Du hanh long dat 11-15
Chương 11: Một trăm dặm dưới mặt đất
Sáng hôm sau thức dậy, tôi đảo mắt nhìn quanh. Chỗ nằm của tôi được lót bằng tất cả chăn của đoàn thám hiểm. Tôi đang ở trong một cái hang tuyệt đẹp với nền cát mịn, nhũ đá tráng lệ. Trong hang tuy không có đèn nhưng được chiếu sáng bằng những ánh sáng kỳ lạ bên ngoài rọi vào qua khe hẹp ở cửa hang. Ngoài kia hình như có tiếng rì rào của gió hay của sóng vỗ lên bãi cát?
Tôi không hiểu mình đang tỉnh hay mơ? Dù sao sự thật quá rõ ràng, tai tôi không thể nghe lầm, mắt tôi không thể nhìn lộn. Ánh sáng lọt qua khe đá, chiếu vào đây là ánh sáng ban ngày. Tiếng vi vu kia là tiếng gió thổi nhẹ. Tiếng rì rào ấy là tiếng sóng vỗ bờ. Phải chăng cuộc thám hiểm đã kết thúc tốt đẹp và chúng tôi đã quay trở lại mặt đất?
Tôi đang loay hoay với những câu hỏi không giải đáp được thì giáo sư bước vào.
- Chào Axel! - giáo sư vui vẻ nói - Chú đoán chắc là cháu đã bình phục!
- Thưa chú, cháu khỏe rồi ạ! - nhỏm người dậy, tôi nói.
- Ừ, cháu ngủ ngon quá! Chú và Hans đã thay phiên nhau thức trông nom cháu. Sức khỏe của cháu hồi phục lại trông thấy!
- Phải, cháu thấy trong người đã hoàn toàn khỏe mạnh. Thưa chú, cháu sẵn sàng ăn sáng ngay bây giờ!
- À, thế là cháu đã hết sốt rồi đấy. Cháu muốn ăn hả? Hans đã dùng một thứ thuốc mỡ bí truyền của người Iceland bôi vào vết thương cho cháu. Vết thương lành ngay! Được một người như anh chàng thợ săn này cũng rất đáng tự hào!
Vừa nói giáo sư vừa chuẩn bị bữa ăn cho tôi. Tôi ăn ngấu nghiến. Trong khi ăn, tôi cứ hỏi tới tấp khiến ông không kịp trả lời.
Tôi được biết cái ngã "may mắn" đã hất tôi xuống một đường hầm gần như thẳng đứng. Cuộc di chuyển kinh khủng ấy đã ném tôi vào tay giáo sư, bất tỉnh và máu me đầy người.
- Axel này, - giáo sư nói - bị một tại nạn như vậy mà không ảnh hưởng gì đến tính mạng, chú cũng thấy lạ! Nhưng từ nay chúng ta không nên rời nhau kẻo có ngày không còn nhìn thấy nhau nữa đâu!
"Chúng ta không nên rời nhau!". Như vậy cuộc hành trình chưa kết thúc? Thấy tôi tròn mắt ngạc nhiên, chú tôi hỏi:
- Sao vậy, Axel?
- Chúng ta không phải đang ở trên mặt đất sao?
- Không!
- Ồ! Không lẽ cháu bị điên vì cháu thấy ánh sáng mặt trời, cháu nghe tiếng gió thổi và cả tiếng sóng vỗ nữa.
- Chú sẽ không giải thích gì hết vì đó là điều không thể giải thích nổi. Nhưng cháu sẽ được nhìn thấy tận mắt và tự hiểu là có những điều mà khoa học địa chất chưa khám phá hết!
- Chúng ta ra ngoài kia đi! - tôi bỗng đứng bật dậy và nói.
- Khoan đã, Axel! Không khí ngoài trời có thể làm cháu bệnh đấy!
- Không khí ngoài trời?
- Phải. Gió thổi khá mạnh mà cháu vẫn còn yếu nên chú không muốn...
- Nhưng cháu khỏe hẳn rồi mà!
- Axel, đừng nóng ruột! Nếu cháu bệnh lại bây giờ thì rắc rối lắm. Không nên để mất thời gian vì chuyến vượt biển sắp tới có thể dài ngày đấy.
- Chúng ta sẽ vượt biển?
- Phải. Cháu hãy nghỉ ngơi hết ngày hôm nay. Ngày mai chúng ta sẽ xuống tàu!
- Xuống tàu? - tôi kinh ngạc kêu lên.
Vậy là sao? Sẽ xuống tàu! Sẽ vượt biển! Tính tò mò của tôi bị kích thích đến cao độ! Giáo sư Lidenbrock thấy không thể ngăn giữ tôi được nữa đành chiều theo ý tôi. Tôi vội vàng mặc quần áo và cẩn thận khoác thêm một cái chăn, rồi bước ra khỏi hang.
Thoạt đầu tôi chẳng trông thấy gì cả. Mắt tôi đã quen với bóng tối nên bỗng nhắm tít lại. Khi mở được mắt ra, tôi không khỏi kêu lên vì quá đỗi sửng sốt:
- Biển!
- Phải! - giáo sư đáp - Biển Lidenbrock đấy! Chắc chắn không một nhà hàng hải nào tranh chấp với chú về niềm vinh dự đã khám phá ra cái biển ngầm này và về quyền lấy tên mình đặt cho biển!
Một làn nước rộng trải ra mênh mông quá tầm mắt. Từng đợt sóng theo nhau sô lên bãi cát vàng mịn rải rác những vỏ ốc vỏ sò. Tiếng sóng vỗ bờ rì rào âm vang. Bọt sóng nhẹ tung bay theo gió phả vào mặt tôi. Trên bãi thoai thoải này, ở cách mép sóng một khoảng là chân những rặng núi sừng sững, cao vút, với những cạnh đá như xé toạc bờ biển, đâm ra khơi thành những mũi đất. Xa xa, khối núi đá kéo dài in hình trên nề chân trời mù sương.
Đây quả thật là một đại dương với đường nét bờ biển thất thường hệt như ở những biển trên mặt đất, nhưng vắng vẻ và hoang dã một cách kinh khủng.
Sở dĩ tôi có thể phóng tầm mắt ra tít ngoài khơi vì mọi chi tiết trên biển đều được soi tỏ bằng thứ ánh sáng đặc biệt, không phải ánh sáng mặt trời với những tia nắng huy hoàng rực rỡ, cũng chẳng phải là ánh sáng lạnh lẽo, nhợt nhạt và mờ ảo của mặt trăng. Khả năng chiếu sáng, sự khuyếch tán, sắc sáng trắng và khô, sự tăng nhiệt độ... tất cả chứng tỏ ánh sáng này thuần túy do điện mà ra.
Vòm đá hoa cương treo trên đầu tôi giống hệt một bầu trời với những đám mây óng ánh đổi màu chuyển động. Tôi cứ ngỡ dưới một áp suất lớn như vậy của khí quyển, nước không thể bay hơi được, nhưng do một lý do nào đó trên cao lại dày đặc những đám mây lớn. Tuy vậy, đây vẫn không phải là mặt trời nên ánh sáng không nóng, hơn nữa còn gây một ấn tượng hết sức u sầu và ảm đạm! Ở trên những đám mây đáng lẽ phải là một bầu trời sao lấp lánh lại thấy một vòm đá hoa cương đang dồn hết sức nặng lên người tôi và cả khoảng không gian dù bao la thế nào chăng nữa ấy, cũng không thể đủ chỗ cho một vệ tinh khiêm tốn nhất du hành!
Như vậy chúng tôi bị giam trong một cái hang rộng đến nỗi không thể ước lượng được diện tích. Từ "hang" và cả những từ khác trong tiếng nói của loài người cũng không đủ ý để miêu tả cái nơi rộng mênh mông này. Tôi cũng không biết nên dùng hiện tượng địa chất nào để giải thích sự tồn tại của một chỗ như vậy. Phải chăng do trái đất khi nguội lạnh đã tạo thành? Tôi đã từng được nghe các nhà du lịch kể về những cái hang nổi tiếng song không có một nơi nào có kích thước như vậy. Trí tưởng tượng của tôi hoàn toàn bất lực trước khoảng rộng bao la ấy!
Tôi đứng lặng ngắm tất cả những kỳ quan này mà tưởng như đang ở một hành tinh nào đó rất xa lạ với con người. Không tài nào tưởng tượng nổi, tôi ngắm nhìn, ngẫm nghĩ chiêm ngưỡng mà trong lòng thấy sửng sốt và kinh hãi!
Điều này cũng dễ hiểu, vì sau bốn mươi bảy ngày bị cầm tù trong một đường hầm chật hẹp, nay được hít thở cái không khí ẩm và mặn của biển, còn gì vui sướng hơn!
- Thế nào Axel, - giáo sư hỏi tôi - liệu cháu có đủ sức đi dạo một chút không?
- Cháu đi được, - tôi đáp - mình đi một vòng cho thoải mái, chú ạ!
- Cháu hãy vịn vào tay chú, chúng ta sẽ đi dọc theo bờ biển.
Chúng tôi bắt đầu đi dọc theo bờ đại dương mới này. Ở bên trái, những núi đá dốc đứng chồng chất lên nhau tạo thành một khối khổng lồ. Từ trên triền núi có vô số những thác nước ào ào đổ xuống. Ở một vài nơi, những làn hơi nước nhẹ tỏa lên từ những suối nước nóng. Trong những dòng suối ấy, tôi nhận ra cả dòng suối Hans đang bình thản xuôi ra biển.
Tôi chợt chú ý tới một cảnh bất ngờ. Chúng tôi đi được khoảng năm trăm bước thì trước mắt bỗng hiện ra một rừng cây cao rậm rạp. Cây rừng không lớn lắm. Tàn cây được xén ngọn, cân đối và tròn trĩnh trông giống những chiếc dù. Nhưng kỳ lạ là gió thổi mạnh như vậy mà tán cây vẫn im phăng phắc như đã hóa đá!
Tôi không hề biết tên loại cây này. Có thể đây là một loại cây mà trên mặt đất không có chăng? Khi đi lại đến gần, tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú.
Giáo sư Lidenbrock gọi ngay tên chúng:
- À, đây chỉ là một rừng nấm!
Nhưng thực vật ở đây không phải chỉ có những loài nấm ấy mà xa xa, chúng tôi thấy rất nhiều loại cây cao lớn khác thường mọc thành từng nhóm.
- Thật kỳ dị, nhưng huy hoàng và tráng lệ! - chú tôi kêu lên - Đây chính là toàn bộ hệ thực vật của thời kỳ chuyển tiếp của thế giới. Cháu hãy chiêm ngưỡng đi. Không một nhà thực vật học nào gặp một dịp may hiếm có như vậy đâu!
- Hình như thượng đế muốn giữ trong cái nhà kính bao la này những loài cây trước thời hồng thủy.
- Nhà kính à? Nói đúng hơn thì đây cũng là một vườn thú!
- Sao chú lại nói vậy?
- À, cháu hãy nhìn kĩ đám cát bụi và những mảnh xương rải rác trên mặt đất kia xem!
- Trời! Xương của những động vật trước thời hồng thủy!
Tôi vôi lao tới những tàn tích cổ đại, những cái xương khổng lồ đã hóa thạch trông giống những thân cây khô và kêu lên:
- Đây đúng là một vườn thú bởi những hài cốt này không phải do một tai biến vận chuyển đến đây mà thuộc những động vật đã từng sinh sống dưới bóng cây kì dị trên bờ biển ngầm này. Nhưng cháu không hiểu tại sao trong một cái hang đá hoa cương này lại có những động vật bốn chân ấy? Bởi vì đời sống động vật chỉ có trên trái đất ở thời kì thứ hai, khi đất trầm tích đã được hình thành do phù sa và đã thay thế các loại đá nóng sáng của thời kỳ nguyên thủy.
