xé lòng của ai đó, là ai? Ai gọi tên tôi thương tâm nhường vậy? Sao tôi không thể thấy...
Chương 35: Pusyseda ngoại truyện (1)
Có lẽ phần lớn mọi người đều không nhớ được nhiều chuyện diễn ra khi mình bốn tuổi. Tôi thì khác, con số ấy đã hằn lên trong kí ức của tôi một đường ranh giới rất rõ rệt. Vì trước bốn tuổi, gia đình tôi có mẹ và anh trai, sau bốn tuổi, gia đình chỉ còn lại tôi và cha.
Còn nhớ hôm ấy, anh trai không chơi đùa với tôi như mọi ngày mà dắt tay tôi, nín thở nép vào một góc, ngó vào căn phòng của cha mẹ. Hồi đó, cứ có thắc mắc gì tôi lại đem ra hỏi anh trai. Trong mắt tôi, anh ấy là người biết mọi thứ, có thể trả lời mọi câu hỏi. Anh trai nói với tôi rằng, mẹ đã nhịn ăn nhịn uống sáu ngày rồi, vì mẹ muốn đi tu.
Đi tu nghĩa là sao?
Đi tu nghĩa là mẹ muốn dọn đi khỏi nhà.
Thừa lúc anh trai lơ đễnh, tôi chạy vào phòng cha mẹ, tôi muốn cầu xin mẹ đừng đi. Nhưng tôi không thấy mẹ đâu, chỉ có cha đang ngồi khóc với một nắm tóc dài màu hung trên tay. Thấy tôi, cha vội vã giấu nắm tóc ra sau lưng, cuống cuồng lau nước mắt và kêu anh trai đưa tôi ra ngoài.
Tôi hỏi anh, vì sao đi tu lại phải cắt bỏ mái tóc đẹp như vậy?
Anh tôi bảo, đi tu thì không cần bất cứ thứ gì nữa cả.
Mẹ đã dọn đi thật và không mang theo gì hết. Lúc ra khỏi nhà, mẹ được người ta khiêng trên kiệu, mẹ dựa vào thành ghế, sắc mặt rất kém, mái tóc bồng bềnh ngày nào không còn nữa. Đột nhiên tôi thấy sợ, tôi cảm thấy mẹ tôi thật xa lạ. Mấy ngày sau, cha dẫn tôi và anh trai đến chùa thăm mẹ. Tôi đã quen với hình ảnh mẹ trong những bộ trang phục đẹp đẽ, hôm đó nhìn mẹ mặc áo cà sa, hình ảnh đẹp đẽ trong tôi bỗng nhiên biến mất.
Kể từ hôm đó, cứ cách năm ba ngày cha lại đưa tôi và anh trai đến chùa. Mẹ đã thay đổi hoàn toàn, trước kia mỗi khi cha chạm vào người mẹ, mẹ sẽ cười duyên dáng, nhưng bây giờ, hễ cha định chạm vào người mẹ là mẹ né tránh, rồi mẹ chắp tay lại hành lễ với cha (mãi về sau tôi mới hiểu nghi lễ đó nghĩa là gì). Còn tôi, tôi khao khát được mẹ ôm vào lòng, nhưng mẹ chần chừ, do dự. Những lúc như thế, cha lại ôm chầm lấy tôi, những giọt nước mắt tôi không bao giờ muốn thấy lại lăn dài trên gò má cha. Lớn lên tôi mới biết, như thế gọi là đau khổ. Và kể từ đó, tôi không đòi mẹ ôm nữa.
Lần nào đến chùa, ba cha con cũng ở lại cả ngày liền, ngồi nghe những người mặc bộ trang phục giống hệt mẹ và cũng không có tóc như mẹ lầm rầm đọc những câu gì đó tôi không hiểu được. Cha muốn tôi ngồi yên, nhưng tôi cảm thấy bứt rứt, khó chịu nên lăn ra ngủ lúc nào không biết. Nhưng anh trai tôi thì khác. Anh ấy lắng nghe rất chăm chú, sau đó đọc lại cho một cụ già những gì anh ấy nghe được. Cụ già hình như rất mến anh ấy, rì rầm trò chuyện rất lâu với cha mẹ tôi. Thế rồi, anh tôi nói rằng anh ấy cũng muốn đi tu.
Anh trai cũng dọn ra khỏi nhà ư? Vậy ai sẽ chơi đùa với tôi?
Tôi gào khóc ầm ĩ nhưng vẫn không ngăn được anh tôi ra đi. Tôi và cha đành bất lực đứng nhìn anh ấy khoác lên người bộ quần áo giống hệt mẹ, quỳ dưới đất, để cụ già đó cạo từng lọn tóc màu đồng dài đến ngang vai của anh ấy. Cha nắm tay tôi rất chặt khiến tôi muốn kêu đau, nhưng nhìn ánh mắt rầu rĩ, buồn thảm của cha, không hiểu sao, tôi lại nén được cơn đau ấy.
Anh em tôi chơi trò đuổi bắt trên mảnh sân nhỏ trong chùa. Anh trai bịt mắt lại, quờ quạng tìm tôi, tôi nhảy bên nọ nhảy bên kia né tránh. Đã rất lâu rồi tôi mới lại được chơi vui như thế. Anh trai túm được một người, hớn hở reo lên: bắt được rồi! Chưa kịp thông báo với anh ấy không phải là tôi, thì anh ấy đã phát hiện ra. Người đó là sư phụ Phật Đồ Thiệt Di của anh trai tôi, một cao tăng trong chùa Tsio – li. Thấy sư phụ, khuôn mặt anh trai tôi biến sắc, anh ấy cúi đầu lắng nghe ông cụ giảng giải về sự tĩnh tâm tọa thiền gì đó. Hôm ấy là lần cuối cùng anh trai chơi đùa cùng tôi.
Kể từ đó, mỗi lần đến chùa, tôi lại thấy mẹ và anh trai cầm những cuốn sách rất dày trên tay, họ chỉ khẽ hé môi cười với cha con tôi. Không ai ôm tôi vào lòng, cũng không ai chơi với tôi cả, tôi bắt đầu thấy ghét khi phải đến chùa. Nhưng cha vẫn muốn đi, được thôi, tôi sẽ vờ như mình cũng muốn đi. Từ năm bốn tuổi tôi đã biết cách đóng kịch để cha vui lòng.
Khi tôi lên sáu, mọi nơi trong thành Khâu Từ, người ta không ngớt lời bàn tán, khen ngợi anh trai tôi vì anh ấy đọc thuộc được rất nhiều kinh văn Phật giáo. Mẹ nói với cha, không thể để anh trai tôi bị vây bọc trong những lời ca tụng ấy, mẹ nói sẽ đưa anh đi học đạo ở nơi xa. Tôi không nhớ tên địa danh, chỉ biết đó là một nơi rất xa xôi và phải mấy năm sau họ mới quay về. Cha dắt tay tôi đi tiễn, nỗi buồn u ám lại hiện lên trong mắt cha. Tôi nghĩ, hẳn là cha rất muốn tôi khóc tiễn họ, nên tôi đã khóc. Nhưng trong lòng thì tôi rất lấy làm hân hoan vì từ nay sẽ không phải đến ngôi chùa đó nữa.
Không đến chùa, cha như mất đi điểm bám víu, ông thường ôm tôi vào lòng, ngồi rất lâu trong sân nhà, ngước mắt nhìn trời. Sau đó, ông hào hứng kể cho tôi nghe giờ này họ đang ở đâu, làm gì. Suốt bốn năm, ngày nào cha cũng nói với tôi về việc anh trai được mọi người khâm phục như thế nào, anh ấy đã nhận một vị cao tăng làm thầy và anh ấy đã được khen ngợi, tán thưởng ra sao. Người anh trai ngày càng trở nên mờ mịt trong kí ức của tôi hình như đã trở thành nhân vật nổi tiếng.
Năm tôi lên mười thì họ trở về. Đức vua (tức cậu ruột tôi) đã đích thân đi đón họ. Nghe nói, anh trai đã giành chiến thắng trong một cuộc luận chiến quan trọng ở Wensu và không ai không biết đến danh tiếng của anh ấy, người ta nói về anh ấy ở mọi nơi mọi lúc. Lẽ ra tôi phải lấy làm tự hào chứ nhỉ? Tôi có người anh ưu tú như vậy kia mà? Nhưng khi ai nấy đều chỉ vào tôi thì thào: "Em trai của thần đồng Kumarajiva kìa", tôi lại cảm thấy khó chịu vô cùng. Tôi là Pusyseda, nhớ lấy, tôi không chỉ là em trai của Kumarajiva, tôi còn là tôi, Pusyseda!
Tại buổi lễ nghênh đón long trọng, tôi đã gặp lại mẹ và anh trai sau bốn năm xa cách. Thực tình thì đối với tôi, họ thậm chí không thân thuộc bằng những người hầu trong phủ, nhưng vì muốn cha vui lòng, tôi vẫn nhào vào lòng mẹ. Bốn năm trời thiếu vắng vòng tay mẹ, nhưng lần đoàn tụ đó không hề khiến tôi vui vẻ. Mẹ vẫn lạnh lùng như ngày nào. Tôi ngả đầu vào lòng mẹ, tự hỏi không biết phải ôm đến bao giờ nữa? Đúng lúc đó thì một đôi mắt sáng long lanh chĩa về phía tôi, đôi mắt ấy trong vắt như nền trời Khâu Từ.
Chỉ nhìn thoáng qua cũng biết chị ấy không phải người Khâu Từ, dáng vóc nhỏ bé, thanh thoát. Tôi đã từng gặp những người tóc đen, da vàng như chị ấy trong thành Khâu Từ, cha tôi bảo họ là người Hán, họ đến từ một nơi rất xa xôi, vượt qua những sa mạc mênh mông và phải mất một năm dài mới tới được đây.
Tôi quan sát chị ấy, chị ấy cũng nhìn ngó, rồi cười với tôi. Nụ cười đó rất đẹp, vành môi khẽ uốn lên, hiện rõ má lúm đồng tiền xinh xắn. Nhưng không hiểu sao, tôi cảm thấy nụ cười ấy rất ngây ngô, thuần khiết một cách ngây ngô, giống hệt đôi mắt của chị ấy. Sau đó, chị ấy chu mỏ, làm mặt ngoáo ộp chọc ghẹo tôi. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy người này rất thú vị.
Chị ấy quả rất thú vị, không giống bất cứ ai tôi từng gặp. Kể từ lúc chị ấy vào sống trong phủ, ngày nào tôi cũng chờ mong hết giờ học bài trong cung để được về nhà. Trước đó thì ngày nào tôi cũng mải mê chơi đùa, luyện võ với các anh chị em họ trong cung, chẳng thiết về. Tôi thích chọc ghẹo khiến chị nổi giận. Chị ấy nói tiếng Tochari trọ trẹ, làm tôi mắc cười, mỗi lần bị tôi cười nhạo, chế giễu, chị ấy lại nổi trận lôi đình, trợn mắt, cau mày, mím môi, khác hẳn vẻ tiểu thư đỏng đảnh, giả tạo của các cô gái trong cung.
Chị ấy có một cái túi rất lớn, bên trong chứa rất nhiều thứ kỳ lạ. Chị ấy vẽ rất nhiều tranh bằng chiếc bút và tờ giấy có thể xóa đi vẽ lại nhiều lần, có điều chị ấy vẽ không đẹp. Chị ấy từng bắt tôi ngồi yên trên ghế rất lâu để chị vẽ, nhưng bức vẽ rất xấu, chẳng giống tôi tẹo nào. Chị ấy còn thường xuyên nhét đủ mọi thứ vào chiếc túi đó, thậm chí cả một mảnh giấy rách, cũng nâng niu như đồ vật quý hiếm, rồi cẩn trọng đút vào túi. Thế nên, tôi thường xuyên lượm lặt những thứ linh tinh, nói dối rằng đó là những vật dụng mà đức vua, mẹ tôi hoặc anh trai tôi từng sử dụng, lúc đó, mắt chị ấy sáng lên, lập tức dùng bút và giấy để trao đổi với tôi. Điều khiến tôi kinh ngạc là, cái túi đó như thùng không đáy, có thể nhét tất cả mọi thứ vào bên trong.
Chị ấy dạy anh trai tôi tiếng Hán, cha tôi muốn tôi học theo. Trước đó, cha đã từng mời một giáo viên người Hán về dạy tôi, nhưng người đó bị tôi chọc giận mà bỏ đi. Chị ấy thì khác, chị ấy không bắt tôi đọc bài cả ngày như người kia. Học bài mà thú vị như chơi đùa vậy! Chị ấy dạy tôi trò "oẳn tù tì ra cái gì ra cái này", tôi mà thua sẽ phải học thuộc một chương trong sách "Luận ngữ", viết một trang chữ Hán. Nếu chị mà thua, thì hôm sau sẽ phải đóng vai quân lính dưới trướng của tôi. Hàng ngày, cứ đến lúc chúng tôi chơi vui vẻ nhất thì anh trai tôi lại xuất hiện, sau đó tất cả chúng tôi đều yên lặng. Anh trai tôi có thể trò chuyện với chị ấy bằng tiếng Hán, có thể bàn luận với chị ấy về những đạo lý to tát, tôi không hiểu nổi. vì thế tôi rất giận, tôi thầm nhủ nhất định sẽ học thật tốt, để sau này có thể chơi đùa với chị ấy bằng ngôn ngữ của chị ấy.
Lúc vào cung học bài, mấy người anh họ cứ chỉ trỏ vào tôi, cười cợt mỉa mai. Thì ra, họ để ý thấy tôi thường xuyên bỏ về rất sớm, nên đã theo dõi tôi và bắt gặp chị ấy trong phủ quốc sư. Họ trêu chọc tôi, nói rằng chị ấy là bà cô già của tôi.
- Thì đã sao? Tôi cứ thích như thế đấy! Mấy cô công chúa chảnh chọe, đỏng đảnh, suốt ngày giả bộ khóc mếu thì có gì hay ho?
- Chị ta là mẹ của cậu à?
Hoàng tử thứ tư nhảy loi choi trước mặt tôi.
- Mẹ cậu đi tu không cần cậu nữa, nên cậu cưới một bà cô già về làm vợ chứ gì?
Tôi lao vào đấu đá với bọn họ một hồi, họ lớn tuổi hơn tôi, tôi đánh không lại, kết quả là tôi bị lãnh những vết bầm tím trên trán.
Về đến nhà, chị ấy cuống cuồng băng bó cho tôi. Tôi muốn nói với chị ấy, tôi là nam nhi, vết thương cỏn con này có đáng gì, nhưng lời vừa ra đến miệng đã lại trôi ngay vào. Vì tôi rất thích bàn tay chị ấy xoa vuốt trên mặt mình, cảm giác mềm mại, âm ấm. Đột nhiên, tôi muốn thử xem vòng tay của chị có ấm áp như thế không, nên đã sà vào lòng chị ấy, giả vờ gào khóc. Chị ấy rất dễ mắc lừa, vội ôm lấy tôi, vỗ về tôi. Chị ấy quả nhiên rất ấm áp, rất mềm mại, ngay cả giọng nói lướt trên đầu tôi cũng ấm áp như vậy. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy sung sướng khi được ai đó ôm vào lòng. Khi đó, chỉ muốn được chị ấy ôm như thế mãi, đừng ai đến quấy rầy, nhất là anh trai tôi.
Cha có việc phải đi Gumo, mấy ngày liền không về. Tôi mừng lắm, giả vờ sợ hãi, đòi chui vào trong chăn ngủ cùng chị. Chị vỗ nhẹ lưng tôi, hát cho tôi nghe các bài hát thiếu nhi của người Hán. Tôi tủm tỉm cười, người ta có còn là trẻ con nữa đâu mà phải ru ngủ? Nhưng giọng hát của chị ấy trong trẻo, êm ái, ấm áp tựa mảnh chăn bông đã được hong khô dưới nắng vào mùa đông. Tôi chìm dần vào giấc ngủ say sưa trong hơi ấm ngọt ngào ấy. Trước lúc mê đi, tôi đã thầm nhủ, sau này người mà tôi lấy làm vợ nhất định phải có được hơi ấm đó.
Kể từ hôm ấy, tôi đã có thêm lí do để quấn chị: tôi muốn chị hát cho tôi nghe những bài hát không giống nhau. Chị rất cưng chiều tôi, liên tục thay đổi bài hát, hát đến khi tôi đã thiếp đi mới dừng lại. Tôi phát hiện ra, khi tôi ngủ say, chị sẽ nhẹ nhàng kéo chăn cho tôi, còn quệt tay vào mũi tôi, khe khẽ trách móc tôi bằng tiếng Hán. Điều đó thật thú vị, nên tôi thường xuyên vờ ngủ say. Nhưng, tối hôm đó, trò đùa của tôi đã bị anh trai lật tẩy. Sau khi phụng phịu ra khỏi phòng chị ấy, tôi đã nấp vào một góc tường, chị đang hát cho anh trai tôi nghe, chọc anh ấy cười vang, điều mà tôi chưa từng thấy trước đây. Tôi rất giận. Vì sao chị lại hát cho anh ấy nghe. Chị chỉ được hát cho mình tôi nghe thôi chứ!
Ngày hôm sau, tôi lại càng bực mình hơn, khi hết giờ học, tôi lao như bay về nhà mà không thấy chị đâu. Người trong phủ nói chị đi tham quan thành Khâu Từ cùng anh trai tôi. Sao lại như vậy? Nếu chị muốn thăm quan, tôi cũng có thể đưa chị đi kia mà? Anh ấy giành mất mẹ của tôi, bây giờ lại muốn tranh cả chị với tôi ư? Tôi trút giận lên con chó vàng canh phủ và ngồi lì một chỗ ngóng chị về.
Trước giờ cơm buổi tối chị mới về đến nhà. Lẽ ra tôi muốn phơi bày nỗi tức giận của mình, nhưng chị đã kéo tôi chơi trò đuổi bắt, chị chọc tôi cười, khiến cục tức trong tôi tan biến như mây khói. Dường như chỉ khi vui đùa cùng chị, tôi mới được khóc được cười thoải mái, không mệt mỏi như khi tôi phải giả vờ khóc, cười để lấy lòng cha.
Một hôm, chị nhìn chiếc đồng hồ kỳ quặc trên tay mình, rồi đột ngột thốt lên:
- Ngày mai là năm mới!
Rồi chị bảo muốn đón tết của người Hán, hôm sau sẽ tặng quà cho tôi và anh trai. Chị tặng anh ấy chuỗi tràng hạt bằng gỗ đàn hương, còn tặng cho tôi bức tranh vẽ một con vật kì dị, không giống mèo cũng chẳng giống chó và cả cái tên của nó cũng rất lạ: Doraemon. Chị nói con vật kỳ lạ này có một chiếc túi thần kỳ, nó có thể lôi từ trong túi ra bất cứ thứ gì nó muốn. Tôi không thích món quà đó lắm, tôi có phải trẻ con nữa đâu mà chị tặng tôi thứ đồ dành cho con nít vậy? Nhưng vì là bức tranh do chính tay chị vẽ, nên tôi đành nhận vậy!
Tôi biết tin chị sắp ra đi, chị sẽ đến Trường An trên hành trình kéo dài một năm trời. Nhưng tôi không muốn vậy, tôi phải nghĩ ra cách gì để giữ chị ở lại.
Tôi nghĩ đến chiếc vòng tay kỳ lạ của chị. Chiếc vòng đó biết động đậy, tôi từng nhìn thấy. Nhưng lần đó, chị đã nghiêm mặt cảnh cáo tôi không được động vào bất cứ thứ gì trên chiếc vòng ấy. Chị đeo nó cả ngày, đi ngủ cũng nhét xuống dưới gối, chỉ khi đi tắm chị mới tháo ra để một chỗ. Càng ngày tôi càng cảm thấy chiếc vòng đó có điều gì rất kỳ lạ. Thế là, hôm đó, nhân lúc chị đi tắm, tôi đã lẻn vào phòng chị, kiểm tra đồ vật kì quái ấy.
Không biết tôi đã chạm vào đâu mà chiếc vòng đột nhiên phát ra thứ ánh sáng màu xanh và những tiếng tích tắc lạ lùng. Khi tôi chưa hết kinh ngạc thì chị đã bước vào phòng. Không muốn bị chị mắng vì tôi đã lẻn vào lấy trộm chiếc vòng, tôi vội vàng thanh minh:
- Ngải Tình, chiếc vòng này thú vị quá, biết kêu tích tắc tích tắc, chị cho em nhé?
Nhiều năm sau tôi vẫn nhớ như in cảnh tượng hôm ấy. Tôi thường tự hỏi, nếu tôi không bày trò lấy trộm chiếc vòng đó, mọi thứ liệu có khác đi? Sau khi chị biến mất trong chùm sáng kỳ quái, tôi đã đi tìm chị khắp nơi, một tháng sau mới chịu bỏ cuộc. Trên đời này có thần thánh thật ư? Chị là tiên nữ thật ư? Tôi không tin Phật, điều duy nhất tôi tin là tôi đã gặp tiên nữ năm lên mười. Chỉ có tiên nữ mới xinh đẹp, thông minh, đáng yêu như vậy, mới khác biệt như vậy.
Tôi đã không truyền đạt lại cho anh trai lời dặn dò của chị, chị nói anh phải đến Trường An truyền bá đạo Phật. Chị nói anh sẽ trở thành một con người vĩ đại. Vậy còn tôi thì sao? Chị là tiên nữ, vì sao không cho tôi biết tương lai của tôi? Tôi bực mình khi thấy anh trai đi đi lại lại trong phòng chị như kiếm tìm điều gì. Tôi bực mình khi anh ấy bao bọc rất cẩn thận những bức vẽ chị lưu lại. Tôi bực mình khi anh ấy dặn dò người hầu giữ nguyên trạng căn phòng của chị và thường xuyên dọn dẹp sạch sẽ. tôi càng bực mình hơn khi anh ấy luôn nghĩ ra cần phải làm gì trước tôi.
Chương 36: Pusyseda ngoại truyện (2)
Càng trưởng thành, càng có nhiều chuyện khiến tôi phiền lòng. Căn nhà trống trải khiến tôi buồn chán, vì cha thường xuyên đến chùa, nói rằng muốn dự pháp hội, nhưng kỳ thực là đến thăm hai người đó. Tiếng tăm của anh trai tôi ngày càng vang xa, anh ấy đi khắp nơi truyền bá giáo lý Đại Thừa, tham gia không biết bao nhiêu cuộc luận chiến, cố gắng thuyết phục mọi người tin theo giáo phái Đại Thừa bằng triết lý "có có không không" gì đó. Đại Thừa, Tiểu Thừa gì chứ, tôi chẳng tin. Nhưng vì muốn cha vui, tôi vẫn thường thắp nhang trên điện thờ trong nhà và cùng cha đến chùa thăm họ, nếu gặp dịp nhà chùa tổ chức pháp hội, tôi cũng kiên nhẫn ngồi nghe cùng cha đến cuối buổi.
Những chuyện xảy ra năm mười tuổi, tuy vẫn nhớ nhưng vì chỉ vẻn vẹn vài tháng nên tôi đã quên đi rất nhanh. Nhưng khi nghe các hoàng tử kể chuyện chơi bời bên ngoài cung, họ nói đã "thử" đủ mọi loại phụ nữ, chỉ chưa biết "mùi vị" của tiên nữ thế nào thôi, những lúc như thế, tim tôi lại vô cớ đập rất nhanh. Tôi từng gặp tiên nữ, nhưng tiên nữ không lưu lại quá lâu dưới trần gian, làm sao đám người thô thiển kia gặp được nàng chứ! Nhưng tôi, dù cố gắng thế nào cũng không nhớ nổi tiên nữ trông ra sao. Chỉ có vòng tay ấm áp và giọng hát êm ái của nàng vẫn xuất hiện trong giấc mơ của tôi, những lúc như thế, tôi không muốn tỉnh giấc chút nào.
Mười lăm, mười sáu tuổi tôi bắt đầu đua theo đám vương tôn công tử kia gây ra bao chuyện thị phi. Hài hước nhất là một lần tôi cùng hoàng tử thứ tư đi cướp dâu. Chiều muộn hôm đó, sau khi đã quá chén, chúng tôi gặp một đám rước dâu trên đường. Hoàng tử đột nhiên nảy ra ý định cướp cô dâu, liền kéo tôi trà trộn vào đám cưới gia đình nọ. Khi trời bắt đầu sẩm tối, hoàng tử la lên: Có trộm! Khách khứa tới dự hôn lễ ồ ạt kéo ra ngoài. Theo sự phân công của hoàng tử, tôi lẻn vào buồng tân hôn cắp cô dâu đi. Cô gái đó ban đầu rất sợ hãi, nhưng vừa nhìn thấy tôi đã lặng thinh không gào tiếng nào. Thì ra vì thế hoàng tử mới sai tôi đi làm cái việc chẳng đàng hoàng chút nào này!
Trời tối đen như mực, trong lúc gấp vội lại không thấy đường, tôi bị sa vào bãi lầy đầy gai nhọn, không sao nhấc nổi chân. Hoàng tử vội đến cứu nguy, nhưng chưa lôi được tôi ra khỏi bãi lầy thì đám người nhà cô dâu đã kéo đến. Điều tôi không ngờ là hoàng tử đột nhiên trở mặt, gào to: Trộm ở đây này! Tôi hoảng hốt, cố sức bật ra khỏi bãi lầy, bỏ lại cô dâu, hai chúng tôi tháo chạy tán loạn.
Cứ ngỡ mọi chuyện sẽ kết thúc ở đấy, nào ngờ mấy ngày sau, một vài người xuất hiện ở nhà tôi, kéo theo một cô gái khóc lóc nức nở, họ nổi giận đùng đùng, gào thét đòi gặp tôi. Thì ra cô dâu hôm đó không muốn lấy chồng nữa, nằng nặc đòi đi tìm tôi, cô ta thậm chí đã theo dõi và biết được nơi tôi ở. Gương mặt cha biến sắc khi nghe lời phân trần của cô gái, tôi có giải thích thế nào cũng vô ích. Tranh cãi hồi lâu, cha phải trả một khoản tiền, đám người kia mới chịu ra về. Cô gái đó về sau vẫn tiếp tục đi theo tôi. Không chịu nổi, tôi đã mắng nhiếc cô ta một trận thậm tệ, cuối cùng cũng được yên thân. Nhưng chuyện này đã nhanh chóng bị đồn ra ngoài, mọi người trong thành Khâu Từ không ai không biết là con trai út của quốc sư là một tên phóng đãng. Hoàng tử ẩn mình một chỗ vờ không hay biết, ý rằng muốn tôi gánh chịu mọi hậu quả. Anh ta là hoàng tử, nếu để đức vua biết, sẽ phải chịu hình phạt nặng nề.
Tôi mặc kệ! Là tên phóng đãng thì đã sao! Nhưng tôi thấy khinh bỉ loại người như hoàng tử, nên kể từ đó đã tuyệt giao với anh ta.
Sinh nhật lần thứ mười bảy của tôi vào đúng ngày anh trai thọ đại giới. Mặc dù danh tiếng của anh trai tôi đã lan xa khắp vùng Tây Vực, nhưng anh ấy vẫn phải tuân thủ quy định, đến năm hai mươi tuổi mới được thọ đại giới, từ một Sa di, trở thành một Tỷ Khâu thực sự. Đức vua đặc biệt ưu ái anh ấy như thể lo rằng các tiểu quốc xung quanh không biết Kumarajiva là quốc bảo của Khâu Từ vậy!
Tôi thả bộ trong chùa, vẫn chưa tới giờ làm lễ, tôi chưa muốn vào trong điện, trước đây tôi vốn không thích tham dự những nghi lễ kiểu này.
Anh trai đi qua, thấy tôi bèn dừng lại. Hôm nay anh ấy mặc chiếc áo cà sa mới, khí chất toát lên vẻ thanh tao, thoát tục. Nhưng trên tay anh ấy đeo gì thế kia? Bao nhiêu năm rồi anh ấy vẫn không chịu tháo bỏ nó.
Tôi cười mỉa, gào lên:
- Bạc cả màu rồi, còn đeo làm gì?
Anh ấy không đáp, lẳng lặng rủ tay áo che đi, vẻ mặt vẫn bình thản như thường ngày:
- Hôm nay là sinh nhật tuổi mười bảy của em.
Anh ấy cười với tôi, sau đó như chợt nhớ ra điều gì đó, vội vàng nói với tôi bằng tiếng Hán:
- Chúc mừng sinh nhật!
Tôi sững người. Không phải vì anh ấy nhớ ngày sinh nhật của tôi, mà vì câu chúc mừng sinh nhật bằng tiếng Hán trong khoảnh khắc đã đưa tôi trở về với những kỉ niệm xa xưa. Có một cô gái với nụ cười trong trẻo đã dạy tôi giai điệu dễ thương, dễ thuộc của một bài hát mà cô ấy bảo phải hát vào ngày sinh nhật. Như thế nào nhỉ? Tôi vừa lục lọi trong kí ức, vừa đưa mắt nhìn theo bước chân anh ấy tiến vào nơi thọ giới.
Buổi sáng thọ giới, buổi chiều anh trai tôi lại tiếp tục thuyết giảng kinh văn Đại Thừa cho hoàng thân quốc thích và đám quý tộc Khâu Từ nghe. Tôi không đủ kiên nhẫn, liền vờ mắc tiểu, một mình lẻn đến căn phòng dành cho khách khứa nghỉ ngơi. Bài hát đó, như thế nào nhỉ? Ký ức đôi lúc giống như: rõ ràng ta nhìn thấy cánh diều bay lơ lửng ở nơi cách ta không xa, nhưng ta không sao tìm được đầu sợi dây nối với cánh diều ấy.
Cửa phòng đột nhiên bật mở, tôi giật mình khi thấy người vừa bước vào. Đó là công chúa người Khoái Hồ, thê thiếp mới của đức vua. Không biết đức vua toan tính điều gì mà liên minh với người Khoái Hồ ở mãi vùng Issyk- Kyl phía tây xa xôi. Cô công chúa này chính là một trong những điều kiện của giao kèo kết thân. Cô ta còn cao lớn hơn cả phụ nữ Khâu Từ, tôi đứng bên cũng chỉ cao hơn cô ta nửa đầu.Mắt xanh, tóc vàng, trông cũng không đến nỗi nào. Có điều kể từ khi vào cung, cô ta không được lòng các phi tần Khâu Từ vì tính cách đáo để, ghê gớm của mình.
Cô ta nói tiếng Khâu Từ không được lưu loát cho lắm, khiến tôi nhớ đến nhiều năm trước cũng từng gặp một cô gái như thế. Nhưng cô ta lại liếc mắt đong đưa, khiến tôi chột dạ. Trong phòng chỉ có hai chúng tôi, không muốn gặp phiền phức, tôi xin phép ra ngoài.
Nhưng cô ta đã kéo tay tôi lại, áp sát thân mình vào người tôi, tôi đã lùi bước đến tận cùng, lưng chạm vào vách tường. Cô ta nói bằng giọng lơ lớ rằng đã đem lòng yêu mến tôi từ lâu.
Tôi lúng túng, khuôn mặt nóng bừng. Lúc trước, cô ta từng nhiều lần liếc mắt đưa tình, đong đưa trước mặt tôi, nhưng tôi chẳng thèm để ý. Tôi không thích, cũng không dám. Nhưng hôm nay, có lẽ cô ta nghĩ rằng cơ hội đã đến.
Cô ta đưa đẩy bộ ngực vĩ đại của mình trên cánh tay tôi, khuôn mặt trắng nõn nà, gò má lốm đốm tàn nhan sáp lại gần tôi. Trong khoảnh khắc, tôi như bị mê hoặc bởi cảm giác đê mê, êm ái của sự tiếp xúc da thịt.
Cô ta tiếp tục kể lể về chuyện đã phải lòng tôi ngay lần gặp đầu tiên như thế nào. Rồi khuyên tôi đừng lo lắng về thân phận của hai người, vì cô ta hứa sẽ không nói ra. Sau đó cô ta đã nói một câu mà tôi vô cùng chán ghét:
- Chàng là lãng tử nức tiếng, không ngại cướp cả vợ người ta, em tin chàng không phải kẻ nhát gan!
Lại là chuyện đó! Tôi bị mang tiếng xấu là kẻ phóng đãng, dù chưa từng làm chuyện phóng đãng bao giờ. Thậm chí, ngay cả khi cùng các vương tôn công tử đến kỹ viện vui chơi, tôi cũng chưa bao giờ nảy sinh ham muốn động vào đám con gái đáng ghét ấy. Cô gái của tôi phải là một cô gái thuần khiết như bầu trời xanh, tuy nàng chưa xuất hiện, nhưng tôi sẵn sàng chờ đợi...
Lợi dụng lúc tôi phân tâm, cô ta càng tiến sát hơn, cặp môi đỏ chót chừng muốn đỗ xuống, nhưng tôi đã kịp nghiêng đầu, dấu ấn của cô ta đậu lại trên sườn má bên phải. Bỗng nhiên tôi cảm thấy buồn nôn, liền đẩy cô ta ra. Cô ta loạng choạng, đổ người xuống chiếc bàn gỗ thấp, hình như phần eo va đập rất mạnh vào cạnh bàn, vẻ mặt trở nên dữ tợn.
Có tiếng bước chân vang lên ngoài cửa, một đám người đang sắp bước vào đây. Tôi hoảng hốt, vội chạy đến đỡ cô ta dậy, nhưng ánh mắt thù hằn dữ dằn của cô ta khiến tôi sợ hãi.
Bên ngoài là đức vua, cậu út Bạch Chấn, cha tôi và mấy người họ hàng khác. Người phụ nữ đó sà vào lòng đức vua, kêu gào thảm thiết, buộc tội tôi giở trò trăng hoa.
Một trận khẩu chiến xảy ra và tôi, tất nhiên, là người thua cuộc. Không ai tin tôi cả. Vết son trên má là bằng chứng trực tiếp, tiếng xấu trong quá khứ là bằng chứng gián tiếp. Đức vua vô cùng tức giận, nhưng vì nể mặt cha nên đã không hạ lệnh trừng phạt tôi ngay lúc đó. Những người còn lại, kẻ lắc đầu người thở dài, nhìn cha tôi ngao ngán. Kể từ lúc xảy ra chuyện, sắc mặt cha đã tái nhợt đi. Tôi chẳng thèm quan tâm người khác nghĩ gì, kể cả người đó có là đức vua đi nữa, nhưng tôi không thể chịu nổi khi thấy cha đau lòng.
Bởi vậy, sau khi về phủ, tôi đã giải thích để cha hiểu và hỏi ông:
- Cha tin con chứ?
Cha nói tin tôi, nhưng vẻ u buồn vẫn hiển hiện trong mắt khi cha nhìn tôi.
- Pusyseda, giá như con có thể noi gương anh con, luôn biết giữ mình, thì đâu đến nỗi ngoài cha con ra, không ai chịu tin lời con cả.
Tôi mở miệng định thanh minh, nhưng không thốt lên lời. Vậy là cha luôn cảm thấy thất vọng về tôi!
Người hầu vào thông báo mẹ đã về, cha vô cùng mừng rỡ. Tôi theo cha ra đón mẹ vào phòng khách. Mẹ có vẻ rất tức giận, vừa vào nhà đã hỏi chuyện xảy ra hôm nay. Tôi kiên nhẫn (mặc dù không vui chút nào) giải thích lại lần nữa với bà.
Bà trách móc tôi:
- Hôm nay là ngày anh con thọ đại giới, vậy mà con lại gây ra chuyện động trời như thế!
Mẹ thậm chí không nói có tin lời tôi hay không, bà chỉ nghĩ đến anh trai. Hôm nay là ngày anh trai thọ đại giới, vậy còn tôi? Liệu mẹ còn nhớ hôm nay là sinh nhật lần thứ mười bảy của tôi không?
Tự nhiên, tôi cảm thấy vô cùng buồn tủi, liền lao ra ngoài, mặc cho cha quát gọi phía sau.
Màn đêm buông xuống, cơn gió mang theo hơi lạnh se sắt của mùa thu ào đến. Một mình lang thang trên đường phố vắng lặng, tôi bỗng nhận ra: từ trước đến nay, tôi vẫn luôn cô độc. Bao nhiêu bạn bè anh em, nhưng họ chỉ xuất hiện khi có hội nhậu, hay những cuộc đánh lộn. Tôi thấy mình như sắp hóa điên, bao điều nhức nhối dồn tụ trong lòng, không sao giải tỏa nổi.
- Pusyseda!
Tôi ngẩng lên, thì ra là cô chủ quán ăn Khotan trong thành, một góa phụ trẻ tuổi lẳng lơ. Đã bị tôi cự tuyệt nhiều lần, nhưng cô ta chưa bao giờ chịu từ bỏ.
Tôi "diễn" một nụ cười phong tình, kéo cô ta vào lòng.
- Đến chỗ cô em nhé!
Tôi không muốn tiếp tục mơ mộng nữa, khổ sở theo đuổi những điều mơ hồ, không có thực ấy để mà làm gì? Dù sao trong mắt người đời tôi chỉ là một tên phong lưu không hơn không kém, vậy thì một tên phong lưu nên làm những việc xứng với danh xưng của hắn.
Tôi khá hồi hộp khi ở trong căn phòng của cô ta, cố gắng trấn tĩnh, tôi quay lại người đàn bà đã trút bỏ gần hết xiêm y:
- Nói cho ta biết phải làm thế nào?
Cô ta phá lên cười dâm đãng, nắm lấy tay tôi kéo lê trên thân thể cô ta. Mùi nước hoa nồng nồng trên người cô ta khiến tôi lảo đảo.
Dưới sự dẫn dắt của cô ta, tôi ngày càng trở nên thành thục, ngày càng trở nên cuồng bạo, tôi muốn trút bỏ mọi thứ đang dồn nén trong lòng ra ngoài. Tôi phải thừa nhận rằng, tôi đã cảm thấy thực sự hân hoan khi lên đến cao trào.
Sau khi kết thúc, tôi lẳng lặng ngồi dậy, đưa mắt nhìn mọi thứ xô lệch, nhàu nhĩ xung quanh và người đàn bà lõa lồ vẫn đang thở hổn hển cạnh tôi. Chẳng phải rất đơn giản sao? Vậy mà trước kia tôi cứ khiến nó trở nên nghiêm trọng. Rốt cuộc là tôi muốn bảo vệ thứ gì? Có đáng không? Chỉ là lên giường thôi mà, tôi có mất gì đâu!
- Chàng thật mạnh mẽ! Không giống là lần đầu tiên.
Cô ta trườn lên vai tôi, đổ cả thân hình mềm nhũn lên người tôi. Thân thể cô ta ướt át, mùi nước hoa trộn lẫn với thứ mùi hôi không thể giấu giếm xông lên mũi tôi. Ruột gan tôi như muốn lộn tùng phèo, tôi thấy buồn nôn. Đẩy cô ta ra xa, tự mình mặc quần áo, rồi lạnh lùng rời khỏi cái nơi đáng ghét ấy, tiếng cô ta gọi với phía sau:
- Khi nào chàng lại tới?
Tôi sẽ không bao giờ quay lại đó nữa, vì tôi không muốn hành hạ khứu giác với thứ mùi hôi kinh khủng ấy. Tôi lang thang trên đường cho đến khi tiếng mõ của người phu đi tuần đêm báo hiệu đã sang canh năm. Sinh nhật tuổi mười bảy của tôi đã qua đi như thế đó.
Tôi chính thức trở thành tên công tử chơi bời thực thụ, không nhớ nổi tôi đã lên giường với bao nhiêu người phụ nữ nữa. Tôi có thể tiếp nhận bất cứ ai, miễn là tôi cảm thấy hứng thú, chỉ với một điều kiện duy nhất: trên người họ không được có thứ mùi hôi khiến tôi buồn nôn ấy.
Ánh mắt cha khi nhìn tôi ngày càng chất chứa vẻ tuyệt vọng, mẹ thì không cần phải nói cũng biết bà khinh ghét tôi thế nào. Mặc kệ, dù sao thì họ chỉ cần có anh trai tôi là đủ...
Không lâu sau, mẹ và anh trai tôi chuyển đến ngôi chùa Cakra, cách nhà bốn mươi dặm. Như thế lại hay, tôi sẽ không phải ép mình đóng kịch, vờ thích thú mỗi lần phải cùng cha đến chùa thăm họ nữa. Anh trai trở thành trụ trì chùa Cakra, tuyên bố hùng hồn rằng sẽ dốc sức truyền đạo để toàn bộ người Khâu Từ tin theo giáo phái Đại Thừa. Sao cũng được, thích thay đổi điều gì xin mời cứ việc. Dù sao thì, đức vua rất mực sủng ái anh ấy, mọi người kính nể anh ấy, anh ấy muốn làm gì, ai nấy đều hưởng ứng.
Năm tôi hai mươi tuổi, mẹ quyết định rời khỏi Khâu Từ để đến Thiên Trúc, bà muốn chứng tam quả gì đó. Hai cha con tôi đến chùa Cakra tiễn bà. Chúng tôi lưu lại trong ngôi nhà của anh trai ở Subash. Vì không đủ phòng nên tôi phải ngủ trong phòng của anh trai.
Buổi tối rỗi rãi, nhàm chán, tôi định bụng tìm đại một cuốn sách trong tủ sách của anh ấy để giết thời gian. Nhưng tôi tình cờ phát hiện ra một hốc nhỏ kín đáo phía sau tủ sách. Tôi tò mò đẩy nắp đậy ra và thấy một chiếc hộp gỗ hình chữ nhật.
Bên trong chiếc hộp gỗ là một xấp những bức vẽ. Cánh cửa ký ức trong tôi bỗng mở tung khi tôi nhìn thấy đôi mắt long lanh, trong sáng ấy, nụ cười tươi tắn rạng rỡ ấy, lúm đồng tiền duyên dáng ấy và suối tóc mượt mà, bồng bềnh, ơ hờ thả trên vai ấy. Chính là cô gái ấy! Đây đúng là dung nhan của nàng. Trong chốc lát, hơi ấm và giọng hát trong veo của cô gái ấy sống dậy trong tâm trí tôi, rõ ràng, sống động, như thể mọi thứ mới diễn ra ngày hôm qua. Tôi thật đáng trách! Tôi đã quên bẵng dung nhan ấy suốt mười năm trời.
Tôi lật mở ráo riết bức vẽ như kẻ đói khát lâu ngày được cho ăn. Cô ấy cưỡi trên lưng lạc đà, nhưng vì không quen nên ngồi không vững, suýt nữa thì ngã, điệu bộ rất nực cười. Cô ấy nghiêng đầu, há miệng, đúng rồi, đó là các động tác vũ đạo cô ấy tự biên tự diễn khi hát cho tôi nghe. Cô ấy nằm bò trên bàn ngủ gật. Tư thế ấy tôi đã được chứng kiến vài lần, ngờ nghệch mà đáng yêu vô cùng. Tôi cảm thấy tâm trạng trở nên nhẹ nhõm, thoải mái hơn khi ngắm nhìn những bức vẽ này, mọi buồn bực dường như đã tan theo mây khói. Tôi không nhịn nổi, bật cười sảng khoái, trong lòng chợt dâng lên một cảm giác ấm áp lạ thường. Lúc ấy tôi đã mong gặp lại cô gái đó biết chừng nào!
Những trang cuối cùng là chân dung của anh trai tôi thời niên thiếu. Tôi bừng tỉnh, thì ra những bức họa đủ mọi tư thế khác nhau của cô gái ấy đều do anh trai tôi vẽ. Không biết anh ấy đã vẽ trong bao nhiêu năm? Không biết hình ảnh cô gái ấy đã xuất hiện trong trái tim anh ấy bao nhiêu lần mới có thể giúp anh ấy phác họa được một chân dung tự nhiên, sinh động đến vậy. Thì ra, anh ấy vừa tụng kinh niệm Phật vừa lén lút cất giấu tiên nữ trong tim mình. Lục căn của anh ấy cũng đâu có thanh sạch, tôi nhếch môi cười, đột nhiên nảy ra một ý định.
- Hãy trả lại cho ta!
Quả nhiên anh ấy đã đến tìm tôi, thừa lúc vắng người, liền ghé vào tai tôi thì thầm, giọng nói có vẻ sốt ruột. Chẳng phải người tu hành nội tâm thanh tĩnh như mặt nước hay sao? Anh ấy mà cũng có lúc cuống quít như vậy ư?
- Trả lại gì?
Tôi lì lợm giả bộ không hiểu, nhướn mày thách thức. Anh ấy sững người, nhìn tôi hồi lâu, không nói thêm câu nào, xoay người bước đi.
- Cô ấy là tiên nữ, nhớ thương cũng chẳng ích gì đâu!
Tôi gào lên phía sau:
- Tôi đang giúp anh đó! Trong lòng nhiều vướng bận như thế làm sao chuyên tâm phụng sự Phật tổ được?
Anh ấy dừng bước, bờ vai rung động, không quay đầu lại, ngập ngừng một lúc lại tiếp tục bước đi. Nhìn theo anh ấy, tôi bỗng cảm thấy buồn bực vô chừng.
Chương 37: Pusyseda ngoại truyện (3)
Mỗi khi buồn bực tôi lại đi kiếm phụ nữ, sau một hồi "vận động", tâm trạng tôi khá lên rất nhiều. Nhưng không hiểu sao, hôm đó, ôm cô ba trong phủ tướng quân mà tôi lại chẳng có chút cảm hứng nào.
- Sao thế?
Bàn tay cô ta ve vuốt thân thể tôi.
- Chàng thường ngày hào hứng lắm kia mà, hôm nay sao vậy? Hay là chàng buồn vì mẹ chàng ra đi?
- Ai bảo thế?
Tôi xoay người lại, đè cô ta xuống, những ý nghĩ vẩn vơ vụt tan biến, nhiệt tình "đền bù" cho người đẹp. Khuôn mặt của cô ta chợt nhòa đi, một nụ cười tươi tắn, thuần khiết chập chờn hiện ra hiện ra trước mắt tôi, toàn thân hừng hực như lửa đốt và tôi, đã gọi tên cô ấy khi lên đến đỉnh cao hoan lạc.
"Xong việc", cô ba nhà tướng quân hỏi tôi từ đó nghĩa là gì, tôi cười chống chế, nói rằng một câu tiếng Hán vu vơ nghe được ở đâu đó. Rồi bất chấp sự chèo kéo, nài nỉ của cô ta, tôi nhanh chóng đóng bộ, ra về.
Dù có chơi bời, lêu lổng đến đâu, tối nào tôi cũng về nhà ngủ và không bao giờ có chuyện tôi đưa phụ nữ về nhà. Đêm đó, tôi nằm dài trên giường ngắm từng bức vẽ. Tôi say mê đôi mắt trong veo, long lanh ấy, phụ nữ quanh tôi không ai có đôi mắt thuần khiết như thế. Bỗng nhiên, cảm thấy nỗi cô đơn rợn ngợp, tôi thấy nhớ cô ấy, lần đầu tiên trong đời, tôi thấy nhớ một người con gái da diết như vậy. Tôi muốn cô ấy trở về.
Tôi bật dậy, lục tìm cuốn "Kinh thi", cô ấy nói rằng khi nào tôi đọc thuộc tập thơ này, cô ấy sẽ quay lại. Tôi lôi bức tranh con vật kì dị do chính tay cô ấy vẽ ra và không nhịn nổi cười khi ngắm nghía bộ dạng của nó. Tôi búng tay vào bộ mặt béo tròn của chú mèo kỳ quái, thì thầm:
- Ta học thuộc "Kinh thi" thì nàng sẽ quay về, phải không? Vậy thì ta sẽ học.
Từ hôm đó, tối nào tôi cũng đến phòng của cô ấy đọc "Kinh thi". Mọi thứ trong căn phòng này vẫn được giữ nguyên như mười năm về trước. Bỏ bẵng tiếng Hán trong một thời gian dài, nay phải học lại, quả thực rất mệt. Những lúc bí bách, tôi thường ngả lưng trên chiếc giường của cô ấy, ngắm nhìn chân dung cô ấy, vuốt ve chiếc gối của cô ấy, tưởng tượng ra từng cử chỉ, điệu bộ của cô ấy. Chỉ thế thôi, cũng giúp tôi hân hoan cả một buổi tối. Đã lâu tôi không còn thiết tha tìm kiếm đàn bà nữa, nhưng tôi không hề thấy cô đơn, ngược lại, trong lòng lúc nào cũng ắp đầy niềm vui. Người ta trở nên phấn chấn hơn khi có cái gì đó để mà chờ đợi.
Thấy tôi không lêu lổng nữa, cha nghĩ rằng tôi đã phải lòng con gái nhà ai rồi. Cha đem thắc mắc đó hỏi tôi, tôi chỉ cười, bảo rằng, tôi sẽ lấy một cô gái độc nhất vô nhị trên đời, rằng mặc dù hiện nay cô ấy chưa xuất hiện, nhưng tôi sẽ đợi. Tôi cảm nhận được niềm vui chộn rộn khi nói lên điều đó và tôi chợt nhớ lại cảm giác khi tôi ôm chầm lấy cô ấy hồi nhỏ.
Ngày tháng lặng lẽ trôi qua, tôi đã học "Kinh thi" tròn một năm, đã chờ đợi suốt một năm. Tôi đã thuộc lòng và cô ấy sắp trở về! Ngày nào tôi cũng lang thang trên phố, quan sát kỹ tất cả những thiếu nữ người Hán xuất hiện trên đường, tôi không muốn để lạc mất cô ấy. Nhưng điều đó khiến tôi gặp không ít phiền phức. Nếu là trước kia, tôi sẽ không do dự, lập tức đồng ý lên giường với họ, nhưng giờ đây, tôi không còn hứng thú với chuyện đó nữa. Tâm tư tôi chỉ dành cho duy nhất một việc là chờ đợi cô ấy trở về.
Tôi có linh cảm là cô ấy sẽ trở về vào ngày hội Sumuzhe. Cô ấy vốn thích náo nhiệt, lễ hội lớn như vậy, sao có thể bỏ lỡ? Tôi mê mải tìm kiếm, quan sát kỹ lưỡng từng khuôn mặt người, vì tôi sợ ai nấy đều đeo mặt nạ, khó mà nhận ra cô ấy. Bỗng từ xa xuất hiện một cô gái người Hán, đang đứng ăn thịt dê nướng ở một góc đường, dầu mỡ dính đầy trên mép vẫn thản nhiên ngó nghiêng, ngắm nghía phố xá và người đi đường. Tim tôi đập rộn ràng, cô gái chân chất, không màu mè đó, có phải cô ấy?
Tôi chầm chậm bước tới, nhìn thấy đôi mắt long lanh trong sáng tôi đã chờ đợi suốt một năm qua, đột nhiên nhớ đến lần đầu gặp cô ấy năm lên mười, cũng chính đôi mắt đó đã lôi cuốn tôi. Ngần ấy năm trôi qua mà dung mạo của cô ấy vẫn giống hệt trong các bức vẽ, không thay đổi chút nào. Người phàm đâu thể như thế. Tiên nữ của tôi quay về thật rồi!
Cô ấy nhìn tôi chăm chú, như thể đã nhận ra tôi, ánh mắt lộ vẻ chờ đợi.
- Ngải Tình, có phải chị đấy không?
Giọng nói của tôi có vẻ run run, là cô ấy, chắc chắn là cô ấy, nhưng tôi không dám tin vào mắt mình, biết đâu chỉ là ảo giác thì sao?
- Tất nhiên là tôi rồi!
Cô ấy lắc lắc xiên thịt nướng trên tay, vẫn nụ cười ngây ngô ấy, nhưng sống động hơn nhiều so với tranh vẽ.
Tôi ôm xốc cô ấy lên, xoay vài vòng trên không, thân thể cô ấy vẫn ấm áp như ngày nào. Lần đầu tiên trong đời tôi thầm cảm tạ Phật tổ, tôi bằng lòng quy y, chỉ cần cô ấy ở bên cạnh tôi.
Tôi đưa cô ấy đi ăn, tôi không thấy đói, nhưng cô ấy có vẻ rất háo hức. Tôi rất thích ngắm vẻ thuần phác của cô ấy, chỉ thế thôi cũng đủ khiến tôi hân hoan, vui sướng rồi. Tôi càng vui hơn khi cô ấy bảo cô ấy vừa trở về. Lần đầu tiên, tôi đã nhanh hơn anh trai mình một bước. Tôi sẽ cố gắng để cô ấy không có quá nhiều ràng buộc với anh ấy. Anh ấy nên làm tốt bổn phận nhà sư của mình. Còn tôi, tôi sẽ chịu trách nhiệm chăm sóc tiên nữ.
Tôi đưa cô ấy về phủ, đọc "Kinh thi" cho cô ấy nghe, nhìn cô ấy cảm động. Đêm đó, tôi trằn trọc, không sao ngủ được. Tim tôi đập liên hồi mỗi khi nghĩ đến cô ấy đang ở cách mình không xa. Sao thế nhỉ? Tôi như thể cậu bé mười lăm, mười sáu tuổi lần đầu biết yêu vậy!
Tôi đã không hề chợp mắt, miên man ngóng chờ trời sáng. Không kìm chế nổi, tôi bật dậy, lén đến phòng cô ấy, ngồi ngắm cô ấy ngủ. Cô ấy nằm nghiêng, hơi thở đều đặn làm bay bay những sợi tóc lòa xòa trước mặt. Tôi xếp gọn những lọn tóc cho cô ấy, đột nhiên rất muốn hôn cô ấy. Ý nghĩ ấy khiến tôi toát mồ hôi, tôi lén lút sáp lại, làn môi cô ấy đã gần trong gang tấc, làn môi đỏ thắm tự nhiên ấy có sức hấp dẫn hơn bất cứ người phụ nữ chải chuốt nào. Nhưng cô ấy đột nhiên xoay người, miệng lẩm bẩm câu gì đó. Tôi giật mình suýt bổ nhào xuống đất. May mà cô ấy không thức giấc. Tôi phì cười, Pusyseda mà cũng có lúc muốn hôn trộm phụ nữ ư? Và lại còn cảm thấy tội lỗi khi trong đầu nảy sinh ý định đó nữa chứ.
Những ngày diễn ra lễ hội Sumuzhe là những ngày vui vẻ nhất, bởi vì tôi có cô ấy ở bên. Tôi thích trêu đùa cô ấy, chọc tức cô ấy. Mỗi khi nhắc đến chuyện nam nữ, cô ấy lại đỏ mặt. Đó là phản ứng tự nhiên của những cô gái trinh trắng. Tôi vui mừng khôn tả, cô ấy giống như nụ hồng sắp nở, hy vọng, tôi sẽ hái được nụ hồng đó. Nếu là những cô gái khác, dù thời gian ve vãn, tán tỉnh có kéo dài bao lâu thì hạ màn vẫn là cảnh lên giường. Nhưng tôi không muốn lập tức "ra tay" với cô ấy như với họ. Có lẽ vì tôi không dám? Những tâm tình của cô ấy về sự gặp gỡ, yêu thương, gắn bó mang lại cho tôi những dư vị xúc cảm mới mẻ. Thì ra, hoan lạc không khó, thương yêu mới khó. Và càng khó hơn nếu muốn gắn bó với nhau tới khi đầu bạc răng long. Trước kia, tôi không hiểu thế nào là yêu, tôi chỉ có ham muốn xác thịt. Nhưng sự thật là, tôi khát khao một sự ngọt ngào, ấm áp, sâu sắc và bền vững chứ không phải niềm hoan lạc trong thoáng chốc. Vậy, tình cảm của tôi dành cho cô ấy là tình yêu ư?
Tôi không rõ như thế có gọi là yêu không, nhưng tôi biết rằng, trên đời này chỉ có cô ấy mới đem lại cho tôi sự ấm áp mà tôi muốn, chỉ có nụ cười của cô ấy mới khiến tôi say đắm. Kể từ lúc tình cờ nhìn thấy những bức tranh vẽ cô ấy, tôi đã chờ đợi cô ấy trở về để lấp đầy nỗi trống vắng trong trái tim cô đơn của tôi. Nếu cô ấy muốn, tôi có thể tặng cô ấy cả cuộc đời mình. Có điều, càng ở bên cô ấy, tôi càng cảm thấy căm ghét bản thân mình trước kia. So với tâm hồn thánh thiện, thuần khiết như nước của cô ấy, tôi quá ư tệ hại. Nếu cô ấy chịu tha thứ, tôi hứa sẽ không tiếp tục cuộc sống như trước kia nữa.
Những dự định tươi đẹp đó đã nhảy múa trong đầu tôi suốt trên đường đến Subash đón cô ấy. Thậm chí, tôi đã suy nghĩ xem nên cầu hôn cô ấy như thế nào, để cô ấy không cảm thấy đường đột. Tôi đã chờ đợi một năm ròng, tôi không muốn chờ đợi thêm nữa. Khi tôi đến nơi thì cô ấy không có ở đó. Dò hỏi Mavasu mới biết, cô ấy đã trở về và sống ở đây suốt ba tháng.
Tôi chao đảo, mất thăng bằng. Cô ấy gạt tôi ư? Cô ấy lừa đảo tôi ư? Hai người đó có quan hệ gì? Họ đã ở cạnh nhau ba tháng trời, tối nào anh ta cũng ghé về thăm cô ấy, bọn họ liệu còn trong sạch không? Anh ta muốn hoàn tục ư? Có thể lắm chứ, cha tôi cũng hoàn tục sau khi gặp mẹ tôi đấy thôi. Cứ nghĩ ít ra lần này, tôi đã đi trước một bước, nào ngờ! Không lẽ, anh ta định cướp luôn cả nguồn hạnh phúc duy nhất của tôi hay sao? Anh ta đã có mọi thứ rồi kia mà...
Vậy nên khi nhìn thấy cô ấy, tôi đã mất hết lí trí, điều duy nhất tôi nghĩ được vào lúc đó, là kéo cô ấy lên giường, như thế anh ta sẽ không thể tranh giành với tôi được nữa. Sự xuất hiện của anh ta càng kích động tôi. Tôi hôn cô ấy trước mặt anh ta, tôi có thể làm được như vậy, anh ta thì sao? Nhưng sau cái hôn đó, tôi biết mình đã trách lầm cô ấy. Phản ứng dữ dội của cô ấy chứng tỏ giữa hai người họ chưa xảy ra chuyện gì cả, có nghĩa là tôi vẫn còn thời gian để giành lại cô ấy.
Cô ấy cắn vào môi tôi, giúp tôi bình tĩnh trở lại. Tôi gào lên với anh ta:
- Anh đã có mọi thứ, đừng tranh giành cô ấy với tôi nữa!
Tôi còn có thể nói những lời cay độc hơn thế, nhưng tôi không làm vậy, tôi chỉ muốn nói với anh ta điều này: Tôi cần cô ấy!
Sau đó nghĩ lại, tôi đã rất hối hận về sự thô bạo của mình hôm ấy. Tôi biết cô ấy bị thương và hành động lỗ mãng của tôi đã gây ra phản tác dụng. Trở về phủ quốc sư, cô ấy tránh tôi như tránh tà. Tất cả là lỗi của tôi. Lẽ ra cô ấy đã gần như chấp nhận những cử chỉ thân mật của tôi. Nhưng tôi không có thời gian để nghĩ về những việc đó nữa vì cha tôi đổ bệnh. Tôi định bụng sẽ xin lỗi cô ấy sau khi cha bình phục.
Nhưng cha đã không qua nổi trận ốm đó. Người cha thương yêu nhất của tôi đã mang theo nỗi nhớ nhung người mẹ của tôi lìa xa thế giới này. Tôi đã không quá đau buồn khi mẹ mất, nhưng nỗi đau khi cha qua đời khiến tôi suy sụp suốt một thời gian dài. Khi trái tim biết rung động, tôi mới thấu hiểu nỗi tương tư vò xé tâm can mà cha phải chịu đựng. Lẽ ra lúc trước tôi nên ngoan ngoãn nghe lời cha, không nên làm những việc khiến cha đau lòng. Xót xa thay, đến khi nhắm mắt xuôi tay, cha đã không được thấy sự hối cải của tôi.
Dù hơn một tháng qua, tôi đã hiểu rõ tôi không có chỗ trong trái tim cô ấy, nhưng tôi vẫn ngỏ lời cầu hôn. Vì tôi muốn mang lại cho cô ấy những thứ anh ta không thể. Nhưng đã quá muộn, tôi không thắng nổi và thực tế là chưa bao giờ thắng. Trái tim tôi trống rỗng khi nghe cô ấy thừa nhận tình yêu với anh ta. Ngải Tình, chị đã dạy cho tôi biết tình yêu là gì, nhưng khi tôi học được cách yêu, chị lại nói với tôi rằng, chị chưa từng yêu tôi.
Trong những ngày chờ đợi cô ấy từ Subash trở về, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Cô ấy ra đi vì muốn anh ta hoàn thành lý tưởng vĩ đại của mình. Tôi thì không vĩ đại như vậy. Tôi yêu cô ấy nên sẽ tìm mọi cách để giữ cô ấy lại bên mình, thời gian có thể thay đổi mọi thứ.
Nghĩ vậy, tôi lấy trộm chiếc vòng của cô ấy. Truyền thuyết của người Hán kể rằng, có một nàng tiên xuống trần gian dạo chơi và đến tắm ở một hồ nước. Chàng trai người phàm đã trộm xiêm y của tiên nữ, khiến nàng không thể về trời. Nàng đành lưu lại nhân gian, kết thành vợ chồng với chàng trai đó. Tôi hy vọng truyền thuyết đó là có thật.
Đúng là cô ấy đã không thể trở về trời. Tôi sắp xếp đưa cô ấy tới tham quan thành cổ Taqian. Nhưng tôi không ngờ cô ấy lại bị thương một lần nữa. Tôi đã rơi nước mắt khi quan ngự y nói rằng cánh tay của cô ấy sẽ bị hoại tử và rằng nếu muốn giữ mạng sống thì phải cắt bỏ nó đi. Trái mệnh trời, cố ý níu giữ tiên nữ sẽ phải chịu sự trừng phạt, nhưng vì sao sự trừng phạt không rơi vào tôi? Tôi sẵn sàng phế bỏ cánh tay của mình thay cô ấy. Tôi chỉ không chịu đựng nổi khi chứng kiến cô ấy quằn quại, đau đớn.
Tôi đã suy nghĩ rất lâu và quyết định cử người đi tìm anh ta. Thực ra khi cô ấy ngắm nhìn những bức vẽ đó, tôi đã biết mình không còn cơ hội nào nữa. Mười năm trước tôi đã thua rồi. Đã vậy, tôi sẽ giúp cô ấy toại nguyện, chỉ cần cô ấy không phải chịu đau khổ nữa...
Không thể kéo dài thời gian, vết thương của cô ấy chỉ có thể được chữa khỏi khi trở về trời. Tôi trả lại chiếc vòng cho cô ấy, giúp cô ấy mặc bộ trang phục kỳ lạ vào người, giúp cô ấy thu dọn đồ đạc vào chiếc túi "không đáy". Từ đây, trời đất cách biệt, không còn cô ấy nữa, tôi biết tìm hạnh phúc nơi đâu?
Nhưng tôi vẫn phải từ bỏ, vì tiên nữ vốn không thuộc về tôi. Tôi lưu lại trên trán nàng dấu ấn cuối cùng. Tôi đứng ngoài cửa phòng nhìn nàng lần cuối, một ngày trên trời bằng mười năm dưới trần gian. Lần chia biệt này, tôi sẽ không quên dung nhan của nàng. Chờ khi nàng quay lại, có lẽ tôi đã tóc bạc da mồi, răng rụng mắt mờ, mong là nàng vẫn có thể nhận ra tôi.
Đóng cửa lại, tôi bước ra ngoài sân, ngước lên nhìn trời, nơi mà nàng sẽ trở về. Nước mắt chan hòa, tôi nhủ lòng, nhất định phải sống hạnh phúc, vì tôi đã thực sự trưởng thành.
Cánh cổng chợt mở toang, anh ấy lảo đảo bước vào, gương mặt biến sắc, chỉ nhìn tôi một cái, định lao vào phòng cô ấy. Tôi gắng sức giữ anh ấy thật chặt, cô ấy dặn dò không ai được nhìn chùm sáng phát ra khi cô ấy ra đi.
Anh ấy không vượt qua được tôi, đành hướng vào phòng gào to tên của cô ấy, tiếng kêu như xé ruột xé gan, nỗi đau đớn, tuyệt vọng tột độ ấy, khiến tôi cũng phải hoảng sợ. Khoảnh khắc đó, tôi không còn cảm giác ghen ghét, đố kỵ với anh ấy nữa, anh ấy cũng giống như tôi, đều là những người đáng thương vì không thể có được tình yêu.
Khi chúng tôi bước vào phòng, tôi đã thực sự hoảng hốt, rốt cuộc cô ấy có thực sự tồn tại? Hay chỉ là một ảo ảnh trong trái tim tôi? Đức Phật nói rằng, mọi thứ đều không tồn tại, vậy, cô ấy thì sao?
Bàn tay anh ấy run run khi cầm những bức vẽ trên bàn. Vệt máu đã khô lại, nhưng không thể che đi nụ cười tươi tắn, thuần khiết của cô ấy. Anh ấy đổ người xuống giường, vùi đầu vào những bức vẽ, đôi vai rung động. Tôi lặng lẽ ra khỏi phòng, ngước mặt lên trời, hít một hơi thật sâu, rồi rảo bước đi tìm cậu út Bạch Chấn. Tôi phải sống thật vui vẻ để chờ cô ấy trở về.
Anh ấy ngồi thiền trong căn phòng của cô ấy suốt ba ngày, tôi đã dặn dò người hầu chỉ mang đồ ăn đến cho anh ấy, không được làm phiền. Người trong cung và trong chùa đến tìm, tôi kiếm cớ nói rằng anh ấy bị ốm, cần được tĩnh dưỡng. Giờ đây, tôi đã là chủ gia đình, tôi phải lo toan mọi việc trong nhà, bao gồm cả việc chăm sóc anh ấy.
Sau ba ngày anh ấy mới ra khỏi phòng, người gầy đi trông thấy, nhưng đôi mắt vẫn rất sáng. Hai người họ, tuy màu mắt khác nhau, nhưng thần thái và vẻ thánh thiện trong đôi mắt thì giống hệt nhau. Vóc dáng và tướng mạo tôi không thua kém anh ấy, nhưng tôi chẳng thể nào có được ánh mắt tinh khôi, thuần khiết của anh ấy.
Cứ nghĩ anh ấy sẽ gục ngã, sẽ chẳng còn lòng dạ nào với Phật pháp, kinh kệ nữa. Thật không ngờ, một thời gian sau, tôi đến chùa Cakra thăm anh ấy, vẫn thấy anh ấy say mê truyền bá giáo lý Đại Thừa, anh ấy làm việc hăng say hơn trước rất nhiều.
Khi chỉ có hai chúng tôi trong phòng, tôi nhìn khuôn mặt bình thản của anh ấy, khẽ hỏi:
- Anh lấy lại tinh thần rất nhanh thì phải?
Anh ấy nhìn thẳng vào tôi, bình tĩnh đáp:
- Mười năm có là bao, chỉ cần chuyên tâm truyền bá đạo Phật, mười năm sẽ qua rất nhanh.
- Nếu mười năm cô ấy không trở lại thì sao?
- Thì ta sẽ đến Trung Nguyên. Dù không phải đến để tìm cô ấy, ta cũng cần tới đó để cứu độ nhiều người thoát khỏi bể khổ. Việc truyền bá rộng rãi đạo Phật không thể chỉ giậm chân tại Khâu Từ.
Nét cương nghị, kiên định trên gương mặt anh ấy khiến cho tôi có cảm giác mười năm thời gian chớp mắt sẽ qua. Cánh tay đưa lên, để lộ chuỗi hạt sờn bạc, anh ấy vẫn muốn đeo nó mười năm nữa ư? Không thể không nói lời cảm phục anh ấy. Nếu đổi lại là tôi, chắc chắn tôi chẳng thể sống trong sự chờ đợi mỏi mòn và gần như vô vọng như thế. Đột nhiên cảm thấy, so với anh ấy, tôi chưa thực sự biết yêu. Tôi chỉ là kẻ thứ ba xen vào giữa hai người họ, tôi chẳng là gì cả.
Anh ấy đột nhiên hỏi tôi:
- Sao em lại gây chuyện khiến đức vua tức giận, đuổi ra khỏi cấm vệ quân như vậy?
Đến phiên trực đêm của mình, tôi dẫn theo mấy anh em đưa cô ấy đến thành cổ Taqian. Lúc quay về, tôi lại chỉ lo lắng cho bệnh tình của cô ây, không thèm vào cung lấy một ngày. Đức vua cho gọi nhiều lần nhưng tôi không buồn để tâm. Sau khi cô ấy ra đi, tôi mới vào cung, nhận tội thay các anh em.
- Ông ấy làm vậy vì muốn trả hận, vì nghĩ tôi ve vãn người đàn bà của ông ấy.
Tôi nhếch môi cười:
- Cha mẹ đều đã qua đời, ông ấy chẳng cần phải kiêng nể gì cả.
- Ta sẽ thử thuyết phục đức vua xem sao.
- Không cần!
Tôi đứng lên, khoát tay:
- Tôi chán làm lính từ lâu rồi.
- Vậy sau này...
- Chưa biết chừng tôi lại trở thành một thương nhân tài ba ấy chứ.
Tôi bước ra khỏi chùa Cakra, mùa đông đã tới, gió lạnh tê tái. Bầu trời xám xịt, tôi hít một hơi thật sâu. Giờ này chắc chị đang ở trên trời phải không? Cánh tay của chị đã lành lại chưa? Có lúc nào nhớ đến tôi không?
Tôi dựng lại cổ chiếc áo khoác lông cừu, bước vào xe ngựa và nói với phu xe:
- Đến nhà cậu út ta!
Chương 38: Cô đơn
Tôi lặng lẽ ngắm cảnh vật không ngừng trôi qua cửa kính tàu hỏa. Mùa đông giá lạnh, cây lá tiêu điều xơ xác, vẻ đìu hiu, vắng lặng bao trùm không gian, như bắt nhịp cùng điệu tâm hồn tôi. Một cốc trà xanh bốc hơi được đẩy ra trước mặt, tôi đón lấy, khẽ cảm ơn.
Sếp tôi ngồi bên cạnh, thở dài:
- Đừng nghĩ ngợi lung tung nữa. Quay về hãy tập trung học cho tốt, tháng Bảy tốt nghiệp rồi, em cũng nên suy tính tìm việc đi thôi.
Tôi ậm ừ đáp lại, đặt tay lên cốc nước sưởi ấm, mắt vẫn không rời khung cửa.
Suốt ba tháng sau khi trở về, tôi chỉ nằm trên giường. Bác sĩ bảo may mắn thay tôi đã về kịp lúc, muộn chút nữa sẽ không cứu được cánh tay. Hai chiếc ba lô Northface khổng lồ khoác sau lưng đã giúp tôi giảm thiểu rất nhiều sự va chạm khi tiếp đất, nên cánh tay đã không phải chịu thêm tổn thương nào cả. Họ đã phẫu thuật cắt bỏ phần thịt đã thối rữa, kích thích phần da thịt mới tái sinh. Dù vậy, cánh tay của tôi không còn được linh hoạt như trước nữa. Đây phải chăng là cái giá phải trả cho việc thay đổi lịch sử?
Tôi báo cáo chi tiết tình hình sức khỏe, sau đó tiến hành kiểm tra toàn thân, kết luận rút ra là mức độ nhiễm phóng xạ sau bốn lần vượt thời gian của tôi đã vượt mức cho phép. Sức khỏe của tôi hiện nay không đảm bảo để có thể tiếp tục tham gia dự án này nữa. Tôi đã thử thuyết phục họ cho tôi "vượt" một lần nữa. Nhưng tôi thậm chí đã không qua nổi cửa ải của sếp chứ đừng nói đến nhóm chuyên gia. Sếp bảo tôi phải tĩnh dưỡng, kiên trì uống thuốc mỗi ngày để đẩy hết độc tố tích tụ ra ngoài. Tôi còn trẻ, sếp không muốn tôi để lại di chứng về sau.
Sếp vẫn không nguôi dằn vặt, nghe nói đã khẩu chiến kịch liệt với nhóm nghiên cứu, sau đó, giận dữ rút khỏi dự án. Thầy bảo tôi từ nay đừng nghĩ đến việc vượt thời gian quái quỷ gì nữa, trường tôi đã cắt đứt quan hệ với dự án này rồi. Chờ khi sức khỏe của tôi tương đối bình phục, thầy sẽ đưa tôi quay lại trường. Tất nhiên là tôi đã được trao một phần thưởng không nhỏ, đủ để tôi sống dư dật mấy năm liền không cần làm việc. Nhưng tôi chỉ cảm thấy ảo nảo khi nhận cuốn sổ tiết kiệm đó.
Về trường ư? Đã bao lâu rồi tôi không đến trường? Tôi nghỉ học nhiều như thế, liệu có theo kịp không? Thầy động viên tôi nói rằng, sẽ giúp tôi chuyện bài vở. Hai chiếc ba lô nặng trịch mà tôi mang về có giá trị vô cùng to lớn. Cuốn sổ ghi chép của tôi và rất nhiều thư tịch độc nhất vô nhị khác đều cần được nghiên cứu chi tiết. Tôi giao nộp mọi thứ, chỉ giữ lại chiếc khăn lụa của Atala của Rajiva, mấy chiếc khăn tay cậu ấy đặt vào tủ đồ của tôi và miếng ngọc bội hình sư tử của Pusyseda.
Sự nghiệp "vượt thời gian" của tôi sẽ kết thúc ở đây ư? Kể từ lúc bắt đầu tham gia khóa học nghiên cứu sinh, tôi rất ít khi đến lớp, mà chỉ quẩn quanh bên dự án vượt thời gian này. Hai mươi hai tuổi chuẩn bị thử nghiệm, hai mươi ba tuổi vượt thời gian thành công, hai mươi tư tuổi trở về với thương tích đầy mình. Hơn hai năm qua, tôi đã chỉ sống trong ảo mộng? Nếu không có chiếc khăn tay Atala và miếng ngọc bội hình sư tử đó, tôi không dám tin mình đã từng sống, từng hít thở và từng yêu ở thế giới cổ đại cách đây 1650 năm về trước... Trong giấc mộng Trường Sinh ấy, rốt cuộc, tôi là Trương Sinh hay tôi là hồ điệp?
Tôi trở về là sự kiện lớn của trường. Bạn bè cũ của tôi, sau một thời gian dài không liên lạc, khi gặp lại tôi, ai nấy đều mắt tròn mắt dẹt. Buổi tối hôm đó, các bạn đã tổ chức một bữa tiệc nhỏ cho tôi ở quán karaoke. Chúng tôi vui chơi, hát hò đến tận hai giờ sáng. Hai giờ sáng ư? Tôi uể oải hé mắt, đã lâu lắm rồi tôi mới lên giường đi ngủ sau mười giờ.
Phải mất rất nhiều thời gian để làm quen với thực tại, rất nhiều thứ khiến tôi trở nên bỡ ngỡ.
Như thể trải qua bãi nương dâu, vật đổi sao dời vậy. Thì ra kinh tế đang lạm phát, giá bánh bao trong nhà ăn của trường tăng vọt. Thì ra thị trường cổ phiếu không còn là cây tiền của một vài người như lúc trước mà đã trở thành canh bạc của rất nhiều người. Thì ra, giá dầu đã tăng, chả trách các thầy cô đều chuyển sang đi xe buýt của trường, thậm chí có thầy cô còn không ngại cưỡi xe đạp BMW đến lớp. Thì ra, đang sốt phim "Sắc giới", xem để học về cấu tạo cơ thể. Và chủ đề được bàn tán sôi nổi nhất là sang năm, chính phủ sẽ hủy nghỉ lễ mồng Một tháng Năm.
Các bạn nữ trong ký túc xá đều đã có người yêu. Màn đêm vừa buông xuống là ai nấy trang điểm xinh đẹp rồi rộn ràng kéo nhau đi hết. Căn phòng ký túc xá thường chỉ còn lại mình tôi vào những ngày cuối tuần, những người khác chỉ trở về với nụ cười hạnh phúc vào sáng sớm hôm sau.
Các bạn đều cảm thấy tiếc cho tôi, vì nếu tôi không mất tích lâu như vậy, chắc chắn bây giờ đã có bạn trai rồi. Buồn thay, mấy bạn nam trong lớp nghiên cứu sinh từng có ý với tôi, đều không đủ kiên nhẫn. Tôi cười trêu lại, tớ mà không biến mất thì đã không đến lượt các cậu.
Ra phố mua sắm cùng các chị em, ai nấy đều chê tôi lạc hậu, không cập nhật gu thời trang mới. Không phải tôi lạc hậu, mà là thế giới này biến đổi quá nhanh. Đôi lúc, tôi thấy nhớ da diết thế giới thuần khiết ấy, không gian trong lành, thanh sạch, không ồn ào ấy, cuộc sống điền viên đạm bạc, tiết tấu chậm rãi, khoan thai ấy, bầu trời trong vắt, nho và dưa gang ngọt lịm cùng những con người thuần phác, chân chất ấy.
Đôi lúc bước đi trên đường phố, bỗng nhiên quay lại nhìn, hình như tôi vừa thấy bóng dáng cao gầy, cô độc ấy thấp thoáng giữa dòng người tấp nập, tôi đuổi theo, nhưng đó lại là một người tôi không quen biết. Đôi lúc nghe thấy một giọng nói trầm ấm, ngọt ngào văng vẳng bên tai, tôi nỗ lực tìm kiếm, nhưng kết quả luôn là nỗi thất vọng ngập tràn xen trong những lời xin lỗi vì đã làm phiền. Một mình lang thang, đưa mắt dõi tìm bốn phía, rồi đột nhiên sụp xuống bên vệ đường, bật khóc nức nở, mặc cho bao nhiêu người trên phố chăm chú nhìn tôi với vẻ kinh ngạc. Con người thời hiện đại đã luyện cho thần kinh của mình vững như gang thép trước mọi tình huống. Bởi vậy, khóc chán, tôi lại lau nước mắt và tiếp tục bước đi, chưa khi nào tôi nhận được một lời hỏi han của ai đó trên đường.
Thì ra, cô đơn không phải cảm xúc bẩm sinh mà nó được hoài thai từ giây phút bạn đem lòng yêu một ai đó.
Chiếc lá là đôi cánh không thể bay.
Đôi cánh là chiếc lá chao giữa lưng chừng trời.
Có thể thiên đàng không là ảo tưởng, nhưng từ lâu em đã lãng quên mình học cách bay lên như thế nào.
Cô đơn là niềm hân hoan của một người.
Ồn ảo là nỗi cô đơn của nhiều người.
Yêu nhau là luôn đi bên nhau, nhưng em đã lãng quên thuở có anh ở bên.
Một mình nấu ăn, một mình lang thang, một mình đọc sách, một mình viết thư, một mình trò chuyện, tâm tình.
Nhưng tâm hồn dường như đã trôi về tận phương trời xa xôi nào, em không thấy rõ. Và em biết rằng, em không chỉ để mất anh.
Tôi đã nghe đi nghe lại ca khúc "Chiếc lá" này không biết bao nhiêu lần trong màn đêm tịch mịch. "Tâm hồn dường như đã trôi về tận phương trời xa xôi nào, em không thấy rõ. Và em biết rằng, em không chỉ để mất anh". Mỗi khi nghe đến câu hát này, nước mắt tôi lại trào ra. Em vẫn cảm nhận được nụ hôn ngọt ngào ấy, nhưng chúng ta đã mất nhau rồi. Em đã đánh mất những gì? Một mối tình ư? Không, em đã đánh mất cả con tim mình...
Tôi về nhà ăn tết, nhìn thấy vết sẹo trên tay tôi mẹ đã rất xót xa, nhưng tôi nói dối rằng mình bị ngã. Ăn tết xong, như thường lệ, bố mẹ tổ chức sinh nhật tuổi hai mươi lăm cho tôi vào ngày mồng mười âm lịch, tôi thổi nến và ăn bánh ngọt. Vị bơ béo ngậy của miếng bánh khiến tôi bất giác nhớ những bức vẽ của Rajiva. Không biết bây giờ cậu ấy còn vẽ tôi nữa không? Không đúng, không đúng, làm gì có "bây giờ". Mọi thứ liên quan đến cậu ấy, với tôi, đều đã là quá khứ.
Ăn tối xong, tôi quay lại trường, mọi người đang bận bịu tìm việc làm. Chuyên ngành của tôi, tốt nghiệp ra trường không dễ xin việc. Ở lại trường làm giảng viên, xin vào viện nghiên cứu hoặc viện bảo tàng đều không phải những công việc kiếm ra tiền. Bạn bè tôi, nhiều người không đủ kiên nhẫn, đã xin vào làm thư ký hoặc nhân viên kinh doanh của một công ty nào đó. Chủ đề "tương lai" được mọi người bàn tán hết sức sôi nổi mỗi khi nhóm họp, chỉ mình tôi là không có chút hứng thú nào với chủ đề ấy. Luận văn về "Thiên Phật động Kizil" của tôi đã làm dấy lên những cuộc tranh luận sôi nổi trong giới học thuật. Thầy hướng dẫn khuyên tôi nên ở lại trường, vừa làm luận án tiến sĩ vừa dạy học. Tôi không nhận lời ngay vì còn muốn trải nghiệm cuộc sống "một mình nấu ăn, một mình lang thang, một mình đọc sách, một mình viết thư, một mình trò chuyện, tâm tình".
Thời gian chầm chậm trôi qua, những lúc buồn chán, tôi thường lên mạng đọc tiểu thuyết viết về đề tài "vượt thời gian", nhưng tôi chỉ chọn những truyện thật buồn cười. Ví như "Nàng vượt, chàng cũng vượt", "Khi nàng gặp chàng", "Khi nàng X gặp chàng Y", "Tôi là cụ nội của...". Đọc xong, tôi cười ngất, thành tâm chúc phúc cho những cô gái vượt thời gian trở về thời cổ đại và tìm được hạnh phúc của mình, họ may mắn hơn tôi rất nhiều! Tôi đã học được cách lãng quên như thế.
Tháng Tư giục giã tôi vác ba lô lên đường. Tôi đã không chọn đến Tân Cương vì sợ bản thân không kìm chế nổi sẽ lại tìm đến Kucha. Tâm trạng của tôi khi phải đối diện với khung cảnh tiêu điều, hoang phế 1650 năm sau, sẽ không thể là sự bình tĩnh như khi đi khảo sát vào thời gian trước đó. Vẫn không gian ấy, nhưng cách biệt là 1650 năm thời gian. Yêu nhau nhưng không được ở bên nhau, tôi sẽ hóa điên nếu phải chịu đựng nỗi dày vò ấy. Bởi vậy, tôi đã chọn đi Tây Tạng, nơi mà tâm hồn tôi có thể tìm được sự thanh thản, lắng đọng.
Tôi men theo tuyến đường cao ốc nam Tứ Xuyên – Tây Tạng, xuất phát từ Thành Đô, ngang qua Nhã An, Khang Định, đến Litang, lòng bồi hồi tưởng nhớ vị Đạt Lai đời thứ sáu của Tây Tạng – Tsangyang Gyatso. Những câu thơ của ông: "Hỡi cánh bạc trinh trắng/ Cho ta mượn đôi cánh/ Chẳng muốn đến nơi xa/ Chỉ dạo chơi Litang" đã khiến cho địa danh này nên thơ hơn, hữu tình hơn. Ngắm nhìn đỉnh núi Nyaga hùng vĩ và thảo nguyên Maoya mênh mông, bát ngát trên độ cao bốn nghìn so với mực nước biển, sự khoáng đạt của không gian bao la khiến người ta trong phút chốc, quên đi mọi ưu phiền.
Khi ngang qua Markham, Bome Bay, chỉ cần đưa máy lên "tách" một cái là bạn sẽ có được một tấm ảnh tuyệt đẹp, khung cảnh biến thiên phong phú đến nỗi có thể khiến bạn nghẹt thở. Khi bóng dáng cung điện Potala thấp thoáng phía xa xa, tôi biết mình đã đặt chân tới vùng đất thánh – Lhasa.
Trên đường đi, tôi đã gặp gỡ và kết bạn với rất nhiều bạn trẻ, chúng tôi đồng hành qua mỗi chặng và tuân thủ luật "chia đầu người" hết sức bình đẳng. Đến chặng tiếp theo, chúng tôi chia tay nhau và mỗi người lại tiếp tục nhập vào một nhóm khác. Các bạn trẻ đam mê du lịch đều là những người hiểu biết tương đối rộng, nên chúng tôi có rất nhiều chuyện để nói. Thường thì trong những chuyến đi như vậy, các bạn nam nữ sẽ tự động kết thành đôi. Bạn nữ cùng phòng với tôi đã từng có một đêm không về. Nhưng thứ tình yêu lữ hành ấy đến nhanh mà đi cũng vội, rất ít người giữ được liên lạc với người kia sau khi trở về.
Tôi cùng một nhóm các bạn trẻ mới quen tại nhà trọ Thanh Niên ở Lhasa đến một quán bar trên đường Bắc Kinh Đông. Mọi người uống rượu rồi hào hứng chơi trò "thật lòng và mạo hiểm". Lúc đầu tôi tham gia rất sôi nổi, nhưng khi đọc những câu hỏi trong mục "thật lòng" thấy hầu hết đều liên quan đến "Sex" còn trong mục "mạo hiểm" phần lớn là "Kiss", thì tôi bỗng thấy mất hứng.
Đến lượt tôi phải trả lời thật lòng, một chàng trai trẻ người Bắc Kinh hỏi tôi:
- "Lần đầu" của cô diễn ra khi nào, ở đâu và cảm giác ra sao?
Tôi thở dài, ngượng ngập đáp:
- Tôi vẫn chưa.
Những tràng cười rộ lên, mấy cậu thanh niên nhìn tôi như muốn ăn tươi nuốt sống, thậm chí có người còn bông đùa, nói rằng có thể giúp tôi.
Tôi tìm cách trốn khỏi quán bar đó. Không hiểu giới trẻ bây giờ họ nghĩ gì nữa. Trong mắt họ, những người ở tuổi tôi mà chưa có kinh nghiệm về chuyện đó giống như người ngoài hành tinh vậy. Trào lưu hiện nay là tình yêu và tình dục thời đại đồ ăn nhanh. Vội vàng, gấp gáp, ăn chẳng kịp nhai. Tôi tôn thờ tình yêu truyền thống và liệu người đàn ông mà khi muốn hôn cũng phải ngập ngừng hồi lâu mới dám cất lời hỏi tôi "có được không" ấy có còn tồn tại hay không? Hay là, ở thế kỷ XXI này, kiểu tình yêu đó đã trở nên quá ư hiếm hoi?
Tôi sẽ không tham gia những buổi tụ tập quán bar quán rượu như thế nữa. Sự ồn ào, thác loạn ấy chẳng phải chính là nỗi cô đơn của một nhóm người hay sao? Còn tôi, tôi chọn cách cô đơn một mình, hân hoan một mình. Nửa đêm lang thang trên đường phố Lhasa, bầu trời đêm trong vắt tựa pha lê, ngàn vì sao lấp lánh, lơ lửng trên đỉnh đầu, tưởng như chỉ cần đưa tay lên là có thể chạm tới. Còn rất ít thành phố mà ở đó bạn có thể thỏa sức chiêm ngưỡng bầu trời đêm tuyệt đẹp như thế này. Tôi lại nhớ bầu trời đêm huyền hoặc như thế ở quốc gia cổ đại trên vùng ốc đảo tươi xanh trong sa mạc ấy.
Trước mỗi pho tượng trang nghiêm trong đền Jokhang, trong cung điện Potala và trong đền Drepung, tôi đều học theo người Tạng quỳ lạy thành kính. Những lúc tiếng tù và vang lên, tôi lại giật mình, toàn thân run rẩy, khoảnh khắc ấy, cảm giác như linh hồn mình đang bay đến tận phương nào. Kết thúc hàng trăm lần hành lễ, quỳ lạy, tôi chợt hiểu ra, dù tôi có trốn chạy tới đâu, cũng không thể thoát khỏi mối tương tư đã bám rễ nơi tâm hồn mình.
Khi tôi quay lại trường, anh bạn học trên một khóa đã đến tìm tôi, anh ta hiện đang làm việc trong viện nghiên cứu khảo cổ. Phải một lúc lâu sau anh ta mới thốt ra được lời tỏ tình với tôi. Và tôi, lập tức nhận lời. Khuôn mặt đỏ bừng của anh ta khiến tôi nhớ đến vẻ điềm tĩnh, tự tại của người ấy...
Tôi không muốn biện minh gì cả, rằng tôi không thể tiếp tục chịu đựng nỗi cô đơn ư, rằng tôi vẫn luôn nhớ nhung người đó ư. Lý do tôi nhận lời tỏ tình của anh bạn cùng trường rất đơn giản: bởi vì anh ta là con người của thực tại, mà dù thế nào, tôi cũng phải sống trong thực tại ấy...
Chương 39: Tôi muốn dệt tiếp giấc mơ
Tôi đến văn phòng chủ nhiệm khoa lịch sử của trường để nộp đơn xin học tiếp tiến sĩ. Thực ra mọi việc đã được sắp xếp ổn thỏa, nộp đơn chỉ là vấn đề thủ tục mà thôi.
Từ cửa sổ văn phòng vẳng ra tiếng trò chuyện. Thầy đang tiếp khách. Tôi do dự, không biết có nên vào hay không.
Khoa lịch sử là khoa nghèo nhất trường, tòa nhà văn phòng khoa đã cũ nát, được xây dựng từ những năm bảy mươi, nên chất lượng cách âm của các bức tường rất kém. Dù không để tâm lắng nghe, tiếng trò chuyện trong phòng vẫn rót vào tai tôi.
- Anh Quý, các tình nguyện viên khác đều đã thất bại, không còn cách nào khác chúng tôi mới phải nhờ đến anh. Tính đến nay, mới chỉ có em ấy "vượt" thành công, mà lại thành công những hai lần.
Giọng nói này nghe rất quen.
- Anh đừng cố thuyết phục nữa, tôi không đồng ý đâu. Em ấy còn trẻ, lỡ phải bỏ mạng vì cuộc thí nghiệm này thì sao?
Đây là giọng của sếp, nghe sao mà nặng nề đến vậy!
- Không nghiêm trọng đến mức ấy đâu. Chúng tôi đã cải tiến thiết bị...
- Dù có cách tân đến mấy, anh có dám bảo đảm em ấy sẽ không phải chịu bất cứ tổn thương nào không? Hậu quả của lần vượt thời gian vừa rồi anh thấy cả rồi đấy. May mà các anh còn chút lương tâm, đã huy động lực lượng y bác sĩ giỏi nhất cả nước mới cứu được cánh tay của em ấy.
Tôi giật mình, thì ra sếp đang nói về tôi, vội vàng ghé tai lắng nghe.
- Quả thật chúng tôi đã rất tắc trách vì không xét đến vấn đề nhiễm phóng xạ. Nếu em ấy không bị thương, có thể chúng tôi vẫn còn chủ quan cho rằng mọi thứ đều an toàn. Nhưng nếu em ấy thận trọng hơn, không để xảy ra thương tích, thì có lẽ vấn đề sẽ không nghiêm trọng...
Tôi đã nhận ra, đó là giọng nói của giáo sư Lý, người phụ trách nhóm nghiên cứu.
- Sao lại không nghiêm trọng?
Sếp cao giọng ngắt lời giáo sư Lý.
- Mỗi lần tiếp xúc với cỗ máy đó là một lần nhiễm phóng xạ. Cả cái đồng hồ vượt thời gian và bộ áo chống phóng xạ ấy nữa, đều là những nguồn gây nhiễm, có thể gây tổn hại cho sức khỏe của em ấy bất cứ lúc nào.
- Nếu em ấy không ở lại đó quá lâu, thì sẽ không việc gì.
Giáo sư Lý vội vàng thanh minh:
- Lần này, chúng tôi không yêu cầu em ấy ở lại quá lâu, chỉ cần đủ để kiểm chứng chức năng định vị thời gian và địa điểm mà chúng tôi mới phát minh có thành công hay không thôi. Chúng tôi hứa sẽ sử dụng thiết bị điều trị tốt nhất, có thể giúp cơ thể phục hồi nhanh chóng sau khi em ấy trở về.
- Các anh đã thử nghiệm nhiều lần các chức năng mới rồi đấy thôi và lần nào thiết bị cũng gặp trục trặc trước khi vượt.
- Chúng tôi đã rút kinh nghiệm của những lần trước, chúng tôi tin lần này nhất định sẽ thành công. Anh Quý à, anh cũng là một nhà nghiên cứu lịch sử. Lẽ nào anh không cảm thấy, việc chúng ta có thể quay trở về bất cứ thời điểm và không gian lịch sử nào, ví như được tận mắt chứng kiến thời kỳ oai hùng khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, nghiệm chứng tính xác thực của sự biến Huyền Vũ Môn, thậm chí có thể tham dự ngày Quốc khánh và được nhìn thấy chủ tịch Mao Trạch Đông, thủ tướng Chu n Lai, là rất tuyệt vời hay sao?
Giọng nói thầy Lý tràn đầy niềm tin về một viễn cảnh tươi đẹp.
- Anh Quý, chúng tôi chỉ cần một tình nguyện viên là đủ.
- Không được, việc đó quá mạo hiểm, tôi không thể...
- Em đồng ý.
Tôi đẩy cửa bước vào, tự tin lên tiếng trước sự sững sờ của hai vị học giả.
- Nhưng em sẽ chọn địa điểm và thời gian.
- Được chứ, không vấn đề gì.
Thầy Lý vui mừng gật đầu.
- Chỉ cần em nhận lời tham gia, đến thời đại nào là do em quyết định.
- Thưa thầy, sức khỏe của em có thể chịu đựng trong bao lâu?
Thầy Lý tỏ ra hơi lúng túng:
- Điều đó chưa thể xác định ngay lúc này vì không có số liệu. Nhưng nếu em nhanh chóng quay về...
Tôi ngắt lời thầy, mạnh dạn đề nghị:
- Em muốn đến Khâu Từ năm 384.
Thầy Quý giật mình ngẩng lên, nhìn tôi đăm đăm.
Tôi trở lại khu vực thực nghiệm quen thuộc, bận rộn với các hạng mục kiểm tra, rèn luyện sức khỏe, uống thuốc tăng cường sức đề kháng. Các cán bộ nghiên cứu mỗi ngày đều đến ghi chép số liệu về sức khỏe của tôi, tính toán thận trọng từng con số. Đầu tháng Tám sẽ bắt đầu chuyến vượt thời gian thứ năm của tôi.
Tận dụng thời gian rảnh rỗi, tôi tìm đọc tất cả các tài liệu về Rajiva và thời kỳ Thập lục quốc. Cố gắng ghi nhớ mọi thứ, biết đâu sẽ có ích về sau.
Nhưng có nhiều tài liệu, càng đọc càng thấy khó hiểu. Bởi vì những ghi chép về Rajiva đều quá ư ngắn ngủi, hàm súc, thậm chí tồn tại nhiều mâu thuẫn. Ví như năm sinh, năm mất của Kumarajiva.