- Thắc mắc của cháu dễ giải đáp thôi. Sở dĩ có như vậy là vì mảnh đất này là đất trầm tích. Sự việc này có thể giải thích bằng địa chất học. Ở một thời kì nào đó, trái đất được bọc bởi một lớp đàn hồi, chịu tác dụng của những sự vận động lên xuống liên tục theo định luật hấp dẫn. Có thể xảy ra những sự lún sụt đất đai và một phần đất trầm tích đã bị cuốn xuống đáy những vực thẳm bỗng nứt ra ấy.
- Có thể như thế lắm. Nhưng nếu những quái vật trước thời hồng thủy đã từng sinh sống ở những vùng đất ngầm này biết đâu chẳng có một vài con đang lang thang trong những khu rừng âm u kia?
Tôi bỗng kinh hãi nhìn quanh khắp chân trời, nhưng không bắt gặp một quái vật nào trên bờ biển hoang vắng.
Cảm thấy mệt mỏi, tôi liền ngồi xuống một mỏm đá nhô ra biển và phóng mắt nhìn rộng ra khắp vịnh. Nơi đây, lọt thỏm giữa hai gò đá lớn, có một cảng nhỏ khuất gió, mặt nước phẳng lặng. Tôi mong nhìn thấy một con tàu nào đó đang xuôi theo gió, giong buồm ra khơi.
Nhưng ở cái thế giới ngầm dưới lòng đất này, chỉ có chúng tôi là những sinh vật duy nhất. Đôi lúc lặng gió, một sự im lặng sâu lắng hơn ở những nơi hoang mạc trùm lên những mô đá cằn cỗi, nén xuống mặt đại dương. Tôi ra sức nhìn xuyên qua làn sương mù xa xa đang che kín chân trời bí hiểm. Trong đầu tôi bỗng ngổn ngang bao thắc mắc! Tận cùng của biển này là nơi nào? Sóng nước mênh mông kia dẫn tới đâu? Liệu ta có biết được không?
Sau một giờ ngắm nhìn cảnh huy hoàng ấy, chúng tôi quay gót trở về hang. Tôi thiếp đi trong một giấc ngủ say, chìm trong những ý nghĩ lạ thường nhất.
Ngày hôm sau, tôi thức dậy, hoàn toàn khỏe mạnh. Sau khi tắm trong nước biển, tôi trở về ăn sáng hết sức ngon miệng.
- Axel này, - giáo sư nói - hiện đang là giờ thủy triều lên, ta không nên bỏ lỡ dịp nghiên cứu hiện tượng này.
- Sao ạ? Ở biển ngầm cũng có thủy triều? Chẳng lẽ mặt trăng, mặt trời ảnh hưởng tới tận nơi đây?
- Đúng vậy! Tất cả các vật đều phải chịu chung lực hấp dẫn của thế giới! Do vậy, khối nước này không thể thoát khỏi cái quy luật chung ấy.
Chúng tôi đi trên bờ biển nhìn sóng nước đang lấn dần bãi cát.
- Sau những đợt sóng này, cháu sẽ thấy biển dâng lên đến hàng chục bộ.
- Cháu thật không tưởng tượng ra được trong vỏ trái đất lại có một đại dương với gió, bão và nước thủy triều!
- Đến bây giờ thì lý thuyết của ông Davy là chính đáng! Không thể phủ nhận được sự tồn tại của biển cả và những vùng đất ở bên trong trái đất.
- Thưa chú, biết đâu ở dưới biển này chẳng có những loài cá lạ! Ta có thể làm cần câu. Rồi xem ở dưới này cá có cắn câu như ở biển trên mặt đất không?
- Cứ thử xem, Axel ạ! Ta cần phải tìm hiểu thật cặn cẽ mọi bí mật của những vùng đất mới này.
- Nhưng hiện giờ chúng ta đang ở đâu?
- Ở cách Iceland ba trăm năm mươi dặm theo đường chim bay.
- Thế chúng ta đã xuống được bao sâu?
- Ba mươi lăm dặm.
- Vậy bây giờ chú định thế nào? Liệu chúng ta có quay trở lại mặt đất không?
- Tại sao phải quay trở lại hả? Cho tới giờ phút này mọi việc vẫn trôi chảy cả, chúng ta không có lý do gì mà không tiếp tục lên đường!
- Theo chú thì đại dương này rộng khoảng bao nhiêu dặm?
- Khoảng ba, bốn mươi dặm. Vì vậy không nên để mất thời gian, ngay ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu ra khơi.
- Chúng ta sẽ xuống tàu à? - nhìn quanh không thấy một cánh buồm nào, tôi bèn hỏi - Thưa chú, nhưng cháu có thấy chiếc tàu nào đâu?
- Có tàu thuyền gì đâu! Ta chỉ có một chiếc bè vững chắc và khá tốt.
- Một chiếc bè! - tôi kêu lên - Cháu chẳng trông thấy cái nào cả! Mà ở đây làm sao đóng được bè chứ?
- Cháu hãy lắng tai nghe thử xem.
- Hans đang đóng bè à ?
- Phải.
- Anh ta đang đốn cây phải không?
- Không, cây được đốn sẵn rồi, cháu sẽ thấy anh chàng thợ săn làm việc thế nào.
Đi chừng mười lăm phút, tôi nhìn thấy Hans đang làm việc sau một tảng đá lớn. Tôi sửng sốt trước một chiếc bè sắp hoàn thành đang nằm trên bãi cát. Gỗ đóng bè là một loại gỗ đặc biệt, nằm ngổn ngang đầy trên mặt đất đủ để đóng hàng trăm con tàu vượt đại dương.
- Thế nào cháu đã tin chưa?
- Đúng là không thể tưởng tượng nổi!
Đến chiều hôm sau, với đôi tay khéo léo, Hans đã đóng xong chiếc bè dài mười bộ, rộng năm bộ. Những cây xà bằng gỗ hóa thạch được kết chặt vào nhau bởi những sợi thừng to bền, tạo thành một mặt phẳng vững chắc. Tôi thấy nó sẽ trôi bình yên trên biển Lidenbrock.
Ngày 13 tháng 8, chúng tôi dậy rất sớm. Vì phải khánh thành phương tiện di chuyển mới này.
Toàn bộ trang bị của chiếc bè rất vững chắc gồm các cột buồm ghép bằng hai cây gỗ, một trục căng buồm, một cánh buồm bằng chăn và rất nhiều thừng chão. Hành lý, dụng cụ, đồ dùng, súng ống và một lượng lớn nước ngọt được chất lên bè. Đúng sáu giờ, giáo sư Lidenbrock ra lệnh khởi hành.
Hans đã làm một bánh lái để có thể điều khiển chiếc bè trên biển. Được lệnh, anh liền ngồi ngay vào bánh lái, tôi kéo neo lên, thế rồi buồm căng theo hướng gió đưa chúng tôi nhanh chóng ra khơi. Lúc rời bến, giáo sư Lidenbrock muốn đặt tên cho cái cảng nhỏ ấy, tôi liền đề nghị lấy tên Grauben, đó cũng là dịp nhớ đến cô gái xinh đẹp xứ Virland của tôi.
- Được! - giáo sư nói - Cảng Grauben, nghe cũng kêu!
Gió thổi từ hướng đông bắc đẩy chiếc bè của chúng tôi lướt đi khá nhanh. Những lớp không khí đậm đặc có một lực đẩy đáng kể, tác động lên buồm như một quạt máy mạnh. Sau một giờ, giáo sư đã nắm được vận tốc chuyển động.
- Nếu cứ tiếp tục với vận tốc như thế này, chúng sẽ đi được ít nhất ba mươi dặm một ngày, và chẳng mấy chốc sẽ thấy bờ bên kia.
Tôi lẳng lặng ngồi xuống một chỗ trước mũi bè. Trước mắt tôi, biển trải ra mênh mông. Từng đám mây lớn bay, hắt bóng xám xịt xuống mặt nước buồn tẻ. Đó đây, những giọt nước đọng trên bè phản chiếu ánh điện, sáng long lanh như bạc. Chẳng mấy chốc không còn trông thấy đất liền đâu cả, chỉ có són biển nhấp nhô!
Hans vẫn ngồi im giữ bánh lái, để mặc cho gió đẩy mạng trôi trên biển.
Ngay từ khi rời cảng Grauben, giáo sư Lidenbrock đã giao cho tôi nhiệm vụ ghi nhật ký hành trình trên biển. Những ghi chép hằng ngày này đã kể lại một cách chính xác chuyến vượt biển kỳ lạ ấy.
Thứ sáu, 14 tháng 8. Gió tây bắc thổi đều. Bè trôi nhanh theo một đường thẳng. Không thấy gì ở chân trời. Cường độ ánh sáng không thay đổi. Trời đẹp, những đám mây bay ở trên cao. Hàn thử biểu chỉ 32 độ.
Buổi trưa Hans buộc lưỡi câu vào đầu một sợi dây, móc một miếng thịt nhỏ làm mồi, rồi ném xuống biển. Trong hai giờ liền không câu được con cá nào cả. Chúng tôi nghĩ rằng nơi đây không có cá. Bỗng thấy dây câu động đậy, Hans vôi kéo lên và thấy một con cá đang giãy dụa ở đầu dây!
Giáo sư chăm chú nghiên cứu con cá một lúc rồi nói:
- Con cá này thuộc một giống cá sinh sống ở những biển nguyên thủy.
Hans lại móc mồi câu rồi thả xuống biển. Chỉ trong vòng hai giờ sau, chúng tôi câu được một đống cá to. Những con cá này đã bổ sung rất nhiều cho lượng thức ăn dự phòng của chúng tôi.
Toàn bộ thế giới hóa thạch như sống lại trong óc tưởng tượng của tôi. Tôi nhớ lại những thời kỳ đầu của thế giới trước khi có loài người. Giấc mơ của tôi bay bổng vượt lên trước sự xuất hiện những sinh vật. Không hiểu cơn ác mộng này sẽ cuốn tôi đến đâu? Một ảo giác đang choán lấy tôi...
- Axel, cháu bị bệnh hả? - chú tôi hỏi - Coi chừng té xuống biển bây giờ!
- Không ạ. Cháu vừa bị ảo giác. - tôi trả lời khi chợt tỉnh - Giờ thì hết rồi! Mọi việc đều bình thường chứ hả chú?
- Ừ! Được cái biển đẹp, lại thuận buồm xuôi gió, mảng đi nhanh lắm! Cứ đà này, chẳng mấy chốc ta sẽ tới bờ bên kia.
Chương 12: Tai họa khủng khiếp
Thứ bảy, 15 tháng tám. Cảnh biển vẫn giữ nguyên vẻ buồn tẻ, đơn điệu. Vẫn chưa thấy đất liền. Hình như đường chân trời cứ lùi ra mãi xa.
Giáo sư Lidenbrock có vẽ đang bực bội. Suốt ngày chỉ thấy ông đứng khoanh tay cáu kỉnh, chốc chốc ông lại nâng kính viễn vọng lên nhìn về phía trước.
Thấy vậy, tôi bèn hỏi ông:
- Thưa chú, chú có vẻ lo lắng?
- Không, chú chỉ bực là không ngờ cái biển ngầm này lớn quá thôi.