Có hai quan điểm khác nhau về thời gian Kumarajiva qua đời: Trong "Truyện cao tăng" của nhà sư Tuệ Giảo, nhà Lương, thời Nam triều viết: "Kumarajiva mất ở Trường An ngày hai mươi tháng Tám năm thứ mười một đời Hoằng Thủy nhà Hậu Tần, cũng chính là năm thứ năm đời Nghĩa Hy nhà Đông Tấn". Như vậy tức là năm 409 sau Công nguyên. Nhưng trong "Văn tế Pháp sư Kumarajiva", Tăng Triệu lại viết: Kumarajiva mất tại một ngôi chùa lớn vào ngày mười ba tháng Tư năm Quý Sửu, hưởng thọ bảy mươi tuổi". Năm Quý Sửu tức là năm thứ mười lăm đời Hoằng Thủy, chính là năm 413 sau Công nguyên.
Nếu căn cứ theo quan điểm của Tăng Triệu, thì năm sinh năm mất của Kumarajiva sẽ là 344 - 413 sau Công nguyên (hưởng thọ bảy mươi tuổi). Nhưng nếu căn cứ theo quan điểm của Tuệ Giảo thì niên đại đó là 350 – 409 sau Công nguyên (hưởng thọ sáu mươi tuổi). Hầu hết các học giả trong giới học thuật đều đồng tình với quan điểm của Tăng Triệu, vì Tăng Triệu nhận mình từng theo học Kumarajiva hơn mười năm và ông qua đời sau Kumarajiva một năm, do đó tính thiếu chính xác trong quan điểm của Tăng Triệu là rất thấp. Và bởi vậy, trong đại hội Phật giáo Trung Quốc – Nhật Bản lần thứ năm, học giả hai nước đã thống nhất tiến hành các cuộc nghiên cứu, thảo luận về Kumarajiva dựa trên năm sinh và năm mất của nhà sư là 344 – 413 sau Công nguyên.
Nhưng tôi lại cho rằng Tuệ Giảo đã đúng. Lữ Quang ép buộc Rajiva phá giới, chính vào năm 384 sau Công nguyên, mà tôi đã yêu cầu được đến, khi ấy Rajiva vừa tròn ba mươi lăm tuổi. Lời cảnh báo của vị hòa thượng lúc Rajiva còn nhỏ khiến người ta không khỏi bàng hoàng về sự trớ trêu của số phận.
Sách "Tấn thư" viết: "Lữ Quang biết Kumarajiva là bậc tài trí hơn người, nhưng tuổi còn quá trẻ, nên đã bày trò ép nhà sư lấy công chúa Khâu Từ". Tức là vì thấy Rajiva tuổi còn trẻ, nên Lữ Quang mới ép cậu thành thân. Nếu khi ấy, Rajiva đã bốn mươi mốt tuổi, thì vào thời đại đó, không thể nói là cậu còn trẻ. Nếu là ba mươi lăm tuổi thì còn có lý. Nhưng lẽ nào chỉ vì thấy Rajiva tuổi còn quá trẻ mà Lữ Quang đã ép cậu ấy phá giới? Đằng sau câu chữ ngắn ngủi, ít ỏi kia ẩn giấu bao nhiêu điều bí mật? Tôi nhất định phải tới đó để chứng thực chuyện gì đã xảy ra?
Bao suy nghĩ chất chứa khiến tôi không khỏi lo lắng. Kể từ khi quay lại khu vực thực nghiệm, không đêm nào tôi được ngon giấc. Vừa mong ngóng thời khắc tiến hành thí nghiệm để có thể nhanh chóng trở về bên cạnh cậu ấy, nhưng lại vừa lo sợ, trở về đó tôi sẽ phải chứng kiến cảnh tượng mà tôi không mong muốn. Chuyện gì đã xảy ra trong suốt mười một năm đó? Ai có thể lưu giữ tình cảm của mười một năm trước? Nếu đây không phải là cơ hội duy nhất, chắc chắn tôi sẽ lựa chọn được trở về thời điểm Rajiva vội vàng quay lại thành Khâu Từ để gặp tôi lần cuối. Theo lý thuyết xác suất, nếu hai người yêu nhau có thể chờ đợi đối phương với tỉ lệ cùng đạt tám mươi phần trăm, thì sác xuất họ có thể sống bên nhau là tám mươi nhân tám mươi bằng sáu mươi tư phần trăm. Con số này khiến tôi không khỏi ảo nảo. Nhưng, cho dù chỉ là một phần trăm, tôi cũng vẫn muốn đi. Vì nếu ở lại thế giới hiện đại này, tôi sẽ như kẻ mất hồn, trái tim tôi, từ lâu, đã không thuộc về nơi này nữa.
Tôi gọi điện cho bố mẹ. Họ không hề hay biết tôi tham gia dự án này. Tôi chỉ muốn thông báo với họ tôi vẫn khỏe, nhưng tôi phải đến một nơi bí mật để tham gia một dự án nghiên cứu đặc biệt, có thể mất vài năm hoặc lâu hơn nữa. Và vì là bí mật nên tôi sẽ không thể gọi điện cho họ được. Tôi động viên bố mẹ, nói rằng xin cứ yên tâm vì tôi rất khỏe mạnh và an toàn.
Nhưng dù là vậy, bố mẹ vẫn rất lo lắng, tôi cố gắng giữ giọng nói thoải mái, vui tươi, nhưng vừa cúp máy, nước mắt đã đầm đìa. Tôi là con một, nhưng tôi đã không thể trọn đạo, tôi không phải người con có hiếu...
Buổi tối trước ngày tiến hành thí nghiệm, "sếp" đã đến tìm tôi. Thầy trò tôi ngồi trò chuyện trên thảm cỏ bên ngoài khu vực thực nghiệm.
- Vì Kumarajima phải không?
Tôi bối rối.
- Em nghĩ thầy không đoán ra được ư?
Thầy thở dài:
- Cả hai lần vượt thành công em đều gặp Kumarajiva, lại là vào lúc cậu ấy ở độ tuổi thiếu niên và thanh niên. Thầy đọc tài liệu lịch sử cũng hết sức ngưỡng mộ Kuramajiva tài trí trác tuyệt thời trẻ. Huống hồ một cô gái trẻ như em, hơn nữa em lại được gặp con người tài hoa đó ngoài đời thực.
Tôi chỉ biết cúi đầu, lặng yên.
- Xưa nay em vẫn là cô gái thông minh và lý trí, lẽ nào vì tình yêu mà trở nên mê muội như vậy?
- Thưa thầy, thầy đã trải qua tuổi trẻ và cũng đã từng yêu, đúng không ạ?
Tôi ngẩng lên, mọi thứ trước mắt bỗng trở nên nhạt nhòa.
- Chính vì em mạnh mẽ, lý trí và tôn trọng lịch sử, nên em đã chọn cách từ bỏ. Nhưng giờ đây em đã hối hận, sau khi trở về, ngày nào em cũng hối hận, hối hận vì đã không ích kỷ hơn. Nên em quyết định đi tìm cậu ấy, em không muốn nghĩ đến lịch sử hay bất cứ điều gì khác...
- Nhưng em nghĩ chuyến đi này có thể thay đổi điều gì?
Giọng thầy đượm vẻ bất lực.
- Em đã biết chuyện gì xảy ra rồi đó, vị hôn thê của Kumarajiva là công chúa Khâu Từ.
- Em biết.
Hai hàng nước mắt đuổi theo nhau trên gò má rồi lặng lẽ rơi xuống đám cỏ.
- Đây là thời điểm cam go nhất trong cuộc đời cậu ấy, em muốn ở bên để chia sẻ với cậu ấy. Em luôn có linh cảm rằng, cậu ấy đang chờ em, đang mong ngóng em trở về. Nhưng cũng có thể em sẽ chẳng giúp được gì. Nếu đúng theo ghi chép của sử sách, thì cậu ấy đã có người ở bên cạnh. Nếu vậy, em sẽ lặng lẽ chúc phúc cho cậu ấy, sau đó sẽ quay lại tiếp tục cuộc sống của mình ở nơi này.
Sếp tôi lại buông một tiếng thở dài nặng nề.
- Bây giờ thầy có yêu cầu em đừng thay đổi lịch sử, em cũng không nghe, đúng không?
Tôi cắn môi, khổ sở đáp lời:
- Thầy luôn cảnh báo em không được thay đổi lịch sử, nhưng biết đâu, em lại chính là người thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Thầy yên lặng hồi lâu:
- Chương Hy đã gọi cho thầy.
Tôi ngạc nhiên. Từ lúc biết mình có cơ hội trở về bên cạnh Rajiva, tôi đã nói lời chia tay với anh bạn cùng trường. Thực ra, kể từ khi nhận lời anh ấy, chúng tôi hầu như không ngồi trò chuyện riêng với nhau bao giờ. Anh ấy hẹn tôi đi ăn cơm hay đi xem phim, tôi đều kiếm cớ thoái thác. Bởi vậy, chia tay chỉ là thủ tục. Chúng tôi không giống một đôi đang yêu nhau chút nào. Nên tôi khá bất ngờ khi anh ấy gọi điện cho sếp.
- Cậu ấy nhờ thầy nói với em, rằng cậu ấy sẽ chờ cho đến khi em tỉnh mộng.
Tôi cười buồn. Chắc chắn thầy đã nói cho anh ấy biết lí do thực sự của lần vượt thời gian này của tôi. Chờ tôi ư? Chờ đợi một người không thật lòng yêu mình trong viễn cảnh vô vọng như vậy ư? Con người thời hiện đại mấy ai có thể làm được như thế?
- Thầy ơi, nếu em không muốn tỉnh lại thì sao?
- Cô nhóc này, em đừng quên, dù em và cậu ấy có tâm đầu ý hợp đến đâu, đó cũng chỉ là một giấc mộng phù vân mà thôi. Nơi đây mới là ngôi nhà thực sự của em, mới là cuộc sống hiện thực của một người bình thường.
Thầy trở nên nghiêm khắc:
- Mỗi lần vượt thời gian, tia phóng xạ tích tụ trong cơ thể sẽ dần dần phá hủy hệ thống miễn dịch của em, em phải nhanh chóng quay về điều trị. Đừng vội đắc ý, thầy biết con gái khi yêu thường mất hết lí trí, nhưng vì tình yêu mà đánh đổi cả tính mạng thì chẳng có gì là vĩ đại cả.
Thầy ngừng lại giây lát.
- Vì tình yêu, người ta phải tiếp tục sống, như thế mới vĩ đại. Thầy đã yêu cầu họ chế tạo loại pin có tuổi thọ dài nhất từ trước đến nay, em có thể quay về trong vòng hai năm. Mang theo đồng hồ vượt thời gian và áo chống phóng xạ ít nhiều sẽ gây tổn tại cho sức khỏe, nhưng em vẫn phải giữ gìn cẩn thận. Vì trong thời đại loạn lạc ấy, biết đâu những thứ đó có thể cứu em.
Tôi gật đầu, lặng lẽ ngước nhìn bầu trời đêm. Đêm mùa hạ mà không thấy bóng dáng một ngôi sao nào, ở thời đại này, mức độ ô nhiễm sao mà đáng sợ đến vậy!
Tôi nằm trên bàn thí nghiệm, mọi người đã lục tục kéo ra khỏi căn phòng kín bưng. Sếp đột ngột lại gần tôi, ghé vào tai tôi, nói khẽ:
- Nhớ đừng làm chuyện dại dột. Khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, chỉ cần em chịu quay về, sẽ có thêm cơ hội gặp lại.
Thầy nắm chặt tay tôi:
- Hãy cẩn trọng, đừng để bị thương.
Nhìn tôi thêm một lần nữa, rồi mới quay lưng bước ra ngoài. Mắt tôi nhòe ướt khi ngó theo bóng dáng già nua ấy.
Chương 40: Trở lại Khâu Từ
Lưng tôi va phải vật gì rất góc cạnh, vòng tay ra phía sau, chưa chạm đến lưng đã đụng phải một thứ kỳ lạ. Cùng lúc đó, một mùi hôi thối nồng nặc xông lên não, kích thích tôi choàng tỉnh.
Phía trước, một đôi mắt mở to đang nhìn tôi chằm chằm, vệt máu khô đét dính trên đỉnh đầu, khuôn mặt hung tợn, dữ dằn. Tôi kinh hoàng bật dậy, nhưng mặt đất gập ghềnh dưới chân khiến tôi chao đảo. Tôi chống tay, những tiếng răng rắc vang lên, đưa mắt nhìn xuống, tôi vừa ngồi lên và làm gẫy cẳng chân của một người nào đó, bàn tay dính đầy vệt máu đỏ sẫm, nhớp nháp. Trời đất ơi, tôi đang ở nơi nào thế này? Đưa mắt ra xung quanh, cơn buồn nôn lập tức ập đến.
Tôi đang ở trong một cái hố chôn cực lớn, đường kính chừng hơn chục mét và chỉ mình tôi là người sống. Tầng tầng lớp lớp thi thể chất cao thành đống, mùi hôi thối không ngừng xông lên, tôi nôn ra cả mật xanh mật vàng. Tay bịt mũi, tôi kinh sợ đưa mắt quan sát khung cảnh trước mắt. Nhìn y phục trên người và khuôn mặt của những tử thi mất tay mất chân, hay thậm chí mất đầu ấy, tôi đoán họ là binh lính Khâu Từ và rất nhiều tộc người du mục vùng Trung Á khác. Nếu thời gian và địa điểm cài đặt trên cỗ máy thời gian là chính xác, thì cảnh tượng trước mắt có lẽ là kết quả của cuộc đại chiến giữa Bạch Thuần và Lữ Quang.
Không phải tôi chưa từng thấy thi thể. Những xác ướp trong viện bảo tàng ở Ai Cập, những bộ xương người trong viện bảo tàng ở Tân Cương, tôi cũng từng theo đoàn khảo cổ đi khảo sát những lăng mộ dưới lòng đất. Chưa kể đến những thi thể không đầu trong các động đá thuộc vương quốc Guge (Tây Tạng) cổ đại, vì ở trên cao nguyên, không khí loãng, trải hơn sáu trăm năm lịch sử, các thi thể vẫn chưa phân hủy hoàn toàn, đến tận bây giờ vẫn nồng nặc mùi xú uế. Vụ thảm sát ở Nam Kinh với hố chôn hàng vạn người, đài tưởng niệm được xây dựng dưới lòng đất, mỗi khi bước chân vào đó, những bộ xương trắng bao quanh bạn, cảnh tượng thảm thương đến mức khiến bạn phải nhắm mắt lại, không dám nhìn. Tôi không phải kẻ nhát gan, vì nếu thế tôi đã không theo học ngành lịch sử. Nhưng chưa bao giờ tôi khiếp sợ như thế này. Tận mắt chứng kiến sự chết chóc và hệ hô hấp không ngừng thu nạp thứ mùi hôi thối đặc trưng của thi thể vừa bắt đầu phân hủy ấy và tôi lại đang ở nơi mà một khoảng trống không xác người để đặt chân lên cũng không có. Tôi ngẩng đầu, vậy là mặt đất đang ở cách tôi một khoảng vượt quá chiều cao của tôi.
Trong ba lô của tôi có dây móc và một vài vật dụng trèo tường chuyên dụng. Trước đó, nhóm nghiên cứu đã mời giáo viên thể dục và lính đặc công đến huấn luyện cho tôi một số thao tác cơ bản để có thể giúp tôi sống sót trong thời đại mà tính mạng con người bị coi như cỏ rác này. Tôi đã mặc quần áo rằn ri để luyện tập vượt qua tường cao, nhảy qua hố sâu, học cách vật lộn và những kỹ thuật phòng thân của con gái. Tuy thời gian tập luyện rất ngắn ngủi, trình độ chỉ ở bậc amateur, nhưng ít nhiều cũng có chút kỹ thuật. Nhưng, vấn đề ở chỗ, tay chân mình mẩy tôi lúc này đang run lên cầm cập, thậm chí không đủ sức để lấy công cụ trong ba lô ra nữa. Trừ phi tôi phải nhắm chặt mắt lại để không phải nhìn thấy những cánh tay, bắp chân đứt rời và nhầy nhụa máu, bịt chặt mũi để không ngửi thấy thứ mùi khủng khiếp nhất trên cõi đời ấy. Mà như thế, cả não bộ của tôi cũng trở nên tê liệt, tôi không kéo nổi khóa ba lô, nỗi sợ hãi bật lên thành tiếng khóc.
Lại một thi thể bị ném xuống, thiếu chút nữa đã đè nát người tôi. Bên trên có người! Tôi như kẻ chết đuối vớ được cọc, không kịp suy nghĩ, tôi vội gào lên kêu cứu. Mấy cái đầu người nhô ra trên mặt đất, vẻ mặt hoảng sợ. Có lẽ họ nghĩ tôi là xác chết sống dậy. Tôi vội vàng giải thích tôi là người sống, do bất cẩn nên mới sa chân xuống hố. Gào thét một thôi một hồi mới thấy một sợi dây thừng được thả xuống.
Lên đến mặt đất mà tôi vẫn trong trạng thái hồn bay phách lạc, sau đó thì nhận ra rằng tình trạng sau khi được cứu thoát cũng không mấy sáng sủa. Những người kéo tôi lên có vẻ như là binh lính của Lữ Quang và vì phụ trách công việc dọn dẹp chiến trường, chôn lấp xác chết nên họ đều là những lính tráng hoặc già nua yếu đuối, hoặc bệnh tật đầy mình. Bị vây bọc giữa đám lính chẳng có vẻ gì là thân thiện, tử tế này khiến tôi không khỏi than thở cho tình cảnh "tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa" của mình.
Chưa hoàn hồn với nỗi kinh hoàng vừa trải qua, tôi đã phải nhanh chóng nghĩ cách đối phó với tình cảnh trước mắt. Trong chiến tranh, phụ nữ bị xem là chiến lợi phẩm. Những thương binh tàn phế này làm gì có cơ hội xung phong lên tuyến đầu để có thể được ban thưởng phụ nữ hay vàng bạc, châu báu kia chứ. Vậy nên họ chắc chắn sẽ xem tôi như một món quà từ trên trời rơi xuống. Tuy có mang theo súng gây mê, nhưng ở khoảng cách gần như vậy, lại đông người thế này, tôi không biết mình có thể bắn hạ bao nhiêu tên.
Trước mặt tôi đều là những khuôn mặt người Hán, tôi gắng gượng cười thật tươi, chắp tay cung kính, thưa chuyện với họ bằng tiếng Hán:
- Thưa các anh, tôi vốn là thê thiếp mới của ngài Đoàn Nghiệp, bộ hạ của tướng quân Đỗ Tấn. Hôm nay ra ngoại thành hái thuốc, chẳng mai trượt chân rơi xuống hố sâu, gây cản trở công việc của các anh, tôi xin có lời tạ lỗi.
Trong số các bộ hạ người Hán theo Lữ Quang Tây chính, tôi chỉ biết Đỗ Tấn và Đoàn Nghiệp. Đỗ Tấn là tướng tá đắc lực của Lữ Quang, mà công lao to lớn nhất của Đỗ Tấn là giúp Lữ Quang bình định Hà Tây[23]. Sau đó, Đỗ Tấn đã được phong chức tướng quân hộ quốc, rồi Thái thú võ uy. Nhưng vì quyền cao chức trọng, ra vào oai vệ chẳng khác nào Lữ Quang, nên Lữ Quang sinh lòng đố kỵ đã viện cớ trừ khử Đỗ Tấn.
Còn Đoàn Nghiệp, chính là người lập ra nhà Bắc Lương thời Thập lục quốc, nhưng lại chỉ là một thư lại nhỏ bé dưới trướng Đỗ Tấn khi Lữ Quang đem quân chinh phạt Khâu Từ, về sau, Đoàn Nghiệp được thăng chức Thái thú Kiện Khang (nay là Tửu Tuyền, Cam Túc). Năm 397, Thư Cừ Nam Thành, người Hung Nô lật đổ nhà Hậu Lương của Lữ Quang, đưa Đoàn Nghiệp lên ngôi vua Lương nhằm mua chuộc lòng người. Thế là từ một bậc "nho nhã, không chút quyền hành trong tay", Đoàn Nghiệp bỗng nhiên trở thành quốc vương của Bắc Lương thời Thập lục quốc.
Quân đội của Lữ Quang tập hợp đủ mọi tộc người. Lữ Quang cùng thuộc tộc người Đê với Phù Kiên. Còn tôi mang diện mạo của một người Hán, bởi vậy, phải tìm một người Hán để có thể qua mặt đám quân lính trước mắt. Tôi chọn Đoàn Nghiệp mà không chọn Đỗ Tấn vì chức vụ của ông ta quá cao, nếu tôi nói mình là thê thiếp của ông ta, chắc chắn sẽ có người sinh nghi. Còn Đoàn Nghiệp, lúc này mới hai mươi tuổi, chỉ là một văn thư quèn dưới trướng Đỗ Tấn, những người biết rõ về thê thiếp của người này chắc không nhiều. Hành quân ra trận vốn dĩ không được đưa người thân đi cùng, nhưng vì Lữ Quang muốn chiếm đóng Khâu Từ lâu dài, nên đã cho phép tướng lĩnh của mình nạp thiếp.
Những người đó quả nhiên lộ vẻ bực tức, vì họ chẳng dám đắc tội với cấp trên. Tôi thở phào, định xoay người bước đi thì một người trong số họ cứ nằng nặc đòi đưa tôi đến gặp Đoàn Nghiệp, chắc là muốn nịnh bợ đây mà! Từ chối không được, vả lại nghĩ rằng một thân một mình cũng khó vào thành, tôi liền ưng thuận đi theo anh ta.
Đường vào thành trải ra trước mắt tôi những vết tích tang thương mà chiến tranh gây nên. Xác người, xác ngựa la liệt trên đường, mùi xú uế nồng nặc khắp nơi. Xe ngựa, gạch đá dùng để công phá thành nằm ngổn ngang trên lối đi. Gươm đao giáo mác cong mẻ gập gẫy chất đầy đường. Những bức tường thành Khâu Thành loang lổ, vỡ nát, tan hoang.
Không được chứng kiến tận mắt trận chiến này, nên tôi chỉ có thể nhớ lại những ghi chép trong sách sử.
Quân của Lữ Quang có bảy mươi ngàn bộ binh, năm ngàn kỵ binh, cộng thêm binh lực của Shanshan và Chrish đi tiên phong, tổng cộng khoảng một trăm ngàn quân. Còn Bạch Thuần, dốc sạch quốc khố cầu viện Khoái Hồ, Khoái Hồ phái hơn hai mươi vạn quân đến chi viện. Cộng thêm binh lực của Wensu, Weitou, tổng cộng hơn bảy trăm ngàn quân.
Cuộc chiến với binh lực quá ư chênh lệch ấy lại mang về chiến thắng vang dội cho Lữ Quang, ông ta quả không hổ danh là tướng tá đắc lực của Phù Kiên. Sách "Tấn thư" chép rằng, khi ấy, các tướng sĩ đều cho rằng: địch đông ta ít, cần dựng trại, dàn trận, tính kế lâu dài. Nhưng Lữ Quang không nghe, nói rằng: địch đông ta ít, càng dàn trận càng phân tán lực lượng, không phải kế hay.
Lữ Quang lệnh cho binh lính dựng trại phía nam thành Khâu Từ, cứ năm dặm một trại, đào hào sâu, đắp lũy cao, dùng kế nghi binh, đội mũ sắt, mặc áo giáp, cắm cờ lên bù nhìn bằng gỗ giả người thật, nhằm đánh lạc hướng quân Khâu Từ trong nội thành. Sau đó, dẫn đại quân đón đánh liên quân Khoái Hồ ở phía tây. Kỵ binh Khoái Hồ nhất loạt mang áo giáp sắt, giáp trụ cứng như thép, mũi tên không thể xuyên thủng. Thêm vào đó, quân yểm trợ lại là đội khinh kỵ tinh nhuệ, sử dụng roi da làm vũ khí, thúc ngựa vung roi quật ngã đối phương, trăm phát trăm trúng. Bởi vậy, giai đoạn đầu cuộc chiến, Lữ Quang rơi vào thế yếu.
Lữ Quang nhận thấy quân Khoái Hồ chỉ có đội kỵ binh là tinh nhuệ, đội quân còn lại tuy đông đảo nhưng chỉ là đám dân du mục bị bắt đi lính nên Lữ Quang nghĩ ra cách đối phó với kẻ địch là chặt chân ngựa chiến. Đám kỵ binh khi bị ngã trở nên bất lực, vì bộ giáp sắt mặc trên người quá nặng khiến họ không thể di chuyển, càng không thể chống trả. Quân của Lữ Quang chặt đầu hơn mười ngàn lính Khoái Hồ, tin tức bay về khiến Bạch Thuần run sợ. Đức vua Khâu Từ vội vàng vơ vét của cải, bỏ thành mà chạy. Hơn ba mươi nước chư hầu trong vùng nghe nói Khâu Từ bại trận, đã ùn ùn kéo đến xin hàng.
Bạch Thuần thua trận khi đã gần sáu mươi tuổi, ông ta trốn chạy đến đâu, sử sách không ghi chép. Lữ Quang chiếm thành, đưa người em út của Bạch Thuần là Bạch Chấn lên ngôi vua.
Khâu Từ là quốc gia mạnh nhất ở Tây vực, điều đó khiến các nước chư hầu khác không hài lòng. Bởi vậy khi được lệnh đến Trường An cống nạp, vua nước Shanshan, vua nước Chrish và Bạch Chấn đã gặp riêng Phù Kiên, thỉnh cầu vua Hán chinh phục Tây vực và xin làm "hoa tiêu dẫn đường". Quân của Lữ Quang có thể thuận lợi vượt qua ba trăm dặm cồn cát và những sa mạc mênh mông nối tiếp nhau ở Tây vực, phần lớn nhờ vào công lao của các "hoa tiêu" này trong đó cũng có sự đóng góp của Bạch Chấn, vì từ lâu "cậu út" đã có dã tâm đoạt ngôi.
Vừa đi vừa nhớ lại những ghi chép trong các tài liệu lịch sử, chẳng mấy chốc đã đến cổng thành. Thành Khâu Từ phồn hoa thịnh vượng năm nào giờ đây hoàn toàn vắng lặng, đìu hiu. Lác đác vài bóng người trên phố, nhà nào nhà nấy cửa đóng then cài. Quân lính của Lữ Quang mặt đỏ gay gắt, chân nam đá chân chiêu, ngật ngưỡng trên phố vắng, thấy nhà nào cửa hẹp tường cao là xông vào, theo sau đó là những tiếng gào khóc thảm thiết vang lên.
Sau khi vào thành và nhìn thấy cung điện nguy nga, tráng lệ của Bạch Thuần, Lữ Quang đã hạ lệnh cho Đoàn Nghiệp viết một bài phú "Cung điện Khâu Từ" với nội dung châm biếm, đả kích. Người dân Khâu Từ có cuộc sống no đủ và họ rất biết cách hưởng thụ, trong nhà mỗi gia đình đều ủ rất nhiều rượu nho. Mỗi gia đình thậm chí cất giữ hàng nghìn thùng rượu, sau mười năm, hương rượu nồng nàn thấm đẫm trong khuôn viên phủ đệ. Lữ Quang vì muốn khoản đãi tướng sĩ sau chiến thắng, đã dung túng cho đám lính của mình thỏa sức cướp bóc, số quân lính ngập chìm, thậm chí bỏ mạng trong men rượu nhiều không đếm xuể.
- Đoàn đại nhân!
Suy nghĩ bị cắt ngang, tên lính người Hán đi cùng tôi hướng về một người dáng vẻ thư sinh, khép tay hành lễ. Họ Đoàn, có phải là Đoàn Nghiệp?
Nếu không tìm cách trốn thoát tất sẽ bị lộ. Nhưng ngõ phố gần nhất cũng cách tôi đến hai mươi mét. Nếu cố tình bỏ đi, e rằng chưa được mấy bước đã bị bắt lại. Vừa căng thẳng nghĩ cách thoát thân, nhưng lòng hiếu kỳ lại dâng cao mãnh liệt, tôi muốn được tận mắt nhìn thấy dung mạo của hoàng đế Bắc Lương. Theo học chuyên ngành này thật nguy hiểm, lòng hiếu kỳ có thể khiến người ta phải đền mạng như chơi.
Đoàn Nghiệp chừng hai mươi tuổi, cao khoảng một mét bảy mươi lăm, khuôn mặt vuông vức, dáng vẻ nho nhã, trên tay cầm giấy bút, đang trò chuyện với một quân nhân, nhìn thấy tên lính người Hán, liền quay lại đáp lễ.
- Đoàn đại nhân, ngài đây rồi, tôi đang tìm ngài. Phu nhân một mình ra ngoại thành hái thuốc rất nguy hiểm, cô dâu mới mà sao ngài không biết thương hoa tiếc ngọc?
Đoàn Nghiệp tất nhiên rất kinh ngạc, liếc nhìn tôi, định mở miệng phủ nhận, tôi giả bộ vui mừng khi nhìn thấy người thân, vội lao đến trước mặt hắn, hạ giọng:
- Tôi được cao nhân chỉ điểm, thông tỏ thiên cơ, nếu đại nhân chịu ra tay cứu giúp, tôi nhất định sẽ báo đáp ơn này.
Sử sách chép rằng, Đoàn Nghiệp vốn là kẻ khù khờ, chỉ tin vào bói toán tà thuật. Cầu mong sao chiêu bài này của tôi sẽ đánh trúng tâm ý hắn.
Hắn nhìn tôi đầy nghi hoặc, có vẻ như không tin tôi có khả năng đó cho lắm. Cũng phải thôi, tôi còn quá trẻ, khắp người bốc mùi hôi hám, chẳng có chút khí chất thần thánh nào cả. Tôi bỗng chột dạ, vội hỏi khẽ:
- Đêm trước khi công phá thành Khâu Từ, Lữ tướng quân từng mơ thấy voi vàng bay ra vùng ngoại thành, đúng không?
Đó là những ghi chép trong sách "Tấn thư", giấc mơ đó đã khiến Lữ Quang càng có thêm tự tin rằng "thánh thần đã rời bỏ thành Khâu Từ, người Hồ tất sẽ diệt vong". Sách "Tấn thư" ghi chép rất nhiều những điều kỳ quái, thần thánh mang màu sắc mê tín nên rất nhiều nhà sử học về sau này không xem đó là chính sử. Còn tôi thì đang đặt cược, tôi cược rằng, trước tình thế địch mạnh ta yếu, Lữ Quang đúng là đã bịa đặt ra giấc mơ kì lạ đó để động viên binh sĩ. Nếu tôi thua, tôi cũng chẳng còn đường thoát nào khác.
Đoàn Nghiệp kinh ngạc ngẩng lên, trầm ngâm một lát, lại nhìn tôi, không khẳng định cũng không phủ nhận. Cảm ơn tên lính người Hán, tạm biệt người vận đồ quân nhân vừa trò chuyện với mình, anh ta đưa tôi rời khỏi đó trong tiếng cười giễu của bọn họ.
Bước đi cùng Đoàn Nghiệp mà trong lòng không khỏi thấp thỏm lo âu. Tuy nhiên, theo tài liệu lịch sử thì Đoàn Nghiệp không phải là kẻ nóng nảy, hiểm ác như Lữ Quang. Nếu không ổn, một mình hắn tôi cũng có thể đối phó được. Đoàn Nghiệp đưa tôi đến nhà một thường dân, bên trong có rất rất nhiều người vóc dáng văn nhân, họ cất tiếng chào anh ta. Có lẽ quân Lữ Quang đã cưỡng chế trưng dụng căn nhà này làm nơi tụ họp của các quan văn.
Khi chỉ còn hai chúng tôi ở trong phòng, tôi chắp tay trước mặt Đoàn Nghiệp:
- Tôi vì muốn giữ mạng, đã mạo muội nhận mình là người nhà của Đoàn đại nhân, xin đại nhân thứ tội.
- Cô nương xin đừng khách sáo, ta hiểu nỗi khó xử của cô.
Anh ta rất nhã nhặn, lịch thiệp, khiến tôi có thêm vài phần thiện cảm.
- Vị cao nhân mà tôi nhắc đến, chính là đại pháp sư nổi tiếng khắp vùng Tây vực, Kumarajiva. Tôi tuy kiến thức nông cạn, nhưng may mắn được gặp pháp sư, nên đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích. Lần này đến Khâu Từ cũng vì mong được diện kiến pháp sư. Nếu được ngài truyền thụ cho chút ít kiến thức, chắc chắn năng lực tiên đoán của tôi sẽ được nâng lên đáng kể.
Không biết Rajiva hiện nay ra sao, tôi chỉ có thể dò la thông tin về cậu ấy bằng chủ đề ưa thích của Đoàn Nghiệp.
- Danh tiếng của đại pháp sư Kumarajiva như sấm dội bên tai, được biết pháp sư có biệt tài xem tướng số, lại thông thạo âm dương ngũ hành, tôi đây vốn đã ngưỡng mộ từ lâu.
- Đoàn đại nhân chưa gặp pháp sư bao giờ ư? Nghe nói pháp sư hiện đang ở chỗ của Lữ tướng quân, lẽ ra đại nhân phải được gặp pháp sư thường xuyên mới đúng chứ?
Tôi nín lặng chờ đợi phản ứng của Đoàn Nghiệp.
Vẻ mặt anh ta vương chút ảo nảo:
- Tôi rất muốn, nhưng pháp sư đang bị giam lỏng, tôi chẳng thể gặp ngài.
- Tôi và pháp sư vốn có duyên, nếu đại nhân có thể giúp tôi gặp được ngài, tôi nhất định sẽ xin pháp sư xem hậu vận cho đại nhân.
- Điều này e là không thể.
Anh ta có vẻ rất sốt sắng, nhưng lại hơi do dự.
- Nghe nói, tướng quân giam đại sư trong cung, với chức quan quèn như hiện nay, tôi không thể gặp ngài.
Trong lòng ngập đầy nỗi thất vọng. Tôi chỉ biết cậu ấy bị giam trong cung, nhưng không rõ đã bị Lữ Quang ép phá giới hay chưa. Đoàn Nghiệp chỉ là một thư lại nhỏ bé, lại không phải thân tín thuộc tộc người Đê của Lữ Quang, nên chắc rằng anh ta cũng không biết được thông tin gì.
Tôi đành hỏi Đoàn Nghiệp những câu hỏi khác, được biết, thành Khâu Từ đã bị công phá năm ngày rồi, ngày thứ ba, Bạch Chấn đăng cơ làm vua Khâu Từ.
Suy nghĩ một lát, tôi cầu xin Đoàn Nghiệp giúp đỡ:
- Không biết Đoàn đại nhân có thể cử người đưa tôi đi tìm Pusyseda – em trai pháp sư Kumarajiva không?
Một mình trên phố lúc này chẳng khác nào sa vào hang hùm, khẩu súng gây mê nhỏ bé của tôi chắc chắn không thể hạ gục đám lính đang điên cuồng cướp bóc ngoài kia.
Sợ Đoàn Nghiệp từ chối, tôi vội vàng hạ thấp giọng một cách bí hiểm, nói với anh ta:
- Theo quan sát của tôi, tướng mạo của Đoàn đại nhân cho thấy ngài không phải hạng tôm cá trong ao tù, ánh hào quang tỏa ra từ ngài chứng tỏ rằng, ngày sau, ngài sẽ làm nên nghiệp lớn.
- Có thật không?
Anh ta đúng là một kẻ mê tín, vẻ mặt trở nên bí hiểm, rồi hạ thấp giọng, dò hỏi:
- Sẽ là ở đâu và khi nào? Xin cô nương cho biết.
Tôi ra điều kiện:
- Đại nhân chịu đưa tôi đi, tôi sẽ không ngại tiết lộ.
Môn thần học vốn rất thịnh hành vào thời Nam Bắc triều, gắn với Nho học, Huyền học trong một thể thống nhất không thể tách rời. Thực ra đó chỉ là những dự đoán mang màu sắc kỳ lạ, bí hiểm mà thôi. Vương Mãnh muốn Phù Kiên giết tướng Sabir, nên đã cho người tung tin đồn "tháng Ất Dậu năm Giáp Thân, Ngư Dương ăn thịt người"[24]. Phù Kiên không nghe, vẫn hậu đãi Mộ Dung Thùy, nhưng chính sách đoàn kết các dân tộc hết sức tiến bộ của ngài đã không có hiệu quả. Và lời cảnh báo của Vương Mãnh lại hết sức chính xác. Năm 384, tức là năm Giáp Thân, nhà Tiền Tần bắt đầu tan rã. Tuy Phù Kiên bị Diêu Trường thuộc tộc người Khương giết chết, nhưng nguyên nhân chính của sự sụp đổ của nhà Tiền Tần là do cuộc khởi nghĩa phục quốc của người Sabir.
[24] Ngư Dương chỉ người Sabir.
Bởi vậy, việc Đoàn Nghiệp đồng ý đưa tôi đi tìm Pusyseda thể hiện sức mạnh to lớn của bói toán.
Chương 41: Bên bờ sông Hán ai ơi, có cô con gái khó ai mơ màng
Sau ngần ấy năm, không biết Pusyseda ra sao, có được bình an trong thời cuộc loạn lạc này không? Hồi hộp bước tới cổng phủ quốc sư, tôi chợt thấy một binh sĩ người Khâu Từ đang đứng. May mà Đoàn Nghiệp có mang theo lệnh bài của quân đội Lữ Quang, nên binh lính Khâu Từ không dám gây khó dễ, đã vội vào trong thông báo.
Khuôn viên phủ đệ đã được quét vôi trang trí lại, tuy không tráng lệ nhưng rất tinh tế, tao nhã. Căn nhà khang trang như vậy, lại có cả lính giữ cổng, điều đó chứng tỏ sự lo lắng của tôi là thừa, chắc là Pusyseda đang sống rất thoải mái.
Trong thời gian chờ đợi, tôi thì thầm vào tai Đoàn Nghiệp:
Hào quang xuất hiện ở Kiện Khang, nghiệp lớn sẽ thành ở Hà Tây. Đại nhân hãy ghi nhớ, không được tiết lộ thiên cơ, nếu không sẽ mất linh nghiệm.
Đó là kết quả chắt lọc từ quá trình suy nghĩ của tôi trên suốt đường đi, tuy không được văn hoa mượt mà cho lắm, nhưng bói toán là phải lấp lửng như vậy. Kiện Khang ám chỉ sau này Đoàn Nghiệp sẽ được phong làm Thái thú. Thái thú Kiện Khang, còn Hà Tây tức là hành lang Hà Tây, nơi sau này sẽ là vùng đất của nhà Bắc Lương mà Đoàn Nghiệp làm vua. Nhưng trong lúc này, chắc chắn anh ta sẽ nghĩ rằng Kiện Khang là địa bàn của nhà Đông Tấn, Hà Tây là một vùng đất chung chung, mơ hồ nào đó. Bài bói của tôi cũng khá đấy chứ, có thể xem như không hề tiết lộ lịch sử.
Thực ra, sau khi lên ngôi, Đoàn Nghiệp cũng chỉ sống thêm chưa đầy năm năm. Ông ta bị giết trong trận chiến với Thư Cử Mông Tốn, để rồi sau đó, Mông Tốn tự phong mình làm vua Bắc Lương. Đoàn Nghiệp qua đời ở tuổi bốn mươi. Nhưng tất nhiên, tôi không nói những điều này cho ông ta biết. Những câu chữ mà tôi sử dụng đều đã được chọn lọc kỹ lưỡng. Bởi vậy, lúc chào từ biệt tôi và ra về, niềm hân hoan rạng rỡ vẫn còn trên gương mặt Đoàn Nghiệp.
Người trong phủ bước ra, đó là Sukhala, vị quản gia năm nào. Ông đã trở nên già nua, lụ khụ lắm rồi! Ngước mắt nhìn tôi hồi lâu mà không sao nhớ nổi tên. Tôi mỉm cười hỏi ông Pusyseda có nhà không.
Ông đưa tôi vào nhà, nói rằng Pusyseda vẫn ở trong cung, tối mới về. Ông nói sẽ đi mời phu nhân. Phu nhân ư? Tôi sững sờ, nhưng hiểu ra ngay vấn đề. Pusyseda năm nay ba mươi hai tuổi, chắc chắn đã lập gia đình, không biết vợ cậu ấy là người như thế nào? Tôi ngắm nhìn mọi thứ xung quanh khi ngồi chờ ở phòng khách. Phủ quốc sư đã thay đổi rất nhiều so với hồi Kumarayana còn sống. Cách bài trí rất trang nhã, không quá cầu kỳ nhưng tinh tế, tỉ mỉ, cho thấy sự hiện diện rất rõ ràng của bàn tay phụ nữ. Bầu không khí thẫm đẫm sắc màu Phật giáo trong phủ quốc sư trước kia, này chỉ còn lại bức tượng Phật đặt trên bàn thờ ở một góc khuất trong gian phòng.
Linh cảm có ai đó ở phía sau, tôi quay người lại, một cô gái người Hán, dáng người dong dỏng, thân hình thon thả, dung mạo không quá mỹ miều, nhưng đôi mắt cô ấy to và trong sáng, ở cô ấy toát lên nét dịu dàng, đoan trang. Thấy tôi, cô gái khẽ cúi chào, đôi mắt lướt trên người tôi, có vẻ như đang phỏng đoán mục đích của chuyến viếng thăm này. Tôi nghĩ có lẽ cô ấy là vợ Pusyseda, vội vàng đáp lễ bằng tiếng Hán:
- Mong phu nhân lượng thứ cho sự đường đột của tôi. Tôi tới đây để nhờ đại nhân giúp gặp mặt pháp sư Kuramajiva.
Tôi nói ngay ý định của mình để xua tan mối nghi ngờ có thể nảy sinh trong lòng cô gái ấy, vì biết đâu cô ấy lại cho rằng, người tình của Pusyseda đến bắt vạ thì sao.
Cô gái hơi ngỡ ngàng:
- Huynh ấy hiện đang ở chỗ tướng quân Lữ Quang, cô nương gặp huynh ấy có việc gì vậy?
- Vì một mối ân tình.
Tôi đáp một cách mơ hồ:
- Nhờ phu nhân nhắn giúp với đại nhân, rằng Ngải Tình đã về.
- Ngải Tình ư?
Cô ấy nhắc lại tên tôi và như đang tìm kiếm điều gì đó, sau đó thì có vẻ giật mình, nhìn tôi trân trân.
- Thì ra cô nương chính là cô gái sống trong căn phòng đó?
Tôi ngẩn ngơ, căn phòng của tôi, vẫn được lưu giữ ư?...
- Xin phu nhân đừng hiểu lầm, căn phòng đó là do pháp sư sắp xếp cho tôi, không liên quan đến Pusyseda.
- Tôi hiểu chứ. Mỗi lần về nhà, huynh ấy lại đến phòng cô nương ngồi thiền rất lâu.
Cô ấy mỉm cười:
- Thật không ngờ, cô nương lại trẻ trung như thế!
Tôi gượng cười, thực ra tuổi của tôi, ở thời đại này đã là bà mẹ của mấy nhóc tỳ rồi ấy chứ. Chỉ là, 1650 năm về trước, thời đại mà tuổi thọ bình quân của con người chưa đến năm mươi tuổi và ngành công nghệ mỹ phẩm chưa phát triển, thì ngoại hình của tôi chẳng khác nào thiếu nữ mười bảy, mười tám tuổi.
Cô ấy sai người hầu vào cung nhắn gọi Pusyseda. Sau đó mời tôi ngồi, lời nói, cử chỉ đều rất nhã nhặn, từ tốn. Không thể không khen ngợi Pusyseda đã chọn được một người vợ tuyệt vời.
Một vài cái đầu bé con lấp ló ngoài cửa, những con mắt tròn to, lấp lánh, chăm chú nhìn tôi. Cô gái cất tiếng gọi, một chú nhóc mập mạp dắt theo một cô nhóc nhỏ hơn khật khưỡng chạy vào..
Những đứa bé mới đáng yêu làm sao! Chú nhóc là anh, cô nhóc là em, một bé năm tuổi một bé ba tuổi. Cả hai nhóc đều có tên bằng tiếng Tochari, nhưng Pusyseda còn đặt tên tiếng Hán cho chúng nữa. Anh tên Cầu Tư, em tên Vịnh Tư.
- Tướng công nhà tôi say mê "Kinh thi", nên đã dựa vào bài "Hán Quảng" trong "Kinh thi" để đặt tên cho các con.
Khuôn mặt cô gái ửng hồng, nụ cười ý nhị nở trên khóe môi, dường như đang nhớ lại một kỷ niệm đẹp đẽ nào đó.
Tôi ngỡ ngàng. Bài thơ trữ tình, lay động tâm can. Chàng trai nọ theo đuổi cô gái người Hán bên dòng sông Hán, sông Hán rộng lớn, nước chảy xiết, muốn bơi sang bờ bên cạnh là điều không thể, bè gỗ cũng không thể đưa chàng trai đến bên cô gái. Theo đuổi không thành, cô gái đi lấy người khác, chàng trai vẫn ngày ngày cặm cụi cắt cỏ chăn ngựa giúp cô gái.
"Núi nam có cây trụi cao,
Mọi người chẳng thể tựa vào nghỉ ngơi.
Các cô sông Hán dạo chơi,
Đoan trang chẳng thể trao lời cầu mong.
Kìa con sông Hán mênh mông,
Chớ toan lặn lội mà hòng vượt qua.
Trường giang mờ mịt chảy xa,
Kết bè chẳng thể dùng mà lướt đi.
Bụi cây lộn xộn đẹp xinh,
Tôi lo cắt loại cây kinh mà dùng.
Nếu nàng nay đã theo chồng,
Xin nuôi giùm ngựa cho lòng đẹp vui.
Rộng thay sông Hán cách vời!
Chớ toan lặn lội vượt khơi mà hòng.
Trường giang xa tít muôn trùng,
Thả bè chẳng thể xuôi dòng mà đi.
Bụi cây lộn xộn đẹp cao,
Thì ta vội cắt cây lâu mà dùng.
Nếu nàng nay đã thao chồng,
Ngựa câu nuôi giúp thì lòng cũng cam.
Rộng thay sông Hán xa xăm!
Cho nên không thể lặn ngầm mà qua.
Trường giang mờ mịt chảy xa,
Kết bè chẳng thế dùng mà lướt đi"[25]
Là ai đang thương ai đang nhớ ai?
Tôi ôm những đứa trẻ bụ bẫm vào lòng, ngắm nhìn đôi mắt màu xám nhạt thừa hưởng từ người cha của chúng. Giây phút ấy, tôi như được thấy lại Pusyseda hồi nhỏ, thấy lại chú nhóc hay nhõng nhẽo bày trò, nũng nịu đòi tôi hát cho nghe ấy. Mới đấy mà đã hai mươi năm. Chú nhóc năm nào giờ đây đã có con bồng con bế. Trước khi tôi ra đi, cậu ta nói sẽ hạnh phúc và bây giờ, hạnh phúc ấy hiện rõ ở người vợ nhu mì, hiền thục và những đứa con đáng yêu này đây.
Tiếng bước chân dồn đạp ngoài cửa, một bóng dáng cao lớn xuất hiện, tay vịn vào khung cửa, nhìn tôi ngỡ ngàng:
- Ngải Tình, là chị thật ư...?
Tôi đứng lên, mỉm cười, nhưng sao sống mũi cay cay.
Cậu ta đi như lao về phía tôi, cứ cái đà ấy, với sự hiểu biết của tôi về cậu ta thì chắc là định bước tới ôm lấy tôi. Tôi bối rối vì vợ cậu ta đang đứng bên cạnh. May mà mấy đứa nhóc đã cứu nguy cho tôi. Chúng lon ton chạy đến, sà vào lòng cha, chặn vòng tay đang dang rộng về phía tôi lại.
Vợ cậu ta cũng đứng lên, nụ cười ngọt ngào, nhìn những đứa trẻ cuộn tròn trong lòng Pusyseda. Rồi cô ấy bước đến, kéo lũ trẻ ra, nhẹ nhàng nói với chồng:
- Để thiếp đưa các con đi tắm, chúng nô đùa cả ngày, bụi bám đầy người rồi.
Rồi quay lại gật đầu với tôi:
- Cô Ngải Tình ngồi chơi, tôi xin phép.