Tôi chợt nhớ trước khi rời cảng Grauben, giáo sư cho rằng biển ngầm này chỉ dài khoảng ba bốn chục dặm là cùng, thế mà nay đã vượt ba lần khoảng cách ấy rồi, vẫn chưa thấy bờ đâu cả.
- Cứ đi ngang mãi như thế này, mất biết bao thời gian! - giáo sư nói - Đâu phải mình đến đây chỉ để đi dạo trên cái biển trời ơi này đâu!
- Nhưng chính chúng ta đang đi theo con đường của ông Saknussemm...
- Vấn đề là ở chỗ đấy, Axel ạ! Liệu có đúng chúng ta đang ở trên con đường ấy hay không? Ông Saknussemm có gặp cái biển này không? Ông có vượt qua được nó không? Dòng suối Hans có dẫn chúng ta đi đúng đường không?
- Dù sao chúng ta cũng không nên hối hận là đã xuống đây! Quang cảnh dưới này tuyệt vời...
- Chú chẳng để ý gì tới quang cảnh cả. Chú đã có mục đích của mình và phải đạt được bằng bất cứ giá nào. Vì vậy đừng nên nói với chú chuyện ngắm cảnh.
Chủ nhật, 16 tháng tám. Không có gì mới. Thời tiết vẫn không thay đổi. Gió có vẻ mạnh hơn lên. Biển hình như vô tận. Nó phải lớn bằng Địa Trung Hải, hoặc Đại Tây Dương không chừng!
Giáo sư Lidenbrock nhiều lần thăm dò xem biển sâu cạn ra sao bằng cách buộc một cái cuốc chim nặng nhất vào đầu sợi thừng thả sâu xuống dưới. Có một lần vất vả lắm chúng tôi mới lôi được cái cuốc lên. Hans vội chỉ cho tôi thấy những vết lõm sâu trên mặt cuốc. Rõ ràng thanh thép này bị nghiến rất mạnh giữa hai vật rắn. Tôi nhìn anh với vẻ dò hỏi.
- Tander! - anh trả lời.
Thấy tôi ngớ ra, Hans liền hả miệng nhe răng đớp mạnh liền mấy cái, có ý giải thích điều anh muốn nói.
- Những vết răng! - chợt hiểu, tôi sửng sốt kêu lên.
Đúng vậy! Rõ ràng những vết bập sâu vòa thép là những vết răng! Nhưng muốn in dấu trên vật bằng sắt này phải cần một lực mạnh lắm! Phải chăng đây là răng của một trong những quái vật khổng lồ trước thời hồng thủy đang vẫy vùng ở sâu dưới đáy nước này? Tôi nhìn như xoáy vòa thanh thép lỗ chỗ vết răng. Cả ngày tôi bồn chồn lo lắng. Mãi đến đêm, những ý nghĩ trong tưởng ấy mới tạm lắng được vài giờ trong một giấc ngủ chập chờn.
Thứ hai, 17 tháng tám. Tôi cố nhớ lại về tất cả những động vật ở thời kỳ thứ hai ấy. Thời bấy giờ, loài bò sát khổng lồ là chúa tể trên mặt đất, trị vì trong những đại dương thuộc kỷ Jura. Những con vật này khổng lồ và mạnh khủng khiếp.
Nghĩ tới những con vật ấy tôi rùng cả mình! Tôi đã từng xem ở viện bảo tàng tự nhiên học Hambourg một bộ xương dài ba mươi bộ của một con thằn lằn khổng lồ ấy. Tôi nhận biết rất rõ những vết răng hằn sâu trên thanh thép! Nhưng tôi không thể tin rằng mình lại có thể đối mặt với chúng được.
Tôi thấy bực mình vì đang yên lành giáo sư lại nảy ra ý định thăm dò độ sâu của biển làm khuấy động hang ổ của một quái vật nào đó! Biết đây đoàn thám hiểm lại chẳng bị chúng tấn công? Tôi kiểm tra lại vũ khí thấy vẫn còn tốt, nên cũng an tâm. Giáo sư cũng đồng ý là hành động phòng xa của tôi là phải.
Sóng biển bỗng cồn lên chứng tỏ đáy nước bị khuấy động. Nguy hiểm đã tới sát bên. Phải đề phòng thôi!
Thứ ba, 18 tháng tám. Buổi chiều đến, lúc mắt tôi đã híp lại vì buồn ngủ. Hans đang giữ bánh lái. Bỗng một chấn động dữ dội dựng tôi dậy. Một sức mạnh ghê gớm nâng bổng tôi lên, ném ra thật xa.
- Cái gì vậy hả? - giáo sư kêu lên - Chạm đất rồi à?
Hans chỉ cho chúng tôi một khối đen xì đang ngoi lên ngụp xuống ở cách bè một khoảng.
- Một con cá voi! - giáo sư kêu lên - Đúng là một con cá voi rồi. Khí và nước trong lỗ mũi nó xì ra kìa!
Hans định quay bè để chạy khỏi nơi nguy hiểm ấy thì bỗng phát hiện ở mạn bên kia những con vật đáng sợ không kém. Đó là một con rùa và một con rắn khổng lồ đang vươn cao cổ trên sóng biển.
Tôi vội chụp lấy súng nhưng Hans đã ra hiệu đừng bắn. Hai quái vật bất thần xông vào đánh nhau dữ dội. Sóng biển cuồn cuộn dâng cao, mấy lần suýt làm lật úp chiếc bè. Chúng gầm rít ầm vang rồi quấn chặt lấy nhau! Cuộc ẩu đả kịch liệt kéo dài hơn hai giờ. Chúng tôi đứng im chứng kiến, tay súng lăm lăm! Bỗng đôi quái vật lôi nhau xuống mất tăm dưới đáy nước.
Thứ tư, 19 tháng tám. Cũng may trời bỗng nổi gió lớn. Hans vẫn giữ bánh lái. Sau cơn nguy hiểm, giáo sư Lidenbrock lại đứng ngồi không yên suốt ngày dán mắt về hướng nam. Hành trình lại đượm vẻ đơn điệu buồn tẻ như cũ.
Thứ năm, 20 tháng tám. Gió bắc đông bắc thổi lúc mạnh lúc nhẹ. Trời oi bức, chiếc bè trôi với vận tốc ba dặm rưỡi một giờ. Giữa trưa như có tiếng sóng gầm ầm ì ở đâu đó xa lắm, thoảng đến.
- Chắc đây là tiếng sóng vỗ vào chân một hòn đảo hoặc một quả núi nào đó! - giáo sư nói.
Hans leo lên đỉnh cột buồm nhưng cũng không phát hiện được gì. Đại dương vẫn phẳng lì tới tận chân trời.
Ba giờ trôi qua. Tiếng động rền rền ấy hnhf như vẳng đến từ một thác nước. Cách đây vài dặm chắc chắn phải có sự vận động của nước vì càng đi tới chúng tôi càng nghe rõ hơn. Tôi ngước mắt nhìn những đám mây nước lơ lửng trong không trung. Chân trời vẫn quang đãng! Nếu những tiếng ồn ào kia do một ngọn thác đổ xuống, nếu cả cái đại dương này dồn nước xuống một đại dương thấp hơn thì nhất định chiếc bè của đoàn thám hiểm phải chuyển động và nước càng chảy xiết bao nhiêu chúng tôi càng tiến sát tới hiểm họa bấy nhiêu! Tôi nhìn xuống nước, mặt biển chỉ nối sóng chứ không chảy, cái chai không tôi vứt xuống nước vẫn dập dềnh tại chỗ.
Vào bốn giờ chiều, Hans lại leo lên đỉh cột buồm, phóng tầm mắt nhìn về phía chân trời. Có lẽ anh đã phát hiện được gì lạ, nên tụt xuống chỉ tay về hướng nam nói:
- Der nere!
- Ở xa kia? - giáo sư hỏi lại.
Giáo sư Lidenbrock liền lấy kính viễn vọng nhìn về hướng ấy.
- Thấy gì không hả chú?
- Một chùm tia nước khổng lồ phun trên mặt sóng!
- Lại một con thủy quái nữa!
- Có thể lắm.
- Ta ngoặt về hướng tây thôi, chú ạ. Không dại gì mà đâm đầu vào con quái vật trước thời hồng thủy ấy!
- Ta cứ đi đúng theo lộ trình của mình!
Tôi quay nhìn Hans. Anh ta vẫn giữ vững bánh lái, coi như không có chuyện gì xảy ra. Càng tới gần, chúng tôi thấy chùm tia nước phun càng cao. Không hiểu quái vật này thuộc loài nào mà có thể chứa trong bụng một lượng nước đủ để phung không ngừng như vậy?
Đến tám giờ tối, chúng tôi chỉ còn cách con vật ấy chừng hai dặm. Bỗng Hans đứng dậy, chỉ quái vật nói:
- Holme!
- Một hòn đảo! - chú tôi reo lên - Đúng là một hòn đảo rồi!
- Nhưng còn chùm tia nước phun? - tôi thắc mắc hỏi.
- Geyser! - Hans trả lời.
- Hans nói đúng. Đây chẳng qua chỉ là một mạch nước phun như vẫn thường có ở Iceland!
Càng tới gần, tôi càng thấy hòn đảo giống hệt một con cá voi với cái đầu nhô cao hơn mười bộ cùng chùm tia nước phun lên hết sức vĩ đại. Thỉnh thoảng mạch nước phun ấy bỗng phát ra những tiếng nổ inh tai, vọt mạnh lên chạm đến những đám mây đang là là bay. Toàn bộ sức mạnh của núi lửa tích trong lòng đất dồn cả vào mạch nước phun duy nhất ấy. Những tia lửa điện chói lòa hòa vào giữa chùm tia nước phun rực rỡ sắc cầu vồng.
- Bơi vào bờ mau! - giáo sư ra lệnh.
Để tránh cái vòi rồng khổng lồ có thể dìm chúng tôi xuống đáy, Hans khéo léo lái bè vòng tới cuối đảo. Tôi cùng giáo sư lẹ làng nhảy lên một tảng đá. Hans vẫn ngồi lại giữ bè. Mặt đất nóng hực và hơi rung động dưới chân chúng tôi. Chúng tôi đã nhìn thấy cái hồ nhỏ, nơi mạch nước đang phun trào, nhiệt độ nước ở đây lên tới một trăm sáu mươi ba độ. Như vậy, rõ ràng là mạch nước này phải bắt nguồn từ một lò lửa đang cháy rực và điều này ngược với lý thuyết của giáo sư Lidenbrock. Tôi bèn nói nhận xét ấy với chú tôi, nhưng ông bác đi:
- Làm sao chứng minh được?
Tôi làm thinh vì thấy chú tôi bắt đầu có vẻ nổi nóng.
Nhưng tôi vẫn tin là càng xuống sâu nhiệt độ sẽ càng tăng thêm. Vì một lý do mà tôi không biết, từ lúc bắt đầu cuộc du hành đến nay chúng tôi chưa gặp khó khăn về điều kiện nhiệt độ. Tôi chắc là có lúc rồi chúng tôi cũng đến phần mà nhiệt độ trung tâm trái đất sẽ lên tới mức cao nhất.
Sau khi lấy tên tôi đặt cho hòn đảo núi lửa ấy, giáo sư Lidenbrock ra lệnh cho chúng tôi tiếp tục lên đường. Tôi nán lại mấy phút ngắm mạch nước phun, chắc rằng do áp suất không đều của những chất khí trong hồ chứa nên nó phun lúc mạnh lúc yếu. Hans đã tranh thủ sửa lại chiếc bè. Cuối cùng, chúng tôi ra khơi vòng qua những núi đá ở phía nam hòn đảo Axel.
Thứ sáu, ngày 21 tháng tám. Gió thổi mạnh. Chiếc bè của đoàn thám hiểm nhanh chóng rời xa hòn đảo Axel. Thời tiết đang thay đổi. Do sự bốc hơi của nước mặn, khí quyển chứa đầy hơi nước tích điện. Những đám mây sà xuống rất thấp. Thỉnh thoảng có một vài tia chớp xuyên thủng màn mây dày đặc lóe xuống mặt biển sắp nổi giông bão.
Trong môi trường đầy nước tích điện ấy, cơ thể tôi hình như cũng nhiễm điện luôn. Tóc tôi dựng đứng cả lên.
Tới mưới giờ sáng, những triệu chứng bão càng chắc chắn.
- Trời sắp nổi bão rồi chú ạ!
Nghe tôi nói vậy, giáo sư chỉ nhún vai không trả lời.
- Hạ buồm xuống đi! - tôi nói - Nếu cần thiết chúng ta cũng chặt luôn cả cột buồm!
- Không đời nào! Cứ mặc cho cơn bão hoành hành! Dù cho chiếc bè này có vỡ tan cũng được miễn là chú thấy được bờ bên kia đại dương!
Chú tôi vừa dứt lời, mưa bão đã nổi lên. Trời bỗng tối sầm! Chiếc bè bỗng chồm lên hất giáo sư ngã nhào. Tôi vội bò lại và thấy ông đã kịp bấu chặt một đầu dây thừng và hình như thích thú trước cảnh này lắm. Hans vẫn ngồi im. Cột buồm vẫn đứng vững. Cánh buồm căng phồng đẩy chiếc bề lướt đi nhanh không tưởng được!
- Hạ buồm xuống mau! - tôi hét thật to.
- Không! - giáo sư đáp.
- Nej! - Hans lắc đầu phụ họa theo.
Mưa bắt đầu trút xuống như thác đổ, sầm sập tiến về phía chúng tôi. Biển sôi lên! Sấm chớp ầm ầm chói lòa. Sóng biển cồn lên như những quả đồi lửa mà trên đỉnh là một khối sáng lòa. Ánh sáng chói đến độ không nhìn nổi, còn tai tôi thì bị ù đi vì tiếng sấm. Tôi vội ôm chặt lấy cột buồm cũng đang bị cong xuống dưới sức mạnh của bão tố.
Chủ nhật, 23 tháng tám. Chiếc bè bị cuốn đi với một vận tốc khủng khiếp. Không biết chúng tôi hiện đang ở đâu? Đêm qua thật kinh khủng mà cơn bão vẫn hoành hành. Chúng tôi lọt giữa những âm thanh của sấm chớp làm tai phải rướm máu, không thể nào nói với nhau được một tiếng. Chớp giật liên hồi. Có những tia chớp bỗng tách đôi hoặc vo lại thành một quả cầu ánh sáng, rồi nổ tung như trái bom. Chiếc bè của chúng tôi lao đi như điên giữa những cột nước từ mặt sóng dựng lên rồi ầm ầm đổ xuống sủi bọt tung tóe. Chúng tôi đang đi đâu đây? Trời nóng kinh khủng. Tôi liếc nhìn nhiệt kế nhưng nước mưa đã làm nhòa hết chữ số...
Thứ hai, 24 tháng tám. Bão vẫn kéo dài. Không hiểu tại sao bầu khí quyển lại cứ giữ mãi tình trạng ấy?
Chúng tôi đã hoàn toàn kiệt sức. Riêng Hans vẫn như bình thường. Chiếc bè vẫn lướt theo hướng đông nam. Kể từ hòn đảo Axel, chúng tôi đã vượt hơn hai trăm dặm đường biển. Đến trưa, cơn bão càng mạnh lên. Chúng tôi phỉa lấy thừng buộc chặt mình cùng hành lý vào mảng. Sóng biển chồm lên, chùm qua đầu chúng tôi. Suốt ba ngày chúng tôi không nói với nhau được một lời. Chúng tôi cố gào, cố hét vào tai nhau, nhưng không ai nghe ai nói gì! Giáo sư Lidenbrock trườn lại gần tôi, nói một câu gì đó, hình như là "chúng ta nguy mất".
Tôi bèn viết bảo ông nên hạ buồm. Ông gật đầu đồng ý. Chúng tôi chưa kịp trở tay thì cả cột buồm và là buồm liền biến mất. Chúng tôi chỉ còn kịp thấy vó bay vút lên trời, trông như một loài chim kỳ quái.
Chúng tôi cứng người vì khiếp sợ. Vừa lúc một quả cầu lửa chói sáng nửa xanh nửa trắng xuất hiện trên bè. Nó lang thang quay cuồng theo gió bão, nahỷ lên túi lương thực, trườn nhẹ xuống, rồi lại lướt qua thùng thuốc súng, đến gần Hans. Anh ta chỉ biết trợn mắt nhìn. Bỗng nó chuyển hướng, đâm nhào về phía giáo sư, rồi lui lại lượn quanh chân tôi! Tôi sợ tái cả người, định rụt chân lại nhưng không hiểu sao tôi như bị ghim chặt xuống bè không sao rút chân lại được! Đột nhiên tôi hiểu ra quả cầu lửa này đã làm tất cả kim loại trên mảng bị nhiễm từ hết. Các dụng cụ, đồ dùng, vũ khí đều chuyển động vì sức hút của nó! Những chiếc đinh đóng đế giày tôi đã bị hút chặt vào miếng sắt đóng ở bè. Tôi cố sức co chân về, chỉ chút xíu nữa quả cầu sáng chói ấy đã lôi tuột người tôi đi!
Bỗng quả cầu lửa bùng nổ tung! Ánh sáng chói lòa! Những lưỡi lửa trùm khắp người chúng tôi rồi tắt ngấm! Tôi chỉ kịp thấy giáo sư nằm bẹp xuống và Hans vẫn ung ung giữ vững bánh lái!
Chúng tôi đang đi đến đâu? Về đâu?
Thứ ba, 25 tháng tám. Tôi bị ngất khá lâu, khi tỉnh lại trời vẫn còn bão. Những tia chớp loằng ngoằng như muôn nghìn con rắn lửa lao nhao phóng khắp không trung. Chiếc bè vẫn trôi với vận tốc khủng khiếp trên biển ngầm. Có lẽ chúng tôi đã chui qua dưới gầm nước Anh, biển Manche, dưới nước Pháp và có khi dưới cả Châu Âu nữa cũng nên!
Bỗng một trấn động dữ dội hất nhào xuống biển!
Nhật ký củ tôi chấm dứt ở đây, may mà nó không bị chìm khi chiếc bè vỡ tan nên tôi còn viết tiếp được.
Chương 13: Gặp lại Saknussemm
Chuyện xảy ra thế nào khi chiếc bè bị đâm sầm vào vách đá thì tôi không nói được. Tôi bị hất nhào xuống nước và thoát chết được nhờ cánh tay lực lưỡng khỏe mạnh của Hans kéo tôi ra khỏi vực xoáy. Anh đã đưa tôi vượt sóng vào bờ cát và đặt tôi xuống bên giáo sư Lidenbrock lúc đó cũng đã bất tỉnh. Sau đó, anh quay trở ra biển xem còn cứu vớt được hành lý gì không. Tôi không nói nổi vì quá mệt. Đến cả giờ sau tôi mới hồi sức được.
Trời mưa ngày càng dữ dội. Chúng tôi nhờ có một chỗ trú ẩn dưới mấy tảng đá chồng lên nhau mới tránh được cái thác nước từ trên trời đổ xuống ấy. Giáo sư Lidenbrock bảo đấy là điềm báo cơn bão sắp tan. Hans dọn ra mấy thứ thức ăn, rồi cả ba người đều lăn ra ngủ như chết!
Sớm hôm sau, khí hậu rất đẹp. Khi tôi thức dậy thì hoàn toàn không thấy dấu vết nào của cơn bão cả và nghe giọng nói vui vẻ của giáo sư Lidenbrock:
- Cháu ngủ ngon không, Axel?
- Cám ơn chú! Sáng nay trông chú có vẻ phấn khởi quá!
- Đúng vậy! Chúng ta đã tới bờ nam của biển Lidenbrock, bây giờ mình tiếp tục đi trên bộ và thực sự chui sâu vào lòng đất.
- Còn chuyến về của chúng ta thì sao?
- Đơn giản thôi cháu ạ, một khi đã tới tâm trái đất chúng ta sẽ tìm một con đường mới để lên mặt đất, cùng lắm là chúng ta sẽ quay lại theo con đường cũ.
- Vậy chúng ta phải sửa sang chiếc bè cho thật tốt.
- Dĩ nhiên rồi! Bây giờ chúng ta kiểm tra lại khâu lương thực cái đã!
Ra tới bờ biển, tôi thấy Hans đang loay hoay giữa một đống hành lý xếp ngay ngắn trên cát. Giáo sư Lidenbrock xiết chặt tay anh để tỏ ý biết ơn con người đã liều mạng vớt được những vật dụng quý nhất của đoàn. Tuy vậy, chúng tôi cũng bị mất một số món như súng chẳng hạn. Nhưng không một thứ máy móc nào bị mất cả. Chúng mới là thứ thiết yếu cho cuộc thám hiểm. Những thùng chứa thức ăn phần lớn đều còn nguyên vẹn, đủ cho đoàn thám hiểm dùng trong bốn tháng.
- Bốn tháng! - giáo sư reo lên - Dư thời gian để tới nơi và trở về. Thậm chí còn dư để đãi các giáo sư bạn tôi ở viện đại học.
Trong bữa ăn, tôi hỏi giáo sư:
- Đoàn thám hiểm đang ở địa điểm nào?
- Không thể nào tính toán nổi! - giáo sư trả lời - Mấy ngày liền có bão nên không ghi được vận tốc và hướng bè trôi. Tính từ hòn đảo Axel, chúng ta đã vượt khoảng hai trăm bảy mươi dặm và đã ở cách Iceland hơn sáu trăm dặm!
- Cứ cho trong bốn ngày giông bão, chiếc bè trôi với vận tốc khoảng tám mươi dặm trong hai mươi bốn giờ. Như vậy từ hòn đảo có mạch nước phun tới đây khoản ba trăm dặm!
- Chà! Biển Lidenbrock này dài sáu trăm dặm, ngang với Địa Trung Hải à?
- Nếu cháu không tính nhầm thì chúng ta đang ở dưới gầm Địa Trung Hải đấy!
- Thật không?
- Theo cháu nếu hướng gió không thay đổi. Bờ biển này phải nằm ở đông nam cảng Grauben chú ạ!
- Lấy địa bàn ra xem thì biết ngay!
Giáo sư tìm ra địa bàn trong đống vật dụng của Hans. Ông đặt địa bàn thăng bằng trên bãi cát rồi quan sát. Bỗng không tin vào mắt mình, giáo sư Lidenbrock rụi mắt, nhìn đi nhìn lại mấy lần, cuối cùng ông sửng sốt quay về phía tôi và ra hiệu cho tôi. Kim địa bàn chỉ thẳng vào nơi mà chúng tôi tưởng là phương Nam, đáng ra phải hướng ra biển nó lại chỉ vào bờ!
Tôi lắc nhẹ địa bàn rồi quan sát thấy nó vẫn tốt. Dù xoay trở nó thế nào kim vẫn chỉ về một hướng. Vậy là trong cơn bão, gió đột ngột đổi chiều mà chúng tôi không nhận ra chiếc bè quay ngược trở về nơi xuất phát.