Cảm tình với cô gái lại tăng thêm một bậc nữa. Quả là một phụ nữ hiểu biết. Chả trách, cô ấy đã khiến "lãng tử" Pusyseda quay đầu.
Khi chỉ còn lại hai chúng tôi, tôi dành chút thời gian quan sát thật kỹ Pusyseda của mười năm sau. Cậu ta vạm vỡ hơn trước, cũng học theo các nam giới Khâu Từ khác để râu, những nếp nhăn hằn trên khóe mắt, khi cười càng lộ rõ vẻ từng trải và dấu ấn năm tháng. Sức lôi cuốn của vẻ đẹp nam tính tỏa ra triệt để.
- Già rồi.
Cậu ta cười, chiêu bài rướn mày, nháy mắt năm nào đang được diễn lại:
- Ai mà trẻ mãi không già như chị chứ!
- Không hề già. Cậu đang ở vào độ tuổi hấp dẫn nhất của người đàn ông đấy.
Tôi cũng cười, thật vui khi được thấy cậu ta hạnh phúc.
- Vẫn còn đeo ư, tức là chưa quên tôi, nhỉ?
Giọng nói có chút nghẹn ngào, cậu ta cúi đầu hít một hơi, rồi lại ngẩng lên cười.
Tôi ngơ ngác, thấy cậu ta nhìn chăm chăm vào cổ mình mới phát hiện ra là cậu ta đang nói về miếng ngọc bội. Cậu ta cũng vẫn đeo, nhưng sợi dây đã sờn bạc, biến thành màu đen từ khi nào. Tôi muốn nói một câu gì đó, nhưng sợ cất lời thì nước mắt lại trào ra. Pusyseda đưa tay ra kéo tôi vào lòng. Tôi vùng vẫy, nhưng giọng nói khẽ khàng trên đỉnh đầu đã ngăn tôi lại:
- Yên nào, để tôi ôm một lát. Tôi biết chị quay về không phải vì tôi, tôi chỉ muốn ôm chị một lát thôi.
Tôi không khỏi xúc động, nước mắt lăn dài, ngoan ngoãn trong vòng tay Pusyseda. Nhưng không muốn kéo dài, sợ có ai bắt gặp, tôi lặng lẽ lau nước mắt, lên tiếng:
- Cậu chọn vợ khéo lắm!
Cậu ấy buông tôi ra, quay mặt đi, đưa tay lên thấm nước mắt.
- Mấy năm trước theo cậu út đi Trường An cống nạp, tôi đã cứu Hiểu Huyên. Cô ấy vốn là con nhà trâm anh thế phiệt, nhưng gặp thời loạn, phải ca hát để kiếm sống.
Nụ cười ấm áp nở trên môi.
- Một cô gái yếu đuối nhưng luôn mỉm cười đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã, khiến tôi nhớ đến sự kiên cường của chị. Cô ấy có đôi mắt rất giống chị.
Tôi hít một hơi, lấy lại sự bình tĩnh.
- Hãy yêu thương cô ấy và hai đứa trẻ!
Cậu ta gật đầu.
- Họ là những người mà dù cho có phải đánh đổi cả tính mạng tôi cũng quyết phải bảo vệ đến cùng.
Chợt nhớ ra chuyện mà tôi quan tâm nhất.
- Rajiva... bây giờ sao rồi?
- Chị về đây để cứu huynh ấy phải không?
Cậu ta khẽ thở dài, sắc mặt trở nên rầu rĩ.
- Có điều, không kịp nữa rồi...
Tôi bàng hoàng, mặt đất như đang xoay chuyển, cậu ta vội đỡ lấy tôi. Tôi chao đảo, túm chặt tay áo Pusyseda:
- Cậu ấy... cậu ấy phá giới rồi ư?
- Sao chị biết Lữ Quang ép huynh ấy phải phá giới? Mà cũng phải thôi, chị là tiên nữ cơ mà, chuyện gì cũng biết cả.
- Cậu ấy... cậu ấy và Aksayamati...
- Vẫn chưa.
Cậu ta đỡ tôi ngồi xuống.
- Nhưng chắc là sắp rồi, vì đã ba ngày...
Tôi lại nắm chặt tay áo Pusyseda, cậu ta vỗ nhẹ vào vai tôi, ra hiệu cho tôi không nên nóng vội.
- Lữ Quang nghe danh anh tôi đã lâu, nhưng không tin huynh ấy một lòng hướng Phật, ông ta muốn hạ nhục huynh ấy. Lữ Quang đánh cược với bộ tướng của ông ta, nếu trong ba ngày mà huynh ấy phá giới, thì toàn bộ mấy trăm phi tử của đời vua trước sẽ thuộc về ông ta. Nếu ngược lại, sẽ được chia cho các tướng lĩnh.
Tôi sững sờ, sử sách không hề ghi chép điều này. Thì ra Lữ Quang ép Rajiva phá giới vì một vụ cá cược tranh giành phụ nữ ư? Một người mà danh tiếng lừng lẫy suốt ba mươi năm như Rajiva lại phải chịu mối ô nhục này ư?
- Huynh ấy đã kháng cự suốt hai ngày qua. Nhưng hôm nay là ngày cuối cùng, nghe nói Lữ Quang đã sai người cởi bỏ quần áo của cả hai người. Tôi vừa từ trong cung về, theo những gì tôi nghe ngóng được thì huynh ấy vẫn đang chống cự quyết liệt. Tôi chưa bao giờ khâm phục anh trai mình đến thế! Bị o bế như vậy mà huynh ấy vẫn kiên định. Có lẽ chỉ có huynh ấy mới làm được như vậy! Nhưng mà...
Cậu ta ngập ngừng, rồi thở dài:
- Nếu huynh ấy vẫn cố chấp, Lữ Quang sẽ cho người chuốc rượu. Lữ Quang đã nói là làm, nếu đêm nay huynh ấy không chịu phá giới, khiến ông ta bị thua trong cuộc cá cược này, chỉ e... sau này sẽ phải chịu sự đối xử tàn tệ hơn nữa.
Tôi bật dậy, kéo tay cậu ta:
- Pusyseda, hãy cứu cậu ấy...
- Ngải Tình, tin tôi đi, ba ngày qua tôi đã nghĩ đủ mọi cách để cứu huynh ấy. Tôi đi cầu xin Lữ Quang, cầu xin đức vua, tôi đã dùng tiền, dùng phụ nữ để mua chuộc đám con trai và bộ tướng thân cận của Lữ Quang, nhưng đều vô ích. Nếu là mấy năm trước, tôi sẽ vác gươm xông vào cứu huynh ấy, rồi đưa huynh ấy trốn đến nơi khác.
Cậu ấy buồn rầu lắc đầu, đưa mắt nhìn ngôi nhà.
- Nhưng bây giờ, tôi không thể không nghĩ đến vợ và các con mình.
- Vậy hãy đưa tôi đến gặp Lữ Quang.
- Vô ích thôi, Lữ Quang là kẻ bảo thủ cố chấp, bao nhiêu người khuyên can, chỉ càng thêm kích động ông ta. Chị chỉ là một cô gái bình thường, làm sao ông ta chịu nghe lời chị.
- Vậy thì...
Tôi hít một hơi thật sâu.
- Hãy tráo đổi tôi với Aksayamati.
Cậu ta đưa tạy khẽ gạt những sợi tóc lòa xòa trên trán tôi.
- Ngải Tình, có lẽ đây là cách duy nhất để cứu huynh ấy.
Tôi và Pusyseda vừa bước ra khỏi phòng khách thì gặp Hiểu Huyên từ dưới bếp đi lên, thấy chúng tôi vội vội vàng vàng lao ra cửa, cô ấy gọi với:
- Tướng công, đã đến giờ ăn tối, mọi người dùng bữa xong hẵng đi. Mà, cô Ngải Tình cũng phải thay y phục chứ.
Tôi bỗng nhớ ra là mình vừa leo lên từ hố chôn người, quần áo dính đầy vết máu và mùi hôi hám, cứ thế này mà đi gặp Lữ Quang e không tiện. Hiểu Huyên đưa tôi vào phòng, quần áo mới đã được chuẩn bị và đặt sẵn ở đầu giường. Tôi cởi bỏ chiếc áo chống tia phóng xạ, khoác lên người trang phục cô ấy chuẩn bị cho mình, đó là một bộ Hán phục màu sắc trang nhã, rất thoải mái. Hiểu Huyên quả là người khéo léo, hoạt bát và tinh tế hơn tôi rất nhiều.
Tôi không muốn tiêu tốn thời gian, nên chỉ ăn qua loa rồi giục Pusyseda lên đường. Cậu ta dặn dò vợ đôi câu rồi cùng tôi vào cung. Từ khi chiếm được thành Khâu Từ, Lữ Quang đã ở luôn trong cung, ông ta chia cho vị vua Bạch Chấn một nửa cung điện.
Để gặp được Lữ Quang, chúng tôi đã tốn không ít thời gian. May mà Pusyseda là thân tín của Bạch Chấn, nên không kẻ nào dám gây khó dễ. Trong khi chờ đợi để được vào gặp Lữ Quang, Pusyseda tranh thủ dò la thông tin từ tai mắt của cậu ở trong cung và được biết rằng Rajiva đã bị chuốc rượu, nhưng vẫn kiên trì kháng cự.
Pusyseda nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm trọng:
- Ngải Tình, lát nữa gặp Lữ Quang, chị đừng nói gì cả. Ông ta là kẻ thô bạo nóng nảy, không biết nương tay bao giờ, chỉ có thể thuận theo ý ông ta, nếu chống lại thì dù là thân tín, ông ta cũng sẵn sàng trừ khử.
Cậu ta thở dài thườn thượt:
- Anh trai tôi gặp phải ông ta đúng là gặp phải kiếp nạn!
Thư Cử Mông Tốn, kẻ đã giết Đoàn Nghiệp và tự lập mình làm vua Bắc Lương đã đánh giá Lữ Quang là kẻ "mê muội, tin lời gièm pha của kẻ xấu". Vừa nghe cháu trai nói rằng "người Hà Tây chỉ biết đến Đỗ Tấn mà không hay Lữ Quang là ai", ông ta đã thẳng tay giết Đỗ Tấn, một tướng lĩnh đắc lực, một công thần. Trong chuyện chọn người kế vị, Lữ Quang cũng có những quyết định hết sức hoang đường, khiến nhà Hậu Lương chỉ trong vài năm ngắn ngủi sau khi ông ta qua đời đã phải thay đến ba đời vua và sau cùng đã để mất nước. Bởi vậy, ảo tưởng có thể thuyết phục Lữ Quang từ bỏ việc hành hạ Rajiva của tôi tan vỡ sau câu nói của Pusyseda. Muốn ông ta từ bỏ ý định hạ nhục Rajiva, e là tôi sẽ phải đánh đổi cả tính mạng của mình. Đối với một kẻ chẳng hề tín Phật như Lữ Quang, từ bỏ không chỉ đơn giản là việc sẽ mất đi phần thưởng béo bở kia, mà quan trọng hơn là ông ta sẽ mất đi thể diện.
Sau nhiều lần thông báo, khi đêm đen đã bao trùm, chúng tôi mới được xuất hiện trước mặt Lữ Quang.
Con người đã thay đổi cuộc đời của Rajiva ấy đang ngồi xem báo cáo về tình hình quân sự trong đại điện, bên cạnh là bốn thanh niên chừng hai mươi tuổi, tướng mạo khá giống Lữ Quang. Tôi đoán họ chính là đám con cháu bất nghĩa đã chém giết lẫn nhau để tranh cướp ngôi vị sau khi Lữ Quang chết. Tuy là người tộc Đê, nhưng tướng mạo của ông ta lại rất giống những người Hán thô kệch sống ở phương bắc. Thời điểm này, ông ta bốn mươi bảy tuổi, đỉnh đầu trơ bóng, phần tóc ít ỏi còn lại được quấn buộc và búi tó sau gáy, râu ria mọc lởm chởm, hai hàng lông mày xếch ngược, dữ tợn. Nhác thấy Pusyseda, ông ta lấy giọng khách sáo mời ngồi.
Pusyseda cúi lạy, rồi nói với ông ta bằng tiếng Hán:
- Anh tôi tính tình bảo thủ, không hiểu ý tốt của tướng quân, đã khiến tướng quân phải khó xử.
Lữ Quang chỉ nhếch mép cười, ánh mắt lộ vẻ nham hiểm:
- Pháp sư kiên cường như vậy thật khiến người ta phải khâm phục. Xem ra, ta đã đánh giá thấp pháp sư rồi!
Pusyseda ngẩng đầu, thận trọng nói:
- Hôm nay tôi đến là để giúp tướng quân giành thắng lợi trong cuộc cá cược này.
Lữ Quang nheo mày.
- Không biết quốc sư có cao kiến gì?
Tôi nheo mày, tôi có thể nhận ra cuộc sống đủ đầy của Pusyseda những năm qua, nhưng không thể ngờ cậu ấy lại kế tục chức vị của cha mình ngày trước, trở thành quốc sư của Bạch Chấn.
- Xin tướng quân hãy tráo đổi cô gái này với em họ Aksayamati của tôi.
Lữ Quang đưa mắt về phía tôi, thoáng chút kinh ngạc:
- Xin quốc sư nói rõ cho ta biết, cô gái người Hán này có điểm gì hơn công chúa Aksayamati kiều diễm, mà có thể khiến pháp sư siêu lòng?
- Tướng quân không biết đó thôi, có rất nhiều uẩn khúc trong chuyện này.
Pusyseda ngừng lại một lát, nhìn Lữ Quang với vẻ tự tin đắc thắng, tiếp tục nói:
- Người cô của cô gái này năm xưa từng dạy anh tôi tiếng Hán, vốn đã có tình cảm sâu nặng với anh tôi, nhưng vì thân phận tăng sĩ của anh ấy, đành gạt nước mắt đi lấy người khác. Nhưng hơn mười năm qua, anh tôi vẫn không nguôi thương nhớ. Tuy thờ Phật, nhưng dù sao anh ấy cũng là con người, cũng biết yêu biết hận, chỉ là, người ngoài không hiểu mà thôi. Cô gái này giống hệt người con gái năm xưa, tôi tin rằng, chỉ cần nhìn thấy cô ấy, anh tôi sẽ không trái ý tướng quân nữa. Em họ Aksayamati của tôi tuổi còn quá nhỏ, lại không thân thiết với anh trai tồi. Tướng quân hãy tráo đổi Aksayamati với cô gái này, chắc chắn sẽ thành công.
Lữ Quang chừng như sắp xuôi, Pusyseda lại tiếp tục:
- Tướng quân chỉ cần anh tôi chịu phá giới, còn việc với ai, đâu có quan trọng gì, đúng không?
Lữ Quang liếc nhìn tôi thêm vài lần nữa, dò xét, rồi bất giác cười vang:
- Cũng phải, phụ nữ Khâu Từ cao lớn đẫy đà, chưa chắc đã khiến pháp sư động lòng bằng cô gái người Hán nhỏ nhắn xinh tươi như hoa như ngọc này.
Rồi ông ta quay sang người có vẻ nhiều tuổi nhất đứng bên cạnh:
- Soạn nhi, đưa quốc sư và cô gái này đến chỗ pháp sư.
Anh ta là Lữ Soạn ư? Tôi liếc trộm anh ta, cũng là một bộ mặt thô kệch đáng sợ. Đó là người con lớn của Lữ Quang, tính tình tàn ác, thích ăn chơi hưởng lạc. Sau khi Lữ Quang qua đời, Lữ Soạn tự lập mình làm vua, ép em trai là Lữ Thiệu phải chết. Nhưng đáng tiếc, chưa đầy vài tháng, Lữ Soạn đã bị cháu trai của Lữ Quang là Lữ Siêu giết chết.
Lữ Quang nở một nụ cười nham hiểm, dặn dò con trai:
- Nhớ quay lại báo cáo!
Rồi quay sang nói với Pusyseda:
- Quốc sư đừng để ta phải thất vọng đấy!
Chương 42: Thoát biến
Chúng tôi được đưa đến một cung điện nhỏ cạnh hoàng cung, hai tên lính canh cửa trông thấy Lữ Soạn vội vàng đứng lên hành lễ. Lữ Soạn ra lệnh mở cửa, tôi không kìm nổi, ngó theo. Không thấy Rajiva, trên giường chỉ có một cô gái trong trạng thái không mảnh vải che thân, hai tay khép chặt lại che chắn trước ngực, tôi không nhận ra cô bé Aksayamati năm nào nữa. Cô gái thấy chúng tôi thì vội thu mình hút vào một góc giường, cúi đầu, để những lọn tóc xoăn màu hung che phủ khuôn mặt.
- Tình hình thế nào?
Lữ Soạn hỏi mấy tên lính gác.
Chúng cười xun xoe, xu nịnh:
- Theo lời căn dặn của tướng quân, thuộc hạ đã lột hết quần áo của cả hai người, nhưng vẫn chẳng ăn thua. Nên khi nãy thuộc hạ đã ép Kumarajiva uống rất nhiều rượu, còn bỏ thêm một ít thuốc vào nữa. Vậy mà nhiều canh giờ rồi vẫn không có động tĩnh gì cả. Cô công chúa kiều diễm, nõn nà, mơn mởn như thế, nếu là người khác thì đã nhảy bổ vào rồi ấy chứ, huống hồ lại uống rượu đã bỏ xuân dược. Thuộc hạ cứ nghĩ tay hòa thượng đó là kẻ bất lực, nhưng hình như không phải. Hắn ép mình ói ra hết những gì uống vào. Hắn quả thật rất gan lỳ! Nhưng sự kiên trì của hắn khiến người ta phải nể phục, có lẽ hắn đúng là một bậc cao tăng đích thực...
Lữ Soạn lừ mắt, hai tên lính im bặt, rồi quay sang tôi, lạnh lùng đe dọa:
- Đêm nay phải khiến hắn phá giới bằng mọi giá, nếu cha ta mà thua vụ cá cược này, ngươi biết hậu quả sẽ thế nào rồi đấy.
Bọn chúng hành hạ Rajiva đến mức ấy, khiến tôi không khỏi giận sôi người. Sử sách chép rằng Rajiva đã phá giới vì bị ép cởi bỏ quần áo và chuốc rượu, nhưng không hề ghi rằng bọn chúng còn bỏ cả xuân dược vào rượu. Nghe xong câu nói mất hết nhân tính ấy của Lữ Soạn, tôi ngẩng phắt lên, nỗi căm giận thiếu chút nữa thì bùng phát.
Nhưng Pusyseda đã kịp chắn trước mặt tôi
- Tiểu tướng quân cứ yên tâm giao cho cô ấy. Đám mỹ nữ hậu cung nhất định sẽ thuộc về cha con tướng quân.
Pusyseda nhìn căn phòng, rồi bước tới chiếc bàn hình vuông đặt trong đại điện, kéo tấm khăn trải bàn xuống. Sau đó, bước vào phòng, phủ tấm khăn lên người Aksayamati, đỡ công chúa đứng lên. Lúc bước ra ngoài, cậu ta dừng lại giây lát, đưa mắt về một góc khuất, vẻ mặt ảo não, khẽ thở dài. Cậu ta dìu Aksayamati khuôn mặt tái nhợt vì sợ hãi ra ngoài, lúc đi qua tôi, cậu cất cao giọng bằng tiếng Hán:
- Mau vào đi, đừng để Lữ tướng quân thất vọng!
Sau đó lại đổi sang tiếng Tochari, thì thầm:
- Anh ấy đã chờ đợi mười năm, hãy mang lại hạnh phúc cho anh ấy!
Gương mặt cậu ta hết sức thản nhiên, nhưng nỗi u buồn hắt lên trong đáy mắt. Tôi nhìn Pusyseda, lấy hết can đảm gật đầu quyết liệt, rồi bước vào phòng. Cánh cửa cọt kẹt khép lại.
Tôi đưa mắt về phía góc khuất mà khi nãy Pusyseda định hướng ấy và nhận thấy một bóng dáng cao gầy đang thu mình ở đó. Hơi thở như ngừng lại, tôi không dám nhìn chàng. Rajiva, thời gian với em chỉ là chín tháng, nhưng với chàng đã là mười một năm thời gian. Chín tháng thương nhớ dày vò đã khiến em trở nên tàn tạ, héo úa. Vậy mà, chàng đã trải qua những đêm trường cô tịch trọng chốn kinh kệ đền đài lạnh lẽo ấy suốt mười năm trời! Chàng đã phải chịu đựng nỗi cô đơn thăm thẳm ấy như thế nào? Nếu đổi lại, em là người phải đợi chờ trong mười năm ấy, có lẽ em không sống nổi. Tha lỗi cho em đã để chàng phải chờ đợi mỏi mòn như vậy. Tha lỗi cho em đã lựa chọn thời điểm này để đến với chàng trong cơ hội duy nhất này. Mong rằng đây chính là lúc chàng cần em nhất. Nếu có thể, em sẽ không ra đi nữa, hãy để em bù đắp cho chàng những mất mát đau khổ suốt mười năm đằng đẵng.
Tôi nín thở, khẽ bước đến bên chàng, chưa kịp thấy rõ dấu vết của tháng năm để lại trên khuôn mặt chàng ra sao mà trái tim đã thổn thức và quặn thắt. Không mảnh vải trên người, chàng ngồi bó gối, đầu cúi thấp, giống hệt tư thế của hài nhi trong bụng mẹ, nước da bánh mật lấp loáng dưới ánh sáng của ngọn đèn. Tôi đưa mắt tìm kiếm, căn phòng không có rèm cửa, không khăn trải bàn, trên giường không có chăn, không có thảm trải, không có bất cứ thứ gì có thể che thân. Tôi cười cay đắng, Lữ Quang quả là hiểm ác!
Tôi lôi trong ba lô ra một chiếc áo khoác, rồi lại gần chàng. Khắp người chàng tỏa ra hơi men nồng nặc, bên cạnh là hiện trường của một vụ ói mửa. Tôi ngồi xuống, choàng áo lên người chàng, làn da chàng bỏng rát. Sự tiếp xúc khẽ khàng đó khiến chàng giật mình, ngẩng lên, đôi mắt màu xám nhạt như hai vực nước sâu hun hút ấy lúc này đang vằn lên những tia đỏ. Chàng gầy đi nhiều, gương mặt càng trở nên thuôn dài hơn, dưới cằm râu đâm lên lởm chởm, khuôn mặt chàng đỏ gay gắt như sắp bốc hỏa. Mười một năm trôi qua, nhưng chàng vẫn cuốn hút như ngày nào. Chỉ có điều, tháng năm vô tình đã in lên vầng trán chàng những nếp nhăn mờ ảo. Mấy ngày qua, chịu cảnh dày vò, o bế, chàng tiều tụy, bờ phờ hơn, bờ môi tái xám, nứt nẻ. Vết máu khô dính trên khóe môi nứt vỡ, trông giống hệt một vết răng cắn chặt.
- Rajiva...
Càng nhìn chàng, lòng càng đau đớn như có ai vò xé. Chịu nhục mạ, chịu đày đọa thế này, người bình thường liệu ai có thể cầm cự được như chàng? Không phải chàng gắng sức để bản thân không phá giới, mà chàng đang ra sức bảo vệ đức tin của cả cuộc đời mình. Lữ Quang hành hạ chàng khổ sở như vậy, chỉ vì vụ cá cược nực cười đó ư?
Đôi mắt thất thần ngước nhìn tôi, rồi đột nhiên tròng mắt mở rộng, một tia sáng chiếu ra từ con ngươi màu xám nhạt ấy, vẻ ngỡ ngàng rào đón khắp gương mặt tôi. Đôi môi nứt nẻ hé mở, khóe môi khẽ động đậy, mỏng và nhẹ như sự run rẩy của một chiếc lá khô trong gió.
- Là em, em đã trở về...
- Ngải... Tình...
Những thanh âm tắc nghẹn, run rẩy ấy phải gắng gượng lắm mới bật ra được, sau khi đôi mắt màu xám nhạt đã vân du hồi lâu trên khuôn mặt tôi. Nhưng ngay lập tức, khuôn mặt nóng bừng lộ vẻ xấu hổ, chàng khép chặt đôi vai lại, toàn thân run rẩy, quay đầu đi, giọng chất chứa nỗi buồn tủi, khổ sở:
- Đừng nhìn ta...
- Rajiva...
Trái tim tôi như tan nát! Một bậc cao tăng thanh cao nhường ấy lại phải chịu đựng sự sỉ nhục này, lòng nào có thể không xót xa!
- Đừng khóc...
Chàng quay đầu lại nhìn, cánh tay dài gầy guộc từ từ vươn ra như muốn vuốt ve khuôn mặt tôi, nhưng khi vừa chạm đến, cánh tay đã vội thu về, hai mắt chàng nhắm lại, tay phải nắm chặt chuỗi tràng hạt đã sờn bạc, cũ mèm, không còn nhận ra màu sắc lúc đầu nữa. Chàng lần tràng hạt tụng kinh, như thể tôi chỉ là không khí. Đó là chuỗi hạt tôi tặng chàng hơn hai mươi năm về trước. Bên tay trái chàng là chiếc vòng mã não màu đỏ, trong suốt, kể cả chiếc vòng ấy cũng đã được mười năm tuổi.
- Rajiva, chàng sao vậy?
Nhìn thấy thứ duy nhất trên người chàng là chuỗi hạt và chiếc vòng năm xưa, tôi cắn răng cố ngăn những giọt nước mắt cứ trực trào ra.
Mong muốn sinh ra ảo giác, là cái vốn dĩ không có thực. Dục vọng khiến người ta u mê, không có gì tồn tại trên cõi đời này cả.
Chàng vẫn nhắm chặt mắt, giọng như lạc đi khi đọc mấy câu kệ bằng tiếng Hán, rồi chàng lại tiếp tục tụng niệm.
Tôi đưa tay lau nước mắt, có lẽ chàng nghĩ tôi chỉ là ảo giác. Chàng vẫn ngồi yên trên nền nhà. Tuy có thảm trải, nhưng kể cả vào mùa hè, đêm ở ốc đảo vẫn rất lạnh. Tôi đứng lên, bước ra cửa, thấy Lữ Soạn và đám lính đang trò chuyện, hắn vẫn chưa đi ư? Tôi lên tiếng yêu cầu một tấm chăn, Lữ Soạn cười vang, buông giọng ỡm ờ:
- Không cần bất cứ thứ gì mà vẫn khiến hắn phá giới mới được!
Tôi sa sầm mặt mày, đòi thêm một cốc nước. Lữ Soạn sai người đi lấy, rồi quay ra hếch mắt nhìn tôi:
- Tranh thủ thời gian đi, ta còn phải về báo cáo với cha ta. Còn nữa, nhất thiết phải "làm" trên giường đấy!
Hắn hất hàm về phía khung cửa sổ, tôi đưa mắt nhìn theo, một lỗ hổng hình quả trám trên khung cửa sổ đang chiếu thằng vào vị trí chiếc giường trong căn phòng. Bọn chúng thật vô nhân tính! Hắn muốn chứng kiến tận mắt thì mới yên lòng ư? Chúng coi đây là một trò đùa, là một trò cá cược bệnh hoạn ư?
Nỗi căm hờn khiến tôi chỉ muốn hất cả cốc nước vào mặt hắn, phải hít thở nhiều lần tôi mới lấy lại được sự bình tĩnh và trở lại căn phòng. Tiếng cười giễu cợt của hắn văng vẳng phía sau:
- Nếu không xong thì đến hầu ta nhé!
Tôi ghê tởm loại người này, chỉ muốn ngay lập tức hét vào mặt hắn kết cục thảm hại của hắn sau này!
- Rajiva, uống chút nước đi.
Tôi vừa khẽ gọi, vừa đặt cốc nước kề sát miệng chàng. Có lẽ vì quá khát, chàng không từ chối, cứ thế nghiêng đầu uống sạch cốc nước trên tay tôi. Tôi lấy khăn tay, lau những giọt nước vương trên vành môi chàng.
Chàng chăm chú nhìn chiếc khăn trên tay tôi. Tôi mỉm cười:
- Chàng còn nhớ chiếc khăn tay này không? Chàng đã tặng cho em đó. Chàng nói rằng không thấy em dùng khăn tay bao giờ, lấy tay lau miệng không vệ sinh chút nào. Chiếc khăn này em vẫn luôn giữ bên mình, chưa khi nào lấy ra dùng cả, vì thấy tiếc...
Đột nhiên tôi rơi vào lồng ngực nóng bỏng của chàng, tim chàng đập dữ dội bên tai tôi. Khuôn mặt nóng rực cọ xát trên cổ tôi, những đường gân trên cổ chàng nổi lên giật giật như đang gẩy vào tim tôi. Tay chàng lồng vào tóc tôi, mơ hồ khẽ rên tên tôi.
Tôi ngã vào lòng chàng, vòng tay quen thuộc ấy bỗng chốc trở nên xa lạ. Làn da trần, nóng bỏng phủ lên gương mặt tôi, một đợt sóng khác thường lan toả toàn thân, tôi như đang bị thiêu đốt.
Chàng khẽ đẩy tôi ra một khoảng nhỏ, ánh mắt mê loạn sục sạo da diết gương mặt tôi. Tôi chưa kịp mở lời, thân thể chàng đã áp sát và hôn riết lấy tôi.
Nụ hôn của chàng không dịu dàng như trong hồi ức, mà hổn hển tách môi tôi ra và gần như điên cuồng khuấy động. Hơi rượu nồng nặc trong miệng, trùm lên lưỡi tôi. Những sợi râu dày lởm chởm cọ lên má tôi ram ráp. Hơi thở của chàng càng lúc càng gấp gáp, chàng ghì mạnh tôi xuống nền nhà, toàn thân phủ lên mình tôi.
- Rajiva...
Tôi lấy cánh tay nhăn lại, thì thầm bên tai chàng:
- Chúng ta hãy lên giường.
Chàng dừng lại, dường như có chút tỉnh táo, buông cánh tay đang ghì lấy tôi ra, cắn mạnh vào vành môi đã nứt toác, một tia máu rỉ ra, nhuộm đỏ đôi môi vốn khô nẻ.
Lệ rơi chan hòa, chàng khổ sở nhẫn nhịn, gắng gượng kìm chế bản thân. Nếu còn cách khác, tôi sẽ tôn trọng ý nguyện của chàng. Nhưng đám người bên ngoài kia là những kẻ điên loạn, bọn họ nắm quyền sinh sát trong tay. Tôi và chàng chỉ là những kẻ yếu trong thời loạn này. Để sinh tồn, đêm nay, chúng tôi phải hoàn thành "nghi lễ trưởng thành" trước mắt kẻ khác.
Tôi gạt đi nước mắt, định thần lại, khoác lên người chàng chiếc áo dài đã rơi sang bên. Sau đó đặt tay chàng lên vai tôi, từng bước nặng nề dìu chàng đến chiếc giường ô nhục. Phật tổ, xin hãy thấu hiểu tấm lòng thành kính của đệ tử của Ngài, xin hãy thương xót chàng. Chàng kìm chế, nhẫn nhịn, đã làm được điều người thường không thể làm được. Bởi vậy, xin Ngài, hãy giáng tội lên con, con bằng lòng thay chàng hứng chịu mọi sự trừng phạt.
Cơ thể chàng trĩu nặng, toàn bộ trọng lượng của chàng gần như đè cả lên vai tôi. Chúng tôi cùng bước đi loạng choạng, ánh mắt không kìm được khẽ lướt trên người chàng, trái tim bỗng đập cuồng loạn. Dù đã cố nhẫn nhịn, dưới tác dụng của thuốc, chàng vẫn có ham muốn như những người đàn ông bình thường khác. Đó là bản năng của con người, bản năng mà ngay cả Phật tổ cũng không thể xóa bỏ được. Vậy thì, chí ít trong đêm nay, hãy để chàng làm một người đàn ông bình thường.
Chàng rã rời đổ xuống người tôi, vẫn cố cắn chặt môi, nhưng đôi mắt theo sát tôi từng giây từng phút, trong sâu thẳm đôi mắt ấy là khát khao cháy bỏng của một người đàn ông bình thường. Tôi hít một hơi sâu, đưa tay cởi áo. Hán phục rất đơn giản, chỉ cần mở hết các nút áo là bộ đồ nội y hiện đại của tôi đã phơi bày trước mặt chàng. Mặt nóng bừng, mũi lấm tấm mồ hôi, tôi dừng lại, không dám cởi tiếp nữa, vì tôi biết bên ngoài cửa sổ hình quả trám kia còn có rất nhiều con mắt tà ác đang hau háu dõi theo.
Tay phải chàng nắm chặt chuỗi tràng hạt, tôi muốn lấy ra, đặt lên kệ đầu giường, nhưng chàng không nói không rằng, xiết chặt tràng hạt. Tôi dịu giọng thuyết phục cũng chỉ có thể quấn tràng hạt quanh cổ tay chàng.
Chàng nằm nghiêng, gần tôi trong gang tấc, đôi mắt màu tro nhạt lấp lánh, dục vọng dâng trào như làn sóng. Bàn tay nóng ran của chàng vuốt ve thân thể tôi, vụng về lướt nhanh một đường từ cổ tới ngực rồi xuống eo. Tôi vòng tay vít cổ chàng, liếm khóe môi bị rách, cảm giác mằn mặn chui vào cuống lưỡi, chàng đau đớn khẽ rên lên thành tiếng, rồi đột ngột cúi đầu ngậm chặt lưỡi tôi. Thân hình mảnh khảnh của chàng che phủ thân thể tôi, hơi thở hổn hển.
Hơi rượu trong miệng chàng rất khó chịu, không biết bọn họ đã ép chàng uống nhiều tới mức nào. Một người chưa từng chạm đến một giọt rượu như chàng, dưới tác động của men say và xuân dược còn có ý thức được rằng người chàng đang đối diện là tôi không? Tôi muốn tin rằng chàng vẫn giữ được dù chỉ là rất ít sự tỉnh táo, đủ để nhận ra sự tồn tại của tôi và vì có tôi nên chàng mới yên lòng chấm dứt chuỗi ngày chịu đựng khổ sở và để dục vọng phơi bày tự nhiên như vậy.
Tôi cười buồn, rút lại những ý nghĩ chua chát. Bây giờ là lúc nào mà tôi vẫn còn suy nghĩ những điều vẩn vơ như thế. Tôi cần nghĩ xem phải nhanh chóng tiến hành việc đó ra sao. Vì chỉ như thế, đám người ngoài kia mới buông tha cho chúng tôi, bằng không, những kẻ chẳng có chút tín ngưỡng gì ngoài kia có thể sẽ sử dụng nhiều thủ đoạn tàn bạo hơn nữa để dày vò chàng. Chàng đã gắng gượng suốt ba ngày rồi, cơ thể và tinh thần đều đã mệt mỏi, chàng cần được nghỉ ngơi.
Lịch sử chép rằng chàng đã phá giới, vậy tôi sẽ tình nguyện làm việc đó thay Aksayamati. Tình yêu vốn ích kỷ, thay đổi lịch sử thì đã sao? Tôi chỉ biết rằng tôi yêu chàng và tôi muốn được trở thành "đối tượng phá giới" của chàng. Sau này dù chàng có hối hận, tôi cũng cam lòng.
Ý nghĩ đó khiến tôi thêm can đảm, tôi đưa tay lên vuốt ve lưng chàng. Làn da chàng bóng mịn, trơn mượt. Di chuyển dần xuống dưới, cảm giác các cơ bắp của chàng đang căng dần lên trong lòng tay tôi. Chàng như đang gồng mình lên, mũi tên đã được căng trên dây cung, chàng muốn lao tới, nhưng lại không biết cách, gương mặt lộ vẻ băn khoăn, bối rối.
Bàn tay đã chạm đến quần lót của tôi, chàng gắng sức giật ra, nhưng tôi ngăn lại:
- Đừng vội, để em.
Sau khi trút bỏ quần lót, tay tôi ướt đẫm, không dám nhìn chàng, nhắm mắt lại, cầu mong chàng mau chóng kết thúc.
Cơ thể phơi trần hồi lâu đã thoáng chút tê lạnh, vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Tôi mở mắt ra, thấy chàng trong tư thế thân trên hơi chống lên, hơi thở gấp gáp, ánh mắt mê loạn, nhưng có vẻ chần chừ, khổ sở. Khen thay cho ý chí và sự kiên định của chàng, đó là điều mà không phải ai cũng làm được. Tới mức này mà ý chí vẫn ra sức đấu tranh với phản ứng sinh lý nguyên thủy. Tôi cắn môi, khẽ luồn tay xuống dưới. Má tôi bừng bừng, thì ra, vào những lúc như thế này, "chỗ đó" của đàn ông cương cứng và nóng bỏng như than.
Chàng rên rỉ, vẻ do dự đã hoàn toàn biến mất, ánh mắt bùng lên như lửa thiêu. Trong tư thế nửa quỳ giữa hai đùi tôi, chàng để tôi dẫn dắt vào nơi kín đáo nhất của cơ thể mình. Tôi nhắm mắt, để mặc bản năng của chàng hành sự. Khoảnh khắc chàng đi vào tôi, trời đất như quay cuồng, thân thể như bị tách thành hai mảnh. Tôi bật khóc, muốn nắm lấy cái gì đó cho bớt đau đớn, nhưng chỉ thấy dưới thân trơn ướt vì chiếc giường hoàn toàn trống trải, móng tay muốn bám chặt vào đâu cũng khó. Tôi chỉ biết cắn răng chịu đựng những đợt sóng nối tiếp nhau trôi đi.
Nghe tiếng tôi nức nở, chàng dừng lại, chống người lên nhìn tôi, lồng ngực phập phồng gấp gáp, mồ hôi trên trán chàng chảy dọc gương mặt thon dài, đọng lại nơi chiếc cằm nhọn lún phún râu, rồi nhỏ xuống ngực tôi. Đôi mắt vằn tia đỏ của chàng vẫn như mê loạn, nhưng gương mặt lại thoáng vẻ ngại ngần.
- Em không sao...
Tôi cố kìm không để nước mắt rơi, họng nghẹn đắng, gượng gạo nở nụ cười ngây ngô của Ngải Tình. Những mong nụ cười quen thuộc ấy có thể lưu lại trong trí nhớ của chàng một chút ký ức ấm áp khi tỉnh lại vào ngày mai.
Chàng đã dừng lại không lâu sau đó, khoảnh khắc lên tới đỉnh điểm, giọng chàng rên lên khản đặc:
- Ngải Tình...
Nước mắt ngưng đọng đã lâu, khóe mắt chẳng ngăn nổi nữa đã để từng giọt nặng nhọc rơi xuống gối, một cảm giác vừa ngọt ngào vừa xót xa xâm chiếm tim gan tôi. Thì ra chàng vẫn luôn nhớ đến tôi...
Tôi ngước nhìn bầu trời đêm qua giếng trời trên mái nhà, ngàn sao tỏa sáng lấp lánh, nhưng tôi lại thấy bầu trời như đang xoay vần, vật đổi sao dời, ngàn năm vút trôi và chúng tôi đang ở bên nhau, trong khoảnh khắc này. Tôi đã hoàn thành cuộc biến đổi, không phải từ một thiếu nữ thành một người đàn bà, mà quan trọng hơn, kể từ giây phút này, linh hồn của tôi sẽ gắn chặt với chàng mãi mãi, không rời không buông.
Chàng đang say trong giấc ngủ bình yên sau ba ngày bão tố. Tôi đưa tay vuốt nhẹ khuôn mặt gầy gầy xương xương của chàng, khẽ lùa các ngón tay vào hàng lông mày dài miên man của chàng, chạm đến đôi mắt sâu hun hút của chàng, đến chiếc mũi cao thanh tú của chàng, đến bờ môi ngọt ngào của chàng. Con người mà ngày đêm tôi mong nhớ ấy, đang ngon giấc bên cạnh tôi. Trước đây, dù có dũng cảm đến mấy, tôi cũng không dám tưởng tượng ra cảnh tượng này...
Tôi ngồi dậy mặc quần áo, phần thân dưới buốt xót và nóng rực như lửa đốt, mỗi cử động dù rất nhỏ cũng như có gai nhọn đâm vào da thịt. Vệt máu trên chiếu đã khô, phía trong đùi trên của tôi vẫn còn dính vài vệt máu đỏ tươi. Tôi nén đau, bước xuống giường, lê ra ngoài cửa. Mỗi bước đi đều kéo theo cơn đau buốt như xé gan xé ruột. Chả trách, hầu hết phụ nữ đều mô tả giống hệt nhau về lần đầu tiên của mình.
Đẩy cửa, lạnh lùng nhìn đám người đang cười đùa thô bỉ bên ngoài, tôi cất tiếng:
- Giờ thì có thể mang chăn cho tôi rồi chứ?
Chương 43: Thức giấc
Tôi ngồi bên giường lặng lẽ ngắm Rajiva.
Hôm qua là một ngày vô cùng mệt mỏi, nhưng tôi không sao ngon giấc vì có chàng nằm bên cạnh. Căn phòng không còn bất cứ thứ gì khác có thể ngả lưng nên tôi đành thu mình nằm cạnh chàng. Một đêm dài dằng dặc với những nỗi lo sợ mơ hồ, sợ xoay người sẽ khiến chàng tỉnh giấc, sợ vô tình chạm vào người chàng, sợ thức dậy muộn hơn chàng khiến chàng khó xử. Vì thế, tôi chỉ có thể nằm yên, không nhúc nhích, không động đậy, toàn thân tê dại, rã rời. Trời vừa hửng sáng tôi đã thức giấc, đi lại vận động trong căn phòng, nhưng cố gắng hết sức để không gây ra tiếng động.
Chàng đang say giấc, dù đã ba mươi lăm tuổi và không còn trẻ trung như mười một năm về trước, nhưng chàng vẫn rất thuần khiết, vẫn rất hấp dẫn. Chàng trẻ hơn rất nhiều so với những nam giới cùng tuổi khác ở thời đại này, có lẽ vì ngày này qua tháng khác, chàng chuyên tâm tu tâm dưỡng tính nơi cửa Phật. Những nếp nhăn mờ ảo trên vầng trán và khóe mắt càng tôn thêm vẻ đẹp trưởng thành, già dặn. Sau một đêm nghỉ ngơi, khí sắc của chàng đã khá lên rất nhiều, không còn nét tiều tụy của ngày hôm qua nữa. Khóe môi thấp thoáng nụ cười, khiến cả khuôn mặt trở nên rạng rỡ, hình như, chàng đang mơ một giấc mơ đẹp.
Tôi cứ ngồi mãi như thế mê mải ngắm nhìn thần tượng của mình. Đã về trưa mà chàng vẫn say trong giấc ngủ, có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời chàng thức dậy muộn như vậy. Còn tôi, cơn buồn ngủ ập tới dữ dội, khiến tôi không sao kìm chế nổi, gục đầu xuống, thiếp đi.
Ai đó đang khẽ vuốt tóc tôi, tôi giật mình mở mắt, trái tim đập rộn ràng khi bắt gặp đôi mắt màu xám nhạt long lanh như hồ nước mùa thu ấy, đôi mắt đã xuất hiện không biết bao nhiêu lần trong từng đêm mơ của tôi ấy, đang ở rất gần.
- Chàng... tỉnh rồi ư...
Tôi vội đứng lên, hỏi chàng:
- Chàng có đói không? Em đã kêu họ mang đồ ăn tới...
Tôi cầm chiếc bát đặt ở đầu giường.
- Ôi, nguội cả rồi. Để em bảo người hâm nóng lại...
Tôi, ánh mắt ngập đầy thương nhớ. Điều đó quá đỗi ngọt ngào, tôi khẽ gọi tên chàng:
- Rajiva...
- Quả là cứ sau mười năm, nàng sẽ quay lại.
Chàng vẫn nằm trên giường, khẽ nhắm mắt, tiếng thở dài thoáng qua, khóe môi khẽ rung động:
- Nàng trở về là tốt rồi...!
- Tôi lại gần chàng, ngồi xuống, áp tay chàng lên má tôi, mỉm cười:
- Vâng, em đã trở về...
Bàn tay chàng run rẩy cọ xát trên khuôn mặt tôi, từ từ dạo qua hai mắt, sống mũi, bờ môi, đáy mắt phơi phới hơn qua mỗi dịch chuyển nhẹ nhàng. Rồi chàng đột nhiên bật dậy, giam chặt tôi vào lòng, cằm chàng đặt trên đỉnh đầu tôi, những sợi râu lúm phún cọ vào da đầu ram ráp, tôi muốn bật cười nhưng chỉ cười ra nước mắt.
- Phật tổ, Ngài thật từ tâm...
Giọng nói nghẹn ngào trôi bên tai tôi:
- Ngài đã đưa nàng trở về...
Chàng đỡ hai vai tôi, ánh mắt da diết nhìn tôi:
- Mười một năm rồi mà nàng không hề thay đổi...
- Có chứ, em đã hai mươi lăm tuổi rồi...
Tôi mỉm cười nhìn chàng, sống mũi cay cay.
- Một năm trên trời bằng mười năm dưới hạ giới ư?
Chàng vuốt nhẹ mái tóc tôi, động tác êm dịu như nâng niu một vật báu.
- Lần đầu gặp nàng, nàng hơn ta mười tuổi. Lần thứ hai gặp nàng, nàng bằng tuổi ta. Bây giờ, ta đã hơn nàng mười tuổi.
Bàn tay chàng nhẹ nhàng vuốt ve hai má tôi, ánh mắt dịu dàng:
- Ngải Tình, nàng có biết con số "mười" ấy chính là biểu trưng của định mệnh trong cõi u minh không?...
Tôi cười, đúng vậy, ông trời đã sắp đặt mọi thứ, phải không? Nhìn khuôn ngực để trần của chàng, bất giác nhớ lại chuyện đêm qua, mặt tôi đột nhiên nóng bừng như phát sốt, ngượng ngập nói với chàng:
- À... chàng lau người đi rồi dậy ăn cơm... Chắc chàng nhức đầu lắm phải không? Em đã kêu người nấu canh giã rượu cho chàng rồi...
Tờ mờ sáng tôi đã kêu người mang nước vào và lặng lẽ lau rửa sạch sẽ. Tôi cũng muốn giúp chàng, nhưng sợ làm chàng thức giấc, vả lại, tôi cũng không đủ can đảm để làm việc đó. Mặc dù mồ hôi đầm đìa trên người chàng, lại thêm mùi rượu nồng nặc suốt ba ngày ba đêm, quả thực rất khó ngửi.
Nghe vậy, chàng giật mình, rời tôi ra. Tấm chăn được gạt sang một bên, để lộ vệt máu đã khô trên mặt chiếu. Không mảy may nghĩ đến tình trạng của bản thân, chàng kéo vội cánh tay phải của tôi ra trước mặt, vén tay áo, quan sát khuỷu tay tôi. Sau khi phẫu thuật, vết thương hầu như đã biến mất, chỉ lưu lại những dấu vết rất nhỏ.
- Thần Phật trên trời quả nhiên có sức mạnh siêu phàm, tay nàng đã hoàn toàn lành lặn.
Chàng ngước lên nhìn tôi, đôi mày nhíu lại, vẻ băn khoăn:
- Vậy thì nàng lại bị thương ở chỗ nào?
Bây giờ tôi mới hiểu chàng đang nói về vệt máu kia. Tôi ngượng ngùng giải thích:
- Em không bị thương, cái đó... là... lần đầu của phụ nữ...
Tôi chưa bao giờ cảm thấy xấu hổ như vậy khi đứng trước mặt chàng.
- Tóm lại, em không sao cả, chàng đừng lo...
- Lần đầu ư?
Vẻ băn khoăn ngày càng hiện rõ trên gương mặt chàng. Tôi bỗng cảm thấy hụt hẫng, lẽ nào chàng không nhớ gì cả ư?
Không muốn nghĩ nhiều về vấn đề này, phải làm việc gì đó mới được. Tôi đứng lên, định đi múc nước, nhưng cử động hơi mạnh khiến vết thương ở phần thân dưới nhói buốt. Tôi buột miệng xuýt xoa.
- Rốt cuộc là đau ở đâu?
Chàng vội kéo tôi lại, đôi mắt trong veo ấy chà xát khắp người tôi.
- Em không sao mà!
Tôi khẽ kéo tay chàng ra, nên đau, lê ra ngoài bưng chậu nước vào phòng, chiếc khăn mặt tôi đặt trong chậu là sản phẩm của thế kỷ XXI, vì khăn vải của thời đại này quá ư thô ráp. Tôi vắt kiệt nước, ngượng ngùng đưa cho chàng:
- Chàng lau người đi.
Chàng không đón lấy, mà lẳng lặng kéo chăn ra nhìn, khuôn mặt chàng đột nhiên đỏ bừng như mặt trời mùa hạ. Chàng bỗng trở nên thất thần, một lúc sau mới quay đầu lại hỏi tôi:
- Ta đã khiến nàng bị đau phải không?
Tôi vừa giận vừa buồn cười. Con người tuyệt đỉnh thông minh ấy sao lại có thể khù khờ trong chuyện này như vậy? Tôi phải giải thích thế nào với chàng đây?
- Không phải chàng làm em đau, em tự nguyện mà!
Chàng bần thần hồi lâu, đột nhiên quay lại nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm trọng:
- Ngải Tình, nàng trở về khi nào? Vì sao nàng tới được đây?
- Hôm qua.
Tôi nghĩ nên nói hết sự tình với chàng.
- Tối qua Pusyseda đưa em tới gặp Lữ Quang để thuyết phục ông ta đã đồng ý tráo đổi em và Aksayamati...
Chàng như run lên, sắc mặt tái đi, giọng nói nhẹ như gió:
- Tối qua, ta đã gặp nàng thật ư?
Tôi gật đầu.
- Thì ra không phải là mơ... Trả trách ta cứ có cảm giác giấc mơ ấy sao mà hệt như thực vậy.
Chàng lại gần tôi, định nói gì đó, nhưng không thốt ra lời.
- Ta... đã... phá giới thật ư?
- Rajiva, chính em là người đã mê hoặc chàng.
Tôi cắn môi, khẽ nắm tay chàng.
- Phật tổ sẽ hiểu sự thành tâm của chàng. Chàng đã kiên cường chống chọi suốt ba ngày, đó là điều mà không một người bình thường nào có thể làm được. Bọn chúng còn ép chàng uống rượu đã bỏ xuân dược vào. Thế nên, xin chàng đừng nghĩ ngợi về chuyện xảy ra đêm qua nữa, đừng tự trách mình, chàng không có lỗi gì cả...
Rajiva cúi đầu thinh lặng, bàn tay nắm chặt tấm chăn đang run lên bần bật. Tôi biết trong phút chốc, chàng không thể chấp nhận sự thực này, nên chỉ biết thở dài, đặt chậu nước và quần áo lên tủ.
- Em ra ngoài một lát, chàng lau người và thay quần áo đi.
Đó là một bộ đồ lụa phổ biến mà bọn người ngoài kia trao cho tôi, bọn họ không chịu mang y phục của tăng sĩ tới.
- Không tìm được y phục của tăng sĩ nên chàng chịu khó mặc bộ đồ này vậy.
Tôi bưng khay đồ ăn đã nguội ra ngoài.
Luôn luôn có người canh giữ ngoài cửa, tôi kêu bọn họ mang đồ ăn đi hâm nóng lại. Bọn họ không gây khó dễ, tỏ ra khá giữ lễ với tôi, yêu cầu thứ gì là mang đến thứ đó, chỉ không cho phép tôi đi lại tự do. Ánh nắng rực rỡ chiếu rọi cung điện, không thể tin nổi, dưới bầu trời xanh trong nhường này lại xảy ra cuộc chiến tranh khốc liệt và cảnh tượng loạn ly đẫm nước mắt. Nếu không có cuộc chiến tranh này, có lẽ Rajiva cũng chỉ là một hạt cát nhỏ giữa dòng sông lịch sử, sẽ không có một đại pháp sư tiếng tăm lừng lẫy, lưu danh sử sách. Nhưng để có được danh tiếng ấy, chàng đã đánh đổi cả một đời khổ nạn, không biết, như thế là may mắn hay bất hạnh?
Khi tôi mang canh thịt và bánh nướng đã hâm nóng vào phòng thì chàng đã mặc lên mình bộ đồ của dân thường và ngồi thiền tụng kinh. Thân hình cao lớn, chỉ khoác lên mình chiếc áo ngắn chít eo đặc trưng của đàn ông Khâu Từ trông đã rất nam tính rồi. Không tính đến cái đầu trọc lốc, nhìn từ phía sau vẫn có thể dùng từ "đẹp trai ngời ngời" để miêu tả về chàng.
Tôi đặt khay đồ ăn lên bàn, nhìn chậu nước chuyển màu, biết là chàng đã lau rửa sạch sẽ. Gọi chàng tới ăn cơm, nhưng chàng không đáp lại, vẫn miệt mài tụng kinh. Không muốn làm phiền chàng, tôi ngồi yên lặng chờ đợi.
Nhưng chàng đã tụng niệm gần hai giờ đồng hồ liên tục, không hề ngơi nghỉ. Càng lúc tôi càng buồn bã nhận ra rằng, không phải chàng đang giữ nếp tụng kinh buổi sáng, mà là đang tự trừng phạt. Chàng định sẽ tiếp tục tụng niệm đến bao giờ nữa?
Không kìm chế nổi, tôi kéo tay chàng, cầu khẩn:
- Rajiva, xin chàng đừng tụng kinh nữa. Là lỗi của em, chính em đã mê hoặc chàng. Kẻ dụ dỗ người tu hành phạm giới mới là kẻ có tội lớn nhất. Xin hãy để mình em gánh chịu tội nghiệt này, chàng không có lỗi gì cả.
Chàng mở mắt, nhìn tôi ai oán, khẽ lắc đầu, kéo tay tôi ra, tiếp tục lầm rầm tụng niệm.
Nhìn quanh căn phòng, thấy một chiếc phất trần cắm trong chiếc bình, tôi đi lấy, mang lại gần chàng.
- Rajiva, nếu chàng nghĩ rằng đã phạm phải tội lỗi tày trời, em có thể giúp chàng. Con người ở phương tây xa xôi tín theo một thứ tôn giáo. Tôn giáo ấy cho rằng, tội phá giới có thể được giảm nhẹ nếu người mắc tội tự quất roi lên người mình. Nỗi đau thể xác sẽ giúp thuyên giảm nỗi đau tinh thần và như thế sẽ nhận được sự tha thứ của đấng tối cao.
Tôi ngồi xuống trước mặt chàng, khẽ hỏi:
- Chàng muốn thử không?
Ki- tô giáo rất thịnh hành phương pháp tự trừng phạt này. Giáo hội không ngừng nhồi nhét vào đầu các con chiên cảm giác tội lỗi về nhu cầu tình dục và nhấn mạnh, tình dục làm ô uế linh hồn con người và khiến họ không thể lên được thiên đàng. Bởi vậy, những người căm ghét hoặc sợ hãi việc hành lạc, bao gồm cả các tu sĩ nam và nữ đều chuộc tội bằng cách tự quất roi vào người, họ làm vậy, những mong dùng đau đớn của kiếp này đổi lấy hạnh phúc của kiếp sau. Trong thời gian bệnh dịch hạch hoành hành khắp châu u, người ta đã tổ chức những đoàn người hành xác, cả một thôn làng hoặc thị trấn cùng diễu hành qua khắp các nẻo đường, rồi tập trung tại một nơi công cộng, sau đó họ bắt đầu tự quất roi vào lưng mình, cho đến khi máu tươi chảy ra.
Chàng nhìn tôi, vẻ đau khổ tột cùng, lặng lẽ buông áo trễ xuống thắt lưng, rồi nhắm mắt lại, tiếp tục tụng kinh.
Tôi đứng ra sau lưng chàng, cầm ngược cây phất trần, hít một hơi thật sâu, giữ chặt tay, cắn răng vụt thật mạnh. Một âm thanh rùng rợn vang lên trong không gian, chàng rùng mình kinh ngạc, một vệt dài màu đỏ hằn lên rõ rệt trên lưng chàng. Tôi cắn chặt răng, quay cán phất trần lại, ra sức vụt vào lưng mình. Cơn đau buốt truyền đến não bộ, kích thích nước mắt xô nhau ra quanh viền mắt.
- Nàng làm gì vậy?
Cây phất trần bị giằng lấy, tôi ngã vào lòng chàng, trong đôi mắt ngấn lệ, tôi nhìn thấy nỗi kinh ngạc và xót thương của chàng.
- Chàng muốn trừng phạt bản thân, em sẽ cùng chàng hứng chịu. Chàng không thiết ăn uống, em sẽ cùng chàng tuyệt thực. Nếu chàng không thể chấp nhận thân phận của em, em có thể xuống tóc làm ni cô.
Những tiếng nức nở, nghẹn đắng nơi cuống họng, tôi dừng lại lấy hơi:
- Nhưng, Rajiva, lần này, dù có thế nào em cũng sẽ không ra đi. Dù phải đối mặt với bao nhiêu phong ba bão tố, hãy để em ở bên chàng, cùng chàng vượt qua, được không?
Chàng xiết tôi chặt hơn, tôi vòng tay qua ôm riết lấy chàng. Nếu có thể nhờ vòng tay ôm riết ấy để được hòa tan vào lồng ngực của chàng, để hai người hợp lại thành một thì hạnh phúc biết bao. Gối đầu lên bờ vai để trần của chàng, những giọt nước mắt chảy xuống lằn roi đỏ in trên lưng chàng. Khuôn ngực chàng rung động mãnh liệt, nước mắt chàng thấm ướt vai áo tôi. Không biết đây là lần thứ bao nhiêu chúng tôi khóc trong vòng tay nhau? Em không đành lòng thấy chàng khóc...
- Ngải Tình, ta không trừng phạt bản thân vì đã phá giới. Thân xác, chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài. Giáo lý Phật giáo Đại Thừa không quy định ngặt nghèo về chuyện đó. Huống hồ, lần này là do ta bị ép buộc. Nhưng ta phải hối lỗi với Phật tổ, và trái tim ta đã "phá giới" theo thân xác ta rồi...
Chàng khẽ đẩy tôi ra, những ngón tay nhẹ nhành lướt trên má tôi, nỗi đau khổ phủ một màu ảm đạm lên gương mặt thanh tú.
- Không đúng. Trái tim ta không phải phá giới từ đêm qua, mà mười một năm trước, hai mươi năm trước đã phá giới rồi. Thuở thiếu thời gặp nàng, trái tim ta đã khôn nguôi thổn thức. Sau khi nàng ra đi, ta không hiểu vì sao mình lại lặng lẽ phác họa chân dung nàng, hết bức này đến bức khác. Rồi khi ngắm nhìn tượng Phật lại tưởng tượng ra gương mặt của nàng, thì ta biết mình đã sa vào lưới tình, chẳng thể thoát thân. Ái dục vốn là trở ngại lớn nhất đối với người tu hành. Ta vô cùng sợ hãi, nên mỗi lần nghĩ tới nàng là ta lại tụng kinh để sám hối. Nhưng khi nàng trở về, niềm vui được ở bên nàng lớn hơn cả việc nghiên cứu, tìm hiểu giáo lý Phật pháp và việc tụng niệm đã không thể giúp ta trừ bỏ những chướng ngại trong lòng được nữa. Sau khi hôn nàng, ta hiểu rằng mình đã không thể rời bỏ ái dục...
Từng giọt lệ long lanh kết đọng trên khóe mắt chàng, nặng nhọc lăn dài trên gò má.
- Mười một năm trước, không được gặp nàng lần cuối, ngày hôm đó, ta đã ngồi thiền trong phòng nàng ba ngày. Sau ba ngày, ta hiểu ra một điều: Nếu đã không thể quên được nàng, chi bằng ta biến nỗi nhớ nàng thành sự tu tập mỗi ngày. Nhờ vậy, tâm hồn ta bình lặng trở lại, ta chuyên tâm vào việc tu hành. Nếu mười năm sau nàng không quay về, ta sẽ thực hiện nguyện vọng của nàng, đến Trung Nguyên truyền bá Phật pháp. Nhưng đúng lúc ta chuẩn bị khởi hành đến đất Hán, thì Khâu Từ gặp phải kiếp nạn và ta phải chịu sự sỉ nhục này.
Chàng ngừng lại một lát, lấy hơi và tiếp tục:
- Ba ngày bị giam cầm, ta vẫn một lòng hướng Phật, tâm thanh tịnh như nước, xem mỹ nữ trước mắt như không khí. Nhưng sau khi phá tửu giới, thì trước mắt ta, trong tâm tưởng ta lại luôn hiện lên hình bóng nàng. Không phải ta không nhớ chuyện gì xảy ra đêm qua, mà là ta không dám thừa nhận. Tuy chỉ là nhưng cảm giác mơ hồ, nhưng ta vẫn nhớ rõ khoảnh khắc ta có được niềm hoan lạc không thể diễn tả bằng lời. Bởi vậy, ta đã cố thuyết phục bản thân, rằng đó chẳng qua là một giấc mơ bí mật, một giấc mơ mà ta vẫn thường mơ. Nhưng nàng lại cho ta biết mọi thứ diễn ra trong giấc mơ đó đều là thật...
Chàng ngẩng đầu hít một hơi dài, những đường gân trên cổ giật giật. Một lát, chàng cúi xuống nhìn tôi, rồi ảo não lắc đầu, những hạt nước mắt to tròn long lanh như những hạt ngọc đổ liên hồi xuống áo chàng.
- Khi nãy biết ta đã có quan hệ... vợ chồng với nàng... Nếu không phải là do Lữ Quang sắp bày, ép buộc, Rajiva sao dám "làm vậy" với nàng! Thế nên, cảm xúc đầu tiên đến với ta khi biết tin đó, không phải là sám hối, mà là niềm vui vô bờ tựa mạch nước ngầm len lỏi trong tim. Ta đã vô cùng hoảng sợ và hổ thẹn khi mình có ý nghĩ đó. Mấy mươi năm tu hành vẫn chẳng thể giúp ta chống lại khát khao yêu đương với nàng. Tội lỗi này, dù có đọc bao nhiêu kinh văn đi nữa cũng không thể xóa bỏ. Ta không xứng là đệ tử nhà Phật... Ta nhớ đến lời nói của vị cao tăng mà ta gặp hồi nhỏ: Nếu không tuân thủ giới luật một cách nghiêm khắc, ngày sau sẽ chỉ có thể là một pháp sư thông minh, sáng láng không hơn không kém. Khi nãy, vừa tụng kinh ta vừa nghĩ về điều này và không khỏi đau đớn. Ta đã phá giới vào đúng năm ba mươi lăm tuổi, lẽ nào ý trời đã định, kiếp này Rajiva chỉ có thể trở thành một pháp sư thông minh, sáng láng, mà chẳng thể làm nên nghiệp lớn ư?
Tôi đã khóc đến mềm cả tim gan, chưa bao giờ chàng thổ lộ với tôi nhiều đến vậy, mà mỗi câu mỗi tiếng thốt ra đều đau đớn đến xé lòng.
- Xin lỗi chàng, em đã phá vỡ thế giới tĩnh tâm thiền định của chàng, đã khiến chàng khó xử. Nếu chàng muốn, em sẽ ra đi.
- Không kịp nữa rồi...
Chàng run rẩy hôn tôi, vị mặn chát nồng đượm nơi đầu lưỡi, không biết là nước mắt của chàng hay của tôi.
- Nàng đã quay về thì sao ta có thể để nàng ra đi, để lại phải khổ sở chờ đợi mười năm nữa... Ngải Tình, một roi nàng tự quất vào người mình đã khiến ta bừng tỉnh. Nàng sẵn sàng san sẻ đau khổ với ta, bằng lòng cùng ta vượt qua phong ba bão tố, lẽ nào Rajiva không dám thừa nhận tình cảm với nàng suốt hai mươi năm qua? Ta chỉ biết tự trách mình vì đã phá giới, vì không thể trở thành một bậc danh sư, mà quên rằng nỗi đau khổ mà nàng phải chịu đựng lớn hơn ta gấp bội phần. Nàng đã trở về khi ta cần có nàng nhất. Đêm qua nàng đã dùng tấm thân trinh trắng của mình giải cứu ta khỏi sự đày ải ấy. Tình yêu cao cả đó, ta biết lấy gì báo đáp. Ta quyết không để nàng lại tiếp tục phải chịu dày vò, đau khổ nữa. Nỗi nhớ nhung vò xé tâm can mười năm lại mười năm mòn mỏi, vò võ ấy, ta không muốn phải chịu đựng thêm nữa. Trở thành bậc danh sư, đạt đến đỉnh cao tu dưỡng, nhập Niết Bàn thì sao chứ, không có nàng ở bên, ta cũng chỉ như một thân xác vô cảm, không có linh hồn mà thôi. Đời sống ấy có gì đáng sống đâu!
Chàng rời khỏi bờ vai tôi, nhẹ nhàng lau nước mắt cho tôi, nâng cằm tôi lên, để ánh mắt lạ kỳ của cháng phủ lên gương mặt tôi:
- Có nàng ở bên, ta cam tâm tình nguyện bị đẩy xuống tầng địa ngục sâu nhất – địa ngục vô gián.
- Chàng đừng quên, luôn có em bên chàng...
Mười ngón tay đan vào nhau, chúng tôi ôm nhau và hôn nhau mãi miết, hôn cho nhau cạn những giọt lệ tràn mi, nhưng những nụ hôn ngọt ngào ấm áp ấy chỉ càng khiến những dòng nước mắt tuôn trào. Cuộc đời còn mấy lần mười năm nữa để uổng phí? Bắt đầu từ bây giờ, chúng tôi sẽ trân trọng mỗi giây mỗi phút...
Không biết chúng tôi đã khóc với nhau bao lâu.
Rồi chàng đột ngột buông tôi ra, ngẩng đầu thở dài:
- Chàng sao vậy?
- Không ngờ sau khi cởi bỏ được nỗi day dứt quyện chặt trong tim suốt hai mươi năm qua lại khiến ta đau đầu đến vậy?
Tôi bật cười:
- Đó là vì chàng bị ép uống rượu.
Tôi đưa bát canh đặt trên tủ cho chàng.
- Đây là canh giã rượu, chàng uống ngay lúc đầu thì đã không sao cả.
Chương 44: Sự thật
Rajiva kinh ngạc nhìn chiếc dao cạo râu Gillette trên tay tôi. Khi đi dạo phố với bạn bè và thấy họ mua tặng bạn trai mình, trong phút xúc động tôi đã mua nó. Cứ ngỡ sẽ chẳng còn cơ hội để tặng Rajiva. Lẽ ra phải có kem bôi đi kèm với bộ dao cạo râu này, nhưng vì sợ nhiễm phóng xạ, tôi đã không mang theo.
Cố nhiên là Rajiva không biết sử dụng. Tôi để chàng ngồi xuống, thấm nước ấm vào khăn mặt rồi đắp lên cằm chàng để những sợi râu trở nên mềm hơn. Tôi dặn chàng ngửa cổ lên và không được động đậy, sau đó nhẹ nhàng kéo chiếc dao cạo lướt trên cằm chàng. Tôi đã học được "ngón nghề" này từ từ các chuyên gia nam ở khu vực thực nghiệm. Chàng nhìn tôi chăm chú, bóng tôi in trong đáy mắt sâu hun hút của chàng, tim đập rộn ràng. Làn da của chàng trơn mượt, mỗi lần chạm vào, tâm trí tôi bỗng trở nên bấn loạn. Sợ thiếu tập trung sẽ khiến chàng bị thương, tôi cố gắng định thần lại, giữ cho bàn tay vững vàng, xử lý gọn gàng đám râu ria mọc lởm chởm lâu ngày.
Sau khi cạo rửa xong xuôi, khuôn mặt chàng sáng sủa hẳn lên. Khi tâm trí tôi còn đang mê mẩn với vẻ thanh tú của gương mặt chàng thì trống bụng bỗng đổ liên hồi. Đã ba giờ chiều và tôi chưa có một hạt cơm nào trong bụng từ tối qua đến giờ. Tôi đỏ mặt xấu hổ, nhưng chàng đã nắm tay tôi, cười dịu dàng:
- Chúng ta ăn cơm thôi...
Chúng tôi ngồi đối diện nhau, cơm canh đã nguội ngắt nhưng tôi vẫn thấy ngon miệng lạ thường. Tôi vừa ăn vừa nhìn chàng, nụ cười ngây ngô không lúc nào tắt trên môi. Chàng mỉm cười rạng rỡ đáp lại, mười năm sương gió để lại vết dấu trên khóe mắt và vầng trán chàng, khi chàng cười, những nếp nhăn càng hiện rõ, tôi ước gì mình có thể xóa đi những dấu hiệu mỏi mòn của tuổi tác, tháng năm ấy. Tôi không muốn lại phải trải nghiệm mười năm đằng đẵng của chàng bằng vài tháng ngắn ngủi của mình nữa, lần này, tôi muốn được cùng chàng đi trọn con đường đời.
- Còn đau không?
Xong bữa, chàng nhẹ nhàng vuốt ve vết thương trên lưng tôi, vẻ xót xa dâng lên trong mắt. Tôi lắc đầu, nếu không nhờ một roi ấy, có lẽ chàng chưa thể bước ra khỏi những trăn trở nội tâm. Vì vậy, tôi không hề thấy đau.
Gương mặt chàng bỗng đỏ bừng, chàng cúi đầu khẽ hỏi:
- Để ta xem được không?
Tôi sững người, mặt mũi nóng ran, một xúc cảm kỳ lạ len lỏi trong tim. Do dự một lát, vẫn thấy chàng nhìn tôi chăm chú, tôi xoay người ngồi xếp bằng trên nền nhà, vén mái tóc sang một bên, thả áo xuống thắt lưng.
Chàng ngồi phía sau, nhìn hoài mà không lên tiếng. Tôi cảm thấy vô cùng bối rối khi phơi làn da trần trước mặt chàng, chỉ muốn nhanh chóng kéo váy lên, nhưng bàn tay chàng đã nhẹ nhàng giữ lại.
Chợt một cảm giác lành lạnh, chộn rộn nơi sống lưng, là bàn tay chàng đang dịu dàng lướt trên vệt roi quất ấy. Theo sau đó là đường môi ướt át nhưng ấm nồng của chàng gắn trên lưng tôi, từ đầu đến cuối vết thương, nụ hôn dài miên man ấy khiến toàn thân tôi rung động.
- Ngải Tình...
Bờ môi chàng kéo riết đến vành tai tôi, giọng nói trầm ấm, mê hồn cất lên:
- Ta sẽ không để nàng bị thương nữa.
Không gian quanh tôi tràn ngập dư vị nồng nàn, tôi bỗng cảm thấy căng thẳng, mồ hôi lấm tấm trên cánh mũi.
Cánh cửa phòng đột nhiên bật mở, tôi giật mình, vội vàng chỉnh lại y phục. Chúng tôi đã quên mất nơi này vốn là một nhà giam và người khác có thể ra vào bất cứ lúc nào. Nhưng thân hình cao lớn của Rajiva đã che chắn cho tôi.
Tên lính gác cửa người Đê thò đầu vào bẩm báo:
- Pháp sư, Lữ tướng quân mời ngài đến gặp.
Lữ Quang không nói muốn gặp tôi, nhưng vì lo lắng cho Rajiva, tôi chủ động đi theo chàng. Vẫn là đại điện to rộng ngày hôm qua, vẫn là đám con cháu bất nghĩa đang đứng vây quanh ông ta.
- Pháp sư, hương vị của đêm qua không tồi chứ? Thằng con ta đã tận mắt chứng kiến khoảnh khắc thăng hoa của ngài.
Lữ Quang cất tiếng cười thỏa mãn, không giấu diếm, hắn có vẻ rất hài lòng.
- Làm người thì nên tận hưởng niềm hoan lạc ấy, tụng kinh niệm Phật nhiều có gì vui thú đâu! Nếu ta không ra sức tác hợp, e là kiếp này pháp sư chẳng thể được thưởng thức mùi vị của niềm vui sướng tột độ ấy!
Vốn đã có sự chuẩn bị từ trước, rằng đến gặp ông ta là để nghe những lời nhục mạ chẳng kiêng nể gì ai, nhưng khi những lời ấy vang lên bên tai mình, tôi có cảm giác ghê tởm như ăn phải ruồi nhặng. Tôi lén quan sát Rajiva, mặt chàng hơi biến sắc, nhưng dáng vẻ vẫn đạo mạo, điềm tĩnh. Tôi ngậm ngùi nuốt giận, ai bảo chúng tôi là những kẻ yếu thế cơ chứ!
Lữ Quang đưa ánh mắt cú vọ sang phía tôi:
- Thì ra pháp sư cũng giống ta, chỉ thích những thiếu nữ yêu kiều, duyên dáng người Hán. Trong phủ đệ của ta ở Trường An đã thu nạp không ít phụ nữ Hán, ngày sau có dịp đến Trường An, ta nhất định sẽ tặng ngài vài nàng.
Rajiva vẫn lặng thinh không đáp, môi mím chặt, lưng vươn thẳng. Tuy khoác trên mình bộ y phục dân dã, nhưng vẻ ung dung, tĩnh tại trong mắt chàng, khí chất thanh cao, thoát tục của chàng khiến cho một kẻ thô thiển, kệch cỡm như Lữ Quang trở nên nhỏ bé hơn vài phần.
Thấy Rajiva lặng yên không đáp hồi lâu, chừng như bực tức, Lữ Quang đằng hắng vài tiếng:
- Mấy ngày tới pháp sư cứ an tâm nghỉ ngơi trong cung, ta sẽ cho người đến hầu hạ pháp sư chu đáo.
Rồi ông ta lại giả bộ tử tế, quan tâm:
- Pháp sư có thiếu thốn gì không?
Rajiva khẽ cúi người, hai tay chắp lại, điềm tĩnh đáp lời:
- Tôi rời chùa đã lâu, lòng đầy lo lắng. Nếu tướng quân cho tôi trở về chùa Tsio – li hoặc chùa Cakra thì tôi rất cảm ơn.
- Pháp sư không cần phải vội, ta còn rất nhiều vấn đề về Phật pháp muốn thỉnh giáo Pháp sư mà!
- Những vấn đề Phật pháp của ngài, tôi đây không đủ sức giải đáp.
Rajiva tỏ ra cương quyết không nhượng bộ:
- Tôi là người xuất gia, không màng thế sự. Tướng quân giam giữ tôi cũng chỉ có thể ép tôi phá đi thân giới, tấm lòng hướng Phật của tôi, ngài chẳng thể lay động được. Những điều tướng quân kỳ vọng ở tôi, e là tôi chẳng thể giúp gì cho ngài, mong ngài sớm từ bỏ ý định đó đi.
Tôi cảm thấy hết sức băn khoăn, lẽ nào Lữ Quang ép buộc Rajiva phá giới chỉ vì một vụ cá cược? Nhưng tôi nhanh chóng xua đi mối nghi ngờ đó, để ngẩng lên nháy mắt với Rajiva, ra hiệu cho chàng đừng kích động Lữ Quang.
Ông ta quả nhiên nổi trận lội đình, gầm rít lên những tiếng ghê rợn:
- Người giỏi lắm! ...
Nhưng Lữ Soạn đã kịp kìm ông ta lại. Hắn thì thầm nhỏ to vài câu gì đó vào tai Lữ Quang, sắc mặt ông ta trở nên thâm hiểm khó đoán, lấy hơi một hồi lâu ông ta mới giữ được bình tĩnh.
- Mấy ngày qua chắc pháp sư đã thấm mệt, ngài nghỉ ngơi đi.
Giọng nói của ông ta không có vẻ gì là thân thiện, tử tế.
Đêm qua pháp sư đã giúp ta thắng cược, giành được các mỹ nữ ở hậu cung Khâu Từ, lát nữa ta sẽ chọn vài cô xinh đẹp, mỹ miều để tặng pháp sư.
Rajiva liếc sang tôi, rồi quay ra cung kính nói:
- Tướng quân khỏi cần nhọc lòng, Rajiva tu hành đã nhiều năm, nội tâm trong sạch, lòng ít ham muốn, tôi không cần mỹ nữ nào nữa cả.
Chàng ngừng một lát, nói tiếp:
- Mong tướng quân đoái thương những người phụ nữ đó!
Lữ Quang cười ha hả:
- Pháp sư quả là người giàu lòng từ bi.
Rồi quay sang nhìn tôi.
- Thiếu nữ người Hán ở Khâu Từ không có nhiều, chờ khi ta tìm được nàng nào ưng mắt, sẽ tặng cho pháp sư.
Rajiva làm mặt nghiêm nghị, lặng thinh không đáp.
- Rajiva, Lữ Quang đã thắng cuộc, vì sao vẫn muốn giam giữ chàng? Ông ta muốn gì ở chàng?
Lựa lúc không có ai, tôi vội hỏi chàng câu hỏi quẩn quanh mãi trong đầu kể từ lúc gặp Lữ Quang đến khi trở về căn phòng giam giữ chúng tôi lúc trước.
- Ngải Tình, nàng có biết thất bại thảm hại của nước Tần trong cuộc đại chiến với nước Tấn không?
Tôi biết chứ và tôi tin hầu hết người Trung Quốc đều thuộc làu lịch sử về trận chiến đó. Đêm trước cuộc chiến, Phù Kiên vẫn còn là một bậc quân vương thành công nhất trong thời kỳ Thập lục quốc. Luận về cương vực, về cơ bản, lần đầu tiên Phù Kiên đã thống nhất toàn miền bắc Trung Quốc (lãnh thổ rộng lớn hơn thời kỳ của Thạch Lặc rất nhiều). Luật về phẩm cách, có thể xem Phù Kiên là một vị vua nhân từ hiếm có trong thời đại loạn (mà hầu hết các đấng quân vương đều là hôn quân). Luận về chính sách dân tộc, trong thời kỳ "không chung dòng tộc, ắt sinh khác lòng", phương châm của ông hết sức tiến bộ: hòa hợp dân tộc, không giết hại lẫn nhau. Nhưng trận đại chiến ở Phì Thủy đã làm thay đổi cục diện, thậm chí đã "đưa tang" nhà Tiền Tần vốn rất hùng mạnh trước đó.
Cuộc chiến kỳ lạ ấy vừa mới xảy ra một năm trước thời điểm tôi có mặt ở đây, vào tháng Mười một năm 383. Mức độ chênh lệch về lực lượng quân sự hai bên trong cuộc chiến này được đánh giá là kỳ lạ nhất trong lịch sử Trung Quốc: 87:18. Tính chất hoang đường của toàn bộ quá trình diễn ra cuộc chiến khiến không ai có thể tin nổi. Bên giành thắng lợi không hề nắm chắc phần thắng, cũng không hiểu do đâu mà chiến thắng. Bên thua, thua trong nỗi ngỡ ngàng, bàng hoàng, đế quốc Tiền Tần hùng mạnh sụp đổ chỉ trong một sớm một chiều.
Lữ Quang dẫn quân chinh phạt Tây vực vào tháng Giêng năm 383, trận Phì Thủy diễn ra vào đầu năm đó. Lữ Quang đánh chiếm Qarasahr (Yanqi), rồi tấn công Khâu Từ năm 384. Thực ra kế hoạch Tây chinh từng làm dấy lên cuộc tranh luận gay gắt trong triều đình của Phù Kiên từ trước đó. Nhiều đại thần không tán đồng việc phân tán lực lượng quân sự cho việc chinh phạt Tây vực, vì nhà Tần đang phải tập trung binh lực để đối phó với Đông Tấn. Nhưng sự tự tin thái quá được tích lũy sau những thắng lợi liên tiếp, khiến Phù Kiên muốn nhanh chóng trở thành Tần Hoàng (Tần Thủy Hoàng), Hán Vũ (Hán Vũ Đế) và ông cũng tự tin cho rằng lực lượng còn lại dư sức đối phó với Đông Tấn. Nếu không có cuộc Tây chinh này, e là muốn gặp đại tướng quân Lữ Quang, bạn phải tham gia trận chiến tại Phì Thủy. Và như thế, có lẽ đã không tồn tại nhà Hậu Lương do Lữ Quang dựng lên trong thời kỳ Thập lục quốc.
Nhưng trận chiến có ảnh hưởng to lớn đến lịch sử Trung Quốc ấy, đối với một quốc gia xa xôi tận miền Tây vực như Khâu Từ và bản thân Rajiva có mối liên quan gì?
- Lữ Quang đã hay tin nhà Tần bại trận. Tình hình hiện nay vô cùng rối ren, người Yên phục quốc, người Khương làm phản, vua Phù Kiên đã không còn đủ sức để cứu vãn thời cuộc.
Ánh mắt chàng rực sáng, chàng bóp mạnh tay tôi:
- Ngải Tình, theo nàng, vì sao nước Tần đang khốn đốn và cần viện binh như vậy, Lữ Quang lại ghìm giữ binh lính ở Khâu Từ dài ngày, không chịu quay về?
Suy nghĩ giây lát, tôi chợt hiểu ra:
- Ông ta muốn làm vua Tây vực?
Vào thời Thập lục quốc, hầu hết những kẻ nắm giữ trong tay chút ít binh quyền đều muốn cát cứ, xưng vương xưng bá. Luận về dũng mãnh, Lữ Quang không bằng Thạch Lặc, luận về độ gian xảo, ông ta không bằng Diêu Trường, luận về mưu lược, cũng không bằng Mộ Dung Thùy. Nếu không có trận Phì Thủy, ông ta sao dám sinh lòng bội phản với triều đình Phù Kiên. Nhưng tình thế hiện nay đã khác, ông ta cầm quân ở nơi xa xôi, Phù Kiên lại đang đau đầu với quân phản loạn khắp nơi, chẳng còn hơi sức và tâm trí đâu mà nhớ tới Lữ Quang, bởi vậy, Lữ Quang nảy sinh tham vọng xưng bá cũng là dễ hiểu. Giữa vòm trời cao rộng, ở nơi khuất bóng hoàng đế này, ông ta có thể làm mưa làm gió mà không ai động đến.
Rajiva gật đầu:
- Đúng vậy! Lữ Quang có dã tâm rất lớn, những chức tước mà vua Tần phong cho ông ta: Tán kỵ thường thị, An Tây tướng quân, Tây vực hiệu úy đều không thỏa mãn tham vọng bành trướng và xưng bá của ông ta.
Có câu: "Đầu gà còn hơn đuôi phượng" mà!
Tôi chợt nhớ đến một chuyện cười có thật ở nước Nam Yên thời Thập lục quốc: Một người có tên là Vương thủy tập hợp được mấy vạn người trên núi Thái Sơn, tự xưng là hoàng đế Thái Bình, tôn cha mình làm Thái thượng hoàng, các anh em trai lần lượt là Chinh Đông, Chinh Tây tướng quân và hàng trăm chức quan khác. Sau khi bị quân đội Nam Yên đánh bại, lúc đưa ra hành quyết, có người hỏi ông ta: "Cha và các anh em của ngươi ở đâu?" Ông ta đáp: "Thái thượng hoàng lánh nạn ở nơi xa, các tướng Chinh Đông, Chinh Tây đã bị giết hại". Vợ ông ta tức giận mắng: "Xảy ra cơ sự ngày hôm nay chính là tại cái miệng tai bay vạ gió của ông đó! Ông còn chưa chịu tỉnh ngộ hay sao?". Ông ta đáp: "Hoàng hậu ơi, từ cổ chí kim, có gia đình nào không suy vi, có quốc gia nào không diệt vong. Đến ngày suy vi, trẫm cũng đành ngậm đắng nuốt cay, nhưng quyết không đổi quốc hiệu!".
Thật nực cười! Thực ra trong một trăm ba mươi năm lịch sử ấy, Trung Quốc không chỉ tồn tại mười sáu nước, mười sáu nước này chỉ là những tiểu quốc có quốc hiệu chính thức và có sự kế thừa ngôi báu. Nếu tính chính xác, thì giai đoạn lịch sử đó phải có đến hai, ba chục quốc gia tồn tại. Vương Thủy tuy ngu muội, nhưng ông ta đã phát biểu chính xác tham vọng của các tiểu bá thời bấy giờ. Không ai khi sinh ra đã là một bậc đế vương! Vả lại, gia đình nào rồi cũng đến lúc suy vi, quốc gia nào rồi cũng đến hồi sụp đổ, vậy thì cứ đăng cơ làm hoàng đế cái đã, rồi tính sau. Lữ Quang nắm trong tay cả một đội quân, lẽ nào ông ta không có tham vọng bá vương đó.
Nhưng điều này có liên quan gì đến việc giam giữ Rajiva?
Thấy tôi vẫn đầy vẻ thắc mắc, Rajiva tiếp tục giải thích:
- Lữ Quang vốn là người nơi khác đến, quân đội của ông ta cũng chỉ có bảy vạn quân. Ông ta chỉ dựng lên một vương triều bù nhìn thì sao có thể duy trì lâu dài?
Vậy là tôi đã hiểu! Đó là mối quan hệ giữa chính quyền và tôn giáo. Lữ Quang muốn bám rễ ở nơi đây với binh lực nhỏ bé như vậy, chẳng thể đủ sức trấn áp và cai quản miền Tây vực rộng lớn với hàng mấy chục tiểu quốc. Thế nên, ông ta buộc phải dựa vào sức mạnh của tôn giáo, để công nhận quyền lực chính thống của ông ta ở Tây vực – vùng đất vốn hết sức sùng bái đạo Phật. Và Rajiva lại là đại diện của thần quyền ở đây, Nếu Rajiva công khai công nhận tính hợp pháp của chính quyền Lữ Quang, ông ta sẽ không chỉ có được Khâu Từ, mà còn có thể có được sự quy thuận của mấy chục vạn dân khắp vùng Tây vực rộng lớn. Như vậy, đại nghiệp xưng bá ở Tây vực của ông ta sẽ không cần phải dựa vào sức mạnh vũ trang nữa.
- Rajiva, Lữ Quang muốn xưng bá Tây vực, nhưng sức mạnh quân sự không đủ, nên mới phải cầu đến sự trợ giúp của chàng. Nhưng chàng không chịu khuất phục, chàng không muốn thừa nhận quyền lực của ông ta, đúng không?
Ánh mắt Rajiva lộ vẻ tán thưởng, chàng khẽ cúi đầu, nắm chặt hai vai tôi:
Nàng luôn là người hiểu ta nhất. Lữ Quang muốn ta đi tuyên truyền rằng ông ta là hóa thân của Quan Thế m Bồ Tát, được Bồ Tát sai phái đến để cứu độ người dân Tây vực.
Tôi lắc đầu. Phàm những kẻ có dã tâm cướp đoạt vương vị đều nghĩ ra một cái cớ mang tên "điềm lành" và đều tự xưng mình là háo thân của một vị thần tiên nào đó. Nhưng những điều thuộc về tâm linh này phải dựa vào một người nắm giữ thần quyền giúp hắn thực hiện mưu đồ. Lữ Quang đâu biết rằng, Rajiva không phải là Buddhasimha (Phật Đồ Trừng), nhà sư người Ấn Độ sống ở thời đại Thạch Lặc, Thạch Hổ, chịu khuất phục nhà cầm quyền đương thời. Rajiva cũng không giống Huyền Trang, hết lời ca tụng công đức của hoàng tộc và ra sức thiết lập mối quan hệ mật thiết với hoàng đế. Rajiva xuất thân cao quý, từ nhỏ đã vang danh khắp chốn, chàng coi sự tôn trọng và kính trọng của nhà cầm quyền đối với chàng là điều hiển nhiên, bởi vậy, chàng chưa bao giờ nghĩ rằng, chính trị có thể lấn lướt và áp đặt thần quyền như thế.
- Chàng từ chối, nên không còn cách nào khác, ông ta đã ép chàng phá giới hòng uy hiếp chàng?
Chàng gật đầu, vẻ mặt nghiêm nghị:
- Ông ta đâu biết rằng, ta có thể phá giới, nhưng quyết không phục tùng. Ta làm vậy không phải vì ông ta là người ngoại tộc. Nếu Lữ Quang là một bậc minh quân, biết quan tâm chăm lo cho lẽ dân, ta nhất định sẽ ủng hộ ông ta. Nhưng ông ta lại là một kẻ tàn bạo, hoang dâm, ngu muội, lòng dạ ích kỷ, hẹp hòi, chưa bao giờ biết mưu lợi cho dân. Nếu ta công nhận quyền lực của Lữ Quang, sẽ gây hại không chỉ cho hơn mười vạn dân Khâu Từ, mà thậm chí cả mấy chục vạn dân Tây vực... Ngải Tình, nàng biết không, ông ta đã chôn sống hai vạn binh sĩ người Khoái Hồ ngay cả khi họ đã đầu hàng.
Nỗi bi phẫn khiến gương mặt chàng trở nên ảm đậm, chàng giận dữ nắm chặt tay lại:
- Chém giết lẫn nhau trong chiến tranh đã là tội lỗi tày trời, vậy mà ông ta còn chôn sống cả những người đã giơ tay chịu trói. Ông ta đã tước đoạt mạng sống của hai vạn người. Loại người như ông ta đời đời kiếp kiếp cũng không thể được siêu thoát. Nếu ta lại đi tiếp tay cho giặc, hại đến muôn dân, thì sao xứng là đệ tử nhà Phật?
Đào hố chôn người là thủ đoạn phổ biến nhất sau mỗi cuộc chiến tranh trong thời kỳ Thập lục quốc. Số lượng binh sĩ bị chôn sống thường lên đến vài chục ngàn người. Bởi vì các cuộc chiến tranh xảy ra trong thời kỳ này, hầu hết đều là cuộc chiến giữa các tộc người khác nhau.
"Không cùng dòng tộc, ắt sinh khác lòng", đào hố chôn người có thể làm hao tổn nghiêm trọng lực lượng của đối phương, lại vừa có thể trừ hậu họa. Sự kiện chôn sống người thảm khốc nhất diễn ra trong trận chiến ở dốc Tham Hợp, quân Bắc Ngụy đã chôn sống năm vạn binh sĩ Hậu Yên. Năm thứ hai sau trận chiến dốc Tham Hợp, người anh hùng Mộ Dung Thùy đã thân chinh cầm quân đi báo thù, khi ngang qua hố chôn người ở dốc Tham Hợp, ông cùng tướng sĩ đã khóc thương thảm thiết, sau đó ông bị nôn ra máu, bệnh tình ngày càng nguy kịch và không lâu sau thì mất, kết thúc cuộc đời oanh liệt, đồng thời kết thúc vương triều Hậu Yên hùng mạnh.
Ngày trước đọc sách sử, mỗi khi đến đoạn thảm khốc, tôi thường rơi nước mắt, nhưng chẳng thể so sánh với nỗi sợ hãi của ngày hôm qua, khi tôi được tận mắt chứng kiến hố chôn người khủng khiếp ấy. Khi những con số biến thành hàng chồng thi thể đẫm máu, tôi mới cảm nhận được sự khốc liệt, khủng khiếp của chiến tranh đằng sau những con chữ vô cảm. Những gì tôi trải qua ngày hôm qua khiến tôi hạ quyết tâm sẽ không thờ ơ trước mọi sự. Nếu có thể ngăn chặn thảm kịch, tôi sẽ không ngại thay đổi lịch sử. Làn sóng nhiệt huyết trào dâng trong tôi, tôi đưa mắt ngước nhìn người đàn ông cương nghị, nho nhã trước mặt mình. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến một Rajiva kiên cường như vậy khi đối mặt với quyền lực. Người tôi yêu, giờ đây, cũng là người mà tôi kính phục nhất.
Tôi nắm lấy bàn tay chàng, nhìn chàng, nở một nụ cười rạng rỡ:
- Chàng nhớ nhé, dù chàng quyết định thế nào, em sẽ luôn ủng hộ chàng.
Chàng đặt tay mình lên tay tôi, truyền cảm xúc cho tôi:
- Trước khi nàng xuất hiện, ta chẳng sợ gì cả. Ta thậm chí đã nghĩ, nếu bị dồn đến chân tường, ta sẽ tự vẫn...
- Đừng!
Tôi hoảng hốt đặt tay lên môi chàng:
- Xin chàng đừng nói những lời như vậy. Em sẽ bảo vệ chàng.
Nụ cười ngọt ngào tỏa rạng gương mặt chàng, chàng đặt tay tôi vào lòng bàn tay ấm áp của mình, dịu dàng nói:
- Nhưng nàng đã trở về, ta không còn ý nghĩ đó nữa... Nàng còn nhớ bài giảng của nàng về "Mạnh Tử" không? "Vậy nên khi muốn trao trọng trách cho một người, ông trời sẽ tạo ra muôn vàn thử thách, khiến anh ta đau khổ, khiến anh ta mệt mỏi, khiến anh ta đói khát, gầy mòn, khiến anh ta cơ cực, làm rối loạn hành vi của anh ta, khiến anh ta không được như ý. Thông qua những khổ nạn đó, rèn luyện sự tỉnh táo, tính kiên cường và bồi đắp tài năng của anh ta". Những gian nguy mà ta phải trải qua là sự khảo nghiệm của Phật tổ đối với Rajiva. Chí lớn của ta, sao có thể bị mai một bởi một kẻ ngang ngược như Lữ Quang?
- Nhưng Lữ Quang sẽ không dừng lại ở việc ép chàng phá giới, ông ta sẽ còn dùng nhiều thủ đoạn tàn bạo hơn để ép buộc chàng.
Sử sách chép rằng, Lữ Quang đã ép Rajiva cưỡi ngựa ác, bò điên để làm trò cười cho thiên hạ. Nhưng đó chỉ là những ghi chép vắn tắt trong sách, hành vi sỉ nhục và sự đày đọa trên thực tế thê thảm hơn rất nhiều.
- Ta không sợ.
Chàng dịu dàng vuốt má tôi, khẽ thở dài, ánh mắt do dự:
- Nhưng, sẽ khổ cho nàng...
- Chàng đừng bận tâm về em, em có thể tự lo cho mình.
Chúng tôi chìm trong mắt nhau, vòng tay khép chặt. Bóng tịch dương xuyên qua khung cửa sổ, tỏa rạng vầng trán cao rộng của chàng. Hạnh phúc như hoa nở trên môi tôi. Dù chông gai đang chờ ta phía trước, em vẫn nguyện được theo chàng.
Chương 45: Lồng son
Hai chúng tôi cùng tròn xoe mắt trước cảnh tượng ấy. Khắp nơi khảm nạm ngọc ngà châu báu, ngay cả rèm cửa sổ, khăn trải bàn cũng đính kim tuyến lấp lánh. Một chiếc bàn ghép từ khối ngọc trắng khổng lồ đặt giữa phòng. Căn phòng lấp lánh vàng bạc châu báu khiến tôi nhức cả mắt. Hơn mười cung nữ xếp thành một hàng dài, trong tư thế nửa quỳ lạy, đồng thanh cất giọng oanh vàng lảnh lót:
- Xin nghe quốc sư sai bảo!
Tôi hỏi nhỏ cung nữ đứng gần mình nhất:
- Đây là nơi nào vậy?
Cô ta hơi sững người, cung kính đáp:
- Là tẩm cung (phòng ngủ) của tiên vương và công chúa Wusun mà người sủng ái nhất!
Ra là vậy! Khi nãy tên lính gác cửa người Đê[26] nhắc nhở chúng tôi dọn dẹp đồ đạc rồi đi theo bọn họ, tôi cứ nghĩ sẽ bị tống vào một nhà lao hoặc một nơi tương tự như thế, nào ngờ lại là một cung điện xa hoa, tráng lệ. Thực ra đây vẫn là một nơi giam cầm, có điều là một nhà giam sang trọng, một cái lồng son. Có vẻ như, chiêu đầu tiên Lữ Quang nghĩ đến để mua chuộc Rajiva là dùng của cải và mỹ nữ.