Tôi không thể diễn tả nổi cơn bão táp đang diễn ra trong lòng giáo sư Lidenbrock. Thoạt đầu ông kinh ngạc, lúng túng rồi hoài nghi và cuối cùng là tức giận. Thế là bao nhiêu vất vả nguy hiểm trong chuyến vượt biển vừa rồi phải làm lại từ đầu!
- Số phận đùa giỡn mình sao? - giáo sư kêu lên - Lửa, nước và không khí đều chống lại ta sao? Chúng mày muốn thử thách ý chí của Otto Lidenbrock này sao? Nhất định ta sẽ không chịu thua, không chịu lui một bước! Để rồi xem ta với thiên nhiên ai sẽ thắng ai!
- Thưa chú, - tôi cố khuyên giải - tham vọng dù lớn đến đâu vẫn có giới hạn của nó. Ta không nên cố sức làm gì! Không ai có thể vượt đại dương bằng một cái mảng ghép bằng cây với chăn làm buồm, gậy làm cột trong giông bão để vượt qua năm trăm dặm biển được. Chỉ có điên mới vượt biển thêm một chuyến nữa, chú ạ!
Những lý luận như thế tôi có thể thao thao bất tuyệt không ngừng nghỉ nhưng cuối cùng giáo sư vẫn bỏ ngoài tai.
- Lên bè ngay! - giáo sư ra lệnh.
Hans đã sửa xong chiếc bè. Hình như anh đã đoán trước mọi ý định của chú tôi. Chiếc bè đã được gia cố với vài khúc cây hóa thạch và một cánh buồm mới, giương lên phần phật trong gió.
Giáo sư Lidenbrock nói vài câu với Hans, anh vội nhanh nhẹn chuyển hết hành trang của đoàn thám hiểm lên bè và sẵn sàng để ra khơi. Bầu trời quang đãng. Gió tây bắc thổi nhẹ. Bỗng giáo sư Lidenbrock đổi ý kiến nói:
- Khoan đã Axel, ngày mai chúng ta hãy lên đường. Số phận đã mang chú trở lại phần bờ biển này, chú phải hiểu biết nó thật tường tận trước khi nhổ neo.
Để mặc Hans tiếp tục công việc, chúng tôi lên đường. Đi được một quảng trước mặt chúng tôi bỗng hiện ra bìa một khu rừng, không phải rừng nấm như ở cảng Grauben mà là rừng cây to thật uy nghi. Dưới tán cây rừng, vài con suối róc rách chảy len lỏi giữa những bụi cây dương xỉ thân gỗ, qua những thảm rêu dày êm như nhung. Duy chỉ có điều toàn bộ cỏ cây hoa lá ở đây đều thiếu ánh nắng và có một màu nâu nhợt nhạt như được làm bằng một loại giấy đã ố vàng.
Tôi thấp thỏm đi theo giáo sư vào sâu trong rừng cây khổng lồ. Với nguồn thức ăn thực vật dồi dào như thế này, sao vẫn chưa gặp một động vật nguy hiểm nào nhỉ? Đột nhiên tôi nắm chặt lấy cánh tay giáo sư và đứng sững lại! Trong ánh sáng lờ mờ của rừng rậm, tôi phát hiện những bóng đen lù lù như những quả đồi đang di động. Đó là cả một đàn voi răng mấu khổng lồ bằng xương bằng thịt, đang chọt vòi khua khoắng bẻ cành bứt lá đút vào miệng. Tiếng cành lá gẫy, tiếng những cặp ngà dài nhọn khoan vào thân cây cộng với tiếng chân, tiếng gầm của những quái vật khổn lồ vang động một khoảng rừng.
Sau khi quan sát một lúc, giáo sư Lidenbrock nắm lấy tay tôi bảo:
- Đi Axel, chúng ta tới gần nhìn cho rõ.
- Không! - tôi kêu lên - Chúng ta không có vũ khí. Chạy mau lên. Những con quái vật khổng lồ này mà nổi giận thì phiền phức lắm! Ai mà chống lại được với cả một bầy thú hung hăng như thế?
- Không có ai à? - giáo sư thì thào - Cháu lầm rồi! Hãy nhìn kỹ xem, hình như chú vừa thấy một sinh vật, một con người giống như chúng ta!
Thoạt đầu tôi nhún vai không muốn tin. Nhưng sau khi chăm chú quan sát một lúc lâu, tôi nhìn thấy ở xa kia có một người đang đứng dựa vào thân cây, chăm chú nhìn bầy thú. Đó là một người khổng lồ cao mười hai bộ, cái đầu to lớn ẩn sau mái tóc rậm dài, tay hắn cầm một cành cây lớn.
Chúng tôi đứng chết trân và vô cùng kinh ngạc. Con người này có thể cũng đã thấy chúng tôi. "Chú Lidenbrock! Chạy đi!", tôi kêu lên và kéo tay giáo sư. Đây là lần đầu tiên ông bị người khác thuyết phục! Chỉ một loáng sau, hai chú cháu tôi đã rời xa nơi nguy hiểm.
Trải qua bao căng thẳng, giờ đây có thời gian bình tĩnh nghĩ lại cuộc gặp gỡ kỳ lạ, tôi thấy thật vô lý. Chắc là do chúng tôi hoa mắt nhìn lầm, chú làm gì có người sống ở thế giới trong lòng đất ấy? Làm gì có giống người nào sống ở những hang ngầm ấy lại không quan tâm đến đồng loại trên mặt đất và cũng không liên lạc gì với họ? Ngay cả ý nghĩ đó cũng là điên rồ rồi!
Theo tôi chẳng qua đó chỉ là một giống khỉ thời kỳ đầu địa chất có cấu tạo gần giống với con người. Có điều giống khỉ này to lớn hơn nhiều so với những giống khỉ mà khoa cổ sinh vật học đã phát hiện từ trước tới nay!
Chú cháu tôi cắm đầu cám cổ chạy trốn khỏi khu rừng đầy đe dọa ấy như bị ma đuổi. Ra tới bờ biển Lidenbrock rồi mà chúng tôi vẫn cảm thấy bàng hoàng đầu óc hoang mang không hiểu những điều mắt thấy vừa rồi có thật hay không? Bỗng phát hiện một vật sáng trên cát, tôi vội lao tới nhặt lên đưa cho giáo sư. Đó là một con dao găm lạ, tôi đoán là của Hans đã đánh rơi.
- Vũ khí này không phải của Hans. - giáo sư lắc đầu nhận xét - Đây là một đoản kiếm kiểu Tây Ban Nha mà các nhà quý tộc thế kỷ XVI vẫn thường đeo. Cháu xem này, lưỡi kiếm bị phủ một lớp rỉ khá dày, bị đá trên bờ biển ngầm làm mẻ và bị vứt bỏ ở bãi biển này có lẽ hơn hai, ba trăm năm rồi! Chà! Một phát hiện lớn đây!
- Thưa chú, không phải tự nhiên thanh đoản kiếm này tự nó xuất hiện trên bờ biển ngầm, phải có ai đó đã mang nó đến đây?
- Đúng!
- Người đó là ai nhỉ?
- Ai đã từng tự tay dùng con dao găm ngày khắc tên mình lên đá, một lần nữa vạch đường tới tâm trái đất? Còn ai vào đây nữa? Axel, chúng ta đi tìm mau lên!
Óc tưởng tượng đã cuốn hút giáo sư Lidenbrock. Ông nắm tay tôi lôi đi dọc bức thành đá hoa cương, ngó vào từng khe núi có vẻ khả nghi. Chúng tôi tới một nơi bờ biển bỗng co hẹp lại, dẫn đến một lối đi rộng giữa hai khối đá sừng sững. Chúng tôi phát hiện một cửa hang tối om, trên một phiến đá ở miệng hang hiện ra lờ mờ hai chữ đầu, tên của nhà thám hiểm táo bạo và phi thường nhất thế kỷ XVI:
- A.S! - giáo sư Lidenbrock reo lên - Arne Saknussemm! Lại là Arne Saknussemm nữa rồi!
Từ khi bắt đầu cuộc hành trình vào lòng đất, từng chứng kiến biết bao nhiêu điều kinh ngạc, tôi nghĩ chẳng còn gì đáng để ngạc nhiên nữa, vậy mà trước hai chữ cái khắc trên đá từ hơn ba trăm năm nay, tôi thật sửng sốt! Không những chữ ký mà cả con dao găm nhà bác học dùng để vạch vào đá đang nằm trong tay tôi! Không còn nghi ngờ gì nữa, nhà thám hiểm Iceland cách đây mấy thế kỷ đã từng đặt chân tới chốn này! Tôi bỗng quên hết những nguy hiểm đã qua lẫn những hiểm nghèo của đường về! Tôi ngĩ trên đời hễ có việc gì con người làm được thì tôi cũng sẽ làm được va háo hức thực hiện ngay ý nghĩ đó.
- Tiến lên! - tôi hô vang - Tiến lên!
Tôi định lao ngay vào đường hầm tố tăm ấy thì giáo sư Lidenbrock đã nắm lấy cánh tay tôi giữ lại bảo:
- Khoan đã! Chúng ta hãy quay vê gặp Hans và mang chiếc bè đến đây đã!
Tôi miễn cưỡng nghe lời giáo sư và vội vàng rời khỏi vách đá.
- Chú thấy không, - tôi nói - tính đến lúc này chúng ta toàn gặp may! Nhờ có cơn bõa biển chiếc bè mới quay về được nơi đây. Nếu đẹp trời và thuận buồm xuôi gió, chiéc bè sẽ cập vào bờ nam, không hiểu chúng ta sẽ ra sao? Nếu không gặp được tên ông Saknussemm khắc trên đá chỉ đường, chắc giờ này chúng ta đã lúng túng trên một bãi biển nào đấy rồi!
- Quả thật là chú không thể nào lý giải nổi tại sao nhắm hướng nam đi ta lại bỗng nhiên gặp bờ bắc?
- Chú nghĩ ngợi làm gì cho thêm nặng đầu! Tìm được đường của ông Saknussemm rồi, chúng ta cứ việc tiến lên thôi!
- Cháu nói đúng. Chúng ta chỉ có một con đường là đi xuống, xuống nữa! Tới tâm trái đất chỉ chỉ còn một ngàn năm trăm dặm nữa thôi!
- Tiến lên! - tôi phấn khởi hô vang.
Chúng tôi lên bè. Tất cả đã sẵn sàng. Hans giương buồm lên, rồi lái chiếc bè men theo bờ biển tới mũi Saknussemm. Không xuôi theo chiều gió nên bè đi rất chậm. Mãi sáu giờ chiều chúng tôi mới đến nơi. Tôi muốn lên đường ngay, nhưng giáo sư khuyên nên thăm dò phần cửa hang trước khi khởi hành.
Cửa hang rộng khoảng năm bộ. Lối đi đâm thẳng vào núi và tương đối bằng phẳng như bên ngoài do trước đây chất phun trào đã từng đi qua. Dẫn đầu đoàn thám hiểm, tôi xăm xăm bước đi. Nhưng chưa được mấy bước. Chúng tôi bỗng vấp phải một khối đá lớn biét kín lối đi. Tôi xem xét thật kỹ vẫn không thấy một khe hở nào có thể lách qua được. Hans lặng lẽ chiếu đèn khắp khối đá, khắp vách hang, song cũng lắc đầu thất vọng.
Tôi ngồi phịch xuống đất. Chú tôi chắp tay sau lưng, lồng lộn đi lại.
- Ông Saknussemm có bị khối đá này cản đường không nhỉ? - giáo sư thắc mắc.