[26] Hoặc người Chi.
Vẻ mặt Rajiva bình thản, không chút biểu cảm, giọng chàng ôn hòa nhưng chắc nịch khi nói với đám cung nữ, rằng chúng tôi không cần ai hầu hạ và cho họ lui ra ngoài.
Chờ khi chỉ còn hai chúng tôi, chàng nhìn quanh một lượt, thở dài ngao ngán:
- Quá ư xa hoa! Trước lúc lên đường đi Thiên Trúc, mẹ từng căn dặn nhà vua, nội chính không nghiêm, giặc ngoài ắt mạnh, thế nước yếu hèn, suy vi có lúc.
Chàng trầm ngâm một lát, lắc đầu:
- Nhà vua có kết cục ngày hôm nay cũng là tất yếu.
- Rajiva, Lữ Quang đổi nơi giam giữ chàng đến chốn này, mục đích của ông ta đã rất rõ ràng.
Tôi đan những ngón tay mình vào tay chàng, cùng chàng quan sát tất cả những đồ dùng xa xỉ, bắt mắt, khiến người ta phải choáng ngợp trong căn phòng.
- Ông ta muốn chàng đắm chìm trong đời sống xa hoa, hưởng lạc với của cải và mỹ nữ, khiến chàng nhụt chí.
- Ta tin mình có thể chiến thắng cám dỗ. Của cải vật chất chẳng qua chỉ là vật ngoài thân, với ta, chẳng khác nào cát bụi. Còn mỹ nữ...
Chàng dừng lại, nhìn vào mắt tôi, nụ cười dịu dàng đậu trên khóe môi:
- Ba ngày bị giam cùng công chúa ta đã chẳng hề động lòng, mỹ sắc không thể khiến ta dao động.
Chàng kéo tôi vào lòng, bàn tay vuốt một đường dịu dàng từ đỉnh đầu, theo làn tóc, xuống đến eo, giọng chàng rủ rỉ bên tai tôi:
- Trên đời này, người duy nhất có thể khiến Rajiva bằng lòng phá giới, cam chịu bị đày xuống địa ngục, chỉ có nàng thôi...
Hai má tôi nóng bừng. Câu nói ấy ngọt ngào hơn bất cứ lời thề non hẹn biển nào, khiến hồn phách tôi điên đảo, một cảm giác lạ kỳ xâm chiếm toàn thân.
Cánh tay chàng xiết eo tôi ngày càng chặt hơn, tôi áp tai lên ngực chàng, nghe tiếng trái tim mình gõ nhịp dồn dập, tôi gọi khẽ:
- Rajiva...
Giọng nói của tôi nghe như một tiếng nấc nghẹn.
Chàng đột ngột rời khỏi tôi, hít thở nhiều lần, ánh mắt trôi ra ngoài khung cửa sổ:
- Khuya rồi, nàng đi tắm rồi nghỉ sớm đi.
Cung điện nguy nga này có một bồn tắm rất lớn, khi tôi vừa bước chân vào, hai má nóng ran. Trên bốn bức tường đều gắn những chiếc gương dạng đĩa đồng khổ lớn, đứng ở bên trong, hình ảnh khỏa thân của bạn sẽ được chiếu rọi ở mọi góc độ. Hơi nước tỏa lên mờ mịt, càng khiến cho không gian trở nên mơ màng, mộng mị. Một cung nữ bước vào, nói rằng muốn giúp tôi, nhưng tôi vội vàng từ chối. Những cánh hoa dập dờn trên mặt nước, mùi hương tỏa bay ngào ngạt. Ngâm mình trong bồn tắm, không thể kìm chế bản thân tưởng tượng ra cảnh tắm chung của đức vua Bạch Thuần và công chúa Wusun, những tấm kính sáng loáng này sẽ chiếu rọi bao nhiêu cảnh diễm tình? Tôi cố gắng xua đi những ý nghĩ vẩn vơ đó, chỉ muốn nhanh chóng tắm cho xong để ra khỏi đây. Nhìn bộ quần áo mà họ chuẩn bị cho mình, tôi không khỏi đỏ mặt. Đó là một chiếc váy dài bằng lụa mỏng màu hồng, khuy áo trễ nải buông xuống tận đôi gò bồng đảo, váy xẻ cao đến tận hông. Trang phục kiểu này rõ ràng mặc vào là để quyến rũ người khác mà! Thôi, tôi cứ mặc lại bộ Hán phục mà phu nhân của Pusyseda chọn cho tôi vậy!
Rón rén bước ra từ buồng tắm, đang thấp thỏm lo âu không biết tình hình tối nay sẽ ra sao, tôi đã thấy Rajiva ngồi thiền tụng kinh trên thảm, vẻ mặt bình thản. Có lẽ do tôi quá căng thẳng đó thôi!
Nghe thấy tiếng động, Rajiva mở mắt nhìn tôi, mặt chàng bỗng ửng đỏ, chàng khẽ cúi đầu:
- Đêm nay nàng ngủ trên giường lớn, ta sẽ ngủ giường nhỏ.
Chiếc giường lớn trang trí lộng lẫy đặt ở vị trí bắt mắt nhất, màn màu hồng rủ xuống điệu đà, dưới ánh đèn lung linh, càng trở nên mê hoặc lạ thường. Hai má nóng bừng, tôi bước tới một góc của chiếc "giường mỹ nhân" [27]. Chiếc giường vô cùng tinh xảo và xinh đẹp, rộng đủ hai người nằm.
- Em sẽ nằm giường nhỏ.
Không chờ chàng đáp lời, tôi vội vàng kéo chăn trùm đầu, xoay mặt vào tường, nhắm mắt lại. Hồi lâu vẫn thấy sau lưng không có động tĩnh gì, nhưng tôi có thể cảm nhận được, chàng đang đứng rất gần tôi. Lòng bàn tay bỗng nhiên đổ mồi hôi, tôi bồi hồi không hiểu mình đang ngóng chờ điều gì.
Rất lâu sau tôi mới nghe thấy tiếng bước chân vang lên, xa dần, nhỏ dần và kết thúc bởi tiếng cánh cửa khép lại. Tôi mở mắt, quay đầu nhìn, chàng đã ra khỏi cung điện. Bên ngoài là một khoảng sân vườn nho nhỏ, cũng nằm trong phạm vi đi lại tự do của chúng tôi.
Tôi lờ mờ đoán ra dụng ý của chàng, nên không dám đi theo, sợ khuấy động không gian thanh tịnh của chàng. Tôi mệt mỏi nhắm mắt lại. Kể từ khi quay lại khu vực thực nghiệm cho đến đêm qua, chưa đêm nào tôi được ngon giấc. Thần kinh căng lên như dây đàn. Phía trước còn cả một chặng đường dài đầy trông gai đang chờ đợi, bởi vậy tôi phải nghỉ ngơi.
Nghĩ vậy, tôi thấy nhẹ nhõm hơn, giấc ngủ say sưa ập tới. Trong cơn mê man, dường như tôi cảm nhận được một sự tiếp xúc khẽ khàng trên trán mình và một âm thanh nhẹ như gió thoảng bên tai:
- Ngủ ngon nhé, mấy ngày qua thật tội cho nàng!
Tôi ậm ừ đáp lời trong vô thức, xoay người, hình như tôi gối lên một vậy gì đó rất thoải mái và thế là lòng phơi phới, tôi bay đi tìm Chu Công[28].
[28] Người Trung Quốc thường nói "đi gặp Chu Công", tức là đi ngủ và nằm mơ.
Trước mắt tôi là một khuôn mặt rất bự với hai hàng lông mày dài, chiếc cằm thuôn nhọn, đôi mắt khép chặt, hơi thở đều đều lướt trên mặt tôi. Tôi giật mình, bật dậy, cánh tay từ trong chăn vung ra mạnh quá, đập vào người chàng. Chàng co người lại phía sau, lúc mở mắt, chàng khẽ rên lên vì đau điếng, nhưng vẫn nằm yên và rồi khép chặt mắt lại.
- Chàng có sao không?
Tôi nhổm dậy, không biết khi nãy đã đập tay vào đâu, chàng xuýt xoa, có vẻ rất đau đớn.
- Không sao.
Chàng cắn môi, mắt vẫn nhắm nghiền, mặt đỏ bừng, sau đó nghiêng đầu sang một bên:
- Nàng dậy trước đi.
Tôi vẫn nằm yên trên giường, vậy là chàng đã không ngủ trên chiếc giường to rộng đằng kia mà chạy đến chỗ tôi.
- Sao chàng lại ngủ ở đây?
Tôi cất giọng lí nhí hỏi chàng.
- Giới luật nhà Phật quy định, ta không được ngủ trên giường to chiếu rộng. Nhưng thấy nàng ngủ say sưa, không nỡ đánh thức nàng, nên cả đêm đành nằm như vậy.
Tôi nhớ giới luật đó, vì chàng từng nhắc đến. Không biết chàng có căng thẳng giống tôi trong đêm đầu tiên nằm bên chàng hay không? Không biết chàng ngủ có ngon không? Bao nhiêu câu hỏi quẩn quanh trong đầu, bao suy nghĩ miên man, đan xen, dồn lại thành một cảm giác ấm áp, đột nhiên tôi thấy buồn cười. Tôi muốn chọc chàng:
- Chỉ là cái cớ, đúng không? Nhìn chàng là em biết.
Chàng quay đầu lại, thấy tôi cười, khuôn mặt càng đỏ lên gay gắt, hàng mi rủ xuống, những âm thanh lí nhí thoát qua kẽ răng:
- Nàng... bị nàng phát hiện ra rồi! Cả đêm như vậy... ta không thể tĩnh tâm tụng niệm...
- Tôi ngẩn ngơ, ý chàng là...
Ánh mắt tò mò lướt trên người chàng, tuy phủ kín chăn, nhưng vẫn có thể nhận ra sự bất thường. Tôi chỉ muốn chui xuống một cái hố nào đó ngay lúc ấy.
Tôi biết sức chịu đựng và kìm chế của chàng là phi thường, không ai sánh nổi, vì cả đêm chàng không hề đụng vào tôi. Nhưng phải kìm chế bản thân suốt đêm dài như vậy, phải chăng chàng đã rất khổ sở?
Tôi lấy hết can đảm, khẽ hỏi:
- Chàng... có muốn không?
Chàng tròn xoe mắt nhìn tôi vẻ kinh ngạc, sau đó thì phấn chấn, hồ hởi nhổm dậy, áp sát vào người tôi. Đôi mắt màu xám nhạt, thường ngày trầm lắng như mặt nước hồ thu, lúc này bỗng nhiên nổi sóng. Hơi thở gấp gáp, chàng run rẩy tìm môi tôi, nhưng nửa chừng bỗng nhiên dừng lại, đổ người xuống, nghiêng đầu ảo não:
- Không được...
Chàng nhắm mắt, vẻ mặt đau khổ:
- Nàng sẽ ra máu... và sẽ bị thương lần nữa...
Tôi ngẩn người, thì ra chàng cố kìm chế không chạm vào người tôi là vì điều này. Sao chàng có thể thuần khiết như vậy! Bảy tuổi đã xuất gia, tuy tiếng tăm lừng lẫy khắp chốn, nhưng đó chỉ là thành tựu của chàng trong lĩnh vực Phật học. Khi chàng bước lên bục cao, chàng là bậc danh sư lỗi lạc trong con mắt của hàng vạn người, sự thông tuệ của chàng không ai sánh kịp. Nhưng về vấn đề tình dục, chàng hầu như không có một chút kiến thức nào. Có lẽ trong suốt ba mươi lăm năm qua, chàng chưa bao giờ nghĩ rằng mình cần tìm hiểu những tri thức này, cũng như cấu tạo của cơ thể phụ nữ.
- Rajiva, nhìn em đi nào!
Tôi chống một tay ngồi lên, tay còn lại tôi xoay nhẹ cằm chàng, kéo gương mặt chàng về phía mình.
- Phụ nữ chỉ bị chảy máu trong lần đầu, sau đó sẽ hết. Vì vậy, chàng đừng lo em sẽ bị thương.
- Ngải Tình...
Chàng không dám nhìn tôi, cánh môi run run, câu hỏi được thốt ra trong sự gắng gượng đầy gian nan.
- Nàng không khinh ghét ta chứ?
- Vì sao?
Tôi ngạc nhiên.
- Vì lục căn của ta không thanh sạch, vì ta không thể dứt bỏ ham muốn.
Chàng nhắm mắt lại, hàng lông mày dài không ngừng rung động.
- Đêm qua vì sợ bản thân không kìm chế nổi, ta đã lặng lẽ ra ngoài sân tụng kinh rất lâu. Nhưng khi trở vào phòng lại khát khao được chạm vào người nàng. Nàng thiếp đi trên tay ta, khiến ta nhớ lại mười một năm trước khi nàng vừa trở về, trên đường đi, nàng đã gối lên đùi ta ngủ ngon lành. Hình ảnh đó khiến ta không sao kìm chế được ham muốn. Đêm qua ta đã tắm rửa rất nhiều lần, nhưng cứ nằm bên cạnh nàng, trong đầu ta lại nảy sinh dục vọng ma quái. Ta không thể nào chợp mắt nổi và cứ trằn trọc như vậy cho đến tới tận giờ tụng kinh buổi sáng... Sợ gây tiếng động, khiến nàng thức giấc, ta ra ngoài vườn tụng kinh. Cứ nghĩ không nhìn thấy dáng vẻ của nàng khi ngủ thì sẽ không nảy sinh ham muốn và như thế sẽ có thể tĩnh tâm tụng niệm. Nhưng không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, ta lại quay trở vào phòng và nằm xuống cạnh nàng. Nàng nói đúng, ta đã kiếm cớ để đến gần nàng.
Chàng mở mắt, cuối cùng chàng đã chịu nhìn thẳng vào mắt tôi, vẻ sám hối và nỗi khát khao đan xen trong ánh mắt chàng.
- Ta thiếu tôn trọng nàng như vậy, nàng có khinh ghét ta không?
Tôi mỉm cười, làm sao có thể không yêu người đàn ông này được chứ! Chàng chỉ biết vùi đầu vào tụng niệm để xóa tan dục vọng trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng. Nếu không phải vì những nguyên nhân khách quan o bế, tôi tin rằng, chàng sẽ bảo vệ sự thanh sạch của mình đến cùng. Chính vì dành trọn tâm huyết cho lý tưởng truyền bá Phật pháp, nên dù đã ở tuổi ba mươi lăm, chàng vẫn thuần khiết, trong sáng như ngày nào. Hơn hai mươi năm qua chàng không hề thay đổi. Tôi bỗng thấy xúc động, liệu thế kỷ XXI còn có người đàn ông nào thuần khiết như chàng không?
Tôi muốn chàng được tận hưởng sự gắn kết hài hòa của thể xác và linh hồn, nên tôi sẽ phải chủ động. Tuy tôi cũng chỉ có những kiến thức sách vở, nhưng dù sao cũng là con người của thế kỷ XXI, hiểu biết của tôi về vấn đề này chắc chắn phong phú hơn chàng. Tôi nghĩ tôi có rất nhiều điểm giống chàng, từ nhỏ đến lớn, tôi mải mê theo đuổi mục tiêu: đọc vạn cuốn sách, đi vạn dặm đường, nên chưa từng yêu ai. Những bộ phim và những cuốn sách cấm trẻ em dưới mười tám tuổi, tôi cũng chưa từng xem, chưa từng đọc. Bởi vì lý tưởng đã chiếm trọn tâm trí tôi, tôi không có thời gian để nghĩ đến những thứ khác. Có lẽ, tôi cũng có thể coi là một kẻ lập dị trong thế kỷ XXI, thế kỷ của ham muốn và hưởng thụ lan tràn.
Tôi nhỏ nhẹ cất tiếng:
- Tình dục không phải điều gì đáng sợ hay xấu xa. Cơ thể của người đàn ông và người đàn bà là do tạo hóa sinh ra, tình ái cũng là một vẻ đẹp của tự nhiên và là điều tuyệt vời nhất trên đời. Chàng khao khát em, không có nghĩa là chàng không tôn trọng em mà vì chàng yêu em.
Tôi ngừng lại, đắm đuối nhìn ngắm gương mặt mà tôi chưa bao giờ ngắm thỏa ấy, khẽ hỏi:
- Rajiva, chàng có yêu em không?
Chàng mở miệng, muốn nói nhưng chẳng thốt được nên lời, nỗi thẹn thùng đã nhuộm đỏ cả chiếc cổ thiên nga của chàng.
Tôi đặt tay lên miệng chàng, lắc đầu:
- Chàng không cần nói gì cả, từ lâu em đã biết được câu trả lời rồi... Tình dục không phải ham muốn từ một phía, hai người yêu nhau đều khát khao được có nhau.
Những ngón tay tôi đùa trên hàng lông mày dài của chàng, mơn man đến đôi mắt sâu thăm thẳm, đến sống mũi cao thanh tú và cuối cùng dừng lại trên làn môi đang khe khẽ rung động.
- Em yêu chàng, nên em cũng khát khao được chạm vào người chàng, Em cũng từng có những giấc mộng yêu đương. Em cũng ham muốn chàng...
Tôi không hiểu vì sao giọng nói của mình lại gợi cảm đến thế! Mỉm cười yêu kiều, tôi cúi xuống hôn chàng. Hương vị mềm ướt trên làn môi chàng thấm nhuần vào tận tim gan của tôi, chàng khẽ thốt lên một tiếng, mở rộng miệng để tôi xâm nhập vào bên trong, rồi cùng tôi giao hòa, quấn quýt. Chàng khẽ khép hờ đôi mắt, hàng mi rung rinh, sóng mắt xao động, tay chàng đỡ lấy lưng tôi, áp chặt tôi vào người chàng.
Tôi đột ngột rời môi chàng, nhìn mắt chàng dâng lên nỗi thất vọng, không nhịn nổi cười. Tôi áp tay chàng lên má mình, khẽ nói:
- Hãy nghe theo bản năng và mong muốn của chàng. Khoảnh khắc này, hãy quên đi mọi thân phận, giờ đây chàng chỉ là một người đàn ông và em là người phụ nữ của chàng. Chỉ cần chàng muốn, em sẽ không từ chối.
- Ngải Tình...
Chàng gọi tên tôi đầy cảm kích, vẻ do dự, chần chừ đã hoàn toàn biến mất, chàng xoay người trùm lên mình tôi. Đáy mắt rực lửa, bờ môi nóng rẫy lướt trên mắt, trên mũi, trên môi tôi, quấn quện đầu lưỡi tôi. Bàn tay chàng đã đặt lên nút áo bên sườn trái của tôi, nhưng loay hoay mãi không kéo ra được.
Chàng rời môi tôi, chăm chú quan sát cấu tạo những nút áo, vẻ ảo não, khổ sở trên gương mặt chàng giống hệt vẻ bối rối của cậu thiếu niên Rajiva hai mươi năm về trước. Tôi không nhịn nổi cười, một cảm giác ngọt ngào tỏa lan khắp cơ thể tôi.
Rốt cuộc cũng xử lý xong các nút áo, chàng tháo thắt lưng của tôi, kéo hai tà áo sang trái sang phải. Khi bụng tôi lộ ra, dường như có cơn gió lạnh từ đâu ùa tới, nhưng chẳng thể làm dịu đi cơ thể đang nóng bừng của tôi. Tôi thở hổn hển, mồ hôi lăn tăn trên trán, nhưng tôi không giấu mặt đi, vì tôi muốn được thấy biểu cảm của chàng khi chàng ngắm nhìn cơ thể tôi.
Chàng thận trọng như nựng trên tay báu vật. Tôi vẫn mặc áo ngực. Chàng chớp mắt hồi lâu vẫn không tìm ra cách xử lý, chàng bối rối kiếm tìm nút thắt ở đai bên sườn tôi. Tôi xoay người lại, chàng nhìn thấy khuy áo, nhưng lần này độ khó đã tăng lên rất nhiều so với nút áo choàng bên ngoài. Chàng thử đi thử lại nhiều lần vẫn không thành công, nên đành ngước đôi mắt cầu cứu về phía tôi.
Tôi mỉm cười, nhưng bàn tay không khỏi run rẩy, tháo khuy áo xong, tay tôi đã đẫm mồi hôi. Nhìn thấy ánh mắt chàng đổ dồn vào chỗ đó, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ, lấy tay định che đi, nhưng đã bị tay chàng nhẹ nhàng kéo ra. Bàn tay chàng run rẩy khám phá, bờ môi chàng hôn lên một bên ngực tôi.
- Ngải Tình, nàng đẹp lắm!
Những âm thanh khẽ khàng của sự tiếp xúc và tận hưởng khiến toàn thân tôi run rẩy, bàn tay chàng êm ái lướt trên khắp cơ thể tôi, nụ hôn da diết trườn trên ngực, lên đến cổ và dừng lại bên tai tôi. Khi chàng ngậm vành tai tôi, tôi bỗng giật thót mình, vội vàng né tránh.
- Nàng sao vậy?
Chàng ngẩng đầu, ánh mắt tha thiết, lo lắng.
- Không sao. Chỉ là...
Tôi ngượng ngùng, ấp úng:
- Chỉ là... Vành tai của em rất nhạy cảm, nếu ai đó khẽ thổi vào tai là toàn thân em sẽ trở nên tê dại.
Đây là lần đầu tiên tôi tiết lộ về điểm yếu của mình.
Chàng sững người trong giây lát, sau đó thì bật cười thoải mái. Khi tiếng cười còn chưa tắt, tôi đã thấy ánh mắt láu lỉnh của chàng (vẻ láu lỉnh mà trước đây tôi chưa bao giờ thấy) đang thăm dò mình và giọng nói của chàng cũng không còn trầm ấm như mọi ngày nữa:
- Vậy thì... ta rất muốn làm một chuyện tệ hại nhất trong đời mình...
Tôi cảm thấy có gì đó không ổn, định trốn đi, nhưng đã bị vòng tay của chàng giữ chặt, chàng thổi hơi vào tai tôi, một luồng hơi tê buốt tựa dòng nước giá lạnh lan từ sống lưng đến chân tôi, cảm giác buồn buồn không chịu nổi, tôi cười lăn lộn, xin chàng buông tha. Chàng không trêu đùa tôi nữa, mỉm cười nhìn tôi đắm đuối, vẻ yêu chiều, dịu dàng.
Tôi vòng tay qua cổ chàng, nũng nịu:
- Không công bằng, chàng đã thấy hết cơ thể em rồi...
Tôi đưa mắt lướt trên người chàng:
- Ở nơi em sống, mọi người đều đề cao nam nữ bình đẳng, bởi vậy... em cũng muốn được ngắm chàng...
Chàng giật mình ngẩng lên, đôi mắt tựa hồ nước sâu hun hút, bóng tôi như chiếc thuyền nhỏ in trong hồ nước ấy. Chàng nhìn tôi một lúc lâu mới khẽ gật đầu:
- Ừ...
Chàng ngồi dậy, cởi áo, mắt không rời khỏi tôi. Ánh nắng tràn vào phòng, xuyên qua tấm màn mỏng, phủ lên làn da bánh mật của chàng, từng đường nét trên thân hình gầy guộc của chàng hiện lên rõ rệt. Mắt tôi bám riết từng đường nét ấy, tôi không khỏi cảm động thốt lên:
- Rajiva, cơ thể chàng cũng rất đẹp...
Chàng cụp mắt lại, vội xoay người sang bên, vẻ thẹn thùng hiện trên gương mặt đỏ bừng, càng khiến người ta phải xao lòng. Đã ở tuổi trung niên, nhưng chàng vẫn bẽn lẽn như một cậu thiếu niên. Đứng trên bục cao thuyết giảng kinh pháp, chàng tự tin, phấn chấn bao nhiêu, thì lúc này chàng rụt rè, e thẹn bấy nhiêu. Trong lòng tôi không khỏi dâng lên nỗi xúc động và biết ơn vô bờ, cảm tạ ông trời đã ban cho tôi người đàn ông tuyệt vời như vậy!
- Không, chàng đừng né tránh...
Tôi khẽ cất tiếng, giữ tay chàng:
- Em muốn ngắm nhìn toàn bộ cơ thể chàng...
- Ngải Tình...
Ánh mắt chàng vẫn muốn trốn tránh tôi:
- Lúc này trông ta rất tệ...
- Chàng có thích cơ thể em không?
Cuối cùng thì chàng đã chịu quay lại nhìn tôi, ánh mắt lướt nhẹ khắp thân thể tôi, ngượng ngùng gật đầu:
- Ta thích...
Tôi mỉm cười, bàn tay xoa vuốt làn da trơn mượt của chàng, cảm nhận cơ bắp của chàng đang căng lên dưới lòng tay mình.
- Em cũng yêu thích cơ thể chàng, rất đẹp... Vậy nên, chàng đừng ngại, hãy để em được ngắm chàng, đó là biểu hiện của tình yêu chàng dành cho em...
Chàng khẽ cắn môi, nụ cười dần tỏa rạng. Chàng xoay người về phía tôi, gương mặt vẫn đỏ gay gắt, nhưng vẻ tự tin đã ngự trị. Đó là một cơ thể tuyệt đẹp, nụ cười tuyệt đẹp và ngay cả sự tự tin, sẵn sàng trải bày mọi thứ ra trước mắt tôi ấy cũng rất đẹp, tôi yêu mọi thứ thuộc về chàng...
Chúng tôi để mình trần, ngồi đối diện nhau, tận hưởng sự vuốt ve đầy chăm sóc của nhau. Cảm xúc từ lòng tay truyền đến trái tim tôi những đợt sóng êm ái. Tôi hướng dẫn chàng đi vào cơ thể mình, khi chàng đột nhập, tôi khẽ rên lên. Chàng ngừng lại, đưa mắt thăm hỏi.
- Em không sao...
Tôi nghĩ tôi nên nói với chàng cảm xúc của mình:
- Chỉ vì, chưa bao giờ có được cảm xúc hân hoan thế này...
Chàng cười sung sướng, cúi xuống hôn tôi, khẽ thì thầm bên tai tôi:
- Ta cũng vậy...
Thời gian không còn ý nghĩa gì nữa. Những giờ, những phút, những giây ấy đâu có là gì. Lúc này chỉ tồn tại thước đo của sự sâu lắng. Vì tôi không còn cô độc trên thế gian nữa, đã có một người đàn ông tồn tại thực sự, dành cho tôi. Nhìn những giọt mồ hôi nóng hổi đổ ra từ hơi thở hổn hển của chàng, lắng nghe những tiếng rên rỉ thỏa mãn của chàng khi vươn lên đến đỉnh cao thăng hoa, khi hồn phách cuồng đảo, tôi đã khóc
- Sao vậy?
Chàng chống người lên, hơi thở vẫn gấp gáp, cuống quýt lau nước mắt cho tôi:
- Ta làm nàng đau phải không, ta thật có lỗi...
- Không, đừng rời em, hãy cứ tiếp tục...
Tôi vòng chân, vòng tay quấn chặt lấy chàng, tôi muốn tạo ra sợi dây đầy sức sống để buộc chặt hai chúng tôi lại với nhau, tôi ghé sát tai chàng, nghẹn ngào:
- Không phải em đau, em thấy hạnh phúc... Không phải em buồn, em thấy vui sướng...
Tôi nấc lên, tôi muốn diễn tả mọi cảm xúc mà tôi có được lúc này:
- Em rất hạnh phúc, hạnh phúc vô cùng, chưa bao giờ em thấy mình hạnh phúc như vậy. Em và chàng, chúng ta ở trong nhau, chúng ta hòa vào làm một. Em yêu cảm giác này...
- Ngải Tình...
Chàng thốt lên, rồi hôn tôi cuồng nhiệt. Mồ hôi đổ trên trán tôi, trên môi tôi, mồ hôi theo đầu lưỡi chàng thấm vào miệng tôi. Vị mặn mặn, nồng nồng ấy hệt như hương hoa nồng nàn tỏa bay trong sân vườn. Những nụ hôn da diết, nồng nhiệt của chàng như gắn vào cơ thể tôi đôi cánh kỳ diệu, đẩy tôi bay lên giữa bầu trời xanh trong, cao rộng. Tôi thỏa sức vẫy vùng, chao liệng giữa không gian bao la, rồi sải cánh vút bay về phía mặt trời.
Tôi thầm nghĩ, loài thiêu thân, trong khoảnh khắc lao mình vào lửa, để thân thể bị thiêu đốt hoàn toàn ấy, phải chăng cũng cảm nhận được niềm hoan lạc tột độ giống như tôi lúc này?
Chương 46: Cuộc sống giam cầm
Theo thói quen thường ngày, tôi đến bên một gốc lựu, khom lưng đánh răng. Tôi mang theo bàn chải đến đây, chỉ tiếc không có kem đánh răng, vì sợ nhiễm xạ, nên chỉ có đánh răng bằng nước muối. Tắm rửa xong, Rajiva tựa cửa quan sát. Tôi mỉm cười với chàng, rồi ngửa cổ lên trời, súc miệng sòng sọc.
Còn nhớ một phẩm vui mà tôi từng xem. Anh con trai hỏi bạn gái: "Lấy anh nhé!". Cô gái lắc đầu từ chối. Anh ta rất ngạc nhiên: "Chúng ta thân mật thế này rồi, sao em không chịu lấy anh?". Cô gái đáp: "Vì em không muốn đánh răng, súc miệng trước mặt anh".
Đúng vậy, có câu: "Kẽ sỉ có thể chết vì tri kỷ. Người con gái làm dáng vì kẻ yêu mình" (Sử kí Tư Mã Thiên). Phụ nữ muốn mình luôn xinh đẹp trong mắt người yêu, âu cũng là lẽ thường tình. Nhưng nếu phải giống như phụ nữ Nhật Bản, trang điểm xinh đẹp trước khi chồng thức giấc, ở nhà cũng phải ăn mặc chải chuốt, trang điểm dịu dàng. Tôi không nghĩ như thế là đang sống, mà họ đang xem cuộc sống như một nghề. Nếu bạn không muốn người bạn yêu nhìn thấy bộ dang lôi thôi, lếch thếch, nhem nhuốc, thảm hại của bạn, điều đó chứng tỏ tình yêu của bạn chưa sâu sắc và như vậy thì đừng bàn đến chuyện sống chung. Yêu thật sự, không có nghĩa bạn phải yêu khuyết điểm của người kia. Mà là yêu con người giản dị, chân chất đằng sau lớp trang sức màu mè bên ngoài.
Tôi thì sao? Khi hạn nộp luận văn sắp đến, tôi không buồn rửa mặt đánh răng, đầu bù tóc rối, ngồi ôm chiếc máy tính. Ngày cuối tuần, tôi nằm dài trên giường, ngủ nướng cho đến khi cơn đói ập đến, khiến đầu óc tôi quay cuồng. Mùa đông giá lạnh, tôi cắn răng nhìn đống quần áo chất cao như núi, ngâm trong chậu giặt suốt mấy ngày liền, sau đó xử lí chúng bằng tốc độ nhanh nhất và ẩu nhất có thể. Nhiều lúc tôi còn ngồi chồm hổm trong nhà vệ sinh, dán mắt vào một cuốn sách cho đến khi bàn chân tê dại, muốn đứng dậy mà không đứng nổi. Liệu tôi có đủ can đảm để phô bày sự lôi thôi, lếch thếch, vẻ thảm hại, những tật xấu đó của mình ra trước Rajiva?
Còn chàng thì sao? Khi bước xuống từ bục cao, phải chăng chàng cũng có những thói quen xấu, không muốn bị ai phát hiện? Và liệu chàng có bằng lòng phô bày những tật xấu đó trước mặt tôi?
Khi màn ân ái kết thúc, người ta phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống chung. Chúng tôi phải tìm cách điều hòa lối sống của hai con người ở hai thời đại khác nhau, mà sự khác nhau ấy đã kéo dài suốt mấy chục năm. Phải tìm ra cách để thích ứng với nhau, chấp nhận nhau. Mà điều này thì khó hơn ân ái rất nhiều.
Đánh răng xong. Tôi ngước nhìn bầu trời trong xanh, trong lòng không khỏi dâng lên những xúc cảm. Chốn lồng son này, vô hình trung đã đặt chúng tôi vào hoàn cảnh phải suy tính đến những vấn đề của một cuộc sống chung, điều mà trước đó chứng tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Rajiva lặng lẽ đứng bên tôi, ngước nhìn chàng, chợt nhớ đến một chuyện, khiến tôi phì cười.
- Có chuyện gì mà nàng vui thế?
- Em muốn hỏi chàng câu này.
Tôi khoác tay chàng.
- Khi nãy, em không được thơm cho lắm, đúng không?
- Sao lại không thơm?
- Vì em chưa đánh răng...
Lúc nãy tôi đã hôn chàng khi chưa đánh răng, không biết chàng có để ý chuyện này không.
- Không sao cả...
Chàng tủm tỉm cười, ngập ngừng:
- Hôm đó, ta say rượu, còn nôn cả ra nữa, chắc chắn là khó ngửi hơn nhiều. Nàng có khó chịu không?
- Vâng, đúng là rất khó ngửi.
Tôi nghiêng đầu nhớ lại:
- Nhưng khi ấy em chẳng bận tâm chuyện đó.
Tôi nhìn chàng, ánh nắng rực rỡ mùa hạ tỏa rạng gương mặt chàng, nụ cười ấy đã quét sạch những điều bất an, trăn trở trong lòng tôi. Hai chúng tôi sẽ hạnh phúc, phải không? Cho dù thói quen sinh hoạt và thói quen ăn uống của chúng tôi khác xa nhau một trời một vực, cho dù quan niệm sống của chúng tôi cách biệt nhau hàng ngàn năm thời gian, nhưng sợi dây tình yêu kỳ diệu, không có gì có thể phá vỡ nổi, sẽ gắn kết chúng tôi lại. Chàng, là người em muốn ôm hôn ngay cả khi chưa đánh răng, là người em sẵn sàng phô bày vẻ lôi thôi, lếch thếch của mình, là người em muốn ngày rộng tháng dài sẽ thấy hết những tật xấu của em, là người sẽ nỗ lực kiếm tìm điểm tương đồng, để cân bằng đời sống của hai chúng ta.
Và điểm cân bằng ấy, bắt đầu từ nhu cầu cơ bản nhất của con người – giấc ngủ.
Chúng tôi vừa mới bắt đàu cuộc sống chung, nên vẫn còn rất nhiều trở ngại về tâm lý. Đêm thứ hai, tôi đã thử ngủ trên chiếc giường lớn lộng lẫy, nhường giường nhỏ cho chàng. Nhưng hai chúng tôi trằn trọc mãi không sao ngủ được. sau cùng không biết quỷ thầy xui khiến thế nào, tôi đã trở lại chiếc giường nhỏ với chàng. Kể từ hôm đó, chúng tôi không tiếp tục những giằng có vô nghĩa ấy nữa, mà mặc nhiên nằm cạnh nhau.
Bởi vậy, vòng một, tình yêu chiến thắng!
Chúng tôi đều khao khát cơ thể của đối phương. Nhưng Rajiva đã sống hai mươi tám năm nơi cửa Phật. Sắc dục vốn là điều đại kị của người tu hành. Quan niệm đó đã ăn sâu bắt rễ trong tâm trí họ. Bởi vậy, dù chúng tôi cùng nằm trên một chiếc giường và dù ham muốn của chàng hết sức mãnh liệt, chàng vẫn không nguôi đấu tranh tư tưởng, nội tâm giằng xé, mâu thuẫn. Tuy vậy, sau cùng thì lí trí vẫn phải đầu hàng cơ thể. Thời gian khắc chế bản thân của chàng càng ngày càng ngắn lại. Hết lần này đến lần khác lí trí phải giương cờ đầu hàng dục vọng. Chí ít, sau mười ngày sống chung, tôi nhận thấy, chàng đã dần đón nhận và chấp nhận tình dục theo cách riêng của chàng và hoan hỉ tận hưởng nó.
Bởi vậy, vòng hai, tình yêu chiến thắng!
Sau những ngày đam mê, quấn quít, chàng dường như không mấy mặn mà. Tôi có thể hiểu điều này. Vì chàng chưa khi nào dành thời gian tìm hiểu về phụ nữ nên chàng không biết rằng, khi ân ái, điều người phụ nữ khao khát nhất, không phải là quá trình, mà là cảm giác gắn kết giữa hai con người, hai linh hồn. Những tri thức này, tôi sẽ hướng dẫn chàng dần dần. Nhưng, chàng lại muốn nằm riêng một mình một chăn, điều này khiến tôi rất bực mình. Chàng nói rằng hơn ba mươi năm qua đã quen ngủ một mình, nay có thêm tôi ở bên, chàng e ngại dáng vẻ khi ngủ của chàng ảnh hưởng đến tôi. Thế là tôi lại phải kiên nhẫn giải thích với chàng, hai người yêu nhau, được gối đầu bên nhau mang lại cảm giác hạnh phúc. Tôi cũng đã ngủ một mình hơn hai mươi năm và bộ dạng khi ngủ cũng rất khó coi. Nhưng tôi rất thích câu nói "sống chung tổ, chết chung mộ". Sự gần gũi ấy cho tôi cảm giác, tôi đã thực sự hòa nhập và trở thành một phần không thể tách rời trong đời sống của chàng.
Bởi vậy, vòng ba, Ngải Tình chiến thắng!
Kể từ khi cuộc tranh luận nho nhỏ đó, chúng tôi ôm nhau ngủ mỗi đêm. Nhưng một vấn đề khác lại nảy sinh. Điệu bộ của chàng khi ngủ quả rất khó coi. Chàng thích nằm co người, giống hệt một con tôm khổng lồ. Trong khi tôi lại rất thích được nép sát vào người chàng, để cảm nhận hơi ấm của cơ thể chàng. Vậy là chiếc giường đã rất hẹp, hai chúng tôi lại co cụm vào góc nhỏ, khiến nửa đêm, tôi thấy toàn thân tê lạnh, thì ra chàng đã cuốn hết chăn về phía mình. Tôi ra sức kéo lại, nhưng dù đã chìm trong giấc ngủ say sưa, chàng vẫn nhất quyết không chịu buông. Sau vài lần diễn ra cuộc chiến giành chăn, chàng đã phải tìm cách giải quyết vấn đề này. Chàng cố gằng nằm thẳng người, như thế, tôi vừa có thể thoải mái tự vào vai chàng, lại vừa có thể tránh được tình trạng chăn bị cuốn đi. Chỉ khổ cho chàng, mỗi sáng tỉnh dậy lại phải xoa bóp hai vai, vận động xương cổ cho bớt tê dại. Tôi thấy xót xa, nhưng chàng chỉ cười dịu dàng, nói rằng: sẽ quen thôi!
Bởi vậy, vòng bốn, Ngải Tình chiến thắng!
Vẫn còn một vấn đề nữa cần điều chỉnh, đó là thời gian ngủ nghỉ.
Giống như nhiều bạn bè ở thế kỷ XXI, tôi đã quen thức khuya dậy muộn. Có lúc tôi thức trắng đêm để làm luận văn. Nhưng khi trở về thời cổ đại, thói quen sinh hoạt làm việc và nghỉ ngơi của tôi có nhiều thay đổi. tôi đi ngủ từ mười giờ hoặc mười một giờ, bởi vì, tôi chỉ có thể ghi chép lại nội dung công việc khảo sát và buổi tối. Nhưng tật ngủ nướng thì vẫn không sửa được. Bảy, tám giờ sáng vào thời đại này đã là rất muộn rồi, nhưng tôi vẫn ngủ thêm ngủ nếm, vớt vát được chút nào hay chút ấy. Rajiva đã quen với thời gian biểu: bảy, tám giờ tối đi ngủ, bốn giờ sáng thức giấc. Mấy đêm đầu chung sống, Rajiva ngủ trước, tôi ngồi viết nhật ký đến hơn mười giờ. Nhưng tôi nhận thấy, khi tôi lên giường ngủ, chàng vẫn còn thức. Gặng hỏi mãi, chàng mới mới nói vì chàng rất mẫn cảm với ánh sáng và tiếng động, nên phải chờ khi tôi tắt đèn đi ngủ, chàng mới ngủ yên. Để đảm bảo chất lượng giấc ngủ cho chàng, tôi đành theo chàng đi ngủ khi trời vừa sẩm tối. Rồi tôi xót xa phát hiện ra rằng, mình chẳng thể tiếp tục làm con mèo lười được nữa. Bốn giờ sáng, Rajiva thức dậy và đặt một nụ hôn nhẹ lên trán tôi là tôi liền tỉnh giấc, ngủ thêm sẽ nhức đầu. Sau đó thì chàng sẽ vừa tụng kinh vừa kinh ngạc khi thấy tôi tập thể dục buổi sáng, chạy huỳnh huỵch, thở hồng hộc trong sân.
Tôi bắt đầu học theo người cổ đại. thức giấc khi mặt trời mọc và lên giường khi mặt trời lặn. Tự động viên, rồi sẽ quen thôi!
Bởi vậy, vòng năm. Rajiva chiến thắng!
Về thói quen sinh hoạt, cả hai chúng tôi đều cố gắng thích nghi với sự tồn tại của người kia, quan sát lối sống của người kia một cách hiếu kì, cố gắng hi sinh một số nhu cầu và nguyện vọng cá nhân mình vì người kia. Tôi thấy rất hài lòng với cuộc sống chung. Còn Rajiva, tôi cũng có thể cảm nhận được niềm hân hoan của chàng, những bỡ ngỡ, ngạc nhiên của chàng và những thay đổi mau lẹ trong thái độ tiếp nhận sự xuất hiện của một người khác ở bên cạnh mình. Chúng tôi đều đang nỗ lực tạo dựng thế giới của hai người.
Nhưng, đó chưa phải là toàn bộ cuộc sống. Chúng tôi vẫn còn một vấn đề nữa cần giải quyết là lại là vấn đề vô cùng bức thiết: chúng tôi sẽ làm gì những lúc rảnh rỗi trong thời gian bị giam lỏng tại đay? Nếu không bị giam giữ, chắc chắn tôi sẽ ra ngoài vào ban ngày để tiến hành công việc khảo sát. Mọi khung cảnh thuộc về đời sống cổ đại, từ ăn ở cho đến đi lại, đều có thể trở thành nội dung khảo sát của tôi. Còn Rajiva, chàng cũng có rất nhiều việc cần giải quyết khi ở trong chùa. Chỉ bảo đệ tử, giảng kinh thuyết pháp, truyền thụ giáo láy Phật pháp; giao lưu, luận chiến với các tăng sĩ đến từ Ấn Độ, Kabul, Tây vực hay các vùng khác của trung nguyên xa xôi, truyền bá rộng rãi giáo lý Đại Thừa; đi sâu tìm hiểu đời sống của người dân, tuyên truyền Phật pháp để ngày càng nhiều người hướng thiện, tín Phật.
Nhưng chiếc lồng son này đã đảo lộn đời sống thường nhật của chúng tôi. Đôi lúc ánh mắt chàng nhìn tôi vương chút buồn bã, đôi lúc thấy chàng đứng giữa vườn hoa ngát hương, lặng lẽ ngước lên khoảng không bao la rất lâu, tôi hiểu rằng, tôi phải tạo ra công việc gì đó cho chàng.
Vậy nên, một ngày kia. Sau khi kết thúc bữa sáng, tôi kéo chàng đến bên bàn đọc sách, sau đó lôi giấy bút trong ba lô ra trước sự kinh ngạc của chàng.
- Cơm nước no nê rồi, bây giờ phải làm việc thôi!
- Việc gì vậy?
- Chúng ta đang trong cảnh tù đày, phải nghĩ ra một công việc gì đó để làm, nếu không sẽ rất buồn chán. Bây giờ, chàng hãy chép lại kinh văn, sau đó suy nghĩ xem nên dịch sang tiếng Hán như thế nào.
- Dịch sang tiếng Hán ư?
- Phật giáo khởi nguồn từ Thiên Trúc, mọi thư tịch đều được chép bằng tiếng Phạn. Nếu muốn truyền bá rộng rãi Phật giáo đến Trung nguyên, chàng phải dịch sang tiếng Hán để người Hán có thể đọc và hiểu được.
Tôi mỉm cười giải thích:
- Hầu hết các bộ kinh Phật được sử dụng ở Trung Nguyên hiện nay đều được dịch từ các ngôn ngữ cả các quốc gia khác nhau ở Tây Vực. Trong quá trình chuyển dịch từ tiếng Phạn sang ngôn ngữ địa phương Tây Vực, ngữ nghĩa của kính văn vốn đã không còn trọn vẹn, sau đó lại được chuyển dịch lần hai sang tiếng Hán, mức độ khác biệt so với nguyên nghĩa lại càng xa hơn. Sai sót trong quá tình dịch thuật, tam sao thất bản, khiến cho câu chữ trở nên cong vênh, cứng nhắc, ảnh hưởng rất lớn đến việc tuyên truyền giáo lý Phật pháp... Cả hai ngôn ngữ tiếng Phạn và tiếng Hán đều rất phức tạp. Các tăng sĩ từ Thiên Trúc và Tây vực đến Trung Nguyên truyền đạo, muốn phiên dịch kinh Phật đều cần đến sự giúp sức của tăng sĩ Tây Nguyên. Nghe câu đoán ý, dù có thể bảo lưu nguyên nghĩa, nhưng lại mất đi ngữ điệu, vần vè. Cho đến nay, vẫn chưa có ai tinh thông cả hai ngôn ngữ này để có thể thay đổi tình hình. Rajiva, một giáo phái muốn được lưu truyền rộng khắp, trước hết phải làm cho càng nhiều người đọc được các giáo lý của giáo phái đó càng tốt. Chàng sẽ là người thay đổi phương pháp dịch từng câu từng chữ cứng nhắc, thậm chí dịch sai, đang diễn ra phổ biến hiện nay.
Ánh mắt chàng bừng sáng, nhìn tôi chăm chú, không giấu giếm sự ngưỡng mộ. Chàng đã hiểu, muốn truyền bá đạo Phật đến Trung Nguyên, việc phiên dịch những bộ kinh văn sang tiếng Hán với độ chính xác cao. Lại dễ nghe dễ hiểu có tầm quan trọng như thế nào.
- Chỉ e trình độ Hán ngữ có hạn của ta chẳng thể cho ra đời những bản dịch chuẩn xác và thuận tai được.
Chàng nắm lấy tai tôi, ánh mắt chứa chan kì vọng.
- Ngải Tình, giúp ta nhé!
Tôi lắc đầu, xấu hổ. Tôi không phải tín đồ Phật giáo, những kinh văn đó, tôi chỉ nhìn thôi đã thấy hoa mắt chóng mặt. Tuy nhiên, kiến thức mà tôi có, không phải không giúp ích gì cho công việc dịch thuật của Rajiva. Hơn nữa lại được làm việc cùng chàng, điều này khiến tôi vui hơn tất thảy. Chưa biết chừng, tôi cũng là một trong những dịch giả của bộ kinh văn đầu tay của Rajiva ấy chứ! Những thông tin vụn vặt thế này, rất có thể đã bị lãng quên hoặc lắng sâu trong dòng sông lịch sử và không ai biết được thực hư ra sao!
- Vâng, chúng ta có thể luyện tập dần dần, bắt đầu từ bộ kinh văn đơn giản nhất.
- Bộ kinh văn đơn giản nhất?
Chàng đăm chiêu suy tư, rốt cuộc là bộ kinh văn nào đây?
- Rajiva, chàng biết cuốn "Duy Ma Cật kinh" có tên gọi tương ứng với trong tiếng Phạn là gì không?
Tôi hỏi chàng, bởi vì tôi không biết tiếng Phạn gọi thế nào. "Duy Ma Cật" là tên gọi phiên âm và chính chàng là người dịch thành tên gọi này, nên có lẽ chàng sẽ đoán ra được dựa vào phát âm của tôi.
Duy Ma Cật là một cư sĩ giàu có, thông hiểu Phật pháp, nhiều vị bồ tát từng đến thỉnh giáo ngài.
Cuốn kinh này làm một trong những tác phẩm dịch thật quan trọng của Rajiva, có thể xem là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo Địa Thừa, bên cạnh "Địa Bát Nhã kinh". Cuốn kinh này có sức ảnh hưởng rất lớn đối với người Hán ở Trung Nguyên. Bởi vì "tu tại gia" đã trở thành một trào lưu phổ biến ở đất Hán. Văn hóa Trung Nguyên coi trọng hiếu đạo: "Trong ba tội bất hiếu, không có con nỗi dõi là tội lớn nhất" (Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại). Việc xuất gia tu hành đã gây nên mỗi xung đột với luân thường đạo lý và lễ giáo truyền thống của Trung Nguyên. Bên cạnh đó, xuất gia có nghĩa là phải từ bỏ rất nhiều lạc thú của cuộc đời, điều này đối với người Hán mà nói, sẽ là một sự lựa chọn hết sức khó khăn. Bởi vậy, trong mắt các tín đồ Phật giáo người Hán, một người vừa có thể tận hưởng vinh hoa phú quí của đời sống nhân gian, vừa có thể đạt được những thành tựu xuất sắc trong lĩnh vực Phật học như Duy Ma Cật, một tấm gương sáng để noi theo.
- A, là bộ kinh văn này!
- Rajiva đọc lên mấy từ tiếng Phạn, cách phát âm rất giống nhau.
- Nhưng bộ kinh văn này không hề đơn giản!
Tôi chỉ cười không đáp. Chàng dịu dàng nắm tay tôi, cất giọng trầm ấm:
- Ngải Tình, ta hiểu ý nàng. Nàng muốn mượn gương đại trí của Duy Ma Cật để khuyên nhủ ta đúng không?
Chàng đứng lên, đi đi lại lại trong phòng. Trầm tư giây lát, rồi ngẩng lên nhìn tôi, ánh mắt rạng ngời vẻ thông tuệ:
- Bồ Tát từng hỏi Duy Ma Cật: "Ngài là một đại Bồ Tát, nhưng lại có gia đình vợ con, liệu ngài có được thảnh thơi?" Duy Ma Cật đáp rằng: "Mẹ ta là trí tuệ chói ngời, cha ta cứu độ chúng sinh, vợ ta là niềm vui tu hành, con gái ta là đại diện của lòng từ bi, con trai ta là đại diện của tính thiện. Ta có gia đình, nhưng cửa nhà ta được dựng lên bởi Phật tín. Đệ tử của ta là mọi chúng sinh. Bạn bè ta là các giáo phái tu hành khác nhau. Ngay cả các ca kỹ quanh ta cũng là những sứ giả của công cuộc giáo hóa, thu phục chúng sinh".
Tôi mỉm cười gật đầu. Quả nhiên, chỉ cần nhắc đến cuốn kinh văn này, Rajiva sẽ hiểu được ý định của tôi.
- Rajiva, Duy Ma Cật có vợ con và sống cuộc đời thế tục, nhưng ông vẫn lưu danh "không tì vết" và đạt được sự giải thoát.
Ánh mắt chàng rực sáng, nhưng vương chút thắc mắc:
- Ngải Tình, nàng biết "Duy Ma Cật" nghĩa là "không tì vết" từ khi nào vậy?
Tôi lại mắc bệnh "chưa đẻ đã đặt tên" rồi! Huyền Trang cũng từng dịch bộ kinh văn này, nhưng ngài đặt tên sách là "Thuyết vô cấu xưng kinh[29]". Nhưng tôi hiểu được ý nghĩa tên tiếng Phạn của Duy Ma Cật là nhờ vào Vương Duy[30]. Bởi vì Vương Duy rất sùng bái Duy Ma Cật. Ông tên Duy, tự "Ma Cật" (chính là mượn tên gọi của Duy Ma Cật để đặt tên cho mình). Tập thơ của ông có tên "Vương Ma Cật tập". Nhưng Vương Duy không hiểu tiếng Phạn. Ông không biết rằng, "Duy" trong tiếng Phạn nghĩa là "không có", "Ma" nghĩa là "vết bẩn", còn "Cật" nghĩa là "đồng đều". Như vậy, Vương Duy nghĩa là Vương không có, tự "Ma Cật" tức là bẩn đều, bẩn toàn bộ. Khi đọc đến đoạn giải nghĩa trên đây của Tiền Huyền Trung trong cuốn "Huyền Trang Tây du ký" tôi đã cười lăn cười bò. Vì thế, tôi đã nhớ rất kỹ biệt danh "không tỳ vết" này.
[30] Nhà thơ, họa sĩ, nhà thư pháp và một chính khách nổi tiếng của đời Đường ở Trung Quốc.
- Ngải Tình, nàng không biết tiếng Phạn, nhưng lại hiểu được một số ý nghĩa tiếng Phạn trong kinh Phật. Nàng chưa từng đến Kabul, Khotan, nhưng lại biết ở đó có những Phật tích gì. Dường như nàng có thể biết trước được một vài điều trong tương lai, nhưng lại không thể mô tả tường tận. Hai mươi năm qua, dung mạo của nàng không hề thay đổi, ta tin nàng chính là tiên nữ. Nhưng vì sao tiên nữ lại hiểu biết nửa vời như vậy. Lẽ ra tiên trên trời thì phải thông tỏ mọi điều, biết trước mọi điều chứ? Hay là...
Chàng ôm vai tôi, mỉm cười đầy ý tứ:
- Vì nàng lười nhác, bỏ bê việc tu hành, nên quyền năng yếu kém?
Không ngờ, trí tưởng tượng của Rajiva lại phong phú đến vậy. Chàng đã lập tức suy luận ra hình ảnh một nàng tiên lười nhác dựa trên bản tính của tôi.
- Rajiva, em không phải tiên nữ...
Chàng lắc đầu, ngắt lời tôi:
- Ngải Tình, mối nghi hoặc này đã quẩn quanh trong đầu ta suốt hơn hai mươi năm qua. Nhưng tiết lộ thiên cơ là một trong trọng tội của tiên giới. Thế nên, ta tuyệt đối không ép nàng nói ra sự thật đâu.
- Rajiva, chàng là người thân thiết nhất của em, em không muốn giấu chàng thân thế của mình. Nhưng xin hãy cho em thêm thời gian, được không?
Tôi ngước lên nhìn đôi mắt sâu thăm thẳm của chàng, trãi bày lòng mình:
Em cần suy nghĩ thấu đáo xem nên giải thích với chàng như thế nào.
- Không, không cần đâu...
Chàng đưa tay ra kéo tôi vào lòng.
- Ta biết, Phật tổ thương ta, đã gửi nàng đến để cứu ta thoát khỏi kiếp nạn này.
Trong vòng tay ấm áp của chàng, tôi cảm nhận được âm thanh sống động từ nhịp đập mạnh mẽ của trái tim chàng. Tôi chắc chắn chàng đã bắt đầu nghi ngờ về thân thế đặc biệt của tôi từ năm chàng mười ba tuổi. Nhưng dẫu chàng có thông minh tuyệt đỉnh đến đâu, cũng vẫn chịu sự giới hạn của thời đại, lịch sử. Chàng đã phân tích và lý giải sự tồn tại của tôi bằng cách riêng của mình và hình ảnh tiên nữ là cách giải thích hợp lý nhất. Nhưng tôi yêu chàng, tôi muốn sống trọn đời bên chàng, tôi không nên giấu chàng bất cứ điều gì. Có lẽ đã đến lúc tôi nên nói sự thật với chàng. Nhưng, phải nói thế nào đây? Liệu chàng có thể chấp nhận lai lịch ly kỳ của tôi không?
- Rajiva...
Tôi mân mê chiếc vòng trên cánh tay chàng, chuỗi hạt đã bạt màu và mòn vỡ theo năm tháng, nhưng vẫn tỏa mùi đàn hương ngào ngạt.
Chúng ta làm việc đi thôi!
Chương 47: Điềm báo
Chúng tôi đã làm việc rất chăm chỉ. Đầu tiên, Rajiva chép lại một đoạn kinh văn bằng tiếng Phạn, sau đó chúng tôi cùng thảo luận, cân nhắc ý nghĩa và cách dịch từng câu, từng chữ. Có lúc, chúng tôi phải mất thời gian một ngày chỉ để giải nghĩa một từ. Tốc độ dịch không nhanh, vì mặc dù Rajiva có thể giao tiếp lưu loát, nhưng chữ Hán và đặc biệt là cách hành văn của Hán ngữ cổ đại 1650 năm về trước không dễ nắm bắt. Ngay cả bản thân tôi, tuy có thể đọc được các thư tịch cổ, nhưng chưa chắc đã viết được và điều này gây nên những trở ngại rất lớn. Tuy nhiên, chúng tôi đâu cần phải vội. Sau này, dưới sự trợ giúp của Diêu Hưng, Rajiva sẽ lập ra một đoàn thể dịch thuật quy mô rất lớn với hàng nghìn người tham gia. Theo tài liệu lịch sử, chỉ riêng cuốn "Duy ma Cật Kính" đã có đến hơn một nghìn hai trăm người tham gia dịch thuật. Việc chúng tôi làm hiện nay chỉ là bước tập dượt, chuẩn bị nền tảng cho sự nghiệp dịch thuật của Rajiva sau này. Không có bất cứ áp lực nào, chúng tôi say sưa làm việc trong niềm hân hoan vì sớm tối được ở bên nhau. Thường đến khi các cung nữ mang đồ ăn tới, rồi chăm đèn, chúng tôi mới nhận ra thời gian đã trôi nhanh thế nào.
Một phần khác không thể thiếu trong cuộc sống chung của chúng tôi đó là: tình dục. Khi đã trở nên quen thuộc cơ thể của người kia và mức độ phản ứng tăng dần, chúng tôi ngày càng hòa hợp hơn. Vẫn tồn tại những giằng xé, mâu thuẫn và đấu tranh nội tâm gây gắt, nhưng, ngoài việc là một tín đồ Phật giáo trung thành, Rajiva còn là một người đàn ông, sở hữu cơ thể và những ham muốn của một người đàn ông thực sự. Cuộc tranh đấu của chàng lần nào cũng kết thúc bằng việc đầu hàng cơ thể. Tình yêu đã chiến thắng, chí ít là chiến thắng tôn giáo. Nhưng có thể chiến thắng bao lâu, tôi không thể biết trước. Kể từ thời đại Phật Đà, Phật giáo đã nghiêm khắc loại bỏ ái dục. Tôi chẳng thể thay đổi quan niệm về giá trị và nhân sinh đã hình thành vững chắc và không gì có thể lay chuyển từ khi Rajiva lên bảy tuổi. Thời gian thờ phụng Phật tổ của chàng càng dài hơn thời gian yêu tôi nhiều lần. Tôi không muốn tình yêu sẽ tước bỏ đi lí tưởng của chàng. Tôi chỉ mong có thể cảm hóa được chàng để chàng thấy rằng, tình yêu và lí tưởng có thể cùng tồn tại.
Nhưng, liệu tình yêu và lí tưởng có thể cùng tồn tại?
Giống như một mệnh đề triết học thiếu luận cứ đề chứng minh. Mâu thuẫn này vẫn luôn tồn tại, dù tôi có muốn thừa nhận hay không. Chúng tôi có thể tạm quên đi điều đó khi vẫn đang trong cảnh giam cầm này, nhưng sau khi được tự do, chúng tôi sẽ phải đối diện với bia miệng thế gian ra sao? Tôi cười buồn, thành ra chốn lồng son này lại có cái hay của nó.
Khi ngồi viết nhật ký, tôi cứ luôn tự hỏi, vì sao Phật giáo ra sức lên án tình dục và mối quan hệ giữa tôn giáo và tình dục, rốt cuộc là thế nào?
Tôn giáo nguyên thủy thừa nhận tình dục, thậm chí, sùng bái tình dục, vì muốn con người được hưởng niềm hoan lạc mà tự nhiên ban phát. Hoạt động tình dục trở thành nghi lễ cao quý và thần bí nhất trong các nghi thức của tôn giáo nguyên thủy. Nguyên nhân chính ở chỗ, tôn giáo nguyên thủy ra đời trong bối cảnh sản xuất của con người hết sức lạc hậu, điều kiện sống lại vô cùng khắc nghiệt. Quan hệ tình dục giúp chủng tộc ngày càng đông đúc, làm tăng thêm số nhân lực cho các bộ lạc.
Rồi cùng với sự phát triển của sức sản xuất, khi nhu cầu vật chất không thể thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, thì tôn giáo với nền tảng lí luận đã được hệ thống hóa ra đời. Hầu hết các tôn giáo đều phủ nhận hiện tại và sùng bái tương lai, thêm vào đó, theo đuổi sự vĩnh hằng đã trở thành nguyên tắc căn bản của các tôn giáo. Thế nhưng, sinh hoạt tình dục mang lại cho con người niềm hoan lạc không gì có thể thay thế. Bởi vậy, nếu khẳng định hoặc thừa nhận hoạt động này, tức là khẳng định và thừa nhận niềm vui của hiện tại, mà như thế sẽ ảnh hưởng đến tín ngưỡng và lòng trung thành đối với cách thuyết pháp nhằm mục đích cứu rỗi linh hồn con người.
Tôn giáo luôn sùng bái thần linh và thần linh thì luôn cao quý hơn con người phàm tục. Tôn giáo đề cao đời sống tinh thần, trong khi người phàm trần lại thường chìm đắm trong niềm vui ẩm thực và nhục dục. Tôn giáo không thể đứng ngang hàng với đám người đó. Muốn đưa tôn giáo lên tầm cao, thuần túy thuộc về thế giới tinh thần cao quý, nhất thiết phải phủ định những hoan lạc của đời sống thực tại, đẩy nhu cầu thể xác lên tầm cao của đời sống tinh thần, khiến nó thăng hoa, để con người sùng bái và theo đuổi nó.
Ấn Độ giáo nghiêm cấm hoạt động tình dục và đề cao việc ăn chay. Nhưng ở Khajuraho lại có một ngôi miếu thờ thần tình dục rất nổi tiếng. Trong ngôi miếu thiêng ngàn năm tuổi ấy có hàng vạn bức điêu khắc phóng tác đủ mọi tư thế làm tình khác nhau. Đó là những tư thế mà người bình thường không thể tạo ra và chỉ có thần tiên trên trời mới được hưởng niềm lạc thú từ những tư thế đó mang lại. Ấn Độ giáo có một câu chuyện như sau: Chàng trai trẻ nọ đắm chìm trong hoan lạc trần thế, chẳng màng tu đạo. Thiên thần đến trách tội, chàng trai đáp, anh ta đã được hưởng thụ mọi thứ trên đời, không cần khổ công tu hành để được lên thiên đàng nữa. Thiên thần bèn đưa anh ta lên thiên đàng, để anh ta được thấy những mỹ nữ tuyệt sắc, thưởng thức các món sơn hào hải vị và vô vàn điều kỳ diệu tuyệt vời khác mà chốn trần gian không có được. Sau khi trở lại nhân gian, anh ta không còn cảm hứng với phụ nữ chốn trần tục cũng như các món ăn tầm thường thuộc về cõi người nữa. Thế là, anh ta quyết tâm tu đạo, sau khi chết, anh ta đã được lên chốn thiên đường mơ ước.
- Ngày nào cũng thấy nàng ghi chép, nàng ghi chép gì vậy?
Gắp cuốn sổ tay, tôi nhìn Rajiva, nở nụ cười rạng rỡ.
- Ghi lại những cảm xúc của em. Nếu một ngày kia phải xa chàng, những dòng chữ này sẽ nhắc em nhớ về những kỷ niệm ngọt ngào khi được ở bên chàng.
- Ngải Tình, chúng ta sẽ không xa nhau...
Toàn thân chàng run rẩy, vòng tay xiết chặt tôi tựa như người đang chới với ngụp lặn giữa biển nước, ghì chặt lấy thanh gỗ cứu mạng vậy. Cằm chàng đặt trên vai tôi, má chàng kề sát cổ tôi, những sợi râu lún phún cọ vào da, ran rát...
Có thể như thế thật ư? Vì sao tôi cứ luôn có linh cảm không lành? Rajiva, chàng thông tuệ hơn em, có phải chàng đã sớm dự cảm được dấu hiệu của phong ba sắp ập đến...
- Râu mọc dài rồi đó, để em giúp chàng.
Điềm báo của tai ương đã đến với chúng tôi sau hai mươi ngày bị giam lỏng. Lữ Quang muốn gặp Rajiva. Tôi đòi đi theo, nhưng chàng không chịu, lời chàng khiến tôi tiêu tan ý định:
- Ngải Tình, nàng muốn Lữ Quang biết nàng quan trọng với ta như thế nào sao?
Nhìn chàng hiên ngang bước đi, tôi không nguôi lo lắng, sợ hãi, mắt tôi giật liên hồi. Tôi có thể đoán biết mục đích của cuộc gặp này: Lữ Quang muốn kiểm tra xem có phải cuộc sống xa hoa, no đủ đã bào mòn ý chí của Rajiva. Tôi cũng có thể đoán được kết cục của buổi gặp này: Rajiva vẫn kiên quyết không thừa nhận Lữ Quang. Và tôi biết rõ hậu quả của sự từ chối ấy. Lữ Quang sẽ hạ nhục Rajiva trước đám đông để hạ thấp quyền uy thần thánh của chàng đối với dân chúng Khâu Từ.
Không biết đã chờ đợi bao lâu, khi chàng xuất hiện tại ngoài cửa cung điện với những bước đi nặng nề và khuôn mặt nhợt nhạt, trái tim tôi như tan nát...
- Chàng kiên quyết từ chối, phải không?
Rajiva ngẩng lên, vẻ mệt mỏi, rã rời...
- Đừng lo, ta không sao...
Tôi đưa mắt nhìn quanh một lượt cung điện xa hoa lộng lẫy, chiến lồng son giam cầm chúng tôi suốt hai mưới ngày qua.
- Chuỗi ngày nhàn hạ, no đủ sắp kết thúc rồi...
Rồi quay lại nhìn Rajiva, tôi chậm rãi nói:
- Nếu chàng vẫn kiên trì chống cự, ông ta sẽ hết kiên nhẫn, đến lúc ấy, sẽ chỉ còn một con đường.
Khuôn mặt chàng bỗng nhiên tái nhợt. Chàng có thể đoán ra chiêu thức cuối cùng của Lữ Quang không khó khăn gì.
- Nếu không thể lợi dụng chàng, ông ta sẽ nghĩ đủ mọi cách để hủy hoại danh tiếng của chàng, hạ thấp vị thế của chàng trong lòng dân chúng Tây vực. Như thế, sức mạnh hiệu triệu của chàng sẽ mất đi và không còn là mối đe dọa đối với ông ta nữa.
- Ngải Tình, những điều này, ta đều đã nghĩ tới. Nhưng nếu ta chịu khuất phục, hậu quả sẽ ra sao?
Chàng ngước mặt nhìn bầu trời xanh trong ngoài cửa sổ, gương mặt tuấn tú đượm vẻ u buồn.
- Trăm họ sẽ rơi vào cảnh lầm than, tai ương và chết chóc. Thà một mình ta chịu nhục, còn hơn nối giáo cho giặc.
- Ông ta sẽ bắt chàng cưỡi ngựa ác, bò điên trước mặt nhiều người, để chàng ngã ngựa hết lần này đến lần khác, làm trò cười cho thiên hạ.
- Chỉ là sự đày đọa về thể xác, có gì đáng sợ đâu!
Ánh mắt như sóng nước hồ thu nhìn tôi, nụ cười tỏa rạng trên môi:
- Ngải Tình, nàng lại vì ta mà tiết lộ thiên cơ rồi, không sợ Phật tổ trách tội ư?
- Em cũng chẳng còn bí mật nào để tiết lộ thêm nữa.
Mắt tôi đã đỏ hoe, nghĩ đến sự tra tấn đó mà lòng đau như cắt. Nhưng vì sao sử sách chỉ ghi chép vài dòng giản lược như vậy, giá mà chi tiết hơn, tôi sẽ có thể giúp chàng đề phòng.
- Rajiva, em chỉ biết ông ta sẽ bắt chàng cưỡi ngựa ác, bò điên, nhưng em không biết xảy ra khi nào và ở đâu. Em cũng không biết ông ta còn sử dụng thủ đoạn tàn bạo gì với chàng nữa.
- Đừng lo, đó không phải điều khiến ta sợ hãi...
Tôi ngừng lại, ngước nhìn chàng. Vậy chàng lo sợ điều gì? Chàng tránh né ánh mắt của tôi, đăm đắm nhìn lên bầu trời xanh ngoài của sổ. Thấp thoáng vài cánh chim bay lượn trong không trung, tự do phơi phới. Không biết khi nào chúng tôi mới có thể thoát khỏi sự trói buộc? Không phải chỉ là sự trói buộc về mặt thể xác, mà quan trọng hơn là sự trói buộc về tâm tình của cả hai người.
Những ngày sau đó, cuộc sống trở nên ảm đạm hơn. Chúng tôi chẳng thể toàn tâm toàn ý cho công việc dịch thuật như trước nữa, nhưng cả hai vẫn mỉm cười với nhau. Những quấn quýt buổi đêm trở nên say mê, cuồng nhiệt hơn và kéo dài tưởng như bất tận, tựa hồ mỗi lần đều là thời khắc hân hoan sau cùng của đêm trước ngày tận thế và chỉ kết thúc khi cả hai đã sức cùng lực kiệt, sau đó, chúng tôi chìm vào giấc ngủ say sưa trong vòng tay nhau.
Năm ngày sau, Lữ Quang lại cho gọi Rajiva, lần này chàng đi lâu hơn. Khi chàng cất bước nặng nề trở về, vầng trán cao rộng của chàng xuất hiện vệt sưng đỏ. Nhưng điều khiến tôi sợ hãi không phải vết thương đó, mà là vẻ tuyệt vọng tê tái tôi chưa từng thấy trên gương mặt chàng.
Tôi bật dậy, đỡ thân hình rệu rã của chàng ngồi xuống, ruột gan quặn thắt. Hỏi chàng đã xảy ra chuyện gì, nhưng chàng chỉ lặng yên, ánh mắt thẫn thờ. Tôi định đi lấy thuốc, nhưng chàng kéo tay tôi lại.
Ánh mắt quyến luyến ngước nhìn tôi, bàn tay vuốt ve khuôn mặt tôi.
- Ngải Tình, khi nào được tự do, nàng hãy tới chỗ của Pusyseda, cậu ấy sẽ bảo vệ nàng bằng mọi giá.
Chàng đột ngột kéo tôi vào lòng, tim chàng đập nhanh bất thường.
- Phật tổ từ bi, ngài nghe thấu lời cầu khẩn của ta, đã đưa nàng tới đây. Tuy chỉ được ở bên nàng chưa đầy một tháng, nhưng ta mãn nguyện lắm rồi.
Những lời nói nặng ẩn ý ly biệt ấy khiến toàn thân tôi lạnh toát. Điều khiến tôi lo lắng nhất, điều tôi không mong muốn xảy ra nhất đã xảy ra. Tôi quay lại, nhìn sâu vào mắt chàng, cắn chặt môi để sự đau đớn giúp tôi bình tĩnh thốt ra:
- Rajiva, có phải, chàng định tìm đến cái chết không?
Rajiva giật mình, nỗi sầu muộn tột cùng ngập trong mắt chàng, nhưng chàng vội quay đi né tránh, ra sức kìm chế để đôi vai thôi run rẩy.
- Ngải Tình đừng nói nhảm, sao ta có thể...
- Rajiva, chàng đã quên sứ mệnh truyền bá đạo Phật, phổ độ chúng sinh rồi sao?
Tôi ngắt lời chàng, gào lên bằng tất cả sức lực mà tôi có:
- Chàng đã quên, ở Trung Nguyên vẫn còn vô số chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ ư?... Còn em nữa, em sẵn sang từ bỏ gia đình, bất chấp bản thân bị nhiễm xạ, vượt ngàn năm thời gian đến bên chàng, đâu phải chỉ để cùng chàng đầu gối tay ấp vẻn vẹn một tháng thời gian.
Tôi gầm gào, giận dữ:
- Nếu chàng yêu em, chàng phải tiếp tục sống như thế mới vĩ đại! Tìm đến cái chết có gì khó đâu. Nhẫn nhục chịu đựng, tiếp tục sống, để hoàn thành sứ mệnh, đó mới là người kiên cường.
Tôi nắm lấy cánh tay chàng, cắn thật đau. Vị mặn theo nước mắt tràn vào miệng, xót xa.
Tôi ngẩng đầu, toàn thân chàng run lên nhưng vẫn gắng sức kìm chế. Tôi gào lên:
- Rajiva, chàng đừng quên, sứ mệnh của chàng còn quan trọng hơn cả tính mạng!
Ánh mắt chàng nhìn tôi, mây mù tuyệt vọng bỗng chốc như tan biến, nhường chỗ cho ánh sáng ấm áp của hy vọng. Chàng đột ngột cười vang, cất giọng hào sảng:
- Ta đồng ý, Ngải Tình! Tiếp tục sống, chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục sống.
Nhìn lại vết hằn trên mu bàn tay, chàng gật đầu quả quyết:
- Từ nay, ta sẽ không bao giờ nhắc đến từ "chết" nữa.
Vẻ dịu dàng thường thấy lại trở về trên nụ cười hiền hòa của chàng:
- Ngải Tình, nàng luôn biết cách giúp ta tỉnh ngộ.
Tôi thở phào, nhưng ngay sau đó lại luống cuống đi tìm thuốc để bôi cho chàng. Tôi vốn chỉ định để lại vết răng trên tay chàng, nhưng không hiểu vì sao khi nãy chẳng thể kìm chế nổi bản thân.
- Ngải Tình, nàng sẵn sàng từ bỏ gia đình, bất chấp bản thân bị nhiễm xạ, vượt qua thời gian hàng ngàn năm để đến bên ta. Một ngàn năm thời gian đó có phải là khoảng cách giữa trời và đất? Người thân của nàng đang ở trên trời đợi nàng phải không? Còn nữa, phóng xạ là gì vậy?
Bàn tay bôi thuốc cho chàng bỗng nhiên run rẩy, tôi ngước nhìn ánh mắt đầy thắc mắc của chàng:
- Rajiva...
Ngón tay chàng khẽ đặt trên môi tôi, cánh tay còn lại dịu dàng kéo tôi vào lòng:
- Tiết lộ thiên cơ không phải chuyện nhỏ, nàng sẽ bị Phật tổ trách tội. Vậy nên, sau này, nàng phải hết sức thận trọng, kể cả với ta, nàng cũng không được tùy tiện nói ra.
Đêm đó tôi trằn trọc không yên. Câu nói mà các cô gái vượt qua thời gian nói nhiều nhất là: Tôi biết kết quả nhưng không biết quá trình. Với tôi, 1650 năm so với triều đình Mãn Thanh là khoảng cách lịch sư quá xa xôi. Những ghi chép chỉ vẻn vẹn ngàn con chữ trong sách sử còn chẳng thể xác minh được tính chính xác, huống hồ chỉ vài dòng súc tích về cuộc đời Rajiva trong truyện ký. Đằng sau những con chữ ít ỏi đó là cả một quá trình như thế nào, tôi chẳng thể đoán định.
Một tiếng thở dài mơ hồ lướt qua trong không gian đêm, là chàng, có lẽ chàng cũng cảm nhận được nỗi trằn trọc của tôi. Có điều, chúng tôi hiểu nhau và chỉ biết im lặng, nằm chờ trời sáng.
Chỉ một ngày sau, Rajiva lại bị Lữ Quang triệu gọi. Chàng vừa rời đi, lập tức có một cung nữ mang xiêm y đến, nói rằng đây là những bộ váy áo mới nhất, cô ta còn đập đập lên chồng váy áo, ánh mắt và động tác rõ ràng là những ám thị. Tôi tò mò lật mở thì phát hiện thấy một mảnh vải lụa có chữ viết được nhét bên trong.
Nét chữ Tochari gấp gáp, nghuệch ngoạc:
Hôm qua, pháp sư khẩu chiến kịch liệt với Lữ Quang, ông ta dùng chị để uy hiếp, huynh ấy giận quá đã lao đầu vào cột định tự vẫn, may thay có người kịp ngăn lại. Lữ Quang đã từ bỏ ý định mua chuộc pháp sư, thay vào đó, ông ta sẽ tìm cách hãm hại huynh ấy. Ba ngày nữa, pháp sư sẽ bị đưa đến chùa Cakra cùng đoàn tùy tùng của Lữ Quang. Bất luận ông ta đưa ra yêu cầu gì, chị hãy khuyên pháp sư tạm thời chấp thuận. Giờ đây, chỉ có chị mới khuyên nhủ được huynh ấy. Hãy ghi nhớ!
Tức giận lao đầu vào cột tự vẫn... Thì ra vết bầm tím ấy chính là... Mảnh khăn rớt khỏi tay, chao xuống mặt đất tựa phiến lá khô. Bầu trời ngoài kia vẫn xanh ngăn ngắt, gió nóng buổi trưa tràn vào phòng, mồ hôi ướt đẫm lưng áo, dính vào nham nháp, vô cùng khó chịu.
Lữ Quang dùng chị để uy hiếp huynh ấy.
Điều mà chàng lo sợ nhất chính là điều này ư? Cảnh vật trước mắt bỗng trở nên mơ hồ, sống mũi cay nồng. Con người mảnh khảnh ấy sẵn sàng chống đỡ mọi nguy nan, cốt để giữ cho tôi một khung trời bình yên. Ngải Tình ơi Ngải Tình, cô là con người của thế kỷ XXI kia mà, còn chần chừ, do dự gì nữa, hãy tận dụng khả năng mà cô có thể để cứu người cô yêu đi chứ!
Chàng trở về rất nhanh sau đó, sắc mặt vẫn tái nhợt như mọi lần, nhưng ánh mắt kiên định:
- Ngải Tình, ông ta đã hứa sẽ trả tự do cho nàng. Ngày mai nàng có thể rời khỏi đây.
Thoáng chút vui mừng hiện lên trên gương mặt u buồn, chàng đưa tay chạm vào má tôi, đó là động tác thường xuyên nhất khi hai chúng tôi ở bên nhau.
- Ra khỏi cung, nàng hãy đến chỗ Pusyseda, khi nào được tự do, ta sẽ tới đó tìm nàng.
- Rajava, chàng đã chấp thuận điều kiện gì để ông ta thả em?
- Ba ngày nữa, ta sẽ cùng Lữ Quang đến chùa Cakra lễ Phật.
Tôi quay mặt đi, kìm nén những giọt nước mắt chỉ chực trào trào ra, lấy lại nhịp thở bình thường, quay lại nhìn chàng:
- Rajava, chàng vì em sẵn sàng lao đầu vào cột, Lữ Quang thừa hiểu có thể dùng em để uy hiếp chàng, sao ông ta có thể dễ dàng thả em ra?
Tôi thở dài, Rajiva tuy thông minh, nhưng chàng luôn tin rằng con người vốn lương thiện, chàng không hiều về những mưu mô chước quỷ ấy.
- Chỉ e, bước ra khỏi cánh cửa này, em sẽ chẳng thể tới được chỗ Pusyseda.
Sắc mặt chàng ngày càng thảm hại, chàng cắn chặt môi, nhắm mắt bất lực:
- Ta cứ tưởng có thể giúp nàng. Không phải ta chưa từng nghĩ đến nguy cơ ấy, nhưng ta thực sự không biết phải làm thế nào để đưa nàng đi khỏi đây, nên ta tự thuyết phục bản thân thử tin Lữ Quang một lần xem sao.
Chàng hướng đôi mắt buồn thăm thẳm về phía tôi:
- Xin lỗi nàng, ta thật vô dụng, chẳng thể bảo vệ nàng...
- Chàng đừng lo cho em, em có cách để thoát ra khỏi đây.
Tôi dựa vào lòng chàng, áp má lắng nghe trái tim chàng dồn nhịp gấp gáp:
- Em đang nghĩ cách để cả hai chúng ta cùng thoát khỏi nơi này.
Chúng tôi ngồi tựa vào nhau trên thảm trải, màn đêm buông xuống. Cung nữ bước vào chăm đèn, Rajiva cho họ lui ra. Lúc này là tháng Chín, mùa hạ oi nồng đã đi xa, đêm thu khí lạnh tràn vào, tựa đêm mùa đông âm độ C. Giữa cung điện mênh mông này, chúng tôi chỉ có thể tìm thấy hơi ấm từ thân thể của nhau.
Chương 48: Sự thật
- Rajiva, chúng ta có thể trốn khỏi đây.
Sau một hồi tính toán kỹ lưỡng, tôi nhận thấy vẫn còn chút hy vọng.
- Em có một thứ vũ khí, không gây tổn hại đến tính mạng, nhưng có thể khiến người ta bất tỉnh suốt một ngày. Em còn có cả dụng cụ để vượt tường. Chỉ cần thoát ra khỏi hoàng cung, chúng ta sẽ đến chỗ Pusyseda. Không, không ổn, không nên gây phiền phức cho cậu ấy. Chúng ra không đến tìm cậu ấy nữa. Chúng ra có thể trộm một con ngựa, cũng không ổn sẽ không qua được cổng thành. Hãy cứ sử dụng dụng cụ của em để vượt tường vậy, ra ngoài sẽ tính tiếp. Chúng ta sẽ trốn đi nơi khác. Tây vực, Thiên Trúc, Kabul, Trung Nguyên, chàng muốn đi đâu cũng được.
- Ngải Tình, nàng đã có cách thì hãy trốn đi.
Rajiva lắc đầu nhìn tôi đang sững sờ:
- Ta không thể bỏ trốn. Dù có trốn đến đâu, ta cũng sẽ bị phát hiện, sẽ liên lụy đến nàng và Pusyseda. Vả lại, rời khỏi đền chùa, ta chẳng thạo gì hết...
- Chàng thông minh như vậy, sẽ học rất nhanh thôi. Nếu chàng chịu từ bỏ thân phận pháp sư của mình, chúng ta sẽ cùng mai danh ẩn tích.
Tôi nắm chặt tay chàng, ra sức thuyết phục:
- Chúng ta sẽ đến một nơi không ai nhận ra chàng. Em vẫn còn chút tiền bạc. Em lại được trang bị tri thức tiến bộ hơn một nghìn năm so với con người nơi đây. Em có thể phát minh ra những vật dụng mà thời đại này chưa có, chắc chắn sẽ bán được rất nhiều tiền. Trước khi tới đây, em đã nghiên cứu nhiều tài liệu, em hiểu rõ ai là anh hùng, ai là tiểu nhân. Em cũng biết ở đâu xảy ra chiến tranh, ở đâu tạm thời yên ổn. Tóm lại, chúng ta sẽ không chết đói, cũng sẽ không rơi vào cảnh chiến tranh, loạn lạc. Chàng hãy tin em, rời khỏi đền chùa, chúng ra vẫn có thể sống ổn.
Viễn cảnh tương lai khiến tôi càng mường tượng càng xúc động. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có lúc phải sử dụng đến những kĩ năng và tri thức của thời đại mình. Nhưng trong hoàn cảnh này, nếu vận dụng hợp lý, tôi tin rằng hai chúng tôi có thể sống bình an bên nhau.
- Ngải Tình, nàng vốn không phải người thường, ta tin nàng...
Chàng ôm tôi vào lòng, tiếng thở dài lướt nhẹ bên tai:
- Nhưng, nàng có biết nàng đã lại tiết lộ thiên cơ rồi không?
Tôi giật mình, khi nãy, tôi đã lỡ để lộ xuất thân của mình. Có lẽ đã đến lúc cho chàng biết, nếu không chàng sẽ không tin một cô gái liễu yếu đào tơ như tôi làm sao có thể thoát khỏi vòng kiểm soát trùng trùng điệp điệp của cấm vệ quân mà không ai hay biết. Hít vào một hơi thật sâu, rồi nhìn thẳng vào mắt chàng:
- Rajiva, đó không phải thiên cơ, em cũng không phải tiên nữ bên cạnh Phật tổ. Chàng sẽ là người duy nhất ở thời đại này biết về lai lịch thực sự của em. Có thể chàng sẽ cảm thấy hết sức hoang đường, nhưng xin hãy tin lời em nói.
Nhìn chàng gật đầu đồng ý, tôi tiếp tục:
- Em đến từ tương lai. Không phải chàng chỉ hơn em mười tuổi mà là hơn 1650 tuổi.
Rajiva run lên, quan sát tôi đầy vẻ nghi hoặc.
- Chàng tin rằng thời đại này sẽ ngày càng tiến bộ chứ? Thời đại chàng đang sống, xét về mọi phương tiện đều tiến bộ hơn rất nhiều so với thời đại của Phật tổ ngàn năm về trước. Sản vật phong phú hơn, đời sống văn minh hơn và tri thức của con người phát triển hơn. Nếu con người thời đại ấy có thể đến thời đại của chàng, chắc chắn sẽ rất kinh ngạc, thậm chí sợ hãi. Bởi vì, tư duy của con người luôn bị hạn chế bởi thời đại mà họ sống.
Chàng trầm tư một lát, gật đầu đồng tình. Tôi lại tiếp tục:
- Khoa học kĩ thuật thời đại của em đã đạt tới trình độ mà chàng khó có thể tưởng tượng nổi. Con người có thể bay lên không trung, có thể nói chuyện, hoặc thậm chí có thể nhìn thấy đối phương dù họ ở cách xa nhau cả ngàn dặm chỉ thông qua một sợi dây rất nhỏ. Bất cứ chuyện gì xảy ra ở bất cứ đâu đều sẽ được cả thế giới biết đến chỉ trong vòng một canh giờ. Vũ khí chiến tranh thì vô cùng đáng sợ. Một quả bom có thế phá hủy cả một thành phố với hàng triệu con người. Và còn rất rất nhiều những điều chàng cho rằng không thể thì con người trong tương lai đều có thể làm được. Cỗ máy vượt thời gian là một ví dụ. Chính cỗ máy vô cùng hiện đại này đã đưa em trở về thời đại mà với em nó đã trải qua 1650 năm. Nhiệm vụ của em là tới đây nghiên cứu và kiểm chứng lịch sử. Nhưng em đã tình cờ gặp chàng, dịch giả Phật giáo trứ danh, người có công lao vô cùng to lớn trong việc truyền bá đạo Phật và Trung Nguyên – hòa thượng Kumarajiva... Sở dĩ em biết được một số chuyện về chàng khi gặp chàng thời niên thiếu và thanh niên, là vì em đến từ tương lai, em đã đọc truyện ký về chàng. Ví dụ thế này, chàng thử tưởng tượng, nếu đột nhiên có một phép thần thông nào đó có thể đưa chàng trở về với thời đại của Phật tổ một ngàn năm trước. Khi ấy, Đức Phật còn chưa ngộ đạo, nhưng chàng biết Ngài chính là Phật tổ, chàng sùng bái và đi theo Ngài, chàng dõi theo từng cử chỉ, hành động và lời nói của Ngài. Chàng biết rõ những sự việc mà với Phật tổ thì vẫn chưa diễn ra. Nhưng những điều chàng biết về Ngài chỉ là những ghi chép trong sách vở. Những ghi chép đó, trải qua hàng ngàn năm thời gian, được không biết bao nhiêu lớp lớp hậu thế truyền khẩu, nên mức độ chính xác, thật giả khó mà xác định được. Vả lại, những dòng chữ ít ỏi ấy đâu thể giúp ta hiểu hết về một con người. Nhưng dù sao, chàng cũng có được tri thức tích lũy từ hàng ngàn năm thời gian so với con người ở thời đại đó. Chàng biết những điều họ không biết, chàng biết tương lai sẽ diễn ra thế nào và do vậy, chàng thể hiện ra những đặc tính mà con người thời đó không có được... Sở dĩ em biết về Thiên Phật động Kizil, vì năm 1650 năm sau nó vẫn tồn tại. Em biết về chùa Masha vì cách thời đại của chàng hai trăm năm mươi năm sau, có một nhà sư người Hán đã trải qua vô vàn gian nan nguy hiểm để đến Thiên Trúc thỉnh kinh. Trong những cuốn sách mà vị hòa thượng nhà Đường ấy viết, có rất nhiều tài liệu liên quan đến phong tục tập quán của con người ở Thiên Trúc và Tây vực. Sở dĩ, em biết các thuật ngữ đạo Phật: Đại Thừa, Tiểu Thừa, Niết Bàn, Duy Ma Cật là vì trong vòng năm trăm năm nữa sẽ có rất nhiều cao tăng tham gia dịch thuật kinh Phật, chàng cũng là một trong số họ. Dung mạo của em không hề thay đổi, bởi vì đối với em, thời gian chỉ mới trôi qua hai năm. Cỗ máy hiện đại đó có thể đưa em tới bất cứ giai đoạn nào của cuộc đời chàng.
Tôi mở ba lô, lấy ra từng thứ một đặt trước mặt chàng:
- Những thứ này được tạo ra sau 1650 năm nữa và đều là những vật dùng mà thời đại này không thể có được. Đây là dao đa năng Thụy Sỹ. Đây là súng gây mê, người bị bắn trúng sẽ bất tỉnh trong vòng một ngày. Đây là áo chống phóng xạ của em. Trước khi tới đây, em phải mặc chiếc áo này lên người, bằng không, tia phóng xạ cực mạnh có thể khiến toàn thân em tan chảy. Đây là chiếc đồng hồ vượt thời gian, chàng từng thấy nó rồi. Những cây kim đang chuyển động này là đơn vị để tính thời gian. Muốn quay về, em phải dựa vào năng lượng của chiếc đồng hồ này. Dây thường và móc câu này dùng để vượt tường. Cung tên này có thể bắn móc cây lên một vị trí rất cao. Còn có cả bút chì, sổ ghi chép, các dụng cụ khảo cổ, ...
Tôi vén tay áo lên, để lộ vết sẹo ở nơi đã trải qua phẫu thuật.
- Chàng nhớ vết thương này chứ? Ở thời đại của chàng, đó là một vết thương nghiêm trọng, muốn giữ mạng, phải chặt bỏ cánh tay, nhưng thậm chí, ngay cả khi chấp nhận chặt bỏ cánh tay, cũng chưa chắc có thể sống tiếp. Nhưng ở thời đại của em, với các thiết bị y tế và dược phẩm hiện đại, vết thương đã lành lặn, ngay cả vết sẹo sau khi điều trị cũng trở nên rất mờ nhạt. Đó không phải là sức mạnh của phép thuật. Y học tương lai có thể chữa trị rất nhiều căn bệnh mà chàng cho rằng không thể chữa khỏi.
Rajiva ngồi bất động, kinh ngạc không thốt lên lời. Tôi lấy ra một trong những thứ quý giá nhất tôi mang theo đến thời cổ đại này, đưa cho chàng:
- Đây là tấm ảnh em chụp với cha mẹ. Họ chỉ có mình em.
Nhắc đến cha mẹ, tôi mỉm cười:
- Ở thời đại của em, em vẫn đang là một sinh viên theo học chuyên ngành lịch sử. Ước mơ của em là trở thành một nhà sử học. Cha mẹ không hề hay biết về dự án vượt thời gian này. Em chỉ nói với họ rằng, em đang tham gia một dự án khảo sát đòi hỏi tính bảo mật tối đa, ngay cả điện thoại cũng không được sử dụng. Họ đâu có biết rằng, con gái họ đang sống ở thời đại cách họ những 1650 năm... Cái này gọi là ảnh chụp, một dụng cụ đặc biệt giúp lưu giữ lại hình ảnh của con người trong một khoảnh khắc bất kỳ, sau đó nó được in ra bằng tấm phim. Trang phục của em trong tấm hình này gọi là quần bò, áo phông, là cách ăn mặc phổ biến của các cô gái ở thời đại đó.
Tôi chỉ tay vào các dãy nhà cao tầng trên hình nền phía sau:
- Đây là nhà em. Đời sống vật chất và dịch vụ y tế ở thời đại của em rất phát triển, tuổi thọ của con người rất cao, dân số đông đúc, nên phải xây nhà lên tận không trung thế kia, tuy nhiên sẽ có một cỗ máy có thể đưa con người lên bất cứ tầng cao nào chỉ trong chốc lát.
Tôi nắm tay chàng, niềm hy vọng dâng lên trong mắt:
- Rajiva, bây giờ chàng tin em đến từ tương lai rồi chứ?
Vẻ kinh ngạc xen lẫn hoang mang vẫn bao trùm gương mặt chàng. Chàng nhìn tôi không chớp mắt, suy nghĩ rất lâu mới gật đầu xác nhận.
- Vậy chàng sẽ tin em có thể đưa chàng thoát khỏi nơi này và giúp hai ta tiếp tục sống bên nhau chứ?
Chàng nhìn tôi hồi lâu, từ tốn gật đầu.
Tôi nở nụ cười rạng rỡ, kéo tay chàng:
- Nếu vậy, đêm nay chúng ta sẽ đi khỏi đây.
Chàng không trả lời đồng ý hay không đồng ý, chỉ yên lặng suy nghĩ giây lát rồi cất giọng hỏi:
- Tuy nàng nói có rất nhiều từ ngữ lạ ta không hiểu: máy móc, khoa học, ảnh chụp, điện thoại..., nhưng ta tin nàng. Những dụng cụ đó của nàng chỉ có thể là đến từ tương lai.
Chàng lại trầm ngâm, rồi ngước đôi mắt sâu thẳm tựa hồ nước mùa thu nhìn tôi:
- Nàng đến từ tương lai, vậy chắc nàng đã biết số mệnh của ta ra sao, phải không?
Tim tôi đập liên hồi, tôi đáp trong vô thức:
- Em biết một chút thôi... Nhưng chỉ là truyện ký về chàng, rất sơ sài và vẻn vẹn trong một nghìn con chữ.
- Ngải Tình, mười một năm trước, nàng nói ta sẽ làm nên nghiệp lớn, truyền bá rộng rãi đạo Phật vào Trung Nguyên. Nàng còn căn dặn ta không được hoàn tục. Những điều đó, nàng đều đọc được trong truyện ký về ta phải không?
Tôi gật đầu, là một sinh viên ngành sử học, tôi phải tôn trọng sự thật lịch sử:
- Truyện viết về chàng rất ngắn ngủi, thậm chí có những đoạn hư cấu. Nhưng những kinh văn mà chàng dịch thuật đã được lưu truyển rộng rãi suốt 1650 năm.
Lại là những khoảnh khắc trầm ngâm và lại là đôi mắt sâu hun hút ấy ngước lên nhìn tôi:
- Chả trách nàng gọi ta là Kumarajiva, động viên ta đến Trung Nguyên, khuyên ta dịch kinh Phật. Thì ra, đây chính là số mệnh của ta.
Chàng nghiêng đầu sang một bên, giọng bình thản:
- Vậy là, sự có mặt của nàng vào năm ta ba mươi lăm tuổi cũng là vì nàng đọc được ghi chép về ta và biết ta gặp phải kiếp nạn đó?
- Vâng.
Sợ chàng hiểu lầm, tôi vội vàng giải thích:
- Nhưng hai lần gặp gỡ trước đó, đều là tình cờ. Cỗ máy vượt thời gian vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, không ai biết chắc em sẽ trở về thời kỳ nào. Bởi vậy, Rajiva, hai lần gặp gỡ trước của chúng ta đều là duyên trời định. Còn lần này, là do em chọn lựa. Bởi vì em yêu chàng, nên em muốn được ở bên chàng và cùng chàng vượt qua giai đoạn gian nan nhất của cuộc đời chàng.
Lại tiếp tục những khoảng lặng trầm ngâm miên man. Một lúc lâu sau chàng mới buông tiếng thở dài:
- Nếu đã vậy, bỏ trốn hay ở lại có gì khác nhau đâu? Kết cục đều như nhau.
Chàng hé môi cười buồn:
- Kết cục ấy là: Ta không cùng nàng mai danh ẩn tích, mà lưu lại nơi cửa Phật, đúng không?