- Chắc chắn là không. Do một chấn động hoặc một hiện tượng từ tính nào đó làm rung động vỏ trái đất, khiến khối đá lăn xuống bít kín miệng hang. Sự việc ấy phải xảy ra sau khi ông Saknussemm đã trở về qua đây.
- Nếu vậy, chúng ta dùng cuốc bẩy nó!
- Đá hoa cương rắn chắc lắm, dùng cuốc sẽ không phá nổi đâu!
- Ta sẽ dùng thuốc súng và mìn cho nó nổ tung lên!
- Dùng chất nổ à?
- Đúng vậy, nó chỉ là một tảng đá thôi mà. Hans bắt đầu đi! - chú tôi kêu lên.
Hans trở ra bè và mang cuốc vào. Anh đục một lỗ trên tảng đá đủ để đặt thuốc súng. Việc này khá vất vả vì cái lỗ phải đủ lớn để nhồi nhét được chừng năm mươi cân thuốc súng. Trong khi đó, tôi làm một ngòi nổ bằng thuốc súng ẩm bọc vải.
Công việc khá vất vả, mãi đến nửa đêm mới xong. Lượng thuốc súng đã nạp đầy lỗ, ngòi nổ đã được kéo tới ngoài, chỉ cần một tia lửa nhỏ cũng đủ làm khối thuốc ấy nổ tung lên!
- Thôi, nghỉ đã! - giáo sư nói - Ngày mai hãy hay!
Biết chắc ngày mai đường sẽ mở, nhưng phải chờ thêm sáu giờ dài dăng dẳng nữa nên tôi thấp thỏm ngủ không yên.
Thứ năm 27 tháng tám là một ngày đáng ghi nhớ nhất. Đến bây giờ, qua bao năm tháng, cứ mỗi lần nghĩ đến tôi lại thấy rùng mình kinh hãi.
Chương 14: Trong lòng núi lửa
Sáu giờ sáng, chúng tôi thức dậy. Sau khi ăn uống qua loa, giáo sư cùng Hans xuống mảng. Tôi vinh dự được châm ngòi nổ để mở đường nên ở lại trên bờ, tiến tới cửa hang và chuẩn bị châm ngòi. Cầm đồng hồ bấm giờ, giáo sư ra lệnh:
- Châm ngòi đi, rồi lên bè ngay! Chúng ta chỉ có mười phút trước khi nó nổ!
Châm ngòi nổ xong, tôi vội vàng lao lên bè. Hans tì mạnh vào cái sào. Trong chớp mắt, chiếc bè đã cách bờ một khoảng khá xa. Giáo sư chăm chú theo dõi kim đồng hồ. Những giây phút ấy hồi hộp đến nghẹt thở!
- Còn năm phút! - giáo sư đếm to - Bốn phút! Ba phút! Hai!...Một!...
Hình như không ai nghe thấy tiếng nổ! Chỉ thấy ca khối núi tự nhiên biến dạng, chúng vẹt ra như một tấm màn! Cả một khoảng bờ biển bỗng sụt xuống thành vực sâu. Sóng biển chợt cồn cao như núi, dựng đứng chiếc bè, hất chúng tôi văng xuống nước. Trong chớp mắt chiếc bè bị nước cuốn rơi thẳng xuống vực! Bóng tối bỗng trùm lên tất cả. Tôi gào lên để gọi giáo sư, nhưng tiếng nước réo ầm ầm át đi tất cả.
Tôi chợt hiểu chuyện gì xảy ra. Khối núi đá ở góc biển Lidenbrock giống như một cái nắp khổng lồ úp trên một vực sâu không đáy. Sức công phá của lượng thuốc nổ quá lớn, đã hất tung cái nắp ấy đi. Vực thẳm bỗng dưng được mở toang ra. Nước biển ngầm dồn xuống đáy, kéo theo chiếc bè của đoàn thám hiểm. Tôi cảm thấy mình đang bị rơi vào chỗ chết.
Tôi không rõ chiếc bè trôi như thế bao lâu. Chúng tôi phải nắm tay nhau cố bám lấy bè để khỏi bị văng xuống nước mỗi khi nó nó bị va vàng thành hang. Cũng may đường hang ngày càng mở rộng ra. Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng đây là con đường xưa kia ông Saknussemm đã từng qua. Nhưng có điều đáng lẽ xuống một mình, chúng tôi lại kéo theo cả đại dương ngoài kia nữa!
Đột nhiên có ánh sáng bên cạnh tôi, soi rõ gương mặt bình tĩnh của Hans. Anh thợ chăn vịt biển đã khéo léo thắp được một ngọn đèn bão. Ngọn lửa tuy leo lét nhưng cũng để hắt vài tia sáng mờ mờ trong bóng đêm khủng khiếp.
Đường hầm khá rộng đên độ chẳng nhìn thấy được hai bên vách đá. Nước tuôn ào ào và chúng tôi lao đi với tốc độ khoảng ba mươi dặm một giờ. Giáo sư Lidenbrock và tôi nhìn quanh tuyệt vọng. Chúng tôi phải ôm chặt lấy thân cột buồm gãy, xoay lưng lại hướng gió thổi cho dễ thở. Thời gian vẫn trôi. Hoàn cảnh chúng tôi vẫn không có gì sáng sủa. Hầu hết hành trang bị mất khi mìn nổ. Kiểm lại, tôi thấy chỉ còn địa bàn, đồng hồ, vài mẩu thừng và... chút lương thực đủ cho chúng tôi sống một ngày. Toàn bộ lương thực dự phòng chỉ vẻn vẹn một miếng thịt khô và ít bánh.
Tôi bàng hoàng cả người! Nhưng thật tình trước cái đói và cái chết tôi thấy lưỡng lự không biết lên sợ cái nào hơn. Tại sao chúng tôi sợ đói trong khi cái chết đủ kiểu đang đe dọa? Liệu chúng tôi còn đủ thời gian để chết vì đói hay không?
Tôi có ý nghĩ nói với giáo sư tất cả mọi việc, cho ông thấy rõ chúng tôi còn lai những gì và tính toán chính xác xem chúng tôi còn có thể sống được bao lâu nữa, nhưng cuối cùng không muốn làm ông thoái chí tôi lại thôi. Ngay lúc đó, ngọn đèn mờ dần và tắt hẳn, chúng tôi lại chìm vào bóng tối. Như một đứa trẻ, tô vội nhắm mắt lại để khỏi nhìn thấy bóng tối xung quanh.
Đường hang càng lúc càng sâu, càng dốc đứng. Chiếc bè lao ào ào như rơi thẳng xuống. Không có Hans và giáo sư túm chặt lấy cánh tay có lẽ tôi đã văng khỏi bè từ lâu rồi. Chiếc bè bỗng khựng lại. Hình như nó đâm bổ xuống một mặt nước nào đó. Phải chăng chúng tôi đã tới đáy vực? Một khối nước khổng lồ chụp xuống đầu, nhận chìm tôi đến nghẹt thở. Ba chúng tôi vẫn bám chặt lấy bè. Cũng may, chỉ mấy giây sau chiếc bè đã ra được nơi có không khí thoáng đãng.
Tôi đoán chừng lúc ấy khoảng mười giờ đêm. Hầu như ngay lập tức, đường hầm rời vào im lặng, thay cho tiếng nước gầm rú bên tai suốt mấy giờ qua. Rồi tiếng chú tôi thì thào bên tai:
- Axel anỳ, chúng ta đang đi lên!
- Chú nói cái gì? - tôi kêu lên.
- Chúng ta đang đi lên, cháu ạ!
Tôi chìa tay ra, bỗng vội rụt lại ngay. Bàn tay tôi bị quệt mạnh vào thành hang, bật máu! Chiếc bè đang dâng cao với một vận tốc ghê gớm.
- Chúng ta còn sót một cây đuốc giắt ở khe bè đấy! - giáo sư quát to - Đốt đuốc lên mau, Hans!
Khó khăn lắm Hans mới thắp được ngọn đuốc và chúng tôi có đủ ánh sáng để nhìn ra chung quanh.
- Đúng như chú nghĩ! - giáo sư nói - Chúng ta đang ở trong một giếng hẹp. Nước biển ngầm đổ xuống tới đáy vực liền dâng lên ngay đẩy chúng ta cùng lên theo.
- Chúng ta sẽ đi tới đâu?
- Điều đó chú không biết được! Có điều là phải luôn luôn sẵn sàng trước mọi sự cố! Chúng ta lên khá nhanh với vận tốc ba dặm rưỡi một giờ! Cứ đà này, chúng ta sẽ lên khá cao đấy!
- Nếu có lối ra thì không sao, cháu chỉ sựo cái giếng này bị bịt kín ở trên, dần dần không khí bị nén chặt sẽ ép chúng ta nát bét ra, còn nếu không thì cũng bị chết đuối!
- Axel này, - giáo sư bình tĩnh nói - đúng là chúng ta đang ở trong một hoàn cảnh đầy tuyệt vọng, chúng ta đang lao tới chỗ chết, nhưng chú thấy tại sao chúng ta không nghĩ rằng mình sắp thoát khỏi cải vực thẳm tối đen này. Theo chú, chúng ta nên chuẩn bị để bắt kịp thời cơ này!
- Nhưng chúng ta phải làm gì bây giờ?
- Ăn uống để lấy lại sức!
Thấy tôi và Hans nhìn nhau với vẻ lo sợ, giáo sư bỗng chợt hiểu. Ông quát lên:
- Sao! Mất hết lương thực rồi à?
- Đúng vậy! Tất cả chỉ còn có một miếng thịt khô và mười cái bánh! Liệu chúng ta có thể thoát chết được không?
Giáo sư im lặng không trả lời!
Một giờ trôi qua. Cả ba chúng tôi đều đói nhưng không ai đụng đến chỗ thức ăn còn sót lại. Chiếc bè vẫn dâng lên rất nhanh. Có điều là càng lên, chúng tôi càng thấy nóng ghê gớm. Nhiệt độ xung quanh phải đến bốn mươi độ C.
Tại sao lại có sự tăng nhiệt độ như vậy nhỉ? Đến nay mọi sự việc đều có vẻ đúng với lý thuyết của ông Davy và của giáo sư Lidenbrock, những tình trạng đặc biệt đã làm sai lạc hết quy luật chung của tự nhiên, đã tạo cho chúng tôi một nhiệt độ điều hòa ở gần với lò lửa trung tâm!
Phải chăng mảng đang đưa đoàn thám hiểm vào nơi có nhiệt độ khủng khiếp đang nung đá thành nước? Tôi thông báo điều đáng sợ ấy với giáo sư, nhưng chú tôi chỉ nhún vai không nói gì.
Trong khi đó nhiệt độ vẫn cứ tăng. Rồi cả ba chúng tôi đều phải cởi áo khoác ra.
- Vách đá nóng khủng khiếp!
Ngay lúc đó bàn tay tôi vô tình chạm vào mặt nước và rụt về thật nhanh.
- Nước cũng muốn sôi kìa! - tôi kêu lên.
Một sự ghê sợ dai dẳng không gì cưỡng nổi bỗng xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi linh cảm một tai biến rùng rợn sắp tới, ngoài trí tưởng tượng của con người. Thoạt đầu chỉ là một ý nghĩ lơ mờ, nhưng dần dần nó được định hình, rồi bám chặt lấy suy nghĩ của tôi. Tôi nhận ra những lớp đá hoa cương bắt đầu lay động. Nhiệt độ càng ngày càng tăng đang hừng hực khắp khoảng không gian nhỏ hẹp của cái giếng này. Tôi quyết định lấy địa bàn ra xem.
Nhưng hình như nó cũng điên lên! Kim của nó chỉ loạn xạ từ hướng này sang hướng khác. Tôi biết rất rõ rằng tác động của từ trường dưới lòng đất rất mạnh, do vậy chuyển động của kim địa bàn cũng không làm tôi sợ.
Nhưng có những hiện tượng khác khiến tôi không thể bỏ qua. Đâu đây bắt đầu cso những tiếng nổ ì ầm, nghe càng lúc càng liên tục hơn. Rồi chẳng mấy chốc nó trở thành tiếng ầm vang không dứt. Không còn nghi ngờ gì nữa, vỏ trái đất sắp bị phá vỡ, chúng tôi sắp bị nghiền nát.
- Chú ơi! - tôi kêu lên - chúng ta sắp nguy đến nơi rồi!
- Cháu lo sợ gì vậy? - giáo sư bình tĩnh hỏi - Có chuyện gì thế?
- Chú nhìn mà xem, vách đá đang chuyển động, nước sôi sùng sục, hơi nước càng ngày càng dày đặc, kim địa bàn giật giật như lên cơn động kinh... toàn là những triệu chứng của động đất.
- Động đất à? Không phải đâu! - giáo sư nhẹ nhàng lắc đầu nói - Theo chú, đây là những dấu hiệu báo trước sắp có một vụ phún xuất!
- Núi lửa sắp hoạt động! Chúng ta đang ở trong miệng ống của một núi lửa sắp phun trào?
- Đúng vậy! - giáo sư tươi cười nói - Chú nghĩ chúng ta đang gặp may đấy!
Gặp may? Chú tôi phát điên rồi sao? Ý ông muốn nói gì? Mà sao ông lại bình thản và mỉm cười thế kia?
- Cái gì? - tôi gào lên - Mình sắp bị phun lên trời cùng với lửa và nham thạch, một trận mưa tro bụi! Vậy mà chú cho là mình gặp may sao!
- Đúng vậy! - giáo sư bình thản nhìn tôi qua cặp kính trắng và nói - Bởi đây chính là dịp may duy nhất để chúng ta có thể trở lại mặt đất.
Nghĩ đi nghĩ lại, tôi thấy giáo sư nói đúng, hoàn toàn đúng! Chưa bao giờ tôi thấy ông có vẻ can đảm và tự tin hơn khi ông bình tĩnh tính toán cơ hội thoát chết của chúng tôi.
Suốt đêm, chiếc bè vẫn cứ đi lên. Tiếng nổ ì ầm càng âm vang dữ dội. Tôi thở không muốn nổi và cứ nghĩ giây phút cuối cùng của mình sắp cận kề. Tuy vậy, trí tưởng tượng là một thứ kì lạ đến độ tôi bỗng thấy mình cũng bình thản ngẫm nghĩ về tình trạng hiện tại. Bên dưới chiếc bè là một khối nước sôi và bên dưới nữa là một khối dung nham với đá tảng. Một khi bắn ra khỏi miệng núi lửa, những tảng đá đó sẽ văng khắp nơi. Vì chúng tôi đang ở trong đường ống của một ngọn núi lửa nên không còn nghi ngờ gì về điều đó nữa.
Nhưng lần này, thay vì một ngọn núi lửa đã tắt như ngọn Sneffels, chúng tôi lại ở trong một ngọn núi lửa nào đó đang hoạt động. Do vậy, tôi bắt đầu tự hỏi ngọn núi này ở đâu và mình bị bắn ra ở phần nào của mặt đất. Chắc chắn là đâu đó phía cực bắc. Trước khi bị hư, kim địa bàn luôn chỉ cho thấy chúng tôi đi về phương bắc. Phải chăng chúng tôi đã trở lại dưới lòng đất Iceland? Phải chăng chúng tôi sẽ bắn ra theo một trong tám ngọn núi lửa của hòn đảo này? Dĩ nhiên ở đó có nhiều miệng núi lửa, nhưng tôi muốn biết chính xác là mình sẽ ra theo miệng núi lửa nào.
Về sáng, nhiệt độ xung quanh cũng như vận tốc đùn lên của những chất phun trào càng tăng. Đó là hiện tượng bình thường của núi lửa khi tới gần mặt đất. Giếng cũng rộng ra, thoáng hơn, nhuốm ánh sáng vàng hung. Từ nhiều đường hầm sâu tun hút đâm ngang thành giếng, hơi nước ùn ùn tuôn ra, trong khi lửa lưu huỳnh bắt đầu cháy trên vách đường hầm.
- Chú ơi, - tôi gọi - nhìn những ngọn lửa lưu huỳnh kìa! Chúng ta sắp chết vì ngạt và lửa đốt rồi! Lại còn khối nước đang sôi sùng sục dưới chân chúng ta nữa!
- Ở bên dưới bè bây giờ không phải nước nữa mà là dung nham! Dung nham sẽ tiễn chúng ta tới tận miệng núi lửa!
Thật vậy, cột nước đã biến mất, nhường chỗ cho những chất phún xuất khá đặc đang sôi sùng sục. Xung quanh nóng không chịu nổi. Người chúng tôi đầm đìa mồ hôi. Cũng may là chúng tôi vọt lên khá nhanh nên không đến nỗi chết ngộp. Khoảng tám giờ sáng, khối dung nham ngừng lại không ùn lên nữa! Chiếc bè của đoàn thám hiểm hoàn toàn bất động!
- Chú ơi! - tôi hoảng quá kêu lên - Núi lửa thôi không phun trào nữa!
- Cháu đừng lo, nó chỉ ngừng lại vài phút rồi lại tiếp tục đưa chúng ta lên thôi.
Giáo sư Lidenbrock chưa nói dứt lời, chiếc bè đã vọt lên rất nhanh. Chúng tôi phải bấu chặt các xà gỗ mới khỏi bị văng ra ngoài. Rồi khối dung nham bên dưới bè bỗng dừng lại.
Cứ vậy lặp lại bao nhiêu lần tôi cũng không nhớ, chỉ biết mỗi đợt như thế mảng lại bị bắn vọt lên mạnh hơn.
Càng lúc tôi càng thấy ngột ngạt. Tôi bị choáng rồi mê man, không được Hans níu lại có lẽ tôi đã bị va đầu vào thành đá hoa cương rồi.
Tôi không thể ghi nhớ chính xác những gì đã xảy ra sau đó. Những tiếng nổ rền rĩ, những khối đá hoa cương lay động, chiếc bè của đoàn thám hiểm xoay tít... Một cơn bão lửa ào ào từ lò lửa trung tâm bỗng cuộn lên, trùm lên chúng tôi. Tôi chỉ kịp thoáng thấy khuôn mặt của Hans bừng lên trong ánh lửa và ngất lịm đi trong cảm giác kinh hoàng của một người biết chắc mình sắp chết.
Chương 15: Kết cuộc
Khi tỉnh lại và mở choàng mắt ra, tôi thấy mình đang được Hans đỡ. Tay kia anh ôm lấy chú tôi. Tôi không bị thương tích gì nặng, nhưng xây xát khắp người. Chúng tôi đang ở trên một sườn núi, cách đó hai bước là một vực sâu hàng trăm bộ. Nếu cử động mạnh chúng tôi đã rơi xuống vực rồi. Hans đã cứu sống chúng tôi một lần nữa. Chúng tôi bắt đầu bò một cách thận trọng, cuối cùng tất cả đến được một nơi an toàn. Tôi bắt đầu nhìn quanh để quan sát.
Đầu tiên, tôi thấy bên trên bầu trời thật sự chứ không phải là trần động đá. Lần đầu tiên sau sáu mươi ngày tôi mới được nhìn thấy mặt trời trở lại. Như vậy, hiện tại chúng tôi đang ở trên mặt đất.
- Chúng ta đang ở đâu đây? - giáo sư có vẻ chẳng được hài lòng khi thấy mình đang ở trên mặt đất - Có phải đất Iceland không?
Hans nhún vai tỏ ý không biết.
- Ở Iceland. - tôi nói.
- Nej. - Hans nói với vẻ dứt khoát.
- Cái gì? Không phải ở Iceland à? - giáo sư kêu lên.
- Chắc Hans nhầm đấy thôi. - tôi nhỏm dậy chêm vào.
Trong suốt cuộc hành trình dưới lòng đất, từng chứng kiến biết bao điều kỳ lạ, vậy mà trước quang cảnh mới mở ra trước mắt, tôi thấy vô cùng sửng sốt. Tôi tưởng mình sẽ gặp lại những đỉnh núi tuyết phủ quanh năm, những cánh đồng hoang vu cằn cỗi dưới bầu trời nhợt nhạt phương Bắc, nhưng trái lại tôi thấy mình đang nằm ở lưng chừng một núi đá vôi dưới ánh nắng mặt trời rực rỡ.
Tôi ngỡ là mình hoa mắt nhưng những vết bỏng đang đau rát khắp người, những mảnh quần áo tơi tả còn vương trên mình và ánh dương huy hoàng hơn hai tháng nay vắng bóng đang tràn ngập không gian. Tất cả đều hiện hữu, muốn không tin cũng không được.
- Trông không giống Iceland chút nào cả. - Chú tôi là người lên tiếng đầu tiên.
- Phải, nhưng...
- Nhìn kìa, Axel!
Tôi ngẩng đầu nhìn lên. Từ miệng núi lửa cao vòi vọi, cứ mười lăm phút lại phát ra một tiếng nổ long trời chuyển đất, kèm theo một cột cao ngất lửa khói lẫn đá bọt, than xỉ và dung nham. Chất phun trào cuồn cuộn tràn xuống mé núi dốc đứng. Dưới kia, chân núi chìm trong màu xanh thanh bình của vườn cây ăn trái. Bên kia vành đai xanh là biển cả. Cả vùng đất thần tiên này có lẽ là một hòn đảo. Nhìn về hướng mặt trời mọc, tôi thấy một bến cảng nhỏ với mấy căn nhà nhỏ rải rác quanh đó, nhiều con thuyền dập dềnh trên sóng nước. Ngoài khơi có vô số những hòn đảo nhỏ nổi bật trên mặt nước. Ở chân trời, một dãy núi xanh lơ ôm lấy một bờ biển xa suốt từ đông sang nam. Xa nữa là một ngọn núi lửa cao chót vót đang cuồn cuộn khói trắng. Phía bắc, biển trải rộng mênh mông lấp lánh dưới ánh nắng, thấp thoáng đó đây vài cánh buồm no gió.
Tôi lặng đi trước cảnh non xanh nước biếc không ngờ ấy, miệng lẩm bẩm:
- Đây là nơi nào nhỉ?
- Chẳng cần biết đây là nơi nào, ta cũng phải mau rời khỏi thôi. - giáo sư hoang mang nhìn quanh, rồi nói - Núi lửa vẫn đang còn ầm ầm phun trào, nóng ghê gớm. Nếu chẳng may bị một tảng đá nào đó văng xuống trúng đầu thì phiền lắm. Mau xuống núi đi! Chú đang lả người vì đói và khát đây!
Đúng là giáo sư Lidenbrock không còn lòng dạ nào mà ngắm cảnh. Tôi đành bước theo ông và Hans. Đường xuống dốc đứng. Nhiều chỗ, để tránh những suối dung nham chảy ngoằn ngoèo như những con rắn lửa sáng lòa, chúng tôi bị tụt xuống những hố tro. Suốt dọc đường, tôi nói liến thoắng cố tình vợi bớt đi những gì đang đầy ắp trong cái đầu giàu tưởng tượng của tôi.