Tôi không biết phải nói sao. Tôi đã làm gì thế này? Sao tôi lại cho chàng biết những điều đó? Sao chàng lại thông minh tuyệt đỉnh như vậy? Sao chàng có thể nhanh chóng chấp nhận xuất thân của tôi, lại có thể lập tức suy luận ra kết cục ấy? Tôi đã nói rất nhiều, vì tôi muốn chàng tin tôi đến từ tương lai và tôi có đủ năng lực để bảo vệ chàng. Nào ngờ, suy nghĩ của chàng lại hướng theo chiều ngược lại. Lòng rối như tơ vò, đầu óc – trống rỗng. Thật đúng là: cái khó bó cái khôn!
- Nàng từng nói ta phải gánh trên vai sứ mệnh truyền bá Phật pháp, dịch thuật kinh văn, trọng trách này còn quan trọng hơn cả tính mạng của ta. Ngải Tình, nếu ta bỏ trốn, ta sẽ không thể hoàn thành sứ mệnh đó, đúng không?
Tôi vẫn chẳng thể thốt ra được lời nào. Nước mắt bất lực trào ra. Chàng thì ngược lại, tỏ ra bình tĩnh hơn bao giờ, khiến tôi sợ hãi, toàn thân run rẩy.
- Do vậy, ta không thể bỏ trốn. Ta phải ở lại, chấp nhận mọi nguy nan, rèn giũa thâm tâm, hoàn thành quá trình khảo nghiệm của Phật tổ, hoàn thành sứ mệnh dịch kinh và truyền bá đạo Phật. Đó là số mệnh của ta, số mệnh mà ông trời đã định...
Chiếc cổ thiên nga đẹp mê hồn rướn cao, khuôn ngực phập phồng chừng như rất xúc động. Chàng nhắm mắt lại, hai hàng lệ chảy dài trên đôi gò má gầy guộc, đọng lại nơi chiếc cằm nhọn lún phún râu. Chàng khẽ lắc đầu, nước mắt vương trên chiếc áo lụa rộng mà trắng đục.
- Rajiva, em không nên nói với chàng... Em thật là ngốc, sao em lại làm vậy?
Tôi bật khóc dữ dội, và vô cùng hối hận. Tôi đã quên chàng là người theo chủ nghĩa duy tâm triệt để. Chàng sẵn lòng chấp nhận kết cục ấy, chỉ cần nói với chàng đó là số mệnh sắp bày, chàng sẽ tin ngay. Nhưng tôi không cam lòng, tôi không cam lòng...
- Ngải Tình, nếu đã là số mệnh, thì dù nàng không nói ra cũng chẳng thể thay đổi được gì.
Nỗi sầu muộn trong giọng nói của chàng khiến lòng tôi băng giá. Vậy là chàng đã chấp nhận số phận...
- Rajiva, chàng có thể vì em, rời bỏ cửa Phật không?
Tôi chờ đợi, tôi run rẩy. Thật không ngờ, tôi đã nói ra điều đó. Tôi luôn nghĩ sẽ giúp chàng tìm ra điểm cân bằng giữa tình yêu và lí tưởng. Tôi đã từng dặn lòng không được ép chàng lựa chọn. Nhưng tình thế trước mắt khiến tôi không còn thời gian để tìm kiếm cân bằng ấy nữa. Nếu không ra đi, tôi sẽ trở thành gánh nặng của chàng, Lữ Quang sẽ lợi dụng tôi để uy hiếp chàng. Nhưng nếu tôi đi rồi, chàng sẽ ra sao? Tôi không thể giương mắt nhìn chàng chịu đày ải, chịu sỉ nhục. Thế nên, dù hy vọng rất mong manh, tôi vẫn phải ra sức tranh giành với Phật tổ, ra sức vật lộn với số phận...
- Ngải Tình, nàng hãy đi đi, hãy trở về bên cha mẹ nàng, đừng lo cho ta nữa...
- Không!
Tôi gào lên thảm thiết, giọng như lạc đi.
- Cả hai ta sẽ cùng đi, nếu không, em quyết không đi...
Chàng đứng dậy, yên lặng hồi lâu. Ánh đèn le lói trong buổi hoàng hôn kéo bóng chàng hắt thành vệt dài lên vách tường lạnh lẽo. Tôi ngẩng đầu nhìn chàng, nước mắt giàn giụa nhưng chẳng buồn lau đi. Sự im lặng của chàng, theo thời gian, khiến tôi như đóng băng. Tôi không thể thua, tôi không chịu thua! Nhưng tôi biết, mình đã thua. Đứng trước tình yêu, chỉ số IQ của tôi đã trượt dài từ một trăm hai mươi xuống chỉ còn một nửa. Tiếp theo, phải làm gì, tôi không biết nữa! Ai đó làm ơn cho tôi biết đi?...
Chương 49: Ly Biệt
- Ngải Tình, nàng tư chất thông minh, nhân hậu, lương thiện, lại có những khả năng đặc biệt, khác lạ. Sao trên đời lại có người con gái toàn vẹn như nàng! Kể từ khi gặp nàng năm mười ba tuổi, ta luôn nghĩ rằng nàng là tiên nữ. Lần này, nàng xuất hiện khi ta bị ép buộc phá giới, khiến ta càng thêm chắc chắn rằng Phật tổ đã cử nàng đến giúp ta. Bởi vậy, ngày đêm quấn quít bên nàng, tuy phạm tội phá giới, nhưng trong lòng vẫn còn chút an ủi. Vì ta nghĩ nàng là đệ tử của Phật tổ.
Chàng xoay lưng về phía tôi, bờ vai xương xương rung động, ngừng lặng hồi lâu mới tiếp tục:
- Nhưng giờ đây, nàng lại cho ta biết nàng không phải tiên nữ. Mọi phép màu đều được giải thích bằng việc nàng đến từ tương lai. Thì ra nàng chỉ là một cô gái bình thường, không phải đệ tử của Phật tổ. Nếu vậy, lần đầu phá giới có thể viện cớ là ta bị ép buộc. Nhưng những lần phá giới tiếp theo, tự ta đã hủy hoại cuộc đời tu hành của mình. Ta đã gây nên nghiệp chướng, Phật tổ nhất định sẽ trị tội. Ta cảm thấy bội phần hổ thẹn và hối hận.
Như vừa nghe tiếng sét bên tai, toàn thân tê dại. Tôi không dám tin chàng có thể nói ra những lời đó. Tôi đứng bất động, mắt không rời khỏi bóng dáng gầy guộc ấy, quên cả khóc.
- Rajiva, chàng hối hận vì đã yêu em, hối hận mỗi đêm ôm em trong lòng chàng đều vững tâm vì nghĩ rằng em là tiên nữ, phải không? Giờ đây, khi biết em chỉ là một cô gái bình thường, chàng không còn yêu em nữa, đúng không?
- Ta vốn một lòng hướng Phật, không tơ tưởng chuyện yêu đương nam nữ. Nhưng rủi thay ma xui quỷ khiến, ta đã có quan hệ vợ chồng với nàng. Nhưng phút chốc hoan lạc ngắn ngủi sao có thể khiến ta từ bỏ Đức Phật! Ta sẽ không để sắc dục mê hoặc nữa! Quãng đời còn lại, ta sẽ toàn tâm toàn ý phụng sự Phật tổ. Tội phá giới, dù phải chết ngàn vạn lần cũng chẳng thế chuộc lại, ta chỉ có thể sống với nỗi sám hối vô bờ trong những ngày tháng còn lại. Vậy nên, nàng hãy đi đi, ta không bỏ trốn cùng nàng đâu!...
Tôi gắng gượng đứng lên, lảo đảo lao đến trước mặt chàng, kéo tay áo chàng, nhìn vào đôi mắt đang tìm cách chạy trốn của chàng:
- Em không tin! Chàng muốn em ra đi nên mới nói những lời này, đúng không?
- Ngải Tình, cảm ơn nàng đã cho ta biết về tương lai và sứ mệnh của ta.
Chàng nhắm mắt lại, lầm rầm tụng niệm:
- Cội gốc của bể khổ.
Tham dục chính là nguồn cơn
Nếu diệt được tham dục
Khổ chẳng còn chốn nương
Dứt hết hẳn các khổ
Gọi là đế thứ ba[31]
Lìa hết thảy trói buộc
Chừng sẽ được giải thoát.
Ngải Tình, hãy sớm thoát khỏi bể khổ! Nếu đây là số mệnh, hà tất phải cố chấp!
- Rajiva, em chỉ muốn chàng trả lời một câu thôi: chàng có yêu em không?
Rajiva mở mắt, nỗi bi thương bất tận phủ trên gương mặt chàng, chàng cất giọng từ tốn:
- Ngày trước có kẻ phạm tội, tìm cách bỏ trốn, nhà vua hay tin, thả voi điên đuổi bắt. Người này chạy đến một giếng nước khô và nhảy xuống. May mắn thay, khi rơi đến lưng chừng, anh ta bám được vào một bụi cỏ đâm rễ từ bụng giếng, thân mình treo lơ lửng bên vách giếng. Dưới đáy giếng, những con rồng dữ đang thè lưỡi phun độc. Bên cạnh lại có rắn độc đang chầu chực, hòng nuốt chửng anh ta. Ngoài ra còn có một đôi chuột đen trắng đang gặm nhấm bụi cỏ níu giữ anh ta. Bụi cỏ sắp đứt. Kẻ phạm tội muốn trèo ra ngoài, nhưng sợ bị voi điên xéo nát, sợ rơi xuống đáy giếng bị rồng phun độc. Muốn bám chặt tại chỗ lại sợ đôi chuột đen trắng cắn đứt bụi cỏ, sợ rắn độc phục sẵn bên cạnh. Lúc đó trên mặt giếng có một cây cao, trên cây có một tổ ong mật, những giọt mật ong ngọt lữ tình cờ rơi vào miệng kẻ tội nhân. Kết quả, hắn đã đê mê với vị ngọt ngào của mật ong mà quên đi tất cả những nguy hiểm đang rình rập quanh mình.
Đôi mắt màu xám nhạt thăm thẳm, tựa hồ thấy suốt mọi sự trên cõi đời này, ngước nhìn tôi:
- Ngải Tình, kẻ tội nhân ấy chính là chúng ta, voi điên kia tượng trưng cho lẽ vô thường, chuột trắng tượng trưng cho ban ngày, chuột đen là ban đêm. Bụi cỏ là sinh mạng của chúng ta. Rồng độc dưới đáy giếng tượng trưng cho sự sai trái, rắn độc tượng trưng cho "ngũ uẩn"[32] của chúng ta. Mật ngọt trên cây là biểu trưng của niềm vui khi ham muốn được thỏa mãn. Vì chúng ta đắm chìm trong hoan lạc, nên chúng ta đã quên đi tất cả: sinh mệnh, sự ràng buộc, thời gian, tất cả.
[32] Hay còn gọi là "ngũ ấm" nghĩa là năm nhóm tượng trưng cho năm yếu tố tọa thành con người, cũng có khi được hiểu là năm sự ràng buộc.
Chàng ngồi xuống trong tư thế thiền, mắt nhắm lại, không buồn nhìn tôi:
- Những ngày tháng còn lại, ta sẽ dành toàn tâm toàn ý cho thiền định, Phật pháp. Với ta, niềm vui tu hành mãi mãi vượt xa những ham muốn trần tục.
- Đừng nói nữa... Em sẽ ra đi...
Tôi đứng lên, toàn thân giá lạnh, chẳng còn một chút hơi ấm nào:
- Chàng đã quyết không ra đi, em ở lại, sẽ chỉ tạo thêm gánh nặng cho chàng. Nếu sự ra đi của em khiến chàng có thể dành trọn tâm trí cho việc phụng sự Đức phật, tu hành ngũ đạo; nếu sự ra đi của em có thể khiến chàng xóa bỏ mặc cảm của tội lỗi, vậy em sẽ đi.
Tôi khoác ba lô lên vai, thay bộ đồ màu đen mang từ thời hiện đại tới, lần chần đứng bên bậc cửa, thất thần nhìn chàng đang ngồi thiền tụng niệm. Đã nửa đêm, đêm khuya tắt lịm, chỉ có ánh trăng bàng bạc chếch nghiêng bên cửa sổ soi rọi bóng dáng cô độc của chàng. Chàng không ngừng tụng niệm, miệng chừng như không muốn khép lại, tuy chỉ lầm rầm, nhưng trong không gian tĩnh lặng này, thanh âm ấy trở nên trầm mặc, u sầu lạ thường. Chàng không chịu đi nghỉ, không chịu mở mắt, cũng không chịu nói với tôi một lời.
Trong lúc thay quần áo, tôi đã xác định kế hoạch của mình rất rõ ràng, ra khỏi cung sẽ đi đâu, làm gì. Rajiva, chàng chấp nhận số mệnh vì chàng không biết ai có thể chống lại số mệnh. Nhưng em thì khác. Em đến từ thế kỉ XXI, em sẽ không dễ dàng từ bỏ tình yêu của mình như vậy. Chàng không muốn em ở bên cạnh chàng, vậy em sẽ lặng lẽ làm việc đó. Nếu chàng gặp nạn, em sẽ giúp chàng. Cho đến khi chàng thực sự không cần em nữa, em sẽ ra đi.
- Rajiva, em đi đây. Chàng nhớ ăn uống đầy đủ, lúc rảnh rỗi, hãy tiếp tục dịch kinh Phật.
Muốn dặn dò thêm đôi câu, nhưng sống mũi cay cay, cổ họng nghẹn lại. Tôi ngừng lại lấy hơi, nuốt nước mắt vào trong. Tôi không thể rơi nước mắt tùy tiện như vậy, khóc than không giải quyết được vấn đề gì.
Chàng vẫn nhắm mắt, những âm thanh toát ra từ khóe môi dường như không phải là kinh Phật. Chàng ngẩng đầu, ánh trăng vằng vặc rọi lên gương mặt tựa điêu khắc nhưng cô độc và u buồn ấy...
- Ngải Tình...
Cuối cùng chàng cũng chịu mở lời, nhưng giọng nói mơ hồ như vọng lại từ cõi xa xôi miên viễn nào đó.
- Hãy trở về thời đại của nàng, hãy quên đi tất cả. Đối với nàng, ta chẳng qua chỉ là một cổ nhân thuộc về quá khứ.
Tôi cắn chặt môi, dặn lòng không được rơi lệ, tôi sẽ không tiếp tục để những giọt nước mắt rơi vô nghĩa nữa.
"Tất cả các pháp hữu vi
Như bóng, bọt nước có gì khác đâu
Như sương như điện lóe mau
Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng.[33]
[33] Bản dịch của Huỳnh Ngọc Chiến.
Biết chàng đang nhắm mắt, nhưng tôi vẫn nở nụ cười ngây ngô mang thương hiệu Ngải Tình mà thường ngày vẫn bị chàng trêu chọc:
- Rajiva, đó là câu kinh em thích nhất trong cuốn kinh "Kinh kim cương" mà chàng dịch. Một tháng bên nhau, tựa như ảo ảnh, nhanh như chớp mắt. Kinh Phật dạy rằng, mọi sự hữu vi đều là kết quả của nhân duyên, em và chàng cũng vậy. Nhưng bất luận thế nào, những ngày qua em đã rất hạnh phúc, cám ơn chàng!
Không chờ chàng đáp lại, tôi vội vã quay lưng bước đi, sợ nghe thấy tiếng chàng, quyết tâm ra đi sẽ tan biến. Bước tới hoa viên, giữa không gian thấm đẫm ánh trăng trong đêm giá lạnh, vẫn nghe tiếng lầm rầm tụng niệm của chàng tựa làn gió lướt nhẹ bên tai:
Tất cả các pháp hữu vi
Như bóng, bọt nước có gì khác đâu
Như sương như điện lóe mau
Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng
Vợ chồng Pusyseda khoác áo choàng ra đón tôi vào nhà, kinh ngạc trước trang phục màu đen từ đầu đến chân của tôi. Trông tôi lúc này chẳng khác gì các nữ hiệp thường xuất hiện về đêm trong các bộ phim truyền hình cổ trang. Có điều, chiếc ba lô hiệu Northface trên vai đã làm hỏng phần nào hình tượng hiệp sĩ ấy. Nửa đêm gà gáy, bốn bề tịch mịch, khi bước tới cổng phủ quốc sư và đưa tay lên gõ cửa, tôi biết sẽ có rất nhiều câu hỏi đang chờ mình. Nếu không phải vì có việc phải nhờ đến Pusyseda, tôi cũng chẳng muốn khuấy động cuộc sống yên bình của họ. Tôi kể vắn tắt quá trình bỏ trốn khỏi hoàng cung của mình, sau đó vội vã hỏi:
- Pusyseda, ngày kia cậu sẽ cùng nhà vua đến chùa Cakra chứ?
Cậu ta gật đầu, ánh mắt thoáng chút khó hiểu. Tôi bật dậy khẩn cầu:
- Dù bằng bất cứ cách nào, xin hãy đưa tôi đi cùng.
- Ngải Tình!
Cậu ta cũng bật dậy, giọng nói nghiêm nghị:
- Chị trốn khỏi cung, Lữ Quang rất có thể sẽ cho người truy bắt chị. Lúc này chị không ngoan ngoãn ẩn mình mà còn muốn liều thân ư, chị thật dại dột!
- Pusyseda, chính vì tôi bỏ trốn, nên chắc chắn Lữ Quang không thể ngờ được tôi dám đi theo đến chùa Cakra. Nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất. Vả lại, trong mắt Lữ Quang, tôi chỉ là cô gái khiến Rajiva phá giới, không có vai trò quan trọng gì cả. Ông ta có thể sẽ nghi ngờ không hiểu tôi đã bỏ trốn bằng cách nào, nhưng chắc chắn sẽ không cử cả một đội quân đi truy bắt một kẻ vô danh tiểu tốt như tôi đâu.
- Ông ta không cho rằng chị là một kẻ vô danh tiểu tốt đâu.
Cậu ta giậm chân, lắc đầu:
- Ông ta đưa đến cả tá mỹ nữ, vậy mà suốt bao nhiêu ngày, huynh ấy chẳng động đến ai cả. Nhưng khi ông ta mới tỏ ý muốn hại chị, huynh ấy đã lập tức lao đầu vào tự vẫn. Lữ Quang đâu có khờ, ông ta đã đoán ra chị quan trọng như thế nào đối với huynh ấy. Nếu để ông ta phát hiện ra chị, chẳng khác nào tự đến nộp mạng. Chị làm vậy sẽ khiến huynh ấy khó xử.
- Pusysede, tôi có thể trốn khỏi hoàng cung, tất nhiên tôi sẽ có cách tự bảo vệ mình, Lữ Quang không bắt được tôi đâu. Nếu phải giam mình ở đây chờ đợi, tôi sẽ hóa điên mất. Xin cậu, hãy đưa tôi đi. Chỉ cần được nhìn thấy chàng là tôi mãn nguyện rồi. Tôi sẽ không làm việc gì dại dột khiến cậu gặp phiền phức đâu.
Khóe mắt nóng ran, tôi ra sức kiềm chế, tôi đã tự hứa với lòng mình, sẽ không để những giọt nước măt vô nghĩa nhỏ xuống nữa.
- Ngải Tình, tôi không sợ phiền phức. Nhưng nếu đưa chị đi cùng, cũng đâu phải giải quyết được vấn đề gì?
Giọng nói của cậu ấy nhẹ nhàng hơn, bàn tay chực chìa về phía tôi, đến nửa chừng lại thu về.
- Tôi không biết có thể làm được điều gì cho chàng, nhưng tôi không thể bỏ mặc chàng. Tôi chỉ muốn lặng lẽ đi theo, để ít nhất được yên lòng về chàng.
Tôi hướng về Pusyseda tất cả nỗi kỳ vọng và khẩn cầu tha thiết của mình:
- Nếu như Hiểu Huyên và bọn trẻ gặp nạn, cậu sẽ làm gì? Mong cậu hiểu cho tôi.
Ánh mắt Pusyseda như đang trôi về miền ký ức xa xăm nào đó, nét mặt thoáng chút bi ai, cậu ta trầm ngâm nhìn tôi. Một lúc lâu sau mới thở dài ảo não:
- Ngải Tình, chị vẫn giống hệt mười một năm về trước...
- Lòng dũng cảm của cô Ngải Tình khiến người khác phải khâm phục. Thiếp xin chàng hãy giúp đỡ cô ấy.
Hiểu Huyên nãy giờ vẫn yên lặng ngồi bên, đột nhiên cất tiếng trò chuyện với chúng tôi bằng tiếng Hán:
- Hiểu Huyên...
Pusyseda nhìn Hiểu Huyên cười buồn.
- Thiếp cũng từng trải qua nỗi khổ vì yêu, nên rất hiểu tâm tư của cô, Ngải Tình. Xin chàng hãy giúp đỡ đôi uyên ương tội nghiệp ấy!
- Không phải ta không muốn giúp, nhưng ta đưa chị ấy đi bằng cách nào? Lữ Quang và đám con cháu của ông ta đều từng gặp chị ấy, nếu để lộ tung tích thì phải làm sao?
- Thiếp nghe nói, đức vua đưa cả thê thiếp đến chùa lễ Phật, chàng đưa người thân đi cũng đâu có gì lạ. Chàng hãy để cô Ngải Tình đóng giả thiếp là được.
Hiểu Huyên suy nghĩ một lát, quan sát tôi một lượt, rồi tiếp tục thuyết phục chồng:
- Từ khi về làm dâu nhà chàng, thiếp ít khi ra ngoài, nhưng ai nấy đều hay thiếp là người Hán. Chàng có thể ứng đối với người ta rằng, kể từ sau lần sinh nở thứ hai, thiếp luôn muốn đến chùa lễ Phật tạ ơn. Chỉ cần nói dối rằng thiếp bị cảm lạnh, phải trùm khăn che mặt là ổn. Cô Ngải Tình có đôi mắt rất giống thiếp, vóc dáng cũng vậy, cô ấy đóng giả thiếp chắc chắn không ai nghi ngờ. Chàng lại là quốc sư một nước, lẽ nào có kẻ dám vén khăn che mặt của thiếp để kiểm chứng đúng hay sai?
Hay lắm! Quả là một phụ nữ thông minh, lanh lợi! Tôi vui như mở cờ trong bụng, nắm lấy tay Hiểu Huyên, xúc động:
- Tốt quá! Cảm ơn phu nhân!
- Cô Ngải Tình có quan hệ thân thiết với gia đình chúng tôi như vậy, xin đừng gọi tôi là phu nhân, nghe khách sáo và xa lạ. Chi bằng chúng ta gọi nhau là chị em. Tôi có lẽ hơn tuổi cô, tôi gọi cô là em gái, được không?
Giọng nói dịu dàng và chân thành của cô ấy khiến tôi càng thêm yêu cô ấy hơn.
- Được chứ! Được làm chị em với một phụ nữ thông minh, xin đẹp như phu nhân là diễm phúc cùa Ngải Tình! Có điều, hai chúng ta chưa biết ai là chị ai là em đâu!
Ta thật thà khai báo:
- Tôi đã hai mươi lăm tuổi rồi!
- Hiểu Huyên, xét về tuổi tác, nàng phải gọi chị ấy là chị đó. Chị ấy hơn nàng một tuổi.
Pusyseda đứng bên bật cười.
- Nhưng, nhưng mà trông chị ấy giống như một thiếu nữ mới mười tám, mười chín tuổi vậy!
Hiểu Huyên nhấc tay tôi lên, cử chỉ nhã nhặn, không ngừng tán thưởng.
- Chị ấy còn rất nhiều điều khiến người ta phải ngạc nhiên nữa kia!
Tôi nháy mắt ra hiệu cho Pusyseda, cậu ta thôi cười, dịu dàng nói với vợ:
- Đã khuya rồi, nàng đưa chị Ngải Tình đi nghỉ đi. Ngày mai chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ để ngày kia lên đường.
Đêm đó, tôi trở về căn phòng quen thuộc của mình. Không ngoài dự đoán của tôi, mọi thứ vẫn được giữ nguyên, thậm chí cả những mảnh giấy viết chữ của Pusyseda thuở nhỏ vẫn còn đó. Những năm tháng đã khiến chúng trở nên ố vàng, những nét chữ xiêu vẹo đã không còn rõ nét nữa. Đang chìm đắm trong xúc cảm được khơi gợi bởi ký ức, bỗng tôi nghe thấy tiếng ngâm nga phía sau. Giai điệu quen thuộc làm sao, tuy có hơi lạc nốt nhưng chắc chắn đó là bài "Ngủ ngon con yêu". Tôi giật mình, quay lại nhìn cô ấy:
- Tướng công tôi thường hát ru hai đứa nhỏ bằng bài hát này.
Cô ấy mỉm cười, đôi mắt trong trẻo chiếu thẳng về phía tôi, có ý thăm dò phản ứng của tôi.
- Tướng công có lần đã hỏi tôi về bài hát của người Hán này, nhưng tôi hiểu biết hạn chế chưa từng nghe bài hát này bao giờ.
Thì ra cô ấy vẫn băn khoăn chuyện đó.
- Hiểu Huyên, chính tôi đã hát cho cả hai anh em họ nghe bài hát này.
Tôi hiểu ý tứ của cô ấy và nghĩ rằng nên thành thực:
- Chuyện đó đã qua lâu lắm rồi, có lẽ chỉ còn là một chút ký ức mơ hồ mà thôi, quan trọng nhất vẫn là hiện tại... Hiện tại, cô và hai đứa trẻ mới là người thân thiết nhất của cậu ấy, là những người mà cậu ấy muốn chở che, bao bọc nhất.
Tôi nhẹ nhàng nắm lấy tay cô ấy, giải bày lòng mình:
- Tôi cũng có người mà tôi muốn bảo vệ. Mười năm trước tôi đã bỏ lỡ cơ hội, nhưng bây giờ, tôi quyết không từ bỏ.
Tôi ngước nhìn bầu trời đêm tịch mịch bên ngoài, nỗi buồn dâng ngập lòng.
- Trừ phi chàng không cần tôi nữa...
Tôi nghĩ Hiểu Huyên đã trở về với niềm hân hoan vì khúc mắc đã được giải tảo. Tôi ngồi ngơ ngẩn rất lâu trên giường, kỷ niệm về căn phòng này lần lượt ùa. về. Chuyện xưa tựa như mây khói, chớp măt đã hơn mười năm. Cậu nhóc ngày xưa sáng nào cũng ngồi xổm, chầu chực bên giường tôi nay đã xuất hiện không ít nếp nhăn trên trán, mọi suy nghĩ hành động đã chín chắn, chững chạc, già dặn hơn rất nhiều.
Tôi bất giác nhớ lại người cha của họ từng nói với tôi. Pusyseda là người dám làm dám chịu, tính cách phóng khoáng, nhiệt thành, tuổi trẻ bốc đồng, phóng túng, nhưng sẽ trưởng thành theo thời gian. Còn Rajiva, chàng quá ư thông minh, từ nhỏ lại chưa từng phải chịu khổ. Suy nghĩ đè nặng trong lòng nhưng chẳng chịu nói ra. Tính cách ấy sẽ phải đổi bằng một đời bất hạnh.
Tôi cười buồn. Mười năm sau, những lời của Kumarayana đã được nghiệm chứng. Rajiva, chàng có bao nhiêu điều kìm nén trong lòng không thể nói ra? Lúc này, chàng đang làm gì? Hay là cũng ngồi thẫn thờ ngắm nhìn bầu trời đêm ngàn sao, chờ trời sáng? Lúc ra đi, em đã kìm lòng không nhìn chàng. Em đã tự an ủi rằng, vì chàng muốn em bỏ trốn nên mới nói những lời nghiệt ngã ấy. Tuy chàng chưa một lần nói yêu em, nhưng em biết, chàng đã yêu em từ khoảnh khắc chàng cầm lên cây viết và họa lại hình em. Chàng yêu em, không phải vì em là tiên nữ, không phải vì em là đệ tử của Phật tổ, mà chỉ vì em là cô gái đầu tiên, cũng là cô gái duy nhất bước vào trái tim chàng.
Tôi thở dài, cố gắng đẩy những phiền muộn trong lòng ra ngoài. Lúc này tôi chỉ có thể dựa vào lí do ấy để tin tưởng và tự động viên. Nếu không tôi chẳng biết phải lấy cớ gì để đến được bên chàng.
Chương 50: Pusyseda và lịch sử
Xe ngựa của phủ quốc sư dừng lại ở quảng trường phía trước hoàng cung, chúng tôi đứng đó chờ đợi đức vua Khâu Từ và đoàn tùy tùng của Lữ Quang. Ốc đảo Khâu Từ lúc này đã bước vào đầu tháng Chín, buổi sớm tinh mơ khí lạnh giăng giăng. Bạch Chấn và bầu đoàn thê tử của ngài đã đến và sắp xếp ổn thỏa đâu vào đấy, vậy mà vẫn chưa thấy Lữ Quang xuất hiện. Chờ tới tận khi mặt trời đã lên cao bằng ba con sào, ông ta mới đủng đỉnh từ trong cung tiến ra, vây quanh là hàng tá mỹ nữ Khâu Từ, cùng đội quân hộ tống đông đảo, so với Bạch Chấn, sự lấn lướt rất rõ nét.
Tôi chỉ dám đưa mắt nhìn trộm từ trong xe ngựa, tìm kiếm xung quanh Lữ Quang. Rất dễ nhận ra chàng, không phải vì khí khái bất phàm và vóc dáng nổi trội giữa đám quân lính người Hán, mà vì trang phục của chàng. Chàng khoác chiếc áo choàng rộng màu nâu sòng, một bên vai để trần, phục trang ấy hoàn toàn khác biệt so với đoàn tùy tùng rực rỡ, lấp lánh ngọc ngà châu báu của Lữ Quang. Trong những ngày chúng tôi bị giam lỏng, Lữ Quang ép chàng mặc trang phục của dân thường, nhưng hôm nay lại cho phép chàng khoác áo tăng lữ, ông ta hẳn có ý đồ đen tối gì đây.
Đoàn tùy tùng của Lữ Quang đã chuẩn bị xong xuôi. Một tên lính ra sức kéo một con ngựa đến bên Rajiva. Con ngựa đó chỉ nhìn thoáng qua cũng biết là một con ngựa dữ, nó không ngừng hí lên dữ tợn và bất tuân lệnh chủ. Không nghe rõ họ nói gì với nhau, tôi chỉ thấy Rajiva lặng lẽ đón lấy dây cương, chuẩn bị trèo lên.
Tôi nhắm chặt mắt lại, không dám chứng kiến những gì diễn ra tiếp theo. Trái tim như rỉ máu, đầu óc mê muội. Sự việc đã diễn ra như nó phải thế, dù tôi có cố gắng thay đổi thế nào đi nữa.
Những trận cười nhạo ác ý vang lên giữa đám đông. Đó là những kẻ ngu muội, xem tôn giáo như trò phù thủy, như một thứ mê tín dị đoan. Bọn họ chỉ biết lăm le cợt nhả, xem thường, hòng áp chế uy lực của thần quyền. Lịch sử đã chứng minh, Lữ Quang chẳng qua chỉ là một tên hề, Rajiva mới là bậc danh sư được người đời tôn kính. Tôi không muốn phải chứng kiến cảnh chàng bị đem ra làm trò hề và chắc rằng chàng cũng không muốn để tôi phải thấy cảnh đó. Tôi nắm chặt chiếc khăn lụa Atala trong tay, thầm khích lệ: Rajiva, cố gắng lên, hãy cố gắng lên!
Có tiếng xôn xao giữa đám đông, âm thanh của ai đó đang gào lên phẫn nộ. Kéo rèm cửa, ngó ra ngoài, Pusyseda đang đứng chắn phía trước con ngựa hung hãn, cậu ta đỡ lấy Rajiva mình lấm bụi đất, tay ôm đầu gối, vẻ mặt đau đớn.
Lữ Quang to nhỏ vài câu với thuộc hạ, con ngựa ác bị dắt đi, một chiếc xe bò lại được đưa đến trước mặt Rajiva. Mọi người đều cưỡi ngựa hoặc ngồi xe ngựa, xe bò chỉ dành cho các gia đình nghèo khổ, thấp kém. Nhưng phô bày sự đãi ngộ tồi tệ chưa phải là mục đích chính của Lữ Quang. Con bò này chắc chắn không bình thường, có lẽ chính là loại bò điên được ghi chép trong sử sách.
Pusyseda đầy vẻ lo lắng, không muốn để Rajiva lên xe. Vẻ mặt Lữ Quang cũng không dễ chịu gì, ông ta quay sang to nhỏ vài câu với Bạch Chấn, ngay lập tức nhà vua phải đích thân kéo Pusyseda ra ngoài.
Nhìn thấy Bạch Chấn kéo tay Pusyseda đi về phía cỗ xe ngựa của mình, tôi vội vàng trùm khăn che mặt lại. Rèm cửa được vén ra, nhà vua gật đầu với tôi, vẻ ái ngại, tiếng Hán lơ lớ cất lên:
- Phu nhân hãy can ngăn quốc sư, đừng làm chuyến đi bị chậm lại.
Tôi đưa tay ra kéo Pusyseda, khẽ cúi đầu đáp lễ với Bạch Chấn, hạ thấp giọng:
- Thần thiếp hiểu, xin tạ ơn đức vua!
Chờ Bạch Chấn đi khuất, tôi nói khẽ với Pusyseda:
- Lên xe đi, đừng chọc giận Lữ Quang nữa.
Pusyseda cau mày:
- Ngải Tình, chị nỡ lòng nào nhìn huynh ấy phải chịu như thế, chị không yêu huynh ấy sao?
- Pusyseda, chính vì yêu Rajiva, nên tôi mới phải nhẫn nhịn. Lữ Quang bày mưu hạ nhục Rajiva bằng mọi cách, cậu đứng ra ngăn cản chẳng những không giải quyết được vấn đề gì, sẽ chỉ khiến hắn thêm tức giận mà trút hết lên đầu Rajiva thôi.
Tôi buồn bã nhìn Pusyseda, thở dài:
- Trong thời thế kẻ mạnh chà đạp kẻ yếu này, ngoài việc thản nhiên đối diện, chúng ta không còn cách nào khác.
Pusyseda ngồi xuống phía đối diện với tôi, vẻ mặt vẫn nhuốm đầy uất hận. Cậu ta nặng nề buông tiếng giục phu xe.
- Đi thôi!
Cỗ xe từ từ lăn bánh, tiếng cười nhạo vẫn vang lên phía trước đoàn xe. Pusyseda sa sầm mặt mày, vén rèm cửa nhìn ra ngoài.
Tôi nhìn cậu ta lại lắc đầu:
- Đừng nhìn nữa.
Rồi giữ giọng bình tĩnh nói với cậu ta:
- Dù Rajiva có thể bình thản đối diện với mọi sự hành hạ, nhạo báng, nhưng chàng cũng có lòng tự trọng của chàng, chàng không muốn người thân của mình phải chứng kiến cảnh đó đâu. Chúng ra không nhìn, tức là chúng ta tôn trọng chàng, cậu hiểu chứ?
- Ngải Tình...
Vẻ mặt Pusyseda đầy đau đớn, khóe mắt nhuốm đỏ:
- Chị có thể bình tĩnh thật ư? Nhưng sao sắc mặt lại trắng bệch và đôi mắt lại thâm quầng thế kia?
Tôi ngẩng người, nghiêm trọng vậy ư? Mấy ngày qua đều mất ngủ, tôi biết sắc mặt mình rất khó coi. Nhưng diện mạo này, vô tình lại rất khớp với lời nói dối: phu nhân của Pusyseda đang bị cảm lạnh.
- Tôi đã truyền tin dặn dò chị khuyên nhủ huynh ấy kia mà! Huynh ấy không chịu nghe, hay chị không chịu nói?
Nhớ lại khoảnh khắc chia ly, tim tôi quặng thắt. Tôi phải hít một hơi thật sâu để lấy lại sự bình tĩnh:
- Chắc cậu biết Lữ Quang ép Rajiva phải làm gì chứ?
- Lúc đầu thì không, nhưng bây giờ tôi có thể đoán ra được.
- Vậy theo cậu, Rajiva có chấp nhận cầu cạnh Lữ Quang và ca tụng công đức của ông ta không?
- Dù không muốn, huynh ấy cũng nên nghĩ cách để kéo dài thời gian hoặc tạm thời chấp nhận, Tóm lại là phải tính kế lâu dài, việc gì huynh ấy phải một mực từ chối để bây giờ phải chịu sự đày đọa, sỉ nhục như vậy?
- Pusyseda, Rajiva có niềm tin của riêng chàng, đó là điều mà Lữ Quang không bao giờ khuất phục được. Sự đày đọa về thể xác dù sao cũng dễ chịu hơn nhiều sự dằn vặt về tinh thần. Chàng đã quyết định như vậy, cho nên dù xảy ra chuyện gì, tôi cũng sẽ đi theo và ủng hộ chàng. Thậm chí...
Tôi ngừng lại, giữ chặt bàn tay đang run lên bần bật, rồi mới tiếp tục:
- Nếu chàng không cần tôi nữa, tôi sẽ ra đi.
Ngày sau chàng sẽ theo Lữ Quang đến Lương Châu. Mười bảy năm đằng đẵng, vậy mà trong truyện kí về chàng chỉ lưu lại một và lời dự đoán lạ lùng, không đáng tin cậy. Từ việc này, có thể khẳng định, chàng không chịu thuận theo Lữ Quang. Mười bảy năm trời chàng còn không chịu khuất phục, nói chi bây giờ.
Pusyseda nhìn tôi rất lâu, ánh mắt ngập đầy tình thương và nỗi bi ai:
- Ngải Tình, chỉ có chị là người hiểu huynh ấy nhất, chả trách mười năm lại mười năm, huynh ấy vẫn một lòng chờ đợi chị. So với huynh ấy, tình yêu năm xưa của tôi dành cho chị, chẳng đáng kể gì. Tôi không giành được trái tim chị, cũng là điều dễ hiểu.
Tôi mỉm cười nhớ lại Pusyseda thời trẻ bồng bột, bướng bỉnh, tôi không khỏi xúc động:
- Vậy là, cậu đã chịu từ bỏ sự cố chấp của tuổi trẻ.
Ánh mắt Pusyseda như trôi đến tận phương nào, sau một hồi trầm ngâm, đột nhiên cậu ta cất tiếng:
- Huynh ấy gặp nạn cũng một phần do lỗi của tôi.
Tôi không khỏi ngạc nhiên.
- Trước khi ra đi, chị từng nói, ngày sau Khâu Từ sẽ trải qua một biến cố rất lớn. Nếu tôi tiếp tục theo nghiệp binh đao, sẽ khó bảo toàn tính mạng. Chị còn khuyên tôi nên tạo dựng mối quan hệ mật thiết với cậu út, cậu ấy sẽ là chỗ dựa của tôi sau này. Chị nhớ chứ?
Tôi gật đầu, trong lòng không khỏi thấp thỏm:
- Cậu đã làm gì?
- Tôi cố ý chọc giận đức vua Bạch Thuần, giờ thì nên gọi ông ta là Tiên Vương mới phải, nên đã bị đuổi khỏi đội cấm vệ quân. Tôi và ông ấy vốn có ân oán từ trước, nên ông ấy không coi tôi ra gì. Sau khi cha mẹ tôi qua đời, ông ấy chẳng cần phải nể nang nữa... Rời đội cấm vệ quân, tôi quyết định buôn tơ lụa, kiếm được rất nhiều tiền. Nhưng Bạch Thuần không chịu trao quyền kinh doanh mỏ đồng cho tôi, lại trao cho hoàng tử thứ tư – một kẻ ngu muội. Hắn kinh doanh thua lỗ, lại đổ tội cho tôi ngăn cản thương nhân Shanshan mua đồng của Khâu Từ. Bạch Thuần tức giận xung công rất nhiều cửa hiệu tơ lụa của tôi. Thời gian đó, tôi sống rất khổ sở.
Nhớ lại chuyện cũ, nỗi tức giận dâng lên trong giọng kể của Pusyseda:
- Một tên vua tàn bạo, xa hoa như vậy, lật đổ ông ta sẽ tạo phúc cho trăm họ. Thêm nữa, tôi cũng muốn trả thù, nên đã kích động cậu út tạo phản. Cậu út bản tính hèn nhát, không có dã tâm, mọi việc trù bị cho cuộc soán ngôi đều do một mình tôi lo liệu. Chúng tôi vốn không có thực lực, lại không nắm giữ quân đội trong tay, nên trong chuyến cống nạp cho triều đình nhà Hán sáu năm trước, tôi đã theo cậu út đến Trường An. Năm đó được diện kiến Vua Tần – Phù Kiên, ông ta tự xưng mình là bậc anh hùng cái thế, trong cuộc chuyện trò, tôi nhận ra dã tâm muốn thu phục Tây vực của Phù Kiên... nên sau khi quay về, tôi liên lạc với Shanshan, Chirsh – các tiểu quốc từ lâu đã bất mãn với việc Bạch Thuần xưng bá ở Tây vực, cùng nhau tập hợp lực lượng. Ba năm trước, vua của ba tiểu quốc Tây vực đã cùng nhau đến Trường An tiến cống. Dưới sự chỉ đạo của tôi, họ đã cùng thỉnh cầu Phù Kiên Tây chinh, đồng thời tình nguyện làm "người dẫn đường" cho quân đội Tây chinh của Phù Kiên.
Tôi tròn xoe mắt nhìn Pusyseda. Thật không ngờ, những diễn biến lịch sử mà tôi thuộc làu làu về giai thoại này, lại do cậu ta sắp bày tất cả.
- Từ lâu tôi đã nể phục Phù Kiên, tôi muốn dựa vào sức mạnh của ông ta để trừ bỏ Bạch Thuần. Phù Kiên hứa hẹn sẽ đối xử với Khâu Từ như nhà Hán, cho phép Khâu Từ tự trị, chỉ cần hàng năm cống nạp đầy đủ là được. Tôi biết anh trai mình lúc nào cũng đăm đắm hướng về đất Hán, muốn đến đó tìm chị, lại lo huynh ấy gắn bó quá mật thiết với Bạch Thuần thì sau này sẽ bị vạ lây, nên trước mặt Phù Kiên, tôi đã hết lời ca ngợi tài trí của huynh ấy và khuyên Phù Kiên mời huynh ấy đến Trường An truyền pháp. Phù Kiên vốn nghe danh anh tôi đã lâu, nên đã hạ lệnh cho Lữ Quang nhất định phải công phá Khâu Từ, sau đó lập tức đưa anh tôi về Trường An.
Tôi không thốt nổi nên lời, sao lại có chuyện như vậy...
- Ngải Tình, tôi đâu ngờ Phù Kiên lại bị nước Tấn đánh bại vào lúc này, nước Tần của ông ra vốn hung mạnh nhất Trung Nguyên kia mà! Tôi lại càng không thể tin được, Lữ Quang nhân dịp này mưu đồ xưng bá Tây vực, đã giam cầm anh tôi. Nguyên nhân sâu xa những bất hạnh của huynh ấy đều do tôi gây nên.
Khuôn mặt Pusyseda đầy vẻ hổ thẹn, bàn tay đan chặt vào nhau như muốn vò nát nỗi bi phẫn.
- Nếu được, tôi sẵn sàng chịu tội thay huynh ấy. Mỗi lần nhìn huynh ấy rơi từ trên lưng ngựa xuống, tôi cảm thấy vô cùng đau đớn.
Bên ngoài cửa xe lại rộ lên những tràng cười, âm thanh ấy tựa như những mũi tên từ bốn phương tám hướng bắn thẳng vào tôi, tôi như muốn ngã quỵ, phải vịn vào cánh tay của Pusyseda.
- Không, không phải lỗi của cậu. Lỗi ở tôi, ngày ấy, chính tôi đã tiết lộ chuyện tương lai cho cậu. Nếu muốn truy xét, thì chính tôi đã hại chàng...
Vì sao lại như vậy? Rốt cuộc tôi là ai? Tôi là một phần tử của giai đoạn lịch sử này ư? Vì sao không hề có ghi chép nào về tôi? Rốt cuộc, tôi đóng vai trò gì giữa dòng sông lịch sử đang cuồn cuộn chảy trôi này? Chính tôi đã chuyển động bánh xe lịch sử vĩ đại ư? Hay là, ngay cả khi không có tôi, kết cục vẫn như vậy? Rốt cuộc là ai, là ai đang bày trò chơi số phận này với chúng tôi?
Nếu theo thuyết duy tâm, thì việc tôi vượt thời gian và gặp gỡ Rajiva cũng không phải là chuyện tình cờ. Và chàng không chịu bỏ trốn cùng tôi là quyết định đúng đắn. Bởi vì, cho dù thế nào, lịch sử vẫn sẽ diễn ra theo hướng đã định sẵn, Rajiva chắc chắn sẽ trở thành một vị cao tăng danh tiếng lẫy lừng trong lịch sử. Vậy nên, suy cho cùng, tôi chẳng thể thay đổi được bất cứ điều gì...
Sách sử ghi chép rằng "Lữ Quang bày trò hạ nhục Kumarajiva, ép nhà sư thành thân với công chúa Khâu Từ". Tôi đã cố tình bỏ qua chi tiết lịch sử này, thậm chí xóa khỏi bộ nhớ. Tôi tự nhủ rằng, những ghi chép về Rajiva có quá nhiều điểm không đáng tin cậy và điều này chắc chắn cũng là một dạng "tin đồn thất thiệt". Vả lại, tôi đã thay thế Aksayamati, trở thành "đối tượng" phá giới của Rajiva, tức là đã thay đổi lịch sử. Đối với hậu thế, điều này sẽ trở thành một ẩn số. Nhưng, câu nói của Pusyseda khiến tôi thấp thỏm không yên. Nếu lịch sử vẫn lăn bánh theo hướng đã định sẵn, nếu ghi chép trên kia là sự thực, thì dù tôi có làm gì, Aksayamati vẫn sẽ trở thành vợ của Rajiva.
- Ngải Tình, chị sao thế?
Một cánh tay vòng qua đỡ lấy tôi.
Tôi ngước nhìn Pusyseda, đầu óc choáng váng, toàn thân chao đảo. Không được, tôi không thể gục ngã, không thể yếu đuối trong lúc này. "Thành thân với công chúa Khâu Từ", "thành thân với công chúa Khâu Từ", không nghĩ ngợi nhiều nữa, mặc cho con đường phía trước sẽ ra sao, tôi nhất định phải giữ vững tinh thần để ứng phó với tất cả.
- Tôi không sao, chỉ hơi chóng mặt thôi, chợp mắt một lát sẽ ổn.
Tôi dựa lưng về phía sau, đầu óc trống rỗng. Dường như có ai đó đang gọi tên tôi. Tôi không cất nổi tiếng đáp lại, tôi thật sự rất mệt...
Lúc lờ mờ tỉnh lại, tôi mới nhận ra mình đang nằm trong vòng tay Pusyseda. Tôi ngượng ngùng ngồi dậy, nhìn thấy sự quan tâm, lo lắng hiển hiện trên gương mặt cậu ấy.
- Sao chị lại ngất đi thế?
- Không sao đâu, chỉ tại mấy hôm nay tôi bị mất ngủ, nên hơi mệt thôi.
Không muốn nói thêm nữa, nhận thấy xe ngựa đã dừng lại, tôi bèn hỏi cậu ấy:
- Vì sao dừng lại?
- Lữ Quang muốn nghỉ ngơi.
Vẫn là ánh mắt lo lắng nhìn tôi đăm đăm, Pusyseda thở dài:
- Tôi đi xem anh tôi thế nào.
Tôi lên tiếng giữ cậu ấy lại, Pusyseda mỉm cười lắc đầu:
- Yên tâm, tôi sẽ giữ bình tĩnh.
- Đưa vật này cho chàng giùm tôi...
Đón chiếc khăn lụa Atala từ tay tôi, Pusyseda trầm ngâm giây lát rồi nhìn tôi gật đầu.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top