- Chú Lidenbrock, theo chú chúng ta đang ở đâu? Trên bờ biển Ấn Độ hay Malaysia? Mà có đúng chúng ta đã đi được nửa vòng trái đất không?
- Nhưng còn cái la bàn thì sao nhỉ?
- Phải, dĩ nhiên, - tôi bối rối - theo la bàn thì mình tiếp tục đi về phía bắc.
- Như vậy là địa bàn chỉ sai rồi!
- Cháu thấy khó hiểu quá!
- Vì nếu vậy đây phải là Bắc cực!
- Đây mà là Bắc cực à? Càng vô lý!
Quả là một bí mật tôi không biết phải suy nghĩ ra sao. Trong lúc đó chúng tôi sắp đến gần rừng cây xanh mát. Đói khát và mệt mỏi khiến tôi nhũn cả người, không buồn cất bước. Cũng may sau hai giờ, chúng tôi tới được một vườn cây sum suê tươi tốt đầy nho chín và ô liu như mời chào tất cả mọi người. Chúng tôi hái bừa cho vào miệng. Cách đó không xa, dưới bóng cây xanh mát, tôi tìm thấy một con suối, và còn gì khoan khoái hơn là được đầm mình trong suối mát đang chảy êm đềm trên thảm cỏ dưới bóng cây.
Bỗng tôi phát hiện ra một cậu bé thập thò sau những cây ô liu, tôi reo lên:
- A! Có một cậu bé!
Cậu bé có vẻ nghèo khổ, ốm yếu, quần áo rách rưới, tiều tụy. Chắc thấy chúng tôi quần áo tả tơi, râu tóc bù xù trông thiểu não quá, cậu kinh hãi bỏ chạy. Song chưa được mấy bước, cậu đã bị Hans đuổi kịp. Mặc cho cậu bé ra sức la hét, đấm đá, Hans vẫn cứ lôi cậu tới chỗ chúng tôi ngồi nghỉ.
Giáo sư cố trấn an cậu bé và nói bằng tiếng Đức:
- Cậu bé ơi, núi này tên gì nhỉ?
Cậu bé im lặng không trả lời.
- Tốt, vậy là mình không phải ở Đức.
Giáo sư lại hỏi bằng tiếng Anh, rồi tiếng Pháp, nhưng cậu bé vẫn không trả lời. Tôi thấy sốt ruột, còn giáo sư Lidenbrock vốn tự hào am hiểu nhiều thứ tiếng nước ngoài, đã thấy hơi nóng mặt. Ông bèn quay qua hỏi cậu bé bằng tiếng Ý:
- Dove noi siamo?
- Này em bé, - tôi nóng ruột nhắc lại - chúng ta đang ở đâu đây?
Cậu bé khốn khổ vẫn câm như hến. Giận quá, giáo sư nắm lấy tai cậu nhéo mạnh, rồi quát thật to:
- Cháu không biết trả lời khi có người hỏi à?
- Come si noma questa isola?
- Stromboli!
Vừa dứt lời, cậu bé người Ý đã vùng thoát khỏi tay của Hans, băng qua những hàng cây ô liu, rồi biến mất tăm trong cánh đồng cỏ. Chúng tôi cũng quên ngay cậu bé còm nhom ấy.
Stromboli! Ai có thể ngờ được rằng chúng tôi vừa bắn ra từ miệng núi lửa trên đảo nhỏ Sromboli giữa Địa Trung Hải.
- Stromboli! - tôi lập đi lập lại.
Chú tôi cũng lẩm bẩm cái tên đó. Ôi, một chuyến đi tuyệt vời! Một chuyến đi kỳ lạ! Chúng tôi tụt xuống một miệng núi lửa và leo lên qua một miệng núi lửa khác ở cách một ngàn hai trăm dặm, từ biệt xứ sở của sương mù và băng giá để tới một vùng non xanh nước biếc chan hòa ánh nắng, chui xuống lòng đất Iceland để rồi nhìn thấy bầu trời nước Ý.
Sau bữa ăn ngon lành với trái cây và nước suối, chúng tôi lên đường tới cảng Stromboli. Chúng tôi nhất trí không cho người dân địa phương biết chúng tôi đến đây bằng cách nào.
Dọc đường, giáo sư Lidenbrock cứ thắc mắc mãi về chuyện cái địa bàn, không hiểu sao nơi đáng lẽ là phương nam nó lạ chỉ là phương Bắc? Tôi khuyên giáo sư tốt hơn nên bỏ qua chuyện vặt ấy, nhưng ông vẫn khăng khăng cho rằng một bác học như ông lại không giải thích được một hiện tượng có tính khoa học như vậy thì thật là mất mặt trước giới học giả quốc tế. Đi một lúc lâu, chúng tôi tới cảng San Vicenzo của đảo Stromboli. Giáo sư xiết chặt tay Hans và thanh toán cho anh tiền công của tuần lễ thứ mười. Suốt hơn hai tháng kể từ khi hợp đồng với giáo sư lên đường thám hiểm, đây là lần đầu tiên Hans nắm chặt tay chúng tôi và mỉm cười.
Thế là kết thúc một câu chuyện ít có người nào tin được. Nhưng tôi đã hiểu hết mọi việc và chuẩn bị cho điều đó.
Những ngư dân đảo Stromboli đón tiếp chúng tôi rất tử tế. Tin rằng chúng tôi bị đắm tàu, họ cho chúng tôi quần áo và thức ăn. Ngày 31 tháng tám, một chiếc thuyền nhỏ đưa chúng tôi đến Messine. Ở đây chúng tôi nghỉ vài ngày để dưỡng sức.
Thứ sáu, 4 tháng chín, chúng tôi xuống tàu Volturne của hãng vận tải hoàng gia Pháp. Ba ngày sau, tàu cặp bến Marseille. Đường về Hambourg sao quá xa. Ruột gan tôi cứ sôi lên vì những chuyến xe chạy quá chậm, còn giáo sư thì cứ suốt ngày ấm ức về chuyện địa bàn. Chiều ngày 9 tháng chín, chúng tôi về tới Hambourg.
Tôi không thể diễn tả nổi sự ngạc nhiên của dì Marthe và sự vui mừng của Grauben khi thấy chúng tôi trở về. Grauben rơm rớm nước mắt, nàng mỉm cười ra lệnh:
- Bây giờ anh đã về đây rồi, và anh sẽ chẳng bao giờ được xa em nữa!
Sự trở về của giáo sư Lidenbrock làm náo động cả thành phố Hambourg. Cách đây mấy tháng, khi dì Marthe nói hở chuyện giáo sư đi thám hiểm lòng đất, tin tức lan đi khắp thành phố. Người ta không chịu tin, và khi gặp ông họ lại càng chắc chắn là ông không hề thực hiện một cuộc thám hiểm như thế. Nhưng sự có mặt của Hans ở Hambourg cùng nhiều nguồn tin khác từ Iceland tới khiến dư luận công chúng dần dần ngã về sự thật.
Giáo sư Lidenbrock bỗng trở thành một vĩ nhân, còn tôi với danh nghĩa là cháu của một vĩ nhân cũng không kém phần quan trọng. Hambourg mở tiệc chào mừng chúng tôi. Trong một buổi họp được tổ chức ở viện địa học, giáo sư kể lại cuộc hành trình dưới lòng đất, và tất nhiên ông lờ đi chuyện rắc rối khó hiểu về cái địa bàn. Cũng ngày hôm ấy, chú tôi trao cho sở lưu trữ của thành phố mảnh giấy tư liệu của ông Arne Saknussemm và tỏ ý rất tiếc hoàn cảnh không cho phép ông bám theo dấu chân của nhà khoa học người Iceland này đi tới tận tâm của trái đất.
Giáo sư càng khiêm tốn bao nhiêu càng nổi tiếng bấy nhiêu. Và càng đạt được nhiều vinh quang lại càng có nhiều kẻ đố kỵ, giáo sư Lidenbrock cũng đang ở trong trường hợp này. Ông vẫn bảo vệ luận điểm "không có lửa ở trung tâm trái đất" và ra sức dùng ngòi bút và tiếng nói của mình ráo riết tranh luận với các nhà bác học trên thế giới. Về phần mình, tôi mãi mãi vẫn tin vào sự tồn tại của nhiệt lượng giữa lòng đất. Nhưng ở một vài trường hợp chưa được xác định, quy luật này có thể thay đổi do tác động của những quy luật tự nhiên.
Giữa lúc những vấn đề ấy đang được tranh cãi mà chưa đi đến một kết luận nào thì Hans đòi về Iceland. Anh đã bắt đầu thấy nhớ quê hương. Giáo sư Lidenbrock cố giữ anh lại, nhưng anh vẫn quyết định rời Hambourg.
"Farval!" Hans chào chúng tôi rồi lên đường đi Reykjavik. Ít lâu sau, chúng tôi nhận được tin anh về đến nhà bình an và sống sung sướng. Chú cháu tôi không bao giờ quên được người bạn đường dũng cảm đã bao lần cứu chúng tôi thoát chết. Tôi nguyện cho đến lúc về già, thế nào cũng phải có dịp tới xóm nhỏ gần chân núi Sneffels thăm anh một lần.
Nhưng giáo sư Lidenbrock không được hưởng chọn vẹn niềm vinh quang của mình. Sự việc khó hiểu về cái địa bàn đã khiến ông mất ăn mất ngủ. Không có gì đau khổ hơn đối với một nhà bác học là không giải thích nổi một hiện tượng mang tính khoa học như thế!
Một hôm, trong khi đang sắp xếp lại các mẫu khoáng vật trong phòng làm việc của giáo sư, bỗng thấy cái địa bàn ấy tôi liền cầm lên xem. Nó nằm ở đó từ sáu tháng nay mà không biết rằng nó đã gây bao nhiêu ưu tư cho vị giáo sư nổi tiếng ở đất cảng Hambourg.
Bất chợt, tôi thấy sững cả người. Tôi lên tiếng gọi giáo sư.
- Có chuyện gì đấy, Axel? - giáo sư hỏi.
- Chú nhìn cái địa bàn này xem!
- Cái địa bàn sao hả?
- Kim của nó chỉ hướng nam thay vì phải chỉ về hướng bắc. Nó đã đảo cực.
- Sao? Đảo cực à? Có nghĩa là khi chúng ta vượt biển, cái địa bàn này đã chỉ hướng nam chứ không phải hướng bắc.
- Đúng vậy!
- Điều đó đã giải thích sai lầm của chúng ta. Nhưng hiện tượng nào đã khiến kim nam châm đảo cực nhỉ?
- Cháu biết rồi chú ạ!
- Cháu nói xem nào, Axel!
- Trong cơn bão trên biển, viên sét hòn đã làm nhiễm từ hết các vật dụng bằng sắt thép. Kim nam châm của địa bàn cũng bị ảnh hưởng, do đó có hiện tượng đảo cực.
- À! Thì ra là như vậy! - giáo sư kêu lên và phá ra cười. - Điện từ đã đánh lừa mình.
Kể từ hôm ấy, giáo sư là người hạnh phúc nhất trong giới bác học. Còn tôi cũng có hạnh phúc của riêng mình. Grauben, cô gái xinh đẹp xứ Virland dã dọn tới ở chung trong căn nhà trên đường Konigstrasse với tư cách là vợ người cháu của chủ nhà. Tôi cũng không cần thiết phải nói thêm rằng chú của tôi là giáo sư Otto Lidenbrock bây giờ là viện sĩ của hầu hết những hội khoa học, hội vật lý học và hội khoáng vật học ở khắp năm châu của hành tinh này.
Hết.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top